ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------- LÊ VÂN ANH

PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU

Á

VỚI IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG

TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội - 2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------- LÊ VÂN ANH

PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU

Á

VỚI IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG

TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÃ SỐ: 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VÕ TRÍ THÀNH

Hà Nội - 2007

MỤC LỤC

Trang

Mở đầu 1

CHƢƠNG 1: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ VAI TRÒ CỦA IMF

6

6 1.1 Khủng hoảng tài chính - tiền tệ

6 1.1.1 Nhận dạng bản chất khủng hoảng tài chính - tiền tệ

11 1.1.2 Các mô hình khủng hoảng cơ bản

11 1.1.2.1 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất

12 1.1.2.2 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai

12 1.1.2.3 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba

1.2 Vai trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế và đối với 16 khủng hoảng tài chính - tiền tệ

16 1.2.1 Vài nét về IMF

17 1.2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển

20 1.2.1.2 Nguồn vốn của IMF

21 1.2.1.3 Cơ cấu tổ chức

1.2.1.4 Sự khác biệt giữa Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế 22 giới

22 1.2.2 Vai trò của IMF

23 1.2.2.1 Tư vấn chính sách và giám sát kinh tế vĩ mô

25 1.2.2.2 Trợ giúp tài chính

28 1.2.2.3 Hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo

31 Kết luận chƣơng 1

CHƢƠNG 2: PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU Á VỚI

32

IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 1997-

1998

2.1 Khái quát về khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 32 vµ chÝnh s¸ch cña IMF trong viÖc kh¾c phôc khñng ho¶ng

2.1.1 Kh¸i qu¸t vÒ cuéc khñng ho¶ng 32

32 2.1.1.1 Bèi c¶nh kinh tÕ c¸c n íc ch©u ¸ tr íc khñng ho¶ng

35 2.1.1.2 Những dấu hiệu trước khi khủng hoảng xảy ra

47 2.1.1.3 Diễn biến cuộc khủng hoảng

50 2.1.1.4 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng

57 2.1.2 Quan điểm của IMF và các chính sách hỗ trợ

57 2.1.2.1 Quan điểm, nhận định của IMF về cuộc khủng hoảng

59 2.1.2.2 Nội dung các chính sách hỗ trợ của IMF

2.2 Chính sách khắc phục khủng hoảng của các chính phủ

62 châu á trên cơ sở hỗ trợ của IMF

2.2.1 Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nước 62

2.2.2 Cải thiện hệ thống tài chính quốc gia 63

2.3 Đánh giá kết quả phối hợp chính sách giữa các chính phủ

65 châu á với IMF trong vấn đề khắc phục khủng hoảng tài

chính - tiền tệ

2.3.1 Đánh giá hiệu quả của chính sách 65

2.3.1.1 Sự khác biệt về các mức kết quả trong việc khắc phục 65 khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước Đông á

2.3.1.2 Phê phán chính sách hỗ trợ của IMF 69

2.3.2 Đánh giá vai trò của sự phối hợp chính sách giữa các chính 74 phủ châu á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng

Kết luận chƣơng 2 79

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGĂN NGỪA VÀ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG

80

TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA

VIỆT NAM

3.1 Hội nhập kinh tế quốc tế và những nguy cơ khủng hoảng tài 80 chính - tiền tệ ở Việt Nam

3.1.1 Tiến trình mở cửa, tự do hoá tài chính và hội nhập tài chính quốc 80 tế của Việt Nam từ năm 1986 đến nay

3.1.2 Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam 86

3.1.2.1 Nguy cơ từ bên trong 86

3.1.2.2 Nguy cơ từ bên ngoài 106

3.2 Vận dụng bài học kinh nghiệm của các nƣớc châu á trong việc 110 ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam

3.2.1 Ngăn ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ 111

3.2.1.1 Duy trì nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc 111

3.2.1.2 Điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt 112 theo nguyên tắc thị trường

3.2.1.3 Chủ động xây dựng và cải cách hệ thống tài chính quốc gia 113

3.2.1.4 Thực hiện tự do hoá tài chính theo lộ trình thận trọng 120

3.2.2 Phương thức xử lý khi nền kinh tế diễn ra khủng hoảng tài chính -

tiền tệ 121

3.2.2.1 Tăng cường vai trò của nhà nước 121

3.2.2.2 Xây dựng lộ trình cải cách cơ cấu mạnh mẽ 122

3.2.3 Tăng cường phối hợp với IMF và các tổ chức tài chính quốc tế 123 trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng

Kết luận 127

Danh mục tài liệu tham khảo 129

Phụ lục 134

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB

Ngân hàng Phát triển Châu á

ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

Ngân hàng thanh toán quốc tế

BIS

Asian Development Bank Asian South East Association Nations Bank of International Settlement Balance of Payment

BOP

Current Account

CA

CNH, HĐH DNNN FED FDI GDP

ICOR

IMF

IMFC

Foreign Direct Investment Gross Domestic Product Incremental Capital - Output Ratio International Monetary Fund International Monetary and Financial Commission Official Development Aids

NHNN NHTM NHTW NSNN ODA

Return on Asset

ROA

Return on Equity

ROE

Special Drawing Rights World Bank World Trade Organization

Cán cân thanh toán quốc tế Cán cân vãng lai/ Tài khoản vãng lai Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Doanh nghiệp nhà nước Cục Dự trữ Liên bang Mĩ Đầu tư trực tiếp nước ngoài Tổng sản phẩm quốc nội Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP/ tốc độ tăng GDP Quỹ Tiền tệ Quốc tế Uỷ ban Tài chính và Tiền tệ Quốc tế Ngân hàng nhà nước Ngân hàng thương mại Ngân hàng Trung ương Ngân sách nhà nước Viện trợ phát triển chính thức Lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn bình quân Quyền rút vốn đặc biệt Tổ chức tín dụng Thị trường chứng khoán Thị trường tài chính Trung tâm giao dịch chứng khoán Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Ngân hàng Thế giới Tổ chức Thương mại Thế giới

SDR TCTD TTCK TTTC TTGDCK UBCKNN WB WTO

Viết tắt Tiếng Việt Tiếng Anh

DANH MỤC BẢNG BIỂU

2.1 Cán cân vãng lai của một số nước châu á 35

2.2 Hệ số ICOR của một số nước châu á, 1987-1996 37

2.3 Độ mở của một số nền kinh tế châu á 39

2.4 Tín dụng ngân hàng cho khu vực tư nhân 42

2.5 Tỷ lệ những khoản vay không sinh lời (NPLs) 42

2.6 Cơ cấu nợ nước ngoài của một số nước châu á tháng 6/1997 44

2.7 Tỷ lệ M2 so với dự trữ ngoại hối của các nước Đông á 46

2.8 Đóng góp của dòng vốn FDI tài trợ cho thâm hụt tài khoản 46

vãng lai

2.9 Cam kết của IMF và cộng đồng quốc tế hỗ trợ tài chính cho 59

một số nước châu á bị khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-

1998

3.1 Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản của Việt Nam 86

3.2 Cơ cấu sử dụng GDP theo giá thực tế 88

3.3 Cơ cấu vốn đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế 89

3.4 Thu, chi và bội chi Ngân sách nhà nước, 2001-2005 90

3.5 Các chỉ số về nợ nước ngoài của Việt Nam, 2001-2006 97

3.6 Tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2001-2006 97

3.7 Cơ cấu tín dụng cho vay và tốc độ tăng trưởng tín dụng 99 trong nước giai đoạn 2001-2006

DANH MỤC HỘP

1.1 Mục đích của IMF 18

DANH MỤC HÌNH

Cơ chế phát sinh khủng hoảng tài khoản vốn 15 1.1

Số lượng thành viên IMF, 1945 - 2005 19 1.2

Trợ giúp kỹ thuật theo khu vực (năm tài khoá 2001) 30 1.3

Tỷ lệ nợ ngắn hạn so với tổng nợ nước ngoài và tỷ lệ nợ ngắn 2.1

hạn so với dự trữ ngoại tệ của một số nước châu á vào cuối 45

năm 1996

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 87 3.1

Cán cân vãng lai và cán cân vốn của Việt Nam, 2001-2006 92 3.2

Lượng kiều hối qua các năm 92 3.3

Dự trữ ngoại hối của Việt Nam, 2002-2006 93 3.4

Độ sâu tài chính của Việt Nam 96 3.5

MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài

Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại

những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn

những nguy cơ khủng hoảng. Sự thay đổi của các thị trường tài chính cùng với

mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước và những điều kiện bên

trong của mỗi quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Quỹ Tiền tệ

Quốc tế (IMF) là một trong những tổ chức tài chính quốc tế lớn đã có những

đối sách, chương trình điều chỉnh cơ cấu được coi là phương thuốc “điều trị”

hay “cẩm nang” cho các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Tuy nhiên những

chính sách, chương trình hỗ trợ này của IMF khi thực thi ở mỗi nước, có nước

làm theo, có những nước chỉ làm một phần, thậm chí đi ngược lại và được thể

hiện trong sự khác biệt giữa các mức kết quả. Trong bối cảnh ấy, việc xem xét

lại khủng hoảng tài chính - tiền tệ và vai trò của IMF, xem xét lại bản thân tính

thích hợp của chính sách ấy cả về lý luận và thực tiễn, cách xử lý những bất

đồng trong hoạch định chính sách cũng như cách thức phối hợp thực thi chính

sách giữa các chính phủ Châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài

chính - tiền tệ là rất có ý nghĩa.

Sau 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã có

bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Với thế và lực mới, trên con

đường phát triển của mình, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào

hệ thống kinh tế quốc tế. Đi cùng với quá trình này, Việt Nam cũng có thể

phải đối mặt với những rủi ro tài chính, bất ổn tài chính do quá trình tự do hoá

thương mại và tự do cán cân thanh toán quốc tế đem lại. Trên cơ sở phân tích

khái quát những dấu hiệu, diễn biến, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ châu Á (1997-1998), đề tài tập trung đánh giá sự phối hợp

chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng

hoảng, qua đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc ngăn ngừa và xử lý

1

khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Mặc dù khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa

xảy ra ở Việt Nam, song nghiên cứu những vấn đề của quốc tế lại có ý nghĩa

hết sức thiết thực trong việc phòng ngừa khủng hoảng, đặc biệt những bất ổn

và rủi ro tài chính vẫn còn tiềm ẩn trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội

nhập sâu rộng vào sân chơi quốc tế. Xuất phát từ lý do đó, học viên chọn đề

tài “Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF

trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ và bài học

cho Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và các chính sách hỗ trợ của

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm

của các nhà nghiên cứu trong nhiều năm nay. Liên quan đến chủ đề này, có

một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, tiêu biểu như sau:

Các công trình nghiên cứu trong nước:

- Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt (2000), Châu Á từ

khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21, NXB TP. HCM. Thông qua nhiều bài viết,

nhóm tác giả đã phân tích cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á dưới

nhiều góc cạnh khác nhau trước, trong và sau khủng hoảng, từ kinh nghiệm

cải cách của các các nước đến dự báo những vấn đề mới nảy sinh cho các

nước châu Á trong thế kỷ 21.

- Võ Trí Thành (chủ biên) (2004), Thị trường tài chính Việt Nam: thực

trạng, vấn đề và giải pháp chính sách, NXB Tài chính. Nhóm tác giả đã đưa

ra một bức tranh tương đối khái quát những vấn đề lý luận về thị trường tài

chính, kinh nghiệm quốc tế cũng như thực trạng và các vấn đề cần xử lý của

thị trường tài chính Việt Nam.

- Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á

1997-1999: Nguyên nhân, hậu quả và bài học với Việt Nam, NXB ĐHQG

TP.HCM. Trên cơ sở xây dựng phương pháp tiếp cận, mô hình các nguy cơ

và cơ chế phát sinh khủng hoảng, tác giả đã phân tích cụ thể quá trình hình

thành, các nguy cơ khủng hoảng và diễn biến của khủng hoảng tài chính - tiền

2

tệ ở bốn nước châu Á điển hình là Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn

Quốc, qua đó rút ra những nhận xét về đặc điểm và nguyên nhân sâu xa của

cuộc khủng hoảng, đồng thời đề xuất những bài học đối với quản lý kinh tế ở

Việt Nam.

- GS.TS. Hồ Xuân Phương, TS. Vũ Đình Ánh (2003), Giải pháp phòng

ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam, NXB Tài chính. Trên cơ sở

phân loại, hệ thống hoá các quan điểm về khủng hoảng tài chính - tiền tệ,

cuốn sách tập trung phân tích, đánh giá hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam

hiện nay nhằm làm rõ những nguyên nhân có thể gây ra khủng hoảng, từ đó

đề xuất xây dựng hệ thống giải pháp khả thi có tác dụng phòng ngừa khủng

hoảng cho Việt Nam trong tương lai.

Một số công trình của các học giả nước ngoài: - G.Corsetti, P.Pesenti, N.Roubini (1998), “What caused the Asian

currency and financial crisis?”

- Nhiều tác giả (2007), Ten Years after the Asian Financial Crisis:

Vulnerabilities of East Asisa, Bangkok Conference, 26-27 February 2007.

- M. Yoshitomi, Sayuri Shirai (7 July 2000), “Technical background

paper for policy recommendation for preventing another capital account

crisis”, ADB Institute.

- IMF Vietnam Country Report No. 06/421 (November 2006).

Các công trình trên đây mặc dù có đề cập và phân tích nhiều vấn đề khác

nhau của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và chính sách hỗ trợ của

IMF. Tuy nhiên, xoay quanh vấn đề này vẫn còn một số câu hỏi chưa có câu

trả lời thoả đáng như: Liệu những chính sách của IMF nhằm khắc phục khủng

hoảng có thật sự là phương thuốc chung cho mọi quốc gia? Sự phối hợp thực

thi chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục

khủng hoảng tài chính - tiền tệ ra sao? Và bài học nào được rút ra cho Việt

Nam, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam hội nhập sâu rộng vào các tổ chức

quốc tế khác.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3

 Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở khái quát hoá những vấn đề lý luận chung về khủng hoảng

tài chính - tiền tệ và vai trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế nói

chung và đối với khủng hoảng tài chính - tiền tệ nói riêng, đề tài đánh giá sự

phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục

khủng hoảng tài chính - tiền tệ để từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong quá

trình phát triển, đặc biệt là trong quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập

kinh tế quốc tế.

 Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào một số nhiệm vụ

nghiên cứu cụ thể như sau:

- Khái quát những vấn đề lý luận chung về khủng hoảng tài chính -

tiền tệ và vai trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế và đối với

các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

- Phân tích quan điểm và chính sách hỗ trợ của IMF nhằm khắc phục

khủng hoảng, các chính sách khắc khục khủng hoảng của một số

chính phủ châu Á và đánh giá kết quả phối hợp chính sách giữa các

chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài

chính - tiền tệ.

- Rút ra bài học cho Việt Nam trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng

hoảng tài chính - tiền tệ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu về sự phối hợp chính sách giữa các

chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền

tệ 1997-1998.

- Phạm vi nghiên cứu:

Dưới góc độ Kinh tế chính trị, luận văn giới hạn trong việc nghiên cứu

về sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á (tập trung vào 4 nước

Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc) với IMF trong cuộc khủng

hoảng tài chính - tiền tệ giai đoạn 1997-1998. Đây là những nước đều ở khu

4

vực châu Á, đã từng xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong quá trình mở

cửa, tự do hoá thương mại, tự do hoá tài chính và tự do cán cân thanh toán

quốc tế, đều được IMF hỗ trợ khi có khủng hoảng, nhưng lựa chọn chính

sách, phản ứng chính sách và kết cục của khủng hoảng lại không giống nhau.

Trên cơ sở đó, đề tài rút ra bài học về việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng

tài chính - tiền tệ trong quá trình Việt Nam mở cửa và hội nhập kinh tế quốc

tế trong giai đoạn hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp cơ bản của Kinh tế Chính trị là phương

pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Những phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận văn là: phương

pháp phân tích tổng hợp, hệ thống; phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử;

phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê học để xử lý số liệu

và phương pháp nghiên cứu so sánh kết hợp với phương pháp nghiên cứu dự

báo được đặc biệt chú ý khi làm rõ những vấn đề cụ thể của Việt Nam.

6. Những đóng góp mới của luận văn

Ngoài việc hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về các mô hình

khủng hoảng tài chính và làm rõ vai trò của IMF đối với hệ thống tài chính

quốc tế nói chung cũng như khủng hoảng tài chính - tiền tệ nói riêng, luận văn

có những đóng góp mới như sau:

- Đánh giá sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF

trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

- Rút ra một số bài học và định hướng vận dụng cho Việt Nam trong

việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

luận văn được trình bày trong 3 chương:

 Chương 1: Khủng hoảng tài chính - tiền tệ và vai trò của IMF

 Chương 2: Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF

trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998

 Chương 3: Một số bài học về ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài

5

chính - tiền tệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

CHƢƠNG 1

1.1 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ VAI TRÒ CỦA IMF

1.1.1 Nhận dạng bản chất khủng hoảng tài chính - tiền tệ

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), khủng hoảng tài chính tại các nước

tiền công nghiệp thường do chiến tranh, thiên tai hay sự mất giá của đồng

tiền gây ra. Cùng với sự phát triển của hoạt động ngân hàng và thị trường

chứng khoán trong thế kỷ XIX, tính ổn định của hệ thống tài chính phụ thuộc

vào sự lành mạnh của các định chế tài chính. Các khoản cho vay có quy mô

lớn hơn, phức tạp và dài hạn hơn làm tăng mức độ rủi ro và do đó dễ dẫn tới

khủng hoảng tài chính khi các định chế tài chính mất khả năng thanh toán.

Tiến trình phát triển của thế giới đã từng chứng kiến nhiều cuộc khủng

hoảng ngân hàng và tỷ giá. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng điển hình của thế

giới tư bản là cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 đã phá huỷ hệ thống ngân

hàng Mỹ và làm phá sản hàng loạt ngân hàng châu Âu; cuộc khủng hoảng

đồng Sterling và Franc những năm 1960; sự đổ vỡ của hệ thống Bretton

Woods đầu thập niên 1970 và cuộc khủng hoảng nợ những năm 1980. Thời

kỳ trước nữa cũng xuất hiện những cuộc khủng hoảng tài chính, đặc biệt là

khủng hoảng ngân hàng. Hai ví dụ đáng ghi nhận là cuộc khủng hoảng ngân

hàng Barings năm 1890 và cuộc khủng hoảng tỷ giá (1894-1896) ở Mỹ được

xem như một đòn nặng nề giáng vào uy lực bản vị vàng của nước này và là

một ví dụ cho tính hiệu quả của việc vay nợ nhà nước từ các nguồn dự trữ

quốc gia để chặn đứng khủng hoảng tiền tệ. Rõ ràng, trong việc đối phó với

các cuộc khủng hoảng khác nhau, các thể chế tài chính hiện đại và những

biện pháp chức năng cho vay như giải pháp cứu cánh cuối cùng của các

Ngân hàng Trung ương, bảo hiểm tiền gửi, các tiêu chuẩn điều tiết thận

trọng, và các thoả thuận tài chính quốc tế, đặc biệt là Quỹ Tiền tệ Quốc tế

6

(IMF), đã được thiết lập và phát triển.

Trong vòng 20 năm gần đây đã xảy ra hơn 90 cuộc khủng hoảng ngân

hàng nghiêm trọng mà tổn thất của mỗi cuộc khủng hoảng tính trên GDP còn

vượt quá tổn thất của sự đổ vỡ ngân hàng Mỹ trong những năm 30 của thế kỷ

XX. Mặc dù có những điểm giống nhau, nhưng các cuộc khủng hoảng những

năm vừa qua khác với các cuộc khủng hoảng trước đây ở những khía cạnh

quan trọng. Đặc biệt, những tác động quá mức và khả năng lây lan của

khủng hoảng dường như rất lớn và vượt quá khả năng kiểm soát. Theo các

nhà phân tích, khủng hoảng tài chính - tiền tệ những năm gần đây còn sâu

sắc hơn nhiều các cuộc khủng hoảng thập kỷ 70 - 80 của thế kỷ XX, thể hiện

trên các mặt:

- Quy mô lớn hơn nhiều (tính theo giá năm 2000, quy mô GDP toàn

cầu năm 1970 tăng gấp 7,4 lần so với năm 1900, năm 2000 tăng gấp 2,5 lần

so với năm 1970, trong đó hoạt động tài chính - tiền tệ phát triển với tốc độ như vũ bão1);

- Tốc độ lan truyền nhanh hơn (những năm đầu thế kỷ XX, giao dịch

tài chính ngân hàng trong phạm vi một thành phố cũng phải mất tới 3 ngày,

đến nay có thể thực hiện trong “chớp mắt” và hàng loạt giao dịch cùng một

lúc trên phạm vi toàn cầu nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin);

- Xảy ra thường xuất phát từ sai lầm của khu vực tư nhân nhiều hơn do

lỗi chi tiêu của Chính phủ (do khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về

số lượng và quy mô, nhiều tập đoàn kinh tế có quy mô lớn gấp nhiều lần

GDP của một quốc gia, bên cạnh đó, tự do hoá và toàn cầu hoá cho phép khu

vực tư nhân dễ dàng vượt qua sự kiểm soát của Chính phủ hơn);

- Khó dự đoán trước hơn. Dự báo kinh tế - tài chính vốn đã khó lại

càng khó hơn do các biến số ngày càng đa dạng về số lượng và phức tạp về

tính chất, đến mức nhiều người coi dự báo là một nghệ thuật hơn là một khoa

1Năm 2000, trao đổi ngoại tệ toàn cầu lên tới gần 2000 tỷ USD, gấp 1000 lần năm 1973; tổng tài sản tài chính trao đổi trên thị trường thế giới lên tới 83.000 tỷ USD, tương đương 170% GDP toàn cầu; hàng ngày, lượng tiền luân chuyển trên thị trường tài chính gấp 30 lần tổng giá trị hàng hoá lưu chuyển.

7

học.

Tóm lại, khủng hoảng tài chính - tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn liền

với sự ra đời và phát triển của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thế giới.

Trong nền kinh tế thị trường, khủng hoảng tài chính là hiện tượng xảy ra

trong hoạt động của các định chế tài chính (chủ yếu là các trung gian tài

chính), bắt nguồn từ sự yếu kém của các định chế này và tác động trực tiếp

đến hoạt động của chúng với tư cách là một chủ thể vừa độc lập, vừa có liên

quan chặt chẽ với toàn bộ hệ thống. Biểu hiện rõ rệt nhất của khủng hoảng

tài chính - tiền tệ từ trước đến nay là sự phá sản của các định chế trung gian

tài chính và cùng với sự phát triển ngày càng phức tạp và tinh vi của các

công cụ tài chính, thì khủng hoảng càng dễ xảy ra, tính chất khủng hoảng

ngày càng phức tạp và nguy cơ khủng hoảng lan rộng ngày càng cao. Vậy

bản chất khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong thời đại hiện nay là gì?

Trước hết tài chính được hiểu theo nghĩa rộng là sự luân chuyển

luồng (dòng) vốn (tiền và giống như tiền); là tập hợp các quỹ tiền (và giống

như tiền) cùng với các mối quan hệ giữa chúng. Tiền (money, currency) bao

gồm cả nội tệ (domestic currency) và ngoại tệ (foreign currency) với 3 chức

năng chủ yếu là thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và phương tiện cất

trữ. Giống như tiền (semi-money) được hiểu là những vật có đầy đủ 3 chức

năng chủ yếu của tiền, đồng thời có khả năng chuyển thành tiền dễ dàng (tức

là có tính thanh khoản nhất định), chẳng hạn vàng, kim loại hiếm, đá quý,

giấy tờ có giá ngắn hạn (trong chừng mực nhất định có thể gồm cả giấy tờ có

giá trung và dài hạn). Không thuộc phạm trù này là những vật không có đầy

đủ 3 chức năng chủ yếu của tiền tệ, hay có tính thanh khoản thấp như đất đai,

nguyên nhiên vật liệu cho các ngành công nghiệp và nông nghiệp, v.v…

Vậy khủng hoảng tài chính (Financial Crisis) là gì? Khủng hoảng tài

chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến

sụp đổ quỹ. Đặc trưng của mỗi quỹ (fund) cấu thành nên hệ thống tài chính

là các dòng tiền vào/ ra (input/output), nhận/ thanh toán (receipt/payments),

8

hình thành tài sản có (assets)/ tài sản nợ (liabilities). Khi xảy ra hiện tượng

mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số

lượng, thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính. Như

vậy, khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho

mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với

nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại

một thời điểm nào đó. Chính vì vậy, khủng hoảng tài chính có đặc điểm của

khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong nền

kinh tế thị trường từ nhiều năm nay.

Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù:

- Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis): là tình trạng ngân hàng

trên thực tế hoặc có khả năng đổ vỡ, hay các vụ phá sản buộc các ngân hàng

phải hoãn các khoản thanh toán thuộc trách nhiệm của mình, hoặc ngân hàng

ở trong tình trạng buộc chính phủ phải can thiệp bằng cách trợ giúp những

khoản tài chính lớn. Cuộc khủng hoảng ngân hàng tác động trên diện rộng,

tới nhiều bộ phận của hệ thống kinh tế. Khủng hoảng này rất hay gặp do

ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp

nhân để cho vay lại nên rủi ro rất lớn cả về mặt số lượng, thời hạn cũng như

chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức

và không thu hồi lại được, dẫn đến tỷ lệ quá hạn cao làm cho ngân hàng

không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống

chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo ra khủng hoảng cả hệ thống

ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng ngân hàng, các ngân hàng thương

mại (NHTM) thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng

lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp - bạn hàng chủ

yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt

động.

- Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis): là trường hợp một

quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thức hoặc vay thương mại) quá nhiều

9

và sử dụng không hiệu quả nên không trả được nợ đúng hạn, kể cả nợ chính

phủ lẫn nợ tư nhân, do đó lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ,

xoá nợ, thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ. Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều

(chẳng hạn trường hợp Argentina mới đây hay các nhiều nước châu Phi vừa

qua) cùng với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nước

ngoài trở nên dễ dàng hơn.

- Khủng hoảng tiền tệ (Money Crisis): là hiện tượng không đủ ngoại tệ

để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu (cả thực tế và giả

tạo do đầu cơ) buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá

hối đoái hoặc phá giá nội tệ làm cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.

- Khủng hoảng thị trường chứng khoán (Crisis of Security Market).

Với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất

nhạy cảm và phức tạp nên cũng rất dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng

khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “leo

thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho

chứng khoán bị “bán đổ bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không

có giao dịch tạo ra sự mất cân đối giữa tiền (chứng khoán) vào và ra thị

trường chứng khoán.

- Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân vốn

(Crisis of Balance of Payment / Crisis of Current Account / Crisis of Capital

Account): Cán cân thanh toán/ cán cân vãng lai/ cán cân vốn là cấu thành

quan trọng nhất của tài khoản quốc gia. Khủng hoảng xảy ra khi các cán cân

này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng

hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập khẩu -

xuất khẩu) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng các

luồng ngoại tệ ra lớn hơn luồng ngoại tệ vào (tổng cán cân vãng lai và tài

khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.

- Khủng hoảng khả năng/ tính thanh khoản (Crisis of Liquidity): nếu

các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả 3 mặt số lượng

10

(volume/quantity), thời hạn (term) và chủng loại (kind/currency) của tiền

(giống tiền) thì khủng hoảng tính thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên

quan tới thời hạn và chủng loại của giống tiền và một số loại tài sản đặc thù.

- Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis): Ngân sách nhà nước thâm

hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ

trong và ngoài nước) bị hạn chế hay/ và không thể lạm dụng hơn nữa nếu

muốn tránh hậu quả tai hại hơn như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.

Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương

lai có thể xuất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính

trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

1.1.2 Các mô hình khủng hoảng cơ bản

1.1.2.1 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất

Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P. Krugman (1979) xây

dựng và chủ yếu đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong

điều kiện tỷ giá cố định bị các hoạt động đầu cơ tấn công. Mô hình này xảy

ra ở một số nước có nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt

trầm trọng, cung tiền tăng quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp

thâm hụt ngân sách) khiến lạm phát gia tăng; những điều này dẫn đến cán

cân vãng lai thâm hụt trầm trọng. Trước nguy cơ đồng nội tệ bị giảm giá,

Chính phủ buộc phải liên tục can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường

để duy trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống một mức

thấp nhất định nào đó, các cuộc tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra

buộc Chính phủ càng phải can thiệp để cố định tỷ giá.

Trong điều kiện nguồn dự trữ ngoại hối tài trợ cho thâm hụt cán cân

vãng lai và để duy trì chế độ tỷ giá cố định ngày càng trở nên cạn kiệt, Chính

phủ buộc phải đi vay nợ nước ngoài và kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức

quốc tế (như IMF), song thường chỉ được đáp ứng một phần. Điều này cùng

với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém và thậm chí là sự gia

tăng căng thẳng về chính trị và xã hội, đến một thời điểm nào đó, Chính phủ

11

buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá làm

cho đồng nội tệ bị mất giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình

này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước châu

Mĩ La tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những

năm 1990.

1.1.2.2 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai

Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995)

xây dựng. Khủng hoảng dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh

(self-fulfilling crisis), có thể xảy ra ở những nước có mức độ yếu kém về tài

chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của

Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn

do thắt chặt tiền tệ, lãi suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng

kinh tế và tạo việc làm). Sự thiếu kiên quyết trong cam kết duy trì chế độ tỷ

giá hối đoái của Chính phủ xảy ra khi Chính phủ đứng trước sự lựa chọn

giữa việc giảm thất nghiệp, tăng gánh nặng trả nợ của Chính phủ ở trong

nước và duy trì uy tín của chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Trước tín hiệu đó,

các nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ. Những sức ép

này buộc Chính phủ không có cách nào khác là phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố

định để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng trước những cuộc tấn công quy

mô của giới đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là khủng hoảng bùng phát.

Biến thể khác của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ

tình trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối xứng. Trong điều kiện một

hoặc một số ngân hàng có “vấn đề”, tình trạng này dẫn đến hành vi “bầy

đàn”, gây hoảng loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến khủng hoảng tài chính -

tiền tệ.

Mô hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống tiền tệ

châu Âu (European Monetary System) năm 1992-1993.

1.1.2.3 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba

Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất khó có thể giải thích một cách

12

thoả đáng cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997-1998. Lý

do là các nước chịu khủng hoảng về cơ bản có nền tảng kinh tế vĩ mô tương

đối vững chắc, như ngân sách thâm hụt không đáng kể, thậm chí có thặng

dư, mức tiết kiệm nội địa cao, tỷ lệ lạm phát thấp,… Cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ châu Á cũng không thể được giải thích tốt bởi mô hình khủng

hoảng thế hệ thứ hai. Các nước châu Á không có vấn đề thất nghiệp hay nợ

chính phủ nào đáng kể trước khi khủng hoảng xảy ra, nên áp lực phải từ bỏ

chính sách tỷ giá cố định chưa lớn. Hơn nữa hành vi “bầy đàn” cũng liên

quan đến khủng hoảng châu Á, song không thể giải thích được gốc rễ và

mức độ trầm trọng của cuộc khủng hoảng này.

Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999)

xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân

thanh toán quốc tế (Balance of Payment). Khủng hoảng tài khoản vốn

thường dẫn đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng

ngân hàng.

Việc tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến

hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép: (i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt

vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai; và (ii) Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng

quá lớn.

(i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai

(CA Deficit) đã khiến cán cân thanh toán (BOP) thặng dư và dự trữ ngoại hối

tăng. Điều này dẫn tới sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong

nước. Điểm mấu chốt ở đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản

xuất), đầu tư kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn tới

hậu quả là thâm hụt cán cân vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế bong bóng”

và mức cung dư thừa.

Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém kể trên và những

dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất động sản và cổ phiếu cũng như

13

các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh

tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại

hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra.

(ii) Trong điều kiện tự do hoá cán cân vốn, một lượng vốn ngắn hạn

với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế.

Trong điều kiện giám sát các khoản vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn

vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đã được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn

vào những dự án kém hiệu quả đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kép” trầm trọng.

Bảng cân đối tài sản của các công ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài

chính xấu đi một cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn

lớn của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng

của các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng

cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động vòng

xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong một thời gian

rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy thoái.

Một yếu tố mấu chốt đã “dung dưỡng” cho cuộc khủng hoảng kép

(tiền tệ và ngân hàng) là vấn đề rủi ro đạo đức (moral hazard problem) và

hành vi bầy đàn (herding behaviour). Đặc biệt, chính vấn đề rủi ro đạo đức -

được biểu hiện dưới dạng quan hệ cánh hẩu, bảo lãnh ngầm và công khai của

Chính phủ - đã thu hút một lượng lớn vốn vay ngoại tệ ngắn hạn, được kiểm

định thiếu chặt chẽ đổ vào nền kinh tế và gây nên tình trạng bùng nổ tín

dụng, đầu tư quá mức và thiếu hiệu quả, tạo nên nền “kinh tế bong bóng”

(bubble economy). Bong bóng giá cả phình ngày một lớn thì sẽ đến lúc bị

vỡ; tức là đến khi các nhà đầu tư bắt đầu nhận thấy tình hình thực tế đã xảy

ra không đúng với kỳ vọng. Một quá trình ngược lại bắt đầu xảy ra. Mọi

người bán tháo tài sản vì suy đoán rằng giá tài sản sẽ giảm, lượng cung tài

sản vì thế gia tăng khiến giá tài sản giảm mạnh xuống. Các ngân hàng nhận

thấy giá trị tài sản thế chấp giảm xuống nên không cho vay nữa và đòi hoàn

trả những khoản cho vay cũ về. Các nhà đầu tư, do phải hoàn trả vay nợ, nên

14

càng phải bán tháo tài sản. Giá tài sản vì vậy sụt giảm rất mạnh và thường

sụt xuống dưới cả mức cân bằng ban đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền

tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng

thế hệ thứ ba. Cơ chế phát sinh khủng hoảng thế hệ thứ ba có thể được quan

sát như trong hình 1.1.

Hình 1.1: Cơ chế phát sinh khủng hoảng tài khoản vốn

II. Tỷ trọng nợ ngắn hạn quá lớn

I. Luồng vốn vào ồ ạt vƣợt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai

Thặng dư cán cân thanh toán: dự trữ ngoại hối tăng

“Sai lệch kép”

Bành trướng tín dụng trong nước

Bành trướng đầu tư, tiêu dùng trong nước

Sai lệch cơ cấu thời hạn

Sai lệch cơ cấu đồng tiền

Kinh tế “bong bóng”, cung dư thừa

Thâm hụt cán cân vãng lai tăng

Bảng cân đối tài sản xấu đi nhanh chóng

Luồng vốn rút ra đột ngột, ồ ạt

Thâm hụt cán cân thanh toán; dự trữ ngoại hối cạn kiệt

Khủng hoảng ngân hàng

Khủng hoảng tiền tệ

Nguån: [24, tr. 42]

15

Khủng hoảng tài chính - tiền tệ có thể gây ra những ảnh hưởng vĩ mô

nghiêm trọng, mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài

sản ở một số nước. Nhiều doanh nghiệp và ngân hàng phá sản dẫn đến hàng

triệu người bị đẩy vào thất nghiệp, sống dưới ngưỡng nghèo khổ. Thu nhập

bình quân đầu người giảm đi rõ rệt. Hơn nữa, khủng hoảng kinh tế kéo dài

còn dẫn tới những bất ổn về chính trị, xã hội mà khó có thể khắc phục được,

hoặc chi phí khắc phục sẽ rất lớn. Với những ảnh hưởng sâu sắc và phạm vi

tác động rộng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ tới nhiều lĩnh vực

từ kinh tế, chính trị, xã hội, nỗ lực tháo gỡ khó khăn của mỗi Chính phủ quốc

gia là thực sự cần thiết và có ý nghĩa quyết định, song vẫn chưa đủ mạnh để

quốc gia đó có thể nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng. Đặc biệt, trong giai

đoạn hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ còn có tính chất lan

truyền mạnh mẽ đối với nhiều nước trong khu vực và toàn thế giới, do đó

không chỉ đòi hỏi nỗ lực của Chính phủ quốc gia mà còn cần có sự hỗ trợ

của cộng đồng quốc tế mà trước hết là những tổ chức tài chính quốc tế lớn,

có chức năng bảo vệ sự ổn định lâu dài hệ thống tài chính - tiền tệ thế giới

như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).

1.2 VAI TRÒ CỦA IMF TRONG HỆ THỐNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ VÀ ĐỐI

VỚI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

1.2.1 Vài nét về IMF

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là một tổ chức chuyên trách của hệ thống

Liên Hiệp Quốc được thành lập theo Hiệp định năm 1945 để giúp tăng

cường sức mạnh của nền kinh tế thế giới. Trụ sở chính của Quỹ được đặt tại

16

Washington D.C và do 184 nước thành viên trên toàn cầu điều hành.

Toà nhà trụ sở chính của Quỹ Tiền tệ Quốc

Biểu tượng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

tế tại Washington, D.C

IMF là một thể chế trung tâm của hệ thống tiền tệ quốc tế - hệ thống

của các thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia để

cho phép việc giao dịch kinh doanh giữa các nước diễn ra một cách trôi

chảy. Quỹ giám sát hệ thống này và đưa ra khuôn khổ thể chế toàn cầu,

thông qua đó các nước hợp tác về các vấn đề tiền tệ quốc tế. Hai kiến trúc sư

trưởng tạo nên nền tảng của IMF và WB là nhà kinh tế học John Maynard

Keynes (người Anh) và nhà kinh tế học Harry Dexter White (người Mĩ).

Các mục đích của IMF gồm thúc đẩy sự phát triển cân bằng thương

mại thế giới, ổn định các tỷ giá hối đoái, tránh việc phá giá tiền tệ cạnh tranh

và hiệu chỉnh có trật tự các vấn đề khó khăn về cán cân thanh toán.

1.2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển

IMF được thành lập vào tháng 7 năm 1944 tại một hội nghị của Liên

Hiệp Quốc được tổ chức tại Bretton Woods, bang New Hampshire của Mỹ,

khi đại diện của 44 quốc gia (trong đó có Liên Xô cũ) đã nhất trí về một

khuôn khổ cho sự hợp tác kinh tế để tránh lặp lại những chính sách kinh tế

thảm khốc đã góp phần vào cuộc Đại Suy thoái trong những năm 1930.

Trong những năm 1930, khi hoạt động kinh tế của các nước công nghiệp

chính bị suy thoái, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương, cố

gắng bảo vệ nền kinh tế mình bằng cách tăng cường hạn chế nhập khẩu,

nhưng điều đó chỉ làm xấu đi cơn lốc xoáy trong thương mại thế giới, tổng

sản lượng và việc làm. Để bảo đảm dự trữ vàng và ngoại tệ đang ngày một

giảm đi của mình, một vài nước cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá

đồng tiền của mình, và một số khác áp đặt hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ

của công dân. Tuy nhiên những biện pháp cứng nhắc này chỉ chứng tỏ sự tự

17

vệ và không một quốc gia nào có khả năng duy trì lâu dài vị trí cạnh tranh

của mình. Thương mại thế giới sa sút nghiêm trọng trong khi việc làm và

mức sống ở nhiều nước suy giảm.

Khi Chiến tranh Thế giới lần thứ hai sắp kết thúc, các nước đồng minh

cân nhắc nhiều kế hoạch nhằm tái thiết trật tự của quan hệ tiền tệ quốc tế và

bắt đầu nghiên cứu việc trợ giúp các nước phục hồi kinh tế sau chiến tranh.

Và tại hội nghị ở Bretton Woods, bang New Hampshire của Mỹ vào tháng 7

năm 1944, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã được thành lập. Các đại diện của

các quốc gia đã đặt ra Hiến chương (hay còn gọi là Điều lệ) nhằm giám sát

hoạt động của hệ thống tiền tệ quốc tế, và để thúc đẩy cả quá trình xoá bỏ

những hạn chế hối đoái có liên quan đến thương mại hàng hoá, dịch vụ và cả

sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Ngày 27/12/1945 điều lệ thành lập IMF đã

được 29 nước đầu tiên nhất trí ký kết. IMF bắt đầu hoạt động vào ngày

1/3/1947 và tiến hành cho vay khoản đầu tiên vào ngày 8/5/1947. Những

mục đích theo điều lệ định ra của IMF ngày nay vẫn không có gì thay đổi so

với khi chúng được đặt ra vào năm 1944 (Hộp 1.1).

Hộp 1.1: Mục đích của IMF

i. Thúc đẩy hợp tác tiền tệ quốc tế thông qua một thể chế lâu dài để có bộ

máy tư vấn và hợp tác về các vấn đề tiền tệ thế giới.

ii. Tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng thương mại quốc tế một cách cân

đối và nhờ đó góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc

làm, thu nhập thực tế và việc phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả

các thành viên, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh

tế.

iii. Nâng cao sự ổn định của tỷ giá hối đoái, duy trì có trật tự các thể thức

hối đoái giữa các nước thành viên, và tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh

tranh.

iv. Hỗ trợ việc thành lập một hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước

18

thành viên và xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối gây phương hại tới sự

tăng trưởng của thương mại quốc tế.

v. Tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng cách cung cấp cho họ nguồn

lực dự trữ của Quỹ theo các biện pháp đảm bảo an toàn và tạo cơ hội

cho họ sửa chữa những mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế.

vi. Rút ngắn thời gian và giảm bớt mức độ mất cân bằng trong cán cân

Nguồn: [34, tr. 11]

thanh toán quốc tế của các nước thành viên.

Từ cuối Đại chiến Thế giới lần thứ II cho đến cuối năm 1972, thế giới

tư bản đã đạt được sự tăng trưởng thực tế trong thu nhập nhanh chưa từng

thấy. Trong hệ thống kinh tế thế giới, lợi ích thu được từ tăng trưởng đã

không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các nước tư bản đều trở nên

thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với những điều kiện của những nước

tư bản trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Trong những thập kỷ

sau Chiến tranh Thế giới II, kinh tế thế giới và hệ thống tiền tệ có sự thay đổi

lớn, làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp trong việc đáp ứng mục tiêu

của IMF, nhưng điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu IMF phải cải tổ, hoàn thiện

để thích ứng với sự thay đổi đó. Những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ thuật

công nghệ và thông tin liên lạc đã góp phần làm gia tăng sự hội nhập quốc tế

của các thị trường, làm cho các nền kinh tế quốc gia gắn kết với nhau chặt

chẽ hơn. Số lượng thành viên của IMF gia tăng nhanh chóng, từ 44 thành

viên khi mới thành lập, đến nay con số này đã lên tới 184 thành viên (Hình

1.2).

19

Hình 1.2: Số lƣợng thành viên IMF, 1945-2005

Nguồn: [65]

Hình 1.2 cho thấy số lượng thành viên năm 2005 đã tăng gấp 4 lần so

với con số năm 1945 khi IMF mới được thành lập. Tư cách thành viên được

mở rộng đối với tất cả các nước tiến hành chính sách ngoại giao riêng của

mình và sẵn sàng tuân thủ hiến chương của IMF về quyền và nghĩa vụ. Tất

cả các nước lớn ngày nay đều là thành viên của IMF. Các nước có nền kinh

tế kế hoạch hoá tập trung trước đây ở Đông Âu và Liên Xô cũ đã trở thành

thành viên của IMF và đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị

trường. Các thành viên có thể rút khỏi IMF bất cứ lúc nào họ muốn. Cu Ba,

Cộng hoà Czech và Cộng hoà Slovakia, Indonesia, Ba Lan trên thực tế đã

làm như vậy trong quá khứ. Sau đó các nước này, ngoại trừ Cu Ba đã xem

xét lại quyết định của mình để tái gia nhập tổ chức này.

1.2.1.2 Nguồn vốn của IMF

Nguồn vốn của IMF chủ yếu là từ đóng góp cổ phần (hoặc vốn) của

các nước thành viên khi họ gia nhập IMF, hoặc sau các cuộc kiểm điểm định

kỳ để tăng cổ phần đóng góp. Các nước thành viên phải trả 25% hạn mức

đóng góp cổ phần dưới dạng Quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Rights

- SDR), hoặc bằng một số loại tiền tệ chính, như đồng đô la Mỹ hoặc Yên

Nhật, phần cổ phần đóng góp còn lại IMF yêu cầu phải được trả bằng đồng

20

bản tệ của nước thành viên, để có thể là nguồn vay khi cần thiết.

Ban đầu mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch

xuất nhập khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới.

Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, IMF cũng có thể vay vốn trên thị

trường tài chính quốc tế để phục vụ cho các hoạt động của mình. Cổ phần

phục vụ cho nhiều mục đích. Trước hết, chúng tạo thành một quỹ tiền chung

mà từ đó, IMF có thể rút ra cho các thành viên vay khi gặp khó khăn tài

chính. Thứ hai, chúng là cơ sở để quyết định mức mà mỗi nước thành viên

đóng góp đó có thể vay IMF hoặc nhận từ IMF trong các đợt phân bổ thường kỳ những tài sản đặc biệt được gọi là SDR1. Một nước thành viên đóng góp

càng nhiều thì có thể vay càng nhiều khi có nhu cầu. Thứ ba, chúng xác định

quyền biểu quyết của mỗi thành viên. Hiện nay, tổng hạn mức cổ phần đóng

góp của IMF là 310 tỷ USD (tương đương 213,5 tỷ SDR), trong đó các nước

thành viên có cổ phần lớn nhất là Mỹ (17,46%), Nhật Bản (6,26%), Đức

(6,11%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%); thành viên có mức cổ phần ít nhất là

Palau (0,001%) [65]. Đặc biệt, 10 nước công nghiệp phát triển hàng đầu đã

chiếm hơn 50% tổng số vốn, đồng thời theo quy định, các quyết định lớn của

IMF chỉ được thông qua khi chiếm được ít nhất 85% số phiếu bầu. Như vậy,

theo ý kiến của IMF, các nước đang phát triển chiếm khoảng 40% quyền bỏ

phiếu, cũng có quyền phủ quyết rất lớn đối với các chính sách của IMF. Tuy

nhiên, cũng không thể phủ nhận được rằng Mỹ và các nước công nghiệp hoá,

những nước nắm giữ hầu hết cổ phẩn của IMF chính là người quyết định các

chính sách của IMF.

1.2.1.3 Cơ cấu tổ chức

Cơ cấu hiện hành của IMF gồm có Ban Các Thống đốc, Ban Giám đốc

điều hành, Tổng Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ.

Ban Các Thống đốc (Board of Governors) là nơi tập hợp tất cả đại

diện của các nước thành viên, cũng là Ban có quyền lực cao nhất quản lý và

1 1 SDR = 1.47106 USD (thời điểm ngày 28/4/2006)

21

giám sát IMF. Ban Các Thống đốc họp mỗi năm một lần tại cuộc họp thường

niên của IMF và WB. Mỗi nước thành viên chỉ định một Thống đốc của

mình thường là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc Thống đốc Ngân hàng Trung

ương của nước đó và một Thống đốc dự khuyết. Ban Các Thống đốc quyết

định những vấn đề chính sách chủ yếu nhưng uỷ quyền cho Ban Giám đốc

điều hành đưa ra các quyết định trong phạm vi công việc hàng ngày.

Các chính sách chủ chốt ban hành ra có liên quan đến hệ thống tiền tệ

quốc tế được một uỷ ban của các Thống đốc được gọi là Uỷ ban Tài chính và

Tiền tệ Quốc tế (International Monetary and Finance Committee - IMFC)

xem xét hai lần mỗi năm (cho đến tháng 9 năm 1999 thì được đổi thành Uỷ

ban Lâm thời). Một Uỷ ban hợp tác liên kết giữa Ban Các Thống đốc của

IMF và WB được gọi là Uỷ ban Phát triển tư vấn báo cáo đến các Thống đốc

về các chính sách phát triển và các vấn đề khác có liên quan đến các nước

đang phát triển

Ban Giám đốc điều hành bao gồm 24 giám đốc điều hành, có Chủ tịch

là Tổng Giám đốc điều hành. Ban Giám đốc điều hành họp thường kỳ 3 lần

một tuần với các cuộc họp trong cả ngày làm việc, và họp mặt thường xuyên

hơn nếu cần thiết tại trụ sở chính đặt tại Washington D.C. Năm cổ đông lớn

nhất của IMF là Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp và Anh, cùng với Trung Quốc,

Nga và Ả rập Xê út, có ghế riêng trong Ban Giám đốc. 16 giám đốc điều

hành còn lại sẽ được các cử tri là các nhóm nước bầu chọn lại sau nhiệm kỳ

hai năm. Ban Giám đốc điều hành là cơ quan hoạch định chính sách và chịu

trách nhiệm phần lớn cho các quyết định.

Ban Giám đốc điều hành chọn ra Tổng Giám đốc điều hành, ngoài

nhiệm vụ là Chủ tịch Ban Giám đốc điều hành, người này còn là lãnh đạo

cao nhất của các cán bộ của IMF và thực hiện các công việc theo sự định

hướng của Ban Giám đốc điều hành. Được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ 5 năm,

Tổng Giám đốc có Phó Giám đốc điều hành thứ nhất và hai Phó Giám đốc

22

điều hành khác trợ giúp.

IMF có khoảng 2.700 cán bộ nhân viên đến từ 140 nước trên thế giới,

phần nhiều trong số đó làm việc trụ sở chính tại Washington D.C. Một số

nhỏ cán bộ làm việc tại các văn phòng khu vực và văn phòng địa phương

trên khắp thế giới. Cán bộ của IMF được tổ chức chủ yếu thành các vụ cục

theo trách nhiệm khu vực (hoặc vùng), theo chức năng, thông tin và đơn vị

liên lạc, cũng như chức năng hỗ trợ. Cán bộ Quỹ theo dõi các diễn biến kinh

tế toàn cầu, khu vực và của từng nước cũng như thực hiện những phân tích

về diễn biến và chính sách kinh tế định hình nên cơ sở cho các công việc

hoạt động của IMF về tư vấn chính sách, cho vay và hỗ trợ kỹ thuật.

1.2.1.4 Sự khác biệt giữa Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) được thành lập

cùng một thời gian với các chức năng cho dù là có liên quan nhưng lại khác

nhau. IMF tập trung chủ yếu vào việc các nước cần làm gì để đạt được và

duy trì sự ổn định kinh tế và tài chính tổng thể là điều rất cần thiết cho một

sự tăng trưởng kinh tế khoẻ mạnh. WB được thành lập để thúc đẩy sự phát

triển kinh tế dài hạn và giảm nghèo, cũng như giúp tài trợ các dự án cụ thể.

IMF thường được kêu gọi đầu tiên là để giúp một nước gặp khủng hoảng tài

chính, trong khi WB là một nguồn lớn nhất thế giới về hỗ trợ phát triển. Hai

tổ chức này hợp tác trên một số vấn đề, đặc biệt là giảm nghèo tại các nước

có thu nhập thấp.

1.2.2 Vai trò của IMF

Điều 1 của Hiệp ước thành lập IMF chỉ rõ trách nhiệm của Quỹ đó là:

 Xúc tiến hoạt động hợp tác tiền tệ quốc tế;

 Tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển cân đối thương mại

quốc tế;

 Duy trì ổn định tỷ giá hối đoái;

 Hỗ trợ thiết lập hệ thống thanh toán đa phương; Cung cấp nguồn

lực (với độ an toàn cần thiết) cho các nước thành viên gặp khó khăn trong

23

cán cân thanh toán.

Như vậy, IMF chịu trách nhiệm đảm bảo ổn định cho hệ thống tài

chính và tiền tệ quốc tế, hệ thống thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa

các đồng tiền, thúc đẩy thương mại giữa các nước. IMF tìm cách duy trì ổn

định và phòng ngừa khủng hoảng kinh tế; hỗ trợ giải quyết khủng hoảng một

khi xảy ra; thúc đẩy phát triển và giảm đói nghèo. Quỹ sử dụng 3 chức năng

chính là giám sát, hỗ trợ kỹ thuật và cho vay để thực hiện các mục tiêu này.

IMF thúc đẩy phát triển và duy trì ổn định kinh tế toàn cầu, qua đó phòng

ngừa khủng hoảng kinh tế bằng cách khích lệ các quốc gia thực hiện các

chính sách kinh tế đúng đắn.

1.2.2.1 Tư vấn chính sách và giám sát kinh tế vĩ mô

Giám sát là hình thức cố vấn chính sách thường niên của IMF đối với

các nước thành viên. Mỗi năm, IMF đưa ra đánh giá chi tiết về tình hình kinh

tế mỗi nước. Quỹ sau đó bàn luận với Chính phủ các nước về các chính sách

có lợi nhất trong việc duy trì tỷ giá ổn định và một nền kinh tế tăng trưởng

và thịnh vượng. IMF cũng kết hợp thông tin từ các cuộc hội đàm đơn lẻ để

đưa ra đánh giá chung về sự phát triển và triển vọng của từng khu vực cũng

như của thế giới. Với chức năng này, IMF chủ yếu có vai trò tư vấn, giúp

phân tích tình hình kinh tế của một nước thành viên và cảnh báo những vấn

đề thực tế hoặc tiềm ẩn bắt nguồn từ các chính sách của những nước này, và

duy trì toàn bộ thành viên được thông báo về các diễn biến này.

Điều lệ của IMF yêu cầu Quỹ giám sát hệ thống tiền tệ quốc tế, bao

gồm cả việc thực hiện các giám sát thận trọng. Điều đó có nghĩa là giám sát

tất cả các chính sách về tỷ giá hối đoái của các nước thành viên. Theo điều

lệ, mỗi nước thành viên đảm bảo hợp tác với IMF bằng nỗ lực của mình để

đảm bảo các phương thức hối đoái có trật tự và để tăng cường một hệ thống

ổn định của tỷ giá hối đoái. Cụ thể hơn, các nước thành viên nhất trí định

hướng các chính sách của mình theo các mục tiêu chung là tăng trưởng kinh

tế có trật tự trong môi trường bình ổn giá cả một cách hợp lý, cùng với các

24

điều kiện tài chính và kinh tế cơ sở có trật tự tránh sự thao túng tỷ giá hối

đoái vì các lợi thế cạnh tranh không bình đẳng. Ngoài ra, mỗi quốc gia sẽ

đảm bảo cung cấp cho IMF các thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động

giám sát có hiệu quả của Quỹ. Các nước thành viên đã đồng ý rằng, sự giám

sát của IMF đối với các chính sách về tỷ giá hối đoái của mỗi nước thành

viên phải được thực hiện trong khuôn khổ các phân tích toàn diện về tình

hình kinh tế chung và các chiến lược chính sách kinh tế của từng nước thành

viên. Sự giám sát các nền kinh tế một cách thường xuyên, kết hợp với các tư

vấn chính sách liên quan đến sự giám sát của IMF có thể giúp cảnh báo

những hiểm nguy tiềm ẩn phía trước và giúp các nước có khả năng ứng phó

kịp thời để tránh những tình trạng bất ổn.

Các báo cáo của IMF được xuất bản 2 năm một lần, trong 2 tài liệu

Tổng quan kinh tế thế giới (World Economic Outlook) và Báo cáo ổn định

tài chính toàn cầu (Global Financial Stability Report). Việc giám sát bao quát

một phạm vi chính sách kinh tế rộng lớn, tuy nhiên mỗi nước có một trọng

tâm riêng tuỳ vào hoàn cảnh hiện tại:

- Tỷ giá hối đoái, tiền tệ và chính sách tài khoá luôn là trọng tâm chính

của hoạt động giám sát. Các nhà nghiên cứu kinh tế của IMF đưa ra lời

khuyên từ việc lựa chọn chế độ điều hành tỷ giá cho đến việc đảm bảo tính

tổng hợp giữa chế độ điều hành tỷ giá và lập trường đối với chính sách tài

khoá và tiền tệ.

- Các chính sách về cấu trúc được đưa vào các hoạt động giám sát của

IMF từ thập kỷ 1980 khi tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước công nghiệp bị

chậm lại do khủng hoảng dầu lửa lần thứ hai. Khủng hoảng nợ ở các nước

đang phát triển và sự thay đổi thể chế chính trị ở một số nước đòi hỏi sự thay

đổi lớn về cấu trúc. Cho đến nay, các cuộc hội đàm về cấu trúc giữa IMF và

các nước thành viên thường xoay quanh vấn đề thương mại quốc tế, thị

trường lao động và cải cách khu vực năng lượng.

- Các vấn đề về khu vực tài chính được đưa vào các hoạt động giám

25

sát của IMF từ thập kỷ 1990 theo sau chuỗi khủng hoảng ngân hàng ở cả các

nước phát triển và đang phát triển. Năm 1999, IMF và WB quyết định thực

hiện chương trình cùng đánh giá về khu vực tài chính FSAP (Financial

Sector Assessment Program) nhằm vào ưu nhược điểm của khu vực tài chính

ở các nước. Nếu được thực hiện, FSAP luôn cung cấp các dữ liệu quan trọng

trong việc giám sát của IMF.

- Các vấn đề thể chế như tính độc lập của các ngân hàng, quản lý khu

vực tài chính, điều hành công ty, độ tin cậy và tính minh bạch của chính sách

đã ngày càng trở nên quan trọng trong các hoạt động giám sát của IMF do

các cuộc khủng hoảng tài chính và sự chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch

tập trung sang cơ chế thị trường của một số nước thành viên. Vài năm trở lại

đây, IMF và WB đã đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển, thực hiện và

đánh giá các tiêu chuẩn và quy định được quốc tế công nhận ở các khu vực

then chốt của nền kinh tế hiện đại.

- Đánh giá độ rủi ro và nhạy cảm của nền kinh tế. Việc phòng ngừa

khủng hoảng cũng luôn là trọng tâm chính trong các hoạt động giám sát của

IMF. Bên cạnh việc đánh giá tình trạng của tài khoản vãng lai và duy trì nợ

nước ngoài, độ rủi ro và nhạy cảm của nền kinh tế còn bắt nguồn từ các

luồng tài chính dễ bay hơi.

1.2.2.2 Trợ giúp tài chính

Các hỗ trợ tài chính (cho vay) nhằm tạo ra cho các nước thành viên

một khoảng an toàn cần thiết để tái ổn định cán cân thanh toán. Khoản vay

của IMF sẽ làm giảm nhẹ quá trình điều chỉnh mà một số nước phải thực

hiện để làm cho chi tiêu của các nước này phù hợp với thu nhập, và như vậy

giải quyết được các khó khăn về cán cân thanh toán. Việc cho vay của IMF

cũng nhằm hỗ trợ các chính sách, gồm cả các chính sách cải cách cơ cấu, cải

thiện cán cân thanh toán và tăng trưởng theo hướng bền vững. Một chương

trình thực hiện chính sách do IMF tài trợ được Chính phủ nước thành viên

thiết lập với sự hợp tác chặt chẽ của Quỹ. Các quyết định tài trợ tiếp theo

26

được đưa ra với điều kiện là chương trình phải được thực hiện hiệu quả.

Bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có thể tìm đến IMF để yêu cầu hỗ

trợ tài chính khi họ có những khó khăn liên quan đến cán cân thanh toán

quốc tế. Nếu không có các khoản vay từ IMF, các nước gặp khó khăn cán

cân thanh toán có thể phải điều chỉnh một cách đột ngột hơn và thực hiện các

biện pháp khác gây tác động xấu đến sự tăng trưởng của quốc gia và quốc tế.

Các biện pháp đó có thể bao gồm các hạn chế về thương mại và thanh toán,

giảm mạnh nhu cầu trong nước, hoặc làm giảm giá đồng tiền trong nước một

cách rõ rệt. Khoản vay của IMF tạo điều kiện cho việc điều chỉnh các chính

sách và cải cách mà quốc gia đó cần phải làm để lành mạnh hoá cán cân

thanh toán và hồi phục nền kinh tế. Một nước thành viên gặp khó khăn về

thanh toán có thể rút ngay lập tức từ IMF 25% số cổ phần thực đóng của

mình bằng vàng hoặc bằng một đồng tiền có thể chuyển đổi. Nếu 25% cổ

phần không đủ đáp ứng nhu cầu của mình, một thành viên gặp khó khăn lớn

hơn có thể yêu cầu nhiều tiền hơn và có thể vay tổng cộng trong một vài năm

với số tiền gấp 3 lần số cổ phần thực đóng. Trợ giúp tài chính thường là việc

IMF cung cấp ngoại tệ chuyển đổi để tăng cường dự trữ ngoại tệ của nước

thành viên đang gặp khó khăn, nhưng chỉ khi có cam kết của chính phủ cải

cách các chính sách kinh tế, bởi những chính sách là nguyên nhân gốc gây ra

vấn đề khó khăn trong cán cân thanh toán.

Khoản vay của IMF được thực hiện dưới hình thức dàn xếp

(arrangement) nhằm kiểm soát các chính sách và phương tiện mà nước đi

vay đồng ý thực hiện để giải quyết khó khăn trong cán cân thanh toán.

Chương trình kinh tế theo sau sự dàn xếp đó được nước sở tại xây dựng với

sự tư vấn của IMF và trình cho Hội đồng thường trực của Quỹ dưới dạng thư

đề nghị (Letter of Intent). Khoản vay sẽ được giải ngân cho chương trình nếu

thư được Hội đồng điều hành thông qua.

Ngoài ra, IMF cũng hoạt động tích cực trong việc giảm đói nghèo cho

các quốc gia trên thế giới một cách độc lập hoặc trong sự hợp tác với Ngân

27

hàng Thế giới (WB) và các tổ chức khác. Trong những năm qua, IMF đã

phát triển được nhiều công cụ cho vay (facility) phù hợp với tình trạng của

mỗi quốc gia thành viên. Các nước nghèo có thể vay với lãi suất ưu đãi hỗ

trợ phát triển và xoá đói giảm nghèo PRGF (Poverty Reduction And Growth

Facility) và Sáng kiến hỗ trợ các nước nghèo đang mắc nợ nặng nề HIPC

(Heavily Indebted Poor Countries Initiative) dựa trên các nghiên cứu về

chiến lược giảm đói nghèo PRSP (Poverty Reduction Strategy Papers) do

nước sở tại tiến hành dưới sự cố vấn của các tổ chức xã hội và các đối tác

phát triển bên ngoài, nhằm đưa ra một cơ cấu chính sách kinh tế - xã hội toàn

diện phục vụ cho việc thúc đẩy phát triển và giảm đói nghèo. Khả năng vay

của các nước thành viên phụ thuộc vào quota mà nước đó đóng góp cho

IMF. Trong những năm gần đây, các khoản vay lớn nhất của IMF được thực

hiện qua PRGF với lãi suất chỉ 0,5% và thời hạn từ 5,5 đến 10 năm.

Ngoại trừ PRGF, các công cụ cho vay khác của IMF đều sử dụng lãi

suất thị trường, gọi là “rate of exchange”, dựa trên lãi suất SDR (Special

Drawing Rights). SDR được tạo ra từ hệ thống ngân hàng quốc tế nhằm giải

quyết sự dao động quá lớn giữa các đồng tiền. Giải pháp từ năm 1974 được

sử dụng là tạo ra một giá trị tham chiếu quốc tế thông qua một tập hợp tiền tệ

(basket of currencies), từ đó sự thay đổi của một đồng tiền không làm sai

lệch nhiều tỷ giá giữa các đồng tiền khác. Tập hợp tiền tệ này được giảm từ

16 xuống còn 5 đồng tiền được xác định lại 5 năm một lần. Từ năm 1999, tập

hợp tiền tệ chỉ còn 4 đồng tiền. Để tính giá trị của SDR so với đồng bản tệ, ví

dụ X, người ta lấy tổng tỷ giá của X trên các đồng tiền trong tập hợp tiền tệ.

Lãi suất SDR được điều chỉnh hàng tuần theo thay đổi của lãi suất ngắn hạn

trên các thị trường tiền tệ chính yếu.

Các khoản cho vay không ưu đãi được cung cấp thông qua 4 công cụ:

Stand-by Arrangements (SBA), Extended Fund Facility (EFF), Supplemental

Reserve Facility (SRF) và Compensatory Financing Facility (CFF).

- SBA được thiết lập để giúp giải quyết khó khăn về cán cân thanh

28

toán trong ngắn hạn và cung cấp nguồn lực lớn nhất của IMF. Độ dài của

SBA thường từ 12 đến 18 tháng với thời hạn hoàn trả từ 2 năm 3 tháng đến 4

năm.

- EFF ra đời năm 1974 nhằm giúp đỡ các khó khăn kéo dài về cán cân

thanh toán đòi hỏi phải cải cách cơ bản cơ cấu nền kinh tế. Các khoản dàn

xếp thông qua EFF vì vậy kéo dài từ 3 năm trở lên với thời hạn hoàn trả từ 4

năm rưỡi đến 7 năm.

- SRF ra đời năm 1997 nhằm tài trợ ngắn hạn với quy mô lớn, xuất

phát từ sự mất lòng tin thị trường đột ngột do các nền kinh tế mới nổi những

năm 1990 làm các luồng vốn đầu tư bị rút về hàng loạt, đòi hỏi sự hỗ trợ tài

chính lớn hơn bất cứ hoạt động nào của IMF trước đó. Thời hạn hoàn trả vốn

từ 1 năm rưỡi đến 2 năm, có thể yêu cầu gia hạn 6 tháng.

- CFF được thiết lập năm 1963 nhằm hỗ trợ các nước có giá trị xuất

khẩu giảm tạm thời hoặc chi phí nhập khẩu ngũ cốc tăng lên do giá hàng hoá

thế giới biến động. Các điều kiện khác gần giống như công cụ SBA.

Ngoài ra, IMF cũng cung cấp các hỗ trợ khẩn cấp (emergency

assistance) đối với các trường hợp gặp thảm hoạ thiên nhiên và xung đột vũ

trang. Một vài trường hợp có thể được nhận các khoản cho vay ưu đãi. Thời

hạn hoàn trả từ 3 năm 3 tháng đến 5 năm.

1.2.2.3 Hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo

IMF có lẽ là tổ chức nổi tiếng nhất về các tư vấn chính sách phát triển

và việc cho vay dựa trên cơ sở chính sách cho các nước trong thời gian

khủng hoảng kinh tế. Nhưng IMF cũng thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm

của mình với các nước thành viên bằng cách cung cấp trợ giúp kỹ thuật và

đào tạo về nhiều lĩnh vực khác nhau, như nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương,

chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái, chính sách quản lý thuế và thống kê của

Chính phủ. Mục tiêu là để tăng cường thiết lập và thực thi các chính sách

kinh tế của các nước thành viên, gồm cả việc nâng cao kỹ năng trách nhiệm

29

thể chế, cho các Bộ Tài chính và các Ngân hàng Trung ương. Trợ giúp kỹ

thuật bổ sung cho các tư vấn chính sách và hỗ trợ tài chính của IMF cho các

nước thành viên chiếm khoảng 20% chi phí quản lý của IMF.

IMF bắt đầu cung cấp hỗ trợ kỹ thuật vào giữa thập kỷ 1960 khi rất

nhiều nước mới giành được độc lập tìm kiếm sự giúp đỡ trong việc thành lập

Ngân hàng Trung ương và Bộ Tài chính. Sự dấy lên của hỗ trợ kỹ thuật khác

nảy sinh vào đầu thập kỷ 1990 khi các nước Trung và Đông Âu cũng như

các nước thuộc khối Liên Xô cũ bắt đầu chuyển đổi từ hệ thống kinh tế kế

hoạch tập trung sang hệ thống kinh tế định hướng thị trường. Gần đây nhất là

khi IMF đã bắt đầu cung cấp hỗ trợ kỹ thuật như một phần của nỗ lực củng

cố kiến trúc của hệ thống tài chính quốc tế. Đặc biệt, IMF cũng đã và đang

giúp đỡ các nước nâng cao hệ thống tài chính, cải thiện việc thu thập và phổ

biến dữ liệu kinh tế và tài chính, củng cố hệ thống luật pháp và thuế, cũng

như cải tiến các quy định điều tiết và giám sát ngân hàng. IMF cũng cung

cấp rất hiều tư vấn hoạt động cho các nước để tái thiết lập các thể chế Chính

phủ sau khi các nước có rối loạn xã hội hay chiến tranh.

Các hỗ trợ và đào tạo kỹ thuật cho các nước thành viên thường được

IMF cung cấp miễn phí nhằm giúp những nước này củng cố khả năng thiết

lập và thực thi các chính sách hiệu quả. Các hỗ trợ kỹ thuật này được thực

hiện bằng nhiều cách: có thể thông qua các nhân viên dưới hình thức công

tác kỳ hạn hoặc bổ nhiệm chuyên gia từ vài tuần tới vài năm (nếu việc sử

dụng chuyên gia kéo dài, các nước có thể được yêu cầu đóng góp tài chính).

IMF cũng cung cấp các hỗ trợ dưới hình thức báo cáo chẩn đoán kỹ thuật

(diagnostic), các khoá đào tạo, hội thảo, thảo luận chuyên đề, tư vấn trực

tuyến từ trụ sở của Quỹ.

IMF cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo chủ yếu trong 4 lĩnh vực sau:

+ Củng cố khu vực tài chính và tiền tệ thông qua việc tư vấn về quy

định điều tiết, giám sát và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, các hoạt động quản

lý ngoại hối, hệ thống thanh toán bù trừ, cũng như cơ cấu và sự phát triển

30

của các Ngân hàng Trung ương;

+ Hỗ trợ các chính sách và quản lý tài khoá vững mạnh thông qua tư

vấn về các chính sách, quản lý thuế và hải quan, lập ngân sách, quản lý chi

ngân sách, thiết kế hệ mạng lưới an sinh xã hội, và quản lý nợ trong và ngoài

nước;

+ Biên soạn, quản lý và phổ biến các dữ liệu thống kê và cải tiến chất

lượng của dữ liệu.

+ Soạn thảo và rà soát khuôn khổ luật pháp về kinh tế và tài chính.

Nguồn: [34, tr. 35]

Hình 1.3: Trợ giúp kỹ thuật theo khu vực (năm tài khoá 2001)

Các hỗ trợ về đào tạo kỹ thuật được IMF triển khai theo vùng với hai

trung tâm hỗ trợ kỹ thuật đã được thiết lập ở Thái Bình Dương và Caribbe.

Trung tâm thứ 3 được mở tại Đông Phi vào năm 2002 với mục tiêu có 4

trung tâm khác tại vùng Hạ Sahara châu Phi. Bên cạnh việc cung cấp các

khoá đào tạo tại trụ sở, IMF cũng tổ chức các khoá học và hội thảo tại các

học viện hoặc chương trình của từng nước hoặc từng khu vực. Hiện nay IMF

có 4 trung tâm đào tạo tại các khu vực châu Mỹ La tinh (Brazil), Châu Phi

(Tunisia), Singapore và Áo. IMF còn tổ chức các chương trình đào tạo song

phương, đặc biệt là với Trung Quốc và Quỹ tiền tệ Arab (Arab Monetary

31

Fund).

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Khủng hoảng tài chính - tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn liền với sự

ra đời và phát triển của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thế giới. Biểu

hiện rõ rệt nhất của khủng hoảng tài chính - tiền tệ từ trước đến nay là sự phá

sản của các định chế trung gian tài chính và cùng với sự phát triển ngày càng

phức tạp và tinh vi của các công cụ tài chính, thì khủng hoảng càng dễ xảy

ra, tính chất khủng hoảng ngày càng phức tạp và nguy cơ khủng hoảng lan

rộng ngày càng cao.

Trên cơ sở nhận dạng bản chất của khủng hoảng tài chính - tiền tệ,

phân loại khủng hoảng, các mô hình khủng hoảng cơ bản và những cơ chế

hoạt động thích ứng với từng mô hình, có thể nhận thấy nỗ lực của từng quốc

gia trong việc phòng chống khủng hoảng có ý nghĩa quyết định, song do tính

chất lan truyền nhanh chóng của nó, đòi hỏi cần có sự hỗ trợ của cộng đồng

quốc tế mà nổi bật là vai trò của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Với việc khái

quát đôi nét về IMF, bao gồm lịch sử hình thành và phát triển, mục tiêu,

nguồn vốn và cơ cấu tổ chức, luận văn làm rõ vai trò của IMF thể hiện ở cả 3

chức năng chính là giám sát, hỗ trợ kỹ thuật và cho vay.

Đối với hệ thống tài chính - tiền tệ thế giới, IMF chịu trách nhiệm bảo

vệ sự ổn định của hệ thống này. Các cuộc khủng hoảng tài chính nói chung

và cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á nói riêng là một trong những

trọng tâm giải quyết của IMF. Chính vì vậy, vai trò trung tâm của IMF trong

việc giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là rất rõ ràng và đã được

tái khẳng định bởi điều lệ Quỹ cũng như bởi cộng đồng quốc tế trên nhiều

diễn đàn đa phương. Ưu tiên của IMF cũng rất rõ ràng: khôi phục lòng tin

32

cho các nền kinh tế bị tác động bởi cuộc khủng hoảng.

CHƢƠNG 2

PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU Á VỚI

IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH -

TIỀN TỆ 1997-1998

2.1

KHÁI QUÁT VỀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ CHÂU Á 1997-1998

VÀ CHÍNH SÁCH CỦA IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG

2.1.1 Khái quát về cuộc khủng hoảng

2.1.1.1 Bối cảnh kinh tế các nước châu Á trước khủng hoảng

Trong hơn hai thập niên vừa qua, các nước Đông Á và Đông Nam Á đã

tăng trưởng nhanh và liên tục (khoảng 7-8% mỗi năm so với 2% ở các nước

công nghiệp hoá), thu hút sự chú ý của giới kinh doanh và đầu tư quốc tế.

Tuy có bối cảnh văn hoá, lịch sử và thể chế chính trị khác nhau nhưng các

nước này lại có một số điểm giống nhau, được các nhà kinh tế nêu thành

khái niệm “mô hình phát triển Đông Á”. Đó là:

(i) Chính sách kinh tế vĩ mô ổn định: ngân sách nhà nước nói chung

cân bằng hoặc thiếu hụt không đáng kể, lạm phát thấp do chính sách kiểm

soát tiền tệ chặt chẽ với lãi suất dương, nợ công của nhà nước trên thị trường

tài chính thế giới được kiểm soát chặt chẽ để bảo đảm khả năng hoàn trả.

(ii) Cơ cấu kinh tế mở cửa, hội nhập với thế giới: ngoại thương tương

đối tự do, ít bảo hộ bằng thuế quan hay phi thuế quan, khuyến khích đầu tư

nước ngoài, thiếu hụt trong cán cân vãng lai được tài trợ bằng dòng chảy vào

của tư bản tài chính tư nhân.

(iii) Tiết kiệm xã hội cao (trung bình là 30% GDP), dân chúng hiếu

học, làm việc chăm chỉ, có kỷ luật, mức sống và lương công nhân thấp hơn

so với các nước công nghiệp hoá.

(iv) Vì những yếu tố trên, tỷ lệ đầu tư rất cao (35-45% GDP), thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo đủ công ăn việc làm thu hút lực lượng lao động

lớn do dân số tăng trưởng nhanh, giúp châu Á đạt thành tích giảm nghèo

32

nhanh và rộng rãi nhất trong lịch sử.

Sự thành công quá nhanh chóng của mô hình Đông Á đã được giới

quan sát thế giới, kể cả Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá là “thần kỳ”, coi

đó là mẫu mực cho các nước đang phát triển khác. Một số nhà lãnh đạo châu

Á còn coi đó là đặc trưng của “giá trị châu Á”, thích hợp với công cuộc phát

triển, thậm chí ưu việt hơn so với mô hình của phương Tây. Sở dĩ các nước

Đông Á có được sự phát triển “thần kỳ” này là do trong suốt thời gian từ

thập kỷ 1960 đến đầu thập kỷ 1990, các nước này đã lợi dụng được tình hình

kinh tế và chính trị thế giới thuận lợi cho công cuộc phát triển của mình. Đó

là:

 Để phục vụ cho chiến tranh lạnh với Liên Xô, Mĩ đã tranh thủ các

nước trong khu vực làm đồng minh chiến lược. Viện trợ, chi tiêu phục vụ

chiến tranh, ưu đãi về thương mại và đầu tư từ Mĩ… đã giúp các nước Đông

Á rất nhiều trong bước đầu công nghiệp hoá (CNH), và sau đó xuất khẩu chế

tạo sản phẩm dân dụng để tiếp tục tăng trưởng.

 Từ năm 1973 đến đầu thập kỷ 1990, đô la Mĩ mất giá hơn 50% so

với các đồng tiền mạnh khác trên thế giới, như Mark Đức, Yên Nhật… Neo

giữ tỷ giá hối đoái của mình với đồng đô la Mĩ, các nước Đông Á đã tạo sự

ổn định về ngoại hối để phát triển ngoại thương và thu hút đầu tư, tăng tính

cạnh tranh của hàng hoá so với châu Âu và Nhật, kiềm chế lạm phát ở mức

độ vừa phải. Trong thời gian này, Mĩ tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế của

mình; nhiều doanh nghiệp từ bỏ khu vực chế tạo hàng dân dụng điện tử và

phi điện tử để tập trung vào các ngành công nghiệp, kỹ thuật cao và dịch vụ,

tạo chỗ trống cho các nước Đông Á xuất khẩu hàng hoá của mình.

 Do sức ép của Mĩ, đồng Yên Nhật đã tăng giá rất cao từ năm 1985-

1991 (sau thoả thuận Plaza Hotel), làm cho giá thành sản xuất trong nước

Nhật quá cao, mất khả năng cạnh tranh. Nhiều công ty Nhật phải đầu tư sang

các nước châu Á với giá nhân công rẻ, dùng đó làm cơ sở sản xuất hàng điện

tử, xe hơi… rồi tái xuất sang Mĩ, châu Âu và ngay cả Nhật. Cuộc chuyển

giao kỹ thuật và công nghệ này tuy còn ở trình độ lắp ráp, song đã góp phần

33

quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình CNH khu vực. Sau giai đoạn này, tỷ

lệ xuất khẩu hàng chế biến tăng cao so với xuất khẩu nông hải sản và nguyên

nhiên liệu thô.

 Trung Quốc bắt đầu cải cách và mở cửa kinh tế từ cuối thập kỷ

1970. Cho đến đầu những năm 1990, Trung Quốc chủ yếu là thị trường to

lớn cho các doanh nghiệp Đông Á và Đông Nam Á, góp phần tạo ra sức cầu

để tương ứng với mức cung ngày càng lớn.

Tuy nhiên các yếu tố khách quan thuận lợi nói trên đã dần dần có sự

biến đổi từ cuối thập kỷ 1980 đến đầu những năm 1990 theo chiều hướng bất

lợi cho các nước trong khu vực. Sự kết thúc cuộc chiến tranh lạnh cùng với

quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới (theo nghĩa tất cả các nước trên

thế giới phải chấp nhận tham gia phân công lao động trên thị trường toàn cầu

và dòng tư bản tài chính có thể chu chuyển dễ dàng từ nước này sang nước

khác) đã cơ bản làm thay đổi môi trường kinh doanh trên thế giới. Vắng

bóng một đối thủ có tầm chiến lược toàn cầu như Liên Xô cũ và Đông Âu,

Mĩ không cần phải dùng các ưu đãi trong quan hệ kinh tế để tranh thủ đồng

minh nữa. Quan hệ quốc tế ngày càng phản ánh quan hệ quyền lợi giữa các

quốc gia, mà nội dung chính là quyền lợi kinh tế. Với lợi thế về vốn tích luỹ,

khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, thị trường nội địa rộng lớn có sức

mua cao, Mĩ và Liên minh Châu Âu (EU) đòi hỏi các nước khác trên thế giới

phải mở cửa thị trường để đón nhận tư bản và hàng hoá của mình. Trong nền

kinh tế toàn cầu, sự cạnh tranh cũng trở nên toàn cầu, các lợi thế phi kinh tế

do bảo hộ thương mại hay quan hệ móc ngoặc với chính quyền sở tại ngày

càng mất tác dụng trong việc bảo vệ thế đứng của các nhà sản xuất kém hiệu

quả. Trong suốt những năm 1990, nền kinh tế Nhật bị ngưng trệ (stagnation),

các doanh nghiệp Nhật vì thế cũng khó có thể tiếp tục tốc độ đầu tư cao như

trước cũng như sức cầu của Nhật đối với hàng hoá xuất khẩu của các nước

Đông Á giảm rõ rệt. Đặc biệt từ giữa thập kỷ 1990, Trung Quốc đã trở thành

một nước sản xuất và xuất khẩu rất quan trọng các mặt hàng như giày dép,

quần áo, đồ chơi, đồ dân dụng điện tử… mà các nước Đông Á vẫn coi đó là

mặt hàng xuất khẩu chủ lực của mình. Rõ ràng, môi trường kinh doanh thế

34

giới và khu vực vào giữa những năm 1990 đã xấu và phức tạp hơn cho các

nước Đông Á. Tuy nhiên, giới nghiên cứu lúc đó ít người phân tích và nhìn

nhận chính bối cảnh kinh tế, chính trị toàn cầu đã giúp cho mô hình Đông Á

có thể áp dụng được, cũng như ít người theo dõi sự chuyển biến của một số

nét đặc trưng trong mô hình này, làm cho nó ngày càng mất đi tính cạnh

tranh và dễ bị đe doạ bởi khủng hoảng.

2.1.1.2 Những dấu hiệu trước khi khủng hoảng xảy ra

 Một trong những nhóm dấu hiệu rõ ràng nhất trước khi khủng hoảng

tài chính - tiền tệ nổ ra ở Đông Á đó là tình trạng mất cân đối trong cán cân

vãng lai (current account imbalances) và một số vấn đề liên quan đến nền

tảng kinh tế vĩ mô (fundamentals) ở hầu khắp các nước trong khu vực.

Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính

bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5 thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài

khoản vãng lai không lành mạnh (Lawren Summers) [42, tr. 6].

Bảng 2.1: Cán cân vãng lai của một số nƣớc châu Á (% GDP)

Tên nƣớc

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

Hàn Quốc

-1,24

-3,16

-1,70

-0,16

-1,45

-1,91

-4,82

-1,90

Indonesia

-4,4

-4,40

-2,46

-0,82

-1,54

-4,27

-3,30

-3,62

Malaysia

-2,27

-14,01

-3,39

-10,11

-6,60

-8,85

-3,73

-3,50

Singapore

9,45

12,36

12,38

8,48

18,12

17,93

16,26

13,90

Thái Lan

-8,74

-8,01

-6,23

-5,68

-6,38

-8,35

-8,51

-2,35

Hồng Kông

8,40

6,58

5,26

8,14

1,98

-2,97

-2,43

-3,75

Trung Quốc

3,02

3,07

1,09

-2,19

1,16

0,03

0,52

3,61

7,42

6,97

4,03

3,52

3,12

3,05

4,67

3,23

Đài Loan Nguồn: [42]

Bảng 2.1 cho thấy mức độ thâm hụt tài khoản vãng lai (còn gọi là cán

cân vãng lai - CA) trong cán cân thanh toán (BOP) của một số nước châu Á.

Bốn nước gồm Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Hàn Quốc là những nước

có mức thâm hụt liên tục trong vòng gần một thập kỷ. Các nước còn lại như

Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc, Đài Loan trong những năm 1990 lại có

mức thâm hụt nhỏ hơn, thậm chí là thặng dư trong cán cân vãng lai (đặc biệt

như trường hợp của Singapore, Trung Quốc và Đài Loan). Không phải ngẫu

35

nhiên khi trên thực tế, vào năm 1997 đồng đô la Mĩ đã lên giá so với đồng

tiền các nước có mức thâm hụt cán cân vãng lai lớn như Thái Lan (78%),

Malaysia (52%), Hàn Quốc (107%) và Indonesia (151%). Trong khi đó, các

nước có mức thâm hụt nhỏ hay thặng dư trong cán cân vãng lai lại ít phải

chịu những tác động này (đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc chỉ mất giá 2%,

đồng tiền của Đài Loan và Singapore chỉ mất giá khoảng 18%) [42, tr.7].

Vậy thâm hụt cán cân vãng lai là tốt hay xấu? Trong điều kiện nào tốt

và trong điều kiện nào xấu? Có thể thấy rằng, thâm hụt CA là xấu khi quốc

gia đó là con nợ lớn, lạm phát cao, tăng trưởng chậm; và ngược lại thâm hụt

CA sẽ tốt khi nợ nhỏ, lạm phát thấp, tăng trưởng cao. Nhìn chung, các nước

Đông Á trước khi khủng hoảng, đều có mức lạm phát tương đối thấp và mức

đầu tư, tiết kiệm lẫn tăng trưởng cao, song họ liên tục vượt qua được mức

thâm hụt lớn trong nhiều thập kỷ. Như vậy, bản thân thâm hụt cán cân vãng

lai không phải là nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Nếu một nước đang phát

triển, trong điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định, thu hút được dòng vốn

lớn từ bên ngoài thì nước đó có thể bù đắp cho thâm hụt cán cân vãng lai của

mình. Nói cách khác, thâm hụt cán cân vãng lai có bền vững hay không, điều

này lại phụ thuộc vào nguyên nhân của thâm hụt. Với các điều kiện khác

không thay đổi, nếu thâm hụt cán cân vãng lai bị gây ra bởi tỷ lệ đầu tư cao

thì nói chung thâm hụt này không đáng lo ngại. Đặc biệt, nếu tỷ lệ đầu tư

tăng lên trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến tăng trưởng xuất khẩu tiềm năng thì

các nhà đầu tư nước ngoài sẽ sẵn lòng tài trợ cho thâm hụt. Tuy nhiên có một

số trường hợp thâm hụt CA tăng lên lại đáng phải quan tâm. Trước hết, nếu

thâm hụt CA tăng lên do tỷ lệ tiết kiệm thấp, với những điều kiện khác là

tương đương, các nhà đầu tư hoặc cho vay nước ngoài sẽ phải thận trọng

trong việc quyết định liệu có tiếp tục tài trợ cho thâm hụt hay không, bởi vì

khả năng xuất khẩu trong tương lai của nước nhận đầu tư hoặc con nợ có thể

rất yếu kém. Hai là, nếu thâm hụt CA bị gây ra bởi dòng vốn nhằm mục đích

đầu cơ ăn chênh lệch về mặt lãi suất, đầu cơ trên thị trường chứng khoán và

36

thị trường hối đoái thì thâm hụt CA có thể là không bền vững [56, Tr.4-5].

Như chúng ta đã biết, tỷ lệ đầu tư của hầu hết các nước Đông Á trong

những năm 1990 đều đạt trên 30%, thậm chí 40%. Mức đầu tư ở mức cao

này đã đóng góp phần lớn vào tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của

mỗi nước (bình quân đạt 7-8%). Tuy nhiên, chỉ tiêu GDP mới chỉ phản ánh

đầu ra của nền kinh tế mà chưa đề cập đến đầu vào. Theo Paul Krugman,

một nhà kinh tế Mĩ, các nước Đông Á tăng trưởng nhanh là do thâm dụng

các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, chứ năng suất kinh tế không tăng được

bao nhiêu.

Bảng 2.2: Hệ số ICOR của một số nƣớc châu Á, 1987-1996

Tên nước Hàn Quốc Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Hồng Kông Trung Quốc Đài Loan

1987-1992 3,8 4,0 3,7 6,0 3,6 3,4 3,7 3,1 2,4

1993-1996 4,9 3,8 4,8 5,5 4,0 5,1 6,1 2,9 3,9

Nguồn: [42]

Bảng 2.2 cho biết hiệu quả đầu tư của một số nước châu Á trong khu

vực biểu thị bằng hệ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio). Hệ số

ICOR là tỷ số tăng đầu tư trên sản lượng, nó cho biết để tăng 1 đơn vị sản

lượng thì đầu tư phải tăng bao nhiêu. Số liệu trong bảng 2.6 cho thấy, trừ

Indonesia và Philippines, hệ số ICOR đã tăng mạnh vào giai đoạn 1993-1996

so với giai đoạn 1987-1992 trước đó. Điều này có nghĩa là hiệu quả đầu tư

đã giảm đi rõ rệt trong 4 năm trước khủng hoảng 1997. Đây là mâu thuẫn cơ

bản của mô hình Đông Á: cần đầu tư cao để tăng trưởng nhanh, nhưng hiệu

quả đầu tư lại thấp, nên không thể duy trì mãi tiến độ đầu tư cao được, vì đến

một lúc nào đó, các nhà kinh doanh do sức ép cạnh tranh sẽ phải đánh giá lại

chiến lược đầu tư của mình, chuyển vốn sang các khu vực khác có khả năng

lợi nhuận cao hơn. Mầm mống khủng hoảng vì thế đã bắt đầu từ nhiều năm

37

trước, khi các nước Đông Á lâm vào khủng hoảng sản xuất thừa (hay thừa

sức cung - overcapacity) trong nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến của mình,

trong khi hầu như nước nào cũng đầu tư vào những ngành hàng tương tự.

Trong những năm 1990, mặc dù tỷ lệ tiết kiệm của các nước Đông Á

rất cao (khoảng 30%, thậm chí 40%), song nguồn vốn này chủ yếu được huy

động vào ngân hàng rồi đem cho vay lại hơn là thông qua thị trường cổ

phiếu. Đó là lý do hệ số nợ trên vốn tự có (debt/ equity ratio) của các doanh

nghiệp ở các nước này bình quân cao hơn 4, trong khi hệ số trung bình ở các

nước phát triển phương Tây và châu Mĩ La tinh thấp hơn 1. Đến trước khi

xảy ra khủng hoảng, tỷ lệ nợ/ vốn tự có của các doanh nghiệp Hàn Quốc lên

tới 600%; Thái Lan 400%; Indonesia 300%, Hồng Kông chỉ là 37% [11,

tr.95]. Riêng ở Hàn Quốc, hệ số nợ của 4 chaebol hàng đầu trước khủng

hoảng (1996) như sau: Samsung 4,7; Hyundai 4,5; LG 3,8; Daewoo 3,2

(Financial Times, 22/1/1998) [11, tr.73]. Khác với Hàn Quốc, nơi phần lớn

dự án đầu tư của các tập đoàn lớn (chaebol) được tập trung trong lĩnh vực

sản xuất, các nước khác trong khu vực Đông Á lại tập trung đầu tư vào lĩnh

vực kinh doanh bất động sản. Giá đất vào cuối những năm 1980 và giữa

những năm 1990 đã tăng vọt lên mức vượt xa so với tiêu chí bền vững về

mặt kinh tế. Người ta đã kiếm được những khoản tiền lớn chỉ trong phút

chốc, từ đó đẩy mạnh tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào bất động sản. Việc

sử dụng đất làm khoản đặt cọc đi vay đã tạo điều kiện thả nổi hơn nữa các

khoản nợ do giá đất tăng vọt. Thị trường chứng khoán tăng đột ngột và hình

thành nên một cơ cấu nợ hình chóp. Tính đến giữa năm 1990 đã xuất hiện tình

trạng dư cung về bất động sản và giá cổ phiếu giảm xuống do đầu tư cổ phiếu

của nước ngoài chuyển hướng sang nơi khác.

Liên quan đến nền tảng kinh tế vĩ mô có thể thấy, các nền kinh tế

tương đối mở cửa thường ít phải chịu những vấn đề về tính bền vững xuất

phát từ hai lý do. Một là, nếu một nền kinh tế có độ mở lớn, biểu hiện ở tỷ

trọng tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP lớn, nước đó sẽ có khả

năng lớn hơn trong việc thanh toán nợ đến hạn bằng thu nhập ngoại tệ có

38

được từ xuất khẩu. Hai là, chi phí cho một cuộc khủng hoảng cả về mặt kinh

tế và chính trị là khá lớn khi sự phụ thuộc của nền kinh tế vào bên ngoài cao,

do đó quốc gia nào có độ mở lớn về kinh tế thường dành ưu tiên cho việc trả

nợ. Tỷ lệ trung bình của tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu so với GDP là

thước đo độ mở của các nền kinh tế. Bảng 2.3 cho thấy phần lớn các nền

kinh tế Đông Á có độ mở tương đối lớn. Mức thấp nhất là Indonesia (khoảng

26-27%), Hàn Quốc và Thái Lan vào khoảng 30-40%, Đài Loan gần 50%,

Malaysia là trên 80%, đặc biệt Hồng Kông và Singapore có độ mở trên

100%. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng độ mở lớn của nền kinh tế cũng làm cho

quốc gia đó dễ bị tổn thương hơn đối với các cú sốc thương mại bên ngoài.

Bảng 2.3: Độ mở của một số nền kinh tế châu Á

Đơn vị: % GDP

Tên nƣớc

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

Hàn Quốc

30,04

29,38

29,38

29,04

30,47

33,59

34,36

38,48

Indonesia

26,30

27,18

28,23

25,26

25,94

26,98

26,13

28,22

Malaysia

75,23

86,52

76,64

87,72

92,15

97,42

91,50

93,55

Thái Lan

37,76

39,24

38,98

39,69

40,99

44,88

42,19

46,69

Hồng Kông

129,93

135,28

140,37

137,18

138,92

151,67

142,28

132,68

Đài Loan

44,27

45,14

42,34

43,29

43,16

47,80

46,63

48,07

Ghi chú: Độ mở của nền kinh tế được tính bằng tổng giá trị xuất khẩu và nhập khẩu trung bình so

với GDP.

Nguồn: [42]

Trong những năm trước khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng cao cùng với

quá trình tự do hoá thương mại và việc nới lỏng các hạn chế đối với vấn đề

tư nhân hoá đã liên tục đem lại cho các nước Đông Á một lượng vốn khổng

lồ. Hơn nữa do chênh lệch lãi suất giữa Nhật Bản và các nước Đông Á, nên

chỉ riêng số vốn của Nhật Bản đổ vào Thái Lan chỉ trong năm 1987 nhiều

hơn cả số vốn mà Nhật đưa vào Thái trong toàn bộ 20 năm trước đó. Từ năm

1986 đến 1989, dòng vốn nước ngoài vào Thái Lan đã tăng 400%. Toàn bộ

khu vực châu Á trong thực tế đã nhận được một khối lượng vốn nhiều hơn

của bất kỳ một khu vực nào khác trên thế giới, với hơn 160 tỷ USD trong

giai đoạn từ 1990-1996. Đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm tới 55% tổng số

39

dòng vốn vào và một số nước trong khu vực đã nhận được dòng vốn tính

trung bình bằng 5-8% GDP trong một khoảng thời gian dài đáng kể (Fischer,

1997) [32, tr.64]. Dòng vốn vào nhằm kinh doanh chênh lệch lãi suất và

mang tính đầu cơ được xác định là dòng vốn ngắn hạn. Trong thực tế, trong

nhiều năm trước khủng hoảng, dòng vốn ngắn hạn đã tạo nên phần chủ yếu

của tổng nguồn vốn chảy vào Thái Lan. Đặc tính của dòng vốn ngắn hạn là

dễ dàng đổi chiều, có thể đi vào và tháo chạy nhanh chóng. Nguy cơ về một

cuộc khủng hoảng tài khoản vốn (mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba) là hết

sức rõ rệt, đặc biệt trong điều kiện giám sát các khoản vay nợ còn kém hiệu

quả.

Trong khi cán cân tài khoản vãng lai đã bắt đầu xấu đi từ năm 1994,

tăng trưởng xuất khẩu của các nước Đông Á đã bắt đầu có dấu hiệu suy

giảm, góp phần làm cho tăng trưởng GDP giảm sút. Từ năm 1990-1995, tỷ lệ

tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Thái Lan là 19,6%. Vào năm 1996,

mức tăng trưởng xuất khẩu đột ngột giảm xuống từ 24,7% năm 1995 xuống

còn -1,9% năm 1996 [56, tr.5]. Indonesia tăng trưởng xuất khẩu giảm từ 21%

thời kỳ 1986-1991 xuống còn 12,4% năm 1993 và 8% năm 1994 [16, tr.92].

Tình hình tương tự cũng diễn ra ở nhiều nước. Nguyên nhân của việc giảm

sút mức xuất khẩu của khu vực Đông Á có thể được cho là sự yếu kém của

năng lực cạnh tranh, mà đến lượt nó, chính sự yếu kém này lại được cho là

một sự kết hợp của một loạt các nhân tố:

Thứ nhất, từ tháng 6/1995 đến tháng 4/1997, đồng Yên Nhật bị giảm

giá hơn 50% so với đồng đô la Mĩ. Việc gắn chặt đồng tiền quốc gia với

đồng đô la Mĩ (neo giữ tỷ giá với đồng USD) là một nhân tố quan trọng góp

phần làm cho đồng tiền của các nước Đông Á lên giá mạnh so với đồng Yên.

Kết quả là xuất khẩu giảm.

Thứ hai, mức tăng trưởng nhanh của giá cả trong các nước Đông Á so

với giá hàng hoá nước ngoài dẫn tới tăng giá đồng tiền nội địa của các nước

Đông Á, góp phần làm giảm xuất khẩu.

Thứ ba, sự gia tăng nhanh chóng của mức lương đã dẫn tới tăng nhanh

40

chi phí nhân công sản xuất hàng xuất khẩu. Chẳng hạn, mức tăng trưởng

hàng năm của chi phí nhân công tính theo giờ của Thái Lan trong ngành may

mặc từ năm 1990 đến 1995 là 12%. Và con số đó ở Malaysia thậm chí cao

hơn với mức 23,2% [56, tr.6].

Thứ tư, dòng vốn vào đã kéo theo giá cả của hàng hoá phi giao dịch

như bất động sản tăng lên, đến lượt nó lại có tác động trực tiếp hay gián tiếp

đến xuất khẩu. Nói tóm lại, chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận biên của hàng

xuất khẩu giảm, tăng trưởng xuất khẩu do đó mà giảm sút.

Tuy nhiên, sự yếu kém trong năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu của

các nền kinh tế Đông Á vẫn ở mức vừa phải và không thể giải thích mức

giảm mạnh của tăng trưởng xuất khẩu của các nền kinh tế trong khu vực.

Chính sự đình trệ của nhu cầu nhập khẩu nói chung, và nhu cầu các sản

phẩm như chất bán dẫn nói riêng bởi các nước phát triển, mà đến lượt nó lại

bị quy định bởi mức giảm sút của kinh tế thế giới, đặc biệt là tốc độ giảm sút

của nền kinh tế Nhật Bản là một tác nhân quan trọng đối với tốc độ giảm sút

chiều hướng xuất khẩu trong các nền kinh tế Đông Á. Ngoài ra, vai trò ngày

càng lớn của Trung Quốc trong tổng giá trị xuất khẩu cũng làm gia tăng áp

lực cạnh tranh trong khu vực (Trung Quốc đã phá giá đồng Nhân dân tệ vào

năm 1994).

Những vấn đề bất ổn định chính trị và tính không nhất quán trong thực

thi chính sách kinh tế vĩ mô cũng góp phần làm suy giảm sự tin tưởng của

cộng đồng tài chính quốc tế trong việc tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai

của một quốc gia. Xét dưới góc độ này, Đông Á cũng có rất nhiều những bất

ổn về chính trị trong những năm trước và sau khủng hoảng. Tình trạng tham

nhũng, móc ngoặc, vấn đề thiếu minh bạch trong quản lý và chế độ độc tài

cũng đã phớt lờ đi phần lớn những cam kết đối với cộng đồng quốc tế, góp

phần đẩy các nền kinh tế châu Á lún sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ.

 Nhóm dấu hiệu thứ hai có thể báo trước cho một cuộc khủng hoảng

41

ở Đông Á đó là tình trạng yếu kém của hệ thống tài chính.

Bảng 2.4 cho biết tỷ lệ cho vay tín dụng dành cho khu vực tư nhân so

với GDP ngày càng có xu hướng tăng lên ở các quốc gia châu Á. Trong giai

đoạn 1990-1996, bùng nổ tín dụng cho vay xuất hiện ở hầu khắp các nước

Đông Á.

Bảng 2.4: Tín dụng ngân hàng cho khu vực tƣ nhân (% GDP)

Tên nƣớc

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

Hàn Quốc

52,54

52,81

53,34

54,21

56,84

57,04

61,81

69,79

Indonesia

49,67

50,32

49,45

48,90

51,88

53,48

55,42

69,23

Malaysia

71,36

75,29

74,72

74,06

74,61

84,80

93,39

106,91

Thái Lan

64,30

67,70

72,24

80,01

91,00

97,62

101,94

116,33

Nguồn: [42]

Tỷ lệ cho vay quá mức lớn nhất ở Philippines (151% GDP), Thái Lan

(58% GDP) và Malaysia (31% GDP); thấp hơn là Hàn Quốc (11% GDP),

Singapore (17% GDP), Hồng Kông (26% GDP), Indonesia (10% GDP); mức

thấp nhất là ở Trung Quốc với 7% GDP [42]. Những nước có mức bùng nổ

tín dụng lớn trong nhiều năm như Philippines, Thái Lan, Malaysia cũng là

những nước đầu tiên phải chịu tác động của việc đầu cơ tiền tệ vào năm

1997.

Tuy nhiên, chất lượng của các khoản tín dụng này lại thể hiện ở tỷ lệ

những khoản cho vay không sinh lời (NPLs/ non-performing loans) so với

tổng lượng cho vay (total loans). Bảng 2.5 với tỷ lệ những khoản cho vay

không sinh lời (non-performing loans/ NPLs) ước tính ở một số nước châu Á

cho thấy có mối tương quan rõ rệt giữa số lượng các khoản cho vay xấu và

quy mô của các cuộc khủng hoảng tiền tệ.

Bảng 2.5: Tỷ lệ những khoản cho vay không sinh lời (NPLs)

Đơn vị: % tổng lượng cho vay

Tên nƣớc Hàn Quốc Indonesia Malaysia Thái Lan

NPLs/ tổng lượng cho vay 8% 13% 10% 13%

42

Nguồn: [42]

Cùng với tỷ lệ lớn của cho vay quá mức “overlending” và những khoản

cho vay không sinh lời (NPLs), sự yếu kém trong hoạt động ngân hàng cũng

bộc lộ tính chất dễ bị tổn thương của hệ thống tài chính. Đến nay, còn có

những đánh giá tổng quan khác nhau về cấu trúc tài chính của các nước

Đông Á. Đa số cho rằng về cơ bản, cấu trúc tài chính ở Đông Á là dựa vào

hệ thống ngân hàng. Điều này có nghĩa là dòng vốn vào tài trợ cho thâm hụt

lớn phần lớn vẫn thông qua các ngân hàng trong nước. Các ngân hàng này đi

vay các ngân hàng nước ngoài, sau đó lại tiếp tục cho vay các doanh nghiệp

khác. Nếu các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính thì chắc chắn các

ngân hàng trong nước sẽ phải đối mặt với nợ khó đòi, trong đó phần lớn là

nợ ngắn hạn. Hội chứng “vay quá mức” và “cho vay quá mức”

(overborrowing and overlending) là hậu quả của những yếu kém về chính

sách và thể chế ở các nước Đông Á. Các ngân hàng, công ty tài chính vừa

không đủ khả năng để thẩm định các dự án kinh doanh cùng mức rủi ro

tương ứng để điều tiết tín dụng một cách hiệu quả, vừa thường bị quan chức

nhà nước can thiệp vào quá trình xét tín dụng, dẫn tới phân bổ sai tín dụng.

Hệ thống luật lệ cũng như các cơ quan quản lý về mặt nhà nước cũng yếu

kém, không đủ sức bảo đảm tính lành mạnh và hiệu năng của hệ thống tài

chính. Ngay cả các Ngân hàng Trung ương cũng bị sự lũng đoạn của các thế

lực chính trị. Nhiều nước trong khu vực lại mở cửa và tự do hoá thị trường

vốn quá sớm, khuyến khích ngân hàng và doanh nghiệp trong nước vay rất

nhiều nợ ngoại tệ vì lãi suất thấp hơn trong nước. Quan hệ gia đình trong

kinh doanh cũng là một đặc trưng nổi bật ở Đông Á. Kinh doanh “kiểu gia

đình” có thể có một số ưu thế nhất định trong giai đoạn phát triển ban đầu,

nhất là trong bối cảnh khung khổ thể chế và việc thực thi pháp luật còn yếu.

Tuy nhiên, đây cũng là “mảnh đất” dung dưỡng cho việc hình thành quan hệ

cánh hẩu giữa công ty và ngân hàng cùng với sự bảo lãnh (công khai hoặc

43

ngầm) của Chính phủ. Điều này càng hạn chế sự phát triển của thị trường

chứng khoán và làm tăng mức độ rủi ro có tính hệ thống, nhất là khi tự do

hoá tài chính và mở cửa tài khoản vốn một cách thiếu thận trọng.

 Nhóm dấu hiệu thứ ba cảnh báo về một cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ ở Đông Á đó chính là sự mất cân đối trong nợ nƣớc ngoài

(imbalances in foreign debt accumulation).

Bảng 2.6 cho biết cơ cấu nợ nước ngoài của một số quốc gia trong khu

vực vào tháng 6/ 1997 (ở cả khu vực ngân hàng và phi ngân hàng). Số liệu

cho chúng ta thấy một thông tin quan trọng là phần lớn nợ nước ngoài đều

liên quan đến các ngân hàng trong nước. Vào giữa năm 1997, tỷ lệ nợ nước

ngoài của khu vực ngân hàng ở nhiều nước châu Á đều ở mức rất cao từ 70-

85% so với tổng nợ nước ngoài. Quốc gia duy nhất có nợ khu vực phi ngân

hàng (non-banks) lớn là Indonesia với mức 60,2%.

%

%

%

%

Bảng 2.6: Cơ cấu nợ nƣớc ngoài của một số nƣớc châu Á tháng 6/1997

Hàn Quốc Tỷ USD

Indonesia Tỷ USD

Malaysia Tỷ USD

Thái Lan Tỷ USD

118,25

100

62,44

100

33,00

100

99,54

100

91,72

77,6

24,82

39,8

25,50

77,3

86,04

86,4

26,53

22,4

37,62

60,2

7,50

22,7

13,50

13,6

Tổng nợ nƣớc ngoài Nợ khu vực ngân hàng Nợ khu vực phi ngân hàng Nguồn: [42]

Cũng theo báo cáo của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), tỷ lệ nợ

nước ngoài so với tổng tài sản có của khu vực ngân hàng và phi ngân hàng

vào năm 1996 ở mức xấu nghiêm trọng: Thái Lan (1103%); Hàn Quốc

(375%); Indonesia (424%); Philippines (172%); Malaysia (148%) [42, tr.34].

Tình trạng tài chính sẽ rất nguy hiểm nếu đồng tiền mất giá nhanh (đặc biệt

nếu các khoản vay nợ bằng đồng nước ngoài, và cho vay lại trong nước bằng

đồng nội tệ), lúc đó các chủ nợ nước ngoài có thể đột ngột từ chối cho vay

tiếp đối với các ngân hàng trong nước, góp phần đẩy quốc gia đó vào một

cuộc khủng hoảng tín dụng.

Nếu xem xét đến cơ cấu kỳ hạn thanh toán thì con số nợ nước ngoài do

44

BIS đưa ra còn đặc biệt nguy hiểm hơn nữa. Hình 2.1 cho biết, vào cuối năm

1996, nợ nước ngoài ngắn hạn (short-term foreign liabilities1) trong khu vực

đều ở mức trên 50% tổng nợ nước ngoài. Tuy nhiên, một chỉ số quan trọng

cho thấy sự mất cân đối trong nợ nước ngoài của các nước này đó chính là tỷ

lệ giữa dự trữ ngoại hối và nợ ngắn hạn nước ngoài. Tiêu chí này cho thấy

khả năng đối phó của quốc gia khi có hiện tượng tấn công ngoại tệ hoặc rút

tiền ra nước ngoài. Nếu một cuộc khủng hoảng thanh khoản xảy ra, dự trữ

ngoại hối phải đủ lớn để quốc gia đó có thể thanh toán nghĩa vụ nợ đến hạn

của mình. Vào cuối năm 1996, tỷ lệ nợ ngắn hạn nước ngoài đã gấp 2,13 lần

dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc; 1,81 lần ở Indonesia; 1,69 lần ở Thái Lan;

0,77 lần ở Philippines (Hình 2.1).

Nguồn: [42]

Hình 2.1: Tỷ lệ nợ ngắn hạn so với tổng nợ nƣớc ngoài và tỷ lệ nợ ngắn hạn so với dự trữ ngoại tệ của một số nƣớc châu Á năm 1996

Như vậy, trừ Malaysia, ba nước còn lại là Thái Lan, Indonesia và Hàn

Quốc có thể coi là đã mất khả năng thanh toán từ trước khi cuộc khủng

hoảng tài chính - tiền tệ châu Á nổ ra.

Bảng 2.7 cho biết tỷ lệ M2/FX, tức là tỷ lệ giữa mức cung tiền rộng

(M2) và dự trữ ngoại hối (FX). Tiêu chí này cho thấy khả năng can thiệp tỷ

giá hối đoái của Ngân hàng Trung ương. Tỷ lệ này từ 10% đến 20% thì được

1 Nợ ngắn hạn là khoản nợ có kỳ hạn 1 năm trở xuống

45

coi là đủ dự trữ ngoại hối. Trước cuộc khủng hoảng đồng Pêso của Mexico

(tháng 11/ 1994), tỷ lệ M2/ FX của Mexico là 9,1, hai nước bị ảnh hưởng

mạnh nhất sau Mexico là Brazil và Argentina con số này đều là 3,6. Ở phần

lớn các nước Đông Á, tỷ lệ M2/FX đều ở mức cao đáng nguy hiểm vào

những năm 1996-1997.

Bảng 2.7: Tỷ lệ M2 so với dự trữ ngoại hối của các nƣớc Đông Á

1990 6,48 6,16 2,91 4,49

1991 8,33 5,51 2,99 4,10

1992 7,20 5,61 2,64 4,10

1993 6,91 6,09 2,09 4,05

1994 6,45 6,55 2,47 3,84

1995 6,11 7,09 3,33 3,69

1996 6,51 6,50 3,66 3,90

1997 10,50 7,37 4,99 5,29

Tên nƣớc Hàn Quốc Indonesia Malaysia Thái Lan Nguồn: [42]

Cơ cấu luồng vốn vào được xem như là một nhân tố quan trọng trong

nhiều cuộc khủng hoảng tiền tệ tại các thị trường mới nổi. Trong cả hai cuộc

khủng hoảng tiền tệ tại Đông Á và Mexico những năm 1994-1995, sự lệ

thuộc quá lớn vào các khoản vay ngắn hạn để bù đắp cho thâm hụt tài khoản

vãng lai là một nhân tố cốt yếu gây nên khủng hoảng. Trong khi luồng vốn

vào gây nợ thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là cách an toàn và ổn

định để tài trợ cho phát triển. Sở dĩ như vậy, bởi vì đầu tư FDI liên quan đến

quyền sở hữu và kiểm soát công ty, thiết bị và cơ sở hạ tầng. Do đó, nó là

nguồn vốn tạo ra khả năng tăng trưởng kinh tế, trong khi các khoản vay ngắn

hạn chủ yếu dùng để tài trợ cho tiêu dùng. Hơn nữa trong trường hợp xảy ra

khủng hoảng, các nhà đầu tư có thể dễ dàng thu hồi vốn bằng cách loại bỏ

các chứng khoán trong nước hoặc các ngân hàng từ chối gia hạn các khoản

nợ, nhưng những người chủ sở hữu tài sản hiện vật không dễ dàng tìm được

người mua tài sản đó. Bảng 2.8 cho biết đóng góp của dòng vốn FDI trong

việc tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai. Vào năm 1996, tỷ lệ này vào

khoảng 10% mức thâm hụt CA ở Hàn Quốc, Thái Lan 16%, Indonesia 80%,

Malaysia 110,8%. Điều này ít nhiều cho thấy mối quan hệ giữa khối lượng

dòng vốn FDI chảy vào với quy mô cuộc khủng hoảng tài khoản vốn quốc

46

gia.

Bảng 2.8: Đóng góp của dòng vốn FDI tài trợ cho thâm hụt tài

khoản vãng lai (% mức thâm hụt)

Tên nƣớc

1990

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

Hàn Quốc

45,16

14,19

18,43

-59,39

20,92

20,88

10,11

34,82

Indonesia

36,58

34,79

63,92

95,16

75,54

67,58

80,83

97,11

Malaysia

268,05

95,58

239,18 180,13

98,27

90,10

110,84 139,28

33,57

26,60

33,52

28,35

16,90

15,26

15,90

103,84

Thái Lan Nguồn: [42]

Ngoài ra hệ thống kế toán, thống kê không đúng chuẩn mực thế giới

hoặc cố tình che dấu đã làm cho Chính phủ các nước này không nắm được

thực chất của vấn đề cho đến khi quá muộn.

2.1.1.3 Diễn biến cuộc khủng hoảng

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á khởi đầu từ Thái Lan, sau

đó lan sang các nước láng giềng khác như Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc,

v.v. Không dừng lại đó, cuộc khủng hoảng còn lan sang các khu vực khác

như Nga, Brazil, ảnh hưởng đến Mĩ, Nhật và một số khu vực khác.

Thực tế ở Thái Lan, từ đầu năm 1997 đến tháng 3/1997, lo sợ các ngân

hàng và tổ chức tài chính phá sản, người dân và nhà đầu tư có đủ thông tin

đã bắt đầu rút vốn của mình dưới dạng tiền mặt, buộc Chính phủ phải đóng

cửa thị trường chứng khoán một ngày 3/3/1997 và yêu cầu mọi tổ chức tài

chính phải tăng thêm dự trữ tiền mặt. Chính phủ cũng công bố 10 công ty tài

chính đang ở trạng thái không bình thường. Ngày 4-5/3/1997, hơn 21,4 tỷ

Baht (820 triệu USD) đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính.

Cầu ngoại tệ tăng làm tỷ giá tăng vọt chỉ sau một tháng. Ngày 25/6/1997,

Chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính, nâng tổng số công ty tài

chính bị đóng cửa lên 58/91 toàn quốc. Sự phá sản của ngân hàng, công ty tài

chính và sự tăng vọt của tỷ giá hối đoái làm cho các doanh nghiệp đã kém

hiệu quả càng bị thua lỗ, phá sản. Để duy trì tỷ giá hối đoái trong điều kiện

cầu ngoại tệ tăng vọt, Chính phủ Thái đã buộc phải bán ngoại tệ, làm cho dự

trữ ngoại tệ giảm mạnh từ 38,78 tỷ USD (tháng 6/1996) xuống còn 37,7 tỷ

47

USD (tháng 12/1996) và 31,4 tỷ USD vào 30/6/1997. Ngày 2/7/1997 Chính

phủ Thái đã tuyên bố thả nổi đồng Baht. Ngay lập tức đồng Baht mất giá gần

50%. Tỷ giá tăng từ 25 Baht/ USD (tháng 6/1997) lên 56 Baht/USD (tháng

1/1998). Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối

năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời mức vốn hoá thị trường

vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Ngày 11/8/1997, IMF

tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ USD cho Thái Lan; ngày

20/8/1997, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ USD.

Khi đồng Baht buộc phải thả nổi vào ngày 2/7/1997 thì đồng tiền của

những quốc gia có nền tảng kinh tế vĩ mô và cơ cấu xuất khẩu tương tự Thái

Lan cũng sẽ là đối tượng tiếp theo. Các công ty nước ngoài rút vốn ồ ạt ra

khỏi Thái Lan và việc tăng tỷ giá hối đoái mạnh làm cho hàng hoá xuất khẩu

của Thái Lan trở nên rẻ hơn tương đối so với hàng hoá xuất khẩu tương tự

của các nước trong khu vực. Trước áp lực tâm lý do khủng hoảng ở Thái Lan

đem lại và việc tiếp tục thâm hụt trầm trọng hơn cán cân vãng lai của

Indonesia, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút vốn ra khỏi Indonesia, gây áp

lực tăng tỷ giá của đồng Rupiah so với USD. Chỉ trong 12 ngày đầu tháng

7/1997, Ngân hàng Indonesia đã phải bán 700 triệu USD để kìm giữ tỷ giá.

Mặc dù tuyên bố nới lỏng biên độ dao động tỷ giá cho phép giữa Rupiah và

USD từ 8% lên 12%, song cuối cùng, khi dự trữ ngoại tệ đã ngày một giảm

sút, ngày 14/8/1997, Chính phủ Indonesia đã phải tuyên bố thả nổi đồng

Rupiah. Tỷ giá hối đoái lập tức tăng lên 2870 Rupiah/ USD, đến 12/12/1997

đạt 5115 Rupiah/ USD, 10225 Rupiah/ USD (8/1/1998) và 17000 Rupiah/

USD (22/1/1998), tức tỷ giá tăng 600% trong vòng 6 tháng. Dự trữ ngoại tệ

giảm từ 20,3 tỷ USD (30/9/1997) xuống còn 15,8 tỷ USD (31/3/1998). IMF

đã thu xếp một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ

USD, nhưng Rupiah tiếp tục mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng

cầu USD tăng vọt. Tháng 9/1997 cả đồng Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng

khoán đều giảm xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Đến giữa tháng 12/1997,

một nửa tài sản của hệ thống ngân hàng Indonesia bị mất do người dân và

48

doanh nghiệp rút tiền. Sự phá sản của các ngân hàng cùng với sự tăng vọt tỷ

giá làm cho doanh nghiệp thiếu vốn hoạt động lâm vào phá sản. Cho tới giữa

năm 1998, khoảng 80% doanh nghiệp ở Indonesia phải ngưng hoạt động

hoặc phá sản. Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách khắc khổ theo yêu cầu

của IMF khiến Chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng khiến giá hai

mặt hàng này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng bùng

phát. Riêng Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng

kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm

1998, Tổng thống Suharto buộc phải từ chức. Trước khủng hoảng, tỷ giá hối

đoái giữa Rupiah và USD vào khoảng 2000:1; nhưng trong thời kỳ khủng

hoảng tỷ giá đã tăng lên tới mức 18.000:1.

Cuối năm 1996 và đầu năm 1997, Malaysia không đứng trước nguy cơ

mất khả năng thanh toán, vì tỷ lệ nợ ngắn hạn so với dự trữ ngoại tệ dưới

50%. Tuy nhiên, do đồng Ringgit năm 1996 cũng đã lên giá 26,6% so với

năm 1991, tỷ giá hối đoái gần như cố định, thậm chí giảm liên tục 3 năm

1994, 1995, 1996, tài khoản vãng lai luôn thâm hụt, lãi suất trong nước cao,

cho nên áp lực phải tăng tỷ giá là rất lớn. Lo sợ tác động dây chuyền của việc

phá giá đồng Baht và đồng Rupiah, các nhà đầu tư nước ngoài cũng bắt đầu

rút vốn là khoản cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại ra khỏi Malaysia.

Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, đồng Ringgit của Malaysia và thị

trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ngày

12/7/1997, Chính phủ Malaysia đã quyết định bán 1 tỷ USD để giữ tỷ giá hối

đoái, đến 15/7/1997, tổng số ngoại tệ mà Ngân hàng Trung ương Malaysia

đã phải bán là 3,4 tỷ USD. Ngày 21/4/1997, Ngân hàng Trung ương quyết

định hạn chế đổi tiền, giới hạn tối đa 2 triệu USD cho một nhà đầu tư nước

ngoài. Ngày 11/8/1997, Malaysia tuyên bố thả nổi tỷ giá, lập tức tỷ giá tăng

vọt từ mức trên 2,5 Riggit/ USD (tháng 7/1997) lên 3,5 Ringgit/ USD (tháng

11/1997) và đạt 4,39 Ringgit/ USD (tháng 1/1998), tức tỷ giá tăng 75,5%

trong vòng 6 tháng. Việc rút vốn ồ ạt của các nhà đầu tư nước ngoài cùng với

việc giảm nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của Malaysia từ các nước Đông Nam

49

Á khác đang bị khủng hoảng đã làm cho hàng loạt các doanh nghiệp lâm vào

phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp tất yếu kéo theo sự phá sản của

các ngân hàng, do không đòi được nợ. Cuộc khủng hoảng đã làm phá sản

hàng nghìn doanh nghiệp (6583 doanh nghiệp bị phá sản vào năm 1997, gấp

13 lần năm 1996), hơn 2/3 ngân hàng, công ty tài chính phải đóng cửa hoặc

sáp nhập.

Hàn Quốc và Thái Lan đều tự khởi động quá trình khủng hoảng ở khâu

yếu kém nhất của nền kinh tế mỗi nước. Nếu như yếu kém lớn nhất của Thái

Lan là ở hệ thống ngân hàng thì yếu kém lớn nhất của Hàn Quốc lại nằm ở

hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp mà nòng cốt là các chaebol. Ngay

trước khủng hoảng đã có rất nhiều doanh nghiệp rơi vào phá sản như tập

đoàn Woosing (đầu năm 1996), tập đoàn thép Hanbo (1/1997), tập đoàn thép

Sammi (3/1997). Ngày 28/11/1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ

thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó là B2, góp phần làm cho giá

chứng khoán của Hàn Quốc thêm sụt giảm. Sự phá sản của tập đoàn thép

Hanbo vào tháng 1/1997 và tiếp theo là của 14.000 doanh nghiệp trong năm

1997 đã kéo theo nhiều ngân hàng cũng bị phá sản. Hai chuỗi phá sản này

làm các nhà đầu tư nước ngoài và dân chúng lo sợ, họ rút vốn, mua ngoại tệ,

áp lực phá giá đồng Won tăng liên tục. Chính phủ phải bán 14 tỷ để giữ tỷ

giá. Ngày 30/9/1997 tỷ giá hối đoái đạt 914,8 Won/USD, tăng 8% so với

cuối năm 1996. Sau những nỗ lực để mở rộng giới hạn dao động tỷ giá tới

10%, ngày 14/12/1997, đồng Won được thả nổi. Ngày 23/12/1997, tỷ giá

tăng vọt tới 2000 Won/USD, bằng 237% so với cuối năm 1996. Tỷ giá thả

nổi làm cho nợ của các doanh nghiệp và ngân hàng càng lớn hơn, khiến họ

càng lao vào phá sản.

2.1.1.4 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998, xét trên cả cấp

độ quốc gia, khu vực và công ty, chính là sự tác động qua lại giữa 3 nhóm

nguyên nhân: từ phía chính sách quản lý vĩ mô của chính phủ, từ phía các

nhà đầu tư trong nước và từ phía các nhân tố bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm

50

soát khu vực.

 Nhóm nguyên nhân thứ nhất: sự bất cập trong chính sách quản

lý kinh tế vĩ mô của chính phủ

Sự thành công vang dội trong quá khứ đã phủ lên các nước Đông Á hào

quang của tăng trưởng, trong khi nếu tỉnh táo thì ít nhất các nước này có thể

nhận ra những sai lầm sau đây:

Thứ nhất, sự chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành tỷ giá khiến các

đồng bản tệ bị định giá cao giả tạo trong một thời gian dài so với đồng USD.

Việc neo giữ tỷ giá ổn định, thoạt đầu có thể tạo điều kiện cho việc ổn định

đồng tiền và thu hút nguồn vốn bên ngoài thông qua các kênh: FDI, cho vay

thương mại, đầu tư gián tiếp trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, việc

duy trì chính sách lãi suất cao tạo ra sự chênh lệch lãi suất đồng bản tệ so với

lãi suất đồng USD, điều này càng kích thích các nhà đi vay Thái Lan và các

nước tăng cường vay nóng USD (với lãi suất thấp) rồi chuyển chúng sang

đồng bản tệ (với lãi suất cao) tại các ngân hàng trong nước để hưởng chênh

lệch. Hơn nữa tiến trình tự do hoá tài khoản vốn một cách vội vàng và không

theo trật tự vào những năm 1990 đã làm cho các quốc gia Đông Á nhận được

một khối lượng vốn khổng lồ, trong đó chủ yếu là vốn ngắn hạn có tính chất

đầu cơ. Sự ổn định tỷ giá cùng với sự gia tăng một khối lượng lớn vốn nước

ngoài ngắn hạn đã kích thích gia tăng giá trị tài sản và cổ phiếu bằng nguồn

vốn “rẻ” bên ngoài như là biểu hiện và kết quả của một nền kinh tế “nóng”.

Chính sự gia tăng giá tài sản, bất động sản và cổ phiếu đã tiềm ẩn trong lòng

nó nguy cơ xuất hiện nền “kinh tế bong bóng” và nguy cơ đầu cơ tiền tệ. Vào

năm 1995, nhằm khôi phục lại kinh tế sau tình trạng suy thoái đầu những

năm 1990, Cục Dự trữ Liên bang Mĩ (FED) bắt đầu nâng lãi suất để ngăn

chặn lạm phát. Việc này làm cho Mĩ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư

hơn so với các nước Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn

hạn thông qua lãi suất cao và làm tăng giá đồng USD. Từ năm 1995-1997,

đồng USD liên tục tăng giá tới 50% so với đồng Yên. Với việc Trung Quốc

phá giá đồng Nhân dân tệ hơn 30% vào cuối năm 1994 cùng chính sách neo

51

giữ tỷ giá vào USD nói trên, đã khiến đồng tiền của các nước Đông Á tăng

giá tương đối. Sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu giảm, tăng trưởng xuất

khẩu giảm nhanh chóng làm suy yếu tài khoản vãng lai của các nước này. Sự

khô hạn nguồn vốn chảy vào cùng với sự giảm giá trị bất động sản (do cung

vượt xa cầu hữu hiệu), giảm giá trị các tài sản thế chấp của các ngân hàng,

cũng như các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, các nhà đầu tư và cho vay

nước ngoài đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh tế. Cầu ngoại tệ tăng vọt trên

thị trường ngoại hối trong nước. Những nỗ lực duy trì tỷ giá của Chính phủ

càng làm cho dự trữ ngoại hối cạn kiệt nhanh chóng, đồng bản tệ không

tránh khỏi bị phá giá nhanh chóng. Hơn nữa, quyết định thả nổi bản tệ mà

các Chính phủ đưa ra đột ngột sau những cố gắng tuyệt vọng cuối cùng để

giữ tỷ giá đã đẩy nền kinh tế đến sự hoảng loạn có tính chất tâm lý và làm

trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

Thứ hai, chính sách tự do hoá các hoạt động kinh tế không được tiến

hành đồng bộ với việc tăng cường giám sát hoạt động của các doanh nghiệp

và các định chế tài chính. Châu Á cũng như nhiều nước trong khu vực cho

đến nay, vẫn chưa có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo với đầy đủ các

thiết chế thị trường, vừa có tính định hướng, hỗ trợ các hoạt động kinh

doanh, vừa có thể giám sát, điều chỉnh tự động, kịp thời ngăn chặn những

lệch lạc của chúng. Mặc dù các luồng vốn vào - ra được tự do hoá lưu

chuyển, nhưng tỷ giá hối đoái luôn bị kìm giữ, các nhà đầu tư nước ngoài

luôn vấp phải những rào cản cứng nhắc về khu vực và giới hạn đầu tư. Các

yếu tố tăng trưởng và đầu tư bị khuyến khích một cách thiên lệch. Nét đặc

trưng của mô hình Đông Á trong giai đoạn phát triển vừa qua là các dạng

khác nhau của mô hình “chủ nghĩa tư bản móc ngoặc” (crony capitalism).

Biểu hiện lành mạnh của mô hình này là việc nhà nước trực tiếp hướng dẫn

các hoạt động kinh doanh bằng chính sách, luật lệ, thuế khoá cũng như

hướng dẫn phân bổ tín dụng, khiến các yếu tố thị trường bị bóp méo, làm

giảm sút hiệu quả chung. Chính phủ Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia đều

có khuynh hướng che chở cho các công ty lớn tránh khỏi phá sản. Cả Thái

52

Lan và Indonesia, thủ tục luật pháp không đủ gây áp lực để buộc con nợ phải

thanh toán số nợ của mình hay thanh lý tài sản thế chấp, khiến quá trình cơ

cấu lại vốn đầu tư và lưu chuyển vốn bị chậm trễ. Thị trường lao động của

Hàn Quốc kém linh hoạt do luật pháp quy định cấm các công ty không được

sa thải công nhân. Hệ thống giám sát ngân hàng thiếu minh bạch, nhiều

thông tin, số liệu kinh tế bị che dấu, sửa chữa, kém chất lượng đã ngăn cản

các thông tin chính xác và kịp thời cho cho sự điều hành hiệu quả tầm vĩ mô

của Chính phủ, càng làm cho thời gian ủ bệnh của các con nợ kéo dài, khiến

sự sụp đổ của chúng về sau càng nhanh chóng và kéo theo hậu quả nặng nề

hơn. Biểu hiện kém lành mạnh hơn là nạn hối lộ, tham nhũng, móc ngoặc

giữa các giới chức chính phủ và doanh nghiệp càng tăng thêm những tác

động tiêu cực đến nền kinh tế. Theo Jim Walker, kinh tế ngầm chiếm tới 30-

50% GDP tại Indonesia, Philippines, Thái Lan và 20-30% tại Hàn Quốc,

Malaysia [32, tr.19]. Có thể nói, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á

1997-1998 là một minh chứng rõ nét cho thấy tình trạng yếu ớt và kém

trưởng thành của các định chế chính trị, kinh tế, tài chính và xã hội của các

nước Đông Á, làm giảm sút sức cạnh tranh trong một nền kinh tế hiện đại và

toàn cầu.

Thứ ba, có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế như là kết quả của

những sai lầm trên. Sự mất cân đối trong cơ cấu dòng chảy vốn nước ngoài,

sự sụt giảm trong tăng trưởng xuất khẩu cùng với sự tăng cường nhập khẩu,

trong đó có nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ từ nguồn vốn vay nước ngoài, đã

khiến cán cân thương mại và cán cân vãng lai của các nước Đông Á thâm hụt

nặng nề. Cơ cấu vốn nước ngoài đổ vào các nước bị khủng hoảng có sự mất

an toàn cao do khối lượng nợ tăng nhanh, chủ yếu lại là vốn ngắn hạn (vốn

vay thời hạn dưới 1 năm chiếm tới 70% tổng số nợ khu vực tư nhân ở Thái

Lan và Indonesia [32, tr.21]). Vốn huy động gián tiếp qua thị trường chứng

khoán tăng nhanh, trong khi dự trữ ngoại hối quốc gia không cao và kim

ngạch xuất khẩu giảm dần. Hơn nữa, các khoản vốn vay nóng này lại được

tập trung đầu tư vào lĩnh vực bất động sản hoặc một số ngành công nghiệp

53

đã có sự “bão hoà” dẫn tới cung vượt xa cầu. Sự kém phát triển của hệ thống

giáo dục và hậu quả của mất cân đối đầu tư làm cho nền kinh tế các nước

Đông Á thiếu nghiêm trọng lao động lành nghề, đẩy mức lương lao động

trong ngành chế tạo lên cao, nhanh hơn tốc độ tăng sản lượng, làm giảm sức

cạnh tranh và khó khăn cho việc phát triển ngành công nghệ cao. Mất cân

đối giữa tích luỹ - tiêu dùng, mất cân đối trong đầu tư, sai lầm trong quản lý

vĩ mô của Chính phủ, cùng với những bất ổn về chính trị làm gia tăng tình

trạng bất công xã hội, đe doạ sự ổn định quốc gia, làm giảm lòng tin của các

nhà đầu tư, của dân chúng và các tổ chức tài chính quốc tế khác.

 Nhóm nguyên nhân thứ hai: sai lầm của các nhà đầu tƣ trong nƣớc

Là những người trực tiếp tiến hành thực hiện các quyết định đầu tư, các

nhà đầu tư trong nước của khu vực châu Á phải là người chịu trách nhiệm

hàng đầu về số phận doanh nghiệp do họ làm chủ từ cả ba phía: cơ cấu vốn

vay, cơ cấu đầu tư và kỹ năng thích ứng thị trường.

Có thể khẳng định, một trong những nguyên nhân hàng đầu của cuộc

khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á là do cuộc khủng hoảng nợ ở khu vực

kinh tế tư nhân. Điều này lại được khích lệ bởi cơ chế giám sát lỏng lẻo của

chính phủ, bởi chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước, bởi cả sự kỳ vọng

vào những khoản lợi kếch xù có tính đầu cơ mà họ sẽ nhận được trong tương

lai. Hệ luỵ của việc mất cân đối về cơ cấu vốn vay là mất cân đối về đầu tư.

Nhiều doanh nghiệp đã đưa ra quyết định đầu tư sai hoặc quá mạo hiểm vào

những công trình tốn kém, thiếu hiệu quả và có tính đầu cơ (như lĩnh vực

xây dựng, bất động sản) dẫn đến nợ đọng lớn và mất khả năng thanh toán.

Quan hệ giữa Chính phủ và các doanh nghiệp thiếu minh bạch, dựa trên quan

hệ cá nhân; chế độ hạch toán, kiểm toán và tình trạng thiếu công khai về

thông tin đã làm méo mó hơn nữa cơ chế thị trường vốn đã không đầy đủ,

tạo điều kiện che dấu những yếu kém của doanh nghiệp.

Mặt khác, bản thân doanh nghiệp cũng thiếu kỹ năng thích ứng với thị

trường trong và ngoài nước, chưa xử lý kịp thời những biến động cung - cầu,

giá cả và chất lượng sản phẩm, thiếu chiến lược thị trường và đa dạng hoá

54

sản phẩm… Đồng thời, những yếu kém của các định chế kinh tế, tài chính đã

làm cho các doanh nghiệp bỏ lỡ nhiều cơ hội và không đủ linh hoạt để đối

phó với tình trạng khủng hoảng thừa sức cung cũng như sự thay đổi nhanh

chóng của khoa học & công nghệ và thị hiếu người tiêu dùng.

 Nhóm nguyên nhân thứ ba: các nhân tố bên ngoài vƣợt khỏi tầm

kiểm soát của các nƣớc trong khu vực

Quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đem lại cho các quốc gia nhiều cơ

hội, nhưng cũng không ít thách thức. Một trong những thách thức quan trọng

phải kể đến đó chính là khả năng dễ bị tổn thương với bên ngoài và tính chất

lây nhiễm khủng hoảng. Nguyên nhân của những thách thức ấy trên thực tế

lại nằm ngoài tầm kiểm soát của các nước chịu tác động bởi khủng hoảng.

Trước hết, đó chính là chính sách tiền tệ của các nước lớn cả trong và

ngoài khu vực châu Á. Với sức mạnh vượt trội và ưu thế toàn cầu của mình,

sự thay đổi chính sách tiền tệ của Chính phủ Mĩ đã có tác động đáng kể đến

đồng tiền khu vực Đông Á. Một mặt, cho đến năm 1995, nền kinh tế khu vực

này đã được lợi phần nào nhờ chính sách đồng đô la suy yếu của Mĩ (đồng

USD giảm tới 50% so với đồng Yên trong thời kỳ 1990-1995). Nhưng tới

thời điểm năm 1995, Thái Lan và nhiều nước trong khu vực lại bị động trước

việc đồng USD tăng giá đột ngột như là kết quả của sự thoả thuận trước đó

trong nhóm G7 - một nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của khu vực. Vào

thời điểm đó, đồng Yên Nhật mất giá khoảng 50% so với USD trong thời kỳ

1995-1997, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc chủ động phá giá tới 30% vào

năm 1994. Sự cứng nhắc trong điều hành tỷ giá đã làm cho các nước Đông Á

mất đi lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu, cán cân vãng lai thâm hụt, dòng

vốn nước ngoài chảy vào giảm dần. Rõ ràng chính sách neo giữ đồng bản tệ

theo USD của các nước Đông Á là không ít mạo hiểm, vì mỗi khi chiếc

“neo” thay đổi sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho những gì dùng nó là cơ sở,

khiến cho tác động càng thêm nhạy cảm và mạnh mẽ hơn.

Một vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát khu vực không kém phần quan

trọng là ảnh hưởng của những hoạt động đầu cơ tiền tệ đã thổi phồng các

55

cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ và làm gia tăng khả năng lây nhiễm.

Trong nhiều năm trước đó, chính phủ các nước đã thực thi chính sách tiền tệ

nới lỏng, đưa lượng cung tiền nội tệ lên quá cao. Theo tính toán của IMF,

hầu hết các nước Đông Á đều có mức tăng lượng cung tiền hàng năm từ 2-5

lần tốc độ tăng trưởng GDP. Chính điều này làm thổi phồng giá tài sản (bất

động sản) và xuất hiện tình trạng nền “kinh tế bong bóng”. Sau khi mất tiền

vào cơn sốt nhà đất và cổ phiếu, giới đầu tư nước ngoài hốt hoảng rút lui,

tháo chạy đồng vốn. Tình trạng nhập siêu cùng với nợ ngắn hạn phải trả cứ

tiếp tục tăng làm đồng USD trở nên cực kỳ khan hiếm. “Diều hâu” chỉ chờ

đợi có thế và lập tức sà xuống tấn công. Trong khoảng tháng 6-7/1997, có tới

10-15 tỷ USD được tung ra cho mục đích đầu cơ tại Thái Lan. Không chỉ có

nhà tỷ phú Soros, mà còn có tới hàng chục quỹ tín dụng, kể cả các loại quỹ

dự phòng và quỹ hưu trí - những nhân vật mới cũng tham gia đầu cơ tiền tệ

với tổng giá trị tài sản lên tới hàng trăm tỷ USD. Phương thức hoạt động của

những “diều hâu” này thông thường là cùng lúc “đổ quân” vào hai mặt trận

tiền tệ và thị trường chứng khoán. Họ nhào vào “bán khống” nội tệ và cổ

phiếu theo đúng bài bản và hưởng lợi từ tình trạng suy giảm giá trị. Chỉ trong

một thời gian ngắn, đồng nội tệ và chỉ số của thị trường chứng khoán các

nước trong khu vực rớt thê thảm, kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống

kinh tế. Chính sự tháo chạy ồ ạt và đột ngột của luồng vốn nước ngoài vừa là

biểu hiện, vừa là nguyên nhân gây căng thẳng hơn, kéo dài hơn với phạm vi

lan toả rộng hơn cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

Một nhân tố bên ngoài khác đẩy nhanh cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ châu Á, đặc biệt đối với khu vực Đông Nam Á, đó là sự tham gia của

một số nước mới mà đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ vào thị trường xuất

khẩu của các nước Đông Nam Á. Với giá thành sản xuất thấp, Trung Quốc

và Ấn Độ đã làm cho các nước Đông Nam Á mất dần lợi thế cạnh tranh trên

thị trường quốc tế.

Cuối cùng, một nhân tố bên ngoài khác cần phải nhấn mạnh đó là đặc

tính biến đổi nhanh chóng của tương quan cung - cầu và vòng đời sản phẩm

56

trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, bản thân các thiết chế giám sát và cứu trợ

khẩn cấp quốc tế cũng là tác nhân có tính hai mặt trong cuộc khủng hoảng.

Một mặt, chúng rất cần thiết cả về mặt tinh thần, kỹ thuật lẫn vật chất, là sự

đảm bảo và chỗ dựa không thể thiếu cho an ninh tài chính tiền tệ thế giới.

Mặt khác, dường như vẫn còn quá ít những lời cảnh báo mang tính hệ thống

để phòng ngừa những tác nhân của khủng hoảng vẫn đang tích luỹ ở trong và

ngoài khu vực, thậm chí đôi khi còn có những lời ca tụng thái quá, gây ảo

tưởng và sự thoả mãn cho các Chính phủ và các nhà đầu tư trong các nền

kinh tế đang phát triển “quá nóng”. Ngoài ra, còn thiếu vắng cả một cơ chế

giám sát, phối hợp và trợ giúp mang tính khu vực giữa các nước thuộc khu

vực châu Á nói chung và Đông Á nói riêng. Ngay cả “liệu pháp cả gói” mà

IMF dùng để chữa trị cho các nước bị khủng hoảng cũng đang được bản thân

các nước này đề nghị xem xét lại bởi tính chất “sản xuất hàng loạt” và máy

móc của nó.

Như vậy có thể nói, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng

hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998, cả ở cấp độ quốc gia (Chính phủ,

các nhà đầu tư, doanh nghiệp, các định chế tài chính - tiền tệ), khu vực và

quốc tế. Tuy nhiên, xét cho đến cùng, những nguyên nhân từ phía bản thân

các nước bị khủng hoảng mới là lý do chính yếu gây nên cuộc khủng hoảng

đó. Do vậy để giải quyết một cách triệt để cuộc khủng hoảng, bản thân mỗi

nước phải tự giải quyết những vấn đề của riêng mình trước khi đổ lỗi cho các

tác nhân bên ngoài.

2.1.2 Quan điểm của IMF và các chính sách hỗ trợ

2.1.2.1 Quan điểm, nhận định của IMF về cuộc khủng hoảng

Cho đến nay đã có nhiều quan điểm nhận định khác nhau về tính chất

của cuộc khủng hoảng khu vực. Có quan điểm cho rằng đây thuần tuý là

cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, mà nguyên nhân trực tiếp và quan trọng

nhất là do những yếu kém trong quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, đặc biệt

là chế độ tỷ giá hối đoái và vấn đề đầu tư. Quan điểm này cũng trùng hợp với

những nguyên nhân được Hội nghị các Bộ trưởng Tài chính ASEAN nêu ra

57

trong cuộc họp tại Malaysia ngày 2/2/1997. Cũng có quan điểm cho rằng đây

là cuộc khủng hoảng chu kỳ gắn với khủng hoảng cơ cấu. Đại diện cho các

quan điểm này là Lester Thuron và Paul Krugman. Thậm chí lại có quan

điểm cho rằng thực chất đó là một cuộc khủng hoảng về mô hình gắn với

những nhược điểm của “các giá trị châu Á”, được nêu ra bởi Fukuyama. Từ

những dấu hiệu báo trước, diễn biến, quy mô, tác động và nguyên nhân của

cuộc khủng hoảng, chúng ta có thể thấy chiều hướng của cuộc khủng hoảng

không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, mà còn lan sang các vấn

đề về thể chế nhà nước, cơ cấu kinh tế, thậm chí ở một số nước như

Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan còn có thể xảy ra bạo loạn, mất ổn định về

chính trị. Tuy nhiên, hiện chưa có điều kiện để khẳng định cuộc khủng hoảng

này là sự sụp đổ của mô hình Đông Á. Song cũng không thể đơn giản chỉ

cho rằng cuộc khủng hoảng khu vực là khủng hoảng tài chính - tiền tệ và

nguyên nhân chủ yếu là do chế độ tỷ giá. Theo quan điểm của IMF và nhiều

nhà phân tích, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á được đặc trưng

bởi 3 tính chất sau:

Thứ nhất, giống như cuộc khủng hoảng những năm 1980 tại Mĩ La tinh

và cuộc khủng hoảng Mexico năm 1994, về thực chất cuộc khủng hoảng tài

chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 là một cuộc khủng hoảng cơ cấu và được

xảy ra đầu tiên ở khâu yếu nhất của nó là lĩnh vực tài chính - tiền tệ, chứ

không phải là khủng hoảng chu kỳ hay sự đổ vỡ một mô hình phát triển nào.

Nói cách khác, những biểu hiện khủng hoảng trong lĩnh vực tài chính - tiền

tệ và những sai lầm trong quản lý là “tảng băng nổi” thể hiện những mất cân

đối và mâu thuẫn trong cơ cấu kinh tế - xã hội của các nước Đông Á trong

thời gian qua. Cuộc khủng hoảng khởi phát từ lĩnh vực tài chính - tiền tệ và

cũng sẽ được khắc phục chủ yếu nhờ những giải pháp nhằm lành mạnh hoá

và hoàn thiện hệ thống tài chính - tiền tệ của mỗi khu vực.

Thứ hai, cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế sâu sắc về những nguyên

nhân, các tác động lan truyền lẫn những nỗ lực nhằm vượt qua khủng hoảng

58

Tính chất quốc tế còn thể hiện ở những thông điệp cảnh báo chung mà nó

đưa ra cho các nước đang phát triển về chính sách tài chính - tiền tệ trong

quá trình CNH và phát triển đất nước.

Thứ ba, cuộc khủng hoảng diễn ra theo tính chất làn sóng, lan toả, sau

đó ảnh hưởng định chế lẫn nhau và bắt đầu từ những chấn động tại các

“trung tâm nhạy cảm”, di chuyển đến những khu vực khác trên thế giới. Cú

sốc tỷ giá ngày 2/7/1997 bùng nổ tại Thái Lan, qua Philippines rồi Indonesia,

sang Hàn Quốc và Nhật Bản, ảnh hưởng tới Singapore, Hồng Kông, Đài

Loan. Sau khi cuộc khủng hoảng nổ ra ở Thái Lan với hàng loạt cú tấn công

có tính chất đầu cơ vào đồng Baht, sự lây nhiễm đã lan sang các nền kinh tế

khác trong khu vực. Khi sự lây nhiễm lan truyền sang Hàn Quốc, nền kinh tế

lớn thứ 11 trên thế giới, khả năng không trả được nợ của Hàn Quốc làm nảy

sinh mối đe doạ tiềm tàng đối với hệ thống tiền tệ quốc tế. Xu hướng chuyển

dịch các trung tâm khủng hoảng tới cả những khu vực khác như Mĩ, EU,

Nga, Brazil v.v, mà càng về sau càng phát tán những mầm mống lây nhiễm

rộng và sâu sắc hơn, kéo theo những tổn thất và đòi hỏi sự phối hợp quốc tế

rộng lớn và mạnh mẽ hơn, tốn kém hơn với thời gian khắc phục dài hơn.

Như vậy, theo nhận định, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á

thực chất vẫn là do nguyên nhân bên trong mỗi quốc gia, song tính chất của

cuộc khủng hoảng lại mang tính quốc tế sâu sắc, có sức lan toả rộng rãi.

2.1.2.2 Nội dung các chính sách hỗ trợ của IMF

Nhằm đạt được mục tiêu trước mắt là khôi phục lòng tin sau khi các

nước Đông Á bị khủng hoảng, tránh sự lan rộng và hậu quả lâu dài, IMF đã

phản ứng nhanh bằng cách hỗ trợ tài chính khẩn cấp cho các nước bị ảnh

hưởng mạnh nhất như Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippines. Là một

tổ chức quốc tế được lập ra để giúp các nước đối phó với việc mất khả năng

thanh toán, trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, IMF đã cố gắng vận

động khu vực và quốc tế tại phiên họp do IMF chủ trì cam kết hỗ trợ tài

chính cho những nước bị khủng hoảng. Bảng 2.9 cho biết các cam kết hỗ trợ

59

tài chính của IMF và cộng đồng quốc tế cho một số nước châu Á. Với

khoảng 26 tỷ SDR (tương đương 36 tỷ USD1) trợ giúp tài chính cho chương

trình cải cách ở các quốc gia đã yêu cầu, IMF đã khởi đầu cho việc huy động

khoảng 77 tỷ USD tài chính bổ sung từ nguồn đa phương và song phương để

hỗ trợ cho các chương trình cải cách này.

Bảng 2.9: Cam kết của IMF và cộng đồng quốc tế hỗ trợ tài chính cho

một số nƣớc châu Á bị khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998

Đơn vị: Tỷ USD

Cam kết

Nƣớc

IMF* 21 10 4 35

Tổng số 57 40 17,2 114,2

Hàn Quốc Indonesia Thái Lan Tổng số

Ghi chú: IMF * Các cam kết của IMF để đối phó với cuộc khủng hoảng châu Á tăng lên đến 36 tỷ USD khi gộp thêm các cam kết dành cho Philippines năm 1997 Nguồn: [22]

Tuy nhiên, để nhận được khoản tín dụng này, các nước bị khủng hoảng

phải chấp nhận “giải pháp cả gói” do IMF đưa ra như sau:

+ Phá giá đồng bạc (trường hợp ở một số nước châu Á họ đã tự phá giá

trước); áp dụng ngay phương thức tỷ giá hối đoái linh hoạt;

+ Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm hạn chế áp lực đối với

cán cân thanh toán bằng cách nâng cao lãi suất để thu hút ngoại tệ và tiền

gửi;

+ Giảm nhu cầu ngoại tệ bằng cách giảm tốc độ phát triển thông qua

việc cắt giảm các dự án đầu tư lớn;

+ Duy trì chính sách tài chính lành mạnh, thực hiện cân bằng ngân sách

nhà nước;

+ Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ để giữ mức lạm phát thấp;

Tuy nhiên, đóng vai trò hạt nhân và là trung tâm trong những chương

trình do IMF hỗ trợ đó là cải cách cơ cấu tài chính. Thực hiện một trong

những chức năng quan trọng nhất của mình, IMF đã thiết kế, xây dựng và

1 Bao gồm cả khoản trợ giúp tài chính cho Philippines

60

yêu cầu các nước bị khủng hoảng cải cách cơ cấu mạnh mẽ, sâu rộng, nhằm

xoá bỏ những đặc điểm yếu kém của nền kinh tế gây cản trở cho sự phát

triển (như độc quyền, hàng rào thương mại, tính chất không minh bạch trong

hoạt động của doanh nghiệp…) và nhằm cải thiện tính hiệu quả của các định

chế tài chính trung gian cũng như tính lành mạnh của hệ thống tài chính.

Mục tiêu nhắm đến của các chương trình cải cách cơ cấu, đặc biệt là cải cách

hệ thống tài chính là:

 Đóng cửa những định chế tài chính không có khả năng tồn tại, cùng

với việc điều chỉnh giảm vốn của các cổ đông;

 Tái cơ cấu nguồn vốn cho các định chế thiếu vốn;

 Giám sát chặt chẽ những định chế yếu kém;

 Tăng cường sự tham gia của nước ngoài vào hệ thống tài chính

trong nước;

 Tăng cường tính công khai cả trong việc công bố các dữ liệu kinh

tế lẫn trong hoạt động tiết lộ thông tin của khu vực tài chính, doanh

nghiệp và khu vực ngân hàng.

Tại Indonesia, ngoài việc bắt đóng cửa một số ngân hàng, chương trình

50 điểm của IMF còn thêm những biện pháp khác: bãi bỏ tất cả những đặc

quyền về thuế dành riêng cho chương trình lắp ráp xe hơi Timor (do con trai

út của ông Suharto nắm giữ); bãi bỏ tổ chức độc quyền mua bán thuốc lá (do

con trai ông Suharto nắm); hạn chế những hoạt động của các cơ quan quốc

doanh độc quyền phân phối gạo; cấm hãng chế tạo máy bay nội địa không

được nhận tài trợ hoặc bảo đảm của chính phủ; mở rộng cửa cho việc mua

tàu bè của nước ngoài; cho phép các công ty chế biến gỗ được buôn bán trực

tiếp với nước ngoài; bãi bỏ những khoản phụ thu trên hàng xuất khẩu; cho

phép sản phẩm chế tạo tại Indonesia bởi công ty có vốn nước ngoài được bán

trong nước; cho phép công ty thương mại nước ngoài được bán hàng tại thị

trường nội địa; cho phép nước ngoài đầu tư vào các đồn điền trồng dầu cọ;

bãi bỏ thuế xa xỉ phẩm đánh trên những xe hơi lắp ráp nội địa, nếu có hơn

61

60% sản phẩm nội; bãi bỏ luật buộc sản phẩm bò sữa phải đạt chỉ tiêu về

nguyên liệu nội địa; bãi bỏ chương trình bắt buộc trồng mía tại vài nơi trong

đảo Java; biến Ngân hàng Trung ương thành một cơ quan độc lập.

Một chức năng không kém phần quan trọng của IMF đó là tƣ vấn

chính sách và giám sát toàn cầu. Thực hiện chức năng này, IMF đã bước

đầu hỗ trợ bằng quá trình công khai hoá đầy đủ tất cả các dữ liệu kinh tế và

tài chính quan trọng trên trang chủ, những dự định thư giải trình các kế

hoạch cải cách kinh tế của các nước, trên cơ sở đó IMF cung cấp những số

liệu, dự báo tin cậy và kịp thời cho các quốc gia đã bị khủng hoảng nhưng

đang trong quá trình cải cách và các quốc gia có nguy cơ khủng hoảng. IMF

cũng ra sức phối hợp với các định chế tài chính quốc tế khác như WB, ADB

cũng như các nhà tài trợ song phương và đa phương nhằm tập trung hỗ trợ

cho các chương trình cải cách kinh tế ở những quốc gia chịu ảnh hưởng của

khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Ngoài ra, IMF cũng nỗ lực thúc đẩy các quốc

gia trong việc quản lý nhà nước và chống tham nhũng.

2.2

CHÍNH SÁCH KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG CỦA CÁC CHÍNH PHỦ

CHÂU Á TRÊN CƠ SỞ HỖ TRỢ CỦA IMF

Dưới sự hỗ trợ của IMF cả về tài chính, kỹ thuật và tư vấn, giám sát,

trên cơ sở xác định những nguyên nhân căn bản của cuộc khủng hoảng,

những thách thức và điều kiện cụ thể của nền kinh tế, các nước trong khu

vực đều tìm mọi cách để thoát nhanh ra khỏi khủng hoảng. Mặc dù thời điểm

xuất phát và cách thức tiến hành khác nhau, song nổi bật vẫn là những chính

sách, biện pháp chung được các nước đã và đang vận dụng: huy động vốn hỗ

trợ trong và ngoài nước, cải thiện chính sách tài chính quốc gia.

2.2.1 Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nƣớc

Lịch sử cho thấy rằng, các tổ chức tài chính quốc tế, đặc biệt là Quỹ

tiền tệ quốc tế (IMF) đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục khủng

hoảng kinh tế - tài chính quốc tế. Mặc dù có những đánh giá khác nhau về

62

vai trò của tổ chức này đối với việc hạn chế khủng hoảng tài chính - tiền tệ

khu vực, song thực tế cho thấy rằng, trước những khó khăn nặng nề do cuộc

khủng hoảng tài chính gây ra thì sự cứu trợ tài chính của cộng đồng quốc tế,

đặc biệt IMF là biện pháp cần thiết tạo điều kiện cho các nước có thể thoát

nhanh ra khỏi cuộc khủng hoảng. Trong chừng mực nhất định, IMF vẫn là tổ

chức có những tác động tích cực để cải thiện nền tài chính cũng như kinh tế

các nước bị khủng hoảng.

Trong giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng, Thái Lan đã vận động cộng

đồng quốc tế cam kết hỗ trợ cho nước này những khoản tiền lớn. Ngay sau

khi những cam kết quốc tế được công bố cùng với những đợt giải ngân đầu

tiên, nền kinh tế Thái Lan đã bắt đầu có dấu hiệu dịu dần. Tuy nhiên, để

nhận được khoản tín dụng này, Chính phủ Thái phải chấp nhận “giải pháp cả

gói” do IMF đưa ra: với ngân sách, Thái Lan vừa phải tăng thuế giá trị gia

tăng (VAT) từ 7-10%, vừa phải giảm chi tiêu 10%; phải đóng cửa các công

ty tài chính yếu kém và duy trì dự trữ ngoại tệ ít nhất là 25 tỷ USD; giữ tỷ lệ

lạm phát ở mức 8-9%; giảm thâm hụt cán cân vãng lai xuống còn 5% GDP

trong năm 1997 và 3% GDP trong năm 1998; cải tổ cơ cấu và sáp nhập một

số định chế tài chính, thiết lập hệ thống bảo hiểm tiết kiệm… Đối với

Philippines, được phép của IMF, đã rút hơn 1 tỷ USD vốn tín dụng để hỗ trợ

thêm lượng ngoại tệ dự trữ hơn 10 tỷ USD của đất nước. Hành động này

được thực hiện sau gần 2 tháng kể từ khi cuộc khủng hoảng xảy ra nhằm

giúp nước này đứng vững trước các cuộc tấn công đầu cơ. Ngoài ra, các

nước ASEAN đã tiến tới một thoả thuận được phép can thiệp vào đồng tiền

của nước thành viên nào đó bị các nhà đầu cơ tấn công. Đối với Hàn Quốc,

để nhanh chóng khắc phục khủng hoảng, Chính phủ cũng đã kêu gọi các tổ

chức ngân hàng nước ngoài hỗ trợ tài chính, củng cố nguồn vốn đầu tư trong

nước. Theo công bố của IMF, vào đầu tháng 12/1997, các tổ chức ngân hàng

và cộng đồng quốc tế đã đồng ý cho Hàn Quốc vay 57 tỷ USD. Hoạt động

của IMF trở nên tích cực hơn từ khi Hàn Quốc bị cuốn vào vòng xoáy khủng

63

hoảng và khi đồng Rupiah của Indonesia trượt giá mạnh. Để đổi lấy những

khoản tiền đó, ngoài những cam kết giống Thái Lan, những nước này còn

phải thực hiện những chính sách mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng.

2.2.2 Cải thiện hệ thống tài chính quốc gia

Ngoài biện pháp kêu gọi hỗ trợ tài chính trong và ngoài nước, sau khi

thả nổi đồng nội tệ và thực hiện nhiều biện pháp tình thế, tập trung tấn công

vào giới đầu cơ, Chính phủ các nước đã đưa ra những chính sách khắc phục

khủng hoảng của mình. Do “uống thuốc” của IMF và do những thúc bách từ

bên trong, các nước bị khủng hoảng trong khu vực đều coi việc tăng năng lực

tài chính và lành mạnh hoá khu vực tài chính là điều kiện tiên quyết cho ổn

định và phục hồi tăng trưởng kinh tế.

Thái Lan đã đóng cửa 58 công ty tài chính “có vấn đề” về khả năng

thanh toán. Cả Indonesia và Hàn Quốc cũng đóng cửa hàng chục ngân hàng

ốm yếu trong nước. Các giải pháp sáp nhập (kể cả các ngân hàng quốc doanh

như ở Indonesia) hoặc tìm cách tăng vốn pháp định, tăng dự trữ rủi ro…

được triển khai mạnh hơn. Thái Lan còn cho phép chứng khoán hoá các

khoản nợ ngân hàng nhằm cải thiện khả năng tiền mặt của ngân hàng và làm

tăng lưu chuyển vốn xã hội. Các hoạt động bảo hiểm tiền gửi, tiền cho vay,

các thủ tục thế chấp, các giới hạn cho vay tối đa mỗi ngành (20% như ở Thái

Lan và Philippines) và phát triển các trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro

tín dụng được áp dụng triệt để. Ngoài các thương lượng gia hạn nợ giữa các

con nợ với chủ nợ, chính phủ Thái Lan còn tăng phát hành chứng khoán

nhằm hỗ trợ mua lại nợ khó đòi của các ngân hàng (theo tỷ lệ chiết khấu

25%); hỗ trợ tín dụng cho người mua để làm tăng cầu trên thị trường bất

động sản, giúp cho các con nợ tăng khả năng trả nợ. Thị trường tài chính các

nước khủng hoảng cũng được mở cửa rộng hơn cho đầu tư nước ngoài. Hầu

hết các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines và Hàn Quốc đều xoá bỏ

các giới hạn cổ phần dưới 50% của các nhà đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá

các thủ tục, cho phép đầu tư nước ngoài tham dự nhanh, rộng và sâu hơn vào

các khu vực kinh tế - tài chính đất nước. Các cơ sở ngân hàng quốc tế ở Thái

64

Lan được phép giảm mức tối thiểu cho các nhà xuất khẩu vay từ 2 triệu USD

xuống còn 500.000 USD, được mua không hạn chế các hoá đơn xuất khẩu

tính bằng ngoại tệ của các công ty địa phương, được bảo lãnh nợ cho các

khoản nợ bằng ngoại tệ, kể cả nợ vay bằng thư tín dụng (LC) mà khách hàng

địa phương vay của các ngân hàng thương mại Thái Lan hoặc của nước

ngoài. Hàn Quốc cũng triển khai những biện pháp nhằm tăng cường quyền

lực của các cổ đông nhỏ, bãi bỏ tệ nạn quan liêu và những hạn chế đối với việc

mua lại, sáp nhập các công ty và mua bán bất động sản của các nhà đầu tư nước

ngoài, bãi bỏ những hạn chế đầu tư nước ngoài vào các công ty lớn của Hàn

Quốc (những trường hợp mà chủ dự án có vốn cổ phần nước ngoài từ 1,26 tỷ

USD trở lên sẽ được tự động tiến hành không cần qua phê duyệt của Chính

phủ).

Những giải pháp tài chính khắc khổ và thận trọng hơn nhằm điều

chỉnh cơ cấu ngân sách, tăng cường hiệu quả vốn đầu tư xã hội, tăng cường

năng lực cạnh tranh xuất khẩu của nền kinh tế, đề cao khu vực tư nhân và

nâng cao năng lực thể chế, điều hành vĩ mô của Chính phủ được triển khai

phổ biến và cũng là những kế sách lâu dài của các nước bị khủng hoảng.

Nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư xã hội, cải thiện khả năng xuất khẩu của

mình, Thái Lan một mặt tiếp tục tăng đầu tư vào những sản phẩm xuất khẩu

truyền thống để cải thiện công nghệ, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản

phẩm, mặt khác tích cực và mạnh dạn đầu tư vào các ngành công nghệ cao,

tìm kiếm và định hình những mặt hàng xuất khẩu mới. Các cố gắng cải cách

chính sách thuế khoá và chính sách giáo dục đi đôi với quá trình xúc tiến tư

nhân hoá cũng được đề cao. Nhìn chung, Thái Lan, Malaysia và các nước

khác đều có thái độ thận trọng và khắt khe hơn đối với những dự án đầu tư

ngân sách lớn, dài hạn, có tỉ lệ thu hồi vốn thấp, phụ thuộc và làm tăng nợ

bằng ngoại tệ mạnh. Chính phủ gác lại những dự án chưa thật cần thiết, quản

lý luồng vốn vay thương mại. Đồng thời, chính phủ các nước đều phát động

các phong trào tiết kiệm, đóng góp của các khu vực dân cư và doanh nghiệp,

tăng phát hành trái phiếu nhà nước để huy động vốn cho các công trình quan

65

trọng, khuyến khích các dự án đầu tư tư nhân hoặc sự tham gia của tư nhân

vào các dự án nhà nước nhằm giảm tỷ lệ đầu tư ngân sách. Chính phủ tăng

cường kiểm soát để loại bỏ các khoản tín dụng không hoặc kém hiệu quả;

làm tăng tính cạnh tranh giữa các thể chế tài chính, tăng khả năng cập nhật,

chính xác hoá và công khai hoá thông tin kinh tế - tài chính, tăng chất lượng

các dự báo kinh tế và tăng cường sự kiểm soát, giám sát tài chính vĩ mô, kể

cả từ phía các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, mỗi nước đều có

mối quan tâm riêng đến việc khắc phục các hậu quả xã hội của khủng hoảng:

ổn định giá cả các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, trợ giúp thất nghiệp, đào tạo

lại nhân lực…

2.3

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH

PHỦ CHÂU Á VỚI IMF TRONG VẤN ĐỀ KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG

TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

2.3.1 Đánh giá hiệu quả của chính sách

2.3.1.1 Sự khác biệt về các mức kết quả trong việc khắc phục khủng

hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước Đông Á

Có thể thấy rằng khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã gây ra những ảnh

hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng

khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều ngân hàng, doanh

nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng

nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là

Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Trong số các nước bị khủng hoảng, đồng

Rupiah của Indonesia giảm giá mạnh nhất, tới 86% so với đồng USD. Các

đồng tiền của Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia và Philippines đều giảm

khoảng 40-60%. Các thị trường chứng khoán của các nước này đều bị giảm

giá ít nhất 75% tính theo USD. Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đó là

GDP và GNP bình quân đầu người tính bằng USD theo sức mua tương

đương (PPP) giảm rõ rệt. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện

tượng này. Theo CIA World Fact Book, thu nhập bình quân đầu người của

Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997 xuống còn 8.300 USD vào

66

năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống còn 3.700 USD, của

Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống còn 10.400 USD. Năm 1997,

Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và Thái Lan đã chứng kiến GDP bình quân

đầu người sau khi đã loại bỏ yếu tố lạm phát, giảm trung bình 11%, hàng

triệu người mất việc làm. Thái Lan và Indonesia, hai nước bị thiệt hại lớn

nhất, đã phải gánh chịu sự sụt giảm GDP trong thời gian từ năm 1997 đến

2002 là khoảng 35% so với sản lượng tiềm năng của những nước này (tức là

giả định rằng tăng trưởng đạt tốc độ như trước đó), bằng mức sụt giảm sản

lượng của Mĩ trong cuộc Đại Suy thoái vào đầu những năm 1930 [64].

Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của

Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống

phương Tây gia tăng cùng với sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros

và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Các phong trào Hồi giáo, ly khai và khủng bố

phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy

yếu. Tình trạng đảo chính, mất ổn định về chính trị vẫn kéo dài cho đến nay

ở Thái Lan. Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó

góp phần dẫn tới khủng hoảng tài chính ở Nga và Brazil, làm mức tăng

trưởng của cả khu vực và thế giới giảm sút trong những năm sau khủng

hoảng. Một số nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh

hưởng xấu do tình trạng giảm sút của xuất khẩu và dòng vốn FDI.

Mặc dù sau năm 2002 và đặc biệt sau năm 2004, kinh tế của các nước

bị khủng hoảng nặng nề nhất hầu như đã được phục hồi về căn bản (mức

tăng trưởng và xuất khẩu có tăng, lạm phát được duy trì ở mức một con số,

ngân sách có số dư, thâm hụt giảm đi, nợ xấu giảm…), song vẫn còn đó

những dấu hiệu cho thấy tính chất dễ bị tổn thương của các nước trong khu

vực, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính. Qua phân tích và đối chiếu các

chính sách khắc phục khủng hoảng của các chính phủ châu Á, đặc biệt là của

Thái Lan, Indonesia và Hàn Quốc dưới sự hỗ trợ của IMF, ngoài những nét

cá biệt của mỗi nước, một số điểm chung có thể được xem như là những yếu

67

kém có tính chất dễ tổn thương, đó là:

- Chương trình cải cách chủ yếu là dùng quỹ công, và trong chừng

mực nào đó, phát hành trái phiếu nội địa và quốc tế để tái cấp vốn cho các

ngân hàng; mua nợ khó đòi để lành mạnh hoá bảng cân đối tài chính của

ngân hàng nhằm khôi phục khả năng phát hành tín dụng. Nói chung, ở cả ba

nước không thay đổi người sở hữu và ban giám đốc ngân hàng. Do đó, các

ngân hàng ở châu Á vẫn tiếp tục làm ăn theo kiểu cũ, vẫn bị áp lực và sự can

thiệp của chính phủ hay tập đoàn kinh doanh, chưa thực hiện rộng rãi cung

cách và nghiệp vụ kinh doanh tín dụng hiện đại. Chính phủ các nước này

cũng có ý thức cần phải mở cửa, đón nhận các ngân hàng quốc tế và để giúp

hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng trong nước, nhưng tỷ lệ sở hữu nước ngoài

đối với tài sản ngân hàng vẫn còn thấp, mặc dù có tăng so với trước khủng

hoảng.

- Tái cấu trúc nợ doanh nghiệp và cải cách doanh nghiệp tiến hành

chậm và yếu ớt. Các công ty quản lý tài sản, với sự bảo trợ của Chính phủ,

đã mua một số nợ khó đòi nhưng để đó chứ chưa bán lại cho nhà đầu tư tư

nhân. Điều này làm cho tình trạng dan díu giữa giới kinh doanh và giới cầm

quyền càng thêm phức tạp và không minh bạch. Nói chung, các doanh

nghiệp con nợ vẫn làm ăn theo lối cũ, không bị áp lực phải thay đổi tổ chức

và chiến lược kinh doanh để có thể cạnh tranh tốt hơn trong tương lai. Đó là

vì phần lớn luật phá sản chỉ mang tính hình thức chứ chưa được áp dụng triệt

để, nên không bảo vệ được quyền lợi của chủ nợ và kỷ luật con nợ.

- Việc lành mạnh hoá quan hệ giữa giới kinh doanh và giới cầm quyền

diễn ra không đồng đều. Hàn Quốc có nhiều tiến bộ; Thái Lan và Indonesia

có nhiều bất ổn về chính trị; Maylaysia có nhiều dấu hiệu vẫn còn việc trợ

giúp doanh nghiệp thân hữu với giới cầm quyền.

- Việc cải cách phương thức quản lý doanh nghiệp có tiến bộ nhưng

chưa đầy đủ. Chính phủ các nước đã ra luật buộc doanh nghiệp phải nâng

cao chất lượng kế toán, kiểm toán; áp dụng những nguyên tắc kế toán được

quốc tế công nhận; tăng cường lượng thông tin trong các báo cáo tài chính.

68

Tuy nhiên vẫn chưa có nhiều thay đổi trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ

đông thiểu số, một vấn đề cần thiết để thu hút đầu tư chứng khoán. Cấu trúc

của các tập đoàn đa năng - sở hữu của các gia đình đại chủ, mang tính chất

“kim tự tháp” vẫn còn phức tạp. Các tập đoàn của Hàn Quốc, tuy có áp lực

của chính phủ, nhưng thay đổi rất chậm và đang tìm mọi cách cưỡng lại cải

tổ.

- Chính sách kiểm soát thị trường vốn ngắn hạn của Malaysia còn gây

ra nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế với giới đầu tư quốc tế. Thậm chí các

nhà đầu tư quốc tế còn kêu gọi “tẩy chay” Malaysia vì đã “đổi luật chơi nửa

chừng”.

- Doanh nhân Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia chưa tìm ra đối sách

để giải quyết tình trạng thừa khả năng sản xuất. Các sản phẩm truyền thống

như thép, ô tô, hoá dầu, linh kiện điện tử và vi mạch máy tính vẫn là những

sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của các nước này, trong khi đây là những sản

phẩm, những ngành mà thế giới đang thừa công suất, vì thế cạnh tranh sẽ gay

gắt và lợi nhuận giảm. Hơn nữa, hiện nay các nước Đông Á đang phải cạnh

tranh gay gắt với Trung Quốc, Ấn Độ và một số quốc gia đang phát triển mới

nổi khác trong khu vực với ưu thế cạnh tranh lớn hơn tương đối. Nếu các

nước này không tìm hướng đầu tư, sản xuất các mặt hàng khác có giá trị gia

tăng và hàm lượng công nghệ thì rất khó có thể đảm bảo tăng trưởng kinh tế

mạnh và bền vững trong tương lai.

Tuy nhiên, trong số ba nước chịu tác động nặng nề nhất thì có thể thấy

Hàn Quốc là nước thực thi bài bản nhất phương thuốc của IMF. Tiến trình

cải cách ở Hàn Quốc có sự lãnh đạo rõ ràng và nhất quán của người lãnh đạo

chính trị cao nhất, có chương trình hành động và áp lực của chính phủ, vì

vậy cải cách đã diễn ra một cách tương đối khẩn trương và tiến xa nhất so

với các nước trong khu vực. Trong cải cách, Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt

chú ý tới 2 vấn đề: tỷ lệ nợ/vốn trong doanh nghiệp quá cao và tình trạng

thừa khả năng sản xuất. Với khoảng 57 tỷ USD tài trợ trọn gói của IMF cùng

với những bước đi cải cách cần thiết, kinh tế Hàn Quốc đã nhanh chóng phục

69

hồi ngay trong năm 1999. Kinh nghiệm của Malaysia được nhiều người coi

đó là một thành công vì vừa giữ được ổn định trong nước, vừa khôi phục hệ

thống ngân hàng, vừa hạn chế dòng chảy vốn ngắn hạn có tính chất đầu cơ,

vừa thu hút được nhiều FDI, trong khi vẫn tránh khỏi việc phải lệ thuộc quá

nhiều vào IMF. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu,

Malaysia mới chỉ tìm cách củng cố hệ thống kinh tế của thập kỷ 1980 chứ

không tự đổi mới để chuẩn bị khả năng cạnh tranh trong những năm tới như

một vài nước trong khu vực đang cố gắng làm (như Singapore, Hàn Quốc,

Đài Loan…). Indonesia là nước được coi là minh chứng rõ nét cho thấy phương

thuốc của IMF không những tỏ ra vô hiệu lực mà còn đẩy Indonesia vào một

cuộc khủng hoảng xã hội và chính trị sâu rộng hơn. Về phần Thái Lan, mặc dù

có nhiều tiến bộ, song tình trạng mất ổn định chính trị, bạo động gia tăng và

cuộc đảo chính gần đây, được coi là kết quả sau cuộc khủng hoảng năm 1997 là

những dấu hiệu cho thấy khả năng phục hồi hoàn toàn của Thái Lan là chưa thể

tính đến nếu như tiến trình bầu cử và việc thông qua Hiến pháp mới chưa được

thực hiện.

2.3.1.2 Phê phán chính sách hỗ trợ của IMF

Nếu như chia cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á làm 3 giai

đoạn, giai đoạn thứ nhất là trước năm 1997 với những dấu hiệu báo trước về

cuộc khủng hoảng, giai đoạn hai được bắt đầu khi chính phủ các nước can

thiệp để ổn định tỷ giá hối đoái song không thành công và buộc phải thả nổi

tỷ giá. Cùng với việc chẩn đoán bệnh và áp dụng phương thuốc đặc trị của

IMF, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã bước vào giai đoạn thứ ba. IMF

đã coi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á như là một cuộc khủng

hoảng cán cân thanh toán, do đó tín dụng được tài trợ với điều kiện là các

nước này phải chấp nhận “liệu pháp cả gói” bao gồm: thả nổi tiền tệ, tăng

mạnh lãi suất, tự do hoá hơn nữa tài khoản vốn và đóng cửa các định chế tài

chính “có vấn đề” về khả năng thanh toán, v.v… Việc chẩn đoán không

chính xác, đầy đủ và “toa thuốc” được kê bởi IMF không những không làm

cho cuộc khủng hoảng dịu đi mà còn làm tồi tệ hơn và kéo dài cuộc khủng

70

hoảng tài chính châu Á.

Trong suốt hơn 60 năm qua, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã giúp nhiều

nước vượt qua khó khăn về kinh tế và đã tạo được những thành tích đáng kể.

Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, IMF một mặt

được các chính phủ nhờ cậy giải cứu, mặt khác cũng bị phê phán khá nhiều.

Là một tổ chức uy tín, IMF lẽ ra đã có thể trấn an và tái tạo niềm tin, nhưng

ngược lại, cứ mỗi khi những biện pháp của IMF được công bố tại nước nào

thì dường như tình hình kinh tế nước đó lại trở nên bất ổn và đồng tiền lại sụt

giá mạnh hơn. Tại Thái Lan, đồng Baht đang ở mức 30 Baht/USD, tụt xuống

32 Baht/USD ngày 28/7/1997 khi chính phủ loan báo nhờ IMF trợ giúp. Sau

khi công bố các biện pháp của IMF, đồng Baht tụt giá xuống 35 Baht/USD

vào 11/9/1997. Đồng Won của Hàn Quốc và nhiều đồng tiền khác cũng

trong tình trạng tương tự, thậm chí đồng Rupiah của Indonesia còn trong tình

trạng bi đát hơn cả. Từ 3.290 Rupiah/USD tụt xuống 3.525 Rupiah/USD

ngày 8/10/1997 khi Indonesia quyết định nhờ IMF trợ giúp; khi IMF chính

thức nhập cuộc thì đổ xuống 8.650 Rupiah/USD, rồi rơi tự do xuống 13.250

Rupiah/USD một tuần sau đó. Nói chung, các nhà phê bình cho rằng IMF đã

phạm hai lỗi lớn: trước hết là đã không đoán trước được cuộc khủng hoảng,

và sau đó là đã không biết rõ căn bệnh nên dùng sai thuốc khiến cuộc khủng

hoảng trở nên trầm trọng hơn.

Tại phiên họp thường niên của IMF và WB tại Hồng Kông vào tháng

9/1997, ông Michel Camdesus, Giám đốc điều hành IMF lúc đó tuyên bố

rằng chính họ đã lên tiếng cảnh báo về cuộc khủng hoảng trong bản tường

trình năm trước. Tuy nhiên, Jeffrey Sachs thuộc Đại học Havard đã chỉ trích

trên tờ Financial Times vào tháng 12/1997 rằng trong bản tường trình ấy

tuyệt nhiên không có chút dấu hiệu báo động nào cả, ngoại trừ những lời

khuyên cần cải tổ thêm. Đối với Malaysia, ngay hồi tháng 6/1997, IMF còn

lên tiếng ca ngợi mô hình kinh tế nước này và khen chính phủ Malaysia đã

giữ vững được cơ cấu tài chính trong một hoàn cảnh đầy thách thức khi nền

kinh tế tăng trưởng nhanh. Chỉ 4 tháng sau đó, IMF lại trở ngược và nặng lời

71

phê phán Malaysia.

Quan trọng hơn, “bài thuốc” mà IMF đưa ra đã bị một số nhà kinh tế

phê phán mạnh mẽ, đặc biệt là lần đầu tiên trong lịch sử từ phía WB, nhất là

sau khi các điều kiện IMF đã được thực hiện tương đối nghiêm túc ở Thái

Lan và Hàn Quốc nhưng chưa có dấu hiệu gì là đồng nội tệ lấy lại được lòng

tin. Là điều kiện cho các khoản cứu trợ tài chính, công thức của IMF thực

chất xoay quanh 2 vấn đề cơ bản: (1) cải tổ nền kinh tế, mà đặc biệt nhấn

mạnh vào việc cơ cấu lại khu vực ngân hàng và tài chính; (2) duy trì lãi suất

cao để tránh dòng vốn tháo chạy và các cuộc tấn công tiền tệ. Những người

phê phán cho rằng giữ mức lãi suất quá cao không những không làm cho

việc phá giá tiền tệ chậm lại mà còn làm tăng khả năng phá sản hàng loạt

doanh nghiệp và ngân hàng. Tác động của chính sách này được mô tả bởi

“vòng luẩn quẩn” sau đây: tình trạng đói tín dụng (credit crunch) làm cho

các công ty có khả năng thanh toán khác cũng bị mất mát về tài chính; lợi

nhuận ngày càng giảm làm xuất hiện các khoản vay không sinh lời (NPLs)

và gia tăng rủi ro tín dụng làm trầm trọng thêm cuộc suy thoái; và cuối cùng

lại gây ra sự co lại của cung tín dụng. Phê phán cơ bản là không thể áp dụng

một bài thuốc cho tất cả các nước. Ngòi nổ phê phán này bắt đầu từ J. Sachs

thuộc Viện Phát triển Đại học Havard.

Một trong những điều đầu tiên IMF đã mang ra thi hành tại Thái Lan,

Hàn Quốc và Indonesia là lập tức bắt đóng cửa một số ngân hàng. Tại Hàn

Quốc, IMF bắt đóng cửa 14 trong số 30 ngân hàng đầu tư; tại Indonesia, 16

ngân hàng lỗ bị buộc phải đóng cửa; tại Thái Lan 58/91 công ty tài chính

phải ngừng hoạt động. Nhiều quan điểm cho rằng IMF đã phạm một lỗi lớn

khi đem những phương thuốc đã áp dụng ở Nam Mĩ ra dùng lại ở châu Á,

mặc dầu căn bệnh ở đây khác hẳn. Việc đóng cửa ngân hàng trong giai đoạn

khủng hoảng chỉ làm cho mọi người thêm sợ hãi, vội vã rút tiền khỏi ngân

hàng, kể cả những ngân hàng có khả năng thanh toán và khả năng tài chính

tốt. Trong khi vấn đề chính là việc nhiều công ty thiếu tiền trả nợ ngắn hạn

thì IMF lại không đứng ra giúp điều đình hoãn nợ, mà lại cho tăng lãi suất

khiến tình hình trở nên khó khăn hơn. Bàn về những biện pháp của IMF, nhà

72

kinh tế Steve Radelet phê bình: “Thật hoàn toàn phi lý khi bắt những nước

này phải thắt lưng buộc bụng trong khi họ hiện có thừa khả năng sản xuất và

mức tiết kiệm đã lên tới 30% tổng số thu nhập”. Còn J. Sachs thì nặng lời chỉ

trích: “Không có lý do gì để cho rằng nền tài chính châu Á đáng báo động

cả… châu Á cần cải tổ khu vực tài chính là đúng, nhưng không thể vin vào

lý do đó để tháo chạy hoảng hốt, và cũng không thể vì thế mà đưa ra những

biện pháp thay đổi chính sách quá khắt khe như vậy. Châu Á có đủ sức để

đương đầu với một sự co thắt kinh tế: ngân sách của họ ở mức cân bằng hay

thặng dư, mức lạm phát thấp, vốn tiết kiệm khá nhiều và họ thừa sức đẩy

mạnh xuất khẩu”. Giới phê bình quốc tế còn cho rằng IMF đã không hề bàn

bạc kỹ lưỡng cùng các chuyên gia kinh nghiệm mà đột nhiên áp đặt những

phương thuốc đắng để thắt chặt nền kinh tế trong bối cảnh nóng khiến cuộc

khủng hoảng càng trầm trọng hơn. J. Sachs cho rằng: “… Những người bị

ảnh hưởng nhiều nhất bởi các chính sách mà IMF đưa ra thì lại không được

biết gì và cũng không hề được góp ý”, và cho rằng IMF đã không biết đưa ra

một chương trình giải cứu phù hợp với những nhu cầu của Đông Nam Á và

chính họ “đã góp phần làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng”.

Vậy phải chăng chính sách của IMF hỗ trợ các nước khắc phục khủng

hoảng là sai lầm? Chắc chắn không hoàn toàn sai vì nếu sai thì tại sao đến

nay các nước này lại phục hồi được kinh tế của mình. Bằng chứng là, cho tới

năm 2000, thu nhập bình quân đầu người đã trở lại mức trước khủng hoảng

tại Hàn Quốc và Malaysia; còn tại Thái Lan và Indonesia thì lần lượt đến

năm 2003 và 2004. Công bằng mà đánh giá, có thể nói, sẽ không thể khắc

phục được khủng hoảng nếu như không có vai trò của IMF. Vai trò này đã

được tái khẳng định trên nhiều diễn đàn đa phương. Cần phải thấy rằng, nếu

không chấp nhận giải pháp của IMF, các công ty đang có khủng hoảng nợ

chỉ có thể tuyên bố phá sản. Thực chất “liều thuốc” của IMF là nhằm lấy lại

lòng tin cho khu vực và giúp các nước khủng hoảng phục hồi kinh tế một

cách nhanh chóng và bền vững. Trên thực tế, có thể thấy chính sách của IMF

đã có thành công nhất định ở một số nước như Hàn Quốc. Một số nước khác

ít thành công hơn, phục hồi chậm hơn, thậm chí còn lún sâu vào khủng

73

hoảng là do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến sai lầm và sự thiếu hợp

tác của các nước bị khủng hoảng. Cho nên nếu đổ lỗi hoàn toàn cho IMF

cũng là không công bằng.

Vậy nếu chính sách của IMF không sai thì tại sao vẫn có nước lún sâu

vào khủng hoảng? Một số nội dung của vấn đề được đem ra phê phán thật ra

là ở liều lượng của giải pháp chứ không phải là chính giải pháp. Thái Lan,

Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc mỗi nước đều có sự khác biệt cả về điều

kiện, trình độ phát triển và khả năng phục hồi. Đó là chưa kể tới những vấn

đề khác biệt về thể chế nhà nước, chính trị, văn hoá, xã hội, cấu trúc kinh tế -

tài chính v.v. Cho dù cùng một bệnh, nhưng nếu có “tiểu sử”, “cơ địa” khác

nhau thì liều lượng giải pháp cũng phải khác nhau. Không thể máy móc áp

dụng cùng một liều thuốc cho tất cả các “bệnh nhân”.

Lý giải cho việc tại sao bên cạnh việc cảnh báo, IMF vẫn khen ngợi

thành công của Đông Á xuất phát từ hai nguyên nhân. Một là, những số liệu

kinh tế của các nước Đông Á cung cấp cho IMF vẫn cho thấy dấu hiệu tương

đối tốt như tăng trưởng cao, lạm phát thấp, ngân sách nhà nước cân bằng v.v.

Hai là, những cán bộ của IMF, họ cũng chỉ là những con người cụ thể, họ có

thể mắc sai sót.

Một số phê phán khác có tính dài hạn và cơ bản hơn cần được cân nhắc

đối với các nước đang phát triển. Phê phán thứ nhất là phải chăng nợ tư nhân

cần để cho tư nhân tự do quyết định hay cần kiểm soát và theo dõi sát sao

như nợ nhà nước? Thứ hai là, liệu sự can thiệp của IMF có làm gia tăng rủi

ro đạo đức hay không khi cuộc khủng hoảng gây tác động lớn về mặt xã hội

và mọi người dân trong quốc gia đó đều phải chịu, trong khi những chủ nợ

lại được giải cứu và không phải chịu phần lớn trong gánh nặng đó? Thứ ba

là, liệu có nên hoàn toàn tự do hoá dòng chảy vốn, đặc biệt là buôn bán ngoại

tệ, hay là cần kiểm soát? Lợi ích và chi phí của việc kiểm soát vốn? Nếu

kiểm soát vốn thì sẽ kiểm soát như thế nào và ở mức độ nào? Thành công

của Malaysia trong việc khống chế cuộc khủng hoảng tốt hơn nhiều nước

trong khu vực bằng cách áp dụng một số biện pháp hạn chế luồng tiền đổ ra

nước ngoài đã khiến cho người ta có thái độ nghi ngờ đối với quan điểm cho

74

rằng các nước nên mở cửa thị trường hết mức có thể. Những phê phán này

đánh thẳng vào định chế thương mại thế giới mà cơ quan có trách nhiệm là

WTO, đứng đằng sau các định chế này là Mĩ, các nước G7 cùng các nước

lớn khác.

2.3.2 Đánh giá vai trò của sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ

châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng

IMF là một tổ chức tài chính quốc tế chủ yếu có trọng trách giải quyết

cuộc khủng hoảng tài chính tại một số nước châu Á. Sự phá giá lần lượt của

các đồng tiền các nước Đông Á, các hoạt động đầu cơ và sự đổ vỡ của các

thị trường chứng khoán khiến người ta đặt ra câu hỏi: các bài học của

Mexico đã được chú ý hay không? Nếu như cuộc khủng hoảng Mexico tác

động đến phần lớn những người tham gia các thị trường tài chính và các tổ

chức quốc tế một cách đột ngột, thì sự phát triển tình hình ở Đông Á trong

một chừng mực nào đó, đã được dự đoán từ rất lâu trước khi xảy ra khủng

hoảng. Ngay từ tháng 4/1994, trong một báo cáo riêng gửi Chính phủ các

nước châu Á, IMF đã bày tỏ sự quan tâm đến sự phát triển tình hình trong

khu vực. Chẳng hạn, IMF đã cảnh báo Indonesia, Malaysia, Thái Lan rằng

sự tăng nhanh các mức cầu đang dẫn đến việc khai thác các cơ sở sản xuất

dự phòng và tất yếu làm phát triển nền kinh tế quá nóng. Tuy nhiên, do nhiều

nguyên nhân, các Chính phủ đã bỏ qua những lời cảnh báo này. Theo báo

cáo cuối cùng của IMF trong tháng 7/1997, IMF đã kết thúc tư vấn với Thái

Lan sau khi đã lưu ý sự xuất hiện các dấu hiệu quá nóng của nền kinh tế và

sự khôi phục chậm chạp trong việc giảm thâm hụt cán cân thanh toán, nhưng

đồng thời đã thừa nhận các kết quả của Chính phủ trong việc tiến hành

“chính sách vĩ mô lành mạnh”. IMF đã cảnh báo rằng, tăng thâm hụt cán cân

thanh toán “đã tăng tính dễ bị tổn thương của Thái Lan trước các đòn kinh tế

và các thay đổi bất lợi trên các thị trường” khi không kiểm soát chặt chẽ

dòng vốn. IMF đã đề nghị áp dụng một tỷ giá trao đổi linh hoạt hơn để “tăng

sự độc lập của đồng tiền và giảm các tác nhân kích thích đối với dòng vốn

ngắn hạn”. Tháng 11/1997, Tổng giám đốc IMF Camdessus đã nhắc lại

những cảnh báo cho Thái Lan. Ông đã kêu gọi tiếp tục cải thiện tài chính nhà

75

nước trong đó có việc giảm chi phí quân sự, tăng cường thu thuế và củng cố

tình hình tài chính của Chính phủ và các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy,

không thể nói rằng IMF đã không hành động. Các cảnh báo của IMF đã bị bỏ

qua, mặc dù theo giới lãnh đạo IMF, ngay trong tháng 4/1997, Thái Lan vẫn

có thể kịp áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa khủng hoảng, tuy nhiên Thái

Lan đã không muốn làm việc đó. Kết quả là, người ta buộc phải giúp cho

Thái Lan 17,2 tỷ USD.

Về phía các “con bệnh” và nhiều nhà kinh tế khác mà đứng đầu là J.

Sachs lại cho rằng IMF đã không dự đoán trước được mức độ lây lan của

cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo sự kiện ở Thái Lan, tuy các sự kiện này

có thể được dự đoán từ trước. IMF chỉ có thể đưa ra các khuyến nghị mà

không thể bắt buộc các Chính phủ thực hiện. Thậm chí khi đưa ra phương

thuốc đắng, IMF cũng không bàn bạc kỹ lưỡng cùng các chuyên gia kinh

nghiệm. J. Sachs cho rằng: “… Những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi

các chính sách mà IMF đưa ra thì lại không được biết gì và cũng không hề

được góp ý. Tại Hàn Quốc, IMF đã khăng khăng đòi chính phủ phải ký ngay

một thoả ước mà họ đã không hề được tham gia dự thảo hay điều đình, và lại

cũng không có thì giờ tìm hiểu”.

Những quan điểm khác nhau của những người trong và ngoài cuộc đã

cho thấy việc thiếu phối hợp chính sách trong việc khắc phục khủng hoảng

giữa các chính phủ châu Á với nhau cũng như giữa các chính phủ với IMF.

Trước hết, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á nổ ra và ảnh hưởng

lan truyền của nó đã khiến cho các nước trong khu vực ý thức sâu sắc hơn về

sự cần thiết của việc hợp tác tài chính giữa các nước trong khu vực. Các

nước châu Á bỗng nhận thấy mặc dù có nền tảng vĩ mô tương đối tốt, nhưng

họ vẫn không thể vô sự khi các nước láng giềng lần lượt suy thoái. Việc

thiếu hợp tác tài chính giữa các nước Đông Á càng khiến họ trở nên dễ bị tổn

thương hơn khi phải đối mặt riêng lẻ. Các nước nhận thấy rằng nếu như họ

có sự phối hợp tài chính trong vùng trước khi khủng hoảng xảy ra thì tình

trạng của họ sẽ tốt hơn rất nhiều. Lĩnh vực đầu tiên của sự hợp tác đó là việc

thành lập Quỹ Dự trữ ngoại hối, có tác dụng giúp các nước đang chịu sự tấn

76

công tiền tệ quốc tế. Sự tồn tại của một Quỹ tương đối lớn và sẵn sàng trợ

giúp như thế trước khi cần đến gói cứu trợ của IMF được xem như vật cản

quan trọng đối với bất cứ một “diều hâu” tiềm tàng nào. Việc đề xuất thành

lập Quỹ tiền tệ châu Á (AMF) do đó cũng không phải là ý tưởng tồi. Tuy

nhiên, việc thiếu thông tin giữa các Ngân hàng Trung ương châu Á đã khiến

cho ý tưởng này thất bại.

Một lĩnh vực khác của sự hợp tác đó là phối hợp chính sách tỷ giá hối

đoái. Trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, việc phá giá cạnh tranh

giữa các nền kinh tế làm cho tình hình càng trở nên xấu đi. Đó là chưa kể tới

việc nếu như Trung Quốc không cam kết duy trì chính sách không phá giá

tiền tệ thì cuộc khủng hoảng còn tồi tệ hơn nữa. Để tránh lặp lại sai lầm này,

sự hợp tác trong chính sách tỷ giá hối đoái là cực kỳ quan trọng. Sự hợp tác

này có thể trên nhiều mức độ khác nhau, từ việc tư vấn và phối hợp chính

sách, những hành động nâng giá tập thể so với những đồng tiền nước ngoài

chủ chốt, đến cơ cấu tỷ giá hối đoái châu Á, đồng tiền song song hay đồng

tiền chung châu Á, v.v.

Như trên đã phân tích, rõ ràng IMF đã có cảnh báo về những nguy cơ

tăng trưởng nóng, vậy tại sao IMF vẫn không dự đoán được khủng hoảng và

mức độ lây lan của nó? Phải chăng hệ thống cảnh báo của IMF là sai? Chắc

chắn những cảnh báo này không sai, và cũng không thể trách IMF đã không

dự đoán được khủng hoảng. Bởi thực tế, khó có thể đặt ra những chỉ số cho

phép dự báo khủng hoảng quá sớm với độ tin cậy cao mà không có sai số.

Nếu có thể xây dựng những chỉ số như vậy thì chúng cũng sẽ mất tác dụng,

bởi vì tính năng hoạt động của chúng sẽ thay đổi: thị trường sẽ tính đến

chúng như một yếu tố và nếu như cuộc khủng hoảng đang tới gần, sẽ bị thúc

đẩy xảy ra sớm hơn, hoặc các nhà lập chính sách sẽ hành động nhằm ngăn

chặn không cho khủng hoảng nổ ra. Kết quả là những chỉ số đó mất đi tác

dụng. IMF chỉ có thể dự đoán những động thái kinh tế xảy ra cùng với nguy

cơ khủng hoảng.

Vậy phải chăng những cảnh báo của IMF thực sự chưa đủ mạnh, chưa

đủ sức răn đe đối với các nước Đông Á hay phương pháp giám sát của IMF

77

không hiệu quả? Nếu đúng như vậy thì vấn đề chính lại nằm ở sự thiếu phối

hợp giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng

hoảng. Hệ thống kế toán, thống kê không phù hợp chuẩn mực quốc tế cùng

với việc chậm công bố, thậm chí che đậy thông tin của một số Chính phủ,

sửa chữa số liệu, thông tin kinh tế, tài chính v.v. là những tín hiệu bóp méo

thị trường, tạo thông tin sai lệch và càng làm chậm tiến trình giải quyết hậu

quả của cuộc khủng hoảng. Chẳng hạn dự trữ ngoại tệ của Thái Lan được

công bố là 30 tỷ USD nhưng thực ra chỉ có 1,1 tỷ USD; Hàn Quốc công bố

25 tỷ USD dự trữ nhưng thực ra là số âm lớn [11, tr.71]. Tuy nhiên, đứng

đằng sau cái gọi là “thiếu sự phối hợp” này là gì? Tại sao phương pháp giám

sát của IMF không hiệu quả? Tại sao các chính phủ châu Á lại che đậy thông

tin? Đây là những vấn đề hết sức phức tạp vì nó liên quan đến vấn đề lợi ích,

chủ quyền quốc gia, đến việc xác định lại vai trò của IMF.

Có thể nói, khủng hoảng tài chính Đông Á làm người ta nhận thức rõ

hơn sự cần thiết phải có một hệ thống tài chính - ngân hàng vững mạnh,

minh bạch. Điều này thôi thúc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng

Thanh toán quốc tế (BIS) đổi mới các quy chế về ngân hàng và các tổ chức

tín dụng nói chung. Chính phủ các nước đang phát triển cho rằng các dòng

vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và vốn vay ngân hàng nước ngoài có thể

đem lại những tác động bất lợi với nền kinh tế của họ. Do đó, nhiều Chính

phủ đã ban hành những quy chế nhằm điều tiết các dòng vốn này. Bên cạnh

đó, những thoả thuận ở cấp khu vực nhằm phát triển một hệ thống phòng

ngừa khủng hoảng tái diễn đã được thúc đẩy ở châu Á, ví dụ Sáng kiến

Chiang Mai, Tiến trình Đánh giá và Đối thoại kinh tế ASEAN+3, Sáng kiến

Thị trường Trái phiếu Châu Á, v.v.

Mười năm sau khi đóng một vai trò gây nhiều tranh cãi trong cuộc

khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, IMF đang lâm vào một cuộc khủng

hoảng của chính mình. Trên thực tế, nhiều người vẫn hoài nghi vai trò của

IMF trong việc thúc đẩy kinh tế của các nước đang phát triển. Mark

Weisbrot, đồng giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách, một

cơ quan tư vấn có trụ sở tại Washington D.C nói: “Cuộc khủng hoảng châu

78

Á là sự khởi đầu của một tiến trình, mà kể từ đó IMF đã mất gần hết ảnh

hưởng trên thế giới sau một thập niên”. Được thành lập trong đống tro tàn

của Chiến tranh Thế giới II với sứ mệnh bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài

chính quốc tế, IMF ngày nay đang phải đối mặt với sức ép cải cách những

tập quán của chính mình. Những người chỉ trích cho rằng IMF phục vụ lợi

ích của những quốc gia giàu có bằng cách áp đặt những tập quán thị trường

tự do. Tháng 5/2007, Tổng thống Venezuela Hugo Chavez tuyên bố nước

này rút khỏi IMF và WB, những định chế bị ông mô tả là “công cụ của chủ

nghĩa đế quốc Mĩ” bóc lột các nước nghèo. Một số tổng thống Mĩ La tinh

khác, trong đó có Nestor Kircher của Argentina và Rafael Correa của

Ecuador cũng không che dấu thái độ coi thường IMF. Tại hội nghị toàn thể

gần đây ở Singapore, IMF đã bị gây sức ép đòi phải cho phép các nước

nghèo và đang phát triển có nhiều tiếng nói hơn trong Ban Giám đốc điều

hành của định chế tài chính này. Một số nước có thể được lợi từ việc thay

đổi cách thức điều hành IMF, chẳng hạn như Hàn Quốc đã có quyền bỏ

phiếu. Mười năm sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, một số “bệnh

nhân” của IMF đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, khiến sứ

mệnh của IMF tại những quốc gia này trở nên thừa thãi. Các định chế khu

vực mới nổi lên đang thách thức vị thế của IMF. Không những thế, sự tăng

trưởng kinh tế mạnh mẽ toàn cầu và sự bùng nổ tín dụng tư nhân trên các thị

trường thế giới trong một thời gian dài đã tạo ra nhiều kênh vốn mới cho

những nước muốn vay tiền. Trong khi đó, tiến trình cải cách của IMF lại rất

chậm chạp. Vai trò giám sát tỷ giá hối đoái của IMF đang trở thành một

trong những thách thức lớn nhất đối với tổ chức tài chính này. IMF hiện

đang tìm cách gia tăng ảnh hưởng đối với các chính sách ngoại hối của các

quốc gia thành viên, nhưng lại không muốn bị cáo buộc là phục vụ lợi ích

của Mĩ chống lại cường quốc của châu Á là Trung Quốc. Hơn nữa, phúc lợi

tài chính của chính IMF hiện cũng đang gặp trở ngại, một phần do lượng tiền

mà IMF cho các quốc gia con nợ vay giảm. IMF hiện đang tính đến việc bán

một phần kho dự trữ vàng góp phần củng cố khả năng tài chính của thể chế

này. Việc bất ngờ tuyên bố từ chức của Tổng giám đốc IMF Rodrigo de Rato

79

ngày 28/6/2007, sớm hơn một năm rưỡi so với nhiệm kỳ năm năm trong bối

cảnh hiện nay cho thấy IMF thực sự đang rơi vào một cuộc khủng hoảng

trầm trọng.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Những dấu hiệu trước năm 1997 cho thấy khủng hoảng tài chính - tiền

tệ xuất hiện là khá rõ ràng. Đó là tình trạng mất cân đối trong cán cân vãng

lai, một số vấn đề liên quan đến nền tảng kinh tế vĩ mô, tình trạng yếu kém

của hệ thống tài chính, sự mất cân đối trong nợ nước ngoài. Cuộc khủng

hoảng nổ ra đầu tiên ở Thái Lan, tiếp đó lan sang các nước khác trong khu

vực như Indonesia, Maylaysia, Hàn Quốc. Không dừng ở đó, tính chất lan

truyền của nó còn vươn tới những khu vực khác như Nga, Brazil và ảnh

hưởng tới nhiều nước lớn khác. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng được

xác định là do sự bất cập trong chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của chính

phủ, sai lầm của các nhà đầu tư trong nước và các nhân tố bên ngoài vượt

khỏi tầm kiểm soát của các quốc gia.

Theo quan điểm của IMF, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á

thực chất là do nguyên nhân bên trong mỗi quốc gia song tính chất của cuộc

khủng hoảng lại mang tính quốc tế sâu sắc và có sức lan toả rộng rãi. Trên cơ

sở nhận định của mình, IMF hỗ trợ tài chính đi đôi với việc đưa ra “phương

thuốc” cho các nước bị khủng hoảng. Dưới sự hỗ trợ của IMF, các Chính

phủ châu Á đã đưa ra những chính sách nhằm khắc phục khủng hoảng tài

chính - tiền tệ, trong đó tập trung vào việc huy động vốn hỗ trợ trong và

ngoài nước và cải thiện hệ thống tài chính quốc gia. Trên cơ sở đó, luận văn

đánh giá hiệu quả của chính sách thể hiện ở sự khác biệt về các mức kết quả

ở một số nước Đông Á bị khủng hoảng mạnh nhất, phê phán “liều thuốc” của

IMF và đánh giá vai trò của sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu

80

Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

CHƢƠNG 3

MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGĂN NGỪA VÀ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG TÀI

CHÍNH - TIỀN TỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ

3.1 HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ NHỮNG NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG

QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM

3.1.1 Tiến trình mở cửa, tự do hoá tài chính và hội nhập tài chính quốc tế

của Việt Nam từ năm 1986 đến nay

Trước năm 1986, do nhận thức đơn giản về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và

con đường xây dựng CHXH, Việt Nam đã xây dựng nền kinh tế theo mô hình

kinh tế kế hoạch hóa tập trung, trong đó, các quan hệ hàng hóa - tiền tệ về cơ

bản không được thừa nhận trên thực tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập

trung, hệ thống tài chính của Việt Nam là một hệ thống tài chính yếu kém, lạc

hậu, với những đặc trưng chủ yếu sau:

Một là, do không thừa nhận thị trường nên hệ thống tài chính của Việt

Nam không có thị trường tiền tệ và thị trường vốn.

Hai là, hệ thống ngân hàng một cấp thuộc sở hữu Nhà nước là trung gian

tài chính duy nhất. Đó là hệ thống ngân hàng vừa có chức năng của Ngân hàng

Trung ương, vừa là ngân hàng thương mại; vừa quản lý lưu thông tiền tệ, vừa

bao cấp vốn - tín dụng cho nền kinh tế.

Ba là, hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa

tập trung, chịu sự chi phối của hệ thống kế hoạch và mệnh lệnh của Nhà nước.

Trước năm 1988, Việt Nam chỉ có một ngân hàng với ba chi nhánh đặc

biệt (Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Ngoại thương và Quỹ tiết kiệm), có chi

nhánh ở các tỉnh, thành. Nó vừa là ngân hàng phát hành, vừa là ngân hàng trực

tiếp cho vay vốn đối với nền kinh tế, vừa quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng.

Với tính chất đa chức năng của Ngân hàng Nhà nước và sự độc quyền trong

hoạt động ngân hàng của Nhà nước đã khiến cho ngân hàng chỉ còn là cơ quan

80

thực hiện các quyết định của Nhà nước về tiền tệ.

Thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế khởi xướng từ năm 1986 đến nay,

kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đối từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung

sang cơ chế thị trường và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Quá

trình này bắt đầu từ việc xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng 2 cấp và thị

trường tài chính nhằm tạo ra một khu vực tài chính lành mạnh và hiệu quả, đảm

bảo tự do trong khu vực tài chính của Việt Nam.

 Đổi mới hệ thống ngân hàng

Trước năm 1988, hệ thống ngân hàng của Việt Nam hoạt động chủ yếu

để phục vụ cho cơ chế kế hoạch tập trung. Đặc điểm cơ bản của hệ thống tài

chính ngân hàng trong giai đoạn này là hệ thống ngân hàng đơn cấp, hoạt động

chủ yếu để phục vụ các doanh nghiệp nhà nước theo các chỉ thị của Chính phủ.

Năm 1988, theo Nghị định 53 (tháng 3/1988), hệ thống ngân hàng Việt

Nam đã chuyển từ hệ thống đơn cấp, bao gồm cả Ngân hàng Trung ương và các

ngân hàng quốc doanh sang hệ thống hai cấp, trong đó chức năng quản lý của

Ngân hàng Trung ương được tách riêng và chức năng kinh doanh được trao cho

các ngân hàng thương mại mới.

Tháng 5 năm 1990, với việc ra đời của hai Pháp lệnh Ngân hàng (sau này

là hai luật về ngân hàng), một hệ thống pháp luật về ngành ngân hàng đã được

xây dựng nhằm tạo lập những khuôn khổ pháp lý ban đầu cho sự vận hành của

hệ thống ngân hàng mới. Sau gần 2 thập kỷ tiến hành cải cách, hệ thống ngân

hàng Việt Nam trải qua 2 giai đoạn phát triển đáng lưu ý: (i) Giai đoạn đầu

1990-1996 là sự tăng lên nhanh chóng về số lượng và loại hình các tổ chức tín

dụng (TCTD) nhằm đáp ứng sự tăng vọt của cầu về dịch vụ ngân hàng - tài

chính trong giai đoạn đầu “bung ra” của thời kỳ chuyển đổi; (ii) Giai đoạn tiếp

theo từ 1997 đến nay là củng cố, chấn chỉnh hệ thống ngân hàng. Thực tế cho

thấy, một sự phát triển vượt bậc của hệ thống ngân hàng, bắt đầu từ diện rộng -

số lượng và loại hình, chuyển sang theo chiều sâu - năng lực tài chính, năng lực

quản trị điều hành, quản lý rủi ro, số lượng và chất lượng sản phẩm, dịch vụ

81

ngân hàng - tài chính, hiệu quả kinh doanh, với mức độ tập trung hoá ngày

càng cao nhờ ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu của công nghệ tin học và

khoa học quản lý vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Tính đến cuối năm 2006, đã có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước

(NHTMNN), 1 Ngân hàng Chính sách, 1 Ngân hàng Phát triển, 36 Ngân hàng

thương mại Cổ phần (NHTMCP), 5 Ngân hàng liên doanh, 31 chi nhánh Ngân

hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, chưa kể một số lượng đáng kể các

TCTD phi ngân hàng và một hệ thống gần một ngàn Quỹ Tín dụng Nhân dân

cùng tham gia vào việc cung cấp dịch vụ, sản phẩm ngân hàng - tài chính [29].

Trong khối ngân hàng, các NHTMCP là khu vực hoạt động có hiệu quả nhất,

với tốc độ tăng trưởng tài sản bình quân từ 48-50%, tốc độ tăng trưởng vốn huy

động đạt từ 45-60%, tốc độ tăng trưởng tín dụng từ 35-50%, tỷ lệ lợi nhuận trên

vốn bình quân (ROE) khá cao, tỷ lệ nợ xấu chỉ dao động trong khoảng 1-1,2%

[29, tr.37]. Khu vực ngân hàng nước ngoài (dưới các hình thức chi nhánh hoặc

liên doanh) là khu vực đang tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong hệ thống ngân

hàng và nó cũng là nhân tố thúc đẩy những ngân hàng nội địa tích cực đổi mới

và hoạt động có hiệu quả hơn.

Các công ty tài chính được thành lập khá muộn ở Việt Nam, hiện tại có 6

công ty tài chính đang hoạt động với mức vốn điều lệ bình quân khoảng 78-80

tỷ đồng (trừ Công ty Tài chính Tàu thuỷ với vốn điều lệ là 1.000 tỷ đồng). Các

công ty tài chính được phép huy động vốn có kỳ hạn từ 1 năm trở lên và cho

vay mọi kỳ hạn theo quy định của NHNN, được phép cầm cố tín phiếu, trái

phiếu và tham gia hoạt động ngoại hối dưới sự cho phép của NHNN.

Các công ty cho thuê tài chính bên cạnh chức năng cho thuê, mua và cho

thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính còn thực hiện các chức năng vay và

cho vay tín dụng tương tự như các công ty tài chính. Trên cả nước hiện có tổng

số 10 công ty cho thuê tài chính với số vốn điều lệ trung bình từ 100-150 tỷ

82

đồng [29, tr.37].

Ngoài ra, các đơn vị kinh doanh tiền tệ trong hệ thống còn có các văn

phòng đại diện của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và các quỹ đầu tư phát

triển khác.

Cùng với đổi mới mô hình tổ chức của hệ thống ngân hàng, Ngân hàng

nhà nước (NHNN) đã tiến hành hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ theo

hướng chủ động, linh hoạt, thận trọng để ổn định lãi suất, tỷ giá, góp phần hỗ

trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ

tăng trưởng kinh tế. Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt

nhằm giảm áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán, ổn định lãi suất thị trường,

tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các TCTD.

 Hình thành và phát triển thị trƣờng tài chính Việt Nam

Cùng với quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính

(TTTC) cũng dần được cải cách theo nguyên tắc thị trường, đảm bảo phân bổ

hiệu quả và an toàn các nguồn lực tài chính. Chủ trương thành lập TTTC được

thực hiện từ năm 1993, theo Quyết định số 132/QĐ - NH14 ngày 10/7/1993 của

Thống đốc NHNN Việt Nam. Sau hơn 15 năm cải cách, TTTC Việt Nam đã

hình thành tương đối đầy đủ các thị trường cấu thành cơ bản với các mức độ

phát triển khác nhau.

Thị trường tiền tệ, theo Luật NHNN, là thị trường vốn ngắn hạn, là nơi

mua và bán các giấy tờ có giá ngắn hạn (dưới một năm). Thị trường tiền tệ bao

gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào hoạt động năm

1993), thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (chính thức đi vào hoạt động từ tháng

10/1994), thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc (bắt đầu vận hành từ năm 1995)

và nghiệp vụ thị trường mở (chính thức vận hành từ tháng 7/2000). Chức năng

của thị trường tiền tệ là hỗ trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, tài trợ ngắn hạn

cho ngân sách nhà nước, đảm bảo vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và là

83

nơi để NHNN thực thi các công cụ chính sách tiền tê.

Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch công cụ nợ dài hạn, bắt đầu

hoạt động năm 1995 và là nơi giao dịch các loại trái phiếu (trái phiếu chính

phủ, trái phiếu đầu tư như trái phiếu công trình và trái phiếu công ty).

Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam chính thức ra đời tại thành

phố Hồ Chí Minh tháng 7/2000. Đến năm 2004, Trung tâm giao dịch chứng

khoán (TTGDCK) tại Hà Nội cũng đi vào hoạt động. Việc ban hành Luật

Chứng khoán là cơ sở pháp lý để hình thành mô hình thị trường vốn, tạo lập và

vận hành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, tạo cơ sở cho

TTCK phát triển nhanh và ổn định, đồng thời tạo tâm lý yên tâm cho các tổ

chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào TTCK, bảo đảm lợi ích hợp

pháp của nhà đầu tư. Hiện nay, có gần 200 công ty niêm yết và khoảng 50 công

ty chứng khoán đang hoạt động.

Bên cạnh thị trường chính thức, ở Việt Nam còn tồn tại thị trường chứng

khoán phi chính thức (thị trường OTC), là nơi diễn ra các giao dịch về chứng

khoán không niêm yết như cổ phiếu của các công ty vừa và nhỏ, cổ phiếu của

các công ty chuẩn bị niêm yết,… Thị trường này ra đời và hoạt động tự phát

không có sự quản lý một vài năm trước khi TTGDCK TP. HCM (nay là Sở

GDCK TP. HCM) đi vào hoạt động. So với TTCK chính thức, tổng giá trị giao

dịch trên thị trường này lớn hơn nhiều lần. Theo ước tính, khối lượng giao dịch

cổ phiếu của thị trường này lớn gấp khoảng 3-6 lần so với lượng giao dịch tại

Sở GDCK TP. HCM và TTGDCK HN, và giá trị giao dịch cổ phiểu bình quân

mỗi ngày cũng lớn hơn 3 lần.

Thị trường tín dụng trung và dài hạn được hình thành sớm nhất trong các

thị trường cấu thành của TTTC. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam có thể

nhận tín dụng chính thức từ các nguồn sau: (i) các khoản tín dụng từ các TCTD

ngân hàng, gồm các NHTMNN, các NHTMCP, ngân hàng liên doanh, chi

nhánh các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và các quỹ tín dụng nhân dân;

(ii) các khoản vay thương mại từ các công ty cho thuê tài chính, các công ty tài

84

chính, và một phần hoạt động cho vay trực tiếp từ quỹ đầu tư của các công ty

bảo hiểm; và (iii) các khoản vay ưu đãi từ Quỹ Hỗ trợ phát triển quốc gia,…

Ngoài ra, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn thực hiện huy động

vốn từ nước ngoài thông qua các ngân hàng nước ngoài hoặc từ công ty mẹ ở

nước ngoài.

Thị trường tín dụng phi chính thức tồn tại bên cạnh thị trường tín dụng

chính thức đã lâu và có địa bàn hoạt động cả ở khu vực thành thị và khu vực

nông thôn. Tuy quy mô không lớn nhưng phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của

thị trường này là tương đối rộng và do vậy cần đánh giá đúng mức vai trò và

ảnh hưởng của thị trường này đối với TTTC.

Sự ra đời của các TTTC khiến cho cấu trúc TTTC của Việt Nam ngày

càng trở nên đa dạng hơn. Nhìn chung đến năm 2000, các TTTC của Việt Nam

đã được hình thành và đi vào hoạt động. Điều đó tạo ra bộ mặt mới cho thị

trường vốn, phục vụ cho quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới đang

trong giai đoạn hình thành, nhưng các TTTC đã làm phong phú các giao dịch

vốn trên thị trường.

Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức

Thương mại Thế giới (WTO) sau gần 12 năm nỗ lực, kiên trì đàm phán gia

nhập. Với những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, có thể nói

Việt Nam đã thực sự hội nhập một cách sâu rộng vào sân chơi toàn cầu nói

chung cũng như thị trường tài chính quốc tế nói riêng.

Việc gia nhập WTO có thể mang lại nhiều cơ hội phát triển cho TTTC

Việt Nam. Mở cửa thị trường làm tăng mức độ cạnh tranh và tính sôi động của

thị trường. Chính phủ buộc phải giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động

của các ngân hàng và các định chế tài chính khác, qua đó, giảm chi phí giao

dịch. Nguồn vốn tín dụng được tài trợ theo chỉ định vào các dự án “ưu tiên” của

Nhà nước sẽ giảm dần và chuyển sang những khoản đầu tư có lợi nhuận cao

hơn, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế.

Các ngân hàng và định chế tài chính trong nước sẽ có điều kiện tốt hơn

85

để tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, đào tạo và đào tạo lại

nguồn nhân lực. Hội nhập sâu rộng hơn cũng tạo sức ép buộc các ngân hàng và

các định chế tài chính nâng cao tính minh bạch, áp dụng các chuẩn mực và

thông lệ quốc tế tiên tiến về kế toán, báo cáo tài chính và quản trị rủi ro, chuyên

môn hoá, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng và nắm bắt kịp thời các

nghiệp vụ mới.

Đối với TTCK, việc gia nhập WTO cũng tạo điều kiện tăng cả cung lẫn

cầu, nhất là cầu đầu tư chứng khoán. Những kỳ vọng về tăng trưởng kinh tế,

thương mại và đầu tư có thể kích thích cầu đầu tư trên TTCK, nhất là thị trường

cổ phiếu. Việc mở rộng tiếp cận thị trường có thể thúc đẩy phát triển các định

chế chứng khoán trung gian (thông qua cạnh tranh, nắm bắt và chuyển giao

kinh nghiệm quản lý, công nghệ, vốn…), thúc đẩy tính công khai, minh bạch và

kỷ luật thị trường, qua đó thúc đẩy tăng cầu đầu tư trên thị trường (tăng tính

chuyên nghiệp của nhà đầu tư, độ tin cậy đối với các công ty đại chúng/ niêm

yết,…) và cung chứng khoán (thông qua bảo lãnh phát hành).

Tuy nhiên, việc hội nhập WTO nói chung, cũng như hội nhập tài chính

quốc tế chỉ thực sự thành công khi chúng ta có một nền tảng kinh tế vĩ mô

tương đối tốt và một hệ thống tài chính lành mạnh. Kinh nghiệm của các nước

Đông Á trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998 là bài học đắt giá

cho các nước đi sau như Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam ngày

càng hội nhập sâu rộng vào sân chơi chung của thế giới. Câu hỏi đặt ra ở đây là

liệu ở Việt Nam, có thể xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong tương lai

hay không? Điều quan trọng không phải là trả lời có hay không mà thực chất

vấn đề lại nằm ở chỗ cần phải xác định đâu là những nguy cơ có thể gây ra một

cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam trong tương lai.

3.1.2 Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam

3.1.2.1 Nguy cơ từ bên trong

Có thể nói, nguy cơ từ bên trong chắc chắn xuất phát từ nội tại của nền

kinh tế, từ sự bất cập của hệ thống tài chính, cơ chế chính sách, quản lý trong

86

quá trình mở cửa và tự do hoá thương mại… Những nguy cơ đó là:

 Tăng trưởng cao nhưng chất lượng tăng trưởng thấp. Đây là nguy cơ

đầu tiên mà chúng ta có thể xem xét và phân tích.

Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản của Việt Nam (%)

2000 2001 2002 2003 2004 2005

Ước 2006

481,3 535,8 613,4 715,3 837,9

970,1

-

6,9 0,7 31,2 6,3 413

6,79 - - 6,4 401

7,1 4,0 33,2 6,0 440

7,3 2,9 35,4 5,8 492

7,8 9,7 35,7 5,6 553

8,4 8,8 35,2 5,3 636

7,8 7,7 35,5 4,4 715

GDP theo giá hiện hành (nghìn tỷ đồng) Tăng trưởng GDP thực (%) Tỷ lệ lạm phát (%/ năm) Tổng đầu tư (% GDP) Tỷ lệ thất nghiệp (%) GDP/ người (USD) Chú thích: Số liệu năm 2006 là ước tính chuyên gia

Nguồn: [29, 43] và do tác giả tự tính.

Bảng 3.1 cho thấy rõ ràng, tình hình kinh tế vĩ mô nước ta có nhiều

chuyển biến tích cực. Nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình giai đoạn

1986-1990 là 4,4%, giai đoạn 1991-1995 là 8,2%, giai đoạn 1996-2000 là 7%

thì giai đoạn 2001-2005 là 7,5% (Hình 3.1).

Nguồn: [8]

Hình 3.1: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nƣớc (%)

Riêng năm 2006, mặc dù tăng trưởng kinh tế có thấp hơn so với tốc độ

tăng của năm 2005 (8,17% so với 8,43%), song con số này đã vượt mục tiêu đề

ra là 8% và thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực, châu

Á và trên thế giới [29]. Tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp ổn định ở mức thấp.

Với tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm xuống (1,8% năm 1992 xuống 1,36%

87

năm 2000 và 1,21% năm 2006), nên GDP bình quân đầu người tăng liên tục qua

các năm. Đến năm 2006, GDP bình quân đầu người đã đạt 11,6 triệu VND và

tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đạt khoảng 725 USD/ người [29]. Có thể nói

những chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản trên cho chúng ta cơ sở để tin vào khả năng

phòng chống khủng hoảng tài chính - tiền tệ và một tiền đề vững chắc để hoạch

định các giải pháp ngăn ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong tương lai.

Đây là thuận lợi cơ bản của chúng ta.

Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cao liên tục và theo dự

báo còn tăng cao hơn nữa trong những năm tiếp theo, song tỷ lệ tích luỹ - tiêu

dùng còn bất hợp lý. Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng cao, dự trữ ngoại tệ lớn,

nhưng tỷ lệ tiêu dùng so với GDP mới đạt 53,05% vào năm 2005, gần như thấp

nhất thế giới, nhờ vậy mà hàng hoá của Trung Quốc tràn ngập thị trường thế

giới. Con số này ở Singapore là 52,59%, Malaysia là 64,88% và Thái Lan là

63,52% [36]. Trong khi đó, tỷ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam lên tới

gần 70%, thậm chí hơn 70% (Bảng 3.2).

Bảng 3.2: Cơ cấu sử dụng GDP theo giá thực tế (%)

100

100

2,09

2,21

6,39

6,32

Tổng sản phẩm trong nƣớc GDP Tổng tích luỹ tài sản Tài sản cố định Thay đổi tồn kho Tiêu dùng cuối cùng Nhà nước Tư nhân Chênh lệch XNK hàng hoá và dịch vụ Sai số

2002 2003 2004 2005 Ước 2006 100 100 33,22 35,44 35,47 35,57 31,14 33,35 33,25 32,87 2,08 2,71 71,33 72,58 71,47 69,68 6,23 6,15 65,10 66,26 65,08 63,53 -4,18 -5,17 -1,08 0,62

100 35,73 32,76 2,97 68,65 5,89 62,77 -3,33 -1,05

-7,55 0,62

-8,36 0,34

Nguồn: [30]

Đáng lưu ý là tốc độ tăng tiền lương trong các doanh nghiệp nhà nước

cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Năng suất lao động chung của toàn bộ

nền kinh tế tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái chỉ đạt khoảng 1.404 USD,

thuộc loại thấp nhất trên thế giới, thấp xa so với mức GDP bình quân đầu người

của thế giới (trên 6.300 USD) chứ chưa nói đến bình quân 1 lao động, trong đó

năng suất lao động của nhóm ngành nông, lâm, thuỷ sản thấp nhất [29, tr.34].

Một vấn đề đáng chú ý liên quan chất lượng tăng trưởng của Việt Nam

88

đó là tăng trưởng cao nhưng chất lượng tăng trưởng thấp. Điều này có nghĩa là

tăng trưởng của Việt Nam đạt được chủ yếu do tăng vốn và lao động sống chứ

không phải do nâng cao chất lượng, hiệu quả đầu tư, trình độ công nghệ và chất

lượng lao động. Điều này đe doạ tính bền vững trong hiện tại và tương lai, tạo

ra mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng, hiệu quả tăng trưởng của

nền kinh tế. Một nền kinh tế có chất lượng tăng trưởng cao và bền vững khi hệ

số ICOR thấp hoặc có khuynh hướng giảm, hoặc năng suất tổng nhân tố (total

factor productivity - TFP) có khuynh hướng tăng. Thông thường một nền kinh

tế được coi là phát triển bền vững, đạt hiệu quả kinh tế cao, thì hệ số ICOR

thường là 3,5; thậm chí một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, tỷ

lệ này là 3,5-4; cá biệt như Singapore là 2,4. Theo nguồn số liệu của IMF,

ICOR của Việt Nam tương ứng qua các năm là 4,5 (2003), 4,3 (2004), 3,9

(2005), 4,2 (2006) [43]. Tuy nhiên, theo một nguồn số liệu khác trong nước, hệ

số ICOR của Việt Nam được tính toán cao hơn so với con số của IMF. Trước

và sau năm 2000, tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam khoảng 35% (tính theo

vốn đầu tư đã thực hiện) và GDP tăng trên dưới 7%. Trong những năm gần

đây, tỷ lệ đầu tư tăng lên gần 40%, và GDP tăng khoảng 8% [29]. Tính toán sơ

bộ cho thấy hệ số ICOR từ năm 2000 đến nay là không đổi và khoảng trên dưới

5, một mức tương đối cao. ICOR tăng là một xu hướng tất yếu bởi nó phản ánh

sự tiến bộ trong công nghệ, song ICOR tăng nhanh lại cảnh báo một vấn đề:

thiếu vốn, trình độ phát triển thấp, nhưng hiệu quả sử dụng vốn lại giảm nhanh

và điều này chứng tỏ chất lượng đầu tư và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế

có xu hướng sụt giảm nghiêm trọng. Nếu so sánh với Trung Quốc, chúng ta còn

thấy một vấn đề khác nữa. Đáng chú ý là hệ số ICOR trong khu vực kinh tế nhà

nước tăng từ 3,6 lên 7,28, cho thấy rõ hệ số ICOR của Việt Nam cao phần lớn

xuất phát từ hiệu quả đầu tư thấp của khu vực kinh tế nhà nước do tình trạng

lãng phí, thất thoát và đục khoét vốn đầu tư còn rất lớn.

Trong những năm qua, cơ cấu vốn đầu tư đã có sự dịch chuyển theo

hướng: tỷ trọng vốn nhà nước giảm dần, tỷ trọng vốn ngoài nhà nước tăng

nhanh, còn tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở mức trên dưới 16%

89

(Bảng 3.3). Tuy nhiên, tỷ trọng vốn nhà nước trong tổng vốn đầu tư phát triển

toàn xã hội vẫn còn chiếm tỷ lệ quá lớn (chiếm 55% trong giai đoạn 2000-

2006). Các số liệu thống kê cho thấy, liên tiếp những năm qua, nguồn vốn đầu

tư từ khu vực nhà nước liên tục gia tăng, song hiệu quả đầu tư lại liên tiếp bị

sụt giảm. Trong giai đoạn 2001-2005, tổng vốn đầu tư của nhà nước đạt khoảng

610.000 tỷ đồng (tương đương trên 40,9 tỷ USD), tăng 14,7%/ năm và tăng gấp

gần 1,75 lần so với giai đoạn 1996-2000. Nhưng xét trên hiệu quả đầu tư thì lại

đạt mức rất thấp (hệ số ICOR cao).

Bảng 3.3: Cơ cấu vốn đầu tƣ phát triển phân theo thành phần kinh tế (%)

2000 2001 2002 2003 2004 2005 Ƣớc 2006

Khu vực Nhà nước

59,1 59,8 56,3 54,0 53,6 52,2

50,1

Khu vực ngoài quốc

22,9 22,6 26,2 29,7 30,9 32,1

33,6

doanh

Khu vực có vốn ĐTNN

18,0 17,6 17,5 16,3 15,5 15,7

16,3

Nguồn: [29, tr.70]

Thông tin về sự thất thoát trong xây dựng cơ bản (chiếm tới 30% vốn

đầu tư), hoặc nhiều thông tin cho thấy những công trình xây dựng lên nhưng

không được sử dụng hoặc chỉ được sử dụng một phần. Chính vì sử dụng nguồn

vốn nhà nước kém hiệu quả mà trong suốt những năm qua, dù cho tốc độ tăng

trưởng GDP của nước ta vẫn ở mức cao, nhưng giá trị tăng thêm lại không cao

và nền kinh tế vẫn luôn được đánh giá là tăng trưởng chưa thật sự bền vững.

 Thâm hụt ngân sách nhà nước

Ngân sách nhà nước (NSNN) mặc dù có thâm hụt song vẫn ở mức cho

phép là dưới 5% GDP (Bảng 3.4). Năm 2006, thực tế thu NSNN đạt 262.100 tỷ

đồng, tổng chi đạt 319.110 tỷ đồng, sau khi cân đối với số kết chuyển nguồn từ

2005 sang thì bội chi là 48.500 tỷ đồng, bằng 4,98% GDP, đạt mức kế hoạch đề

ra [29, tr.10]. Dự báo thâm hụt NSNN năm 2007 vẫn vào khoảng 5% GDP

[28].

Bảng 3.4: Thu, chi và bội chi Ngân sách nhà nƣớc, 2001-2005 (%)

2001 2002 2003 2004

2001-2005

Tổng thu ngân sách/ GDP

21,59 20,97 23,46 23,41

22,91

Ƣớc 2005 25,11

90

50,7

50,4

52,3

53,5

54,7

52,32

21,8 27,8

22,6 25,2

25,9 25,3 20,6 24,0 26,96 26,33 29,14 28,89 30,1 31,0 55,7 55,1 14,1 11,5 -4,87 -4,67

28,9 54,2 14,0 -4,95

30,5 52,7 13,4 -4,96

26,4 19,0 30,8 32,2 52,1 13,5 -4,86

24,40 23,32 28,42 30,54 53,96 13,30 -4,86

Thu nội địa (không kể dầu thô)/ Tổng thu Thu từ dầu thô/ Tổng thu Thu khác/ Tổng thu Tổng chi NSNN/ GDP Chi đầu tư phát triển/ Tổng chi Chi thường xuyên/ Tổng chi Chi trả nợ và viện trợ/ Tổng chi Cân đối ngân sách thực tế/ GDP Nguồn: [1]

Tuy nhiên, theo Báo cáo Kiểm toán Nhà nước năm 2006 và niên độ ngân

sách năm 2005, có 7.622,5 tỷ đồng thu chi sai nguyên tắc phải xử lý, trong đó

có 1.339,5 tỷ đồng là tiền do Nhà nước bỏ ra mà đã mất đi. Kiểm toán cũng cho

thấy thu và chi NSNN, đặc biệt là chi thường xuyên, chi xây dựng cơ bản có

vấn đề. Cũng chỉ mới kiểm toán được 32 tỉnh thành cùng một số doanh nghiệp,

6,8% tổng số chi ngân sách trung ương. Tất nhiên, hơn 7.600 tỷ đồng không

phải tất cả là sai phạm. Nhưng con số mà kiểm toán phát hiện thể hiện sai sót,

thu không đúng, không đủ cho NSNN, chi sai chế độ, vượt dự toán, lãng phí,

thậm chí là gian lận của các tổ chức cá nhân, có thể nói đã đáng báo động và

xảy ra ở hầu hết các đơn vị được kiểm toán.

 Mất cân đối trong cán cân thương mại, đặc biệt sau khi Việt Nam gia

nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)

Theo tính toán của Bộ Công thương, tình hình nhập siêu của Việt Nam

trong những năm qua liên tục tăng lên. Năm 2005 Việt Nam nhập siêu 4,5 tỷ USD, năm 2006 là 4,8 tỷ USD1 [29]. Trong 8 tháng đầu năm 2007, kim ngạch

xuất khẩu tuy đạt gần 31,2 tỷ USD, nhưng nhập khẩu đã lên tới 37,6 tỷ USD,

nhập siêu đạt con số trên 6,4 tỷ USD. Theo dự báo, con số nhập siêu đến cuối

năm 2007 có thể lên tới 8-9 tỷ USD, thậm chí 10 tỷ USD [68]. Nguyên nhân

của nhập siêu là do Việt Nam chủ yếu tăng nhập khẩu máy móc thiết bị và

nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và xuất khẩu trong khi giá cả của hầu

1 Số liệu của Bộ Công Thương là khác so với số liệu của IMF (ở bảng phụ lục 1)

91

hết hàng hoá nhập khẩu (trừ xăng dầu) tiếp tục tăng hoặc đứng ở mức cao.

Nhập siêu lớn, ngoài nguyên nhân xuất khẩu tăng chậm, còn có nhiều nguyên

nhân cụ thể, như tính gia công hàng xuất khẩu còn lớn, công nghiệp phụ trợ

chưa phát triển, xuất khẩu chủ yếu vẫn là nguyên liệu thô hoặc nông sản chưa

qua chế biến hay mới sơ chế. Việc mở cửa thị trường, cắt giảm thuế quan theo

cam kết của WTO cùng với năng lực cạnh tranh thấp của hàng hoá trong nước,

hàng hoá xuất khẩu và chưa có cơ chế kiểm soát nhập khẩu hiệu quả đã tác

động nhất thời tới việc nhập khẩu. Mặc dù nhập siêu ở mức cao, nguy cơ thâm

hụt cán cân thương mại lớn, nhưng có thể chấp nhận được đối với một nền kinh

tế đang phát triển và trên đường hội nhập. Nhập khẩu tăng chủ yếu do nhập

khẩu máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất. Cho nên nhìn về lâu dài thì đây sẽ là

một bước đi cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, nếu mức thâm hụt

thương mại vẫn tiếp tục tăng trong những năm tới, sức cạnh tranh của hàng hoá

Việt Nam vẫn chưa được cải thiện, thì chắc chắn đây sẽ là một nguy cơ to lớn

gây mất cân đối cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế, đe doạ sự ổn

định của nền kinh tế nước ta.

Một điều đáng mừng là mặc dù cán cân thương mại (hàng hoá và dịch

vụ) vẫn có xu hướng thâm hụt nhưng do chuyển tiền tư nhân (kiều hối) tăng và

thặng dư cán cân vốn liên tiếp trong những năm qua nên cán cân vãng lai và

cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện rõ rệt (Hình 3.2).

92

Hình 3.2: Cán cân vãng lai và cán cân vốn của Việt Nam, 2001-2006

Nguồn: [43]

Tính chung cán cân thanh toán tổng thể năm 2006 thặng dư khoảng 3,4

tỷ USD, tăng 1,3 tỷ USD so với mức thặng dư của năm 2005 là 2,1 tỷ USD [29,

tr.40]. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn thu ngoại tệ từ kiều hối ước tính cả

năm 2006 đạt khoảng 4,7 tỷ USD, trong đó khoảng 80% được chuyển qua kênh

ngân hàng (Hình 3.3).

Nguồn: [ 29, tr.76]

Hình 3.3 : Lƣợng kiều hối qua các năm (triệu USD)

Nguồn thu từ khách du lịch quốc tế và người ngước ngoài đến Việt Nam

học tập, công tác, làm việc cũng tăng nhanh. Ngoài ra, cũng có một lượng vốn

93

ngoại tệ nước ngoài khá lớn đã đổ vào đầu tư chứng khoán trên thị trường

chính thức và phi tập trung để mua cổ phiếu tăng vốn của các doanh nghiệp cổ

phần.

Từ những phân tích trên cho thấy những mất cân đối trong tài khoản

vãng lai, tài khoản vốn, cán cân thanh toán và NSNN của Việt Nam trước mắt

khó có thể là ngòi nổ tạo ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam. Hơn

nữa, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam đang tăng mạnh. Theo Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam (SBV), mức dự trữ hiện nay đảm bảo thanh toán được 13 tuần nhập

khẩu. Đây là một mức tăng mạnh so với năm 2000, tăng từ mức đảm bảo thanh

toán được 8 tuần lên 13 tuần nhập khẩu hàng hoá của cả nền kinh tế. Lượng dự

trữ ngoại hối 13 tuần nhập khẩu này tương đương 12 tỷ USD [67] (Hình 3.4).

Nguồn: [43]

Hình 3.4: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam, 2002-2006

Tính đến đầu tháng 8, dự trữ ngoại tệ của chúng ta tăng thêm gần 2 lần

nữa so với thời điểm cuối năm 2006, tương đương với 20 tuần nhập khẩu, hoàn

thành mục tiêu đến năm 2010 [67]. Đó là khía cạnh tích cực của việc thu hút

đầu tư nước ngoài, tăng dự trữ ngoại hối, tiềm lực quốc gia. Con số trên mặc dù

còn rất nhỏ so với các nước có nguồn dự trữ ngoại hối hàng đầu trên thế giới

94

(từ 700 đến trên 1000 tỷ USD), nhưng được đánh giá là đủ để Ngân hàng Nhà

nước chủ động trước yêu cầu cân đối cung - cầu ngoại tệ trên thị trường và

trước những biến động bất thường của tỷ giá.

 Nợ nước ngoài có xu hướng tăng lên mặc dù vẫn nằm trong ngưỡng

kiểm soát

Tình hình nợ nước ngoài được cơ cấu lại căn bản, xử lý dứt điểm các

khoản nợ đối với các tổ chức và các nước trên thế giới thông qua Câu lạc bộ

Paris năm 1993, Câu lạc bộ London năm 1997 và nợ Cộng hoà Liên bang Nga

năm 2000. Năm 1993, Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng mất khả năng thanh

toán nợ, bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào danh sách các quốc gia nghèo

mắc nợ nặng nề (HIPCs) với tỷ lệ nợ nước ngoài/ GDP lên tới 173%. Sau hơn

10 năm tích cực cơ cấu lại và trả nợ, tỷ lệ này của Việt Nam hiện nay chỉ còn

khoảng 34%, mặc dù trong thời gian này, Việt Nam thu hút thêm hàng chục tỷ

USD vốn vay nước ngoài. Theo Cựu Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại

Việt Nam, ông Klaus Rohland cho biết, hiện nay nợ nước ngoài của Việt Nam

chiếm khoảng gần 40% GDP và nợ thực tế chỉ chiếm khoảng 30% GDP. Ông

Klaus dự đoán, trong vòng mấy năm tới, mức nợ nước ngoài của Việt Nam sẽ

chiếm khoảng 50% GDP và nợ thực tế chỉ khoảng 40% [69]. Bảng 3.5 cho biết

tổng dư nợ nước ngoài của Việt Nam giai đoạn 2001-2006.

Bảng 3.5: Các chỉ số về nợ nƣớc ngoài của Việt Nam, 2001-2006 1

Ước

2001 2002 2003 2004 2005

2006

Tổng nợ nước ngoài2 (tỷ USD)

12,5 12,3 13,4 15,4 17,2

19,7

Tổng nợ nước ngoài (% GDP)

38,5 35,0 33,8 33,9 32,5

32,6

Tổng nợ được bảo lãnh công và công khai (%

36,0 38,2 40,8 42,7 43,7

45,5

GDP)

Tổng nợ nước ngoài ngắn hạn (tỷ USD)

1,5

1,3

1,5

1,5

1,6

1,8

Tổng nợ nước ngoài ngắn hạn/ tổng nợ (%)

11,7 10,9 11,1

9,8

9,1

9,3

Chỉ số nghĩa vụ trả nợ (% XK hàng hoá, dịch

10,6

8,3

7,5

6,0

5,5

5,6

1 Các chỉ số về nợ nước ngoài ước tính dựa trên số liệu đến cuối tháng 8/2006 2 Tổng nợ nước ngoài bao gồm cả nợ nước ngoài được bảo lãnh công và công khai

95

vụ)

Nguồn: [43]

Theo đánh giá của IMF, WB và các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm

quốc tế như Moody’s, Standard & Poor’s thì tình trạng nợ nước ngoài của Việt

Nam tương đối bền vững và vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Mặt khác, nợ nước

ngoài của Việt Nam chủ yếu là các khoản nợ có kỳ hạn và đều được hưởng lãi

suất ưu đãi, thời gian trả nợ dài (30-40 năm) và có thời gian ân hạn thường là 5

năm. Các chỉ số về nghĩa vụ trả nợ so với giá trị xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ

đều từ 5-10%. Mặt khác, cũng giống xu thế chung, tỷ trọng nợ ngắn hạn trong

tổng nợ nước ngoài của Việt Nam đang có xu hướng giảm đi, và đều trong

khoảng 9-11% trong giai đoạn 2001-2006, thấp hơn nhiều so với mức trung

bình của các nước đang phát triển trên thế giới là 16,4%. Theo tổng kết của các

tổ chức quốc tế, mức vay nợ hợp lý đối với một nước là đảm bảo tỷ lệ tổng số

nợ/GDP của nước đó ở mức thấp và không có nợ quá hạn. Bộ Tài chính dự báo,

tổng mức dư nợ nước ngoài của quốc gia (bao gồm nợ nước ngoài của khu vực

công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân) năm 2010 sẽ vào khoảng 24-25 tỷ

USD, chiếm khoảng 37-38% GDP, tức là tăng so với hiện nay, do giai đoạn

này Việt Nam tiếp tục vay thêm 14-15 tỷ USD, trong khi trả nợ nước ngoài của

quốc gia vào khoảng 10-11 tỷ USD. Tổng mức vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn

2006-2010 dự kiến vào khoảng 36-40% GDP, trong đó 35% số vốn đầu tư dự

kiến sẽ được huy động bên ngoài lãnh thổ, trong đó có việc vay nợ. Cũng theo

Bộ Tài chính, để đảm bảo an toàn trong vay nợ thì tổng mức dư nợ nước ngoài

phải dưới 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ dưới 20% kim ngạch xuất khẩu, trong đó

nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ không quá 12% tổng thu ngân sách nhà nước.

Muốn vậy, Chính phủ phải khống chế bội chi NSNN dưới 5% GDP và được bù

đắp bằng nguồn vay trong nước 3-3,5% GDP cùng với việc phải xây dựng các

phương án vay nợ đảm bảo danh mục nợ hợp lý và quản lý tốt rủi ro. Để đảm

bảo hạn mức an toàn về nợ nước ngoài và an ninh tài chính quốc gia, thời gian

96

tới cần phải tạo ra khả năng xuất khẩu và nguồn thu ngoại tệ để trả nợ nước

ngoài nhằm tránh tình trạng nợ quá hạn, đồng thời với việc tiếp tục cơ cấu lại

nợ nước ngoài của quốc gia, nợ nước ngoài của Chính phủ. Việt Nam xuất phát

từ nền kinh tế kém phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do vậy ngày

nay, trước yêu cầu phát triển và thách thức to lớn, việc thu hút vốn nước ngoài

là một tất yếu. Vấn đề đặt ra là phải rất coi trọng và nâng cao khả năng sử dụng

vốn vay có hiệu quả, tăng khả năng hấp thụ vốn vay, đồng thời phải tăng khả

năng xuất khẩu để bảo đảm khả năng thanh toán nợ cũ và tăng khả năng vay nợ

mới. Tuy nhiên, việc coi trọng huy động vốn ngoài nước không làm giảm ý

nghĩa của việc tạo ra và huy động mọi nguồn vốn tích luỹ trong nước cho mục

tiêu phát triển đất nước và được coi là một chính sách kinh tế - tài chính cơ bản

của nhà nước.

 Hệ thống tài chính - ngân hàng yếu kém

Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, hệ thống tài

chính - tiền tệ nói chung và thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam nói riêng có

những bước phát triển nhất định. Tuy đạt được không ít thành tựu, song TTTC

Việt Nam vẫn còn được xem là kém phát triển.

Trong những năm qua, độ sâu tài chính của Việt Nam (đo bằng tỷ lệ của

tổng phương tiện thanh toán M2/ GDP và tổng tín dụng trong nước/ GDP) đã

tăng đáng kể (Hình 3.5).

Chú thích: Số liệu 2006 là ước tính chuyên gia.

Nguồn: [6, tr.68]

97

Hình 3.5: Độ sâu tài chính của Việt Nam

Tỷ lệ M2/GDP và tổng tín dụng trong nước/GDP của Việt Nam đều từ

dưới 20% năm 1990 tương ứng lên 50,5% và 35,1% năm 2000 [25] và 91,7%

và 72,0% năm 2006 (Bảng 3.6). Tuy nhiên những chỉ số này chỉ tương đương

với các nước trong khu vực vào những năm cuối thập kỷ 1980, đầu thập kỷ

1990.

Bảng 3.6: Tổng phƣơng tiện thanh toán giai đoạn 2001-2006

Ước

2001 2002 2003 2004 2005

2006

GDP theo giá thực (nghìn tỷ đồng)

481,3 535,8 613,4 715,3 837,9

970,1

Tổng phương tiện thanh toán M2 (nghìn

279,8 329,1 411,2 532,3 690,7

890,0

tỷ đồng)

Trong đó: Tổng tiền gửi

213,5 254,9 320,6 423,2 559,5

720,0

- Thanh khoản nội tệ (VND)

191,1 235,5 314,1 402,7 531,5

700,1

+ Ngoài ngân hàng

66,3

74,3

90,6 109,1 131,2

171,7

+ Tiền gửi

124,8 161,3 223,6 293,6 400,3

528,4

- Tiền gửi ngoại tệ

88,7

93,6

97,1 129,6 159,2

189,9

Tín dụng trong nước (ròng) (nghìn tỷ đồng)

191,2 239,9 316,9 434,6 585,6

698,0

Tổng tín dụng trong nước/ GDP (%)

39,7

44,8

51,7

60,8

69,9

72,0

Tỷ lệ M2/ GDP (%)

58,1

61,4

67,0

74,4

82,4

91,7

Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán

25,5

17,6

24,9

29,5

29,7

28,9

M2 (%/ năm)

28,7

Tốc độ tăng tổng tiền gửi (%/ năm)

25,1

19,4

25,8

32,0

32,2

32,0

Tốc độ tăng tiền gửi VND (%/ năm)

24,4

29,2

38,6

31,3

36,3

19,3

Tốc độ tăng tiền gửi ngoại tệ (%/ năm)

26,0

5,6

3,7

33,5

22,8

Chú thích: Dữ liệu từ 2002 trở đi gồm NHNNVN, 6 NHTMNN và 79 NHTM ngoài quốc doanh. Năm 2006 theo ước tính của IMF trên cơ sở số liệu của NHNNVN. Nguồn: [6, 43] và tính toán của tác giả.

Quy mô giao dịch chứng khoán tăng với tốc độ khá nhanh nhưng chỉ thực

sự bùng nổ trong năm 2006. Nếu năm 2003 giá trị thị trường chứng khoán niêm

yết và đăng ký giao dịch chỉ tương đương 3,9% GDP thì đến năm 2005 con số

này lên đến 6,5% GDP (ADB, 2006). Tính đến 31/12/2006, theo thông báo chính

thức của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), TTCK Việt Nam có 193

98

công ty niêm yết (năm 2005 chỉ có 41 công ty) với tổng mức vốn hoá đạt

221.156 tỷ đồng, tương đương 22,7% GDP (hay 14 tỷ USD). Thêm vào đó, với

khoảng 5 tỷ USD giá trị trái phiếu, tổng giá trị của thị trường sẽ tương đương

khoảng 25% GDP (cao hơn nhiều so với kế hoạch là tới năm 2010 đạt 10-15%

GDP), tương đương với 35% tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng và bằng

20% tổng tài sản tài chính của cả nước. Tuy nhiên trong đó hầu hết thuộc trái

phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương (chiếm khoảng 97%), rất ít trái

phiếu công ty được phát hành [29, tr.35].

Có thể nói, mặc dù TTCK trong những năm qua tuy có những bước phát

triển nhất định, song vẫn còn nhỏ bé, và cho đến nay vẫn chưa trở thành kênh

huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Điều đó có nghĩa là

mô hình TTTC của Việt Nam cơ bản vẫn do ngân hàng chi phối (dominated

financial market), trong khi thị trường tín dụng lại chứa đựng không ít vấn đề

yếu kém. Những yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam đó là:

- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu đối với hệ thống vẫn đang ở mức thấp. Theo

thông lệ quốc tế thì tỷ lệ vốn tự có của ngân hàng phải đạt tối thiểu 8%. Tuy

nhiên, mới chỉ có hầu hết các NHTM cổ phần Việt Nam đáp ứng được tỷ lệ

này. Trong khi đó, tổng vốn tự có của nhóm các NHTMNN (nơi chiếm phần

lớn thị phần trên thị trường vốn) chưa tới 1 tỷ USD, tức là đạt tỷ lệ vốn tự có

trên tổng tài sản chưa tới 5%. Hiện chỉ có 2 NHTMNN đáp ứng được yêu cầu -

đó là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (đến 28/2/2006 tỷ lệ này đã là 12,3%)

và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (11,4%) [29, tr.37].

- Hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời của các NHTMNN

ở mức thấp, không tương xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô hoạt

động. Theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ lợi nhuận trên vốn bình quân (ROE) tối

thiểu cần đạt là 15% và tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân (ROA) là

1%. Nhưng ở Việt Nam, trong số 5 NHTMNN có quy mô hoạt động lớn nhất

tính đến đầu năm 2006 thì chỉ có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đạt chỉ

tiêu tài chính theo đúng với thông lệ quốc tế. Trong khi đó, theo Vinacapital,

ROE ước tính năm 2006 của các NHTM cổ phần đạt khá cao (Ngân hàng Á

99

Đông là 19%, của Techcombank là 31%) [29, tr.36].

- Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các NHTMNN hiện

chiếm gần 80% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân

hàng. Nhóm khách hàng truyền thống của các NHTMNN là các doanh nghiệp

nhà nước (DNNN). Các NHTM cổ phần chủ yếu tập trung vào đối tượng các

doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhóm khách hàng của các ngân hàng liên doanh và

chi nhánh ngân hàng nước ngoài là khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài. Tín dụng theo ngành cũng phản ánh sự phân khúc thị trường tín

dụng, nhất là đối với các NHTMNN. Bảng 3.7 cho biết cơ cấu tín dụng và tốc

độ tăng trưởng tín dụng trong nước giai đoạn 2001-2006. Tỷ trọng tín dụng

dành cho khu vực DNNN trong tổng tín dụng trong nước đã giảm từ 70% vào

đầu thập niên 1990 xuống 57% năm 1996, 45% năm 2000, 42% năm 2001,

38,7% năm 2002, 35,5% năm 2003, 34% năm 2004, 32,8% năm 2005 [25, 43].

Bảng 3.7: Cơ cấu tín dụng cho vay và tốc độ tăng trƣởng tín dụng

trong nƣớc giai đoạn 2001-2006

Đơn vị: nghìn tỷ đồng, %

Ước

2001 2002 2003 2004 2005

2006

Tín dụng trong nước (ròng) (nghìn tỷ đồng)

191,2 239,9 316,9 434,6 585,6

698,0

- Tín dụng cho Chính phủ

2,1

8,8

20,1

14,5

32,5

20,0

- Tín dụng cho nền kinh tế

189,1 231,1 296,7 420,0 553,1

678,0

+ Tín dụng cho DNNN

79,7

89,5 105,4 142,9 181,3

-

+ Tín dụng cho khu vực khác

109,4 141,6 191,3 277,1 371,8

-

Tổng tín dụng trong nước/ GDP (%)

39,7

44,8

51,7

60,8

69,9

72,0

Tốc độ tăng tín dụng trong nước ròng (%/

23,2

25,5

32,1

37,1

34,7

19,2

năm)

- Tốc độ tăng tín dụng cho nền kinh tế

21,5

22,2

28,4

41,6

31,7

22,6

(%/ năm)

+ Tốc độ tăng tín dụng cho DNNN (%/

14,0

12,2

17,8

35,6

26,9

-

năm)

+ Tốc độ tăng tín dụng cho khu vực khác

27,5

29,5

35,1

44,8

34,2

-

(%/ năm)

100

Chú thích: Dữ liệu từ 2002 trở đi gồm NHNNVN, 6 NHTMNN và 79 NHTM ngoài quốc doanh.

Năm 2006 theo ước tính của IMF trên cơ sở số liệu của NHNNVN.

Nguồn: [43, tr.25] và tính toán của tác giả

- Chất lượng các khoản cho vay tín dụng của hệ thống ngân hàng vẫn còn

nhiều vấn đề nghiêm trọng. Rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu (NPLs) vẫn

còn hiện hữu. Tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư nợ của hệ thống NHTM được

công bố đã giảm từ 13% năm 2000 xuống còn 3,4% năm 2005. Tuy nhiên, nếu

dựa trên cách phân loại quốc tế về nợ thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM có

thể lớn hơn gấp nhiều lần con số công bố. Hơn nữa, nguy cơ phát sinh nợ quá

hạn là khá cao do nhiều dự án đầu tư chưa được kiểm định chặt chẽ về tính hiệu

quả và khả thi, trong khi quá trình cải cách các DNNN lớn mới chỉ thực sự

được triển khai từ năm 2005.

- Vấn đề “sai lệch kép” vẫn còn tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng. Với

tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn hiếm khoảng 75%,

nguy cơ sai lệch về cơ cấu thời hạn trong bảng cân đối tài sản của hệ thống

NHTM là tương đối lớn. Nguy cơ này có thể tăng lên trong bối cảnh các

NHTM có thể sử dụng tới 25-30% tổng vốn huy động ngắn hạn để cho vay

trung và dài hạn. Sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm trong vài năm trở lại

đây, song mức độ vẫn còn khá lớn và lại rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi

suất, nhất là trong môi trường đô la hoá cao.

- Rủi ro tín dụng có thể tăng lên còn do thu nhập của các NHTM chủ yếu

dựa trên nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay, mặc dù

nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng đã có bước phát triển trong 4-5 năm trở lại

đây. Đến năm 2004, tổng số loại hình nghiệp vụ dịch vụ ngân hàng đang được

sử dụng ở Việt Nam vào khoảng 300, chiếm khoảng 6-10% tổng nguồn thu của

ngân hàng, thấp hơn nhiều các con số tương ứng của các ngân hàng nước ngoài

và liên doanh là 6000 nghiệp vụ và 30% [2]. Hơn nữa, áp lực cho vay theo chỉ

định của Chính phủ trên thực tế và vấn đề “rủi ro đạo đức” vẫn tồn tại. Phần

lớn các khoản vay lại được thế chấp bằng bất động sản, trong khi thị trường bất

101

động sản biến động bất thường. Các khoản vay được thế chấp bằng chứng

khoán tuy có tỷ trọng chưa lớn song cũng đáng lo ngại khi năng lực của các nhà

đầu tư cá nhân còn thấp và TTCK vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây biến động lớn

về giá cả.

Trong khi đó, năng lực giám sát, quản trị ngân hàng còn nhiều hạn chế.

Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Quá trình giám sát từ xa còn bất

cập trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong bối cảnh các

chuẩn mực về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng thật rộng rãi, nhất quán,

đồng bộ. Công tác giám sát tín dụng chưa bao quát hết toàn bộ các định chế tài

chính có liên quan đến hoạt động tín dụng do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa

các cơ quan quản lý Nhà nước và do mô hình quản lý hệ thống tài chính hiện

tại về thực chất là quản lý theo định chế tài chính. Các quy định quản lý theo

tiêu chuẩn quốc tế như quản lý rủi ro, quản trị tài sản có, tài sản nợ, kiểm toán

nội bộ, v.v. mới được áp dụng, nên chưa thật sự có hiệu quả. Nhìn chung, trình

độ quản trị nội tại ngân hàng chưa đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế như

CAMEL và BASEL.

TTCK Việt Nam được IMF và các tổ chức quốc tế đánh giá là đã phát

triển chưa từng có trong năm 2006 và đầu năm 2007 bắt nguồn từ tình hình

kinh tế vĩ mô khả quan của Việt Nam, cộng với việc trở thành thành viên chính

thức của WTO, đã thu thút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, đặc biệt từ

tháng 11/2006 đến nay. Cầu chứng khoán tăng mạnh dẫn đến tình trạng cổ

phiếu bị đánh giá quá cao trong bối cảnh cung chứng khoán bị hạn chế. Một số

yếu tố cơ bản khác có tác động đến tình trạng này như tốc độ hội nhập của Việt

Nam vào nền kinh tế toàn cầu, tính minh bạch được cải thiện, các cải cách

tương đối hiệu quả… Tuy nhiên, nhìn chung, TTCK Việt Nam vẫn còn ít các

định chế tài chính quan trọng như các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương hỗ và chưa

có các công ty định mức tín nhiệm. Các nhà bảo lãnh phát hành chủ yếu là các

NHTMNN. Các công ty chứng khoán chưa đóng vai trò là nhà tạo lập thị

trường quan trọng trên thị trường, mà mới chỉ thực hiện bảo lãnh phát hành đối

với trái phiếu chính phủ. Các nhà đầu tư cá nhân nhìn chung còn thiếu tính

102

chuyên nghiệp, hành vi đầu tư phần lớn thường mang tính ngắn hạn, “bầy đàn”,

nhằm thu chênh lệch từ giá cổ phiếu trong mỗi phiên giao dịch chứ không xuất

phát từ mục tiêu lợi nhuận thu được từ lợi tức cổ phiếu. Đây cũng là nguyên

nhân dẫn tới sự tăng giảm bất ổn định của chỉ số VN-Index năm 2006 vừa qua,

gây biến động mạnh về giá và làm giảm độ tin cậy đối với thị trường, đặc biệt

là trong bối cảnh mức độ công khai, minh bạch của thị trường vẫn chưa cao. Sự

tăng trưởng nóng của TTCK và sự tăng ảo quá lớn về giá trị thực của cổ phiếu

có thể gây ra những cú sốc lớn cho các nhà đầu tư. Theo ước tính của IMF, hệ

số giá/ lợi nhuận (P/E) trung bình của 20 công ty lớn nhất của Việt Nam là

khoảng 73,3, vượt quá xa so với các thị trường khác. Trong khi đó, chỉ số P/E

bình quân của thị trường đứng thứ 2 sau Việt Nam trong bảng thống kê của

IMF là Ấn Độ chỉ có 20,4 và mức trung bình của thế giới là 16,2 [70]. Cũng

theo những phản hồi chính sách cho TTCK Việt Nam, IMF cũng chỉ ra những

rủi ro liên quan đến sự bùng nổ TTCK ở Việt Nam. Việc cho vay mua chứng

khoán của ngân hàng không được kiểm tra và luồng vốn đầu tư gián tiếp ngày

càng tăng tiếp tục làm bùng nổ TTCK, làm tăng rủi ro liên quan đến TTCK của

NHTM và tăng khả năng TTCK có sự điều chỉnh lớn trong thời gian tới. Sự điều

chỉnh có thể đe doạ đến khả năng thanh khoản của các NHTM thiếu vốn. Cán

cân vãng lai có thể trở lại trạng thái thâm hụt lớn trong thời gian tới khi cầu nhập

khẩu tăng sau khi gia nhập WTO (do thuế nhập khẩu giảm), có thể khiến dòng

vốn chảy vào dừng đột ngột hoặc bị đảo chiều (chảy ra). Thậm chí, ngay cả khi

giá chứng khoán tiếp tục ở xu thế tăng trong một thời gian tương đối dài thì

luồng vốn chảy vào lớn có thể gây khó khăn cho việc thực thi chính sách tiền tệ

và tỷ giá.

Lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn chưa tạo được đường cong lãi suất

chuẩn làm cơ sở cho việc phát hành trái phiếu công ty và các hoạt động đầu tư

trên TTTC. Cách thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu quốc gia trên thị

trường quốc tế dường như vẫn thiếu tầm nhìn, chưa xác định rõ ràng mục tiêu

dài hạn.

Thành phần tham gia đấu thấu trái phiếu chính phủ trên thực tế chủ yếu

103

vẫn là các NHTMNN. Thị trường thứ cấp kém phát triển. Sự tham gia đầu tư

vào trái phiếu chính phủ của công chúng còn hạn chế. Hệ thống tư pháp, các

chuẩn mực quốc tế về công bố thông tin và kế toán, hệ thống thanh toán còn

nhiều bất cập. Việc thiếu vắng các tổ chức định mức tín nhiệm cũng là nguyên

nhân kìm hãm sự phát triển của thị trường.

Rõ ràng, trong bối cảnh sau khi gia nhập WTO, với những yếu kém nêu

trên, chắc chắn TTTC Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít thách thức. Các

ngân hàng trong nước có thể mất thị phần đáng kể, mặc dù hiện đang có một thị

phần tiền gửi và tín dụng tương đối lớn. Trong bối cảnh mở cửa kinh tế - tài

chính, tình trạng yếu kém năng lực về vốn, quản trị, công nghệ, cùng với những

rủi ro hệ thống còn cao, sẽ đặt hệ thống tài chính Việt Nam vào vị thế dễ bị tổn

thương nếu không có những biện pháp điều hành quản lý vĩ mô thích hợp. Rủi

ro này có thể gia tăng trong bối cảnh Việt Nam dần mở cửa tài khoản vốn trong

cán cân thanh toán quốc tế và cho phép đồng tiền Việt Nam được chuyển đổi

hoàn toàn. Một thách thức nữa là một số đối tượng yếu thế có thể gặp khó khăn

về vốn do một số thị trường, lĩnh vực có thể bị “bỏ rơi”, nhất là các khoản cho

vay nhỏ đối với nông dân cũng như các khoản tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ

và vừa.

Một trong những biểu hiện của sự thiếu lành mạnh trong hệ thống tài

chính - tiền tệ của Việt Nam là chất lượng tín dụng thể hiện tỷ lệ nợ quá hạn

của các NHTM. Nếu như nợ quá hạn của các NHTM không được giải quyết

dứt điểm thì đây có thể chính là ngòi nổ dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ

ở nước ta trong những năm tới. Mối nguy hiểm này càng được khuyếch đại khi

NHNN tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ và tăng cường mở cửa thị trường tài

chính theo tiến trình hội nhập tài chính quốc tế và thực hiện cam kết về mở cửa

thị trường dịch vụ tài chính của WTO.

Ngoài ra, vẫn còn khá nhiều sự khác nhau giữa kiểm toán quốc tế theo

chuẩn Việt Nam và kiểm toán quốc tế theo chuẩn quốc tế. Một trong những

điểm khác cơ bản là xác định nợ. Theo chuẩn quốc tế, nhiều khoản cho vay của

ngân hàng được xác định là nợ, thậm chí phân loại nợ xấu. Song theo chuẩn

104

Việt Nam, trên sổ sách, những khoản vay đó vẫn còn, nó không phải là nợ, mà

trở thành lãi. Đây là biểu hiện của tình trạng “lãi giả, lỗ thật” trong kinh doanh

ngân hàng ở Việt Nam. Điều này lý giải tại sao một số ngân hàng quốc doanh

trên báo cáo tổng kết vẫn có lãi, nhưng năm nào cũng xin Chính phủ cấp bù lỗ.

Theo báo cáo năm 2005 của các ngân hàng quốc doanh là Ngân hàng Đầu tư và

phát triển (BIDV), Ngân hàng Công thương (ICB), Ngân hàng Ngoại thương

(Vietcombank) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(AGRIBANK), nợ quá hạn của cả bốn ngân hàng này đều dưới 2% tổng dư nợ.

Tuy nhiên, theo một đánh giá gần đây của Ngân hàng Nhà nước, nợ quá hạn

của các tổ chức tín dụng quốc doanh là 7,7% tổng dư nợ. Con số 7,7% là dựa

theo các tiêu chí của Quyết định 493 về đánh giá, phân loại nợ. Nếu tính hoàn

toàn theo chuẩn quốc tế, nợ quá hạn của một số ngân hàng quốc doanh sẽ gấp

đôi con số công bố chính thức, tức khoảng 15% tổng dư nợ. Tới đây, khi

Vietcombank và các ngân hàng quốc doanh khác cổ phần hoá, việc kiểm toán

quốc tế theo chuẩn quốc tế sẽ trở thành yêu cầu bắt buộc trong việc xác định

giá trị doanh nghiệp, bởi việc xếp loại, đánh giá tín nhiệm của một số tổ chức

tín dụng trên thị trường quốc tế không thể theo chuẩn Việt Nam. Điều này sẽ

càng cấp thiết hơn khi Vietcombank và BIDV có ý định niêm yết trên TTCK

nước ngoài.

 Điều hành chính sách tiền tệ - tỷ giá của Chính phủ còn nhiều bất cập

Cũng giống như các nước châu Á khác, Việt Nam hiện nay được đánh

giá là ít bị tổn thương hơn trước một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán so

với cách đây 10 năm. Thặng dư cán cân vãng lai, nợ nước ngoài thấp cho phép

Việt Nam và nhiều nước trong khu vực bảo vệ mình trước tác động của bất cứ

cuộc đầu cơ nào trong tương lai. Tuy nhiên, Nouriel Roubini thuộc tổ chức

Roubini Global Economics lại cho rằng chính việc tăng dự trữ ngoại tệ lại đang

tạo ra những rủi ro mới. Những rủi ro này đang tạo ra một cuộc khủng hoảng

tài chính mới nhưng không phải bắt nguồn từ “cú sốc” về cán cân thanh toán

như năm 1997, mà là sự bùng nổ và phá sản trên các thị trường tài sản.

Chính sách gắn chặt đồng nội tệ với đồng USD của các nền kinh tế châu

105

Á và tăng nhanh dự trữ ngoại tệ đang dẫn tới tăng trưởng quá mức lượng tiền

và tín dụng, các sức ép lạm phát và “các bong bóng” tài sản trên các TTCK và

bất động sản. Điều này cuối cùng sẽ dẫn tới những tổn thương tương tự như

những dòng vốn nước ngoài lớn đổ vào trong nước, làm bùng nổ tín dụng, tình

trạng “quá nóng” và “các bong bóng” mà đã xuất hiện trước cuộc khủng hoảng

tài chính 1997. Dự đoán này của Roubini dựa trên “ba yếu tố không thể”: một

nền kinh tế không thể kiểm soát khả năng thanh toán trong nước và quản lý tỷ

giá hối đoái của nó nếu tài khoản vốn của nền kinh tế để ngỏ. Nếu cố định đồng

nội tệ, các dòng ngoại tệ đổ vào sẽ tạo áp lực tăng lượng tiền. NHTW có thể

tìm cách vô hiệu hoá ảnh hưởng của việc tăng nguồn dự trữ ngoại hối bằng

cách bán chứng khoán để thu về lượng tiền mặt dư thừa. Nhưng lại xuất hiện

một khó khăn, đó là việc bán trái phiếu sẽ có xu hướng làm tăng lãi suất và do

vậy lại thu hút thêm các dòng vốn. Do đó, khả năng các NHTW châu Á vô hiệu

hoá thành công dòng vốn đổ vào là hết sức có giới hạn và do vậy, dự trữ ngoại

hối tăng thậm chí có nghĩa là lượng tiền mặt dư thừa sẽ tăng.

TTCK Việt Nam vào cuối năm 2006 đặc biệt sôi động và tiếp tục tăng

trưởng vào những tháng đầu năm 2007. Đi cùng với những diễn biến này là

một lượng lớn ngoại tệ được hình thành chủ yếu từ đầu tư nước ngoài vào

TTCK và kiều hối. Do chính sách điều hành tỷ giá kém linh hoạt và lo ngại

VND tăng giá ảnh hưởng đến sức cạnh tranh và xuất khẩu của hàng hoá, sáu

tháng đầu năm 2007, NHNN Việt Nam đã mua vào dự trữ 7 tỷ USD và một

lượng tiền tương đương 112.000 tỷ đồng được bơm ra lưu thông [67]. Để vô

hiệu hoá ảnh hưởng của việc tăng dự trữ ngoại hối này, NHNN đã áp dụng các

biện pháp nghiệp vụ thị trường mở thông qua các giấy tờ có giá như trái phiếu

công trình, trái phiếu chính phủ… để hút tiền về. Trong trường hợp cần thiết,

nếu những giấy tờ có giá của Chính phủ không đủ khả năng hút hết số tiền về

thì NHNN sẽ phát hành tín phiếu, hối phiếu. Trong 5 tháng đầu năm 2007, 82%

lượng tiền bỏ ra để mua 7 tỷ USD đã được hút về và dự kiến sẽ được hút hết từ

nay tới cuối năm, nhằm kiểm soát tổng phương tiện thanh toán và mức độ lạm

phát [67]. Tuy nhiên, nếu sử dụng công cụ tín phiếu, hối phiếu ngân hàng thì số

106

tiền sau khi hút về hoàn toàn không thể mang đi đầu tư chỗ khác, mặc dù

NHNN vẫn phải chịu lỗ để chi trả lãi suất cho nhà đầu tư đã mua những giấy tờ

có giá của ngân hàng. Cũng vì không được đầu tư nên số tiền hút về qua công

cụ nợ của NHNN nếu quá lớn thì chỉ có thể mang gửi vào ngân hàng nước

ngoài với lãi suất thông thường 4-4,5%/ năm, trong khi đó Chính phủ phải đi

vay hàng trăm triệu USD cho các dự án lớn của DNNN, như vay cho Vinashin

đóng tàu thì phải chịu lãi suất tới 7,5%/ năm [67].

Ngoài biện pháp sử dụng các công cụ thông qua thị trường mở để hút

tiền về, NHNN còn tăng mạnh dự trữ bắt buộc tại các tổ chức tín dụng. Chỉ

riêng việc tăng dự trữ bắt buộc (lên 10% đối với VND, riêng Ngân hàng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn được áp mức 8%) được thực hiện từ tháng 6 vừa

qua nhưng đã thu hút được 30.000 tỷ đồng [69]. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã

ban hành các chỉ đạo kiểm soát những lĩnh vực có rủi ro như chứng khoán, tiêu

dùng.

Cũng trong một thời gian dài, tỷ trọng huy động vốn bằng ngoại tệ của các

ngân hàng Việt Nam luôn chiếm khoảng 30% tổng vốn huy động, nhưng nhu

cầu vay của các doanh nghiệp không cao nên có thặng dư và phần này chủ yếu

là đem gửi nước ngoài. Tuy nhiên, sau một thời gian dài quan sát thấy việc vay

vốn bằng ngoại tệ có vẻ rẻ hơn vay bằng tiền đồng, nên nhu cầu vay theo hình

thức này đã gia tăng với bằng chứng là hầu hết các ngân hàng phải đồng loạt

tăng lãi suất huy động bằng đồng USD để thu hút tiền gửi trong khi FED vẫn

giữ lãi suất ổn định trong mấy tháng qua. Dưới góc độ doanh nghiệp, việc vay

bằng đồng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu hay doanh nghiệp có

nguồn thu ngoại tệ thì dường như không có vấn đề gì, nhưng nếu các doanh

nghiệp hoạt động kinh doanh trong nước không có nguồn thu bằng ngoại tệ thì

rủi ro sẽ rất lớn. Ở thời điểm hiện nay khi số dư nợ bằng ngoại tệ còn thấp, áp

lực chưa cao cộng với việc tỷ giá ổn định, thậm chí là có xu hướng tăng làm

cho hầu hết mọi người đều nghĩ rằng chẳng có điều gì xảy ra trong vòng 3 đến

6 tháng tới, thậm chí là một năm, nên vay ngoại tệ sẽ có lợi hơn. Tuy nhiên, sẽ

107

hoàn toàn khác nếu số vốn vay bằng ngoại tệ lớn đến một ngưỡng nào đó và

khi một lượng lớn vốn vay bằng ngoại tệ đến hạn thì rủi ro thanh toán nảy sinh.

Cầu ngoại tệ lớn trong khi cung không đủ. Đây chính là bài học có thể được rút

ra ở một số nước Đông Á.

Tóm lại, những nguy cơ từ bên trong, từ nội tại nền kinh tế là hết sức rõ

ràng ở Việt Nam. Đó là tăng trưởng cao nhưng chất lượng tăng trưởng thấp;

thâm hụt ngân sách; mất cân đối cán cân thương mại; nợ nước ngoài tăng

nhanh; hệ thống tài chính - ngân hàng yếu kém và điều hành chính sách tiền tệ -

tỷ giá của Chính phủ còn nhiều bất cập.

3.1.2.2 Nguy cơ từ bên ngoài

Nếu như những nguy cơ từ bên trong xuất phát từ nội tại nền kinh tế, đặc

biệt là sự yếu kém của hệ thống tài chính, thì những nguy cơ từ bên ngoài lại

xuất phát từ quá trình hội nhập, mở cửa, tự do hoá tài chính, tự do hoá thương

mại, hoặc do lây nhiễm khủng hoảng.

Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á vừa qua là lời cảnh báo

nghiêm khắc nhất về nguy cơ mất ổn định tài chính toàn cầu. Nếu không có

biện pháp ngăn chặn hữu hiệu thì những bất ổn của tài chính quốc tế trong

những thập kỷ tới sẽ diễn ra với tần suất ngày càng nhiều hơn và một cuộc đại

khủng hoảng kinh tế - tài chính quốc tế mới không phải là không thể xảy ra,

đặc biệt trong điều kiện tốc độ và quy mô toàn cầu hoá tài chính, tự do hoá tài

chính nhanh và rộng lớn như hiện nay. Việt Nam cũng không vượt ra ngoài các

quy luật đó, nhất là sau khi chúng ta đã trở thành thành viên thứ 150 của WTO.

Tổng kết cho thấy có 5 nguy cơ mà tự do hoá tài chính có thể gây ra:

- Nguy cơ tiền tệ hay nguy cơ mất giá nội tệ do chính sách tỷ giá hối đoái

không hợp lý và nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng chuyển vốn ra nước ngoài.

Biện pháp đối phó chủ yếu là phải có lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn để duy trì ổn

định tỷ giá. Các nước đang phát triển, trong một chừng mực nào đó nên hạn chế

chuyển đổi tiền tệ đồng thời thường xuyên điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt.

- Nguy cơ tiền tháo chạy do thiếu các biện pháp kiểm soát dòng vốn ngắn

hạn. Để đối phó với nguy cơ này có thể tham khảo kinh nghiệm của một số

108

nước Mỹ La tinh trước đây hay Malaysia trong cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ 1997-1998. Ngoài ra việc hạn chế đổi ngoại tệ cũng góp phần ngăn chặn

nguy cơ này.

- Nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn đầu tư dài hạn (như ở Thái

Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-19998). Nguy cơ này càng

nghiêm trọng khi xảy ra biến động tỷ giá, giá bất động sản, giá trị của tài sản

thế chấp vay ngân hàng và giá chứng khoán. Để phòng tránh nguy cơ vỡ nợ thì

chính phủ phải có hệ thống giám sát tài chính hiệu quả nhằm ngăn chặn những

khoản đầu tư rủi ro cao. Ngoài ra còn có thể sử dụng một số biện pháp hạn chế

chuyển đổi tiền tệ (như ở Trung Quốc) hay kiểm soát chặt các luồng vốn ngắn

hạn từ bên ngoài.

- Nguy cơ lây nhiễm biểu hiện ở 3 nguy cơ trên rất dễ xảy ra khi nền kinh

tế chịu những cú sốc tài chính từ bên ngoài, nhất là những cuộc khủng hoảng

tài chính - tiền tệ trong điều kiện hội nhập kinh tế - tài chính quốc tế mạnh mẽ

như hiện nay. Nguy cơ này cao hay thấp phụ thuộc vào thực lực kinh tế - tài

chính và mức độ đúng đắn của các chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi nước.

- Nguy cơ mất chủ quyền: Chính phủ có thể phải hy sinh một số mục tiêu

chiến lược để đối phó với các nguy cơ khi thực hiện tự do hoá tài chính, đồng

thời giảm khả năng độc lập trong hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội,

nhất là khi xảy ra khủng hoảng tài chính vì chính phủ buộc phải cắt giảm ngân

sách, giảm các chỉ tiêu tăng trưởng và các chương trình xã hội, chấp nhận sự

trợ giúp của nước ngoài (như “liệu pháp cả gói” của IMF)… Để tránh sự phụ

thuộc vào nước ngoài, Chính phủ mỗi nước cần tiến hành tự do hoá tài chính

một cách chủ động, tích cực: nhanh chóng cải cách hệ thống tài chính - tiền tệ

trong nước, tăng cường đối thoại cấp khu vực và quốc tế để phối hợp chính

sách có hiệu quả, xây dựng “hệ thống cảnh báo sớm” cấp khu vực hay lập quỹ

dự trữ tiền tệ khu vực, nhằm hạn chế những nguy cơ từ tự do hoá tài chính.

Ngoài lý do tự do hoá tài chính thì toàn cầu hoá kinh tế - tài chính vừa là

nguyên nhân, vừa là động cơ của lây nhiễm khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

109

Trong lĩnh vực tài chính, “toàn cầu hoá được hiểu là sự luân chuyển vốn tự do

và hiệu quả giữa các quốc gia nhờ quá trình phi điều tiết thị trường trong

nước”. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển

các luồng vốn quốc tế, làm cho một lượng vốn lớn đổ vào các nước đang phát

triển, thúc đẩy tăng trưởng ở các nước này. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân cả

khách quan và chủ quan, các nước đang phát triển thường coi nhẹ việc ngăn

ngừa rủi ro tiền tệ và nhiệm vụ ổn định tiền tệ, đồng thời nới lỏng quá mức chế

độ quản lý tiền tệ trong khi thể chế tiền tệ chưa hoàn thiện và khả năng quản lý

giám sát tiền tệ kém nên đã dẫn tới các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ như

ở Mexico 1994-1995, ở Đông Nam Á năm 1997-1998, ở Brazil, Nga 1998, ở

Argentia năm 2001, v.v.

Nếu như cách đây hai năm, những quan ngại về dòng vốn nước ngoài đổ

vào Việt Nam quá lớn gây ra sự lo lắng hay những bất ổn cho nền kinh tế là

điều chưa xảy ra, nhưng chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007 này, khi mà có một

lượng vốn gián tiếp rất lớn chảy vào, trong khi nền kinh tế chưa kịp chuẩn bị

để hấp thụ hết, đã gây ra những rắc rối nhất thời, như việc Ngân hàng Nhà nước

phải tung một lượng lớn tiền VND để mua vào 7 tỷ USD tạo sức ép không nhỏ

lên lạm phát gây bất lợi cho nền kinh tế. Nếu các dòng vốn chảy vào không

được đưa vào nền kinh tế một cách kịp thời để tạo ra giá trị gia tăng thực sự thì

trong dài hạn sẽ gây tác động không tốt cho Việt Nam. Bởi lẽ, rõ ràng là khi

các nhà đầu tư bỏ tiền vào Việt Nam nói riêng, các nước đang phát triển nói

chung thì suất sinh lời yêu cầu tối thiểu cũng phải là 15% vì nếu đầu tư vào cổ

phiếu ở các thị trường đã ổn định nếu tính bình quân theo chỉ số chứng khoán

thì suất sinh lời bình quân cũng trên 10%/ năm. Nếu tiền chỉ được bỏ vào các

dự án bất động sản hay những nơi không tạo ra giá trị gia tăng thực sự thì về

lâu dài sẽ không có tiền để “trả nợ”. Nếu không đảm bảo được suất sinh lời

mong muốn, khả năng dòng vốn chảy ngược là điều khó tránh khỏi. Đây chính

là điều đã xảy ra ở nước láng giềng, nhất là Thái Lan vào năm 1997. Với những

diễn biến gần đây, không loại trừ khả năng tương tự sẽ xảy ra đối với Việt

110

Nam.

Một nguy cơ nữa đang rình rập đối với Việt Nam là tuy dòng vốn gián tiếp

đổ vào Việt Nam đang đợi để mua cổ phiếu, nhưng không loại trừ khả năng

trong thời gian “chờ đợi” các quỹ đầu tư sẽ cho các doanh nghiệp Việt Nam

vay theo nhiều hình thức khác nhau. Nếu điều này xảy ra thì về cơ bản dòng nợ

này không khác lắm dòng nợ nước ngoài đã gây ra khủng hoảng ở Thái Lan.

Tóm lại, hai trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ ở Đông Á năm 1997-1998 là do việc tự do hoá dòng vốn đi vào - đi ra

quá nhanh và do đồng tiền ở các nước này được cố định tỷ giá trong một thời

gian quá dài làm cho các doanh nghiệp vay quá nhiều ngoại tệ đã gây ra rắc rối.

Mặc dù hiện tại chưa có dấu hiệu gì đáng phải chú ý, nhưng nếu các cơ quan

xây dựng và điều hành chính sách không lường trước những gì có thể xảy ra thì

rất có thể, chỉ trong một thời gian ngắn các khoản nợ vay này sẽ gây rắc rối cho

nền kinh tế Việt Nam. Khi đó, khó mà lường được hậu quả vì giờ đây, cho dù

các nước láng giềng đã hứng chịu hậu quả tồi tệ của cuộc khủng hoảng nhưng đã đi trước Việt Nam một chặng đường khá xa.

Từ những phân tích ở trên, có thể thấy khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở

Việt Nam nếu xảy ra sẽ mang đặc thù sau:

- Khủng hoảng xuất phát từ khu vực kinh tế nhà nước nhiều hơn từ các

khu vực kinh tế khác. Đây là điểm khác biệt so với đặc điểm của khủng hoảng

tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 xuất phát từ khu vực tư nhân. Sở dĩ như

vậy là vì, khác với đại đa số các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, khu

vực kinh tế nhà nước giữ vai trò rất quan trọng ở Việt Nam, nhất là trong lĩnh

vực đầu tư, tín dụng và thu NSNN. Tuy nhiên nếu khủng hoảng tài chính - tiền

tệ nổ ra, chắc chắn khu vực này sẽ chịu tác động đầu tiên và hậu quả nặng nề

hơn bất cứ khu vực nào khác.

- Mặc dù lĩnh vực hoạt động của ngân hàng hiện nay đã trở nên đa dạng

hơn (như ngân hàng có thể tham gia trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán,

bảo hiểm, v.v.), nhưng do cấu trúc tài chính của Việt Nam vẫn dựa trên ngân

111

hàng nên khủng hoảng tài chính sẽ có dạng thức của khủng hoảng ngân hàng

do những yếu kém đặc biệt của khu vực này trong khi các định chế tài chính

phi ngân hàng còn kém phát triển.

- Với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc và điều kiện quốc tế khác hẳn so

với năm 1997, có thể nói khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa thể xảy ra ở Việt

Nam trên diện rộng. Nếu có xảy ra thì chỉ có thể là khủng hoảng cục bộ ở một

số lĩnh vực của nền kinh tế. Song, trong quá trình mở cửa, tự do hoá tài chính,

tự do hoá tài khoản vốn, Việt Nam vẫn có thể phải đối mặt nhiều hơn với

những rủi ro tài chính, bất ổn tài chính. Những rủi ro hay bất ổn tài chính này ít

hay nhiều còn phụ thuộc phần lớn vào điều kiện nội tại của nền kinh tế, đặc biệt

là sức mạnh của hệ thống tài - ngân hàng. Ngoài ra, việc phối hợp chính sách

giữa các quốc gia ở cấp vùng, giữa các quốc gia với các tổ chức tài chính quốc

tế như IMF là hết sức cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội

nhập sâu rộng vào hệ thống tài chính quốc tế.

3.2

VẬN DỤNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU Á TRONG

VIỆC NGĂN NGỪA VÀ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ Ở

VIỆT NAM

Trên cơ sở khái quát cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998 và

đánh giá sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc

khắc phục khủng hoảng, Việt Nam là một nước đi sau, đang trong quá trình hội

nhập kinh tế - tài chính quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng có thể học hỏi và rút ra

được bài học cho riêng mình nhằm ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng một cách

hiệu quả nhất nếu có xảy ra.

3.2.1 Ngăn ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ

3.2.1.1 Duy trì nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc

Có thể nói một nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc là một trong những

nhân tố đầu tiên cho phép các quốc gia có thể chống chọi và giảm thiểu tác hại

của các cú sốc kinh tế bên trong lẫn bên ngoài. Hệ thống chỉ số phản ảnh nền

tảng kinh tế vĩ mô tốt gồm có: tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, chính sách

tiền tệ giới hạn lạm phát thấp, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cao, nợ công của nhà

112

nước được kiểm soát chặt chẽ đảm bảo khả năng hoàn trả. Tuy nhiên tăng

trưởng cao thôi chưa đủ. Bởi nếu tăng trưởng cao, liên tục nhưng cơ cấu đầu tư

bất hợp lý, đầu tư không hiệu quả, hệ số ICOR cao thì tăng trưởng ấy không

bền vững. Do đó, vấn đề là tăng trưởng cao phải đi đôi với chất lượng tăng

trưởng.

Các cân đối lớn của nền kinh tế được duy trì ổn định. Sự thâm hụt quá

mức của các cán cân thương mại, cán cân vãng lai, tài khoản vốn và cán cân

thanh toán sẽ làm gia tăng rủi ro và nguy cơ khủng hoảng tài chính - tiền tệ, đặc

biệt trong điều kiện tỷ giá cố định, dự trữ ngoại hối không đủ bị các cuộc đầu

cơ tấn công. Giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh

tế là thúc đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu hàng tiêu dùng,

khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh thu ngoại tệ, chuyển ngoại tệ

về nước và hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kiểm soát chặt chẽ các

luồng vốn nhằm ngăn chặn tình trạng rút vốn đột ngột và ồ ạt, tăng cường thu

hút vốn đầu tư nước ngoài, cả trực tiếp và gián tiếp. Mục tiêu là giảm thâm hụt

các cân đối lớn của nền kinh tế, tiến tới cân bằng và thặng dư khi đủ điều kiện.

Tuy nhiên, mấu chốt của vấn đề lại nằm ở năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp, của hàng hoá xuất khẩu. Do đó, để duy trì ổn định các cân đối lớn của

nền kinh tế một cách bền vững, khâu đột phá quyết định đó là phải không

ngừng cải tiến mẫu mã, đa dạng hoá chủng loại mặt hàng, nâng cao chất lượng

sản phẩm, đặc biệt đầu tư nghiên cứu những sản phẩm có hàm lượng công nghệ

cao, có giá trị gia tăng lớn trong xuất khẩu.

Ngoài ra, để thu hút nguồn vốn lớn từ bên ngoài, Việt Nam không chỉ

phát triển mạnh mẽ các bộ phận cấu thành của thị trường, trong đó có TTCK,

mà quan trọng hơn là đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư

thông thoáng cũng như có chính sách thoả đáng đối với kiều bào ở nước ngoài.

Trong điều kiện Việt Nam, toàn cầu hoá tài chính và cùng với nó là sự

phát triển tài chính theo chiều sâu đòi hỏi chúng ta phải thiết lập cho bằng được

những thiết bị giảm sốc có khả năng chống đỡ và thích ứng với các biến động

trên thị trường tài chính. Để duy trì một nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc,

113

“thiết bị giảm sốc” đầu tiên của mỗi quốc gia là dự trữ ngoại hối. Mức độ dự

trữ ngoại hối quốc gia phải được thiết lập trong mối quan hệ với sự thay đối của

dòng chảy vốn đầu tư, nhất là dòng vốn gián tiếp. Các luồng vốn đầu tư trực

tiếp, luồng vốn vay nợ nước ngoài và luồng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào càng

nhiều thì mức độ dự trữ ngoại hối quốc gia phải càng cao. Cách can thiệp đồng

thời trên thị trường ngoại hối và phát hành trái phiếu Chính phủ chính là một

trong những biện pháp làm gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia tương thích với

dòng chảy vốn nước ngoài vào nền kinh tế.

3.2.1.2 Điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt

theo nguyên tắc thị trường

Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy một tỷ giá ổn định và cạnh tranh

là cần thiết đối với một quốc gia đang phát triển hướng về xuất khẩu. Nó khiến

cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể duy trì tính cạnh tranh và tiến hành kinh

doanh mà không phải chịu tác động gián đoạn thái quá do biến động tỷ giá. Tuy

nhiên, một tỷ giá hối đoái không linh hoạt có thể dẫn tới rủi ro của một cuộc

khủng hoảng cán cân thanh toán và khủng hoảng tiền tệ khi tỷ giá tăng quá cao

(nội tệ giảm giá), hoặc tạo ra tình trạng nền “kinh tế bong bóng” và lạm phát

khi tỷ giá giảm (nội tệ tăng giá). Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, NHNN

đã thực thi chính sách điều hành tỷ giá kém linh hoạt, gây áp lực nặng nề lên dự

trữ ngoại hối, đồng VND bị đánh giá thực cao làm giảm sức cạnh tranh của

hàng hoá và cuối cùng là NHTW mất đi tính tự chủ khi điều hành chính sách

tiền tệ trong tiến trình hội nhập. Một số quan điểm cho rằng trước mắt cần phá

giá đồng Việt Nam, thậm chí là dùng “liệu pháp sốc” với mức phá giá 30% để

tăng tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Một số

nhà kinh tế khác lại cho rằng phá giá là phá đi niềm tin của các nhà đầu tư về

môi trường đầu tư ở Việt Nam, đó là chưa kể tới gánh nặng nợ nần nước ngoài

do phá giá, và cho rằng chỉ cần mở rộng biên độ tỷ giá vốn đã quá hẹp là đủ.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy chế độ tỷ giá cố định cần một dự trữ ngoại hối

cao hơn so với chế độ tỷ giá thả nổi hoặc thả nổi có quản lý. Chính vì thế, ngày

càng có nhiều quốc gia chuyển sang chế độ tỷ giá linh hoạt hơn để giảm bớt

sức ép lên dự trữ quốc gia. Trong một thị trường vốn quốc tế phát triển cao ở

114

phạm vi toàn cầu, một chế độ tỷ giá cố định sẽ làm cản trở chính sách tiền tệ

độc lập. Chính vì thế, trong dài hạn, NHTW Việt Nam vẫn cần phải kiên trì

theo đuổi một chính sách tỷ giá linh hoạt có quản lý (managed flexible

exchange rate system), uyển chuyển và linh hoạt trong từng thời kỳ. Đương

nhiên, những vấn đề về sự uyển chuyển linh hoạt đó khác hoàn toàn với tính

không nhất quán trong điều hành chính sách tỷ giá.

Đối với chính sách tiền tệ, NHNN cần điều hành một cách linh hoạt, thận

trọng theo nguyên tắc thị trường nhằm giảm áp lực tăng tổng phương tiện thanh

toán, ổn định lãi suất thị trường, tỷ giá, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở

mức cao và kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo

điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng.

3.2.1.3 Chủ động xây dựng và cải cách hệ thống tài chính quốc gia

Có thể thấy rằng hầu hết nước bị khủng hoảng nặng nề nhất trong năm

1997-1998 là những nước có hệ thống tài chính yếu kém. Những nước này

được đặc trưng bởi tỷ lệ nợ xấu cao trong các ngân hàng và tỷ lệ nợ trên vốn cổ

phần cao trong các doanh nghiệp. Kinh nghiệm cho thấy tỷ lệ nợ xấu cao do

bùng nổ cho vay quá mức trước đó đã dẫn tới sự phá sản của các định chế tài

chính và làm mất niềm tin đối với các nhà đầu tư. Tình trạng vỡ nợ của một hay

hai định chế tài chính lớn có thể dẫn đến sự sụp đổ của toàn bộ các định chế tài

chính khác trong nền kinh tế và đem lại một thời kỳ suy thoái nghiêm trọng

như những gì đã xảy ra ở Thái Lan và một số nước Đông Á khác. Nếu như

đồng tiền nội địa bị tấn công bởi đầu cơ, cơ quan tiền tệ quốc gia có thể nâng

lãi suất để bảo vệ đồng tiền. Tuy nhiên, do yếu kém trong hệ thống tài chính và

do lo sợ tình trạng phá sản tiếp diễn, chính phủ Thái Lan đã không thể tiếp tục

tăng lãi suất và ngăn chặn những đợt tháo chạy tiền tệ. Trái lại, Hồng Kông lại

tỏ ra rất thành công trong việc chống lại đầu cơ tiền tệ bằng cách gia tăng lãi

suất. Nhân tố chính khiến cho Hồng Kông có thể làm được điều này là nước

này có một hệ thống tài chính đủ mạnh mà không sợ việc tăng lãi suất sẽ làm

phá sản các định chế tài chính và doanh nghiệp. Từ kinh nghiệm này có thể rút

ra bài học đầu tiên rằng một hệ thống tài chính lành mạnh và đủ mạnh là chìa

115

khoá cho tăng trưởng bền vững.

Để xây dựng một hệ thống tài chính lành mạnh trước hết cần tập trung

vào các giải pháp sau:

 Nhóm chính sách tài khoá

Nhóm chính sách này yêu cầu phải duy trì tỷ lệ thâm hụt NSNN ở mức

hợp lý. Tiêu chuẩn quốc tế là thâm hụt NSNN không quá 3-5% GDP. Không

bù đắp thâm hụt bằng biện pháp phát hành tiền mà dùng biện pháp vay trong

nước và vay nước ngoài. Tuy nhiên nếu thâm hụt NSNN lớn quá mức thì sẽ

tăng gánh nặng nợ nần của quốc gia, khiến quốc gia có thể lâm vào cuộc khủng

hoảng nợ như các nước Mĩ La tinh. Để giảm thâm hụt ngân sách cần cải cách

hệ thống thuế, phí và lệ phí nhằm tăng nguồn thu ngân sách, chống thất thu,

mặt khác cơ cấu lại chi ngân sách cho hợp lý, tránh lãng phí. Tất nhiên, việc cải

cách hệ thống thuế, phí và lệ phí phải được đặt trong bối cảnh tổng thể của việc

giảm thuế theo lộ trình của WTO và AFTA. Ngoài ra, biện pháp quan trọng

hơn là cần khuyến khích, đầu tư, phát triển các doanh nghiệp sản xuất, kinh

doanh những mặt hàng có hàm lượng công nghệ với giá trị gia tăng cao. Bước

đầu chuyển đổi cơ cấu thu - chi NSNN theo hướng duy trì các quan hệ cân đối

tài chính hợp lý, xác định tỷ lệ cần thiết giữa tỷ lệ động viên từ nền kinh tế vào

NSNN với tỷ lệ tích luỹ tái sản xuất tại khu vực doanh nghiệp; giữa các tỷ lệ

thu, chi, bội chi NSNN. Trong cơ cấu chi NSNN cần xác lập được các quan hệ

cân đối cần thiết giữa các tỷ lệ chi ngân sách cho đầu tư, phục vụ định hướng

phát triển kinh tế nhanh, bền vững với tỷ lệ chi thường xuyên, đáp ứng nhu cầu

chi tiêu hợp lý của bộ máy nhà nước và chi trả nợ, dự trữ, dự phòng. Đồng thời,

từng bước chuyển những nội dung chi tiêu không thuộc phạm vi chức năng của

NSNN sang khu vực doanh nghiệp và dân cư.

Về thu ngân sách: Có thể nói hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết của

AFTA và WTO, trong ngắn hạn sẽ trực tiếp làm giảm nguồn thu NSNN nước ta

trên các mặt: (i) Thu ngân sách biến động cả tăng và giảm do việc cắt giảm

thuế nhập khẩu và tổng lượng hàng hoá nhập khẩu tăng; (ii) Môi trường kinh

doanh được cải thiện sẽ là cơ sở thúc đẩy các hoạt động kinh tế ngày càng sôi

116

động hơn, điều đó làm tăng cơ sở nộp thuế thúc đẩy tăng nguồn thu cho NSNN;

(iii) Những diễn biến giá cả thế giới (nhất là giá những mặt hàng chủ yếu là đầu

vào của sản xuất trong nước như xăng dầu và các vật tư nguyên liệu chính luôn

tăng mạnh) tác động đến NSNN theo nhiều hướng khác nhau. Hội nhập quốc tế

trực tiếp làm giảm các nguồn thu từ thuế XNK của NSNN nhưng bù lại, nhờ

việc giảm thuế nhập khẩu mà thị trường trong nước sẽ sôi động hơn, tổng

lượng hàng hoá tiêu dùng sẽ tăng lên, đồng nghĩa với việc gia tăng cơ sở tính

thuế tiêu thụ (thuế VAT và thuế tiêu thụ đặc biệt). Cùng với tiến trình giảm

thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp trong nước sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị

trường ra nước ngoài hơn (do được đối xử tương ứng với việc giảm thuế nhập

khẩu). Từ đó, thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp xuất khẩu và thu nhập

của các doanh nghiệp phục vụ xuất khẩu cũng như các hoạt động buôn bán

trung gina phục vụ xuất khẩu tăng lên. Điều đó làm tăng thu NSNN một cách

bền vững hơn là dựa vào thuế XNK. Như vậy, trong ngắn hạn, giá tăng và hội

nhập quốc tế có thể làm giảm thu NSNN, nhưng trong dài hạn, chúng sẽ củng

cố sự bền vững cho NSNN.

Bên cạnh đó, nhằm lành mạnh hoá thu NSNN cần có biện pháp giảm

thiểu tình trạng trốn lậu thuế, nợ đọng thuế, đòi hoàn thuế VAT bất hợp pháp.

Trong thời gian tới, chúng ta cần cải cách hệ thống thuế theo hướng mở rộng

diện thu thuế, giảm thuế suất, triển khai có hiệu quả Luật thuế thu nhập cá

nhân, thuế tài sản, đơn giản hoá các quy trình thu nộp thuế, thống nhất quản lý

phí và lệ phí.

Về chi ngân sách: Quan trọng nhất trong cơ cấu chi NSNN là thực hiện

ngân sách cứng để các DNNN tự hạch toán kinh doanh, đảm bảo có lãi. Nhà

nước chỉ đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực mà các thành phần kinh tế

khác không được phép, không muốn hay không thể đầu tư. Để làm được việc

đó, NSNN cần chuyển đổi hướng ưu tiên chi đầu tư phát triển sang ưu tiên chi

thường xuyên, đảm bảo đủ ngân sách chi cho khu vực hành chính để khu vực

này sống và làm việc một cách hiệu quả, trong sạch. Cải cách hành chính phải

đi liền với đổi mới quy mô và cơ cấu chi NSNN, nhất là phần cấp cho khu vực

117

hành chính. Báo cáo kiểm toán năm 2006 cho thấy thu và chi NSNN, đặc biệt

là chi thường xuyên, chi xây dựng cơ bản có vấn đề sai phạm. Do đó, ngoài

việc nâng cao trách nhiệm cá nhân, đề ra cơ chế xử lý hậu kiểm toán rõ ràng,

cần tăng cường giám sát hơn nữa với những cơ quan sử dụng ngân sách

 Nhóm chính sách vay nợ

Toàn cầu hoá tài chính trong giai đoạn ngày nay đòi hỏi phải tăng tính

linh hoạt về tài khoá. Tính linh hoạt trong chính sách tài khoá đòi hỏi phải kiểm

soát cho bằng được tỷ trọng các khoản nợ quốc gia. Đã đến lúc quá muộn để

Chính phủ xây dựng chính sách thẩm định và phân tích nợ một cách minh bạch.

Các khoản nợ quốc gia cần phải được kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, bởi đã có

quan điểm cho rằng tuy nợ quốc gia vẫn đạt ngưỡng an toàn nhưng khả năng

trả nợ sau này lại là một vấn đề lớn do hiệu quả sử dụng các khoản nợ nước

ngoài là không cao.

Bài học từ các cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua cho thấy Chính phủ

cần có các biện pháp kiểm soát khối lượng và cơ cấu vay nợ nước ngoài, đặc

biệt là nợ ngắn hạn, kể cả nợ khu vực nhà nước và khu vực tư nhân. Mọi khoản

vay nợ nước ngoài cần được theo dõi bởi các cơ quan chức năng nhằm đảm bảo

khả năng trả nợ, tránh việc vay nợ tràn lan do các điều kiện vay nợ quá dễ dãi

từ kết quả của tự do hoá tài chính, nhất là việc sử dụng các khoản vay ngắn hạn

để đầu tư dài hạn. Một hệ thống tài chính lành mạnh phải dựa chủ yếu vào

nguồn vốn trong nước, vào việc phát huy nội lực chứ không thể phụ thuộc quá

nhiều vào các nguồn vốn bên ngoài, mặc dù các nguồn vốn này rất quan trọng.

Chính vì vậy, chính sách vay nợ cần thận trọng, giữ tỷ lệ nợ so với GDP, tỷ lệ

nợ so với kim ngạch xuất khẩu ở mức an toàn. Bên cạnh đó, Chính phủ cần

tăng cường dự trữ ngoại hối đủ để sẵn sàng đối phó với những biến động của

dòng vốn.

 Nhóm cải cách hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng

Ngoài nhiệm vụ tăng tiềm lực tài chính cho ngân hàng và các tổ chức tín

dụng, làm sạch bảng cân đối của các ngân hàng qua xử lý nợ quá hạn như đã

118

nói ở trên, việc tăng cường kiểm soát cho vay, xử lý vấn đề thế chấp và bảo

đảm tiền vay, nâng cao trình độ và trách nhiệm của cán bộ tín dụng… là hết sức

cần thiết và cấp bách. Một mặt, cần tách rời giữa cho vay thương mại và cho

vay chính sách, chấm dứt tình trạng can thiệp của các cấp chính quyền vào cho

vay thương mại. Mặt khác, vay thương mại cần đặt trên nguyên tắc hiệu quả

kinh tế, gắn trách nhiệm của người cho vay với hiệu quả của dự án vay từ khâu

thẩm định, phê duyệt, cấp tín dụng cho đến khi dự án hoàn thành và vốn được

hoàn trả đầy đủ. Hoàn thiện chế độ và cơ chế thế chấp, tín chấp, giải quyết tài

sản thế chấp, cầm cố sẽ giúp cho các ngân hàng và tổ chức tín dụng xử lý hậu

quả đổ vỡ các hợp đồng tín dụng nhanh nhạy và ít tốn kém hơn, phục hồi tài

sản đã mất để tiếp tục hoạt động. Duy trì các quỹ phòng ngừa rủi ro và bảo đảm

tiền gửi không chỉ củng cố niềm tin của khách hàng vào hệ thống tín dụng mà

còn cung cấp thêm những công cụ giúp cho toàn bộ hệ thống này hoạt động

lành mạnh hơn. Ngoài ra, cần tăng cường năng lực giám sát hệ thống ngân

hàng, không để xảy ra những sai phạm liên tục và kéo dài. Kỷ luật tài chính

được củng cố trên cơ sở công khai hoá các báo cáo tài chính, tuân thủ các quy

định kiểm toán bắt buộc hàng năm và nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ là

biện pháp góp phần ngăn chặn các biểu hiện không lành mạnh trong hoạt động

của các tổ chức tín dụng.

Trong quá trình toàn cầu hoá tài chính, đặc biệt là với những diễn biến

gần đây trên thị trường, hệ thống ngân hàng cần tranh thủ gia tăng vốn điều lệ

của mình. Các ngân hàng và tổ chức tín dụng cần lợi dụng mở rộng tín dụng do

dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài chảy vào để đẩy mạnh hoạt động ngân

hàng và tăng tính đàn hồi trong hoạt động của hệ thống NHTM. Việc cổ phần

hoá các NHTM nhà nước cần phải có những bước đi đột phá để tăng vốn tự có

nhằm tạo ra thiết bị giảm sốc hữu hiệu có khả năng chống đỡ với những cú sốc

từ quá trình hội nhập.

 Nhóm kiểm soát thị trƣờng tài chính

Kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy

119

thị trường tài chính (TTTC) đặc biệt nhạy cảm và rất dễ bị tổn thương trước

những tác động bên trong cũng như bên ngoài. Tính lành mạnh của TTTC được

đảm bảo bằng khả năng kiểm soát biến động của các loại giá trên TTTC (tỷ giá,

lãi suất, giá chứng khoán), khối lượng giao dịch và động thái luân chuyển của

các dòng vốn, không để các biến động đó làm náo loạn, ảnh hưởng xấu tới hệ

thống tài chính quốc gia. Bên cạnh các công cụ tài chính như sử dụng dự trữ

(ngoại tệ, nội tệ, chứng khoán), nghiệp vụ thị trường mở, thuế, phí… còn có thể

sử dụng các công cụ hành chính khi thực sự cần thiết như tạm thời đóng cửa Sở

GDCK, thay đổi các điều kiện niêm yết, quy định giới hạn tham gia thị trường,

tạm thời dừng giao dịch một số loại chứng khoán hay siết chặt các điều kiện

chuyển đổi tiền tệ, cấm chuyển vốn ra nước ngoài, cố định tỷ giá… để can

thiệp vào thị trường, củng cố và duy trì sự lành mạnh, tránh khủng hoảng tài

chính - tiền tệ. Malaysia đã áp dụng tương đối thành công các giải pháp lành

mạnh hoá TTTC đối phó với nạn đầu cơ và khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu

Á. Biện pháp hữu hiệu để chống lại lũng đoạn và đầu cơ trên TTTC là thiết lập

hệ thống giám sát có hiệu quả TTTC và tiến hành tự do hoá có trình tự, tránh

nóng vội mở cửa khi khả năng kiểm soát và tiềm lực còn yếu. Tuy nhiên mức

độ kiểm soát như thế nào là hợp lý để vừa đảm bảo loại trừ những yếu tố rủi ro,

vừa có tác động tích cực đối với sự phát triển của TTTC hoàn toàn phụ thuộc

vào những nhân tố nội tại hay thực lực bên trong của mỗi quốc gia.

 Nhóm cải cách và lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp

Kết quả kiểm toán NSNN năm 2005 cho thấy nhiều doanh nghiệp hiệu

quả kinh doanh thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài, 4/19 (21%) đơn vị được kiểm

toán kinh doanh thua lỗ trong năm 2004 với tổng số lỗ là 124 tỷ đồng, 11/19

(58%) đơn vị có lỗ luỹ kế với tổng số lỗ luỹ kế đến 31/12/2004 lên tới 1.058 tỷ

đồng. Tỷ suất lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp được kiểm toán rất

thấp (TCty Vật liệu Xây dựng số 1 là 0,18%, TCty Công nghiệp Tàu Thuỷ

0,42%, TCty Xây dựng công trình giao thông 4 là 0,45%, TCty Dệt may Việt

Nam 0,8%) [69]. Những con số trên cho thấy hiệu quả kinh doanh của khu vực

120

doanh nghiệp, đặc biệt khu vực DNNN rất thấp và nợ đọng lớn.

Ngoài các biện pháp xử lý triệt để nợ của doanh nghiệp (kể cả nợ phải

thu và nợ phải trả), cần có biện pháp tăng vốn và cơ cấu lại vốn của doanh

nghiệp nhằm giảm tỷ lệ nợ trên vốn tự có, đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN, các

hình thức giao bán khoán cho thuê doanh nghiệp, chấm dứt các hình thức bao

cấp về tài chính cho DNNN, tập trung hoàn thiện Luật Phá sản. Kế toán doanh

nghiệp cần được áp dụng rộng rãi và tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế, đồng

thời nâng dần số doanh nghiệp được kiểm toán hàng năm, trước hết là đối với

khu vực DNNN.

 Nhóm tăng cƣờng giám sát và công khai hoá tài chính

Củng cố hoàn thiện giám sát tài chính, cả giám sát từ xa và thanh tra,

kiểm tra tại chỗ. Hệ thống giám sát tài chính mạnh và hiệu quả là đảm bảo

vững chắc cho sự lành mạnh của hệ thống tài chính. Công khai tài chính vừa là

biểu hiện của hệ thống tài chính lành mạnh, vừa là công cụ đảm bảo cho sự

lành mạnh đó. Chính vì vậy, một mặt, cần cải thiện tính minh bạch về thông tin

và đẩy mạnh bắt buộc công khai hoá tài chính đối với các định chế tài chính và

khu vực kinh doanh, mặt khác, cần có các biện pháp kinh tế và hành chính để

khuyến khích mọi đối tượng thực hiện công khai hoá tài chính. Bên cạnh đó,

phát triển hệ thống thông tin tài chính và hoàn thiện chế độ báo cáo tài chính,

chế độ kế toán, kiểm toán sẽ giúp cho việc giám sát và công khai tài chính hiệu

quả, thiết thực hơn.

Đối với cấp khu vực và quốc tế, Việt Nam cần tranh thủ mối quan hệ mật

thiết với các nước láng giềng trong khu vực, các nước có mối quan hệ tốt với

nước ta và một số tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB để có thể học

hỏi, tìm hiểu kinh nghiệm nhằm nâng cao năng lực giám sát hệ thống tài chính

- ngân hàng. Đồng thời Việt Nam cũng cần phải công khai hoá tài chính, số liệu

một cách kịp thời cho các nước và các tổ chức quốc tế nhằm phòng ngừa và

cảnh báo sớm khủng hoảng.

121

3.2.1.4 Thực hiện tự do hoá tài chính theo lộ trình thận trọng

Tự do hoá tài chính là quá trình loại bỏ các kiềm chế trong hệ thống tài

chính, bao gồm: (1) Loại bỏ việc kiểm soát lãi suất; (2) Giảm yêu cầu dự trữ

bắt buộc của các ngân hàng; (3) Giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ vào các

quyết định cho vay của ngân hàng; (4) Cổ phần hoá các ngân hàng thuộc sở

hữu nhà nước; (5) Cho phép ngân hàng nước ngoài tham gia TTTC; và (6) Dỡ

bỏ kiểm soát các luồng vốn vào và ra khỏi nền kinh tế. Tự do hoá tài chính

được thực hiện không chỉ trong phạm vi quốc gia (tự do hoá tài chính trong

nước) mà còn trong quan hệ với nước ngoài (tự do hoá tài chính quốc tế). Hình

thức chủ yếu của tự do hoá tài chính quốc tế là tự do hoá tài khoản vốn. Tự do

hoá tài khoản vốn là việc dỡ bỏ các kiểm soát đối với luồng vốn vào và ra của

nền kinh tế.

Tự do hoá tài chính góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Khi trần lãi

suất được xoá bỏ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm xuống thì tiết kiệm gia tăng và

hiệu quả phân bổ vốn đầu tư được cải thiện. Đặc biệt, tự do hoá tài khoản vốn

tạo điều kiện để vốn đầu tư được phân bổ lại từ nước giàu về vốn nhưng có suất

sinh lời thấp sang nước nghèo về vốn nhưng có suất sinh lời cao và tạo ra cơ hội

đa dạng hoá rủi ro, từ đó giảm chi phí vốn cho các doanh nghiệp trong nước.

Tuy nhiên, tự do hoá tài chính có thể gây ra khủng hoảng tài chính.

Trong điều kiện chuẩn mực quản lý còn yếu kém, tự do hoá tài chính làm cho

vấn đề thông tin bất đối xứng (rủi ro lựa chọn nghịch, rủi ro đạo đức) trên

TTTC trở nên trầm trọng hơn và dẫn đến những thất bại của thị trường. Tự do

hoá tài chính có thể gây nên nhiều rủi ro ngay cả đối với các hệ thống tài chính

được quản lý tốt nếu chỉ bó hẹp trong dòng vốn vay nợ thông qua ngân hàng.

Do vậy, tự do hoá các luồng vốn cần được tiến hành trên diện rộng, nên bắt đầu

từ đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư chứng khoán và vay thương mại dài hạn.

Tự do hoá tài khoản vốn đặc biệt nguy hiểm trong các trường hợp: kinh tế bất

ổn định do thiếu chính sách quản lý vĩ mô hiệu quả; các yếu kém trong các

chuẩn mực kế toán, kiểm toán và công bố thông tin trong khu vực tài chính và

doanh nghiệp từ đó làm suy yếu kỷ luật thị trường và cơ chế giám sát; thiếu các

122

quy định về kinh doanh thận trọng và thiếu hiệu lực của Luật Phá sản.

Những thất bại của các nước châu Mĩ La tinh cũng như cuộc khủng

hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 đã để lại nhiều bài học đắt giá về

việc không chú trọng đúng mức đến trình tự thích hợp của tự do hoá tài chính.

McKinnon (1982 và 1991) lập luận rằng trình tự tự do hoá phải là: (1) ổn định

kinh tế vĩ mô; (2) tự do hoá tài chính trong nước; (3) tự do hoá thương mại; và

(4) tự do hoá tài khoản vốn tài chính. Tuy nhiên, lý thuyết về trình tự tự do hoá

tài chính không đưa ra được nhiều chỉ dẫn cụ thể về việc tự do hoá tài khoản

vốn. Theo Takagi và Shi (2004), điều được thừa nhận rộng rãi là không có một

trình tự và tốc độ tự do hoá tài khoản vốn tối ưu duy nhất; tuy nhiên để quản lý

thành công một tài khoản vốn mở thì đòi hỏi phải có được một tập hợp tối thiểu

các công cụ, thể chế và thị trường. Tốc độ và trình tự tự do hoá tài khoản vốn

cần phải thích ứng với nhịp độ cải cách hệ thống tài chính trong sự gắn kết với

điều kiện cụ thể của mỗi nước. Trong bối cảnh toàn cầu hoá như hiện nay, tự

do hoá tài chính là điều cần thiết đối với các nước đang phát triển và các nước

có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam. Tuy nhiên, tự do hoá tài chính cần

phải được thực hiện theo những bước đi phù hợp.

3.2.2 Phƣơng thức xử lý khi nền kinh tế diễn ra khủng hoảng tài chính -

tiền tệ

3.2.2.1 Tăng cường vai trò của nhà nước

Khi nền kinh tế xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ hay lây nhiễm

khủng hoảng từ bên ngoài thì vai trò của nhà nước luôn được đặt lên hàng đầu

dù cho nguyên nhân gây ra khủng hoảng là từ khu vực tư nhân. Vấn đề lúc này

là Nhà nước hay Chính phủ cần phải có những chính sách kịp thời để xử lý

khủng hoảng nhằm phục hồi niềm tin của thị trường và giới đầu tư. Trước hết,

Chính phủ cần tăng cường đối thoại, hợp tác, chia sẻ thông tin với các nước

trong khu vực và quốc tế. Thông qua những diễn đàn này, Chính phủ kêu gọi

sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế cả về tài chính và hỗ trợ kỹ thuật. Cùng với

việc kêu gọi hỗ trợ tài chính khẩn cấp, Chính phủ cần xây dựng một kế hoạch

cải tổ nền kinh tế nói chung và tài chính nói riêng cả về trước mắt cũng như lâu

123

dài, trọng tâm là cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng. Một điều chắc chắn

rằng, nếu như Chính phủ các nước chủ động hơn trong việc đối phó với khủng

hoảng thì có lẽ tác động của nó sẽ giảm bớt và khả năng phục hồi của các nước

này sẽ nhanh hơn nhiều.

Kinh nghiệm của các nước Đông Á trong cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ 1997 cho thấy, việc chậm trễ và cứng nhắc trong điều hành chính sách tỷ

giá của nhiều Chính phủ trong một thời gian dài đã khiến cho các đồng bản tệ

bị định giá quá cao giả tạo so với đồng USD. Sai lầm trong điều hành chính

sách lại tiếp tục khi Chính phủ các nước kiên trì bảo vệ tỷ giá khi có các cuộc

tấn công đầu cơ tiền tệ, khiến dự trữ ngoại hối cạn kiệt. Khi không đủ dự trữ

ngoại hối bán ra, Chính phủ các nước lại thay đổi chính sách một cách cực

đoan là tuyên bố thả nổi tỷ giá và khiến nhiều quốc gia lâm vào khủng hoảng

sâu sắc hơn. Chính việc lúc đầu kiên trì bảo vệ tỷ giá, sau đó lại chuyển sang

thả nổi hoàn toàn lại càng khiến cho cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn.

Hay như Hàn Quốc, ngay từ đầu năm 1996, rất nhiều cuộc phá sản của các tập

đoàn đã xảy ra, cảnh báo sự phi hiệu quả của hàng loạt chaebol. Nhưng chỉ đến

khi hàng loạt các tập đoàn liên tiếp phá sản thì đến tháng 12/1997 đồng Won

mới được thả nổi.

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế thì càng cần

phải ý thức được vấn đề tăng cường vai trò quản lý, giám sát của nhà nước.

Nếu có khủng hoảng xảy ra, việc làm đầu tiên là nhà nước cần nhanh chóng

đưa ra những chính sách kịp thời, không trốn tránh trách nhiệm, chủ động phối

hợp với các tổ chức quốc tế, với IMF và các nước trong khu vực để giải quyết

khủng hoảng. Đây cũng chính là một trong những chức năng hết sức quan trọng

của nhà nước mà khu vực tư nhân không thể làm được.

3.2.2.2 Xây dựng lộ trình cải cách cơ cấu mạnh mẽ

Sau khi lấy lại lòng tin của thị trường và giới đầu tư thông qua các gói

cứu trợ tài chính của IMF và cộng đồng quốc tế, công việc tiếp theo đó chính là

phải xây dựng một lộ trình cải cách cơ cấu mạnh mẽ và rộng khắp. Những

chương trình này bao gồm cả việc ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì cân đối các cán

124

cân trong tài khoản quốc gia đến việc đổi mới, cải cách hệ thống tài chính. Một

loạt những cải cách liên quan đến chính sách ngân sách, chính sách tiền tệ,

chính sách tài chính, chính sách thương mại, v.v, nhằm tạo điều kiện cho việc

phục hồi hoàn toàn, góp phần tạo sự chuyển biến lâu dài và tăng cạnh tranh của

nền kinh tế. Trong lộ trình này cũng cần phải xác định đâu là hướng ưu tiên,

đâu là vấn đề cần phải giải quyết trước mắt và đâu là vấn đề có tính chất dài

hơi.

Liên quan đến việc xây dựng lộ trình cải cách cơ cấu, Chính phủ cũng

phải lường trước được những vấn đề xã hội có thể xảy ra, có lực lượng ủng hộ,

nhưng cũng có các thế lực phản đối. Để giảm căng thẳng về mặt xã hội, cũng

như để bảo vệ những người yếu thế (người nghèo, người già, v.v.) cần tăng

cường hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội như hỗ trợ những khoản cho vay nhỏ

đối với nông dân hay hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

3.2.3 Tăng cƣờng phối hợp với IMF và các tổ chức tài chính quốc tế trong

việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng

Trong suốt 60 năm qua, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã giúp nhiều nước

vượt qua khó khăn về kinh tế và đã tạo được những thành tích đáng kể. Tuy

nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, IMF một mặt được

các Chính phủ nhờ cậy giải cứu, mặt khác cũng bị phê phán khá nhiều. Chỉ sau

khi cuộc khủng hoảng xảy ra, người ta mới thấy hết được tầm quan trọng của tư

vấn chính sách và giám sát toàn cầu như là những chức năng căn bản của IMF

trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, kể từ khi ra đời cho đến nay, các quy định

cũng như điều lệ của IMF chưa có sự thay đổi cơ bản nào. Sự lạc hậu trong

phương thức hoạt động và phương pháp giám sát chưa thực sự hiệu quả trong

điều kiện mới đã khiến IMF đang dần trở nên “già nua”, khiến người ta muốn

xem xét lại vai trò của nó. Mười năm sau khi đóng một vai trò gây nhiều tranh

cãi trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, IMF đang lâm vào một

cuộc khủng hoảng của chính mình. Chính vì vậy, nếu muốn cứu mình, trước

hết bản thân IMF cần phải cải tổ lại. Phạm vi cải tổ không chỉ đổi mới các quy

chế về ngân hàng và các tổ chức tín dụng, quy chế về điều tiết dòng vốn,

125

phương thức hoạt động, mà phạm vi cải tổ còn được mở rộng ở bộ máy quyền

lực của IMF, theo đó các nước nghèo và đang phát triển phải có tiếng nói nhiều

hơn trong Ban Giám đốc điều hành.

Như trong chương 2 đã phân tích, “phương thuốc” của IMF không hoàn

toàn sai, mà thật ra người ta phê phán nó là ở liều lượng. Mặc dù có cảnh báo,

nhưng do những cảnh báo này chưa đủ mạnh nên các quốc gia châu Á vẫn bị

khủng hoảng. Phải chăng cảnh báo thật sự chưa đủ mạnh hay phương pháp

giám sát không hiệu quả? Vấn đề chính lại nằm ở sự thiếu phối hợp giữa các

Chính phủ châu Á với IMF. Việc thiếu phối hợp trước hết ở việc thiếu thông

tin, mà phần lỗi lớn lại thuộc về các nước châu Á. Việc chậm công bố thông

tin, che dấu, thậm chí sửa chữa thông tin, số liệu của một số Chính phủ cùng

với những yếu kém của hệ thống kế toán, thống kê không theo chuẩn mực quốc

tế gây nhiễu thông tin giữa các Chính phủ và IMF, càng làm cho thời gian “ủ

bệnh” dài thêm và bệnh ngày một nặng. Về phần IMF, việc lấy thông tin từ các

Chính phủ châu Á mà không đi đôi với việc tăng cường giám sát, kiểm tra,

thậm chí sửa đổi kịp thời những quy định không còn phù hợp, thiếu tăng cường

tập huấn, hội thảo, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ kỹ thuật về các nghiệp vụ

ngân hàng, tài chính quốc tế đã khiến cho các Chính phủ và IMF ngày càng

thiếu hiểu biết lẫn nhau. Thái độ chủ quan, thiếu tính hợp tác khiến cho sự bất

đồng giữa IMF và các chính phủ châu Á ngày càng tăng lên, đặc biệt là khi liều

lượng của “liều thuốc” không được lưu tâm.

Chính vì lẽ đó, có thể nói cảnh báo chỉ thực sự hiệu quả khi có sự liên

kết và hợp tác tài chính giữa các Chính phủ. Một trong những bài học rõ ràng

nhất mà Việt Nam có thể học hỏi được từ các nước Đông Á trong cuộc khủng

hoảng tài chính - tiền tệ 1997 đó chính là việc cần thiết phải có sự phối hợp

chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, với IMF và phối hợp mang tầm khu vực giữa

các nước với nhau. Chỉ sau khi cuộc khủng hoảng xảy ra, người ta mới thấy

được tính cấp thiết của việc hợp tác tài chính giữa các nước trong khu vực

(trong đó có phối hợp về chính sách tài chính, tiền tệ, chính sách tỷ giá hối

đoái), tính cần thiết của việc xây dựng “hệ thống cảnh báo sớm” nguy cơ khủng

126

hoảng, đến việc thành lập Quỹ dự trữ ngoại hối chung, Sáng kiến Chiang Mai

hay Sáng kiến về Quỹ tiền tệ châu Á (Asian Moneytary Fund/ AMF). Về phần

mình, IMF cũng đã đồng ý bổ sung chức năng của mình thông qua việc hình

thành một cơ cấu giám sát khu vực mới, thích hợp hơn dành cho châu Á.

Là một nước đi sau, Việt Nam có thể học hỏi được rất nhiều từ kinh

nghiệm của các nước đi trước trong tiến trình hội nhập tài chính quốc tế, cụ thể

là phòng tránh nguy cơ của các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ tương lai.

Để ngăn ngừa và phòng tránh được khủng hoảng tài chính - tiền tệ, Việt Nam

cần chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với IMF trong việc cung cấp thông

tin, báo cáo tài chính nhằm phát huy tính tích cực của IMF trong việc tư vấn

chính sách và dự phòng khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Ngoài ra, nếu có biến

động lớn, Việt Nam cũng cần chia sẻ thông tin kịp thời với các nước trong khu

vực nhằm phòng tránh khủng hoảng từ xa. Tuy nhiên, một biện pháp quan

trọng quyết định đến việc loại trừ khả năng khủng hoảng ở Việt Nam đó chính

là từng bước nâng cao năng lực đối phó khủng hoảng của Việt Nam bằng cách

chủ động cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng, cải cách hệ thống doanh

nghiệp (đặc biệt là sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá các DNNN), cải cách thể chế

đi đôi với việc chủ động mở cửa, tự do hoá tài chính theo lộ trình một cách thận

trọng. Chính những cải cách căn bản này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện công

khai, minh bạch hoá các thông tin, dữ liệu kinh tế, góp phần dự báo tốt khả

năng khủng hoảng trong tương lai.

Ngay khi có khủng hoảng xảy ra, ngoài việc tăng cường vai trò của nhà

nước trong việc ban hành những chính sách kịp thời thì một biện pháp “chữa

cháy” tức thì cần phải được thực hiện ngay đó là Chính phủ cần nhanh chóng

kêu gọi sự giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật và tư vấn chính sách của cộng đồng

quốc tế để có thể lấy lại lòng tin của thị trường và các nhà đầu tư. Sở dĩ khi có

khủng hoảng phải kêu gọi hỗ trợ tài chính khẩn cấp vì các biện pháp, chính

sách của Chính phủ bao giờ cũng có độ trễ và tính hiệu lực thấp, nhất là ở

những quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, thể chế pháp lý và các công cụ điều

tiết thị trường còn yếu như ở Việt Nam. Do đó, để nhanh chóng phục hồi khả

năng thanh khoản, giảm chi phí khắc phục khủng hoảng, đảm bảo khả năng trả

127

nợ, phục hồi hệ thống tài chính và khu vực sản xuất thì biện pháp quan trọng là

tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài như IMF, WB, ADB hay một số định chế

quốc tế khác. Tất nhiên, khi phải nhờ đến sự giúp đỡ từ bên ngoài, chắc chắn

quốc gia đó sẽ mất đi tính độc lập tương đối trong việc hoạch định chính sách

kinh tế - xã hội, thậm chí còn phải hy sinh một số mục tiêu trước mắt hay thậm

chí gây ra những ảnh hưởng lâu dài về mặt xã hội hay chính trị khác (như kinh

tế tăng trưởng chậm lại, hàng hoá khan hiếm, giá cả đắt đỏ, thất nghiệp, bạo

động chính trị, v.v).

Rõ ràng, chính sách hỗ trợ của IMF nhằm khắc phục khủng hoảng có

tính 2 mặt. Một mặt, với vai trò duy trì ổn định hệ thống tài chính toàn cầu và

phòng chống khủng hoảng, IMF có chức năng hỗ trợ tài chính to lớn cho những

quốc gia bị khủng hoảng tấn công. Song đi kèm với những khoản tài trợ trọn

gói ấy là “liều thuốc đặc trị”: cải tổ khu vực tài chính, tăng lãi suất, cắt giảm

ngân sách, mở rộng thị trường nội địa. Việc áp dụng cùng một phương thuốc

nhưng các quốc gia khác nhau lại cho kết quả khác nhau, khả năng “lành bệnh”

cũng khác nhau. Nguyên nhân được giải thích đó là “bệnh nhân” khác nhau,

“cơ địa”, “tiểu sử” khác nhau thì liều lượng cũng phải khác nhau. Song do

nhiều nguyên nhân, IMF đã áp đặt quan điểm và chính sách của mình lên các

nước bị khủng hoảng. Do trước đó đã nhận sự giúp đỡ của IMF và khó có thể

từ chối, Chính phủ các nước đành “cắn răng” chịu đựng thời kỳ “thắt lưng buộc

bụng” của mình.

Cách tốt nhất để giảm thiểu mức độ hà khắc của chính sách đó là ngay

khi nhận cứu trợ khẩn cấp của IMF, các Chính phủ cần nhanh chóng tăng

cường đối thoại, hợp tác, chia sẻ để cùng IMF và cộng đồng quốc tế tìm ra

nguyên nhân và có những giải pháp thích hợp. Trong vấn đề này, quan trọng là

nghe IMF nhưng nghe đến đâu. Thực chất của vấn đề là lựa chọn chính sách

như thế nào và thời điểm nào để thực hiện. Một số lĩnh vực có thể ưu tiên giải

quyết trước như việc nhanh chóng phục hồi khả năng thanh khoản, đảm bảo

khả năng trả nợ, một số lĩnh vực khác như phục hồi hệ thống tài chính và khu

vực sản xuất có thể được thực hiện từng bước theo lộ trình.

Tuy nhiên, để tránh xung đột lợi ích, tránh cầu viện tài chính từ bên

ngoài, Việt Nam cần phải chủ động, nhanh chóng lành mạnh hoá khu vực tài

128

chính đi đôi với triệt để cải cách hệ thống tài chính cho phù hợp với tình hình

mới. Ngoài ra, Việt Nam cũng như các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng

cần tăng cường những hình thức hỗ trợ tính thanh khoản cấp vùng (như Quỹ dự

trữ ngoại hối chung, Sáng kiến Chiang Mai hay Sáng kiến về Quỹ tiền tệ châu

Á (AMF), tạo điều kiện kiềm chế các cuộc khủng hoảng, lây truyền khủng

hoảng giữa các nước và tránh phục thuộc quá nhiều vào bên ngoài.

KẾT LUẬN

1. Khủng hoảng tài chính - tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn liền với sự ra

đời và phát triển của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thế giới. Trong vòng

20 năm gần đây đã xảy ra hơn 90 cuộc khủng hoảng ngân hàng nghiêm trọng

mà tổn thất của mỗi cuộc khủng hoảng tính trên GDP còn vượt quá tổn thất của

sự đổ vỡ ngân hàng Mỹ trong những năm 30 của thế kỷ XX. Mặc dù có những

điểm giống nhau, nhưng các cuộc khủng hoảng những năm vừa qua khác với

các cuộc khủng hoảng trước đây trên nhiều khía cạnh quan trọng, đặc biệt là ở

tác động quá mức và khả năng lây lan của khủng hoảng dường như rất lớn và

vượt quá khả năng kiểm soát.

2. Cho đến nay, có thể nói có 3 mô hình khủng hoảng cơ bản với những cơ

chế phát sinh và hoạt động riêng thích ứng với từng mô hình. Cuộc khủng

hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô

hình khủng hoảng thế hệ thứ ba, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản

vốn trong cán cân thanh toán quốc tế. Khủng hoảng tài khoản vốn thường dẫn

đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng.

3. Trong quá trình phòng ngừa và xử lý khủng hoảng, nỗ lực của từng quốc

gia có ý nghĩa quyết định, song do tính chất lan truyền nhanh chóng của nó, đòi

hỏi cần có sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế mà nổi bật là vai trò của Quỹ Tiền

tệ Quốc tế (IMF), thể hiện ở cả 3 chức năng chính là giám sát, hỗ trợ kỹ thuật

và cho vay.

4. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 được khái quát

129

trên nhiều phương diện như bối cảnh kinh tế các nước châu Á trước khủng

hoảng, những dấu hiệu trước khủng hoảng, diễn biến và nguyên nhân gây ra

khủng hoảng. Theo quan điểm của IMF, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ

châu Á thực chất là do nguyên nhân bên trong mỗi quốc gia song tính chất của

cuộc khủng hoảng lại mang tính quốc tế sâu sắc và có sức lan toả rộng rãi. Trên

cơ sở quan điểm, nhận định và “toa thuốc” được kê sẵn của IMF dành cho các

nước bị khủng hoảng, các Chính phủ châu Á đã đưa ra những chính sách nhằm

khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ, trong đó tập trung vào việc huy động

vốn hỗ trợ trong và ngoài nước và cải thiện hệ thống tài chính quốc gia. Tiến

trình thực hiện của các nước có sự khác biệt về các mức kết quả, bởi có nước

tương đối thành công, nhưng có nước lại lún sâu vào khủng hoảng. Chính vì

thế, rất nhiều nhà kinh tế và các chính trị gia đã phê phán kịch liệt “phương

thuốc đắng” của IMF, thậm chí đòi xem xét lại vai trò của IMF. Tuy nhiên, một

nguyên nhân hết sức quan trọng đó chính là sự thiếu phối hợp chính sách giữa

các chính phủ châu Á và IMF trong việc phòng chống khủng hoảng tài chính -

tiền tệ.

5. Sau 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã có

những bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Với thế và lực mới,

trên con đường phát triển của mình, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng

hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế. Đi cùng với quá trình này, Việt Nam cũng có

thể phải đối mặt với những rủi ro tài chính do quá trình tự do hoá thương mại

và tự do cán cân thanh toán quốc tế đem lại. Những nguy cơ khủng hoảng xuất

hiện cả bên trong lẫn bên ngoài là những dấu hiệu cảnh báo về một cuộc khủng

hoảng tài chính - tiền tệ trong tương lai có thể xảy ra ở Việt Nam. Trên cơ sở

những kinh nghiệm của các nước đã từng trải qua khủng hoảng, luận văn rút ra

một số bài học trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở

Việt Nam từ việc duy trì nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, điều hành linh hoạt

chính sách tỷ giá hối đoái, chủ động xây dựng và cải cách hệ thống tài chính

quốc gia, thực hiện tự do hoá tài chính theo lộ trình thận trọng và an toàn, tăng

130

cường vai trò của nhà nước và đặc biệt tăng cường đối thoại và phối hợp chặt

chẽ với IMF cũng như các tổ chức tài chính quốc tế trong việc dự phòng và

chống khủng hoảng. Tuy nhiên, do khủng hoảng chưa xảy ra ở Việt Nam, nên

bài học về dự phòng, ngăn ngừa khủng hoảng có ý nghĩa đặc biệt thiết thực đối

131

với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Đinh Văn Ân (2006), Kinh tế Việt Nam năm 2001-2005 và kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội 2006-2010, CIEM.

2. Đinh Văn Ân (chủ biên) (2004), Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO trong

một số lĩnh vực dịch vụ, NXB Văn hoá - Thông tin, HN.

3. Nguyễn Tuấn Anh (2000), “Một vài nét về Quỹ tiền tệ quốc tế và các

chương trình điều chỉnh cơ của Quỹ tiền tệ quốc tế”, Châu Mĩ ngày nay,

2000 (2), Tr.32-37.

4. Nguyễn Thuỳ Anh, Lê Vân Anh (2007), Vai trò của Nhà nước trong quá

trình hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam, Đề tài

Khoa học cấp trường, Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội).

5. Báo cáo phát triển Việt Nam 2006: Kinh doanh

6. Báo cáo phát triển Việt Nam 2007: Hướng đến tầm cao mới

7. Bộ Công thương (2006), Báo cáo thương mại Việt Nam 2006, Hà Nội,

29/12/2006.

8. CIEM (2005), Thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới

(1986-2005) và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010.

9. Danh Đức (1998), “Khủng hoảng tài chính Đông Á: Thái độ của IMF”, Tạp

chí Phát triển kinh tế, 1998 (88), Tr. 35-37.

10. Martin Feldstain (1998), “IMF đã đi quá trách nhiệm của mình”, Tạp chí

Tài chính quốc tế, 1998 (7), Tr. 43-44.

11. Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt (2000), Châu Á từ khủng

hoảng nhìn về thế kỷ 21, NXB TP.HCM.

12. Nguyễn Thúy Hoàn (1999), “Hệ thống biện pháp giảm rủi ro khủng hoảng

132

của IMF”, Thị trường tài chính - tiền tệ thế giới, 1999 (3), Tr. 37-39.

13. Lê Hồng Lam (2002), Chương trình điều chỉnh cơ cấu ở các nước đang

phát triển có sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế, Luận văn Tiến sĩ,

Hà Nội.

14. Lê Hồng Lam (2001), “Cải cách thương mại ở Việt Nam với sự hỗ trợ của các

tổ chức tài chính quốc tế”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, 2001 (280), Tr. 11-22.

15. Ngọc Lan (2003), “Sự thay đổi về vai trò của IMF trong việc điều tiết lĩnh

vực tiền tệ - tài chính”, Tạp chí Ngoại thương, 2003 (11 và 21), Tr.35-36,

Tr.39-40

16. Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997 -

1999: Nguyên nhân, hậu quả và bài học với Việt Nam, NXB ĐHQG

TP.HCM.

17. Vũ Ngọc Nhung (1999), “Cái tật của IMF: Phê phán người mà không tự

phê phán”, Tạp chí Thương mại, 1999 (1), Tr. 8-27.

18. Vũ Ngọc Nhung (1998), “Khủng hoảng tiền tệ giai đoạn II - biểu hiện sự

bất lực của IMF”, Tạp chí Thương mại, 1998 (14), Tr. 6-25.

19. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2007), Báo cáo kết quả hoạt động ngân

hàng 6 tháng đầu năm, chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2007,

Cung cấp cho báo chí, Số 157/BC-NHNN.

20. Xuân Mai (1997), “IMF và các bài học khủng hoảng tài chính”, Thông tin

tài chính, 1999 (22), Tr. 25-26.

21. Hồ Xuân Phương, Vũ Đình Ánh (2003), Giải pháp phòng ngừa khủng

hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội.

22. Lê Kim Sa (1998), “Quỹ tiền tệ quốc tế và cuộc khủng hoảng tài chính -

tiền tệ ở châu Á”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - TBD, 1998 (1), Tr. 19-24.

23. Nguyễn Hồng Sơn (2006), Tài chính quốc tế, tập bài giảng dành cho các

lớp cao học chuyên ngành KTCT.

24. Võ Trí Thành (2004), Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng, vấn đề

133

và giải pháp chính sách, NXB Tài chính, Hà Nội.

25. Võ Trí Thành (2006), “Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng và tác

động của việc Việt Nam gia nhập WTO”.

26. Nguyễn Văn Tiến (2000), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở,

NXB Thống kê, Hà Nội.

27. Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội, số 19 (7/2007), “Dự báo tăng

trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2007”.

28. Tạp chí Tài chính (2007), “Dự báo kinh tế Việt Nam năm 2007”.

29. Thời báo kinh tế Việt Nam: Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2006 - 2007.

30. Tổng cục Thống kê (2006), Niên giám thống kê tóm tắt - 2006 Statistical

handbook, NXB Thống kê.

31. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (1999), Khủng hoảng tài

chính - tiền tệ: Đặc trưng và các chỉ số báo động, Thông tin khoa học xã

hội, Hà Nội.

32. Viện Nghiên cứu thương mại (1998), Khủng hoảng tài chính - tiền tệ:

Nguyên nhân và bài học, NXB CTQG, Hà Nội.

33. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2005), Kinh tế Việt Nam

2005, NXB Tài chính, Hà Nội.

34. Vụ Quan hệ đối ngoại của IMF (Việt Nam) (2001), Quỹ Tiền tệ Quốc tế là

gì?

35. Minh Xuân (2004), “Vài nét về các chương trình tài trợ và quan hệ của Việt

Nam với Quỹ tiền tệ quốc tế”, Thông tin Tài chính, (1-2), Tr. 35-37.

Tiếng Anh

36. ADB Institute Research Paper 2, 11, 15, 24 (1999-2001).

37. A. Siamwalla (2007), “Thailand: Ten Years after the Crisis”, Bangkok

Conference, 26-27 February, Thailand.

38. A. W. Abdul Kadir (2007), “The Malaysian Economy Vulnerability to

Crises”, Bangkok Conference, 26-27 February, Thailand.

39. C. Daseking, A. Ghosh, T. lane, A. Thomas (2004), “Lessons from the

134

Crisis in Argentina”, IMF, Washington D.C., (236).

40. Dollar D. and Jakob Svensson (1998), “What explains the success and

failure of structural Adjustment Programmes”, WB, Washington D.C.

41. Le Dang Doanh (2005), “Vietnam’s Competitiveness According to World

Economic Forum’s Global Competitiveness Report”, Vietnam Economic

Review, (2), pp. 43-44.

42. G.Corsetti, P.Pesenti, N.Roubini (1998), “What caused the Asian currency

and financial crisis?”, paper prepared for the CEPR-WB Conference.

43. IMF Vietnam Country Report No. 06/421 (November 2006)

44. Joon-Kyung Kim, Chung H. Lee (2007), “Ten Years after the Asian

Financial Crisis: The Case of Korea”, Bangkok Conference, 26-27

February, Thailand.

45. Killick T (1995), “IMF Programmes in developing countries: Designs, Impact,

Development policy series”, Oversea Devepolment Institute, London.

46. Liqing Zhang (2007), “China’s External Imbalance: Diagnosis and

Prescription”, Bangkok Conference, 26-27 February, Thailand.

47. M. Yoshitomi, Sayuri Shirai (7 July 2000), “Technical background paper

for policy recommendation for preventing another capital account crisis”,

Asian Development Bank Institute.

48. M. Debuque-Gonzales, M. S. Gochoco-Bautista (2007), “The Philippines: Ten

Years after the Crisis”, Bangkok Conference, 26-27 February, Thailand.

49. M. Goodfriend, E. Prasad (2007), “A Framework for Independent Moneytary

policy in China”, Bangkok Conference, 26-27 February, Thailand.

50. OECF Research Papers No. 28 (1998), “Future challenges for the economic

recovery of Thailand”, RIDA, OECF, Tokyo, Japan.

51. Ponciano S. Intal Jr. (2005), Financial Liberalization: Managing Risks and

opportunitites, PASCN and PIDS, the Philippines.

52. RIDA, OECD (1998), Future challenges for the economic recovery of

135

Thailand.

53. Rivera-Batiz, Francisco L. (1985), International Finance and open

Economy Macroeconomics, Macmillan Publishing Company.

54. S.Griffith-Jones, R. Gottschalk (2007), “Policy Suggestions for Greater

Financial Stability”, Bangkok Conference, 26-27 February, Thailand.

55. Sri Adiningsih, M.S.C (2007), “Indonesia: 10 Years after the Economic

Crisis”, Bangkok Conference, 26-27 February, Thailand.

56. Yu Yongding (2007), “Ten Years after the Asian Financial Crisis: The

Fragility and Strength of China’s Financial System”, Bangkok Conference,

26-27 February, Thailand.

57. Yung Chul Park, Charles Wyplosz (2007), “Emerging Economies in East

Asia: Are they safe from Future Cirses?”, Bangkok Conference, 26-27

February, Thailand.

58. Zhiwei Zhang (2001), Speculative attacks in Asian Crisis, IMF Working

Paper, IMF.

Các trang Web

59. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn

60. Bộ Ngoại giao: www.mofa.gov.vn

61. Bộ Công thương: www.mot.gov.vn

62. Đảng Cộng sản Việt Nam: www.cpv.org.vn

63. Tổng cục Thống kê: www.gso.gov.vn

64. www.dantri.net

65. www.imf.org

66. www.thongtindubao.gov.vn

67. www.vneconomy.vn

68. www.vnexpress.net

69. www.vnn.vn

70. www.vnnews365.com

71. www.worldbank.org

136

72. www.wto.org

PHỤ LỤC

Một số cân đối lớn của nền kinh tế Việt Nam [43]

2001

2002

2003

2004

2005 Ước 2006

GDP theo giá hiện hành (nghìn tỷ đồng)

481,3

535,8

613,4

715,3

837,9

970,1

GDP theo giá hiện hành (triệu USD)

32487

35081

39798

45630

53057

60999

Cán cân tiết kiệm - đầu tƣ (% GDP)

1,6

-1,9

-4,9

-3,4

0,4

0,3

- Tổng tiết kiệm quốc gia (% GDP)

32,8

31,3

30,6

32,3

35,6

35,8

- Tổng đầu tư (% GDP)

31,2

33,2

35,4

35,7

35,2

35,5

Cán cân vãng lai 1 (triệu USD)

524

-673

-1932

-1565

218

164

- Cán cân thương mại (triệu USD)

-1054

-2582

-2287

-838

-345

+ Xuất khẩu (FOB)

16706

20149

26485

32442

38953

+ Nhập khẩu (FOB)

17760

22730

28772

33280

39298

- Dịch vụ (ròng) (triệu USD)

-749

-778

-871

-1106

-1389

- Thu nhập về đầu tư (ròng) (triệu USD)

-791

-812

-891

-1219

-1768

- Chuyển giao vãng lai (ròng) (triệu USD)

1921

2239

2485

3380

3665

Cán cân vốn (triệu USD)

-330

1136

4083

2447

1913

2737

Cán cân tổng thể (BOP) (triệu USD)

194

463

2151

883

2131

2900

Dự trữ ngoại tệ 2 (triệu USD)

3387

3692

5620

6314

8557

11458

7,2

8,7

8,5

9,8

11,2

8,2

Dự trữ ngoại tệ tính bằng số tuần nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ

Cán cân vãng lai (%GDP)

-1,9

-4,9

-3,4

0,4

0,3

1,6

Thâm hụt thương mại (% GDP)

-3,0

-6,5

-5,0

-1,6

-0,6

Cán cân vốn (% GDP)

3,2

10,3

5,4

3,6

4,5

1,0

Cán cân thanh toán (% GDP)

1,3

5,4

1,9

4,0

4,8

0,6

Cán cân tài chính tổng thể 3 (% GDP)

-5,0

-4,7

-6,4

-2,8

-5,9

-6,3

Tăng trưởng xuất khẩu (%/ năm)

11,2

20,6

31,4

22,5

20,1

4,0

Tăng trưởng nhập khẩu (%/ năm)

22,1

28,0

26,6

15,7

18,1

3,4

1 Bao gồm cả chuyển giao chính thức 2 Tổng dự trữ chính thức bao gồm cả vàng 3 Theo định nghĩa của IMF Cán cân tài chính tổng thể (overall fiscal balance) bao gồm cán cân ngân sách chính thức trừ đi chi tiêu ngoài ngân sách (off-budget expenditure) và cho vay ròng (net lending).

137

Chú thích: Số liệu 2006 là ước tính chuyên gia. Số liệu ước tính thường lệch khá nhiều so với số liệu hiệu chỉnh sau đó.

138

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!

Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger

 Merge multiple PDF files into one

 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge

 Extract page(s) from different PDF

files and merge into one