ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
NGUYỄN HUY TOÀN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------
NGUYỄN HUY TOÀN
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 834 04 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN CẨM NHUNG
XÁC NHẬN CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ CHẤM LUẬN VĂN
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết luận nghiên cứu trình bày trong Luận văn này là trung thực và chính xác.
Những kết quả của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình!
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là một phần kết quả học tập, đào tạo tại chương trình Thạc sỹ
Quản lý công của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội hợp tác với
Trường Đại học Uppsala của Thụy Điển. Tác giả xin gửi lời biết ơn chân thành đến
các Thầy, Cô đã tâm huyết truyền tải đến các học viên những lý thuyết, phương
pháp và tinh thần một cách khoa học, giúp học viên có cơ sở lý thuyết, tư duy phân
tích rộng và khoa học. Các Thầy, Cô đã giảng dạy với tinh thần trách nhiệm cao và
chuyên môn sâu sắc, nhất là các Thầy Thụy Điển đã truyền cho học viên phần nào
tinh thần Upsalla và Thụy Điển.
Tác giả cũng xin cảm ơn TS. Cẩm Nhung, người đã hướng dẫn nhiệt tình
hướng dẫn, những chỉ dẫn đầy kinh nghiệm của cô giúp em dần từng bước, từ bước
ban đầu chập chững đến hoàn thiện luận văn, sự động viên, thúc đẩy của cô giúp
em có động lực để hoàn thành kịp thời hạn.
Tác giả xin cảm ơn gia đình, các anh chị, các bạn đã có góp ý, phản biện rất
hữu ích, gửi các tài liệu rất có giá trị bên cạnh đó là sự động viên tinh thần, sự hỗ
trợ của gia đình đã tạo điều kiện thời gian để hoàn thành luận văn.
Luận văn không thể thực hiện được nếu không có nghiên cứu của các tác giả
đi trước, những người mà công trình nghiên cứu về chủ đề khó nhưng đã làm sáng
tỏ một cách rõ ràng, mạch lạc, thể hiện trình độ chuyên môn rất sâu của các tác
giả. Xin gửi lời biết ơn các tác giả, nghiên cứu này được khởi nguồn và đặt trên nền
móng nghiên cứu rất giá trị của các tác giả.
Cuối cùng xin cảm ơn các anh chị Trung tâm Cite, không có nỗ lực các anh
chị thì đã không hình thành chương trình và điều kiện học tập cho lớp MPPM.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn!
TÓM TẮT:
Các doanh nghiệp nhà nước thường được xem là những doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả bởi những mục tiêu chính trị, sự can thiệp từ bên ngoài và tham
nhũng. Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam cũng có tình trạng tương tự, chưa đạt
được hiệu quả tương xứng với nguồn lực, ưu đãi mà nhà nước dành cho các doanh
nghiệp này.
Các nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế tại một số nước trên thế giới cho thấy
các doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động hiệu quả, thậm chí có hiệu quả cao hơn
các doanh nghiệp phi nhà nước, quản lý chi phí tốt hơn và thực hành quản trị công
ty tốt hơn, do vậy được thị trường chứng khoán định giá cao hơn như trường hợp
các công ty nhà nước của Singapore. Hay sự trỗi dậy của các doanh nghiệp nhà
nước đã thống trị nhiều ngành công nghiệp chủ chốt và là xương sống của nền kinh
tế Trung Quốc - nền kinh tế đang trên đường trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Tuy vậy, quản trị nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước này tại các quốc gia
khác nhau cũng có sự khác biệt. Như tại Singapore, Chính phủ quản lý các doanh
nghiệp nhà nước thông qua Temasek và được quản lý như một danh mục thương
mại, nhằm mục tiêu lợi nhuận bền vững, nhà nước rất hạn chế can thiệp vào hoạt
động quản lý và kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, tại
Trung Quốc, vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban Giám sát
và Quản lý Tài sản nhà nước (SASAC) nắm giữ, tuy nhiên, SASAC không được bổ
nhiệm các quản lý, doanh nghiệp nhà nước lớn do Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ
định, các doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự can thiệp của Đảng và nhà nước,
phục vụ các mục tiêu chính trị, kinh tế của Đảng và nhà nước Trung Quốc như can
thiệp vào thị trường vào giai đoạn suy thoái kinh tế.
Như các nghiên cứu đã gợi ý, chìa khoá để tìm một mô hình hiệu quả, nếu có
một mô hình như vậy, là phải căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, thể thể, văn
hoá, … của từng quốc gia. Luận văn đi vào nghiên cứu điều kiện của Việt Nam
nhằm đưa ra các hàm ý chính sách phù hợp.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................ i
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. ii
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN,
KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI DNNN ................................................................................................................. 5
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến Chính sách phát triển và
quản trị nhà nước đối với DNNN ................................................................................ 5
Khoảng trống nghiên cứu: ......................................................................................... 13
1.2. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển và quản trị Nhà nước đối với DNNN ... 13
1.2.1 Các khái niệm then chốt: .................................................................................. 13
1.2.2 Chính sách phát triển DNNN: .......................................................................... 21
1.2.3 Chính sách quản trị Nhà nước đối với DNNN: ................................................ 27
1.2.4 Các yếu tố tác động đến Chính sách phát triển và Quản trị nhà nước đối với
DNNN ....................................................................................................................... 35
1.2.5 Thước đo hiệu mức độ hiệu quả của chính sách phát triển và quản trị nhà nước
đối với DNNN - Mức độ hiệu quả của phân bổ nguồn lực: ...................................... 37
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 39
2.1 Cơ sở phương pháp luận và cách tiếp cận ........................................................... 39
2.1.1 Cơ sở phương pháp luận .................................................................................. 39
2.1.1 Cách tiếp cận .................................................................................................... 39
2.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể .......................................................................... 39
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu định tính .................................................................. 39
2.2.2 Phương pháp diễn dịch ..................................................................................... 40
2.2.3 Phương pháp quy nạp ....................................................................................... 40
2.2.4 Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh ....................................................... 40
2.2.5 Phương pháp Case study .................................................................................. 40
CHƯƠNG 3: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÀ
QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DNNN ............................................................. 41
Tổng quan kinh nghiêm quốc tế và giới hạn phạm vi nghiên cứu ............................ 41
3.1 Kinh nghiệm của Singapore ................................................................................ 43
3.1.1 Bối cảnh phát triển DNNN ở Singapore: ......................................................... 44
3.1.2 Chính sách phát triển DNNN ở Singapore: ...................................................... 46
3.1.3 Chính sách quản trị DNNN ở Singapore: ........................................................ 49
3.1.5 Nhận định từ kinh nghiệm của Singapore: ....................................................... 53
3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc: ............................................................................ 56
3.2.1 Bối cảnh phát triển DNNN ở Trung Quốc: ...................................................... 56
3.2.2 Chính sách phát triển DNNN của Trung Quốc: ............................................... 58
3.2.3 Chính sách quản trị nhà nước đối với DNNN của Trung Quốc: ..................... 60
3.2.4 Nhận định từ kinh nghiệm của Trung Quốc: ................................................... 63
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN, QUẢN
TRỊ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DNNN TẠI VIỆT NAM ............................................. 68
4.1. Nhận thức của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò, vị trí của DNNN: ...... 69
4.2. Đổi mới cơ chế, cách thức quản lý nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam: ....... 70
4.3. Cải cách sở hữu của DNNN tại Việt Nam: ........................................................ 71
4.3.1. Chủ trương, chính sách về cải cách sở hữu DNNN tại Việt Nam .................. 71
4.3.2. Thực trạng của cải cách sở hữu doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam .......... 74
a. Sự thành lập Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ............................. 78
b. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn Nhà
nước tại doanh nghiệp ............................................................................................... 78
4.3.3. Những khó khăn, trở ngại và tranh luận về cải cách DNNN tại Việt Nam .... 79
4.4 Hàm ý cho chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN của Việt
Nam: .......................................................................................................................... 81
4.4.1 Hàm ý cho chính sách phát triển DNNN của Việt Nam: ................................. 82
4.4.2 Hàm ý cho chính sách quản trị nhà nước đối với DNNN của Việt Nam: ........ 88
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 98
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
CMSC 1 Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp
DNNN 2 Doanh nghiệp nhà nước
GLC Doanh nghiệp có liên hệ với chính phủ của Singapore 3 (Government-Linked Company)
NDRC 4 Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia
OECD 5 Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
SASAC Uỷ ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước Trung 6 Quốc
7 Temasek Công ty Temasek Holdings
i
DANH MỤC BẢNG
STT
Bảng
Nội dung
Trang
Sự khác nhau về khung quản trị giữa khu vực
1
Bảng 1.1
29
tư nhân và DNNN
Số DNNN tại các quốc gia đang phát triển và
2
Bảng 3.1
41
phát triển trong danh sách Fortune Global 500
Số DNNN tại một số quốc gia chủ yếu trong
3
Bảng 3.2
Fortune Global 500 và tỷ lệ DNNN trong tổng
42
số doanh nghiệp tại mỗi quốc gia
4
Bảng 4.1 GDP theo loại hình sở hữu
74
5
Bảng 4.2
ICOR (Bình quân 3 năm)
75
6
Bảng 4.3 Tỷ trọng GDP theo thành phần kinh tế
76
Đóng góp của ba khu vực doanh nghiệp vào
7
Bảng 4.4
77
NSNN
ii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Trên thế giới, trong thập kỷ vừa qua, sự phục hưng của các DNNN khiến mô
hình DNNN như đang giai đoạn khởi đầu của một thời kỳ mới hơn là sự cáo chung.
Trong kỷ nguyên mới này, các DNNN đã chiếm giữ một vai trò trọng yếu trong
danh sách những doanh nghiệp mạnh nhất thế giới. Thực vậy, DNNN đã thống trị
nhiều ngành công nghiệp chủ chốt và là xương sống của nền kinh tế Trung Quốc -
nền kinh tế đang trên đường trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Sự vươn dậy
mạnh mẽ của DNNN, kết hợp với tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của Trung Quốc,
khiến tương lai của DNNN tại Trung Quốc là một chủ đề quan trọng tầm cỡ toàn
cầu. Sự thành công và phát triển bền vững của DNNN của Trung Quốc đã được
tranh luận mạnh mẽ ở Trung Quốc và quốc tế. Bên cạnh đó mô hình DNNN của
Singapore đường như là một mô hình hiệu quả cho cải cách DNNN của Trung Quốc
nói riêng và trên thế giới nói chung (Tan, Puchninak, Varottil, 2015).
Nền kinh tế Việt Nam cần tiến tới các giai đoạn phát triển cao hơn, đạt vị trí
cao hơn trên chuỗi giá trị học hỏi từ các quốc gia đi trước như mô hình Đông Á vốn
đã đi trước ta rất xa, nếu không có sự nỗ lực, đổi mới thì khó vươn lên được mà còn
nguy cơ mắc lại ở trình độ phát triển thấp. Các DNNN với nguồn lực to lớn và trách
nhiệm, vai trò của mình, cần đáp ứng được các trách nhiệm và vai trò đó, đóng góp
quan trọng đưa cả khu vực DNNN nói riêng và nền kinh tế Việt Nam trên tiến trình
phát triển cao hơn. Tuy vậy, DNNN Việt Nam dường như đối diện nhiều mâu thuẫn
như nguồn lực nhiều nhưng hiệu quả thấp, các quyết định đầu tư còn phải xin phép
các cơ quan quản lý cấp trên gây khó khăn chậm chễ, các mục tiêu hoạt động chưa
rõ ràng và còn mâu thuẫn nhau, thiếu năng lực cạnh tranh, ... Bên cạnh đó, nếu đầu
tư nhiều hơn nhưng như kinh nghiệm quốc tế, các quốc gia có trình độ phát triển
thấp thường xảy ra tình trạng đầu tư không hiệu quả, tham nhũng, nên bên cạnh
chính sách phát triển cần có chính sách quản trị công và quản trị công ty hiệu quả.
1
Trong khi đó, chính sách của nhà nước, tạo ra sự khác biệt lớn nhất đối với
kết quả phát triển (Studwell, 2013). Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, của các nước
đã đi trước trên con đường phát triển, để rút ra bài học vô cùng giá trị, góp phần đưa
ra các chính sách đúng đắn, tạo kết quả phát triển tích cực. Tuy nhiên, chủ đề
nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối
với DNNN và bài học cho các chính sách của Việt Nam lại thiếu vắng hay chưa đầy
đủ, nhất là về chính sách quản trị nhà nước đối với các DNNN.
Do đó, luận văn chọn nghiên cứu đề tài: Chính sách phát triển và quản trị nhà
nước đối với DNNN: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý đối với Việt Nam, để đáp ứng
sự cấp thiết và thiếu vắng này.
2. Câu hỏi nghiên cứu:
Từ nghiên cứu các lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển và
quản trị nhà nước đối với DNNN và thực trạng Việt Nam, trả lời câu hỏi sau:
Từ nghiên cứu các lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển
và quản trị nhà nước đổi với DNNN về chiến lược, mô hình, hệ thống, các yếu tố
tác động,… có thể đưa ra hàm ý về chính sách về phát triển, quản trị nhà nước đối
với các DNNN cho Việt Nam để tận dụng các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia
đi trước, phát huy tiềm năng của các DNNN và tránh lặp lại các bài học sai lầm?
3. Mục đích của nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển và quản trị nhà nước
đổi với DNNN, và đánh giá thực trạng tại Việt Nam, nhằm xác định các chính sách có
tính khả thi, hiệu quả, phù hợp đối với các quốc gia, đánh giá các yếu tố tác động, so
sánh, đánh giá và giải thích tính khả thi, hiệu quả và phù hợp, từ đó đưa ra các hàm ý
khả thi, hiệu quả, phù hợp với Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối
với DNNN.
2
Sử dụng các lý thuyết về quản trị nhà nước, quản trị doanh nghiệp, nghiên
cứu để phân tích các chính sách khác nhau của các quốc gia. Phân tích, tổng hợp,
kinh nghiệm của Singapore và Trung Quốc, đánh giá mức độ hiệu quả, phù hợp, rút
ra các kinh nghiệm, hàm ý, giả thiết; đánh giá , phân tích các giả thiết đó, đối chiếu
với các lý thuyết hiện tại.
Phân tích thực trạng phát triển và quản trị nhà nước đối với doanh nhà nước tại
Việt Nam cấu trúc sở hữu DNNN và hiệu quả kinh doanh các DNNN tại Việt Nam. Từ
các kinh nghiệm, lý thuyết, phân tích các kinh nghiệm quốc tế đưa ra hàm ý đối với Việt
Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN của các nước trên thế
giới. Thực trạng chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN tại Việt
Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Không gian: Giới hạn phạm vi với Singapore và Trung Quốc do giới hạn về
thời gian nghiên cứu, luận văn lựa chọn tập trung vào hai quốc gia có nhiều tương
đồng với Việt Nam về vị trí địa lý, văn hóa và đã có những chính sách thiết thực,
hiệu quả tạo nên thành thích nổi bật đối với phát triển và quản trị nhà nước đối với
DNNN nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Thời gian: tại Singapore từ năm 1965 - 2018, tại Trung Quốc từ những năm
1970 – 2018 và tại Việt Nam từ năm 1990 - 2018.
Phạm vi nội dung: nội dung chính sách phát triển và quản trị DNNN tại,
Singapore, Trung Quốc, tính hiệu quả, khả thi và phù hợp của các chính sách; các
yếu tố tác động. Thực trạng chính sách phát triển và quản trị DNNN tại Việt Nam
5 Kết cấu luận văn:
Luận văn được kết cấu thành bốn chương. Phần Mở đấu nêu tính cấp thiết của luận
văn, câu hỏi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu.
3
Chương 1 nêu tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến nội dung nghiên cứu là
chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN và cơ sở lý luận bao gồm
các khái niệm và các lý thuyết về nội dung các chính sách, yếu tố tác động và tiêu
chí đánh giá.
Chương 2 nêu phương pháp nghiên cứu, phương pháp thu thập số liệu, phương
pháp phân tích
Chương 3 đi vào kinh nghiệm quốc tế, dựa trên các nội dung các chính sách, tổng
quát các kinh nghiệm và rút ra quan điểm, đánh giá, phân tích các quan điểm rút ra
Chương 4 nêu thực trạng của Việt Nam và căn cứ vào các bài học, kinh nghiệm,
quan điểm để đưa ra các hàm ý về chính sách cho Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN, KHOA HỌC VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN TRỊ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DNNN
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến Chính sách phát triển
và quản trị nhà nước đối với DNNN
Nghiên cứu “DNNN – Công cụ tạo ra giá trị cho công cộng?” của tác giá
Jan Sturesson, Scott McIntyre, Nick C Jones của PWC
DNNN là một lực lượng có ảnh hưởng và đang tăng trưởng trên toàn cầu. Ví dụ,
tỷ trọng các DNNN trong danh sách Fortune Global 500 đã tăng từ 9% trong năm 2005
lên 23% năm 2014, chủ yếu do sự tăng trưởng của các DNNN Trung Quốc.
Các DNNN đã trở thành công cụ cho một số quốc gia để định vị tốt hơn vị trí
của họ trong tương lai kinh tế toàn cầu, tăng tính cạnh tranh toàn cầu vì tài chính, tài
năng và nguồn lực.
Nhiều nếu không phải là hầu hết, các DNNN lớn hoạt động toàn cầu và tham
gia hoạt động thương mại. Trong một nghiên cứu phân tích danh sách Fortune’s 2000
doanh nghiệp lớn nhất trong năm 2010-2011, các tác giả phát hiện ra 204 (10.2%)
trong số 2.000 doanh nghiệp là các DNNN với quyền lợi trải khắp 37 quốc gia.
Các tác giả cho rằng đây có thể là hệ quả của một xu hướng cực lớn của sự
dịch chuyển sức mạnh kinh tế. Do vậy, cũng rất phù hợp với hướng nghiên cứu luận
văn khi nghiên cứu mới một chủ đề dường như đã cũ, nhưng đang trở nên nóng hơn
trên toàn cầu, đó là sự phát triển của các DNNN trở thành lực lượng lớn mạnh, cạnh
tranh trên toàn cầu.
Nghiên cứu của các tác giả TAN Cheng-Han, Dan W. PUCHNIAK,
Umakanth VAROTTIL – Đại học Quốc gia Singapore về quá trình hình thành
của DNNN Singapore để trở thành một mô hình tiềm năng cho cải cách.
Theo bài nghiên cứu, mô hình DNNN của Singapore (Government-linked
companies - GLC) có thể cung cấp một mô hình tốt, hấp dẫn cho cải cách DNNN
Trung Quốc và các quốc gia khác như Việt Nam.
5
Sự hấp dẫn đó là, các doanh nghiệp GLC cũng mang lại lợi nhuận trên tài sản và
trên vốn chủ sở hữu cao hơn các doanh nghiệp phi GLC, do vậy được định giá cao hơn.
Đồng thời các GLC cũng quản lý chi phí tốt hơn các phi GLC. Các doanh nghiệp GLC
cũng kết quả kinh doanh lành mạnh và có quản trị doanh nghiệp tốt đồng thời, được thị
trường đánh giá cao thể hiện ở giá trị vốn hoá. Ngoài ra, sự thành công của mô hình GLC
Singapore thách thức quan niệm phổ biến rằng các doanh nghiệp tư nhân chứ không phải
nhà nước sẽ phân bổ hiệu quả nguồn vốn hơn. Kết quả đó rất đáng chú ý với nghiên cứu
này, vì nó ngược với bối cảnh DNNN trên toàn cầu vốn được cho rằng nói chung làm ăn
không hiệu quả, và như tại Việt Nam, các DNNN làm ăn có hiệu quả thấp, thua lỗ,
được định giá thấp trên thị trường chứng khoán.
Sự thành công của mô hình DNNN Singapore và tham vọng của Trung Quốc
trong việc ganh đua thành tích với mô hình này thách thức quan niệm rằng các hệ
thống quản trị công ty đang hội tụ về mô hình theo kinh tế thị trường của các doanh
nghiệp trong đó lấy cổ đông làm trung tâm (của Mỹ).
Quá trình hình thành và thành công của mô hình GLC Singapore cho thấy
một nền kinh tế và một hệ thống quản trị công ty rất thành công có thể xây dựng
trên nền tảng của các doanh nghiệp có cổ đông nhà nước đóng vai trò chi phối. Với
bài nghiên cứu, đây cũng là điểm quan trọng, chỉ ra khả năng của mô hình thành
công với cổ đông nhà nước đóng vai trò nền tảng trong các DNNN thành công, tạo
ra một nền kinh tế thành công và một hệ thống quản trị thành công, chứ không đơn
thuần là chuyển DNNN sang công ty cổ phần. Và câu hỏi đặt ra nhà nước nên đóng
vai trò gì với DNNN và thực hiện việc đó như thế nào để có thành công?
Chìa khoá để quản trị doanh nghiệp hiệu quả dường như là tìm một mô hình
phù hợp với từng nền kinh tế, thể chế, lịch sử, chính trị, môi trường văn hoá vốn rất khác
nhau. kết luận của nghiên cứu, mô hình GLC Singapore có mối liên hệ chặt chẽ với hoàn
cảnh lịch sử và văn hóa, mặc dù mô hình này có thể vô cùng thành công ở Singapore, tuy
nhiên, áp dụng mô hình này ở các nước khác có thể sẽ khó khăn.
Chính phủ Singapore không có ý định bổ nhiệm các hội đồng quản trị để
quản lý các công ty này và thông thường cũng không can dự vào việc quản lý các
6
GLC. Hội đồng quản trị của các GLC là hội đồng chính sách hơn là hội đồng có
chức năng quản lý. Đây cùng là một điểm rất quan trọng trong cách thức Chính phủ
Singapore quản trị các GLC, khác với cách thức ở Việt Nam và Trung Quốc, nhà
nước có thể can thiệp, chỉ đạo trực tiếp hoạt động của các DNNN, ảnh hưởng đến sự
tự chủ của doanh nghiệp, khiến vai trò điều hành nền kinh tế, chức năng ra chính
sách của chính phủ có thể mâu thuẫn với vai trò cổ đông.
Công ty Temasek Holdings (Temasek) được thành lập để quản lý các khoản
đầu tư và tài sản trước đó do chính phủ nắm giữ, cổ đông duy nhất của Temasek là
Bộ Tài chính Singapore. Temasek đóng vai trò cổ đông tích cực, khuyến khích quản
trị công ty tốt, điều này bao gồm ủng hộ việc hình thành hội đồng quản trị có năng
lực cao, giàu kinh nghiệm và đa dạng để hướng dẫn và góp ý vào việc quản lý công
ty. Temasek chủ trương hội đồng quản trị độc lập với quản lý để có thể cung cấp sự
đảm bảo hiệu quả và sự giám sát đối với các hoạt động quản lý, vị trí Chủ tịch công
ty và giám đốc điều hành sẽ do những người khác nhau nắm giữ, các công chức
hàng đầu hay các cựu công chức hàng đầu được bổ nhiệm vào các hội đồng. Sự bố
trí này tạo nên ủng hộ sự trung thành với chính phủ, giúp chính phủ tham gia và các
khu vực trọng yếu của nền kinh tế.
Như vậy, nghiên cứu tranh luận về quan điểm về sự hội tụ của lý thuyết về
quản trị công ty như đã nêu trên, thay vào đó, là sự đa dạng, cách tiếp cận theo lý
thuyết “phụ thuộc con đường”. Cách tiếp cận phù hợp đối với phát triển và quản trị
nhà nước đối với DNNN tại mỗi quốc gia khác nhau còn phù thuộc vào yếu tố văn
hoá, chính trị tại các quốc gia. Cấu trúc doanh nghiệp và các thiết chế thường được
hình thành do các cấu trúc có sẵn của quốc gia, khó có thể thay đổi do các vấn đề tư
lợi và lợi ích nhóm. Tìm hiểu bối cảnh, lịch sử, đặc điểm, … phát triển DNNN của
Việt Nam là điều cần thiết để có lựa chọn chính sách phù hợp.
Nghiên cứu của Wong, S. C. Y. “Improving Corporate Governance in
SOEs: An Intergrated Approach”, Corporate Governance International
Về vấn đề về người đại diện mà các DNNN phải đối mặt.
Thứ nhất, các doanh nghiệp tư nhân, nói chung đều hướng về mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận, do đó họ có thể tập trung vào mục tiêu đổi mới và giảm chi phí,
7
trong khi đó, khi nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu doanh nghiệp phải đối mặt nhiều
xung đột lợi ích. Nhà nước phải vận hành hoạt động kinh doanh, thực thi luật pháp,
kiểm soát hệ thống ngân hàng và thông thường quan tâm đến các vấn đề xã hội như
tạo việc làm và giáo dục (OECD, 2006). Sự mâu thuẫn thường xuyên xảy ra giữa
các mục tiêu này làm giảm sự rõ ràng, thậm chí gây bối rối với các quản lý doanh
nghiệp giữa nhiều mục tiêu khác nhau.
Điểm này quan trọng với DNNN ở Việt Nam khi hiện nay, vốn được khẳng
định là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện hiệu quả các chính sách ổn định vĩ
mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn
cho ngân sách nhà nước; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội…. Định hướng vai trò của DNNN
rất quan trọng vì quá nhiều vai trò, mục tiêu mà dường như còn mâu thuẫn nhau,
đồng thời, giao quá nhiều mục tiêu phải thực hiện khiến quản lý doanh nghiệp còn
bị rối. Mục tiêu hướng tới lợi nhuận hay thực hiện nhiều nhiệm vụ khác, là một khía
cạnh trong chính sách phát triển DNNN mà bài nghiên cứu hướng đến.
Thứ hai, cả người sở hữu doanh nghiệp tư nhân và DNNN đều phải đối mặt
với vấn đề các nhà quản lý doanh nghiệp tư lợi. Tuy nhiên, các DNNN còn phải đối
mới vấn đề các quan chức trong giới chính trị, các cơ quan hành chính có hành vi
can thiệp để tư lợi. Giới chính trị và công chức cũng là những người đại diện tồi vì
họ thường không được hưởng lợi trực tiếp từ thành công của các DNNN. Nên họ
cũng ít động lực hơn, thậm chí né tránh, thiếu động lực cải thiện hoạt động của các
DNNN. (Wong, 2004)
Chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN, chủ đề mà
nghiên cứu hướng đến, hướng đến trả lời câu hỏi về hạn chế sự tư lợi của quản lý
doanh nghiệp và quan chức trong giới chính trị, các cơ quan hành chính đối với
các DNNN và tạo động lực nơi các nhà quản lý DNNN với sự phát triển của
doanh nghiệp.
8
Thứ ba, Mức độ công bố thông tin của các DNNN kém hơn so với khu vực
tư nhân. Được cung cấp vốn bởi thị trường thị trường tài chính, các doanh nghiệp tư
nhân phải tuân thủ kỉ luật do thị trường tài chính đặt ra và phải đáp ứng các tiêu
chuẩn về công bố thông tin. Trong khi đó, các DNNN không phải đối diện với áp
lực này. Họ công bố thông tin ít hơn vì các chủ sở hữu thiếu động lực để giám sát
các DNNN kĩ càng.
Công bố thông tin là một yếu tố quan trọng giúp minh bạch, tạo điều kiện
giám sát DNNN cho nhà đầu tư, nhà nước, người dân, là một chính sách quan trọng
để quản trị DNNN.
Claessens, S., & Fan, J. P. (2002). Corporate Governance in Asia: A
Survey. International Review of Finance
Quản trị Công ty tốt rất cần thiết đối với các DNNN để đảm bảo đóng góp
tích cực cho nền kinh tế. Các DNNN, giống như nhiều doanh nghiệp khác, phải đối
diện với thách thức về quản trị công ty. Tuy nhiên, thách thức trở nên phức tạp hơn
khi nhà nước đóng vai trò cổ đông kiểm soát.
Nghiên cứu chính sách của luận văn lấy áp dụng quản trị doanh nghiệp tốt là
một giải pháp quan trọng trong cách thức quản trị nhà nước đối với DNNN.
Nghiên cứu “Nhà nước đóng vai trò cổ đông: Trường hợp của
Singapore” của các tác giả Isabel Sim, Steen Thomsen, Gerad Yeong thuộc
Centre for Governance, Institution & Organizations – NUS Business
Giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, chính phủ Singapore phải đóng vai trò
khởi sự kinh doanh, sự tham gia của chính phủ là cần thiết vì thiếu các quỹ tư nhân
và các chuyên gia. Tuy nhiên, rõ ràng là các doanh nghiệp phải hoạt động trên nền
tảng thị trường, như ý kiến của Tiến sĩ Goh Keng Swee: “Một trong những bi kịch
của sự huyễn hoặc mà nhiều nước thế giới thứ 3 mắc phải là quan niệm cho rằng
các chính trị gia và công chức thể thực hiện chức năng của doanh nhân một cách
thành công. Điều thú vị, là vô cùng nhiều các dẫn chứng chứng tỏ điều ngược lại,
niềm tin đó vẫn kiên định”. So sánh với điều kiện Việt Nam, chúng ta cũng cần
những doanh nghiệp mạnh, có đủ nguồn lực, năng lực để tiến hành phát triển kinh
9
tế, giữ thị trường trong nước, … do vậy tương tự động lực mà chính phủ Singapore
thấy sự cần thiết đối với sự phát triển của DNNN. Ngoài ra, như ý kiến của Tiến sỹ
Goh Keng Swee, cũng rất quan trọng với chính sách quản trị DNNN, nên như thế
nào, sử dụng các chính trị gia, công chức để quản lý các DNNN liệu có là phù hợp
không? là một câu hỏi mà nghiên cứu định hướng trả lời.
Nguyên tắc trên đã dẫn đến sự ra ra đời của Temasek để sở hữu và quản lý
các GLC theo nền tảng thị trường, phân định một cách hiệu quả chức năng cổ đông
của chính phủ với chức năng điều hành và ra chính sách. Nguyên tắc này, cũng
tương đối khác Việt Nam, các DNNN chưa thực sự hoạt động theo nền tảng thị
trường, chính phủ có thể can thiệp vào các quyết định của doanh nghiệp.
Theo Temasek, Tổng thống và Chính phủ - cổ đông của Temasek đều không
can dự vào hoạt động đầu tư, thoái vốn hay các quyết định kinh doanh khác, ngoại
như liên quan đến bảo vệ nguồn vốn tích trữ của Temasek từ trong quá khứ. Do vậy,
Temasek hành động như một đơn vị quản trị một danh mục thương mại hơn là một
DNNN, vốn có thể gây xung đột giữa mục tiêu xã hội và mục tiêu thương mại. Đây
là một điểm mà luận văn bàn đến, DNNN nên được quản lý như một danh mục
thương mại hay như các công cụ để can thiệp vào thị trường, thông qua các chỉ đạo,
điều hành của chính phủ?
Temasek hoàn thành chức năng công ty đóng vai trò sở hữu cho chính phủ và
xử lý các vấn đề về quản trị mà các DNNN phải đối diện bằng các biện pháp giám
sát và đo lường được đặt đúng chỗ. Temasek giám sát các DNNN và chịu trách
nhiệm với Bộ Tài chính và Tổng thống Singapore.
Sở hữu của Temasek tại các DNNN được mô tả như một mạng lưới các tập
đoàn. Chính phủ không can dự vào hoạt động của các GLC và các GLC hoạt động
như các đơn vị thương mại.
Một số vấn đề được đặt ra từ nghiên cứu như, liệu mô hình quản lý với một
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường có phù hợp để quản lý một danh
mục các tổng công ty, tập đoàn nhà nước ở Việt Nam và liệu chính phủ có thể
không hoặc ít can thiệp vào hoạt động của các tập đoàn. Ngoài ra, vấn đề tăng sở
10
hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các DNNN để có thể tạo sức ép áp đặt các tiêu
chuẩn quản trị công ty của toàn cầu.
Nghiên cứu “Từ kiểm soát chuyển sang thị trường: Đã đến lúc cho cải
cách thực sự DNNN ở Việt Nam?” của các tác giả. Ts. Markus D Taussig,
Nguyen Chi Hieu và Nguyen Thuy Linh thuộc Centre for Governance,
Institution & Organizations – NUS Business
Theo nghiên cứu, ở Việt Nam hiện nay, vấn đề cốt lõi mà nhà nước đang
phải đối diện là vấn đề nhà nước đã phải đổi diện từ khi bắt đầu chuyển đổi từ 3
thập kỉ trước: làm sao để chuyển đổi việc kiểm soát nền kinh tế dựa vào sở hữu trực
tiếp các DNNN sang quản trị các DNNN thông qua các quy định và các thiết chế
đáng tin cậy và minh bạch. Trường hợp quá trình cải cách kiểu Đài Loan, nơi nhà
nước tránh các thách thức chính trị của việc cải cách DNNN và thay vào đó tập
trung vào cải cách các thiết chế thị trường để áp dụng công bằng cho các đối tượng.
Chiến lược thay thế này giúp khu vực tư nhân của Đài Loan phát triển nở rộ, cân
đối lại tác động của DNNN cho tổng thể nền kinh tế. Nhưng các DNNN đầy quyền
lực và các công chức nhà nước phụ thuộc vào nó đã cản trở việc xây dựng các thiết
chế thị trường minh bạch và vẫn tiếp tục sử dụng một cách không hiệu quả nguồn
tài nguyên ít ỏi ảnh hưởng tới sự phát triển của khu vực tư nhân. Như vậy, có thể
thấy Việt Nam khó có thể tăng trưởng nhanh nếu tiếp tục trong việc cải cách
DNNN. Đây là một điểm mà luận văn hướng đến, nhằm có chính sách đồng bộ,
phát triển cả DNNN, doanh nghiệp tư nhân.
Tư nhân với động lực về tài chính khiến họ là những người làm tốt hơn các
DNNN trong các quyết định kinh doanh, như đáp ứng nhu cầu khách hàng, phân bổ
hiệu quả nguồn lực cho sản xuất, kiểm tra sản phẩm, …. Ngay tại Singapore, Chính
phủ đã giảm thiểu sự khác biệt giữa khu vực tư và nhà nước với những công chức
có động lực cao hàng đầu thế giới. Trong khi đó, Việt Nam lại thiếu vắng việc gia
tăng động lực và sự thiếu hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực, cũng như việc tư
lợi của các doanh nghiệp, nhà quản lý và người lao động. Trong bối cảnh Việt Nam,
đội ngũ công chức giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, tình trạng quan
11
liêu, năng suất thấp, hiệu quả thấp, … chúng ta nên làm gì, nghiên cứu sẽ hướng tới
trả lời cho vấn đề này.
Những hạn chế thay đổi ở Việt Nam phần lớn là do “phụ thuộc con đường”
từ quá khứ, các DNNN có nguồn lực to lớn, được đại diện trong chính phủ bởi các
nhóm lợi ích sợ sự thay đổi làm mất đi quyền lợi này, hay các nhà quản lý sợ mất chức
vụ, người lao động cũng e ngại phải đối mặt với áp lực lớn hơn và giảm sự bảo hộ.
Phản bác lại một số quan điểm bảo vệ lợi ích từ DNNN và nguy hiểm khi
phụ thuộc vào khu vực tư nhân:
Doanh nghiệp do nhà nước sở hữu có trách nhiệm xã hội cao hơn: điều này
gây tranh luận, khi nhiều trường hợp DNNN thể hiện sự thiếu trách nhiệm xã hội.
Quan điểm cho rằng DNNN giúp khắc phục khuyết tật thị trường như sự tham gia
mạnh mẽ của DNNN giúp giảm tác động của khủng hoảng kinh tế: do vai trò yếu
kém của chính phủ điều tiết thị trường. Tiến trình xây dựng các thiết chế thị trường
ở Việt Nam còn chậm. Các DNNN ở Việt Nam vẫn được hưởng những đặc quyền
lớn so với khu vực phi nhà nước. Như được cho vay vốn dễ dàng hơn do ít nguy cơ
phá sản do được nhà nước bảo hộ. Độc quyền nhà nước chuyển thành độc quyền
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể tiếp tục sử dụng cơ chế xin cho. Được ưu
đãi các tài nguyên như đất đai và tín dụng.
Tác động của những đặc quyền này. Thứ nhất, làm hạn chế khả năng tiếp cận của
khu vực tư nhân đến những nguồn lực chủ yếu và cơ hội tăng trưởng. Thứ hai, việc
hưởng những đặc quyền khiến các DNNN giảm động lực để tăng năng suất, tham gia
vào nâng cấp, cải tiến công nghệ, nâng cao giá trị sản xuất, thay vào đó tham gia những
hoạt động mang tính cơ hội, dễ dàng, như bất động sản, ngân hàng, chứng khoán.
Vậy chính sách phát triển DNNN của Việt Nam nên thế nào, để DNNN hoạt
động theo nền tảng thị trường, bình đẳng hay tiếp tục có hỗ trợ đặc quyền so với các
khu vực khác?
Nghiên cứu: “Hoạt động của các DNNN ở Trung Quốc: Phân tích thực
nghiệm về kiểm soát thông qua quyền sở hữu bởi SASACs” của SEA-JIN
Chang và Sandy Yuan Jin
12
Uỷ ban Quản lý và Giám sát tài sản nhà nước (SASAC) Trung Quốc được
thành lập để quản lý vốn tại DNNN Trung Quốc, tuy nhiên các Doanh nghiệp các
công ty liên kết hoạt động kém hiệu quả mặc dù không đến mức yếu kém như các
doanh nghiệp do nhà nước trực tiếp sở hữu.
Cải cách tương lai của DNNN Trung Quốc nên tập trung giảm các bậc trung
gian trong kim tự tháp cấu trúc sở hữu để SASAC có thể thực hiện chức năng cổ
đông một cách năng động.
Temasek được vận hành như một công ty đầu tư tư nhân với hội đồng quản
trị và CEO riêng, và có thể thuê người tư khu vực tư nhân. SASACs chủ yếu có các
nhân sự là công chức và SASACs không được can dự vào việc bổ nhiệm CEO các
công ty thành viên.
Nghiên cứu chỉ ra vấn đề tương đồng của mô hình DNNN Trung Quốc và
Việt Nam, như cấu trúc sở hữu nhiều nấc trung gian. Hạn chế của Uỷ ban quản lý
vốn nhà nước khi hoạt động như một cơ quan nhà nước và hạn chế trong việc bổ
nhiệm vị trí CEO công ty thành viên. Nhưng cũng đưa ra gợi ý về việc xác định cấu
trúc sở hữu DNNN tại Việt Nam qua các nấc như Uỷ ban quản lý vốn nhà nước,
SCIC, cá tập đoàn, tổng công ty, các công ty con, ….
Khoảng trống nghiên cứu:
Bài học từ kinh nghiệm quốc về chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với
DNNN có thể rút ra được điều gì cho chính sách phù hợp với điều kiện Việt Nam, giúp
DNNN phát triển hoạt động hiệu quả và đóng góp và sự phát triển của kinh tế Việt Nam.
1.2. Cơ sở lý luận về chính sách phát triển và quản trị Nhà nước đối với DNNN
1.2.1 Các khái niệm then chốt:
1.2.1.1 Chính sách công (Public policy):
a. Khái niệm Chính sách công:
Chính sách công là một nhóm các quyết định được đưa ra bởi chính phủ hoặc các
thực thể chính trị khác để gây ảnh hưởng, thay đổi hay cấu trúc một vấn đề hoặc chủ đề
được nhận diện trong lĩnh vực chính trị, bởi các nhà hoạch định chính sách hoặc bởi công
chúng (political-science.iresearch.com).
13
b. Phân tích Chính sách:
Theo political-science.iresearch.com, sự phát triển của chính phủ và sự gia tăng
của các trông đợi, đòi hỏi chính phủ giải quyết các vấn đề công như thất nghiệp, đói
nghèo và nhà ở, dẫn đến sự khẩn thiết đòi hỏi khoa học chính sách như một cách tiếp cận
mới (Lasswell, 1951). Lasswell gợi ý rằng chính sách tốt hơn và chính phủ tốt hơn có thể
đạt được thông qua sử dụng các khoa học xã hội một cách thông minh.
Gần đây, một hình thức mới của khoa học chính sách phát triển, xây dựng chính
sách dựa trên bằng chứng (Radaelli, 1995). Cốt lõi của xây dựng chính sách dựa trên
bằng chứng là kiểm nghiệm hiệu quả của chính sách một cách hệ thống. Ảnh hưởng của
chính sách được đo bằng cả trực tiếp và gián tiếp. Quyết định ủng hộ hay chống lại chính
sách dựa trên tính toán lợi ích – chi phí với mục tiêu đạt được lợi ích ròng với một thay
đổi của chính sách.
c. Các công cụ của chính phủ:
Theo political-science.iresearch.com, cách phân loại rõ ràng và vẫn mạnh mẽ
được phát triển bởi Christopher Hood (1986), ông phân loại bốn loại nguồn lực chính
phủ có thể sử dụng để đạt được mục tiêu chinh sách.
4 loại công cụ của chính phủ:
1) Các công cụ dựa trên nền tảng thông tin: thường sử dụng dạng các chiến dịch
thông tin công cộng hướng tới công dân. Chúng ở dưới dạng thông báo về
chính sách mới của chính phủ, quyền, cách tiếp cận mới hay thay đổi hành
động mục tiêu. Chính phủ có thể thay đổi quan niẹm về vấn đề hay ảnh hưởng
tâm lý về một vấn đề cụ thể. Chúng có thể ủng hộ hay chống lại các thay đổi
chính sách khác.
2) Các công cụ dựa trên quyền lực: là các công cụ điều hành của chính phủ
trên hầu hết các lĩnh vực chính sách. Quy định bao gồm luật, thông lệ,
tiêu chuẩn, định hướng hay quy định. Vi phạm các quy định thường bị
trừng phạt bởi luật pháp.
3) Các công cụ tài chính: thường rất hiệu quả nếu được sử dụng hợp lý. Trợ cấp,
chuyển nhượng, cho phép hay thuế có tác động trực tiếp lên hành vi của công
14
dân. Tuy nhiên, một khi đã áp dụng thì rất khó để loại bỏ vì người ta đã trở
nên phụ thuộc vào nó.
4) Các công cụ dựa trên tổ chức: được đưa ra trực tiếp bởi chính phủ hay các
đại diện dưới sự kiểm soát của chính phủ. Trong khi các DNNN đã phần
lớn tư hữu hoá trong hai thập kỷ vừa qua, hợp tác công-tư trở nên quan
trọng hơn. Hoạt động tái tổ chức của chính phủ trong bối cảnh tư nhân
hoá và hình thành các đại diện mới của chính phủ để giám sát các đơn vị
cung cấp các tiện ích đã được tư nhân hoá hay các nhà cung cấp dịch vụ
giao thông.
d. Giới hạn của chính sách:
Các chính sách công thường “phụ thuộc con đường” và các thay đổi của chính
sách diễn ra tiệm tiến (Pierson, 2000). Một khi một chính sách cụ thể đáp ứng một vấn đề
hiện tại được phát triển, khả năng lớn là phản ứng trong tương lai ít nhất là bị ảnh hưởng
nếu không phải là được quyết định bởi nó (political-science.iresearch.com).
e. Tổng quan về chính sách công:
Theo political-science.iresearch.com, kiến thức của chúng ta về hiệu quả của
chính sách công đã được cải thiện rất lớn trong vòng 50 năm qua. Cách tiếp cận một cách
có hệ thống, xây dựng chính sách dựa trên bằng chứng dựa trên bằng chứng và kinh tế
học hành vi đã và sẽ làm gia tăng hơn nữa kiến thức về lĩnh vực này.
Tuy nhiên, các chính sách hiệu quả nhất dường như vẫn chưa được áp dụng.
Ví dụ như các chính sách về hạn chế bia rượu có thể ảnh hưởng đến quyền lợi các
nhà sản xuất bia rượu và do đó, họ có thể sẽ tìm cách để các chính sách này không
được thực thi.
Các doanh nghiệp và công chúng cũng có ảnh hưởng lớn hơn đến các chính
sách công. Ví dụ phản ứng, quan điểm phản đối của công chúng về vấn đề môi
trường có thể ảnh hưởng khiến chính phủ phải có các chính sách cải thiện vấn đề
môi trường. Theo political-science.iresearch.com, các chính phủ cũng ít kiểm soát
các chính sách hơn so với trước đây. Họ cũng sử dụng nhiều hơn các công cụ chính
sách dựa trên cơ sở thị trường so với trước đây.
15
1.2.1.2 Khái niệm và vai trò DNNN:
a. Khái niệm DNNN:
Theo Nghị định 99/ND-CP (2012), các DNNN bao gồm các Công ty TNHH
Một thành viên 100% vốn nhà nước và các công ty cổ phần và các công ty TNHH 2
Thành viên trở lên trong đó nhà nước nắm trên 50% vốn điều lệ.
DNNN (SOE) được biết đến với nhiều tên gọi các công ty chính phủ
(government corporations), doanh nghiệp kinh doanh của chính phủ (government
business enterprises), doanh nghiệp liên quan đến chính phủ (government-linked
companies), parastatals, doanh nghiệp công (public enterprises), đơn vị khu vực
công (public sector units) hay doanh nghiệp enterprises. (PWC, 2015)
Định nghĩa về DNNN (SOE) cũng khác nhau giữa các quốc gia (OECD,
2005; The World Bank, 2006; Kowalski, P. et al (2013)). Các dạng DNNN được
phân định theo các yếu tố sau:
- Cấp chính quyền sở hữu doanh nghiệp: Trung ương/Liên bang, bang/ khu
vực hay địa phương
- Cách thức doanh nghiệp được thành lập
- Vị trí trong các cấp bậc hành chính công
- Mục đích của DNNN
- Tình trạng của DNNN nếu nó đang trong quá trình tư hữu hóa
…
Nghiên cứu của PWC sử dụng định nghĩa về DNNN: Là doanh nghiệp mà
chính quyền sở hữu toàn phần, chủ yếu hay cổ đông thiểu số quan trọng. Trong định
nghĩa này, DNNN bao gồm DNNN được sở hữu bởi chính quyền trung ương, hay
liên bang cũng như bởi chính quyền cấp khu vực và địa phương.
Do nghiên cứu trải rộng tại các quốc gia khác nhau, sử dụng các tài liệu
nghiên cứu khác nhau, nên khái niệm DNNN cũng được định nghĩa tại từng bối
cảnh. Trong đó:
GLC là các doanh nghiệp mà chính phủ Singapore, thông qua Temasek hay
cơ quan đại diện của chính phủ hoặc GLC khác, là cổ đông kiểm soát.
16
DNNN Trung Quốc là doanh nghiệp do nhà nước Trung Quốc nắm giữ
100% vốn điều lệ hoặc là cổ đông chi phối.
Khái niệm được sử dụng đối với DNNN của Việt Nam tương tự của DNNN
Trung Quốc”: là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc là cổ
đông chi phối.
b. Vai trò của DNNN:
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và Ngân hàng Thế giới
(WB), DNNN có vai trò và lý do nhà nước giữ cổ phần tại các DNNN:
(1) Cung cấp hàng hóa, dịch vụ công: ví dụ như quốc phòng, công viên công
cộng, giáo dục, y tế;
(2) Giải quyết vấn đề việc làm;
(3) Hạn chế sự kiểm soát của tư nhân và nước ngoài đối với nền kinh tế nội địa;
(4) Tạo ra quỹ công: nhà nước có thể đầu tư vào lĩnh vực cụ thể nào đó, kiểm
soát sự gia nhập để tạo độc quyền tạo ra giá độc quyền và sau đó sử dụng doanh thu
từ các DNNN để tạo nguồn thu nhập;
(5) Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ công: nhà nước có thể bắt buộc
DNNN bán hàng hoá và dịch vụ ở mức giá giảm cho nhóm đối tượng cụ thể;
(6) Khuyến khích sự phát triển kinh tế và công nghiệp hoá:
- Duy trì khu vực có giá trị đặc biệt cho nền kinh tế, giữ việc làm
- Khởi sự và phát triển lĩnh vực công nghiệp bằng cách đầu tư vào DNNN để
đạt quy mô kinh tế ở những lĩnh vực mà chi phí khởi nghiệp lớn.
- Kiểm soát sự suy giảm của những ngành công nghiệp đang trở nên suy tàn
và nhà nước sẽ nhận được cổ phần từ việc tái cấu trúc doanh nghiệp (PWC 2015)
Các DNNN thường đóng vai trò chi phối trong các ngành công nghiệp quan
trọng như năng lượng, giao thông và thông tin liên lạc, có ảnh hưởng rộng lớn đến
đời sống người dân và các khu vực khác của nền kinh tế (Kowalski, Buge,
Sztajerowska &Egelan, 2013).
Theo Chen (2016), OECD xác định ba mục tiêu chính của sở hữu nhà nước tại
các doanh nghiệp gồm: để duy trì hay thúc đẩy một số ngành công nghiệp cụ thể, để thúc
đẩy nền kinh tế và để đạt được mục tiêu tài khóa hay tái phân phối. Các lý do khác cho
17
sở hữu nhà nước bao gồm: duy trì độc quyền tự nhiên hay hoạt động của các dịch vụ
công công (ví dụ như ngành bưu điện ở nhiều quốc gia), hay đạt được các mục tiêu công
nghiệp và chiến lược phát triển. An ninh quốc gia cũng có thể là một mối quan tâm.
1.2.1.3 Khái niệm về quản trị nhà nước
a. Khái niệm về quản trị (govenance)
- Theo Daniel Kaufmann, Aart Kraay, Massimo Mastruzzi, quản trị là “các
truyền thống và thể chế mà dựa vào đó để thực hiện quyền lực ở một quốc gia”.
- Theo Ngân hàng Thế giới (WB), quản trị là “…cách thức mà quyền lực
được thực thi thông qua các thể chế chính trị, kinh tế, xã hội của một quốc gia”.
- Theo Cơ quan phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), quản trị là “việc thực thi
quyền lực chính trị, hành chính, kinh tế để quản lý các vấn đề của quốc gia ở mọi
cấp độ. Nó bao gồm các cơ chế, quy trình và thiết chế mà thông qua đó, các công
dân và các nhóm biểu thị sự quan tâm và thực hiện các quyền hợp pháp và nghĩa vụ
của mình, cũng như cho thấy sự khác biệt của họ”.
- Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), quản trị là “cách thức mà nhờ
đó quyền lực được thực hiện để quản lý các nguồn lực kinh tế, xã hội cho sự phát
triển của một quốc gia. Nó đề cập đến chất lượng hoạt động của các thể chế có
nhiệm vụ xây dựng, thực hiện và bảo đảm thực thi các chính sách tốt dựa trên cách
thức hiệu lực, hiệu quả, công bằng và toàn diện”. Theo nghĩa rộng, “quản trị nói đến
môi trường thể chế mà ở đó các công dân tương tác với nhau và với các cơ quan,
quan chức nhà nước”.
- Theo Hội đồng Quản trị toàn cầu (Commission on Global Governance), thì
quản trị là “Tập hợp của rất nhiều cách thức mà trong đó các cá nhân và thiết chế,
kể cả công và tư, giải quyết các vấn đề chung của họ. Đó là một quá trình liên tục
mà thông qua đó những lợi ích đa dạng và xung đột với nhau có thể được giải quyết
và các hành động hợp tác có thể được thực hiện. Nó bao gồm các thiết chế và cơ
chế chính thức được trao quyền để bảo đảm sự tuân thủ cũng như những thoả thuận
không chính thức mà người dân và các tổ chức đã nhất trí hoặc chấp nhận để đạt
được lợi ích của họ”.
18
b. Khái niệm về quản trị tốt (good govenance):
Cũng giống như khái niệm quản trị, có nhiều định nghĩa khác nhau về quản
trị tốt, tuy nhiên, những định nghĩa của các tổ chức quốc tế được nêu dưới đây có
tính phổ biến:
- Theo WB: “Quản trị tốt là tập hợp các thể chế minh bạch, có trách nhiệm
giải trình, có năng lực và kỹ năng, cùng với ý chí quyết tâm làm những điều tốt
đẹp… Tất cả giúp cho một nhà nước cung cấp những dịch vụ công cho người dân
một cách hiệu quả’.
- Theo ADB: “Quản trị tốt thể hiện qua bốn yếu tố cơ bản: (i) trách nhiệm
giải trình (accountability), (ii) sự tham gia (participation), (iii) tính chất có thể dự
đoán (predictability), và (iv) sự minh bạch (transparency)”.
- Theo Hội đồng châu Âu (EC): “Quản trị tốt dựa trên 5 nguyên tắc: công
khai (openness), sự tham gia (participation), trách nhiệm giải trình (accountability),
tính hiệu quả (effectiveness) và sự gắn kết (coherence).
- Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): “Các yếu tố chủ yếu
của quản trị tốt bao gồm: (i) trách nhiệm giải trình (accountability), sự minh bạch
(transparency), tính hiệu quả (efficiency) và hiệu lực (effectiveness), tính kịp thời
(responsiveness), tầm nhìn (forward vision), pháp quyền (rule of law). (Vũ Công
Giao, 2017).
c. Khái niệm Quản trị Công ty:
Quản trị công ty là hệ thống các luật lệ, quy tắc, quy trình nội bộ và việc thực
thi các nội dung đó nhằm định hướng, điều hành và kiểm soát công ty, liên quan tới
các mối quan hệ giữa Ban Giám đốc, Hội đồng quản trị và các cổ đông của một
công ty với các bên có quyền lợi liên quan.
Quản trị công ty cũng tạo ra một cơ cấu để đề ra các mục tiêu của công ty và
xác định các phương tiện để đạt được những mục tiêu đó, cũng như để giám sát kết
quả hoạt động của công ty.
Quản trị công ty chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được Ban giám đốc
và Hội đồng quản trị theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của công ty và của các cổ
19
đông, cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát các hoạt động của
công ty một cách hiệu quả, từ đó khuyến khích công ty sử dụng các nguồn lực một
cách tốt hơn. (OECD, 2004).
1.2.1.4 Một số khái niệm liên quan khác:
a. Khái niệm Bên liên quan mật thiết:
Bên liên quan mật thiết (stakeholder) là thuật ngữ chỉ các cá nhân, tổ chức có
quan hệ mật thiết với doanh nghiệp. Họ có quan tâm, chia sẻ những nguồn lực, chịu tác
động hoặc trực tiếp tác động tới doanh nghiệp trong các chiến lược, kế hoạc, các hoạt
động kinh doanh và có thể quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Bên liên quan mật thiết có thể được chia thành các nhóm gồm:
Trong nội bộ doanh nghiệp: Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, người lao động
Các bên liên quan có quan hệ trực tiếp: Cổ đông, nhà cung cấp, đối tác,
khách hàng, …
Các tổ chức, cá nhân bên ngoài doanh nghiệp: Chính phủ, các hiệp hội, cộng
đồng, … (saga.vn)
b. Khái niệm Tự chủ (Autonomy)
Có nhiều sự phân biệt khi nói về khái niệm tự chủ, trong đó, có tập trung vào
lý thuyết về đạo đức và chính trị. “Tự chủ về đạo đức” muốn nói đến khả năng một
người tự áp dụng các quy tắc đạo đức lên bản thân, và theo Kant, đó là nền tảng
hình thành nên mọi đạo đức (Hill, 1999).
Feinberg cho rằng có ít nhất có 4 ý nghĩa về “Tự chủ” trong triết lý đạo đức
và chính trị: khả năng tự làm chủ bản thân, điều kiện thực tế để tự quản lý, một
chuẩn mực cá nhân và các quyền của một cá nhân tự chủ bản thân (Feinberg 1989).
Tự chủ còn có thể hiểu là khả năng độc lập để ra quyết định đúng lúc và
hành động nhanh chóng. (economicsdiscussion.net) Điều này rất cần thiết trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh.
20
c. Khái niệm Thể chế
North (1990) định nghĩa thể chế là các luật lệ của cuộc chơi trong xã hội
(rules of the game). Dễ hiểu hơn, đó là những ràng buộc do con người tạo ra để điều
chỉnh và định hình các tương tác của mình.
Thể chế bao gồm nhiều nhóm như thể chế kinh tế, bao gồm, quyền tài sản,
cưỡng chế thực hiện hợp đồng, …và các thể chế chính trị như hình thức của chính
phủ, giới hạn quyền lực của các chính trị gia và giới tinh hoa, …
Theo Miller (1990), đề xuất một cấu trúc, tập trung vào mối liên kết và sự
phụ thuộc lẫn nhau. Các mối liên kết và phụ thuộc lẫn nhau này được cho là một tập
hợp không chặt chẽ của quan điểm chính trị (các tuyên bố, diễn giải mục tiêu của
chính phủ) và các kĩ thuật (thủ tục, cơ chế của chính phủ bao gồm các luật, quy
định, quy chế).
1.2.2 Chính sách phát triển DNNN:
1.2.2.1 Một số lý thuyết và phát hiện mới đây về nhà nước trong phát triển
Theo OECD (2015), sự thất vọng với hai trường phái cạnh tranh nhau về
cách tiếp cận về chính sách công nghiệp, làm nảy sinh động lực tìm kiếm, nghiên
cứu mới.
Cách tiếp cận thứ nhất cho rằng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và lao động
ở hầu hết các nước đang phát triển – đặc biệt là những nước nghèo nhất – không
hiệu quả, do vậy cách tiếp cận kiểu tự do kinh doanh (laissez-faire) không phải là
một phương án đúng đắn. Hàng chục năm sau thời kỳ thuộc địa, vì lý do trên mà
nhiều chính phủ nhất là ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi và Châu Á cho rằng nhà nước
nên là động lực cho phát triển kinh tế thay vì thị trường, do vậy, thực tế sở hữu nhà
nước tại các doanh nghiệp ngày càng tăng (thông qua quốc hữu hóa), bảo hộ kinh tế
trong nước khỏi thị trường thế giới và mở rộng hệ thống kế hoạch hóa quan liêu
(Bresser-Pereira, 2009 và Trubek, 2010). Tuy vậy, cách tiếp cận này hầu hết là thất
bại trong việc nâng cao đời sống của người dân. WTO và các thỏa thuận cụ thể bao
gồm GATS (Tự do hóa thương mại dịch vụ) và TRIPS (Bảo hộ sở hữu trí tuệ), đã
giới hạn rất lớn phạm vi của cách tiếp cận này.
21
Cách tiếp cận thứ hai cho rằng “nếu thị trường ở các nước đang phát triển
không hoạt động, chúng ta phải sửa chữa chúng”. Niềm tin vào cơ chế thị trường,
cùng với tái cấu trúc, được biết tới như là Đồng thuận Washington. Được khích lệ
vào niềm tin vào thị trường, hàng loạt các chính phủ đã tiến hành các chương trình
tư nhân hóa trên quy mô lớn.
Đồng thuận Washington đã không cập nhật với thành công về phát triển của
các nền kinh tế Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và hiện nay là
Trung Quốc) những nước đã không áp dụng nền tảng thị trường trong giai đoạn đầu
phát triển của họ. Các quốc gia này phụ thuộc nhiều vào sự can thiệp của nhà nước
bao gồm mở rộng sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp.
Sự thành công của cách cận mới này làm nảy sinh một dòng tư tưởng mới thường
được gọi là Hậu-Chủ nghĩa phát triển hay Hậu-Chủ nghĩa tái cấu trúc. Tư tưởng mới này
cho rằng thành công của các nền kinh tế châu Á dựa vào mô hình lai của hai cách tiếp
cận trước đó, cho rằng nhà nước nên là một động lực trong phát triển và nên hành động
trên thị trường và nhạy cảm với các tín hiệu thị trường (OECD, 2015).
Tuy vậy, theo OECD (2015), tranh luận cho rằng cách tiếp cận của Hậu-Chủ
nghĩa phát triển có vẻ hấp dẫn và thành công của các nền kinh tế châu Á là không
chối cãi được, tuy nhiên, áp dụng cách tiếp cận này trong thực tế có thể gặp một số
trở ngại. Ví dụ như tình trạng tham nhũng trong khu vực công của các nước ở trình
độ phát triển thấp, do vậy, gia tăng sự can thiệp của chính phủ để hỗ trợ cho khu
vực tư nhân có thể nảy sinh nhiều vấn đề khi thực hiện. Do vậy, cách tiếp cận này
cần một nỗ lực liên tục để cải thiện quản trị công và quản trị DNNN.
Ngoài ra còn có rủi ro chính sách công nghiệp có thể bị cưỡng đoạt bởi các
nhóm lợi ích hay các hoạt động kinh doanh bảo thủ. Các nhà kinh tế tập trung vào
khu vực Châu Mỹ Latinh phát hiện ra đây là các nguyên nhân chính khiến cách tiếp
cận Châu Á ít hiệu quả hơn ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi Phương Tây (di Maio,
2008; và Shafaeddin và Gallaher, 2008).
Một vấn đề nữa với Hậu-Chủ nghĩa phát triển, nó khuyến khích sự tham gia
của các ngành công nghiệp được bảo hộ vào thị trường toàn cầu. Nếu chỉ giới hạn vào
thị trường trong nước thì các hoạt động này là có thể, tuy nhiên, chỉ phù hợp với thị
22
trường nội địa lớn, bên cạnh đó, chủ nghĩa bảo hộ theo tiếp cận của nhiều nước đã
chứng tỏ sự sai lầm. Bên cạnh đó, sự bảo trợ của nhà nước với các doanh nghiệp được
khuyến khích xuất khẩu có thể gây ra sự xung đột của chủ nghĩa bảo hộ.
1.2.2.2 Chính sách công nghiệp trong giai đoạn phát triển:
Chính sách công nghiệp trong giai đoạn phát triển thường gắn với mong
muốn “bắt kịp” với láng giềng hay các các quốc gia khác mà trước đó đã đạt được
thành tựu phát triển đáng kể.
Khung phân tích của Michael Porter về các giai đoạn của phát triển kinh tế:
Trong cuốn sách Competive Advantage of Nations (Lợi thế cạnh tranh của
các quốc gia) (Porter, 1990), Michael Porter đã đưa ra khung phân tích về lịch sử
phát triển kinh tế của Trung Quốc, theo đó, sự phát triển kinh tế thường diễn ra theo
4 giai đoạn liên quan nhưng cũng đồng thời khác biệt. Theo Havard Business
School – Institute for Strategy & Competivitiveness, sự phát triển kinh tế thành
công là quá trình nâng cấp một cách tuần tự. Môi trường kinh doanh của một quốc
gia hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển tính cạnh tranh ngày càng thuần thục và hiệu
quả do các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh đó. (Havard Business School
– Institute for Strategy & Competivitiveness)
Trong giai đoạn phát triển thứ nhất, sự phát triển được dẫn dắt bởi việc huy
động hay sử dụng tốt hơn các yếu tố sản xuất sẵn có của nền kinh tế như lực lượng
lao động, nguồn lực tự nhiên hay các lợi thế cạnh tranh cụ thể nào đó khác của quốc
gia. Trong giai đoạn thứ hai, chủ yếu là đầu tư mạnh mẽ vào trang thiết bị nhập
khẩu hay đang sẵn có (một dạng hiệu quả của chiến lược công nghiệp hoá đuổi bắt
– catch up industrialization) Trong giai đoạn này, nguồn tạo lợi thế cạnh là sản xuất
sản phẩm và dịch vụ tiêu chuẩn. Các nền kinh tế trong giai đoạn này tập trung vào
sản xuất và gia công xuất khẩu. Giai đoạn thứ ba diễn ra khi quá trình sản xuất đã
đạt đến mức độ thuần thục khi đó những phát minh công nghệ quan trọng trở nên
cần thiết để thúc đẩy giới hạn của sản xuất. Ở giai đoạn này, các quốc gia cần phải
đầu tư phát triển công nghệ thay vì tận dụng các công nghệ sẵn có. Ở giai đoạn bốn
và là giai đoạn cuối của sự thịnh vượng, nền kinh tế trưởng thành tập trung vào mở
23
rộng sự hiệu quả của các ngành công nghiệp và các công nghệ có vị thế dẫn dắt trên
thị trường đã được phát triển trước đó (OECD, 2015).
Theo (OECD, 2015), có 3 trường phái tư tưởng về chiến lược công nghiệp
hóa theo kiểu “đuổi bắt”:
a. Cách tiếp cận mở rộng: Một số quốc gia tiếp cận chính sách công nghiệp
theo cách mang lại lợi ích rộng rãi cho các khu vực. Trong bối cảnh kinh tế không
chắc chắn, rủi ro để khởi sự một doanh nghiệp là rất lớn. Trong khi đó, lợi ích của
xã hội từ các doanh nghiệp mới là rất lớn. Theo lý thuyết, rủi ro có thể được khắc
phục bằng việc nhà nước đóng vai trò lớn trong vai trò kinh doanh.
b. Gia tăng lợi thế so sánh: Nhà nước nên chuẩn bị nguồn lực sẵn (về hạ
tầng, kiến thức và tài chính) để khuyến khích các khu vực cạnh tranh với hi vọng
chúng sẽ phát triển thông qua hình thành các cụm. Nhà nước cũng cần nhanh nhạy
với các cơ hội phát sinh do tự nhiên, địa lý hay lợi thế do lịch sử của nền kinh tế và
hỗ trợ khu vực kinh doanh trong phát triển thương mại hóa.
c. Chọn người thắng: số ít chính phủ dám nhận khả năng nhìn xa trong tương
lai dể chọn những người thắng cuộc, kinh nghiệm của OECD nơi chính phủ thành
công trong vai trò người chơi sáng tạo, thường liên quan đến một lượng lớn thử và
sai. Thách thức thường là đi theo con đường mà những người khác đã tạo ra. Các
doanh nghiệp có thể bắt đầu từ những ngành sử dụng công nghệ thấp như dệt may,
gia dày và sau đó tiến dần lên khu vực công nghệ cấp trung. Mạng lưới liên kết với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ ngành công nghiệp mục tiêu, có công nghệ và tính
tương thích phù hợp để phát triển thành các cụm ngành, giúp kinh tế phát triển đến
mức thu nhập trung bình.
Theo OECD (2015), tranh luận về “ngành công nghiệp non trẻ” là một trong
những lý lẽ được chấp nhận rộng rãi nhất để bảo vệ cách doanh nghiệp nội địa khỏi
cạnh tranh. Theo dòng tư tưởng này, ban đầu chi phí sản xuất của doanh nghiệp mới
thành lập cao hơn so với các đối thủ nước ngoài, vốn được khởi tạo tốt. Dần dần,
các nhà sản xuất nội địa có thể giảm chi phí một khi họ học được trong quá trình
sản xuất và cuối cùng đạt được mức hiệu quả của các đối thủ nước ngoài. Do vậy,
24
nếu ngành công nghiệp nội địa non trẻ không được bảo hộ khỏi các đối thủ nước
ngoài, nó sẽ khó có cơ hội bắt đầu. Tranh luận này được ủng hộ bởi các nhà Hậu –
Chủ nghĩa phát triển, những người cho rằng quá trình học tập là một phần của tích
lũy vón tự động dẫn tới gia tăng lợi nhuận theo thời gian.
Tuy vậy, việc bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ có thể dẫn tới phải trả giá
quá cao đối với chính phủ và xã hội quốc giá đó. Do vậy, tốc độ học hỏi phải đủ
nhanh để bù đắp cho các chi phí (Pack và Saggi, 2006).
Theo OECD (2015), các nghiên cứu dường như đã có kết luận (Rodrik,
2006, Khan và Blankenburg, 2009) về cốt lõi của thành công là sự kết hợp giữa “củ
cà rốt” và “cây gậy”. Kinh nghiệm của Đông Á và Mỹ La tinh làm sáng tỏ kết luận
này. Các quốc gia Đông Nam Á trong khi đưa ra các khuyến khích về thuế và hỗ trợ
tính dụng khá rộng rãi, đồng thời áp dụng điều kiện lên kế quả kinh doanh – không
chỉ là thành tích xuất khẩu. Trong khi đó, các quốc gia Mỹ Latinh, mặc dù có hỗ trợ,
khuyến khích nhưng hầu như thất bại trong việc áp đặt kỷ luật lên các đơn vị thụ
hưởng này.
Theo OECD (2015), Di Maio (2009) tranh luận rằng lịch sử phát triển cho
thấy chính sách thay thế nhập khẩu chỉ hoạt động thiếu hiệu quả khi i) chúng không
được bổ sung bởi chính sách khuyến khích xuất khẩu ii) không có các đối thủ cạnh
tranh bên trong và bên ngoài. Các nhà nghiên cứu chỉ ra vấn đề về chính sách công
nghiệp từ góc nhìn kinh tế - chính trị với tranh luận rằng cấu trúc kinh tế và xã hội
trong giai đoạn khởi đầu đóng vai trò quan trọng. Ví dụ, thu nhập và phân phối tài
sản ở các nền kinh tế Đông Á khá đồng đều, trong khi ở Châu Mỹ Latinh, công
nghiệp hóa bắt đầu trong bối cảnh các nhóm lợi ích và sự tập trung tư bản đã tồn tại
(di Maio, 2008 và Climoli et al. 2009).
1.2.2.3 Chính sách phát triển dựa vào thúc đẩy cạnh tranh và áp đặt “kỷ luật xuất
khẩu”
Joe Studwell (2013) trong cuốn sách Châu Á vận hành như thế nào? đã chỉ ra một
trong những sự khác biệt giữa các nước Đông Bắc Á thành công trong phát triển kinh tế,
trở thành những nước thu nhập cao và các nước Đông Nam Á vẫn là các nước thu nhập
25
trung bình, đó là các nước Đông Bắc Á đã hoàn thiện các cách kết hợp trợ cấp và bảo hộ
dành cho các đơn vị sản xuất bằng cạnh tranh và “kỷ luật xuất khẩu”, buộc các doanh
nghiệp này phải bán sản phẩm ra trên thị trường quốc tế và trở nên cạnh tranh.
Cách này giải quyết vấn đề muôn thuở của chính sách viện trợ và bảo hộ,
trong đó các hưởng lợi từ các khuyến khích về tài chính, nhưng không thực hiện
được việc khó là tạo ra những sản phẩm cạnh tranh (Studwell, 2013).
1.2.2.4 Một số công cụ cho chính sách phát triển của nhà nước:
Theo cách tiếp cận của OECD (2015) thì chính sách phát triển nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động và tính cạnh tranh của cách ngành công nghiệp của quốc gia
hay các lĩnh vực công nghiệp.
Theo OECD (2015), một số công cụ cho chính sách phát triển của nhà nước,
bao gồm với DNNN:
a. Trợ cấp: bao gồm trợ cấp trực tiếp, đặc quyền về thuế, tỷ lệ lãi suất, hay
giảm yêu cầu về tỷ lệ lãi đối với DNNN trong một số khu vực nhất đinh. Có thể bao
gồm khoản khuyến khích doanh nghiệp trong khu vực nào đó khi tiến hành một số
hoạt động được khuyến khích.
b. Cơ sở hạ tầng: bao gồm cơ sở hạ tầng về giao thông, tiện ích cũng như các
nền tảng dịch vụ như các khu công nghiệp, viện nghiên cứu, …
c. Ngoại thương và đầu tư: điều tiết sự tham gia vào thị trường quốc tế có thể là
một trong những chính sách tiềm năng nhất. Các chính sách đã được thực hiện gồm
bảo hộ khỏi cạnh tranh của nước ngoài, trợ cấp xuất khẩu, hay thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhằm để tạo giúp cho sự phát triển của ngành công nghiệp nội địa.
d. Nhà nước sở hữu cổ phần: đặc biệt tại các quốc gia ở trình độ phát triển
thấp, chính phủ tạo các thị trường thông qua trực tiếp thành lập các doanh nghiệp. Ở
các nền kinh tế phát triển các doanh nghiệp này hầu hết đã được quốc hữu hóa,
nhưng một số vẫn hoạt động như phương tiện cho ảnh hưởng của chính phủ.
e. Trực tiếp can thiệp: có thể là sự tương tác trực tiếp giữa nhà nước và các
doanh nghiệp, bao gồm thông qua đặt hàng, hoạt động điều hành với mục tiêu làm
lợi cho một khu vực nhất định.
26
1.2.3 Chính sách quản trị Nhà nước đối với DNNN:
1.2.3.1 Các cách thức của Nhà nước thực hiện vai trò trong quản trị công ty:
Theo Baker và Quéré (2014), North (1991) đã công nhận tầm quan trọng của
nhà nước trong quản trị công ty. North luôn cho rằng có sự tương quan giữa nhu cầu
tài chính của nhà nước và mức độ tin cậy với các thương nhân và công dân. Sự phát
triển của thị trường vốn nói riêng, bị ảnh hưởng mạnh bởi các chính sách cụ thể của
nhà nước, do đó nhà nước với đã tạo ra các thể chế tài chính là trung tâm trong quản
trị công ty hiện đại.
Baker và Quéré (2014) cho rằng có ba cách để nhà nước thực hiện vai trò
trong quản trị công ty: Thông qua sở hữu trực tiếp hay kiểm soát; Cho phép độc
quyền kinh doanh; Thông qua điều hành lãi suất và các kĩ thuật và các thể chế điều
hành khác.
a. Nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị công ty thông qua sở hữu trực tiếp và
kiểm soát:
Theo Baker và Quéré (2014), trong lịch sử Cộng hòa Venice là thế lực hàng
hải từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 18, cũng như là trung tâm thương mại hàng hải và trung
tâm thương mại quốc tế (Lane, 1944; McNeill, 1963). Một trong những doanh
nghiệp nhà nước quan trong trọng nhất ở Venice là Arsenale di Venezia, một xưởng
đóng tàu và kho vũ khí được thành lập từ thế kỷ 12 (Davis, 2007). Doanh nghiệp
này sản xuất phần lớn các tàu buôn của Venice, đem lại phần lớn sự thịnh vượng về
kinh tế và sức mạnh cho đến khi Công hòa Venetian sụp đổ (Davis, 2007). Về
phương diện quản lý sản xuất, phương thức sản xuất tại Venetian Arsenal khá hiện
đại và tân tiến.
Một vai trò khác của nhà nước Venetian trong quản trị công ty là tham gia hỗ
trợ và hỗ trợ tài chính cho các chuyến hải trình (Lane, 1944).
Nhà nước như một cổ đông:
Theo điều 4, Luật doanh nghiệp 2014, cổ đông là cá nhân, tổ chức ít nhất
một cổ phần của công ty cổ phần (Luật doanh nghiệp 2014). Như vậy, trong trường
hợp các DNNN là công ty cổ phần, có thể hiểu nhà nước cũng là một cổ đông.
27
Theo điều 53 Hiến pháp 2013, “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do
Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” (Hiến pháp 2013). Như vậy, các DNNN là
các tài sản do Nhà nước đầu tư thuộc sở hữu của toàn dân, do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Theo Hướng dẫn DNNN, DNNN hoàn toàn thuộc
sở hữu của công chúng và đại diện chính phủ thực hiện quyền sở hữu phải chịu
trách nhiệm trước công chúng (OECD, 2018).
Sự hiện diện của nhà nước như là một cổ đông là hợp lý không chỉ vì lý do
sở hữu hay lý do tài chính mà còn trên cơ sở cho các chính sách công. Do vậy, có
những mâu thuẫn giữa nhiều mục tiêu với nhau mà nhà nước phải vượt qua một
cách khó khăn (Cour Des Comptes, 2017).
Theo OECD, việc nhà nước sở hữu vốn tại doanh nghiệp là một thành phần
trong hệ thống điều hành tổng thể của nhà nước. Việc sở hữu và thực hiện quyền sở
hữu tại doanh nghiệp của nhà nước là vì giải quyết các vấn đề kinh tế vĩ mô và đảm
bảo điều kiện cho tái đầu tư vốn nhà nước (OECD, 2015).
Theo OECD, các định hướng về thực hiện chức năng sở hữu tại DNNN, xuất
phát từ chức năng điều hành của nhà nước như sau:
- Lấp đầy các khía cạnh kinh tế bị bỏ ngỏ do các môi trường kinh doanh
không thuận lợi;
- Tái cấu trúc các doanh nghiệp hay cả khu vực của nền kinh tế;
- Giải quyết vấn đề lao động nảy sinh do các chu kỳ sản xuất;
- Đảm bảo thực hiện chính sách tại các chính sách tại các khu vực;
- Khuyến khích sự phát triển của lĩnh vực hàm lượng tri thức cao, cần đầu
tư nhưng không đảm bảo lợi nhuận nhanh;
- Gia tăng khối lượng và chất lượng của hàng hóa công, là cơ sở hạ tầng
kinh tế, xã hội và hành chính của xã hội;
- Tạo ra và đảm bảo sự sự vận hành của doanh nghiệp của những khu vực
quan trọng chiến lược;
28
- Tham gia lĩnh vực bảo vệ môi trường; (OECD)
Với việc nhà nước đóng vai trò của cổ đông hay là cổ đông chi phối, theo
Chen (2016), lợi ích công cộng có thể làm chệch hướng mục tiêu của các nhà quản
lý làm tối đa hóa sự thịnh vượng của cổ đông để chuyển sang lợi ích của những
nhóm cụ thể nào đó (ví dụ: người thiểu số và người lao động). Do vậy, để cân bằng
giữa mục tiêu công cộng của DNNN với các mục tiêu thương mại là vấn đề quan
trọng nhưng phức tạp.
Sự khác nhau về khung quản trị giữa khu vực tư nhân và DNNN:
DNNN giống các doanh nghiệp khác đều gặp phải vấn đề về quản tri, tuy
nhiên, thách thức càng phức tạp hơn trong trường hợp nhà nước đóng vai trò cổ
đông kiểm soát (Claessens & Fan, 2002).
Bảng 1.1: Sự khác nhau về khung quản trị giữa khu vực tư nhân và DNNN
Các doanh nghiệp tư nhân Các DNNN
Mục tiêu Mục tiêu rõ ràng, tập trung vào Theo đuổi mục tiêu thương mại
tối đa hoá giá trị và phi thương mại
Vấn đế người Vấn đề một cấp về người đại Hai cấp vấn đề về người đại diện
đại diện diện – mối lo về hành vi tư lợi – mối lo về hành vi tư lợi của các
của các quản lý quản lý và các nhà chính trị/công
chức
Sự minh bạch Mức độ công bố thông tin cao Mức độ công bố thông tin thấp
(với các công ty niêm yết)
Nguồn: Wong, S. C. Y. 2004, “Improving Corporate Governance in SOEs:
An Intergrated Approach”, Corporate Governance International
Thứ nhất, các doanh nghiệp tư nhân với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, có thể
tập trung vào đổi mới và giảm chi phí, còn đối với trường hợp nhà nước đóng vai
trò chủ sở hữu, có nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Nhà nước đóng vai trò điều tiết thị
trường, thi hành luật, kiểm soát khu vực ngân hàng và có trách nhiệm với các vấn
đề xã hội như việc làm, giáo dục, môi trường, phân phối thu nhập đồng đều. Các
29
mục tiêu này làm giảm sự rõ ràng trong mục tiêu của cá nhà quản lý và thành viên
hội đồng (OECD, 2006).
Thứ hai, chủ sở hữu tư nhân và chủ sở hữu DNNN đều đối mặt với vấn đề
người đại diện. Chủ sở hữu tư nhân đối diện với nỗi lo các nhà quản lý tư lợi. Trong
khi đó, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, mà toàn dân là người sở hữu cuối cùng
bên cạnh vấn đề người đại diện là cá nhà quản lý còn đối diện với một tầng người
đại diện nữa đó là các chính trị gia và công chức. Những người này không có quyền
lợi trực tiếp với thành quả của DNNN nên có thể tránh các rủi ro có thể ảnh hưởng
đến họ đồng thời có thể bỏ qua cải thiện hoạt động của các DNNN (Wong, 2004).
Thứ ba, các doanh nghiệp tư nhân do mối quan hệ với thị trường tài chính
như các nhà đầu tư, ngân hàng nên phải đáp ứng các tiêu chuẩn về công bố thông
tin. Trong khi các DNNN không bị áp đặt các tiêu chuẩn này.
b. Nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị công ty thông qua cấp phép độc
quyền thương mại:
Theo Baker và Quéré (2014), sau khi tìm ra Châu Mỹ vào năm 1942, nhiều
quốc gia phương Tây đã cấp phép độc quyền thương mại cho các thuyền trường và
các nhà thám hiểm có dám nhận rủi ro cho các chuyến buôn bán đường dài ở ngoại
quốc. Đó là cách đem thu nhập với rủi ro thấp cho các hoàng gia. Nữ hoàng
Elizabeth đệ nhất của Anh bắt đầu cấp phép cho các thuyền trường mong muốn
buôn bán ở Châu Mỹ và tấn công các tàu của Tây Ban Nha. Lợi nhuận từ các công
ty được chia sẻ với nữ hoàng (Durant, 1953). Do vậy, việc cấp phép độc quyền
thương mại trở thành một trong những cách chính giúp Liên Hiệp Anh trở thành đế
chế toàn cầu.
Một trong những công ty độc quyền thương mại lâu đời nhất của Anh là
Công ty Đông Ấn, một công ty cổ phần được thành lập với mục đích buôn bán với
Đông Á.
Theo Baker và Quéré, từ góc độ quản lý, công ty cổ phần giải quyết được cả
hai vấn đề về vốn và năng lực quản lý. Các hoạt động thương mại đường dài trên
30
biển cần một lượng vốn đáng kể cho quân đội bảo vệ và các tài sản cố định ở các
tòa nhà và kho hàng. (Heckscher, 1955).
Theo Baker và Quéré, ở góc độ quản lý, Công ty Đông Ấn cần những nhà
quản trị, thay mặt cổ đông. Công ty Đông Ấn được dẫn dắt bởi một Chủ tịch
(Governor) và một Hội đồng các Giám đốc. Cấu trúc này có hai chức năng: tiến
hành các hoạt động kinh doanh vừa đưa ra các quyết định, và thực hiện các chức
năng như chuẩn bị cho các chuyến hải hành, xếp dỡ hàng hóa từ các con tàu trở về
và bán hàng. Một hội đồng khác, dại diện cho các cổ đông có khoản đầu tư trên 500
pound, thực hiện quyền giám sát, kiểm soát tối cao và có quyền lật lại các quyết
định (Baladouni, 1983; Chaudhuri, 1965).
Công ty Đông Ấn đóng góp nguồn thu nhập lớn cho Chính phủ Anh. Công ty
chấp nhận rằng nó phụ thuộc về mặt chính trị vào hoàng gia cho vị thế độc quyền
của mình (Chaudhuri, 1965).
c. Nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị công ty như là người kiến tạo sự phát
triển của tư bản chủ nghĩa:
Braudel (1985) cho rằng sự tồn tại của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có vai
trò tích cực của nhà nước, bởi vì chỉ nhà nước mới có thể ban hành luật để đảm bảo
quyền của sở hữu tư nhân vốn thiết yếu với các hoạt động tư bản chủ nghĩa. Do vậy,
cần có những hành động thực sự tích cực của chính phủ để khuyến khích chủ nghĩa
tư bản phát triển.
Theo Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, tại điều 51 “Nền kinh tế Việt Nam
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” và “Nhà nước
khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác
đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây
dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh
được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa”. Để xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và khuyến khích, tạo điều kiện đầu tư, sản xuất
kinh doanh và quyền sở hữu tài sản hợp pháp, nhà nước Việt Nam cũng cần thực
31
hiện vai trò tích cực tương tự để khuyến khích các doanh nghiệp, doanh nhân và cá
nhân, tổ chức khác tham gia phát triển kinh tế.
1.2.3.2 Các lý thuyết về Quản trị Công ty:
a. Lý thuyết người đại diện:
Vấn đề Người chủ sở hữu – Người đại diện nảy sinh khi có sự phân chia giữa
quyền sở hữu và quyền điều hành. Berle và Means từ năm 1932, cho rằng quản trị
công ty là cơ chế để hội đồng quản trị đóng vai trò thiết yếu là giám sát để tối thiểu
hoá vấn đề Người chủ sở hữu – Người đại diện này. Ở đây, người đại diện là các
quản lý, người chủ sở hữu là các cổ đông và hội đồng quản trị đóng vai trò giám sát.
Nghiên cứu về quản trị công ty chỉ ra hai vấn đề sau, thứ nhất, công ty có thể
đơn giản hoá là sự tham gia của hai đối tượng là nhà quản lý và các cổ đông, có lợi
ích rõ ràng và chắc chắn, thứ hai, là con người thường tư lợi và không muốn hi sinh
lợi ích cá nhân cho lợi ích của người khác (Daily, Dalton và Cannella, 2003).
Alchian và Demstez (1972), Jesen và Meckling (1976) cho rằng công ty
không phải là một cá nhân mà là một hình tượng luật pháp, trong đó các sung đột
giữa các mục tiêu cá nhân được tạo cân bằng bằng cơ chế hợp đồng. Mục đích của
các hợp đồng này giúp cho các bên hành động với lợi ích của mình nhưng được
khuyến khích nhằm đồng thời tối đa hoá lợi ích của tổ chức, giảm chi phí cho vấn
đề người đại diện và sử dụng phương pháp kế toán có lợi nhất cho thành tích của
họ. Chức năng quản trị của Hội đồng quản trị phục vụ các cổ đông là đánh giá các
quyết định của các nhà quản lý và giám sát việc thực thi các quyết định này.
Theo Jesen và Meckling (1976), các quản lý nhờ kiến thức và hiểu biết
chuyên môn, có thể sẽ hành động nhằm đem lại lợi ích cho họ thay vì cổ đông. Do
vậy, cần có vai trò của kế toán, một hệ thống văn bản hợp đồng được viết ra gắn
chặt với hệ thống kế toán như một phần quan trọng của cấu trúc quản trị công ty.
b. Lý thuyết Bên liên quan mật thiết:
Lý thuyết này đặt trọng tâm vào vấn đề một tổ chức quan tâm đến lợi ích của
các bên liên quan. Nó cho rằng tổ chức cần cân bằng lợi ích của các đối tượng liên
32
quan một cách cân bằng, để các đối tượng này được nhận lợi ích một cách thoả
đáng (Abrams, 1951).
Các nhà nghiên cứu ngày càng nhận ra, hoạt động của doanh nghiệp có tác
động đến môi trường bên ngoài, do vậy, cần có trách nhiệm rộng lớn hơn chỉ là
trách nhiệm với cổ đông. Các giá trị kinh tế được tạo ra bởi những con người tự
nguyện kết hợp lại để tạo ra (Freeman 2004).
c. Lý thuyết phụ thuộc vào tài nguyên
Quan điểm xây dựng nên lý thuyết phụ thuộc vào tài nguyên là sự cần thiết
của mối liên kết giữa doanh nghiệp và nguồn tài nguyên bên ngoài. Các nhà quản trị
đóng vai trò kết nối doanh nghiệp và nguồn tài nguyên để nuôi sống doanh nghiệp
đó (Pfeffer và Salancik, 1978). Do vậy, Hội đồng quản trị là cơ chế quan trọng
nhằm giúp tiếp nhận nguồn tài nguyên bên ngoài vào doanh nghiệp.
Các nhà quản trị mang vào tổ chức các yếu tố như thông tin, kĩ năng, các mối
liên kết với nhà cung cấp, khách hàng, … và tính chính danh nhằm giảm các bất
định (Gales và Kesner, 1994).
Lý thuyết ủng hộ việc bổ nhiệm các thành viên hội đồng quản trị vào nhiều
uỷ ban vì khả năng của họ trong việc tổng hợp thông tin và các mạng lưới.
d. Lý thuyết người quản lý (Stewardship theory):
Lý thuyết người quản lý cho rằng các nhà quản lý được coi là những nhà
quản lý tốt, họ sẽ hành động vì lợi ích tốt nhất của các chủ sở hữu (Donaldson và
Davis 1991). Hành vi của nhà quản lý vì lợi ích tổ chức và lợi ích tập thể, cao hơn
hành vi tự lợi, các nhà quản lý hướng tới thực hiện mục tiêu của tổ chức (Davis,
Schoorman và Donaldson 1997).
Lý thuyết nhà quản lý thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa các nhà quản lý và
thành công của doanh nghiệp, do vậy các nhà quản lý bảo vệ và tối đa hoá lợi ích
của cổ đông thông qua kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lý thuyết nhà quản lý
tập trung vào cấu trúc giúp thuận tiện hoá và trao quyền thay vì giám sát và kiểm
soát (Davis, Schoorman và Donaldson 1997).
33
e. Lý thuyết hợp đồng xã hội (Social contract theory):
Lý thuyết hợp đồng xã hội cho rằng xã hội là hàng loạt các hợp đồng giữa
các thành viên của xã hội và bản thân xã hội (Gray, Owen và Adams 1996). Một
trường phái cho rằng trách nhiệm xã hội là trách nhiệm theo hợp đồng mà doanh
nghiệp nợ xã hội (Donaldson 1983). Lý thuyết về hợp đồng xã hội của Donaldson
và Dunfee (1999) như là một cách để các quản lý thực hiện các quyết định có tính
đạo đức với cộng đồng.
f. Lý thuyết tính chính danh (Legitimacy Theory):
Học thuyết tính chính danh được định nghĩa là một nhận thức chung hay một
giả định rằng hành động của các doanh nghiệp là đáng mong đợi, phù hợp và hợp lý
với các cấu trúc của xã hội về các quy tắc, giá trị, niềm tin và định nghĩa (Suchman
1995). Tương tự lý thuyết hợp đồng xã hội, lý thuyết chính danh cũng dựa trên giả
định các doanh nghiệp và xã hội có ký kết hợp đồng với nhau. Một doanh nghiệp
được phép hoạt động trên sự cho phép của xã hội và phải có trách nhiệm với xã hội
về việc nó hoạt động như thế nào và làm gì, vì nó dựa trên sự cho phép của xã hội
được sử dụng các nguồn lực của xã hội (Deegan 2004).
Lý thuyết tính chính danh nhấn mạnh doanh nghiệp phải xem xét quyền lợi
của công cộng nói chung, hơn là chỉ quyền của các nhà đầu tư. Việc thất bại đáp
ứng các mong đợi của xã hội có thể dẫn đến việc bị xét xử dưới dạng hạn chế tiếp
cận các nguồn lực của xã hội, hay nhu cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp đó
(Deegan 2004).
g. Lý thuyết chính trị (Political Theory):
Lý thuyết chính trị cho rằng ảnh hưởng của chính trị có thể tác động, chỉ đạo đối với
quản trị công ty trong tổ chức. Quyền lợi của xã hội được đảm bảo hơn khi có sự
tham gia của chính phủ trong quá trình ra quyết định. (Pound 1983). Lý thuyết
chính trị nhấn mạnh việc phân bổ nguồn lực, lợi nhuận của doanh nghiệp được
quyết định bởi ưu tiên của chính phủ. Các thập kỷ vừa qua, các chính phủ có ảnh
hưởng chính trị mạnh mẽ lên các doanh nghiệp (Hawley và Williams, 1996).
34
h. Lý thuyết về tự chủ kinh doanh
Hoạt động của các doanh nghiệp trong đó có các DNNN, trong lĩnh vực sản
xuất, bán hàng, … đều đỏi hỏi các quyết định nhanh chóng, đúng lúc và sáng suốt.
(economicsdiscussion.net). Hoạt động kinh doanh đòi hỏi nhiều quyết định ở tầm vi
mô, như nhận thực sự thay đổi của thị hiếu người tiêu dùng, lắng nghe các phản hồi
của người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh mới, … đòi hỏi năng lực kinh doanh của
doanh nghiệp, điều này cũng đúng với DNNN.
Nếu các DNNN không có quyền để ra các quyết định đúng thay vào đó phải
xin ý kiến của các cơ quan hành chính bên trên trước khi có thể thực hiện, họ sẽ vấp
phải sự khó khăn so với các doanh nghiệp tư nhân, vốn có tính thị trường và tự chủ
cao hơn (economicsdiscussion.net).
1.2.4 Các yếu tố tác động đến Chính sách phát triển và Quản trị nhà nước đối với
DNNN
1.2.4.1 Yếu tố lịch sử
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy ảnh hưởng của các sự kiện lịch sử lên sự phát
triển kinh tế trong dài hạn. Nghiên cứu của Acemoglu (2001) cho thấy sự cai trị
thuộc địa ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế và của các tổ chức trong quốc gia,
nghiên cứu của Banerjee và Iyer (2005) cho thấy tầm quan trong của hệ thống thu
nhập từ đất đai thuộc địa với Ấn Độ. Phân tích của Nunn (2008) cho thấy việc buôn
bán nộ lệ Châu Phi ảnh hưởng đến quá trình phát triển sau đó. . Lý thuyết phụ thuộc
con đường cho rằng yếu tố lịch sử đóng vai trò quan trọng, những lựa chọn quan
trọng trong quá khứ ảnh hưởng rất lớn và lâu dài, rất khó thay đổi.
1.2.4.2 Yếu tố thể chế
Theo Daron Acemoglu, có sự khác biệt lớn về thể chế kinh tế và chính trị
giữa các quốc gia như về thực thi quyền tài sản, hệ thống luật pháp, tham nhũng, rào
cản gia nhập, các luật lệ bầu cử, …
Nghiên cứu của Daron Acemoglu, Simon Johnson đánh giá tầm quan trọng
của thể chế về quyền tài sản giúp bảo vệ công dân khỏi sự tước đoạt vô lí của chính
quyền và các thể chế về hợp đồng, hỗ trợ các hợp đồng tư nhân giữa các công dân.
35
Nghiên cứu nhận thấy thể chế về quyền tài sản đóng vai trò nền tảng cho phát triển
kinh tế trong dài hạn, cho đầu tư và phát triển tài chính. Thể chế về hợp đồng có ý
nghĩa cho các dạng trung gian tài chính. (Daron Acemoglu, Simon Johnson, 2005)
1.2.4.3 Yếu tố văn hoá
Theo F. Fukuyama (2001), yếu tố văn hoá có ảnh hưởng đến khả năng các xã
hội tạo ra và quản lý các tổ chức một cách hợp lý. Ví du, giai đoạn hậu chiến, các
quốc gia như Nhật Bản và Hàn Quốc và các quốc gia khác đã áp dụng các chính
sách công nghiệp trong đó, nhà nước phân bổ tín dụng cho các ngành công nghiệp
của quốc gia hơn là do thị trường phân bổ. Các quốc gia khác lại không đủ khả năng
để áp dụng mô hình kinh tế Đông Á với cơ chế kế hoạch mang tính hành chính. Các
thể chế này rất dễ bị tổn thương do các vấn đề trục lợi. Do ảnh hưởng mạnh mẽ của
yếu tố văn hoá đến đến nhận thức về tham nhũng, sự chuyên nghiệp của đội ngũ
công chức, hay trình độ giáo dục, … từ đó, ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ các
chính sách công nghiệp và kế hoạch hoá khỏi yếu tố chính trị và tham nhũng.
1.2.4.4 Năng lực của đội ngũ công chức:
Theo OECD (2015), nhà nước cần được hỗ trợ bởi bộ máy công chức có
năng lực, để đảm bảo cho chiến lược đặt trên cơ sở các DNNN, đội ngũ công chức
này được giao quyền để thực thi chức năng sở hữu một cách hiệu quả, thưởng cho
sự thành công và trừng phạt sự thất bại.
1.2.4.5 Môi trường kinh doanh:
Theo OECD (2015), lĩnh vực DNNN được trông đợi để hoạt động được
mong đợi sẽ vắng bóng sự tập trung của thương mại, tài chính hay các quyền lực thị
trường khác. Một số câu chuyện thành công bắt nguồn do các quốc gia bắt đầu từ vị
trí khá bình đẳng, trong khi các quốc gia khác định áp dụng chính sách công nghiệp
và công nghiệp nhanh chóng bị chiếm giữ bởi các nhóm lợi ích đang tồn tại.
1.2.4.6 Mục tiêu phát triển:
Theo OECD (2015), các mục tiêu phát triển cần được diễn đạt rõ ràng và
không bị gánh nặng bởi các mục tiêu xã hội. Nhiều quan điểm cho rằng, vì các
36
DNNN có sở hữu của nhà nước do vậy, phải đóng góp cho các mục tiêu xã hội
không liên quan đến các mục tiêu được tuyên bố.
1.2.4.7 Một số yếu tố ảnh hưởng tới mức độ của sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp
Theo OECD (2015) một số yếu tố ảnh hưởng tới mức độ của sở hữu nhà
nước tại các doanh nghiệp:
a. Mức độ phát triển: Các quốc gia ở mức độ phát triển thấp thường phụ
thuộc vào DNNN. Khi có hạ tầng cho kinh doanh (như các tổ chức tài chính) thiếu
hoặc yếu, chính phủ có thể cho rằng cách dễ nhất để nuôi dưỡng khu vực nào đó là
cho ra đời các doanh nghiệp có sở hữu nhà nước.
b. Lo ngại trong các khu vực kinh doanh: trong các khu vực mà chính sách
công cho rằng doanh nghiệp tham gia có tính phức tạp hay thay đổi theo thời gian,
nó có thể không thực tế nếu nêu ra trong các hợp đồng hay khuyến khích các doanh
nghiệp tư nhân. Trong các trường hợp đó, chính phủ có thể nhận thấy nhu cầu phải
đóng vai trò chủ sở hữu doanh nghiệp.
c. Yếu tố lịch sử hay yếu tố văn hóa: Sở hữu nhà nước liên quan đến một yếu
tố mà các nhà kinh tế gọi là “phụ thuộc con đường”. Ở các quốc gia xã hội chủ
nghĩa hay các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mô hình DNNN đóng vai trò
“mặc định” và hầu hết tranh luận là về việc khả năng bỏ vai trò này đi. Các quốc gia
đang phát triển khác, ngược lại các DNNN được tạo ra với vai trò mang tính chiến
lược hơn, được giao cho các trách nhiệm phát triển.
1.2.5 Thước đo hiệu mức độ hiệu quả của chính sách phát triển và quản trị nhà
nước đối với DNNN - Mức độ hiệu quả của phân bổ nguồn lực:
Phân bổ nguồn lực là sự phân bổ các nguồn lực sản xuất vào các mục đích sử
dụng khác nhau. Vấn đề phân bổ nguồn lực nảy sinh khi nguồn lực của xã hội là
giới hạn, trong khi đó, nhu cầu của con người thường vô hạn và với mỗi nguồn lực
thường có nhiều cách sử dụng khác nhau.
Trong hệ thống doanh nghiệp tự do, cơ chế giá cả là cơ chế chủ yếu để phân
bổ nguồn lực. Trong nền kinh tế kế hoạch và trong khu vực kinh tế nhà nước của
37
các nền kinh tế hỗn hợp, quyết định liên quan đến phân bổ nguồn lực mang tính
chính trị (britanica.com).
Nghiên cứu sử dụng thước đó hiệu quả phân bổ nguồn lực làm thước đo đánh
giá mức độ hiệu quả của chính sách phát triển và quản trị DNNN, với tranh luận sự
thành công của các hệ thống khác nhau có thể đánh giá qua khả năng của nó trong
phân bổ nguồn lực cho khu vực sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, do vậy tổng thể cả
hệ thống sẽ sử dụng nguồn lực hiệu quả. Hệ thống đó có khuyến khích được các đơ
vị của nền kinh đầu tư vào công nghệ, nghiên cứu, marketing, … để từ đó tăng năng
suất sản xuất, giảm giá thành, tăng chất lượng và do đó có thể tăng giá bán sản
phẩm, hay công tác marketing giúp tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Thước đo này
cũng giúp đánh giá hiệu quả quản trị của hệ thống, bởi đầu ra của hệ thống quản trị
hiệu quả là một hệ thống hoạt động hiệu quả, một hệ thống tham nhũng, trục lợi
không đem tới một kết quả thành công. DNNN với tư cách là doanh nghiệp công
cộng, doanh nghiệp của toàn dân do đó, khi hệ thống phân bổ nguồn lực hiệu quả
nghĩa là nó đang hoạt động tốt và đem kết quả tốt cho chủ sở hữu hệ thống đó. Bên
cạnh đó, nếu sử dụng một nguồn lực hiệu quả cũng có thể đo bằng tác động tổng thể
của đầu ra với nền kinh tế và xã hội nói chung. Nghiên cứu chủ yếu hướng đến các
doanh nghiệp có tính thương mại, các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành
công ích, quốc phòng … vốn đem lại lợi ích xã hội khó đo đếm hiệu quả bằng
doanh thu, lợi nhuận, tuy nhiên, phần nào đó các bài học của nghiên cứu cũng có
thể tương đồng phần nào các doanh nghiệp này, bởi quản trị tốt thì doanh nghiệp lợi
nhuận hay phi lợi nhuận đều cần và cũng như cần chính sách phát triển.
Một doanh nghiệp sử dụng nguồn lực hiệu quả là doanh nghiệp tối đa hóa được
giá trị của sử dụng nguồn lực, cung cấp giá trị cho người sử dụng, thông qua đó đóng góp
cho tổng thể nền kinh tế, bên cạnh đó đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Với vai trò bên cạnh vai trò sản xuất kinh doanh, giá trị cho các bên liên
quan mật thiết (stakeholders), nghiên cứu cho rằng đây là các đong đếm hiệu quả
tuy nhiên tương đối khó áp dụng trong luận văn.
38
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở phương pháp luận và cách tiếp cận
2.1.1 Cơ sở phương pháp luận
Luận văn sư dụng cả phương pháp diễn dịch và quy nạp để phân tích, đánh giá
hiện thực, khách quan đồng thời tổng hợp tổng hợp để đưa ra nhận định. Cụ thể là:
Luận văn bám sát các lý luận để phân tích kinh nghiệm của các quốc gia về
chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN, đồng thời, từ các kinh
nghiệm đó đưa ra nhận định có tính lý thuyết, khái quát.
2.1.2 Cách tiếp cận
Tác giả tổng hợp cơ sở lý thuyết nền tảng về đề tài nghiên cứu, các khái niệm
then chốt, các lý thuyết, các yếu tố tác động và xác định tiêu chí đánh giá. Tác giả
tập trung vào tìm kiếm các nghiên cứu có uy tín và chất lượng cao về đề tài của luận
văn một cách đa dạng, nhằm có cái nhìn nhiều chiều về đề tài nghiên cứu, làm sáng
tỏ các nội dung liên quan cả về lý luận và thực tế, để từ đó so sánh, đánh giá, phần
tích. Tác giả đánh giá cao yếu tố mang tính thực tế, coi đó là cơ sở để đánh giá tính
hiệu quả của các chính sách, thực tế là cơ sở kiểm định các chính sách. Đồng thời
cũng đề cao yếu tố lý luận mang tính tổng quát. Tác giả kết hợp cả yếu tố thực tế và
lý thuyết, nhằm đưa ra nhận định có tính đúng đắn và phù hợp để áp dụng với điều
kiện Việt Nam.
2.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu định tính
Phương pháp nghiên cứu định tính, không đi khảo sát để thu thập số liệu sơ
cấp, số liệu sử dụng là số liệu thứ cấp được trích dẫn từ các nguồn uy tín:
- Các nghiên cứu của các tổ chức quốc có uy tín như OECD, WB, IFC, Đại
học Quốc gia Singapore, PWC, … và các tác giả như Lý Quang Diệu, Michael
Porter, Peter F. Drucker, Joe Studwell, …; các tổ nghiên cứu trong nước như CIEM
và các cá nhân trong nước như Trần Đình Thiên, Nguyễn Đình Hòa, Phạm Tường
Vân, Vũ Công Giao, …
39
2.2.2 Phương pháp diễn dịch
- Từ cơ sở lý thuyết xây dựng được bao gồm nội dung các chính sách phát
triển và quản trị nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, các yếu tố tác động, tiêu
chí đánh giá, đi vào phân tích, đánh giá các chính sách được thực thi trong thực tế,
lý thuyết được áp dụng như thế nào và hiệu quả ra sao, các yếu tố tác động có ảnh
hưởng như thế nào và đánh giá theo tiêu chí.
2.2.3 Phương pháp quy nạp
Từ tổng quan các nghiên cứu kinh nghiệm thực tế, so sánh giữa các nghiên
cứu kinh nghiệm thực tế, rút ra các phân tích, đánh giá, tổng hợp đưa ra các nhận
định, quan điểm có tổng quan.
2.2.4 Phương pháp phân tích, đánh giá, so sánh
Dựa vào các nghiên cứu đi trước về kinh nghiệm quốc tế trong chính sách
phát triển và quản trị nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, đánh giá về tính
hiệu quả, mô hình quản trị nhà nước đối với các DNNN, tương quan giữa mô hình
quản trị và hiệu quả kinh doanh, bối cảnh lịch sử, … tác giả tiến hành phân tích,
đánh giá, so sánh để đưa ra các nhận định hay kiểm tra các nhận định.
2.2.5 Phương pháp Case study
Tác giả đi vào nghiên cứu chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với
DNNN tại các quốc gia cụ thể, qua các giai đoạn lịch sử tại các quốc gia đó. Tác giả
phân tích, đánh giá, so sánh giữa lý thuyết và thực tế kinh nghiệm chính sách tại các
quốc gia này. Đồng thời, kinh nghiệm thực tế tại mỗi quốc gia cũng làm sáng tỏ các
nhận định tổng quan có tính mới so với lý thuyết hiện tại.
40
CHƯƠNG 3: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
VÀ QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DNNN
Tổng quan kinh nghiêm quốc tế và giới hạn phạm vi nghiên cứu
Theo nghiên cứu của Kwiatkowski và Augustynowicz (2015), tầm quan
trọng của sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp có thể được xác nhận qua sự gia
tăng của các DNNN trong danh sách Fortune Global 500, giai đoạn 2005 – 2014 số
DNNN trong danh sách đã gia tăng hơn gấp đôi. Động lực chủ yếu của sự gia tăng
này là do tăng trưởng nhanh chóng của kinh tế Trung Quốc, các quốc gia đang phát
triển khác cũng đóng vai trò trong quá trình này.
Bảng 3.1. Số DNNN tại các quốc gia đang phát triển và phát triển trong danh
sách Fortune Global 500
Nguồn: Kwiatkowski và Augustynowicz (2015), State-owned Enterprises in the
global economy – Analysis based on Fortune Global 500 list
Số DNNN của các nước đã phát triển trong danh sách Fortune Global 500
chiếm tỷ trọng nhỏ, dưới 5% trong tổng số doanh nghiệp, trong khi đó, với các nước
đang phát triển, DNNN trong danh sách Fortune Global 500 chiếm tỷ trọng rất lớn,
khoảng 75% trong tổng số doanh nghiệp. Như vậy, có sự khác nhau lớn về vai trò
của các DNNN tại các quốc gia đã phát triển và quốc gia đang phát triển, các quốc
gia đã phát triển các DNNN có vai trò nhỏ trong khi tại các quốc gia đã phát triển
thì các DNNN đóng vai trò quan trọng.
41
Bảng 3.2. Số DNNN tại một số quốc gia chủ yếu trong Fortune Global 500 và tỷ
lệ DNNN trong tổng số doanh nghiệp tại mỗi quốc gia
Nguồn: Kwiatkowski và Augustynowicz (2015), State-owned Enterprises in the
global economy – Analysis based on Fortune Global 500 list
Các DNNN Trung Quốc đóng vai trò chủ yếu trong sự gia tăng của số
DNNN trong sự gia tăng của DNNN trong danh sách Fortune Global 500.
Nghiên cứu các DNNN trong quá trình phát triển của OECD (2015) nghiên
cứu về năm quốc gia sử dụng DNNN như là công cụ cho chính sách phát triển gồm
Singapore (cùng với các quốc gia ở Đông Nam Á: Malaysia, Thái Lan, Philippin),
Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi. Nghiên cứu cho thấy các quốc gia có kinh
nghiệm khá đa dạng về các chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN,
quá trình áp dụng các chính sách đều có quá trình ban hành, đánh giá, thay đổi … đạt
được các thành công ở các mức độ khác nhau cũng như chưa thành công. Một số yếu
tố chung được nhắc lại trong chính sách tại các quốc gia như vai trò quan trọng của các
DNNN trong chiến lược phát triển của các quốc gia (nhất là giai đoạn ban đầu); sự điều
chỉnh về vai trò, cấu trúc, chiến lược của các doanh nghiệp này sau các giai đoạn không
thành công; gia tăng tính tự chủ trong kinh doanh cho các DNNN; sự tham gia của các
tổ chức, của tư nhân vào sở hữu các DNNN nhằm tăng tính chuyên nghiệp, hiệu quả,
khả năng quản lý của doanh nghiệp; cơ chế hợp đồng đối với các DNNN nhằm xác
định rõ các yêu cầu, mục tiêu đối với hoạt động kinh doanh … qua đó cung cấp được
nhiều kinh nghiệm phong phú, đa dạng và hữu ích.
42
Trong đó, Singapore và Trung Quốc là hai quốc gia có sự tương đồng với
Việt Nam về vị trí địa lý, văn hóa. Đồng thời hai quốc gia thành công với mô hình
phát triển Châu Á, do nhà nước dẫn dắt, là hai quốc gia có sở hữu rộng rãi của nhà
nước tại các doanh nghiệp và đạt được thành công nổi bật với chiến lược sử dụng
DNNN như là phương tiện cho chính sách phát triển kinh tế. Do phạm vi hạn chế về
thời gian, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu kinh nghiệm của Singapore và
Trung Quốc, với nhiều điểm tương đồng và có nhiều chính sách mang tính thiết
thực, hiệu quả mang tính nổi bật đối với hệ thống DNNN và nền kinh tế nói chung.
Singapore với hệ thống kinh tế và quản trị công ty thành công được xây dựng
trên nền tảng các doanh nghiệp có chính phủ là cổ đông kiểm soát. Mô hình đó
được duy trì từ khi Singapore là một nước đang phát triển, tiến lên một nước phát
triển và trở thành một trong những quốc gia có thu nhập cao hàng đầu thế giới.
Trong khi đó, Trung Quốc bên cạnh sự tương đồng về vị trí địa lý và văn hóa
với Việt Nam, còn có sự tương đồng về lịch sử chính trị và kinh tế nhất là từ giữa
thế kỷ 20 trở lại đây, do đó, kinh nghiệm của Trung Quốc vốn là nước đi trước Việt
Nam về đổi mới hệ thống DNNN và đã đạt được nhiều thành quả bên cạnh đó là
những mặt hạn chế sẽ là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.
Tuy số lượng quốc gia lựa chọn nghiên cứu ít, tuy nhiên những bài học kinh
nghiệm lại thiết thực và sát với thực tế Việt Nam. Trong điều kiện thời gian và tài
liệu lớn hơn, nghiên cứu có thể bổ sung nghiên cứu kinh nghiệm tại các quốc gia
khác như Ấn Độ, Malaysia, Brazil, Bắc Âu, … nhằm đem lại kinh nghiệm đa dạng,
phong phú hơn.
3.1 Kinh nghiệm của Singapore
Mô hình DNNN Singapore hay còn được gọi là Doanh nghiệp có liên hệ với
nhà nước (Government-linked Enterprises hay GLCs) vẫn được duy trì từ khi
Singapore còn là một nước đang phát triển, trở thành một nước phát triển và hiện
giờ là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người hàng đầu thế giới và
quản trị thành công được coi là chìa khoá cho thành công của Singapore. Các
Doanh nghiệp niêm yết có chính phủ Singapore đóng vai trò cổ đông chi phối chiếm
43
37% vốn hoá thị trường chứng khoán Singapore và chính phủ đóng vai trò cổ đông
quyền lực nhất trên thị trường. Các GLCs cũng được thị trường đánh giá cao hơn về
giá trị vốn hoá (Dan, ChengHan và Umakanth, 2015).
3.1.1 Bối cảnh phát triển DNNN ở Singapore:
Theo Dan, ChengHan và Umakanth (2015) mô hình GLC Singapore gắn chặt
với lịch sử khác biệt và văn hoá điều hành độc đáo của Singapore, lịch sử giai đoạn
tự trị và sau đó là độc lập, bối cảnh chính trị và xã hội là nhân tố chủ yếu trong sự
phát triển và quản trị các GLCs. Để giành được tính chính thống và sự ủng hộ, Đảng
Hành động nhân dân (PAP) phải nâng cao đời sống của người dân Singapore và
phải đảm bảo thành tích quản lý kinh tế tốt. Ở Singapore, năng lực quản lý kinh tế
tốt có mối tương quan mạnh mẽ với tính chính thống về chính trị và sự sống còn.
Giai đoạn ban đầu sau thời kỳ thuộc địa, chính phủ PAP không có sự ủng hộ
mạnh mẽ trong bối cảnh cả sau này đảng PAP vấp phải sự cạnh tranh phiếu bầu với
các lực lượng Đảng khác, thành tích quản lý kinh tế là cần thiết giúp PAP giữ được
vị thế cầm quyền. Về phát triển công nghiệp, mặc dù có những bước tiến nhưng
ngành công nghiệp Singapore không thực sự mạnh mẽ và thành phố không được coi
là một trung tâm công nghiệp. Bên cạnh đó, tạo việc làm cho người dân là vấn đề
khẩn cấp phải xử lý do tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao. Căn cứ quân đội Anh tại
Singapore, đóng vai trò quan trọng trong sử dụng lao động và đóng góp cho ngân
sách, rút khỏi Singapore cũng là yếu tố thúc đẩy chính phủ phải nhanh chóng phát
triển công nghiệp bù đắp việc làm và ngân sách bị mất đi (Lý Quang Diệu, 2000).
Vai trò là cảng trung chuyển cho thương mại và thu nhập các căn cứ quân sự không
đủ đáp ứng nhu cầu dịch vụ cho dân số ngày càng gia tăng. Năm 1965, Singapore
rời khỏi Liên bang Malaysia, nền kinh tế vốn gắn liền với Malaysia, được coi là
không có tính khả thi nếu không hợp nhất với Malaysia. Việc quân đội Anh rút lui
cũng có nghĩa là Singapore sẽ phải đầu tư nhiều hơn để xây dựng lực lượng quân
đội. Điều này càng gia tăng gánh gặng cho tài chính của chính phủ.
Quá trình công nghiệp hoá được coi là giải pháp cho các vấn đề nêu trên.
Tuy vậy, chính phủ Singapore không thể dựa vào đội ngũ doanh nhân được giảng
44
dạy theo truyền thống Trung Hoa, cũng như sự thiếu hụt cơ sở về nguồn lực con
người. Thị trường tài chính cũng chưa phát triển, không thể hỗ trợ cho các hoạt
động kinh doanh quy mô lớn của tư nhân, đồng thời khu vực tư nhân cũng nghi ngại
rủi ro. Do vậy, sự tham gia của chính phủ cùng với vai trò của các công ty đa quốc
gia là giải pháp thay thế (Dan, ChengHan và Umakanth, 2015). Chính phủ cho rằng
các GLC còn cần thiết để làm đối trọng với FDI nhằm thay thế sự thiếu hụt của các
doanh nhân khu vực tư nhân. Chính phủ PAP quan tâm đến vấn đề công lý và công
bằng trong các chính sách công. Các GLC cũng hướng đến mục tiêu phát triển rộng
hơn như cân bằng giữa các chủng tộc và tôn giáo (OECE, 2015). Nhiều GLC được
hình thành trên cơ sở các tài sản, đất đai được người Anh chuyển giao với phí
chuyển giao ở mức tượng trưng, có thể là yếu tố khác biệt dẫn tới sở hữu lớn của
nhà nước tại doanh nghiệp khi so sánh với các nước Châu Á khác như Nhật Bản,
Hồng Kong, Hàn Quốc và Đài Loan bên cạnh sự thiếu hụt lực lượng doanh nhân
thúc đẩy phát triển công nghiệp.
Sự thành công của các GLC đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của Singapore và đáp ứng yêu cầu của người dân về việc làm, phân phối thu
nhập, hoạt động của GLC có mối liên quan chặt chẽ với thành công của chính phủ
Singapore về quản lý kinh tế.
Chính phủ Singapore cũng thúc đẩy sự phát triển của quản trị tốt và áp dụng
chính sách không dung thứ với tham nhũng. Ngày nay Singapore là một trong
những quốc gia ít tham nhũng nhất thế giới.
Singapore là một quốc gia-thành phố và là một trung tâm thương mại quốc
tế. Do vậy, môi trường đầu tư, tài chính với các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư
quốc tế, cũng tạo ra sức ép thực thi luật pháp, hợp đồng mạnh mẽ, so với nhiều quốc
gia khác trên thế giới.
Công ty Temasek (Temasek Holdings Pte Ltd) là một công ty đầu tư thương
mại được thành lập năm 1974, do Bộ Tài chính đóng vai trò là cổ đông duy nhất,
đóng vai trò nắm giữ và quản lý các tài sản trước đó do chính phủ nắm giữ, cho
phép các tài sản này được quản lý trên cơ sở thương mại (Temasek).
45
3.1.2 Chính sách phát triển DNNN ở Singapore:
3.1.2.1 Một trường hợp thành công của mô hình Đông Á:
Singapore là một trường hợp thành công của mô hình Đông Á, phát triển do
mô hình do nhà nước dẫn dắt, như tư tưởng của Hậu-Chủ nghĩa phát triển, nhà nước
Singapore là một động lực phát triển và hành động trên thị trường, nhạy cảm với tín
hiệu thị trường. Đồng thời, cùng với Trung Quốc, Singapore tạo ra và duy trì tỷ lệ
sở hữu nhà nước cao tại doanh nghiệp. Được dẫn dắt bởi một chính phủ trong sạch,
có xếp hạng cao về chống tham nhũng, đã tạo điều kiện cho các chính sách phát
triển bằng nguồn lực đầu tư của nhà nước, hạn chế sự tác động tiêu cực của tham
nhũng, lãng phí xảy ra như ở các nước đang phát triển ở trình độ thấp.
Theo Dan, ChengHan và Umakanth (2015), sự ra đời của GLC là do nhận
thức của Chính phủ về sự cần thiết hỗ trợ sự biến đổi của nền kinh tế Singapore
nhằm vượt qua các thách thức về kinh tế, xã hôi và sự thiếu vắng của thị trường nội
địa sau khi tách khỏi Liên bang với Malaysia, cùng với các công ty đa quốc gia
đóng vai trò trong công nghiệp hoá bù đắp sự thiếu hụt của các doanh nhân tư nhân.
Sự quản lý các GLC không tách rời khỏi tiếp cận tổng thể của Chính phủ PAP đối
với nền kinh tế. Chính phủ Singapore áp dụng cách tiếp cận kiểu “Chủ nghĩa tư bản
nhà nước”, thông qua các GLC để cung cấp việc làm và đóng góp và sự phát triển
đất nước (Sim, Thomsen và Yeong, 2014).
3.1.2.2 Sử dụng các công cụ chính sách phát triển của nhà nước
Theo Azhara (2015), chính phủ Singapore đã xây dựng các cấu trúc để hỗ trợ
cho hoạt động của các GLC, như Ngân hàng Phát triển Singapore và Temasek.
Không dành ưu đãi cho các công ty này cũng là một trong các hỗ trợ của chính phủ
giúp các doanh nghiệp có thể cạnh tranh với các công ty tư nhân, thậm chí công ty
đa quốc gia. Các GLC hoạt động theo các nguyên tắc thương mại. Lợi nhuận từ các
GLC đem lại lợi ích cho không chỉ bản thân các doanh nghiệp mà còn cho toàn bộ
nền kinh tế, lợi nhuận đó được sử dụng để cải thiện môi trường kinh doanh của
Singapore từ đó thu hút đầu tư của khu vực tư nhân. Lợi nhuận từ các GLC giúp
46
chính phủ giảm phụ thuộc vào thuế, gia tăng ngân sách, từ đó tăng đầu tư vào cơ sở
hạ tầng và cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút các FDI.
Công cụ chính sách phát triển được Singapore áp dụng như ngoại thương và
đầu tư, thông qua thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài. Singapore hướng vào thu hút
các công ty đa quốc gia của Phương Tây nhằm tiếp thu công nghệ và giải quyết việc
làm (Lý Quang Diệu, 2000). Công cụ chính sách nổi bật thứ hai được Singapore áp
dụng là sở hữu cổ phần tại doanh nghiệp, thực tế, Singapore đã xây dựng một nền
kinh tế thành công ở mức độ cao và hệ thống quản trị doanh nghiệp dựa trên các
doanh nghiệp có nhà nước là cổ đông chi phối. Hệ thống này được duy trì từ khi
Singapore là một nước đang phát triển, chuyển thành một nước phát triển và trở
thành một trong những nước có thu nhập bình quân cao hàng đầu thế giới (Dan,
ChengHan và Umakanth, 2015). Các tập đoàn được nhóm họp lại trở nên cạnh tranh
ở bên ngoài (OECD, 2015).
3.1.2.2 Vai trò của Nhà nước trong chính sách phát triển công nghiệp của quốc gia
Các GLC là phương tiện để chính phủ đóng vai trò đi đầu trong việc tạo ra
các ngành công nghiệp mới, khi mà khu vực tư nhân không muốn hay không có khả
năng, cùng với các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ Singapore đã đóng vai trò
khởi sự trong kinh doanh, theo cách tiếp cận mở rộng của chiến lược công nghiệp
hóa theo kiểu “đuổi bắt”.
Chính phủ Singapore cũng áp dụng cách gia tăng lợi thế so sánh, gia tăng độ
phức tạp của công nghệ và giá trị gia tăng cho nền kinh tế, tăng mức độ chuyển giao
công nghệ từ các nước phát triển (Low và Neng, 2011). Khuyến khích các khu vực
cạnh tranh, chuẩn bị nguồn lực về hạ tầng, kiến thức và tài chính, đồng thời nhanh
nhạy phát huy các cơ hội phát sinh như về vị trí địa lý, trung tâm khu vực Đông
Nam Á để phát triển thành cứ điểm của các tập đoàn quốc tế và trung tâm về cảng
biển, về múi giờ để phát triển thành một trung tâm tài chính quốc tế, … Theo Low
và Neng (2011), Quỹ phát triển cụm ngành ra đời năm 1993 để khắc phục sự thiếu
hụt các cụm ngành công nghiệp, mở rộng sự hợp tác với các công ty đa quốc gia và
hỗ trợ các doanh nghiệp địa phương có tiềm năng. Chính sách công nghiệp của
47
Singapore là cách để phát triển các năng lực mới một cách nhanh chóng hơn nếu để
nền kinh tế tự vận hành.
Thực tế, nỗ lực công nghiệp hoá của Singapore đã thành công. Các GLC được
quản lý tốt, hiệu quả và mang lại lợi nhuận. Chúng đóng vai trò kinh tế thiết yếu trong
chuyển đổi Singapore từ thế giới thứ ba sang một quốc gia đã toàn cầu hoá.
3.1.2.3 Thúc đẩy cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường và xuất
khẩu
Theo quan điểm của Chính phủ Singapore, e ngại việc các DNNN trở thành gánh
nặng và thua lỗ, các GLC cần phải cạnh tranh được trên thị trường, nếu chúng không có
lợi nhuận thì sẽ bị đóng cửa. Các GLC này phải vận hành trên cơ sở thương mại. Như
nhận định của Nguyên Phó Thủ tướng Singapore, Goh Keng Swee về một ảo tưởng tai
hại ở nhiều nước thế giới thứ ba, rằng chính trị gia và công chức có thể đảm đương thành
công chức năng kinh doanh. Điều này là trái ngược với vô vàn bằng chứng chứng minh,
tuy nhiên niềm tin này vẫn tồn tại. (Sim, Thomsen và Yeong, 2014). Nguyên tắc vận
hành trên cơ sở thương mại đã giúp tách biệt một cách hiệu quả vai trò cổ đông của chính
phủ với vai trò hoạch định chính sách (Israel, 2008).
Chính phủ Singapore trong giai đoạn đầu phát triển đã chọn đi theo các tấm
gương phát triển thành công nhấn mạnh giá thị trường và xuất khẩu và do đó là
cạnh tranh, do vậy tránh được các khó khăn xảy ra của chính sách thay thế nhập
khẩu và chính phủ kiểm soát giá cả (OECD, 2015). Chính phủ đã nhấn mạnh họ sẽ
không thiên vị các GLC với các ưu đãi đặc biệt hay các khoản trợ cấp ẩn hay làm họ
nặng gánh với các trách nhiệm xã hội không có tính kinh tế (Singapore Budget
Speech 2002). GLC được trông đợi sẽ cạnh tranh trên cùng một sân chơi với các
doanh nghiệp khác của khu vực tư nhân (Ministry of Finance, 2002).
3.1.2.4 Các yếu tố tác động đến thành công của chính sách
Năng lực của đội ngũ công chức:
Đội ngũ công chức của Singapore có năng lực, được tạo động lực cao,
Singapore đã tạo được các công chức cao cấp một phần nhờ học bổng dành cho các
48
sinh viên, sau đó, sẽ gắn bó với chính phủ. Các công chức này đóng vai trò thành
viên hội đồng tại các GLC, giám sát hoạt động của ban giám đốc.
Mục tiêu phát triển rõ ràng:
Temasek có mục tiêu rõ ràng là tối đa hóa lợi ích của cổ đông trong dài hạn,
hoạt động trên cơ sở thương mại. Các GLC cũng không phải chịu gánh nặng bởi các
trách nhiệm xã hội.
3.1.3 Chính sách quản trị DNNN ở Singapore:
3.1.3.1 Quản trị hiệu quả là chìa khóa thành công của Singapore
Sau giành quyền tự trị, vào năm 1960, Singapore có thu nhập bình quân đầu
người 428 USD, gần với mức bình quân của thế giới và phải đối diện với những
thách thức to lớn. Ngày nay, Singapore trở thành một trong những nước giàu nhất
thế giới. Hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, quản trị hiệu quả đã là chìa khóa
cho thành công của Singapore (Dan, ChengHan và Umakanth, 2015).
3.1.3.2 Nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị công ty thông qua sở hữu trực
tiếp và kiểm soát:
Sự ra đời của Temasek hoạt động như một công ty tư nhân, trên cơ sở thương
mại, định hướng tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn đã giúp tách bạch một cách hiệu
quả chức năng điều hành nền kinh tế và ban hành chính sách của chính phủ với
chức năng của một cổ đông. Theo đó, chính phủ can thiệp rất lỏng vào hoạt động
của các GLC, không can thiệp vào bổ nhiệm nhân sự và các quyết định kinh doanh,
thông qua Temasek đóng vai trò cổ đông. Chính phủ Singapore thực tế là cổ đông
có quyền lực lớn nhất trên thị trường.
3.1.3.2 Nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị công ty như là người kiến tạo sự
phát triển
Theo Azhara (2015), sự thành công của các GLC có vai trò chủ chốt của
chính phủ trong việc tạo môi trường thuận lợi cho các GLC được vận hành tốt.
Chính phủ tạo hỗ trợ bằng cách thiết lập các trúc hỗ trợ và môi trường thuận lợi cho
các GLC phát triển. Ví dụ sự thành lập ngân hàng Phát triển Singapore, giúp các
GLC dễ tiếp cận các quỹ. Để hỗ trợ cho sự thực thi của các GLC, chính phủ còn
49
thành lập một số cơ quan của chính trị để ỗ trợ. Các cơ quan được thành lập như
Hội đồng tiền lương quốc gia (NWC), Ủy ban Phát triển nhà ở (HDB), …
Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp như trong trường hợp của Hãng hàng không
Singapore Airline, chính phủ can thiệp thông quan ngoại giao, tiếp cận các chính
phủ và thảo luận về hợp tác hàng không (Azhara, 2015).
3.1.3.2 Giải quyết tốt vấn đề người đại diện và đội ngũ công chức có động lực cao:
Việc Chính phủ Singapore bài trừ tham nhũng và Singapore là một trong
những quốc gia ít tham nhũng nhất thế giới, là một yếu tố giúp GLC Singapore
được quản lý tốt và không trở thành nạn nhân của tư lợi vốn phổ biến khắp nơi
(Dan, ChengHan và Umakanth, 2015). Singapore đã xử lý tốt vấn đề người đại diện
với chính phủ trong sạch, quản trị công tốt và quản trị công tốt đã được chuyển sang
các GLC. Những công chức Singapore đã được tạo động lực cao hàng đầu thế giới,
nhất là những người liên quan đến phân bổ nguồn dự trữ tài sản thiết yếu (Taussig,
Hieu và Linh, 2015).
GLC được xem vai trò là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế
Singapore, chính phủ chọn cách thực hiện quyền kiểm soát các GLCs thông qua việc
bổ nhiệm các công chức cao cấp nhất vào các hội đồng của các công ty này. Các công
chức này đóng vai trò chức năng giám sát ngoài ra thì sự kiểm soát của chính phủ lên
các GLC rất lỏng. Một giải thích cho sự thành công của các công chức tham gia hội
đồng, sau thời kỳ độc lập, chính phủ đã triển khai chương trình học bổng trên diện
rộng. Các sinh viên gắn với chính phủ một khoảng thời gian sau khi học tập tạo ra các
tinh hoa trong khu vực công mà dường như phù hợp với kinh doanh. Sau khi có sự thay
đổi chính sách nhấn mạnh toàn cầu hoá, các hội đồng trở nên có tính quốc tế hơn
(OECD, 2015). Chính phủ không có ý định bổ nhiệm các quản lý hay các nhận sự để
quản lý các công ty và thương không can thiệp vào việc quản lý. Các hội đồng của các
GLC là hội đồng chính sách hơn là hội đồng có chức năng quản lý.
3.1.3.3 Thành công của áp dụng lý thuyết người quản lý và tự chủ kinh doanh
Theo Hiến pháp Singapore, kể cả Tổng thống và Chính phủ Singapore đều
không can thiệp và các quyết định kinh doanh của Temasek, trừ trước hợp để bảo vệ
50
các khoản đã tích trữ được của Temasek. Tổng thống Singapore có vai trò độc lập
và có quyền đối với việc bảo vệ các tài sản trọng yếu và các khoản dự trữ từ quá
khứ; cần có sự chấp thuận của Tổng thống trước khi sử dụng các khoản dự trữ quá
khứ được tiến hành Quyền của cổ đông của Temasek – Bộ Tài chính – bổ nhiệm, tái
bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên hội đồng là đối tượng cần được sự chấp thuận của
Tổng thống. Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm CEO của Hội đồng cũng cần sự chấp
thuận của Tổng thống. Hội đồng của Temasek chịu trách nhiệm trước Tổng thống,
đảm bảo những khoản thoái vốn đầu tư được thực hiện đúng mức giá thị trường
(Sim, Thomsen và Yeong, 2014). Các thước đo giám sát, đảm bảo tính tin cậy được
sử dụng để chắc chắn Temasek hoàn thành vai trò công ty sở hữu của nhà nước.
Cho mục đích kiểm soát, Temasek cung cấp báo cáo tài chính kiểm toán được kiểm
toán bởi công ty kiểm toán quốc tế cũng như cập nhật định kỳ cho các cổ đông.
Không như Australia và Canada, không có chỉ tiêu thực hiện (KPI) nào được đặt ra
cho mỗi công ty, thay vào đó là chỉ tiêu lợi nhuận được điều chỉnh rủi ro được sử
dụng như chuẩn để đo (OECD, 2015). Singapore đã áp dụng tốt lý thuyết người
quản lý, những người quản lý của các GLC được thực hiện các quyết định kinh
doanh, hội đồng quản trị đóng vai trò chính sách và giám sát, thực tế các GLC đã
hoạt động hiệu quả, thậm chí tốt hơn các doanh nghiệp phi GLC (Dan, ChengHan
và Umakanth, 2015).
Singapore đã quan tâm đến bảo tồn và đưa văn hóa Khổng giáo vào các
GLC, người đứng đầu cần có trách nhiệm để bảo tồn và gia tăng sự thịnh vượng của
gia đình cho thế sau (OECD, 2015).
3.1.3.4 Xử lý các vấn đề quản trị đối với DNNN: vấn đề về mục tiêu, người đại diện
và sự minh bạch
Các GLC được quản lý trên nển tảng thương mại, Temasek hành động như
một cổ đông tích cực với động lực chính là tối đa hoá lợi nhuận trong dài hạn. Giống
như các tổ chức đầu tư, các khoản đầu tư của Temasek cũng được kết thúc thông qua
thoái vốn. Do Temasek vận hành giống như một công ty thương mại, các quyết định
51
đầu tư, thoái vốn, … không bị can thiệp bởi cổ đông, chính phủ và Tổng thống, do vậy
giúp giải quyết vấn đề mâu thuẫn giữa mục tiêu thương mại và xã hội.
Temasek tuyên bố họ đóng vai trò cổ đông can dự, thúc đẩy sự quản trị công
ty một cách sinh động, hiệu quả (sound governance), điều này bao gồm ủng hộ
thành lập các hội đồng có năng lực cao, nhiều kinh nghiệm và đa dạng nhằm dẫn
dắt và góp ý vào sự lãnh đạo và quản lý. Chính sách của Temasek không can thiệp
trực tiếp vào hoạt động kinh doanh và các quyết định của các công ty nằm trong
danh mục và tôn trọng, nhường lại cho các hội đồng và quản lý. Temasek ủng hộ
các hội đồng độc lập khỏi quản lý để có thể giám sát, theo dõi hoạt động quản lý,
bao gồm việc có các thành viên hội đồng có sức mạnh và kinh nghiệm để giám sát
quản lý. Các GLC có tỷ lệ thành viên Hội đồng quản trị độc lập (64%) cao hơn so
với các doanh nghiệp không phải GLC (48%) và tỷ lệ Hội đồng được dẫn dắt bởi
Chủ tịch Hội đồng độc lập/không quản lý cao hơn so với các doanh nghiệp không
phải GLC (74% so với 28%) (Sim, Thomsen và Yeong, 2014). Các công chức hàng
đầu cũng như những người đã nghỉ hưu được bổ nhiệm vào trong các hội đồng và
các vị trí quản lý cao cấp, họ cũng nắm giữ nhiều vị trí tại các hội đồng, nhằm tạo ra
sự trung thành với chính phủ.
Temasek ủng hộ các hội đồng độc lập với sự tập trung chủ yếu vào giám sát
hoạt động quản lý, hạn chế sự can thiệp trực tiếp vào việc quản lý của các GLC. Bộ
quy tắc quản trị công ty của Singapore cũng chỉ yêu cầu thành viên hội đồng quản
trị độc lập trở nên độc lập với hoạt động quản lý chứ không phải với cổ đông kiểm
soát, điều đó khác biệt hẳn với các quốc gia tương tự có cổ đông kiểm soát đóng vai
trò chi phối. Khác với lý thuyết về quản trị công ty truyền thống, cho rằng vai trò
thành viên hội đồng quản trị độc lập chủ yếu là giám sát cổ đông kiểm soát để bảo
vệ cổ đông nhỏ, trong trường hợp Temasek, giả định cổ đông kiểm soát có động lực
để tư lợi không phù hợp với cấu trúc lợi ích. Dường như động lực chủ yếu của
Temasek khi thực thi quyền kiểm soát của mình là đảm bảo GLC được vận hành
hiệu quả nhằm phục vụ lợi ích lâu dài của Temasek (và cuối cùng là Đảng PAP).
52
Temasek hoàn thành vai trò công ty sở hữu của chính phủ và giảm các thách
thức quản trị bằng các phương tiện giám sát và đảm bảo tính trách nhiệm được đặt ở
nơi cần thiết. Nhờ có tất cả các DNNN ở trong một danh mục đầu tư duy nhất,
Temasek đã áp dụng các thực thành tốt nhất được OECD (2006) khuyến cáo, lúc
làm làm rõ ràng chính sách của chủ sở hữu và đảm bảo áp dụng các chính sách một
cách nhất quán giữa các công ty. Tamesek nắm cổ phần tại lượng lớn các doanh
nghiệp, tổng hợp lại nắm giữ một phần lớn của Kinh tế Singapore. Các doanh
nghiẹp này là các doanh nghiệp dẫn dắt trong các lĩnh vực vận tải hàng không, ngân
hàng, viễn thông và phát triển bất động sản. Mỗi công ty lại đứng đầu của tập đoàn
riêng của mình (OECD, 2015).
Có thể thấy chính phủ Singapore thực hiện vai trò với quản trị công ty thông
qua sở hữu trực tiếp tại doanh nghiệp với vai trò của Temasek, công ty sở hữu vốn.
Temasek được thành lập và hoạt động như một công ty tư nhân với mục tiêu rõ ràng
hướng vào tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn, một hệ thống quản trị công và quản
trị công ty minh bạch, các cơ chế kiểm soát được đặt đúng chỗ và mức độ công bố
thông tin cao.
3.1.4 Thành công với thước đo phân bổ tài nguyên
Hệ thống GLC của Singapore đạt thành công với thước đo phân bổ tài
nguyên hiệu quả, phân tích bằng chứng cho thấy, nhà nước không nhất thiết kém
hiệu quả hơn trong việc phân bổ vốn cho các hoạt động hiệu quả nhất, thậm chí
trong các trường hợp nhất định, điều ngược lại có thể mới đúng (Dan, Chenghan,
Umakanth, 2015). Các GLC cũng đem lại tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản và trên vốn cao
hơn các phi GLC.
3.1.5 Nhận định từ kinh nghiệm của Singapore:
Singapore là một kinh nghiệm thành công trong phát triển và quản trị DNNN
và cung cấp một kinh nghiệm, bài học quý cho các quốc gia khác. Quản trị hiệu quả
được cho là chìa khoá thành công của Singapore. Singapore được đánh giá có môi
trường kinh doanh và tự do kinh doanh hàng đầu thế giới, một trong những quốc gia ít
tham nhũng nhất thế giới và được xếp hạng về quản trị công ty tốt nhất ở Châu Á. Các
53
GLC tạo ra kết quả kinh doanh mạnh và phát triển quản trị công ty tốt, được thị trường
đánh giá trị cao hơn so với các doanh nghiệp phi nhà nước. Phân tích dữ liệu từ 2009
đến 2013 cho thấy các GLC thực hàh quản trị công ty tốt hơn so với các doanh nghiệp
phi GLC về vấn đề liên quan đến Hội đồng, lương thưởng, kiểm toán, tính đáng tin cậy
và truyền thông với cổ đông (Sim, Thomsen và Yeong, 2014). Các GLC cũng tạo ra
giá trị lợi nhuận trên tài sản và vốn cao hơn các doanh nghiệp phi GLC.
Kinh nghiệm của Singapore cho thấy một nền kinh tế thành công ở mức độ
cao và một hệ thống quản trị công ty có thể được xây dựng trên nền tảng các doanh
nghiệp có chính phủ đóng vai trò chủ sở hữu chi phối. Điều này khác biệt với quan
niệm đồng thuận về mô hình của Mỹ về định hướng thị trường với cổ đông đóng vai
trò trọng tâm. Gợi ý rằng mô hình của Mỹ không phải là mô hình duy nhất và mô
hình thành công, nếu có, cần phù hợp với đặc thù các quốc gia về điều kiện lịch sử,
kinh tế, văn hoá, thể chế, …. (Dan, ChengHan và Umakanth, 2015), đây là một gợi
ý quan trọng cho các quốc gia khi lựa chọn mô hình phù hợp cho phát triển và quản
trị DNNN của mình. Mô hình này vẫn được duy trì ngay cả khi Singapore đã
chuyển mình từ một nước đang phát triển thành một nước phát triển và hiện đã là
một nước có thu nhập bình quân hàng đầu thế giới.
Tuy vậy, như phân tích của Dan, ChengHan và Umakanth (2015), sự phát triển
và quản trị GLC Singapore xuất phát từ hoàn cảnh đặc thù về lịch sử và văn hoá điều
hành của Singapore, do đó không dễ dàng có thể áp dụng cho các quốc gia khác.
Các yếu tố lịch sử đã tạo động lực thúc đẩy chính phủ tham gia với vai trò
doanh nhân nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm tăng cao của người dân trong bối cảnh
tốc độ tăng dân số cao, sự rút lui của các căn cứ quân sự của Anh vốn sử dụng nhiều
lao động thúc đẩy nhu cầu công nghiệp hoá trong bối cảnh nền tảng con người, các
doanh nghiệp tư nhân còn thiếu, không đủ khả năng hay không muốn đóng vai trò
này. Động lực thúc đẩy chính phủ Đảng PAP phát triển kinh tế nhằm giành sự ủng
hộ của người dân, dẫn tới sự hình thành và quản lý tốt các GLC. Do vậy, cấu trúc
tạo ra khiến Temasek có động lực rõ ràng để đảm bảo các GLC được quản trị hiệu
quả vì lợi ích của tất cả cả các cổ đông.
54
Văn hoá điều hành của Singapore cũng có tính đặc biệt, như nhận định của
Fukuyama về vai trò của văn hoá trong tạo ra và quản lý các tổ chức, Singapore có
sự kết hợp của văn hoá Phương Tây (trung tâm tài chính quốc tế, luật pháp dựa trên
nền tảng thông luật của Anh, …), và văn hoá Phương Đông (giáo dục, nhận thức về
vài trò trách nhiệm, phục vụ xã hội, …) tương tự các quốc gia Châu Á khác với vai
trò mạnh mẽ của nhà nước trong thúc đẩy phát triển kinh tế và công nghiệp hoá.
Singapore cũng đã đưa văn hoá Khổng giáo đề cao trách nhiệm người đứng đầu với
giữ gìn và phát triển sự thịnh vượng của cả gia đình, và đưa ý tưởng này vào cả các
GLC (OECD, 2015). Bề ngoài, cơ chế điều hành của Singapore, thị trường tự do và
xếp hạng về quản trị công ty như mô hình Mỹ cho quản trị công ty tốt, tuy nhiên, về
gốc rễ lại có sự khác biệt, hệ thống quản trị công ty của Singapore được xây dựng hoàn
toàn dựa trên các công ty sở hữu bởi các các khối cổ đông tập trung. Nghiên cứu cho
thấy, khi Singapore trở nên thịnh vượng hơn thì sự tập trung này cũng gia tăng.
Yếu tố kinh tế và chính trị cũng có mối tương quan chặt chẽ, thành tích kinh
tế tạo tính chính thống cho vai trò chính trị của Đảng PAP giành lấy sự ủng hộ của
người dân trước các đảng khác. Temasek với động cơ thực thi quyền kiểm soát của
mình đối với các công ty trong danh mục nhằm hướng tới lợi ích lâu dài, bên cạnh
đó, với mục tiêu hướng tới phát triển quản trị tốt, chính phủ cũng áp dụng cách tiếp
cận không dung thứ cho tham nhũng, sự trong sạch của chính phủ cũng là yếu tố
giúp các GLC được quản lý tốt và không trở thành nạn nhân của sự tư lợi. Vấn đề
người đại diện (agency problem) dường như được giải quyết ở Singapore bằng động
lực của chính phủ trong thành tích của GLC, diệt trừ tham nhũng và cơ cấu quản trị
tại các GLC độc lập, minh bạch.
Mô hình GLC cũng có sự khác biệt, do chủ trương các hội đồng độc lập,
cung cấp định hướng chiến lược và giám sát để đem lại lợi ích cho các cổ đông,
cách kiểm soát lỏng của Chính phủ Singapore cũng khác so với các chính phủ khác
như Trung Quốc, nơi chính phủ can thiệp chặt chẽ đối với các DNNN, công tác
quản lý và quản trị các DNNN, bổ nhiệm các vị trí quản lý hàng đầu.
55
Chất lượng quản trị công của Singapore cũng được chuyển giao sang các
GLC, với tính chuyên nghiệp trong quản lý và quản trị, thu hút tài năng hàng đầu và
chính sách không dung thứ với tham nhũng. Các quốc gia khác ít đạt được mức
tương tự của Singapore.
DNNN cũng phải đối mặt với thách thức đặc biệt. Ở nhiều nước trên thế giới,
sở hữu nhà nước bị tách rời với hoạt động của doanh nghiệp, có thể là nhiệm vụ và
yêu cầu không rõ ràng mà DNNN phải đáp ứng. DNNN có thể là đối tượng can dự
của chính trị và lợi ích của các quan chức. Các DNNN có thể hưởng lợi từ ưu đãi và
bảo vệ về chính trị và do đó có lợi thế không cân bằng. Kinh nghiệm của Singapore
cho thấy sự cần thiết của yêu cầu nhiệm vụ kinh doanh rõ ràng và sự cần thiết của
việc có thể vận hành cách xa các tiến trình chính trị. Và có vai trò cần xem xét của
các tiêu chuẩn cao về quản trị công ty: minh bạch, thành viên hội đồng độc lập và
các uỷ ban. Quản trị công ty là tốt cho hoạt động kinh doanh nói chung nhưng đặc
biệt cần thiết đối với DNNN (Sim, Thomsen và Yeong, 2014).
3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc:
3.2.1 Bối cảnh phát triển DNNN ở Trung Quốc:
Theo OECD (2015), không giống một nền kinh tế mới nổi bình thường, nơi
mà chính phủ đưa ra các quyết định chính trị dành hoạt động nào cho nhà nước,
Trung Quốc hiện đại phát triển từ hệ thống kiểu Xô Viết, ở đó các nguồn lực sản
xuất là tài sản của nhà nước và thực hiện quyền sở hữu được xem là cánh tay nối dài
của quyền lực điều hành.
Ảnh hưởng bởi bài học từ kinh nghiệm của kinh tế Nga trong thập niên 1990,
Trung Quốc không cho phép tầng lớp “đầu sỏ” của khu vực tư nhân được phát triển
ở Trung Quốc (Lee, 2009). Vị trí mặc định của các DNNN lớn nhất phải nằm dưới
quyền kiểm soát của chính phủ, như trong chiến lược “nắm to, bỏ nhỏ” củng cố cải
cách khu vực DNNN năm 1997. Như vậy, để đảm bảo môi trường cạnh tranh, nhà
nước đảm bảo có ít nhất ba DNNN hoạt động và cạnh tranh trong một khu vực kinh
tế quan trọng mà vẫn nằm dưới sự chi phối của sở hữu nhà nước (OECD, 2015).
56
Lịch sử của DNNN hiện đại bắt đầu tư năm 1978, khi Tổng Bí thư Đặng
Tiểu Bình áp dụng cải cách kinh tế định hướng thị trường. Trước đo, thiếu vắng nền
kinh tế thị trường, không có sự khác biệt rõ ràng giữa một DNNN và một cơ quan
đại diện của chính phủ phụ trách các yếu tố của quá trình sản xuất (OECD, 2015).
Trước cải cách và tư nhân hoá, sự tập trung hướng vào phát triển sản xuất
kim loại và thép, điện, than, dầu, máy móc và thiết bị, các ngành công nghiệp nặng
khác. Bên cạnh các thất bại, nền tàng cho cấu trúc ngành công nghiệp Trung Quốc
tương lai đã được hình thành.
Các thập niên sau năm 1978, các chiến lược kinh tế đã hoàn thành mục tiêu
xây dựng một “hệ thống kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” như là yếu tố chính để
xây dựng một xã hội thịnh vượng. Các cách thực hiện trong đó có, cách tiếp cận
“dặt phát triển kinh tế làm trung tâm” và dần từ bỏ sự phụ thuộc và kế hoạch hoá và
công nghiệp nặng, thay thế bằng cơ chế cạnh tranh và thị trường để nâng cao hiệu
quả của khu vực doanh nghiệp. Cho rằng điều này sẽ khởi động sự lan rộng của cải
cách DNNN, phát huy sức mạnh kinh tế và mở đường cho đa sở hữu tại doanh
nghiệp (OECD, 2015).
Theo OECD (2015), Michael Porter sử dụng mô hình khung phân tích để
tiếp cận lịch phát triển của kinh tế Trung Quốc gần đây, theo đó sự phát triển kinh tế
thường diễn ra theo bốn giai đoạn.
Giai đoạn từ giữa những năm 1980 đến cuối những năm 1990, kinh tế Trung
Quốc đã trải qua giai đoạn 1, giai đoạn tập trung vào các yếu tố của sản xuất, như
hình tượng chính “Tất cả các doanh nghiệp thành công đều phụ thuộc vào các yếu
tố sản xuất cơ bản”. Với Trung Quốc, các yếu tố sản xuất chính bao gồm: sự dồi
dào của nguồn lao động giá rẻ, giảm dân số khu vực nông thôn; sự gia tăng của kĩ
năng do giáo dục và đào tạo; khai thác và sử dụng đấ đai, tài nguyên thiên nhiên.
Giai đoạn này, không có sự khác biệt nhiều về sản phẩm trong mỗi ngành công
nghiệp, sự cạnh tranh chủ yếu là bằng giá, và công nghệ được sử dụng phổ biến và
dễ tiếp cận (OECD, 2015).
57
Giai đoạn 2, diễn ra từ cuối những năm 1990 đến 2010. Đặc điểm của giai
đoạn này là cả chính quyền và doanh nghiệp đều có khả năng tài chính và sẵn sàng
đầu tư. Các doanh nghiệp mở rộng đầu tư vào các thiết bị và dự án sản xuất hiệu
quả, với mục tiêu và tiếp nhận công nghệ cao từ thị trường quốc tế. Cải cách kinh tế
cũng giải phóng nhu cầu trong nền kinh tế Trung Quốc. Cùng với đó, chính phủ
Trung Quốc cũng đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng (OECD, 2015).
Dường như sau khủng hoảng tài chính năm 2008, Trung Quốc đã bước vào
giai đoạn 3, giai đoạn định hướng phát minh, đổi mới.
3.2.2 Chính sách phát triển DNNN của Trung Quốc:
Giai đoạn từ 1978 đến 1992, chính sách phát triển chính là tự do hoá và thúc
đẩy phát triển kinh tế. Các DNNN trong giai đoạn này, được trông đợi sẽ trở nên tự
chủ hơn, ban hành các cơ chế phù hợp để phân bổ thu nhập và trách nhiệm. Giai
đoạn này, kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào nền kinh tế
Trung Quốc, thúc đẩy chuyên môn hoá và phân quyền. Giai đoạn này, kinh tế Trung
Quốc cơ bản chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang một kinh tế thị trường, không
có chính sách công nghiệp nào đáng chú ý nào được ban hành (OECD, 2015)
Giai đoạn những năm 1990, với tỷ trọng chiếm quy mô lớn trong nền, các
DNNN hoạt động tốt hơn có đóng góp lớn cho kinh tế vĩ mô. Chính sách trong giai
đoạn 1993 đến 1997, chính sách chủ yếu là sự ra đời của hệ thống kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa và hệ thống doanh nghiệp hiện đại. Giai đoạn này, vấn đề thua lỗ
lớn của các DNNN được xử lý bằng chính sách không mang tính sở hữu như sáp
nhâp; sự phân chia đơn vị lớn và đơn vị nhỏ; xử lý tài sản xấu trong ngân hàng;
chính sách phá sản; vấn đề người lao động bị sa thải (OECD, 2015).
Năm 1998, các DNNN bước vào giai đoạn đa dạng hoá cổ phần và cải cách
sở hữu. Năm 1997, chính sách “giữ lớn, bỏ nhỏ” được ban hành và thực hiện “chiến
lược tái tổ chức các DNNN”. Chính sách ủng hộ tái cấu trúc và bán các DNNN nhỏ
và vừa. Các DNNN trở thành doanh nghiệp tư nhân và một lượng lớn các đơn vị tập
thể được tái cấu trúc thành các doanh nghiệp.
58
Giai đoạn từ 1998 đến 2002, sự tập trung phần lớn cho vấn đề thiếu hiệu quả
và thua lỗ trên diện rộng của các DNNN. Các biện pháp chủ yếu được sử dụng giai
đoạn này bao gồm sự ban hành các chiến lược giải quyết các khó khăn của doanh
nghiệp trong vòng 3 năm; xử lý vấn đề người lao động mất việc do tái cấu trúc các
doanh nghiệp; thoái đầu tư tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách giai đoạn
này một mặt ủng hộ xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển và nâng cấp các ngành công
nghiệp ưu tiên, mặt khác ủng hộ thay đổi cấu trúc nền kinh tế, bao gồm ban hành và
chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp (OECD, 2015).
Từ năm 2002, mục tiêu phát triển của Trung Quốc bao gồm nỗ lực tiếp tục
thúc đẩy tổng thể đầu tư của xã hội và mở rộng quốc tế.
Ở cấp độ vĩ mô, tầm quan trọng của các DNNN đã suy giảm tương đổi từ khi
áp dụng chính sách đổi mới và mở cửa. Ngay từ năm 1993, vai trò đóng góp vào
doanh thu và thu nhập doanh nghiệp bắt đầu suy giảm. Giai đoạn từ 1998 đến 2010,
tỷ lệ sản phẩm đầu ra của DNNN trong ngành sản xuất đã giảm liên tục từ 77.6%
xuống 26.6%. Số ít các ngành có tỷ lệ DNNN chiếm quá 30% tổng doanh thu
(OECD, 2015). DNNN vẫn đóng vai trò quan trọng trong các ngành như xây dựng,
bất động sản, bán buôn. Nhất là các ngành chiến lược như viễn thông và dịch dịch
hàng không, các DNNN chiếm khoảng 80 – 90%.
Chức năng chính sách công các DNNN thường nhận trách nhiệm bao gồm:
thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ giai trò thống lĩnh trong các khu vực quan trọng,
phát triển mối quan hệ cạnh tranh và hợp tác với các doanh nghiệp phi nhà nước,
tránh hành vi sử dụng vị thế thống lĩnh để áp đặt và cung cấp các dịch vụ công.
Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XV của Trung Quốc
chỉ ra DNNN đóng vai trò thống lĩnh trong các ngành công nghiệp quan trọng và các khu
vực chủ yếu liên quan đến “huyết mạch” của nền kinh tế quốc gia. Chúng duy trì và dẫn
dắt sự phát triển của nền kinh tế, ảnh hưởng quan trọng đến các mục tiêu vĩ mô của quốc
gia. Hội nghị đã xác định chức năng dẫn dắt của DNNN như sau:
a. Thúc đẩy sự phát triển tổng thể của kinh tế quốc dân: Đòi hỏi không chỉ là
kết quả kinh doanh tốt của các DNNN. Các doanh nghiệp không thể chỉ tập trung
vào sự phát triển của họ, mà còn phải chú ý tới ảnh hưởng của các hoạt động của
59
minh đến với tổng thể nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó, khi có rủi ro trong nền
kinh tế quốc dân, chính phủ có thể yêu cầu “chức năng điều tiết kinh tế và chức
năng giải cứu” của nhiều DNNN.
b. Giữ vị trí thống lĩnh ở các khu vực và ngành công nghiệp chủ chốt: Các khu
vực này được nêu tại Hội nghị lần thứ 4, chúng liên quan tới “khu vực liên quan tới an
ninh quốc gia, độc quyền tự nhiên, các sản phẩm công quan trọng, ngành dịch vụ,
ngành công nghiệp chủ chốt và các doanh nghiệp chủ chốt trong ngành công nghiệp
công nghệ cao”. Danh sách kết hợp hiệu quả nhiều khu vực thiết yếu đối với phát triển
kinh tế và các khu vực mà tại đó có các thật bại của thị trường.
c. Duy trì sự hiện diện tại các ngành công nghiệp quan trọng: mối quan hệ
giữa DNNN và các doanh nghiệp khác bao gồm cả cạnh tranh và hợp tác.
d. Đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa DNNN và các doanh nghiệp khác.
Các DNNN không nên lạm dụng vị thế thống lĩnh của mình. Họ phải trả cổ tức và
nhiều loại thuế ở mức ngang bằng với các doanh nghiệp khác (OECD, 2015).
Các DNNN đã có thể hoạt động theo các tiêu chi trên, khu vực kinh tế nhà
nước đóng vai trò tích cực. Tuy nhiên, các nhà quan sát khu vực DNNN Trung
Quốc thường phê phán mức độ sinh lợi của các DNNN cũng như cấu trúc tài chính
ưu ái cho sở hữu nhà nước (OECD, 2015).
3.2.3 Chính sách quản trị nhà nước đối với DNNN của Trung Quốc:
Là một phần thiết yếu trong chính sách “Cải cách và mở cửa”, các DNNN
Trung Quốc đã trải qua quá trình cải cách sở hữu từ những năm 1970 để trở nên
hiệu quả và cạnh tranh hơn. Vào giai đoạn đầu của cải cách, chính phủ cố gắng gia
tăng hiệu quả của các DNNN bằng cách thúc đẩy tính tự chủ và phần thưởng đối
với các doanh nghiệp này, với nhà nước là chủ sở hữu duy nhất tuy nhiên chính phủ
nhận thấy cách tiếp cận này chưa đạt hiệu quả, cách tiếp cận thực sự cần sự tái cấu
trúc mang tính nền tảng đối với cấu trúc sở hữu.
Nhận thấy tiềm năng từ các doanh nghiệp tư nhân thành lập trái luật, do luật
chưa cho phép các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ điều chỉnh chính sách cải tổ
sang cho phép tư nhân hoá các DNNN (Garnut, 2005).
60
Luật công ty 1993 cung cấp khung pháp luật cho việc chuyển đổi DNNN
sang mô hình doanh nghiệp hiện đại. Hàng nghìn các DNNN nhanh chóng chuyển
sang công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, trong đó phần vốn nhà
nước được chuyển sang cổ phần. Ban đầu chính phủ giới hạn chuyển nhượng cổ
phần giữa các DNNN nhưng nhanh chóng sau đó, doanh nghiệp tư nhân có thể nhận
chuyển nhượng cổ phần một cách hợp pháp. Sự ra đời của thị trường chứng khoán ở
Thâm Quyến và Thượng Hải vào các năm 1990, 1991 tiếp tục thêm nữa tạo điều
kiện cho các công ty phát hành cổ phần cho tư nhân, tạo ra quá trình tư nhân hoá
(Chang và Jin, 2016).
Cùng lúc đó, chính phủ tạo điều kiện cho phá sản các DNNN không có khả
năng trả nợ. Vào năm 1995, chính phủ Trung Quốc áp dụng chính sách “giữ lớn, bỏ
nhỏ”. Bằng việc “chỉ giữ lại các công ty lớn” chính phủ có thể nắm giữ và kiểm soát
các công ty có vai trò quan trọng chiến lược trong ngành tài nguyên, tiện ích và
năng lượng. Những công ty còn tồn tại này phát triển lớn hơn và có lợi nhuận hơn,
hoàn thành mục tiêu của chính sách cải cách. Số lượng DNNN giảm từ 47.958 năm
1998 xuống 5.118 năm 2009 (Chang và Jin, 2016). Các doanh nghiệp này chỉ chiếm
1,3% tổng số doanh nghiệp nhưng chiếm tới 8,2% tổng số tài sản (Chang, 2013).
Sau một loạt các cải cách, hầu hết các DNNN được tái cấu trúc thành các
công ty cổ phàn, trong đó chính phủ nắm lượng lớn cổ phần. Do vậy, về nguyên tắc
các doanh nghiệp này có thể vận hành tương tự các doanh nghiệp tư nhân, nhưng về
sở hữu trực tiếp, gián tiếp bởi chính phủ vẫn không thay đổi. Các doanh nghiệp này
được quản lý và giám sát bởi các cơ quan chính phủ khác nhau.
SASAC được thành lập năm 2003 theo mô hình Temasek của Singapore để
sáp nhập sự sở hữu và kiểm soát của chính phủ. Khi thành lập SASAC, kiểm soát
196 doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp quan trọng chiến lược, số lượng này
giảm xuống 106 doanh nghiệp vào năm 2015. Chính quyền ở các tỉnh và thành phố
Trung Quốc cũng thành lập các SASAC địa phương để kiểm soát các tài sản sở hữu
bởi các chính quyền địa phương.
61
Theo Chang và Jin (2016), mặc dù có các loại DNNN khác nhau, hầu hết các
DNNN niêm yết ở Trung Quốc đều có cấu trúc sở hữu dạng kim tự tháp. Cấu trúc
sở hữu điển hình gồm có đơn vị kiểm soát cuối cùng (ultimate controller) ở đỉnh
kim tự tháp kiểm soát công ty niêm yết thông qua bình quân 2.6 nấc thang bao gồm
các đơn vị kiểm soát trung gian, trực tiếp kiểm soát các công ty niêm yết.
Theo Chang và Jin (2016), Uỷ ban Giám sát và Quản lý tài sản nhà nước
(SASAC) đóng vai trò trung trong cải cách DNNN. Giai đoạn khởi đầu của cải cách
DNNN, các bộ khác nhau quản lý các tài sản nhau. Quyền kiểm soát các DNNN
phân tán ở các bộ khác nhau, khiến cho việc cải thiện hiệu quả của các doanh
nghiệp này trở nên khó khăn. Do vậy, SASAC được thành lập để thống nhất lại các
quyền kiểm soát này vào năm 2003. Từ đó, SASAC trở thành cơ quan đại diện của
nhà nước như là nhà đầu tư, giám sát và quản lý các tài sản nhà nước sở hữu.
SASAC có các vai trò như sau:
a. Trách nhiệm của nhà quản lý tài chính với các doanh nghiệp được cung
cấp vốn, để đảm bào quyền và lợi ích của chủ sở hữu theo luật và quy định quản lý;
b. Hướng dẫn và ủng hộ cải cách và tái cấu trúc các DNNN và các doanh
nghiệp nhà nước có sở hữu;
c. Tạo ra các ban kiểm soát;
d. Bổ nhiệm, bãi nhiệm và đánh giá người đứng đầu các doanh nghiệp các
thủ tục của luật, khen thưởng hay phạt những người theo kết quả kinh doanh;
e. Giám sát sự bảo vệ và gia tăng giá trị tài sản của nhà nước bằng các
phương tiện thống kê và kiểm toán;
f. Khởi thảo các quy định và luật để giám sát và quản lý các tài sản do nhà
nước sở hữu.
Để thực hiện các chức năng trên, SASAC kiểm soát cấu trúc sở hữu có 2 hay 3
tầng, đôi khi nhiều hơn (Naughton, 2006). Trong đó, các DNNN niêm yết ở vị trí đáy
của kim tự tháp với các SASAC đứng ở đỉnh tháp. Ở giữa của cấu trúc kim tự tháp là các
các công ty mẹ, đầu tư hoặc các công ty nắm giữ vốn, thường là các DNNN.
62
Theo Chang và Jin (2016), phát hiện của nghiên cứu cho thấy cả sở hữu trực
tiếp và gián tiếp của chính phủ có tác động tiêu cực lên kết quả hoạt động của các
doanh nghiệp niêm yết ở Trung Quốc. Các doanh nghiệp trực tiếp do chính phủ nắm
quyền sở hữu trực tiếp có kết quả kinh doanh kém nhất. Doanh nghiệp dưới sự giám sát
của các SASACs chỉ có kết quả hoạt động tốt hơn chút ít. Trong khi, ngược lại, các
doanh nghiệp kiểm soát bởi các cá nhân tư nhân hoạt động tốt nhất, tiếp đó doanh
nghiệp kiểm soát bởi các công ty. Các SASAC lẽ ra phải chuyên môn hoá, nên có các
chuyên gia quản lý các DNNN, quản lý tốt hơn so với các bộ của chính phủ. Tuy nhiên,
kết quả gây ra sự thất vọng. Tuy nhiên, các mô hình sử dụng gợi ý Tobin’s Q có tiềm
năng cao cho hoạt động trong tương lai dưới sự kiểm soát của SASAC trung ương.
3.2.4 Nhận định từ kinh nghiệm của Trung Quốc:
3.2.4.1 Về chính sách phát triển DNNN của Trung Quốc:
a. Thành công theo mô hình phát triển Đông Á như tư tưởng Hậu-Chủ nghĩa
phát triển
So sánh giữa chính sách phát triển nói chung và phát triển DNNN nói riêng
của Singapore và Trung Quốc có một số điểm tương đồng của mô hình Đông Á
trong đó nhà nước đóng vai trò quan trọng, bao gồm cả đầu tư của nhà nước cũng
như vai trò của DNNN trong chính sách phát triển, cụ thể theo khung phân tích bốn
giai đoạn phát triển của Porter.
Đến hiện nay, xét theo vốn hóa thị trường các DNNN đều chiếm tỷ trọng lớn,
GLC chiếm 37% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán Singapore (Dan, ChengHan
và Umakanth, 2015) và 55.8% ở Trung Quốc (Chang và Jin, 2016). DNNN ở
Singapore và Trung Quốc đều giữ vị trí thống trị tại các ngành có tầm quan trọng
chiến lược như viễn thông, hàng không. Tổng đầu tư của Trung Quốc tăng từ 40%
trong năm đầu thế kỷ lên 50% hiện nay, trong đó có đầu tư mạnh mẽ vào cơ sở hạ
tầng của chính phủ Trung Quốc (OECD, 2015).
b. Thúc đẩy cạnh tranh và xuất khẩu:
Bên cạnh đó, chính sách phát triển của DNNN hiện đại ở Singapore và Trung
Quốc diễn ra trong bối cảnh khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hóa …. Các DNNN hiện
63
đại bắt nguồn từ nền kinh tế Trung Quốc theo mô hình Xô viết, theo đó, mọi yếu tố sản
xuất đều thuộc về nhà nước, các DNNN là cánh tay nối dài của các cơ quan của chính
phủ. Quá trình phát triển của DNNN hiện đại của Trung Quốc là quá trình tái cơ cấu,
“giữ lớn, bỏ nhỏ”, trong khi số lượng DNNN giảm đi thì giá trị tài sản lại tăng lên.
Theo Studwell (2013), các DNNN trước đó tận hưởng độc quyền ngách, mỗi
công ty đều có lãnh địa sản phẩm riêng, bị buộc phải cạnh tranh với nhau. Trong
lĩnh vực thượng nguồn và những ngành tài chính, có hai, ba hay bốn công ty tham
gia thị trường, phải đối đầu trực tiếp với nhau để giành quyền thống lĩnh thị trường.
Những nhóm đọc quyền này đã tối đa hóa lợi nhuận chưa từng thấy ở các doanh
nghiệp quốc doanh độc quyền.
Cũng theo Studwell (2013), các DNNN phải chịu kỷ luật xuất khẩu. Chúng
tạo ra kết quả ấn tượng trong tạo ra các sản phẩm với độ phức tạp ngày càng cao, có
thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp đạt được năng lực cạnh
tranh quốc tế trong sản xuất máy móc khai mỏ, máy móc xây dựng, công cụ cơ khí,
… Cơ quan thực thi kỷ luật xuất khẩu lớn nhất lên các doanh nghiệp sản xuất khu
vực công là Ngân hàng phát triển Trung Quốc.
c. Công cụ cho chính sách phát triển của nhà nước:
Cũng theo Studwell (2013), những doanh nghiệp quốc doanh trung nguồn
được bảo vệ khỉ sự phân mảnh của thị trường bằng rào cản gia nhập ngành lớn.
Những doanh nghiệp sản xuất quốc doanh được hưởng lợi lớn từ mối quan
hệ với các viện nghiên cứu nhà nước.
Theo Studwell (2013), khi Ủy ban cải cách và phát triển quốc gia (NDRC)
hoạch định một chính sách phát triển tuabin gió, họ khuyên chính phủ phân bổ một
tỷ lệ lớn trợ cấp. Quyết định của chính phủ và hoạt động mua sắm của chính phủ tạo
ra thị trường cho sản phẩm tua-bin gió. Các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cho
các công ty quốc doanh nhận được nhiều sự hỗ trợ của NDRC và chiến dịch của
chính phủ để nội địa hóa máy móc sử dụng trong nền kinh tế. Chính phủ có thể áp
dụng không cho vay, không mua sắm gì đối với các doanh nghiệp không mua sản
phẩm Trung Quốc theo mục tiêu của chính phủ.
64
d. Thực hiện chính sách phát triển công nghiệp:
SASAC) đóng vai trò trung trong cải cách DNNN. Giai đoạn khởi đầu của
cải cách DNNN, các bộ khác nhau quản lý các tài sản nhau. Quyền kiểm soát
các DNNN phân tán ở các bộ khác nhau, khiến cho việc cải thiện hiệu quả của
các doanh nghiệp này trở nên khó khăn. Do vậy, SASAC được thành lập để
thống nhất lại các quyền kiểm soát này vào năm 2003. Từ đó, SASAC trở thành
cơ quan đại diện của nhà nước như là nhà đầu tư, giám sát và quản lý các tài
sản nhà nước sở hữu.
Trung Quốc đã phát triển một danh sách những doanh nghiệp trung nguồn
lớn với khả năng cạnh tranh toàn cầu. Trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp trung
nguồn Trung Quốc sử dụng công nghệ cốt lõi được nhập khẩu và sử dụng cho thị
trường trong nước. Các doanh nghiệp sau đó đi lên biên công nghệ toàn cầu. Các
doanh nghiệp phải chịu cạnh tranh nhiều hơn và chịu kỷ luật xuất khẩu, sản xuất ra
các sản phẩm có độ phức tạp ngày càng cao, có thể cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Trung Quốc là quốc gia sinh ra nhiều khu vực sản xuất do nhà nước quản lý
thành công nhất ở một quốc gia đang phát triển.
3.2.4.2 Về chính sách quản trị nhà nước đối với DNNN của Trung Quốc:
Có thể nhận thấy so sánh chính sách của nhà nước đối với các GLC của
Singapore và với các DNNN của Trung Quốc dựa trên nền tảng thị trường nhiều
hơn. Temasek hoạt động như một công ty tư nhân đầu tư thương mại, đóng vai trò
như một cổ đông và nhà đầu tư tích cực, với danh mục trải rộng nhiều ngành. Các
GLC không được trợ cấp của chính phủ và cũng không phải gánh các gánh nặng
trách nhiệm xã hội. Trong khi đó, các DNNN của Trung Quốc, yêu cầu không chỉ là
hoạt động kinh doanh, còn phải chú ý vai trò tới sự phát triển của tổng thể nền kinh
tế và khi có rủi ro trong nền kinh tế quốc dân, chính phủ có thể yêu cầu “chức năng
điều tiết kinh tế và chức năng giải cứu” của nhiều DNNN.
a. Quản trị nhà nước đối với DNNN của Trung Quốc
Mô hình quản trị đối với DNNN cùa Trung Quốc và Singapore có điểm
tương đồng, đó là vai trò quan trọng của nhà nước và hai tổ chức đóng vai trò trung
65
tâm nắm giữ tài sản của nhà nước, các SASAC ở Trung Quốc và Temasek ở
Singapore, và đóng vai trò giám sát, quản trị đối với các DNNN. Điểm tương đồng
về tỷ lệ vốn hóa cao của các DNNN trên thị trường chứng khoán, Singapore và
Trung Quốc có điểm tương đồng, chính phủ với vai trò cổ đông đều là người chơi
quan trọng nhất trên thị trường. Nhà nước với vai trò cấp phép độc quyền thương
mại theo Baker và Quéré (2014), hai nhà nước đều giữ các ngành có vị trí chiến
lược quan trọng như viễn thông, hàng không do các DNNN giữ vai trò thống trị.
b. Vấn đề người đại diện
Tuy vậy, theo Chang và Jin (2016), có sự khác biệt giữa các SASAC và
Temasek. Mặc dù là hai đại diện của nhà nước trong sở hữu, giám sát, quản lý các
DNNN, hai tổ chức này lại có sự khác biệt, do vậy sẽ ảnh hưởng đến quản trị đối
với các DNNN. SASAC là được thiết kế như một đơn vị công đặc biệt, vẫn là một
cơ quan điều hành đại diện chính phủ. Hơn nữa, các SASAC không vận hành trên
cơ sở thương mại, thay vào đó vận hành như một cơ quan chính phủ. Các lãnh đạo
DNNN trung ương còn có vị trí chính trị. Trong khi đó, Temasek được xây dựng
như một công ty đầu tư thành lập theo Luật Công ty của Singapore. Do vậy,
Temasek sở hữu và quản lý các GLC trên cơ sở thương mại, và tách bạch một cách
có hiệu quả vai trò cổ đông của chính phủ với vai trò điều hành và xây dựng chính
sách (Israel, 2008). Mô hình SASAC so với Temasek chưa đem lại hiệu quả trong
tiệc tách các chức năng này của chính phủ Trung Quốc.
Cấu trúc tổ chức hai cơ quan này khác nhau. SASAC được tổ chức theo các
phòng chức năng theo mô hình cơ quan chính phủ và nhân viên của SASAC là nhân
viên thuộc chính phủ.
c. Nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị công ty thông qua sở hữu trực
tiếp và kiểm soát:
Theo Chang và Jin (2016), quyền quyết định cũng khác nhau giữa DNNN
Trung Quốc và Singapore. Giám đốc điều hành và Chủ tịch của các DNNN trung
ương đồng thời có ví trí trong hệ thống chính trị. Thực tế, họ được coi là các nhân
viên chính phủ. Họ được bổ nhiệm bởi Trung ương Đảng Cộng sản, không phải bởi
66
SASAC. Trong khi đó, Temasek trực tiếp tham dự vào bổ nhiệm các Giám đốc điều
hành và Chủ tịch của các công ty trong danh mục, mặc dù chỉ có một phần cổ phần
giống như các SASAC. Do đó, Temasek có thể thực hiện chức năng giám sát và
kiểm soát chủ động hơn so với các SASAC.
Kiến nghị mà Chang và Jin (2016) đưa ra là giảm bớt các bậc trung gian
trong mô hình kim tự tháp kiểm soát của SASAC cho đến các công ty niêm yết,
giúp cho SASAC có thể có tác động, quản lý trực tiếp lên các doanh nghiệp do họ
sở hữu.
d. Nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị công ty thông qua cấp phép
độc quyền thương mại:
Trung Quốc đã xây dựng độc quyền nhóm với hai, ba, bốn doanh nghiệp
cạnh tranh giành vị thế thống lĩnh. Theo Studwell (2013), chính phủ giữ hoàn toàn
quyền kiểm soát các doanh nghiệp thượng nguồn và dịch vụ. Các doanh nghiệp
trung nguồn được bảo vệ khỏi sự phân mảnh bằng rào cản gia nhập ngành lớn.
e. Thách thức trong trường hợp nhà nước đóng vai trò cổ đông kiểm soát
Theo Chang và Jin (2016), SASAC hiện tại phải đối mặt với nhiều thách
thức để cải thiện quản trị công ty đối với các DNNN. Các DNNN của Trung Quốc
phải hướng tới cả hai mục tiêu thương mại và phi thương mại, làm giảm cả tính
trách nhiệm và cảm nhận về mục đích. Theo OECD (2015) cần có sự tách biệt rõ
ràng giữa mục tiêu thương mại và mục tiêu phi thương mại. SASAC phải đối mặt
với cả vấn đề tư lợi của các nhà quản lý cũng như các chính trị gia và công chức,
những người tiếp cận các DNNN với các mục tiêu của riêng họ. Bên cạnh đó, các
DNNN cũng ít bị các đòi hỏi công bố thông tin hơn các doanh nghiệp tư nhận, do
vậy thiếu giám sát và kỷ luật từ thị trường tài chính.
67
CHƯƠNG 4: THỰC TRẠNG VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN,
QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DNNN TẠI VIỆT NAM
Hệ thống DNNN tại Việt Nam có những điểm tương đồng và khác biệt so
với ở Singapore và Trung Quốc. Điểm tương đồng đó là DNNN (GLC trong trường
hợp Singapore) đều giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Là các quốc gia Đông Á,
có những tương đồng về văn hóa, nhà nước và công cụ hỗ trợ là các DNNN đóng
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Việt Nam tương đồng với Trung Quốc ở
một điểm nữa là cùng xuất phát từ mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa, các DNNN
hoạt động giống như các cơ quan của chính phủ.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), thách thức cốt lõi mà nhà nước phải đối
mặt vẫn tương tự như thách thức tại khởi đầu của quá trình chuyển đổi từ ba thập kỷ
trước: làm sao để chuyển sự kiểm soát nền kinh tế thông qua sở hữu trực tiếp tại
DNNN và quản trị các doanh nghiệp phi nhà nước thông qua các luật và thể thể
đáng tin cậy và minh bạch. Riedel và Tran (1997) từng ủng hộ quá trình kiểu Đài
Loan cho Việt Nam, nơi nhà nước tránh các thách thức chính trị của cải cách
DNNN và thay vào đó tập trung vào các thể chế thị trường áp dụng đồng đều cho tất
cả. Chiến lược thay thế này cho phép khu vực tư nhân của Đài Loan phát triển và
cân bằng ảnh hưởng của DNNN lên tổng thể nền kinh tế. Nhưng các DNNN nhiều
quyền lực và các đại diện của nhà nước phụ thuộc vào chúng (như là công cụ kiểm
soát hay nguồn thu nhập) đã làm cản trở xây dựng các thể thế thị trường minh bạch
và khu vực nhà nước rất thiếu hiệu quả tiếp tục sử dụng nguồn lực có hạn đã làm
hạn chế sự phát triển của khu vực tư nhân. Do vậy, theo Taussig, Hiếu và Linh
(2015), thật khó nhìn thấy sự phát triển tích cực của kinh tế Việt Nam nếu tình trạng
này tiếp tục duy trì, và một lần nữa, cải cách DNNN tiếp tục đóng vai trò trung tâm
trong tranh luận chính sách của đất nước.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), các thành công của đổi mới trong thời
gian qua chủ yếu là do mạnh mẽ phá bỏ cơ chế kế hoạch tập trung và sự hội nhập
vào kinh tế toàn cầu. Tuy vậy, Việt Nam đã bỏ qua nhiệm vụ xây dựng bộ máy
68
hành chính có đủ các năng lực để thiết kế và áp đặt các quy định minh bạch để quản
trị các thị trường mới hình thành.
4.1. Nhận thức của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vai trò, vị trí của DNNN:
Qua các kỳ đại hội Đảng, từ Đại hội Đảng VI (năm 1986) đến đại hội Đảng
XII (năm 2016), nhận thức về vai trò của DNNN đã có nhiều thay đổi. Từ chỗ được
nhận thức là công cụ của Nhà nước để đóng vai trò dẫn dắt nền kinh tế sang chỉ
đóng vai trò tham gia vào những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác không đầu tư (Trần Đình Thiên, Nguyễn Đình Hòa, 2018).
Tại Đại hội Đảng VI, quan niệm vai trò của kinh tế nhà nước đồng nghĩa với
các doanh nghiệp quốc doanh “chiếm tỷ trọng lớn trong cả sản xuất và lưu thông”
(Trần Đình Thiên, Nguyễn Đình Hòa, 2018).
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (năm 2001) đã khẳng định vai
trò của DNNN, như sau: “DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ
vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết kinh tế vĩ mô, làm lực
lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập
kinh tế quốc tế”.
Theo Đại hội X (năm 2006) thì sẽ thu hẹp các lĩnh vực mà Nhà nước nắm
độc quyền kinh doanh, độc quyền doanh nghiệp bị xóa bỏ và “tập trung chủ yếu vào
một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của
nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích”.
Đại hội XII (năm 2016), quan niệm về vai trò của DNNN của Đảng đã có sự
thay đổi, đổi mới: “DNNN tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những
địa bàn quan trọng và quốc phòng an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác không đầu tư”.
Như vậy, quan niệm của Đại hội XII về vai trò của DNNN tương đồng với
quan niệm của chính phủ Singapore và Trung Quốc, DNNN tập trung vào các lĩnh
vực then chốt, thiết yếu.
69
4.2. Đổi mới cơ chế, cách thức quản lý nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam:
Tiếp tục đường lối đổi mới kinh tế, Đại hội VII của Đảng (1991) đề ra chủ
trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý các liên hiệp quốc doanh, bảo đảm kinh tế
quốc doanh phát triển có hiệu quả; thực hiện cho thuê, chuyển hình thức sở hữu
hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên.
Nghị quyết Trung ương 4, khóa VIII đã nêu: “Đối với những doanh nghiệp
nhỏ thua lỗ kéo dài mà không cần thiết duy trì sở hữu nhà nước, cần áp dụng các hình
thức xử lý thích hợp như: sáp nhập, đấu thầu công khai cho thuê, khoán kinh doanh
hoặc bán, giao cho tập thể cán bộ, công nhân với điều kiện đảm bảo công ăn việc làm
cho người lao động và thực hiện pháp luật của Nhà nước”. Việc thực hiện chủ trương
giao, bán và khoán kinh doanh, cho thuê DNNN có ý nghĩa trong việc tách quyền sở
hữu với quyền sử dụng tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp, tạo cho DNNN sản xuất
kinh doanh từng bước chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường.
Nghị quyết Đại hội VII xác định “Sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng
công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường”. Theo đó,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3/1994
về sắp xếp lại DNNN với việc thành lập các tập đoàn kinh tế có quy mô vừa và lớn,
đó là Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91.
Hội nghị lần 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), tháng 9/2001, đã
ra Nghị quyết về thí điểm thành lập các tập đoàn nhà nước trong một số ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế nhằm tạo động lực phát triển cho các ngành, lĩnh vực
khác và toàn bộ nèn kinh tế.
Nhà nước cũng từng bước tách chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức
năng kinh doanh của doanh nghiệp và tách biệt chủ sở hữu nhà nước với quản lý
nhà nước. Với Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 và Luật Doanh nghiệp 2005, mô
hình thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN đã có chuyển biến
tích cực hơn từ mô hình “song trùng” sang mô hình mới tập trung. Việc tách bạch
giữa chủ sở hữu nhà nước với quản lý nhà nước được cải cách triệt để hơn tại Hội
nghị Trung ương 6 khóa XI (tháng 10/2012), Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII
70
yêu cầu: “Sớm xóa bỏ chức năng đại diện sở hữu của các bộ, Ủy ban nhân dân đối
với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp” và Nghị quyết số 05-NQ/TW của
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII tiếp tục khẳng định về việc khẩn trương thành lập
cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp chậm
nhấn đến 2018. Theo đó, các bộ, ngành và địa phương chuyển giao quyền đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty sang cho cơ quan đại diện
chuyên trách quản lý vốn nhà nước để tập trung làm nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Những cải cách này đã từng bước loại bỏ các cơ quan chủ quản có thể can thiệp sâu
vào hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời góp phần cải thiện môi trường kinh
doanh, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế khác.
Tuy vậy, theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), ở Singapore chính phủ giảm
đến mức tối đa sự khác nhau giữa nhà nước và tư nhân với đội ngũ công chức được
khích lệ thuộc loại cao nhất thế giới, đặc biệt là đối với những người tham dự vào đầu
tư khoản tiết kiệm trọng yếu của quốc gia (Sim, Thomsen, Yeong, 2014). Việt Nam thể
hiện rất ít lòng khao khát đem động lực đó vào đội ngũ công chức và sự thiếu hiệu quả
liên quan đến khu vực nhà nước trong đó bao gồm sự phân bổ nguồn lực yếu kém và
sự trục lợi của các doanh nghiệp, các nhà quản lý và nhân viên các công ty đó.
4.3. Cải cách sở hữu của DNNN tại Việt Nam:
4.3.1. Chủ trương, chính sách về cải cách sở hữu DNNN tại Việt Nam
Trong tiến trình chuyển đổi kinh tế từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao câp
sang cơ chế thị trường, Đảng nhận thức sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu đòi hỏi
tất yếu. Trong tiến trình này, cải cách DNNN thông qua đa dạng hóa sở hữu DNNN,
tức là thực hiện cổ phần hóa DNNN nhằm thu hút các nguồn vốn, phát huy quyền tự
chủ kinh doanh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc thực
hiện cổ phần hóa DNNN cũng nhằm cải cách thể chế, thúc đẩy sự tham gia của
thành phần kinh tế tư nhân.
Chủ trương cải cách sở hữu DNNN từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2
khóa VII (tháng 11/1991) với xuất phát điểm là thí điểm cổ phần hóa: “Chuyển một
71
số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số
công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh
nghiệm cu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp”. Việc thí điểm cổ phần
hóa DNNN bắt đầu từ Chỉ thị số 202/CT ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng với việc thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Chủ trương
về cổ phần hóa DNNN được chế định bởi văn bản có tính pháp lý cao hơn là Nghị
định số 28-CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây
là văn bản pháp lý chính thức thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN.
Từ đánh giá các kết quả cổ phần hóa DNNN, Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 4 khóa VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX chỉ đạo đẩy nhanh
tiến độ cổ phần hóa DNNN và mở rộng diện các DNNN cần cổ phần hóa, kể cả một
số tổng công ty và doanh nghiệp lớn. Theo đó, ngày 21/4/1998, Thủ tướng Chính
phủ ra Chỉ thị số 20/1998/CT-TTg về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN, trong
đó mở rộng lĩnh vực và quy mô cổ phần hóa. Tiếp đó, nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ
phần hóa DNNN. Chính phủ ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998
về chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Chủ trương về cổ phần hóa DNNN được
thể chế hóa và nâng cao địa vị pháp lý cao hơn với các quy định trong Luật Doanh
nghiệp nhà nước 2003. Với chủ trương này, hàng loạt doanh nghệp và bộ phận
DNNN không cần nắm giữ 100% vốn được cổ phần hóa, chuyển thành các doanh
nghiệp đa sở hữu có hoặc không có cổ phần nhà nước.
Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về cổ phần hóa DNNN được
thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 3 khóa XI về chủ trương tái cơ cấu DNNN,
trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước (là một trong ba nhiệm vụ trọng
tâm về tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam).
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa
XII đề ra mục tiêu đến năm 2020: Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh
nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ, tham gia góp vốn.
Phân tích về tiến trình cải cách sở hữu DNNN ở Việt Nam có thể thấy, Đảng
chủ trương thực hiện theo cách tiếp cận tiệm tiến. Việc cổ phần hóa bắt đầu thực
72
hiện từ doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa, các công ty thành viên; sau đó mở rộng
đối tượng là các tổng công ty, công ty mẹ trong tập đoàn kinh tế nhà nước, ngân
hàng thương mại nhà nước với quy mô không hạn chế.
Trong thời kỳ đầu thực hiện cổ phần hoá, đối tượng là các DNNN hoạt động
trong các lĩnh vực ngành nghề Nhà nước không cần nắm giữ, sau đó cổ phần hoá
được mở rộng sang các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế, là doanh nghiệp quy mô lớn, có khả năng sinh lời cao.
Trong 10 năm đầu, mục tiêu chủ yếu của cổ phần hoá là đổi mới tổ chức
quản lý; tạo điều kiện thuận lợi và ưu đãi cho người lao động, nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp. Với việc ban hành Nghị định số 64/2012/NĐ-CP, mục
tiêu cổ phần hoá được điều chỉnh nhằm bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước,
doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. Việc ban hành Nghị định số 184/2004
nhằm xoá bỏ tình trạng cổ phần hoá “khép kín”, đẩy mạnh thị trường hoá cổ phần,
bán đấu giá công khai cổ phần. Tiếp đó, Thủ tướng ban hành Quyết định số
1715/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 về Đề án đổi mới quản lý nhà nước đối với các
DNNN theo hướng không phân biệt sở hữu và điều chỉnh quản lý, hoạt động, nâng
cao hiệu quả DNNN khi thực hiện cam kết gia nhập WTO.
Nghị quyết số 12-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khoá XII và Quyết
định 207/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu
DNNN 2016 – 2020 tiếp tục yêu cầu giảm tỷ lệ cổ phần nhà nước xuống mức sàn
theo quy định để thúc đẩy đầu tư tư nhân vào doanh nghiệp.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá IX ban hành năm 2001 và Hội nghị
Trung ương 5 khoá XII yêu cầu đẩy mạnh thoái vốn, giảm đầu tư nhà nước trong
những ngành, lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể thực hiện được. Trong 15 năm
(2001 – 2016), Chính phủ đã 6 lần ban hành các tiêu chí phân loại DNNN theo
hướng giảm số lượng ngành, lĩnh vực duy trì doanh nghiệp 100% sở hữu nhà nước,
từ trên 60 ngành, lĩnh vực năm 2002 xuống còn 11 ngành, lĩnh vực năm 2016 (Trần
Đình Thiên, Nguyễn Đình Hòa, 2018).
73
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/06/2017 của Hội nghị lần thứ 5, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã yêu cầu “chậm nhất đến năm 2018, thành lập
một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước
và cổ phần, góp vốn Nhà nước tại doanh nghiệp” (cmsc.gov.vn).
Ngày 14/09/2017, Ban Chấp hành Trung ương ra Thông báo số 40-TB/TW
Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về Đề án “Thành lập cơ quan chuyên trách
làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại doanh
nghiệp” (cmsc.gov.vn).
4.3.2. Thực trạng của cải cách sở hữu doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
4.3.2.1 Thực trạng của doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), khu vực nhà nước chiếm 1/3 GDP năm
2013 và đóng góp 30% cho tăng trưởng GDP giai đoạn 2005 – 2013.
Bảng 4.1. GDP theo loại hình sở hữu
Nguồn: Taussig, Hiếu và Linh (2015)
74
Khu vực này sử dụng 10% tổng số lao động trong năm 2013, tạo ra 4% số
việc mới giai đoạn 2005 – 2013. Khu vực nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất trong đầu
tư (khoảng 40%) tổng đầu tư tuy hiên đóng góp của DNNN cho tăng trưởng GDP
không đạt được tương ứng khi so với các khu vực khác. Sự thiếu hiệu quả của
DNNN được thể hiện do thực tế khu vực DNNN có ICOR cao nhất trong tất cả các
loại hình sở hữu.
Bảng 4.2. ICOR (Bình quân 3 năm)
Nguồn: Taussig, Hiếu và Linh (2015)
4.3.2.2 Thực trạng cải cách DNNN tại Việt Nam
Cải cách DNNN chủ yếu mới giảm số lượng, chưa thay đổi phân bổ
nguồn lực và đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế
Theo Trần Đình Thiên, Nguyễn Đình Hòa (2018), qua chương trình cải cách
số lượng DNNN giảm mạnh từ 12.084 doanh nghiệp cuối năm 1989 xuống còn
5.759 doanh nghiệp vào năm 2000 và đến 2015 chỉ còn 3.048 doanh nghiệp. Tỷ
trọng DNNN trong tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng giảm đáng kể từ
13,62% (năm 2000) xuống còn 0,76% (năm 2014). Xét theo quy mô, quá trình cải
75
cách DNNN tác động mạnh nhất vào nhóm các doanh nghiệp có quy mô vừa và
nhỏ. Số lượng DNNN quy mô nhỏ giảm từ 8.656 doanh nghiệp (năm 1991) xuống
504 doanh nghiệp (năm 2014).
Xét theo loại hình doanh nghiệp, số lượng DNNN (100% vốn chủ sở hữu nhà
nước) đã giảm đáng kể, từ 1.723 doanh nghiệp (năm 2011) xuống 1.524 doanh
nghiệp (năm 2014). Số lượng DNNN (Nhà nước nắm cổ phần chi phối) giảm rất ít,
từ 1.547 doanh nghiệp (năm 2011) xuóng còn 1.524 doanh nghiệp (năm 2014). Số
lượng DNNN (dạng cổ phần, vốn góp) giảm từ 3.170 doanh nghiệp (năm 2011)
xuống 2.426 (năm 2014). Việc cải cách sở hữu đã góp phần giảm số lượng DNNN
nhưng tỷ lệ vốn sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp (nhất là trong loại hình nhà
nước không cần nắm giữ vốn chi phối) vẫn còn lớn, các DNNN đã cổ phần hoá
chậm triển khai niêm yết trên sàn chứng khoán và khối lượng cổ phần niêm yết ở
mức thấp so với quy mô vốn điều lệ (CIEM, 2016).
Mặc dù DNNN đang có xu hướng giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Giai đoạn 2011 - 2015, DNNN chiếm bình quân
39,12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn so với giai đoạn 2006 - 2010
(38,29%); đóng góp cho tăng trưởng đạt 29% GDP, đồng thời duy trì tỷ trọng đầu
tư ở mức 12,37% GDP (Tài chính Việt Nam 2015, 2016).
Bảng 4.3. Tỷ trọng GDP theo thành phần kinh tế
Đơn vị: %
Thành phần 2016 2015 2014 2013 2012 2011
Kinh tế nhà nước 28,81 28,69 28,73 29,01 29,39 29,01
Kinh tế ngoài nhà nước 42,56 43,22 43,33 43,52 44,62 43,87
Khu vực có vốn đầu tư 18,59 18,07 17,89 17,36 16,04 15,66 nước ngoài
Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê từ 2012 - 2016
76
Các DNNN mặc dù chiếm tỷ lệ rất nhỏ về số lượng trong khu vực doanh
nghiệp (khoảng 0,67%), nhưng vẫn là nguồn thu lớn cho NSNN. Mặc dù có chút
biến động trong năm 2014 nhưng nếu xét cả giai đoạn, tỷ trọng đóng góp vào
NSNN của DNNN có xu hướng ngày càng tăng và cao hơn so với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân. Điều này cho thấy, DNNN vẫn đóng
vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu để phát triển kinh tế đất nước.
Bảng 4.4. Đóng góp của ba khu vực doanh nghiệp vào NSNN
Khu vực 2017 (dt) 2016 2015 2014 2013 2012 2011
Theo giá trị (tỷ đồng)
Thu từ khu vực 286,441 257,321 227,022 188.062 189.069 143.618 126.418 DNNN
Thu từ khu vực 201,057 163,535 141,019 123.802 111.244 82.910 77.076 doanh nghiệp FDI
Thu từ khu vực
công thương 194,419 157,034 129,585 112.196 105.455 93.642 84.503 nghiệp ngoài quốc
doanh
Theo tỷ trọng (%)
Thu từ khu vực 28,93 23,36 22,77 21,43 23,01 19,43 17,51 DNNN
Thu từ khu vực 20,3 14,85 14,15 14,11 13,54 11,23 10,68 doanh nghiệp FDI
Thu từ khu
vực công thương 19,63 14,26 13,00 12,78 12,83 12,53 11,71 nghiệp ngoài quốc
doanh
Nguồn: Niên giám thống kê (2012 - 2016), Báo cáo của Bộ Tài chính
77
Nhà nước đã chi cho giáo dục đào tạo, y tế, các dịch vụ cung cấp nước sạch,
đảm bảo điện sinh hoạt, giao thông công cộng và xử lý rác thải… chi đầu tư vào cơ
sở hạ tầng, các ngành, lĩnh vực quan trọng với tỷ trọng lớn và chủ yếu từ nguồn
NSNN, phân bổ từ nguồn ODA, thông qua việc thành lập các DNNN để cung cấp
hàng hóa, dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp và xã hội và thực hiện kinh
doanh tạo nguồn thu lớn cho NSNN.
4.3.2.2 Thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban
Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
a. Sự thành lập Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC) được thành lập
theo Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2018.
b. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn Nhà
nước tại doanh nghiệp
Theo Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/09/2018 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của CMSC. CMSC là một cơ quan
trực thuộc chính phủ tương tự với SASAC và khác Temasek là một doanh nghiệp.
Quy định chức năng thể hiện CMSC vận hành giống một cơ quan hành chính như
CMSC và các doanh nghiệp do CMSC quản lý phải phù hợp với kế hoạch, quy hoạch,
… ; CMSC giao nhiệm vụ cho doanh nghiệp thực hiện các nhiệm vụ công ích; CMSC có
nhiệm vụ xây dựng và trình chiến lược tổng thể đầu tư phát triển doanh nghiệp thuộc
phạm vi quản lý; đề xuất ban hành, sửa đổi, bổ sung điều lệ của DNNN; chủ trì, phối hợp
với bộ Nội vụ quy hoạch, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm ... Chủ tịch Hội đồng thành viên của
doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập; …
Cơ cấu tổ chức của CMSC tương tự cơ cấu của các cơ quan nhà nước, với
các vụ, văn phòng và trung tâm.
Giá trị vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp mà CMSC đóng vai trò đại diện
chủ sở hữu vốn trên 1 triệu tỷ đồng, giá trị tài sản là hơn 2,3 triệu tỷ đồng. 19 doanh
nghiệp do CMSC quản lý là các doanh nghiệp chủ chốt các ngành thiết yếu, không
chỉ vốn lớn mà còn có vị trí lớn trong nền kinh tế.
78
Như vậy, CMSC cũng tương tự Temasek và SASAC cùng đóng vai trò đại
diện sở hữu vốn nhà nước tại các DNNN, quản lý và giám sát các doanh nghiệp
này, và tương tự SASAC trung ương của Trung Quốc cũng là một cơ quan nhà
nước. Có thể nói CMSC với trách nhiệm đại diện chủ sở hữu và quản lý phần vốn
tại các doanh nghiệp chủ chốt các ngành thiết yếu, đóng vai trò quan trọng trong sở
hữu và kiểm soát hệ thống DNNN ở Việt Nam, đóng vai trò trung tâm trong kiến
trúc quản trị nhà nước đối với DNNN ở Việt Nam.
4.3.3. Những khó khăn, trở ngại và tranh luận về cải cách DNNN tại Việt Nam
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), phần lớn câu truyện về khu vực nhà
nước của Việt Nam là do “phụ thuộc con đường”, các DNNN được sử dụng nguồn
lực lớn và được đại diện diện trong chính phủ bởi những người có được nguồn lợi
liên quan do vậy e ngại các thay đổi cấu trúc sẽ làm mất quyền lợi, bên cạnh đó là
các quản lý, người lao động những người e ngại những áp lực của cạnh tranh hay
khả năng mất đi vị trí cho những người có nhiều kinh nghiệm quản lý hơn. Những
nhóm này trực tiếp tham gia vào hoạt động hiện tại của DNNN và có quyền lực lớn
để làm chậm lại quá trình cổ phần hóa, và có nhiều khả năng sẽ trở thành vật cản
trong quá trình cải cách DNNN. Những quan chức chính phủ, những người trực tiếp
giám sát DNNN cũng có lý do để giữ lại trạng thái cũ.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), tranh luận về vai trò của DNNN như
công cụ hữu hiệu để khắc phục khuyết tật thị trường, nhất là trong giai đoạn suy
thoái kinh tế như đã xảy ra năm 2008. Tuy nhiên, các DNNN cũng đã góp phần tạo
ra bóng bóng bất động sản, chứng khoán khi dòng tiền được bơm từ DNNN vào các
thị trường này. Tuy vậy, tranh luận này cũng đi kèm với giả định rằng nhà nước yếu
không đủ khả năng để điều tiết thị trường. Theo OECD (2015), DNNN có thể được
sử dụng một cách linh hoạt để khắc phục khuyết tật thị trường, đạt một số mục tiêu
xã hội nhất định, có thể bổ sung cho cơ chế thị trường và điều hành. Tuy vậy, để trở
thành một công cụ được sử dụng một cách linh hoạt và hữu ích, cần DNNN hoạt
động tốt, hiệu quả và được quản trị tốt, một DNNN không được quản trị tốt sẽ gây
ra nguy cơ thất thoát, lãng phí khi sử dụng nguồn lực cho các mục tiêu vĩ mô.
79
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), vấn đề thứ ba để tranh luận cho sở hữu
tại DNNN là, sau hơn 30 năm kể từ khi bắt đầu đổi mới, Việt Nam mới tạo được
tiến bộ hạn chế trong xây dựng các thiết thế thị trường có tính nền tảng nhất như
thực thi hợp đồng, thu thuế hay bảo vệ xã hội khỏi các ngoại ứng của hoạt động
kinh tế. Tuy vậy, sức mạnh của các DNNN và sự tham dự vào các hoạt động phi thị
trường cũng làm giảm nhu cầu cần thiết phát triển các thiết chế cần thiết đó.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), các DNNN Việt Nam vẫn được dành
cho nhiều đặc quyền. Thứ nhất, là do sự hỗ trợ dường như là vô điều kiện từ chính
phủ nên các DNNN họ và thị trường cung cấp cho họ mức chiết khấu cho rủi ro phá
sản ngay cả khi xảy ra lỗ. Thứ hai, các DNNN có khả năng chuyển từ độc quyền
nhà nước sang độc quyền doanh nghiệp, do đó họ có thể chi phối thị trường và kiểm
soát giá với rất ít bằng chứng cho thấy chất lượng dịch vụ công tốt hơn. Thứ ba, các
DNNN có thể sử dụng “xin cho” dường như luôn được dành cho họ khi họ kêu có
khó khăn. Thứ tư, các DNNN được ưu tiên hơn khi tiếp cận các nguồn tài nguyên
khan hiếm nhất đặc biệt là tín dụng và đất đai.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), ảnh hưởng của đặc quyền dành cho
DNNN có hai mặt:
Thứ nhất, đặc quyền dành cho các DNNN làm giảm cơ hội cho khu vực tư
nhân tiếp cận nguồn lực chủ yếu và cơ hội tăng trưởng.
Xét theo hiệu quả phân bổ nguồn lực, thì nguồn lực lớn dành cho khu vực
không hiệu quả nhất thì là một thất bại của phân bổ nguồn lực.
Thứ hai, lợi thế thị trường dành cho DNNN, ảnh hưởng đến quản lý và động
lực của bản thân DNNN. Tiếp cận dễ dàng tài nguyên thiên thiên khiến các nhà
quản lý cảm thấy ít áp lực hơn để cải thiện năng suất và thực hiện những nâng cấp
kho khăn, khiến họ thay vào đó hướng vào các hoạt động mang tính cơ hội và
không liên quan đến ngành cốt lõi, thay vào đó là những ngành dễ dàng, không cốt
lõi. Những hoạt động này dẫn đến tình trạng DNNN tham gia các hoạt động phù
hợp với tình trạng thiếu năng lực cạnh tranh và khả năng quản trị, thương là mang
tính đầu cơ và “thu tô”. Trong quá khứ, đã xảy ra tình trạng DNNN tham gia vào
80
ngành ngân hàng, đầu tư chứng khoán và bất động sản. Hệ quả là hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước và tập đoàn kinh tế ở Việt Nam đa dạng hơn
ngay cả so với các doanh nghiệp ở các nước láng giềng khu vực vốn nổi tiếng vì các
tập đoàn kinh tế có hoạt động kinh doanh được đa dạng hóa.
Khi các DNNN thiếu năng lực cạnh tranh và năng lực quản trị, thiếu đầu tư
đổi mới công nghệ thì vai trò dẫn dắt của nền kinh tế trong quá trình phát triển kinh
tế đất nước như phân tích về bốn giai đoạn phát triển của Porter (1990) sẽ không
được đảm bảo, không thúc đẩy được nền kinh tế Việt Nam như giai đoạn 2, giai
đoạn đầu tư vào thiết bị công nghệ và để tạo động lực, hiệu quả bước vào giai đoạn
đổi mới, phát minh. Nếu DNNN không đáp ứng được vai trò này, thì sẽ là gánh
nặng với sự tiến bộ của nền kinh tế hơn là vai trò đầu tàu, kéo kinh tế đất nước ở
giai đoạn phụ thuộc vào các yếu tố sản xuất như lao động giá rẻ, tài nguyên, vốn,
…. Theo giáo sư Trần Văn Thọ: “Việc doanh nghiệp chưa tiếp cận được với vốn
chính là vấn đề liên quan đến chính sách. Cơ chế, thể chế hiện nay vẫn còn ưu
đãi doanh nghiệp nhà nước, nhiều khi các doanh nghiệp này được đặt vị trí quan
trọng, sử dụng nhiều vốn, nhiều đất đai và nhiều nguồn lực khác. Thế nhưng các
doanh nghiệp này lại lãng phí trong việc đầu tư và làm cho năng suất lao động bị
thấp đi” (the leader.vn, 2018).
Bên cạnh đó, theo Giáo sư Trần Văn Thọ, quá trình cổ phần hóa, liên quan
đến bán vốn cho nước ngoài cũng có thể gây ra tình trạng phụ thuộc vào nước ngoài
nhiều hơn nữa, khi mà hiện này các doanh nghiệp FDI chiếm 50% sản lượng công
nghiệp. Cổ phần hóa là cần thiết nhưng có lúc cũng cần chậm lại hoặc là nâng đỡ để
doanh nghiệp trong nước tham gia tích cực. Mặc dù doanh nghiệp nước ngoài tham
gia giúp doanh nghiệp cổ phần hóa tiếp thu nguồn lực kinh doanh tiên tiến và tăng
sức cạnh tranh.
4.4 Hàm ý cho chính sách phát triển và quản trị nhà nước đối với DNNN của
Việt Nam:
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), trong quá khứ, chính phủ Việt Nam
thường hành động chỉ vừa đủ để vượt qua các thách thức tạm thời. Sự thay đổi thực
81
sự trong chính sách với DNNN đòi hỏi từ các nhà đầu tư sẽ đòi hỏi ý chí của chính
phủ hoàn toàn chuyển đổi từ một hệ thống kiểm soát thông qua sở hữu trực tiếp
sang một hệ thống quản trị thị trường thông qua luật và các thể chế minh bạch.
Joe Studwell trong cuốn sách “Châu Á vận hành như thế nào?” (2013) trong
đó tập trung vào ba lĩnh vực lựa chọn chính sách, trong đó quyết định chính trị tạo
ra khác biệt lớn nhất đối với kết quả phát triển và cho rằng, lịch sử nhắc nhở chúng
ta rằng vận mệnh phát triển quốc gia nằm trong tay nhà nước.
Từ đó, nhắc nhở tầm quan trọng của chính sách của nhà nước, tạo ra sự khác
biệt cho kết quả phát triển, nghiên cứu kinh nghiệm các quốc gia đã đi trước trong
quá trình phát triển cho chúng ta bài học quý giá.
4.4.1 Hàm ý cho chính sách phát triển DNNN của Việt Nam:
Thành công của các nền kinh tế Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore và Đài Loan trước đây và hiện nay là Trung Quốc, các quốc gia này phụ
thuộc nhiều vào sự tham dự của nhà nước để thúc đẩy phát triển kinh tế, trong đó,
trong một số trường hợp các quốc gia mà sở hữu nhà nước có vị trí rộng khắp, đặc
biệt là Trung Quốc và Singapore (OECD, 2015).
Theo dòng tư tưởng mới thường được gọi là Hậu-Chủ nghĩa phát triển hay
Hậu-Chủ nghĩa tái cấu trúc, cho rằng thành công của các nền kinh tế châu Á dựa
vào mô hình lai của hai cách tiếp cận trước đó, cho rằng nhà nước nên là một động
lực trong phát triển và nên hành động trên thị trường và nhạy cảm với các tín hiệu
thị trường (OECD, 2015).
Cùng với thành công của một số nền kinh tế Đông Á, nhất là của Trung
Quốc và Singapore trong sử dụng vai trò của DNNN như một công cụ của phát
triển, là các tấm gương cho Việt Nam.
4.4.1.1 Một số số khó khăn, trở ngại trong chính sách phát triển DNNN của Việt Nam:
Như tranh luận của các nhà Hậu-Chủ nghĩa phát triển, nhà nước nên không
chỉ loại bỏ các rào cản, họ nên đóng một vai trò tích cực, như xác định con đường
phát triển khả thi, và con đường đó đã có những nền kinh tế đã đi, ở các nước
ASEAN, với mô hình được gọi là “đàn ngỗng bay” (OECD, 2015).
82
Chính sách công nghiệp có thể bị lợi dụng hay làm suy yếu bởi các nhóm lợi
ích và các hoạt động kinh doanh đang tồn tại. Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu, các biện pháp hỗ trợ DNNN có thể bị ngăn cản. Theo OECD (2015) bài
học của các nước Mỹ La tinh, một trong những lý do chính khiến cách tiếp cận kiểu
Châu Á hoạt động thiếu hiệu quả là các chính sách công nghiệp có thể bị lợi dụng
hay làm suy yếu bởi các nhóm lợi ích và các hoạt động kinh doanh đang tồn tại trên
thị trường. Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay sự tồn tại của các nhóm lợi ích và
các các doanh nghiệp của nhà nước, tư nhân cũng như nước ngoài đang kinh doanh
có quy mô lớn trên thị trường thậm chí có vị thế kiểm soát thị trường, có thể bị lợi
dụng hoặc bị làm hạn chế bởi các nhóm và doanh nghiệp này. Để chính sách công
nghiệp đạt hiệu quả cần nhận diện rủi ro này và có biện pháp loại bỏ, khắc phục,
hạn chế sự can dự của các nhóm lợi ích, các đơn vị kinh doanh hiện tại vào quá
trình ban hành và thực thi chính sách phát triển.
Bên cạnh đó, vấn đề rủi ro liên quan đến chính sách phát triển do các vấn đề
về quản trị công gây ra các rủi ro về tham nhũng, lãng phí, … cũng được đặt ra, đòi
hỏi bên cạnh chính sách phát triển do nhà nước dẫn dắt thì cần nâng cao năng lực
quản trị công và quản trị công ty.
Ngoài ra, khó khăn để nguồn đầu tư để đạt hiệu quả cao hay sẽ làm giảm
hiệu quả phân bổ vốn của tổng thể nền kinh tế, hạn chế nguồn lực dành cho khu vực
tư nhân, hoạt động theo cơ chế thị trường, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác
trên thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, cải tiến công nghệ hay lệ thuộc vào ưu đãi của
nhà nước, trở thành gánh nặng của nền kinh tế.
Để phát triển theo mô hình của các nước Đông Á, do nhà nước dẫn dắt, cần có sự
đổi mới cách thức thực hiện của nhà nước nói chung và của các DNNN nói riêng.
4.4.1.2 Phát triển DNNN đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Việt
Nam lên trình độ cao hơn:
Theo khung phân tích về bốn giai đoạn phát triển của Michael Porter và kinh
nghiệm của Singapore và Trung Quốc, trong đó, các GLC của Singapore và các
DNNN của Trung Quốc đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình này. Việt Nam
83
cần tiến lên theo bốn giai đoạn phát triển này, trong đó các DNNN cần đóng vai trò
quan trọng vì nguồn lực lớn họ đang nắm giữ về vốn, máy móc, đất đai, nhân lực, ...
và vai trò, trách nhiệm được nhà nước giao cho họ.
Các DNNN được giao nguồn lực lớn của nền kinh tế với vai trò, trách nhiệm
với nền kinh tế, cùng với các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong nước đang
phát triển, có thể liên kết với khu vực FDI để tăng nội lực, để được chuyển giao
công nghệ và tri thức quản lý, việc liên kết này được mở rộng sẽ làm cho nền công
nghiệp cả nước ngày càng tiến về thượng nguồn trong chuỗi giá trị (Trần Văn Thọ,
2006). Trong điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam còn ở mức thấp, theo OECD
(2015), nhà nước có thể dựa vào các DNNN để nuôi dưỡng các khu vực. Kinh
nghiệm của Singapore cho thấy bài học sử dụng DNNN như là công cụ thúc đẩy
phát triển trong bối cảnh thiếu hụt lực lượng doanh nhân trong khu vực tư nhân.
Theo Di Maio (2009) chính sách thay thế nhập khẩu có tác dụng yếu do
chúng không được bổ sung bởi chính sách khuyến khích xuất khẩu và không có đối
thủ cạnh tranh bên trong và bên ngoài, Trần Văn Thọ (2006) cũng cho rằng Việt
Nam phải chủ động chuyển sang chiến lược hướng ngoại. Trong đó, các DNNN cần
đáp ứng vai trò quan trọng trong chiến lược này. Studwell (2013) nghiên cứu về lịch
sử phát triển của các nước Đông Á và Đông Nam Á cũng cho thấy rằng, các nước
Đông Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và sau này là Trung Quốc, đã thành
công một phần nhờ áp đặt kỷ luật, ép các doanh nghiệp phải xuất khẩu, nhờ đó phải
tăng sức cạnh tranh, trong khi các nước Đông Nam Á lại không áp dụng kỷ luật này,
các doanh nghiệp chủ yếu hướng tới thị trường nội địa. Do vậy, DNNN cũng cần bị
áp áp lực, cần áp đặt kỷ luật xuất khẩu lên các doanh nghiệp này.
Luận văn cho rằng các DNNN cần cạnh bình đẳng trên thị trường, cần tập
trung nâng cao sức cạnh tranh, tương tự kinh nghiệm của Singapore, các GLC phải
cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường. Như phân tích của Taussig, Hiếu và
Linh (2015), ưu đãi dành cho các DNNN khiến các doanh nghiệp này giảm áp lực
phải đổi mới công nghệ, đi lên các nấc thang cao hơn mà tập trung vào những lợi
nhuận dễ kiếm. Kinh nghiệm của các nước đi trước, theo OECD (2015) cần áp dụng
84
cả thưởng và phạt, thưởng cho các thành tích và phạt cho sự thất bại. Cần áp dụng
kỷ luật đối với các DNNN không đạt được mục tiêu. Theo OECD (2015), Rodrik,
(2006), Khan và Blankenburg (2009) dường như đã có kết luận về cốt lõi của thành
công là sự kết hợp giữa “củ cà rốt” và “cây gậy”. Các quốc gia Đông Nam Á trong
khi đưa ra các khuyến khích về thuế và hỗ trợ tính dụng khá rộng rãi, đồng thời áp
dụng điều kiện lên kế quả kinh doanh – không chỉ là thành tích xuất khẩu. Sự ưu đãi
dễ dãi dành cho các DNNN một mặt không kích thích các DNNN phải nỗ lực, mặt
khác, đối với tổng thể nền kinh tế là sự phân bổ nguồn lực không hiệu quả.
Luận văn cho rằng, chiến lược phát triển của Việt Nam nói chung và của khu
vực DNNN Việt Nam nói riêng cần được đánh giá bởi bước tiến trên con đường
phát triển tiến lên theo bốn giai đoạn phát triển, thay vì các DNNN mãi ở giai đoạn
một, phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản của sản xuất như nhân công (dệt may, da
giày), tài nguyên (than, khai thác dầu), đất đai (cao su, khu công nghiệp), ... cần tiến
lên các giai đoạn cao hơn, từ đó lan tỏa sang các khu vực khác của nền kinh tế, như
kinh nghiệm của Trung Quốc, đã tiến đến giai đoạn 3 của quá trình phát triển và của
Singapore, đã trở thành nước có thu nhập cao hàng đầu thế giới. Kinh tế Việt Nam
cần tiến lên chuỗi giá trị cao hơn, trong đó, các DNNN với nguồn lực lớn được nhà
nước giao cho, cần gánh vác một phần quan trọng trách nhiệm này, nếu không kinh
tế Việt Nam có thể bị mắc kẹt vào phát triển ở trình độ thấp, chuỗi giá trị thấp, phụ
thuộc vào các yếu tố sản xuất và khi đó rất khó vươn lên do không có khả năng
cạnh tranh về công nghệ, sản xuất và sản phẩm.
4.4.1.3 Định hướng phát triển DNNN vào các mục tiêu công nghiệp hóa:
Theo OECD (2015), tranh luận về “ngành công nghiệp non trẻ”, các nhà Hậu
– Chủ nghĩa phát triển, những người cho rằng quá trình học tập là một phần của tích
lũy vón tự động dẫn tới gia tăng lợi nhuận theo thời gian. Joe Studwell (2013) trong
cuốn sách nghiên cứu thành công và thất bại của các nước Châu Á, cho rằng các
quốc gia thành công đã có hoạt động đào tạo diễn ra trong các doanh nghiệp, trong
khi các quốc gia thất bại chú trọng đào tạo trong các nhà trường. “Môi trường chính
cho phát triển công nghệ công nghiệp là ở doanh nghiệp chứ không phải ở các định
85
chế công”. Do vậy, các DNNN bằng tập trung vào phát triển sản xuất, vào công
nghiệp định hướng vào tương lai, đi lên nấc thang cao hơn của trình độ phát triển,
đồng thời tạo môi trường điều kiện để học hỏi sử dụng công nghệ, làm chủ nó và
tạo môi trường để đào tạo nhân lực. Thiếu vắng sự tập trung vào phát triển sản xuất
và nâng cao công nghệ thì không tạo ra điều kiện học hỏi và đào tạo. Và nếu nhà
nước không cưỡng ép về việc hình thành các doanh nghiệp có thể trở thành phương
tiện để học hỏi về công nghiệp thì tất cả nỗ lực đầu tư vào giáo dục chính quy đều
đổ sông đổ bể.
Theo Joe Studwell (2013), sự nâng cấp công nghệ trong sản xuất là công cụ
tự nhiên giúp đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi kinh tế, sự nâng cấp này đạt được thông
qua chính phủ định hướng doanh nghiệp vào những mục tiêu công nghiệp hóa do
chính phủ định hình. Do vậy, nhà nước Việt nam với công cụ chính sách, điều hành
và sở hữu tại các DNNN thông qua cần tạo sức ép buộc các DNNN đi vào con
đường phát triển công nghiệp, định hướng các doanh nghiệp này vào những mục
tiêu công nghiệp hóa, bằng cả “củ cà rốt” và “cây gậy” để tạo môi trường đào tạo,
học hỏi và phát triển của công nghiệp.
4.4.1.4 Tái cơ cấu hệ thống DNNN và thúc đẩy cạnh tranh, xuất khẩu:
Theo Joe Studwell (2013), Trung Quốc đã thành công với việc sàng lọc các
doanh nghiệp thua lỗ kết hợp với một chương trình hiệu quả để tăng mức độ cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp lớn nhất. SASAC có trách nhiệm xử lý các doanh
nghiệp không hoạt động hiệu quả, hay loại bỏ chúng, theo đó khuyến khích hình
thành những tập đoàn lớn, có thể cạnh tranh toàn cầu.
Kinh nghiệm của Singapore cũng buộc các GLC phải cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác trên thị trường, doanh nghiệp thua lỗ bị buộc đóng cửa.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), ở Việt Nam các DNNN được sự ưu đãi
về tiếp cận vốn, đất đai, … làm giảm áp lực khiến họ phải nâng cấp công nghệ,
giảm chi phí, do vậy làm giảm khả năng cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp này
càng phụ thuộc hơn nữa vào hỗ trợ, độc quyền. Xét về hiệu quả phân bổ nguồn lực
86
của cả nền kinh tế thì không hiệu quả, các DNNN cần phải chịu áp lực cạnh tranh
để phải cải tiến công nghệ và áp dụng các công nghệ khó, phức tạp.
Theo Joe Studwell (2013) các DNNN trước đó tận hưởng độc quyền ngách,
ví dụ, các công ty lọc dầu Trung Quốc, mỗi công ty có lãnh địa sản phẩm riêng, bị
buộc phải cạnh tranh với nhau. Kết quả là những tập đoàn nhóm nhà nước đã tối đa
hóa lợi nhuận theo cách chưa từng thấy ở các doanh nghiệp quốc doanh độc quyền.
Chính sách của Trung Quốc buộc mỗi DNNN trong lĩnh vực mà nhà nước đóng vai
trò thống lĩnh phải cạnh tranh với ít nhất 3 DNNN, có thể học hỏi tại Việt Nam. Ở
Việt Nam, trường hợp ngành viễn thông với vị trí thống lĩnh của ba doanh nghiệp
quốc doanh đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường bằng số lượng thuê bao di động,
số lượng trạm phát song phủ rộng cả nước và lợi nhuận rất lớn, sự khác biệt có thể
nhận thấy khi đơn vị thứ 3 của nhà nước (Tập đoàn Viễn thông Quân đội – Viettel)
tham gia vào thị trường trước đó do 2 Tổng công ty thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông chiếm phần lớn thị phần.
Theo Joe Studwell (2013), chính phủ Trung Quốc đã giữ hoàn toàn quyền
kiểm soát các doanh nghiệp thượng nguồn và dịch vụ, bằng các DNNN độc quyền
nhóm, tránh rơi vào tay các ông trùm tư bản có lợi ích không nhất quán với các mục
tiêu công nghiệp hóa. Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm Trung Quốc,
Singapore, giữ sở hữu DNNN đóng vai trò chi phối ở cá ngành có vị trí quan trọng
chiến lược, nhằm phục vụ cho các mục tiêu công nghiệp hóa. Bên cạnh đó cần tiếp
thu công nghệ quản trị, quản lý chuyên nghiệp, tri thức ngành công nghiệp, hiểu
biết thị trường thông qua bổ nhiệm thành viên hội đồng quản trị giàu năng lực, kinh
nghiệm hay thoái một phần vốn nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty cho các đối
tác nhằm nhận lấy các yếu tố trên, đồng thời tạo sự gắn kết với thị trường thế giới.
Chính sách phát triển DNNN của Việt Nam, học hỏi kinh nghiệm từ quốc tế
cần thúc đẩy các DNNN cạnh tranh, tạo ra sự cạnh tranh giữa các DNNN cũng như
giữa các DNNN với các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Đồng thời thúc đẩy xuất khẩu bằng cả biện pháp “củ cà rốt” và “cây gậy”, tức là
87
vừa tạo điều kiện đồng thời cũng tạo sức ép buộc các doanh nghiệp này phải xuất
khẩu, tập trung vào các sản phẩm, công nghệ cốt lõi của doanh nghiệp.
4.4.2 Hàm ý cho chính sách quản trị nhà nước đối với DNNN của Việt Nam:
Như tranh luận của Pack và Saggi (2006), Rodrik (2008) và Altenburg
(2011), của của trường phái hậu chủ nghĩa phát triển, ở nhiều quốc gia ở trình độ
phát triển thấp, đó là sự trục trặc và tham nhũng trong khu vực công, mô hình kinh
tế dựa vào sự dẫn dắt của nhà nước, khả năng cao sẽ gặp trục trặc do đó, cần đi
cùng với cải thiện quản trị công và quản trị công ty.
4.4.2.1 Nghiên cứu, tìm kiếm và thử nghiệm mô hình quản trị DNNN phù hợp với
điều kiện Việt Nam
Trong trường hợp của Singapore, nghiên cứu của Dan, ChengHan và
Umakanth (2015) phát hiện thấy các doanh nghiệp GLC tạo ra kết quả kinh doanh
mạnh và thúc đẩy quản trị công ty tốt, thậm chí tốt hơn các doanh nghiệp phi GLC
về cả kết quả quản trị công ty và kết quả kinh doanh. Kinh nghiệm của Singapore
đưa ra một câu trả lời khác hơn cho hệ thống quản trị công ty, thay vì sự đồng thuận
về mô hình quản trị công ty của Mỹ, hướng tới thị trường, lấy cổ đông làm trung
tâm. Lựa chọn mô hình nào là câu hỏi cần đặt ra.
Bên cạnh đó, nghiên cứu Dan, ChengHan và Umakanth (2015) phản ánh
rằng quản trị công ty được hỗ trợ bởi lý thuyết “phụ thuộc con đường”, với đề xuất
rằng, cấu trúc doanh nghiệp và các tổ chức thường được định hình bởi các cấu trúc
đang tồn tại, vốn khó thay đổi do các lợi ích hiện tại đang hưởng lợi từ đó. Nghiên
cứu cũng nhấn mạnh, yếu tố chính trị và văn hóa đóng vai trò quan trọng trong định
hình nên các cấu trúc và thực hành quản trị công ty.
Trong trường hợp Việt Nam, cần có sự xem xét, nghiên cứu, tìm kiếm mô
hình phù hợp với điều kiện riêng của môi trường Việt Nam, các yếu tố hiện có như
chính trị, văn hóa, thể chế … như kinh nghiệm của Singapore, và nghiên cứu của
Dan, ChengHan và Umakanth (2015) mô hình của Singapore không phải là mô hình
có thể dễ dàng chuyển giao sang quốc gia khác bởi nó hình thành và phát triển trong
môi trường đặc thù,. Việc tìm kiếm, nghiên cứu cần sự tham gia của các ngành
88
nghiên cứu liên quan như văn hóa, thể thế, quản lý, …; hay qua ý kiến của những
lãnh đạo các doanh nghiệp thành công hoặc qua nghiên cứu các trường hợp (case
study) của các DNNN thành công và thất bại của Việt Nam. Bên cạnh đó, chúng ta
có thể học hỏi bài học kinh nghiệm quốc tế quý báu từ các quốc gia đã đi trước
chúng ta, đã trải qua kinh nghiệm thành công và thất bại, các quốc gia có sự tương
đồng hay khác biệt với chúng ta về điều kiện lịch sử, văn hóa, chính trị, thể chế, ….
4.4.2.2 Cổ phần hóa không phải là toàn bộ câu trả lời cho vấn đề tái cấu trúc các
DNNN của Việt Nam:
Bài học từ thành công của Singapore với các doanh nghiệp GLC, đóng góp
một điểm quan trọng đó là, nó thách thức quan điểm cho rằng hệ thống quản trị
công ty đang hội tụ về theo mô hình của Mỹ, định hướng thị trường, lấy cổ đông làm
trung tâm (Dan, ChengHan và Umakanth, 2015). Điều này có ý nghĩa với Việt Nam, vì
có nhiều quan điểm cho rằng cổ phần hóa là giải pháp hiệu quả và cổ phần hóa là câu
trả lời cho vấn đề tái cấu trúc DNNN ở Việt Nam. Kinh nghiệm của Singapore đưa ra
một câu trả lời khác hơn cho hệ thống quản trị công ty, thay vì sự đồng thuận về mô
hình quản trị công ty của Mỹ. Xem xét lịch sử phát triển của mô hình GLC Singapore
làm sáng tỏ rằng một nền kinh tế thành công ở mức độ cao và một hệ thống quản trị
công ty có thể được xây dựng trên nền các công ty có chính phủ là cổ đông kiểm soát
cuối cùng, và mô hình này đã bắt đầu và tiếp tục cả khi Singapore trở thành một trong
những nước có thu nhập cao hàng đầu thế giới (Dan, ChengHan và Umakanth, 2015).
Điều đó chứng tỏ, mô hình này hiệu quả, ít nhất là trong điều kiện của Singapore và
vẫn đang tiếp tục hiệu quả. Câu hỏi đặt ra là chính phủ đóng vai trò như thế nào để
quản trị DNNN hiệu quả? Sử dụng những cơ chế gì?
Chính phủ Singapore với đại diện của nó là Công ty Temasek là cổ đông
quyền lực nhất trên thị trường, hơn hẳn các cổ đông khác, các GLC hiện đang chiếm
37% vốn hóa thị trường (Dan, ChengHan và Umakanth, 2015). Không chỉ vậy
Temasek còn đóng vai trò cổ đông tích cực, khuyến khích quản trị công ty tốt, điều
này bao gồm ủng hộ việc hình thành hội đồng quản trị có năng lực cao, giàu kinh
nghiệm và đa dạng để hướng dẫn và góp ý vào việc quản lý công ty.
89
Câu hỏi cần đặt ra sau khi cổ phần hóa các DNNN là: Nhà nước cần làm gì
để đóng vai trò cổ đông tại các DNNN, phát huy quản trị công ty tốt tại các DNNN
và hoạt động đạt kết quả tốt, thể hiện cả ở hiệu quả kinh doanh cũng như các sản
phẩm, dịch vụ tốt phục vụ các đối tác, các khách hàng và người dân, đem lại tác
động tích cực đến toàn bộ nền kinh tế và xã hội.
Trong đó, CMSC với vai trò cơ quan đại diện sở hữu vốn nhà nước tại
Doanh nghiệp cần thực thi tốt vai trò này, tương tự Temasek của Singapore.
Như vậy, hàm ý cho rằng cổ phần hóa không phải toàn bộ câu trả lời cho vấn
đề tái cấu trúc DNNN mà cần có các hoạt động sâu hơn liên quan đến quản trị các
doanh nghiệp này, cơ chế hoạt động, nhân sự và chiến lược phát triển doanh nghiệp
sau khi tái cấu trúc. Đây là điểm chính sách nhà nước cần quan tâm.
4.4.2.3 Nâng cao chất lượng quản trị công, xây dựng cơ chế quản trị, giám sát minh
bạch đối với DNNN
Từ kinh nghiệm của Singapore, năng lực và sự trong sạch quản trị công đã
được chuyển sang cho các GLC. Với mô hình minh bạch, như Tổng thống có trách
nhiệm với việc duy trì dự trữ tích lũy từ trước của Temasek và Temasek có trách
nhiệm báo cáo với Tổng thống, với các công cụ kiểm soát được đặt để giám sát,
kiểm soát đối với Temasek và các GLC.
Nghiên cứu của OECD (2015) cũng cho rằng thành công cuối cùng của sử
dụng chiến lược do nhà nước dẫn dắt có thể phụ thuộc vào chính phủ có năng lực
quản trị mạnh hay không.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), các công chức Singapore được thúc đẩy,
tạo động lực cao bậc nhất thế giới, nhất là liên quan đến những người thực hiện đầu
tư nguồn dự trữ quý giá. Do vậy, trong trường hợp Việt Nam cũng cần có biện pháp
thúc đẩy động lực cho công chức liên quan đến hoạt động quản trị các DNNN như
mức lương thỏa đáng, khen thưởng và kỷ luật dựa vào thành tích, xây dựng đạo đức
công vụ, xây dựng kỷ luật công tác, động lực phục vụ vì mục tiêu chung, ...
Luận văn cho rằng, qua các kinh nghiệm quốc tế và các lý thuyết, có mối
quan hệ hai chiều giữa quản trị công và quản trị DNNN, năng lực và sự hiệu quả,
90
trong sạch quản trị công có thể chuyển giao và ảnh hưởng mạnh tới quản trị DNNN,
do vậy, xây dựng năng lực quản trị công tốt, trong sạch và xây dựng cơ chế kiểm soát
minh bạch, hiệu quả giúp một mặt tạo ra chất lượng quản trị tốt đối với các DNNN,
mặt khác ngăn chặn được các hành vi can thiệp, tư lợi của chính trị và công chức vào
DNNN như Wong (2014) đã chỉ ra, các DNNN khác với các doanh nghiệp khu vực tư
nhân trong vấn đề người đại diện là bên cạnh hành vi tư lợi của các nhà quản lý doanh
nghiệp, các DNNN còn bị vấn đề tư lợi của các chính trị gia và công chức. Hoạt động
chống tham nhũng cần tiếp tục nỗ lực và đạt kết quả tốt, tạo ra quản trị công trong sạch,
cũng góp phần vào quản trị các DNNN. Bên cạnh đó, cần quyết tâm đủ mạnh của
Đảng, chính phủ để tái cơ cấu quản trị đối với DNNN trong bối cảnh các lợi ích muốn
giữ nguyên tình trạng hiện tại.
Theo Lý thuyết người đại diện, xung đột giữa các mục tiêu cá nhân được tạo
cân bằng bằng cơ chế hợp đồng. Mục đích của các hợp đồng này giúp cho các bên
hành động với lợi ích của mình nhưng được khuyến khích nhằm đồng thời tối đa
hoá lợi ích của tổ chức, giảm chi phí cho vấn đề người đại diện và sử dụng phương
pháp kế toán có lợi nhất cho thành tích của họ. Áp dụng các cơ chế hợp đồng nhằm
đảm bảo lợi ích các bên liên quan, về trách nhiệm và quyền lợi, tạo điều kiện cho cả
các nhà quản lý và DNNN đều đạt thành công. Kinh nghiệm của Singapore về cơ
chế lương cao tại các GLC là một kinh nghiệm có thể học hỏi.
4.4.2.4 Chính sách quản trị nhà nước đối với DNNN chuyển dần sang sử dụng cơ
chế thị trường, giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp
Kinh nghiệm của Singapore, với vai trò của Temasek, vận hành như một
công ty thương mại, với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn, nhờ đó đã tách
bạch hiệu quả chức năng điều hành và ban hành luật của nhà nước với chức năng
của cổ đông.
Luận văn cho rằng quản trị nhà nước đối với DNNN, theo kinh nghiệm của
Singapore, cần chuyển dần sang dựa trên sử dụng cơ chế thị trường, để dần tách
bạch một cách hiệu quả vai trò cổ đông của nhà nước với vai trò điều hành thị
trường và ban hành luật. Bên cạnh đó thúc đẩy các DNNN thích ứng với thị trường
91
và chịu các cơ chế tài, giám sát của thị trường như của các nhà đầu tư, các nhà cho
vay, … phải thực hiện công bố thông tin minh bạch.
Các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển cần cần cạnh tranh được, cung cấp
sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, thu được lợi nhuận từ thị trường và
tái đầu tư, thay vì tồn tại phụ thuộc vào đầu tư và trợ cấp từ nhà nước, do vậy tạo ra
sự hiệu quả của phân bổ nguồn lực, khi nguồn lực của xã hội được sử dụng để tạo ra
các sản phẩm, dịch vụ được xã hội chấp nhận. Các yêu cầu của nhà nước đối với
DNNN thực hiện các trách nhiệm xã hội có thể chuyển sang cơ chế thị trường, đặt
hàng theo hợp đồng, tạo sự rõ ràng, minh bạch, không tạo lý do cho các doanh
nghiệp khi kết quả kinh doanh không được như trông đợi. Như ý kiến của OCED
(2015), với các doanh nghiệp tiếp tục tiếp tục thực hiện cả mục tiêu thương mại và
mục tiêu phi thương mại, nên thử tách biệt rõ ràng giữa hai loại mục tiêu này.
Học hỏi kinh nghiệm của Singapore giao quyền tự chủ lớn cho doanh nghiệp,
hoạt động trên nền tảng thương mại và kiểm soát lỏng, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp có cách quyết định sát với thị trường. Cài đặt cơ chế kiểm soát hợp lý.
Chính sách của nhà nước cần khuyến khích sự tự chủ của các doanh nghiệp
trong cả vấn đề nhân sự cũng như các quyết định kinh doanh, vốn đòi hỏi các yếu tố
khác với các hoạt động của khu vực hành chính, vốn cần sự hiểu biết thị trường,
hiểu biết ngành nghề kinh doanh, sự nhanh nhạy, sự quyết đoán nhanh chóng, …. Theo
Lý thuyết phụ thuộc vào tài nguyên, các nhà quản trị đóng vai trò kết nối doanh nghiệp
và nguồn tài nguyên để nuôi sống doanh nghiệp, trong đó, có các yếu tố như thông tin,
kĩ năng, các mối liên kết với nhà cung cấp, khách hàng, …. Cần học hỏi kinh nghiệm
của Singapore, tạo điều kiện cho nhân sự của khu vực tư nhân hay nước ngoài tham gia
Hội đồng quản trị, nhằm đem các yếu tố quan trọng đã nhắc đến như trên vào doanh
nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển của DNNN trong các lĩnh vực chuyên môn
và phát triển bán hàng, …. Theo lý thuyết nhà quản lý và theo kinh nghiệm của
Singapore, các nhà quản lý vì lợi ích tổ chức và lợi ích tập thể, cao hơn hành vi tự lợi,
các nhà quản lý hướng tới thực hiện mục tiêu của tổ chức. Phát huy động lực và hành
động của các nhà quản lý vì lợi ích doanh nghiệp và cổ đông, giúp phát huy tiềm năng
92
của các nhà quản lý và doanh nghiêp, bên cạnh vai trò giám sát của các thiết chế như
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, ...
4.4.2.5 Nâng cao vai trò của CMSC trong thúc đẩy quản trị công ty tốt, kiểm soát
và giám sát các Tập đoàn, Tổng công ty do CMSC đại diện sở hữu
Chức năng, vai trò, tổ chức của CMSC tương tự với SASAC của Trung
Quốc. Theo nghiên cứu của Chang và Jin (2016), SASAC là một cơ quan của nhà
nước, được tổ chức giống như mô hình cơ quan chính phủ, sở hữu các tài sản của
nhà nước mà không thực khi quyền kiểm soát của chủ sở hữu để giám sát hoạt động
của các công ty trong danh mục. Cấu trúc sở hữu theo hình kim tự tháp, trong đó
các công ty niêm yết ở dưới đáy kim tự tháp và SASAC đứng vị trí ở đỉnh kim tự
tháp, ở giữa là các là các công ty đóng vai trò trung gian kiểm soát, cấu trúc với
nhiều cấp trung gian này ngăn cản SASAC thực hiện chức năng một cách năng
động trong giám sát và kiểm soát các doanh nghiệp. SASAC không có ảnh hưởng
trực tiếp lên các doanh nghiệp trong danh mục. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Chang
và Jin (20160 cũng cho thấy, các doanh nghiệp do SASAC kiểm soát hoạt động
kém hơn các công ty do tư nhân và các công ty kiểm soát.
Trong khi đó, Temasek, được tổ chức như một công ty đầu tư được thành
luật theo Luật công ty của Singapore, trực tiếp sở hữu và kiểm soát các công ty
trong danh mục, hoạt động trên cơ sở thương mại và được cấu trúc như một công ty
thương mại, có các thành viên hội đồng độc lập. Temasek thực hiện vai trò cổ đông
bằng cách thúc đẩy quản trị công ty tốt ở các công ty trong danh mục, bao gồm, ủng
hộ thành lập các hội đồng giàu năng lực, kinh nghiệm và đa dạng để hướng dẫn và
góp ý vào chức năng quản lý, lãnh đạo các doanh nghiệp. Tạo sự độc lập cho hội
đồng quản trị để có thể kiểm tra, giám sát hiệu quả.
Luận văn cho rằng, đối với CMSC là đại diện sở hữu của nhà nước tại các
DNNN, cần học tập kinh nghiệm của Singapore, giúp các DNNN được quản trị tốt,
ngang bằng hoặc tốt hơn các doanh nghiệp khác trên thị trường.
CMSC cần học hỏi kinh nghiệm của Temasek trong thúc đẩy quản trị công ty
tốt, thành lập hội đồng quản trị có năng lực tốt, giàu kinh nghiệm và đa dạng, thực
93
hiện giám sát hiệu quả ban giám đốc. Tương tự như Temasek, CMSC cần trở thành
nơi khởi nguồn thúc đẩy quản trị công ty tốt và quản lý chuyên nghiệp. CMSC cần
khắc phục khó khăn của một đơn vị thuộc chính phủ để sử dung tài năng, năng lực,
kiến thức … từ khu vực tư nhân thậm chí nước ngoài về quản trị, quản lý, kiến thức
chuyên môn và hiểu biết thị trường ở CMSC cũng như ở các công ty do CMSC làm
đại diện sở hữu. Giải pháp thoái vốn nhà nước với tỷ lệ cao hơn tại các doanh
nghiệp cho các đối tác tư nhân hoặc nước ngoài có khả năng cung cấp khả năng
quản trị, quản lý chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn sâu của ngành và hiểu biết
thị trường có thể hỗ trợ được cho các doanh nghiệp, giúp nâng cao năng lực và khả
năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
4.4.2.6 Đặt mục tiêu hoạt động rõ ràng cho các DNNN
Theo Wong (2014) có sự khác nhau về mục tiêu giữa DNNN và doanh
nghiệp khu vực tư nhân, cũng như giữa Temasek với SASAC và CMSC. Trong khi,
khu vực tư nhân và Temasek có mục tiêu rõ ràng là tập trung vào tối đa hóa giá trị,
có thể tập trung vào đổi mới và giảm chi phí (Sim, Thomsen và Yeong, 2014) do
vậy làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng doanh thu, lợi nhuận và do
đó có thể tiếp tục tái đầu tư.
Các DNNN, SASAC và CMSC lại phải theo đuổi mục tiêu thương mại và
phi thương mại. Nhà nước với vai trò chủ sở hữu đối diện với sự xung đột của lợi
ích. Nhà nước điều hành các hoạt động kinh doanh, thi hành luật, kiểm soát hệ
thống ngân hàng và thường quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội như thất nghiệp và
giáo dục (Sim, Thomsen và Yeong, 2014).
Tuy vậy, theo phân tích của Michael Porter (Porter, 1990) về sự phát triển
kinh tế thường diễn ra theo bốn giai đoạn, từ giai đoạn phụ thuộc vào các yếu tố cơ
bản như lao động, tài nguyên thiên nhiên, … sang giai đoạn tập trung vào đầu tư,
giai đoạn nghiên cứu đổi mới và giai đoạn mở rộng các ngành có lợi thế và các công
nghệ đã phát minh, cùng với kinh nghiệm của GLC ở Singapore và DNNN ở Trung
Quốc, các DNNN với nguồn lực lớn của nền kinh tế và vai trò là công cụ của nhà
nước trong đổi mới, phát triển kinh tế cần được tập trung vào hoạt động kinh doanh
94
của mình, giống như các doanh nghiệp tư nhân, tập trung vào đổi mới và giảm chi
phí, do đó cạnh tranh được trên thị trường và mở rộng hoạt động kinh doanh của
mình. Một doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh tốt thị trường, nhiều khả
năng có kết quả kinh doanh không tốt, thậm gây thua lỗ, mất vốn trở thành gánh
nặng hơn là đóng góp cho nhà nước, thị trường hay xa hơn là thực hiện các trách
nhiệm xã hội. Bài học kinh nghiệm của Singapore là các GLC không được trợ cấp
cũng như không phải gánh các gánh nặng trách nhiệm xã hội, các doanh nghiệp
thua lỗ sẽ phải đóng cửa.
Theo OECD (2015) từ kinh nghiệm của Trung Quốc, gợi ý rằng sở hữu nhà
nước, nếu được sử dụng một cách hoàn thiện, có thể là một công cụ linh hoạt cho
chính sách công nghiệp, khắc phục khuyết tật thị trường, đạt một số mục tiêu xã
hội, …. Sự cân bằng giữa nhà nước và sở hữu tư nhân nên phụ thuộc vào mức độ
thất bại của thị trường, cũng như sự sẵn có của các công cụ chính sách thay thế.
4.4.2.7 Hoàn thiện các thể chế của nền kinh tế thị trường
Theo Baker và Quéré (2014), nhà nước thực hiện vai trò đối với quản trị
công ty như là người kiến tạo sự phát triển.
Theo Taussig, Hiếu và Linh (2015), sự hạn chế của Việt Nam trong xây dựng
các thiết chế cơ bản nhất của thị trường. Sự hoàn thiện các thể chế thị trường, hoàn
thiện năng lực của nhà nước trong điều hành, điều tiết nền kinh tế thay phụ thuộc
vào vai trò của các DNNN, vốn cũng là lý do, hạn chế sự cần thiết hoàn thiện các
thiết thế vô cùng quan trọng này.
Việt Nam cần hoàn thiện các thiết chế thị trường, Nhà nước cần chuyển từ
đóng vai trò người chơi sang tập trung vào vai trò kiến tạo sân chơi, quản trị DNNN
thông qua các cách thức mang tính thị trường, tương tự cách Temasek hoạt động
trên nền tảng thị trường, hướng tới tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn, đã giúp tách
biệt chức năng điều hành, ban hành chính sách của nhà nước với vai trò của một cổ
đông. Học tập kinh nghiệm của Singapore tạo các thiết chế và môi trường thuận lợi,
tạo điều kiện cho các DNNN phát triển.
95
KẾT LUẬN
Mô hình phát triển kinh tế Đông Á thành công với vai trò dẫn dắt của nhà
nước, trong một số trường hợp là sự mở rộng sở hữu của nhà nước tại doanh nghiệp,
nhất là Trung Quốc và Singapore. Các DNNN của Trung Quốc và Singapore đóng
vai trò quan trọng trong thành công kinh tế, trong đó, Singapore đã trở thành nước
có thu nhập cao hàng đầu thế giới trong khi mô hình quản trị dựa trên hệ thống
doanh nghiệp có nhà nước là cổ đông chi phối vẫn tiếp tục từ khi còn là một nước
đang phát triển, đến khi trở thành nước có thu nhập cao hàng đầu thế giới, các GLC
có quản trị công ty và hiệu quả còn cao hơn các phi GLC. Trong trường hợp Trung
Quốc, các DNNN được cơ cấu lại, quy mô tăng lên, giữ vai trò độc quyền nhóm tại
các ngành quan trọng, có lợi nhuận cao hơn nhiều giai đoạn độc quyền, trở thành
thế lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế và là công cụ điều tiết của chính phủ, nhất
là giai đoạn suy thoái. Trong khi đó, Việt Nam các DNNN chiếm quy mô lớn về tài
sản, nguồn vốn, được ưu đãi về đất đai, tín dụng … chưa đóng góp đúng vai trò
công nghiệp hóa, đưa kinh tế đất nước phát triển. Do vậy, chính sách của nhà nước,
tạo ra sự khác biệt lớn nhất đối với kết quả phát triển cần đưa ra lựa chọn đúng đắn.
Học hỏi kinh nghiệm từ mô hình kinh tế Đông Á, từ kinh nghiệm Trung
Quốc và Singapore, chính phủ Việt Nam cần thúc đẩy các DNNN phát triển sản
xuất. Nhà nước với công cụ chính sách, điều hành và sở hữu tại các DNNN cần tạo
sức ép buộc các DNNN đi vào con đường phát triển sản xuất và dịch vụ, định
hướng các doanh nghiệp này vào những mục tiêu công nghiệp hóa, bằng cả biện
pháp thưởng và phạt. DNNN cũng cần cơ cấu lại, loại bớt doanh nghiệp thua lỗ,
hình thành các doanh nghiệp quy mô lớn. Thúc đẩy các DNNN cạnh tranh, với các
DNNN khác, với tư nhân và với nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu để phải nâng
cao năng lực cạnh tranh, công nghệ, sản xuất. Học tập kinh nghiệm Trung Quốc,
Singapore giữ quyền chi phối tại các ngành có vị trí quan trọng, chiến lược nhằm
giữ định hướng phát triển công nghiệp hóa, tạo ra lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, có
thể tái cơ cấu bằng giảm bớt sở hữu nhà nước cho các đối tác cung cấp công nghệ
96
quản trị, quản lý chuyên nghiệp, kiến thức ngành và thị trường nhằm tối đa hóa hiệu
quả, cung ứng sản phẩm, dịch vụ với giá cả hợp lý và chất lượng cao, để đóng vai
trò tích cực đối với người tiêu dùng và các đối tác trên thị trường.
Mô hình quản trị nhà nước đối với DNNN của Singapore và Trung Quốc có
điểm tương đồng và khác biệt với nhau và với Việt Nam. Việt Nam có thể học hỏi
bài học từ Temasek và SASAC, tăng cường năng lực quản trị và thúc đẩy phát triển
năng lực quản trị công ty tốt, hiệu quả (sound governance) của các công ty do
CMSC quản lý. Hình thành các hội đồng với các thành viên độc lập, năng lực cao,
nhiều kinh nghiệm và đa dạng, nhằm định hướng chiến lược, giám sát ban giám
đốc. Sử dụng các công cụ kiểm soát thích hợp. Nâng cao năng lực quản trị công, từ
đó tác động tích cực đến quản trị các DNNN, thúc đẩy động lực đội ngũ công chức
nhất là những người liên quan đến quản trị, đầu tư nguồn vốn của nhà nước. Giảm
bớt các cấp trung gian, như tương tự hàm ý Chang và Jin (2016) cho SASAC giúp
công ty quản lý tài sản có thể tác động trực tiếp lên các công ty trong danh mục,
nhằm nâng hiệu quả của các doanh nghiệp .
Các nghiên cứu tương lai có thể tìm kiểu kinh nghiệm rộng hơn của các quốc
gia khác nữa như các nước trong ASEAN, Ấn Độ, Brazil, … nhằm rút ra các bài
học các kinh nghiệm thành công và thất bại, đa dạng hơn. Có therer nghiên cứu về
mức độ phát triển của các DNNN Việt Nam hiện tại, trình độ sản xuất và trình độ
công nghệ. Nghiên cứu về các yếu tố văn hóa, chính trị, … của Việt Nam để tìm mô
hình quản trị phù hợp với điều kiện Việt Nam. Do điều kiện hạn chế, luận văn chưa
thu thập, nghiên cứu, đánh giá về cơ cấu sở hữu các doanh nghiệp có vốn nhà nước
niêm yết trên sàn chứng khoán, mức độ lợi nhuận, tương quan giữa hình thức sở
hữu vốn và lợi nhuận, ... đây có thể là chủ đề cho các nghiên cứu tương lai.
97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. CIEM, 2016. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước: Thực trạng và giải pháp. Báo
cáo nghiên cứu.
2. Lý Quang Diệu, 2000. Bí Quyết Hóa Rồng - Lịch Sử Singapore 1965 - 2000. TP
HCM. NXB Trẻ.
3. IFC, 2004. Các Nguyên tắc quản trị công ty của OECD.
4. Joe Studwell, 2013. Châu Á vận hành như thế nào?. Hà Nội. OMEGA và NXB
ĐH Kinh tế Quốc dân.
5. Peter F Drucker, 2008. Tinh hoa quản trị của Drucker. TP HCM. Nhà Xuất bản trẻ.
6. Quốc hội, 2014. Luật doanh nghiệp 2014.
7. Quốc hội, 2013. Hiến pháp 2013.
8. Trần Đình Thiên, Nguyễn Đình Hòa, 2018. Doanh nghiệp nhà nước: Sứ mệnh,
chức năng và định hướng phát triển. Thông tin Khoa học xã hội, số 4.2018.
9. The World Bank, Vai trò của Nhà nước trong Phát triển Kinh tế ở Việt Nam.
10. Trungtamwto, 2018.“Tài liệu giới thiệu nội dung DNNN trong Hiệp định TPP”,
www.trungtamwto.vn;
Tiếng Anh:
11. ADB (2005), Governance: Sound Development Management.Governance:
Sound Development Management
12. ADB, Governance: Sound Economic Management (August 1995), pp. 3, 4, 8
13. Alchian, A&Demsetz, H. (1972). Production, Information, Costs and Economic
Organization. American Economic Review
14. Anwar Shah with Sana Shah, The New Vision of Local Governance and the
Evolving Roles of Local Governments, at
http://siteresources.worldbank.org/INTWBIGOVANTCOR/Resources/
15. Azhara (2015), The Success of the Implementation of Singapore Inc. Politics
and Government of Southeast Asia, Universitas Gadjah Mada
98
16. Baker và Quéré (2004). The role of the state in corporate governance.
Accounting History. Ach.sagepub.com
17. Benz, A., Papadopoulos, Y. (eds, 2006) Governance and Democracy:
18. Catalin-Valentin RAIU, An Ontology of Good Governance.A Political Theory
Approach,
19. Civil Society in the New Millennium. Commonwealth Foundation, London.
20. Christopher Chen (2016). Solving the Puzzle of Corporate Governance of State-
Owned Enterprises: The Path of the Temasek Model in Singapore and Lessons
for China. Northwestern Journal of International Law & Business.
21. Claessens, S., & Fan, J. P. (2002). Corporate Governance in Asia: A Survey.
International Review of Finance;
22. Comparing National, European and International Experiences. Routledge,
London.
23. Commission on Global Governance (1995), “Our Global Neighbourhood”, at
http://www.gdrc.org/u-gov/global-neighbourhood/
24. Commonwealth Foundation (1999), Citizens and Governance:
25. Daniel Kaufmann, Aart Kraay, Massimo Mastruzzi. The Worldwide Governance
Indicators
26. Daily, C.M., & Dalton, D.R & Canella, A. A. (2003). Corporate Governance:
Decades of Dialogue and Data. Academy of Management Review
27. Daron Acemoglu, Simon Johnson, Unbundling Institutions, 2005
28. Donaldson, L., & Davis, J. H (1991). Stewardship theory or agency theory: CEO
governance and shareholder returns. Australian Journal of Management.
29. Davis, J. H., Schoorman, F.D., & Donaldson, L. (1997). Toward a Stewardship
Theory of Management. Academy of Management Review.
30. Deegan, C 2004, Financial Accounting Theory, McGraw-Hill Australia Pty Ltd,
NSW
31. Donaldson, T. (1983). Constructing a Social Contract for Business. In T.
Donaldson, & P. Werhane, Ethical Issues in Business.
99
32. Donaldson, T. & Dunfee, T. W (1999). Ties That Bind. Havard School of
Business Press
33. EC, ‘European Governance: A White Paper’, Brussels, 25 July 2001, fn. 1 on p.
8, p. 10 (sic).
34. F. Fukuyama, in International Encyclopedia of the Social & Behavioral
Sciences, 2001
35. Freeman, R. E., Wicks, C.A., & Parmar, B (2004). Stakeholder Theory and The
Corporate Objective Revisited. Organization Science.
36. Gales, L. & Kesner, I. (1994). An Analysis of Board of Directors Size and
Composition in Bankrupt Organizations. Journaal of Business Research.
37. Gray, R, Owen, D., & Adams, C. (1996). Accounting and Accountability.
Changes and Challenges in Corporate Social Environmental Reporting, Prentice-
Hall Europe Harlow
38. Hawley, J.P., & Williams, A.T. (1996). Corporate Governance in the United
States: The Rise of Fiduciary Capitalism. Working Paper, Saint Mary’s College
of California, School of Economics and Business Administration.
39. Hood, C., (1986). Tools of Government. Books on Demand.
40. Isabel Sim, Steen Thomsen, Gerade Yeong, 2014. “The State as Shareholder: the
Case of Singpore”, Centre for Governance, Institution & Organizations – NUS
Business; http://bschool.nus.edu/cgio
41. Israel, S. C (2008). Temasek Holdings: A Dependable Investor in the United
States – Temasek’s testimony to the US House Finances Committee. Foreign
Government Investment in the United State Economy and Financial Sector.
42. Jensen, M. C., & Meckling, W.H. (1976). Theory of the Firm: Managerial
Behavior, Agency Costs, and Ownership Structure. Journal of Financial
Economics
43. Kowalski, P. et al (2013), “State-Owned Enterprises: Trade Effects and Policy
Implications”, OECD Trade Policy Papers, No. 147, OECD Publishing.
100
44. Linel Robbins Lectures, London School of Economics, Undertanding Institution,
economics.mit.edu/files/1353
45. Taussig, Hieu Linh, “From Control to Market: Time for real SOE reform in
Vietnam?”, Centre for Governance, Institution & Organizations – NUS
Business; http://bschool.nus.edu/cgio
46. Methodology and Analytical Issues, the World Bank Development Research
Group Macroeconomics and Growth Team, September 2010,
47. Ministry of Finance (2002). Budget Speech 2002. Singapore: Ministry of
Finance.
48. Miller (1990) The Rise of the West: A History of the Human Community
49. NewVisionofLocalGovernance.pdf.
http://www.ohchr.org/EN/Issues/Development/GoodGovernance
50. Nunn N. (2008), The Long Term Effects of Africa's Slave Trades. Quarterly
Journal of Economics
51. OECD, 2005, “OECD Comparative Report on Corporate Governance of State-
owned Enterprises”
52. OECD, Directorate for Public Governance and Territorial Development,
‘Principal Elements of Good Governance’,
53. OECD (2018). Ownership and Governance of State-owned Enterprises: A
Compendium of National Practices.
54. Paul Wolfowitz, World Bank President, Jakarta, 11 April 2006.
55. Porter, M. (1990), The Competitive Advantage of Nations
56. Pack và Saggi (2006). “Is there a Case for Industry Policty? A Critical Survey”,
The World Bank Research Observer.
57. PWC, 2015, State-Owned Enterprises Catalysts for public value creation?, April
2015, https://www.pwc.com/sg/en/government-public-services/assets/state-
owned-enterprises-201504.pdf
58. Pfeffer, J (1978). Size and Composition of Corporate Board of Directors: The
organization and its environment. Administrative Science Quarterly.
101
59. Pound, J. (1983). Proxy Contest and the Efficiency of Shareholder Oversight.
Journal of Financial Economics.
60. Remarks by Helen Clark, Administrator of the United Nations
DevelopmentProgramme, at the Fourth United Nations Conference on the Least
Developed Countries High Level Interactive Thematic Debate on Good
Governance at All Levels, Istanbul, 11 May 2011.
61. Chang và Jin, “Enterprises in China: An empirical Analysis of ownership
control through SASACs”, Centre for Governance, Institution & Organizations –
NUS Business; http://bschool.nus.edu/cgio
62. Suchman, M. C. (1995). Managing Legitimact: Strategic and Institutional
Approaches. Academy of Management Review.
63. TAN Cheng-Han, Dan W. PUCHNIAK, Umakanth VAROTTIL, “State-owned
Enterprises in Singapore: Historical Insights into a Potential Model for Reform,
NUS Law Working Paper Series, 2015/03, March 2015,
http://law.nus.edu.sg/wps;
64. The World Bank, 2006, “Held by the Visible Hand – the Challenge of SOE
Corporate Governance for Emerging Markets”
65. Wan. F. Yussof & Idris A. Alhji (2012). Insight of Corporate Governane
Theories. Journal of Business and Management.
66. Wong, S. C. Y. “Improving Corporate Governance in SOEs: An Intergrated
Approach”, Corporate Governance International;
67. World Bank, Strengthening the World Bank Group Engagement on
Governance and Anticorruption, 2007
Trang báo điện tử:
68. fsppm.fuv.edu.vn. https://fsppm.fuv.edu.vn/cache/MPP05-542-L02V-2013-02-
27-16452096.pdf
69. Tapchitaichinh.vn. 2018. Đến năm 2020, cả nước chỉ còn khoảng hơn 100 doanh
nghiệp Nhà nước http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/den-nam-2020-ca-
nuoc-chi-con-khoang-hon-100-doanh-nghiep-nha-nuoc-145833.html
102
70. Vũ Công Giao, 2017, “Một số vấn đề lý luận về quản trị tốt”, Tạp chí Tổ chức
nước, ngày 12/03/2017, Nhà
http://tcnn.vn/news/detail/36119/Mot_so_van_de_ly_luan_ve_quan_tri_totall.ht
ml
71. Phạm Thị Tường Vân, 2018. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước: Từ góc độ lý
luận và thực tiễn Việt Nam. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính, 20/03/2018.
https://nif.mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/r/m/ncvtd/ncvtd_chitiet?dDocN
ame=UCMTMP121698&dID=131172&_afrLoop=78721530669814582#!%40
%40%3FdID%3D131172%26_afrLoop%3D78721530669814582%26dDocNam
e%3DUCMTMP121698%26_adf.ctrl-state%3D12b89s3xby_4
72. Corina Adriana Dumitrescu, The Concept of Good Governance in Aristotle’s
cogito.ucdc.ro/nr_3_en/1%20-
View,
%20THE%20CONCEPT%20OF%20GOOD%20GOVERNANCE%20IN%20eng.pdf.
73. Saga.vn, Stakeholder/Bên liên quan mật thiết, www.saga.vn/thuat-ngu/stakeholer-
ben-lien-quan-mat-thiet
74. Economicsdiscussion.net, Autonomy Versus Public Accountability, www.
Economicsdiscussion.net/public-enterprises-2/autonomy-versus-public-accountability-
public-enterprises-economic
75. http://www.oecd.org/governance/regulatory-policy/irrc.htm.
76. Britanica.com, Allocation of resources, www.britanica.com/topic/allocation-of-
resources
77. Trương Hoà Bình, Võ Thị Tuyết. Định nghĩa Doanh nghiệp. voer.edu.vn/c/quan-
tri-doanh-nghiep/adbđ6c5
78. Cour Des Comptes, (2017). The State as shareholder. Cour Des Comptes.
https://www.ccomptes.fr/en/publications/state-shareolder
79. OECD. The State as a shareholder.
https://www.oecd.org/daf/ca/corporategovernanceprinciples/1929938.pdf
80. Singapore Budget Speech 2002.
App.mof.gov.sg/singapore_budget_archives.aspx
103
81. Theleader.vn (2018). GS. Trần Văn Thọ: 'Doanh nghiệp nhà nước lãng phí quá
nhiều trong 10 năm qua'. https://theleader.vn/gs-tran-van-tho-doanh-nghiep-nha-
nuoc-lang-phi-qua-nhieu-trong-10-nam-qua-20180109161011879.htm
82. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại Doanh nghiệp. Cmsc.gov.vn/lich-su-phat-trien.
83. Trần Văn Thọ, 2006. Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa
VIỆT NAM http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/kinhte/biendongkinhtedonga-
vn.htm
84. Low và Neng, 2011, Market-Compatible Interventions: Examples from
Singapore, https://www.csc.gov.sg/articles/government-and-markets-in-a-well-