ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
PHẠM THỊ YẾN
Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Hà Nội - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
PHẠM THỊ MAI HƢƠNG
Phong cách nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông
Chuyên ngành: VĂN HỌC
Mã số: 5.04.33
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
GS.TS: LÊ VĂN LÂN
Hà Nội - 2005
MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................... 2 CHƢƠNG 1: ......................................................................................... 10 NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG .............................................................................................................. 10 1.1. Đời sống lao động nông nghiệp: ...................................................... 10 1.2 Đời sống chiến đấu: ...................................................................... 22 1.3 Đời sống tình cảm: ........................................................................ 35 CHƢƠNG 2 ........................................................................................... 51 NHỮNG XU HƢỚNG CHÍNH TRONG THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG 51 2.1.1. Xu hƣớng khái quát trong thơ Hoàng Trung Thông trƣớc hết đƣợc thể hiện ở ngay trong một đề tài ở mỗi giai đoạn phát triển của cách mạng đều đƣợc nhận thức lại và nâng cao hơn. ......................................................... 53 2.1.2. Tuỳ theo đối tƣợng thẩm mỹ, khả năng khám phá mức độ suy nghĩ, tính khái quát đƣợc thể hiện ở nhiều khía cạnh: ở câu chữ, ở đoạn thơ, ở hình ảnh hoặc hình tƣợng thơ, ở kết cấu chủ đề toàn bài. ......................................... 60 2.2 XU HƢỚNG CHÍNH LUẬN ............................................................. 64 2.2.1. Cảm hứng lấy tƣ duy làm điểm tựa .................................................. 65 2.2.2 Triết luận trong thơ Hoàng Trung Thông ..................................... 68 CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 78 MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG ..... 78 3.1. Giọng điệu ....................................................................................... 78 3.1.1. Khái quát về giọng điệu . ................................................................ 78 3.1.2. Đặc sắc trong giọng điệu thơ Hoàng Trung Thông. ......................... 79 3.2. Thể thơ ............................................................................................ 82 3.2.1. Sự thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu thơ. ..................................... 84 3.3. Hình ảnh, mô típ. .............................................................................. 91 3.3.1. Hình ảnh ....................................................................................... 91 3.3.2. Mô típ: Kẻ thù tàn ác, dã man, hèn hạ và tƣ thế hiên ngang của ngƣời dân yêu nƣớc. ....................................................................................... 101 C. PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................... 105
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hoàng Trung Thông sinh ra trong một gia đình tiểu thƣơng ở Quỳnh
Đôi, Quỳnh Lƣu, Nghệ An. Quê hƣơng ông vốn có truyền thống hiếu học và
cách mạng, nổi danh với nhiều nhà khoa bảng yêu nƣớc. Tiếp thu truyền
thống của quê hƣơng,Hoàng Trung Thông rất chịu khó học và ông cũng tham
gia cách mạng từ rất sớm, khi ông còn là học sinh trƣờng tỉnh. Năm 1945, ông
tham gia giành chính quyền ở địa phƣơng rồi đi theo kháng chiến. Ông đƣợc
kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam năm 1946. Năm 1948 ông tham dự lớp
bồi dƣỡng khoá 2 Văn hoá kháng chiến Liên khu IV. Trong thời gian, này ông
sáng tác tác phẩm đầu tay Bài ca vỡ đất. Bài thơ mang phong cách chân thực,
khỏe khoắn, phù hợp với không khí kháng chiến nên đƣợc nhiều ngƣời ƣa
thích. Từ đây sự nghiệp sáng tác của Hoàng Trung Thông bắt đầu. Sáng tác
của ông chủ yếu là thơ, ngoài thơ trữ tình ông còn viết thơ châm biếm và thơ
đả kích.
Hoàng Trung Thông thuộc thế hệ cầm bút trƣởng thành trong kháng
chiến. Ông đã gặt hái đƣợc nhiều thành công ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Thơ
ông giàu tính thời sự, gắn bó với từng giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, thơ ông ghi nhận sự đổi mới của đất nƣớc, ca ngợi
vẻ đẹp của đất nƣớc, quê hƣơng và con ngƣời Việt Nam. Nhà thơ đã khẳng
định đƣợc bản sắc riêng biệt độc đáo, tạo ra dấu ấn trong phong cách nghệ
thuật của mình. Hoàng Trung Thông là một nhà thơ, nhƣng không chỉ vậy
ông còn là một nhà dịch thuật, nhà nghiên cứu phê bình văn học. Với tầm
hiểu biết rộng và sâu nhất là văn học Trung Quốc, ông đã dịch và giới thiệu
nhà thơ lớn của Trung Quốc cũng nhƣ của nhân loại nhƣ Đỗ Phủ, Lý Bạch,
Maiacôpxky, Pêtôphi, Adam Mickievich, Henrich Hainơ…. Ngoài ra, những
2
tập tiểu luận phê bình sắc sảo của ông cũng dành không ít cho sự nghiệp
nghiên cứu văn học.
Hoàng Trung Thông từng đảm nhiệm các chức trách: cán bộ văn nghệ
của khu ủy Liên khu IV, tỉnh ủy viên tỉnh Nghệ An, ủy viên Tiểu ban Văn
nghệ Trung ƣơng, Giám đốc Nhà Xuất Bản Văn học, thƣ ký tòa soạn Tạp chí
Văn nghệ, thƣ ký tòa soạn báo Văn nghệ, vụ trƣởng Vụ văn nghệ trung ƣơng,
ủy viên thƣờng vụ Hội nhà văn, viện trƣởng Viện Văn học, kiêm Tổng biên
tập Tạp chí Văn học…
Từ vai trò và vị thế nói trên, chúng tôi chọn đề tài: Phong cách nghệ
thuật thơ Hoàng Trung Thông nhằm mục đích tìm hiểu một cách đầy đủ và
toàn diện sự đóng góp của Hoàng Trung Thông cho thơ ca và cố gắng chỉ ra
những dấu hiệu thuộc tính riêng trong nội dung và nghệ thuật của thơ ông, để
khẳng định những phƣơng diện cơ bản nhất, bản chất nhất thuộc phong cách
nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông.
2. Lịch sử vấn đề:
Ngay từ sáng tác đầu tay Bài ca vỡ đất (1948) thơ Hoàng Trung Thông
đã đƣợc dƣ luận quan tâm, đánh giá nồng nhiệt trong cả giới nghiên cứu phê
bình và sáng tác. Sự nghiệp thơ văn Hoàng Trung Thông ngày càng dày dặn
thì các ý kiến đánh giá về thơ ông cũng ngày càng sôi nổi.
Năm 1964 đã có những cuộc trao đổi về vấn đề phong cách thơ Hoàng
Trung Thông. Tác giả Hồ Tuấn Niêm trong bài viết: Hoàng Trung Thông và
“Những cánh buồm”, in trong Tạp chí Văn học số 8 - 1964 đã dành hẳn một
mục bàn về “Vấn đề phong cách của thơ Hoàng Trung Thông”. Tác giả viết
“Với Những cánh buồm - Hoàng Trung Thông đã có một phong cách thơ
chƣa? Vấn đề này đã từng đƣợc đem trao đổi trong một số ít anh chị em làm
3
công tác phê bình văn học. Qua cuộc trao đổi phần đông đều nghiêng về câu
trả lời khẳng định”. [38,tr.22]
Rõ ràng, vấn đề phong cách thơ Hoàng Trung Thông đã đƣợc chú ý và
đƣợc một số nhà phê bình đánh giá từ rất sớm. Hồ Tuấn Niêm cho rằng: “Tôi
nghĩ rằng anh đang tiến dần đến một phong cách thơ chứ chƣa phảỉ đã có một
phong cách hoàn chỉnh… Tuy nhiên, căn cứ vào những bài thành công nhất
trong thơ Hoàng Trung Thông, chúng ta có thể thấy trƣớc dấu hiệu của một
phong cách mới, đó là cái chắc, cái khoẻ đƣợc thể hiện qua những câu thơ
rắn rỏi bình dị nhƣ cách ngôn, tục ngữ ”. [38,tr.23]
Mấy năm sau cũng chính tác giả Hồ Tuấn Niêm lại tiếp tục bàn về phong
cách thơ Hoàng Trung Thông. Trong bài “Hai mươi năm ấy…” (Nhân đọc
tập thơ “Đầu sóng” của Hoàng Trung Thông) cũng đã dành riêng một mục
“một phong cách thơ” để bàn về phong cách thơ Hoàng Trung Thông. Theo
đánh giá của tác giả này thì phong cách thơ Hoàng Trung Thông là “Phong
cách thực tiễn và chiến đấu. Về nội dung bài nào cũng nhằm một yêu cầu cụ
thể. Về hình thức, Hoàng Trung Thông thƣờng dùng những ngôn ngữ đƣợc
rút ra từ cách nói giản dị, chắc thật của quần chúng. Tuy nhiên, phong cách
của anh vẫn còn nghèo”. [29,tr.79]
Nhà nghiên cứu phê bình văn học Hà Minh Đức trong “Nhà văn Việt
Nam 1945 - 1975” xuất bản năm 1983 nhận định rằng phong cách thơ Hoàng
Trung Thông là “phong cách thơ ca chân thực, khoẻ khoắn bám sát từ trong
cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta”, ông còn nhận xét “Thơ
Hoàng Trung Thông khoẻ và có khí thế” [60,tr.156]. Nhận xét của Hà Minh
Đức nói trên đã quan tâm đến cả lĩnh vực nội dung và nghệ thuật trong phong
cách thơ Hoàng Trung Thông, tuy nhiên, những nhận xét này mới ở mức khái
quát chung chung.
4
Trong “Nhà thơ Việt Nam hiện đại” với bài Hoàng Trung Thông, nhà
nghiên cứu phê bình văn học Mã Giang Lân nhận xét: “Điều quan trọng ở nhà
thơ Hoàng Trung Thông là thơ anh có những nét riêng không lẫn với ai. Đó là
một phong cách thơ giàu chất liệu sống, đôn hậu, chắc khoẻ. Thơ anh ít dùng
tứ. Cái còn lại trong thơ anh là những xúc động tƣơi sáng chân thành”.
[61,tr.299]
Phong Lan trong bài: “Nhân đọc Trong gió lửa”, tập thơ thứ tƣ của
Hoàng Trung Thông cũng đã có nhận định: “Có thể nói, ở thơ Hoàng Trung
Thông, tƣ tƣởng và cảm xúc luôn khoẻ khoắn và trong sáng. Anh nhìn nhận,
bình giá thực tế bằng con mắt cách mạng và xây dựng cảm hứng thơ ca trên
sự đồng điệu giữa tâm trạng và hiện thực của đời sống. Nhờ vậy, thơ anh chân
tình, cởi mở. Mặt khác, những điều anh viết thƣờng đƣợc rút ra từ những sự
kiện, cảnh ngộ của đời sống thực nên thơ anh mang nét dân dã, gần gũi của
một hồn thơ chân chất mộc mạc” [29,tr.91]. Nhận xét trên của Phong Lan
chính là những nhận xét, bình giá về bình diện phong cách thơ Hoàng Trung
Thông mặc dù còn dè dặt, khái quát.
Nhà phê bình văn học Thiếu Mai khi bàn về thơ Hoàng Trung Thông có
viết: “Thơ Hoàng Trung Thông có đặc điểm khá dễ nhận dạng, nghĩa là thơ có
bản sắc, một tiếng thơ khỏe, chắc nịch, nhiều nghĩ suy, và nhìn chung thì ít bị
nồng cay, song không phải là không có những phút giây mà cảm hứng bừng
lên mãnh liệt trong thơ” [30,tr.96]. Bà còn viết: “Nhìn chung suốt cả quá trình
hơn 40 năm sáng tác của Hoàng Trung Thông, quả là khó phân biệt rạch ròi
từng giai đoạn với những đặc điểm rõ rệt. Tuy nhiên, cũng có một vài nhận
xét về đại thể để thấy rõ hơn phong cách thơ anh. Thơ Hoàng Trung Thông
khỏe, gân guốc. Cái khỏe, cái gân guốc ở đây không phải do từng câu từng
chữ mà cả trong suy nghĩ, cảm hứng của nhà thơ. Mặt khác ngƣời ta cũng
thấy thơ anh khô và không phải không ít ngƣời nghĩ rằng vì khỏe nên khô.
5
Tôi không nghĩ vậy. Theo ý tôi, nhiều bài thơ của anh có phần khô là do cảm
xúc chƣa đủ mạnh, chƣa cân bằng với lý chí vốn rất mạnh của anh” [30,tr.99].
Ý kiến của Thiếu Mai cũng góp phần chỉ rõ phong cách thơ Hoàng Trung
Thông trên nhiều bình diện biểu hiện, đồng thời tác giả cũng chỉ ra những hạn
chế của thơ Hoàng Trung Thông.
Nhà thơ Nguyễn Bao cũng có nhận xét về nghệ thuật biểu hiện của thơ
Hoàng Trung Thông: “Cách nói khỏe khoắn, dung dị, hình ảnh mộc mạc chân
chất nhƣng phía sau là những xúc cảm có thật và hết sức chân tình, là bản lĩnh
và tri thức, là tính cách một vùng đất…, tất cả tạo nên một “Hoàng Trung
Thông - thi sĩ” của xứ Nghệ không dễ lẫn lộn, không hề pha trộn với những
phong cách khác” [5,tr.6]
Nhà phê bình, nghiên cứu văn học Phan Ngọc nhận xét: “Hoàng Trung
Thông chỉ là học giả trong các bài nghiên cứu. Còn trong thơ không ai mộc
mạc bằng anh. Anh không thích cái gì bí hiểm triết lý, anh thích cái đơn giản.
Toàn từ đơn tiết thuần việt, toàn những hình ảnh mộc mạc. Tôi hiểu mánh
khóe này. Với cuộc đời có khi phải đóng kịch. Nhƣng với nghệ thuật ta phải
chân thành” [40,tr.129]. Đây cũng là một nhận xét nghiêng về phƣơng diện
nghệ thuật biểu hiện trong thơ Hoàng Trung Thông.
Nhà nghiên cứu văn học Mai Hƣơng cũng khẳng định một phong cách
độc đáo trong thơ Hoàng Trung Thông: “Với những bài, những từ, những câu
thơ vừa vạm vỡ, chắc khỏe, vừa hồn hậu, phóng khoáng, giản dị, tựa vững
trên nền của hiện thực đời sống Hoàng Trung Thông đã tạo đƣợc một phong
cách thơ độc đáo, một dấu ấn riêng không pha trộn và góp phần đáng kể tạo
dựng diện mạo mới cho nền thơ chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ
nghĩa xã hội”.[22,tr.137].
6
Lê Quang Hƣng viết về Hoàng Trung Thông có nhận xét: Thơ Hoàng
Trung Thông “bám chắc hiện thực đời sống và gia tăng sự khái quát tính
chính luận” [62,tr.338] và “tâm hồn chân chất đôn hậu, tiếng thơ khỏe khoắn
tự nhiên” [62,tr.341]. Phải chăng đó chính là những nét biểu hiện của phong
cách thơ Hoàng Trung Thông.
Tóm lại, đánh giá về phong cách thơ Hoàng Trung Thông có những ý
kiến khác nhau hoặc về phƣơng diện nội dung hoặc về phƣơng diện nghệ
thuật. Đó là ý kiến hết sức quí báu nhƣng chƣa có bài viết nào xem xét, đánh
giá về phong cách thơ Hoàng Trung Thông một cách toàn diện. Tuy vậy, đây
là những ý kiến mang tính chất gợi ý, định hƣớng để chúng tôi tiến hành thực
hiện đề tài này.
3. Mục đích nhiệm vụ của đề tài:
3.1. Mục đích:
Đề tài có mục đích tìm hiểu, thẩm định, đánh giá phong cách nghệ thuật
thơ Hoàng Trung Thông ở cả hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật biểu
hiện. Chúng tôi hy vọng qua từng phần đánh giá, thẩm định có thể đóng góp
cho sự nhận biết gƣơng mặt thơ ca của Hoàng Trung Thông. Cũng mong đây
chính là điều đóng góp nhỏ bé của luận văn trong quá trình tiếp cận và giải
mã thơ Hoàng Trung Thông.
3.2. Nhiệm vụ:
Thực hiện đề tài này ngƣời viết có nhiệm vụ tiếp cận, tìm hiểu phân tích
các tác phẩm thơ Hoàng Trung Thông. Mặt khác đề tài còn có nhiệm vụ so
sánh với một số nhà thơ đƣơng thời và không cùng thời với ông để thấy rõ
bản sắc độc đáo của tác giả này. Tức là phong cách nghệ thuật thơ. “Phong
cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chỉ sự thống nhất tƣơng đối ổn
định của hệ thống hình tƣợng, của các phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật, nói
7
lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ,
trong trào lƣu văn học dân tộc”. [59,tr.256 - Tập 2]
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Hoàng Trung Thông đƣợc nhiều ngƣời biết đến với tƣ cách là một nhà
thơ nhƣng ông còn là cây bút sáng tác văn xuôi, là một dịch giả đồng thời
tham gia nghiên cứu phê bình văn học. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đa
dạng phong phú. Do điều kiện thời gian và nhiều điều kiện khác nên chúng tôi
chỉ đi sâu tìm hiểu phong cách nghệ thuật biểu hiện trong thơ của tác giả này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài này là tất cả các tập
thơ của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Mặt khác chú ý tiếp cận, giải mã cả hai
địa hạt thể hiện phong cách là: Nội dung tác phẩm và nghệ thuật biểu hiện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở văn bản nghệ thuật (các tập thơ của Hoàng Trung Thông) tiến
hành thống kê, phân loại một số vấn đề theo định hƣớng, từ đó thâm nhập để
phân tích lý giải về giá trị riêng của thơ Hoàng Trung Thông theo từng khu
vực đã đƣợc định hình. Chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu
sau đây:
5.1. Phương pháp phân tích tác phẩm:
Tìm ra những đặc sắc nghệ thuật của văn bản thơ Hoàng Trung Thông.
5.2. Phương pháp thống kê, phân loại: Giúp cho việc hình thành những luận
điểm khoa học.
8
5.3. Phương pháp so sánh (tương đồng hoặc dị biệt): Với một số nhà thơ
khác, nhất là những nhà thơ cùng thời để tìm ra những nét riêng biệt của thơ
Hoàng Trung Thông.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông.
Chƣơng 2: Những xu hƣớng chính trong thơ Hoàng Trung Thông.
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật thơ Hoàng Trung Thông.
Sau cùng là danh mục tài liệu tham khảo.
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1:
NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG
1.1. Đời sống lao động nông nghiệp:
Hoàng Trung Thông là nhà thơ gắn bó sâu sắc với đời sống nông thôn.
“Tuổi thơ của Hoàng Trung Thông sống ở nông thôn. Những ngày đầu kháng
chiến chống Pháp, môi trƣờng công tác của anh cũng ở nông thôn. Anh gắn
bó mật thiết với cuộc sống nông thôn” [61,tr.285]. Hoàng Trung Thông
không phải là nhà thơ xuất thân từ nông dân nhƣng nhƣ đã từng gắn bó sâu
sắc với đời sống nông thôn. Vì vậy, ngay từ bài thơ đầu tiên, ông đã đứng trên
cƣơng vị ngƣời nông dân kháng chiến mà thể hiện cảm xúc, tình cảm của
mình và càng về sau càng có nhiều bài thành công theo hƣớng đó. Bài ca vỡ
đất đƣợc cất lên từ những ngày đầu kháng chiến, tuy còn đƣợm vẻ thanh bình
của vùng tự do, nhƣng đã trở thành tiếng hát lạc quan của ngƣời nông dân đi
khai hoang để phục vụ tiền tuyến. Trong những ngày đi vào vùng địch hậu,
nhà thơ đã viết Đồng bằng, quê hương chiến đấu. Với tình cảm sôi nổi và
lòng tin sắt đá của những ngƣời nông dân mặc áo lính trở về giải phóng đồng
bằng, giải phóng quê hƣơng. Trong năm đầu của cuộc vận động hợp tác hóa
nông nghiệp (1958) ông viết Thăm lúa, Cho lúa ta lên tới ngang trời. Tƣ thế
của ngƣời nông dân tập thể đƣợc thể hiện qua ý thơ chắc khỏe và dáng thơ
thật phóng khoáng.
Nhờ gắn bó sâu sắc với đời sống nông nghiệp và mỗi chặng đƣờng thơ
ông đều có những sáng tác xoay quanh đời sống nông nghiệp mà ngƣời đọc
cảm nhận rất rõ: Đời sống nông nghiệp là một trong những cảm hứng lớn
trong thơ Hoàng Trung Thông. Và trong cảm hứng này nhà thơ đã thể hiện
khá phong phú các sắc độ, các phƣơng diện của đời sống nông nghiệp.
10
Hoàng Trung Thông thuộc thế hệ các nhà thơ ra đời từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945. Các nhà thơ thuộc thế hệ này có cái may mắn là vừa lớn lên
là gặp cách mạng và đi theo Đảng cho nên họ có điều kiện thuận lợi trong sự
tiếp thu những tình cảm mới. Tình cảm của quần chúng cách mạng đến với họ
tƣơng đối nhanh hơn và trực tiếp hơn, do đó cái lạc quan trong thơ họ thƣờng
có tính chất cởi mở, tính chiến đấu trong thơ họ thƣờng mạnh mẽ. Đây là
điểm khác với các nhà thơ lớp trƣớc. Ở các nhà thơ lớp trƣớc, “có nhà thơ vì
cảm cái vui, cái hùng của hiện tại mà xót thƣơng cho ông cha ta thủa trƣớc đã
từng sống trong tâm trạng dằn vặt, tủi cực, hay đã trải qua những cảnh đời oan
nghiệt, bất công. Có nhà thơ càng sống với tình cảm rộng lớn nhân đạo của
thời đại càng thấy thấm thía cái khổ của tâm hồn bé nhỏ, yếu hèn, bơ vơ thủa
trƣớc. Do đó cái vui trong thơ họ có phần chìm lắng hơn là phơi phới, tính
chiến đấu trong họ thƣờng biểu hiện ở chỗ giành thắng lợi cho tâm hồn mới
với những cái rớt của tình cảm lỗi thời” [38,tr.27].
Qua các trang thơ viết về đời sống lao động nông nghiệp của Hoàng
Trung Thông, ngƣời đọc luôn đƣợc sống trong không khí hăng say lao động
và trong niềm tự hào về quá khứ và về hiện tại của đất nƣớc. Cả tập thơ nhƣ
muốn nói lên với ngƣời đọc rằng: Cuộc sống lao động hoà bình trên miền Bắc
thật vui, thật đẹp, thật hùng và cần đƣợc ca ngợi ngàn lần. Trong Những cách
buồm ngƣời đọc thấy cái vui ở đây chủ yếu là thấy cái vui của thế hệ trẻ đang lao động quên mình vì Tổ quốc. Ở Bài ca vỡ đất đó là một tiếng ca reo vui của ngƣời lao động nhƣng vẫn còn có phần vắng lặng. Ở đây, ta gặp cái hào
hứng đến sôi nổi của nhà thơ trong Đường chúng ta đi:
“Mặt trời chiều má đỏ hây hây
Gió thổi hƣơng đồng sực nức
Đi thăm lúa nhƣ cờ bay trƣớc ngực.
11
...Đi bên lúa nhƣ bên ngọn lửa
Mừng đƣợc mùa bếp đỏ cơm thơm.”
(Thăm lúa)
Nắng thu vàng tháng tám.
Gió heo may giải đồng.
Bờ tre cò liệng trắng.
Lúa vờn xanh mênh mông
Câu ca tung cánh bổng
Mồ hôi đầm áo manh
Yêu bao nhiêu cuộc sống
Khoẻ nhƣ màu áo xanh.
(Đồng tháng
tám)
Tiếng kẻng bay dồn nhƣ gió vang
Nghe vui sao khúc nhạc xóm làng
Nghìn năm mơ ƣớc giờ trông thấy
Ruộng đất cày chung cấy tập đoàn.
(Trên gác chùa Keo).
Ngƣời cán bộ ở xóm thôn là linh hồn và trụ cột của phong trào. Trong
cuộc sống họ là những ngƣời luôn lo toan tất bật với công việc xóm làng. Họ
ít đƣợc nghỉ ngơi, sống không giờ giấc, khó khăn ở đâu cũng gọi tới, phúc lợi
lại ít đƣợc chia phần. Hoàng Trung Thông đã dựng đƣợc hình ảnh chân thực
12
về anh chủ nhiệm trong thơ. Đến với Anh chủ nhiệm ngƣời đọc không chỉ
thấy cái tƣ thế làm chủ, năng nổ tận tụy trong công việc của ngƣời nông dân
cốt cán:
Có mùa mạ cháy đồng khô cạn
Mƣời bậc nƣớc leo lên ruộng hạn.
Có mùa lúa chín, lụt tràn qua
Lại phải nghiêng đồng hắt nƣớc ra.
Ngƣời nhiều, ruộng ít, trâu bò ít.
Chạy ngƣợc chạy xuôi, lo rối rít.
Ngoài ba mƣơi tuổi máu đƣơng sôi
Không chịu khoanh tay đứng ngó trời…
(Anh chủ nhiệm)
Không phải chỉ là sự tháo vát năng động mà sâu sắc hơn là tinh thần
cách mạng tiến công và niềm thiết tha mơ ƣớc thấm sâu vào trong suy nghĩ.
Chi phối hành động của anh chủ nhiệm. Cảm hứng về tƣơng lai đã đến khá rõ
nét từ trong những vất vả lo toan của cuộc sống hiện tại:
Anh giơ tay vẽ giữa đồng xanh
Vẽ cả ngày mai thành bức tranh:
(…)
…Chân vẫn bƣớc đều, miệng vẫn nói,
Phơi phới lòng anh cơn gió thổi.
(Anh chủ nhiệm)
13
Hoàng Trung Thông nhiệt tình ca ngợi sức sống mới đang lên đâm chồi
nảy lộc trong nông thôn hợp tác hóa. Tác giả không đứng ngoài cuộc mà nhìn
ngắm thăm dò. Ông cũng không thi vị hóa nông thôn đang vƣợt qua những
thử thách nặng nề. Hiện thực cuộc sống đi vào thơ Hoàng Trung Thông qua
những mạch chìm sâu và chắt lọc. Khi nói đến kết quả nhà thơ thƣờng chú ý
đến nguyên nhân, nói về niềm vui thắng lợi lại nói đến những gian truân, nói
về ngày mai từ những xây đắp cho cuộc sống hôm nay. Trong những năm đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hoàng Trung Thông lại có những đóng góp mới
đặc biệt qua mảng đề tài trên. Tác giả chú ý đến phần thú vị của cuộc sống
nhƣng trƣớc hết vẫn là sự nhạy cảm với những khó khăn và trách nhiệm.
Nông thôn trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội bề bộn sự sống và gợi
nhiều cảm hứng thi ca. Huy Cận miêu tả một nông thôn đang lao động cần cù
và sáng tạo, một nông thôn đang sinh sôi nảy nở không ngừng. Những con gà
béo tròn, mẹ gà ấp ủ đàn con, những chú nghé vui chơi nhảy nhót… Có lúc
suy nghĩ về sự hoà hợp giữa con ngƣời và thiên nhiên đƣợc thể hiện trong
niềm vui lao động, trong cảnh trời nƣớc mênh mông. Cảnh trong bài Đoàn
thuyền đánh cá óng ánh nhƣ một bức tranh sơn mài:
Cá nụ, cá chim, cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở sao lùa nƣớc Hạ Long.
(Đoàn thuyền đánh cá)
Hoàng Trung Thông cũng nói về nhịp sống đang lên đó. Hình ảnh huyện ủy miền núi về họp từ các nơi trong không khí nhộn nhịp, vui vẻ để rồi lại trở về trong những trách nhiệm khác nhau:
Huyện ủy chia nhau về bản
14
Gấp gấp vó ngựa lên đƣờng
Ngƣời về lũng xa chống hạn
Ngƣời lên biên giới mua lƣơng.
(Huyện ủy miền núi).
Ông nhiệt tình ca ngợi sức sống mới đang đâm chồi nảy lộc trong
phong trào nông thôn hợp tác hóa:
Anh trỏ: Đây ruộng mình hợp tác
Lúa tƣơi vàng nhƣ dáng nhƣ mây
Tôi nói lúa làm chung phải khác
Hạt mẩy bông dài cây sát cây
Mặt trời chiếu má đỏ hây hây
Gió thổi hƣơng đồng sực nức
Đi thăm lúa nhƣ cờ bay trƣớc ngực
Xắn tay lên ta gặt mùa đầu.
(Thăm lúa)
“Khi viết về con ngƣời mới, cuộc sống mới, nhà thơ tỏ ra có nhiều suy
nghĩ. Cái mới mà tác giả ca ngợi, khẳng định đã có sức thuyết phục. Bao hợp
tác xã có đƣợc những dòng suối thóc lấp lánh” là vì đã trải qua bao đêm
“Chong đèn giải quyết việc vào ra” và bao ngày “cày vỡ vai trâu tát thủng
gầu” (Gửi Thái Thụy). Bao đồng chí chủ nhiệm đã kiên trì vật lộn với nhiều
khó khăn để cùng xã viên “Xốc cả phong trào vững tiến lên” (Anh chủ
nhiệm). Tác giả đã giải thích (bằng thơ) rằng cái mới ngày nay vốn có quan hệ
với truyền thống đấu tranh sản xuất [38,tr.69]. Nhƣng con ngƣời trong phong
trào hợp tác hóa ấy chính là những con ngƣời nông dân tập thể. Con ngƣời
15
nông dân ngày nay chính là hiện thân của Tài Ngào, một nhân vật thần thoại
tiêu biểu cho truyền thống lao động vì nhân dân:
Có sức nào bằng sức ngƣời hợp tác
Có thác gì bằng ngọn thác cần lao?
Cảm ơn ông hỡi ông Tài Ngào!
Ông có một trái tim nóng hổi
Ông đem sức đào khe đục núi
Mà không vì lợi lộc riêng tây.
(Nói chuyện với ông Tài Ngào).
Viết về đời sống nông thôn, về lao động nông nghiệp, Hoàng Trung
Thông không chỉ ca ngợi cuộc sống đang lên với những niềm vui phơi phới,
ca ngợi những con ngƣời lao động mới, con ngƣời nông dân tập thể mà ông
còn chú ý đến những nỗi gian khổ, nhọc nhằn. Lớn lên trong thực tế chiến đấu
và xây dựng của dân tộc, lại sẵn có niềm vui trong lòng, Hoàng Trung Thông
có cách nhìn, cách cảm đúng đắn trƣớc cuộc sống còn nhiều khó khăn gian
khổ, mà cũng thấy đƣợc sức ta, thế ta, lòng ta lạc quan phấn chấn:
Ôi cái đất này vất vả sao
Đồng chua nƣớc mặn thấp liền cao
Vùng kế bên hạn muôn tay chống
Cày vỡ vai trâu tát thủng gầu.
Hay:
Có đêm nằm nghĩ cảnh gieo neo
Vợ yếu con đông chƣa hết nghèo.
Nhƣng rồi thấy rõ đƣờng đi tới
Nƣớc nổi lo chi bèo chẳng nổi.
16
Lại lao vào việc lòng say sƣa
Hết sớm thôi chiều, nắng lại mƣa.
(Anh chủ nhiệm)
Không phải chỉ Hoàng Trung Thông mới có cảm hứng về đời sống
nông nghiệp. Nhiều nhà thơ khác cũng có cảm hứng này. Trần Hữu Thung
cũng có những câu thơ gắn với đồng ruộng, với chuyện đƣợc mất của mùa
màng:
Gió mƣa chi rứa
Trời hỡi là trời
Lúa ba tháng xểnh mất rồi
Miếng ăn toan đổ vô nồi trật đi.
Trần Hữu Thung cũng là cây bút “nhập cuộc” ( có cách nói trực tiếp
của ngƣời trong cuộc) nên đã nói đƣợc những lời gan ruột của bà con trong
một lối phô diễn tự nhiên. Phải chăng Hoàng Trung Thông và Trần Hữu
Thung đã gặp nhau ở điểm này. Tuy vậy, giữa hai tác giả này vẫn mỗi ngƣời,
mỗi vẻ. Trần Hữu Thung có những câu thơ gắn bó với đồng ruộng nhƣng
nặng về tuyên truyền cách mạng. Còn “Hoàng Trung Thông viết về đất đai
đồng ruộng với bao tình nghĩa chan hoà với đất, gửi vào đất những yêu
thƣơng hy vọng” [61,tr.292]. Có lẽ vì thế mà viết về đời sống nông nghiệp đã
trở thành một nguồn cảm hứng trong thơ ông. có lẽ cũng vì thế mà Hoàng
Trung Thông viết những câu thơ về đất thƣờng sâu sắc hơn những câu thơ
viết về trời.
Trong cảm hứng viết về đời sống nông nghiệp còn “một mảng thơ đáng
chú ý khác ở Hoàng Trung Thông là thơ viết về những đổi thay và nhịp sống
lao động xây dựng ở miền núi” [61,tr.296]. Nhà thơ thƣờng sáng tác ngay
17
trong mỗi chuyến đi và “Mỗi đoạn đƣờng rung một tứ thơ”. Trong mảng thơ
này nét tƣơi tắn nhất là khi miêu tả thiên nhiên. “Yêu đời và nhạy cảm, anh dễ
dàng nhập vào đƣợc với không khí và con ngƣời nơi anh đến, dĩ nhiên không
phải lúc nào cũng tránh đƣợc hời hợt, chông chênh. Ở đây nhiều bài già dặn
cổ kính mang âm hƣởng của đƣờng thi. Tả nhƣng rất gợi. Nhà thơ toả tâm
hồn mình vào cảnh vật. Chi tiết không nhiều nhƣng đắt và say. Gửi Việt Bắc,
Trên hồ Ba Bể, Huyện uỷ miền núi, Thác Bản Dốc, Tiếng đàn, Đêm văn chải,
Xoè, Lũng cú, Chợ Pakha… ” [61,tr.297].
Chợ là nơi trao đổi, buôn bán hàng hoá, là bộ mặt kinh tế của một vùng,
miền. Viết về những đổi thay và nhịp sống lao động dựng xây ở miền núi
không gì hơn bằng viết về những đổi thay ở chợ. Đây là cảnh chợ huyện
Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng:
Chợ Cô - sầu
Chẳng có ai sầu
Khăn thêu thổ cẩm, vải khoe mầu.
Ngƣời đi trẩy hội hay đi chợ
Anh đợi em hoài em ở đâu?
Bài thơ kết cấu trùng trùng điệp điệp gồm 4 đoạn. Đoạn hai, đoạn ba là
cảnh vui tƣơi náo nức của cuộc sống miền núi đã có sự thay đổi da thịt:
Chợ Cô - sầu
Chẳng có ai sầu
Gà vịt nhiều hơn khoai với nâu.
Nón tre, túi vải ngƣời nhƣ nƣớc
Anh đợi lâu rồi em đứng đâu?.
18
Chợ Cô - sầu
Lất phất mƣa bay
Vai em vàng thắm gánh cam đầy
Đèo cao lũng thấp đƣờng xa nhỉ
Xa mặc đƣờng xa cứ tới đây.
Đoạn cuối kết thúc bài thơ, “ Đoạn bốn buâng khuâng tình tứ:
Chợ Cô - sầu
Lất phất mƣa bay
Đừng sợ đƣờng trơn anh dắt tay
Áo chàm ai nhuộm mà xanh thế
Không rƣợu nhƣng lòng vẫn cứ say.
Cảnh gợi tình và tình thấm vào cảnh. Lời dừng mà ý còn ngân vang”.
[61,tr.297]. Còn đây lại là một buổi họp chợ khác, chợ Pa Kha. Chợ họp sơ
tán giấu trong một rừng cây. Cảnh họp chợ diễn ra ồn ã đầy tiếng nói tiếng
cƣời, hàng hóa với những sắc màu rộn rã tƣơi vui. Tiếng kèn hoà quyện
quyến luyến, lời mời uống rƣợu… vui tƣơi lôi cuốn:
Trăm loại hàng bày ra
Trăm sắc màu giữa chợ,
Cô gái Mèo xúng xính váy hoa
Ngƣời Dao đến, áo quần rực rỡ
Chim cũng theo ngƣời đi
Chó cũng cùng ngƣời đến
19
Tiếng ngựa hí vang trời
Điệu khèn sao quyến luyến!
Chen chúc nhau bên vò rƣợu nhỏ
Bát rƣợu ngô kẻ uống ngƣời mời
Quây quần lại bên hàng “thắng cố”
Tiếng lửa reo tiếng nói tiếng cƣời.
Đó là cảnh chợ Pa Kha (Bắc Hà) ở Lào Cai vào những năm 70 cả nƣớc
đang đánh Mỹ. Ngƣời, ngựa, hàng hóa màu sắc, âm thanh nhƣ đan vào nhau,
chen lấn phô bày những đổi thay sung túc của ngƣời dân miền núi. “Nhƣng
cái hay của bài thơ lại nằm ở mấy câu “chếch choáng” Cuối cùng:
Buổi chợ này có mấy ngƣời say
Tôi cũng hơi chuếnh choáng
Trên đƣờng về không có ai cầm ô theo sau
Che cho đầu tôi khỏi nắng.
(Chợ Pa Kha)
Trong một số bài thơ khác khi ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên và con
ngƣời miền núi Hoàng Trung Thông vẫn giữ đƣợc sự rung động của tâm hồn,
điều này chứng tỏ nhà thơ thực sự có một tấm lòng yêu mến cuộc sống ấy. Ở
bài Xoè chẳng hạn. Nhịp điệu tƣng bừng của cuộc sống mới đƣợc thể hiện
một cách nhuần nhị:
Hội xòe mở giữa sân hợp tác
Vòng xòe uốn lƣợn nhƣ dòng sông Nậm Na
Con trai áo chàm, con gái áo hoa cài khuy bạc
20
Tiếng đàn nhịp nhàng theo tiếng ca.
(Xòe)
Ngay ở nơi địa đầu của Tổ quốc, Lũng Cú, điểm cực bắc của nƣớc ta ở
huyện Đồng Văn thuộc tỉnh Hà Giang, nhà thơ đã tận mắt chứng kiến sự đổi
thay của nhịp sống lao động, dựng xây nơi đây:
Đã trải qua những năm quét phỉ
Giờ tấn công vào sự đói nghèo
Nơi cực bắc xa xôi - Lũng Cú
Đã lớn lên hợp tác xã ngƣời Mèo
(Lũng Cú)
Cần nói thêm rằng, không phải Hoàng Trung Thông chỉ viết về đời
sống nông nghiệp. Ông cũng có viết về công cuộc lao động xây dựng của
ngƣời công nhân nhƣng những bài thơ nhƣ thế vừa ít về số lƣợng vừa không
mấy giá trị, mặc dầu nhà thơ vẫn diễn tả đƣợc nhịp sống hối hả của lao động
xây dựng:
Bên kia mỏ thiếc bắc ngang mây
Goòng nối đuôi nhau chạy suốt ngày
Ta đào lòng đất đào sâu mãi
Đãi đá tìm vàng là ở đây.
Chính vì thế mà nó chƣa thể trở thành một cảm hứng lớn nhƣ khi
Hoàng Trung Thông viết về đời sống lao động nông nghiệp.
Hoàng Trung Thông là một nhà thơ gắn bó sâu sắc với nông thôn. Mỗi
chặng đƣờng thơ ông đều có cảm hứng lớn về đời sống nông nghiệp. Vì thế
mà ông có đƣợc những câu thơ sâu sắc khi viết về đất. Viết về đời sống nông
21
nghiệp Hoàng Trung Thông đã thể hiện đƣợc nhiều sắc độ, phƣơng diện khác nhau. Ở đó có cả những khó khăn vất vả, có cả những niềm vui phơi phới của
cuộc sống đang lên, có không khí hăng hái lao động và có cả tƣ thế làm chủ
của ngƣời nông dân tập thể. Đó là những đóng góp còn nhỏ bé nhƣng đáng
trân trọng.
1.2 Đời sống chiến đấu:
Hoàng Trung Thông thuộc lớp nhà thơ sinh ra, lớn lên, trƣởng thành
cùng cách mạng. Không khí cách mạng, hiện thực kháng chiến vĩ đại của đất
nƣớc, dân tộc hàng ngày thấm đẫm, ăn sâu vào trong máu thịt của những
ngƣời cầm bút. Có lẽ vì thế có thể nói không có nhà thơ nhà văn nào lại
không viết về công cuộc kháng chiến cứu nƣớc vĩ đại của dân tộc. Hòa vào xu
hƣớng chung đó Hoàng Trung Thông đã thể hiện rõ nét trong những tập thơ
của mình cái hiện thực kháng chiến của đất nƣớc, của đồng bằng chiến đấu.
Ngƣời đọc dễ ràng nhìn thấy đây cũng chính là một trong những cảm hứng
lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. Cảm hứng này đã trở thành sợi chỉ đỏ
xuyên suốt các chặng đƣờng thơ ông.
Ngay từ tập thơ đầu tay Quê hương chiến đấu Hoàng Trung Thông đã
góp đƣợc một tiếng nói mới trong nền thơ kháng chiến trƣớc kia. Lúc bấy giờ
viết về kháng chiến là một vấn đề hoàn toàn mới đối với các nhà thơ. Có nhà
thơ phải im lặng một thời gian để soát lại mình, có nhà thơ phải vừa đi vừa
“Nhận đƣờng”. Nhƣng là một ngƣời sống nhiều ở nông thôn và sớm tham gia
hoạt động cách mạng, Hoàng Trung Thông đã đi đúng đƣờng thơ ngay từ
những bƣớc đầu tiên. Nhà thơ bắt đầu viết Bài ca vỡ đất, Cây lúa sức người…
ở vùng tự do. Sau đó trong những ngày lăn lộn ở vùng địch hậu ông đã viết
khá nhiều về con ngƣời và cuộc sống ở đây: Chị lái đò sông Gianh, Chị giao
thông trên đường Quốc lộ, Bao giờ trở lại, Bất khuất, Đồng bằng, quê hương
22
chiến đấu, Bản Mường giải phóng… Cuộc sống kháng chiến trong thơ Hoàng
Trung Thông là một cuộc sống đầy gian khổ và rất dũng cảm. Qua các trang
thơ ngƣời đọc thấy rất rõ sự tôi luyện ngày càng già dặn của quần chúng cách
mạng trong cuộc thử lửa với quân thù:
Đồng bằng ta
Thịt da còn rớm máu.
Nhƣng thép luyện tinh thần.
Giặc càn đi quét lại quanh năm
Vùng căn cứ vẫn nhƣ đồng nhƣ thép.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Những con ngƣời quần chúng cách mạng đó căm thù giặc sâu sắc và
quyết tâm đi theo con đƣờng cách mạng, phục vụ cách mạng, phục vụ công
cuộc kháng chiến vì một ngày mai tƣơi sáng hơn:
Ơi đồng bằng!
Quê hƣơng chúng ta
Căm thù vót sắc
Căm thù khắc sâu.
Ngƣời trƣớc ngã, có ngƣời sau
Chỉ một con đƣờng: Cách mạng.
Đây đồng bằng
Quê hƣơng tháng Tám
Cờ đỏ sao vàng
23
Trên chợ, trên sông, trên phố, trên làng,
Nhƣ ánh mặt trời cháy đỏ.
Cả đồng bằng
Ngửng đầu lên hớn hở,
Hƣớng về tƣơng lai.
Cách mạng là đây,
Hạnh phúc đây rồi,
Nắm chặt bàn tay giữ lấy.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Con ngƣời mà nhà thơ ca ngợi không phải là những chàng trai, những cô
gái trong một số bài thơ, câu hát phù hợp với khẩu vị của thanh niên tiểu tƣ
sản những năm đầu kháng chiến. Không hiếm các cây bút khi viết về con
ngƣời kháng chiến đã chịu ảnh hƣởng nặng của các mẫu hình lý tƣởng trong
văn học trƣớc đó kiểu nhƣ:
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trƣờng chinh phai bạc áo bào hoa.
Đã nói đến giầy phải là “giày vạn dặm”, nói đến bụi phải là “bụi trƣờng
chinh”, nói đến áo phải là “áo hào hoa”, đây là hình ảnh xa lạ với những con
ngƣời kháng chiến trong hiện thực đầy gian nan vất vả. Hoàng Trung Thông
không xây dựng những mẫu ngƣời nhƣ thế. Thơ ông giàu chất sống thực và
đã góp một tiếng nói căm thù và chiến đấu trên đoạn đƣờng kháng chiến trƣớc
kia. Nhƣng do quá quan tâm đến những khó khăn vất vả trong kháng chiến
mà giá trị hiện thực còn hạn chế. Cuộc kháng chiến của chúng ta không chỉ có
24
gian nan mà còn cả niềm sung sƣớng lạc quan cách mạng. Nhà thơ Tố Hữu đã
có lần nhắc lại:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
(Việt Bắc - Tố Hữu)
Hoặc:
Nhớ những lúc hầm sâu địch hậu,
Nhớ những đêm theo dấu đƣờng dây.
Giặc lùng, giặc quét, giặc vây
Có dân, có Đảng đêm ngày vẫn vui.
(Ba mươi năm đời ta có Đảng - Tố Hữu)
Chúng ta càng thấy rõ điều đó khi đọc lại những vần thơ kháng chiến
của Hồ Chủ Tịch và của một số nhà thơ khác.
Sự tôi luyện ngày càng già dặn của quần chúng cách mạng trong kháng
chiến, khí thế chiến đấu kiên cƣờng của dân tộc còn đƣợc Hoàng Trung
Thông thể hiện trong hàng loạt các bài thơ khác.
Mảnh đất này là một bài thơ hay. Đó là bài thơ của một chủ đề, cùng
một cảm hứng với Đồng bằng quê hương chiến đấu nhƣng lại vƣợt xa bài này
cả về nội dung, tình cảm và chất lƣợng nghệ thuật. Mảnh đất này ngắn hơn
bài trên rất nhiều nhƣng nội dung lại sâu hơn một bậc. Cả bài thơ nhƣ dựng
lại trƣớc mắt ta hình ảnh và tâm hồn Tiên Lãng dũng cảm: Chúng ta bắt gặp
những câu thơ nhƣ “dao chém đá, rạ chém đất”. Đó là những lời thề quyết
chiến và quyết thắng của những con ngƣời quyết bảo vệ mảnh đất thiêng liêng
của mình:
25
Mảnh đất này tên là Tiên - lãng
Mảnh đất này tên là dũng cảm
Mảnh đất này trải mấy nắng mƣa
Lƣng vẫn hằn sâu từng vết đạn.
(…)
Mảnh đất này tên là Tiên - lãng
Mảnh đất này tên là dũng cảm
Mảnh đất này không sợ hy sinh
Mảnh đất này mang dòng máu Đảng.
Càng đọc chúng ta càng thấy khí thế chiến đấu kiên cƣờng của con ngƣời
nhƣ bốc lên trên từng câu chữ:
Mƣời chín ngày mƣời chín đêm,
Giặc càn nắng hạn lại lùa thêm
Một tay cầm súng tay cầm cuốc
Khoai lúa trên đồng cứ mọc lên.
(Mảnh đất này)
Bài thơ đã phản ánh đƣợc phần nào thực chất của cuộc trƣờng kỳ kháng
chiến, tự lực cánh sinh của dân tộc ta trong thời gian trƣớc đây. Một bài thơ
nhƣ vậy tất nhiên sẽ góp phần nâng cao thêm tinh thần tự hào của nhân dân ta
không những về qúa khứ hào hùng mà cả về cuộc đấu tranh yêu nƣớc của
đồng bào ta ở miền Nam trƣớc kia.
26
Lòng căm thù giặc cũng đƣợc Hoàng Trung Thông thể hiện trong bài
Cửa tùng. Đây là bài thơ khỏe và lƣu loát từ đầu chí cuối. Lòng căm thù giặc
Mĩ của đồng bào Nam Bắc ở hai bờ giới tuyến đã biến thành sức mạnh chiến
đấu hoặc thành một thứ tình cảm thôi thúc hàng ngày. Tác giả đã nói lên hiện
thực đó bằng những câu thơ vừa tự hào vừa đau sót và thấm nhuần một tinh
thần đấu tranh:
Chào đồng bào Cát - sơn, chào đồng bào miền Nam bên nớ
Tám năm rồi vẫn dạ sắt son
Rào thép xiên hông, bốt đồn chẹn cổ
Mũi tầm vông lại vuốt nhọn căm hờn.
Chào đồng bào bên ni Di - loan Tùng- luật
Thuyền cá đi về buồm căng gió phất
Bƣng bát cơm đầy ăn chẳng ngon
Thù hận sớm chiều giăng trƣớc mặt.
Trong mảng thơ viết về đời sống chiến đấu, ông không chỉ viết về hiện
thực nóng bỏng nơi tiền tuyến mà còn chú ý khai thác những gì đang diễn ra ở
hậu phƣơng. Thơ Hoàng Trung Thông là tiếng nói của hậu phƣơng, hậu
phƣơng đang đóng góp cho chiến trƣờng. Những làng quê kháng chiến đang
gửi bao lớp thanh niên lên đƣờng đi chiến đấu, những làng quê của tình nghĩa
đồng bào, đồng chí chờ đón những đứa con thân yêu trở về.
Ở mạch thơ viết về đời sống chiến đấu, cảm hứng tập trung nhất của
Hoàng Trung Thông là phản ánh cuộc kháng chiến gian khổ nhƣng anh dũng
của dân tộc. Nhà thơ ca ngợi thực tế mới nhƣng không thi vị hóa cuộc sống,
nhanh chóng chuyển hoá sang sức mạnh căm thù và phấn đấu. Thơ đã kết tụ
đƣợc khí thế hào hùng của dân tộc. Bƣớc vào thời kỳ cả nƣớc sục sôi chống
Mĩ, thơ Hoàng Trung Thông lại đƣợc mùa nở rộ. Đầu sóng là tập thơ chống
Mỹ đáng chú ý của ông. Đã có bề dày kinh nghiệm sáng tác lại đƣợc sống
27
trong thực tế vĩ đại của đất nƣớc trên tuyến đầu chống Mỹ, đó là những yếu tố
chủ quan và khách quan đã làm lên giá trị của tập thơ, trƣớc hết là giá trị hiện
thực. Tác giả không chỉ ghi lại hình ảnh những con ngƣời anh hùng đang nở
rộ nhƣ hoa mùa xuân trên trận địa phòng không, những bến phà, giữa những
đoạn đƣờng hay trên cánh đồng năm tấn. Nhà thơ đã gợi lên rằng thực tại anh
hùng ngày nay vốn bắt rễ từ trong truyền thống chống ngoại xâm oanh liệt.
Hoàng Trung Thông đã từng viết về Bạch Đằng:
Nghe gió thổi dập dờn tiếng trống
Nhƣ ba quân đang cƣớp giáo giữa dòng
Nghe mƣa bay tên vút ngang sông.
Nhƣ thuyền giặc trên cọc ngầm tan xác.
(Mưa trên sông Bạch Đằng)
Nhƣng phải nói đến khi đứng giữa trận địa phòng không bố trí trên bờ
sông Bạch Đằng ông mới thấy trong trái tim mình rung lên một khúc hát hào
hùng:
Tiếng hát Bạch Đằng
Tiếng hát quân reo trên đỉnh sóng
Tiếng hát gƣơm trần giáo dựng
Tiếng hát hôm nay đầu sóng vọng về.
(Bên bờ sông Bạch Đằng)
Kỳ tích thắng Mỹ của nhân dân ta chính là kỳ tích của Thạch Sanh
trong truyện cổ tích. Đây là sự liên tƣởng thú vị, vì nó nói lên tài năng, mƣu
trí, quả cảm của ngƣời Việt Nam khi phải đƣơng đầu với một kẻ thù nhiều
mƣu ma chƣớc quỷ nhƣ đế quốc Mỹ:
28
Ta đứng dậy vác gƣơm vào đạn lửa
Nhƣ Thạch Sanh xƣa kiêu dũng chém xà tinh
Với phép thần thông ba chục triệu dân mình
Sức nghìn triệu cánh tay trên trái đất
Ta bẻ gãy từng chiếc răng quái vật.
(Gửi nước Mỹ)
Từ cái nhìn chân thực khỏe khoắn không bỏ qua, không xoa dịu những
gian khổ mất mát, và nhanh chóng chuyển hoá sang sức mạnh căm thù và
phấn đấu thơ Hoàng Trung Thông đã kết tụ đƣợc khí thế hào hùng của dân tộc
một thời nóng bỏng:
Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Ngƣời đứng dậy viết tiếp ngƣời ngã xuống
Ngƣời hôm nay viết tiếp ngƣời hôm qua.
…..
Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Hai mƣơi năm súng kết cùng thơ
Thơ ta thét tiếng kêu căm giận
Súng ta cầm giữ lấy ƣớc mơ.
Đi đi lên tay ghì chặt súng
Đi đi lên giải phóng miền Nam!
Trên đỉnh núi tung bay cờ chiến thắng
29
Cờ ta bay nhƣ lửa đỏ xóm làng.
(Bài thơ báng súng)
Những câu thơ bừng bừng khí thế của cả dân tộc “Những câu thơ nhƣ
súng giao tận tay từng ngƣời, thôi thúc” (61). Đọc những câu thơ của Hoàng
Trung Thông ta lại nhớ đến những câu thơ đầy khí thế anh hùng, với phong
cách sử thi trang nghiêm nhƣ cảnh rừng Việt Bắc thời kháng chiến chống
Pháp của Tố Hữu:
Những đƣờng Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập nhƣ là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bƣớc chân nát đá, muôn tàn lửa bay…
(Việt Bắc)
Hay những câu thơ nói lên sự chiến thắng tất yếu của cách mạng, sự bất
tử của dân tộc và cũng bừng bừng khí thế hào hùng của nhà thơ Nguyễn Đình
Thi:
Súng nổ rung trời giận dữ
Ngƣời lên nhƣ nƣớc vỡ bờ
Nƣớc Việt Nam từ màu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
(Đất nước)
30
Cuộc sống thời đánh Mĩ hiện lên qua thơ Hoàng Trung Thông, nhiều
khó khăn thử thách và hy sinh, nhƣng nhờ biết nhìn cuộc sống từ hai phía
bóng tối và ánh sáng nên thơ ông không lƣu lại một chút sƣơng mù ảm đạm
nào. Cũng xuất phát từ cái nhìn khoẻ mạnh, không xoa dịu khó khăn, mất mát
của chiến tranh mà chuyển nó sang dạng sức mạnh của căm thù. Nhà thờ Di
Loan là một trong những bài thơ nhƣ thế. Đây là một bài thơ hay, sau khi mô
tả cảnh nhà thờ hoang tàn đổ nát vì bom đạn Mĩ, nhà thơ viết:
Tội ác đến đây quỳ thú tội
Ai rửa nổi cho bay?
Tƣợng chúa tan tành còn trơ một bàn tay
Bàn tay ban phép lạ
Bàn tay bị đóng đinh
Trong đạn bom của Mỹ
Chúa lại bị hành hình.
Hình ảnh chúa lại bị hành hình là một sáng tạo của nhà thơ. đau
thƣơng và căm hờn đƣợc dồn nén lại căng thẳng trong hồn thơ Một bàn tay
chúa. Cảm xúc bài thơ đƣợc nâng lên mức lý trí mà không hề siêu hình. Bài
thơ mang tính tạo hình rất rõ nét.
Trong thơ ca chúng ta, chƣa bao giờ chủ nghĩa anh hùng cách mạng
đƣợc thể hiện tập trung và rực rỡ nhƣ lúc này. Những con ngƣời Việt Nam
đánh Mỹ rất đẹp. Tất cả đều dũng cảm, thanh thản và tràn đầy sức lực. Chất
liệu thơ ấy kể ra là quen thuộc với các nhà thơ. Có điều ở Hoàng Trung Thông
giản dị, trực tiếp mà vẫn xôn xao, sâu lắng:
Một chuyến phà rồi một chuyến phà sang
31
Nhƣ nhịp cầu di động dọc ngang.
Một đoàn xe… một đoàn xe nữa đến.
Băng qua những dòng sông hỏa tuyến
Ôi gian lao thử thách tim ngƣời
Đêm nay đêm thứ mấy trăm rồi.
(Phà đêm)
Con ngƣời những năm đánh Mỹ đi vào thơ Hoàng Trung Thông quả là
rất đẹp, vẻ đẹp của phẩm chất tự phát sáng mà tâm hồn nhà thơ nhƣ tấm
gƣơng đã hội tụ đƣợc những tia sáng quý giá và phản chiếu lại cho chúng ta
soi ngắm. Từ hình ảnh những nam nữ thanh niên xung phong tƣơi trẻ, ngƣời
dân công tải thƣơng, ngƣời nông dân cày trên bom đạn, đến cô gái mảnh dẻ
bình tĩnh đứng trên bom nổ chậm để mọi ngƣời yên tâm gặt lúa, tất cả đều
dũng cảm, thanh thản và tràn đầy sức mạnh:
Một quả bom chỉ chực nổ tung ra
Một cô gái đứng nhìn nhƣ thách thức
Chiếc áo lót bó ngƣời căng bộ ngực
Không lặng im nhƣ pho tƣợng trang nghiêm.
Vẻ đẹp ở đây chính là sự đối trọi giữa sức mạnh tinh thần và sức mạnh
vật chất, giữa cái chết và sự sống, là sự kết hợp hài hoà giữa cái bình thƣờng
và cái vĩ đại, giữa sức mạnh nghê gớm và vẻ đẹp dịu dàng. Nhiều ngƣời ƣa
thích bài Đúc của Hoàng Trung Thông vì trong nét đơn sơ và dễ dãi lại có ẩn
cái duyên ngầm và hơi thở mang tâm hồn tự tin mộc mạc, sảng khoái của
nhân dân ta qua hình ảnh hai bố con bác thợ rèn. Họ làm việc và đánh giặc
thật giản dị và nhìn kẻ thù bằng con mắt của ngƣời chiến thắng:
32
… Chà chà! Ta quật lại
Súng nổ nhƣ ngô rang
Thằng lủi bay tháo thân
Thằng xác tan dƣới đất
Thấy mà hả tấm lòng
Trông mà sƣớng con mắt!
Vỏ quýt hắn có dày
Móng tay miềng lại nhọn
Còn dẫn xác đến đây
Thì hắn còn mất mạng
Mới biết Bác Hồ tài
Nhân dân miềng cũng gớm
Chấp thằng Mỹ hai xe
Mà hắn còn mất tƣớng.
(Đúc)
Hoàng Trung Thông có một số bài thơ về Cửa Tùng, về đêm ngủ dƣới
nhà hầm, về những con chim vùng tuyến lửa, về chùm hố tiêu Vĩnh Linh lớn
lên trong đạn lửa “Vị càng thêm cay hƣơng thêm nồng đậm”. Đi nhiều nơi
gặp nhiều cảnh, nhiều ngƣời nơi đất lửa, ở Đêm trăng Đồng Hới tác giả đã rút
ra đƣợc nhiều điều đáng suy nghĩ:
Ôi đất này đất lửa sục sôi
Đất căng thẳng từng giờ chết sống
Mà đêm nay nhìn ánh trăng trôi
33
Tôi bỗng hóa ra ngƣời mơ mộng.
Chính nhà thơ đã lấy cái vẻ mơ mộng của những con ngƣời cầm súng
nơi giáp mặt với kẻ thù, với cái chết. Cho nên, điều mà nhà thơ rút ra và gửi
gắm đến bạn đọc là con ngƣời Việt Nam, phẩm chất Việt Nam cao đẹp hơn,
mạnh mẽ hơn ngàn lần bom đạn và kẻ thù. Đó chính là nguồn sức mạnh làm
nên chiến thắng của chúng ta.
Đọc thơ Hoàng Trung Thông, ngƣời đọc dễ dàng nhận thấy ông ít nói
đến riêng tƣ, đến bạn bè, vợ con, đến mơ ƣớc buồn vui riêng lẻ, nghĩa là đến
những cái thuộc quĩ đạo đời sống tâm tình riêng của cá nhân nhà thơ. Không
phải vì tác giả cố tình né tránh, thu hẹp cái tôi lại mà là vì ông biết gạt bỏ đi
những cái rƣờm rà vụn vặt của tâm hồn, biết hoà lẫn cái “tôi” vào cái “ta”
chung một cách tự nhiên. Tâm hồn ông rộng mở đón lấy những nhịp rung từ
thực tế, từ quần chúng nhân dân. Thơ Hoàng Trung Thông mang đậm màu
tƣơi xanh của cuộc sống. Đi vào khu Bốn, nhà thơ rung cảm trƣớc nỗi đau
thƣơng, lòng dũng cảm của nhân dân và viết lên một loạt bài, đôi khi dấu vết
của thực tế còn nguyên đọng, nhƣng mang đƣợc sức ấm lòng, nhịp đập bên
trong cát bụi và khói lửa của đời sống chiến đấu, đằng sau vẻ thanh thản, yên
bình của của buổi sớm vùng tuyến lửa:
Nắng rọi hàng phi lao
Cây dừa chao cánh biếc….
Tiếng gầu ai giội nƣớc
Lên ruộng mạ xanh rì
Con trâu nhích từng bƣớc
Gặm cỏ dọc đƣờng đi.
Ôi đất biếc trời xanh thanh thản quá
34
Ngỡ đêm qua chẳng có đạn bom gì.
(Thanh thản)
Là một cái gì lớn hơn thế nữa, ấy là vẻ thanh thản, yêu đời, tự tin của
tâm hồn Việt Nam đánh Mỹ.
Ở mảng thơ viết về cảm hứng đời sống chiến đấu, thơ HoàngTrung
Thông đã gặt hái đƣợc những thành công đáng kể. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu
cái dồi dào phong phú, còn nghèo về đề tài. “Những chiến công hạ máy bay
Mỹ, những anh hùng chiến sĩ trên cả hai miền Nam Bắc, những thành tích sản
xuất trên đồng ruộng, trong xƣởng máy… Bấy nhiêu hiện tƣợng nổi bật trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ đều chƣa đƣợc thể hiện một cách đậm nét dƣới
ngòi bút của nhà thơ” [38,tr.67]. Mặc dù vậy, “điều quan trọng ở Hoàng
Trung Thông là thơ anh có những nét riêng không lẫn với ai (…) Từ một cảm
hứng chủ đạo, anh gợi về những hình ảnh, tâm trạng và bồi đắp thành câu,
thành bài, tự nhiên và thoải mái” [61,tr.299].
1.3 Đời sống tình cảm:
Nhận xét về thơ Hoàng Trung Thông có ý kiến cho rằng: “Thơ Hoàng
Trung Thông cởi mở, nồng ấm nhƣng vẫn ít nhiều thiếu vẻ mềm mại, đằm
thắm. Phải chăng vì thơ anh còn ít chất say mê nồng ấm? (…) Dĩ nhiên, mỗi
nhà thơ có phong cách có bút pháp riêng, nhƣng dù là nhiệt tình hay tỉnh táo,
thì sau cái tỉnh ấy, ngƣời đọc vẫn phải linh cảm thấy cái say, thấy một mảnh
tâm hồn nhà thơ in dần lên đó” [28,tr.4]. Một nhà nghiên cứu văn học khác
cũng có ý kiến tƣơng tự: “Ở Hoàng Trung Thông, có khi ý chí và nghị lực
phấn đấu thể hiện ra một cách trần trụi. Do đó ngƣời đọc cảm thấy thơ anh
còn khô khan” [39,tr.83]. Nhƣng cũng có ý kiến khác nhìn nhận thỏa đáng
hơn: “Dạo ấy cũng có ý kiến cho rằng thơ của anh Hoàng Trung Thông còn
tỉnh quá, thiếu chất say, thiếu cái bay bay cần có của ngòi bút thơ. Nhận xét
35
trên có căn cứ nhƣng chỉ ít lâu sau không còn phù hợp với sự phát triển của
thơ anh” [29,tr.6]. Quả thật trong mấy tập thơ đầu, từ Quê hương chiến đấu
đến Trong gió lửa, viết về đời sống nông nghiệp và nhất là đời sống chiến
đấu, thơ Hoàng Trung Thông “còn ít chất say mê, nồng ấm”, nhƣng từ các tập
tiếp theo: Như đi trong mơ, Hương mùa thu…. cho đến Mời trăng thì tiếng
thơ Hoàng Trung Thông ngày càng phong phú hơn. Bên cạnh hai nguồn cảm
hứng lớn nhƣ đã trình bày ở trên trong thơ ông còn có nguồn cảm hứng chủ
đạo khác: Đời sống tình cảm.
Thực ra, ngay từ các tập thơ ban đầu, trong khi thể hiện đời sống lao
động nông nghiệp và đời sống chiến đấu thì Hoàng TrungThông đã thể hiện
đƣợc cả tình cảm yêu nƣớc, tình yêu Đảng. Mà trong các cung bậc của đời
sống tình cảm thì yêu nƣớc là tình cảm lớn, đáng trân trọng nhất của con
ngƣời. Từ tình yêu giang sơn Tổ quốc sâu sắc mỗi ngƣời dân Việt Nam mới
có ý chí, nghị lực phấn đấu vƣơn lên trong mọi khó khăn thử thách, cả trong
sản xuất và chiến đấu. Tình cảm này thƣờng “lặn sâu” trong các ý thơ, song
cũng không phải không có lúc nhà thơ biểu hiện một cách “ồn ào lộ liễu”:
Ơi đồng bằng!
Quê hƣơng chúng ta
Căm thù vót sắc
Căm thù khắc sâu
Ngƣời trƣớc ngã, có ngƣời sau
Chỉ một con đƣờng: cách mạng.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
36
Nếu không có tình cảm yêu nƣớc, căm thù giặc sâu sắc thử hỏi làm sao
những ngƣời nông dân buông cày, cầm súng lại có đƣợc những hành động
thầm lặng mà anh dũng thế này:
Nhớ chăng anh
Trời rét,
Đêm đen,
Đồng chí giao thông,
Vƣợt sông Hồng đi vào địch hậu
Có những mảnh phong bì còn dính máu,
Những công văn một nửa nƣớc phai mờ
Bao anh em chết cứng giữa dòng mƣa
Bao anh chị sóng dồi ra biển cả
Những đồng chí chúng ta
Trở về bám xã,
Mƣa. Đêm mƣa!
Đứng giữa bờ đê.
Nghiến hàm răng
Đỏ mắt trông về:
Làng đổ nát loè nhèo ánh lửa.
Kìa quê hƣơng! chất chồng đau khổ
Những vƣờn rau ruộng lúa tan hoang.
Bám lấy quê hƣơng
37
Giữ chặt xóm làng
Giữ chặt lấy mối tình máu mủ.
(Sông Hồng Hà)
Tình quân dân thắm thiết cũng là một khía cạnh tình cảm mà Hoàng
Trung Thông đã có những tiếng nói riêng, hòa vào cảm hứng chung của nhiều
nhà thơ cùng thời bấy giờ. Bao giờ trở lại là một bài thơ đằm thắm và nhuần
nhị về tình cảm giữa quân và dân trong cuộc kháng chiến. Các anh bộ đội về
làng đã thắp sáng lên bao niềm vui xôn xao cho một xóm nghèo bé nhỏ.
Những tâm hồn lòng dân rộng mở đón các anh, đón những ngƣời ruột thịt:
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cƣời
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tƣng bừng trƣớc ngõ
Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.
(Bao giờ trở lại)
Về chủ đề này bài thơ Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông là một
đóng góp. Chúng ta đã từng chứng kiến tình quân dân rất đằm thắm trong thơ
của Tố Hữu (Cá nước), Hồng Nguyên (Nhớ), Thôi Hữu (Lên Cấm Sơn) giờ
đây tình quân dân đó lại đƣợc biểu hiện với dáng vẻ riêng, chân thực ấm áp
trong thơ Hoàng Trung Thông. Cái làng quê nghèo nhƣng rất giàu tình nghĩa
ấy lại bừng lên sự sống khi bộ đội trở về đóng quân. Chúng ta nhớ tới những
câu thơ đẹp, trữ tình và đầy thơ mộng của Tố Hữu:
38
Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dƣới sân
Anh về sáo lại ái ân
Đêm trăng hò hẹn, trong ngần tiếng ca.
Hoàng Trung Thông lại tạo đƣợc không khí xúc động qua bức tranh
chân thực ấm áp của làng quê:
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cƣời
Rộn ràng xóm nhỏ.
Các anh về tƣng bừng trƣớc ngõ
Lớp lớp đàn em, hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về.
(Bao giờ trở lại)
“Bao nỗi xôn xao ríu rít lắng xuống để thành niềm bịn rịn nhớ thƣơng
khi các anh đi. Xóm làng nhƣ sống mãi trong những kỷ niệm ngày nào - “Các
anh đi, ngày ấy đã lâu rồi”, vẫn khắc khoải trông đợi ngày anh đánh tan hết
giặc trở về. Niềm tin tƣởng kháng chiến thắng lại ẩn chứa sâu xa trong những
câu thơ bình dị mà tha thiết. Những câu thơ ấy cho đến bây giờ đọc lại hoặc
nghe lại qua giai điệu bài hát do nhạc sĩ Lê Yên phổ thơ vẫn có sức khơi gợi
rất nhiều.” [61,tr.287]
Cùng với Bao giờ trở lại bài thơ Mẹ con cũng phần nào góp thêm một
tiếng nói về tình quân dân gắn bó mật thiết trong lời tâm sự giữa hai mẹ con:
39
Con đi không hạn không kỳ,
Con đi buổi sáng con về buổi hôm.
Con đi đổ bốt tan đồn,
Ở đâu có giặc con còn cứ đi.
Đêm sƣơng gió rét kể gì.
Giết thù, giữ nƣớc lòng ghi một niềm.
Con về ríu rít nhƣ chim,
Chim tìm đến tổ, con tìm đến dân.
Này đây tấm bánh con ăn
Nƣớc non con uống, con nằm nghỉ ngơi.
(Mẹ con)
Những câu thơ trên là một đóng góp của Hoàng Trung Thông vào mạch
cảm xúc chung của thơ ca kháng chiến: tình quân dân thắm thiết. Tình cảm
này đƣợc sinh sôi nảy nở trên mối quan hệ mật thiết giữa tiền tuyến và hậu
phƣơng. Hậu phƣơng luôn là chỗ dựa, nguồn động viên tiếp thêm sức mạnh
cho tiền tuyến. Cũng là nơi luôn ngày đêm mong ngóng chờ đón những ngƣời
con thân yêu trở về:
Các anh đi
Khi nào trở lại
Xóm làng tôi
Trai gái vẫn chờ mong.
(Bao giờ trở lại)
40
Thơ Hoàng Trung Thông “phản ánh cơn bão lớn của thời đại, nhƣng
cũng có cả bóng dáng của những bông hoa nhƣ ngày thƣờng”. [61,tr.293]
Mảng thơ này quả thật nhƣ đƣợc kết lại từ những bông hoa nhƣ ngày thƣờng,
dọc theo vui buồn chiêm nghiệm cuộc đời, chiều dài của tuổi. Những bài thơ
ghi lại bao rung cảm quen thuộc trong những mối quan hệ riêng tƣ thân thiết.
Có tình ngƣời, tình đời, có tình yêu nam nữ và có cả tình cảm, trách nhiệm
của cha mẹ đối với con cái hay nói rộng hơn là tình cảm trách nhiệm giữa các
thế hệ. Về phƣơng diện này, Những cánh buồm là một bài thơ hay và tiêu
biểu.
Đứng trƣớc biển con ngƣời ta đối diện với những gì lớn lao nhất trong
thế giới này. Ấy là không gian vô cùng vô tận, là dòng thời gian vô thuỷ vô
chung và đại dƣơng thì mênh mông vô hạn, ngƣời ta dễ cảm thấy sự ngắn
ngủi và phù du của kiếp ngƣời, dễ cảm thấy sự vô nghĩa, nhỏ nhoi cứ muốn
hoá vô biên, cứ muốn vƣợt thoát khỏi cái hữu hạn khắt khe tàn nhẫn của phận
ngƣời. Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã gửi cái khát vọng mãnh liệt vào những
chuyến đi xa ấy vào với biển:
Suốt cuộc đời biển gọi ƣớc mơ
Nỗi khát vọng những chân trời chƣa tới.
Phía bên kia biển còn biết bao bến bờ, biết bao bí ẩn, vừa nhƣ mới gọi
vừa nhƣ thách thức, vừa khêu gợi những khát vọng vừa đánh đắm những ƣớc
mơ. Nhƣng khát vọng vẫn không hề nguôi ngoai trong tâm thức của tuổi trẻ.
Những cánh buồn của Hoàng Trung Thông là bài thơ giản dị về cái điều lớn
lao ấy của mỗi con ngƣời và cả thế giới nhân sinh. Giản dị vì đây chỉ là cuộc
dạo chơi của hai cha con trên bờ biển. Giản dị vì bài thơ thật ít vẻ làm thơ.
Toàn bài nhƣ văn xuôi. Nhƣ một mẩu chuyện giàu chất tự sự, tâm tình, chân
thật và mộc mạc, nói về hai cha con, hai thế hệ, hai lớp ngƣời của nhân gian.
41
Trong bài thơ diễn ra cuộc đối thoại của hai cha con, hai thế hệ. Lời
ngƣời cha thì từng trải, bao dung. Lời con thì ngây thơ, bồng bột. Một tiếng
nói điềm đạm của kinh nghiệm đời. Một tiếng nói say mê nhiệt tình của tuổi
bé thơ. Ban đầu mới chỉ là nỗi băn khoăn thơ trẻ, là nỗi tò mò của đứa bé lần
đầu ra biển. Đôi mắt nhìn thế giới này đầy mới lạ, cái gì cũng muốn biết,
muốn hỏi:
Nghe con bƣớc lòng vui phơi phới
Con bỗng lắc tay cha khẽ hỏi:
Cha ơi!
Sao xa kia chỉ thấy nƣớc, trời
Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy ngƣời ở đó?
Cha mỉm cƣời xoa đầu con nhỏ
Theo cánh buồm đi mãi đến nơi xa
Sẽ có cây, có cửa, có nhà
Vẫn là đất nƣớc của ta
Nhƣng nơi đó cha chƣa hề đi đến.
Song việc đối thoại không dừng ở đó, cuộc đời cũng không dừng ở đó.
Lớp trẻ đâu chỉ muốn biết mà còn muốn đến. Ngƣời cha đem đến cho con một
tầm nhìn cũng đã khơi dậy trong con một khao khát. khao khát ấy bừng lên và
vƣơn cánh:
Cha lại dắt con đi trên cát mịn
Ánh nắng chảy đầy vai,
42
Cha trầm ngâm nhìn mãi cuối chân trời
Con lại trỏ cánh buồm xa nói khẽ:
Cha mƣợn cho con cánh buồm trắng nhé,
Để con đi…
Bài thơ kết lại bằng những suy nghĩ độ lƣợng đầy ân tình của ngƣời cha.
Đứng ở ranh giới của bờ và biển, ngƣời cha ấy hiện ra một điều giản dị mà
linh thiêng của cha con và của sự sống:
Lời của con hay tiếng sóng thầm thì
Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm?
Lần đầu tiên trƣớc biển khơi vô tận
Cha gặp lại mình trong tiếng ƣớc mơ con.
Vậy là trên bờ biển kia đã diễn ra một cuộc chuyển giao đầy quan trọng.
Bờ biển - chân trời đã thành một mô hình khái quát của cuộc đời. Bờ là điểm
dừng của cha đã thành vạch xuất phát của con, cũng đang là điểm tựa cho
con. Chân trời là cái đỉnh chung, đã tắt lịm trong khao khát của cha, giờ lại
bừng lên trong khao khát của con, cứ thế mà cuộc đời đi lên phía trƣớc, cứ thế
mà sự sống bừng lên. Những cánh buồm sẽ cứ nối tiếp nhau, không ngừng
nghỉ, không nguội tắt.
Hoàng Trung Thông có một chùm thơ hết sức riêng tƣ đầy tình thƣơng
nhƣng cũng đầy trách nhiệm đó là các bài: Thơ cho con, Dặn con. Riêng trong
Dặn con gồm ba bài thơ nhỏ, mỗi bài là một lời khuyên cũng là mong muốn
của cha mẹ đối với con cái: Lời thơ giản dị mà ý thơ sâu xa:
Con ơi con, từng bữa lớn lên
43
Con hãy tập mắt quen nhìn ánh sáng.
(Nhìn đêm)
Cƣời lên nhé con ơi đừng khóc
Dù nỗi đau xé thịt da con
Ai chẳng có một lần răng mọc
Răng sữa rồi đến lƣợt răng khôn.
(Răng mọc)
Trên hai mảng thơ viết về nông thôn và miền núi, Hoàng Trung Thông
đã hòa nhập vào trong cuộc sống, từ cảnh sắc thiên nhiên đến tấm lòng con
ngƣời. Cũng vì thế, trong thơ ông ngoài chất liệu phong phú chân thực của
đời sống, ông đã nói đựoc tình đời, tình ngƣời qua một số nhân vật gần gũi,
quen thuộc của làng quê. Hoàng Trung Thông có những câu thơ hay về bà mẹ
Việt Nam, bà mẹ kháng chiến ân cần chào đón bộ đội về làng.
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về.
(Bao giờ trở lại)
Bà mẹ La Văn Cần với cảnh nhà một mẹ một con đơn chiếc: “Một mẹ
nhà sàn nƣơng bóng núi, con đi bộ đội mƣời ba năm”. Bà mẹ Bƣờng ở Vĩnh
Linh với mái tóc bạc phơ kiên trì bám trụ giữa một vùng đầy bom đạn, khiến
nhà thơ xúc động xót xa:
Mẹ ơi, mẹ làm sao đứng nổi
Giữa tháng ngày dài dằng dặc đạn bom?
….Trên chiếc nong, mẹ mời tôi chén nƣớc
44
Chén đau này tôi biết uống làm sao.
(Mẹ Bường)
Hình ảnh bà mẹ trong thơ Hoàng Trung Thông bình dị mà cao đẹp mang
rất rõ những phẩm chất truyền thống của ngƣời mẹ Việt Nam.
Càng về cuối đời thơ Hoàng Trung Thông càng nghiêng về cảm hứng
trữ tình. Thơ ông lúc này đậm đà tình yêu cuộc sống vất vả bộn bề đang
chuyển biến đi lên, tình yêu những cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng. Bên
cạnh đó cảm hứng về thế sự, tình ngƣời cũng thành một mạch thơ đáng chú ý.
Ở nhiều bài thuộc mảng thơ này của Hoàng Trung Thông thấy xuất hiện trạng
thái “bâng khuâng”, “trầm ngâm”, “ngẫm nghĩ”. Dƣờng nhƣ thơ ông lúc này
chứa chất nhiều tâm trạng hơn, thích im lặng chứ không ƣa đƣa đẩy lắm lời.
Trong tâm hồn nhà thơ giờ đây có cả nắng và mƣa, có cả mùa hạ nóng và mùa
đông lạnh. Đó cũng là qui luật tự nhiên của đời ngƣời. Càng sống nhiều càng
đến gần tuổi già, càng hay chiêm nghiệm, ngậm ngùi và thấm thía buồn đau:
Không thể hết đƣợc đâu
Có thể em lãng quên nhƣ chiếc lá kia thu đến bỗng ngả màu
Nhƣng đêm sâu nào ngăn đƣợc chùm hoa đỏ
Cứ cháy mãi khát khao ngày đó
Chẳng chịu khép cánh mềm trong tiếng ve ru…
(Không thể hết được đâu)
Quả là xã hội và lòng ngƣời trong những năm ấy có không ít cuộc đời
dù nghiệt ngã đến đâu cũng “không thể hết đƣợc đâu” những khát vọng sáng
tƣơi mà mình hằng ôm ấp.
45
Càng về cuối đời thơ Hoàng Trung Thông càng nhận ra và chấp nhận
“tình yêu và hy vọng. Dằn vặt và mơ ƣớc. Hò hẹn và đợi chờ. Cuộc đời là thế
đó” (Là thế). Thỉnh thoảng ngƣời đọc lại gặp ở ông trạng thái tỉnh tỉnh say
say, “nhìn mặt trời tƣởng là mặt trăng”, “sáng tối nào hay”. Những lúc ấy thơ
ông nhƣ “chếch choáng” mà biết bao tâm sự ruột gan (Ngày, Mắt tôi, Gió và
sương, Mặt trời ).
Có ngƣời nhìn giọt mƣa thành hạt ngọc nhƣng riêng Hoàng Trung
Thông lại thấy “từng giọt thánh thót, từng giọt lệ đời”. Và ông thốt lên:
Anh làm sao đếm xiết
Sự khổ đau, sung sƣớng của đời ngƣời.
(Mưa rơi)
Có lẽ, vì thấm hiểu cõi đời nên Hoàng TrungThông càng yêu thƣơng
con ngƣời. Vẫn là những con ngƣời nghèo túng, vất vả nhƣ ngƣời quét lá,
ngƣời bơm xe. Vẫn là ngƣời vợ tần tảo biết yêu thƣơng và chịu đựng. Những
bài thơ Tặng vợ, Dặn vợ trong những tập thơ sau cùng của ông thật sâu nặng
tình nghĩa và lắm lúc tự cảm, tự cƣời cợt đến xót xa. Cất chén rƣợu thƣởng
trăng, nhớ bạn mà thƣơng ngƣời và tự thƣơng mình. Có khi nhà thơ đã than
thở:
Tôi muốn uống rƣợu trong
Lại phải uống rƣợu đục
Chao! sông cũng nhƣ ngƣời
Có khúc và có lúc.
(Tứ tuyệt)
Lòng biết ơn cuộc đời, yêu thƣơng con ngƣời trong thơ Hoàng Trung
Thông vì thế càng về cuối đời càng sâu sắc, thắm thiết hơn:
Và ta yêu cuộc đời
46
Dẫu còn bao đớn đau, xót xa, vất vả
(Dưới bóng hòe)
“Trong đau thƣơng. Mắt vẫn sáng ngời” (Mắt tôi). Nhà thơ lòng vẫn
sáng, tâm vẫn trong:
Nếu tôi chết
Đắp điếm ngôi mồ tôi
Và anh hay chị sẽ viết
Giữ lòng trong suốt đời.
(Nếu tôi chết)
Có thể nói, nhiều bài thơ cuối đời của Hoàng Trung Thông mang một
mối sầu trong suốt, một niềm vui thanh thản và khát vọng “trăng thực trăng”.
Đóa trăng rằm viên mãn mà một nhà thơ chân chính luôn tin yêu theo đuổi.
Nhận xét về thơ Hoàng Trung Thông, nhà nghiên cứu phê bình văn học
Hà Minh Đức nhận xét: “Càng về cuối đời thơ anh càng có nhiều màu sắc,
trên cái nền khoẻ khoắn của cuộc sống, thơ Hoàng Trung Thông nhƣ thăng
hoa: Đọc thơ anh lúc này có những từ lạ, những liên tƣởng bất ngờ và phần
kết khó đoán định. Ngoài thơ về đời, thiên nhiên cảnh vật anh còn viết thơ
tình”.[39,tr.7] Có thể nói, thơ tình không là cảm hứng của riêng ai. Nhà thơ
nào cũng viết thơ tình, thậm chí là cảm hứng chủ đạo trong suốt cả cuộc đời
sáng tác của thi sĩ nhƣ Xuân Diệu. Tuy vậy, ở mảng thơ này cũng “mỗi ngƣời
mỗi vẻ” tạo nét dấu ấn bản sắc riêng.
Thơ tình là tiếng nói của tuổi trẻ, là những rung động đầu đời của
những trái tim yêu. Chẳng riêng gì các thi nhân, những con ngƣời bình
thƣờng khi yêu, trƣớc những rung cảm, tâm trạng lâng lâng bay bổng đầy lãng
mạn cũng có thể chắp bút thành thơ. Cũng chính vì lẽ đó nhiều nhà thơ
47
thƣờng viết thơ tình từ lúc còn trẻ, sắp bƣớc vào tuổi yêu đƣơng nhƣ Xuân
Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử… Những mối tình ở tuổi mƣời tám đôi
mƣơi, kỳ ảo đắm say. Khác với các nhà thơ nói trên, Hoàng Trung Thông đến
với thơ tình ở tuổi “ngũ thập” và cũng tạo đƣợc sự chú ý.
Thơ tình thƣờng có nguyên mẫu. Ngƣời đọc thấy thấp thoáng bóng
dáng của Hoàng Cúc trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, hay nguyên mẫu
trong Tình ca ban mai của Chế Lan Viên chính là ngƣời bạn đời của ông. Thơ
tình cũng thƣờng xác định thời gian và không gian cụ thể:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mồng tơi xanh dờn.
(Nguyễn Bính)
Nhƣng với Hoàng Trung Thông, thơ tình của ông không nhƣ vậy. Hãy
thử đọc một bài thơ của ông:
Không chỉ có tiếng chim
Không chỉ có bài ca em hát
Không chỉ có màu xanh bát ngát
Và dịu êm của mỗi buổi chiều
Em nói rằng: Tất cả… em yêu
Nhƣng trong anh làm sao em thấy
Tiếng sóng sục sôi cồn cào biết mấy
Hơn cả cái gay gắt của mùa hạ chói chang
Em có yêu thật không? Giữa một khoảng mênh mang
48
Cả mƣa nắng, hai mùa đi lại
Trong hồn anh, bỗng thấy buồn tê tái
Ngay niềm vui cũng lặng lẽ trầm sâu
Hãy yêu anh, nhƣ buổi ban đầu
Em vẫn thƣờng yêu tiếng chim và màu xanh bình dị
Để anh đƣợc là phần hồn em nghĩ
Và bài ca của em mãi mãi ngân vang…
(Hãy yêu anh)
Không có nguyên mẫu, mơ hồ về không gian và thời gian, ít tình huống
đắm say, không có bóng dáng cụ thể của lứa đôi, nhƣng thơ tình của Hoàng
Trung Thông có những nét lạ. Tứ thơ nhƣ bảng lảng, nhƣ chơi vơi, ý thơ
nghiêm chỉnh mà đong đƣa tình tứ.
Một nét riêng khác lạ nữa trong thơ tình của Hoàng Trung Thông là
ông đƣa thơ vào cõi say trong khi các nhà thơ khác thƣờng đƣa tình vào cõi
buồn, cõi mộng. Câu thơ tình của ông nhƣ ngấm men say và có dáng vẻ rất
riêng, rất lạ. Các nhà thơ thƣờng so sánh “em” với vầng trăng, ngôi sao, bông
hoa… Hoàng Trung Thông so sánh em với rƣợu (Em như rượu) và tâm sự
“Anh yêu em nhƣ rƣợu và thơ”. Phải chăng có lúc “thơ” và “rƣợu” đã góp
phần tạo nên “em”? Có thể nhà thơ đã viết nhiều câu thơ tình trong trạng thái
đặc biệt và ngƣời viết nhƣ đang hóa thân từ ta sang mình, từ “anh” trong cõi
thực và “em” trong cõi mộng:
Có biết không em nỗi buồn chiều
Trời mây u ám gió hiu hiu
Anh chờ em mãi em không đến
49
Chỉ mấy chim non cánh dập dìu
(Chiều nhớ)
Có thể nói thơ tình của Hoàng Trung Thông khác với thƣờng tình. Có
lẽ vì thế mà số ngƣời yêu thích thơ tình của ông không nhiều.
Bàn về thơ có ý kiến cho rằng: “nghĩ đến thơ và tác dụng của thơ ,tôi
thƣờng liên tƣởng đến màu xanh của cây lá Việt Nam,màu xanh bốn mùa
không tắt vì không có mƣa nắng nào ,bão sƣơng nào, gió rét nào có thể xoá đi
nổi; màu xanh làm cho tâm hồn con ngƣời Việt Nam luôn tƣơi mát và giàu có,
thƣơng mình và thủy chung… Mỗi nhà thơ mang đến cho cuộc sống một màu
xanh, màu vàng mơn mởn, màu kia đậm đà, màu này dịu dàng, màu kia sôi
nổi, màu này tƣơi cƣời, màu kia nghiêm trang… Và nhƣ trăm nghìn thứ cây
mỗi màu xanh của mỗi bản sắc đều có cái kiến trúc riêng về cành, về gốc của
nó”. Quả đúng nhƣ ý kiến trên của nhà thơ Phạm Hổ, đọc thơ Hoàng Trung
Thông, ngƣời đọc nhận thấy nổi bật trong thơ ông ba nguồn cảm hứng chính:
Đời sống nông nghiệp, đời sống chiến đấu và đời sống tình cảm. Những
nguồn cảm hứng này đã tạo ra một “màu xanh” riêng cho bản sắc thơ Hoàng
Trung Thông.
50
CHƢƠNG 2
NHỮNG XU HƢỚNG CHÍNH TRONG THƠ HOÀNG TRUNG
THÔNG
2.1. XU HƢỚNG KHÁI QUÁT:
Trong cuốn phê bình tiểu luận Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống (NXB
văn học 1979) Hoàng Trung Thông đã bộc lộ một tâm niệm: “Cái gốc của thơ
là sự sống, cái hồn của thơ là sự xúc cảm”. Thơ Hoàng Trung Thông ngay từ
ban đầu, giàu chất hiện thực, đậm đặc bùn đất hơi nóng của cuộc đời. Cái hiện
thực ấy chính là những cảnh tƣợng những con ngƣời xung quanh ông thƣờng
ngày. Thơ Hoàng Trung Thông sâu rễ bền gốc trên mảnh đất màu mỡ chất
hiện thực nhƣ thế nhƣng thơ ông cũng có lúc say lúc mơ. Say, mơ mà không
ảo tƣởng siêu thoát.
Tôi đã hiểu vì đâu?
Những vần thơ không chắp nổi thành câu
Vì thơ
Thiếu mỡ dầu
Cuộc sống
(Tâm sự)
Nhận thức này của Hoàng Trung Thông - nhƣ trƣớc đã nói - nằm trong
một bối cảnh chung của thời đại thơ ca dân tộc gắn bó trực tiếp cùng những
vấn đề lịch sử, nhiệm vụ chính trị lớn lao. Song điều đáng nói là nó trở thành
một ý thức có tính thƣờng trực, rõ ràng và tự nhiên tạo thành một nét phong
cách của thơ ông. Ông vốn quan niệm sức gió cho thơ phải là “Gió của tâm
51
hồn bốc lên từ cuộc sống”.
Chính vì quan niệm trên mà thơ Hoàng Trung Thông kết hợp khá tự
nhiên giữa sự và tình, giữa kể và tả. Ông là ngƣời khéo đƣa phƣơng thức tự
sự vào thơ. Nhiều bài thơ hay của Hoàng Trung Thông giàu chất tự sự, phong
phú những chi tiết thực sự của cuộc sống. Nhƣng khi kết hợp đƣợc tự sự và
trữ tình, thơ Hoàng Trung Thông có những đoạn, những bài vừa nặng chất
sống, vừa thắm thiết lung linh.
Vẫn bám chắc vào hiện thực đời sống đang vận động trên đất nƣớc
nhƣng càng về sau thơ Hoàng Trung Thông càng có ý thức suy ngẫm để gia
tăng tính khái quát cho thơ. Đó cũng là hƣớng phát triển chung của thơ thế hệ
ông và rộng ra là cả nền thơ ca cách mạng qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại
của dân tộc.
Xuất phát từ nhu cầu nhận thức cuộc sống ngày một sâu hơn, cao hơn,
một cuộc sống phát triển biến đổi đầy ắp sự kiện, đòi hỏi nhà thơ phải suy
ngẫm, bình giá, kết luận đề xuất…. và vì vậy thơ ông có khi thâm trầm suy
tƣởng, có lúc dõng dạc thuyết phục ngƣời nghe,ngƣời đọc. Xã hội phát triển
trong sự đan xen tổng hoà của quá khứ, hiện tại và tƣơng lai, của tri thức
truyền thống và hiện đại đòi hỏi ngƣời sáng tác phải có một tầm nhìn mới, có
một trình độ văn hoá cao và một khả năng tổng hợp.
Thế nhƣng tính khái quát tổng hợp trong thơ không thể chỉ là những khái
niệm mà phải đƣợc thể hiện qua những hình ảnh, những chi tiết cụ thể sinh
động trong những hình tƣợng thơ đầy xúc cảm và suy nghĩ. Khái quát đƣợc
hình thành qua nhiều cái cụ thể và cái cụ thể phải đƣợc nâng lên thành khái
quát làm màu mỡ cho khái quát. Trong thơ Hoàng Trung Thông, tình trạng
mô tả, trần thuật một cách chân tình mộc mạc dần dần đã vƣơn lên, nêu đƣợc
52
những vấn đề sâu sắc về đất nƣớc, con ngƣời, về dân tộc và thời đại, về hiện
tại và tƣơng lai….nhất là trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ.
2.1.1. Xu hƣớng khái quát trong thơ Hoàng Trung Thông trƣớc hết
đƣợc thể hiện ở ngay trong một đề tài ở mỗi giai đoạn phát triển của cách
mạng đều đƣợc nhận thức lại và nâng cao hơn.
Cùng một đề tài lao động sản xuất nông nghiệp trong Quê hƣơng
chiến đấu” (1955) Hoàng Trung Thông viết:
Hát lên! ta cuốc cho mau
Nhanh tay ta cuốc ta đào đất lên
Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức ngƣời sỏi đá cũng thành cơm.
(Bài ca vỡ đất)
Bài thơ có những câu thơ ấp ủ một triết lý sâu sắc nhƣng sự biểu hiện
còn nghèo nàn và hơi dễ dãi đã làm cho ý thơ hơi dàn trải. Nhƣng mƣời năm
sau, đọc Đường chúng ta đi (1960) ngƣời đọc đã gặp những dòng thơ phóng
khoáng, một sự biểu hiện khá hàm xúc:
Nƣớc sông Hồng ngang trời sóng vỗ
Ta làm ra sông lúa hai bờ
Lúa ta thi với sóng Hồng Hà
Ta đổi nắng thay mƣa
Cho lúa tới ngang trời đỏ rực.
(Cho lúa ta lên tới ngang trời)
Cũng nhƣ vậy, khi ta xem lại ý thơ bài Nhìn ra biển rộng ở tập Quê
hương chiến đấu có đôi phần phảng phất bài Đường chúng ta đi viết sau đó
53
mƣời năm. Phảng phất đó chính là một bƣớc tổng hợp mới trong nghệ thuật
sáng tạo giữa cụ thể và khái quát, giữa hiện thực và lãng mạn. Những câu thơ
ngày trƣớc:
Qua Diên Điền một chiều giải phóng
Nhìn trời cao biển rộng xanh trong
Thuyền ta nhẹ lƣớt trên sông
Buồm căng gió lộng xuôi dòng ra khơi.
(Nhìn ra biển rộng)
Mới chỉ nhƣ những ngọn tầm xuân hoang dại vừa leo lên trƣớc dậu thì
giờ đây trƣớc mắt ngƣời đọc đã là cả một giàn hoa hồng rực rỡ sắc màu:
Tôi đi trong muôn dặm trời xuân
Nghe quê xa hoà điệu với quê gần;
Nghe lúa thở rì rào trên đất rộng
Nghe gió chạy bao la, nghe biển gào tiếng sóng
Ôi trong sao màu nƣớc biếc sông Lam
Nhƣ màu mƣa trên đỉnh sóng Trƣờng Giang.
(Đường chúng tađi)
Ở đề tài kháng chiến và đấu tranh thống nhất, thơ Hoàng Trung
Thông cũng có sự nhận thức lại và nâng cao hơn. Viết về cuộc sống chiến
đấu của dân tộc là một cảm hứng lớn trong thơ ông. Trong Những cánh buồm
thơ thuộc đề tài này không nhiều nhƣng lại có sức khái quát tổng hợp mới.
Chẳng hạn nhƣ bài Mảnh đất này, một bài thơ đƣợc đánh giá là hay trong các
tập thơ. Đó là bài cùng loại với bài Đồng bằng quê hương chiến đấu nhƣng lại
vƣợt xa bài này về nội dung tình cảm và chất lƣợng nghệ thuật. Đồng bằng
54
quê hương chiến đấu tuy có thấm nhiều một tình cảm thiết tha, một ý chí
chiến thắng nhƣng còn sa vào kể lể có đoạn rời rạc làm loãng tình cảm, chủ
đề. Bài Mảnh đất này ngắn hơn bài trên rất nhiều nhƣng nội dung lại sâu hơn
một bậc. Cả bài thơ nhƣ dựng lại trƣớc mắt ta một cách khái quát hình ảnh và
tâm hồn của Tiên Lãng dũng cảm. Chúng ta bắt gặp những câu thơ sắc gọn
nhƣ Dao chém đá, rạ chém đất. Đó là những lời thề quyết chiến và quyết
thắng của những con ngƣời quyết bảo vệ mảnh đất thiêng liêng của mình:
Mảnh đất này tên là Tiên - lãng
Mảnh đất này tên là dũng cảm
Mảnh đất này trải mấy nắng mƣa
Lƣng vẫn hằn sâu từng vết đạn
(…)
Mảnh đất này tên là Tiên - lãng
Mảnh đất này tên là dũng cảm
Mảnh đất này không sợ hy sinh
Mảnh đất này mang dòng máu Đảng.
(Mảnh đất này)
Càng đọc chúng ta càng cảm thấy khí thế chiến đấu kiên cƣờng của con
ngƣời nhƣ bốc lên trên từng câu, từng chữ. Những bài thơ nhƣ vậy sẽ góp
phần nâng cao thêm tinh thần tự hào với quá khứ anh hùng về cuộc đấu tranh
yêu nƣớc của đồng bào ta vào thời điểm đó.
Đầu sóng là tập thơ đáng chú ý của Hoàng Trung Thông viết trong
những năm tháng cả dân tộc tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ bảo vệ Tổ
quốc. Tập thơ Đầu sóng vẫn bám chắc vào hiện thực đời sống và cũng thể
55
hiện hiện thực đời sống kháng chiến ngồn ngộn chất sống ấy đầy tính cụ thể
ấy.
Quả là xã hội và lòng ngƣời trong những năm ấy có không ít cuộc đời dù
nghiệt ngã đến đâu cũng không thể hết đƣợc những khát vọng sáng tƣơi mà
mình hằng ôm ấp.
Càng ngày Hoàng Trung Thông càng có nhiều bài, nhiều câu thơ chứa
chất suy nghĩ. Ông nghĩ suy về tình đời, tình ngƣời, những níu kéo hệ lụy
trong cõi nhân gian.
Mây kéo trăng đi
Trăng níu mây lại
Thuyền nằm trên bãi
Sóng xô đẩy thuyền
Hàng cây ngả nghiêng
Cây say rƣợu gió
Chim tìm về tổ
Tổ chờ đợi chim
Ngƣời chẳng nằm im
Ngƣời lo cuộc sống
Tin yêu và hy vọng
Dằn vặt và ƣớc mơ
Hò hẹn và đợi chờ
Cuộc đời là thế đó.
(Là thế)
56
Hoàng Trung Thông còn khái quát tổng hợp về phẩm chấtngƣời Việt
Nam trong thời đại mới. Đi nhiều nơi gặp nhiều ngƣời, nhiều cảnh nơi đất
lửa, ở Đêm trăng Đồng Hới tác giả đã rút ra đƣợc nhiều điều đáng suy ngẫm.
Ôi đất này đất lửa sục sôi
Đất căng thẳng từng giờ chết sống
Mà đêm nay nhìn ánh trăng trôi
Tôi bỗng hoá ra ngƣời thơ mộng.
(Đêm trăng Đồng Hới)
Chính nhà thơ đã lấy cái vẻ mơ mộng của những con ngƣời cầm súng
nơi giáp mặt với kẻ thù với cái chết. Cho nên điều mà nhà thơ rút ra và gửi
gắm đến bạn đọc là con ngƣời Việt Nam, phẩm chất Việt Nam cao đẹp hơn,
mạnh mẽ hơn. Đã có sự suy nghĩ tổng hợp và biểu hiện mang tầm khái quát.
Nhà thơ không chỉ ghi lại hình ảnh những con ngƣời anh hùng đang nở rộ nhƣ
hoa xuân trên trận địa phòng không, qua những bến phà, giữa đoạn đƣờng hay
trên những cánh đồng năm tấn mà tác giả đã gợi lên. Khái quát rằng: thực tại
anh hùng ngày nay vốn bắt rễ trong truyền thống chống ngoại xâm oanh liệt.
Hoàng Trung Thông đã từng viết về Bạch Đằng: Mưa trên sông Bạch Đằng
nhƣng phải đến những tháng năm chống Mỹ, đứng giữa trận địa phòng không
đậu bên bờ sông Bạch Đằng, ông mới nâng cao sự suy cảm của một khúc hát
hào hùng lên một tầm cao mới:
Tiếng hát Bạch Đằng
Tiếng hát quân reo trên đỉnh sóng
Tiếng hát trên gƣơm trần giáo dựng
Tiếng hát hôm nay đầu sóng vọng về….
(Bên bờ sông Bạch Đằng)
57
Bên cạnh đề tài kháng chiến và đấu tranh thống nhất thì đời sống tình
cảm là một đề tài đƣợc Hoàng Trung Thông quan tâm chú ý tới và trở thành
một trong những nguồn cảm hứng lớn trong thơ ông. Vốn là ngƣời có đời
sống tình cảm thiết tha, đằm thắm, lại đi nhiều, tiếp xúc nhiều nên trong thơ
ông, mảng thơ này gặt hái đƣợc nhiều thành công. Trong thơ của mình Hoàng
Trung Thông cũng đề cập tới đủ các cung bậc của tình cảm. Càng về cuối đời
thơ ông càng nghiêng về cảm hứng trữ tình. Thơ ông lúc này đậm đà tình yêu
cuộc sống vất vả bộn bề đang chuyển biến đi lên, tình yêu những cảnh thiên
nhiên hùng vĩ, thơ mộng. Bên cạnh đó, cảm hứng về thế sự, tình ngƣời cũng
thành một mạch thật đáng chú ý. Ở nhiều bài thuộc mảng thơ này của Hoàng
Trung Thông thấy xuất hiện trạng thái Bâng khuâng; Trầm ngâm ; Ngẫm
nghĩ. Dƣờng nhƣ thơ ông lúc này chứa chất nhiều tâm trạng hơn, thích im
lặng, chứ không ƣa đƣa đẩy lắm lời. Trong tâm hồn nhà thơ bây giờ còn hơn
cả nắng và mƣa, có cả mùa hạ nóng và mùa đông lạnh. Đó cũng là quy luật tự
nhiên của đời ngƣời. Càng sống nhiều càng gần đến tuổi già, càng hay chiêm
nghiệm, ngậm ngùi và thấm thía buồn đau:
Không thể hết đƣợc đâu
Có thể em lãng quên nhƣ chiếc lá kia thu đến bỗng ngả màu
Nhƣng đêm sâu nào ngăn đƣợc chùm hoa đỏ
Cứ chảy mãi khát khao ngày đó
Chẳng chịu khép cánh mềm trong tiếng ve ru…
(Không thể hết được đâu)
Hơn nghìn lần bom đạn và kẻ thù. Vì thế chúng ta chiến thắng là điều tất
yếu. Mời trăng là một tập thơ thiên về độc thoại nội tâm,vẫn là Hoàng Trung
Thông, rất Hoàng Trung Thông nhƣng lại khác tất cả những tập thơ trƣớc đây
58
của ông ở cái tâm thế của thi nhân. Nó sâu và lắng. Nó rất đời mà cũng rất
thơ. Tập thơ cho ta thấy rõ khuôn hình và kích cỡ của nhà thơ, một thi sĩ đích
thực. Thơ ông lúc này chứa chất những suy ngẫm, chiêm nghiệm. Nhà thơ
tổng hợp, khái quát bình luận về nhiều vấn đề trong đó có sự khái quát về sứ
mệnh thiêng liêng của ngƣời nghệ sĩ. Ngƣời sáng tác phải sáng tác đƣợc
những tác phẩm hay, có giá trị, đó vừa là đòi hỏi của quần chúng yêu văn
nghệ vừa là trách nhiệm của ngƣời nghệ sĩ. Chính vì thế mà Hoàng Trung
Thông không ít trăn trở về vấn đề này:
Không gì khổ bằng ngƣời làm thơ
Viết ra những bài thơ
Nhƣ những bông hoa
Không hƣơng không sắc
Ngƣời thiếu những thơ hay
Nhƣ quả tim thiếu nhiều máu đỏ
Cuộc đời thiếu những bài thơ hay
Nhƣ biển rộng cánh buồm thiếu gió.
(Khó)
Bao giờ cũng thế, một lý tƣởng cũng nhƣ một tình yêu lớn thƣờng đi
kèm theo nó là những bầu tâm sự lớn, những khổ đau lớn khi mà lý tƣởng và
tình yêu đó cơ hồ rạn nứt hoặc đổ vỡ. Nhƣng Hoàng Trung Thông vốn là
ngƣời biết rộng, hiểu sâu, lại là một nhân cách có trƣớc, có sau với một bản
lĩnh trầm tƣ và chắc chắn, do vậy dù buồn rầu, dù đau khổ nhƣng ông không u
ám bi quan bao giờ. Cho nên trong những ngày tháng cuối cùng của đời mình,
ông đã trối trăng lại với những ngƣời cầm bút tiếp tục sau ông:
59
Nếu tôi chết
Đắp điếm ngôi mồ tôi
Và anh hay chị sẽ viết
Giữ lòng trong suốt đời.
(Nếu tôi chết)
Nhận thức lại và nâng cao hơn ở ngay trong một đề tài thơ là một kiểu
khái quát thƣờng thấy trong thơ ca. Từ hình ảnh ngƣời chiến sĩ hiền lành Tỳ
tay trên mũ súng đến hình tƣợng ngƣời giải phóng quân trong Dáng đứng Việt
Nam là một bƣớc tổng hợp, khái quát. Từ buổi tiễn đƣa trên cánh đồng (thăm
lúa - Trần Hữu Thung) đến Những cuộc chia tay trong đêm Hà Nội (Nguyễn
Đình Thi) Cuộc chia ly màu đỏ (Nguyễn Mỹ) đã khái quát đƣợc nét điển hình
của tâm hồn và tính cách Việt Nam trong chiến tranh, nét riêng nhƣng có cái
chung tiêu biểu cho cả thế hệ.
2.1.2. Tuỳ theo đối tƣợng thẩm mỹ, khả năng khám phá mức độ suy
nghĩ, tính khái quát đƣợc thể hiện ở nhiều khía cạnh: ở câu chữ, ở đoạn
thơ, ở hình ảnh hoặc hình tƣợng thơ, ở kết cấu chủ đề toàn bài.
Hoàng Trung Thông có những câu thơ hay khái quát về phẩm chất, ý chí,
sức mạnh của con ngƣời Việt Nam. Những ngƣời con anh hùng của dân tộc
ngày nay không những không sợ hy sinh gian khổ mà khi cần thiết có thể biến
cái chết thành chiến công. Ở họ ý chí quyết thắng đã mạnh hơn cái chết:
Sống quân thù khủng khiếp
Chết quân thù đảo điên
(Nguyễn Văn Trỗi)
60
Nhƣng câu thơ hay mang tầm khái quát nhƣ thế phải đến những năm
kháng chiến chống Mỹ tác giả mới viết đƣợc. Và nếu không có thực tế lớn lao
trƣớc mắt thì nhà thơ cũng không thể có đƣợc các suy ngẫm đầy tự hào nhƣ:
Thế bốn nghìn năm dồn lại hôm nay
Thế mùa xuân xã hội chủ nghĩa nở hoa đầy
Thế cách mạng sục sôi trên bốn biển.
(Ta đi)
Bởi vì sự nghiệp chống Mỹ cứu nƣớc của chúng ta ngày nay không
những là một cuộc tổng động viên toàn dân mà còn là sự kế thừa tất cả những
truyền thống tốt đẹp của toàn bộ lịch sử một dân tộc anh dũng chống ngoại
xâm, không những là sự nghiệp của riêng dân tộc ta mà còn là của cả phe xã
hội chủ nghĩa và loài ngƣời tiến bộ.
Nhà thơ Tố Hữu cũng có những câu thơ hay khái quát về dân tộc, về tổ
quốc, về lẽ sống chết, về nhân tình, về thời đại. Đó là ý thức truyền thống lịch
sử, truyền thống dựng nƣớc và giữ nƣớc:
Bốn mƣơi thế kỷ cùng ra trận.
Trong thơ Hoàng Trung Thông còn có những suy nghĩ về truyền thống
dân tộc, về lịch sử bất khuất kiên cƣờng của cha ông, về phẩm chất và nét đặc
thù của Việt Nam. Những suy nghĩ này hoà vào hình ảnh:
Trên đất nƣớc nghìn năm chảy máu
Nghìn năm ngƣời con gái vẫn cầm gƣơm
Nghìn năm trai trẻ vẫn lên đƣờng
Nghìn năm vang những lời ca rung cảm.
61
Đây là một trong nhiều câu thơ của Hoàng Trung Thông đầy chất trí tuệ
mà vẫn tình cảm, giản dị mà vẫn mới mẻ, sâu đắm mà vẫn lan xa. Đọc những
câu thơ trên ngƣời đọc dễ có sự liên tƣởng, nhớ tới những câu thơ của Huy
Cận viết về truyền thống dân tộc:
Dân tộc ta bốn nghìn năm văn hiến
Lƣng đeo gƣơm tay mềm mại bút hoa
Trong và thật sáng hai bờ suy tƣởng
Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà.
Hai đoạn thơ của hai tác giả rất gần nhau song vẫn rất riêng.
Trong thơ Hoàng Trung Thông, tính khái quát bộc lộ rõ ở hình tƣợng
trung tâm, ở kết cấu xây dựng tứ thơ. Là ngƣời tiếp thu đƣợc khá nhiều tinh
hoa của thơ ca phƣơng Đông và phƣơng Tây, lại dày công nghiên cứu lý luận
văn học, từ rất sớm Hoàng Trung Thông đã tâm niệm “Cái gốc của thơ là sự
sống, cái hồn của thơ là sự xúc cảm” (Cuộc sống của thơ và thơ cuộc sống)
tuy nhiên đến tập thơ Mời trăng hình nhƣ tất cả rung động của nhà thơ mới
tập trung vào sâu kín và riêng tƣ, vào những gì là cốt lõi của đời ngƣời, những
gì rộng hơn một đời ngƣời và trƣờng cửu nhƣ thiên nhiên, nhƣ hai hình tƣợng
trăng và biển cứ lung linh và dào dạt không cùng.
Nƣớc triều dâng lên cùng sóng
Sóng dữ sóng cũng hiền từ
Biển nhƣ thực trăng nhƣ hƣ
Trăng biển biển trăng tĩnh động
Ta vốn là ngƣời thơ
62
Thấy nƣớc triều dâng ta dẫm chân xuống nƣớc.
(Bài thơ về biển)
Phải chăng khi đã đi gần hết đƣờng đời, Hoàng Trung Thông muốn lắng
đọng, gạn lọc lại những gì đã trải, đã chiêm nghiệm, muốn nhận ra cốt lõi của
nhân thế, của thiên nhiên, muốn hoà nhập cái hữu hạn vào vô hạn, muốn tìm
vẻ đẹp vĩnh hằng mà cuộc đời gắm gửi chỉ đƣợc phép tiếp cận từng gang tấc
và bao giờ vẻ đẹp ấy cũng huyền ảo ở phía trƣớc nhƣng vẫn đầy sức quyến rũ,
khêu gợi. Đó chính là nét đẹp của hai hình tƣợng trăng và biển đã đƣợc nhà
thơ Hoàng Trung Thông xây dựng mang tầm khái quát cao.
Bên cạnh việc xây dựng hình tƣợng mang tầm khái quát, Hoàng Trung
Thông còn thể hiện tính khái quát trong kết cấu, xây dựng tứ thơ. Nhà thơ có
một tứ thơ loé sáng, mang dấu ấn sáng tạo của riêng ông khi viết về tên phi
công Mỹ bị bắt Su - ma - kơ. Tên phi công này vốn là nhà du hành vũ trụ
tƣơng lai. Những tên giặc lái sẽ bay vào không gian, khám phá ra nhiều bí mật
nhƣng không, hắn đang ở trong phòng giam nhỏ hẹp và có thể sẽ tìm ra đƣợc
những sự thật
Su - ma - kơ thèm khát những không gian
Nhƣng giữa bốn bức tƣờng giam
Có lẽ hắn sẽ tìm ra một trời sự thật
Các nhà thơ khác cũng đều có cách khái quát bằng hình tƣợng, bằng câu
tứ nhƣ vậy. Có thể thấy điều đó qua Các vị la hán chùa Tây Phương của Huy
Cận. Khái quát cuộc sống xƣa kia xót xa ngậm ngùi, bế tắc. Nguyễn Đình Thi
khái quát về Tổ quốc. Hình tƣợng thơ đƣợc liên kết bằng những hình ảnh cụ
thể và rung động tinh tế. Bằng những chất liệu thực tế phong phú bề bộn hoà
nhập với đời, Xuân Diệu đã khái quát và nêu lên những suy nghĩ tích cực về
63
cuộc sống. Cuộc sống thuộc về chúng ta, cái chết là ở phía quân thù (sự sống
chẳng bao giờ chán nản)…
Gia tăng sự khái quát trong thơ là một xu hƣớng chính tạo nên đặc điểm,
phong cách riêng cho thơ Hoàng Trung Thông. Song xu hƣớng này còn
những tồn tại, lúng túng mà ngƣời đọc có thể dễ dàng nhận ra. Khi viết về
những vấn đề có tầm khái quát nhƣ về lãnh tụ, về sứ mệnh thiêng liêng của
ngƣời nghệ sĩ, Hoàng Trung Thông hay lấy tƣ duy lô gíc để bù đắp cho tƣ duy
hình tƣợng vốn là đặc trƣng của văn học nói chung và thơ ca nói riêng. Những
khi ấy ông thƣờng diễn giải hơn là biểu hiện, làm cho bài thơ thành khô khan
trừu tƣợng. Khi viết về những chuyện có tầm khái quát nhƣ sứ mệnh thiêng
liêng của Tổ quốc, cuộc chiến đấu của dân tộc, thơ ông có nhiều suy nghĩ.
Chất suy nghĩ dựa trên ảnh hƣởng chung của thực tế khách quan và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng đang toả sáng. Nhƣng nhiều khi chƣa làm chủ đƣợc
mình nên thơ ông đã dài dòng lại kém phần chân thật. Ở “Hà Nội đứng cao
muôn trượng chiến công, Hà Nội nói cùng tôi, Như đi trong mơ…. suy nghĩ
chƣa tập trung, chƣa bám chắc vào con ngƣời, tâm trạng ý nghĩ cụ thể, còn
lƣớt qua và hƣớng nhiều về bầu trời để bình luận”. [61,tr.299]
2.2 XU HƢỚNG CHÍNH LUẬN
Truyền thống thơ nƣớc ta nói chung mang tinh thần duy cảm. Thơ nhằm
trƣớc hết tác động vào trái tim ngƣời. Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tiếng hát
của con tim, thơ Hoàng Trung Thông cũng vậy. Nhƣng thơ cũng là một hoạt
động nhận thức, nó không chỉ phản ánh hay biểu hiện đời sống. Tuy không
phải là lá cờ đầu, là ngƣời đi tiên phong nhƣng Hoàng Trung Thông cũng có
xu hƣớng tăng cƣờng sức mạnh nhận thức, khám phá cho thơ. Thơ Hoàng
Trung Thông ban đầu chủ yếu là thơ phản ánh biểu hiện về đời sống lao động
nông nghiệp, đời sống chiến đấu. Càng về sau thơ ông càng gia tăng sự khái
64
quát về các phƣơng diện, các nội dung khác nhau nhƣ đã đề cập ở phần trƣớc.
Có thể nói chính sức khái quát sự tổng hợp trong thơ ông là tiền đề, là bệ
phóng để nâng cánh cất cao lên tầm chính luận. Độ sâu của suy nghĩ và tầm
cao của khái quát sẽ dẫn tới chính luận là tất yếu.
Đọc thơ Hoàng Trung Thông, ngƣời đọc nhận thấy xu hƣớng chính luận
thể hiện ở hai cấp độ. Thứ nhất là cảm hứng lấy tƣ duy làm điểm tựa, thứ hai
là triết luận nhƣmột mạnh chính trong thơ Hoàng Trung Thông.
2.2.1. Cảm hứng lấy tƣ duy làm điểm tựa
Cũng nhƣ Chế Lan Viên và một số nhà thơ khác, Hoàng Trung Thông
hƣớng thơ đến “Phát giác sự vật ở bề chƣa thấy, ở cái bề sâu ở cái bề xa”.
Hoàng Trung Thông có những bài thơ trƣớc hết tác động vào tƣ duy của
ngƣời đọc, ông đòi độc giả phải hiểu rồi mới cảm. Ông dùng thơ để nghiên
cứu đời sống nên yêu cầu phân tích tổng hợp là không thể thiếu đƣợc. Ở
những bài thơ, câu thơ nhƣ thế có sự lật xới vấn đề, dùng phân tích để suy
luận để phát hiện ra những nội dung chìm sâu sau bề mặt sự vật hiện tƣợng.
Cháu ơi đừng tƣởng
Mặt trời, mặt trăng sáng hơn mặt ngƣời
Buổi chiều mặt trời tà, mặt trăng xuất hiện
Còn mặt ngƣời cứ sáng thế mà thôi.
Quả là ý tứ của đoạn thơ nằm ẩn sâu sau các dòng chữ, đòi hỏi ngƣời đọc
phải suy ngẫm, lật xới vấn đề mới hiểu đƣợc các ý nghĩ chìm sâu.
Niềm tin yêu của ông vào con ngƣời, vào những điều tốt đẹp của cuộc
đời này chẳng bao giờ tắt. Cảm hứng lấy tƣ duy làm điẻm tựa mở rộng khả
năng chiếm lĩnh đời sống cho thơ. Nhà thơ biết nhìn sâu vào bản chất đời
sống để thấy đƣợc vô vàn các mối tƣơng quan, các quá trình, các hƣớng vận
65
động. Hình ảnh thơ đƣợc gọi về từ một cái nhìn nhƣ thế thƣờng đa nghĩa và
đầy sức gợi.
Ngọn mƣớp luồn qua cửa sổ
Vầng trăng toả ánh vào nhà
Ngƣời không thong thả trăng thong thả
Trăng có vầng mƣớp có hoa.
(Tứ tuyệt)
Thế rồi ta cất chén cùng tri âm
Không phải chén quỳnh đâu đừng trầm ngâm
Một mình ta mời trăng mời bạn
Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm.
(Mời trăng)
Hoàng Trung Thông có những bài thơ lấy suy nghĩ lấy ý làm điểm tựa.
Mạch liên kết các đoạn thơ là ý. Mỗi ý làm một tâm điểm để quy tụ các liên
tƣởng, suy tƣởng, các giả thiết và phán đoán. Kết cấu những bài thơ đó
thƣờng chặt chẽ khúc chiết, ít khi dựa trên mạch cảm xúc miên man, dàn trải
nhƣ ở nhiều bài thơ của ông giai đoạn trƣớc. (Sương mù bên kia sông Bến
Hải, Hà Nội đứng cao muôn trượng chiến công, Như đi trong mơ, Hà Nội lớn
cùng tôi…) kiểu câu trƣớc gọi câu sau nhƣ thơ Tố Hữu. Mỗi bài thơ nhƣ thế
đƣợc tổ chức nhƣ một trận đánh, mục đích rõ ràng, các bƣớc triển khai tuần
tự, lớp lớp đƣợc dự liệu trƣớc. Bài thơ là một công trình lắp ghép các mạch ý.
Nhƣng cũng chính vì vậy mà thơ có nguy cơ mất hết cái say mê hồn nhiên, sự
rành mạch sẽ trói buộc khả năng thăng hoa của cảm xúc, có phải vì thế mà có
ý kiến cho rằng tập thơ Mời trăng là khô? Chính khả năng suy ngẫm và sự
66
thông minh tài hoa trong cách diễn đạt đã đảm bảo cho thơ có tính bất ngờ,
hấp dẫn và vẻ đẹp của trí tuệ là một giá trị quan trọng đối với nghệ thuật thơ
hiện đại. Tuy nhiên phải nói ngay rằng số bài thơ nhƣ thế ở Hoàng Trung
Thông không nhiều, có thể đếm trên đầu ngón tay.
Một lá vàng rơi
Lá non đâm chồi
Một quả chín rụng
Cây non ra đời
Có cây có lá
Có hoa có quả
Quả từ hoa từ lá từ cây
Quả ngọt, bùi, chua, chát, đắng, cay
Nhƣ không lạ mà nhƣ rất lạ
(Lá vàng, quả chín)
Nét đặc trƣng này có thể thấy rất rõ và là phổ biến trong thơ của nhà thơ
trí tuệ Chế Lan Viên:
Đêm xa nƣớc đầu tiên ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dƣới thân tàu đâu phải sóng quê hƣơng.
( Người đi tìm hình của nước)
Ta là ai? Nhƣ ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hƣ vô thôỉ nghìn nến tắt
Ta vì ai? Khẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay ngƣời thắp lại triệu chồi xanh.
67
(Hai câu hỏi)
Nhân vật trữ tình trong nhiều bài thơ của Hoàng Trung Thông là con
ngƣời đang suy nghĩ. Suy nghĩ từ chuyện riêng đến chuyện chung, từ cái thực
đến cái mộng, từ nỗi buồn đến niềm vui, từ quá khứ đến hiện tại tƣơng
lai…Nhờ suy nghĩ, Hoàng Trung Thông tránh đƣợc sự hời hợt dễ dãi. Có
đoạn thơ kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ với cảm xúc.
Trên đất nƣớc nghìn năm chảy máu
Nghìn năm ngƣời con gái vẫn cầm gƣơm
Nghìn năm trai trẻ vẫn lên đƣờng
Nghìn năm vang những bài ca rung cảm.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng xu hƣớng chính luận trong thơ Hoàng
Trung Thông mới thực sự chỉ là sự gia tăng so với giai đoạn trƣớc. Nếu đem
so sánh với một số nhà thơ khác nhƣ: Chế Lan Viên, Chính Hữu, Huy Cận,
Nguyễn Đình Thi thì chất chính luận của Hoàng Trung Thông còn ở mức
kiêm tốn. Chất suy nghĩ, liên tƣởng, lật sới vấn đề trong thơ ông còn khiêm
nhƣờng.
2.2.2 Triết luận trong thơ Hoàng Trung Thông
Tƣ duy nghiên cứu trong thơ tất yếu sẽ dẫn đến nhu cầu triết luận. Ngƣời
đọc có thể thấy rõ hai mạch triết luận chính trong thơ Hoàng Trung Thông:
triết luận về các vấn đề chính trị xã hội và triết luận tâm tình.
2.2.2.1. Triết luận về các vấn đề chính trị xã hội :
Từ giai đoạn chống Mỹ đến giai đoạn từ sau 1980 trở đi, ngòi bút Hoàng
Trung Thông có xu hƣớng chuyển dần từ khái quát sang chính luận, triết luận
và ngày càng mở rộng đối thoại, đem lại cho sự vật, hiện tƣợng, hành động cụ
thể ý nghĩa phổ quát nâng nhận thức ngƣời đọc lên một tầm cao mới. Đó là
68
một xu hƣớng đáng chú ý trong thơ Hoàng Trung Thông. Nhƣng trƣớc hết ở
mạch triết luận về các vấn đề chính trị xã hội có thể nói rằng đây không phải
là điểm mạnh của Hoàng Trung Thông. Ngƣời đọc nhận thấy nổi bật ở vấn đề
này trong thơ ông là mạch thơ chắc khoẻ, bám sát hiện thực đời sống. Tuy
vậy Hoàng Trung Thông cũng vẫn có những câu thơ, bài thơ sáng tác theo xu
hƣớng triết luận ở mạch này. Thơ Hoàng Trung Thông là lời tuyên ngôn về
thành quả lao động, về sức mạnh ý trí chiến đấu của dân tộc ta.
Ngay từ những bài thơ đầu tay, Hoàng Trung Thông đã có những câu thơ
ấp ủ một triết lý sâu sắc:
Bàn tay ta làm lên tất cả
Có sức ngƣời sỏi đá cũng thành cơm.
(Bài ca vỡ đất)
Mặc dù cách biểu hiện còn nghèo nàn nhƣng nhờ triết luận mang tính
chân lý này mà câu thơ có một sức sống trƣờng tồn. Nó ăn sâu vào từng
đƣờng gân thớ thịt của những ngƣời lao động. Nó gieo vào lòng ngƣời đọc,
ngƣời nghe một niềm tin bất diệt. Nó đã cất lên thành lời ca tiếng hát, thành
lời nhắn nhủ của biết bao thế hệ ngƣời Việt Nam. Và chắc chắn câu thơ sẽ
mãi mãi vẫn là lời tuyên ngôn về thành quả lao động của ngƣời Việt Nam.
Mặt khác trong thơ Hoàng Trung Thông còn triết luận, tuyên ngôn về
sức mạnh chiến đấu, ý chí quyết thắng, đánh thắng kẻ thù xâm lƣợc. Hoàng
Trung Thông là một trong số những nhà thơ trƣởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ. Cũng nhƣ các nhà thơ khác viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu
nƣớc là một nguồn mạch chính trong cảm hứng sáng tác của ông. Ở đề tài này
nhà thơ đã khá thành công khi viết Bài thơ báng súng. Bài thơ hừng hực khí
thế chiến đấu của toàn dân tộc, tràn đầy sinh khí và ý chí quyết tâm sắt đá.
Ýchí đó, sức mạnh đó đã trở thành một triết lý mang tầm phổ quát.
69
Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Ngƣời đứng dậy viết tiếp ngƣời ngã xuống
Ngƣời hôm nay viết tiếp ngƣời hôm qua
Thơ chiến đấu giục giã lòng chiến sĩ
Miền nam ơi chƣa thể nghỉ bàn tay
Ta quyết liệt trên tuyến đầu chống Mỹ
Nhƣ năm xƣa anh dũng bắn đầu Tây
Ta đâu có thích gì máu đổ
Thích gì nghe đạn nổ bom rơi
Ta chiến đấu vì không cam cúi cổ
Không khom lƣng cho giặc Mỹ chém ngang ngƣời.
(Bài thơ báng súng)
Bài thơ là một tiếng nói đanh thép thể hiện rõ ý chí quyết tâm sắt đá của
dân tộc. Ở một góc độ nào đó có thể nói bài thơ không chỉ triết lý về ý chí,
sức mạnh chiến đấu mà còn là tuyên ngôn về chân lý của cách mạng.
Những bài thơ trên của Hoàng Trung Thông dễ khiến ngƣời đọc nhớ tới
những vần thơ của Chế Lan Viên cũng đầy triết luận cũng là những tuyên
ngôn về chân lý của cách mạng nhƣ thế: “Ôi cái thủa lòng ta yêu Tổ quốc, -
hạnh phúc nào không hạnh phúc đầu tiên…”, “Cha ông ta có bao giờ bố trí
các binh đoàn trên vạn đỉnh Trƣờng Sơn, dọc bờ Đông Hải? Tên Tổ quốc
vang ngoài bờ cõi - ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng - ta mọc dậy
trƣớc mắt nhìn nhân loại - hai chữ Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng”
70
2.2.2.2. Triết luận tâm tình:
Đây là mạch triết luận rõ nét hơn cả trong thơ Hoàng Trung Thông nhất
là ở hai tập thơ cuối Tiếng thơ không dứt và Mời trăng và thơ di cảo. Ở mạch
triết luận này, nhà thơ Hoàng Trung Thông đúc kết những quy luật nhân sinh
thế sự có ý nghĩa phổ quát. Ông triết lý về sự vững bền của tình bạn, tình yêu,
hạnh phúc ở đời.
Không ai sống mà không có bạn, không có tình bạn. Đã có không ít tình
bạn đƣợc in dấu vào văn chƣơng thơ phú. Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến -
Dƣơng Khuê, Bá Nha – Tử Kỳ…, Hoàng Trung Thông cũng viết về tình bạn
và cao hơn ông còn triết lý về sự vững bền của tình bạn. Theo ông, tình bạn
không những tồn tại bền chắc khi cả hai còn sống mà còn mãi tình bạn cao
đẹp ngay cả khi có ngƣời đã không còn hiện diện trên thế gian này.
Thông ơi! Diệu đây
Nhƣ là hôm qua
Nhƣ là hôm nay
Vẫn nghe
Vẫn nghe
Vẫn nghe
Và mãi mãi vẫn còn nghe.
(Thông ơi, Diệu đây)
Không chỉ vẫn nhƣ “Anh thấy dáng, anh thấy hình, anh thấy ảnh” ngƣời
bạn thơ Xuân Diệu mà Hoàng Trung Thông còn nhớ nhƣ in những kỷ niệm
của ông với nhà thơ Chế Lan Viên, khi nhà thơ này đã quá cố.
Nhớ những ngày khu bốn
71
Sống với nhau một nhà
Nhớ những ngày Việt Bắc
Đi bộ dặm đƣờng xa
Nhớ những ngày Hà Nội
Suốt ngày bàn thơ ca
(…)
Dẫu là tro là khói
Anh vẫn yên vẫn yêu
(Nhớ Chế Lan Viên)
Tình bạn cao đẹp đƣợc kết tinh trong bài thơ Mời trăng. Nếu nhƣ ở Bài
thơ về biển Hoàng Trung Thông khát khao hoà nhập cái hữu hạn vào cái vô
hạn thì ở Mời trăng ông lại muốn khẳng định vẻ đẹp vĩnh hằng của tình bạn,
tình ngƣời, vẻ đẹp ấy cứ mãi “lung linh” một ánh trăng rằm.
Ai rõ lòng ta đang nhớ tới xa xăm
Ai rõ trăng vẫn soi lòng ta thế đó
Thế rồi ta cất chén cùng tri âm
Không phải chén quỳnh đâu đừng trầm ngâm
Một mình ta mời trăng mời bạn
Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm.
(Mời trăng)
Có thể nói viết về sự vững bền của tình bạn là nét triết lý nhân sinh sâu
sắc thể hiện trong một số bài thơ của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Bên cạnh
sự triết lý về tình bạn ông còn triết lý về tình yêu. Thơ tình của Hoàng Trung
72
Thông khác với thƣờng tình. Ông sáng tác thơ tình vào độ tuổi năm mƣơi. Có
lẽ thế mà thơ tình của nhà thơ này ít có sự mộng mơ, đắm say, kỳ ảo nhƣ các
nhà thơ khác. Nhƣng trong thơ tình của ông lại có sự sâu sắc trong cách nhìn,
cách nghĩ. Nhân vật trữ tình trong thơ ông là nhân vật đang suy nghĩ, đang đối
thoại.
Em có yêu thật không? giữa một khoảng mênh mang
Cả mƣa nắng, hai mùa đi lại
Trong hồn anh, bỗng thấy buồn tê tái
Ngay niềm vui cũng lặng lẽ trầm sâu.
(Hãy yêu anh)
Con ngƣời suy nghĩ, đối thoại này thƣờng xuyên hiện diện trong các bài
thơ tình của Hoàng Trung Thông và chính điều đó tạo nên màu sắc triết luận
về tình yêu. Để có tình yêu có thể chỉ cần có xúc cảm nhƣng cần phải biết
nuôi dƣỡng vun xới thì mới có thể có tình yêu bền vững. Đó cũng là một quy
luật mà Hoàng Trung Thông nắm bắt đƣợc.
Tại sao em yêu anh?
Tình ta còn mỏng manh
Có tình yêu nào chỉ hoàn toàn hạnh phúc
Tại sao anh yêu em?
Ngày nối ngày dài thêm
Có tình yêu nào không ngày đêm hối thúc
Nhƣ tình anh
Tình em.
(Như tình anh tình em)
73
Con ngƣời trong thơ tình của Hoàng Trung Thông ngày càng suy ngẫm,
đối thoại nhiều hơn về sự vững bền của tình yêu. Tình yêu cũng là một thứ
tình cảm có đủ các cung bậc của nó, có yêu thƣơng, có hờn giận, đau khổ có,
hạnh phúc có. Chính vì thế mà “Đôi khi chúng ta hỏi nhau - Tại sao lại có tình
yêu - và chúng ta không đáp nổi” Tình cảm ấy nhƣ có nhƣ không, nhƣ thực
nhƣ ảo
Nhƣng rồi
Chỉ có anh mê em
Chỉ có em mê anh
Tất cả gần nhƣ là hƣ ảo
Tất cả là cây xanh lá xanh
Tất cả là mơ hồ nhƣ tiếng sáo
Tất cả là sƣơng rơi mông mênh
Nhƣng cuối cùng vẫn là tình yêu
say đắm
Nhƣng cuối cùng vẫn phải là tình yêu
đằm thắm.
(Nhưng cuối cùng)
Ở phần trƣớc chúng ta đã có dịp bàn đến thơ tình Hoàng Trung Thông
với nét đặc sắc riêng: không có nguyên mẫu, mơ hồ về không gian, thời
gian… Nhƣng có lẽ nhƣ thế chƣa đủ. Màu sắc triết lý, con ngƣời suy nghĩ,
con ngƣời đối thoại cũng là một nét đặc sắc trong thơ tình Hoàng Trung
Thông.
Ở khía cạnh triết luận tâm tình, ngoài triết lý về sự bền vững của tình
bạn, tình yêu trong thơ Hoàng Trung Thông còn triết lý về hạnh phúc ở đời.
74
Triết lý này cũng đƣợc thể hiện rõ hơn cả trong các tập thơ cuối: Tiếng thơ
không dứt, Mời trăng. Càng về cuối đời thơ Hoàng Trung Thông càng
nghiêng về cảm hứng trữ tình. Thơ ông lúc này đậm đà tình yêu cuộc sống.
Bên cạnh đó cảm hứng về thế sự, về tình ngƣời, hạnh phúc ở đời cũng thành
một mạch thơ đáng chú ý. Quan niệm về hạnh phúc trên đời này “Mỗi ngƣời
mỗi vẻ” không ai giống ai. Nhà thơ Hoàng Trung Thông cho rằng hạnh phúc
là nuôi giữ đƣợc khát vọng sáng tƣơi mà mình hằng ôm ấp cho cuộc đời, dù
số phận có nghiệt ngã đến đâu.
Không thể hết đƣợc đâu
Có thể em lãng quên nhƣ chiếc lá kia thu đến bỗng ngả màu
Nhƣng đêm sâu nào ngăn đƣợc chùm hoa đỏ
Cứ cháy mãi khát khao ngày đó
Chẳng chịu khép cánh mềm trong tiếng ve ru…
(Không thể hết được đâu)
Hoàng Trung Thông cũng từng có lúc than thở “Tôi muốn uống rƣợu
trong - lại phải uống rƣợu đục - chao! Sông cũng nhƣ ngƣời - có khúc và có
lúc” thơ ông lúc này phảng phất nỗi buồn của tuổi già hay chiêm nghiệm.
Tuy nhiên mạch của cảm hứng chính trong thơ ông vẫn là cảm hứng của con
ngƣời say sƣa với công việc. Hăm hở với công việc, coi công việc là niềm
vui, lẽ sống. Vì thế mà ông hối tiếc:
Giá nhƣ tôi đọc
Chục bài thơ
Giá nhƣ tôi đọc
Trăm bài thơ
75
Giá nhƣ tôi đọc
Nghìn bài thơ
Thì bây giờ
Tôi không còn khóc.
(Giá như tôi đọc)
Do quan niệm về lẽ sống, hạnh phúc ở đời nhƣ vậy nên nhà thơ coi
những gì chƣa kịp làm, chƣa làm đƣợc là một món nợ trong đời: “Tôi viết còn
ít quá, thì đi là phải đi - ấy là món nợ đời - thế vậy thì phải trả”.
Ngay ở những tập thơ đầu tay Hoàng Trung Thông đã thấy trách nhiệm
của thế hệ đi trƣớc với thế hệ sau. “ Đứng trƣớc biển” là một ý thơ đầy triết lý
đó. Bờ biển - chân trời đã thành một mô hình khái quát của cuộc đời. Bờ là
điểm dừng của cha đã thành vạch xuất phát của con, đang là điểm tựa cho
con. Chân trời là cái đích chung đã tắt trong khát vọng của cha, lại bừng lên
trong khao khát mãnh liệt của con, cứ thế mà cuộc đời đi lên phía trƣớc. Các
thế hệ tiếp nối theo nhau làm việc cho đời khám phá những chân trời mới.
Phải chăng đây cũng là khát vọng sống, một quan niệm sống đầy triết lý nhân
sinh? Đến những tập thơ cuối ông cũng vẫn mong muốn ở thế hệ cầm bút mai
sau:
Nếu tôi chết
Đắp điếm ngôi mồ tôi
Và anh hay chị sẽ viết
Giữ lòng trong suốt đời.
(Nếu tôi chết)
76
Nhƣ trên đã nói: Thơ Hoàng Trung Thông càng về sau càng ý thức suy
ngẫm, gia tăng tính khái quát, chính luận và nhất là ở giai đoạn cuối thơ ông
ngày càng có sự chuyển dần sang triết lý. Song triết lý không hề là nét trội
trong thơ Hoàng Trung Thông. Một số bài thơ bình luận về chính trị, lịch sử
của ông còn dài dòng, ít gây ấn tƣợng. Có thể nói Hoàng Trung Thông không
có cái sắc sảo, trí tuệ lấp lánh và nhiều biện luận của Chế Lan Viên kiểu nhƣ
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn” cũng không có sự
dồn nén cô đúc của Chính Hữu. Phẩm chất trí tuệ trong thơ Chính Hữu nằm
ngay trong tứ thơ và cách lập ý sáng tạo: sự suy nghĩ khái quát nằm trong cảm
xúc. Nhiều câu thơ đúc kết hàm xúc vào loại hiếm trong thơ Việt Nam hiện
đại. Chẳng hạn, qua bài Qua Xibiri Chính Hữu gợi lại đƣợc cả không gian lẫn
lịch sử và đập trực tiếp vào giác quan ngƣời đọc
Ôi ngọn gió Xibiri
Phẫn nộ và hoang vắng
Mấy trăm năm thổi trên những cuốn sách Nga
Lịch sử mênh mông một màu lạnh trắng.
Trở lại với thơ Hoàng Trung Thông, ngƣời đọc cảm nhận thấy thơ ông ít
khi giảng giải, lật đi lật lại vấn đề, ít dùng các tri thức triết học, văn học, lịch
sử. Chính luận trong thơ Hoàng Trung Thông phần lớn là nhận thức, tƣ tƣởng
đƣợc trực tiếp rút ra từ câu chuyện, sự kiện và đƣợc trình bày một cách khúc
triết tự nhiên. Có lẽ đây vừa là điểm yếu vừa là yếu điểm của xu hƣớng chính
luận trong thơ ông.
Tóm lại: Hơn bốn mƣơi năm làm thơ trƣởng thành cùng Quê hương
chiến đấu từ ngày “Vỡ đất” đến khi nâng chén “Mời trăng” giã biệt cõi đời,
Hoàng Trung Thông đã trở thành một thi sĩ tiêu biểu của nền thơ ca cách
mạng. Thơ ông bám chắc vào hiện thực đời sống của đất nƣớc đang vận động
77
phát triển càng về sau càng có ý thức gia tăng tính khái quát, chính luận cho
thơ. Nhà thơ khái quát về tầm vóc tổ quốc, về phẩm chất con ngƣời Việt Nam,
về cuộc chiến đấu của dân tộc… Ông triết lý về sự vững bền của tình bạn,
tình yêu, hạnh phúc ở đời. Tuy triết luận không phải là điểm nổi trội của thơ
ông nhƣng cũng là một xu hƣớng càng về sau càng rõ nét và đáng chú ý tới
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THƠ HOÀNG TRUNG THÔNG
3.1. Giọng điệu
3.1.1. Khái quát về giọng điệu .
“ Giọng điệu là thái độ tình cảm, lập trƣờng tƣ tƣởng, đạo đức của nhà
văn đối với hiện tƣợng đƣợc miêu tả thể hiện trong lời văn qui định cách
xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ,
thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” (Từ điển thuật ngữ văn học
– NXB GD – 1992).
Nhƣ vậy giọng điệu trong nghệ thuật văn chƣơng là biểu hiện của sự lên
tiếng của chủ thể sáng tạo về đối tƣợng đƣợc đề cập tới trong tác phẩm nhằm
thể hiện chính kiến, quan niệm về thế giới thông qua hệ thống ngôn ngữ trong
văn bản nghệ thuật (văn hoặc thơ). Giọng điệu thực chất là một sản phẩm của
quá trình sáng tạo riêng, nó có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách
nhà văn, nhà thơ và tác dụng truyền cảm cho ngƣời đọc. Thiếu giọng điệu
nhất định, nhà văn chƣa thể viết ra đƣợc tác phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu, đã
sắp xếp xong cấu tứ hay hệ thống nhân vật. Tìm hiểu giọng điệu là tìm hiểu
thế giới tinh thần của chủ thể sáng tạo.
Giọng điệu tác phẩm vƣợt lên và bao hàm những biểu hiện cụ thể nhƣ
ngữ điệu, nhịp điệu, nhạc điệu… Giọng điệu bao quát lên những tác phẩm cụ
78
thể giúp ta nhận diện bản sắc văn chƣơng của nhà văn. Từ giọng điệu tác
phẩm văn học dẫn tới giọng điệu nhà thơ, sự hấp dẫn và độc đáo trong tiếng
nói riêng của thi sĩ. Giọng điệu tác phẩm không tách rời với ngôn ngữ (hiểu
theo nghĩa ngôn ngữ từ nghệ thuật). Nhƣ thế giọng điệu ngôn ngữ trong sáng
tác của nhà thơ nằm trong tƣơng quan chung, góp phần khẳng định phẩm chất
thuộc về hình thức biểu hiện tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
3.1.2. Đặc sắc trong giọng điệu thơ Hoàng Trung Thông.
Nếu nhƣ giọng điệu thơ tình của nhà thơ Thế Lữ, theo Hoài Thanh, là có
giọng điệu “lẳng lơ mà xa vời và thiếu tình ấm áp”; giọng điệu ngọt ngào, êm
ái trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hƣng; giọng điệu suồng sã, đay nghiến
trong Chí Phèo của Nam Cao; giọng điệu mỉa mai, châm biếm trong thuế máu
của Nguyễn Ái Quốc thì có thể nói giọng điệu trong thơ Hoàng Trung Thông
là giọng điệu rắn rỏi và chắc khoẻ.
Nhịp thơ, hơi thơ của Hoàng Trung Thông không phải không có lúc uyển
chuyển, êm đềm:
Gió rét chớm về đào mận hết
Ngƣời Mèo xuống phố bán dâu da
Sa Pa một góc trời thu đẹp
Rừng sa mu đứng gội mù sa.
(Thu Sa Pa)
Nhịp thơ, hơi thơ này càng về sau, càng rõ nét. Khi mà tuổi tác đã cao,
sự chiêm nghiệm đã nhiều thơ ông càng tha thiết êm đềm hơn:
Ngọn mƣớp luồn qua cửa sổ
Vầng trăng toả ánh vào nhà
79
Ngƣời không thong thả, trăng thong thả
Trăng có vầng mƣớp có hoa.
(Tứ tuyệt)
Tuy nhiên, bao trùm và xuyên suốt thơ Hoàng Trung Thông là giọng thơ
rắn rỏi và chắc khoẻ. Ngay từ bài thơ đầu tay ra mắt công chúng ngƣời đọc đã
cảm nhận ở Hoàng Trung Thông một giọng thơ chắc khoẻ nhƣ những nhát
cuốc bập sâu vào đất:
Chúng ta đoàn áo vải
Sống cuộc đời rừng núi bấy nay
Đồng xanh ta thiếu đất cày
Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng.
Tháng ngày ta góp sức chung
Vun từng luống đất, cuốc từng gốc cây.
(Bài ca vỡ đất)
Hầu nhƣ bài thơ nào của Hoàng Trung Thông cũng thể hiện giọng thơ,
hơi thơ chắc khoẻ, rắn rỏi cho dù ông viết về lĩnh vực nào, viết về vùng xuôi
hay vùng cao cũng vẫn giọng thơ đó:
Nƣớc Sông Hồng ngang trời sóng vỗ
Ta làm ra sóng lúa hai bờ
Lúa ta thi với sóng Hồng Hà
Ta đổi nắng thay mƣa
Cho lúa tới ngang trời đỏ rực.
(Cho lúa ta lên tới ngang trời)
80
Và đây là giọng thơ kể chuyện Hồng Mí Giáo, anh liên lạc một huyện
miền núi thật thà chất phác mà tài hoa. Hơi thơ rắn rỏi nhƣ trong thể hành
ngày xƣa:
Da đen, mắt xếch, ngƣời nhƣ sắt
Lầm lì ít nói và ít cƣời,
Một mình, một ngựa một mã páo
Lên dốc xuống đèo đi nhƣ chơi
Những khi chuếnh choáng vài chén rƣợu
Cặp mắt long lanh cƣời rất vui.
(Tiếng đàn)
Ngƣời đọc càng cảm nhận rõ hơn giọng thơ chắc khoẻ của Hoàng Trung
Thông trong những vần thơ viết về đất nƣớc, về công cuộc đấu tranh thống
nhất nƣớc nhà. Những câu thơ hừng hực khí thế tiến công:
Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Ngƣời đứng dậy viết tiếp ngƣời ngã xuống
Ngƣời hôm nay viết tiếp ngƣời hôm qua.
(Bài thơ báng súng)
Về phƣơng diện hình thức, Hoàng Trung Thông thƣờng dùng ngôn ngữ
đƣợc rút ra từ cách nói giản dị, chân thật của quần chúng. Cho nên nhiều khi
ông tạo ra đƣợc những câu thơ gần với cách nói của phƣơng ngôn, tục ngữ
kiểu nhƣ:
Bàn tay mềm mại em chăm cành
81
Bàn tay rắn chắc em đào cỏ.
Hay:
Bƣng bát cơm đầy ăn chẳng ngon
Thù hận sớm chiều giăng trƣớc mặt.
Những đặc trƣng trên đây làm cho Hoàng Trung Thông khác với các nhà
thơ khác một cách rõ rệt. Có nhà thơ để lại cho ta ấn tƣợng về một con ngƣời
giàu tình cảm thiết tha; có nhà thơ đƣa đến cho ngƣời đọc hình ảnh một con
ngƣời suy nghĩ đăm chiêu. Nhƣng cũng có nhà thơ lại là con ngƣời của ý chí,
của hành động. Hoàng Trung Thông là con ngƣời nhƣ vậy. Ông là nhà thơ của
thực tiễn và chiến đấu. Giọng điệu thơ ông là giọng chắc khoẻ rắn rỏi.
3.2. Thể thơ
Nếu làm những con số thống kê phân loại thể thơ trong thơ Hoàng Trung
Thông cũng thật khó rành mạch. Bởi lẽ, tính phóng túng, tự do của nhà thơ
đem lại vẻ đẹp không rành mạch cho sự phân định này. Rất ít bài của Hoàng
Trung Thông đƣợc viết trọn vẹn theo một thể thơ. Ông thiên về lời thơ tự do
hoặc phối hợp nhiều thể trong một bài. Chính thể thơ này giúp cho thơ ông đi
sát cuộc đời hơn, phản ánh đƣợc những khía cạnh mới của cuộc sống đa dạng,
thể hiện đƣợc những cách nhìn nghệ thuật mới của nhà thơ. Mặt khác thể thơ
tự do hoặc phối hợp nhiều thể thơ trong một bài chứa đựng trong nó sự cách
tân mới mẻ ở một số phƣơng diện tạo nên đặc điểm riêng của thơ Hoàng
Trung Thông.
Mặt khác, trong thơ Hoàng Trung Thông có một số bài sáng tác theo một
thể loại (truyền thống) nhƣ thơ lục bát, tám chữ nhƣng nhiều hơn cả là thơ
bảy chữ, thơ 5 chữ. Đây là những thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, vốn
82
đậm đặc chất Đƣờng thi. Chất Đƣờng thi đó đã đƣợc “ông trạng họ Hoàng”
(Chế Lan Viên) vận dụng thể hiện khá nhuần nhuyễn trong thơ ông:
Ngọn mƣớp luồn qua cửa sổ
Vầng trăng toả ánh vào nhà
Ngƣời không thong thả, trăng thong thả
Trăng có vầng mƣớp có hoa.
(Tứ tuyệt)
Chất Đƣờng thi còn thấm đẫm hoà quyện ngay cả trong những bài thơ
đƣợc Hoàng Trung Thông sáng tác theo lối tự do. Ở Bài thơ về biển tác giả đã
dẫn một câu của Trƣơng Nhƣợc Hƣ, trong bài Xuân Giang hoa nguyệt hạ
(Đêm hoa trăng trên sông Xuân). Đọc bài thơ này của Trƣơng Nhƣợc Hƣ,
ngƣời đọc dễ dàng phát hiện thấy tác giả xử lý bài thơ bằng thủ pháp “quân
cù” (quấn dây vào đầu của con quay của trẻ em):
Ngƣời bên sông, ai kẻ đầu tiên thấy trăng
Trăng trên sông, năm nào đầu tiên rọi xuống ngƣời
Rèm nhà ngọc cuốn lên rồi trăng vẫn không đi
Phiến đá đập áo lâu đi rồi, trăng vẫn cứ lại.
để rồi đánh xuống một câu kết đầy sức gợi :
Trăng lặn, rung rinh những mối tình cây đáy sông.
Ở Bài thơ về biển nhà thơ Hoàng Trung Thông cũng có một khổ thơ kết
bài khiến ngƣời đọc cảm thấy hay đến sững sờ, sửng sốt:
Ta vốn là ngƣời thơ
Thấy nƣớc triều dâng ta dẫm chân xuống nƣớc
83
Ta với trăng quen nhau nào ngờ
Đứng trƣớc biển ta nhìn trăng mơ ƣớc.
(Bài thơ về biển)
Và ở bài thơ Mời trăng, tác giả Hoàng Trung Thông thầm nhắn:
Ai rõ lòng ta nhớ tới xa xăm
Ai rõ trăng vẫn soi lòng ta thế đó
Một mình ta mời trăng, mời bạn
Ai biết đâu lòng ta lệ đầm.
Âm hƣởng Đƣờng thi thấm đẫm mà tình thơ vẫn dạt dào. Câu chữ trong
lành đến tƣởng nhƣ không hề có sự dụng công. Quả là nhà thơ đã hút đƣợc
hƣơng nhụy Đƣờng thi để cô đúc trong thơ mình.
3.2.1. Sự thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu thơ.
Sự thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu thơ mở ra cách nhìn mới khi
hƣớng tới cuộc sống thời hiện đại. Đây là sự khác biệt của thơ hiện đại so với
thơ ca trung đại.
Cú pháp của thơ Trung đại ổn định gần nhƣ bất biến trong hệ thống qui
phạm (thi pháp). Điều này đƣợc khẳng định bởi những dấu hiệu hình thức: từ
số lƣợng chữ trong từng câu hoặc trong toàn bài; lối đăng, đối, gieo vần, đến
niêm luật chặt chẽ. Nhƣ thế sự sáng tạo tâm đắc của ngƣời viết chủ yếu thu
hẹp trong phạm vi kiếm tìm thần tự, nhãn tự. Sự sáng tạo có phần hạn hẹp ấy
của thơ xƣa cũng trói buộc và hạn chế luôn tầm nhìn hiện thực, khả năng tƣ
duy cùng xúc cảm thẩm mĩ của nhà thơ. Dĩ nhiên, thời nào cũng vậy, những
tài năng thơ ca đích thực không hoàn toàn thuần phục mà chịu “chui” vào
những ràng buộc mang tính qui phạm ấy. Những tài năng đích thực bao giờ
84
cũng phá cách, nổi loạn – sự nổi loạn nằm trong hình thức thơ thể hiện và từ
đó kéo theo ý tƣởng thuộc nội dung thơ. Trải qua một thời gian dài (qua các
triều đại phong kiến) thơ trung đại phát triển trong thế tĩnh tại, nhìn chung là
ổn định về mặt thi pháp chung.
Thơ hiện đại nói chung, thơ Hoàng Trung Thông nói riêng, xét trên
phƣơng diện cấu trúc câu (trong từng câu, từng dòng thơ và trong từng đoạn,
từng bài), không có sự hạn chế về số câu, số dòng, không bị ràng buộc theo
niêm luật mà coi trọng vần và điệu. Thực tế này giúp cho việc hiện đại hoá
đồng thời làm phong phú các thể thơ tiếng Việt. Chính vì vậy, cú pháp của
thơ ca hiện đại phóng khoáng và tự nhiên hơn thơ xƣa. Thơ hiện đại không
tựa vào cấu trúc định hình bất biến mà tựa vào nội lực tự thân vốn có và khởi
nguồn từ cảm xúc và suy tƣ của thi sĩ. Thơ Hoàng Trung Thông cũng vậy.
3.2.1.1. Câu ngữ pháp tràn biên.
Nhƣ đã nói ở trên, hầu hết thơ Hoàng Trung Thông là thơ tự do hoặc
phối hợp nhiều thể thơ trong một bài. Chính điều này đã khiến cho thơ Hoàng
Trung Thông không dừng lại ở khuôn phép để tạo nên sự trùng khít. Câu thơ
với câu ngữ pháp mà ông thƣờng tạo nên cấu trúc câu ngữ pháp tràn biên,
vƣợt qua sự hạn hẹp của một câu thơ (thƣờng nằm trên một dòng của thơ
xƣa).
Thế Lữ, lá cờ đầu của phong trào thơ mới, cũng đã tạo ra những câu thơ
tràn biên, những dòng cảm xúc gối sóng, ví nhƣ trong bài Cây đàn muôn điệu
cảm xúc gối sóng thể hiện ở sự tƣơng ứng với những bổ ngữ của câu thơ cú
pháp và chỉ đƣợc xác định rõ bởi chủ ngữ (tôi) và ba vị ngữ (yêu, kiếm, say
mê) ở dòng thơ cuối đoạn:
Dáng yêu kiều tha thƣớt khách giai nhân;
Ánh tƣng bừng linh hoạt nắng trời xuân;
85
Vẻ sầu muộn âm thầm ngày mƣa gió;
Cảnh vĩ đại sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ;
Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay;
Cảnh cơ hàn nơi nƣớc động bùn lầy;
Thứ sáu lại mơ hồ trong ảo mộng;
Chỉ hăng hái đua ganh đời náo động;
Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê.
(Cây đàn muôn điệu)
Thời bài thơ xuất hiện, cấu trúc gối sóng này là một hiện tƣợng mới mẻ. Bởi
nó mới mẻ, rành mạch trong tƣ duy khoa học (từ ý đến lời và sự phân định
bởi những dấu chấm phẩy (;) qua từng dòng thơ) và đồng thời cũng bộc lộ
đƣợc dòng xúc cảm trữ tình nồng nàn; thiết tha của chủ thể sáng tạo. Nhờ lối
cấu trúc câu thơ phóng khoáng, tự nhiên mà phù hợp và tƣơng ứng với sự
thay đổi trong cách nhìn cách cảm của nhà thơ. Tuy nhiên, lối cấu trúc cú
pháp của câu thơ trên (mà cũng là một đoạn thơ) dễ gây ấn tƣợng dàn trải,
nặng nề bởi thiếu đi tính hàm xúc, kiệm lời.
Trong thơ Hoàng Trung Thông, ngƣời đọc không thấy lối cấu trúc câu
thơ gối sóng nhƣ trên nhƣng lại bắt gặp một cấu trúc câu thơ gối sóng kiểu
khác. Hoàng Trung Thông lại lộn ngƣợc lối sắp xếp thành phần ngữ pháp khi
chủ từ đƣợc đƣa lên trƣớc cấu trúc câu với các vị ngữ và tuôn chảy theo dòng
thơ là một loạt các bổ ngữ. Chẳng hạn trong bài “Anh chủ nhiệm” ta bắt gặp
cấu trúc này lặp lại nhiều lần:
Anh giơ tay vẽ giữa đồng xanh
Vẽ cả ngày mai thành bức tranh;
86
Kìa dòng mƣơng chảy cầu đƣơng bắc
Lò gạch xây cao, đƣờng thẳng tắp
Nơi đây kho thóc, nhà chăn nuôi
Tiền đã lo xong, đất cắm rồi.
Và:
Anh làm chủ nhiệm đã ba năm
Ba năm vật lộn cùng khó khăn.
(Anh chủ nhiệm)
Cấu trúc câu thơ gối sóng, tràn biên nhƣ thế chúng ta còn gặp ở nhiều bài
thơ khác của Hoàng Trung Thông nhƣ: Đêm vằn chải, Tưởng nhớ, Cửa Tùng,
Nhưng cuối cùng…Và đây là một đoạn thơ nhƣ thế:
Điệu dân ca chị Hoà cao giọng hát
Những tiếng buông gần bắt tiếng rơi xa
Những tiếng trầm trầm hoà tiếng ngân nga
Những tiếng nghẹn ngào nhƣ lệ rỏ
Những tiếng mơ màng nhƣ thoảng gió
Thấp thoáng hình cô gái cuốc trên nƣơng
Bà Mẹ địu con lên dốc mờ sƣơng.
(Đêm Vằn Chải)
Nhƣ vậy mỗi câu thơ (ngữ pháp) của Hoàng Trung Thông không dồn tụ
ngữ nghĩa vào một câu thơ nhƣ trong thơ truyền thống mà tạo nên bằng cả
một đoạn thơ chứa đựng không gian, thời gian hiện thực diễn tả. Hơn nữa,
chúng lại đƣợc gắn kết bởi các thành phần ngữ pháp cùng những yếu tố liên
87
đới khác. Có lẽ vì thế mà nó tạo ra giọng điệu trữ tình – minh chiết trong thơ
ông.
Lại một dạng tràn biên khác trong những câu thơ với lối diễn đạt vừa
khúc chiết vừa rành mạch vừa trữ tình theo một điệu riêng. Một cách gối sóng
“tâm tình”, khiến cho lời thơ Hoàng Trung Thông chảy liền mạch. Tạo nên
nét duyên dáng, tình tứ riêng của nhà thơ. Ngƣời đọc có thể thấy trong thơ
Hoàng Trung Thông nhiều cách diễn đạt và giọng điệu ngôn ngữ kiểu này:
–Phải chăng anh, ngƣời lái phà năm
trƣớc
Chở suốt đêm dài xe nối xe…
(Chiều đến Bình Ca)
– Tôi vẫn nghĩ đi làm cách mạng
Đâu cũng là nhà đâu cũng quê hƣơng.
(Về thăm quê)
Tôi hỏi gió hỏi mây hỏi cây hỏi nƣớc
Quê hƣơng ta một nửa đâu rồi.
(Sương mù bên kia sông Bến Hải)
Mẹ ơi, mẹ làm sao đứng nổi
Giữa tháng năm dài dằng dặc đạn bom
(Mẹ Bường)
Ôi những chiều thứ bảy những chiều
Ngƣời thân yêu tìm đến ngƣời thân yêu.
(Những chiều thứ bảy)
88
Cách gối sóng giữa các câu thơ gây ấn tƣợng rành rẽ về ngữ pháp, văn
phạm đồng thời lại tạo mối quan hệ nối kết thiết tha thật lạ. Trƣớc Hoàng
Trung Thông cũng có một số cây bút có sử dụng câu thơ gối sóng kiểu này
nhƣng khác Hoàng Trung Thông ở chỗ cách gối sóng giữa các câu thơ của họ
nhờ vào những từ nối ở câu trên và chảy tràn xuống những câu thơ sau đó.
– Tôi muốn sống cuộc đời thi sĩ để
Uống say nồng nhƣng chỉ thấy chua cay.
(Lựa tiếng đàn - Thế Lữ)
– Lúa ở đồng tôi và lúa ở
Đồng nàng và lúa ở đồng anh.
( Mùa xuân xanh - Nguyễn Bính)
3.2.1.2. Cách ngắt câu thành câu thơ bậc thang.
Cách ngắt câu thơ, dòng thơ thành các câu thơ bậc thang không phải là
sáng tạo riêng của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Trƣớc và sau ông đều có
những tác giả viết theo lối này. Ở nƣớc ngoài nhà thơ Maia côpxky thƣờng
sáng tác thơ theo hình thức này. Nhà thơ Nguyễn Duy trong bài thơ Tre Việt
Nam cũng ngắt câu cuối thành:
Mai sau
Mai sau
Mai sau
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
(Tre Việt nam)
Cách ngắt câu nhƣ thế trƣớc và sau Hoàng Trung Thông đều có ngƣời sử
dụng. Vậy cách ngắt câu thơ thành những dòng thơ bậc thang ở Hoàng Trung
Thông có gì đặc biệt? Đọc thơ ông, ngƣời đọc thấy cách ngắt câu này xuất
89
hiện ngay từ đầu và tồn tại rải rác đến tập thơ cuối. Không phải ở bài nào ông
cũng vận dụng cách ngắt câu đó mà chỉ ở những bài, những câu, những ý cần
nhấn mạnh, cần tách bạch đến khúc chiết rõ ràng nhà thơ mới vận dụng. Cách
ngắt câu này có tác dụng nhấn mạnh, khắc sâu sự chú ý của ngƣời đọc vào các
sự kiện, hành động, trạng thái. Cách ngắt câu nhƣ thế có phần nào giống với
biện pháp tách biệt trong thơ. Đây cũng là một nét độc đáo trong thơ Hoàng
Trung Thông. Chúng ta gặp khá nhiều câu thơ dạng này trong thơ ông:
– Một dòng sông, một chiếc cầu
Nhƣ dòng lệ nhƣ hàm răng nghiến chặt
Sƣơng sƣơng rơi trên miền Nam dày đặc
Nhƣng sau kia
lửa lửa
cháy lên rồi.
(Sương mù bên kia sông Bến Hải)
–“… Rừng muôn tay xanh biếc chập chùng
Vây lấy con tàu
nằm lâu
không nhả khói
Con tàu nằm
mệt mỏi
Dặm đƣờng xa còn xa…
(Đêm tây Bá Lợi á)
–… Tôi đã thấy trong những vƣờn táo trắng
Hoa nở đầy
mái tóc đuổi theo nhau.
(…)
90
Tôi đã thấy bên góc tƣờng mới dựng
Tuyết rơi đầy
tay vuốt tóc trong gƣơng.
(Những mái tóc)
– … Đôi lúc lại quá thừa
Thừa gió,
thừa mây
thừa nắng
thừa mƣa
Thừa giấy mực
Cũng thừa sách vở.
(Tâm sự)
3.3. Hình ảnh, mô típ.
3.3.1. Hình ảnh
3.3.1.1 Hình ảnh những con đường, những bước đi
Thơ Hoàng Trung Thông hay nói tới những con đƣờng, những bƣớc đi.
Hình ảnh này thƣờng thấy trong Đường chúng ta đi và Những cánh buồm.
Đây là một khía cạnh của không gian nghệ thuật trong thơ ông. Đó không chỉ
là những con đƣờng, bƣớc đi của một cá nhân mà còn là con đƣờng, bƣớc đi
của mọi ngƣời, không chỉ là đƣờng sang nƣớc bạn mà còn là con đƣờng ra thế
giới. Trong các bài: Chiều đến Bình ca, Bên bờ Ban tích, Gửi Việt Bắc, Mỗi
lần đi, Về thăm quê… nhà thơ đã dựng lên hình ảnh những con đƣờng, những
bƣớc đi. Hình ảnh này đƣợc biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau. Có khi
91
nhà thơ gọi thẳng Đường chúng ta đi, có khi đƣợc biểu hiện qua những
chuyến đi (mỗi lần đi), hoặc trái với chuyến đi là sự trở về chốn cũ (Về thăm
quê)… Thơ Hoàng Trung Thông thƣờng gắn với những sự kiện, phong trào
nổi bật, gắn với những chuyến đi thực tế. Sau mỗi chuyến đi công tác ông lại
“nhƣ cây khô” đƣợc “tiếp nhựa đâm chồi”, Nhà thơ đã tâm sự nhƣ thế trong
bài “Mỗi lần đi”:
Mỗi lần đi vai nặng ba lô
Mang nặng mồ hôi, nặng ƣớc mơ
Ôi tổ quốc ngày đi ngàn dặm
Mỗi đoạn đƣờngrung một tứ thơ.
Hoàng Trung Thông chủ trƣơng phải đi nhiều, thâm nhập vào thực tế đời
sống để trang thơ tƣơi màu cuộc sống. Ông đã từng tự kiểm điểm mình, cảm
thấy ân hận vì đã từng có lúc xa rời hơi thở ấm nồng của cuộc sống thực tại.
Bấy lâu bụi phủ trong phòng nhỏ
Lấy cánh quạt trần làm cánh gió
Bây giờ biển thổi gió bao la
Lảo đảo thuyền tim chừng muốn vỡ.
(Gió biển)
Có lẽ vì thế mà nhà thơ muốn “đi trong vạn dặm trời xuân” để “nghe quê xa
hoà điệu với quê gần”. Hoàng Trung Thông luôn ấp ủ một ý nguyện và mải
mê thực hiện:
Chân bƣớc đi không kể gì năm tháng
Dù tối nặng mƣa rơi, dù ngày tràn ánh sáng
92
Tôi ƣơm hồn trên những nẻo đƣờng đi
Nhƣ đồng quê ƣơm hạt giống thần kỳ.
(Đường chúng ta đi)
Nhờ những bƣớc đi trên khắp mọi nẻo đƣờng nhƣ thế, thơ Hoàng Trung
Thông luôn ấm nồng chất hiện thực. Đọc thơ ông ngƣời đọc thấy đƣợc đời
sống lao động nông nghiệp còn nhiều khó khăn vất vả nhƣng đã, đang và sẽ
hứa hẹn một ngày mai tƣơi sáng. Ở lĩnh vực đó nổi lên những ngƣời làm chủ
tập thể, có trách nhiệm cao với công việc (Anh chủ nhiệm); có phong trào hợp
tác hoá nông nghiệp; có công việc khai hoang vỡ hoá..v.v.. Ngƣời đọc còn
thấy đƣợc cuộc chiến đấu của dân tộc ta theo sát với từng thời điểm lịch sử
trong thơ ông ..v.v. nhà thơ không chỉ phản ánh hiện thực của đất nƣớc mà
còn phản ánh đƣợc cả hiện thực của nƣớc bạn. (Bên bờ Ban tích, Đêm tây Bá
lợi á, Bàn tay Sô panh, Bên bờ Bắc Hải, Trước tượng Ghếttô….)
3.3.1.2. Những hình ảnh gắn bó với nông thôn và miền núi
Mỗi nhà thơ thƣờng chọn một vùng đất để thâm canh. Hoàng Trung
Thông rất ít viết về thành thị, về nhà máy, công trƣờng. Mảnh đất của ông là
nông thôn và miền núi. Ở những nơi này, thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng,
con ngƣời mộc mạc sâu đậm nghĩa tình. Phải chăng tạng tâm hồn Hoàng
Trung Thông phù hợp, dễ rung cảm cùng những đối tƣợng ấy. Bài thơ đầu
tiên của ông trình làng khiến ngƣời đọc bắt đầu chú ý đến là Bài ca vỡ đất
(1948), bài ca về những ngƣời áo vải, “Cấy xanh núi đèo”. Trƣớc sau Hoàng
Trung Thông vẫn chung thuỷ với những con ngƣời nhƣ vậy.
Thơ Hoàng Trung Thông hay nói về việc “đào nƣơng mở suối”, về cây,
về cánh đồng, làng quê. Đây là những hình ảnh gắn bó với đất, với nông thôn.
93
Bám vào đất mà trăn trở, tìm tòi, Hoàng Trung Thông đã có nhiều bài thơ hay
và có những sáng tạo trong hình thức biểu hiện. Nhà thơ “viết về đất đai đồng
ruộng” với bao nhiêu tình nghĩa chan hoà với đất, gửi vào đất những yêu
thƣơng, hy vọng. Đất dầu dãi nắng mƣa, lƣng hằn vết đạn mà thủy chung với
ngƣời từ cuộc kháng chiến trƣớc (Bài ca vỡ đất,Ttrên mảnh đất này…). Đất
mở chiến hào che chở. Đất hoá thân thành anh hùng, thành đồng chí của
ngƣời trong chiến tranh chống Mĩ:
Đất ơi đất ơi
Đất bùn đất sỏi
Mƣa dầm nắng phơi
Đất dù không nói
Mà mang hồn ngƣời
Cùng ta chống chọi
Với quân cƣớp trời.
(Đào chiến hào)
Gắn bó với đất là hình ảnh ngƣời nông dân tập thể đấu tranh với thiên
nhiên, cải tạo đồng ruộng giành sự sống. Thơ Hoàng Trung Thông hay nói về
việc đào mƣơng, mở suối, về cấy cày, đây chính là công việc cải tạo đồng
ruộng, vỡ hoá khai hoang:
Đƣờng xa ta tới đây
Trên đồi cây khát nắng,
Giữa hai dòng suối vắng
Đoàn ta vui cấy cày.
(...)
Suối chảy quanh ta
94
Tiếng suối ngân nga
Hoà theo gió núi.
Ta đào mƣơng mở suối
Tuổi ta là những tuổi đấu tranh.
Cho dù bạc áo nông binh
Vẫn còn vỡ đất cấy xanh núi đèo.
(Bài ca vỡ đất)
Hình ảnh cánh đồng, làng quê trong thơ Hoàng Trung Thông là hình ảnh
của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp trên miền Bắc. Tác giả nhiệt tình ca
ngợi sức sống mới đang đâm chồi nảy lộc trong nông thôn hợp tác hoá:
Anh trỏ đây cánh đồng hợp tác
Lúa tƣơi vàng nhƣ ráng nhƣ mây
Tôi nói lúa làm chung phải khác
Hạt mẩy bông dài cây sát cây…
(Thăm lúa)
Hoàng Trung Thông cũng hay viết về những thác, những hồ, những đèo,
những phiên chợ của ngƣời miền núi. Đây là những hình ảnh đáng chú ý ở
một mảng thơ mà ông viết về những thay đổi và nhịp sống lao động dựng xây
ở miền núi. (Trên hồ Ba Bể, Chợ Cô Sầu, Thác Bản Giốc, Tiếng đàn, Ngựa
thồ, Đêm vằn chải).
Hình ảnh thác nƣớc, hồ nƣớc trong thơ Hoàng Trung Thông nằm trong
dụng công nghệ thuật và tâm tình của ông. Thác nƣớc, hồ nƣớc đem lại mặt
không gian yên ả thanh sạch, mọi cảm giác vẩn đục từ bụi trần đƣợc thanh
lọc, chỉ còn sự thanh sạch trong trẻo lan toả trong không gian:
Thuyền ta lƣớt nhẹ trên Ba Bể
95
Trên cả mây trời trên núi xanh
Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ
Mái chèo khua bóng núi rung rinh.
(Trên hồ Ba Bể)
Song hình ảnh thác nƣớc, hồ nƣớc không chỉ là cảnh quan với vẻ đẹp
tuyệt vời thiên nhiên ban tặng mà còn là tiếng nói ngợi ca quê hƣơng giàu đẹp
đang hàng ngày hàng giờ chuyển mình thay da đổi thịt dƣới bàn tay lao động
cần cù của dân nơi đây:
– Thuyền ta quanh quất trên Ba Bể
Đỏ ối vƣời cam thắm bãi ngô
Nhộn nhịp trâu về vang tiếng trẻ
Đâu còn giông bão hung thần xƣa.
(Trên hồ Ba Bể)
– Đền tạ đế vƣơng đã sụp đổ
Pháo đài kia cũng đứng im hơi
Chỉ còn tiếng ngƣời reo bên thác đổ
Chỉ có vang xa tiếng thác cƣời.
(Thác Bản Giốc)
Hình ảnh ngựa thồ, đèo cao, phiên chợ của ngƣời miền núi trong thơ
Hoàng Trung Thông cũng tập trung phản ánh cuộc sống đang lên của ngƣời
dân miền núi (Chợ Cô Sầu). Có khi là sự phản ánh cuộc chiến đấu của đồng
96
bào miền núi hoà chung với cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của toàn dân
tộc:
Ngựa thồ ơi ngựa thồ
Cùng ngƣời đi chiến đấu
Ngựa quản gì đói no
Xông pha trong lửa máu.
(Ngựa thồ)
3.3.1.3. Hình ảnh rượu và em
Thơ Hoàng Trung Thông do bám sát đời sống hiện thực để phản ánh nên
nhiều khi tỉnh táo quá, thiếu chất men say của ngòi bút thơ. Nhƣng càng về
cuối đời thơ ông càng phong phú, đa dạng. Thơ ông cũng bay, cũng say chứ
không còn tỉnh khô nhƣ trƣớc. Bắt đầu từ tập Hương mùa thơ đến Tiếng thơ
không dứt rồi Mời trăng thơ ông trở nên suy tƣ hơn, nhiều chiêm nghiệm của
ngƣời từng trải. Ông viết thơ tình và cũng gây đƣợc sự chú ý và có bản sắc
riêng. Đáng nói hơn cả là thơ ông thời kỳ này đầy những hình ảnh rƣợu và
em. Rƣợu thấm đẫm trong thơ ông và hình ảnh em luôn chập chờn ẩn hiện
giữa các dòng thơ, trong từng câu chữ.
Hình ảnh rƣợu trong thơ đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí
kim. Ngƣời đọc vẫn còn nhớ mãi những câu thơ Đƣờng nói tới rƣợu:
– Cử bôi tiêu sầu, sầu cách sầu
Trìu đao đoạn thuỷ, thuỷ cách lƣu.
– Khuyến quân cách tận nhất bôi tửu
Dù ngã đồng tiêu vạn cổ sầu.
Cũng ít ai quên những câu thơ thấm đẫm rƣợu trong thơ ca Việt Nam:
97
– Sống không dốc chén cạn bình
Sau này ai tƣới mộ mình rƣợu cho.
(Tản Đà - bản dịch)
– Trăm năm thơ trữ rƣợu bầu
Ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai.
(Tản Đà)
Thơ Hoàng Trung Thông cũng thấm đẫm rƣợu. Ông cũng nhƣ Tản Đà
hay các nhà thơ khác là một trong những đệ tử tài ba của Lƣu Linh, Đế Thích.
Ông đã từng tự hào: “tửu lƣợng ta nào có kém ai”. Nhƣng điều ta quan tâm
hơn là hình ảnh rƣợu trong thơ Hoàng Trung Thông có gì đặc sắc? Trƣớc hết
rƣợu trong thơ ông đơn thuần chỉ nói tới một nhu cầu, một thú vui của con
ngƣời trần thế. Cho nên khi phải chừa rượu thì tâm trạng con ngƣời trần thế
này đây dằn vặt, đấu tranh:
Ngày xuân ta chừa rƣợu
Uống rƣợu có ích gì
Thà sáng mai tản bộ
Không rƣợu có cần chi.
(Chừa rượu)
Nói là “Không rƣợu có cần chi” nhƣng thực ra là rất cần, chẳng khác nào
tâm trạng của Phạm Thái trƣớc đây:
Những lúc say sƣa cũng muốn chừa
Muốn chừa nhƣng tính lại hay ƣa
Hay ƣa nên nỗi không chừa đƣợc
Chừa đƣợc nhƣng mà cũng chẳng chừa.
98
(Phạm Thái)
Hình ảnh rƣợu trong thơ Hoàng Trung Thông còn chứa đựng một nội
dung thế sự. Ông mƣợn hình ảnh rƣợu để tâm sự về tình đời, tình ngƣời.
Trong cuộc đời mỗi con ngƣời không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Không
phải dự định nào cũng thực hiện đƣợc, ƣớc muốn, kế hoạch nào cũng thành
công.
Tôi muốn uống rƣợu trong
Lại phải uống rƣợu đục
Chao! Sông cũng nhƣ ngƣời
Có khúc và có lúc.
(Tứ tuyệt)
Hình ảnh rƣợu trong thơ Hoàng Trung Thông có khi lại là sự thể hiện
tình bạn luôn gắn bó keo sơn giữa những con ngƣời tri kỷ.
Thế rồi ta cất chén cùng tri âm
Không phải chén quỳnh đâu đừng trầm ngâm
Một mình ta mời trăng mời bạn
Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm.
(Mời trăng)
Hoàng Trung Thông học tập Lý Bạch, Lý Bạch mời trăng và quay sang
mời bóng còn Hoàng Trung Thông thì mời trăng và tƣởng nhớ một hồn bè
bạn đã đi xa:
Bạn uống rƣợu lòng ta không thể chán
Ta thƣơng ta, thƣơng ngƣời xa thƣơng thầm.
99
(Mời trăng)
Rƣợu trong thơ Hoàng Trung Thông còn có một ý nghĩa độc đáo: Đôi
khi nhà thơ đánh đồng rƣợu với em. Hình ảnh rƣợu và em hoà quyện khiến
ngƣời đọc có cảm tƣởng thơ với rƣợu đã góp phần tạo nên em. Nhà thơ so
sánh “em nhƣ rƣợu” và tâm sự:
Anh yêu em nhƣ rƣợu và thơ
(Em như rượu)
Hoàng Trung Thông viết thơ tình ở tuổi năm mƣơi và cũng có những độc
đáo riêng. Thơ ông càng về sau càng lặp đi lặp lại hình ảnh em. Phải chăng
đây chính là hình ảnh ngƣời bạn đời chịu khổ chịu thƣơng đã cùng ông đi gần
suốt chặng đƣờng đời. Thơ Hoàng Trung Thông càng về sau càng tỏ ra có
nhiều chiêm nghiệm, nghĩ suy và ông cũng có nhiều vần thơ viết về ngƣời bạn
đời thuỷ chung son sắt (Tặng vợ, Sao?, Hai tính cách, Sao em nói quá nhiều,
Em thích gì, Em như rượu, Chiều nhớ, Chờ…). Hình ảnh em trong thơ Hoàng
Trung Thông có khi thể hiện tình cảm sự cảm thông với nỗi nhọc nhằn, vất vả
của vợ (Tặng vợ), có khi là sự chiêm nghiệm, nghĩ suy về cả hai ngƣời (hai
tính cách) cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng đáng yêu (Sao em nói quá
nhiều) và còn là cảm giác trống vắng, đợi chờ mong mỏi (Chiều nhớ, Chờ)…
Tóm lại: Rƣợu và thơ là hình ảnh độc đáo lặp đi lặp lại trong thơ Hoàng
Trung Thông, nhất là ở chặng cuối (gồm cả thơ di cảo). Hình ảnh này cũng là
một dụng ý nghệ thuật của tác giả và nó đã góp phần tạo nên bản sắc riêng
cho thơ Hoàng Trung Thông.
Hoàng Trung Thông thuộc lớp nhà thơ trƣởng thành trong kháng chiến.
Ông vẫn ít nhiều chịu ảnh hƣởng của thơ luật Đƣờng và nhờ thế thơ ông
nhiều bài chứa chan phong vị cổ điển. Tuy nhiên thơ Hoàng Trung Thông chủ
yếu là thể tự do, ông ít khi viết theo một thể thơ mà đan xen nhiều thể trong
100
một bài. Nhà thơ sử dụng nhiều hình ảnh, mô típ mang tính lặp lại. Đó là mô
típ: Kẻ thù dã man tàn bạo và tƣ thế hiên ngang của ngƣời dân yêu nƣớc.
Hình ảnh ông hay dùng là hình ảnh những con đƣờng; những bƣớc đi; những
hình ảnh gắn bó với nông thôn, miền núi; hình ảnh rƣợu và em thấm đẫm
trong thơ Hoàng Trung Thông.
3.3.2. Mô típ: Kẻ thù tàn ác, dã man, hèn hạ và tƣ thế hiên ngang của
ngƣời dân yêu nƣớc.
Ở những nhà thơ phong cách đã định hình, nhất là các nhà thơ lớn thì sự
lặp lại mô típ, hình ảnh là tất yếu bởi chính sự lặp lại ấy làm nên phong cách
nhà thơ. Mô típ đƣợc hiểu là những “khuôn” “dạng”, “kiểu” nhằm chỉ những
thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã đƣợc hình thành ổn định, bền vững
và đƣợc sử dụng nhiều lần trong các sáng tác văn học, nghệ thuật.
Trong thơ Hoàng Trung Thông, mảng thơ viết về cuộc chiến đấu anh
dũng chống ngoại xâm của nhân dân ta, mô típ: Kẻ thù tàn bạo, dã man, hèn
hạ và tƣ thế hiên ngang của ngƣời dân yêu nƣớc đƣợc sử dụng lặp đi lặp lại
nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Mô típ này hoàn toàn phù hợp với
cảm hứng viết về đời sống chiến đấu của nhân dân ta. Mô típ này đƣợc Hoàng
Trung Thông sử dụng phổ biến trong tập thơ đầu Quê hương chiến đấu.
Trong nhiều bài thơ đều có hình ảnh “Kẻ thù đi đến đâu có tàn phá, giam cầm,
bắn giết đến đấy và vƣợt lên trên bộ mặt dã man hèn hạ của kẻ thù là tƣ thế
hiên ngang của ngƣời dân yêu nƣớc”. [61,tr.286].
Trong Đồng bằng, quê hương chiến đấu nhà thơ Hoàng Trung Thông đã
vạch trần bộ mặt dã man, tàn bạo của kẻ thù bằng những câu thơ chắc thật
nhƣ hiện thực vốn có:
Đêm đêm từng tràng đại bác
101
Từ trong bốt giặc,
Dội về xóm thôn
Những bà mẹ bế con
Chạy Tây càn cực nhọc
Những bé em gào khóc
Trong quán lạnh bên đƣờng
Mỗi tấc ruộng bờ nƣơng
Mỗi gốc cây hòn đá
Đều nói lên tất cả
Tội ác của quân thù
Nói mãi đến nghìn thu
Vẫn còn chƣa hả.
(Đồng bằ, quê hương chiến đấu)
Kẻ thù dù có dã man tàn bạo đến đâu cũng không khuất phục nổi tình
yêu quê hƣơng đất nƣớc sâu nặng thiết tha và tinh thần chiến đấu anh dũng
hiên ngang của nhân dân ta:
Ơi đồng bằng!
Quê hƣơng anh dũng.
Ngày đêm không ngớt súng
Bộ đội ta công đồn.
Vút tiếng mìn vút lại tiếng bom
Nổ trên đƣờng cái.
102
Những con đƣờng nát mình phá hoại
Những chiếc cầu mặt gục xuống lòng sông
Những hầm ngầm, những chiến luỹ giao thông
Nhƣ hang chuột chạy dài dƣới đất.
Mỗi mảnh ruộng
Mỗi góc hầm bí mật,
Những bóng ngƣời du kích hiện lên
Ngƣời dân cày địch hậu ngày đêm
Cầm giáo mác
Giữ gìn xóm mạc.
(Đồng bằng, quê hương chiến đấu)
Trƣớc sự tàn phá, bắn giết dã man của quân thù, ngƣời dân yêu nƣớc có
những thời điểm phải tạm thời rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực
lƣợng. Tuy vậy, tinh thần chiến đấu của họ cũng vẫn rất anh dũng kiên cƣờng
mặc dù “cuộc sống ở hầm, gian khổ không nói hết”:
Đồng chí ta ngày đêm
Sống trong hầm bí mật
Bám làng, bám đất
Bám chặt lấy lòng dân.
(Sống trong hầm bí mật)
Mô típ này cũng đƣợc thể hiện rất rõ ràng trong bài thơ Sông Hồng Hà.
Bài thơ vẫn xoay quanh lối lập ý: tội ác của giặc, tƣ thế hiên ngang, anh dũng
của nhân dân ta. Đây là những tội ác mà kẻ thù đi đến đâu gieo rắc đến đấy:
103
Sông Hồng Hà
Máu thắm quê ta.
Dòng sông rộng nối hai vùng địch hậu.
Đồng bằng đấy,
Tháng năm dài chiến đấu.
Xóm làng ta xơ xác luỹ tre xanh
Từng gốc đa bãi nhãn tan tành,
Từng ruộng mạ, mái nhà gianh bốc cháy.
(Sông Hồng Hà)
Và đây là tinh thần chiến đấu anh dũng, quật cƣờng của cả dân tộc ta từ
những em bé đến cụ già tóc bạc ở khắp mọi nơi:
Thù đang trả từng giờ,
Ai có thấy?
Trên bãi mìn
Trên mỗi hố chông?
Những đàn em bé nhỏ cũng anh hùng
Những bà cụ cũng thành du kích.
(Sông Hồng Hà)
Trong nhiều bài thơ khác trong tập quê hương chiến đấu đều đi theo mô
típ nói trên. Cách lặp lại mô típ thế cũng là một đặc điểm độc đáo góp phần
thể hiện đời sống chiến đấu và làm nên phong cách riêng cho thơ Hoàng
Trung Thông.
104
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ngay từ những năm 60 vấn đề phong cách nghệ thuật thơ Hoàng
Trung Thông đã đƣợc giới nghiên cứu phê bình văn học quan tâm đến. Thời
điểm này thơ Hoàng Trung Thông mới chỉ đƣợc đánh giá bƣớc đầu mang
dáng dấp của một phong cách nghệ thuật. Càng về sau phong cách nghệ thuật
thơ Hoàng Trung Thông càng ổn định và định hình mang bản sắc riêng. Bản
sắc riêng ấy đƣợc nhà thơ thể hiện ở cả phƣơng diện nội dung và phƣơng diện
nghệ thuật.
2. Những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông là một khía cạnh
quan trọng trong phƣơng diện nội dung. Hoàng Trung Thông là nhà thơ gắn
bó sâu sắc với đời sống nông thôn. Nhờ gắn bó sâu sắc với đời sống nông
nghiệp và mỗi chặng đƣờng thơ, ông đều có những sáng tác xung quanh lĩnh
vực này mà ngƣời đọc cảm nhận rất rõ: Đời sống nông nghiệp là một trong
những cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông. Cảm hứng này đã thể
hiện khá phong phú các sắc độ, phƣơng diện của đời sống lao động nông
nghiệp.
Hoàng Trung Thông thuộc lớp nhà thơ sinh ra, lớn lên trƣởng thành cùng
cách mạng. Không khí cách mạng, hiên thực kháng chiến vĩ đại của đất nƣớc,
dân tộc hàng ngày thấm đẫm, ăn sâu vào trong máu thịt của ngƣời cầm bút.
Có lẽ vì thế không có nhà thơ nào lại không viết về công cuộc kháng chiến
cứu nƣớc vĩ đại của dân tộc. Hoà vào xu hƣớng chung đó Hoàng Trung
Thông đã thể hiện rõ nét trong các tập thơ của mình hiện thực kháng chiến
của đất nƣớc, của đồng bằng chiến đấu. Đây cũng chính là một trong những
cảm hứng lớn trong thơ Hoàng Trung Thông.
Bên cạnh hai nguồn cảm hứng lớn nói trên thơ Hoàng Trung Thông còn
có nguồn cảm hứng chủ đạo khác: Đời sống tình cảm. Nguồn cảm hứng này
105
đã bổ sung cho sự thiếu hụt của thơ ông trƣớc đó. Những tập thơ đầu không ít
ý kiến cho rằng thơ ông ít chất say mê nồng ấm, cứng quá, khô quá, càng về
sau thơ ông càng phong phú đa dạng hơn và cũng không thiếu chất men say
cần có của thơ.
3. Những xu hƣớng chính trong thơ Hoàng Trung Thông là một khía
cạnh quan trọng thứ hai trong phƣơng diện nội dung của phong cách nghệ
thuật thơ ông. Nhà thơ luôn bám chắc vào đời sống thực tế nên thơ vừa nặng
chất sống vừa thắm thiết lung linh. Vẫn bám chắc vào hiện thực đời sống
đang vận động trên đất nƣớc nhƣng càng về sau Hoàng Trung Thông càng có
ý thức suy ngẫm để gia tăng tính khái quát cho thơ. Đó cũng là xu hƣớng phát
triển chung của thơ thế hệ ông và rộng ra là cả nền thơ ca cách mạng qua hai
cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Truyền thống thơ nƣớc ta nói chung mang tinh thần duy cảm. Thơ trƣớc
hết nhằm tác động vào trái tim ngƣời. Thơ là tiếng nói của tâm hồn, tiếng hát
của con tim. Thơ Hoàng Trung Thông cũng vậy. Nhƣng thơ cũng là một hoạt
động nhận thức. Tuy không phải lá cờ đầu nhƣng Hoàng Trung Thông cũng
có ý thức tăng cƣờng sức mạnh nhận thức, khám phá cho thơ. Thơ Hoàng
Trung Thông ban đầu là phản ánh biểu hiện nhƣng càng về sau càng gia tăng
sự khái quát về các phƣơng diện, các nội dung. Chính sức khái quát, sự tổng
hợp trong thơ ông là tiền đề, là bệ phóng để nâng cánh cất cao lên tầm chính
luận.
4. Phong cách thơ Hoàng Trung Thông không chỉ đƣợc thể hiện ở
phƣơng diện nội dung mà còn đƣợc thể hiện ở phƣơng diện nghệ thuật. Hai
phƣơng diện này bổ sung cho nhau và tôn nhau lên, hoà thành một thể thống
nhất.
106
Trƣớc hết phải kể tới giọng điệu ngôn ngữ. Nhịp thơ, hơi thở của Hoàng
Trung Thông không phải không có lúc uyển chuyển nhƣng nói chung nổi trội
là giọng rắn rỏi, chắc khoẻ. Ông thƣờng dùng ngôn ngữ đƣợc rút ra từ cách
nói dung dị chắc thật của quần chúng.
Về thể thơ, Hoàng Trung Thông có sử dụng thể thơ thuần nhất, truyền
thống: 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ… tạo màu sắc cổ điển và nhiều bài chứa chan
phong vị Đƣờng thi, nhƣng nhìn chung nhà thơ sáng tác theo thể thơ tự do là
chính hoặc phối hợp nhiều thể thơ trong một bài. Thể thơ này giúp ông đi sát
cuộc sống, phản ánh đƣợc những khía cạnh mới của cuộc sống đa dạng, thể
hiện đƣợc cách nhìn nghệ thuật mới của nhà thơ. Thể thơ tự do đã đƣợc
Hoàng Trung Thông vận dụng và tạo hiệu quả nghệ thuật độc đáo. Thể thơ
đó giúp ông thay đổi cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, tạo ra những câu thơ có
cấu trúc ngữ pháp tràn biên, các câu thơ gối sóng lên nhau, câu thơ không
trùng khít với câu ngữ pháp. Hoàng Trung Thông còn có cách ngắt câu thơ
thành câu bậc thang khá đặc biệt có tác dụng nhấn mạnh những sự kiện, hành
động, trạng thái… nằm trong ý đồ của tác giả.
Trong thơ của thi sĩ họ Hoàng có nhiều hình ảnh mô típ lặp lại trong
nhiều bài thơ. Đây là một sự lặp lại mang dụng ý nghệ thuật. Thơ ông thƣờng
đi theo mô típ: Kẻ thù tàn ác, dã mãn, hèn hạ và tƣ thế hiên ngang của ngƣời
dân yếu nƣớc. Hoàng Trung Thông thƣờng nói nhiều tới những con đƣờng,
những bƣớc đi, nhất là trong Đường chúng ta đi và Những cánh buồm. Thơ
ông cũng hay nói về việc đào mƣơng mở suối, về cây, về cánh đồng, làng quê,
về những thác những hồ, những đèo những phiên chợ của ngƣời miền núi.
Nói chung là những hình ảnh gắn bó với nông thôn và miền núi. Những hình
ảnh này góp phần làm cho thơ ông ấm nồng chất hiện thực của đời sống. Và
sẽ là thiếu sót nếu không nói tới hình ảnh rƣợu và em. Rƣợu luôn thấm đẫm
trong thơ ông và bóng hình em luôn chập chờn ẩn hiện trên từng câu chữ. Đây
107
là những hình ảnh góp phần tạo nên chất men say, chất bay bay cần có của
thơ ông.
Thời gian và công luận luôn là sự thách đố với văn chƣơng nghệ thuật
nói chung và thơ ca nói riêng. Song thơ Hoàng Trung Thông nhƣ vẫn vẹn
nguyên giá trị – một thông điệp nghệ thuật đặc sắc mà nhà thơ để lại cho đời.
108