ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGUYỄN THỊ NHƢ DƢƠNG PHONG CÁCH THƠ LÊ ANH XUÂN CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS.TS. Vũ Văn Sỹ Thái Nguyên – 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây chính là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2014
NGƯỜI CAM ĐOAN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nguyễn Thị Như Dương
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp với đề tài: Phong
cách thơ Lê Anh Xuân, tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ của thầy cô giáo trong
khoa Văn, trường Đại học Sư phạn – Đại học Thái Nguyên. Đặc biệt là sự giúp
đỡ của PGS.TS. Vũ Văn Sỹ. Tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy -
Người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình nghiên
cứu để tôi hoàn thành tốt Luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Văn, Khoa sau đại
học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, người thân,
những người đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, 10/04/2014
Học viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Nguyễn Thị Nhƣ Dƣơng
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan ................................................................................................................. i
Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 14
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THẾ HỆ THƠ
CHỐNG MỸ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA LÊ ANH XUÂN ............. 14
1.1. Khái quát về phong cách ....................................................................... 14
1.1.1 Định nghĩa phong cách ..................................................................... 14
1.1.2. Phong cách thời đại ......................................................................... 16
1.1.3. Phong cách tác giả ........................................................................... 17
1.2. Thế hệ thơ chống Mỹ trong nền thơ chiến đấu. ...................................... 18
1.3. Lê Anh Xuân - Ca Lê Hiến, từ người chiến sỹ cầm bút đến người anh
hùng nghệ sĩ ................................................................................................... 23
1.3.1. Lược về tiểu sử và cuộc đời ............................................................. 23
1.3.2. Lược về sự nghiệp sáng tác ............................................................. 26
Chƣơng 2: CẢM HỨNG TRỮ TÌNH LÃNG MẠN TRONG TRẺO GIÀU
CHẤT LÝ TƢỞNG - NÉT ĐẶC TRƢNG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
THƠ LÊ ANH XUÂN ...................................................................................... 29
2.1. Chất trữ tình sử thi thuần phác, trong trẻo về quê hương và đất nước ... 29
2.1.1. Quê hương miền Nam trong kí ức ................................................... 29
2.1.2. Quê hương miền Bắc, chiếc nôi của lý tưởng ................................. 35
2.1.3. Quê hương trong khói lửa chiến đấu ............................................... 41
2.2. Cái nhìn lý tưởng hóa về các nhân vật trữ tình ...................................... 47
2.2.1. Em gái miền Nam ............................................................................ 47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
2.2.2. Anh giải phóng quân ....................................................................... 51
2.3. Thiên trường ca đậm chất tình ca ........................................................... 54
Chƣơng 3: NÉT NỔI BẬT THI PHÁP TRONG THƠ LÊ ANH XUÂN ... 60
3.1. Hệ thống hình ảnh, biểu tượng ............................................................... 60
3.1.1. Cây dừa ............................................................................................ 60
3.1.2. Dòng sông ........................................................................................ 63
3.1.3. Đất .................................................................................................... 66
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu ......................................................................... 69
3.2.1. Ngôn ngữ ......................................................................................... 69
3.2.2. Giọng điệu ....................................................................................... 76
PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 88
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong dàn đồng ca thế hệ trẻ của nền thơ chống Mỹ cứu nước, Lê
Anh Xuân đã để lại một di sản có số lượng không lớn: 60 bài thơ, một bản
trường ca và một tập văn xuôi. Nhiều bài thơ cả ngắn cả dài “còn có sự vội
vàng chƣa kịp gọt rũa công phu”, nhưng đó là sản phẩm của một trái tim nhiệt
huyết và có cốt cách, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn học Việt Nam
hiện đại. Thơ Lê Anh xuân là tiếng nói của người con Bến Tre, tiếng nói của
người con miền Nam anh dũng. Giọng thơ Lê Anh Xuân chân thành, trong
sáng, hồn nhiên mà đằm thắm, chan chứa tình yêu quê hương, đất nước, khao
khát được dâng hiến tuổi trẻ cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
1.2. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã góp phần không
nhỏ vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Để có một nền thơ ca đáng trân trọng và
tự hào như vậy, chúng ta không thể không nhắc đến đội ngũ những cây bút trẻ
đầy tài năng và đầy nhiệt huyết như Bằng Việt, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm
Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương…. . Trong đội ngũ thế
hệ trẻ của nền thơ chống Mỹ, Lê Anh Xuân được đánh giá là một nghệ sỹ ngôn
từ đã "làm tròn sứ mệnh lịch sử với dân tộc và thời đại”. Ông ngã xuống trên
chiến trường miền Nam ở tuổi đời hai mươi tám, nêu một tấm gương sáng về
lòng say mê lý tưởng, về lẽ sống cao đẹp và nghĩa cử trong sáng tạo thi ca - một
biểu tượng tinh thần dân tộc đã “tạc vào thế kỷ” chiến tranh và cách mạng.
1.3. Cho đến nay đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về
Lê Anh Xuân đăng trên các tuần báo văn nghệ, văn học, tạp chí văn học,
giáo trình, sách tham khảo về văn học... Kế thừa sự gợi ý của những người đi
trước chúng tôi chọn đề tài Phong cách thơ Lê Anh Xuân để tiếp tục nghiên
cứu đồng thời cũng là nén tâm nhang tưởng niệm một nhà thơ chiến sỹ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
người anh hùng liệt sĩ đã “ngã tồn ngã huyết dĩ can nguyên” (lấy máu đào
bảo vệ non sông), dồn sức lức lên ngọn bút, để lại những tác phẩm mẫu mực
cho thế hệ mai sau.
2. Lịch sử vấn đề
Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân sáng tác thơ trước khi tập kết ra Bắc (1954)
nhưng thơ ông chỉ thực sự được giới nghiên cứu phê bình chú ý kể từ khi có bài
Nhớ mƣa quê hƣơng đoạt giải nhì, giải thưởng Tạp chí Văn nghệ 1961. Kể từ
đó cho đến nay có đến hàng mấy chục công trình nghiên cứu, bài viết, giới
thiệu, phê bình về con người và thơ của Lê Anh Xuân của các tác giả: Hoài
Thanh, Trang Nghị, Minh Tuyền, Bảo Định Giang, Nguyễn Chí Bền, Hàn Anh
Trúc, Trần Hữu Tá, Nguyễn Mạnh Thường, Hoàng Như Mai, Nguyễn Đức
Quyền, Huỳnh Lý, Bích Thu Lê Lưu Oanh, Vũ Văn Sỹ, Bùi Công Hùng, Vũ
Duy Thông, Mã Giang Lân, Nguyễn Bá Long,...Với hai tập thơ, một bản
trường ca, một truyện ngắn, Lê Anh Xuân đủ để lại trong lòng người đọc những
dấu ấn sâu sắc không thể phai mờ và đủ để khẳng định vị trí tỏa sáng trong nền
thơ chống Mỹ.
2.1. Các bài viết, công trình nghiên cứu và ý kiến đánh giá về cuộc đời, sự
nghiệp và thơ Lê Anh Xuân
Như đã nói ở trên, Lê Anh Xuân là một nhà thơ – một người chiến sỹ đã
sống tuổi thanh xuân vô cùng trong sáng và đầy ý nghĩa, đã chiến đấu và hy
sinh cho lý tưởng cao đẹp: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thơ
ông đã nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu và phê bình văn học. Các
bài viết được đăng chủ yếu là dưới góc độ nghiên cứu văn học. Trong đó có
nhiều bài được chọn lọc in chung trong một cuốn sách, một số bài được trong
giáo trình văn học giai đoạn 1945 – 1975. Chúng tôi xin điểm lại tình hình
nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của ông như sau:
Năm 1966, Diệp Minh Tuyền có bài viết đăng trên Tạp chí văn học .
Bài viết nói về tình yêu quê hương trong thơ Lê Anh Xuân như sau: “không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ai có cái điệu rầu rầu của ca khúc bi quan mà chỉ có âm điệu vui tƣơi của
những bài ca lạc quan cách mạng” [46, tr.99]. Bài viết này có những nhận
xét tinh tế về thế giới nghệ thuật trong thơ Lê Anh Xuân khi ông mới có tập
Tiếng Gà gáy ra đời.
Năm 1968, Hoài Thanh - nhà phê bình văn học hàng đầu nước ta đương
thời có hai bài viết liền nhau đăng trên Tạp chí văn học số 9 và số 10/1968. từ
đó, thơ Lê Anh Xuân trở nên quen thuộc hơn với độc giả và được độc giả đón
nhận nhiều hơn.
Ở bài viết "Tiếng gà gáy” của Ca Lê Hiến hay tâm sự của một thanh
niên tập kết" đăng trên Tạp chí Văn học số 9/1968 ở đoạn mở đầu Hoài Thanh
đã tâm sự: “Đã từ lâu tôi có ý định viết về tập thơ này nhƣng cứ vƣớng lẽ này
lẽ khác không viết đƣợc. Đến nay mới viết thật là quá muộn. Nhƣng muộn cũng
cứ viết vì không thể nào không viết” [42, tr.38]. Có thể nói, ngay từ khi mới ra
đời tập thơ Tiếng gà gáy đã đem đến cho nhà phê bình Hoài Thanh một tình
cảm đặc biệt, nó khiến ông phải “muộn cũng cứ viết vì không thể nào không
viết”. Hoài Thanh khẳng khái nhận định:“Trong số những nhà thơ trẻ của
chúng ta, rõ ràng Ca Lê Hiến là một trong số những nhà thơ xuất sắc nhất”.
Theo Hoài Thanh, Tiếng gà gáy báo hiệu một tâm hồn thơ tươi sáng, một dòng
cảm xúc nhẹ nhàng, giản dị mà ngọt ngào, một tiếng nói trữ tình đằm thắm,
thiết tha mà sâu lắng: “Những kí ức trong thơ Ca Lê Hiến luôn luôn hồn nhiên
và trong sáng. Vì đó là kí ức tuổi thơ. Vì ngƣời làm thơ vẫn còn giữ nguyên
đƣợc của tuổi thơ cái nhìn hồn nhiên trong sáng” [42, tr.45].
Ở bài viết thứ hai: “Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng của một ngƣời
thanh niên trên tiền tuyến lớn”. Trong bài viết này, Hoài Thanh giới thiệu
những sáng tác của Lê Anh Xuân kể từ khi nhà thơ trở về miền Nam chiến
đấu, chủ yếu tập trung ca ngợi con người miền Nam và cuộc sống mới đang
diễn ra ở miền Bắc. Hoài Thanh cho rằng: “Đây là tiếng nói của một ngƣời
thanh niên. Lê Anh Xuân đang ở lứa tuổi mà một ánh nhìn trong, một nụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cƣời xinh, một dáng đi mềm mại, một bàn chân đẹp, một làn hƣơng đều có
thể gây xao xuyến sâu ắc trong lòng”. Theo Hoài Thanh, tập Hoa dừa và
Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi vẫn tiếp nối mạch cảm xúc trữ tình và cái nhìn
có chiều sâu lịch sử từ tập thơ Tiếng gà gáy. Nhưng khi đã trực tiếp đối mặt
với khói lửa chiến tranh cộng hưởng với vốn sống thực tế đã dày dặn lên
theo năm tháng, tâm hồn thơ của Lê Anh Xuân trở nên kiên định, trong trẻo,
và đầy nhiệt huyết. Hoài Thanh cho rằng thơ Lê Anh Xuân viết ở chiến
trường có độ say tình yêu và say lý tưởng: “lý tƣởng đó là niềm say mê lớn
nhất của đời anh”, Say mê không có nghĩa là cuồng nhiệt và ồn ào đến độ
làm cho chất thơ trở nên trống rỗng, thiếu thực tế mà ngược lại nó tạo nên
chất trữ tình đằm thắm, ngọt ngào sâu lắng [41, tr.277].
Trong bài phê bình Thơ Lê Anh Xuân với tập thơ "Hoa Dừa” và trƣờng
ca "Nguyễn Văn Trỗi” nhà văn Trang Nghị cho rằng: “Âm điệu phấn khởi,
trong sáng vang lên trong từng câu, từng chữ của Lê Anh Xuân. Tình yêu quê
hƣơng tha thiết đến đau nhói, tính dân tộc đậm đà, chất trữ tình đằm thắm nổi
lên trong suốt tập Hoa dừa” [9, tr49,50]. Đặc biệt nhà văn còn rất tinh tế khi
phát hiện ra chất giọng sở trường của Lê Anh Xuân: “Anh thích nói bằng một
giọng điệu trầm trầm, nhẹ nhàng những vấn đề to lớn, sôi sục của thực tế chiến
đấu và sản xuất của đồng bào miền Nam. Và cái ngôn ngữ ấy, cái giọng điệu
ấy có lẽ thích hợp, sở trƣờng đối với anh hơn”[9, tr.50]. Đến cuối bài viết nhà
văn đưa ra nhưng nhận xét: "Còn có sự vội vàng chƣa kịp gọt rũa công phu,
còn thiếu cái nhiều mặt của đề tài, chiều sâu của suy tƣởng, nhƣng cái dồi dào
nhất của tập thơ là tấm lòng của anh đối với quê hƣơng đang chiến đấu, tâm
hồn của anh với lý tƣởng cách mạng mà anh tin yêu, là sự say mê của anh đối
với thơ ca ngày đêm anh miệt mài sáng tạo. Những cái đó đã tạo thành chất
thơ trữ tình thắm thiết của anh” [9, tr. 52].
Trong Văn học giải phóng miền Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp Hà Nội 1976, Phạm Văn Sỹ có dành hẳn chương mười ba viết về thơ Lê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Anh Xuân và tập Hoa Dừa: “Nổi bật trƣớc tiên trong Hoa dừa là tình cảm của
tác giả đối với đất mẹ quê hƣơng. Đây là thứ tình cảm nồng nhiệt, vồ vập của
đứa con đi xa lâu mới trở về. Nhà thơ đi chân đất, cho chân mình ngập trong
bùn đất, bƣớc trên những trồi non nhọn sắc mới mọc sau trận na – pan để sống
cái cảm giác trực tiếp gắn bó với đất, để nghe hơi thở ấm áp của đất, nghe
thấm vào mình sự sống của đất mẹ quê hƣơng” [33].
Với bài “Thơ Lê Anh Xuân”, in trong Giáo trình văn học Việt Nam
tháng 10/1977, Huỳnh Lý đã có những nghiên cứu khá chi tiết về nội dung
và nghệ thuật thơ Lê Anh Xuân: “Thơ Lê Anh Xuân trƣớc hết là thơ ca ngợi
không dè dặt cuộc sống chiến đấu và lao động ở hai miền Nam Bắc, thơ anh
cũng là thơ mang tình yêu quê hƣơng thắm thiết, thơ của những tình cảm
tƣơi mát, hồn nhiên, trong sáng”. Huỳnh Lý còn nói về nghệ thuật thơ của
Lê Anh Xuân như sau: “Ngôn ngữ thơ Lê Anh Xuân là một ngôn ngữ tình
cảm, hồn nhiên, thật thà, tƣơi trẻ, trong sáng”; “Phải nói rằng, các chức
năng của thơ – của văn nghệ nói chung – Lê Anh Xuân đều đạt đƣợc ở mức
khá cao, riêng có chức năng thẩm mĩ thì chƣa đƣợc nâng lên ngang hàng với
giáo dục và nhận thức”.
Trong tuyển tập Thơ Lê Anh Xuân (NXB văn học, H.1981) ở Lời giới
thiệu NXB Văn học đã viết: "Ngay từ những bài thơ đầu tiên ngƣời ta đã nhận
ra một phong cách riêng: chân thành, hồn nhiên mà trữ tình, đằm thắm, giản
dị, trong sáng nhƣng không kém phần tinh tế sâu lắng”.
Bích Thu với bài Lê Anh Xuân in trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện
đại, Nxb Khoa học xã hội, 1984, đã phân tích khá cụ thể về nội dung và nghệ
thuật theo trình tự từ tập Tiếng gà gáy đến Hoa dừa và Trƣờng ca Nguyễn
Văn Trỗi. Theo Bích Thu: “Tình yêu quê hƣơng đƣợc Lê Anh Xuân thể hiện
qua cái tôi trữ tình giàu cảm xúc, tinh tế” và “Tình yêu quê hƣơng và lòng
khao khát đƣợc trở về là giai điệu nổi bật tạo nên chất trữ tình trong sáng,
trẻ trung trong thơ Lê Anh Xuân”. Đến tập Hoa Dừa: “Nguồn mạch quê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hƣơng đƣợc khơi dậy trong Tiếng gà gáy đến đây càng chảy xiết hơn, mạnh
mẽ hơn. Tình yêu quê hƣơng ấy đã hòa thấm một cách tự nhiên với lí tƣởng
cách mạng”. “Thơ Lê Anh Xuân bao giờ cũng có sự hòa quyện giữa cái tôi
và cái ta, giữa cái riêng và cái chung. Cái tôi của anh bao giờ cũng đƣợc
đặt trong mạch sống của quê hƣơng”.
Trong bài viết “Thơ Lê Anh Xuân với đất nƣớc, con ngƣời Bến Tre” của
Thạch Trung, tác giả bình luận: "Cái độc đáo, cái làm cho thơ Lê Anh Xuân
sống mãi phải chăng một phần lớn là do cái chất mộc mạc nhƣng duyên dáng
không rơi vào quê mùa, thô kệch đƣợc truyền từ con ngƣời, thổ ngơi, sông
nƣớc Bến Tre?” [48, tr.90].
Trong cuốn Văn học tình yêu của tôi, Nxb Khoa học xã hội, năm 2001,
Nguyễn Kim Hoa có bài “Nhà thơ – chiến sĩ Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân”, tác
giả đã đi nghiên cứu chuyên sâu về con người, sự nghiệp của nhà thơ, đồng thời
phân tích hai tập thơ Tiếng gà gáy và Hoa Dừa. Tác giả viết: “Anh đã để lại
một tấm gƣơng sáng ngời của một nhà thơ – chiến sĩ, một ngƣời nghệ sĩ chân
chính đã gắn chặt với sự nghiệp, vận mệnh của dân tộc, của Tổ Quốc”; “Giản
dị mộc mạc mà vẫn mặn mà, duyên dáng, thơ Lê Anh Xuân không nói cái gì xa
lạ cả. Nó chỉ nói lên tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng, ý chí và hành động của
chúng ta mà thôi”.
Trong Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, tác giả Mã Giang Lân cũng đã
có những nhận xét xác đáng, chân thực về thơ Lê Anh Xuân: "Đó là một nhà
thơ giàu kỷ niệm, có nhiều bài da diết nhớ quê hƣơng và nhiều vần thơ xúc
động về Hà Nội, về miền Bắc”.
Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, (tập 3), Nguyễn Đăng
Mạnh chủ biên cũng đã có bài viết của tác giả Lê Quang Hưng về Lê Anh
Xuân và thơ Lê Anh Xuân. Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu về
tiểu sử, các tác phẩm đã xuất bản cũng như nội dung và nghệ thuật trong thơ
Lê Anh Xuân. Lê Quang Hưng viết: " Thơ Lê Anh Xuân là tiếng ca trong trẻo,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mê say của một tâm hồn hồ hởi tha thiết tin yêu trƣớc cuộc đời. Tiếng thơ ấy
nhƣ cơn mƣa đầu hạ, dạt dào, tƣơi mát, nhƣ dòng sông mải miết băng băng
về phía trƣớc”. Nói về giọng thơ của Lê Anh Xuân, tác giả nhận xét thơ Lê
Anh Xuân là một giọng điệu trữ tình riêng rất khó lẫn: “Cái giọng ấy phản
ánh rất tự nhiên, rất chân thật một tâm hồn, một lối cảm nghĩ, một cách sống.
Đó là điều đáng quý bởi không ít ngƣời làm thơ từng uốn giọng, từng giả
giọng ngƣời này ngƣời nọ”.
Đến Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, 2004, Đỗ Đức Hiểu chủ biên
cũng đã dành hai trang viết về thơ Lê Anh Xuân do Trần Hữu Tá biên soạn.
Tác giả bài viết đã có những nhận định khái quát về nội dung thơ văn và đưa ra
những kết luận về sự đóng góp của nhà thơ Lê Anh Xuân: “Thơ Lê Anh Xuân
mang sắc thái riêng, vừa bằng giọng nhỏ nhẹ tâm tình, vừa bằng cảm hứng lịch
sử mang ý nghĩa triết luận khá sâu sắc… Tính hàm súc của thơ ông chƣa cao,
những bài có tứ thơ hoàn chỉnh độc đáo chƣa nhiều”.
Trong Giáo trình văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945,
Nxb Đại học sư phạm, 2009, Nguyễn Văn Long (chủ biên), có viết: “Trong thơ
Lê Anh Xuân, một vùng quê Nam bộ thân yêu với những rặng trâm bầu, một
hàng bình bát, một bóng dừa xanh, một bông súng nở xòe cánh quạt trên mặt
ao, một dòng sông tuổi thơ cùng với những con ngƣời kiên trung, anh dũng
hiện lên trong tâm trí xao xuyến, bồi hồi, đầy xúc động của nhà thơ”.
Năm 2011, Nxb Văn hóa Văn nghệ đã giới thiệu cuốn Nhật kí Lê Anh
Xuân, trong cuốn sách này PGS. TS Đoàn Đức Phương – TS. Diêu Lan Phương
đã viết rằng: “Thơ anh và chính cuộc đời anh đều thể hiện sự gắn bó máu thịt
với quê hƣơng đất nƣớc, với nhân dân, với đồng đội. Có thể nói anh là ngƣời
ghi lịch sử bằng thơ”. Còn PGS.TS Phạm Thành Hưng cho rằng: “Đọc một số
bài thơ anh, tôi cảm thấy thơ anh nhƣ dấu nối của hai thời thơ: thời thơ ca đấu
tranh thống nhất đất nƣớc với nguồn cảm xúc “hƣớng về Nam” và thời thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chống Mỹ. Chính việc anh từ giã giảng đƣờng đại học, lên đƣờng vƣợt Trƣờng
Sơn trở về quê hƣơng cũng là một dấu nối – dấu nối vật chất, làm tiền đề cho
dấu nối của hai thời thơ Việt Nam”.
Trong cuốn Nhà văn trong nhà trƣờng Lê Anh Xuân, Nxb Giáo dục năm
1999. Hải Hà khẳng định: “Trong thơ Lê Anh Xuân ngoài nhạy cảm của con
ngƣời thi sĩ, anh còn là nhà sử học…Tri thức sử học ấy đã cho anh thêm khả
năng tổng hợp và khái quát những vấn đề rộng lớn mà bài thơ cần vƣơn tới”
2.2. Những ý kiến phân tích, thẩm bình về một bài thơ, đoạn thơ cụ thể của
Lê Anh Xuân
Lê Anh Xuân thuộc lớp nhà thơ trẻ đầu tiên của nền thơ chống Mỹ. Quá
trình sáng tác của ông gắn liền với những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác
liệt nhưng đầy oai hùng của dân tộc. Những sáng tác của Lê Anh Xuân để lại
không nhiều, chỉ gồm 60 bài thơ và một bản trường ca nhưng bằng nhiệt huyết
tuổi trẻ, bằng khát khao cống hiến, khát khao khám phá hiện thực và sáng tạo
nghệ thuật nên ngay từ những tác phẩm đầu tay người thầy giáo ấy đã gây được
tình cảm đặc biệt từ độc giả yêu thơ và của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên
cứu, phê bình. Ra đi ở tuổi đời còn rất trẻ trong một chuyến công tác, Lê Anh
Xuân đã để lại nhiều nuối tiếc cho những người yêu mến thơ ông. Những câu
chuyện, những kỷ niệm sống về lịch sử hào hùng trong thơ Lê Anh Xuân gây
nhiều xúc động cho nhiều tác giả. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá thơ ông có
mặt mạnh trong cảm xúc, trong cách xây dựng hình tượng, trong tạo hình và
biểu hiện. Chúng tôi xin điểm lại một số bài viết của các tác giả như Hoàng
Như Mai, Hải Hà, Lê Quang Trang, Nguyễn Đức Quyền và một số tác giả của
các chuyên luận có đề cập đến thơ Lê Anh Xuân như Hữu Đạt, Hà Minh Đức,
Vũ Duy Thông, Mã Giang Lân như sau:
Khi nói về bài thơ Trở về quê nội, nhà giáo – nhà nghiên cứu Hoàng Như
Mai nhận xét đó là “một bài thơ có cấu trúc giản dị” nhưng đó là tấm lòng yêu
thương trân trọng của một người con đối với quê hương sau bao nhiêu năm trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
xa cách. Theo Hoàng Như Mai, bài thơ Trở về quê nội có sự rung động bặc biệt
tạo nên một sức hấp dẫn riêng bởi trước hết là ở cảm hứng ngợi ca nồng nhiệt
và mạch cảm xúc chân thật tuôn trào: “Những môtíp, những hình ảnh đã cũ vào
thơ Lê Anh Xuân vẫn rung động lòng ngƣời đọc. Ấy là vì anh đƣa vào đó tất cả
sự chân thành của tuổi trẻ, tất cả sự xúc cảm thật sự của nhà thơ” [21, tr.23]
và “Bài thơ Trở về quê nội cũng nhƣ các sáng tác của Lê Anh Xuân nói chung
có những đoạn thật sáng tạo”[21, tr.24]. Có thể nói thơ Lê Anh Xuân dành
được nhiều tình cảm từ người đọc và có đời sống phong phú chính là nhờ
những sáng tạo như thế. Nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai cho rằng bài thơ Trở
về quê nội là một trong những bài thơ “đỉnh” của Lê Anh Xuân.
Trong cuốn Nét đẹp trong thơ, Nxb Giáo dục (2001), Nguyễn Đức
Quyền lại tỏ ra mặn mà với bài thơ Nhớ mƣa quê hƣơng khi xem bài thơ như
“sóng tỏa vào tâm hồn tôi, nhƣ cơn mƣa mùa hạ làm mát da thịt tuổi thơ,
làm sống dậy những kỷ niệm tuổi thơ của tôi ở quê Nam”[32, tr.151]. Tác
giả Nguyễn Đức Quyền đánh giá cao cảm xúc mãnh liệt, chân thành, giàu
cảm xúc của Lê Anh Xuân và coi đó là sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc:
“Tôi yêu nguồn xúc cảm bài thơ, nguồn xúc cảm dạt dào quá, anh cứ trải
hồn chân thật của mình ra nhƣ là nguồn của một con sông lớn… Nguồn cảm
xúc lại tƣơi mát trong trẻo, nồng nàn, cái nồng nàn làm cho ta ngây ngất
nhƣ cái thuở ban đầu”[32, tr.152]. Nguồn cảm xúc trinh nguyên, tươi mát và
trong trẻo ấy chính là sức mạnh để những tác phẩm của Lê Anh Xuân sống
mãi với thời gian.
Khi đọc “bài thơ xuân nho nhỏ” của nhà thơ Lê Anh Xuân, bài thơ với
tựa đề “Rừng xuân” đã tạo cho tác giả Hải Hà những xúc cảm rất riêng. Vẫn là
chất thơ trong sáng, hồn nhiên, chân thật nhưng ở bài thơ này có thêm chất đằm
thắm, dịu dàng của hương sắc núi rừng. Theo Hải Hà, bài thơ không chỉ là bức
tranh thiên nhiên tươi sáng mà phía sau bức tranh ấy đã xuất hiện chất giọng
của ý chí, của lòng quyết tâm: “Đó là cái quyết tâm bắt nguồn từ sâu xa của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trái tim nhớ thƣơng đằm thắm, của thái độ sống đầy trách nhiệm đối với quê
hƣơng, với Tổ quốc của nhà thơ trẻ Lê Anh Xuân”[9, tr.9]. Xuân trong Rừng
xuân không có cành đào thắm, không có chậu quất vàng, không có bánh trưng
xanh, lại càng không có sự xum họp ấm cúng trong ngày Tết như nó vẫn diễn
ra trong không khí xuân của bao gia đình Việt Nam bởi vì nhà thơ của chúng ta
đang ở trên đường ra tiền tuyến nhưng vẻ đẹp trong bài thơ đã tôn lên vẻ đẹp
trong tâm hồn nhà thơ – chiến sĩ Lê Anh Xuân: “Bài thơ lục bát với 12 câu
trong sáng, giản dị đã giúp cho chúng ta – những ngƣời ở hậu phƣơng lớn hiểu
thêm phẩm chất tâm hồn trong sáng, cao đẹp của ngƣời chiến sĩ giải phóng
quân, đồng thời góp phần khẳng định niềm tin tất thắng vào cuộc chiến đấu
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc của toàn dân ta”[9, tr.9]. Điều đó
chứng tỏ cảm hứng trữ tình trong thơ Lê Anh Xuân ngày càng thêm cứng cỏi
và chuyển dịch về hướng sử thi.
Cũng trong cuốn Nhà văn trong nhà trƣờng, Lê Quang Trang đã có
những lời bình sắc sảo về đoạn thơ gồm 12 câu trích trong Trƣờng ca Nguyễn
Văn Trỗi với tựa đề Việt Nam (do người biên soạn đặt). Lê Quang Trang đã
làm nổi bật khả năng khái quát, tổng hợp của Lê Anh Xuân khi viết về đề tài
đất nước. Để đạt được điều này, Lê Anh Xuân đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cảm hứng nghệ thuật với tư duy lịch sử: “trong Lê Anh Xuân ngoài nhạy
cảm của con ngƣời thi sĩ, anh còn là nhà sử học bởi vì trƣớc khi từ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa trở về quê hƣơng tham gia kháng chiến chống Mĩ, anh từng
nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở trƣờng Đại học tổng hợp hà Nội” [9, tr.11].
Trong các chuyên luận của mình, các tác giả như Hà Minh Đức, Hữu
Đạt, Mã Giang Lân, Vũ Duy Thông, Vũ Văn sỹ đều có phân tích thơ Lê Anh
Xuân. Cả Hữa Đạt và Hà Minh Đức đều đánh giá cao nghệ thuật tạo hình và
biểu hiện của bài thơ Dáng đứng Việt Nam: “Trong bài thơ Dáng đứng Việt
Nam của Lê Anh Xuân có những câu về mặt tạo hình thì rất đẹp, nhƣng về mặt
biểu hiện của nó cũng có giá trị rất cao”[6, tr.46].
Tác giả Vũ Văn Sỹ lại phân tích chất trữ tình từ một điểm nhìn nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thuật trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi. Theo ông, Lê Anh Xuân phải có:
“con mắt tinh đời” mới cảm nhận được. So sánh với ký Sống nhƣ anh của Trần
Đình Vân, tác giả chuyên luận khẳng định: “Ở đây cái diện mạo văn xuôi của
nhân vật Nguyễn Văn Trỗi đã bị chi phối trực tiếp bởi tình cảm chủ quan của
nhà thơ một cách công khai khi biểu đạt” [35, tr.185].
Bài thơ Cấy đêm của Lê Anh Xuân, một bài thơ được sáng tác trên quê
hương trong thời kì ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã gây được
cảm tình đặc biệt với Mã Giang Lân. Theo ông: “bài thơ Cấy đêm của Lê Anh
Xuân thật cảm động, chi tiết ít, gọn nhƣng sâu đậm, giàu liên tƣởng” [14,
tr.299]. Ông đưa ra những nhận xét tinh tế về cảm hứng chủ đạo trong bài thơ,
theo ông cảm hứng chủ đạo trong bài thơ không chỉ ngợi ca con người trên quê
hương anh dũng mà rộng hơn còn là: “hình ảnh tƣợng trƣng cho niềm tin của
nhân dân miền Nam” [14, tr.299].
Trong bài thơ Trở về quê nội, đoạn thơ mà Lê Anh Xuân viết về hình ảnh
người mẹ lại gây cho Vũ Duy Thông nhiều xúc động. Đó là hình ảnh người mẹ
nuôi giấu chiến sĩ vốn đã rất quen thuộc trong thơ kháng chiến. Mẹ chở che và
thương yêu người chiến sĩ như chính con đẻ của mình. Theo Vũ Duy Thông,
tình cảm này: “Chỉ có đƣợc trong chiến tranh chính nghĩa” [45, tr.110].
Từ các bài viết trên, một điều khá dễ dàng nhận ra là thơ Lê Anh Xuân
chủ yếu được nghiên cứu riêng lẻ từng tập thơ, hoặc các tác phẩm cụ thể. Trong
Luận Văn này, chúng tôi kế thừa những kết quả nghiên cứu của những người đi
trước để đi sâu tìm hiểu Phong cách nghệ thuật thơ Lê Anh Xuân. Trân trọng
biết ơn các nhà nghiên cứu phê bình đã có những bài viết sâu sắc giúp chúng
tôi có đủ nguồn tư liệu, đồng thời trực tiếp gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài
Luận văn này.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này chúng tôi tập chung vào nghiên cứu các tác phẩm thơ của
Lê Anh Xuân, cụ thể là 60 bài thơ của 2 tập thơ và 1 tập trường ca:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
+ Tiếng gà gáy (1965)
+ Hoa dừa (1968)
+ Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi (1969)
In trong tuyển tập Thơ Lê Anh Xuân (Nxb Văn học, H.1981)
Ngoài ra là cuốn Nhật ký Lê Anh Xuân - đó là những ghi chép chân thực,
sống động của một người chiến sỹ sống và viết.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là những yếu tố tương đối bền
vững trong cảm hứng nghệ thuật, trong hệ thống hình tượng trữ tình và các
phương tiện biểu cảm ngôn từ trong các sáng tác thơ của Lê Anh Xuân. Đó là
những yếu tố thể hiện phong cách của tác giả.
4. Nhiệm vụ của Luận văn
Về mặt lý luận, nhận thức được sự thống nhất và sự cụ thể hóa phong
cách tác giả và phong cách thời đại.
Cụ thể hóa những nét đặc trưng phong cách thơ Lê Anh Xuân ở hệ thống
cảm xúc, hệ thống hình tượng trữ tình và hệ thống ngôn ngữ chuyển nghĩa tu từ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
5.1. Phƣơng pháp thống kê - phân loại
Chúng tôi sử dụng phương pháp này khi khảo sát thống kê – phân loại
nguồn tài liệu theo từng vấn đề cụ thể qua những dữ kiện lặp lại, ổn định nhằm
làm nổi bật phong cách nghệ thuật thơ Lê Anh Xuân.
5.2. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp phân tích – tổng hợp sẽ giúp cho các kết luận mà chúng tôi
rút ra không bị phiến diện, không bị tách khỏi những thực thể trữ tình toàn vẹn
và sống động của nó.
Ngoài các phương pháp cơ bản nêu trên, Luận văn còn sử dụng một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phương pháp khác bổ trợ như: Phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử,...
6. Đóng góp của Luận văn
Từ những ý kiến tản mạn của người đi trước gợi ý, Luận văn phát triển
và xây dựng một hệ thống luận điểm khái quát phong cách nghệ thuật thơ Lê
Anh Xuân. Đây là cái mới và cũng là những đóng góp của Luận văn.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, cấu trúc Luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về phong cách nghệ thuật thế hệ thơ chống Mỹ và
quá trình sáng tạo của Lê Anh Xuân.
Chương 2: Cảm hứng trữ tình lãng mạn giàu chất lý tưởng - nét đặc
trưng phong cách nghệ thuật Lê Anh Xuân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Chương 3: Nét nổi bật thi pháp trong thơ Lê Anh Xuân.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THẾ HỆ THƠ
CHỐNG MỸ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA LÊ ANH XUÂN
1.1. Khái quát về phong cách
1.1.1 Định nghĩa phong cách
Trong đời sống, cụm từ phong cách được hiểu là những nét riêng biệt,
cách nhìn nhận riêng, đánh giá riêng biệt độc đáo, khác lạ của một người nào
đó trong hành vi ứng xử, trong công việc ví dụ như phong cách sống, phong
cách làm việc, phong cách thời trang…
Khi nghiên cứu khả năng biểu hiện của ngôn ngữ trong những nhu cầu
giao tiếp khác nhau, các nhà ngôn ngữ học phân biệt các phong cách chức năng
ngôn ngữ như phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ báo chí,…
Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, khái niệm phong cách được “dùng
để nhận diện một tác giả, một tác phẩm, một trào lƣu hay một khuynh hƣớng
nhất định” [24, tr.190]. Có nhiều khuynh hướng nghiên cứu phong cách:
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, nghiên cứu phong cách tác giả - tác
phẩm…phổ biến nhất ngiên cứu phong cách nhà văn (phong cách tác
giả).Với mỗi tác giả lại có thể vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau: nghiên cứu trực tiếp qua thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm,
nghiên cứu gián tiếp qua tiểu sử, hoàn cảnh sáng tác…Bên cạnh đó còn có
thể kể đến khuynh hướng nghiên cứu phong cách của một trào lưu, trường
phái hay phong cách của thời đại…
Theo Từ điển tiếng Việt, “Phong cách là những đặc điểm có tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chất hệ thống về tƣ tƣởng nghệ thuật, biểu hiện trong các sáng tác nói
chung hay cùng một thể loại (nói tổng quát). Phong cách của một nhà văn,
phong cách nghệ thuật”.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học có định nghĩa: Phong cách trong văn
học là “những nét chung, tƣơng đối bền vững của hệ thống hình tƣợng, của các
phƣơng thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà
văn, một tác phẩm, một khuynh hƣớng văn học, một nền văn học dân tộc nào đó”.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm
mĩ, chỉ sự thống nhất tƣơng đối ổn định của hệ thống hình tƣợng, của các
phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của
một nhà văn, trong một tác phẩm riêng lẻ, trào lƣu văn học hay văn học dân
tộc…Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây
dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm
nhận đƣợc, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất” [10].
Trong Từ điển tiếng Việt (bộ mới), phong cách được hiểu là “khái niệm
chỉ những nét chung, tƣơng đối bền vững của hệ thống hình tƣợng, của các
phƣơng thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà
văn, một tác phẩm, một khuynh hƣớng văn học dân tộc nào đó”. Với đề tài
nghiên cứu Phong cách thơ Lê Anh Xuân, ở đây, chúng tôi đề cập đến hai
khuynh hướng chủ yếu: phong cách tác giả và phong cách thời đại.
Tóm lại, có thể coi phong cách tác giả văn học là những nét riêng biệt,
những yếu tố cơ bản độc đáo và cần thiết để tạo nên diện mạo của văn học
một tác giả. Những nét, những yếu tố riêng biệt độc đáo được lặp đi lặp lại với
những màu sắc mới trong suốt chặng đường sáng tác lâu dài bền bỉ của tác
giả, gắn liền với tư duy nghệ thuật của tác giả trong cách cảm nhận về cuộc
sống, về cái đẹp nghệ thuật trên con đường sáng tác. Thế nên, không nên coi
phong cách là một thực thể bất biến mà phải xem nó như là một thực thể sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
động. Một thực thể có thể được hình thành ngay khi nhà văn bước vào con
đường sáng tác và sẽ biến chuyển theo nhận thức của tác giả trong mối quan
hệ mật thiết với môi trường sống của cá nhân và thời đại, chịu sự ảnh hưởng
của môi trường văn hóa, sự ảnh hưởng của các nhà văn mà họ thần tượng.
Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách riêng mà chỉ có những
nhà văn, nhà thơ có tài năng, có bản lĩnh trong quá trình sáng tạo mới tạo cho
mình phong cách độc đáo.
Riêng với thể loại trữ tình, đặc biệt là thơ rất cần đến “Năng khiếu thẩm
mĩ” và “tài nghệ”, cần đến “Cá tính và phong cách độc đáo”của nhà thơ.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà thơ phải tự ý thức và phát huy sở
trường riêng của mình để tạo nên một phong cách độc đáo. Bởi vì thơ dùng để
bộc lộ thế giới cảm xúc, tâm trạng và những suy nghĩ của cái tôi trữ tình được
nghệ thuật hóa. Nhà văn Gamzatốp cho rằng: “Tác phẩm văn học mà không
thấy tác giả thì chẳng khác gì con ngựa chạy trên đƣờng không có ngƣời cƣỡi”.
1.1.2. Phong cách thời đại
Phong cách thời đại là một khái niệm dùng để chỉ một phong cách chung
bao trùm lên mọi thể loại, mọi hình thức nghệ thuật của một thời đại.
Phong cách thời đại là sự biểu hiện của trình độ kỹ thuật biểu hiện, của
trạng thái văn hoá, xã hội, tập quán tâm lý thời đại đã hình thành nên phong
cách. Phong cách thể hiện tập trung ở cách thể hiện thế giới và con người, cảm
thụ bản thân nghệ thuật. Chẳng hạn nghệ thuật Ai Cập cổ đại có nền tảng là tôn
giáo Ai Cập, tôn giáo về cái chết; trái lại, nền tảng của nghệ thuật Hi Lạp cổ đại
là thế giới quan yêu đời. Khi nào nội dung và hình thức cuộc sống thay đổi thì
nghệ thuật, vốn là biểu hiện của cuộc sống đó cũng là thay đổi, và sự đổi thay
đó “chính là đổi thay phong cách”.
Phong cách thời đại do ý thức về cái đẹp, ý thức nghệ thuật của thời đại
quy định. Phong cách thời đại có thể bao trùm lên nhiều quốc gia, nhiều lãnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thổ và có ảnh hưởng sâu rộng lên nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Ví dụ,
phong cách nghệ thuật thời Phục Hưng được thể hiện trên nhiều lĩnh vực: Điêu
khắc, âm nhạc, hội họa…
Phong cách thời đại có những nét truyền thống nhưng không đồng nhất,
nghĩa là bên trong nó vẫn có sự phân hóa theo các yếu tố khác nhau như
phương pháp sáng tác, cá tính sáng tạo, khuynh hướng tư tưởng xã hội, thẩm
mỹ. Nhưng phong cách thời đại đó xây dựng trên nền tảng trạng thái văn hóa
xã hội rộng lớn nên có tính thống nhất không thể bác bỏ.
Muốn xác định được phong cách chung của một thời đại cần căn cứ vào
quan niệm nghệ thuật về xã hội và con người…, qua sự lặp lại về cảm hứng
sáng tạo của một thời kỳ lịch sử.
1.1. 3. Phong cách tác giả
Trong các cấp độ của phong cách, phong cách tác giả là phạm trù được
thừa nhận phổ biến và cũng được vận dụng rộng rãi nhất. Các quan điểm văn
học xưa nay (văn là người, phong cách là con người…) đều lấy phong cách tác
giả làm yếu tố trung tâm để xem xét.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, một số nhà lý luận văn học còn đồng
nhất hai khái niệm phong cách cá nhân và cá tính sáng tạo do đó phủ nhận sự
tồn tại của phong cách tác giả. Vonflin, Handenstein, ngay cả A.N.Xôcôlôp và
G.N.Pôxpêlôp cũng cho rằng phong cách cá nhân chỉ là những yếu tố cá biệt, ít
có ý nghĩa xã hội. Nếu một tác giả có thể có nhiều phong cách thì không thể coi
phong cách cá nhân là một cấp độ quan trọng của phong cách văn học. Tuy
nhiên, nếu như không thể không tính đến phong cách tác phẩm với ý nghĩa là
yếu tố trung tâm của phong cách học thì cũng không thể bỏ qua phong cách cá
nhân với ý nghĩa là biểu hiện cụ thể của phong cách trào lưu, phong cách thời
đại…Thật khó có thể nói đến một thời đại văn chương nếu như thời đại đó
không sản sinh ra những cá nhân xuất sắc.
Không nên đồng nhất hai khái niệm phong cách và cá tính sáng tạo. Mỗi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhà văn khi sáng tác ít nhiều đều có cá tính sáng tạo, tức có đặc điểm riêng về
sáng tác nhưng không phải cá tính nào cũng trở thành phong cách. Người ta chỉ
đề cập đến phong cách sáng tác của những nhà văn ưu tú, trong tác phẩm có
những điểm độc đáo, riêng biệt, có giá trị thẩm mĩ cao và nhất quán trong cả
quá trình sáng tạo của nhà văn.
Phong cách tác giả được thể hiện chủ yếu thông qua tác phẩm. Biểu hiện
của phong cách tác giả trong tác phẩm không chỉ là những nội dung đặc sắc,
độc đáo, giàu tính thẩm mĩ mà còn là cách thức nhà văn thực hiện nhằm mang
đến một hiệu quả biểu đạt cao nhất. Đó cũng không chỉ là những yếu tố hình
thức riêng lẻ (cho dù chúng có mới lạ đến đâu) mà còn là sự phối hợp, thống
nhất giữa các yếu tố này theo những quy luật thẩm mĩ nhất định.
1.2. Thế hệ thơ chống Mỹ trong nền thơ chiến đấu
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc đã sản sinh ra
một nền thơ lớn mà tính chiến đấu là một đặc điểm bao trùm, nổi bật. Những
giai đoạn đau thương mà anh dũng nhất trong lịch sử đấu tranh của dân tộc đã
tạo ra một nền thơ giàu vẻ đẹp với nội dung mang sức chiến đấu cao. Nền thơ
chiến đấu chống Mỹ hai mươi năm qua là tiếng nói của dân tộc ta, một dân tộc
đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc của thời
đại ngày nay. Nền thơ chiến đấu ấy mang những nét rất riêng biệt, không lẫn
với bất cứ một dân tộc nào. Nó có một truyền thống riêng, có quá trình phát
triển riêng. Nó phản ánh những nét đặc thù thẩm mĩ của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, những nét đặc thù của tâm hồn con người Việt Nam chiến đấu và có
những đóng góp đáng kể vào tiếng nói chống xâm lược, chống đế quốc trong
lịch sử thơ ca hiện đại. Trong Luận văn này, chúng tôi nhận thức đó chính là
phong cách thời đại.
Từ năm 1964, cuộc chiến tranh chống Mĩ, cứu nước của dân tộc ta bước
sang một giai đoạn gay go căng thẳng và vô cùng ác liệt. Tình hình đó đã buộc
dân tộc ta phải phát huy cao độ không chỉ sức mạnh đề kháng mà còn khơi dạy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sức mạnh truyền thống tinh thần hàng ngàn đời của dân tộc để tiếp sức chiến
đấu. Nền thơ mới ra đời. Thơ trẻ thời kì chống Mĩ là một hiện tượng rất đáng
chú ý của văn học hiện đại Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện, trưởng thành của
một thế hệ nhà thơ và bước phát triển mới của nền thơ chống Mĩ. Nền thơ ấy
được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ: thế hệ nhà thơ xuất hiện từ trước cách
mạng tiêu biểu như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…,
thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Pháp tiểu biểu như Chính Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông…và thế hệ nhà thơ xuất hiện trong thời
kì chống Mỹ. Mỗi thế hệ nhà thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có những
đóng góp đáng ghi nhận đối với nền thơ chống Mỹ. Mỗi nhà thơ, bằng cá tính
của mình đã đem đến cho thơ một cách nhìn, cách cảm nhận riêng về cuộc
chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc, nói lên được hiện thực hào hùng của cả
dân tộc.
Nhìn một cách tổng quát, thơ trẻ thời kì chống Mỹ có thể chia thành ba
chặng đường. Mỗi chặng đường có những nét riêng gắn liền với sự xuất hiện
của những nhà thơ tiêu biểu. Tuy nhiên, sự phân chí này chỉ mang tính chất
tương đối. Về thực chất, thơ trẻ thời kì chống Mỹ là một dòng thơ liên tục.
Năm 1975, trong một bài viết Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của
dân tộc, Vũ Tuấn Anh đã khẳng định sự đóng góp to lớn của thế hệ những nhà
thơ trẻ trong đó có Lê Anh Xuân: “Lớp trẻ đã đem đến sự đông vui ồ ạt cho cả
nền thơ bằng tiếng nói sôi nổi, mới mẻ, duyên dáng của riêng lứa tuổi họ… lứa
tuổi tha thiết tin yêu cách mạng và có mặt trên khắp các mặt trận sản xuất,
chiến đấu”[3].
Ở chặng đường đầu tiên là sự xuất hiện của đội ngũ những nhà thơ trẻ
với những cây bút tiêu biểu như Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Lê
Anh Xuân, Thái Giang, Nguyễn Mỹ… Đó là một tiếng thơ trẻ trung, sôi nổi,
đậm chất lý tưởng. Những tác phẩm thơ trẻ ở chặng đường này rưng rưng cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
xúc, đậm đà chất trữ tình, chan chứa chất men say nồng của tuổi trẻ. Lê Anh
Xuân nói tới khát khao của thế hệ mình được cầm súng trực tiếp chiến đấu
bằng một cảm xúc chân thành, trong sáng:
Ôi ta thèm đƣợc cầm khẩu súng
Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè
Nằm chờ giặc trên quê hƣơng anh dũng
Ta say nồng mái lá rụng bờ tre
(Gửi Bến Tre)
Đến chặng thơ thứ hai, đội ngũ những nhà thơ trẻ được bổ xung thêm
nhiều cây bút mới, tài năng như: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm,
Nguyễn Đức Mậu, Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ
Dạ…. Ở giai đoạn này, thơ trẻ kháng chiến chống Mỹ đã phát triển lên một
đỉnh cao mới. Nhiều tác giả đã thực sự khẳng định được tiếng nói của thế hệ
mình qua những vần thơ : “giàu chi tiết chân thực, sinh động nhƣ còn vƣơng
bụi đất của chiến trƣờng và mùi khét lẹt của đạn bom, mang khí thế hừng hực
của cuộc chiến đấu”[19, tr.129].
Ở chặng đường cuối, thơ trẻ chống Mỹ được bổ sung thêm nững nhà thơ
đồng thời là những chiến sĩ trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường. Sự
xuất hiện của những cây bút như: Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Trần
Mạnh hảo, Văn Lê, Anh Ngọc… đã làm cho đội ngũ thơ trẻ thời kì chống Mỹ
thêm đông đảo, thực sự bề thế. Thơ trẻ thời kỳ này có cái nhìn bao quát, toàn
cảnh về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc.
Đây là thời kỳ mà thơ trẻ nói nhiều, nói sâu sắc, nói thấm thía về người
mẹ, về nhân dân, về những con người vô danh, những con người bình thường
mà kiên cường bất khuất, về tổ quốc và về thế hệ mình. Ý thức về cái tôi- thế
hệ của các nhà thơ trẻ đạt tới độ sâu sắc nhất. Chân dung tinh thần của thế hệ
trẻ cầm súng thời kì chống Mỹ hiện lên cụ thể chân thực phong phú và sâu sắc.
Thế hệ chúng con ồn ào, dày dạn
Sống thì đi mà chết thì nằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Trần Mạnh Hảo)
Chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhƣng tuổi hai mƣơi làm sao không tiếc
Nhƣng ai cũng tiếc tuổi hai mƣơi
Thì còn chi tổ quốc
(Thanh Thảo)
Sinh ra trong lòng nôi cách mạng, được đào tạo trong mái trường xã hội
chủ nghĩa, đội ngũ thơ trẻ chống Mỹ có mặt khắp trên các mặt trận sản xuất
và chiến đấu với tinh thần, niềm tin và sức mạnh của tuổi trẻ. Tiếp nối truyền
thống của thế hệ nhà thơ lớp trước, với kiến thức học tập có hệ thống họ đã tự
bồi dưỡng cho bản thân về tư tưởng, tài năng, vốn sống để có thể đi xa trên
con đường đó và thực sự trở thành nhà thơ cách mạng. Tiếng thơ của lớp nhà
thơ trẻ luôn trăn trở, nghĩ suy đầy trách nhiệm về Tổ quốc, về dân tộc. Làm
thơ và đánh giặc là hai hành động đồng thời, trùng hợp, có liên quan đến nhau
như một phản ứng “dây chuyền”, cái này thúc đẩy cái kia, cái kia tạo đà cho
cái này thể hiện.
Đội ngũ những nhà thơ trẻ có mặt trên khắp các chiến trường, vừa cầm
bút, vừa cầm súng họ đã mang đến nét tươi mới không dễ gì có được của thế hệ
mình, làm cho thơ ca thêm đậm đà tính cách Việt Nam, tâm hồn Việt Nam.
“Bài ca ống cóng” của Thanh Thảo vang lên như một lời tuyên ngôn của lớp
trẻ khi bước vào trận “Bài ca của chúng tôi là bài ca ống cóng/Hành trang
quân giải phóng/Đơn giản nhất trên đời”. Có lẽ chỉ có thế hệ này chứ không
phải ai khác mới nói được một điều tưởng như nghịch lý “Giữa chiến trƣờng,
tiếng bom nghe rất nhỏ” (Phạm Tiến Duật). Nếu không nếm trải thực tế chiến
trường thì khó có thể có được suy nghĩ như vậy.
Vừa đánh giặc lại vừa làm thơ là một nét đẹp truyền thống của một dân
tộc. Có thể nói thế hệ nhà thơ lớp trước đã truyền sức mạnh ngòi bút cho đội
ngũ làm thơ trẻ sự vững vàng, ý thức chính trị xã hội, lòng yêu nước đúc kết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
qua bốn ngàn năm lịch sử. Mỗi nhà thơ đã tạo cho mình một chỗ đứng riêng,
hình thành lên một phong cách thơ riêng trong dòng chảy chung của văn nghệ
dân tộc. Trong SGK Văn học lớp 12, Ban KHXH, Nxb GD, 1997, tr199 Giáo
sư Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: “Từ 1965 đến 1975, một cao trào sáng tác
phục vụ cuộc chống Mỹ trong cả nƣớc đƣợc phát động. Đây là thời kỳ ra đời
hàng loạt các nhà thơ trẻ có giọng điệu riêng của một thế hệ mới: Thu Bồn, Lê
Anh Xuân, Bùi Minh Quốc…, Nguyễn Đức Mậu, Phan Thị Thanh Nhàn,…”.
Nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh lại nhấn mạnh khả năng sáng tạo của cả thế hệ:
“Lớp nhà thơ trƣởng thành trong kháng chiến chống Mỹ tiếp tục thể hiện bản
lĩnh sáng tạo và đóng vai trò chủ lực trong sự thể hiện tình cảm của con ngƣời
thời đại, cả với những chiêm nghiệm chín chắn lẫn những tìm tòi cách tân”[3].
Nhiều bài thơ được viết vội trong chiến trường, trên đường hành quân nhọc
nhằn gian khổ nhưng nó là hiện thực cuộc sống, là chất thơ được thăng hoa qua
tâm hồn người chiến sĩ để rồi nó đã lưu lại trong lịch sử thơ ca Việt Nam như
những bài thơ hay nhất: Bài thơ Rừng xuân của Lê Anh Xuân được viết trên
đường ra tiền tuyến “Rừng xa vọng tiếng chim gù/ Ngân nga tiếng suối, vi vu
gió ngàn/ Mùa xuân đậm là ngụy trang/ Đƣờng ra tiền tuyến nở vàng hoa
mai”. Thơ chống Mỹ đã bỏ lại sự uỷ mị chạy trốn vào tình yêu, và một chút nỗi
đau mất nước ở nửa đầu thế kỷ. Thơ chống Mỹ là những phát ngôn trữ tình sử
thi của một chủ thể là Tổ Quốc quật cường vừa đứng dậy dành độc lập tự do,
lại đã anh dũng lấy máu viết lên những trang sử chống xâm lăng oanh liệt nhất.
Đội ngũ những người làm thơ trẻ thời chống Mỹ mang đến nét tươi mới
cho cả một nền thơ. Đội ngũ làm thơ đang sống trong ánh sáng rực rỡ của thời
kỳ mới, thử thách trong nhiệm vụ khó khăn, vẻ vang của thời kỳ mới lại vẫn
được sống trọn vẹn những kỷ niệm sôi sục của thời kỳ cách mạng đã qua. Trách
nhiệm nặng nề hơn và cũng đầy thuận lợi bù đắp những khiếm khuyết chưa kịp
bù đắp được. Những trang thơ của thế hệ trẻ ra đời thời chống Mỹ thẫm đẫm
chất sử thi như một dòng sông hào hùng lãng mạn trữ tình chảy xiết bất tử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trong lịch sử Văn học dân tộc.
1.3. Lê Anh Xuân - Ca Lê Hiến, từ ngƣời chiến sỹ cầm bút đến ngƣời anh
hùng nghệ sĩ
1.3.1. Lƣợc về tiểu sử và cuộc đời
Ở nửa sau thế kỷ XX lắm sóng gió, nhiều biến động gắn liền với hai
cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta, các
thế hệ nhà thơ đã có sự trưởng thành. Trong số đó không ít người đã anh dũng
hy sinh ngã xuống trên chiến trường giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ. Nhà thơ Lê
Anh Xuân là một con người như vậy.
Lê Anh Xuân (bút danh) tên khai sinh là Ca Lê Hiến sinh ngày 05 tháng
06 năm 1940 tại xã An Hội, thị xã Bến Tre. Quê nội ở xã Tân Thành Bình,
huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Ông chào đời đúng vào những ngày Nam Kỳ
khởi nghĩa trên mảnh đất giàu truyền thống cách mạng mà như sau này ông đã
viết trong một bài thơ:
Tiếng khóc đầu tiên tôi chào đất nƣớc
Năm bốn mƣơi cờ đỏ rợp Nam Kỳ
(Lên Bắc Sơn)
Ông xuất thân trong một gia đình trí thức yêu nước. Bố là Giáo sư Ca
Văn Thỉnh (1902 - 1987), nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học có tầm cỡ ở
nước ta, cũng là người từng được Bác Hồ giao cho giữ chức vụ quyền Bộ
trưởng Bộ giáo dục của chính phủ kháng chiến. Mẹ là Lê Thị Tài (1907 - 1990)
– là một nhà giáo tận tụy, nhân từ và phúc hậu. Quả không sai khi có người đã
nói gia đình Lê Anh Xuân là một cái hội “Liên hiệp văn học nghệ thuật thu
nhỏ”. Những người anh em ruột thịt của ông là nhạc sĩ Ca Lê Thuần, đạo diễn
Ca Lê Hồng, họa sỹ Ca Lê Thắng…đều là những tên tuổi quen thuộc với những
người yêu thích văn học, âm nhạc, sân khấu và hội họa của cả nước. Ngay từ
nhỏ, Lê Anh Xuân đã được sự dạy dỗ ân cần từ người cha mẫu mực và được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sống trong không khí đầm ấm của một gia đình văn nghệ.
Năm 1945, cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông bà Ca Văn Thỉnh tham
gia kháng chiến, chị em Lê Anh Xuân từ thị xã Bến Tre về quê sống với ông bà
nội. Hồi còn nhỏ Lê Anh Xuân học ở trường tiểu học Đà Lạt vì lúc đó mẹ của
ông bị giặc Pháp bắt, đưa lên quản thúc ở Đà Lạt, rồi Phi Giăng (trên đường đi
Buôn Ma Thuật). Lê Anh Xuân được đưa lên Đà Lạt sống gần mẹ, sau đó đi
Phi Giăng thăm và ở với mẹ. Do ở đây không có trường nên mẹ của ông
khuyên nên về Đà Lạt để học tập. Lê Anh Xuân coi Đà Lạt như quê hương của
mình, Đà Lạt cũng hiện lên trong nỗi nhớ quê của ông:
Đà Lạt quê em anh nhớ mãi
Đƣờng mùa xuân hoa rải cánh vàng
Thung xanh thơm ngát mùi hoa dại
Đồi cao thông đứng nắng mịn màng.
(Em đẹp nhất)
Năm 1950 (lúc này Lê Anh Xuân mới 10 tuổi), Lê Anh Xuân sống với
bố mẹ ở vùng kháng chiến Tây Nam Bộ, học trường dành cho con em cán bộ
Trần Quốc Toản tại Bạc Liêu, sau đó chuyển về trường Biển Bạch, huyện
Trần Văn Thới tỉnh Cà Mau. Bạn học thân thiết của ông lúc này là Bùi Thị
Xuân Lan (em gái của nhà văn Anh Đức), một cái tên quen thuộc được nhắc
đến nhiều trong nhật ký, góp phần tạo nguồn cảm hứng thơ và hình thành lên
bút danh Lê Anh Xuân.
Cuối năm 1952, Lê Anh Xuân vào làm việc tại nhà in Trịnh Đình Trọng
thuộc Sở Giáo dục Nam Bộ. Tại đây, Lê Anh Xuân vừa tiếp tục học văn hóa
vừa làm công nhân xếp chữ. Đây cũng là thời điểm ông bắt đầu tập làm thơ.
Lúc này Lê Anh Xuân mới 12, 13 tuổi nhưng đã bắt đầu làm thơ đăng báo
tường của nhà in.
Năm 1954, Lê Anh Xuân cùng gia đình tập kết ra Miền Bắc vào học
trường học sinh miền Nam (Hải Phòng), khi lên cấp III Lê Anh Xuân học ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
trường phổ thông trung học Nguyễn Trãi (Hà Nội), được gần gũi với cha mẹ.
Khoảng năm 1960, 1961 Lê Anh Xuân trở thành sinh viên khoa sử, trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội nay là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội. Những năm này Lê Anh Xuân sáng tác bài thơ Nhớ
mƣa quê hƣơng và đạt giải nhì cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ tổ chức. Điều
này cho chúng ta thấy rằng suốt những năm theo gia đình tập kết ra Bắc, quê
hương Bến Tre luôn là nỗi nhớ chất chứa trong tâm hồn nhà thơ. Ông đã có
những câu thơ day dứt, ám ảnh: “Quê nội ơi/ Mấy năm trời xa cách/ Đêm nay,
ta nằm nghe mƣa rơi/ Nghe tiếng trời gầm xa lắc…/ Cớ sao lòng thấy nhớ
thƣơng”. Năm 1962, tốt nghiệp đại học ông được nhà trường giữ lại là cán bộ
giảng dạy và năm 1963 được cử đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô. Nhưng rồi cuộc
kháng chiến ngày càng diễn ra ác liệt nên ông xin ở lại và tình nguyện trở về
quê hương miền Nam để tham gia chiến đấu.
Những ngày cuối năm 1964, Lê Anh Xuân rời miền Bắc theo đoàn cán
bộ Giáo Dục vượt trường sơn vào chiến trường Nam Bộ và công tác ở Tiểu ban
Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn trung ương cục. Tháng 7 năm 1965, chuyển
sang công tác ở Hội Văn nghệ Giải phóng. Từ đây, Lê Anh Xuân sống và chiến
đấu với tư cách là người chiến sĩ – nghệ sĩ. Ngày 07 tháng 8 năm 1966, Lê Anh
Xuân vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông
tham gia vào chiến dịch tống tiến công xuân Mậu Thân 1968 đợt 2 và đã anh
dũng hy sinh vào ngày 24 tháng 5 năm 1968 tại ấp Phước Quảng, xã Phước
Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
Lê Anh Xuân ngã xuống vì nền độc lập của nước nhà khi tuổi đời còn rất
trẻ, khi ấy ông 28 tuổi. Sự hy sinh của ông đã để lại tấm gướng sáng cho đồng
đội, đồng chí noi theo. Sau này trong cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mƣơi của
liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc có đoạn viết: “Còn Ca Lê Hiến, anh chẳng yên tâm
ngồi trên giảng đƣờng đại học, anh không thể nghe hết tập giáo trình lịch sử -
không thể ngồi nghe gƣơm khua trong những trang giấy…Ca Lê Hiến giờ đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nằm xuống, tài năng của anh đang độ phát triển và anh chƣa kịp làm những gì
tuổi thơ hằng mơ ƣớc. Nhƣ những dòng sông ấy, có bao giờ cạn đƣợc. Tiếng
thơ của anh vẫn tiếp sức cho những ngƣời sau đi tới” [38, tr. 264].
Ngày 28 tháng 3 năm 1977, Lê Anh Xuân được Thủ tướng Chính phủ
công nhận là liệt sỹ. Năm 1961, ông được nhận giải nhì cuộc thi thơ của Tạp
chí Văn nghệ với bài Nhớ mƣa quê hƣơng. 1965 ông được nhận giả thưởng
Nguyễn Đình Chiểu của Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam. Năm 2011, nhà
thơ được Chủ tịch nước truy tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật
và danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hiện nay phần mộ Lê Anh Xuân được di táng về nghĩa trang liệt sĩ thành
phố Hồ Chí Minh. Ở tỉnh Bến Tre, thành phố Hồ Chí Minh và một số địa
phương khác có những con đường, trường học mang tên nhà thơ Lê Anh Xuân.
Nhà thơ Hoài Anh khi viết về cuộc đời Ca Lê Hiến đã có những nhận xét
chính xác: “Sống học sử chết đi vào sử”. Cuộc đời của Lê Anh Xuân đã trở
thành một tấm gương cao đẹp về nhà thơ – chiến sỹ, về ý thức trách nhiệm của
người cầm bút.
1.3.2. Lƣợc về sự nghiệp sáng tác
Theo một số tài liệu nghiên cứu thì Lê Anh Xuân bắt đầu sáng tác thơ từ
khi còn nhỏ tuổi: “Mới 12, 13 tuổi nhƣng anh đã bắt đầu làm thơ đăng báo
tƣờng của nhà in” . Nhưng phải đến bài Nhớ mƣa quê hƣơng đạt giải nhì, giải
thưởng của Tạp chí Văn nghệ năm 1961 thì Lê Anh Xuân mới khẳng định được
tài năng thơ của mình. Và cũng từ đó sự nghiệp sáng tác của Lê Anh Xuân mới
thực sự nở rộ, và có vị trí tỏa sáng trong nền thơ chống Mỹ.
Những tác phẩm chính đã xuất bản
- Tiếng gà gáy, thơ, 1965
- Giữ đất, văn xuôi,1966
- Có đâu nhƣ ở miền Nam, thơ in chung, NXB Thanh niên, 1968
- Nguyễn Văn Trỗi, trường ca, 1969
- Chào anh giải phóng quân, tập thơ, in chung, NXB Quân đội nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
dân, 1972
- Thơ Lê Anh Xuân, tuyển thơ, 1981
- Thơ Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân), tuyển thơ, 1993
- Nhịp chày ba, thơ, tủ sách tác phẩm đầu tay, 1998
- Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân toàn tập, NXB Văn hoa Văn nghệ TP.
HCM, 2012
Thơ Lê Anh Xuân được đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông,
cao đẳng, đại học. Có những tác phẩm được dịch sang tiếng Pháp và nhiều tác
phẩm được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc.
Như đã đề cập, trong Luận văn này chúng tôi chủ yếu đi sâu nghiên cứu
hai tập thơ Tiếng gà gáy (1965), Hoa dừa (1968) và Trƣờng ca Nguyễn Văn
Trỗi(1969).
Tiếng gà gáy (1965), là tập thơ đầu tay, tập hợp những bài viết của Lê
Anh Xuân trong 10 năm sống ở miền Bắc gồm 24 bài thơ và đã khẳng định vị
trí của ông trong đội ngũ sáng tác thơ thời kì chống Mỹ.
Hoa dừa (36 bài thơ) là tập thơ thứ hai bao gồm những bài thơ sáng tác
trong những năm ở chiến trường miền Nam cho đến khi hy sinh (1965 - 1968).
Đây cũng là thời kỳ Lê Anh Xuân có những bước trưởng thành cả về nhận thức
tư tưởng lẫn vốn sống và bút pháp nghệ thuật. Bước trưởng thành này gắn liền
với con người của ông: từ một nhà thơ – trí thức đến một nhà thơ - chiến sĩ.
Hồn thơ Lê Anh Xuân giai đoạn này tràn ngập niền vui, niềm tự hào về quê
hương miền Nam anh dũng trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng. So với tập Tiếng
gà gáy, giọng điệu của tập Hoa dừa vừa sôi dộng, phấn khởi, chắc khỏe và
phơi phới tình yêu quê hương đất nước vừa nồng nàn, sâu đậm cảm hứng trữ
tình – sử thi hơn. Hoa dừa mang hình ảnh của nhiều mảnh đất, nhiều con
người, mang dấu ấn của những chuyến đi, những lần gặp gỡ của nhà thơ trẻ
giàu nhiệt huyết đang say sưa, hòa nhập và sáng tạo.
Tiếp theo tập Hoa dừa là Trường ca Nguyễn Văn Trỗi. Tác phẩm được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lấy cảm hứng từ câu chuyện rất thật về tấm gương hy sinh anh dũng của người
anh hùng đất Quảng, ngay sau khi tác giả gặp chị Quyên – vợ anh Trỗi. Để
hoàn thành tác phẩm dài hơi này Lê Anh Xuân đã phải lao động rất cật lực.
Chính bản thân ông đã chủ động tìm gặp chị Quyên để nghe kể chuyện về anh
Trỗi và đồng thời đọc và suy ngẫm từ tác phẩm Sống như anh của Trần Đình
Vân để có thêm tư liệu. Theo nhà văn Anh Đức, Lê Anh Xuân bắt tay vào viết
Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi từ năm 1967, trong rừng của chiến khu D: “Trong
nhiều buổi chiều tà, khi cánh rừng bằng lăng chút dần ánh nắng, cũng thƣờng
là khi cơn sốt của Hiến hạ dần. Tối đến, Hiến lại ngồi vào bàn làm thơ. Dạo ấy
Hiến đang viết Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi dài trên một ngàn câu” [8, Tr.110
– 111]. Có thể nói Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân là một bản
tình ca, một khúc anh hùng ca. Đối với một nhà thơ trẻ như Lê Anh Xuân có
được một trường ca dài 1341 câu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và khi thể
loại trường ca còn đang rất mới mẻ, chưa phổ biến là một đóng góp rất đáng
trân trọng của ông vào dòng chảy thơ ca kháng chiến chống Mỹ. năm 1969
(Sau khi Lê Anh Xuân hy sinh), Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi chính thức được
Nhà xuất bản Giải Phóng cho in ấn và phát hành. Theo Hoài Thanh, Trƣờng ca
Nguyễn Văn Trỗi xứng đáng là “Tƣợng đài liệt sĩ bằng thơ”.
Với hai tập thơ và một bản trường ca, Lê Anh Xuân đã để lại những dấu
ấn rất riêng trong lòng người đọc và ông cũng đã khẳng định được vị thế của
mình trong nền thơ chống Mỹ. “Cuộc đời và sự nghiệp của Lê Anh Xuân mãi
mãi là mẫu mực về nhân cách của một nghệ sĩ chân chính, đã có những đóng
góp đáng kể không chỉ đối với nền văn học giải phóng miền Nam mà cả với nền
văn học cách mạng dân tộc” [47, tr.346].
Trong các chương sau, Luận văn sẽ đi sâu vào phân tích chất thơ lý
tưởng thuần khiết và bút phấp hiện thực lãng mạn của thơ Lê Anh Xuân như là
một đặc trưng cho phong cách của thời đại đồng thời in đậm dấu ấn cá tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sáng tạo của người anh hùng nghệ sỹ này.
Chƣơng 2
CẢM HỨNG TRỮ TÌNH LÃNG MẠN TRONG TRẺO GIÀU CHẤT
LÝ TƢỞNG - NÉT ĐẶC TRƢNG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
THƠ LÊ ANH XUÂN
2.1. Chất trữ tình sử thi thuần phác, trong trẻo về quê hƣơng và đất nƣớc
2.1.1. Quê hƣơng miền Nam trong kí ức
Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận cho nhiều nhà văn, nhà thơ Việt
Nam. Song đối với Lê Anh Xuân quê hương và những ký ức về quê hương
trong thơ ông trong trẻo, hồn nhiên đến lạ thường. Nó như là chiếc bào thai
dinh dưỡng tinh thần trong thơ và trong đời, khiến cho cảm hứng trữ tình lãng
mạn đượm chất sử thi thuần khiết.
Lê Anh Xuân theo gia đình tập kết ra Bắc sau hiệp định Giơ – ne – vơ
năm 1954 (khi ấy Lê Anh Xuân mới chỉ là chàng thanh niên 14 tuổi), nhưng
trái tim giàu cảm xúc của ông luôn hướng đến quê mẹ mến thương với những
bài thơ căng tràn kí ức. Dường như kí ức về quê hương của nhà thơ lúc nào
cũng chực trào ra đầu ngọn bút, thành những hạt ngọc long lanh thổn thức, tức
tưởi. Điều này có thể lý giải: Sự chia cắt hai miền Nam Bắc cũng đồng thời cắt
ngang giai đoạn nhậy cảm nhất trong cuộc đời ông, cắt ngang tuổi thiếu niên
với bao kỷ niệm không dễ dàng nguôi ngoai.
Trong một bài viết về tập thơ đầu tay của Lê Anh Xuân, Hoài Thanh đã
có những nhận định tinh tế khi cho rằng “chúng ta sung sƣớng đƣợc gặp lại
những hạt ngọc ấy của kí ức ta đang long lanh” [43, tr.39]. Kí ức về quê hương
giống như một dòng chảy của cảm xúc, dòng chảy ấy dạt dào trong tập Tiếng
gà gáy, tràn sang cả tập Hoa Dừa và đọng lại tinh tế ở Trường ca Nguyễn Văn
Trỗi. Hoài Thanh cho rằng “Những kí ức trong thơ Ca Lê Hiến luôn luôn hồn
nhiên và trong sáng”[43, tr.39]. Có lẽ những kí ức trong thơ ông luôn hồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhiên, tươi tắn vì đó là những kí ức của tuổi thơ và vì người làm thơ vẫn còn
giữ nguyên được cái tuổi hồn nhiên, trong sáng. Nỗi nhớ trong thơ Lê Anh
Xuân rất cụ thể, hình ảnh cơn mưa đầu mùa hiện về trong kí ức thân thương
như một mảng mầu trong bức tranh của thời thơ ấu khó phai nhòa:
Ôi, tuổi thơ; ta dầm mƣa ta tắm
Ta lội tung tăng trên mặt nƣớc mặt sông
Ta lặn xuống, nghe xa vang tiếng sấm
Nghe mƣa rơi tiếng ấm, tiếng trong.
(Nhớ mưa quê hương)
Chắc một điều không chỉ một mình tuổi thơ Lê Anh Xuân có cách chơi
trong những cơn mưa đầu mùa như thế, nhưng có lẽ rất khó để nhớ được một
cách cụ thể, rõ ràng, chính xác và viết thành thơ sinh động như những vần thơ
trên. Trở về với quê hương, trở về với kí ức của tuổi thơ là những nét riêng, nổi
bật trong sáng tác nghệ thuật của nhà thơ. Lê Anh Xuân nhớ quê hương từ
những cái nhỏ, nhưng đối với nhà thơ hết sức gần gũi và đáng yêu như con
đƣờng làng cát lún chân, con sông chảy trƣớc nhà em , mấy lu nƣớc, mầu xanh
lá dừa… đã trở thành đặc trưng riêng biệt. Và phải gắn bó với quê hương miền
Nam nhiều lắm Lê Anh Xuân mới nhớ rõ cảnh sắc của quê hương sau cơn mưa
đến thế:
Ôi vui quá không thấy chim đâu cả
Mà bờ tre nghe giọng hót trong lành
Nhà ai đấy nhịp chày ba rộn rã
Làm hạt mƣa trên cành lá rung rinh.
(Nhớ mưa quê hương)
Cả một khung trời kỷ niệm lung linh, sinh động tràn đầy âm thanh cuộc
sống được tái hiện lại trong ký ức về quê hương của nhà thơ, ở đó không chỉ là
những hạt mưa mà còn là tiếng chim hót “trong lành”, “nhịp chày ba” vang ra
từ một mái nhà nào đó. Cơn mưa quê hương đã gợi lên cả một vùng hoài niệm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
khi hoài niệm người ta thường thấy mất mát, thấy buồn vắng và cô đơn nhưng
thơ Lê Anh Xuân không như thế. Với ông, tiếng mưa là “khúc nhạc của bài ca
êm ái”. Những câu thơ cô đúc như thế giống như một lời châm ngôn trữ tình,
có lẽ chỉ khi xa cách con người mới nhận ra cái tình yêu máu thịt đã gắn bó
mình với quê hương.
Đã từng có những nhà thơ viết rất hay, rất cảm xúc về mưa. Thi sĩ Huy
Cận trong Buồn đêm mƣa đã tinh tế lắng nghe được chiều sâu của không gian
cảm được cái cô quạnh của kiếp người từ những tiếng mưa rơi rả rích trong
đêm: "Đêm mƣa làm nhớ không gian/ Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la/ Tai
nƣơng nƣớc giọt mái nhà/ Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn/ Nghe đi
rời rạc trong hồn/ Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi". Hoàng Cầm trong
Mƣa Thuận Thành cũng tinh tế nhận ra được trong tiếng mưa rơi những sắc
màu của hình ảnh và những "thân phận" khác nhau. Không chỉ cảm nhận mưa
bằng thính giác, bằng thị giác mà thi sĩ còn cảm nhận bằng tất cả nỗi lòng của
mình trước thân phận của những kiếp người: "Hạt mƣa chèo bẻo/ nhạt nắng
xiên khoai/ Hạt mƣa hoa nhài/ tàn đêm kỹ nữ/ Hạt mƣa sành sứ/ vỡ gạch Bát
Tràng/ Hai mảnh đa mang". Lê Anh Xuân thuộc thế hệ sau, sức trẻ và cảm
hứng thời đại đã khiến cơn mưa trong ký ức của anh, dù khoan dù nhặt thế nào
đi chăng nữa thì cũng vẫn cứ khơi gợi những kỷ niệm rất đáng yêu, đáng sống
cũng như đánh thức trong anh những ước vọng dâng hiến:
Có lúc bỗng phong ba dữ dội
Mƣa đổ ào nhƣ thác dồn trăm lối
Giấc mơ xƣa có chớp giật, sấm gầm
Trang sử nhỏ nhà trƣờng bỗng hóa cơn giông
Ở Lê Anh Xuân, tình cảm của nhà thơ đối với quê hương càng sâu nặng
hơn bởi trước khi tập kết ra Bắc ông đã tham gia kháng chiến chống Pháp và
sẵn sàng dâng hiến máu xương của mình cho quê hương miền Nam. Cũng bởi
thế nên bất kể cái gì cũng là chất xúc tác làm cho Lê Anh Xuân nhớ tới mảnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đất miền Nam ruột thịt của mình. Ông đắm chìm trong tuổi thơ, say sưa kể về
tuổi thơ. Nói về ký ức tuổi thơ trong thơ Lê Anh Xuân, Hoài Thanh có viết:
“Có sợ những ký ức tuổi thơ đƣa ta đi quá xa không? Tôi không hề thấy ở Ca
Lê Hiến mảy may nào của chiều hƣớng thoát ly. Anh say sƣa kể về tuổi thơ ấy
anh đang sống ở miền Nam giờ đây đang là nơi tuyến đầu của Tổ Quốc” [9,
tr.39]. Những ký ức tuổi thơ của Lê Anh Xuân hầu như bao giờ cũng gắn với
các sự kiện còn nóng bỏng ý nghĩa thời sự.
Khi anh đi dƣới bóng dừa xanh
Anh có thấy bàn chân anh dịu mát
Anh nhớ hôn dùm tôi lên từng khuân mặt
Của Má của Em đang đánh giặc ngày đêm
Ra phía sau vƣờn anh thử nhìn xem
Mấy lu nƣớc còn đầy hay cạn
Trên thân dừa có bao nhiêu vết đạn.
(Gửi anh Giang Nam)
Không có một tình cảm hồn hậu, chân thành làm sao có thể nhớ nổi bàn
chân dịu mát khi đi dưới bóng dừa xanh của quê hương, và đau đớn khi nhớ về
những vết đạn cắt ngang trên thân dừa. Rồi như một lời nhắn nhủ tha thiết, bổi
hổi “Ra phía sau anh thử nhìn xem/ Mấy lu nƣớc còn đầy hay cạn”. Câu thơ
lắng xuống như một cơn gió nhẹ làm xao động những con sóng trên dòng sông
kí ức có thể chực trào bất cứ lúc nào.
Không riêng gì những bài thơ được sáng tác khi sống ở miền Bắc Lê Anh
Xuân mới “muốn trở lại tuổi thơ” mà khi thực sự sống ở giữa lòng quê nội,
nhà thơ vẫn không nguôi ngoai về thời thơ ấu của mình:
Ôi những chiếc thuyền mo cau
Đã chở tuổi thơ ra biển cả…
Ôi những chiếc thuyền mo cau
Đang cùng ta đi đánh giặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Dòng sông tuổi thơ)
Lê Anh Xuân đã đan cài giữa quá khứ tuổi thơ êm đềm, đẹp đẽ với
thực tại gian lao mà anh hùng của quê hương mình. Kí ức quê hương của
ông trong khói lửa chiến tranh không lạc lõng, không bi lụy mà còn luôn gắn
với những cái cao cả lớn lao hơn, ở đó là quê hương, là tổ quốc, là nhân dân,
là lý tưởng cách mạng…
Mười năm sống ở miền Bắc là mười năm Lê Anh Xuân đau đáu nỗi nhớ
về quê nhà. Dù sống trong lòng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, được đùm bọc
trong tình yêu thương của nhân dân miền Bắc song không lúc nào nhà thơ
nguôi ngoai nỗi nhớ về quê cha đất tổ và lúc nào cũng sục sôi trong dòng chảy
cảm xúc. Quê hương miền Nam của nhà thơ hiện lên cũng mộc mạc, giản dị,
thân thương như bao miền quê khác với những đồng lúa chín vàng, rặng dừa
xiêm nghiêng mình trước gió dâng cho đời những trái ngọt trinh nguyên, vị
ngọt ngào của trái vú sữa và vị cay nồng của quả sầu riêng:
Miền Nam ôi miền Nam
Đất chín vàng màu lúa
Đất ngọt nƣớc dừa xiêm
Đất sớm mai có mùi vú sữa
Đất trƣa nồng có vị sầu riêng
(Đất miền Nam)
Nỗi nhớ quê hương thường trực, nó bao trùm cả không gian và thời gian.
Không gian trong kí ức nhớ quê là bầu trời trong xanh rợp mát bóng dừa. Thời
gian xuyên suốt trong ngày: sớm mai, trưa, đến đêm. Nếu như nhà thơ Tế Hanh
nhớ quê hương miền Nam (Quảng Ngãi) bằng hình ảnh con sông quê xanh biếc
“Nƣớc gƣơng trong soi tóc những hàng tre” (Nhớ con sông quê hương), thì với
Lê Anh Xuân quê hương lại như một thứ gia vị làm lên hình lên dáng của nhà
thơ, ông “thèm” được đắm chìm trong đó:
Ta thèm chút nắng quê hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Màu xanh mịn, lá dừa vƣơng trên đầu.
Ta thèm mà chẳng thấy đâu
Dừa ơi, ta muốn ôm sâu vào ngƣời.
(Nhớ dừa)
Ở tập thơ Tiếng gà gáy ký ức quê hương mang cảm hứng trở về hầu như
choán hết hồn thơ Lê Anh Xuân. Ở đây không chỉ là nhớ, là gọi nữa, mà ở đây
có mô típ của sự hóa thân. Nhà thơ muốn hóa thân thành dòng sông để “chảy
trƣớc nhà em” thật trữ tình, thơ mộng:
Anh là con sông chảy trƣớc nhà em
Em có nghe sóng vỗ ngày đêm…
Anh vẫn bên em. Em có nghe không
Tiếng sóng vỗ - tiếng lòng anh sâu thẳm
(Anh là con sông chảy trước nhà em)
Tiếng “em” vang lên tha thiết như một lời giục giã của người thân trong
gia đình thôi thúc ông trở về. Và có lúc thật khó để phân biệt trạng thái thức –
ngủ, khi toàn bộ đời sống tinh thần của nhà thơ đều hướng về quê hương:
Đã nhiều đêm ta không ngủ đƣợc
Ta nằm nghe tiếng chèo ghe mát nƣớc
Thấy mình đang ở giữa quê hƣơng
Cùng bà con tấp nập lên đƣờng.
(Những dòng sông anh hùng)
Trở về với ký ức, khao khát được sống trong lòng của quê cha đất tổ cốt
là để được hành động cách mạng, để dược cầm sũng chiến đấu bảo vệ từng tấc
đất quê hương. Sự hóa thân đồng nghĩa với hành trình trở về theo tiếng gọi của
quê hương như một điệp khúc luôn vang vọng trong tâm khảm: Ta muốn trở về
quê nội; Ta muốn trở lại tuổi thơ; Ta muốn nằm trên mảnh đất ông cha: Để,
Nghe mƣa đập cành tre; Nghe mƣa rơi tàu lá… Càng ngày niềm khao khát ấy
càng thôi thúc, giục giã: “Ôi ta thèm đƣợc tay cầm khẩu súng/ Đi giữa đoàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
quân cùng với bạn bè”. Với khát vọng được trở về, khát vọng được cầm súng
chiến đấu đã làm cho giọng thơ của ông trở nên khỏe khoắn và đượm chất sử
thi của thời đại.
2.1.2. Quê hƣơng miền Bắc, chiếc nôi của lý tƣởng
Mười năm sống ở miền Bắc đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong ông.
Miền Bắc thân yêu cũng là chất liệu và cũng là cảm hứng để ông viết nên tập
thơ đầu tiên – tập thơ Tiếng gà gáy. Đây là tập thơ chủ yếu viết về miền Bắc
đang trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội với một tâm thế hồ hởi, phấn
khởi và niềm trìu mến sâu sắc. Lê Anh Xuân có những cảm xúc say sưa, ngỡ
ngàng trước cuộc sống bộn bề sôi động với những đổi thay nhanh chóng. Ông
say sưa ngắm nhìn những công trường, những con đường, những vùng đất mới,
những mùa gặt…của đất nước đang thay da đổi thịt từng ngày. Sự chuyển mình
của miền Bắc đầy mạnh mẽ nhưng cũng đầy chất thơ. Bất cứ chỗ nào đặt chân
đến ta cũng có thể nhìn thấy sự “bừng nở” của cuộc sống mới. Ông Lên Bắc
Sơn để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng, xuống Đêm Uông Bí để tưng
bừng ánh điện công trường, vui mừng trước Con đường cũ nay “thênh thang
rộng mở”, tấp nập những đoàn xe qua lại trên công trường như “chở bóng
dƣơng xanh”. Ông thể hiện tình yêu của mình với miền Bắc một cách trực tiếp:
“Sáng nay khi là tre xanh/ Long lanh nắng dội/ Tôi nghe trên đài phát thanh/
Tiếng Bác Hồ nói/ Lòng bỗng thấy lâng lâng” (Mười năm). Giọng thơ sổi nổi,
phấn khởi, không giấu giếm nổi niềm vui. Có thể nói, Lê Anh Xuân là một
trong số không nhiều nhà thơ lúc bấy giờ có những dòng ân nghĩa sâu sắc đối
với miền Bắc:
Miền Bắc ơi! Sao tôi yêu quá!
Nhƣ yêu Em, yêu Má, yêu Ba
Xa quê hƣơng miền Bắc là nhà
Tôi nhƣ lá xanh chen trong cành biếc
Nhìn bốn bên gặp mắt nhìn thân thiết
Lòng đã quen, đã biết, đã yêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Mƣời năm)
Bất cứ nơi nào đến cũng càng tràn sức sống mới khi “Buổi đầu tiên làm
chủ đời mình”, thoát ra khỏi kiếp sống nô lệ lầm than. Tuy cuộc sống mới còn
nhiều thiếu thốn, vất vả nhưng Lê Anh Xuân vẫn rất vui sướng và xúc động
trước tình cảm mến thương, chia ngọt sẻ bùi của miền Bắc.
Ông say sưa ngắm nhìn, ngỡ ngàng trước sự chuyển động từng ngày,
từng giờ của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Ông sung
sướng thật sự khi nhân dân miền Bắc đạt được những thành quả trong công
cuộc đổi mới này, ông say sưa ngợi ca những con người lao động quên
mình, khắc phục khó khăn, vượt qua gian khổ, chắt chiu từng hạt thóc để
xây dựng cơ đồ:
Đêm Uông Bí buổi đầu anh đến
Nhà máy vừa xây lớp lớp sáng bừng…
…Uông Bí đêm nay,em biết chăng,cánh lá
Đêm xuống rồi còn thấy rõ màu xanh
Sóng Bạch Đằng xƣa cũng long lanh
Điện công trƣờng nhƣ sao trời nhấp nháy
(Đêm Uông Bí)
Khi bày tỏ tình cảm của mình với miền Bắc thân yêu, Lê Anh Xuân
không dùng những hình ảnh ví von xa lạ, không man mác nỗi buồn cũng không
da diết nhớ thương. Tình cảm ấy được thể hiện ra bằng những vần thơ chân
thành, mộc mạc, giản dị, gần gũi mà thiết tha. Khi được sống trong lòng đất
Bắc, Lê Anh Xuân cảm thấy yêu cuộc sống và yêu con người nơi này hơn, yêu
đất nước mình hơn. Yêu quê hương miền Bắc hay yêu quê hương miền Nam
cũng là yêu đất nước mình như một nhận định của Hoài Thanh: “Anh nhận
thức rất rõ yêu miền Nam cũng là yêu đất nƣớc mình, yêu miền Bắc cũng là yêu
đất nƣớc mình, trong tình cảm không việc gì phải bày ra điều mâu thuẫn. Yêu
đất nƣớc và yêu sự nghiệp cách mạng trên cả hai miền đất nƣớc. Nhận thức ấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ở anh có thể nói đã đi vào máu thịt”[9, tr.41]. Với Lê Anh Xuân, yêu miền Bắc
còn là yêu những những bước đi đầu tiên của chủ nghĩa xã hội, yêu lí tưởng lớn
của bao lớp người đi trước và chính ông cũng đã chọn làm lí tưởng lớn của đời
mình. Cho nên dẫu còn nhiều khó khăn còn nhiều thử thách nhưng vẫn vui. Vui
vì tình đồng bào, đồng chí. Vui vì tinh thần đoàn kết, đồng sức đồng lòng của
dân tộc ta. Miền Bắc là nhà, là sức mạnh, là niềm tin chắp cánh cho ước mơ của
Lê Anh Xuân bay xa:
Phải nhờ lí tƣởng chói chang
Hoa tình yêu mới thơm hƣơng mặt trời
Hay:
Bao ngƣời máu đã ngập lƣng
Tựa vào lí tƣởng lại vùng đứng lên.
Miền Bắc là ngọn đèn lí tưởng thắp tâm hồn nhà thơ cháy sáng tinh thần
lạc quan về ngày mai:
Tôi trở về đây Việt Bắc ơi!
Rừng cây thắp sáng cả hồn tôi
Thái Nguyên bừng nở khu gang thép
Việt Trì khói trắng nhƣ mây trôi.
Cuối năm 1964, Lê Anh Xuân vượt Trường Sơn về Nam công tác. Trở
lại Nam Bộ, Lê Anh Xuân lao vào cuộc chiến đấu, giải tỏa nỗi khao khát được
đánh giặc cháy bỏng trong lòng bấy lâu nhưng nhà thơ vẫn không nguôi ngoai
nỗi nhớ thương Miền Bắc. Lúc này, miền Bắc giữ nhiệm vụ làm hậu phương
vững chắc và chi viện quân cho miền Nam. Nhân dân miền Bắc đang cùng
nhân dân miền Nam ngày đêm chiến đấu chống lại kẻ thù tàn phá. Nỗi nhớ
thương này không chỉ là tình cảm riêng tư mà ở đó là một tình cảm lớn hơn:
Tình cảm dân tộc.
Lê Anh Xuân đã dành cho miền Bắc một tình cảm thủy chung son sắt và
đây cũng là niềm tin vĩnh cửu của ông đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Miền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Bắc đã trở thành quê hương của ông để khi quay trở về miền Nam. Nỗi nhớ
thương đong đầy, choáng ngợp cả không gian và thời gian. Lê Anh Xuân
dường như không giấu nổi nỗi nhớ thương của mình:
Nhớ những chiều nhìn về phƣơng Bắc
Thấy xa xa đàn cò trắng bay về
Tôi nghĩ trên lƣng cò có chút bùn miền Bắc
Dù cánh cò chẳng bay tới ngoài kia.
(Gửi miền Bắc)
Từ miền Nam khói lửa, Lê Anh Xuân gửi lời chào đến Hà Nội với niềm
tin và hy vọng:
Hà Nội ơi! Hà Nội ơi!
Giữa đêm nghe chiến thắng reo vui
Tìm phƣơng Bắc chúng tôi chào Hà Nội
Sửa vai bòng lại bƣớc vội hành quân.
(Chào Hà Nội, chào Thăng Long)
Bằng những hình ảnh ẩn dụ, thủ đô Hà Nội trở nên thật trẻ trung thật
duyên dáng trong những ngày chiến đấu ác liệt với quân thù. Hà Nội mang một
vẻ đẹp khỏe khắn, tràn đầy sức trẻ với những chiến công oai hùng, vẻ đẹp của
sông Hồng được ví như nàng tiên mặc áo đỏ thật kiêu sa, lộng lẫy:
Trong tiếng pháo gầm, trong tiếng đạn bay
Hà Nội súng cầm tay nói cƣời duyên dáng
Hà Nội trẻ trung sáng trƣng vầng trán
Hà Nội hồng hào những chiến công
Đẹp nhƣ nàng tiên mặc áo đỏ sông Hồng.
(Chào Hà Nội, chào Thăng Long)
Hà Nội trong thơ ông còn mang trong mình một vẻ đẹp trầm mạc, cổ
kính, uy nghiêm như được hun đúc lên từ lịch sử, từ văn hoá của những lăng
tẩm, đền đài. Với dáng ngồi suy nghĩ của cha ông như nhắc nhở thế hệ trẻ về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc:
Có Tháp Rùa, đền Trấn Võ, gò Đống Đa
Đẹp nhƣ dáng cha ông ta đang suy nghĩ.
(Chào Hà Nội, chào Thăng Long)
Nhà thơ yêu miền Nam cũng như yêu miền Bắc và yêu quê hương mình
là yêu sự nghiệp cách mạng trên cả hai miền đất nước. Cảm hứng về đất nước
không tách rời chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà:
Trong mỗi việc làm
Trong từng giây suy nghĩ
Chúng tôi đều đánh Mỹ
Vì một ánh trăng chủ nghĩa đang rằm
Soi sáng thành Thăng Long một nàng Kiều lấp lánh.
(Chào Hà Nội chào Thăng Long)
Miền Bắc là mảnh đất đã nuôi dưỡng Lê Anh Xuân thành con người
trọn vẹn nghĩa tình. Đối với nhà thơ miền Bắc là thiên đường hùng vĩ của
chân lý cách mạng, càng có ý nghĩa hơn khi ở nơi đó có Bác Hồ: “Ôi miền
Bắc nơi lòng tôi yêu quý/ Nơi bừng lên một chân lí: Bác Hồ”(Gởi miền Bắc),
Bởi vì Bác Hồ là Tổ Quốc, là niềm tin, là lẽ sống còn của dân tộc: “Ôi ba
tiềng Hồ Chí Minh/ Đã thành ánh sáng, đã thành niềm tin/ Đã thành lời hứa
thiêng liêng/ Lửa thiêng chẳng cháy, đá nghiền chẳng tan”. Bởi vì Bác là mặt
trời thân yêu đem ánh sáng cho con đường cách mạng, mang lại niềm tin niềm
hy vọng cho mỗi người con Việt Nam: “Đƣờng chúng con đi có Bác soi
đƣờng/ Có mặt trời thân yêu xóa bóng đau thƣơng”. Và cũng bởi một lẽ Bác
là chiến thắng: “Cầm thƣ Bác chúng con cầm chiến thắng”. Bác Hồ đã trở
thành lẽ sống cho mỗi người dân đất Việt, Bác trở thành tâm điểm của sự
đoàn kết dân tộc. Cả nước luôn hướng về Người như hướng về ngọn đuốc soi
sáng đường dân tộc. Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhất, cả
miền Nam luôn hướng về Bác với niềm tin yêu vô ngàn và sự kính trọng sâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sắc. Người dân trên khắp mọi miền Tổ Quốc đón chờ thư của Người trong
mỗi dịp tết đến xuân về trên các phương tiện thông tin đại chúng. Lời của
Người là lời của hồn thiêng sông núi, vang khắp mọi nơi, vọng đến những
miền đất xa xôi và gian khổ nhất.
Miền Nam đọc thƣ Bác
Sông Hiền Lƣơng bồi hồi
Trời Cà Mau giàn giụa nƣớc mắt rơi.
(Mặt trời thân yêu)
Cùng với niềm tôn kính vị lãnh tụ của dân tộc là lòng tự tôn về truyền
thống yêu nước đánh giặc ngàn năm của Tổ Quốc Việt Nam. Có lẽ chưa bao
giờ trong thơ Lê Anh Xuân, truyền thống lịch sử và cuộc sống hôm nay lại hòa
quyện trong âm hưởng hào hùng, khí thế như trong bài thơ “Chào Hà Nội,
chào Thăng Long”. Ông nhắc đến quá khứ oai hùng của dân tộc bằng một loạt
những tên tuổi cụ thể, những con người đã góp phần xương máu của mình làm
nên đất nước muôn đời như Trần Văn Giao, Phạm Thị Vách, Phùng Văn Bằng,
La Văn Cầu, Phan Đình Giọt, Cù Chính Lan, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt,
Quang Trung… Những người anh hùng đã ngã xuống tiếp sức mạnh cho thế hệ
sau đánh giặc, giữ nước:
Hỡi những anh hùng ngàn năm xây dựng
Trần Văn Giao, Phạm Thị Vách, Phùng Văn Bằng
Hỡi những anh hùng chín năm đánh Pháp
La Văn Cầu, Phan Đình Giót, Cù Chính Lan
Hỡi những anh hùng ngàn năm dựng nƣớc
Hai Bà Trƣng, Lý Thƣờng Kiệt, Quang Trung
Tất cả hôm nay xuất trận trùng trùng
Lớp lớp anh hùng tràn nhƣ sóng cuộn.
Trƣơng Định cũng vƣợt Trƣờng Sơn về đây che bóng nhà
hát lớn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Chào Hà Nội, chào Thăng Long)
Khi nhận xét về những vần thơ trên, nhà phê bình Hoài Thanh đưa ra ý
kiến: “Câu thơ Lê Anh Xuân thƣờng vẫn dịu hiền và có khi nhỏ nhẹ nữa, ở đây
bỗng trở nên dồn dập và cuối cùng nhƣ muốn vƣơn lên cho xứng với khí thế,
xứng với tầm rộng lớn của cuộc hành quân vĩ đại”.
Lê Anh Xuân từng là cán bộ trở giảng khoa Sử trường Đại học tổng hợp
Hà Nội nên ý thức về truyền thống dân tộc, ý thức về chiều sâu lịch sử luôn
hiện hữu trong thơ ông như một tiền thức. Những vần thơ của ông có sự hòa
quyện giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung, giữa cái cụ thể và cái khái quát, giữa
hiện tại với quá khứ oai hùng của dân tộc. Sự hòa quyện đến mức khó có thể
tách rời tạo nên khí thế tiến công hùng mạnh, quá khứ tiếp sức cho tương lai
trong dòng chảy của truyền thống đánh giặc, giữ nước:
Tất cả giáo gƣơm trong viện bảo tang
Cũng náo nức xuống đƣờng giết giặc
Mũi tên đồng Cổ Loa, mũi chông tre Ấp Bắc
Khẩu pháo Điện Biên đặt cạnh khẩu thần công
Tên lửa hôm nay mang dáng cọc Bạch Đằng.
(Chào Hà Nội, chào Thăng Long)
Miền Bắc đã trở thành cái nôi nuôi dưỡng lý tưởng cách mạng cho người
thanh niên trẻ tuổi Lê Anh Xuân, tiếp sức cho ông trên những chặng đường
hành quân gian khổ và chắp cánh cho những vần thơ của ông có được cái nhìn
lạc quan vào tương lai tươi sáng, rạng rỡ của dân tộc Việt Nam.
2.1.3. Quê hƣơng trong khói lửa chiến đấu
Tốt nghiệp Đại học, Lê Anh Xuân được giữ lại làm cán bộ giảng dạy
bộ môn Lịch sử thế giới khoa Sử trường Đại học tổng hợp Hà Nội và được cử
đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài, con đường tương lai tươi sáng, sự nghiệp
khoa học rộng mở phía trước nhưng ông đã từ chối tất cả. Người thanh niên
ấy không bằng lòng với việc chỉ “Nghe tiếng gƣơm lịch sử khua trên giấy”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Ông chọn con đường trở về quê hương chiến đấu. Cuối năm 1964, cùng với
bạn bè đồng chí, Lê Anh Xuân đã bí mật vượt Trường Sơn về Nam, khi cuộc
chiến đấu đang ở giai đoạn gay go quyết liệt nhất, thời điểm mà hơn mười vạn
viễn chinh Mỹ đem quân đổ bộ vào miền Nam Việt Nam nhằm dập tắt ngọn
lửa đấu tranh đang bùng phát mạnh mẽ trong toàn dân. Trong một bức thư viết
cho anh, chị, em vài giờ trước khi lên đường, Lê Anh Xuân tâm sự: “Em rất
xúc động, vừa thấy rạo rực, háo hức, vừa thấy bâng khuâng khi sắp phải xa
anh em, xa những ngƣời thân yêu. Em biết rồi đây những khó khăn thử thách
mới rồi sẽ đến, thậm chí có thể hy sinh nữa nhƣng không vì thế mà làm giảm
sút quyết tâm đi Nam”.
Vốn là Cán bộ giảng dạy, ông trở lại miền Nam với tư cách là một nhà
giáo, một người nghiên cứu và đảm nhận trọng trách giáo dục ở vùng giải
phóng và chuẩn bị đội ngũ giảng viên mở trường đại học trên căn cứ địa
cách mạng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Một thời gian sau ông chuyển
sang công tác tại Tiểu ban Văn nghệ với tư cách là một nhà báo, phóng viên
mặt trận. Ông xông pha trên các nẻo đường, đi theo tiếng gọi thiêng liêng
của đất nước với tâm niệm được hy sinh cho Tổ Quốc yêu thương như lời
ông từng viết trong nhật ký của chính mình: “nếu có chết tại nơi này Hiến
cũng không tiếc”.
Dễ dàng nhận thấy kể từ khi trở về đặt chân lên mảnh đất quê hương
miền Nam sau mười năm trời xa cách, được trực tiếp chiêm ngưỡng và trực tiếp
dấn thân vào cuộc chiến đấu ác liệt, cảm hứng về quê hương trong thơ Lê Anh
Xuân phát triển lên một tầm vóc mới, mang một sắc diện mới. Nếu ở tập Tiếng
gà gáy, hình ảnh quê hương được gợi lên trong hoài niệm, trong xa cách, nhớ
nhung và tưởng tượng thì đến tập Hoa dừa, cảm hứng ấy trở nên nóng bỏng
khói lửa cuộc chiến, có cái chết của những anh hùng, có sự gồng mình lên của
toàn dân tộc. Những nghĩ suy, những ý tưởng được trải nghiệm qua thực tế trở
nên sâu sắc và chín chắn hơn. Hình ảnh quê hương hiện lên sinh động, cụ thể
hơn. Quê hương đối với mỗi người bao giờ cũng đẹp và thiêng liêng, nhưng đối
với Lê Anh Xuân quê hương còn đẹp hơn nhiều bởi mảnh đất thân yêu này đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
lớn lên trong đau thương, trong khói lửa chiến tranh. Sau bao nhiêu khao khát,
nay được trở về nhà thơ vồ vập đắm say trước sức sống dẻo dai mãnh liệt của
quê hương mình:
Ôi quê hƣơng xanh biếc bóng dừa
Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại
Quê hƣơng ta tất cả vẫn còn đây
Dù ngƣời thân đã ngã xuống đất này
(Trở về quê nội)
Ông nghẹn ngào khi được đặt chân lên mảnh đất thân yêu sau bao nhiêu
nhớ nhung xa cách, vui mừng vì quê hương “vẫn còn đây” không có sự thay
đổi nhưng bùi ngùi vì người thân đã ngã xuống. Tâm hồn nhà thơ rung lên xúc
động khi chạm vào thực tế, chạm vào kỷ niệm. Trở về quê nội, nhà thơ đi chân
đất, để cho chân mình ngập trong bùn đất, nhẫm lên những trồi non nhọn sắc
mới nẩy chồi sau trận bom na-pan để được sống cái cảm giác được trực tiếp
gắn bó với đất, nghe hơi thở ấm áp của đất, hòa mình với đất mẹ để nghe thấm
sự sống quê hương. Trên đất mẹ những bước chân nối tiếp nhau, bước chân của
tuổi thơ lồng trong bước chân của hiện tại, bước chân nhà thơ hòa vào bước
chân của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cái Tôi
nhà thơ đã hòa chung trong cái Ta của dân tộc:
Đất là mẹ của ta. Ôi ta yêu mẹ nhất
Đất đã đẻ ra lớp lớp những anh hùng
Mẹ nhớ mặt từng đứa con đã khuất
Mẹ chôn vùi bao lũ giặc xâm lăng
Mẹ cho ta, mẹ chẳng để lại gì cho mẹ cả
Ôi những vƣờn sầu riêng, những vƣờn cam trĩu quả.
(Ta lại đi chân đất)
Hình ảnh thường nhắc lại những kỷ niệm cụ thể, nhìn cảnh vật đang hiện
hình trước mắt mình nhà thơ thấy nhớ thương, kỷ niệm thuở nhỏ ùa về, hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ảnh của nội hòa lẫn trong hình ảnh của thân dừa bầm những vết đạn:
Hôm nay tôi trở về quê cũ
Hai mƣơi năm biết mấy nắng mƣa
Nội đã khuất rồi xanh rì nấm cỏ
Trên thân dừa vết đạn xác xơ
(Dừa ơi)
Và dù cho “thân dừa đã hai lần chảy máu” nhưng:
Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Nhƣ dân làng bám chặt quê hƣơng.
(Dừa ơi)
Nhà thơ sung sướng vì được thấy quê hương thân yêu đứng vững vàng,
vẫn hiên ngang trước những lần đánh phá điên cuồng của kẻ thù. Ông xúc động
trước cảnh yên bình của Ấp Bắc hôm nay - nơi đã từng diến ra những trận
đánh ác liệt. Ông cảm nhận được vị thơm mát phả ra từ lòng đất, nhìn thấy
được sự sống đang nảy mầm xanh tươi – mầu xanh ngắt của lúa đang trải dài
trên những cánh đồng của buổi chiều trong veo, say sưa ngắm nhìn liếp mía
vàng tươi, “Bông súng dƣới ao mở xòe cánh quạt”, hòa mình vào thiên nhiên
lắng nghe dư vị đặc trưng của mùi bùn “đất Việt Nam”:
Tôi đi trên chánh đồng Ấp Bắc
Đất dƣới chân thơm mát, phì nhiêu
Chiều Ấp Bắc trong veo
Đồng Ấp Bắc một màu xanh ngắt.
Ôi Ấp Bắc thành đồng bất khuất
… và đâu đây mùi bùn đất đất Việt Nam
Tất cả đã trở thành bất tử
(Qua Ấp Bắc)
Trở về quê hương Bến Tre, cái nôi của phong trào đồng khởi với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
dải đất dừa mênh mông, bát ngát, nay những thân dừa cháy xém cụt ngọn bởi
những vết đạn cắt ngang thân mình nhưng vẫn tua tủa đâm vút lên trong nắng
ấm. Ông đau đớn nhìn về An Đức, nhìn về phía ngôi mộ nhà thơ lớn đang còn
nằm trong vùng giặc, ngỡ như thấy nhà thơ đang bị giam cầm vì tham gia
kháng chiến:
Tôi nhìn về An Đức
Mộ Đồ Chiểu còn nằm trong vùng giặc
Chúng giam nhà thơ bằng dây thép gai
(Vì nhà thơ cũng là ngƣời kháng chiến)
(Nhìn về An Đức)
Trong tình cảm của nhà thơ, ngôi mộ không nằm cô đơn, lạnh lẽo, mà có
ánh trăng sáng rực đang soi rọi ngòi bút đấu tranh không ngừng chảy mực của
nhà thơ, có thấp thoáng bóng dáng của những người du kích “Đang luồn sâu
vào vùng địch/ Đêm nay họ nằm cạnh nhà thơ”:
Tôi nhìn về An Đức
Chiều Ba Tri vàng mơ
Trăng đang nhô lên sáng rực
Trăng mọc lên từ ngôi mộ của nhà thơ.
(Nhìn về An Đức)
Trở lại quê hương, Lê Anh Xuân lao ngay vào cuộc chiến đấu ác liệt.
Đêm đầu tiên được ngủ giữa quê nhà, được chung lưng đấu cật, chiến đấu cùng
bà con cô bác ông thấy lòng ấm áp lạ thường: “Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê
hƣơng/ Sao thấy lòng ấm áp”(Trở về quê nội). Ông tham gia vào mọi hoạt
động chống giặc cùng bà con:
Ta đi phá lộ đêm trăng
Có anh có chị cả làng đông vui
Có ông tuổi ngoại sáu mƣơi
Có em nhỏ mới lên mƣời cũng đi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Phá lộ đêm trăng)
Cảm động và sung sướng khi được trở về quê hương, tất cả vẫn còn nguyên
vẹn, những vật vô tri vô giác cũng trở nên thân thương gần gũi đến lạ kì:
Hai mƣơi năm qua
Dòng sông còn đó
Những con còng gió
Thân thiết nhìn ta.
(Dòng sông tuổi nhỏ)
Quê hương miền Nam trong thơ Lê Anh Xuân hiện lên với dự vị rất
riêng, dường như ông đang say trong “men tình cảm”, hứng khởi khi được cọ
xát với hiện thực, được trực tiếp tham dự, chứng kiến hiện thực khốc liệt của
cuộc chiến trên quê hương mình nhà thơ càng thấy yêu quê hương tha thiết,
một tình yêu mang tên Lê Anh Xuân:
Không ở đâu đứng lên đánh Mỹ
Nhƣ miền Nam mƣời bốn triệu ngƣời
Không ở đâu đứng lên chiến lũy
Nhƣ miền Nam hai chục năm rồi.
(Không đâu như ở miền Nam)
Lê Anh Xuân nhận thấy: “Đánh Mỹ đã trở thành cuộc sống”, ông nhìn
quê hương miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với một tầm vóc mới.
Quê hương như một người dũng sĩ với khuân mặt sáng ngời chân lý. Đến đây,
cảm hứng về quê hương đất nước trong thơ ông càng có thêm tầm khái quát và
chiều sâu đậm chất suy tưởng:
Miền Nam ơi! Ngƣời là dũng sĩ
Đang đứng canh cho cả trăm miền
Khuân mặt ngƣời sáng ngời chân lý…
(Không đâu như ở miền Nam)
Tình yêu đất mẹ trĩu nặng trong lòng nhà thơ. Lê Anh Xuân yêu quê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
hương không phải chỉ để ngắm, để nhìn quê hương mà ông đang cùng quê
hương chiến đấu và lớn lên cùng quê hương. Nếu trước đây khi viết về phong
trào cách mạng quê hương miền Nam chỉ bằng tưởng tượng thì giờ đây có thêm
sự trải nghiệm thực tế của bản thân. Nhiều địa danh khác nhau của vùng đất
anh dũng thành đồng được nhắc đến. Nhà thơ nhắc đến Bến Tre dạt dào sức
sống với “Chiều Ấp Bắc trong veo/ Đồng Ấp Bắc một màu xanh ngắt” (Qua
Ấp Bắc), là An Đức “Trăng đang nhô lên sáng rực” (Nhìn về An Đức) soi
bóng những người du kích đang luồn sâu vào lòng địch. Nhà thơ đặt chân đến
Đồng Tháp Mười say sưa ngắm nhìn “Bông sen trắng, bông sen hồng thơm
ngát” với những “Cánh cò bay trong sắc trời lá mạ/ Cá quẫy đầm sen thiết
tha/ Xôn xao bong súng nở xòe”(Anh đứng giữa Tháp Mười). Ông đi trong
lòng Sài Gòn với “Những phố hè, những hàng me xanh ngát” để nghe thấy
tiếng gọi nức nở của quê hương “Cái vầng sáng bồn chồn thƣơng nhớ đó/ Cứ
đêm đêm nức nở gọi ta về”(Mùa xuân Sài Gòn, mùa xuân chiến thắng). Người
đọc cảm nhận được không khí sôi sục của cách mạng miền Nam trong từng câu
thơ Lê Anh Xuân.
2.2. Cái nhìn lý tƣởng hóa về các nhân vật trữ tình
2.2.1. Em gái miền Nam
Nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam đã có những trang viết xúc động về
hình ảnh của những người phụ nữ với những phẩm chất đáng quý, họ là những
người dù chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi, đắng cay nhưng vẫn giữ vẹn tấm lòng
son sắt, trinh bạch. Đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ trong văn học hiện đại,
họ mang đậm hơi thở của thời đại, ghi đậm dấu ấn của cuộc kháng chiến trường
kỳ của dân tộc. Và có lẽ, chưa bao giờ hình ảnh người phụ nữ anh hùng lại
được các nhà thơ dành cho nhiều trang viết đến thế.
Hình ảnh người phụ nữ miền Nam xuất hiện nhiều trong thơ Lê Anh
Xuân. Nhà thơ đã dành những vần thơ chân thành, xúc động ngợi ca người phụ
nữ với tấm lòng mến phục và chan chứa yêu thương. Họ là những bà mẹ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những người chị, những thiếu nữ… Bằng những việc khác nhau, đã góp phần
vào cuộc kháng chiến, xứng đáng với tám chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất,
trung hậu, đảm đang”, xứng đáng với danh hiệu “đội quân tóc dài” từng làm
khuynh đảo cả chiến trường Tây Nam Bộ. Những câu chuyện viết về nữ anh
hùng đều được kết cấu dưới dạng chuyện kể và nhờ có sự kết hợp giữa tự sự
với trữ tình, giữa hiện thực đời sống với hiện thực tâm trạng nên những câu
chuyện tưởng như khô khan mà lại có sức hấp dẫn riêng. Từ hình ảnh người mẹ
ở nghĩa trang An Thới tảo tần, hy sinh hết thẩy, một lòng một dạ thủy chung
son sắt với cách mạng làm ta cảm phục như trong bài thơ Ngƣời mẹ trồng bông,
mẹ âm thầm chăm sóc cho những nấm mồ, làm ấm lòng các anh hùng liệt sĩ khi
ngã xuống: “Nghĩa trang chính là lòng mẹ/ Nơi anh hùng yên nghỉ có mùi
hƣơng”. Đó là hình ảnh người mẹ Bến Tre bên sông Hàm Luông trong bài thơ
Bông trang đỏ, mẹ tần tảo sớm hôm sống trọn cuộc đời với cách mạng, mẹ kiên
cường, mưu trí, gan góc nuôi giấu cán bộ trong căn hầm được đào dưới bàn thờ
và nuôi nỗi đau mất chồng, mất con thành mối căn thù giặc sâu sắc. Mẹ nằm
xuống trong một trận đánh của giặc để rồi: “Dừa Bến Tre bốn mùa xanh ngắt/
Sông Hàm Luông ca hát sớm chiều/ Hát rằng: hỡi mẹ kính yêu/ Cuộc đời mẹ
đẹp nhƣ màu bông trang”. Đó còn là người mẹ trực tiếp tham gia vào cuộc
chiến tranh, sẵn sàng hy sinh những gì quý giá nhất của đời mẹ:
Mẹ đem con bịt nòng đại bác
Cả dân làng ghì cánh trực thăng.
(Không đâu như ở miền Nam)
Trong thơ Lê Anh Xuân những người con gái miền Nam tươi đẹp, dịu
dàng, duyên dáng bước vào cuộc chiến, mang dáng dấp huyền thoại mơi đẹp
làm sao. Đó là Út Tiết, cô xã đội tuổi mười tám, đôi mươi căng tràn sức sống,
trong dáng dấp của thôn nữ Bến Tre: “Dịu dàng dáng áo bà ba/ Khăn rằn gió
phất, tóc xõa ngang vai” mới ngày nào còn là cô bé sợ bóng đêm, khi nghe
tiếng ca-nông nổ thì lấy tay bịt tai trong hầm: “Nhớ khi sợ bóng đêm dày/ Nghe
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ca-nông nổ, bịt tai trong hầm” mà nay trở thành cô xã đội dịu dàng duyên dáng
trong chiếc áo bà ba tay không lấy bót, lấy đồn, khiến cho: “Nghe tên em, giặc
khiếp kinh trăm thằng” trong bài thơ Cô “xã đội”.
Đó là hình ảnh em gái đưa đò tuổi mười tám mưu trí, làm giao liên trên
sông An Hóa, em đưa người biểu tình qua sông. Để che mặt quân thù, em sẵn
sàng mặc lên người sáu lớp áo, mỗi lớp một màu, mỗi lần qua sông em thay
một màu áo để kẻ thù không thể phát hiện ra được em:
Qua sông, đò vẫn qua sông
Tìm em, quân giặc đừng hòng tìm em
Áo em nhƣ có phép tiên
Đò qua mấy chuyến áo em mấy màu
(Em gái đưa đò)
Đó còn là hình ảnh của một nữ sinh miền Nam tươi đẹp, dịu dàng, khỏe
khoắn của tuổi đôi mươi, với khuân mặt bừng sáng nụ cười mùa xuân hiện lên
sinh động, tươi vui và tràn đầy sức sống :
Ngƣời con gái ấy tuổi đôi mƣơi
Khuân mặt mùa xuân sáng nụ cƣời
Ngang lƣng tóc xõa tròn vai nhỏ
Dịu dàng đôi ánh mắt vui vui.
(Bài thơ “Áo trắng”)
Hoạt động cách mạng của nữ sinh trẻ tưởng chừng như thật đơn giản
nhưng lại vô cùng hiểm nguy, khó khăn. Bằng lòng tin và hy vọng vào sự
nghiệp cách mạng cô đã vượt qua được những vất vả, hiểm nguy để trở thành
một chiến sĩ cách mạng kiên cường.
Ở đó còn là vẻ đẹp gần gũi của người con gái phá đường dưới đêm trăng.
Một hình ảnh quen thuộc trong văn học kháng chiến. Nếu như Tố Hữu miêu tả
không khí của buổi phá đường bằng những hành động cụ thể: “Lục cục lào
cào/ Anh cuốc em cuốc/ Ta thi nhau đào” thì Lê Anh Xuân lại dừng nhiều hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ở bản thân người con gái. Người con gái phá đường toát lên một vẻ đẹp của sự
lao động, công việc phá đường vất vả khiến cho mái tóc họ ướt đẫm mồ hôi
nhưng lại tỏa ra “mùi trăng thơm”. Một khám phá nghệ thuật thật đẹp, thật lạ,
cô thanh niên xung phong làm công việc phá đường bỗng giống như một nàng
tiên trong đêm trăng:
Trăng rằm nở sáng trời cao
Có trăng ta cuốc, ta đào nhanh tay
Tóc em ƣớt đẫm mồ hôi
Sao nghe phảng phất có mùi trăng thơm
(Phá lộ đêm trăng)
Mười hai cô gái Bến Tre lấy vai đỡ cầu cho bộ đội qua sông là một hình
ảnh thực, đầy cảm động. Hình ảnh này đã đi vào thơ Lê Anh Xuân một cách rất
tự nhiên, tạo nên một bài thơ có cấu tứ độc đáo. Tứ thơ ấy thật hợp với một một
tâm hồn tươi trẻ, thiết tha cảm mến của nhà thơ. Vẻ đẹp rạng rỡ của mười hai
cô gái được dệt lên bởi lòng quả cảm và tình yêu Tổ Quốc khiến ta ngỡ ngàng:
Dƣới sông ngực đập bồi hồi
Mƣời hai cô gái, mƣời hai nhịp cầu
Mặt sông ánh một trời sao
Mắt em lấp lánh sao nào đẹp hơn
(Qua cầu)
Lòng trung thành, tinh thần dũng cảm, đức hy sinh của người phụ nữ
miền Nam trong cuộc chiến tranh là nguồn cảm hứng mãnh liệt trong thơ Lê
Anh Xuân. Hình ảnh người phụ nữ trong thơ ông tô điểm cho truyền thống:
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, đồng thời làm dịu ngọt những dòng thơ
giàu âm hưởng sử thi của ông.
Nhà thơ dành tình cảm cho những người phụ nữ trong thơ ông nhiều như
vậy cũng bởi có lẽ ông hiểu được họ sinh ra không phải để đánh giặc, không ai
ép họ đánh giặc, thông điệp của toàn cầu cũng nói như vậy. Nhưng trong cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
kháng chiến này họ tiếp nối truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”,
thấm nhuần chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”, họ tự nguyện đánh
giặc giữ nước, lập nên những chiến công kỳ vĩ, trở thành những anh hùng. Vẻ
đẹp thiên thần của họ gắn liền với cuộc chiến đấu gian khổ nhưng oai hùng của
dân tộc.
2.2.2. Anh giải phóng quân
Lê Anh Xuân viết về anh giải phóng quân không nhiều nhưng chính
hình tượng đó đã mang lại cho nhà thơ thành công hơn cả. Từ tác phẩm Anh
đứng giữa tháp mƣời viết về anh hùng liệt sĩ Huỳnh Viết Thanh, người cha
của bảy đứa con thơ, người đội trưởng du kích đã tham gia đánh hàng trăm
trận đánh, lập nhiều chiến công hiển hách, cho đến trận cuối cùng, trong
vòng vây xiết chặt của quân thù anh đã bình tĩnh “chống xuồng lao ra hút
địch” làm bia đỡ đạn để đồng đội rút lui an toàn. Huỳnh Viết Thanh đã hy
sinh trong trận đánh ác liệt này nhưng tên anh đã được ghi vào lịch sử, dáng
anh còn mãi với thời gian:
Gió thổi thời gian vào biển cỏ xa khơi…
Gió thổi tên anh vào lịch sử
Anh đứng mãi giữa Tháp Mƣời
(Anh đứng giữa Tháp Mười)
Lê Anh Xuân thuộc lớp nhà thơ trẻ, lại là người nghiên cứu sử nên ông
rất nhậy cảm trong việc nắm bắt những cái cụ thể diễn ra nơi chiến trường khốc
liệt, đồng thời ông cũng là người chịu khó tìm tòi suy nghĩ để sáng tạo ra những
hình tượng lớn mang tầm vóc thời đại qua hình tượng người chiến sĩ giải phóng
quân. Trong bài thơ Chào các anh những ngƣời chiến thắng, Lê Anh Xuân đã
phác họa dáng đứng của người chiến sĩ giải phóng quân:
Nay các anh đứng lên nhƣ Phù Đổng
Đạp trên đầu thù bay tới tƣơng lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Chào các anh những người chiến chiến thắng)
Đặc biệt, đến bài Dáng đứng Việt Nam, Lê Anh Xuân đã chạm khắc tư
thế hy sinh hiên ngang, bất khuất của chàng trai miền Nam trong cuộc tồng tiến
công vào sân bay Tân Sơn Nhất mùa xuân Mậu Thân. Hình ảnh người chiến sĩ
Giải phóng quân Việt Nam không còn là hình ảnh của cá nhân mà là biểu tượng
chói ngời chân lý của cả dân tộc, chân lý ấy cả năm châu đang dõi nhìn theo:
Anh ngã xuống đƣờng băng Tân Sơn Nhứt
Nhƣng anh gƣợng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
(Dáng đứng Việt Nam)
Tư thế hy sinh của Anh khiến kẻ thù hoảng sợ vì anh đã hy sinh nhưng
với tư thế hiên ngang quân thù tưởng anh còn sống đó, đang nhìn thẳng cào
quân thù và sẵn sàng nhả đạn: “Chợt thấy anh giặc hoảng hốt xin hàng/ Có
thắng sụp xuống chân Anh tránh đạn/ Bởi Anh chết rồi nhƣng lòng dũng cảm/
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”. Đó là người anh hùng vô danh. Lịch
sử xưa nay vẫn chủ yếu được viết nên bởi những người anh hùng vô danh như
thế. Người chiến sĩ giải phóng quân trong bài thơ của Lê Anh Xuân cũng là
người vô danh của lịch sử:
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trƣớc lúc lên đƣờng
Chỉ để lại cái dáng- đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ giải phóng quân.
(Dáng đứng Việt Nam)
Dáng đứng của Anh và cuộc đấu tranh sôi sục của nhân dân Miền
Nam đã “tạc” vào lịch sử một dấu son chói lọi đỏ. Sự ra đi của người chiến
sĩ trên đường băng Tân Sơn Nhất năm nào sẽ là bệ phóng đưa đất nước lên
tầm cao mới. Tượng đài người chiến sĩ vô danh trở thành chân dung của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
một dân tộc anh hùng:
Ôi! Anh giải phóng quân
Từ dáng đứng của Anh giữa đƣờng băng Tân Sơn Nhất
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
(Dáng đứng Việt Nam)
Người chiến sĩ mang phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ khi đã
chiến đấu và hy sinh một cách tự nguyện, thanh thản, không tính toán thiệt hơn,
họ hy sinh cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng thiêng liêng của Tổ Quốc. Sự hy
sinh của họ mang phẩm chất cao cả của người anh hùng trong thời đại mới –
thời đại chiến đấu và chiến thắng.
Sau ngày giải phóng, mới biết được người chiến sỹ vô danh ấy chính là
người anh hùng Nguyễn Văn Mao, quê ở xã Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh,
Tp. Hồ Chí Minh. Anh là trung đội phó đội trinh sát thuộc tiểu đoàn 6 Bình
Tiên. Trong trận tiến công anh đã ở lại yểm hộ, chặn đường cho đồng đội rút
khỏi sân bay, anh đã hy sinh anh dũng như thế. Dù biết hay chưa biết tên
người chiến sĩ ấy thì Dáng đứng Việt Nam vẫn trở thành bài ca bất hủ về hình
tượng anh giải phóng quân hiên ngang trên đường băng Tân Sơn Nhất trong
cuộc tổng tiến công xuân Mậu Thân và trở thành tượng đài bất tử về hình
tượng người chiến sĩ anh dũng.
Có thể nói, Lê Anh Xuân biết ơn và khâm phục tất cả những con người
đã cống hiến sức mình cho đất nước. Ông biết chính những con người anh dũng
vô song, chính tầm vóc của miền Nam, của dân tộc ta trong thời đại đánh Mỹ
ấy đã nâng cánh cho hồn thơ ông. Ông làm thơ về họ như một sự tri ân, như sự
ghi chép hối hả cho kịp với những chiến công để “Tổ quốc bay lên bát ngát
mùa xuân” để dáng đứng của họ được tạc vào lịch sử. Vậy nên, ông làm thơ
trước hết không phải để cho thơ, thơ với ông là vũ khí, là sự cổ vũ chiến đấu, là
sự ghi nhận công lao của tất cả những con người Việt Nam anh hùng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
2.3. Thiên trƣờng ca đậm chất tình ca
Tháng 5/1964, khi được tin chính phủ sẽ cử một phái đoàn chính trị,
quân sự cao cấp sang Sài Gòn để nghiên cứu tình hình Miền Nam Việt Nam,
Nguyễn Văn Trỗi (lúc này đang hoạt động trong tổ chức biệt động vũ trang nội
thành thuộc Đại đội Quyết tử 65, cánh tây Nam Sài Gòn) xin ban chỉ huy quân
sự biệt động đánh đòn phủ đầu. Nguyễn Văn Trỗi cùng đồng đội của mình tiến
hành gài mìn tại cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), nơi phái đoàn cao
cấp của Mỹ dự kiến sẽ đi qua. Giữa lúc đang tiến hành nhiệm vụ thì không may
bị địch phát hiện anh bị giặc bắt vào lúc 22h ngày 09/05/1964.
Trong lao tù, mặc dù chịu rất nhiều đòn tra tấn, cực hình dã man cùng
với những cám dỗ ngon ngọt của kẻ thù nhưng Nguyễn Văn Trỗi vẫn một mực
không khai báo, một lòng trung thành với Đảng, với tổ chức với lý tưởng mà
anh đã chọn. Biết không thể nào lấy được thông tin gì từ anh, chính quyền
Nguyễn Khánh đã đưa anh ra tòa án quân sự kết án tử hình nhằm thị uy và uy
hiếp tinh thần chống Mỹ đang sục sôi trong nhân dân miền Nam lúc bấy giờ.
Chúng đưa anh Trỗi ra xử bắn tại vườn rau nhà lao Chí Hòa – Sài Gòn. Khi ra
pháp trường anh rất bình thản, trước đông đảo các nhà báo trong và ngoài nước,
anh đã vạch trần tội ác của đế quốc Mỹ. Khi bị bịt mắt anh liền giật ra và nói:
“Không, phải để tôi nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi”. Trước khi
chết anh còn hô vang: “Hãy nhớ lấy lời tôi! Đả đảo đế quốc Mỹ! Đã đảo
Nguyễn Khánh! Việt Nam muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm/ Hồ Chí Minh
muôn năm/ Hồ Chí Minh muôn năm”.
Tinh thần chiến đấu và hy sinh anh dũng của anh Trỗi tại pháp trường đã
trở thành biểu tượng của thế hệ thanh niên Việt Nam thời Kỳ chống Mỹ. Hình
ảnh anh Trỗi hai tay bị trói chặt vào cột nhưng đôi mắt anh vẫn sáng lên, vẫn
hiên ngang nhìn thẳng vào quân thù là một hình ảnh bất tử đi vào lịch sử. Sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sự hy sinh anh dũng đó, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và họa sĩ đã lấy
hình tượng đó để ngợi ca anh. Nhà thơ Tố Hữu đã có bài thơ Hãy nhớ lấy lời
tôi với những câu thơ mở đầu:
Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con ngƣời nhƣ chân lý sinh ra…
Cảm động trước sự hy sinh lớn lao và tình yêu cao cả trong lao tù của chị
Quyên và người anh hùng đất Quảng, ngay sau khi gặp chi Quyên vợ anh Trỗi,
Lê Anh Xuân đã quyết định sáng tác Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi. Trong một
bức thư gửi chị Quyên, Lê Anh Xuân tâm sự: “Hiến rất cảm phục chị Quyên
đã vƣợt qua những phút đau thƣơng để sống lạc quan, sống đầy nhiệt tình của
tuổi trẻ, sống tiếp cuộc đời của anh Trỗi, Hiến rất xúc động và hiện đang sáng
tác một bài thơ dài về anh Trỗi”[trích thư]. Hoài Thanh cho rằng: “Không có
câu chuyện nào lôi cuốn anh nhƣ câu chuyện anh Trỗi. Vị say của tình yêu, của
tình quê hƣơng chan hòa trong vị say ngƣời của lý tƣởng, anh đã bắt gặp ở đây
tất cả những điều anh vẫn thƣờng khao khát ấy”[41]
Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi là một thể nghiệm sáng tạo của ông trong
thể loại trường ca, Lê Anh Xuân viết đi viết lại truyện này, dường như đó là
tâm huyết của chính ông. Trong một bản thao gửi nhà xuất bản từ năm 1966,
câu chuyện được kể bằng những đoạn thơ bảy chữ - song thất lục bát. Khoảng
một thời gian ngắn sau đó, tòa soạn lại thấy ông gửi ra một bản khác được làm
bằng thể thơ lục bát, một thể thơ đậm đà tính dân tộc và tính nhạc, tạo nên bản
tình ca về mối tình của chị Quyên và anh Trỗi. Lê Anh Xuân đã cố gắng tái
hiện lại cuộc đời người thợ điện anh hùng, từ lúc tạm biệt mảnh đất Quảng
Nam, trôi dạt lên Sài Gòn kiếm sống: “Tàu đi chiều xuống não nề/ Tiếng kêu
trên bến tái tê lòng ngƣời”, cho đến chín phút làm nên lịch sử ở pháp trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Khi đặt chân lên đất Sài Gòn, Nguyễn Văn Trỗi đã tìm được những điều quý
giá nhất của đời mình. Ở đó là tình yêu đất nước, là lý tưởng cách mạng - lý
tưởng của một người Cộng Sản:
Sài Gòn nuôi lớn đời Anh
Cho Anh lý tƣởng, cho lòng yêu thƣơng
Cho Anh đôi mắt hƣớng dƣơng
Cho Anh dòng máu thơm hƣơng anh hùng
Và một điều nữa cũng vô cùng quý giá đối với cuội đời anh là mối tình
tha thiết với người con gái Phan Thị Quyên:
Và Anh đã gặp ngƣời yêu
Gặp Quyên, cô thợ cũng nghèo nhƣ Anh
Nhƣ hai dòng suối biếc xanh
Gặp nhau trong nắng bỗng thành đại dƣơng
Anh Trỗi là một tấm gương sáng, một thần tượng tiêu biểu cho phong trào
chống Mỹ cứu nước, tâm trạng của anh Trỗi khi tuyên thệ dưới cờ, dưới chân
dung chủ tịch Hồ Chí Minh được Lê Anh Xuân miêu tả bằng những câu thơ
đậm đà chất trữ tình, chứa chan chất men say nồng của tuổi trẻ. Tâm trạng của
anh Trỗi cũng chính là tâm trạng của nhà thơ:
Hôm nay tuyên thệ dƣới cờ
Mặt nhìn ảnh Bác còn ngờ chiêm bao
Từ nay có Đảng trong đầu
Thênh thang cuộc sống ngọt ngào hƣơng hoa
Mối tình của chị Quyên và anh Trỗi là một mối tình thật cảm động, ở đó
không chỉ là tình cảm cá nhân mà tình yêu đôi lứa được gắn kết hơn bởi tình
yêu đất nước. Lê Anh Xuân đã viết những câu thơ thật cảm động về tình yêu:
Gặp nhau giây phút mỏng manh
Ai ngờ đẹp nhất mối tình giờ đây
Tình yêu của anh Trỗi và chị Quyên mặc dù bị cắt chia, cái chết đã cận kề
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
nhưng tình yêu của họ vẫn thật ngọt ngào và thơm mát vì họ biết hy sinh, biết
đặt tình yêu Tổ Quốc lên trên tình yêu đôi lứa. Đó là tình yêu gắn với lý tưởng,
là tình riêng gắn với tình chung:
Tình yêu thơm ngát ca dao
Tình yêu trong vắt ngọt ngào dòng sông
Khi đối mặt với hiểm nguy, đối mặt với sự mất mát lớn lao, mất đi người
mình yêu thương nhất họ vẫn thể hiện sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi
sáng, câu chuyện tình yêu được kể lại bằng giọng điềm đạm, nồng say chất
ngợi ca. Lê Anh Xuân đã có những câu thơ trang hoàng, có sức sống vượt thời
gian. Những câu thơ viết về cuộc gặp gỡ đầy xúc động giữa anh hùng Nguyễn
Văn Trỗi và vợ - chị Phan Thị Quyên ở khám Chí Hòa:
Bốn bên cái chết bủa vây
Chẳng cây, chẳng lá, chẳng mây, chẳng trời
Mà thơm hơn cả hoa tƣơi
Mà xanh hơn cả da trời mùa thu
Thật là những câu lục bát đẹp đến hoàn hảo, thuộc vào số "có những lời
hơn mọi lời ca" để ca ngợi những con người "nhƣ chân lý sinh ra" (Tố Hữu).
Và khi viết về quê hương Quảng Nam, quê hương anh hùng đã sinh ra
người anh hùng Nguyễn văn trỗi:
Thu Bồn nƣớc vẫn ắp đầy
Nhƣ tình anh đấy chẳng ngày nào vơi
Vàng phau bãi cỏ cát bồi
Mặt sông phơi lá tre rơi rập rềnh.
Hình ảnh anh Trỗi trước giờ phút hy sinh đã tạo cảm hứng cho Lê Anh
Xuân, nhà thơ hóa thân vào nhân vật người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi vừa để
thể hiện cái tôi cảm xúc trữ tình của mình vừa để thể hiện tình cảm bên ngoài.
Tình cảm của anh Trỗi cũng chính là tình cảm của nhà thơ với Bác Hồ, với Tổ
Quốc, với quê hương. Nhà thơ thổn thức trong những vẫn thơ thật cảm động,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mạch thơ gắn kết với nhau chặt chẽ như một lời chào tạm biệt những gì mà anh
Trỗi hằng yêu thương, thân thiết. Từ một làng quê: “Là bờ ruộng, lối cỏ mòn;
Đỏ tƣơi bông gạo, Biếc rờn ngàn dâu”, một phố hè, xóm thợ lầm bụi:
Thôi từ biệt những hàng me
Ngõ bùn lầy ngập phố hè xi măng
Trong trường ca, Lê Anh Xuân đã thông qua nhân vật để nói lên tình yêu
của mình với quê hương Việt Nam bằng những dòng thơ da diết, xúc động
mãnh liệt:
Việt Nam đất nhạc, đất thơ
Chân mây điểm trắng, cánh cò quê hƣơng
Và đọng kết lại là tấm lòng thành kính của nhà thơ với vị lãnh tụ kính yêu:
Ôi! Ba tiếng Hồ Chí Minh
Đã thành vũ khí đã thành niềm tin
Đã thành lời hứa thiêng liêng
Lửa thiêu chẳng cháy đá nghiền chẳng tan
Trước khi tiếng súng hành hình nổ lên, Nguyễn Văn Trỗi hô vang
khẩu hiệu “Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh
Muôn năm!” lý tưởng sống của anh Trỗi như được tiếp sức hơn bởi tình cảm
ấm áp của Bác:
Khi anh gọi Bác ba lần
Lòng anh nhƣ thấy đƣợc gần Bác thêm...
Giờ đây trƣớc phút tử hình
Cháu nhƣ thấy Bác đang gần cháu đây
Cảm hứng sáng tạo trong thơ Lê Anh Xuân thường thiên về ngợi ca,
chiêm ngưỡng cho nên khi bắt gặp những đối tượng đẹp, cao cả nhà thơ dễ
nảy sinh khuynh hướng cách điệu – lý tưởng hóa. Những đối tượng đẹp, cao
cả bao gồm những con người kháng chiến trên quê hương và khắp mọi miền
của Tổ quốc. Giờ phút lịch sử của anh trước pháp trường xứng đáng để nhà
thơ ngợi ca theo hướng lý tưởng hóa, thi vị hóa. Bước đi của anh Trỗi trên
pháp trường được Lê Anh xuân tô điểm thành vẻ đẹp rực sáng, lộng lẫy, lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thơ bảy bổng, thiết tha:
Anh đi chân đất đầu trần
Mặt mùa xuân áo thiên thần trắng tƣơi
Anh đi vào giữa cuộc đời
Đi vào lịch sử khi trời rạng đông
Có thể nói, đó là bước đi của một “thiên thần áo trắng”, bước đi hiên
ngang, ung dung, bình thản của người anh hùng – người chiến thắng chứ
không phải bước đi của một tử tù. Tinh thần hy sinh của anh Trỗi đã trở thành
bất tử, một tượng đài bất tử đã được Lê Anh Xuân xây dựng bằng bút pháp
cách điệu – lý tưởng hóa:
Cọc tre nơi giặc hành hình
Trổ đài kỷ niệm bóng in ngang trời
Nhƣ anh đứng đấy trẻ tƣơi
Tạc hình thế kỷ muôn hình không tan
*
* *
Để khép lại chương này, Luận văn muốn nhận mạnh: Khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn vốn là phong cách chung của nền thơ chống Mỹ,
nhưng lãng mạn và sử thi để người đọc cảm giác được sự thuần phác, sự trong
trẻo thì không phải nhà thơ nào cũng làm được. Chất lãng mạn, chất sử thi ở
thơ Lê Anh Xuân như có sẵn tự trong máu. Nó là chiếc bào thai, nó là nguồn
dinh dưỡng tinh thần trong thơ và trong đời. Đọc lại những bài viết về thơ Lê
Anh Xuân vào những năm 1964 – 1969 nhiều người đều có chung một nhận
xét rằng những câu thơ, bài thơ ông viết về quê hương thật ngọt ngào, thật
trong trẻo lạ thường. Hai loại nhân vật yêu mến của nhà thơ là em gái miền
Nam và anh giải phóng quân vừa chân thực nhưng cũng rất giàu chất khái quát
hóa lịch sử. Đó chính là những sáng tạo cá nhân, là dấu ấn phong cách mà Lê
Anh Xuân là người tiên phong và đã để lại dấu vết sáng tạo trong nền thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chống Mỹ.
Chƣơng 3
NÉT NỔI BẬT THI PHÁP TRONG THƠ LÊ ANH XUÂN
Về mặt thi pháp, chương này muốn đề cập đến các phương thức và
phương tiện chuyển nghĩa nổi trội hơn ở thơ Lê Anh Xuân.
3.1. Hệ thống hình ảnh, biểu tƣợng
Khảo sát toàn bộ thơ Lê Anh Xuân gồm hai tập thơ Tiếng gà gáy,Hoa
dừa và Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi chúng tôi nhận thấy trong thơ ông có một
số hình ảnh xuất hiện nhiều lần với tần số cao như một tín hiệu thẩm mỹ, mang
ý nghĩa biểu trưng rõ nét. Đó là hình ảnh cây dừa, dòng sông và đất. không phải
ngẫu nhiên nhà thơ định danh cho những thi phẩm của mình là “Dừa ơi”;
“Nhớ Dừa”; “Đuốc lá dừa”; “Hoa dừa”; “Những dòng sông anh hùng”; “Ta
lại đi chân đất”; “Đất miền nam”; “Dòng sông tuổi nhỏ”; “Ánh lửa trên
sông”;…những hình ảnh này gắn liền với quê hương Nam Bộ.
Bến Tre, một vùng quê nổi tiếng với dừa. Cây dừa là linh hồn, là biểu
3.1.1. Cây dừa
tượng của người dân xứ này. Nó góp mặt vào đời sống hàng ngày của người
dân quê như một thứ không thể thiếu. Dừa góp mặt trong mỗi bữa cơm gia
đình, trong những giấc ngủ trưa yên ả, thân dừa làm cầu qua sông, qua rạch,
làm cây cột, cây kèo, làm cái giường, cái ghế trong nhà. Con người Bến Tre
sinh ra dưới rặng dừa xanh, lớn lên, yêu nhau dưới tán dừa mát rượi và khi họ
chết đi cũng dưới rặng dừa hiền lành của quê hương mình. Dừa là một thứ
không thể thiếu đối với con người nơi đây. Từ bao giờ dừa đã trở thành biểu
tượng cao đẹp, thân thương, đã đi vào thơ, vào nhạc. Hình ảnh dừa hiện lên
mượt mà, tình tứ trong ca dao: “Mài dừa dƣới ánh trăng vàng/ Ép dầu mà chải
tác nàng, tóc anh”, Hay như: “Quê em ba dải cù lao/ Có dừa ăn trái, có cau ăn
trầu”. Dừa giống như người thiếu nữ mang vẻ đẹp thướt tha, dịu dàng trong
trong một bài hát: “Ai đứng nhƣ bóng dừa, tóc dài bay trong gió/ Có phải
ngƣời còn đó, là con gái của Bến Tre..” (Dáng đứng Bến Tre – Nguyễn Văn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Tý). Trong văn học hiện đại, dừa ngộ nghĩnh đáng yêu với cách ví von giàu
hình ảnh: “Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu/ Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng/
Thân dừa bạc phếch tháng năm/ Quả dừa – đàn lợn con nằm trên cao/ Đêm hè
hoa nở cùng sao/ Tàu dừa – chiếc lƣợc chải vào mây xanh” (Cây dừa – Trần
Đăng Khoa).
Lê Anh Xuân yêu quê hương Bến Tre, yêu những rặng dừa xanh có sức
sống dẻo dai, bền bỉ, đã hơn một lần ông lấy dừa làn tựa đề cho những bài thơ
của mình. Cây dừa đã gắn bó với ông ngay từ thuở thiếu thời nên hơn ai hết
ông hiểu dừa như hiểu chính người thân trong gia đình: “Tôi lớn lên đã thấy
dừa trƣớc ngõ/ Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ/ Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trƣớc
gió/ tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ:”/ Nội nói: “Lúc nội còn con gái”/ Đã
thấy bóng dừa mát rƣợi trƣớc sân”(Dừa ơi). Dừa như một người bạn thân
thương để ông tin tưởng giãi bày tâm sự:
Dừa ơi dừa! Ngƣời bao nhiêu tuổi
Mà lá xanh tƣơi mãi đến giờ
Tôi nghe gió ngàn xƣa đang gọi
Xào xạc lá dừa hay tiếng gƣơm khua.
(Dừa ơi)
Dừa như một nhân chứng lịch sử, chứng kiến bao đổi thay của đất nước,
quê hương, chuyển tiếp truyền thống đấu tranh của người dân quê dừa đến với
thế hệ sau. Khi còn ở miền Bắc, cùng với nỗi nhớ những cơn mưa đầu mùa tươi
mát đã gắn bó tuổi thơ ông là nỗi Nhớ dừa. Hình ảnh dừa hiện về trong nỗi nhớ
quê da diết. Cây dừa được nhân hóa trở thành thân thể hữu hình để nhà thơ san
sẻ nỗi nhớ thương, nhà thơ gọi tên dừa như người ta gọi tên ngươi yêu mình:
Ta thèm chút nắng quê hƣơng
Màu xanh mịn, lá dừa vƣơng trên đầu
Ta thèm mà chẳng thấy đâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Dừa ơi, ta muốn ôm sâu vào ngƣời
Muốn hôn màu lá xanh tƣơi
Phải chăng dừa đấy là ngƣời yêu thƣơng
(Nhớ dừa)
Trong cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù trên quê hương Đồng Khởi, dừa
đã đồng hành cùng con người góp phần to lớn vào công cuộc “giữ làng giữ
nƣớc”: Thân dừa dựng pháo đài, làm lá ngụy trang, làm đuốc soi đường.
Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài.
Lá dừa xanh long lanh ánh nắng
Theo đoàn quân thành là ngụy trang
Nếu rụng xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại cháy lên thành đuốc soi đƣờng”
(Dừa ơi)
Lê Anh Xuân ca ngợi dừa là để ca ngợi con người Bến Tre và người dân
Nam Bộ. Dừa anh dũng, kiên cường với sức sống bền bỉ giống như con người
Nam Bộ hiên ngang, bất khuất. Khi còn đứng giữa trời, lá dừa ngụy trang cho
cán bộ, cho du kích. Khi lá dừa lìa cành vẫn nguyện lấy thân mình làm ánh lửa
ấm áp cho đời, làm ngọn đuốc soi sáng đường cách mạng. Những thân dừa bị
thương vẫn không hề ngã gục, vẫn “đứng hiên ngang ca hát giữa trời”. Và nếu
có ngã xuống vì đạn bom tàn khốc của kẻ thù, thân dừa lại một lần nữa đứng
lên làm thành những pháo đài kiên cố, tiếp tục đương đầu với bom đạn giặc.
Cây dừa cũng gánh chịu những đau thương tang tóc, cũng biết uất hận nhưng
luôn vững vàng, kiên định, lạc quan trong những ngày tháng lịch sử đầy bão tố.
Nhà thơ đã khẳng định dừa là biểu tượng của người dân Bến Tre:
Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy
Biết bao đau thƣơng biết mấy oán hờn.
Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Nhƣ dân làng bám chặt quê hƣơng”.
(Dừa ơi)
Trong kháng chiến chống Mỹ, nếu Tây Nguyên có “Rừng xà nu ƣỡn tấm
ngực lƣớn ra che chở cho làng”, dầu xà nu thắp sáng ngọn lủa đấu tranh và
lòng căm thù giặc của Tnú, của dân làng Xô Man thì ở Bến Tre, đuốc lá dừa
tượng trưng cho ánh sáng. Lê Anh Xuân viết Đuốc lá dừa để ca ngợi một cô
giáo hàng ngày tận tụy róc lá dừa bó thành đuốc thắp sáng bến đò cho bộ đội
qua sông: “Bộ đội qua làng đêm mƣa ƣớt/ Đuốc lá dừa thắp sáng bến đò
khuya” (Đuốc lá dừa). Khi cô giáo bị bắt, bị sát hại, tinh thần quả cảm của cô
đã trở thành ngọn đuốc soi sáng cho những trang thơ của thi sĩ:
Có ánh sáng của em soi trên những trang thơ
Ánh đuốc của quê hƣơng – ánh đuốc lá dừa.
(Đuốc lá dừa)
Thông qua hình ảnh cây dừa thể hiện phẩm chất của người dân Đồng
Khởi trong chiến đấu cũng như trong cuộc sống: kiên cuờng, dũng cảm, bất
khuất, hiên ngang… Có thể thấy cây dừa đã giúp Lê Anh Xuân sáng tạo khi
ông lấy nó làm vật trung gian để nói đến con người Bến Tre nói riêng và người
Việt Nam nói chung.
3.1.2. Dòng sông
Từ xưa đến nay thiên nhiên luôn là một nguồn cảm hứng vô tận với các
nhà thơ, nhà văn làm đề tài sáng tác. Nếu như những thi nhân, văn nhân trung
đại hướng tâm hồn mình với mây, hoa, tuyết, nguyệt, cầm, kì, thi, tửu - những
thú vui tao nhã ở đời thì những tác giả hiện đại lại hướng ngòi bút của
mình về cảnh sắc thiên nhiên của đất nước, của con người trong thời đại đổi
mới. Họ luôn tìm thấy trên quê hương có những vùng núi non tuyệt đẹp, những
di sản thiên nhiên đáng để con người trân trọng, luyến lưu. Và sông nước chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
là một trong những cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, dòng sông với dòng nước
chảy, với lịch sử hình thành cũng như những đặc điểm độc đáo về địa lý đã
khơi gợi trong lòng các nhà văn những cảm xúc dạt dào nhất khiến họ phải cầm
bút và sáng tạo nghệ thuật. Lê Anh Xuân là một nhà thơ sinh ra và lớn lên ở
vùng đồng bằng sông nước Cửu Long, nơi có dòng sông Mê Kông huyền thoại
của chín con rồng thiêng thuở nào vẫn ngày đêm chảy không ngừng ra biển cả.
Dòng sông này là nguồn cảm hứng dạt dào của nhà thơ. Ngay từ bài thơ đầu
tiên đưa ông đến với người đọc ta đã bắt gặp hình ảnh sông nước mênh mang,
ăm ắp những ký ức của tuổi thơ của một người con mới xa nhà:
Ơi tuổi thơ, ta dầm mƣa ta tắm
Ta lội tung tăng trên mặt nƣớc mặt sông
(Nhớ mưa quê hương)
Tắm trong mưa và được ngụp lặn dưới dòng sông mưa là một trò chơi
của tuổi nhỏ, ký ức ấy như còn vẹn nguyên trong giọng thơ hồn nhiên thiết tha
như muốn níu giữ những hình ảnh của dòng sông kỷ niệm. Nhà thơ nhớ dòng
sông, và nhớ mãi những hình ảnh:
Mấy cô gái bên kia sông giặt áo
Tay rẩy nƣớc. Bỗng mƣa rào nho nhỏ
Cánh tay cô hay cánh gió nhẹ đƣa
Rung cành tre rơi nhỏ một giọt mƣa…
(Nhớ mưa quê hương)
Hình ảnh dòng sông cứ trở đi trở lại trong thơ ông như một biểu trưng
của sự trường tồn, và sức mạnh vĩnh cửu, để khi Trở về quê nội những cảm xúc
về con sông quê hương vẫn tươi mới, vẹn nguyên như thuở ban đầu. Trải qua
thử thách của thời gian, những khốc liệt của chiến tranh, dòng sông mà ông gắn
bó một thời vẫn thủy chung, son sắt giống như con người nơi đây:
Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nƣớc chẳng đổi dòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Trở về quê nội)
Dòng sông mang hình bóng của quê hương thân thương. Dòng sông
không của riêng ai mà gần như lại là sở hữu của mỗi người, gắn bó máu thịt để
rồi có đi xa lại nhớ về dòng sông ấy: “Dòng sông tuổi nhỏ/ Mấy nhịp cầu
ngang/ Mẹ dắt ta sang/ Giữa mùa nƣớc rong rong/ Mênh mông” (Dòng sông
tuổi nhỏ)
Dòng sông là dấu ấn đậm nét trong ký ức của nhà thơ. Để hôm nay trở về
bến sông xưa, nhìn những dấu chân in trên phù sa con sông tuổi nhỏ. Hình ảnh
dòng sông càng trở nên thân thương hơn khi gợi lên dáng hình của mẹ và món
canh chua dậm đà hương vị miền Nam:
Nƣớc ròng
Mẹ đi xúc cá
(Về nấu canh chua)
Ta đi theo mẹ
Chân lún trong phù xa
(Dòng sông tuổi nhỏ)
Dòng sông là một thực thể tồn tại một cách tự nhiên nhưng với Lê Anh
Xuân, dòng sông không chỉ có linh hồn mà nó còn oằn mình gánh trên vai sứ
mệnh của lịch sử. Dòng sông ấy đi vào cuộc chiến tranh, cùng con người chịu
đựng, sẻ chia biết bao mất mát đau thương: “Hỡi dòng sông/ Đã mấy lần/ chở
xác ngƣời thân/ Đi đánh giặc/ Đã mấy lần/ Súng nổ bờ sông/ Máu thù nhuộm
đỏ” (Dòng sông tuổi nhỏ). Dòng sông ở đây rất đẹp bởi đó là dòng sông của
những con người anh dũng, kiên cường không chịu đầu hàng, không chịu khuất
phục dù phải mang trên mình những “vết thƣơng đau”: “Ôi quê hƣơng còn in
bóng giặc/ Mỗi dòng sông dù chảy về đâu/ Cũng có nƣớc sông Hiền Lƣơng
chua xót/ mỗi dòng sông một vết thƣơng đau”(Những dòng sông anh hùng).
Cũng như con người nơi đây, những dòng sông này khi có giặc thì sục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
sôi đánh giặc, giặc chạy rồi lại cần mẫn góp sực dựng xây, làm nên đất nước
muôn đời. Và khi có tin vui chiến thắng, dòng sông cũng trở nên náo nức,
rộn rã hơn:
Thuyền trăm chiếc tiến vào thị xã
Thắng trận về sông có vui không?
Mắt ta khóc vì ta sung sƣớng quá
Ƣớc gì ta bỗng hóa thành sông.
(Những dòng sông anh hùng)
Thật tự hào biết bao khi trên đất nước mang dáng hình chữ S, có hàng
trăm con sông với những chiến công hào hùng. Một dòng sông Như Nguyệt lơ
thơ hiền hòa đã từng một thời hét lên những câu thơ Thần dẩy lùi quân Tống.
Một Thanh Hóa kiên cường bên dòng sông Mã còn ghi dấu người anh hùng
Nguyễn Bá Ngọc quên mình cứu em nhỏ, một con sông Bạch Đàng Giang còn
vang mãi chiến công của người anh hùng Nguyễn Huệ… Tên tuổi của một số
con sông trên quê hương Bến Tre qua sáng tạo của Lê Anh Xuân cũng trở nên
bất tử trong những trang sử và trong ký ức của người dân nơi này. Đó là sông
Hàm Luông “máu giặc còn pha”, nơi có người mẹ hy sinh cả cuộc đời chở che
cho cán bộ cách mạng trong Ngƣời mẹ trồng bông, là con sông Cổ Chiên in
bóng em trì ôm pháo thủ lao vào tàu giặc trong Ánh lửa trên sông, là con sông
An Hóa gắn với những chuyến đò của em gái đưa lực lượng vượt qua vùng
kiểm soát của quân thù nhờ mưu trí và lòng dũng cảm trong Em gái đƣa đò.
Những dòng sông trong thơ Lê Anh Xuân không chỉ là dòng sông tự nhiên mà
còn là những dòng sông tinh thần, là những dòng sông biểu trưng cho sức mạnh
sử thi và của thời đại.
3.1.3. Đất
Cùng với hình ảnh cây dừa và dòng sông là hình ảnh của đất được Lê
Anh Xuân chọn để làm biểu tượng trong thơ cũng đạt được những ấn tượng
thẩm mĩ sâu sắc. Con người Việt Nam lớn lên từ bùn đất, sức mạnh của dân tộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Việt Nam cũng từ trong bùn đất: “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình
Thi). Lê Anh Xuân gửi gắm tình yêu quê hương, đất nước vào trong đất. Với
ông đất không còn là vật vô tri vô giác nữa mà trở nên có ý nghĩa, có cảm xúc
như con người: biết yêu thương, biết căm ghét, biết buồn vui, hờn giận, dâng
hiến… Đất là người mẹ vĩ đại, hiền hòa, bao dung: “Đất mẹ hiền yêu quý”(Việt
Nam! Ôi Việt Nam), đất chở che, bảo vệ cho những đứa con thân yêu: “Đất là
mẹ của ta. Ôi ta yêu mẹ nhất/ Mẹ đã đẻ ra lớp lớp những anh hùng… / Ta nằm
trong lòng đất chiến hào/ Ta nằm trong lòng mẹ, ấm áp biết bao”(Ta lại đi
chân đất). Để khi, những người con ngã xuống, đất mẹ lại giang rộng vòng tay
ôm những đúa con anh hùng vào lòng để vỗ về, an ủi: “Anh nằm ở đâu? Hỡi
anh Đừng/ Chỗ các anh nằm đơn sơ nắm đất” (Qua Ấp Bắc). Lê Anh Xuân
dành nhiều tình cảm thiết tha, sâu đậm nhất khi viết về đất quê hương. Đất là
hồn thiêng sông núi:
Ta cầm nắm đất cha ông
Nghe thiêng liêng ngọn lửa hồng trong tay
(Về Bến Tre)
Đất là sức sống tiềm ẩn và sức mạnh trường tồn của dân tộc, đất là người
mẹ vĩ đại sản sinh ra những người con, di dưỡng họ trở thành những anh hùng
bất khuất, kiên chung như Nguyễn Đình Thi từng viết: “Đất nghèo nuôi những
anh hùng/ Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên” còn Lê Anh Xuân thì viết:
Nhuộm màu bùn đất, nắng sạm màu da
Những anh hùng ăn mắm đồng với bông súng
Những anh hùng gấp vạn lần anh dũng
(Đất miền Nam)
Đất từng ngày cần mẫn, chắt chiu những trái ngọt cho đời. Đất làm nên
những đặc trưng riêng của con người miền Nam với những trái dừa xiêm ngọt
ngào, vườn sâu riêng đậm chất Nam Bộ, những quả vú sửa căng tràn sức sống,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
những cây cam trĩu quả tô màu vàng tươi mới cho quê hương: “Miền Nam ôi
miền Nam/ Đất chín vàng màu lúa/ Đất ngọt nƣớc dừa xiêm/ Đất sớm mai có
mùi vú sữa/ Đất trƣa nồng có vị sầu riêng”(Đất Miền Nam).
Trong những năm đau thương của cuộc kháng chiến chống Mỹ trường
kỳ. Đất càng trở nên thiêng liêng và sâu nặng nghĩa tình. Đất anh dũng kiên
cường nuôi căm hờn: “Bay đâu hiểu đƣợc đất này/ Là nơi lòng đất nén đầy hờn
căm”(Trường ca Nguyễn Văn Trỗi) thành những chiến công lẫy lừng:
Em ơi! Miền Nam đó, Miền Nam
Đất nén đau thƣơng thành thuốc súng
Đất gài hờn căm thành những rừng chông
Đất thành đồng đã hai lần đánh giặc
(Đất Miền Nam)
Đất còn là tiếng vọng của lịch sử, là sức mạnh của cha ông “cuồn cuộn
triều dâng”, mặc dù mất mát đau thương “nát bầm vết đạn” nhưng vẫn kiên
cường, quật khởi, rộn ràng khí thế tiến công: “Ta đang nằm nghe tiếng lịch sử
cuồn cuộn triều dâng/ Nhƣ tiếng ngựa phi trong lòng đất” (Đất Miền Nam).
Bất chấp mọi khắc nghiệt của thiên nhiên, đất vẫn dẻo dai và đầy sức sống:
“Đƣờng tạnh ráo, đất lên màu tƣơi mới”(Nhớ mưa quê hương) tạo nên sức
mạnh bền vững: “Đất chân ta đứng vẫn là của ta”(Trường ca Nguyễn Văn
Trỗi). Có thể thấy tình yêu quê hương đất nước đã cho Lê Anh Xuân những
sáng tạo mới mẻ, mang tính khám phá về đất: ở đó là “đất ngọt nƣớc dừa
xiêm”, “đất nở vàng tƣơi”, “đật chật những anh hùng”…
Khi sống trên đất Bắc, nhà thơ luôn khao khát được “Nằm trên mảnh đất
ông cha, nghe mƣa đập cành tre, nghe mƣa rơi tàu lá”, để đến khi được thỏa
ước nguyện trở về, nhà thơ đi chân đất, để chân mình ngập trong bùn, lắng
nghe từ lòng đất những cảm xúc thân thương. Thế mới biết, nhà thơ yêu đất và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
gắn bó với quê hương mình biết dường nào.
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu
3.2.1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của
loài người. Là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp của xã hội. Văn học là
loại hình nghệ thuật ngôn từ. Chất liệu cơ bản để xây dựng nên hình tượng văn
học là ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn học vừa mang tính đặc trưng chung của dân tộc
lại vừa là sản phẩm cụ thể của mỗi cá nhân. Phong cách nghệ thuật của nhà thơ
biểu hiện rõ nhất ở ngôn ngữ văn chương mà họ sáng tạo trong tác phẩm.
Vấn đề ngôn ngữ trong thơ ca của các tác giả phụ thuộc vào phong cách
sáng tạo và phong cách độc đáo riêng của từng nhà thơ. Nói cách khác mỗi nhà
thơ muốn đặt dấu ấn riêng cần tìm đến mảng ngôn ngữ và các thủ pháp đặc
trưng. Lê Đạt – một nhà thơ đương đại đã khẳng định: “Mỗi công dân đều có
một dạng vân tay/ Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ/ không trộn lẫn”
(Vân chữ). Ngôn ngữ thơ ca giúp nhận ra gương mặt phong cách sáng tạo của
từng nhà thơ. Ví dụ như Tố Hữu có một ngôn ngữ thơ tinh tế, tình cảm đậm đà
bản sắc dân tộc, ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên sắc sảo độc đáo trong cách vận
dụng liên tưởng đột xuất sáng tạo, Hoàng Trung Thông có một tiếng nói thơ ca
khỏe khoắn, giàu chất hiện thực thì: “Ngôn ngữ thơ Lê Anh Xuân là một ngôn
ngữ tình cảm, hồn nhiên, thật thà, tƣơi trẻ, trong sáng” [9, tr.67]. Về ngôn ngữ
thơ Lê Anh Xuân chúng tôi nghiên cứu những nét đặc sắc cụ thể sau:
3.2.1.1. Sử sụng thành công các biện pháp điệp tu từ và so sánh tu từ
Thơ trữ tình là tiếng nói của tình cảm, hình tượng thơ là hình tượng của
cảm xúc. Khác với văn xuôi, ngôn ngữ thơ được tổ chức trên cơ sở của nhịp
điệu nên rất giàu nhạc tính. Ngôn ngữ thơ thường cô đọng và hàm xúc do sức
nén của nội dung trong câu chữ. Điều này đòi hỏi sự lao động sáng tạo nghiêm
túc của nhà thơ để ngôn ngữ thơ mang nhiều ý nghĩa mới.
Ngôn từ thơ là một sáng tạo thẩm mỹ, nói như Valéry: “Thơ đi giữa nhạc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
và ý”. Để đạt được điều đó, nhà thơ phải phối hợp nhuần nhuyễn các biện pháp
tu từ phổ biến trên nhiều cấp độ. Một trong những biện pháp tu từ phổ biến đó
là phép điệp. Điệp là lặp đi lặp lại, luân phiên nhau của một số đơn vị ngôn ngữ
nhằm đạt mục đích nghệ thuật như cách gieo vần, luyến láy tạo nhịp điệu, phối
thanh tạo tính nhạc trong thơ.
*Điệp từ:
Không phải ngẫu nhiên mà Lê Anh Xuân lặp đi lặp lại một số từ ngữ
trong sáng tạo như: “Đất”, “hỡi”, “những”. Đó là ý đồ nghệ thuật của nhà thơ
nhằm nhấn mạnh sũy nghĩ và cảm xúc:
Đất chín vàng màu lúa
Đất ngọt nƣớc dừa xiêm
Đất sớm mai có mùi vú sữa
Đất trƣa nồng có vị sầu riêng
(Đất Miền Nam)
Cho tôi những trái tim tƣơi đỏ
Những ánh mắt tự hào
Những khuân mặt đẹp xiết bao
Những chiếc áo thơm mùi đất vỡ
(Mười năm)
* Điệp thanh
Để tạo cho câu thơ có âm bổng, hào sảng nhà thơ đã không ngại sử dụng
toàn bộ vần bằng trong câu thơ, phù hợp với giọng ngợi ca:
Mùa xuân cùng em lên đồi thông
Ta nhƣ chim bay trên tầng không
(Em đẹp nhất)
*Điệp vần:
Lê Anh Xuân sử dụng điệp vần trong nội bộ câu thơ và giữa các dòng
thơ với nhau và thường điệp vần “bằng”, kết thúc bằng phụ âm vang. Cách điệp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
này tạo sự ngân nga, lan tỏa, phù hợp với gọng điệu trữ tình- sử thi:
Hôm nay đồn giặc không còn nữa
Trời thênh thang đồng lúa chín vàng
(Người mẹ trồng bông)
Điệp âm theo cặp câu đan xen tạo nên cảm giác xao xuyến, thổn thức:
Muồn đƣợc theo em sớm chiều mƣa nắng
Muốn đƣợc cùng em cầm súng giữ làng
Tuổi thơ xƣa anh thích hồ xanh lặng
Nay lòng anh nhƣ thác trắng gầm vang
(Em đẹp nhất)
Ngoài ra còn sử dụng linh hoạt các hình thức điệp cả câu, cụm câu, điệp
cả đoạn thể hiện mạch cảm hứng tuôn trào dào dạt:
Cho tôi được làm cây chông tre
Lúc nào cũng nhọn sắc…
… Cho tôi làm cây chông tre
Dù tháng năm dông bão…
… Cho tôi làm cây chông tre
Cắm sâu vào lòng đất…
…Cho tôi làm cây chông tre
Khi nào tan bóng giặc
Tôi hát giữa trƣa hè.
(Cây chông tre)
Trong bài Nhớ mưa quê hương, cụm từ “Quê nội ơi, mấy năm trời xa
cách/ Đêm nay ta nằm nghe mƣa rơi/ Nghe tiếng trời gầm xa lắc” và “Ơi
cơm mƣa quê hƣơng” lặp lại 2 lần, riêng từ “mƣa” lặp lại 25 lần. Bài thơ
Nhìn về An Đức câu “Tôi nhìn về An Đức” điệp 3 lần, câu “Việt Nam! Ôi
Việt Nam” trong bài thơ cùng tên lặp lại 7 lần. Chúng tôi nhận thấy trong
những câu thơ Lê Anh Xuân sử dụng phép điệp, thông tin có độ tập trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
cao, nội dung được nhấn mạnh.
Cùng với điệp tu từ là biện pháp so sánh tu từ. So sánh là phương thức
diễn đạt tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng khác loại
của sự vật, hiện tượng không đồng nhất với nhau hoàn toàn mà chỉ có một nét
nào đó giống nhau nhằm gợi ra những hình ảnh khác lạ, mới mẻ. So sánh tu từ
bao giờ cũng có hai vế. Vế 1 là vế so sánh, vế 2 là vế dược so sánh, trong câu
so sánh thường sử dụng các hư từ: “như”; “là”; “hay”.
Lê Anh Xuân sử dụng biện pháp so sánh tu từ hướng tới cảm hứng ngợi
ca, chiêm ngưỡng nên đối tượng đưa ra so sánh thường mang tóc vóc kỳ vĩ, to
lớn, linh thiêng. Kiểu so sánh cũng được Lê Anh Xuân vận dụng linh hoạt.
* Kiểu so sánh nội bộ dòng thơ:
Ở kiểu so sánh này cho phép nhà thơ linh hoạt các vế trong so sánh. khi
trìu tượng, khi cụ thể một cách sáng tạo:
Nhớ như dòng nƣớc chảy ngang
Đôi bờ nƣớc xoáy xôn xang trong lòng.
Cũng có khi tác giả sử dụng từ “là”: (Nhớ dừa)
Hơi thở em dùi dịu hƣơng lành
Em là mùa xuân đến thăm anh
Ở đây, nỗi nhớ là cái trìu tượng được so sánh với “dòng nƣớc chảy
ngang” là cái cụ thể, làm cho người đọc hình dung rõ nét về nỗi nhớ quê của
nhà thơ, một nỗi nhớ trải dài như dòng nước, xoáy vào chiều sâu tâm trạng.
Huỳnh Lý đã rất tinh tế khi nhận xét: “Khi Lê Anh Xuân đã ví thì cứ làm xao
xuyến lòng ta, ví cái để ví đó đã là một ấn tƣợng sâu sắc trong lòng anh tự bao
giờ”[9, tr.69].
* Kiểu so sánh tách dòng:
Kiểu so sánh tách dòng làm cho cả hình ảnh so sánh và hình ảnh được so
sánh được khắc họa rõ nét:
Bắc Sơn, Nam Kỳ chảy mãi hồn tôi
Như máu đỏ chảy liền trong mạch.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Lên Bắc Sơn)
Ôi ánh đuốc diệu kỳ
Như trái tim những ngƣời ra trận.
(Ánh đuốc)
Cháu nhìn đôi mắt Bác cƣời
Như nhìn thấy cả cuộc đời mai sau.
(Gặp Bác)
* Kiểu so sánh trùng điệp:
So sánh trùng điệp là kiểu so sánh tách dòng nhưng vế được so sánh
được mở rộng biên độ. Kiểu so sánh này rất hữu ích khi bày tỏ mạch cảm hứng
sôi nổi, nhiệt thành trước đối tượng nhà thơ ngưỡng mộ. Khi so sánh các vị anh
hùng trong công cuộc kháng chiến:
Ôi kể làm sao hết
Những anh hùng đánh Mỹ hôm nay
Như Cửu Long mênh mông sông nƣớc
Như Trƣờng Sơn đông đặc rừng cây
(Gặp những anh hùng)
So sánh trùng điệp còn làm tăng nhịp điệu và tạo sự chất chồng các hình
ảnh thơ, cảm xúc tăng tiến theo sự tăng dòng.
Ơi những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như tấm lòng em trong trắng thủy chung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm.
(Trở về quê nội)
Nhìn chung, các sáng tác thơ ca không thể không sử dụng các biện pháp
tu từ. Lê Anh Xuân đã khai thác tối đa tác dụng của biện pháp điệp tu từ, so
sánh tu từ và các biện pháp tu từ khác làm giàu thêm âm hưởng ngợi ca và cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
xúc trữ tình trong mạch thơ kháng chiến.
3.2.1.2. Sử dụng lớp từ ngữ hàng ngày đậm dấu ấn Nam Bộ
Lê Anh Xuân sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nam Bộ nên từ ngữ trong
thơ thơ ông ít nhiều nhuốm màu sắc Nam Bộ. Nhà thơ kể lại câu chuyện Một
ngày trên quê hƣơng kết nghĩa, ở đó có cái chân tình, dí dỏm, mộc mạc mà ý
nhị. Chỉ là tên gọi của loài cá thôi mà sao nghĩa tình Bắc – trở nên gần gũi, thân
thương đến diệu kỳ:
Cá này “cá lóc”- mẹ bảo tôi
Tôi biết ý, nhƣng vờ nói “cá quả”
Bố mẹ nhìn tôi cùng cƣời vui.
(Một ngày trên quê hương kết nghĩa)
Khi trở về quê hương Miền Nam, nỗi nhớ miền Bắc càng rõ nét hơn khi
nhà thơ đưa vào đó những từ ngữ đậm dấu ấn Nam Bộ, miền Bắc đã trở thành
quê hương thứ hai của nhà thơ:
Miền Bắc ơi! Sao tôi yêu quá
Nhƣ yêu em, yêu Má, yêu Ba.
(Mười năm)
Và nỗi khao khát được Gặp Bác bật lên từ sâu thẳm trái tim người con
Nam Bộ:
Cháu nhìn, nửa tỉnh nửa mơ
Tƣởng nhƣ thống nhất, Bác vô Sài Gòn.
(Gặp Bác)
Là nhà thơ trẻ trong thời kỳ chống Mỹ, Lê Anh Xuân ý thức được “Thơ
là súng gƣơm” nên ông muốn sát nhập thơ với cuộc đời, để cho chất liệu hiện
thực ùa vào trang viết. Những câu chuyện mang màu sắc sử thi được kể lại với
giọng điệu một câu chuyện kể để rút ngắn khoảng cách sử thi với người đọc.
tạo nên sự gần gũi, thân tình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
3.2.1.3. Sử dụng lớp từ ngữ định danh, chuyên ngành lịch sử với mật
độ dày đặc
Lê Anh Xuân từng là trợ giảng khoa sử của trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội, nên có lẽ ông có thiên hướng khai thác vốn từ ngữ trong chuyên ngành
này một cách tối đa và thổi vào tinh thần dân tộc. Nhắc đến tên nhân vật lịch sử
như một cách gợi nhớ về quá khứ hào hùng, và cuội nguồn của dân tộc:
Ôi thiêng liêng nơi đó có Bác Hồ
Có Hai bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du…
…Ôi na-pan chảy bỏng Nguyễn Du
Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Phú
Và Quang Trung, Bà Triệu, Lê Thánh Tôn…
… Hỡi những anh hùng mƣời năm xây dựng
Trần Văn Giao, Phạm Thị vách, phùng Văn Bằng
Hỡi những anh hùng chín năm chống Pháp
La Văn Cầu, Phan Đình Giót, Cù Chính Lan
Hỡi những anh hùng ngàn năm dựng nƣớc
Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Quang Trung
(Chào Hà Nội, chào Thăng Long)
Khi đọc thơ ông ta bắt gặp hàng loạt các từ ngữ gọi tên các địa danh gắn
liền với những chiến công lẫy lừng của dân tộc nhằm thể hiện lòng tự tôn về
dân tộc và khẳng định chủ quyền thiêng liêng: “Sóng Bạch Đằng xƣa cũng
sáng long lanh”(Đêm Uông Bí), “Chúng tôi lớn lên bên sông Cửu Long, bên
sông Vàm Cỏ”... “Mũi tên đồng Cổ Loa, mũi chông tre Ấp Bắc/ Khẩu pháo
Điện Biên đặt cạnh khẩu thần công/ Tên lửa hôm nay mang dáng cọc Bạch
Đằng” (Chào Hà Nội, chào Thăng Long), “Những khẩu pháo Điện Biên hôm
nay xuất trận”(Những khẩu pháo màu xanh), “Từ thuở Nam Kỳ với gậy tầm
vông/ Nay đứng lên sừng sững thành đồng” (Lên Bắc Sơn), “Cả Miền Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thành đồng bất khuất/ Rừng U Minh vẫn xanh biếc bóng tràm”(Về đi em).
Ông còn sử dụng tên địa danh để làm tiêu đề cho những bài thơ như: “Lên Bắc
Sơn”; “Đêm Uông Bí”; “Đất Miền Nam”; “Nhìn về An Đức”; “Qua Ấp Bắc”;
“Về Bến Tre”; “Chào Hà Nội, chào Thăng Long”.
Lớp từ ngữ chỉ tên làng, tên xóm trên quê hương Bến Tre cũng được nhà
thơ sử sụng với tần suất cao. Đó là những địa danh gắn chặt với những sự tích
anh hùng, những trận đánh sống còn của dân tộc: Cổ Chiên, An Đức, Ba tri, bót
Kinh Ngang, Lò Heo, Cù Lao Minh, Cù Lao bảo, An Thới, Mỏ Cày…:
Tôi gặp mẹ ở nghĩa trang An Thới
Tay nhẹ nhàng mẹ xới, mẹ vun
(Người mẹ trồng bông)
“Vần công” lấy bót Kinh Ngang
Chân em đi khắp Hội An, Hội Thành
Bót Lò Heo, bót Vĩnh Bình
Nghe tên em, giặc khiếp kinh trăm thằng.
(Cô “Xã đội”)
Tôi nhìn về An Đức
Chiều Ba Tri vàng mơ
(Nhìn về An Đức)
Lao động của nhà thơ là lao động sáng tạo, sáng tạo ra ngôn từ. chính
sự phong phú trong cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp tu từ nghệ thuật đã
đưa đến cho thơ ông một chất giọng rất riêng, chất giọng trữ tình sử thi mà
sâu lắng đậm đà. Tuy đôi lúc lời thơ còn chưa cô đúc, các từ ngữ lặp lại quá
nhiều nhưng những hạn chế ấy không làm mất đi cái hay, cái đẹp trong thơ
Lê Anh Xuân.
3.2.2. Giọng điệu
Trong nghệ thuật, khái niệm giọng điệu được các tác giả Từ điển thuật
ngữ văn học định nghĩa là: “Thái độ, tình cảm, lập trƣờng, tƣ tƣởng, đạo đức
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
của nhà văn đối với các hiện tƣợng đƣợc miêu tả thể hiện trong lời văn quy
định cách xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân, sơ, kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[10, tr.134]. Và “Giọng
điệu phản ánh lập trƣờng xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ của tác giả
có vai trò rất lƣớn trong việc tạo ra phong cách của nhà văn và có tác dụng
truyền cảm cho ngƣời đọc. Thiếu một giọng diệu nhất định, nhà văn chƣa thể
viết ra đƣợc một tác phẩm mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ thống
nhân vật” [10, tr.134]. Như vậy, có nghĩa là giọng điệu thuộc về chủ thể sáng
tạo thẩm mỹ. Với thể loại trữ tình (chủ yếu là thơ) thì đó là giọng của nhà thơ,
chủ thể trữ tình, bộc lộ trong thế giới nghệ thuật. Giọng điệu nghệ thuật là một
phạm trù cơ bản của thi pháp học, có vai trò không nhỏ trong việc bộc lộ cái
tôi chủ quan và góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật cảu nhà văn, nhà
thơ. Nhà nghiên cứu Khrapchenco từng khẳng định: “Đề tài, tƣ tƣởng , hình
tƣợng chỉ đƣợc thể hiện trong một môi trƣờng giọng điệu nhất định, trong
phạm vi của thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tƣợng sáng tác, đối với
những mặt khác nhau của nó”. Khi bàn về giọng điệu thơ trữ tình, Nguyễn
Đăng Điệp viết: “Giọng văn chƣơng vừa cho phép ngƣời đọc nhận ra vẻ
riêng nghệ sĩ, Vừa có ý nghĩa nhƣ một tiêu chí xác định tài năng nhà văn.
Không có giọng điệu, lập tức tác giả sẽ đƣợc liệt vào số ngƣời không có tài
năng”. Từ việc nghiên cứu các ý kiến khác nhau về giọng điệu, ta nhận thấy
giọng điệu là yếu tố bộc lộ chủ thể một cách trung thực, cho phép ta nhận ra
nét riêng, sự độc đáo của người nghệ sĩ. Giọng điệu là yếu tố cơ bản tạo thành
phong cách nghệ thuật.
Bàn về giọng điệu trong thơ Lê Anh Xuân, nhà nghiên cứu Trần Hữu
Tá trong Từ điển văn học (Bộ mới) nhận xét: “Thơ Lê Anh Xuân mang sắc
thái riêng, vừa bằng giọng nhỏ nhẹ, tâm tình, vừa bằng cảm hứng lịch sử
mang ý nghĩa sâu sắc” để nói lên thơ Lê Anh Xuân có giọng điệu trữ tình
đặc sắc – một giọng điệu trữ tình riêng khó lẫn, ở đó có sự hòa quyện giữa
chất anh hùng ca và tình ca. Chất giọng phản ánh một cách tự nhiên, chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
thực tâm hồn của nhà thơ.
Thơ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ lấy cảm hứng trữ tình – sử
thi làm chủ đạo. Phần lớn các sáng tác trong thời kỳ này đều là các tráng ca về
sức sống vĩ đại của dân tộc. Trên nền là các tráng ca của cảm hứng trữ tình – sử
thi, chúng tôi thấy thơ Lê Anh Xuân nổi lên hai giọng chủ yếu sau:
3.2.2.1. Giọng thơ trong trẻo, nhỏ nhẹ, tâm tình, chân thành và tươi trẻ
Giọng điệu cá nhận không tách rời giọng điệu “siêu cá thể” của thời
đại nhưng mỗi nhà thơ đều tìm được chỗ đứng của riêng mình. Nó như giọng
hát lĩnh xướng trong giàn đồng ca, hòa nhập mà không hòa tan. Người đọc
vẫn nhận ra cái riêng của nó, cái riêng không bị trộn lẫn trong dàn đồng ca
của một thời đại.
Lê Anh Xuân là người con của Nam Bộ, nơi có dòng sông Mê Kông
huyền thoại, những cánh đồng lúa chín vàng, phù sa màu mỡ, nơi có những
rặng dừa xanh mát bạt ngàn và những con người quê hiền lành, chất phác. Có lẽ
vì thế mà thơ ông hình thành lên giọng ca trong trẻo, mê say, phấn chấn, hồ
hởi, thiết tha niềm tin yêu trước cuộc đời. Ông đến với thơ bằng tinh yêu quê
hương nồng nàn tha thiết, điệu sâu lắng trong tâm hồn đã lan tỏa khắp các trang
thơ khi ông viết về quê hương, về những người anh hùng, về lịch sử dân tộc. Ở
đó là quê hương tươi tắn, óng ả, đầy sắc xuân: “Mƣa tạnh rồi, nhƣ mùa xuân
nhẹ trỗi/ Thấy sáng xanh trên những cành xanh nắng rọi/ Mƣa ơi mƣa, mƣa gội
sạch những cành non/ Mang đến mùa xuân những quả ngọt tƣơi ngon” (Nhớ
mưa quê hương). Một chút Nắng chiều buông xuống bên bản Mường cũng làm
cho cảnh sắc thêm tươi tắn, sinh động, ánh nắng lan tỏa làn sáng bừng cả một
vùng không gian núi rừng vốn dĩ đã rất thơ mộng:
Bản Mƣờng ơi chiều xuống rồi nhẹ nắng
Mà lúa vàng trĩu nặng cả đồng ta
Đàn bò mộng đƣờng về ngang suối vắng
Suối bỗng vàng nhƣ trở nắng chiều xa…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Nắng chiều)
Cái tươi tắn, trong trẻo của cảnh vật cũng chính là cái tươi tắn, trong trẻo
trong tâm hồn nhà thơ. Đặc biệt là khi Lê Anh Xuân trở về quê nội sau hơn
mười năm xa cách. Mười năm sống trong nhớ nhung diệu vợi nay được trở về,
nhà thơ đắm say trước cảnh vật mượt mà óng ả và diễn đạt cảm xúc bằng giọng
điệu thơ tương ứng:
Quê hƣơng mùa gặt đã xong
Một sân lúa mới mấy nong nắng vàng
Sầu riêng dìu dịu đƣờng làng
Mấy cây khế ngọt trái vàng rung rinh
(Về Bến Tre)
Vẻ đẹp của người con gái dễ làm say lòng người, và càng dễ làm say
lòng người hơn khi vẻ đẹp ấy tượng trưng cho quê hương, cho cái ngọt ngào
bất khuất mà dung dị của quê nhà:
Ta yêu em giọng cƣời trong trẻo
Ngọt ngào nhƣ nƣớc dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu treo lắt lẻo
Dịu dàng nhƣ những nàng tiên
(Trở về quê nội)
Hay như: Em là du kích, em là giao liên
Em chính là quê hƣơng ta đó
Mƣời một năm rồi ta nhớ ta thƣơng
(Trở về quê nội).
Mười năm xa quê là mười năm sống trong khát khao, tha thiết được trở
về, bởi thế người đọc dễ dàng nhận thấy một giọng thơ tha thiết qua những
tiếng thơ như: “quê nôi ơi”, “quê hương ơi”, “ta yêu quá”, “ta nhớ ta thương”…
Quê nội ơi, mấy năm trời xa cách
Đêm nay, ta nằm nghe mƣa rơi
Nghe tiếng trời gầm xa lắc
Cớ sao lòng thấy xót đau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
(Nhớ mưa quê hương)
Và hơn một lần nhà thơ cất lên tiếng gọi da diết, tiếng gọi từ trái tim thổn
thức đến quê hương miền Nam yêu quý: “Miền Nam ơi, miền Nam/ Đất chín
vàng màu lúa/ Đất ngọt nƣớc dừa xiêm/ Đất sớm mai có mùi vú sữa/ Đất trƣa
nồng có vị sầu riêng”(Đất Miền Nam); “Bến Tre ơi! ta về đây/ bao đêm ta nhớ,
bao ngày ta mong”(Về Bến Tre)
Thơ Lê Anh xuân dâng lên những hương vị, mầu sắc đặc trưng Nam
Bộ, mảnh đất quê hương của hồn thơ ông. Đó là dòng sông: “Buổi sáng
nƣớc lên sông chảy êm đềm/ Em có thấy nhiều lục bình hoa tím/ Buổi chiều
khi nắng vàng ngọt lịm”(Anh là con sông chảy trước nhà em); còn là mùi
hương sầu riêng thơm lừng trên mái tóc của cô gái Bến Tre: “Em ơi! Sao tóc
em thơm vậy/ Hay em vừa đi qua vƣờn sầu riêng”(Trở về quê nội). Và là
mùi lửa nồng thơm của lá dừa trong vườn: “Ôi mùi lá dừa cháy lên kì diệu/
Mùi lửa nồng thơm/ Mùi trái chín trong vƣờn”(Đuốc lá dừa). Và một giọng
điệu thật thà, chân chất, tâm tình:
Em về đâu mà em chèo nƣớc ngƣợc
Trời lại mƣa to, áo em đã ƣớt
Sao không chờ nƣớc lớn em ơi
(Anh là con sông chảy trước nhà em)
Đọc thơ Lê Anh Xuân, chúng ta luôn cảm nhận được tình cảm hồn
nhiên, chân thành của ông bởi vì ông “đƣợc thừa hƣởng đức tính tốt đẹp của cả
cha và mẹ, tính tình mền mỏng, nói năng nhỏ nhẹ, nhƣng có chiều sâu trong
suy nghĩ... Phải chăng tâm tính đó đã mặc nhiên hiển hiện thấm đẫm trong
giọng điệu, lời lẽ, ý tứ trong thơ ca của anh?”[9, tr.28]. Đọc thơ Lê Anh Xuân
mà nghe như tâm tình, thủ thỉ, một giọng thơ như thế thì thật khó lẫn với bất kỳ
nhà thơ nào trong thời kỳ chống Mỹ và cả sau này nữa.
3.2.2.2. Giọng thơ mang âm hưởng ngợi ca sâu lắng
Hào hùng, sảng khoái, lạc quan là âm hưởng chủ đạo của nền thơ ca cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
mạng (bao hàm thơ chống Mỹ). Thơ Lê Anh Xuân nằm trong dòng chảy của
thơ trữ tình Nam Bộ kết hợp với chất anh hùng ca vang dội của thời đại tạo nên
sự hòa quyện giữa cái “đạm” và cái “nồng” trong thơ. Thơ Lê Anh Xuân vừa
nồng nhiệt trong cảm xúc vừa sâu lắng trong suy nghĩ. Khi chứng kiến sự thay
da đổi thịt của miền Bắc, lời thơ nồng nàn, xúc động mạnh: “Đêm Uông Bí đầu
tiên anh đến/ Nhà máy vừa xây lớp lớp sáng bừng/ Ôi có phải anh ngỡ ngàng
ánh điện/ Hay vì đâu mà mắt bỗng rƣng rƣng” (Đêm Uông Bí). Không chỉ
“say” vì quang cảnh hôm nay mà còn vì ánh sáng trên một nửa đất nước đang
xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ soi sáng cho chiến công ngày trước. Lời thơ trở
nên sâu lắng, giàu sức gợi: “Uông Bí đêm nay em biết chăng cành lá/ Đêm
xuống rồi còn thấy rõ màu xanh/ Sóng Bạch Đằng xƣa cũng sáng long lanh”
(Đêm Uông Bí ).
Đến Bắc Sơn, ông được đi nhiều nơi, hít thở nguồn không khí xã hội chủ
nghĩa, tình nguyện tham gia lao động sản xuất. Cảnh vật hùng vĩ nơi đây đã
làm nhà thơ khâm phục, cất lên giọng ngợi ca hào sảng:
Trùng trùng hai bên núi cùng đồi
Xe lên cao nâng bổng hồn tôi
Gần đến Bắc Sơn đƣờng càng nhỏ
Quê hƣơng cách mạng đây rồi.
(Lên Bắc Sơn)
Đến khi được trở về miền Nam, được trực tiếp dấn thân vào cuộc chiến
đấu. Lê Anh Xuân đã dành hết tâm lực của mình để ngợi ca cuộc kháng chiến
của toàn dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng nhiều câu cảm
thám gây ấn tượng mạnh để đặt tựa đề cho các bài thơ: Việt nam! Ôi Việt Nam!;
Chào các anh những ngƣời chiến thắng; Chào Hà Nội chào Thăng Long. Lê
Anh Xuân nồng nhiệt ngợi ca những người anh hùng trên tuyến đầu chống Mỹ,
có lẽ trong thơ ông chưa bao giờ truyền thống lịch sử và cuộc sống hôm nay lại
hòa quyện trong một âm hưởng hào hùng, phấn chấn như bài Chào Hà Nội,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chào Thăng Long:
Hỡi những anh hùng ngàn năm dựng nƣớc
Hai Bà Trƣng, Lý Thƣờng Kiệt, Quang Trung
Tất cả hôm nay xuất trận trùng trùng
Lớp lớp anh hùng tràn nhƣ sóng cuộn
Trƣơng Định cũng vƣợt Trƣờng Sơn về đây
bóng che nhà hát lớn.
Hà Nội trở nên trẻ trung, sôi động trong tiếng reo ca chiến công lẫy lừng:
Ôi Thăng Long! Ôi Thăng Long
Đã ngàn năm đứng hiên ngang nhìn sông Hồng cuộn chảy
Có bao giờ Ngƣời lộng lẫy nhƣ hôm nay
Trong tiếng pháo gầm, trong tiếng đạm bay
Hà Nội súng cầm tay nói cƣời duyên dáng
Hà Nội trẻ trung sáng trƣng vầng trán
Hà Nội hồng hào những chiến công
Đẹp nhƣ nàng tiên mặc áo đỏ sông Hồng
(Chào Hà Nội, chào Thăng Long).
Nhà thơ sử dụng một loạt những từ ngữ ngợi ca nhưng không khiên
cưỡng, thật đúng khi Hoài Thanh cho rằng giọng điệu thơ Lê Anh Xuân
“đã đạt tới cái nhìn anh hùng ca và tìm đƣợc đúng cái giọng anh hùng
ca”[41, tr.25].
Khi ngợi ca những người anh hùng trên tuyến đầu chống Mỹ, giọng
điệu ngợi ca trang trọng, tôn kính mà vẫn hết sức thân thương gắn bó.
Khoảng cách sử thi được rút ngắn, người anh hùng mang tầm vóc lịch sử,
tầm vóc thời đại nhưng thật gần gũi. Để biểu đạt quan hệ thân mật nhà thơ
thường dung các thán từ: “ôi”; “ơi”; “hỡi” vào thơ: “Ôi mềm mại thân em
máu chảy/ Tâm hồn em nhƣ tuyết trắng long lanh”(Bài thơ “áo trắng”),
“Anh Tƣ ơi! Anh ngã xuống giữa đêm mƣa”(Gửi anh Tư), “Anh tên gì hỡi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
anh yêu quý” (Dáng đứng Việt Nam).
Người đọc cảm thấy giọng điệu thơ Lê Anh Xuân như bùng lên, hừng
hực khí thế tiến công như bước chân thành đồng của đoàn quân giải phóng tiến
vào Sài Gòn:
Súng đã nổ rồi Sài Gòn ơi
Ngực ta rung theo tiếng súng bồi hồi
Chân ta bƣớc theo triệu ngƣời đang bƣớc
(Mùa xuân Sài Gòn mùa xuân chiến thắng).
Sự hy sinh của người chiến sĩ giải phóng quân vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc là không tránh khỏi, Lê Anh Xuân đã xây dựng bức tượng đài kỳ vĩ từ
sự hy sinh vĩ đại ấy:
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trƣớc lúc lên đƣờng
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ
Anh là chiến sĩ giải phóng quân.
(Dáng đứng Việt Nam)
Trong giàn đồng ca thế hệ thơ chống Mỹ, Lê Anh Xuân là người khởi
đầu đã góp vào giàn hợp xướng ấy một giọng ca trong trẻo, nồng nhiệt, sâu
lắng làm nên sức sống mới mẻ của nền thơ ca cách mạng. Đánh giá về giọng
điệu thơ Lê Anh Xuân, sách Từ điển các tác giả, tác phẩm dùng cho nhà
trường viết: “Do hy sinh còn quá trẻ những tác phẩm đã viết, đã công bố, có lẽ
chƣa phải là những gì viên mãn nhất trong hồn thơ Lê Anh Xuân… Tuy vậy, chỉ
với những gì đã viết ra, bạn đọc cũng đã nhận thấy đƣợc đây là một giọng thơ
có dấu ấn riêng: tƣơi trẻ, hồn hậu, nhỏ nhẹ, tâm tình mà sâu sắc bởi những
cảm hứng lịch sử mang tầm khái quát cao”[tr. 195]. Chúng tôi cho rằng đây là
một đánh giá thỏa đáng về phong cách thơ Lê Anh Xuân.
*
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
* *
Thơ Lê Anh Xuân thực sự lôi cuốn người đọc bởi ngôn ngữ thơ hồn
nhiên, tươi trẻ, trong sáng; giọng điệu tha thiết, chân thành nhưng không kém
phần hào sảng, mê say. Thơ ông đã chạm đến những cảm xúc sâu lắng nhất
trong tâm hồn người đọc, ông đã mang đến cho văn học miền Nam một tiếng
thơ mới, góp thêm hương sắc cho vườn hoa văn học thêm rực rỡ sắc mầu. Tuy
thơ ông đôi lúc còn có những hạn chế nhưng những hạn chế ấy nhìn chung
cũng không nằm ngoài những hạn chế của nền thơ chống Mỹ mà đặc biệt Lê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Anh Xuân lại là lớp nhà thơ trẻ đầu tiên.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong đội ngũ của thế hệ thơ chống Mỹ, Lê Anh Xuân được đánh giá là
một nghệ sỹ ngôn từ tiêu biểu đã “làm tròn sứ mệnh với dân tộc và thời đại”.
ông hy sinh ở chiến trường miền Nam ở tuổi đời hai mươi tám và để lại một di
sản có số lượng tác phẩm không lớn: 60 bài thơ, một bản trường ca dài 1341
câu thơ lục bát và một tập văn xuôi. Đương thời nhiều tác phẩm của ông còn
“chƣa kịp gọt rũa công phu” nhưng người đọc đã nhận ra cốt cách, để lại dấu
ấn trong nền thơ cách mạng.
Trong công trình đầu tiên mang tính chất tổng kết văn học sau chiến
tranh mang tên Nhà thơ Việt Nam hiện đại (xuất bản năm 1985, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội), Lê Anh Xuân được trọn là một trong số tám cây bút trẻ trong
thơ chống Mỹ lần đầu tiên được gọi là “Nhà thơ Việt Nam hiện đại” (Thu Bồn,
Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương
Ly, Trần Đăng Khoa và Lê Anh Xuân). Ngay sau khi tập thơ Tiếng gà gáy của
Lê Anh Xuân ra đời năm 1965 nhà phê bình Hoài Thanh đã cho rằng: “trong số
những nhà thơ trẻ, Ca Lê Hiến (tức Lê Anh Xuân) là một trong số những nhà
thơ xuất sắc nhất”.
Cuộc chiến tranh chống Mỹ vĩ đại của dân tộc đã sản sinh một nền thơ
đặc thù mà tính chiến đấu, tính sử thi như một đặc điểm bao quát, nổi bật mang
phong cách thời đại. Nền thơ ấy được đánh dấu bằng sự xuất hiện và trưởng
thành của một thế hệ nhà thơ trẻ. Họ đã đem đến cho thơ ca một cách cảm, cách
nhìn riêng về chiến tranh, phản ánh được hiện thực khốc liệt nhưng hào hùng
của dân tộc. Lê Anh Xuân là một trong số những cây bút trẻ xuất hiện ở chặng
đường thơ đầu tiên cùng với Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Qung Vũ, Nguyễn
Mỹ… Nhìn chung tác phẩm của lớp nhà thơ xuất hiện ở chặng đường này đều
đượm chất trữ tình lãng mạn, chất men say của tuổi trẻ, của lý tưởng. Và đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
với Lê Anh Xuân chất sử thi thuần phác trong cảm hứng về quê hƣơng, đất
nƣớc, cái nhìn lý tƣởng về các nhân vật trữ tình đã trở thành phong cách nghệ
thuật của nhà thơ.
Quê hương vốn là nguồn cảm hứng vô tận cho văn chương. Đối với Lê
Anh Xuân quê hương miền Nam trong kí ức, niềm khao khát trở về chiến đấu;
quê hương miền Bắc, chiếc nôi của lý tưởng xã hội được biểu cảm một cách
trong trẻo, hồn nhiên đến lạ thường. Nói theo cách của một nhà nghiên cứu sử
thi, đó là chiếc bào thai dinh dưỡng của thơ và đời thơ Lê Anh Xuân. Điều đó
khiến cho cảm hứng lãng mạn trong thơ ông đượm chất sử thi trữ tình thuần
khiết hồn hậu. Lê Anh Xuân đã đan cài một cách nên thơ quá khứ tuổi thơ êm
đềm vói thực tại gian lao anh dũng của quê hương mình. Tình yêu quê hương ở
thơ Lê Anh Xuân rất cụ thể, cá nhân nhưng lại luôn gắn với những khát vọng là
Tổ Quốc, là nhân dân, là thời đại.
Những nhân vật trữ tình trong thơ Lê Anh Xuân đông đúc, nhưng đặc
biệt là loại nhân vật em gái miền Nam và anh giải phóng quân được nhà thơ lý
tưởng hóa một cách tự nhiên đầy ấn tượng. Đó là những em gái du kích “khăn
rằn gió phất, tóc xõa ngang vai” lướt nhanh qua những chiếc cầu treo lắt lẻo
“dịu dàng nhƣ những nàng tiên”, những em nữ sinh “mang khuân mặt mùa
xuân” “nhƣ cánh chim xanh mang ánh sáng” bay đi hoạt động khắp đô thành.
Đấy là những người giải phóng quân có tên như anh Tư, Huỳnh Viết Thanh,
Nguyễn Văn Trỗi… và những người vô danh khi hy sinh chưa kịp để lại một
tấm hình, một dòng địa chỉ, chỉ để lại “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”.
Lê Anh Xuân làm thơ về họ như một sự tri kỷ, tri ân, lòng kính trọng. Ông ghi
chép thành vần, thành nhịp, thành giai điệu hành động của những con người
mang tầm vóc của miền Nam, của dân tộc trong thời đại đánh Mỹ.
Lê Anh Xuân hy sinh khi cuộc chiến tranh chống Mỹ mới diễn ra gần
bốn năm. Những tác phẩm của nhà thơ có lẽ chưa phải là những gì viên mãn
nhất, nhưng hệ thống hình tượng và chất giọng trữ tình nhất quán trong thơ ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
đã hình thành phong cách nghệ thuật. “Cây dừa”, “dòng sông” và “đất” là
những hình ảnh xuất hiện với tần số lặp lại cao như một tín hiệu thẩm mĩ mang
ý nghĩa biểu trưng rõ nét nhất trong thơ Lê Anh Xuân. Dừa trong thơ Lê Anh
Xuân tồn tại như một nhân chứng lịch sử; dòng sông một hữu thể gánh trên vai
sứ mệnh của lịch sử; và đất, người mẹ vĩ đại sản sinh và di dưỡng sự trường tồn
của dân tộc. Những biểu tượng ấy lại được truyền tải bằng lớp từ ngữ hàng
ngày đậm chất Nam Bộ khiến thơ ông càng gần gũi với độc giả.
Vẻ đẹp riêng của thơ Lê Anh Xuân đã sớm bộc lộ ở chất giọng trữ tình
nhỏ nhẹ và lãng mạn giàu tính sử thi. Ông đến với thơ bằng tình yêu quê hương
xứ sở cùng với niềm tin yêu của tuổi trẻ lý tưởng. Và điều đó lan tỏa trong các
câu thơ viết về quê hương và những người cầm súng giữ nước. Giọng thơ Lê
Anh Xuân mang ý vị anh hùng ca đượm chất tình ca trong trẻo. Vào những
năm đầu tiên của cuộc chiến tranh chống Mỹ nó thực sự là một sản phẩm tinh
thần lãng mạn của đồng chí, đồng bào quân dân trong cả nước. Nó khắc phục
được khoảng cách sử thi giữa nhà thơ và người đọc. Nó thôi thúc con người đi
vào cuộc chiến đấu một cách bình thản và tự tin mang tâm thế của kẻ chiến
thắng. Sinh thời nhà phê bình Hoài Thanh đã khẳng định “Lê Anh Xuân đã đạt
tới cái nhìn anh hùng ca và tìm đúng cái giọng anh hùng ca”.
Đã ngót nửa thế kỷ đi qua, tên của Lê Anh Xuân đã trở thành tên phố, tên
làng. Tác phẩm của Lê Anh Xuân đã đưa vào sách giáo khoa. Nhiều mái trường
miền Nam đã mang tên nhà thơ. Sống học sử, dạy sử và cầm súng. Chết hóa
thành thơ ca, bước vào lịch sử. Chọn đề tài Phong cách thơ Lê Anh Xuân,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
chúng tôi coi Luận văn này là nén tâm nhang tưởng niệm người anh hùng thi sĩ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (1997), Âm thanh vọng lại trong tôi những ngày miền Nam đánh
Mỹ, Báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh ngày 1/5.
2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (5/1975), Thơ với cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, TCVH.
4. Vũ Tuấn Anh (1/1976), Thơ cách mạng Việt Nam hiện đại - một nền thơ
thống nhất, TCVH.
5. Lại Nguyên Ân (Biên soạn) (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
6. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Đăng Điệp (1994), Giọng điệu thơ trữ tình, Tạp chí Văn học (số 1).
8. Anh Đức (1997), Nhớ Lê Anh Xuân, Tuyển tập Anh Đức, Nxb Văn học.
9. Hải Hà (2002), Nhà văn trong nhà trƣờng - Lê Anh Xuân, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Lê Bá Hãn – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ
điển thuật ngữ văn học (Tái bản lần thứ tư), Nxb Giáo dục Việt Nam.
11. Ca Lê Hồng (2003), Em tôi – Ca Lê Hiến, Báo Ngƣời lao động, từ 25/1 đến 26/1.
12. Mai Hương (1/1981), Nghĩ về đóng góp của đội ngũ trẻ trong thơ
chốngMĩ, TCVH.
13. Mã Giang Lân, Nhìn lại thơ 30 năm chiến tranh (2/1992), TCNH.
14. Mã Giang Lân, Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại (1992), Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam
hiện đại (Phê bình – Tiểu luận), Nxb Lao động.
16. Nguyễn Bá Long (2010), Sắc diện quê hƣơng trong thơ Lê Anh Xuân, Báo
Đồng Khởi (tỉnh Bến Tre), (số 2592) ra ngày 28/04/2010.
17. Nguyễn Bá Long (2010), Đội quân tóc dài trong sáng tác của Lê Anh
Xuân, Tuần báo Văn nghệ, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
phố Hồ Chí Minh (số 107) ra ngày 29/04.
18. Nguyễn Bá Long (2008), Dáng đứng Việt Nam, tƣợng đài chiến sĩ giải
phóng quân bi tráng – bất tử, Tuần báo Văn nghệ, Liên hiệp các Hội Văn
học nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (số 41) ra ngày 30/10/2008.
19. Nguyễn Văn Long (2010), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, tập II,
Nxb Đại học sư phạm.
20. Phương Lựu (chủ biên), (2010), Lí luận Văn học, Nxb Đại học Sư phạm.
21. Hoàng Như Mai (1981), Thơ một thời, Nxb Tiền Giang.
22. Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
23. Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Trác – Trần Hữu Tá (1988), Văn học Việt
Nam 1945 – 1975, (tập 1), Nxb Giáo dục.
24. Nguyễn Xuân Nam (4/1983), Nghĩ về cái mới trong thơ, Tạp chí Văn học.
25. Trang Nghị (1970), Lê Anh Xuân với tập thơ Hoa dừa và trƣờng ca Nguyễn
Văn Trỗi, Tạp chí tác phẩm mới (số 7).
26. Hải Ninh (2005), Mối tình ngƣời tử tù, báo Thanh niên, (số 101), tr.9.
27. Nhiều tác giả (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
28. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội.
29. Nhiều tác giả (1984), Thơ Việt Nam 1945 – 1975, Nxb Khoa học xã hội.
30. Nhiều tác giả (2011), Nhật ký Lê Anh Xuân, Nxb Văn hóa Văn nghệ.
31. Viễn Phương (1996), Chuyến đi cuối cùng của Lê Anh Xuân, Báo văn nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh (số 30).
32. Nguyễn Đức Quyền (2001), Nét đẹp trong thơ, Nxb Giáo dục.
33. Phạm Văn Sĩ (1976), Văn học giải phóng miền Nam, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp Hà Nội.
34. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ (Tiểu luận), Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
35. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trƣng thi pháp thơ Việt Nam (1945 - 1975),
Nxb KHXH.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
36. Vũ Văn Sỹ (2005), Mạch thơ trong nguồn thế kỷ, Nxb KHXH.
37. Tập thơ bạn trẻ (1965), Sức mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Thạc (2005), Mãi mãi tuổi hai mƣơi (Nhật ký thời chiến tranh
do Đặng Vương Hưng sưu tầm và giới thiệu), Nxb Thanh niên.
39. Nguyễn Bá Thành (1996), Tƣ duy thơ và tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb
văn học, Hà Nội.
40. Hoài Thanh (1968), “Tiếng gà gáy ” của Ca Lê Hiến hay tâm sự của một
gƣời thanh niên miền Nam tập kết, Tạp chí Văn học (số 9).
41. Hoài Thanh (1968), Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng của ngƣời thanh niên
trên tiền tuyến lớn, Tạp chí Văn học (số 10).
42. Hoài Thanh (1972), “Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng ngƣời thanh niên
miền Nam tập kết” (trong sách Mƣời năm văn học chống Mỹ, Nxb Giải
phóng, tr. 257 - 279).
43. Hoài Thanh (2002), “Tiếng gà gáy” của Ca Lê Hiến hay tâm sự của một
ngƣời thanh niên miền Nam tập kết, (trong sách Hải Hà, Nhà văn trong
nhà trƣờng Lê Anh Xuân, Nxb Giáo dục, tr38 - 47).
44. Lê Văn Thảo (1978), Về một bài thơ, Báo tuổi trẻ (số 137 tháng 6), in lại trong
cuốn Hải Hà, Nhà văn trong nhà trƣờng Lê Anh Xuân, Nxb Giáo dục.
45.Vũ Duy Thông (2000), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 –
1975, Nxb Giáo dục.
46. Diệp Minh Tuyền (1966), Tiếng gà gáy – tập thơ của Ca Lê Hiến, Tạp chí
Văn học, (số 8), tr.98 – 100.
47. Bích Thu (2002), Lê Anh Xuân – nhập cuộc và sáng tạo, Thơ Việt Nam
hiện đại, Nxb Lao Động.
48. Thạch Trung (2002), Thơ Lê Anh Xuân với đất nƣớc và con ngƣời Bến Tre
(trong sách Hải Hà, Nhà văn trong nhà trƣờng Lê Anh Xuân, Nxb Giáo
dục, tr. 84 - 90).
49. Diệp Minh Tuyền (1995), Lê Anh Xuân dáng đứng của một thế hệ nhà th
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
Báo Văn nghệ (số 9 + 10 và số 11).
50. Hoài Văn (1997), Nhớ nhà thơ, liệt sĩ Lê Anh Xuân, Báo Văn hóa – Văn
nghệ công an (số 7).
51. Viện văn học (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nƣớc, Nxb
KHXH, Hà Nội.
52. Viện văn học (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb KHXH, Hà Nội.
53. Lê Anh Xuân(1969), Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi, Nxb Giải phóng.
54. Lê Anh Xuân (1966), Tiếng gà gáy (tập thơ), Nxb Văn học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu http://www.lrc-tnu.edu.vn/
55. Lê Anh Xuân (1969), Hoa dừa (tập thơ), Nxb Giải phóng.