ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ YẾN CHI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT THƠ
CHẾ LAN VIÊN QUA PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội-2015
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ YẾN CHI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT THƠ
CHẾ LAN VIÊN QUA PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Thành
Hà Nội-2015
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Bá Thành. Những nhận xét, đánh
giá của các tác giả khác mà tôi sử dụng trong luận văn đều đƣợc trích dẫn rõ
ràng cụ thể.
Nếu phát hiện có bất kì sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm.
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015 Học viên Nguyễn Thị Yến Chi
3
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Bá
Thành, giảng viên khoa Văn học, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, ngƣời đã hƣớng dẫn tôi tận tình, tâm huyết trong quá trình tôi thực hiện
luận văn. Sự chỉ dẫn của thầy đã mang lại cho tôi hệ thống phƣơng pháp, kiến
thức cũng nhƣ kỹ năng hết sức quý báu để tôi có thể hoàn thiện đề tài một
cách tốt nhất.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô trong khoa Văn học,
trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện thuận lợi nhất
để chúng tôi hoàn thành khóa học.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những ngƣời thân, gia đình và bạn
bè – những ngƣời đã hỗ trợ, tạo điều kiện để tôi có thể học tập đạt kết quả tốt
và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thị Yến Chi
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………
3
1. Lí do chọn đề tài…………………………………………….. 3
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………….. 3
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát…………... 9
4. Mục đích nghiên cứu………………………………………… 10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu…………………………………….. 10
6. Cấu trúc luận văn..................................................................... 11
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN TRONG
SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA CHẾ LAN VIÊN………….................. 12
1.1. Sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên……………………………. 12
1.1.1. Thơ ca……………………………………………………... 12
1.1.2. Văn xuôi dƣới dạng bút kí…………………………………. 17
1.1.3. Phê bình và tiểu luận……………………………………… 21
1.1.4. Quan hệ giữa phê bình, lý luận và sáng tác trong sự
nghiệp văn học của Chế Lan Viên.......................................................... 27
1.2. Giá trị của phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên……………... 35
1.2.1. Cổ vũ thúc đẩy phong trào sáng tác……………………… 35
1.2.2. Những nhận định khách quan và khoa học về thơ……….... 38
1.2.3. Nghệ thuật phê bình độc đáo…………………………….... 42
Tiểu kết chƣơng 1……………………………………………………... 51
Chƣơng 2: QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ NHÀ THƠ VÀ
NGHỀ LÀM THƠ.................................................................................. 52
2.1. Thi sĩ – thi nhân của thế giới siêu hình........................................... 52
2.2. Thi sĩ – Nhà thơ chiến sỹ…………………………………………. 55
2.2.1. Nhà thơ với vấn đề “Sống và viết” ……………………… 55
2.2.2. Nhà thơ là ngƣời nghệ sỹ giàu cá tính sáng tạo…………... 62
5
2.2.3. Nhà thơ – ngƣời nghệ sỹ có tƣ tƣởng lớn, tình cảm lớn…... 67
2.2.4. Làm thơ là một nghề............................................................. 77
Tiểu kết chƣơng 2……………………………………………………. 82
Chƣơng 3: QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ THƠ……… 84
3.1. Thơ là tiếng nói cất lên từ thế giới siêu thực trong tột cùng cảm
xúc........................................................................................................... 85
3.2. Thơ không chỉ là tiếng nói của cảm xúc mà còn là tiếng nói của lí 89
trí trƣớc hiện thực khách quan....................
3.2.1. Thơ là ngọn lửa cháy sáng từ hiện thực…………………... 89
3.2.2. Thơ là ngọn lửa soi sáng hiện thực...................................... 93
3.2.3. Thơ cần có ý, có tƣ tƣởng và trí tuệ...................................... 100
3.3. Thơ là tiếng nói của trí tƣởng tƣợng................................................ 106
3.4. Vấn đề hình thức trong thơ.............................................................. 108
Tiểu kết chƣơng 3................................................................................... 115
KẾT LUẬN........................................................................................... 116
6
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam thế kỷ XX ghi dấu những thành tựu đáng kể của
các tác gia lớn, trong đó không thể không nhắc tới Chế Lan Viên. Hoài Thanh
nói về ông với sự khâm phục sâu sắc: “Nhà thơ không thể lấy kích tấc thƣờng
mà đo đƣợc”[1, tr. 57]; Nguyễn Văn Hạnh gọi ông là “Nhà thơ của thế kỉ”;
Nguyễn Bá Thành viết về ông với tầm vóc “bậc thi bá” của dân tộc. Ông xứng
đáng ở vị trí tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Bên cạnh sự nghiệp
thi ca đồ sộ (14 tập thơ), Chế Lan Viên còn là một cây bút phê bình – tiểu
luận sắc sảo, với những suy tƣ đa chiều và giàu tính triết lý. 9 tập phê bình –
tiểu luận thực sự đã góp phần không nhỏ làm phong phú hơn giá trị nhiều mặt
của sự nghiệp văn học Chế Lan Viên.
1.2. Chế Lan Viên là nhà thơ luôn trăn trở với nghề, vì nghề, canh cánh
một tấm lòng tha thiết với nghề. Sự nghiệp sáng tác của ông đi qua nhiều
thăng trầm của lịch sử. Nhƣng ở thời điểm nào, dù sáng tác trong hoàn cảnh
nào, những suy tƣ về thơ trong ông vẫn có một vị trí lớn lao. Phát biểu quan
niệm nghệ thuật thơ qua thơ, với Chế Lan Viên là chƣa thể nói hết những ấp ủ
của lòng mình, ông đƣa những quan niệm ấy vào trong những trang phê bình
và tiểu luận sắc sảo, trí tuệ và tài hoa. Song từ trƣớc tới nay, mảng lý luận này
của Chế Lan Viên thực sự chƣa đƣợc giới nghiên cứu đi sâu. Một khối lƣợng
tác phẩm đồ sộ, những đóng góp lớn trong lĩnh vực phê bình, nghiên cứu, lí
luận nghệ thuật của Chế Lan Viên ở đây còn để ngỏ. Vì những lí do trên
chúng tôi lựa chọn đề tài: Quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên qua
phê bình và tiểu luận làm đối tƣợng nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về Chế Lan Viên với vai trò là tác gia lớn của nền văn học
thế kỉ XX, các bài viết và các công trình nghiên cứu tập trung khai thác: con
7
đƣờng thơ Chế Lan Viên (Các tập thơ của Chế Lan Viên và khuynh hƣớng
vận động của thơ ông); phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên; tìm hiểu,
phân tích, bình luận, đánh giá các tác phẩm đặc sắc ở tất cả các thể loại của
Chế Lan Viên; tìm hiểu con ngƣời nhà thơ qua kí ức bạn bè, đồng nghiệp và
ngƣời thân.
Về các tập tiểu luận và phê bình văn học của Chế Lan Viên, chúng tôi
nhận thấy, các nhà nghiên cứu đã quan tâm bình giá, nhận xét ngay từ những
ngày đầu mới xuất bản, song số lƣợng bài viết và công trình nghiên cứu còn
xuất hiện thƣa thớt và chƣa toàn diện. Hầu hết các bài viết chỉ tập trung đến
một vài tập tiểu luận, phê bình đơn lẻ. Giá trị đóng góp của mảng phê bình và
tiểu luận của Chế Lan Viên vì thế cũng chƣa đƣợc nhìn nhận ở tính hệ thống.
Đồng thời quan niệm nghệ thuật thơ trong những bài phê bình và tiểu luận
của Chế Lan Viên cũng chỉ mới đƣợc đề cập đến dƣới dạng những lời nhận
định, những ý kiến đánh giá, những nhận xét chung chung.
Năm 1963, trên tạp chí Văn học, số 6, Triêu Dƣơng viết Phê bình cuốn
Phê bình văn học của Chế Lan Viên. Phần đầu tiên trong bài viết của mình,
Triêu Dƣơng đề cập đến lý luận về nghề nghiệp của Chế Lan Viên. Đi qua
những suy nghĩ, kiến giải của Chế Lan Viên về vấn đề sống và viết, về cái sáo
trong thơ, về sự thành công của Huy Cận hay Những bƣớc đƣờng tƣ tƣởng
của Xuân Diệu...Triêu Dƣơng cho rằng đây là “Những đóng góp nghiêm túc
của một ngƣời đã sống lâu năm trong nghề, bây giờ nghĩ về nghề, cố gắng
truyền đạt lại cho lớp ngƣời đi sau những kinh nghiệm thiết thân rất đáng
hoan nghênh” [1, tr. 489].
Hồ Sĩ Vịnh trong Nghĩ về “Suy nghĩ và bình luận” của Chế Lan Viên
(12/1973) đã thấy, “Suy nghĩ và bình luận trong tập sách còn là những điều
nghĩ và bàn luận về thơ”[1, tr. 478]. Hồ Sĩ Vịnh khẳng định “Vấn đề lý tƣởng
thơ ca đặt ra trong Suy nghĩ và bình luận rất mới” [1, tr. 480]. Ông khâm
8
phục sâu sắc sức sống của ngòi bút phê bình trong Suy nghĩ và bình luận:
“Không phải chỉ ở đây, trong Suy nghĩ và bình luận, nhƣng nhất là ở đây, Chế
Lan Viên là nhà phê bình đã đƣa văn phê bình trở về với cuộc sống xanh tƣơi
sinh động” [1, tr. 481]. Đọc Nghĩ về Suy nghĩ và bình luận của Chế Lan Viên,
chúng tôi có đƣợc nhiều gợi ý từ tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong quá trình tìm hiểu
quan niệm nghệ thuật thơ qua phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong Giọng văn xuôi tiểu luận của
Chế Lan Viên (1/1/1982) đã nhận xét: “Chế Lan Viên của thơ – đó là chân
dung nhìn nghiêng, Chế Lan Viên của văn xuôi - ấy mới là chân dung nhìn
thẳng” [1, tr. 511]. Ông phát hiện ra “Giọng của một ngƣời có nghề đi truyền
nghề, dạy nghề, tâm sự và lý sự về nghề của mình”[1, tr. 513]. Và chúng tôi
nhận thấy, qua gợi ý của Lại Nguyên Ân, sự đổi giọng của một nhà thơ để nói
lên quan niệm nghệ thuật của mình qua phê bình và tiểu luận bằng một “cái
tôi biện lý”.
Vẻ đẹp của văn Chế Lan Viên đƣợc Nguyễn Xuân Nam viết năm 1995.
Đọc Chế Lan Viên nhiều lần, Nguyễn Xuân Nam đã phải dừng lại suy nghĩ:
“Làm sao một ngƣời từng viết những vần thơ siêu hình hƣ ảo trƣớc kia lại có
thể viết những trang văn lý lẽ sắc sảo và thắm thiết tình đời đến thế?”[1, tr.
508]. Ông trân trọng những trang văn của Chế Lan Viên trong thời chống Mỹ
và coi đó là những trang văn của một ngƣời “muốn cho thơ văn sát với cuộc
đời hơn, có ích hơn” [1, tr. 509]. Trong bài viết của mình, Nguyễn Xuân Nam
đã nhận diện những đổi thay tích cực về quan niệm thơ của Chế Lan Viên
song nhƣ chính tác giả đã nói ở phần kết luận: “Tôi cứ muốn xem bài viết này
nhƣ một phác thảo về những đóng góp của Chế Lan Viên về lý luận, phê bình
và bút ký” [1, tr. 510], nên ông mới chỉ dừng ở những nhận xét khái quát mà
chƣa đi sâu vào việc làm rõ từng khía cạnh của quan niệm nghệ thuật thơ Chế
Lan Viên qua những trang phê bình tiểu luận.
9
Trong Một phong cách phê bình trực cảm mới (1999) tác giả Hoàng
Nhân có những nhận xét tinh tế về phong cách phê bình của Chế Lan Viên và
cho rằng: “Chế Lan Viên đã tiếp tục một phong cách phê bình trực cảm từ
thời Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam nhƣng hòa nhập nhiều yếu tố tích cực
mới từ sau thắng lợi của cách mạng và bút pháp của một nhà thơ tài hoa của
Điêu tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa trên đá (1984)”...[1, tr.
518]. Đồng thời Hoàng Nhân cũng có những phát hiện sâu sắc về quan niệm
của Chế Lan Viên đối với nghệ thuật: “Chế Lan Viên yêu cầu cao về nghệ
thuật của tác phẩm văn chƣơng nhằm biểu hiện sinh động nội dung” [1, tr.
521] và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống : “Sự sống bao giờ cũng cao
hơn nghệ thuật, sự sống tự nó là nghệ thuật rất cao” [1, tr. 521].
Tha thiết với sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên, năm 2010, tác giả
Hà Minh Đức đã ra mắt bạn đọc cuốn “Chế Lan Viên ngƣời trồng hoa trên
đá”. Tập sách là những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện của tác giả về sự
nghiệp văn học của Chế Lan Viên trong đó có phê bình, tiểu luận. Trong bài
“Dòng văn xuôi sắc sảo và trí tuệ”, tác giả Hà Minh Đức đánh giá cao những
đóng góp của Chế Lan Viên trong việc đƣa lý luận vào thực tiễn sáng tác
cũng nhƣ cách Chế Lan Viên dùng thực tiễn để giải quyết những vấn đề của
sáng tác văn nghệ. Đi qua những bài viết, bài nói chuyện của Chế Lan Viên,
từ “Nói chuyện thơ văn”, “Vào nghề”, đến “Từ gác Khuê Văn đến quán
Trung Tân” Hà Minh Đức khẳng định: “Chế Lan Viên thông minh, trí tuệ và
linh hoạt trong đối thoại. Bài viết, bài nói của anh bao giờ cũng để lại nhiều ý
tƣởng sắc sảo, gây ấn tƣợng”[15, tr. 180].
Bên cạnh những bài viết của các nhà nghiên cứu về phê bình và tiểu
luận của Chế Lan Viên, chúng tôi tiến hành khảo sát một số những công trình
có liên quan đến việc nghiên cứu, tìm tòi, khám phá các phƣơng diện trong
quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên.
10
Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại,
sáng tác của ông đi qua những chặng đƣờng đầy biến động của lịch sử, vì thế,
sự nghiệp sáng tác ấy không đơn giản, một chiều. Quan niệm thơ vì thế cũng
đa dạng, phong phú, phức tạp và chia làm nhiều chặng khác nhau với quá
trình vận động, biến đổi không ngừng. Những bài viết, những công trình
nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên, đề cập đến quan niệm nghệ thuật thơ Chế
Lan Viên thực sự là một dòng chảy mạnh mẽ, liên tục và chƣa bao giờ đứt
đoạn kể từ Điêu tàn cho đến ngày hôm nay. Trong đó chúng tôi chú ý đến
những công trình lớn: Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tƣởng (1999),
chuyên luận của Nguyễn Bá Thành; Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên
(2004), chuyên luận của Hồ Thế Hà và Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (2006),
chuyên luận của Đoàn Trọng Huy.
Nguyễn Bá Thành và chuyên luận Thơ Chế Lan Viên với phong cách
suy tƣởng đã đem đến những nhận định sâu sắc về nghệ thuật suy tƣởng và
suy tƣởng trong thơ Chế Lan Viên. Khẳng định suy tƣởng là một phƣơng thức
biểu hiện của tƣ duy thơ, trong quá trình khai thác chất suy tƣởng trong thơ
Chế Lan Viên qua các thời kỳ, tác giả đã nhận ra sự “phong phú vô biên” của
một hồn thơ tự do, phóng túng. Tìm hiểu những quy luật vận động của toàn
bộ tƣ tƣởng và tình cảm của nhà thơ thể hiện qua tác phẩm, Nguyễn Bá Thành
đã chỉ cho ngƣời đọc thấy, thơ Chế Lan Viên “có một số đã không đi theo con
đƣờng mòn mà thơ ca xƣa nay vẫn đi, tức là con đƣờng: “từ trái tim đi đến
trái tim”. Thơ ông đi theo con đƣờng trí tuệ để đến với trái tim”[46, tr. 198].
Con đƣờng ấy đã là một con đƣờng thơ rất riêng của một quan niệm nghệ
thuật thơ độc đáo đã đƣợc định hình trong suốt hành trình thơ kéo dài hơn nửa
thế kỉ của thơ Chế Lan Viên.
Nhà nghiên cứu Hồ Thế Hà, khi khám phá “Thế giới thơ rộng rinh, kỳ
ảo và nhiều biến hóa của Chế Lan Viên” đã dành cả chƣơng 1 trong cuốn
11
chuyên luận của mình để làm sáng rõ quan niệm nghệ thuật của Chế Lan
Viên. Căn cứ ở thơ viết về nghề và căn cứ ở chất thơ, ở phƣơng thức thể hiện,
ở mối quan hệ giữa chủ thể - khách thể, Hồ Thế Hà trình bày những quan
niệm đặc sắc về nghệ thuật của Chế Lan Viên ở ba mốc thời kỳ đặc biệt: Điêu
tàn, từ Vàng sao hƣ vô đến sao vàng cách mạng và Những lá thơm hái lúc về
già. Đồng thời chuyên luận cũng trình bày khá cụ thể quan niệm về hình thức
nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên. Chế Lan Viên là nhà thơ suy nghĩ nhiều và
sâu sắc về những khát vọng và giá trị vĩnh cửu của cuộc sống cách mạng, của
Tổ quốc và sứ mệnh của thi ca. Nhận thức về quan niệm thơ của Chế Lan
Viên, Hồ Thế Hà khẳng định: “Từ những quan niệm về thơ thể hiện ở nội
dung và hình thức đƣợc chứng nhận qua một đời thơ đã đƣa địa vị Chế Lan
Viên lên tầm một trong rất ít những nhà thơ hiện đại Việt Nam xuất sắc”[16,
tr. 64].
Trong Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, tác giả Đoàn Trọng Huy
đã nhận định: Chế Lan Viên là ngƣời nghệ sỹ sáng tác có quan niệm rõ ràng
về nghệ thuật. Ông cho rằng, không ai viết nhiều thơ về thơ nhƣ Chế Lan
Viên, cũng ít ngƣời viết phê bình, tiểu luận về thơ nhiều nhƣ vậy. Thƣờng
xuyên, liên tục trong cả đời thơ, Chế Lan Viên phát biểu bằng nhiều cách, ở
trong nƣớc và trên diễn đàn quốc tế. Tìm hiểu thơ viết về thơ của Chế Lan
Viên, tác giả phát hiện và trình bày về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan
Viên nổi bật ở ba phƣơng diện: Hình thức thơ là vũ khí; lấy đá mới tạc nên
thần mới và nền thơ chung cần có rất nhiều cá tính riêng.
Nhìn chung cả ba tác giả đã dành sự quan tâm đặc biệt đến quan niệm
nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên, có cái nhìn khái quát và đƣa ra những nhận
định sâu sắc.
12
Điểm lại lịch sử nghiên cứu về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan
Viên và quan niệm thơ qua phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên, chúng tôi
có những nhận xét nhƣ sau:
- Các nhà phê bình nghiên cứu đã có sự nhìn nhận đánh giá sâu sắc và hệ
thống về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên qua thực tế sáng tác của
ông ở những thời kỳ lịch sử khác nhau.
- Các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao giá trị của các tập phê bình
tiểu luận văn học của Chế Lan Viên, đồng thời có những luận điểm quan
trọng, khái quát, những phát hiện mới mẻ và sâu sắc về quan niệm nghệ thuật
thơ qua phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên.
- Tuy nhiên, các bài viết chỉ đi vào một khía cạnh nào đó hay dừng lại ở một tập
tiểu luận, phê bình văn học cụ thể mà chƣa đi sâu tìm hiểu một cách đầy đủ, có hệ
thống về toàn bộ hoạt động phê bình, lý luận văn học của Chế Lan Viên cũng nhƣ
hệ thống quan niệm nghệ thuật thơ đƣợc phát biểu qua những trang phê bình
và tiểu luận của Chế Lan Viên.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát
3.1. Với đề tài Quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên qua phê bình
và tiểu luận, luận văn tập trung khảo sát 9 tập tiểu luận - phê bình văn học
của tác giả nhƣ sau:
- Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nxb Thép mới, Hà Nội, 1952.
- Nói chuyện thơ văn (Chàng Văn), Nxb Văn học, Hà Nội, 1960.
- Vào nghề (Chàng Văn), Nxb Văn học, Hà Nội, 1962.
- Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội, 1962.
- Suy nghĩ và bình luận, Nxb Văn học, Hà Nội, 1971.
- Bay theo đƣờng dân tộc đang bay, Nxb Văn nghệ giải phóng, 1976.
- Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981.
- Nàng tiên trên mặt đất, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1985.
13
- Ngoại vi thơ, Nxb Thuận Hóa, Huế,1987.
3.2. Bên cạnh đó, luận văn còn khảo sát các bài thơ nghĩ về nghề,
về thơ, văn xuôi, các bài viết đăng báo...của Chế Lan Viên.
4. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi đặt ra hai mục đích chính khi tiến hành nghiên cứu đề tài
này:
4.1. Tìm hiểu vị trí mảng phê bình, lý luận trong sự nghiệp văn học của
Chế Lan Viên, từ đó khẳng định những đóng góp toàn diện của Chế Lan Viên
đối với sự phát triển của nền văn học dân tộc.
4.2. Tìm hiểu những đóng góp về quan niệm nghệ thuật thơ qua phê
bình và tiểu luận của Chế Lan Viên.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phƣơng pháp
chủ yếu sau:
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu xã hội học lịch sử:
Đặt quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên thể hiện trong các tập
phê bình và tiểu luận trong hoàn cảnh lịch sử, xã hội để tìm hiểu, phân tích và
lý giải.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu tiểu sử
Chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu cuộc sống và hoạt động xã hội của tác giả
nhƣ là một yếu tố quan trọng chi phối quan niệm nghệ thuật cũng nhƣ sáng
tác, lý luận của Chế Lan Viên.
5.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp
Trong quá trình triển khai luận văn, chúng tôi vận dụng phƣơng pháp
phân tích để tìm hiểu sâu sắc và sáng tỏ những quan niệm nghệ thuật thơ mà
Chế Lan Viên gửi gắm trong mỗi trang phê bình và tiểu luận. Từ đó tổng hợp
14
khái quát để có đƣợc những nhận định, ý kiến đánh giá làm sáng lên những
nét đặc trƣng, tiêu biểu trong quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên.
5.4. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
So sánh đối chiếu quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên thể hiện trong
phê bình tiểu luận và thực tế sáng tác của chính ông; So sánh đối chiếu quan
niệm nghệ thuật thơ đƣợc Chế Lan Viên trình bày trong các giai đoạn trƣớc
và sau Cách mạng,
để thấy điểm thống nhất và những mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn qua
các thời kỳ văn học.
So sánh đối chiếu quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên và các
tác giả khác cùng thời để thấy những nét độc đáo và riêng biệt.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, tƣơng ứng với các
mục đích nghiên cứu đã nêu trên, luận văn đƣợc triển khai qua ba chƣơng :
Chƣơng 1: Tổng quan về phê bình và tiểu luận trong sự nghiệp văn
học của Chế Lan Viên
Chƣơng 2: Quan niệm của Chế Lan Viên về nhà thơ và nghề làm
thơ
Chƣơng 3: Quan niệm của Chế Lan Viên về thơ
15
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN TRONG SỰ NGHIỆP
VĂN HỌC CỦA CHẾ LAN VIÊN
1.1. Sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên
1.1.1. Thơ ca
Suốt hành trình thơ của mình, bằng tài năng và bản lĩnh của ngƣời nghệ
sỹ hết lòng vì nghệ thuật, Chế Lan Viên thực sự đã chinh phục đƣợc những
đỉnh cao của các thời kỳ thi ca. Điêu tàn xuất hiện giữa đồng bằng Thơ mới
(1932-1945) “sừng sững nhƣ một tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi bí mật”
(Hoài Thanh). Cách mạng đến, hƣớng ngƣời thi sĩ đi từ “thung lũng đau
thƣơng đến cánh đồng vui”, tiếng thơ cô đơn lạc lõng một thời nay cất cao
thành lời thức tỉnh, “không chỉ ơ hời mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan”
(Chế Lan Viên). Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thƣờng, chim báo bão thực sự
là Những bài thơ đánh giặc, đã làm rạng rỡ cho nền văn học chiến đấu chống
ngoại xâm. Cho đến khi Chế Lan Viên bƣớc về phía sông Mê bến Lú, ngƣời
đọc của thời kì đổi mới lại một lần nữa sửng sốt khi ba tập Di cảo thơ đƣợc
xuất bản. Có thể khẳng định, Chế Lan Viên, đã sống hết mình với lịch sử, dân
tộc và thời đại. Ông xứng đáng là nhà thơ tiêu biểu của thế kỉ XX.
Mở đầu cho sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên là tập Điêu tàn (1937).
Với 37 bài thơ, ngƣời thi sĩ 17 tuổi đã khiến dƣ luận đặc biệt chú ý bởi một
tâm hồn nghệ sĩ thiên phú, bởi nỗi cô đơn đầy ám ảnh và bế tắc trong thơ và
đặc biệt là thế giới nghệ thuật bí ẩn với bóng tối, yêu ma làm rợn ngợp và
hoang mang ngƣời đọc. Điêu tàn là âm thanh của chết chóc, khóc than.
Những tháp Chàm bí mật, câm nín mấy trăm năm chợt nấc lên uất nghẹn.
Điêu tàn là bi kịch của đất nƣớc Chiêm Thành đã bị vùi sâu vào quá khứ.
Nhƣng Điêu tàn còn là bi kịch tình thần của một nhà thơ, của một thế hệ các
16
nhà thơ, gửi gắm trong đó bi kịch mất mát đau thƣơng của dân tộc. Tiếng thơ
ấy vì thế đã khiến biết bao ngƣời đã phải lắng tai nghe.
Cùng những biến thiên vĩ đại của lịch sử dân tộc sau Cách mạng tháng
Tám, vƣợt qua “thung lũng đau thƣơng”, thơ Chế Lan Viên bắt đầu một hành
trình mới. Gửi các anh gồm 14 bài thơ, in năm 1955, ra đời sau 10 năm nhà
thơ Chế Lan Viên gắn bó với Cách mạng. Mặc dù còn nhiều hạn chế song tập
thơ này có ý nghĩa nhƣ một sự nhận đƣờng. Đó là những xót xa đau đớn của
nhà thơ khi nghĩ về mẹ đang bị cầm chân nơi đất giặc, “Bốn phía là gƣơm bốn
bề là sắt”, nghĩ về nhân dân trong cảnh “Ngút trời đồng bốc lửa”. Đó là những
xúc động mãnh liệt trƣớc những hi sinh cao đẹp của ngƣời chiến sỹ nơi “Bốn
bề núi dựng/ Núi hiên ngang bốn bề vách đứng/ Canh mồ cho anh”. Đó là
ngọn lửa căm thù bùng cháy khi nhà thơ ghi khắc nỗi đau lớn của quê hƣơng
để “Nhớ lấy để trả thù”. Có thể nói, sống chân thành, sâu sắc với hiện thực
đời sống kháng chiến chống Pháp của dân tộc, Chế Lan Viên đã đƣa thơ ông
thoát khỏi dĩ vãng buồn thƣơng để trở về với cuộc đời hiện tại trong niềm tin
yêu.
“Khi đã có hƣớng rồi”, Chế Lan Viên nhanh chóng khẳng định mình
nhƣ một thi sĩ tiên phong. Năm 1960, mừng Đảng ta 30 tuổi, Chế Lan Viên
xuất bản tập Ánh sáng và phù sa với 69 bài.
Sự thật của cuộc sống và chiến đấu lớn của nhân dân đã in bóng trong
từng trang thơ của Chế Lan Viên sống động, chân thực. Tập thơ phản ánh,
ngợi ca cuộc sống mới đang đổi thay trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, góp
thêm tiếng nói đấu tranh cùng miền Nam trong lửa đạn. Tiếng nói vƣợt lên
“nỗi đau” cũ để tiếp nhận “niềm vui” mới đƣợc cái tôi trữ tình Chế Lan Viên
thể hiện sâu sắc, có chiều sâu của một cái tôi giàu suy tƣ, chiêm nghiệm. Chế
Lan Viên đã trở thành ngƣời thi sĩ ca hát vẻ đẹp muôn màu sắc của thời đại
17
mới, say sƣa, mê mải lƣợn trăm vòng trên tổ quốc thân yêu để thu nhận
“Ngàn núi trăm sông diễm lệ” vào hồn thơ đang căng tràn sức sống của mình.
Nối tiếp Ánh sáng và phù sa, những tập thơ Hoa ngày thƣờng, chim
báo bão, Những bài thơ đánh giặc và Đối thoại mới lần lƣợt đƣợc ra đời trong
những năm kháng chiến chống Mỹ hào hùng và quyết liệt.
Hoa ngày thƣờng, chim báo bão xuất bản năm 1967, gồm 49 bài thơ.
Chùm thơ Hoa ngày thƣờng giản dị, gần gũi và giàu chất sống. Với những Bé
Thắm đàn, Nhớ em nơi huyện nhỏ, Con đi sơ tán xa…ngƣời đọc gặp một Chế
Lan Viên cởi mở với những đề tài riêng tƣ mà đời thƣờng, mộc mạc. Những
lời ru tha thiết nhƣ Con cò, giọng điệu bi bô khi Con tập nói…là cuộc sống, là
chất sống ngời lên vƣợt qua sự hủy diệt khốc liệt của chiến tranh. Tập thơ
không dừng ở đó, bên cạnh Hoa ngày thƣờng là cánh Chim báo bão. Thơ Chế
Lan Viên đã tiến sát hơn tới những tuyến đầu của cuộc chiến đấu của dân tộc
và thời đại. Trong tập thơ có nhiều bài thơ chống Mỹ rất trữ tình mà cũng rất
quyết liệt nhƣ: Cái hầm chông giản dị, Ở đâu? Ở đâu? Ở đất anh hùng, Con
mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa…
Xuất bản năm 1972, giữa những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Những bài thơ đánh giặc thực sự đã tham gia
trực tiếp vào cuộc đấu tranh của dân tộc. Phác thảo cho một trận đánh, một
bài thơ diệt Mỹ đã vừa vạch trần âm mƣu thâm độc của đế quốc Mỹ vừa phản
ánh chân thực khí thế hào hùng của quân và dân ta trong quá trình chuẩn bị
chiến dịch Khe Sanh – Đƣờng Chín – Nam Lào. Với “Phản diễn ca” hay
“phản diện ca” về học thuyết Nichxơn, Chế Lan Viên đã kiên quyết phản bác
lại những luận điệu sảo trả của Nichxơn trong những cuộc viễn du thƣơng
lƣợng của chúng. Thời sự hè 72 – Bình luận đƣợc Chế Lan Viên viết khi cả
nƣớc đang sôi sục căm thù vì những vụ ném bom B.52 xuống Hải Phòng của
đế quốc Mỹ. Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên không chỉ bám sát
18
những sự kiện nóng hổi mang tính thời đại mà còn có những lời giải thấu đáo
trƣớc những vấn đề bức thiết trong đời sống chính trị, báo trƣớc viễn cảnh
phát triển của tình hình, làm tăng thêm lòng tin tƣởng vào thắng lợi của nhân
dân.
Tiếp nối những âm vang nung đốt trong Những bài thơ đánh giặc, cuối
năm 1973 Chế Lan Viên xuất bản tập thơ Đối thoại mới. 68 bài thơ trong tập
thơ này cho thấy một sức viết dồi dào và sự thúc bách của thời đại. Bên cạnh
mảng thơ chống Mỹ gồm những bài thơ dài, có dung lƣợng lớn và chiếm vị trí
quan trọng, trong tập thơ còn xen lẫn những bài thơ ngắn và những chùm tứ
tuyệt dịu nhẹ, êm đềm. Cả tập thơ vì thế có đƣợc sự cân bằng thời sự và cuộc
sống, giữa trí và tình.
Tự nguyện đem thơ phục vụ lợi ích cách mạng, Chế Lan Viên vì thế
cũng đã dứt khoát lựa chọn sứ mệnh mới cho thơ: “Thơ cần có ích cho cuộc
đời, cho nhân dân”. Với quan niệm ấy, thơ Chế Lan Viên đã đi qua hai cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc và thực sự trở thành con đẻ của thời đại,
của Tổ quốc, của Nhân dân.
Cũng nhƣ bao nhà thơ khác, Chế Lan Viên đã viết về Bác Hồ với niềm
cảm hứng mãnh liệt. Hoa trƣớc lăng ngƣời (1976) với 14 bài thơ làm rải rác
trong khoảng hai mƣơi năm là tấm lòng của nhà thơ đối với vị cha già kính
yêu của dân tộc. Bằng tất cả sự kính trọng, yêu thƣơng, biết ơn vô hạn, thơ
Chế Lan Viên đã đem đến cho ngƣời đọc một bức chân dung bằng thơ giản dị,
thanh cao, thiêng liêng, vĩ đại về Ngƣời.
Sau năm 1975, thơ Chế Lan Viên kết tinh trong những tập thơ Hái theo
mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986).
Khép lại một giai đoạn thơ kháng chiến, Ngày chiến thắng và Thơ bổ
sung trong tập Hái theo mùa đƣợc Chế Lan Viên viết trong những ngày náo
nức của tháng 5 năm 1975, có ý nghĩa nhƣ khúc ca khải hoàn trong ngày đất
19
nƣớc trọn niềm vui. Bên cạnh đó Hái theo mùa còn là những xúc cảm đời
thƣờng với hơn 40 bài tứ tuyệt giàu sức gợi. 15 bài thơ trong tập Hoa trên đá
là một chất thơ mới của nhà thơ đang tìm hƣớng đi mới cho thơ, đang muốn
vƣợt lên chính mình để làm mới thơ. Qua giông bão chiến tranh, sau những
bài thơ hùng tráng, giờ đây hồn thơ Chế Lan Viên chín lại một lần nữa trong
những khúc trữ tình không còn trẻ trung nhƣng sâu lắng, tha thiết, thấm tận
đáy lòng.
Ở các tập thơ Hoa trƣớc lăng Ngƣời, Hái theo mùa và một phần Hoa
trên đá, Ta gửi cho mình, thơ Chế Lan Viên vẫn là tiếng kèn xung trận, tiếng
hát cất cao ngợi ca, cổ vũ nhân dân. Nhƣng càng về sau đặc biệt trong ba tập
Di cảo (xuất hiện sau khi Chế Lan Viên qua đời) thơ Chế Lan Viên lắng lại,
đằm sâu trong suy tƣởng, thơ lặn vào trong, viết cho riêng mình.
Di cảo thơ của Chế Lan Viên do nhà văn Vũ Thị Thƣờng – ngƣời bạn
đời của ông, tuyển chọn và giới thiệu tới bạn đọc. Ba tập Di cảo thơ với 567
bài thơ (bao gồm cả những bài thơ hoàn chỉnh và những bài còn ở dạng phác
thảo) là những dằn vặt, mâu thuẫn trong nội tâm Chế Lan Viên, là sự “sám
hối”, “phản tỉnh” xuất hiện đâu đó, là những xao xác đến nao lòng từ bề ngoài
an nhiên bình đạm…Chỉ với 3 tập thơ mà “Nghìn trò cƣời khóc”. Ngƣời đọc
thấy một Chế Lan Viên vừa quen vừa lạ, tƣởng đã hiểu ông và thơ ông đến
ngọn ngành, lại tƣởng chừng nhƣ chƣa hiểu. Di cảo thơ chính là ba mặt còn
lại của“Tháp Bayon bốn mặt” trong những suy tƣởng về thơ và đời của Chế
Lan Viên.
Đi qua các chặng đƣờng thơ Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy: thơ
Chế Lan Viên có một diện mạo phong phú và phức tạp. Ông là nhà thơ bản
lĩnh, tha thiết với thời đại, mê mải tìm tòi và hầu nhƣ không bao giờ bằng
lòng với những gì đã đạt đƣợc. Ngƣời đọc tìm thấy trong thơ Chế Lan Viên
tiếng nói của một cái tôi trữ tình đa giọng điệu. Khi đau đớn bi ai, khi hào
20
hùng quyết liệt, khi thủ thỉ tâm tình, lúc ngọt ngào tha thiết…Đó là tiếng nói
của một hồn thơ luôn tìm đƣờng mở lối cho thi ca hiện đại, một hồn thơ luôn
muốn lật xoay đời sống, xã hội và cả tâm hồn mình để khám phá đến tận cùng
mọi chiều kích. Tất cả những điều ấy làm nên phẩm chất tiểu biểu của thơ
Chế Lan Viên: phẩm chất triết học. Tƣ duy triết học tạo cho thơ Chế Lan Viên
một màu sắc trí tuệ, một màu sắc nhận thức luận sắc nét. Thơ Chế Lan Viên
chú trọng khai thác những yếu tố nghịch lý, những mặt đối lập rồi liên kết
chúng lại bằng một khả năng liên tƣởng đa dạng và linh hoạt. Trí tuệ nhƣng
không khô khan, trí tuệ nhƣng vẫn rất đỗi trữ tình. Mạch nguồn sống của thi
ca nói chung là sự xúc động chân thành của cảm xúc. Và thơ Chế Lan Viên
cũng không nằm ngoài mạch nguồn chung ấy.
Đọc thơ của Chế Lan Viên, ngƣời đọc cảm nhận sâu sắc về một nhà thơ
với ý thức trách nhiệm lớn lao. Trách nhiệm với thơ, trách nhiệm với đời,
trách nhiệm với lịch sử và thời đại. Sáng tạo nghệ thuật bằng cả sức lực và trí
tuệ, thơ Chế Lan Viên thực sự là “Trái tim anh móc lại - Cho đời”, để anh
đƣợc tồn tại mãi giữa cõi đời, “Nhƣ ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên” (Từ thế
chi ca).
1.1.2. Văn xuôi dưới dạng bút kí
Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân trong bài viết Giọng văn xuôi
tiểu luận Chế Lan Viên đã khẳng định: “Có một Chế Lan Viên – văn xuôi –
bên cạnh một Chế Lan Viên – thơ” [1, tr. 511]. Cùng với thơ, văn xuôi bút kí
Chế Lan Viên đã ghi lại sâu sắc sự vận động trong tƣ tƣởng của nhà thơ suốt
hơn 50 năm cầm bút; trải qua biết bao thăng trầm, biến động của lịch sử để đi
từ sầu bi huyền bí đến nơi có “Ánh sáng và phù sa” chan hòa, để cất cao tiếng
nói ngợi ca, cổ vũ, khích lệ, động viên. Cùng với thơ, văn xuôi, bút kí đã góp
thêm những trang văn làm phong phú thêm sự nghiệp văn chƣơng vốn rất đa
dạng và giàu sức hấp dẫn của Chế Lan Viên.
21
Khi Cách mạng tháng Tám diễn ra, Chế Lan Viên vừa tròn hai mƣơi
lăm tuổi, nhƣng đã cảm thấy già đi vì mang một gia tài đồ sộ của hàng triệu
nỗi buồn. Tác giả đã có lúc tự thú nhận: “Nỗi buồn ghê gớm nhất, những hƣ
vô sâu thẳm nhất để lại cho tôi, chính do các nền tôn giáo”[85, tr. 612]. Tập
Vàng sao ra mắt bạn đọc gồm các sáng tác của Chế Lan Viên từ 1937 đến
1942. Xuyên suốt Lệ (Tựa chung cho Vàng sao và Gai lửa), Chiều tin tƣởng, Đêm giao thừa, Tạp bút, Trốn lửa, Bỏ trƣờng mà đi, Sõi tối1, Vàng sao…là
một Chế Lan Viên với tiếng nói thiết tha ca tụng cái đẹp linh thiêng, một Chế
Lan Viên tìm đến cúi mình trƣớc những tƣợng trƣng tôn giáo. “Thích Ca!
Jésus! Khổng Khâu! Lão Tử! Tôi đều thành tâm cúi đầu trƣớc uy linh huyền
diệu của các ngài”[84, tr. 20]. Trong Vàng sao có sự đan dệt của triết học và
thi ca, của không gian vô tận và thời gian vô cùng, tự nhiên và con nguời, cái
khoảnh khắc và cái vĩnh cửu… Có thể nói, với Vàng sao Chế Lan Viên đã đạt
đến sự tổng hợp và tổng hoà của triết học và thi ca: “Ta nhìn ra. Muôn sao
thôi độc dữ. Không tách riêng ra tƣ tƣởng để nói triết học giữa trời. Chúng ta
đã lẫn vào thi ca, trong chăn gối dâng lên từ cảnh vật”[84, tr. 63].
Cùng với Vàng sao, Gai lửa đƣợc viết ngay năm 1942 nhƣng chỉ đƣợc
ra mắt bạn đọc sau khi Chế Lan Viên đã qua đời. Chìm trong Điêu tàn và
Vàng sao, Chế Lan Viên nhận thức rõ “Sống quen trong bóng tối đi rồi làm
nhƣ bây giờ ngƣời ta đã đâm ra sợ lửa”[84, tr. 13]. Vì thế ông muốn “Đốt vài
nhành Gai, nhen một ngọn Lửa, chúng ta thành tâm khêu lên hình bóng của
cuộc đời”[84, tr. 13]. Hình bóng của cuộc đời ở đây chủ yếu đƣợc cảm nhận
qua hình bóng của đấng sinh thành. Trong những tác phẩm Mẹ sầu bi, Muối
tối, Vinh, ngày 18 – 3 năm kháng chiến, mẹ nhƣ một nguồn cứu rỗi, một niềm
an ủi, một lƣợng từ bi. “Nhƣng rồi một ngày kia…Đột nhiên mà chàng lẻ loi
1 Không rõ ý nghĩa, nhà văn Vũ Thị Thƣờng khi làm tuyển tập đã tỏ ý tiếc nuối khi không hỏi tác giả để hiểu ý nghĩa của tiêu đề bài này.
22
giữa một sự thù nghịch bao vây. Đột nhiên mà hình ảnh mẹ buồn hiện ra
trƣớc mắt, uẩn khúc đằng sau một trời thƣơng mến ngọt ngào […] và một
buổi sáng khác, đang lầm lũi trong gai, trong cỏ, kiếm kiếm tìm tìm, Phan
Thơ bỗng ngạc nhiên thấy Mẹ bên mình!...Không hỏi han duyên cớ, Phan
Thơ ngả vào lòng Mẹ…Nƣớc thiên đàng đã đến gần”[86, tr. 773]. Chàng
Phan Thơ ấy, chàng Phan Thơ có thực ngoài đời và chàng Phan Thơ trong
tâm tƣởng, cô đơn, hoảng loạn, bế tắc trƣớc một câu hỏi lớn đầy hứng khởi và
cũng đầy đau đớn: “Tôi là một Ngƣời có thể đƣợc yêu không?”[86, tr. 777].
Vàng sao và Gai lửa đã cùng Điêu tàn đánh dấu một giai đoạn sáng tác
đặc biệt của Chế Lan Viên – giai đoạn có thể xem nhƣ cả cuộc sống và sáng
tác đều thuộc về thế giới của những hƣ vô và siêu hình.
Đến với Cách mạng, Chế Lan Viên dứt khoát từ bỏ những hƣ vô, siêu
hình, đem ngòi bút và chính cuộc đời mình phụng sự nền văn nghệ kháng
chiến. Từ chiến trƣờng đầy ác liệt, từ những nỗi đau chiến tranh chất chứa đầy
máu và cả sự hy sinh, những áng văn bất hủ đã đƣợc viết lên. Thăm Trung
Quốc, Những ngày nổi giận, Giờ của số Thành đƣợc viết từ năm 1963 đến
năm 1976 đã phản ánh thật rõ ràng và đậm nét ý chí quyết tâm đánh giặc
ngoại xâm của dân tộc ta, lòng căm thù giặc cũng nhƣ những phẩm chất anh
hùng của ngƣời chiến sỹ trong công cuộc đấu tranh để gìn giữ non sông của
ông cha ngàn đời.
Thăm Trung Quốc, tập bút kí xuất bản năm 1963 gồm 6 bài viết với
nhiều cảm xúc. Trƣớc hết là niềm vui hân hoan của tác giả khi tận mắt chứng
kiến sự đổi thay của đất nƣớc bạn trong cuộc sống mới tƣơi đẹp (Cảnh xƣa
trong đời mới , Về thăm những nơi chiến đấu cũ). Tình hữu nghị bền vững
giữa hai dân tộc đƣợc tác giả thể hiện sâu sắc trong Sức mạnh và tình yêu.
Thầy giáo Lƣu Thiếu Kỳ ở mỏ An Nguyên và Gặp đồng chí Hồng Quân ở tỉnh
Cƣơng Sơn là tấm lòng cảm phục của Chế Lan Viên đối với tinh thần đấu
23
tranh cách mạng quyết liệt của nhân dân Trung Quốc. Lời văn giản dị, những
ghi chép tỉ mỉ, chi tiết và đặc biệt là cảm xúc chân thành, mãnh liệt, sâu sa đã
khiến cho tập tùy bút có đƣợc nhiều hấp dẫn từ phía bạn đọc.
Những ngày nổi giận, tập bút ký chống Mỹ đƣợc Chế Lan Viên viết
nên từ chính sức nóng của tình hình chính trị mang đậm tính thời sự những
năm từ 1962 đến 1966. Với 11 bài viết, Chế Lan Viên đã xây dựng sống động
hai chiến tuyến: “chúng ta” và “chúng nó”. “Chúng nó” là đế quốc Mỹ cuồng
chiến. Viết về “chúng nó”, ngòi bút Chế Lan Viên đanh thép, dữ dội vạch trần
những âm mƣu xâm chiếm thâm độc, những luận điệu sảo trá, những tội ác dã
man chúng đã gieo rắc trên đất nƣớc Việt Nam. Viết về “chúng ta”, giọng
điệu trong bút ký mềm mại hơn khi ông bộc lộ niềm tin yêu tha thiết đối với
những đổi thay của Miền Bắc xã hội Chủ nghĩa; khi ông ngợi ca cuộc chiến
đấu anh dũng của nhân dân ta (Hoa lửa miền Nam, Ý nghĩa dọc đƣờng, Viên
kim cƣơng đầu giới tuyến…); giọng điệu bút ký sôi sục căm thù, thiết tha yêu
thƣơng khi ông viết Những ngày nổi giận; giọng điệu bút ký hân hoan, tƣơi
vui rạng rỡ khi ông viết Mùa xuân ủng hộ ta.
Hoàn cảnh chiến tranh, hiện thực chiến tranh vừa rất đỗi hào hùng, vừa
rất đỗi bi tráng tự bản thân nó đã tạo nên những bản anh hùng ca đầy khí thế.
Trong lúc này, giặc Mỹ điên cuồng lồng lộn bắn phá. Vậy mà khi đọc Những
ngày nổi giận của Chế Lan Viên, ngƣời đọc lại có cảm giác bình tĩnh thƣ thái
lạ lùng. Đó là cảm giác của những con ngƣời đang sẵn một niềm tin tƣởng
tuyệt đối: Chúng ta tất yếu sẽ chiến thắng.
Giờ của số Thành (1970-1976), là những trang bút ký đƣợc viết từ tâm
thế của con ngƣời nhìn thấy trƣớc chiến thắng và thực sự đƣợc hoà mình với
thắng lợi trọn vẹn của dân tộc. Trong 15 bài viết của tập bút ký, hình tƣợng
bao trùm là hình tƣợng Bác Hồ và hình tƣợng mùa xuân. Trong Tổ quốc đã
rằm, Những mùa xuân truy kích giặc, Bài học mùa xuân, Khi con đƣờng
24
mang danh hiệu của Ngƣời… Bác hiện lên là niềm tin, là hi vọng, là động lực
thôi thúc lên đƣờng. “Một bức ảnh Ngƣời – một cái tên Ngƣời cũng góp phần
làm nên thống nhất. Ngƣời cho chúng ta mƣợn danh hiệu mà thành công trong
chiến dịch, mƣợn tên tuổi Ngƣời mà hoá thân cho cả một đô thành…ở đâu, đi
đến đâu, thấy ảnh Ngƣời là ta rất an tâm. Biết rằng Tổ quốc đã tự do, thống
nhất”[85, tr. 479].
Nếu nhƣ Trên đỉnh Trƣờng Sơn – Trên đỉnh thời gian, Những mùa
xuân truy kích giặc, Bài học mùa xuân…đất nƣớc tự do thống nhất là niềm
tin, là hi vọng thì nay đã trở thành hiện thực. Từ mùa xuân trên đỉnh Trƣờng
Sơn, những mùa xuân truy kích giặc, đến hôm nay, mùa xuân đến “sóng đôi
cùng chiến thắng”, “nhân hậu”, “yêu thƣơng” “nâng sự sống và lòng chúng ta
lên hoàn mỹ”[85, tr. 518]. Chế Lan Viên say sƣa với chiến thắng, niềm vui
lớn hiện hữu, ngập tràn khắp muôn nơi trên đất nƣớc này. Những bài bút ký
của Chế Lan Viên đã ghi lại chân thật và đẹp đẽ khoảnh khắc lịch sử thiêng
liêng ấy của đất nƣớc.
Cũng nhƣ thơ, những trang văn xuôi, bút ký của Chế Lan Viên đã thể
hiện sâu sắc những bƣớc đƣờng tƣ tƣởng của ngƣời nghệ sĩ. Từ cái tôi cô đơn,
bế tắc, siêu hình đến cái tôi hồn hậu, mê say chan hoà với cuộc sống và chiến
đấu của dân tộc, mỗi trang văn xuôi bút ký của Chế Lan Viên đều thấy sự tha
thiết, sự nặng lòng của ngƣời nghệ sỹ đối với cuộc đời.
1.1.3. Phê bình và tiểu luận
Hoạt động nghệ thuật trong ý thức của Chế Lan Viên là một hoạt động
đòi hỏi trách nhiệm lớn lao ở ngƣời nghệ sỹ. Nghiêm khắc với nghề và
nghiêm khắc với chính mình, mỗi trang viết của Chế Lan Viên là sản phẩm
của biết bao tìm tòi, nghiên cứu, suy ngẫm, trải nghiệm và chiêm nghiệm.
Yêu nghệ thuật nhƣ một lý tƣởng, Chế Lan Viên sáng tác nghệ thuật với một
hệ thống quan niệm chặt chẽ. Hệ thống quan niệm ấy đƣợc thể hiện qua thơ,
25
qua văn xuôi bút ký, và đặc biệt là qua phê bình và tiểu luận. Viết phê bình và
tiểu luận, Chế Lan Viên trao đổi về đời sống xã hội, về chính trị, thời sự, về
dân tộc, Tổ quốc …và đặc biệt là về thơ. Ở đây, cái tôi trữ tình đã cùng với
cái tôi biện lý sắc sảo tạo nên một sự nghiệp phê bình, tiểu luận phong phú,
xứng đáng là đứa con tinh thần đáng tự hào của Chế Lan Viên.
Tại hội nghị cán bộ văn nghệ Liên khu Bốn, tháng 12 – 1950, Chế Lan
Viên trình bày một bài thuyết trình dài và tâm huyết. Bài thuyết trình đó đƣợc
Nhà xuất bản Thép Mới biên tập và cho ra mắt bạn đọc với nhan đề Kinh
nghiệm tổ chức sáng tác vào năm 1951. Từ Kinh nghiệm tổ chức sáng tác đến
Ngoại vi thơ (Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế, 1987), 9 tập phê bình, tiểu luận
đƣợc xuất bản. Bằng bút lực dồi dào, trí tuệ sắc bén và sự nhạy cảm của tâm
hồn ngƣời nghệ sỹ, Chế Lan Viên đã say sƣa phê bình, tranh luận, hùng biện,
đối thoại. Ông nói chuyện văn thơ, đem hết những kinh nghiệm, những tâm
sự của nghề viết mà truyền nghề, dạy nghề. Ông phê bình và giới thiệu thơ
văn, ủng hộ cổ vũ khích lệ các nhà thơ trẻ, giới thiệu thành tựu thơ văn Việt
Nam trên các diễn đàn quốc tế…Trên văn đàn, ngòi bút phê bình tiểu luận của
Chế Lan Viên thực sự đã góp phần không nhỏ vào việc làm sống động đời
sống văn học nghệ thuật đƣơng thời.
Nhằm mục đích góp phần thúc đẩy công việc sáng tác, Kinh nghiệm tổ
chức sáng tác đƣợc xuất bản với ba phần súc tích: Kinh nghiệm về việc đi tìm
tài liệu; kinh nghiệm về việc ghi chép; kinh nghiệm về việc thực hiện tác
phẩm.
Là kinh nghiệm của một cây bút vững vàng trong sáng tác, nhƣng Chế
Lan Viên khẳng định, đây chỉ là kinh nghiệm của các lần thất bại, “Đi sao
không sáng tác, sáng tác sao không thành công” nhiều hơn là kinh nghiệm của
các lần thành công. Đó không phải chỉ là kinh nghiệm của riêng Chế Lan
Viên, những gì đƣợc trình bày trong bài thuyết trình này là sự tha thiết với
26
sáng tác của nhiều bạn văn nghệ, nhiều đoàn công tác trong Liên khu. Đó là
điều đáng quý ở Kinh nghiệm tổ chức sáng tác.
Sau Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nói chuyện thơ văn và Vào nghề
tiếp tục đƣợc Nhà xuất bản Văn học cho ra mắt bạn đọc vào những năm 1960
và 1962.
Nói chuyện thơ văn (1960) thực sự là một cuộc đối thoại mà chủ đề
chính là thơ văn. Tập sách này đem đến cho ngƣời đọc những câu hỏi có thực
của những bạn đọc có thực về những vấn đề có thực. Có biết bao ngƣời yêu
thơ, quan tâm đến thơ, muốn làm thơ là có bấy nhiêu câu hỏi. Chế Lan Viên
gom góp lại trong bảy vấn đề lớn: “Lập trƣờng tƣ tƣởng, tình cảm”; “Học tập,
nghiên cứu, thƣởng thức”; “Về năng khiếu, khả năng và cá tính”; “Về đề tài
và cách thể hiện đề tài”. Những câu hỏi đó đã đƣợc Chàng Văn trả lời họ một
cách kĩ lƣỡng và rất say mê. Đến với tập sách này, ngƣời đọc không chỉ có
đƣợc những câu trả lời giản dị, chân thành, hóm hỉnh, trí tuệ mà còn đƣợc
nhen lửa, tiếp lửa, đƣợc truyền lửa đam mê từ Chàng Văn.
Với Vào nghề (1962) Chế Lan Viên đã làm một việc quá sức mình
(Chàng Văn tâm sự) nhƣng Chàng Văn “bao giờ…cũng rất phấn khởi”[84, tr.
466]. Bởi nhiều câu hỏi đƣợc gửi tới có nghĩa là nhiều ngƣời quan tâm, nghĩa
là nền văn nghệ đã và đang đƣợc mở rộng. Mà không chỉ quan tâm tới thơ,
những câu hỏi đã không ngần ngại mà hƣớng sang cả lĩnh vực của văn xuôi,
truyện ngắn, phóng sự…Nếu nhƣ tập trƣớc nói về phần lập trƣờng tƣ tƣởng
chung thì tập này Chàng Văn đã bàn đến một số kĩ thuật phƣơng pháp cần
thiết (cách xây dựng một cốt truyện, tìm chi tiết cho một truyện ngắn, cách
leo thang cho một câu thơ…). Hai chữ Vào nghề Chàng Văn đặt cho tập sách
này có ý nghĩa là nhƣ vậy.
Xuất bản năm 1962, Phê bình văn học là tập hợp của 19 bài viết từ
1956 đến 1961. Chế Lan Viên đã sôi nổi đóng góp làm dày thêm những trang
27
lý luận về nghề văn. Ông trở lại quá khứ với Nguyễn Du, ông đọc Những
bƣớc đƣờng tƣ tƣởng của tôi của Xuân Diệu, Trời mỗi ngày lại sáng của Huy
Cận. Ông trải lòng mình Từ thung lũng đau thƣơng đến cảnh đồng vui. Ở đâu
trong mỗi câu, từ, ngữ, nghĩa của Phê bình văn học đều thấy một niềm sôi
nổi.
Trong quá trình tìm hiểu tập phê bình, tiểu luận này, chúng tôi nhận
thấy, Chế Lan Viên chủ yếu tập trung vào ba nội dung cơ bản:
- Những quan niệm của Chế Lan Viên về thơ và nghề thơ đƣợc ông
trình bày qua 5 bài viết: Sống và viết, Sự chân thành của nhà văn, Nghĩ về
nghề, Cái sáo ở trong thơ, Ý của thơ.
- Những nhận định khách quan và khoa học về thơ thể hiện qua những
bài Chế Lan Viên viết để giới thiệu thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh,
Ngọc Minh,…; bài giới thiệu cho “Tuyển tập thơ Việt Nam (1945-1960)…
- Đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù đối với
Cách mạng và phong trào văn nghệ Cách mạng qua Trả lời bức thƣ của nhóm
dân chúng (miền Nam) gửi giới văn nghệ miền Bắc.
Là một nhà văn ham tìm tòi, nhiều trăn trở, những năm tháng kháng
chiến chống Mỹ quyết liệt và dữ dội đã trở thành mảnh đất tốt để Chế Lan
Viên Suy nghĩ và bình luận (1971). “Suy nghĩ và bình luận của Chế Lan Viên
gồm 20 bài viết với nội dung phong phú. Ông suy nghĩ và bình luận về dân
tộc, lịch sử, thời đại. Về những điều Đảng nghĩ, về kẻ thù, về vận mệnh của
thơ ca và sứ mệnh của thơ ca.
Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Đọc “Suy nghĩ và bình
luận” của Chế Lan Viên nhận xét: “Nếu lấy chiều sâu của suy nghĩ, lấy tính
hệ thống hoàn chỉnh làm chuẩn thì chất lƣợng không đều nhau”[1, tr. 485].
Song điều đáng kể ở đây là bên cạnh lý luận của một nhà lý luận, Suy nghĩ và
bình luận của Chế Lan Viên còn là lý luận của một nhà thơ. “Lý luận dựa trên
28
kinh nghiệm sáng tác thiết thân, lý luận đi đôi với một năng lực cảm thụ thẩm
mỹ chắc chắn. Chế Lan Viên chẳng những là một nhà thơ trong Suy nghĩ và
bình luận mà còn là một nhà Suy nghĩ và bình luận trong thơ”[1, tr. 486].
Bay theo đƣờng dân tộc đang bay xuất bản năm 1976, (Nhà xuất bản
Văn học giải phóng), gồm 25 bài, là tập hợp những bài viết từ năm 1963 đến
1976. Là một đại biểu Quốc hội, Chế Lan Viên đã xuất sắc thể hiện vai trò
“chỉ đạo” của mình qua những bài tham luận. Ông đề cao vai trò của văn nghệ
trong đời sống xã hội, thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, thiếu sót. Bay theo
đƣờng dân tộc đang bay còn là những trăn trở với nghề của Chế Lan Viên, là
những suy tƣ Nghĩ về nghề…nghĩ về thơ…nghĩ. Tiếp tục những dòng suy
tƣởng về Hồ Chí Minh vĩ đại, Bay theo đƣờng dân tộc đang bay là những cảm
nhận sắc nét của Chế Lan Viên trƣớc những vần thơ của Bác.
Viết sau ngày đất nƣớc trọn niềm vui, Từ Khuê Văn Các đến quán
Trung Tân (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1981) ngập tràn các cảm xúc vui
sƣớng hân hoan. Tập tùy bút tiểu luận gồm 16 bài viết với nhiều cảm xúc. Đó
là niềm vui của một nhà thơ suốt 30 năm đã biến mình thành một ngọn sáng,
một vị mặn, một hạt muối của đời trong cái biển đời vô tận” [85, tr. 611]. Chế
Lan Viên say mê bàn luận về Tổ quốc, về mùa xuân, về thi ca, về văn hoá. Từ
Khuê Văn Các đến Quán Trung Tân là một tập phê bình tiểu luận phong phú
về nội dung, độc đáo trong cách thức thể hiện, đa dạng trong giọng điệu, sắc
sảo trong tƣ duy.
Ngoại vi thơ (Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987) tập tiểu luận – tạp văn
gồm 21 bài viết, ghi lại những nhận xét sắc sảo, độc đáo và tinh tế của Chế
Lan Viên về thơ của Xuân Hoàng, Yến Lan, Xuân Diệu, Trần Nhật Thu,
Hoàng Tố Uyên. Hình tƣợng Bác Hồ ngời sáng trong Trời cao xanh ngắt sáng
Tuyên ngôn. Những bài tham luận trong cuộc gặp gỡ, hội thảo khoa học đƣợc
29
đƣa vào Ngoại vi thơ cho thấy Chế Lan Viên thực sự xứng đáng với vai trò sứ
giả của thi ca Việt Nam.
Những năm 80 của thế kỷ XX đánh dấu bƣớc chuyển mình đổi mới sâu
sắc trong đời sống văn học. Nhiều tƣ tƣởng, quan niệm đƣợc xem xét lại,
nhiều giá trị văn học đƣợc nhìn nhận lại, nhiều nhà văn, nhà thơ dũng cảm,
gan góc, bản lĩnh mở đƣờng đổi mới. Trên con đƣờng văn học nhiều thử thách
của giai đoạn ấy, là một con ngƣời gắn bó tha thiết với nghề, Chế Lan Viên
luôn canh cánh một nhiệm vụ thiêng liêng, nhiệm vụ thúc đẩy, cổ vũ các
phong trào sáng tác. Nàng tiên trên mặt đất là những cảm nhận chân thành,
tha thiết của một ngƣời chú, một ngƣời bác, một ngƣời anh đối với phong trào
sáng tác của các cháu thiếu nhi. Với 10 bài viết đƣợc tập hợp từ năm 1978 đến
năm 1983, Nàng tiên trên mặt đất trƣớc hết là sự cổ vũ của Chế Lan Viên đối
với cuộc thi thơ của báo Khăn Quàng Đỏ diễn ra sau ngày giải phóng (1978).
Không dừng lại ở đó, Chế Lan Viên còn viết bài phát động cuộc thi Viết và vẽ
lần thứ hai của báo Khăn Quàng Đỏ (1981). Chế Lan Viên băn khoăn trƣớc
hiện tƣợng các cháu bé đã thi thơ, đã có bài đăng trong tuyển thơ mà sau đó
lại không viết đƣợc thơ…Những tâm sự ấy chỉ có thể có đƣợc trong ngƣời
nghệ sỹ luôn nung nấu về nghề, luôn trăn trở với nghề, và luôn nghĩ về nghề
với một ý thức trách nhiệm lớn lao.
Chế Lan Viên từng quan niệm: “Văn xuôi đo bằng đấu, nhƣng thơ phải
đo bằng cân tiểu li”[85, tr. 684]. Theo cách nói này của chính tác giả thì sự
nghiệp phê bình tiểu luận này của ông vẫn còn là khiêm tốn. Song điều làm
nên một Chế Lan Viên sắc sảo trong phê bình tiểu luận không chỉ là số trang
giấy đƣợc in, cũng không chỉ đơn giản điểm lại những tập phê bình tiểu luận
đƣợc xuất bản mà là những đóng góp của Chế Lan Viên với nghề, với đời
sống xã hội và lịch sử dân tộc. Có thể khẳng định rằng, những trang phê bình
tiểu luận của Chế Lan Viên đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp
30
văn học của ông và góp phần làm nên một nền văn học nƣớc nhà phong phú
và đa dạng.
1.1.4. Quan hệ giữa phê bình, lý luận và sáng tác trong sự nghiệp văn
học của Chế Lan Viên
Trong mối quan hệ với sáng tác, lý luận phê bình có vai trò vô cùng
quan trọng. Lý luận văn học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung của
hoạt động văn học, nghệ thuật, bao gồm bản chất, đặc trƣng, cấu tạo, quy luật
tồn tại và phát triển của văn học, nghệ thuật nói chung cũng nhƣ từng loại
hình nghệ thuật nói riêng. Phê bình văn học nghệ thuật là sự thẩm định, lý
giải, đánh giá các tác phẩm, tác giả, sự kiện, hiện tƣợng văn hoc, nghệ thuật
đƣơng đại (hoặc có ý nghĩa với đƣơng đại). Lý luận, phê bình là một bộ phận
hữu cơ, giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn học, nghệ thuật của một dân
tộc, một thời kỳ lịch sử.
Nhận thức sâu sắc vai trò của lý luận, phê bình đối với quá trình sáng
tạo, nhà thơ Chế Lan Viên đã không chỉ luôn tìm tòi đổi mới trong thơ mà còn
muốn dùng lý luận về thơ, phê bình thơ để làm phong phú hơn đời sống thi ca
nghệ thuật đƣơng thời. Giữa lúc tình hình phê bình của văn học cách mạng
còn nhiều bất cập. Lý luận văn học nghệ thuật chƣa theo kịp với thực tiễn
sáng tác, trong khi phê bình đang có những biểu hiện lúng túng, chƣa khẳng
định đƣợc vị trí, vai trò đồng hành định hƣớng cho sáng tác. Một số bài phê
bình còn ở dạng chung chung, dễ dãi, thiếu tìm tòi, suy nghĩ, khả năng khái
quát còn thấp, tầm nhìn xa chƣa rõ; một số cây bút lại rơi vào tình trạng sách
vở, hiểu biết phong trào sáng tác và thực tiễn lao động nghệ thuật của nhà văn
chƣa nhiều, tuy có nêu đƣợc vấn đề mà thiếu sức rung cảm trƣớc cái đẹp của
tác phẩm, quá nặng nề về suy lý khái niệm mà thiếu phân tích hình tƣợng...Lý
luận phê bình của Chế Lan Viên vì thế có đóng góp lớn lao đối với đời sống
văn học đƣơng thời.
31
Là một nhà thơ ƣa nghiên cứu, tìm tòi, Chế Lan Viên có những hiểu
biết sâu sắc về trào lƣu, trƣờng phái của văn học nghệ thuật thế giới, về lý
luận văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, về đƣờng lối văn nghệ của
Đảng...Lý luận văn học mang tính khoa học đƣợc Chế Lan Viên tiếp thu có
nguyên tắc và sáng tạo. Cùng với hệ thống lý luận về thơ đƣợc ông chắt lọc từ
thực tế sáng tác, lý luận, phê bình của Chế Lan Viên đã có những đóng góp
không nhỏ trong việc khai phá, mở đƣờng và định hƣớng cho sáng tác. Không
chỉ là sáng tác của riêng Chế Lan Viên mà còn là sáng tác của cả một thời đại
văn học. Lý luận, phê bình của Chế Lan Viên thực sự đã tồn tại với đúng ý
nghĩa và vai trò của nói, khơi gợi và kích thích sự sáng tạo của ngƣời nghệ sỹ.
Chúng tôi nhận thấy, Chế Lan Viên trong lý luận, phê bình của mình thực sự
đã trở thành một ngƣời nghệ sỹ tiên phong, vừa khai mở, tìm đƣờng vừa soi
bóng vào tác phẩm văn học nghệ thuật để khám phá, giải mã tác phẩm.
Trong bài viết Thơ và phê bình (đọc tại cuộc họp thơ quốc tế hàng năm
tại cộng hoà Macédoine trong liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Nam Tƣ),
Chế Lan Viên đã khẳng định: “Ngƣời ta làm những bài thơ đâu chỉ với chất
thơ; cần đủ mọi thứ để làm ra một thế giới. Với thơ cũng vậy. Do đó cần có
phê bình, cần có óc phê bình”[85, tr. 705]. Vẫn trong bài viết này, ở một đoạn
khác, Chế Lan Viên viết: “Phê bình có thể thấy xa, chỉ vì nó đã đƣợc hứng
cảm bởi hồn thơ. Không có thơ trong hồn, anh chỉ có thể thốt lên những lời
càu nhàu, chửi rửa, chứ đâu có phải phê bình?”[85, tr. 705]. Vấn đề đặt ra từ
bài viết này cho thấy sự trăn trở của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa thơ và
phê bình. Soi chiếu vào hành trình sáng tác của ông, chúng ta nhận thấy thực
sự có một mối quan hệ khăng khít giữa tƣ duy nghệ thuật thơ và tƣ duy lý
luận phê bình ở cả hai chiều, phê bình trong thơ và thơ trong phê bình.
Chế Lan Viên cho rằng, đời sống văn học nghệ thuật tồn tại hai thứ phê
bình, phê bình bên ngoài và phê bình bên trong. Phê bình bên ngoài là phê
32
bình trên báo chí, trong dƣ luận xã hội, sau khi bài thơ đã ra đời. Phê bình bên
trong là cách tác giả tiến hành với chính mình, từ trong trứng, từ trong bào
thai tác phẩm, và đôi khi loại phê bình này theo tác giả suốt một đời, loại phê
bình này lồng với lƣơng tâm thi sỹ. Trong bài Sống và viết, Chế Lan Viên
khẳng định: trong mỗi nhà văn, “cần sự có mặt của một ngƣời suy nghĩ, một
ngƣời phê bình...”[84, tr. 241]. Trong bài Hồn nhiên và công thức, một lần
nữa ông khẳng định mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa thơ và lý luận, phê
bình: “Một nhà thơ chỉ có cảm xúc mà không biết các ý, các khái niệm thì
khác gì một con vật không có xƣơng”[86, tr. 82]. Hình ảnh của một nhà phê
bình lƣu dấu ấn đậm nét trong những trang thơ của Chế Lan Viên. Bén duyên
với nghệ thuật thi ca từ rất sớm, hành trình thơ của Chế Lan Viên có nhiều
biến đổi cùng những đổi thay lớn lao của lịch sử dân tộc. Điêu tàn mở đƣờng
cho ngƣời trí thức trẻ bƣớc chân vào thế giới thi ca, song con đƣờng đó buồn
sầu và mờ mịt quá. Khi đƣợc ánh sáng cách mạng soi đƣờng, Chế Lan Viên
đã không ít lần nhìn lại mình qua thơ, đấu tranh, phê bình với chính con ngƣời
cũ của mình.
Tự phán xét trở thành tiếng nói sâu sắc không chỉ trong những trang
phê bình tiểu luận mà còn cả trong thơ:
“Những năm Cách mạng chƣa về, vƣờn ta có hoa mà không đậu quả
Rặng liễu tâm hồn chƣa xanh tơ mà đã úa vàng
Nhiều chim bằng chƣa bay đã hoá cu nhà, chim sâu ăn đất
Chƣa gặp trời đã gãy cánh giữa lồng nan
Bàn tay muốn gieo, đã nắm nhầm hạt giống
Lẽ ra cầm tờ truyền đơn thì khoe văn tự bán hồn
Cờ chiến đấu ƣớp trong mùi hƣơng phấn
Trong khói hƣơng chùa lẫn với dấu môi son”
(Nghĩ về thơ II)
33
Trong những câu thơ ông viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần tự
phê đƣợc thể hiện sâu sắc và thấm thía:
“Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng nhƣ không
Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy
Thơ xuôi tay nhƣ nƣớc chảy xuôi dòng”
(Ngƣời thay đổi đời tôi, Ngƣời thay đổi thơ tôi)
Trong những biến động lớn lao của lịch sử, Chế Lan Viên thấy mình
chỉ là một cơn mƣa, một dòng nƣớc mắt, một viên gạch đổ, một ánh hoàng
hôn mà thôi.
“Chƣa có gì dính líu giữa thơ tôi và truyền đơn Bác viết
Tôi không biết khi Bác đau phải ăn một nắm lá rừng
Trong nƣớc mắt thơ tôi, tôi chƣa ngờ chất thép,
Chƣa thấy trong mắt mình sắp cuộn máu nhân dân”
(Ngƣời thay đổi đời tôi, Ngƣời thay đổi thơ tôi)
Cuộc đấu tranh để tự cải tạo mình không đơn giản, dĩ vãng không phải
chỉ ở đằng sau lƣng, có khi nó xâm nhập ngay trong hiện tại và xen lẫn cả
tƣơng lai:
“Vết thƣơng xa nhƣng chỗ sẹo đang còn
Hãy nhớ chỗ tâm hồn ta phí máu
Cái đã qua có khi còn giở lại đón đƣờng
Chớ bảo rằng dĩ vãng ở sau lƣng và bặt dấu”
(Nghĩ về thơ II)
Tố Hữu cho rằng, lúc bấy giờ, những thi sỹ nhƣ Chế Lan Viên, Xuân
Diệu, Huy Cận... “lòng đúng mà trí lạc”. Có ngƣời đi lạc gần, có kẻ đi lạc xa,
có kẻ đi lạc trong đời, có kẻ lại lạc đến hụt chân ra ngoài, tí nữa thì rơi vào hƣ
vô nữa. Chế Lan Viên đã đi hụt chân vào cõi siêu hình để hành trình trở về tự
34
ông cảm thấy “biết bao là nhiêu khê”. Vƣợt lên những “nhiêu khê” ấy, thơ
ông cống hiến những thành tựu lớn cho Cách mạng. Song chƣa bao giờ ngƣời
nghệ sỹ ấy tự bằng lòng với chính mình cũng nhƣ những câu thơ ông đã viết.
“Thơ cần có ích”, tâm niệm cả một đời thơ, đến Di cảo, ngƣời đọc vẫn thấy
Chế Lan Viên thổn thức:
“Tôi chƣa có câu thơ nào hôm nay
Giúp ngƣời ấy nuôi đàn con nhỏ”
(Ai?Tôi!)
Trăn trở về nghề, trăn trở về thơ, Chế Lan Viên có nhiều bài thơ dƣới
dạng tuyên ngôn nghệ thuật, thể hiện rõ quan niệm của ông về thơ, về nghề
thơ, về nhà thơ, chức năng và nhiệm vụ của thơ. Những bài thơ ấy đồng thời
thể hiện rất đậm chất phê bình và lý luận. Nghĩ về thơ (I), Nghĩ về thơ (II),
Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...là những bài thơ viết bằng tƣ duy của một
nhà phê bình, là những bài thơ của một ngòi bút phê bình. Bằng chiều sâu của
lối suy tƣ đa chiều ấy, Chế Lan Viên đã đem đến cho thơ những ý nghĩa triết
lý sâu sa:
“Đánh giá anh đâu phải mắt xếch của nhà phê bình hay mắt xanh
ngƣời đẹp
Đánh giá anh là giọt máu im lìm ngủ giữa Trƣờng Sơn
Im lìm thế mà lắng nghe mọi điều anh viết
Xem khi máu đã đổ rồi, thơ có cao hơn?”
(Thơ bình phƣơng, đời lập phƣơng)
Trƣớc cuộc đời muôn hình muôn trạng, thơ đã phản ánh đƣợc những gì trên
mỗi trang giấy trắng? Đằng sau những hào hùng oanh liệt là máu đổ và hi
sinh, mất mát; đằng sau những sao vàng chiến thắng là biết bao đau thƣơng
hằn in trên từng tấc đất ...thơ đã nói đƣợc những gì từ cuộc đời đa chiều, đa
diện ấy? “Thơ bình phƣơng’ mà “đời lập phƣơng”, ngƣời nghệ sỹ Chế Lan
35
Viên suốt một đời làm thơ vẫn đau đáu những nỗi ƣu tƣ bởi thơ đã chƣa thể
nói hết cuộc đời.
Vì thế, ông cũng nhận ra rằng bình giá thơ, không chỉ là công việc của
nhà phê bình hay công chúng yêu nghệ thuật, ở một tầm cao hơn, thơ cần phải
vƣợt qua sự đánh giá khắt khe của thời gian, lịch sử, của những máu xƣơng đã
đổ để đem lại tự do cho nghệ thuật thi ca. Vì thế, hơn ai hết, ông hiểu rằng,
thơ không đơn giản là “đi nhặt cái sẵn có” mà “phải đi tìm”. Nhà thơ trên
hành trình tìm thơ, khi là ngƣời thợ đào sông:
“Sông thơ cạn dòng
Anh làm gì? Làm thợ đào sông
Sông lại chảy”
(Sông thơ)
Hình ảnh ngƣời “thợ đào sông” trong thơ Chế Lan Viên khiến chúng tôi liên
tƣởng tới quan niệm nghệ thuật của Nam Cao, khi ông cho rằng ngƣời nghệ
sỹ cần “khơi những nguồn chƣa ai khơi” để sáng tạo những gì chƣa có. Bởi
nghệ thuật là lĩnh vực của sự sáng tạo không ngừng cho nên lặp lại mình và
lặp lại ngƣời khác là cái chết của nghệ thuật. Ngƣời gắn bó với nghệ thuật
suốt một đời nhƣ Chế Lan Viên càng thấm thía giá trị của sự sáng tạo đối với
sự sống của nghệ thuật, thi ca.
Hình ảnh nhà thơ trong những chảy trôi của thời gian khiến Chế Lan
Viên hình dung đến “Ngƣời nữ tử tù đan áo”: “Anh phải viết sao cho khi ra
đi thì chiếc áo đã thành”. “Chiếc áo” để lại cho đời đƣợc đan trong cơn thúc
bách của thời gian phải có ý nghĩa, có giá trị nào đó với đời. Những trăn trở
ấy trong thơ Chế Lan Viên không phải bây giờ mới xuất hiện song càng về
cuối đời, những dằn vặt, day dứt về giá trị của thơ càng trở đi trở lại sâu sắc
hơn trong thơ Chế Lan Viên. Tƣ duy phê bình không cho phép nhà thơ bằng
lòng thoả mãn với chính mình. Nó đòi hỏi nhà thơ không ngừng suy ngẫm,
36
tìm tòi, sáng tạo, để không phải tiếc nuối khi “Nhìn các trang thơ bay không
ngoái lại – Và gió thổi anh đi” (Mùa thu quân).
Là một nhà thơ viết phê bình, cho nên phê bình của Chế Lan Viên cũng
đậm chất thơ. Chất thơ trong phê bình của Chế Lan Viên chủ yếu thể hiện ở
cảm xúc mãnh liệt, tha thiết, sôi nổi chân thành. Đọc thơ Nguyễn Du, yêu thơ
Nguyễn Du, Chế Lan Viên có cảm giác: “Ghé vào tác phẩm còn hôi hổi hơi
Anh thở, tôi còn nghe đập trái tim tôi trong trái tim Anh”[84, tr. 267]. Ông
tìm thấy những đồng điệu sâu sắc từ trong cảm xúc của những thế hệ nhà thơ
cách nhau mấy trăm năm lịch sử: “Những gì anh yêu, mãi mãi chúng tôi còn
yêu. Chúng tôi vẫn ghét những gì anh ghét. Những tiếng nói đấu tranh, hoà
bình, hạnh phúc của chúng tôi bây giờ không cắt đứt với những ƣớc mơ, cả
những thở than sầu muộn của Anh xƣa, nhƣ cuộc sống ngƣời lành không cắt
đứt với ngƣời đau, lúc trƣởng thành không cắt đứt với tuổi trẻ”[84, tr. 267].
Đọc Trời mỗi ngày lại sáng, ông muốn “hôn lên tâm hồn ngƣời bạn đã viết
nên tập thơ”[84, tr. 300]. Đồng thời, ông cũng chân thành chỉ rõ những hạn
chế của thơ Huy Cận: “Huy Cận thiếu những cái vui thật là nổ vỡ, cũng nhƣ
những cái đau xoắn chặt lấy lòng ngƣời”[84, tr. 299]. Viết về thơ Xuân
Hoàng, Chế Lan Viên thầm cảm ơn tác giả vì: “không có anh thì tôi quên đi
cái cảnh :
“Chợ Bố Trạch sắn nhiều, gạo ít,
Nâu Ba Rền củ tốt hơn khoai”...
Quên cái cảnh:
“Bờ tre gần lại dần...
Màu xanh sao ấm quá!
Trong tre là nhân dân,
Trong tre là cơ sở...”[86, tr. 172].
37
Viết về thơ và số phận may rủi của thơ ở đời, Chế Lan Viên không khỏi cảm
thấy xót xa tiếc nuối: “Thơ là cái đẹp im lặng, đi lầm lũi trong im lặng. Nếu
không ai nhắc đến, chỉ ra, gọi lên, tán dƣơng, ủng hộ thì nó bị vùi lấp đi, đầu
là trong im lặng mà sau là trong lãng quên. Tựa, bạt, giới thiệu, bình thơ,
điểm danh là để bù lại, góp phần xoá cái rủi may số phận ấy”[86, tr. 194].
Luôn đề cao sự chân thành trong thơ, Chế Lan Viên cũng dành tất cả
sự chân thành ấy cho phê bình thơ. Đọc đƣợc ý thơ hay, hình ảnh đẹp, ông
say sƣa bình luận, khám phá tới tận cùng cái hay cái đẹp của thơ. Ông giới
thiệu, ông ngợi khen, trầm trồ thán phục, trân trọng tin yêu...tất cả những cảm
xúc ấy, ông thể hiện tự nhiên trên mỗi trang phê bình, và cũng rất thẳng thắn,
ông góp ý những thiếu sót, những hạn chế. Mỗi lần cầm bút viết phê bình,
Chế Lan Viên luôn tâm niệm: “Phải lấy ngọn lửa đang ngùn ngụt ngoài đời để
soi những sách vở rơi đến tay ta”[84, tr. 255]. Ngọn lửa ấy thắp lên từ cuộc
sống, bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nơi trái tim ngƣời cầm
bút. Ngọn lửa ấy đã cháy trong thơ, và luôn rực sáng trên mỗi trang phê bình
tiểu luận của Chế Lan Viên.
Bên cạnh cảm xúc, hình ảnh và nhạc điệu cũng là những yếu tố góp
phần không nhỏ tạo nên chất thơ độc đáo trong phê bình, tiểu luận của Chế
Lan Viên. Coi nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc và gian nan,
Chế Lan Viên đặt cho mình cũng nhƣ những ngƣời nghệ sỹ những yêu cầu
nghệ thuật có phần khắt khe nhƣng thiết yếu. Một trong những yêu cầu ấy là
khả năng phản ánh hiện thực của thơ, không phải chỉ đơn thuần phản ánh sự
việc thời đại mà là phản ánh tình cảm thời đại. Ông không nói những điều
mang tính lý luận này bằng lý thuyết rút ra từ sách vở. Ông nói bằng hình ảnh,
hình ảnh từ cuộc sống, từ kinh nghiệm. Thứ hình ảnh cô đọng, súc tích, dồn
nén, đƣợc nhấn nhá, luyến láy, khiến ngƣời đọc liên tƣởng tới những câu thơ
giàu màu sắc triết luận của ông: “Làm sao anh yêu khí trời bằng anh cán bộ
38
chết ngạt dƣới hầm bí mật? Anh yêu hoa sao bằng anh công nhân sau giờ lao
động ở hầm mỏ ra thấy nó nở trƣớc miệng hầm? Và anh thù ghét súng đạn sao
bằng ngƣời chiến sỹ cộng sản phải ra trƣờng bắn? Thế mà ta phải phản ánh
những tình cảm ấy đấy, bạn ơi!”[84, tr. 247]. Để đáp ứng đƣợc yêu cầu nghệ
thuật ấy, Chế Lan Viên đặt ra vấn đề sống, chỉ có sống bằng hơi thở của thời
đại, sống trong sự sống của thời đại, ngƣời nghệ sỹ ấy mới có thể viết để phản
ánh đƣợc tinh thần, tình cảm của thời đại. “Mà sáng nay anh phải thấy bể để
chiều nay ghép nó với chữ trời, mƣời năm trƣớc anh phải sống cuộc kháng
chiến để chiều nay ghép nó với chữ hoà bình; và luôn luôn phải ra khỏi nhà
mình, vào trong thực tại khách quan để lúc trở về, tâm hồn mới có đƣợc
những tƣơng quan đột ngột”[84, tr. 248].
Trong bài viết Thơ và phê bình đọc trƣớc cuộc Hội thảo thơ Quốc tế tại
Nam Tƣ (1979), Chế Lan Viên đã hình dung mối quan hệ giữa thơ và phê
bình giống nhƣ quan hệ giữa nàng thơ và đức ông chồng. Đó là một mối quan
hệ gắn bó vô cùng khăng khít, không thể tách lìa. Thơ và phê bình, tiểu luận
của Chế Lan Viên cũng có một mối quan hệ khăng khít nhƣ thế. Trong thơ có
phê bình và trong phê bình có thơ, cái tôi trữ tình luôn song hành cùng cái tôi
biện lý. Điều này làm nên sức hấp dẫn riêng cho thơ ca và phê bình, tiểu luận
của Chế Lan Viên.
1.2. Giá trị của phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên
1.2.1. Cổ vũ thúc đẩy phong trào sáng tác
“Đầu tiên muốn bƣớc chân vào đời văn chƣơng thì phải làm thế
nào?”[84, tr. 144]. Câu hỏi ấy cứ trở đi trở lại trong những bài tham luận,
những câu chuyện văn chƣơng, những tâm sự nghề nghiệp của Chế Lan Viên.
Ông hiểu sâu sắc những khó khăn gian nan của những nguời mới bƣớc chân
vào nghề viết. “Chàng Văn vẫn biết các bạn mới viết văn chƣa tìm thấy rõ khả
năng nào là khả năng chính của mình”[84, tr. 465]. Cho nên bằng tất cả kinh
39
nghiệm của bản thân, bằng tất cả tấm lòng của ngƣời nghệ sỹ, Chế Lan Viên
đã truyền nghề, dạy nghề, tâm sự về nghề một cách hết sức chân thành. Sau
hai cuốn Nói chuyện thơ văn và Vào nghề đƣợc in, Chế Lan Viên còn hứa hẹn
rằng “Còn phục vụ bạn đọc trong những quyển khác, thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ
6, cho đến suốt đời mình không mỏi, không thôi”[84, tr. 467]. Bởi vì, ông
hiểu rằng, nền văn học nghệ thuật của dân tộc chỉ có thể phát triển khi phong
trào sáng tác của quần chúng đƣợc nhân lên rộng khắp.
Sôi nổi cổ vũ các phong trào sáng tác, Chế Lan Viên đã dành nhiều tâm
huyết trong các tập Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nói chuyện thơ văn, Vào
nghề, Nàng tiên trên mặt đất…để truyền nghề, dạy nghề, đào tạo nghề. Các
bài viết “Có phải trong ca dao đang có vấn đề?” (Suy nghĩ và bình luận);
“Thơ của thợ”, “Thơ của nhân dân, thơ đầu tuyến lửa” (Suy nghĩ và bình
luận); “Thơ ở những ngày và những nơi chống Mỹ” (Bay theo đƣờng dân tộc
đang bay)…thể hiện sâu sắc sự tha thiết của Chế Lan Viên đối với phong trào
thơ đáng trân trọng của quần chúng nhân dân kháng chiến.
Nền văn học trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh đã có xu hƣớng
vận động hƣớng về đại chúng. Quần chúng Cách mạng không chỉ là đối tƣợng
sáng tác, là độc giả mà còn là một lực lƣợng sáng tác lớn. Quần chúng làm
thơ, quần chúng làm báo tƣờng, hội diễn văn nghệ quần chúng đã thúc đẩy
phong trào sáng tác quần chúng phát triển mạnh mẽ. Kinh nghiệm tổ chức
sáng tác của Chế Lan Viên đƣợc xuất bản chính là nhằm mục đích mở rộng
con đƣờng nghệ thuật để tổ chức sáng tác cho quần chúng nhân dân.
Kinh nghiệm tổ chức sáng tác của Chế Lan Viên là kinh nghiệm đi tìm
tài liệu, kinh nghiệm ghi chép tài liệu và kinh nghiệm thực hiện tác phẩm. Với
Chế Lan Viên thì chỉ thị, thông cáo, biên bản hội nghị, báo cáo, nhật ký đơn
vị, cá nhân, thƣ từ hàng binh, tù binh…các bản tự kiểm thảo lý lịch đều trở
thành những tài liệu hữu ích cho các nhà văn nhà thơ. Dự các buổi công khai,
40
các phiên toà, tham gia hội nghị, hỏi chuyện (cán bộ, những ngƣời xuất sắc
hay tiêu biểu nhất phong trào…) là những cách thức khác nhau để ngƣời nghệ
sỹ tích luỹ tài liệu. Nhƣng phƣơng thức hay nhất vẫn là bản thân ta đến nơi để
“sống”. Ngƣời xƣa nói: “Phải sống cái sống của Tử Trƣờng để viết đƣợc văn
nhƣ Tử Trƣờng”. Chế Lan Viên cho rằng, chúng ta nên học ngƣời xƣa cái
kinh nghiệm đó.
Muốn sáng tác cần phải có tài liệu, nhƣng muốn làm cho tài liệu khỏi bị
lãng quên, thất lạc, thì mỗi ngƣời làm nghệ thuật cần ghi chép. Quan sát và
ghi chép cần phải có trọng tâm, chi tiết. Để đến khi ngƣời viết hoài thai tác
phẩm thì bản thân ngƣời nghệ sỹ ấy lại một lần nữa có thể sống trong tài liệu,
để cho cảm tính, cảm xúc của chính mình có thể hà hơi thở sự sống vào
những cảnh, nghững ngƣời đã đƣợc chúng ta ghi lại.
Trong những bƣớc chân đầu tiên vào nghề, đặt bút viết với bao điều bỡ
ngỡ, những ngƣời mới vào nghề tâm sự cùng Chàng Văn: “Tôi cảm thấy bí đề
tài quá, mong Chàng Văn chỉ giúp tôi một số đề tài”[84, tr. 190]. Họ tìm đến
với những đề tài “kỳ quặc”: “Có thể viết một quyển toàn phụ nữ không?”[84,
tr. 190]. Họ muốn trở lại với những đề tài cũ mà không biết có còn giá trị
không? Chế Lan Viên đã cởi mở biết bao, chân tình biết bao khi ông nói với
họ về nghề. Bằng cách nói chuyện hết sức tinh tế, dí dỏm, giàu hình ảnh, Chế
Lan Viên đã chỉ cho họ hiểu rằng đề tài không phải là cái vay mƣợn càng
không thể kỳ quặc để gây chú ý. Điều cốt lõi chính là cách nhận thức đánh giá
của mỗi ngƣời trƣớc đề tài mà chúng ta đang thể hiện.
Đặt bút viết đã khó, sửa lại bản thảo lại càng khó. Khi viết, cảm hứng
rất nhanh, ngôn ngữ ý tình đều khoáng đạt, vậy mà chỉ một tuần sau, khi đọc
lại, ngƣời viết đã cảm thấy không ra gì. Cảm hứng của ngƣời trƣớc đó còn say
mê tha thiết với nghệ thuật giờ chợt tiêu tan. Nhƣng khi lời tâm sự ấy đến với
Chế Lan Viên, ngƣời đàn anh trong nghề lại động viên hết mực “thế thì tốt”,
41
“Chàng Văn rất thích đƣợc nhƣ thế lắm”[84, tr. 214]. Bởi vì, nhƣ thế tức là
ngƣời viết đã tiến bộ hơn, nhƣ thế tức là ngƣời viết đã có đủ bình tĩnh để nhận
xét đƣợc chính mình. Nhƣ thế có nghĩa là bạn hãy cứ tiếp tục viết. Và muốn
để cho lúc đọc lại thơ mình một tuần sau không thất vọng, thì một tuần trƣớc
phải làm rất chu đáo công phu, nhất là cảm xúc khi viết phải chân thành.
Dặn dò ngƣời viết về sự chân thành của cảm xúc, chúng tôi đồng thời
cảm nhận đƣợc sâu sắc về sự chân thành của Chế Lan Viên. Ông chân thành
muốn ngƣời viết, yêu nghề viết, đam mê viết có thể cầm bút và sáng tạo. Ông
chân thành muốn đem hết những hiểu biết, những kinh nghiệm của bản thân
để có thể giái đáp hàng nghìn, hàng vạn những thác mắc của bạn đọc.
1.2.2. Những nhận định khách quan và khoa học về thơ
Từ một nhà thơ lớn, Chế Lan Viên viết phê bình văn học, tự đặt thêm
trách nhiệm nơi đầu ngọn bút vốn đã không chịu bình lặng của ông. Là ngƣời
một ngƣời chiến sỹ trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, Chế Lan Viên xem phê
bình trƣớc hết phải là ngƣời bảo vệ cho đƣờng lối của Đảng. Là một nhà thơ
viết phê bình, ông cũng đặc biệt chú ý làm nổi bật cái hay, cái đẹp, cái tài tình
của văn chƣơng. Phê bình văn học của Chế Lan Viên đẹp hài hoà giữa tính
định hƣớng tƣ tƣởng và tính thẩm mỹ. Ông đề cao phƣơng hƣớng chiến lƣợc
nhƣng không quên những vẻ đẹp mang tính nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn
chƣơng.
Chế Lan Viên ƣu ái dành nhiều trang viết phê bình cho những tác giả
thơ ông kính trọng, cho những bạn thơ ông yêu quý. Qua 9 tập phê bình và
tiểu luận, chúng tôi thống kê đƣợc hơn 20 bài Chế Lan Viên trực tiếp viết về
những bài thơ, những tập thơ, phong cách thơ, thành tựu thơ của các nhà thơ
(Từ các nhà thơ lớn nhƣ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận…đến
các nhà thơ trẻ nhƣ Ngọc Minh, Xuân Hoàng).
42
Đọc thơ Tố Hữu, lá cờ đầu của nền thơ Cách mạng Việt Nam, Chế Lan
Viên nhận thấy: “Tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện ngƣời,
viết về các vấn đề lớn hay một sự việc nhỏ, đối với anh là để nói đƣợc cái lý
tƣởng cộng sản ấy mà thôi” [85, tr. 23]. Nhờ vậy, “những câu thơ anh liền
một bài, những bài thơ anh liền một tập, những quyển thơ anh liền một đời.
Giữa những bài thơ anh ít có chữ “nhƣng” cắt làm hai đoạn. Trong đời thơ
anh, anh không phải hối tiếc vì giai đoạn nọ hay giai đoạn kia”[85, tr. 23].
Những nhận xét nhƣ thế về thơ Tố Hữu còn là những day dứt khôn nguôi về
những chặng đƣờng thơ của mình. Nói Tố Hữu đã không phải hối tiếc về giai
đoạn nọ, giai đoạn kia trong đời thơ của “anh” cũng chính là nói sự hối tiếc
đau đớn mà thấm thía của chính mình về những chặng đƣờng thơ “Vàng sao”
nhƣng “thực sự xa cách với Sao Vàng”[85, tr. 613].
Hàn Mặc Tử trong cảm nhận của Chế Lan Viên “là một ngôi sao chổi
xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói loà rực rỡ”[85, tr. 401]; Yến Lan
trong cảm nhận của Chế Lan Viên “nhƣ cây xƣơng rồng có hai cực đối lập gai
rất gai mà hoa lại là hoa rất dịu dàng”[86, tr. 189]; Những câu thơ của Bích
Khê trong cảm nhận của Chế Lan Viên là “những câu thơ bừng sáng” “đang
nhập vào lƣới điện quốc gia”[86, tr. 621]; những câu thơ trƣớc và sau cách
mạng của Tế Hanh trong cảm nhận của Chế Lan Viên vẫn luôn “tế nhị, ngọt
ngào”; Trời mỗi ngày lại sáng của Huy Cận, trong cảm nhận của Chế Lan
Viên có “ nhiều sinh lực mới”, “cái chủ quan đã giàu thêm lên với cái khách
quan, cái nghệ thuật đã khoẻ ra nhờ chất chính trị, cái suy tƣởng nội tâm đã
phong phú nhờ lao động bồi dƣỡng thêm vào”[84, tr. 298]. Đối diện với mỗi
trang thơ, Chế Lan Viên đã đọc bằng cả tấm lòng mình, đem sự rung cảm của
tâm hồn mình để hoà với bao rung cảm của tâm hồn những bạn thơ mà ông
yêu quý.
43
Phê bình với Chế Lan Viên trƣớc hết là cách để ông đƣợc thoả mãn
niềm say mê nghệ thuật, và hơn nữa còn là cách ông sống hết mình, thẳng
thắn và trung thực trong nghề. Yêu và trân trọng những thành tựu thi ca, Chế
Lan Viên ý thức rõ vai trò lớn lao của ngƣời cầm bút phê bình: vai trò định
hƣớng nghệ thuật. Chúng tôi nhận thấy có một số lƣợng lớn các bài viết có
tính chất định hƣớng, soi đƣờng, đồng hành cùng tiến trình phát triển thơ
trong lý luận, phê bình của Chế Lan Viên. “Sông Hƣơng, sông Thƣơng trong
dòng văn học”, “Có phải ca dao đang có vấn đề?” “Mấy vấn đề về Tuyển tập
thơ (1945-1960), “Thơ trong các sách giáo khoa”…là những bài viết có ý
nghĩa nhƣ thế.
Trƣớc hết, chúng tôi nhận thấy, ông không ngại nói thật, không ngại
đấu tranh trong phê bình. Viết Sông Hƣơng, sông Thƣơng trong dòng văn
học, Chế Lan Viên đã viết bằng chính sự trải nghiệm của bản thân, của ngƣời
đã rất “hiểu cái khí hậu”, “cái không khí” của thời đó, của ngƣời đã đi qua
bao thăng trầm, của ngƣời đã từng nhất quyết dứt khoát với Thơ mới, …để
nhìn nhận, đánh giá về Thơ mới. Từ chiều sâu của nhận thức và độ lùi cần
thiết của lịch sử, Chế Lan Viên tha thiết khẳng định Thơ mới chính là máu
thịt của dân tộc, nằm trong văn mạch dân tộc, không thể vứt bỏ. “Có một thời
cho tất cả…có một thời vứt đá đi. Có một thời lại nhặt đá về. Phải nhặt chứ.
Dân tộc ta còn nghèo, đâu có gì nhiều mà bạ cái gì cũng vứt. Lỡ còn hòn đá
nào dùng đƣợc, lỡ còn vàng nữa thì sao. Lỡ đó là máu thịt ta thì có tội”[86, tr.
493]. Tha thiết đến thế với Thơ mới cho nên nhà thơ đã không ngại nói thẳng
cảm xúc của mình khi Thơ mới đến nay (1986) vẫn còn bị coi là “lãng mạn
tiêu cực”, khi vẫn còn đó những đánh giá thiếu đúng đắn về Thơ mới ngay cả
trong Sách giáo khoa. “Tệ nhất là trong Sách giáo khoa lớp 12 – cho đến nay
còn lƣu hành – nhận định về văn học lãng mạn thì cho rằng “nói chung không
có lợi cho đấu tranh mà còn có hại”[86, tr. 497]. Nhƣ vậy, rõ ràng cùng với sự
44
thay đổi của lịch sử, xã hội, Chế Lan Viên cũng đã có những đổi mới trong tƣ
tƣởng, trong nhận thức về giá trị của Thơ mới.Từ phủ định đến khẳng định
giá trị Thơ mới trong quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên là một hành
trình gian nan của nhận thức dƣới sự chi phối của nhiều yếu tố khách quan.
Song ông đã vƣợt lên tất cả để trả lại cho Thơ mới cũng nhƣ những nhà thơ
của phong trào Thơ mới những giá trị nghệ thuật chân chính.
Chế Lan Viên đã không ngại ngần thể hiện niềm vui sƣớng và tự hào
của ông trƣớc thành tựu của thơ Việt Nam từ 1945 – 1960 qua Tuyền tập thơ
Việt Nam: “Cái cần phải vui sƣớng cùng nhau ngay là thời đại của chúng ta đã
có thể đóng góp vào kho tàng văn học của cha ông để lại”[84, tr. 357]. Không
che giấu niềm vui sƣớng tự hào, ông cũng không che giấu sự lo âu trƣớc
những “vấn đề” của tuyển tập thơ. Theo Chế Lan Viên, “thơ của chúng ta
trong bƣớc trƣởng thành đặt cho chúng ta – những độc giả, những nhà phê
bình, những nhà thơ – lắm điều suy nghĩ”[84, tr. 371]. Là một nhà thơ, là một
nhà phê bình, Chế Lan Viên thấy, “thơ cần phải mê hơn”, “cần có thêm chất
tƣ tƣởng”, “cần có nhiều cá tính riêng”. Cũng vậy, với thơ chống Mỹ những
năm 60, Chế Lan Viên thấy “chất anh hùng chƣa cao, giọng điệu anh hùng ca
còn yếu”, “chƣa đặt đƣợc nhiều vấn đề” và đặc biệt “còn không ít tâm trạng”.
Với ca dao trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa, Chế Lan Viên không
khỏi băn khoăn. “hình nhƣ ca dao đang “có vấn đề”?[84, tr. 434]. Ông thẳng
thắn bộc bạch: “Có thể là ta sƣu tầm chƣa hết ca dao hay hiện nay? Có thể là
cái hay hiện nay, phải chờ nó lùi xa một tí trong thời gian rồi ta mới “kịp
thời” nhận thấy? Có thể là tôi đã làm một việc quá đơn giản: của ngày qua thì
quên đi những câu dở, của ngày nay chƣa tìm cho hết những câu hay, lấy cái
kết tinh của ngày qua so sánh với cái chƣa đọng lại của bây giờ để rồi bảo
rằng chất nƣớc bể ngày nay không mặn bằng chất muối của ngày hôm trƣớc?
45
Có thể có tất cả những giả thuyết đó. Nhƣng cũng có thể có giả thuyết là ca
dao đang có vấn đề”[84, tr. 435].
Chế Lan Viên không vòng vo, không sợ mất lòng, không sợ ai trách cứ,
chỉ sợ những viên sỏi nhỏ cũng có thể làm cản dòng chảy của thi ca. Cho nên,
bằng phê bình, Chế Lan Viên muốn chỉ cho ngƣời làm thơ thấy sạn, thấy đá
sỏi gồ ghề, để từ đó mà cùng tránh, cùng lật xoay, làm thế nào để khơi thật
trong, thật sâu rộng dòng chảy của nền văn học nƣớc nhà. Những ý kiến đánh
giá, những nhận xét, những góp ý, những tranh luận của Chế Lan Viên trên
mỗi dòng phê bình về thơ ca Việt Nam hiện đại trƣớc hết bắt nguồn từ tấm
lòng tha thiết của nhà thơ đối với một nền thơ. Từ kinh nghiệm của môt đời
thơ, Chế Lan Viên đã có những nhận xét đánh giá đúng đắn, khách quan,
những góp ý tranh luận thẳng thắn, chân thành. Có thể nói, phê bình thơ của
Chế Lan Viên chính là kết tinh của vị “muối” mặn mòi mà Chế Lan Viên đã
để lại cho thơ và để lại cho đời.
1.2.3. Nghệ thuật phê bình độc đáo
Phê bình văn học đặt trong mối quan hệ với sáng tác và tiếp nhận có vai
trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện của các công trình nghiên cứu, các tác
giả phê bình cho thấy sự vận động không ngừng của văn học nghệ thuật. Phê
bình là tiếng nói đòi hỏi đáp ứng yêu cầu nghệ thuật từ phía công chúng, đƣợc
soi sáng bằng hệ thống lý luận chặt chẽ. Những công trình, những bài viết
nghiên cứu, lý luận, phê bình không chỉ là sản phẩm của sự am hiểu nghệ
thuật sâu sắc, của vốn sống, vốn hiểu biết phong phú mà còn là sản phẩm của
những rung cảm mãnh liệt nơi ngòi bút của ngƣời viết.
Từ yêu cầu của thời đại, Chế Lan Viên đã viết phê bình và tiểu luận
bằng một nền tảng tƣ tƣởng chính trị vững vàng, bằng sự gắn bó máu thịt của
ông với nghệ thuật, bằng tất cả tấm lòng, tâm huyết, bằng tất cả sự dấn thân
đầy bản lĩnh để thúc đẩy bƣớc tiến của nghệ thuật nƣớc nhà. Với những công
46
trình phê bình, tiểu luận đã xuất bản, Chế Lan Viên đã thực sự định hình nên
một phong cách phê bình độc đáo, góp nên sự phong phú đã dạng trong dòng
chảy chung của nền phê bình văn học nƣớc nhà.
Là một nhà thơ viết phê bình, Chế Lan Viên có ƣu thế của một tâm
hồn nghệ sỹ vốn nhạy cảm với đời và nhạy cảm với thơ. Phê bình với Chế
Lan Viên không phải là minh hoạ cho một số nguyên lý rút ra từ sách vở có
sẵn mà là những tìm tòi, khám phá và trƣớc hết là những cảm nhận tinh tế,
những xúc động chân thành từ chính tâm hồn ngƣời viết phê bình. Lối phê
bình của Chế Lan Viên thiên về trực cảm. Ông không ngại bộc lộ trực tiếp
cảm xúc của mình khi đến với mỗi trang thơ. Hơn ai hết, Chế Lan Viên hiểu,
ngƣời nghệ sỹ có hai nhiệm vụ thống nhất với nhau, hoặc là kêu gọi ta đi đến
với mộng tƣởng, tƣơng lai, với những điều xa lạ ta hằng mơ ƣớc; hoặc là thức
tỉnh ta dậy trƣớc những cái ta có mà hằng quên đi, quen thuộc quá đến nỗi ta
không hiểu rằng cái ta đang có ấy cũng làm say sƣa mãnh liệt nhƣ những cái
ta hằng ao ƣớc. Cho nên khi đọc thơ Huy Cận, Chế Lan Viên đã thầm cảm ơn
ngƣời bạn thơ của mình đã cho ông yêu lại một cách mới mẻ những cảnh
quen thuộc gần nhƣ cũ kỹ này:
“Sông quen nhớ cả chuyến đò
Nhớ khi bến đá, xe bò kêu vang”
Thơ Huy Cận cứ thầm thì mãi trong lòng ta khi ông viết:
“Đƣợc tin con tập đi,
Cha mừng không ngủ đƣợc
Cha nằm đếm thầm thì
Từng bƣớc chân con bƣớc”.
Chế Lan Viên cho rằng, những điều Huy Cận viết là cái tình bình
thƣờng cho nên dễ lẫn với tầm thƣờng. Nhƣng điều đáng trân trọng chính là
những cái bình thƣờng đến tầm thƣờng ấy. Bởi “Làm cho ta nếm đƣợc vị ngọt
47
trong rƣợu, cái ấy đáng khen. Nhƣng làm cho ta nếm đƣợc vị ngọt trong nƣớc
ta uống hàng ngày, điều ấy càng đáng khen hơn nữa”[84, tr. 296]. Đọc thơ
Huy Cận, có lẽ Chế Lan Viên đã đƣợc gặp lại tâm hồn mình trong những nhịp
điệu của một cuộc sống đời thƣờng giản dị.
Đến với một câu thơ cũ của Huy Cận, Chế Lan Viên cũng tƣởng không
thể rứt ra:
“Sông mát tràn xuân nƣớc ngập bờ”
Và rõ ràng, ông đã cảm nhận câu thơ thần tình này của Huy Cận bằng cả một
tâm hồn sóng sánh cảm xúc: “Sông cũng mát, mát là mát, tràn là nƣớc mát
tuôn ra, mùa xuân rất mát đã đành, bờ đậm là màu cỏ đang làm mát. Câu thơ
mát toàn thân. Không phải ta chỉ lãnh hội một ý mát, mà ta còn cảm xúc một
cảm giác mát gần nhƣ da thịt” [84, tr. 298].
Thoát thai từ cuộc đời, điều gì khiến thơ ở lại với đời, có lẽ trƣớc hết
phải là những rung cảm tinh tế, chân thành nơi sâu thẳm tâm hồn ngƣời viết.
Chế Lan Viên đã cảm nhận đƣợc những rung cảm tinh tế, chân thành nơi hồn
thơ Huy Cận và ông cũng rất tự nhiên, để ngòi bút phê bình của mình hoà
cùng nhịp điệu rung cảm ấy, để đồng điệu, để trân trọng, để tin yêu.
Chế Lan Viên yêu thơ của nhân dân đầu tuyến lửa, những con ngƣời
làm thơ nhƣ đánh giặc, cấy cày, lấp hố bom, đi dân công tải đạn. Bởi một lẽ,
thơ của họ ngồn ngộn (chữ dùng của Chế Lan Viên) một chất sống, điều mà
Chế Lan Viên vẫn hằng mong mỏi về một thời điểm rực sáng của nó ở trong
thơ. Khi đọc tập Thơ chống Mỹ, cứu nƣớc, ông băn khoăn, “…Chƣa có bài
thơ nào tả trực tiếp một trận đánh. Phần nhiều là trƣớc và sau khi đánh, hành
quân, lá nguỵ trang. Mà phải đâu trận đánh không thể nào tả hay đƣợc. Những
bài thơ hay của Victor Hugo nhƣ Waterlo là tả trận đánh lúc đang diễn ra.
Đồng bào hoả tuyến ăn, ngủ, học, làm việc dƣới hầm trên một năm nay, chƣa
bài thơ nào ghi lại việc ấy.”[85, tr. 231]. Đọc thơ của nhân dân Vĩnh Linh –
48
Quảng Bình, những thiếu sót ấy đã đƣợc lấp đầy. Những bài thơ tả trận đánh
ở đây, đánh đồn, đánh máy bay B.52, đánh bằng pháo mặt đất, bắn tỉa…đều
đƣợc tả trực diện, lúc ta đang đánh, ta trong hành động. Với chất sống, chất
tình ngƣời quện vào cảnh và sự việc đã thành thơ rất tự nhiên. Chế Lan Viên
tỏ ra đầy hứng thú khi đọc những dòng thơ nhân dân tả những phút cuối cùng
của VO.10.A:
“Một thằng loạng choạng rồi rơi
Đâm đầu lộn cổ hết đời dò la
Hai thằng giặc lái ra ma
Nhƣ hai tảng đá trên đà đang rơi
Thân tàn rách nát tả tơi
Tõm ngay xuống suối làm mồi cá ăn”
Ông cảm phục ngƣời thi sĩ nhân dân, bởi: “làm sao mà với một bút
pháp dân giã, cổ truyền, anh lại có thể xử lý một đề tài hiện đại – một đề tài
của thế kỷ XX – tài tình nhƣ vậy?”[85, tr. 233]. Đọc thơ, nhận xét, đánh giá
về thơ, ông thƣờng nhấn mạnh đầu tiên cái ấn tƣợng rất trực cảm của riêng
mình. Giọng điệu sôi nổi, thái độ nhiệt thành, khiếu thƣởng thức nghệ thuật
tinh tế khiến những dòng bình luận văn chƣơng của Chế Lan Viên có sức hấp
dẫn rất riêng trong lòng bạn đọc.
Ở phƣơng diện này, chúng tôi nhận thấy phê bình của Chế Lan Viên có
nét tƣơng đồng với phê bình trực cảm của Hoài Thanh. Viết phê bình, Hoài
Thanh rất coi trọng cảm nhận ban đầu của bản thân khi tiếp xúc với một tác
phẩm nghệ thuật. Với quan niệm phê bình “lấy hồn ta để hiểu hồn ngƣời”,
đọc phê bình văn học của Hoài Thanh, ngƣời đọc có cảm giác đƣợc nghe
những lời thủ thỉ, tâm tình, ngọt ngào tha thiết. Nhƣ con tằm rút ruột nhả tơ,
ngƣời viết phê bình mỗi lần cầm bút là mỗi lần trải lòng mình trên từng trang
49
viết. Phê bình văn học của Chế Lan Viên và Hoài Thanh trƣớc hết là tấm lòng
của những con ngƣời vốn nặng lòng với nghệ thuật thi ca.
Điều làm cho phê bình, tiểu luận của Chế Lan Viên có vị trí quan trọng
trong dòng chảy chung của văn học nghệ thuật, không chỉ từ lối viết phê bình
trực cảm mà còn vì vẻ đẹp trí tuệ rất riêng của Chế Lan Viên thể hiện sâu sắc
trong từng trang viết.
Dù đối viện với đời hay đối diện với nghề, dù khi sáng tác hay khi phê
bình, ngƣời đọc đều thấy Chế Lan Viên đang suy ngẫm. Trƣớc hết, những suy
ngẫm, trăn trở, băn khoăn trong phê bình của Chế Lan Viên đều hƣớng về
một tâm điểm “Suy nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”. Hồ Sỹ Vịnh trong bài
viết Nghĩ về “Suy nghĩ và bình luận” của Chế Lan Viên đã nhận thấy: “Với
tâm hồn nhạy cảm và khả năng suy nghĩ sâu của một nghệ sỹ chân chính, anh
nhìn mọi hiện tƣợng xã hội, mọi biến cố của thời đại […] trên chỗ đứng của
một chiến sỹ văn hoá”[1, tr. 476]. Những đánh giá, nhận xét, phê bình của
Chế Lan Viên không chỉ phù hợp với sự phát triển của lịch sử, với lý tƣởng xã
hội chủ nghĩa mà còn bám chắc, cắm sâu vào truyền thống văn hoá, văn hiến
của dân tộc và đặc biệt là suy nghĩ của Đảng. Giữa lúc tình hình phê bình văn
học đƣơng thời còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tế, nhiều cây bút viết
phê bình thiếu tìm tòi suy nghĩ, thiếu hiểu biết từ lý luận đến thực tiễn, những
hiện tƣợng cực đoan, những xu hƣớng khen chê trái ngƣợc cùng xuất hiện,
phê bình của Chế Lan Viên có ý nghĩa định hƣớng đúng đắn cho phê bình và
sáng tác đƣơng thời. Trình bày tham luận tại Đại hội các nhà văn năm 1963,
Chế Lan Viên đã chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng tính và cá tính một cách đầy
sâu sắc: “Trong đời làm văn nghệ của chúng ta, cũng có khi ra hiểu lầm thế
này thế nọ. Có ngƣời thấy kim địa bàn luôn chỉ về hƣớng Bắc thì nghĩ rằng,
nó làm hẹp địa dƣ, hạn chế cuộc hành trình. Nhƣng chính nhờ có địa bàn ấy là
tha hồ đi xa không sợ lạc. Khi đã có Đảng tính sắc bén, thì chính là lúc chúng
50
ta dám cả gan mở rộng đề tài. Tha hồ cho ta đi trong cái rộng rinh của bể khơi
hay cái sâu thẳm của tình ngƣời, miễn là ở đâu chúng ta cũng giữ đƣợc con
mắt và tấm lòng của Đảng”[85, tr. 14]. Đọc tuyển thơ của các nhà thơ trẻ, Chế
Lan Viên vừa yêu mến, trân trọng vừa lên tiếng thúc giục “đốt cháy hơn nữa
ngọn lửa lý tƣởng trong thơ bạn trẻ”. Bởi khi gập tập sách lại, lắng nghe, Chế
Lan Viên thấy hình nhƣ sức nặng chƣa nhiều, hình nhƣ lòng ta chƣa thực sự
đƣợc đào sâu, trí ta chƣa thực sự đƣợc nâng cao. Tập thơ nói đến lý tƣởng xã
hội chủ nghĩa, lý tƣởng tiêu diệt đế quốc mỹ, giải phóng miền Nam.. “nhƣng
lý tƣởng ấy chƣa thành một sức mạnh thôi thúc”[85, tr. 100]. Chế Lan Viên
chỉ rõ yêu cầu của thời đại trong thơ: “Chúng ta cần thấy chất thép nhọn sắc
hơn và tiếng xung phong hào hùng hơn trong thơ các bạn. Phải cất cao hơn
tiếng nói của lý tƣởng cách mạng trong thơ”[85, tr. 101].
Đọc những trang phê bình tiểu luận của Chế Lan Viên, ngƣời đọc ghi
nhận một tấm lòng gắn bó với Đảng, với Cách mạng, ghi nhận sự trung thành
và nhiệt huyết trong mọi bài viết về chế độ chính trị xã hội. Suy nghĩ và bình
luận của Chế Lan Viên đƣợc soi sáng bằng lý tƣởng của Đảng. Trong suốt
hành trình sáng tạo của mình, Chế Lan Viên luôn tâm niệm: “Hãy hấp thụ lấy
sự suy nghĩ của Đảng, của dân tộc, của thời đại, để mỗi ngày nâng cao lên
tầm suy nghĩ, sáng tạo của mỗi chúng ta”[85, tr. 18].
Song khi nhìn nhận lại, chúng tôi thấy, phê bình của Chế Lan Viên là
thứ phê bình đề cao tƣ tƣởng chính thống, quan phƣơng, ca ngợi tính Đảng
một chiều. Đặt bút viết phê bình, điều ông quan tâm trƣớc hết là tƣ tƣởng, nội
dung của tác phẩm. Tác phẩm có phản ánh đƣợc đời sống hiện thực không?
Có thể hiện đƣợc đƣờng lối chính trị không? Có nêu cao đƣợc lý tƣởng Cách
mạng không?...Đây không phải chỉ là hạn chế riêng trong phê bình của Chế
Lan Viên mà là hạn chế chung của nền phê bình văn học một thời.
51
Khi đánh giá về thành tựu trong phê bình và tiểu luận của Chế Lan
Viên , chúng tôi nhận thấy, thành công của mỗi trang phê bình của Chế Lan
Viên không chỉ ở tính Đảng của tƣ tƣởng mà còn là do phƣơng pháp làm việc
của nhà phê bình. Bằng tƣ duy trí tuệ sắc bén, phê bình của Chế Lan Viên có
khả năng khái quát lớn, sức liên tƣởng và so sánh phong phú. Viết về đêm
liên hoan văn nghệ chống Mỹ diễn ra ở Nhà hát nhân Hà Nội, Chế Lan Viên
liên tƣởng đến một đêm vui mừng nhƣ thế ở giữa Sài Gòn, khi chúng ta đã
quét xong bọn bán nƣớc và cƣớp nƣớc. Đọc hồi ký của Nguyễn Nho Tuý, 55
năm trên sân khấu Tuồng, ông liên tƣởng đến thơ và công việc làm thơ. Từ
câu nói của Tổng bí thƣ Lê Duẩn khi đến thăm một khu triển lãm các mặt
trống đồng Ngọc Lũ, các pho tƣợng mới đào ở bến đò Kia (“Các chú phải để
lại cho trăm năm sau một cái gì nhƣ thế của chủ nghĩa xã hội”), Chế Lan Viên
đã ngỡ nhƣ câu ấy, Tổng bí thƣ đang nói cùng giới văn học nghệ thuật nƣớc
nhà…Ở nhiều bài viết, bằng sự suy nghĩ khá lắng sâu, cách diễn đạt cô đúc,
chắt lọc, sức liên tƣởng phong phú, Chế Lan Viên đã đem đến cho ngƣời đọc
những nhận thức sâu sắc, đa chiều trƣớc những vấn đề lịch sử, đời sống, xã
hội và nghệ thuật.
Chất trí tuệ trong phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên còn đƣợc thể
hiện ở những phƣơng diện nghịch lý, đối lập của vấn đề đƣợc ông nắm bắt và
thể hiện đầy sắc sảo. Nói chuyện với anh chị em văn nghệ sỹ Sài Gòn dự lớp
nghiên cứu chính trị và văn nghệ khoá II tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 3-
8-1976, Chế Lan Viên tìm cách tháo gỡ những rào cản tƣ tƣởng mà bấy lâu
những văn nghệ sỹ Sài Gòn vƣơng phải khi hiểu sai về xã hội chủ nghĩa, hiểu
sai về những nhà văn nhà thơ xã hội chủ nghĩa. Ông lý giải là vì sách báo ở
đây (Sài Gòn) đã nói sai quá nhiều về chủ nghĩa xã hội. Ông lấy chính mình
làm ví dụ. “Đến tôi cũng đƣợc sách báo ở đây cho đi cải tạo. Tôi vào đây có
đƣợc đọc tờ Văn học, số đặc biệt về tôi. Trong ấy có bài của anh Nguyễn
52
Phan viết nhƣ sau: “Năm 1961, Chế Lan Viên làm thơ ca tụng lắm cũng nhàm
lại bị bạn bè xỏ xiên nên cao hứng sáng tác thơ tình cảm mang tựa là Tình ca
ban mai. Bài thơ đăng ít lâu thì Đảng hỏi thăm ông. Và cán bộ bảo: “Sao đồng
chí Chế Lan Viên còn uỷ mị than mây khóc gió gọi chim nhớ rừng làm vậy?
Nếu thích rừng, Đảng sẽ cho đồng chí lên rừng đi lao động vài tháng để cải
tạo tƣ tƣởng.” Nghe thấy hai chữ cải tạo là sợ hãi, kể từ đó Chế Lan Viên hết
dám làm thơ tình”[85, tr. 598]. Gạt đi những lệch lạc, những xuyên tạc, Chế
Lan Viên khẳng định: “Từ đó đến giờ, tôi vẫn làm thơ tình, báo Văn học ạ!
[…] Nhƣng thơ tình của tôi thấm gì với của anh Tế Hanh, của anh Huy
Cận…Những lúc yêu tôi phải vay thơ của các anh ấy. Ngƣời vay, ngƣời cho
vay chƣa ai phải đi cải tạo bao giờ”[85, tr. 599]. Đem cái đúng đặt cạnh cái
sai, đem cái logic hiển nhiên đặt cạnh cái phi logic, vấn đề tự nó trở nên thông
suốt trong tƣ tƣởng của ngƣời đọc. Câu văn bình luận của Chế Lan Viên trở
nên hết sức khách quan, đầy tính thuyết phục. Cái cách ông đặt vấn đề rồi lại
lật xuôi, lật ngƣợc vấn đề thoăn thoắt khiến ngƣời đọc đôi khi cần một sự
tỉnh táo đáng kể để theo dõi những phán đoán của ông. Sức lôi cuốn của phê
bình Chế Lan Viên ít nhiều nằm ở phƣơng diện trí tuệ này.
Sức hấp dẫn trong mỗi trang phê bình của Chế Lan Viên ít nhiều còn
bởi ông có một lối viết hết sức tài hoa. Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Văn
của Chế Lan Viên không thuần phác, bình đạm. Có ngƣời đã ví văn anh với
ngƣời đàn bà mang nhiều trang sức. Phải nói ngay rằng ngƣời đàn bà này sắc
sảo và am hiểu thấu đáo nghệ thuật làm đẹp, nổi bật giữa đám ngƣời quá chân
chất hoặc diêm dúa lòe loẹt”[1, tr. 506]. Câu văn phê bình của Chế Lan Viên
không vì triết lý, bình luận, đánh giá mà khô khan. Hình ảnh và cảm xúc là ƣu
thế để Chế Lan Viên viết lên những câu văn giàu chất gợi, tinh tế và tạo ấn
tƣợng sắc nét trong lòng ngƣời đọc. Lãng mạn và hiện thực trong vẻ đẹp giao
hoà, bƣớc vào trang lý luận của Chế Lan Viên hoá cánh đồng lúa chín lung
53
linh sắc vàng và những dòng sông ăm ắp những dòng chảy kỳ diệu. “Hiện
thực khi đã đầy thì đẻ ra lãng mạn, nhƣ cánh đồng lúa chín đẻ ra một sắc
vàng, và nhƣ con sông Nhị kia ăm sắp nƣớc đầy, liền đẻ ra trong tâm hồn ta
những hình ảnh về máu đời, mạch đời, dòng đời kỳ diệu”[84, tr. 296]. Tâm
hồn thơ Tế Hanh, trong cảm nhận tinh tế và cách diễn đạt hình tƣợng của Chế
Lan Viên hoá “cây trinh nữ”, “tƣởng chỉ một tiếng thét to có thể làm cho anh
khép mình”[84, tr. 342]. Tuyển tập thơ Việt Nam (1945 - 1960) là thành công
lớn của thơ ca Việt Nam hiện đại, song Chế Lan Viên vẫn nhìn thấy ở đó
“lắm vấn đề”. Yêu cầu thơ cần phải mê hơn, ông đã hình tƣợng hoá chất gây
mê của nghệ thuật ấy bằng những câu văn say đắm lòng ngƣời: “Khi ấy con
mắt không phải chỉ đẹp mà còn biết đong đƣa, đầu tóc không phải chỉ sóng
nhƣ mây mà còn xổ cả hồn thơm ra trong gió, cái cây bên đƣờng không phải
chỉ có hoa, có lá, mà xôn xao một cái bóng bên chân, lửa cháy lên từ củi rồi
mà còn dợn lên ánh sáng và hình ảnh trên tƣờng, tỏa một hơi ấm ra trong
không khí”[84, tr. 374].
Viết văn là một cách đối thoại với bạn đọc. Chế Lan Viên có ý thức làm
cho cuộc đối thoại sinh động, hoạt bát, thú vị bằng trí tuệ sắc sảo, bằng sự am
tƣờng về nghệ thuật và hệ thống lý luận chặt chẽ. Đến với văn thơ, ông luôn
chú ý những vấn đề về phƣơng hƣớng chiến lƣợc của văn nghệ nhƣng không
quên khám phá, làm sống dậy vẻ đẹp của văn chƣơng. Chất suy tƣởng phong
phú kết hợp với năng lực cảm thụ văn chƣơng nhạy cảm, tinh tế; vốn sống
dày dặn và vốn lý luận sâu sắc; lối tƣ duy nghệ thuật độc đáo, vừa trí tuệ, vừa
trữ tình…tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức hấp dẫn riêng trong mỗi trang
phê bình của Chế Lan Viên. Đánh dấu một phong cách phê bình độc đáo
trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
54
Tiểu kết chƣơng 1
Hơn 50 năm cầm bút, sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên đã gặt hái
đƣợc không ít thành công. Là một nhà thơ lớn, một cây bút văn xuôi và bút ký
độc đáo, một nhà phê bình sắc sảo, Chế Lan Viên đã thực sự cống hiến hết
mình. Cầm bút viết phê bình, nhà thơ lớn Chế Lan Viên đã viết bằng tất cả
tình yêu nghề, niềm say mê nghệ thuật, những tâm huyết của ông trong nghề
cũng nhƣ những sôi nổi, chân thành, mạnh mẽ nơi ngòi bút tinh tế và nhạy
cảm của ngƣời nghệ sỹ. Ông không ngại khó mà hết lòng xây dựng phong
trào. Ông không ngại “nhiêu khê” mà thẳng thắn, đóng góp, bình luận thơ văn
nghệ thuật. Ông sợ sự tầm thƣờng, mờ nhạt sẽ đánh đồng cá nhân với tập thể
mà nỗ lực không ngừng để tạo dựng một phong cách phê bình độc đáo mang
đậm dấu ấn sáng tạo của riêng ông. 9 tập phê bình và tiểu luận xứng đáng là
thành tựu đáng tự hào trong sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên nói riêng
mà còn là tài sản đáng quý của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Có
thể coi Chế Lan Viên là một nhà phê bình văn học lớn của văn học nghệ thuật
Việt Nam hiện đại.
55
Chƣơng 2
QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ NHÀ THƠ VÀ NGHỀ
LÀM THƠ
2.1. Thi sĩ – thi nhân của thế giới siêu hình
Trƣớc Cách mạng, Chế Lan Viên gây ấn tƣợng với ngƣời đọc bởi tập
Điêu Tàn, xuất bản năm 1937, khi nhà thơ 17 tuổi. Tập thơ lạ khi nó không
nằm trong dòng thi tứ chung của Thơ mới. Ngƣời thi sĩ “ru theo trăng và vơ
vẩn cùng mây”, những nguồn thơ “đẫm tình và mộng” đã đƣợc thay thế bằng
ngƣời thi nhân cực đoan, mạnh mẽ, dị thƣờng, và một thế giới huyền bí với
yêu ma, sọ ngƣời, xƣơng trắng...Hoài Thanh nhận xét: “Quyển Điêu tàn đã
đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam nhƣ một niềm kinh dị”[44, tr. 239].
Không chỉ độc giả hôm qua mà chúng tôi tin rằng cả độc giả hôm nay và mai
sau vẫn “kinh dị” trƣớc một quan niệm về thi sỹ, con ngƣời của thế giới siêu
hình với những phẩm chất khác thƣờng mà Chế Lan Viên đã thể hiện trong
Điêu tàn.
Mở đầu bài Tựa cho tập Điêu tàn, Chế Lan Viên viết: “Thi sĩ không
phải là Ngƣời. Nó là Ngƣời Mơ, Ngƣời Say, Ngƣời Điên. Nó là Tiên, là Ma,
là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm
tƣơng lai. Ngƣời ta không hiểu đƣợc nó vì nó nói những điều vô nghĩa, tuy
rằng những cái vô nghĩa hợp lý”[80, tr. 23]. Đã là thi nhân, chƣa ai nhận mình
là ngƣời bình thƣờng. Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) trong thơ luôn tự cho
mình là một “trích tiên”, bị đày xuống hạ giới vì tội “ngông”. Xuân Diệu, nhà
thơ mới nhất trong các nhà thơ mới tự nhận mình là “Con chim đến từ núi lạ -
Ngứa cổ hót chơi”. Thế Lữ, Huy Cận, những nhà thơ tiêu biểu của phong trào
Thơ mới, ngƣời thì coi mình là “Ngƣời bộ hành phiêu lãng”, ngƣời lại thấy
mình là “Một chiếc linh hồn nhỏ - Mang mang thiên cổ sầu”. Do ảnh hƣởng
của chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu thực, Chế Lan Viên và những nhà thơ của
56
Trƣờng thơ loạn đã đẩy sự khác thƣờng của thi nhân lên đến tột cùng. Với
Chế Lan Viên, thi sĩ không phải ngƣời bình thƣờng và công việc của thi sĩ là
làm những việc phi thƣờng. Thi sĩ, ngƣời Mơ, ngƣời Say, ngƣời Điên, là Tiên,
là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu...là ngƣời thơ của thế giới siêu hình và bất định
(“Ai bảo giùm: Ta có có ta không?”). Với Điêu tàn, Chế Lan Viên đã có định
hƣớng siêu nhiên về bản chất của thi sĩ. “Thi sĩ không phải là Ngƣời”. Thi sĩ
“thoát hiện tại”, “xối trộn dĩ vãng”, “ôm trùm tƣơng lai”, nói những điều “vô
nghĩa hợp lý”. Chế Lan Viên trong quan niệm của mình đã siêu hình hoá mọi
trạng thái, mọi phẩm chất, mọi cảm thức về không gian, thời gian, về ý nghĩa
cuộc sống của nhà thơ.
Tất cả những hình tƣợng về ma quái, yêu tinh, xƣơng máu, trăng
sao...trong Điêu tàn chính là kết quả tƣ duy nghệ thuật của một chủ thể siêu
nhiên. Đối lập nhà thơ với con ngƣời bình thƣờng, đẩy thơ ra khỏi cuộc sống
thực tại, các nhà thơ trong Trƣờng thơ loạn và tiêu biểu là Chế Lan Viên đã tự
xác lập một lãnh địa thơ riêng. Vùng thơ ấy bị ngƣời đời “chê là giả dối”,
“không chân thật”, “những cái vô nghĩa”. Song với Chế Lan Viên, đó là
“những cái vô nghĩa hợp lý”, những điều “giả dối với ngƣời”, còn với nhà
thơ, ngƣời thi sĩ “không phải là Ngƣời” kia thì “cái gì nó nói đều có cả”. Điêu
tàn của Chế Lan Viên là một thế giới hƣ cấu, tuởng tƣợng, siêu hình. Cái đẹp
thuần tuý, mang màu sắc duy mỹ trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ
đƣơng thời không còn xuất hiện ở đây. Đọc Điêu tàn, ngƣời đọc hình dung về
một ngƣời thi sỹ với khả năng siêu nhiên, khi anh ta đƣa thế giới thơ xuống
đến tận cõi âm mờ mịt, qua một bãi tha ma đầy sọ ngƣời, ma quỷ, yêu
tinh...sau đó trở về cõi ta rồi bay lên vũ trụ. Có một nƣớc non Chàm rên rỉ,
khóc than trong những đổ nát đến rợn ngƣời của Điêu tàn. Nhiều ngƣời cho
rằng, Chế Lan Viên sinh ra ở Bình Định, những chứng tích u trầm, những
tháp Chàm lẻ loi và bí mật trên nền đất cũ Chiêm Thành đã thành nỗi ám ảnh
57
trong tâm trí của chàng thi nhân trẻ tuổi. Điều này đúng, nhƣng chƣa đủ. Khi
nhìn lại những đổi thay trên chặng đƣờng thơ của chính mình, Chế Lan Viên
đã cắt nghĩa căn nguyên sâu sa của tƣ tƣởng siêu hình trong ngƣời thi sỹ thời
kì Điêu tàn, đó là những cơn mê “khó tỉnh” từ các nền tôn giáo mà ông đã trót
đắm say. “Thích Ca! Jésus! Khổng Khâu! Lão Tử! Tôi đều thành tâm cúi đầu
trƣớc uy linh huyền diệu của các Ngài!”[84, tr. 20]. Con ngƣời sầu khổ đau
thƣơng tìm đến những “uy linh huyền diệu” mong cầu một sự cứu rỗi. “Có ai
đem thánh giá đến lòng chăng? Khi lòng tôi sụp đổ thành một huyệt sâu,
chiều nay, ở đó không một ai đến chết”[84, tr. 20]. Khi lòng ngƣời đã không
còn niềm tin để bám víu, Thích Ca, Jésus, Khổng Khâu, Lão Tử, đều trở
thành cõi siêu độ linh thiêng. Song không phải lúc nào, con ngƣời thi sĩ cũng
có thể nƣơng nhờ nơi ấy. Trong những chơi vơi, thi sĩ rơi vào cõi u mê tăm tối
của ảm đạm và thê lƣơng. Nơi ấy hƣ vô, siêu hình, bất định bởi nó xa lạ với
thế giới con ngƣời.
Thế giới siêu hình ấy đƣợc sáng tác trong một trạng thái bất thƣờng.
Trong Tựa cho Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng đã nói với ngƣời đọc về trạng
thái bất thƣờng ấy: “Hàn Mặc Từ nói: làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ
là sự phi thƣờng”. Điên ở đây là một trạng thái sáng tạo. Khi ngƣời nghệ sỹ
rơi vào cơn sáng tạo bất thƣờng, miên man, sẽ khƣớc từ mọi yếu tố của tƣ duy
lý trí. Cảm xúc đƣợc đẩy đến tột cùng. Ngƣời thi sỹ “gào vỡ sọ”, “thét đứt
hầu”, “khóc trào nƣớc mắt”, “cƣời tràn cả tuỷ là tuỷ”. Có thể khẳng định, tột
cùng của cảm xúc chính là nguyên tắc mỹ học của trƣờng thơ loạn mà Chế
Lan Viên đã cất cao giọng điệu để tuyên ngôn.
Giống nhƣ biết bao các nhà thơ của phong trào Thơ mới, Chế Lan
Viên cũng đã ý thức sâu sắc về bản ngã. Trên hành trình đi tìm chính mình,
trong đêm trƣớc của cuộc Cách mạng tháng Tám, đã không ít ngƣời rơi vào
trạng thái hoang mang, không ít ngƣời đi lạc trong những cõi mơ, cõi mộng.
58
Còn Chế Lan Viên thì lại đi mãi về phía siêu hình, huyền bí, hƣ vô. Bƣớc
chân lạc đƣờng nên càng mê mải. Bài Tựa quyển Điêu tàn đƣợc coi là tuyên
ngôn nghệ thuật của một Trƣờng phái thơ. Những ngƣời thơ của Trƣờng phái
thơ ấy tự đối lập bản thân với con ngƣời, có thể là bất kể chủ thể siêu hình nào
(Ma, Quỷ, Tiên, Tinh) nhƣng không phải là ngƣời. Đem quan niệm về nhà thơ
đƣợm màu siêu hình ấy, Chế Lan Viên bƣớc vào bầu ánh sáng của Cách
mạng. Sự hoà nhập với tƣ tƣởng nghệ thuật cách mạng thực sự không phải dễ
dàng, cần ở ngƣời nghệ sỹ một bản lĩnh cứng cỏi và trên hết là một trách
nhiệm lớn lao với nghề, với thơ.
2.2. Thi sĩ – Nhà thơ chiến sỹ
2.2.1. Nhà thơ với vấn đề “Sống và viết”
“Khi Cách mạng tháng Tám đến thành phố Quy Nhơn, mỉa mai thay tôi
đang tắm biển, triền miên trong cái biển thiên nhiên, với tôi, đó cũng là biển
siêu hình”[85, tr. 610]. Đây là những lời tâm sự của Chế Lan Viên trong bài
nói chuyện với anh chị em văn nghệ sỹ Sài Gòn dự lớp nghiên cứu chính trị
và văn nghệ khoá II tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1976. Nhìn lại những
ngày đầu tiên náo nức bƣớc theo ngọn cờ của Đảng, Chế Lan Viên không
tránh khỏi cảm giác mặc cảm. “Sao mình không đến với Đảng khi đảng viên
chỉ có nghĩa là bị tù, bị bắn và bây giờ Đảng là ngƣời chiến thắng thì mình
mới đến xin vào?”[85, tr. 471]. “Tôi đang trong cơn mê của tôi thì Cách mạng
về. Trong khi tôi đang say một Đức Chúa Trời tạo ra thế giới bằng Lời thì
Nhân dân đã tạo ra thế giới bằng Hành động. Trong khi tôi suy tƣ, nghĩ,
không làm thì dân tộc đã làm”[85, tr. 615]. Nhìn lại chặng đƣờng đi lạc,
những dòng thơ tự phán xét của Chế Lan Viên không tránh khỏi những băn
khoăn day dứt: “Đi xa về hoá chậm – Biết bao là nhiêu khê”. Những câu hỏi
trở đi trở lại (Ta là ai? Ta vì ai?) nhắc về ý thức trách nhiệm lớn lao với đời,
với nghề của một nhà thơ. Vì vậy, khi thấy ngọn cờ cứu nƣớc, Chế Lan Viên
59
đã “Đi lẹ, đi ngay cho kịp sự sống vĩ đại đang ào ào trƣớc mắt. Đi lẹ, đi ngay
để bù vào sự chậm trễ, trì trệ của mình”[85, tr. 611]. Nhờ có Đảng, nhờ có
nhân dân, Chế Lan Viên thực sự đã trở thành “một ngọn sóng, một vị mặn,
một hạt muối trong biển đời vô tận”[85, tr. 611].
Từ đây, Chế Lan Viên và văn nghiệp của ông thực sự gắn bó với sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Ông trở thành nhà thơ chiến sỹ trên mặt trận văn
hóa nghệ thuật. Từ những định nghĩa siêu hình về ngƣời thi sĩ, từ những trạng
thái tột cùng của cảm xúc, từ những bất định hƣ vô của một thế giới nghệ
thuật xa lạ với tƣ duy lý tính thông thƣờng, giờ đây, Chế Lan Viên tuyên bố
rõ nét về một quan niệm hoàn toàn ngƣợc hẳn: “Cảm xúc, cảm tình là chất
liệu quý báu nhƣng không vì thế mà chúng ta quên mất sự việc là cái đẻ ra nó
(…). Vả chăng sau này muốn truyền cảm cho ngƣời đọc, cố nhiên không phải
chỉ nói cái cảm xúc của ta mà phải nói cả sự việc. Nghe cảm xúc chƣa hẳn
độc giả đã hình dung lại sự việc. Nhƣng nghe sự việc nhất định độc giả sẽ nhờ
đó mà cùng ta cảm xúc”[84, tr. 92]. Khi cái tôi đã hoà trong cái ta chung, khi
yếu tố cá nhân tìm thấy sự thống nhất trong tập thể, khi cái chủ quan hài hoà
với cái khách quan, Chế Lan Viên hiểu rõ, sự sống dạt dào chính là mạch
nguồn của thơ ca, ngƣời thi sĩ cần sống để viết và viết để sống. Đó là một yêu
cầu khắt khe của nghệ thuật.
Trong những trang phê bình, tiểu luận của mình, vấn đề “sống và viết”
đƣợc Chế Lan Viên trao đổi nhiều lần qua nhiều bài viết. Trong tập Kinh
nghiệm tổ chức sáng tác, vấn đề sống đƣợc ông coi là phƣơng pháp tìm tài
liệu hiệu quả nhất. Trong tập Nói chuyện văn thơ, vốn sống thực tế đƣợc
Chàng Văn coi là “cái bột cho ta gột nên hồ”. Trong những câu chuyện Vào
nghề, Sự sống và tác phẩm là vấn đề đầu tiên đƣợc ông bàn đến. Sống và viết
là bài tiểu luận mở đầu cho tập Phê bình văn học… Điều đó thể hiện tầm quan
60
trọng của vấn đề sống trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mỗi ngƣời nghệ
sỹ, trong đó có Chế Lan Viên.
Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, Nam Cao viết nhật ký Ở
rừng (1948) với quan niệm “Sống đã rồi hãy viết”. “Sống” trong quan niệm
của Nam Cao đƣợc hiểu là “góp sức vào công việc không nghệ thuật” để
“chuẩn bị cho một thứ nghệ thuật cao hơn”. Cũng với quan niệm sống ấy, Chế
Lan Viên đặt ra vấn đề “Sống và viết”. “Sống” với Chế Lan Viên tức là tham
gia trực tiếp vào hoạt động phong trào, không phải chỉ ngồi trong phòng văn
mà phải bƣớc ra cuộc đời, lao động và chiến đấu. Chúng tôi cần phải khẳng
định rằng, đây không phải là quan niệm của riêng Chế Lan Viên mà là đòi
hỏi, là yêu cầu của thời đại đối với ngƣời nghệ sỹ đƣơng thời. Có một thế hệ
những ngƣời nghệ sỹ sẵng sàng từ bỏ “cuộc đời riêng nhỏ hẹp” để lên đƣờng,
dấn thân, hòa mình, để “sống” và để “viết”.
Hiện thực cuộc sống, chiến đấu hào hùng của dân tộc “nhƣ một bài học
chép chƣa thành mà chúng ta cũng nhƣ những cậu học trò đọc chƣa thạo”[84,
tr. 70]. Làm văn ngày nay không phải là cách ngƣời nghệ sỹ bóp méo hay thổi
phồng sự thực, nói bóng nói gió về cuộc đời. Làm văn ngày nay là hành trình
ngƣời nghệ sỹ từ sự thực mà đi để trở về với sự thực. Trong sự thực có cái dở,
có cái hay, có cái đƣơng vƣơn lên, có cái đang đi xuống, nếu chúng ta không
sống giữa sự thực để viết và thể hiện sự thực của cuộc đời thì tác phẩm của
chúng ta thể hiện cũng không xong mà cổ vũ cũng không thành. Bởi vậy, Chế
Lan Viên cho rằng, vấn đề đặt ra đối với mỗi ngƣời nghệ sỹ, không phải chỉ
ngƣời nghệ sỹ hôm nay mà là ngƣời nghệ sỹ của muôn thời, trƣớc nhất là vấn
đề sống. Sống để tích luỹ vốn. Sống định hƣớng tƣ tƣởng, cảm xúc. Và hơn
tất cả, mục đích cuối cùng chính là sống để viết, để biến mỗi trang viết của
mình thành vị “muối” của đời, để khi trở lại với đời có thể góp thêm vị mặn
cho cái biển đời mênh mông ấy.
61
Sống và viết là hai quá trình gắn bó khăng khít, chi phối lẫn nhau. Sống
là hoạt động cách mạng, là sống cuộc sống của ngƣời cách mạng, “Sống bắt
phải viết và viết bắt phải sống”[84, tr. 484]. Hiện thực cuộc sống căng đầy
những buồn vui, hạnh phúc, sầu thảm, bi thƣơng…ngƣời nghệ sỹ trên hành
trình kiếm tìm vốn để viết chắc chắn không ít lần đặt bút viết trong trạng thái
thúc bách của cảm xúc. “Bọn Ngô Đình Diệm dùng thuốc độc giết một ngàn
bà con ta ở miền Nam. Không thể im đƣợc! Không thể không viết đƣợc! Phải
trút sự phẫn nộ, căm thù của ta lên đầu quân địch! Liên Xô phóng tên lửa lên
mặt trăng! Không thể không viết đƣợc. Phải đem tất cả lòng vui sƣớng của ta
truyền cho chung quanh, phải viết ơn Liên Xô , biết ơn Đảng, biết ơn khoa
học, phải ca tụng sự thông minh tài trí của con ngƣời”[84, tr. 485]. Có khi
không phải một vấn đề thời sự nóng hổi nào thúc đẩy ta viết cả. Mà là do ta
đã tìm hiểu một vấn đề đến lúc đầy đủ, đến lúc chín muồi, cốc nƣớc đầy và nó
phải tràn ra. Thế là phải viết. “Cái quả chín muồi và nó tìm một trang giấy
trắng mà rơi”[84, tr. 485].
Theo Chế Lan Viên, chỉ có đặt bút viết mới biết mình thiếu cái gì. Và
khi ấy mới đặt ra vấn đề sống và tích luỹ. “Có sống và tích luỹ cho chín muồi
mới thấy thật cần viết. Và có thấy cần viết luôn luôn mới tích luỹ luôn
luôn”[84, tr. 486]. Đó là vòng tròn khép kín của quá trình sáng tạo nghệ thuật.
Trong quá trình sáng tạo ấy, sống và viết không phải là điểm khởi đầu và
điểm kết thúc mà là những đòi hỏi không ngừng của nghệ thuật.
Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Không có thiên tài nào – huống gì
là một tài năng, huống gì là một khả năng bình thƣờng – tách rời khỏi đồng
loại, khỏi chiến đấu mà thành thi sỹ”[84, tr. 240]. Nếu không có sự sống chắp
cánh, ngƣời nghệ sỹ cũng chỉ giống nhƣ “con diều giấy đập đôi cánh khô bất
lực ở trên tƣờng”[84, tr. 240]. Theo Chế Lan Viên, con diều ấy, muốn có sự
sống thật phải ở giữa bầu trời, ngƣời nghệ sỹ muốn tung đôi cánh phải sống
62
với những hoạt động cách mạng. Phải sống để hấp thu cái không khí của thời
đại, lƣu giữ bằng những ghi chép trên giấy tờ và những rung động của cảm
xúc, để rồi chất chứa trong tim, trong khối óc, trong tâm hồn biết bao nhiêu
hình ảnh, sự việc, nhân vật mà chúng ta đã nghe đƣợc, thấy đƣợc, biết đƣợc.
Tất cả đó chính là nguồn tài liệu vô giá của ngƣời nghệ sỹ. Nguồn tài liệu
phong phú ấy chỉ có thể có đƣợc khi ngƣời nghệ sỹ ấy đã sống rất phong phú
và mãnh liệt. Nói cách khác, sống chính là phƣơng pháp tìm tài liệu hiệu quả
nhất mà trƣớc hết và sau cùng ta phải dùng đến.
Nhiều ngƣời cho rằng, không cần đến sống tận nơi cũng sáng tác đƣợc.
Chỉ cần thu thập thật nhiều tài liệu, rồi xếp đặt lại, tƣởng tƣợng thêm là có thể
dựng nên tác phẩm. Họ dẫn chứng hùng hồn rằng những nhà viết chuyện lịch
sử, không sống ở thời xƣa thế mà dùng tài liệu và trí tƣởng tƣợng cũng tái tạo
đƣợc nhiều cảnh lịch sử. Song nếu ai đã yêu văn chƣơng, tâm huyết với thi ca
nghệ thuật, có thể thấy ngay rằng: Cái độc đáo, cái mê hồn của thi ca không
đơn giản là ở những gì nó thể hiện, nó phản ánh mà là ở cái nó gợi lên, nó
khơi lên, nó làm dậy lên trong lòng ngƣời đọc. Đó là cái khả năng lây lan cảm
xúc diệu kỳ của thi ca. Điều kỳ diệu ấy chỉ có thể có đƣợc khi tác phẩm thi ca
tạo đƣợc xung quanh nó một bầu không khí nghệ thuật riêng. Chỉ có sống
thực, và nhờ sự sống thực ấy mà kích thích sự sống của bản thân nhà thơ để
nhờ đó mà tạo nên tác phẩm. Bởi một lẽ: “ Một đám cháy ở Đô Lƣơng vì lửa
nấu bếp vô ý có khác gì một đám cháy vì lửa thiêu nhà của giặc ở Bình Trị
Thiên: cũng một ngọn lửa, cũng dăm bảy đống tro mun. Tuy vậy, cần đến tận
Bình Trị Thiên để thấy đƣợc một đống tro mun nhƣ thế. Vì ở đấy ngoài đống
tro mun, ta còn thấy cả căm thù. Thấy tro mun chỉ tả đƣợc tro mun, nhƣng
thấy căm thù, ta còn vẽ đƣợc nhiều nét mà trong đống tro mun ta không
thấy”[84, tr. 89].
63
Nếu nhƣ có ngƣời dƣơng dƣơng tự đắc rằng, không cần đến tận nơi
cũng có thể sáng tác đƣợc thì lại có ngƣời tâm sự với Chế Lan Viên về nông
nỗi: “Tôi là anh bộ đội, nhƣng mỗi lần viết về anh bộ đội lại rất bí”[84, tr.
146]. Có nghĩa là, dù đã sống rất thực, đã trải nghiệm sâu sắc, nhƣng con
ngƣời nghệ sỹ ấy vẫn không thể cầm bút. Bởi lẽ, dù anh đã sống thực sự
nhƣng sự sống ấy vẫn là chƣa đủ để tạo vốn cho thi ca. Vì sáng tạo nghệ thuật
có quy luật riêng của nó, cuộc sống không thể cứ nguyên xi nhƣ thế bƣớc vào
trang sách. “Mà thƣờng phải làm nhƣ Lỗ Tấn, ghép một cái miệng ở Triết
Giang với một cái mặt ở Bắc Kinh vào một bộ y phục ở Sơn Tây vậy. Hay
nhƣ Maxime Gorki dạy: “Phải thấy hàng chục, hàng trăm công chức, rồi mới
tạo ra một công chức kết tinh của trăm ngƣời kia”[84, tr. 147-148]. Chỉ có
những vốn sống nhƣ thế mới gỡ đƣợc thế bí của ngƣời viết văn.
Phản ánh hiện thực là thuộc tính của văn nghệ. Trƣớc hiện thực kháng
chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội lớn lao, phản ánh hiện thực đã đƣợc xem
là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá văn nghệ. Quan niệm một thời ấy đòi hỏi
ngƣời nghệ sỹ phải có vốn sống, phần nào hạ thấp vai trò của tài năng và cá
tính sáng tạo cũng nhƣ yếu tố xuất thần trong nghệ thuật. Chế Lan Viên một
phần rất đề cao vốn sống, mặt khác ông không cực đoan nhất nhất cho rằng,
ngƣời nghệ sỹ phải dấn thân, phải hòa nhập, phải thể nghiệm mới có thể sáng
tác.
Đồng thời với việc đặt ra vấn đề sống với ngƣời nghệ sỹ, Chế Lan Viên
thẳng thắn phê bình những nhận thức sai lầm trong vấn đề sống và viết. Để
viết, không nhất định ngƣời nghệ sỹ phải sống và thể nghiệm bản thân. Bởi có
nhiều ngƣời vốn là kĩ sƣ, bác sỹ, là giáo viên, công nhân, bộ đội…họ đã sống
một cuộc đời rất thực, yêu văn chƣơng và muốn tự mình viết nên những tác
phẩm nghệ thuật của chính mình, về chính mình mà thất bại. Là một ngƣời
nghệ sỹ dày dạn kinh nghiệm, Chế Lan Viên đã thật chân thành và cởi mở
64
truyền nghề, dạy nghề. Chỉ cho những ngƣời mới bƣớc vào nghề hiểu sống
nhƣ thế nào để có thể cầm bút viết.
Nếu ai đó hỏi Chế Lan Viên: “Sống là gì?”, ngƣời nghệ sỹ ấy sẽ không
ngần ngại mà nói rằng: “Sống không phải là không chết”[84, tr. 240]. Sống
không đơn giản chỉ là sự tồn tại. Vấn đề ở đây là cách sống của ngƣời nghệ
sỹ, sống sao cho có thể sáng tác, và không dừng lại ở đó mà còn sống sao cho
có thể sáng tác những tác phẩm không chỉ là nghệ thuật mà còn là cuộc sống.
Chế Lan Viên chỉ rõ: “Sống không phải chỉ đơn giản là có mặt trong quần
chúng, hay nhƣ ta thƣờng nói là “đi vào quần chúng”. Rót dầu “vào” nƣớc thì
nó không “vào” mà nó lại “ra”. Đứng gần một cánh đồng lúa, nhƣng nếu gió
thổi trái mùi hƣơng, thì ta có ngửi thấy gì đâu. Phải cùng một “chiều” chiến
đấu, nghĩ suy với quần chúng, thì ta mới thấy đƣợc quần chúng”[84, tr. 241].
Điều Chế Lan Viên yêu cầu ở đây chính là tƣ tƣởng, tình cảm của ngƣời nghệ
sỹ trong quá trình trải nghiệm thực tiễn. Muốn tả ngƣời nông dân, không phải
chỉ xắn quần lội xuống bùn, cắm vài ba nhánh mạ là xong. Đó mới chỉ là cái
sống ở bên ngoài. Khi ngƣời nghệ sỹ cùng ngƣời nông dân cấy cày giữa cái
nắng tháng sáu chói chang, những nhọc nhằn cùng trải nghiệm, những gian
lao cùng vƣợt qua, yêu thƣơng trân trọng cứ dâng trào trong lòng ngƣời nghệ
sỹ. Khi ấy, trong lòng ngƣời nghệ sỹ đã có ngƣời nông dân, cảm xúc mãnh
liệt thôi thúc nhà thơ phải viết, câu chữ cứ thế ùa về thật tự nhiên. Sự sống
của ngƣời nghệ sỹ khi ấy mới thật sự đúng nghĩa.
Sống không có nghĩa là phải đi thật nhiều, đi rộng, đi xa. Nhƣng không
phải ai yêu nghệ thuật cũng có thể có điều kiện để đi khắp đó đây. Muốn thay
đổi những quan niệm có phần cực đoan về vấn đề trải nghiệm sự sống của
không ít cá nhân, Chế Lan Viên nhận định: “Dù ở nơi nào vẫn phải đi vào
cuộc sống, tìm hiểu chung quanh. Nếu đi sâu vào một nơi, hiểu rõ một nơi, thì
lại còn lợi gấp mấy cái kiểu “đi rất nhiều, nhƣng sống chẳng bao nhiêu”, chữ
65
Pháp gọi là “Đá lăn không bám tí rêu”, mà ta gọi là “chuồn chuồn đạp nƣớc”
vậy (…) Đời dù sống một chỗ, mà sống cho thật “cừ” thì làm sao mà mòn
đƣợc”[84, tr. 154].
“Vấn đề Đất đặt ra trƣớc vấn đề Hoa hồng. Vấn đề Sống đặt ra trƣớc
vấn đề Nghệ thuật, tác phẩm”[84, tr. 239]. Sống để viết và viết để sống, đó
không chỉ là tâm niệm sâu sắc trong đời thơ của ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên
mà còn là yêu cầu cần thiết đối với mỗi ngƣời nghệ sỹ. Trong thời đại Cách
mạng, ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên đã thực sự sống hết mình với hiện thực,
thực sự đã hòa nhập, thực sự đã dấn thân lao động và chiến đấu. Đồng thời,
ông không rơi vào cực đoan khi đặt ra vấn đề sống. Với ông, lao động tƣ duy
không đơn giản chỉ là thể nghiệm bản thân. Vấn đề sống đối với ngƣời nghệ
sỹ là quan trọng, nhƣng bên cạnh đó, làm nghệ thuật còn cần có tài năng, cảm
xúc mãnh liệt… Nghệ thuật không đơn thuần chỉ là phản ánh hiện thực, nó là
sự nhận thức, nghiền ngẫm về hiện thực. Điều đó lý giải hiện tƣợng Điêu tàn
của chính Chế Lan Viên khi ông mới 17 tuổi, vốn sống rõ ràng không nhiều
nhƣng đã có thể làm “sửng sốt” cả một nền thơ.
2.2.2. Nhà thơ là người nghệ sỹ giàu cá tính sáng tạo
Vấn đề cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật là một trong những
vấn đề lý luận quan trọng của văn học kim cổ, Đông, Tây. Là một nhà thơ, lại
là ngƣời có tƣ duy lý luận sắc sảo, Chế Lan Viên có ý thức rất rõ về vấn đề
này. “Nhà thơ vừa đi vào thực tế của dân tộc, của thời đại, lại vừa phải “sáng
tạo”, làm nên cuộc đời của riêng mình”[84, tr. 248]. Đó là điều Chế Lan Viên
luôn đòi hỏi trong hành trình sáng tạo nghệ thuật.
Trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, văn học vận động và phát
triển theo hƣớng Cách mạng, gắn bó sâu sắc với vận mệnh của dân tộc. Ở
giữa dòng chung ấy, Chế Lan Viên hiểu rằng: “Cách mạng là cái vốn chung
của tất cả chúng ta, nhƣng nó cũng đáng yêu là nó làm giàu thêm cho chúng ta
66
nhiều phong cách riêng để đi đến tiếp thu, yêu mến cái kho tàng chung
ấy”[84, tr. 380]. Khơi lên cá tính sáng tạo giữa một nền văn học của sự thống
nhất cao độ giữa cái tôi và cái ta, giữa ý thức cá nhân và ý thức cộng đồng,
giữa cái riêng và cái chung…là một vấn đề khiến Chế Lan Viên băn khoăn
trong mỗi trang tiểu luận, phê bình. Cá tính sáng tạo là vấn đề mang dấu ấn
dân tộc, thời đại và xã hội, đồng thời đó cũng là những nét riêng biệt độc đáo
của tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh đời sống. Bàn đến những
điều này, có khi Chế Lan Viên đặt ra thành một vấn đề lớn đối với cả nền văn
học (Trong bài Mấy vấn đề về thơ qua Tuyển tập thơ Việt Nam 1945 – 1960,
trích từ tập Phê bình văn học); có khi là những câu trả lời thoả mãn những
thắc mắc của bạn đọc trong tập Nói chuyện văn chƣơng; có khi là những điều
suy nghĩ sâu sắc mà thấm thía buộc ngƣời nghệ sĩ phải cầm bút viết nhƣ trong
bài Suy nghĩ trong những điều Đảng nghĩ, trích từ tập Suy nghĩ và bình luận,
bài Tự do và ràng buộc trong tập Từ gác Khuê Văn đến Quán Trung
Tân…Bằng tƣ duy lý luận sắc sảo, bằng kinh nghiệm nghệ thuật dạn dày, Chế
Lan Viên đã đem đến cho ngƣời đọc những nhận thức quý giá về tầm quan
trọng của cá tính sáng tạo đối với ngƣời nghệ sĩ.
Cá tính sáng tạo là phẩm chất riêng của mỗi ngƣời nghệ sĩ, đánh dấu sự
trƣởng thành của một đời thơ và của một nền thơ. Ngƣời nghệ sĩ chân chính là
ngƣời tạo dựng đƣợc dấu ấn riêng ấy. Vì thế, Chế Lan Viên đòi hỏi : “Nền thơ
chung cần có rất nhiều cá tính riêng”[84, tr. 380]; “Cần có nhiều phong cách
trong thơ”[84, tr. 579]. Nếu nhƣ cuộc sống luôn đòi hỏi sự xuất hiện những
nhân tố mới mẻ thì nghệ thuật chân chính, nghệ thuật phục vụ đời sống, vì thế
càng đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng của ngƣời nghệ sĩ. Tài năng của ngƣời
nghệ sĩ là đƣa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua
những phƣơng thức, phƣơng tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của
ngƣời sáng tạo. Khi đọc Tuyển tập thơ Việt Nam 1945 – 1960, Chế Lan Viên
67
đặc biệt hào hứng khi phát hiện ra những cá tính sáng tạo độc đáo của từng
nhà thơ trong nền thơ chung của dân tộc. “Chàng Văn thích Tế Hanh, Tố Hữu
ở chỗ các anh trầm lặng. Chàng Văn yêu cái khỏe của Xuân Diệu, của Hoàng
Trung Thông, Chàng Văn thích cái suy nghĩ của Huy Cận, Nguyễn Đình Thi,
Phạm Hổ”[84, tr. 581]. Ông tâm sự: “Sau một sự suy nghĩ của Huy Cận,
Nguyễn Đình Thi, ta muốn có một cái nhìn nhẹ nhõm tƣơi mát của Bàng Sỹ
Nguyên; bên cạnh cái ngọt ngào nhƣ suối của Tố Hữu, Tế Hanh, tôi vẫn thèm
sự trục trặc gân guốc của Trần Mai Ninh; và nếu có cái nhìn giản dị đáng mến
của Trần Hữu Thung, Anh Thơ thì cũng phải có cái nhìn phức tạp của Nguyên
Hồng”[84, tr. 380]. Cùng trƣởng thành từ một nền thơ chung, nhƣng mỗi
ngƣời thi sĩ đã cảm nhận và viết về hiện thực đời sống ấy với một con mắt
riêng, với một lối tƣ duy nghệ thuật riêng, với một giọng điệu riêng không
trộn lẫn. “Nhờ có mỗi nhà thơ nhƣ thế, ta lại có thêm một cách riêng để nhìn
sự vật”[84, tr. 380]. Nền văn học Cách mạng của Việt Nam, nhờ có những
nhà thơ nhƣ thế đã đem lại cho ngƣời đọc những mỹ cảm dồi dào. Nó không
chỉ đánh dấu sự trƣởng thành của một nhà thơ mà nó còn đánh dấu sự trƣởng
thành của một nền văn học.
Dấu ấn dân tộc và thời đại trong cá tính sáng tạo là vấn đề không phải
ngƣời nghệ sĩ nào khi hoà mình vào dòng chảy thi ca cũng có thể có đƣợc
nhận thức rõ ràng. Trên hành trình hồ hởi cất bƣớc theo Cách mạng, Chế Lan
Viên đã nhiều lần phải đối diện với chính mình, đối diện với con ngƣời nghệ
sỹ cũ trong mình (ngƣời nghệ sỹ ngỡ đã chết rồi), để tìm câu trả lời cho nỗi
băn khoăn: “Rồi đây có còn có thơ hay, có còn tự do trong nghệ thuật nữa hay
không?”[85, tr. 629]. Đây không chỉ là những băn khoăn của riêng Chế Lan
Viên. Thế hệ các nhà thơ, nhà văn trẻ trƣớc Cách mạng, trên hành trình hoà
nhập ít nhiều đã trù trừ do dự bởi vì lẽ ấy. Hay nói khác đi, thì chính là họ sợ
rằng, khi đem cái tôi hoà vào với cái ta chung, cái tôi sẽ mất đi, cá tính sáng
68
tạo sẽ không còn nữa. Khi các nhà thơ đều thuộc về một thời đại, cùng chung
mục đích, cùng đi theo một đƣờng lối, cùng một thế giới quan thì phong cách
tác giả hay cá tính sáng tạo sẽ chỉ còn là những giá trị lạc lõng?
Trƣớc những nhận thức ấy, Chế Lan Viên đã thẳng thắn, mạnh mẽ và
cƣơng quyết phân tích, diễn giải những hƣớng đi của nghệ thuật trong thời đại
Cách mạng. Trong bài tiểu luận Tự do và ràng buộc, Chế Lan Viên đã nói hộ
tâm tƣ của nhiều ngƣời, bởi những băn khoăn ấy cũng đã từng khiến ông trăn
trở: “Lúc đầu tôi nghĩ: “Mất hết tự do của mình cũng đƣợc. Miễn có hạnh
phúc cho nhân dân, độc lập cho Tổ quốc là đƣợc lắm rồi”. Nhƣng sự thực đâu
có “mất”. Sự thực là không phải chỉ có ngƣời công dân “đƣợc”, mà ngƣòi làm
thơ cũng “đƣợc”. Đƣợc mùa. Đƣợc ở giữa mùa”[85, tr. 629]. Ông nhắc nhở
ngƣời làm nghệ thuật: “Có cá tính mà không có Đảng tính thì văn nghệ sỹ dễ
rơi vào vũng bùn của những sai lầm. Nhƣng Đảng cũng hiểu rằng nếu chỉ có
Đảng tính mà không có cá tính thì không có sáng tạo trong nghệ thuật”[85, tr.
14]. Ông lên án gay gắt việc đánh mất cá tính của ngƣời nghệ sỹ trong quá
trình sáng tạo: “Thử hỏi, dù thực tế trong thơ ta có đem lại vĩ đại phong phú
đến bao nhiêu đi nữa, tình cảm có đắm đuối say mê bao nhiêu đi nữa, nhƣng
tất cả TUYỂN TẬP THƠ này chỉ là của một ngƣời, hay là của một trăm ngƣời
nhƣng lại nhất cử, nhất động đều giống nhau, thế thì còn gì buồn tẻ hơn và
làm ta “chán đời” hơn nữa?”[84, tr. 380]. “Chàng Văn không bao giờ đòi
cùng một mùa xuân thì cái lá phải đỏ nhƣ hoa, cái hoa phải xanh nhƣ lá, và
cũng một bầu trời thì mặt trời phải mát nhƣ mặt trăng và mặt trăng phải ấm
nhƣ mặt trời”[84, tr. 581]. “Không thể có cá tính chiến đấu của Tố Hữu nếu
không có Đảng. Không có cá tính ngọt ngào của anh nếu không có xứ Huế
hay miền Trung. Ngày nay, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Lƣu Trọng Lƣ,
Huyền Kiêu, Xuân Sanh có những tính cách mạng mà ngày xƣa các anh
không có”[84, tr. 383]. Thời đại mới sản sinh ra những con ngƣời mới. Những
69
ngƣời nghệ sỹ mới đã hấp thu tinh thần chung của thời đại và phản ánh thời
đại bằng những nét cá tính độc đáo của riêng mình. Càng nhiều cá tính sáng
tạo độc đáo càng chứng mình sự trƣởng thành của một nền thơ. Vì thế nhà thơ
phải là ngƣời có cá tính sáng tạo. Đó là yếu tố quyết định sự thành, bại của
một đời thơ.
“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ
Không trộn lẫn”
(Vân chữ, Lê Đạt)
Nhà thơ phải là ngƣời nghệ sỹ giàu cá tính. Đó không phải chỉ là một
quan niệm nghệ thuật đúng đắn về ngƣời nghệ sỹ mà còn là ý thức trách
nhiệm lớn lao của Chế Lan Viên đối với nghề thơ. Những trang viết của Chế
Lan Viên về ngƣời nghệ sỹ và cá tính sáng tạo đã góp phần hoàn chỉnh hệ
thống lý luận về thơ trong hệ thống lý luận chung của nền văn học nƣớc nhà.
Nhìn lại nền văn học Cách mạng của dân tộc, chúng ta đã có những
thành tựu hết sức lớn lao. Các nhà văn, nhà thơ trong đó có Chế Lan Viên,
trong thời kỳ ấy đã tìm thấy sự thống nhất giữa cái tôi và cái ta, giữa cá nhân
và cộng đồng, giữa cá tính sáng tạo và những định hƣớng chung của cả một
nền nghệ thuật…để viết, để sáng tạo và cống hiến bằng tất cả ý thức tự giác,
tự nguyện chân thành. Họ thấy nên và cần làm nhƣ thế.
Nhƣng xét ở một khía cạnh khác, những quan niệm mà Chế Lan Viên
đã rất cao giọng để giới thuyết, để bình luận, để lý giải nhƣ đã trình bày ở trên
ít nhiều mang tính minh họa, tuyên truyền. Đành rằng, văn học phụng sự
kháng chiến là nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng, phù hợp với thời đại và lịch sử.
Song cũng không thể phủ nhận rằng, vì thế mà nền văn học đã hạn chế rất
nhiều những cá tính sáng tạo. Chế Lan Viên đi tìm “tự do” trong “ràng buộc”.
Ông cho rằng “khi đã có hƣớng rồi” thì ngƣời nghệ sỹ tha hồ sáng tạo mà
70
không sợ lạc đƣờng, lạc lối. Quan niệm ấy xuất phát từ yêu cầu lịch sử của
một thời và chúng ta khi nhìn lại đã thấy có những sai lầm và hạn chế. Đƣờng
lối chính sách của Đảng đối với văn nghệ có ý nghĩa soi đƣờng, dẫn lối giúp
nhà văn nhìn thấy những vấn đề thực tế sâu xa của đất nƣớc, gợi ý cho nhà
văn những suy nghĩ, chiêm nghiệm quý báu. Trong thơ của mình, chúng tôi
nhận thấy, Chế Lan Viên nhận thức sâu sắc về điều đó: “Thơ không chỉ đƣa
ru mà còn thức tỉnh/ Không chỉ ơ hời mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan”
(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…). Để rồi sau này, khi nhìn lại, chính bản
thân ông đã không ít trăn trở: “Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng
trầm/ Tiếng hát lẫn với im lìm của đất/ Vƣờn lặng yên mà thơm mùi mít mật/
Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân” (Giọng trầm). Một mặt, chúng ta
không phủ nhận thành tựu thơ ca của một thời Cách mạng hào hùng, nhƣng
mặt khác, chúng ta cần nhận thức rõ ràng, với một nhiệm vụ cao cả (phục vụ
đắc lực cho cuộc kháng chiến), những ngƣời nghệ sỹ một thời trong đó có
Chế Lan Viên đã ít nhiều phải mài mòn đi cá tính sáng tạo vốn mãnh liệt
trong con ngƣời nghệ sỹ của mình để phù hợp với thời đại và yêu cầu lịch sử.
2.2.3. Nhà thơ – người nghệ sỹ có tư tưởng lớn, tình cảm lớn
Những năm 1945 – 1975, trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, văn
học đã sống hết mình với thời đại. Cùng với mô hình nhà văn – chiến sỹ, tiêu
chí nghệ thuật đƣợc đánh giá chủ yếu dựa trên giá trị nội dung tƣ tƣởng. Nhà
văn lớn là nhà văn truyền tải đƣợc trên mỗi trang viết của mình những tƣ
tƣởng lớn. Tƣ tƣởng lớn đƣợc hiểu là tƣ tƣởng vô sản, là tƣ tƣởng Cách mạng,
là lý tƣởng cộng sản, là cách ngƣời nghệ sỹ phân biệt rành mạch ranh giới của
những đúng sai, tốt xấu… Tình cảm lớn là tình yêu cuộc sống, là tình cảm
thời đại, là tấm lòng biết ơn Đảng, biết ơn nhân dân, biết ơn Tổ quốc.
Trong phê bình và tiểu luận, Chế Lan Viên đã dùng ngòi bút nhƣ một
thứ vũ khí đắc lực để lên tiếng yêu cầu mỗi ngƣời nghệ sỹ trƣớc khi cầm bút
71
cần trau dồi tƣ tƣởng và tình cảm, những tƣ tƣởng Cách mạng và tình cảm
Cách mạng. Bởi đây là yêu cầu đòi hỏi lớn lao của thời đại nên Chế Lan Viên
phần lớn sử dụng lối nói quyền uy, áp đặt một chiều. Ông sử dụng lặp lại
nhiều những từ ngữ mang tính yêu cầu tuyệt đối: “cần”, “phải”…Những ngợi
ca hay phê phán trong đánh giá nghệ thuật của ông có khi trở nên cực đoan
bởi phần nhiều dựa vào giá trị tƣ tƣởng.
Chế Lan Viên đã phiến diện khi ông yêu cầu “Thơ cần có thêm chất tƣ
tƣởng”(trong bài Mấy vấn đề về thơ qua TUYỂN TẬP , trích từ tập Phê bình
văn học). Ông cho rằng, thời đại Cách mạng lớn lao cần có những nhà thơ có
tƣ tƣởng lớn lao, có những suy nghĩ lớn lao. Đó là suy nghĩ của đồng bào Tây
Nguyên khi đã thấm nhuần tƣ tƣởng cộng sản:
“Thiếu muối, dân làng đốt tranh ăn thay đƣợc
Thiếu cơm, đào củ sắn, củ môn
Nhƣng thiếu cộng sản không có gì thay đƣợc”
Trong suy nghĩ chân chất của ngƣời dân Tây Nguyên, cộng sản chính là
sự sống không gì thay thế đƣợc. Tƣ tƣởng ấy thực sự khiến Chế Lan Viên xúc
động.
Chế Lan Viên yêu bài thơ “Dƣới bóng câu Kơnia” bởi tƣ tƣởng gắn bó
với cội nguồn Việt Bắc, gắn bó khăng khít với Đảng, Bác Hồ của đồng bào
Tây Nguyên anh dũng kiên cƣờng:
“Em hỏi cây Kơnia:
- Gió mày thổi về đâu?
- Về phƣơng mặt trời mọc
Mẹ hỏi cây Kơnia:
- Rễ mày uống nƣớc đâu?
- Uống nƣớc nguồn miền Bắc…”
72
Ông yêu mến cái tình “anh, em” ở thơ Vũ Cao, bởi vì đằng sau câu
chuyện “anh, em” ấy là những suy nghĩ về lý tƣởng của nhà thơ:
“Anh đi bộ đội – sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đƣờng
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”.
Trong hoàn cảnh lịch sử đất nƣớc có chiến tranh, văn học nghệ thuật
đƣợc coi là một thứ mặt trận thì ngƣời nghệ sỹ - chiến sỹ càng cần thấm
nhuần tƣ tƣởng Cách mạng. Thiếu tƣ tƣởng Cách mạng, nhà thơ có lẽ khó có
thể khơi nguồn cảm hứng. Tiếng thơ nhƣ thế trong thời đại hào hùng này có lẽ
sẽ chỉ là những giá trị lạc lõng. Quan niệm nghệ thuật này, một phần đã khơi
gợi thấm nhuần những tƣ tƣởng Cách mạng trong tâm trí của mỗi nhà văn nhà
thơ, song mặt khác đã rơi vào chủ nghĩa cực đoan khi quá đề cao tƣ tƣởng
Cách mạng mà xem nhẹ những yếu tố nghệ thuật khác trong một tác phẩm
văn chƣơng.
Trong lời Tựa cho tập thơ Sức mới (1965), chúng tôi thấy Chế Lan
Viên cất cao lời kêu gọi phần nhiều mang tính tuyên truyền: “Phải cất cao hơn
tiếng nói của lý tƣởng Cách mạng trong thơ”[85, tr. 101]. Theo ông nhà thơ
trong những năm tháng quyết liệt, sôi sục của dân tộc phải có đƣợc sự thôi
thúc, ám ảnh của lý tƣởng cách mạng đến thành một tâm trạng. “Và chính với
đôi mắt tâm trạng đầy lý tƣởng ấy mà nhà thơ sẽ nhìn hiện thực của cuộc đời,
làm cho độc giả khi đọc thơ ta, họ không hiểu họ đang thấy một cảnh thực tế
hay là nghe một tâm trạng nữa”[85, tr. 101]. Và khi ấy, thơ mới có thể trở
thành một sức mạnh thôi thúc. Ông tâm sự: “Tôi bỗng nhớ đến những bài thơ
của Tố Hữu, khi anh mƣời bảy, mƣời tám tuổi. Có lẽ lúc ấy anh chƣa tả gì
nhiều về các cảnh sống, anh chƣa tìm ra lắm chi tiết về cuộc đời, nhƣng lý
tƣởng cộng sản của anh, nhiệt huyết, hoài bão cách mạng của anh đã làm anh
73
đi qua nền văn học cách mạng nhƣ một sự thức tỉnh. Ngƣời ta không thể ngồi
yên trƣớc ngọn lửa và cơn gió ấy”[85, tr. 100].
Tƣ tƣởng lớn mà mỗi nhà thơ cần bồi đắp, trong quan niệm của Chế
Lan Viên còn là ý thức dân tộc. Đây là điều đáng trân trọng trong quan niệm
của Chế Lan Viên. Ông cho rằng, bản sắc dân tộc, cốt cách dân tộc phải là
nền tảng của thi ca. Những xúc động sâu xa về dân tộc chính là cội rễ của lâu
bền của mọi cảm hứng nghệ thuật. Nói đến cuộc sống xã hội ngày nay, Tố
Hữu đã không quên những giọt lệ đã chảy quanh cô Kiều thuở trƣớc. Nguyễn
Đình Thi nghe tiếng rì rầm của đất tự thời xƣa. Xuân Diệu, Huy Cận, Tế
Hanh luôn luôn gắn bó mơ ƣớc của mình về xã hội tƣơng lai với những xúc
động về kháng chiến ngày nay, về cha ông trong quá khứ. Từ tiếng thơ của
các nhà thơ lớn, Chế Lan Viên muốn hƣớng tới những nhà thơ trẻ, muốn khơi
gợi mạch nguồn dân tộc trong tƣ duy thơ của họ. Bởi chỉ có gắn bó với dân
tộc, chỉ có tha thiết với dân tộc, các nhà thơ mới có đƣợc điểm tựa vững chãi
về mặt tƣ tƣởng để đƣa thơ đến muôn nẻo đƣờng nghệ thuật mà không sợ lỡ
bƣớc, sa chân.
Hoàn cảnh lịch sử, bầu không khí tâm lý xã hội đặc biệt mấy chục năm
kháng chiến đã định hình nên những quan niệm tƣ tƣởng lớn lao trong ngƣời
nghệ sỹ, không chỉ riêng Chế Lan Viên. Nhà thơ đồng thời là nhà chính trị tƣ
tƣởng xuất phát từ đòi hỏi của thời đại: “Nay ở trong thơ nên có thép” (Hồ
Chí Minh); từ quan niệm “thơ là vũ khí đấu tranh”. Bằng phê bình, tiểu luận,
Chế Lan Viên chỉ góp thêm tiếng nói, làm sắc nét hơn vấn đề này. Có điều,
quan niệm của Chế Lan Viên rõ ràng mang tính quan phƣơng, thiên về ca
ngợi một chiều. Văn nghệ phục vụ chính trị, chính trị hóa văn nghệ một thời
rơi vào tình trạng tập trung vào chủ đề chính trị theo nghĩa hẹp, thiên về khai
thác các vấn đề trực tiếp liên quan đến nhiệm vụ trƣớc mắt, đến các công cuộc
vận động, đến chủ trƣơng chính sách của Đảng. Điều đó là đúng và cần song
74
chƣa đủ. Trong quan niệm của Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy ông thiên
về khẳng định một chiều, nhà văn trong thời đại Cách mạng phải có tƣ tƣởng
Cách mạng, phải là nói đƣợc những điều Đảng nghĩ…tức là phải chứa đựng
những tƣ tƣởng lớn lao. Quan niệm ấy thấy thiếu sự suy ngẫm của tƣ tƣởng cá
nhân nhà văn. Xét từ mối quan hệ với những vấn đề chính trị thì chuyện cái
đẹp, chuyện tình yêu, niềm vui, nỗi khổ của cá nhân con ngƣời dƣờng nhƣ chỉ
là lãng mạn, yếu đuối. Song trong mối quan hệ với cuộc đời thì đó lại là
những gì hết sức máu thịt. Rõ ràng không thể hình dung cuộc đời nếu thiếu sự
nghiềm ngẫm mang tính chất cá nhân ấy trong ngƣời nghệ sỹ. Chính trị là cái
cốt yếu quan trọng của xã hội, nhƣng cuộc đời rộng hơn chính trị. Ở những
hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt, trong chiến tranh, cách mạng, khi tất cả cùng
hƣớng về một mục đích quan trọng là giải phóng dân tộc, Chế Lan Viên cũng
nhƣ biết bao ngƣời nghệ sỹ đƣơng thời đem ngòi bút của mình phục vụ cách
mạng với những tƣ tƣởng mang tính lý tƣởng. Nhƣng từ quan niệm của Chế
Lan Viên trong một thời, chúng tôi cho rằng, sẽ không đúng khi cho rằng
nhiệm vụ của văn nghệ chủ yếu chỉ là tuyên truyền cổ động, thuyết minh tƣ
tƣởng, và hễ cứ tuyên truyền, cổ động hay là thành nghệ thuật.
Bên cạnh quan niệm nhà thơ phải là ngƣời nghệ sỹ có tƣ tƣởng lớn,
Chế Lan Viên cũng cho rằng nhà thơ còn là ngƣời nghệ sỹ có tình cảm lớn.
Trƣớc hết là tình yêu cuộc sống trong những ngƣời nghệ sỹ. Nhiều
ngƣời hỏi Chế Lan Viên: trƣớc khi làm thơ thì phải làm gì? Chàng Văn trong
Nói chuyện thơ văn và Vào nghề đều thống nhất một câu trả lời: “Ngƣời ta gọi
thi sỹ là đa cảm, vậy thì trƣớc lúc làm thơ có lẽ phải cảm chăng?”[84, tr. 563].
“Cảm” ở đây là tình cảm, xúc cảm trƣớc cuộc sống. Nghe tiếng gió mùa, Chế
Lan Viên nhớ đến những câu thơ của Huy Cận:
“Đêm nay gió giữa hai mùa
Thổi sao vi vút mây lùa một bên
75
Mùa quê hƣơng tƣởng đã quen
Nửa đêm gió thổi nằm yên đƣợc nào…”
và đặt ra yêu cầu, ngƣời nghệ sỹ ở giữa cuộc đời phải có những xúc cảm nhƣ
thế. “Cảm tiếng gió, cảm bốn mùa, cảm đất nƣớc, quê hƣơng! Chứ nếu nghe
gió mà chỉ thấy gió thôi, thậm chí nghe gió vẫn không cảm thấy gió nữa thì
còn thơ thẩn cái quái gì?”[84, tr. 564]. Nói chuyện thơ với những ngƣời thợ,
Chế Lan Viên muốn khơi lên ở họ một tình yêu nghề ở bề sâu, muốn tìm thấy
ở họ cái xúc động nghẹn ngào khi các nhà máy mới đang đƣợc hình thành, cái
đau xót vì bao công trình đã bị bọn Mỹ huỷ diệt. Ông băn khoăn khi thấy “sự
chƣa sâu trong xúc cảm” của những ngƣời thợ khi nói về nghề nghiệp của
chính mình trong thơ. Ông tâm tình, thủ thỉ: “Một đời mình cũng không phải
đã đủ để yêu thƣơng, để hiểu biết, quan sát nghề nghiệp của mình, sự sống lao
động của mình và đồng đội”[85, tr. 227].
Trái tim nhà thơ nhạy cảm với mọi buồn vui, sƣớng khổ của con ngƣời,
say đắm trƣớc vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên. Chỉ khi nào cảm
hứng dạt dào thì khi đó thơ mới tuôn chảy dƣới ngòi bút thi nhân. Tứ gọi tứ,
tình gọi tình và câu nọ gọi câu kia để kết thành một bài thơ hoàn chỉnh. Nếu
trái tim nhà thơ lạnh lùng, vô cảm thì không bao giờ có đƣợc thơ hay. Những
chữ viết ra trên trang giấy chỉ là một mớ ngôn từ trống rỗng và nhạt nhẽo. Tập
thơ Sức mới (1965), sản phẩm của thế hệ các nhà thơ trẻ trƣởng thành trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt của dân tộc, đã đem đến cho Chế Lan
Viên biết bao cảm xúc. “Tập thơ này đáng yêu vì đồng thời với việc làm cho
ta thấy cuộc sống, nó còn làm cho ta yêu cuộc sống”[85, tr. 98]. Khả năng
truyền cảm ấy của thơ chỉ có thể có đƣợc khi trong lòng nhà thơ vốn đã sẵn
một tấm lòng tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống. Ông cho rằng: “Nhờ tình yêu
quê hƣơng đất nƣớc sâu sắc, Bếp lửa của Bằng Việt không quanh quẩn chỉ là
một bài thơ bà cháu riêng tây. Cảnh cán bộ ở nhà dân rồi lại ra đi là một cảnh
76
cơm bữa hằng ngày, nhƣng tình yêu nhân dân, lòng mong mỏi thống nhất,
…”[85, tr. 98]. Những tình cảm lớn lao ấy trong lòng nhà thơ đã biến những
đề tài bé nhỏ, giản dị đời thƣờng trở nên lớn lao cao đẹp.
Nhiệt tình cách mạng trong Chế Lan Viên còn biểu hiện ở quan niệm:
thơ không đơn giản chỉ phản ánh sự việc thời đại mà còn phải phản ánh tình
cảm thời đại. Tức là nhà thơ cũng phải nuôi dƣỡng để làm nảy nở trong tâm
hồn mình những tình cảm thời đại lớn lao. Trong thời đại ấy, tình cảm Chế
Lan Viên muốn nói tới là tình yêu Đảng, yêu Tổ quốc, yêu những ngƣời công
nhân, nông dân... “Chúng tôi yêu Đảng vì Đảng phục vụ cho giải phóng dân
tộc, kiến thiết cuộc đời xã hội chủ nghĩa no cơm ấm áo cho dân tộc. Chúng tôi
yêu giai cấp công nhân vì đó là bộ phận tiên tiến nhất của dân tộc hiện
nay.”[84, tr. 314-315]. Đó là tấm lòng biết ơn tha thiết, chân thành của ngƣời
nghệ sỹ đối với Đảng. Với Chế Lan Viên, Đảng là ngƣời dìu dắt nhà thơ đi từ
“thung lũng đau thƣơng ra cánh đồng vui”, là ngƣời đã “thay đổi đời tôi”,
ngƣời “thay đổi thơ tôi”. . Đó là cách ngƣời nghệ sỹ hoà từng nhịp đập trái
tim mình với hơi thở chung của thời đại. Những tình cảm mãnh liệt ấy trong
trái tim ngƣời nghệ sỹ tự nó trở thành những tiếng thơ tha thiết lòng ngƣời.
Nhà thơ là ngƣời có tƣ tƣởng lớn và tình cảm lớn, đó là một yêu cầu
thiết yếu của nghệ thuật đối với ngƣời nghệ sỹ. Có tƣ tƣởng và tình cảm đẹp
đẽ, ngƣời nghệ sỹ có thể đến với bất kỳ đề tài nào(dù là đề tài tiểu tƣ sản), có
thể khơi cảm xúc từ bất kì nguồn thi hứng nào(dù là tình cảm lứa đôi) mà vẫn
đạt đƣợc những giá trị thẩm mĩ lớn lao. Văn chính là ngƣời. Chế Lan Viên
quan niệm, “muốn có tác phẩm tốt nhất định phải có con ngƣời tốt”[84, tr.
135]. Muốn có con ngƣời tốt nhất định phải tƣ tƣởng tốt và tình cảm tốt. Cho
nên, bồi đắp tƣ tƣởng và tình cảm cho tốt, cho lớn lao là điều kiện cần thiết để
nhà thơ làm nên những tác phẩm thật giá trị.
77
Lý luận phê bình có chức năng soi đƣờng dẫn lối. Phê bình của Chế
Lan Viên một mặt đã thực hiện xuất sắc chức năng của mình, song mặt khác,
phê bình quyền uy của Chế Lan Viên đã thực sự trở thành “cái roi” quất vào
sáng tác. Trƣớc hết là sáng tác thực tiễn của chính tác giả. Lý luận về thơ, về
tƣ tƣởng lớn và tình cảm lớn của nhà thơ trong những trang phê bình tiểu luận
đã đi vào thực tế sáng tác của Chế Lan Viên một cách hào hùng. Có một thời,
thơ Chế Lan Viên đã thực sự trở thành phát ngôn của những tƣ tƣởng lớn:
-“Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả
Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn
…Cái ngày cả dân tộc đoàn viên chính là ngày vĩ đại
Lịch sử có nhiều thế kỷ, nhiều năm, nhiều tháng, nhiều ngày
Những năm tháng này chói lòa, hóa thân, đột biến
Là rốn bão, là hỏa diệm sơn, động biển”
(Ngày vĩ đại)
-“ Đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng
Ta mọc dậy trƣớc mắt nhìn nhân loại
Hai chữ Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng”
(Thời sự hè 72, bình luận)
Nếu nhƣ trong phê bình và tiểu luận, Chế Lan Viên dành nhiều trang
viết để nói đến tƣ tƣởng lớn, tình cảm lớn của ngƣời nghệ sỹ trong thời đại
Cách mạng, thì trong thơ ca ông chắc chắn không cho phép ngƣời làm thơ
đứng sang một bên tách biệt với cuộc kháng chiến của dân tộc. Nhà thơ phải
có tầm vóc thời đại, phải thấm đẫm trong lòng mình âm hƣởng hùng tráng của
thời đại. Chế Lan Viên đã có khi tranh luận trong thơ:
“Nếu nhà thơ không cao, không lý tƣởng
Không nhƣ vầng trăng nhìn ngắm bởi trăm nhà
Mà chỉ là ngọn khói phất phơ trên mái xám
78
Thì thơ ơi! Ai cần anh nữa?
Khách qua đƣờng sẽ bỏ đi qua”
(Nghĩ về thơ, Hoa ngày thƣờng – Chim báo bão)
Hiện thực lịch sử mới của dân tộc không có chỗ đứng cho những “ngọn khói
phất phơ”. Nhà thơ phải vƣợt lên giới hạn nhỏ hẹp của riêng mình để “nhìn
ngắm bởi trăm nhà”, để mang trong lòng mình một lý tƣởng cao cả nhằm mục
đích viết nên những tráng ca, chứ không phải những bi ca sầu thƣơng, ảo não.
Nhà thơ cần có khả năng bao quát hiện thực lịch sử lớn lao của Cách mạng,
của dân tộc. Quan niệm này xuất phát từ ý thức sâu sắc của Chế Lan Viên khi
đặt sứ mệnh của ngƣời làm thơ trong hoàn cảnh thời đại xã hội vang dội
đƣơng thời. Chỉ khi nào nhà thơ ý thức đƣợc nhiệm vụ lớn lao của mình, có
đƣợc tƣ tƣởng, tình cảm lớn lao, thì khi đó, tiếng thơ viết lên mới phù hợp với
thực tiễn lịch sử, mới lột tả đƣợc tính chất vĩ đại và thần thánh của hai cuộc
kháng chiến hào hùng của dân tộc.
15 năm sau, khi hoàn cảnh lịch sử và thời đại thay đổi, những ngợi ca
hô hào đanh thép ông đã viết một thời trở nên lạc lõng. Những phát ngôn một
thời với những cổ vũ, tuyên truyền giờ trở nên đại ngôn, “cao giọng”. Khi trở
về với “tinh tế cỏ hoa”, Chế Lan Viên, trong hành trình đi tìm bản thể, đau
đớn nhận ra ông đã tự đánh mất mình:
“Ngƣời diễn viên ấy đóng trăm vai vai nào cũng giỏi
Chỉ có một vai không đóng nổi.
- Vai mình.
…Anh đóng giỏi trăm vai lại đánh mất mình
(Thơ về thơ)
Đọc thơ Chế Lan Viên những năm cuối đời, chúng tôi nhận thấy có
những mâu thuẫn sâu sắc giữa lý luận một thời ông đã cao giọng với những
suy tƣ đa chiều ông thể hiện trong sáng tác thơ ca. Di cảo thơ trở đi trở lại
79
hình ảnh sân khấu cuộc đời, và ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên nhƣ một diễn
viên, nhƣ một con rối. Nhìn lại đời thơ của mình, ông thấm thía kết cục thảm
hại, đáng thƣơng: sự nổi tiếng, sự thành công, hào quang, danh vọng nhiều
khi lại trở thành cái lồng nhốt chính bản thân mình. Những tƣ tƣởng lớn,
những tình cảm lớn, một thời ông say sƣa ca hát lại chính là cái lồng nhốt
tiếng thơ của chính ông. Ông chẳng khác nào nhƣ con chim bị nhốt lâu trong
lồng đến mức “quên mình có đôi cánh” và chức năng bay, “suýt nữa nó đồng
nhất nó với lồng chim nhốt nó. Ghét thù sự bay”. Nguyễn Minh Châu, trong
Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa cho rằng, chúng ta
có một nền văn học, với những ngƣời nghệ sỹ đã tự “bạt chiều cao”, tự “ép
khuôn khổ” để thỏa mái đi trong một “hành lang” nghệ thuật có sẵn và chật
hẹp. Hình ảnh “con chim” và “chiếc lồng” trong thơ của Chế Lan Viên có nét
tƣơng đồng với quan niệm nghệ thuật minh họa của Nguyễn Minh Châu.
Nhận thức sâu sắc điều này, cho nên, có khi Chế Lan Viên đau đớn tƣởng nhƣ
muốn phủ nhận tiếng thơ của chính mình:
“Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ tôi đã giết đi rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cƣời
Giết một kỉ niệm, giết một ƣớc mơ,
Tôi giết cái cánh sắp bay…trƣớc khi tôi viết”
(Trừ đi)
Những mâu thuẫn giữa lý luận và sáng tác của Chế Lan Viên một phần
xuất phát từ tính chất phức tạp trong tƣ duy thơ của chính nhà thơ, ngƣời nghệ
sỹ luôn trăn trở và ƣa tìm tòi. Mặt khác, khi đặt lý luận và sáng tác của Chế
Lan Viên trong thời đại cách mạng, chúng tôi không tìm thấy mâu thuẫn. Mâu
thuẫn chỉ nảy sinh khi ngƣời nghệ sỹ - chiến sỹ trở về từ chiến tranh và sống
80
giữa muôn mặt đời thƣờng, làm một con ngƣời đời thƣờng trong cuộc sống.
Điều này có thể dễ dàng lý giải bởi nhận thức của ngƣời nghệ sỹ về hiện thực
là một quá trình, đó là quá trình động, và đối với Chế Lan Viên vốn chƣa bao
giờ xác định đƣợc thời điểm dừng chân để thỏa mãn, bằng lòng.
2.2.4. Làm thơ là một nghề
Nghệ thuật với Chế Lan Viên là một quá trình lao động nghiêm túc,
công phu và có phần nghiệt ngã. Nghệ thuật vì thế không phải là lĩnh vực chỉ
cần có tài năng, hay lòng đam mê, hay sự căng tràn của cảm xúc...mà trƣớc
hết và hơn hết phải là ý thức sâu sắc của ngƣời nghệ sỹ đối với nghề. Với Chế
Lan Viên, làm thơ là một nghề. Ở bài Nghề thơ ông đã đặt câu hỏi “Sao làm
thơ không có nghề nhƣ thơ nhỉ?” “Làm thơ có nghề” là để phân biệt với các
nhà thơ nghiệp dƣ, phân biệt với thứ thơ chƣa ra thơ của một số thi sỹ, đặc
biệt là để phân biệt với quan niệm làm thơ “là việc làm nhàn rỗi”, việc làm
giải khuyây, giải sầu, là nghề tay trái, hoặc thơ không phải là nghề.
Thơ Chế Lan Viên đạt đến đỉnh cao trong thời kì phong trào sáng tác
văn nghệ quần chúng phát triển rực rỡ. Quần chúng cách mạng là những
ngƣời công nhân, những ngƣời nông dân, những nhà giáo yêu nghệ thuật,
những bà, những mẹ...Sáng tác văn nghệ quần chúng phong phú từ truyền
miệng, đến báo tƣờng, đến tạp chí, từ sáng tác cá nhân đến sáng tác tập
thể...Chế Lan Viên đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cho nhân dân sáng
tác, thúc đẩy phong trào văn nghệ, đồng thời gửi gắm tâm huyết muốn nâng
cao chất lƣợng thơ, nâng cao tính chuyên nghiệp trong thơ. Tức là ông muốn
“làm thơ”, trong ý thức sáng tạo của quần chúng không đơn giản là làm cho
có phong trào mà phải là làm thơ với ý thức trách nhiệm của một thứ nghề đòi
hỏi lắm công phu.
Lại Nguyên Ân cho rằng, phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên có
“Giọng của môt ngƣời có nghề đi truyền nghề, dạy nghề” [1, tr. 513]. Triêu
81
Dƣơng thấy Chế Lan Viên có những “đóng góp nghiêm túc của một ngƣời đã
sống lâu năm trong nghề, bây giờ “nghĩ về nghề” cố gắng truyền đạt lại cho
lớp ngƣời đi sau những kinh nghiệm thiết thân rất đáng hoan nghênh” [1, tr.
489]. Dạy nghề cho ngƣời không làm nghề, Chế Lan Viên bàn nhiều về vấn
đề phƣơng pháp: phƣơng pháp sử dụng tài liệu, phƣơng pháp học, phƣơng
pháp làm việc; ông nói nhiều đến những điều “nên” hay “không nên” trong
mọi vấn đề sáng tác từ khâu tìm tài liệu đến chọn đề tài, từ cảm hứng, thi tứ
đến sáng tác, từ đặt bút viết ở thời điểm nào trong quá trình sáng tạo đến viết
đƣợc đến đâu sửa đến đó hay viết xong rồi sửa...Chế Lan Viên chân thành, tỉ
mỉ, tận tâm, tận sức diễn giảng, phân tích, chứng minh, giải thích mọi thắc
mắc lớn nhỏ của ngƣời yêu thơ, của ngƣời mới tập làm thơ. Thúc đẩy sáng tác
đồng thời cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong thơ quần chúng. Chế Lan
Viên rõ ràng muốn quần chúng Cách mạng, những ngƣời sáng tác thơ không
chuyên có nghề hơn trong mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình.
Khi Chế Lan Viên tâm niệm làm thơ là một nghề thì chính ông cũng
luôn đòi hỏi ý thức trách nhiệm cao của ngƣời nghệ sỹ đối với nghề: “Nhƣ
ngƣời thợ gặt lớn không thể gieo bừa, ngƣời tƣớng lớn không thể đánh bừa,
ngƣời tình nhân chân chính không thể yêu bừa, tất cả đều bị ràng buộc bởi
mùa màng của mình, trận đánh của mình, tình yêu và hạnh phúc của
mình”[85, tr. 631]. Nhà thơ, ngƣời nghệ sỹ chân chính cũng vậy, cũng bị ràng
buộc bởi chính lƣơng tâm, trách nhiệm, tấm lòng mình. Nhƣng họ luôn có tự
do. Chế Lan Viên cho rằng, tự do của họ có đƣợc bởi sự ý thức vô cùng việc
họ làm. Ngƣời nghệ sỹ muốn thăng hoa nghệ thuật phải có ý thức sâu sắc về
nghề, từ đó mà trách nhiệm với nghề. Ý thức trách nhiệm ấy trong ngƣời nghệ
sỹ chính là sợi dây nối kết con diều nghệ thuật với mặt đất, giữ cho con diều
đủ sức căng để bay lƣợn tự do, phóng túng trên bát ngát trời xanh.
82
Trong thời đại cách mạng, ý thức về nghề của Chế Lan Viên luôn gắn
liền với ý thức về trách nhiệm của ngƣời nghệ sỹ trƣớc những máu xƣơng đã
đổ. Là nhà thơ đã đi qua những biến cố lịch sử lớn lao, Chế Lan Viên hiểu
“máu đẻ ra thơ” nhƣng thói đời “thơ lại hòng quên”. Vì thế, ông đòi hỏi trách
nhiệm lớn lao ở ngƣời nghệ sỹ và ở chính mình. Trách nhiệm của nhà thơ là
ghi lại, truyền đi, nhân lên sự hi sinh ấy. Chế Lan Viên khẳng định: “Khi một
chiến sỹ ngã xuống, anh đã làm nửa bài hát, câu thơ mà chúng tôi viết tiếp,
cũng nhƣ vậy, khi các đồng chí xây nên một nhà máy, gặt một cánh đồng,
chính các đồng chí đã xây trong lòng chúng tôi những xúc cảm lớn, giúp cho
chúng tôi gặt những vụ gặt tinh thần”[86, tr. 327]. Khi ngƣời thi sỹ ý thức rõ
về trách nhiệm của ngòi bút trên mỗi trang giấy trắng cũng chính là lúc những
ngƣời nghệ sỹ luôn trăn trở với nghề nhƣ Chế Lan Viên nói riêng và nền thơ
ca nghệ thuật nói chung có thể trông chờ và tin tƣởng vào những trang thơ có
ích cho đời.
Bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ý thức trách nhiệm về
nghề của nhà thơ tiếp tục đƣợc Chế Lan Viên nhận thức sâu sắc, song không
phải trong mối quan hệ với dân tộc, lịch sử mà trong mối quan hệ với đạo
đức, nhân sinh thế sự:
“Giờ hòa bình tôi vẫn làm thơ, nhặt lá
Không phải đất nƣớc mình còn chiến tranh, nghèo khó
Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa
Vì có bọn ngƣời thoái hóa
Khiến cho thắng trận rồi mà vẫn còn nhặt lá kẻ làm thơ”
(Hốt lá)
Yêu nghề, gắn bó cả đời ngƣời với nghề thơ, Chế Lan Viên thấm thía những
cay đắng trong nghề. Tự nhìn lại thơ mình giữa những “danh vọng ầm ào,
vinh quang xí xố”, ông không khỏi xót xa bởi thứ hƣ danh ấy không khiến
83
ngƣời làm thơ sống đƣợc với nghề. Ngƣời nghệ sỹ trót “mang cái ách văn
chƣơng” cả một đời “làm thơ” và “nhặt lá”. Song dù có phải “nhặt lá” ngƣời
nghệ sỹ ấy vẫn cứ “làm thơ” bởi ý thức về nghề của ngƣời làm thơ với Chế
Lan Viên trƣớc hết là ý thức về một chữ “tâm”:
“Những nhà thơ bị sách phản thùng, phản chủ
Anh ta bảo: Tôi viết với tất cả tâm hồn, tất cả
Sách cãi lại: Cái tâm hồn thổ tả
Thiếu tâm đi thì nào có ra hồn
Thà cứ là trang giấy trắng xóa còn hơn”
(Tâm và hồn)
“Vạn pháp đều qui tôn/ Miễn anh có tâm hồn”, tâm hồn của nhà thơ sẽ giữ
cho thơ ở lại với đời. Nếu không có hồn thơ, không có cái tâm của ngƣời nghệ
sỹ thì mọi thi pháp cũng chỉ là cái xác không hồn. Nhà thơ chỉ là những ngƣời
thợ khéo tay mà thôi.
Đối với nghề thơ, Chế Lan Viên là ngƣời yêu nghề, có ý thức rất cao về
nghề, có sự khổ công, có những “lao tâm khổ tứ” vì nghề. Nghề thơ với Chế
Lan Viên không xuôn xẻ, xuôi chiều, ngƣời nghệ sỹ phải trải qua nhiều thăng
trầm, cay đắng để hái đƣợc quả ngọt trái thơm. Từ quan niệm thơ là một nghề
trong lý luận đến sự nghiệp sáng tác thơ ca đồ sộ của Chế Lan Viên cho thấy
sức sáng tạo, sự công phu, cũng nhƣ những nghiêm túc của ngƣời nghệ sỹ lớn
Chế Lan Viên trong nghề.
Dƣới thời đại Cách mạng, ngƣời đọc thấy Chế Lan Viên, dù làm phê
bình hay sáng tác thơ đều luôn tự đấu tranh với con ngƣời cũ của riêng mình
để sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì chỉ cần trở thành cây bút
phục vụ tốt cho cuộc Cách mạng của dân tộc. Trong những năm cuối đời, Chế
Lan Viên ít viết phê bình, tiểu luận. Ông dồn hết thời gian cho thơ. Khi Di
cảo thơ ra mắt ngƣời đọc, nhiều nguời đọc những câu thơ tự phán xét của Chế
84
Lan Viên về nhà thơ, vị trí và trách nhiệm của nhà thơ trƣớc cuộc đời, giật
mình thấy ông “sám hối”. Những quan niệm về nhà thơ đƣợc ông “cao giọng”
thể hiện trong những năm trƣớc 1975 trong phê bình và tiểu luận đến đây thấy
có những mâu thuẫn, giằng xé và nhiều day dứt đến đau đớn trong ngƣời nghệ
sỹ. Từ những đòi hỏi lớn lao của thời đại và lịch sử đến những dấn thân của
nhà thơ trong hiện thực lớn, Chế Lan Viên đã nói thật mạnh mẽ, sôi nổi
những tƣ tƣởng lớn, tình cảm lớn, trách nhiệm lớn của ngƣời nghệ sỹ đối với
nhân dân đất nƣớc. Đến khi bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh, đặc biệt khi đối
diện với thời gian, không gian của sự sống riêng mình, Chế Lan Viên có lẽ có
nhiều khoảng lặng để chiêm nghiệm sâu xa hơn về ngƣời nghệ sỹ và chính
mình trong thơ. Thơ Di cảo nói về ngƣời nghệ sỹ với nỗi đau của sự bé nhỏ,
thừa thãi, và có phần vô dụng. Sự mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật đƣợc
thể hiện trong phê bình, tiểu luận trƣớc 1975 với thơ sau 1975 theo chúng tôi
đó là những mâu thuẫn khó lòng tránh đƣợc bởi sự thay thế giữa ý thức công
dân và ý thức nghệ sỹ trƣớc những thay đổi của hoàn cảnh xã hội. Khi mà
cuộc sống và lịch sử luôn vận động và biến đổi, ý thức nghệ sỹ thoát dần ra
khỏi vỏ bọc chắc chắn của ý thức công dân để trở về với cội nguồn của nó và
phán xét tất cả theo ý thức chủ quan của mình. Nhìn lại chặng đƣờng văn học
đã qua, những câu thơ cổ vũ tuyên truyền ông đã viết, những quan niệm lớn
lao về ngƣời nghệ sỹ ông đã trình bày, chúng ta không phủ nhận những thành
tựu trong sự nghiệp văn học của ông đã đạt đƣợc nhờ bao nhiêu trí tuệ và mồ
hôi. Nhƣng chính ông, khi nhìn lại con đƣờng mình đã đi cũng không khỏi xót
xa nuối tiếc bởi đã viết quá nhiều “những điều lớn lao” mà đành gạt đi những
“tinh tế cỏ hoa” vốn là máu thịt của ngƣời nghệ sỹ. Bƣớc qua những cái nhất
thời để tìm về với cái muôn đời, đó là một hành trình nhiều trăn trở và mâu
thuẫn.
85
Vì sao Chế Lan Viên không thể sống và nghĩ một cách dễ dãi, giản
đơn? Vì sao ông không bao giờ bằng lòng với chính mình? Đọc thơ Chế Lan
Viên, Tố Hữu đã lý giải cặn kẽ căn nguyên sâu xa cho những quan niệm thơ
trái chiều trong sáng tác của Chế Lan Viên ở phƣơng diện nhà thơ, ngƣời
nghệ sỹ: “Thƣơng Anh biết mấy là thƣơng – Một đời thơ những vấn vƣơng lẽ
đời” (Nhớ Chế Lan Viên). “Những vấn vƣơng lẽ đời” đã tạo nên tính chất
phức tạp trong thơ ông. Song cần phải khẳng định rằng, tất cả những biểu
hiện phức tạp, trái chiều trong thơ ông dù tạo nên mâu thuẫn với những quan
niệm nghệ thuật mà ông đã dõng dạc thể hiện trong những bài phê bình và
tiểu luận thì tầm vóc của ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên không vì thế mà trở
nên nhỏ hẹp. Bởi dù ngợi ca hay phê phán, dù hào hùng khí thế hay chán nản,
dù giọng cao hay giọng trầm đều là giọng của ngƣời nghệ sỹ tha thiết với đời,
dù những tha thiêt ấy có lúc hoá thành nỗi đau khắc khoải, có khi hoá thành
một lời tạ tội chân thành:
“Anh không mang đi! Anh còn để lại
Để lại một câu thơ, một lời tạ tội”
(Tạ tội)
Nhƣng chúng ta hiểu rằng, cuộc đời này phải cảm ơn ông – một tài năng, một
nhân cách lớn. Canh cánh một trọng trách với đời, quan niệm của Chế Lan
Viên về nhà thơ vì thế luôn nhất quán ở trách nhiệm của ngƣời nghệ sỹ. Có
thể thấy rằng, ông đã trả cho đời nhiều hơn những gì đời đã cho ông.
86
Tiểu kết chƣơng 2
Tìm hiểu quan niệm của Chế Lan Viên về nhà thơ, chúng tôi nhận thấy
quan niệm về nhà thơ trong hệ thống tƣ duy lý luận của Chế Lan Viên có
nhiều thay đổi qua các thời kỳ. Từ thời Điêu tàn với quan niệm nhà thơ là
ngƣời của thế giới siêu hình với những phẩm chất đặc biệt, thơ Chế Lan Viên
bƣớc vào thời đại Cách mạng với nhiều thay đổi về quan niệm. Nhà thơ trong
thời đại ấy phải là ngƣời của sự sống muôn màu, là ngƣời của cá tính sáng tạo
với những tƣ tƣởng lớn và tình cảm lớn. Làm thơ với Chế Lan Viên là một
nghề và hơn hết nhà thơ phải là ngƣời có trách nhiệm lớn lao, trách nhiệm với
thơ ca nghệ thuật và trách nhiệm với đời. Những quan niệm về nhà thơ có
phần nghiêm khắc ấy đã đƣợc Chế Lan Viên dùng chính cuộc đời mình và thi
ca nghệ thuật của mình để thể hiện và chứng minh.
87
Chƣơng 3
QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ THƠ
Là một trong những loại hình kỳ diệu của nghệ thuật, thi ca đƣợc Bùi
Giáng nói đến nhƣ là một “cõi phiêu bồng”. Thế giới ấy mở ra trăm nghìn lối,
song hành với những mê say sáng tạo của ngƣời nghệ sỹ là câu hỏi lớn: thơ là
gì? Đi tìm bản thể của thơ ca luôn là một hành trình đầy bí ẩn. Giải mã thơ
vốn không có điểm dừng, không có chuẩn mực nào để kết thúc. Với mỗi
ngƣời nghệ sỹ, con đƣờng tìm kiếm bản thể thơ nhƣ mở rộng thêm, đa sắc, đa
chiều.
Chế Lan Viên vì thế, cũng không phải là ngƣời duy nhất vừa sáng tác,
vừa chiêm nghiệm về vấn đề lý luận này. Có điều, với ông, quan niệm về thơ
đƣợc trình bày nhƣ một hệ thống xuyên suốt hành trình thơ với một tƣ duy
triết học biện chứng, có phủ định, có kế thừa và phát triển, bổ sung cho phù
hợp với tinh thần thời đại và quy luật của thơ ca.
Trong nền văn học nghệ thuật dân tộc, số lƣợng các bài thơ viết về thơ
của Chế Lan Viên nhiều hơn bất kỳ một nhà thơ nào khác. Những suy nghĩ về
nghề trong thơ ông, khiến cho thơ mang đậm màu sắc lý luận, phê bình. Nghĩ
về nghề…nghĩ về thơ…nghĩ đƣợc tác giả đặt vào tập tiểu luận, phê bình Bay
theo đƣờng dân tộc đang bay khi in thành tuyển bởi tính chất lý luận đặc biệt
của nó. 9 tập phê bình và tiểu luận cùng những bài tựa viết cho một số tác giả
mà ông yêu quý đã bày ra trƣớc mắt ngƣời đọc những vốn liếng đồ sộ của
Chế Lan Viên về thơ.
Là một nhà thơ lớn, Chế Lan Viên chƣa bao giờ tự bằng lòng với
những gì đã có. Tìm tòi, sáng tạo và thể nghiệm là cách Chế Lan Viên khẳng
định vị trí và tên tuổi của ông trên văn đàn. Những quan niệm thơ và tƣ duy
thơ phức tạp của Chế Lan Viên thể hiện trong phê bình và tiểu luận, trong
những bài thơ nghĩ về thơ, nghĩ về nghề là kết quả của một quá trình vận động
88
không ngừng của ngƣời nghệ sỹ để sáng tạo và đổi mới. Những quan niệm
nghệ thuật của ông trƣớc hết rất có ý nghĩa đối với lý luận thơ ca và thực tiễn
sáng tác. Nhƣng trên hành trình đi từ lý luận đến thực tiễn sáng tác của Chế
Lan Viên, chúng tôi nhận thấy, ở giai đoạn cuối đời, thơ Chế Lan Viên có
nhiều mâu thuẫn với lý luận nghệ thuật thơ của chính ông.
3.1. Thơ là tiếng nói cất lên từ thế giới siêu thực trong tột cùng cảm
xúc
Tác giả Nguyễn Bá Thành trong chuyên luận Chế Lan Viên với phong
cách suy tƣởng đã khẳng định: “Thoát ly vào thơ và làm cho thơ thoát ly hiện
thực. Đó là đặc điểm cốt lõi nhất của phong trào Thơ mới nói chung và Chế
Lan Viên nói riêng”[46, tr. 45]. Nếu Thế Lữ ôm giấc mộng lên tiên, Lƣu
Trọng Lƣ phiêu lƣu trong trƣờng tình, Huy Cận chôn thơ trong những mối sầu
thiên cổ...thì Chế Lan Viên (cùng những nhà thơ trong trƣờng thơ loạn) lại
chọn đi mãi về phía siêu hình. Nếu Hàn Mặc Tử nói: “Làm thơ tức là điên”,
thì Chế Lan Viên thêm: “Làm thơ là làm sự phi thƣờng”. Quan niệm ấy của
Chế Lan Viên đã nâng thơ vƣợt lên trên nhiệm vụ phản ánh hiện thực để bƣớc
vào một cõi mới lạ, một thế giới khiến ngƣời thi sỹ rung cảm hồn phách, “đê
mê” và “khoái lạc” (Chữ dùng của Bích Khê). Thế giới thơ ấy đối lập với thế
giới hiện thực đời thƣờng, vì thế không thể lấy cách cảm, cách nghĩ, những tƣ
duy của con ngƣời đời thƣờng để giải mã đƣợc thứ nghệ thuật thi ca ấy. Trong
bài Tựa cho tập Điêu tàn, Chế Lan Viên quy thơ mình về thế giới của những
điều “vô nghĩa hợp lý” và cƣời nhạo những ngƣời “tự cho là hiểu đƣợc nó”,
để rồi “chê nó là giả dối”. Ông thấy cần phải nói cụ thể hơn về vấn đề này:
“Thấy dòng sông Linh quằn quại trong thơ tôi, thấy ngƣời dũng sỹ vùng vẫy
trong sách tôi, ngƣời ta hỏi: sông Linh ở đâu? Ngƣời dũng sỹ ăn mặc nhƣ thế
nào? Hãy nghĩ lại! Có ai thấy vào buổi chiều, rụng ở tháp một viên gạch cũ
mà hỏi: Viên gạch ấy chu vi bao nhiêu? Đúc từ đời nào? Ở đâu? Bởi ai? Và
89
để làm gì?”[80, tr. 23]. “Dòng sông Linh”, “viên gạch vỡ”, thuộc về quá khứ
của một vong quốc Chàm. Đó là thế giới hƣ cấu, siêu hình đƣợc viết nên hoàn
toàn trong trí tƣởng tƣợng của nhà thơ.
Sọ dừa, đầu lâu, ma hời sờ soạng, ...thế giới rùng rợn ấy trong Điêu tàn
của Chế Lan Viên là sản phẩm của một khát vọng lớn lao đƣợc thành thật của
tâm hồn ngƣời thi sĩ. Trƣớc hết đó là sự thành thật với chính mình. Khi ngƣời
thơ sáng tác, là khi “nó gào, nó thét, nó khóc, nó cƣời. Cái gì của nó cũng tột
cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cƣời tràn cả
tủy là tủy”[80, tr. 23]...Cho nên thơ, trong quan niệm của Trƣờng thơ loạn mà
tiêu biểu là Chế Lan Viên có thể coi là mĩ học của sự tột cùng, tột cùng cảm
xúc và tột cùng của sự chân thành. Vì thế, ngƣời đời có thể cho rằng, những
điều ngƣời thi sỹ kia nói là “vô nghĩa” nhƣng với nhà thơ, “cái gì nó nói đều
có cả”. Có nghĩa là tác giả đặt lòng tin tƣởng tuyệt đối vào tiếng thơ của chính
mình. Và xúc động thay, lòng tin tƣởng, sự thành thật của ông đặt trong thế
giới thơ siêu hình ấy, lại có rất nhiều ngƣời tin ông và hiểu ông thành thật.
Hoài Thanh đọc thơ ông và cảm nhận rất sâu sắc điều này. “Khi Chế Lan
Viên kêu:
“Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta?
Ý của ai trào lên trong đáy óc,
Để bay đi theo tiếng cƣời điệu khóc?”
tôi nhất quyết thi nhân thành thực hơn tôi khi tôi nói, chẳng hạn: tờ giấy kia
trắng. Vì câu nói của tôi là một câu nói hờ hững, xuất tự tri giác, tôi vẫn tin
mà không để vào đó tất cả lòng tin. Chế Lan Viên trái lại, đã để trong tiếng
kêu hốt hoảng của mình một lòng tin đau đớn.
Ấy, ngƣời thƣờng có những nỗi đau tựa hồ vô lý vậy mà thành thực vô
cùng”[44, tr. 240]. Đến với thơ Chế Lan Viên, Hoài Thanh đã đọc bằng cả
tấm lòng của một ngƣời tri kỉ. Bởi những gì Hoài Thanh cảm nhận cũng chính
90
là những gì Chế Lan Viên khao khát khi quyển Điêu tàn đến tay bạn đọc. Kết
thúc bài Tựa ông đã tâm tình: “Nếu, khi sách đọc xong mà cái buồn, cái chán,
cái hãi hùng cũng ùa nhau đến bọc lấy hồn anh, làm cho anh phải cƣời, phải
gào, phải khóc, thì xin anh chớ hẹp hòi gì mà cƣời cho mênh mang, gào cho
vỡ cổ, khóc cho hả hê”[80, tr.24]
Với quan niệm thơ thoát ly hiện thực, Chế Lan Viên đã đƣa thơ thoát ra
khỏi thời gian và không gian tồn tại bình thƣờng của cuộc sống con ngƣời,
đƣa thơ từ cõi ý thức đến cõi vô thức, đƣa thơ từ cõi hữu hình đến cõi siêu
hình. Cõi siêu hình trong Điêu tàn chính là quá khứ nƣớc non Chàm, một thế
giới đau thƣơng thuộc về quá khứ, một miền xa xôi cách biệt với cuộc sống
thực một khoảng cách vô tận. Khách thể thẩm mĩ độc đáo này đã khiến biết
bao ngƣời yêu thơ Chế Lan Viên tìm cách lý giải. Song, theo chúng tôi, quá
khứ dân tộc Chàm đi vào thơ Chế Lan Viên và trở thành đối tƣợng thẩm mỹ
là bởi vì đối tƣợng thẩm mỹ này có thể cho phép nhà thơ tạo ra một quá khứ
tƣởng tƣợng, trong những không gian và thời gian tƣởng tƣợng, để từ đó, Chế
Lan Viên có thể âm thầm nói lên nỗi đau của một ngƣời dân nô lệ, nói lên nỗi
u hoài, uất nghẹn của một thế hệ những nhà thơ không tìm thấy lối đi cho
hành trình thơ cũng nhƣ hành trình cuộc đời của chính mình. Quan niệm thơ
thoát ly trong cõi siêu hình phần nào đã đƣa thơ Chế Lan Viên đi khá xa về
phía hƣ vô thần bí nhƣng phần nào vẫn khiến ngƣời đọc cảm nhận rõ tấm lòng
của ông trƣớc thực tại, nói nhƣ Tố Hữu, chính là ngoảnh mặt nhƣng không
quay lòng, trí lạc nhƣng lòng không lạc.
Trƣớc Cách mạng, do chịu ảnh hƣởng của trƣờng phái thơ tƣợng trƣng
siêu thực phƣơng Tây thế kỉ XIX, Chế Lan Viên cho rằng thơ chính là tiếng
nói của tột cùng cảm xúc trong thế giới siêu hình, một thế giới khác lạ hoàn
toàn với đời thƣờng, với ngƣời thƣờng mà vô cùng chân thật với chính bản
thân ngƣời nghệ sỹ. Quan niệm ấy đã đƣa thơ ông đến tận cõi hƣ vô xa xăm
91
mà vẫn không thoát khỏi nỗi buồn. Song ở một khía cạnh khác, chính nỗi
buồn mang dấu ấn thời đại ấy là biểu hiện tha thiết của tấm lòng yêu đời, khao
khát gắn bó với đời trong Chế Lan Viên. Tấm lòng ấy của ngƣời thi sỹ chính
là điểm tựa tinh thần lớn lao để sau Cách mạng, con ngƣời “đi xa về hoá
chậm” này có thể chan hoà với cuộc sống, chiến đấu, lao động của nhân dân
trong thời đại Cách mạng hào hùng.
Trong hành trình hòa nhập, dấn thân của ngƣời nghệ sỹ đến với Cách
mạng, phục vụ Cách mạng, Chế Lan Viên cũng nhƣ những văn nghệ sỹ tiền
chiến lúc bấy giờ đã lên tiếng phủ nhận Thơ mới (trong đó có Điêu tàn). Họ
tiến hành một cuộc “lột xác” để giác ngộ. Nhƣng dẫu sao, đó vẫn là máu thịt
của tâm hồn ngƣời, nói “bỏ” không phải là chuyện giản đơn. Sau này, trong
bài viết Thơ trong sách giáo khoa (Viết cho tạp chí Văn học 8/1963), Sông
Thƣơng, sông Hƣơng trong dòng văn học (1986), Chế Lan Viên đã lên tiếng
bênh vực Thơ mới, chiêu tuyết cho Thơ mới. Điều ấy khẳng định, Thơ mới có
một ý nghĩa quan trọng, không thể phủ nhận trong tiến trình phát triển văn
học. Điêu tàn của Chế Lan Viên cũng nhƣ tƣ duy thơ tƣợng trƣng siêu thực
vốn không mâu thuẫn với tƣ duy thơ Cách mạng. Để phù hợp nhiệm vụ thơ
phục vụ chính trị, tƣ duy thơ siêu thực tuy vắng bóng trong thành tựu thơ Chế
Lan Viên trong thời đại Cách mạng, song ngƣời đọc lại thấy dấu ấn của Điêu
tàn, thấy sự xuất hiện trở lại của tƣ duy thơ siêu thực khi ông viết Di cảo thơ.
Quan niệm nghệ thuật thơ là thế giới của tƣ duy siêu thực trở lại không chỉ
trong thơ của Chế Lan Viên mà còn xuất hiện đậm nét trong nhiều nhà thơ,
đặc biệt là nhà thơ Thanh Thảo với nhu cầu đổi mới nghệ thuật sâu sắc. Điều
đó khẳng định những tìm tòi, sáng tạo trong thơ của Chế Lan Viên từ những
năm đầu thế kỉ XX.
92
3.2. Thơ không chỉ là tiếng nói của cảm xúc mà còn là tiếng nói của
lí trí trƣớc hiện thực khách quan
3.2.1. Thơ là ngọn lửa cháy sáng từ hiện thực
Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại đã mở ra một kỉ nguyên mới
cho dân tộc ta. Từ đây một nền văn học mới gắn với lý tƣởng độc lập, tự do
và chủ nghĩa xã hội đƣợc khai sinh. Đáp ứng yêu cầu lịch sử, vì mục tiêu
chung của toàn dân tộc, văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 chủ
yếu vận động theo hƣớng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung
của đất nƣớc. Nền văn học ấy đã sinh thành nên một kiểu nhà văn mới: nhà
văn-chiến sỹ. Ý thức, trách nhiệm công dân của ngƣời nghệ sỹ đƣợc đề cao.
Gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nƣớc, dùng ngòi bút để phục vụ
kháng chiến, cổ vũ chiến đấu là đòi hỏi, yêu cầu của thời đại đồng thời cũng
là tình cảm, ý thức tự giác của ngƣời nghệ sỹ. Trong dòng chảy chung của
thời đại ấy, Chế Lan Viên đã hăm hở đứng vào đội ngũ những ngƣời cách
mạng. Biến cố vĩ đại của lịch sử đất nƣớc, dòng thác cách mạng cuồn cuộn đã
buộc ông lột xác cả về tƣ tƣởng, tâm hồn và cả thơ ca.
Những ngƣời nghệ sỹ tiền chiến nhƣ Chế Lan Viên đã biến mình từ
“ngọn lửa ma trơi chấp chới giữa trời thành ngọn đèn con soi trang sách học,
từ chất rƣợu riêng cay đắng rót ra từng chén con riêng mà nhấm nháp, đã biến
thành chất dầu đổ vào guồng máy chung, góp phần chuyển động cuộc sống
chung”[85, tr. 89]. Thực chất, đối với Chế Lan Viên, quá trình biến đổi ấy
không hề dễ dàng. Quá trình ấy diễn ra trong suốt 10 năm. Suốt 10 năm tham
gia kháng chiến, ngƣời nghệ sỹ ấy đã đƣa thơ đi từ tƣ duy thơ siêu hình, vô
thức trở về với hiện thực, đến với cuộc sống và chiến đấu kiên cƣờng của
nhân dân trong kháng chiến; đƣa thơ từ tƣ tƣởng thoát ly hiện thực đến ý thức
trở về với cuộc sống lớn của nhân dân để khơi nguồn cảm hứng; đƣa thơ từ
93
cảm xúc riêng tây, từ nỗi trống trải, bơ vơ của một ngƣời đến với khí thế hào
hùng của muôn triệu con ngƣời đang hƣớng về cách mạng.
Và Khi đã có hƣớng rồi, Chế Lan Viên không chỉ sáng tác làm nên
những đỉnh cao mới của thời đại mới, ông còn tiếp tục viết phê bình và tiểu
luận. Là một nhà thơ, trong phê bình và tiểu luận, Chế Lan Viên cũng đặc biệt
quan tâm đến những vấn đề về nghệ thuật thơ. Ông trình bày quan niệm của
mình về thơ, xác định mục đích thơ, vai trò của thơ, đi tìm mạch nguồn và
cảm hứng cho thơ. Song trƣớc nhất, chúng tôi nhận thấy, ông viết nhiều, viết
sâu sắc về mối quan hệ giữa thơ và hiện thực đời sống. Từ đó có thể thấy
rằng, trong quan niệm của Chế Lan Viên, thơ trƣớc hết, phải là ngọn lửa khởi
phát từ hiện thực.
Thời đại Cách mạng đã nuôi dƣỡng hồn thơ của những ngƣời nghệ sỹ,
và nhƣ một lẽ đƣơng nhiên, thơ đƣợc sinh thành từ thời đại cách mạng sẽ gắn
bó chặt chẽ với vận mệnh chung của dân tộc, ăn nhịp với từng chặng đƣờng
lịch, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nƣớc. Đọc Tuyển tập thơ Việt
Nam (1945-1960) Chế Lan Viên đã thấy sự gắn bó máu thịt ấy. “Đọc Nhớ
máu nhớ ngày Tổng khởi nghĩa, Ngọn quốc kì nhớ cách mạng bắt đầu, Phá
đƣờng lúc đi vào kháng chiến, Ta đi tới khi trở lại hoà bình...Quả là ta đi tìm
thơ, mà cũng gặp đƣợc bƣớc đƣờng của lịch sử”[84, tr. 360].
Nhìn lại chặng đƣờng dài của lịch sử, cái nguồn sữa sinh thành nên nền
thơ ca dân tộc, ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên không khỏi xót xa mà cũng rất
đỗi tự hào: “Dân tộc chúng tôi là một dân tộc đời này tiếp đời khác đã phải
chống những kẻ ngoại xâm mạnh hơn mình, và chiến đấu nhƣ vậy với cái
bụng đói suốt trong hai nghìn năm. Cái diệu kì này đã đẻ ra cái diệu kì khác:
cuộc sống chúng tôi đã đẻ ra một nền thơ. Đứa trẻ con này sinh ra ở chiến
trƣờng, ngỡ chỉ biết thét, nhƣng nó đã biết hát. Một tiếng hát dân tộc đầy tin
tƣởng và đầy cả tình thƣơng nhân đạo”[84, tr. 392]. Cách nói hình ảnh vốn là
94
một ƣu điểm của phong cách Chế Lan Viên trong phê bình và tiểu luận. Nói
nền thi ca Việt Nam nhƣ một đứa trẻ “sinh ra ở chiến trƣờng” ngƣời nghệ sỹ
ấy không chỉ muốn gợi lên cái đau thƣơng vốn đã ăn sâu vào từng chặng
đƣờng phát triển của lịch sử dân tộc mà còn gợi đƣợc cái hoàn cảnh đặc biệt
đã sinh ra một nền thơ. Thời đại nào có văn học đó, không sai! Đứa trẻ sinh ra
giữa chiến trƣờng từ sự thúc bách của thời đại đã cất tiếng thét dữ dội, hào
hùng, mạnh mẽ. Nhƣng đó chƣa phải tất cả của một nền thơ. Đứa trẻ ấy còn
biết hát, tiếng hát dân tộc chan chứa tình yêu thƣơng. Đó là nguồn mạch nhân
văn đẹp đẽ tạo nền giá trị trƣờng tồn cho nền thi ca dân tộc dù đƣợc sinh
thành trong bất kì hoàn cảnh nào.
“Xƣa tôi hát và bây giờ tôi tập nói,
Chỉ nói thôi mới nói hết đƣợc đời.
Bao giờ thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại
Khúc hát hay đâu có lắm lời”
(Sổ tay thơ)
Khao khát “nói hết đƣợc đời” chỉ có thể đạt đƣợc khi ngƣời nghệ sỹ tìm
thấy thơ từ cuộc sống. Từ một nhà thơ thoát ly hiện thực trở thành một nhà
thơ gắn bó với hiện thực, từ một thế giới thơ hƣ vô siêu hình, thơ Chế Lan
Viên trở về với đời sống và cuộc chiến đấu lớn lao của nhân dân. Thơ gắn liền
với cuộc sống, không thể tìm thơ từ “quỹ đạo các trời xa”, đó là điều Chế Lan
Viên đƣa vào Sổ tay thơ để tự nhắc chính mình:
“ Đừng làm nhà thơ đi tìm kiếm sao Kim,
Thứ vàng ấy loài ngƣời chƣa thiết đến”.
Sự gắn bó ấy càng đƣợc Chế Lan Viên thể hiện không chỉ sâu sắc trong thơ
mà còn trở đi trở lại trong những bài phê bình và tiểu luận.
Đọc tập thơ Sức mới (1965) bằng quan niệm thơ ấy, ông đã bộc lộ thật
nhiệt thành niềm vui mừng của mình trƣớc những thành quả của thế hệ các
95
nhà thơ trẻ. “Đáng yêu nhất của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở của
cuộc sống – cuộc sống xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc nƣớc ta”[85, tr. 96].
Hình tƣợng trung tâm của tập thơ này là những con ngƣời mới trong cuộc
sống mới. Điều đáng trọng hơn nữa ở đây là: “Cái lõi ấy gắn chặt, hữu cơ với
cả cuộc sống toàn diện đang bao bọc quấn quýt lấy nó: đám mây trên vọng
gác non cao, tiếng chim tu hú nơi quê bà nội, làn khói bếp bay trên những mái
nhà hợp tác...”[85, tr. 96]. Rõ ràng thơ gắn với hiện thực đã trở thành tiêu chí
đầu tiên của Chế Lan Viên trong quá trình thẩm bình thơ.
“Ở Việt Nam chúng tôi, thơ ca không thể tách rời cuộc sống”(Trích từ
Thơ ở nƣớc chúng tôi đang đánh Mỹ, Tham luận tại cuộc họp bàn tròn quốc tế
về Thơ tại Liên Xô). Có thể thấy, đối với Chế Lan Viên, thơ khởi phát từ thực
tế đã không chỉ là một quan niệm thơ mà còn trở thành một tuyên ngôn dõng
dạc về thơ. Ông tìm thấy sự thống nhất hữu cơ giữa ngƣời cầm bút để phục vụ
chính trị và những cán bộ chuyên môn bắt đầu cầm bút. Rất nhiều bài thơ hay
trên đất nƣớc này đến từ một mâm pháo, một bệnh viện, một công trƣờng,
một sân bay...Nhìn lại chặng đƣờng văn học sau ba năm chống Mỹ (Nhân đọc
Tuyển tập thơ ba năm chống Mỹ) Chế Lan Viên nhận ra một điều đáng trân
trọng: “Hầu hết các nhà thơ đều ở vị trí thƣờng trực chiến đấu”[85, tr. 160].
Sức vƣơn mạnh mẽ của thơ chỉ có thể có đƣợc khi thơ đƣợc nuôi dƣỡng từ
sức sống mạnh mẽ của những con ngƣời kháng chiến, những năm tháng
kháng chiến vĩ đại.
Ở thời đại mà biết bao thi sĩ không có đủ chữ, đủ thì giờ để diễn tả
tâm hồn mình, biết bao tác phẩm tài năng không in ra, Chế Lan Viên đã đi tìm
câu trả lời cho một câu hỏi lớn: “Ai là nhà thơ lớn nhất, thiên tài nhất ở nƣớc
tôi hiện nay?” Không phải các nhà thơ chuyên nghiệp, không phải những con
ngƣời đời thƣờng vào thời khắc bừng sáng của cảm xúc mà là sự sống. “Nhà
thơ lớn nhất vẫn là sự sống”[85, tr. 383]. Trƣớc khi có chiến thắng Điện Biên
96
Phủ, không thể có một bài thơ nào về chiến thắng ấy. Rõ ràng, không có hiện
thực sẽ không có thi ca. Nhƣ một quy luật tất yếu, khi mỗi ngƣời làm thơ đã
đem cái tôi cá nhân của mình chan hoà trong cái ta chung của dân tộc thì thơ
của họ chính là một ngọn lửa rực cháy từ cuộc sống, từ đó mà soi sáng chính
cuộc sống đã sinh thành nên mỗi hồn thơ.
Từ quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy
ông đã có những đóng góp sâu sắc làm cụ thể hơn những vấn đề lý luận cơ
bản về nghệ thuật thi ca. Lý luận từ thực tiễn của ông góp thêm một tiếng nói
nhấn mạnh vấn đề: hiện thực đời sống là nguồn gốc của văn chƣơng, là mảnh
đất nuôi dƣỡng văn chƣơng.
Song cũng từ quan niệm của Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy lý luận
của ông còn bị gò bó bởi mục đích phản ánh hiện thực của văn chƣơng để phù
hợp với nhiệm vụ lịch sử xã hội. Chế Lan Viên coi phản ánh hiện thực nhƣ là
tiểu chuẩn cao nhất để đánh giá, phê bình văn nghệ. Trong khi đó, từ góc độ
lý luận toàn diện về nghệ thuật, chúng ta hiểu rõ, mục đích của văn chƣơng
nghệ thuật không đơn giản là mục đích phản ánh hiện thực mà còn là sự nhận
thức, xúc cảm. Giá trị nội dung của tác phẩm văn chƣơng, trƣớc hết không
phải chỉ đơn giải ở sự thể hiện chân thực các chi tiết, ở những sự kiện lịch sử -
xã hội đƣợc mô tả chính xác. Nghệ thuật không phải là hiện thực, không chỉ là
hiện thực.
3.2.2. Thơ là ngọn lửa soi sáng hiện thực
Tác dụng, vai trò của thơ là vấn đề Chế Lan Viên luôn trăn trở. Thơ
cháy sáng từ hiện thực đồng thời soi sáng hiện thực. Hay nói cách khác, thơ
cần có ích cho chính mảnh đất hiện thực đã sinh thành nên thơ. Đây không
phải là khám phá mới mẻ của Chế Lan Viên về quan niệm thơ. Truyền thống
dân tộc đã chứng minh sức mạnh hùng hồn của thơ ca trên hành trình đấu
tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc. Từ những bài thơ nặng tình đời, tình dân tộc
97
của ngƣời anh hùng Nguyễn Trãi đến những câu thơ đau đời của đại thi hào
Nguyễn Du, từ những cảnh Chạy giặc tan tác chia lìa trong thơ của nhà thơ
mù Nguyễn Đình Chiểu đến những câu thơ dậy sóng của ngƣời chí sĩ yêu
nƣớc Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng...thơ ca đã không
chỉ là tiếng nói cảm xúc của một con ngƣời cá nhân nhà thơ mà đã là những
tiếng thơ thấu động lòng ngƣời, thực sự cần thiết cho mỗi con ngƣời, mỗi thời
đại. Đến lƣợt mình, Chế Lan Viên trƣớc hết là nói sự trải nghiệm, chiêm
nghiệm của riêng mình, nói sự tự giác trong nhận thức của mình để góp thêm
một tiếng nói làm sâu sắc hơn vai trò của nghệ thuật thi ca, đặc biệt là trong
thời đại Cách mạng. Giữa nền thơ lấy hiện thực cách mạng làm đối tƣợng
phản ánh, lấy phục vụ cách mạng làm mục đích, Chế Lan Viên bằng tài năng
tƣ duy sắc sảo đã có những quan niệm riêng của mình về tính có ích của thơ.
Những quan niệm ấy đƣợc ông trình bày thành một hệ thống chặt chẽ, không
chỉ ở trong những trang phê bình và tiểu luận mà còn ở trong những bài thơ
nhƣ Nghĩ về nghề; Sổ tay thơ; Nghĩ về thơ, nghĩ về nghề, nghĩ...Trong những
bài thơ này, quan niệm của Chế Lan Viên về vai trò của thơ ca đƣợc ông trình
bày sâu sắc với một hệ thống hình tƣợng mang tính suy luận chặt chẽ. Vì vậy
có thể coi đây là những trang tiểu luận bằng thơ hết sức tài hoa của Chế Lan
Viên.
Theo Chế Lan Viên, thơ cần có ích. Hai chữ “có ích” trong quan niệm
của Chế Lan Viên xuất phát từ phƣơng châm phục vụ chính trị của thơ trong
thời đại Cách mạng.
Cuộc sống cần thơ, hiện thực kháng chiến cần thơ. Nếu nhƣ thơ ca bắt
nguồn từ cuộc sống thì cuộc sống cũng rất cần những lời đồng vọng của thơ
ca:
“Đời cần thơ nhƣ cần hồn chiến trận
Cần tiếng sáo thổi lòng thời đại
98
Cần giao liên dẫn dắt qua đƣờng”
(Nghĩ về thơ)
Trong bài tiểu luận Thơ ở nƣớc chúng tôi đang đánh Mỹ, ông đem so sánh sự
cần thiết của thơ nhƣ “cần thiết mặt trời, cần thiết ánh sáng, cần thiết hoa lá,
cần thiết vũ khí”[85, tr. 149]. Ý nghĩa của thơ, trong quan niệm của Chế Lan
Viên nằm ở chỗ, có thể làm cho cuộc sống con ngƣời trở nên sâu xa hơn, chỉ
mƣời phút có thể sống cả một năm. “Thơ ca không kéo dài cuộc sống của con
ngƣời, nhƣng nó làm cho cuộc sống có một dung tích lớn hơn”[85, tr. 149].
Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, khi mà ở đâu đâu trên
mảnh đất Việt Nam này cuộc sống và cái chết song hành hiện hữu thì “thơ ca
đối với chúng tôi cực kỳ cần thiết nhƣ một ngƣời cố vấn, nhƣ ngƣời yêu,
ngƣời mẹ an ủi chúng tôi. Nhân dân không thể sống không có thơ ca, cũng
nhƣ không có vũ khí”[85, tr. 149].
Từ những trăn trở của Chế Lan Viên về Cuộc sống và nhà văn, ngƣời
đọc hiểu thêm về nỗi băn khoăn của ngƣời nghệ sỹ trên hành trình đƣa thơ trở
thành vị muối hay giọt mật cho đời. Đi đến với các nhà máy, ngắm những ống
khói ngút trời trong niềm vui sƣớng hân hoan trƣớc những đổi thay của đất
nƣớc, Chế Lan Viên tƣởng có thể trong một tuần, làm nhanh cũng đƣợc độ
bảy tám bài hay một trƣờng ca độ 900 câu. Để rồi, khi đến gần hơn với cuộc
sống ở nơi đây, ngƣời thi sĩ ấy mới nhận ra: “không thể dứt áo ra đi, vứt lại
đấy một bài thơ ta tuy thích mà họ (những ngƣời công nhân) không cần”[85,
tr. 293]. Ngƣời nghệ sỹ đi thực tế để khơi nguồn sáng tác nhƣng đồng thời
cũng là để hiểu cho thấu những nhu cầu của cuộc sống đối với thơ ca, để làm
thế nào cho mỗi tác phẩm thi ca đƣợc viết nên từ những nguồn cảm hứng lớn
ấy có thể trở lại cuộc sống thắp sáng những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống muôn
hình muôn dạng, phức tạp và đa chiều.
99
Giữa những con ngƣời bảo vệ sự sống, tạo ra sự sống, Chế Lan Viên
thấy thi ca cũng cần có nhiệm vụ “Làm cái gì có ích cho những con ngƣời
ấy?”[85, tr. 179] Tức là thơ ca có thể tiếp thêm sức mạnh, có thể thổi bùng lên
tình yêu hay sự căm hờn, có thể khiến con ngƣời trở về từ những đau thƣơng
mất mát và vẫn có thể ngời lên niềm tin yêu hi vọng. Đặt thơ trong mối quan
hệ giữa sự sống và cái chết, không chỉ của một con ngƣời mà là của cả dân
tộc, nhiệm vụ của thơ vì thế càng trở nên lớn lao hơn bao giờ hết:
“Ta sống những năm viên đạn nặng hơn ngƣời
Nhiệm vụ thơ nặng hơn trang giấy, các tài thơ”
(Thời sự hè 72, bình luận)
Trong bài viết Nền văn hoá từ cuộc sống, Chế Lan Viên thêm một lần nữa nói
rõ hơn về nhiệm vụ của thơ: “Làm cái gì có ích cho những con ngƣời ấy? Cho
bà mẹ ban đêm bế con xuống hầm, ngày mai vẫn đủ sức, tinh thần gieo gặt
các mùa màng? [...] Cho các chiến sỹ hạ máy bay, giữa hai trận đánh lại vẫn
yêu đời, đến hôn những bông hoa bên mân pháo của mình? Làm cái gì cho
giữa chiến tranh, họ vẫn có tâm hồn ngày một nâng cao; ở ngoài đời là tiếng
bom, nhƣng trong hồn họ vẫn là tiếng hát”[85, tr. 179].
Là một nhà thơ cách mạng Chế Lan Viên có thể cảm nhận sâu sắc sứ
mệnh cũng nhƣ vinh quang của thơ ca. “Đƣợc [...] làm thơ văn phục vụ cho
một chiến sỹ giải phóng quân trƣớc giờ anh ra trận, hay là để an ủi, động viên
cho một đồng bào ta ở miền Nam đang còn ngạt thở dƣới hầm sâu của Mỹ và
tay sai...hỏi còn vinh dự nào cho anh chị em văn nghệ chúng ta hơn làm các
công việc hữu ích ấy?”[85, tr. 90].
Trong thời kỳ ấy, đồng thời với việc đề cao, ca ngợi tính chất có ích,
tính chất phục vụ Cách mạng của thơ ở những phƣơng diện lớn lao, Chế Lan
Viên không ngại phê phán những trang thơ trôi xuôi, chƣa thể tự đốt cháy
chính mình chứ chƣa nói gì đến có thể toả sáng hiện thực đã sinh thành ra nó.
100
“Lẽ ra thơ phải nói cho đƣợc lòng tin tƣởng ở thắng lợi, sự quyết tâm chiến
đấu chống xâm lăng, tình thuỷ chung giữa bạn bè, vợ chồng, nỗi hận thù đối
với đế quốc xâm lƣợc Mỹ, cái bình tĩnh của tâm trí, cái thanh thản của một
tâm hồn Việt Nam...thì thơ lại nặng tả một nhà máy, một cánh đồng, một bến
phà”[85, tr. 172-173].
Có những bài thơ chỉ thuộc về một thời, có những bài thơ đi cùng năm
tháng, có những bài thơ chƣa kịp đọc lên đã bị lãng quên, có những bài thơ có
khả năng thắp sáng cả triệu trái tim ngƣời đọc. Sức sống mãnh liệt ấy trong
thơ, phần nhiều đƣợc tạo nên bởi giá trị có ích của thơ đối với ngƣời đọc. Dù
trong thơ là chuyện của một ngƣời hay của muôn ngƣời, dù thơ tả tình hay tả
cảnh, dù thơ kể chuyện hay chỉ đơn thuần ghi nhanh vài dòng cảm xúc, điều
cốt yếu là tiếng thơ ấy, khi đọc lên, hát lên có thể làm bừng sáng lòng ngƣời,
có thể xoa dịu nỗi đau hay thôi thúc con ngƣời hành động...tức là có giá trị gì
đối với con ngƣời và cuộc sống. Cả đời làm thơ, Chế Lan Viên luôn tâm
niệm:
“Dù hình tháp hay hình thoi, mỗi hạt gạo phải làm nên máu thịt
Dù cành thấp hay cành cao, mỗi chùm hoa đều phải gọi ong về
Thơ cần có ích
Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi”
(Nghĩ về thơ)
Nhƣ chúng tôi đã trình bày ở trên, quan niệm về tính có ích của thơ của
Chế Lan Viên không mới, nhƣng trong thời điểm lịch sử cụ thể, trong những
năm tháng “viên đạn nặng hơn ngƣời”, thì những quan niệm của Chế Lan
Viên thực sự đã đóng góp làm sâu sắc hơn lý luận về thơ đồng thời trở thành
hành trang đẹp đẽ của biết bao nhà thơ cũng nhƣ biết bao ngƣời yêu thơ trên
suốt hành trình “Xẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc”(Tố Hữu).
101
Trong những năm cuối của cuộc đời mình, Chế Lan Viên nói càng nhiều
đến tính có ích của thơ ca (dù ông không phát biểu trực tiếp bằng phê bình,lý
luận). Mặc dù ông chƣa bao giờ và không bao giờ phủ nhận vai trò của thơ ca,
nhƣng trong Di cảo thơ chúng tôi đã thấy ông có những phán xét, hoài nghi
về vai trò có ích của thi ca với một thái độ tƣởng chừng nhƣ không còn tin
tƣởng, băn khoăn đến mức bi quan. Theo chúng tôi đây là quan niệm thơ đau
đớn nhất và chua xót nhất trong suốt hành trình thơ Chế Lan Viên:
“Mậu Thân 2000 ngƣời xuống đồng bằng
Chỉ một đêm còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 ngƣời đó?
Tôi! Tôi – ngƣời viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng ngƣời không tiếc mạng mình trong cuộc xung phong”
(Ai? Tôi!)
Chế Lan Viên hiểu rằng trong lúc “Ta đang tính đến sinh mệnh triệu
con ngƣời và vạn khoảnh non sông” là lúc không thể thiếu vắng “tiếng hét ở
chiến hào”. Nhƣng hôm nay, nhìn lại những việc đã làm, không khỏi day dứt,
ông tự quy kết trách nhiệm cho mình, tự kết tội mình vì ông đã viết “những
câu thơ cổ võ - Ca tụng ngƣời không tiếc mạng mình trong cuộc xung
phong”. Câu hỏi “Ai chịu trách nhiệm…Ai”? Vang lên riết róng. Chế Lan
Viên đóng vai một quan toà đồng thời cũng là một tội nhân. Đau đớn và dũng
cảm, ông thú tội “Tôi”. Bao nhiêu năm đã qua mà nỗi ăn năn sám hối, sự day
dứt ám ảnh cứ còn đeo đẳng mãi. Nhà thơ thấy mình không chỉ có tội với
ngƣời đã chết mà còn có tội với ngƣời đang sống:
“Một trong ba mƣơi ngƣời kia ở mặt trận về sau mƣời năm
Ngồi bán quán bên đƣờng nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chƣơng đầy mọi cỡ
Chả huân chƣơng nào nuôi đƣợc ngƣời lính cũ
102
…Ngƣời lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ
(Ai? Tôi!)
Ngƣời nghệ sỹ đã từng viết những câu thơ có sức cổ vũ hàng vạn ngƣời giờ
đây day dứt bởi chẳng có câu thơ nào của mình có thể giúp ngƣời chiến sỹ
năm xƣa nuôi đàn con nhỏ. Ngƣời nghệ sỹ một thời làm thơ với tầm vóc
“ngang tầm chiến luỹ” nay cay đắng chua chát, thẳng thắn nhận diện thơ anh
viết chƣa thực sự giúp con ngƣời có thể sống. Từ quan niệm “thơ có ích” cho
lịch sử và dân tộc, cho Cách mạng vào thời điểm trƣớc năm 1975, Chế Lan
Viên hƣớng sự “có ích” của thơ tới sự sống của mỗi cá nhân con ngƣời khi
bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc (sau 1975). Từ quan niệm thơ có ích
cho một thời đến quan niệm thơ có ích cho mọi thời, hành trình ấy là một
cuộc đấu tranh không dễ dàng trong chính nhà thơ, và đặc biệt trong thời đại
“Vị trí nhà thơ nhƣ rác đổ thùng”:
“Dù anh có để cho đời sau
Thì đời sau đọc của đời sau chứ cần gì anh đấy
Và những trang anh viết bay đi nhƣ thóc lép,
nhƣ là mùa, nhƣ giấy vàng hồ, nhƣ những tàn tro!
(Uổng công)
Khi thơ phải đối mặt với nhữ “ti vi”, “xe cúp”, Chế Lan Viên đau đớn nhận ra
ý nghĩa cảm hóa tâm hồn nhân loại của thơ ca đã mai một đi nhiều:
“Những thế kỷ đông ngƣời mà nhân loại vắng tanh
Uổng công con công thơ xòe đuôi ngôn ngữ của mình
Sao bằng khi nhân loại còn ở hang tiền sử
Chƣa có thơ gì nhƣng giọt lệ đã long lanh”
(Thế kỷ)
103
Chế Lan Viên đã nhìn thấy một sự thật phũ phàng: số ngƣời quan tâm đến thơ
ngày càng ít, sự tác động của thơ đến hồn ngƣời là không đáng kể. Ông đã
nhìn nhận vào vấn đề đầy đau đớn này không phải chỉ bằng trái tim của một
ngƣời nghệ sỹ, mà bằng lý trí của một triết nhân, bằng sự dũng cảm của một
nhà Cách mạng. Chúng tôi cho rằng, những mâu thuẫn trong quan niệm nghệ
thuật về thơ có ích của Chế Lan Viên qua các thời kỳ không có tính chất loại
trừ, quan niệm thời kỳ sau không loại trừ quan niệm thời kỳ trƣớc. Mà cần
hiểu đó là mạch vận động của một tƣ duy thơ nhiều trăn trở về nghề thơ và
cuộc đời, về những giá trị nhất thời và vĩnh cửu trong thơ.
3.2.3. Thơ cần có ý, có tư tưởng và trí tuệ
Cái cốt lõi của thơ là trữ tình. Ngƣời làm thơ nhƣ Chế Lan Viên cũng
nhƣ ngƣời yêu thơ, ngƣời đọc thơ hiểu rằng thơ bao giờ cũng là tấm gƣơng
của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm con ngƣời, những rung động của trái
tim trƣớc cuộc đời.
Thơ là thể loại ra đời rất sớm. Những bài hát trong lao động của ngƣời
nguyên thuỷ đƣợc xem là những hình thức đầu tiên của thơ ca. Trƣớc Công
nguyên, ở Trung Quốc, từ thơ ca dân gian, Khổng Tử đã san định Kinh thi.
Trong văn học Việt Nam, từ trung đại, cận đại cho đến hiện đại, thơ là thể loại
có nhiều thành tựu nhất. Lý giải cho những thành tựu lớn lao cũng nhƣ tính
phổ biến của thi ca trong tiến trình phát triển của lịch sử loài ngƣời, trƣớc hết
phải nói đến khả năng biểu đạt cảm xúc của thi ca
Có thể nói, tình cảm là sinh mệnh của thơ. Tình cảm mãnh liệt ở đây
không phải thứ tình cảm kêu gào, khóc cƣời ồn ào ở bên ngoài, mà là sự rung
động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn. Tình cảm
mãnh liệt ở đây có nghĩa là nhà thơ phải sống rất sâu vào tâm hồn mình, lắng
nghe các xao động trong tâm hồn mình, đau đớn, sƣớng vui với những gì
trong ấy.
104
Thơ là sự thổ lộ tình cảm một cách mãnh liệt. Nhƣng thơ không phải là
sự thổ lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp. Tình cảm trong thơ là tình
cảm đƣợc ý thức, tình cảm đƣợc lắng lọc qua cảm xúc thẩm mỹ, gắn liền với
khoái cảm của sự tự ý thức về mình và cuộc đời. Chế Lan Viên trong bài Ý
trong thơ, in trong tập Phê bình văn học cũng đã lên tiếng thể hiện sắc nét
quan niệm của mình: “Chúng ta phải làm thơ có ý với một sự dụng ý rõ
rệt”[84, tr. 301].
Làm thơ có ý, đó là cách Chế Lan Viên phân biệt thơ của “chúng ta”, thơ
của thời đại cách mạng hôm nay với thơ trƣớc cách mạng. “Ông cha ta cách
đây mấy trăm năm đã dạy: “Làm thơ là để đạt cái chí của mình”. Nhƣng có
anh em ta cách đây mƣời mấy năm lại dạy: “Làm thơ là để không cần nói cái
gì cả”. Hồi ấy, nếu trong làng thơ có ai bảo: “Bài thơ phải có một cái ý gì”, thì
có ngƣời sẽ cho là anh ấy chƣa biết đạo làm thơ. Thơ, theo lúc bấy giờ là Cảm
xúc, là Hình ảnh, là Nhạc điệu, hay là Đạo. Gì thì gì, chứ thơ là ý, là Tƣ
tƣởng, là Lý trí thì lập tức có ngƣời giẫy nẩy lên”[84, tr. 302]. Không đồng
tình với quan niệm thơ chỉ là cảm xúc, chỉ là hình ảnh, hay chỉ là nhạc điệu,
Chế Lan Viên cho rằng, quan niệm thơ nhƣ thế, vô hình chung đã tạo nên một
sợi “thòng lọng” thít chặt lấy thế giới thi ca và tâm hồn ngƣời nghệ sỹ. Nghĩ
lại quan niệm thơ một thời, ông không khỏi rùng mình sợ hãi: “Và hú vía!
Nếu Cách mạng không đến, thì tôi cũng đùn vào cái thòng lọng tắc tị ấy, cả
tâm hồn và nghệ thuật của tôi”[84, tr. 302].
Theo ông, cái ý, cái lý trí đóng vai trò nòng cốt, giúp ngƣời làm thơ có
thể kiểm soát những cảm xúc của mình nhiều khi rất cần kiểm soát. Nếu
ngƣời làm thơ chỉ chăm chữ, chăm câu, chăm hình ảnh thì thơ ấy là thứ thơ
hình thức; nếu ngƣời làm thơ không dùng suy nghĩ, lý trí để lọc thực tế, suy
nghĩ về thực tế, nâng nó lên, làm cho nó có chất tƣ tƣởng của thời đại và của
chính mình, thì thơ ấy là thứ thơ tự nhiên chủ nghĩa; nếu ngƣời làm thơ không
105
coi trọng công tác phục vụ chính trị, chỉ viết nhƣ trang thơ tình ái riêng tây,
thì thơ ấy là thơ thoát ly chính trị... Và rõ ràng, nếu từ chối cái ý, từ chối cái lý
trong thơ thì sẽ không khác nào ngƣời làm thơ từ chối khoa học, từ chối khoa
học xã hội, từ chối chính trị vào trong thơ. Lên tiếng phê phán quan niệm thơ
chỉ là cảm xúc, chỉ là hình ảnh,... Chế Lan Viên đồng thời khẳng định tính
đúng đắn của quan niệm thơ có ý trong các nhà thơ thuộc thời đại Cách mạng.
“Thực tế thì sau mƣời mấy năm kháng chiến, cách mạng, bài thơ bây giờ đều
có ý, đều có cái lý tối thiểu của mình”[84, tr. 303].
Đem ý đặt giữa thế giới của cảm xúc và nhạc điệu, Chế Lan đặt vấn đề
“Làm sao cho bài thơ không dụng ý một cách loã lồ, không tuyên truyền một
cách trắng trợn”[84, tr. 302]. Nghĩa là ông rất quan tâm tới vấn đề, làm thế
nào để biến ý trừu tƣợng ra hình ảnh cụ thể, làm thế nào để không đƣa thẳng
đuột ý của mình vào thơ? Giải quyết vấn đề này, ông nhấn mạnh, thơ có tính
riêng biệt. Đó là tính riêng biệt của một thứ nghệ thuật không chỉ thể hiện tình
cảm mà còn thể hiện tƣ tƣởng, không phải bằng trừu tƣợng, mà bằng những
hình ảnh rất sinh động trong cuộc sống. Để giải quyết mạch lạc vấn đề lý luận
này tới bạn đọc, Chế Lan Viên đã dẫn ra một loạt những ví dụ: từ ý trừu
tƣợng “đọc sách”, Nguyễn Du đã biến nó thành “Cảo thơm, lần giở trƣớc
đèn” làm hiển hiện trƣớc ngƣời đọc một quyển sách, một ánh lửa, một bàn
tay; từ ý “đức, hạnh” đến hình ảnh “Ngƣời trồng cây hạnh ngƣời chơi-Ta
trồng cây đức để đời về sau” là quá trình đi từ cụ thể đến trừu tƣợng của thơ;
từ ý khao khát tự do, giải phóng bài thơ của Hồ Chí Minh đƣợc ra đời bằng
những hình ảnh lớn lao đẹp đẽ: “Nhà lao thƣ thả ngủ chơi trƣa-Một giấc miên
man suốt mấy giờ-Mơ thấy cƣỡi rồng lên thƣợng giới-Tỉnh ra trong ngục vẫn
nằm trơ”.
Nguyễn Đình Thi từng viết: “Làm thơ không phải là phiên dịch ý, tình
bằng hình ảnh cầu kỳ. Hình ảnh của thơ trái lại, phải là hình ảnh thực nảy lên
106
trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”[84,
tr. 306]. Đề cao vai trò của ý ở trong thơ, Chế Lan Viên tỏ ý kiến đồng tình
với quan niệm của Nguyễn Đình Thi. Ông viết: “Phải viết những hình ảnh có
ý tƣởng, hay phải diễn tả những ý tƣởng dính ảnh hình, bằng ảnh hình...Đó là
hai mặt của một việc làm là làm thơ, nhƣ bật ngọn lửa lên vừa có một hình
ảnh sáng, vừa có một sức nóng, không thể nào bảo cái nào trƣớc, cái nào sau
đƣợc”[84, tr. 307].
Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã đƣợc ý thức. Trong thơ, nhà thơ
nhìn mình theo một con mắt rộng hơn chính mình, một con mắt phổ quát.
Trong thơ, nhà thơ không bị tình cảm mãnh liệt của mình chi phối, trái lại, ý
thức nhà thơ làm chủ tình cảm của mình bằng một tƣ tƣởng. Nhƣ vậy, đối với
Chế Lan Viên, thơ không chỉ là cảm xúc, thơ còn cần phải có ý, có tƣ tƣởng.
Có thể thấy rằng, nền thơ của một thời đại, chỉ có trái tim, dù trái tim xúc
cảm si mê đến đâu cũng không đủ. Thơ phản ánh thực tế là phản ánh bằng tƣ
duy hình tƣợng. Nghĩa là hình tƣợng trong thơ là hình tƣợng có tƣ duy, có tƣ
tƣởng. Đây là quan niệm nghệ thuật mang tính quan phƣơng, đề cao vai trò
của yếu tố tƣ tƣởng, coi tƣ tƣởng (đặc biệt là tƣ tƣởng Cách mạng, lý tƣởng
cộng sản) là một trong những tiêu chí để thẩm bình, định giá thi ca nghệ thuật.
Chế Lan Viên cho rằng: “Trong những cái mà Đảng đƣa lại cho ta, cái quý
nhất chính là cái hơi thở của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”[85, tr. 170].
Chất tƣ tƣởng mà Chế Lan Viên muốn nói đến ở đây là tƣ tƣởng Cách mạng,
là lý tƣởng cộng sản, là tƣ duy Cách mạng, là những suy nghĩ của cả một thời
đại, một dân tộc trong thơ. Cách mạng là hành động lớn của những suy nghĩ
lớn. Thơ ca phản ánh hiện thực Cách mạng đồng thời phải thể hiện đƣợc
những suy nghĩ lớn ấy. Trƣớc đây, trong mỗi bài thơ, ta chỉ thấy cái nhìn của
một ngƣời. Giờ đây trong mỗi bài thơ cần thấy đƣợc cái suy nghĩ của cả một
dân tộc. Những lời phát biểu của Bác, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, các
107
đƣờng lối, nghị quyết của Đảng, những lễ kỷ niệm các anh hùng dân tộc –
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...tất cả sự sống, chiến đấu, sản xuất, nghĩ suy của
dân ta gộp lại sẽ cho những ngƣời cầm bút cái suy nghĩ lớn.
Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, song trong cái gia tài văn học, nghệ
thuật của cha ông để lại, tỷ lệ những bài thơ hƣớng đƣợc đến tầm suy nghĩ của
dân tộc và thời đại chƣa nhiều. Cái ấm nóng trong thơ còn thua xa cái cháy
bỏng ngoài đời. Nghĩ về thơ ca trong thời đại Cách mạng rực lửa, Chế Lan
Viên có nhiều băn khoăn: “Lẽ ra cầm quyển sách ta lên phải là cái bìa cháy
bỏng, trang giấy cháy bỏng, những câu thơ cháy bỏng” [85, tr. 170]. Những
hạn chế về mặt tƣ tƣởng của thơ ca thời đại Cách mạng đƣợc Chế Lan Viên
nhận thức sâu sắc. Ông chỉ rõ trong những năm toàn đất nƣớc có một tâm
hồn, có chung khuôn mặt, thì xã hội chủ nghĩa, chống Mỹ là tiếng nói riêng
của dân tộc Việt Nam. Nó phải in lên vầng trán, phản chiếu vào đôi mắt mọi
nhà thơ. Song cái ngọn gió chung, cái hoài bão chung, cái tâm huyết chung ấy
rất rõ ngoài đời, nhƣng chƣa rõ trong thơ.
Nguyễn Minh Châu khi nhìn lại nền văn học thời đại Cách mạng nhận
thấy tính “minh họa” xuất hiện nhƣ là một hành lang chật hẹp của tƣ duy nghệ
thuật. Hoàng Ngọc Hiến coi đó là nền “Văn học phải đạo”. Chế Lan Viên khi
một mực đề cao chất tƣ tƣởng Cách mạng trong thơ đã rơi vào sự “minh họa”
và “phải đạo” trong quan niệm nghệ thuật nhƣ Nguyễn Minh Châu và Hoàng
Ngọc Hiến từng nhận định. Song trong những năm kháng chiến, cùng nhân
dân, lực lƣợng thơ đã đóng góp không nhỏ vào việc tạo nên sự giữ vững vàng
của trận địa tinh thần dân tộc. Tƣ tƣởng Cách mạng, tƣ tƣởng thời đại, những
suy nghĩ lớn lao của dân tộc, lịch sử trong thơ đã tạo nên sức mạnh ấy. Là một
nhà thơ của nền văn học Cách mạng, Chế Lan Viên vừa đồng thời thể hiện
đƣợc tƣ tƣởng lớn của mình trong thơ, vừa trình bày sâu sắc quan niệm thơ
mang tính tƣ tƣởng trong những trang phê bình tiểu luận. Nếu nhƣ văn học
108
nghệ thuật là một mặt trận thì Chế Lan Viên chính là ngƣời chiến sỹ đã chiến
đấu hết mình trên mặt trận ấy. Những đóng góp lớn ấy của Chế Lan Viên
trong dòng chung của văn học thời đại Cách mạng là không thể phủ nhận.
Trong quan niệm nghệ thuật về thơ, Chế Lan Viên đặc biệt lƣu tâm đến
vấn đề trí tuệ trong thơ. Với vấn đề này, ông trao đổi về hai khuynh hƣớng mà
theo ông đều không đúng khi bàn bạc và đánh giá: đề cao quá mức là không
đúng, mà xem thƣờng nó, hạ thấp nó cũng là không đúng.
Với xu hƣớng đề cao thơ trí tuệ, Chế Lan Viên đã có lần tâm sự: “Khi
có ai bảo, anh ấy làm thơ trí tuệ, tôi cứ ngƣợng, cứ nhƣ ngƣời ta nói: “Kìa anh
ta đeo kính gọng vàng”. Giá đừng đeo kính, mà có một đôi mắt đẹp có hơn
không?”[85, tr. 327]. Ông không thích đƣợc gọi là làm thơ trí tuệ. Bởi hai lý
do. Thứ nhất, khi ông làm thơ “trí tuệ”, ông thấy mình không có gì khác trong
ngƣời cả, nhƣ khi ông làm thơ về tình yêu, về con trẻ. Và trong quan niệm của
riêng ông, làm cho đƣợc một bài thơ tình yêu, một bài thơ về con trẻ, về liễu
mùa xuân, nào có dễ gì. Thứ hai, đã là thơ hay thì thơ nào với Chế Lan Viên
cũng đáng trân trọng. Vì nhu cầu của con ngƣời là rất phong phú. Độc giả
thích những bài thơ làm suy nghĩ nhƣng cũng thích những bài thơ ru mình đi,
thích “Ôi thời đại...” nhƣng cũng thích “Bống bống bang bang”...Ông đã có
lúc đùa với Tế Hanh rằng: “Mình quen làm triết nhân nửa mùa đến quên làm
tình nhân và hay hét quá đến không hát trầm đƣợc nữa”[85, tr. 328]. Lời nói
đùa ấy thực chất là những nhận thức sâu sắc của Chế Lan Viên về thơ trí tuệ,
những suy tƣ, những chiêm nghiệm của ông về thơ, ý nghĩa và tác dụng của
nó.
Đề cao thơ trí tuệ, xem nhƣ đó là cái gì thời đại nhất là không ổn.
Nhƣng với những quan niệm xem thƣờng thơ trí tuệ, Chế Lan Viên cũng đã
tranh luận thẳng thắn để đi đến một quan niệm đúng đắn nhất về thơ. “Tôi đọc
nhiều bài thơ trí tuệ của Eluard, của Brecht còn rung động hơn nhiều bài tình
109
cảm sƣớt mƣớt hay rề rà tả tình, tả cảnh! Đừng có nói trái tim cao hơn bộ óc!
Không khéo thì rơi vào chủ nghĩa phi lý lúc nào cũng nên”[85, tr. 328].
Khi đã là thơ, thật khó để phân biệt đâu là bộ óc, đâu là trái tim. Theo
Chế Lan Viên, tình cảm và trí tuệ đối với thơ là rất quan trọng. Không thể cứ
dựa vào tình cảm mà phủ định ý thơ, chất tƣ tƣởng cũng nhƣ chất trí tuệ của
thơ. Cũng không thể đề cao thơ trí tuệ, thơ tƣ tƣởng mà coi thƣờng thơ tình
cảm. Từ những các bài phê bình, tiểu luận, tựa các tập thơ, hay tham luận
trong nƣớc và quốc tế, Chế Lan Viên đã định hình một cách có hệ thống,
mang tính lý luận sâu sắc những quan niệm của bản thân về thơ. Thơ khởi
phát từ sự mãnh liệt của cảm xúc, nhƣng thơ không chỉ là cảm xúc, thơ trong
quan niệm của Chế Lan Viên là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã đƣợc ý thức.
Nói cách khác, thơ là sự kết hợp hài hoà của tình và ý, của tƣ tƣởng và cảm
xúc, của trí tuệ và nhịp rung động sâu xa trong trái tim và tâm hồn ngƣời thi
sỹ.
3.3. Thơ là tiếng nói của trí tƣởng tƣợng
Nếu tình cảm là sinh mệnh của thơ thì tƣởng tƣợng là đôi cánh của thơ.
Tƣởng tƣợng là hoạt động tâm lý, phân giải, tổ hợp các biểu tƣợng đã có để
tạo ra hình tƣợng hoàn toàn mới. Mọi nghệ thuật đều cần đến tƣởng tƣợng.
Thơ không xây dựng các hình tƣợng khách thể nhƣ nhân vật trong truyện hay
kịch, kí mà xây dựng hình tƣợng của bản thân dòng ý thức, cảm xúc đang
diễn ra, vì thế, tƣởng tƣợng trong thơ càng có vai trò quan trọng. Trong quan
niệm của nhà thơ Chế Lan Viên “thơ không có tƣởng tƣợng nhƣ bể đã cạn hết
nƣớc, con cá không sống vào đâu đƣợc nữa”[85, tr. 697]. Thơ phản ánh thực
tế bằng lung linh, bằng đƣờng cong cho nên nhà thơ rất cần trí tƣởng tƣợng.
Song tƣởng tƣợng Chế Lan Viên nói đến ở đây không phải là thứ tƣởng
tƣợng huyễn hoặc thoát ly cuộc sống. Đồng thời với việc đề cao trí tƣởng
tƣợng trong quan niệm về thơ của mình, ông quan tâm đặc biệt để lý giải sâu
110
sắc mối quan hệ khăng khít giữa trí tƣởng tƣợng và hiện thực. Trong bài nói
chuyện Bình thơ – giảng thơ ông cho rằng: “Tƣởng tƣợng đi trƣớc mở đƣờng
cho thực tế nhƣng chính tƣởng tƣợng là con đẻ của thực tế. Tác giả của Mai
đình mộng kí nói rất đúng: “Chỉ những ngƣời có đại giác mới có đại mộng”.
Sự hiểu biết rộng lớn ở đây trƣớc hết là sự hiểu biết thực tế, nên có thể nói:
Có thực tế lớn mới có mơ mộng lớn”[85, tr. 696]. Mối quan hệ giữa tƣởng
tƣợng trong thơ và thực tế đƣợc Chế Lan Viên thể hiện bằng hình ảnh con
diều và sợi dây của nó. Thơ phải “lung linh” giữa giải thích đƣợc và không
giải thích đƣợc, giống nhƣ con diều “khả bay và bất khả bay”, phải tung cánh
đƣợc lên trời rất cao, đừng có chỉ là là mặt đất, nhƣng cũng phải có cái dây
mà kéo xuống đất đƣợc, chứ đừng theo tƣởng tƣợng mà bay mất. Vấn đề là
phải biết tƣởng tƣợng nhƣ thế nào, tƣởng tƣợng phải có sự giám sát của lý trí.
Thơ thể hiện những hình ảnh của cuộc đời, đồng thời tạo thêm ra nhiều hình
ảnh khác cho cuộc đời. Chế Lan Viên cho rằng thơ cần cái thật:
Em là con gái Bắc Giang
Nhƣng nó cũng cần cái hƣ:
Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?
Ông yêu cầu thơ cần cái chân xác:
Cá nục, cá chim cùng cá đé...
Và cũng cần cái huyễn hoặc:
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng...
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi.
Hiện thực cuộc sống và thế giới cảm xúc trong thơ có hàng trăm, hàng
nghìn cách thể hiện. Có lúc nói thực, có lúc nói hƣ, có khi nói thẳng, mà có
lúc quanh co cũng rất cần thiết. Nghệ thuật đi bằng đƣờng cong dù nó vẫn là
“đất đối đất”:
111
“Những câu thơ pháo đất đối đất phải qua trời bằng
một đƣờng cong
Có những lúc câu thơ phải bắn cầu vồng
Mà ngƣời nhắm vẫn là nhắm thẳng”
(Nghĩ về nghề...nghĩ về thơ...nghĩ)
Chế Lan Viên nói chuyện đi xem múa rối, có ngƣời nói con rối chỉ làm
đƣợc mấy động tác, sao không đƣa ngƣời thật lên sân khấu có hơn không?
Ông phản đối gay gắt: “Nói nhƣ vậy thì còn gì nghệ thuật múa rối nữa”. Thơ
cũng vậy, “không có trí tƣởng tƣợng thì làm sao có đƣợc những câu thơ
hay”[85, tr. 696].
Thơ cần sự thành thực của ngƣời nghệ sỹ. Mà tâm hồn ngƣời nghệ sỹ
vốn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn và bay bổng. Cho nên, khi ngƣời nghệ sỹ viết
nhƣng câu thơ mông lung, ảo diệu thì có thể đó chính là những thành thật nhất
của tâm hồn con ngƣời ấy. Quan niệm thơ là nghệ thuật của trí tƣởng tƣợng,
Chế Lan Viên muốn đƣa ngƣời đọc đến với muôn cách thể hiện của thơ ca về
hiện thực cuộc sống và thế giới tâm hồn của ngƣời nghệ sỹ, đồng thời mỗi
ngƣời nghệ sỹ, bằng tất cả sự chân thành của trái tim và tâm hồn cần thiết
phải làm cho thơ đạt đến cõi ảo, cõi mê.
3.4. Vấn đề hình thức trong thơ
Là một nhà thơ chịu tìm tòi, suy ngẫm trong nghề, Chế Lan Viên nói
nhiều đến vấn đề hình thức thơ không chỉ trong thơ mà còn trong các bài phê
bình, tiểu luận. Chúng tôi tập trung vào những vấn đề về hình thức trở đi trở
lại trong phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên: ngôn ngữ thơ, vần điệu
trong thơ, những bộ phận của một bài thơ và sự phù hợp giữa nội dung và
hình thức thơ.
Bàn về vấn đề ngôn ngữ trong thơ, trong bài viết Ngôn ngữ của quần
chúng và của nhà văn, Chế Lan Viên đặc biệt nhấn mạnh hai khía cạnh: Thứ
112
nhất, phải học tiếng nói của quần chúng và học trong tất cả vẻ đa dạng của nó;
thứ hai, phải coi trọng vai trò của nhà văn trong vấn đề sáng tạo ngôn ngữ.
Ngôn ngữ của quần chúng tạo nên sự đa dạng cho ngôn ngữ thơ. Sự đa dạng
ấy thể hiện rõ rệt trong ca dao. Khảo sát ngôn ngữ ca dao, điều ấn tƣợng nhất
của Chế Lan Viên đó là cảm giác “lạ vô cùng” ngay cả đối với những câu thơ
rất quen thuộc. Đi tìm cái lạ trong ngôn ngữ thơ quần chúng, khẳng định mỗi
ngƣời nghệ sỹ cần phải học những sáng tạo của quần chúng, Chế Lan Viên
đồng thời nêu rõ quan niệm của ông về ngôn ngữ thơ. Với ông, ngôn ngữ thơ
là thứ ngôn ngữ của sự sáng tạo. Quần chúng sáng tạo ngôn ngữ ngay trong
lời nói hằng ngày của chính bản thân mình. Ngƣời nghệ sỹ cũng vậy, trong
mỗi sáng tác, đừng để ngôn ngữ mãi là tài sản chung của xã hội, hãy biến
ngôn ngữ thành sản phẩm riêng của cá nhân, hãy đem đến cho ngôn ngữ thơ
cái dấu ấn cá nhân đậm nét.
Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ đƣợc tinh lọc, gọt giũa. Nhà thơ chính là
ngƣời thợ ngôn ngữ ấy, vào trong cái bể bao la vô tận của quần chúng, tìm lấy
cái đẹp vĩ đại của ngôn ngữ đang hoà tan trong ấy, và cấu tạo nên những tác
phẩm. Theo Chế Lan Viên, một tác phẩm dù là tuyệt tác đi nữa, có là gì đâu
trƣớc ngôn ngữ vô cùng phong phú của quần chúng nhân dân, nhƣ hạt muối
có là gì bên cạnh bể. “Nhƣng về cấu tạo, về tổ chức mà nói, có phải hạt muối
kia cao hơn chất mặn hoà tan trong bể? Những tác phẩm văn học nhƣ
TRUYỆN KIỀU, Chinh phụ ngâm, THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG, THƠ YÊN ĐỔ,
Xống chụ xon xao (Thái), Tiếng hát làm dâu (Mèo), (...) là cao hơn tiếng nói
thƣờng vì ngôn ngữ ở đấy nhờ có các tác giả vô danh hay hữu danh đã đƣợc
kết tinh”[85, tr. 144].
Tài năng của ngƣời nghệ sỹ biểu hiện trong việc sáng tạo ngôn ngữ.
Chế Lan Viên làm sáng tỏ điều này bằng một loạt những ví dụ: “Cùng một ý
ngƣời đàn bà khóc nhƣ cành hoa lê đẫm mƣa” lấy từ thơ Bạch Cƣ Dị (Lê hoa
113
nhất chi xuân đái vũ), Nguyễn Du viết: “Cành hoa lê đã đầm đìa giọt
mƣa”...Tản Đà viết: “Cành hoa lê trĩu hạt mƣa xuân dầm”. Cùng một ý “bàn
tay đàn đến chảy máu”, Nguyễn Du viết: “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón
tay”. Tƣơng An quận vƣơng viết: “Bốn dây ứa máu tì bà”...[85, tr. 146]. Ngôn
ngữ trong thơ là thứ ngôn ngữ cô đọng, súc tích, giàu hình ảnh và giàu cảm
xúc. Đó là thứ ngôn ngữ đã đƣợc tinh luyện qua sự chọn lọc khắt khe của
ngƣời nghệ sỹ. Song không nên hiểu rằng, cứ ngôn ngữ chau chuốt, cứ sáng
tạo ngôn ngữ đa dạng mà có thể thành thơ. Thơ còn là tình, là ý, là tƣ tƣởng,
là trí tuệ... vấn đề ở đây là Chế Lan Viên muốn nhấn mạnh ngôn ngữ của hình
thức trong sự phù hợp với nội dung.
Với phong cách phê bình tranh biện, Chế Lan Viên trong những bài phê
bình hay tiểu luận của mình thƣờng có cách nêu vấn đề từ các ý kiến trái
chiều, để từ đó thể hiện ý kiến của bản thân, hoặc bác bỏ, hoặc đồng tình.
Giọng điệu phê bình đanh thép từ tƣ duy phê bình quyền uy khiến Chế Lan
Viên thƣờng đại ngôn khi trình bày quan niệm, viện dẫn Đảng nhƣ một nền
tảng tƣ tƣởng vững vàng. Bàn về ngôn ngữ thơ hiện đại cần phải “mộc”. Chế
Lan Viên đồng tình. Song có ngƣời khác lại bảo “chỉ mộc mới là thơ”. Và
Chế Lan Viên đã ngay lập tức lên tiếng: “ Quả là các bạn ấy chƣa đƣợc thông
tin về vấn đề này. Họ không đọc kĩ Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng khi Thủ
tƣớng nói về câu ca dao mộc: “Hỡi cô tát nƣớc bên đàng”...và về câu thơ
“Long lanh đáy nƣớc in trời” điêu luyện. “Một hòn ngọc hãy còn mộc mạc
của dân gian và một hòn ngọc đã qua tay ngƣời thợ thiên tài””[85, tr. 325].
Quan niệm ngôn ngữ thơ mộc mạc với quan niệm ngôn ngữ thơ tinh luyện
không đối lập mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Nó song hành tồn tại
trong một nhà thơ, trong một nền thơ. Xuân Diệu viết không chút văn
chƣơng: “Hỡi xe đang chạy với bu gà”. Lại cũng văn chƣơng đẹp đẽ khi ông
viết: “Ngày hoá bếp hồng em chụm thổi - Đêm thành lụa tuyết để em thêu”. Ở
114
Việt Nam, ngƣời ta yêu ca dao mộc mạc và đề cao Truyện Kiều điêu luyện,
tinh hoa.
Chế Lan Viên cho rằng, phải điêu luyện cật lực mới trở nên trong sáng.
Ngôn ngữ thơ trong quan niệm Chế Lan Viên vì thế là thứ ngôn ngữ sáng tạo,
tinh luyện, mà vẫn mộc mạc, giản dị và trong sáng. Đó là một yêu cầu nghệ
thuật lớn lao và muôn thuở đối với ngôn ngữ thơ ca.
Hình thức thơ còn là vấn đề tạo vần cho thơ. Vần là một bộ phận của
hình thức, vần góp phần làm ra thơ nhƣng thơ không phải là vần. Có rất nhiều
ngƣời làm thơ dở nhƣng lại bỏ vần rất tuyệt. Nhƣ vậy, vần có thể tạo nên vẻ
đẹp cho thơ, nhƣng chỉ có vần đẹp thì không thể là bài thơ hay.
Học làm thơ, nhiều ngƣời băn khoăn hỏi Chế Lan Viên về cách gieo
vần. Trả lời họ, ông đã nhắc đi nhắc lại quan niệm của mình về vai trò của
vần trong thơ: “Thơ là tƣ tƣởng, là tình cảm, là cảm giác, là hình ảnh ...rồi thứ
đến mới là vần và bằng trắc. Có nhiều ngƣời viết văn xuôi nhƣ Tô Hoài,
Nguyễn Tuân, Nguyên Ngọc mà vẫn đƣợc gọi là thi sỹ, trong khi đó, nhiều
nhà thơ vì có vần quá, nên lại rất “văn xuôi””[84, tr. 606].
Vần điệu trong thơ đƣợc Chế Lan Viên nói đến nhƣ chuyện của ngƣời
phụ nữ đan áo, hay ngƣời đánh cờ mồm. Đan len và đánh cờ vốn không phải
chuyện giản đơn, thế mà họ không nhầm lấy một mũi kim, một nƣớc cờ. Bởi
họ đã thuộc lối đan len và lối đánh cờ. Nhà thơ cũng phải thuộc, phải quen lối
gieo vần, lối bắt vần phối hợp với âm thanh, nhịp điệu, thì khi sáng tác mới có
đƣợc sự thoả mái nhƣ ngồi đan len hay đánh cờ. Một bài thơ hay không thể
đƣợc sáng tác từ một ngƣời làm thơ, cứ viết một chữ lại nhẩm xem có vần hay
không vần, nó trắc trắc hay bằng bằng, cái câu tám chữ hay còn bảy chữ.
Ngƣời làm thơ muốn sáng tạo nghệ thuật phải quen thuộc các âm thanh, vần
điệu, quen thuộc những quy luật của ngôn ngữ của hình thức đến gần nhƣ có
thể sử dụng nó trôi chảy nhƣ ngƣời đan len không biết tay mình lần từng mũi,
115
đánh cờ mà vẫn tiếp tục gánh lúa đi đƣờng, và bỏ vần, bỏ hàng chục hàng
trăm vần hiểm hóc, éo le mà ý bài thơ vẫn cứ phăng phăng đi tới.
Vần không phải là tất cả bài thơ, nhƣng một trong những đặc trƣng của
thơ là nhạc điệu, nhịp điệu đƣợc tạo nên trƣớc hết bởi cách gieo vần. Việc
gieo vần trong thơ là tùy vào sự phù hợp của không chỉ nội dung mà còn thể
loại. Nhƣng đối với ngƣời mới học làm thơ, Chế Lan Viên khuyên nên tập
làm thơ có vần luôn, cho quen, cho thuộc bởi trƣớc hết vần điệu chính là đặc
trƣng của thơ. Nếu không làm đƣợc thơ thì học thuộc và khi đã thấm sâu thì
cách gieo vần tự nhiên trở thành khuôn mẫu vô hình trong tâm thức của chúng
ta. “Và đến ngày kia mình quen với vần điệu nhƣ cá quen nƣớc. Cá đâu phải
rẽ nƣớc ra mà đi một cách khó khăn, ngƣợc lại chính nƣớc đã nâng đỡ cho cá
lội. Vần điệu sẽ không ngăn cản mà lại trợ hứng rất nhiều cho ngòi bút của
chúng ta”[84, tr. 609].
Chế Lan Viên đã từng ví von: Thơ hay nhƣ ngƣời con gái đẹp, đi đến
đâu cũng lấy đƣợc chồng. Theo cách ví von của ông thì có lẽ nội dung của thơ
chính là vẻ đẹp tâm hồn, còn hình thức chính là dong dáng ngoại hình, tóc dài
da trắng của cô gái đẹp. Trong mối quan hệ giữa vẻ đẹp tâm hồn bên trong và
vẻ đẹp hình thức bên ngoài của con ngƣời, ca dao có câu: “tốt gỗ hơn tốt nƣớc
sơn”. Có nghĩa là đặt trong lý luận về thơ, mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức của thơ là mối quan hệ khăng khít, phụ thuộc. Nội dung quyết định hình
thức, hình thức thơ nhất định sẽ phải phù hợp với nội dung thơ nhất định. Sẽ
không có nội dung nào nằm ngoài hình thức và ngƣợc lại, không có hình thức
nào lại không thể hiện nội dung.
Về vấn đề hình thức thơ, Chế Lan Viên rất quan tâm tới những cấu trúc
của một bài thơ. Nếu trừ một bài thơ quá ngắn, thì thƣờng thƣờng, một bài thơ
gồm có nhiều đoạn, một đoạn gồm có nhiều câu và một câu gồm có nhiều
chữ. Và vì thế, để có một tác phẩm thi ca nghệ thuật hoàn mỹ về mặt hình
116
thức thì chữ, câu trong bài thơ là những bộ phận quan trọng, rất đáng quan
tâm.
Chế Lan Viên cho rằng: “Chữ, từ là đơn vị thấp nhất, bé nhất trong bài
thơ, bài văn. Thế nhƣng không đƣợc coi thƣờng nó. Thiếu một chữ, sai một từ
có khi hỏng cả bài”[85, tr. 40]. Thơ hay ở sự súc tích cô đọng, cho nên lựa
chọn chữ trong thơ là điều khiến ngƣời viết cần thận trọng. Ông hình dung
rằng, chữ nhƣ một đạo quân và ngƣời làm thơ nhƣ ngƣời chỉ huy đạo quân ấy,
để khi xếp chữ nào vào câu nào thì ở đó đã không chỉ tạo nên nghĩa mà còn
tạo nên một sức gợi sâu sa trong lòng ngƣời đọc. Chữ trong thơ cần chính xác,
những nếu chỉ cần chính xác thì các nhà khoa học có lẽ sẽ không còn tìm đến
thơ. Thơ độc đáo là ở sự sáng tạo, sáng tạo trên từng con chữ. Khoa học nói
một là một hai là hai, còn trong thơ thì “Mình với ta tuy hai mà một/ Ta với
mình tuy một mà hai”. Chữ trong thơ có khả năng biến hóa khôn lƣờng nhƣ
thế nên có khi, nhìn lại nghệ thuật thi ca trong triết lý và chiêm nghiệm, Chế
Lan Viên coi nghệ thuật thi ca chính là một thứ nghệ thuật “chơi chữ”:
“Ở đây chơi chữ
Chữ trá hình – đang là ta, mà nó hóa ra mình
Chữ đa nghĩa - ở bên bờ vô nghĩa
Để chơi trò chơi ấy
Những kẻ đã sống thật, đem đời mình thật
Ra mà chơi chữ
Đầu chơi sau thật”
(Chơi)
Từ vấn đề của chữ trong thơ, đến đây, suy tƣởng Chế Lan Viên hƣớng
tới nghề làm thơ trong tính chất trò chơi đầy nghiệt ngã. Ngƣời nghệ sỹ trên
hành trình làm nghệ thuật có khi phải dám đánh đổi, “đem đời mình thật” mà
“chơi trong chữ”. Và khi ấy, mỗi chữ trong thơ đã soi bóng cả đời sống tâm
117
hồn ngƣời nghệ sỹ, không phải chỉ có ngọt bùi mà cả những đắng đót lặn vào
trong.
Trong những suy nghĩa về thơ, ngƣời đọc thấy Chế Lan Viên nhiều lần
suy nghĩ về câu thơ. Câu trong thơ khó viết bởi: “Vừa phải chở ý, vừa phải
thông dòng, mà lại còn phải hay nữa. Thế mới thành thơ chứ chỉ chở ý và
thông dòng thì đấy chỉ là câu văn vần” [85, tr. 44]. Tức là, theo Chế Lan Viên,
câu thơ cần có sự thống nhất hài hòa trong một chỉnh thể, câu trƣớc gọi câu
sau, câu sau nâng đỡ câu trƣớc để cùng chuyển tải đƣợc nội dung của bài thơ.
Bài thơ đƣợc tạo nên từ những câu thơ, cho nên Chế Lan Viên yêu cầu cần có
nhiều câu thơ hay, ý thơ đẹp, để tạo nên những bài thơ độc đáo và hấp dẫn.
Nhƣ vậy, trong quan niệm của Chế Lan Viên hình thức thơ là một vấn
đề quan trọng. Bởi không có một tác phẩm nghệ thuật nào nằm ngoài một
hình thức nhất định. Hình thức rõ ràng bị chi phối bởi nội dung song nội dung
chỉ có thể đƣợc thể hiện khi nó ở trong một hình thức phù hợp. Trả lời bạn
yêu thơ về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của thơ, Chế Lan Viên có
những khẳng định nội dung quyết định hình thức, ngƣợc lại hình thức cũng có
ảnh hƣởng quan trọng đến nội dung. Nếu tả cái khí thế ào ạt của một cuộc
biểu tình trong thể thơ lục bát, thì cái hình thức êm ả của lục bát sẽ phần nào
hạn chế khí thế của cuộc biểu tình. Nội dung một bài thơ đã hay thì khi có vần
có điệu vào càng hay, mà kể không bằng miệng, bằng văn xuôi cũng đảm bảo
hay, thì vần điệu thêm vào mới không là nƣớc sơn giả phủ lên một thứ gỗ xấu.
Ngƣời làm thơ, khi mới cầm bút viết thƣờng hay băn khoăn nên viết
thơ tự do hay thơ vần luật, nên viết thơ bảy chữ hay thơ tám chữ, nên viết thơ
có vần hay không vần...và cuối cùng thì, khi ý đã tới, tƣ tƣởng đã sáng, cảm
xúc đã mãnh liệt, có lẽ thơ sẽ tự tìm đƣợc hình thức phù hợp.
118
Tiểu kết chƣơng 3:
Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, chúng tôi xuất phát
từ quan niệm thơ siêu thực của Chế Lan Viên trƣớc Cách mạng đến quan
niệm thơ hiện thực Cách mạng, từ đó thấy đƣợc những yêu cầu có phần khắt
khe của Chế Lan Viên trong thơ: thơ cần gắn bó với hiện thực, cần có ích, thơ
cần có ý, có tƣ tƣởng và trí tuệ, cần có trí tƣởng tƣợng. Chế Lan Viên đồng
thời rất đề cao vai trò của hình thức trong thơ.
Trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại, Chế Lan Viên là ngƣời
tham gia tích cực, là tiếng nói đƣợc chờ đợi trong giới phê bình, lý luận. Đọc
lý luận phê bình của Chế Lan Viên, ta thấy rõ tiềm lực dồi dào của một trí tuệ
năng động. Những suy nghĩ, những quan niệm về thơ của Chế Lan Viên đã
đóng góp không nhỏ cho lý luận văn học nƣớc nhà ở cả phƣơng diện lý luận
lý thuyết đến kinh nghiệm thực tiễn sáng tác rất đáng trân trọng.
119
PHẦN KẾT LUẬN
1. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Chế Lan Viên đã để lại cho nền văn học Việt
Nam một văn nghiệp đồ sộ, phong phú và đa dạng ở tất cả các thể loại, từ thơ
ca, bút ký đến phê bình và tiểu luận. Với đề tài: “Quan niệm nghệ thuật thơ
Chế Lan Viên qua phê bình và tiểu luận”, chúng tôi đã góp thêm những
nghiên cứu chuyên sâu và tổng quát về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan
Viên đƣợc thể hiện trong những tập phê bình và tiểu luận. Song dù là một chi
lƣu của văn nghiệp Chế Lan Viên thì những trang phê bình và tiểu luận cũng
đã lên tới con số hàng nghìn. Những vấn đề về quan niệm thơ đƣợc đề cập ở
đây thực sự sâu sắc, phong phú lớn lao và nhiều ý nghĩa.
2. Từ cái nhìn khái quát về sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên, chúng
tôi nhận thấy, mảng phê bình và tiểu luận có vai trò hết sức quan trọng, không
chỉ đối với sáng tác của riêng ông. Điểm lại sự nghiệp văn học của Chế Lan
Viên ở các phƣơng diện thơ ca, văn xuôi bút kí và phê bình tiểu luận, chúng
tôi hƣớng đến mục đích nhấn mạnh những giá trị của phê bình và tiểu luận
của Chế Lan Viên trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại, từ
tiếng nói cổ vũ thúc đẩy phong trào sáng tác đến những nhận định khách quan
và khoa học về thơ và nghệ thuật phê bình độc đáo.
3. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên qua phê bình và
tiểu luận, chúng tôi tập trung hƣớng tới quan niệm của Chế Lan Viên về nhà
thơ, nghề thơ và quan niệm về thơ. Trong quan niệm của ông về nhà thơ, “vấn
đề sống và viết”, tƣ tƣởng và tình cảm, trách nhiệm của nhà thơ đối với nghề
và đối với đời đƣợc ông đặc biệt quan tâm. Về thơ, chúng tôi nhận thấy có sự
vận động trong quan niệm của Chế Lan Viên qua các thời kỳ. Thời kỳ Điêu
tàn là thơ siêu thực, thời kỳ kháng chiến là thơ hiện thực cách mạng, đến
những năm cuối đời, thơ Chế Lan Viên lại một lần nữa xuất hiện dấu ấn của
thơ siêu thực trong Di cảo. Có thể thấy sự vận động của quan niệm thơ từ lý
120
luận đến sáng tác cho thấy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng trong tƣ duy thơ
Chế Lan Viên. Song dù có sự vận động và thay đổi thì quan niệm về thơ của
Chế Lan Viên vẫn nhất quán ở vai trò của thơ đối với đời sống: “Thơ cần có
ích”, thơ viết cho con ngƣời, vì con ngƣời và vì cuộc sống.
4. Tìm hiểu những quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên qua phê
bình và tiểu luận trong thế đối sánh với sáng tác thực tiễn, chúng tôi nhận thấy
có sự thống nhất và mâu thuẫn qua các thời kỳ. Điều này đƣợc lý giải từ chính
tƣ duy thơ vốn tồn tại nhiều mâu thuẫn trong Chế Lan Viên. Đó là sự vận
động không ngừng để đổi mới của một nhà thơ lớn. Đồng thời có thể thấy vấn
đề thời đại, lịch sử cũng là những nhân tố ảnh hƣởng không nhỏ dẫn tới
những mâu thuẫn từ lý luận đến sáng tác của Chế Lan Viên. Khi ý thức công
dân trở thành tiếng nói chủ đạo trong thời kỳ Cách mạng đã nhƣờng chỗ cho
cái tôi nghệ sỹ trong giai đoạn sau 1980, đƣơng nhiên sẽ dẫn đến những thay
đổi trong tƣ duy nghệ thuật của Chế Lan Viên. Những quan niệm về thơ trong
phê bình và tiểu luận đƣợc ông viết chủ yếu trong giai đoạn kháng chiến, gặp
đời sống văn học nghệ thuật với hiện thực những năm cuối thế kỷ XX sẽ dẫn
đến nhiều mâu thuẫn. Bởi thế, những mâu thuẫn từ lý luận về thơ trong phê
bình và tiểu luận với sáng tác thực tiễn trong những năm 1980 của Chế Lan
Viên là điều chúng ta cần hiểu rõ và trân trọng.
5. Cả một đời làm thơ, Chế Lan Viên đã sống hết mình với niềm đam mê
thi ca nghệ thuật. Nhà thơ đã đem hết tài năng, sự suy ngẫm, sự trải nghiệm
cuộc đời để khám phá, sáng tạo nên một cuộc đời thứ hai bằng ngôn ngữ. Tạo
nên văn nghiệp đồ sộ, phong phú của Chế Lan Viên, mảng phê bình và tiểu
luận cùng những quan niệm về thơ đã đƣợc ông trình bày hấp dẫn có những
đóng góp đáng kể. Sự thống nhất cũng nhƣ mâu thuẫn giữa nhà thơ – nhà phê
bình, lý luận đã làm nên một Chế Lan Viên, tác gia văn học lớn của thế kỷ
XX.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4. 5. 6.
Vũ Tuấn Anh (Tuyển chọn và giới thiệu, 2001), Chế Lan Viên - Tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội Vũ Tuấn Anh (Tuyển chọn và giới thiệu, 2009), Chế Lan Viên - Tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội Lại Nguyên Ân (1997), Sống với văn học cùng thời, Nxb Văn học, Hà Nội Hoàng Minh Châu (1999), Nghĩ về nghề, ghi về bạn, Nxb Văn học, Hà Nội Hoàng Diệp (1991), Chế Lan Viên, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn Xuân Diệu (1958), Những bƣớc đƣờng tƣ tƣởng của tôi, Nxb Văn hóa, Hà Nội 7. Xuân Diệu (1960), Phê bình giới thiệu thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 8. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 9. Phạm Tiến Duật (2003), Vừa làm vừa nghĩ, Nxb Văn học, Hà Nội 10. Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945-1975), tập
I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội
11. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình (Qua một số nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới), Nxb Văn học, Hà Nội 12. Hà Minh Đức (chủ biên, 1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội
13. Hà Minh Đức (1997), “Chế Lan Viên” - Khảo luận văn chƣơng, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội
14. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội 15. Hà Minh Đức (2010), Chế Lan Viên ngƣời trồng hoa trên đá, Nxb Văn
học, Hà Nội
16. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn
học, Hà Nội
17. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2004),
Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
18. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Văn học… gần và xa, Nxb Giáo dục, Hà Nội
122
19. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Chủ
biên 2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội
20. Hội Nhà văn Việt Nam (1984), Văn học trong giai đoạn cách mạng
mới, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
21. Hội Nhà văn Việt Nam (1985), Các nhà văn nói về văn, tập I, Nxb Tác
phẩm mới, Hà Nội
22. Đoàn Trọng Huy (2006), Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (Chuyên luận),
Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội
23. Mai Hƣơng - Thanh Việt (2003), Thơ Chế Lan Viên những lời bình,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
24. Lê Đình Kỵ (1969), Đƣờng vào thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 25. Phong Lan (Sƣu tầm, tuyển chọn, biên soạn, 1995), Chế Lan Viên -
ngƣời làm vƣờn vĩnh cửu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
26. Phong Lan - Mai Hƣơng (Tuyển chọn và giới thiệu, 2002), Tố Hữu về
tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội
27. Phong Lê - Vũ Văn Sĩ - Bích Thu - Lƣu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt
Nam hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội
28. Nguyễn Long - Đào Thủy Nguyên (2002), Suy nghĩ từ những trang
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội
29. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (Chủ biên, 2005), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội
30. Phƣơng Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 31. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tƣ tƣởng, phong cách, Nxb Tác
phẩm mới, Hà Nội
32. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội
33. Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyễn Văn Long (2002), Lịch sử văn học Việt
Nam tập III, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội
34. Phạm Thị Ngọc - Nguyễn Anh Vũ (tuyển chọn - 2002), Điêu tàn - Tác
phẩm và dƣ luận, Nxb Văn học, Hà Nội
123
35. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
36. Nhiều tác giả (2001), Chế Lan Viên - Tác phẩm và dƣ luận, NxbVăn
học, Hà Nội
37. Nhiều tác giả (2002), Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học,
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
38. Lê Lƣu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam (1975-1990, Chuyên luận),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
39. Nhƣ Phong (1977), Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Néi 40. Đào Xuân Quý (1998), Nhà thơ và cuộc sống, Nxb Quân đội Nhân dân,
Hà Nội
41. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục,
Hà Nội
42. Trần Đình Sử (1999), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 43. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội
44. Hoài Thanh - Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam (Tái bản), Nxb
Văn học, Hà Nội
45. Nguyễn Bá Thành - Bùi Việt Thắng (1990), Văn học Việt Nam(1965-
1975), Nxb Đại học Tổng hợp, Hà Nội
46. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy
tƣởng, Nxb Giáo dục, Hà Nội
47. Nguyễn Bá Thành (1999), Giáo trình Tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
48. Nguyễn Toàn Thắng (2007), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
49. Nguyễn Ngọc Thiện - Nguyễn Thị Kiều Anh - Phạm Hồng Toàn (1997), Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900 - 1945), tập IV, Nxb Văn học, Hà Nội
50. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội
124
51. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) - Nguyễn Đăng Điệp - Tôn Thảo Miên - Hà Công Tài - Nguyễn Thị Kiều Anh - Trần Hoài Anh - Cao Kim Lan (2008), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lý luận - phê bình 1945-1975, Quyển Năm, tập XVII, Nxb Văn học, Hà Nội
52. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) - Nguyễn Đăng Điệp - Tôn Thảo Miên - Hà Công Tài - Nguyễn Thị Kiều Anh - Trần Hoài Anh - Cao Kim Lan (2008), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lý luận - phê bình 1945-1975, Quyển Năm, tập XVIII, Nxb Văn học, Hà Nội
53. Trần Mạnh Tiến (2008), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ
XX, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội
54. Lƣu Khánh Thơ (2007), Chế Lan Viên nhà thơ song hành cùng thời
đại, Nxb Trẻ, Hà Nội
55. Lƣu Khánh Thơ (2009), Xuân Diệu - Tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
56. Đỗ Lai Thuý (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội 57. Lê Quang Trang - La Yên (Biên soạn, tuyển chọn, 2000),Chế Lan Viên giữa chúng ta, Nxb Giáo dục - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.
58. Phạm Quang Trung (1995), Tiếp cận giá trị văn chƣơng, Nxb Thanh
niên, Hà Nội
59. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội
60. Chế Lan Viên (1951), Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nxb Thép Mới,
Hà Nội
61. Chế Lan Viên (1955), Gửi các anh, Nxb Văn Nghệ, Hà Nội 62. Chế Lan Viên (1960), Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, Hà Nội 63. Chế Lan Viên (1960), Nói chuyện thơ văn, Nxb Văn học, Hà Nội 64. Chế Lan Viên (1960), Vào nghề, Nxb Văn học, Hà Nội 65. Chế Lan Viên (1962), Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội 66. Chế Lan Viên (1967), Hoa ngày thƣờng, chim báo bão, Nxb Văn học,
Hà Nội
125
67. Chế Lan Viên (1971), Suy nghĩ và bình luận, Nxb Văn học, Hà Nội 68. Chế Lan Viên (1972), Những bài thơ đánh giặc, Nxb Thanh niên, Hà
Nội
69. Chế Lan Viên (1973), Đối thoại mới, Nxb Văn học, Hà Nội 70. Chế Lan Viên (1977), Hái theo mùa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 71. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 72. Chế Lan Viên (1981), Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác
phẩm mới, Hà Nội
73. Chế Lan Viên (1984), Hoa trên đá, Nxb Văn học, Hà Nội 74. Chế Lan Viên (1986), Ta gửi cho mình, Nxb Văn học, Hà Nội 75. Chế Lan Viên (1987), Ngoại vi thơ, Nxb Thuận Hoá 76. Chế Lan Viên (1987), Những ngày nổi giận ( Bút kí), Nxb Văn học, Hà Nội 77. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, Tập I, Nxb Thuận Hóa, Huế 78. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, Tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế 79. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, Tập III, Nxb Thuận Hóa, Huế 80. Chế Lan Viên (2002), Toàn tập, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội 81. Chế Lan Viên (2002), Toàn tập, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội 82. Chế Lan Viên (2006), Tác phẩm văn học đƣợc Giải thƣởng Hồ Chí
Minh, quyển I, Nxb Văn học, Hà Nội
83. Chế Lan Viên (2006), Tác phẩm văn học đƣợc Giải thƣởng Hồ Chí
Minh, quyển II, Nxb Văn học, Hà Nội
84. Chế Lan Viên (2009), Toàn tập, tập III, Nxb Văn học, Hà Nội 85. Chế Lan Viên (2009), Toàn tập, tập IV, Nxb Văn học, Hà Nội 86. Chế Lan Viên (2009), Toàn tập, tập V, Nxb Văn học, Hà Nội
126