ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ ------------------------- TRẦN MINH NGỌC
PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH VĨNH PHÖC
Chuyên ngành
: Kinh tế chính trị
Mã số
: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. MAI THỊ THANH XUÂN HÀ NỘI – 2010
MỤC LỤC
Trang
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
1
MỞ ĐẦU
8
Chƣơng 1
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khu công nghiệp
1.1. Khái niệm và đặc điểm khu công nghiệp
8
1.2. Vai trò của khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội
14
và các nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển khu công nghiệp.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển các khu công nghiệp
24
1.4. Kinh nghiệm phát triển khu công nghiệp của một số địa
27
phƣơng
35
Chƣơng 2
Thực trạng phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
2.1. Tiềm năng phát triển khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc
35
2.2. Thực trạng phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc
41
1998 – 2010
2.3. Những đóng góp chủ yếu của các khu công nghiệp vào sự phát
59
triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc.
2.4 Một số hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển khu
67
công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc
73
Chƣơng 3
Định hƣớng và giải pháp phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020.
3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh
73
Phúc.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN
76
tỉnh Vĩnh Phúc.
93
KẾT LUẬN
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn phát triển của các nƣớc trên thế giới những năm qua đã chứng
tỏ việc thành lập các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) là một trong
những giải pháp quan trọng đối với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) và phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Vận dụng kinh
nghiệm thế giới vào điều kiện Việt Nam, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII (1991) Đảng và Nhà nƣớc đã chủ trƣơng thí điểm và triển khai việc xây
dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII (1996) định hƣớng chiến lƣợc xây dựng và phát triển các KCN đã đƣợc
triển khai trong cả nƣớc, và từng bƣớc đƣợc bổ sung, hoàn thiện tại các Đại hội
tiếp theo. Để phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất đúng hƣớng, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đã xác định: “Hoàn chỉnh quy
hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các
vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm nhà ở và
các điều kiện sinh hoạt cho người lao động. Chuyển các cơ sở công nghiệp
trong nội thành, nội thị, gần khu đông dân cư không bảo đảm tiêu chuẩn môi
trường vào các KCN tập trung hoặc các vùng ít dân cư” [24].
Thực hiện đƣờng lối đó, đến nay cả nƣớc đã có 250 KCN, KCX, KTT
đƣợc thành lập ở 57 tỉnh, thành phố trong cả nƣớc, trong đó 170 khu đã đi vào
hoạt động. Tính chung các KCN, KCX, KTT đã thu hút đƣợc 8.500 dự án đầu tƣ
trong và ngoài nƣớc, với tổng vốn đăng hơn 70 tỷ USD, trong đó vốn đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài là 52 tỷ USD (chiếm 71,4%), đóng góp trên 30% giá trị sản xuất
công nghiệp cả nƣớc, và tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu ngƣời [50]. Các KCN,
KCX đã và đang trở thành điểm thu hút các nguồn đầu tƣ trong và ngoài nƣớc,
đón nhận các tiến bộ khoa học – công nghệ và tạo ra những nhân tố quan trọng
góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội
của đất nƣớc.
Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, cách
thủ đô Hà Nội hơn 50 km. Vĩnh Phúc cũng là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế để
3
hình thành và phát triển các KCN nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói
chung. Vì vậy, ngay khi có chủ trƣơng xây dựng các KCN của Đảng và Nhà
nƣớc, từ năm 1998, Vĩnh Phúc đã thành lập KCN đầu tiên và đến nay trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã thành lập và cấp giấy chứng nhận đầu tƣ cho 07 KCN,
trong đó có 5 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích là 1.462 ha, thu hút
đƣợc 513 dự án đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, với tổng vốn 2.105 triệu USD; 02
KCN mới đang ở thời kỳ xây dựng cơ bản và 13 KCN đƣợc thủ tƣớng Chính
phủ chấp thuận chủ trƣơng đầu tƣ đến năm 2020 [10]. Thành công đó đã góp
phần đƣa Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh có năng lực cạnh tranh cao thứ 3, của cả
nƣớc sau Đà Nẵng và Bình Dƣơng. Tuy nhiên, sự phát triển KCN tỉnh Vĩnh
Phúc còn nhiều vấn đề đặt ra cần giải quyết nhƣ: số dự án đầu tƣ từ các thị
trƣờng lớn nhƣ Mỹ và EU còn hạn chế, mới chiếm có 1,5% tổng số vốn đầu tƣ
vào KCN trên địa bàn tỉnh; các dự án đầu tƣ cho phát triển cơ sở hạ tầng, phát
triển dịch vụ, các ngành công nghiệp phụ trợ và các ngành công nghệ cao còn ít;
và vấn đề ô nhiễm môi trƣờng sinh thái, vấn đề việc làm cho ngƣời dân mất đất
do phải chuyển cho các KCN .v.v..
Những khó khăn, hạn chế đó đã và sẽ là những lực cản to lớn đối với sự
phát triển các KCN trên địa bàn, đòi hỏi phải có những nghiên cứu, đánh giá để
tìm ra giải pháp hữu hiệu hơn thúc đẩy các KCN phát triển hiệu quả hơn. Để góp
phần giải quyết yêu cầu đó, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển các khu công
nghiệp ở Vĩnh Phúc” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển KCN không còn là một vấn đề mới, song việc nghiên cứu nó thì
vẫn còn rất cần thiết đối với nƣớc ta. Đã có nhiều hội thảo khoa học, nhiều luận
án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, cũng nhƣ các bài nghiên cứu khác nghiên cứu về
vấn đề này. Trong đó, liên quan trực tiếp đến đề tài là những công trình đáng
chú ý sau:
“Kinh nghiệm thế giới về phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc
khu kinh tế” của Viện kinh tế học năm 1994. Trong công trình này, các tác giải
đã nghiên cứu kinh nghiệm của thế giới trong việc phát triển khu chế xuất, trong
4
đó đặc biệt nhấn mạnh tới các vấn đề: mối quan hệ giữa khu chế xuất và việc cải
cách chính sách; luật lao động và việc làm, cải cách thƣơng mại, thuế, vai trò
của ngân hàng thế giới đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất và đặc khu
kinh tế. Các tác giả còn nghiên cứu cụ thể kinh nghiệm tại một số đặc khu kinh
tế và các thành phố ven biển ở Trung Quốc.
“Khu công nghiệp, khu chế xuất các tỉnh phía Nam” của Bộ Kế hoạch và
Đầu tƣ, xuất bản năm 2002, đã đánh giá khái quát về những thành công và hạn
chế của các khu công nghiệp, khu chế xuất tại các tỉnh này và đề xuất giải pháp
khắc phục
“Nghiên cứu mô hình quản lý nhà nước về khu công nghiệp, khu chế xuất
ở Việt Nam”, đề tài cấp Bộ năm 2002. Nội dung đề tài giới thiệu kinh nghiệm
quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất của nƣớc ngoài, đánh giá những mặt
tốt và những hạn chế của mô hình quản lý đang áp dụng tại Việt Nam, trên cơ
sở đó đề xuất ra một số mô hình quản lý mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
các khu công nghiệp, khu chế xuất trong thời gian tới.
“Một số vấn đề kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới” của Nguyễn
Văn Thƣờng, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2004. Tác giả đƣa ra một cái
nhìn tổng quan về vấn đề phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Trong đó có những phân tích sâu sắc về vấn đề phát triển khu công nghiệp, khu
chế xuất, khu kinh tế với vai trò đầu tàu trong chuyển dịch cơ cấu và phát triển
vùng kinh tế trọng điểm.
“Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước, bảo
vệ môi trường ở các khu công nghiệp, khu chế xuất” của Trƣơng Thị Minh Sâm,
nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2004. Trong tác phẩm này, tác giả đã đánh
giá khá chi tiết và toàn diện tình trạng ô nhiễm môi trƣờng ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những thách thức đặt ra
đối với công tác quản lý nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng, đề xuất một hệ thống
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nƣớc đối với vấn đề này ở các
KCN, KCX trên địa bàn này.
Riêng trong năm 2004, cả nƣớc có tới 6 cuộc hội thảo khoa học bàn về
5
phát triển KCN, KCX, trong đó Hội thảo với chủ đề “Phát triển KCN, KCX ở
các tỉnh phía Bắc - những vấn đề lý luận và thực tiễn” do Bộ kế hoạch và Đầu
tƣ phối hợp với Tạp chí Cộng sản và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá tổ chức
tại Thanh Hoá, với hơn 40 bài tham luận đƣợc gửi đến. Các bài viết đã tập trung
vào một số vấn đề cơ bản, nhƣ vị trí, vai trò của các KCN, KCX; quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc về phát triển KCN, KCX, một số vấn đề lý luận về KCN,
KCX; công tác quy hoạch phát triển các KCN, KCX; chính sách liên quan đến
phát triển KCN, KCX; những nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém phát triển của
các KCN phía Bắc so với KCN phía Nam; tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc đối
với các KCN, KCX và vấn đề tạo động lực cho các KCN, KCX.
Tháng 7 năm 2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ đã tổ chức hội nghị - hội thảo
quốc gia với chủ đề “15 năm xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở Việt
Nam” tại tỉnh Long An. Tại hội thảo đã có 100 bài viết và tham luận về vấn đề
này. Các bài tham luận tập trung nhìn nhận lại những thành tựu đạt đƣợc, những
hạn chế và kinh nghiệm xây dựng và phát triển KCN, KCX ở nƣớc ta, kiến nghị
phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lƣợng hoạt
động của các KCN, KCX.
Về vấn đề này cũng đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sỹ
nghiên cứu nhƣ:
“Các giải pháp hoàn thiện và phát triển KCN ở Việt Nam”, luận án tiến
sỹ của tác giả Trần Ngọc Hƣng, trƣờng Đại học Thƣơng Mại, năm 2004. Trong
luận án, tác giả đã khái quát những lý luận cơ bản về KCN và phát triển KCN
trong quá trình CNH, HĐH. Đồng thời phân tích và đánh giá thực trạng phát
triển KCN ở Việt Nam. Từ đó chỉ những nguyên nhân, tồn tại và đƣa ra các vấn
đề cần giải quyết để hoàn thiện và phát triển KCN ở Việt Nam thời gian qua
“Một số giải pháp nhằm phát triển các KCN và cụm công nghiệp trên địa
bàn Hà Nội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ kinh tế
của tác giả Nguyễn Quốc Bình, trƣờng đại học Ngoại Thƣơng. Tác giả đã nghiên
cứu sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở Việt
Nam và trên thế giới. Đánh giá thực trạng hoạt động và đề xuất một số giải pháp
6
nhằm phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp trên địa bàn Hà Nội
“Phát triển KCN tỉnh Bắc Ninh theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sỹ
Kinh tế của Đinh Hoàng Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm
2008 đã tập trung nghiên cứu việc phát triển các KCN ở tỉnh Bắc Ninh theo
hƣớng bền vững. Luận văn đã đề xuất những giải pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ
tăng trƣởng giải quyết việc làm, các vấn đề xã hội, môi trƣờng…Tuy nhiên,
công trình này mới chỉ đề cập đến mối quan hệ phát triển các KCN và phát triển
bền vững của địa phƣơng, chƣa đề cập sâu sắc đến sự phát triển nội tại KCN.
“Đảm bảo đời sống của người lao động trong các KCN ở Đồng Nai”,
Luận văn thạc sỹ Kinh tế của Nguyễn Thị Ngọc Hiệp, Đại học Quốc Gia Hà
Nội. Luận văn đã khảo sát, phân tích một cách toàn diện về thực trạng đời sống
công nhân KCN Đồng Nai. Qua đó, đề xuất những phƣơng hƣớng và giải pháp
chủ yếu nhằm đảm bảo đời sống ngƣời lao động KCN Đồng Nai hiện nay
Ngoài ra có nhiều bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành về vấn đề
này, nhƣ:
“ Phát triển KCN, KCX đến năm 2020 - triển vọng và thách thức” của tác
giả Võ Thanh Thu đăng trên Tạp chí Cộng Sản, số 9, năm 2006. Bài viết đã đƣa ra
8 nhóm thành tựu cơ bản và chỉ ra những bất cập trong vấn đề phát triển KCN Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát
triển hơn nữa các KCN đến năm 2020
“Thành tựu và định hướng phát triển các KCN Vĩnh Phúc đến năm 2010”
của tác giả Nguyễn Công Lộc đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, số 2, năm
2005. Tác giả đã phân tích khái quát những thành tựu về thu hút đầu tƣ và quy
hoạch các KCN trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra những định hƣớng
cụ thể cho việc phát triển các KCN đến năm 2010.
“Tác động của các KCN đối với tăng trưởng kinh tế ở Đồng Nai và những
bài học kinh nghiệm” của tác giả Nhƣ Hùng đăng trên Tạp chí Cộng Sản, số 15,
năm 2008 đã phân tích một cách hệ thống những tác động của KCN đối với sự phát
triển kinh tế của tỉnh và rút ra 7 bài học kinh nghiệm sau 15 năm phát triển KCN của
tỉnh Đồng Nai
7
Các công trình tên đã cung cấp cho tác giả cơ sở lý luận và nhiều tài liệu, số
liệu để kế thừa trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Tuy vậy, các công
trình này mới chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về KCN trên phạm vi
tổng thể cả nƣớc, hoặc trên một địa bàn - một vùng, một tỉnh khác. Về khu công
nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, tuy đã có một vài nghiên cứu nhƣng chỉ là dƣới dạng bài
báo, nên về nội dung cũng chỉ dừng lại ở một mặt cụ thể nào đó. Vì vậy, có thể nói,
cho đến nay, vấn đề phát triển khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc vẫn chƣa có công
trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, nhất là với tƣ cách
một luận văn thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc, luận
văn tìm ra những hạn chế và nguyên nhân của nó, đồng thời đề xuất phƣơng
hƣớng và giải pháp phát triển có hiệu quả các KCN trên địa bàn này.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm phát triển KCN.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc phát các KCN trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua, chỉ ra những hạn chế và nguyên
nhân của tình trạng đó.
- Đƣa ra định hƣớng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển có hiệu quả các KCN tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: là sự phát triển các KCN, bao gồm KCN, KCX
và cụm công nghiệp tên các khía cạnh số dự án, vốn đầu tƣ, tỷ lệ lấp đầy và tác
động của chúng đến việc làm, đời sống, môi trƣờng của tỉnh Vĩnh Phúc
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc. Tuy nhiên, luận văn cũng nghiên cứu một số địa phƣơng khác để rút
ra bài học kinh nghiệm.
8
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu quá trình phát triển KCN tỉnh
Vĩnh Phúc từ khi ra đời đến nay, đặc biệt là từ 2005 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
kinh tế nói chung và các KCN nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu sử
dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phƣơng pháp của Kinh
tế chính trị. Luận văn cũng sử dụng kết hợp các phƣơng pháp hệ thống, thống kê
- so sánh, phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử, khảo sát thực tế, tổng kết thực
tiễn. Đồng thời đề tài có kế thừa chọn lọc những tƣ liệu trong một số công trình
nghiên cứu của các tác giả đi trƣớc.
6. Đóng góp mới của luận văn:
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc
từ 1998 đến nay.
- Tìm ra nguyên nhân dẫn đến các hạn chế của sự phát triển các KCN
Vĩnh Phúc thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm phát triển KCN
ở Vĩnh Phúc thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng, 10 tiết
9
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM KHU CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm và phân loại khu công nghiệp
a) Khái niệm khu công nghiệp
Khu công nghiệp (KCN) đƣợc hình thành và phát triển ở các nƣớc tƣ bản
phát triển vào những năm cuối của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Năm 1896, xuất
hiện KCN đầu tiên ở Traffort Park thành phố Manchester (Anh). Sau đó, KCN
lần lƣợt đƣợc thành lập ở các nƣớc khác nhƣ Mỹ (1899), Italia (1904); và kể từ
những năm 50 thế kỷ XX thì KCN thực sự bùng nổ, trở thành phổ biến ở các
nƣớc. Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Theo số
liệu của Hội đồng nghiên cứu phát triển Quốc tế (IDRC), đến năm 2005 đã có
12.600 KCN nằm rải rác ở 90 quốc gia. Trong đó: Hoa Kỳ là 8800, Canada:
1.200, Đức: 300, Anh 200 và Hà Lan 130, Malaixia có 166 KCN, Hàn Quốc
147, Indonesia 117 và Nhật Bản 95. [20]
Mặc dù KCN đã phát triển từ rất lâu, nhƣng cho tới nay, vẫn chƣa có một
định nghĩa thống nhất về KCN. Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công
nghiệp Liên hợp quốc UNIDO (1990): KCN là khu vực tƣơng đối nhỏ, phân
cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tƣ vào các
ngành công nghiệp hƣớng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công
nghiệp này những điều kiện về đầu tƣ mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần
lãnh thổ còn lại của nƣớc chủ nhà. [14, tr.48]
Ở Thái Lan và Philippin, KCN đƣợc quan niệm nhƣ một thành phố công
nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và độc lập. Ngoài việc cung cấp
kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải,
KCN cũng bao gồm khu thƣơng mại, dịch vụ ngân hàng, trƣờng học, bệnh viện,
các khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho công nhân… Các KCN ở Thái Lan và
Philippin thƣờng tồn tại các hình thức: khu sản xuất hàng tiêu thụ nội địa, khu
sản xuất hàng xuất khẩu và khu thƣơng mại dịch vụ.
10
Tại Việt Nam, các KCN trƣớc đây thƣờng đƣợc hiểu là nơi tập trung
nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII (năm 1991), Đảng chủ trƣơng “Quy hoạch các vùng, trƣớc hết là các địa bàn
trọng điểm, các KCX, KKT đặc biệt, KCN tập trung”. Tiếp đó, Nghị quyết Đại
hội VIII của Đảng năm 1996 xác định rõ thêm: “Cần hình thành các KCN tập
trung (bao gồm cả KCN và KCNC) tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các
cơ sở công nghiệp mới. Phát triển đẩy mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô
thị. Ở các thành phố, thị xã nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đƣa
các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây
dựng các cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cƣ”. [24]
Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế cách hiểu về KCN cũng có những
sự thay đổi. Chẳng hạn theo Nghị định 36/NĐ – CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ
ban hành quy chế KCN, KCX, KCNC, khái niệm KCN đƣợc nêu ra nhƣ sau: KCN
là khu tập trung các DN chuyên sản xuất hàng CN và thực hiện các DV cho sản
xuất CN, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cƣ sinh sống; nhƣng tại Nghị
định số 29/2008/NĐ – CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ đã không đề cập đến vấn
đề dân cƣ trong KCN. Cụ thể, Nghị đinh 29/2008/NĐ – CP quy định KCN là:
“Khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý rõ ràng”.
Theo TS Nguyễn Đình Quản, KCN là một khu có ranh giới địa lý xác
định, có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, về chính sách, cơ chế ƣu đãi
và chế độ quản lý riêng dành cho sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh công nghiệp và thực hiện các dịch vụ công nghiệp.
Theo Luật Đầu tƣ năm 2005, KCN là khu chuyên sản xuất hàng CN và
thực hiện các DV cho sản xuất CN, có ranh giới địa lý xác định. [37]
Các quan niệm trên tuy diễn đạt khác nhau, nhƣng đều thống nhất ở một
số điểm chủ yếu:
Thứ nhất, KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, có hệ thống kết
cấu hạ tầng kỹ thuật – xã hội đồng bộ đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
11
doanh và đời sống của ngƣời lao động, đƣợc thành lập theo quy định của Chính
phủ. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất và doanh nghiệp
công nghệ cao. Về thực chất, đây là khu hành chính kinh tế đặc biệt nhƣ KCN
Batam (Indonesia), công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nƣớc
Tây Âu, khu kinh tế mở Chu Lai, Dung Quất ở Việt Nam.
Thứ hai, KCN là lãnh thổ có giới hạn nhất định, tập trung các doanh
nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân
cƣ sinh sống. Mô hình này đƣợc xây dựng ở một số nƣớc nhƣ Malaixia,
Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam.
Từ đó, có thể khái quát lại: KCN là một lãnh thổ có ranh giới địa lý xác
định, có những điều hiện tƣơng ứng với phát triển công nghiệp về tự nhiên,
cơ sở hạ tầng, quản lý nhà nƣớc, tập trung các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp, các doanh nghiệp dịch vụ có liên quan đến hoạt động công nghiệp
b) Phân loại khu công nghiệp:
Tuỳ theo góc độ tiếp cận, KCN có thể phân loại theo nhiều cách khác nhau:
- Theo tính chất ngành nghề, KCN đƣợc chia thành các loại sau: KCN
chuyên ngành, KCN đa ngành, KCN sinh thái, KCN đô thị, KCN đô thị - công
nghệ cao.
KCN chuyên ngành: là KCN đƣợc hình thành từ các xí nghiệp công
nghiệp cùng một loại ngành hoặc một ít ngành CN khác nhau nhƣng cùng sản
xuất ra một số loại sản phẩm. Ví dụ nhƣ khu gang thép Thái Nguyên, Hóa chất
Việt Trì, Lọc dầu Dung Quất .v.v..
KCN đa ngành: là KCN bao gồm nhiều xí nghiệp thuôc nhiều ngành công
nghiệp khác nhau. KCN đa ngành cho phép thoả mãn đƣợc yêu cầu về lãnh thổ
cho sản xuất công nghiệp, tiết kiệm đầu tƣ hạ tầng, song rất dễ gây ra tác động
xấu giữa các xí nghiệp khác nhau.
KCN đô thị (công viên công nghiệp): là mô hình mang tính cộng sinh
giữa công nghiệp và đô thị. Các KCN phát triển hài hòa trong không gian đô thị
với hệ thống dịch vụ hoàn chỉnh, hỗ trợ nhau cùng phát triển trong môi trƣờng
sạch và bền vững.
12
Khu đô thị - công nghệ cao (còn gọi là công viên khoa học): là mô hình
mang tính chất cộng sinh giữa đô thị, các trung tâm nghiên cứu và đào tạo với
các dự án công nghệ cao. Đó là vƣờn ƣơm khoa học, ứng dụng triển khai các
công nghệ mới, nơi đào tạo nguồn nhân lức cao và các dịch liên quan trong môi
trƣờng đô thị sinh thái.
KCN sinh thái: là mô hình mang tính cộng sinh công nghiệp. Các ngành
công nghiệp đƣợc lựa chọn sao cho các nhà máy có một liên hệ với nhau, hỗ trợ
và tƣơng tác với nhau tạo nên môi trƣờng sạch và bền vững. Với mô hình này
thì phế liệu của nhà máy sẽ là nguyên liệu, vật tƣ của nhà máy kia.
- Dựa vào đặc điểm của KCN, ngƣời ta chia KCN thành:
KCN tập trung: Là một quần thể liên hoàn các xí nghiệp, có thể là đa
ngành, chuyên ngành; đƣợc xây dựng trên một vùng có thuận lợi về mặt địa lý,
điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội, có cơ sở hạ tầng tốt.
KCN chế xuất: là một dạng đặc biệt của KCN (còn gọi là KCX). Tại đó,
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất
khẩu và các loại hoạt động xuất khẩu. Trong KCX, doanh nghiệp đƣợc tạo điều
kiện thƣơng mại và hoạt động trong môi trƣờng thông thoáng.
KCX là một dạng đặc biệt của KCN, nhƣng giữa KCX và KCN có sự
khác nhau nhất định, xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tƣợng tham
gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Đối với KCN thƣờng đƣợc
thành lập ở những vùng mà kinh tế chƣa phát triển, nguồn lao động dƣ thừa
nhƣng có một số yếu tố thuận lợi nhƣ tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý …
KCN đƣợc nhận một sự ƣu tiên nhất định từ phía chính phủ và chính quyền địa
phƣơng với một vai trò nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế vùng. KCN bao gồm
các doanh nghiệp trong nƣớc và doanh nghiệp nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, so với
KCN thì KCX cũng đƣợc xác định là KCN nhƣng tập trung những doanh
nghiệp chuyên sản xuất chế biến các hàng xuất khẩu, đƣợc sự ƣu tiên đặc biệt
của Chính phủ. KCX có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép
kín sang nền kinh tế mở.
Khu công nghệ cao: là KCN trong đó tập trung các doanh nghiệp có công
13
nghệ kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao bao
gồm nghiên cứu, triển khai khoa học, công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan.
Cụm công nghiệp: là tên gọi chung cho các cụm công nghiệp – tiểu thủ
công nghiệp, thực chất là KCN tập trung nhƣng có quy mô nhỏ, do Chủ tịch
UBND cấp tỉnh quyết định thành lập (hoặc phân cấp quyết định thành lập) theo
quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn để bố trí các cơ sở sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống trong diện di dời khỏi
nội thành, nội thị hoặc các khu dân cƣ tập trung, và thu hút các dự án đầu tƣ với
quy mô vừa và nhỏ.
- Theo đặc điểm và cấp quản lý: KCN gồm 3 loại: (1) KCN do chính phủ
quyết định thành lập: đó là các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ
cao; (2) KCN do UBND tỉnh, thành phố quyết định thành lập: đó là các cụm
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; (3) KCN do UBND huyện, thị quyết định
thành lập.
1.1.2. Đặc điểm khu công nghiệp
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất ra các
sản phẩm công nghiệp khác nhau, đồng thời cũng sử dụng lƣợng lớn nguyên,
nhiên liệu, năng lƣợng và thải ra lƣợng chất thải khổng lồ. Do tính tập trung sản
xuất CN ở mật độ cao nhƣ vậy nên các vấn đề kinh tế - kỹ thuật của KCN trở nên
rất khác biệt. Thể hiện:
Việc bố trí các doanh nghiệp trong KCN đòi hỏi vừa phải đảm bảo tính
hiệu quả trong sử dụng đất đai và cơ sở hạ tầng, vừa không ảnh hƣởng xấu đến
nhau. Để làm đƣợc nhƣ vậy, quy hoạch trong các KCN phải đƣợc tính toán và
giải quyết bằng các giải pháp kỹ thuật tối ƣu.
KCN đòi hỏi phải có đủ các điều kiện kinh tế - kỹ thuật nhƣ cơ sở hạ
tầng ngoài hàng rào KCN, nguồn cung cấp điện, nƣớc… thì KCN mới vận hành
có hiệu quả . Hơn nữa do nhu cầu về các nguồn lực này khá lớn nên KCN đòi
hỏi phải đƣợc cam kết cung cấp ƣu tiên.
KCN đòi hỏi phải có hệ thống xử lý chất thải phù hợp. Bởi nếu không
đề cao yêu cầu xử lý chất thải trƣớc khi thải ra môi trƣờng, thì với khối lƣợng
chất thải lớn, các KCN có thể huỷ diệt môi trƣờng xung quanh.
14
Thứ hai, các KCN còn đòi hỏi phải có diện tích đất khá lớn, tập trung tại
một địa điểm, địa hình tƣơng đối bằng phẳng, thích hợp cho xây dựng các công
trình công nghiệp, gần nguồn nƣớc, có cơ sở hạ tầng thích hợp. Đây cũng là lý
do của tình trạng quỹ đất xây dựng KCN thƣờng lấn chiếm quỹ đất nông nghiệp
và đất đô thị. Khi các KCN đƣợc xây dựng nhiều sẽ gây sức ép, thậm chí xung
đột với nhu cầu đất của dân cƣ. Điều đó đòi hỏi việc xây dựng các KCN phải
theo quy hoạch cân đối, hài hoà hợp lý các khu đất giành cho sinh hoạt, cho
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và cho các KCN tập trung.
Thứ ba, KCN thƣờng đƣợc xây dựng ở những nơi có vị trí địa lý thuận lợi
nhƣ gần các đƣờng giao thông, thuận tiện trong giao lƣu với các trung tâm kinh
tế lớn, gần cảng biển, sân bay…, bởi tại đó có nhiều ƣu thế trong thu hút đầu tƣ
vào các KCN.
Thứ tư, KCN sử dụng lƣợng lao động lớn do đây là nơi tập trung các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và cung cấp các dịch vụ sản xuất công
nghiệp, với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Nhƣng cũng chính vì thu hút lực lƣợng lao động lớn nên kéo theo nhiều hậu quả
xã hội. Dễ thấy nhất là vấn đề ngƣời lao động ngụ cƣ. Những ngƣời này vừa
không có nhà ở, không có sự hỗ trợ của gia đình, không ổn định nên rất khó
quản lý. Hơn nữa, sự biến động đột biến của lƣợng lao động ngụ cƣ có thể gây
sức ép lên hệ thống giáo dục, y tế và nhà ở địa phƣơng. Khi xây dựng các KCN,
địa phƣơng cần lƣờng trƣớc các yếu tố phát sinh này.
Hơn nữa, trong quá trình vận hành các KCN thƣờng xuất hiện các xung
đột giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động, dễ gây thành các cuộc đình
công, bãi công lớn do tính chất lây truyền và do các doanh nghiệp ở gần nhau.
Nếu các tổ chức chính trị, xã hội không khéo léo giải quyết các xung đột này có
thể gây bất ổn cho cả vùng.
Ngoài ra, KCN cũng đòi hỏi cơ quan quản lý và điều hành chung các vấn
đề trong khu. Nếu cơ quan này không đƣợc quản lý và vận hành tốt thì hiệu quả
hoạt động của KCN sẽ bị ảnh hƣởng nghiêm trọng.
Tóm lại, một mặt KCN là một thực thể độc lập, cả về lãnh thổ lẫn các
15
điều kiện sản xuất kinh doanh gắn với cơ bản của nó là sản xuất công nghiệp tập
trung ở mật độ cao. Mặt khác, KCN không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ
chặt chẽ về mọi mặt với các lãnh thổ khác về đầu vào, đầu ra và ảnh hƣởng
ngoại sinh. Vấn đề làm sao đề cả trong, ngoài KCN các quá trinh kinh tế, xã hội,
tự nhiên đều diễn ra tốt đẹp. Giải quyết yêu cầu đó là nhiệm vụ của doanh
nghiệp kinh doanh KCN và cơ quan quản lý nhà nƣớc.
1.2. VAI TRÕ CỦA KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN KCN
1.2.1. Vai trò của khu công nghiệp
1.2.1.1. Thu hút vốn đầu tư, tăng tổng thu nhập quốc dân và kim
ngạch xuất khẩu
Hầu hết các nƣớc đang phát triển trên thế giới đang phải đối đầu với
những khó khăn về thiếu hụt vốn, cơ sở hạ tầng kinh tế thấp kém, kỹ thuật –
công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý, tay nghề chƣa cao, môi trƣờng, thể chế đầu
tƣ chƣa hoàn thiện… Tuy nhiên, xu thế toàn cầu hoá kinh tế hiện nay đang tạo
ra những cơ hội to lớn để việc khắc phục những yếu kém đó.
Việc các nƣớc thực hiện quy hoạch, phát triển KCN là phƣơng thức phù
hợp tạo điều kiện để tập trung đầu tƣ có trọng điểm. Do có kết cấu hạ tầng hiện
đại hơn và cơ chế quản lý thông thoáng hơn so với bên ngoài, nên KCN đã trở
thành một địa điểm để thu hút vốn đầu tƣ, đặc biệt là vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, tập
trung các doanh nghiệp sản xuất và chế biến công nghiệp. Nói cách khác, KCN
sẽ tạo cơ hội đƣa nhanh kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học và
công nghệ; xây dựng các ngành công nghiệp mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo
của công nghiệp trong nền kinh tế, bảo đảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh và
bền vững.
Theo WB, đến 1999 trên phạm vi toàn thế giới đã có khoảng 43% số dự
án đầu tƣ vào các KCN là do doanh nghiệp trong nƣớc; 24% do liên doanh với
nƣớc ngoài và 33% do các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thực hiện. Thậm chí, tại Đài
Loan và Malaixia, KCN đã thu hút đƣợc 60% vốn FDI. Hơn nữa, các doanh
16
nghiệp hoạt động trong KCN phần lớn là các đơn vị tiềm năng, hoạt động có
hiệu quả, do đó đã thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nƣớc,
trong đó, đáng kể nhất là thúc đẩy xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu. Ở một số
nƣớc KCN đã góp phần đáng kể cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Ví dụ nhƣ
Malaixia hiện nay giá trị xuất khẩu của các KCN chiếm 30% trong tổng giá trị
xuất khẩu các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50%.[15]
Thực tế ở nƣớc ta cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu hút vốn
đầu tƣ đặc biệt là vốn FDI. Số dự án đầu tƣ cả trong và ngoài nƣớc vào các KCN
chiếm một tỷ trọng khá lớn. Sự gia tăng vốn đầu tƣ vào các KCN góp phần quan
trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tƣ của toàn xã hội, đóng góp trực tiếp vào việc
tăng trƣởng và chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế. Hơn nữa, sự phát triển của
các KCN còn có tác động kích thích tăng đầu tƣ mới ở các doanh nghiệp ngoài
KCN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, tính đến cuối năm 2009, các KCN đã thu
hút đƣợc trên 3.600 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đầu tƣ đăng ký đạt
46,9 tỷ USD (chiếm 30% về số dự án và 25% về vốn đầu tƣ so với cả nƣớc) và
3.200 dự án đầu tƣ trong nƣớc với tổng vốn đầu tƣ đăng ký 254.000 tỷ đồng,
trong đó, riêng năm 2008, các KCN trên cả nƣớc đã thu hút đƣợc gần 9,4 tỷ
USD vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, trong đó có 271 dự án mới với tổng số vốn đầu tƣ
đăng ký đạt gần 7,5 tỷ USD và 236 lƣợt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt
trên 1,6 tỷ USD. [48]
Diện tích đất công nghiệp các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng
48%, nhờ đó đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Tính riêng trong năm
2009, các doanh nghiệp KCN đã tạo ra 12,2 tỷ USD và 67,9 nghìn tỷ đồng
doanh thu; xuất khẩu đạt 12,3 tỷ USD và 2,6 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách đạt
689 triệu USD và 4,0 nghìn tỷ đồng.
1.2.1.2. Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và cung cấp
các dịch vụ sản xuất công nghiệp, với nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, ở
nhiều lĩnh vực khác nhau. KCN là nơi thu hút đƣợc nhiều lao động bao gồm lao
động làm việc trong các doanh nghiệp tại KCN và các doanh nghiệp xây dựng
17
và cung cấp dịch vụ cho KCN, nó góp phần đa dạng hoá ngành nghề trong xã
hội tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho nhiều đồi tƣợng trong xã hội, từ ngƣời
nông dân có nhu cầu làm việc khi nông nhàn, sinh viên bán thời gian, công nhân
cho đến cả lao động có trình độ cao nhƣ kỹ sƣ, nhà quản lý, điều hành… Mặt
khác, số lao động này đƣợc tiếp xúc với công nghệ sản xuất hiện đại, phƣơng
thức quản lý tiên tiến, nên đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao
động có kỷ luật, có kỹ năng và có năng suất lao động cao đáp ứng nhu cầu của
công cuộc CNH, HĐH đất nƣớc.
Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của nhiều doanh nghiệp, nhiều
KCN, KCX đã mở các cơ sở đào tạo nghề. Việc thành lập các trung tâm dạy
nghề và đào tạo trong các KCN, KCX đã góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực cho các doanh nghiệp trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH
đất nƣớc nói chung. Ở các địa phƣơng có KCN, tỷ lệ thất nghiệp giảm rõ rệt.
Điều đó có tác động tích cực đến việc xoá đói, giảm nghèo, đồng thời góp phần
giảm các tệ nạn xã hội do thất nghiệp gây ra. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và
Đầu tƣ cho thấy mỗi KCN với diện tích khoảng 100 – 150 ha, khi đã lấp đầy
toàn bộ diện tích sẽ cần số lƣợng lao động lên đến 15 triệu – 18 triệu lao động.
Tính đến tháng 12 năm 2008, các KCN trên phạm vi cả nƣớc đã thu hút đƣợc
1,5 triệu lao động trực tiếp và hơn 2 triệu lao động gián tiếp.
Thực tế mấy năm qua cho thấy, hầu hết các KCN phía Nam và phía Bắc
phải tuyển rất nhiều lao động từ các tỉnh miền trung mới đáp ứng nhu cầu việc
làm trong KCN. Nhƣ vậy, KCN không những giải quyết việc làm cho lao động
địa phƣơng mà còn tạo việc làm cho địa phƣơng khác, trong quá trình hình
thành và phát triển của mình góp phần giải quyết bài toán lớn cho nền kinh tế
Việt nam hiện nay đó là bài toán việc làm và nâng cao trình độ lao động. Bởi vì,
lao động làm việc trong KCN tập trung đƣợc làm quen với tác phong công
nghiệp, ngƣời lao động có tính cạnh tranh trong công việc do đó, không ngừng
nâng cao trình độ tay nghề để tồn tại.
Việc mở mang các KCN, KCX không chỉ góp phần tạo việc làm, nâng
cao chất lƣợng nguồn nhân lực, mà còn góp phần đáng kể vào việc tăng thu
18
nhập, xóa đói giảm nghèo. Theo số liệu điều tra, có khoảng 40% số lao động
làm việc trong các KCN là những ngƣời có thu nhập thấp đến từ nhiều địa
phƣơng. Ngoài ra, KCN còn tạo ra nguồn thu nhập tăng thêm cho những lao
động không trực tiếp tham gia sản xuất trong KCN, thông qua việc cung cấp
dịch vụ cho khu công nghiệp.
1.2.1.3. Góp phần nâng cao trình độ công nghệ và quản lý kinh doanh
Cùng với việc thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, các KCN đều đặt ra mục
tiêu tiếp cận các công nghệ hiện đại và các phƣơng pháp quản lý tiên tiến của
các nhà đầu tƣ. Theo một nhà kinh tế phƣơng Tây nhận định: Việc thành lập các
KCN còn có ý nghĩa hơn là một sự thay đổi chính sách, bởi sự thay đổi chính
sách là từ bóp nghẹt sang cởi mở thông thoáng,chỉ có ý nghĩa tối đa khi chuyển
từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trƣờng. Còn thực sự khi nền kinh tế
đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến hành chính thì đều có ý nghĩa hơn lại
là một chính sách kỹ thuật và công nghệ khả thi đủ hấp dẫn để thu hút đƣợc kỹ
thuật và công nghệ mới của nƣớc ngoài vào sự tái thiết nền kinh tế nội địa.
KCN đƣợc quy hoạch theo mô hình tập hợp các doanh nghiệp cùng
ngành, do vậy, chùm doanh nghiệp sẽ có điều kiện hợp tác liên kết với nhau
trong việc nhập khẩu, tiếp nhận những công nghệ tiên tiến và hiện đại trên thế
giới; tận dụng những lợi thế của nƣớc đi sau, rút ngắn khoảng cách về khoa học
kỹ thuật với các nƣớc đi trƣớc; đồng thời cũng sẽ tiết kiệm đƣợc chi phí trong
lĩnh vực nghiên cứu và phát triển và quyền sở hữu trí tuệ.
Mặc dù trong giai đoạn đầu các KCN đi vào hoạt động, đầu tƣ nƣớc
ngoài chủ yếu tập trung vào các ngành nhƣ dệt may, giày da, lắp ráp điện tử,
nhƣng càng về sau thì việc đầu tƣ vào các lĩnh vực công nghệ hiện đại nhƣ đúc
chính xác, sản xuất cơ khí, sản xuất cáp điện, linh kiện điện tử... ngày càng tăng
và chiếm tỷ trọng lớn cả về sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu. Cùng với dòng
vốn đầu tƣ trong các dự án sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tƣ còn đƣa vào Việt
Nam những dây chuyền sản xuất công nghệ tiên tiến, hiện đại trong đó có cả
những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản), nhƣ sản xuất
ôtô, xe máy (Honda Motor, Toyota Motor, Piago), các linh kiện máy tính. Một
19
số công nghệ tiên tiến hiện đại, cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ
doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã
đƣợc áp dụng tại Việt Nam. Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đã góp sức đào tạo đƣợc đội ngũ lao động công
nghiệp sử dụng và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản
xuất, nắm vững công nghệ, có tác động lan toả và nâng cao trình độ tay nghề của
đội ngũ lao động Việt Nam lên một bƣớc. Trong các KCN, một lƣợng đáng kể
ngƣời lao động Việt Nam đang dần đƣợc đảm nhận các vị trí quản lý doanh
nghiệp, đƣợc tiếp xúc với phƣơng thức quản trị kinh doanh tiên tiến, hiện đại, kỹ
năng maketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự… Việc trực tiếp làm việc
trong môi trƣờng có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, đã rèn luyện đƣợc những
kỹ năng và bản lĩnh giúp ngƣời lao động Việt Nam thích ứng với một nền công
nghệ tiên tiến, hiện đại.[15]
1.2.1.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hình
thành và phát triển các khu đô thị mới
KCN với đặc trƣng là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, một mặt đã chuyển những vùng đất
sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả sang sản xuất công nghiệp mang lại hiểu quả
kinh tế cao hơn; mặt khác, sự phát triển của KCN kéo theo sự phát triển của các
ngành dịch vụ nhƣ thông tin liên lạc, ngân hàng, bảo hiểm… từ đó cải thiện tỷ
trọng đóng góp các ngành nghề trong GDP theo hƣớng gia tăng tỷ trọng giá trị
ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp.
Chính từ sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề tại khu vực hình thanh KCN
đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động của địa phƣơng theo hƣớng giảm tỷ
trọng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ. Kết quả của quá trình này sẽ góp phần thúc đẩy tăng
trƣởng, phát triển của kinh tế địa phƣơng, là cơ sở để cải thiện nâng cao đời
sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phƣơng. Tuy vậy, cũng cần nhận thức
rằng trên thực tế nếu việc chuyển đổi đất nông nghiệp và xây dựng phát triển
KCN có độ trễ lớn có thể gây ra những khó khăn cho lao động địa phƣơng vì
20
mất đất canh tác nông nghiệp trong khi các nhà máy, xí nghiệp trong KCN lại
chƣa xây dựng kịp thời dẫn đên thiều việc làm và tác động tiêu cực tới các vấn
đề xã hội khác.
Bên cạnh đó, tại nhiều nƣớc sự phát triển của các KCN còn là hạt nhân để
xây dựng và phát triển các khu đô thị mới, văn minh, góp phần cải thiện đời sống
kinh tế, văn hoá, xã hội. Ở các đô thị gắn liền với KCN thì bộ phận chủ yếu của
dân cƣ đô thị là những ngƣời lao động và quản lý trong các KCN. Họ có nhu cầu
đi lại, ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí sao cho phù hợp với yêu cầu làm việc trong KCN.
Ở các nƣớc đang phát triển, với mục tiêu xây dựng các đô thị theo hƣớng
hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trƣờng nên phải thực hiện di dời nhà máy xí
nghiệp sản xuất trong các đô thị ra các vùng ngoại thành. KCN là nơi tiếp nhận
các nhà máy xí nghiệp đó tạo nên một địa bàn sản xuất đồng bộ tập trung. Chính
vì vậy, vấn đề quy hoạch phát triển KCN không thể tách rời quy hoạch phát triển
đô thị, phát triển kinh tế. Kinh nghiệm phát triển KCN trong thời gian qua cho
thấy, việc hình thành các khu đô thị mới chỉ trở thành hiện thực khi có sự phát
triển đồng bộ giữa công nghiệp, khu dân cƣ, các công trình hạ tầng kỹ thuật và
xã hội trong và ngoài hàng rào.
1.2.1.5. Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng
Do đòi hỏi của các doanh nghiệp khi đầu tƣ vào các KCN là cơ sở hạ tầng
phải hoàn thiện, đồng bộ và hiện đại, vì vậy, để thu hút đƣợc nhiều dự án đầu tƣ,
nhất là các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài, các quốc gia, các địa phƣơng ngoài việc
đƣa ra hàng loạt chính sách ƣu đãi về thuế, tài chính, còn tiến hành đầu tƣ cơ sở
hạ tầng, cố gắng hiện đại hóa hệ thống cơ sở hạ tầng. Kết quả là hệ thống đƣờng
xá; hệ thống cung ứng điện, nƣớc; hệ thống thông tin liên lạc; công trình phúc
lợi phát triển, hiện đại đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
Sự phát triển cơ sở hạ tầng các KCN còn có có tác dụng kích thích sự phát
triển kinh tế địa phƣơng, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông
thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Cùng với
quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã
đƣợc cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt
động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng.
21
1.2.1.6. KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý ô nhiễm môi trường,
bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển bền vững.
Việc tập trung nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nhƣ KCN sẽ cho
phép xây dựng các trung tâm xử lý chất thải đồng bộ hơn nhƣng với chi phí ít
tốn kém hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trƣờng của cơ
quan chức năng. KCN tập trung sẽ giảm thiểu các tác động bất lợi của sản xuất
công nghiệp (nhƣ tiếng ồn, khói bụi, bức xạ...). Hơn nữa, tại các đô thị việc tập
trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vào một địa điểm xác định, Ban
quản lý các KCN có thể kiểm soát tốt hơn mức độ ô nhiễm của các doanh
nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp công nghiệp cũng có điều kiện phòng
chống ô nhiễm môi trƣờng với chi phí ít nhất do sử dụng lại phế thải của nhau.
Do có sự liên kết xử lý ô nhiễm và sự hỗ trợ tập trung của nhà nƣớc nên
việc bảo vệ môi trƣờng trong toàn khu vực KCN đƣợc thực hiện tốt hơn so với
tại các cơ sở công nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Mặt khác,
KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trƣờng từ nội
thành, từ các vùng dân cƣ, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển bền vững. Với vai
trò này, việc xây dựng các KCN tập trung đƣợc coi là một giải pháp quan trọng
để bảo vệ môi trƣờng và phát triển KT- XH theo hƣớng bền vững.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển
các KCN
1.2.2.1. Vị trí địa lý
Vị trí địa lý có vai trò rất to lớn đối với sự thành công của một KCN. Vị
trí địa lý xây dựng KCN không đơn giản chỉ là địa điểm mà còn bao gồm cả điều
kiện đất đai, thủy văn thuận lợi hay không thuận lợi; độ lớn của diện tích đất làm
KCN. Tất cả đều là những yếu tố quan trọng để đảm bảo khả năng mở rộng
KCN khi có điều kiện. Vị trí nằm gần các đầu mối giao thông, các cảng biển, sân
bay, gần nguồn cung ứng điện, nƣớc, gần vùng nguyên liệu, thì sẽ góp phần làm
giảm chi phí vận hành, vận chuyển nguồn vật liệu cũng nhƣ sản phẩm của các
doanh nghiệp. Vì vậy, nếu xây dựng KCN tại đó sẽ hấp dẫn các nhà đầu tƣ hơn.
Mặt khác, nếu các KCN đƣợc xây dựng thuộc các khu vực có mức độ phát triển
22
kinh tế cao, đặc biệt là sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ thì yếu tố
này rất quan trọng đối với các nhà đầu tƣ và vì vậy sẽ nhanh chóng thu hút đầu tƣ
vào KCN.
Do vậy, khi xây dựng KCN cần phải xem xét kỹ về vị trí địa lý, kèm theo
đó là các điều kiện về kinh tế - xã hội. Sự lựa chọn vị trí xây dựng KCN thích
hợp sẽ làm giảm các chi phí liên quan đến việc tạo mặt bằng, xây dựng kết cấu
hạ tầng đồng thời làm tăng thu nhập cho công ty phát triển hạ tầng.
Điều kiện xã hội khu vực chọn xây dựng KCN đƣợc thể hiện ở trình độ
học vấn và nền tảng văn hóa chung của ngƣời dân, các loại hình kinh tế đang tồn
tại và hoạt động trong khu vực. Nếu KCN đặt tại một địa bàn có trình độ học
vấn của ngƣời dân cao, có khả năng tiếp cận với kỹ thuật công nghệ hiện đại,
chắc chắn sẽ thu hút các dự án đầu tƣ nhiều hơn. Đó là vì, các nhà đầu tƣ sẽ
giảm đƣợc chi phí đào tạo nhân lực phục vụ trực tiếp và gián tiếp làm dịch vụ
cho các doanh nghiệp trong KCN. Ngƣợc lại, các điều kiện đó nếu không thuận
lợi thì chi phí cho KCN tất yếu phải cao hơn, hiệu quả đầu tƣ thấp hơn.
1.2.2.2. Quy hoạch và chính sách của nhà nước
Quy hoạch phát triển khu công nghiệp đƣợc coi là nhân tố quan trọng nhất
và quyết định nhất đối với sự hình thành và phát triển một khu công nghiệp cũng
nhƣ hệ thống khu công nghiệp . Đây đƣợc xem là công đoạn xây dựng hình thái
kiến trúc cho khu công nghiệp. Nếu công tác quy hoạch khoa học, hệ thống, có
tầm chiến lƣợc và tƣơng thích với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH và quy
hoạch về sử dụng đất của địa phƣơng, của vùng cũng nhƣ quốc gia sẽ cho phép
khai thác có hiệu quả các nguồn lực. Cụ thể, nếu có một tầm nhìn dài hạn trong
quy hoạch thì sẽ giảm thiểu ảnh hƣởng tiêu cực của quy hoạch đối với đời sống
của ngƣời dân, trƣớc hết là tình trạng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tránh
đầu tƣ dàn trải, tràn lan gây ra tình trạng mất cân bằng cung cầu và lãng phí
nguồn lực. Hơn nữa, quy hoạch theo lãnh thổ tốt sẽ cho phép đáp ứng đƣợc các
yêu cầu phát triển lâu dài đồng bộ, đồng thời góp phần phân bổ hợp lý nguồn lực
sản xuất theo lãnh thổ. Bên cạnh đó, quy hoạch các KCN đồng bộ, xây dựng các
KCN gắn liền với quy hoạch xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật cũng nhƣ
23
hạ tầng xã hội, phát triển các khu đô thị sẽ đảm bảo ổn định cho ngƣời lao động
làm việc trong các KCN, đồng thời tạo đƣợc hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Bên cạnh quy hoạch, hệ thống chính sách của nhà nƣớc cũng có ảnh hƣởng
lớn đến sự hình thành và phát triển của các KCN, vì nó quyết định khả năng thu
hút các nhà đầu tƣ đến với KCN. Chính sách, pháp luật rõ ràng, minh bạch, ổn
định và công bằng tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao và là
động lực thu hút các nhà đầu tƣ đầu tƣ vào KCN. Cụ thể, các chính sách ƣu đãi về
đất đai, chính sách miễn giảm thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với các nhà đầu tƣ sẽ làm tăng lợi nhuận của họ, vì vậy sẽ thúc đẩy các nhà
đầu tƣ chuyển vốn vào những địa bàn có ƣu đãi. Hay chính sách không hạn chế
việc chuyển vốn và lợi nhuận ra nƣớc ngoài của các nhà đầu tƣ tạo thuận lợi cho
chủ đầu tƣ đƣợc lựa chọn các phƣơng án sử dụng phần lợi nhuận ấy có lợi nhất:
họ có thể sử dụng chúng để tái đầu tƣ tại chỗ, hay chuyển về nƣớc, hay chuyển về
nƣớc thứ 3 để có lợi nhuận cao hơn.
Ngoài ra, chính sách về đảm bảo việc làm và thu nhập cho ngƣời dân có đất
bị thu hồi khi xây dựng KCN cũng có ảnh hƣởng không nhỏ đến sự thu hút vào
KCN. Nếu chính sách này hợp lý, phản ánh và bảo vệ tích cực lợi ích chính đáng
của nguời dân thì không chỉ có tác dụng đẩy nhanh tiến độ triển khai xây dựng
KCN mà còn tạo sự hƣởng ứng, phấn khởi để nguời dân di dời nơi ở, nhanh
chóng bắt tay vào cuộc sống mới.
1.2.2.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng đƣợc coi là phần cứng, xƣơng cốt, cơ bắp của KCN,
KCX, nó đƣợc coi là nhân tố quyết định hình thành môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn
Nếu một KCN đƣợc đặt tại một địa bàn có nền kinh tế phát triển, có hệ
thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại sẽ có điều kiện tốt nhất để sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy ở những vùng có KCN
phát triển mạnh nhƣ Biên Hoà, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình
Dƣơng), Tiên Sơn (Bắc Ninh)… Đó là những vùng có các điều kiện về kỹ thuật
hạ tầng phát triển hơn các địa phƣơng khác, từ hệ thống đƣờng sá, cho đến hệ
thống cung cấp các dịch vụ điện, nƣớc, viễn thông … Hệ thống hạ tầng kỹ thuật
24
trong KCN càng thuận lợi thì càng thu hút thêm nhiều dự án đầu tƣ mới, đồng
thời, còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng cƣờng
năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cƣ, tạo
điều kiện để các địa phƣơng giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trƣờng đô
thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng
trong khu vực nhƣ KCN Tân Tạo (TP Hồ Chí Minh), Việt Hƣơng (Bình Dƣơng)…
Đặc biệt , hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm
bảo sự liên thông giữa các vùng, định hƣớng cho phát triển các khu dân cƣ mới,
các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các
công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống ngƣời lao động và cƣ dân trong khu
vực nhƣ: nhà ở, trƣờng học, bệnh viện, khu giải trí…. Những vấn đề này đến
lƣợt nó lại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tƣ các
ngành nhƣ điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các
hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xúc tiến đầu tƣ, phát triển thị
trƣờng địa ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt động và phát triển của các KCN.
1.2.2.4. Trình độ nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực luôn là nhân tố quan trọng nhất trong mọi hoạt động,
trong đó có sự hình thành và phát triển các KCN, KCX. Do đặc điểm sản xuất của
các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển
nhƣ vũ bão hiện nay, yêu cầu một nguồn có chất lƣợng cao là đòi hỏi cấp bách. Vì
vậy, nếu tại một địa phƣơng (hay một quốc gia) có nguồn nhân lực trình độ cao, tác
phong công nghiệp, ý thức kỷ luật tốt thì sẽ là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tƣ
đặc biệt là nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, những dự án công nghệ cao, vì nó giúp các nhà
đầu tƣ giảm chi phí đào tạo lại, từ đó làm giá thành sản phẩm giảm và tính cạnh
tranh cao. Và ngƣợc lại nếu trình độ nguồn nhân lực tại địa phƣơng xây dựng KCN
thấp thì khả năng thu hút đầu tƣ sẽ giảm đi, các dự án đầu tƣ vào đây chủ yếu là
các dự án công nghệ thấp, cần nhiều lao động phổ thông.
1.2.2.5. Bộ máy quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp
Bộ máy quản lý nhà nƣớc đối với các KCN, trực tiếp là UBND tỉnh, thành
phố, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ tỉnh, Ban quản lý các KCN tỉnh là các cơ quan ban
25
hành, thực thi và kiểm tra kiểm soát về pháp lý và kỹ thuật cho hoạt động của
các KCN. Thực tế hoạt động của các KCN cho thấy, nếu bộ máy quản lý này
năng động, sâu sát, gọn nhẹ; cán bộ quản lý có kinh nghiệm trong việc hoạch định
và quy hoạch chính sách thì các KCN hình thành, phát triển tốt, hấp dẫn các nhà
đầu tƣ. Ngƣợc lại, bộ máy quản lý cồng kềnh, cán bộ quản lý đề ra quy hoạch và
chính sách không đúng, không khoa học sẽ phát triển các KCN vô tổ chức, kém
hiệu quả. Nếu bộ máy quản lý đƣa ra quyết định đặt KCN quá xa vùng nguyên liệu,
đƣờng giao thông, hệ thống điện nƣớc không thuận lợi; cho nhập khẩu máy móc
lạc hậu, … thì sẽ dẫn đến tăng chi phí cho các nhà đầu tƣ, giảm chất lƣợng sản
phẩm,… từ đó, giảm tính hấp dẫn trong đầu tƣ.
1.3. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP
Việc đƣa ra các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của các KCN là rất cần
thiết. Nó là cơ sở để các địa phƣơng cũng nhƣ quốc gia nhìn lại hiệu quả hoạt
động xây dựng KCN tại địa phƣơng mình. Sau đây là một số chỉ tiêu:
- Vị trí đặt KCN:
Tiêu chí này một mặt phản ánh chất lƣợng qui hoạch KCN. Vị trí KCN là
thƣớc đo quan trọng đánh giá tính bền vững KCN từ giai đoạn qui hoạch, xây
dựng và vận hành, nó cho thấy tính hợp lý, đồng bộ, khoa học và hiệu quả của
KCN. Các tiêu chí cụ thể bao gồm: sự bố trí khoa học các KCN trong phạm vi
không gian của toàn tỉnh (đây là điều kiện thúc đẩy tăng cƣờng sự liên kết giữa
các KCN); bố trí vị trí KCN trong không gian địa phƣơng: vị trí so với khu dân
cƣ; so với vị trí đƣờng giao thông; và nguồn gốc đất đai cho phát triển KCN
nhằm đạt đƣợc các mục tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi trƣờng và thu hút
lao động.
Mặt khác, đây là dấu hiệu dẫn đến sự thành công của KCN. Các tiêu chí
cụ thể là: KCN đặt ở vị trí thuận lợi hay khó khăn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật nhƣ
đƣờng xá, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống viễn thông; chất lƣợng các dịch
vụ xã hội của địa phƣơng... Ngoài ra, khi xét đến vị trí của KCN cũng cần xem
xét đến yếu tố tác động kinh tế - xã hội và môi trƣờng mà KCN có thể mang lại.
26
Tất cả những dấu hiệu này phải cần đƣợc xem xét cả ở hiện tại và khả năng duy
trì nó trong tƣơng lai lâu dài của KCN.
- Tỷ lệ lấp đầy KCN:
Chỉ số này đƣợc đo bằng tỷ lệ giữa diện tích đất KCN đã cho các doanh
nghiệp sản xuất và dịch vụ thuê và tổng diện tích đất có khả năng, sẵn sàng cho
thuê của KCN. Chỉ số này cho phép đánh giá mức độ thành công về thu hút đầu
tƣ của KCN và so sánh giữa KCN với các KCN khác trong việc khai thác, sử
dụng đất đai. Một KCN có tỷ lệ diện tích đƣợc lấp đầy là 100% là KCN đã khai
thác triệt để phần diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê, không còn phần
diện tích đất trống.
Tất nhiên tỷ lệ lấp đầy không thể đạt cao ngay từ đầu mà nó phải đƣợc
đánh giá theo từng giai đoạn. Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng kết cấu hạ tầng
kéo dài khoảng 3-4 năm, tiếp sau đó là giai đoạn thu hút đầu tƣ và hoàn thiện thủ
tục với mục tiêu là thu hút nhanh chóng các nhà đầu tƣ vào KCN để “làm sống”
KCN, thu hồi chi phí xây dựng, tạo lập việc làm cho ngƣời lao động. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy thời gian để thu hồi kinh phí đầu tƣ xây dựng có thể
kéo dài khoảng 15-20 năm, vì vậy nếu sau 10-15 năm mà “tỷ lệ khoảng trống”
trong KCN vẫn còn cao thì coi nhƣ KCN này không có hiệu quả và mục tiêu
PTBV KCN này là không đảm bảo.
- Số lượng vốn đăng ký và vốn thực hiện
Tiêu chí này phản ánh tổng vốn đầu tƣ thu hút vào KCN qua đó tính toán
các chỉ tiêu: tỷ suất vốn đầu tƣ trên 01 ha đất cho thuê, tỷ lệ vốn đầu tƣ thực hiện
trên tổng vốn thu hút,… Các chỉ tiêu này càng cao thì KCN hoạt động càng có
hiệu quả. Điều đó cho phép kết luận về khả năng duy trì tính bền bỉ trong hiệu
quả sản xuất của các doanh nghiệp.
- Kết quả và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN:
Đây là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá tính ổn định lâu dài về kinh tế
đảm bảo hoạt động sản xuất của KCN. Đo lƣờng tiêu chí này có thể dựa trên các
chỉ số cụ thể về qui mô và tốc độ tăng trƣởng các chỉ số đầu ra: qui mô, tốc độ
tăng trƣởng về GTSX, kim ngạch xuất khẩu và tỉ trọng trong tổng kim ngạch
27
xuất khẩu của địa phƣơng, đóng góp với ngân sách nhà nƣớc của các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN.
- Trình độ công nghệ của doanh nghiệp và các hoạt động triển khai
khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh:
Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
KCN, giữa KCN với các KCN khác trong nƣớc và quốc tế. Tiêu chí này thể hiện
bằng các chỉ số: (i) cơ cấu trình độ công nghệ của máy móc thiết bị sử dụng
trong KCN theo tỷ lệ vốn sản xuất trên 1 lao động và tỷ lệ vốn đầu tƣ trên một
dự án; Quốc gia đầu tƣ, tính chất công nghệ; (ii) Tỷ lệ đầu tƣ cho hoạt động
nghiên cứu và triển khai trong tổng vốn đầu tƣ của các doanh nghiệp, tỷ lệ
doanh thu từ hoạt động nghiên cứu và triển khai so với tổng quy mô hoạt động
của doanh nghiệp và của toàn KCN.
- Tạo việc làm và thu nhập cho người lao động địa phương:
Một trong các mục tiêu quan trọng của KCN, KCX là tạo việc làm tại chỗ
cho ngƣời dân địa phƣơng, theo đó là cải thiện thu nhập và đời sống cho họ
Trong tiêu chí này thì thu nhập của ngƣời lao động là chỉ số quan trọng,
nó là dấu hiệu có tính chất quyết định đến khả năng ổn định và thu hút lao động
vào KCN, duy trì đội ngũ lao động có tay nghề cao trong các doanh nghiệp. Chỉ
số này đƣợc đo bằng: quy mô và tỷ lệ lao động làm việc trong các KCN so với
tổng số lao động tại địa phƣơng, thu nhập bình quân/tháng/lao động (bao gồm
tiền lƣơng và các loại thu thập khác). Nếu mức thu nhập thấp sẽ dẫn đến nguy
cơ luân chuyển lao động không thể kiểm soát đƣợc. Tiêu chí thu nhập đƣợc đo
luờng bằng mức thu nhập bình quân, tốc độ tăng thu nhập bình quân của ngƣời
lao động trong KCN so với thu nhập của ngƣời lao động làm việc cùng ngành
nghề ở các KCN khác và các doanh nghiệp bên ngoài KCN.
Ngoài ra, nó còn đƣợc đánh giá thông qua đời sống vật chất và tinh thần
của ngƣời lao động trong KCN. Ngƣời lao động khi đến làm việc tại các KCN
phần lớn sẽ cƣ trú tại địa phƣơng và trở thành một bộ phận cƣ dân mới của địa
phƣơng nên việc chăm lo đời sống cho họ là trách nhiệm của không chỉ các
doanh nghiệp mà là toàn xã hội. Hơn nữa, đời sống ngƣời lao động đƣợc đảm
28
bảo cũng góp phần ổn định lao động trong các KCN. Chỉ số quan trọng nhất
phản ánh tiêu chí này là điều kiện nơi ở ngƣời lao động, các hoạt động văn hóa
tiếp đó là các trang thiết bị phục vụ sinh hoạt hàng ngày của ngƣời lao động và
Số lƣợng các hoạt động văn hóa, tinh thần của doanh nghiệp, BQL các KCN tổ
chức hàng năm; Số điểm vui chơi, giải trí, văn hóa, thể thao… phục vụ ngƣời
lao động; Chi phí đầu tƣ chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần của ngƣời lao động
của doanh nghiệp, BQL các KCN, địa phƣơng có KCN; hoặc tỷ lệ sử dụng thời
gian sau giờ làm việc của ngƣời lao động…
- Bảo vệ tài nguyên và môi trường:
Quá trình phát triển KCN phải gắn liền với vấn đề bảo đảm và nâng cao
chất lƣợng môi trƣờng của địa phƣơng nơi KCN đứng chân. Điều đó có nghĩa là
để PTBV thì bản thân các KCN phải có khả năng xử lý tốt vấn đề ô nhiễm môi
trƣờng do mình gây nên, không gây ảnh hƣởng tiêu cực đến môi trƣờng sống và
sức khỏe của con ngƣời, bảo vệ đƣợc môi trƣờng sinh thái. Từ những vấn đề lý
luận PTBV về môi trƣờng và thực tiễn môi trƣờng trong các KCN, tác giả cho
rằng các tiêu chí đánh giá PTBV về môi trƣờng của KCN bao gồm ba nhóm cơ
bản sau: Mức độ khai thác hợp lý và tiết kiệm nguồn tài nguyên, mức độ giải
quyết ô nhiệm môi trƣờng (xử lý nƣớc thải KCN, xử lý chất thải rắn và ô nhiễm
không khí); mức độ ứng dụng công nghệ sạch.
1.4. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP CỦA MỘT
SỐ ĐỊA PHƢƠNG
1.4.1. Kinh nghiệm phát triển KCN tỉnh Bình Dƣơng
Bình Dƣơng là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ. Xuất phát điểm của Bình
Dƣơng là tỉnh thuần nông, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nhỏ bé, gần nhƣ chƣa
có hạ tầng công nghiệp. Tuy nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam,
nhƣng trình độ kinh tế còn thấp với số dân chỉ bằng một quận của thành phố Hồ
Chí Minh. Do đó, tỉnh Bình Dƣơng đã xác định xây dựng và phát triển KCN
đƣợc coi là giải pháp và bƣớc đi cần thiết để CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnh.
Với phƣơng châm “trải chiếu hoa” để mời gọi các nhà đầu tƣ, tỉnh Bình Dƣơng
tạo đƣợc sức hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tƣ và cho đến nay Bình Dƣơng đã
29
trở thành một trong những địa phƣơng dẫn đầu về phát triển và thu hút đầu tƣ
vào KCN trong những năm gần đây. Việc hình thành các KCN ở Bình Dƣơng
bắt đầu từ các huyện phía Nam, giáp TP Hồ Chí Minh, nơi có lợi thế về vị trí địa
lý, khả năng huy động nguồn lực, về thị trƣờng, về lao động, tạo điều kiện thuận
lợi trong việc quy hoạch phát triển các KCN phía Bắc của tỉnh Bình Dƣơng.
Trƣớc năm 1997, khi các địa phƣơng khác trên cả nƣớc mới bắt đầu chủ
trƣơng thành lập các KCN thì trên địa bàn Bình Dƣơng đã có 4 KCN, với diện
tích 600 ha; đến năm 2006, số KCN trên địa bàn toàn tỉnh là 21 KCN, với tổng
diện tích là 5129,94 ha, trong đó có 16 KCN đã đi vào hoạt động và cho thuê
đất. Đến hết năm 2009, Bình Dƣơng đã có 25 KCN đã đƣợc thành lập, tổng diện
tích quy hoạch 6.934,48 ha, trong đó đã có 22 KCN đi vào hoạt động với tổng
diện tích 6.157,21 ha. [48]
Về thu hút đầu tƣ: Với cơ chế, chính sách thông thoáng, cơ sở hạ tầng
hiện đại, các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng ngày càng đƣợc sự chú ý của
các nhà đầu tƣ. Số lƣợng dự án đầu tƣ tăng lên hàng năm. Năm 2006 thu hút
đƣợc 75 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài mới, với số vốn là 493 triệu USD, tăng 59% so
với năm 2005; và 25 dự án đầu tƣ trong nƣớc với tổng số vốn 204,4 tỷ đồng.
Năm 2007, thu hút đƣợc 186 dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, với tổng số vốn là
1.254 triệu USD, đứng thứ hai cả nƣớc sau Đồng Nai. Bình Dƣơng cũng là một
trong những tỉnh dẫn đầu về vốn đầu tƣ trong nƣớc thu hút đƣợc với trên 3.000
tỷ đồng vốn đầu tƣ thu hút vào các KCN trong năm 2007. Năm 2009, các KCN
Bình Dƣơng đã thu hút thêm 27 dự án nƣớc ngoài với tổng số vốn đầu tƣ 412
triệu USD và 23 dự án đầu tƣ trong nƣớc, với tổng vốn đầu tƣ đăng ký 5.045,39
tỷ đồng. So với cùng kỳ năm 2008, tăng 28% về số dự án và tăng 261% về vốn.
Nhƣ vậy, tính đến năm 2009 các KCN Bình Dƣơng có 1.019 dự án còn
hiệu lực, bao gồm 708 dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài với tổng vốn đầu tƣ đăng
ký là gần 4,5 tỷ USD, và 311 dự án đầu tƣ trong nƣớc với tổng vốn đầu tƣ là
13.000 tỷ đồng. [48]
Sự phát triển và không ngừng lớn mạnh của các KCN đã có đóng góp
quan trọng vào nền kinh tế - xã hội của Bình Dƣơng. Kim ngạch xuất khẩu của
30
các doanh nghiệp trong KCN liên tục tăng trƣởng: năm 2005 là 595,1 triệu USD
tăng lên 972 triệu USD vào năm 2006, tới năm 2007 kim ngạch xuất khẩu đã lên
đến 1,2 tỷ USD, năm 2009 do khủng hoảng kinh tế toàn cầu kim ngạch xuất
khẩu tăng thấp đạt 1,4 tỷ USD. Nộp ngân sách nhà nƣớc của các KCN tăng ổn
định qua các năm: năm 2006 nộp ngân sách nhà nƣớc là 48,13 triệu USD, tăng
17,36% so với năm 2005; năm 2007 là 61,2 triệu USD; Năm 2009 là 70,9 triệu
USD đạt 70% kế hoạch năm [46]. Hàng năm, các KCN đã giải quyết đƣợc một
số lƣợng lớn việc làm cho lao động trên địa bàn tỉnh và các tỉnh lân cận. Năm
2006, lao động làm tại các doanh nghiệp KCN là 137.236 ngƣời; năm 2007 là
180.000 ngƣời, năm 2009 là 196.000 ngƣời và tính tới quí I/2010, các KCN tỉnh
Bình Dƣơng đã thu hút đƣợc trên 6.000 lao động, nâng tổng số lao động đang
làm việc trong các KCN Bình Dƣơng đến nay là 196.977 ngƣời, tăng 2,8% so
với đầu năm và tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2009 [46]. Nhiều KCN đã kết
hợp với doanh nghiệp trong KCN quan tâm chăm lo đời sống của ngƣời lao
động cả về vật chất lẫn tinh thần nhƣ xây dựng nhà ở, xây dựng các khu vui chơi
giải trí tổ chức các hoạt động thể thao bổ ích. Số lƣợng nhà ở của các KCN xây dựng là 26.000 m2, giải quyết khoảng 5.000 chỗ ở cho công nhân. Tuy nhiên, do
số lƣợng lao động lớn nên Bình Dƣơng cũng chỉ đảm bảo nhà cho 15% số lao
động còn lại đại bộ phận ngƣời lao động phải thuê nhà của dân, chủ yếu là nhà
tạm với những tiện nghi thấp. [48]
Qua thực tiễn phát triển KCN Bình Dƣơng thời gian qua, có thể rút ra một
số kinh nghiệm để tỉnh Vĩnh Phúc nghiên cứu, áp dụng nhƣ sau:
Một là, cùng với những chủ trƣơng chính sách của Nhà nƣớc khuyến
khích các thành phần kinh tế phát triển, sự thống nhất nhận thức và nhất quán
hành động của toàn thể Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh trong quá trình quy
hoạch, xây dựng KCN là vô cùng quan trọng. Và với chính sách thoả đáng, hợp
lý, nó sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải toả để nhanh chóng triển khai
đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và kêu gọi đầu tƣ.
Hai là, quy hoạch KCN phải dựa trên lợi thế so sánh của vùng, có vị trí
địa lý và điều kiện tự nhiện thuận lợi, gắn với phát triển hệ thống giao thông
31
trong và ngoài hàng rào KCN, đấu nối các hạ tầng kỹ thuật (điện, nƣớc, bƣu
chính viễn thông…), nguồn lao động cung cấp cho KCN. Quy hoạch KCN phải
theo lộ trình và định hƣớng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Việc
thành lập mới hay điều chỉnh quy hoạch các KCN đều phải căn cứ vào thực tế
và lợi thế của từng KCN theo hƣớng mới liền kề với KCN đã đƣợc lấp đầy.
Ba là, lựa chọn chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng có năng lực tài chính,
kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và có kinh nghiệm quản lý, có mối
quan hệ khách hàng rộng; đặc biệt là đội ngũ cán bộ kinh doanh phải có sự am
hiểu về hoạt động của KCN để từ đó có khả năng tiếp thị, xúc tiến kêu gọi đầu
tƣ vào KCN. Thực tế cho thấy sự chậm chễ và trở ngại trong việc xây dựng cơ
sở hạ tầng KCN sẽ ảnh hƣởng lớn đến sự triển khai dự án của nhà đầu tƣ.
Nguyên nhân chủ yếu của sự chậm chễ và trở ngại nói trên thuộc về chủ đầu tƣ
thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là
thiếu kinh nghiệm trong xây dựng cơ sở hạ tầng KCN.
Bốn là, phải tiến hành cải cách hành chính một cách triểt để, thực hiện tốt
cơ chế “một cửa”. Các sở ban ngành trong tỉnh cần có sự quan tâm thƣờng
xuyên để kịp thời tháo gỡ các khó khăn vƣớng mắc của nhà đầu tƣ trong quá
trình hoạt động, xoá bỏ tình trạng quan liêu bàn giấy, hách dịch nhũng nhiễu,
tiêu cực, gây ra những khó khăn cho ngƣời dân khi tiếp cận với cán bộ, với các
cơ quan công quyền, trong việc chứng nhận những giấy tờ, hồ sơ và những thủ
tục liên quan đến công việc hành chính. Trong năm 2006 do làm tốt công tác
uỷ quyền và cơ chế “một cửa” Ban quản lý KCN Bình Dƣơng đã giải quyết
đƣợc gần 5000 văn bản, hồ sơ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài,
vì vậy, tiết kiệm đƣợc rất nhiều thời gian đi lại của nhà đầu tƣ và đƣa dự án
sớm đi vào hoạt động. Hiện tại, Bình Dƣơng là một trong những địa bàn hấp
dẫn các nhà đầu tƣ nhất so với cả nƣớc. Nhiều KCN nhƣ: Việt Nam – Singapore,
Sóng Thần, Mỹ Phƣớc… đã trở thành điểm sáng về phát triển công nghiệp của
cả nƣớc. Theo bảng xếp hạng chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, Bình Dƣơng
tiếp tục là một trong những tỉnh nằm ở tốp đứng đầu.
1.4.2. Kinh nghiệm của Hải Dƣơng
32
Hải Dƣơng là một tỉnh nằm ở trung tâm châu thổ sông Hồng, là một trong
7 tỉnh, thành thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Tuy là tỉnh đi sau trong
việc quy hoạch đầu tƣ xây dựng các KCN so với một số tỉnh trong cả nƣớc (mới
đƣợc triển khai trong vài năm gần đây), nhƣng Hải Dƣơng đã biết chọn cho
mình một cách thức và biện pháp, bƣớc đi thích hợp, nên sự hình thành và phát
triển các KCN ở đây khá nhanh. Tỉnh Hải Dƣơng đã sớm có chủ trƣơng quy
hoạch phát triển các vùng công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu và quy hoạch
phát triển đồng bộ các KCN quản lý theo Nghị định 36/CP của Chính Phủ.
KCN của tỉnh Hải Dƣơng đƣợc quy hoạch có vị trí thuận lợi cho việc đầu
tƣ phát triển trƣớc mắt cũng nhƣ việc mở rộng quy hoạch về sau. Các KCN này
đƣợc quy hoạch đồng bộ gắn với quy hoạch các khu đô thị, nhà ở cho công
nhân, khu nhà ở chuyên gia và khu DV phục vụ cho các KCN.
Tính đến năm 2006, tỉnh Hải Dƣơng đã đƣợc Chính phủ cho phép bổ sung
quy hoạch để đầu tƣ xây dựng 7 KCN tập trung với tổng diện tích 1000ha, đó là:
KCN Nam Sách: diện tích 63,93 ha; KCN Đại An: diện tích 170,82 ha; KCN
Phúc Điền: diện tích: 87 ha; KCN Việt Hoà: diện tích 49 ha; KCN Phú Thái:
diện tích 72 ha; KCN Tân Trƣờng: diện tích 200 ha; KCN Tầu Thuỷ: diện tích
210 ha. Năm 2009, số lƣợng các KCN ở Hải Dƣơng đã nâng lên là 10 KCN với
tổng diện tích đất là 1.958 ha.[21], [48]
Hải Dƣơng vừa đầu tƣ xây dựng hạ tầng kỹ thuật tại các KCN vừa thực
hiện vận động kêu gọi đầu tƣ. Nhờ vậy, tính đến cuối năm 2008 các KCN trên
địa bàn tỉnh Hải Dƣơng đạt đƣợc nhiều kết quả hết sức lạc quan. Tính đến nay,
các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút đƣợc 118 dự án (Bao gồm cả dự án đầu tƣ
xây dựng hạ tầng KCN) với tổng số vốn đăng ký là 1,841 tỷ USD. Năm 2008, vốn
thực hiện của các dự án đầu tƣ sản xuất kinh doanh trong KCN là 293 triệu USD,
lũy kế vốn đầu tƣ thực hiện đến nay là 700 triệu USD. Tổng số vốn đầu tƣ hạ tầng
vào các KCN trong thời gian qua khoảng 750 tỷ đồng (chủ yếu là vốn do các
chủ đầu tƣ xây dựng hạ tầng và một phần vốn hỗ trợ của ngân sách nhà nƣớc
đầu tƣ). Trong đó, một số KCN đã gần lấp đầy diện tích đất cho thuê, nhƣ: KCN
Nam Sách; KCN Đại An, KCN Việt Hoà,… Các KCN khác cũng đã lấp đầy hơn
33
50% diện tích đất cho thuê.
Hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN năm 2008 phát triển ổn định
và có mức tăng trƣởng khá. Hiện nay có 90 dự án đã triển khai trong KCN, trong
đó 50 doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất với kết quả về hoạt động
SXKD cụ thể nhƣ sau: doanh thu 700 triệu USD; giá trị hàng nhập khẩu 577
triệu USD; nộp ngân sách cho nhà nƣớc 10 triệu USD; giải quyết công ăn việc
làm cho 34.500 ngƣời, trong đó giải quyết việc làm mới cho 15.300 ngƣời. [48]
Với định hƣớng xây dựng các KCN sạch, thân thiện với môi trƣờng, hiện
các KCN trong tỉnh đã có 2 nhà máy xử lý nƣớc thải đi vào hoạt động chính
thức, 01 nhà máy chuẩn bị hoạt động. Đến nay đã có 41/117 doanh nghiệp thực
hiện báo cáo đánh giá tác động môi trƣờng và cam kết bảo vệ môi trƣờng theo
quy định khi tham gia đầu tƣ sản xuất kinh doanh trong KCN.
Bài học về sự hình thành và phát triển các KCN ở Hải Dƣơng, đã cung
cấp một số kinh nghiệm có thể tham khảo cho tỉnh Vĩnh Phúc trong việc đảm
bảo sự phát triển bền vững đối với các KCN, đó là:
Thứ nhất, việc quy hoạch phát triển các KCN và KCX phải gắn với sự
quy hoạch phát triển KT - XH của địa phƣơng. Cần tranh thủ sự giúp đỡ của
Chính phủ và các Bộ, ban, ngành Trung ƣơng, đồng thời phải đƣợc sự đồng
thuận, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo tỉnh và phối kết hợp chặt chẽ của các sở, ban,
ngành trong tỉnh.
Thứ hai, công tác giải phóng mặt bằng để xây dựng các KCN cần phải
đƣợc sự chỉ đạo thống nhất và kịp thời của các cấp chính quyền trong tỉnh, coi
nhƣ là một nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền, đồng thời phải đảm
bảo đúng chế độ chính sách về đất đai và quyền lợi của ngƣời dân có đất bị thu
hồi để xây dựng các KCN.
Thứ ba, xây dựng cơ chế chính sách ƣu đãi đầu tƣ vào các KCN: Một
trong những điều kiện có yếu tố quyết định các nhà đầu tƣ (đặc biệt là nhà đầu
tƣ nƣớc ngoài) là các điều kiện về xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó có việc xây
dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật trong các KCN. Việc đầu tƣ xây dựng hạ tầng kỹ
thuật đòi hỏi cần phải có một lƣợng vốn ban đầu rất lớn, trong khi điều kiện
34
ngân sách của tỉnh còn hạn hẹp, tỉnh Hải Dƣơng lựa chọn phƣơng án tạo điều
kiện thuận lợi nhất để huy động tất cả các nguồn vốn, đặcbiệt là nguồn vốn của
các thành kinh tế tƣ nhân rong và ngoài nƣớc, cùng với sự hỗ trợ của tỉnh và
Trung ƣơng để đầu tƣ xây dựng hạ tầng đồng bộ trong và ngoài KCN. Để tạo
môi trƣờng hấp dẫn các nhà đầu tƣ, UBND tỉnh Hải Dƣơng đã sớm ban hành
quy chế ƣu đãi khuyến khích đầu tƣ vào các KCN trên địa bàn tỉnh; tạo điều
kiện thuận lợi cải thiện môi trƣờng đầu tƣ của tỉnh, đáp ứng đƣợc nguyện vọng
của các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc, đặc biệt đối với các nhà đầu tƣ kinh
doanh hạ tầng trong và ngoài KCN, họ sẵn sàng bỏ vốn đầu tƣ xây dựng và kinh
doanh hạ tầng KCN.
Thứ tư, thực hiện cơ chế “một cửa tại chỗ” cho các nhà đầu tƣ: Thực hiện
cơ chế một cửa là giải pháp quan trọng trong công tác cải cách hành chính ở
nƣớc ta hiện nay. Đối với hoạt động thu hút đầu tƣ, việc thực hiện cơ chế một
của có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp nhà đầu tƣ tiết kiệm đƣợc thời gian
đi lại và tạo điều kiện rút ngắn thời gian đƣa dự án sớm vào hoạt động. Ngay sau
khi đƣợc thành lập, Ban quản lý các khu công nghiệp Hải Dƣơng đã sớm tham
mƣu cho tỉnh ban hành Quy chế phối hợp giữa Ban Quản lý các khu công nghiệp
tỉnh với các cấp, ngành trong việc quản lý các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Đồng thời thực hiện cơ chế uỷ quyền của Tỉnh và các Bộ, ngành Trung ƣơng
trong việc thực hiện các thủ tục hành chính cho các nhà đầu tƣ: Cấp phép đầu tƣ
đối với dự án đầu tƣ trong và ngoài nƣớc; Quản lý và phê duyệt kế hoạch xuất
nhập khẩu; Cấp phép cho lao động nƣớc ngoài và quản lý lao động của các doanh
nghiệp trong khu công nghiệp...
Các thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tƣ trong thời gian qua luôn
đƣợc Ban quản lý tập trung giải quyết kịp thời, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
các nhà đầu tƣ trong việc triển khai dự án, sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy đã
góp phần rất tích cực trong việc tạo ra bức tranh môi trƣờng đầu tƣ hấp dẫn của
tỉnh Hải Dƣơng trong việc thu hút đầu tƣ.
Thứ năm, chủ động xây dựng và thực hiện tốt các chƣơng trình xúc tiến
đầu tƣ thích hợp, phối hợp nhịp nhàng cùng với các đơn vị chủ đầu tƣ hạ tầng
35
tăng cƣờng xúc tiến đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Cụ thể, phải chủ động xây dựng
mục tiêu các ngành nghề, lĩnh vực, dự án cần xúc tiến đầu tƣ đi đôi với lựa chọn
địa bàn xúc tiến đầu tƣ thích hợp. Đặc biệt, lãnh đạo tỉnh cần trực tiếp đi xúc
tiến kêu gọi đầu tƣ đi đôi với tổ chức hội thảo trong và ngoài nƣớc với nội dung
liên quan đến công tác xúc tiến đầu tƣ.
36
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
2.1. TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH
VĨNH PHÖC
2.2.1. Đất phi nông nghiệp khá lớn, nguồn nƣớc dồi dào và vị trí địa
lý thuận tiện
2.1.1.1. Đất đai
Điều kiện tự nhiên của Vĩnh Phúc không có nhiều ƣu đãi trong phát triển
nông nghiệp, nhƣng đổi lại Vĩnh Phúc có tiềm năng để phát triển công nghiệp và
dịch vụ. Tài nguyên đất của Vĩnh Phúc không lớn chỉ có 123.176,43 ha (đứng
thứ 59/64 tỉnh thành) nhƣng rất có tiềm năng để phát triển các KCN, bởi hiện
nay trên địa bàn tỉnh có 6.038 ha diện tích đất cho KCN các loại; thêm vào đó,
việc quy hoạch lại những vùng đất phát triển nông nghiệp kém hiệu quả cũng làm
tăng diện tích để xây dựng các KCN. Vĩnh Phúc đƣợc đánh giá là tỉnh có chính
sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất khá tốt và cũng là một trong những tỉnh tạo
khả năng tiếp cận đất đai tốt nhất cho các nhà đầu tƣ. Theo số liệu thống kê, Vĩnh
Phúc có diện tích đất chƣa sử dụng 2.920,65 ha (chiếm 2,4%). Đây là quỹ đất
lớn tạo điều kiện cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang sản xuất công
nghiệp hoặc thành lập các KCN để có hiệu quả cao hơn.
Theo báo cáo “Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất tỉnh Vĩnh Phúc đến năm
2010” khả năng chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp cao, năm 2010(dự kiến)
khoảng 8.426,09ha, trong đó có 7.159,43 ha đất sản xuất nông nghiệp chủ yếu là
đất bạc màu, năng suất thấp. Trong tổng số đất nông nghiệp chuyển sang đất phi
nông nghiệp có khoảng 3.200ha đƣợc sử dụng cho phát triển các KCN. Với diện
tích này, tỉnh Vĩnh Phúc có thể tiếp tục mở rộng quy hoạch các KCN với quy
mô lớn. Còn đến năm 2020, sẽ có khoảng trên 10.571ha. Tiềm năng đất đai phi
nông nghiệp tập trung phân bố chủ yếu ở các địa phƣơng nhƣ: huyện Bình
Xuyên; Tam Dƣơng, Lập Thạch; một số địa điểm thuộc các huyện Vĩnh
37
Tƣờng... Đó là điều kiện cần thiết cho phép phát triển các KCN. Phần lớn diện
tích đất thuộc các huyện Tam Dƣơng, Lập Thạch… là đất đồi và đất trồng lúa
cho năng suất thấp. Các diện tích đất thuộc huyện Vĩnh Tƣờng tuy là đất trồng
lúa nhƣng hiệu quả không cao, có thể chuyển đổi sang phát triển công nghiệp và
đô thị. Các diện tích đất này phần lớn gần với các tuyến GT huyết mạch: Quốc
lộ số 2, Quốc lộ 2C, các tuyến đƣợc cao tốc Xuyên Á dự kiến (Nội Bài – Lào
Cai), vành đai của Thủ đô Hà Nội... Ngoài ra, có một số diện tích chƣa đƣợc
đánh giá đầy đủ về các điều kiện cần thiết cho phát triển các KCN, cần đƣợc
điều tra khảo sát tiếp. Đây là một thuận lợi đáng kể cho phát triển công nghiệp
và KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Cùng với chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất đƣợc đánh giá cao,
giá thuê đất của Vĩnh Phúc cũng là một lợi thế để thu hút các nhà đầu tƣ vào
KCN. Giá thuê đất Vĩnh Phúc thấp hơn so với các tỉnh lân cận. Đối với các dự
án đầu tƣ giá thuê đất tối đa là 20% so với giá thuê đất của UBND tỉnh ban
hành, đồng thời với sự ƣu đãi của UBND tỉnh cho việc đầu tƣ cũng đƣợc thể
hiện tại những nơi có điều kiện thuận lợi cho phát triêể KCN giá đất thấp hơn so
với các huyện, thị xung quanh. Ví dụ: Bình Xuyên, Phúc Yên giá thuê đất thấp
hơn so với các vùng khác trong tỉnh.
Những lợi thế trên cùng với hệ thống chính sách của UBND tỉnh Vĩnh
Phúc về việc cung cấp, giải quyết giấy tờ quyền sử dụng đất của các doanh
nghiệp đầu tƣ đã tạo ra tiềm năng lớn cho việc phát triển KCN với tính cạnh
tranh cao trong tƣơng lai trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
2.1.1.2. Nguồn nước
Tài nguyên nƣớc trên địa bàn Vĩnh Phúc khá dồi dào, đặc biệt là nƣớc mặt với tổng trữ lƣợng nƣớc mặt khoảng 10 tỷ m3. Nguồn nƣớc mặt của Tỉnh khá
phong phú nhờ 2 sông lớn chảy qua là sông Hồng (với lƣu lƣợng lớn nhất 5.090 cm3/s) và sông Lô (với lƣu lƣợng lớn nhất 1.460 cm3/s), cùng với các sông Phó
Đáy, sông Phan, Cà Lồ, các hồ chứa Đại Lải, Xạ Hƣơng, Vân Trục, Đầm Vạc...
Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là phát triển
các KCN có quy mô lớn.
38
Hệ thống nƣớc mặt phân bố khắp trong tỉnh tạo nên hệ thống cấp thoát
nƣớc có hiệu quả cao hơn phục vụ quá trình sản xuất, đặc biệt là trong các khu
công nghiệp. Hiện nay các KCN tập trung ngay gần những hệ thống sông và hệ
thống hồ, ví dụ: KCN Khai Quang - gần sông Hồng, gần hệ thống Đầm Vạc của
thành phố Vĩnh Yên. Điều này sẽ làm cho sản xuất đƣợc thuận lợi, chi phí xây
dựng hệ thống cấp thoát nƣớc của các KCN thấp vì vậy tạo ra thuận lợi hạ giá
thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh.
2.1.1.3. Vị trí địa lý:
Vĩnh Phúc có vị trí địa lý đƣợc đánh giá là khá thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong việc thu hút nguồn vốn đầu tƣ trong và
ngoài nƣớc.
Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền núi - đồng bằng. Vì
vậy, đây là cầu nối quan trọng với vùng trung du miền núi phía Bắc với vùng
đồng bằng sông Hồng. Với độ cao địa hình không lớn, do đó sự lƣu thông đƣợc
diễn ra dễ dàng , mở ra tiềm năng thị trƣờng lớn, thuận lợi để sản xuất, trao đổi
hàng hoá.
Quá trình phát triển kinh tế đất nƣớc trong những năm qua đã cho Vĩnh
Phúc những lợi thế mới về vị trí địa lý. Đƣợc xác định là 1 trong 8 tỉnh của vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Tỉnh đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành
đai phát triển công nghiệp phía Bắc. Vị trí này tạo ra lực mới cho thu hút đẩy
mạnh hoạt động đầu tƣ. Vị thế của tỉnh đƣợc tăng lên trong bản đồ kinh tế quốc
gia, cái nhìn của các nhà đầu tƣ vào Vĩnh Phúc có sự chuyển biến. Bên cạnh đó,
do nằm cạnh các tỉnh có rất nhiều điều kiện thuận lợi thu hút đầu tƣ, cũng nhƣ
phát triển các KCN nên Vĩnh Phúc bị đặt trong thế cạnh tranh giữa các tỉnh, thành
này. Do vậy, Vĩnh Phúc phải năng động đổi mới mình để cạnh tranh đƣợc với các
địa phƣơng khác.
Vị trí quan trọng để tạo ra động lực, tiềm năng chính trong việc thu hút
đầu tƣ, phát triển các KCN là vị trí gần Hà Nội. Giáp với Hà Nội, các KCN tỉnh
Vĩnh Phúc chịu ảnh hƣởng của sức lan toả của các KCN lớn thuộc Hà Nội nhƣ
Quang Minh, Bắc Thăng Long, Sóc Sơn. Do đó, tỉnh có khả năng tiếp nhận các
39
dự án đầu tƣ – xây dựng vệ tinh phát triển kinh tế, tăng thu hút vốn đầu tƣ, tiến
hành chuyển giao công nghệ.
Vị trí địa lý với sự giao lƣu kinh tế giữa các tỉnh cũng tạo ra tiềm năng lớn
cho phát triển các KCN của tỉnh. Hiện nay mối quan hệ kinh tế giữa các tỉnh
trong vùng đồng bằng sông Hồng, các tỉnh kinh tế thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía Bắc và các tỉnh khác đang đƣợc đẩy mạnh phát triển thông qua hệ thống
giao thông vận tải. Giao thông vận tải tạo nên lợi thế lớn cho tỉnh Vĩnh Phúc. Sự
phát triển của hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc
đã làm cho tỉnh xích lại gần với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và những
thành phố lớn của nƣớc ta: Côn Minh – Hà Nội - Hải Phòng; Việt Trì – Hà
Giang – Trung Quốc và hành lang đƣờng 18. Vĩnh Phúc có trục quốc lộ 2 đóng
vai trò xƣơng sống huyết mạch của vận chuyển sản xuất, có đƣờng sắt Hà Nội –
Lào Cai chạy qua, đặc biệt sự liền kề với cảng hàng không quốc tế Nội Bài là
yếu tố tạo ra tiềm năng thu hút đầu tƣ nhất; do đó, đầu tƣ vào KCN Vĩnh Phúc
sẽ giúp các doanh nghiệp gia tăng lợi thế cạnh tranh, tiết kiệm chi phí vận
chuyển bằng đƣờng bộ, đƣờng sắt và đƣờng hàng không.
Nhƣ vậy, vị trí đã tạo nên những yếu tố thuận lợi cho sự phát triển các
KCN và thu hút đầu tƣ. Đặc biệt nó tạo ra lợi thế cạnh tranh lớn so với các tỉnh
trung du và miền núi.
2.1.2. Nguồn lao động trẻ
Dân số Vĩnh Phúc khá đông, do đó tỉnh có một nguồn lao động khá dồi
dào. Năm 2009, nguồn lao động của tỉnh là 690,68 nghìn ngƣời, tăng 1,1 lần so
với năm 2008 (672,61 nghìn ngƣời), chiếm 69% dân số toàn tỉnh
(690,68/1.003,047), trong đó, dân số từ độ tuổi 15 đến 45 tuổi chiếm 50 % dân
số toàn tỉnh. Do kết cấu dân số trẻ, tăng bình quân hàng năm 20 nghìn ngƣời nên
nguồn lao động của Vĩnh Phúc có khả năng đáp ứng đƣợc nhu cầu lao động cho
các KCN. Bên cạnh đó, giá nhân công lao động Vĩnh Phúc rẻ hơn hẳn so với các
tỉnh khác thuộc đồng bằng sông Hồng. Đây là lợi thế so sánh tạo ra năng lực thu
hút vốn đầu tƣ cho tỉnh nhà nói chung và cho KCN nói riêng.
Thế mạnh của lực lƣợng lao động trẻ là năng động, nhạy bén trong tiếp
40
cận thị trƣờng, sáng tạo trong sản xuất đáp ứng đƣợc những yêu cầu của các nhà
đầu tƣ. Tuy nhiên, lao động Vĩnh Phúc có trình độ học vấn không cao, chủ yếu là
lao động tốt nghiệp trong các bậc trung học phổ thông cơ sở. Theo thống kê tính
đến thời điểm ngày 1/4/2009 lao động trên 15 tuổi chƣa qua đào tạo chiếm
65,3% dân số toàn tỉnh, còn lao động qua đào tạo chỉ chiếm 10%. Nhƣng chính
điều đó giúp cho Vĩnh Phúc có nhiều tiềm năng trong việc thu hút các ngành cần
nhiều lao động, nhƣ dệt may, công nghiệp vật liệu, công nghiệp sản xuất sản
phẩm tiêu dùng bởi giá nhân công lao động giản đơn rất thấp.
Tuy nhiên, cần thấy rằng lao động giá rẻ chỉ là lợi thế hiện tại, và cũng chỉ
đối với một số ngành truyền thống nào đó, chứ không phải là lợi thế so sánh
trong thời đại CNH, HĐH. Vì vậy, tỉnh Vĩnh Phúc cần phải có chiến lƣợc đào
tạo trình độ chuyên môn cho đội ngũ này.
2.1.3. Hệ thống kết cấu hạ tầng tƣơng đối phát triển
Hệ thống kết cấu hạ tầng – kỹ thuật tạo nên những điều kiện vật chất
ban đầu cho toàn bộ quá trình sản xuất. Kết cấu hạ tầng tốt, sản xuất đƣợc
thuận lợi thì việc thu hút đầu tƣ cũng trở nên dễ dàng hơn và ngƣợc lại, nếu
kết cấu hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ, chất lƣợng thấp thì hoạt động thu hút
đầu tƣ sẽ thấp.
Tại Vĩnh Phúc, mạng lƣới giao thông tƣơng đối phát triển, đặc biệt là hệ
thống đƣờng bộ. Tổng chiều dài đƣờng bộ là 1750 km, mặt đƣờng là 0,0367 km/km2, cao hơn so với mức trung bình của cả nƣớc (0,326km/km2). Tuyến
đƣờng quan trọng nhất của tỉnh là quốc lộ 2A, có vai trò quan trọng trong việc
phát triển kinh tế và giao lƣu kinh tế trong tỉnh với các tỉnh khác trong khu vực.
Chiều dài quốc lộ 2A chạy qua tỉnh khoảng 40 km, hiện nay đang đƣợc hiện đại
hóa, làn đƣờng đƣợc mở rộng với hệ thống cầu vƣợt đƣợc xây dựng, là điều kiện
để tăng tốc độ của các phƣơng tiện vận tải. Đây là một lợi thế quan trọng để thúc
đẩy sản xuất và thu hút vốn đầu tƣ của tỉnh nói chung và của KCN nói riêng. Bên
cạnh huyết mạch 2A, các tuyến quốc lộ khác: 2B, 2C, 23 cũng đƣợc mở rộng và
cải thiện. Bên cạnh đó, các tuyến huyện lộ cũng đƣợc nâng cấp. Trong thời gian
tới, tỉnh Vĩnh Phúc còn đƣợc thừa hƣởng một hệ thống đƣờng bộ hiện đại, với các
41
tuyến hành lang xuyên Á: Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, đƣờng vành
đai IV, vành đai V của thủ đô Hà Nội. Đây là điều kiện để giảm thiểu chi phí vận
tải cho các doanh nghiệp và ngƣời dân nói chung.
Trên địa bàn tỉnh còn có tuyến đƣờng sắt Hà Nội – Lào Cai chạy qua,
trong đó có hai ga quan trọng là ga Vĩnh Yên và ga Phúc Yên. Đƣờng sắt nối
Vĩnh Phúc với các tỉnh khác trong cả nƣớc, đặc biệt là nối với Trung Quốc –
Một thị trƣờng lớn cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Bên cạnh đó, hệ thống sông Hồng và sông Lô chảy qua Vĩnh Phúc dài
trên 50km, hiện có 3 cảng là Chu Phan và Vĩnh Thịnh trên sông Hồng, cảng
Nhƣ Thụy trên Sông Lô. Hƣớng phát triển sắp tới: xây dựng cảng Vĩnh Thịnh,
Nhƣ Thụy hoặc Hải Lựu, Chu Phan thành các cảng lớn. Hệ thống cảng sông
đang đƣợc đẩy mạnh đầu tƣ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho phát triển vận tải
và gián tiếp tác động đến phát triển các KCN trên địa bàn.
Nhìn chung, hệ thống giao thông vận tải của Vĩnh Phúc đã tạo ra khá
nhiều thuận lợi cho việc phát triển kinh tế hội nhập của tỉnh. Vĩnh Phúc có lợi thế
“trời cho” là tiếp giáp với thủ đô Hà Nội và gần sân bay quốc tế Nội Bài. Các
tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đƣợc nối liền. Cùng với sự phát triển của hệ thống giao
thông đƣờng sông và đƣờng sắt làm cho hoạt động kinh tế của tỉnh đƣợc thuận
lợi. Xây dựng và quy hoạch phát triển giao thông vận tải giúp Vĩnh Phúc có thể
quy hoạch tập trung và tạo điều kiện thuận lợi cho các xí nghiệp sản xuất trong
các KCN tiết kiệm thời gian, giảm chi phí vận chuyển. Từ đó tạo ra cơ hội lớn
cho việc thu hút đầu tƣ.
Mạng lƣới điện của tỉnh Vĩnh Phúc nằm trong sự phát triển của hệ thống
điện của các tỉnh Miền Bắc. Tính đến năm 2009, toàn tỉnh có 152/152 xã,
phƣờng có điện lƣới quốc gia . Hiện tại có 2 trạm biến áp 110KV đặt ở Phúc
Yên và Vĩnh Yên; các trạm đƣợc nối với điện lƣới quốc gia qua đƣờng dây
110KV Việt Trì - Đông Anh. Ngoài ra, hỗ trợ điện cho Vĩnh Phúc còn có 2
đƣờng dây 35 KV từ trạm 110KV Việt Trì (Phú Thọ) và 1 đƣờng dây 35KV từ
Đông Anh (Hà Nội). Nằm trong vùng thuận lợi về cung cấp điện từ điện lƣới
quốc gia, với hệ thống truyền tải và phân phối điện đƣợc quy hoạch và đầu tƣ
42
đồng bộ đảm bảo cung cấp điện cho nhu cầu phát triển các KCN nói riêng và
kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung.
Nhƣ trên đã đề cập, Vĩnh Phúc có tiềm năng lớn về nguồn nƣớc. Nguồn
nƣớc mặt, nƣớc ngầm tự nhiên dồi dào đủ để cung cấp cho hoạt động sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi trên địa bàn. Hiện tại, Vĩnh Phúc có 3 nhà máy cung cấp nƣớc sạch: 01 ở Vĩnh Yên có công suất 16.000m3/ngày đêm; 02 Phúc Yên có tổng công suất là 23.000 m3/ngày đêm. Tỉnh đang triển khai xây
dựng mới một số công trình cấp nƣớc để đến 2010 đảm bảo công suất cấp nƣớc đạt 100.000-300.000m3/ngày-đêm; đến 2020 lên 1.000.000m3/ngày-đêm, đảm
bảo nguồn nƣớc cần thiết cho các nhà máy hoạt động.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH
VĨNH PHÖC 1998 - 2010
2.2.1. Thực trạng quy hoạch và phát triển khu công nghiệp
Xuất phát điểm của Vĩnh phúc là một tỉnh thuần nông, với tỷ trọng giá trị
nông nghiệp trên tổng GDP là khá cao, với 44,06%/ năm 1997, 40,68%/
năm2000, nhƣng điều kiện phát triển nông nghiệp lại rất khó khăn do đất bạc
màu, đất đỏ vàng nhạt chiếm tỷ lệ cao (40%), đất đồng bằng phù sa thì chất
lƣợng đất thấp. Nhận thức đƣợc điều đó tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII,
Vĩnh Phúc đã xác định “phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, nhất là đối
với công nghiệp”. Định hƣớng đó tiếp tục đƣợc khẳng định tại Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIII và XIV, và xác định cụ thể hơn là Vĩnh
Phúc sẽ tập trung hình thành một số KCN, CCN công nghệ cao ở các địa bàn có
lợi thế tạo môi trƣờng thuận lợi để thu hút các nguồn lực của các thành phần
kinh tế (bao gồm cả nguồn nội lực và ngoại lực), đầu tƣ cho phát triển công
nghiệp, trong đó coi các nguồn lực bên trong là quyết định, đồng thời hết sức coi
trong thu hút nguồn lực từ bên ngoài, để thực hiện tốt chiến lƣợc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tỉnh, phấn đấu có đủ các yếu tố cơ bản của một tỉnh công
nghiệp vào năm 2015.
Để phát triển các KCN có hiệu quả, tỉnh xác định công tác quy hoạch phải
đi trƣớc một bƣớc. Vì vậy, tỉnh đã tập trung xây dựng quy hoạch phát triển
43
KCN. Theo Quyết định số 679/QĐ ngày 01-8-1998 của Thủ tƣớng Chính phủ,
KCN Kim Hoa đƣợc thành lập, với diện tích quy hoạch Giai đoạn I là 50ha. Sau
đó là 3 KCN nữa đƣợc chính thức thành lập theo quyết định của Thủ tƣớng
Chính phủ, gồm: KCN Quang Minh, KCN Khai Quang và KCN Bình Xuyên với
tổng diện tích 877,4 ha, trong đó KCN Quang Minh 344,4ha, KCN Khai Quang
262 ha, KCN Bình Xuyên 271ha.
Từ đó đến nay, các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc không ngừng đƣợc thành lập
và mở rộng. Tính đến nay trên địa bàn Vĩnh Phúc có 20 KCN đƣợc Thủ tƣớng
Chính phủ phê duyệt phát triển đến năm 2015, định hƣớng đến năm 2020, trong
đó có 07 KCN đã đƣợc thành lập và cấp giấy CNĐT (bảng 2.1)
Bảng 2.1. Các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc từ 1998 – 2020:
STT Tên KCN Vị trí địa lý Diện tích (ha) Tình hình đầu tƣ
1 Kim Hoa (Giai đoạn I) TX. Phúc Yên 50 Đang hoạt động
2 Khai Quang TP. Vĩnh Yên 262 Đang hoạt động
3 Bình Xuyên H. Bình Xuyên 271 Đang hoạt động
4 Bá Thiện H. Bình Xuyên 327 Đang hoạt động
5 Bình Xuyên II H. Bình Xuyên 485 Đang xây dựng
6 Bá Thiện II H. Bình Xuyên 308 Đang xây dựng
7 Phúc Yên TX. Phúc Yên 150 Đang xây dựng
8 Tam Dƣơng I H. Tam Dƣơng 700
Khởi công xây dựng cuối năm 2010
9 Chấn Hƣng H. Vĩnh Tƣờng 131
Dự kiến khởi công tháng 6/2011
10 Hội Hợp TP. Vĩnh Yên 150
Dự kiến khởi công tháng 6/2011
11 Sơn Lôi H. Bình Xuyên 300
Dự kiến khởi công tháng 6/2011
44
STT Tên KCN Vị trí địa lý Diện tích (ha) Tình hình đầu tƣ
12 Nam Bình Xuyên H. Bình Xuyên 304 Phát triển từ năm 2012 trở đi
13 Lập Thạch II H. Lập Thạch 250 Phát triển sau năm 2012
14 Sông Lô I H. Sông Lô 200 Phát triển sau năm 2012
15 Sông Lô II H. Sông Lô 180 Phát triển sau năm 2012
16 Lập Thạch I H. Lập Thạch 150 Phát triển sau năm 2012
17 Tam Dƣơng II H. Tam Dƣơng 750 Phát triển sau năm 2012
18 Vĩnh Tƣờng H. Vĩnh Tƣờng 200 Phát triển sau năm 2012
19 Vĩnh Thịnh H. Vĩnh Tƣờng 270 Phát triển sau năm 2012
20 H. Lập Thạch 600 Phát triển sau năm 2012 Thái Hòa, Liễn Sơn, Liên Hòa
Tổng 6,038
Nguồn: Ban Quản lý các khu công nghiệp Vĩnh Phúc
Giai đoạn từ 2005-2010 là giai đoạn phát triển vƣợt bậc của tỉnh Vĩnh
Phúc trong việc quy hoạch và phát triển KCN. Chỉ trong vòng 5 năm tỉnh đã
đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt chủ trƣơng đầu tƣ là 17 KCN với diện tích
là (5.455 ha) với tổng số vốn đã đầu tƣ vào hạ tầng các KCN khoảng 877 tỷ
đồng và 13,5 triệu USD.
Nhìn lại hơn 10 năm phát triển, có thể nhận thấy quy hoạch phát triển
KCN của tỉnh khá hợp lý, cho phép khai thác đƣợc các tiềm năng, lợi thế của
tỉnh. Cụ thể:
Các KCN đều đƣợc quy hoạch ở vị trí thuận lợi về giao thông, gắn với
các tuyến đƣờng Quốc lộ, tỉnh lộ, gần các bến cảng, nhà ga, sân bay, các trung
tâm KT - XH của địa phƣơng và các khu vực lân cận. Ví dụ, các KCN Bình
45
Xuyên, KCN Khai Quang đều nằm cạnh quốc lộ 2, đƣờng sắt Hà Nội – Lào Cai,
cách sân bay quốc tế nội bài 20 km.
Quy hoạch KCN đƣợc gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển KT-XH
của địa phƣơng. Các KCN đƣợc phân bố hợp lý tại các vùng, các địa bàn có
nhiều tiềm năng phát triển KCN trong tỉnh, góp phần tạo việc làm và chuyển đổi
cơ cấu lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế tại mỗi địa phƣơng trong tỉnh, đặc
biệt là sự phát triển của các làng nghề, các cụm công nghiệp và sản xuất nông
nghiệp, tạo nên sự phát triển đồng đều giữa các khu vực trong tỉnh. Do điều kiện
địa lý và thổ nhƣỡng, các KCN chủ yếu đƣợc quy hoạch tại các huyện phía Bắc
tỉnh là Bình Xuyên, Tam Dƣơng, Lập Thạch và Sông Lô. Các huyện phía Nam
tỉnh nhƣ Vĩnh Tƣờng có 02 KCN, Yên Lạc không quy hoạch KCN, do đây là
vùng đất trồng lúa năng suất cao, và đó cũng là hạn chế trong việc thúc đẩy công
nghiệp hoá các địa phƣơng này.
Quy hoạch KCN đã gắn với quy hoạch các khu đô thị, dịch vụ đảm
bảo cung cấp nhà ở cho công nhân, chuyên gia làm việc trong KCN; cung cấp
các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo, vui chơi giải trí cho ngƣời lao
động. Các KCN hiện có chủ yếu đƣợc phân bố ở thành phố Vĩnh Yên (KCN
Khai Quang), Thị xã Phúc Yên (Kim Hoa), và huyện Bình Xuyên (KCN Bá
Thiện, KCN Bình Xuyên). Khoảng cách giữa các KCN này với các trung tâm đô
thị lớn (thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên) là không lớn, do đó, tạo điều kiện
đảm bảo cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội cơ bản, cung cấp nguồn nhân lực đầu
vào cần thiết khác cho phát triển các KCN.
2.2.2. Hoạt động tại các khu công nghiệp
2.2.2.1. Xây dựng hạ tầng khu công nghiệp
Trong 07 KCN đã đƣợc thành lập và đi vào hoạt động có 03 KCN chủ đầu
tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng là các doanh nghiệp trong nƣớc (KCN Khai Quang,
Bình Xuyên, Kim Hoa) với tổng số vốn đăng ký là 954,569 tỷ đồng, còn KCN
Bá Thiện, Bình Xuyên II và Bá Thiện II chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng là
doanh nghiệp nƣớc ngoài; với tổng số vốn đầu tƣ đăng ký là 241,085 triệu USD,
còn KCN Phúc Yên chƣa tìm đƣợc chủ đầu tƣ. Nhằm đảm bảo tiến độ đầu tƣ hạ
46
tầng các khu công nghiệp, để thuận lợi cho việc thu hút đầu tƣ, Ban quản lý các
KCN không ngừng đôn đốc và giải quyết những khó khăn vƣớng mắc, bồi
thƣờng giải phóng mặt bằng. Do đó, tình hình giải ngân vốn đầu tƣ của các KCN
tỉnh Vĩnh Phúc là khá tốt, tăng đều qua các năm: (bảng 2.2)
Bảng 2.2 : Vốn đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN Vĩnh Phúc
(tính luỹ kế)
Vốn thực hiện
Tên các KCN Vôn đầu tƣ đăng ký 2005 2007 2008 2009 đến quý II/2010
Chủ đầu tư trong nước 21,27 273,6 445,23 616,28 493,81 (tỷ đồng)
Kim Hoa GĐ1 95,01 21,27 35,75 60,99 95,01 -
Tỷ trọng (%) 22,39 37,63 64,19 100
Kim Hoa GĐ2 252,37 48,56 -
Tỷ trọng (%) 19,24
Khai Quang 286,02 0 120,00 156,04 185,71 188,21
Tỷ trọng (%) 41,96 54,56 64,93 65,80
Bình Xuyên 573,54 0 117,8 228,20 287 305,6
Tỷ trọng (%) 20,54 39,79 50,04 53,28
Chủ đầu tư nước ngoài 5,82 12,32 17,6 (triệu USD)
Bá Thiện 78,5 0 3,82 8,92 12,2 0
4,87 11,36 15,54 Tỷ trọng (%)
Bình Xuyên II 100,0 0 2 3,4 5,4 0
2 3,40 5,40 Tỷ trọng (%)
Nguồn: [10]
47
Qua bảng 2.2, có thể nhận thấy, vốn thực hiện của các dự án hạ tầng KCN
tăng liên tục từ năm 2005 đến nay. Năm 1998, do mới có một KCN đi vào hoạt
động nên vốn thực hiện thấp, chỉ đạt 21,27 tỷ đồng, nhƣng đến năm 2009 số
vốn thực hiện lên đến 616,28 tỷ đồng và 12,32 triệu USD, tăng gấp 40 lần.
Trong đó, KCN Kim Hoa đã thực hiện đƣợc 100% vốn đầu tƣ giai đoạn I,
nhƣng sang giai đoạn II số vốn thực hiện mới đạt 48,56 tỷ đồng (đạt 19,24%)
vì vốn đầu tƣ đăng ký thì tăng lên nhƣng vốn thực hiện thì vẫn chủ yếu là ở
giai đoạn I và đang gặp khó khăn, vƣớng mắc trong việc giải phóng mặt bằng
do nằm trên địa bàn liên tỉnh.
KCN Khai Quang và Bình Xuyên thành lập và đi vào hoạt động năm
2006, nhƣng sau một năm hoạt động số vốn thực hiện của các dự án hạ tầng đạt
khá cao: KCN Khai Quang đạt 41% vốn đầu tƣ, KCN Bình Xuyên đạt 31%. Đến
quý II/2010, số vốn thực hiện của KCN Khai Quang đã đạt 65,8% vốn đầu tƣ, và
53,3% vốn đầu tƣ là của KCN Bình Xuyên.
KCN Bá Thiện và Bình Xuyên II do chủ đầu tƣ nƣớc ngoài làm chủ đầu
tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng thì tỷ trọng rất thấp, do các KCN này mới thành lập
và năng lực của chủ đầu tƣ còn hạn chế. Bên cạnh đó, cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu đã ảnh hƣởng tới quyết tâm của chủ đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣ KCN Bình
Xuyên II: (Chủ đầu tƣ hạ tầng KCN là Tập đoàn KHKT Hồng Hải – Đài Loan).
Vốn thực hiện tính đến quý II/2010 đạt 5,4 triệu USD đạt 5,4% vốn đầu tƣ. KCN
Bá Thiện: (Chủ đầu tƣ hạ tầng KCN là Công ty TNHH Compal), lũy kế đến hết
quý II/2010 đạt 12,2 triệu USD, đạt 15,5% chủ yếu đầu tƣ cho việc san lấp mặt
bằng và làm nền đƣờng, nhà máy xử lý nƣớc thải, trạm điện.
Với số vốn đầu tƣ lớn, đƣợc sự hỗ trợ của nhà nƣớc các chủ đầu xây dựng
cơ sở hạ tầng đã bƣớc đầu xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng khá đồng bộ
cho các KCN tỉnh Vĩnh Phúc. Nhƣ KCN Bình Xuyên quý I năm 2009, đã cung
cấp hệ thống điện, nƣớc sạch với tổng trị giá 437 triệu đồng, trong đó lắp đặt
đƣợc 424 m đƣờng dây điện 35 KV, xây dựng đƣợc 356m đƣờng ống nƣớc sạch
và 230 m hệ thống chiếu sáng KCN; cả năm 2009, xây dựng đƣợc 5488,19m với
trị giá là 66,3 tỷ đồng.
48
Tính đến quý II/2010, hầu hết các KCN đều có hệ thống xử lý nƣớc thải.
Tại KCN Khai Quang đã có trạm xử lý nƣớc thải giai đoạn I và đã đi vào hoạt,
công suất 1.800 m3/ngày đêm. Hiện tại đã có 28 doanh nghiệp ký hợp đồng xử
lý nƣớc thải với chủ đầu tƣ hạ tầng KCN. Nhà máy xử lý nƣớc thải KCN giai đoạn II với công suất 4.000 m3/ngày đêm đang đƣợc xây dựng, dự kiến hoàn
thành và đƣa vào sử dụng cuối năm 2010. Bên cạnh đó, chủ đầu tƣ hạ tầng KCN
đã triển khai trồng 31,90 ha cây xanh xung quanh các nhà máy để quản lý khí
thải độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp. KCN Bá
Thiện đã hoàn thành trạm xử lý nƣớc thải KCN giai đoạn I, công suất 5.000
m3/ngày đêm, nhƣng chƣa hoạt động do các doanh nghiệp thứ cấp chƣa hoạt
động. KCN Kim Hoa diện tích đất KCN giai đoạn I đã cho công ty Honda Việt
Nam thuê lại. Hiện tại công ty đã có hệ thống xử lý nƣớc thải riêng. Riêng KCN
Bình Xuyên chƣa xây dựng đƣợc trạm xử lý nƣớc thải tập trung do nhân dân địa
phƣơng tái lấn chiếm không giải phóng đƣợc mặt bằng để xây dựng.
Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng KCN đƣợc quy hoạch khá đồng bộ đáp
ứng đƣợc nhu cầu của nhà đầu tƣ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo
giải quyết tốt các vấn đề gây ô nhiễm môi trƣờng; có sự gắn kết hợp lý với hệ
thống kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào. Hệ thống hạng mục hạ tầng kỹ thuật trong
các KCN đƣợc quy hoạch hiện đại đảm bảo đáp ứng công suất, lƣu lƣợng cho
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN, bao gồm: trạm điện và hệ
thống cấp điện động lực (phục vụ sản xuất); hệ thống điện chiếu sáng; trạm cấp
nƣớc sạch, hệ thống cấp nƣớc sạch… Tại mỗi KCN đều có quy hoạch hệ thống
đƣờng gom, đƣờng ven, nút giao liên nối tiếp giao thông nội bộ KCN với các
tuyến đƣờng quốc lộ, tỉnh lộ. Với quy hoạch nhƣ vậy đã kết nối kết cấu hạ tầng
trong và ngoài hàng rào về giao thông, không gây ảnh hƣởng đến lƣu thông các
phƣơng tiện trên tuyến đƣờng Quốc lộ, tỉnh lộ, đảm bảo giao thông thuận tiện,
an toàn. Bên cạnh đó, trong quá trình lập quy hoạch các KCN có tính toán đến
yếu tố nhu cầu nhà ở cho công nhân, nhà ở chuyên gia, phát triển các dịch vụ
phục vụ nhu cầu sinh hoạt đời sống tinh thần cho ngƣời công nhân, đồng thời
tạo việc làm cho ngƣời lao động địa phƣơng có đất thu hồi để xây dựng KCN
không đáp ứng các điều kiện làm việc trong các nhà máy công nghiệp.
49
2.2.2.2. Thu hút dự án và vốn đầu tư.
Tính đến hết năm 2009, trên địa bàn tỉnh có 457 dự án thực hiện thủ tục
đầu tƣ qua Ban còn hiệu lực, gồm 108 dự án đầu tƣ nƣớc ngoài (FDI) với tổng
vốn đầu tƣ là 2.084,14 triệu USD và 349 dự án đầu tƣ trong nƣớc (DDI) với
tổng vốn đầu tƣ là 20.395,17 tỷ đồng. Trong đó, đầu tƣ trong KCN: có 112 dự
án chiếm 24,5% tổng số dự án, gồm có 79 dự án FDI với tổng vốn đầu tƣ là
1570,88 triệu USD, chiếm 75,4% tổng vốn đầu tƣ của các dự án FDI và 33 dự án
DDI, chiếm 9,4% dự án và chiếm 8,09 % vốn đăng ký.
Trong quá trình thu hút các dự án đầu tƣ, đặc biệt là các dự án đầu tƣ FDI,
tỉnh luôn định hƣớng, khuyến khích các dự án đầu tƣ vào trong các KCN, CCN.
Do đó, từ năm 2005 đến 2010 số lƣợng dự án FDI, DDI vào KCN không ngừng
tăng lên (thể hiện qua bảng 2.3 )
Đơn vị: Triệu USD
Bảng 2.3: Vốn đầu tƣ tại các KCN Vĩnh Phúc từ 1998 – quý I/2010
Trong đó Tổng FDI DDI
Năm
Dự án Vốn Vốn/dự án Số dự án Vốn đầu tư Số dự án Vốn đầu tư
1998-2004 16 159,17 16 159,17 - - 9,95
2005 10 56,37 10 56,37 - - 5,64
2006 35 97,41 9 30,84 26 66,57 2,78
2007 18 745,48 16 728,78 2 16,70 41,42
2008 25 516,96 22 514,20 3 2,76 20,68
2009 4 77,32 3 75,52 1 1,80 19,33
Quí I/2010 4 7,35 3 6,00 1 1,35 1,84
Tổng 112 1.660,05 14,82 79 1.570,88 33 89,17
Nguồn: [7],[8], [9]
50
Bảng số liệu thống kê trên cho thấy, tai các KCN tỉnh Vĩnh Phúc lƣợng
vốn đầu tƣ chủ yếu là từ các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Trong tổng số dự án thì FDI
chiếm đến 70% số dự án (79 dự án), quy mô vốn đầu tƣ gấp 17,6 lần vốn DDI
đầu tƣ vào KCN và chiếm tới 94,6% tổng vốn đầu tƣ vào KCN. Còn đầu tƣ
trong nƣớc chỉ có 33 dự án (chiếm 30%) và 5.4% tổng vốn đầu tƣ vào KCN.
Đặc biệt, qui mô vốn đầu tƣ của các dự án FDI tăng liên tục qua các năm, trung
bình mỗi năm tăng 7% dự án (với 6,5 dự án) và 139 % vốn đầu tƣ (130,9 triệu
USD). Đặc biệt, chỉ trong vòng 5 năm (2005 – 2010), các KCN Vĩnh Phúc đã
thu hút đƣợc 63 dự án gấp 4 lần giai đoạn từ 1998-2005, chiếm 80% tổng số dự
án FDI vào KCN từ khi thành lập đến nay và chiếm 90% tổng VĐT FDI vào các
KCN. Điều này phản ánh đƣợc phần nào tình hình chung về thu hút đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam. Với những đổi mới về cơ chế chính sách, môi
trƣờng đầu tƣ ngày càng thuận lợi, đây là điều kiện để các nhà đầu tƣ tìm kiếm
cơ hội làm ăn ở Vĩnh Phúc. Với chính sách “trải thảm đỏ” mời gọi các nhà đầu
tƣ, coi các nhà ĐTNN là những công dân của Tỉnh, luôn đồng hành sát cánh
cùng doanh nghiệp trong việc giải quyết các vƣớng mắc về thủ tục hành chính;
cơ chế quản lý thông thoáng, cởi mở, tạo thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài nên số lƣợng dự án FDI tăng nhanh chóng. Giai đoạn từ 2005 – 2008
đã thu hút đƣợc thêm 57 dự án với tổng số vốn đầu tƣ là 1.330,18 triệu USD
chiếm 84,7% tổng VĐT cả giai đoạn. Qui mô bình quân một dự án năm 2007
đạt 45,5 triệu USD, cao hơn mức bình quân chung của tỉnh.
Đến năm 2009 tình hình thu hút FDI vào KCN có chiều hƣớng giảm
xuống. Cả năm 2009 các KCN Vĩnh Phúc chỉ thu hút thêm đƣợc 03 dự án, giảm
09 dự án so với 2008. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do năm 2009 khủng
hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu khiến kinh tế các nƣớc gặp nhiều
khó khăn, tăng trƣởng thấp do vậy các nhà đầu tƣ có tâm lý e dè, ngại đầu tƣ.
Nhƣng đến năm 2010 tình hình thu hút FDI vào KCN khả quan hơn. Chỉ 3 tháng
đầu năm 2010, tỉnh đã thu hút đƣợc 03 dự án, bằng với số dự án của cả năm 2009.
Còn dự án DDI đầu tƣ vào các KCN chƣa đƣợc nhƣ mong muốn. Từ năm
1998 đến 2010 các KCN Vĩnh Phúc mới chỉ thu hút đƣợc 33 dự án đầu tƣ DDI,
với tổng vốn đầu tƣ là 89.17 triệu USD, trung bình mỗi năm thu hút đƣợc 2,75
51
dự án. Các dự án đầu tƣ DDI tập trung chủ yếu ở giai đoạn từ năm 2006 trở về
trƣớc với 26 dự án, gấp 3,7 lần giai đoạn từ 2007 đến 2010. Nhƣ vậy là do, các
KCN không có nhiều quỹ đất sạch cho các nhà đầu tƣ, chi phí ban đầu thực hiện
dự án trong các KCN cao hơn so với đầu tƣ bên ngoài KCN.
Bảng 2.4: Nguồn vốn đầu tƣ vào các KCN tỉnh Vĩnh Phúc phân theo KCN
đến quý I/2010
Tên KCN Đơn vị tính
Tổng số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện Tỷ lệ vốn thực hiện/tổng vốn đầu tƣ (%)
Khai Quang Triệu USD 58
Trong đó: FDI Triệu USD 43 300,42 211,59 70,43
DDI Tỷ đồng 15 575,85 210,46 36,5
Bình Xuyên Triệu USD 39
Trong đó: FDI Triệu USD 21 179,23 93,19 51,99
DDI Tỷ đồng 18 1259,2 1248,5 99,2%
Kim Hoa
FDI Triệu USD 01 290,43 234,35 80,69
Bá Thiện
FDI Triệu USD 12 614,80 9,61 1,56
Bình Xuyên II
FDI Triệu USD 2 218,0 0 0,00
Tổng 112
Nguồn: [7],[8],[9]
Do đặc điểm khác nhau về cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý, diện tích, chính sách
ƣu đãi của từng KCN nên tính đến quý I/2010, số lƣợng dự án, quy mô vốn đầu
tƣ vào các KCN là không đồng đều.
Số liệu bảng 2.4 cho thấy, với lợi thế vốn có KCN Khai Quang là điểm
đến hấp dẫn của các nhà đầu tƣ. Đến quý I/2010, trong 5 KCN đã đi vào hoạt
động thì KCN Khai Quang thu hút đƣợc nhiều dự án nhất với 58 dự án cả FDI
và DDI, chiếm 52% tổng số dự án đầu tƣ vào KCN, tổng số vốn đầu tƣ đạt
331,54 triệu USD, vốn thực hiện đạt 67% chỉ đứng sau KCN Kim Hoa. Các dự
án thu hút vào KCN Khai Quang chủ yếu là dự án FDI, chiếm 74% tổng số dự
52
án đầu tƣ vào KCN Khai Quang, với số vốn đăng ký gấp 18,5 lần tổng số vốn
DDI đầu tƣ vào; tỷ lệ vốn thực hiện đạt khá cao là 70,43%, trong khi đó tỷ lệ
vốn thực hiện của các dự án DDI chỉ đạt 36,5%.
KCN Kim Hoa có tỷ lệ vốn thực hiện cao nhất, đạt 80,69%. Từ khi thành
lập đến nay, KCN chỉ có duy nhất một nhà đầu tƣ là Công ty Honda của Nhật
Bản. Do vậy, sau thời gian dài hoạt động số vốn thực hiện đã đạt đƣợc là khá
cao. KCN Bá Thiện tuy mới thành lập nhƣng đã thu hút đƣợc 12 dự án DTNN
với tổng số VĐT lên tới 614,8 triệu USD (mặc dù, tỷ lệ vốn thực hiện chỉ đạt có
1,56%). Do 12 dự án đầu tƣ FDI vào KCN chỉ có 01 dự án đi vào hoạt động sản
xuất kinh doanh; còn các dự án khác vẫn chƣa đƣợc triển khai, đặc biệt trong đó
có dự án máy tính xách tay của công ty Compal với số vốn đăng ký 500 triệu
USD. Khi các dự án này triển khai và đi vào hoạt động thì tỷ lệ vốn thực hiện sẽ
tăng dần. KCN Bình Xuyên II đến thời điểm này vẫn đang trong quá trình xây
dựng CSHT, bồi thƣờng và GPMB.
Bảng 2.5 : Dự án FDI đầu tƣ vào KCN phân theo quốc gia và vùng lãnh thổ
Stt Số dự án Diện tích (ha) Quốc gia và vùng lãnh thổ Tổng vốn đầu tƣ (1.000USD)
1 Đài Loan 41 1.224.208,0 223,1
2 Hàn Quốc 22 152.152,5 57,2
3 Nhật 11 395.427,1 88,0
4 Trung Quốc 3 3.710,0 3,4
5 Malaysia 1 2.500,0 1,0
6 Mỹ 1 5.000,0 0
7 Samoa 1 5.000,0 1,7
8 Ấn Độ 1 6.000,0 2,5
9 Ý 1 45.000,0 8,0
1 5.000,0 0,9 10 Cộng hoà Seychelles
Tổng 83 1.843.997,6 385,8
Nguồn: [9]
Về đối tác, hiện đã có 10 nƣớc và vùng lãnh thổ đầu tƣ vào các KCN tỉnh
Vĩnh Phúc, với tổng số vốn đăng ký là là 1844 triệu USD (chiếm 86% tổng vốn
53
đầu tƣ FDI toàn tỉnh). Các đối tác đầu tƣ, chủ yếu đến từ vùng Đông Bắc Á,
nhƣ: Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,…trong đó Đài Loan đứng
đầu với 41 dự án, với tổng vốn đầu tƣ 1.224,2 triệu USD, chiếm 65% tổng vốn
đầu tƣ và với tỷ suất đầu tƣ khá cao đạt 5,5 triệu USD/ha. Tiếp đến là Hàn Quốc,
với 22 dự án và vốn đầu tƣ 152,152 triệu USD (chiếm 8,1% tổng vốn đầu tƣ);
Nhật Bản 11 dự án, vốn đầu tƣ 395,4 triệu USD (chiếm 21,1 % tổng vốn đầu tƣ).
Số dự án đến từ các quốc gia khối EU và châu Mỹ rất ít, vì đây là những thị
trƣờng khó tính, yêu cầu cao.
Cơ cấu nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài theo ngành vào các KCN của Vĩnh
Phúc khá hợp lý, phù hợp với quy hoạch phát triển KT – XH của tỉnh đến năm
2020. Tính đến quý I/2010, có 20 dự án FDI đầu tƣ vào lĩnh vực công nghiệp
nhẹ, chiếm 25,3 % số dự án và 41% tống số vốn đầu tƣ vào các KCN trên toàn
tỉnh. Công nghiệp nặng có 57 dự án đầu tƣ, với tổng số vốn đầu tƣ là 93,4 triệu
USD, chiếm 59% tổng vốn đầu tƣ vào KCN trên toàn tỉnh.
2.2.2.3. Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp
Mặc dù KCN tại Vĩnh Phúc đƣợc hình thành từ năm 1998, song tốc độ
phát triển nhanh nhất thì chỉ bắt đầu từ 2005 đến nay. Điều đó đƣợc thể hiện ở
bảng sau đây:
Bảng 2.6: Tỷ lệ lấp đầy các KCN từ 2005 – quý I/2010
Năm
Diện tích có thể cho thuê đã xây dựng cơ sở hạ tầng Diện tích đất đã cho thuê Tỷ lệ lấp đầy Tổng diện tích
Diện tích có thể cho thuê theo quy hoạch (3) (4) (5) (6) (1) (2)
390 260 130 50 2005 583
391,2 279 167,4 60 2006 854
668 334 214 64 2007 1040,2
919,8 598,92 464,63 77,.6 2008 1395,1
2009 1695,5 1129,6 598,92 454,34 75,9
1695,5 1129,6 598,92 454,34 75,9 Quý I/2010
Nguồn: [10] Tỷ lệ lấp đầy = (5)/(4)*100%
54
Qua bảng số liệu trên cho thấy quy mô các KCN tỉnh Vĩnh Phúc càng
ngày càng đƣợc mở rộng, từ chỗ chỉ có 583 ha vào năm 2005 thì đến năm 2009
đã tăng lên 1695,5 ha (tăng 2,9 lần), trong đó tăng mạnh nhất là các năm 2007,
2008 và 2009, diện tích KCN năm 2007 tăng 121,8% so với năm 2006, năm
2008 tăng 134,2% so với 2007, năm 2009 tăng 121,5% so với 2008.
Tỷ lệ lấp đầy các KCN của Vĩnh Phúc cũng tăng dần qua các năm: năm
2005 tỷ lệ lấp đầy đạt 50% thì đến năm 2009 đạt 75,9% ( tăng 25,9%), nâng diện
tích đất công nghiệp đã cho thuê lên trên 450 ha. Với con số đó, Vĩnh Phúc đƣợc
đánh giá là một điểm sáng về thu hút đầu tƣ thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía
bắc (trong khi Hải Dƣơng đạt 54,5%, Hải Phòng: 57,6%, Hà Nội: 85,1%) Nhƣ
vậy, có thể thấy rằng tốc độ tăng nhanh và khá ổn định, trung bình mỗi năm 5%.
Riêng năm 2009, do ảnh hƣởng của khủng hoảng có 02 dự án thuộc KCN Bá
Thiện rút đầu tƣ nên làm cho tỷ lệ lấp đầy giảm 1,7%. Đến quý I/2010 tỷ lệ lấp
đầy vẫn giữ nguyên vì số dự án đầu tƣ vào KCN trong thời gian này không thuê
đất mà thuê lại nhà xƣởng của các công ty khác, nhƣ: công ty TNHH Dea Hung
(Hàn Quốc) thuê lại nhà xƣởng của công ty An Phát.
Trong 6 KCN đã đi vào hoạt động thì KCN Kim Hoa có tỷ lệ lấp đầy cao
nhất, với tỷ lệ diện tích cho thuê đạt tính đến quý I/2010 đạt 100%. Đây là KCN
có quy mô nhỏ với diện tích 50ha, lại đƣợc thành lập từ rất sớm và hiện có một
DN đầu tƣ nƣớc ngoài đang triển khai xây dựng cơ bản.
Các KCN Khai Quang, Bình Xuyên cũng có tốc độ tăng trƣởng nhanh.
Đƣợc quy hoạch năm 2006, năm 2007 vẫn đang trong giai đoạn đầu tƣ xây dựng
cơ bản, nhƣng đến cuối năm 2007, cả 2 KCN này đều có những thành tựu nổi
bật. Năm 2007, KCN Khai Quang đã có 47 dự án thuê đất CN (đạt tỷ lệ lấp đầy
67,82%) thì đến năm 2009, KCN Khai Quang đã thu hút thêm đƣợc 11 dự án, tỷ
lệ lấp đầy đạt 79%, tăng hơn 11% so với năm 2007. Tính đến hết quý I năm
2010, tỷ lệ lấp đầy đạt 91,3%, cao hơn 15% mức trung bình của tỉnh. Cũng vào
năm 2007, KCN Bình Xuyên đã thu hút đƣợc 37 dự án thuê đất công nghiệp (đạt
tỷ lệ lấp đầy 50,2%), đến quý I/2010 tỷ lệ lấp đầy đã tăng lên 81,57%. Có thể
thấy, cả hai KCN này tuy ra đời sau, nhƣng việc đầu tƣ kết cấu hạ tầng đƣợc
55
triển khai nhanh chóng do chủ đầu tƣ là những đơn vị có kinh nghiệm trong xây
dựng (Công ty cổ phần phát triển hạ tầng Vĩnh Phúc và Công ty TNHH đầu tƣ
xây dựng An Thịnh Vĩnh Phúc). Mặt khác, cơ cấu ngành định hƣớng phát triển
trong KCN chủ yếu tập trung vào sản xuất các sản phẩm nhƣ lắp ráp ôt tô (xe
buýt), các linh kiện phụ tùng cho CN ô tô, các sản phẩm cơ khí khác (thuộc
nhóm CN bổ trợ), sản xuất các loại bao bì… Do đó, KCN đƣợc các nhà đầu tƣ
quan tâm, đặc biệt là các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣ KCN Khai Quang tính đến
năm 2009 có 43 dự án nƣớc ngoài chiếm 74% số dự án đầu tƣ vào KCN.
Tỷ lệ lấp đầy thấp nhất là KCN Bá Thiện và Bình Xuyên II. Đó là hai KCN
mới thành lập (KCN Bá Thiện thành lập năm 2007 còn Bình Xuyên II thành lập
năm 2008), do các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài làm chủ đầu tƣ. Bên cạnh đó, do ảnh
hƣởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thời điểm cuối năm 2008 và
cả năm 2009, các Công ty mẹ tại Đài Loan đều do gặp nhiều khó khăn nên đã
tạm dừng xây dựng, mặc dù rất thuận lợi bởi đã giải phóng xong mặt bằng, các
dự án máy tính xách tay và dự án thứ cấp tại KCN Bá Thiện đang tạm dừng thi
công và xin giãn tiến độ. Còn KCN Bá Thiện II do mới đƣợc cấp giấy chứng
nhận đầu tƣ, chƣa có quyết định thành lập và chƣa đƣợc giao đất, vì vậy, tỷ lệ
lấp đầy là 0%.
2.2.2.4. Thu hút việc làm và tạo thu nhập cho người lao động
Các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là một trong những khu vực hấp
dẫn cao đối với lực lƣợng lao động, nhất là lực lƣợng lao động trẻ có trình độ
không chỉ ở ngay chính địa bàn tỉnh và còn có tác động lan toả tới các tỉnh lân
cận. Sự hấp dẫn này trƣớc hết là do ngƣời lao động làm việc trong khu vực này
đƣợc trả lƣơng ổn định có môi trƣờng làm việc tốt, đƣợc học tập nâng cao trình
độ, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm làm việc.
Những năm qua, các KCN ở Vĩnh Phúc đã góp phần giải quyết việc làm
cho hàng chục nghìn lao động trên địa bàn Tỉnh. Nếu nhƣ năm 2005 các KCN
trên địa bàn tỉnh mới chỉ tạo ra đƣợc 9.046 việc làm trực tiếp thì tới năm 2007
con số đó là 23.253, gấp 2,6 lần năm 2005. Tính đến hết năm 2009, các doanh
nghiệp trong KCN tạo việc làm cho 30.214 lao động tăng 140% so với năm
2007, chƣa kể hàng ngàn việc làm gián tiếp khác.
56
Khu công nghiệp không chỉ góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh,
mà còn tạo thu nhập cho ngƣời lao động. Tính đến quý I/2010, Vĩnh Phúc 112
dự án đầu tƣ vào KCN, trong đó, chỉ mới có 71 doanh nghiệp đi vào hoạt động.
Các ngành nghề sản xuất chủ yếu của các doanh nghiệp này là lắp ráp xe máy,
điện tử, điện lạnh, giày da, may mặc xuất khẩu, gạch ốp lát cao cấp, kính,
nhựa… Hầu hết các doanh nghiệp này đề áp dụng hình thức trả lƣơng theo thời
gian hoặc sản phẩm, trả lƣơng hàng tháng.
Theo số liệu thống kê của Liên đoàn Lao động tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2005
thu nhập bình quân của ngƣời lao động trong KCN là 935 nghìn đồng/tháng, cao
hơn mức thu nhập bình quân của tỉnh 1,7 lần, và cao gấp 2,7 lần so với mức
lƣơng tối thiểu nhà nƣớc quy định. Đến năm 2007 mức thu nhập đã tăng lên
1,37 triệu đồng/tháng tăng gấp 1,4 lần năm 2005 và cao hơn 2.5 lần mức thu
nhập bình quân của tỉnh. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của ngƣời lao động
tại KCN đạt 1,75 triệu đồng/tháng, gấp 1,8 lần năm 2005 và gấp 1,7 lần thu nhập
bình quân của tỉnh. Mức thu nhập này về cơ bản mới đảm bảo đƣợc nhu cầu về
vật chất chứ hầu hết chƣa đảm bảo đƣợc nhu cầu đời sống tinh thần, làm việc ổn
định lâu dài trong các KCN. Trong giai đoạn các loại chi phí sinh hoạt tăng cao
nhƣ hiện nay, mức thu nhập này chỉ mới đáp ứng đƣợc nhu cầu cơ bản về đời
sống của ngƣời lao động, nhất là với lao động là ngƣời nơi khác đến và phải
thuê nhà trọ. Thu nhập này chỉ nhỉnh hơn một chút so với thu nhập của ngƣời
nông dân.
Nhờ thu nhập tăng lên mà đời sống công nhân đã có đƣợc phần cải thiện.
Nhƣng do phần chủ yếu lao động trong các KCN là ngƣời ngoại tỉnh, phải thuê
nhà, mua sắm các đồ dùng trong gia đình, nên cuộc sống của họ vẫn gặp nhiều
khó khăn. Tính đến thời điểm 31/12/ 2009, trong số 30.214 lao động đang làm
việc trong các doanh nghiệp trong KCN thì có 7974 lao động là ngƣời ngoại
tỉnh, chiếm 26,2% tổng số lao động. Số lao động này đƣợc các doanh nghiệp
thực hiện tuyển dụng trực tiếp bằng các thông báo và phỏng vấn tại doanh
nghiệp. Ngƣời lao động nhập cƣ làm việc trong KCN đƣợc đảm bảo việc làm,
hƣởng các chế độ tiền lƣơng, đóng BHXH… cũng nhƣ lao động của tỉnh đang
làm việc trong KCN.
57
Phần lớn lao động nhập cƣ phải thuê nhà ở của các hộ gia đình ở gần
KCN với mức gia từ 200.000 – 300.000 đồng/ngƣời/tháng. Với mức giá thuê
nhà nhƣ vậy thì ngƣời công nhân phải sống và sinh hoạt trong những khu nhà trọ
tạm bợ, nhếch nhác, không có điều kiện sinh hoạt tối thiểu, ảnh hƣởng tới sức
khỏe là điều hoàn toàn dễ hiểu. Vì thu nhập thấp, ngƣời lao động chỉ tạm đủ chi
tiêu trong cuộc sống ở mức tổi thiểu của bản thân (nhƣ chi tiền thuê nhà trọ, tiền
ăn, tiền điện, nƣớc sinh hoạt và phục vụ cá nhân) và với áp lực công việc căng
thẳng, điều kiện sống tạm bợ, thiếu thốn … nên đời sống văn hóa và tinh thần
của phần lớn công nhân lao động trong KCN rất thấp kém. Các nhu cầu đời
thƣờng của ngƣời lao động nhƣ học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, vui
chơi giải trí,… dƣờng nhƣ không đƣợc đáp ứng.
Theo khảo sát của Sở Lao động, Thƣơng Binh và Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc
năm 2008, đa số công nhân ở các KCN cho rằng, nếu có các hoạt động văn hoá -
văn nghệ, thể dục - thể thao thì cũng chỉ diễn ra tại địa bàn cƣ trú, nhƣng do thu
nhập thấp, lại chịu áp lực về thời gian làm việc nên ít lao động có điều kiện tham
gia. Thêm vào đó, tại nơi cƣ trú số lƣợng thiết chế văn hóa, thể dục - thể thao lại
quá ít ỏi và nghèo nàn, họ không có phƣơng tiện và địa điểm để tổ chức sinh
hoạt văn hóa lành mạnh, thậm chí không có tivi, radio để thu nhận tin tức, thông
tin KTXH cũng nhƣ chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc. Điều này đã
khiến hầu hết lao động ở các KCN “mù văn hoá tinh thần”, thiếu thông tin, kiến
thức, đồng thời cũng là một trong những đối tƣợng rất dễ mắc các tệ nạn xã hội.
2.2.3. Thực trạng về môi trƣờng trong các KCN Vĩnh Phúc
Thời gian qua, công tác BVMT trong KCN mặc dù đã đƣợc chú trọng
hơn, nhƣng đa số các KCN trên phạm vi cả nƣớc nói chung và KCN Vĩnh Phúc
nói riêng chƣa đƣợc cải thiện nhiều và chƣa đáp ứng đƣợc những tiêu chuẩn môi
trƣờng theo quy định. KCN là nơi tập trung các cơ sở công nghiệp thuộc các
ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, cũng là nơi thải ra môi trƣờng các chất thải rắn,
lỏng, khí và chất thải nguy hại.
- Thực trạng xử lý nước thải trong KCN:
58
Tính đến quý II/2010, hầu hết các KCN đều có hệ thống xử lý nƣớc thải,
nhƣng mới chỉ có KCN Khai Quang là đƣa hệ thống giai đoạn I và sử dụng. Do
hầu hết các KCN trong tỉnh đều chƣa có hệ thống thu gom chất và xử lý chất
thải tập trung nên việc quản lý, quan trắc chất lƣợng nƣớc thải ở các khu vực
này gặp rất nhiều khó khăn; đồng thời cũng cũng gây ra tình trạng ô nhiễm
nguồn nƣớc ở một số nơi nhƣ: KCN Khai Quang, KCN Bình Xuyên. Phần lớn
nƣớc thải từ các cơ sở sản xuất chỉ đƣợc xử lý sơ bộ hoặc không qua xử lý, đổ
thải trực tiếp vào nguồn tiếp nhận.
Vấn đề xử lý nƣớc thải của các cơ sở sản xuất phụ thuộc vào năng lực tài
chính của dự án và ý thức trách nhiệm của chủ đầu tƣ. Nhìn chung các dự án đầu
tƣ đã quan tâm đến công tác bảo vệ môi trƣờng, đặc biệt là những tập đoàn kinh
tế lớn đến từ Nhật nhƣ công ty Honda Việt Nam, công ty sản xuất phanh Nissin
Việt Nam… Tuy nhiên, cũng có nhiều dự án chƣa quan tâm đến công tác bảo vệ
môi trƣờng, đầu tƣ xử lý chất thải không đạt yêu cầu, thậm chí có những dự án
không đầu tƣ hệ thống xử lý nƣớc thải, khí thải và chất thải rắn nhƣ: Công ty
TNHH Bình Xuyên, Nhà máy ống thép Việt Đức, Công ty Pin – Cao su Xuân
Hoà, Công ty TNHH Dệt len Latian Vĩnh Phúc, … gây ra ô nhiễm môi trƣờng
và tình trạng đơn thƣ khiếu kiện ngày càng tăng và kéo dài.
Theo kết quả quan trắc của Trung tâm Tài nguyên và Bảo vệ môi trƣờng
Vĩnh Phúc cho thấy: môi trƣờng nƣớc mặt ở các KCN ô nhiễm khá nghiêm
trọng vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,15 đến 5,9 lần. Quan trắc hơn 10 nguồn
nƣớc thải của các KCN nhƣ Bình Xuyên, Khai Quang… cho thấy hầu hết các
chất độc hại trong nguồn nƣớc của các cơ sở sản xuất đều vƣợt quá tiêu chuẩn
cho phép. Mẫu nƣớc thải tại cống chung cuối KCN Bình Xuyên trƣớc khi ra hồ
điều hoà và ra sông Cà Lồ có 4/16 thống số vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1,9
đến 5,77 lần, KCN Khai Quang các thông số nhƣ mùi hôi, chất rắng lơ lửng
vƣợt 1,07 lần tiêu chuẩn cho phép. Mặt nƣớc chủ yếu bị ô nhiễm bởi các chất
hữu cơ (COD và BOD5), NH3, Coliform và một số kim loại nặng… [49]
- Thực trạng ô nhiễm không khí:
59
Theo kết quả quan trắc hàng năm cho thấy, nồng độ các chất gây ô nhiễm
môi trƣờng có chiều hƣớng tăng lên. Đối với chỉ tiêu ô nhiễm bụi ở hầu hết các
điểm quan trắc đều vƣợt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) từ 1,2 đến 5 lần và ô
nhiễm nặng vào mùa khô. Kết quả quan trắc vào mùa mƣa chỉ có trên 33% số
điểm quan trắc có nồng độ bụi vƣợt quá TCCP, nhƣng kết quả quan trắc vào
mùa khô thì 100% điểm quan trắc có nồng độ bụi vƣợt TCCP từ 2,23 – 5,6 lần.
Các chỉ tiêu CO, CO2, NO2 ở tất cả các điểm quan trắc tuy chƣa vƣợt TCCP,
nhƣng cũng tƣơng đối cao, đồng thời nồng độ các chất khí nhƣ SO2, NO2 đều có
xu hƣớng cao hơn vào mùa khô. Cũng theo kết quả quan trắc cho thấy, nồng độ
bụi, tiếng ồn và các chất khí nhƣ CO, CO2, NO2 ở KCN Khai Quang và KCN
Bình Xuyên cao hơn các KCN khác. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiều
môi trƣờng không khí tại các KCN đang có chiều hƣớng gia tăng chủ yêu là do
các cơ sở sản xuất không đầu tƣ lắp đặt hệ thống xử lý khí thải theo quy định,
thậm chí có những cơ sở đã lắp đặt nhƣng chỉ vận hành khi có sự thanh tra, kiểm
tra của cơ quan quản lý, ví dụ nhƣ Công ty TNHH Công nghiệp Việt Nam I,
Doanh nghiệp Marumumitsu… Bên cạnh đó, tình trạng đốt chất thải rắn ngay
trong khuôn viên nhà máy đã xảy ra ô nhiễm về mùi (nhƣ ở Công ty TNHH
Băng ráp YULI Việt Nam…). Ngoài nguyên nhân do các hoạt động sản xuất của
các cơ sở sản xuất, một nguyên nhân khác dẫn đêế tình trạng ô nhiễm bụi, đó là
hầu hết các KCN đều chƣa có hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đặc biệt là hệ
thống gia thống trong nhiều KCN đang trong giai đoạn thi công xây dựng.
- Thực trạng thu gom và xử lý chất thải rắn:
Một thực tế đáng báo động là hầu hết các KCN trong tỉnh đều chƣa xây
dựng khu xử lý tập trung rác thải, hoặc xử lý bằng các thiết bị đơn giản. Việc thu
gom và vận chuyển rác thải chỉ thực hiện trong phạm vi từng nhà máy; số lƣợng
doanh nghiệp thực hiện ký hợp đồng với đơn vị xử lý chất thải theo đúng Quy
chế quản lý chất thải nguy hại còn rất hạn chế, chỉ chiếm 15 – 20%, chủ yếu theo
hình thức: Công ty phát triển hạ tầng KCN thu gom chung và thuê một doanh
nghiệp khác mang đi xử lý, thậm chí không rõ chở đi đâu. Điều này chắc chắn sẽ
60
gây mất an toàn, ô nhiễm tại các vùng chôn lấp rác tự phát. Việc xử lý rác thải chủ
yếu thực hiện bằng những lò đốt tƣơng đối đơn giản với vốn đầu tƣ khá khiêm
tốn; rác thải ra khỏi nhà máy gần nhƣ chƣa đạt tiêu chuẩn theo yêu cầu.
Bên cạnh đó, các nhà máy trong KCN đều chƣa phân loại rác thải và có
thiết bị xử lý phù hợp mức độ nguy hại; tình trạng rác thải sinh hoạt và rác thải
công nghiệp thông thƣờng đƣợc thu gom chung với chất thải rắn nguy hại là khá
phổ biến, do đó chỉ có những loại rác thải ít gây ô nhiễm mới xử lý đƣợc, còn lại
các rác thải công nghiệp nguy hại thì việc xử lý bằng hệ thống xử lý rác thải
thông thƣờng đều không có tác dụng. Do đó, khi vận chuyển ra ngoài KCN, các
loại rác thải, nhất là rác thải nguy hại vẫn còn nguyên tính nguy hại của nó.
Trong các KCN Vĩnh Phúc tập trung nhiều nhà máy sản xuất bao bì, hoá chất,
nhựa... lƣợng chất thải rắn chủ yếu là nhựa, hoá chất, chất dẻo, cao su... là những
chất khó phân huỷ, gây độc hại cho môi trƣờng nƣớc mặt, nƣớc ngầm và đất.
Ngoài ra còn phải kể đến một lƣợng rác thải xây dựng đƣợc thải ra trong quá
trình xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và xây dựng nhà xƣởng để sản xuất của các
doanh nghiệp trong KCN.
2.3. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU CỦA CÁC KCN VÀO SỰ PHÁT
TRIỂN KT – XH TỈNH VĨNH PHÖC
2.3.1. Đóng góp vào tổng thu nhập nội địa của tỉnh
Trong những năm qua Vĩnh Phúc đã sản xuất nhiều sản phẩm, phục vụ
nhu cầu trong và ngoài tỉnh, trong đó chủ yếu các sản phẩm của ngành chế tạo
và lắp ráp ôtô, xe máy. Sự hình thành một số doanh nghiệp sản xuất phụ tùng,
chi tiết ôtô, xe máy trong các KCN đã góp phần nâng tỷ lệ nội địa hoá ôtô lên
khoảng 27%, xe máy lên 81%. Những ngành công nghiệp chủ đạo trên đem lại
80% tổng giá trị gia tăng toàn ngành công nghiệp Vĩnh Phúc.
61
Bảng 2.7: GTSX của các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2005
đến 2010 (tính theo giá so sánh 1994)
Đơn vị: tỷ đồng
Quý Năm 2005 2007 2008 2009 I/2010
GTSXCN toàn tỉnh 15.504,01 28.427,86 32.514,48 34.118,00 -
GTSX trong KCN 9.940,50 18.797,52 21.815,44 2.3789,68 7.068,28
Tỷ trọng so với tổng - 64,12 66,12 67,09 69,73 GTSXCN toàn tỉnh (%)
Tỷ trọng GTSX KCN - 18,60 29,24 32,51 36,43 so với GDP (%)
Nguồn: [31], [1]-[6]
Qua bảng số liệu trên, cho thấy:
Giá trị SXCN trong các KCN tăng đều qua các năm. Năm 2005,
GTSXCN của khu vực này mới chỉ đạt 9.940,50 tỷ đồng, thì đến năm 2007 con
số này là 18.797,52 tỷ đồng, tăng gấp gần 2 lần và đến năm 2009 GTSXCN đã
tăng lên 2,4 lần so với năm 2005. Trong vòng 5 năm GTSXCN tăng lên
239,32%, với tốc độ tăng trung bình 27%/năm.
Do GTSXCN của các doanh nghiệp trong KCN liên tục tăng nên tỷ trọng
đóng góp vào GTSXCN toàn tỉnh khá cao, năm 2005 là 64,1%, đến năm 2009
đạt 69,7%, trung bình chiếm 66,8%/năm. Các công ty Honda, công ty Nissin,
Công ty VPIC1 là những doanh nghiệp luôn đóng góp phần lớn vào GTSX của
tỉnh. Các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh đã tạo ta
nhiều sản phẩm mới nhƣ: linh kiện phụ tùng ô tô, xe máy, các sản phẩm điện
tử,… đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp tăng thêm của tỉnh.
Bảng 2.7 cũng đã chứng minh cho sự đóng góp đáng kể của các KCN vào
cho tăng trƣởng kinh tế của Vĩnh Phúc trong 12 năm qua. Nếu năm 2005, các
62
KCN mới chỉ chiếm có 18,6% trong GDP thì đến năm 2007 khu vực này đã
chiếm 29,24% GDP của tỉnh và chiếm 36,43% GDP vào năm 2009.
Nhƣ vậy với số dự án, số lƣợng vốn đầu tƣ tăng, tỷ lệ đóng góp của các
KCN trong tổng GTSXCN của tỉnh liên tục tăng qua các năm cho thấy sự hoạt
động hiệu quả của các KCN. Đây chính là nguyên nhân, là “cú huých” quan
trọng cho sự tăng trƣởng kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh.
2.3.2. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hƣớng
CNH, HĐH
Tính đến hết tháng 12/2009 trên địa bàn tỉnh có 194 dự án đầu tƣ vào
KCN, CCN, chiếm 42,45% tổng số dự án đầu tƣ vào địa bàn tỉnh. Các dự án này
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực nhƣ: sản xuất ôtô, xe máy; linh kiện ôtô, xe máy;
chế biến nông sản; may mặc... Việc ngày càng có nhiều dự án FDI đầu tƣ vào
trong KCN đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
Vĩnh Phúc. Nhƣ trên đã đề cập, sự tăng lên của GTSXCN, tỷ trọng GTSXCN so
với GDP của các KCN đã có tác động quan trọng đến việc làm thay đổi mối
quan hệ giữa các ngành CN – NN và DV. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh cũng
thay đổi theo hƣớng hiện đại, tức giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ
trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP. Sự cải thiện cơ cấu kinh tế
của Vĩnh Phúc đƣợc thể hiện ở bảng dƣới đây:
Bảng 2.8: Cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997 – 2009
Đơn vị tính: %
Ngành và lĩnh vực kinh tế 1997 2000 2005 2006 2007 2008 2009
Nông – lâm – ngƣ nghiệp 55,7 31,20 21,20 17,30 14,25 17,71 12,9
Công nghiệp – xây dựng 12,7 38,97 52,30 57,00 61,06 58,34 58,3
Dịch vụ 31,6 29,83 26,50 25,70 24,68 23,95 28,8
Nguồn: [19]
63
Nhƣ vậy, nếu nhƣ năm 1997, cơ cấu kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc còn rất
lạc hậu, với tỷ trọng nông – lâm – ngƣ nghiệp chiếm 55,7% GDP; công nghiệp –
xây dựng chỉ có 12,7%; dịch vụ là 31,6%, thì đến năm 2009, cơ cấu kinh tế của
tỉnh đã có sự chuyển dịch mạnh với các con số lần lƣợt là 12,9 %, 58,3% và
28,8%. Nhƣ vậy trong 10 năm, tỷ trọng giá trị công nghiệp xây dựng tăng 48%,
bình quân mỗi năm tăng 4,8% trong tổng GDP, trong đó tăng cao nhất là thời kỳ
2000 – 2005, với 13,3%.
Tỷ trọng công nghiệp trong GDP khá cao nhƣ vậy là có sự đóng góp lớn của
các KCN. Từ năm 2008, tỷ trọng đóng của công nghiệp trong GDP có phần giảm
xuống trong khi tỷ trọng nông nghiệp tăng lên là do công nghiệp chịu tác động
mạnh của khủng hoảng kinh tế mạnh hơn so với nông nghiệp.
2.3.3. Đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của tỉnh
Có thể nói, hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc thực sự trở
nên sôi động kể từ khi các dự án trong KCN đƣợc thực hiện, đi vào sản xuất và
một số doanh nghiệp tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trƣờng xuất khẩu hàng hoá.
Bảng 2.9: Giá trị xuất khẩu của các KCN
Đơn vị: triệu USD
2006 2007 2008 2009
216,3 343,8 375,6 377,5 Tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh
175,0 290,0 314,73 322,4 Kim ngạch xuất khẩu của các KCN
80,9 84,4 83,8 79,0 Tỷ trọng (%)
Nguồn: [8], [9], [40]
Kim ngạch xuất khẩu (KNXK) trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006-2009 tăng
trung bình 43,6%; trong đó riêng năm 2009 đạt 377,5 triệu USD tăng, 174.5% so
với năm 2006. Tính chung cả giai đoạn 2006 – 2009, tỷ trọng KNXK của KCN
chiếm 82% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh. Trong đó, năm 2006 chiếm
64
80,9%; năm 2008 tăng lên 83,8%. Tuy nhiên, cũng do khủng hoảng kinh tế thế
giới nên năm 2009 tỷ trọng đóng góp của KCN cho xuất khẩu có xu hƣớng tụt
giảm (từ 314,73 triệu USD năm 2008 xuống 322,4 triệu USD năm 2009), trong
đó giá trị xuất khẩu của các dự án DDI giảm mạnh nhất, giảm 2,3 lần so với năm
2008.
Nhờ có sự tham gia vào hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong
KCN tỉnh Vĩnh Phúc, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất
khẩu mà thị trƣờng xuất khẩu của tỉnh ngày càng đƣợc mở rộng. Đến nay, sản
phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Vĩnh Phúc đã có mặt tại hơn 40 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó tập trung vào thị trƣờng EU, ASEAN,
Nhật Bản, Nam Mỹ và Hoa Kỳ… Trong đó, hàng xuất khẩu của các doanh
nghiệp trong KCN vào Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của tỉnh. Các mặt hàng xuất khẩu sang thị trƣờng Hoa Kỳ chủ yếu là
hàng gia công xuất khẩu với mục đích tận dụng nguồn lao động rẻ. Vì vậy, trong
thực tế đã giải quyết đƣợc hàng ngàn lao động trong tỉnh nhƣng hiệu quả xuất
khẩu chƣa cao.
2.3.4. Đóng góp vào ngân sách:
Nhờ sự hoạt động có hiệu quả và sự đóng góp đáng kể của dự án trong
KCN, đặc biệt là các dự án FDI, ngân sách của tỉnh Vĩnh Phúc đã liên tục đƣợc
cải thiện, năm sau cao hơn năm trƣớc.
Bảng 2.10. Đóng góp của các KCN vào ngân sách tỉnh Vĩnh Phúc
2007 2008 2009
Tổng ngân sách tỉnh (tỷ đồng) 5.704,606 9.400,258 10.174,097
Thu từ khu công nghiệp (tỷ đồng) 1.514,84 2.799,21 2.525,21
Tỷ trọng thu từ KCN/tổng thu (%) 27 30 25
Nguồn: Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc
Trong tổng cơ cấu thu ngân sách địa phƣơng thì nguồn thu từ khu vực
FDI và DDI trong KCN chiếm tỷ lệ khá và liên tục tăng. Năm 2007, các dự án
hoạt động trong KCN đóng góp vào ngân sách trên địa bàn tỉnh là 1.514,84 tỷ
65
đồng, chiếm 27 % tổng thu ngân sách toàn tỉnh, trong đó: nộp ngân sách của các
dự án DDI là 133,4 tỷ đồng, của các dự án FDI là 1.381,44 tỷ đồng. Năm 2008,
các dự án trong KCN nộp ngân sách tăng 185 % so với năm 2007, đạt 2.799,21
tỷ đồng và chiếm 30% tổng thu ngân sách toàn tỉnh. Hết năm 2009, nộp ngân
sách của các dự án trong KCN giảm xuống còn 2.525,21 tỷ đồng, chiếm 25%
tổng thu nhân sách toàn tỉnh, trong đó, đóng góp của các dự án FDI là 2.434,04
tỷ đồng, đóng góp của các dự án DDI là 91,17 tỷ đồng, có sự sụt giảm này là do
ảnh hƣởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến, 02 dự án đang
làm thủ tục giải thể doanh nghiệp trƣớc thời hạn và 12 dự án xin giãn tiến độ.
Đặc biệt là 02 dự án của Công ty Compal hiện nay đã ngừng thi công xây dựng,
đã kéo theo 10 dự án vệ tinh không triển khai đƣợc, trong đó đã có 01 dự án
đang làm thủ tục giải thể và 09 dự án phải xin giãn tiến độ.
Nhìn chung qua số liệu những năm gần đây cho thấy, đóng góp của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong KCN vào ngân sách của tỉnh khá cao,
chiếm tới hơn 1/3 nguồn thu ngân sách của tỉnh.
Mức đóng góp của các dự án trong KCN tăng qua các năm đã làm tăng
tổng thu ngân sách toàn tỉnh. Cụ thể, năm 2004 đạt 2.563,0 tỷ đồng; 2006 đạt
4.486,5 tỷ đồng, tăng 175% so với năm 2004, năm 2008 đạt 9400,3 tỷ đồng,
tăng 209% so với năm 2006, và đến cuối năm 2009 đạt 10174,1 tỷ đồng. Trong
khi đó, tỷ lệ thu ngân sách địa phƣơng tăng nhanh và chiếm tỷ trọng rất lớn
trong tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh, từ 39,4% năm 1997 lên 68,6% năm
2000; 94,2% năm 2004 và 98% năm 2006.[8], [9]
2.3.5. Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng:
Sự phát triển của các doanh nghiệp trong KCN Vĩnh Phúc thời gian qua
đã đặt ra những yêu cầu mới đối với sự phát triển kết cấu hạ tầng. Để tạo thuận
lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp trên địa bàn nói chung và KCN nói
riêng, đồng thời phục vụ công tác đẩy mạnh thu hút nguồn vốn cho phát triển
KCN, nên trong thời gian qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã đặc biệt chú trọng phát triển cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, bao gồm cả đƣờng giao thông, hệ thống cung cấp điện,
nƣớc, các dịch vụ bƣu chính viễn thông.
66
UBND tỉnh đã chỉ đạo thực hiện thông qua việc lập quy hoạch, chuẩn bị
đầu tƣ, huy động, thu hút nguồn lực và triển khai thực hiện đầu tƣ xây dựng các
công trình kết cấu hạ tầng. Việc thực hiện đầu tƣ các công trình kết cấu hạ tầng
cho việc phát triển sản xuất và phục vụ cộng đồng đƣợc triển khai tích cực.
Nhằm tạo ra sự hấp dẫn mới đối với công tác thu hút vốn đầu tƣ, UBND tỉnh đã
ƣu tiên cho phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng trong và ngoài các khu công
nghiệp chủ yếu là các đƣờng trục chính giữa các khu công nghiệp: Bình Xuyên,
Quang Minh, Kim Hoa, mở rộng Quốc lộ 2 (theo hình thức BOT), đƣờng trục
chính khu đô thị Mê Linh 100m nâng cấp đƣờng tỉnh lộ 23, Quốc lộ 2B, Quốc lộ
2C..; trạm điện 110KV Phúc Yên, Vĩnh Tƣờng, Yên Lạc; trạm điện 220KV Bình
Xuyên; dự án xử lý rác thải 20 triệu USD vốn ODA của Hàn Quốc; dự án JIBIC
nâng cấp hệ thống điện nƣớc Vĩnh Yên, Phúc Yên; hạ tầng cho khu vực nông
nghiệp, nông thôn, giáo dục đào tạo, y tế và các công trình hạ tầng đô thị…
Nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ về nguồn nhân lực cho các KCN; tỉnh đã và
đang triển khai thực hiện 138 công trình, bao gồm: Các phòng học; nhà điều
hành; nhà đa năng; các trƣờng chuyên nghiệp và các trung tâm giáo dục thƣờng
xuyên. Để thực hiện kế hoạch đó, UBND tỉnh đã huy động mọi nguồn lực nhƣ:
Huy động trên 50% nguồn chi cho đầu tƣ phát triển từ ngân sách; huy động
nguồn đấu giá quyền sử dụng đất và cấp quyền sử dụng đất; nguồn vốn từ đất
thƣơng phẩm; vốn vay lãi xuất 0% từ ngân sách trung ƣơng. Bên cạnh đó,
UBND tỉnh còn tạo môi trƣờng thuận lợi để thu hút các nguồn lực từ những
doanh nghiệp FDI và DDI; đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân mua trái
phiếu, vận động vốn ODA và NGO đạt kết quả tốt.
Những nỗ lực trên, trƣớc hết là phục vụ yêu cầu phát triển các KCN thông
qua việc tạo môi trƣờng để thu hút các dự án đầu tƣ, và đến lƣợt nó lại gián tiếp
góp phần đáng kể vào phát triển, nâng cao chất lƣợng hạ tầng nói chung của Tỉnh.
2.3.6. Nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh:
Sự gia tăng của các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài vào các KCN, kéo theo đó là
sự xuất hiện của các mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp tiên tiến, hiện đại
67
của nhiều quốc gia trên thế giới đƣợc chuyển giao cho tỉnh. Tại Vĩnh Phúc đã
bƣớc đầu thiết lập đƣợc các trung tâm công nghiệp lớn, trong đó có một số
ngành công nghiệp có quan nhƣ: công nghiệp cơ khí lắp ráp ô tô, xe máy với các
thƣơng hiệu lớn nhƣ Toyota, Honda, Piaggio, Daewoo bus; công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng, sản lƣợng chiếm 1/3 thị phần công nghiệp vật liệu xây
dựng của cả nƣớc,… Cùng với làn sóng đầu tƣ nƣớc ngoài mạnh mẽ trong 02
năm trở lại đây, Vĩnh Phúc đã và đang hình thành các ngành công nghiệp điện
tử, viễn thông, công nghệ cao. Năm 2010, tỉnh Vĩnh Phúc dự kiến thu hút
khoảng 1,2-1,5 tỷ USD vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, chủ yếu là vốn đầu tƣ từ các dự
án công nghệ cao của các Công ty vệ tinh cho các tập đoàn Hồng Hải, Compal,
Wistron, đang đầu tƣ tại Vĩnh Phúc.
Theo kết quả của đợt kiểm tra công nghệ trong các dự án đầu tƣ đầu năm
2010 của Sở khoa học và công nghệ Vĩnh Phúc, thiết bị của doanh nghiệp trong
KCN sử dụng đều là công nghệ đƣợc sản xuất trong những năm gần đây (2003-
2008). Tỷ lệ máy móc, thiết bị mới đƣợc đầu tƣ để sản xuất tại KCN Vĩnh Phúc
chiếm trên 90% so với tổng số máy móc, thiết bị sử dụng. Nguồn gốc xuất xứ của
máy móc, thiết bị chủ yếu là từ các nƣớc và vùng lãnh thổ nhƣ: Đài Loan, Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản; một số ít có xuất xứ từ Mỹ, Anh, Đức.
Trong những năm tới tỉnh Vĩnh Phúc tập trung vận động xúc tiến đầu tƣ,
thu hút các tập đoàn lớn đến từ EU và Mỹ và các tập đoàn xuyên quốc gia có
công nghệ cao thân thiện với môi trƣờng. Thông qua việc tiếp nhận các dự án
trên, trình độ công nghệ của nhiều lĩnh vực đã đƣợc nâng lên một cách rõ rệt.
Các dự án công nghệ tiến tiến chẳng những góp phần tích tực làm nâng cao trình
độ công nghệ của lĩnh vực mà các doanh nghiệp đó đang hoạt động, mà còn tác
động làm cho doanh nghiệp trong nƣớc cũng phải nỗ lực đổi mới công nghệ,
nâng cao trình độ quản lý để tăng khả năng cạnh tranh của mình. Chính điều này
đã làm cho trình độ công nghệ của nhiều lĩnh vực đã tăng khá nhanh so với
trƣớc đây.
68
2.4. MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KCN
TỈNH VĨNH PHÖC VÀ NGUYÊN NHÂN
2.4.1. Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những thành công đã đạt đƣợc, trong quá trình phát triển các
KCN Vĩnh Phúc vẫn còn có nhiều yếu kém, hạn chế, trong đó những hạn chế
chủ yếu là:
Một là, việc xây dựng kết cấu hạ tầng còn chậm, chƣa theo kịp công tác
xúc tiến đầu tƣ. Kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn thấp kém,
nhất là hạ tầng xã hội và các dịch vụ phục vụ cho các KCN chƣa đáp ứng nhu
cầu. Chẳng hạn, đến nay mới chỉ có khoảng 5% số công nhân đƣợc ở trong các
nhà trọ do các doanh nghiệp, chính quyền và các tổ chức đoàn thể xây dựng, gần
95% còn lại chủ yếu là công nhân ngoại tỉnh phải thuê nhà trọ của tƣ nhân, khá
tạm bợ với các điều kiện an ninh, vệ sinh và không gian không đảm bảo. Hay
việc đầu tƣ xây dựng nhà máy xử lý nƣớc thải trong các KCN cũng triển khai rất
chậm. Mặc dù các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động nhƣng chỉ có KCN Khai
Quang đã xây dựng xong Trạm xử lý nƣớc thải giai đoạn I (công suất 1.800
m3/ngày đêm), còn lại đều chƣa hoàn thành. Các chủ đầu tƣ hạ tầng KCN chậm
hoàn thiện các thủ tục pháp lý liên quan.
Hai là, tiến độ giải phóng mặt bằng (GPMB) các KCN và các dự án trên
địa bàn tỉnh chậm. nhƣ KCN Kim Hoa (thành lập năm 1998), tiến độ xây dựng
theo kế hoạch là 2 năm nhƣng đến cuối năm 2007, mới bồi thƣờng, giải phóng
mặt bằng xong; KCN Khai Quang (thành lập năm 2006), tiến độ xây dựng hạ
tầng theo kế hoạch phải xong trƣớc 31/12/2008 nhƣng đến nay vẫn chƣa giải
phóng xong mặt bằng; KCN Bình Xuyên (thành lập năm 2007), tiến độ xây
dựng hạ tầng đƣợc phê duyệt hoàn thành vào tháng 12/2009, nhƣng 34 ha đất đã
bồi thƣờng lại bị tái lấn chiếm, không giải phóng đƣợc mặt bằng. Các KCN mới
có Quyết định thành lập triển khai xây dựng hạ tầng KCN gặp khó khăn do
vƣớng mắc về bồi thƣờng, GPMB, cấp nƣớc cho hoạt động KCN chƣa đáp ứng
yêu cầu (KCN Bá Thiện). Chính điều này tạo ra sự không đồng bộ về kết cấu hạ
tầng của KCN, gây ảnh hƣởng đến quá trình triển khai dự án, tổ chức sản xuất
69
kinh doanh; làm giảm hiệu quả đầu tƣ, lãng phí nguồn lực; ảnh hƣởng tới sản
xuất Nông nghiệp và môi trƣờng. Điều này đã tác động ngƣợc lại đến khả năng
lấp đầy KCN, phần diện tích đất đã giải phóng và san lấp mặt bằng nhƣng chƣa
có nhà đầu tƣ thuê đã tạo ra dƣ luận không tốt trong nhân dân và các phƣơng
tiện thông tin đại chúng. Đó là lý do chủ yếu khiến cho tỷ lệ lấp đầy tại các KCN
chƣa cao.
Ba là, tỷ lệ lấp đầy còn thấp. Ảnh hƣởng của khủng hoảng tài chính toàn
cầu đã tác động tới quyết định đầu tƣ, một số đầu tƣ vào lĩnh vực công nghiệp,
hạ tầng KCN của các tập đoàn lớn đến Vĩnh Phúc từ cuối năm 2007 và đầu năm
2008 cũng bị chững lại, nhƣ dự án của các tập đoàn Winstron, Catcher, Chimei,
Wija Baru, KBB, Ju Teng,…từ đó làm ảnh hƣởng tới thu hút các dự án vệ tinh.
Thu hút đầu tƣ trong nƣớc cũng còn nhiều tồn tại: các dự án DDI thu hút mới
chủ yếu là ngoài khu, cụm công nghiệp tập trung (chiếm 74,26% về số dự án và
91,27 % về số vốn đăng ký) và chủ yếu là các dự án thuộc lĩnh vực thƣơng mại,
dịch vụ vào những địa bàn có giao thông thuận tiện, ít dự án thuộc lĩnh vực
khuyến khích đầu tƣ. Do chi chi phí đầu tƣ trong các Khu công nghiệp cao, dẫn
đến nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng đầu tƣ vào trong KCN.
Bốn là, tình hình triển khai các dự án trong KCN trên địa bàn tỉnh không
đảm bảo tiến độ đăng ký. Các dự án của công ty Cowin Fastener, Công ty
Toyotaki, Công ty GHS, Công ty Compal (của nƣớc ngoài), công ty Minh Phúc,
công ty Vinh Phát, công ty DHP, Nhà máy bơm nƣớc Đại Việt (trong nƣớc) là
điển hình của sự chậm trễ đó.
Năm là, mối quan hệ giữa chủ và ngƣời lao động chƣa đƣợc cải thiện.
Tình trạng doanh nghiệp lách Luật nhằm né tránh việc chi trả chế độ, chính sách
cho ngƣời lao động là khá phổ biến. Tính đến cuối năm 2009, tỷ lệ lao động
không thực hiện hợp đồng lao động là 0,5%, HĐLĐ không xác định thời hạn là
29,6 %, HĐLĐ từ 1-3 năm là 57,4%; HĐLĐ dƣới 1 năm là 5,2% và HĐLĐ thử
việc là 7,4% [47]. Nội dung ký kết đối với loại HĐLĐ 3 tháng, thời vụ sơ sài,
không đảm bảo đầy đủ các quyền lợi của ngƣời lao động về tiền lƣơng, BHXH,
BHYT… Do đó, những tranh chấp trong quan hệ lao động, gia tăng xu hƣớng
70
công nhân ngừng làm việc tập thể để đòi quyền lợi đã bị ngƣời sử dụng lao động
vi phạm. Tình hình đình công trái pháp luật tuy có giảm so với cùng kỳ nhƣng
vẫn còn xảy ra thƣờng xuyên. Trong Quý I/2010 xảy ra 02 cuộc đình công của
công nhân Công ty TNHH Daewoo Apprel trong KCN Khai Quang và Công ty
Han Nam trong Khu công nghiệp Bình Xuyên.
Sáu là, trình độ ngƣời lao động trong một số doanh nghiệp còn thấp và
thiếu trầm trọng. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn thiếu cả lao động phổ thông,
nhất là các doanh nghiệp may mặc và cơ khí.
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, một số hệ thống cơ chế, chính sách còn bất cập
Chƣa có chủ trƣơng thống nhất về hỗ trợ các Công ty đầu tƣ phát triển hạ
tầng trong thực hiện công tác bồi thƣờng giải phóng mặt bằng. Công tác bồi
thƣờng giải phóng mặt bằng chủ yếu do các Công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng
thực hiện, quá trình triển khai còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc đặc biệt là về
giá bồi thƣờng. Giá bồi thƣờng chƣa đƣợc thay đổi phù hợp với với biến động
giá cả thị trƣờng và vẫn còn sự chênh lệch khá lớn giữa trƣờng hợp doanh
nghiệp thỏa thuận bồi thƣờng và giá nhà nƣớc bồi thƣờng. Chẳng hạn, tại thời điểm năm 2010, giá nhà nƣớc đền bù là 73 triệu/sào(360m2), tƣơng đƣơng 200.000 nghìn đồng/m2, trong khi giá của các doanh nghiệp nhỏ lẻ thỏa thuận là từ 400.000 đến 1.000.000/m2 (tùy vị trí, mức độ đẹp hay xấu). Chính vì vậy,
ngƣời dân có sự so bì, tính toán dẫn đến gây khó khăn lớn cho công tác giải
phóng mặt bằng, nhƣ KCN Khai Quang đến nay vẫn còn khoảng 40ha chƣa bồi
thƣờng và KCN Bình Xuyên còn 74ha.
Còn thiếu chính sách, quy định cụ thể về cấp đất dịch vụ, trả đất bằng tiền
cho nhân dân vẫn chƣa ban hành. Công tác xây dựng các khu tái định cƣ ở một
số khu vực trọng điểm triển khai chậm. Vấn đề giải quyết việc làm cho các đối
tƣợng lao động đủ điều kiện tại các địa phƣơng có đất bị thu hồi còn đạt tỷ lệ rất
thấp, thực hiện cam kết tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp không hiệu
quả. Điều này dẫn đến ngƣời dân tái lấn chiếm lại diện tích đất của KCN.
71
Các chính sách hỗ trợ về chuyển đổi nghề, các phƣơng án tổ chức đào tạo
nghề, các chƣơng trình việc làm tại chỗ cho các đối tƣợng lao động ở khu vực
mất đất và các chính sách xã hội khác nhƣ xây dựng các công trình công cộng,
phúc lợi ở nông thôn nơi có đất thu hồi chƣa đƣợc quan tâm giải quyết một cách
thoả đáng. Điều đó gây tâm lý ngại ngùng cho ngƣời bị thu hồi đất khi chuyển
chỗ ở và nơi làm việc.
Công tác vận động, tuyên truyền thuyết phục nhân dân của các cấp chính
quyền ở một số địa phƣơng có đất bị thu hồi còn hạn chế, việc giáo dục ý thức
trách nhiệm, gƣơng mẫu của cán bộ, Đảng viên ở một số Chi bộ Đảng chƣa tốt,
một số Đảng viên không nhận tiền bồi thƣờng, GPMB, thậm chí còn tuyên
truyền chống lại chủ trƣơng của tỉnh, gây ảnh hƣởng không tốt trong nhân dân.
Thứ hai, Năng lực tài chính của một số chủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, dự án thứ cấp chưa đủ mạnh:
Việc chậm triển khai đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng tại các KCN, ngoài
nguyên nhân khó khăn trong công tác bồi thƣờng giải phóng mặt bằng, còn do
năng lực tài chính của doanh nghiệp kém. Thực tế cho thấy, chủ đầu tƣ xây dựng
kết cấu hạ tầng do không đủ năng lực và khả năng huy động tài chính để đầu tƣ
nên đã lựa chọn đầu tƣ theo “hình thức cuốn chiếu” có nghĩa là “có doanh
nghiệp đầu tƣ đến đâu, triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng đến đó”, tài chính để
thực hiện đầu tƣ dựa trên việc thu tiền thuê đất của các doanh nghiệp đã đầu tƣ
và ứng tiền trƣớc để thuê đất của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến, kết cấu hạ
tầng không đồng bộ, ảnh hƣởng đến hoạt động sản xuất cho diện tích đất nông
nghiệp còn lại và không giải quyết tốt các yếu tố ảnh hƣởng đến môi trƣờng.
Nhƣ chủ đầu tƣ các KCN Bá Thiện (thành lập ngày 18/12/2007 - chủ đầu tƣ là
Công ty TNHH quản lý và phát triển hạ tầng Compal) và Bình Xuyên II (thành
lập tháng 7/2008 - chủ đầu tƣ là Công ty TNHH Fuchuan, thuộc Tập đoàn
KHKT Hồng Hải) là các doanh nghiệp 100% vốn FDI, trong thời điểm cuối năm
2008 và cả năm 2009, các Công ty mẹ tại Đài Loan đều rơi và khủng hoảng kinh
tế, do đó các doanh nghiệp này đều tạm dừng xây dựng mặc dù mặt bằng hết sức
thuận lợi do đã giải phóng xong mặt bằng.
72
Đối với KCN Bá Thiện II (thành lập tháng 02/2009), chủ đầu tƣ là Công
ty TNHH Vina CPK - doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Kể từ khi đƣợc
cấp Giấy Chứng nhận đầu tƣ, nhà đầu tƣ chƣa thực hiện đầu tƣ, xây dựng hạ
tầng KCN. Hiện nay, Ban Quản lý các khu công nghiệp đang xem xét lại năng
lực của nhà đầu tƣ này.
Thứ ba, việc thực hiện các quy định pháp luật của các doanh nghiệp
chưa nghiêm túc:
Các DN đều chƣa có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật nhà nƣớc về đầu tƣ, về lao động, về bảo vệ môi trƣờng... Nhƣ: sau khi
đƣợc cấp GCNĐT, các DN phải triển khai thực hiện dự án theo tiến độ đã đƣợc
ban quản lý KCN phê duyệt, nhƣng việc thực hiện dự án của nhiều DN tiến hành
cầm chừng, đầu tƣ một cách chống đối để tránh bị thu hồi GCNĐT và thu hồi
đất theo quy định của pháp luật. Khi đi vào hoạt động không thực hiện chế độ
báo báo thống kê định kỳ; tham gia đống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho
ngƣời lao động không đầy đủ; không thực hiện tốt các quy định an toàn lao
động, cấp bảo hộ lao động dẫn tới các cuộc đình công của công nhân (Công ty
TNHH Daewoo Apprel, Công ty Han Nam), nhiều DN không xử lý tốt nƣớc thải
theo quy định trƣớc khi thải ra môi trƣờng xung quanh.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cố tình ký HĐLĐ không đúng Luật của
các doanh nghiệp là nhằm mục đích trốn đóng BHXH hoặc để chấm dứt HĐLĐ
khi cần thiết. Tính đến hết năm 2009, tổng số tiền nợ BHXH của các doanh
nghiệp trong KCN là 8,881 tỷ đồng. Trong đó, có 4 doanh nghiệp có nguy cơ
phải đóng cửa, khiến cho 1.500 lao động lâm vào thế không có việc làm, đó là
công ty TNHH của Hàn Quốc TS – Ari nợ BHXH 654,656 triệu đồng; Công ty
TNHH Tassco Việt Nam nợ 766,586 triệu đồng; Công ty TNHH Ari Pack và
công ty liên doanh sản xuất bình lọc công nghiệp V&S. Điều đáng nói là trong 4
doanh nghiệp trên chỉ có 2 doanh nghiệp có tổ chức công đoàn, nhƣng 2 tổ chức
công đoàn này cũng không làm tốt vai trò của mình là bảo vệ lợi ích hợp pháp
của ngƣời lao động.
73
Thứ tư, hoạt động xúc tiến đầu tư chưa được chú trọng
Hoạt động của bộ máy xúc tiến đầu tƣ (XTĐT) của Vĩnh Phúc còn yếu
kém, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu mục tiêu dài hạn, còn dàn trải, không tập
trung, chƣa đƣợc xã hội hóa từng bƣớc. Việc cung cấp thông tin XTĐT của tỉnh
còn hạn chế, website của tỉnh chƣa có bộ máy chuyên quản lý và thực hiện việc
thƣờng xuyên cập nhật thông tin. Sự phối hợp trong hoạt động XTĐT, du lịch,
thƣơng mại giữa các sở ban ngành của tỉnh với nhau còn chƣa đồng bộ, thiếu
chặt chẽ; chƣa có sự phối hợp giữa Vĩnh Phúc với các bộ, ngành, cơ quan Trung
ƣơng và với các tỉnh lân cận. Từ đó, làm giảm đi tính hấp dẫn đối với các nhà
đầu tƣ, khiến cho tỷ lệ lấp đầy taị các KCN chƣa cao.
Thứ năm, chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng được yêu cầu của các
doanh nghiệp
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và công nghiệp hóa nhanh nhƣ
hiện nay, nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc chƣa đáp ứng kịp với yêu cầu mới.
Theo số liệu thống kê của Công đoàn các KCN tỉnh Vĩnh Phúc, năm 2009, tỷ lệ
lao động qua đào tạo còn ở mức thấp, chỉ chiếm khoảng 20% còn lại lại hơn 80%
là lao động chƣa đƣợc qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao (77,5%). Đây một trong những
vấn đề mà các nhà đầu tƣ đặc biệt là các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài chƣa hài lòng,
chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của họ khi mà công nghệ sử dụng lại là những công
nghệ hiện đại; từ đó, ảnh hƣởng đến quá trình triển khai, thực hiện dự án trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nhất là đối với các dự án lớn, có sử dụng công nghệ cao.
Những yếu kém, hạn chế trên đây cần thiết phải có những giải pháp hiểu
quả đảm bảo cho các KCN Vĩnh Phúc tiếp tục đạt đƣợc sự tăng trƣởng.
74
CHƢƠNG 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH VĨNH PHÚC ĐẾN NĂM 2020
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP TỈNH VĨNH PHÖC
3.1.1. Quan điểm phát triển khu công nghiệp
- Phát triển KCN phải phù hợp với quy hoạch tổng thể về phát triển kinh
tế – xã hội của tỉnh, và với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
Trong xu thế hiện nay, nền kinh tế của từng quốc gia trên thế giới đều có
mối quan hệ qua lại, đan xen và ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa và hội nhập
kinh tế giữa các quốc gia trở thành xu thế tất yếu của thời đại.
Hội nhập kinh tế quốc tế đƣợc biểu hiện cụ thể bằng đặc trƣng nhƣ: toàn
cầu hóa kinh tế, thị trƣờng hóa kinh tế và liên kết kinh tế khu vực song phƣơng
và đa phƣơng. Với những đặc trƣng vốn có nói lên hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi
quốc gia muốn hội nhập kinh tế thành công nhất thiết phải xây dựng và điều
chỉnh chiến lƣợc kinh tế của mình theo hƣớng hội nhập và liên kết kinh tế khu
vực và thế giới theo đúng luật chơi của thế giới. Do đó, sự phát triển của KCN
nƣớc ta nói chung và sự phát triển KCN tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng không thể là
ngoại lệ nằm ngoài cái chung ấy.
Từ đó cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế vừa mang tính tất yếu vừa mang
tính quy luật, vừa là con đƣờng quan trọng để giúp Việt Nam nói chung và tỉnh
Vĩnh Phúc phát triển nhanh chóng các KCN, góp phần thực hiện thành công
CNH, HĐH đất nƣớc, chống nguy cơ tụt hậu và rút ngắn khoảng cách nƣớc ta
với các nƣớc khác.
- Phát triển KCN phải đảm bảo tính bền vững:
Ủy ban Môi trƣờng và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã nhấn mạnh: “Phát
triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con
ngƣời, nhƣng không tổn hai tới sự thỏa mãn các nhu cầu của thế hệ tƣơng lai”.
75
Thế hệ hôm nay nếu không muốn mắc nợ thế hệ mai sau, thì thế hệ hôm nay
phải tuân thủ đầy đủ các nguyên lý phát triển bền vững. Do đó, phát triển KCN
Vĩnh Phúc tất yếu phải tuân thủ các nguyên tắc của phát triển bền vững, phải đạt
tới sự hài hòa, cân đối giữa 3 lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trƣờng. Việc phát
triển các KCN của tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua mới chỉ tập trung quan
tâm chủ yếu đến tăng trƣởng kinh tế, còn nhiều tồn tại, hạn chế về vấn đề ổn
định xã hội và bảo vệ môi trƣờng. Vì vậy, cần có những giải pháp đồng bộ phát
triển các KCN của Vĩnh Phúc theo hƣớng bền vững, dựa trên 3 trụ cột chính là
kinh tế, xã hội và môi trƣờng.
Nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại các KCN theo hƣớng thu hút các dự án
sử dụng nhiều vốn, hàm lƣợng công nghệ cao, sử dụng không gian nhiều tầng…
Đảm bảo tổ chức sản xuất công nghiệp trong các KCN theo mô hình hiện đại,
tăng tỷ lệ diện tích cho phát triển hạ tầng và cây xanh trong các KCN. Hạn chế
sử dụng đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) theo hƣớng ƣu tiên phát triển
các KCN trên vùng gò đồi thuộc các huyện Tam Dƣơng, Bình Xuyên và Lập
Thạch, Sông Lô. Tăng cƣờng vai trò động lực thúc đẩy các tiểu vùng phát triển,
tạo hạt nhân phát triển các tiểu vùng của các KCN. Phát triển các KCN tập
trung, gắn sự phát triển của các KCN với sự phát triển của hệ thống đô thị, dịch
vụ, phân bố dân cƣ. Phát triển đồng bộ các đô thị và các ngành dịch vụ khác gắn
liền với phát triển KCN để tạo sự phát triển hài hòa, đồng bộ hỗ trợ lẫn nhau giữa
các ngành và lĩnh vực.
3.1.2. Mục tiêu phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc đến 2020
3.1.2.1.Mục tiêu tổng quát
Trong báo cáo thực hiện phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, dự
kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và xây dựng chiến
lƣợc phát triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 của
Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định mục tiêu tổng quá phát triển KCN
Vĩnh Phúc đến năm 2020 là: “Hình thành hệ thống các KCN hợp lý trên địa bàn,
đảm bảo sự phát triển bền vững và thật sự trở thành động lực cho sự phát triển
chung của toàn tỉnh, tạo hạt nhân để phát triển đồng đều các tiểu vùng và các địa
76
phƣơng trong tỉnh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu dân cƣ, hiện đại
hóa nông nghiệp và nông thôn. Tạo môi trƣờng thuận lợi để thu hút đầu tƣ phát
triển CN, tăng tỷ lệ đóng góp của CN (đặc biệt là các KCN) trong phát triển kinh tế
– xã hội tỉnh”. Tập trung phát triển các ngành có hàm lƣợng công nghệ cao, thân
thiện với môi trƣờng, giá trị gia tăng lớn, sử dụng ít nguyên liệu đầu vào, suất đầu
tƣ lớn, sử dụng nhiều lao động, có nhiều sản phẩm tham gia xuất khẩu nhƣ: cơ khí
chế tạo, công nghiệp ô tô, xe máy, công nghiệp điện tử, cơ điện tử... [47]
Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ
nhằm tăng khả năng cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong KCN
đi đôi với việc mở rộng thị trƣờng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chủ lực nhƣ
dệt may, giầy dép, linh kiện, thiết bị điện tử, sản phẩm gỗ…
3.1.2.2. Các mục tiêu cụ thể đến năm 2020
Căn cứ vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, chiến lƣợc phát
triển kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030, xét tình hình
triển khai thực tế thời gian qua và khả năng cung ứng điều kiện hạ tầng cần thiết
để phát triển các KCN, đề ra mục tiêu cụ thể phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc
đến năm 2020 nhƣ sau:
Bảng 3.1: Mục tiêu cụ thể phát triển các KCN
tỉnh Vĩnh Phúc đến 2020
Stt Năm 2020
1 Diện tích KCN 6,038 ha
2 Vốn đầu tƣ cơ sở hạ tầng (tăng thêm) 1 tỷ USD
3 Vốn đầu tƣ sản xuất trong KCN 7,5 tỷ USD
4 Tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp 70 %
5 Giá trị sản xuất công nghiệp Tăng 17%/năm
6 Tỷ lệ đóng góp vào GTSX CN 75%
7 Thu hút thêm lao động 26 vạn
Nguồn: Ban quản lý KCN Vĩnh Phúc
77
Mục tiêu cụ thể để phát triển các KCN Vĩnh Phúc đến 2010 là rất lớn,
không thể bố trí triển khai ngay cùng một lúc, khi cân đối với yếu tố ảnh hƣởng
của ohát triển kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN.
Để việc đầu tƣ phát triển KCN đạt hiệu quả cao nhất, sẽ lựa chọn một số
KCN và một số khu vực ƣu tiên để đầu tƣ đồng bộ ngoài hàng rào KCN tƣơng
đƣơng với trong hàng rào KCN nhằm nhanh chóng phát huy hiệu quả đầu tƣ.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC KCN TỈNH VĨNH PHÖC
Phát triển khu công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
KTXH của quốc gia, là công cụ hữu hiệu để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nƣớc. Nhằm đảm bảo sự bền vững trong quá trình phát triển KCN của
tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả xin đề xuất một số giải pháp:
3.2.1. Phải đảm bảo tính nhất quán và đồng bộ trong quy hoạch phát
triển KCN.
Công tác quy hoạch luôn đƣợc xem là khâu then chốt, đặt nền móng vững
chắc cho sự phát triển và bảo đảm sự thành công của KCN. Thủ tƣớng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 1107/QĐ – TTg ngày 21/08/2006 về việc quy
hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hƣớng đến năm
2020, đồng thời Luật đầu tƣ chung đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006,
đã tạo nền móng vững chắc cho các địa phƣơng xây dựng và phát triển KCN.
Mặc dù trong thời gian qua, tỉnh Vĩnh Phúc đã chú trọng tới công tác quy
hoạch, nhƣng quy hoạch vẫn thiếu tính khoa học, thiếu sự gắn kết với quy hoạch
phát triển KT-XH của tỉnh và các vấn đề: môi trƣờng, nguồn nhân lực, xây dựng
quy hoạch chƣa phù hợp với tiềm năng của tỉnh. Vì vậy, khi quy hoạch phải
khắc hoạ rõ nét môi trƣờng KT - XH hấp dẫn của tỉnh, bằng cách công khai hoá
rộng rãi và minh bạch quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết của tỉnh, phải
quan tâm tới việc ổn định, phát triển xã hội và bảo vệ môi trƣờng sinh thái,
không nên vì nôn nóng thu hút đầu tƣ mà phá vỡ quy hoạch. Do đó, công tác
quy hoạch trong thời gian tới cần phải chú ý các vấn đề cốt yếu sau:
Một là, quy hoạch phát triển các KCN phải phù hợp với quy hoạch phát
78
triển KTXH, quy hoạch đất đai, quy hoạch điểm dân cƣ, thành phố, khu đô thị.
Nội dung quy hoạch KCN không chỉ nói chung về bố trí địa điểm, vị trí đóng
của khu mà còn phải tính tới cả hƣớng bố trí ngành công nghiệp, sản phẩm sẽ
sản xuất,… để phù hợp với đặc điểm dân cƣ, khả năng đất đai, tài nguyên, giá cả
lao động và yêu cầu về môi trƣờng của từng khu vực. Để nâng cao chất lƣợng
qui hoạch, cần có sự phối hợp của các ngành, các địa phƣơng và giữa địa
phƣơng với trung ƣơng để có sự thống nhất trong các định hƣớng phát triển,
đảm bảo tính liên kết giữa phát triển của KCN với sự phát triển chung của địa
phƣơng, cũng nhƣ tính liên kết trong phát triển KCN giữa các địa phƣơng trong
tỉnh với nhau, tránh cạnh tranh trực tiếp giữa các KCN trên cùng một địa bàn
hoặc giữa những địa bàn có sự gần gũi về mặt địa lý.
Hai là, quy hoạch các KCN phải chấp hành nghiêm chỉnh qui định về tỷ
lệ lấp đầy KCN hiện có khi mở rộng và bổ sung qui hoạch KCN mới của các địa
phƣơng theo Nghị định số 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ. Từ đó có căn cứ và
lộ trình điều chỉnh qui hoạch KCN cho phù hợp với yêu cầu phát triển của từng
thời kỳ, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm tài nguyên đất. Tránh tình trạng nhiều KCN
không thể thu hút đƣợc đầu tƣ hoặc đạt tỷ lệ sử dụng đất KCN rất thấp để đất
hoang hóa trong khi ngƣời dân không có đất sản xuất; hoặc thiếu đất công
nghiệp cho thuê, lỡ mất cơ hội phát triển của địa phƣơng.
Ba là, quy hoạch KCN cần đảm bảo tính bền vững, phải xác định rõ vị trí
có thể xây dựng KCN cũng nhƣ những ngành nghề cụ thể đƣợc phép đầu tƣ vào
những vị trí này. Cụ thể là vị trí đặt KCN không đƣợc ảnh hƣởng tới hành lang
phát triển các đô thị trong tƣơng lai. Không nên bố trí các KCN quá gần tuyến
đƣờng giao thông huyết mạch và đảm bảo không ảnh hƣởng tiêu cực tới sự tồn
tại bền vững của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hạn chế việc sử dụng đất
nông nghiệp, đặc biệt là những vùng đất tốt, những vùng có mật độ dân cƣ cao.
Vì vậy, việc nghiên cứu đánh giá đúng đắn, nghiêm túc về tiềm năng, lợi thế và
nhu cầu đầu tƣ và khả năng thu hút đầu tƣ của từng địa phƣơng nơi quy hoạch
xây dựng KCN để định hƣớng phát triển ngành nghề, hình thành và phát triển
các khu công nghiệp hợp lý để phát huy lợi thế của từng vùng là hết sức quan
79
trọng. Để làm đƣợc điều này Ban quản lý các khu công nghiệp phải có phòng
ban chức năng phù hợp làm công tác nghiên cứu, tham mƣu cho Ban và trên cơ
sở đó Ban tham mƣu với UBND tỉnh.
Bốn là, trong quy hoạch phát triển các KCN, nhất thiết phải tính đến việc
đảm bảo tính đồng bộ của các yếu tố cơ sở hạ tầng về kinh tế, xã hội và môi
trƣờng. Phát triển KCN đi đôi với quy hoạch đồng bộ khu dân cƣ, khu đô thị,
đảm bảo sự phát triển tƣơng xứng giữa cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội,
giữa quy hoạch trong hàng rào và ngoài hàng rào.
Năm là, công tác thiết kế quy hoạch chi tiết phải tính toán dự kiến hợp lý
các loại đất xây dựng công nghiệp, tỷ lệ đất cho thuê xây dựng nhà xƣởng và đất
xây dựng hạ tầng kỹ thuật một cách hợp lý, với phƣơng án tiết kiệm nhất.
3.2.2. Đẩy nhanh việc giải quyết bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng và
giải quyết việc làm cho ngƣời dân bị thu hồi đất:
Công tác bồi thƣờng GPMB là vấn đề phức tạp, liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của ngƣời dân có đất trong quy hoạch xây dựng KCN. Trong những
năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có nhiều chủ trƣơng, biện pháp chỉ đạo GPMB
cho các KCN. Thế nhƣng, công tác bồi thƣờng GPMB để đầu tƣ kết cấu hạ tầng
trong và ngoài hàng rào KCN gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc. Một số huyện
giải quyết không tốt, không đồng bộ dẫn đến nhiều bức xúc căng thẳng kéo dài
thời gian thực hiện, gây nên những hậu quả xấu về mặt xã hội và tổn thất về thời
gian, chi phí của các nhà đầu tƣ, chậm thực hiện việc đầu tƣu xây dựng kết cấu
hạ tầng, thậm chí có KCN chờ giải phóng mặt bằng để xây dựng kết cấu hạ tầng,
nảy sinh tình trạng chắp vá trong đầu tƣ, làm thất thoát, lãng phí lớn về tài chính.
Để thực hiện tốt công tác bồi thƣờng GPMB, thực tế cho thấy cần phải thực hiện
tốt các nội dung sau:
- Có chính sách thống nhất về sử dụng đất đai và bồi thường GPMB:
Việc quản lý ruộng đất, quá trình sử dụng, sự biến động đất đai phải đƣợc
kiểm soát để nắm đƣợc quỹ đất của tỉnh cả về diện tích, chủ sử dụng, loại đất.
Bên cạnh đó, phải nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ đất đai, không để tình trạng sai
sót, lợi dụng sơ hở trong quản lý ( nhƣ khai không đúng mục đích sử dụng đất),
80
hạn chế bức xúc khiếu kiện trong nhân dân. Chính sách bồi thƣờng GPMB phải
nhất quán, tránh tình trạng mỗi địa phƣơng làm một kiểu, dẫn đến tình trạng tự ý
nâng giá bồi thƣờng. Kiên quyết xử lý nghiêm các trƣờng hợp vi phạm.
- Cần công khai, minh bạch về chủ trương, chính sách bồi thường
GPMB và quy hoạch phát triển KCN:
Cần tuyên truyền cho nhân dân thấy rõ chủ trƣơng phát triển công nghiệp,
KCN là yêu cầu tất yếu khách quan để phát triển đất nƣớc, xây dựng Vĩnh Phúc
giàu mạnh, văn minh. Đây là chủ trƣơng đúng đắn để chuyển nền kinh tế của
tỉnh từ nông nghiệp sang công nghiệp, từng bƣớc nâng cao đời sống nhân dân.
Tạo sự thống nhất, đồng thuận về nhận thức trong nhân dân về chủ trƣơng, chính
sách phát triển công nghiệp và KCN.
Cần phải công khai, minh bạch từ quy hoạch KCN đến chính sách pháp
luật về đất đai, chính sách bồi thƣờng đƣợc áp dụng của tỉnh đã ban hành. Sự
minh bạch đó sẽ tránh đƣợc các hậu quả về bất bình đẳng lợi ích giữa các hộ gia
đình, rồi các vụ kiện cáo… nhƣ thời gian qua. Công tác này đòi hỏi phải coi
trọng việc triển khai cụ thể tới nhân dân, cần sự quan tâm chỉ đạo sát sao của
chính quyền địa phƣơng cơ sở, cùng với sự vận động của Mặt trận tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân. Coi trọng thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ cơ sở, phân
biệt rõ những việc nào dân biết, việc nào dân bàn, những việc nào dân kiểm tra.
Thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ cơ sở chính là chìa khóa thành công trong công
tác vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc nói chung và công tác GPMB nói riêng.
- Tạo việc làm và đảm bảo thu nhập ổn định cho người dân có đất bị thu
hồi để phát triển KCN.
Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN sẽ làm giảm một phần hoặc toàn
bộ tƣ liệu sản xuất của ngƣời dân địa phƣơng vốn chủ yếu thực hiện sản xuất
nông nghiệp. Trong khi đó, lao động nông nghiệp nƣớc ta nói chung, ngƣời
nông dân có đất bị thu hồi nói riêng có trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản
lý kém, sức khoẻ yếu, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp rất hạn chế.
Do đó, khi đƣợc tạo điều kiện vào làm việc trong các doanh nghiệp thƣờng
81
không đáp ứng đƣợc yêu cầu doanh nghiệp đặt ra, dẫn đến tình trạng hoặc không
đƣợc thu nhận, hoặc tự bỏ doanh nghiệp, hoặc bị thải hồi sau một thời gian làm
việc. Vì vậy, nhà nƣớc phải có những chính sách hỗ trợ cụ thể để tránh tình
trạng thất nghiệp và phát sinh những tiêu cực xã hội. Cụ thể:
Thứ nhất, phải nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
ngƣời lao động, giúp cho họ thích ứng với yêu cầu của công việc mới, đồng thời
tăng NSLĐ, nâng cao chất lƣợng, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh
tranh và mở rộng thị trƣờng. Muốn vậy, cần phải củng cố hệ thống giáo dục phổ
thông và dạy nghề, đổi mới nội dung và chƣơng trình đào tạo của các cơ sở đào
tạo. Do vậy, cách tốt nhất là khi thực hiện di dân tái định cƣ hoặc thu hồi đất,
cần đánh giá đúng thực trạng lao động, việc làm của những hộ sau khi bị thu hồi
đất. Trên cơ sở đó, nhà nƣớc, các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp mới có đƣợc
kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho ngƣời lao động
sát với yêu cầu của các doanh nghiệp. Điều này tránh cho ngƣời lao động không
đủ năng lực nhƣng vẫn theo học để rồi lại hoặc tự bỏ nghề, hoặc bị doanh nghiệp
sa thải. Bên cạnh đó, cần thiết phải có sự lựa rèn luyện kỷ luật lao động và tác
phong công nghiệp cho ngƣời lao động.
Ngoài ra, cần nghiên cứu, tổng kết, nhân rộng các mô hình hiệu quả tạo
việc làm cho ngƣời lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp nhƣ lập quỹ hỗ trợ dạy nghề từ tiền thu của địa phƣơng cho thuê đất và
từ nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng, sự hỗ trợ của ngân sách và của doanh
nghiệp; dành tỷ lệ nhất định đất cho các hộ gia đình trong vùng chuyển đổi đất
để làm kinh tế gia đình (dịch vụ), giải quyết việc làm cho số lao động lớn tuổi;
tổ chức khu tái định cƣ theo nghề nghiệp để gắn tái định cƣ với tái tạo việc làm;
phát triển dịch vụ ngoài KCN… Đối với lao động trẻ nên dùng một phần tiền
đền bù để đào tạo nghề bắt buộc cho họ, đồng thời có cơ chế buộc các doanh
nghiệp phi nông nghiệp đƣợc sử dụng đất thu hồi phải có trách nhiệm tuyển
dụng số thanh niên đƣợc đào tạo này vào làm việc.
Thứ hai, đối với ngƣời lao động độ tuổi từ 35 trở lên, khó có khả năng
chuyển đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Nhà nƣớc cần dành một phần đất gần
82
KCN cấp cho nông dân để tổ chức các hoạt động dịch vụ nhƣ xây nhà cho thuê,
bán hàng tạp hoá, quán ăn, sửa chữa xe máy,... phục vụ sinh hoạt cho các KCN.
Thứ ba, tăng cƣờng sự hỗ trợ của nhà nƣớc trung ƣơng và địa phƣơng, các
doanh nghiệp, và các tổ chức đào tạo trong tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp
cho ngƣời có đất bị thu hồi.
Bên cạnh việc hỗ trợ tiền, Nhà nƣớc cần hỗ trợ các hoạt động sản xuất
kinh doanh, phát triển các ngành nghề truyền thống (làng nghề, kinh tế trang
trại…) từ nguồn hỗ trợ dạy nghề của Nhà nƣớc và vay vốn tín dụng ƣu đãi để
tạo việc làm cho ngƣời lao động; Đồng thời tăng nguồn lực đầu tƣ xây dựng hạ
tầng cơ sở nông thôn vùng chuyển đổi đất để hỗ trợ tái định cƣ, dạy nghề và hỗ
trợ ngƣời lao động di chuyển tham gia vào thị trƣờng lao động trong nƣớc.
Nghiên cứu hình thành quỹ hỗ trợ việc làm, dạy nghề, tạo việc làm cho đối
tƣợng bị thu hồi đất ở trung ƣơng và địa phƣơng trong quỹ hỗ trợ dạy nghề quốc
gia. Tăng cƣờng vốn cho vay từ quỹ quốc gia về việc làm. Ƣu tiên cho lao động
vùng bị thu hồi đất tham gia các chƣơng trình, dự án phát triển KTXH trọng
điểm quốc gia và chƣơng trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Tập trung hỗ trợ
họ trong đào tạo nghề, vay vốn với lãi suất ƣu đãi, ƣu tiên và hỗ trợ lao động
thanh niên ở vùng mất đất đƣợc đào tạo nghề để đi xuất khẩu lao động.
Đối với các địa phƣơng, cần căn cứ vào diện tích đất thu hồi phát triển
KCN, hỗ trợ một khoản tiền đào tạo nghề cho ngƣời có đất bị thu hồi. Cần
nghiên cứu để sử dụng những khoản tiền này một cách có hiệu quả để ngƣời lao
động có đƣợc nghề nghiệp chuyên môn cần thiết để đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp, có cơ hội để đƣợc tuyển dụng làm việc lâu dài…; Hình thành quỹ hỗ trợ
việc làm, dạy nghề ở tỉnh, thành phố để có điều kiện tập trung hỗ trợ đủ cho các
đối tƣợng thuộc diện bị thu hồi đất.
Đối với các tổ chức dạy nghề, để thực hiện công tác đào tạo có kết quả
tốt, cần khảo sát, nghiên cứu xây dựng chƣơng trình đào tạo, dạy nghề gắn với
nhu cầu của sự phát triển của các doanh nghiệp tại địa phƣơng; đồng thời cần
tăng cƣờng lực lƣợng nòng cốt để mở rộng mạng lƣới dạy nghề, hƣớng dẫn dạy
nghề cho các cơ sở tại huyện, xã.
83
3.2.3. Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp
Cơ sở hạ tầng của địa phƣơng cũng là một vấn đề đáng quan tâm của các
chủ đầu tƣ khi tiến hành hoạt động đầu tƣ vào KCN. Một cơ sở hạ tầng hoàn
thiện sẽ giúp các nhà đầu tƣ giảm chi phí đầu tƣ vào cho sản xuất cũng dễ dàng
hơn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Vĩnh Phúc là một tỉnh tuy có vị trí thuận lợi, hấp dẫn các nhà đầu tƣ,
nhƣng cơ sở hạ tầng kỹ thuật chƣa theo kịp yêu cầu của phát triển kinh tế. Trong
thời gian tới, Vĩnh Phúc cần phải tăng cƣờng đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật theo hƣớng sau:
+ Tăng cường đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho KCN:
Vốn đầu tƣ cho xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn nhƣng thời gian thu hồi
vốn đầu tƣ chậm, khả năng sinh lời thấp nên không hấp dẫn của các nhà đầu tƣ.
Do đó, Tỉnh nên tăng chi ngân sách cho đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
trên cơ sở tăng tỷ lệ huy động vào ngân sách và tiết kiệm các khoản chi ít cấp
thiết hơn. Mặt khác, cần có chế độ ƣu đãi đầu tƣ miễn thuế thu nhập trong một
thời gian nhất định và giảm mức thuế ở nhiều năm tiếp theo để khuyến khích các
doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc đầu tƣ vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng.
Ban hành quy chế khuyến khích tƣ nhân đầu tƣ nâng cấp các công trình giao
thông, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện, nƣớc.
Bên cạnh đó, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho việc
xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các khu vực trọng điểm, khu vực có dự án đầu
tƣ qui mô lớn, sử dụng công nghệ hiện đại, có tác dụng đẩy mạnh tốc độ tăng
trƣởng kinh tế. Tập trung thu hút vốn đầu tƣ vào một số dự án thuộc lĩnh vực bƣu
chính viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các loại hình mới và phát
triển hạ tầng mạng.
+ Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng KCN:
Thƣờng xuyên giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện đầu tƣ xây dựng kết
cấu hạ tầng KCN theo quy hoạch đã đƣợc duyệt, đảm bảo đúng tiến độ và chất
lƣợng các hạng mục công trình. Định kỳ tiến hành kiểm tra chất lƣợng các công
84
trình xây dựng, đôn đốc việc thực hiện tiến độ, kịp thời phát hiện những sai
phạm tiêu chuẩn kỹ thuật, những vƣớng mắc khó khăn để có biện pháp xử lý và
hỗ trợ kịp thời.
Chỉ đạo sát sao việc đầu tƣ xây dựng nhà ở cho công nhân, các công trình
phúc lợi công cộng và khu vực dịch vụ phục vụ ngƣời lao động trong KCN theo
đúng tiến độ đăng ký. Việc đƣa các công trình đó vào hoạt động đúng thời gian
không chỉ giải quyết tốt nhu cầu nhà ở, đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời
lao động mà còn là cơ sở để giải quyết tốt các vấn đề việc làm cho ngƣời lao
động địa phƣơng, nhất là những lao động không đáp ứng đƣợc các yêu cầu làm
việc trong KCN, giảm thiểu tình trạng mất an ninh trật tự tại các khu vực dân cƣ
lân cận.
Kiên quyết yêu cầu các chủ đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng KCN thực hiện
việc đầu tƣ xây dựng và hoàn thiện các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là
trạm xử lý và hệ thống xử lý nƣớc thải trƣớc khi KCN đi vào hoạt động. Thực tế
đã chứng minh, tất cả các loại hình ô nhiễm từ chất thải rắn, o nhiễm không khí,
bụi … thì cuối cùng cũng đều tập kết về môi trƣờng nƣớc. Việc đƣa trạm xử lý
nƣớc thải và hệ thống xử lý nƣớc thải đi vào hoạt động sẽ giải quyết tốt các vấn
đề gây ô nhiễm môi trƣờng phát sinh từ các doanh nghiệp trong KCN.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tƣ
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, khi mà các nguồn lực, đặc biệt là
nguồn vốn đƣợc tự do di chuyển thì việc thu hút đầu tƣ, đặc biệt là thu hút FDI
đang thực sự là cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia trên thế giới, giữa các
đại phƣơng trong một nƣớc. Với lý do đó, hoạt động xúc tiến đầu tƣ (XTĐT)
hơn bao giờ hết trở thành vấn đề cấp bách đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi địa
phƣơng trong việc thu hút đầu tƣ nói chung và thu hút đầu tƣ vào KCN nói
riêng. Nhìn nhận đúng ảnh hƣởng trực tiếp của công tác xúc tiến đầu tƣ đến khối
lƣợng và hiệu quả của các dự án trong KCN, mỗi địa phƣơng cần phải tổ chức
hoạt động này một cách hệ thống, thƣờng xuyên và chủ động, tránh tình trạng
trông chờ, ỷ lại vào cấp Trung ƣơng hay sự giúp đỡ của các nhà tài trợ nƣớc
ngoài. Ngƣợc lại, cần phải chủ động hợp tác với các cơ quan Trung ƣơng để tiến
85
hành công tác XTĐT để tạo hình ảnh riêng của địa phƣơng đối với các nhà đầu
tƣ trong và ngoài nƣớc.
Muốn vậy, trong thời gian tới, Tỉnh cần phải chú trọng một số vấn đề sau:
- Xác đinh rõ đối tượng cần vận động xúc tiến đầu tư, bao gồm việc xác
định đối tác đầu tƣ, ngành nghề và khu vực ƣu tiên thu hút đầu tƣ. Cần xây dựng
quy trình lựa chọn đối tác đầu tƣ một cách khoa học, bởi xét về lâu dài, công tác
này có ảnh hƣởng rất lớn đến sự phát triển lành mạnh và bền vững của nền kinh
tế. Nếu một đối tác đầu tƣ đƣợc lựa chọn không có năng lực tài chính, công nghệ
cũng nhƣ địa vị pháp lý thì rất dễ dẫn đến tình trạng xây dựng dở dang trong các
dự án, gây lãng phí và bỏ lỡ cơ hội của các nhà đầu tƣ khác. Mặt khác, làm ảnh
hƣởng đến uy tín của Tỉnh trong thu hút đầu tƣ. Do đó, khi nghiên cứu tìm hiểu
về đối tác đầu tƣ cần phải nắm đƣợc những thông tin sau: tính pháp nhân và tiềm
lực (tài chính, công nghệ ...) của đối tác; khả năng tiêu thụ sản phẩm của đối tác
và vị thế trong quan hệ kinh tế. Từ đó đƣa ra quy định phƣơng thức lựa chọn
phù hợp để tiếp cận và tạo mối quan hệ đầu tƣ lâu dài với đối tác.
- Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư
Sau khi đã xác định đƣợc đối tƣợng cần vận động đầu tƣ thì việc tổ chức
các hoạt động tuyên truyền, quản cáo cho XTĐT là vô dùng quan trọng, vì nó
giúp quảng bá hình ảnh của Vĩnh Phúc tới nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc.
Trong thời gian qua, XTĐT vào các KCN Vĩnh Phúc còn đơn điệu, chủ yếu thực
hiện việc giới thiệu với nhà đầu tƣ về quy hoạch các KCN, các chính sách của
nhà nƣớc về ƣu đãi đầu tƣ, giải đáp các thắc mắc về thủ tục hành chính... XTĐT
mới chỉ dừng lại ở việc tiếp xúc và làm việc đơn lẻ với các nhà đầu tƣ, cung cấp
thông tin về KCN qua cổng thông tin chung của Tỉnh, trang web riêng của Ban
quản lý KCN mới đi vào hoạt động nhƣng nội dung không thƣờng xuyên đƣợc
cập nhật, chỉnh sửa.
Để đạt đƣợc hiệu quả cao hơn trong công tác xúc tiến đầu tƣ cần phải đa
dạng hoá các hoạt động XTĐT dƣới nhiều hình thức, nhiều kênh khác nhau nhƣ:
+ Tiếp xúc trực tiếp giữa tỉnh với các nhà đầu tƣ tiềm năng, có tiềm lực
mạnh về tài chính và công nghệ để xúc tiến đầu tƣ các dự án quan trọng đã đƣợc
86
định hƣớng. Tăng cƣờng vận động XTĐT tại một số địa bàn quan trọng (Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ) để kêu gọi các dự án lớn, trọng
điểm. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tƣ tiềm năng có nhu cầu đầu tƣ
vào Vĩnh Phúc.
+ Tăng cƣờng tổ chức các buổi hội thảo đầu tƣ trao đổi giữa các cơ quan
nhà nƣớc và các nhà đầu tƣ nhằm kêu gọi đầu tƣ trong và ngoài nƣớc vào các
KCN ở Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó, hợp tác với các cơ quan thông tấn báo chí
trong và ngoài nƣớc để họ cung cấp các thông tin về Vĩnh Phúc. Thông qua đó,
hình ảnh của tỉnh cũng nhƣ các chủ trƣơng, chính sách ƣu đãi của Tỉnh sẽ đƣợc
giới thiệu đến từng nhà đầu tƣ cụ thể.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong XTĐT nhƣ xây dựng các trang
Web riêng để giới thiệu cụ thể và chi tiết hơn so với hiện nay về cơ hội đầu tƣ,
tiềm năng, các thông tin về dự án có tính khả thi cao, các văn bản pháp lý, quy
trình thủ tục và những ƣu đãi khi đầu tƣ vào các KCN trên địa bàn tỉnh nói riêng
và toàn tỉnh nói chung. Xây dựng hệ thống thông tin KT – XH, cơ sở dữ liệu hỏi
đáp để phục vụ XTĐT, với trang thiết bị mạng cần thiết để tạo điều kiện thuận
lợi để mọi tổ chức trong và ngoài nƣớc dễ dàng tìm kiếm thông tin. Thiết lập
đƣờng dây nóng để trả lời trực tiếp những vƣớng mắc của các nhà đầu tƣ. Bộ
phận xử lý của đƣờng dây nóng nên đặt tại Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc.
+ Đẩy mạnh công tác XTĐT đối với các dự án cơ hội thông qua các dự
án triển khai thành công và thông qua các nhà đầu tƣ lớn, có uy tín hiện có của
tỉnh. Các nhà đầu tƣ đã và đang thành công tại tỉnh Vĩnh Phúc chính là cầu nối
quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh, môi trƣờng đầu tƣ của tỉnh đến với các
nhà đầu tƣ khác. Do đó, thƣờng xuyên cung cấp những thông tin, chủ trƣơng thu
hút đầu tƣ vào các KCN cho các nhà đầu tƣ đã làm ăn lâu dài tại Vĩnh Phúc là rất
cần thiết và rất hiệu quả vì các nhà đầu tƣ này sẽ tìm cách lôi kéo những nhà đầu
tƣ khác vào tỉnh.
- Phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, các địa phương,
Ban quản lý các KCN và các Công ty đầu tư phát triển hạ tầng; chủ động trong
thực hiện công tác đầu tư
87
Thực tế cho thấy, công tác xúc tiến đầu tƣ vào các KCN thƣờng đƣợc thực
hiện chủ yếu thông qua các Công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng. Các cấp, các
ngành chỉ tham gia phối hợp khi có đề xuất hỗ trợ của Công ty đầu tƣ phát triển
hạ tầng. Mục đích của đại phƣơng có KCN là thu hút đƣợc dự án có chất lƣợng,
hiệu quả, giải quyết đƣợc việc làm, phát triển KT – XH còn mục đích của các
công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng là kinh doanh kết cấu hạ tầng có hiệu quả.
Chính vì vậy, có những dự án Công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng xúc tiến không
đạt đƣợc yêu cầu của địa phƣơng. Do đó, để đảm bảo KCN phát triển nhanh bền
vững công tác xúc tiến đầu tƣ cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các giữa các cấp,
các ngành, các địa phƣơng, Ban quản lý các KCN và các Công ty đầu tƣ phát
triển hạ tầng; cần chủ động xây dựng các dự án có chiến lƣợc, có hiệu quả KT –
XH cao để thực hiện xúc tiến các nhà đầu tƣ.
Bên cạnh đó, cần phải có sự phối hợp trong việc giải quyết các vƣớng
mắc, khó khăn của các DN đang triển khai đầu tƣ hoặc đang sản xuất kinh doanh
để nâng cao hình ảnh về hiệu quả hoạt động của các KCN, tạo nên sự tin tƣởng
của các DN trong KCN, đây chính là phƣơng pháp quảng bá tốt nhất trong thực
hiện công tác xúc tiến đầu tƣ.
Ngoài ra, cần thành lập bộ phận chuyên trách thực hiện công tác XTĐT
bao gồm những ngƣời nắm vững tình hình phát triển KT – XH của tỉnh, có
kinh nghiệm trong giao thiếp, tuyên truyền vận động cũng nhƣ có trình độ
ngoại nhữ. Ngoài ra, cán bộ làm công tác tuyên truyền vận động XTĐT phải là
những ngƣời am hiểu về trình tự và thủ tục đầu tƣ. Tích cực nghiên cứu, trao
đổi, học tập kinh nghiệm của các nƣớc, các địa phƣơng khác trong công tác
vận độn XTĐT, qua đó tìm đƣợc những bài học, kinh nghiệm nhằm tăng năng
lực cạnh tranh của Tỉnh trong thu hút FDI.
3.2.5. Sửa đổi một số cơ chế, chính sách về thu hút đầu tƣ vào KCN
- Đổi mới chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư
Chính sách ƣu đãi phải thật sự phù hợp với nhu cầu thực tế khách quan,
công bằng và đúng pháp luật để có tác dụng tốt vừa cải thiện môi trƣờng đầu tƣ,
vừa đóp phần ổn định thị trƣờng xác lập kỷ cƣơng vận động thu hút đầu tƣ.
88
Chính phủ đã có quy định chính sách ƣu đãi khuyến khích đầu tƣ thống nhất với
mức cụ thể về thời gian miễn giảm thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… cao
thấp khác nhau đối với danh mục các dự án khuyến khích đầu tƣ hoặc đặc biệt
khuyến khích đầu tƣ, đồng thời liên tục có điều chỉnh ƣu đãi ngày càng sát với
thực tế theo đề nghị của các địa phƣơng trong cả nƣớc. Vì vậy, các cấp có liên
quan của Tỉnh cần phải quan tâm phổ biến, hƣớng dẫn lập hồ sơ thủ tục và áp
dụng đầy đủ, linh hoạt thông thoáng để các nhà đầu tƣ đƣợc hƣởng ƣu đãi đầy
đủ và đúng pháp luật.
Căn cứ vào khung giá đất theo quy định của Chính phủ, thì UBND tỉnh
đƣợc quyền vận dụng và quy định đơn giá phù hợp với tình hình thực tế, để làm
cơ sở cho các ngành, các cấp có liên quan và chủ đầu tƣ tính toán xác lập đơn
giá bồi thƣờng giải toả đất bị thu hồi, mức thuế chuyển nhƣợng, mức nộp tiền sử
dụng đất… Việc quy định đơn giá đất phải hƣớng tới mục tiêu hình thành và ổn
đinh thị trƣờng bất động sản của tỉnh, hài hoà với mặt bằng chung của thị trƣờng
toàn vùng. Đồng thời, đơn giá phải hàm chứa cả yếu tố vừa ƣu đãi khuyến khích
đối với nhà đầu tƣ, vừa hài hoà khuyến khích cả đối với ngƣời dân đƣợc bồi
thƣờng giải toả, sẵn sàng giao đất nhanh chóng để thực hiện dự án đầu tƣ.
Đối với loại đất có xây dựng hạ tầng trong các KCN, tỉnh cần phải cân đối
ngân sách để hỗ trợ vốn đầu tƣ với mức hợp lý cần thiết, tạo điều kiện hình
thành đơn giá cho thuê đất có xây dựng hạ tầng với mức vừa phải. nhằm bù đắp
lại phần nào chi phí khá cao do xây dựng nhà xƣởngvì nền đất yếu và cho hoạt
động đầu tƣ trong điều kiện hệ thống cơ sở hạ tầng chƣa hoàn chỉnh.
Chính sách ƣu đãi thu hút đầu tƣ một cách đầy đủ, linh hoạt, công bằng,
minh bạch, đúng pháp luật, vừa góp phần ổn định, lành mạnh môi trƣờng đầu tƣ
cho toàn vùng, vừa làm cho các nhà đầu tƣ càng tin tƣởng hơn vào môi trƣờng
đầu tƣ của tỉnh.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa”
Theo đánh giá của nhiều nhà đầu tƣ, đặc biệt là các Nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài một trong những rào cản lớn nhất khi đầu tƣ vào một địa phƣơng đó là thủ
tục đầu tƣ. Kể từ khi tái lập tỉnh năm 1997 đến nay, Vĩnh Phúc là tỉnh đƣợc cả
89
nƣớc biết đến nhƣ là một trong những điển hình về sự vƣơn lên từ một tỉnh
thuần nông đang trên đà phát triển thành một tỉnh công nghiệp. Có đƣợc điều
này, chính là nhờ sự quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá của lãnh đạo tỉnh
Vĩnh Phúc, coi phát triển công nghiệp là nền tảng và thu hút đầu tƣ là động lực
trong phát triển kinh tế của tỉnh. Yếu tố mang tính quyết định trọng kết quả thu
hút đầu tƣ vào KCN của Vĩnh Phúc trong thời gian qua chính là việc cải cách
hành chính nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tƣ khi đến với Vĩnh Phúc.
Trƣớc thời cơ và những thách thức của thời kỳ mới, tỉnh Vĩnh Phúc cần
tiếp tục cải thiện môi trƣờng đầu tƣ mà trọng tâm là tiếp tục công tác cải cách
hành chính, chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau:
+ Kiên quyết bãi bỏ theo thẩm quyền và kiến nghị cơ quan nhà nƣớc, bộ
ngành Trung ƣơng những thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây khó khăn,
cản trở doanh nghiệp hoạt động đầu tƣ, sản xuất kinh doanh, góp phần tạo môi
trƣờng thông thoáng, tăng sức cạnh tranh để thu hút các nguồn lực đầu tƣ vào
tỉnh.
+ Tiếp tục đổi mới triệt để, cách nghĩ, cách làm mạnh dạn đơn giản hoá
thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”. Cải cách hành chính không
nên chỉ dừng lại ở khâu cấp phép đầu tƣ mà cần phải triển khai đồng bộ trên
nhiều lĩnh vực có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng nhƣ các
thủ tục về đất đai, tài chính… Rút gọn quy trình và thời gian cấp phép, công
khai minh bạch các bƣớc của thủ tục đầu tƣ tại Ban quản lý các KCN theo hƣớng:
Một là, hoàn thiện quy trình cấp giấy chứng nhận đầu tƣ cho các dự án
vào KCN theo quy định của Nghị định số 108/2006/NĐ – CP ngày 21/9/2006
của Chính phủ hƣớng dẫn thi hành Luật đầu tƣ. Thông báo công khai tại nơi tiếp
nhận hồ sơ và chuyển tải nội dung văn bản lên trang Web của Ban quản lý dự
án. Rút gọn quy trình cấp phép so với quy định.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế một cửa tại chỗ trong thủ tục hành chính
xét duyệt thẩm tra, thẩm định dự án đầu tƣ. Tiếp tục cải cách và nâng cao chất
lƣợng của bộ máy quản lý KCN và phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên; kỷ luật
nghiêm khắc cán bộ, công chức có hiện tƣợng nhũng nhiễu doanh nghiệp.
90
3.2.6. Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các KCN
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành công và
hiệu quả hoạt động của dự án cũng nhƣ việc thu hút các dự án cũng nhƣ việc thu
hút các dự án đầu tƣ vào KCN. Sự xuất hiện một cách ấn tƣợng của hàng loạt
những tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới với những dự án công nghệ cao đầu tƣ
vào Việt Nam và Vĩnh Phúc trong thời gian gần đây đã mang đến cho tỉnh Vĩnh
Phúc một thách thức mới. Đó là sự thiếu hụt lao động có trình độ kỹ thuật,
những kỹ sƣ và công nhân lành nghề. Điển hình nhƣ dự án máy tính xách tay
Compal của Đài Loan xây dựng tại Vĩnh Phúc – nhà máy sản xuất linh kiện điện
tử, máy vi tính và thiết bị ngoại vi với vốn đầu tƣ khoảng 500 triệu USD – đang
cần ngay 3000 lao động có tay nghề, nhƣng tỉnh đã thừa nhận là việc huy động
rất khó. Nhƣ vậy, nguồn lao động dồi dào, trẻ với giá rẻ không còn là lợi thế mà
trở thành thách thức đối với tỉnh Vĩnh Phúc. Trong khi đó, yêu cầu của việc thu
hút đầu tƣ vào KCN là phải tại nhiều việc làm ổn định cho lao động địa phƣơng,
đặc biệt là những đối tƣợng bị thu hồi đất, giảm thất nghiệp, cải thiện đời sống,
nâng cao trình độ tay nghề cho ngƣời lao động.
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của nguồn lao động, những năm
qua Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã ban hành nhiều đề án, nghị quyết quan trọng nhằm
nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực của tỉnh. Trong đó, Đề án phát triển giáo
dục và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH của tỉnh Vĩnh Phúc giai
đoạn 2008 – 2015 đƣợc thông qua tại Đại hội Đảng bộ lần thức XIII của tỉnh
Vĩnh Phúc, là đề án lớn có ý nghĩa quan trọng đối với Tỉnh, góp phần thu hút
các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Để từng bƣớc nâng cao chất lƣợng nguồn
lao động, cần phải có các giải pháp mang tính đồng bộ từ phía Nhà nƣớc và
riêng có của tỉnh Vĩnh Phúc, các giải pháp vĩ mô và vi mô cụ thể là:
- Thực hiện các giải pháp nhằm đƣa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công
bất hợp pháp, lành mạnh hoá quan hệ lao động, bao gồm: (i) Tiếp tục hoàn thiện
pháp luật, chính sách về lao động, tiền lƣơng phù hợp trong tình hình mới; tăng
cƣờng công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với
ngƣời sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho
91
ngƣời lao động; (ii) Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ
biến,tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao
động trong các DN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lƣơng
đƣợc thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
- Tăng cƣờng hút nguồn vốn đầu tƣ vào lĩnh vực giáo dục và đạo tạo nghề
(từ Nhà nƣớc, từ DN, từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài Tỉnh) cho việc nâng
cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy, thực hành, nâng cao trình độ của đội
ngũ cán bộ giảng dạy của các cơ sở giáo dục đào tạo, đặc biệt là trƣờng công
nhân kỹ thuật của Tỉnh. Các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề của Tỉnh cần phải
đổi mới phƣơng pháp giáo dục nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự học của
ngƣời học. Coi trọng giáo dục đạo đức, tác phong kỷ luật thích ứng với môi
trƣờng làm việc.
- Xây dựng cơ chế, chính sách ƣu đãi, hỗ trợ cả về vật chất lẫn tinh thần,
nhất là về nhà ở và điều kiện sinh hoạt của ngƣời lao động, để thu hút lao động
có chất lƣợng từ các tỉnh lân cận, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội.
- Tiếp tục tăng cƣờng công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để
đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả cán bộ quản lý các cấp và
cán bộ kỹ thuật.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Cần tạo cơ sở cho việc thu hút một phần lao động nông
nghiệp chuyển sang lĩnh vực kinh tế khác, nhất là công nghiệp và dịch vụ từng
bƣớc hình thành một cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý, phù hợp với cơ cấu ngành.
3.2.7. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường tại
các KCN
Việc xây dựng và hình thành nhanh chóng các KCN để thu hút đầu tƣ ở
nƣớc ta nói chung và ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, trong những năm qua đã có tác
động tiêu cực đến môi trƣờng sinh thái, môi trƣờng sống của con ngƣời. Trƣớc
thực trạng báo động về môi trƣờng ở Vĩnh Phúc, có thể nói việc giải quyết hài
hoà giữa mục tiêu thu hút đầu tƣ để phát triển KT – XH gắn với bảo vệ môi
trƣờng là rất cần thiết. Do đó, Tỉnh cần phải đƣa ra đƣợc các giải pháp để giải
quyết tốt nhất những vấn đề môi trƣờng, đặc biệt là trong các KCN trên địa bàn
92
Tỉnh nhằm tạo nên môi trƣờng sống trong lành cho nhân dân, môi trƣờng thuận
lợi cho các nhà đầu tƣ và không ngừng thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế của Tỉnh.
Từ những định hƣớng trên đây, tỉnh Vĩnh Phúc cần phải thực hiện đồng
bộ các giải pháp sau đây:
Một là, trong công tác quy hoạch KCN, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền lập quy hoạch xây dựng KCN cũng nhƣ thoả thuận quy hoạch chi tết
KCN cần phải quan tâm tới vấn đề môi trƣờng trong KCN. Cần đảm bảo khoảng
cách tƣơng đối giữa KCN với đƣờng giao thông và khu dân cƣ xung quanh, để
hạn chế tối đa ảnh hƣởng về môi trƣờng trong KCN ra khu vực lân cận. Ƣu tiên
thu hút những dự án có trình độ công nghệ cao, hiện đại; những ngành công
nghiệp sạch, ít gây ô nhiễm đến môi trƣờng. Đối với những dự án có cùng ngành
nghề và gây ô nhiễm cao nên đƣợc bố trí vào một KCN để thuận tiện cho công
tác xử lý chất thải.
Hai là, cần tăng cƣờng công tác thẩm định dự án đầu tƣ, đặc biệt là thẩm
định về yếu tố môi trƣờng. Theo đó, hồ sơ dự án đƣợc coi là mang tính khả thi
phải đánh giá đƣợc tổng lƣợng khí thải, nƣớc thải, rác thải và chất thải do các
DN trong KCN thải ra và mức độ ô nhiễm môi trƣờng trong KCN. Từ đó có
phƣơng án đầu tƣ xây dựng hệ thống xử lý chất thải với quy mô, chất lƣợng xử
lý đạt yêu cầu, đồng thời có luận chứng cụ thể vốn đầu tƣ và phƣơng án huy
động vốn để xây dựng các công trình xử lý chất thải này.
Ba là, có những chế tài bắt buộc đối với chủ đầu tƣ trong việc xây dựng
các công trình xử lý chất thải tập trung trong KCN. Trong thời gian tới, có thể
nghiên cứu đƣa vấn đề xây dựng công trình xử lý chất thải tập trung là một trong
những điều kiện khi thực hiện ƣu đãi về thuế, đất đai... cho chủ đầu tƣ cơ sở hạ
tầng KCN theo quy định.
Bốn là, bên cạnh việc nâng cao chất lƣợng công tác thẩm định dự án đầu tƣ,
cần có những quy định cụ thể về giám sát các dự án đầu tƣ và bảo vệ môi trƣờng
trong KCN. Để đảm bảo hiệu quả của công tác giám sát, cần quy định cụ thể trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của cơ quan giám sát khi thực hiện chức năng giám sát
môi trƣờng, đồng thời cần có những quy định về những ƣu đãi, khen thƣởng, xử
phạt đối với các DN trong thực hiện các nghĩa vụ bảo vệ môi trƣờng.
93
Năm là, cần có những biện pháp hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng các
công trình xử lý nƣớc thải tập trung với các địa phƣơng không đủ điều kiện hỗ
trợ nguồn vốn ngân sách trung ƣơng cho công trình xử lý nƣớc thải tập trung và
đền bù giải phóng mặt bằng KCN. Có thể xem xét cho vay từ quỹ tín dụng đầu
tƣ phát triển với lãi suất ƣu đãi đối với các dự án đầu tƣ xây dựng công trình xử
lý chất thải tập trung trong KCN, hoặc có thể nghiên cứu cơ chế ƣu đãi đối với
các dự án đầu tƣ KCN hoàn thành hệ thống xử lý chất thải đạt yêu cầu trƣớc khi
thu hút đầu tƣ.
Sáu là, nhanh chóng xây dựng những văn bản quy phạm phát luật quy
định cụ thể Luật Bảo vệ môi trƣờng mới. Do tính cấp bách của vấn đề môi
trƣờng trong KCN và tính tập trung, đa dạng ngành nghề của KCN, cần phải
nghiên cứu việc xây dựng Quyết định của Thủ tƣớng Chính phủ về các cơ chế
chính sách bảo vệ môi trƣờng và xử lý chất thải trong KCN, trong đó đề cập tới:
cơ chế hỗ trợ tài chính, huy động nguồn tài chính từ khu vực tƣ nhân để xã hội
hoá công tác bảo vệ môi trƣờng trong KCN, xây dựng một đầu mối trong quản lý
KCN trong đó có quản lý môi trƣờng trong KCN, thành lập đơn vị giám sát môi
trƣờng đặt tại mỗi KCN.
Bảy là, giáo dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức giữ gìn và bảo vệ
môi trƣờng cho tất cả các cấp, các ngành; từng địa phƣơng; từng hộ gia đình,
đặc biệt là cho các chủ đầu tƣ và DN trong KCN. Các chủ đầu tƣ và DN trong
KCN cần phải ý thức rõ rằng và đầy đủ trách nhiệm của mình đối với vấn đề bảo
vệ môi trƣờng trong và ngoài KCN; chủ động tìm giải pháp thoả đáng và giải
quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích – chi phí để đầu tƣ hệ thống xử lý chất thải tập
trung cho từng DN trong KCN.
Trên đây là nhóm các giải pháp nhằm phát triển các KCN trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc. Các giải pháp này có mối quan hệ hỗ trợ, bổ trợ cho nhau. Giải
pháp này là cơ sở, là tiền đề cho thực hiện các giải pháp khác. Do đó, trong quá
trình thực hiện, không nên quá chú trọng giải pháp này, coi nhẹ giải pháp kia mà
cần phải có sự kết hợp đồng bộ nhằm đảm bảo sự hài hoà giữa kinh tế - môi
trƣờng – xã hội.
94
KẾT LUẬN
Việc phát triển các KCN có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia trên
thế giới, nhất là các quốc gia đang phát triển. Nó tạo ra những thuận lợi về thể
chế, môi trƣờng cho quá trình thu hút, sử dụng nguồn lực từ bên ngoài nhƣ vốn
đầu tƣ, công nghệ tiên tiến, phƣơng thức quản lý hiện đại vào quá trình sản xuất,
từ đó thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế. Với vai trò đó, sự phát triển của KCN đến
nay đã là một hiện tƣợng phổ biến ở các nƣớc trên thế giới, nhất là các nƣớc đang
trong thời kỳ đầu CNH. Tại nhiều nƣớc, đặt biệt là các nƣớc ở Châu Á, KCN đã
trở thành động lực của sự phát triển kinh tế.
Tại Vĩnh Phúc, các KCN tuy mới thành lập nhƣng đã đạt đƣợc nhiều
thành tựu đáng kể. Trong hơn 10 năm qua, các KCN đã có đóng góp lớn vào sự
phát triển KT–XH của tỉnh. Cụ thể là: thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
tỉnh theo hƣớng CNH, HĐH; góp phần gia tăng năng lực nội sinh của tỉnh; góp
phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, tăng trƣởng xuất khẩu và tăng thu ngân sách.
Điều này khẳng định, phát triển KCN là chủ trƣơng, định hƣớng đúng đắn của
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc trong việc vận dụng đƣờng lối, chính sách
của Đảng và Nhà nƣớc vào điều kiện cụ thể của tỉnh, là lối đi nhanh chóng để
xây dựng, phát triển và sớm đƣa tỉnh Vĩnh Phúc trở thành một tỉnh công nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các KCN còn bộc lộ một số hạn chế,
yếu kém, trong đó nổi lên là: quy hoạch và xây dựng KCN chƣa tƣơng xứng với
tiềm năng và không theo kịp với yêu cầu phát triển; cơ sở hạ tầng trong và ngoài
KCN yếu kém, thiếu đồng bộ; tiến độ triển khai dự án thứ cấp chậm tiến độ;
trình độ lao động chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của các doanh nghiệp trong KCN.
Nguyên nhân của những hạn chế đó thì có nhiều, song tựu trung lại là do thiếu
những quyết sách đúng đắn, sự hỗ trợ đồng bộ của Nhà nƣớc cũng nhƣ sự nỗ lực
của các công ty đầu tƣ phát triển hạ tầng và của các doanh nghiệp KCN.
Để tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của các KCN ở tỉnh Vĩnh Phúc theo
hƣớng hiệu quả, đòi hỏi phải có nhiều biện pháp cơ bản và đồng bộ. Trƣớc mắt,
cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề về quy hoạch, xúc tiến đầu tƣ, cải cách
hành chính, đào tạo nguồn nhân lực…
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2006), Báo cáo kết quả thực hiện
nhiệm vụ, kế hoạch về thu hút đầu tư, phát triển các Khu, cụm công nghiệp năm
2005 và nhiệm vụ, mục tiêu năm 2006
2. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2007), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ năm 2006 và kế hoạch 2007
3. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ năm 2007 và kế hoạch 2008
4. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2009), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ năm 2008 và kế hoạch 2009
5. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ năm 2009 và kế hoạch 2010
6. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2010), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ 06 tháng đầu năm 2010 và phương hướng 6 tháng cuối năm 2010
7. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc (2009), Báo cáo đánh giá thực hiện
nhiệm vụ Ban Quản lý các KCN Vĩnh Phúc năm 2009 và 5 năm giai đoạn 2006 –
2010
8. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc, Báo cáo kết quả thu hút, triển khai
thực hiện và kết quả HĐSXKD của các dự án DDI năm 2005, 2006, 2007, 2008,
2009 và quý I/2010
9. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc, Báo cáo kết quả thu hút, triển khai
thực hiện và kết quả HĐSXKD của các dự án FDI năm 2005, 2006, 2007, 2008,
2009 và quý I/2010
10. Ban quản lý các KCN Vĩnh Phúc, Báo cáo tình hình xây dựng và phát
triển hạ tầng KCN Vĩnh Phúc 2006, 2007, 2008, 2009 và Quý I/2010
11. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2006), Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng
và phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam
12. Bộ môn Kinh tế đầu tƣ - Đại học Kinh tế quốc dân (1998), Giáo trình
Kinh tế đầu tư, Nxb Giáo dục
96
13. Nguyễn Quốc Bình (2005), Một số giải pháp nhằm phát triển KCN
và cụm công nghiệp trên địa bàn Hà Nội trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế, Luận án Tiến sỹ
14. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Vụ Khu công nghiệp, Khu chế xuất (2006),
Mục tiêu hình thành các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm
2020, Website: http://khucongnghiep.com.vn/
15. Bộ Kế hoạch và đầu tƣ, Ban kinh tế trung ƣơng, Tạp chí Cộng sản, Uỷ
ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (2004), Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học
(11/2004).
16. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam (2004), Định hướng chiến lược
phát triển bền vững ở Việt Nam
17. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt nam (1997), Nghị định 36/CP ngày
24/4/1997 ban hành Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao
18. Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam (2008), Nghị định
29/2008/NĐ-CP ngày 13/4/2008 Quy định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất,
Khu công nghệ cao
19. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2007), Niên Giám thống kê 2007, 2008, 2009
20. Lê Tuyển Cử, Những biện pháp phát triển và hoàn thiện công tác
quản lý nhà nước đối với KCN ở VN, Luận án tiến sỹ kinh tế,trƣờng Đại học
kinh tế quốc dân
21. Mai Đức Chọn (2006), Phát triển khu công nghiệp - kinh nghiệm và
một số giải pháp của Hải Dƣơng, http:// khucongnghiep.com.vn
22. Đình Công (2007), Vấn đề lý luận và thực tiễn ở các khu chế xuất,
KCN thành phố Hồ Chí Minh, Nghiên cứu Kinh tế (142), tr. 46-50
23. Trần Văn Chử (2008), Vấn đề việc làm và đời sống nông dân bị thu
hồi đất nông nghiệp phục vụ cho phát triển các KCN tỉnh Vĩnh Phúc, Đề tài
NCKH cấp cơ sở, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
24. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, IX, X, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
97
25. Ngô Hƣớng (2004), “Các khu công nghiệp, khu chế xuất trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”, Cộng sản, (17).
26. Trần Ngọc Hiên (2005), “Cơ sở lý luận phát triển mô hình KCN
trong quá trình CNH, HĐH ở nƣớc ta”, Thông tin khoa học xã hội, (2),
tr.21,22,23
27. Trần Ngọc Hiên (2006), Nâng cao tầm nhìn phát triển các KCN ở
nƣớc ta trong giai đoạn mới, Website: http://khucongnghiep.com.vn/
28. Vũ Huy Hoàng (2002), Tổng quan về hoạt động của các KCN, Kỷ
yếu: khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
29. Đỗ Hữu Hào (2006), Vai trò của Khu công nghiệp, khu chế xuất đối
với việc nâng cao trình độ công nghệ, quản lý doanh nghiệp và hiện địa hoá hệ
thống kết cấu hạ tầng, Website: http://khucongnghiep.com.vn
30. Vũ Thành Hƣởng (2010), Phát triển các KCN vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc Bộ theo hướng bền vững, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Trƣờng Đại
học Kinh tế quốc dân
31. Bùi Vĩnh Kiên (2002), Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển các
KCN tỉnh Bắc Ninh, Trƣờng đại học Kinh tế quốc dân
32. Đinh Thị Kim Khánh (2007), Năng lực cạnh tranh của Vĩnh Phúc
trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luận văn thạc sỹ, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
33. Trần Văn Liễu (2006), “Một số bài học kinh nghiệp trong quá trình
phát triển các KCN Bình Dương”, http://khucongnghiep.com.vn
34. Trần Thị Tuyết Lan (2008), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh
Vĩnh Phúc theo hướng phát triển bền vững, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
35. Nguyễn Công Lộc (2006), Vai trò của các KCN đối với quá trình
tăng trƣởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc, Website:
http://khucongnghiep.com.vn/
36. Lê Hữu Nghĩa (2006), Bàn về vai trò thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển theo hướng bền vững của các KCN, KCX ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản,
(14), tháng 7/2006
98
37. Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam(2005), Luật đầu
tư năm 2005
38. Ngô Thuý Quỳnh (2008), “Một số ý kiến về định hƣớng tổ chức lãnh
thổ KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”, Tạp chí kinh tế và dự báo(6)
39. Vũ Đức Quyết (2007), Phát triển KCN trong quá trinh CNH, HĐH
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Trƣờng đại học kinh tế quốc dân
40. Sở thƣơng mại Vĩnh Phúc (2007), Báo cáo đánh giá tình hình hoạt
động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2001 – 2006, phương hướng và
biện pháp xuất khẩu đến năm 2010
41. Sở lao động thƣơng binh xã hội, Báo cáo thực trạng nhà ở, sinh
hoạt văn hóa, cơ sở phúc lợi của người lao động trong các KCN, năm 2009
42. Trƣơng Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nâng cao vai trò và hiệu
quả quản lý nhà nước, bảo vệ môi trường ở các KCN, KCX, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội
43. UBND Vĩnh Phúc (2008), Một số nét về tình hình KT – XH, an ninh
quốc phòng tỉnh Vĩnh Phúc từ khi tái lập đến nay
44. Trần Văn Thọ (2000), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam trong
thời đại châu Á Thái Bình Dương, nxb Thế giới, Hà Nội
45. Hà Thị Thuý (2007), Các KCN trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Bắc Giang, Luận văn thạc sỹ kinh tế , Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội
46. Vũ Thị Kim Thanh (2009), Quá trình hình thành và phát triển các
KCN tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng
giảng viên lý luận chính trị, Đại học quốc gia Hà Nội
47. Văn kiện đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh lần thứ XV (tháng 10/2010)
48. Website: http://khucongnghiep.com.vn/
49. Website: http://tainguyenmoitruong.com.vn
50. Website: http://baomoi.com.
99