ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------------- TRẦN MINH NGỌC

PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÖC

Chuyên ngành

: Kinh tế chính trị

Mã số

: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. MAI THỊ THANH XUÂN HÀ NỘI – 2010

MỤC LỤC

Trang

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng biểu

1

MỞ ĐẦU

8

Chƣơng 1

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khu công nghiệp

1.1. Khái niệm và đặc điểm khu công nghiệp

8

1.2. Vai trò của khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội

14

và các nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển khu công nghiệp.

1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển các khu công nghiệp

24

1.4. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp của một số địa

27

phƣơng

35

Chƣơng 2

Thực trạng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

2.1. Tiềm năng phát triển khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc

35

2.2. Thực trạng phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc

41

1998 – 2010

2.3. Những đóng góp chủ yếu của các khu công nghiệp vào sự phát

59

triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.

2.4 Một số hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển khu

67

công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc

73

Chƣơng 3

Định hƣớng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020.

3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh

73

Phúc.

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN

76

tỉnh Vĩnh Phúc.

93

KẾT LUẬN

94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực tiễn phát triển của các nƣớc trên thế giới những năm qua đã chứng

tỏ việc thành lập các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) là một trong

những giải pháp quan trọng đối với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hóa (CNH, HĐH) và phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Vận dụng kinh

nghiệm thế giới vào điều kiện Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII (1991) Đảng và Nhà nƣớc đã chủ trƣơng thí điểm và triển khai việc xây

dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VIII (1996) định hƣớng chiến lƣợc xây dựng và phát triển các KCN đã đƣợc

triển khai trong cả nƣớc, và từng bƣớc đƣợc bổ sung, hoàn thiện tại các Đại hội

tiếp theo. Để phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất đúng hƣớng, Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đã xác định: “Hoàn chỉnh quy

hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các

vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm nhà ở và

các điều kiện sinh hoạt cho người lao động. Chuyển các cơ sở công nghiệp

trong nội thành, nội thị, gần khu đông dân cư không bảo đảm tiêu chuẩn môi

trường vào các KCN tập trung hoặc các vùng ít dân cư” [24].

Thực hiện đƣờng lối đó, đến nay cả nƣớc đã có 250 KCN, KCX, KTT

đƣợc thành lập ở 57 tỉnh, thành phố trong cả nƣớc, trong đó 170 khu đã đi vào

hoạt động. Tính chung các KCN, KCX, KTT đã thu hút đƣợc 8.500 dự án đầu tƣ

trong và ngoài nƣớc, với tổng vốn đăng hơn 70 tỷ USD, trong đó vốn đầu tƣ trực

tiếp nƣớc ngoài là 52 tỷ USD (chiếm 71,4%), đóng góp trên 30% giá trị sản xuất

công nghiệp cả nƣớc, và tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu ngƣời [50]. Các KCN,

KCX đã và đang trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tƣ trong và ngoài nƣớc,

đón nhận các tiến bộ khoa học – công nghệ và tạo ra những nhân tố quan trọng

góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội

của đất nƣớc.

Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, cách

thủ đô Hà Nội hơn 50 km. Vĩnh Phúc cũng là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế để

3

hình thành và phát triển các KCN nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói

chung. Vì vậy, ngay khi có chủ trƣơng xây dựng các KCN của Đảng và Nhà

nƣớc, từ năm 1998, Vĩnh Phúc đã thành lập KCN đầu tiên và đến nay trên địa

bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã thành lập và cấp giấy chứng nhận đầu tƣ cho 07 KCN,

trong đó có 5 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích là 1.462 ha, thu hút

đƣợc 513 dự án đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, với tổng vốn 2.105 triệu USD; 02

KCN mới đang ở thời kỳ xây dựng cơ bản và 13 KCN đƣợc thủ tƣớng Chính

phủ chấp thuận chủ trƣơng đầu tƣ đến năm 2020 [10]. Thành công đó đã góp

phần đƣa Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh có năng lực cạnh tranh cao thứ 3, của cả

nƣớc sau Đà Nẵng và Bình Dƣơng. Tuy nhiên, sự phát triển KCN tỉnh Vĩnh

Phúc còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết nhƣ: số dự án đầu tƣ từ các thị

trƣờng lớn nhƣ Mỹ và EU còn hạn chế, mới chiếm có 1,5% tổng số vốn đầu tƣ

vào KCN trên địa bàn tỉnh; các dự án đầu tƣ cho phát triển cơ sở hạ tầng, phát

triển dịch vụ, các ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành công nghệ cao còn ít;

và vấn đề ô nhiễm môi trƣờng sinh thái, vấn đề việc làm cho ngƣời dân mất đất

do phải chuyển cho các KCN .v.v..

Những khó khăn, hạn chế đó đã và sẽ là những lực cản to lớn đối với sự

phát triển các KCN trên địa bàn, đòi hỏi phải có những nghiên cứu, đánh giá để

tìm ra giải pháp hữu hiệu hơn thúc đẩy các KCN phát triển hiệu quả hơn. Để góp

phần giải quyết yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển các khu công

nghiệp ở Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Phát triển KCN không còn là một vấn đề mới, song việc nghiên cứu nó thì

vẫn còn rất cần thiết đối với nƣớc ta. Đã có nhiều hội thảo khoa học, nhiều luận

án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, cũng nhƣ các bài nghiên cứu khác nghiên cứu về

vấn đề này. Trong đó, liên quan trực tiếp đến đề tài là những công trình đáng

chú ý sau:

“Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc

khu kinh tế” của Viện kinh tế học năm 1994. Trong công trình này, các tác giải

đã nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới trong việc phát triển khu chế xuất, trong

4

đó đặc biệt nhấn mạnh tới các vấn đề: mối quan hệ giữa khu chế xuất và việc cải

cách chính sách; luật lao động và việc làm, cải cách thƣơng mại, thuế, vai trò

của ngân hàng thế giới đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu

kinh tế. Các tác giả còn nghiên cứu cụ thể kinh nghiệm tại một số đặc khu kinh

tế và các thành phố ven biển ở Trung Quốc.

“Khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh phía Nam” của Bộ Kế hoạch và

Đầu tƣ, xuất bản năm 2002, đã đánh giá khái quát về những thành công và hạn

chế của các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các tỉnh này và đề xuất giải pháp

khắc phục

“Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất

ở Việt Nam”, đề tài cấp Bộ năm 2002. Nội dung đề tài giới thiệu kinh nghiệm

quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất của nƣớc ngoài, đánh giá những mặt

tốt và những hạn chế của mô hình quản lý đang áp dụng tại Việt Nam, trên cơ

sở đó đề xuất ra một số mô hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý

các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới.

“Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới” của Nguyễn

Văn Thƣờng, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004. Tác giả đƣa ra một cái

nhìn tổng quan về vấn đề phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

Trong đó có những phân tích sâu sắc về vấn đề phát triển khu công nghiệp, khu

chế xuất, khu kinh tế với vai trò đầu tàu trong chuyển dịch cơ cấu và phát triển

vùng kinh tế trọng điểm.

“Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo

vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” của Trƣơng Thị Minh Sâm,

nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2004. Trong tác phẩm này, tác giả đã đánh

giá khá chi tiết và toàn diện tình trạng ô nhiễm môi trƣờng ở các khu công

nghiệp, khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những thách thức đặt ra

đối với công tác quản lý nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng, đề xuất một hệ thống

các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc đối với vấn đề này ở các

KCN, KCX trên địa bàn này.

Riêng trong năm 2004, cả nƣớc có tới 6 cuộc hội thảo khoa học bàn về

5

phát triển KCN, KCX, trong đó Hội thảo với chủ đề “Phát triển KCN, KCX ở

các tỉnh phía Bắc - những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Bộ kế hoạch và Đầu

tƣ phối hợp với Tạp chí Cộng sản và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá tổ chức

tại Thanh Hoá, với hơn 40 bài tham luận đƣợc gửi đến. Các bài viết đã tập trung

vào một số vấn đề cơ bản, nhƣ vị trí, vai trò của các KCN, KCX; quan điểm của

Đảng và Nhà nƣớc về phát triển KCN, KCX, một số vấn đề lý luận về KCN,

KCX; công tác quy hoạch phát triển các KCN, KCX; chính sách liên quan đến

phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của

các KCN phía Bắc so với KCN phía Nam; tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc đối

với các KCN, KCX và vấn đề tạo động lực cho các KCN, KCX.

Tháng 7 năm 2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ đã tổ chức hội nghị - hội thảo

quốc gia với chủ đề “15 năm xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở Việt

Nam” tại tỉnh Long An. Tại hội thảo đã có 100 bài viết và tham luận về vấn đề

này. Các bài tham luận tập trung nhìn nhận lại những thành tựu đạt đƣợc, những

hạn chế và kinh nghiệm xây dựng và phát triển KCN, KCX ở nƣớc ta, kiến nghị

phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lƣợng hoạt

động của các KCN, KCX.

Về vấn đề này cũng đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ

nghiên cứu nhƣ:

“Các giải pháp hoàn thiện và phát triển KCN ở Việt Nam”, luận án tiến

sỹ của tác giả Trần Ngọc Hƣng, trƣờng Đại học Thƣơng Mại, năm 2004. Trong

luận án, tác giả đã khái quát những lý luận cơ bản về KCN và phát triển KCN

trong quá trình CNH, HĐH. Đồng thời phân tích và đánh giá thực trạng phát

triển KCN ở Việt Nam. Từ đó chỉ những nguyên nhân, tồn tại và đƣa ra các vấn

đề cần giải quyết để hoàn thiện và phát triển KCN ở Việt Nam thời gian qua

“Một số giải pháp nhằm phát triển các KCN và cụm công nghiệp trên địa

bàn Hà Nội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ kinh tế

của tác giả Nguyễn Quốc Bình, trƣờng đại học Ngoại Thƣơng. Tác giả đã nghiên

cứu sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở Việt

Nam và trên thế giới. Đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất một số giải pháp

6

nhằm phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn Hà Nội

“Phát triển KCN tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sỹ

Kinh tế của Đinh Hoàng Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm

2008 đã tập trung nghiên cứu việc phát triển các KCN ở tỉnh Bắc Ninh theo

hƣớng bền vững. Luận văn đã đề xuất những giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ

tăng trƣởng giải quyết việc làm, các vấn đề xã hội, môi trƣờng…Tuy nhiên,

công trình này mới chỉ đề cập đến mối quan hệ phát triển các KCN và phát triển

bền vững của địa phƣơng, chƣa đề cập sâu sắc đến sự phát triển nội tại KCN.

“Đảm bảo đời sống của người lao động trong các KCN ở Đồng Nai”,

Luận văn thạc sỹ Kinh tế của Nguyễn Thị Ngọc Hiệp, Đại học Quốc Gia Hà

Nội. Luận văn đã khảo sát, phân tích một cách toàn diện về thực trạng đời sống

công nhân KCN Đồng Nai. Qua đó, đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp

chủ yếu nhằm đảm bảo đời sống ngƣời lao động KCN Đồng Nai hiện nay

Ngoài ra có nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành về vấn đề

này, nhƣ:

“ Phát triển KCN, KCX đến năm 2020 - triển vọng và thách thức” của tác

giả Võ Thanh Thu đăng trên Tạp chí Cộng Sản, số 9, năm 2006. Bài viết đã đƣa ra

8 nhóm thành tựu cơ bản và chỉ ra những bất cập trong vấn đề phát triển KCN Việt

Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát

triển hơn nữa các KCN đến năm 2020

“Thành tựu và định hướng phát triển các KCN Vĩnh Phúc đến năm 2010”

của tác giả Nguyễn Công Lộc đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, số 2, năm

2005. Tác giả đã phân tích khái quát những thành tựu về thu hút đầu tƣ và quy

hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra những định hƣớng

cụ thể cho việc phát triển các KCN đến năm 2010.

“Tác động của các KCN đối với tăng trưởng kinh tế ở Đồng Nai và những

bài học kinh nghiệm” của tác giả Nhƣ Hùng đăng trên Tạp chí Cộng Sản, số 15,

năm 2008 đã phân tích một cách hệ thống những tác động của KCN đối với sự phát

triển kinh tế của tỉnh và rút ra 7 bài học kinh nghiệm sau 15 năm phát triển KCN của

tỉnh Đồng Nai

7

Các công trình tên đã cung cấp cho tác giả cơ sở lý luận và nhiều tài liệu, số

liệu để kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Tuy vậy, các công

trình này mới chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về KCN trên phạm vi

tổng thể cả nƣớc, hoặc trên một địa bàn - một vùng, một tỉnh khác. Về khu công

nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, tuy đã có một vài nghiên cứu nhƣng chỉ là dƣới dạng bài

báo, nên về nội dung cũng chỉ dừng lại ở một mặt cụ thể nào đó. Vì vậy, có thể nói,

cho đến nay, vấn đề phát triển khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc vẫn chƣa có công

trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, nhất là với tƣ cách

một luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của đề tài

Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận

văn tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó, đồng thời đề xuất phƣơng

hƣớng và giải pháp phát triển có hiệu quả các KCN trên địa bàn này.

Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm phát triển KCN.

- Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc phát các KCN trên

địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua, chỉ ra những hạn chế và nguyên

nhân của tình trạng đó.

- Đƣa ra định hƣớng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát

triển có hiệu quả các KCN tỉnh Vĩnh Phúc.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng nghiên cứu: là sự phát triển các KCN, bao gồm KCN, KCX

và cụm công nghiệp tên các khía cạnh số dự án, vốn đầu tƣ, tỷ lệ lấp đầy và tác

động của chúng đến việc làm, đời sống, môi trƣờng của tỉnh Vĩnh Phúc

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh

Vĩnh Phúc. Tuy nhiên, luận văn cũng nghiên cứu một số địa phƣơng khác để rút

ra bài học kinh nghiệm.

8

+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển KCN tỉnh

Vĩnh Phúc từ khi ra đời đến nay, đặc biệt là từ 2005 đến nay

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:

- Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng

Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển

kinh tế nói chung và các KCN nói riêng.

- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu sử

dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phƣơng pháp của Kinh

tế chính trị. Luận văn cũng sử dụng kết hợp các phƣơng pháp hệ thống, thống kê

- so sánh, phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực

tiễn. Đồng thời đề tài có kế thừa chọn lọc những tƣ liệu trong một số công trình

nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc.

6. Đóng góp mới của luận văn:

- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc

từ 1998 đến nay.

- Tìm ra nguyên nhân dẫn đến các hạn chế của sự phát triển các KCN

Vĩnh Phúc thời gian qua.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển KCN

ở Vĩnh Phúc thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng, 10 tiết

9

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP

1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KHU CÔNG NGHIỆP

1.1.1. Khái niệm và phân loại khu công nghiệp

a) Khái niệm khu công nghiệp

Khu công nghiệp (KCN) đƣợc hình thành và phát triển ở các nƣớc tƣ bản

phát triển vào những năm cuối của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Năm 1896, xuất

hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park thành phố Manchester (Anh). Sau đó, KCN

lần lƣợt đƣợc thành lập ở các nƣớc khác nhƣ Mỹ (1899), Italia (1904); và kể từ

những năm 50 thế kỷ XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các

nƣớc. Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo số

liệu của Hội đồng nghiên cứu phát triển Quốc tế (IDRC), đến năm 2005 đã có

12.600 KCN nằm rải rác ở 90 quốc gia. Trong đó: Hoa Kỳ là 8800, Canada:

1.200, Đức: 300, Anh 200 và Hà Lan 130, Malaixia có 166 KCN, Hàn Quốc

147, Indonesia 117 và Nhật Bản 95. [20]

Mặc dù KCN đã phát triển từ rất lâu, nhƣng cho tới nay, vẫn chƣa có một

định nghĩa thống nhất về KCN. Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công

nghiệp Liên hợp quốc UNIDO (1990): KCN là khu vực tƣơng đối nhỏ, phân

cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tƣ vào các

ngành công nghiệp hƣớng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công

nghiệp này những điều kiện về đầu tƣ mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần

lãnh thổ còn lại của nƣớc chủ nhà. [14, tr.48]

Ở Thái Lan và Philippin, KCN đƣợc quan niệm nhƣ một thành phố công

nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp

kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải,

KCN cũng bao gồm khu thƣơng mại, dịch vụ ngân hàng, trƣờng học, bệnh viện,

các khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN ở Thái Lan và

Philippin thƣờng tồn tại các hình thức: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu

sản xuất hàng xuất khẩu và khu thƣơng mại dịch vụ.

10

Tại Việt Nam, các KCN trƣớc đây thƣờng đƣợc hiểu là nơi tập trung

nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VII (năm 1991), Đảng chủ trƣơng “Quy hoạch các vùng, trƣớc hết là các địa bàn

trọng điểm, các KCX, KKT đặc biệt, KCN tập trung”. Tiếp đó, Nghị quyết Đại

hội VIII của Đảng năm 1996 xác định rõ thêm: “Cần hình thành các KCN tập

trung (bao gồm cả KCN và KCNC) tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các

cơ sở công nghiệp mới. Phát triển đẩy mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô

thị. Ở các thành phố, thị xã nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đƣa

các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây

dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cƣ”. [24]

Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế cách hiểu về KCN cũng có những

sự thay đổi. Chẳng hạn theo Nghị định 36/NĐ – CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ

ban hành quy chế KCN, KCX, KCNC, khái niệm KCN đƣợc nêu ra nhƣ sau: KCN

là khu tập trung các DN chuyên sản xuất hàng CN và thực hiện các DV cho sản

xuất CN, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cƣ sinh sống; nhƣng tại Nghị

định số 29/2008/NĐ – CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ đã không đề cập đến vấn

đề dân cƣ trong KCN. Cụ thể, Nghị đinh 29/2008/NĐ – CP quy định KCN là:

“Khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công

nghiệp, có ranh giới địa lý rõ ràng”.

Theo TS Nguyễn Đình Quản, KCN là một khu có ranh giới địa lý xác

định, có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, về chính sách, cơ chế ƣu đãi

và chế độ quản lý riêng dành cho sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất,

kinh doanh công nghiệp và thực hiện các dịch vụ công nghiệp.

Theo Luật Đầu tƣ năm 2005, KCN là khu chuyên sản xuất hàng CN và

thực hiện các DV cho sản xuất CN, có ranh giới địa lý xác định. [37]

Các quan niệm trên tuy diễn đạt khác nhau, nhƣng đều thống nhất ở một

số điểm chủ yếu:

Thứ nhất, KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các

dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, có hệ thống kết

cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội đồng bộ đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh

11

doanh và đời sống của ngƣời lao động, đƣợc thành lập theo quy định của Chính

phủ. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất và doanh nghiệp

công nghệ cao. Về thực chất, đây là khu hành chính kinh tế đặc biệt nhƣ KCN

Batam (Indonesia), công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nƣớc

Tây Âu, khu kinh tế mở Chu Lai, Dung Quất ở Việt Nam.

Thứ hai, KCN là lãnh thổ có giới hạn nhất định, tập trung các doanh

nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân

cƣ sinh sống. Mô hình này đƣợc xây dựng ở một số nƣớc nhƣ Malaixia,

Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam.

Từ đó, có thể khái quát lại: KCN là một lãnh thổ có ranh giới địa lý xác

định, có những điều hiện tƣơng ứng với phát triển công nghiệp về tự nhiên,

cơ sở hạ tầng, quản lý nhà nƣớc, tập trung các doanh nghiệp sản xuất công

nghiệp, các doanh nghiệp dịch vụ có liên quan đến hoạt động công nghiệp

b) Phân loại khu công nghiệp:

Tuỳ theo góc độ tiếp cận, KCN có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau:

- Theo tính chất ngành nghề, KCN đƣợc chia thành các loại sau: KCN

chuyên ngành, KCN đa ngành, KCN sinh thái, KCN đô thị, KCN đô thị - công

nghệ cao.

KCN chuyên ngành: là KCN đƣợc hình thành từ các xí nghiệp công

nghiệp cùng một loại ngành hoặc một ít ngành CN khác nhau nhƣng cùng sản

xuất ra một số loại sản phẩm. Ví dụ nhƣ khu gang thép Thái Nguyên, Hóa chất

Việt Trì, Lọc dầu Dung Quất .v.v..

KCN đa ngành: là KCN bao gồm nhiều xí nghiệp thuôc nhiều ngành công

nghiệp khác nhau. KCN đa ngành cho phép thoả mãn đƣợc yêu cầu về lãnh thổ

cho sản xuất công nghiệp, tiết kiệm đầu tƣ hạ tầng, song rất dễ gây ra tác động

xấu giữa các xí nghiệp khác nhau.

KCN đô thị (công viên công nghiệp): là mô hình mang tính cộng sinh

giữa công nghiệp và đô thị. Các KCN phát triển hài hòa trong không gian đô thị

với hệ thống dịch vụ hoàn chỉnh, hỗ trợ nhau cùng phát triển trong môi trƣờng

sạch và bền vững.

12

Khu đô thị - công nghệ cao (còn gọi là công viên khoa học): là mô hình

mang tính chất cộng sinh giữa đô thị, các trung tâm nghiên cứu và đào tạo với

các dự án công nghệ cao. Đó là vƣờn ƣơm khoa học, ứng dụng triển khai các

công nghệ mới, nơi đào tạo nguồn nhân lức cao và các dịch liên quan trong môi

trƣờng đô thị sinh thái.

KCN sinh thái: là mô hình mang tính cộng sinh công nghiệp. Các ngành

công nghiệp đƣợc lựa chọn sao cho các nhà máy có một liên hệ với nhau, hỗ trợ

và tƣơng tác với nhau tạo nên môi trƣờng sạch và bền vững. Với mô hình này

thì phế liệu của nhà máy sẽ là nguyên liệu, vật tƣ của nhà máy kia.

- Dựa vào đặc điểm của KCN, ngƣời ta chia KCN thành:

KCN tập trung: Là một quần thể liên hoàn các xí nghiệp, có thể là đa

ngành, chuyên ngành; đƣợc xây dựng trên một vùng có thuận lợi về mặt địa lý,

điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội, có cơ sở hạ tầng tốt.

KCN chế xuất: là một dạng đặc biệt của KCN (còn gọi là KCX). Tại đó,

chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất

khẩu và các loại hoạt động xuất khẩu. Trong KCX, doanh nghiệp đƣợc tạo điều

kiện thƣơng mại và hoạt động trong môi trƣờng thông thoáng.

KCX là một dạng đặc biệt của KCN, nhƣng giữa KCX và KCN có sự

khác nhau nhất định, xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tƣợng tham

gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Đối với KCN thƣờng đƣợc

thành lập ở những vùng mà kinh tế chƣa phát triển, nguồn lao động dƣ thừa

nhƣng có một số yếu tố thuận lợi nhƣ tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý …

KCN đƣợc nhận một sự ƣu tiên nhất định từ phía chính phủ và chính quyền địa

phƣơng với một vai trò nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế vùng. KCN bao gồm

các doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, so với

KCN thì KCX cũng đƣợc xác định là KCN nhƣng tập trung những doanh

nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, đƣợc sự ƣu tiên đặc biệt

của Chính phủ. KCX có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép

kín sang nền kinh tế mở.

Khu công nghệ cao: là KCN trong đó tập trung các doanh nghiệp có công

13

nghệ kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao

gồm nghiên cứu, triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan.

Cụm công nghiệp: là tên gọi chung cho các cụm công nghiệp – tiểu thủ

công nghiệp, thực chất là KCN tập trung nhƣng có quy mô nhỏ, do Chủ tịch

UBND cấp tỉnh quyết định thành lập (hoặc phân cấp quyết định thành lập) theo

quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn để bố trí các cơ sở sản xuất công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống trong diện di dời khỏi

nội thành, nội thị hoặc các khu dân cƣ tập trung, và thu hút các dự án đầu tƣ với

quy mô vừa và nhỏ.

- Theo đặc điểm và cấp quản lý: KCN gồm 3 loại: (1) KCN do chính phủ

quyết định thành lập: đó là các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ

cao; (2) KCN do UBND tỉnh, thành phố quyết định thành lập: đó là các cụm

công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; (3) KCN do UBND huyện, thị quyết định

thành lập.

1.1.2. Đặc điểm khu công nghiệp

Thứ nhất, KCN là nơi tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất ra các

sản phẩm công nghiệp khác nhau, đồng thời cũng sử dụng lƣợng lớn nguyên,

nhiên liệu, năng lƣợng và thải ra lƣợng chất thải khổng lồ. Do tính tập trung sản

xuất CN ở mật độ cao nhƣ vậy nên các vấn đề kinh tế - kỹ thuật của KCN trở nên

rất khác biệt. Thể hiện:

 Việc bố trí các doanh nghiệp trong KCN đòi hỏi vừa phải đảm bảo tính

hiệu quả trong sử dụng đất đai và cơ sở hạ tầng, vừa không ảnh hƣởng xấu đến

nhau. Để làm đƣợc nhƣ vậy, quy hoạch trong các KCN phải đƣợc tính toán và

giải quyết bằng các giải pháp kỹ thuật tối ƣu.

 KCN đòi hỏi phải có đủ các điều kiện kinh tế - kỹ thuật nhƣ cơ sở hạ

tầng ngoài hàng rào KCN, nguồn cung cấp điện, nƣớc… thì KCN mới vận hành

có hiệu quả . Hơn nữa do nhu cầu về các nguồn lực này khá lớn nên KCN đòi

hỏi phải đƣợc cam kết cung cấp ƣu tiên.

 KCN đòi hỏi phải có hệ thống xử lý chất thải phù hợp. Bởi nếu không

đề cao yêu cầu xử lý chất thải trƣớc khi thải ra môi trƣờng, thì với khối lƣợng

chất thải lớn, các KCN có thể huỷ diệt môi trƣờng xung quanh.

14

Thứ hai, các KCN còn đòi hỏi phải có diện tích đất khá lớn, tập trung tại

một địa điểm, địa hình tƣơng đối bằng phẳng, thích hợp cho xây dựng các công

trình công nghiệp, gần nguồn nƣớc, có cơ sở hạ tầng thích hợp. Đây cũng là lý

do của tình trạng quỹ đất xây dựng KCN thƣờng lấn chiếm quỹ đất nông nghiệp

và đất đô thị. Khi các KCN đƣợc xây dựng nhiều sẽ gây sức ép, thậm chí xung

đột với nhu cầu đất của dân cƣ. Điều đó đòi hỏi việc xây dựng các KCN phải

theo quy hoạch cân đối, hài hoà hợp lý các khu đất giành cho sinh hoạt, cho

nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và cho các KCN tập trung.

Thứ ba, KCN thƣờng đƣợc xây dựng ở những nơi có vị trí địa lý thuận lợi

nhƣ gần các đƣờng giao thông, thuận tiện trong giao lƣu với các trung tâm kinh

tế lớn, gần cảng biển, sân bay…, bởi tại đó có nhiều ƣu thế trong thu hút đầu tƣ

vào các KCN.

Thứ tư, KCN sử dụng lƣợng lao động lớn do đây là nơi tập trung các

doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và cung cấp các dịch vụ sản xuất công

nghiệp, với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Nhƣng cũng chính vì thu hút lực lƣợng lao động lớn nên kéo theo nhiều hậu quả

xã hội. Dễ thấy nhất là vấn đề ngƣời lao động ngụ cƣ. Những ngƣời này vừa

không có nhà ở, không có sự hỗ trợ của gia đình, không ổn định nên rất khó

quản lý. Hơn nữa, sự biến động đột biến của lƣợng lao động ngụ cƣ có thể gây

sức ép lên hệ thống giáo dục, y tế và nhà ở địa phƣơng. Khi xây dựng các KCN,

địa phƣơng cần lƣờng trƣớc các yếu tố phát sinh này.

Hơn nữa, trong quá trình vận hành các KCN thƣờng xuất hiện các xung

đột giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động, dễ gây thành các cuộc đình

công, bãi công lớn do tính chất lây truyền và do các doanh nghiệp ở gần nhau.

Nếu các tổ chức chính trị, xã hội không khéo léo giải quyết các xung đột này có

thể gây bất ổn cho cả vùng.

Ngoài ra, KCN cũng đòi hỏi cơ quan quản lý và điều hành chung các vấn

đề trong khu. Nếu cơ quan này không đƣợc quản lý và vận hành tốt thì hiệu quả

hoạt động của KCN sẽ bị ảnh hƣởng nghiêm trọng.

Tóm lại, một mặt KCN là một thực thể độc lập, cả về lãnh thổ lẫn các

15

điều kiện sản xuất kinh doanh gắn với cơ bản của nó là sản xuất công nghiệp tập

trung ở mật độ cao. Mặt khác, KCN không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ

chặt chẽ về mọi mặt với các lãnh thổ khác về đầu vào, đầu ra và ảnh hƣởng

ngoại sinh. Vấn đề làm sao đề cả trong, ngoài KCN các quá trinh kinh tế, xã hội,

tự nhiên đều diễn ra tốt đẹp. Giải quyết yêu cầu đó là nhiệm vụ của doanh

nghiệp kinh doanh KCN và cơ quan quản lý nhà nƣớc.

1.2. VAI TRÕ CỦA KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN

KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT

TRIỂN KCN

1.2.1. Vai trò của khu công nghiệp

1.2.1.1. Thu hút vốn đầu tư, tăng tổng thu nhập quốc dân và kim

ngạch xuất khẩu

Hầu hết các nƣớc đang phát triển trên thế giới đang phải đối đầu với

những khó khăn về thiếu hụt vốn, cơ sở hạ tầng kinh tế thấp kém, kỹ thuật –

công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý, tay nghề chƣa cao, môi trƣờng, thể chế đầu

tƣ chƣa hoàn thiện… Tuy nhiên, xu thế toàn cầu hoá kinh tế hiện nay đang tạo

ra những cơ hội to lớn để việc khắc phục những yếu kém đó.

Việc các nƣớc thực hiện quy hoạch, phát triển KCN là phƣơng thức phù

hợp tạo điều kiện để tập trung đầu tƣ có trọng điểm. Do có kết cấu hạ tầng hiện

đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn so với bên ngoài, nên KCN đã trở

thành một địa điểm để thu hút vốn đầu tƣ, đặc biệt là vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, tập

trung các doanh nghiệp sản xuất và chế biến công nghiệp. Nói cách khác, KCN

sẽ tạo cơ hội đƣa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học và

công nghệ; xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo

của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh và

bền vững.

Theo WB, đến 1999 trên phạm vi toàn thế giới đã có khoảng 43% số dự

án đầu tƣ vào các KCN là do doanh nghiệp trong nƣớc; 24% do liên doanh với

nƣớc ngoài và 33% do các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thực hiện. Thậm chí, tại Đài

Loan và Malaixia, KCN đã thu hút đƣợc 60% vốn FDI. Hơn nữa, các doanh

16

nghiệp hoạt động trong KCN phần lớn là các đơn vị tiềm năng, hoạt động có

hiệu quả, do đó đã thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nƣớc,

trong đó, đáng kể nhất là thúc đẩy xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu. Ở một số

nƣớc KCN đã góp phần đáng kể cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Ví dụ nhƣ

Malaixia hiện nay giá trị xuất khẩu của các KCN chiếm 30% trong tổng giá trị

xuất khẩu các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50%.[15]

Thực tế ở nƣớc ta cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu hút vốn

đầu tƣ đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tƣ cả trong và ngoài nƣớc vào các KCN

chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tƣ vào các KCN góp phần quan

trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tƣ của toàn xã hội, đóng góp trực tiếp vào việc

tăng trƣởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Hơn nữa, sự phát triển của

các KCN còn có tác động kích thích tăng đầu tƣ mới ở các doanh nghiệp ngoài

KCN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, tính đến cuối năm 2009, các KCN đã thu

hút đƣợc trên 3.600 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đầu tƣ đăng ký đạt

46,9 tỷ USD (chiếm 30% về số dự án và 25% về vốn đầu tƣ so với cả nƣớc) và

3.200 dự án đầu tƣ trong nƣớc với tổng vốn đầu tƣ đăng ký 254.000 tỷ đồng,

trong đó, riêng năm 2008, các KCN trên cả nƣớc đã thu hút đƣợc gần 9,4 tỷ

USD vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, trong đó có 271 dự án mới với tổng số vốn đầu tƣ

đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lƣợt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt

trên 1,6 tỷ USD. [48]

Diện tích đất công nghiệp các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng

48%, nhờ đó đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Tính riêng trong năm

2009, các doanh nghiệp KCN đã tạo ra 12,2 tỷ USD và 67,9 nghìn tỷ đồng

doanh thu; xuất khẩu đạt 12,3 tỷ USD và 2,6 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách đạt

689 triệu USD và 4,0 nghìn tỷ đồng.

1.2.1.2. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động

KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và cung cấp

các dịch vụ sản xuất công nghiệp, với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, ở

nhiều lĩnh vực khác nhau. KCN là nơi thu hút đƣợc nhiều lao động bao gồm lao

động làm việc trong các doanh nghiệp tại KCN và các doanh nghiệp xây dựng

17

và cung cấp dịch vụ cho KCN, nó góp phần đa dạng hoá ngành nghề trong xã

hội tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho nhiều đồi tƣợng trong xã hội, từ ngƣời

nông dân có nhu cầu làm việc khi nông nhàn, sinh viên bán thời gian, công nhân

cho đến cả lao động có trình độ cao nhƣ kỹ sƣ, nhà quản lý, điều hành… Mặt

khác, số lao động này đƣợc tiếp xúc với công nghệ sản xuất hiện đại, phƣơng

thức quản lý tiên tiến, nên đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao

động có kỷ luật, có kỹ năng và có năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của

công cuộc CNH, HĐH đất nƣớc.

Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp, nhiều

KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy

nghề và đào tạo trong các KCN, KCX đã góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn

nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH

đất nƣớc nói chung. Ở các địa phƣơng có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt.

Điều đó có tác động tích cực đến việc xoá đói, giảm nghèo, đồng thời góp phần

giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và

Đầu tƣ cho thấy mỗi KCN với diện tích khoảng 100 – 150 ha, khi đã lấp đầy

toàn bộ diện tích sẽ cần số lƣợng lao động lên đến 15 triệu – 18 triệu lao động.

Tính đến tháng 12 năm 2008, các KCN trên phạm vi cả nƣớc đã thu hút đƣợc

1,5 triệu lao động trực tiếp và hơn 2 triệu lao động gián tiếp.

Thực tế mấy năm qua cho thấy, hầu hết các KCN phía Nam và phía Bắc

phải tuyển rất nhiều lao động từ các tỉnh miền trung mới đáp ứng nhu cầu việc

làm trong KCN. Nhƣ vậy, KCN không những giải quyết việc làm cho lao động

địa phƣơng mà còn tạo việc làm cho địa phƣơng khác, trong quá trình hình

thành và phát triển của mình góp phần giải quyết bài toán lớn cho nền kinh tế

Việt nam hiện nay đó là bài toán việc làm và nâng cao trình độ lao động. Bởi vì,

lao động làm việc trong KCN tập trung đƣợc làm quen với tác phong công

nghiệp, ngƣời lao động có tính cạnh tranh trong công việc do đó, không ngừng

nâng cao trình độ tay nghề để tồn tại.

Việc mở mang các KCN, KCX không chỉ góp phần tạo việc làm, nâng

cao chất lƣợng nguồn nhân lực, mà còn góp phần đáng kể vào việc tăng thu

18

nhập, xóa đói giảm nghèo. Theo số liệu điều tra, có khoảng 40% số lao động

làm việc trong các KCN là những ngƣời có thu nhập thấp đến từ nhiều địa

phƣơng. Ngoài ra, KCN còn tạo ra nguồn thu nhập tăng thêm cho những lao

động không trực tiếp tham gia sản xuất trong KCN, thông qua việc cung cấp

dịch vụ cho khu công nghiệp.

1.2.1.3. Góp phần nâng cao trình độ công nghệ và quản lý kinh doanh

Cùng với việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, các KCN đều đặt ra mục

tiêu tiếp cận các công nghệ hiện đại và các phƣơng pháp quản lý tiên tiến của

các nhà đầu tƣ. Theo một nhà kinh tế phƣơng Tây nhận định: Việc thành lập các

KCN còn có ý nghĩa hơn là một sự thay đổi chính sách, bởi sự thay đổi chính

sách là từ bóp nghẹt sang cởi mở thông thoáng,chỉ có ý nghĩa tối đa khi chuyển

từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trƣờng. Còn thực sự khi nền kinh tế

đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến hành chính thì đều có ý nghĩa hơn lại

là một chính sách kỹ thuật và công nghệ khả thi đủ hấp dẫn để thu hút đƣợc kỹ

thuật và công nghệ mới của nƣớc ngoài vào sự tái thiết nền kinh tế nội địa.

KCN đƣợc quy hoạch theo mô hình tập hợp các doanh nghiệp cùng

ngành, do vậy, chùm doanh nghiệp sẽ có điều kiện hợp tác liên kết với nhau

trong việc nhập khẩu, tiếp nhận những công nghệ tiên tiến và hiện đại trên thế

giới; tận dụng những lợi thế của nƣớc đi sau, rút ngắn khoảng cách về khoa học

kỹ thuật với các nƣớc đi trƣớc; đồng thời cũng sẽ tiết kiệm đƣợc chi phí trong

lĩnh vực nghiên cứu và phát triển và quyền sở hữu trí tuệ.

Mặc dù trong giai đoạn đầu các KCN đi vào hoạt động, đầu tƣ nƣớc

ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành nhƣ dệt may, giày da, lắp ráp điện tử,

nhƣng càng về sau thì việc đầu tƣ vào các lĩnh vực công nghệ hiện đại nhƣ đúc

chính xác, sản xuất cơ khí, sản xuất cáp điện, linh kiện điện tử... ngày càng tăng

và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu. Cùng với dòng

vốn đầu tƣ trong các dự án sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tƣ còn đƣa vào Việt

Nam những dây chuyền sản xuất công nghệ tiên tiến, hiện đại trong đó có cả

những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản), nhƣ sản xuất

ôtô, xe máy (Honda Motor, Toyota Motor, Piago), các linh kiện máy tính. Một

19

số công nghệ tiên tiến hiện đại, cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ

doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã

đƣợc áp dụng tại Việt Nam. Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh

nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đã góp sức đào tạo đƣợc đội ngũ lao động công

nghiệp sử dụng và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản

xuất, nắm vững công nghệ, có tác động lan toả và nâng cao trình độ tay nghề của

đội ngũ lao động Việt Nam lên một bƣớc. Trong các KCN, một lƣợng đáng kể

ngƣời lao động Việt Nam đang dần đƣợc đảm nhận các vị trí quản lý doanh

nghiệp, đƣợc tiếp xúc với phƣơng thức quản trị kinh doanh tiên tiến, hiện đại, kỹ

năng maketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Việc trực tiếp làm việc

trong môi trƣờng có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện đƣợc những

kỹ năng và bản lĩnh giúp ngƣời lao động Việt Nam thích ứng với một nền công

nghệ tiên tiến, hiện đại.[15]

1.2.1.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hình

thành và phát triển các khu đô thị mới

KCN với đặc trƣng là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực

hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, một mặt đã chuyển những vùng đất

sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang sản xuất công nghiệp mang lại hiểu quả

kinh tế cao hơn; mặt khác, sự phát triển của KCN kéo theo sự phát triển của các

ngành dịch vụ nhƣ thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm… từ đó cải thiện tỷ

trọng đóng góp các ngành nghề trong GDP theo hƣớng gia tăng tỷ trọng giá trị

ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp.

Chính từ sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề tại khu vực hình thanh KCN

đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phƣơng theo hƣớng giảm tỷ

trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong lĩnh vực

công nghiệp và dịch vụ. Kết quả của quá trình này sẽ góp phần thúc đẩy tăng

trƣởng, phát triển của kinh tế địa phƣơng, là cơ sở để cải thiện nâng cao đời

sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phƣơng. Tuy vậy, cũng cần nhận thức

rằng trên thực tế nếu việc chuyển đổi đất nông nghiệp và xây dựng phát triển

KCN có độ trễ lớn có thể gây ra những khó khăn cho lao động địa phƣơng vì

20

mất đất canh tác nông nghiệp trong khi các nhà máy, xí nghiệp trong KCN lại

chƣa xây dựng kịp thời dẫn đên thiều việc làm và tác động tiêu cực tới các vấn

đề xã hội khác.

Bên cạnh đó, tại nhiều nƣớc sự phát triển của các KCN còn là hạt nhân để

xây dựng và phát triển các khu đô thị mới, văn minh, góp phần cải thiện đời sống

kinh tế, văn hoá, xã hội. Ở các đô thị gắn liền với KCN thì bộ phận chủ yếu của

dân cƣ đô thị là những ngƣời lao động và quản lý trong các KCN. Họ có nhu cầu

đi lại, ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phù hợp với yêu cầu làm việc trong KCN.

Ở các nƣớc đang phát triển, với mục tiêu xây dựng các đô thị theo hƣớng

hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trƣờng nên phải thực hiện di dời nhà máy xí

nghiệp sản xuất trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. KCN là nơi tiếp nhận

các nhà máy xí nghiệp đó tạo nên một địa bàn sản xuất đồng bộ tập trung. Chính

vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển KCN không thể tách rời quy hoạch phát triển

đô thị, phát triển kinh tế. Kinh nghiệm phát triển KCN trong thời gian qua cho

thấy, việc hình thành các khu đô thị mới chỉ trở thành hiện thực khi có sự phát

triển đồng bộ giữa công nghiệp, khu dân cƣ, các công trình hạ tầng kỹ thuật và

xã hội trong và ngoài hàng rào.

1.2.1.5. Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng

Do đòi hỏi của các doanh nghiệp khi đầu tƣ vào các KCN là cơ sở hạ tầng

phải hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại, vì vậy, để thu hút đƣợc nhiều dự án đầu tƣ,

nhất là các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài, các quốc gia, các địa phƣơng ngoài việc

đƣa ra hàng loạt chính sách ƣu đãi về thuế, tài chính, còn tiến hành đầu tƣ cơ sở

hạ tầng, cố gắng hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng. Kết quả là hệ thống đƣờng

xá; hệ thống cung ứng điện, nƣớc; hệ thống thông tin liên lạc; công trình phúc

lợi phát triển, hiện đại đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.

Sự phát triển cơ sở hạ tầng các KCN còn có có tác dụng kích thích sự phát

triển kinh tế địa phƣơng, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông

thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cùng với

quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã

đƣợc cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt

động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng.

21

1.2.1.6. KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường,

bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững.

Việc tập trung nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nhƣ KCN sẽ cho

phép xây dựng các trung tâm xử lý chất thải đồng bộ hơn nhƣng với chi phí ít

tốn kém hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trƣờng của cơ

quan chức năng. KCN tập trung sẽ giảm thiểu các tác động bất lợi của sản xuất

công nghiệp (nhƣ tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). Hơn nữa, tại các đô thị việc tập

trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban

quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh

nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện phòng

chống ô nhiễm môi trƣờng với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải của nhau.

Do có sự liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nƣớc nên

việc bảo vệ môi trƣờng trong toàn khu vực KCN đƣợc thực hiện tốt hơn so với

tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Mặt khác,

KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trƣờng từ nội

thành, từ các vùng dân cƣ, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển bền vững. Với vai

trò này, việc xây dựng các KCN tập trung đƣợc coi là một giải pháp quan trọng

để bảo vệ môi trƣờng và phát triển KT- XH theo hƣớng bền vững.

1.2.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển

các KCN

1.2.2.1. Vị trí địa lý

Vị trí địa lý có vai trò rất to lớn đối với sự thành công của một KCN. Vị

trí địa lý xây dựng KCN không đơn giản chỉ là địa điểm mà còn bao gồm cả điều

kiện đất đai, thủy văn thuận lợi hay không thuận lợi; độ lớn của diện tích đất làm

KCN. Tất cả đều là những yếu tố quan trọng để đảm bảo khả năng mở rộng

KCN khi có điều kiện. Vị trí nằm gần các đầu mối giao thông, các cảng biển, sân

bay, gần nguồn cung ứng điện, nƣớc, gần vùng nguyên liệu, thì sẽ góp phần làm

giảm chi phí vận hành, vận chuyển nguồn vật liệu cũng nhƣ sản phẩm của các

doanh nghiệp. Vì vậy, nếu xây dựng KCN tại đó sẽ hấp dẫn các nhà đầu tƣ hơn.

Mặt khác, nếu các KCN đƣợc xây dựng thuộc các khu vực có mức độ phát triển

22

kinh tế cao, đặc biệt là sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ thì yếu tố

này rất quan trọng đối với các nhà đầu tƣ và vì vậy sẽ nhanh chóng thu hút đầu tƣ

vào KCN.

Do vậy, khi xây dựng KCN cần phải xem xét kỹ về vị trí địa lý, kèm theo

đó là các điều kiện về kinh tế - xã hội. Sự lựa chọn vị trí xây dựng KCN thích

hợp sẽ làm giảm các chi phí liên quan đến việc tạo mặt bằng, xây dựng kết cấu

hạ tầng đồng thời làm tăng thu nhập cho công ty phát triển hạ tầng.

Điều kiện xã hội khu vực chọn xây dựng KCN đƣợc thể hiện ở trình độ

học vấn và nền tảng văn hóa chung của ngƣời dân, các loại hình kinh tế đang tồn

tại và hoạt động trong khu vực. Nếu KCN đặt tại một địa bàn có trình độ học

vấn của ngƣời dân cao, có khả năng tiếp cận với kỹ thuật công nghệ hiện đại,

chắc chắn sẽ thu hút các dự án đầu tƣ nhiều hơn. Đó là vì, các nhà đầu tƣ sẽ

giảm đƣợc chi phí đào tạo nhân lực phục vụ trực tiếp và gián tiếp làm dịch vụ

cho các doanh nghiệp trong KCN. Ngƣợc lại, các điều kiện đó nếu không thuận

lợi thì chi phí cho KCN tất yếu phải cao hơn, hiệu quả đầu tƣ thấp hơn.

1.2.2.2. Quy hoạch và chính sách của nhà nước

Quy hoạch phát triển khu công nghiệp đƣợc coi là nhân tố quan trọng nhất

và quyết định nhất đối với sự hình thành và phát triển một khu công nghiệp cũng

nhƣ hệ thống khu công nghiệp . Đây đƣợc xem là công đoạn xây dựng hình thái

kiến trúc cho khu công nghiệp. Nếu công tác quy hoạch khoa học, hệ thống, có

tầm chiến lƣợc và tƣơng thích với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH và quy

hoạch về sử dụng đất của địa phƣơng, của vùng cũng nhƣ quốc gia sẽ cho phép

khai thác có hiệu quả các nguồn lực. Cụ thể, nếu có một tầm nhìn dài hạn trong

quy hoạch thì sẽ giảm thiểu ảnh hƣởng tiêu cực của quy hoạch đối với đời sống

của ngƣời dân, trƣớc hết là tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tránh

đầu tƣ dàn trải, tràn lan gây ra tình trạng mất cân bằng cung cầu và lãng phí

nguồn lực. Hơn nữa, quy hoạch theo lãnh thổ tốt sẽ cho phép đáp ứng đƣợc các

yêu cầu phát triển lâu dài đồng bộ, đồng thời góp phần phân bổ hợp lý nguồn lực

sản xuất theo lãnh thổ. Bên cạnh đó, quy hoạch các KCN đồng bộ, xây dựng các

KCN gắn liền với quy hoạch xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật cũng nhƣ

23

hạ tầng xã hội, phát triển các khu đô thị sẽ đảm bảo ổn định cho ngƣời lao động

làm việc trong các KCN, đồng thời tạo đƣợc hiệu quả kinh tế - xã hội cao.

Bên cạnh quy hoạch, hệ thống chính sách của nhà nƣớc cũng có ảnh hƣởng

lớn đến sự hình thành và phát triển của các KCN, vì nó quyết định khả năng thu

hút các nhà đầu tƣ đến với KCN. Chính sách, pháp luật rõ ràng, minh bạch, ổn

định và công bằng tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao và là

động lực thu hút các nhà đầu tƣ đầu tƣ vào KCN. Cụ thể, các chính sách ƣu đãi về

đất đai, chính sách miễn giảm thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp

đối với các nhà đầu tƣ sẽ làm tăng lợi nhuận của họ, vì vậy sẽ thúc đẩy các nhà

đầu tƣ chuyển vốn vào những địa bàn có ƣu đãi. Hay chính sách không hạn chế

việc chuyển vốn và lợi nhuận ra nƣớc ngoài của các nhà đầu tƣ tạo thuận lợi cho

chủ đầu tƣ đƣợc lựa chọn các phƣơng án sử dụng phần lợi nhuận ấy có lợi nhất:

họ có thể sử dụng chúng để tái đầu tƣ tại chỗ, hay chuyển về nƣớc, hay chuyển về

nƣớc thứ 3 để có lợi nhuận cao hơn.

Ngoài ra, chính sách về đảm bảo việc làm và thu nhập cho ngƣời dân có đất

bị thu hồi khi xây dựng KCN cũng có ảnh hƣởng không nhỏ đến sự thu hút vào

KCN. Nếu chính sách này hợp lý, phản ánh và bảo vệ tích cực lợi ích chính đáng

của nguời dân thì không chỉ có tác dụng đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng

KCN mà còn tạo sự hƣởng ứng, phấn khởi để nguời dân di dời nơi ở, nhanh

chóng bắt tay vào cuộc sống mới.

1.2.2.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng

Kết cấu hạ tầng đƣợc coi là phần cứng, xƣơng cốt, cơ bắp của KCN,

KCX, nó đƣợc coi là nhân tố quyết định hình thành môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn

Nếu một KCN đƣợc đặt tại một địa bàn có nền kinh tế phát triển, có hệ

thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại sẽ có điều kiện tốt nhất để sản xuất và

tiêu thụ hàng hóa. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở những vùng có KCN

phát triển mạnh nhƣ Biên Hoà, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình

Dƣơng), Tiên Sơn (Bắc Ninh)… Đó là những vùng có các điều kiện về kỹ thuật

hạ tầng phát triển hơn các địa phƣơng khác, từ hệ thống đƣờng sá, cho đến hệ

thống cung cấp các dịch vụ điện, nƣớc, viễn thông … Hệ thống hạ tầng kỹ thuật

24

trong KCN càng thuận lợi thì càng thu hút thêm nhiều dự án đầu tƣ mới, đồng

thời, còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng cƣờng

năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cƣ, tạo

điều kiện để các địa phƣơng giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trƣờng đô

thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng

trong khu vực nhƣ KCN Tân Tạo (TP Hồ Chí Minh), Việt Hƣơng (Bình Dƣơng)…

Đặc biệt , hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm

bảo sự liên thông giữa các vùng, định hƣớng cho phát triển các khu dân cƣ mới,

các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các

công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống ngƣời lao động và cƣ dân trong khu

vực nhƣ: nhà ở, trƣờng học, bệnh viện, khu giải trí…. Những vấn đề này đến

lƣợt nó lại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tƣ các

ngành nhƣ điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các

hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tƣ, phát triển thị

trƣờng địa ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN.

1.2.2.4. Trình độ nguồn nhân lực

Nguồn nhân lực luôn là nhân tố quan trọng nhất trong mọi hoạt động,

trong đó có sự hình thành và phát triển các KCN, KCX. Do đặc điểm sản xuất của

các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển

nhƣ vũ bão hiện nay, yêu cầu một nguồn có chất lƣợng cao là đòi hỏi cấp bách. Vì

vậy, nếu tại một địa phƣơng (hay một quốc gia) có nguồn nhân lực trình độ cao, tác

phong công nghiệp, ý thức kỷ luật tốt thì sẽ là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tƣ

đặc biệt là nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, những dự án công nghệ cao, vì nó giúp các nhà

đầu tƣ giảm chi phí đào tạo lại, từ đó làm giá thành sản phẩm giảm và tính cạnh

tranh cao. Và ngƣợc lại nếu trình độ nguồn nhân lực tại địa phƣơng xây dựng KCN

thấp thì khả năng thu hút đầu tƣ sẽ giảm đi, các dự án đầu tƣ vào đây chủ yếu là

các dự án công nghệ thấp, cần nhiều lao động phổ thông.

1.2.2.5. Bộ máy quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp

Bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với các KCN, trực tiếp là UBND tỉnh, thành

phố, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ tỉnh, Ban quản lý các KCN tỉnh là các cơ quan ban

25

hành, thực thi và kiểm tra kiểm soát về pháp lý và kỹ thuật cho hoạt động của

các KCN. Thực tế hoạt động của các KCN cho thấy, nếu bộ máy quản lý này

năng động, sâu sát, gọn nhẹ; cán bộ quản lý có kinh nghiệm trong việc hoạch định

và quy hoạch chính sách thì các KCN hình thành, phát triển tốt, hấp dẫn các nhà

đầu tƣ. Ngƣợc lại, bộ máy quản lý cồng kềnh, cán bộ quản lý đề ra quy hoạch và

chính sách không đúng, không khoa học sẽ phát triển các KCN vô tổ chức, kém

hiệu quả. Nếu bộ máy quản lý đƣa ra quyết định đặt KCN quá xa vùng nguyên liệu,

đƣờng giao thông, hệ thống điện nƣớc không thuận lợi; cho nhập khẩu máy móc

lạc hậu, … thì sẽ dẫn đến tăng chi phí cho các nhà đầu tƣ, giảm chất lƣợng sản

phẩm,… từ đó, giảm tính hấp dẫn trong đầu tƣ.

1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG

NGHIỆP

Việc đƣa ra các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của các KCN là rất cần

thiết. Nó là cơ sở để các địa phƣơng cũng nhƣ quốc gia nhìn lại hiệu quả hoạt

động xây dựng KCN tại địa phƣơng mình. Sau đây là một số chỉ tiêu:

- Vị trí đặt KCN:

Tiêu chí này một mặt phản ánh chất lƣợng qui hoạch KCN. Vị trí KCN là

thƣớc đo quan trọng đánh giá tính bền vững KCN từ giai đoạn qui hoạch, xây

dựng và vận hành, nó cho thấy tính hợp lý, đồng bộ, khoa học và hiệu quả của

KCN. Các tiêu chí cụ thể bao gồm: sự bố trí khoa học các KCN trong phạm vi

không gian của toàn tỉnh (đây là điều kiện thúc đẩy tăng cƣờng sự liên kết giữa

các KCN); bố trí vị trí KCN trong không gian địa phƣơng: vị trí so với khu dân

cƣ; so với vị trí đƣờng giao thông; và nguồn gốc đất đai cho phát triển KCN

nhằm đạt đƣợc các mục tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi trƣờng và thu hút

lao động.

Mặt khác, đây là dấu hiệu dẫn đến sự thành công của KCN. Các tiêu chí

cụ thể là: KCN đặt ở vị trí thuận lợi hay khó khăn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhƣ

đƣờng xá, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống viễn thông; chất lƣợng các dịch

vụ xã hội của địa phƣơng... Ngoài ra, khi xét đến vị trí của KCN cũng cần xem

xét đến yếu tố tác động kinh tế - xã hội và môi trƣờng mà KCN có thể mang lại.

26

Tất cả những dấu hiệu này phải cần đƣợc xem xét cả ở hiện tại và khả năng duy

trì nó trong tƣơng lai lâu dài của KCN.

- Tỷ lệ lấp đầy KCN:

Chỉ số này đƣợc đo bằng tỷ lệ giữa diện tích đất KCN đã cho các doanh

nghiệp sản xuất và dịch vụ thuê và tổng diện tích đất có khả năng, sẵn sàng cho

thuê của KCN. Chỉ số này cho phép đánh giá mức độ thành công về thu hút đầu

tƣ của KCN và so sánh giữa KCN với các KCN khác trong việc khai thác, sử

dụng đất đai. Một KCN có tỷ lệ diện tích đƣợc lấp đầy là 100% là KCN đã khai

thác triệt để phần diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê, không còn phần

diện tích đất trống.

Tất nhiên tỷ lệ lấp đầy không thể đạt cao ngay từ đầu mà nó phải đƣợc

đánh giá theo từng giai đoạn. Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng kết cấu hạ tầng

kéo dài khoảng 3-4 năm, tiếp sau đó là giai đoạn thu hút đầu tƣ và hoàn thiện thủ

tục với mục tiêu là thu hút nhanh chóng các nhà đầu tƣ vào KCN để “làm sống”

KCN, thu hồi chi phí xây dựng, tạo lập việc làm cho ngƣời lao động. Kinh

nghiệm quốc tế cho thấy thời gian để thu hồi kinh phí đầu tƣ xây dựng có thể

kéo dài khoảng 15-20 năm, vì vậy nếu sau 10-15 năm mà “tỷ lệ khoảng trống”

trong KCN vẫn còn cao thì coi nhƣ KCN này không có hiệu quả và mục tiêu

PTBV KCN này là không đảm bảo.

- Số lượng vốn đăng ký và vốn thực hiện

Tiêu chí này phản ánh tổng vốn đầu tƣ thu hút vào KCN qua đó tính toán

các chỉ tiêu: tỷ suất vốn đầu tƣ trên 01 ha đất cho thuê, tỷ lệ vốn đầu tƣ thực hiện

trên tổng vốn thu hút,… Các chỉ tiêu này càng cao thì KCN hoạt động càng có

hiệu quả. Điều đó cho phép kết luận về khả năng duy trì tính bền bỉ trong hiệu

quả sản xuất của các doanh nghiệp.

- Kết quả và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN:

Đây là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá tính ổn định lâu dài về kinh tế

đảm bảo hoạt động sản xuất của KCN. Đo lƣờng tiêu chí này có thể dựa trên các

chỉ số cụ thể về qui mô và tốc độ tăng trƣởng các chỉ số đầu ra: qui mô, tốc độ

tăng trƣởng về GTSX, kim ngạch xuất khẩu và tỉ trọng trong tổng kim ngạch

27

xuất khẩu của địa phƣơng, đóng góp với ngân sách nhà nƣớc của các doanh

nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN.

- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp và các hoạt động triển khai

khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh:

Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong

KCN, giữa KCN với các KCN khác trong nƣớc và quốc tế. Tiêu chí này thể hiện

bằng các chỉ số: (i) cơ cấu trình độ công nghệ của máy móc thiết bị sử dụng

trong KCN theo tỷ lệ vốn sản xuất trên 1 lao động và tỷ lệ vốn đầu tƣ trên một

dự án; Quốc gia đầu tƣ, tính chất công nghệ; (ii) Tỷ lệ đầu tƣ cho hoạt động

nghiên cứu và triển khai trong tổng vốn đầu tƣ của các doanh nghiệp, tỷ lệ

doanh thu từ hoạt động nghiên cứu và triển khai so với tổng quy mô hoạt động

của doanh nghiệp và của toàn KCN.

- Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động địa phương:

Một trong các mục tiêu quan trọng của KCN, KCX là tạo việc làm tại chỗ

cho ngƣời dân địa phƣơng, theo đó là cải thiện thu nhập và đời sống cho họ

Trong tiêu chí này thì thu nhập của ngƣời lao động là chỉ số quan trọng,

nó là dấu hiệu có tính chất quyết định đến khả năng ổn định và thu hút lao động

vào KCN, duy trì đội ngũ lao động có tay nghề cao trong các doanh nghiệp. Chỉ

số này đƣợc đo bằng: quy mô và tỷ lệ lao động làm việc trong các KCN so với

tổng số lao động tại địa phƣơng, thu nhập bình quân/tháng/lao động (bao gồm

tiền lƣơng và các loại thu thập khác). Nếu mức thu nhập thấp sẽ dẫn đến nguy

cơ luân chuyển lao động không thể kiểm soát đƣợc. Tiêu chí thu nhập đƣợc đo

luờng bằng mức thu nhập bình quân, tốc độ tăng thu nhập bình quân của ngƣời

lao động trong KCN so với thu nhập của ngƣời lao động làm việc cùng ngành

nghề ở các KCN khác và các doanh nghiệp bên ngoài KCN.

Ngoài ra, nó còn đƣợc đánh giá thông qua đời sống vật chất và tinh thần

của ngƣời lao động trong KCN. Ngƣời lao động khi đến làm việc tại các KCN

phần lớn sẽ cƣ trú tại địa phƣơng và trở thành một bộ phận cƣ dân mới của địa

phƣơng nên việc chăm lo đời sống cho họ là trách nhiệm của không chỉ các

doanh nghiệp mà là toàn xã hội. Hơn nữa, đời sống ngƣời lao động đƣợc đảm

28

bảo cũng góp phần ổn định lao động trong các KCN. Chỉ số quan trọng nhất

phản ánh tiêu chí này là điều kiện nơi ở ngƣời lao động, các hoạt động văn hóa

tiếp đó là các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt hàng ngày của ngƣời lao động và

Số lƣợng các hoạt động văn hóa, tinh thần của doanh nghiệp, BQL các KCN tổ

chức hàng năm; Số điểm vui chơi, giải trí, văn hóa, thể thao… phục vụ ngƣời

lao động; Chi phí đầu tƣ chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần của ngƣời lao động

của doanh nghiệp, BQL các KCN, địa phƣơng có KCN; hoặc tỷ lệ sử dụng thời

gian sau giờ làm việc của ngƣời lao động…

- Bảo vệ tài nguyên và môi trường:

Quá trình phát triển KCN phải gắn liền với vấn đề bảo đảm và nâng cao

chất lƣợng môi trƣờng của địa phƣơng nơi KCN đứng chân. Điều đó có nghĩa là

để PTBV thì bản thân các KCN phải có khả năng xử lý tốt vấn đề ô nhiễm môi

trƣờng do mình gây nên, không gây ảnh hƣởng tiêu cực đến môi trƣờng sống và

sức khỏe của con ngƣời, bảo vệ đƣợc môi trƣờng sinh thái. Từ những vấn đề lý

luận PTBV về môi trƣờng và thực tiễn môi trƣờng trong các KCN, tác giả cho

rằng các tiêu chí đánh giá PTBV về môi trƣờng của KCN bao gồm ba nhóm cơ

bản sau: Mức độ khai thác hợp lý và tiết kiệm nguồn tài nguyên, mức độ giải

quyết ô nhiệm môi trƣờng (xử lý nƣớc thải KCN, xử lý chất thải rắn và ô nhiễm

không khí); mức độ ứng dụng công nghệ sạch.

1.4. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP CỦA MỘT

SỐ ĐỊA PHƢƠNG

1.4.1. Kinh nghiệm phát triển KCN tỉnh Bình Dƣơng

Bình Dƣơng là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Xuất phát điểm của Bình

Dƣơng là tỉnh thuần nông, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nhỏ bé, gần nhƣ chƣa

có hạ tầng công nghiệp. Tuy nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,

nhƣng trình độ kinh tế còn thấp với số dân chỉ bằng một quận của thành phố Hồ

Chí Minh. Do đó, tỉnh Bình Dƣơng đã xác định xây dựng và phát triển KCN

đƣợc coi là giải pháp và bƣớc đi cần thiết để CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnh.

Với phƣơng châm “trải chiếu hoa” để mời gọi các nhà đầu tƣ, tỉnh Bình Dƣơng

tạo đƣợc sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tƣ và cho đến nay Bình Dƣơng đã

29

trở thành một trong những địa phƣơng dẫn đầu về phát triển và thu hút đầu tƣ

vào KCN trong những năm gần đây. Việc hình thành các KCN ở Bình Dƣơng

bắt đầu từ các huyện phía Nam, giáp TP Hồ Chí Minh, nơi có lợi thế về vị trí địa

lý, khả năng huy động nguồn lực, về thị trƣờng, về lao động, tạo điều kiện thuận

lợi trong việc quy hoạch phát triển các KCN phía Bắc của tỉnh Bình Dƣơng.

Trƣớc năm 1997, khi các địa phƣơng khác trên cả nƣớc mới bắt đầu chủ

trƣơng thành lập các KCN thì trên địa bàn Bình Dƣơng đã có 4 KCN, với diện

tích 600 ha; đến năm 2006, số KCN trên địa bàn toàn tỉnh là 21 KCN, với tổng

diện tích là 5129,94 ha, trong đó có 16 KCN đã đi vào hoạt động và cho thuê

đất. Đến hết năm 2009, Bình Dƣơng đã có 25 KCN đã đƣợc thành lập, tổng diện

tích quy hoạch 6.934,48 ha, trong đó đã có 22 KCN đi vào hoạt động với tổng

diện tích 6.157,21 ha. [48]

Về thu hút đầu tƣ: Với cơ chế, chính sách thông thoáng, cơ sở hạ tầng

hiện đại, các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng ngày càng đƣợc sự chú ý của

các nhà đầu tƣ. Số lƣợng dự án đầu tƣ tăng lên hàng năm. Năm 2006 thu hút

đƣợc 75 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài mới, với số vốn là 493 triệu USD, tăng 59% so

với năm 2005; và 25 dự án đầu tƣ trong nƣớc với tổng số vốn 204,4 tỷ đồng.

Năm 2007, thu hút đƣợc 186 dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, với tổng số vốn là

1.254 triệu USD, đứng thứ hai cả nƣớc sau Đồng Nai. Bình Dƣơng cũng là một

trong những tỉnh dẫn đầu về vốn đầu tƣ trong nƣớc thu hút đƣợc với trên 3.000

tỷ đồng vốn đầu tƣ thu hút vào các KCN trong năm 2007. Năm 2009, các KCN

Bình Dƣơng đã thu hút thêm 27 dự án nƣớc ngoài với tổng số vốn đầu tƣ 412

triệu USD và 23 dự án đầu tƣ trong nƣớc, với tổng vốn đầu tƣ đăng ký 5.045,39

tỷ đồng. So với cùng kỳ năm 2008, tăng 28% về số dự án và tăng 261% về vốn.

Nhƣ vậy, tính đến năm 2009 các KCN Bình Dƣơng có 1.019 dự án còn

hiệu lực, bao gồm 708 dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đầu tƣ đăng

ký là gần 4,5 tỷ USD, và 311 dự án đầu tƣ trong nƣớc với tổng vốn đầu tƣ là

13.000 tỷ đồng. [48]

Sự phát triển và không ngừng lớn mạnh của các KCN đã có đóng góp

quan trọng vào nền kinh tế - xã hội của Bình Dƣơng. Kim ngạch xuất khẩu của

30

các doanh nghiệp trong KCN liên tục tăng trƣởng: năm 2005 là 595,1 triệu USD

tăng lên 972 triệu USD vào năm 2006, tới năm 2007 kim ngạch xuất khẩu đã lên

đến 1,2 tỷ USD, năm 2009 do khủng hoảng kinh tế toàn cầu kim ngạch xuất

khẩu tăng thấp đạt 1,4 tỷ USD. Nộp ngân sách nhà nƣớc của các KCN tăng ổn

định qua các năm: năm 2006 nộp ngân sách nhà nƣớc là 48,13 triệu USD, tăng

17,36% so với năm 2005; năm 2007 là 61,2 triệu USD; Năm 2009 là 70,9 triệu

USD đạt 70% kế hoạch năm [46]. Hàng năm, các KCN đã giải quyết đƣợc một

số lƣợng lớn việc làm cho lao động trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận. Năm

2006, lao động làm tại các doanh nghiệp KCN là 137.236 ngƣời; năm 2007 là

180.000 ngƣời, năm 2009 là 196.000 ngƣời và tính tới quí I/2010, các KCN tỉnh

Bình Dƣơng đã thu hút đƣợc trên 6.000 lao động, nâng tổng số lao động đang

làm việc trong các KCN Bình Dƣơng đến nay là 196.977 ngƣời, tăng 2,8% so

với đầu năm và tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2009 [46]. Nhiều KCN đã kết

hợp với doanh nghiệp trong KCN quan tâm chăm lo đời sống của ngƣời lao

động cả về vật chất lẫn tinh thần nhƣ xây dựng nhà ở, xây dựng các khu vui chơi

giải trí tổ chức các hoạt động thể thao bổ ích. Số lƣợng nhà ở của các KCN xây dựng là 26.000 m2, giải quyết khoảng 5.000 chỗ ở cho công nhân. Tuy nhiên, do

số lƣợng lao động lớn nên Bình Dƣơng cũng chỉ đảm bảo nhà cho 15% số lao

động còn lại đại bộ phận ngƣời lao động phải thuê nhà của dân, chủ yếu là nhà

tạm với những tiện nghi thấp. [48]

Qua thực tiễn phát triển KCN Bình Dƣơng thời gian qua, có thể rút ra một

số kinh nghiệm để tỉnh Vĩnh Phúc nghiên cứu, áp dụng nhƣ sau:

Một là, cùng với những chủ trƣơng chính sách của Nhà nƣớc khuyến

khích các thành phần kinh tế phát triển, sự thống nhất nhận thức và nhất quán

hành động của toàn thể Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh trong quá trình quy

hoạch, xây dựng KCN là vô cùng quan trọng. Và với chính sách thoả đáng, hợp

lý, nó sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải toả để nhanh chóng triển khai

đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và kêu gọi đầu tƣ.

Hai là, quy hoạch KCN phải dựa trên lợi thế so sánh của vùng, có vị trí

địa lý và điều kiện tự nhiện thuận lợi, gắn với phát triển hệ thống giao thông

31

trong và ngoài hàng rào KCN, đấu nối các hạ tầng kỹ thuật (điện, nƣớc, bƣu

chính viễn thông…), nguồn lao động cung cấp cho KCN. Quy hoạch KCN phải

theo lộ trình và định hƣớng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Việc

thành lập mới hay điều chỉnh quy hoạch các KCN đều phải căn cứ vào thực tế

và lợi thế của từng KCN theo hƣớng mới liền kề với KCN đã đƣợc lấp đầy.

Ba là, lựa chọn chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng có năng lực tài chính,

kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và có kinh nghiệm quản lý, có mối

quan hệ khách hàng rộng; đặc biệt là đội ngũ cán bộ kinh doanh phải có sự am

hiểu về hoạt động của KCN để từ đó có khả năng tiếp thị, xúc tiến kêu gọi đầu

tƣ vào KCN. Thực tế cho thấy sự chậm chễ và trở ngại trong việc xây dựng cơ

sở hạ tầng KCN sẽ ảnh hƣởng lớn đến sự triển khai dự án của nhà đầu tƣ.

Nguyên nhân chủ yếu của sự chậm chễ và trở ngại nói trên thuộc về chủ đầu tƣ

thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là

thiếu kinh nghiệm trong xây dựng cơ sở hạ tầng KCN.

Bốn là, phải tiến hành cải cách hành chính một cách triểt để, thực hiện tốt

cơ chế “một cửa”. Các sở ban ngành trong tỉnh cần có sự quan tâm thƣờng

xuyên để kịp thời tháo gỡ các khó khăn vƣớng mắc của nhà đầu tƣ trong quá

trình hoạt động, xoá bỏ tình trạng quan liêu bàn giấy, hách dịch nhũng nhiễu,

tiêu cực, gây ra những khó khăn cho ngƣời dân khi tiếp cận với cán bộ, với các

cơ quan công quyền, trong việc chứng nhận những giấy tờ, hồ sơ và những thủ

tục liên quan đến công việc hành chính. Trong năm 2006 do làm tốt công tác

uỷ quyền và cơ chế “một cửa” Ban quản lý KCN Bình Dƣơng đã giải quyết

đƣợc gần 5000 văn bản, hồ sơ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,

vì vậy, tiết kiệm đƣợc rất nhiều thời gian đi lại của nhà đầu tƣ và đƣa dự án

sớm đi vào hoạt động. Hiện tại, Bình Dƣơng là một trong những địa bàn hấp

dẫn các nhà đầu tƣ nhất so với cả nƣớc. Nhiều KCN nhƣ: Việt Nam – Singapore,

Sóng Thần, Mỹ Phƣớc… đã trở thành điểm sáng về phát triển công nghiệp của

cả nƣớc. Theo bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, Bình Dƣơng

tiếp tục là một trong những tỉnh nằm ở tốp đứng đầu.

1.4.2. Kinh nghiệm của Hải Dƣơng

32

Hải Dƣơng là một tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, là một trong

7 tỉnh, thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Tuy là tỉnh đi sau trong

việc quy hoạch đầu tƣ xây dựng các KCN so với một số tỉnh trong cả nƣớc (mới

đƣợc triển khai trong vài năm gần đây), nhƣng Hải Dƣơng đã biết chọn cho

mình một cách thức và biện pháp, bƣớc đi thích hợp, nên sự hình thành và phát

triển các KCN ở đây khá nhanh. Tỉnh Hải Dƣơng đã sớm có chủ trƣơng quy

hoạch phát triển các vùng công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu và quy hoạch

phát triển đồng bộ các KCN quản lý theo Nghị định 36/CP của Chính Phủ.

KCN của tỉnh Hải Dƣơng đƣợc quy hoạch có vị trí thuận lợi cho việc đầu

tƣ phát triển trƣớc mắt cũng nhƣ việc mở rộng quy hoạch về sau. Các KCN này

đƣợc quy hoạch đồng bộ gắn với quy hoạch các khu đô thị, nhà ở cho công

nhân, khu nhà ở chuyên gia và khu DV phục vụ cho các KCN.

Tính đến năm 2006, tỉnh Hải Dƣơng đã đƣợc Chính phủ cho phép bổ sung

quy hoạch để đầu tƣ xây dựng 7 KCN tập trung với tổng diện tích 1000ha, đó là:

KCN Nam Sách: diện tích 63,93 ha; KCN Đại An: diện tích 170,82 ha; KCN

Phúc Điền: diện tích: 87 ha; KCN Việt Hoà: diện tích 49 ha; KCN Phú Thái:

diện tích 72 ha; KCN Tân Trƣờng: diện tích 200 ha; KCN Tầu Thuỷ: diện tích

210 ha. Năm 2009, số lƣợng các KCN ở Hải Dƣơng đã nâng lên là 10 KCN với

tổng diện tích đất là 1.958 ha.[21], [48]

Hải Dƣơng vừa đầu tƣ xây dựng hạ tầng kỹ thuật tại các KCN vừa thực

hiện vận động kêu gọi đầu tƣ. Nhờ vậy, tính đến cuối năm 2008 các KCN trên

địa bàn tỉnh Hải Dƣơng đạt đƣợc nhiều kết quả hết sức lạc quan. Tính đến nay,

các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút đƣợc 118 dự án (Bao gồm cả dự án đầu tƣ

xây dựng hạ tầng KCN) với tổng số vốn đăng ký là 1,841 tỷ USD. Năm 2008, vốn

thực hiện của các dự án đầu tƣ sản xuất kinh doanh trong KCN là 293 triệu USD,

lũy kế vốn đầu tƣ thực hiện đến nay là 700 triệu USD. Tổng số vốn đầu tƣ hạ tầng

vào các KCN trong thời gian qua khoảng 750 tỷ đồng (chủ yếu là vốn do các

chủ đầu tƣ xây dựng hạ tầng và một phần vốn hỗ trợ của ngân sách nhà nƣớc

đầu tƣ). Trong đó, một số KCN đã gần lấp đầy diện tích đất cho thuê, nhƣ: KCN

Nam Sách; KCN Đại An, KCN Việt Hoà,… Các KCN khác cũng đã lấp đầy hơn

33

50% diện tích đất cho thuê.

Hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN năm 2008 phát triển ổn định

và có mức tăng trƣởng khá. Hiện nay có 90 dự án đã triển khai trong KCN, trong

đó 50 doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất với kết quả về hoạt động

SXKD cụ thể nhƣ sau: doanh thu 700 triệu USD; giá trị hàng nhập khẩu 577

triệu USD; nộp ngân sách cho nhà nƣớc 10 triệu USD; giải quyết công ăn việc

làm cho 34.500 ngƣời, trong đó giải quyết việc làm mới cho 15.300 ngƣời. [48]

Với định hƣớng xây dựng các KCN sạch, thân thiện với môi trƣờng, hiện

các KCN trong tỉnh đã có 2 nhà máy xử lý nƣớc thải đi vào hoạt động chính

thức, 01 nhà máy chuẩn bị hoạt động. Đến nay đã có 41/117 doanh nghiệp thực

hiện báo cáo đánh giá tác động môi trƣờng và cam kết bảo vệ môi trƣờng theo

quy định khi tham gia đầu tƣ sản xuất kinh doanh trong KCN.

Bài học về sự hình thành và phát triển các KCN ở Hải Dƣơng, đã cung

cấp một số kinh nghiệm có thể tham khảo cho tỉnh Vĩnh Phúc trong việc đảm

bảo sự phát triển bền vững đối với các KCN, đó là:

Thứ nhất, việc quy hoạch phát triển các KCN và KCX phải gắn với sự

quy hoạch phát triển KT - XH của địa phƣơng. Cần tranh thủ sự giúp đỡ của

Chính phủ và các Bộ, ban, ngành Trung ƣơng, đồng thời phải đƣợc sự đồng

thuận, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo tỉnh và phối kết hợp chặt chẽ của các sở, ban,

ngành trong tỉnh.

Thứ hai, công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng các KCN cần phải

đƣợc sự chỉ đạo thống nhất và kịp thời của các cấp chính quyền trong tỉnh, coi

nhƣ là một nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền, đồng thời phải đảm

bảo đúng chế độ chính sách về đất đai và quyền lợi của ngƣời dân có đất bị thu

hồi để xây dựng các KCN.

Thứ ba, xây dựng cơ chế chính sách ƣu đãi đầu tƣ vào các KCN: Một

trong những điều kiện có yếu tố quyết định các nhà đầu tƣ (đặc biệt là nhà đầu

tƣ nƣớc ngoài) là các điều kiện về xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó có việc xây

dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật trong các KCN. Việc đầu tƣ xây dựng hạ tầng kỹ

thuật đòi hỏi cần phải có một lƣợng vốn ban đầu rất lớn, trong khi điều kiện

34

ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp, tỉnh Hải Dƣơng lựa chọn phƣơng án tạo điều

kiện thuận lợi nhất để huy động tất cả các nguồn vốn, đặcbiệt là nguồn vốn của

các thành kinh tế tƣ nhân rong và ngoài nƣớc, cùng với sự hỗ trợ của tỉnh và

Trung ƣơng để đầu tƣ xây dựng hạ tầng đồng bộ trong và ngoài KCN. Để tạo

môi trƣờng hấp dẫn các nhà đầu tƣ, UBND tỉnh Hải Dƣơng đã sớm ban hành

quy chế ƣu đãi khuyến khích đầu tƣ vào các KCN trên địa bàn tỉnh; tạo điều

kiện thuận lợi cải thiện môi trƣờng đầu tƣ của tỉnh, đáp ứng đƣợc nguyện vọng

của các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, đặc biệt đối với các nhà đầu tƣ kinh

doanh hạ tầng trong và ngoài KCN, họ sẵn sàng bỏ vốn đầu tƣ xây dựng và kinh

doanh hạ tầng KCN.

Thứ tư, thực hiện cơ chế “một cửa tại chỗ” cho các nhà đầu tƣ: Thực hiện

cơ chế một cửa là giải pháp quan trọng trong công tác cải cách hành chính ở

nƣớc ta hiện nay. Đối với hoạt động thu hút đầu tƣ, việc thực hiện cơ chế một

của có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp nhà đầu tƣ tiết kiệm đƣợc thời gian

đi lại và tạo điều kiện rút ngắn thời gian đƣa dự án sớm vào hoạt động. Ngay sau

khi đƣợc thành lập, Ban quản lý các khu công nghiệp Hải Dƣơng đã sớm tham

mƣu cho tỉnh ban hành Quy chế phối hợp giữa Ban Quản lý các khu công nghiệp

tỉnh với các cấp, ngành trong việc quản lý các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Đồng thời thực hiện cơ chế uỷ quyền của Tỉnh và các Bộ, ngành Trung ƣơng

trong việc thực hiện các thủ tục hành chính cho các nhà đầu tƣ: Cấp phép đầu tƣ

đối với dự án đầu tƣ trong và ngoài nƣớc; Quản lý và phê duyệt kế hoạch xuất

nhập khẩu; Cấp phép cho lao động nƣớc ngoài và quản lý lao động của các doanh

nghiệp trong khu công nghiệp...

Các thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tƣ trong thời gian qua luôn

đƣợc Ban quản lý tập trung giải quyết kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho

các nhà đầu tƣ trong việc triển khai dự án, sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy đã

góp phần rất tích cực trong việc tạo ra bức tranh môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn của

tỉnh Hải Dƣơng trong việc thu hút đầu tƣ.

Thứ năm, chủ động xây dựng và thực hiện tốt các chƣơng trình xúc tiến

đầu tƣ thích hợp, phối hợp nhịp nhàng cùng với các đơn vị chủ đầu tƣ hạ tầng

35

tăng cƣờng xúc tiến đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Cụ thể, phải chủ động xây dựng

mục tiêu các ngành nghề, lĩnh vực, dự án cần xúc tiến đầu tƣ đi đôi với lựa chọn

địa bàn xúc tiến đầu tƣ thích hợp. Đặc biệt, lãnh đạo tỉnh cần trực tiếp đi xúc

tiến kêu gọi đầu tƣ đi đôi với tổ chức hội thảo trong và ngoài nƣớc với nội dung

liên quan đến công tác xúc tiến đầu tƣ.

36

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP

TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC

2.1. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH

VĨNH PHÖC

2.2.1. Đất phi nông nghiệp khá lớn, nguồn nƣớc dồi dào và vị trí địa

lý thuận tiện

2.1.1.1. Đất đai

Điều kiện tự nhiên của Vĩnh Phúc không có nhiều ƣu đãi trong phát triển

nông nghiệp, nhƣng đổi lại Vĩnh Phúc có tiềm năng để phát triển công nghiệp và

dịch vụ. Tài nguyên đất của Vĩnh Phúc không lớn chỉ có 123.176,43 ha (đứng

thứ 59/64 tỉnh thành) nhƣng rất có tiềm năng để phát triển các KCN, bởi hiện

nay trên địa bàn tỉnh có 6.038 ha diện tích đất cho KCN các loại; thêm vào đó,

việc quy hoạch lại những vùng đất phát triển nông nghiệp kém hiệu quả cũng làm

tăng diện tích để xây dựng các KCN. Vĩnh Phúc đƣợc đánh giá là tỉnh có chính

sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất khá tốt và cũng là một trong những tỉnh tạo

khả năng tiếp cận đất đai tốt nhất cho các nhà đầu tƣ. Theo số liệu thống kê, Vĩnh

Phúc có diện tích đất chƣa sử dụng 2.920,65 ha (chiếm 2,4%). Đây là quỹ đất

lớn tạo điều kiện cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang sản xuất công

nghiệp hoặc thành lập các KCN để có hiệu quả cao hơn.

Theo báo cáo “Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất tỉnh Vĩnh Phúc đến năm

2010” khả năng chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp cao, năm 2010(dự kiến)

khoảng 8.426,09ha, trong đó có 7.159,43 ha đất sản xuất nông nghiệp chủ yếu là

đất bạc màu, năng suất thấp. Trong tổng số đất nông nghiệp chuyển sang đất phi

nông nghiệp có khoảng 3.200ha đƣợc sử dụng cho phát triển các KCN. Với diện

tích này, tỉnh Vĩnh Phúc có thể tiếp tục mở rộng quy hoạch các KCN với quy

mô lớn. Còn đến năm 2020, sẽ có khoảng trên 10.571ha. Tiềm năng đất đai phi

nông nghiệp tập trung phân bố chủ yếu ở các địa phƣơng nhƣ: huyện Bình

Xuyên; Tam Dƣơng, Lập Thạch; một số địa điểm thuộc các huyện Vĩnh

37

Tƣờng... Đó là điều kiện cần thiết cho phép phát triển các KCN. Phần lớn diện

tích đất thuộc các huyện Tam Dƣơng, Lập Thạch… là đất đồi và đất trồng lúa

cho năng suất thấp. Các diện tích đất thuộc huyện Vĩnh Tƣờng tuy là đất trồng

lúa nhƣng hiệu quả không cao, có thể chuyển đổi sang phát triển công nghiệp và

đô thị. Các diện tích đất này phần lớn gần với các tuyến GT huyết mạch: Quốc

lộ số 2, Quốc lộ 2C, các tuyến đƣợc cao tốc Xuyên Á dự kiến (Nội Bài – Lào

Cai), vành đai của Thủ đô Hà Nội... Ngoài ra, có một số diện tích chƣa đƣợc

đánh giá đầy đủ về các điều kiện cần thiết cho phát triển các KCN, cần đƣợc

điều tra khảo sát tiếp. Đây là một thuận lợi đáng kể cho phát triển công nghiệp

và KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

Cùng với chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất đƣợc đánh giá cao,

giá thuê đất của Vĩnh Phúc cũng là một lợi thế để thu hút các nhà đầu tƣ vào

KCN. Giá thuê đất Vĩnh Phúc thấp hơn so với các tỉnh lân cận. Đối với các dự

án đầu tƣ giá thuê đất tối đa là 20% so với giá thuê đất của UBND tỉnh ban

hành, đồng thời với sự ƣu đãi của UBND tỉnh cho việc đầu tƣ cũng đƣợc thể

hiện tại những nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triêể KCN giá đất thấp hơn so

với các huyện, thị xung quanh. Ví dụ: Bình Xuyên, Phúc Yên giá thuê đất thấp

hơn so với các vùng khác trong tỉnh.

Những lợi thế trên cùng với hệ thống chính sách của UBND tỉnh Vĩnh

Phúc về việc cung cấp, giải quyết giấy tờ quyền sử dụng đất của các doanh

nghiệp đầu tƣ đã tạo ra tiềm năng lớn cho việc phát triển KCN với tính cạnh

tranh cao trong tƣơng lai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

2.1.1.2. Nguồn nước

Tài nguyên nƣớc trên địa bàn Vĩnh Phúc khá dồi dào, đặc biệt là nƣớc mặt với tổng trữ lƣợng nƣớc mặt khoảng 10 tỷ m3. Nguồn nƣớc mặt của Tỉnh khá

phong phú nhờ 2 sông lớn chảy qua là sông Hồng (với lƣu lƣợng lớn nhất 5.090 cm3/s) và sông Lô (với lƣu lƣợng lớn nhất 1.460 cm3/s), cùng với các sông Phó

Đáy, sông Phan, Cà Lồ, các hồ chứa Đại Lải, Xạ Hƣơng, Vân Trục, Đầm Vạc...

Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là phát triển

các KCN có quy mô lớn.

38

Hệ thống nƣớc mặt phân bố khắp trong tỉnh tạo nên hệ thống cấp thoát

nƣớc có hiệu quả cao hơn phục vụ quá trình sản xuất, đặc biệt là trong các khu

công nghiệp. Hiện nay các KCN tập trung ngay gần những hệ thống sông và hệ

thống hồ, ví dụ: KCN Khai Quang - gần sông Hồng, gần hệ thống Đầm Vạc của

thành phố Vĩnh Yên. Điều này sẽ làm cho sản xuất đƣợc thuận lợi, chi phí xây

dựng hệ thống cấp thoát nƣớc của các KCN thấp vì vậy tạo ra thuận lợi hạ giá

thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh.

2.1.1.3. Vị trí địa lý:

Vĩnh Phúc có vị trí địa lý đƣợc đánh giá là khá thuận lợi cho việc phát

triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong việc thu hút nguồn vốn đầu tƣ trong và

ngoài nƣớc.

Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi - đồng bằng. Vì

vậy, đây là cầu nối quan trọng với vùng trung du miền núi phía Bắc với vùng

đồng bằng sông Hồng. Với độ cao địa hình không lớn, do đó sự lƣu thông đƣợc

diễn ra dễ dàng , mở ra tiềm năng thị trƣờng lớn, thuận lợi để sản xuất, trao đổi

hàng hoá.

Quá trình phát triển kinh tế đất nƣớc trong những năm qua đã cho Vĩnh

Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý. Đƣợc xác định là 1 trong 8 tỉnh của vùng

kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Tỉnh đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành

đai phát triển công nghiệp phía Bắc. Vị trí này tạo ra lực mới cho thu hút đẩy

mạnh hoạt động đầu tƣ. Vị thế của tỉnh đƣợc tăng lên trong bản đồ kinh tế quốc

gia, cái nhìn của các nhà đầu tƣ vào Vĩnh Phúc có sự chuyển biến. Bên cạnh đó,

do nằm cạnh các tỉnh có rất nhiều điều kiện thuận lợi thu hút đầu tƣ, cũng nhƣ

phát triển các KCN nên Vĩnh Phúc bị đặt trong thế cạnh tranh giữa các tỉnh, thành

này. Do vậy, Vĩnh Phúc phải năng động đổi mới mình để cạnh tranh đƣợc với các

địa phƣơng khác.

Vị trí quan trọng để tạo ra động lực, tiềm năng chính trong việc thu hút

đầu tƣ, phát triển các KCN là vị trí gần Hà Nội. Giáp với Hà Nội, các KCN tỉnh

Vĩnh Phúc chịu ảnh hƣởng của sức lan toả của các KCN lớn thuộc Hà Nội nhƣ

Quang Minh, Bắc Thăng Long, Sóc Sơn. Do đó, tỉnh có khả năng tiếp nhận các

39

dự án đầu tƣ – xây dựng vệ tinh phát triển kinh tế, tăng thu hút vốn đầu tƣ, tiến

hành chuyển giao công nghệ.

Vị trí địa lý với sự giao lƣu kinh tế giữa các tỉnh cũng tạo ra tiềm năng lớn

cho phát triển các KCN của tỉnh. Hiện nay mối quan hệ kinh tế giữa các tỉnh

trong vùng đồng bằng sông Hồng, các tỉnh kinh tế thuộc vùng kinh tế trọng điểm

phía Bắc và các tỉnh khác đang đƣợc đẩy mạnh phát triển thông qua hệ thống

giao thông vận tải. Giao thông vận tải tạo nên lợi thế lớn cho tỉnh Vĩnh Phúc. Sự

phát triển của hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc

đã làm cho tỉnh xích lại gần với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và những

thành phố lớn của nƣớc ta: Côn Minh – Hà Nội - Hải Phòng; Việt Trì – Hà

Giang – Trung Quốc và hành lang đƣờng 18. Vĩnh Phúc có trục quốc lộ 2 đóng

vai trò xƣơng sống huyết mạch của vận chuyển sản xuất, có đƣờng sắt Hà Nội –

Lào Cai chạy qua, đặc biệt sự liền kề với cảng hàng không quốc tế Nội Bài là

yếu tố tạo ra tiềm năng thu hút đầu tƣ nhất; do đó, đầu tƣ vào KCN Vĩnh Phúc

sẽ giúp các doanh nghiệp gia tăng lợi thế cạnh tranh, tiết kiệm chi phí vận

chuyển bằng đƣờng bộ, đƣờng sắt và đƣờng hàng không.

Nhƣ vậy, vị trí đã tạo nên những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển các

KCN và thu hút đầu tƣ. Đặc biệt nó tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn so với các tỉnh

trung du và miền núi.

2.1.2. Nguồn lao động trẻ

Dân số Vĩnh Phúc khá đông, do đó tỉnh có một nguồn lao động khá dồi

dào. Năm 2009, nguồn lao động của tỉnh là 690,68 nghìn ngƣời, tăng 1,1 lần so

với năm 2008 (672,61 nghìn ngƣời), chiếm 69% dân số toàn tỉnh

(690,68/1.003,047), trong đó, dân số từ độ tuổi 15 đến 45 tuổi chiếm 50 % dân

số toàn tỉnh. Do kết cấu dân số trẻ, tăng bình quân hàng năm 20 nghìn ngƣời nên

nguồn lao động của Vĩnh Phúc có khả năng đáp ứng đƣợc nhu cầu lao động cho

các KCN. Bên cạnh đó, giá nhân công lao động Vĩnh Phúc rẻ hơn hẳn so với các

tỉnh khác thuộc đồng bằng sông Hồng. Đây là lợi thế so sánh tạo ra năng lực thu

hút vốn đầu tƣ cho tỉnh nhà nói chung và cho KCN nói riêng.

Thế mạnh của lực lƣợng lao động trẻ là năng động, nhạy bén trong tiếp

40

cận thị trƣờng, sáng tạo trong sản xuất đáp ứng đƣợc những yêu cầu của các nhà

đầu tƣ. Tuy nhiên, lao động Vĩnh Phúc có trình độ học vấn không cao, chủ yếu là

lao động tốt nghiệp trong các bậc trung học phổ thông cơ sở. Theo thống kê tính

đến thời điểm ngày 1/4/2009 lao động trên 15 tuổi chƣa qua đào tạo chiếm

65,3% dân số toàn tỉnh, còn lao động qua đào tạo chỉ chiếm 10%. Nhƣng chính

điều đó giúp cho Vĩnh Phúc có nhiều tiềm năng trong việc thu hút các ngành cần

nhiều lao động, nhƣ dệt may, công nghiệp vật liệu, công nghiệp sản xuất sản

phẩm tiêu dùng bởi giá nhân công lao động giản đơn rất thấp.

Tuy nhiên, cần thấy rằng lao động giá rẻ chỉ là lợi thế hiện tại, và cũng chỉ

đối với một số ngành truyền thống nào đó, chứ không phải là lợi thế so sánh

trong thời đại CNH, HĐH. Vì vậy, tỉnh Vĩnh Phúc cần phải có chiến lƣợc đào

tạo trình độ chuyên môn cho đội ngũ này.

2.1.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng tƣơng đối phát triển

Hệ thống kết cấu hạ tầng – kỹ thuật tạo nên những điều kiện vật chất

ban đầu cho toàn bộ quá trình sản xuất. Kết cấu hạ tầng tốt, sản xuất đƣợc

thuận lợi thì việc thu hút đầu tƣ cũng trở nên dễ dàng hơn và ngƣợc lại, nếu

kết cấu hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ, chất lƣợng thấp thì hoạt động thu hút

đầu tƣ sẽ thấp.

Tại Vĩnh Phúc, mạng lƣới giao thông tƣơng đối phát triển, đặc biệt là hệ

thống đƣờng bộ. Tổng chiều dài đƣờng bộ là 1750 km, mặt đƣờng là 0,0367 km/km2, cao hơn so với mức trung bình của cả nƣớc (0,326km/km2). Tuyến

đƣờng quan trọng nhất của tỉnh là quốc lộ 2A, có vai trò quan trọng trong việc

phát triển kinh tế và giao lƣu kinh tế trong tỉnh với các tỉnh khác trong khu vực.

Chiều dài quốc lộ 2A chạy qua tỉnh khoảng 40 km, hiện nay đang đƣợc hiện đại

hóa, làn đƣờng đƣợc mở rộng với hệ thống cầu vƣợt đƣợc xây dựng, là điều kiện

để tăng tốc độ của các phƣơng tiện vận tải. Đây là một lợi thế quan trọng để thúc

đẩy sản xuất và thu hút vốn đầu tƣ của tỉnh nói chung và của KCN nói riêng. Bên

cạnh huyết mạch 2A, các tuyến quốc lộ khác: 2B, 2C, 23 cũng đƣợc mở rộng và

cải thiện. Bên cạnh đó, các tuyến huyện lộ cũng đƣợc nâng cấp. Trong thời gian

tới, tỉnh Vĩnh Phúc còn đƣợc thừa hƣởng một hệ thống đƣờng bộ hiện đại, với các

41

tuyến hành lang xuyên Á: Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, đƣờng vành

đai IV, vành đai V của thủ đô Hà Nội. Đây là điều kiện để giảm thiểu chi phí vận

tải cho các doanh nghiệp và ngƣời dân nói chung.

Trên địa bàn tỉnh còn có tuyến đƣờng sắt Hà Nội – Lào Cai chạy qua,

trong đó có hai ga quan trọng là ga Vĩnh Yên và ga Phúc Yên. Đƣờng sắt nối

Vĩnh Phúc với các tỉnh khác trong cả nƣớc, đặc biệt là nối với Trung Quốc –

Một thị trƣờng lớn cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh đó, hệ thống sông Hồng và sông Lô chảy qua Vĩnh Phúc dài

trên 50km, hiện có 3 cảng là Chu Phan và Vĩnh Thịnh trên sông Hồng, cảng

Nhƣ Thụy trên Sông Lô. Hƣớng phát triển sắp tới: xây dựng cảng Vĩnh Thịnh,

Nhƣ Thụy hoặc Hải Lựu, Chu Phan thành các cảng lớn. Hệ thống cảng sông

đang đƣợc đẩy mạnh đầu tƣ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho phát triển vận tải

và gián tiếp tác động đến phát triển các KCN trên địa bàn.

Nhìn chung, hệ thống giao thông vận tải của Vĩnh Phúc đã tạo ra khá

nhiều thuận lợi cho việc phát triển kinh tế hội nhập của tỉnh. Vĩnh Phúc có lợi thế

“trời cho” là tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và gần sân bay quốc tế Nội Bài. Các

tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đƣợc nối liền. Cùng với sự phát triển của hệ thống giao

thông đƣờng sông và đƣờng sắt làm cho hoạt động kinh tế của tỉnh đƣợc thuận

lợi. Xây dựng và quy hoạch phát triển giao thông vận tải giúp Vĩnh Phúc có thể

quy hoạch tập trung và tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp sản xuất trong

các KCN tiết kiệm thời gian, giảm chi phí vận chuyển. Từ đó tạo ra cơ hội lớn

cho việc thu hút đầu tƣ.

Mạng lƣới điện của tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong sự phát triển của hệ thống

điện của các tỉnh Miền Bắc. Tính đến năm 2009, toàn tỉnh có 152/152 xã,

phƣờng có điện lƣới quốc gia . Hiện tại có 2 trạm biến áp 110KV đặt ở Phúc

Yên và Vĩnh Yên; các trạm đƣợc nối với điện lƣới quốc gia qua đƣờng dây

110KV Việt Trì - Đông Anh. Ngoài ra, hỗ trợ điện cho Vĩnh Phúc còn có 2

đƣờng dây 35 KV từ trạm 110KV Việt Trì (Phú Thọ) và 1 đƣờng dây 35KV từ

Đông Anh (Hà Nội). Nằm trong vùng thuận lợi về cung cấp điện từ điện lƣới

quốc gia, với hệ thống truyền tải và phân phối điện đƣợc quy hoạch và đầu tƣ

42

đồng bộ đảm bảo cung cấp điện cho nhu cầu phát triển các KCN nói riêng và

kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung.

Nhƣ trên đã đề cập, Vĩnh Phúc có tiềm năng lớn về nguồn nƣớc. Nguồn

nƣớc mặt, nƣớc ngầm tự nhiên dồi dào đủ để cung cấp cho hoạt động sản xuất

công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi trên địa bàn. Hiện tại, Vĩnh Phúc có 3 nhà máy cung cấp nƣớc sạch: 01 ở Vĩnh Yên có công suất 16.000m3/ngày đêm; 02 Phúc Yên có tổng công suất là 23.000 m3/ngày đêm. Tỉnh đang triển khai xây

dựng mới một số công trình cấp nƣớc để đến 2010 đảm bảo công suất cấp nƣớc đạt 100.000-300.000m3/ngày-đêm; đến 2020 lên 1.000.000m3/ngày-đêm, đảm

bảo nguồn nƣớc cần thiết cho các nhà máy hoạt động.

2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH

VĨNH PHÖC 1998 - 2010

2.2.1. Thực trạng quy hoạch và phát triển khu công nghiệp

Xuất phát điểm của Vĩnh phúc là một tỉnh thuần nông, với tỷ trọng giá trị

nông nghiệp trên tổng GDP là khá cao, với 44,06%/ năm 1997, 40,68%/

năm2000, nhƣng điều kiện phát triển nông nghiệp lại rất khó khăn do đất bạc

màu, đất đỏ vàng nhạt chiếm tỷ lệ cao (40%), đất đồng bằng phù sa thì chất

lƣợng đất thấp. Nhận thức đƣợc điều đó tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII,

Vĩnh Phúc đã xác định “phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, nhất là đối

với công nghiệp”. Định hƣớng đó tiếp tục đƣợc khẳng định tại Nghị quyết Đại

hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIII và XIV, và xác định cụ thể hơn là Vĩnh

Phúc sẽ tập trung hình thành một số KCN, CCN công nghệ cao ở các địa bàn có

lợi thế tạo môi trƣờng thuận lợi để thu hút các nguồn lực của các thành phần

kinh tế (bao gồm cả nguồn nội lực và ngoại lực), đầu tƣ cho phát triển công

nghiệp, trong đó coi các nguồn lực bên trong là quyết định, đồng thời hết sức coi

trong thu hút nguồn lực từ bên ngoài, để thực hiện tốt chiến lƣợc công nghiệp

hóa, hiện đại hóa của tỉnh, phấn đấu có đủ các yếu tố cơ bản của một tỉnh công

nghiệp vào năm 2015.

Để phát triển các KCN có hiệu quả, tỉnh xác định công tác quy hoạch phải

đi trƣớc một bƣớc. Vì vậy, tỉnh đã tập trung xây dựng quy hoạch phát triển

43

KCN. Theo Quyết định số 679/QĐ ngày 01-8-1998 của Thủ tƣớng Chính phủ,

KCN Kim Hoa đƣợc thành lập, với diện tích quy hoạch Giai đoạn I là 50ha. Sau

đó là 3 KCN nữa đƣợc chính thức thành lập theo quyết định của Thủ tƣớng

Chính phủ, gồm: KCN Quang Minh, KCN Khai Quang và KCN Bình Xuyên với

tổng diện tích 877,4 ha, trong đó KCN Quang Minh 344,4ha, KCN Khai Quang

262 ha, KCN Bình Xuyên 271ha.

Từ đó đến nay, các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc không ngừng đƣợc thành lập

và mở rộng. Tính đến nay trên địa bàn Vĩnh Phúc có 20 KCN đƣợc Thủ tƣớng

Chính phủ phê duyệt phát triển đến năm 2015, định hƣớng đến năm 2020, trong

đó có 07 KCN đã đƣợc thành lập và cấp giấy CNĐT (bảng 2.1)

Bảng 2.1. Các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc từ 1998 – 2020:

STT Tên KCN Vị trí địa lý Diện tích (ha) Tình hình đầu tƣ

1 Kim Hoa (Giai đoạn I) TX. Phúc Yên 50 Đang hoạt động

2 Khai Quang TP. Vĩnh Yên 262 Đang hoạt động

3 Bình Xuyên H. Bình Xuyên 271 Đang hoạt động

4 Bá Thiện H. Bình Xuyên 327 Đang hoạt động

5 Bình Xuyên II H. Bình Xuyên 485 Đang xây dựng

6 Bá Thiện II H. Bình Xuyên 308 Đang xây dựng

7 Phúc Yên TX. Phúc Yên 150 Đang xây dựng

8 Tam Dƣơng I H. Tam Dƣơng 700

Khởi công xây dựng cuối năm 2010

9 Chấn Hƣng H. Vĩnh Tƣờng 131

Dự kiến khởi công tháng 6/2011

10 Hội Hợp TP. Vĩnh Yên 150

Dự kiến khởi công tháng 6/2011

11 Sơn Lôi H. Bình Xuyên 300

Dự kiến khởi công tháng 6/2011

44

STT Tên KCN Vị trí địa lý Diện tích (ha) Tình hình đầu tƣ

12 Nam Bình Xuyên H. Bình Xuyên 304 Phát triển từ năm 2012 trở đi

13 Lập Thạch II H. Lập Thạch 250 Phát triển sau năm 2012

14 Sông Lô I H. Sông Lô 200 Phát triển sau năm 2012

15 Sông Lô II H. Sông Lô 180 Phát triển sau năm 2012

16 Lập Thạch I H. Lập Thạch 150 Phát triển sau năm 2012

17 Tam Dƣơng II H. Tam Dƣơng 750 Phát triển sau năm 2012

18 Vĩnh Tƣờng H. Vĩnh Tƣờng 200 Phát triển sau năm 2012

19 Vĩnh Thịnh H. Vĩnh Tƣờng 270 Phát triển sau năm 2012

20 H. Lập Thạch 600 Phát triển sau năm 2012 Thái Hòa, Liễn Sơn, Liên Hòa

Tổng 6,038

Nguồn: Ban Quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc

Giai đoạn từ 2005-2010 là giai đoạn phát triển vƣợt bậc của tỉnh Vĩnh

Phúc trong việc quy hoạch và phát triển KCN. Chỉ trong vòng 5 năm tỉnh đã

đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt chủ trƣơng đầu tƣ là 17 KCN với diện tích

là (5.455 ha) với tổng số vốn đã đầu tƣ vào hạ tầng các KCN khoảng 877 tỷ

đồng và 13,5 triệu USD.

Nhìn lại hơn 10 năm phát triển, có thể nhận thấy quy hoạch phát triển

KCN của tỉnh khá hợp lý, cho phép khai thác đƣợc các tiềm năng, lợi thế của

tỉnh. Cụ thể:

 Các KCN đều đƣợc quy hoạch ở vị trí thuận lợi về giao thông, gắn với

các tuyến đƣờng Quốc lộ, tỉnh lộ, gần các bến cảng, nhà ga, sân bay, các trung

tâm KT - XH của địa phƣơng và các khu vực lân cận. Ví dụ, các KCN Bình

45

Xuyên, KCN Khai Quang đều nằm cạnh quốc lộ 2, đƣờng sắt Hà Nội – Lào Cai,

cách sân bay quốc tế nội bài 20 km.

Quy hoạch KCN đƣợc gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển KT-XH

của địa phƣơng. Các KCN đƣợc phân bố hợp lý tại các vùng, các địa bàn có

nhiều tiềm năng phát triển KCN trong tỉnh, góp phần tạo việc làm và chuyển đổi

cơ cấu lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế tại mỗi địa phƣơng trong tỉnh, đặc

biệt là sự phát triển của các làng nghề, các cụm công nghiệp và sản xuất nông

nghiệp, tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các khu vực trong tỉnh. Do điều kiện

địa lý và thổ nhƣỡng, các KCN chủ yếu đƣợc quy hoạch tại các huyện phía Bắc

tỉnh là Bình Xuyên, Tam Dƣơng, Lập Thạch và Sông Lô. Các huyện phía Nam

tỉnh nhƣ Vĩnh Tƣờng có 02 KCN, Yên Lạc không quy hoạch KCN, do đây là

vùng đất trồng lúa năng suất cao, và đó cũng là hạn chế trong việc thúc đẩy công

nghiệp hoá các địa phƣơng này.

 Quy hoạch KCN đã gắn với quy hoạch các khu đô thị, dịch vụ đảm

bảo cung cấp nhà ở cho công nhân, chuyên gia làm việc trong KCN; cung cấp

các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, vui chơi giải trí cho ngƣời lao

động. Các KCN hiện có chủ yếu đƣợc phân bố ở thành phố Vĩnh Yên (KCN

Khai Quang), Thị xã Phúc Yên (Kim Hoa), và huyện Bình Xuyên (KCN Bá

Thiện, KCN Bình Xuyên). Khoảng cách giữa các KCN này với các trung tâm đô

thị lớn (thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên) là không lớn, do đó, tạo điều kiện

đảm bảo cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội cơ bản, cung cấp nguồn nhân lực đầu

vào cần thiết khác cho phát triển các KCN.

2.2.2. Hoạt động tại các khu công nghiệp

2.2.2.1. Xây dựng hạ tầng khu công nghiệp

Trong 07 KCN đã đƣợc thành lập và đi vào hoạt động có 03 KCN chủ đầu

tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng là các doanh nghiệp trong nƣớc (KCN Khai Quang,

Bình Xuyên, Kim Hoa) với tổng số vốn đăng ký là 954,569 tỷ đồng, còn KCN

Bá Thiện, Bình Xuyên II và Bá Thiện II chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng là

doanh nghiệp nƣớc ngoài; với tổng số vốn đầu tƣ đăng ký là 241,085 triệu USD,

còn KCN Phúc Yên chƣa tìm đƣợc chủ đầu tƣ. Nhằm đảm bảo tiến độ đầu tƣ hạ

46

tầng các khu công nghiệp, để thuận lợi cho việc thu hút đầu tƣ, Ban quản lý các

KCN không ngừng đôn đốc và giải quyết những khó khăn vƣớng mắc, bồi

thƣờng giải phóng mặt bằng. Do đó, tình hình giải ngân vốn đầu tƣ của các KCN

tỉnh Vĩnh Phúc là khá tốt, tăng đều qua các năm: (bảng 2.2)

Bảng 2.2 : Vốn đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN Vĩnh Phúc

(tính luỹ kế)

Vốn thực hiện

Tên các KCN Vôn đầu tƣ đăng ký 2005 2007 2008 2009 đến quý II/2010

Chủ đầu tư trong nước 21,27 273,6 445,23 616,28 493,81 (tỷ đồng)

Kim Hoa GĐ1 95,01 21,27 35,75 60,99 95,01 -

Tỷ trọng (%) 22,39 37,63 64,19 100

Kim Hoa GĐ2 252,37 48,56 -

Tỷ trọng (%) 19,24

Khai Quang 286,02 0 120,00 156,04 185,71 188,21

Tỷ trọng (%) 41,96 54,56 64,93 65,80

Bình Xuyên 573,54 0 117,8 228,20 287 305,6

Tỷ trọng (%) 20,54 39,79 50,04 53,28

Chủ đầu tư nước ngoài 5,82 12,32 17,6 (triệu USD)

Bá Thiện 78,5 0 3,82 8,92 12,2 0

4,87 11,36 15,54 Tỷ trọng (%)

Bình Xuyên II 100,0 0 2 3,4 5,4 0

2 3,40 5,40 Tỷ trọng (%)

Nguồn: [10]

47

Qua bảng 2.2, có thể nhận thấy, vốn thực hiện của các dự án hạ tầng KCN

tăng liên tục từ năm 2005 đến nay. Năm 1998, do mới có một KCN đi vào hoạt

động nên vốn thực hiện thấp, chỉ đạt 21,27 tỷ đồng, nhƣng đến năm 2009 số

vốn thực hiện lên đến 616,28 tỷ đồng và 12,32 triệu USD, tăng gấp 40 lần.

Trong đó, KCN Kim Hoa đã thực hiện đƣợc 100% vốn đầu tƣ giai đoạn I,

nhƣng sang giai đoạn II số vốn thực hiện mới đạt 48,56 tỷ đồng (đạt 19,24%)

vì vốn đầu tƣ đăng ký thì tăng lên nhƣng vốn thực hiện thì vẫn chủ yếu là ở

giai đoạn I và đang gặp khó khăn, vƣớng mắc trong việc giải phóng mặt bằng

do nằm trên địa bàn liên tỉnh.

KCN Khai Quang và Bình Xuyên thành lập và đi vào hoạt động năm

2006, nhƣng sau một năm hoạt động số vốn thực hiện của các dự án hạ tầng đạt

khá cao: KCN Khai Quang đạt 41% vốn đầu tƣ, KCN Bình Xuyên đạt 31%. Đến

quý II/2010, số vốn thực hiện của KCN Khai Quang đã đạt 65,8% vốn đầu tƣ, và

53,3% vốn đầu tƣ là của KCN Bình Xuyên.

KCN Bá Thiện và Bình Xuyên II do chủ đầu tƣ nƣớc ngoài làm chủ đầu

tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng thì tỷ trọng rất thấp, do các KCN này mới thành lập

và năng lực của chủ đầu tƣ còn hạn chế. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng kinh tế

toàn cầu đã ảnh hƣởng tới quyết tâm của chủ đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣ KCN Bình

Xuyên II: (Chủ đầu tƣ hạ tầng KCN là Tập đoàn KHKT Hồng Hải – Đài Loan).

Vốn thực hiện tính đến quý II/2010 đạt 5,4 triệu USD đạt 5,4% vốn đầu tƣ. KCN

Bá Thiện: (Chủ đầu tƣ hạ tầng KCN là Công ty TNHH Compal), lũy kế đến hết

quý II/2010 đạt 12,2 triệu USD, đạt 15,5% chủ yếu đầu tƣ cho việc san lấp mặt

bằng và làm nền đƣờng, nhà máy xử lý nƣớc thải, trạm điện.

Với số vốn đầu tƣ lớn, đƣợc sự hỗ trợ của nhà nƣớc các chủ đầu xây dựng

cơ sở hạ tầng đã bƣớc đầu xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng khá đồng bộ

cho các KCN tỉnh Vĩnh Phúc. Nhƣ KCN Bình Xuyên quý I năm 2009, đã cung

cấp hệ thống điện, nƣớc sạch với tổng trị giá 437 triệu đồng, trong đó lắp đặt

đƣợc 424 m đƣờng dây điện 35 KV, xây dựng đƣợc 356m đƣờng ống nƣớc sạch

và 230 m hệ thống chiếu sáng KCN; cả năm 2009, xây dựng đƣợc 5488,19m với

trị giá là 66,3 tỷ đồng.

48

Tính đến quý II/2010, hầu hết các KCN đều có hệ thống xử lý nƣớc thải.

Tại KCN Khai Quang đã có trạm xử lý nƣớc thải giai đoạn I và đã đi vào hoạt,

công suất 1.800 m3/ngày đêm. Hiện tại đã có 28 doanh nghiệp ký hợp đồng xử

lý nƣớc thải với chủ đầu tƣ hạ tầng KCN. Nhà máy xử lý nƣớc thải KCN giai đoạn II với công suất 4.000 m3/ngày đêm đang đƣợc xây dựng, dự kiến hoàn

thành và đƣa vào sử dụng cuối năm 2010. Bên cạnh đó, chủ đầu tƣ hạ tầng KCN

đã triển khai trồng 31,90 ha cây xanh xung quanh các nhà máy để quản lý khí

thải độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp. KCN Bá

Thiện đã hoàn thành trạm xử lý nƣớc thải KCN giai đoạn I, công suất 5.000

m3/ngày đêm, nhƣng chƣa hoạt động do các doanh nghiệp thứ cấp chƣa hoạt

động. KCN Kim Hoa diện tích đất KCN giai đoạn I đã cho công ty Honda Việt

Nam thuê lại. Hiện tại công ty đã có hệ thống xử lý nƣớc thải riêng. Riêng KCN

Bình Xuyên chƣa xây dựng đƣợc trạm xử lý nƣớc thải tập trung do nhân dân địa

phƣơng tái lấn chiếm không giải phóng đƣợc mặt bằng để xây dựng.

Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng KCN đƣợc quy hoạch khá đồng bộ đáp

ứng đƣợc nhu cầu của nhà đầu tƣ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo

giải quyết tốt các vấn đề gây ô nhiễm môi trƣờng; có sự gắn kết hợp lý với hệ

thống kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào. Hệ thống hạng mục hạ tầng kỹ thuật trong

các KCN đƣợc quy hoạch hiện đại đảm bảo đáp ứng công suất, lƣu lƣợng cho

sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN, bao gồm: trạm điện và hệ

thống cấp điện động lực (phục vụ sản xuất); hệ thống điện chiếu sáng; trạm cấp

nƣớc sạch, hệ thống cấp nƣớc sạch… Tại mỗi KCN đều có quy hoạch hệ thống

đƣờng gom, đƣờng ven, nút giao liên nối tiếp giao thông nội bộ KCN với các

tuyến đƣờng quốc lộ, tỉnh lộ. Với quy hoạch nhƣ vậy đã kết nối kết cấu hạ tầng

trong và ngoài hàng rào về giao thông, không gây ảnh hƣởng đến lƣu thông các

phƣơng tiện trên tuyến đƣờng Quốc lộ, tỉnh lộ, đảm bảo giao thông thuận tiện,

an toàn. Bên cạnh đó, trong quá trình lập quy hoạch các KCN có tính toán đến

yếu tố nhu cầu nhà ở cho công nhân, nhà ở chuyên gia, phát triển các dịch vụ

phục vụ nhu cầu sinh hoạt đời sống tinh thần cho ngƣời công nhân, đồng thời

tạo việc làm cho ngƣời lao động địa phƣơng có đất thu hồi để xây dựng KCN

không đáp ứng các điều kiện làm việc trong các nhà máy công nghiệp.

49

2.2.2.2. Thu hút dự án và vốn đầu tư.

Tính đến hết năm 2009, trên địa bàn tỉnh có 457 dự án thực hiện thủ tục

đầu tƣ qua Ban còn hiệu lực, gồm 108 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài (FDI) với tổng

vốn đầu tƣ là 2.084,14 triệu USD và 349 dự án đầu tƣ trong nƣớc (DDI) với

tổng vốn đầu tƣ là 20.395,17 tỷ đồng. Trong đó, đầu tƣ trong KCN: có 112 dự

án chiếm 24,5% tổng số dự án, gồm có 79 dự án FDI với tổng vốn đầu tƣ là

1570,88 triệu USD, chiếm 75,4% tổng vốn đầu tƣ của các dự án FDI và 33 dự án

DDI, chiếm 9,4% dự án và chiếm 8,09 % vốn đăng ký.

Trong quá trình thu hút các dự án đầu tƣ, đặc biệt là các dự án đầu tƣ FDI,

tỉnh luôn định hƣớng, khuyến khích các dự án đầu tƣ vào trong các KCN, CCN.

Do đó, từ năm 2005 đến 2010 số lƣợng dự án FDI, DDI vào KCN không ngừng

tăng lên (thể hiện qua bảng 2.3 )

Đơn vị: Triệu USD

Bảng 2.3: Vốn đầu tƣ tại các KCN Vĩnh Phúc từ 1998 – quý I/2010

Trong đó Tổng FDI DDI

Năm

Dự án Vốn Vốn/dự án Số dự án Vốn đầu tư Số dự án Vốn đầu tư

1998-2004 16 159,17 16 159,17 - - 9,95

2005 10 56,37 10 56,37 - - 5,64

2006 35 97,41 9 30,84 26 66,57 2,78

2007 18 745,48 16 728,78 2 16,70 41,42

2008 25 516,96 22 514,20 3 2,76 20,68

2009 4 77,32 3 75,52 1 1,80 19,33

Quí I/2010 4 7,35 3 6,00 1 1,35 1,84

Tổng 112 1.660,05 14,82 79 1.570,88 33 89,17

Nguồn: [7],[8], [9]

50

Bảng số liệu thống kê trên cho thấy, tai các KCN tỉnh Vĩnh Phúc lƣợng

vốn đầu tƣ chủ yếu là từ các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Trong tổng số dự án thì FDI

chiếm đến 70% số dự án (79 dự án), quy mô vốn đầu tƣ gấp 17,6 lần vốn DDI

đầu tƣ vào KCN và chiếm tới 94,6% tổng vốn đầu tƣ vào KCN. Còn đầu tƣ

trong nƣớc chỉ có 33 dự án (chiếm 30%) và 5.4% tổng vốn đầu tƣ vào KCN.

Đặc biệt, qui mô vốn đầu tƣ của các dự án FDI tăng liên tục qua các năm, trung

bình mỗi năm tăng 7% dự án (với 6,5 dự án) và 139 % vốn đầu tƣ (130,9 triệu

USD). Đặc biệt, chỉ trong vòng 5 năm (2005 – 2010), các KCN Vĩnh Phúc đã

thu hút đƣợc 63 dự án gấp 4 lần giai đoạn từ 1998-2005, chiếm 80% tổng số dự

án FDI vào KCN từ khi thành lập đến nay và chiếm 90% tổng VĐT FDI vào các

KCN. Điều này phản ánh đƣợc phần nào tình hình chung về thu hút đầu tƣ trực

tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam. Với những đổi mới về cơ chế chính sách, môi

trƣờng đầu tƣ ngày càng thuận lợi, đây là điều kiện để các nhà đầu tƣ tìm kiếm

cơ hội làm ăn ở Vĩnh Phúc. Với chính sách “trải thảm đỏ” mời gọi các nhà đầu

tƣ, coi các nhà ĐTNN là những công dân của Tỉnh, luôn đồng hành sát cánh

cùng doanh nghiệp trong việc giải quyết các vƣớng mắc về thủ tục hành chính;

cơ chế quản lý thông thoáng, cởi mở, tạo thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tƣ

nƣớc ngoài nên số lƣợng dự án FDI tăng nhanh chóng. Giai đoạn từ 2005 – 2008

đã thu hút đƣợc thêm 57 dự án với tổng số vốn đầu tƣ là 1.330,18 triệu USD

chiếm 84,7% tổng VĐT cả giai đoạn. Qui mô bình quân một dự án năm 2007

đạt 45,5 triệu USD, cao hơn mức bình quân chung của tỉnh.

Đến năm 2009 tình hình thu hút FDI vào KCN có chiều hƣớng giảm

xuống. Cả năm 2009 các KCN Vĩnh Phúc chỉ thu hút thêm đƣợc 03 dự án, giảm

09 dự án so với 2008. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do năm 2009 khủng

hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu khiến kinh tế các nƣớc gặp nhiều

khó khăn, tăng trƣởng thấp do vậy các nhà đầu tƣ có tâm lý e dè, ngại đầu tƣ.

Nhƣng đến năm 2010 tình hình thu hút FDI vào KCN khả quan hơn. Chỉ 3 tháng

đầu năm 2010, tỉnh đã thu hút đƣợc 03 dự án, bằng với số dự án của cả năm 2009.

Còn dự án DDI đầu tƣ vào các KCN chƣa đƣợc nhƣ mong muốn. Từ năm

1998 đến 2010 các KCN Vĩnh Phúc mới chỉ thu hút đƣợc 33 dự án đầu tƣ DDI,

với tổng vốn đầu tƣ là 89.17 triệu USD, trung bình mỗi năm thu hút đƣợc 2,75

51

dự án. Các dự án đầu tƣ DDI tập trung chủ yếu ở giai đoạn từ năm 2006 trở về

trƣớc với 26 dự án, gấp 3,7 lần giai đoạn từ 2007 đến 2010. Nhƣ vậy là do, các

KCN không có nhiều quỹ đất sạch cho các nhà đầu tƣ, chi phí ban đầu thực hiện

dự án trong các KCN cao hơn so với đầu tƣ bên ngoài KCN.

Bảng 2.4: Nguồn vốn đầu tƣ vào các KCN tỉnh Vĩnh Phúc phân theo KCN

đến quý I/2010

Tên KCN Đơn vị tính

Tổng số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện Tỷ lệ vốn thực hiện/tổng vốn đầu tƣ (%)

Khai Quang Triệu USD 58

Trong đó: FDI Triệu USD 43 300,42 211,59 70,43

DDI Tỷ đồng 15 575,85 210,46 36,5

Bình Xuyên Triệu USD 39

Trong đó: FDI Triệu USD 21 179,23 93,19 51,99

DDI Tỷ đồng 18 1259,2 1248,5 99,2%

Kim Hoa

FDI Triệu USD 01 290,43 234,35 80,69

Bá Thiện

FDI Triệu USD 12 614,80 9,61 1,56

Bình Xuyên II

FDI Triệu USD 2 218,0 0 0,00

Tổng 112

Nguồn: [7],[8],[9]

Do đặc điểm khác nhau về cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý, diện tích, chính sách

ƣu đãi của từng KCN nên tính đến quý I/2010, số lƣợng dự án, quy mô vốn đầu

tƣ vào các KCN là không đồng đều.

Số liệu bảng 2.4 cho thấy, với lợi thế vốn có KCN Khai Quang là điểm

đến hấp dẫn của các nhà đầu tƣ. Đến quý I/2010, trong 5 KCN đã đi vào hoạt

động thì KCN Khai Quang thu hút đƣợc nhiều dự án nhất với 58 dự án cả FDI

và DDI, chiếm 52% tổng số dự án đầu tƣ vào KCN, tổng số vốn đầu tƣ đạt

331,54 triệu USD, vốn thực hiện đạt 67% chỉ đứng sau KCN Kim Hoa. Các dự

án thu hút vào KCN Khai Quang chủ yếu là dự án FDI, chiếm 74% tổng số dự

52

án đầu tƣ vào KCN Khai Quang, với số vốn đăng ký gấp 18,5 lần tổng số vốn

DDI đầu tƣ vào; tỷ lệ vốn thực hiện đạt khá cao là 70,43%, trong khi đó tỷ lệ

vốn thực hiện của các dự án DDI chỉ đạt 36,5%.

KCN Kim Hoa có tỷ lệ vốn thực hiện cao nhất, đạt 80,69%. Từ khi thành

lập đến nay, KCN chỉ có duy nhất một nhà đầu tƣ là Công ty Honda của Nhật

Bản. Do vậy, sau thời gian dài hoạt động số vốn thực hiện đã đạt đƣợc là khá

cao. KCN Bá Thiện tuy mới thành lập nhƣng đã thu hút đƣợc 12 dự án DTNN

với tổng số VĐT lên tới 614,8 triệu USD (mặc dù, tỷ lệ vốn thực hiện chỉ đạt có

1,56%). Do 12 dự án đầu tƣ FDI vào KCN chỉ có 01 dự án đi vào hoạt động sản

xuất kinh doanh; còn các dự án khác vẫn chƣa đƣợc triển khai, đặc biệt trong đó

có dự án máy tính xách tay của công ty Compal với số vốn đăng ký 500 triệu

USD. Khi các dự án này triển khai và đi vào hoạt động thì tỷ lệ vốn thực hiện sẽ

tăng dần. KCN Bình Xuyên II đến thời điểm này vẫn đang trong quá trình xây

dựng CSHT, bồi thƣờng và GPMB.

Bảng 2.5 : Dự án FDI đầu tƣ vào KCN phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ

Stt Số dự án Diện tích (ha) Quốc gia và vùng lãnh thổ Tổng vốn đầu tƣ (1.000USD)

1 Đài Loan 41 1.224.208,0 223,1

2 Hàn Quốc 22 152.152,5 57,2

3 Nhật 11 395.427,1 88,0

4 Trung Quốc 3 3.710,0 3,4

5 Malaysia 1 2.500,0 1,0

6 Mỹ 1 5.000,0 0

7 Samoa 1 5.000,0 1,7

8 Ấn Độ 1 6.000,0 2,5

9 Ý 1 45.000,0 8,0

1 5.000,0 0,9 10 Cộng hoà Seychelles

Tổng 83 1.843.997,6 385,8

Nguồn: [9]

Về đối tác, hiện đã có 10 nƣớc và vùng lãnh thổ đầu tƣ vào các KCN tỉnh

Vĩnh Phúc, với tổng số vốn đăng ký là là 1844 triệu USD (chiếm 86% tổng vốn

53

đầu tƣ FDI toàn tỉnh). Các đối tác đầu tƣ, chủ yếu đến từ vùng Đông Bắc Á,

nhƣ: Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,…trong đó Đài Loan đứng

đầu với 41 dự án, với tổng vốn đầu tƣ 1.224,2 triệu USD, chiếm 65% tổng vốn

đầu tƣ và với tỷ suất đầu tƣ khá cao đạt 5,5 triệu USD/ha. Tiếp đến là Hàn Quốc,

với 22 dự án và vốn đầu tƣ 152,152 triệu USD (chiếm 8,1% tổng vốn đầu tƣ);

Nhật Bản 11 dự án, vốn đầu tƣ 395,4 triệu USD (chiếm 21,1 % tổng vốn đầu tƣ).

Số dự án đến từ các quốc gia khối EU và châu Mỹ rất ít, vì đây là những thị

trƣờng khó tính, yêu cầu cao.

Cơ cấu nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài theo ngành vào các KCN của Vĩnh

Phúc khá hợp lý, phù hợp với quy hoạch phát triển KT – XH của tỉnh đến năm

2020. Tính đến quý I/2010, có 20 dự án FDI đầu tƣ vào lĩnh vực công nghiệp

nhẹ, chiếm 25,3 % số dự án và 41% tống số vốn đầu tƣ vào các KCN trên toàn

tỉnh. Công nghiệp nặng có 57 dự án đầu tƣ, với tổng số vốn đầu tƣ là 93,4 triệu

USD, chiếm 59% tổng vốn đầu tƣ vào KCN trên toàn tỉnh.

2.2.2.3. Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp

Mặc dù KCN tại Vĩnh Phúc đƣợc hình thành từ năm 1998, song tốc độ

phát triển nhanh nhất thì chỉ bắt đầu từ 2005 đến nay. Điều đó đƣợc thể hiện ở

bảng sau đây:

Bảng 2.6: Tỷ lệ lấp đầy các KCN từ 2005 – quý I/2010

Năm

Diện tích có thể cho thuê đã xây dựng cơ sở hạ tầng Diện tích đất đã cho thuê Tỷ lệ lấp đầy Tổng diện tích

Diện tích có thể cho thuê theo quy hoạch (3) (4) (5) (6) (1) (2)

390 260 130 50 2005 583

391,2 279 167,4 60 2006 854

668 334 214 64 2007 1040,2

919,8 598,92 464,63 77,.6 2008 1395,1

2009 1695,5 1129,6 598,92 454,34 75,9

1695,5 1129,6 598,92 454,34 75,9 Quý I/2010

Nguồn: [10] Tỷ lệ lấp đầy = (5)/(4)*100%

54

Qua bảng số liệu trên cho thấy quy mô các KCN tỉnh Vĩnh Phúc càng

ngày càng đƣợc mở rộng, từ chỗ chỉ có 583 ha vào năm 2005 thì đến năm 2009

đã tăng lên 1695,5 ha (tăng 2,9 lần), trong đó tăng mạnh nhất là các năm 2007,

2008 và 2009, diện tích KCN năm 2007 tăng 121,8% so với năm 2006, năm

2008 tăng 134,2% so với 2007, năm 2009 tăng 121,5% so với 2008.

Tỷ lệ lấp đầy các KCN của Vĩnh Phúc cũng tăng dần qua các năm: năm

2005 tỷ lệ lấp đầy đạt 50% thì đến năm 2009 đạt 75,9% ( tăng 25,9%), nâng diện

tích đất công nghiệp đã cho thuê lên trên 450 ha. Với con số đó, Vĩnh Phúc đƣợc

đánh giá là một điểm sáng về thu hút đầu tƣ thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía

bắc (trong khi Hải Dƣơng đạt 54,5%, Hải Phòng: 57,6%, Hà Nội: 85,1%) Nhƣ

vậy, có thể thấy rằng tốc độ tăng nhanh và khá ổn định, trung bình mỗi năm 5%.

Riêng năm 2009, do ảnh hƣởng của khủng hoảng có 02 dự án thuộc KCN Bá

Thiện rút đầu tƣ nên làm cho tỷ lệ lấp đầy giảm 1,7%. Đến quý I/2010 tỷ lệ lấp

đầy vẫn giữ nguyên vì số dự án đầu tƣ vào KCN trong thời gian này không thuê

đất mà thuê lại nhà xƣởng của các công ty khác, nhƣ: công ty TNHH Dea Hung

(Hàn Quốc) thuê lại nhà xƣởng của công ty An Phát.

Trong 6 KCN đã đi vào hoạt động thì KCN Kim Hoa có tỷ lệ lấp đầy cao

nhất, với tỷ lệ diện tích cho thuê đạt tính đến quý I/2010 đạt 100%. Đây là KCN

có quy mô nhỏ với diện tích 50ha, lại đƣợc thành lập từ rất sớm và hiện có một

DN đầu tƣ nƣớc ngoài đang triển khai xây dựng cơ bản.

Các KCN Khai Quang, Bình Xuyên cũng có tốc độ tăng trƣởng nhanh.

Đƣợc quy hoạch năm 2006, năm 2007 vẫn đang trong giai đoạn đầu tƣ xây dựng

cơ bản, nhƣng đến cuối năm 2007, cả 2 KCN này đều có những thành tựu nổi

bật. Năm 2007, KCN Khai Quang đã có 47 dự án thuê đất CN (đạt tỷ lệ lấp đầy

67,82%) thì đến năm 2009, KCN Khai Quang đã thu hút thêm đƣợc 11 dự án, tỷ

lệ lấp đầy đạt 79%, tăng hơn 11% so với năm 2007. Tính đến hết quý I năm

2010, tỷ lệ lấp đầy đạt 91,3%, cao hơn 15% mức trung bình của tỉnh. Cũng vào

năm 2007, KCN Bình Xuyên đã thu hút đƣợc 37 dự án thuê đất công nghiệp (đạt

tỷ lệ lấp đầy 50,2%), đến quý I/2010 tỷ lệ lấp đầy đã tăng lên 81,57%. Có thể

thấy, cả hai KCN này tuy ra đời sau, nhƣng việc đầu tƣ kết cấu hạ tầng đƣợc

55

triển khai nhanh chóng do chủ đầu tƣ là những đơn vị có kinh nghiệm trong xây

dựng (Công ty cổ phần phát triển hạ tầng Vĩnh Phúc và Công ty TNHH đầu tƣ

xây dựng An Thịnh Vĩnh Phúc). Mặt khác, cơ cấu ngành định hƣớng phát triển

trong KCN chủ yếu tập trung vào sản xuất các sản phẩm nhƣ lắp ráp ôt tô (xe

buýt), các linh kiện phụ tùng cho CN ô tô, các sản phẩm cơ khí khác (thuộc

nhóm CN bổ trợ), sản xuất các loại bao bì… Do đó, KCN đƣợc các nhà đầu tƣ

quan tâm, đặc biệt là các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣ KCN Khai Quang tính đến

năm 2009 có 43 dự án nƣớc ngoài chiếm 74% số dự án đầu tƣ vào KCN.

Tỷ lệ lấp đầy thấp nhất là KCN Bá Thiện và Bình Xuyên II. Đó là hai KCN

mới thành lập (KCN Bá Thiện thành lập năm 2007 còn Bình Xuyên II thành lập

năm 2008), do các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài làm chủ đầu tƣ. Bên cạnh đó, do ảnh

hƣởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thời điểm cuối năm 2008 và

cả năm 2009, các Công ty mẹ tại Đài Loan đều do gặp nhiều khó khăn nên đã

tạm dừng xây dựng, mặc dù rất thuận lợi bởi đã giải phóng xong mặt bằng, các

dự án máy tính xách tay và dự án thứ cấp tại KCN Bá Thiện đang tạm dừng thi

công và xin giãn tiến độ. Còn KCN Bá Thiện II do mới đƣợc cấp giấy chứng

nhận đầu tƣ, chƣa có quyết định thành lập và chƣa đƣợc giao đất, vì vậy, tỷ lệ

lấp đầy là 0%.

2.2.2.4. Thu hút việc làm và tạo thu nhập cho người lao động

Các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là một trong những khu vực hấp

dẫn cao đối với lực lƣợng lao động, nhất là lực lƣợng lao động trẻ có trình độ

không chỉ ở ngay chính địa bàn tỉnh và còn có tác động lan toả tới các tỉnh lân

cận. Sự hấp dẫn này trƣớc hết là do ngƣời lao động làm việc trong khu vực này

đƣợc trả lƣơng ổn định có môi trƣờng làm việc tốt, đƣợc học tập nâng cao trình

độ, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm làm việc.

Những năm qua, các KCN ở Vĩnh Phúc đã góp phần giải quyết việc làm

cho hàng chục nghìn lao động trên địa bàn Tỉnh. Nếu nhƣ năm 2005 các KCN

trên địa bàn tỉnh mới chỉ tạo ra đƣợc 9.046 việc làm trực tiếp thì tới năm 2007

con số đó là 23.253, gấp 2,6 lần năm 2005. Tính đến hết năm 2009, các doanh

nghiệp trong KCN tạo việc làm cho 30.214 lao động tăng 140% so với năm

2007, chƣa kể hàng ngàn việc làm gián tiếp khác.

56

Khu công nghiệp không chỉ góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh,

mà còn tạo thu nhập cho ngƣời lao động. Tính đến quý I/2010, Vĩnh Phúc 112

dự án đầu tƣ vào KCN, trong đó, chỉ mới có 71 doanh nghiệp đi vào hoạt động.

Các ngành nghề sản xuất chủ yếu của các doanh nghiệp này là lắp ráp xe máy,

điện tử, điện lạnh, giày da, may mặc xuất khẩu, gạch ốp lát cao cấp, kính,

nhựa… Hầu hết các doanh nghiệp này đề áp dụng hình thức trả lƣơng theo thời

gian hoặc sản phẩm, trả lƣơng hàng tháng.

Theo số liệu thống kê của Liên đoàn Lao động tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2005

thu nhập bình quân của ngƣời lao động trong KCN là 935 nghìn đồng/tháng, cao

hơn mức thu nhập bình quân của tỉnh 1,7 lần, và cao gấp 2,7 lần so với mức

lƣơng tối thiểu nhà nƣớc quy định. Đến năm 2007 mức thu nhập đã tăng lên

1,37 triệu đồng/tháng tăng gấp 1,4 lần năm 2005 và cao hơn 2.5 lần mức thu

nhập bình quân của tỉnh. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của ngƣời lao động

tại KCN đạt 1,75 triệu đồng/tháng, gấp 1,8 lần năm 2005 và gấp 1,7 lần thu nhập

bình quân của tỉnh. Mức thu nhập này về cơ bản mới đảm bảo đƣợc nhu cầu về

vật chất chứ hầu hết chƣa đảm bảo đƣợc nhu cầu đời sống tinh thần, làm việc ổn

định lâu dài trong các KCN. Trong giai đoạn các loại chi phí sinh hoạt tăng cao

nhƣ hiện nay, mức thu nhập này chỉ mới đáp ứng đƣợc nhu cầu cơ bản về đời

sống của ngƣời lao động, nhất là với lao động là ngƣời nơi khác đến và phải

thuê nhà trọ. Thu nhập này chỉ nhỉnh hơn một chút so với thu nhập của ngƣời

nông dân.

Nhờ thu nhập tăng lên mà đời sống công nhân đã có đƣợc phần cải thiện.

Nhƣng do phần chủ yếu lao động trong các KCN là ngƣời ngoại tỉnh, phải thuê

nhà, mua sắm các đồ dùng trong gia đình, nên cuộc sống của họ vẫn gặp nhiều

khó khăn. Tính đến thời điểm 31/12/ 2009, trong số 30.214 lao động đang làm

việc trong các doanh nghiệp trong KCN thì có 7974 lao động là ngƣời ngoại

tỉnh, chiếm 26,2% tổng số lao động. Số lao động này đƣợc các doanh nghiệp

thực hiện tuyển dụng trực tiếp bằng các thông báo và phỏng vấn tại doanh

nghiệp. Ngƣời lao động nhập cƣ làm việc trong KCN đƣợc đảm bảo việc làm,

hƣởng các chế độ tiền lƣơng, đóng BHXH… cũng nhƣ lao động của tỉnh đang

làm việc trong KCN.

57

Phần lớn lao động nhập cƣ phải thuê nhà ở của các hộ gia đình ở gần

KCN với mức gia từ 200.000 – 300.000 đồng/ngƣời/tháng. Với mức giá thuê

nhà nhƣ vậy thì ngƣời công nhân phải sống và sinh hoạt trong những khu nhà trọ

tạm bợ, nhếch nhác, không có điều kiện sinh hoạt tối thiểu, ảnh hƣởng tới sức

khỏe là điều hoàn toàn dễ hiểu. Vì thu nhập thấp, ngƣời lao động chỉ tạm đủ chi

tiêu trong cuộc sống ở mức tổi thiểu của bản thân (nhƣ chi tiền thuê nhà trọ, tiền

ăn, tiền điện, nƣớc sinh hoạt và phục vụ cá nhân) và với áp lực công việc căng

thẳng, điều kiện sống tạm bợ, thiếu thốn … nên đời sống văn hóa và tinh thần

của phần lớn công nhân lao động trong KCN rất thấp kém. Các nhu cầu đời

thƣờng của ngƣời lao động nhƣ học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, vui

chơi giải trí,… dƣờng nhƣ không đƣợc đáp ứng.

Theo khảo sát của Sở Lao động, Thƣơng Binh và Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc

năm 2008, đa số công nhân ở các KCN cho rằng, nếu có các hoạt động văn hoá -

văn nghệ, thể dục - thể thao thì cũng chỉ diễn ra tại địa bàn cƣ trú, nhƣng do thu

nhập thấp, lại chịu áp lực về thời gian làm việc nên ít lao động có điều kiện tham

gia. Thêm vào đó, tại nơi cƣ trú số lƣợng thiết chế văn hóa, thể dục - thể thao lại

quá ít ỏi và nghèo nàn, họ không có phƣơng tiện và địa điểm để tổ chức sinh

hoạt văn hóa lành mạnh, thậm chí không có tivi, radio để thu nhận tin tức, thông

tin KTXH cũng nhƣ chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc. Điều này đã

khiến hầu hết lao động ở các KCN “mù văn hoá tinh thần”, thiếu thông tin, kiến

thức, đồng thời cũng là một trong những đối tƣợng rất dễ mắc các tệ nạn xã hội.

2.2.3. Thực trạng về môi trƣờng trong các KCN Vĩnh Phúc

Thời gian qua, công tác BVMT trong KCN mặc dù đã đƣợc chú trọng

hơn, nhƣng đa số các KCN trên phạm vi cả nƣớc nói chung và KCN Vĩnh Phúc

nói riêng chƣa đƣợc cải thiện nhiều và chƣa đáp ứng đƣợc những tiêu chuẩn môi

trƣờng theo quy định. KCN là nơi tập trung các cơ sở công nghiệp thuộc các

ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, cũng là nơi thải ra môi trƣờng các chất thải rắn,

lỏng, khí và chất thải nguy hại.

- Thực trạng xử lý nước thải trong KCN:

58

Tính đến quý II/2010, hầu hết các KCN đều có hệ thống xử lý nƣớc thải,

nhƣng mới chỉ có KCN Khai Quang là đƣa hệ thống giai đoạn I và sử dụng. Do

hầu hết các KCN trong tỉnh đều chƣa có hệ thống thu gom chất và xử lý chất

thải tập trung nên việc quản lý, quan trắc chất lƣợng nƣớc thải ở các khu vực

này gặp rất nhiều khó khăn; đồng thời cũng cũng gây ra tình trạng ô nhiễm

nguồn nƣớc ở một số nơi nhƣ: KCN Khai Quang, KCN Bình Xuyên. Phần lớn

nƣớc thải từ các cơ sở sản xuất chỉ đƣợc xử lý sơ bộ hoặc không qua xử lý, đổ

thải trực tiếp vào nguồn tiếp nhận.

Vấn đề xử lý nƣớc thải của các cơ sở sản xuất phụ thuộc vào năng lực tài

chính của dự án và ý thức trách nhiệm của chủ đầu tƣ. Nhìn chung các dự án đầu

tƣ đã quan tâm đến công tác bảo vệ môi trƣờng, đặc biệt là những tập đoàn kinh

tế lớn đến từ Nhật nhƣ công ty Honda Việt Nam, công ty sản xuất phanh Nissin

Việt Nam… Tuy nhiên, cũng có nhiều dự án chƣa quan tâm đến công tác bảo vệ

môi trƣờng, đầu tƣ xử lý chất thải không đạt yêu cầu, thậm chí có những dự án

không đầu tƣ hệ thống xử lý nƣớc thải, khí thải và chất thải rắn nhƣ: Công ty

TNHH Bình Xuyên, Nhà máy ống thép Việt Đức, Công ty Pin – Cao su Xuân

Hoà, Công ty TNHH Dệt len Latian Vĩnh Phúc, … gây ra ô nhiễm môi trƣờng

và tình trạng đơn thƣ khiếu kiện ngày càng tăng và kéo dài.

Theo kết quả quan trắc của Trung tâm Tài nguyên và Bảo vệ môi trƣờng

Vĩnh Phúc cho thấy: môi trƣờng nƣớc mặt ở các KCN ô nhiễm khá nghiêm

trọng vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,15 đến 5,9 lần. Quan trắc hơn 10 nguồn

nƣớc thải của các KCN nhƣ Bình Xuyên, Khai Quang… cho thấy hầu hết các

chất độc hại trong nguồn nƣớc của các cơ sở sản xuất đều vƣợt quá tiêu chuẩn

cho phép. Mẫu nƣớc thải tại cống chung cuối KCN Bình Xuyên trƣớc khi ra hồ

điều hoà và ra sông Cà Lồ có 4/16 thống số vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,9

đến 5,77 lần, KCN Khai Quang các thông số nhƣ mùi hôi, chất rắng lơ lửng

vƣợt 1,07 lần tiêu chuẩn cho phép. Mặt nƣớc chủ yếu bị ô nhiễm bởi các chất

hữu cơ (COD và BOD5), NH3, Coliform và một số kim loại nặng… [49]

- Thực trạng ô nhiễm không khí:

59

Theo kết quả quan trắc hàng năm cho thấy, nồng độ các chất gây ô nhiễm

môi trƣờng có chiều hƣớng tăng lên. Đối với chỉ tiêu ô nhiễm bụi ở hầu hết các

điểm quan trắc đều vƣợt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) từ 1,2 đến 5 lần và ô

nhiễm nặng vào mùa khô. Kết quả quan trắc vào mùa mƣa chỉ có trên 33% số

điểm quan trắc có nồng độ bụi vƣợt quá TCCP, nhƣng kết quả quan trắc vào

mùa khô thì 100% điểm quan trắc có nồng độ bụi vƣợt TCCP từ 2,23 – 5,6 lần.

Các chỉ tiêu CO, CO2, NO2 ở tất cả các điểm quan trắc tuy chƣa vƣợt TCCP,

nhƣng cũng tƣơng đối cao, đồng thời nồng độ các chất khí nhƣ SO2, NO2 đều có

xu hƣớng cao hơn vào mùa khô. Cũng theo kết quả quan trắc cho thấy, nồng độ

bụi, tiếng ồn và các chất khí nhƣ CO, CO2, NO2 ở KCN Khai Quang và KCN

Bình Xuyên cao hơn các KCN khác. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiều

môi trƣờng không khí tại các KCN đang có chiều hƣớng gia tăng chủ yêu là do

các cơ sở sản xuất không đầu tƣ lắp đặt hệ thống xử lý khí thải theo quy định,

thậm chí có những cơ sở đã lắp đặt nhƣng chỉ vận hành khi có sự thanh tra, kiểm

tra của cơ quan quản lý, ví dụ nhƣ Công ty TNHH Công nghiệp Việt Nam I,

Doanh nghiệp Marumumitsu… Bên cạnh đó, tình trạng đốt chất thải rắn ngay

trong khuôn viên nhà máy đã xảy ra ô nhiễm về mùi (nhƣ ở Công ty TNHH

Băng ráp YULI Việt Nam…). Ngoài nguyên nhân do các hoạt động sản xuất của

các cơ sở sản xuất, một nguyên nhân khác dẫn đêế tình trạng ô nhiễm bụi, đó là

hầu hết các KCN đều chƣa có hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ

thống gia thống trong nhiều KCN đang trong giai đoạn thi công xây dựng.

- Thực trạng thu gom và xử lý chất thải rắn:

Một thực tế đáng báo động là hầu hết các KCN trong tỉnh đều chƣa xây

dựng khu xử lý tập trung rác thải, hoặc xử lý bằng các thiết bị đơn giản. Việc thu

gom và vận chuyển rác thải chỉ thực hiện trong phạm vi từng nhà máy; số lƣợng

doanh nghiệp thực hiện ký hợp đồng với đơn vị xử lý chất thải theo đúng Quy

chế quản lý chất thải nguy hại còn rất hạn chế, chỉ chiếm 15 – 20%, chủ yếu theo

hình thức: Công ty phát triển hạ tầng KCN thu gom chung và thuê một doanh

nghiệp khác mang đi xử lý, thậm chí không rõ chở đi đâu. Điều này chắc chắn sẽ

60

gây mất an toàn, ô nhiễm tại các vùng chôn lấp rác tự phát. Việc xử lý rác thải chủ

yếu thực hiện bằng những lò đốt tƣơng đối đơn giản với vốn đầu tƣ khá khiêm

tốn; rác thải ra khỏi nhà máy gần nhƣ chƣa đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu.

Bên cạnh đó, các nhà máy trong KCN đều chƣa phân loại rác thải và có

thiết bị xử lý phù hợp mức độ nguy hại; tình trạng rác thải sinh hoạt và rác thải

công nghiệp thông thƣờng đƣợc thu gom chung với chất thải rắn nguy hại là khá

phổ biến, do đó chỉ có những loại rác thải ít gây ô nhiễm mới xử lý đƣợc, còn lại

các rác thải công nghiệp nguy hại thì việc xử lý bằng hệ thống xử lý rác thải

thông thƣờng đều không có tác dụng. Do đó, khi vận chuyển ra ngoài KCN, các

loại rác thải, nhất là rác thải nguy hại vẫn còn nguyên tính nguy hại của nó.

Trong các KCN Vĩnh Phúc tập trung nhiều nhà máy sản xuất bao bì, hoá chất,

nhựa... lƣợng chất thải rắn chủ yếu là nhựa, hoá chất, chất dẻo, cao su... là những

chất khó phân huỷ, gây độc hại cho môi trƣờng nƣớc mặt, nƣớc ngầm và đất.

Ngoài ra còn phải kể đến một lƣợng rác thải xây dựng đƣợc thải ra trong quá

trình xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và xây dựng nhà xƣởng để sản xuất của các

doanh nghiệp trong KCN.

2.3. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU CỦA CÁC KCN VÀO SỰ PHÁT

TRIỂN KT – XH TỈNH VĨNH PHÖC

2.3.1. Đóng góp vào tổng thu nhập nội địa của tỉnh

Trong những năm qua Vĩnh Phúc đã sản xuất nhiều sản phẩm, phục vụ

nhu cầu trong và ngoài tỉnh, trong đó chủ yếu các sản phẩm của ngành chế tạo

và lắp ráp ôtô, xe máy. Sự hình thành một số doanh nghiệp sản xuất phụ tùng,

chi tiết ôtô, xe máy trong các KCN đã góp phần nâng tỷ lệ nội địa hoá ôtô lên

khoảng 27%, xe máy lên 81%. Những ngành công nghiệp chủ đạo trên đem lại

80% tổng giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp Vĩnh Phúc.

61

Bảng 2.7: GTSX của các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2005

đến 2010 (tính theo giá so sánh 1994)

Đơn vị: tỷ đồng

Quý Năm 2005 2007 2008 2009 I/2010

GTSXCN toàn tỉnh 15.504,01 28.427,86 32.514,48 34.118,00 -

GTSX trong KCN 9.940,50 18.797,52 21.815,44 2.3789,68 7.068,28

Tỷ trọng so với tổng - 64,12 66,12 67,09 69,73 GTSXCN toàn tỉnh (%)

Tỷ trọng GTSX KCN - 18,60 29,24 32,51 36,43 so với GDP (%)

Nguồn: [31], [1]-[6]

Qua bảng số liệu trên, cho thấy:

Giá trị SXCN trong các KCN tăng đều qua các năm. Năm 2005,

GTSXCN của khu vực này mới chỉ đạt 9.940,50 tỷ đồng, thì đến năm 2007 con

số này là 18.797,52 tỷ đồng, tăng gấp gần 2 lần và đến năm 2009 GTSXCN đã

tăng lên 2,4 lần so với năm 2005. Trong vòng 5 năm GTSXCN tăng lên

239,32%, với tốc độ tăng trung bình 27%/năm.

Do GTSXCN của các doanh nghiệp trong KCN liên tục tăng nên tỷ trọng

đóng góp vào GTSXCN toàn tỉnh khá cao, năm 2005 là 64,1%, đến năm 2009

đạt 69,7%, trung bình chiếm 66,8%/năm. Các công ty Honda, công ty Nissin,

Công ty VPIC1 là những doanh nghiệp luôn đóng góp phần lớn vào GTSX của

tỉnh. Các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đã tạo ta

nhiều sản phẩm mới nhƣ: linh kiện phụ tùng ô tô, xe máy, các sản phẩm điện

tử,… đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp tăng thêm của tỉnh.

Bảng 2.7 cũng đã chứng minh cho sự đóng góp đáng kể của các KCN vào

cho tăng trƣởng kinh tế của Vĩnh Phúc trong 12 năm qua. Nếu năm 2005, các

62

KCN mới chỉ chiếm có 18,6% trong GDP thì đến năm 2007 khu vực này đã

chiếm 29,24% GDP của tỉnh và chiếm 36,43% GDP vào năm 2009.

Nhƣ vậy với số dự án, số lƣợng vốn đầu tƣ tăng, tỷ lệ đóng góp của các

KCN trong tổng GTSXCN của tỉnh liên tục tăng qua các năm cho thấy sự hoạt

động hiệu quả của các KCN. Đây chính là nguyên nhân, là “cú huých” quan

trọng cho sự tăng trƣởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh.

2.3.2. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hƣớng

CNH, HĐH

Tính đến hết tháng 12/2009 trên địa bàn tỉnh có 194 dự án đầu tƣ vào

KCN, CCN, chiếm 42,45% tổng số dự án đầu tƣ vào địa bàn tỉnh. Các dự án này

tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nhƣ: sản xuất ôtô, xe máy; linh kiện ôtô, xe máy;

chế biến nông sản; may mặc... Việc ngày càng có nhiều dự án FDI đầu tƣ vào

trong KCN đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở

Vĩnh Phúc. Nhƣ trên đã đề cập, sự tăng lên của GTSXCN, tỷ trọng GTSXCN so

với GDP của các KCN đã có tác động quan trọng đến việc làm thay đổi mối

quan hệ giữa các ngành CN – NN và DV. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng

thay đổi theo hƣớng hiện đại, tức giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ

trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Sự cải thiện cơ cấu kinh tế

của Vĩnh Phúc đƣợc thể hiện ở bảng dƣới đây:

Bảng 2.8: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997 – 2009

Đơn vị tính: %

Ngành và lĩnh vực kinh tế 1997 2000 2005 2006 2007 2008 2009

Nông – lâm – ngƣ nghiệp 55,7 31,20 21,20 17,30 14,25 17,71 12,9

Công nghiệp – xây dựng 12,7 38,97 52,30 57,00 61,06 58,34 58,3

Dịch vụ 31,6 29,83 26,50 25,70 24,68 23,95 28,8

Nguồn: [19]

63

Nhƣ vậy, nếu nhƣ năm 1997, cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc còn rất

lạc hậu, với tỷ trọng nông – lâm – ngƣ nghiệp chiếm 55,7% GDP; công nghiệp –

xây dựng chỉ có 12,7%; dịch vụ là 31,6%, thì đến năm 2009, cơ cấu kinh tế của

tỉnh đã có sự chuyển dịch mạnh với các con số lần lƣợt là 12,9 %, 58,3% và

28,8%. Nhƣ vậy trong 10 năm, tỷ trọng giá trị công nghiệp xây dựng tăng 48%,

bình quân mỗi năm tăng 4,8% trong tổng GDP, trong đó tăng cao nhất là thời kỳ

2000 – 2005, với 13,3%.

Tỷ trọng công nghiệp trong GDP khá cao nhƣ vậy là có sự đóng góp lớn của

các KCN. Từ năm 2008, tỷ trọng đóng của công nghiệp trong GDP có phần giảm

xuống trong khi tỷ trọng nông nghiệp tăng lên là do công nghiệp chịu tác động

mạnh của khủng hoảng kinh tế mạnh hơn so với nông nghiệp.

2.3.3. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh

Có thể nói, hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thực sự trở

nên sôi động kể từ khi các dự án trong KCN đƣợc thực hiện, đi vào sản xuất và

một số doanh nghiệp tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu hàng hoá.

Bảng 2.9: Giá trị xuất khẩu của các KCN

Đơn vị: triệu USD

2006 2007 2008 2009

216,3 343,8 375,6 377,5 Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh

175,0 290,0 314,73 322,4 Kim ngạch xuất khẩu của các KCN

80,9 84,4 83,8 79,0 Tỷ trọng (%)

Nguồn: [8], [9], [40]

Kim ngạch xuất khẩu (KNXK) trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2009 tăng

trung bình 43,6%; trong đó riêng năm 2009 đạt 377,5 triệu USD tăng, 174.5% so

với năm 2006. Tính chung cả giai đoạn 2006 – 2009, tỷ trọng KNXK của KCN

chiếm 82% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh. Trong đó, năm 2006 chiếm

64

80,9%; năm 2008 tăng lên 83,8%. Tuy nhiên, cũng do khủng hoảng kinh tế thế

giới nên năm 2009 tỷ trọng đóng góp của KCN cho xuất khẩu có xu hƣớng tụt

giảm (từ 314,73 triệu USD năm 2008 xuống 322,4 triệu USD năm 2009), trong

đó giá trị xuất khẩu của các dự án DDI giảm mạnh nhất, giảm 2,3 lần so với năm

2008.

Nhờ có sự tham gia vào hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong

KCN tỉnh Vĩnh Phúc, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất

khẩu mà thị trƣờng xuất khẩu của tỉnh ngày càng đƣợc mở rộng. Đến nay, sản

phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Vĩnh Phúc đã có mặt tại hơn 40 quốc gia

và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó tập trung vào thị trƣờng EU, ASEAN,

Nhật Bản, Nam Mỹ và Hoa Kỳ… Trong đó, hàng xuất khẩu của các doanh

nghiệp trong KCN vào Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch

xuất khẩu của tỉnh. Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trƣờng Hoa Kỳ chủ yếu là

hàng gia công xuất khẩu với mục đích tận dụng nguồn lao động rẻ. Vì vậy, trong

thực tế đã giải quyết đƣợc hàng ngàn lao động trong tỉnh nhƣng hiệu quả xuất

khẩu chƣa cao.

2.3.4. Đóng góp vào ngân sách:

Nhờ sự hoạt động có hiệu quả và sự đóng góp đáng kể của dự án trong

KCN, đặc biệt là các dự án FDI, ngân sách của tỉnh Vĩnh Phúc đã liên tục đƣợc

cải thiện, năm sau cao hơn năm trƣớc.

Bảng 2.10. Đóng góp của các KCN vào ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc

2007 2008 2009

Tổng ngân sách tỉnh (tỷ đồng) 5.704,606 9.400,258 10.174,097

Thu từ khu công nghiệp (tỷ đồng) 1.514,84 2.799,21 2.525,21

Tỷ trọng thu từ KCN/tổng thu (%) 27 30 25

Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc

Trong tổng cơ cấu thu ngân sách địa phƣơng thì nguồn thu từ khu vực

FDI và DDI trong KCN chiếm tỷ lệ khá và liên tục tăng. Năm 2007, các dự án

hoạt động trong KCN đóng góp vào ngân sách trên địa bàn tỉnh là 1.514,84 tỷ

65

đồng, chiếm 27 % tổng thu ngân sách toàn tỉnh, trong đó: nộp ngân sách của các

dự án DDI là 133,4 tỷ đồng, của các dự án FDI là 1.381,44 tỷ đồng. Năm 2008,

các dự án trong KCN nộp ngân sách tăng 185 % so với năm 2007, đạt 2.799,21

tỷ đồng và chiếm 30% tổng thu ngân sách toàn tỉnh. Hết năm 2009, nộp ngân

sách của các dự án trong KCN giảm xuống còn 2.525,21 tỷ đồng, chiếm 25%

tổng thu nhân sách toàn tỉnh, trong đó, đóng góp của các dự án FDI là 2.434,04

tỷ đồng, đóng góp của các dự án DDI là 91,17 tỷ đồng, có sự sụt giảm này là do

ảnh hƣởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến, 02 dự án đang

làm thủ tục giải thể doanh nghiệp trƣớc thời hạn và 12 dự án xin giãn tiến độ.

Đặc biệt là 02 dự án của Công ty Compal hiện nay đã ngừng thi công xây dựng,

đã kéo theo 10 dự án vệ tinh không triển khai đƣợc, trong đó đã có 01 dự án

đang làm thủ tục giải thể và 09 dự án phải xin giãn tiến độ.

Nhìn chung qua số liệu những năm gần đây cho thấy, đóng góp của các

doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong KCN vào ngân sách của tỉnh khá cao,

chiếm tới hơn 1/3 nguồn thu ngân sách của tỉnh.

Mức đóng góp của các dự án trong KCN tăng qua các năm đã làm tăng

tổng thu ngân sách toàn tỉnh. Cụ thể, năm 2004 đạt 2.563,0 tỷ đồng; 2006 đạt

4.486,5 tỷ đồng, tăng 175% so với năm 2004, năm 2008 đạt 9400,3 tỷ đồng,

tăng 209% so với năm 2006, và đến cuối năm 2009 đạt 10174,1 tỷ đồng. Trong

khi đó, tỷ lệ thu ngân sách địa phƣơng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng rất lớn

trong tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh, từ 39,4% năm 1997 lên 68,6% năm

2000; 94,2% năm 2004 và 98% năm 2006.[8], [9]

2.3.5. Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng:

Sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Vĩnh Phúc thời gian qua

đã đặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát triển kết cấu hạ tầng. Để tạo thuận

lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn nói chung và KCN nói

riêng, đồng thời phục vụ công tác đẩy mạnh thu hút nguồn vốn cho phát triển

KCN, nên trong thời gian qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã đặc biệt chú trọng phát triển cơ

sở hạ tầng kỹ thuật, bao gồm cả đƣờng giao thông, hệ thống cung cấp điện,

nƣớc, các dịch vụ bƣu chính viễn thông.

66

UBND tỉnh đã chỉ đạo thực hiện thông qua việc lập quy hoạch, chuẩn bị

đầu tƣ, huy động, thu hút nguồn lực và triển khai thực hiện đầu tƣ xây dựng các

công trình kết cấu hạ tầng. Việc thực hiện đầu tƣ các công trình kết cấu hạ tầng

cho việc phát triển sản xuất và phục vụ cộng đồng đƣợc triển khai tích cực.

Nhằm tạo ra sự hấp dẫn mới đối với công tác thu hút vốn đầu tƣ, UBND tỉnh đã

ƣu tiên cho phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng trong và ngoài các khu công

nghiệp chủ yếu là các đƣờng trục chính giữa các khu công nghiệp: Bình Xuyên,

Quang Minh, Kim Hoa, mở rộng Quốc lộ 2 (theo hình thức BOT), đƣờng trục

chính khu đô thị Mê Linh 100m nâng cấp đƣờng tỉnh lộ 23, Quốc lộ 2B, Quốc lộ

2C..; trạm điện 110KV Phúc Yên, Vĩnh Tƣờng, Yên Lạc; trạm điện 220KV Bình

Xuyên; dự án xử lý rác thải 20 triệu USD vốn ODA của Hàn Quốc; dự án JIBIC

nâng cấp hệ thống điện nƣớc Vĩnh Yên, Phúc Yên; hạ tầng cho khu vực nông

nghiệp, nông thôn, giáo dục đào tạo, y tế và các công trình hạ tầng đô thị…

Nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ về nguồn nhân lực cho các KCN; tỉnh đã và

đang triển khai thực hiện 138 công trình, bao gồm: Các phòng học; nhà điều

hành; nhà đa năng; các trƣờng chuyên nghiệp và các trung tâm giáo dục thƣờng

xuyên. Để thực hiện kế hoạch đó, UBND tỉnh đã huy động mọi nguồn lực nhƣ:

Huy động trên 50% nguồn chi cho đầu tƣ phát triển từ ngân sách; huy động

nguồn đấu giá quyền sử dụng đất và cấp quyền sử dụng đất; nguồn vốn từ đất

thƣơng phẩm; vốn vay lãi xuất 0% từ ngân sách trung ƣơng. Bên cạnh đó,

UBND tỉnh còn tạo môi trƣờng thuận lợi để thu hút các nguồn lực từ những

doanh nghiệp FDI và DDI; đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân mua trái

phiếu, vận động vốn ODA và NGO đạt kết quả tốt.

Những nỗ lực trên, trƣớc hết là phục vụ yêu cầu phát triển các KCN thông

qua việc tạo môi trƣờng để thu hút các dự án đầu tƣ, và đến lƣợt nó lại gián tiếp

góp phần đáng kể vào phát triển, nâng cao chất lƣợng hạ tầng nói chung của Tỉnh.

2.3.6. Nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp trên địa

bàn tỉnh:

Sự gia tăng của các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài vào các KCN, kéo theo đó là

sự xuất hiện của các mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp tiên tiến, hiện đại

67

của nhiều quốc gia trên thế giới đƣợc chuyển giao cho tỉnh. Tại Vĩnh Phúc đã

bƣớc đầu thiết lập đƣợc các trung tâm công nghiệp lớn, trong đó có một số

ngành công nghiệp có quan nhƣ: công nghiệp cơ khí lắp ráp ô tô, xe máy với các

thƣơng hiệu lớn nhƣ Toyota, Honda, Piaggio, Daewoo bus; công nghiệp sản

xuất vật liệu xây dựng, sản lƣợng chiếm 1/3 thị phần công nghiệp vật liệu xây

dựng của cả nƣớc,… Cùng với làn sóng đầu tƣ nƣớc ngoài mạnh mẽ trong 02

năm trở lại đây, Vĩnh Phúc đã và đang hình thành các ngành công nghiệp điện

tử, viễn thông, công nghệ cao. Năm 2010, tỉnh Vĩnh Phúc dự kiến thu hút

khoảng 1,2-1,5 tỷ USD vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, chủ yếu là vốn đầu tƣ từ các dự

án công nghệ cao của các Công ty vệ tinh cho các tập đoàn Hồng Hải, Compal,

Wistron, đang đầu tƣ tại Vĩnh Phúc.

Theo kết quả của đợt kiểm tra công nghệ trong các dự án đầu tƣ đầu năm

2010 của Sở khoa học và công nghệ Vĩnh Phúc, thiết bị của doanh nghiệp trong

KCN sử dụng đều là công nghệ đƣợc sản xuất trong những năm gần đây (2003-

2008). Tỷ lệ máy móc, thiết bị mới đƣợc đầu tƣ để sản xuất tại KCN Vĩnh Phúc

chiếm trên 90% so với tổng số máy móc, thiết bị sử dụng. Nguồn gốc xuất xứ của

máy móc, thiết bị chủ yếu là từ các nƣớc và vùng lãnh thổ nhƣ: Đài Loan, Trung

Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; một số ít có xuất xứ từ Mỹ, Anh, Đức.

Trong những năm tới tỉnh Vĩnh Phúc tập trung vận động xúc tiến đầu tƣ,

thu hút các tập đoàn lớn đến từ EU và Mỹ và các tập đoàn xuyên quốc gia có

công nghệ cao thân thiện với môi trƣờng. Thông qua việc tiếp nhận các dự án

trên, trình độ công nghệ của nhiều lĩnh vực đã đƣợc nâng lên một cách rõ rệt.

Các dự án công nghệ tiến tiến chẳng những góp phần tích tực làm nâng cao trình

độ công nghệ của lĩnh vực mà các doanh nghiệp đó đang hoạt động, mà còn tác

động làm cho doanh nghiệp trong nƣớc cũng phải nỗ lực đổi mới công nghệ,

nâng cao trình độ quản lý để tăng khả năng cạnh tranh của mình. Chính điều này

đã làm cho trình độ công nghệ của nhiều lĩnh vực đã tăng khá nhanh so với

trƣớc đây.

68

2.4. MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KCN

TỈNH VĨNH PHÖC VÀ NGUYÊN NHÂN

2.4.1. Những hạn chế, yếu kém

Bên cạnh những thành công đã đạt đƣợc, trong quá trình phát triển các

KCN Vĩnh Phúc vẫn còn có nhiều yếu kém, hạn chế, trong đó những hạn chế

chủ yếu là:

Một là, việc xây dựng kết cấu hạ tầng còn chậm, chƣa theo kịp công tác

xúc tiến đầu tƣ. Kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn thấp kém,

nhất là hạ tầng xã hội và các dịch vụ phục vụ cho các KCN chƣa đáp ứng nhu

cầu. Chẳng hạn, đến nay mới chỉ có khoảng 5% số công nhân đƣợc ở trong các

nhà trọ do các doanh nghiệp, chính quyền và các tổ chức đoàn thể xây dựng, gần

95% còn lại chủ yếu là công nhân ngoại tỉnh phải thuê nhà trọ của tƣ nhân, khá

tạm bợ với các điều kiện an ninh, vệ sinh và không gian không đảm bảo. Hay

việc đầu tƣ xây dựng nhà máy xử lý nƣớc thải trong các KCN cũng triển khai rất

chậm. Mặc dù các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động nhƣng chỉ có KCN Khai

Quang đã xây dựng xong Trạm xử lý nƣớc thải giai đoạn I (công suất 1.800

m3/ngày đêm), còn lại đều chƣa hoàn thành. Các chủ đầu tƣ hạ tầng KCN chậm

hoàn thiện các thủ tục pháp lý liên quan.

Hai là, tiến độ giải phóng mặt bằng (GPMB) các KCN và các dự án trên

địa bàn tỉnh chậm. nhƣ KCN Kim Hoa (thành lập năm 1998), tiến độ xây dựng

theo kế hoạch là 2 năm nhƣng đến cuối năm 2007, mới bồi thƣờng, giải phóng

mặt bằng xong; KCN Khai Quang (thành lập năm 2006), tiến độ xây dựng hạ

tầng theo kế hoạch phải xong trƣớc 31/12/2008 nhƣng đến nay vẫn chƣa giải

phóng xong mặt bằng; KCN Bình Xuyên (thành lập năm 2007), tiến độ xây

dựng hạ tầng đƣợc phê duyệt hoàn thành vào tháng 12/2009, nhƣng 34 ha đất đã

bồi thƣờng lại bị tái lấn chiếm, không giải phóng đƣợc mặt bằng. Các KCN mới

có Quyết định thành lập triển khai xây dựng hạ tầng KCN gặp khó khăn do

vƣớng mắc về bồi thƣờng, GPMB, cấp nƣớc cho hoạt động KCN chƣa đáp ứng

yêu cầu (KCN Bá Thiện). Chính điều này tạo ra sự không đồng bộ về kết cấu hạ

tầng của KCN, gây ảnh hƣởng đến quá trình triển khai dự án, tổ chức sản xuất

69

kinh doanh; làm giảm hiệu quả đầu tƣ, lãng phí nguồn lực; ảnh hƣởng tới sản

xuất Nông nghiệp và môi trƣờng. Điều này đã tác động ngƣợc lại đến khả năng

lấp đầy KCN, phần diện tích đất đã giải phóng và san lấp mặt bằng nhƣng chƣa

có nhà đầu tƣ thuê đã tạo ra dƣ luận không tốt trong nhân dân và các phƣơng

tiện thông tin đại chúng. Đó là lý do chủ yếu khiến cho tỷ lệ lấp đầy tại các KCN

chƣa cao.

Ba là, tỷ lệ lấp đầy còn thấp. Ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính toàn

cầu đã tác động tới quyết định đầu tƣ, một số đầu tƣ vào lĩnh vực công nghiệp,

hạ tầng KCN của các tập đoàn lớn đến Vĩnh Phúc từ cuối năm 2007 và đầu năm

2008 cũng bị chững lại, nhƣ dự án của các tập đoàn Winstron, Catcher, Chimei,

Wija Baru, KBB, Ju Teng,…từ đó làm ảnh hƣởng tới thu hút các dự án vệ tinh.

Thu hút đầu tƣ trong nƣớc cũng còn nhiều tồn tại: các dự án DDI thu hút mới

chủ yếu là ngoài khu, cụm công nghiệp tập trung (chiếm 74,26% về số dự án và

91,27 % về số vốn đăng ký) và chủ yếu là các dự án thuộc lĩnh vực thƣơng mại,

dịch vụ vào những địa bàn có giao thông thuận tiện, ít dự án thuộc lĩnh vực

khuyến khích đầu tƣ. Do chi chi phí đầu tƣ trong các Khu công nghiệp cao, dẫn

đến nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng đầu tƣ vào trong KCN.

Bốn là, tình hình triển khai các dự án trong KCN trên địa bàn tỉnh không

đảm bảo tiến độ đăng ký. Các dự án của công ty Cowin Fastener, Công ty

Toyotaki, Công ty GHS, Công ty Compal (của nƣớc ngoài), công ty Minh Phúc,

công ty Vinh Phát, công ty DHP, Nhà máy bơm nƣớc Đại Việt (trong nƣớc) là

điển hình của sự chậm trễ đó.

Năm là, mối quan hệ giữa chủ và ngƣời lao động chƣa đƣợc cải thiện.

Tình trạng doanh nghiệp lách Luật nhằm né tránh việc chi trả chế độ, chính sách

cho ngƣời lao động là khá phổ biến. Tính đến cuối năm 2009, tỷ lệ lao động

không thực hiện hợp đồng lao động là 0,5%, HĐLĐ không xác định thời hạn là

29,6 %, HĐLĐ từ 1-3 năm là 57,4%; HĐLĐ dƣới 1 năm là 5,2% và HĐLĐ thử

việc là 7,4% [47]. Nội dung ký kết đối với loại HĐLĐ 3 tháng, thời vụ sơ sài,

không đảm bảo đầy đủ các quyền lợi của ngƣời lao động về tiền lƣơng, BHXH,

BHYT… Do đó, những tranh chấp trong quan hệ lao động, gia tăng xu hƣớng

70

công nhân ngừng làm việc tập thể để đòi quyền lợi đã bị ngƣời sử dụng lao động

vi phạm. Tình hình đình công trái pháp luật tuy có giảm so với cùng kỳ nhƣng

vẫn còn xảy ra thƣờng xuyên. Trong Quý I/2010 xảy ra 02 cuộc đình công của

công nhân Công ty TNHH Daewoo Apprel trong KCN Khai Quang và Công ty

Han Nam trong Khu công nghiệp Bình Xuyên.

Sáu là, trình độ ngƣời lao động trong một số doanh nghiệp còn thấp và

thiếu trầm trọng. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn thiếu cả lao động phổ thông,

nhất là các doanh nghiệp may mặc và cơ khí.

2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Những hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:

Thứ nhất, một số hệ thống cơ chế, chính sách còn bất cập

Chƣa có chủ trƣơng thống nhất về hỗ trợ các Công ty đầu tƣ phát triển hạ

tầng trong thực hiện công tác bồi thƣờng giải phóng mặt bằng. Công tác bồi

thƣờng giải phóng mặt bằng chủ yếu do các Công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng

thực hiện, quá trình triển khai còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc đặc biệt là về

giá bồi thƣờng. Giá bồi thƣờng chƣa đƣợc thay đổi phù hợp với với biến động

giá cả thị trƣờng và vẫn còn sự chênh lệch khá lớn giữa trƣờng hợp doanh

nghiệp thỏa thuận bồi thƣờng và giá nhà nƣớc bồi thƣờng. Chẳng hạn, tại thời điểm năm 2010, giá nhà nƣớc đền bù là 73 triệu/sào(360m2), tƣơng đƣơng 200.000 nghìn đồng/m2, trong khi giá của các doanh nghiệp nhỏ lẻ thỏa thuận là từ 400.000 đến 1.000.000/m2 (tùy vị trí, mức độ đẹp hay xấu). Chính vì vậy,

ngƣời dân có sự so bì, tính toán dẫn đến gây khó khăn lớn cho công tác giải

phóng mặt bằng, nhƣ KCN Khai Quang đến nay vẫn còn khoảng 40ha chƣa bồi

thƣờng và KCN Bình Xuyên còn 74ha.

Còn thiếu chính sách, quy định cụ thể về cấp đất dịch vụ, trả đất bằng tiền

cho nhân dân vẫn chƣa ban hành. Công tác xây dựng các khu tái định cƣ ở một

số khu vực trọng điểm triển khai chậm. Vấn đề giải quyết việc làm cho các đối

tƣợng lao động đủ điều kiện tại các địa phƣơng có đất bị thu hồi còn đạt tỷ lệ rất

thấp, thực hiện cam kết tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp không hiệu

quả. Điều này dẫn đến ngƣời dân tái lấn chiếm lại diện tích đất của KCN.

71

Các chính sách hỗ trợ về chuyển đổi nghề, các phƣơng án tổ chức đào tạo

nghề, các chƣơng trình việc làm tại chỗ cho các đối tƣợng lao động ở khu vực

mất đất và các chính sách xã hội khác nhƣ xây dựng các công trình công cộng,

phúc lợi ở nông thôn nơi có đất thu hồi chƣa đƣợc quan tâm giải quyết một cách

thoả đáng. Điều đó gây tâm lý ngại ngùng cho ngƣời bị thu hồi đất khi chuyển

chỗ ở và nơi làm việc.

Công tác vận động, tuyên truyền thuyết phục nhân dân của các cấp chính

quyền ở một số địa phƣơng có đất bị thu hồi còn hạn chế, việc giáo dục ý thức

trách nhiệm, gƣơng mẫu của cán bộ, Đảng viên ở một số Chi bộ Đảng chƣa tốt,

một số Đảng viên không nhận tiền bồi thƣờng, GPMB, thậm chí còn tuyên

truyền chống lại chủ trƣơng của tỉnh, gây ảnh hƣởng không tốt trong nhân dân.

Thứ hai, Năng lực tài chính của một số chủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng, dự án thứ cấp chưa đủ mạnh:

Việc chậm triển khai đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng tại các KCN, ngoài

nguyên nhân khó khăn trong công tác bồi thƣờng giải phóng mặt bằng, còn do

năng lực tài chính của doanh nghiệp kém. Thực tế cho thấy, chủ đầu tƣ xây dựng

kết cấu hạ tầng do không đủ năng lực và khả năng huy động tài chính để đầu tƣ

nên đã lựa chọn đầu tƣ theo “hình thức cuốn chiếu” có nghĩa là “có doanh

nghiệp đầu tƣ đến đâu, triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng đến đó”, tài chính để

thực hiện đầu tƣ dựa trên việc thu tiền thuê đất của các doanh nghiệp đã đầu tƣ

và ứng tiền trƣớc để thuê đất của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến, kết cấu hạ

tầng không đồng bộ, ảnh hƣởng đến hoạt động sản xuất cho diện tích đất nông

nghiệp còn lại và không giải quyết tốt các yếu tố ảnh hƣởng đến môi trƣờng.

Nhƣ chủ đầu tƣ các KCN Bá Thiện (thành lập ngày 18/12/2007 - chủ đầu tƣ là

Công ty TNHH quản lý và phát triển hạ tầng Compal) và Bình Xuyên II (thành

lập tháng 7/2008 - chủ đầu tƣ là Công ty TNHH Fuchuan, thuộc Tập đoàn

KHKT Hồng Hải) là các doanh nghiệp 100% vốn FDI, trong thời điểm cuối năm

2008 và cả năm 2009, các Công ty mẹ tại Đài Loan đều rơi và khủng hoảng kinh

tế, do đó các doanh nghiệp này đều tạm dừng xây dựng mặc dù mặt bằng hết sức

thuận lợi do đã giải phóng xong mặt bằng.

72

Đối với KCN Bá Thiện II (thành lập tháng 02/2009), chủ đầu tƣ là Công

ty TNHH Vina CPK - doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Kể từ khi đƣợc

cấp Giấy Chứng nhận đầu tƣ, nhà đầu tƣ chƣa thực hiện đầu tƣ, xây dựng hạ

tầng KCN. Hiện nay, Ban Quản lý các khu công nghiệp đang xem xét lại năng

lực của nhà đầu tƣ này.

Thứ ba, việc thực hiện các quy định pháp luật của các doanh nghiệp

chưa nghiêm túc:

Các DN đều chƣa có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của

pháp luật nhà nƣớc về đầu tƣ, về lao động, về bảo vệ môi trƣờng... Nhƣ: sau khi

đƣợc cấp GCNĐT, các DN phải triển khai thực hiện dự án theo tiến độ đã đƣợc

ban quản lý KCN phê duyệt, nhƣng việc thực hiện dự án của nhiều DN tiến hành

cầm chừng, đầu tƣ một cách chống đối để tránh bị thu hồi GCNĐT và thu hồi

đất theo quy định của pháp luật. Khi đi vào hoạt động không thực hiện chế độ

báo báo thống kê định kỳ; tham gia đống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho

ngƣời lao động không đầy đủ; không thực hiện tốt các quy định an toàn lao

động, cấp bảo hộ lao động dẫn tới các cuộc đình công của công nhân (Công ty

TNHH Daewoo Apprel, Công ty Han Nam), nhiều DN không xử lý tốt nƣớc thải

theo quy định trƣớc khi thải ra môi trƣờng xung quanh.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cố tình ký HĐLĐ không đúng Luật của

các doanh nghiệp là nhằm mục đích trốn đóng BHXH hoặc để chấm dứt HĐLĐ

khi cần thiết. Tính đến hết năm 2009, tổng số tiền nợ BHXH của các doanh

nghiệp trong KCN là 8,881 tỷ đồng. Trong đó, có 4 doanh nghiệp có nguy cơ

phải đóng cửa, khiến cho 1.500 lao động lâm vào thế không có việc làm, đó là

công ty TNHH của Hàn Quốc TS – Ari nợ BHXH 654,656 triệu đồng; Công ty

TNHH Tassco Việt Nam nợ 766,586 triệu đồng; Công ty TNHH Ari Pack và

công ty liên doanh sản xuất bình lọc công nghiệp V&S. Điều đáng nói là trong 4

doanh nghiệp trên chỉ có 2 doanh nghiệp có tổ chức công đoàn, nhƣng 2 tổ chức

công đoàn này cũng không làm tốt vai trò của mình là bảo vệ lợi ích hợp pháp

của ngƣời lao động.

73

Thứ tư, hoạt động xúc tiến đầu tư chưa được chú trọng

Hoạt động của bộ máy xúc tiến đầu tƣ (XTĐT) của Vĩnh Phúc còn yếu

kém, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu mục tiêu dài hạn, còn dàn trải, không tập

trung, chƣa đƣợc xã hội hóa từng bƣớc. Việc cung cấp thông tin XTĐT của tỉnh

còn hạn chế, website của tỉnh chƣa có bộ máy chuyên quản lý và thực hiện việc

thƣờng xuyên cập nhật thông tin. Sự phối hợp trong hoạt động XTĐT, du lịch,

thƣơng mại giữa các sở ban ngành của tỉnh với nhau còn chƣa đồng bộ, thiếu

chặt chẽ; chƣa có sự phối hợp giữa Vĩnh Phúc với các bộ, ngành, cơ quan Trung

ƣơng và với các tỉnh lân cận. Từ đó, làm giảm đi tính hấp dẫn đối với các nhà

đầu tƣ, khiến cho tỷ lệ lấp đầy taị các KCN chƣa cao.

Thứ năm, chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của các

doanh nghiệp

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và công nghiệp hóa nhanh nhƣ

hiện nay, nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc chƣa đáp ứng kịp với yêu cầu mới.

Theo số liệu thống kê của Công đoàn các KCN tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2009, tỷ lệ

lao động qua đào tạo còn ở mức thấp, chỉ chiếm khoảng 20% còn lại lại hơn 80%

là lao động chƣa đƣợc qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao (77,5%). Đây một trong những

vấn đề mà các nhà đầu tƣ đặc biệt là các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài chƣa hài lòng,

chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của họ khi mà công nghệ sử dụng lại là những công

nghệ hiện đại; từ đó, ảnh hƣởng đến quá trình triển khai, thực hiện dự án trên địa

bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nhất là đối với các dự án lớn, có sử dụng công nghệ cao.

Những yếu kém, hạn chế trên đây cần thiết phải có những giải pháp hiểu

quả đảm bảo cho các KCN Vĩnh Phúc tiếp tục đạt đƣợc sự tăng trƣởng.

74

CHƢƠNG 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2020

3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG

NGHIỆP TỈNH VĨNH PHÖC

3.1.1. Quan điểm phát triển khu công nghiệp

- Phát triển KCN phải phù hợp với quy hoạch tổng thể về phát triển kinh

tế – xã hội của tỉnh, và với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế

Trong xu thế hiện nay, nền kinh tế của từng quốc gia trên thế giới đều có

mối quan hệ qua lại, đan xen và ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa và hội nhập

kinh tế giữa các quốc gia trở thành xu thế tất yếu của thời đại.

Hội nhập kinh tế quốc tế đƣợc biểu hiện cụ thể bằng đặc trƣng nhƣ: toàn

cầu hóa kinh tế, thị trƣờng hóa kinh tế và liên kết kinh tế khu vực song phƣơng

và đa phƣơng. Với những đặc trƣng vốn có nói lên hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi

quốc gia muốn hội nhập kinh tế thành công nhất thiết phải xây dựng và điều

chỉnh chiến lƣợc kinh tế của mình theo hƣớng hội nhập và liên kết kinh tế khu

vực và thế giới theo đúng luật chơi của thế giới. Do đó, sự phát triển của KCN

nƣớc ta nói chung và sự phát triển KCN tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng không thể là

ngoại lệ nằm ngoài cái chung ấy.

Từ đó cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế vừa mang tính tất yếu vừa mang

tính quy luật, vừa là con đƣờng quan trọng để giúp Việt Nam nói chung và tỉnh

Vĩnh Phúc phát triển nhanh chóng các KCN, góp phần thực hiện thành công

CNH, HĐH đất nƣớc, chống nguy cơ tụt hậu và rút ngắn khoảng cách nƣớc ta

với các nƣớc khác.

- Phát triển KCN phải đảm bảo tính bền vững:

Ủy ban Môi trƣờng và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã nhấn mạnh: “Phát

triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con

ngƣời, nhƣng không tổn hai tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tƣơng lai”.

75

Thế hệ hôm nay nếu không muốn mắc nợ thế hệ mai sau, thì thế hệ hôm nay

phải tuân thủ đầy đủ các nguyên lý phát triển bền vững. Do đó, phát triển KCN

Vĩnh Phúc tất yếu phải tuân thủ các nguyên tắc của phát triển bền vững, phải đạt

tới sự hài hòa, cân đối giữa 3 lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Việc phát

triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua mới chỉ tập trung quan

tâm chủ yếu đến tăng trƣởng kinh tế, còn nhiều tồn tại, hạn chế về vấn đề ổn

định xã hội và bảo vệ môi trƣờng. Vì vậy, cần có những giải pháp đồng bộ phát

triển các KCN của Vĩnh Phúc theo hƣớng bền vững, dựa trên 3 trụ cột chính là

kinh tế, xã hội và môi trƣờng.

Nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại các KCN theo hƣớng thu hút các dự án

sử dụng nhiều vốn, hàm lƣợng công nghệ cao, sử dụng không gian nhiều tầng…

Đảm bảo tổ chức sản xuất công nghiệp trong các KCN theo mô hình hiện đại,

tăng tỷ lệ diện tích cho phát triển hạ tầng và cây xanh trong các KCN. Hạn chế

sử dụng đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) theo hƣớng ƣu tiên phát triển

các KCN trên vùng gò đồi thuộc các huyện Tam Dƣơng, Bình Xuyên và Lập

Thạch, Sông Lô. Tăng cƣờng vai trò động lực thúc đẩy các tiểu vùng phát triển,

tạo hạt nhân phát triển các tiểu vùng của các KCN. Phát triển các KCN tập

trung, gắn sự phát triển của các KCN với sự phát triển của hệ thống đô thị, dịch

vụ, phân bố dân cƣ. Phát triển đồng bộ các đô thị và các ngành dịch vụ khác gắn

liền với phát triển KCN để tạo sự phát triển hài hòa, đồng bộ hỗ trợ lẫn nhau giữa

các ngành và lĩnh vực.

3.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến 2020

3.1.2.1.Mục tiêu tổng quát

Trong báo cáo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, dự

kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và xây dựng chiến

lƣợc phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 của

Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định mục tiêu tổng quá phát triển KCN

Vĩnh Phúc đến năm 2020 là: “Hình thành hệ thống các KCN hợp lý trên địa bàn,

đảm bảo sự phát triển bền vững và thật sự trở thành động lực cho sự phát triển

chung của toàn tỉnh, tạo hạt nhân để phát triển đồng đều các tiểu vùng và các địa

76

phƣơng trong tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu dân cƣ, hiện đại

hóa nông nghiệp và nông thôn. Tạo môi trƣờng thuận lợi để thu hút đầu tƣ phát

triển CN, tăng tỷ lệ đóng góp của CN (đặc biệt là các KCN) trong phát triển kinh tế

– xã hội tỉnh”. Tập trung phát triển các ngành có hàm lƣợng công nghệ cao, thân

thiện với môi trƣờng, giá trị gia tăng lớn, sử dụng ít nguyên liệu đầu vào, suất đầu

tƣ lớn, sử dụng nhiều lao động, có nhiều sản phẩm tham gia xuất khẩu nhƣ: cơ khí

chế tạo, công nghiệp ô tô, xe máy, công nghiệp điện tử, cơ điện tử... [47]

Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ

nhằm tăng khả năng cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong KCN

đi đôi với việc mở rộng thị trƣờng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chủ lực nhƣ

dệt may, giầy dép, linh kiện, thiết bị điện tử, sản phẩm gỗ…

3.1.2.2. Các mục tiêu cụ thể đến năm 2020

Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, chiến lƣợc phát

triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030, xét tình hình

triển khai thực tế thời gian qua và khả năng cung ứng điều kiện hạ tầng cần thiết

để phát triển các KCN, đề ra mục tiêu cụ thể phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc

đến năm 2020 nhƣ sau:

Bảng 3.1: Mục tiêu cụ thể phát triển các KCN

tỉnh Vĩnh Phúc đến 2020

Stt Năm 2020

1 Diện tích KCN 6,038 ha

2 Vốn đầu tƣ cơ sở hạ tầng (tăng thêm) 1 tỷ USD

3 Vốn đầu tƣ sản xuất trong KCN 7,5 tỷ USD

4 Tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp 70 %

5 Giá trị sản xuất công nghiệp Tăng 17%/năm

6 Tỷ lệ đóng góp vào GTSX CN 75%

7 Thu hút thêm lao động 26 vạn

Nguồn: Ban quản lý KCN Vĩnh Phúc

77

Mục tiêu cụ thể để phát triển các KCN Vĩnh Phúc đến 2010 là rất lớn,

không thể bố trí triển khai ngay cùng một lúc, khi cân đối với yếu tố ảnh hƣởng

của ohát triển kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN.

Để việc đầu tƣ phát triển KCN đạt hiệu quả cao nhất, sẽ lựa chọn một số

KCN và một số khu vực ƣu tiên để đầu tƣ đồng bộ ngoài hàng rào KCN tƣơng

đƣơng với trong hàng rào KCN nhằm nhanh chóng phát huy hiệu quả đầu tƣ.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA

CÁC KCN TỈNH VĨNH PHÖC

Phát triển khu công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển

KTXH của quốc gia, là công cụ hữu hiệu để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại

hoá đất nƣớc. Nhằm đảm bảo sự bền vững trong quá trình phát triển KCN của

tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả xin đề xuất một số giải pháp:

3.2.1. Phải đảm bảo tính nhất quán và đồng bộ trong quy hoạch phát

triển KCN.

Công tác quy hoạch luôn đƣợc xem là khâu then chốt, đặt nền móng vững

chắc cho sự phát triển và bảo đảm sự thành công của KCN. Thủ tƣớng Chính

phủ đã ban hành Quyết định số 1107/QĐ – TTg ngày 21/08/2006 về việc quy

hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hƣớng đến năm

2020, đồng thời Luật đầu tƣ chung đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006,

đã tạo nền móng vững chắc cho các địa phƣơng xây dựng và phát triển KCN.

Mặc dù trong thời gian qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã chú trọng tới công tác quy

hoạch, nhƣng quy hoạch vẫn thiếu tính khoa học, thiếu sự gắn kết với quy hoạch

phát triển KT-XH của tỉnh và các vấn đề: môi trƣờng, nguồn nhân lực, xây dựng

quy hoạch chƣa phù hợp với tiềm năng của tỉnh. Vì vậy, khi quy hoạch phải

khắc hoạ rõ nét môi trƣờng KT - XH hấp dẫn của tỉnh, bằng cách công khai hoá

rộng rãi và minh bạch quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết của tỉnh, phải

quan tâm tới việc ổn định, phát triển xã hội và bảo vệ môi trƣờng sinh thái,

không nên vì nôn nóng thu hút đầu tƣ mà phá vỡ quy hoạch. Do đó, công tác

quy hoạch trong thời gian tới cần phải chú ý các vấn đề cốt yếu sau:

Một là, quy hoạch phát triển các KCN phải phù hợp với quy hoạch phát

78

triển KTXH, quy hoạch đất đai, quy hoạch điểm dân cƣ, thành phố, khu đô thị.

Nội dung quy hoạch KCN không chỉ nói chung về bố trí địa điểm, vị trí đóng

của khu mà còn phải tính tới cả hƣớng bố trí ngành công nghiệp, sản phẩm sẽ

sản xuất,… để phù hợp với đặc điểm dân cƣ, khả năng đất đai, tài nguyên, giá cả

lao động và yêu cầu về môi trƣờng của từng khu vực. Để nâng cao chất lƣợng

qui hoạch, cần có sự phối hợp của các ngành, các địa phƣơng và giữa địa

phƣơng với trung ƣơng để có sự thống nhất trong các định hƣớng phát triển,

đảm bảo tính liên kết giữa phát triển của KCN với sự phát triển chung của địa

phƣơng, cũng nhƣ tính liên kết trong phát triển KCN giữa các địa phƣơng trong

tỉnh với nhau, tránh cạnh tranh trực tiếp giữa các KCN trên cùng một địa bàn

hoặc giữa những địa bàn có sự gần gũi về mặt địa lý.

Hai là, quy hoạch các KCN phải chấp hành nghiêm chỉnh qui định về tỷ

lệ lấp đầy KCN hiện có khi mở rộng và bổ sung qui hoạch KCN mới của các địa

phƣơng theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Từ đó có căn cứ và

lộ trình điều chỉnh qui hoạch KCN cho phù hợp với yêu cầu phát triển của từng

thời kỳ, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm tài nguyên đất. Tránh tình trạng nhiều KCN

không thể thu hút đƣợc đầu tƣ hoặc đạt tỷ lệ sử dụng đất KCN rất thấp để đất

hoang hóa trong khi ngƣời dân không có đất sản xuất; hoặc thiếu đất công

nghiệp cho thuê, lỡ mất cơ hội phát triển của địa phƣơng.

Ba là, quy hoạch KCN cần đảm bảo tính bền vững, phải xác định rõ vị trí

có thể xây dựng KCN cũng nhƣ những ngành nghề cụ thể đƣợc phép đầu tƣ vào

những vị trí này. Cụ thể là vị trí đặt KCN không đƣợc ảnh hƣởng tới hành lang

phát triển các đô thị trong tƣơng lai. Không nên bố trí các KCN quá gần tuyến

đƣờng giao thông huyết mạch và đảm bảo không ảnh hƣởng tiêu cực tới sự tồn

tại bền vững của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hạn chế việc sử dụng đất

nông nghiệp, đặc biệt là những vùng đất tốt, những vùng có mật độ dân cƣ cao.

Vì vậy, việc nghiên cứu đánh giá đúng đắn, nghiêm túc về tiềm năng, lợi thế và

nhu cầu đầu tƣ và khả năng thu hút đầu tƣ của từng địa phƣơng nơi quy hoạch

xây dựng KCN để định hƣớng phát triển ngành nghề, hình thành và phát triển

các khu công nghiệp hợp lý để phát huy lợi thế của từng vùng là hết sức quan

79

trọng. Để làm đƣợc điều này Ban quản lý các khu công nghiệp phải có phòng

ban chức năng phù hợp làm công tác nghiên cứu, tham mƣu cho Ban và trên cơ

sở đó Ban tham mƣu với UBND tỉnh.

Bốn là, trong quy hoạch phát triển các KCN, nhất thiết phải tính đến việc

đảm bảo tính đồng bộ của các yếu tố cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội và môi

trƣờng. Phát triển KCN đi đôi với quy hoạch đồng bộ khu dân cƣ, khu đô thị,

đảm bảo sự phát triển tƣơng xứng giữa cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội,

giữa quy hoạch trong hàng rào và ngoài hàng rào.

Năm là, công tác thiết kế quy hoạch chi tiết phải tính toán dự kiến hợp lý

các loại đất xây dựng công nghiệp, tỷ lệ đất cho thuê xây dựng nhà xƣởng và đất

xây dựng hạ tầng kỹ thuật một cách hợp lý, với phƣơng án tiết kiệm nhất.

3.2.2. Đẩy nhanh việc giải quyết bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng và

giải quyết việc làm cho ngƣời dân bị thu hồi đất:

Công tác bồi thƣờng GPMB là vấn đề phức tạp, liên quan trực tiếp đến

quyền lợi của ngƣời dân có đất trong quy hoạch xây dựng KCN. Trong những

năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có nhiều chủ trƣơng, biện pháp chỉ đạo GPMB

cho các KCN. Thế nhƣng, công tác bồi thƣờng GPMB để đầu tƣ kết cấu hạ tầng

trong và ngoài hàng rào KCN gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc. Một số huyện

giải quyết không tốt, không đồng bộ dẫn đến nhiều bức xúc căng thẳng kéo dài

thời gian thực hiện, gây nên những hậu quả xấu về mặt xã hội và tổn thất về thời

gian, chi phí của các nhà đầu tƣ, chậm thực hiện việc đầu tƣu xây dựng kết cấu

hạ tầng, thậm chí có KCN chờ giải phóng mặt bằng để xây dựng kết cấu hạ tầng,

nảy sinh tình trạng chắp vá trong đầu tƣ, làm thất thoát, lãng phí lớn về tài chính.

Để thực hiện tốt công tác bồi thƣờng GPMB, thực tế cho thấy cần phải thực hiện

tốt các nội dung sau:

- Có chính sách thống nhất về sử dụng đất đai và bồi thường GPMB:

Việc quản lý ruộng đất, quá trình sử dụng, sự biến động đất đai phải đƣợc

kiểm soát để nắm đƣợc quỹ đất của tỉnh cả về diện tích, chủ sử dụng, loại đất.

Bên cạnh đó, phải nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ đất đai, không để tình trạng sai

sót, lợi dụng sơ hở trong quản lý ( nhƣ khai không đúng mục đích sử dụng đất),

80

hạn chế bức xúc khiếu kiện trong nhân dân. Chính sách bồi thƣờng GPMB phải

nhất quán, tránh tình trạng mỗi địa phƣơng làm một kiểu, dẫn đến tình trạng tự ý

nâng giá bồi thƣờng. Kiên quyết xử lý nghiêm các trƣờng hợp vi phạm.

- Cần công khai, minh bạch về chủ trương, chính sách bồi thường

GPMB và quy hoạch phát triển KCN:

Cần tuyên truyền cho nhân dân thấy rõ chủ trƣơng phát triển công nghiệp,

KCN là yêu cầu tất yếu khách quan để phát triển đất nƣớc, xây dựng Vĩnh Phúc

giàu mạnh, văn minh. Đây là chủ trƣơng đúng đắn để chuyển nền kinh tế của

tỉnh từ nông nghiệp sang công nghiệp, từng bƣớc nâng cao đời sống nhân dân.

Tạo sự thống nhất, đồng thuận về nhận thức trong nhân dân về chủ trƣơng, chính

sách phát triển công nghiệp và KCN.

Cần phải công khai, minh bạch từ quy hoạch KCN đến chính sách pháp

luật về đất đai, chính sách bồi thƣờng đƣợc áp dụng của tỉnh đã ban hành. Sự

minh bạch đó sẽ tránh đƣợc các hậu quả về bất bình đẳng lợi ích giữa các hộ gia

đình, rồi các vụ kiện cáo… nhƣ thời gian qua. Công tác này đòi hỏi phải coi

trọng việc triển khai cụ thể tới nhân dân, cần sự quan tâm chỉ đạo sát sao của

chính quyền địa phƣơng cơ sở, cùng với sự vận động của Mặt trận tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân. Coi trọng thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ cơ sở, phân

biệt rõ những việc nào dân biết, việc nào dân bàn, những việc nào dân kiểm tra.

Thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ cơ sở chính là chìa khóa thành công trong công

tác vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà

nƣớc nói chung và công tác GPMB nói riêng.

- Tạo việc làm và đảm bảo thu nhập ổn định cho người dân có đất bị thu

hồi để phát triển KCN.

Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN sẽ làm giảm một phần hoặc toàn

bộ tƣ liệu sản xuất của ngƣời dân địa phƣơng vốn chủ yếu thực hiện sản xuất

nông nghiệp. Trong khi đó, lao động nông nghiệp nƣớc ta nói chung, ngƣời

nông dân có đất bị thu hồi nói riêng có trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản

lý kém, sức khoẻ yếu, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp rất hạn chế.

Do đó, khi đƣợc tạo điều kiện vào làm việc trong các doanh nghiệp thƣờng

81

không đáp ứng đƣợc yêu cầu doanh nghiệp đặt ra, dẫn đến tình trạng hoặc không

đƣợc thu nhận, hoặc tự bỏ doanh nghiệp, hoặc bị thải hồi sau một thời gian làm

việc. Vì vậy, nhà nƣớc phải có những chính sách hỗ trợ cụ thể để tránh tình

trạng thất nghiệp và phát sinh những tiêu cực xã hội. Cụ thể:

Thứ nhất, phải nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho

ngƣời lao động, giúp cho họ thích ứng với yêu cầu của công việc mới, đồng thời

tăng NSLĐ, nâng cao chất lƣợng, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh

tranh và mở rộng thị trƣờng. Muốn vậy, cần phải củng cố hệ thống giáo dục phổ

thông và dạy nghề, đổi mới nội dung và chƣơng trình đào tạo của các cơ sở đào

tạo. Do vậy, cách tốt nhất là khi thực hiện di dân tái định cƣ hoặc thu hồi đất,

cần đánh giá đúng thực trạng lao động, việc làm của những hộ sau khi bị thu hồi

đất. Trên cơ sở đó, nhà nƣớc, các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp mới có đƣợc

kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho ngƣời lao động

sát với yêu cầu của các doanh nghiệp. Điều này tránh cho ngƣời lao động không

đủ năng lực nhƣng vẫn theo học để rồi lại hoặc tự bỏ nghề, hoặc bị doanh nghiệp

sa thải. Bên cạnh đó, cần thiết phải có sự lựa rèn luyện kỷ luật lao động và tác

phong công nghiệp cho ngƣời lao động.

Ngoài ra, cần nghiên cứu, tổng kết, nhân rộng các mô hình hiệu quả tạo

việc làm cho ngƣời lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông

nghiệp nhƣ lập quỹ hỗ trợ dạy nghề từ tiền thu của địa phƣơng cho thuê đất và

từ nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng, sự hỗ trợ của ngân sách và của doanh

nghiệp; dành tỷ lệ nhất định đất cho các hộ gia đình trong vùng chuyển đổi đất

để làm kinh tế gia đình (dịch vụ), giải quyết việc làm cho số lao động lớn tuổi;

tổ chức khu tái định cƣ theo nghề nghiệp để gắn tái định cƣ với tái tạo việc làm;

phát triển dịch vụ ngoài KCN… Đối với lao động trẻ nên dùng một phần tiền

đền bù để đào tạo nghề bắt buộc cho họ, đồng thời có cơ chế buộc các doanh

nghiệp phi nông nghiệp đƣợc sử dụng đất thu hồi phải có trách nhiệm tuyển

dụng số thanh niên đƣợc đào tạo này vào làm việc.

Thứ hai, đối với ngƣời lao động độ tuổi từ 35 trở lên, khó có khả năng

chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Nhà nƣớc cần dành một phần đất gần

82

KCN cấp cho nông dân để tổ chức các hoạt động dịch vụ nhƣ xây nhà cho thuê,

bán hàng tạp hoá, quán ăn, sửa chữa xe máy,... phục vụ sinh hoạt cho các KCN.

Thứ ba, tăng cƣờng sự hỗ trợ của nhà nƣớc trung ƣơng và địa phƣơng, các

doanh nghiệp, và các tổ chức đào tạo trong tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp

cho ngƣời có đất bị thu hồi.

Bên cạnh việc hỗ trợ tiền, Nhà nƣớc cần hỗ trợ các hoạt động sản xuất

kinh doanh, phát triển các ngành nghề truyền thống (làng nghề, kinh tế trang

trại…) từ nguồn hỗ trợ dạy nghề của Nhà nƣớc và vay vốn tín dụng ƣu đãi để

tạo việc làm cho ngƣời lao động; Đồng thời tăng nguồn lực đầu tƣ xây dựng hạ

tầng cơ sở nông thôn vùng chuyển đổi đất để hỗ trợ tái định cƣ, dạy nghề và hỗ

trợ ngƣời lao động di chuyển tham gia vào thị trƣờng lao động trong nƣớc.

Nghiên cứu hình thành quỹ hỗ trợ việc làm, dạy nghề, tạo việc làm cho đối

tƣợng bị thu hồi đất ở trung ƣơng và địa phƣơng trong quỹ hỗ trợ dạy nghề quốc

gia. Tăng cƣờng vốn cho vay từ quỹ quốc gia về việc làm. Ƣu tiên cho lao động

vùng bị thu hồi đất tham gia các chƣơng trình, dự án phát triển KTXH trọng

điểm quốc gia và chƣơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Tập trung hỗ trợ

họ trong đào tạo nghề, vay vốn với lãi suất ƣu đãi, ƣu tiên và hỗ trợ lao động

thanh niên ở vùng mất đất đƣợc đào tạo nghề để đi xuất khẩu lao động.

Đối với các địa phƣơng, cần căn cứ vào diện tích đất thu hồi phát triển

KCN, hỗ trợ một khoản tiền đào tạo nghề cho ngƣời có đất bị thu hồi. Cần

nghiên cứu để sử dụng những khoản tiền này một cách có hiệu quả để ngƣời lao

động có đƣợc nghề nghiệp chuyên môn cần thiết để đáp ứng nhu cầu của doanh

nghiệp, có cơ hội để đƣợc tuyển dụng làm việc lâu dài…; Hình thành quỹ hỗ trợ

việc làm, dạy nghề ở tỉnh, thành phố để có điều kiện tập trung hỗ trợ đủ cho các

đối tƣợng thuộc diện bị thu hồi đất.

Đối với các tổ chức dạy nghề, để thực hiện công tác đào tạo có kết quả

tốt, cần khảo sát, nghiên cứu xây dựng chƣơng trình đào tạo, dạy nghề gắn với

nhu cầu của sự phát triển của các doanh nghiệp tại địa phƣơng; đồng thời cần

tăng cƣờng lực lƣợng nòng cốt để mở rộng mạng lƣới dạy nghề, hƣớng dẫn dạy

nghề cho các cơ sở tại huyện, xã.

83

3.2.3. Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp

Cơ sở hạ tầng của địa phƣơng cũng là một vấn đề đáng quan tâm của các

chủ đầu tƣ khi tiến hành hoạt động đầu tƣ vào KCN. Một cơ sở hạ tầng hoàn

thiện sẽ giúp các nhà đầu tƣ giảm chi phí đầu tƣ vào cho sản xuất cũng dễ dàng

hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm.

Vĩnh Phúc là một tỉnh tuy có vị trí thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tƣ,

nhƣng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chƣa theo kịp yêu cầu của phát triển kinh tế. Trong

thời gian tới, Vĩnh Phúc cần phải tăng cƣờng đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ

thuật theo hƣớng sau:

+ Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho KCN:

Vốn đầu tƣ cho xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn nhƣng thời gian thu hồi

vốn đầu tƣ chậm, khả năng sinh lời thấp nên không hấp dẫn của các nhà đầu tƣ.

Do đó, Tỉnh nên tăng chi ngân sách cho đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật

trên cơ sở tăng tỷ lệ huy động vào ngân sách và tiết kiệm các khoản chi ít cấp

thiết hơn. Mặt khác, cần có chế độ ƣu đãi đầu tƣ miễn thuế thu nhập trong một

thời gian nhất định và giảm mức thuế ở nhiều năm tiếp theo để khuyến khích các

doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc đầu tƣ vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.

Ban hành quy chế khuyến khích tƣ nhân đầu tƣ nâng cấp các công trình giao

thông, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện, nƣớc.

Bên cạnh đó, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho việc

xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các khu vực trọng điểm, khu vực có dự án đầu

tƣ qui mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, có tác dụng đẩy mạnh tốc độ tăng

trƣởng kinh tế. Tập trung thu hút vốn đầu tƣ vào một số dự án thuộc lĩnh vực bƣu

chính viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các loại hình mới và phát

triển hạ tầng mạng.

+ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng KCN:

Thƣờng xuyên giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện đầu tƣ xây dựng kết

cấu hạ tầng KCN theo quy hoạch đã đƣợc duyệt, đảm bảo đúng tiến độ và chất

lƣợng các hạng mục công trình. Định kỳ tiến hành kiểm tra chất lƣợng các công

84

trình xây dựng, đôn đốc việc thực hiện tiến độ, kịp thời phát hiện những sai

phạm tiêu chuẩn kỹ thuật, những vƣớng mắc khó khăn để có biện pháp xử lý và

hỗ trợ kịp thời.

Chỉ đạo sát sao việc đầu tƣ xây dựng nhà ở cho công nhân, các công trình

phúc lợi công cộng và khu vực dịch vụ phục vụ ngƣời lao động trong KCN theo

đúng tiến độ đăng ký. Việc đƣa các công trình đó vào hoạt động đúng thời gian

không chỉ giải quyết tốt nhu cầu nhà ở, đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời

lao động mà còn là cơ sở để giải quyết tốt các vấn đề việc làm cho ngƣời lao

động địa phƣơng, nhất là những lao động không đáp ứng đƣợc các yêu cầu làm

việc trong KCN, giảm thiểu tình trạng mất an ninh trật tự tại các khu vực dân cƣ

lân cận.

Kiên quyết yêu cầu các chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN thực hiện

việc đầu tƣ xây dựng và hoàn thiện các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là

trạm xử lý và hệ thống xử lý nƣớc thải trƣớc khi KCN đi vào hoạt động. Thực tế

đã chứng minh, tất cả các loại hình ô nhiễm từ chất thải rắn, o nhiễm không khí,

bụi … thì cuối cùng cũng đều tập kết về môi trƣờng nƣớc. Việc đƣa trạm xử lý

nƣớc thải và hệ thống xử lý nƣớc thải đi vào hoạt động sẽ giải quyết tốt các vấn

đề gây ô nhiễm môi trƣờng phát sinh từ các doanh nghiệp trong KCN.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tƣ

Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi mà các nguồn lực, đặc biệt là

nguồn vốn đƣợc tự do di chuyển thì việc thu hút đầu tƣ, đặc biệt là thu hút FDI

đang thực sự là cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia trên thế giới, giữa các

đại phƣơng trong một nƣớc. Với lý do đó, hoạt động xúc tiến đầu tƣ (XTĐT)

hơn bao giờ hết trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi địa

phƣơng trong việc thu hút đầu tƣ nói chung và thu hút đầu tƣ vào KCN nói

riêng. Nhìn nhận đúng ảnh hƣởng trực tiếp của công tác xúc tiến đầu tƣ đến khối

lƣợng và hiệu quả của các dự án trong KCN, mỗi địa phƣơng cần phải tổ chức

hoạt động này một cách hệ thống, thƣờng xuyên và chủ động, tránh tình trạng

trông chờ, ỷ lại vào cấp Trung ƣơng hay sự giúp đỡ của các nhà tài trợ nƣớc

ngoài. Ngƣợc lại, cần phải chủ động hợp tác với các cơ quan Trung ƣơng để tiến

85

hành công tác XTĐT để tạo hình ảnh riêng của địa phƣơng đối với các nhà đầu

tƣ trong và ngoài nƣớc.

Muốn vậy, trong thời gian tới, Tỉnh cần phải chú trọng một số vấn đề sau:

- Xác đinh rõ đối tượng cần vận động xúc tiến đầu tư, bao gồm việc xác

định đối tác đầu tƣ, ngành nghề và khu vực ƣu tiên thu hút đầu tƣ. Cần xây dựng

quy trình lựa chọn đối tác đầu tƣ một cách khoa học, bởi xét về lâu dài, công tác

này có ảnh hƣởng rất lớn đến sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh

tế. Nếu một đối tác đầu tƣ đƣợc lựa chọn không có năng lực tài chính, công nghệ

cũng nhƣ địa vị pháp lý thì rất dễ dẫn đến tình trạng xây dựng dở dang trong các

dự án, gây lãng phí và bỏ lỡ cơ hội của các nhà đầu tƣ khác. Mặt khác, làm ảnh

hƣởng đến uy tín của Tỉnh trong thu hút đầu tƣ. Do đó, khi nghiên cứu tìm hiểu

về đối tác đầu tƣ cần phải nắm đƣợc những thông tin sau: tính pháp nhân và tiềm

lực (tài chính, công nghệ ...) của đối tác; khả năng tiêu thụ sản phẩm của đối tác

và vị thế trong quan hệ kinh tế. Từ đó đƣa ra quy định phƣơng thức lựa chọn

phù hợp để tiếp cận và tạo mối quan hệ đầu tƣ lâu dài với đối tác.

- Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư

Sau khi đã xác định đƣợc đối tƣợng cần vận động đầu tƣ thì việc tổ chức

các hoạt động tuyên truyền, quản cáo cho XTĐT là vô dùng quan trọng, vì nó

giúp quảng bá hình ảnh của Vĩnh Phúc tới nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc.

Trong thời gian qua, XTĐT vào các KCN Vĩnh Phúc còn đơn điệu, chủ yếu thực

hiện việc giới thiệu với nhà đầu tƣ về quy hoạch các KCN, các chính sách của

nhà nƣớc về ƣu đãi đầu tƣ, giải đáp các thắc mắc về thủ tục hành chính... XTĐT

mới chỉ dừng lại ở việc tiếp xúc và làm việc đơn lẻ với các nhà đầu tƣ, cung cấp

thông tin về KCN qua cổng thông tin chung của Tỉnh, trang web riêng của Ban

quản lý KCN mới đi vào hoạt động nhƣng nội dung không thƣờng xuyên đƣợc

cập nhật, chỉnh sửa.

Để đạt đƣợc hiệu quả cao hơn trong công tác xúc tiến đầu tƣ cần phải đa

dạng hoá các hoạt động XTĐT dƣới nhiều hình thức, nhiều kênh khác nhau nhƣ:

+ Tiếp xúc trực tiếp giữa tỉnh với các nhà đầu tƣ tiềm năng, có tiềm lực

mạnh về tài chính và công nghệ để xúc tiến đầu tƣ các dự án quan trọng đã đƣợc

86

định hƣớng. Tăng cƣờng vận động XTĐT tại một số địa bàn quan trọng (Nhật

Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ) để kêu gọi các dự án lớn, trọng

điểm. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tƣ tiềm năng có nhu cầu đầu tƣ

vào Vĩnh Phúc.

+ Tăng cƣờng tổ chức các buổi hội thảo đầu tƣ trao đổi giữa các cơ quan

nhà nƣớc và các nhà đầu tƣ nhằm kêu gọi đầu tƣ trong và ngoài nƣớc vào các

KCN ở Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó, hợp tác với các cơ quan thông tấn báo chí

trong và ngoài nƣớc để họ cung cấp các thông tin về Vĩnh Phúc. Thông qua đó,

hình ảnh của tỉnh cũng nhƣ các chủ trƣơng, chính sách ƣu đãi của Tỉnh sẽ đƣợc

giới thiệu đến từng nhà đầu tƣ cụ thể.

+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong XTĐT nhƣ xây dựng các trang

Web riêng để giới thiệu cụ thể và chi tiết hơn so với hiện nay về cơ hội đầu tƣ,

tiềm năng, các thông tin về dự án có tính khả thi cao, các văn bản pháp lý, quy

trình thủ tục và những ƣu đãi khi đầu tƣ vào các KCN trên địa bàn tỉnh nói riêng

và toàn tỉnh nói chung. Xây dựng hệ thống thông tin KT – XH, cơ sở dữ liệu hỏi

đáp để phục vụ XTĐT, với trang thiết bị mạng cần thiết để tạo điều kiện thuận

lợi để mọi tổ chức trong và ngoài nƣớc dễ dàng tìm kiếm thông tin. Thiết lập

đƣờng dây nóng để trả lời trực tiếp những vƣớng mắc của các nhà đầu tƣ. Bộ

phận xử lý của đƣờng dây nóng nên đặt tại Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc.

+ Đẩy mạnh công tác XTĐT đối với các dự án cơ hội thông qua các dự

án triển khai thành công và thông qua các nhà đầu tƣ lớn, có uy tín hiện có của

tỉnh. Các nhà đầu tƣ đã và đang thành công tại tỉnh Vĩnh Phúc chính là cầu nối

quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, môi trƣờng đầu tƣ của tỉnh đến với các

nhà đầu tƣ khác. Do đó, thƣờng xuyên cung cấp những thông tin, chủ trƣơng thu

hút đầu tƣ vào các KCN cho các nhà đầu tƣ đã làm ăn lâu dài tại Vĩnh Phúc là rất

cần thiết và rất hiệu quả vì các nhà đầu tƣ này sẽ tìm cách lôi kéo những nhà đầu

tƣ khác vào tỉnh.

- Phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các địa phương,

Ban quản lý các KCN và các Công ty đầu tư phát triển hạ tầng; chủ động trong

thực hiện công tác đầu tư

87

Thực tế cho thấy, công tác xúc tiến đầu tƣ vào các KCN thƣờng đƣợc thực

hiện chủ yếu thông qua các Công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng. Các cấp, các

ngành chỉ tham gia phối hợp khi có đề xuất hỗ trợ của Công ty đầu tƣ phát triển

hạ tầng. Mục đích của đại phƣơng có KCN là thu hút đƣợc dự án có chất lƣợng,

hiệu quả, giải quyết đƣợc việc làm, phát triển KT – XH còn mục đích của các

công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng là kinh doanh kết cấu hạ tầng có hiệu quả.

Chính vì vậy, có những dự án Công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng xúc tiến không

đạt đƣợc yêu cầu của địa phƣơng. Do đó, để đảm bảo KCN phát triển nhanh bền

vững công tác xúc tiến đầu tƣ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các giữa các cấp,

các ngành, các địa phƣơng, Ban quản lý các KCN và các Công ty đầu tƣ phát

triển hạ tầng; cần chủ động xây dựng các dự án có chiến lƣợc, có hiệu quả KT –

XH cao để thực hiện xúc tiến các nhà đầu tƣ.

Bên cạnh đó, cần phải có sự phối hợp trong việc giải quyết các vƣớng

mắc, khó khăn của các DN đang triển khai đầu tƣ hoặc đang sản xuất kinh doanh

để nâng cao hình ảnh về hiệu quả hoạt động của các KCN, tạo nên sự tin tƣởng

của các DN trong KCN, đây chính là phƣơng pháp quảng bá tốt nhất trong thực

hiện công tác xúc tiến đầu tƣ.

Ngoài ra, cần thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện công tác XTĐT

bao gồm những ngƣời nắm vững tình hình phát triển KT – XH của tỉnh, có

kinh nghiệm trong giao thiếp, tuyên truyền vận động cũng nhƣ có trình độ

ngoại nhữ. Ngoài ra, cán bộ làm công tác tuyên truyền vận động XTĐT phải là

những ngƣời am hiểu về trình tự và thủ tục đầu tƣ. Tích cực nghiên cứu, trao

đổi, học tập kinh nghiệm của các nƣớc, các địa phƣơng khác trong công tác

vận độn XTĐT, qua đó tìm đƣợc những bài học, kinh nghiệm nhằm tăng năng

lực cạnh tranh của Tỉnh trong thu hút FDI.

3.2.5. Sửa đổi một số cơ chế, chính sách về thu hút đầu tƣ vào KCN

- Đổi mới chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư

Chính sách ƣu đãi phải thật sự phù hợp với nhu cầu thực tế khách quan,

công bằng và đúng pháp luật để có tác dụng tốt vừa cải thiện môi trƣờng đầu tƣ,

vừa đóp phần ổn định thị trƣờng xác lập kỷ cƣơng vận động thu hút đầu tƣ.

88

Chính phủ đã có quy định chính sách ƣu đãi khuyến khích đầu tƣ thống nhất với

mức cụ thể về thời gian miễn giảm thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… cao

thấp khác nhau đối với danh mục các dự án khuyến khích đầu tƣ hoặc đặc biệt

khuyến khích đầu tƣ, đồng thời liên tục có điều chỉnh ƣu đãi ngày càng sát với

thực tế theo đề nghị của các địa phƣơng trong cả nƣớc. Vì vậy, các cấp có liên

quan của Tỉnh cần phải quan tâm phổ biến, hƣớng dẫn lập hồ sơ thủ tục và áp

dụng đầy đủ, linh hoạt thông thoáng để các nhà đầu tƣ đƣợc hƣởng ƣu đãi đầy

đủ và đúng pháp luật.

Căn cứ vào khung giá đất theo quy định của Chính phủ, thì UBND tỉnh

đƣợc quyền vận dụng và quy định đơn giá phù hợp với tình hình thực tế, để làm

cơ sở cho các ngành, các cấp có liên quan và chủ đầu tƣ tính toán xác lập đơn

giá bồi thƣờng giải toả đất bị thu hồi, mức thuế chuyển nhƣợng, mức nộp tiền sử

dụng đất… Việc quy định đơn giá đất phải hƣớng tới mục tiêu hình thành và ổn

đinh thị trƣờng bất động sản của tỉnh, hài hoà với mặt bằng chung của thị trƣờng

toàn vùng. Đồng thời, đơn giá phải hàm chứa cả yếu tố vừa ƣu đãi khuyến khích

đối với nhà đầu tƣ, vừa hài hoà khuyến khích cả đối với ngƣời dân đƣợc bồi

thƣờng giải toả, sẵn sàng giao đất nhanh chóng để thực hiện dự án đầu tƣ.

Đối với loại đất có xây dựng hạ tầng trong các KCN, tỉnh cần phải cân đối

ngân sách để hỗ trợ vốn đầu tƣ với mức hợp lý cần thiết, tạo điều kiện hình

thành đơn giá cho thuê đất có xây dựng hạ tầng với mức vừa phải. nhằm bù đắp

lại phần nào chi phí khá cao do xây dựng nhà xƣởngvì nền đất yếu và cho hoạt

động đầu tƣ trong điều kiện hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa hoàn chỉnh.

Chính sách ƣu đãi thu hút đầu tƣ một cách đầy đủ, linh hoạt, công bằng,

minh bạch, đúng pháp luật, vừa góp phần ổn định, lành mạnh môi trƣờng đầu tƣ

cho toàn vùng, vừa làm cho các nhà đầu tƣ càng tin tƣởng hơn vào môi trƣờng

đầu tƣ của tỉnh.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa”

Theo đánh giá của nhiều nhà đầu tƣ, đặc biệt là các Nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài một trong những rào cản lớn nhất khi đầu tƣ vào một địa phƣơng đó là thủ

tục đầu tƣ. Kể từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến nay, Vĩnh Phúc là tỉnh đƣợc cả

89

nƣớc biết đến nhƣ là một trong những điển hình về sự vƣơn lên từ một tỉnh

thuần nông đang trên đà phát triển thành một tỉnh công nghiệp. Có đƣợc điều

này, chính là nhờ sự quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá của lãnh đạo tỉnh

Vĩnh Phúc, coi phát triển công nghiệp là nền tảng và thu hút đầu tƣ là động lực

trong phát triển kinh tế của tỉnh. Yếu tố mang tính quyết định trọng kết quả thu

hút đầu tƣ vào KCN của Vĩnh Phúc trong thời gian qua chính là việc cải cách

hành chính nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tƣ khi đến với Vĩnh Phúc.

Trƣớc thời cơ và những thách thức của thời kỳ mới, tỉnh Vĩnh Phúc cần

tiếp tục cải thiện môi trƣờng đầu tƣ mà trọng tâm là tiếp tục công tác cải cách

hành chính, chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:

+ Kiên quyết bãi bỏ theo thẩm quyền và kiến nghị cơ quan nhà nƣớc, bộ

ngành Trung ƣơng những thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây khó khăn,

cản trở doanh nghiệp hoạt động đầu tƣ, sản xuất kinh doanh, góp phần tạo môi

trƣờng thông thoáng, tăng sức cạnh tranh để thu hút các nguồn lực đầu tƣ vào

tỉnh.

+ Tiếp tục đổi mới triệt để, cách nghĩ, cách làm mạnh dạn đơn giản hoá

thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”. Cải cách hành chính không

nên chỉ dừng lại ở khâu cấp phép đầu tƣ mà cần phải triển khai đồng bộ trên

nhiều lĩnh vực có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng nhƣ các

thủ tục về đất đai, tài chính… Rút gọn quy trình và thời gian cấp phép, công

khai minh bạch các bƣớc của thủ tục đầu tƣ tại Ban quản lý các KCN theo hƣớng:

Một là, hoàn thiện quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tƣ cho các dự án

vào KCN theo quy định của Nghị định số 108/2006/NĐ – CP ngày 21/9/2006

của Chính phủ hƣớng dẫn thi hành Luật đầu tƣ. Thông báo công khai tại nơi tiếp

nhận hồ sơ và chuyển tải nội dung văn bản lên trang Web của Ban quản lý dự

án. Rút gọn quy trình cấp phép so với quy định.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế một cửa tại chỗ trong thủ tục hành chính

xét duyệt thẩm tra, thẩm định dự án đầu tƣ. Tiếp tục cải cách và nâng cao chất

lƣợng của bộ máy quản lý KCN và phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên; kỷ luật

nghiêm khắc cán bộ, công chức có hiện tƣợng nhũng nhiễu doanh nghiệp.

90

3.2.6. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các KCN

Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành công và

hiệu quả hoạt động của dự án cũng nhƣ việc thu hút các dự án cũng nhƣ việc thu

hút các dự án đầu tƣ vào KCN. Sự xuất hiện một cách ấn tƣợng của hàng loạt

những tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới với những dự án công nghệ cao đầu tƣ

vào Việt Nam và Vĩnh Phúc trong thời gian gần đây đã mang đến cho tỉnh Vĩnh

Phúc một thách thức mới. Đó là sự thiếu hụt lao động có trình độ kỹ thuật,

những kỹ sƣ và công nhân lành nghề. Điển hình nhƣ dự án máy tính xách tay

Compal của Đài Loan xây dựng tại Vĩnh Phúc – nhà máy sản xuất linh kiện điện

tử, máy vi tính và thiết bị ngoại vi với vốn đầu tƣ khoảng 500 triệu USD – đang

cần ngay 3000 lao động có tay nghề, nhƣng tỉnh đã thừa nhận là việc huy động

rất khó. Nhƣ vậy, nguồn lao động dồi dào, trẻ với giá rẻ không còn là lợi thế mà

trở thành thách thức đối với tỉnh Vĩnh Phúc. Trong khi đó, yêu cầu của việc thu

hút đầu tƣ vào KCN là phải tại nhiều việc làm ổn định cho lao động địa phƣơng,

đặc biệt là những đối tƣợng bị thu hồi đất, giảm thất nghiệp, cải thiện đời sống,

nâng cao trình độ tay nghề cho ngƣời lao động.

Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của nguồn lao động, những năm

qua Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều đề án, nghị quyết quan trọng nhằm

nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực của tỉnh. Trong đó, Đề án phát triển giáo

dục và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH của tỉnh Vĩnh Phúc giai

đoạn 2008 – 2015 đƣợc thông qua tại Đại hội Đảng bộ lần thức XIII của tỉnh

Vĩnh Phúc, là đề án lớn có ý nghĩa quan trọng đối với Tỉnh, góp phần thu hút

các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Để từng bƣớc nâng cao chất lƣợng nguồn

lao động, cần phải có các giải pháp mang tính đồng bộ từ phía Nhà nƣớc và

riêng có của tỉnh Vĩnh Phúc, các giải pháp vĩ mô và vi mô cụ thể là:

- Thực hiện các giải pháp nhằm đƣa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công

bất hợp pháp, lành mạnh hoá quan hệ lao động, bao gồm: (i) Tiếp tục hoàn thiện

pháp luật, chính sách về lao động, tiền lƣơng phù hợp trong tình hình mới; tăng

cƣờng công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với

ngƣời sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho

91

ngƣời lao động; (ii) Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ

biến,tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao

động trong các DN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lƣơng

đƣợc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.

- Tăng cƣờng hút nguồn vốn đầu tƣ vào lĩnh vực giáo dục và đạo tạo nghề

(từ Nhà nƣớc, từ DN, từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài Tỉnh) cho việc nâng

cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy, thực hành, nâng cao trình độ của đội

ngũ cán bộ giảng dạy của các cơ sở giáo dục đào tạo, đặc biệt là trƣờng công

nhân kỹ thuật của Tỉnh. Các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề của Tỉnh cần phải

đổi mới phƣơng pháp giáo dục nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự học của

ngƣời học. Coi trọng giáo dục đạo đức, tác phong kỷ luật thích ứng với môi

trƣờng làm việc.

- Xây dựng cơ chế, chính sách ƣu đãi, hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần,

nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của ngƣời lao động, để thu hút lao động

có chất lƣợng từ các tỉnh lân cận, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội.

- Tiếp tục tăng cƣờng công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để

đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả cán bộ quản lý các cấp và

cán bộ kỹ thuật.

- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển

dịch cơ cấu kinh tế. Cần tạo cơ sở cho việc thu hút một phần lao động nông

nghiệp chuyển sang lĩnh vực kinh tế khác, nhất là công nghiệp và dịch vụ từng

bƣớc hình thành một cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý, phù hợp với cơ cấu ngành.

3.2.7. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường tại

các KCN

Việc xây dựng và hình thành nhanh chóng các KCN để thu hút đầu tƣ ở

nƣớc ta nói chung và ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, trong những năm qua đã có tác

động tiêu cực đến môi trƣờng sinh thái, môi trƣờng sống của con ngƣời. Trƣớc

thực trạng báo động về môi trƣờng ở Vĩnh Phúc, có thể nói việc giải quyết hài

hoà giữa mục tiêu thu hút đầu tƣ để phát triển KT – XH gắn với bảo vệ môi

trƣờng là rất cần thiết. Do đó, Tỉnh cần phải đƣa ra đƣợc các giải pháp để giải

quyết tốt nhất những vấn đề môi trƣờng, đặc biệt là trong các KCN trên địa bàn

92

Tỉnh nhằm tạo nên môi trƣờng sống trong lành cho nhân dân, môi trƣờng thuận

lợi cho các nhà đầu tƣ và không ngừng thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế của Tỉnh.

Từ những định hƣớng trên đây, tỉnh Vĩnh Phúc cần phải thực hiện đồng

bộ các giải pháp sau đây:

Một là, trong công tác quy hoạch KCN, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm

quyền lập quy hoạch xây dựng KCN cũng nhƣ thoả thuận quy hoạch chi tết

KCN cần phải quan tâm tới vấn đề môi trƣờng trong KCN. Cần đảm bảo khoảng

cách tƣơng đối giữa KCN với đƣờng giao thông và khu dân cƣ xung quanh, để

hạn chế tối đa ảnh hƣởng về môi trƣờng trong KCN ra khu vực lân cận. Ƣu tiên

thu hút những dự án có trình độ công nghệ cao, hiện đại; những ngành công

nghiệp sạch, ít gây ô nhiễm đến môi trƣờng. Đối với những dự án có cùng ngành

nghề và gây ô nhiễm cao nên đƣợc bố trí vào một KCN để thuận tiện cho công

tác xử lý chất thải.

Hai là, cần tăng cƣờng công tác thẩm định dự án đầu tƣ, đặc biệt là thẩm

định về yếu tố môi trƣờng. Theo đó, hồ sơ dự án đƣợc coi là mang tính khả thi

phải đánh giá đƣợc tổng lƣợng khí thải, nƣớc thải, rác thải và chất thải do các

DN trong KCN thải ra và mức độ ô nhiễm môi trƣờng trong KCN. Từ đó có

phƣơng án đầu tƣ xây dựng hệ thống xử lý chất thải với quy mô, chất lƣợng xử

lý đạt yêu cầu, đồng thời có luận chứng cụ thể vốn đầu tƣ và phƣơng án huy

động vốn để xây dựng các công trình xử lý chất thải này.

Ba là, có những chế tài bắt buộc đối với chủ đầu tƣ trong việc xây dựng

các công trình xử lý chất thải tập trung trong KCN. Trong thời gian tới, có thể

nghiên cứu đƣa vấn đề xây dựng công trình xử lý chất thải tập trung là một trong

những điều kiện khi thực hiện ƣu đãi về thuế, đất đai... cho chủ đầu tƣ cơ sở hạ

tầng KCN theo quy định.

Bốn là, bên cạnh việc nâng cao chất lƣợng công tác thẩm định dự án đầu tƣ,

cần có những quy định cụ thể về giám sát các dự án đầu tƣ và bảo vệ môi trƣờng

trong KCN. Để đảm bảo hiệu quả của công tác giám sát, cần quy định cụ thể trách

nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của cơ quan giám sát khi thực hiện chức năng giám sát

môi trƣờng, đồng thời cần có những quy định về những ƣu đãi, khen thƣởng, xử

phạt đối với các DN trong thực hiện các nghĩa vụ bảo vệ môi trƣờng.

93

Năm là, cần có những biện pháp hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng các

công trình xử lý nƣớc thải tập trung với các địa phƣơng không đủ điều kiện hỗ

trợ nguồn vốn ngân sách trung ƣơng cho công trình xử lý nƣớc thải tập trung và

đền bù giải phóng mặt bằng KCN. Có thể xem xét cho vay từ quỹ tín dụng đầu

tƣ phát triển với lãi suất ƣu đãi đối với các dự án đầu tƣ xây dựng công trình xử

lý chất thải tập trung trong KCN, hoặc có thể nghiên cứu cơ chế ƣu đãi đối với

các dự án đầu tƣ KCN hoàn thành hệ thống xử lý chất thải đạt yêu cầu trƣớc khi

thu hút đầu tƣ.

Sáu là, nhanh chóng xây dựng những văn bản quy phạm phát luật quy

định cụ thể Luật Bảo vệ môi trƣờng mới. Do tính cấp bách của vấn đề môi

trƣờng trong KCN và tính tập trung, đa dạng ngành nghề của KCN, cần phải

nghiên cứu việc xây dựng Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ về các cơ chế

chính sách bảo vệ môi trƣờng và xử lý chất thải trong KCN, trong đó đề cập tới:

cơ chế hỗ trợ tài chính, huy động nguồn tài chính từ khu vực tƣ nhân để xã hội

hoá công tác bảo vệ môi trƣờng trong KCN, xây dựng một đầu mối trong quản lý

KCN trong đó có quản lý môi trƣờng trong KCN, thành lập đơn vị giám sát môi

trƣờng đặt tại mỗi KCN.

Bảy là, giáo dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức giữ gìn và bảo vệ

môi trƣờng cho tất cả các cấp, các ngành; từng địa phƣơng; từng hộ gia đình,

đặc biệt là cho các chủ đầu tƣ và DN trong KCN. Các chủ đầu tƣ và DN trong

KCN cần phải ý thức rõ rằng và đầy đủ trách nhiệm của mình đối với vấn đề bảo

vệ môi trƣờng trong và ngoài KCN; chủ động tìm giải pháp thoả đáng và giải

quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích – chi phí để đầu tƣ hệ thống xử lý chất thải tập

trung cho từng DN trong KCN.

Trên đây là nhóm các giải pháp nhằm phát triển các KCN trên địa bàn

tỉnh Vĩnh Phúc. Các giải pháp này có mối quan hệ hỗ trợ, bổ trợ cho nhau. Giải

pháp này là cơ sở, là tiền đề cho thực hiện các giải pháp khác. Do đó, trong quá

trình thực hiện, không nên quá chú trọng giải pháp này, coi nhẹ giải pháp kia mà

cần phải có sự kết hợp đồng bộ nhằm đảm bảo sự hài hoà giữa kinh tế - môi

trƣờng – xã hội.

94

KẾT LUẬN

Việc phát triển các KCN có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia trên

thế giới, nhất là các quốc gia đang phát triển. Nó tạo ra những thuận lợi về thể

chế, môi trƣờng cho quá trình thu hút, sử dụng nguồn lực từ bên ngoài nhƣ vốn

đầu tƣ, công nghệ tiên tiến, phƣơng thức quản lý hiện đại vào quá trình sản xuất,

từ đó thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Với vai trò đó, sự phát triển của KCN đến

nay đã là một hiện tƣợng phổ biến ở các nƣớc trên thế giới, nhất là các nƣớc đang

trong thời kỳ đầu CNH. Tại nhiều nƣớc, đặt biệt là các nƣớc ở Châu Á, KCN đã

trở thành động lực của sự phát triển kinh tế.

Tại Vĩnh Phúc, các KCN tuy mới thành lập nhƣng đã đạt đƣợc nhiều

thành tựu đáng kể. Trong hơn 10 năm qua, các KCN đã có đóng góp lớn vào sự

phát triển KT–XH của tỉnh. Cụ thể là: thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của

tỉnh theo hƣớng CNH, HĐH; góp phần gia tăng năng lực nội sinh của tỉnh; góp

phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, tăng trƣởng xuất khẩu và tăng thu ngân sách.

Điều này khẳng định, phát triển KCN là chủ trƣơng, định hƣớng đúng đắn của

Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong việc vận dụng đƣờng lối, chính sách

của Đảng và Nhà nƣớc vào điều kiện cụ thể của tỉnh, là lối đi nhanh chóng để

xây dựng, phát triển và sớm đƣa tỉnh Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh công nghiệp.

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các KCN còn bộc lộ một số hạn chế,

yếu kém, trong đó nổi lên là: quy hoạch và xây dựng KCN chƣa tƣơng xứng với

tiềm năng và không theo kịp với yêu cầu phát triển; cơ sở hạ tầng trong và ngoài

KCN yếu kém, thiếu đồng bộ; tiến độ triển khai dự án thứ cấp chậm tiến độ;

trình độ lao động chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của các doanh nghiệp trong KCN.

Nguyên nhân của những hạn chế đó thì có nhiều, song tựu trung lại là do thiếu

những quyết sách đúng đắn, sự hỗ trợ đồng bộ của Nhà nƣớc cũng nhƣ sự nỗ lực

của các công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng và của các doanh nghiệp KCN.

Để tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc theo

hƣớng hiệu quả, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp cơ bản và đồng bộ. Trƣớc mắt,

cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề về quy hoạch, xúc tiến đầu tƣ, cải cách

hành chính, đào tạo nguồn nhân lực…

95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2006), Báo cáo kết quả thực hiện

nhiệm vụ, kế hoạch về thu hút đầu tư, phát triển các Khu, cụm công nghiệp năm

2005 và nhiệm vụ, mục tiêu năm 2006

2. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2007), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ năm 2006 và kế hoạch 2007

3. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ năm 2007 và kế hoạch 2008

4. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2009), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ năm 2008 và kế hoạch 2009

5. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ năm 2009 và kế hoạch 2010

6. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo tình hình thực hiện

nhiệm vụ 06 tháng đầu năm 2010 và phương hướng 6 tháng cuối năm 2010

7. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2009), Báo cáo đánh giá thực hiện

nhiệm vụ Ban Quản lý các KCN Vĩnh Phúc năm 2009 và 5 năm giai đoạn 2006 –

2010

8. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc, Báo cáo kết quả thu hút, triển khai

thực hiện và kết quả HĐSXKD của các dự án DDI năm 2005, 2006, 2007, 2008,

2009 và quý I/2010

9. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc, Báo cáo kết quả thu hút, triển khai

thực hiện và kết quả HĐSXKD của các dự án FDI năm 2005, 2006, 2007, 2008,

2009 và quý I/2010

10. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc, Báo cáo tình hình xây dựng và phát

triển hạ tầng KCN Vĩnh Phúc 2006, 2007, 2008, 2009 và Quý I/2010

11. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2006), Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng

và phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam

12. Bộ môn Kinh tế đầu tƣ - Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình

Kinh tế đầu tư, Nxb Giáo dục

96

13. Nguyễn Quốc Bình (2005), Một số giải pháp nhằm phát triển KCN

và cụm công nghiệp trên địa bàn Hà Nội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc

tế, Luận án Tiến sỹ

14. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Vụ Khu công nghiệp, Khu chế xuất (2006),

Mục tiêu hình thành các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm

2020, Website: http://khucongnghiep.com.vn/

15. Bộ Kế hoạch và đầu tƣ, Ban kinh tế trung ƣơng, Tạp chí Cộng sản, Uỷ

ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2004), Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở

Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học

(11/2004).

16. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam (2004), Định hướng chiến lược

phát triển bền vững ở Việt Nam

17. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt nam (1997), Nghị định 36/CP ngày

24/4/1997 ban hành Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao

18. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam (2008), Nghị định

29/2008/NĐ-CP ngày 13/4/2008 Quy định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất,

Khu công nghệ cao

19. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2007), Niên Giám thống kê 2007, 2008, 2009

20. Lê Tuyển Cử, Những biện pháp phát triển và hoàn thiện công tác

quản lý nhà nước đối với KCN ở VN, Luận án tiến sỹ kinh tế,trƣờng Đại học

kinh tế quốc dân

21. Mai Đức Chọn (2006), Phát triển khu công nghiệp - kinh nghiệm và

một số giải pháp của Hải Dƣơng, http:// khucongnghiep.com.vn

22. Đình Công (2007), Vấn đề lý luận và thực tiễn ở các khu chế xuất,

KCN thành phố Hồ Chí Minh, Nghiên cứu Kinh tế (142), tr. 46-50

23. Trần Văn Chử (2008), Vấn đề việc làm và đời sống nông dân bị thu

hồi đất nông nghiệp phục vụ cho phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc, Đề tài

NCKH cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

24. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, IX, X, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

97

25. Ngô Hƣớng (2004), “Các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”, Cộng sản, (17).

26. Trần Ngọc Hiên (2005), “Cơ sở lý luận phát triển mô hình KCN

trong quá trình CNH, HĐH ở nƣớc ta”, Thông tin khoa học xã hội, (2),

tr.21,22,23

27. Trần Ngọc Hiên (2006), Nâng cao tầm nhìn phát triển các KCN ở

nƣớc ta trong giai đoạn mới, Website: http://khucongnghiep.com.vn/

28. Vũ Huy Hoàng (2002), Tổng quan về hoạt động của các KCN, Kỷ

yếu: khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh

29. Đỗ Hữu Hào (2006), Vai trò của Khu công nghiệp, khu chế xuất đối

với việc nâng cao trình độ công nghệ, quản lý doanh nghiệp và hiện địa hoá hệ

thống kết cấu hạ tầng, Website: http://khucongnghiep.com.vn

30. Vũ Thành Hƣởng (2010), Phát triển các KCN vùng kinh tế trọng

điểm phía Bắc Bộ theo hướng bền vững, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Trƣờng Đại

học Kinh tế quốc dân

31. Bùi Vĩnh Kiên (2002), Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển các

KCN tỉnh Bắc Ninh, Trƣờng đại học Kinh tế quốc dân

32. Đinh Thị Kim Khánh (2007), Năng lực cạnh tranh của Vĩnh Phúc

trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luận văn thạc sỹ, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

33. Trần Văn Liễu (2006), “Một số bài học kinh nghiệp trong quá trình

phát triển các KCN Bình Dương”, http://khucongnghiep.com.vn

34. Trần Thị Tuyết Lan (2008), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh

Vĩnh Phúc theo hướng phát triển bền vững, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

35. Nguyễn Công Lộc (2006), Vai trò của các KCN đối với quá trình

tăng trƣởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc, Website:

http://khucongnghiep.com.vn/

36. Lê Hữu Nghĩa (2006), Bàn về vai trò thúc đẩy tăng trưởng và phát

triển theo hướng bền vững của các KCN, KCX ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản,

(14), tháng 7/2006

98

37. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2005), Luật đầu

tư năm 2005

38. Ngô Thuý Quỳnh (2008), “Một số ý kiến về định hƣớng tổ chức lãnh

thổ KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí kinh tế và dự báo(6)

39. Vũ Đức Quyết (2007), Phát triển KCN trong quá trinh CNH, HĐH

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Trƣờng đại học kinh tế quốc dân

40. Sở thƣơng mại Vĩnh Phúc (2007), Báo cáo đánh giá tình hình hoạt

động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2001 – 2006, phương hướng và

biện pháp xuất khẩu đến năm 2010

41. Sở lao động thƣơng binh xã hội, Báo cáo thực trạng nhà ở, sinh

hoạt văn hóa, cơ sở phúc lợi của người lao động trong các KCN, năm 2009

42. Trƣơng Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nâng cao vai trò và hiệu

quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội

43. UBND Vĩnh Phúc (2008), Một số nét về tình hình KT – XH, an ninh

quốc phòng tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tái lập đến nay

44. Trần Văn Thọ (2000), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam trong

thời đại châu Á Thái Bình Dương, nxb Thế giới, Hà Nội

45. Hà Thị Thuý (2007), Các KCN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở

Bắc Giang, Luận văn thạc sỹ kinh tế , Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội

46. Vũ Thị Kim Thanh (2009), Quá trình hình thành và phát triển các

KCN tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng

giảng viên lý luận chính trị, Đại học quốc gia Hà Nội

47. Văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ XV (tháng 10/2010)

48. Website: http://khucongnghiep.com.vn/

49. Website: http://tainguyenmoitruong.com.vn

50. Website: http://baomoi.com.

99