ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN VĂN KẾT

37,46,59,60,69 1-36,38-45,47-58,61-68,70-107

PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA HUYỆN ỨNG HÒA – HÀ NỘI

Chuyên ngành : ĐỊA LÍ HỌC

Mã số : 60.31.05.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. DƯƠNG QUỲNH PHƯƠNG

Thái Nguyên - Năm 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:

(i) Luận văn này là sản phẩm nghiên cứu của tôi.

(ii) Số liệu trong luận văn được trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng.

(iii) Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

i

Trần Văn Kết

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô đã giảng dạy trong

chương trình Cao học chuyên ngành Địa lí học, các thầy cô giáo đang giảng

dạy tại khoa Địa Lí, các thầy cô phòng sau đại học, trường ĐHSP Thái Nguyên,

những người đã truyền đạt cho tôi những kiến thức hữu ích về chuyên ngành

địa lí học, những người đã chỉ bảo, đóng góp ý kiến,.. làm cơ sở cho tôi thực

hiện tốt luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo, TS. Dương Quỳnh Phương, người đã

trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực

hiện luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn phòng Kinh tế huyện Ứng Hòa, phòng Thống kê

huyện Ứng Hòa, phòng Thư viện trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG HN, thư

viện trường Sư Phạm Hà Nội, Thư viện Quốc gia, nơi đã tạo điều kiện cung cấp

số liệu, tài liệu tham khảo và nhiều thông tin hữu ích khác phục vụ cho tôi

trong quá trình thực hiện luận văn.

Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, những người

luôn động viên, tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần cho tôi trong suốt quá

trình học tập cũng như hoàn thành luận văn.

Trong quá trình học tập và nghiên cứu, mặc dù bản thân rất cố gắng,

nhưng do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều nên luận văn

không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, kính mong nhận được sự góp ý

của quý thầy cô và bạn đọc quan tâm để luận văn được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Thái nguyên, tháng 5 năm 2015

Tác giả

ii

Trần Văn Kết

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa......................................................................................................

Lời cam đoan .................................................................................................... i

Lời cảm ơn ...................................................................................................... ii

Mục lục ...........................................................................................................iii

Danh mục bảng................................................................................................ iv

Danh mục hình ................................................................................................. v

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG

NGHIỆP, NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA.................................................... 12

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN..................................................................................... 12

1.1.1. Một số khái niệm .................................................................................. 12

1.1.2. Đặc trưng của nền nông nghiệp hàng hóa.............................................. 16

1.1.3. Nội dung phát triển nông nghiệp hàng hóa ............................................ 20

1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN................................................................................ 24

1.2.1. Vai trò của nông nghiệp hàng hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội ở

Việt Nam ....................................................................................................... 24

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam .... 30

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 35

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

HUYỆN ỨNG HÒA, HÀ NỘI...................................................................... 36

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện

Ứng Hòa......................................................................................................... 36

2.1.1. Vị trí địa lí ............................................................................................ 36

2.1.2. Các nhân tố tự nhiên ............................................................................. 38

2.1.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội................................................................... 42

2.1.4. Ðánh giá chung ..................................................................................... 44

iii

2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Úng Hòa................... 47

2.2.1. Khái quát chung .................................................................................... 47

2.2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa huyện

Ứng Hòa ......................................................................................................... 49

2.2.3. Hiệu quả của việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

huyện Ứng Hòa............................................................................................... 70

2.2.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hóa huyện Ứng Hòa........................................................................ 73

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG

NGHIỆP HÀNG HÓA HUYỆN ỨNG HÒA, HÀ NỘI............................... 77

3.1. Định hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa đến năm 2020.. 77

3.1.1. Những căn cứ để đưa ra định hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa

huyện Ứng Hòa đến năm 2020........................................................................ 77

3.1.2. Những định hướng cụ thể...................................................................... 82

3.2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa .... 85

3.2.1. Tổ chức sản xuất và sử dụng đất ........................................................... 85

3.2.2. Giải pháp về khoa học công nghệ và khuyến nông................................ 86

3.2.3. Giải pháp về vốn đầu tư ........................................................................ 89

3.2.4. Tăng cường cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật............................. 91

3.2.5. Xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm ............................................ 92

3.2.6. Sử dụng nguồn nhân lực hợp lí và có hiệu quả ...................................... 93

KẾT LUẬN ................................................................................................... 94

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ... 96

iv

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 97

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

Bảng 2.1. Cơ cấu giá trị nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế 47 1

của huyện Ứng Hòa giai đoạn 2009 - 2014

Bảng 2.2. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Ứng Hòa giai 48 2

đoạn 2009-2014

Bảng 2.3. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa huyện Ứng 51 3

Hòa và toàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 - 2014

Bảng 2.4. Diện tích lúa cả năm phân theo đơn vị hành chính 52 4

huyện Ứng Hòa giai đoạn 2009 – 2013

Bảng 2.5. Số lượng đàn gia súc, gia cầm huyện Ứng Hòa giai 56 5

đoạn 2009-2014

Bảng 2.6. Sản lượng thịt gia súc, gia cầm huyện Ứng Hòa giai 56 6

đoạn 2009-2014

Bảng 2.7. Số lượng và sản lượng thịt đàn gia súc, gia cầm 57 7

huyện Ứng Hòa và thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 - 2013

Bảng 2.8. Giá trị sản phẩm trên một ha đất nông nghiệp 70 8

Bảng: 3.1. Dự báo xu hướng biến động sử dụng đất huyện 81 9

iv

Ứng Hòa đến năm 2020

DANH MỤC HÌNH

STT Tên hình Trang

1 Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Ứng Hòa, Hà Nội 37

2 Hình 2.2. Bản đồ nguồn lực phát triển nông nghiệp huyện Ứng Hòa 46

3 Hình 2.3. Giá trị sản xuất nông nghiệp huyện Ứng Hòa 2009 – 2014 47

4 Hình 2.4. Cơ cấu ngành thủy sản huyện Ứng Hòa giai đoạn 59

2009 – 2014

5 Hình 2.5. Bản đồ hiện trạng phát triển nông nghiệp huyện Ứng Hòa 60

v

6 Hình 2.6. Bản đồ tổ chức lãnh thổ nông nghiệp huyện Ứng Hòa 69

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp là ngành sản

xuất vật chất lâu đời nhất. Nhân loại đã trải qua nhiều phương thức sản xuất

nhưng sản xuất nông nghiệp vẫn có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế

xã hội của loài người. Nông nghiệp không chỉ cung cấp trực tiếp lương thực,

thực phẩm cho đời sống hàng ngày của con người mà còn là hoạt động cung

cấp nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến, tạo nguồn hàng xuất

khẩu. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn đóng vai trò to lớn trong việc sử dụng, bảo

vệ đất, nguồn nước cũng như cải thiện môi trường.

Ở Việt Nam, trong những năm qua, nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, trong đó ngành nông nghiệp

đã từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng hàng hóa và có những

đóng góp rất quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Đảng và nhà nước ta cũng

đã có nhiều chủ trương và giải pháp nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch kinh tế

nông nghiệp và nông thôn theo hướng đi từ nền kinh tế tự cấp nhỏ lẻ lên nền

kinh tế hàng hóa hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập nền kinh tế khu vực và

thế giới, đặc biệt khi chúng ta đã tham gia thực hiện AFTA, tham gia APEC,

và ra nhập WTO.

Nông nghiệp nước ta có thế mạnh về đất đai, lao động và có khả năng đa

dạng hóa sản phẩm, nhưng chúng ta cũng có nhiều điểm yếu: cơ sở vật chất kỹ

thuật, khoa học công nghệ, sản xuất và chế biến, trình độ quản lý,... Những hạn

chế đó làm cho chất lượng sản phẩm còn thấp, giá thành sản xuất chưa cao,

hiệu quả sản xuất thấp, hạn chế tính cạnh tranh. Để hội nhập với thị trường khu

vực và quốc tế, giữ được thị trường trong nước, chúng ta cần đẩy mạnh phát

1

triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa.

Ứng Hòa là một huyện của Hà Nội, với 28 xã và 1 thị trấn. Tổng diện tích

đất tự nhiên của huyện là 18.375,68 ha. Trong đó đất nông nghiệp khoảng

12.809,66 ha chiếm 69,71% diện tích đất tự nhiên của huyện. Ứng Hòa, là một

huyện thuần nông, có nhiều lợi thế cả về tự nhiên và kinh tế - xã hội để phát

triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa. Trong những năm qua, sản

xuất nông nghiệp đạt được những thành tựu khá vững chắc. Năm 2010, giá trị

sản xuất nông, lâm, thủy sản của huyện đạt 3.613,8 tỉ đồng chiếm 36,7% trong

tổng giá trị sản xuất toàn huyện. Khu vực nông nghiệp thu hút hơn 76% lực

lượng lao động của huyện. Tuy nhiên, trong quá trình CNH, HĐH, diện tích đất

nông nghiệp ngày càng giảm, sản xuất nông nghiệp của huyện vẫn chưa chuyển

mạnh sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trường, thu nhập từ sản xuất nông

nghiệp còn thấp, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn.

Để sản xuất nông nghiệp của huyện tiếp tục ổn định và phát triển, mang

lại hiệu quả kinh tế cao trong giai đoạn hiện nay cũng như có định hướng chiến

lược cho tương lai, những nghiên cứu về sự phát triển nông nghiệp cần phải có

sự nhìn nhận đúng vai trò, đánh giá một cách khách quan các nguồn lực cho

phát triển nông nghiệp của huyện theo hướng sản xuất hàng hóa, đồng thời phải

có những giải pháp phát triển nông nghiệp phù hợp.

Xuất phát từ những lí do trên, tôi lựa chọn hướng nghiên cứu: “Phát triển

nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa, Hà Nội”.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học cấp

nhà nước, luận án tiến sĩ, sách báo, tạp chí nghiên cứu về vấn đề phát triển

nông nghiệp hàng hóa:

- Trần Xuân Châu “Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam: thực

2

trạng và giải pháp”, Nxb CTQG, 1994.

- Lương Xuân Quỳ “Những biện pháp tổ chức và quản lý để phát triển

kinh tế nông nghiệp hàng hóa và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc Bộ”,

Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.

- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Huấn “Dịch vụ sản xuất nông nghiệp

cho hộ tự chủ sản xuất kinh doanh để phát triển sản xuất hàng hóa ở đồng

bằng Bắc Bộ”.

- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Quang Hồng tại Học viện CTQG Hồ Chí

Minh “Phát triển nông nghiệp hàng hóa định hướng XHCN ở Việt Nam”, Hà

Nội, 1993.

- Bên cạnh các công trình nghiên cứu có tính chất hệ thống, quy mô lớn,

nông nghiệp nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng cũng là một chủ đề

rộng lớn, có sức hấp dẫn đối với các nghiên cứu sinh và được các nghiên cứu

sinh lựa chọn làm đề tài cho luận văn của mình.

- Đề tài “Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam: Thực trạng và giải

pháp”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đặng Tố Tâm. Đây là công trình nghiên cứu

sâu về phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn, sản xuất hàng hóa.

- Đề tài “Phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ

kinh tế, Vũ Văn Nâm. Đây là đề tài đã nêu khái quát về phát triển nông nghiệp

bền vững ở Việt Nam nói chung mà chưa đi sâu tới các vùng, miền và địa

phương cụ thể.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên thường chỉ

đi sâu nghiên cứu một mặt hoặc một vấn đề cụ thể nào đó của sự phát triển

nông nghiệp hàng hóa như: tính chất định hướng XHCN của nền nông nghiệp

hàng hóa (Nguyễn Quang Hồng), dịch vụ cho kinh tế hộ (Nguyễn Văn Huấn),

quá trình chuyển dịch từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp lên nông nghiệp hàng

hóa (Lương Xuân Quỳ), hoặc kinh tế hàng hóa nông thôn nói chung. Công

trình nghiên cứu của Trần Xuân Châu đã nghiên cứu khá sâu sắc và toàn diện

3

về lí luận và thực tiễn phát triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta từ đó chỉ ra

được những thành tựu và hạn chế cũng như đưa ra các giải pháp đẩy mạnh phát

triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta tuy nhiên quan điểm nghiên cứu, cách

thức tiếp cận và hoàn cảnh lịch sử ở đây có sự khác nhau: phát triển nông

nghiệp hàng hóa ở đây được tiếp cận ở góc độ kinh tế chính trị và an ninh

lương thực quốc gia. Mặt khác, do giới hạn lịch sử trong thời gian nghiên cứu ít

nhiều chịu sự chi phối của lối tư duy, hoàn cảnh cũ trong khi nền kinh tế nói

chung và nông nghiệp nói riêng đã và đang chuyển mạnh sang kinh tế thị

trường, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa,.. nên một số quan điểm và

phương hướng không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay đòi hỏi phải được

xem xét bổ xung trong hoàn cảnh mới.

Những đóng góp khoa học của các công trình nghiên cứu trên vào sự phát

triển nền nông nghiệp nói chung và phát triển nông nghiệp hàng hóa nói riêng

là bổ ích. Tuy nhiên trước những biến đổi của nền kinh tế và những vấn đề mới

đặt ra cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đòi

hỏi cần phải có nhận thức sâu sắc và tổng quát về phát triển nông nghiệp hàng

hóa, vừa đảm bảo sự tăng trưởng nhanh, ổn định và vững chắc, vừa đảm bảo

mục tiêu công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển nông

nghiệp hàng hóa đang được coi là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh

giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Về vấn đề này, Đảng ta đa

khẳng định “Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa

lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững.

Trên địa bàn huyện Ứng Hòa, Hà Nội vấn đề phát triển nông nghiệp, nông

thôn nói chung cũng được cũng được Đảng bộ và các ban ngành quan tâm và

có một số nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên chưa có một công trình nghiên

cứu chuyên sâu nào về lĩnh vực phát triển nông nghiệp hàng hóa trên địa bàn

huyện. Vì vậy, đây là một đề tài độc lập, đề cập một cách đầy đủ và hệ thống về

4

phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa, dưới góc độ Địa lí học.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy

mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, hiệu quả và bền vững cho

huyện Ứng Hòa, Hà Nội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan có chọn lọc cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển nông

nghiệp và phát triển nông nghiệp hàng hóa.

- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển nông nghiệp hàng hóa

huyện Ứng Hòa.

- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa.

- Đề xuất một số giải pháp cho phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện

Ứng Hòa.

3.3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Đề tài tập trung phân tích tiềm năng và thực trạng phát

triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của huyện Ứng Hoà.

- Về không gian: Luận văn nghiên cứu sự phát triển nông nghiệp hàng hóa

trên địa bàn huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Bên cạnh đó, đặt huyện Ứng Hòa trong

bối cảnh liên kết với thành phố Hà Nội.

- Về thời gian: Số liệu được nghiên cứu trong giai đoạn 2000 - 2014 và

đinh hướng đến năm 2020

4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

4.1. Quan điểm nghiên cứu

4.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ

Đây là quan điểm quan trọng trong nghiên cứu địa lí nói chung. Tính tổng

hợp được xem là tiêu chuẩn hàng đầu trong đánh giá giá trị khoa học của các

5

công trình nghiên cứu về các địa tổng thể.

Các hoạt động kinh tế nông nghiệp trong một vùng lãnh thổ là khai thác tổng

hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội. Mỗi

một vùng lãnh thổ có những lợi thế so sánh riêng để chú trọng phát triển với các sản

phẩm thế mạnh mang tính chất đặc trưng. Cơ cấu lãnh thổ huyện Ứng Hòa được

coi như một thể tổng hợp tương đối hoàn chỉnh, trong đó các yếu tố tự nhiên,

kinh tế xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động ảnh hưởng chi phối lẫn nhau.

Các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn đều có những lợi thế riêng để phát triển

nông nghiệp nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Do vậy, trong quá trình tìm hiểu, phân tích thực trạng phát triển nông

nghiệp hàng hóa của huyện, luận văn đã vận dụng quan điểm này để thấy được

sự phân hóa về mặt lãnh thổ sản xuất cũng như các thế mạnh riêng của mỗi đơn

vị hành chính trong huyện. Từ đó đưa ra những định hướng phát triển có tính

tổng hợp nhằm khai thác tốt nhất những tiềm năng của huyện để đẩy nhanh sự

tăng trưởng.

4.1.2. Quan điểm hệ thống

Trong hệ thống các ngành kinh tế quốc dân, mỗi một ngành kinh tế là một

bộ phận của hệ thống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ mật thiết với các

phân hệ còn lại trong hệ thống và với những yếu tố khác bên ngoài hệ thống

(điều kiện tự nhiên, thị trường…)

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc xem xét quá trình phát triển kinh

nông nghiệp hiện nay trên lãnh thổ phải dựa vào quan điểm hệ thống, xem xét

chúng một cách toàn diện, đặt chúng trong mối quan hệ nhiều chiều, trong các

hoàn cảnh cụ thể, trong trạng thái vận động và phát triển của nông nghiệp. Tính

hệ thống làm cho quá trình thực hiện đề tài trở nên logic và thông suốt.

Nếu xét trên hệ thống lớn hơn, thì lãnh thổ huyện Ứng Hòa là một bộ phận

thuộc thành phố Hà Nội thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và của cả nước.

Nếu xét cấp thấp hơn thì lãnh thổ Ứng Hòa là một tập hợp bao gồm các hệ

6

thống con (các xã, thị trấn) có mối quan hệ tương tác mật thiết với nhau. Vì

vậy, luận văn đã nghiên cứu, tìm hiểu các mối quan hệ qua lại, các tác động ảnh

hưởng giữa các yếu tố trong một hệ thống và giữa các hệ thống để đánh giá

chính xác vấn đề cần nghiên cứu.

4.1.3. Quan điểm lịch sử

Mọi sự vật, hiện tượng địa lí dù lớn, nhỏ đều có quá trình phát sinh, tồn tại

và phát triển riêng của nó. Sự phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và nông

nghiệp hàng hóa nói riêng luôn có sự thay đổi trong các thời kỳ và luôn luôn ở

trạng thái vận động, biến đổi không ngừng theo sự phát triển của lực lượng sản

xuất và quan hệ sản xuất. Luận văn vận dụng quan điểm lịch sử vào nghiên cứu

để thấy được những biến đổi của các yếu tố kinh tế nông nghiệp qua từng giai

đoạn phát triển kinh tế của huyện., từ đó đánh giá chính xác các triển vọng phát

triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa của huyện; thấy được quá trình hình

thành và phát triển của của ngành nông nghiệp hàng hóa trong quá khứ, hiện tại

cũng như đề xuất những giải pháp mới nhằm mục đích đẩy mạnh phát triển nền

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và khai thác lãnh thổ có hiệu quả

hơn trong tương lai của huyện.

4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững

Quan điểm phát triển bền vững hiện nay đang là một quan điểm bao trùm

phát triển kinh tế, đặc biệt trong điều kiện của cách mạng khoa học công nghệ

và toàn cầu hóa.

Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên,

ngoài mục đích kinh tế đơn thuần, vấn đề đặt ra khi phát triển nông nghiệp là

cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lí, phải tuân theo quy

luật phát triển của tự nhiên và đảm bảo môi trường. Có như vậy, hệ thống sinh

thái mới được cân bằng, môi trường không bị ô nhiễm, đảm bảo cho sự phát

triển bền vững của nông nghiệp, nông thôn nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Vận dụng vào luận văn, việc phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa của

huyện Ứng Hòa phải mang lại hiệu quả cao, hài hòa và bền vững cả về kinh tế,

7

xã hội và bảo vệ môi trường.

Những giải pháp cho sự phát triển nông nghiệp hàng hóa của huyện phải

dựa trên quan điểm phát triển bền vững. Phát triển nền kinh tế nông nghiệp

phải gắn liền với bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên, chống ô nhiễm môi

trường, kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng

cao chất lượng cuộc sống của dân cư “Việc phát triển của ngày hôm nay không

làm ảnh hưởng đến tương lai”.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp thu thập và xử lí số liệu

Đây là phương pháp quan trọng, xuyên suốt quá trình nghiên cứu đề tài,

được sử dụng nhằm hệ thống lại các tri thức, tìm ra các nội dung mới về lí luận

để vận dụng chúng vào nghiên cứu đề tài.

Trong những năm gần đây có một số công trình nghiên cứu về Ứng Hòa

trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có những vấn đề liên quan đến hướng

nghiên cứu của luận văn. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã thu thập, phân

tích và xử lí các tài liệu này sao cho các thông tin được chọn lọc là đáng tin cậy

và đảm bảo được sự đồng bộ. Một số kết quả phân tích, tổng hợp đã được tác

giả kế thừa và sử dụng làm nguồn thông tin đầu vào để xử lí, phân tích.

Trong luận văn, tác giả đã tiến hành thu thập các số liệu, tư liệu từ nhiều

nguồn khác nhau, ở các mốc thời gian khác nhau. Để thống nhất về thời gian,

tác giả chọn số liệu giai đoạn 2000 – 2014 để phân tích hiện trạng cũng như để

xem xét sự tăng trưởng và phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa của

huyện theo khía cạnh ngành và lãnh thổ, trên cơ sở đó tiến hành các phương

pháp nghiên cứu trong phòng.

4.2.2. Phương pháp phân tích

Thực trạng phát triển nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp hàng hóa của

huyện Ứng Hòa được nhận biết thông qua phân tích các mối quan hệ về không

gian và thời gian. Luận văn đã chú ý các mối quan hệ tự nhiên và nhân văn, các

8

mối quan hệ hình thức và bản chất. Quá trình phân tích đánh giá, đề xuất được

tiến hành trên cơ sở so sánh, tổng hợp để rút ra các bản chất của hiện tượng

kinh tế, hiện tượng địa lí để phục vụ luận văn.

Phương pháp này nhằm phân tích cá số liệu điều tra, tính toán các thông

số trên cơ sở các số liệu đã thu thập được, xây dựng các bảng số liệu phục vụ

cho việc nghiên cứu của đề tài. Thống kê toán học được sử dụng trong đề tài

như là công cụ để nhận biết các giá trị gần đúng, xác thực nhất với thực tiễn

trên cơ sở số liệu đã thu thập được từ Cục Thống kê, Sở Nông nghiệp, Sở Kế

hoạch và Đầu tư, Phòng Kinh tế,…

4.2.3. Phương pháp bản đồ, GIS

Bản đồ là ngôn ngữ tổng hợp, ngắn gọn, súc tích và là phương thức thể

hiện trực quan các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội của các vùng lãnh thổ. Sử

dụng bản đồ là phương pháp nghiên cứu truyền thống đặc trưng của khoa học

địa lí và nhiều môn học khác.

Phương pháp sử dụng hệ thống thông tin địa lí GIS hình thành trên cơ sở

của phương pháp bản đồ kết hợp với những thành tựu công nghệ thông tin hiện

đại. GIS là tập hợp các thông tin theo các dạng, các lớp khác nhau, trên cơ sở

đó phân tích, xử lý và hiện thị các thông tin về vùng, về không gian kinh tế xã

hội. Ưu điểm nổi trội của phương pháp này là khả năng truy cập và xử lý thông

tin nhanh, kết hợp được đồng thời nhiều loại thông tin, nhiều lớp thông tin về

cùng một đối tượng địa lí trên lãnh thổ.

4.2.4. Phương pháp thực địa

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả nhiều lần đi thực địa để thu thập tài

liệu, quan sát và kiểm chứng sự phát triển các ngành kinh tế nói chung và nông

nghiệp nói riêng. Sự phân bố các cơ sở sản xuất của các ngành kinh tế, sự phân

bố của cây trồng vật nuôi chủ yếu trên địa bàn huyện cũng như ảnh hưởng của

các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến các lĩnh vực sản xuất.

Tác giả tiến hành thực tế tại các địa phương trên địa bàn huyện để trực

9

tiếp thấy được những tiềm năng và thế mạnh để phát triển nông nghiệp

hàng hóa trên địa bàn đó, đồng thời thấy được bức tranh phân bố sản xuất

trên địa bàn huyện.

Từ khảo sát, tác giả sẽ đưa ra những nhận định khái quát cho sự phát triển

nền nông nghiệp sản xuất theo hướng hàng hóa của huyện cũng như dự báo

chính xác cho những năm tiếp theo.

4.2.5. Phương pháp chuyên gia

Nội dung nghiên cứu có liên quan đến nhiều chuyên ngành thuộc lĩnh vực

nông nghiệp như thổ nhưỡng, trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản,…

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã trực tiếp thảo luận và trưng cầu ý kiến

của các nhà khoa học, các thầy cô chuyên ngành địa lí của Trường ĐHSP Thái

Nguyên, ĐHSP Hà Nội… Cũng như một số cán bộ thuộc sở Nông nghiệp và

phát triển nông thôn thành phố Hà Nội, Phòng Kinh tế huyện Ứng Hòa… để

tiếp thu ý kiến, phương pháp nghiên cứu, kế thừa nguồn tài liệu và học hỏi kinh

nghiệm thực tiễn. Nhờ đó đã giải quyết được những khó khăn, vướng mắc

trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ đặt ra.

5. Những đóng góp của đề tài

- Tổng quan và làm sáng tỏ hệ thống cơ sở lí luận và thực tiễn về phát

triển nông nghiệp hàng hóa.

- Đánh giá tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp

huyện Ứng Hòa, chỉ ra được những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát

triển nông nghiệp hàng hóa của huyện.

- Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa của huyện trong

giai đoạn 2009 – 2014.

- Đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần đẩy nhanh quá

trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa một cách có hiệu

10

quả và bền vững.

6. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

chính của đề tài được chia làm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nông nghiệp và

nông nghiệp hàng hoá

Chương 2: Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng

Hòa, Hà Nội

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp phát triển nông nghiệp

11

hàng hóa huyện Ứng Hòa, Hà Nội

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN

NÔNG NGHIỆP, NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Nông nghiệp

Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, là một bộ

phận cấu thành nền kinh tế quốc dân.

Theo Từ điển Tiếng Việt: nông nghiệp “Là ngành sản xuất chủ yếu của xã

hội, có nhiệm vụ cung cấp sản phẩm ngành trồng trọt và chăn nuôi” [47].

Theo Từ điển kinh tế học “Nông nghiệp là quá trình sản xuất lương thực,

thực phẩm, thức ăn, gia súc, tơ sợi và sản phẩm mong muốn khác bởi trồng trọt

những cây trồng chính và chăn nuôi đàn gia súc” [33].

Theo Bách Khoa toàn thư: “Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ

bản của xã hội, sử dụng đất để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và

vật nuôi làm tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực, thực

phẩm và một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành lớn,

bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo

nghĩa rộng, còn bao gồm cả lâm nghiệp và thủy sản” [2].

Khái niệm về nông nghiệp đang được nhìn nhận phù hợp với xu hướng

phát triển. Nông nghiệp hiện đại đã vượt ra khỏi nền nông nghiệp truyền thống,

sản xuất nông nghiệp chủ yếu tạo ra lương thực cho con người hay làm thức ăn

cho gia súc. Các sản phẩm nông nghiệp ngày nay, ngoài lương thực, thực phẩm

truyền thống phục vụ cho con người còn các loại khác như: sợi dệt (bông, len,

lụa, lanh), lâm nghiệp và thủy sản...sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa,

quan tâm đến việc đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Trên cơ sở phân tích các khái niệm nông nghiệp ở trên, nông nghiệp có

12

thể được hiểu một cách khái quát “Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất

cơ bản của xã hội, được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành nông, lâm

và ngư nghiệp”.

1.1.1.2. Nông nghiệp hàng hoá

Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa là hai hình thức tổ chức kinh tế đã

tồn tại trong lịch sử. Trong nền kinh tế tự nhiên, sản phẩm lao động chỉ dùng để

thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Trong nền

kinh tế hàng hóa, việc sản xuất và trao đổi sản phẩm trên thị trường diễn ra

thường xuyên, phổ biến và trở thành mục đích ngay từ đầu của người sản xuất.

Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hóa được coi là một bước tiến bộ của

lịch sử, một nấc thang phát triển của nền văn minh nhân loại, mà bất kỳ một

dân tộc nào sớm muộn cũng phải trải qua.

Xét theo phạm vi hoạt động và đặc thù của sản phẩm, nền kinh tế hàng

hóa của một nước bao gồm toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa

của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp là một ngành

sản xuất vật chất cơ bản của đời sống xã hội, đem lại lương thực, thực phẩm

cho con người và nguyên liệu cho ngành công nghiệp.

Cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng có hai trạng thái phát triển của

nông nghiệp là: nền nông nghiệp tự cung tự cấp và nền nông nghiệp hàng hóa.

Xem xét ở góc độ kinh tế học: “Nông nghiệp hàng hóa là nền nông nghiệp

mà sản phẩm được sản xuất ra không phải để thỏa mãn nhu cầu cá nhân của

người sản xuất mà là để trao đổi trên thị trường đáp ứng nhu cầu về nông sản

và thực phẩm của xã hội” [33].

Xét ở góc độ kinh tế chính trị: “Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của

nền kinh tế hàng hóa, là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, sản xuất ra nông sản

không phải để tự mình tiêu dùng mà để trao đổi, mua bán trên thị trường, nhằm

vừa thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng xã hội, vừa có lợi nhuận cho người làm ra nó

để tái sản xuất mở rộng và hiện đại hóa nông nghiệp” [8].

Từ sự phân tích trên có thể thấy khái niệm nông nghiệp hàng hóa gồm có

13

ba nhân tố cơ bản sau:

- Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của nền kinh tế hàng hóa, một

kiểu tổ chức kinh tế – xã hội. Đây là nhân tố xác định vị trí của nông nghiệp

hàng hóa trong nền kinh tế hàng hóa nói chung.

- Sản phẩm sản xuất ra dùng để trao đổi, mua bán trên thị trường. Đây là

nhân tố thể hiện tính chất cơ bản của nền nông nghiệp hàng hóa, nó phải đáp

ứng yêu cầu cơ bản của nền kinh tế hàng hóa.

- Sự trao đổi mua bán đó vừa thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng xã hội, vừa có

lợi nhuận cho người sản xuất để tái sản xuất mở rộng và hiện đại hóa nông

nghiệp. Đây là nhân tố nói lên mục đích của nền nông nghiệp hàng hóa.

Nền nông nghiệp hàng hóa ra đời đối lập với nền nông nghiệp tự cung tự

cấp. Nó có nhiều ưu thế so với nông nghiệp tự túc tự cấp. Vì vậy, trong lịch sử

phát triển kinh tế xã hội của loài người thì sự ra đời và phát triển của nền nông

nghiệp hàng hóa được coi là một bước tiến bộ của lịch sử, một nấc thang phát

triển của nền văn minh nhân loại.

1.1.1.3. Nông nghiệp bền vững

Nông nghiệp bền vững là vấn đề thời sự được nhiều nhà khoa học thuộc

nhiều lĩnh vực khác nhau quan tâm như nông học, sinh thái học, xã hội học,..

Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau, trong đó đáng quan tâm là định nghĩa của

tổ chức sinh thái và môi trường thế giới bởi tính tổng hợp và khái quát cao:

“Nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được các yêu cầu của thế

hệ hiện tại mà không giảm khả năng ấy đối với các thế hệ mai sau” [32].

Theo giáo sư, tiến sĩ Lê Viết Ly – hội khoa học kỹ thuật chăn nuôi Việt

Nam đưa ra một định nghĩa rõ hơn về khái niệm phát triển nông nghiệp bền

vững: “Nông nghiệp bền vững là một nền nông nghiệp về mặt kinh tế đảm bảo

được hiệu quả lâu dài cho cả tương lai; về mặt xã hội không làm gay gắt phân

hóa giàu nghèo, nhằm bảo hộ một bộ phận nông dân, không gây ra những tệ

nạn xã hội nghiêm trọng; về mặt tài nguyên môi trường không làm cạn kiệt tài

14

nguyên, không làm suy thoái và hủy hoại môi trường” [30].

Như vậy, nền nông nghiệp bền vững phải đáp ứng được các yêu cầu

cơ bản sau:

- Thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương lai

về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.

- Tạo việc làm lâu dài, tăng thu nhập và các điều kiện sống tươm tất cho

mọi người trực tiếp làm nông nghiệp.

- Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài nguyên

thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên tái tạo được mà

không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân bằng tự nhiên,

không phá vỡ bản sắc văn hóa – xã hội của các cộng đồng sống ở nông thôn,

hoặc không gây ô nhiễm môi trường.

1.1.1.4. Nông nghiệp sinh thái

Trong vài thập niên gần đây, người ta nói nhiều đến sinh thái học nông

nghiệp, đến việc xây dựng và phát triển nền nông nghiệp sinh thái. Trong sản

xuất nông nghiệp, người ta không chỉ quan tâm đến việc đạt năng suất cao trên

một đơn vị diện tích, mà còn quan tâm ngày một nhiều hơn đến năng suất trên

một đơn vị lao động và năng suất trên một đơn vị đầu tư; đồng thời, người ta

còn quan tâm nhiều hơn đến một nền nông nghiệp bền vững – nông nghiệp sinh

thái, ở đó sản xuất nông nghiệp không chỉ vươn tới cung cấp đầy đủ nông sản

an toàn với chất lượng cao mà còn góp phần quan trọng trong việc giữ gìn và

bảo vệ môi trường sống của con người.

Như vậy có thể hiểu, nông nghiệp sinh thái là nền sản xuất nông nghiệp

chủ yếu dựa vào việc phát huy và sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên,

phù hợp với hoàn cảnh và nguồn lực của người sản xuất để đạt được một mức

năng suất cao trong khi hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực đến

15

môi trường [46].

1.1.2. Đặc trưng của nền nông nghiệp hàng hóa

1.1.2.1. Tính đa dạng của phân công lao động và sản phẩm

Từ góc độ phân công lao động, nông nghiệp hàng hóa theo nghĩa rộng, sản

phẩm của nó rất đa dạng, bao gồm ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư

nghiệp. Mỗi ngành lại chia thành những phân ngành nhỏ hơn. Chẳng hạn trong

ngành nông nghiệp lại phân thành ngành trồng trọt và chăn nuôi. Khi phân

công lao động xã hội càng sâu sắc thì sự phân ngành lại càng chi tiết, đa dạng.

Trong phân ngành trồng trọt lại chia thành cây lương thực, cây công nghiệp,

cây rau đậu ngắn ngày, cây ăn quả,...

Trong sản xuất nông sản hàng hóa, không chỉ mỗi nhóm ngành, vùng nông

nghiệp được chia thành những ngành, vùng nhỏ hơn, mà quá trình phân công

lao động - ngoài việc diễn ra trong nội bộ ngành, vùng nông nghiệp, còn có sự

liên quan, hiệp tác, liên kết chặt chẽ với công nghiệp và dịch vụ, trong đó đặc

biệt là công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông nghiệp,…

Xu hướng chung của phân công lao động và tỷ trọng của lao động nông

nghiệp ngày càng giảm (nhưng giá trị sản lượng nông nghiệp – GDP vẫn tăng

lên), còn tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ thì ngày càng tăng.

Đối với riêng ngành nông nghiệp thì tỷ trọng lao động nông nghiệp thuần túy

giảm xuống, tỷ trọng lao động lâm nghiệp và thủy sản tăng lên.

1.1.2.2. Nông nghiệp hàng hóa là nông nghiệp phát triển đa dạng, tổng

hợp nhưng trên cơ sở tính đa dạng sinh học của vùng, miền

Trong nông nghiệp, đất đai là những tư liệu sản xuất chủ yếu, nó vừa là

đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, cố định về không gian, có giới hạn

về diện tích, không thể di chuyển được, song đất đai được phân bố rộng khắp

hầu như trên các vùng lãnh thổ của cả nước. Các yếu tố khác của ngoại cảnh

cũng rất khác nhau như nhiệt độ, khí hậu, nguồn nước, thổ nhưỡng. Đối tượng

của sản xuất nông sản hàng hóa bao gồm nhiều loại cây trồng và vật nuôi có

16

yêu cầu khác nhau về môi trường, điều kiện ngoại cảnh để sinh ra và lớn lên.

Mặt khác, do các năng lực tự nhiên của sản xuất lại phân bố không đều giữa

các vùng, các miền nên làm cho sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực. Do

vậy, để đảm bảo tính hiệu quả, bền vững và toàn diện của sản xuất nông sản

hàng hóa, không chỉ cần có những hiểu biết tường tận để hoạt động sản xuất

phù hợp với các quy luật sinh học của mỗi đối tượng sản xuất, kịp thời đối phó

với những diễn biến bất thường của điều kiện ngoại cảnh, mà còn phải biết sử

dụng hợp lý các nguồn lực tự nhiên vốn có giới hạn. Mặt khác, phải biết tận

dụng những lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của tính đa dạng sinh học để xác

định phương hướng, quy hoạch nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Sự chuyên môn

hóa sản xuất theo vùng nhằm bố trí các ngành sản xuất trên các vùng lãnh thổ

sao cho thích hợp để khai thác được mọi ưu thế về nguồn lực của mỗi vùng,

căn cứ vào các điều kiện tự nhiên và kinh tế kỹ thuật của từng vùng. Xu thế

phát triển của kinh tế vùng là ngày càng chuyên môn hóa và tập trung hóa, hình

thành nên các vùng kinh tế trọng điểm sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế

cao, từ đó mà mở rộng ra các ngành khác, tạo ra tính đa dạng và tổng hợp, vừa

phát triển mạnh mẽ ngành chuyên môn hóa, đồng thời khai thác một cách đầy

đủ nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động của từng vùng.

1.1.2.3. Sự khác biệt tương đối so với sản xuất hàng hóa công nghiệp

* Phân công lao động trong nông nghiệp khác với phân công lao động

trong công nghiệp: Phân công trong kinh tế công nghiệp có trình độ chuyên

môn hóa cao, còn phân công trong kinh tế nông nghiệp bao giờ cũng kết hợp

chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp, chẳng hạn trong một vùng, bên cạnh

ngành chuyên môn hóa sản xuất ra mặt hàng chủ lực cung cấp cho thị trường,

còn phát triển những ngành khác thích ứng với ngành sản xuất đó, hoặc tận

dụng có hiệu quả các điều kiện sản xuất như đất đai, lao động,.. Lênin viết “Do

chính ngay bản chất của ngành nông nghiệp nên việc nó chuyển biến thành

ngành sản xuất hàng hóa đã diễn ra một cách đặc biệt, không giống với quá

17

trình chuyển biến đó trong ngành công nghiệp. Công nghiệp chia thành những

ngành riêng biệt, tuyệt đối độc lập với nhau và chỉ chuyên chế tạo một thứ sản

phẩm hay một bộ phận của sản phẩm mà thôi. Trái lại, ngành nông nghiệp thì

không chia thành những ngành tách biệt hẳn nhau… cho nên các hình thức

của nông nghiệp thương nghiệp thật là hết sức khác nhau, không những khác

từ vùng này đến vùng kia, mà còn khác từ ngành sản xuất này đến ngành sản

xuất kia” [31].

* Nông nghiệp phụ thuộc vào tự nhiên nên sản xuất nông nghiệp hàng hóa

có tính thời vụ nhất định: Sản xuất nông nghiệp là một quá trình kinh tế - kỹ

thuật - sinh học rất phức tạp. Ở đây, hai quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái

sản xuất kinh tế liên hệ mật thiết với nhau. Đó là một quá trình không phải

dùng công cụ và máy móc để chế biến nguyên liệu thành sản phẩm như trong

công nghiệp mà là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các vật sống tạo ra sản

phẩm trong một ngoại cảnh phức tạp và biến động. Kết quả lao động ở đây

không chỉ phụ thuộc vào cường độ, tính chất lao động, mà còn phụ thuộc, có

khi quyết định vào điều kiện tự nhiên. Trong quá trình sản xuất, có những giai

đoạn sản xuất nông nghiệp được tái sản xuất tự nhiên không cần sự tác động

của quá trình kinh tế, do chỗ thời gian lao động không trùng khớp với thời gian

sản xuất mà chỉ là một phần của thời gian sản xuất, nằm xen kẽ trong thời gian

sản xuất. Cũng do tính thời vụ nên trong sản xuất nông nghiệp, lao động, máy

móc và các tư liệu sản xuất khác không thể sử dụng liên tục quanh năm (nhất là

ngành trồng trọt). Do đó trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa, một mặt không

thể đo lường và đánh giá lao động bằng đơn vị giờ lao động trừu tượng, không

thể trả công (thậm chí hạch toán) theo khối lượng công việc đã tiến hành,

không thể chuyên môn hóa hẹp theo công đoạn sản xuất, cũng như không thể

tách lao động quản lý khỏi lao động thực hiện; mặt khác, cần phải tìm những

biện pháp để giảm bớt tính thời vụ, giảm bớt thời gian nông nhàn trong nông

nghiệp. Trong thực tế, người ta đã áp dụng nhiều biện pháp như: chuyên môn

18

hóa sản xuất kết hợp với kinh doanh tổng hợp, tăng vụ, xen canh gối vụ, luân

canh, hoặc chế tạo những máy móc có tính đa năng hoặc cố gắng làm giảm tối

đa hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình của những tài sản cố định.

* Đặc điểm về chủ thể sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp: Đơn vị sản

xuất cơ bản trong nông nghiệp là từng hộ gia đình nông dân, là hộ tiểu nông

hoặc nông trại, mà không phải là xí nghiệp quy mô lớn với đông đảo công nhân

như trong công nghiệp. Thích hợp nhất đối với nông nghiệp là lao động cụ thể

của từng hộ gia đình, gắn bó mật thiết với đất đai, cây trồng, vật nuôi, để kịp

thời ứng phó với những thay đổi bất ngờ của ngoại cảnh và đòi hỏi của đối

tượng lao động khác hẳn với tính chất lao động của công nhân trong công

nghiệp. Do đó, sản xuất nông nghiệp đòi hỏi người lao động phải làm chủ đất

đai, cây trồng vật nuôi, phải luôn luôn quan tâm chăm sóc đến đối tượng sản

xuất. Có như vậy, họ mới kịp thời bổ sung, điều chỉnh những thao tác kỹ thuật

phù hợp với những diễn biến của ngoại cảnh cây trồng vật nuôi. Dĩ nhiên, để

sản xuất nông nghiệp trở thành hàng hóa và có hiệu quả cao thì còn cần phải

gắn kết tổ chức sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ…

* Tỷ suất hàng hóa trong kinh tế nông nghiệp thường thấp hơn trong kinh

tế công nghiệp: Vì đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp về mặt tự nhiên là có

thể tiêu dùng trực tiếp và thiết yếu nên nó được giữ lại một phần cho tiêu dùng

của người sản xuất. Nông nghiệp hàng hóa càng phát triển thì tỷ suất hàng hóa

càng tăng lên. Lênin viết: “Ngay bản thân quá trình hình thành nền nông nghiệp

thương phẩm đã diễn ra không hoàn toàn giống như ở trong nền công nghiệp

nhà máy; trong công nghiệp, quá trình ấy diễn ra dưới hình thức đơn giản và

theo đường thẳng, còn trong nông nghiệp chúng ta thấy khác hẳn; ở đây hiện

tượng chủ yếu là sự hỗn hợp giữa nông nghiệp có tính chất thương nghiệp với

nông nghiệp không có tính chất thương nghiệp, ở đây những hình thức khác

nhau đã được kết hợp lại. Ở mỗi địa phương, chủ yếu mang ra thị trường là một

thứ sản phẩm nào đó. Một mặt là nền sản xuất hàng hóa, mặt khác, nền sản xuất

19

đó còn giữ tính chất tiêu dùng” [31].

* Điểm xuất phát của quá trình chuyển nền nông nghiệp tự cung tự cấp

sang nền nông nghiệp hàng hóa rất thấp so với sản xuất hàng hóa công nghiệp:

Vì phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên, mà điều kiện tự nhiên lại có tính đặc

thù, một mặt, lợi thế tự nhiên đặc thù ấy khiến người ta dễ bằng lòng với đời

sống tự cung tự cấp (mặc dù với mức sống rất thấp) - điều này dễ dẫn đến tâm

lí an phận, tự ti - và mặt khác, đến lượt nó, tính an phận, tự ti dễ dẫn tới sự trì

trệ trong tâm lí và đời sống, ngăn cản tính cạnh tranh và sự phát triển của thị

trường, khó kích thích khoa học kỹ thuật và các yếu tố khác của lực lượng sản

xuất phát triển. Hơn nữa, xét về mặt trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ gắn

liền với tiến trình phát triển nông nghiệp hàng hóa từ thấp lên cao, bản thân

nông nghiệp, tự nó không thể giải quyết được mà phải có sự chi viện của công

nghiệp. Chính C. Mác cũng đã nhấn mạnh trong lý luận địa tô rằng “cấu tạo

hữu cơ trong nông nghiệp lạc hậu hơn so với công nghiệp” [31]. Cho nên,

muốn đẩy nhanh sự phát triển nông nghiệp hàng hóa, một trong những phương

án đột phá là nâng cao trình độ của người sản xuất và tăng cường đầu tư khoa

học kỹ thuật công nghệ cho quá trình sản xuất.

1.1.3. Nội dung phát triển nông nghiệp hàng hóa

1.1.3.1. Xây dựng cơ cấu sản phẩm, kinh tế nông nghiệp hàng hóa hợp lý

Nông nghiệp hàng hóa hiểu theo nghĩa rộng, sản phẩm của nó bao gồm các

ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Mỗi ngành lại chia thành nhiều phân ngành nhỏ

hơn. Đi liền với sự phân công lao động sâu sắc là sự phân ngành càng chi tiết và

đa dạng hơn. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin không những đã coi

phân công lai động là một trong hai điều kiện ra đời và tồn tại của nền kinh tế

hàng hóa nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng, mà còn đặt nó trong mối

quan hệ với cách mạng kỹ thuật, với quy mô trao đổi, quy mô thị trường [31].

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học và công nghệ nói

chung và chuyên môn hóa lao động nói riêng, làm cho năng suất lao động xã

20

hội ngày càng tăng, số lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, chất lượng

ngày càng cao, chủng loại ngày càng đa dạng và phong phú. Do đó, quy mô

trao đổi và thị trường sẽ ngày càng mở rộng.

Sản phẩm nông nghiệp được tạo ra trong quá trình sản xuất nông nghiệp

được mang đi trao đổi trên thị trường với tư cách một hàng hóa thì thị trường

nông phẩm cũng xuất hiện. Ở đây, các yếu tố, các điều kiện, các phương tiện và

môi trường,.. để thực hiện giá trị hàng hóa nông phẩm cũng giống như các thị

trường hàng hóa thông thường khác. Cơ chế thị trường bắt buộc mọi người thực

hiện ý chí của mình theo quy luật kinh tế khách quan vốn có của nó.

Về mặt không gian vùng lãnh thổ, thì nông nghiệp hàng hóa bao gồm các

vùng khác nhau. Những vùng kinh tế hình thành do phân công lao động theo

lãnh thổ trên phạm vi nông thôn cả nước, chẳng hạn như vùng chuyên canh lúa,

vùng cây công nghiệp, vùng chuyên canh cây ăn quả, vùng chăn nuôi,.. Sự

chyên môn hóa sản xuất theo vùng nhằm bố trí các ngành sản xuất trên các

vùng lãnh thổ khác nhau sao cho thích hợp để khai thác được mọi ưu thế về

nguồn lực của mỗi vùng, căn cứ vào điều kiện kinh tế, kỹ thuật và tự nhiên của

từng vùng. Xu thế phát triển của kinh tế vùng là ngày càng chuyên môn hóa,

tập trung hóa, hình thành nên các vùng trọng điểm sản xuất hàng hóa có hiệu

quả kinh tế cao, để từ đó mở rộng ra các ngành khác. Còn trong mỗi vùng, lại

dựa vào ngành sản xuất chuyên môn hóa mà phát triển mạnh mẽ ngành chuyên

môn hóa, đồng thời khai thác một cách đầy đủ nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất

kỹ thuật và lao động của từng vùng nông thôn.

Về mặt kinh tế xã hội, kinh tế hàng hóa nói chung và kinh tế nông nghiệp

hàng hóa nói riêng ở nông thôn, tồn tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế nông

nghiệp nhiều thành phần. Do trình độ phát triển và trình độ xã hội hóa của lực

lượng sản xuất không đều nhau, nên quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ sở

hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối) cũng mang tính đa dạng,

bên cạnh đó thì thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất đòi hỏi phải có những quan hệ sản xuất, thành phần kinh tế cũng như hình

21

thức tổ chức kinh tế tương ứng

Mặc dù mỗi thành phần kinh tế có bản chất, lợi ích và đặc trưng riêng.

Song chúng không biệt lập với nhau mà ngược lại chúng có mối quan hệ tác

động lẫn nhau vì chúng cùng tham gia vào hệ thống phân công lao động xã hội,

chúng vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau để cùng tồn tại và phát triển.

Nhận thức đúng đắn sự tồn tại khách quan, tính đa dạng về hình thức sở

hữu và thành phần kinh tế,.. là cơ sở để đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản

xuất nông nghiệp hàng hóa.

1.1.3.2. Nâng cao tỷ suất và chất lượng nông sản hàng hóa

Thực chất của việc phát triển kinh tế hàng hóa nói chung, nông nghiệp

hàng hóa nói riêng là tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều về số lượng,

phong phú, đa dạng về chủng loại và chất lượng hàng hóa, giá cả được người

tiêu dùng chấp nhận.

Hiểu theo nghĩa đơn giản, tỷ suất hàng hóa là tỷ lệ phần trăm số lượng sản

phẩm của một ngành được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường.

Tỷ suất hàng hóa nông nghiệp hàng hóa thấp hơn so với kinh tế công

nghiệp thành thị. Vì đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp, về mặt tự nhiên có

thể tiêu dùng trực tiếp và thiết yếu nên nó được giữ lại một phần cho tiêu dùng

của người sản xuất, ở đây có tính chất hàng hóa, có tính tự cấp, tự túc hòa trộn

vào nhau. Tất nhiên nông nghiệp hàng hóa nông thôn càng phát triển thì tính

hàng hóa của sản phẩm nông nghiệp càng tăng lên. Lênin viết: “ Ngay trong

bản thân quá trình hình thành nền nông nghiệp thương phẩm đã diễn ra không

hoàn toàn giống như trong nền công nghiệp nhà máy, trong nền công nghiệp,

quá trình ấy diễn ra dưới hình thức giản đơn và theo đường thẳng, còn trong

nông nghiệp chúng ta thấy khác hẳn; ở đây hiện tượng chủ yếu là sự hỗn hợp

giữa nông nghiệp có tính chất thương nghiệp với nông nghiệp không có tính

chất thương nghiệp, ở đây những hình thức khác nhau đã được kết hợp lại. Ở

từng địa phương, chủ yếu mang ra thị trường là một thứ sản phẩm nào đó. Một

mặt, nền sản xuất của địa chủ mà đặc biệt là của nông dân là nền sản xuất hàng

22

hóa, mặt khác nền sản xuất đó còn giữ tính chất tiêu dùng” [31].

Phát triển phân công lao động trong nông nghiệp, mở mang ngành nghề,

tăng năng suât lao động, đất đai, cây trồng vật nuôi, đa dạng hóa sản phẩm, mở

rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào

sản xuất nông nghiệp,.. là con đường để nâng cao tỷ suất hàng hóa, chất lượng

hàng hóa nông sản.

1.1.3.3. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển dịch vụ hỗ

trợ nông nghiệp, nông thôn

Tạo ra được một kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và tổ chức tốt hệ thống

dịch vụ hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn là vấn đề có ý nghĩa hàng đầu đối

với việc chuyển đổi và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất

hàng hóa. Đó cũng là nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bao gồm hệ thống cơ sở vật chất phục vụ

sản xuất và đời sống ở nông thôn như: điện, nước sạch, các công trình thủy lợi,

đường giao thông nông thôn,..

Hệ thống dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp nông thôn nhằm hỗ trợ đầu vào, đầu

ra cho sản xuất nông nghiệp, nó bao gồm hệ thống chợ, cửa hàng, hệ thống dịch

vụ kỹ thuật ở nông thôn, trong đó tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến

ngư đóng vai trò chủ lực quan trọng.

Đặc biệt là phải phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản hàng nông

sản. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản làm tăng giá trị thương phẩm

của các sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu

dùng. Phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản hàng nông sản cho phép

nâng cao số lượng và chất lượng nông sản hàng hóa, tăng sức cạnh tranh trên

thị trường và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp.

1.1.3.4. Phát triển đa dạng các chủ thể sản xuất, kinh doanh nông nghiệp

Tham gia vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp có nhiều chủ thể khác

nhau thuộc các thành phần kinh tế, với các hình thức tổ chức kinh tế đa dạng

23

như: doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty tư nhân, nông trại, hộ gia

định,.. Các hình thức tổ chức kinh tế này ra đời và phát triển tủy thuộc vào tính

chất của mỗi ngành và do yêu cầu của sản xuất.

Trong nông nghiệp hàng hóa thì hộ nông dân là đơn vị sản xuất cơ bản và

là tế bào của xã hội. Hộ nông dân đóng vai trò quyết định trong việc phát triển

sản xuất và mở rộng thị trường. Phát triển hộ nông dân theo xu hướng sản xuất

hàng hóa và ngày càng có nhiều hộ sản xuất kinh doanh giỏi trở thành trang trại

là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa.

1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1.2.1. Vai trò của nông nghiệp hàng hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội

ở Việt Nam

Trong điều kiện của nước ta hiện nay, là một nước nông nghiệp lại trong bối

cảnh phải đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, trên cơ sở hội nhập quốc tế,

phát triển mạnh nền nông nghiệp hàng hóa có vai trò đặc biệt quan trọng.

1.2.1.1. Cung cấp ổn định, vững chắc lương thực, thực phẩm cho nhân

dân, thức ăn cho gia súc, tăng dự trữ quốc gia

Nhu cầu về lương thực, thực phẩm là nhu cầu đầu tiên, thiết yếu, cơ bản của

đời sống con người và xã hội, xuyên suốt mọi thời đại, mọi nền văn minh.

Con người là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội. Mọi lĩnh vực hoạt động

để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội đều do con người tiến hành. Nếu

không đẩy mạnh sản xuất lương thực và thực phẩm đáp ứng nhu cầu về ăn uống

để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động thì không thể tiến hành mọi hoạt động

của xã hội được.

Ngày nay, an ninh lương thực luôn được coi là vấn đề cốt tử của các quốc

gia, nhất là đối với các nước đang phát triển. An ninh lương thực là yếu tố cấu

thành an ninh kinh tế và an ninh chính trị. Từ những năm 60 của thế kỷ XX, Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “… phát triển nông nghiệp là việc đặc biệt quan

trọng”, và nhấn mạnh “Có gì sung sướng bằng góp phần đắc lực vào công cuộc

24

phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế XHCN”

Sản xuất lương thực, thực phẩm không những nhằm đáp ứng nhu cầu để duy

trì và cải thiện đời sống nhân dân, sản xuất và tái tạo sản xuất ra sức lao động mà

còn cung cấp thức ăn cho chăn nuôi, tạo điều kiện cho chăn nuôi phát triển cân đối

với trồng trọt, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của trồng trọt và tăng thêm chất dinh

dưỡng cho con người, khắc phục tình hình suy dinh dưỡng của nhân dân ta, làm

ảnh hưởng không ít đến tái sản xuất mở rộng sức lao động.

Sản xuất lương thực và thực phẩm còn có vai trò quan trọng trong việc đáp

ứng nhu cầu tăng dự trữ của nhà nước để đề phòng thiên tai, dịch họa, đảm bảo

duy trì và phát triển bình thường sản xuất và đời sống nhân dân, tăng cường khả

năng phòng thủ đất nước, bảo đảm vững chắc thành quả cách mạng.

Sản xuất và đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dâu và các

nhu cầu khác của xã hội là vấn đề hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã

hội ở nước ta hiện nay. Thực tiễn đã chỉ rõ, mỗi khi nông nghiệp mất mùa, tình

hình cung cấp lương thực, thực phẩm trở nên căng thẳng, thì nhịp độ phát triển

của các ngành kinh tế, các lĩnh vực hoạt động trong xã hội để bị ảnh hưởng, thu

nhập và chi tiêu của ngân sách cũng như tình hình thị trường và giá cả đều có

những biến động lớn.

Sản xuất lương thực và thực phẩm có vai trò rất quan trọng, nhưng vai trò đó

chỉ có thể thực hiện khi sản xuất lương thực, thực phẩm được tiến hành theo con

đường sản xuất hàng hóa. Chỉ có như vậy mới tạo ra một khối lượng lương thực,

thực phẩm hàng hóa dồi dào, bảo đảm cung cấp đầy đủ, ổn định và vững chắc cho

các nhu cầu của nhân dân và có thêm dự trữ để mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc

đề phòng những lúc mùa màng thất bát. Rõ ràng từ khi thực hiện chủ trương đổi

mới, sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lương thực, thực phẩm nói riêng

theo con đường sản xuất hàng hóa thì khối lượng lương thực, thực phẩm ở nước ta

ngày càng tăng lên, chẳng những đảm bảo được nhu cầu lương thực, thực phẩm

tiêu dùng cho nhân dân mà còn dư ra để xuất khẩu (Giai đoạn 2008 - 2013 hằng

25

năm xuất khẩu trên 6,5 triệu tấn gạo).

Ngày nay, nhu cầu về lương thực, thực phẩm không chỉ đảm bảo an toàn, an

ninh về số lượng mà điều cần quan trọng hơn nhiều là chất lượng. Do đó, phát

triển mạnh nền nông nghiệp hàng hóa ở nước ta không chỉ cung cấp được đầy đủ

số lượng, chất lượng, chủng loại lương thực, thực phẩm - trên cơ sở nắm bắt kịp

thời nhu cầu - mà thông qua thị trường, người sản xuất cũng kịp thời điều chỉnh

các hoạt động kinh tế sao cho có lợi nhất, sử dụng tối ưu các nguồn lực (lao động,

đất đai,..) nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

Hiện nay, Việt Nam vẫn còn đến 61 huyện nghèo bao gồm 797 xã và thị trấn,

đó cũng là các xã ở các vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, cái nghèo biểu

hiện trước hết là đói mà trọng tâm là đói lương thực, thực phẩm. Trong khi đó, xét

về tổng mức lương thực bình quân của cả nước thì đã vượt mức 450 kg/người

(2010). Phát triển nông nghiệp trên cơ sở quy hoạch, chuyên môn hóa dựa trên lợi

thế các vùng, kết hợp với sự điều tiết thích hợp, sẽ tăng cường khả năng tiếp cận

lương thực giữa các vùng, các bộ phận dân cư trong cả nước.

1.2.1.2. Phát triển nông nghiệp hàng hóa tạo cơ sở, động lực cho quá

trình CNH, HĐH đất nước

Xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã bắt đầu tiến hành công nghiệp hóa từ

những năm 60 của thế kỷ XX, nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ, tác

động của công nghiệp vào đời sống xã hội và vào nông nghiệp vẫn hết sức mở

nhạt. Một trong những lí do quan trọng là chưa thấy hết được vai trò là cơ sở

động lực của nông nghiệp hàng hóa đối với quá trình CNH, HĐH đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Muốn phát triển công nghiệp, phát triển

kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc. Nếu không phát

triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp và tiêu thụ hàng

hóa của công nghiệp làm ra”.

Có thể thấy vai trò cơ sở động lực của sự phát triển nông nghiệp hàng hóa

trong quá trình CNH, HĐH đất nước trên những điểm chủ yếu sau.

Thứ nhất, phát triển nông nghiệp hàng hóa tạo nguồn vốn tích lũy quan trọng

26

cho quá trình CNH, HĐH.

Quá trình CNH, HĐH đất nước mà trước hết là phát triển công nghiệp, cần

phải có nguồn vốn tích lũy đến một mức độ nhất định.Vốn đó có thể huy động từ

nhiều nguồn. Đảng ta xác định vốn trong nước là quyết định, tức là từ nội lực của

chúng ta. Nội lực này ở nước ta, trước hết và có vai trò quan trọng là từ nông

nghiệp, nằm trong nông nghiệp, dĩ nhiên phải là nền nông nghiệp hàng hóa chứ

không phải là nền nông nghiệp tự cấp tự túc như trước đây. Như thế, nông nghiệp

hàng hóa là một nguồn tích lũy vốn quan trọng bền vững và có tính chiến lược cho

quá trình CNH, HĐH đất nước, mà trước hết là CNH, HĐH chính ngay nông

nghiệp, nông thôn.

Nguồn vốn tích lũy từ nông nghiệp, một phần thông qua các hình thức thuế

nông nghiệp trực tiếp đóng vào ngân sách, một phần từ việc cung cấp nguyên liệu

cho công nghiệp chế biến nông sản, phần chủ yếu là thông qua việc xuất khẩu nông

sản để nhập vật tư thiết bị kỹ thuật công nghệ cho phát triển công nghiệp, dịch vụ và

cho chính ngay quá trình hiện đại hóa ngành nông nghiệp.

Trong nhiều năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã có vai trò quan trọng trong

nền kinh tế quốc dân, hàng năm đóng góp hơn 20% giá trị xuất khẩu của cả nước.

Năm 2012, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt 638.368 tỷ đồng và đạt 19,67%

GDP. Nguồn thu này tuy không lớn nhưng là nguồn tích lũy ổn định, có ý nghĩa rất

quan trọng trong bước đi ban đầu của thời kỳ CNH, HĐH, nhất là đối với nhiều

tỉnh, huyện thuần nông.

Khi sản xuất nông sản hàng hóa càng phát triển, nông sản hàng hóa cho xuất

khẩu ngày càng nhiều, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, khả năng tích lũy cho

phát triển công nghiệp nói chung và nền kinh tế nói riêng sẽ ngày càng lớn. Phát

triển xuất khẩu nông sản không chỉ tạo ra nguồn ngoại tệ mạnh để nhập khẩu máy

móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, mà còn nhằm

tận dụng lợi thế so sánh của nông nghiệp trên thị trường thế giới, tạo lập vị trí và

tăng cường vị thế của nước ta trên trường quốc tế và cũng từ đây để tạo cơ hội tích

27

cực, có lợi thế cho việc vay các nguồn vốn khác ở bên ngoài.

Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản còn là nhân tố thúc đẩy tạo việc làm, tăng thu

nhập cho dân cư (mà trước hết là ở nông thôn) thông qua các hoạt động sản xuất,

thu gom, vận chuyển, phân loại, chế biến nông sản ở các vùng, các địa phương;

thúc đẩy công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Như vậy, là nó đã tạo ra tiền

đề bên trong để phát triển công nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn, góp

phần thay đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn theo

hướng tăng tỷ trọng công nghệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Đây cũng

chính là quá trình “tích lũy cơ cấu” vốn theo chiều sâu, tạo cơ sở và động lực cho

quá trình CNH, HĐH đất nước.

Thứ hai, nông nghiệp và nông thôn là thị trường quan trọng cho công nghiệp

và dịch vụ phát triển.

Công nghệ và dịch vụ muốn duy trì và phát triển, một vấn đề có ý nghĩa quyết

định là phải có thị trường tiêu thụ. Thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, dịch

vụ, một phần do nó tự tạo ra trong quá trình phát triển những phần quan trọng là

phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành kinh tế, các lĩnh vực hoạt động khác của

nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, sản xuất nông nghiệp chủ

yếu ở địa bàn nông thôn, với gần 70% lao động và hơn 80% dân số, với sức mua và

mức trang bị các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ còn thấp thì đây là thị trường tiềm

năng rất lớn, nhất là ở thời kỳ đầu CNH, HĐH, khả năng cạnh tranh của hàng công

nghiệp và dịch vụ của Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới còn yếu. Cho

nên, tăng sức mua của nông dân và dân cư nông thôn có vai trò rất quan trọng, đôi

khi là quyết định đối với quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp, dịch vụ.

Theo đó, muốn CNH, HĐH diễn ra ổn định, vững chắc, phải dựa vào thị trường

trong nước mà trước hết là nông dân, nông nghiệp, nông thôn.

Nhưng muốn nông nghiệp, nông thôn trở thành thị trường rộng lớn cho việc

tiêu thụ sản phẩm công nghiệp, dịch vụ thì phải đẩy mạnh phát triển sản xuất nông

sản hàng hóa nhằm tăng thu nhập và khả năng thanh toán của dân cư nông nghiệp,

nông thôn, mặt khác nhà nước còn cần phải có chính sách thích hợp trong việc làm

28

tăng thu nhập cho nông dân.

Thứ ba, phát triển nông nghiệp hàng hóa là nguồn cung cấp nhân lực cho quá

trình CNH, HĐH.

Quá trình phát triển kinh tế ở hầu hết các nước đều gắn liền với sự chuyển dịch

lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Sự nghiệp CNH, HĐH ở

nước ta đòi hỏi nguồn lao động không ngừng được bổ sung từ khu vực nông

nghiệp. Sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây cũng đang

diễn ra theo hướng đó.

Ở nước ta, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn đã và đang thu hút lao

động ngay trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn. Việc mở mang các loại ngành

nghề, phát triển công nghiệp chế biến nông sản, các hoạt động dịch vụ phi nông

nghiệp trên địa bàn nông thôn có ý nghĩa quyết định đối với việc thu hút lao động

dư thừa trong khu vực nông nghiệp. Do vậy, muốn đẩy nhanh CNH, HĐH thì trước

hết đòi hỏi phải đẩy nhanh sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa.

Về mặt số lượng, sản xuất nông sản hàng hóa phát triển gắn liền với việc hợp

lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động nông nghiệp, để không chỉ phát triển ngành

nhề trong nông nghiệp mà còn cung cấp nguồn lao động đáng kể cho công nghiệp

và dịch vụ.

Về mặt chất lượng, đồng thời với việc phát triển nông nghiệp hàng hóa, thể lực

và trình độ dân trí của lao động nông nghiệp được nâng cao, thói quen năng động và

tác phong công nghiệp được tôi luyện trong môi trường kinh tế hàng hóa, sẽ càng

có điều kiện đáp ứng nhu cầu chất lượng sức lao động ngày càng tăng của công

nghiệp và dịch vụ.

1.2.1.3. Phát triển nông nghiệp hàng hóa tạo nên sự biến đổi sâu sắc

trong đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn

Phát triển nông nghiệp hàng hóa thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền nông

nghiệp nước ta từ một nền nông nghiệp tự cấp, tự túc, với cơ cấu sản xuất đơn

điệu, chủ yếu là độc canh cây lương thực thành một nền nông nghiệp hàng hóa

29

nhiều thành phần, với cơ cấu sản xuất và kinh doanh đa dạng, gắn liền với công

nghiệp chế biến, gắn sản xuất với dịch vụ và phát triển ngành nghề khác trong

nông thôn; tổ chức sản xuất và phân công lao động ngày càng hợp lý; công cụ

lao động và những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới được sử dụng vào sản

xuất ngày càng nhiều.

Phát triển nông nghiệp hàng hóa vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện xóa bỏ tình

trạng chia cắt, khép kín, trong từng địa bàn, từng đơn vị, hình thành và phát

triển các mối quan hệ hợp tác và phân công trong quá trình phát triển; thúc đẩy

việc mở rộng giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các vùng nông nghiệp, thành thị

và nông thôn, giữa trong nước với nước ngoài, tạo điều kiện cho kinh tế - xã

hội ở nông thôn ngày càng phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ.

Phát triển nông nghiệp hàng hóa vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện nâng cao

trình độ mọi mặt của người nông dân; làm thay đổi tập quán canh tác cũ kỹ, lạc

hậu, tạo nên một nếp nghĩ và cách làm mới mẻ dựa trên năng suất, chất lượng,

hiệu quả. Chính tự do trao đổi, tự do thị trường sẽ là cơ sở cho dân chủ hóa về

kinh tế, đến lượt nó, sẽ tạo ra dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hôi.

Phát triển nông nghiệp hàng hóa là nhân tố cơ bản tạo nên sự chuyển biến

lớn về mặt xã hội trong nông thôn: tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, cải thiện

và nâng cao đời sống nông dân. Tuy nhiên, chính cơ chế thị trường và sự vận

động của nền nông nghiệp hàng hóa cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm như; phân

hóa giàu nghèo, nạn ô nhiễm môi trường (cả môi trường sinh thái và môi

trường xã hội), tệ nạn xã hội,..

1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp hàng hóa

ở Việt Nam

1.2.2.1. Nhân tố tự nhiên

Phát triển nông nghiệp hàng hóa ngày nay phụ thuộc nhiều vào yếu tố

khoa học, công nghiệp,.. và người ta có thể ít nhiều “nhân tạo hóa” các yếu tố

tự nhiên, nhưng về căn bản vẫn phải dựa vào tự nhiên - đối tượng lao động số

30

một của sản xuất nông nghiệp. Nhân tố tự nhiên bao gồm vị trí địa lí, địa hình,

khí hậu, thổ nhưỡng, nguồn nước,.. Điều kiện tự nhiên chính là cơ sở tự nhiên

của quá trình phân công lao động xã hội trong nông nghiệp. Các Mác viết:

“Chính là tính nhiều vẻ của đất đai, về mặt phẩm chất hóa học, về mặt cấu tạo

địa chất, về mặt hình thể vật chất và tính nhiều vẻ của sản phẩm tự nhiên của

đất đai đó mới hợp thành cơ sở tự nhiên của phân công lao động xã hội”.

Nước ta, một mặt nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, là

vùng kinh tế năng động và là trung tâm của sự phát triển, có khả năng lưu

thông và mở của thuận lợi ra các nước; mặt khác, tài nguyên khí hậu, đất đai,

sinh vật, nguồn nước,.. của nước ta tương đối phong phú, tiềm năng khai thác

còn lớn. Đặc biệt điều kiện khí hậu, tính đa dạng nhiều vẻ của đất đai, nguồn

nước rất thuận lợi cho phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi có khối lượng

và tỷ suất hàng hóa cao. Vấn đề là phải lựa chọn những tập đoàn cây trồng,

vật nuôi thích ứng với điều kiện tự nhiên của từng vùng, tiểu vùng nhằm khai

thác triệt để lợi thế so sánh của từng vùng, từng tiều vủng; tiến hành quy

hoạch và đầu tư thích hợp, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường trong nước và

đặc biệt là cho xuất khẩu.

1.2.2.2. Nhân tố kinh tế - xã hội

* Dân số và lao động nông thôn: Ở Việt Nam, đại bộ phận dân cư tập

trung sinh sống ở khu vực nông thôn, tính đến nay, dân số cả nước là trên 90

triệu người, thì dân số nông thôn khoảng 63 triệu người (chiếm gần 70%). Số

lượng người trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn khoảng 45 triệu

người, chiếm 71% dân số. Mức tăng trung bình của số người trong độ tuổi lao

động khu vực nông thôn là khoảng 2,5 %/năm.

Nông dân Việt Nam cần cù, lao động sáng tạo, khát khao làm giàu, nhiều

người bước đầu làm quen với cơ chế thị trường. Đây là lực lượng lao động dồi

dào cho phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng. Vấn đề

là khả năng, năng lực tự chủ về kinh tế, đó là năng lực tích lũy, năng lực

31

chuyển đổi, năng lực thích ứng với cơ chế thị trường của nông dân nước ta còn

yếu. Ngày nay, kinh tế thị trường đã phát triển đến sự thống nhất khu vực và

thế giới, những người lao động nông nghiệp nước ta muốn là chủ thể sản xuất,

kinh doanh nông nghiệp hàng hóa thì không thể chỉ dừng lại ở sản xuất hàng

hóa đơn giản mà phải là những người có trình độ kinh doanh hàng hóa phát

triển. Một mặt người lao động nông nghiệp phải vươn lên năng động, sáng tạo,

dám nghĩ dám làm; mặt khác, cần có sự trợ giúp đắc lực của giáo dục và đạo

tạo, dịch vụ khuyến nông, đặc biệt là vai trò quy hoạch, đầu tư lớn và đồng bộ

của nhà nước.

* Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và việc áp dụng rộng rãi tiến bộ kỹ

thuật công nghệ: Đây là nhân tố có tính quyết định đến sự phát triển kinh tế

hàng hóa nói chung và phát triển sản xuất kinh doanh nông sản hàng hóa nói

riêng, nhất là đối với một nước mới trải qua hai cuộc chính tranh tàn phá nặng

nề, với điểm xuất phát thấp, còn nghèo nàn lạc hậu. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ

thuật chính là “giá đỡ vật chất”, là bộ xương sống của sản xuất, là nhân tố trực

tiếp làm thay đổi trạng thái của sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu

quả của sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa nông sản.

Nông sản hàng hóa sản xuất ra phải được bảo quản, vận chuyển kịp thời

đến nơi tiêu dùng, chế biến, đảm bảo được tính chất sinh hóa của sản phẩm

(nhất là hàng tươi sống), phải có điều kiện thông thương trao đổi thuận lợi nội

vùng, ngoại vùng. Dù cho sản xuất nông sản có thể phát triển, tăng quy mô và

khối lượng song nếu không có đường giao thông hoặc phương tiện vận tải,

hoặc những yếu tố đó quá yếu kém và khó khăn thì cũng khó có thể đẩy mạnh

phát triển sản xuất nông sản hàng hóa được.

Trong những qua hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn ở nước ta tiếp tục

được xây dựng mới và nâng cấp cả về chiều rộng và chiều sâu, tạo điều kiện

cho sản xuất phát triển. Tính đến nay, cả nước có trên 9000 xã có điện chiếm

99,8% tổng số xã. Việc phát triển nhanh mạng lưới điện ở nông thôn tạo điều

32

kiện thuận lợi để điện khí hóa nông nghiệp, nông thôn phục vụ sản xuất và đời

sống là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu đã được Đảng ta khẳng

định tại Nghị quyết Trung ương V khóa XI về đẩy mạnh công nghiệp hóa nông

nghiệp, nông thôn; hệ thống giao thông nông thôn có nhiều khởi sắc cả về số

lượng và chất lượng ở đường xã, đường liện thôn và đường nội đồng, góp phần

tích cực tạo điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư về khu vực nông thôn,

tạo công ăn việc làm, xóa đói, giảm nghèo và giải quyết được nhiều vấn đề

kinh tế, xã hội khác. Tính đến nay, cả nước có gần 9000 xã có đường ô tô đến

trụ sở Ủy ban nhân dân xã, chiếm 98,6% tổng số xã; hệ thống thủy lợi được trú

trọng xây dựng mới và nâng cấp. Thực hiện đường lối đẩy nhanh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nhà nước đã ưu tiên đầu tư xây dựng

mới và nâng cấp hệ thống các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông

nghiệp. Nhờ đó thêm nhiều diện tích canh tác được tưới, tiêu góp phần tăng

năng suất, sản lượng cây trồng. Đến nay, cả nước có khoảng 16 nghìn trạm

bơm nước phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn các xã, bình quân mỗi xã

có 1,8 trạm bơm. Hệ thống kênh mương do xã/HTX quản lý đã được kiên cố

hóa trên 40 nghìn km, chiếm 23% tổng chiều dài kênh mương; hệ thống cơ sở

chế biến nông lâm thủy sản phát triển cả về số lượng và năng lực phục vụ, từng

bước gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông sản ở nông thôn. Hiện nay, cả

nước có khoảng trên 500 nghìn cơ sở chế biến nông lâm ngư nghiệp, với trên 8

nghìn xã có cơ sở chuyên chế biến nông sản (chiếm trên 90%). Sự tăng nhanh

của các xã có cơ sở chuyên chế biến cũng như số lượng cơ sở chế biến trong

những năm qua đã góp phần phục vụ tốt hơn yêu cầu sơ chế và chế biến nông

sản, từng bước gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm này, tạo

thêm việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, phát triển khu vực dịch vụ, thúc

đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động nông thôn,

Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta hiện nay gắn liền với cuộc cách

mạng công nghệ hiện đại mà trước hết là công nghệ sinh học, biến đổi kỹ thuật

33

gen, nuôi cấy tế bào,.. Những thành tựu này, một mặt mở ra khả năng, hướng đi

mới, tự ứng dụng và chuyển giao công nghệ tạo ra những giống cây, con có

năng suất, chất lượng cao, tăng khả năng cạnh tranh, mặt khác đòi hỏi chúng ta

phải cân nhắc, lựa chọn, quy hoạch ứng dụng công nghệ mới đó một cách hợp

lý với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của nước ta.

* Trình độ kinh tế thị trường: Nhu cầu của con người và xã hội về các

nông sản hàng hóa chỉ có thể được đáp ứng đầy đủ khi nền nông nghiệp được

xây dựng và phát triển thông qua cơ chế thị trường, thích nghi với sự biến động

của nhu cầu thị trường, gắn với định hướng và thiết chế kinh tế - xã hội phù

hợp. Trình độ kinh tế thị trường tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất, của các quan hệ kinh tế và thiết chế kinh tế - xã hội, phụ thuộc và sự

nắm bắt và vận dụng nhuần nhuyễn các quy luật kinh tế (quy luật giá trị, quy

luật cạnh tranh, quy luật cung - cầu, quy luật lưu thông tiền tệ…) của các chủ

thể kinh tế: Nhà nước, các đơn vị kinh tế (doanh nghiệp, hộ gia đình), người

tiêu dùng, các đối tác kinh tế khác. Ngoài ra, trình độ kinh tế thị trường còn phụ

thuộc vào văn hóa, phong tục tập quán, trình độ phát triển của dân chủ trong

đời sống xã hội.

* Nguồn vốn: Trong kinh tế hàng hóa, việc khai thác các nguồn lực tự

nhiên tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật áp dụng khoa học công nghệ,.. đòi hỏi

phải có vốn đầu tư. Vốn đầu tư và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn có ảnh

hưởng quan trọng, thậm chí theo một ý nghĩa nào đó có tính quyết định đến

việc nâng cao trình độ của sản xuất nông sản hàng hóa.

Tốc độ và quy mô sản xuất nông sản hàng hóa tùy thuộc vào mức thu

nhập và khả năng tích lũy vốn của các đơn vị, các chủ thể sản xuất kinh doanh

nông nghiệp cũng như sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước ở cả hai khía cạnh tỷ

34

trọng vốn đầu tư và chính sách đầu tư

Tiểu kết chương 1

Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của kinh tế hàng hóa, là kiểu tổ

chức kinh tế – xã hội của những người lao động (nông dân, công nhân, nhà

kinh doanh) trong nông nghiệp, sản xuất ra sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp

không phải để tự mình tiêu dùng mà để trao đổi, để bán trên thị trường.

Phát huy những lợi thế về mặt tự nhiên và những điều kiện kinh tế xã hội,

đặc biệt là sự thay đổi trong tư duy kinh tế hàng hóa, đã thúc đẩy nền nông

nghiệp nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng có những bước đột phá

ngoạn mục. Sản xuất nông nghiệp và sản lượng nông sản hàng hóa tăng nhanh,

chủng loại phong phú, đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng

và xuất khẩu, cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có bước chuyển dịch tích

35

cực theo hướng sản xuất hàng hóa.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA

HUYỆN ỨNG HÒA, HÀ NỘI

2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông nghiệp hàng hóa

huyện Ứng Hòa

2.1.1. Vị trí địa lí

Huyện Ứng Hòa là một huyện phía Nam của thành phố Hà Nội, có tọa độ địa lí 20043’ vĩ độ Bắc và từ 105054’ đến 105049’ Đông. Tổng diện tích tự

nhiên của huyện là 18.375,68 ha. Phía Bắc giáp huyện Chương Mỹ và Thanh

Oai; Phía Nam giáp huyện Duy Tiên và Kim Bảng (Hà Nam); Phía Tây giáp

huyện Mỹ Đức; Phía Đông giáp huyện Phú Xuyên.

Toàn huyện có 28 xã và một thị trấn Vân Đình. Huyện có vị trí thuận lợi là

nằm trên đường 21B, cách quận Hà Đông 30km về phía Bắc và khu du lịch

chùa Hương 20km về phía Nam. Huyện có tỉnh lộ 428, tỉnh lộ 78 đi qua và các

đường liên huyện, liên xã tạo cơ hội để giao lưu với thị trường bên ngoài tiếp

cận tiến bộ khoa học kỹ thuật. Có hai con sông chảy qua huyện là sông Đáy ở

phía Tây Nam và sông Nhuệ ở phía Đông Nam cùng với sông đào Vân Đình là

nguồn cung cấp nước chủ yếu để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, hiệu

36

quả và bền vững.

37

Hình 2.1. Bản đồ hành chính huyện Ứng Hòa, Hà Nội

2.1.2. Các nhân tố tự nhiên

2.1.2.1. Địa hình

Địa hình thuộc dạng địa hình đồng bằng, có độ dốc từ Bắc xuống Nam, từ

Tây sang Đông. Độ cao so với mực nước biển trung bình đạt 1,6 m. Theo đặc

điểm địa hình, lãnh thổ huyện Ứng Hòa có thể được chia làm 2 tiểu vùng:

* Vùng ven sông Đáy: gồm 12 xã (Viên An, Viên Nội, Cao Thành, Sơn

Công, Đồng Tiến, Vạn Thái, Hòa Xá, Hòa Nam, Hòa Phú, Phù Lưu, Lưu

Hoàng, Hồng Quang) và thị trấn Vân Đình. Các xã vùng ven sông Đáy thường

trồng cây công nghiệp ngắn ngày ngoài đê và trồng lúa trong đê.

* Vùng nội đồng: gồm 16 xã (Hoa Sơn, Trường Thịnh, Quảng Phú Cầu,

Liên Bạt, Phương Tú, Tảo Dương Văn, Trung Tú, Đồng Tân, Minh Đức, Kim

Đường, Hòa Lâm, Trầm Lộng, Đại Hùng, Đại Cường, Đông Lỗ, Đội Bình). Do

điều kiện địa hình thấp và trũng, không được phù sa bồi đắp hàng năm nên đất

đai có độ chua cao, trồng trọt thường là 2 vụ lúa và 1 vụ đông.

2.1.2.2. Khí hậu

Huyện Ứng Hòa có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với 4 mùa rõ rệt: xuân,

hạ, thu, đông. Mùa xuân, mùa hè ẩm ướt, nắng nóng và mưa nhiều, thu, đông

có khí hậu khô hanh, rét lạnh và ít mưa.

* Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình tháng trong năm dao động từ 16,0 đến 29,90C. Mùa đông lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Tháng lạnh nhất là

tháng 1 và tháng 2, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình

tháng thường trên 230C, tháng nóng nhất là tháng 7.

* Chế độ ẩm: độ ẩm tương đối trung bình từ 83% - 86%. Tháng có độ ẩm

trung bình cao nhất là tháng 3 và tháng 4, độ ẩm lên tới 88%, các tháng có độ

ẩm trung bình thấp nhất là tháng 11 và 12 (80%).

* Chế độ gió: gió theo mùa, mùa đông thường là gió Đông Bắc. Mùa hè thường

38

là gió Đông Nam. Bão, úng thường xảy ra vào tháng 5 đến tháng 9 trong năm.

* Chế độ bức xạ: Nằm trong vùng mang tính chất chung của vùng Đồng

bằng Bắc Bộ, hàng năm có từ 120 – 140 ngày nắng. Số giờ nắng trong năm từ

1163 – 1867 giờ. Tháng 2 và tháng 4 có số giờ nắng thấp, độ ẩm cao sẽ làm

phát sinh nhiều dịch bệnh cho cây trồng và vật nuôi.

* Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình năm 1900mm, cá biệt năm mưa

nhiều nhất đạt 2200mm (1997), năm ít mưa nhất 1124mm (1998). Tuy nhiên

lượng mưa phân bố không đồng đều theo không gian và thời gian. Do hoạt

động của gió mùa đã phân hóa chế độ mưa thành 2 mùa:

+ Mùa mưa: từ tháng 5 đến tháng 10 với lượng mưa trung bình 2.200 mm,

chiếm 70 – 80% tổng lượng mưa cả năm. Mưa lớn thường tập trung vào các

tháng 6, 7, 8 với lượng mưa xấp xỉ 300mm/tháng.

+ Mùa khô: từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa mùa này khoảng

300 – 500 mm, chiếm 20 – 30% lượng mưa hàng năm. Các tháng có lượng mưa

thấp nhất là tháng 12, 1 và 2.

Trung bình mỗi năm có từ 1 đến 3 cơn bão đổ bộ vào thời gian cuối tháng

6 đến tháng 9 và gây úng lụt.

Với điều kiện địa hình và khí hậu nêu trên, huyện Ứng Hòa có cơ sở phát

triển ngành nông nghiệp đa dạng cả về cơ cấu mùa vụ và cơ cấu cây trồng. Tuy

nhiên, do điều kiện khí hậu thay đổi cùng với địa hình thấp trũng, về mùa mưa

một số vùng thường bị ngập úng gây khó khăn cho canh tác. Đứng trước tình

hình đó thì yêu cầu chuyển dịch cơ cấu cấu cây trồng vật nuôi trong vùng trũng

chở nên cấp bách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.

2.1.2.3. Ðất đai

Tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 18.375,68 ha, trong đó:

+ Đất nông nghiệp: 12.832,98 ha chiếm 69,85%.

+ Đất chuyên dùng: 3.193,62 ha chiếm 17,38%

+ Đất ở: 1.923,4 ha chiếm 7,2%

39

+ Đất chưa sử dụng: 426,04 ha chiếm 5,57%

Theo tài liệu điều tra xây dựng bản đồ đất huyện Ứng Hòa do trung tâm

Tài nguyên và Môi trường thuộc Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp năm

2001, huyện Ứng hòa có 4 loại đất chính sau:

* Đất phù sa được bồi: diện tích 215 ha chiếm 1,17% tổng diện tích đất tự

nhiên của huyện. Phân bố trên địa hình thấp ven sông Đáy của các xã Viên An,

Viên Nội, Đồng Tiến và thị trấn Vân Đình.

Đất được hình thành do phù sa cổ của các nhánh thuộc hệ thống sông

Hồng, phẫu diện còn trẻ màu nâu tươi, thường phân lớp theo thành phần cơ

giới. Đây là loại đất tốt, rất thích hợp trồng các loại cây màu, rau, hoa, cây

cảnh. Tuy nhiên vẫn rất cần bón thêm phân hữu cơ và các phân khoáng khi

thâm canh cây trồng nhiều vụ trong năm. Cần chú ý bố trí thời vụ thích hợp để

tránh ngập lụt.

* Đất phù sa không được bồi: Loại đất này có diện tích khoảng 7.348 ha,

chiếm 40% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. Phân bố tập trung trên địa hình

vàn thuộc các xã Viên An, Viên Nội, Hoa Sơn, Sơn Công, Liên Bạt, Vân Đình,

Tảo Dương Văn, Hòa Lâm, Đồng Tân, Đông Lỗ, Đại Cường, Hồng Quang.

Đất hình thành do phù sa sông Hồng bồi đắp, phẫu diện đất hoặc chưa

hoặc ít bị biến đổi bởi tác động của các yếu tố tự nhiên và canh tác. Đất có màu

nâu hoặc nâu tươi khá đồng nhất, có nơi đã xuất hiện vệt glây yếu hoặc oxit sắt

loang lổ nhưng chưa biểu hiện rõ thành tầng phát sinh.

Đây là loại đất tốt, thích hợp trồng lúa và hoa màu. Thực tế đã sử dụng cấy

2 vụ lúa và 1 vụ rau màu đông đạt năng suất cao.

* Đất phù sa glây: chiếm diện tích khá lớn (10.683 ha) chiếm 58% tổng

diện tích tự nhiên toàn huyện. Phân bố tập trung ở địa hình thấp thuộc tất cả các

xã trong huyện.

Đất hình thành và phát triển trên sản phẩm bồi tụ phù sa của sông Hồng.

Do nằm ở địa hình thấp, thoát nước kém hoặc úng nước, đất bí nên trong phẫu

40

diện xuất hiện một hoặc hai tầng glây trung bình hoặc mạnh.

Loại đất này rất thích hợp cho việc trồng lúa nước. Những nơi địa hình

cao, thoát nước tốt có thể phát triển 3 vụ: 2 vụ lúa, 1 vụ đông. Để thâm canh tốt

và ổn định năng suất lúa trên loại đất này cần giải quyết vấn đề tiêu úng, tăng

cường phân bón, đặc biệt là phân lân. Đối với vùng thấp trũng, do ngập nước

thường xuyên, độ ẩm cao nên sâu bệnh phát triển mạnh, cần có kế hoạch phun

thuốc và kiểm tra định kỳ, có biện pháp phòng ngừa tích cực.

* Đất phù sa úng nước: loại đất này có diện tích không đáng kể, khoảng

125 ha, chỉ chiếm 0,63% tổng diện tích đất tự nhiên cùa huyện. Phân bố tại

các vùng trũng ngập nước thường xuyên ở các xã Lưu Hoàng, Phù Lưu, Hòa

Xá, Cao Thành.

Đất có nguồn gốc phù sa sông Hồng, do nằm ở địa hình trũng ngập nước

quanh năm nên đất bị glây mạnh toàn phẫu diện. Màu sắc thường xám xanh,

hơi nâu hoặc đen. Tầng mặt thường lẫn xác hữu cơ bán phân giải.

Loại đất này trước đây chỉ trồng được một vụ lúa chiêm, vụ mùa bị ngập

úng. Những năm gần đây do được tiêu úng đã chuyển thành đất trồng 2 vụ lúa.

Vẫn còn một số diện tích đất một vụ do chưa giải quyết được vấn đề tiêu úng

nên chuyển sang nuôi trồng thủy sản hoặc mô hình lúa – cá.

2.1.2.4. Tài nguyên nước

Tài nguyên nước trong vùng khá phong phú gồm cả nước mặt và nước ngầm.

* Nước mặt: Có ba con sông lớn chảy qua huyện là sông Ðáy chảy qua

phía Tây Nam dài 31km; sông Nhuệ chảy qua phía Ðông Nam dài 11km; sông

đào Vân Ðình chảy từ Thanh Oai xuống trung tâm huyện dài 6km. Mặt khác

huyện Ứng Hòa thuộc vùng trũng nên có nhiều ao hồ. Tổng diện tích mặt nước

(sông, ao hồ) trong huyện là 1,488 ha. Nước của sông Nhuệ và sông Ðáy có

hàm lượng phù sa cao, chất lượng nước tốt rất thích hợp cho việc cải tạo tính

chất đất. Với nguồn tài nguyên nước dồi dào như vậy thì yêu cầu đảm bảo nước

41

cho việc trồng trọt và chăn nuôi rất thuận lợi. Ngoài ra do đặc điểm là vùng

trũng nên các sông và ao hồ trong huyện còn có nhiệm vụ quan trọng trong yêu

cầu tiêu nước vào mùa mưa.

* Nước ngầm: Hiện tại, chưa có tài liệu đầy đủ về trữ lượng nước ngầm

trong trong huyện, nhưng theo khảo sát sơ bộ thì nước ngầm trong huyện khá

phong phú, mực thủy tĩnh cao, chỉ cần khoan sâu 15 – 20 m là đã có nước dùng

cho dân sinh, khoan sâu 100 m là có nguồn nước sản xuất công nghiệp

2.1.2.5. Tài nguyên khoáng sản

Huyện Ứng Hòa nói chung nghèo tài nguyên khoáng sản. Trên địa bàn

huyện có những loại khoáng sản có thể phục vụ cho sản xuất và khai thác như:

* Than bùn: theo thăm dò sơ bộ của một số ngành chức năng thì tài

nguyên than bùn trong huyện tập trung ở 8 xã thuộc khu Cháy (Trung Tú, Ðồng

Tân, Hòa Lâm, Trầm Lộng, Minh Ðức, Kim Ðường, Ðông Lỗ, Ðại Hùng) với

trữ lượng chưa xác định cụ thể. Ðây là nguồn nguyên liệu làm phân hữu cơ vi

sinh rất tốt cho trồng trọt.

* Cát: do sông Ðáy chảy qua với chiều dài 36,5 km dọc theo các xã ven

sông từ Viên An đến Ðội Bình nên cát chủ yếu được tập trung khai thác ở các

xã Viên An, Hòa Nam, Hòa Phú nhằm phục vụ xây dựng cơ bản.

2.1.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội

2.1.3.1. Dân cư và lao động

* Dân cư: Nãm 2012 toàn huyện có 187.974 người, mật độ dân số trung

bình là 1043 người/km2. Tuy nhiên, dân số phân bố không đều giữa các xã

trên địa bàn huyện; tập trung nhiều ở thị trấn Vân Ðình 2513 người/km2,

Quảng Phú Cầu 1270 người/km2, Hòa Xá 1817 người/km2, thấp nhất là Trầm

Lộng 605 người/km2.

Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Ðảng, UBND huyện và các xã, phong trào

kế hoạch hóa gia đình được tuyên truyền sâu rộng và triển khai thực hiện tích

42

cực trên toàn huyện, tỷ lệ sinh năm 2012 là 1,08%

* Lao động: Theo số liệu thống kê năm 2012, toàn huyện có trên 100

nghìn người trong độ tuổi lao động chiếm trên 55%. Trong đó số lao động nông

nghiệp chiếm chủ yếu (76%). Đây là một thế mạnh và điều kiện tiền đề để phát

triển một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại.

Thực hiện chương trình giải quyết việc làm, hằng năm số lao động trong

huyện được giải quyết việc làm ngày càng tăng theo hướng giải quyết việc làm

tại chỗ và đưa lao động ra tỉnh ngoài và xuất khẩu lao động.

2.1.3.2. Cơ sở hạ tầng nông thôn

* Giao thông: Ứng Hòa có mạng lưới giao thông tương đối hoàn thiện bao

gồm tuyến đường trục chính là Quốc lộ 21B, tỉnh lộ 429, tỉnh lộ 428 (75A),

tỉnh lộ 432 (74), tỉnh lộ 431 (76), tuyến tỉnh lộ Cầu Lão – Ba Thá, nối liền với

các tỉnh thành tạo điều kiện giao lưu kinh tế - thương mại thông suốt, ngoài ra

còn có hệ thống các tuyến đường liên huyện, liên xã, thôn, xóm đan xen đi lại

khá thuận tiện, chất lượng đường tốt, đa phần được giải nhựa hoặc bê tông hóa

đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của nhân dân.

Giao thông đường thủy với 3 tuyến sông có tổng chiều dài 48 km, trong

đó tuyến sông Đáy dài 31km đi qua 14 xã phía Tây Nam huyện, tuyến sông

Nhuệ dài 11 km qua phía Đông huyện và tuyến sông Vân Đình dài 6 km qua

trung tâm huyện. Tuy nhiên giao thông đường thủy chưa phát triển, mới chỉ có

ít số lượng hàng hóa được vận chuyển qua sông Nhuệ.

* Thủy lợi: Thủy lợi là một công tác rất quan trọng trong quá trình chinh

phục, cải tạo đất đai của huyện. Qua nhiều năm đến nay huyện đã có một hệ

thống kênh mương cứng hóa khá hoàn chỉnh, đáp ứng cơ bản việc tưới tiêu cho

đại bộ phận diện tích đất canh tác của huyện. Bên cạnh đó, toàn huyện có 135

trạm bơm lớn nhỏ và hàng trục km đê sông có tác dụng chống lũ lụt bảo vệ sản

xuất và đời sống.

Nhìn chung, hệ thống thủy lợi của huyện đã đáp ứng được cơ bản yêu cầu

tưới tiêu, phục vụ sản xuất nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên có một số tuyến

43

kênh mương đã bị xuống cấp cần được cải tạo và nâng cấp.

2.1.3.3. Thị trường tiêu thụ

Sự phát triển nhanh kinh tế của cả nước và Hà Nội nói chung đã có tác

động rất lớn đến sự phát triển kinh tế của huyện. Trong những năm gần đây nền

kinh tế nước ta phát triển nhanh và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Sản xuất

từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa, đời sống nhân dân được nâng cao,

nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ ngày càng lớn. Nhờ đó, thị

trường hàng hóa và dịch vụ của huyện cũng ngày càng mở rộng.

Với số dân trong huyện khoảng hơn 190 nghìn người cùng với số dân

khoảng gần 7 triệu người của thành phố sẽ là thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng

hóa và dịch vụ lớn của huyện và cũng là thị trường rất quan trọng để cung cấp

các yếu tố đầu vào cho các quá trính sản xuất kinh doanh của huyện. Với vị trí

địa lí, hệ thống giao thông thuận lợi, nông sản của huyện sản xuất ra đều có

điều kiện tiếp cận thị trường rộng lớn, nhất là đối với các huyện trong thành

phố và các địa phương lân cận. Như vậy, có thể nói, huyện có tiềm năng thị

trường rất lớn. Đó là điều kiện đặc biệt quan trọng để phát triển nền nông

nghiệp hàng hóa của huyện.

2.1.4. Ðánh giá chung

2.1.4.1. Thuận lợi

- Căn cứ vào nguồn lực tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên sẵn có như đã

phân tích ở trên, có thể rút ra những lợi thế chính của huyện Ứng Hòa về vị trí

địa lí khá thuận lợi, có hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy khá phong

phú và hoàn thiện tạo điều kiện tốt cho việc giao lưu đi lại và tiêu thụ sản phẩm

nông nghiệp đối với thị trường bên ngoài, tăng khả năng cạnh tranh với các địa

phương khác. Ðặc biệt khi sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển theo

hướng sản xuất hàng hóa.

- Ứng Hòa có nhiều loại đất màu mỡ, trong đó chủ yếu là đất phù sa màu

mỡ thích hợp với các cây lương thực đặc biệt là cây lúa, cây công nghiệp hằng

năm tạo nên vùng thâm canh lúa có năng suất cao và chất lượng tốt, đáp ứng

nhu cầu của nhân dân trong huyện và các huyện, tỉnh lân cận, đồng thời cũng là

44

một vùng nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến. Vùng đất trũng ở một

số xã phía Nam của huyện tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy

sản và chăn nuôi vịt cỏ.

- Ứng Hòa có nhiều sông ngòi, ao hồ, thuận lợi để đẩy mạnh nuôi trồng

thủy sản, đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công

nghiệp chế biến.

- Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có mùa đông lạnh kéo dài trên 3 tháng,

tạo điều kiện thâm canh tăng vụ và đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, tăng khả

năng sản xuất hàng hóa nông nghiệp.

- Ứng Hòa có các điều kiện kinh tế, xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế

nói chung và phát triển nông nghiệp, nông nghiệp hàng hóa nói riêng đó là,

nguồn nhân lực dồi dào, có tay nghề, nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông

nghiệp, năng động và nhạy bén trong nền kinh tế thị trường. Ðội ngũ lãnh đạo

dám nghĩ, dám làm và tích cực áp dụng khoa học công nghệ trong lao động sản

xuất. Việc triển khai và thực hiện đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước

về phát triển nông nghiệp, nông thôn hợp lý và sáng tạo trong điều kiện thực tế

của địa phương.

2.1.4.2. Khó khăn

- Khí hậu nóng ẩm là môi trường tốt cho nhiều loại sâu bệnh phát triển,

gây hại không ít cho sản xuất nông nghiệp trong huyện. Thêm vào đó, những

biến đổi bất thường của khí hậu và thời tiết gây nên các hiện tượng thời tiết cực

đoan như dông, tố, lốc,.. Tình trạng đất bị rửa trôi làm giảm độ màu mỡ và suy

kiệt nguồn nước ngầm.

- Mặc dù cơ sở hạ tầng của huyện khá hoàn thiện nhưng so với yêu cầu

phát triển kinh tế xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp hàng hóa nói riêng

vẫn còn thiếu đồng bộ và bất cập. Hệ thống thủy lợi vẫn còn nhiều hạn chế, ở

một số xã tình trạng ngập úng hoặc hạn hán vẫn còn xảy ra. Giao thông nông

thôn tuy được đẩy mạnh đầu tư nâng cấp nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu ngày

càng cao của phát triển, mạng lưới dịch vụ nông nghiệp còn kém.

- Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh cùng với sự gia tăng dân số làm

thu hẹp diện tích đất canh tác, đồng thời làm ô nhiễm môi trường, tác động

45

không tốt đến sự phát triển nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân.

46

Hình 2.2. Bản đồ nguồn lực phát triển nông nghiệp huyện Ứng Hòa

2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Úng Hòa 2.2.1. Khái quát chung

2.2.1.1. Vị trí của nông, lâm, thủy sản (NLTS) trong cơ cấu kinh tế Nông, lâm, thủy sản (NLTS) mặc dù đang có xu hướng giảm tỉ trọng từ 37,5% năm 2009 xuống còn 30,1% năm 2014 trong cơ cấu tổng giá trị kinh tế của huyện, song vẫn giữ vai trò quan trọng, thu hút tới trên 70% tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế của huyện. Hoạt động kinh tế này đang chuyển dần từ một nền sản nhỏ sang nền sản xuất hàng hóa, quy mô lớn. Bảng 2.1. Cơ cấu giá trị nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của huyện Ứng Hòa giai đoạn 2009 - 2014

(Đv: %)

NLTS CN-XD Dịch vụ Năm

Giá trị sản xuất (triệu đồng) 6011735 6417179 7616271 8055598 8643656 9415618 37,5 36,7 35,1 33,0 32,6 30,0 39,1 42,6 43,6 44,0 44,7 46,2 23,4 20,7 21,3 23,0 22,7 23,8 2009 2010 2011 2012 2013 2014

Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ứng Hòa

2.2.1.2. Tăng trưởng nông nghiệp Tốc độ tăng trưởng của khu vực nông nghiệp trong giai đoạn 2009 – 2014

đạt trung bình 6,3% /năm, trong khi đó, giai đoạn 2009 – 2014, (khu vực công nghiệp, xây dựng: 16% và khu vực dịch vụ: 9,6%).

Hình 2.3. Giá trị sản xuất nông nghiệp huyện Ứng Hòa 2009 – 2014

47

Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ứng Hòa

- Qua biểu đồ trên có thể thấy giá trị sản xuất nông nghiệp tăng tương

đối đều giai đoạn 2009 – 2014. Năm 2014, giá trị sản xuất đạt 4.210.261

triệu đồng, tăng 1,8 lần so với năm 2000.

2.2.1.3. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản

xuất hàng hóa

Trong giai đoạn 2009 – 2014, ngành nông nghiệp Ứng Hòa có những

bước tăng trưởng khá vững chắc cả về giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng.

Trong 5 năm qua, giá trị sản xuất của khu vực nông nghiệp tăng 1,8 lần từ

1.782.549 triệu đồng năm 2009 lên 3.162.856 triệu đồng năm 2014.

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp Ứng Hòa đang có sự chuyển dịch tích cực

theo hướng sản xuất hàng hóa (giảm tỉ trọng ngành trồng trọt, tăng tỉ trọng

ngành chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp): trong giai đoạn 2009 – 2014, giá trị

sản xuất ngành trồng trọt giảm từ 60,8% xuống còn 34,4%; giá trị sản xuất

ngành chăn nuôi tăng nhanh từ 32,0% lên 56,4%; giá trị dịch vụ nông nghiệp

trong cơ cấu ngành nông nghiệp của huyện tăng từ 1,2% lên 9,5%.

Bảng 2.2. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Ứng Hòa giai đoạn 2009-2014

Đv: %

Chia ra

Dịch vụ Tổng số Năm Trồng trọt Chăn nuôi nông nghiệp

32,0 1,2 100 60,8 2009

43,2 1,4 100 55,4 2010

48,3 8,9 100 42,8 2011

49,8 9,9 100 40,3 2012

56,8 9,5 100 33,7 2013

56,4 9,5 100 34,1 2014

48

Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Ứng Hòa

Nhằm khai thác triệt để tiềm năng của địa phương, những năm gần đây,

cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi của huyện đã có sự thay đổi rõ rệt, hướng tới

những nông sản hàng hóa chất lượng và năng suất cao. Đối với cơ cấu giống

lúa đã có nhiều giống lúa mới năng suất, chất lượng cao được đưa vào sản

xuất; một số cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như cam canh, bưởi diễm, chanh

đào, chuối tiêu,.. được đưa vào sản xuất thay thế các cây rau màu có hiệu quả

và chất lượng thấp.

Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi đã được huyện chủ động

chuyển đổi các diện tích đồng chiêm trũng, sản xuất lúa kém hiệu quả sang mô

hình đa canh, chuyên canh trồng lúa kết hợp chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản,

hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn.

2.2.2. Thực trạng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

huyện Ứng Hòa

2.2.2.1. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng nhanh và tương đối toàn diện,

chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa

Sau nhiều năm thực hiện chủ chương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu

kinh tế của huyện đã giảm từ 37,5% năm 2009 xuống còn 30,1% năm 2014. Cơ

cấu kinh tế nông nghiệp đang từng bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng

chăn nuôi, giảm tỷ trọng ngành trồng trọt và đã bắt đầu hình thành những vùng

sản xuất hàng hóa trong vài năm trở lại đây. Nông nghiệp phát triển toàn diện

và bền vững không những là nền tảng cơ bản mà còn giữ vai trò thúc đẩy các

ngành kinh tế khác cùng phát triển.

Ðối với kinh tế huyện Ứng Hòa, nông nghiệp vẫn là một trong những

ngành chiếm vị trí quan trọng. Với trên 80% dân số sống ở nông thôn, gần 70%

lao động làm nông nghiệp, nông nghiệp quyết định đời sống của phần lớn dân

49

cư, giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho họ. Nông nghiệp là nguồn cung cấp

lương thực, thực phẩm chủ yếu, đồng thời là nguồn cung cấp nguyên liệu cho

công nghiệp, cung cấp sản phẩm hàng hóa cho xã hội.

Trong những năm gần đây, nhằm đẩy mạnh quá trình chuyền dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác tối đa tiềm nãng,

thế mạnh sẵn có, huyện đã cụ thể hóa, vận dụng linh hoạt các chủ trương, chính

sách cúa Ðảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của địa phương. Huyện đã xây

dựng cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát

triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chủ trương chính sách của Ðảng và Nhà nước đi vào điều kiện thực tế

của ngành nông nghiệp địa phương làm cho bức tranh tổng quát của nông

nghiệp hàng hóa của huyện trong thời gian qua tăng nhanh. Giá trị sản xuất

nông nghệp liên tục tăng qua các năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ

2.350.391 triệu đồng năm 2009 lên 4.210.261 triệu đồng năm 2014.

a. Ngành trồng trọt

Do có sự chủ động trong chỉ đạo điều hành, có các giải pháp cụ thể, tích

cực đẩy mạnh phát triển sản xuất, chuyền đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản

xuất hàng hóa, tăng cường chỉ đạo chuẩn bị tốt các điều kiện phục vụ sản xuất

như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thủy lợi, công tác khuyến nông,..

góp phần tăng năng suất cây trồng; đồng thời chỉ đạo quyết liệt khắc phục các

ảnh hưởng do bão lũ, dịch bệnh gây ra… nên kết quả sản xuất nông nghiệp đạt

mức tăng trưởng khá cao, sản xuất lương thực ngày càng tăng và ổn định. Năm

2014 diện tích gieo trồng toàn huyện đạt khoảng 12.809,66 ha, giá trị sản xuất

đạt 995.245 triệu đồng chiếm 45,1% cơ cấu ngành nông nghiệp.

* Sản xuất lương thực: Cây lương thực là cây trồng chủ đạo trong ngành

trồng trọt của huyện. Thành tựu đầu tiên, nổi bật và quan trọng nhất của sự phát

triển nông nghiệp hàng hóa ở Ứng Hòa là sản lượng lương thực mà chủ yếu là

50

lúa gạo tăng lên qua các năm. Năm 2014, giá trị sản xuất lương thực của huyện

đạt 791.458 triệu đồng chiếm trên 80% giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng 1,8

lần năm 2009; Diện tích cây lương thực chiếm trên 87% diện tích ngành trồng

trọt; Tổng sản lượng lương thực có hạt đạt trên 130.000 tấn; lương thực bình

quân đầu người đạt 692kg/năm, đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn.

Bảng 2.3. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa huyện Ứng Hòa và toàn

thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 - 2014

Diện tích (ha) Năng suất(tạ/ha) Sản lượng (tấn) Năm Ứng Hòa Hà nội Ứng Hòa Hà nội Ứng Hòa Hà nội

21.715 206.890 59,6 55,7 129.443,1 1.154.134 2009

21.726 204.662 60,6 54,9 129.005,6 1.125.016 2010

21.710 204.894 62,0 59,5 134.644,2 1.220.432 2011

21.633 205.347 60,7 58,5 131.355,7 1.202.399 2012

21.061 204.364 62,0 56,6 130.746,8 1.156.531 2013

21.012 204.286 62,1 57,2 130.526,5 1.168.756 2014

Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê huyện Ứng Hòa và thành phố Hà Nội

Qua bảng số liệu trên có thể thấy vai trò của huyện trong sản xuất lương

thực của thành phố Hà Nội. Trong nhiều năm, Ứng Hòa là huyện đứng đầu toàn

thành phố về diện tích và sản lượng lúa. Nãm 2014, diện tích gieo trồng lúa

toàn huyện là 21.012 ha; sản lượng lúa đạt 130.526,5 tấn, chiếm 10,2% diện

tích gieo trồng và 11,1% năng suất lúa toàn thành phố.

Nguyên nhân đạt được những thành tựu trên là do trong thời gian qua, hạ

tầng cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là đầu tư cho các công trình thủy

lợi kiên cố hóa kênh mương, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

sản xuất ngày càng được tăng cường; các giống lúa mới có năng suất, chất

lượng cao được đưa vào gieo cấy. Tỷ lệ diện tích lúa nguyên chủng, lúa thuần

51

cấp I và lúa lai chiếm trên 90% diện tích gieo trồng. Diện tích ngô lai hàng năm

chiếm trên 95% diện tích trồng ngô của huyện. Các hộ nông dân đẩy mạnh

thâm canh tăng năng suất cây trồng, sản lượng lương thực có hạt năm sau

thường cao hơn năm trước.

Với mục tiêu từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, phòng

nông nghiệp đã tham mưu cho huyện ban hành nhiều cơ chế, chính sách để

hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Trong những năm gần đây,

người nông dân đã đầu tư đáng kể vào sản xuất các loại cây trồng, rau màu đặc

sản phù hợp với điều kiện đất đai cũng như điều kiện tự nhiên của vùng.

Trong số các các cây trồng trong huyện thì lúa là cây trồng chiếm vị trí

chủ đạo và được trồng ở tất cả các xã trong huyện trong đó lúa được trồng

nhiều nhất ở các xã như: Phương Tú, Minh Đức, Kim Đường, Quảng Phú

Cầu,... Năm 2014, diện tích trồng lúa đạt 11.248,69 ha chiếm 87,81% tổng diện

tích đất nông nghiệp. Năng suất lúa trung bình đạt 61,62 tạ/ha. Trong đó lúa

xuân có năng xuất cao hơn vụ mùa (62,14 tạ/ha so với 60,68 tạ/ha).

Các giống lúa được trồng chủ yếu trong huyện gồm: các giống nội như

(ĐB5, ĐB6) với diện tích khoảng 968 ha chiếm 8,6%; Nếp các loại, lúa lai,

Khang Dân, Q5, lúa Bắc Thơm và lúa cao sản HTY,…

Bảng 2.4. Diện tích lúa cả năm phân theo đơn vị hành chính huyện

Ứng Hòa giai đoạn 2009 – 2013

Đơn vị: ha

Năm 2009 2010 2011 2012 1013 STT Tổng số 21.704 21.726 21.710 21.633 21.061

1 T.t Vân Đình 415 404 411 429 437

2 Viên An 501 505 508 500 517

3 Viên Nội 511 486 472 522 493

4 Sơn Công 545 545 545 561 561

52

5 Đồng Tiến 613 590 585 582 588

6 Vạn Thái 661 711 672 666 670

7 Hòa Xá 126 144 149 148 174

8 Hòa Nam 504 483 496 525 509

9 Hòa Phú 734 701 739 755 736

10 Phù Lưu 480 480 459 509 527

11 Lưu Hoàng 375 367 379 370 388

12 Hồng Quang 480 478 480 480 479

13 Cao Thành 535 485 540 542 534

14 Hoa Sơn 826 823 839 840 855

15 Trường Thịnh 725 707 702 711 730

16 Q. Phú Cầu 1.067 1.067 1.072 1.069 1.068

17 Liên Bạt 998 986 934 957 944

18 Phương Tú 1.414 1.420 1.423 1.301 1.253

19 T.Dương Văn 1.076 1.034 1.050 1.053 1.035

20 Đội Bình 905 904 899 904 882

21 Đại Hùng 615 617 617 617 617

22 Đại Cường 613 617 620 618 618

23 Đông Lỗ 922 899 912 917 896

871 24 Trung Tú 1.222 1.214 1.195 1.210

25 Đồng Tân 828 828 825 826 828

26 Minh Đức 1.116 1.101 1.104 1.087 1.067

27 Kim Đường 1.174 1.191 1.146 1.186 1.205

28 Hòa Lâm 888 975 1.081 1.082 1.012

39 Trầm Lộng 835 663 869 792 720

Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ứng Hòa

* Cây hoa màu: Cây hoa màu cũng chiếm diện tích khá lớn (khoảng

53

348,34 ha chiếm 3,84% tổng diện tích nông nghiệp) và được trồng ở các xã:

Hòa Xá, Vạn Thái, Sơn Công, Viện Nội, Đội Bình,... Cây hoa màu đóng vai trò

rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp của huyện, nó vừa cung cấp rau màu

cho người dân trong huyện, vừa là nguồn hàng để xuất khẩu sang các huyện lân

cận như Thanh Oai, Hà Đông, Thường Tín,..

Các cây hoa màu thường được được trồng chủ yếu trong vụ đông với các

loại cây như: đậu tương, khoai lang và rau vụ đông (su hào, cải bắp, cà chua,

cà rốt, bí xanh,...). trong số những cây rau màu thì cây ngô chiếm vị trí lớn

nhất (726 ha), tiếp đến là cây đậu tương (62,24 ha). Cây rau vụ đông chiếm

diện tích nhỏ nhất (16,92 ha) vì các xã trong huyện không phải là những nơi

chuyên về rau màu.

Ngô: Có vai trò quan trọng trong việc cung cấp một phần nhu cầu cái

ăn cho con người, là cơ sở thức ăn cho chăn nuôi gia súc cũng như nguyên

liệu, ở mức độ nhất định cho công nghiệp chế biến.

Năm 2014, diện tích ngô của huyện là 726 ha, chiếm 5,6% diện tích

gieo trồng của huyện và chiếm 3,3% diện tích cây lương thực có hạt. Sản

lượng ngô đạt 3.805 tấn, chiếm 3.2% sản lượng lương thực có hạt của

huyện. Ngô được trồng nhiều ở các xã Sơn Công, Đồng Tiến, Hồng Quang,..

đây là những xã tương đối cao hơn các xã khác trong huyện và có truyền

thống trồng cây hoa màu, đặc biệt là trồng ngô trong vụ đông.

Đậu tương: Là cây hoa màu được trồng nhiều thứ 2 sau ngô trong vụ

đông. Cũng giống như ngô, đậu tương ngoài việc cung cấp nguồn thúc ăn

cho gia súc, nó còn là nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Do đạt

hiệu quả kinh tế cao nên trong những năm gần đây, các xã trong huyện đã

tích cực mở rộng diện tích trồng đậu tương trong vụ đông. Năm 2014, diện

tích đậu tương toàn huyện đạt 320 ha chiếm 2,4% diện tích đất nông nghiệp

54

toàn huyện; năng suất đạt 510 tấn.

Khoai lang: Trong số các loại cây hoa màu của huyện cây khoai lang

cũng có vị trí quan trọng. Tuy nhiên, do hiệu quả sản xuất thấp nên trong

những năm qua, diện tích trồng khoai lang của huyện giảm đáng kể. Hiện

nay, diện tích khoai lang chỉ còn khoảng dưới 90 ha và được trồng dải rác ở

các xã vào vụ đông. Diện tích này, người dân trong huyện chuyển sang trồng

các cây khác có hiệu quả cao hơn như đậu tương và cây rau vụ đông như xu

hào, cải bắp,..

Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới có năng suất cao

vào sản xuất, tạo bước đột phá về năng suất, sản lượng, sản lượng hàng hóa

ngày một nhiều, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong huyện và các

huyện lân cận.

* Cây ăn quả: Cây ăn quả không phải là loại cây trồng chủ đạo của huyện

nhưng nó cũng chiếm diện tích đáng kể (68,57 ha). Bưởi Diễn là cây ăn quả

hiện nay cho thu nhập tốt được người dân trong huyện trồng nhiều (ở các xã

Hòa Xá, Hòa Nam,...), một số hộ còn trồng cam canh. Ngoài ra còn trồng xen

các loại vải, nhãn nằm rải rác ở các xã nhưng với số lượng ít.

b. Ngành chăn nuôi

Bên cạnh ngành trồng trọt ngành chăn nuôi cũng khá phát triển và chiếm

tỷ trọng cao trong cơ cấu nông nghiệp của huyện (năm 2014, giá trị sản xuất

ngành chăn nuôi đạt trên 1000 tỷ đồng chiếm trên 50% cơ cấu nông nghiệp của

huyện). Chăn nuôi tăng mạnh xuất phát từ sự thay đổi nhận thức về vai trò của

ngành chăn nuôi, tuy nhiên điều quan trọng nữa là thức ăn cho chăn nuôi đã

đảm bảo từ phụ phẩm của ngành trồng trọt, đặc biệt là công nghiệp chế biến

thức ăn cho chăn nuôi phát triển mạnh. Điều này làm tăng năng suất, giá trị sản

55

xuất của ngành chăn nuôi, thúc đẩy phát triển chăn nuôi theo hướng hàng hóa.

Bảng 2.5. Số lượng đàn gia súc, gia cầm huyện Ứng Hòa giai đoạn 2009-2014

(Ðv: nghìn con)

Năm 2009 2010 2011 2012 2013 2014

0,476 0,495 0,424 0,431 0,429 0,464 Trâu

6,152 7,018 5,025 4,075 5,380 5,268 Bò

75,910 77,988 98,902 91,308 119,591 109,128 Lợn

0,061 0,065 0,036 0,004 0,015 0,012 Ngựa

0,060 0,045 0,045 0,041 0,048 0,048 Dê

1.339,15 1.138,77 1.348,90 1.433,75 Gia cầm 1.086,72 1.131,86

Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Ứng Hòa

Bảng 2.6. Sản lượng thịt gia súc, gia cầm huyện Ứng Hòa giai đoạn 2009-2014

(Ðv: tấn)

Nãm 2009 2010 2011 2012 2013 2014

Thịt trâu hơi xuất chuồng

23,0 38,0 31,9 30,2 29,9 30,4

Thịt bò hơi xuất chuồng

436,3 332,4 346,0 332,1 337,2 298,6

Thịt lợn hơi xuất chuồng

15.068 17207 22.611 24.629 25.976 26.135

Thịt dê hơi xuất chuồng

20,5 20,8 21,1 20,9 21,7 21,9

2.042 2.182 2.846 4.518 5.105 5.848 Thịt gia cầm giết bán

Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Ứng Hòa

Những năm gần đây, do nhu cầu của thị trường, người dân trong huyện

đẩy mạnh chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm như: trâu, bò, lợn, ngựa, dê, gia

cầm (vịt, gà các loại). Nhờ đó mà tình hình chăn nuôi của huyện tiếp tục phát

56

triển theo hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế. Nhờ đó mà một số

sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm của huyện chiếm vị trí khá cao trong cơ

cấu ngành chăn nuôi của thành phố Hà Nội.

Bảng 2.7. Số lượng và sản lượng thịt đàn gia súc, gia cầm huyện Ứng Hòa

và thành phố Hà Nội giai đoạn 2009 - 2013

Năm 2009 2011 2013

Số lượng đàn gia súc, gia cầm (Đv: nghìn con)

Ứng Hà Nội Ứng Hà Nội Ứng Hà Nội

Hòa Hòa Hòa

Trâu

0,476 28,2 0,424 25,1 0,429 23,9

6,152 184,6 5,025 173,3 5,380 131,0

Lợn

75,910 1625,2 98.902 1533,1 119,591 1380,1

Ngựa

0,061 0,5 0,036 0,5 0,015 0,3

0,060 10,2 0,045 9,8 0,048 4,6

Gia cầm (triệu con)

1,086 17,3 1,339 20,8 1,348 24,5

Sản lượng thịt gia súc, gia cầm (Đơn vị: tấn)

Ứng Hà Nội Ứng Hà Nội Ứng Hà Nội

Hòa Hòa Hòa

Thịt trâu hơi xuất chuồng

23,0 1351 31,9 1347 29,9 1409

Thịt bò hơi xuất chuồng

436,3 7694 346,0 8700 337,2 9040

Thịt lợn hơi xuất chuồng

298217

15068 22611 311514 25976 298962

Thịt gia cầm giết bán

2042 49843 2846 63552 5105 75067

Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê huyện Ứng Hòa và thành phố Hà Nội

Trong cơ cấu ngành chăn nuôi, chăn nuôi gia súc có xu hướng tăng nhanh

đặc biệt là đàn lợn vì thức ăn cho chăn nuôi ngày càng đảm bảo, công tác

giống, thú y cũng tốt hơn. Đàn gia cầm tăng chậm hơn vì ảnh hưởng của dịch

cúm gia cầm hoành hành.

* Ngành chăn nuôi gia súc: Trong những năm qua, ngành chăn nuôi gia

57

súc lớn (trâu, bò) có xu hướng giảm, xuất phát từ thực tế đất nông nghiệp đang

giảm, đồng thời sức kéo trong nông nghiệp đang được thay thế bằng máy móc.

Năm 2014 số lượng đàn trâu của huyện là 464 con giảm 12 con so với năm

2009; đàn bò là 5.268 con giảm 884 con so với năm 2009. So với đàn trâu, đàn

bò được nuôi nhiều hơn và được nuôi nhiều ở hầu hết các xã trong huyện.

Trong những năm gần đây, huyện đã tập trung phát triển đàn bò thịt chất lượng

cao vừa đem lại hiệu quả kinh tế vừa đáp ứng nhu cầu thực phẩm ngày càng

cao của nhân dân.

Chăn nuôi gia súc nhỏ mà đặc biệt là nuôi lợn phát triển mạnh do nhu cầu

của thị trường cao và đặc biệt là do nhu cầu thức ăn cho chăn nuôi được đảm

bảo. Năm 2014 toàn huyện có 109.128 con lợn với sản lượng thịt hơi xuất

chuồng khoảng 25.976 tấn tăng 33.218 con và 10.908 tấn thịt so với năm 2009.

Hầu hết các xã trong huyện đều có người dân chăn nuôi lợn, trong đó xã

Trường Thịnh nuôi nhiều nhất (7428 con, sản lượng thịt là 682,5 tấn), thứ hai là

xã Vạn Thái (5.896 con với sản lượng thịt là 662,3 tấn), thấp nhất là xã Lưu

Hoàng (735 con với sản lượng là 48,1 tấn).

* Chăn nuôi gia cầm: Nhờ có công nghiệp chế biến thức ăn, kết hợp với

nhu cầu ngày càng cao trên thị trường, đàn gia cầm của huyện liên tục tăng và

đạt trên 1 triệu con, tăng trên 13% năm 2009. Đàn gia cầm tăng nhanh do chủ

động được nguồn thức ăn và tính hàng hóa của đàn gia cầm cũng tăng. Hiện

nay, chăn nuôi gia cầm trong huyện đang chuyển từ hình thức chăn nuôi tự

nhiên sang chăn nuôi công nghiệp kết hợp với thả vườn theo hướng siêu thịt,

siêu trứng,.. trong các trang trại, gia trại, tăng cường sử dụng các giống có năng

suất cao, chất lượng tốt, thay thế các giống chất lượng kém, ít chịu dịch bệnh,

đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường.

c. Nuôi trồng thủy sản

Năm 2014, giá trị sản xuất ngành thủy sản của huyện đạt 789.919 triệu

đồng chiếm 19,4% cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông – lâm – thủy sản. So với

năm 2009, giá trị sản xuất của ngành thủy sản Ứng Hòa tăng gần 2,1 lần, tốc độ

58

tăng cao nhất trong các ngành thuộc nhóm ngành nông – lâm – thủy sản.

Trong cơ cấu ngành thủy sản ở Ứng Hòa, ngành nuôi trồng đang chiếm ưu

thế. Năm 2014, ngành nuôi trồng đạt 652.180 triệu đồng và chiếm trên 82% cơ

cấu giá trị sản xuất toàn ngành thủy sản.

Hình 2.4. Cơ cấu ngành thủy sản huyện Ứng Hòa giai đoạn 2009 – 2014

Sự tăng nhanh của ngành nuôi trồng thủy sản tập trung ở các xã Phương

Tú, Trung Tú, Hòa Lâm, Trầm Lộng,.. nơi có nhiều diện tích mặt nước được

đưa vào sử dụng, các xã này cũng là những xã phát triển mạnh loại hình trang

trại nuôi trồng thủy sản.

* Ngành đánh bắt thủy sản: Trong những năm qua, sản lượng đánh bắt

thủy sản còn nhiều khiêm tốn và tăng chậm, từ 1.064 tấn năm 2009 lên 1.202

tấn năm 2014. Sản phẩm đánh bắt chủ yếu là cá và tôm.

* Ngành nuôi trồng thủy sản: Trong những năm gần đây, nghề nuôi trồng

thủy sản phát triển với tốc độ nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Nuôi trồng liên quan chặt chẽ tới diện tích mặt nước. Nhìn chung, diện tích mặt

nước nuôi trồng thủy sản trong huyện liên tục tăng qua các năm từ 1.968 ha

năm 2009 lên 2.346 ha năm 2014 do sự hình thành các trang trại tổng hợp và

chuyển một phần diện tích trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản. Diện tích mặt

nước tăng làm cho sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng mạnh, từ 9.648 tấn năm

2009 lên 16.058 tấn năm 2014, tăng 1,7 lần.

Thủy sản nuôi trồng bao gồm cá chiếm ưu thế tuyệt đối (gần 100%),

ngoài ra còn nuôi tôm và các loại thủy sản khác như baba, ếch, cua,... nhưng

59

không đáng kể.

60

Hình 2.5. Bản đồ hiện trạng phát triển nông nghiệp huyện Ứng Hòa

2.2.2.2. Một số mô hình tổ chức lãnh thổ nông nghiệp huyện Ứng Hòa

a. Hộ gia đình (nông hộ)

Năm 2014, huyện Ứng Hòa có gần 48.500 hộ, trong đó số hộ làm nông

nghiệp chiếm chủ yếu (trên 70%), đây là lực lượng chủ yếu sản xuất và cung

cấp hàng hóa nông sản trên thị trường. Vì vậy, huyện đã có nhiều chủ trương,

chính sách khuyến khích tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển, khuyến khích

nông dân làm giàu chính đáng. Tuy nhiên, kinh tế hộ nông nghiệp ở Ứng Hòa

có quy mô sản xuất nhỏ bé, một số hộ sản xuất tự nhiên, mang tích tự cấp tự

túc, trình độ, phong tục tập quán sản xuất còn lạc hậu, nên hiệu quả kinh tế

mang lại của kinh tế hộ chưa cao.

Quy mô sản xuất của nông hộ nhỏ bé. Bình quân diện tích đất sản xuất

nông nghiệp của mỗi hộ là 1 ha. Nếu chỉ tính đất nông nghiệp (trồng trọt), quy

mô diện tích đất của mỗi hộ nông dân nhỏ hơn nhiều (0,68 ha/hộ nông dân).

Quy mô diện tích nhỏ làm cho sản xuất hàng hóa bị hạn chế.

Quy mô nhân khẩu bình quân mỗi nông hộ ở Ứng Hòa khá cao. Tổng

nhân khẩu của nông hộ năm 2014 là 173.950 người, trung bình mỗi hộ có 3,5

nhân khẩu. Nguồn lao động trong các hộ gia đình chủ yếu là nguồn lao động

trực tiếp từ các thành viên trong hộ gia đình. Tổng số lao động của nông hộ là

102.424 người, trung bình mỗi nông hộ có khoảng 2,1 lao động.

Hiện nay, hộ nông nghiệp đang ngày càng đa dạng hóa sản xuất với những

mô hình phù hợp với đặc điểm sinh thái của từng vùng, như: mô hình cấy hai

vụ lúa và trồng cây vụ đông ở các xã nội đồng; mô hình cá – lúa – thủy cầm ở

những chân ruộng trũng; mô hình chuyên thả cá ở những nơi có địa hình thấp,

thường xuyên bị ngập úng; mô hình chăn nuôi tập trung kết hợp nuôi trồng

thủy sản và mô hình trang trại,..

Tuy nhiên, khả năng tích lũy thấp, thiếu vốn cho sản xuất, trình độ lao

động thấp, tiếp cận khoa học kĩ thuật hạn chế, làm cho thu nhập và mức

sống của hộ nông dân thấp. Trong quá trình phát triển, các hộ nông dân gặp

khó khăn do diện tích đất manh mún, thiếu vốn để có thể sản xuất theo

61

hướng hàng hóa.

b. Kinh tế trang trại:

Trang trại, một hình thức phổ biến của sản xuất nông nghiệp trên thế

giới được đưa vào Việt Nam những năm 1990 đã nhanh chóng trở thành một

hình thức tổ chức lãnh thổ hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Trang trại

đã làm thay đổi đáng kể nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, trong đó có

Ứng Hòa, một huyện trọng điểm lương thực của thành phố Hà Nội.

Năm 2014, toàn bộ 145 trang trại trên địa bàn huyện đã cho thu nhập trên

13,7 tỷ đồng. Bình quân thu nhập của một trang trại năm 2014 đạt trên 90 triệu

đồng, trong đó loại hình trang trại nuôi trồng thủy sản cho thu nhập cao nhất

(trên 100 triệu đồng). Sự phát triển của kinh tế trang trại trong huyện nói riêng

và cả nước nói chung rất đa dạng về quy mô, loại hình sản xuất, cơ cấu lao

động… và đem lại hiệu quả về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái rõ rệt nhờ

phát huy những tiềm năng, cơ hội của mình. Kết quả rõ nhất mà chúng ta dễ

dàng nhận thấy là kinh tế trang trại đã tạo thêm nhiều sản phẩm hàng hóa có giá

trị, làm tăng thu nhập của lao động nông nghiệp, và giải quyết việc làm cho lao

động nông thôn.

Những kết quả trên cho thấy, chủ trương phát triển kinh tế trang trại ở

Ứng Hòa là hoàn toàn đúng đắn và hiệu quả. Việc hình thành và phát triển các

mô hình kinh tế mới, phát triển nuôi trồng thủy sản và chuyển đổi mô hình canh

tác sang trồng lúa + nuôi trồng thủy sản kết hợp chăn nuôi sẽ góp phần mang

lại hiệu quả đó là: Vừa khai thác được thế mạng và tiềm năng sẵn có ở vùng

trũng, phá thế độc canh cây lúa, chuyển đổi đất nông nghiệp trồng trọt kém

hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất trên

một đơn vị diện tích. Sẽ góp phần tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn

có giá trị, nâng cao thu nhập cho người dân.

c. Kinh tế hợp tác xã:

Kinh tế hợp tác có vị trí khá quan trọng trong nông nghiệp, là đơn vị chủ

62

yếu cung cấp dịch vụ cho kinh tế hộ (dịch vụ điện, thủy lợi, giống, phân bón,

thú y,..), đồng thời tham gia tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây

dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.

Năm 2014 toàn huyện có 29 hợp tác xã nông nghiệp, tập trung vào các

lĩnh vực: thủy nông, bảo vệ thực vật, giống,.. Hoạt động của các hợp tác xã của

huyện bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định: nhiều hợp tác xã đã bảo

tồn được vốn sản xuất, phát triển được ngành nghề và tăng thu nhập cho người

lao động. Tổng doanh thu của HTX nông nghiệp của huyện Ứng Hòa năm 2014

đạt trên 30 tỷ đồng.

Tuy nhiên, vì HTX vừa chuyển sang hình thức hoạt động kiểu mới nên

hầu như hoạt động còn kém hiệu quả, chưa thực sự chủ động trong việc xác

định đối tượng kinh doanh, tìm kiếm thị trường, tạo mối liên hệ giữa sản xuất

với sản xuất, giữa sản xuất với tiêu thụ, giữa HTX với các cơ sở quốc doanh,

với các tổ chức nước ngoài. Nhiều HTX bộc lộ những yếu kém: năng lực hoạt

động hạn chế, phạm vi hoạt động bị thu hẹp.

d. Vùng chuyên canh

Từ sản xuất phân tán, manh mún, lãnh thổ sản xuất nông nghiệp của

huyện Ứng Hòa dần dần được hình thành và đang có sự chuyển biến tích cực.

Căn cứ vào thực tế phân bố sản xuất của ngành nông nghiệp có thể thấy, Ứng

Hòa bước đầu đang hình thành một số vùng chuyên canh hướng vào một số sản

phẩm chuyên môn hóa có giá trị kinh tế cao để phục vụ nhu cầu của nhân dân

trong huyện. Những lãnh thổ này hình thành dựa trên sự tương đồng về điều

kiện sản xuất như quỹ đất và đặc điểm, tính chất của đất, các điều kiện sinh thái

khác, kinh nghiệm sản xuất của người dân, nhu cầu của thị trường nội và ngoại

vùng và cho xuất khẩu.

* Vùng chuyên canh lúa: Mục đích trồng lúa của huyện là đảm bảo an

ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu lương thực của nhân dân và chăn nuôi. Tuy

nhiên, trong điều kiện mức sống ngày càng được nâng lên, bên cạnh việc đảm bảo

63

lương thực, còn phải tính đến việc tạo ra những vùng lúa cao sản, lúa chất

lượng cao. Vì vậy, việc hình thành các vùng chuyên canh, nhất là lúa cao

sản, chất lượng cao có vai trò quan trọng.

Theo quy hoạch, vùng chuyên canh lúa chất lượng cao có diện tích trên

10 triệu ha (chiếm trên 80%) tổng diện tích toàn huyện được phân bố ở hầu

hết các xã, thị trấn trong huyện. Trong một năm, vùng trồng hai vụ lúa là lúa

xuân và lúa mùa với các giống lúa chủ yếu như: giống nội (ĐB5, ĐB6), lúa

nếp các loại, lúa lai, khang dân, lúa tám thơm và lúa cao sản HYT.

Nhìn chung, vùng chuyên canh lúa chiếm vị trí chủ đạo của huyện với

năng suất trung bình là 62,6 tạ/ha, cho thu nhập trên 67 triệu đồng/ha. Hiện

nay, trong điều kiện diện tích gieo trồng lúa của huyện đang bị thu hẹp, việc

mở rộng các vùng chuyên canh lúa cao sản, lúa chất lượng cao là rất khó khăn.

Vì vậy, việc giữ được diện tích các vùng chuyên canh lúa cao sản, lúa chất

lượng cao này gặp khó khăn.

* Vùng chuyên canh cây ăn quả: Đây là vùng chiếm diện tích nhỏ (chưa

đến 100 ha) phân bố ở các xã Hòa Nam. Hòa Xá,.. nhưng lại là loại cây trồng

mang lại hiệu quả kinh tế cao với các loại cây nổi tiếng như: bưởi Diễm, cam

Canh,..

Đối với hai loại cây này thì bưởi là cây có giá trị sản xuất cao hơn (trên

200 triệu đồng/ha), nhưng chi phí đầu tư ban đầu thấp hơn so với cam nên bưởi

là cây trồng được trồng nhiều hơn trong huyện. Ngoài hai loại cây trồng trên thì

trong huyện còn trồng các cây ăn quả như vải, nhãn, rải rác ở các xã nhưng với

số lượng ít.

* Vùng chuyên rau màu: Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, Ứng Hòa có

một mùa đông lạnh nên phát triển rau vụ đông khá tốt. Năm 2014, diện tích rau

đậu toàn huyện đạt trên 300 ha chiếm trên 2% diện tích, trong đó diện tích rau

xanh đạt gần 200ha. Các loại rau màu phổ biến ở Ứng Hòa là: bắp cải, xúp lơ,

cà rốt, hành tây, cà chua, ngô, đậu tương... Diện tích rau chiếm tỉ trọng khá cao

và tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong huyện và các huyện lân

64

cận như Thanh Oai, Hà Đông và lao động trong các khu công nghiệp, các trung

tâm công nghiệp đóng trên địa bàn huyện và các huyện lân cận. Các vùng rau

này tập trung ở các xã Hòa Xá, Vạn Thái, Sơn Công, Viên Nôi, Đội Bình,..

Theo điều tra của phòng kinh tế huyện Ứng Hòa, trồng rau vụ đông cho lãi

cao, tận dụng được thời gian luân canh giữa hai vụ lúa chính, góp phần làm cải

thiện độ phì của đất và tăng thu nhập của nhân dân. Trung bình mỗi ha rau màu

cho thu nhập trên 100 triệu đồng.

Trong những năm qua với việc triển khai các nội dung quan trọng liên

quan đến nâng cao chất lượng rau, quả như: tập huấn cho nông dân theo

chương trình IPM, VietGap, đề tài sử dụng chế phẩm Feromôn trong phòng trừ

sâu bệnh hại cây trồng, triển khai quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá, xây dựng

mô hình, cấp chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất rau an toàn cho nông dân

trong huyện làm cho năng suất, chất lượng rau màu ngày càng được nâng lên,

đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài huyện.

* Vùng chuyên canh hoa, cây cảnh: Hoa và cây cảnh được phân bố chủ

yếu ở những xã ven thị trấn Vân Đình. Gần đây, diện tích hoa và cây cảnh có

xu hướng giảm ở các xã ven thị trấn do tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa

nhưng lại tăng lên ở những xã khác vì trồng hoa và cây cảnh cho hiệu quả kinh

tế cao hơn các loại hình cây trồng khác. Hiện nay, diện tích trồng hoa, cây cảnh

của huyện đạt trên 100 ha, cho giá trị sản xuất khoản 150 triệu/ha. Các vùng

chuyên canh hoa và cây cảnh có thể trồng xen canh với các loại rau đậu khác,

nhằm đáp ứng ngày càng đa dạng của người tiêu dùng và nhu cầu làm đẹp cảnh

quan đô thị

* Vùng nuôi trồng thủy sản: Tận dụng mặt nước sông, hồ, ao cùng với sự

đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, dịch vụ và mở rộng các trang trại, Ứng Hòa đã

và đang hình thành các vùng chuyên canh sản xuất thủy sản.

Do có địa hình thấp, trũng nên diện tích nuôi trồng thủy sản của huyện

cũng khá lớn (trên 1000 ha chiếm trên 8% diện tích). Năm 2014, giá trị sản

xuất ngành thủy sản toàn huyện đạt trên 700 tỷ đồng chiếm 19,4% cơ cấu nông

65

nghiệp toàn huyện, tăng 2,1 lần giá trị sản xuất thủy sản năm 2009. Các vùng

chuyên canh nuôi trồng thủy sản tập trung ở các xã Phương Tú, Trung Tú, Hòa

Lâm, Trầm Lộng,.. nơi có nhiều điều kiện mặt nước được đưa vào sử dụng, các

xã này cũng là những xã phát triển loại hình trang trại nuôi trồng thủy sản. Việc

phát triển các trang trại thủy sản tạo điều kiện đa dạng hóa sản xuất nông

nghiệp, kết hợp nuôi trồng thủy sản với trồng cây ăn quả và chăn nuôi theo

phương pháp công nghiệp.

* Vùng sản xuất đa canh kết hợp: Trong điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội

của huyện, nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa.

Huyện đã tập trung chỉ đạo nhân rộng các vùng sản xuất đa canh kết hợp với

các mô hình nông nghiệp giá trị kinh tế cao nhằm phát huy tối đa hiệu quả giá

trị sử dụng đất ở địa phương, đẩy mạnh chương trình chuyển đổi cơ cấu vật

nuôi, cây trồng theo các mô hình chuyên canh, đa canh, nuôi thủy sản.

- Mô hình cá – lúa – thủy cầm: là mô hình sử dụng đất kết hợp giữa trồng

trọt và chăn thả. Công thức luân canh được các hộ nông dân thực hiện theo

công thức: vụ xuân trồng lúa, vụ mùa thả cá và nuôi thủy cầm. Những chân

ruộng trũng, sản xuất lúa kém hiệu quả các hộ nông dân tiến hành đào đất xung

quanh ruộng đắp thành bờ để ngăn nước, diện tích đào thường chiếm 25% diện

tích thửa đất. Phần diện tích đào được các hộ tận dụng để thả cá và nuôi thủy

cầm, diện tích còn lại vẫn dùng để cấy lúa.

- Mô hình chuyên thả cá: là những vùng trũng, thường xuyên bị ngập úng

sẽ quy hoạch để đắp bờ, cải tạo để nuôi cá. Mô hình các hộ thường áp dụng là

tiến hành đắp bờ xung quanh giữ nước, đồng thời tổ chức toàn bộ các hộ khác

có ruộng trong cùng khu, xứ đồng có biện pháp giữ nước chung cho cả vùng từ

đó hình thành nên các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung.

- Mô hình chăn nuôi tập trung: là sản xuất theo mô hình trang trại chăn

nuôi gia súc, gia cầm kết hợp nuôi trồng thủy sản và trồng cây ăn quả được quy

hoạch tập trung ở một khu vực, một xứ đồng nhất định. Chăn nuôi tập trung ở

66

một khu vực giúp mang lại lợi ích kinh tế, giảm được chăn nuôi phân tán trong

các khu dân cư, góp phần giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường, hạn chế

được dịch bệnh trên gia súc, gia cầm ảnh hưởng đến khu dân cư.

e. Tiểu vùng nông nghiệp

Vùng nông nghiệp là những lãnh thổ nông nghiệp tương đối đồng nhất về

các điều kiện tự nhiên, kinh tế, được phân chia với mục đích phân bố hợp lí và

chuyên môn hóa đúng đắn sản xuất nông nghiệp trên cơ sở sử dụng đầy đủ và

có hiệu quả nhất các điều kiện sản xuất của các vùng trong cả nước cũng như

trong nội bộ từng vùng.

Đối với huyện Ứng Hòa, một huyện đồng bằng có diện tích không lớn

nên sự phân hóa về mặt lãnh thổ nông nghiệp không thật rõ ràng. Tuy nhiên,

căn cứ vào các yếu tố như nhóm yếu tố tự nhiên (địa hình, đất trồng, thủy

văn…), nhóm các yếu tố kinh tế xã hội (quan hệ sản xuất, dân cư, các ngành

kinh tế) và các trung tâm kinh tế hiện có, trình độ kĩ thuật của sản xuất, vốn

đầu tư, nhu cầu về các sản phẩm,…và vị trí địa lí tự nhiên, kinh tế, xã hội và

các mối liên kết kinh tế liên vùng và nội vùng để phân chia các tiểu vùng

nông nghiệp của huyện.

Theo các nhân tố tạo vùng kể trên và đặc biệt là hướng chuyên môn hóa,

nông nghiệp huyện Ứng Hòa được chia thành hai tiểu vùng chính.

* Tiểu vùng 1: theo quy hoạch của huyện, tiểu vùng 1 bao gồm 12 xã và 1

thị trấn nằm ven sông Đáy là: Viên An, Viên Nội, Cao Thành, Sơn Công, Đồng

Tiến, Hòa Xá, Hòa Nam, Vạn Thái, Hòa Phú, Phù Lưu, Lưu Hoàng, Hồng

Quang và thị trấn Vân Đình với diện tích 6395 ha chiếm 34% diện tích tự nhiên

toàn huyện.

Đây là vùng có diện tích đất nông nghiệp tương đối màu mỡ do được phù

sa sông Đáy bồi đắp. Đây là vùng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình công

nghiệp hóa, đô thị hóa nên diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm. Vì vậy,

những xã thuộc tiểu vùng này tích cực đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng,

67

vật nuôi, hướng vào những sản phẩm nông nghiệp hàng hóa có giá trị hàng hóa

cao như rau, đậu, hoa, cây cảnh, cây ăn quả và chăn nuôi gia cầm theo phương

pháp công nghiệp để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội vùng, nguyên liệu cho

các khu công nghiệp, các làng nghề và phục vụ nhu cầu của các huyện lân cận.

Về cơ cấu sản phẩm: khu vực này có sản phẩm nông nghiệp khá đa

dạng, ngoài lúa hàng hóa còn có các loại rau thực phẩm, các sản phẩm chăn

nuôi, hoa, cây cảnh và cây ăn quả. So với toàn huyện, một số chỉ tiêu của khu

vực này chiếm tỉ trọng khá cao. Tỉ trọng về sản lượng cao hơn tỉ trọng về diện

tích, điều này cho thấy, năng suất lao động của khu vực này cao do sự đầu tư

của nhân dân trong sản xuất nông nghiệp.

* Tiểu vùng 2 (vùng nội đồng): tiểu vùng này bao gồm 16 xã còn lại

của huyện với diện tích tự nhiên khoảng gần 12 nghìn ha chiếm trên 60%

diện tích tự nhiên toàn huyện.

Với đặc thù là vùng đồng, có địa hình là vàn và trũng không có phù sa

bồi đắp hằng năm, đất có độ chua cao nên ở tiểu vùng này thích hợp trồng

các cây rau màu vụ đông. Theo quy hoạch phát triển nông nghiệp huyện

Ứng Hòa, đây là vùng chuyên canh lúa và cây vụ đông. Đặc biệt trong tiểu

vùng này, có một số xã (Phương Tú, Trung Tú, Trầm Lộng,..) được chọn để

thực hiện thí điểm quy hoạch vùng thành vùng chuyên canh nuôi trồng thủy

sản và đạt kết quả cao. Giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản đạt trên 150

triêu/ha cao hơn rất nhiều so với giá trị sản xuất ngành trồng trọt.

Cây trồng của tiểu vùng 2 được phân thành hai hình thức là cây trồng

theo mùa vụ và cây vụ đông. Việc trồng cây vụ đông nhằm tận dụng nguồn

đất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất cũng như tăng thu nhập cho người

dân. Các loại cây được trồng chủ yếu trong vụ đông như: ngô, đậu tương,

khoai lang,.. trong đó, đậu tương là cây vụ đông được trồng trên diện rộng

68

ở hầu hết các xã trong tiểu vùng vào vụ đông.

69

Hình 2.6. Bản đồ tổ chức lãnh thổ nông nghiệp huyện Ứng Hòa

2.2.3. Hiệu quả của việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

huyện Ứng Hòa

2.2.3.1. Tỷ trọng và chất lượng của các sản phẩm nông nghiệp hàng hóa

trên một đơn vị diện tích đất ngày càng được nâng cao

Việc phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa và chuyển dịch

cơ cấu nông nghiệp trên địa bàn huyện đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nhà

nông. Giá trị sản phẩm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp của huyện

không ngừng tăng lên.

Bảng 2.8. Giá trị sản phẩm trên một ha đất nông nghiệp

Đv: Triệu đồng – giá TT

GTSP/1ha đất GTSP/1 ha đất GTSP/1 ha đất nuôi Năm nông nghiệp trồng trọt trồng thủy sản

86 75 189,2 2009

102,7 86 208,4 2010

118,9 89 303,3 2011

123,7 91 349,7 2012

122,8 87 308,0 2013

141,2 97 354,8 2014

Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Ứng Hòa

Giá trị sản phẩm hàng hóa trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp của

huyện nhìn chung có sự tăng lên qua các năm. Năm 2014 giá trị sản phẩm hàng

hóa trên 1ha đất nông nghiệp đạt 141,2 triệu đồng tăng 1,7 lần so với năm

2009. Trong đó tăng nhanh nhất là giá trị sản phẩm hàng hóa trên 1ha đất nuôi

trồng thủy sản (tăng gần 2 lần từ 189,2 triệu đồng năm 2009 lên 354,8 triệu

đồng năm 2014); giá trị sản phẩm hàng hóa trên 1ha đất nông nghiệp tăng 1,3

70

lần từ 75 triệu đồng lên 97 triệu đồng năm 2014. Rõ ràng, việc đầu tư cho thủy

sản mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với đầu tư cho trồng trọt. Ðiều

này cũng lý giải vì sao trong cơ cấu ngành nông nghiệp của huyện, tỷ trọng của

ngành thủy sản ngày càng tăng lên.

Cùng với việc tăng giá trị sản phẩm hàng hóa trên một đơn vị diện tích đất

nông nghiệp của huyện thì năng suất lao động xã hội của lao động nông nghiệp

cũng tăng khá nhanh, từ 16,9 triệu đồng nãm 2009 lên 34,2 triệu đồng năm

2014 tăng 2,1 lần. Mức sống của nông dân được cải thiện đáng kể, cả vật chất

và tinh thần.

2.2.3.2. Góp phần biến đổi đời sống kinh tế - xã hội nông thôn của huyện

Phát triển nông nghiệp hàng hóa đã góp phần làm biến đổi cơ cấu kinh tế

nông thôn theo hướng đa canh, đa ngành, phát triển công nghiệp và dịch vụ ở

nông thôn. Từ đó tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nông dân.

Cơ cấu kinh tế trong nội bộ ngành nông nghiệp cũng có những chuyển

biến tích cực. Sự gia tăng diện tích, sản lượng cây rau đậu, hoa màu của vùng

trong những năm qua đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ

ngành nông nghiệp của huyện. Cùng với sự phát triển một số cây ăn quả và rau

màu, đã làm cho tính chất độc canh cây lúa trong sản xuất nông nghiệp của

huyện từng bước được giảm nhẹ, thay vào đó là sự đa canh cây trồng để khai

thác, sử dụng hợp lý quỹ đất, nguồn nước và nguồn nhân lực tại chỗ, tăng năng

suất và hiệu quả của ngành trồng trọt.

Trong huyện đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa có chất lượng sản

phẩm cao theo hướng chuyên môn hóa như vùng trồng rau sạch, cây ăn quả và

cây cảnh ở vùng bãi bồi ven sông Ðáy, vùng chuyên canh lúa, nuôi trồng thủy

sản và gia cầm sạch ở vùng vàn và trũng.

Cùng với sự chuyển dịch nền nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống được phục hồi và phát

71

triển làm chuyển dịch kinh tế nông thôn trên địa bàn huyện. Các tiến bộ khoa

học kỹ thuật mới được áp dụng rộng rãi vào sản xuất nông nghiệp, nhiều giống

cây trồng, vật nuôi mới có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với thực tế

địa phương được đưa vào sản xuất. Các cơ sở chế biến nông nghiệp thủy sản

được hình thành và phát triển như: cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dệt, tơ

lụa, công nghiệp say sát, nghiền thức ăn,.. hằng năm đã tạo ra nhiều công ăn

việc làm góp phần ổn định và nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân.

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,

việc cơ giới hóa tạo ra sự phân công lại một phần lao động nông thôn, làm cơ

cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn chuyển dịch theo hướng tích cực góp phần

đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, tạo ra năng suất

lao động cao và ổn định, giải phóng sức lao động, tạo công ăn việc làm, phát

triển nhiều ngành nghề, nâng cao trình độ dân trí nông thôn.

Hiện nay, tổng số máy động cơ các loại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp

trên địa bàn huyện đạt trên 10.779 máy và gần 1000 xe vận tải nông thôn.

Trong đó, máy cày 3560 chiếc; máy tuốt lúa 4240 chiếc; máy sát 2560 chiếc;

máy bơm 410 chiếc; máy cấy 9 chiếc, giúp tăng năng suất lao động và giải

phóng sức lao động cho nông dân.

Hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn huyện đã được đẩy mạnh đầu

tư. Bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, mạng lưới đường bộ nông thôn từng

bước được hiện đại hóa gắn với yêu cầu công nghiệp hóa, phục vụ phát triển

nông nghiệp, nông thôn mới. Mạng lưới giao thông nông thôn ngày càng được

trú trọng đầu tư nâng cấp và đồng bộ hóa công trình cầu cống đạt tiêu chuẩn,

nâng cấp hoàn thiện mạng lưới đường làng ngõ xóm bằng bê tông hóa. Hiện

nay, toàn huyện có 100% số xã có đường láng nhựa đến trung tâm xã, cụm xã

phục vụ đi lại thuận lợi cho nhân dân.

Trên cơ sở những thành tựu phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng

72

Hòa trong thời gian qua mà tổng thu nhập khu vực nông thôn đã tăng lên, đời

sống nông dân ổn định, từng bước được cải thiện, nâng cao cả về vật chất và

đời sống tinh thần. Xã hội nông thôn trên địa bàn huyện khởi sắc rõ nét, bộ mặt

nông thôn mới từng bước đổi mới.

2.2.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển nông nghiệp theo hướng

sản xuất hàng hóa huyện Ứng Hòa

2.2.4.1. Cơ cấu sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp còn mất cân đối

Kinh tế nông nghiệp huyện Ứng Hòa chiếm một tỷ trọng rất lớn trong

tổng sản phẩm xã hội và thu nhập của huyện, là ngành có tỷ trọng lớn về lực

lượng lao động của huyện. Ðại bộ phận lao động nằm ở nông nghiệp với cơ

cấu kinh tế chậm chuyển dịch, trên 30% tổng giá trị kinh tế của huyện là từ

nông nghiệp, trong lúc đó trình độ sản xuất hàng hóa còn thấp, diện tích đất

chủ yếu là trồng trọt, phần lớn giá trị sản phẩm cũng như thu nhập của nông

dân là từ sản xuất lương thực, trong đó chủ yếu sản xuất lúa. Nhiều loại cây,

con đặc sản đặc trưng cho thế mạnh của nền nông nghiệp nhiệt đới của vùng

chưa được phát huy.

Trong nội bộ nông nghiệp, cơ cấu giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi vẫn

mất cân đối. Mặc dù tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp của

huyện tuy có tăng lên nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của vùng.

Trong trồng trọt đã xuất hiện xu hướng quay về lương thực nhất là lúa

ngày càng rõ nét, kể cả những năm giá lúa giảm mạnh. Xu hướng này, tuy có

làm tăng sản lượng lúa, tăng thu nhập cho người dân nhưng về lâu dài không có

lợi nhiều mặt. Bên cạnh đó, ở một số xã và hộ nông dân do chạy theo lợi ích

cục bộ trước mắt đã chuyển đổi một số đất rau màu sang làm lúa, làm tăng xu

hướng độc canh cây lúa, giảm nhịp độ chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng

đa dạng hóa.

Có thể nói, khuynh hướng tự phát, thiếu quy hoạch tổng thể trước mắt

cũng như lâu dài đối với từng loại cây trồng vật nuôi cũng như từ sản xuất đến

73

tiêu thụ sản phẩm và thị trường xuất khẩu diễn ra khá phổ biến làm cho nông

dân không an tâm đầu tư phát triển sản xuất, khai thác hợp lí các tiềm năng

nông nghiệp. Cái khó của nông dân hiện nay là nếu chuyển đổi cơ cấu cây

trồng vật nuôi theo hướng đa dạng hóa sản phẩm thì ai là người đảm bảo khâu

tiêu thụ sản phẩm và giá cả sẽ ra sao.

2.2.4.2. Chất lượng hoàng hóa nông nghiệp nhìn chung còn thấp không đủ

sức cạnh tranh trên thị trường

Trong những năm qua, lượng hàng hóa nông nghiệp thủy sản của huyện

tuy có tăng lên, nhất là lúa gạo, thịt lợn, thủy sản,.. nhưng bên cạnh đó lại xuất

hiện xu hướng chạy theo năng suất và số lượng, ít quan tâm đến chất lượng sản

phẩm. Nhiều hộ nông dân vẫn gieo trồng các giống lúa có chất lượng thấp như

Q5, lúa lai,.. cây rau màu chưa đảm bảo vệ sinh thực phẩm vẫn sử dụng nhiều

loại thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng,.. làm giá cả sản phẩm nông sản

vẫn thấp và làm giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Ðối với sản phẩm chăn nuôi, chất lượng thịt, trứng còn kém so với tiêu

chuẩn quốc tế, nên chủ yếu vẫn tiêu dùng ở thị trường trong huyện và một số

huyện, tỉnh lân cận. Thịt lợn thương phẩm của huyện tăng nhanh nhưng lại có

nhược điểm là tỷ lệ nạc thấp, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt, công nghệ

giết mổ, chế biến còn lạc hậu nên chưa hấp dẫn thị trường lớn.

Tóm lại, về mặt chất lượng sản phẩm hàng nông sản của Việt Nam nói

chung và huyện Ứng Hòa nói riêng vẫn là vấn đề nổi cộm hiện nay. Chúng ta

vẫn bán cái chúng ta có chứ chưa phải là cái thị trường cần, người sản xuất vẫn

quan tâm đến yêu cầu tăng năng suất hơn là chất lượng sản phẩm.

2.2.4.3. Thị trường đầu ra cho nông sản chưa phát triển

Giá cả nông sản bấp bênh, tỷ lệ khoảng cách giữa hàng nông nghiệp và

công nghiệp vẫn chưa bảo vệ lợi ích của người sản xuất nông nghiệp là một trở

ngại lớn đối với việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hóa.

Ứng Hòa, với tốc độ phát triển tương đối cao về sản xuất nông nghiệp,

nông sản hàng hóa ngày càng nhiều thì thị trường tiêu thụ nông sản càng trở

74

nên không ổn định và bị động. Thị trường nội vùng, nông phẩm hàng hóa phát

triển rất phong phú và đa dạng, song do sức mua của nhân dân trong huyện còn

thấp, làm cho hàng hóa trở nên ế ẩm. Do công nghệ bảo quản và chế biến hàng

nông sản sau thu hoạch còn hạn chế cùng với chi phí vận chuyển lớn làm cho

nông sản hàng hóa của huyện khó vươn tới thị trường các vùng khác và xuất

khẩu ra nước ngoài.

Như vậy, việc xây dựng chiến lược thị trường nông sản, tổ chức tiếp thị

tiêu thụ nông sản hàng hóa kịp thời, đảm bảo lợi ích cho nông dân đang là vấn

đề đặt ra rất gay gắt và cấp bách nhằm giải quyết đầu ra của hàng hóa nông sản,

có ý nghĩa quyết định đến việc phát triển nông nghiệp hàng hóa trong huyện.

2.2.4.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa

Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn huyện Ứng Hòa tuy có được đẩy

mạnh đầu tư trong những năm gần đây nhưng nói chung còn thấp, chưa đáp

ứng được yêu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn của huyện. Thực tế

cho thấy, cư sở hạ tầng và cư sở vật chất kỹ thuật của huyện phát triển không

đồng đều, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được vai trò thúc đẩy sự chuyển biến

kinh tế nông nghiệp, nông thôn.

Cơ khí hóa nông nghiệp ở Ứng Hòa đã có bước phát triển về tiềm lực

cũng như năng lực, góp phần tích cực làm tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp,

tăng năng suất cây trồng, tăng vụ, mở rộng diện tích,.. Song vẫn còn chưa đủ so

với nhu cầu đòi hỏi cho phát triển, do hạ tầng cơ sở thiếu đồng bộ nên việc đưa

cơ giới hóa vào đồng ruộng gặp khó khăn, nhiều khâu sản xuất cơ khí hóa

không đều, tiêu biểu như khâu làm đất lao động thủ công còn chiếm tỷ lệ cao.

Hầu hết máy móc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đều nhập từ nước ngoài

vào, máy mới thì giá thành cao, máy cũ tân trang thì nhanh hỏng, đây là nguyên

nhân làm cho việc cơ giới hóa trong nông nghiệp của huyện gặp khó khãn.

Thực tế sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở Ứng Hòa những năm qua chưa

75

thực sự gắn với công nghiệp chế biến nông sản. Trong khi tổng khối lượng

nông sản của huyện ngày một tăng, nhưng công nghiệp chế biến còn hạn chế,

chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu đặt ra, chỉ một phần mặt hàng lúa gạo được chế

biến, còn lại hầu hết các mặt hàng nông sản khác khi lưu thông trên thị trường

đều ở dạng tươi sống hoặc chế biến thô nên giá trị hàng hóa thấp và việc bảo

tồn giá trị sản phẩm gặp khó khăn.

Tiểu kết chương 2

Là một huyện nằm trong vùng chiêm trũng của đồng bằng sông Hồng, và

nằm ở phía Nam của thành phố Hà Nôi, Ứng Hòa có nhiều điều kiện thuận lợi

về tự nhiên và kinh tế xã hội để phát triển nông nghiệp và thúc đẩy chuyển dịch

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Trong những năm qua, cùng với sự

phát triển kinh tế - xã hội của huyện nói chung, sản xuất nông nghiệp hàng hóa

nói riêng có những bước phát triển nổi bật. Sản xuất nông nghiệp và sản lượng

nông sản hàng hóa tăng nhanh, chủng loại phong phú, đa dạng, đáp ứng ngày

càng tốt nhu cầu của thị trường; cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn có bước

chuyển dịch tích cực theo hướng sản xuất hàng hóa, kinh tế nông hộ và kinh tế

trang trại khởi sắc và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp

hàng hóa; đời sống kinh tế - xã hội nông thôn được cải thiện và phát triển.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền nông nghiệp hàng hóa huyện

Ứng Hòa còn có những khó khăn đặt ra cần giải quyết như cơ cấu kinh tế nông

nghiệp nông thôn còn chậm chuyển dịch và mất cân đối; chất lượng sản phẩm

của một số mặt hàng nông sản còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của thị

trường làm cho giá trị hàng hóa của các sản phẩm nông nghiệp chưa được nâng

76

cao; thị trường đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp còn nhiều hạn chế

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

HÀNG HÓA HUYỆN ỨNG HÒA, HÀ NỘI

3.1. Định hướng phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa đến năm 2020

3.1.1. Những căn cứ để đưa ra định hướng phát triển nông nghiệp hàng

hóa huyện Ứng Hòa đến năm 2020

3.1.1.1. Đường lối chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của

Đảng và Nhà nước

Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, trong thời

kỳ 2006 – 2010 phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ

cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày

càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy mạnh thực hiện cơ

khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng tiến bộ KHKT và công nghệ sinh học vào

sản xuất để nâng cao năng suất và chất lượng nông sản, khai thác tốt nhất

tiềm năng của từng vùng, từng địa phương.

Trong Quyết định số 124/QĐ – TTg, ngày 02 tháng 02 năm 2012 của

Thủ tướng về việc “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp cả

nước đến năm 2020 và tầm nhìn 2030” cũng đã chỉ rõ: “Xây dựng nền nông

nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa

lớn trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học công nghệ để

tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo

vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài, đáp ứng nhu

cầu đa dạng trong nước và xuất khẩu; nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nguồn

nước, lao động và nguồn vốn; nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân,

77

ngư dân, diêm dân và người làm rừng”.

3.1.1.2. Căn cứ vào Quy hoạch phát triển nông nghiệp thành phố Hà Nội

đến năm 2020

Quy hoạch phát triển nông nghiệp thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 –

2020, trong đó nhấn mạnh vai trò của nông nghiệp nói chung và nông nghiệp

hàng hóa nói riêng.

- Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng năng suất và chất lượng

cao, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa

tập trung lớn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu.

- Ưu tiên phát triển những cây, con có lợi thế; giảm dần diện tích sản

xuất cây lương thực đi đôi với việc phát triển lúa chất lượng cao; tăng sản xuất

rau an toàn, hoa cây cảnh, cây ăn quả nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

ngành trồng trọt theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả sử dụng đất,

nguồn nước, lao động và vốn đầu tư.

- Chuyển mạnh phát triển chăn nuôi theo hình thức công nghiệp, tập

trung ngoài khu dân cư; Theo hướng ổn định tổng đàn lợn và gia cầm, tăng

nhanh đàn bò sữa, phát triển đàn bò thịt. Phát triển thủy sản theo hướng tập

trung thâm canh, tăng nhanh năng suất, phát triển bền vững.

- Nâng cao giá trị sản phẩm trên một ha đất. Đảm bảo đến năm 2020,

hiệu quả sản xuất đạt 340 triệu đồng/ha đất nông nghiệp.

3.1.1.3. Căn cứ vào mục tiêu và định hướng phát triển nông nghiệp của

huyện Ứng Hòa

Trên tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ứng Hòa lần thứ

XV(nhiệm kỳ 2010 – 2015) và quyết định số 17/2012/QĐ-UBND ngày 9/7/2012

của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt Quy hoạch phát triển nông

nghiệp thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030; Tờ trình 71/TTr-

UBND ngày 05 tháng 10 năm 2012 về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát

78

triển kinh tế - xã hội huyện Ứng Hòa đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Ứng Hòa đến

năm 2020 và định hướng đến năm 2030, đã nhất quán một số quan điểm

phát triển sau:

- Phát triển kinh tế xã hội Ứng Hòa phù hợp với chiến lược phát triển kinh

tế xã hội Thủ đo đến năm 2030, tầm nhìn 2050; quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng 2030, trên cơ sở

tính đặc thù riêng của huyện và lợi thế so sánh với các vùng lân cận.

- Phát huy nội lực, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của huyện về nguồn

nhân lực, đất đai để phát triển kinh tế xã hội đồng thời thu hút nguồn lực bên ngoài

để tạo ra thế và lực mới để tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững.

- Kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và chiều sâu, ứng dụng

tiến bộ khoa học công nghệ để nâng cao hiệu suất, hiệu quả sử dụng đất nông

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

- Phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm, giảm

nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa

truyền thống và nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân; đảm bảo trật tự, an

toàn xã hội, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái.

Mục tiêu tổng quát là xây dựng Ứng Hòa trở thành huyện có nền kinh tế

phát triển và bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có hệ thống

kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ngày càng hoàn thiện, hiện đại kết nối với hệ

thống hạ tầng của thủ đô Hà Nội và các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Hồng;

chất lượng các lĩnh vực văn hóa, xã hội và đời sống nhân dân được nâng cao;

an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; cảnh quan môi

trường được giữ vững. Phấn đấu xây dựng Ứng Hòa đến năm 2020 trở thành

79

huyện có trình độ phát triển ở mức khá của thành phố.

Cụ thể trong nông nghiệp:

- Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao,

sản xuất hàng hóa và sinh thái đô thị dựa trên cơ nền công nghệ cao gắn với

công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch, phát triển ngành nghề và xây

dựng nông thôn mới.

- Tốc độ tăng trưởng tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp – thủy sản

đạt 6,3 - 6,5%/năm thời kỳ 2011 - 2015 và 5,8 - 6,0%/năm thời kỳ 2016 - 2020.

- Tăng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi lên khoảng 45 - 50% năm 2015 và

trên 60% trong cơ cấu nông nghiệp năm 2020.

3.1.1.4. Căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất huyện Ứng Hòa

Mỗi loại cây trồng chỉ có thể phát triển tốt và cho hiệu quả kinh tế cao

trong điều kiện môi trường sinh thái phù hợp. Việc chuyển dịch cơ cấu cây

trồng nhằm điều chỉnh sự phân bố cây trồng hợp lý để đạt hiệu quả cao và bền

vững về kinh tế, xã hội và môi trường.

Trong thời kỳ 2005 – 2010, đã có sự điều chỉnh hợp lý hơn về quy mô diện

tích, cơ cấu giống và vùng phân bố của các loại cây trồng trên địa bàn huyện. Tuy

nhiên, giá nông sản biến động thất thường làm cho sản xuất không ổn định và tình

trạng mở rộng diện tích gieo trồng một số loại cây tự phát còn khá phổ biến.

Trên cơ sở đánh giá khả năng thích nghi đất cho phát triển các loại hình

trồng trọt trong giai đoạn 2005 – 2010 và những năm tiếp theo, sẽ tiếp tục điều

chỉnh quy mô diện tích và bố trí công thức luân canh cho phù hợp với tiềm

năng sinh thái của các tiểu vùng trong huyện. Tuy nhiên, việc dự báo quy mô

đất nông nghiệp trong tương lai, ngoài việc căn cứ vào chất lượng còn phải

quan tâm đến chiến lược sử dụng tổng quỹ đất đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã

hội trong các giai đoạn phát triển đến năm 2020 và xa hơn. Vì vậy, từ những

căn cứ trên, phòng tài nguyên môi trường huyện Ứng Hòa dự báo về xu hướng

80

biến động quỹ đất dự báo như sau:

Bảng: 3.1. Dự báo xu hướng biến động sử dụng đất

huyện Ứng Hòa đến năm 2020

Đv: ha

2010 2020

Loại đất Diện tích Cơ cấu Diện tích Cơ cấu

(%) (ha) (ha) (%)

100 Diện tích tự nhiên 18375,6 18375,6 100

69,8 1.Đất nông nghiệp 12809,6 12506,2 68,0

64,2 1.1.Đất SX nông nghiệp 11786,7 11140,6 60,6

5,6 1.2. Đất nuôi thủy sản 1022,9 1365,6 7,4

30,0 2. Đất phi nông nghiệp 5518,5 5843,4 32,0

0,2 3.Đất chưa sử dụng 47,5 26,0 0,1

Nguồn: Phòng tài nguyên môi trường huyện Ứng Hòa

Nhìn vào bảng trên ta thấy, đất nông nghiệp sẽ giảm nhưng tốc độ giảm

chậm lại do chính sách quản lý đất, do được bù đắp bởi khai hoang, mở rộng

diện tích ở quỹ đất chưa sử dụng. Đất chưa sử dụng giảm chậm vì quỹ đất ở

Ứng Hòa còn không nhiều. Đất phi nông nghiệp tăng lên do nhu cầu đất ở và

phát triển công nghiệp.

Trong cơ cấu đất nông nghiệp thì diện tích đất sản xuất nông nghiệp

(trồng trọt) có xu hướng giảm mạnh, còn diện tích đất nuôi trồng thủy sản

của huyện có xu hướng tăng nhanh. Nguyên nhân, do chủ trương của

Đảng và địa phương, từ năm 2010 có một số vùng trũng đã chuyển đổi

mục dích sử dụng sang nuôi trồng thủy sản nhằm nâng cao hiệu quả sử

dụng đất, nâng cao đời sống nhân dân và đồng thời tạo ra một vùng

81

chuyên canh nuôi trồng thủy sản.

3.1.2. Những định hướng cụ thể

Phát huy vai trò của một huyện nằm phía nam của thành phố Hà Nội, với

thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên đất và khả năng tiếp cận, giao lưu kinh tế, đẩy

mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng

nhanh và có hiệu quả, trên cơ sở phát huy mọi nguồn lực, khai thác có hiệu quả tài

nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, vốn và tiềm khoa học công nghệ để xây dựng

một cơ cấu kinh tế - xã hội hợp lý, nâng cao năng lực sản xuất của các ngành, các

lĩnh vực chủ yếu. Chú trọng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn, tạo nền tảng vững chắc cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo

công bằng, tiến bộ xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, cải

thiện môi trường sinh thái để phát triển bền vững.

Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hóa, đồng thời tăng cường nông

nghiệp sinh thái, bảo vệ và cải thiện môi trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở đảm bảo mục tiêu an

ninh lương thực.

Cơ cấu kinh tế huyện Ứng Hòa năm 2020 và tầm nhìn 2030 tương ứng

như sau: khu vực nông nghiệp đạt 22% và 12%; khu vực công nghiệp – xây

dựng đạt 51% và 55%; khu vực dịch vụ ổn định đạt 27% đến 33%.

3.1.2.1. Đối với ngành trồng trọt

Phát triển nông nghiệp trong quá trình CNH, HĐH, việc đảm bảo an ninh

lương thực của huyện vẫn được đặt lên hàng đầu. Căn cứ vào sự biến động dân

số, sự biến động trong quá trình sử dụng đất của huyện trên quan điểm, mục

tiêu phát triển KTXH của thành phố Hà Nội nói chung và của huyện Ứng Hòa

nói riêng, những định hướng cụ thể trong phát triển ngành trồng trọt như sau:

- Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng để phát triển trồng trọt theo hướng

thâm canh, chuyên canh, sản xuất hàng hóa tập trung. Ưu tiên sản xuất và nâng

cao tỷ trọng nông sản hàng hóa chất lượng cao, an toàn phù hợp với thị trường.

82

Tăng nhanh giá trị sản xuất và lợi nhuận trên một ha đất canh tác.

- Đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất, gắn sản xuất với

chế biến và tiêu thụ sản phẩm, thực hiện liên kết 4 nhà trong sản xuất, xây dựng

thương hiệu cho một số sản phẩm đặc trưng của huyện.

- Duy trì diện tích, nâng cao chất lượng, sản lượng và giá trị cây ăn quả

theo hướng bền vững.

- Tiếp tục giảm tỷ trọng ngành trồng trọt trong cơ cấu nông nghiệp của

huyện xuống còn 50% năm 2015 và 40% năm 2030.

* Cây lúa: Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ huyện Ứng Hòa lần

thứ XV, diện tích canh tác lúa cần đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực của

huyện. Năm 2010 còn trên 21.000 ha đất trồng lúa, dự kiến năm 2015 sẽ còn

19.000 ha và năm 2020 duy trì ở mức 15.500 ha. Tổng sản lượng lúa năm 2015

đạt 130.000 tấn, năm 2020 đạt 105.500 tấn. Có thể dành một lượng diện tích

đất nông nghiệp ở những vị trí ít thích hợp để chuyển mục đích sử dụng sang

phát triển công nghiệp và các nhu cầu khác. Trên diện tích đất canh tác còn lại

sẽ thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây công nghiệp, cây thực phẩm và rau đậu...

* Cây ngô: Phát triển cây ngô với tổng diện tích khoảng 450 – 550 ha để

đưa cây ngô đến năm 2020 đạt khoảng 25.000 tấn ngô hạt.

* Cây công nghiệp: Phát triển cây công nghiệp hàng năm, các cây trồng

chính là cây vụ đông gồm đậu tương và lạc.

- Cây đậu tương: Dự kiến tổng diện tích đất gieo trồng khoảng 5.500 –

6000 ha. Phấn đấu đến năm 2020 đạt 12.000 – 15.000 tấn/năm.

- Cây lạc: Tổng diện tích 300 nghìn ha tập trung chủ yếu ở các xã ven sông

Đáy như Phù Lưu, Vạn Thái, Phương Tú, thị trấn Vân Đình.

* Rau an toàn: Hình thành các vùng sản xuất chuyên canh rau an toàn tại

các xã ven sông Đáy: Phù Lưu, Vạn Thái, Phương Tú, Thị trấn Vân Đình,..

phấn đấu đến năm 2015 đạt 150 - 200 ha.

83

* Cây ăn quả: Tập trung ở các xã ven sông Đáy với diện tích 400 ha.

Nâng cao hiệu quả sử tưới tiêu của hệ thống thủy lợi, hình thành 2 tiểu

vùng trồng trọt: vùng ven sông Đáy tập trung cây công nghiệp, rau sạch, cây

dược liệu, cây ăn quả với diện tích 6.395 ha; vùng nội đồng tập trung chuyên

canh lúa, cây vụ đông với diện tích 11.967 ha.

3.1.2.2. Đối với ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản

Phát triển chăn nuôi trở thành ngành sản xuất nông nghiệp chính theo

hướng sản xuất hàng hóa tập trung công nghiệp, bán công nghiệp theo mô hình

trang trại, hộ gia đình, tạo khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn, chất lượng cao,

đảm bảo vệ sinh môi trường.

Phát triển chăn nuôi tập trung vào phát triển đàn lợn, bò thịt chất lượng

cao và gia cầm theo hướng tăng dần sản lượng con giống; từng bước đưa

sản xuất con giống là sản phẩm chủ lực của ngành chăn nuôi, đem lại giá trị

gia tăng cao cho ngành. Làm thay đổi nhanh cơ cấu kinh tế của ngành chăn

nuôi và cơ cấu ngành nông nghiệp, vừa cung cấp giống cho huyện và các

huyện lân cận.

Phát triển nhanh đàn bò lên 11.000 con năm 2015 và duy trì quy mô này

đến năm 2020 đồng thời tăng tỷ lệ chăn nuôi lợn hàng hóa tập trung đến năm

2020 chiếm trên 50 – 60% tổng đàn.

Phát triển đàn gia cầm, đến năm 2020 đạt khoảng 2,8 – 3,0 triệu con.

Xây dựng và phát triển các vùng chăn nuôi gia cầm hàng hóa tập trung ở các

vùng trũng, xa khu dân cư, kết hợp nuôi thủy sản đảm bào không gây ô

nhiễm môi trường.

Phát huy tối đa lợi thế về diện tích mặt nước và huy động mọi nguồn lực

để phát triển nhanh ngành thủy sản tăng bình quân 14 – 16%/năm giai đoạn

2011 – 2015 và 10 – 16% giai đoạn 2016-2020. Mở rộng diện tích chăn nuôi

thủy sản trên đất lúa – cá – vịt đến năm 2020 trên 4.000 ha, sản lượng đạt

84

khoảng 16.000 – 18.000 tấn/năm.

3.2. Các giải pháp chủ yếu để phát triển nông nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa

3.2.1. Tổ chức sản xuất và sử dụng đất

Trong thời kỳ 2006 - 2010 huyện ủy Ứng Hòa đã xây dựng các quy hoạch

KTXH nói chung và phát triển nông nghiệp, nông thôn nói riêng đến năm 2020

và định hướng 2030. Đối với sử dụng đất, đã tiến hành quy hoạch tới cấp xã.

Tuy nhiên, công tác quản lý sử dụng đất theo quy hoạch trong những năm qua

còn nhiều hạn chế. Kết quả thực hiện kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng

chưa đạt hiệu quả, tình trạng chuyển đổi cây trồng một cách tự phát chạy theo

sự biến động của giá nông sản trên thị trường, còn phổ biến ở nhiều nơi.

Để thực hiện có kết quả nông nghiệp của huyện đến năm 2020 và những

năm tiếp theo, cần thực hiện những giải pháp sau:

- Quy hoạch hình thành các vùng sản xuất tập trung các sản phẩm có giá

trị: vùng lúa gạo đặc sản, vùng rau...

- Chuyển đổi hợp lí cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp. Việc chuyển một

phần diện tích đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp phải có qui hoạch rõ

ràng, tránh bỏ hoang, lãng phí đất nông nghiệp.

- Xây dựng các quy hoạch chi tiết và chuyên sâu cho việc chuyển đổi cơ

cấu cây trồng chủ lực trên các địa bàn trọng điểm. Trước mắt, cần khẩn trương

nghiên cứu và quy hoạch chi tiết sử dụng đất đảm bảo an ninh lương thực của

huyện nhằm bố trí hợp lý và có hiệu quả cao hơn.

- Tạo thuận lợi và khuyến khích các hộ nông dân, doanh nghiệp tích tụ

ruộng đất bằng cách tự chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, mượn hoặc cùng

hợp tác để tạo vùng sản xuất có quy mô lớn hơn, thuận lợi cho đầu tư thâm

canh, áp dụng tiến bộ kĩ thuật và đưa cơ giới vào sản xuất để tạo ra sản phẩm

hàng hóa nhiều, sức cạnh tranh cao.

- Chính quyền các cấp đặc biệt là cấp xã tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục

khi nông dân có nhu cầu chuyển nhượng, giúp và cùng doanh nghiệp vận

85

động nông dân cho thuê đất, cho mượn đất để sản xuất. Hướng dẫn và hỗ trợ

các doanh nghiệp, cá nhân lập và trình duyệt dự án khi họ có nhu cầu và khả

năng thực hiện.

- Bồi bổ đất làm tăng độ phì của đất bằng các biện pháp luân canh cây

trồng hợp lý, kết hợp trồng lúa với các cây họ đậu để cải tạo đất. Khi chuyển vụ

cần có thời gian cho đất nghỉ: nên cày phơi ải sau thu hoạch và cày vận rạ sau

vụ xuân, kết hợp với bón phân hữu cơ, diệt cỏ dại và những sinh vật gây hại.

- Thực hiện triệt để quá trình dồn ô đổi thửa ở các thôn.

3.2.2. Giải pháp về khoa học công nghệ và khuyến nông

Các giải pháp về khoa học - công nghệ đòi hỏi phải gắn với các giải

pháp về vốn đầu tư, về phát triển nguồn nhân lực tạo ra nhóm giải pháp cơ

bản nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực vào thực hiện quy

hoạch kinh tế - xã hội của huyện.

Một trong những vấn đề mấu chốt để nâng cao hiệu quả sản xuất và

tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm là không ngừng đổi mới công nghệ.

Do vậy cần coi trọng công tác khoa học công nghệ, trước hết tập trung vào

các khâu trọng yếu, các chương trình phát triển và ứng dụng, đưa tiến bộ

khoa học và công nghệ hỗ trợ phát triển nông thôn.

Trong vốn xây dựng cơ bản của ngân sách nhà nước cần dành một tỷ

lệ thích đáng tùy theo từng ngành cho đổi mới công nghệ, đảm bảo tốc độ

tăng chi cho đổi mới công nghệ cao hơn tốc độ tăng đầu tư cơ bản chung.

Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư khoa học và công

nghệ. Dành một phần vốn đầu tư cho việc tăng cường các cơ quan làm dịch

vụ công nghệ (đo lường, kiểm tra sản phẩm…).

Tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học trong

lĩnh vực nông nghiệp, đảm bảo tỷ lệ tối thiểu trong hạn mức chi tiêu ngân

sách hàng năm theo quy định, tập trung lĩnh vực nghiên cứu vào việc khảo

nghiệm các giống cây, con mới có giá trị kinh tế cao đưa vào sản xuất tại

86

địa bàn. Dành nguồn kinh phí thoả đáng cho việc ứng dụng đại trà những

tiến bộ khoa học đã được thực nghiệm vào sản xuất, gắn công tác nghiên

cứu với thực tiễn sản xuất ở địa phương.

Có các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư áp dụng các

công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất. Xây dựng và nhân rộng các mô hình

sản xuất tốt, kinh doanh giỏi, có hiệu quả kinh tế cao, nhất là trong lĩnh vực

nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Đối với nông nghiệp, cần đẩy mạnh

ứng dụng các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, khả năng

chịu bệnh tốt, phù hợp với điều kiện của tỉnh; ứng dụng các công nghệ tiên

tiến trong các khâu bảo quản, chế biến nông sản và các ngành công nghiệp

chế tác khác.

Có chính sách đồng bộ để khuyến khích thúc đẩy các ngành, các

doanh nghiệp tích cực ứng dụng khoa học - công nghệ mới. Miễn thuế đối

với phần vốn của doanh nghiệp dành cho đổi mới công nghệ. Miễn giảm

thuế có thời hạn cho các doanh nghiệp sản xuất thử. Đa dạng hoá các nguồn

vốn nhằm tăng lượng đầu tư cho công tác triển khai đổi mới công nghệ

trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp của huyện.

Thực hiện các biện pháp để phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa

học - công nghệ, tăng cường lực lượng khoa học cho cấp cơ sở. Có chính

sách đặc biệt để thu hút các cán bộ khoa học về công tác tại huyện và

chuyển giao công nghệ cho huyện.

Khoa học và công nghệ là chìa khóa để phát triển nông nghiệp trong

giai đoạn hiện nay. Những tiến bộ về khoa hoc công nghiệ phải được ứng

dụng nhanh chóng và rộng rãi vào tất cả các khâu từ sản xuất, thu hoạch,

chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Yêu cầu phát triển nông nghiệp

theo hướng bền vững còn đòi hỏi giải quyết hài hòa các vấn đề môi trường

để sản xuất có hiệu quả và ổn định. Vì thế, để đẩy mạnh việc phát triển

nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa của huyện trong những năm tới,

87

cần thiết thực hiện các giải pháp về khoa học công nghệ sau đây:

- Chú trọng đầu tư phát triển công nghệ sau thu hoạch, bao gồm: chế biến, bảo

quả sản phẩm nông nghiệp,

- Tập trung nghiên cứu lai tạo, tuyển chọn các giống cây trồng, vật nuôi có

năng suất cao, chất lượng tốt, thích nghi với điều kiện sinh thái của địa phương và

đáp ứng yêu cầu xuất khâu.

- Đầu tư có trọng điểm cho khoa học, ứng dụng nhanh các thành tựu của công

nghệ sinh học.

- Tổ chức đào tạo thêm, đào tạo lại cán bộ khoa học phục vụ nông nghiệp. Tổ

chức đưa cán bộ khoa học về giúp nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào sản xuất. Đổi mới chính sách sử dụng và đãi ngộ thỏa đáng cho cán bộ khoa

học kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn, nhất là đối với sáng tạo về khoa học

công nghệ, các ứng dụng khoa học công nghệ có hiệu quả vào thực tiễn sản xuất.

Có chính sách thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi về công tác tại địa phương.

Song song với hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản

xuất kinh doanh, hoạt động khuyến nông cũng đóng vai trò quan trọng, có thể xem

nó là cầu nối giữa nghiên cứu khoa học công nghệ và ứng dụng nó vào thực tiễn.

Thực chất đó là quá trình dịch vụ thông tin, truyền bá kiến thức và đào tạo dạy nghề

cho nôn dân, giúp họ có khả năng tự giải quyết các vấn đề đặt ra trong sản xuất và

kinh doanh.

Để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp Ứng Hòa

những năm tới, công tác khuyến nông của huyện cần được đầu tư trong những

lĩnh vực sau:

- Tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác khuyến nông cho các cơ sở.

Thực hiện xã hội hóa công tác khuyến nông, chú trọng đào tạo cán bộ làm

công tác khuyến nông. Phát triển các mô hình thành lập các tổ khuyến nông

tự nguyện để đẩy mạnh triển khai và ứng dụng có hiệu quả các kỹ thuật mới

vào sản xuất.

- Đẩy mạnh việc tổ chức tập huấn kỹ thuật canh tiến bộ, hướng dẫn quy trình

88

sản xuất và thu hoạch các giống mới… cho rộng rãi nhân dân để hạn chế tiến tới

xóa bỏ tập quán sản xuất lạc hậu còn khá phổ biến hiện nay nhằm nâng cao chất

lượng nông sản và hiệu quả kinh tế xã hội của sản xuất.

- Nhân rộng các mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi

trường, tạo niềm tin trong nhân dân vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật

nuôi, từ đó họ sẽ tích cực và tự giác thực hiện kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản tại địa phương.

3.2.3. Giải pháp về vốn đầu tư

Vốn đầu tư còn hạn chế là một trong những trở ngại trực tiếp và lớn nhất

đến việc thực hiện kế hoạch của tỉnh. Theo thống kê, hiện nay toàn huyện có

khoảng 45 – 50% số hộ nông dân thiếu vốn sản xuất và có khoảng 80% số hộ

có nhu cầu vay vốn để đầu tư sản xuất nông nghiệp, số lượng vốn các hộ cần

vay từ 30 – 80 triệu đồng. Để việc quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp

Hải Dương đến năm 2020 sớm trở thành hiện thực, cần có các giải pháp đồng

bộ, mà một trong những giải pháp quan trọng đó là vốn đầu tư.

Ứng Hòa là một huyện còn kém phát triển hơn so với các huyện khác của

thành phố, chưa có tích luỹ nên nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được

coi là nguồn chủ yếu. Để đảm bảo nguồn vốn này, một mặt Nhà nước cần quan

tâm dành nguồn vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi để hỗ trợ đầu tư xây dựng

các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong huyện, mặt khác huyện cần

tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và có các biện pháp khuyến khích

tiết kiệm cho đầu tư phát triển để tăng tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.

- Nhà nước hỗ trợ sản xuất căn cứ vào các đề án phát triển của tỉnh. Tiếp

tục hỗ trợ 50% giá giống cây trồng mới đưa vào áp dụng trong sản xuất.

- Hỗ trợ từ 15 – 30% giá trị thiết bị (máy sấy, chế biến, đóng gói, kho lạnh

mini, dây chuyền công nghệ) cho doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xây dựng mô

hình sản xuất nông sản an toàn, nông sản sạch hoặc ứng dụng công nghệ cao

trong sản xuất, chế biến nông sản.

- Tiếp tục hỗ trợ lãi suất tiền vay cho các tập thể, cá nhân đầu tư mua máy

89

cơ giới (ô tô, máy làm đất, gieo hạt, cấy, bơm nước, gặt đập) phục vụ sản xuất.

- Hỗ trợ 100% kinh phí lập quy hoạch các vùng sản xuất rau màu, cây ăn

quả, hoa và cây cảnh, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, việc lập quy hoạch phải

thực hiện xong trước năm 2012.

- Hỗ trợ một phần kinh phí xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng (điện

nước, giao thông..) đối với các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.

- Hỗ trợ một phần giống, vật tư (giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc

phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm…) đối với các giống mới đưa vào sản

xuất để hạ giá thành sản phẩm.

- Hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm: khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cơ sở

vật chất phục vụ việc chế biến, thu mua, tiêu thụ sản phẩm góp phần nâng cao

chất lượng nông sản trên thị trường.

- Hiện nay do nền kinh tế của huyện phát triển còn chậm nên nguồn vốn

đầu tư từ các doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh còn ít, nhưng thời gian tới,

nguồn vốn này sẽ tăng nhanh trong cơ cấu vốn đầu tư của tỉnh và giữ vai trò

ngày càng quan trọng trong sự phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Để

huy động nguồn vốn này cần thực hiện cải cách hành chính, tạo thông thoáng

trong lĩnh vực đầu tư; tăng cường liên doanh, liên kết với các địa phương ngoài

tỉnh, đồng thời có các biện pháp khuyến khích nhân dân và các doanh nghiệp

bỏ vốn vào xây dựng, mở rộng sản xuất kinh doanh trên địa bàn.

- Khuyến khích đầu tư từ khu vực dân cư và tư nhân, đặc biệt vào các dự

án phát triển các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế

trang trại, phát triển dịch vụ du lịch và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn …

- Khai thác nguồn vốn tiềm tàng trong nhân dân để đầu tư sản xuất lương

thực, thực phẩm, rau màu, chăn nuôi…

- Tạo môi trường và chính sách thuận lợi để thu hút đầu tư của các tổ chức,

90

cá nhân và tập thể thuộc mọi thành phần kinh tế, ở cả trong và ngoài nước vào

lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, cần khai thác tối đa vốn tự có của

nông hộ để đầu tư cho sản xuất.

3.2.4. Tăng cường cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật

Hiện trạng hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất

nông sản hàng hóa còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất nông

nghiệp của tỉnh. Trong những năm tới, cần tập trung vào các công tác sau đây:

- Phát triển hệ thống thủy lợi để chủ động hơn trong bố trí sản xuất, cụ thể là:

+ Hoàn thiện quy hoạch phát triển thủy lợi dài hạn để đáp ứng nhu cầu của

sản xuất và đời sống trên từng địa bàn, đồng thời đảm bảo cân bằng nước để sử

dụng bền vững nguồn nước, đảm bảo môi trường sinh thái.

+ Tiếp tục thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương và đầu tư có

trọng điểm vào xây dựng mới các công trình thủy lợi phục vụ các vùng chuyên

canh nông sản hàng hóa nhất là vùng nông sản chất lượng cao.

+ Tổ chức khai thác có hiệu quả các công trình thủy lợi hiện có theo hướng sử

dụng tổng hợp nguồn nước trên địa bàn, điều tiết nguồn nước tưới hợp lý

cho từng vùng.

- Tiếp tục phát triển hệ thống giao thông nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi

cho vận chuyển vật tư, phân bón và gắn vùng nguyên liệu với các cơ sở chế

biến góp phần nâng cao chất lượng nông sản và giảm chi phí cho sản xuất để

tăng khả năng canh tranh của nông sản trên thị trường.

- Phát triển mạng lưới cơ sở chế biến có quy mô và trình độ công nghệ

ngày càng cao, đồng thời phân bố ngày càng phù hợp với sự phát triển của

vùng nguyên liệu.

- Phát triển rộng rãi mạng lưới dịch vụ nông nghiệp theo hướng xã hội hóa.

Đồng thời tăng cường đầu tư cho các trung tâm nghiên cứu giống, các trại ươm

91

giống và các cơ sở bảo vệ thực vật, để đảm bảo cung ứng đầy đủ và kịp thời các

giống mới, các loại vật tư, phân bón phục vụ sản xuất, hạn chế thấp nhất thiệt hại

do sâu bệnh gây ra, nhất là đối với các loại nông sản hàng hóa chất lượng cao.

3.2.5. Xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm

Thị trường là yếu tố sống còn của phát triển sản xuất. Để tạo sự ổn định cho

sản xuất nông sản và tránh những rủi ro cho nông dân, trong những năm tới, cần

thực hiện đồng bộ một số giải pháp về thị trường sau đây:

- Cập nhật để cung cấp thường xuyên, kịp thời các thông tin về nhu cầu

và thị trường, yêu cầu phẩm cấp, chất lượng hàng hóa, thị trường trong và

ngoài tỉnh để hướng dẫn cho nông dân và doanh nghiệp sản xuất. Đồng thời,

hướng dẫn, giáo dục nông dân tuân thủ nghiêm ngặt quy trình, giữ chữ tín đối

với chất lượng sản phẩm.

- Làm tốt công tác tiếp thị và quảng bá sản phẩm, nhất là các thị trường

truyền thống. Tìm kiếm thị trường mới, khuyến khích và tạo điều kiện về giao

thông, nơi tập kết, khu sơ chế cho các doanh nghiệp và tư nhân ký kết hợp đồng

tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

- Tiếp tục đầu tư xây dựng một số chợ, điểm tập kết, tạo điều kiện thuận lợi

cho thu mua và tiêu thụ rau quả.

- Đào tạo nghiệp vụ xúc tiến thương mại, tổ chức tham quan mô hình sản

xuất gắn với tiêu thụ trong và ngoài nước.

- Phát triển công nghiệp chế biến theo cả chiều rộng và chiều sâu. Đây là giải

pháp có tính lâu dài, có tác dụng mở rộng thị trường tiêu thụ nguyên liệu, đồng

thời giảm bớt thua thiệt do chủ yếu xuất khẩu nông sản thô với giá rẻ và có khả

năng hạn chế bất lợi do biến động giá nông sản gây ra đối với ngành trồng trọt.

- Tăng cường quản lý chất lượng nông sản theo tiêu chuẩn VietGap,

GlobalGap...từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm xuất khẩu, đẩy mạnh xúc

92

tiến quảng bá sản phẩm trên thị trường.

3.2.6. Sử dụng nguồn nhân lực hợp lí và có hiệu quả

- Đối với cán bộ làm công tác quản lý: có chính sách luân chuyển cán bộ, đưa

cán bộ chỉ đạo sản xuất thực tế sau đó quay về tiếp tục làm công tác quản lý; ưu

tiên tuyển dụng đối với các đối tượng đã có thời gian công tác trực tiếp tại các cơ

sở từ 3 năm trở lên.

- Đối với cán bộ trong các cơ quan sự nghiệp: có chế độ ưu tiên (tuyển thẳng,

cộng điểm, điều kiện thi tuyển...) đối với cán bộ đã qua chỉ đạo sản xuất thực tế tại

các cơ sở. Từng bước nâng cao chế độ cho các cán bộ công chức, khuyến nông

viên cơ sở tạo điều kiện cho họ hoạt động có hiệu quả.

- Đa dạng hóa sản xuất, đẩy mạnh chế biến hoặc sơ chế nông sản và thực

hiện mô hình sản xuất đa canh, xen canh, phát triển các ngành nghề ở nông thôn,

nhằm giảm bớt căng thẳng về lao động mang tính thời vụ, đồng thời giải quyết

việc làm trong thời gian nhàn rỗi để tăng thu nhập cho nông dân.

- Tăng cường đầu tư đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nâng cao trình

độ dân trí và kỹ năng sản xuất cho nông dân để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về

nguồn nhân lực cho thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.

Tiểu kết chương 3

Trên đây là hệ quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy

nhanh sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Ứng Hòa trong những năm tới,

nhất là đặt trong bối cảnh cần đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hóa nông nghiệp

nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Trong điều kiện của huyện hiện nay, để nông nghiệp hàng hóa tiếp tục phát

triển và tạo ra bước phát triển đột phá cần phải đặc biệt quan tâm tính động lực và

đồng bộ của các giải pháp trên. Mỗi giải pháp đều có tầm quan trọng nhất định và

giữa các giải pháp có mối quan hệ biện chứng, thúc đẩy sự phát triển nền nông

93

nghiệp hàng hóa huyện Ứng Hòa trong thời gian tới.

KẾT LUẬN

1. Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta nói chung, huyện Ứng Hòa

nói riêng là vấn đề quan trọng không những trong nhận thức, lý luận mà còn có

ý nghĩa lớn trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam cả trước mắt

và lâu dài. Phát triển nông nghiệp hàng hóa sẽ đáp ứng tốt nhu cầu lương thực,

thực phẩm cho đời sống con người, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,

nông sản hàng hóa xuất khẩu, làm tăng dự trữ quốc gia, nâng cao thu nhập và

mức sống cho nông dân, làm thay đổi tác phong, tính nông nghiệp của người

dân, góp phần to lớn vào sự ổn định kinh tế xã hội và ổn định an ninh quốc gia.

Ngoài ra, trên cơ sở phát triển nông nghiệp hàng hóa mà dần dần nâng cao năng

suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo điều kiện cho phát triển và

chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, làm cho phân công lao động

xã hội trong nông nghiệp sâu sắc hơn, từ đó rút bớt một lượng lao động đáng kể

cho phát triển ngành nghề và công nghiệp nông thôn.

2. Ứng Hòa có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển nông nghiệp hàng

hóa theo hướng chuyên canh, đa canh, đa dạng hóa sản phẩm gắn với đặc điểm

các vùng sinh thái. Nhưng suốt một thời gian dài nền nông nghiệp tuy có sự

chuyển biến nhất định, song về cơ bản vẫn là nền nông nghiệp mang nặng tính

chất thuần nông tự cấp tự túc và độc canh lương thực.

3. Những năm trở lại đây, sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở Ứng Hòa có

một bước tiến đáng kể. Điều này được thể hiện trên nhiều mặt, nhưng nét nổi

bật là tỷ suất và khối lượng nông sản hàng hóa ngày càng tăng lên, góp phần to

lớn và đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia và lương thực xuất khẩu.

Thu nhập của dân cư tăng lên, đời sống được cải thiện hơn. Nguồn nguyên liệu

cho công nghiệp chế biến cũng dồi dào hơn.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp Ứng Hòa còn có những

hạn chế ở cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp còn yếu kém, đầu tư

của nhà nước cho nông nghiệp còn hạn hẹp, chất lượng hàng hóa nông sản

94

chưa cao, thị trường và giá cả có những diễn biến phúc tạp bất lợi cho nông

dân. Tuy phát triển nhưng nền nông nghiệp hàng hóa ở Ứng Hòa vẫn chưa

ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa của huyện.

4. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải đẩy nhanh quá trình phát triển nền nông

nghiệp hàng hóa. Để đẩy nhanh nhịp độ phát triển nền nông nghiệp hàng hóa

trong những năm tới ở Ứng Hòa cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ

yếu: Phải xây dựng hộ nông dân thật sự trở thành đơn vị sản xuất hàng hóa, gắn

liền với đổi mới triệt để nội dung nội dung, hình thức của hợp tác xã; nâng cao

và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và kết cấu hạ tầng ở

nông thôn; mở rộng và phát triển đồng bộ các loại thị trường nông thôn, kích

thích phát triển sản xuất nông sản hàng hóa. Đó là những vấn đề đặt ra và được

95

giải quyết trong luận văn này

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN VĂN

1. Trần Văn Kết, Ths. Trần Đức Văn (2014), phát triển nông nghiệp hàng

96

hóa huyện Ứng Hòa, kỷ yếu hội nghị khoa học Địa lí toàn quốc lần thứ 8.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Văn Ân (chủ biên 2003), Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội

2. Bách khoa toàn thư (2000), NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội

3. Ban chấp hành TW Đảng (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban

chấp hành TW khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, số 26 –

NQTW, Hà Nội.

4. Nguyễn Thanh Bạch (1999), Chính sách và giải pháp phát triển nông

nghiệp, nông thôn hiện nay, Tạp chí Phát triển kinh tế. số 101.

5. Nguyễn Thanh Bạch (1999), Một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông

thôn hiện nay, Tạp chí Phát triển kinh tế. số 99.

6. Mai Văn Bảo (2002), Phát triển nông nghiệp hàng hóa trong quá trình

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ.

7. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2000), Nông nghiệp Việt Nam

trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB TP Hồ Chí Minh.

8. Trần Xuân Châu (2000), Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam:

thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia.

9. Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi

mới, NXB Thống Kê, Hà Nội

10. Nguyễn Sinh Cúc (2000), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Việt

Nam là một đòi hỏi bức bách hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 13.

11. Trần Kim Cúc (1999), Một số luận điển của C.Mác, Ph. Ăngghen và V.I.

Lênin về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí

Nghiên cứu lý luận, số 10.

97

12. Cục thống kê Hà Nội. Niên giám thống kê Hà Nội 2012. NXB Thống kê.

13. Cục thống kê huyện Ứng Hòa (2010), Niên giám thống kê 2009

14. Cục thống kê huyện Ứng Hòa (2011), Niên giám thống kê 2010

15. Cục thống kê huyện Ứng Hòa (2012), Niên giám thống kê 2011

16. Cục thống kê huyện Ứng Hòa (2013), Niên giám thống kê 2012

17. Cục thống kê huyện Ứng Hòa (2014), Niên giám thống kê 2013

18. Cục thống kê huyện Ứng Hòa (2015), Niên giám thống kê 2014

19. Vũ Năng Dũng (Chủ biên, 2001), Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh, thành

phố, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

chấp hành trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng bộ huyện Ứng Hòa (2010), Văn kiện Đại hội đại Đảng bộ huyện

Ứng Hòa lần thứ XI.

24. Nghiêm Xuân Đạt – Nguyễn Minh Phong (2002), Nông nghiệp Việt Nam

bước vào thế kỷ XXI.

25. Nghiêm Xuân Đạt – Nguyễn Minh Phong (2002), Nông nghiệp Việt Nam

bước vào thế kỷ XXI.

26. Trịnh Thị Ái Hoa (2007), Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Lê Thu Hoa (2007), Kinh tế vùng ở Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

28. Lê Mạnh Hùng (1999), Kinh tế xã hội Việt Nam – thực trạng và giải

98

pháp. Nxb Thống kê, Hà Nội.

29. Lâm Quang Huyên (2006), Trang trại là xu hướng phát triển tất yếu của

nông nghiệp nước ta. Tạp chí Phát triển kinh tế xã hội, số 102.

30. Lê Viết Ly (2001), phát triển chăn nuôi trong quá trình chuyển dịch cơ

cấu nông nghiệp. Nxb Nông nghiệp.

31. V.I. Lênin, toàn tập, tập 4 (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Nguyễn Thế Nhã, Vũ Đình Thắng (2002), Giáo trình kinh tế nông nghiệp.

Nxb Thống Kê

33. Nguyễn Văn Ngọc (2012), Từ điển kinh tế học, NXB Đại học kinh tế quốc

dân, Hà Nội

34. Đặng Văn Phan, Nguyễn Kim Hồng (2006), Địa lí kinh tế xã hội Việt

Nam thời kỳ hội nhập, NXB Giáo dục, Hà Nội.

35. Đặng Kim Sơn (2001), Công nghiệp hóa tứ nông nghiệp – lý luận, thực

tiễn và triển vọng áp dụng ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

36. Đặng Kim Sơn (2006), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới

và phát triển. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Ông Thị Đan Thanh (1996), Địa lý nông nghiệp, NXB Giáo dục.

38. Đặng Văn Thắng, Phạm Ngọc Dũng (2003), Chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp ở đồng bằng sông Hồng – thực trạng và triển vọng. NXB Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam lãnh thổ và các vùng Địa lí, NXB Thế

giới, Hà Nội.

40. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức (2003), Giáo trình Địa lí kinh tế xã

hội Việt Nam – Tập I, Phần Đại cương. (Tái bản lần thứ 2, có sửa chữa

99

và bổ sung), NXB Giáo dục.

41. Lê Thông, Nguyễn Quý Thao (đồng chủ biên), Nguyễn Minh Tuệ, Phí

Công Việt, Nguyễn Thị Sơn, Lê Mỹ Dung (2012), Việt Nam các vùng

kinh tế và các vùng kinh tế trọng điểm, NXB Giáo dục Việt Nam.

42. TS. Nguyễn Từ (chủ biên), (2008), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế

đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

43. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông (2005), Kinh tế

xã hội đại cương (Giáo trình cao đẳng sư phạm), NXB Đại học Sư phạm.

44. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Quyết định về việc phê quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Ứng Hòa đến năm 2020, định

hướng đến năm 2030.

45. Ủy ban Nhân dân huyện Ứng Hòa, Báo cáo kết quả thực hiện các chỉ tiêu

kế hoạch và phương hướng nhiệm vụ phát triển nông nghiệp từ năm

2005 đến 2010.

46. PGS.TS. Trần Đức Viên (chủ biên), 2010, Giáo trình sinh thái học nông

nghiệp, NXB Đại Học Quốc Gia.

47. Nguyễn Như Ý (chủ biên), (1999), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa

100

thông tin, Hà Nội.