ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HOÀNG THỊ HƯỜNG Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ
Hµ néi - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HOÀNG THỊ HƯỜNG Phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 5.02.01
luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ chÝnh trÞ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Nam
Hµ néi - 2005
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC: Diễn đàn kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CNH: Công nghiệp hoá
CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài
EU: Liên minh Châu Âu
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
KNNK: Kim ngạch nhập khẩu
KNXK: Kim ngạch xuất khẩu
KNXNK: Kim ngạch xuất nhập khẩu
NK: Nhập khẩu
XK: Xuất khẩu
XNK: Xuất nhập khẩu
XHCH: Xã hội chủ nghĩa
WTO: Tổ chức thương mại thế giới
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là
một xu hướng phát triển mạnh mẽ, là quy luật đối với hầu hết các nước trên
thế giới, nhất là đối với những nước đang phát triển để góp phần nhanh chóng
rút ngắn khoảng cách lạc hậu với những nước phát triển; đặc biệt Việt Nam
đang đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước.
Hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước bao gồm ba nội dung cơ bản là:
- Hoạt động ngoại thương; đó là hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá.
- Hoạt động hợp tác kinh tế, kỹ thuật; bao gồm hợp tác đầu tư và hợp
tác khoa học - công nghệ.
- Hoạt động du lịch - dịch vụ; đó là các hoạt động vận tải, bảo hiểm,
ngân hàng... và hoạt động du lịch.
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, hoạt động ngoại thương giữ vị trí
quan trọng, nó tạo điều kiện phát huy được lợi thế và tiềm năng của từng
nước trên thị trường quốc tế. Hoạt động ngoại thương của một nước được
đánh giá qua tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu, cán cân thương mại, cán cân
thanh toán, kết quả này sẽ làm tăng hoặc giảm thu nhập của đất nước, do đó
mà tác động đến tổng cầu của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng
hoặc suy giảm.
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã đạt được
nhiều thành tựu trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động
ngoại thương nói riêng. Kết quả hoạt động xuất - nhập khẩu đã có ý nghĩa
quan trọng góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế; góp phần cải thiện cán
cân thanh toán quốc tế; góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH; góp phần đổi mới trang thiết bị
và công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao động, nâng
cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện
2
và nâng cao đời sống nhân dân…
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động ngoại thương Việt Nam
những năm qua còn nhiều tồn tại, yếu kém; kết quả đạt được chưa tương xứng
với tiềm năng và nội lực của đất nước, với nhu cầu thế giới. Việc nghiên cưú
lý luận về phát triển ngoại thương trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh
tế quốc tế và đánh giá kết quả hoạt động ngoại thương những năm qua, tìm
nguyên nhân để có phương hướng, chính sách phù hợp, tối ưu cho phát triển
ngoại thương trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam là cực kỳ cần
thiết.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển ngoại thương Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Do vị trí, vai trò quan trọng của hoạt động ngoại thương đối với sự phát
triển kinh tế đất nước mà từ trước đến nay đã có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và viết về đề tài ngoại thương dưới nhiều góc độ và
cách tiếp cận khác nhau. Có tác giả nghiên cứu và hoạt động ngoại thương,
chính sách ngoại thương trong mối quan hệ là bộ phận của hoạt động kinh tế
đối ngoại, chính sách kinh tế đối ngoại . Có tác giá nghiên cứu một góc độ
nào đó, một lĩnh vực nào đó của hoạt động ngoại thương, hoặc nghiên cứu
ngoại thương Việt Nam trong một giai đoạn, một thời kỳ nhất định nào đó,
như:
- “Về chính sách thương mại quốc tế của nước ta trong tình hình mới”
của GS. TS. Hà Văn Vĩnh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- “Ngoại thương Việt Nam, từ 1990 - 2000: Những thành tựu và suy
nghĩ” của Võ Hùng Dũng.
- “Xuất - nhập khẩu của Việt Nam, trong 10 năm đầu của thế kỷ mới”
của Vũ Khoan.
- “Chính sách thương mại của Việt Nam trong xu thế thương mại quốc
tế hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Hoà - Đại học tài chính kế toán Hà Nội.
- “Phát triển thương mại trong nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Duy
3
Nghĩa - Bộ thương mại.
- “Mối quan hệ giữa hoạt động ngoại thương và thu hút FDT tại Việt
Nam” của thạc sỹ Đoàn Quang Vinh.
- “Toàn cầu hoá - hai mặt thuận và nghịch đối với thương mại của Việt
Nam” của Nguyễn Thanh Nga - Viện nghiên cứu thương mại, Bộ thương mại.
- “Chính sách và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá
Việt Nam giai đoạn 2001-2010, tầm nhìn đến 2020” - Đề tài độc lập cấp Nhà
nước do Bộ thương mại thực hiện 2000-2001, chủ nhiệm đề tài: PGS. TS.
Nguyễn Văn Nam...
Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu ngoại thương Việt Nam từ
góc nhìn kinh tế chính trị: Khái quát lý luận về ngoại thương, nhất là vai trò
tác động của ngoại thương đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (có tính
đến xu hướng toàn cầu, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế); đánh giá thực
trạng hoạt động ngoại thương Việt Nam từ 1991 đến nay, tìm nguyên nhân, từ
đó đề xuất phương hướng, chính sách phát triển ngoại thương cho thời gian
tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích vai trò, tác động của ngoại
thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; đánh giá thực trạng
ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay, tìm nguyên nhân và cách khắc
phục tồn tại, yếu kém; Trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và chính sách
phát triển ngoại thương cho thời gian tới.
* Nhiệm vụ.
Để đạt mục đích trên, luận văn đề ra những nhiệm vụ sau:
- Khái quát lý luận về ngoại thương; phân tích vai trò, tác động của
ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (trong xu hướng
toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế).
- Phân tích thực trạng ngoại thương Việt Nam từ 1991 đến nay: Thành
4
tựu, hạn chế, nguyên nhân của thành tựu và hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng, chính sách và những giải pháp lớn (cơ bản)
để nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương trong quá trình đẩy mạnh
5
CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay và giai đoạn tiếp theo.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận về thương mại quốc tế của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Dựa trên những quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
và thương mại quốc tế.
- Có tham khảo một số lý luận thương mại quốc tế trong lịch sử tư
tưởng kinh tế của nhân loại và các học thuyết hiện đại về thương mại quốc tế.
* Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chung là phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Sử dụng phương pháp của kinh tế chính trị là phương pháp trừu tượng
hoá khoa học.
- Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng hợp; thống
kê, đối chiếu, so sánh; mô hình hoá; đặc biệt chú trọng khảo sát tổng kết thực
tiễn, rút ra kết luận có ý nghĩa lý luận.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài lấy hoạt động ngoại thương Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH làm đối tượng nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò, tác động của ngoại thương trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam, có tính đến xu hướng hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế - cơ hội và thách thức.
Thời gian giới hạn từ 1991 đến nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
* Ý nghĩa lý luận
- Đề tài làm rõ vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH,
6
HĐH
- Sự cần thiết phát triển ngoại thương để đẩy mạnh CNH, HĐH trong
xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
- Làm rõ cơ hội và thách thức của việc phát triển ngoại thương Việt
Nam trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
* Ý nghĩa thực tiễn.
- Đánh giá kết quả hoạt động ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến
nay; tìm nguyên nhân của thành tựu và hạn chế
- Đề xuất phương hướng, chính sách và giải pháp cơ bản để phát triển
ngoại thương trong thời gian tới đạt hiệu quả cao hơn.
- Luận văn có thể được dùng làm đề tài tham khảo cho giáo viên và học
sinh, sinh viên khi giảng dạy và nghiên cứu về hoạt động ngoại thương Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Ngoại thương trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay .
Chương 3: Phương hướng và chính sách phát triển ngoại thương trong
7
thời gian tới.
8
Chƣơng 1 NGOẠI THƢƠNG TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. Vai trò của ngoại thƣơng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Khái niệm ngoại thương
Ngoại thương hiểu theo nghĩa phổ biến nhất là phạm trù kinh tế phản
ánh sự trao đổi hàng hoá giữa một nước này với các nước khác thông qua các
hoạt động XK và NK.Toàn bộ quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các nước được
gọi là mậu dịch quốc tế.
Điều kiện để ngoại thương phát sinh, phát triển là:
- Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, kèm theo đó
là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp.
- Sự ra đời của Nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc
tế giữa các nước.
Ngoại thương đã xuất hiện từ thời cổ đại, dưới chế độ nhà nước chiếm
hữu nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Thời đó, do kinh tế tự
nhiên còn chiếm địa vị thống trị nên ngoại thương mang tính chất ngẫu nhiên,
phát triển với qui mô rất nhỏ hẹp. Lưu thông hàng hoá quốc tế chỉ gồm một
phần nhỏ những sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng
cá nhân của giai cấp thống trị đương thời. Đến thời đại tư bản chủ nghĩa,
ngoại thương mới phát triển rộng rãi. Ngoại thương vừa là tiền đề, vừa là kết
quả của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các cuộc cách mạng lớn diễn
ra trong thương nghiệp ở thế kỷ XVI, XVII gắn liền với những phát kiến địa
lý đã dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của tư bản thương nghiệp. Đó là một
9
trong những nhân tố của tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, và góp phần thúc đẩy
phương thức sản xuất phong kiến chuyển sang phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Thị trường thế giới mở rộng, hàng hoá lưu thông tăng thêm nhiều,
các nước châu Âu đua tranh làm chủ các sản phẩm của châu Á và tài nguyên
phong phú của châu Mỹ... Tất cả những điều đó đã góp một phần căn bản vào
việc phá vỡ các giới hạn phong kiến của nền sản xuất. Mặt khác, tính tất yếu
nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phải sản xuất trên một
qui mô ngày càng lớn hơn để tăng thu lơị nhuận. Điều đó thúc đẩy thị trường
thế giới phải không ngừng mở rộng; ngoại thương ngày càng phát triển. ở thế
kỷ XVI, XVII, lúc đầu tham gia vào mậu dịch quốc tế chỉ có một số ít các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển hơn, dần dần, do sự phát triển mạnh của lực
lượng sản xuất và xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế, ngày càng có nhiều
nước ở nhiều trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau thuộc nhiều khu
vực lãnh thổ khác nhau cùng tham gia vào mậu dịch quốc tế. Ngoại thương
phản ánh quá trình tham gia phân công lao động quốc tế của một nước.
1.1.2. Một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế
1.1.2.1. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối
Lý thuyết này xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ XVIII, xây dựng trên cơ sở
lý thuyết về buôn bán tự do được phát triển vào thế kỷ này. Năm 1776, trong
tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc”, Adam Smith đã quan niệm các nước
thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các loại hàng hoá có thể sản
xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này là ở chỗ các loại chi
phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nước hoặc từng bạn hàng buôn bán nên
sản xuất mặt hàng gì. Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối; việc một nước
quyết định sản xuất loại hàng hoá nào được dựa vào có sử dụng tốt (nhất) hay
không các nguồn lực của quốc gia đó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động,
tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, tiến bộ công nghệ, hoặc thậm chí cả truyền
thống kinh doanh. Adam Smith tin tưởng rằng tất cả các quốc gia đều có lợi
10
từ ngoại thương và đã ủng hộ rất mạnh mẽ cho chính sách tự do thương mại.
Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên
thế giới được sử dụng có hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giơí nói chung sẽ
được tạo ra tới mức tối đa. Như vậy, theo lý thuyết này việc khẳng định một
nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác trong việc chuyên
môn hoá sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được
nhiều sản phẩm A ở nước đó hơn ở nước khác; và tiêu chuẩn quyết định sự
lựa chọn ngành nghề cần chuyên môn hoá quốc tế là những ưu thế tự nhiên
như khí hậu, đất đai, khoáng sản và những lợi thế khác. Một nước có chi phí
sản xuất cao hơn sẽ nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi phí sản xuất thấp
hơn. Lợi thế này được xem xét từ hai phía đối với nước sản xuất sản phẩm có
chi phí sản xuất thấp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn khi bán sản phẩm trên
thị trường quốc tế. Còn với các nước sản xuất sản phẩm với chi phí cao sẽ có
được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất
không đem lại lợi nhuận, người ta gọi là bù đắp được sự yếu kém về khả năng
sản xuất trong nước.
1.1.2.2. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối)
Nếu lợi thế tuyệt đối được xem xét dựa vào chi phí sản xuất thì lợi thế
tương đối dựa vào chi phí so sánh. Ví dụ, khả năng trao đổi sản phẩm giữa
Việt Nam và Nga đối với hai sản phẩm là thép và quần áo (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Chi phí sản xuất
Sản phẩm Chi phí sản xuất (ngày công lao động)
Việt Nam Nga
Thép (1 đơn vị) 25 16
Quần áo (1 đơn vị) 5 4
Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép và quần áo đều có
11
chi phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả
năng xuất khẩu sản phẩm này sang Nga. Song nếu xét theo chi phí so sánh thì
lại có cách nhìn khác (xem bảng 1.2).
Bảng 1.2: Chi phí so sánh
Sản phẩm Chi phí sản xuất (ngày công lao động)
Việt Nam Nga
Thép (1 đơn vị) 5 4
Quần áo (1 đơn vị) 1/5 1/4
Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam
cao hơn Nga: Để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo
trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại, chi phí sản xuất quần áo ở
Việt Nam lại thấp hơn Nga: Để sản xuất một đơn vị quần áo Việt Nam cần
1/5 đơn vị thép trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này chỉ ra rằng Việt
Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Việt
Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga. Việc trao đổi này đưa lại lợi
thế cho cả 2 nước. Có thể mô tả lợi ích của Việt Nam trong trường hợp này
qua sơ đồ 1.
Quần áo PPF
Qb B
(Qb – 9) C Độ dốc (-4,5)
Qa A
12
Độ dốc (-5)
0 Tb (Tb+2) Ta Thép
Sơ đồ 1: Lợi thế của Việt Nam khi có ngoại thương
Trong sơ đồ này, đường PPF phản ánh khả năng sản xuất thép và quần
áo của Việt Nam.
- Khi chưa có ngoại thương, điểm A (nơi tiếp xúc giữa đường PPF và
tiếp tuyến có độ dốc là (-5) phản ánh giá so sánh thép của Việt Nam) phản
ánh đồng thời khả năng sản xuất và tiêu dùng của Việt Nam A(Ta, Qa).
- Khi có ngoại thương, Việt Nam sẽ bán quần áo sang Nga và mua thép
từ Nga về. ở đây có vấn đề là giá trao đổi sẽ được thực hiện như thế nào.
Trong trường hợp này, đối với giá thép Việt Nam nhập không phải theo giá so
sánh 5 hoặc 4 mà thông thường là theo giá quốc tế; nó sẽ biến động trong
khoảng 4 và 5 (4 trên thị trường Việt Nam và Nga và thị trường quốc tế. Ví dụ Việt Nam cần nhập 2 đơn vị thép và giá sẽ xác định ở mức 4,5 khi đó tại điểm B (nơi tiếp xúc giữa đường PPF và tiếp tuyến có độ dốc là (-4,5) sẽ phản ánh khả năng sản xuất của Việt Nam B (Tb, Qb). Có nghĩa là Việt Nam sẽ sản xuất nhiều quần áo hơn và sản xuất thép ít đi (Tb năng tiêu dùng của Việt Nam. Có thể thấy khả năng tiêu dùng này vượt ra khỏi giới hạn của đường PPF. Đó chính là lợi ích của Việt Nam dựa vào lợi thế so sánh: C{(Tb + 2), (Qb - 9)}. Như vậy, lợi thế so sánh của ngoại thương là khả năng nâng cao mức sống và thu nhập thực tế của một nước thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá với nước khác dựa trên cơ sở chi phí so sánh để sản xuất những hàng hoá đó. Nguyên tắc cơ bản để có lợi thế tương đối là thực hiện chuyên môn hoá sản xuất với những sản phẩm có năng suất cao. Lợi thế so sánh cho phép bất kỳ nước nào cũng có thể tăng thu nhập của mình thông qua ngoại thương , ngay cả khi một nước sản xuất mọi sản phẩm với chi phí tuyệt đối thấp hơn 13 một nước khác, bởi vì thị trường thế giới tạo ra cơ hội để có thể mua hàng hoá với giá tương đối rẻ so với giá đang được lưu hành trong nước nếu không có ngoại thương. Nội dung này xuất phát từ sự khác nhau về chi phí so sánh để sản xuất sản phẩm. 1.1.3. Vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.3.1 Khái niệm và nội dung chủ yếu của CNH, HĐH ở nước ta CNH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [36, tr.587]. CNH là con đường tất yếu để xây dựng cơ sở vật chấy kỹ thuật cho chủ nghiã xã hội ở nước ta. Thực chất CNH chính là chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí chủ yếu trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, CNH có hai nội dung chủ yếu là: Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật để trang bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân và xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội. Đảng ta đã xác định nội dung cơ bản của CNH, HĐH từ nay đến năm 2010 là: - Con đường CNH, HĐH nước ta cần phải và có thể rút ngắn bằng kết hợp hài hoà giữa phát triển tuần tự với phát triển nhảy vọt, gắn CNH với HĐH bằng phát triển những công nghệ hiện đại, đặc biệt công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, từng bước phát triển kinh tế tri thức. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH, HĐH. Sự chuyển dịch này phải dựa trên cơ sở phát huy thế mạnh, lợi thế so sánh của đất nước, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng thị trường 14 trong nước và ngoài nước. - Huy động các nguồn lực đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Đưa nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp phát triển lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm tăng giá trị trên một diện tích đất canh tác; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, đồng thời áp dụng các công nghệ tin học, sinh học; giải quyết tiêu thụ nông sản; đầu tư cho phát triển hạ tầng nông thôn; phát triển nhiều ngành nghề chế biến truyền thống. - Đối với công nghiệp, vừa phát triển các ngành nhiều lao động, vừa đi nhanh vào một số ngành công nghệ hiện đại, công nghệ cao, xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn và từng bước HĐH kết cấu hạ tầng. - Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng ngành dịch vụ, phát triển mạng lưới đô thị hợp lý, phát huy vai trò các vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ vốn lớn, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác, nhất là các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa. - Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp với bảo vệ vùng biển, kết hợp nuôi trồng, đánh bắt, chế biến hải sản. Khai thác và chế biến dầu, dầu khí, đóng tàu, vận tải, du lịch, dịch vụ... Phấn đấu đến năm 2010 cơ cấu ngành kinh tế trong GDP là: Nông nghiệp chiếm 16 - 17%; công nghiệp và xây dựng cơ bản chiếm 40- 41%; dịch vụ chiếm 42-43%. Phấn đấu năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; lao động chủ yếu bằng máy móc; điện khí hoá cơ bản; GDP tăng gấp 8 lần so với năm 1990; khoa học - công nghệ làm chủ được công nghệ nhập; các lĩnh vực công thương, dịch vụ phát triển 15 mạnh... Trong thời đại ngày nay, thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, CNH phải phát triển những ngành có tiềm năng, ưu thế lớn, có khả năng sử dụng kỹ thuật và công nghệ có hiệu quả cao nhất. Hơn nữa, với sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ ở những nước kém phát triển và đang phát triển, mà cả những nước có nền công nghiệp tương đối phát triển, CNH vẫn còn là vấn đề phải tiếp tục nhưng với nội dung mới: điện tử, tin học, công nghệ mới, công nghệ sinh học…[37, tr.587]. Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định rõ: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh [11, tr.80]. Nội dung của CNH, HĐH ở Việt Nam được Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh “...Hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN... xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh. Hoàn chỉnh một bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng... Tạo mọi điều kiện thuận lợi để tăng nhanh XK, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện các cam kết song phương và đa phương…; duy trì ổn định các cân đối vĩ mô…; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; …ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức… [12, tr.262-263]. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, khẳng định tụt hậu là nguy cơ lớn nhất, vượt và thoát nguy cơ này là thách thức hàng đầu của Việt Nam. Điều này có nghĩa là chúng ta cần phải phát triển rút ngắn thời gian. Quan điểm này đã được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX là: “Đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước 16 công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững…” [12, tr.2]. Mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm (2001 - 2010) là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; “Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm” [12, tr.159]. 1.1.3.2. Vai trò của ngoại thương đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH Thời kỳ CNH được hiểu là giai đoạn biến đổi toàn bộ nền kinh tế xã hội từ lao động thủ công sang lao động công nghệ tiên tiến, hiện đại; từ sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp sang nền sản xuất lớn với năng suất lao động cao tạo ra sự chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng và hiệu quả. Như vậy, suy cho cùng, mục tiêu của CNH, HĐH là phát triển nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao và bền vững bằng việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và cả nguồn lực từ bên ngoài. Với góc độ đó, ngoại thương cần thiết cho CNH, HĐH cả về chất và lượng. Việc thể hiện được tác động của ngoại thương tới sự nghiệp CNH, HĐH một phần chủ yếu là nhờ vào sự định hướng, chính sách và biện pháp trong hoạt động ngoại thương một cách phù hợp với sự phát triển kinh tế đất nước trong từng thời kỳ phát triển [36, tr.46]. - Về chất, ngoại thương giúp đẩy nhanh tiến độ thực hiện thành công tiến trình CNH, HĐH. Trong điều kiện của nước ta đặt ra những yêu cầu trực tiếp và cấp bách là có vốn ngoại tệ để NK công nghệ, kỹ thuật máy móc, thiết bị tiên tiến cũng như nguyên vật liệu mà ta chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng với chi phí cao hơn nếu nhập từ thị trường thế giới. Ngoại thương sẽ là nguồn cung cấp ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu NK thiết bị, máy móc phục vụ 17 cho yêu cầu của CNH; Nếu có chính sách NK phù hợp thì việc NK máy móc, thiết bị sẽ là động lực cho tiến trình CNH, HĐH; và sẽ đưa lại lợi ích không kém phần quan trọng là giúp nền sản xuất trong nước tồn tại và phát triển được cùng với thế giới. Lúc này chính từ hội nhập kinh tế quốc tế , thông qua thương mại tư do nền sản xuất và kinh doanh trong nước sẽ tìm được câu trả lời chính xác cho sự lựa chọn mình sẽ phải làm gì ? làm bao nhiêu ? và làm như thế nào ?. Một trong những kết quả của những trả lới chính xác này là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, hàng hoá, dịch vụ Việt Nam nói riêng. Những lợi ích của ngoại thương có thể được nhìn nhận như những lợi ích về chất bởi lẽ chúng giúp nâng cao được chất lượng của nền kinh tế: tăng trưởng cao nhưng bền vững vì mức tăng trưởng cao của năng suất lao động xã hội trong khi sử dụng ít hơn nguồn lực (bao gồm cả việc thoả mãn được yêu cầu bảo vệ môi trường- sự phá huỷ môi trường có thể coi như là tiêu hao về nguồn lực). - Về lượng: ngoại thương giúp tăng qui mô tiêu dùng trong khi không phải tiêu hao thêm nguồn lực của đất nước, lợi ích này của ngoại thương thu được chủ yếu dựa trên việc khai thác lợi thế so sánh, trong đó có khai thác lợi ích kinh tế nhờ qui mô. Chỉ có thông qua ngoại thương, lợi thế so sánh của đất nước mới có thể chuyển thành lợi ích tiêu dùng, đẩy khả năng tiêu dùng của đất nước vươn xa, ra ngoài giới hạn của nền sản xuất. Khối lượng của cải lớn hơn có thể được tiết kiệm để đầu tư trở lại, mở rộng qui mô sản xuất. Đây chính là tích luỹ cần thiết trong giai đoạn ban đầu của CNH, bù đắp cho những thiếu hụt trong những nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam. Ngoại thương giúp đẩy mạnh CNH, HĐH, đến lượt nó CNH, HĐH lại tạo điều kiện thuận lợi cho ngoại thương phát triển. Qua phân tích một số lý thuyết về thương mại quốc tế ở phần trên cho thấy, ngoại thương ra đời và phát triển xuất phát từ lợi thế so sánh và cũng 18 được dẫn dắt bởi lợi thế so sánh. Một đặc điểm quan trọng nhất của lợi thế so sánh là không bất định mà luôn thay đổi, nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học kỹ thuật đã và đang phát triển hàng ngày hàng giờ, vì thế sản xuất và kinh doanh nói chung và ngoại thương nói riêng cũng phải thay đổi theo. Thị trường thế giới ngày nay cho thấy, sản phẩm thô và nguyên liệu ngày càng mất giá trong khi các sản phẩm qua chế biến, đặc biệt là những sản phẩm chế biến sâu có hàm lượng chất xám cao, lại có nhiều ưu thế (giá cả và khả năng cạnh tranh) trên thị trường thế giới. Sự thay đổi này đang hàng ngày làm thay đổi cơ cấu xuất NK. Thế giới đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và thiếu hụt lương thực, thực phẩm và trong khoảng thời gian dài nữa, nhu cầu về nguyên liệu, lương thực, thực phẩm vẫn tăng, nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng kim ngạch buôn bán ngày càng giảm, trong khi tỷ trọng và giá trị tuyệt đối của các sản phẩm chế biến, đặc biệt là các sản phẩm có công nghệ cao tăng nhanh. Một sự biến đổi cơ cấu khác cũng rất quan trọng là hàm lượng trí tuệ trong giá trị sản phẩm ngày càng cao và chính sự biến đổi này đã làm cho cơ cấu XK của một quốc gia phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu thị trường. Ví dụ vấn đề sản xuất, XK gạo ở Việt Nam. Sản xuất gạo được coi là có lợi thế so sánh ở nước ta, nơi mà điều kiện thiên nhiên, khí hậu rất phù hợp cho trồng lúa nước; nơi mà người lao động đã có hàng nghìn năm kinh nghiệm cày cấy trong trồng lúa nước... Có thể nói chỉ một số rất ít nước trên thế giới có được lợi thế so sánh này. Tuy nhiên, lợi thế so sánh thuộc loại nhân tố sản xuất này đang đứng trước những thách thức rất lớn, nếu như không muốn nói là sống còn. Thách thức dễ nhìn thấy nhất đã và đang đến từ phía nhu cầu. Mẫu hình nhu cầu về gạo trên thế giới đang chuyển từ “no” sang “ngon” đang làm mất dần lợi thế so sánh về sản xuất gạo có chất lượng thấp. Chính vì vậy, chúng ta đang cố gắng tạo và chuyển lợi thế sang sản xuất gạo loại có chất lượng cao. Nhưng với công nghệ gen, tạo ra được những giống lúa vừa có chất lượng cao vừa có chi phí sản xuất thấp (năng suất cao, 19 dễ tính trong chăm sóc, không bị sâu rầy, thời gian sinh trưởng ngắn…) thì thách thức đối với lợi thế trong sản xuất lúa gạo của ta thật là không nhỏ và không dễ vượt qua. Trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta, với nền sản xuất còn thấp, chỉ có thể phát triển nền kinh tế đất nước bằng con đường mà Đảng ta đã khẳng định, đó là thực hiện CNH, HĐH. Hội nghị Đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng ta khẳng định: Nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới là đẩy tới một bước CNH, HĐH đất nước, coi CNH, HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoại thương sẽ góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ này và thực hiện thành công CNH, HĐH. Và chính ngoại thương sẽ không thể phát triển được nếu không có một nền kinh tế hiện đại dựa trên nền tảng của CNH, HĐH. Với mối quan hệ chặt chẽ giữa ngoại thương với CNH, HĐH thì ngoại thương cần đáp ứng các yêu cầu sau: - Đẩy mạnh XK, tăng tích luỹ vốn cho tái sản xuất mở rộng, phục vụ đắc lực cho phát triển rút ngắn CNH. - NK các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh và hình thành những lợi thế so sánh mới thông qua việc NK các công nghệ cao. - NK hợp lý để tiết kiệm tiêu dùng, hướng dẫn tiêu dùng có hiệu quả, tạo cơ sở để phát triển sản xuất công nghiệp. 1.2. Kinh nghiệm phát triển ngoại thƣơng trong quá trình CNH ở một số nƣớc 1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á Từ nhiều thập kỷ nay, khi tiến hành CNH để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, các quốc gia chậm phát triển đều phải giải quyết vấn đề 20 tạo vốn và tích luỹ vốn, trong đó có nguồn từ bên ngoài như thu nhâp từ XK, tín dụng quốc tế... Mặc dù hiện nay một số nước trong khu vực Đông Nam Á đã chuyển sang giai đoạn cao hơn của quá trình CNH, nhưng là một quốc gia đi sau, Việt Nam vẫn có thể tham khảo những kinh nghiệm thành công cũng như chưa thành công trong việc phát triển ngoại thương nhằm đẩy mạnh CNH của các nước này để vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước mình. 1.2.1.1. Khai thác sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế về điều kiện tự nhiên Đối với một số nước như Malaixia, Philippin, Thái lan, Inđônêxia... việc khai thác lợi thế về nguồn tài nguyên sẵn có và các điều kiện thuận lợi của đất nước (như vị trí địa lý, khí hậu…) Có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đầu CNH, khi trình độ sản xuất đặc biệt là ngành công nghiệp trong nước còn thấp và khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế còn hạn chế. Việc XK những mặt hàng có lợi thế này ban đầu gắn với chiến lược XK sản phẩm thô và sơ chế (như các sản phẩm công nghiệp và khai khoáng). Chẳng hạn như Malaixia đã tập trung khai thác và XK thiếc, dầu mỏ, sắt, đồng, bô xít..., Trong đó XK thiếc giữ vai trò chủ yếu. Trong thập kỷ 70 (của thế kỷ XX) với sản lượng thiếc tinh luyện trên 60 nghìn tấn, Malaixia đứng thứ hai trên thế giới về sản xuất và XK thiếc. Philippin là nước đứng đầu thế giới về XK các sản phẩm dừa trong những năm đầu thập kỷ 80 (của thế kỷ XX). Dừa là loại cây trồng cho thu nhập cao nhất trong nông nghiệp Philippin. Inđônêxia tập trung sản xuất và XK các sản phẩm dầu mỏ, khí đốt, cao su tự nhiên, cà phê, ca cao... Trong suốt hơn một thập kỷ kể từ giữa những năm 70, dầu mỏ và khí tự nhiên là nguồn XK chủ yếu của Inđônêxia. Năm 1976, thu nhập từ XK dầu mỏ và khí tự nhiên chiếm tới 70,25% tổng KNXK nước này. Singgapo lại là một điển hình về việc khai thác lợi thế về vị trí địa lý. Singgapo nằm trên trục giao thông hàng hải nối các đại dương lớn. Trong giai đoạn đầu CNH, Singgapo phát triển tái XK và môi giới buôn bán các mặt hàng sơ chế giữa 21 các nước Đông nam Á với các nước tư bản Phương Tây [32]. Nguồn lợi thu được từ XK sản phẩm có lợi thế về điều kiện tự nhiên đã góp phần không nhỏ vào quá trình tích luỹ vốn ban đầu cho CNH ở các nước Đông Nam Á. 1.2.1.2. Ưu tiên những ngành công nghiệp có hàm lượng lao động cao để tận dụng nguồn lao động dồi dào vào sản xuất hàng xuất khẩu Khi bắt đầu chiến lược CNH hướng về XK, trong các yếu tố của quá trình sản xuất ngoài tài nguyên thiên nhiên thì lao động dồi dào và giá rẻ là một lợi thế lớn của một số nước Đông Nam Á. Cùng với vốn đầu tư, lợi thế về lao động nếu được sử dụng triệt để có thể tạo ra những bước phát triển nhanh về kinh tế. Vì vậy các nước Đông Nam Á bắt đầu bằng việc xây dựng những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động (chủ yếu thuộc công nghiệp chế biến tvà chế tạo hàng tiêu dùng mang tính chất gia công lắp ráp cho các công ty nước ngoài), nhờ đó tạo ra nhiều việc làm, đồng thời khai thác lợi thế lao động rẻ để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Ở Inđôlêxia nhóm hàng XK chiếm vị trí quan trọng và tăng nhanh trong những năm 1980 là hàng dệt và may mặc. Giá trị các mặt hàng này trong tổng KNXK từ 0,4% năm 1980 đã tăng lên 17,8% năm 1982. Malaixia lại tập trung
khai thác và chế biến gỗ XK. Năm 1993, Malaixia đã XK 5,44 triệu m3 gỗ xẻ, thu 4,4 tỷ ringgit (khoảng 1,7 tỷ USD). Nếu tính chung gỗ chế biến và đồ gỗ XK thì năm 1993 Malaixia thu tới 12,2 tỷ ringgit (khoảng 4,7 tỷ USD) tăng 16% so với năm 1992. Trong số các ngành công nghiệp chế biến mũi nhọn của Thái Lan, công nghiệp chế biến nông - lâm - hải sản và công nghiệp dệt chiếm vị trí quan trọng. Thái Lan là một trong số nước hàng đầu thế giới về XK gạo với mức XK 4-5 triệu tấn/năm, gạo Thái Lan đã cạnh tranh được trên thị trường quốc tế với Mỹ nhờ giá rẻ hơn, cạnh tranh được với Việt Nam nhờ mức độ chế biến tinh hơn. Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 (của 22 thế kỷ XX), công nghiệp dệt Thái Lan phát triển mạnh nhờ có được thị trường XK rộng lớn. Năm 1992, công nghiệp dệt đã mang lại 14% tổng KNXK của Thái Lan [32]. Từ giữa những năm 1980, bên cạnh việc sản xuất và XK những sản phẩm có hàm lượng nguyên liệu và lao động cao như công nghiệp chế biến thực phẩm, dệt may, làm đồ trang sức và các nghề thủ công cổ truyền..., các nước ASEAN cũng tập trung phát triển các ngành công nghiệp chế biến công nghệ cao như công nghiệp điện tử, điện dân dụng nhờ vào đầu tư và liên doanh với nước ngoài. Năm 1992, sản phẩm XK của ngành công nghiệp điện tử, điện dân dụng đã chiếm 13,9% tổng KNXK của Thái Lan. Còn ở Malaixia, tổng giá trị XK đồ điện và sản phẩm điện tử tăng từ 10,4% năm 1986 lên 21,9% vào năm 1990 [32]. Sản phẩm XK của một số nước Đông Nam Á có khả năng cạnh tranh cao do chất lượng không quá thua kém so với sản phẩm của nhiều nước công nghiệp mới và các nước tư bản phát triển, giá cả lại phải chăng phù hợp với bộ phận người tiêu dùng có thu nhập trung bình và thấp ở các nước phát triển. Việc tiêu thụ được mở rộng dần từ hàng may mặc, giày dép, tóc giả... đến các sản phẩm công nghiệp điện tử đã kích thích sự phát triển các ngành thu hút nhiều lao động ở các nước Đông Nam Á. Lợi thế về lao động rẻ cộng với những chi phí sản xuất được tiết kiệm đến tối đa đã làm cho hàng hoá của các nước ASEAN có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Thu nhập từ sản xuất và XK làm giàu thêm dự trữ ngoại hối và tích lũy cho CNH. 1.2.1.3. Mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm tận dụng qui mô sản xuất tối ưu Sự không thành công của chiến lược thay thế NK đã buộc các nước ASEAN phải thay đổi chiến lược vươn ra thị trường ngoài nước. Dung lượng lớn cũng như biến động phức tạp của thị trường ngoài nước đã đặt các nước ASEAN trước nhiệm vụ phát triển sản xuất XK, nâng cao năng lực cạnh tranh 23 để đạt được qui mô sản xuất tối ưu. Ngay từ khi khởi đầu chiến lược CNH hướng về XK thị trường buôn bán chính của các nước ASEAN là các nước tư bản. Inđônêxia chủ yếu buôn bán với Mỹ, Nhật Bản, Singgapo. Các nước này chiếm khoảng 77% tổng KNXK, 52% KNXK của Inđônêxia vào những năm 1980, trong đó Nhật Bản là bạn hàng quan trọng nhất. Gần đây, Inđônêxia còn chú trọng mở rộng thị trường EU, Trung Đông, Nam Mỹ, Trung Quốc, Đông Dương... Thị trường XNK chính của Malayxia, Thái Lan, Philipin cũng là 3 nước Mỹ, Nhật, Singgapo. Năm 1994 Malayxia XK sang thị trường Singgapo 12,1 tỷ USD hàng hoá, gấp 12,5 lần năm 1976 và chiếm 21,3% tổng KNXK cả năm. Tiếp đến là thị trường Mỹ với 11,6 tỷ USD, gấp 14,1 lần năm 1976 và chiếm 20,4%. Ba chỉ tiêu tương ứng sang thị trường Nhật Bản là 7,1 tỷ USD gấp 6,3 lần và chiếm 12,4%. Năm 1990 Thái Lan XK sang Mỹ trên 5,2 tỷ USD, chiếm 22,7% tổng giá trị XK, năm 1993 tăng lên đạt trên 8 tỷ USD; XK sang Nhật Bản năm 1990 là 4,0 tỷ USD, chiếm 17,2% năm 1993 là 6,3 tỷ USD, chiếm 17,0%; XK sang Singgapo năm 1990 là 1,7 tỷ USD, chiếm 7,3%, năm 1993 là 4,4 tỷ USD, chiếm 12,0% [32]. Nhờ có thị trường nước ngoài dung lượng lớn nên các ngành sản xuất hàng XK của các nước ASEAN phát triển mạnh, các cơ sở sản xuất hàng XK tận dụng được qui mô sản xuất tối ưu. Như vậy, ngoại thương tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất. Việc tận dụng hết công suất làm hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh, do đó, tăng lợi nhuận, góp phần tăng tích luỹ. Cùng với sự phát triển sản xuất, hệ thống ngành bổ trợ cho các ngành công nghiệp hướng về XK cũng hình thành. Nhiều đạo luật mới được ban hành hoặc sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu phát triển XK. Tất cả những hoạt động đó được chú trọng để hướng tới đích cuối cùng là XK với doanh số cao. Chiến lược hướng về XK đặt ngoại thương nói chung, XK nói riêng vào vị trí động lực tăng trưởng kinh tế. Mở rộng thị trường là giải pháp quan trọng để XK được 24 gia tăng nhanh. Những thu nhập từ XK đã cải thiện đáng kể cán cân thương mại. Chỉ sau vài năm mở rộng XK một số nước ASEAN đã có thặng dư trong buôn bán quốc tế, từ đó tăng qui mô tích luỹ vốn cho CNH, ở Inđônêxia do chính phủ áp dụng những biện pháp đẩy mạnh XK và điều hành khéo léo các hoạt động xuất, nhập khẩu nên cán cân thương mại luôn dương. Năm 1980 là năm Inđônêxia có xuất siêu cao nhất, tới 13.116 triệu USD, năm 1991 là năm thấp nhất cũng xuất siêu 2.080 triệu USD. Bình quân mỗi năm của thời kỳ 1976 - 1994, Inđônêxia xuất siêu 7.771 triệu USD. Malayxia hầu như cũng đạt được mức thặng dư trong cán cân thương mại. Trong vòng gần 2 thập kỷ qua chỉ có năm 1981 và 1982 là có sự thâm hụt. Năm 1989 đạt mức thặng dư kỷ lục với 3,9 tỷ USD, sau đó giảm xuống còn 2,6 tỷ USD năm 1990 và 527 triệu USD năm 1991. nhưng rồi lại tăng lên đạt gần 3,4 tỷ USD năm 1992 và 3,2 tỷ USD 25 năm 1993. Năm 1994 còn thặng dư 1,4 tỷ USD [32]. 1.2.1.4. Ngoại thương góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, thay đổi cơ cấu hiện vật có lợi cho CNH, HĐH Sự phát triển các ngành công nghiệp chế tạo hướng về XK ở các nước ASEAN đã thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ mới. Việc NK thiết bị công nghệ tiên tiến không những tạo điều kiện tái sản xuất mở rộng thay đổi kỹ thuật công nghệ mà còn tăng năng suất lao động, nhờ đó nâng cao tỷ suất lợi nhuận, tạo điều kiện tăng qui mô tích luỹ. Thực hiện chiến lược hướng về XK, các nước ASEAN đã vươn ra thị trường ngoài nước, thu hút đầu tư của các công ty tư bản quốc tế, NK công nghệ mới, tiếp thu những kiến thức quản lý kinh tế - xã hội hiện đại, hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giàu năng lực và những công nhân quen với tác phong công nghiệp. Thông qua XNK, các mặt hàng của ASEAN nhanh chóng tiếp cận thị trường hiện đại của khu vực và thế giới cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Thông qua kênh chuyển giao công nghệ với việc tiếp nhận các công nghệ tiên tiến hơn từ nước ngoài cùng với nguồn lao động rẻ, tài nguyên phong phú ở đây đã tạo ra những sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh lớn trên thị trường thế giới, ngay cả trong thị trường các nước tư bản phát triển. Cũng nhờ công nghệ tiên tiến tập trung vào ngành công nghiệp chế biến khiến cho tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo tăng cao trong tổng số hàng hoá XK. Ở Malayxia, tỷ trọng hàng chế tạo trong tổng KNXK qua các năm là: 7,6% vào năm 1970; 21,2% năm 1980; 54,7% năm 1986. Trong khi đó hàng sơ chế giảm theo các năm là: 78,7% năm 1970; 69,1% năm 1980; 32,3% năm 1989. Tuy nhiên, ở những mặt hàng lâu bền như ô tô, xe máy... do điều kiện khách quan khó cạnh tranh nổi với những “người khổng lồ” như Mỹ, Nhật thì mức độ tiếp thu công nghệ sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước có bước đi từ tốn và chắc chắn hơn. Đó chính là để sử dụng lợi thế so sánh về giá nhân công rẻ 26 cộng với công nghệ tiên tiến. Kết quả là sự xuất hiện ngày càng nhiều loại sản phẩm xuất khẩu như dệt, da, dụng cụ điện tử, xe máy do các nước Malayxia, Thái Lan sản xuất được tung ra thị trường thế giới [32]. Công nghệ chuyển giao sang các nước ASEAN nói chung đến nay được coi từ mấy nguồn chủ yếu sau: - Một là: Từ các nước tư bản phát triển như Mỹ, Nhật, Tây Âu... đây là những công nghệ cao đòi hỏi chi phí vốn lớn của các nước tiếp nhận. Mặt khác lại chịu chi phối lớn của bên chuyển giao cả về phương diện tài chính, kỹ thuật, giá cả khiến các nước ASEAN ngày càng lệ thuộc sâu sắc vào các nước XK công nghệ. - Hai là: Nguồn từ các nước NIEs châu Á. Nguồn công nghệ và thiết bị này tương đối phù hợp với thực trạng nền kinh tế các nước ASEAN trong hiện tại do đáp ứng được nhu cầu thiết yếu, nhưng tuổi thọ của sản phẩm trong chu kì kinh doanh không cao, sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng có những hạn chế nhất định. - Ba là, từ nguồn trong nội bộ các nước ASEAN đã có nhưng không lớn, công nghệ không cao, khó khấu hao nốt những giá trị cuối cùng khi muốn chuyển giao để thay đổi công nghệ mới vì đó thường là thiết bị công nghệ đã lạc hậu vài thế hệ. Tóm lại, hạn chế trong NK công nghệ ở đây là sự phụ thuộc nặng nề vào công nghệ của các nước tư bản phát triển, khó khăn trong việc tiếp nhận công nghệ hiện đại để nhanh chóng hiện đại hoá nền kinh tế. Theo thống kê ở Singgapo 85% năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp quan trọng, 70% KNXK thuộc công ty nước ngoài. ở Malayxia, 60% xí nghiệp, 50% chỗ làm việc, 70% KNXK do các công ty xuyên quốc gia nắm. Hầu hết những ngành công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế đều nằm trong các công ty xuyên quốc gia. Những nhân tố trên làm cho công nghiệp và tích luỹ vốn có những dấu hiệu suy yếu khi chuyển sang giai đoạn đòi hỏi công 27 nghệ cao hơn [32]. 1.2.1.5. Những biến động trong hoạt động ngoại thương ảnh hưởng trực tiếp đến CNH, HĐH, tăng trưởng kinh tế và tăng tích luỹ vốn ở một số nước Đông Nam Á Thương mại đã từng là động lực tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của các nước Đông Nam Á trong suốt 30 năm qua. Để thúc đẩy XK phát triển, ban đầu chính phủ các nước Đông Nam Á đã đưa ra những biện pháp khuyến khích khác nhau như giảm thuế, hỗ trợ mua nguyên liệu đầu vào, cấp tín dụng với lãi suất cho vay ưu đãi nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp hướng vào các ngành kinh tế mới và hiện đại, làm tăng các cơ hội đạt được một nền kinh tế năng động có mức lợi tức cao nhờ qui mô lớn. Sau đó, chính phủ lại đưa ra các biện pháp, chính sách có tính bao quát hơn. Đó là các cải cách thương mại và chế độ đầu tư, tỷ giá hối đoái hợp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Do vậy, phần đóng góp của thương mại vào chuyển kỹ thuật từ thủ công lên cơ khí máy móc, góp phần tăng năng suất lao động, tăng tổng sản phẩm trong nước lên đáng kể (GDP tăng từ 15% năm 1970 lên hơn 50% trong năm 1995). Trong thời kỳ 1970 - 1995, giá trị XK bình quân đầu người tăng từ 80 USD lên 850 USD ở Thái Lan [32]. Nhưng sang năm 1996, thương mại của Đông Nam Á suy giảm với qui mô chưa từng thấy. Từ quí I năm 1995, tăng trưởng XK ở Thái Lan, Inđônêxia, Malayxia và Philippin đang ở mức kỷ lục bắt đầu giảm mạnh. Đến hết quí I năm 1996, tăng trưởng XK các nước đó đã giảm xuống bằng không. Sự suy giảm tăng trưởng XK Đông Nam Á phản ánh những yếu tố có tính chu kỳ trong nền kinh tế thế giới và khu vực. Đó là tăng trưởng thương mại thế giới giảm mạnh. Tăng trưởng XK thế giới từ mức 20% năm 1995 (cao nhất trong vòng 15 năm trước đó) giảm xuống còn 4% năm 1996 (tính theo giá trị USD). Thái Lan bị tác động nghiêm trọng nhất, có mức tăng trưởng XK danh nghĩa âm trong năm 1996. Đồng yên mất giá mạnh trong năm 1995 đã làm 28 trầm trọng thêm những tác động tiêu cực của suy giảm XK thế giới nên nhiều nước Đông Nam Á (Nhật Bản vừa là thị trường chính, vừa là một đối thủ cạnh tranh trên các thị trường XK của các nước Đông Nam Á). Một số nước bắt đầu có tình trạng tỷ giá thực tế lên giá từ giữa năm 1995 như Thái Lan (12%), Philippin (15%), Inđônêxia (11%). Điều đó ảnh hưởng đến khả năng XK; Các nước Đông Nam Á cũng chịu tác động bởi sự giảm giá mạnh các mặt hàng XK chủ lực của họ. Giảm giá nhiều nhất xảy ra với công nghiệp điện tử, đặc biệt với máy vi tính, linh kiện bán dẫn và viễn thông. Giá cả một bộ nhớ Megabyte đã giảm từ 54 USD cuối năm 1995 xuống còn 13 USD vào giữa năm 1996 và 3 USD vào cuối năm 1997 [32]. Tuy các yếu tố có tính chu kỳ đóng vai trò quan trọng, nhưng các yếu tố về cơ cấu cũng có vị trí nhất định trong kết quả hoạt động ngoại thương của các nước Đông Nam Á. Các nước trong khu vực đứng trước sự cạnh tranh ngày một quyết liệt trên thị trường quốc tế với sự xuất hiện của nhiều nước công nghiệp và XK mới trong cả vùng (Trung Quốc) lẫn bên ngoài (Mêhicô, các nước Đông Âu). Chẳng hạn, Thái Lan đang mất dần tính cạnh tranh đối với các mặt hàng XK có chi phí sản xuất thấp như hàng dệt may và đồ chơi. Điều này buộc Thái Lan phải chia xẻ phần lớn thị trường trước sự cạnh tranh ngày càng tăng với giá nhân công thấp của các nước như Trung Quốc, nơi mà hơn 50% sản phẩm XK là sản phẩm công nghệ thấp. Trong ngành sản xuất quần áo, chi phí giờ công ở Trung Quốc năm 1995 là 0,25 USD, trong khi đó ở Thái Lan là 1,11 USD. Hơn nữa nhiều nước Đông Nam Á đã đầu tư vào những ngành xuất khẩu tương tự nhau như ngành điện tử, làm gia tăng áp lực cạnh tranh, làm cho giá XK và tỷ lệ trao đổi thương mại giảm mạnh hơn [18]. Là những nền kinh tế hướng vào tăng trưởng XK các sản phẩm công nghiệp chế biến, nhân tố này cho thấy sự cần thiết phải xem xét lại mô hình tăng trưởng ở các nước ASEAN và phải hoàn thiện theo hướng đa dạng hoá XK, kết hợp hài hoà giữa hướng về XK với thay thế NK để cùng lúc tận dụng 29 được các lợi thế và nhu cầu cả thị trường trong và ngoài nước. Việc tận dụng những lợi thế sẵn có (lợi thế tĩnh) tuy tạo động lực tăng trưởng mạnh trong nhiều năm, nhưng lại không quan tâm đúng mức đến việc tạo ra lợi thế mới (lợi thế động) để lấp vào khoảng trống cơ cấu khi tình hình thị trường thế giới thay đổi (như các nước Thái Lan, Inđônêxia, Malayxia...). Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã ảnh hưởng sâu sắc đến một số nước Đông Nam Á. Khủng hoảng làm giảm tăng trưởng kinh tế đến mức thấp nhất trong hai thập kỷ qua, do đó cũng ảnh hưởng xấu đến tích luỹ vốn cho CNH ở giai đoạn tiếp theo. 1.2.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc Trong 20 năm cải cách kinh tế, Trung Quốc đã tăng trưởng nền kinh tế với tốc độ phi mã, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt trên 9,6%, cao nhất thế giới. Sự tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó có sự góp phần quan trọng là cuộc cải cách ngoại thương, với trọng tâm đẩy mạnh XK. Tổng doanh thu hàng năm từ hoạt động ngoại thương của Trung Quốc đã tăng từ 20,6 tỷ USD năm 1978 lên 620 tỷ USD năm 2002 và 761 tỷ USD năm 2003. Có được kết quả trên chính là nhờ việc đưa ra hàng loạt chính sách thương mại có tính quyết định trong phát triển ngoại thương Trung Quốc: Trước khi tiến hành chính sách mở cửa, chính phủ kiểm soát tất cả các hoạt động ngoại thương. Đầu những năm 1980, chỉ có các công ty được chỉ định mới có quyền tiến hành các hoạt động ngoại thương. Trong thập niên 80 và nửa đầu thập niên 90 (của thế kỷ XX), mặc dù quyền tham gia thương mại quốc tế được phân theo cấp độ, nhưng Chính phủ Trung Quốc vẫn thực hiện hệ thống kiểm tra và phê chuẩn nghiêm ngặt. Đến cuối năm 1997, Chính phủ Trung Quốc cho phép các đơn vị trong các đặc khu kinh tế thực hiện thí điểm đăng ký kinh doanh XNK. Từ ngày 01 tháng 01 năm 1999, Trung Quốc cho phép các công ty có qui mô lớn thực hiện theo hệ thống “đăng ký kinh doanh 30 XNK”, thời kỳ này, quyền đăng ký kinh doanh XNK đã mở tới viện nghiên cứu khoa học của nhà nước, tập thể, các công ty công nghệ cao và công nghệ mới. Điều lệ thuế XNK được ban hành và sửa đổi trên nguyên tắc của một nền kinh tế mở cửa [30]. Cụ thể: - Với các sản phẩm là động thực vật, phân bón, quặng thương phẩm, dụng cụ tinh xảo, dụng cụ máy móc thiết yếu và thực phẩm cần thiết cho đời sống nhân dân mà Trung Quốc không sản xuất được hoặc sản xuất rất ít thì áp dụng thuế NK thấp hoặc bằng không. - Thuế NK các nguyên liệu thô sẽ thấp hơn so với thuế NK các sản phẩm thành phẩm hoặc bán thành phẩm. Đối với các nguyên liệu lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và không thể tăng năng suất nhanh thì thuế nhập có thể thấp hơn cả thuế đối với nguyên liệu thô. Thuế suất áp dụng đối với thiết bị, dụng cụ và linh kiện máy móc sẽ thấp hơn so với thuế suất áp dụng đối với máy hoàn chỉnh để nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước. Mức thuế NK đối với những sản phẩm có thể sản xuất được trong nước và hàng hoá xa xỉ phẩm sẽ khá cao. - Để khuyến khích XK hầu hết các hàng hoá XK được miễn thuế XK. Tuy nhiên cũng áp dụng thuế XK đối với một số nguyên liệu thô quí hiếm bán thành phẩm có khả năng cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế. Mức thuế trung bình danh nghĩa của Trung Quốc liên tục giảm trong hai thập kỷ qua. Năm 1992 con số này là 42,5%; năm 1997 là 17%; năm 2002 còn 12% và tiến tới sẽ giảm xuống còn 10% theo cam kết mức thuế quan khi là thành viên của WTO. Biện pháp phi thuế quan được cải tổ mạnh mẽ nhất tại Trung Quốc là hạn ngạch, cấp phép NK và định giá hải quan. * Hạn ngạch và cấp phép NK: Với 53 loại mặt hàng phải có giấy phép NK vào năm 1992 xuống còn 12 loại mặt hàng vào năm 2002, và những mặt hàng phải có giấy phép XK cũng giảm từ 138 (1992) xuống còn 54 (2002); 31 Cuộc cải tổ hệ thống quản lý NK theo các thông lệ quốc tế được tiến hành từ năm 1993, kể từ đó hạn ngạch NK chỉ áp dụng cho các loại hàng hoá có thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu ngành công nghiệp. * Định giá hải quan: Với nguyên tắc cơ bản là ưu tiên áp dụng giá giao dịch thực tế ghi trên hợp đồng NK và tiến hành điều chỉnh trên cơ sở giá này, giá tính thuế là giá sau khi đã được điều chỉnh. Trường hợp không áp dụng được giá giao dịch thực tế thì có thể áp dụng giá thay thế. Đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm được các doanh nghiệp NK, cơ quan hải quan vẫn có thể tiếp tục khảo sát và kiểm tra giá sau khi hoàn tất thủ tục NK. * Quản lý ngoại hối: Kiểm soát ngoại thương và chính sách tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong phát triển ngoại thương Trung Quốc. Trước năm 1978, các giao dịch ngoại hối gần như bị hạn chế bởi nhà nước. Từ năm 1979 đến năm 1994, để kích thích doanh nghiệp mở rộng XK, chính quyền đã quyết định cho phép được phép giữ một phần ngoại tệ thu được từ XK. Cải tổ thêm bước nữa, Trung Quốc bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi đồng tiền trong tài khoản vãng lai năm 1994 và đã kết thúc quá trình này vào nam 1996. Với bước cải tổ này, Trung Quốc không chỉ đã thoát khỏi những rắc rối của chính sách về giữ lại ngoại tệ, giải quyết được vấn đề của hệ thống hai tỷ giá, mà còn thay đổi phương thức phân phối ngoại hối. Thực tế bước cải tổ này đã cải thiện đáng kể hoạt động ngoại thương Trung Quốc trong những năm tiếp theo. Tỷ giá hối đoái Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng XK. Trong những năm 1980 và đầu những năm 1990 đồng nhân dân tệ đã được gắn với đồng đô la Mỹ. Thành công nhất của chính sách tỷ giá là năm 1994, Trung Quốc đã thống nhất tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường (bằng việc phá giá đồng nhân dân tệ), đồng thời bắt đầu thực hiện “cơ chế tỷ giá thống nhất và thả lỏng theo thị trường”, hay nói cách khác là chính sách tỷ giá được thực hiện “tỷ giá hối đoái thả nổi có sự kiểm tra thống nhất” được 32 xác định trên cơ sở diễn biến của tình hình cung cầu trên thị trường và xoá bỏ thị trường ngoại hối chợ đen. Ngân hàng trung ương có trách nhiệm công bố tỷ giá phù hợp với tỷ giá mua bán tại các ngân hàng quốc tế được thành lập ở Trung Quốc từ năm 1994. Ngân hàng trung ương chỉ đảm nhận vai trò điều tiết cung cầu đối với ngoại tệ mạnh và giữ ổn định tỷ giá đồng nhân dân tệ trên cơ sở sử dụng các công cụ của chính sách tài chính, tiền tệ [29]. 1.2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Những thành công của các nước ASEAN và Trung Quốc về hoạt động ngoại thương đã cho thấy, trước hết những nước này đã có chiến lược ngoại thương gắn kết chặt với tiến trình CNH và hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế quốc gia. Các nước này đã sử dụng chính sách kinh tế nói chung và chính sách thương mại nói riêng một cách linh hoạt, phù hợp với từng thời kỳ nhằm khai thác tối đa các nguồn lực, thu hút được ngoại lực một cách hiệu quả. Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm về phát triển ngoại thương trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của các nước ASEAN và Trung Quốc gồm các nội dung cụ thể: Khai thác, sản xuất và XK những mặt hàng có lợi thế về điều kiện tự nhiên; ưu tiên những ngành công nghiệp có hàm lượng lao động cao để tận dụng nguồn lao động dồi dào vào sản xuất hàng XK; mở rộng thị trường XK nhằm tận dụng qui mô sản xuất tối ưu; mở cửa cho các thành phần kinh tế tham gia XK và NK; không ngừng đa dạng hoá thị trường, chú trọng thị trường các nước công nghiệp phát triển trên cả hai phương diện xuất và nhập; liên tục đa dạng hoá mặt hàng XK đi từ gia công, lắp ráp chuyển dần sang hàng hoá có hàm chế tạo cao, kết hợp hài hoà giữa hướng về XK với thay thế NK để cùng lúc tận dụng được cái lợi thế và nhu cầu cả thị trường trong và ngoài nước; Chính sách ngoại thương ngày càng ổn định và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là những bài học quý báu cho Việt Nam để phát triển ngoại thương nói riêng, mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại nói chung; Việt Nam có thể 33 vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, không nên sao chép máy móc cách làm của các quốc gia khác, mà phải biết chọn lọc và vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước mình trong từng thời kì cho phù hợp để ngoại thương góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tóm lại: ngoại thương có vai trò rất to lớn đối với CNH, HĐH, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Qua đề cập một số lý thuyết cơ bản về thương mại quốc tế cho thấy bất kì một quốc gia nào cũng đều có lợi khi tham gia thương mại quốc tế dựa trên khả năng khai thác lợi thế so sánh của mình. Ngoại thương góp phần tạo vốn ngoại tệ; thúc đẩy quá trình đổi mới kỹ thuật, công nghệ theo hướng hiện đại; tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; tạo điều kiện khai thác triệt để nguồn lực và tiềm năng của đất nước, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vai trò quan trọng của ngoại thương như vậy chúng ta cần phải sử dụng ngoại thương như một công cụ, một đòn bẩy quan trọng để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước theo con đường XHCN. Qua kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á và Trung Quốc, nhìn chung họ đều đi theo con đường tăng cường mở cửa nền kinh tế và đề ra các chính sách phù hợp với điều kiện địa lý, kinh tế và nguồn lợi của từng nước để phát huy lợi thế về nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên, tăng thu lợi nhuận dành cho tích luỹ; đồng thời việc NK máy móc thiết bị hiện đại góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. Đó là những bài học để Việt Nam vận dụng phát triển mạnh mẽ hoạt động ngoại thương để đẩy mạnh CNH, HĐH, xây 34 dựng thành công CNXH. Chƣơng 2 THỰC TRẠNG NGOẠI THƢƠNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1991 ĐẾN NAY 2.1.1. Đường lối, chính sách phát triển ngoại thương của Đảng và Nhà nước ta Từ cuối năm 1986, thực hiện đường lối đổi mới kinh tế do Đại hội VI của Đảng đề ra, kinh tế đối ngoại đã được coi là "mũi nhọn" của công cuộc đổi mới. Cùng với việc "bung ra" nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, lần đầu tiên ở Việt Nam, các thuật ngữ "mở cửa nền kinh tế", "đa dạng hóa kinh tế đối ngoại", "đa phương hóa thị trường"... đã được đề cập trong các chủ trương, chính sách kinh tế đối ngoại. Chế độ "Nhà nước độc quyền ngoại thương" đã được thay bằng sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các quan hệ kinh tế đối ngoại theo cơ chế thị trường. Đáng lưu ý, ngoại thương (đặc biệt là các hoạt động sản xuất kinh doanh XK) đã được coi là một trong ba chương trình kinh tế trọng điểm của Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua lần đầu tiên vào tháng 12/1987 và có hiệu lực từ tháng 01/1988 là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự chuyển hướng thực sự sang chính sách kinh tế mở theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từ năm 1989, Đảng và Nhà nước ta đưa ra nhiều chủ trương và chính sách lớn nhằm tiếp tục hoàn thiện chính sách XNK theo cơ chế thị trường. Nghị định 64/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành ngày 10/6/1989 quy định về chế độ quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh XNK, quản lý ngoại hối và ban hành tỷ giá mua bán ngoại tệ gần sát với giá thị trường tự do. Tỷ giá kết toán nội bộ được xoá bỏ, tỷ giá phi mậu dịch được thiết lập sát với tỷ 35 giá chính thức. Đây là bước đột phá trong lĩnh vực kinh doanh XNK: với một tỷ giá thống nhất và sát với thị trường như vậy, Nhà nước đã buộc các doanh nghiệp XNK phải phát huy tính năng động sáng tạo và tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh, nắm bắt kịp thời những diễn biến của thị trường; tính toán lỗ lãi trong kinh doanh phát huy cao nhất khả năng của mình nhằm đạt hiệu quả cao. Công cuộc đổi mới nền kinh tế đang gặt hái được một số kết quả bước đầu thì Việt Nam phải đương đầu với những khó khăn thách thức mới: sự tan rã của Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trong những năm 1989 - 1991 làm cho Việt Nam không những mất hẳn chỗ dựa về nguồn viện trợ vốn, nguồn cung cấp các vật tư chiến lược... mà còn gây ra những hụt hẫng do đột ngột bị mất một thị trường lớn tiêu thụ nhiều loại hàng XK truyền thống của Việt Nam (chiếm hơn 60% tổng KNXK hàng năm). Việc cho phép "bung ra" một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong khi Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, chưa đủ kinh nghiệm để định hướng quản lý đã là kẽ hở cho nạn tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế và nhiều tệ nạn xã hội khác phát triển. Tình hình trên đòi hỏi đường lối phát triển kinh tế phải tiếp tục đổi mới sao cho phù hợp với xu thế thời đại nhưng lại không đi chệch hướng mục tiêu XHCN. Đại hội VII của Đảng thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với tư tưởng chỉ đạo "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước" và "mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại đối với tất cả các nước ở các khu vực trên thế giới"; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện dần cơ chế quản lý và chính sách kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa để phát triển kinh tế. Trong lĩnh vực ngoại thương, để tiến tới "tự do hóa thương mại", nhiều chính sách mới đã được Chính phủ ban hành nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh hàng hóa XK; XNK được xác định là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các 36 nước". Hội nghị TW 3 (khóa VII) đã đưa ra một nghị quyết riêng về kinh tế đối ngoại, theo hướng "xây dựng một nền kinh tế mở, hướng mạnh về XK". Từ đây chiến lược CNH hướng XK đã được khẳng định; điều này cũng đồng nghĩa với việc coi thị trường bên ngoài là một động lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Mục tiêu đề ra cho chính sách XNK là: đẩy mạnh XK, bao gồm XK hàng hóa và dịch vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu về NK, tăng thu ngoại tệ để góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Thông qua NK để tranh thủ thiết bị và công nghệ hiện đại của thế giới nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước và đổi mới cơ cấu kinh tế . Từ năm 1996, bước sang giai đoạn mới của công cuộc xây dựng đất nước, đòi hỏi hoạt động ngoại thương phải góp phần tích cực làm thay đổi cơ cấu kinh tế và nâng cao trình độ công nghệ theo yêu cầu CNH , HĐH. Mặt khác, môi trường kinh doanh quốc tế từ năm 1996 cũng hoàn toàn thay đổi: sự ra đời tổ chức thương mại thế giới (WTO) thay cho Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) trước đây; sự xuất hiện ngày càng nhiều các khu vực tự do thương mại và các tổ chức khu vực như NAFTA, AFTA, APEC, EU...; tự do hoá thương mại đã trở thành xu thế chủ yếu trong buôn bán khu vực và toàn cầu. Nước ta đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và đang tích cực đàm phán để gia nhập WTO. Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng VIII đã chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hóa và đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, công nghệ nước ngoài để phát triển sản xuất trong nước và đẩy mạnh XK. Mục tiêu của chính sách XNK được xác định là: tạo thêm các mặt hàng XK trên thị trường, giảm tỷ trọng hàng thô sơ và sơ chế, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu và tinh của hàng XK để nâng cao giá trị gia tăng XK. Giảm tỷ trọng nhập siêu, ưu tiên NK để sản xuất hàng XK. Hạn chế NK hàng tiêu dùng chưa cần thiết. Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực, vừa hội nhập toàn cầu, 37 xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với các nước đối tác [21]. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước, Đại hội IX của Đảng đã xác định chúng ta phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN. Từ những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo trên, chính sách ngoại thương của Nhà nước ta đã từng bước được đổi mới theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. - Chính sách thương nhân: Để xoá bỏ "Chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương", Nghị định 114/HĐBT ngày 07/4/1992 được ban hành thay cho Nghị định 64/HĐBT quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động XNK, mở rộng quyền hoạt động XNK cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước không còn điều kiện pháp lý để độc quyền kinh doanh ngoại thương như trước. Sau khi có luật thương mại (năm 1997), Chính phủ ban hành Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động XK, NK, gia công và đại lý mua bán hàng hóa với nước ngoài. Theo Nghị định này, chế độ giấy phép kinh doanh XNK đã được xoá bỏ hoàn toàn, quyền kinh doanh và quyền tự chủ của doanh nghiệp được tôn trọng. Quyền kinh doanh XNK được mở rộng thêm một bước thông qua Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 của Chính phủ cho phép tất cả các thương nhân (không chỉ có doanh nghiệp) đều được quyền XK tất cả các loại hàng hóa, không phụ thuộc vào ngành nghề, ngành hàng ghi trong giấy đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa cấm XK. Chính sách thương nhân của Chính phủ đã ngày càng tạo điều kiện thông thoáng hơn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh XNK của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nhằm thúc đẩy quá trình CNH, HĐH và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế: Tận dụng được vốn và công nghệ 38 cao; thúc đẩy nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến và hiện đại, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động trong nước. - Chính sách thị trường: Đã xác định phương hướng thị trường trên cơ sở phân tích những biến chuyển trong nền kinh tế thế giới và khu vực; những nguồn lực hiện có và triển vọng phát triển kinh tế đất nước. Việt Nam đã XK tất cả những sản phẩm có thể XK được, đưa hàng hóa XK ra mọi khu vực thị trường thế giới, bước đầu đã có chọn lọc về NK nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất trong nước và XK. Chính phủ đã sử dụng một loạt chính sách nhằm tận dụng kịp thời một số cơ hội do các Hiệp định song phương và khu vực mang lại: Xúc tiến thương mại với một số thị trường mục tiêu như Nhật Bản, các nước ASEAN, Trung Quốc, EU... Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia triển lãm, tổ chức đoàn chuyên ngành khảo sát thị trường. Đã dần chú trọng đến đăng ký các thương hiệu tại các thị trường mục tiêu. - Chính sách mặt hàng XK: Đa dạng hóa mặt hàng XK để khai thác lợi thế so sánh của đất nước, phát triển mặt hàng XK chủ lực, tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. - Chính sách mặt hàng NK: Chính sách mặt hàng NK có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế cả nước, nó tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.Chính sách mặt hàng NK được dựa trên cơ sở điều hành mặt hàng NK chủ yếu có liên quan đến các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân, gồm những mặt hàng như xăng dần, sắt thép, phân bón và hàng tiêu dùng; bên cạnh đó còn có danh mục hàng hóa cấm NK, danh mục hàng hóa quản lý bằng hạn ngạch, danh mục hàng tiêu dùng cần hạn chế NK..., vừa đáp ứng nhu cầu thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng, thiết yếu cho sản xuất kinh doanh và đời sống; bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiếm, vừa đảm bảo cho nền kinh tế đất nước phát triển. Trong quá trình đổi mới, với chủ trương, đường lối, chính sách đúng 39 đắn, luôn được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước, ngoại thương Việt Nam đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng XNK, chủ động đổi mới cơ cấu hàng hóa XNK theo hướng CNH, HĐH, đa dạng hóa phương thức hoạt động, đa phương hóa thị trường; thể hiện rõ xu hướng Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; có đóng góp quan trọng vào đẩy mạnh sự 40 nghiệp CNH, HĐH đất nước. 2.1.2. Kết quả hoạt động ngoại thương Việt Nam từ 1991 đến nay Nhờ kiên trì sự nghiệp đổi mới theo nhiều giải pháp tích cực khác nhau, Đảng và Nhà nước ta đã lái con thuyền kinh tế Việt Nam vượt qua sóng gió đi dần vào thế ổn định. Từ năm 1991 đến nay, mặc dù ngoại thương diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh rất khó khăn, Việt Nam phải cùng lúc chuyển hướng tìm kiếm thị trường, bạn hàng mới, vừa phải thay đổi phương thức kinh doanh cho phù hợp thông lệ quốc tế, nhưng vẫn đạt được kết quả khá quan trọng trong hoạt động XNK, KNXK của Việt Nam tăng lên nhanh chóng, mức nhập siêu giảm bớt; Sự tăng trưởng ngoại thương, đặc biệt là tăng XK góp phần quan trọng đẩy mạnh CNH, HĐH, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bảng 2.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá từ 1991 - 2004 1991 2.087 -13,2 2.338 -15,1 -251 15.620 8,33 0,17 40 16.970 1992 2.580 23,7 2.540 8,7 -939 18.340 37,67 1993 2.985 15,7 3.924 54,4 -1.771 19.960 49,49 1994 4.054 35,8 5.825 48,5 -2.706 21.850 62,26 1995 5.449 34,4 8.155 40 11.143 36,6 -3.888 23.880 77,04 1996 7.225 33,2 -2.407 25.840 80,41 1997 9.185 26,6 11.592 4 -2.139 27.340 76,29 1998 9.360 1,9 11.499 0,8 -201 28.650 81,27 1999 11.541 23,3 11.742 2,1 15.636 33,2 -1.154 30.570 98,52 2000 14.482 25,5 1.135 32.685 95,53 2001 15.027 3,8 16.162 3,4 -3.028 35.224 104,26 2002 16.705 11,2 19.733 21,8 -5.050 39.623 121,14 2003 20.176 20,8 25.226 27,8 -5.116 45.373 142,49 2004 26.500 28,9 31.516 24,9 41 Nguồn: Bộ Thương mại - Viện nghiên cứu Thương mại [19, phụ lục 4] Như vậy khi chuyển hoạt động ngoại thương sang cơ chế thị trường với sự thay đổi hàng loạt chính sách kinh tế, tài chính..., cùng với khai thác tốt các tiềm năng tự nhiên và xã hội của đất nước, ngoại thương đã có đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tăng tích luỹ vốn, thực hiện chiến lược CNH hướng về XK. Sang những năm đầu của thế kỷ XXI, hoạt động ngoại thương của nước ta diễn ra trong bối cảnh kinh tế - thương mại thế giới trên đà phục hồi với sự tăng trưởng mạnh của các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc. Nhiều nhân tố bất ổn như nguy cơ khủng bố luôn đe dọa nhiều nền kinh tế lớn, căng thẳng chính trị ở Trung Đông và nhiều khu vực khác, dịch cúm gia cầm lan rộng ở nhiều nước Châu Á, thiên tai và dịch bệnh ở nhiều nơi trên thế giới; giá cả nhiều mặt hàng, nhất là các mặt hàng xăng dầu và các sản phẩm có nguồn gốc từ dầu mỏ, phân bón, sắt thép... tăng đột biến, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngoại thương nước ta.Tuy vậy, từ chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đẩy mạnh hoạt động ngoại thương nói riêng được đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng IX, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp để đẩy mạnh XK và hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tích cực đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta. Sau đây là những nét chủ yếu về tình hình phát triển ngoại thương Việt Nam từ năm 1991 đến nay: 2.1.2.1. Hoạt động xuất khẩu Do chính sách của Nhà nước về xoá bỏ độc quyền trong hoạt động ngoại thương, mở rộng quyền kinh doanh XNK của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nên số doanh nghiệp kinh doanh XNK tăng nhanh, 42 nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Năm 1994 có 1.244 doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh XNK, trong đó tư nhân chiếm 13%; Năm 1998 có 5.050 doanh nghiệp kinh doanh XNK, trong đó số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 1.500 doanh nghiệp; Năm 1989, số các doanh nghiệp đăng ký XNK tăng lên 8.000 doanh nghiệp, trong đó có 3.640 doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Năm 2000, số doanh nghiệp tham gia XNK đã tăng lên 12.000 doanh nghiệp; và hiện nay ( đến đầu năm 2005), tổng số doanh nghiệp đã đăng ký mã số kinh doanh XNK là 35.714 doanh ngiệp, tăng gấp 965 lần so với năm 1986 (37 công ty). Tốc độ tăng trưởng XK hàng năm thời kỳ 1991-1999 đạt 20%, thời kỳ 2000-2004 là 18%, được xếp vào mức cao nhất khu vực, chỉ đứng sau Trung Quốc. Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong GDP (24%) năm 1991, đến nay XK đã chiếm gần 58%. Nếu năm 1992 tổng KNXK của Việt Nam chỉ đạt xấp xỉ 2 tỷ USD thì năm 2004 đã đạt 26,5 tỷ USD, gấp hơn 13 lần so với năm 1992 (bảng 2.1).Trong 15 năm qua (1991-2004) XK đã trở thành trụ cột của nền kinh tế và là động lực chủ yếu của tăng trưởng kinh tế. Mức tăng trưởng XK trong thời gian nói trên bình quân gấp 2,6 lần mức tăng GDP (19% so với 7,2%) Với tốc độ tăng trưởng XK cao, hiện nay Việt Nam đã tăng tỷ phần hàng XK của mình lên mức 0,2% trong tổng XK sản phẩm không dầu mỏ của thế giới và 0,6% trong tổng XK sản phẩm không dầu mỏ của các nước đang phát triển [23, tr.4]. + Về mặt hàng XK: Với chính sách đa dạng hóa mặt hàng XK, kết hợp với sự ưu đãi từ thuế đến ưu đãi về vốn và tín dụng... trên nguyên tắc khai thác hiệu quả lợi thế so sánh của từng mặt hàng, nâng cao tỷ lệ hàng hóa qua chế biến, tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới đã tạo ra những chuyển biến cơ bản trong mặt hàng XK chủ lực; chất lượng hàng XK tăng lên đáng kể, bước đầu có vị thế trên thị trường thế giới, 43 cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng hóa XK và thúc đẩy XK, cải thiện cán cân thương mại; Mặt khác, thông qua XK thu ngoại tệ để NK công nghệ, kỹ thuật, máy móc thiết bị tiên tiến, nguyên vật liệu phục vụ cho CNH, HĐH. Việc đa dạng hóa mặt hàng XK với phương châm củng cố và phát triển các ngành nghề truyền thống, từ mặt hàng có thế mạnh của nông nghiệp như gạo, điều, cao su, chè...; tiếp đến phát triển một số mặt hàng mà chúng ta có lợi thế trên thị trường thế giới như mặt hàng gạo, cà phê, thuỷ hải sản; đồng thời tận dụng và khai thác nguồn lao động dồi dào, tương đối rẻ, khéo tay để phát triển các ngành hàng may mặc, giày dép, điện tử; khôi phục lại một số làng nghề truyền thống với nguyên tắc kế thừa ,kết hợp tính hiện đại để đưa ngành thủ công mỹ nghệ có mặt và bước đầu chiếm vị thế trên thị trường thế giới. Thực hiện đa dạng hóa mặt hàng XK, phát triển mặt hàng XK chủ lực, năm 1991 mới chỉ có 4 mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD trở lên, gồm dầu thô, thuỷ sản, gạo, dệt may (mặt hàng đạt kim ngạch cao nhất là dầu thô: 581 triệu USD/năm); đến năm 2003, số danh mục hàng XK chủ lực là 16 mặt hàng, tăng thêm 12 mặt hàng mới: cà phê, cao su, điều, giày dép, than đá, hàng điện tử, máy vi tính và linh kiện, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng rau quả...; Và đến nay đã là 19 mặt hàng. Năm 2004 XK tăng ở hầu hết các mặt hàng chủ yếu, trong đó có những mặt hàng kim ngạch tăng với tốc độ khá cao so với năm 2003, như: sản phẩm gỗ tăng 85,9%, than đá tăng 73%, điện tử máy tính tăng 60,2% chè tăng 55,4% cao su tăng53,2%, đồ chơi trẻ em tăng52%, xe đạp và phụ tùng xe đạp tăng 49,1%, dầu thô tăng 48,3%, dây điện và dây cáp điện tăng 46,5%, hạt điều tăng 49,4%, hạt tiêu tăng 42,6%... "Câu lạc bộ có KNXK đạt từ 100 triệu USD trở lên", (gọi tắt là câu lạc bộ 100 triệu USD) đã có 17 thành viên là: Dầu thô, dệt may, giày dép, thuỷ sản, điện tử máy tính, sản phẩm gỗ, gạo, cà phê, cao su, hạt điều, thủ công mỹ nghệ, 44 dây điện và dây cáp điện, than đá, sản phẩm nhựa, xe đạp phụ tùng, rao quả, hạt tiêu. (xem bảng 2.2). "Nhóm 500 triệu USD trở lên" gồm có 9 thành viên đầu. "Nhóm 1 USD tỷ trở lên" gồm 6 thành viên đầu. "Nhóm 2 tỷ USD trở 45 lên" gồm 4 thành viên đầu tiên [8, tr.27]. Bảng 2.2 Một số mặt hàng XK chủ lực của Việt Nam ( Tr.USD) Nguồn: Bộ Thương mại - Viện nghiên cứu Thương mại [19, biểu 13]. Kết quả XK năm 2004 đạt 26,5 tỷ USD, tăng 31,4%, mức tăng cao nhất trong 8 năm nay, đưa tổng KNXK thời kỳ 2001 - 2004 lên 78,4 tỷ USD, tăng bình quân 16,7%/năm. XK năm 2004 tăng là do tăng sản lượng XKvà tăng giá trị hàng hóa XK. Mặt khác, giá XK tăng đã đóng góp 1,916 triệu USD vào tổng kim ngạch - Việc tăng giá XK nhờ giá thị trường thế giới tăng, mặt khác do chất lượng hàng hóa XK được nâng lên, và do đó, giá trị sản phẩm XK của 46 nước ta đã có bước cải thiện. KNXK năm 2004 cao gấp 12,5 lần năm 1991, bình quân tăng trên 21,4%/năm. Sự vượt trội của XK đạt được ở cả hai khu vực. Khu vực kinh tế trong nước đạt 11.736 triệu USD, tăng 17,2% và cao nhất từ trước tới nay. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt14.267 triệu USD, tăng 40,4% [8]. Việc tăng cao hơn của XK của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã chứng tỏ các doanh nghiệp của khu vực này, một mặt đã phát huy lợi thế về vốn, trình độ kỹ thuật- công nghệ, trình độ quản lý, tay nghề của người lao động, quảng cáo, tiếp thị, thị trường tiêu thụ..., mặt khác đã tận dụng được cơ hội tốt hơn để đẩy mạnh XK khi các nước thực hiện cam kết cắt giảm thuế suất thuế NK khi giá cả thế giới tăng lên. Theo cách tính của Tổng cục thống kê, cơ cấu XK của Việt Nam trong 15 năm gần đây đã thay đổi theo hướng tích cực. Tỷ trọng nhóm hàng nông- lâm - thuỷ sản đã giảm một cách đáng kể từ 52,2% năm 1991 xuống còn 25,1% năm 2003, năm 2004 nhích lên 26,2%. Tỷ trọng XK nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tương đối ổn định: 33,4% năm 1991; 35,6% năm 2000 và32,3% năm 2002. Năm 2004 là 39,6%, đạt mức cao nhất từ trước đến nay do giá nguyên nhiên liệu tăng cao, đặt biệt là dầu thô và than đá. Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có xu hướng tăng: từ 14,4% năm 1991 lên 35,7% năm 2001 và đạt tỷ trọng cao nhất là 42,7% năm 2003, năm 2004 lại giảm xuống 41,2%. Điều này cho thấy việc chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng thô của ta chưa thật bền vững. Bảng 2.3. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam từ 1991- 2004 (%) 33,4 37,0 34,9 29,7 25,3 28,7 28,0 27,9 31,3 37,2 34,9 31,8 32,2 32,6 và CCN
nặng
kh/sản 14,4 13,5 17,6 21,4 28,4 29,0 36,7 36,6 36,3 33,9 35,7 40,6 42,7 41,2 nhẹ
CN
và TTCN 52,2 49,5 47,5 48,9 46,3 42,3 35,3 35,5 32,4 28,9 29,4 27,6 25,1 26,2 Nông,
lâm, thuỷ
sản 47 Nguån: Bé Th ¬ng m¹i - ViÖn nghiªn cøu Th ¬ng m¹i [19, tr.54]. + VÒ thÞ tr êng xuÊt khÈu Víi ph ¬ng ch©m "®a d¹ng hãa, ®a ph ¬ng hãa thÞ tr êng" ViÖt Nam ®· thùc hiÖn chiÕn l îc thÞ tr êng theo h íng më réng th ¬ng m¹i víi tÊt c¶ c¸c khu vùc, c¸c n íc, c¸c lÜnh vùc vµ kh«ng h¹n chÕ vÒ ®Þa lý, thÓ chÕ chÝnh trÞ; V× vËy c¬ cÊu thÞ tr êng XK hµng hãa cña ViÖt Nam ®· cã nh÷ng thay ®æi lín c¶ vÒ sè thÞ tr êng ®Õn l îng mÆt hµng cho tõng thÞ tr êng. §Õn hÕt n¨m 2004 thÞ tr êng XK cña ViÖt Nam ®· ® îc më réng ®Õn 220 n íc vµ vïng l·nh thæ. Tõ chç ta ph¶i lÖ thuéc hoµn toµn vµo khu vùc thÞ tr êng §«ng ¢u, tõ n¨m 1991 ®Õn nay, khu vùc thÞ tr êng cµng ® îc më réng tõ ASEAN ®Õn ch©u Á, sang châu Âu (EU) và đến châu Mỹ. Nếu như từ năm 2000 trở về trước ta phụ thuộc vào thị trường châu Á, thì từ 2001 đến nay thị trường đã được đa dạng hoá. Đặc biệt thị trường Bắc Mỹ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong XK của nước ta, trong đó Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất với tổng KNXK lên đến gần 5 tỷ USD năm 2004. Bảng 2.4: Cơ cấu thị trƣờng XK từ năm 2000 đến năm 2004 (%) Khu vực thị trƣờng Châu á
Châu Âu
Châu Mỹ
Châu Phi
Châu Đại Dương
Tổng 2000
60,5
23,0
6,7
1,0
8,8
100,0 2001
58,0
25,0
9,0
1,0
7,0
100,0 2002
52,0
23,0
16,0
1,0
8,0
100,0 2003
49,0
22,0
20,2
0,8
8,0
100,0 2004
48,1
21,9
22,6
0,7
6,7
100,0 Nguồn: Bộ thương mại - Viện nghiên cứu Thương mại [19, tr.59]. Năm 2004, thị trường XK đã có những yếu tố tích cực. Châu Á, thị trường vừa gần vừa có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam vẫn là thị trường lớn nhất, chiếm gần một nửa tổng KNXK của nước ta; tốc độ tăng XK vào thị trường này càng về cuối năm càng cao. Tốc độ tăng cao nhất đạt được XK 48 vào thị trường Trung Quốc lên đến 66%, Các tiểu vương quốc Ảrập tăng 42%, Irăc tăng 40%, các nước ASEAN tăng 26%, Hàn Quốc tăng 23%, Nhật Bản tăng 18,6%...[8]. Châu Âu - một thị trường lớn và tiếp tục tăng nhanh, trong đó XK sang EU mới (25 nước) tăng khoảng 25%, với kim ngạch đạt khoảng 5 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng KNXK của nước ta. đặc điểm lớn nhất trong quan hệ xuất - nhập khẩu của nước ta với thị trường Châu Âu là nước ta ở thế xuất siêu. Châu Mỹ cũng là một thị trường lớn, nhưng năm nay không còn tăng trưởng cao như năm 2003, chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ bị chậm lại; riêng thuỷ sản, do ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá cá ba sa năm trước và vụ kiện bán phá giá tôm năm nay, nên KNXK vào Mỹ bị giảm mạnh (10 tháng giảm 34%), Mỹ đã từ vị trí thứ nhất tụt xuống thứ hai sau Nhật Bản. Tuy nhiên, Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất của Việt Nam so với các nước và vùng lãnh thổ khác, đứng đầu về NK hàng dệt may, đồ gỗ, hạt điều, hạt tiêu... Việt Nam đã trở thành nước có kim ngạch đứng thứ 37 của Mỹ. Cũng giống như châu Âu, đối với thị trường châu Mỹ, Việt Nam vẫn giữ được vị thế xuất siêu [8]. Thị trường châu Phi - là thị trường tiềm năng, có nhu cầu phù hợp với hàng hoá XK của Việt Nam - năm nay NK khá hơn về hàng dệt may, lương thực và hàng tiêu dùng khác. Lượng gạo châu Phi NK của Việt Nam lớn thứ hai chỉ sau thị trường châu Á. 4,7
7,1
3,38
2,45 5,9
2,0
2,77 ASEAN 13,79 17,99 20,44 16,85
Tr. Quốc
Đài Loan
Hồng Công
Hàn Quốc
Nhật Bản
Hoa Kỳ
Australia 6,46 10,61
5,16
5,23
8,5
2,18
5,14
2,18
4,54
18,2 16,18 15,47 18,13
5,06
2,97
8,8
2,5 7,04 Bảng 2.5. Tỷ trọng các thị trƣờng xuất khẩu lớn của Việt Nam (%) 4,7
7,46
4,3
7,72
21,4
2,8
0,89
EU 11,74 5,0
4,37
7,06
5,0
17,5 22,21 21,79 49 25,2 17,5 10,54 17,33 10,71 12,29 10,98 8,62 10,36 Khác
Nguồn: Bộ Thương mại - Viện nghiên cứu Thương mại [19, tr156]. Trong số các mặt hàng XK chính, xếp hạng các thị trường thay đổi rất đáng kể. Ví dụ các thị trường chính cho dầu thô là Australia, Trung Quốc, Singapore và Nhật Bản; các thị trường chính XK cà phê là Thuỵ Sỹ, Mỹ và Đức; các thị trường chính cho hàng giầy dép là Anh, Đức, Bỉ, Pháp, Hà Lan và Mỹ; còn thị trường chính cho XK rau là Trung Quốc, toàn bộ các thị trường khác thường là nhỏ chỉ với một nước như gạo chỉ có một thị trường chủ đạo chính là Irắc (trước 2001) và Inđônêsia. Cho đến nay, hàng Việt Nam đã thâm nhập hầu hết các thị trường lớn. Những cản trở về thương mại hầu như đã được loại bỏ. Nếu Việt Nam gia nhập WTO, cơ hội để mở rộng thị trường càng lớn. Điều này cho thấy rằng, việc tăng trưởng XK của nước ta chủ yếu phụ thuộc vào phía cung, và như vậy, phụ thuộc vào mức độ cải cách ở trong nước. + Về XK dịch vụ: XK dịch vụ ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự tăng trưởng đáng kể (khoảng 10%/năm) chủ yếu dựa vào một số lĩnh vực truyền thống có lợi thế tự nhiên và do độc quyền cao như vận tải, du lịch, xuất khẩu lao động và gần đây là bưu chính viễn thông. Tỷ trọng XK dịch vụ ở Việt Nam trong tổng KNXK tương đối thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Những ngành có KNXK cao là bưu chính viễn thông, lao động, du lịch. Các ngành như vận tải, tài chính ngân hàng có tỷ trọng thấp. Kết quả XK dịch vụ cũng cho thấy sự yếu kém của lĩnh vực dịch vụ Việt Nam cũng như mức độ hội nhập, mở cửa của lĩnh vực này. Đây là một hạn chế rất lớn đối với nền kinh tế nước ta và thể hiện mức độ CNH, HĐH thấp của lĩnh vực dịch vụ. Trong điều kiện tăng kim ngạch hàng hoá XK của ta gặp nhiều khó khăn, đẩy mạnh XK dịch vụ sẽ làm giảm áp lực đối với tăng trưởng XK 50 và thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Bảng 2.6. Xuất khẩu dịch vụ Việt Nam thời kỳ 1999-2004 (Tr.USD) 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng kim ngạch
Bưu chính- Viễn thông 2.070
154 2.404
186 3.009
210 3.590
240 4.330
333 4.764
384 Vận tải hàng không 279 356 318 339 324 405 Vận tải biển 19 20 23 27 197 215 Tài chính ngân hàng 518 442 508 584 605 660 Du lịch 350 500 800 1.000 1.271 1.400 Xuất khẩu lao động 750 900 1.150 1.400 1.600 1.700 Nguồn: Bộ Thương mại - Viện nghiên cứu Thương mại [19, tr61]. + Về tính hiệu quả của XK: Tính về hiệu quả XK của nước ta trong những năm qua chưa thật sự bền vững, chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro (bảng 2.7). Tốc độ tăng giá Tốc độ tăng giá Tốc độ tăng giá Tốc độ tăng giá trị sản xuất trị tăng thêm trị sản xuất trị tăng thêm 1991 10,4 8,5 4,1 2,2 1992
1993
1994
1995 17,1
12,7
13,7
14,5 13,4
11,2
11,9
13,9 7,4
6,5
6,8
5,9 6,9
3,3
3,4
4,8 1996
1997 14,2
13,5 13,9
13,1 7,7
6,4 4,4
4,3 1998
1999 12,5
11,6 11,3
9,3 4,9
7,4 3,5
5,2 2000
2001 17,5
14,6 10,8
9,7 7,3
4,9 4,6
3,0 2002 14,8 9,1 6,5 4,1 51 2003 16,0 10,3 4,9 3,2 Bình quân 14,0 11,2 6,2 4,1 1991-2003 Nguån: Bé Th ¬ng m¹i - ViÖn nghiªn cøu Th ¬ng m¹i [19, tr61]. Tèc ®é t¨ng gi¸ trÞ t¨ng thªm giai ®o¹n 1991- 2003 cña ngµnh c«ng nghiÖp b×nh qu©n ®¹t 11,2% vµ 4,1%/n¨m trong khu vùc n«ng, l©m, thuû s¶n Tãm l¹i, c¬ cÊu XK ®· cã sù thay ®æi theo h íng tÝch cùc trong thêi gian qua. Tû träng hµng chÕ biÕn chiÕm tû träng ngµy cµng cao trong khi ®ã hµng n«ng s¶n vµ kho¸ng s¶n XK gi¶m dÇn. Tuy nhiªn, tèc ®é chuyÓn dÞch theo h íng ®¸p øng yªu cÇu biÕn ®æi cña thÞ tr êng vµ xu thÕ thÕ giíi diÔn ra cßn chËm, tû träng hµng th«, s¬ chÕ vÉn cßn cao. hµng chÕ biÕn XK nhiÒu n¨m gÇn ®©y t¨ng kh«ng ®¸ng kÓ, ®Æc biÖt tû träng nhãm hµng chÕ biÕn c«ng nghÖ cao cßn qu¸ nhá bÐ. Nh÷ng biÓu hiÖn nªu trªn chøng tá chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ nãi chung vµ c¬ cÊu XK nãi riªng cßn ch a v÷ng ch¾c. C¬ cÊu kinh tÕ nh vËy sÏ chøa ®ùng nhiÒu nguy c¬ lµm chËm qu¸ tr×nh t¨ng tr ëng. Nh÷ng mÆt hµng cã tèc ®é t¨ng tr ëng nhanh vµ chiÕm tû träng lín ®Òu lµ nh÷ng mÆt hµng hoÆc lµ h¹n chÕ vÒ c¸c yÕu tè c¬ cÊu nh n¨ng suÊt, diÖn tÝch, kh¶ n¨ng khai th¸c (nhãm n«ng, thuû s¶n vµ kho¸ng s¶n) hoÆc lµ phô thuéc qu¸ nhiÒu vµo c«ng nghÖ vµ nguyªn liÖu còng nh thÞ tr êng n íc ngoµi do ®ã gi¸ trÞ gia t¨ng thÊp (giµy da vµ dÖt may). Tuy nhiªn, ho¹t ®éng XK thêi gian qua ®· ®¸p øng ® îc nhu cÇu t¨ng tr ëng cña nÒn kinh tÕ, phï hîp víi kh¶ n¨ng t¹o nguån hµng vµ tiÕp cËn thÞ tr êng cña ViÖt Nam trong bèi c¶nh héi nhËp. ViÖt Nam vÉn ®ang ë giai ®o¹n ®Çu trong qu¸ tr×nh CNH. S¶n phÈm XK chñ yÕu lµ nh÷ng s¶n phÈm chÕ biÕn c«ng nghÖ thÊp vµ th©m dông lao ®éng nh hµng dÖt, may, giµy dÐp, s¶n phÈm nhùa, thùc phÈm chÕ biÕn vµ c¸c s¶n phÈm kh¸c. Lîi thÕ vÒ chi phÝ nh©n c«ng thÊp cña ViÖt Nam vÉn rÊt ®¸ng kÓ ngay c¶ khi nh÷ng thÞ tr êng bÊt lîi nhÊt. Nh ng ViÖt Nam ®· cã thÓ b¾t ®Çu khai th¸c tiÒm n¨ng cña m×nh trong viÖc s¶n xuÊt nh÷ng s¶n phÈm c«ng nghÖ trung b×nh nh ng chØ lµ phÇn sö dông lao 52 ®éng. 2.1.2.2. Ho¹t ®éng nhËp khÈu + KÕt qu¶ nhËp khÈu: Tèc ®é t¨ng tr ëng NK b×nh qu©n thêi kú 1991- 2000 lµ 17,5%, giai ®o¹n 2001 - 2004 lµ 19,5%, v ît møc chØ tiªu kÕ ho¹ch ®Ò ra. NÕu n¨m 1991 tæng kim ng¹ch ®¹t 3,3 tû USD th× n¨m 2004 lµ 31,5 tû USD. T¨ng tr ëng NK cña ta kh«ng æn ®Þnh qua c¸c thêi kú. §iÒu nµy phô thuéc vµo nÒn kinh tÕ thÕ giíi vµ kh¶ n¨ng thu hót vèn ®Çu t n íc ngoµi cña ta. Giai ®o¹n 1993 - 1996 tèc ®é t¨ng tr ëng NK ®¹t con sè kû lôc, cã n¨m ®¹t tíi 54,4% (1993), sau ®ã gi¶m sót do ¶nh h ëng cña khñng ho¶ng tµi chÝnh ch©u Á, phục hồi ở mức cao năm 2000 (33,2%), từ năm 2001 đến nay tương đối ổn định ở mức trên 20% (xem bảng 2.1). Trong giai đoạn 1990 - 2000 tốc độ tăng trưởng NK thấp hơn tốc độ tăng trưởng XK: 17,5% so với 19,8%; giai đoạn 2001 - 2004 xu hướng ngược lại: tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm NK là 19,5% trong khi XK là 14,3%. Giai đoạn 2001 - 2004, nước ta đẩy mạnh hội nhập và CNH, vì vậy trong ngắn hạn XK chưa thể tăng kịp so với NK. Tuy nhiên, một điều đáng lưu ý là năm 2004 XK đã tăng nhanh hơn NK. Đây là tín hiệu đáng quan tâm trong nỗ lực cải thiện cán cân thương mại đang ở mức thâm hụt cao. + Về mặt hàng NK: Với chính sách mặt hàng NK dựa trên cơ sở phục vụ sản xuất, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân, gồm những mặt hàng như xăng dầu, phân bón và hàng tiêu dùng; danh mục hàng hóa cấm NK, danh mục hàng hóa quản lý bằng hạn ngạch, danh mục hàng tiêu dùng cần hạn chế NK... vừa đáp ứng nhu cầu thiết bị, máy móc, vật tư, nguyên liệu, hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống, bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiếm, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Xét theo cơ cấu nhóm hàng, cơ cấu NK có sự biến động giữa hai nhóm hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. NK hàng tiêu dùng có xu hướng 53 giảm nhanh. Trước năm 1995, tỷ trọng nhóm hàng NK tiêu dùng dao động trong khoảng 13 - 15%. Từ năm 1996 đến nay, tỷ lệ này đã giảm xuống đáng kể và ổn định ở mức 7 - 8%. Điều này đãt thể hiện đúng định hướng NK của ta là giảm tỷ trọng hàng NK phục vụ tiêu dùng, tăng tỷ trọng hàng NK là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cho sản xuất, đồng thời cũng phản ánh NK đã góp phần phát triển sản xuất theo hướng thay thế NK hàng tiêu dùng. Bảng 2.8. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu theo nhóm hàng (%) Máy móc, thiết bị 21,8 25,7 30,5 29,9 30,6 30,5 29,8 31,6 27,0 68,1 59,1 61,0 61,7 63,2 61,6 62,3 60,6 68,0 Nguyên, nhiên,
vật liệu L.T.Thực phẩm 3,2 3,5 2,4 2,5 1,9 3,0 2,5 2,4 2,4 Hàng y tế 1,8 0,9 2,8 2,3 2,2 2,0 1,8 1,6 1,3 3,4 10,8 3,3 3,6 2,1 2,9 3,6 3,8 2,6 Hàng tiêu dùng
khác Nguồn: Bộ Thương mạ - Viện nghiên cứu Thương mại [19, tr 65]. Tỷ trọng nhóm hàng NK là tư liệu sản xuất từ năm 1996 đến nay tương đối ổn định, dao động từ 91 - 93%. Trong nhóm hàng tư liệu sản xuất, nhóm máy móc thiết bị, động cơ và phụ tùng và nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng tương đối ổn định, ít có thay đổi lớn. Tuy nhiên, nguyên vật liệu vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng giá trị NK, năm 1995 tỷ trọng nguyên, nhiên, vật liệu trong cơ cấu hàng nhập khẩu là 59,1%, năm 2004 lên tới 68,0% (bảng 2.8). Trị giá NK tăng và xu hướng tăng tỷ trọng tư liệu sản xuất là kết quả tất 54 yếu của tăng cường XK. Tuy nhiên, tốc độ tăng cao của nhóm nguyên, nhiên, vật liệu cũng cho thấy sự phụ thuộc của hàng XK vào nguyên liệu NK còn khá lớn. Tỷ trọng NK cấc mặt hàng chủ yếu cũng có những thay đổi. Nếu so sánh số liệu 10 mặt hàng chủ yếu NK bình quân thời kỳ 2001 - 2003 với thời kỳ 1996 - 2000 có thể thấy mức tiêu thụ các mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu tăng khá. Xăng dầu, nguyên phụ liệu may mặc, da giầy và sắt thép vẫn là ba mặt hàng nguyên liệu có KNNK lớn nhất. NK các mặt hàng phân bón, xe máy có xu hướng chững lại hoặc giảm, trong khi đó nhu cầu NK ô tô những năm gần đây tăng khá nhanh. Tốc độ tăng NK nguyên phụ liệu dệt may, da giầy (170%) cũng tương đương tốc độ tăng XK hai mặt hàng này (172%). So với các nước đang phát triển trong khu vực, có tỷ lệ NK máy móc - thiết bị thường chiếm 30 - 40% tổng KNNK thì tỷ trọng NK máy móc ở Việt Nam như vừa qua vẫn còn thấp. Điều này giải thích vì sao Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp nước ta vào hàng rất thấp về đổi mới công nghệ và về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Tỷ trọng nguyên phụ liệu NK chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng NK máy móc thiết bị khá nhỏ bé và hầu như không được cải thiện trong thời gian dài (1996 - 2004) cho thấy XK nước ta quá phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài và công nghệ chậm được thay đổi và mở rộng. Điều này cho thấy sự phát triển yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ cũng như sản xuất thay thế NK, sự yếu kém về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó nếu không đổi mới công nghệ, việc NK các sản phẩm trung gian sẽ không cải thiện được giá trị gia tăng của hàng XK. Điều này sẽ hạn chế việc cải thiện cán cân thương mại trong thời gian dài. + Về thị trường NK: Đến hết năm 2004, thị trường NK của Việt Nam đã được mở rộng tới 170 nước và vùng lãnh thổ. Khu vực châu Á chiếm tới 70-80% thị phần NK, châu Âu đứng thứ hai với khoảng 13-16%, các khu vực 55 khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Như vậy, khu vực châu Á (chủ yếu là ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan) là thị trường NK lớn nhất của nước ta trong thời gian qua do có những lợi thế về vị trí địa lý, giá cả. Đồng thời đây cũng là khu vực cung cấp chủ yếu nguyên liệu, phụ liệu, máy móc phụ tùng và hàng tiêu dùng (Bảng 2.9) [19]. Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2000, nhập siêu có xu hướng gia tăng từ các thị trường ASEAN, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. Riêng năm 2004, tổng kim ngạch nhập siêu từ các thị trường này đạt tới con số kỷ lục là 11.814 triệu USD, trong đó ASEAN là 3.392 triệu USD, Hàn Quốc: 2.725 triệu USD, Đài Loan: 2.792 triệu USD, Trung Quốc: 1.721 triệu USD. Xu hướng này là do gia tăng hợp tác thương mại và đầu tư trong khu vực như thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), ASEAN - Trung Quốc (ACFTA), ASEAN + 3 (ASEAN + Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc); dọ sự phụ thuộc ngày càng lớn của Việt Nam vào các thị trường NK khu vực, chủ yếu là nguyên vật liệu cho XK, máy móc thiết bị công nghệ thấp và trung bình; gia tăng đầu tư từ Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Malaysia... Trong khi đó Việt Nam lại xuất siêu ở thị trường khác như EU (2.299 triệu USD năm 2004), Hoa Kỳ (3.865 triệu USD năm 2004), Australia (1.363 triệu USD năm 2004). 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 79,7 78,2 76,5 74,2 Châu Á 77,72 77,29 78,38 76,93 78,26 82,26 12,0 10,82 13,5 14,4 14,1 16,4 Châu Âu 13,28 13,82 14,89 13,50 0,1 0,12 0,2 0,03 0,2 0,3 0,3 0,85 Châu Phi 2,1 2,7 2,6 2,86 3,53 2,57 4,1 4,6 6,2 6,9 Châu Mỹ Châu Đại 1,3 1,39 1,88 2,56 2,26 2,4 2,5 2,5 2,2 1,65 Dương 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Tổng số Bảng 2.9. Thị trƣờng nhập khẩu của Việt Nam (%) 56 Nguồn: Bộ Thương mại - Viện nghiên cứu Thương mại [19, tr 68]. Đáng lưu ý là cơ cấu thị trường NK cũng có sự chuyển biến tích cực: đó là sự gia tăng NK máy móc , thiết bị, phụ tùng từ những thị trường có trình độ công nghệ cao như EU, Mỹ, Nhật Bản, Canađa... Trung Quốc đã vươn lên trở thành đối tác cung cấp máy móc thiết bị lớn thứ ba cho Việt Nam, sau Nhật Bản và Mỹ. + NK đã có sự thay đổi đáng kể theo thành phần kinh tế từ năm 1995 đến nay. Trước năm 1995, NK chủ yếu phục vụ cho các ngành kinh tế trong nước. Từ năm 1995, khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xu hướng là giảm dần tỷ trọng khu vực kinh tế trong nước từ 80% xuống còn 65,2% năm 2004. NK khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng với tốc độ cao (bình quân 34,7%/năm) và đến nay chiếm khoảng 35% (2004). Một điều đáng lưu ý là khu vực FDI, NK chỉ bằng 50% khu vực kinh tế trong nước nhưng chiếm tới 55% giá trị XK.Và từ năm 1995 đến nay khu vực này toàn xuất siêu với mức độ ngày càng tăng. Năm 2004 xuất siêu tới 3,3 tỷ USD, trong khi đó khu vực trong nước nhập siêu tới 8,8 tỷ USD. Điều này cho thấy, chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất phục vụ XK đã phát huy hiệu quả, đồng thời thể hiện khả năng cạnh tranh XK của nó hơn hẳn so với khu vực trong nước do có lợi thế về công nghệ, định hướng mặt hàng và thị trường. Bảng 2.10 : Cơ cấu NK hàng hoá theo khu vực kinh tế từ 1995- 2004 Tổng KNNK
(Tr. USD) 8115 11143 11592 11499 11742 15636 16162 19733 25226 31516 T/độ tăng trưởng (%) 34,4 32,2 4,0 -0,8 2,1 33,2 3,4 21,8 27,8 24,9 DN 100% VỐN 6687 9100 8396 8831 8360 11284 11233 13042 16412 20554 TRONG NƯỚC (TR.
USD) - Tỷtrọng (%) 80,2 81,7 72,4 76,8 71,2 72,2 69,3 66,1 65,1 65,3 - Tăng trưởng (%) 27,9 36,0 -7,8 5,1 -5,4 34,9 -0,5 16,1 25,8 25,2 Cân đối XNK (Tr.USD) -2711 -4000 -2424 -2868 -1500 -3612 -3002 -4208 -6397 -8812 DN có vốn ĐTNN 57 2043 3196 3382 4352 4985 6704 8815 10962 (Tr.USD) 1468 2668 - Tỷ trọng (%) 18,0 18,3 27,6 23,2 28,8 27,8 30,7 33,9 34,9 34,7 -Tăng trưởng (%) 144,3 39,2 56,4 -16,5 26,8 28,7 14,5 34,5 31,5 24,4 Cân đối XNK
(Tr.USD) 5,0 112,0 547,0 1300 2458 1813 1116 1168 1346 3299 Nguồn: Bộ Thương mại - Viện Nghiên cứu Thương mại [19, tr 70]. Do tốc độ tăng NK cao hơn XK nên nhập siêu những năm gần đây đã tăng lên, trong đó khu vực FDI (kể cả dầu thô) luôn xuất siêu; khu vực kinh tế trong nước luôn nhập siêu. Năm 2004 nhập siêu là 5,5 tỷ USD với tỷ lệ nhập siêu xấp xỉ 22%. Nếu so với mục tiêu định hướng thời kỳ 2001- 2005, các con số này là khá cao, song điều đó phản ánh đúng mức độ phát triển kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn đầu tư cơ sở hạ tầng, đổi mới thiết bị, tăng năng lực sản xuất. Tuy KNXK gia tăng nhưng hàng hoá thuộc loại hình gia công còn lớn, hàm lượng nguyên liệu phải nhập cao. Vì vậy kiềm chế và hạ thấp tỷ lệ nhập siêu tuy là một mục tiêu phấn đấu nhưng trong những năm trước mắt còn chưa phù hợp và khó thực hiện. 2.2. Đánh giá chung về tác động của ngoại thƣơng Việt Nam đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá 2.2.1. Những thành tựu đạt được 2.2.1.1. Nhờ việc mở rộng thị trường, tăng cường xuất khẩu, ngoại thương đã khai thác các yếu tố lợi thế của đất nước để sản xuất hàng xuất khẩu, tăng thu lợi nhuận, tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá Sản xuất gắn bó với XK là nét đặc trưng kinh tế lúa gạo Việt Nam trong những năm đổi mới và hội nhập với bên ngoài - Hai mặt có quan hệ mật thiết và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình phát triển. Sản xuất lúa phát triển cả về số lượng và chất lượng tạo ra nguồn lúa gạo hàng hóa dồi dào, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và XK. XK gạo là một bộ phận đầu ra của quá trình sản xuất lúa, góp phần ổn định thị trường và giá cả lúa gạo theo hướng có lợi cho người trồng lúa, kích thích nông dân mở rộng diện tích, thâm canh 58 tăng năng suất. Vì vậy, sản xuất gắn với XK là tiền đề, là điều kiện để tăng hiệu quả kinh tế - xã hội của kinh tế lúa gạo Việt Nam, góp phần tăng lích luỹ vốn. Trong số các hàng nông sản XK chủ lực của Việt Nam, ngoài lúa gạo là cà phê, cao su, hạt điều, hàng thủy sản, rau quả, hạt tiêu (Bảng 2.2). Năng suất cà phê Việt Nam vào loại cao nhất, nhì thế giới (cao hơn Inđônêxia - đối thủ chính trong khu vực khoảng 1,5 - 1,7 lần); Chi phí sản xuất cà phê của ta thấp hơn nhiều so với các nước. Vì vậy, cà phê là một mặt hàng XK có lợi thế tuyệt đối của nước ta, cho phép thu lợi nhuận siêu ngạch, góp phần tích luỹ vốn. Xuất khẩu thủy sản đã đóng vai trò đòn bẩy chủ yếu tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ kinh tế trong nước, đóng góp vào ngân sách và tăng thu nhập cho người lao động, góp phần tăng tích lũy vốn. Từ năm 1991 đến năm 2004, cùng với dầu thô, gạo, dệt may, giá trị KNXK thủy sản luôn giữ vị trí thứ 2 hoặc thứ 3 trong tổng KNXK cả nước. Việc khai thông thị trường tăng cường XK đã thúc đẩy tăng cường cơ sở vật chất và năng lực khai thác, nuôi trồng thủy sản, năng lực hậu cần dịch vụ, tạo nhiều việc làm với thu nhập ngày càng cao cho hàng chục vạn lao động, bảo đảm đời sống cho hơn 3 triệu người, làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế vùng nông thôn ven biển, đặc biệt là của các cộng đồng ngư dân và nông - ngư dân. Từ chỗ là một bộ phận không lớn của khối kinh tế nông nghiệp với trình độ lạc hậu vào những năm 1980, thủy sản đã trở thành một ngành kinh tế công - nông nghiệp có trình độ phát triển cao, quy mô ngày càng lớn, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh XNK thủy sản thể hiện qua số liệu hoạt động của các doanh nghiệp XNK thủy sản, ví dụ Công ty XNK thủy sản Kiên Giang nằm trên 1 trong bốn vùng kinh tế điểm trọng điểm của cả nước, mặc dù 2 năm 1997 - 1998 do ảnh hưởng của thời tiết (cơn bão Linda) và khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhưng sản lượng và tiêu thụ của công ty năm 59 1998 vẫn tăng 118,96% và 115,14% so với năm 1997; Tuy chỉ tiêu lợi nhuận giảm do thị trường XK thu hẹp, giá XK giảm mạnh, phải cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực do đồng tiền các nước đó mất giá, nhưng phần đóng góp cho ngân sách vẫn đạt trên dưới 10 tỷ đồng. Rõ ràng, nguồn lợi thủy sản là một lợi thế quan trọng của cả nước. Thủy sản chế biến là một trong những mặt hàng chiến lược quan trọng tham gia vào thị trường quốc tế đem lại lợi nhuận, góp phần tăng tích lũy vốn. Mặt khác, chỉ có phát triển mạnh XK hàng thủy sản chúng ta mới khai thác và phát huy tốt lợi thế này cho sự phát triển kinh tế đất nước. Dầu thô là mặt hàng XK chủ lực luôn có giá trị KNXK cao nhất và ngày càng tăng trong tất cả các mặt hàng XK của Việt Nam. Việc đẩy mạnh khai thác và XK dầu thô đã phát huy được lợi thế của đất nước về tài nguyên dầu mỏ, tăng tích lũy, thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế. Trong số các lợi thế của nước ta, lợi thế giá nhân công rẻ cũng đã được khai thác phục vụ mục tiêu tăng trưởng KNXK. Sự phát triển một số ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ dùng nhiều lao động thời gian qua và đóng góp của chúng vào việc tăng KNXK đã chứng minh cho vai trò quan trọng của các ngành này trong giai đoạn đẩy mạnh CNH hướng về XK. Một điển hình của nhóm ngành công nghiệp này là ngành dệt may - ngành công nghiệp thu hút hai triệu lao động, là ngành sử dụng lợi thế giá nhân công rẻ của Việt Nam. Hàng năm, ngành dệt may có tốc độ tăng trưởng 11% và mang về cho đất nước một lượng giá trị XK lớn (xem bảng 2.2) (Năm 2002 là 2.710 triệu USD, năm 2003 là 3.200 triệu USD và năm 2004 là 4.385,5 triệu USD). Như vậy, thông qua ngoại thương (xuất khẩu), Việt Nam đã tận dụng và phát huy những lợi thế của mình sản xuất hàng XK, tăng thu lợi nhuận góp 60 phần tăng tích lũy vốn để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 2.2.1.2. Sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất, nhập khẩu làm thay đổi cơ cấu tổng sản phẩm xã hội, có lợi cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá Trong cơ cấu hàng hóa XK (Bảng 2.3), tỷ trọng hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu có chiều hướng giảm (mặc dù số tuyệt đối giá trị XK vẫn tăng - Bảng 2.2) còn hàng công nghiệp nặng và khoáng sản và hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng dần. Năm 1991, tỷ trọng hàng nông - lâm, thủy sản XK trong tổng KNXK là 52,2%, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản là 33,4%, còn hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp là 14,4%. Đến năm 1995, tỷ trọng hàng nông - lâm, thuỷ sản giảm xuống còn 46,2%, năm 2000 xuống 29,4% và năm 2002 là 31,1% (do hàng thuỷ sản XK tăng từ 10,2% năm 2000 lên 12% năm 2002), năm 2003 giảm xuống còn 27,6%, và năm 2004 xuống còn 20,7%. Năm 1995, tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản XK giảm xuống 25,3%, năm 2000 tăng lên 35,6%, và năm 2002 lại giảm còn 32,3%, năm 2003 xuống 29,4%, đến năm 2004 lại tăng lên 39,6%. Tỷ trọng hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp XK tăng dần và tăng nhanh: Năm 1991: 14,4%; năm 1995: 28,5%; năm 1999: 36,3%; năm 2002: 37,6%, năm 2003: 43%, đến năm 2004 lại giảm xuống còn 39,7%. Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đầu chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, giai đoạn nền công nghiệp khởi động và nhờ một phần vốn tích luỹ từ hoạt động ngoại thương; cơ cấu hàng XK đã chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng công nghiệp, đặc biệt là hàng công nghiệp chế biến. Về cơ cấu hàng NK (Bảng 2.8) chủ yếu nhập hàng tư liệu sản xuất; nhóm hàng tư liệu sản xuất tăng, chiếm gần như tuyệt đối, nhóm hàng tư liệu tiêu dùng giảm mạnh. Năm 1991, nhóm hàng tư liệu sản xuất NK chiếm tỷ trọng 89,9% hàng NK (trong đó máy móc, thiết bị, phụ tùng chiếm 21,8%, 61 nguyên nhiên vật liệu 68,1%); năm 1995 chiếm 84,8% (trong đó, máy móc, thiết bị, phụ tùng là 25,7%, nguyên nhiên vật liệu là 59,1%); năm 2000, tỷ trọng này tăng lên 93,8% (trong đó máy móc, thiết bị, phụ tùng là 30,6%; nguyên nhiên vật liệu là 63,2%); Đến năm 2004, các con số này là 95,0% (27,0% và 68,0%). Nhóm hàng tiêu dùng NK năm 1991 chiếm tỷ trọng 11,1% hàng NK, năm 1995 là 15,2%; năm 2000 giảm xuống 6,2%, đến năm 2001, 2002, 2003 lại tăng và giữ ở mức 7,9 - 7,8%; năm 2004 lại giảm xuống còn 5,0%. Cơ cấu hàng NK trên đã thể hiện mục tiêu NK phục vụ cho sản xuất, tiết kiệm ngoại tệ từ hoạt động XK dành cho NK máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu để sản xuất phục vụ cho CNH, HĐH đất nước tận dụng lợi thế nguồn nhân lực rẻ. Hiện nay, trong số các mặt hàng XK của Việt Nam, có 10 mặt hàng luôn XK được với khối lượng lớn và luôn giữ được giá trị KNXK cao (xem bảng 2.2), trong đó có 4 sản phẩm thuộc ngành công nghiệp là dầu thô, dệt may, thủy sản, giày dép (ở đây tính hàng thuỷ sản XK vào hàng công nghiệp vì loại này phải qua chế biến công nghiệp mới XK được) những năm gần đây luôn chiếm tỷ trọng gần 60% tổng KNXK cả nước từ năm 1992 đến nay. Riêng 3 mặt hàng thuộc công nghiệp chế biến là dệt may, giày dép, thủy sản luôn chiếm tỷ trọng trên 30% tổng KNXK. Như vậy, có thể nói từ năm 1992, Việt Nam đã bắt đầu bước vào giai đoạn hai của quá trình CNH hướng về XK với những ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Nguồn ngoại tệ không ngừng tăng từ XK những mặt hàng này đã góp phần tăng tích luỹ, NK máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu cho sản xuất. Số liệu thống kê cơ cấu hàng NK (Bảng 2.8) cho thấy từ năm 1991 đến nay, Việt Nam nhập nhiều máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, hạn chế nhập hàng tiêu dùng để tiết kiệm tiền vốn và bảo hộ sản xuất trong nước (năm 2004, NK thiết bị công nghệ, nguyên vật 62 liệu chiếm 95,0%, hàng tiêu dùng: 5,0%). Các số liệu thống kê cơ cấu hàng hóa xuất, nhập khẩu của Việt Nam phản ánh Việt Nam cũng mang những nét đặc trưng của một nước đang phát triển ở thời kỳ đầu CNH. Giá trị nông, lâm, thủy sản và khoáng sản trong tổng KNXK khá cao. Nguồn ngoại tệ thu được từ XK sản phẩm nông nghiệp và khoáng sản góp phần trang trải cho nhu cầu NK nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị hiện đại phục vụ quá trình CNH. Như vậy, nhờ tác động của ngoại thương, cơ cấu vật chất của sản phẩm xã hội nước ta đã có sự thay đổi theo hướng có lợi cho tái sản xuất mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. 2.2.1.3. Ngoại thương tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, làm tăng tiêu dùng, tăng tích luỹ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Như một phản ứng dây chuyền, những biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế dưới tác động của ngoại thương sẽ đưa lại sự gia tăng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và do đó từng bước nâng cao mức tiêu dùng và tăng tiết kiệm trong nhân dân. Thông thường tăng trưởng XK 2-4% thì tăng trưởng GDP thêm 1%. Lý do chính là XK tăng sẽ tạo ra nguồn ngoại tệ lớn để NK công nghệ mới và do đó lại tiếp tục thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển mạnh hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nội địa so với hàng ngoại bổ sung thêm những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Tăng NK dựa vào XK trong trường hợp này là tích cực, là cần thiết và do đó hoạt động ngoại thương không chỉ có vai trò quan trọng cung cấp đầu vào, giải quyết đầu ra cho sản xuất mà còn tạo thêm việc làm , tăng thu nhập cho người lao động. Từ khi chúng ta thực hiện chiến lược CNH hướng về XK đã tác động tích cực đến đội ngũ lao động. Số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp cho các ngành sản xuất hàng XK gia tăng như: sản xuất và chế biến nông sản, 63 thủy sản xuất khẩu, công nghiệp khai khoáng (dầu thô, than đá) XK, công nghiệp nhẹ (dệt may, giày dép) XK... Đặc biệt, việc thành lập các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Nhờ phát triển mạnh ngoại thương, đội ngũ lao động có việc làm ở nước ta không chỉ tăng về số lượng mà còn từng bước được nâng cao về chất lượng, được đào tạo đáp ứng nhu cầu CNH, nhất là trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến hàng XK. Đặc biệt là đã bắt đầu hình thành và đang có xu hướng phát triển mạnh đội ngũ lao động trí óc và công nhân kỹ thuật cao trong một số ngành kinh tế - kỹ thuật hiện đại như dầu khí, điện tử, tin học, cơ khí chính xác, bưu chính viễn thông... Rõ ràng là: phát triển các ngành sản xuất hàng XK cần nhiều lao động là một trong những con đường chắc chắn nhất để tạo nên nhiều công ăn việc làm và thu được nhiều ngoại tệ mà không phải sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiếm hoi [4, tr.252]. Việc làm do phát triển ngoại thương mang lại không chỉ ở các vùng đô thị, các khu chế xuất, các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà cả ở nhiều vùng nông thôn, miền núi từ bao đời nay vẫn quen với nền sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp cũng đã chuyển sang sản xuất nông sản XK. Thu nhập tăng lên dẫn đến tăng tiết kiệm. Nguồn tiết kiệm từ thu nhập của người lao động (không phải là tích luỹ từ giá trị thặng dư) nhưng cũng góp phần làm tăng vốn cho CNH, HĐH (đặc biệt trong hoàn cảnh thiếu vốn như nước ta hiện nay). 2.2.1.4. Ngoại thương góp phần tăng tích luỹ vốn thông qua tăng thu ngân sách nhà nước. Đối với nhiều nước, các khoản thu từ thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, trong đó có thuế XNK. Thuế XNK là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa (hữu hình, vô hình) khi thông quan qua cửa khẩu của một nước. Các nhà kinh doanh XNK phải nộp vào ngân sách, nhưng người tiêu 64 dùng là người đóng thuế thực sự. Ở Việt Nam cũng như bất cứ một quốc gia đang phát triển nào trên thế giới, những khoản thu từ thuế XNK là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước. Năm 1991, tỷ trọng thuế XNK trong tổng nguồn thu ngân sách nhà nước ta là 11,2%, năm 1992 tăng lên 13,6%; năm 1993 là 21,1%, năm 1994 tăng lên 28,8%. Theo số liệu của Bộ Tài chính, năm 1999 thuế XNK thu được 15 nghìn tỷ đồng trên tổng số 69,77 nghìn tỷ đồng tổng thu ngân sách nhà nước (chiếm 21,5%); Năm 2000, tỷ lệ thu ngân sách từ thuế XNK cũng đạt xấp xỉ tỷ lệ năm 1999. Như vậy, thông qua thuế XNK, ngoại thương đã đóng góp nguồn thu không nhỏ vào ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng vào tăng tích luỹ vốn cho CNH. Có thể thấy từ năm 1991 đến nay, ngoại thương Việt Nam đã không ngừng tăng trưởng, đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước có nền ngoại thương kém phát triển. Năm 2004 KNXK bình quân đầu người là 331 USD, dự báo năm 2005 sẽ là 382 USD. Mặt hàng XK chủ lực liên tục tăng, tạo điều kiện phân tán rủi ro trong quá trình XK, tận dụng được lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Cơ cấu hàng XK chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng hàng XK thô, tăng tỷ trọng hàng công nghiệp nhẹ và hàng tiểu thủ công nghiệp. Cơ cấu hàng NK chuyển dịch theo hướng nhóm hàng tư liệu sản xuất tăng, chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối, nhóm hàng tiêu dùng giảm mạnh, thể hiện mục tiêu NK phục vụ cho CNH, HĐH, thể hiện rõ tận dụng lợi thế nguồn nhân lực rẻ. Cơ cấu thị trường XNK chuyển nhanh từ thị trường Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu sang thị trường Châu Á và mở rộng thị trường Tây Âu và Châu Mỹ, khai thác thị trường ngách như Châu Phi, Trung Đông và các nước Tây Nam Á. Thị trường Châu Á từ năm 1995 đến nay tăng XK, chủ yếu NK nguyên, nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng XK. Thị trường Châu Âu 65 chú trọng NK những sản phẩm thuộc nhóm công nghệ cao cho các ngành tin học, tàu biển, hàng không, tạo nhân tố cho công nghệ hiện đại phát triển. Cơ chế XNK được điều chỉnh, cải tiến ngày càng thông thoáng, thể hiện rõ xu hướng Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.2. Những tồn tại và nguyên nhân Bên cạnh những thành công đã đạt được, hoạt động ngoại thương Việt Nam còn những tồn tại, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, biểu hiện cụ thể trên các mặt sau: 2.2.2.1. Về cơ cấu hàng xuất nhập khẩu Cơ cấu hàng XNK tuy đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng XK đã qua chế biến, nhưng nhìn tổng thể thì hàng hóa XK của Việt Nam phần lớn còn ở dạng thô, chiếm tỷ trọng cao tới 75 - 80% tổng giá trị XK. Số hàng hóa XK đã qua công nghiệp chế tạo, chế biến sâu còn quá ít, chưa có hàng XK chủ lực nào loại này có giá trị lớn ba - bốn tỷ USD; chưa có quy hoạch vùng sản xuất hàng XK quy mô lớn và đồng bộ. Phần lớn hàng XK còn ở dạng tự nhiên, thu gom manh mún khiến giá thành cao, chất lượng thấp, sức cạnh tranh kém... Chưa kể đến những bất lợi biến động quan hệ cung cầu, giá cả sản phẩm thô do thị trường thế giới mang lại và những thiệt hại do tình trạng chạy theo lợi nhuận cục bộ đã XK cả những sản phẩm quý hiếm, hàng quốc cấm, thậm chí phá hoại cả sản xuất và môi trường sinh thái. Mặt hàng XK chủ lực có một số hàng còn thiên về gia công nên kim ngạch thu về còn thấp. Các doanh nghiệp chưa chú trọng đến thương hiệu sản phẩm. Việc chuyển dịch cơ cấu XK theo hướng gia tăng tỷ trọng XK hàng chế biến chậm. Phân tích cơ cấu XK của nước ta trong giai đoạn 1991 - 2004 cho thấy mức độ gia tăng của hàng XK chế biến là quá thấp so với các nước CNH như Malaysia, Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan. Hiện nay tỷ trọng nhóm hàng chế biến mới chiếm khoảng 45% (2004), trong khi các nước nói trên có tỷ lệ này là 70 - 90%. Tỷ trọng XK hàng khoáng sản, nông 66 sản, thuỷ sản tuy có chiều hướng giảm nhưng vẫn còn cao. Điều này cho thấy chuyển dịch cơ cấu hàng XK của ta chưa thể hiện rõ nét xu hướng CNH, HĐH. Hàng chế biến phụ thuộc lớn vào nguyên, phụ liệu nước ngoài, công nghệ chế biến chậm cải thiện, trình độ quản lý và lao động thấp. Việc gia tăng XK các mặt hàng nông sản, thuỷ sản, khoáng sản xét về dài hạn là rất khó khăn, bởi vì gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác, đánh bắt, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Do đó, KNXK của nước ta chỉ có thể cải thiện dựa vào nhóm hàng chế biến và chế tạo. Với tỷ trọng và chất lượng như hiện nay, việc gia tăng kim ngạch là rất khó khăn. Gia tăng tỷ lệ nhập siêu trong những năm gần đây và ở mức cao (trên 12% GDP năm 2003, 2004) cho thấy rõ hạn chế này. Nếu không có sự cải thiện chất lượng tăng trưởng XK theo hướng gia tăng giá trị và số lượng của hàng chế biến sẽ kéo theo tình trạng thâm hụt cán cân thương mại ngày càng lớn và triền miên. Cơ cấu hàng NK đã có chuyển biến tích cực theo hướng ưu tiên nhập tư liệu sản xuất và công nghệ mới cho tái sản xuất, thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước và giảm NK hàng tiêu dùng, nhất là những hàng cao cấp, xa xỉ. Nhưng trên thực tế, phần nhiều chỉ NK các công nghệ trung gian có trình độ trung bình trở xuống, chưa tìm đến công nghệ nguồn và hiện đại. Tỷ trọng NK các thiết bị có trình độ công nghệ cao còn hạn chế. NK còn thiên quá nhiều về nguyên phụ liệu đầu vào cho các ngành sản xuất, do các doanh nghiệp chú trọng XK theo gia công là chủ yếu. NK chưa phát huy được tiết kiệm cho tiêu dùng.Tỷ trọng nguyên nhiên liệu NK cao, máy móc thiết bị thấp như hiện nay cho thấy mức độ đổi mới công nghệ nước ta rất chậm. xét về dài hạn, yếu kém về công nghệ sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hoá XK, do đó trong dài hạn sẽ khó có thể cải thiện được cán cân thương mại;cho thấy ngành công nghiệp phụ trợ nước ta đang còn kém phát triển, do đó các ngành sản xuất phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu đầu vào NK. Tỷ 67 trọng nguyên liệu, phụ liệu NK phục vụ cho XK cao còn thể hiện giá trị gia tăng thấp của hàng XK như dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử. NK chưa kích thích XK theo hướng CNH, HĐH Cơ cấu thị trường XNK còn chưa hợp lý, chưa chú trọng tới các thị trường đứng đầu về khoa học kỹ thuật như thị trường Nhật Bản, Mỹ và Tây Âu để NK công nghệ nguồn và hiện đại. Do chưa có sự quản lý thống nhất hoạt động XNK trong cả nước nên các đơn vị kinh doanh XNK mạnh ai ấy làm, khi thấy có lợi đều đổ xô vào cùng nhập, cùng xuất một loại mặt hàng (như đồ điện, điện tử, xe máy, chế biến đông lạnh, gia công mũ, giày, may mặc...) làm gây rối hoạt động ngoại thương và còn gây tác hại lớn cho nền kinh tế do NK thiết bị, công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, khiến cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, sản phẩm sản xuất ra không cạnh tranh được trên thị trường thế giới; đồng thời làm trầm trọng thêm sự tụt hậu về kỹ thuật - công nghệ so với thế giới và nhiều nước trong khu vực [2, tr.17]. Tình trạng nhập lậu dưới nhiều hình thức ngày càng gia tăng gây thất thu cho ngân sách và ảnh hưởng xấu đến sản xuất trong nước. Chính sách mở cửa và tự do hóa thương mại đã khơi thông sự giao lưu các luồng hàng trong nước và quốc tế, kích thích sản xuất trong nước (đặc biệt là sản xuất hàng XK) phát triển đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Nhưng do chúng ta chưa có đủ kinh nghiệm quản lý nên đã tạo ra nhiều khe hở về chính sách, cơ chế quản lý... nên đã phải trả giá cho sự rối loạn thương trường. 2.2.2.2. Về khả năng thu thập thông tin, dự báo thị trường, bạn hàng và cơ chế phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngoại thương Một vấn đề khá quan trọng trong hoạt động XNK là thông tin về thị trường, bạn hàng, các hoạt động maketing và xúc tiến XK, nhưng hệ thống này ở nước ta hoạt động hiệu quả chưa cao. Hệ thống thông tin, giám sát, theo dõi sản xuất, kho tàng, dự báo thị trường trong và ngoài nước có độ tin cậy 68 thấp; thiếu thông tin về mẫu mã, thị hiếu người tiêu dùng, dự báo biến động giá cả trên thị trường thế giới, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh XNK. (Như trường hợp XK gạo năm 1998: 5 tháng đầu năm nhiều doanh nghiệp ồ ạt ký hợp đồng và giao hàng với khối lượng lớn, đẩy lượng gạo XK lên 2,48 triệu tấn, làm giá gạo trong nước cao hơn giá gạo XK. Quý III, giá gạo thị trường quốc tế tăng cao thì tiến độ giao hàng của ta đã bị giãn ra, không có gạo để xuất. Quý IV khi tiến độ XK tăng lên thì giá gạo XK trên thị trường thế giới đã hạ. XK gạo của ta đã không tận dụng được một cách tốt nhất thời cơ giá gạo thế giới tăng để tăng thu lợi nhuận; Kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do việc nhiều lần thay đổi tiến độ giao hàng và kế hoạch xuất). Đối với mặt hàng NK cũng do thiếu thông tin về thị trường và mặt hàng nên nước ta thường NK thiết bị, công nghệ giá cao hơn mức giá của thế giới. Mức độ rủi ro mà người sản xuất hàng XK phải đương đầu khi tham gia ngày càng sâu vào thị trường thế giới còn tăng lên do việc chúng ta thiếu một cơ chế bảo hiểm rủi ro, đặc biệt là đối với hàng nông sản (hoặc có nhưng cơ chế lại thiếu khả năng phản ứng linh hoạt) nhằm giảm các chấn động của thị trường thế giới. Vì thế khi thị trường thế giới bị thu hẹp, giá giảm thì tác động dội ngược đến sản xuất và tiêu thụ trong nước là rất lớn. Trong năm 2000, người sản xuất và kinh doanh lúa và cà phê phải chịu tổn thất nặng nề do sự giảm giá trên thị trường thế giới. Điều này cũng đã xảy ra đối với người trồng mía, cao su, hạt điều. Nếu có một cơ chế bảo hiểm rủi ro hữu hiệu, nếu giữ bình ổn giá, nếu có tiềm lực tài chính mạnh hơn và phản ứng linh hoạt hơn thì mức độ tổn thất sẽ giảm xuống đáng kể. 2.2.2.3. Về chính sách bảo hộ hiện hành Chúng ta chưa xác định được tiêu chí cần thiết và các biện pháp bảo hộ có hiệu quả đối với các ngành cần được bảo hộ. Bảo hộ còn tràn lan, vô thời hạn, vô điều kiện. Đối với những hàng hóa trong nước đã sản xuất được, nhà 69 nước quy định mức thuế NK cao hơn; một số mặt hàng sử dụng biện pháp NK bằng hạn ngạch. Mức độ bảo hộ chưa được phân theo ngành dựa trên lợi thế cạnh tranh, chính sách bảo hộ tràn lan dẫn đến việc định hướng đầu tư thiếu hiệu quả, chưa phát huy được lợi thế của phân công lao động quốc tế. Trong những năm từ năm 1994 trở lại đây, vốn đầu tư được tập trung nhiều vào những ngành sản xuất ra các sản phẩm thay thế hàng NK chứ không hướng vào XK. Ví dụ ngành sản xuất ô tô, thuế NK xe nguyên chiếc rất cao (210%) trong khi thuế NK linh kiện dạng rời để lắp ráp ô tô lại rất thấp (3 - 4%). Vì vậy nhiều nhà đầu tư sản xuất kinh doanh mặt hàng này với số vốn lớn nhưng mức tiêu thụ ô tô trong nước còn nhỏ do thu nhập thấp, giao thông chưa thuận tiện. Ô tô Việt Nam lại không XK được do giá thành quá cao. Các doanh nghiệp sản xuất ô tô gặp nhiều khó khăn, thua lỗ kéo dài. Do chính sách bảo hộ vô điều kiện, vô thời hạn khiến các doanh nghiệp được bảo hộ có tâm lý ỷ lại nhà nước, chưa khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh; Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất thay thế NK, không khuyến khích NK công nghệ hiện đại và đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, làm hạn chế động lực nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hóa XK. Ngoài ra, chúng ta còn áp dụng nhiều biện pháp bảo hộ phi thuế quan, trong đó chủ yếu là biện pháp hạn chế số lượng NK. Những mặt hàng nằm trong diện cân đối của nhà nước đều được quản lý bằng hạn ngạch như phân bón, giấy, đường, xi măng, sắt thép. Hạn ngạch NK đưa ra nhiều đặc lợi cho những người nắm giữ hạn ngạch, và các lệnh cấm NK tạo ra quyền lực độc quyền cho nhà sản xuất. Việc áp dụng quá nhiều hàng rào phi thuế quan dẫn đến việc hoạch định chính sách không minh bạch; còn là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng gian lận thương mại, buôn lậu. Bên cạnh đó, trong công tác tổ chức thực hiện, các cơ quan thuế, Hải quan còn buông lỏng trong việc quản lý thị trường, giá cả, chống buôn lậu, 70 độc quyền, tiêu cực, tham nhũng. Và những hiện tượng này chưa được khắc phục có hiệu quả. Mặt khác, việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân dùng hàng nội địa chưa được quan tâm đúng mức; tâm lý sùng hàng ngoại vẫn còn phổ biến. 2.2.2.4. Về cơ chế quản lý ngoại thương Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, chúng ta đã có nhiều đổi mới về tổ chức bộ máy quản lý, về hệ thống chính sách kinh tế, cơ chế quản lý ngoại thương. Đó là một trong những nguyên nhân trực tiếp kích thích sự tăng trưởng ngoại thương những năm qua. Song do chưa có nhiều kinh nghiệm vận hành cơ chế thị trường nên cũng tạo ra kẽ hở cho nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh. Chẳng hạn như việc quy định quyền kinh doanh XNK. Từ năm 1989 đến 1995 với việc đổi mới chính sách thương nhân, từng bước mở rộng quyền hoạt động ngoại thương cho tất cả các thành phần kinh tế, xóa bỏ chế độ nhà nước độc quyền ngoại thương, nhưng quyền kinh doanh XNK của các doanh nghiệp vẫn bị hạn chế: chưa cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có sản xuất được XK, để được cấp giấy phép kinh doanh XNK, một công ty phải có vốn đăng ký ít nhất 200.000 USD. Đây là sự thách thức đối với các công ty tư nhân trong nước. Doanh nghiệp muốn được xuất, nhập khẩu trực tiếp phải được Bộ Thương mại cấp giấy phép - làm cho các doanh nghiệp phải mất thời gian để hoàn tất các thủ tục mới có được giấy phép XNK ngoài giấy đăng ký kinh doanh; Những công ty được cấp phép thì cũng chỉ được phép xuất, nhập khẩu những mặt hàng đã đăng ký trong giấy phép - gây cản trở việc đa dạng hóa sản phẩm XK, thu hẹp phạm vi hoạt động của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới hiệu quả ngoại thương và quy mô tích luỹ. Sau khi có luật thương mại (1997), Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP thì chế độ giấy phép kinh doanh XNK đã bị xóa bỏ hoàn toàn, cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự do kinh 71 doanh XNK đã khuyến khích mở rộng mặt hàng, tìm thị trường mới để đẩy mạnh XK, tăng thu lợi nhuận, góp phần tăng tích luỹ vốn. Tuy nhiên, đối với một số mặt hàng chủ lực XK với khối lượng lớn, lợi nhuận cao, việc có quá nhiều chủ thể tham gia XNK đã dẫn đến tranh mua, tranh bán, làm giảm lợi nhuận, ảnh hưởng đến hiệu quả XNK. Trong cơ chế thị trường thì sự cạnh tranh là tất yếu, để cạnh tranh trên thị trường thế giới các doanh nghiệp XNK trong nước phải có sự phối hợp nhất định - điều này cần có vai trò điều tiết của nhà nước. Việc cho phép tự do XK cần đi đôi với cơ chế quản lý thích hợp. Đối với những mặt hàng cần XK mà chưa XK được hoặc XK số lượng chưa được nhiều cần khuyến khích XK thì cho các doanh nghiệp tự do XK, thậm chí có chế độ thưởng thích hợp. Đối với những mặt hàng XK chủ lực như gạo, cà phê, điều, thủy sản... cần lập lại trật tự XK, củng cố và tăng cường chức năng của các Hiệp hội ngành hàng, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh xuất vô tổ chức gây hỗn loạn thị trường trong nước. Trong thời gian tới, nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quyết định của việc thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Mức độ gay gắt của việc cải thiện môi trường, thể chế để hội nhập có hiệu quả (mà ngoại thương là lĩnh vực trọng yếu) cũng như việc nâng cao sức cạnh tranh đối với nước ta tăng lên rất mạnh. Chính phủ đã thực hiện cải cách chính sách và cơ chế thương mại theo hướng tự do hóa mạnh hơn. Tuy nhiên, quá trình điều chỉnh, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế có liên quan trực tiếp đến việc đáp ứng các cam kết hội nhập diễn ra còn chậm; Chính sách còn thiếu đồng bộ, hiệu lực thực thi của chính sách còn thấp. Sự tồn tại dai dẳng, thậm chí có nguy cơ phục hồi các yếu tố của cơ chế cũ (ví dụ cơ chế xin - cho) cản trở mạnh quá trình tạo lập môi trường thị trường với tư cách là nền tảng để nâng cao sức cạnh tranh và hội nhập. Bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực, hoạt động chồng chéo và lãng phí. Tình trạng này vừa là hậu quả, vừa là nguyên nhân của việc chưa thoát khỏi cơ chế cũ. 72 Gắn liền với tình hình đó là sự chậm trễ trong việc tạo điều kiện để nhân dân tiếp cận rộng rãi hơn đến các luồng thông tin, tham gia nhiều hơn vào các quá trình xây dựng chính sách và pháp luật cũng như giám sát thực hiện. Tất cả những yếu tố đó đã cản trở sự tăng trưởng nhanh, đúng hướng của hoạt động ngoại thương, ảnh hưởng tiêu cực tới quy mô tích luỹ vốn và đến sự nghiệp CNH, HĐH đất nước cần phải được tháo gỡ. Tóm lại: Thực trạng hoạt động của ngoại thương Việt Nam (từ năm 1991 đến nay) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Đó là kết quả của đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới xây dựng CNXH ở nước ta nói chung, đổi mới hoạt động ngoại thương nói riêng. Với tư tưởng chỉ đạo "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước" và "mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại đối với tất cả các nước ở các khu vực trên thế giới", "xây dựng một nền kinh tế mở hướng mạnh về xuất khẩu", hàng loạt các chính sách kinh tế, tài chính quản lý hoạt động XNK... được đổi mới, hoàn thiện dần đã tạo môi trường thuận lợi cho ngoại thương tăng trưởng, thay đổi cơ cấu hàng hóa và thị trường XNK theo hướng tích cực, góp phần ngày càng lớn vào việc tăng tích luỹ vốn cho CNH; gia tăng xuất khẩu để tăng thu lợi nhuận và có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất và nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất; Tạo nhiều việc làm, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; nâng cao thu nhập cho người lao động, tăng thu ngân sách cho nhà nước. Tuy nhiên, do những hạn chế của một nền kinh tế chậm phát triển, do những yếu kém từ chính hoạt động XNK, những bất hợp lý từ cơ chế, chính sách của nhà nước ở những thời điểm nhất định khiến cho ngoại thương Việt Nam còn nhiều bất cập trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, đòi hỏi phải nhận thức để tìm ra những giải pháp phù hợp thúc đẩy ngoại thương phát 73 triển, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chƣơng 3
NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT TRIỂN NGOẠI THƢƠNG TRONG THỜI GIAN TỚI
ĐỂ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ 3.1. Những cơ hội, thách thức đối với ngoại thƣơng Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 3.1.1. Xu hướng phát triển kinh tế - thương mại trong và ngoài nước 3.1.1.1. Xu hướng phát triển kinh tế - thương mại thế giới + Xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng trở nên rõ rệt và tiếp tục trở thành yếu tố quan trọng nhất, chi phối, định hướng phát triển của các nền kinh tế của các quốc gia.Toàn cầu hoá và khu vực hoá đồng nghĩa với việc không gian kinh tế và thương mại ngày càng được mở rộng và biên giới kinh tế giữa các quốc gia hầu như mờ nhạt dần. Các quy chế, các nguyên tắc để tiến tới tự do hoá thương mại, tự do đầu tư ngày càng được thực hiện rộng rãi, sự hình thành hệ thống tài chính, giao thông vận tải, mạng lưới thông tin, rất nhiều công ty xâm nhập vào các thị trường mà trước đó họ không biết tới và không có khả năng tiếp thị. Các công ty xuyên quốc gia ra đời ngày càng nhiều và sức mạnh của chúng ngày càng tăng lên, vịêc mua bán, sát nhập giữa các Công ty diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó, các công ty vừa và nhỏ sẽ có cơ hội phát triển nhanh. + Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành của các nền kinh tế quốc gia và quốc tế, thu hẹp và mất đi những ngành khai thác, chế biến truyền thống và xuất hiện những ngành khai thác, chế biến nguyên liệu mới thích hợp; Các ngành sản xuất truyền thống được chuyển thành những ngành sản xuất kỹ thuật cao và hàng loạt ngành sản xuất mới được xuất hiện với trình độ phát 74 triển ngày càng cao hơn, các ngành dịch vụ và sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất và đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho nền kinh tế quốc gia và quốc tế. + Xu hướng phát triển các thương hiệu toàn cầu. Toàn cầu hoá khiến cho nhu cầu của người tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ các quốc gia khác nhau có xu hướng xích lại gần nhau hơn và ngày càng có nhiều quốc gia tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại. Điều này thúc đẩy sự phát triển các thương hiệu toàn cầu. + Thị trường ngày càng trở nên đa dạng và bị phân đoạn. Toàn cầu hoá và tiến bộ khoa học công nghệ một mặt thúc đẩy quá trình tiêu chuẩn hoá sản phẩm hình thành thương hiệu toàn cầu, mặt khác làm thị trường bị phân ra nhiều bộ phận khác nhau, không phải do ngăn cách biên giới và hàng rào hệ thống thương mại mà do nhu cầu và thói quen của người tiêu dùng. Người tiêu dùng có xu hướng tiêu thụ những sản phẩm được tiêu chuẩn hoá, nhưng họ càng muốn các sản phẩm phải đáp ứng những đòi hỏi riêng, đáp ứng nhu cầu đặc biệt nào đó, nhất là khi thu nhập của họ ngày càng một tăng. Mặt khác, học vấn của người tiêu dùng ngày một cao, với khả năng tiếp cận các thông tin trên toàn thế giới làm cho nhu cầu ngày đa dạng phong phú. Xu hướng này mở ra không gian hoạt động rộng lớn của các doanh nghiệp quy mô nhỏ. + Sản phẩm ngày càng đa dạng, tiện dụng, chất lượng cao chu kỳ sống sản phẩm ngắn hơn. + Một thời đại mới với xu hướng “kinh tế tri thức toàn cầu” đang ra đời với đặc trưng nổi bật là coi trọng phát triển theo chiều sâu. Nền sản xuất và công nghiệp truyền thống được thay thế dần bằng các ngành công nghiệp và dịch vụ mới. Sự phát triển của các ngành chủ yếu dựa trên tri thức, tự động hoá, tin học hoá, dùng vật liệu mới, sử dụng công nghệ sạch, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng 75 đời công nghệ, vòng đời sản phẩm rút ngắn. + Xu hướng thương mại điện tử trở nên phổ biến, hệ thống internet, toàn cầu hoá hệ thống tài chính ngân hàng và tự do hoá thương mại là những nhân tố then chốt thúc đẩy hình thành nên thương mại điện tử. Bất kỳ một thông tin nào về sản phẩm và người sản xuất sẽ được lựa chọn trên mạng, đặt hàng và thanh toán ngày càng thông qua mạng. Hàng hoá và dịch vụ sẽ được chuyển đến tận người tiêu dùng qua mạng lưới dịch vụ hoàn hảo của các công ty xuyên quốc gia mà không bị cản trở bởi hàng rào thương mại khi giao dịch qua biên giới. Dưới tác động của những xu hướng trên hoạt động ngoại thương trong tương lai sẽ phát triển theo hướng: - Cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của xuất, nhập khẩu hữu hình, các hoạt động XNK dịch vụ (ngoại thương vô hình) và các hoạt động chuyển giao công nghệ bảo vệ, cho thuê hoặc chuyển nhượng các quyền sở hữu trí tuệ sẽ không ngừng tăng về tốc độ phát triển. - Cánh kéo giá cả giữa các sản phẩm sơ cấp (nông sản, khoáng sản, các nguyên liệu thô khác) và các sản phẩm đã qua chế tạo, chế biến sâu, đặc biệt các sản phẩm có hàm lượng chất xám (kỹ thuật) cao vẫn có xu hướng không ngừng mở rộng gây bất lợi ngày càng lớn cho những nước XK sản phẩm sơ cấp (nước chưa phát triển và đang phát triển). Đây chính là nguyên nhân làm cho khoảng cách giàu nghèo giữa các nước kém phát triển, đang phát triển với các nước phát triển ngày một lớn. 3.1.1.2. Xu hướng phát triển kinh tế - thương mại Việt Nam Việt Nam cũng như các quốc gia khác đều nhận thấy rằng sang thế kỷ XXI, muốn đặt chân vào cộng đồng các dân tộc thế giới cần phát triển kinh tế lên vị trí hàng đầu. Muốn vậy phải chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực 76 và thế giới. Điều này có nghĩa là Việt Nam cần có cơ chế mở cửa rộng rãi. + Để đảm bảo kinh tế phát triển, Việt Nam không còn con đường nào khác là xây dựng nền kinh tế mở và thực hiện chính sách mở cửa về kinh tế. Chính sách này sẽ tạo điều kiện phát huy cao độ các nguồn lực trong nước và tranh thủ vốn, công nghệ- kỹ thuật sản xuất nước ngoài để đẩy mạnh CNH, HĐH. Một nền kinh tế mở cần có các điều kiện: Thị trường trong nước thông suốt, đồng bộ, gắn kết với thị trường thế giới. Cơ cấu kinh tế phù hợp với sự tiến bộ khoa học công nghệ, có khả năng hoà nhập và phân công lao động quốc tế, các chính sách kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế, khơi dậy được sức mạnh nội lực và thu hút đầu tư bên ngoài. Phát triển kinh tế trong xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá là điều kiện thuận lợi để Việt Nam lựa chọn phát triển những ngành có lợi thế so sánh để XK, tăng tích luỹ ngoại tệ cho CNH, lựa chọn đối tác làm ăn, lựa chọn thị trường xuất ,NK hàng hoá , lựa chọn công nghệ phù hợp. Để đạt mục tiêu KNXK tăng bình quân 14 -16% trong thời kỳ 2001- 2010 Việt Nam cần thực hiện một chiến lược CNH hướng vào XK kết hợp với sản xuất thay thế NK một cách hợp lý. + Chủ động hội nhập là đặc điểm nổi bật của phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ thực sự tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống dân cư. Từ năm 2006 nước ta thực hiện đầy đủ các cam kết của khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ góp phần tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường XK và là bước quan trọng để gia nhập WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách, nhanh chóng nâng cao tiềm lực và dự trữ của nền kinh tế để giảm bớt khả năng bị tổn thương trước các biến động kinh tế quốc tế. Để thu hút được 77 vốn, công nghệ, kinh nghiệm và kiến thức khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, Việt Nam phải tạo lập được môi trường kinh doanh hấp dẫn và thuận lợi không kém các nước trong khu vực mà trước hết là Trung Quốc, nước có nhiều lợi thế hơn ta. Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải chấp thuận và áp dụng các nguyên tắc, chuẩn mực phổ biến của lụât pháp quốc tế vào hệ thống pháp luật, phải thay đổi tư duy và phương pháp xây dựng chính sách, quản lý và điều hành nền kinh tế, cách thức, lề lối làm việc của bộ máy nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp, tạo điều kiện để doanh nghiệp tận dụng được cơ hội, thời cơ từ hội nhập, thu hút vốn, công nghệ mở rộng thị phần trên thị trường thế giới. + Cơ cấu XNK được chuyển dịch theo hướng có lợi cho hoạt động ngoại thương đạt hiệu quả cao trong XK, giành được nhiều thị trường tiêu thụ, thị trường cung cấp nguyên liệu và các yếu tố sản xuất. Thời kỳ 2001 - 2010, cơ cấu XNK chuyển dịch gắn liền với sự nghiệp CNH, HĐH: Phát huy lợi thế so sánh, chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần, xây dựng thương hiệu trên thị trường trong nước và ngoài nước, phát triển chủ yếu các ngành dựa vào lợi thế về lao động và sử dụng nhiều lao động, gia tăng hàm lượng chế biến trong sản phẩm hàng hoá, nhất là nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng XK thuộc các ngành sử dụng nhiều lao động, nâng tỷ trọng hàng qua chế biến chiếm đa phần trong hàng XK; khuyến khích, hỗ trợ và chuẩn bị các điều kiện, tiền đề cần thiết về thể chế, chính sách, vốn, nguồn nhân lực nhằm xây dựng và phát triển các ngành chế tác sử dụng nhiều vốn để sang thời kỳ 2010 - 2020 có thể chuyển danh mục hàng XK sang ngành công nghiệp chế tác sử dụng nhiều vốn, nhiều công nghệ, tạo cơ sở chuyển sang phát triển các ngành XK có chuyên môn cao. 78 3.1.2. Cơ hội và thách thức đối với ngoại thương Việt Nam Trong thời gian tới Việt Nam cần phải đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. điều này tạo ra nhiều cơ hội và cũng không ít thách thức đối với ngoại thương. 3.1.2.1. Cơ hội + Tham gia hội nhập, phải thúc đẩy tiến trình cải cách kinh tế trong nước điều chỉnh các chính sách, lụât pháp kinh tế theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, từng bước tạo dựng một môi trường đầu tư thông thoáng và bình đẳng. Điều này sẽ dần tạo lập và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình thức tín dụng, tài trợ của các định chế tài chính quốc tế như ngân hàng thế giới (WB) quỹ tiền tệ quốc tế (IMF); tạo cơ hội để các nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam mở rộng quan hệ, tiếp cận phương thức quản lý tiên tiến, tiếp thu khoa học, công nghệ mới của quốc tế, dám đương đầu với cạnh tranh, và qua cạnh tranh đó mà trưởng thành lên, xoá bỏ ỷ lại vào nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. + Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác trên cơ sở có đi có lại, trong đó, các quốc gia giành cho nhau sự đối xử ưu đãi trên cơ sở tôn trọng, chấp nhận các luật lệ và tập quán quốc tế, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử trong các quan hệ thương mại gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế của thế giới. Vì vậy, tham gia hội nhập sẽ giúp chúng ta tránh tình trạng bị cô lập, phân biệt đối xử hay chèn ép trong quan hệ kinh tế, từng bước tạo dựng, nâng cao thế và lực trên thương trường quốc tế; Đồng thời, các doanh nghiệp trong nước sẽ có điều kiện mở rộng thị trường (do được hưởng các nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ kinh tế - quy chế đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia 79 và lợi ích của việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan). + Quá trình hội nhập sẽ giúp Việt Nam khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của mình: Giúp các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện thuận lợi thâm nhập vào các thị trường tiềm năng có nhu cầu NK lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản (nhờ gỡ bỏ được thế bao vây cấm vận, phân bịêt đối xử trước đây của nước phát triển (đứng đầu là Mỹ ) đối với Việt Nam và được hưởng các chế độ ưu đãi của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển; Mở rộng thị phần cho hàng hoá của nước ta ở nước đang phát triển (đặc biệt là đối với các nước trong khu vực và các nước có quan hệ buôn bán truyền thống, do các hàng rào thuế quan và phi thuế quan được cắt giảm). + Tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh lợi ích to lớn là mở rộng thị trường XK để khai thác lợi thế sẵn có của đất nước (lợi thế tĩnh), quốc tế hoá thương mại đối với nước ta còn có vai trò quan trọng hình thành lợi thế động cho hoạt động XK, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu XNK, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu XNK theo hướng CNH, HĐH Nhờ hiệu ứng mở rộng XK, các doanh nghiệp có điều kiện thực hiện hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm; nhờ NK các yếu tố đầu vào sản xuất với giá hạ hơn trước nên giá thành sản phẩm giảm.Vì vậy làm tăng khả cạnh tranh về giá của hàng hoá. Việc NK máy móc, thiết bị từ các nước phát triển sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực công nghệ, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, tạo ra những sản phẩm với giá thành thấp, chất lượng phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn của các nước NK. Với các lợi thế của mình: Nằm ở vị trí địa lý chiến lược; có nguồn nhân lực dồi dào, rẻ, có khả năng tiếp thu công nghệ mới; có nguồn tài nguyên tương đối phong phú, có môi trường chính trị xã hội ổn định, với đường lối cải cách, mở cửa…Việt Nam đang và sẽ là một địa chỉ hấp dẫn đối với các 80 nhà đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để Việt Nam thu hút vốn, công nghệ hiện đại nâng cao trình độ người lao động, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tạo ra giá trị gia tăng XK cao. + Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực giúp chúng ta tạo thế vững chắc hơn trong quan hệ chính trị và nắm bắt tốt hơn các xu hướng quốc tế cũng như sự điều chỉnh chính sách kinh tế của các nước khác để điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp, tạo ra khả năng tăng cường thế và lực cho 81 Việt Nam trong thương mại quốc tế. 3.1.2.2. Thách thức Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội thúc đẩy ngoại thương phát triển, yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng đặt ngoại thương Việt Nam trước nhiều khó khăn thách thức. + Năng lực cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế còn yếu, cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, cơ chế thị trường vận hành chưa thật sự thông suốt. Hệ thống tiền tệ, một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động tài chính XNK chậm được đổi mới. Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu, đặc biệt là đường sá, cảng biển và hệ thống thông tin và internet. Trình độ công nghệ lạc hậu, cải cách doanh nghiệp nhà nước tiến hành chậm, tư duy kinh doanh và tư duy quản lý còn thụ động. Những yếu kém này đặt Việt Nam ở vào thế bất lợi so với các nước khác trong cuộc cạnh tranh gay gắt về thị trường và thu hút đầu tư giữa các nước đang phát triển, đặc biệt là so với các nước ASEAN và Trung Quốc. + Việt Nam vừa phải tìm mọi cách để khắc phục những yếu kém nội tại và đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH, vừa phải tiến hành hội nhập ngày càng sâu vào cuộc cạnh tranh đang diễn ra ngày càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu. Việc tham gia AFTA (hoàn tất vào năm 2006) và sắp tới là WTO sẽ khiến các sản phẩm và Công ty của Việt Nam phải đối đầu với cạnh tranh không chỉ thị trường ngoài nước mà ngay tại thị trường trong nước. + Mức độ phụ thuộc của hoạt động XK Việt Nam vào biến động quốc tế, đặc biệt là vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển ngày càng tăng. Việc ra đời các hàng rào phi thuế quan mới, các rào cản kỹ thuật của các nước phát triển làm hạn chế XK của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. + Việt Nam có nhiều lợi thế, nhất là nguồn lực để phát triển (như đã 82 nêu ở phần cơ hội) nhưng môi trường và cơ chế phát huy nguồn lực lại chưa thật sự hoàn thiện. Sản lượng của các mặt hàng XK chủ lực, chủ yếu là nông sản đã tới giới hạn. Tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh, tiếp thị cũng như tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam mới ở trình độ sơ khai có khoảng cách khá xa so với trình độ của thế giới, do đó hạn chế khả năng tiếp cận, thâm nhập và mở rộng thị trường. 3.2. Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển ngoại thƣơng Việt Nam trong thời gian tới để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2001-2010 của Việt Nam đã xác định: - Tốc độ tăng KNXK giai đoạn 2001-2005 bình quân đạt 16%/năm; giai đoạn 2006 - 2010 đạt 14%/năm và đạt 50 tỷ USD vào năm 2010 [15]. Kim ngạch và cơ cấu XK dự kiến được nêu trong bảng 3.1. Bảng 3.1 - Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu đến năm 2010 Nội dung % % % Giá trị
(Thực hiện) Giá trị
(Thực hiện) Giá trị
(Thực hiện) 620 1.030 400 GDP/người (USD/người - Giá
hiện hành) 1.157,6 5,6 1.750 3-3,5 1.600 10,5 1. Nguyên liệu (tr.USD) 4.856,8 22 8.000-8.600 16-17 6.270 33,6 2. Nông sản, hải sản (tr.USD) 3.035,8 35 20.000-21.000 40-45 9.980 21,0 3. Chế biến, chế tạo( tr.USD) 636,5 9 8.000-8.600 12-14 2.56 4,4 4. công nghệ cao (tr.USD) 4.408,5 28,4 20.000-21.000 23-25 8.090 30,5 5. Hàng khác (tr.USD) 28.400 14.455 100 100 48.000-50.000 100 -28.500 Nguồn: Báo cáo sơ kết Nghị quyết TW4 (khoá VIII), Bộ Thương mại (2002) - Tốc độ tăng KNNK giai đoạn 2001- 2005 bình quân đạt 13,5%; giai đoạn 2006 -2010 đạt 14,4%. Mặt hàng NK chủ yếu của giai đoạn 2001-2010 là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, thiết bị và công nghệ tiên tiến. Dự kiến 83 kim ngạch và cơ cấu NK đến 2010 được nêu trong bảng 3.2. 84 Bảng 3.2 - Kim ngạch và cơ cấu nhập khẩu đến năm 2010 Nội dung % % % Giá trị
(Thực hiện) Giá trị
(Thực hiện) Giá trị
(Thực hiện Trong đó:
- M2, thiết bị, phụ tùng -
Nguyên nhiên vật liệu 4.832,5
9.978 30,9
63,8 9.500
18.000 32,8
62,0 18.000
30.000 36,0
60,0 Nguồn: Chiến lược phát triển XNK thời kỳ 2001 -2010, Bộ Thương mại 2002. Tư tưởng cơ bản để định hướng cho việc xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế là phát huy lợi thế so sánh tạo ra lợi thế cạnh tranh, đạt hiệu quả trong việc đáp ứng các nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước, xây dựng từng bước nền tảng cho một nước công nghiệp trong điều kiện mở cửa, hội nhập, cạnh tranh ngày càng mạnh. 3.2.2. Phương hướng phát triển ngoại thương nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá Yêu cầu đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng để đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước tà rất bức xúc. Đến nay vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau về vai trò và tác động của ngoại thương đối với CNH, về quan hệ giữa thị trường trong nước với thị trường quốc tế, giữa tự do hoá thương mại với bảo hộ mậu dịch... Bởi vậy, cần phải xác định đúng phương hướng chung phát triển ngoại thương thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH. 85 Trong thời gian tới, phương hướng phát triển ngoại thương cần phải: 3.2.2.1. Tiếp tục thực hiện chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, góp phần tăng trưởng kinh tế và đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đổi mới và phát triển mạnh hoạt động ngoại thương theo chiến lược kinh tế mở. Mỗi chính sách đẩy mạnh hoạt động XNK phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc khơi trong hút ngoài. Để vươn nhanh và mạnh ra thị trường thế giới cần đẩy mạnh xây dựng thị trường thống nhất trong nước, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực phát huy có hiệu quả có lợi thế so sánh của đất nước để tăng nhanh XK đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cần thiết cho CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội. Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc, sự phát triển của khoa học - công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế. Vì vậy, việc tham gia phân công lao động và hợp tác quốc tế đã trở thành nhân tố tất yếu để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Theo kinh nghiệm của nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là các nước công nghiệp mới, thì việc lựa chọn chiến lược hướng về XK là một trong những bí quyết thành công trong tích luỹ vốn cho CNH, tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế nước ta cần hướng về XK, coi đây là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế và đẩy mạnh CNH, HĐH vì những lý do sau: - Chiến lược hướng về XK tạo ra khả năng thay đổi cơ cấu kinh tế một cách năng động. Sự phát triển các ngành công nghiệp chế biến hàng XK tác động đến nguồn cung cấp đầu vào cho các ngành này. Sự phát triển của tất cả các ngành trên sẽ tạo ra nhiều việc làm và nâng cao thu nhập của người lao động, tạo ra mối liên hệ gián tiếp cho sự phát triển công nghiệp tiêu dùng và 86 dịch vụ. - Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với việc sử dụng các nguồn vốn nước ngoài, trong đó có FDI đã và đang tạo ra một khối lượng sản phẩm rất lớn vượt quá sức mua của thị trường nội địa. Nếu không tăng cường XK hàng hoá sẽ gây ứ đọng sản phẩm, sản xuất đình trệ và có thể gây ra khủng hoảng kinh tế. Nhưng muốn đẩy mạnh XK phải nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hoá mới có thể đứng vững trên thị trường. Các mặt hàng XK của ta hầu hết là các mặt hàng nông sản và sản phẩm chế biến, vẫn còn nhiều thị trường tiềm năng có thể thâm nhập, chiếm lĩnh được. Nguồn thu ngoại tệ từ XK là nguồn chủ yếu để NK công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại cho quá trình CNH, HĐH đất nước. Vì thế cần phải tận dụng những lợi thế so sánh về nguồn lao động, tài nguyên, vị trí, lãnh thổ... bố trí sắp xếp lại cơ cấu kinh tế hướng vào XK. Để xâm nhập vào thị trường thế giới một cách vững chắc, việc lựa chọn các ngành hàng, mặt hàng XK có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trước đây chúng ta có gì bán nấy, hàng hoá manh mún, chất lượng thấp, hàm lượng chất xám ít... thì nay không thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới đang hàng ngày sôi động, mạnh mẽ, mà phải có những mặt hàng XK có chất lượng, mẫu mã và giá cả vừa đáp ứng những nhu cầu của thị trường thế giới trước mắt cũng như lâu dài, vừa khai thác tối đa lợi thế và tiềm năng của đất nước và dần dần đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, nghĩa là phải có chiến lược XK mặt hàng thế giới cần và là thế mạnh của ta. Đây là vấn đề phức tạp vì nhu cầu của thị trường thế giới ngày càng cao, công nghệ biến đổi rất nhanh chóng, mẫu mã, kiểu dáng hàng hoá luôn được cải tiến và cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt hơn. Vì thế không thể tìm được một cơ cấu mặt hàng XK tối ưu cho mọi thời kỳ mà phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung kịp thời 87 phù hợp với sự biến động của thị trường. 3.2.2.2. Hướng nhập khẩu vào phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân Nhập khẩu và XK có liên quan chặt chẽ với nhau. Đó là hai mặt của cán cân ngoại thương, làm tiền đề bổ sung cho nhau. NK có tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống trong nước, thúc đẩy quá trình CNH. Trong điều kiện hiện nay, việc chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới không chỉ có tác dụng nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các công ty, các chủ thể sản xuất, mà còn nâng cao trình độ phát triển kinh tế cho các quốc gia chậm phát triển về kinh tế cũng như nâng cao năng lực sản xuất chung của thế giới. Khi trình độ phân công lao động, chuyên môn hoá đã ở tầm chuyên sâu đến từng chi tiết, hoạt động chuyển giao công nghệ còn thúc đẩy hơn nữa mậu dịch trong nội bộ ngành và do đó, nó cho phép khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách đầy đủ hơn. Trong cơ chế thị trường, vịêc mua bán với các nước đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán bằng ngoại tệ mạnh. Ở nước ta, nhu cầu NK để CNH và phát triển kinh tế rất lớn, vốn để NK lại eo hẹp. Do vậy NK phải được định hướng dựa trên hiệu quả kinh tế - xã hội. Tiêu chuẩn hiệu quả của NK là thông qua NK mà thực hiện đổi mới có trọng điểm trình độ kỹ thuật của nền sản xuất trong nước (trước hết là công nghệ mới để chế biến hàng XK) nhằm nâng cao năng suất lao động. Mặt khác, cần nhập các nguyên liệu thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ cho tái sản xuất mở rộng. Việc NK cần phục vụ tốt cho khâu lưu thông và phát triển thị trường trong nước, phục vụ đời sống nhân dân, tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý, giải phóng mọi năng lực của nền kinh tế. Cần nghiên cứu thị trường để NK được hàng hoá thích hợp, với giá cả có lợi để tiết kiệm ngoại tệ. Chủng loại hàng hoá trên thị trường thế giới luôn phong phú và đa dạng nên vịêc NK thường đơn giản hơn là tự sản xuất trong nước. Trong điều kiện 88 sản xuất hiện tại của nước ta, giá hàng NK thường rẻ hơn, chất lượng tốt hơn, nhưng lại phụ thuộc vào thị trường quốc tế. Nếu ỷ lại vào NK sẽ không phát triển được sản xuất thậm chí bóp chết sản xuất trong nước. Vì vậy cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời kỳ để phát triển sản xuất, vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa, vừa tạo ra nguồn hàng XK. Việc bảo hộ có điều kiện với một số ngành thay thế NK là hợp lý khi nhằm hỗ trợ những ngành công nghiệp non trẻ trong thời kỳ đầu CNH. Bảo hộ sản xuất trong nước phải nhất quán với chính sách tự do hoá thương mại, phù hợp với cam kết quốc tế mà chúng ta phải thực hiện. Bảo hộ sản xuất phải đặt mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội lên trên hết. Trước hết phải thúc đẩy sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của các hàng hoá mà ta có lợi thế trên thị trường, từng bước vươn ra thị trường khu vực và thế giới, thúc đẩy sự tăng trường nhanh, bền vững. Bảo hộ sản xuất hợp lý phải đi đôi với bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, tạo điều kiện cho người tiêu dùng được lựa chọn hàng hoá rộng rãi với giá rẻ hơn, chất lượng tốt hơn. Theo thời gian cần phải giảm dần mức bảo hộ để tăng sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta trên thị trường trong nước, tiến tới cạnh tranh được với hàng hoá các nước trong khu vực và thế giới. Tóm lại, NK phải góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cân đối, khai thác tốt các tiềm năng của đất nước, giải phóng mọi năng lực sản xuất để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và tích luỹ vốn, hướng đến xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. 3.2.2.3. Khai thác triệt để thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần tăng cường tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của mọi loại hình thương nhân Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, tất yếu phải chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực một cách có hiệu quả. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành kinh tế không hiệu quả sẽ phải nhường chỗ cho một ngành khác hiệu quả hơn. Quá trình này sẽ diễn ra một cách tích cực hơn, với chi phí thấp hơn 89 nếu nền kinh tế có tính năng động và khả năng thích ứng cần thiết. Tính năng động và khả năng thích ứng nhanh sẽ được tăng cường khi chúng ta khai thác được thế mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Trước hết, số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm đa số áp đảo trong tổng số doanh nghiệp đã và đang hình thành trong nền kinh tế. Thứ hai, trong khi các doanh nghiệp quốc doanh đang tỏ ra hết sức lúng túng trong việc chuyển đổi sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường mở cửa, hội nhập thì các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại tỏ ra khá năng động trong lĩnh vực này. Trong danh mục hàng hoá XK chủ lực của ta hiện nay thì hàng công nghiệp XK chủ yếu là sản phẩm giày da và may mặc sản xuất theo phương thức gia công. Hàm lượng công nghệ cao trong XK còn thấp và chủ yếu là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thực hiện. Các sản phẩm XK chủ yếu của nước ta đều là sản phẩm mà trong nước có lợi thế so sánh với các nước khác (trừ dầu mỏ và một vài sản phẩm động cơ diezel công suất nhỏ), các sản phẩm XK này không do doanh nghiệp nhà nước sản xuất như (hàng hoá nông sản, thuỷ sản) hoặc các doanh nghiệp nhà nước không chiếm ưu thế. Như vậy, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã âm thầm tiến hành quá trình dịch chuyển cho đến khi tìm được hiểu quả, không đòi hỏi phải bù lỗ, không đòi hỏi bao cấp hoặc chính sách ưu đãi về lao động, đất đai, tín dụng, thuế,... Vì vậy, cần phải nhìn nhận đúng đắn hơn về vai trò của khi tế ngoài quốc doanh. Trong hoạt động ngoại thương, một mặt cần đẩy mạnh việc nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp quốc doanh, mặt khác cần có khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, đặc biệt chú trọng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tận dụng khả năng thích ứng nhanh của họ. Vị trí then chốt của các doanh nghiệp quốc doanh cần thể hiện trong hiệu quả kinh doanh trong lĩnh vực cung ứng hàng hoá và dịch vụ cơ bản cho nền kinh tế, tạo những bước đột phá mang tính tiền đề cho kinh tế phát triển. 3.2.2.4. Cần chuyển dịch cơ cấu ngoại thương, đổi mới công nghệ và tăng cường trang bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình 90 công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Chuyển dịch cơ cấu ngoại thương hướng tới thực hiện những mục tiêu CNH, HĐH đất nước: - Xác định hướng ưu tiên nhằm tăng nhanh quy mô và mặt hàng XK. Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy, họ thường bắt đầu tăng quy mô XK từ việc đẩy mạnh XK những mặt hàng truyền thống. Đối với các quốc gia tiến hành CNH từ một nền nông nghiệp chiếm vai trò chủ đạo, công nghiệp còn yếu kém, công nghệ lạc hậu, để thực hiện theo hướng hội nhập cần thực hiện các bước sau: Trước hết, tập trung nội lực của nền kinh tế vào một số sản phẩm nông nghiệp làm đòn bẩy cho sự phát triển. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở XK sản phẩm thô trên nền tảng lợi thế sẵn có do điều kiện tự nhiên đem lại thì khó có thể phát triển nhanh được. Thị trường hàng hoá sơ khai không thể là động lực cho sự phát triển. Do vậy, cần phải đa dạng hoá mặt hàng XK, chuyển hướng tăng dần trình độ chế biến hàng XK, coi đó là sự sống còn của phát triển hàng XK, tăng tích luỹ cho CNH. Tiếp theo, hướng vào XK các sản phẩm chế tạo, chế biến đáp ứng nhu cầu của thị trường, dù là hàng nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ. Cần có hướng XK phù hợp với trình độ phát triển công nghiệp đạt được trong từng giai đoạn. Có thể hướng XK những sản phẩm dễ tìm kiếm thị trường như hàng dệt may, giày da, thực phẩm chế biến, đồ uống, đồ dùng gia đình; hoặc tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế ở trình độ cao để sản xuất sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm đòi hỏi công nghệ và kỹ thuật cao như công nghiệp cơ khí, điện tử, bưu chính viễn thông… Thực hiện được hai bước trên đòi hỏi Việt Nam cần tập trung đầu tư vào một số ngành, một số địa bàn và lĩnh vực để khai thác triệt để lợi thế so sánh, khơi dậy tiềm năng của từng vùng, từng địa bàn, từng địa phương... trong XK, làm đa dạng hoá hàng XK và tạo ra nhiều sản phẩm XK mới có sức 91 cạnh tranh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. - Đổi mới công nghệ, tăng cường trang thiết bị, kỹ thụât trong sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. NK phục vụ mục tiêu và yêu cầu CNH, HĐH nền kinh tế nước ta, trước hết là NK để XK, tiếp đến là trang bị cho nền kinh tế quốc dân các thiết bị, máy móc và công nghệ sản xuất hiện đại và bổ sung các yếu tố sản xuất và hàng hoá mà nền kinh tế trong nước thiếu hoặc sản xuất chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Với cách đó, chúng ta đã có được công nghệ nguồn, kỹ thuật cao để trang bị lại cho khu vực sản xuất kinh doanh trong nước, tạo ra những sản phẩm có sản lượng lớn, chất lượng cao, giá thành hạ. Đặc biệt góp phần quan trọng chuyển dịch lao động thủ công lạc hậu trong khu vực sản xuất kinh doanh sang lao động cơ khí, cải tạo nguồn lực của đất nước theo hướng CNH, HĐH. 3.2.2.5. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội, hiệu quả tích luỹ vốn để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm mục tiêu quan trọng trong hoạt động ngoại thương Đổi mới và phát triển ngoại thương chỉ thật sự có ý nghĩa tích cực khi hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng cao hơn, thể hiện ở sự tiết kiệm hao phí lao động xã hội, nâng cao năng suất lao động xã hội trong nước, cải thiện đời sống nhân dân chứ không chỉ có tăng lợi nhuận cho đơn vị kinh doanh XNK. Tức hiệu quả hoạt đông ngoại thương phải được xem xét toàn diện ở cả hai khía cạnh: hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế - xã hội. Hiệu quả kinh tế cá biệt là doanh lợi mà mỗi doanh nghiệp thu được; hiệu quả kinh tế - xã hội là sự đóng góp của ngoại thương thúc đẩy sản xuất phát triển, đổi mới cơ cấu kinh tế, công nghệ, tăng năng suất lao động xã hội, tăng tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho ngân sách, giải quyết nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân... Trong quản lý kinh doanh, ngoại thương không những cần tính toán để 92 đạt hiệu quả hoạt động của từng người, từng doanh nghiệp, mà quan trọng hơn là phải đạt hiệu quả kinh tế- xã hội. "Hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển" [9]. Giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ nhân quả và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế xã hội chỉ đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp. Tuy vậy, có thể có những trường hợp doanh nghiệp (thường là doanh nghiệp nhà nước) không có lợi nhuận, thậm chí bị thua lỗ, nhưng nền kinh tế quốc dân vẫn thu được hiệu quả. Chẳng hạn như các doanh nghiệp XK gạo chấp nhận mua bán dự trữ giá cao hơn mức giá sàn để chờ XK trong khi giá gạo thế giới đang ở mức thấp trong mùa thu hoạch rộ. Điều đó tạo điều kiện để nông dân có vốn đầu tư cho tái sản xuất, ổn định đời sống. Tất nhiên nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp về vốn, lãi suất... Các doanh nghiệp kinh doanh XNK quan tâm đến lợi nhuận nhưng đồng thời cần phải tính đến hiệu quả kinh tế xã hội, vì đó chính là điều kiện tiền đề cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả lâu dài. Muốn vậy, nhà nước cần có các chính sách bảo đảm kết hợp hài hoà các lợi ích : xã hội, doanh nghiệp và cá nhân người lao động. Đây cũng chính là sự cụ thể hoá quan điểm kết hợp kinh tế với chính trị trong kinh doanh ngoại thương theo định hướng XHCN. Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh doanh là rất quan trọng, là lợi ích sống còn, là lý do tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Do vậy, không ít doanh nghiệp vì lợi ích riêng của mình mà không quan tâm đến lợi ích của cộng đồng, thậm chí xâm phạm lợi ích của xã hội. Để khắc phục tình trạng này, nhà nước cần có hệ thống luật pháp đủ, đồng bộ, và các chính sách hướng dẫn, khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả xã hội trong kinh doanh, thực hiện nghiêm thúc luật pháp nhà nước, không vì lợi ích cá nhân, cục bộ mà làm thiệt hại đến lợi ích chung; đồng thời, nhà nước cũng 93 cần có chính sách hỗ trợ, bảo đảm lợi ích cho doanh nghiệp kinh doanh XNK, nhất là những doanh nghiệp vì phục vụ lợi ích chung mà phải chấp nhận kinh doanh ít lãi, thậm chí chịu thua lỗ. 3.2.3. Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động ngoại thương để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá Trên cơ sở phương hướng chung đã xác định, để khắc phục những hạn chế trong hoạt động ngoại thương và đẩy mạnh hoạt động ngoại thương phát triển theo hướng thúc đẩy XK góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau: 3.2.3.1. Điều chỉnh chính sách đầu tư trên cơ sở tận dụng lợi thế so sánh và tạo năng lực cạnh tranh mới Xuất phát từ thực tế nguồn lực đất nước (lao động dồi dào, có vị trí địa lý thuận lợi; thiếu vốn, tài nguyên ngày càng cạn kiệt, dự trữ đất đai tính trên đầu người thấp) và yêu cầu của quá trình CNH, HĐH đất nước, chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi ưu tiên cho những ngành tận dụng được nhiều lợi thế và có tính hướng ngoại cao, cũng là tạo ra năng lực cạnh tranh nhằm thúc đẩy tăng trưởng XK. Các mặt hàng XK lớn trong thời gian dài và triển trọng tăng nhanh KNXK, có tác động thúc đẩy kinh tế, xã hội, của ngành, địa phương và cả nước phát triển, đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao có lợi thế cạnh tranh trên thị trường thế giới về chất lượng, số lượng và các điều kiện giao hàng. Trong lộ trình Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), các ngành hàng được coi là thế mạnh XK có thể kể đến là ngành nông sản, thủy sản, dệt may. Đó là các mặt hàng mà trong tương lai gần Việt Nam vẫn còn lợi thế về tiền công, điều kiện tự nhiên, đồng thời có tác động tích cực đến các ngành khác như công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp hoá chất (sản xuất phân hoá học, thuốc trừ sâu), công nghiệp cơ khí (máy nông nghiệp, đóng tàu...) dịch vụ ăn uống. Khối ngành nông nghiệp và khu vực kinh tế nông thôn có vai trò đặc 94 biệt quan trọng trong việc duy trì sự ổn định vĩ mô và tăng trưởng kinh tế nhanh ở một nước nông nghiệp như nước ta hiện nay. Do đó, cần dành mức đầu tư thoả đáng cho nông nghiệp, làm cho nông nghiệp thực hiện tối đa vai trò là cơ sở, nền tảng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế chung trong giai đoạn "cất cánh" của một quốc gia nông nghiệp. Đồng thời để nông nghệp tiếp tục đóng góp đáng kể vào tăng trưởng XK, tạo cơ sở nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến, góp phần tăng thu nhập cho nông dân - lực lượng chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tổng lao động xã hội, giảm bớt áp lực dư thừa lao động trong khi công nghiệp chưa đủ sức thu hút lao động từ nông nghiệp chuyển đến. Khối ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động cũng là khu vực cần được ưu tiên phát triển hàng đầu song song với khối ngành nông nghiệp trong thời gian trước mắt. Trong điều kiện nguồn vốn còn eo hẹp và nguồn lao động dồi dào, việc tập trung phát triển các ngành công nghệp sử dụng nhiều lao động chính là phương thức sử dụng vốn hiệu quả nhất trong giai đoạn đầu phát triển công nghiệp. Ngoài ra, sự phát triển của các ngành này còn góp phần quan trọng vào việc giải toả nhanh áp lực công ăn việc làm. Đây là khối ngành có thể cạnh tranh hiệu quả hơn với hàng hoá NK, đồng thời có cơ hội hơn cả để xâm nhập thị trường quốc tế. Khối ngành sử dụng nhiều lao động bao gồm chủ yếu các ngành công nghiệp nhẹ như dệt, may, giầy da, chế biến nông sản, lắp ráp (quan trọng hơn cả là lắp ráp điện tử). Trong giai đoạn đầu để biến các ngành này thành mũi nhọn XK của đất nước, nhà nước cần hỗ trợ về tín dụng, thuế, cung cấp thông tin... để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khối ngành sử dụng công nghệ cao là khối ngành mà sản phẩm của chúng có hàm lượng kĩ thuật, công nghệ cao nhưng sử dụng tương đối ít các dạng tài nguyên khác. Theo xu huớng phát triển chung của nền kinh tế thế giới, lợi thế phát triển lâu dài và bền vững của mỗi nền kinh tế quốc gia ngày 95 càng nghiêng về năng lực kĩ thuật - công nghệ của nó, và lợi thế phát triển dựa trên tài nguyên thiên nhiên và sức lao động rẻ ngày càng thu hẹp dần. Đây cũng là định hướng mà các quốc gia đi sau cần sớm đặt ra cho mình để tránh những tổn thất do buộc phải cải tạo cơ cấu. Đối với nước ta, trong giai đoạn trước mắt, do hạn chế về vốn, tiềm năng khoa học, kĩ thuật - công nghệ, khối ngành này chưa đủ điều kiện phát triển mạnh. Nhưng ngay từ bây giờ, chúng ta cần chuẩn bị những tiền đề cần thiết để tạo nền tảng cho phát triển một số ngành công nghệ cao "mũi nhọn" trong tương lai. Để làm được việc đó, chính phủ cần tập trung mạnh cho các công trình nghiên cứu khoa học trọng điểm có liên quan trực tiếp việc hấp thụ, thích nghi và hoàn thiện những công nghệ - kĩ thuật hiện đại của thế giới. Xây dựng chiến lược phát triển một số ngành được chọn lựa, đầu tư và có chính sách thích hợp phát triển mạnh nguồn nhân lực theo hướng đón đầu công nghệ và nâng cao năng lực khoa học công nghệ quốc gia. Trên cở đó, chính phủ nên đặc biệt quan tâm đến việc phát triển một số ngành "mũi nhọn" có nhiều triển vọng như tin học, điện tử, vật liệu mới với những bước đi thích hợp. Tranh thủ tối đa kênh FDI để tạo ra một số cơ sở công nghiệp loại này, đồng thời có những định hướng để thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ ở những cơ sở đó. 3.2.3.2. Phát triển công nghiệp chế biến và có chính sách điều hoà xuất khẩu để nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng chủ lực Các mặt hàng XK chủ lực trong giai đoạn hiện nay của nước ta là dầu thô, gạo, cà fê, cao su, hàng thủy sản,giày dép và hàng dệt may. Ngoài dầu thô, giày dép và dệt may thì đa số các mặt hàng thuộc nhóm ngành nông nghiệp. Tuy nhiên, hàng nông sản, thủy sản XK của Việt Nam đều xếp vào nhóm hàng nguyên liệu thô và sơ chế, giá trị gia tăng thấp, giá cả thị trường thế giới lại luôn biến động, ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận XK và qui mô tái sản xuất mở rộng. Nhiều mặt hàng có khối lượng XK tăng không tương ứng khi XK khối lượng lớn gặp phải thời điểm giá cả thị trường thế 96 giới thấp. Điển hình là mặt hàng cafe XK niên vụ 1999 - 2000: Cả nước XK được 686013 tấn, kim ngạch đạt 583 triệu USD. So với vụ trước, lượng XK tăng 69% nhưng kim ngạch chỉ tăng 4,4%. Gạo XK năm 1999, 2000 cũng gặp tình trạng tương tự. Do vậy, giảm XK sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến sâu và tinh trong cơ cấu hàng XK để có nhiều giá trị gia tăng được coi là giải pháp tăng trưởng KNXK vững chắc nhất, đồng thời cũng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP và làm cho tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống. Thực tế cho thấy, những năm trước đây, hàng nông, lâm hải sản thô XK nước ta chiếm tới 50% giá trị KNXK, đến nay tỷ lệ này giảm xuống còn 25%. 75% hàng thô được đưa vào chế biến đã nâng được kim ngạch và giá cả tăng gấp 2 lần. Chẳng hạn, tôm nguyên liệu XK giá 6 USD/kg, qua chế biến đạt 12 - 15 USD/kg; cà phê hạt XK chỉ được 2.800 USD/tấn thì cà phê hoà tan đạt 15.000 USD/tấn Để nâng cao năng lực chế biến XK, nhà nước cần đầu tư xây dựng các nhà máy hiện đại, công nghệ cao để tạo ra được những sản phẩm có chất lượng, cạnh tranh được trên thị trường thế giới, cung cấp đầy đủ, kịp thời nguyên liệu, vật tư (kể cả NK) phục vụ cho các nhà máy chế biến XK như gạo, cà phê, đồ hộp, sản phẩm cao su, may mặc, giầy da, điện tử...; Đồng thời cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn hoá hàng hoá XK Việt Nam theo trình độ quốc tế, phấn đấu tạo ra các hàng XK chủ lực mang nhãn hiệu Việt Nam kèm theo dấu hiệu chất lượng, quy cách. Gạo là nông sản XK hàng đầu của Việt Nam, là loại lương thực chính của nhân dân ta, là loại cây trồng chủ yếu của nông dân Việt Nam. Việc tổ chức sản xuất , tiêu thụ, kinh doanh lúa gạo trong nước cũng như quan hệ với nước ngoài luôn là mối quan tâm của nhân dân, chính phủ, của nhiểu tổ chức và địa phương. Tiêu thụ lúa gạo trong nước có xu hướng giảm do tiêu dùng các sản phẩm thay thế và nhu cầu tiêu dùng gạo của người dân cũng có xu 97 hướng giảm do đời sống vật chất được nâng cao.Gạo Việt Nam chiếm một tỷ lệ đáng kể thị phần gạo thế giới: năm 1999 đã chiếm khoảng 20%, năm 2000, 2002 chiếm khoảng 15- 16% [23, tr.174]. Để gạo Việt Nam có thể cạnh tranh được tại thị trường các nước trong khu vực và trên thế giới, ngoài việc tập trung cải tạo giống, cải tiến công nghệ chế biến để nâng cao chất lượng gạo XK, thành lập trung tâm giao dịch XK gạo để kết nối các nhà sản xuất, XK, NK gạo trong và ngoài nước, trao đổi, nắm bắt thông tin, chủ động lượng hàng xuất..., Nhà nước cần tăng cường quản lý vĩ mô, có biện pháp điều tiết phù hợp vừa tăng hiệu quả xã hội, vừa đảm bảo an ninh lương thực và giảm thiểu những rủi ro về giá cả cho mặt hàng này. Việc hình thành trung tâm giao dịch, sàn giao dịch - nơi diễn ra tập trung các hoạt động giao dịch về một nhóm hoặc chủng loại hàng là xu hướng khách quan để phát triển hoạt động thương mại. Nó điều hoà hoạt động XNK, bảo đảm quyền lợi của người sản xuất và XK, nâng cao hiệu quả hoạt động XK. Đối với một số mặt hàng nông sản XK khác như cà fê, chè, hạt điều, cao su..., ngoài việc tập trung vốn đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị XK, nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hoà công tác XK (có chiến lược tiếp thị đúng đắn, tham gia các hiệp hội sản xuất và XK về một số mặt hàng quan trọng như cà phê, cao su... tổ chức thu nhập và xử lý thông tin về thị trường nhanh, chính xác, thống nhất tiêu chuẩn sản phẩm, giảm bớt đầu mối XK…), khắc phục những hạn chế về cạnh tranh thiếu điều tiết dẫn đến giảm giá XK, thiếu cơ quan dự báo giá cả chính xác nên khi giá hàng thế giới tăng lên thì sản phẩm của ta đã bán gần hết; Hình thành các hệ thống giao dịch nông sản theo cơ chế thị trường, mở rộng và hoàn thiện thị trường giao ngay (thị trường mua bán trực tiếp sản phẩm cuối cùng của một chu trình sản xuất, nguyên tắc giao dịch là người bán có hàng mới chào bán, người mua tiếp cận trực tiếp với hàng hoá định mua, thoả thuận 98 xong là giao nhận hàng và thanh toán), phát triển giao dịch hợp đồng B2B (trao đổi hàng hoá giữa các doanh nghiệp bằng hợp đồng - thường xảy ra giữa người sản xuất với nhà chế biến, nhà buôn (kể cả XNK), thường là giữa các doanh nghiệp lớn, trang trại lớn), nghiên cứu triển khai các giao dịch của thị trường giao sau (triển hạn, kỳ hạn và quyền chọn) [23, tr.100-101], tiến tới thiết lập sàn giao dịch hàng hoá kỳ hạn và quyền chọn cho một vài sản phẩm có tỷ lệ hàng hoá cao, có KNXK lớn như cà phê, cao su,... Ngoài việc tiếp tục phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu tất cả những ngành hàng chủ lực hiện có, cần tập trung đầu tư xây dựng và phát triển những ngành hàng mang tính đột phá mới. Đó có thể là những sản phẩm khai khoáng mới, các sản phẩm chế biến từ dầu và khí đốt tự nhiên, sản phẩm điện tử, tin học... 3.2.3.3. Lựa chọn công nghệ nhập khẩu phù hợp để nâng cao sức cạnh tranh và đảm bảo chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Chính sách NK từ nay đến năm 2010 và 2020 phải hướng vào việc phục vụ tốt hơn các nhu cầu phát triển sản xuất trong nước, tăng trưởng XK và các nhu cầu tiêu dùng hợp lý của nhân dân, bảo đảm chuyển đổi cơ cấu hiện vật của tổng sản phẩm xã hội một cách có hiệu quả nhất cho chu trình sản xuất sau tăng XK để tăng NK, sự tác động qua lại của hai mặt này thúc đẩy tăng trưởng ngoại thương, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH. Tăng NK phải đi đôi với kiên quyết chống nhập lậu và thực hiện bảo hộ sản xuất, bảo hộ mậu dịch trong nước một cách hợp lý. Chỉ thực hiện chính sách bảo hộ đối với sản phẩm có khả năng cạnh tranh, và có thời hạn nhất định, vừa giúp đỡ, vừa tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới vươn lên. Đặc biệt chú ý tới việc đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ phục vụ CNH, HĐH đất nước bằng cách ưu tiên NK kỹ thuật cao, công nghệ hiện 99 đại từ các nước có công nghệ nguồn như Mỹ, Tâu Âu, Nhật Bản... Kế đó là nhập nguyên liệu công nghiệp cần thiết cho sản xuất, chế biến hàng XK mà trong nước chưa cung cấp được. Vấn đề đặt ra trong mục tiêu hướng tới hiện đại hoá là vốn, công nghệ. Đó cũng chính là thách thức lớn đòi hỏi có sự lựa chọn đúng đắn, hợp lý để có giải pháp tối ưu. Yêu cầu của việc quản lý này là: Tạo giá trị gia tăng của sản phẩm, đảm bảo được tính cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế; thiết bị công nghệ NK phải thuộc thế hệ hiện đại hơn công nghệ trong nước đã có (không làm thụt lùi quá trình đổi mới công nghệ và phải tạo điều kiện cho bước hiện đại tiếp theo); thiết bị, công nghệ NK khi vận hành phải đáp ứng các tiêu chuẩn của luật bảo vệ môi trường và các quy định về an toàn, vệ sinh lao động. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại là một trong hai nội dung cốt lõi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở các quốc gia chậm phát triển. Tốn nhiều tiền cũng không dễ gì mua được công nghệ tiên tiến nhất, nhưng khi đã có phải biết cách sử dụng, khai thác để thu hút được lợi ích tối đa. Phải xuất phát từ các tiềm năng vốn có về mọi mặt để lựa chọn công nghệ từ đó xác định cơ cấu sản xuất phù hợp để khai thác có hiệu quả nhất cả công nghệ nhập lẫn tiềm năng, nội lực quốc gia để nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Để giảm bớt sự phụ thuộc về công nghệ vào nước ngoài, vấn đề có tính chiến lược là huy động các tiềm năng về con người, kích thích mạnh mẽ tinh thần sáng tạo để tăng cường tính chủ động về công nghệ ở ngay trong nền kinh tế. Mặt khác, cần thiết lập một mạng lưới thông tin rộng khắp về thị trường công nghệ quốc tế, từ đó lợi dụng tính cạnh tranh, lợi dụng mâu thuẫn giữa các công ty để khai thác nguồn công nghệ tốt nhất trong hoạt động chuyển giao công nghệ, mở rộng khả năng lựa chọn công nghệ khi có nhu cầu NK, tránh mua nhầm những công nghệ “thanh lý”, “cũ kỹ”, “già lão”. Chúng ta đang cần đẩy mạnh CNH, HĐH nhưng lại rất thiếu vốn, nhất 100 là vốn lớn để mua thiết bị và công nghệ. Những năm đầu của quá trình CNH một số ngành phải nhập thiết bị công nghệ đã qua sử dụng. Nhà nước cần ban hành các quy chế thanh tra, kiểm tra việc lắp đặt vận hành các thiết bị công nghệ phù hợp với tiến trình biến động nhanh, đảm bảo sự thông thoáng, không gây phiền hà cho chủ đầu tư, đồng thời quản lý được vịêc lắp đặt, vận hành thiết bị, công nghệ nhập, ngăn chặn việc NK công nghệ lạc hậu, gây thiệt hại cho đất nước. 3.2.3.4. Thực thi các chính sách hỗ trợ của Nhà nước nhằm khuyết khích phát triển ngoại thương Hầu hết các quốc gia trên toàn cầu, chính phủ đều thực hiện các chính sách và biện pháp kinh tế vĩ mô để can thiệp và điều tiết nền kinh tế theo mục đích của mình, trong đó đặc biệt là lĩnh vực XNK và giảm tình trạng thất nghiệp. Song với mỗi nước, tuỳ theo điều kiện cụ thể mà thực hiện các hình thức khác nhau. Ở Việt Nam, theo quyết định số195/1999/QĐ-TTg, ngày 27/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ, tháng 9/1999 Quỹ hỗ trợ XK đã được thành lập với mục đích hỗ trợ, khuyến khích, đẩy mạnh việc XK hàng hoá, mở rộng thị trường XK, tăng sức cạnh tranh hàng XK Việt Nam. Quỹ này được sử dụng vào các mục đích như: hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần lãi suất vay vốn ngân hàng để mua hàng nông sản XK khi giá cả thị trường thế giới giảm không có lợi cho sản xuất trong nước, dự trữ hàng nông sản để chờ XK theo chỉ đạo, điều hành của chính phủ, hỗ trợ tài chính có thời hạn đối với một số mặt hàng XK bị lỗ do thiếu sức cạnh tranh hoặc gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan gây ra, thưởng về tìm kiếm và mở rộng thị trường XK, mặt hàng mới sản xuất lần đầu tiên tham gia XK, XK sản phẩm đạt chất lượng cao được tổ chức quốc tế công nhận bằng văn bằng, đạt KNXK lớn và hiệu quả cao... Riêng đối với nông sản XK: hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng, bù lỗ, tạm trữ, thưởng XK... Ngoài những biện pháp hỗ trợ về tài chính cho XK, thưởng XK là một 101 trong những chính sách khuyến khích XK quan trọng đối với các doanh nghiệp, nó củng cố vị thế, uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với bạn hàng quốc tế, khích lệ doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh hàng XK. Tuy nhiên, nếu dùng thưởng XK để trợ cấp XK thì trái với nguyên tắc WTO. 3.2.3.5. Tăng cường công tác Marketing xuất khẩu, nhất là việc nghiên cứu thị trường nước ngoài Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thiếu hiểu biết về thị trường, văn hóa tiêu dùng của các nước khác. Việc mở rộng mạng lưới đại diện thương mại ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm, thiết lập các quan hệ với các tổ chức XK, NK của các nước khác sẽ giúp cho hoạt động XNK có hiệu quả hơn. Trước hết, Bộ Thương mại thông qua các nguồn thông tin nhanh nhạy và hệ thống thương vụ để tìm hiểu kỹ thị trường của mỗi nước về dung lượng, chủng loại hàng hoá XNK cụ thể, sự biến động giá cả những mặt hàng XNK thiết yếu có tính chu kỳ ở mỗi nước, những công ty XNK và những người điều hành từng công ty đủ đảm bảo tin cậy trong quan hệ buôn bán để hướng dẫn và giới thiệu với các công ty XNK trong nước. Trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng, cần phải nghiên cứu và thông báo kịp thời về tình hình kinh tế, thương mại và động thái chính trị có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại; về chính sách, luật pháp… nhất là các chính sách thuế và phi thuế cũng như các chế độ ưu đãi đối với hàng hoá NK, về nhu cầu XNK, về hồ sơ thương nhân và đối tượng canh tranh với hàng hoá Việt Nam. Muốn vậy, các tham tán thương mại phải vừa đáp ứng được nhiệm vụ về ngoại giao, vừa phải là những chuyên gia kinh tế. Sứ quán Việt Nam cũng nên có quy chế tài chính hợp lý hơn để thúc đẩy việc tổ chức thông tin. Về phiá các doanh nghiệp cũng phải chia sẻ chi phí để các tham tán thương mại tổ chức, khai thác nguồn thông tin, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại 102 (tìm hiểu, tiếp xúc, tra cứu thông tin...). Có như vậy mới có được nguồn thông tin chọn lọc, có hệ thống, đầy đủ, độ tin cậy cao phục vụ công tác thông tin về doanh nghiệp (đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ) không có khả năng chi phí lớn để nghiên cứu thị trường thế giới, khắc phục tình trạng thiếu thông tin ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh XNK của doanh nghiệp. Do thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật, trên toàn cầu đã xuất hiện một nền kinh tế mới, kinh tế số hoá, kinh tế tri thức mà trong đó có một dạng thức là thương mại điện tử. Hoạt động có hiệu quả, thương mại điện tử đã khẳng định mình, từng bước thay thế dần hình thức thương mại thông thường và tác động tích cực đến tiến trình cải biến kinh tế - văn hóa - xã hội với tốc độ nhanh.Vì vậy mà thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên toàn cầu. Việt Nam cũng cần phải quan tâm đến phát triển thương mại điện tử. Thương mại điện tử cũng là loại hình hoạt động thương mại bằng các phương pháp điện tử, là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử - nói chung không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của quá trình giao dịch, nên còn gọi là "Thương mại không có giấy tờ". "Thương mại điện tử giúp người tham gia thu được nguồn thông tin phong phú về kinh tế thương mại, thông tin thị trường, có căn cứ xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Thương mại điện tử làm giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng, (chi phí thuê diện tích, tìm kiếm, in, chuyển giao tài liệu) giảm chi phí tiếp thị, bán hàng, nhân viên bán hàng có thể giao dịch với nhiều khách hàng, Người tiêu thụ và doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch, Thời gian giao dịch qua internet chỉ bằng khoảng 7% thời gian giao dịch qua Fax, bằng 0,5% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí qua internet chỉ bằng khoảng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay chuyển phát nhanh. Tiết kiệm thời gian có ý nghĩa sống còn với buôn 103 bán, nhất là trong cạnh tranh hiện đại. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong kinh doanh hàng tươi sống, rau quả hay hàng hoá thời vụ. Tiết kiệm chi phí và thời gian giúp các doanh nghiệp XNK nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng thu lợi nhuận, góp phần tăng tích luỹ vốn. Thương mại điện tử còn kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin trong nước - ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Tuy kết cấu hạ tầng cho thương mại điện tử còn chưa đủ, nhưng Việt Nam cũng đã tham gia vào thương mại điện tử ở mức độ nhất định thông qua việc tham gia các cuộc thảo luận, cam kết quốc tế về thương mại điện tử trong ASEAN, APEC. Đến nay đã có một số công ty dùng Internet để quảng cáo hàng và chuẩn bị hoạt động bán hàng qua mạng. Tuy môi trường cho thương mại điện tử đúng nghĩa chưa hình thành (việc bán hàng qua mạng của các công ty vẫn phải thanh toán theo công thức thông thường là trả bằng tiền mặt và kèm theo hoá đơn). Nhưng với tư cách là thành viên APEC và ASEAN, Việt Nam đã có những cam kết tham gia. Chúng ta cần sớm xây dựng kết cấu hạ tầng cho thương mại điện tử: Bao gồm kết cấu hạ tầng kinh tế, công nghệ thông tin, đào tạo nhân lực và môi trường pháp lý. Trước mắt cần xây dựng một chương trình hành động phù hợp thực tế Việt Nam và các thoả thuận đã cam kết, trên cơ sở đó đẩy nhanh việc phổ cập, đào tạo, thử nghiệm. Thương mại điện tử ở nước ta còn là một hoạt động kinh tế mới mẻ, song nhiều chuyên gia dự đoán, lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh trong một tương lai không xa. Đồng thời nó sẽ là một "Kênh quan trọng và tiện ích trong hoạt động kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp XNK nói riêng, đem lại hiệu quả kinh tế cho đất nước". Trong thời đại hiện nay, khi xu thế hội nhập đang phát triển mạnh mẽ, khi trên thế giới đã hình thành nhiều tổ chức, khu vực thương mại tự do khá 104 rộng rãi và chặt chẽ thì thị trường trở thành vấn đề sống còn với hoạt động thương mại của nhiều quốc gia. Đối với Việt Nam, khi các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện để trực tiếp khảo sát, tìm kiếm thị trường nước ngoài thì tổ chức xúc tiến thương mại là cái cầu nối hữu hiệu giúp doanh nghiệp vươn ra thị trường thế giới. Xúc tiến thương mại là một nội dung của marketing hiện đại. Những năm gần đây, xu hướng thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại đang phổ biến tại nhiều quốc gia, dù nước lớn hay nhỏ, dù đã có ngành thương mại phát triển hay còn nhỏ bé và với tên gọi khác nhau, các nước đã chú trọng đến việc thành lập tổ chức xúc tiến thương mại để thúc đẩy hoạt động XNK, đặc biệt trong lĩnh vực XK. Ở nước ta, trong thời gian qua, đặc biệt là từ những năm đầu thập kỷ 90 trở lại đây, hoạt động thương mại đã có những bước phát triển khá nhanh. Kim ngạch XNK không ngừng tăng trưởng, cơ cấu, chủng loại mặt hàng có sự thay đổi và khối lượng cũng tăng lên nhanh chóng. Thị trường ngoài nước được mở rộng, tìm thêm được nhiều thị trường mới. Tuy nhiên, đến nay thị trường tiêu thụ vẫn đang là vấn đề nổi cộm, vì hầu hết các thị trường đều đã "có chủ" và các đối tác và đối thủ có sức cạnh tranh lớn, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam vừa nhỏ bé, vừa thiếu kinh nghiệm kinh doanh, và sức cạnh tranh của hàng hoá lại yếu. Vì vậy, vấn đề bức xúc nhất là cần đẩy mạnh hoạt động của tổ chức xúc tiến thương mại chuyên trách cấp quốc gia để giải quyết vấn đề cốt lõi hiện nay trong phát triển ngoại thương là thị trường, định hướng sản xuất hàng XK, làm cầu nối giữa các doanh nghiệp trong nước và bạn hàng nước ngoài. Trong những năm qua, hoạt động xúc tiến thương mại ở nước ta đã có sự phát triển đáng kể. Chẳng hạn như từ thời kỳ còn là Ban xúc tiến thương mại (thuộc Bộ Thương mại) đã tổ chức thành công một số hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế, tạo cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam giới 105 thiệu sản phẩm mới có chất lượng cao, góp phần mở rộng thị trường, nhất là các thị trường quan trọng như EU, Nhật, Trung Đông, Mỹ, ASEAN… thúc đẩy XK, nâng cao hiệu quả kinh doanh, đồng thời, việc khảo sát, nghiên cứu thị trường, công tác thu thập cung cấp thông tin cũng được thực hiện dưới nhiều hình thức như tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát thị trường nước ngoài, toạ đàm giới thiệu về thị trường mới, phát hành tài liệu, ấn phẩm… Song thông tin cung cấp còn dàn trải, thiếu tính hệ thống, thiếu sự hợp tác với các tổ chức xúc tiến thương mại khác dẫn đến thông tin trùng lặp, chi phí tốn kém, hiệu quả chưa cao. Tháng 7/2000, Chính phủ đã cho phép thành lập Cục xúc tiến thương mại. Như vậy, Việt Nam đã có một cơ quan xúc tiến thương mại ngang hàng với cơ quan xúc tiến thương mại ở các quốc gia khác, tạo điều kiện thuận lợi khi đặt quan hệ song phương với các tổ chức xúc tiến thương mại của các nước đó. Để tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển việc xúc tiến thương mại của Việt Nam cần phát triển theo hướng: - Thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến thương mại để thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, bạn hàng XK. Quỹ này có thể được hoạt động từ ngân sách Nhà nước, đóng góp của các doanh nghiệp XNK và các nguồn tài trợ quốc tế. - Cục xúc tiến thương mại cần phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, các trung tâm xúc tiến thương mại, các phòng thương mại và công nghiệp, các viện nghiên cứu… thường xuyên tổ chức các diễn đàn đối thoại giữa các doanh nghiệp với các tổ chức trên nhằm giúp chính phủ có chính sách và cơ chế quản lý XNK phù hợp và thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp đẩy mạnh XK. - Cần tổ chức lại và nâng cao chất lượng thông tin thương mại nhằm phục vụ công tác quản lý và kinh doanh mậu dịch quốc tế. Trước mắt cần xây dựng đầu mối ở một số nơi như Hồng Kông, Mat-xcơ-va, Oa-Sinh-Tơn, Pari, 106 Băng Cốc để thu thập thông tin cung cấp về trung tâm trong nước xử lý. Tiếp tục đẩy nhanh chương trình, kế hoạch và phát triển thương mại điện tử gắn với công tác xúc tiến thương mại. Bên cạnh đó, cần tổ chức nắm bắt, tận dụng và khai thác triệt để thông tin của các tổ chức nước ngoài hiện có tại Việt Nam phục cho việc xúc tiến thương mại. Đồng thời xuất bản các ấn phẩm về Việt Nam bằng tiếng Anh và các ngôn ngữ khác, lập trang WEB miễn phí trên Internet để cập nhật thông tin về kinh tế, môi trường đầu tư, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp XNK Việt Nam… 3.2.3.6. Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý hoạt động ngoại thương * Các chính sách kinh tế vĩ mô phải hướng vào mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia đã thành công trong phát triển kinh tế cho thấy, muốn thực hiện được các mục tiêu chiến lược đề ra Nhà nước phải nhất quán trong việc sử dụng các công cụ, chính sách của mình để tác động vào nền kinh tế. Vì vậy, chiến lược hướng về XK đòi hỏi sự tác động cùng chiều của mọi công cụ, chính sách có lợi cho XK: + Trước hết cần: - Xúc tiến việc mở rộng và thâm nhập thị trường XK như thành lập các trung tâm, các chi nhánh thương mại ở các nước, hình thành mạng lưới cung cấp thông tin thị trường nước ngoài một cách kịp thời và thường xuyên cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường mới hoặc đưa ra sản phẩm mới. - Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. NK công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại cho các ngành sản xuất chế biến hàng XK, bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh doanh cho các giám đốc doanh nghiệp, thành lập các tổ chức kiểm tra chất lượng hàng hoá theo tiêu chuẩn quốc tế. Đưa doanh nghiệp 107 nhà nước vào môi trường kinh doanh quốc tế, hạn chế độc quyền, bảo hộ và bao cấp, tiếp thêm sức cho khu vực tư nhân bằng việc bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng, không phân biệt đối xử. + Hai là, chính sách thuế cần phải theo hướng tăng diện chịu thuế thu nhập, giảm tỷ lệ thuế suất, đặc biệt là thuế gián thu. Tiếp tục thực hiện chính sách thuế ưu tiên cho XK như hoàn thuế NK đầu vào cho sản xuất hàng XK để tăng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới. Đồng thời cần có những ưu tiên đặc bịêt về thuế đủ hấp dẫn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn đầu tư trong nước vào những dự án có tỷ lệ sản phẩm XK cao. + Ba là, chính sách tín dụng ngoài việc ưu tiên lãi suất thấp, thời hạn dài cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng XK, trong giai đoạn hiện nay cần tập trung ưu tiên cho các doanh nghiệp đó ứng dụng chương trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. + Bốn là, tỷ giá hối đoái cần được thường xuyên điều chỉnh linh hoạt có lợi cho xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán. Có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề tỷ giá hối đoái. Một số ý kiến cho rằng không nên thực hiện phá giá vì độ co giãn của cầu xuất khẩu đối với tỷ giá hối đoái của hàng hoá Việt Nam là không nhạy cảm, đầu vào của các ngành sản xuất hàng XK còn phụ thuộc nhiều vào NK; phá giá đồng nội tệ có thể gây ra rối loạn nền kinh tế. Nhưng theo tiến trình CNH, HĐH đất nước cơ cấu hàng XK của Việt Nam sẽ biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng các hàng chế biến và các mặt hàng có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Mặt khác, do yêu cầu của quá trình tự do hoá thương mại, Việt Nam buộc phải thực hiện các quy định của chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA, các nguyên tắc của WTO trong tương lai: Nếu các biện pháp thúc đẩy XK như trợ cấp XK, ưu đãi tín dụng XK, thuế quan bảo hộ cao và các biện pháp hạn chế NK dần dần bị xoá bỏ, thì việc đẩy mạnh XK bằng việc điều chỉnh linh hoạt, 108 thường xuyên tỷ giá hối đoái là điều tất yếu. Tóm lại, để thực hiện mục tiêu tăng trưởng XK tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tăng tích luỹ cho nền kinh tế, nhà nước cần kết hợp vận dụng sáng tạo các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô để mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, coi đó là một yếu tố có tầm quan trọng chiến lược. * Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại thương. Cơ chế quản lý ngoại thương cần đổi mới theo hướng vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa nhất quán theo định hướng XHCN. Muốn vậy, trước hết cần thực hiện một yêu cầu có tính nguyên tắc là luôn luôn quán triệt các quan điểm cơ bản chỉ đạo đổi mới và phát triển ngoại thương trong các hoạt động XNK. “Tự do hoá ngoại thương” đang là xu thế phát triển khách quan của bất kỳ một nền kinh tế mở nào trong thời đại ngày nay. Nhưng mức độ “tự do hoá” đến đâu thì nhất thiết phải phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của đất nước. “Tự do hoá” cần phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị. Cần tránh tình trạng đề cao tự do hoá ngoại thương dẫn đến buông lỏng các biện pháp quản lý có tính định hướng XHCN của Nhà nước. Tự do hoá ngoại thương tức là tự do hoá các hoạt động XNK. Song chỉ có những nước nào có nền kinh tế phát triển và có tiềm lực XK lớn mới thực sự tự do hoá NK, cắt giảm tối đa các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Các nước đang phát triển hoặc kém phát triển đều dè dặt với chính sách này. Vì vậy, tự do hoá ngoại thương ở Việt Nam cần được thực hiện theo hướng sau: - Tự do hoá XK tất cả những loại hàng mà nhà nước không cấm, xóa bỏ các cản trở về chính sách, thể chế, cơ chế, thủ tục. - Chỉ tự do hoá NK đối với những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng hiệu quả kinh tế thấp. Ưu tiên nhập những loại hàng có tác dụng đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước. Đối với những mặt hàng tiêu dùng cao cấp, xa xỉ, không phù hợp với thực lực kinh tế của ta thì 109 phải hạn chế NK; những mặt hàng có hại đến môi trường, sức khoẻ con người, truyền thống văn hoá, đạo lý dân tộc cần kiên quyết cấm nhập và xử lý bằng các biện pháp kinh tế, hành chính tới mức cao nhất. - Kiên quyết bãi bỏ chế độ cơ quan chủ quản trong các hoạt động XNK. Thực thi nghiêm chỉnh các điều khoản quy định trong Lụât thương mại, trong đó có những điều khoản mang tính giải pháp, chính sách rất cơ bản đã được thể chế hoá như thừa nhận quyền bình đẳng trước pháp luật và khuyến khích tối đa tất cả thành phần kinh tế tham gia hoạt động XNK; gắn lưu thông hàng hoá nội địa và hoạt động XNK với người sản xuất, bảo hộ hợp lý nền sản xuất và mậu dịch trong nước trước xu thế tự do hoá ngoại thương, đặc biệt là tự do hoá NK... - Cải tiến các thủ tục hành chính cấp phát đăng ký kinh doanh, dự án đầu tư, hạn ngạch XNK, giảm và đi đến xoá bỏ những phiền toái, phức tạp của cơ chế “xin - cho”, nguyên nhân trực tiếp của tệ tham nhũng, sách nhiễu, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bạn đồng hành của các tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế… 3.2.3.7. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh doanh Việc đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng để nhanh chóng tạo ra một đội ngũ cán bộ kinh doanh, quản lý giỏi, thạo và linh hoạt, thích ứng với nền kinh tế thị trường là một nhân tố rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế nói chung, phát huy hiệu quả hoạt động ngoại thương góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi, phù hợp với cơ chế thị trường và cơ cấu kinh tế đang thay đổi đòi hỏi chúng ta phải xác định đúng đắn vai trò của Nhà nước, của doanh nghiệp cũng như của những nhà kinh tế tương lai. Tất cả các chiến lược chính sách sẽ là vô nghĩa nếu không có con người thực hiện. Trong quá trình đổi mới, nước ta đã và đang đặt con người vào vị trí trung tâm. Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung, của hoạt động kinh doanh XNK nói riêng chỉ có thể đạt được mức độ cao khi 110 chúng ta giải quyết tốt và phát huy vai trò của nhân tố này. Về nhận thức, chủ trương, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ kinh tế đã được đề cao. Nhưng trong thực tiễn, chưa đào tạo một đội ngũ cán bộ trẻ, linh hoạt và đầy đủ năng lực vì sự nghiệp phát triển kinh tế lâu dài của đất nước. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và những thay đổi to lớn trong quan hệ kinh tế đang đòi hỏi phải tiếp nhận và ứng dụng công nghệ mới, hiện đại và ứng xử linh hoạt trong sản xuất kinh doanh. Nhưng con người Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá lâu dài của cơ chế quản lý tập trung quan liêu ban cấp, quen với kiểu “lãi thì được hưởng, lỗ có nhà nước bù” nên chậm thích ứng với đòi hỏi trên. Bởi vậy, cần phải gấp rút đào tạo và đào tạo lại cán bộ để nâng cao trình độ, kỹ năng kỹ xảo nắm bắt kịp thời và áp dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ mới, những kiến thức mới về kinh tế thị trường. Cần phải có những chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng. Cần tiếp tục thực hiện phương châm đa dạng hoá các hình thức đào tạo, kể cả việc mở các lớp dài hạn và ngắn hạn trong nước với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để bồi dưỡng các lý thuyết và kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Tóm lại: Yêu cầu về đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thụât cho CNXH, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới là rất bức xúc. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, nước ta sẽ có nhiêù cơ hội để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế ngoại thương, đồng thời cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức mới. Việc phát huy lợi thế so sánh của đất nước, tạo khả năng phát triển ngoại thương, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước có ý nghĩa rất quan trọng. Trên cơ sở những phương hướng chung, hướng XNK vào phục vụ CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của ngoại thương đến sự nghiệp 111 CNH, HĐH cần thực hiện một số giải pháp cơ bản như: Điều chỉnh chính sách đầu tư trên cơ sở tận dụng lợi thế so sánh và tạo năng lực cạnh tranh mới, phát triển công nghiệp chế biến và có chính sách điều hoà xuất khẩu để nâng cao hiệu quả xuất khẩu những mặt hàng chủ lực; lựa chọn công nghệ nhập khẩu phù hợp để nâng cao sức cạnh tranh và đảm bảo chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH; thực thi các chính sách hỗ trợ của nhà nước để khuyến khích phát triển ngoại thương; đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại thương; Đào tạo đội ngũ cán bộ kinh doanh thích ứng với chế thị trường. Thực hiện tốt các giải pháp đó sẽ thúc đẩy ngoại thương phát triển, 112 góp phần quan trọng đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. KẾT LUẬN 1. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trung tâm. Phát triển ngoại thương là một nhân tố quan trọng góp phần thực hiện nhiệm vụ này. Thông qua ngoại thương, một nước có thể thu được lợi nhuận siêu ngạch nhờ tận dụng các lợi thế về lao động, về tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề... để sản xuất và xuất khẩu hàng hoá; nhập khẩu tư liệu sản xuất, công nghệ hiện đại để đổi mới công nghệ nâng cao trình độ kỹ thuật, thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Trên cơ sở mở rộng thị trường, tận dụng quy mô sản xuất tối ưu để hạ giá thành sản phẩm, tạo khả năng tăng thu lợi nhuận, tăng tích luỹ vốn cho CNH, HĐH. 2. Là một quốc gia đi sau, Việt Nam có thể học hỏi, kế thừa các kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước khu vực Đông Nam Á, Châu Á trong việc phát triển ngoại thương để đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế đất nước. 3. Trong quá trình phát triển, ngoại thương Việt Nam đã góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH - nhất là từ năm 1991 đến nay. Ngoại thương tạo điều kiện tăng thu lợi nhuận dành cho tích luỹ nhờ gia tăng xuất khẩu những mặt hàng chủ lực có lợi thế so sánh như: Gạo, Cà phê, Điều, Thuỷ sản, Dệt may, Dầu thô..., đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Ngoại thương cũng góp phần giải quyết việc làm thông qua phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó nâng cao thu nhập cho người lao động tăng thu cho ngân sách..., góp phần tăng tích luỹ vốn cho CNH, HĐH. 4. Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra sôi động, ngoại thương Việt Nam cần khắc phục những yếu kém về cơ cấu xuất nhập khẩu, vể khả năng thu thập thông 113 tin, dự báo thị trường và cơ chế phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngoại thương, về chính sách bảo hộ hiện hành và về cơ chế quản lý xuất nhập khẩu... để có thể đáp ứng những đòi hỏi cao hơn của quá trình CNH, HĐH. 5. Tiềm năng phát triển ngoại thương của nước ta tương đối phong phú, đa dạng. Cần có chiến lược khai thác và sử dụng hợp lý để đạt hiệu quả cao, đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo cơ hội vừa đặt ra những thách thức cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương. Phát triển ngoại thương phải hướng vào mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội. Để nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH trong thời gian tới, cần thực hiện những giải pháp đồng bộ theo phương hướng đã xác định. Các giải pháp phát triển ngoại thương đòi hỏi sự tham gia tích cực của mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh XNK. Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ về vốn, công nghệ, kỹ thuật, đào tạo lao động, thể chế chính sách hợp lý... tạo điều kiện tốt nhất để ngoại thương phát triển góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH phát triển kinh tế rút ngắn 114 thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Thương mại (2002), Báo cáo sơ kết Nghị quyết TW4 (khoá VIII), Hà Nội 2. Bộ Thương mại (2003), Chuyên đề: Một số định hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu năm 2003, Vụ Xuất nhập khẩu, Hà Nội. 3. Bộ Thương mại (2002), Về tình hình và một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu (kèm theo văn bản số 0952 ngày 07/6/2002). 4. Bộ Thương mại (2005), Báo cáo Hội nghị thương mại toàn quốc năm 2005, Hà Nội, ngày 28/2 và 01/3/2005. 5. Mai Văn Dâu (2001), "Định hướng chính sách thương mạu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế", Báo Thương mại, (4), tr.4. 6. Lê Đăng Danh (1999), "Hội nhập quốc tế, cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế nước ta", Tạp chí Cộng sản, (9), tr.28. 7. Hồ Hùng Dũng (2002), "Ngoại thương Việt Nam từ 1991-2000: Những thành tựu và suy nghĩ", Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (294). 8. Ngọc Dương (2005), "Xuất khẩu tăng trưởng bất ngờ và ngoạn mục", Thời báo kinh tế, (chuyên đề 1- 2005), tr 26-28. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đào Huy Giám (1999), "Sự vận động hội nhập của chính sách thương mại", Tạp chí Cộng sản, (19), tr.19. 14. Doãn Khánh (2000), " Xuất khẩu hàng hoá Việt Nam 10 năm qua", Tạp 115 chí Cộng sản, (17). 15. Vũ Khoan (2000), "Xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 19 năm đầu của thế kỷ mới", Tạp chí Cộng sản, (20). 16. Nguyễn Đình Hương - Vũ Đình Bách (1999), Quan hệ thương mại Việt
Nam- ASEAN và chính sách XNK của Việt Nam, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội. 17. Nguyễn Thị Hường (2000), "Một số giải pháp tạo bước đột phá trong
xuất khẩu nông sản ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (324). 18. Nguyễn Thị Hiền (2002), Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Lịch (2005), (Chủ nhiệm đề tài NCKH cấp bộ, mã số 2004-
78-017), Nghiên cứu cán cân thương mại trong sự nghiệp CNH, HĐH ở
Việt Nam, Bộ Thương mại - Viện Nghiên cứu Thương mại, Hà Nội. 20. Bùi Xuân Lưu (chủ nhiệm đề tài) (1998), Chính sách ngoại thương trong
quá trình CNH, HĐH đất nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại
học Ngoại thương, Hà Nội. 21. Nguyễn Văn Nam (2002), (chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước, mã số 201-
78-001), Chính sách và giải pháp phát triển hàng hoá xuất khẩu của Việt
Nam thời kỳ 2001- 2010, tầm nhìn đến 2020, Bộ Thương mại- Viện
Nghiên cứu Thương mại, Hà Nội. 22. Nguyễn Văn Nam (2005), Sàn giao dịch nông sản với việc giảm rủi ro về giá cả, NXB Thống kê, Hà Nội. 23. Ngân hàng thế giới (2001), Việt Nam: đẩy mạnh đổi mới để tăng trưởng xuất khẩu. 24. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám Thống kê 2001, NXB Thống kê, Hà Nội. 25. Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám Thống kê 2004, NXB Thống kê, Hà Nội. 26. Nguyễn Thanh Nga (2002), "Toàn cầu hoá - hai mặt thuận và nghịch đối 116 với thương mại của Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (32). 27. Tạ Văn Ngọ (1999), "Một số thách thức trong tiến trình hội nhập quốc tế
và thực hiện chiến lược CNH hướng về xuất khẩu của Việt Nam", Tạp
chí Kinh tế và dự báo, (312). 28. Cao Đức Phát (1997), "Tác động của XNK tới nông nghiệp Việt Nam
thông qua cánh kéo giá và khả năng cạnh tranh của nông nghiệp", Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, (227). 29. Trần Việt Phương (1999), Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Cộng sản, (20). 30. Phạm Thái Quốc (2001), Trung Quốc quá trình CNH 20 năm cuối thế kỷ XX, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 31. Nguyễn Trần Quế (chủ biên, 2000), Lựa chọn sản phẩm và thị trường
trong ngoại thương thời kỳ CNH của các nền kinh tế Đông Á, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Lê Bàn Thạch - Trần Thị Tri (2000), CNH ở NIEs Đông Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, NXB Thế giới, Hà Nội. 33. Nguyễn Quang Thái (1999), "Lợi thế và bất lợi thế so sánh của Việt Nam trong quá trình hội nhập", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (318). 34. Hoàng Đức Thân (2001), Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Vũ Thanh Thu (1999), Kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê, Hà Nội. 36. Từ Thanh Thuỷ (2003), Hoàn thiện chính sách ngoại thương Việt Nam
trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập với khu vực và thế giới, Luận án
tiến sỹ Kinh tế, Hà Nội. 37. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách 117 khoa Việt Nam, tập 1, Hà Nội.2.1. Tình hình phát triển ngoại thƣơng Việt Nam từ năm 1991 đến
nay
KNXK
Tốc độ tăng
KNNK
Tốc độ tăng
Cán cân TM
Tổng GDP
Tổng KN
XK (%)
(Tr.USD)
Năm
(TrUSD)
(TrUSD)
NK (%)
(Tr. USD)
XNK/GDP
(%)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
mặt hàng
7256
1346
1150
530,1
696,5
94,3
854,6
336,8
263,0
103,8
118,5
114,2
90,2
46,8
29,0
71,0
19,4
5,6
9185
1423,4
4502,5
978,4
782,0
440,1
870,9
497,5
190,5
133,3
146,0
110,8
71,2
67,5
48,3
47,4
12,9
7,1
11540
2091,6
1747,3
1391,6
951,7
585,1
1025,1
585,3
146,8
109,7
168,2
96,1
104,9
137,3
45,1
32,7
11,9
4,7
5449
1033,3
850,3
296,4
624,4
13,4
528,4
595,5
193,5
97,7
115,6
88,9
56,1
38,8
26,5
71,1
18,4
7,2
9360
1232,2
1450,4
1031,8
858,0
497,2
1019,7
593,8
127,5
117,0
111,2
101,5
53,4
64,4
50,5
42,3
12,4
3,8
14483
3502,6
1892,3
1464,6
1478,6
782,7
667,3
501,5
166,1
167,3
236,8
94,1
213,5
145,9
69,6
41,1
16,8
5,6
2919,3
15029
3125,6
1975,1
1559,5
1777,6
595,6
335,1
624,7
391,3
166,0
151,7
235,2
154,3
113,3
134,3
113,8
330,0
91,2
78,4
43,1
44,9
38,1
187,7
9,9
6,2
33,0
36,3
2550,3
124,6
16706
3270,4
2751,6
1867,0
2022,8
491,8
435,4
725,5
322,3
267,8
209,0
331,0
185,8
156,0
152,6
124,1
201,1
107,1
82,5
22,4
35,0
50,8
88,4
5,2
5,9
1,6
31,5
2666,0
94,3
20716
3821,0
3686,9
2268,0
2199,6
672,3
567,1
720,5
504,8
377,8
284,5
366,7
263,0
184,3
186,3
154,4
151,4
105,0
59,9
35,5
36,5
47,9
64,2
8,4
5,4
10,8
31,4
3270,9
91,9
26504
5670,6
4385,5
2691,6
2400,8
1129,3
1139,1
950,4
641,0
596,9
436,0
425,5
389,0
355,2
261,0
239,0
178,8
152,3
95,5
55,0
53,0
27,0
34,2
13,7
8,1
0,5
47,0
4069,2
112,1
T. KNXK
1. Dầuthô
2. Dệt may
3. Giày dép
4. Hải sản
5. Đ.tử, MVT
6. S.phẩm gỗ
7. Gạo
8. Cà phê
9. Cao su
10. Hạt điều
11. TCMnhgệ
12. Dây điện và
D. cáp điện
13. Than đá
14. S.phẩm nhựa
15. Xe đạp và
phụ tùng
16. Hàng R. quả
17. Hạt tiêu
18. Chè các loại
19. Dầu mỡ ĐV
20. Mỳ ăn liền
21. Lạc nhân
22. Sữa và SPsữa
23. Thiếc
24. Quế
25. Đường
26. Đồ chơi TE
27. H khác
28. H.phi m.dịch
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
17,4 17,41 14,46 14,66 14,52
8,65 10,37
8,94
9,43
3,4
3,71
4,86
5,36
1,43
1,85
2,0
2,11
2,27
2,44
2,79
2,7
16,7
13,2
14,6 14,42
7,09 14,49 19,52 18,83
6,87
7,95
6,93
19,7 19,98 18,93 19,09 18,75
Bảng 2.7 : Tốc độ tăng giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm qua các năm (%)
Ngành Công nghiệp
Nông, Lâm, Thuỷ sản
Năm
Nhóm hàng
1991 1995 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Năm
A. TL sản xuất
89,9
84,8
91,5
91,6
93,8
92,1
92,1
92,2
95,0
B. TL tiêu dùng
11,1
15,2
8,5
8,4
6,2
7,9
7,9
7,8
5,0
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
100
100
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
3.2.1.Mục tiêu phát triển ngoại thương Việt Nam thời kỳ đến năm 2010
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
Tổng kim ngạch XKHH
(tr.USD)
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2010
14.810
94,7
27.500
94,8
48.000
96,0
1. Tƣ liệu sản xuất
(Tr.USD)
829
5,3
1.500
5,2
2.000
4,0
2. Hàng tiêu dùng
(tr.USD)
15.639
100
29.000
100
50.000
100
Tổng kim ngạch NKHH
(tr.USD)