
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, kéo
dài hơn hai phần ba thế kỷ. Triều Nguyễn không chỉ để lại cho hậu thế, cho Huế
những di sản văn hóa: vật thể và phi vật thể, được thế giới công nhận, mà còn để
lại cho hậu thế một di sản lập pháp tương đối hoàn bị dưới thời phong kiến ở Việt
Nam. Việc nghiên cứu về văn hóa triều Nguyễn đã được quan tâm và có những
thành tựu nhất định. Song việc nghiên cứu về pháp luật triều Nguyễn vẫn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa xứng đáng với tầm vóc, nhất là việc nghiên cứu
các quy định về thừa kế theo hướng chuyên sâu trong Hoàng Việt luật lệ dưới thời
nhà Nguyễn chưa hề được đề cập đến. Việc nghiên cứu pháp luật triều Nguyễn là
cần thiết không chỉ để hiểu thêm về triều đại này, mà còn để hiểu biết về pháp chế
triều Nguyễn, từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về pháp chế Việt Nam dưới thời
phong kiến.
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, chính thức sáng lập ra triều Nguyễn.
Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã triển khai biên soạn một bộ luật với quy
mô rộng lớn nhằm làm “chuẩn thằng” cho công tác pháp luật. Bộ luật có tên là
Hoàng Việt luật lệ (hay còn gọi là Hoàng triều luật lệ hoặc Bộ luật Gia Long). Vua
Gia Long trực tiếp đọc duyệt, tu sửa, sau cùng viết lời tựa có đoạn: “Thánh nhân
cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp để xử tội, dùng đạo đức để giáo hóa họ. Hai
điều ấy không thiên bên nào bỏ bên nào. Thật vậy, sống trong xã hội, con người
với những ham muốn vô bờ, nếu không có luật pháp để ngăn ngừa thì không có
cách gì để dẫn dắt người ta vào đường giáo hóa mà biết được đạo đức”. Không
chỉ dừng lại ở Hoàng Việt luật lệ, các vua sau vua Gia Long cũng đặc biệt quan
tâm đến việc lập pháp, hàng loạt các Chỉ, Dụ được ban hành dưới thời Minh
Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức để tiếp tục bổ khuyết, hoàn thiện cho Hoàng Việt luật lệ.
Công tác lập pháp được chú trọng, triều Nguyễn để lại một di sản pháp luật đồ sộ
không kém gì di sản văn hóa: bộ Hoàng Việt luật lệ, 560 quyển Đại Nam thực lục,