ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN NHƯ THANH

HÌNH THÀNH DOANH NGHIỆP SPIN-OFF

ĐỂ THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TẠI

VIỆN NGHIÊN CỨU DA-GIẦY, BỘ CÔNG THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội-2018

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN NHƯ THANH HÌNH THÀNH DOANH NGHIỆP SPIN-OFF ĐỂ

THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TẠI

VIỆN NGHIÊN CỨU DA-GIẦY, BỘ CÔNG THƯƠNG

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý khoa học và công nghệ

Mã số: 60340412

Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Hữu Xuyên

Hà Nội-2019

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6

1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 6

2. Tổng quan nghiên cứu ........................................................................................ 7

2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước .................................................................... 7

2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước ................................................................... 10

3. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................ 13

3.1 Mục tiêu chung ............................................................................................... 13

3.2. Mục tiêu cụ thể .............................................................................................. 13

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 13

5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 14

5.1 Phương pháp tiếp cận .................................................................................... 14

5.2 Phương pháp thu thập thông tin .................................................................... 14

5.4 Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 15

5.5 Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................... 15

6. Những đóng góp cơ bản của đề tài ................................................................... 16

7. Kết cấu đề tài .................................................................................................... 16

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP SPIN-OFF ĐỂ

THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................. 17

1.1. Doanh nghiệp spin-off................................................................................... 17

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp spin-off ............................................................... 17

1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp spin-off trong thương mại hóa kết quả nghiên

cứu ........................................................................................................................ 19

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành doanh nghiệp spin-off để

thương mại hóa kết quả nghiên cứu ..................................................................... 24

1

1.2. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu ............................................................. 28

1.2.1. Khái niệm thương mại hóa kết quả nghiên cứu ......................................... 28

1.2.2. Ảnh hưởng của thương mại hóa kết quả nghiên cứu tới sự phát triển của

tổ chức khoa học và công nghệ ............................................................................ 31

1.3. Nguyên tắc hình thành và các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành doanh

nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu....................................... 33

1.3.1. Nguyên tắc hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả

nghiên cứu ............................................................................................................ 33

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành doanh nghiệp spin-off để

thương mại hóa kết quả nghiên cứu ..................................................................... 36

1.4. Kinh nghiệm hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả

nghiên cứu và bài học cho Viện Nghiên cứu Da-Giầy ........................................ 42

1.4.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức khoa học và công nghệ ở Việt Nam ....... 42

1.4.2. Bài học cho Viện Nghiên cứu Da-Giầy ...................................................... 46

CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ

NGHIÊN CỨU VÀ NHU CẦU HÌNH THÀNH DOANH NGHIỆP SPIN-OFF

TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU DA-GIẦY ................................................................ 48

2.1. Tổng quan thực trạng hình thành và phát triển doanh nghiệp spin-off tại một

số Viện nghiên cứu ở Việt Nam ........................................................................... 48

2.1.1. Quá trình hình thành .................................................................................. 48

2.1.2. Các loại hình doanh nghiệp spin-off .......................................................... 50

2.1.3. Các nội dung về hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết

quả nghiên cứu. .................................................................................................... 52

2.2. Thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu và nhu cầu hình thành doanh

nghiệp spin-off tại Viên Nghiên cứu Da-Giầy ..................................................... 56

2

2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Viên Nghiên cứu Da-Giầy .......... 56

2.2.2. Phân tích thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viên Nghiên

cứu Da-Giầy ......................................................................................................... 62

2.2.3. Thực trạng nhu cầu thành lập doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa

kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy ............................................... 67

2.3. Đánh giá thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu và nhu cầu hình

thành doanh nghiệp spin-off tại Viên Nghiên cứu Da-Giầy ................................ 69

2.3.1. Những kết quả đã đạt được ........................................................................ 69

2.3.2. Những hạn chế cần khắc phục ................................................................... 70

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên ....................................................... 72

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DOANH

NGHIỆP SPIN-OFF ĐỂ THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TẠI

VIỆN NGHIÊN CỨU DA-GIẦY ........................................................................ 76

3.1. Quan điểm và mục tiêu hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa

kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy ............................................... 76

3.1.1. Quan điểm hình thành ................................................................................ 76

3.1.2. Mục tiêu hình thành ................................................................................... 77

3.2. Các giải pháp hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả

nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu da giầy .............................................................. 79

3.2.1. Hoàn thiện các điều kiện để hình thành doanh nghiệp spin-off ................ 79

3.2.2. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học ............................................... 80

3.2.3. Gắn kết quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động nghiên cứu .. 82

3.2.4. Hoàn thiện các điều kiện về hạ tầng cho việc hình thành và phát triển

doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu ............................ 83

3.2.5. Các giải pháp khác ..................................................................................... 87

3

3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp................................................................... 90

3.3.1. Từ phía Chính phủ, Bộ Công Thương ........................................................ 90

3.3.2. Từ phía Viện Nghiên cứu Da-Giầy ............................................................ 91

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...................................................................... 93

1. Kết luận ............................................................................................................ 93

2. Khuyến nghị ..................................................................................................... 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 94

Tài liệu tiếng việt.................................................................................................. 94

Tài liệu nước ngoài ............................................................................................... 99

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASSOMAC

STT KÍ HIỆU VIẾT TẮT NỘI DUNG VIẾT TẮT

CANTI

1

CGCN CP DN ĐH & CĐ ĐMST EU GD&ĐT INPI KH & CN KH-KT LEFASO NC&TK

2

PISIE

3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14

R & D SHTP-IC SHTP SHTT SXKD UNDP UNIDO

15

Hiệp hội Quốc gia Các nhà sản xuất thiết bị và công nghệ cho ngành da giày Ý Trung tâm ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp Chuyển giao công nghệ Chính phủ Doanh nghiệp Đại học và cao đẳng Đổi mới sáng tạo Liên minh Châu Âu Giáo dục và Đào tạo Viện Sở hữu công nghiệp quốc gia Khoa học và công nghệ Khoa học- Kỹ thuật Hiệp Hội Da Giày và Túi Xách Việt Nam Nghiên cứu và triển khai Một tổ chức phi chính phủ ở Ý chuyên phụ trách kỹ thuật và các hoạt động đào tạo trong ngành dệt may, da và giày cũng như các sản phẩm liên quan. Trung tâm Nghiên cứu-Triển khai Vườn ươm Doanh nghiệp công nghệ cao Khu Công nghệ cao TP. HCM Sở hữu trí tuệ Sản xuất kinh doanh Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc 16 17 18 19 20 21 22

5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay, công nghệ được coi là công cụ nhằm tăng sức cạnh tranh và

chất lượng mọi loại sản phẩm. Trong đó, các trường đại học, viện nghiên cứu

chính là nơi chủ yếu tạo ra công nghệ và tài sản trí tuệ. Nói cách khác, các viện

nghiên cứu, các trường đại học buộc phải “thương mại hoá” kết quả nghiên cứu

để tồn tại và phát triển.

Trong sự nghiệp đổi mới, với nhiều ngành công nghiệp đã phát triển trên

quy mô lớn, góp phần nâng cao giá trị kinh tế. Ngành công nghiệp da-giầy đã

vươn lên vị trí thứ 3 về doanh số xuất khẩu. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất

khẩu toàn ngành đạt 17,93 tỷ USD, tăng 10,7%, trong đó, xuất khẩu giày dép đạt

14,67 tỷ USD, tăng 12,8%; túi cặp, vali các loại đạt 3,26 tỷ USD, tăng 2%. Với

mức tăng kim ngạch ngành sản xuất giầy dép, đồ da đạt tốc độ trung bình 12-

15%/năm như hiện nay, nhu cầu về da thuộc sử dụng cho sản xuất giày dép đến

năm 2018 dự kiến cần 950-1.050 triệu Sqft và sẽ tiếp tục tăng trong những năm

tiếp theo (nguồn: Hiệp hội Lefaso).

Hiện nay với vai trò là một Viện nghiên cứu triển khai KH&CN trực

thuộc Bộ Công Thương, hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo

Nghị định số 115/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ, nghị định số

54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 và Thông tư số 01/2017/TT-BKHCN nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ vẫn được coi là một trong các nhiệm vụ

ưu tiên hàng đầu của Viện. Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào nghiên cứu

phát triển và ứng dụng các công nghệ trong lĩnh vực Da - Giầy và công nghệ bảo

vệ môi trường. Một trong những đầu ra của nghiên cứu khoa học là các công

6

nghệ mới có thể triển khai ứng dụng trong cuộc sống, đem lại lợi ích kinh tế cho

ngành Da- Giầy nói riêng và xã hội nói chung cũng như bản thân người làm

nghiên cứu. Chuyển giao công nghệ cho các tập đoàn công nghệ là một hình

thức cho phép triển khai các nghiên cứu, nhưng cách này thường đòi hỏi việc

“bán” sở hữu tài sản trí tuệ của nhà nghiên cứu. Thành lập các công ty khởi

nghiệp do chính nhà khoa học đồng sở hữu với cơ quan nghiên cứu là một cách

vừa cho phép thương mại hóa công nghệ, vừa cho phép nhà khoa học thu được

lợi ích lâu dài từ việc sở hữu tài sản trí tuệ của mình và chính cơ quan nghiên

cứu cũng qua đó thu được lợi ích kinh tế. Hoạt động chuyển giao công nghệ da

giầy trong giai đoạn vừa qua chưa thực sự mang lại hiệu quả về kinh tế - xã hội,

môi trường. Viện Nghiên cứu Da-Giầy đã có nhiều chủ trương và giải pháp để

thúc đẩy công tác chuyển giao công nghệ từ những kết quả nghiên cứu của

mình. Thế nhưng làm cách nào để các Doanh nghiệp Da- Giầy đón nhận công

nghệ không phải điều đơn giản, đến nay vẫn chưa có một giải pháp hữu hiệu. Do

đó, việc lựa chọn thực hiện đề tài ‘‘Hình thành doanh nghiệp spin-off để thương

mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy, Bộ Công Thương’’ là

cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.

2. Tổng quan nghiên cứu

2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Để kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt công

nghệ mới ứng dụng vào đời sống, hầu hết các viện nghiên cứu, trường đại học

trên thế giới đều thông qua bộ phận chuyển giao công nghệ.

Tại Brazil, trường Đại học Campinas (University of Campinas –

Unicamp) là cơ quan chuyển giao công nghệ đầu tiên được thành lập trong

7

trường đại học ở Brazil, trường được thành lập năm 1966 tại bang Campinas -

Brazil. Năm 2003, Unicamp thành lập Unicamp Innovation Agency (được gọi là

Inova). Inova đã tạo nên chuyển biến mạnh mẽ hoạt động bảo vệ quyền sở hữu

trí tuệ và chuyển giao công nghệ của Unicamp. Lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu

của Unicamp rất rộng, đặc biệt là về sức khỏe, sản xuất công nghiệp, công nghệ

thông tin, hóa chất, nông nghiệp và khai thác nguồn lực tự nhiên…Mục tiêu của

Inova là đẩy mạnh hợp tác giữa Unicamp - doanh nghiệp - cơ quan nhà nước và

các tổ chức đào tạo, nghiên cứu khác để ứng dụng công nghệ mới trong phát

triển kinh tế - xã hội Brazil. Nhiệm vụ chủ yếu của Inova là thay mặt Unicamp

quản lý và thực hiện việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nước và quốc tế;

chuyển giao công nghệ; quản lý Vườn ươm Unicamp, quản lý Công viên khoa

học và công nghệ Unicamp. Nhân lực của Inova khoảng 50 người, thực hiện các

hoạt động liên quan đến phát triển sáng tạo của 22 trung tâm nghiên cứu thuộc

Unicamp với hơn 2.000 chuyên gia. Kết quả hoạt động của Inova sau 5 năm

thành lập: 192 thỏa thuận chuyển giao công nghệ, 39 hợp đồng cấp phép sử

dụng công nghệ, 249 sáng chế mới đăng ký tại INPI, 19 sáng chế mới đăng ký

theo PCT, 35 nhãn hiệu hàng hóa đăng ký mới, 16 chương trình máy tính đăng

ký mới, 11 công ty khởi nghiệp tốt nghiệp, 20 triệu USD cho các dự án nghiên cứu [38]

Tại Anh, hầu hết các Trường đại học ở Anh đều có bộ phận chuyên trách

với vai trò liên lạc, kết nối, thỏa thuận giữa Trường đại học, Viện nghiên cứu &

Doanh nghiệp trong nghiên cứu và khai thác giá trị thương mại từ các nghiên

cứu. Nhiều Trường đại học thành lập các công ty (sở hữu một phần hoặc toàn

bộ) để đầu tư nghiên cứu, thực hiện thí nghiệm, sản xuất thử, khai thác quyền sở

hữu trí tuệ và lợi ích từ việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu. Đặc biệt,

8

trong những năm 1995-1997, hơn một nửa cơ sở giáo dục đại học tại Anh có

công ty (sở hữu toàn bộ hay một phần) để khai thác các kết quả nghiên cứu. Các

công ty có thể chia làm hai dạng: (1) Nhóm những công ty “ô” (chủ yếu là các

công ty mẹ) kiểm soát các danh mục quyền sở hữu trí tuệ của Viện Giáo dục đại

học và vẫn chịu sự kiểm soát trực tiếp của cơ quan nghiên cứu. (2) Nhóm một số

công ty phụ (hay các công ty vệ tinh) từ các cơ quan nghiên cứu đã được thành lập nhằm khai thác lợi ích từ việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.[36]

Những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều thành công trong hoạt động

nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ thông qua cơ chế hợp tác giữa

Trường đại học, Viện nghiên cứu & Doanh nghiệp. Mô hình này thành công nhờ

3 cơ chế quan trọng, bao gồm: xây dựng các công viên khoa học, vườn ươm

công nghệ và thành lập các công ty đóng vai trò kết nối. Để thúc đẩy các hoạt

động này diễn ra theo cơ chế thị trường, Trung Quốc khuyến khích thành lập các

quỹ đầu tư với vốn góp từ 3 nguồn: 10% từ các Trường đại học, Viện nghiên

cứu; 30% từ các nhà nghiên cứu, nhà giáo (2/3 đóng góp bằng tri thức công

nghệ và 1/3 từ đóng góp đầu tư của các cá nhân); 60% từ ngân sách nhà nước và

tài trợ của các công ty. Dự án thành công, lợi nhuận sẽ được chia đều theo tỷ lệ

góp vốn. Một phần nhờ mô hình này, Trung Quốc đã có Quỹ Khoa học Tự nhiên

Quốc gia với số vốn hơn 600 triệu Nhân dân tệ; hơn 50 quỹ khoa học khác do

các bộ và chính quyền địa phương thành lập với tổng số vốn hơn 250 triệu Nhân

dân tệ. Các quỹ này tập trung tài trợ cho các dự án có tầm quan trọng chiến lược

trong phát triển khoa học công nghệ và được lồng ghép với phát triển kinh tế có

mục tiêu trung và dài hạn, nhằm tăng giá trị thực tế của các nghiên cứu khoa học cơ bản trong Trường đại học/Viện nghiên cứu. [36]

9

2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước

Doanh nghiệp spin-off với mục đích thúc đẩy thương mại hóa kết quả

nghiên cứu đã và đang là chủ đề của nhiều nhà nghiên cứu chính sách cụ thể.

Đề tài “Nghiên cứu xây dựng luận cứ khoa học cho việc thương mại hóa

hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam” của tác giả Phạm Duy Thịnh

(năm 2000). Đề tài với mục tiêu làm rõ quan điểm lý luận, yếu tố về thương mại

hóa hoạt động khoa học và công nghệ, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tổng

quát cho chính sách khoa học và công nghệ cũng như các chính sách liên quan.

Đề tài “Nghiên cứu cơ chế, biện pháp thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên

cứu và phát triển sau nghiệm thu” của tác giả Nguyễn Lan Anh (năm 2004). Đề

tài tập trung luận giải các biện pháp, chính sách thúc đẩy áp dụng nhanh các kết

quả nghiên cứu sau nghiệm thu vào sản xuất và đời sống thực tế. Tác giả mới

chỉ đề cập tới việc hoàn thiện sản phẩm theo chất lượng “sau nghiệm thu” để

nhanh chóng được bên mua chấp nhận.

Ra đời từ kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học tại Phòng thí nghiệm

Nano và Phòng thí nghiệm Công nghệ sinh học thuộc Trung tâm R&D, Khu

Công nghệ cao TP. HCM (SHTP), Nacur Vital là sản phẩm bảo vệ sức khỏe ở

dạng chất lỏng, được chiết xuất từ tinh chất nghệ bằng công nghệ nano với hàm

lượng nano curcumin 10%. Trung tâm R&D đã chuyển giao công nghệ sản xuất

cho Công ty Cổ phần Phát triển công nghệ Viotek, Viotek ra đời nhằm thương

mại hóa các kết quả nghiên cứu từ Trung tâm R&D trong lĩnh vực ứng dụng

công nghệ nano, công nghệ sinh học để tăng giá trị và hiệu quả. Đây được xem

là bước đi ban đầu thành công của một mô hình doanh nghiệp từ chính kết quả

nghiên cứu khoa học tại Trung tâm R&D với sự hỗ trợ thương mại hóa sản

phẩm từ SHTP-IC. Thành công của Viotek ngày nay chính là nhờ mô hình hợp

10

tác ươm tạo doanh nghiệp phát triển từ hoạt động nghiên cứu nội sinh của Trung

tâm R&D.

CANTI (Trung tâm ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp) có trụ

sở chính đặt tại TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, là đơn vị trực thuộc Viện Năng

lượng nguyên tử Việt Nam (Bộ KH&CN), hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu

trách nhiệm. Với đặc thù hoạt động đã được định hình là phát triển năng lực ứng

dụng kỹ thuật hạt nhân và kỹ thuật liên quan phục vụ nhu cầu chẩn đoán, khảo

sát trong công nghiệp và tạo giống cây trồng. Năm 2015, doanh thu từ triển khai

ứng dụng của CANTI đạt 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, trong chiến lược phát triển,

CANTI coi xây dựng tiềm lực KH&CN là vấn đề sống còn và cốt lõi của mọi

hoạt động. Trong đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng và trình độ cao là

nhân tố quyết định đối với sự phát triển của CANTI. Để vượt qua những trở

ngại, CANTI luôn tìm tòi những cách làm sáng tạo: tiếp cận nghiên cứu từ nhu

cầu thực tế, nghiên cứu theo nhu cầu sản xuất chứ không phải xuất phát từ kế

hoạch. Nhiều đề tài ứng dụng CANTI tự đầu tư nghiên cứu trước bằng vốn của

mình, khi đạt yêu cầu khả thi mới đề xuất xin ngân sách hỗ trợ. CANTI cũng có

những kế hoạch để vừa duy trì các hướng nghiên cứu chiến lược, trong đó có

hướng nghiên cứu công nghệ cao, vừa có sản phẩm dùng được ngay. Một trong

những kế hoạch đó là hợp tác với nước ngoài, tạo ra các sản phẩm cho thị trường

trong nước và quốc tế. Mô hình CANTI là một minh chứng về tính đúng đắn,

phù hợp nhu cầu thực tiễn của chủ trương giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức KH&CN. [30]

Mô hình liên kết nghiên cứu, ươm tạo và hình thành doanh nghiệp mở ra

nhiều cơ hội nghiên cứu và phát triển sản phẩm công nghệ. Trong đó, các Viện

nghiên cứu, Trường đại học nhận các đơn đặt hàng phát triển sản phẩm công

11

nghệ từ doanh nghiệp, còn doanh nghiệp là nơi triển khai các sản phẩm nghiên

cứu ra thị trường.

Trung tâm Công nghệ giầy Việt - Italia vừa được thành lập và đi vào hoạt

động, góp phần thúc đẩy nghiên cứu phát triển sản phẩm da giầy Việt Nam.

Trung tâm ra đời nhờ sự hợp tác giữa Hiệp hội ASSOMAC với Hiệp hội

LEFASO, Trường Cao đẳng Công thương TPHCM (HITC), Thương vụ Ý và

PISIE – một tổ chức phi chính phủ ở Ý chuyên phụ trách kỹ thuật và các hoạt

động đào tạo trong ngành dệt may, da và giày cũng như các sản phẩm liên quan.

Đây sẽ là nơi đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật cao, ứng dụng máy móc hiện

đại, công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng nguồn lực và năng lực thiết kế,

sản xuất, qua đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành da giầy Việt

Nam trên thị trường quốc tế.

Các nghiên cứu trên đây chủ yếu xem xét ở tầm lý thuyết cơ bản,

hoặc ở một số khía cạnh chính sách cụ thể, chính sách gắn kết NC&TK với

sản xuất nói chung. Chưa có nghiên cứu nào phân tích một cách sâu sắc

thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp spin-off ở Việt Nam nói chung

và trong ngành da giầy nói riêng. Vai trò của các doanh nghiệp này trong việc

trực tiếp thúc đẩy thương mại kết quả NC&TK cũng như đề xuất trong giải pháp

chính sách khuyến khích hoạt động và phát triển loại hình doanh nghiệp trong

điều kiện nền kinh tế thị trường sơ khai của Việt Nam khi các thành phần tạo hệ

của nó chưa phát triển đầy đủ. Như vậy, việc xuất hiện các doanh nghiệp spin-

off đặt dấu ấn quan trọng cho thị trường sản phẩm KH&CN nói chung và

thương mại hoá kết quả NC&TK nói riêng.

12

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1 Mục tiêu chung

Luận văn nghiên cứu đề xuất các giải pháp khuyến khích hình thành DN

spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy.

3.2. Mục tiêu cụ thể

- Làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp spin-off; quá

trình hình thành và phát triển DN spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên

cứu.

- Phân tích được các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến việc hình thành và

phát triển các DN spin-off để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại

Việt Nam;

- Đề xuất được các giải pháp khuyến khích hình thành và phát triển DN

spin-off nhằm thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu

Da-Giầy.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Sự hình thành và phát triển các doanh

nghiệp spin-off, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, các giải pháp khuyến khích

hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện

Nghiên cứu Da-Giầy.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi nội dung: Nghiên cứu quá trình thương mại hóa các kết quả

nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy

+ Phạm vi thời gian: Trong ba năm gần đây 2015, 2016, 2017.

+ Phạm vi không gian: Tại Viện Nghiên cứu Da- Giầy.

13

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp tiếp cận

- Sử dụng lý thuyết về phương pháp luận nghiên cứu khoa học, quản lý

công nghệ, quản lý nghiên cứu khoa học, tổ chức KH&CN, chính sách KH&CN,

luật chuyển giao công nghệ.

- Phương pháp đánh giá phân tích tổng hợp các tài liệu, số liệu điều tra,

thông tin thực tế liên quan đến thương mại hóa các kết quả nghiên cứu sử dụng

ngân sách nhà nước.

5.2 Phương pháp thu thập thông tin

- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu cơ sở lý thuyết từ các lý

thuyết có liên quan và kế thừa kết quả từ các đề tài nghiên cứu khoa học đã có.

Thu thập và phân tích thông tin từ các bài báo khoa học, từ kết quả các cuộc

điều tra, thống kê KH&CN và đổi mới có liên quan đã thực hiện, từ các tài liệu

báo cáo kết quả hoạt động KH&CN, các văn bản chính sách có liên quan…v.v;

- Phương pháp quan sát: thực tế hình thành các doanh nghiệp spin-off tại

một số tổ chức NC&TK của ngành Da- Giầy: Viện Nghiên cứu Da- Giầy; Một

số doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan đến thương mại hoá kết quả

NC&TK v.v...;

- Phương pháp chuyên gia: thu thập thông tin về ý kiến chuyên gia tại các

cơ quan quản lý liên quan, một số tổ chức NC&TK và doanh nghiệp spin-off.

5.3 Phương pháp xử lý thông tin

- Xử lý toán học đối với các thông tin định lượng: sử dụng phương pháp

thống kê toán học để xác định xu hướng diễn biến của tập hợp số liệu;

14

- Xử lý lô gíc đối với các thông tin định tính: sử dụng các suy luận logíc

đưa ra các phán đoán về bản chất của các sự kiện, thể hiện mối lien hệ giữa các

sự kiện;

5.4 Câu hỏi nghiên cứu

- Hiện trạng thương mại hoá các kết quả nghiên cứu của các tổ chức

NC&TK nói chung và trong ngành Da Giầy nói riêng trong 3 năm trở lại đây ?

- Doanh nghiệp spin-off có vai trò như thế nào đối với việc thương mại

hóa các kết quả nghiên cứu theo quan điểm chính sách đổi mới ?

- Những giải pháp chính sách thích hợp nào để hình thành doanh nghiệp

spin-off góp phần thúc đẩy thương mại hóa các kết quả nghiên cứu ?

5.5 Giả thuyết nghiên cứu

- Việc thương mại hoá các kết quả nghiên cứu của các tổ chức NC&TK

nói chung đã đạt được một số kết quả bước đầu nhưng hiệu quả chưa cao, riêng

đối với ngành Da- Giầy chỉ dừng lại ở sản xuất thử nghiệm và chuyển giao dây

chuyền sản xuất thử nghiệm;

- Doanh nghiệp spin-off là một trong các chủ thể chính và là trung tâm

liên kết các yếu tố của hệ thống đổi mới;

- Doanh nghiệp spin-off là hình thức ngắn nhất - trực tiếp đưa sản phẩm

NC&TK vào thị trường, giảm chi phí chuyển giao;

- Các giải pháp về sở hữu trí tuệ, tài sản, tài chính và luân chuyển nhân

lực KH&CN là nhóm các giải pháp cần thiết để hình thành doanh nghiệp spin-

off và hoạt động hiệu quả nhằm thúc đẩy nghiên cứu, sản xuất và thương mại

hoá các kết quả nghiên cứu của các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong ngành

Da- Giầy;

15

6. Những đóng góp cơ bản của đề tài

Thứ nhất, đề tài làm rõ cơ sở lý luận về việc hình thành doanh nghiệp

spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Thứ hai, đề tài đã đưa ra một số bài học tham khảo cho Viện Nghiên cứu

Da-Giầy, Bộ Công Thương trong việc hình thành doanh nghiệp spin-off để

thương mại hóa kết quả nghiên cứu trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một

số tổ chức khoa học và công nghệ.

Thứ ba, đề tài phân tích thực trạng, đưa ra các thuận lợi, khó khăn trong

việc hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại

Viện Nghiên cứu Da-Giầy, Bộ Công Thương.

Thứ tư, đề tài đề xuất được một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy việc

hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện

Nghiên cứu Da-Giầy, Bộ Công Thương.

7. Kết cấu đề tài

Phần mở đầu

Chương 1. Cơ sở lý luận về doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết

quả nghiên cứu.

Chương 2. Phân tích thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu và

nhu cầu hình thành doanh nghiệp Spin-off tại Viện Nghiên cứu Da- Giầy.

Chương 3. Giải pháp hình thành và phát triển doanh nghiệp Spin-off để

thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da- Giầy.

Kết luận và Khuyến nghị.

Tài liệu tham khảo

16

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP SPIN-OFF ĐỂ

THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1.1. Doanh nghiệp spin-off

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp spin-off

Khái niệm “spin-off” về bản chất xuất phát từ lĩnh vực vật lý nguyên tử là

một quá trình điện tử chuyển động quay quanh hạt nhân khi tích đủ năng lượng

thì điện tử đó văng ra khỏi quỹ đạo chuyển động xa hạt nhân hơn.

Theo tác giả Vũ Cao Đàm, doanh nghiệp KH&CN, tức xí nghiệp spin-off

là đơn vị có chức năng làm triển khai, có thể bắt đầu từ giai đoạn chế tác vật

mẫu, làm pilot, ươm tạo, và cuối cùng là “sản xuất” ra các công nghệ và bán

(chuyển giao) các công nghệ đó cho các xí nghiệp công nghiệp.

Trong các tài liệu nghiên cứu phương tây, đặc biệt là ở Mỹ và Anh, khái

niệm doanh nghiệp khoa học và công nghệ được hiểu là doanh nghiệp khoa học

spin-off (academic spin-offs) và doanh nghiệp dựa trên công nghệ mới (doanh

nghiệp dựa trên công nghệ cao).

Doanh nghiệp spin-off được hiểu là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh

vực khoa học và công nghệ, được hình thành dựa trên cơ sở áp dụng, khai thác

các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra ở viện

nghiên cứu, trường đại học hoặc do cá nhân hoặc tập thể các nhà khoa học, kĩ

sư,… có trình độ kiến thức và năng lực chuyên môn cao, có tinh thần kinh

thương rời khỏi tổ chức mẹ để bắt đầu một sự kinh doanh độc lập mới.

17

Các sản phẩm của doanh nghiệp KH&CN là các kết quả nghiên cứu

KH&CN, đặc biệt là sản phẩm mới, công nghệ mới, do đó nó mang tính đặc thù

và khác với các sản phẩm hàng hóa thông thường khác như chứa đựng nhiều yếu

tố vô hình, có nhiều ràng buộc về quyền sở hữu, khó định giá. Tuy nhiên đây lại

là nền tảng, là động lực thúc đẩy quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước.

Dựa trên các khái niệm khác nhau, có thể đồng tình với quan điểm của

Bạch Tân Sinh cho rằng, việc hình thành doanh nghiệp spin-off tương tự quá

trình điện tử chuyển động quay quanh hạt nhân, khi tích đủ năng lượng thì điện

tử đó văng ra khỏi quỹ đạo chuyển động. Tuy nhiên, ở đây tác giả bổ sung thêm

quan điểm “tích hợp” của tác giả Nguyễn Văn Học, theo đó spin-off là quá trình

điện tử quay quanh hạt nhân và tích lũy năng lượng đến khi đủ điều kiện (ái lực

giảm dần) thì văng ra khỏi quỹ đạo, kết hợp với một số yếu tố khác bên ngoài để

hình thành nên “đám mây điện tử” hoặc “điện tử tự do - doanh nghiệp độc lập”.

Từ các phân tích trên đây, có thể đưa ra một khái niệm về doanh nghiệp

spin-off phù hợp với điều kiện của Việt Nam như sau: “Doanh nghiệp spin-off là

doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở áp dụng/khai thác kết quả nghiên cứu

khoa học và công nghệ được tạo ra ở viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức

nghiên cứu tư nhân hoặc bởi một cá nhân hoặc tập thể nhà khoa học, công

nghệ, sáng chế (người khởi xướng/sáng lập doanh nghiệp)”.

Người sáng lập doanh nghiệp spin-off thường có một hoặc cả ba đặc trưng

sau đây:

+ Sở hữu một bí quyết công nghệ cụ thể và có thể áp dụng bí quyết công

nghệ đó để đổi mới sản phẩm hoặc đổi mới quá trình;

18

+ Có tinh thần kinh thương: quan tâm đến việc khai thác một cách tối đa

bí quyết công nghệ cụ thể đã có;

+ Để sản xuất sản phẩm và dịch vụ cụ thể đủ năng lực cạnh tranh thị

trường trên cơ sở khai thác các nguồn vốn tự có hoặc coi như tự có (vốn vay,

vốn mạo hiểm,…)

Doanh nghiệp spin-off có thể được xem xét trong mối liên hệ giữa chuyển

giao công nghệ hoặc luân chuyển cán bộ nghiên cứu như là một phương thức

khai thác giá trị kinh tế đối với kết quả nghiên cứu. Nói một cách khác việc hình

thành doanh nghiệp spin-off luôn gắn với chuyển giao bí quyết công nghệ và

luân chuyển nguồn nhân lực tham gia vào việc tạo ra các bí quyết công nghệ đó.[27]

1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp spin-off trong thương mại hóa kết quả

nghiên cứu

a. Doanh nghiệp spin-off là phương thức ngắn nhất đưa kết quả nghiên

cứu vào sản xuất.

Bản thân doanh nghiệp spin-off là do chính các nhà khoa học - những

người nghiên cứu sáng tạo và làm chủ những công nghệ thành lập và điều hành.

Như đã nói trên đây, theo quy luật, có thể thời gian đầu, doanh nghiệp spin-off

vẫn còn tồn tại ngay trong cơ sở nghiên cứu mẹ với chức năng trực tiếp đưa

nhanh kết quả nghiên cứu khoa học của mình vào sản xuất sản phẩm hàng hoá

mang hàm lượng chất xám cao cho xã hội. Doanh nghiệp spin-off là phương

thức để nhà khoa học tự chủ, tự chịu trách nhiệm đến cùng với kết quả nghiên

cứu của mình. Mô hình doanh nghiệp này đề cao vai trò chủ động của các nhà

khoa học và là mô hình kinh doanh mới, khai thác các kết quả nghiên cứu công

19

nghệ một cách nhanh nhậy, khả dĩ sản xuất sản phẩm nhanh hơn, chất lượng hơn

và rẻ hơn so với mô hình doanh nghiệp truyền thống. Ngoài ra, không loại trừ

việc hình thành các doanh nghiệp spin-off từ các viện, các tổ chức nghiên cứu.

Trong trường hợp đó, doanh nghiệp spin-off được gọi với cái tên là spin-out với

nghĩa là tách khỏi khu vực thuần tuý nghiên cứu để hoạt động theo cơ chế doanh

nghiệp.

Các doanh nghiệp khoa học spin-off được thành lập trên cơ sở dịch

chuyển nhân lực và sở hữu trí tuệ từ cơ quan/tổ chức mẹ. Đây là quá trình

chuyển giao tri thức dưới dạng ẩn, khác với cơ chế thương mại hoá công nghệ

thông qua bán công nghệ, chuyển nhượng hay bán quyền sử dụng bản quyền

hoặc liên doanh. Nói cách khác, việc hình thành doanh nghiệp spin-off luôn gắn

với việc chuyển giao bí quyết công nghệ và lưu chuyển nguồn nhân lực tham gia

vào việc tạo nên bí quyết công nghệ đó. Vì vậy, ưu điểm của loại hình doanh

nghiệp này là luôn giữ được bí quyết công nghệ đảm bảo quá trình thương mại

hoá kết quả nghiên cứu thành công và không phải qua bất kỳ khâu trung gian

nào, giảm giá thành chuyển giao.

b. Doanh nghiệp spin-off là phương tiện thực hiện hiệu quả chính sách

thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo.

Bản thân doanh nghiệp spin-off vừa có chức năng nghiên cứu, vừa có

chức năng sản xuất và kinh doanh nên doanh nghiệp spin-off đã tự xác định

được nhu cầu cần phải ưu tiên nghiên cứu những sản phẩm gì cho phù hợp với

năng lực sản xuất công nghệ của mình đồng thời vẫn đáp ứng được nhu cầu của

thị trường để thu lợi nhuận cao. Theo Lundvall (1992), đổi mới bắt nguồn từ sự

xung đột giữa nhu cầu và cơ hội. Chức năng cơ bản của mối quan hệ giữa người

sản xuất (người tạo ra công nghệ) và người tiêu dùng (người sử dụng công nghệ)

20

chính là trao đổi về cơ hội công nghệ và nhu cầu của người tiêu dùng. Nếu sự

trao đổi này thành công, điều đó có nghĩa là đã đạt được sự đổi mới. Trở lại vấn

đề, doanh nghiệp spin-off vừa là người sản xuất ra các công nghệ vừa lại là nơi

sử dụng công nghệ đó để sản xuất sản phẩm kinh doanh được trên thị trường,

điều đó chứng tỏ doanh nghiệp spin-off là phương tiện để thực hiện đổi mới sản

phẩm nói riêng và chính sách đổi mới nói chung. Bên cạnh đó, chi phí giao dịch

là chi phí cần thiết để có thể tiến hành trôi chảy một cuộc trao đổi (hay vụ giao

dịch). Một cuộc trao đổi có ba bước: Thứ nhất, phải tìm được một đối tác trao

đổi, bao gồm việc tìm người muốn mua những thứ cần bán hay muốn bán những

thứ có nhu cầu mua. Thứ hai, các đối tác trao đổi phải đi đến một thỏa thuận.

Thỏa thuận đạt được thông qua thương lượng thành công, tiến đến soạn thảo

một bản hợp đồng. Thứ ba, sau khi đã đạt được thỏa thuận thì phải thực thi thỏa

thuận đó. Thực thi thỏa thuận bao gồm giám sát việc thực hiện của các bên và

trừng phạt đối với những vi phạm hợp đồng. Vì vậy, chi phí giao dịch gồm các

loại: chi phí tìm kiếm và thông tin, chi phí thương thảo, chi phí đảm bảo thực

hiện hợp đồng, … Câu hỏi đặt ra là khi nào thì các chi phí giao dịch cao và khi

nào thì thấp. Đối với chi phí tìm kiếm (tìm kiếm thông tin lẫn tìm kiếm đối tác)

thì có khuynh hướng cao đối với hàng hóa hay dịch vụ độc đáo, và thấp đối với

hàng hóa hay dịch vụ đã chuẩn hóa. Chuyển qua chi phí thương thảo, chi phí này

sẽ giảm khi mà cả hai bên đều đã nắm rõ được các giải pháp hợp tác cũng như

các giá trị của nhau. Tuy nhiên, điều này sẽ là rất khó khăn bởi có những thông

tin có thể công khai nhưng cũng có thông tin thì không thể (thông tin riêng tư).

Nói chung, thông tin công khai giúp các bên đạt được thỏa thuận dễ dàng hơn

bằng cách cho phép họ tính toán những điều kiện hợp tác hợp lý. Kết quả là các

cuộc thương lượng có khuynh hướng đơn giản và dễ dàng khi thông tin về giá trị

21

đe dọa và giải pháp hợp tác là công khai. Điều này dẫn đến làm cho chi phí giao

dịch giảm.Việc thu thập thông tin là chìa khoá dẫn đến các chi phí giao dịch, bao

gồm các chi phí đánh giá các thuộc tính có giá trị của những thứ được trao đổi.

Bên cạnh đó, chi phí giao dịch cũng bao gồm các chi phí bảo vệ các

quyền và chi phí kiểm soát, chi phí cưỡng chế thi hành các thoả thuận. Theo

Lundvall (1992), chi phí giao dịch phát sinh theo quan điểm quá trình tạo nên sự

tin tưởng lẫn nhau giữa những người tạo ra và sử dụng tri thức thường rất tốn

kém. Hay nói một cách khác, chi phí giao dịch giữa một bên tạo nên và một bên

sử dụng tri thức ở hai tổ chức khác nhau thì cao hơn nhiều so với chi phí giao dịch đó nếu hai bên ở trong cùng một tổ chức.[39] Vì vậy, doanh nghiệp spin-off

đã đáp ứng được yêu cầu đó bởi những lý do sau: Thứ nhất, bản thân doanh

nghiệp spin-off trực tiếp vừa nghiên cứu lại vừa sản xuất, nên không phải tốn chi

phí tìm kiếm đối tác và không tốn phí thương thảo vì bộ phận nghiên cứu và bộ

phận sản xuất cùng thuộc một tổ chức, đó chính là doanh nghiệp. Thứ hai, đối

với các sản phẩm là công nghệ mới và công nghệ cao, mang tính đặc thù, chi phí

tìm kiếm thông tin về sản phẩm cũng như tìm kiếm đối tác để mua và sản xuất

công nghệ đó là rất cao, thậm chí là rất khó tìm. Vì vậy, doanh nghiệp spin-off

ra đời giải quyết thỏa đáng được vấn đề này bởi doanh nghiệp spin-off vừa sản

xuất, vừa nghiên cứu các sản phẩm là công nghệ mới, công nghệ cao (khuyến

khích phát triển). Thứ ba, thông thường, các đơn vị sản xuất kinh doanh thường

đặt hàng cho các đơn vị nghiên cứu và phải trả cho các nhà nghiên cứu một

khoản nhất định nào đó và ngược lại, các nhà khoa học khi muốn ứng dụng kết

quả của mình để tạo thành sản phẩm thì phải thông qua các đơn vị sản xuất và

đương nhiên sẽ phải trả một khoản lệ phí nào đó. Từ mối quan hệ này, nảy sinh

thêm những chi phí thông tin được trao đổi giữa hai bên ứng với mỗi đơn vị

22

thuộc tính. Điều đó cũng làm cho chi phí giao dịch tăng. Mặt khác, khi gắn kết

giữa nghiên cứu với sản xuất, đòi hỏi phải có sự trao đổi giữa bên nghiên cứu và

bên sản xuất dưới nhiều hình thức. Vì vậy, tất yếu phải có sự tranh luận, cạnh

tranh nhau để tự khẳng định và cùng phát triển nhằm hoàn thiện những mặt yếu

của mình. Do đó khi xảy ra chi phí giao dịch thì cũng có thể coi là một quá trình

kinh doanh đem lại lợi nhuận và kinh nghiệm cho những bên tham gia. Ta cũng

có thể hiểu theo nghĩa là khi gắn kết nghiên cứu với sản xuất thì tất yếu sẽ dẫn

đến những khoản chi phí cho giao dịch của quá trình gắn kết này. Bởi vì sự gắn

kết này phải dựa trên cơ sở là động lực phát triển của cả hai phía chứ không làm

triệt tiêu lẫn nhau, nên tiến hành trả chi phí một cách thỏa đáng sẽ dẫn đến đạt

được kết quả cao hơn. Tuy nhiên, một khi cả hai bộ phận nghiên cứu và bộ phận

sản xuất lại cùng nằm trong một tổ chức, đó chính là doanh nghiệp spin-off thì

sẽ giảm được khoản chi phí giao dịch đó đồng thời vẫn đảm bảo thu được lợi

nhuận cho doanh nghiệp. Một khi giảm được chi phí giao dịch thì tất yếu giá

thành sản phẩm sản xuất ra sẽ giảm, dẫn tới nâng cao tính cạnh tranh của sản

phẩm. Thứ tư, do hạn chế của thị trường công nghệ, với tư cách là môi trường

thực hiện giao dịch giữa nghiên cứu và sản xuất thì thực sự chưa phát triển. Thị

trường công nghệ ở Việt Nam còn sơ khai, hầu như thiếu vắng nhiều yếu tố hợp

thành của một thị trường hoàn chỉnh, đặc biệt là các tổ chức trung gian, môi

giới, cung cấp thông tin về công nghệ, tư vấn mua bán công nghệ, kinh nghiệm

trong việc tiếp thị, các kỹ thuật thương thuyết, đàm phán.... Vì vậy, hạn chế khả

năng chuyển giao kết quả nghiên cứu của viện nghiên cứu ra bên ngoài. Chính

điều kiện này lại thúc đẩy hình thức sản xuất kinh doanh bên trong viện nghiên cứu phát triển, trong đó có mô hình doanh nghiệp spin-off.[26]

23

Đặc điểm quan trọng của các công ty spin-off là quy mô khởi đầu nhỏ và

vừa với số vốn đầu tư không quá lớn và dễ dàng thích ứng với sự thay đổi của

thị trường. Giáo sư Xiaogang Peng (Đại học Arkansas, Mỹ) trong bài tổng quan

về cơ hội và thách thức đối với mô hình spin-off đã ví mô hình spin-off giống

như các con thuyền nhỏ đi trên sóng nước, dễ dàng thích ứng với các con sóng

dữ nhờ sự linh động. Với quy mô như vậy, công ty spin- off tận dụng cơ sở hạ

tầng nghiên cứu từ chính các trung tâm nghiên cứu phát triển, nơi được đầu tư

cơ sở hạ tầng hiện đại đủ khả năng phục vụ cho cả nghiên cứu cơ bản và nghiên

cứu phát triển, vừa tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo từ đây.

Với quy mô nhỏ và vừa, khả năng thu hồi vốn của spin-off nhanh hơn cùng với

chi phí thấp hơn cho việc xây dựng cơ sở vật chất cũng như chi phí quản trị.

Bên cạnh đó, các trường đại học lớn và các viện nghiên cứu hiện nay còn

tính đến sự “xung đột” giữa chức năng làm học thuật (của nhà nghiên cứu) và

chức năng làm kinh doanh (khi quản lý doanh nghiệp spin-off) nên đều có

những văn bản thỏa thuận rất rõ ràng về phân công các nhiệm vụ mà nhà khoa

học cần hoàn thành. Từ đó, việc hình thành doanh nghiệp spin- off ra đời cũng

đã giải quyết được sự xung đột này.

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành doanh nghiệp spin-off

để thương mại hóa kết quả nghiên cứu

Sự hình thành một doanh nghiệp spin-off chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố chủ

yếu sau:

(a) Yếu tố bên trong

Tập thể hoặc cá nhân là người chủ sở hữu hoặc được giao quyền sở hữu

các công nghệ sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp spin-off. Trong nhiều trường

24

hợp, chủ doanh nghiệp spin-off phải là các nhà khoa học thuộc tổ chức nghiên

cứu, trường đại học.

Chủ doanh nghiệp spin-off – các nhà khoa học phải có tinh thần kinh

thương như đã nói trên đây. Đồng thời phải luôn duy trì hoạt động đổi mới hoặc

thông qua mối quan hệ thường xuyên với tổ chức mẹ (viện, trường) hoặc tự

mình tổ chức hoạt động nghiên cứu. Đơn giản là vì doanh nghiệp spin-off luôn

luôn đòi hỏi tự tích tụ năng lượng (các dự trữ khoa học) để đổi mới sản phẩm.

Có khả năng khai thác, sử dụng các nguồn vốn tự có và coi như tự có (vốn

vay, vốn đầu tư mạo hiểm, quà tặng, biếu…Trong đó, yếu tố này đòi hỏi một

thiết chế tài chính năng động với tính thanh khoản nhanh nhậy để khuyến khích

các nhà đầu tư mạnh dạn cung cấp vốn cho doanh nghiệp spin-off. Thiếu yếu tố

thứ 3 này, ý tưởng thành lập doanh nghiệp spin-off khó có thể thành hiện thực cao nhất.[26]

b) Yếu tố bên ngoài

Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã và đang nhận được sự

quan tâm và đầu tư từ các doanh nghiệp trên khắp thế giới. Đảng ta đã có nhiều

chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế trong đó lực lượng chủ yếu là các

doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các hệ sinh thái khởi nghiệp cũng được xây dựng.

Triển khai các chủ trương của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban hành một

số văn bản hỗ trợ như:

- Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và

nhỏ, quy định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở từ Trung ương tới

địa phương;

- Ngày 23/10/2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định

236/2006/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 05

25

năm giai đoạn 2006 - 2010, đề ra các giải pháp nhằm tạo lập môi trường đầu tư,

kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và

nhỏ trên cơ sở huy động các nguồn lực trong và ngoài nước;

- Ngày 30/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ

giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (thay thế Nghị định 90/2001/NĐ-CP)

quy định 8 nhóm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (Hỗ trợ tài chính,

mặt bằng sản xuất; đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; xúc

tiến mở rộng thị trường; tham gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công; thông tin và

tư vấn; trợ giúp phát triển nguồn nhân lực; vườn ươm DN). Trên cơ sở đó, các

bộ, ngành, địa phương cũng đã tập trung xây dựng và triển khai những chương

trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 1231/QĐ-TTg, đề ra một số

giải pháp, chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trọng tâm sau:

(i) Hoàn thiện khung pháp lý về gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị

trường của DN;

(ii) Hỗ trợ tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn;

(iii) Hỗ trợ đổi mới công nghệ và áp dụng công nghệ mới;

(iv) Phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung

vào nâng cao năng lực quản trị;

(v) Đẩy mạnh hình thành các cụm liên kết, cụm ngành công nghiệp, tăng

cường tiếp cận đất đai;

(vi) Cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ và xúc tiến mở

rộng thị trường;

26

(vii) Xây dựng hệ thống tổ chức trợ giúp phát triển;

(viii) Quản lý thực hiện kế hoạch phát triển. Trong đó, nhấn mạnh vào

những giải pháp về thành lập Quỹ hỗ trợ, tổ chức thực hiện các Chương trình

đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển

công nghệ cao đến năm 2020, Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến

năm 2020; thí điểm xây dựng vườn ươm doanh nghiệp; thí điểm xây dựng mô

hình hỗ trợ toàn diện cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một số lĩnh vực; thúc

đẩy các liên kết kinh tế, cụm liên kết ngành.

Trong Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến

2020, Chính phủ nhấn mạnh: Nhà nước sẽ có những chính sách đặc thù để hỗ trợ

doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng

tạo và có tiềm năng tăng trưởng cao phát triển.

Tuy nhiên hành lang pháp lý còn rời rạc, tồn tại sự xung đột. Theo ý kiến

các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý, các cơ chế, chính sách hỗ trợ khu vực

doanh nghiệp khởi nghiệp còn thiếu tính đồng bộ và hệ thống, vẫn còn tồn tại sự

xung đột. Một số chính sách còn thiếu quy định cụ thể áp dụng cho doanh

nghiệp vừa và nhỏ; mang nặng tính khuyến khích và chung chung như: hỗ trợ về

mặt bằng sản xuất, tham gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công.

Quy mô hỗ trợ doanh nghiệp còn hạn hẹp, hiện chỉ mới tập trung vào hỗ

trợ vườn ươm doanh nghiệp, bảo lãnh tín dụng, chính sách tư vấn về quản trị

kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất. Các hỗ trợ theo cơ cấu vùng, miền và

ngành nghề chưa hợp lý, nhiều chính sách còn thiếu hỗ trợ đặc thù cho khu vực

nông thôn, miền núi và trong các ngành Nông – lâm - thuỷ sản.

27

Các cơ quan Trung ương và địa phương còn thiếu những đánh giá cụ thể

về hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống triển khai các chương trình, chính

sách trợ giúp doanh nghiệp chưa được kiện toàn từ Trung ương tới địa phương.

Những yếu tố trên đã tác động không nhỏ đến sự phát triển của doanh

nghiệp khởi nghiệp. Quy mô của doanh nghiệp đến nay vẫn còn rất nhỏ; cơ cấu

ngành, lĩnh vực hoạt động của khu vực chưa hợp lý; trình độ công nghệ thấp,

chưa tận dụng và tranh thủ được công nghệ của các doanh nghiệp đầu tư nước

ngoài cũng như sự hỗ trợ của doanh nghiệp lớn; trình độ quản lý yếu kém; kỹ

năng của người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu.

Tự thân các doanh nghiệp cũng chưa tạo được độ tin cậy cao, năng lực

cạnh tranh kém, chưa bảo đảm về vệ sinh, an toàn và bảo vệ môi trường. Khả

năng đàm phán, tiếp cận thị trường xuất khẩu, công nghệ, tiêu chuẩn môi trường

nước ngoài còn nhiều hạn chế; gặp nhiều cản trở trong tận dụng các cam kết,

vướng mắc làm chùn bước doanh nghiệp trong cải thiện năng lực sản xuất…

1.2. Thương mại hóa kết quả nghiên cứu

1.2.1. Khái niệm thương mại hóa kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu là thành quả do hoạt động nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ. Nói rộng hơn đó là sản phẩm của hoạt động đổi mới. Đây

là những kết quả nghiên cứu được thực hiện bằng ngân sách nhà nước. Kết quả

nghiên cứu sau nghiệm thu là kết quả nghiên cứu đã được Hội đồng khoa học

tiến hành đánh giá và kết luận nghiệm thu.

Kết quả nghiên cứu khoa học bao gồm: Bài báo khoa học, công trình khoa

học, báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học, thuyết trình khoa học, ngôn ngữ khoa

28

học, trích dẫn khoa học. Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ

là công cụ quan trọng để giúp doanh nghiệp da dạng hóa và nâng cao chất lượng

sản phẩm và tạo lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với xã

hội nói chung, kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công

nghệ có thể giúp con người nâng cao chất lượng cuộc sống. Ví dụ hoạt động

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực y tế giúp con người

có khả năng bảo vệ sức khỏe tốt hơn, hoạt động nghiên cứu khoa học và phát

triển công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin giúp tạo ra những thiết bị di

động hiện đại, thuận lợi cho việc giao tiếp, giải trí, hoạt động nghiên cứu khoa

học và phát triển công nghệ trong nông nghiệp giúp người nông dân có khả năng

nâng cao năng suất nuôi trồng...Hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ còn có vai trò quan trọng trong an ninh, quốc phòng, thúc đẩy phát

triển kinh tế xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường của một quốc gia.

Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vai trò của Nhà nước trong

việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ lại càng

quan trọng. Ngoài ra, ở các nước phát triển, nhiều doanh nghiệp có thể tự đầu tư

nghiên cứu để phát triển sản phẩm của họ thì hầu hết các doanh nghiệp ở Việt

Nam là doanh nghiệp nhỏ và vửa (hơn 97% tổng số doanh nghiệp). Chính vì vậy

kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đóng vai trò

quan trọng. Từ đó, hướng đến mục tiêu phải chuyển giao các kết quả nghiên cứu

đến doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của

doanh nghiệp Việt Nam trong thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế.

Thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu là một phương thức tổ chức

và quản lý hoạt động KH&CN theo quy luật cung cầu và quy luật giá trị áp

29

dụng trong một phạm vi nhất định để đưa nhanh kết quả nghiên cứu đã được

tạo ra áp dụng vào sản xuất và đời sống.

(a) Những kết quả nghiên cứu không thể thương mại hoá:

- Những kết quả nghiên cứu đang ở trong giai đoạn ban đầu chưa thể triển

khai rộng rãi;

- Các kết quả của nghiên cứu cơ bản;

- Sản phẩm của các đơn vị nghiên cứu thuộc các doanh nghiệp và các

doanh nghiệp này muốn giữ các kết quả nghiên cứu đó làm bí quyết của mình.

(b) Điều kiện đặc thù của thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu.

Kết quả nghiên cứu phải mang một giá trị sử dụng nhất định, tức hàm

chứa trong nó trình độ phát triển của KH&CN. Các kết quả này có thể tồn tại

dưới dạng vật chất hoá trong tư liệu sản xuất hoặc tồn tại dưới dạng tri thức mới

trong con người. Chủ yếu sản phẩm nghiên cứu được thương mại hoá tồn tại

dưới hình thức của công nghệ bao gồm trong 4 yếu tố:

-Yếu tố trang thiết bị, máy móc;

-Yếu tố kỹ năng, tay nghề;

- Yếu tố vật mang tin;

- Yếu tố tổ chức, quản lý.

Liên quan tới bản quyền của nhà khoa học với tư cách là bên cung sản

phẩm nghiên cứu. Nguyên tắc chung của trao đổi hàng hoá là trao đổi quyền sở

hữu của hàng hóa. Tuy nhiên, quyền sở hữu đối với sản phẩm nghiên cứu là vấn

đề nhạy cảm và thường xảy ra việc chiếm dụng phi pháp hay nói cách khác là

hiện tượng mất bản quyền. Lúc này vai trò của bảo hộ là cần thiết để đảm bảo

quá trình chuyển giao diễn ra công bằng.

30

Điều kiện tồn tại thị trường trao đổi. Thị trường công nghệ nói chung có

mối liên hệ nhất định với thị trường chung. Quy luật cạnh tranh năng động trong

thị trường cũng là một nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình thương mại hoá sản

phẩm nghiên cứu

Một điều kiện đặc thù khác của quá trình thương mại hoá sản phẩm

nghiên cứu là vai trò quan trọng của phân hệ các tổ chức môi giới. Lực lượng

này có vai trò cầu nối giữa bên cung và bên cầu đối với sản phẩm nghiên cứu

trong khi tồn tại khoảng cách giữa bên cung và cầu.

Để có thể thương mại hoá kết quả nghiên cứu nói chung phải hội tụ đủ 4

điều kiện trên. Ngược lại, việc sản nghiệp hoá (tự tổ chức SX-KD bên trong tổ

chức nghiên cứu) lại không cần thiết nhiều điều kiện như vậy hoặc ít nhất giảm

thiểu tối đa tác động của các điều kiện trên. Ví dụ, tự tổ chức sản xuất có thể

tránh được việc “mất bản quyền”, giảm được các chi phí giao dịch không cần

thiết.

1.2.2. Ảnh hưởng của thương mại hóa kết quả nghiên cứu tới sự phát

triển của tổ chức khoa học và công nghệ

(a) Thương mại hoá kết quả nghiên cứu có tác động tới việc thực hiện

chính sách đổi mới sáng tạo của tổ chức.

Bản chất của chính sách đổi mới là tập hợp hệ thống các giải pháp chính

sách nhằm sử dụng có hiệu quả các tri thức (kết quả) khoa học và công nghệ để

sản xuất sản phẩm mới đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường. Đối tượng quản

lý đổi mới – suy cho cùng là các dự án đổi mới sản phẩm có hàm lượng

KH&CN. Vì vậy, chính sách đổi mới là những chính sách ảnh hưởng đến những

quyết định của doanh nghiệp để phát triển, thương mại hoá và thực hiện các

31

công nghệ mới. Việc thương mại hoá các kết quả NC&TK là một trong những

giai đoạn quan trọng của quá trình đổi mới.

Do đó, nếu việc thương mại hoá thành công sẽ góp phần thúc đẩy cho

việc thực hiện chính sách đổi mới.

(b) Thương mại hoá kết quả nghiên cứu có tác động tới việc thúc đẩy hình

thành và phát triển của doanh nghiệp spin-off

Bản thân doanh nghiệp spin-off là do chính các nhà khoa học những

người nghiên cứu sáng tạo và làm chủ những công nghệ thành lập và điều hành.

Như đã nói trên đây, theo quy luật, có thể thời gian đầu, doanh nghiệp spin-off

vẫn còn tồn tại ngay trong cơ sở nghiên cứu mẹ với chức năng trực tiếp đưa

nhanh kết quả nghiên cứu khoa học của mình vào sản xuất sản phẩm hàng hoá

mang hàm lượng chất xám cao cho xã hội. Doanh nghiệp spin-off là phương

thức để nhà khoa học tự chủ, tự chịu trách nhiệm đến cùng với kết quả nghiên

cứu của mình. Mô hình doanh nghiệp này đề cao vai trò chủ động của các nhà

khoa học và là mô hình kinh doanh mới, khai thác các kết quả nghiên cứu công

nghệ một cách nhanh nhậy, khả dĩ sản xuất sản phẩm nhanh hơn, chất lượng hơn

và rẻ hơn so với mô hình doanh nghiệp truyền thống. Ngoài ra, không loại trừ

việc hình thành các doanh nghiệp spin-off từ các viện, các tổ chức nghiên cứu.

Trong trường hợp đó, doanh nghiệp spin-off được gọi với cái tên là spin-out với

nghĩa là tách khỏi khu vực thuần tuý là nghiên cứu để hoạt động theo cơ chế

doanh nghiệp.

Hiện ở nước ta đang áp dụng mô hình này đối với các viện nghiên cứu

công. IMI đang được xem là mô hình lý tưởng (hiện tượng IMI) để các nhà

hoạch định chính sách hướng tới thí điểm.

32

Các doanh nghiệp khoa học spin-off được thành lập trên cơ sở dịch

chuyển nhân lực và sở hữu trí tuệ từ cơ quan/tổ chức mẹ. Đây là quá trình

chuyển giao tri thức dưới dạng ẩn, khác với cơ chế thương mại hoá công nghệ

thông qua bán công nghệ, chuyển nhượng hay bán quyền sử dụng bản quyền

hoặc liên doanh. Nói cách khác, việc hình thành doanh nghiệp spin-off luôn gắn

với việc chuyển giao bí quyết công nghệ và lưu chuyển nguồn nhân lực tham gia

vào việc tạo nên bí quyết công nghệ đó.

Như vậy thương mại hóa kết quả nghiên cứu có tác động mạnh mẽ tới sự

duy trì và phát triển của tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt là các trường

đại học, viện nghiên cứu theo định hướng ứng dụng.

1.3. Nguyên tắc hình thành và các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình

thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu

1.3.1. Nguyên tắc hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa

kết quả nghiên cứu

- Thứ nhất: Kết quả nghiên cứu phải có chất lượng và có tính ứng dụng

cao: Bởi doanh nghiệp spin-off là phương thức ngắn nhất đưa kết quả nghiên

cứu vào sản xuất. Bản thân doanh nghiệp spin-off là do chính các nhà khoa học

những người nghiên cứu sáng tạo và làm chủ những công nghệ thành lập và điều

hành. Như đã nói trên đây, theo quy luật, có thể thời gian đầu, doanh nghiệp

spin-off vẫn còn tồn tại ngay trong cơ sở nghiên cứu mẹ với chức năng trực tiếp

đưa nhanh kết quả nghiên cứu khoa học của mình vào sản xuất sản phẩm hàng

hoá mang hàm lượng chất xám cao cho xã hội. Doanh nghiệp spin-off là phương

thức để nhà khoa học tự chủ, tự chịu trách nhiệm đến cùng với kết quả nghiên

cứu của mình. Mô hình doanh nghiệp này đề cao vai trò chủ động của các nhà

33

khoa học và là mô hình kinh doanh mới, khai thác các kết quả nghiên cứu công

nghệ một cách nhanh nhậy, khả dĩ sản xuất sản phẩm nhanh hơn, chất lượng hơn

và rẻ hơn so với mô hình doanh nghiệp truyền thống. Ngoài ra, không loại trừ

việc hình thành các doanh nghiệp spin-off từ các viện, các tổ chức nghiên cứu.

Trong trường hợp đó, doanh nghiệp spin-off được gọi với cái tên là spin-out với

nghĩa là tách khỏi khu vực thuần tuý nghiên cứu để hoạt động theo cơ chế doanh

nghiệp. Hiện ở nước ta đang áp dụng mô hình này đối với các viện nghiên cứu

công. IMI đang được xem là mô hình lý tưởng (hiện tượng IMI) để các nhà

hoạch định chính sách hướng tới thí điểm. Các doanh nghiệp khoa học spin-off

được thành lập trên cơ sở dịch chuyển nhân lực và sở hữu trí tuệ từ cơ quan/tổ

chức mẹ. Đây là quá trình chuyển giao tri thức dưới dạng ẩn, khác với cơ chế

thương mại hoá công nghệ thông qua bán công nghệ, chuyển nhượng hay bán

quyền sử dụng bản quyền hoặc liên doanh. Nói cách khác, việc hình thành

doanh nghiệp spinoff luôn gắn với việc chuyển giao bí quyết công nghệ và lưu

chuyển nguồn nhân lực tham gia vào việc tạo nên bí quyết công nghệ đó. Vì

vậy, ưu điểm của loại hình doanh nghiệp này là luôn giữ được bí quyết công

nghệ đảm bảo quá trình thương mại hoá kết quả nghiên cứu thành công và

không phải qua bất kỳ khâu trung gian nào, giảm giá thành chuyển giao.

Thứ hai hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả

nghiên cứu phải xuất phát từ nhu cầu cầu thị trường và xã hội. Bản thân doanh

nghiệp spin-off vừa có chức năng nghiên cứu, vừa có chức năng sản xuất và

kinh doanh nên doanh nghiệp spin-off đã tự xác định được nhu cầu cần phải ưu

tiên nghiên cứu những sản phẩm gì cho phù hợp với năng lực sản xuất công

nghệ của mình đồng thời vẫn đáp ứng được nhu cầu của thị trường để thu lợi

nhuận cao. Thông thường, các đơn vị sản xuất kinh doanh thường đặt hàng cho

34

các đơn vị nghiên cứu và phải trả cho các nhà nghiên cứu một khoản nhất định

nào đó và ngược lại, các nhà khoa học khi muốn ứng dụng kết quả của mình để

tạo thành sản phẩm thì phải thông qua các đơn vị sản xuất và đương nhiên sẽ

phải trả một khoản lệ phí nào đó. Từ mối quan hệ này, tạo nên sự gắn kết giữa

nghiên cứu với sản xuất, đòi hỏi phải có sự trao đổi giữa bên nghiên cứu và bên

sản xuất dưới nhiều hình thức.

Thứ ba, hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả

nghiên cứu phải đảm bảo được các nguồn lực cần thiết.

Theo Robert và Malone (1996), “spin-off được thành lập do 4 nhóm tác

nhân: (1) Người tạo ra công nghệ (technology originator): người hoặc tổ chức

tạo ra công nghệ từ công đoạn nghiên cứu cơ bản đến triển khai thực nghiệm và

có thể chuyển giao công nghệ; (2)Tổ chức mẹ (Parent organization): Tổ chức

NC&TK có vai trò hỗ trợ hoặc ngăn cản quá trình thành lập bằng cách kiểm soát

quyền SHTT; (3)Nhà nghiên cứu hoặc một nhóm nghiên cứu có tinh thần kinh

thương (the entrepreneur or entrepreneurial team): người sử dụng công nghệ do

tổ chức mẹ tạo nên và có ý định thành lập doanh nghiệp mới dựa trên công nghệ

đó; (4)Nhà đầu tư mạo hiểm (the venture investor): cung cấp tài trợ cho việc thành lập doanh nghiệp mới và đổi lại được cổ phần trong doanh nghiệp”.[41]

Doanh nghiệp spin-off được hiểu là các doanh nghiệp công nghệ triển

khai các kết quả nghiên cứu ứng dụng của các nhà khoa học với hình thức đồng

sở hữu của cơ sở nghiên cứu và nhà phát minh và được quản lý độc lập với cơ

sở nghiên cứu. Doanh nghiệp này phát triển và sản xuất sản phẩm từ công nghệ

được phát triển bởi nhà nghiên cứu và bán sản phẩm ra thị trường thông qua các

kênh phân phối thích hợp. Hoặc ở quy mô thấp hơn, doanh nghiệp spin-off có

35

thể là một kênh trung gian để tiếp tục phát triển công nghệ nhằm chuyển giao tới

các doanh nghiệp sản xuất lớn hơn.

Để có thể thành lập được các doanh nghiệp spin-off thì điều đầu tiên là

nhà nghiên cứu tạo ra được kết quả nghiên cứu có tính ứng dụng và có khả năng

thương mại hóa. Cơ sở nghiên cứu sẽ hỗ trợ việc thương mại hóa thông qua các

quỹ đầu tư khởi nghiệp và đầu tư cho nhà nghiên cứu nhằm hình thành doanh

nghiệp (bằng sáng chế (patent) sở hữu trí tuệ luôn được đăng ký trước đó để bảo

vệ sản phẩm trí tuệ bởi luật pháp).

Để có thể phát triển được mô hình này, điều đầu tiên tất nhiên phải đến từ

chính nghiên cứu của các nhà khoa học: các kết quả có tính ứng dụng. Thứ hai là

hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần chặt chẽ để giúp nhà

nghiên cứu có thể bảo vệ sản phẩm của mình. Thứ ba là các quỹ đầu tư khởi

nghiệp từ chính phủ trực tiếp cho các cơ quan nghiên cứu cho mục đích spin-off,

cùng với hệ thống pháp lý chặt chẽ, rõ ràng quy định về quyền lợi các bên (nhà

nghiên cứu, cơ quan sở hữu,...), và cơ chế thông thoáng, thủ tục hành chính gọn

nhẹ. Và thứ tư, cần sự quản lý độc lập (theo đúng mô hình spin-off) của các

công ty khởi nghiệp khỏi hệ thống hành chính và học thuật của trường đại học,

viện nghiên cứu nhằm để các công ty này vận hành theo đúng cơ chế thị trường.

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành doanh nghiệp spin-off

để thương mại hóa kết quả nghiên cứu

- Yếu tố đầu tiên (quan trọng nhất) là nhà nghiên cứu tạo ra được kết quả

nghiên cứu có tính ứng dụng (cho thị trường) và có khả năng thương mại hóa.

36

Trong thời gian qua, các công trình nghiên cứu khoa học đã có đóng góp

đáng kể để thúc đẩy sản xuất. Kết quả nghiên cứu của nhiều đề tài đã được áp

dụng vào sản xuất để tạo ra sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng cao phục vụ

xuất khẩu, thay thế hàng nhập ngoại, góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình

độ công nghệ, năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. Các

chương trình, đề tài về công nghệ như nông nghiệp, y - dược, công nghệ thông

tin, viễn thông liên lạc, cơ khí, vật liệu… đã có những kết quả được ứng dụng

trong sản xuất đáng ghi nhận, đặc biệt trong giai đoạn 1996 - 2000 đã có 172 đề

tài trong số 233 đề tài (chiếm 73,6%) đã được áp dụng vào thực tiễn ở những

quy mô khác nhau. Trong giai đoạn này, Bộ KH&CN đã khuyến khích các

chương trình, đề tài, dự án khi có những kết quả thành công có thể áp dụng ngay

vào sản xuất, không nhất thiết phải chờ đến khi nghiệm thu kết thúc toàn bộ đề

tài, dự án. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện, nhiều kết quả tốt đã được tổ

chức đánh giá và cho áp dụng ngay, đảm bảo được tính thời sự của vấn đề. Có

thể nói rằng, một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt

động nghiên cứu là kết quả đó được đưa vào sản xuất và đời sống. Chúng ta thấy

rằng ngày càng có nhiều các đề tài, dự án được áp dụng vào sản xuất và đời

sống, đem lại những khoản thu ngày càng lớn hơn, tuy nhiên con số này còn rất

nhỏ so với số lượng đề tài, dự án được tiến hành nghiên cứu và nghiệm thu. Nói

cách khác, vẫn còn rất nhiều đề tài, dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền

nghiệm thu, song vẫn không được ứng dụng. Việc đưa kết quả một công trình

nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống là cả một quá trình, và sở dĩ nhiều

kết quả nghiên cứu sau khi đã được nghiệm thu vẫn không được đưa vào ứng

dụng do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, kể cả các nguyên nhân từ bản thân

37

các kết quả nghiên cứu và các nguyên nhân từ môi trường kinh tế - xã hội tác

động.

- Thứ hai là hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cần chặt

chẽ để giúp nhà nghiên cứu có thể bảo vệ sản phẩm của mình. Điểm quan trọng

ở đây là nhà phát minh không phải là người làm thuê cho khoản đầu tư này mà

được cùng hưởng cổ phần trong doanh nghiệp (đồng thời là người sáng lập và

lãnh đạo mảng kỹ thuật, công nghệ của doanh nghiệp). Trong nền kinh tế định

hướng đổi mới, việc đổi mới công nghệ để cạnh tranh và tăng lợi nhuận ngày

càng trở nên gay gắt đòi hỏi một hệ thống bảo hộ SHTT hữu hiệu và chặt chẽ để

ngăn chặn sự cạnh tranh hỗn loạn, không trung thực, đồng thời kích thích năng

lực công nghệ nội sinh. “Sở hữu trí tuệ” nhắm đến việc xác lập quyền sở hữu đối

với các kết quả mới của hoạt động trí tuệ, có thể gọi chung là các “ý tưởng mới”,

tuy có tính vô hình, nhưng lại có khả năng tạo ra giá trị gia tăng (value added)

khi được lồng vào trong một sản phẩm hữu hình, hoặc thể hiện ra trong

một tác phẩm (Viết, đồ họa, âm nhạc, kịch nghệ, điện ảnh …) khả cảm,

hoặc bộc lộ ra trong một tương tác vật lý (như một thao tác công nghiệp

hay một quy trình dịch vụ). Về mặt pháp lý, tuỳ thuộc chủ sở hữu kinh phí

thực hiện các kết quả đó mà tập thể, cá nhân sáng tạo ra kết quả đó hoặc vừa là

chủ sở hữu kết quả hoặc chỉ được xem là chủ bản quyền tác giả. Để có thể xác

định được nội dung hoặc phạm vi sở hữu của loại tài sản này, các ý tưởng mới

đó cần mô tả được ra hoặc thể hiện được ra bằng các thông tin cụ thể phù hợp

với các hình thức luật định. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử

dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.

Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền

38

chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản”. “Quyền chiếm hữu là

quyền nắm giữ, quản lý tài sản“. “Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng,

hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản” “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền

sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Đối với các kết quả nghiên cứu

khoa học và phát triển công nghệ đã được xác lập quyền tài sản dưới dạng các

đối tượng sở hữu trí tuệ, do bản chất có tính thông tin, khái niệm “quyền chiếm

hữu” dường như mất đi ý nghĩa truyền thống của nó. Không giống như các tài

sản hữu hình, chủ sở hữu không thể thực sự ngăn cấm người khác nắm giữ các

thông tin thuộc quyền sở hữu của mình. Bù lại, ở khía cạnh “quyền sử dụng”,

pháp luật sở hữu trí tuệ đã phát triển chi tiết quyền ngăn cấm người khác trong

việc sử dụng các thông tin đó, cụ thể như: cho phép hoặc không cho phép việc

công bố, sao chép, phổ biến các tác phẩm; cho phép hoặc không cho phép việc

áp dụng, kinh doanh, nhập khẩu… các sản phẩm được bảo hộ theo sáng chế; cho

phép hoặc không cho phép việc tiết lộ, sử dụng các bí mật kinh doanh; cho phép

hoặc không cho phép việc sản xuất, chế biến, nhân giống, xuất khẩu, nhập khẩu

giống cây trồng được bảo hộ… Tùy đặc điểm của từng đối tượng sở hữu trí tuệ,

theo nguyên tắc cân bằng giữa một bên là lợi ích của chủ sở hữu kết quả sáng

tạo và một bên là lợi ích chung của xã hội, phạm vi ngăn cấm có thể được mở

rộng hoặc thu hẹp và theo đó, quyền sử dụng của chủ sở hữu có thể mang tính

độc quyền tuyệt đối (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp…), độc quyền tương đối

(quyền tác giả đối với tác phẩm, bí mật kinh doanh …) hoặc đôi khi không mang

tính độc quyền (chỉ dẫn địa lý). Việc chủ sở hữu một đối tượng sở hữu trí tuệ

cho phép một người khác được quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ của mình

được gọi là hoạt động cấp ”lixăng”. Sở hữu trí tuệ luôn là vấn đề nhạy cảm trong

quá trình nghiên cứu nhằm thúc đẩy liên kết khoa học - sản xuất. Một trong

39

những hạn chế không kém phần quan trọng làm mất đi động lực ứng dụng kết

quả nghiên cứu vào sản xuất là do lợi ích chung chưa chuyển hoá thành lợi ích

riêng, cụ thể, trực tiếp. Vì vậy, nhà khoa học không có động lực mạnh mẽ để xã

hội hoá công trình và tri thức khoa học của mình. Điển hình như các phản ứng

xoay quanh vấn đề bản quyền của nhà khoa học. Vì bản quyền của nhà khoa học

không được tôn trọng và bảo vệ nên một số nhà khoa học, sau khi nghiên cứu ra

các công nghệ mới, đã không vội công bố rộng rãi mà giữ lại để trực tiếp tự

mình mang rao bán. Đương nhiên, nếu công trình được công bố thì phạm vi ứng

dụng vào sản xuất sẽ lớn gấp rất nhiều lần so với việc một vài nhà khoa học vừa

muốn ứng dụng sản phẩm nghiên cứu.

- Thứ ba là các quỹ đầu tư khởi nghiệp từ chính phủ trực tiếp cho các cơ

quan nghiên cứu cho mục đích spin-off, cùng với hệ thống pháp lý chặt chẽ, rõ

ràng quy định về quyền lợi các bên (nhà nghiên cứu, cơ quan sở hữu,...), và cơ

chế thông thoáng, thủ tục hành chính gọn nhẹ. Với những công nghệ cần có vốn

đầu tư ban đầu lớn mà cơ sở không đủ khả năng đầu tư, họ sẽ kêu gọi đầu tư từ

các nguồn đầu tư bên ngoài (quỹ đầu tư, doanh nghiệp,...) để cùng góp vốn.

- Thứ tư, cần sự quản lý độc lập (theo đúng mô hình spin-off) của các

công ty khởi nghiệp khỏi hệ thống hành chính và học thuật của trường đại học,

viện nghiên cứu nhằm để các công ty này vận hành theo đúng cơ chế thị trường.

Trên thực tế hiện nay, nhiều nhà khoa học trong quá trình hoạt động KH&CN

của mình đã có kết quả nghiên cứu mang tính thực tiễn cao, có triển vọng áp

dụng vào sản xuất để tạo ra sản phẩm có giá trị cho xã hội, và mong muốn mang

lại lợi nhuận cao từ kết quả nghiên cứu của chính mình. Nhưng đến nay, sau gần

3 năm triển khai thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP, hầu hết các đơn vị, nhất

40

là các viện và trung tâm của các trường đại học còn e ngại, lo lắng, không tự tin

mình có thể phát triển trong điều kiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm hay không khi

thành lập doanh nghiệp spin-off. Nguyên nhân là do:

+ Do tư duy của người làm khoa học, làm chuyên môn trong môi trường

hàn lâm có những đặc điểm khác với tư duy của người làm kinh doanh.

+ Các cán bộ khoa học của chúng ta hiểu biết về xã hội, kinh tế, sản xuất

kinh doanh còn rất hạn chế. Trong sản xuất, công nghệ không tác động đơn độc

mà tác động trong mối quan hệ với những yếu tố sản xuất khác, với con người,

với công cụ sản xuất, với tiềm lực vật chất và tài chính, với cơ chế quản lý của

doanh nghiệp, với môi trường kinh doanh. Các cán bộ khoa học của chúng ta

phần lớn không thấu hiểu những vấn đề đó.

+ Do tâm lý dựa dẫm, ỷ lại do hậu quả của cơ chế cũ, bên cạnh đó là sự

nhận thức chưa đúng về nghị định 115 nghĩa là các tổ chức KH&CN sẽ phải tự

chủ hoàn toàn, không còn được hưởng kinh phí từ ngân sách nhà nước.Vẫn chịu

ảnh hưởng của cơ chế xin cho. Do vậy đề tài làm ra còn chưa được áp dụng,

thiếu thực tế. Do nhà nước chưa có những chính sách cụ thể về quyền sở hữu trí

tuệ, mối quan hệ về tài sản và lợi nhuận thu được giữa tổ chức mẹ với các doanh

nghiệp con, chính sách thuế, chính sách huy động vốn để đổi mới công nghệ từ

các nhà đầu tư, v.v Ngoài ra, hàng loạt các chính sách chưa thực sự khuyến

khích các nhà khoa học sẵn sàng chịu rủi ro mạo hiểm để rời khỏi môi trường

hàn lâm sang môi trường doanh nghiệp như chế độ lương chênh lệch giữa khu

vực nghiên cứu và sản xuất được xem là cản trở đầu tiên.

41

1.4. Kinh nghiệm hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại

hóa kết quả nghiên cứu và bài học cho Viện Nghiên cứu Da-Giầy

1.4.1. Kinh nghiệm của một số tổ chức khoa học và công nghệ ở Việt

Nam

Một trong những chiếc nôi để tạo nên các doanh nghiệp KH&CN là các

vườn ươm doanh nghiệp KH&CN (Vườn ươm). Vườn ươm công nghệ phần

mềm của Trung tâm công nghệ phần mềm thuộc Đại học quốc gia Thành phố

Hồ Chí Minh là Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN đầu tiên xuất hiện ở Việt

Nam vào năm 2002. Tiếp sau đó là Vườn ươm CRC (2004) thuộc Trung tâm

Nghiên cứu Tư vấn và Quản lý thuộc Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Tuy

nhiên, cho đến nay, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, cả hai Vườn ươm

này đều không còn tồn tại. Ở nước ta, hiện chỉ có 11 Vườn ươm đang hoạt động,

được hình thành từ năm 2007 trở lại đây. Cũng như các doanh nghiệp KH&CN,

cơ bản các Vườn ươm tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Các

Vườn ươm hình thành tại Việt Nam đều nhận được tài trợ từ một trong những

nguồn của Chính phủ hay tổ chức quốc tế. Ví dụ như: Bộ KH&CN, Sở KH&CN

thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng thế giới, Microsoft, Cơ quan Phát triển

Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Qualcomm và Hewlett-Packard, InWent (Cộng hòa

Liên bang Đức), … Các cơ quan và tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ cả kinh

phí cũng như kinh nghiệm xây dựng và vận hành các Vườn ươm.

Các Vườn ươm là nơi có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và

cung cấp dịch vụ để các doanh nghiệp KH&CN được hình thành và phát triển.

Các Vườn ươm hình thành, là một trong những địa chỉ hỗ trợ các nhà khoa học,

42

các chủ sở hữu sáng chế làm quen với công việc kinh doanh để phát triển sản

phẩm của chính mình, góp phần giải quyết những bất cập, yếu kém của các

doanh nghiệp KH&CN khởi sự. Một số Vườn ươm cũng đã thành công trong

việc hoàn thiện, thương mại hóa công nghệ góp phần nâng cao thương hiệu công

nghệ Việt Nam. Nhiều công nghệ tại các Vườn ươm đã được thương mại hóa

trên quy mô nhỏ và bước đầu tiếp cận thị trường như: Hệ thống tìm kiếm trực

tuyến IZOMI, phần mềm EDOVE 2.0 quản lý và điều hành taxi, trường học trực

tuyến, súp cao đạm (Vườn ươm CNC Hòa Lạc, Hà Nội); Nola – nước ép trái cây

các loại, rau mầm của doanh nghiệp Phương Thành, Biome – cơ khí nông

nghiệp, phân bón vi sinh của doanh nghiệp Nông Lâm Tiến (Vườn ươm Nông

Lâm thuộc Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh)…

Tóm lại, thực tế cho thấy, ở Việt Nam đã hình thành một số doanh nghiệp

KH&CN hoặc dưới dạng spin-off, hoặc dưới dạng doanh nghiệp trong viện,

trường, hoặc độc lập, tự quyền như Công ty Phát triển Phụ gia và Sản phẩm Dầu

mỏ (APP), hoặc Liên hiệp khoa học - sản xuất như Viện Máy và Dụng cụ công

nghiệp (Viện IMI). Vấn đề là ở chỗ, cần tổng kết và trên cơ sở đó hình thành

“luật chơi” tương ứng với mỗi loại hình để tiếp tục hoàn thiện và tạo điều kiện thành lập mới các doanh nghiệp loại này ở nước ta.[14]

Một số giải pháp phát triển

Để khắc phục các rào cản nhằm phát triển doanh nghiệp KH&CN ở Việt

Nam, một số gợi ý chính sách được đề xuất, khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, cần rà soát hệ thống luật pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách

tạo sự đồng bộ, đảm bảo tính thực thi, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp

43

KH&CN hình thành và phát triển. Sớm ban hành văn bản liên quan đến các quy

định về kinh phí, hồ sơ để xác nhận các kết quả KH&CN do doanh nghiệp tự

đầu tư cho hoạt động R&D. Đây là một trong những điều kiện cần thiết để công

nhận doanh nghiệp KH&CN.

Thứ hai, rà soát tổ chức lại hệ thống đơn vị quản lý nhà nước về doanh

nghiệp KH&CN tại Bộ KH&CN, phân định chức năng nhiệm vụ cho rõ ràng và

phù hợp. Đồng thời, thiết lập tổ chức đầu mối ở trung ương và địa phương với

các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo đủ điều kiện và năng lực giải

quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp KH&CN. Tổ

chức đầu mối cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện chuyển đổi các tổ chức KH&CN

công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoặc chuyển sang thành lập

các doanh nghiệp KH&CN theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, tổ

chức đầu mối này còn giữ vai trò tích cực trong việc tạo ra các kết nối giữa

doanh nghiệp, viện nghiên cứu/trường đại học để hỗ trợ cho quá trình đổi mới

công nghệ của các doanh nghiệp. Mặt khác, cần thiết phải có những nhìn nhận,

đánh giá chính xác, khách quan về số lượng doanh nghiệp KH&CN hiện có để

có giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN đúng và phù hợp.

Thứ ba, sớm hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm theo Luật, khuyến khích,

thu hút các Quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm hỗ

trợ kịp thời cho quá trình đổi mới. Triển khai nghiên cứu thí điểm về loại hình

cổ phiếu công nghệ, sớm đưa loại hình cổ phiếu này trở thành hàng hóa giao

dịch trên thị trường, giúp hình thành nguồn vốn mới, tạo động lực cho sự phát

triển.

44

Thứ tư, nghiên cứu, xây dựng mô hình ươm tạo doanh nghiệp KH&CN

phù hợp với điều kiện của địa phương. Một trong những mô hình cần được xem

xét là thiết lập vườn ươm doanh nghiệp KH&CN trong từng vùng để hỗ trợ cho

doanh nghiệp đầu tư phát triển công nghệ mới trong vùng. Cải tiến những quy

định tại Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012, cho phù hợp với nhu cầu

và tình hình phát triển các Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN.

Thứ năm, tăng cường thực hiện việc tuyên truyền các cơ chế, chính sách

về doanh nghiệp KH&CN, sở hữu trí tuệ bằng nhiều hình thức và biện pháp, như

thông qua các hội nghị tập huấn của các cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN,

thông qua sách báo, các phương tiện truyền thông, kiểm tra giám sát chặt chẽ và

xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, từ đó tạo

niềm tin cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư vào hoạt động KH&CN.

Thứ sáu, sớm sửa đổi và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về doanh

nghiệp KH&CN, theo hướng đơn giản thủ tục, đảm bảo tính khả thi và kế thừa

được các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến trên thế giới về doanh

nghiệp KH&CN.

Thứ bảy, nghiên cứu xây dựng chuyên ngành kinh tế và quản lý về

KH&CN trong các trường đại học, đặc biệt là tại các trường đại học kỹ thuật,

công nghệ nhằm hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia chuyên ngành phù

hợp liên quan đến ươm tạo công nghệ, đánh giá, định giá công nghệ, xúc tiến

chuyển giao công nghệ, tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ,… Đảm bảo

trang bị cho đội ngũ chuyên gia này các kiến thức và kỹ năng cần thiết về kỹ

thuật – công nghệ, pháp luật (đặc biệt về sở hữu trí tuệ) và kinh tế để thực hiện

45

hoạch định các chính sách KH&CN, tham gia điều hành, quản lý, tổ chức triển

khai thực hiện các nhiệm vụ tại các tổ chức KH&CN, doanh nghiệp KH&CN…

phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

1.4.2. Bài học cho Viện Nghiên cứu Da-Giầy

Qua nghiên cứu lý luận cơ bản về doanh nghiệp KH&CN (spin-off) với

những đặc điểm vốn có, những điều kiện hình thành, phát triển và vai trò của nó

đối với hoạt động thương mại hoá kết quả NC&TK của các tổ chức NC&TK cho

thấy sự tồn tại và phát triển của loại hình doanh nghiệp này là một xu thế tất yếu

của nền kinh tế thị trường và sự phát triển của nó góp phần nâng cao năng lực

cạnh tranh của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới.

Qua quá trình nghiên cứu, đánh giá từ kinh nghiệm của nhiều quốc gia

trên thế giới, có thể đưa ra nhận định về khả năng áp dụng các loại hình doanh

nghiệp khoa học và công nghệ trong điều kiện của Việt Nam. Việc nghiên cứu

kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và cơ chế khuyến khích của Nhà nước để các

doanh nghiệp này phát triển tại một số nước trong đó có Trung Quốc cho thấy:

(1) Có thể áp dụng mô hình tự quyền của Mỹ trong những năm 60 vào điều kiện

của Việt Nam hiện nay. Đó là các doanh nghiệp đổi mới với người sáng lập là

các tập thể cá nhân nhà khoa học, quy mô nhỏ. Nhà nước tạo điều kiện về thuế,

phí và các khoản khuyến khích khác để các doanh nghiệp này phát triển; (2)

Khó có thể áp dụng mô hình với các tiêu chuẩn về người (biên chế cán bộ

KH&CN, chi cho nghiên cứu phát triển) như quy định của Trung Quốc. Cần

“mềm hóa” các tiêu chuẩn này trước khi áp dụng thử ở nước ta; (3) Cần xúc tiến

các quỹ hỗ trợ đầu tư mạo hiểm, hình thành và triển khai trong thực tế chương

trình “ươm tạo công nghệ”- “ươm tạo doanh nghiệp” bằng việc hình thành các

46

khóa đào tạo kỹ năng kinh doanh đến việc đầu tư xây dựng các vườn ươm doanh

nghiệp tại hai khu công nghệ cao (Hòa Lạc và Thành phố Hồ Chí Minh), một

vài khu vực khác xung quanh các trường đại học quốc gia, trung tâm khoa học

quốc gia. Thực tế cho thấy, ở Việt Nam đã hình thành một số doanh nghiệp

KH&CN hoặc dưới dạng spin-off, hoặc dưới dạng doanh nghiệp trong viện,

trường, hoặc độc lập, tự quyền như Công ty Phát triển Phụ gia và Sản phẩm Dầu

mỏ (APP), hoặc Liên hiệp khoa học - sản xuất như Viện Máy và Dụng cụ công

nghiệp (Viện IMI). Vấn đề là ở chỗ, cần tổng kết và trên cơ sở đó hình thành

“luật chơi” tương ứng với mỗi loại hình để tiếp tục hoàn thiện và tạo điều kiện thành lập mới các doanh nghiệp loại này ở nước ta.[14]

Tiểu kết chương I

Qua những nghiên cứu cơ bản về doanh nghiệp spin-off với những đặc

điểm lý luận cơ bản, những điều kiện hình thành, phát triển và vai trò của nó đối

với hoạt động thương mại hoá kết quả nghiên cứu của các tổ chức như Trường,

Viện… cho thấy sự tồn tại và phát triển của loại hình doanh nghiệp này là một

xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường và sự phát triển của nó góp phần nâng

cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới. Với kinh nghiệm

từ các nước phát triển cũng như ở Trung Quốc người ta gọi các doanh nghiệp

này là các doanh nghiệp đổi mới (Innovation company) hoặc doanh nghiệp có

hàm lượng chất xám cao (intensive company). Ở Mỹ, người ta đánh giá các

doanh nghiệp này “là niềm tự hào của đất nước”. Vì vậy, việc nghiên cứu để

đưa ra các giải pháp, chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của loại hình

doanh nghiệp này là rất cần thiết.

47

CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI HÓA KẾT

QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ NHU CẦU HÌNH THÀNH DOANH NGHIỆP

SPIN-OFF TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU DA-GIẦY

2.1. Tổng quan thực trạng hình thành và phát triển doanh nghiệp

spin-off tại một số Viện nghiên cứu ở Việt Nam

2.1.1. Quá trình hình thành

Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường, hội nhập

kinh tế quốc tế thì vai trò quản lý của Nhà nước đã có nhiều cải cách. Nhà nước

giữ vị trí là trọng tài hơn là tham gia vào hoạt động kinh tế trực tiếp ngoài một

số ngành kinh tế trọng điểm quốc gia. Vai trò quan trọng của KH&CN trong

phát triển kinh tế được mọi tầng lớp trong xã hội nhận thức ngày càng rõ ràng

hơn. Trong bối cảnh này, khái niệm về hệ thống đổi mới quốc gia dần dần hoàn

thiện, bao gồm các trường đại học, các tổ chức NC&TK, các tổ chức tài chính,

đầu tư mạo hiểm, các doanh nghiệp công nghiệp có nhu cầu đổi mới, một số

thiết chế cơ bản... Chính vì vậy, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính

sách mang tính cải cách nhất định. Một trong số những chính sách để hình thành

và phát triển các tổ chức khoa học và công nghệ là Quyết định của Thủ tướng

chính phủ số 68/1998/QĐ-TTg về việc cho phép thí điểm thành lập doanh

nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu. Nghị định

115/2005/NĐ-CP, Nghị định 54/2016/NĐ-CP và Thông tư 01/2017/TT-

BKHCN, Nghị định 81/2004/NĐ-CP, Luật Chuyển giao Công nghệ 2006...,

Nghị định của chính phủ số 80/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2007 về

doanh nghiệp khoa học và công nghệ ra đời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho

các tổ chức, cá nhân triển khai ứng dụng các kết quả khoa học công nghệ vào

48

sản xuất, kinh doanh. Theo Nghị định Số 13/2019/NĐ-CP , “Doanh nghiệp

KH&CN thuộc đối tượng áp dụng là: Tổ chức, cá nhân Việt Nam; Tổ chức cá

nhân nước ngoài có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ và có nhu cầu thành lập doanh nghiệp

KH&CN. Trong các đối tượng nêu trên, các tổ chức nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ và tổ chức dịch vụ KH&CN công lập thực hiện việc chuyển

đổi tổ chức, hoạt động để thành lập doanh nghiệp KH&CN được gọi chung là tổ

chức KH&CN công lập”.

Hoạt động chính của doanh nghiệp KH&CN là thực hiện sản xuất, kinh

doanh các loại sản phẩm hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ và thực hiện các nhiệm vụ KH&CN. Ngoài các hoạt động

này, doanh nghiệp KH&CN có thể thực hiện sản xuất, kinh doanh các loại sản

phẩm hàng hoá khác và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.

Theo quan điểm trên thì phàm là các doanh nghiệp “tổ chức cá nhân nước

ngoài có quyền sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp các kết quả nghiên cứu khoa học

và phát triển công nghệ” đều được gọi là doanh nghiệp KH&CN. Như vậy, hầu

hết các doanh nghiệp sản xuất đều được xếp vào loại hình doanh nghiệp này bởi

đa số các dây chuyền sản xuất đều là kết quả của quá trình NC&TK và phát triển

công nghệ.

Theo quyết định 68/1998/QĐ-TTg, “cho phép thành lập doanh nghiệp nhà

nước trong một số trường đại học, cao đẳng công lập (gọi tắt là cơ sở đào tạo),

viện nghiên cứu khoa học, trung tâm khoa học công nghệ, liên hiệp khoa học

sản xuất nhà nước (gọi tắt là cơ sở nghiên cứu) thuộc mình quản lý, để hoạt

động SXKD các sản phẩm là kết quả nghiên cứu, triển khai công nghệ hoặc các

49

sản phẩm, dịch vụ khoa học công nghệ gắn với chức năng, nhiệm vụ chuyên

môn của chính cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu đó”.

Sau hơn 2 năm thử nghiệm kể từ khi Quyết định số 68 ra đời, ngày

25/6/2001, Chính phủ ban hành Công văn số 574/CP-ĐMDN tạm dừng việc

thành lập doanh nghiệp nhà nước. Tính đến thời điểm đó đã có 17 doanh nghiệp

(theo nghiên cứu khác thì có 20 doanh nghiệp) nhà nước thuộc cơ sở đào tạo và

nghiên cứu được thành lập, trong đó có 10 doanh nghiệp thuộc viện nghiên cứu.

Trước đó, ngày 22/8/1992, Chính phủ đã có Quyết định 196-CP ngày 5

tháng 6 năm 1992 và Thông tư số 40-TC/TCT/CS về việc hướng dẫn thi hành

Quyết định này, một số trường đại học đã thành lập công ty TNHH. Cho đến

ngày 23 tháng 7 năm 2002, trong các trường ĐH&CĐ có 12 Công ty trách

nhiệm hữu hạn.

Theo thống kê của Bộ GD&ĐT, tính đến tháng 12/2017, cả nước có 235

trường Đại học (170 trường công lập, 65 ngoài công lập). Thống kê cho đến

ngày trong các trường đại học, cao đẳng. Đại học Mỏ Địa chất, Xây dựng, Giao

thông Vận tải là 3 đơn vị đầu tiên thành lập doanh nghiệp nhà nước trong trường đại học. [10]

Tiêu biểu trong số này phải kể đến Công ty Tư vấn đại học xây dựng, năm

2003 doanh thu đạt 17 tỉ đồng, năm 2004 doanh thu đạt gần 25 tỉ đồng.

2.1.2. Các loại hình doanh nghiệp spin-off

Trong các loại hình doanh nghiệp KH&CN được hình thành từ viện và

trường thì loại hình doanh nghiệp được thành lập từ một nhóm các nhà khoa học

của viện hay từ một bộ phận của viện và trường là phổ biến so với loại hình

doanh nghiệp được hình thành từ nỗ lực của một cá nhân nhà khoa học có tinh

50

thần kinh thương. Sở dĩ như vậy là do các điều kiện cần thiết cho việc hình

thành doanh nghiệp dựa trên một bộ phận của viện thuận lợi hơn nhiều so với

doanh nghiệp hình thành từ một cá nhân nhà khoa học có tinh thần kinh thương,

về cơ sở vật chất ban đầu, nguồn nhân lực, mối quan hệ công tác, phương thức

hợp tác đã được xây dựng khi còn ở trong viện.

Các loại hình doanh nghiệp KH&CN do cá nhân, một nhóm các nhà khoa

học và công nghệ có tinh thần kinh thương hoặc một số tổ chức NC&TK khởi

xướng và thành lập ở trong Khu công nghệ cao ở Việt Nam hiện nay mới ở giai

đoạn ban đầu.

Qua thực tế khảo sát, các doanh nghiệp KH&CN hình thành ở Việt Nam

có hai loại hình chủ yếu:

(1) Doanh nghiệp hình thành từ một bộ phận (phòng, ban) hay từ một

nhóm cán bộ nghiên cứu của viện hoặc trường. Ví dụ như Công ty Phát triển phụ

gia và Sản phẩm Dầu mỏ (APP) được thành lập từ một phòng nghiên cứu về dầu

bôi trơn và người sáng lập ra công ty đã từng là viện trưởng Viện Hoá Công

nghiệp; Doanh nghiệp KH&CN IMI hình thành từ Viện Nghiên cứu Thiết kế

chế tạo máy và Dụng cụ công nghiệp (gọi tắt là Viện máy và Dụng cụ Công

nghiệp); Công ty Netnam được thành lập từ một nhóm nghiên cứu của Viện

Công nghệ thông tin theo Quyết định 68; Công ty sản xuất công nghệ phần mềm

được thành lập bởi một cán bộ nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ thông tin.

(2) Doanh nghiệp thành lập từ việc chuyển đổi toàn bộ viện NC công

nghệ công nghiệp. Ví dụ: Viện thiết kế công nghiệp hóa chất chuyển thành Công

ty tư vấn và thiết kế hóa chất (CECO).

51

Kết quả đạt được lớn nhất của các doanh nghiệp KH&CN là bước đầu đã

thể hiện được sự gắn kết giữa nghiên cứu khoa học, công tác đào tạo và sản xuất

kinh doanh.

2.1.3. Các nội dung về hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại

hóa kết quả nghiên cứu.

(a) Về quan hệ giữa viện mẹ và doanh nghiệp spin-off

- Việc thành lập các doanh nghiệp này đều dựa trên kết quả nghiên cứu từ

các tổ chức mẹ, cơ quan ký quyết định và ban hành điều lệ hoạt động do Bộ Chủ

quản, chức danh giám đốc doanh nghiệp cũng do Bộ chủ quan ký quyết định

trên cơ sở đề nghị của lãnh đạo viện mẹ. Điều này dẫn đến những ràng buộc

nhất định giữa giám đốc doanh nghiệp và lãnh đạo viện mẹ, giảm tính độc lập

của doanh nghiệp

- Ở giai đoạn đầu đi vào hoạt động, các doanh nghiệp được tổ chức mẹ hỗ

trợ cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng… Mặt

bằng cơ sở làm việc chính thức của các doanh nghiệp đều nằm trong khuôn viên

của tổ chức mẹ. Chính sự hỗ trợ này đã giúp doanh nghiệp giảm đi rất nhiều chi

phí cho việc thuê đất và xây dựng nhà xưởng của doanh nghiệp.

- Tổ chức mẹ hỗ trợ dưới nhiều hình thức khác nhau từ chuyển giao, cán

bộ nghiên cứu, thị trường và kết quả nghiên cứu của một số hướng công nghệ

trong tương lai. Nói cách khác, các doanh nghiệp vẫn giữ quan hệ hợp tác truyền

thống là thông qua các hợp đồng NC&TK. Các cán bộ của doanh nghiệp vẫn

hợp tác với cán bộ nghiên cứu của tổ chức mẹ để tiến hành các hoạt động nghiên

cứu hoặc sử dụng các kết quả nghiên cứu từ viện mẹ rồi tiến hành triển khai

trong thực tế theo đơn đặt hàng của khách hàng. Hoặc các hợp đồng NC&TK

52

của doanh nghiệp chủ yếu vẫn do tổ chức mẹ đặt hàng, ví dụ như Viện Nghiên

cứu Thiết kế chế tạo máy và Dụng cụ công nghiệp. Hay cung cấp các dự án

nghiên cứu được tài trợ như Công ty Phát triển phụ gia và Sản phẩm dầu mỏ -

APP.

- Tổ chức mẹ hỗ trợ vốn hoạt động (mặc dù số vốn là rất nhỏ so với doanh

thu hàng năm của mỗi doanh nghiệp).

- Nhân tố đặc biệt quan trọng cho doanh nghiệp KH&CN là các doanh

nghiệp còn dựa vào uy tín, thương hiệu của tổ chức mẹ trong quá trình đàm phán

hợp tác với các đối tác nước ngoài cũng như để ký kết các hợp đồng NC&TK

với các khách hàng trong nước. Đây là một lợi thế lớn nhất mà các doanh nghiệp

đều mong muốn duy trì và không dễ gì có thể từ bỏ lợi thế này. Cũng vì lý do

trên mà đa số doanh nghiệp không muốn rời khỏi hẳn tổ chức mẹ thành một

doanh nghiệp độc lập hoàn toàn. Trong khi đó, trường hợp Công ty con của Viện

IMI là một ví dụ thành công do xác định được quyền lợi và trách nhiệm giữa hai

bên.

- Một vấn đề khác là các tổ chức mẹ đang gặp phải là nguy cơ mất dần

năng lực nghiên cứu chính và đội ngũ nghiên cứu chủ chốt của Viện sau khi

doanh nghiệp được hình thành và tách khỏi viện mẹ. Những nhà nghiên cứu

khoa học này khó và nhiều khi không thể thay thế được. Ví dụ như Viện Hoá

học Công nghiệp cho rằng việc thành lập Công ty APP đã lấy mất đi một số

nguồn lực được xây dựng tại Viện, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia làm trong

Trung tâm Nghiên cứu Phụ gia và Dầu mỡ hay Trung tâm Công nghệ Laser

thuộc Viện Công nghệ Ứng dụng cũng đang vấp phải vấn đề này.

(b) Quyền lợi giữa tổ chức mẹ và doanh nghiệp đối với sở hữu trí tuệ, sở

hữu tài sản và nguồn nhân lực

53

Việc thành lập DNKHCN thời gian qua xuất hiện mâu thuẫn về quyền lợi

giữa DN “con” và viện “mẹ” khi quyền sở hữu trí tuệ đối với bí quyết, công

nghệ được tạo ra ở viện “mẹ” nhưng lại được DN “con” thương mại hóa bằng

việc tổ chức sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ dựa trên công nghệ đó.

Vấn đề xác định ai là chủ sở hữu doanh nghiệp sau khi thành lập, cơ chế

phân chia lợi ích giữa Nhà nước (chủ sở hữu tài sản trí tuệ) với tập thể nhà khoa

học (tác giả) và cơ quan chủ quản (được giao quản lý tài sản trí tuệ). Đối với

việc CGCN tiếp cận từ “chuyển giao giữa các khâu của vận động công nghệ”,

nói cách khác là việc chuyển giao các kết quả nghiên cứu từ quá trình nghiên

cứu khoa học và phát triển công nghệ. Luật CGCN đề cập dưới góc độ chuyển

giao quyền như sau: “Nhà nước giao quyền chủ sở hữu công nghệ đối với kết

quả nghiên cứu và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước

cho tổ chức chủ trì nghiên cứu và phát triển công nghệ đó, trừ trường hợp pháp

luật có quy định khác” (Điều 40.1, Luật CGCN).

Luật KH&CN năm 2013 giành hẳn 1 mục (mục 5, chương IV) quyền sở

hữu, quyền tác giả đối với kết quả R&D. Luật KH&CN quy định “Tổ chức, cá

nhân đầu tư tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật cho việc thực hiện nhiệm vụ

KH&CN là chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trừ

trường hợp các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ” (Điều 41.1 Luật KH&CN năm 2013).

Tuy nhiên, tại Điều 41, Luật KH&CN năm 2013 cũng quy định: “Đại diện

chủ sở hữu nhà nước quy định tại khoản 2 Điều này có quyền xét giao toàn bộ

hoặc một phần quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học

và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước theo quy định của

54

Chính phủ cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ KH&CN.” (Điều 41.3, Luật

KH&CN năm 2013).

Để chi tiết hóa việc CGCN được hình thành từ kết quả R&D, được quy

định bởi Luật KH&CN năm 2013 và Nghị định số 08/2014/NĐ-CP của Chính

phủ, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư số 15/2014/TT-BKHCN ngày

13/6/2014 quy định trình tự, thủ tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả

nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách.

Cụ thể Công ty APP cho thấy một bài học là trong quá trình chuyển giao

tài sản của Viện Hoá Công nghiệp bao gồm một số thiết bị nghiên cứu của Dự

án UNIDO, đã không tính đến giá trị của một số bí quyết công nghệ tạo nên

trong khuôn khổ dự án như công nghệ sản xuất vật liệu bôi trơn. Viện “mẹ”

cũng đang gặp phải khó khăn do nguy cơ mất dần năng lực nghiên cứu sau khi

doanh nghiệp KH&CN được hình thành và tách khỏi viện “mẹ”. Viện Hoá Công

nghiệp cho rằng việc thành lập Công ty APP đã lấy mất đi một số nguồn lực

được xây dựng tại Viện, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia làm trong Trung tâm

Nghiên cứu Phụ gia và Dầu mỡ.

Do mâu thuẫn giữa Viện và Công ty, mối quan hệ hợp tác giữa Viện và

Công ty không được duy trì. Tuy nhiên, xét từ góc độ tác động xã hội, sự hình

thành các doanh nghiệp KH&CN từ tổ chức mẹ sẽ tạo tạo nhiều công ăn việc

làm, của cải vật chất cho nền kinh tế địa phương, tạo nên luồng lưu chuyển nhân

lực có trí tuệ từ khu vực nghiên cứu sang khu vực sản xuất. Đồng thời tổ chức

mẹ cũng có điều kiện để bổ sung lực lượng cán bộ nghiên cứu trẻ, trở thành

trung tâm đào tạo ra những nhà nghiên cứu có năng lực chuyên môn và tinh thần

kinh thương.

55

2.2. Thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu và nhu cầu hình

thành doanh nghiệp spin-off tại Viên Nghiên cứu Da-Giầy

2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Viên Nghiên cứu Da-Giầy

Viện Nghiên cứu Da Giầy tiền thân là Phòng Nghiên cứu thuộc da trực

thuộc Bộ Công Nghiêp Nhẹ, được thành lập theo Quyết định số 290/CNN-

TCQL năm 1973. Xuất phát điểm với cơ sở vật chất rất hạn hẹp, đến nay trải

qua 45 năm xây dựng và phát triển, Viện đã có cơ ngơi khá khang trang với trụ

sở chính tại 160 Hoàng Hoa Thám, Tây Hồ, Hà Nội; cơ sở 1 tại 20 phố Núi

Trúc, Ba Đình, Hà Nội và cơ sở 2 tại phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, Bắc

Ninh có diện tích mặt bằng gần 10 ha để xây dựng xưởng pilot, tòa nhà điều

hành và các Trung tâm nghiên cứu, đào tạo. Từ hơn 10 cán bộ công nhân viên

ban đầu đến nay Viện đã có 100 cán bộ, công nhân viên đang công tác tại 4

phòng nghiệp vụ, 7 Trung tâm chuyên ngành, các liên doanh khoa học công

nghệ và thương mại. Ngoài ra còn có hơn 40 cộng tác viên là các giáo sư, tiến

sỹ, chuyên gia khoa học hàng đầu của ngành da giầy và các ngành có liên quan

khác. Đội ngũ của Viện đã có đủ năng lực đề xuất nhiệm vụ khoa học công

nghệ; triển khai nghiên cứu và áp dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Hoạt

động KH&CN của Viện ngày càng gắn bó với nhu cầu của ngành và Viện đang

từng bước khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của mình đối với ngành da giầy

Việt Nam.

Ngày đầu thành lập Phòng nghiên cứu có nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng

những thành tựu khoa học kỹ thuật về thuộc da của thế giới vào điều kiện sản

xuất trong nước, nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật bảo quản da, thuộc da và chế

biến các sản phẩm từ da thuộc, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và

56

xuất khẩu; tổ chức sản xuất thử nghiệm nhằm hoàn thiện công nghệ trước khi

đưa vào sản xuất lớn.

Trong giai đoạn này công tác nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu da lợn

và các sản phẩm từ da lợn như găng tay mùa đông, găng tay bảo hộ lao động, da

mũ giầy, gelatin từ phế liệu da lợn.

Bên cạnh việc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và tổ chức sản xuất để

lấy thu bù chi, Phòng còn đảm nhiệm các đề án phát triển ngành, giúp các nhà

máy da phía Nam khôi phục, ổn định sản xuất, bồi dưỡng đào tạo cán bộ. Phòng

đã chủ động đặt vấn đề hợp tác nghiên cứu với một số viện nghiên cứu, trường

đại học như Viện Hóa học, Viện Thiết kế Công nghiệp Hóa chất, Viện Khoa học

kỹ thuật quân sự, Viện chăn nuôi, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường

Đại học Tổng Hợp Hà Nội...để thu được những kết quả nghiên cứu tốt nhất phục

vụ sản xuất trên diện rộng.

Tháng 7/1979, do sự cần thiết tăng cường công tác thực nghiệm, Bộ công

nghiệp Nhẹ đã có quyết định số 424/CNN-TCQL cho thành lập phân xưởng

thực nghiệm với nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm và tổ chức sản xuất

nhân rộng các mặt hàng theo chỉ tiêu đề ra. Với việc thành lập phân xưởng này,

Phòng được vay vốn sản xuất, được mở tài khoản tại ngân hàng và hoạt động

theo chế độ hoạch toán kinh doanh những sản phẩm sản xuất theo kế hoạch

được giao. Đây là bước ngoặt rất lớn đối với phòng nghiên cứu thuộc da, bởi nó

đánh dấu sự manh nha của một viện nghiên cứu có gắn với sản xuất hạch toán

kinh doanh theo phương thức lấy thu bù chi.

Biên chế của phòng đến năm 1980 lên đến 79 người, chưa kể 10 công

nhân hợp đồng tạm tuyển, 30 học sinh học nghề. Cơ cấu tổ chức cũng có nhiều

thay đổi, Phòng đã hình thành được các tổ chức chuyên môn như nghiên cứu

57

công nghệ thuộc da, nghiên cứu công nghệ hóa, quản lý nghiệp vụ, hành chính

quản trị và một phân xưởng sản xuất thực nghiệm gồm 3 tổ: tổ phục vụ nghiên

cứu thực nghiệm, tổ sản xuất gelatin, keo dán và tổ chế biến các mặt hàng da

thuộc.

Ngày 21/6/1982 Phòng nghiên cứu thuộc da chính thức được chuyển đổi

thành Trung tâm nghiên cứu Công nghiệp Da theo quyết định số 308/CNN của

Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ (ngày 21/6 được các thế hệ của Viện chọn là

ngày thành lập Viện Nghiên cứu Da – Giầy). Trung tâm nghiên cứu Công

nghiệp Da là một đơn vị nghiên cứu Khoa học kỹ thuật trực thuộc công ty Tạp

phẩm, có tư cách pháp nhân, có tài khoản và có con dấu riêng. Việc xác lập tư

cách pháp nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và

phát triển của Trung tâm. Từ thời điểm này, Trung tâm thực sự phát huy tính

chủ động sáng tạo trong quá trình thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được

ngành giao phó.

Ngày 16/8/1989, Dự án VIE 85/013 “Tăng cường khả năng nghiên cứu

cho Trung tâm Nghiên cứu Công nghiệp Da” được ký kết giữa đại diện nhà

nước ta và đại diện UNIDO- UNDP tại Hà Nội với tổng mức vốn hơn 1,5 triệu

USD. Ngay sau khi dự án được ký kết, việc triển khai dự án được chuẩn bị hết

sức khẩn trương, đúng mục đích và sớm phát huy tác dụng.

Trong thời kì thực hiện dự án (1990- 1992) Trung tâm nghiên cứu Công

nghiệp Da chính thức có cơ ngơi riêng: Xưởng thực nghiệm, phòng thí nghiệm

cơ lý, hóa học được trang bị khá đầy đủ, tiên tiến. Một số cán bộ quản lý, khoa

học kỹ thuật được đi tham quan, thực tập tại các nước tiên tiến như Hà Lan,

Pháp,Ý... có điều kiện tiếp cận với trình độ tiên tiến của Châu Âu. Trung tâm

nghiên cứu Công nghiệp da trở thành nơi đào tạo, giới thiệu công nghệ, hóa

58

chất, thiết bị thiết bị tiên tiến cho nhiều cơ sở thuộc da trong cả nước. Thành

công của dự án đã tạo tiền đề cho việc đổi mới công nghệ sản xuất da trong

nước, chuyển từ sản xuất thủ công, lạc hậu sang sản xuất công nghiệp, hiện đại

hóa từng bước, tiến tới có nhiều mặt hàng chất lượng cao phục vụ nhu cầu trong

nước và xuất khẩu như da wetblue, da trâu chun làm bọc đệm, da bóng nội địa-

xuất khẩu...

Ngày 6/4/1993, Bộ Công nghiệp Nhẹ đã ra quyết định số 278/CNN-

TCLĐ về việc chuyển đổi tổ chức và hoạt động của Trung tâm nghiên cứu Công

nghiệp Da thành Viện Nghiên cứu Da- Giầy. Năm 1995, Viện nghiên cứu Da-

Giầy trở thành đơn vị sự nghiệp của Tổng công ty Da-Giầy Việt Nam.

Một sự kiện đánh dấu sự lớn mạnh hơn nữa đó là ngày 10/11/1998 Trung

tâm kỹ thuật Da- Giầy thuộc Tổng công ty Da- Giầy Việt Nam được sát nhập

vào Viện Nghiên cứu Da- Giầy. Từ đó đến nay, hoạt động của Viện bước vào

một thời kỳ mới hòa cùng sự phát triển mạnh mẽ của ngành Da- Giầy Việt Nam.

Trong công tác đào tạo, Viện đã chủ động kết hợp với một số trường đại

học, Viện nghiên cứu và các doanh nghiệp sản xuất trong nước, triển khai các

khóa học theo phương pháp đào tạo tại chỗ. Trong giai đoạn này, một số dự án

mới quan trọng ra đời: Dự án đầu tư xưởng thực nghiệm thiết kế mẫu mốt ngành

Giầy; Dự án triển khai sản xuất thử thuộc đề tài KC06; Dự án tăng cường năng

lực nghiên cứu khoa học lĩnh vực thuộc da. Tính khả thi của các dự án đã tạo

động lực mạnh mẽ để Viện Nghiên cứu Da- Giầy trụ vững và phát triển trong

giai đoạn mới.

Tháng 3/2003 trong quá trình triển khai thực hiện quyết định 125/TTg về

sắp xếp đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, Viện đã trở thành đơn vị

sự nghiệp trực thuộc Bộ Công Nghiệp theo Quyết định số 40/2003/QĐ-BCN.

59

Ngày 15/12/2006 Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp (nay là Bộ Công Thương)

phê duyệt đề án chuyển đổi Viện thành tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện

chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm quy định tại Nghị định 115/2005/NĐ- CP của

Chính phủ.

Sau khi chuyển đổi, ngoài các chức năng, nhiệm vụ đã có, Viện được bổ

sung thêm các chức năng, nhiệm vụ: sản xuất kinh doanh; dịch vụ KHCN ngành

da giầy và các ngành nghề khác phù hợp với năng lực, điều kiện của Viện, nhu

cầu thị trường và được pháp luật cho phép.

Thực hiện quy hoạch phát triển viện giai đoạn 2008- 2015, tầm nhìn 2020,

Viện đã đầu tư xây dựng cơ sở tại Từ Sơn- Bắc Ninh với khoảng 10ha. Các đề

tài dự án của Viện đều mang tính thiết thực, phù hợp với chủ trương phát triển

khoa học công nghệ của Đảng và Nhà nước, gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, góp

phần giải quyết các vấn đề cấp thiết của toàn ngành và của các ngành kinh tế

khác như: bảo vệ môi trường, xây dựng các quy chuẩn, tiêu chuẩn ngành; xây

dựng cơ sở dữ liệu ngành; phát triển công nghiệp phụ trợ, nghiên cứu ứng dụng

nguyên vật liệu mới, xúc tiến thương mại... Một số đề tài sau khi được nghiệm

thu đã được phát triển thành các dự án sản xuất thử nghiệm và đề tài Nhà nước.

Đặc biệt năm 2011 Dự án “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da- Giầy

Việt Nam đến 2020, tầm nhìn 2025” do Viện thực hiện đã được Bộ phê duyệt.

Việc hoàn thành bản quy hoạch, đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Viện

trong vai trò tham mưu, tư vấn giúp Bộ chủ quản cũng như ngành da giầy trong

định hướng chiến lược phát triển ngành đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong

giai đoạn hiện nay và sắp tới.

Đến nay, diện tích nhà làm việc, phòng thí nghiệm và nghiên cứu khoa học, xưởng thực nghiệm, nhà kho, khu dịch vụ là 5.600 m2. Ngoài 02 xưởng

60

thực nghiệm với các thiết bị khá hoàn chỉnh phục vụ nghiên cứu công nghệ

thuộc da và thiết kế phát triển sản phẩm da giầy, Viện còn có 01 xưởng sản xuất

nguyên phụ liệu cho ngành Da Giầy và các ngành kinh tế khác; 02 phòng phân

tích và thí nghiệm các chỉ tiêu cơ lý hóa sinh và môi trường thuộc Trung tâm

Phân tích & Môi trường ở Hà Nội và Trung tâm Phân tích & Môi trường ở thành

phố Hồ Chí Minh đều đã được cấp chứng chỉ VILAS (VILAS 457 và VILAS

650) 3 Từ 25 cán bộ công nhân viên ban đầu đến nay Viện đã có hơn 140 cán

bộ, công nhân viên và cộng tác viên (trong đó có 4 giáo sư và phó giáo sư, 16

tiến sỹ, 20 thạc sỹ, 50 kỹ sư và 54 công nhân kỹ thuật) đang công tác tại 4 phòng

nghiệp vụ, 7 trung tâm chuyên ngành, các liên doanh khoa học công nghệ và

thương mại.

Sơ đồ cơ cấu tổ chức của viện:

Ban lãnh đạo

Hội đồng khoa học

Các đơn vị trực thuộc Khối nghiệp vụ Khối nghiên cứu  Trung tâm  Phòng hành  TT Công nghệ thuộc da chính tổ chức  TT thiết kế và phát triển sản  Phòng kế hoạch phẩm da giầy nghiên cứu phát triển cá sấu (Hải Phòng)  Phòng kế toán  TT PT công nghệ môi trường

 Phòng quản trị  TT xúc tiến thương mại

 TT Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới

61

Trong đó, các kết quả nghiên cứu từ khối nghiên cứu dưới sự hỗ trợ của

các đơn vị trực thuộc, sự phối hợp và lãnh đạo của viện, sẽ được nghiên cứu ứng

dụng và chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại các đơn vị trực

thuộc.

2.2.2. Phân tích thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viên

Nghiên cứu Da-Giầy

Viện Nghiên cứu Da-Giầy từ những ngày đầu mới thành lập có nhiệm vụ

nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật về thuộc da của thế

giới vào điều kiện sản xuất trong nước, nhằm nâng cao trình độ kỹ thuật bảo

quản da, thuộc da và chế biến các sản phẩm từ da thuộc, đáp ứng nhu cầu thị

trường trong nước và xuất khẩu; tổ chức sản xuất thử nghiệm nhằm hoàn thiện

công nghệ trước khi đưa vào sản xuất lớn.

Giai đoạn từ những ngày đầu mới thành lập đến năm 1982, Viện nghiên

cứu Da-Giầy nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu da lợn và các sản phẩm từ da

lợn như găng tay mùa đông, găng tay bảo hộ lao động, da mũ giầy, gelatin từ

phế thải da lợn (cung cấp cho ngành côn nghiệp thực phẩm, dược phẩm và giấy

ảnh thay thế gelatin nhập ngoại). Trong giai đoạn này ngoài sản phẩm găng tay

da lợn vẫn tiếp tục được sản xuất với hiệu quả cao, Trung tâm có thêm 2 sản

phẩm nổi tiếng là giầy phục vụ quân đội và phục vụ phi công thay thế hàng nhập

từ Liên Xô và da thuộc dùng làm bóng đá có tính năng bền, dai, đàn hồi, không

bai, được nhiều nhà sản xuất bóng đá tín nhiệm đặt hàng.

Năm 2006, Viện được Bộ Công thương phê duyệt thực hiện đề tài công

nghệ thuộc lại và trau chuốt da thuộc kết hợp crom-syntan phục vụ nhu cầu xuất

khẩu. Trung tâm công nghệ thuộc da đã sử dụng kết quả đề tài này sản xuất da

62

thuộc xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Chỉ với mặt hàng này, trong hai năm 2007

và 2008, Trung tâm công nghệ thuộc da đã xuất thuộc 31.863 kg da bò muối và

thu được 40.925,75 Sqft da thành phẩm phục vụ xuất khẩu. Thành công của đề

tài là kết quả để Viện triển khai Dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện công

nghệ thuộc lại, trau chuốt da dây lưng 2 lớp từ da bò thuộc kết hợp crom-syntan

để làm mặt hàng dây lưng xuất khẩu”. Nhờ có Dự án mà đến nay Trung tâm

Công nghệ thuộc da đã và đang sản xuất mặt hàng da bò làm dây lưng 2 lớp cho

các doanh nghiệp trong nước làm nguyên liệu sản xuất hàng sang các thị trường

khác nhau.

Năm 2009, Bộ Khoa học & Công nghệ phê duyệt đề tài “Nghiên cứu công

nghệ và thiết bị thuộc da sử dụng enzyme/chế phẩm enzyme proteaza và lipaza”

thuộc đề án phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghệ

chế biến đến năm 2010”, Trung tâm Công nghệ thuộc đã mở ra khả năng nghiên

cứu và phát triển công nghệ mới để các cơ sở ứng dụng kết quả nghiên cứu sẽ

cải thiện môi trường sản xuất, giúp các cơ sở phát triển bền vững. Xưởng thực

nghiệm Trung tâm công nghệ thuộc da sẽ là cơ sở đầu tiên của Việt Nam ứng

dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất da thuộc.

Trung tâm xúc tiến thương mại ra đời đánh dấu bước tiến mới trong việc

thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Năm 2010 Viện Nghiên cứu Da-Giầy đã

triển khai thành công đề tài cấp Bộ "Giầy dép cho người bệnh đái tháo đường ở

Việt Nam từ ý tưởng nghiên cứu đến sản phẩm phục vụ xã hội" và sản xuất thí

điểm giầy dép cho người bị đái tháo đường với giá thành phù hợp.

Trên cơ sở đề tài nghiên cứu và thí điểm đó, năm 2012 Chương trình Đối

tác Đổi mới Sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (IPP) đã hỗ trợ Viện thông qua thực

hiện Dự án “Giày dép cho người bệnh đái tháo đường ở Việt Nam từ ý tưởng

63

nghiên cứu đến sản phẩm phục vụ xã hội” nhằm giúp Viện nghiên cứu Da-Giầy

triển khai sản xuất đại trà sản phẩm có tính xã hội cao, đưa sản phẩm đến với

người bệnh đái tháo đường Việt Nam một cách nhanh chóng và bền vững. Trung

tâm Xúc tiến Thương mại năm 2012, với sự hỗ trợ của Chương trình đổi mới

Phát triển Phần Lan (IPP) chính thức triển khai sản xuất và phân phối sản phẩm

giày chuyên dụng cho bệnh nhân đái tháo đường. Các sản phẩm của Trung tâm

được đánh giá là phù hợp với người mắc bệnh tiểu đường ở mức nhẹ, góp phần

giảm nhẹ các biến chứng liên quan đến bàn chân.

Năm 2011, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt đề tài cấp nhà nước

“Nghiên cứu công nghệ và thiết bị thuộc da cá sấu”. Đây là một đề tài có giá trị

khoa học, mở ra khả năng nghiên cứu phát triển công nghệ tiên tiến thuộc da và

thiết kế các sản phẩm từ da cá sấu; chế tạo thiết bị bán tự động chuyên ngành

thuộc da cá sấu; nghiên cứu xử lý môi trường; tạo đầu ra có chất lượng và thời

trang, góp phần thúc đẩy các. Năm 2013, Viện Nghiên cứu Da-Giầy đã thành lập

Trung tâm nghiên cứu phát triển cá sấu Việt Nam đặt tại Hải Phòng, Trung tâm

được trang bị hệ thống dây chuyền đồng bộ chuyên ngành thuộc da cá sấu. Sản

phẩm của Trung tâm ngày càng được người tiêu dùng ủng hộ và tin cậy về chất

lượng. Có thể nói đây là một bước đi mới nhằm thương mại hóa kết quả nghiên

cứu của Viện Nghiên cứu Da-Giầy.

Từ kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu Da-Giầy và Trung tâm

nghiên cứu gia cầm Thụy Phương trong Dự án KC06 “Nghiên cứu ứng dụng các

giải pháp khoa học công nghệ đồng bộ sản xuất đà điểu và các sản phẩm từ đà

điểu phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”, kỹ sư Hoàng Mạnh Hùng của Trung tâm

công nghệ thuộc da đã nghiên cứu phát triển thành công công nghệ thuộc da đà

điểu năm 2010. Năm 2013, Viện nghiên cứu Da - Giầy là cơ quan chủ trì đã

64

cùng kết hợp Kỹ sư Nguyễn Hữu Cường thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ

và sản xuất thử nghiệm da thuộc đà điểu mang thương hiệu Việt Nam” vào năm

2013 với mục tiêu về chất lượng sản phẩm và quy mô sản xuất thử nghiệm da

thuộc đà điểu. Trong quá trình thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm, nhóm

nghiên cứu đã kết hợp đào tạo và chuyển giao công nghệ thuộc và hoàn thiện da

đà điểu cho công ty TNHH Thiên Lan (Thanh Hóa). Mặc dù chuyển giao công

nghệ với chi phí không cao (150 triệu đồng) nhưng đây là bước đi đầu tiên trong

việc chuyển giao công nghệ được Viện Nghiên cứu Da-Giầy hoàn thiện tới một

cơ sở sản xuất. Điều đó chứng tỏ khả năng thương mại hóa kết quả nghiên cứu

của Viện ngày càng được chú trọng.

Năm 2014, Viện Nghiên cứu Da-Giầy thực hiện đề tài KC07 “Nghiên cứu

công nghệ thuộc da trâu, bò thân thiện với môi trường phục vụ sản xuất các mặt

hàng da thuộc có giá trị cao, thay thế nhập khẩu”. Trên cơ đó, đề tài đã sản xuất

thành công 3.120 Sqft sản phẩm da thuộc đạt tiêu chuẩn châu Âu EU Directive

76/769/EEC, trong đó có 2.090 Sqft da bò, 1.030 bia da trâu (vượt kế hoạch 120

bia); xây dựng được mô hình công nghệ xử lý nước thải thuộc da bằng công

nghệ vi sinh công suất 30 m3/ngày, nước thải sau khi xử lý đáp ứng tiêu chuẩn

QCVN 40:2011/BTNMT. “Quy trình công nghệ thuộc da thân thiện môi trường”

đã được Viện Nghiên cứu Da-Giầy đăng ký cấp bằng giải pháp hữu ích với Cục

Sở hữu trí tuệ và được Cục Sở hữu trí tuệ công nhận tại Quyết định 24821/QĐ-

SHTT ngày 29 tháng 4 năm 2016. Đây có thể nói là bước đi vững chắc tạo điều

kiện cho hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu

Da-Giầy.

Năm 2016, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ

mới với số lượng cán bộ kiêm nhiệm đã nghiên cứu và phát triển “Phương pháp 65

và hệ thống xử lý nước thải thuộc da”. “Phương pháp và hệ thống xử lý nước

thải thuộc da” đã được Cục Sở hữu trí tuệ đã quyết định cấp bằng Độc quyền

giải pháp hữu ích số 1886 tại Quyết định số 69964/QĐ-SHTT ngày 31 tháng 10

năm 2016.

Năm 2017, các cán bộ Trung tâm tiếp tục nghiên cứu phát triển công nghệ

xử lý mùn bào da thuộc crom. “Phương pháp xử lý mùn bào da thuộc crom để

thu hồi gelatin sạch” đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp bằng giải pháp hữu ích theo

Quyết định số 41974/QĐ-SHTT ngày 26 tháng 6 năm 2017.

Như vậy từ 2009 tới nay với hơn 10 đề tài dự án tiêu biểu được thương

mại hóa, đánh dấu được tiềm năng thương mại hóa trong lĩnh vực da giầy. Kết

quả được thể hiện ở bảng sau:

Tên đề tài Năm

Hoàn thiện công nghệ thuộc lại, trau chuốt da dây lưng 2 lớp từ da 2008 bò thuộc kết hợp crom-syntan để làm mặt hàng dây lưng xuất khẩu.

Nghiên cứu công nghệ và thiết bị thuộc da sử dụng enzyme/chế 2010 phẩm enzyme proteaza và lipaza.

Giày dép cho người bệnh đái tháo đường ở Việt Nam từ ý tưởng 2012 nghiên cứu đến sản phẩm phục vụ xã hội.

Nghiên cứu công nghệ và thiết bị thuộc da cá sấu.

2013 Hoàn thiện công nghệ và sản xuất thử nghiệm da thuộc đà điểu

mang thương hiệu Việt Nam.

Quy trình công nghệ thuộc da thân thiện môi trường. 2016 Phương pháp và hệ thống xử lý nước thải thuộc da.

2017 Phương pháp xử lý mùn bào da thuộc crom để thu hồi gelatin sạch.

66

2.2.3. Thực trạng nhu cầu thành lập doanh nghiệp spin-off để thương

mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy

Trong thời gian qua, các công trình nghiên cứu khoa học đã có đóng góp

đáng kể để thúc đẩy sản xuất. Kết quả nghiên cứu của nhiều đề tài đã được áp

dụng vào sản xuất để tạo ra sản phẩm mới, sản phẩm có chất lượng cao phục vụ

xuất khẩu, thay thế hàng nhập ngoại, góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình

độ công nghệ, năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta. Các

chương trình, đề tài về cải tiến công nghệ thuộc da, xử lý ô nhiễm môi trường

thuộc da, đã có những kết quả được ứng dụng trong sản xuất đáng ghi nhận, với

nhiều đề tài đã được áp dụng vào thực tiễn ở những quy mô khác nhau. Trong

giai đoạn này, Bộ KH&CN đã khuyến khích các chương trình, đề tài, dự án khi

có những kết quả thành công có thể áp dụng ngay vào sản xuất, không nhất thiết

phải chờ đến khi nghiệm thu kết thúc toàn bộ đề tài, dự án. Chính vì vậy, trong

quá trình thực hiện, nhiều kết quả tốt đã được tổ chức đánh giá và cho áp dụng

ngay, đảm bảo được tính thời sự của vấn đề.

Thực tế đòi hỏi và cho thấy các doanh nghiệp da giầy Việt Nam cần tăng

cường chủ động khắc phục tình trạng thiếu công nghệ cao, coi trọng hoạt động

bộ phận nghiên cứu, phân tích về môi trường, tiêu chuẩn hóa chất lượng và tăng

cường đào tạo nguồn nhân lực, hình thành nên chuỗi liên kết nội địa giữa các

nhà sản xuất, cung ứng nguyên, phụ liệu trong nước, đáp ứng tốt các yêu cầu về

xuất xứ hàng hóa, chất lượng hàng hóa, vệ sinh môi trường, lao động và quy

trình công nghệ, không ngừng cải thiện năng lực cạnh tranh cho ngành da giày

và túi xách Việt Nam.

Các doanh nghiệp da giầy Việt Nam đang và cần đẩy mạnh hơn quá trình

đổi mới máy móc, thiết bị và thu hút đầu tư vào các lĩnh vực thuộc da. Điểm yếu

67

của ngành Da- Giầy Việt Nam là ở khâu nguyên liệu và thiết kế, hiện các doanh

nghiệp Việt mới chỉ tự chủ được phần nguyên liệu đế giày, chỉ khâu và vải cho

sản xuất loại giày vải cấp thấp; còn phải nhập khẩu hầu hết các loại máy móc và

nguyên liệu quan trọng nhất để phục vụ sản xuất trong ngành, như vải cao cấp,

da nhân tạo và mỗi năm nhập khẩu từ 1,1 tỷ - 1,5 tỷ USD da thuộc. Tạo nền tảng

hạ tầng cho ngành da giày mở rộng cơ hội tiếp cận công nghệ sản xuất giầy cao

cấp lâu đời; đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp theo dạng chuỗi cung ứng,

giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn khi tiếp cận thị trường các nước đối tác và

tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu với lợi thế về nguồn nhân lực “vàng”,

môi trường đầu tư ngày càng cải thiện, kiểm soát chặt chẽ hiện tượng gian lận

thương mại, bảo vệ tốt quyền sở hữu trí tuệ cho các thương hiệu lớn.

Xuất phát từ yêu cầu và động lực cho phát triển ngành Da- Giầy Việt Nam

ngày càng hội tụ và cộng hưởng từ việc đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế,

nâng cao yêu cầu về chất lượng hàng hóa, những sản phẩm có thương hiệu quốc

gia và có sức cạnh tranh trong chuỗi giá trị toàn cầu; tăng cường đầu tư phát

triển kết cấu hạ tầng công nghệ, hiện đại hóa máy móc, thiết bị, đào tạo đội ngũ

quản lý kỹ thuật; tuân thủ những cam kết liên quan đến sở hữu trí tuệ, bảo vệ

người tiêu dùng; cơ cấu lại sản xuất để giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng

lực vượt qua các hàng rào kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu khách hàng; hình thành các

quy hoạch khu công nghiệp dành riêng cho ngành sản xuất da giày, với hệ thống

đồng bộ kết cấu hạ tầng về xử lý ô nhiễm môi trường nước thải trong sản xuất;

xây dựng các vùng nguyên, phụ liệu (da nguyên liệu, xơ bông, xơ nhân tạo, hóa

chất); tăng trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường, hướng tới sản xuất xanh -

sạch hơn và phát triển bền vững trong hội nhập…

68

Ngoài việc thực hiện đề tài dự án, Viện đã triển khai các hoạt động

chuyển giao công nghệ, dịch vụ KHCN ở các doanh nghiệp góp phần gắn kết

giữa nghiên cứu và sản xuất. Như hợp đồng xử lý nước thải cho Công ty Cổ

phần sản xuất giấy Minh Quân, Yên Bái; Hợp đồng xử lý nước thải cho Công ty

cổ phần Chế biến và xuất nhập khẩu Lâm sản, Yên Bái; Hợp đồng cung cấp các

thiết bị cho công trình cải tạo và nâng cấp trạm xử lý nước thải Nhà máy sản

xuất giấy xuất khẩu Âu Lâu, Yên Bái; Hợp đồng xây dựng hệ thống xử lý nước

thải Siêu thị Vinmart Thăng Long, Hà Nội; Quan trắc môi trường nhiều tỉnh

thành trong cả nước...Đây là bước khởi đầu trong việc thương mại hóa các kết

quả nghiên cứu với phương thức tổ chức sản xuất để lấy thu bù chi.

2.3. Đánh giá thực trạng thương mại hóa kết quả nghiên cứu và nhu

cầu hình thành doanh nghiệp spin-off tại Viên Nghiên cứu Da-Giầy

2.3.1. Những kết quả đã đạt được

Năm 2011-2014 Viện Nghiên cứu Da – Giầy phối hợp với Viện Nghiên

cứu da Trung ương Ấn Độ thực hiện nhiệm vụ Nghị định thư “Hợp tác nghiên

cứu xử lý nước thải và áp dụng sản xuất sạch hơn vào ngành công nghiệp thuộc

da”. Nhiệm vụ tập trung vào nghiên cứu áp dụng các biện pháp sản xuất sạch

hơn như quản lý nội vi, thay đổi công nghệ và xây dựng mô hình xử lý nước thải

áp dụng cho các cơ sở nhỏ. Kết quả của nhiệm vụ là khởi nguồn cho việc nghiên

cứu công nghệ thuộc da thân thiện môi trường sau này. Việc ứng dụng công

nghệ trong nước tạo ra nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp, thuận lợi rõ rệt nhất là

chi phí đầu tư chuyển giao công nghệ, sửa chữa, thay thế thiết bị, thuê chuyên

gia nước ngoài… sẽ giảm đáng kể so với việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ

nước ngoài.

69

Cụ thể năm 2013 Trong quá trình thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm,

nhóm nghiên cứu đã kết hợp đào tạo và chuyển giao công nghệ thuộc và hoàn

thiện da đà điểu cho công ty TNHH Thiên Lan (Thanh Hóa). Mặc dù chuyển

giao công nghệ với chi phí không cao (150 triệu đồng) nhưng đây là bước đi đầu

tiên trong việc chuyển giao công nghệ được Viện Nghiên cứu Da-Giầy hoàn

thiện tới một cơ sở sản xuất. Điều đó chứng tỏ khả năng thương mại hóa kết quả

nghiên cứu của Viện ngày càng được chú trọng.

Chiến lược phát triển ngành thuộc da nước ta đến 2020: Thực hiện nhanh

việc sắp xếp lại lĩnh vực thuộc da nhằm đáp ứng nhu cầu da thuộc thành phẩm

(cả về số và chất lượng) cho giầy dép xuất khẩu; Quy hoạch, xây dựng khu công

nghiệp thuộc da tập trung xa khu dân cư. Di dời các cơ sở thuộc da vào các khu

công nghiệp chuyên ngành; Tập trung đầu tư chiều sâu, bổ sung máy móc thiết

bị đồng bộ, hiện đại. Nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý nhằm

khai thác tốt hơn năng lực thuộc da hiện có. Đặc biệt nâng cao chất lượng sản

phẩm và đa dạng hóa các mặt hàng da thuộc; Bổ sung nguồn nhân lực và nâng

cao năng lực cho đội ngũ quản lý, kỹ thuật và công nhân lành nghề; Lựa chọn

công nghệ tiên tiến, hạn chế tối đa và không gây ô nhiễm môi trường trong lĩnh

vực thuộc da…

2.3.2. Những hạn chế cần khắc phục

Về phía Viện Nghiên cứu Da-Giầy, do trong khâu tuyển chọn đầu vào còn

mang nặng tính hành chính cơ chế xin - cho, nên phần lớn đề tài, dự án chưa

xuất phát từ những đòi hỏi của thực tế sản xuất hay từ những vấn đề của doanh

nghiệp. Bởi vậy, những thiết bị, công nghệ được tạo ra từ các đề tài, dự án trên

không được các doanh nghiệp sử dụng mua bán. Hơn nữa, Viện chưa có được

70

một chính sách hay một chiến lược cụ thể hỗ trợ các nhà khoa học cũng như

doanh nghiệp để các kết quả nghiên cứu đến với thực tế sản xuất, qua đó thương

mại hóa chúng. Thực tế cho thấy, Viện mới chỉ quan tâm làm sao để các đề tài,

dự án cho ra được kết quả, còn việc kết quả đó đến với thực tế sản xuất như thế

nào thì còn thả nổi hoặc chỉ dừng lại ở những giải pháp mang tính tuyên truyền,

khuyến khích một cách hình thức... Trong khi, từ kết quả nghiên cứu của các đề

tài, dự án tới việc áp dụng thực tế còn một khoảng cách khá xa. Vì vậy, những

kết quả nghiên cứu từ trước đến nay của Viện chưa được thương mại hóa.

Kết quả nghiên cứu của Viện về khoa học và công nghệ được tạo ra từ

việc sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước và cơ sở vật chất – kỹ thuật

thuộc sở hữu nhà nước. Với mong muốn thương mại hóa các kết quả nghiên

cứu, các nhà khoa học của Viện đều là cán bộ kiêm nhiệm do đó thiếu điều kiện

để triển khai các ý tưởng khoa học, triển khai thực nghiệm, hoàn thiện công

nghệ từ các đề tài nghiên cứu và thiếu kinh phí để triển khai, thiếu thông tin về

nhu cầu của doanh nghiệp, nên hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học chưa

sát với nhu cầu của thực tế sản xuất, chưa tạo được lòng tin đối với các doanh

nghiệp. Nguyên nhân của vấn đề này có nhiều, nhưng chủ yếu vẫn thuộc về thủ

tục giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu theo Thông tư

15/2014/TT-BKHCN ngày 13 tháng 06 năm 2014 về “Quy định về trình tự, thủ

tục gia quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển

công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước”.

Doanh nghiệp và nhà khoa học trong Viện chưa có được mối liên kết đáng

ra cần phải có. Về phía các doanh nghiệp, do thiếu thông tin về khả năng chế tạo

của các nhà khoa học của Viện, thiếu sự tin cậy đối với các sản phẩm của Viện

còn mang tính "nghiên cứu", chưa được thử nghiệm nên chưa mạnh dạn mua

71

những thiết bị, công nghệ được sản xuất trong nước, mà thường chọn phương án

nhập khẩu thiết bị, công nghệ nước ngoài, tuy giá cao nhưng có vẻ bảo đảm, ít

mạo hiểm và rủi ro hơn. Trong khi nhà nghiên cứu thì không biết được doanh

nghiệp, thị trường đang thực sự cần gì nên các kết quả nghiên cứu hay nhưng

thiếu tính thực tế, thiếu kinh phí hoàn thiện các sản phẩm nên còn chậm một

nhịp với guồng quay thương mại; nhà doanh nghiệp thì lại chưa đủ tin tưởng vào

năng lực của các nhà khoa học, chưa mạnh dạn đầu tư mạo hiểm nên chủ yếu

vẫn sử dụng công nghệ tầm trung và tầm thấp nhập khẩu từ bên ngoài.

Chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của hoạt động chuyển giao

công nghệ, sản xuất kinh doanh; Cơ chế quản lý của Viện với các Trung tâm

chưa rõ ràng; Sử dụng cán bộ kiêm nhiệm, không chú trọng tới chuyển giao

công nghệ; Thiếu trang thiết bị, cơ sở vật chất triển khai chuyển giao công

nghệ, sản xuất kinh doanh; Các Trung tâm trong Viện còn thiếu “tư cách pháp

nhân”; Khó khăn triển khai trên quy mô vừa, lớn, giấy phép hành nghề; và chưa

ngăn chặn hiện tượng sao chép kết quả nghiên cứu.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên

Lãnh đạo và nhiều cán bộ của Viện chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan

trọng của hoạt động chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh, do vậy chưa

có sự quan tâm đúng mức và đề ra giải pháp thích hợp đẩy mạnh hoạt động này.

Một số nghiên cứu chưa gắn với thực tiễn. Nhiều kết quả nghiên cứu được đánh

giá, nghiệm thu nhưng ít được triển khai áp dụng.

Cơ chế quản lý của Viện đối với các đơn vị, Trung tâm còn nhiều bất cập

như:

72

* Khoán trắng cho Trung tâm chỉ yêu cầu đơn vị đóng góp cho Viện mà ít

quan tâm việc quản lý các đơn vị này.

* Chưa thống nhất chức năng quản lý các Trung tâm nghiên cứu - triển

khai, thiếu cơ chế khuyến khích phát triển đầu tư lại cho Trung tâm nghiên cứu -

triển khai.

* Chưa chú ý chỉ đạo nhiệm vụ chuyển giao công nghệ mà công việc này

chủ yếu do một số cá nhân tự tìm địa chỉ để chuyển giao.

Các cán bộ làm việc ở các Trung tâm phần lớn là kiêm nhiệm, chủ yếu tập

trung cho thời gian cho nghiên cứu khoa học các đề tài, dự án sử dụng ngân sách

nhà nước, chuyển giao công nghệ bị hạn chế.

Trang thiết bị, cơ sở vật chất, mặt bằng để triển khai chuyển giao công

nghệ, sản xuất kinh doanh ở Viện còn rất thiếu thốn, lạc hậu và không đồng bộ

so với cơ sở sản xuất kinh doanh. Điều đó hạn chế rất nhiều đến hoạt động triển

khai, nhất là tham gia đấu thầu các công trình.

Do không có "tư cách pháp nhân" đối với các Trung tâm trực thuộc Viện

nên không được thực hiện trực tiếp chuyển giao công nghệ và tham gia đấu thầu

các công trình ở một số lĩnh vực khác, mặc dầu một số đơn vị có đủ điều kiện để

thực hiện các công việc đó. Vì vậy, nhiều dự án, hợp đồng do Trung tâm triển

khai đều phải thông qua cơ quan khác để "đấu thầu" hoặc làm thuê cho các đơn

vị trúng thầu.

Nguồn lực về cơ sở vật chất, giữa nghiên cứu hàn lâm và sản phẩm

thương mại vẫn còn khoảng cách, rất cần hoàn thiện công nghệ. Hiện Viện đang

đầu tư vào nghiên cứu để ra được phát minh sáng chế, giải pháp hữu ích, sản

phẩm khoa học công nghệ. Các Trung tâm nghiên cứu - triển khai công nghệ

trực thuộc thuộc Viện chủ yếu làm nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm, sản xuất

73

đơn chiếc hoặc số lượng nhỏ vì vậy việc triển khai sản xuất ở qui mô vừa và lớn

để áp dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất đang gặp khó khăn về cơ chế, giấy

phép hành nghề. Nhưng những sản phẩm đó mới dừng lại ở mức sản phẩm mẫu,

muốn ra tới thị trường phải qua khâu hoàn thiện và kiểm thử. Hiện nay chưa có

nguồn lực về cơ sở vật chất như các xưởng chế thử, sản xuất thử nghiệm đưa

vào để thu hẹp khoảng cách nêu trên.

Các qui định về sở hữu trí tuệ chưa đủ mạnh để bảo vệ quyền lợi của tác

giả công trình nghiên cứu, chưa ngăn chặn hiện tượng sao chép kết quả nghiên

cứu dẫn đến giảm nhiệt tình chuyển giao công nghệ.

Lãnh đạo Viện nên nhìn nhận “danh tiếng” – thứ tài sản vô hình của đơn

vị mình chiếm tỷ trọng không vượt quá 15% trong sự thành công của doanh

nghiệp spin-off thì sẽ tạo động lực cho doanh nghiệp spin- off tồn tại và phát

triển.

Về bản chất doanh nghiệp spin-off luôn tiềm ẩn các nguy cơ rủi ro. Các

doanh nghiệp này tập trung vào công nghệ mới chưa đủ độ chín, với thị trường

có thể chưa thành hình, trong khi trước mắt là vô vàn khó khăn từ vốn, quản trị,

vận hành sản xuất, đến phân phối sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng, và không thể

không kể tới sự cạnh tranh khốc liệt từ thị trường. Vì vậy, thông thường ngoài

sự đóng góp thông qua việc chuyển quyền sử dụng bằng sáng chế, Viện sẽ chỉ

đóng góp thông qua “danh tiếng”, và sự hỗ trợ ban đầu về quyền sử dụng cơ sở

vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, cũng như nhân lực dưới dạng biệt phái

cho doanh nghiệp spin-off. Trong khi, doanh nghiệp mới thành lập thực sự cần

tiền mặt cho mọi hoạt động của mình, vì vậy, họ cần các khoản đầu tư khác, có

thể từ chính tiền cá nhân của họ, hoặc kêu gọi các nhà đầu tư khác ngoài xã hội.

74

Tiểu kết chương II

Qua những phân tích thực trạng hình thành và phát triển các doanh nghiệp

spin-off tại Việt Nam cho thấy các doanh nghiệp này đến nay vẫn chưa có

nhiều, chủ yếu được hình thành từ một bộ phận của tổ chức mẹ còn từ các cá

nhân, các nhà khoa học có tinh thần kinh thương còn rất hạn chế.

Trong quá trình thành lập, cũng đã xuất hiện mâu thuẫn về quyền lợi

giữa viện mẹ và doanh nghiệp con, cụ thể là quyền sở hữu trí tuệ đối với bí

quyết, công nghệ được tạo ra ở viện mẹ và phân chia lợi nhuận thu được,

vấn đề về mất dần đội ngũ nghiên cứu chính của viện mẹ khi chuyển sang

doanh nghiệp con. Trong đó, vấn đề nguồn vốn hoạt động và nguồn vốn tài trợ

đang là vấn đề bức thiết nhất cần được giải quyết. Ngoài ra, Việt Nam chưa có

chính sách cụ thể nào cho sự hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp

này. Vấn đề đặt ra là cần phải có những chính sách, những định hướng phù hợp

để khắc phục những hạn chế trên và đưa doanh nghiệp spin-off trở thành 1 phần

cốt lõi của nền kinh tế.

75

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN DOANH

NGHIỆP SPIN-OFF ĐỂ THƯƠNG MẠI HÓA KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

TẠI VIỆN NGHIÊN CỨU DA-GIẦY

3.1. Quan điểm và mục tiêu hình thành doanh nghiệp spin-off để

thương mại hóa kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy

3.1.1. Quan điểm hình thành

Về phía nhà quản lý, do trong khâu tuyển chọn đầu vào còn mang nặng

tính hành chính cơ chế xin - cho, nên phần lớn đề tài, dự án chưa xuất phát từ

những đòi hỏi của thực tế sản xuất hay từ những vấn đề của doanh nghiệp. Bởi

vậy, những thiết bị, công nghệ được tạo ra từ các đề tài, dự án trên không được

các doanh nghiệp sử dụng mua bán. Hơn nữa, chúng ta chưa có được một chính

sách hay một chiến lược cụ thể hỗ trợ các nhà khoa học cũng như doanh nghiệp

để các kết quả nghiên cứu đến với thực tế sản xuất, qua đó thương mại hóa

chúng. Thực tế cho thấy, chúng ta mới chỉ quan tâm làm sao để các đề tài, dự án

cho ra được kết quả, còn việc kết quả đó đến với thực tế sản xuất như thế nào thì

còn thả nổi hoặc chỉ dừng lại ở những giải pháp mang tính tuyên truyền, khuyến

khích một cách hình thức... Trong khi, từ kết quả nghiên cứu của các đề tài, dự

án tới việc áp dụng thực tế còn một khoảng cách khá xa.

Quy hoạch tổng thể phát triển Viện Nghiên cứu Da-Giầy phải phù hợp với

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã

hội của cả nước, Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ và các chủ

trương, chính sách có liên quan của Đảng, Nhà nước.

76

Phát triển Viện Nghiên cứu Da-Giầy với bước đột phá mạnh mẽ, trở thành

một trung tâm nghiên cứu, đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ mạnh, đa

ngành, làm đầu tàu, động lực phát triển khoa học và công nghệ của đất nước,

góp phần quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm

quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại

hóa và hội nhập quốc tế.

Tập trung xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao tiềm lực khoa

học và công nghệ của Viện Nghiên cứu Da-Giầy. Đẩy mạnh hoạt động hợp tác

quốc tế để thúc đẩy việc đổi mới công nghệ quốc gia, đặc biệt là công nghệ cao,

đồng thời góp phần nâng cao trình độ và khẳng định vị thế khoa học của Việt

Nam trong khu vực và trên thế giới.

Đổi mới cơ bản việc xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá hiệu quả

thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước. Đổi

mới mạnh mẽ cơ chế tài chính và phương thức đầu tư đối với hoạt động khoa

học và công nghệ của Viện Nghiên cứu Da-Giầy.

3.1.2. Mục tiêu hình thành

- Doanh nghiệp spin-off được coi là cầu nối giữa các kết quả nghiên cứu,

ứng dụng KH&CN được chuyển giao vào trong sản xuất sản phẩm, hàng hóa.

Doanh nghiệp spin-off tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy chính là nơi trực tiếp

ứng dụng thành công các kết quả nghiên cứu KH&CN mà Viện có quyền sở hữu

và sử dụng hợp pháp để sản xuất sản phẩm. Hay nói cách khác, vai trò của

doanh nghiệp spin-off nhằm thương mại hóa, ứng dụng kết quả nghiên cứu

KH&CN vào ngành công nghiệp da giầy cũng như đời sống kinh tế - xã hội.

77

Hơn nữa, doanh nghiệp spin-off tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy cũng chính

là nơi tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra, ứng dụng

có hiệu quả công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao. Doanh

nghiệp spin-off tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy sẽ góp phần phát triển nền khoa

học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, tiếp cận với

trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển các ngành công nghiệp

hiện đại, đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ

vào sản xuất và đời sống.

- Doanh nghiệp spin-off đóng vai trò như một chủ thể kinh tế sản xuất

chủ lực, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, góp phần phát triển kinh

tế - xã hội.

Đây là những doanh nghiệp có sự kết nối giữa các nhà khoa học và thực

tiễn thị trường, đã góp phần đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ tốt đáp

ứng nhu cầu xã hội. Doanh nghiệp spin-off tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy sẽ là

phương thức chuyển giao công nghệ nhanh nhất bởi sự ra đời và phát triển của

các doanh nghiệp spin-off sẽ tạo điều kiện để huy động tối đa và sử dụng có hiệu

quả nguồn lực KH&CN phục vụ cho sự phát triển của ngành, đất nước, là nguồn

tạo công ăn việc làm ổn định, góp phần nâng cao đời sống địa phương. Ngoài ra,

doanh nghiệp spin-off có vai trò tạo ra việc làm mới, thu hút các lao động có

trình độ, tay nghề, được đào tạo thành nguồn nhân lực KH&CN cho chính doanh

nghiệp và thị trường lao động.

78

3.2. Các giải pháp hình thành doanh nghiệp spin-off để thương mại

hóa kết quả nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Da- Giầy

3.2.1. Hoàn thiện các điều kiện để hình thành doanh nghiệp spin-off

- Có thể coi một trong số những yếu tố giữ vai trò quan trọng giúp thương

mại hóa công nghệ thành công tại Viện Nghiên cứu Da-Giầy chính là quyền sở

hữu trí tuệ. Sở hữu trí tuệ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện

nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Vi phạm quyền sở

hữu trí tuệ đã gây tâm lý chán nản, mất động lực cho người nghiên cứu khoa học

và những người làm công tác chuyển giao công nghệ. Viện cần có những quy

định cụ thể về quản lý quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ như: Xác

định chủ sở hữu của các công nghệ, sản phẩm và tài sản trí tuệ; Vai trò của bộ

phận quản lý quyền sở hữu trí tuệ trong việc thực thi đăng ký độc quyền công

nghệ cho các đơn vị và các nhà khoa học trong Viện; Đề xuất mức phân chia lợi

nhuận nhằm động viên các tác giả đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thương

mại hóa công nghệ… Các quy định này cần được cụ thể hóa rõ ràng các bước

đăng ký xác lập quyền và hỗ trợ tài chính, giúp thúc đẩy mối quan hệ mấu chốt

giữa Viện và doanh nghiệp.

- Viện cũng cần tiếp tục thúc đẩy thành lập doanh nghiệp KH&CN và

vườn ươm công nghệ, phát triển chương trình hỗ trợ thương mại hóa công nghệ

và chính sách ưu đãi về kinh phí hỗ trợ chuyển giao công nghệ giữa Viện -

doanh nghiệp, tổ chức gặp mặt thường xuyên giữa Viện – doanh nghiệp để cung

cấp thông tin về kết quả nghiên cứu khoa học nhằm đưa ra thêm lựa chọn đối

mới công nghệ cho doanh nghiệp. Cần nhanh chóng hỗ trợ thành lập các cơ

quan trung gian thực hiện dịch vụ chuyển giao công nghệ, tham gia các sàn giao

79

dịch công nghệ và tăng cường marketing công nghệ, đầu tư thêm trang thiết bị

cho các Trung tâm nghiên cứu nhằm tăng cường nghiên cứu khoa học và đổi

mới sáng tạo, cấp vốn thêm cho những người hoạt động nghiên cứu khoa học và

đổi mới sáng tạo.

3.2.2. Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học

Nâng cao năng lực nghiên cứu và chất lượng sản phẩm nghiên cứu của

các tổ chức nghiên cứu theo hướng đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động đáp ứng

mục tiêu của chính sách đổi mới

Như ta đã biết, doanh nghiệp spin-off là doanh nghiệp được hình thành

trên cơ sở áp dụng/khai thác kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được tạo

ra ở viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức nghiên cứu tư nhân hoặc bởi một

cá nhân hoặc tập thể nhà khoa học, công nghệ, sáng chế. Vì vậy, doanh nghiệp

spin-off chỉ có thể hình thành, tồn tại và phát triển được khi các sản phẩm

nghiên cứu có chất lượng, đáp ứng được các yêu cầu của cuộc sống đặt ra. Để

các sản phẩm nghiên cứu có thể đi vào cuộc sống đem lại hiệu quả kinh tế - xã

hội thì cần phải nâng cao năng lực tổ chức và quản lý hoạt động nghiên cứu của

các tổ chức nghiên cứu theo hướng đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động đáp ứng

mục tiêu của chính sách đổi mới. Hoạt động nghiên cứu được chia thành các giai

đoạn: xác định nhiệm vụ KH&CN và tuyển chọn người thực hiện; đánh giá

nghiệm thu kết quả; công bố và ứng dụng kết quả. Việc xác định nhiệm vụ

nghiên cứu cho trúng với nhu cầu của đối tác xã hội góp phần đưa kết quả

nghiên cứu được thực hiện tốt hơn, gần với nhu cầu thực tiễn. Có thể nói rằng

việc ban hành các quy định pháp lý về việc xác định nhiệm vụ nghiên cứu đã

80

đánh một dấu mốc quan trọng trong việc lựa chọn được các nhà khoa học đủ

năng lực thực hiện nhiệm vụ KH&CN.

Đây là một trong những biện pháp nhằm giảm đáng kể lượng đề tài

nghiên cứu không gắn với nhu cầu sản xuất ở thời điểm xác định nhiệm vụ.

Chính vì vậy, các nhiệm vụ nghiên cứu được lựa chọn đã gắn kết tốt hơn với sản

xuất và đời sống, đưa ra được các sản phẩm cụ thể và dự kiến địa chỉ áp dụng.

Một số sản phẩm đã góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Mặt khác,

qua các kỳ tuyển chọn, chất lượng các bản thuyết minh đề tài, dự án tham gia

tuyển chọn đã làm tốt hơn rất nhiều so với trước đây, là một trong những điều

kiện ban đầu có thể thực hiện thành công nhiệm vụ đặt ra. Đối với việc đánh giá

kết quả nghiên cứu sau khi đã được nghiệm thu bao hàm nhiều hoạt động thực

tiễn, nhằm nhìn nhận hiệu quả có thể mang lại các kết quả đó. Việc đánh giá

nên chú trọng vào tính khả thi trong ứng dụng hơn là khía cạnh học thuật. Đánh

giá tính khả thi ứng dụng bao gồm khả thi về mặt kinh tế - xã hội và khả thi về

mặt tài chính.

Vì vậy, đánh giá kết quả nghiên cứu sau nghiệm thu trước khi đưa vào

ứng dụng cũng là cách thức để loại bỏ các kết quả nghiên cứu “rởm” nhưng vẫn

được nghiệm thu. Để có thể công bố và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản

xuất và đời sống, cần phải có cơ chế ràng buộc về trách nhiệm của các cơ quan

quản lý kết quả và tác giả kết quả nghiên cứu trong việc đưa kết quả nghiên cứu

vào ứng dụng sau khi kết quả đó đã được nghiệm thu để đem lại hiệu quả kinh tế

- xã hội.

Trên thực tế, hầu hết các kết quả nghiên cứu sau khi được nghiệm thu vai

trò của tác giả và cơ quan quản lý còn rất mờ nhạt trong việc chuyển giao kết

quả nghiên cứu và coi như là xong nhiệm vụ. Ngay trong hợp đồng ký kết giữa

81

cơ quan quản lý và chủ nghiệm đề tài, dự án đã không có những giao kết về việc

có kế hoạch nào, biện pháp gì để đưa kết quả đó vào ứng dụng ngay sau khi kết

quả được nghiệm thu.

Chỉ một số ít những kết quả này được đưa vào ứng dụng ngay trong

trường hợp có nhu cầu trước mắt, hoặc được thực hiện theo đơn đặt hàng từ phía

người sử dụng. Mặt khác, về phía các quy định của pháp luật, đến nay vẫn chưa

có hướng dẫn cụ thể về vai trò, trách nhiệm của những người thực hiện và cơ

quan quản lý, mà mới chỉ dừng lại ở một quy định rất chung chung – có trách

nhiệm – nên đối tượng áp dụng không biết cách để thực hiện. Ngoài ra, có một

số chính sách về phân chia lợi nhuận cho tác giả khi kết quả đó được ứng dụng,

chính sách khen thưởng… nhưng trên thực tế đã không khuyến khích được, nên

không mang lại hiệu quả cao.

3.2.3. Gắn kết quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động

nghiên cứu

Hiện nay, với vai trò là một Viện nghiên cứu triển khai KH&CN trực

thuộc Bộ Công Thương, hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo

Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ, Nghị định số

54/2016/NĐ-CP và Thông tư số 01/2017/TT-BKHCN, nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ vẫn được coi là một trong các nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu

của Viện. Các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào nghiên cứu phát triển và ứng

dụng các công nghệ trong lĩnh vực Da - Giầy và công nghệ bảo vệ môi trường.

Với phương châm nghiên cứu gắn liền với thực tiễn, việc triển khai ứng dụng

các kết quả nghiên cứu, sản phẩm mới vào sản xuất.

82

Bên cạnh đó, Viện còn giao cho các phòng ban được quyền sản xuất, kinh

doanh như doanh nghiệp; được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; sử

dụng con dấu của đơn vị sự nghiệp công lập cho hoạt động sản xuất, kinh doanh

và hưởng mọi ưu đãi như doanh nghiệp. Với các quy định luôn được bổ sung,

hoàn thiện nhằm giải phóng tối đa sức sáng tạo thúc đẩy, tạo điều kiện gắn kết

quả khoa học và công nghệ với thực tiễn. Có thể nói, những đổi mới về chính

sách quản lý, cơ chế tài chính đối với Viện thời gian qua đã được phát huy.

3.2.4. Hoàn thiện các điều kiện về hạ tầng cho việc hình thành và phát

triển doanh nghiệp spin-off để thương mại hóa kết quả nghiên cứu

a. Hoàn thiện chính sách đảm bảo năng lực tự chủ

Cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho đầu tư ban đầu đảm bảo cho

hoạt động của đơn vị như: Năng lực tự điều chỉnh tổ chức; Năng lực sử dụng có

hiệu quả các nguồn lực; Bộ máy quản lý: Người lãnh đạo, bộ máy quản lý,

chuyên viên quản lý; Tinh thần tự chủ: của lãnh đạo và nhà khoa học; Văn hóa

tổ chức của Viện.

Điều này được thể hiện rõ như sau:

Thời kỳ đầuViện chỉ là một Phòng nghiên cứu. Cơ cấu tổ chức khi đó

gồm: bộ phận Quản lý hành chính, các nhóm chuyên môn. Sau đó, để đáp ứng

nhu cầu và cũng để cho các cá nhân, các phòng ban được tự chủ hơn. Viện đã có

sự chuyển đổi thành trung tâm: Chức năng của Trung tâm: Nghiên cứu cơ bản,

điều tra cơ bản, phát triển chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực có

trình độ cao theo quy định pháp luật.

83

Trong đó các lĩnh vực hoạt động của Viện như: - Nghiên cứu khoa học và

phát triển công nghệ Da Giầy; - Sản xuất, kinh doanh các sản phẩm trên cơ sở

kết quả nghiên cứu hoặc cải tiến công nghệ. Đào tạo nâng cao trình độ chuyên

môn, tư vấn, thiết kế. Phân tích, xử lý ô nhiễm môi trường nói chung và xử lý ô

nhiễm thuộc da nói riêng. Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới.

Ngoài ra Viện cũng đã liên doanh liên kết với các cơ sở thuộc da trên cả nước,

để gắn kết hoạt động nghiên cứu và triển khai.

Qua quá trình phát triển của Viện từ thời kỳ mở đầu đến nay, ta thấy rằng

Viện ngày càng phát triển mạnh cả về chiều rộng cũng như chiều sâu. Đặc biệt,

chức năng và cơ cấu của Viện ngày càng đa dạng. Đến nay, Viện đã thực hiện

đủ các chức năng nghiên cứu, sản xuất và đào tạo. Cơ cấu của Viện cũng đã đa

dạng để thực hiện được các chức năng của mình. Qua cơ cấu của Viện cho thấy

bên cạnh tổ chức cơ học của bộ máy, Viện đã có cấu trúc đa dạng thể hiện ở các

nhóm, các trung tâm, các đơn vị không phải cấp phòng. Khi thực hiện các nhiệm

vụ khoa học và công nghệ Viện đã bắt kịp mô hình tổ chức hiện đại của thế giới

để có thể năng động, mềm dẻo, nhanh nhạy và tăng khả năng thích ứng với thị

trường. Viện đã nâng cao sự phối hợp giữa các chuyên gia và khai thác hiệu quả

tiềm năng nguồn nhân lực của Viện. Lãnh đạo Viện đã vận dụng điều 10 về tổ

chức bộ máy của Nghị định 115/2005/NĐ-CP thành công, đã biến được quyền

tự chủ mà nhà nước trao cho thành năng lực tự chủ của tổ chức mình. Do đó, tuy

mới chỉ mới thực hiện đa dạng hóa chức năng và cơ cấu tổ chức trong một thời

gian ngắn mà Viện đã thu được nhiều thành tựu rất đáng kể.

b. Hoàn thiện chính sách tài chính

84

Để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các

viện nghiên cứu - triển khai cần thiết phải thương mại hóa được các sản phẩm

của mình. Nhà nước đã cho phép các Viện thành lập các doanh nghiệp spin-off.

Đây chính là cơ hội để các viện thương mại hóa các kết quả nghiên cứu

khoa học, nhanh chóng đưa các kết quả nghiên cứu vào cuộc sống và hoàn thiện

chúng. Khi thành lập các doanh nghiệp spin-off, các viện có thể: - Đưa các thành

tựu khoa học và công nghệ cao nhanh chóng vào ứng dụng (nhiều công nghệ cao

mà các doanh nghiệp không đủ trình độ để nhận chuyển giao hoặc không dám

mạo hiểm với sản phẩm mới); - Chủ động kiểm tra, bảo đảm được chất lượng

sản phẩm và không ngừng cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm

đáp ứng nhu cầu thị trường với giá thành thấp nhất. - Tạo thương hiệu của đơn

vị mình trên các sản phẩm thương mại hóa - Thông qua các doanh nghiệp spin-

off và phát triển sản phẩm các viện có điều kiện thu hút nguồn nhân lực chất

lượng cao phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai của viện cũng

như có điều kiện phục vụ cho công tác đào.

Từ đó những kết quả đó, cũng tạo điều kiện thuận lợi tăng nguồn thu đáng

kể phục vụ cho các hoạt động của Viện. Tăng cường hợp tác kinh doanh, chuyển

giao công nghệ cho các cơ sở sản xuất nhà nước và tư nhân khác.

Viện cũng đã vận dụng cơ chế thị trường và quản lý KH&CN, thúc đẩy

thị trường KH&CN, để thị trường vận động theo quan hệ cung - cầu của kinh tế

thị trườg. Thúc đẩy thành lập các quỹ KH&CN, tài trợ cho hoạt động KH&CN,

đặc biệt khuyến khích thành lập các quỹ , quản lý và điều hành. Chính sách tài

chính đối với hoạt động KH&CN: quản lý kiểm sóat chi tiêu tài chính theo cơ

chế gắn với kết quả nghiên cứu, sản phẩm KH&CN và hiệu quả kinh tế. Thực

85

hiện cơ chế cạnh tranh trong cấp phát và tài trợ kinh phí hoạt động khoa học và

công nghệ.

Ưu tiên bố trí ngân sách cho các hoạt động có tính ứng dụng cao, có chính

sách huy động tối đa các nguồn lực đầu tư từ các cá nhân tổ chức trong Viện.

Viện luôn khuyến khích, thúc đẩy hoạt động của các Trung tâm, trong

việc đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi môi trường.

- Chính sách về tổ chức và nhân sự và cơ cấu hoạt động:

Viện đã có sự chuyển đổi từ hoạt theo mô hình liên kết nghiên cứu với

đào tạo và sản xuất, chuyển đổi mô hình hành chính hóa trong quản lý khoa học.

Đề xuất quy chế và triển khai chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo nhằm

gắn kết nghiên cứu và đào tạo với sản xuất.

Viện còn mạnh hoạt động xúc tiến, thương mại hóa công nghệ bao gồm

các hoạt động khảo sát nhu cầu của doanh nghiệp, thị trường; hoạt động giới

thiệu và quảng bá công nghệ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp hợp tác với

Trung tâm của Viện.

Để nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy, chất lượng chuyên viên và cán

bộ quản lý là hết sức quan trọng. Các chuyên viên cần nỗ lực hơn để nắm bắt

trình độ công nghệ trong nước và của khu vực. Hiểu biết về kinh tế, tiếp thị của

đội ngũ chuyên viên còn hạn chế do hậu quả của sự phân li khoa học - sản xuất

để lại. Để xây dựng và phát triển mô hình liên kết nghiên cứu, đào tạo, sản xuất

tại Viện cần nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên viên thông qua rèn luyện nâng

cao năng lực công nghệ, bổ xung các hiểu biết về kinh tế thị trường và tiếp thị,

86

có tinh thần triển khai kết quả nghiên cứu vào sản xuất, phối hợp nghiên cứu với

đào tạo.

3.2.5. Các giải pháp khác

Lựa chọn ưu tiên - các lĩnh vực khuyến khích thành lập. Sản phẩm hoặc

dịch vụ của doanh nghiệp KH&CN phụ thuộc chủ yếu vào việc áp dụng kỹ năng

hoặc tri thức KH&CN, áp dụng đó là một áp dụng mới đầu tiên của công nghệ

tiên tiến hoặc sử dụng công nghệ không phải là tiên tiến nhưng theo cách đổi

mới để đưa ra một sản phẩm hoặc một dịch vụ hoàn toàn mới. Vì vậy, để tạo

điều kiện thuận lợi cho sự truyền bá tri thức và công nghệ nhằm đưa ra hệ thống

khuyến khích thích hợp cho cả khoa học và công nghiệp để thúc đẩy việc thực

hiện đổi mới, cần phát triển sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mới từ kết quả đề tài

nghiên cứu đã thành công nhưng chưa có điều kiện triển khai, hoặc đang nghiên

cứu mang tính khả thi cao mà doanh nghiệp bên ngoài không có được. Nhà nước

tập trung xác định, xây dựng và đặt hàng triển khai thực hiện những nhiệm vụ

khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia thông qua Chương trình đổi mới

công nghệ quốc gia, Chương trình phát triển công nghệ cao quốc gia; xây dựng

cơ chế thúc đẩy hình thành tổ chức khoa học và công nghệ theo nhiệm vụ trên

cơ sở liên kết các tổ chức khoa học và công nghệ để tập hợp một cách linh hoạt

những cán bộ giỏi về nghiên cứu, triển khai và quản lý nhằm tập trung lực lượng

để giải quyết các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cho việc hình thành các sản

phẩm trọng điểm quốc gia trong giai đoạn tới. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân

cấp và tự chủ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với đặc thù

của hoạt động khoa học và công nghệ. Đổi mới cơ chế tài chính của hoạt động

khoa học và công nghệ theo hướng thay cơ chế tài chính hành chính hiện nay

87

bằng cơ chế tài chính sự nghiệp để tạo động lực cho các tổ chức sự nghiệp khoa

học và công nghệ hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tăng

cường chức năng nghiên cứu cơ bản tại các trường đại học.

Nghiên cứu thành lập hệ thống đổi mới khoa học và công nghệ quốc gia

để tạo sự gắn kết và liên thông giữa nghiên cứu, đào tạo, sản xuất và kinh doanh,

giữa hoạt động khoa học và công nghệ trong nước và quốc tế. Nghiên cứu sửa

đổi Luật Ngân sách nhằm tăng cường đầu tư, tập trung quyền hạn và trách

nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trong đầu tư

phát triển các ngành khoa học, các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia, các nhiệm vụ

khoa học và công nghệ có tính liên vùng, liên lĩnh vực, có ảnh hưởng đột phá

đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Cụ thể là, Nhà nước lựa chọn một số tổ chức nghiên cứu thuộc các hướng

ưu tiên, đầu tư tới ngưỡng để thực hiện các hướng ưu tiên đó, làm cơ sở cho

hoạch định đúng nhiệm vụ KH&CN. Một khi đúng việc, đúng người thực hiện,

đúng chất lượng sẽ tạo đà cho cơ chế thương mại hoá kết quả KH&CN.

Các lĩnh vực ưu tiên gồm: Sản phẩm công nghệ cao/mới; sản phẩm mới

được sản xuất trên cơ sở những thành tựu của các chương trình KH&CN cấp

nhà nước, bộ/tỉnh; sản phẩm mới với quyền sở hữu trí tuệ của chính nó; sản

phẩm mới hướng vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu; các sản phẩm đáp ứng

các tiêu chuẩn quốc tế như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ

điện tử và viễn thông; tự động hoá, năng lượng, vật liệu mới, công nghệ laze là

những môi trường hoạt động là rất tốt cho việc trao đổi tri thức.

Riêng với ngành Da- Giầy, do đặc thù của hệ thống ngành, nguyên phụ

liệu chiếm tỷ trọng lớn (68-75%) trong cơ cấu giá thành các sản phẩm giày dép.

90 % sản phẩm của giầy da Việt Nam là hàng gia công, phụ thuộc nhiều vào

88

thiết bị kỹ thuật, công nghệ, thiết kế sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên liệu thô,

phụ liệu và thị trường nước ngoài. Trong khi để đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật

hết sức khắt khe của EU, đòi hỏi nỗ lực về cải tiến công nghệ và quy trình sản

xuất hết sức nghiêm ngặt từ phía các doanh nghiệp. Hiện nay tỷ lệ nội địa hóa

của ngành mới chỉ chiếm 40-45%, trong đó chủ yếu gồm hai mặt hàng thứ yếu

là đế giày và chỉ khâu. Trên thực tế, Việt Nam đã chủ động được nguyên liệu

giày vải (100%) và một số dòng sản phẩm khác (30-40%), nhưng vẫn có đến

70% doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu nước ngoài.

Nguyên liệu quan trọng nhất để sản xuất giày dép là da thuộc và da nhân tạo vẫn

đang phải nhập khẩu. Mỗi năm Việt Nam phải nhập khẩu từ 1,1-1,5 tỷ USD da

thuộc cho sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà máy thuộc da chưa đáp ứng được 10%

nhu cầu và hiện chỉ hoạt động được 25% công suất do thiếu nguyên liệu. Để đáp

ứng tốt hơn yêu cầu về quy tắc xuất xứ của Hiệp định Thương mại tự do Việt

Nam - EU (EVFTA) cho các sản phẩm giầy dép, cặp, túi, nước ta phải đẩy mạnh

phát triển ngành công nghiệp thuộc da. Nhưng bản thân ngành này đang gặp rất

nhiều khó khăn. Nếu không được đầu tư mới hoặc mở rộng sản xuất da thuộc thì

năng lực sản xuất da thuộc trong nước đáp ứng nhu cầu xuất khẩu sẽ tiếp tục

giảm xuống. Áp lực và nhu cầu về các quy hoạch khu công nghiệp dành riêng

cho ngành sản xuất da giày, với hệ thống đồng bộ cơ sở hạ tầng về xử lý ô

nhiễm môi trường nước thải trong sản xuất; xây dựng các vùng nguyên phụ liệu

(da nguyên liệu, xơ bông, xơ nhân tạo, hóa chất) đặt ra ngày càng cấp thiết và

được chờ đợi như một cú hích lớn tạo động lực phát triển mới cho ngành da

giày.

89

3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp

3.3.1. Từ phía Chính phủ, Bộ Công Thương

Qua thực tế tìm hiểu, chúng tôi thấy có một số vấn đề các cấp có thẩm

quyền cần giải quyết trong quá trình chuẩn bị đưa doanh nghiệp vào hoạt động:

Thứ nhất, vấn đề giao tài sản của Nhà nước, của Viện Nghiên cứu Da-

Giầy cho doanh nghiệp KH&CN để sử dụng cho sản xuất kinh doanh bao gồm

thiết bị nghiên cứu và cơ sở hạ tầng.

Thứ hai, vấn đề định giá tài sản trí tuệ và giao quyền sở hữu một phần

hoặc toàn bộ tài sản trí tuệ này cho các tác giả, cho phép đưa vào sản xuất kinh

doanh và cơ chế phân chia lợi ích giữa Nhà nước (chủ sở hữu tài sản trí tuệ) với

tập thể nhà khoa học (tác giả) và cơ quan chủ quản (được giao quản lý tài sản trí

tuệ).

Thứ ba, cơ chế hỗ trợ của Nhà nước (cấp bằng sáng chế, cấp patent mang

tính chiến lược, đảm bảo chất lượng bằng sáng chế, mở rộng hợp tác về

KH&CN, về vốn, ưu đãi thuế, chính sách đối với cán bộ khoa học trong doanh

nghiệp,...). Hiện nay, trong lúc Nghị định của Chính phủ về DN KH & CN chưa

được ban hành nên cần sự phối hợp của các bộ như: Tài chính, Kế hoạch và

Ðầu tư, KH&CN, Thương mại để hướng dẫn và hỗ trợ DN làm thí điểm.

Thứ tư, thành lập “Khu phát triển công nghệ mới” (Khu này giúp về các

vấn đề cấp phép, đánh thuế, giao dịch quốc tế, tuyển dụng lao động, quyền sở

hữu trí tuệ...) Một số Khu còn đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất nhằm thu hút các

nhà đầu tư trong và ngoài nước, giống như các công viên công nghệ, vườn ươm

công nghệ...

90

Thứ năm, thành lập các Trung tâm dịch vụ cho các doanh nghiệp khoa

học-công nghệ. Cả “Khu phát triển công nghệ mới” và Trung tâm đều do chính

quyền địa phương thành lập và quản lý. Chính phủ Trung ương chỉ đạo chính

quyền địa phương tuyên truyền về thương mại hoá công nghệ và hướng dẫn thử

nghiệm, phổ biến những bài học, kinh nghiệm để tuyên truyền được thành công.

Thứ sáu, huy động nguồn lực tài chính cho mục đích thương mại hoá

bằng cách thành lập “Quỹ cho vay”, trong đó có “Tín dụng cho phát triển khoa

học-công nghệ” dành cho việc thương mại hoá thành tựu khoa học-công nghệ.

Qua đó hình thành một cơ chế cấp vốn cho “Khu phát triển công nghệ mới”

được phân cấp rõ ràng giữa ba bên tham gia: các tổ chức R&D chủ yếu cấp vốn

mạo hiểm cho “Khu phát triển công nghệ mới”; ngân hàng cấp vốn để mở rộng

“Khu phát triển công nghệ mới” sau khi “Khu phát triển công nghệ mới” đi vào

hoạt động và các Khu phát triển công nghệ mới cung cấp cơ sở hạ tầng. Ngoài

ra, các Trung tâm dịch vụ cũng tham gia cấp vốn mạo hiểm cho “Khu phát triển

công nghệ mới” theo sáng kiến của các chuyên gia khoa học-công nghệ. Việc

tham gia của ngân hàng chi nhánh tại các địa phương chịu ảnh hưởng lớn của

chính quyền địa phương và đóng góp to lớn trong cung cấp vốn cho “Khu phát

triển công nghệ mới”.

3.3.2. Từ phía Viện Nghiên cứu Da-Giầy

- Định hướng phát triển thị trường, đổi mới phương thức quản lý, xây

dựng hệ thống quản lý KH&CN dựa trên cơ sở hợp đồng. Việc đầu tiên phải tiến

hành là tìm kiếm khách hàng, cùng khách hàng lựa chọn mặt hàng, sau đó bắt

tay cùng khách hàng nghiên cứu khi đã nhận được tiền hợp đồng. Như vậy, một

91

khi khách hàng đã tài trợ cho nghiên cứu thì bản thân họ đã tự nguyện ứng dụng

thiết bị, công nghệ mới, dù rằng có thể có những rủi ro.

- Viện phải là " bà đỡ" cho các kết quả nghiên cứu bằng cách hỗ trợ nhân

lực, vật lực cho các kết quả nghiên cứu, từ đó triển khai hoàn thiện công nghệ,

sản xuất thử nghiệm và áp dụng vào thực tế sản xuất. Làm được như vậy, sẽ dần

tạo nên một thị trường mua bán, trao đổi công nghệ.

- Ban hành các chính sách như: Chính sách đầu tư; Chính sách phát triển

nguồn nhân lực; Các chính sách điều tiết, hỗ trợ.

- Mở rộng hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.

Tiểu kết chương III

Như vậy, từ những thực trạng của nghành Da- Giầy Việt Nam hiện nay,

loại hình doanh nghiệp spin- off xuất hiện còn chưa nhiều do những yếu tố chủ

quan lẫn khách quan. Hoạt động chủ yếu của ngành này là chuyển giao công

nghệ hay dịch vụ KH&CN còn các hoạt động như đổi mới công nghệ là rất ít.

Yếu tố chủ quan đó là năng lực và sản phẩm nghiên cứu và tinh thần kinh

thương ở các viện. Hầu hết các sản phẩm mới chỉ dừng lại ở các kết quả nghiên

cứu sau nghiệm thu, rất ít sản phẩm được đưa vào ứng dụng. Mặt khác, kiến

thức về kinh doanh của các nhà khoa học còn hạn chế. Các cán bộ khoa học

thiếu tinh thần kinh thương, cộng thêm tâm lý ỷ lại, tư duy bao cấp nên nhiều

nhà khoa học lẫn các tổ chức KH&CN còn rụt rè, ngại ngần khi chuyển đổi sang

loại hình doanh nghiệp này. Vì vậy, nhà nước và bản thân Viện cần có các chính

sách riêng biệt, cụ thể nhằm hỗ trợ cho quá trình thành lập và phát triển loại hình

doanh nghiệp này.

92

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

- Cần triệt để xóa bỏ cơ chế bao cấp của Nhà nước với doanh nghiệp Nhà

nước, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, buộc các

doanh nghiệp đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao, giảm

chi phí, hạ giá thành, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh doanh.

- Cần nghiên cứu sâu hơn về chính sách tín dụng, thuế đối với doanh

nghiệp KH&CN hơn là ban hành thêm các ưu đãi.

2. Khuyến nghị

- Đối với các doanh nghiệp KH&CN hình thành từ các tổ chức mẹ (tổ

chức nghiên cứu, trường đại học) thì Nhà nước cần có chính sách quy định cụ

thể về sự hỗ trợ của tổ chức mẹ cho doanh nghiệp cũng như xác định rõ ràng

quyền sở hữu và phân chia lợi ích xuất phát từ những sản phẩm khoa học được

tài trợ từ ngân sách Nhà nước.

- Nhà nước nên nghiên cứu về chính sách khuyến khích tinh thần kinh

thương của các nhà khoa học, kỹ sư, nghiên cứu sinh, sinh viên để họ thành lập

doanh nghiệp KH&CN.

- Cung cấp những kiến thức liên quan đến thương mại hóa và kinh thương

công nghệ cho các nhà sáng lập doanh nghiệp KHCN.

- Ban hành khung các biện pháp chính sách khuyến khích các tổ chức

nghiên cứu hình thành doanh nghiệp KH&CN.

93

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng việt

1. Nguyễn Vân Anh (2013), “Một số cơ chế, chính sách hiện nay đối

với doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ”, tạp chí Thông tin Khoa học Chính

trị – Hành chính, Trung tâm Thông tin Khoa học, Học viện Chính trị – Hành

chính Quốc gia Hồ Chí Minh, số 1 năm 2013.

2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2002), Kết luận số

14/KL-TW ngày 26.7.2002 của Hội nghị lần thứ VI;

3. Bộ KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ (2008), Thông tư Liên tịch

số 06/2008/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 18.6.2008 hướng dẫn thực hiện

Nghị định số 80/NĐ-CP;

4. Bộ KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ (2012), Thông tư Liên tịch

số 17/2012/TTLT-BKHCN-BTC-BNV ngày 10.9.2012 sửa đổi, bổ sung Thông

tư 06;

5. Bộ KH&CN (2011), Thông tư 32/2011/TT-BKHCN ngày

15/11/2011 quy định về việc xác định tiêu chí dự án ứng dụng công nghệ cao,

dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao và thẩm định hồ sơ đề nghị cấp

giấy chứng nhận hoạt động ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp thành lập

mới từ dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ

cao;

6. Bộ KH&CN (2013), Tài liệu Hội nghị Phát triển doanh nghiệp

KH&CN, tháng 11.2013;

7. Chính phủ (2005), Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5.9.2005

quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập;

94

8. Chính phủ (2007), Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19.5.2007 về

doanh nghiệp KH&CN;

9. Cục sở hữu trí tuệ (2013), Báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí

tuệ 2013, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật, 2013;

10. Mai Ngọc Cường và cộng sự, (2003), Đề án phát triển doanh

nghiệp vừa và nhỏ trong các trường đại học Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp

Bộ;

11. Phạm Văn Diễn (2012), “Trao đổi về doanh nghiệp KH&CN”, tài

liệu tập huấn KH&CN tại Bình Dương ngày 23/10/2012, Trường quản lý

KH&CN, Bộ KH&CN, 2012;

12. Vũ Cao Đàm (2006), “Lại bàn về doanh nghiệp Khoa học và Công

nghệ tạp chí Hoạt động khoa học, Bộ Bộ Khoa học và Công nghệ, số tháng 10,

2006;

13. Trần Văn Đích (2014), “Khái niệm, con đường hình thành và phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, tài liệu hội nghị triển khai “Chương

trình khoa học và công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất

lượng sản phẩm và hàng hóa tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giai đoạn 2014 – 2020”,

Bà Rịa – Vũng Tàu, ngày 10/9/2014;

14. Nguyễn Đức Minh, (2014), Kinh nghiệm một số nước về tổ chức

và hoạt động của doanh nghiệp Khoa học và công nghệ, gợi suy cho Việt Nam,

Trường Đại học Hồng Bàng TP. Hồ Chí Minh, JSTPM Tập 3, Số 4, 2014;

15. Nguyễn Thị Minh Nga (2006), “Nghiên cứu khía cạnh pháp lý của

doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, Kỷ yếu kết quả nghiên cứu chiến lược và

chính sách khoa học và công nghệ năm 2005 – 2006, Viện chiến lược và chính

sách Khoa học và Công nghệ, Hà Nội, 2006;

95

16. Nguyễn Thị Minh Nga, Hoàng Văn Tuyên (2006), “Chính sách hỗ

trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ – kinh nghiệm các nước châu

Âu”, tạp chí nghiên cứu chính sách khoa học và công nghệ, Viện chiến lược và

chính sách Khoa học và Công nghệ, số 12 tháng 12 năm 2006;

17. Phạm Đức Nghiệm (2014), “Ba nhóm giải pháp đẩy mạnh phát

triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ”,

http://www.nhandan.com.vn/khoahoc/khoa-hoc/item/23299202-ba-nhom-giai-

phap-day-manh-phat-trien-doanh-nghiep-khoa-hoc-va-cong-nghe.html;

18. Nguyễn Văn Phú (2006), “Một vài kinh nghiệm rút ra từ nghiên

cứu thực tiễn doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ – mô hình tiêu biểu của

Khoa học và Công nghệ trực tiếp sản xuất”, tạp chí nghiên cứu chính sách Khoa

học và Công nghệ, Viện chiến lược và chính sách Khoa học và Công nghệ, số 13

tháng 12 năm 2006;

19. Nguyễn Quân (2006), “Doanh nghiệp Khoa học Công nghệ – một

lực lượng sản xuất mới”, tạp chí Hoạt động khoa học, Bộ Bộ Khoa học và Công

nghệ, số tháng 10, 2006;

20. Phạm Hồng Quất (2014), “Doanh nghiệp KH&CN: Cơ hội và thách

thức”, http://baodatviet.vn/khoa-hoc/doanh-nghiep-khampcn-co-hoi-va-thach-

thuc-3039541/;

21. Quốc hội (2013), Luật KH&CN số 29/2013/QH13 ngày 18.6.2013;

22. Quốc hội (2008), Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 ngày

13.11.2008;

23. Quốc hội (2006), Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày

29.6.2006;

24. Quốc hội (2005), Luật đầu tư số 59/2005/QH 11 ngày 29/11/2005;

96

25. Quyết định 49/2010/QĐ-TTg ngày 19 tháng 7 năm 2010 của Thủ

tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh mục công nghệ cao được ưu tiên phát

triển và doanh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển.

26. Bạch Tân Sinh (2016), Chuyển đổi việc tạo ra tri thức trong các

viên nghiên cứu và triển khai công nghệ công nghiệp ở Việt Nam, Viện Chiến

lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, JSTPM Tập 5, Số 4, 2016;

27. Bạch Tân Sinh (2006), “Nghiên cứu sự hình thành và phát triển

doanh nghiệp KH&CN và sự chuyển đổi một số tổ chức nghiên cứu và phát

triển ở Việt Nam sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp, Kỷ yếu kết quả

nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ năm 2004 – 2005,

Viện chiến lược và chính sách Khoa học và Công nghệ, Nhà xuất bản lao động,

Hà Nội, 2006;

28. Bạch Tân Sinh (2005), “Doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam: cơ sở

lý luận và đánh giá ban đầu”, tạp chí nghiên cứu chính sách khoa học và công

nghệ, Viện chiến lược và chính sách Khoa học và Công nghệ, số 10 tháng 6 năm

2005;

29. Sở KH & CN, (2013), Số liệu từ 65 doanh nghiệp KH&CN do các

Sở KH&CN báo cáo thống kê năm 2013;

30. STINFO số 4/2016, (2016), Phát triển tiềm lực KH&CN bằng

chuyển giao ứng dụng kết quả nghiên cứu, http://www.cesti.vn/mo-hinh-chuyen-

giao/phat-trien-tiem-luc-kh-cn-bang-chuyen-giao-ung-dung-ket-qua-nghien-

cuu/content/view/10294/682/308/1.html;

31. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày

22.5.2012 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp

97

KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách

nhiệm;

32. Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị định 96/2010/NĐ-CP ngày 20

tháng 9 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

115/2005/NĐ-CP ngày 5.9.2005 quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của

tổ chức KH&CN công lập và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19.5.2007 về

doanh nghiệp KH&CN;

33. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1244/QĐ-TTg ngày 25

tháng 7 năm 2011 về việc phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ

KH&CN chủ yếu giai đoạn 2011 – 2015;

34. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11

tháng 4 năm 2012 phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai

đoạn 2011 – 2020;

35. Hoàng Văn Tuyên (2005), Báo cáo tổng hợp đề tài cơ sở: “Nghiên

cứu các hình thức đầu tư tài chính cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ”,

Viện chiến lược và chính sách Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công

nghệ, 2005;

36. Viện chiến lược và chính sách bộ Khoa học & Công nghệ, (2018),

Liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp kinh nghiệm quốc tế và liên hệ

với Việt Nam, Viện chiến lược và chính sách, Bộ Khoa học & Công nghệ 2018,

http://congnghe.daisannews.com/?mod=news&site=detail&uId=204&n=lien-

ket-giua truong-dai-hoc-va-doanh-nghiep-kinh-nghiem-quoc-te-va-lien-he-voi-

viet-nam;

98

Tài liệu nước ngoài

37. Barbara Bigliardi, Francesco Galati, Chiara Verbano (2013),

“Evaluating Performance of University Spin – Off Companies: lessons from

Italy”, Journal of Technology Management & Innovation. 2013, Volum 8, Issue

2, ISSN:0718 – 2724 (http://www.jotmi.org), Universidad Alberto Hurtado,

Facultad de Economia y Negocios;

38. Inova; Presentation at the IP UniLink Project Meeting; Campinas,

2009].

39. Lundvall, B, editor, (1992) National system of innovation: Towards

a theory of innovation and interactive learning, London: Printer Publishers;

40. Masayuki Kondo (2004), “University spin – offs in Japan”; tech

monitor, Mar-Apr 2004;

41. ROBERTS, E.B. and Malone, D.E., (1996), Policies and structures

for spinning off new companies from research and development organizations.

R&D Management. 26(1), 17-48.

42. Tindara Abbate, Fabrizio Cesaroni, (2014), “Market Orientation

and academic spin-off firms”, Working Paper, ISSN 1989-8843, January,2014,

Universidad Carlos III de Madrid, 2014;

43. Thomas Astebro, Navid Bazzazian, Serguey Braguinsky (2011),

“Startup by Recent Univercity Graduates versus their Faculty- Implications for

University Entrepreneurship Policy”, available at:

http://www.andrew.cmu/user/sbrag/ABB.pdf;

99

44. Yvonne Bernardt, Richard Kerste, Joris Meijaard (2002), “ Spin-

off, Start –ups in the Netherlands”, Strategic Study B200106, ISBN: 90-371-

0854-7, Netherlands Ministry of Economic Affairs, Zoetermeer, May, 2002;

45. http://www.stanford.edu/home/stanford/facts/

100