ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ YẾN CHI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT THƠ

CHẾ LAN VIÊN QUA PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội-2015

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ YẾN CHI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT THƠ

CHẾ LAN VIÊN QUA PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Thành

Hà Nội-2015

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự

hƣớng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Bá Thành. Những nhận xét, đánh

giá của các tác giả khác mà tôi sử dụng trong luận văn đều đƣợc trích dẫn rõ

ràng cụ thể.

Nếu phát hiện có bất kì sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách

nhiệm.

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015 Học viên Nguyễn Thị Yến Chi

3

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Bá

Thành, giảng viên khoa Văn học, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân

văn, ngƣời đã hƣớng dẫn tôi tận tình, tâm huyết trong quá trình tôi thực hiện

luận văn. Sự chỉ dẫn của thầy đã mang lại cho tôi hệ thống phƣơng pháp, kiến

thức cũng nhƣ kỹ năng hết sức quý báu để tôi có thể hoàn thiện đề tài một

cách tốt nhất.

Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn thầy cô trong khoa Văn học,

trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện thuận lợi nhất

để chúng tôi hoàn thành khóa học.

Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn những ngƣời thân, gia đình và bạn

bè – những ngƣời đã hỗ trợ, tạo điều kiện để tôi có thể học tập đạt kết quả tốt

và hoàn thiện luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2015

Học viên

Nguyễn Thị Yến Chi

4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………

3

1. Lí do chọn đề tài…………………………………………….. 3

2. Lịch sử vấn đề……………………………………………….. 3

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát…………... 9

4. Mục đích nghiên cứu………………………………………… 10

5. Phƣơng pháp nghiên cứu…………………………………….. 10

6. Cấu trúc luận văn..................................................................... 11

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN TRONG

SỰ NGHIỆP VĂN HỌC CỦA CHẾ LAN VIÊN………….................. 12

1.1. Sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên……………………………. 12

1.1.1. Thơ ca……………………………………………………... 12

1.1.2. Văn xuôi dƣới dạng bút kí…………………………………. 17

1.1.3. Phê bình và tiểu luận……………………………………… 21

1.1.4. Quan hệ giữa phê bình, lý luận và sáng tác trong sự

nghiệp văn học của Chế Lan Viên.......................................................... 27

1.2. Giá trị của phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên……………... 35

1.2.1. Cổ vũ thúc đẩy phong trào sáng tác……………………… 35

1.2.2. Những nhận định khách quan và khoa học về thơ……….... 38

1.2.3. Nghệ thuật phê bình độc đáo…………………………….... 42

Tiểu kết chƣơng 1……………………………………………………... 51

Chƣơng 2: QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ NHÀ THƠ VÀ

NGHỀ LÀM THƠ.................................................................................. 52

2.1. Thi sĩ – thi nhân của thế giới siêu hình........................................... 52

2.2. Thi sĩ – Nhà thơ chiến sỹ…………………………………………. 55

2.2.1. Nhà thơ với vấn đề “Sống và viết” ……………………… 55

2.2.2. Nhà thơ là ngƣời nghệ sỹ giàu cá tính sáng tạo…………... 62

5

2.2.3. Nhà thơ – ngƣời nghệ sỹ có tƣ tƣởng lớn, tình cảm lớn…... 67

2.2.4. Làm thơ là một nghề............................................................. 77

Tiểu kết chƣơng 2……………………………………………………. 82

Chƣơng 3: QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ THƠ……… 84

3.1. Thơ là tiếng nói cất lên từ thế giới siêu thực trong tột cùng cảm

xúc........................................................................................................... 85

3.2. Thơ không chỉ là tiếng nói của cảm xúc mà còn là tiếng nói của lí 89

trí trƣớc hiện thực khách quan....................

3.2.1. Thơ là ngọn lửa cháy sáng từ hiện thực…………………... 89

3.2.2. Thơ là ngọn lửa soi sáng hiện thực...................................... 93

3.2.3. Thơ cần có ý, có tƣ tƣởng và trí tuệ...................................... 100

3.3. Thơ là tiếng nói của trí tƣởng tƣợng................................................ 106

3.4. Vấn đề hình thức trong thơ.............................................................. 108

Tiểu kết chƣơng 3................................................................................... 115

KẾT LUẬN........................................................................................... 116

6

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Văn học Việt Nam thế kỷ XX ghi dấu những thành tựu đáng kể của

các tác gia lớn, trong đó không thể không nhắc tới Chế Lan Viên. Hoài Thanh

nói về ông với sự khâm phục sâu sắc: “Nhà thơ không thể lấy kích tấc thƣờng

mà đo đƣợc”[1, tr. 57]; Nguyễn Văn Hạnh gọi ông là “Nhà thơ của thế kỉ”;

Nguyễn Bá Thành viết về ông với tầm vóc “bậc thi bá” của dân tộc. Ông xứng

đáng ở vị trí tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Bên cạnh sự nghiệp

thi ca đồ sộ (14 tập thơ), Chế Lan Viên còn là một cây bút phê bình – tiểu

luận sắc sảo, với những suy tƣ đa chiều và giàu tính triết lý. 9 tập phê bình –

tiểu luận thực sự đã góp phần không nhỏ làm phong phú hơn giá trị nhiều mặt

của sự nghiệp văn học Chế Lan Viên.

1.2. Chế Lan Viên là nhà thơ luôn trăn trở với nghề, vì nghề, canh cánh

một tấm lòng tha thiết với nghề. Sự nghiệp sáng tác của ông đi qua nhiều

thăng trầm của lịch sử. Nhƣng ở thời điểm nào, dù sáng tác trong hoàn cảnh

nào, những suy tƣ về thơ trong ông vẫn có một vị trí lớn lao. Phát biểu quan

niệm nghệ thuật thơ qua thơ, với Chế Lan Viên là chƣa thể nói hết những ấp ủ

của lòng mình, ông đƣa những quan niệm ấy vào trong những trang phê bình

và tiểu luận sắc sảo, trí tuệ và tài hoa. Song từ trƣớc tới nay, mảng lý luận này

của Chế Lan Viên thực sự chƣa đƣợc giới nghiên cứu đi sâu. Một khối lƣợng

tác phẩm đồ sộ, những đóng góp lớn trong lĩnh vực phê bình, nghiên cứu, lí

luận nghệ thuật của Chế Lan Viên ở đây còn để ngỏ. Vì những lí do trên

chúng tôi lựa chọn đề tài: Quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên qua

phê bình và tiểu luận làm đối tƣợng nghiên cứu.

2. Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu về Chế Lan Viên với vai trò là tác gia lớn của nền văn học

thế kỉ XX, các bài viết và các công trình nghiên cứu tập trung khai thác: con

7

đƣờng thơ Chế Lan Viên (Các tập thơ của Chế Lan Viên và khuynh hƣớng

vận động của thơ ông); phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên; tìm hiểu,

phân tích, bình luận, đánh giá các tác phẩm đặc sắc ở tất cả các thể loại của

Chế Lan Viên; tìm hiểu con ngƣời nhà thơ qua kí ức bạn bè, đồng nghiệp và

ngƣời thân.

Về các tập tiểu luận và phê bình văn học của Chế Lan Viên, chúng tôi

nhận thấy, các nhà nghiên cứu đã quan tâm bình giá, nhận xét ngay từ những

ngày đầu mới xuất bản, song số lƣợng bài viết và công trình nghiên cứu còn

xuất hiện thƣa thớt và chƣa toàn diện. Hầu hết các bài viết chỉ tập trung đến

một vài tập tiểu luận, phê bình đơn lẻ. Giá trị đóng góp của mảng phê bình và

tiểu luận của Chế Lan Viên vì thế cũng chƣa đƣợc nhìn nhận ở tính hệ thống.

Đồng thời quan niệm nghệ thuật thơ trong những bài phê bình và tiểu luận

của Chế Lan Viên cũng chỉ mới đƣợc đề cập đến dƣới dạng những lời nhận

định, những ý kiến đánh giá, những nhận xét chung chung.

Năm 1963, trên tạp chí Văn học, số 6, Triêu Dƣơng viết Phê bình cuốn

Phê bình văn học của Chế Lan Viên. Phần đầu tiên trong bài viết của mình,

Triêu Dƣơng đề cập đến lý luận về nghề nghiệp của Chế Lan Viên. Đi qua

những suy nghĩ, kiến giải của Chế Lan Viên về vấn đề sống và viết, về cái sáo

trong thơ, về sự thành công của Huy Cận hay Những bƣớc đƣờng tƣ tƣởng

của Xuân Diệu...Triêu Dƣơng cho rằng đây là “Những đóng góp nghiêm túc

của một ngƣời đã sống lâu năm trong nghề, bây giờ nghĩ về nghề, cố gắng

truyền đạt lại cho lớp ngƣời đi sau những kinh nghiệm thiết thân rất đáng

hoan nghênh” [1, tr. 489].

Hồ Sĩ Vịnh trong Nghĩ về “Suy nghĩ và bình luận” của Chế Lan Viên

(12/1973) đã thấy, “Suy nghĩ và bình luận trong tập sách còn là những điều

nghĩ và bàn luận về thơ”[1, tr. 478]. Hồ Sĩ Vịnh khẳng định “Vấn đề lý tƣởng

thơ ca đặt ra trong Suy nghĩ và bình luận rất mới” [1, tr. 480]. Ông khâm

8

phục sâu sắc sức sống của ngòi bút phê bình trong Suy nghĩ và bình luận:

“Không phải chỉ ở đây, trong Suy nghĩ và bình luận, nhƣng nhất là ở đây, Chế

Lan Viên là nhà phê bình đã đƣa văn phê bình trở về với cuộc sống xanh tƣơi

sinh động” [1, tr. 481]. Đọc Nghĩ về Suy nghĩ và bình luận của Chế Lan Viên,

chúng tôi có đƣợc nhiều gợi ý từ tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong quá trình tìm hiểu

quan niệm nghệ thuật thơ qua phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên.

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong Giọng văn xuôi tiểu luận của

Chế Lan Viên (1/1/1982) đã nhận xét: “Chế Lan Viên của thơ – đó là chân

dung nhìn nghiêng, Chế Lan Viên của văn xuôi - ấy mới là chân dung nhìn

thẳng” [1, tr. 511]. Ông phát hiện ra “Giọng của một ngƣời có nghề đi truyền

nghề, dạy nghề, tâm sự và lý sự về nghề của mình”[1, tr. 513]. Và chúng tôi

nhận thấy, qua gợi ý của Lại Nguyên Ân, sự đổi giọng của một nhà thơ để nói

lên quan niệm nghệ thuật của mình qua phê bình và tiểu luận bằng một “cái

tôi biện lý”.

Vẻ đẹp của văn Chế Lan Viên đƣợc Nguyễn Xuân Nam viết năm 1995.

Đọc Chế Lan Viên nhiều lần, Nguyễn Xuân Nam đã phải dừng lại suy nghĩ:

“Làm sao một ngƣời từng viết những vần thơ siêu hình hƣ ảo trƣớc kia lại có

thể viết những trang văn lý lẽ sắc sảo và thắm thiết tình đời đến thế?”[1, tr.

508]. Ông trân trọng những trang văn của Chế Lan Viên trong thời chống Mỹ

và coi đó là những trang văn của một ngƣời “muốn cho thơ văn sát với cuộc

đời hơn, có ích hơn” [1, tr. 509]. Trong bài viết của mình, Nguyễn Xuân Nam

đã nhận diện những đổi thay tích cực về quan niệm thơ của Chế Lan Viên

song nhƣ chính tác giả đã nói ở phần kết luận: “Tôi cứ muốn xem bài viết này

nhƣ một phác thảo về những đóng góp của Chế Lan Viên về lý luận, phê bình

và bút ký” [1, tr. 510], nên ông mới chỉ dừng ở những nhận xét khái quát mà

chƣa đi sâu vào việc làm rõ từng khía cạnh của quan niệm nghệ thuật thơ Chế

Lan Viên qua những trang phê bình tiểu luận.

9

Trong Một phong cách phê bình trực cảm mới (1999) tác giả Hoàng

Nhân có những nhận xét tinh tế về phong cách phê bình của Chế Lan Viên và

cho rằng: “Chế Lan Viên đã tiếp tục một phong cách phê bình trực cảm từ

thời Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam nhƣng hòa nhập nhiều yếu tố tích cực

mới từ sau thắng lợi của cách mạng và bút pháp của một nhà thơ tài hoa của

Điêu tàn (1937), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa trên đá (1984)”...[1, tr.

518]. Đồng thời Hoàng Nhân cũng có những phát hiện sâu sắc về quan niệm

của Chế Lan Viên đối với nghệ thuật: “Chế Lan Viên yêu cầu cao về nghệ

thuật của tác phẩm văn chƣơng nhằm biểu hiện sinh động nội dung” [1, tr.

521] và mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống : “Sự sống bao giờ cũng cao

hơn nghệ thuật, sự sống tự nó là nghệ thuật rất cao” [1, tr. 521].

Tha thiết với sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên, năm 2010, tác giả

Hà Minh Đức đã ra mắt bạn đọc cuốn “Chế Lan Viên ngƣời trồng hoa trên

đá”. Tập sách là những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện của tác giả về sự

nghiệp văn học của Chế Lan Viên trong đó có phê bình, tiểu luận. Trong bài

“Dòng văn xuôi sắc sảo và trí tuệ”, tác giả Hà Minh Đức đánh giá cao những

đóng góp của Chế Lan Viên trong việc đƣa lý luận vào thực tiễn sáng tác

cũng nhƣ cách Chế Lan Viên dùng thực tiễn để giải quyết những vấn đề của

sáng tác văn nghệ. Đi qua những bài viết, bài nói chuyện của Chế Lan Viên,

từ “Nói chuyện thơ văn”, “Vào nghề”, đến “Từ gác Khuê Văn đến quán

Trung Tân” Hà Minh Đức khẳng định: “Chế Lan Viên thông minh, trí tuệ và

linh hoạt trong đối thoại. Bài viết, bài nói của anh bao giờ cũng để lại nhiều ý

tƣởng sắc sảo, gây ấn tƣợng”[15, tr. 180].

Bên cạnh những bài viết của các nhà nghiên cứu về phê bình và tiểu

luận của Chế Lan Viên, chúng tôi tiến hành khảo sát một số những công trình

có liên quan đến việc nghiên cứu, tìm tòi, khám phá các phƣơng diện trong

quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên.

10

Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại,

sáng tác của ông đi qua những chặng đƣờng đầy biến động của lịch sử, vì thế,

sự nghiệp sáng tác ấy không đơn giản, một chiều. Quan niệm thơ vì thế cũng

đa dạng, phong phú, phức tạp và chia làm nhiều chặng khác nhau với quá

trình vận động, biến đổi không ngừng. Những bài viết, những công trình

nghiên cứu về thơ Chế Lan Viên, đề cập đến quan niệm nghệ thuật thơ Chế

Lan Viên thực sự là một dòng chảy mạnh mẽ, liên tục và chƣa bao giờ đứt

đoạn kể từ Điêu tàn cho đến ngày hôm nay. Trong đó chúng tôi chú ý đến

những công trình lớn: Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tƣởng (1999),

chuyên luận của Nguyễn Bá Thành; Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên

(2004), chuyên luận của Hồ Thế Hà và Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (2006),

chuyên luận của Đoàn Trọng Huy.

Nguyễn Bá Thành và chuyên luận Thơ Chế Lan Viên với phong cách

suy tƣởng đã đem đến những nhận định sâu sắc về nghệ thuật suy tƣởng và

suy tƣởng trong thơ Chế Lan Viên. Khẳng định suy tƣởng là một phƣơng thức

biểu hiện của tƣ duy thơ, trong quá trình khai thác chất suy tƣởng trong thơ

Chế Lan Viên qua các thời kỳ, tác giả đã nhận ra sự “phong phú vô biên” của

một hồn thơ tự do, phóng túng. Tìm hiểu những quy luật vận động của toàn

bộ tƣ tƣởng và tình cảm của nhà thơ thể hiện qua tác phẩm, Nguyễn Bá Thành

đã chỉ cho ngƣời đọc thấy, thơ Chế Lan Viên “có một số đã không đi theo con

đƣờng mòn mà thơ ca xƣa nay vẫn đi, tức là con đƣờng: “từ trái tim đi đến

trái tim”. Thơ ông đi theo con đƣờng trí tuệ để đến với trái tim”[46, tr. 198].

Con đƣờng ấy đã là một con đƣờng thơ rất riêng của một quan niệm nghệ

thuật thơ độc đáo đã đƣợc định hình trong suốt hành trình thơ kéo dài hơn nửa

thế kỉ của thơ Chế Lan Viên.

Nhà nghiên cứu Hồ Thế Hà, khi khám phá “Thế giới thơ rộng rinh, kỳ

ảo và nhiều biến hóa của Chế Lan Viên” đã dành cả chƣơng 1 trong cuốn

11

chuyên luận của mình để làm sáng rõ quan niệm nghệ thuật của Chế Lan

Viên. Căn cứ ở thơ viết về nghề và căn cứ ở chất thơ, ở phƣơng thức thể hiện,

ở mối quan hệ giữa chủ thể - khách thể, Hồ Thế Hà trình bày những quan

niệm đặc sắc về nghệ thuật của Chế Lan Viên ở ba mốc thời kỳ đặc biệt: Điêu

tàn, từ Vàng sao hƣ vô đến sao vàng cách mạng và Những lá thơm hái lúc về

già. Đồng thời chuyên luận cũng trình bày khá cụ thể quan niệm về hình thức

nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên. Chế Lan Viên là nhà thơ suy nghĩ nhiều và

sâu sắc về những khát vọng và giá trị vĩnh cửu của cuộc sống cách mạng, của

Tổ quốc và sứ mệnh của thi ca. Nhận thức về quan niệm thơ của Chế Lan

Viên, Hồ Thế Hà khẳng định: “Từ những quan niệm về thơ thể hiện ở nội

dung và hình thức đƣợc chứng nhận qua một đời thơ đã đƣa địa vị Chế Lan

Viên lên tầm một trong rất ít những nhà thơ hiện đại Việt Nam xuất sắc”[16,

tr. 64].

Trong Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, tác giả Đoàn Trọng Huy

đã nhận định: Chế Lan Viên là ngƣời nghệ sỹ sáng tác có quan niệm rõ ràng

về nghệ thuật. Ông cho rằng, không ai viết nhiều thơ về thơ nhƣ Chế Lan

Viên, cũng ít ngƣời viết phê bình, tiểu luận về thơ nhiều nhƣ vậy. Thƣờng

xuyên, liên tục trong cả đời thơ, Chế Lan Viên phát biểu bằng nhiều cách, ở

trong nƣớc và trên diễn đàn quốc tế. Tìm hiểu thơ viết về thơ của Chế Lan

Viên, tác giả phát hiện và trình bày về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan

Viên nổi bật ở ba phƣơng diện: Hình thức thơ là vũ khí; lấy đá mới tạc nên

thần mới và nền thơ chung cần có rất nhiều cá tính riêng.

Nhìn chung cả ba tác giả đã dành sự quan tâm đặc biệt đến quan niệm

nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên, có cái nhìn khái quát và đƣa ra những nhận

định sâu sắc.

12

Điểm lại lịch sử nghiên cứu về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan

Viên và quan niệm thơ qua phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên, chúng tôi

có những nhận xét nhƣ sau:

- Các nhà phê bình nghiên cứu đã có sự nhìn nhận đánh giá sâu sắc và hệ

thống về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên qua thực tế sáng tác của

ông ở những thời kỳ lịch sử khác nhau.

- Các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao giá trị của các tập phê bình

tiểu luận văn học của Chế Lan Viên, đồng thời có những luận điểm quan

trọng, khái quát, những phát hiện mới mẻ và sâu sắc về quan niệm nghệ thuật

thơ qua phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên.

- Tuy nhiên, các bài viết chỉ đi vào một khía cạnh nào đó hay dừng lại ở một tập

tiểu luận, phê bình văn học cụ thể mà chƣa đi sâu tìm hiểu một cách đầy đủ, có hệ

thống về toàn bộ hoạt động phê bình, lý luận văn học của Chế Lan Viên cũng nhƣ

hệ thống quan niệm nghệ thuật thơ đƣợc phát biểu qua những trang phê bình

và tiểu luận của Chế Lan Viên.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát

3.1. Với đề tài Quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên qua phê bình

và tiểu luận, luận văn tập trung khảo sát 9 tập tiểu luận - phê bình văn học

của tác giả nhƣ sau:

- Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nxb Thép mới, Hà Nội, 1952.

- Nói chuyện thơ văn (Chàng Văn), Nxb Văn học, Hà Nội, 1960.

- Vào nghề (Chàng Văn), Nxb Văn học, Hà Nội, 1962.

- Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội, 1962.

- Suy nghĩ và bình luận, Nxb Văn học, Hà Nội, 1971.

- Bay theo đƣờng dân tộc đang bay, Nxb Văn nghệ giải phóng, 1976.

- Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1981.

- Nàng tiên trên mặt đất, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1985.

13

- Ngoại vi thơ, Nxb Thuận Hóa, Huế,1987.

3.2. Bên cạnh đó, luận văn còn khảo sát các bài thơ nghĩ về nghề,

về thơ, văn xuôi, các bài viết đăng báo...của Chế Lan Viên.

4. Mục đích nghiên cứu

Chúng tôi đặt ra hai mục đích chính khi tiến hành nghiên cứu đề tài

này:

4.1. Tìm hiểu vị trí mảng phê bình, lý luận trong sự nghiệp văn học của

Chế Lan Viên, từ đó khẳng định những đóng góp toàn diện của Chế Lan Viên

đối với sự phát triển của nền văn học dân tộc.

4.2. Tìm hiểu những đóng góp về quan niệm nghệ thuật thơ qua phê

bình và tiểu luận của Chế Lan Viên.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phƣơng pháp

chủ yếu sau:

5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu xã hội học lịch sử:

Đặt quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên thể hiện trong các tập

phê bình và tiểu luận trong hoàn cảnh lịch sử, xã hội để tìm hiểu, phân tích và

lý giải.

5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu tiểu sử

Chúng tôi tìm hiểu, nghiên cứu cuộc sống và hoạt động xã hội của tác giả

nhƣ là một yếu tố quan trọng chi phối quan niệm nghệ thuật cũng nhƣ sáng

tác, lý luận của Chế Lan Viên.

5.3. Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp

Trong quá trình triển khai luận văn, chúng tôi vận dụng phƣơng pháp

phân tích để tìm hiểu sâu sắc và sáng tỏ những quan niệm nghệ thuật thơ mà

Chế Lan Viên gửi gắm trong mỗi trang phê bình và tiểu luận. Từ đó tổng hợp

14

khái quát để có đƣợc những nhận định, ý kiến đánh giá làm sáng lên những

nét đặc trƣng, tiêu biểu trong quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên.

5.4. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu

So sánh đối chiếu quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên thể hiện trong

phê bình tiểu luận và thực tế sáng tác của chính ông; So sánh đối chiếu quan

niệm nghệ thuật thơ đƣợc Chế Lan Viên trình bày trong các giai đoạn trƣớc

và sau Cách mạng,

để thấy điểm thống nhất và những mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn qua

các thời kỳ văn học.

So sánh đối chiếu quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên và các

tác giả khác cùng thời để thấy những nét độc đáo và riêng biệt.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, tƣơng ứng với các

mục đích nghiên cứu đã nêu trên, luận văn đƣợc triển khai qua ba chƣơng :

Chƣơng 1: Tổng quan về phê bình và tiểu luận trong sự nghiệp văn

học của Chế Lan Viên

Chƣơng 2: Quan niệm của Chế Lan Viên về nhà thơ và nghề làm

thơ

Chƣơng 3: Quan niệm của Chế Lan Viên về thơ

15

Chƣơng 1

TỔNG QUAN VỀ PHÊ BÌNH VÀ TIỂU LUẬN TRONG SỰ NGHIỆP

VĂN HỌC CỦA CHẾ LAN VIÊN

1.1. Sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên

1.1.1. Thơ ca

Suốt hành trình thơ của mình, bằng tài năng và bản lĩnh của ngƣời nghệ

sỹ hết lòng vì nghệ thuật, Chế Lan Viên thực sự đã chinh phục đƣợc những

đỉnh cao của các thời kỳ thi ca. Điêu tàn xuất hiện giữa đồng bằng Thơ mới

(1932-1945) “sừng sững nhƣ một tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi bí mật”

(Hoài Thanh). Cách mạng đến, hƣớng ngƣời thi sĩ đi từ “thung lũng đau

thƣơng đến cánh đồng vui”, tiếng thơ cô đơn lạc lõng một thời nay cất cao

thành lời thức tỉnh, “không chỉ ơ hời mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan”

(Chế Lan Viên). Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thƣờng, chim báo bão thực sự

là Những bài thơ đánh giặc, đã làm rạng rỡ cho nền văn học chiến đấu chống

ngoại xâm. Cho đến khi Chế Lan Viên bƣớc về phía sông Mê bến Lú, ngƣời

đọc của thời kì đổi mới lại một lần nữa sửng sốt khi ba tập Di cảo thơ đƣợc

xuất bản. Có thể khẳng định, Chế Lan Viên, đã sống hết mình với lịch sử, dân

tộc và thời đại. Ông xứng đáng là nhà thơ tiêu biểu của thế kỉ XX.

Mở đầu cho sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên là tập Điêu tàn (1937).

Với 37 bài thơ, ngƣời thi sĩ 17 tuổi đã khiến dƣ luận đặc biệt chú ý bởi một

tâm hồn nghệ sĩ thiên phú, bởi nỗi cô đơn đầy ám ảnh và bế tắc trong thơ và

đặc biệt là thế giới nghệ thuật bí ẩn với bóng tối, yêu ma làm rợn ngợp và

hoang mang ngƣời đọc. Điêu tàn là âm thanh của chết chóc, khóc than.

Những tháp Chàm bí mật, câm nín mấy trăm năm chợt nấc lên uất nghẹn.

Điêu tàn là bi kịch của đất nƣớc Chiêm Thành đã bị vùi sâu vào quá khứ.

Nhƣng Điêu tàn còn là bi kịch tình thần của một nhà thơ, của một thế hệ các

16

nhà thơ, gửi gắm trong đó bi kịch mất mát đau thƣơng của dân tộc. Tiếng thơ

ấy vì thế đã khiến biết bao ngƣời đã phải lắng tai nghe.

Cùng những biến thiên vĩ đại của lịch sử dân tộc sau Cách mạng tháng

Tám, vƣợt qua “thung lũng đau thƣơng”, thơ Chế Lan Viên bắt đầu một hành

trình mới. Gửi các anh gồm 14 bài thơ, in năm 1955, ra đời sau 10 năm nhà

thơ Chế Lan Viên gắn bó với Cách mạng. Mặc dù còn nhiều hạn chế song tập

thơ này có ý nghĩa nhƣ một sự nhận đƣờng. Đó là những xót xa đau đớn của

nhà thơ khi nghĩ về mẹ đang bị cầm chân nơi đất giặc, “Bốn phía là gƣơm bốn

bề là sắt”, nghĩ về nhân dân trong cảnh “Ngút trời đồng bốc lửa”. Đó là những

xúc động mãnh liệt trƣớc những hi sinh cao đẹp của ngƣời chiến sỹ nơi “Bốn

bề núi dựng/ Núi hiên ngang bốn bề vách đứng/ Canh mồ cho anh”. Đó là

ngọn lửa căm thù bùng cháy khi nhà thơ ghi khắc nỗi đau lớn của quê hƣơng

để “Nhớ lấy để trả thù”. Có thể nói, sống chân thành, sâu sắc với hiện thực

đời sống kháng chiến chống Pháp của dân tộc, Chế Lan Viên đã đƣa thơ ông

thoát khỏi dĩ vãng buồn thƣơng để trở về với cuộc đời hiện tại trong niềm tin

yêu.

“Khi đã có hƣớng rồi”, Chế Lan Viên nhanh chóng khẳng định mình

nhƣ một thi sĩ tiên phong. Năm 1960, mừng Đảng ta 30 tuổi, Chế Lan Viên

xuất bản tập Ánh sáng và phù sa với 69 bài.

Sự thật của cuộc sống và chiến đấu lớn của nhân dân đã in bóng trong

từng trang thơ của Chế Lan Viên sống động, chân thực. Tập thơ phản ánh,

ngợi ca cuộc sống mới đang đổi thay trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, góp

thêm tiếng nói đấu tranh cùng miền Nam trong lửa đạn. Tiếng nói vƣợt lên

“nỗi đau” cũ để tiếp nhận “niềm vui” mới đƣợc cái tôi trữ tình Chế Lan Viên

thể hiện sâu sắc, có chiều sâu của một cái tôi giàu suy tƣ, chiêm nghiệm. Chế

Lan Viên đã trở thành ngƣời thi sĩ ca hát vẻ đẹp muôn màu sắc của thời đại

17

mới, say sƣa, mê mải lƣợn trăm vòng trên tổ quốc thân yêu để thu nhận

“Ngàn núi trăm sông diễm lệ” vào hồn thơ đang căng tràn sức sống của mình.

Nối tiếp Ánh sáng và phù sa, những tập thơ Hoa ngày thƣờng, chim

báo bão, Những bài thơ đánh giặc và Đối thoại mới lần lƣợt đƣợc ra đời trong

những năm kháng chiến chống Mỹ hào hùng và quyết liệt.

Hoa ngày thƣờng, chim báo bão xuất bản năm 1967, gồm 49 bài thơ.

Chùm thơ Hoa ngày thƣờng giản dị, gần gũi và giàu chất sống. Với những Bé

Thắm đàn, Nhớ em nơi huyện nhỏ, Con đi sơ tán xa…ngƣời đọc gặp một Chế

Lan Viên cởi mở với những đề tài riêng tƣ mà đời thƣờng, mộc mạc. Những

lời ru tha thiết nhƣ Con cò, giọng điệu bi bô khi Con tập nói…là cuộc sống, là

chất sống ngời lên vƣợt qua sự hủy diệt khốc liệt của chiến tranh. Tập thơ

không dừng ở đó, bên cạnh Hoa ngày thƣờng là cánh Chim báo bão. Thơ Chế

Lan Viên đã tiến sát hơn tới những tuyến đầu của cuộc chiến đấu của dân tộc

và thời đại. Trong tập thơ có nhiều bài thơ chống Mỹ rất trữ tình mà cũng rất

quyết liệt nhƣ: Cái hầm chông giản dị, Ở đâu? Ở đâu? Ở đất anh hùng, Con

mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa…

Xuất bản năm 1972, giữa những năm tháng khốc liệt nhất của cuộc

kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Những bài thơ đánh giặc thực sự đã tham gia

trực tiếp vào cuộc đấu tranh của dân tộc. Phác thảo cho một trận đánh, một

bài thơ diệt Mỹ đã vừa vạch trần âm mƣu thâm độc của đế quốc Mỹ vừa phản

ánh chân thực khí thế hào hùng của quân và dân ta trong quá trình chuẩn bị

chiến dịch Khe Sanh – Đƣờng Chín – Nam Lào. Với “Phản diễn ca” hay

“phản diện ca” về học thuyết Nichxơn, Chế Lan Viên đã kiên quyết phản bác

lại những luận điệu sảo trả của Nichxơn trong những cuộc viễn du thƣơng

lƣợng của chúng. Thời sự hè 72 – Bình luận đƣợc Chế Lan Viên viết khi cả

nƣớc đang sôi sục căm thù vì những vụ ném bom B.52 xuống Hải Phòng của

đế quốc Mỹ. Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên không chỉ bám sát

18

những sự kiện nóng hổi mang tính thời đại mà còn có những lời giải thấu đáo

trƣớc những vấn đề bức thiết trong đời sống chính trị, báo trƣớc viễn cảnh

phát triển của tình hình, làm tăng thêm lòng tin tƣởng vào thắng lợi của nhân

dân.

Tiếp nối những âm vang nung đốt trong Những bài thơ đánh giặc, cuối

năm 1973 Chế Lan Viên xuất bản tập thơ Đối thoại mới. 68 bài thơ trong tập

thơ này cho thấy một sức viết dồi dào và sự thúc bách của thời đại. Bên cạnh

mảng thơ chống Mỹ gồm những bài thơ dài, có dung lƣợng lớn và chiếm vị trí

quan trọng, trong tập thơ còn xen lẫn những bài thơ ngắn và những chùm tứ

tuyệt dịu nhẹ, êm đềm. Cả tập thơ vì thế có đƣợc sự cân bằng thời sự và cuộc

sống, giữa trí và tình.

Tự nguyện đem thơ phục vụ lợi ích cách mạng, Chế Lan Viên vì thế

cũng đã dứt khoát lựa chọn sứ mệnh mới cho thơ: “Thơ cần có ích cho cuộc

đời, cho nhân dân”. Với quan niệm ấy, thơ Chế Lan Viên đã đi qua hai cuộc

kháng chiến thần thánh của dân tộc và thực sự trở thành con đẻ của thời đại,

của Tổ quốc, của Nhân dân.

Cũng nhƣ bao nhà thơ khác, Chế Lan Viên đã viết về Bác Hồ với niềm

cảm hứng mãnh liệt. Hoa trƣớc lăng ngƣời (1976) với 14 bài thơ làm rải rác

trong khoảng hai mƣơi năm là tấm lòng của nhà thơ đối với vị cha già kính

yêu của dân tộc. Bằng tất cả sự kính trọng, yêu thƣơng, biết ơn vô hạn, thơ

Chế Lan Viên đã đem đến cho ngƣời đọc một bức chân dung bằng thơ giản dị,

thanh cao, thiêng liêng, vĩ đại về Ngƣời.

Sau năm 1975, thơ Chế Lan Viên kết tinh trong những tập thơ Hái theo

mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986).

Khép lại một giai đoạn thơ kháng chiến, Ngày chiến thắng và Thơ bổ

sung trong tập Hái theo mùa đƣợc Chế Lan Viên viết trong những ngày náo

nức của tháng 5 năm 1975, có ý nghĩa nhƣ khúc ca khải hoàn trong ngày đất

19

nƣớc trọn niềm vui. Bên cạnh đó Hái theo mùa còn là những xúc cảm đời

thƣờng với hơn 40 bài tứ tuyệt giàu sức gợi. 15 bài thơ trong tập Hoa trên đá

là một chất thơ mới của nhà thơ đang tìm hƣớng đi mới cho thơ, đang muốn

vƣợt lên chính mình để làm mới thơ. Qua giông bão chiến tranh, sau những

bài thơ hùng tráng, giờ đây hồn thơ Chế Lan Viên chín lại một lần nữa trong

những khúc trữ tình không còn trẻ trung nhƣng sâu lắng, tha thiết, thấm tận

đáy lòng.

Ở các tập thơ Hoa trƣớc lăng Ngƣời, Hái theo mùa và một phần Hoa

trên đá, Ta gửi cho mình, thơ Chế Lan Viên vẫn là tiếng kèn xung trận, tiếng

hát cất cao ngợi ca, cổ vũ nhân dân. Nhƣng càng về sau đặc biệt trong ba tập

Di cảo (xuất hiện sau khi Chế Lan Viên qua đời) thơ Chế Lan Viên lắng lại,

đằm sâu trong suy tƣởng, thơ lặn vào trong, viết cho riêng mình.

Di cảo thơ của Chế Lan Viên do nhà văn Vũ Thị Thƣờng – ngƣời bạn

đời của ông, tuyển chọn và giới thiệu tới bạn đọc. Ba tập Di cảo thơ với 567

bài thơ (bao gồm cả những bài thơ hoàn chỉnh và những bài còn ở dạng phác

thảo) là những dằn vặt, mâu thuẫn trong nội tâm Chế Lan Viên, là sự “sám

hối”, “phản tỉnh” xuất hiện đâu đó, là những xao xác đến nao lòng từ bề ngoài

an nhiên bình đạm…Chỉ với 3 tập thơ mà “Nghìn trò cƣời khóc”. Ngƣời đọc

thấy một Chế Lan Viên vừa quen vừa lạ, tƣởng đã hiểu ông và thơ ông đến

ngọn ngành, lại tƣởng chừng nhƣ chƣa hiểu. Di cảo thơ chính là ba mặt còn

lại của“Tháp Bayon bốn mặt” trong những suy tƣởng về thơ và đời của Chế

Lan Viên.

Đi qua các chặng đƣờng thơ Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy: thơ

Chế Lan Viên có một diện mạo phong phú và phức tạp. Ông là nhà thơ bản

lĩnh, tha thiết với thời đại, mê mải tìm tòi và hầu nhƣ không bao giờ bằng

lòng với những gì đã đạt đƣợc. Ngƣời đọc tìm thấy trong thơ Chế Lan Viên

tiếng nói của một cái tôi trữ tình đa giọng điệu. Khi đau đớn bi ai, khi hào

20

hùng quyết liệt, khi thủ thỉ tâm tình, lúc ngọt ngào tha thiết…Đó là tiếng nói

của một hồn thơ luôn tìm đƣờng mở lối cho thi ca hiện đại, một hồn thơ luôn

muốn lật xoay đời sống, xã hội và cả tâm hồn mình để khám phá đến tận cùng

mọi chiều kích. Tất cả những điều ấy làm nên phẩm chất tiểu biểu của thơ

Chế Lan Viên: phẩm chất triết học. Tƣ duy triết học tạo cho thơ Chế Lan Viên

một màu sắc trí tuệ, một màu sắc nhận thức luận sắc nét. Thơ Chế Lan Viên

chú trọng khai thác những yếu tố nghịch lý, những mặt đối lập rồi liên kết

chúng lại bằng một khả năng liên tƣởng đa dạng và linh hoạt. Trí tuệ nhƣng

không khô khan, trí tuệ nhƣng vẫn rất đỗi trữ tình. Mạch nguồn sống của thi

ca nói chung là sự xúc động chân thành của cảm xúc. Và thơ Chế Lan Viên

cũng không nằm ngoài mạch nguồn chung ấy.

Đọc thơ của Chế Lan Viên, ngƣời đọc cảm nhận sâu sắc về một nhà thơ

với ý thức trách nhiệm lớn lao. Trách nhiệm với thơ, trách nhiệm với đời,

trách nhiệm với lịch sử và thời đại. Sáng tạo nghệ thuật bằng cả sức lực và trí

tuệ, thơ Chế Lan Viên thực sự là “Trái tim anh móc lại - Cho đời”, để anh

đƣợc tồn tại mãi giữa cõi đời, “Nhƣ ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên” (Từ thế

chi ca).

1.1.2. Văn xuôi dưới dạng bút kí

Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân trong bài viết Giọng văn xuôi

tiểu luận Chế Lan Viên đã khẳng định: “Có một Chế Lan Viên – văn xuôi –

bên cạnh một Chế Lan Viên – thơ” [1, tr. 511]. Cùng với thơ, văn xuôi bút kí

Chế Lan Viên đã ghi lại sâu sắc sự vận động trong tƣ tƣởng của nhà thơ suốt

hơn 50 năm cầm bút; trải qua biết bao thăng trầm, biến động của lịch sử để đi

từ sầu bi huyền bí đến nơi có “Ánh sáng và phù sa” chan hòa, để cất cao tiếng

nói ngợi ca, cổ vũ, khích lệ, động viên. Cùng với thơ, văn xuôi, bút kí đã góp

thêm những trang văn làm phong phú thêm sự nghiệp văn chƣơng vốn rất đa

dạng và giàu sức hấp dẫn của Chế Lan Viên.

21

Khi Cách mạng tháng Tám diễn ra, Chế Lan Viên vừa tròn hai mƣơi

lăm tuổi, nhƣng đã cảm thấy già đi vì mang một gia tài đồ sộ của hàng triệu

nỗi buồn. Tác giả đã có lúc tự thú nhận: “Nỗi buồn ghê gớm nhất, những hƣ

vô sâu thẳm nhất để lại cho tôi, chính do các nền tôn giáo”[85, tr. 612]. Tập

Vàng sao ra mắt bạn đọc gồm các sáng tác của Chế Lan Viên từ 1937 đến

1942. Xuyên suốt Lệ (Tựa chung cho Vàng sao và Gai lửa), Chiều tin tƣởng, Đêm giao thừa, Tạp bút, Trốn lửa, Bỏ trƣờng mà đi, Sõi tối1, Vàng sao…là

một Chế Lan Viên với tiếng nói thiết tha ca tụng cái đẹp linh thiêng, một Chế

Lan Viên tìm đến cúi mình trƣớc những tƣợng trƣng tôn giáo. “Thích Ca!

Jésus! Khổng Khâu! Lão Tử! Tôi đều thành tâm cúi đầu trƣớc uy linh huyền

diệu của các ngài”[84, tr. 20]. Trong Vàng sao có sự đan dệt của triết học và

thi ca, của không gian vô tận và thời gian vô cùng, tự nhiên và con nguời, cái

khoảnh khắc và cái vĩnh cửu… Có thể nói, với Vàng sao Chế Lan Viên đã đạt

đến sự tổng hợp và tổng hoà của triết học và thi ca: “Ta nhìn ra. Muôn sao

thôi độc dữ. Không tách riêng ra tƣ tƣởng để nói triết học giữa trời. Chúng ta

đã lẫn vào thi ca, trong chăn gối dâng lên từ cảnh vật”[84, tr. 63].

Cùng với Vàng sao, Gai lửa đƣợc viết ngay năm 1942 nhƣng chỉ đƣợc

ra mắt bạn đọc sau khi Chế Lan Viên đã qua đời. Chìm trong Điêu tàn và

Vàng sao, Chế Lan Viên nhận thức rõ “Sống quen trong bóng tối đi rồi làm

nhƣ bây giờ ngƣời ta đã đâm ra sợ lửa”[84, tr. 13]. Vì thế ông muốn “Đốt vài

nhành Gai, nhen một ngọn Lửa, chúng ta thành tâm khêu lên hình bóng của

cuộc đời”[84, tr. 13]. Hình bóng của cuộc đời ở đây chủ yếu đƣợc cảm nhận

qua hình bóng của đấng sinh thành. Trong những tác phẩm Mẹ sầu bi, Muối

tối, Vinh, ngày 18 – 3 năm kháng chiến, mẹ nhƣ một nguồn cứu rỗi, một niềm

an ủi, một lƣợng từ bi. “Nhƣng rồi một ngày kia…Đột nhiên mà chàng lẻ loi

1 Không rõ ý nghĩa, nhà văn Vũ Thị Thƣờng khi làm tuyển tập đã tỏ ý tiếc nuối khi không hỏi tác giả để hiểu ý nghĩa của tiêu đề bài này.

22

giữa một sự thù nghịch bao vây. Đột nhiên mà hình ảnh mẹ buồn hiện ra

trƣớc mắt, uẩn khúc đằng sau một trời thƣơng mến ngọt ngào […] và một

buổi sáng khác, đang lầm lũi trong gai, trong cỏ, kiếm kiếm tìm tìm, Phan

Thơ bỗng ngạc nhiên thấy Mẹ bên mình!...Không hỏi han duyên cớ, Phan

Thơ ngả vào lòng Mẹ…Nƣớc thiên đàng đã đến gần”[86, tr. 773]. Chàng

Phan Thơ ấy, chàng Phan Thơ có thực ngoài đời và chàng Phan Thơ trong

tâm tƣởng, cô đơn, hoảng loạn, bế tắc trƣớc một câu hỏi lớn đầy hứng khởi và

cũng đầy đau đớn: “Tôi là một Ngƣời có thể đƣợc yêu không?”[86, tr. 777].

Vàng sao và Gai lửa đã cùng Điêu tàn đánh dấu một giai đoạn sáng tác

đặc biệt của Chế Lan Viên – giai đoạn có thể xem nhƣ cả cuộc sống và sáng

tác đều thuộc về thế giới của những hƣ vô và siêu hình.

Đến với Cách mạng, Chế Lan Viên dứt khoát từ bỏ những hƣ vô, siêu

hình, đem ngòi bút và chính cuộc đời mình phụng sự nền văn nghệ kháng

chiến. Từ chiến trƣờng đầy ác liệt, từ những nỗi đau chiến tranh chất chứa đầy

máu và cả sự hy sinh, những áng văn bất hủ đã đƣợc viết lên. Thăm Trung

Quốc, Những ngày nổi giận, Giờ của số Thành đƣợc viết từ năm 1963 đến

năm 1976 đã phản ánh thật rõ ràng và đậm nét ý chí quyết tâm đánh giặc

ngoại xâm của dân tộc ta, lòng căm thù giặc cũng nhƣ những phẩm chất anh

hùng của ngƣời chiến sỹ trong công cuộc đấu tranh để gìn giữ non sông của

ông cha ngàn đời.

Thăm Trung Quốc, tập bút kí xuất bản năm 1963 gồm 6 bài viết với

nhiều cảm xúc. Trƣớc hết là niềm vui hân hoan của tác giả khi tận mắt chứng

kiến sự đổi thay của đất nƣớc bạn trong cuộc sống mới tƣơi đẹp (Cảnh xƣa

trong đời mới , Về thăm những nơi chiến đấu cũ). Tình hữu nghị bền vững

giữa hai dân tộc đƣợc tác giả thể hiện sâu sắc trong Sức mạnh và tình yêu.

Thầy giáo Lƣu Thiếu Kỳ ở mỏ An Nguyên và Gặp đồng chí Hồng Quân ở tỉnh

Cƣơng Sơn là tấm lòng cảm phục của Chế Lan Viên đối với tinh thần đấu

23

tranh cách mạng quyết liệt của nhân dân Trung Quốc. Lời văn giản dị, những

ghi chép tỉ mỉ, chi tiết và đặc biệt là cảm xúc chân thành, mãnh liệt, sâu sa đã

khiến cho tập tùy bút có đƣợc nhiều hấp dẫn từ phía bạn đọc.

Những ngày nổi giận, tập bút ký chống Mỹ đƣợc Chế Lan Viên viết

nên từ chính sức nóng của tình hình chính trị mang đậm tính thời sự những

năm từ 1962 đến 1966. Với 11 bài viết, Chế Lan Viên đã xây dựng sống động

hai chiến tuyến: “chúng ta” và “chúng nó”. “Chúng nó” là đế quốc Mỹ cuồng

chiến. Viết về “chúng nó”, ngòi bút Chế Lan Viên đanh thép, dữ dội vạch trần

những âm mƣu xâm chiếm thâm độc, những luận điệu sảo trá, những tội ác dã

man chúng đã gieo rắc trên đất nƣớc Việt Nam. Viết về “chúng ta”, giọng

điệu trong bút ký mềm mại hơn khi ông bộc lộ niềm tin yêu tha thiết đối với

những đổi thay của Miền Bắc xã hội Chủ nghĩa; khi ông ngợi ca cuộc chiến

đấu anh dũng của nhân dân ta (Hoa lửa miền Nam, Ý nghĩa dọc đƣờng, Viên

kim cƣơng đầu giới tuyến…); giọng điệu bút ký sôi sục căm thù, thiết tha yêu

thƣơng khi ông viết Những ngày nổi giận; giọng điệu bút ký hân hoan, tƣơi

vui rạng rỡ khi ông viết Mùa xuân ủng hộ ta.

Hoàn cảnh chiến tranh, hiện thực chiến tranh vừa rất đỗi hào hùng, vừa

rất đỗi bi tráng tự bản thân nó đã tạo nên những bản anh hùng ca đầy khí thế.

Trong lúc này, giặc Mỹ điên cuồng lồng lộn bắn phá. Vậy mà khi đọc Những

ngày nổi giận của Chế Lan Viên, ngƣời đọc lại có cảm giác bình tĩnh thƣ thái

lạ lùng. Đó là cảm giác của những con ngƣời đang sẵn một niềm tin tƣởng

tuyệt đối: Chúng ta tất yếu sẽ chiến thắng.

Giờ của số Thành (1970-1976), là những trang bút ký đƣợc viết từ tâm

thế của con ngƣời nhìn thấy trƣớc chiến thắng và thực sự đƣợc hoà mình với

thắng lợi trọn vẹn của dân tộc. Trong 15 bài viết của tập bút ký, hình tƣợng

bao trùm là hình tƣợng Bác Hồ và hình tƣợng mùa xuân. Trong Tổ quốc đã

rằm, Những mùa xuân truy kích giặc, Bài học mùa xuân, Khi con đƣờng

24

mang danh hiệu của Ngƣời… Bác hiện lên là niềm tin, là hi vọng, là động lực

thôi thúc lên đƣờng. “Một bức ảnh Ngƣời – một cái tên Ngƣời cũng góp phần

làm nên thống nhất. Ngƣời cho chúng ta mƣợn danh hiệu mà thành công trong

chiến dịch, mƣợn tên tuổi Ngƣời mà hoá thân cho cả một đô thành…ở đâu, đi

đến đâu, thấy ảnh Ngƣời là ta rất an tâm. Biết rằng Tổ quốc đã tự do, thống

nhất”[85, tr. 479].

Nếu nhƣ Trên đỉnh Trƣờng Sơn – Trên đỉnh thời gian, Những mùa

xuân truy kích giặc, Bài học mùa xuân…đất nƣớc tự do thống nhất là niềm

tin, là hi vọng thì nay đã trở thành hiện thực. Từ mùa xuân trên đỉnh Trƣờng

Sơn, những mùa xuân truy kích giặc, đến hôm nay, mùa xuân đến “sóng đôi

cùng chiến thắng”, “nhân hậu”, “yêu thƣơng” “nâng sự sống và lòng chúng ta

lên hoàn mỹ”[85, tr. 518]. Chế Lan Viên say sƣa với chiến thắng, niềm vui

lớn hiện hữu, ngập tràn khắp muôn nơi trên đất nƣớc này. Những bài bút ký

của Chế Lan Viên đã ghi lại chân thật và đẹp đẽ khoảnh khắc lịch sử thiêng

liêng ấy của đất nƣớc.

Cũng nhƣ thơ, những trang văn xuôi, bút ký của Chế Lan Viên đã thể

hiện sâu sắc những bƣớc đƣờng tƣ tƣởng của ngƣời nghệ sĩ. Từ cái tôi cô đơn,

bế tắc, siêu hình đến cái tôi hồn hậu, mê say chan hoà với cuộc sống và chiến

đấu của dân tộc, mỗi trang văn xuôi bút ký của Chế Lan Viên đều thấy sự tha

thiết, sự nặng lòng của ngƣời nghệ sỹ đối với cuộc đời.

1.1.3. Phê bình và tiểu luận

Hoạt động nghệ thuật trong ý thức của Chế Lan Viên là một hoạt động

đòi hỏi trách nhiệm lớn lao ở ngƣời nghệ sỹ. Nghiêm khắc với nghề và

nghiêm khắc với chính mình, mỗi trang viết của Chế Lan Viên là sản phẩm

của biết bao tìm tòi, nghiên cứu, suy ngẫm, trải nghiệm và chiêm nghiệm.

Yêu nghệ thuật nhƣ một lý tƣởng, Chế Lan Viên sáng tác nghệ thuật với một

hệ thống quan niệm chặt chẽ. Hệ thống quan niệm ấy đƣợc thể hiện qua thơ,

25

qua văn xuôi bút ký, và đặc biệt là qua phê bình và tiểu luận. Viết phê bình và

tiểu luận, Chế Lan Viên trao đổi về đời sống xã hội, về chính trị, thời sự, về

dân tộc, Tổ quốc …và đặc biệt là về thơ. Ở đây, cái tôi trữ tình đã cùng với

cái tôi biện lý sắc sảo tạo nên một sự nghiệp phê bình, tiểu luận phong phú,

xứng đáng là đứa con tinh thần đáng tự hào của Chế Lan Viên.

Tại hội nghị cán bộ văn nghệ Liên khu Bốn, tháng 12 – 1950, Chế Lan

Viên trình bày một bài thuyết trình dài và tâm huyết. Bài thuyết trình đó đƣợc

Nhà xuất bản Thép Mới biên tập và cho ra mắt bạn đọc với nhan đề Kinh

nghiệm tổ chức sáng tác vào năm 1951. Từ Kinh nghiệm tổ chức sáng tác đến

Ngoại vi thơ (Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế, 1987), 9 tập phê bình, tiểu luận

đƣợc xuất bản. Bằng bút lực dồi dào, trí tuệ sắc bén và sự nhạy cảm của tâm

hồn ngƣời nghệ sỹ, Chế Lan Viên đã say sƣa phê bình, tranh luận, hùng biện,

đối thoại. Ông nói chuyện văn thơ, đem hết những kinh nghiệm, những tâm

sự của nghề viết mà truyền nghề, dạy nghề. Ông phê bình và giới thiệu thơ

văn, ủng hộ cổ vũ khích lệ các nhà thơ trẻ, giới thiệu thành tựu thơ văn Việt

Nam trên các diễn đàn quốc tế…Trên văn đàn, ngòi bút phê bình tiểu luận của

Chế Lan Viên thực sự đã góp phần không nhỏ vào việc làm sống động đời

sống văn học nghệ thuật đƣơng thời.

Nhằm mục đích góp phần thúc đẩy công việc sáng tác, Kinh nghiệm tổ

chức sáng tác đƣợc xuất bản với ba phần súc tích: Kinh nghiệm về việc đi tìm

tài liệu; kinh nghiệm về việc ghi chép; kinh nghiệm về việc thực hiện tác

phẩm.

Là kinh nghiệm của một cây bút vững vàng trong sáng tác, nhƣng Chế

Lan Viên khẳng định, đây chỉ là kinh nghiệm của các lần thất bại, “Đi sao

không sáng tác, sáng tác sao không thành công” nhiều hơn là kinh nghiệm của

các lần thành công. Đó không phải chỉ là kinh nghiệm của riêng Chế Lan

Viên, những gì đƣợc trình bày trong bài thuyết trình này là sự tha thiết với

26

sáng tác của nhiều bạn văn nghệ, nhiều đoàn công tác trong Liên khu. Đó là

điều đáng quý ở Kinh nghiệm tổ chức sáng tác.

Sau Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nói chuyện thơ văn và Vào nghề

tiếp tục đƣợc Nhà xuất bản Văn học cho ra mắt bạn đọc vào những năm 1960

và 1962.

Nói chuyện thơ văn (1960) thực sự là một cuộc đối thoại mà chủ đề

chính là thơ văn. Tập sách này đem đến cho ngƣời đọc những câu hỏi có thực

của những bạn đọc có thực về những vấn đề có thực. Có biết bao ngƣời yêu

thơ, quan tâm đến thơ, muốn làm thơ là có bấy nhiêu câu hỏi. Chế Lan Viên

gom góp lại trong bảy vấn đề lớn: “Lập trƣờng tƣ tƣởng, tình cảm”; “Học tập,

nghiên cứu, thƣởng thức”; “Về năng khiếu, khả năng và cá tính”; “Về đề tài

và cách thể hiện đề tài”. Những câu hỏi đó đã đƣợc Chàng Văn trả lời họ một

cách kĩ lƣỡng và rất say mê. Đến với tập sách này, ngƣời đọc không chỉ có

đƣợc những câu trả lời giản dị, chân thành, hóm hỉnh, trí tuệ mà còn đƣợc

nhen lửa, tiếp lửa, đƣợc truyền lửa đam mê từ Chàng Văn.

Với Vào nghề (1962) Chế Lan Viên đã làm một việc quá sức mình

(Chàng Văn tâm sự) nhƣng Chàng Văn “bao giờ…cũng rất phấn khởi”[84, tr.

466]. Bởi nhiều câu hỏi đƣợc gửi tới có nghĩa là nhiều ngƣời quan tâm, nghĩa

là nền văn nghệ đã và đang đƣợc mở rộng. Mà không chỉ quan tâm tới thơ,

những câu hỏi đã không ngần ngại mà hƣớng sang cả lĩnh vực của văn xuôi,

truyện ngắn, phóng sự…Nếu nhƣ tập trƣớc nói về phần lập trƣờng tƣ tƣởng

chung thì tập này Chàng Văn đã bàn đến một số kĩ thuật phƣơng pháp cần

thiết (cách xây dựng một cốt truyện, tìm chi tiết cho một truyện ngắn, cách

leo thang cho một câu thơ…). Hai chữ Vào nghề Chàng Văn đặt cho tập sách

này có ý nghĩa là nhƣ vậy.

Xuất bản năm 1962, Phê bình văn học là tập hợp của 19 bài viết từ

1956 đến 1961. Chế Lan Viên đã sôi nổi đóng góp làm dày thêm những trang

27

lý luận về nghề văn. Ông trở lại quá khứ với Nguyễn Du, ông đọc Những

bƣớc đƣờng tƣ tƣởng của tôi của Xuân Diệu, Trời mỗi ngày lại sáng của Huy

Cận. Ông trải lòng mình Từ thung lũng đau thƣơng đến cảnh đồng vui. Ở đâu

trong mỗi câu, từ, ngữ, nghĩa của Phê bình văn học đều thấy một niềm sôi

nổi.

Trong quá trình tìm hiểu tập phê bình, tiểu luận này, chúng tôi nhận

thấy, Chế Lan Viên chủ yếu tập trung vào ba nội dung cơ bản:

- Những quan niệm của Chế Lan Viên về thơ và nghề thơ đƣợc ông

trình bày qua 5 bài viết: Sống và viết, Sự chân thành của nhà văn, Nghĩ về

nghề, Cái sáo ở trong thơ, Ý của thơ.

- Những nhận định khách quan và khoa học về thơ thể hiện qua những

bài Chế Lan Viên viết để giới thiệu thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh,

Ngọc Minh,…; bài giới thiệu cho “Tuyển tập thơ Việt Nam (1945-1960)…

- Đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù đối với

Cách mạng và phong trào văn nghệ Cách mạng qua Trả lời bức thƣ của nhóm

dân chúng (miền Nam) gửi giới văn nghệ miền Bắc.

Là một nhà văn ham tìm tòi, nhiều trăn trở, những năm tháng kháng

chiến chống Mỹ quyết liệt và dữ dội đã trở thành mảnh đất tốt để Chế Lan

Viên Suy nghĩ và bình luận (1971). “Suy nghĩ và bình luận của Chế Lan Viên

gồm 20 bài viết với nội dung phong phú. Ông suy nghĩ và bình luận về dân

tộc, lịch sử, thời đại. Về những điều Đảng nghĩ, về kẻ thù, về vận mệnh của

thơ ca và sứ mệnh của thơ ca.

Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Đọc “Suy nghĩ và bình

luận” của Chế Lan Viên nhận xét: “Nếu lấy chiều sâu của suy nghĩ, lấy tính

hệ thống hoàn chỉnh làm chuẩn thì chất lƣợng không đều nhau”[1, tr. 485].

Song điều đáng kể ở đây là bên cạnh lý luận của một nhà lý luận, Suy nghĩ và

bình luận của Chế Lan Viên còn là lý luận của một nhà thơ. “Lý luận dựa trên

28

kinh nghiệm sáng tác thiết thân, lý luận đi đôi với một năng lực cảm thụ thẩm

mỹ chắc chắn. Chế Lan Viên chẳng những là một nhà thơ trong Suy nghĩ và

bình luận mà còn là một nhà Suy nghĩ và bình luận trong thơ”[1, tr. 486].

Bay theo đƣờng dân tộc đang bay xuất bản năm 1976, (Nhà xuất bản

Văn học giải phóng), gồm 25 bài, là tập hợp những bài viết từ năm 1963 đến

1976. Là một đại biểu Quốc hội, Chế Lan Viên đã xuất sắc thể hiện vai trò

“chỉ đạo” của mình qua những bài tham luận. Ông đề cao vai trò của văn nghệ

trong đời sống xã hội, thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, thiếu sót. Bay theo

đƣờng dân tộc đang bay còn là những trăn trở với nghề của Chế Lan Viên, là

những suy tƣ Nghĩ về nghề…nghĩ về thơ…nghĩ. Tiếp tục những dòng suy

tƣởng về Hồ Chí Minh vĩ đại, Bay theo đƣờng dân tộc đang bay là những cảm

nhận sắc nét của Chế Lan Viên trƣớc những vần thơ của Bác.

Viết sau ngày đất nƣớc trọn niềm vui, Từ Khuê Văn Các đến quán

Trung Tân (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1981) ngập tràn các cảm xúc vui

sƣớng hân hoan. Tập tùy bút tiểu luận gồm 16 bài viết với nhiều cảm xúc. Đó

là niềm vui của một nhà thơ suốt 30 năm đã biến mình thành một ngọn sáng,

một vị mặn, một hạt muối của đời trong cái biển đời vô tận” [85, tr. 611]. Chế

Lan Viên say mê bàn luận về Tổ quốc, về mùa xuân, về thi ca, về văn hoá. Từ

Khuê Văn Các đến Quán Trung Tân là một tập phê bình tiểu luận phong phú

về nội dung, độc đáo trong cách thức thể hiện, đa dạng trong giọng điệu, sắc

sảo trong tƣ duy.

Ngoại vi thơ (Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987) tập tiểu luận – tạp văn

gồm 21 bài viết, ghi lại những nhận xét sắc sảo, độc đáo và tinh tế của Chế

Lan Viên về thơ của Xuân Hoàng, Yến Lan, Xuân Diệu, Trần Nhật Thu,

Hoàng Tố Uyên. Hình tƣợng Bác Hồ ngời sáng trong Trời cao xanh ngắt sáng

Tuyên ngôn. Những bài tham luận trong cuộc gặp gỡ, hội thảo khoa học đƣợc

29

đƣa vào Ngoại vi thơ cho thấy Chế Lan Viên thực sự xứng đáng với vai trò sứ

giả của thi ca Việt Nam.

Những năm 80 của thế kỷ XX đánh dấu bƣớc chuyển mình đổi mới sâu

sắc trong đời sống văn học. Nhiều tƣ tƣởng, quan niệm đƣợc xem xét lại,

nhiều giá trị văn học đƣợc nhìn nhận lại, nhiều nhà văn, nhà thơ dũng cảm,

gan góc, bản lĩnh mở đƣờng đổi mới. Trên con đƣờng văn học nhiều thử thách

của giai đoạn ấy, là một con ngƣời gắn bó tha thiết với nghề, Chế Lan Viên

luôn canh cánh một nhiệm vụ thiêng liêng, nhiệm vụ thúc đẩy, cổ vũ các

phong trào sáng tác. Nàng tiên trên mặt đất là những cảm nhận chân thành,

tha thiết của một ngƣời chú, một ngƣời bác, một ngƣời anh đối với phong trào

sáng tác của các cháu thiếu nhi. Với 10 bài viết đƣợc tập hợp từ năm 1978 đến

năm 1983, Nàng tiên trên mặt đất trƣớc hết là sự cổ vũ của Chế Lan Viên đối

với cuộc thi thơ của báo Khăn Quàng Đỏ diễn ra sau ngày giải phóng (1978).

Không dừng lại ở đó, Chế Lan Viên còn viết bài phát động cuộc thi Viết và vẽ

lần thứ hai của báo Khăn Quàng Đỏ (1981). Chế Lan Viên băn khoăn trƣớc

hiện tƣợng các cháu bé đã thi thơ, đã có bài đăng trong tuyển thơ mà sau đó

lại không viết đƣợc thơ…Những tâm sự ấy chỉ có thể có đƣợc trong ngƣời

nghệ sỹ luôn nung nấu về nghề, luôn trăn trở với nghề, và luôn nghĩ về nghề

với một ý thức trách nhiệm lớn lao.

Chế Lan Viên từng quan niệm: “Văn xuôi đo bằng đấu, nhƣng thơ phải

đo bằng cân tiểu li”[85, tr. 684]. Theo cách nói này của chính tác giả thì sự

nghiệp phê bình tiểu luận này của ông vẫn còn là khiêm tốn. Song điều làm

nên một Chế Lan Viên sắc sảo trong phê bình tiểu luận không chỉ là số trang

giấy đƣợc in, cũng không chỉ đơn giản điểm lại những tập phê bình tiểu luận

đƣợc xuất bản mà là những đóng góp của Chế Lan Viên với nghề, với đời

sống xã hội và lịch sử dân tộc. Có thể khẳng định rằng, những trang phê bình

tiểu luận của Chế Lan Viên đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp

30

văn học của ông và góp phần làm nên một nền văn học nƣớc nhà phong phú

và đa dạng.

1.1.4. Quan hệ giữa phê bình, lý luận và sáng tác trong sự nghiệp văn

học của Chế Lan Viên

Trong mối quan hệ với sáng tác, lý luận phê bình có vai trò vô cùng

quan trọng. Lý luận văn học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung của

hoạt động văn học, nghệ thuật, bao gồm bản chất, đặc trƣng, cấu tạo, quy luật

tồn tại và phát triển của văn học, nghệ thuật nói chung cũng nhƣ từng loại

hình nghệ thuật nói riêng. Phê bình văn học nghệ thuật là sự thẩm định, lý

giải, đánh giá các tác phẩm, tác giả, sự kiện, hiện tƣợng văn hoc, nghệ thuật

đƣơng đại (hoặc có ý nghĩa với đƣơng đại). Lý luận, phê bình là một bộ phận

hữu cơ, giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn học, nghệ thuật của một dân

tộc, một thời kỳ lịch sử.

Nhận thức sâu sắc vai trò của lý luận, phê bình đối với quá trình sáng

tạo, nhà thơ Chế Lan Viên đã không chỉ luôn tìm tòi đổi mới trong thơ mà còn

muốn dùng lý luận về thơ, phê bình thơ để làm phong phú hơn đời sống thi ca

nghệ thuật đƣơng thời. Giữa lúc tình hình phê bình của văn học cách mạng

còn nhiều bất cập. Lý luận văn học nghệ thuật chƣa theo kịp với thực tiễn

sáng tác, trong khi phê bình đang có những biểu hiện lúng túng, chƣa khẳng

định đƣợc vị trí, vai trò đồng hành định hƣớng cho sáng tác. Một số bài phê

bình còn ở dạng chung chung, dễ dãi, thiếu tìm tòi, suy nghĩ, khả năng khái

quát còn thấp, tầm nhìn xa chƣa rõ; một số cây bút lại rơi vào tình trạng sách

vở, hiểu biết phong trào sáng tác và thực tiễn lao động nghệ thuật của nhà văn

chƣa nhiều, tuy có nêu đƣợc vấn đề mà thiếu sức rung cảm trƣớc cái đẹp của

tác phẩm, quá nặng nề về suy lý khái niệm mà thiếu phân tích hình tƣợng...Lý

luận phê bình của Chế Lan Viên vì thế có đóng góp lớn lao đối với đời sống

văn học đƣơng thời.

31

Là một nhà thơ ƣa nghiên cứu, tìm tòi, Chế Lan Viên có những hiểu

biết sâu sắc về trào lƣu, trƣờng phái của văn học nghệ thuật thế giới, về lý

luận văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, về đƣờng lối văn nghệ của

Đảng...Lý luận văn học mang tính khoa học đƣợc Chế Lan Viên tiếp thu có

nguyên tắc và sáng tạo. Cùng với hệ thống lý luận về thơ đƣợc ông chắt lọc từ

thực tế sáng tác, lý luận, phê bình của Chế Lan Viên đã có những đóng góp

không nhỏ trong việc khai phá, mở đƣờng và định hƣớng cho sáng tác. Không

chỉ là sáng tác của riêng Chế Lan Viên mà còn là sáng tác của cả một thời đại

văn học. Lý luận, phê bình của Chế Lan Viên thực sự đã tồn tại với đúng ý

nghĩa và vai trò của nói, khơi gợi và kích thích sự sáng tạo của ngƣời nghệ sỹ.

Chúng tôi nhận thấy, Chế Lan Viên trong lý luận, phê bình của mình thực sự

đã trở thành một ngƣời nghệ sỹ tiên phong, vừa khai mở, tìm đƣờng vừa soi

bóng vào tác phẩm văn học nghệ thuật để khám phá, giải mã tác phẩm.

Trong bài viết Thơ và phê bình (đọc tại cuộc họp thơ quốc tế hàng năm

tại cộng hoà Macédoine trong liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Nam Tƣ),

Chế Lan Viên đã khẳng định: “Ngƣời ta làm những bài thơ đâu chỉ với chất

thơ; cần đủ mọi thứ để làm ra một thế giới. Với thơ cũng vậy. Do đó cần có

phê bình, cần có óc phê bình”[85, tr. 705]. Vẫn trong bài viết này, ở một đoạn

khác, Chế Lan Viên viết: “Phê bình có thể thấy xa, chỉ vì nó đã đƣợc hứng

cảm bởi hồn thơ. Không có thơ trong hồn, anh chỉ có thể thốt lên những lời

càu nhàu, chửi rửa, chứ đâu có phải phê bình?”[85, tr. 705]. Vấn đề đặt ra từ

bài viết này cho thấy sự trăn trở của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa thơ và

phê bình. Soi chiếu vào hành trình sáng tác của ông, chúng ta nhận thấy thực

sự có một mối quan hệ khăng khít giữa tƣ duy nghệ thuật thơ và tƣ duy lý

luận phê bình ở cả hai chiều, phê bình trong thơ và thơ trong phê bình.

Chế Lan Viên cho rằng, đời sống văn học nghệ thuật tồn tại hai thứ phê

bình, phê bình bên ngoài và phê bình bên trong. Phê bình bên ngoài là phê

32

bình trên báo chí, trong dƣ luận xã hội, sau khi bài thơ đã ra đời. Phê bình bên

trong là cách tác giả tiến hành với chính mình, từ trong trứng, từ trong bào

thai tác phẩm, và đôi khi loại phê bình này theo tác giả suốt một đời, loại phê

bình này lồng với lƣơng tâm thi sỹ. Trong bài Sống và viết, Chế Lan Viên

khẳng định: trong mỗi nhà văn, “cần sự có mặt của một ngƣời suy nghĩ, một

ngƣời phê bình...”[84, tr. 241]. Trong bài Hồn nhiên và công thức, một lần

nữa ông khẳng định mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa thơ và lý luận, phê

bình: “Một nhà thơ chỉ có cảm xúc mà không biết các ý, các khái niệm thì

khác gì một con vật không có xƣơng”[86, tr. 82]. Hình ảnh của một nhà phê

bình lƣu dấu ấn đậm nét trong những trang thơ của Chế Lan Viên. Bén duyên

với nghệ thuật thi ca từ rất sớm, hành trình thơ của Chế Lan Viên có nhiều

biến đổi cùng những đổi thay lớn lao của lịch sử dân tộc. Điêu tàn mở đƣờng

cho ngƣời trí thức trẻ bƣớc chân vào thế giới thi ca, song con đƣờng đó buồn

sầu và mờ mịt quá. Khi đƣợc ánh sáng cách mạng soi đƣờng, Chế Lan Viên

đã không ít lần nhìn lại mình qua thơ, đấu tranh, phê bình với chính con ngƣời

cũ của mình.

Tự phán xét trở thành tiếng nói sâu sắc không chỉ trong những trang

phê bình tiểu luận mà còn cả trong thơ:

“Những năm Cách mạng chƣa về, vƣờn ta có hoa mà không đậu quả

Rặng liễu tâm hồn chƣa xanh tơ mà đã úa vàng

Nhiều chim bằng chƣa bay đã hoá cu nhà, chim sâu ăn đất

Chƣa gặp trời đã gãy cánh giữa lồng nan

Bàn tay muốn gieo, đã nắm nhầm hạt giống

Lẽ ra cầm tờ truyền đơn thì khoe văn tự bán hồn

Cờ chiến đấu ƣớp trong mùi hƣơng phấn

Trong khói hƣơng chùa lẫn với dấu môi son”

(Nghĩ về thơ II)

33

Trong những câu thơ ông viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần tự

phê đƣợc thể hiện sâu sắc và thấm thía:

“Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy

Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng nhƣ không

Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng thấy

Thơ xuôi tay nhƣ nƣớc chảy xuôi dòng”

(Ngƣời thay đổi đời tôi, Ngƣời thay đổi thơ tôi)

Trong những biến động lớn lao của lịch sử, Chế Lan Viên thấy mình

chỉ là một cơn mƣa, một dòng nƣớc mắt, một viên gạch đổ, một ánh hoàng

hôn mà thôi.

“Chƣa có gì dính líu giữa thơ tôi và truyền đơn Bác viết

Tôi không biết khi Bác đau phải ăn một nắm lá rừng

Trong nƣớc mắt thơ tôi, tôi chƣa ngờ chất thép,

Chƣa thấy trong mắt mình sắp cuộn máu nhân dân”

(Ngƣời thay đổi đời tôi, Ngƣời thay đổi thơ tôi)

Cuộc đấu tranh để tự cải tạo mình không đơn giản, dĩ vãng không phải

chỉ ở đằng sau lƣng, có khi nó xâm nhập ngay trong hiện tại và xen lẫn cả

tƣơng lai:

“Vết thƣơng xa nhƣng chỗ sẹo đang còn

Hãy nhớ chỗ tâm hồn ta phí máu

Cái đã qua có khi còn giở lại đón đƣờng

Chớ bảo rằng dĩ vãng ở sau lƣng và bặt dấu”

(Nghĩ về thơ II)

Tố Hữu cho rằng, lúc bấy giờ, những thi sỹ nhƣ Chế Lan Viên, Xuân

Diệu, Huy Cận... “lòng đúng mà trí lạc”. Có ngƣời đi lạc gần, có kẻ đi lạc xa,

có kẻ đi lạc trong đời, có kẻ lại lạc đến hụt chân ra ngoài, tí nữa thì rơi vào hƣ

vô nữa. Chế Lan Viên đã đi hụt chân vào cõi siêu hình để hành trình trở về tự

34

ông cảm thấy “biết bao là nhiêu khê”. Vƣợt lên những “nhiêu khê” ấy, thơ

ông cống hiến những thành tựu lớn cho Cách mạng. Song chƣa bao giờ ngƣời

nghệ sỹ ấy tự bằng lòng với chính mình cũng nhƣ những câu thơ ông đã viết.

“Thơ cần có ích”, tâm niệm cả một đời thơ, đến Di cảo, ngƣời đọc vẫn thấy

Chế Lan Viên thổn thức:

“Tôi chƣa có câu thơ nào hôm nay

Giúp ngƣời ấy nuôi đàn con nhỏ”

(Ai?Tôi!)

Trăn trở về nghề, trăn trở về thơ, Chế Lan Viên có nhiều bài thơ dƣới

dạng tuyên ngôn nghệ thuật, thể hiện rõ quan niệm của ông về thơ, về nghề

thơ, về nhà thơ, chức năng và nhiệm vụ của thơ. Những bài thơ ấy đồng thời

thể hiện rất đậm chất phê bình và lý luận. Nghĩ về thơ (I), Nghĩ về thơ (II),

Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...là những bài thơ viết bằng tƣ duy của một

nhà phê bình, là những bài thơ của một ngòi bút phê bình. Bằng chiều sâu của

lối suy tƣ đa chiều ấy, Chế Lan Viên đã đem đến cho thơ những ý nghĩa triết

lý sâu sa:

“Đánh giá anh đâu phải mắt xếch của nhà phê bình hay mắt xanh

ngƣời đẹp

Đánh giá anh là giọt máu im lìm ngủ giữa Trƣờng Sơn

Im lìm thế mà lắng nghe mọi điều anh viết

Xem khi máu đã đổ rồi, thơ có cao hơn?”

(Thơ bình phƣơng, đời lập phƣơng)

Trƣớc cuộc đời muôn hình muôn trạng, thơ đã phản ánh đƣợc những gì trên

mỗi trang giấy trắng? Đằng sau những hào hùng oanh liệt là máu đổ và hi

sinh, mất mát; đằng sau những sao vàng chiến thắng là biết bao đau thƣơng

hằn in trên từng tấc đất ...thơ đã nói đƣợc những gì từ cuộc đời đa chiều, đa

diện ấy? “Thơ bình phƣơng’ mà “đời lập phƣơng”, ngƣời nghệ sỹ Chế Lan

35

Viên suốt một đời làm thơ vẫn đau đáu những nỗi ƣu tƣ bởi thơ đã chƣa thể

nói hết cuộc đời.

Vì thế, ông cũng nhận ra rằng bình giá thơ, không chỉ là công việc của

nhà phê bình hay công chúng yêu nghệ thuật, ở một tầm cao hơn, thơ cần phải

vƣợt qua sự đánh giá khắt khe của thời gian, lịch sử, của những máu xƣơng đã

đổ để đem lại tự do cho nghệ thuật thi ca. Vì thế, hơn ai hết, ông hiểu rằng,

thơ không đơn giản là “đi nhặt cái sẵn có” mà “phải đi tìm”. Nhà thơ trên

hành trình tìm thơ, khi là ngƣời thợ đào sông:

“Sông thơ cạn dòng

Anh làm gì? Làm thợ đào sông

Sông lại chảy”

(Sông thơ)

Hình ảnh ngƣời “thợ đào sông” trong thơ Chế Lan Viên khiến chúng tôi liên

tƣởng tới quan niệm nghệ thuật của Nam Cao, khi ông cho rằng ngƣời nghệ

sỹ cần “khơi những nguồn chƣa ai khơi” để sáng tạo những gì chƣa có. Bởi

nghệ thuật là lĩnh vực của sự sáng tạo không ngừng cho nên lặp lại mình và

lặp lại ngƣời khác là cái chết của nghệ thuật. Ngƣời gắn bó với nghệ thuật

suốt một đời nhƣ Chế Lan Viên càng thấm thía giá trị của sự sáng tạo đối với

sự sống của nghệ thuật, thi ca.

Hình ảnh nhà thơ trong những chảy trôi của thời gian khiến Chế Lan

Viên hình dung đến “Ngƣời nữ tử tù đan áo”: “Anh phải viết sao cho khi ra

đi thì chiếc áo đã thành”. “Chiếc áo” để lại cho đời đƣợc đan trong cơn thúc

bách của thời gian phải có ý nghĩa, có giá trị nào đó với đời. Những trăn trở

ấy trong thơ Chế Lan Viên không phải bây giờ mới xuất hiện song càng về

cuối đời, những dằn vặt, day dứt về giá trị của thơ càng trở đi trở lại sâu sắc

hơn trong thơ Chế Lan Viên. Tƣ duy phê bình không cho phép nhà thơ bằng

lòng thoả mãn với chính mình. Nó đòi hỏi nhà thơ không ngừng suy ngẫm,

36

tìm tòi, sáng tạo, để không phải tiếc nuối khi “Nhìn các trang thơ bay không

ngoái lại – Và gió thổi anh đi” (Mùa thu quân).

Là một nhà thơ viết phê bình, cho nên phê bình của Chế Lan Viên cũng

đậm chất thơ. Chất thơ trong phê bình của Chế Lan Viên chủ yếu thể hiện ở

cảm xúc mãnh liệt, tha thiết, sôi nổi chân thành. Đọc thơ Nguyễn Du, yêu thơ

Nguyễn Du, Chế Lan Viên có cảm giác: “Ghé vào tác phẩm còn hôi hổi hơi

Anh thở, tôi còn nghe đập trái tim tôi trong trái tim Anh”[84, tr. 267]. Ông

tìm thấy những đồng điệu sâu sắc từ trong cảm xúc của những thế hệ nhà thơ

cách nhau mấy trăm năm lịch sử: “Những gì anh yêu, mãi mãi chúng tôi còn

yêu. Chúng tôi vẫn ghét những gì anh ghét. Những tiếng nói đấu tranh, hoà

bình, hạnh phúc của chúng tôi bây giờ không cắt đứt với những ƣớc mơ, cả

những thở than sầu muộn của Anh xƣa, nhƣ cuộc sống ngƣời lành không cắt

đứt với ngƣời đau, lúc trƣởng thành không cắt đứt với tuổi trẻ”[84, tr. 267].

Đọc Trời mỗi ngày lại sáng, ông muốn “hôn lên tâm hồn ngƣời bạn đã viết

nên tập thơ”[84, tr. 300]. Đồng thời, ông cũng chân thành chỉ rõ những hạn

chế của thơ Huy Cận: “Huy Cận thiếu những cái vui thật là nổ vỡ, cũng nhƣ

những cái đau xoắn chặt lấy lòng ngƣời”[84, tr. 299]. Viết về thơ Xuân

Hoàng, Chế Lan Viên thầm cảm ơn tác giả vì: “không có anh thì tôi quên đi

cái cảnh :

“Chợ Bố Trạch sắn nhiều, gạo ít,

Nâu Ba Rền củ tốt hơn khoai”...

Quên cái cảnh:

“Bờ tre gần lại dần...

Màu xanh sao ấm quá!

Trong tre là nhân dân,

Trong tre là cơ sở...”[86, tr. 172].

37

Viết về thơ và số phận may rủi của thơ ở đời, Chế Lan Viên không khỏi cảm

thấy xót xa tiếc nuối: “Thơ là cái đẹp im lặng, đi lầm lũi trong im lặng. Nếu

không ai nhắc đến, chỉ ra, gọi lên, tán dƣơng, ủng hộ thì nó bị vùi lấp đi, đầu

là trong im lặng mà sau là trong lãng quên. Tựa, bạt, giới thiệu, bình thơ,

điểm danh là để bù lại, góp phần xoá cái rủi may số phận ấy”[86, tr. 194].

Luôn đề cao sự chân thành trong thơ, Chế Lan Viên cũng dành tất cả

sự chân thành ấy cho phê bình thơ. Đọc đƣợc ý thơ hay, hình ảnh đẹp, ông

say sƣa bình luận, khám phá tới tận cùng cái hay cái đẹp của thơ. Ông giới

thiệu, ông ngợi khen, trầm trồ thán phục, trân trọng tin yêu...tất cả những cảm

xúc ấy, ông thể hiện tự nhiên trên mỗi trang phê bình, và cũng rất thẳng thắn,

ông góp ý những thiếu sót, những hạn chế. Mỗi lần cầm bút viết phê bình,

Chế Lan Viên luôn tâm niệm: “Phải lấy ngọn lửa đang ngùn ngụt ngoài đời để

soi những sách vở rơi đến tay ta”[84, tr. 255]. Ngọn lửa ấy thắp lên từ cuộc

sống, bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nơi trái tim ngƣời cầm

bút. Ngọn lửa ấy đã cháy trong thơ, và luôn rực sáng trên mỗi trang phê bình

tiểu luận của Chế Lan Viên.

Bên cạnh cảm xúc, hình ảnh và nhạc điệu cũng là những yếu tố góp

phần không nhỏ tạo nên chất thơ độc đáo trong phê bình, tiểu luận của Chế

Lan Viên. Coi nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc và gian nan,

Chế Lan Viên đặt cho mình cũng nhƣ những ngƣời nghệ sỹ những yêu cầu

nghệ thuật có phần khắt khe nhƣng thiết yếu. Một trong những yêu cầu ấy là

khả năng phản ánh hiện thực của thơ, không phải chỉ đơn thuần phản ánh sự

việc thời đại mà là phản ánh tình cảm thời đại. Ông không nói những điều

mang tính lý luận này bằng lý thuyết rút ra từ sách vở. Ông nói bằng hình ảnh,

hình ảnh từ cuộc sống, từ kinh nghiệm. Thứ hình ảnh cô đọng, súc tích, dồn

nén, đƣợc nhấn nhá, luyến láy, khiến ngƣời đọc liên tƣởng tới những câu thơ

giàu màu sắc triết luận của ông: “Làm sao anh yêu khí trời bằng anh cán bộ

38

chết ngạt dƣới hầm bí mật? Anh yêu hoa sao bằng anh công nhân sau giờ lao

động ở hầm mỏ ra thấy nó nở trƣớc miệng hầm? Và anh thù ghét súng đạn sao

bằng ngƣời chiến sỹ cộng sản phải ra trƣờng bắn? Thế mà ta phải phản ánh

những tình cảm ấy đấy, bạn ơi!”[84, tr. 247]. Để đáp ứng đƣợc yêu cầu nghệ

thuật ấy, Chế Lan Viên đặt ra vấn đề sống, chỉ có sống bằng hơi thở của thời

đại, sống trong sự sống của thời đại, ngƣời nghệ sỹ ấy mới có thể viết để phản

ánh đƣợc tinh thần, tình cảm của thời đại. “Mà sáng nay anh phải thấy bể để

chiều nay ghép nó với chữ trời, mƣời năm trƣớc anh phải sống cuộc kháng

chiến để chiều nay ghép nó với chữ hoà bình; và luôn luôn phải ra khỏi nhà

mình, vào trong thực tại khách quan để lúc trở về, tâm hồn mới có đƣợc

những tƣơng quan đột ngột”[84, tr. 248].

Trong bài viết Thơ và phê bình đọc trƣớc cuộc Hội thảo thơ Quốc tế tại

Nam Tƣ (1979), Chế Lan Viên đã hình dung mối quan hệ giữa thơ và phê

bình giống nhƣ quan hệ giữa nàng thơ và đức ông chồng. Đó là một mối quan

hệ gắn bó vô cùng khăng khít, không thể tách lìa. Thơ và phê bình, tiểu luận

của Chế Lan Viên cũng có một mối quan hệ khăng khít nhƣ thế. Trong thơ có

phê bình và trong phê bình có thơ, cái tôi trữ tình luôn song hành cùng cái tôi

biện lý. Điều này làm nên sức hấp dẫn riêng cho thơ ca và phê bình, tiểu luận

của Chế Lan Viên.

1.2. Giá trị của phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên

1.2.1. Cổ vũ thúc đẩy phong trào sáng tác

“Đầu tiên muốn bƣớc chân vào đời văn chƣơng thì phải làm thế

nào?”[84, tr. 144]. Câu hỏi ấy cứ trở đi trở lại trong những bài tham luận,

những câu chuyện văn chƣơng, những tâm sự nghề nghiệp của Chế Lan Viên.

Ông hiểu sâu sắc những khó khăn gian nan của những nguời mới bƣớc chân

vào nghề viết. “Chàng Văn vẫn biết các bạn mới viết văn chƣa tìm thấy rõ khả

năng nào là khả năng chính của mình”[84, tr. 465]. Cho nên bằng tất cả kinh

39

nghiệm của bản thân, bằng tất cả tấm lòng của ngƣời nghệ sỹ, Chế Lan Viên

đã truyền nghề, dạy nghề, tâm sự về nghề một cách hết sức chân thành. Sau

hai cuốn Nói chuyện thơ văn và Vào nghề đƣợc in, Chế Lan Viên còn hứa hẹn

rằng “Còn phục vụ bạn đọc trong những quyển khác, thứ 3, thứ 4, thứ 5, thứ

6, cho đến suốt đời mình không mỏi, không thôi”[84, tr. 467]. Bởi vì, ông

hiểu rằng, nền văn học nghệ thuật của dân tộc chỉ có thể phát triển khi phong

trào sáng tác của quần chúng đƣợc nhân lên rộng khắp.

Sôi nổi cổ vũ các phong trào sáng tác, Chế Lan Viên đã dành nhiều tâm

huyết trong các tập Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nói chuyện thơ văn, Vào

nghề, Nàng tiên trên mặt đất…để truyền nghề, dạy nghề, đào tạo nghề. Các

bài viết “Có phải trong ca dao đang có vấn đề?” (Suy nghĩ và bình luận);

“Thơ của thợ”, “Thơ của nhân dân, thơ đầu tuyến lửa” (Suy nghĩ và bình

luận); “Thơ ở những ngày và những nơi chống Mỹ” (Bay theo đƣờng dân tộc

đang bay)…thể hiện sâu sắc sự tha thiết của Chế Lan Viên đối với phong trào

thơ đáng trân trọng của quần chúng nhân dân kháng chiến.

Nền văn học trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh đã có xu hƣớng

vận động hƣớng về đại chúng. Quần chúng Cách mạng không chỉ là đối tƣợng

sáng tác, là độc giả mà còn là một lực lƣợng sáng tác lớn. Quần chúng làm

thơ, quần chúng làm báo tƣờng, hội diễn văn nghệ quần chúng đã thúc đẩy

phong trào sáng tác quần chúng phát triển mạnh mẽ. Kinh nghiệm tổ chức

sáng tác của Chế Lan Viên đƣợc xuất bản chính là nhằm mục đích mở rộng

con đƣờng nghệ thuật để tổ chức sáng tác cho quần chúng nhân dân.

Kinh nghiệm tổ chức sáng tác của Chế Lan Viên là kinh nghiệm đi tìm

tài liệu, kinh nghiệm ghi chép tài liệu và kinh nghiệm thực hiện tác phẩm. Với

Chế Lan Viên thì chỉ thị, thông cáo, biên bản hội nghị, báo cáo, nhật ký đơn

vị, cá nhân, thƣ từ hàng binh, tù binh…các bản tự kiểm thảo lý lịch đều trở

thành những tài liệu hữu ích cho các nhà văn nhà thơ. Dự các buổi công khai,

40

các phiên toà, tham gia hội nghị, hỏi chuyện (cán bộ, những ngƣời xuất sắc

hay tiêu biểu nhất phong trào…) là những cách thức khác nhau để ngƣời nghệ

sỹ tích luỹ tài liệu. Nhƣng phƣơng thức hay nhất vẫn là bản thân ta đến nơi để

“sống”. Ngƣời xƣa nói: “Phải sống cái sống của Tử Trƣờng để viết đƣợc văn

nhƣ Tử Trƣờng”. Chế Lan Viên cho rằng, chúng ta nên học ngƣời xƣa cái

kinh nghiệm đó.

Muốn sáng tác cần phải có tài liệu, nhƣng muốn làm cho tài liệu khỏi bị

lãng quên, thất lạc, thì mỗi ngƣời làm nghệ thuật cần ghi chép. Quan sát và

ghi chép cần phải có trọng tâm, chi tiết. Để đến khi ngƣời viết hoài thai tác

phẩm thì bản thân ngƣời nghệ sỹ ấy lại một lần nữa có thể sống trong tài liệu,

để cho cảm tính, cảm xúc của chính mình có thể hà hơi thở sự sống vào

những cảnh, nghững ngƣời đã đƣợc chúng ta ghi lại.

Trong những bƣớc chân đầu tiên vào nghề, đặt bút viết với bao điều bỡ

ngỡ, những ngƣời mới vào nghề tâm sự cùng Chàng Văn: “Tôi cảm thấy bí đề

tài quá, mong Chàng Văn chỉ giúp tôi một số đề tài”[84, tr. 190]. Họ tìm đến

với những đề tài “kỳ quặc”: “Có thể viết một quyển toàn phụ nữ không?”[84,

tr. 190]. Họ muốn trở lại với những đề tài cũ mà không biết có còn giá trị

không? Chế Lan Viên đã cởi mở biết bao, chân tình biết bao khi ông nói với

họ về nghề. Bằng cách nói chuyện hết sức tinh tế, dí dỏm, giàu hình ảnh, Chế

Lan Viên đã chỉ cho họ hiểu rằng đề tài không phải là cái vay mƣợn càng

không thể kỳ quặc để gây chú ý. Điều cốt lõi chính là cách nhận thức đánh giá

của mỗi ngƣời trƣớc đề tài mà chúng ta đang thể hiện.

Đặt bút viết đã khó, sửa lại bản thảo lại càng khó. Khi viết, cảm hứng

rất nhanh, ngôn ngữ ý tình đều khoáng đạt, vậy mà chỉ một tuần sau, khi đọc

lại, ngƣời viết đã cảm thấy không ra gì. Cảm hứng của ngƣời trƣớc đó còn say

mê tha thiết với nghệ thuật giờ chợt tiêu tan. Nhƣng khi lời tâm sự ấy đến với

Chế Lan Viên, ngƣời đàn anh trong nghề lại động viên hết mực “thế thì tốt”,

41

“Chàng Văn rất thích đƣợc nhƣ thế lắm”[84, tr. 214]. Bởi vì, nhƣ thế tức là

ngƣời viết đã tiến bộ hơn, nhƣ thế tức là ngƣời viết đã có đủ bình tĩnh để nhận

xét đƣợc chính mình. Nhƣ thế có nghĩa là bạn hãy cứ tiếp tục viết. Và muốn

để cho lúc đọc lại thơ mình một tuần sau không thất vọng, thì một tuần trƣớc

phải làm rất chu đáo công phu, nhất là cảm xúc khi viết phải chân thành.

Dặn dò ngƣời viết về sự chân thành của cảm xúc, chúng tôi đồng thời

cảm nhận đƣợc sâu sắc về sự chân thành của Chế Lan Viên. Ông chân thành

muốn ngƣời viết, yêu nghề viết, đam mê viết có thể cầm bút và sáng tạo. Ông

chân thành muốn đem hết những hiểu biết, những kinh nghiệm của bản thân

để có thể giái đáp hàng nghìn, hàng vạn những thác mắc của bạn đọc.

1.2.2. Những nhận định khách quan và khoa học về thơ

Từ một nhà thơ lớn, Chế Lan Viên viết phê bình văn học, tự đặt thêm

trách nhiệm nơi đầu ngọn bút vốn đã không chịu bình lặng của ông. Là ngƣời

một ngƣời chiến sỹ trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, Chế Lan Viên xem phê

bình trƣớc hết phải là ngƣời bảo vệ cho đƣờng lối của Đảng. Là một nhà thơ

viết phê bình, ông cũng đặc biệt chú ý làm nổi bật cái hay, cái đẹp, cái tài tình

của văn chƣơng. Phê bình văn học của Chế Lan Viên đẹp hài hoà giữa tính

định hƣớng tƣ tƣởng và tính thẩm mỹ. Ông đề cao phƣơng hƣớng chiến lƣợc

nhƣng không quên những vẻ đẹp mang tính nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn

chƣơng.

Chế Lan Viên ƣu ái dành nhiều trang viết phê bình cho những tác giả

thơ ông kính trọng, cho những bạn thơ ông yêu quý. Qua 9 tập phê bình và

tiểu luận, chúng tôi thống kê đƣợc hơn 20 bài Chế Lan Viên trực tiếp viết về

những bài thơ, những tập thơ, phong cách thơ, thành tựu thơ của các nhà thơ

(Từ các nhà thơ lớn nhƣ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận…đến

các nhà thơ trẻ nhƣ Ngọc Minh, Xuân Hoàng).

42

Đọc thơ Tố Hữu, lá cờ đầu của nền thơ Cách mạng Việt Nam, Chế Lan

Viên nhận thấy: “Tả tình hay tả cảnh, kể chuyện mình hay kể chuyện ngƣời,

viết về các vấn đề lớn hay một sự việc nhỏ, đối với anh là để nói đƣợc cái lý

tƣởng cộng sản ấy mà thôi” [85, tr. 23]. Nhờ vậy, “những câu thơ anh liền

một bài, những bài thơ anh liền một tập, những quyển thơ anh liền một đời.

Giữa những bài thơ anh ít có chữ “nhƣng” cắt làm hai đoạn. Trong đời thơ

anh, anh không phải hối tiếc vì giai đoạn nọ hay giai đoạn kia”[85, tr. 23].

Những nhận xét nhƣ thế về thơ Tố Hữu còn là những day dứt khôn nguôi về

những chặng đƣờng thơ của mình. Nói Tố Hữu đã không phải hối tiếc về giai

đoạn nọ, giai đoạn kia trong đời thơ của “anh” cũng chính là nói sự hối tiếc

đau đớn mà thấm thía của chính mình về những chặng đƣờng thơ “Vàng sao”

nhƣng “thực sự xa cách với Sao Vàng”[85, tr. 613].

Hàn Mặc Tử trong cảm nhận của Chế Lan Viên “là một ngôi sao chổi

xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói loà rực rỡ”[85, tr. 401]; Yến Lan

trong cảm nhận của Chế Lan Viên “nhƣ cây xƣơng rồng có hai cực đối lập gai

rất gai mà hoa lại là hoa rất dịu dàng”[86, tr. 189]; Những câu thơ của Bích

Khê trong cảm nhận của Chế Lan Viên là “những câu thơ bừng sáng” “đang

nhập vào lƣới điện quốc gia”[86, tr. 621]; những câu thơ trƣớc và sau cách

mạng của Tế Hanh trong cảm nhận của Chế Lan Viên vẫn luôn “tế nhị, ngọt

ngào”; Trời mỗi ngày lại sáng của Huy Cận, trong cảm nhận của Chế Lan

Viên có “ nhiều sinh lực mới”, “cái chủ quan đã giàu thêm lên với cái khách

quan, cái nghệ thuật đã khoẻ ra nhờ chất chính trị, cái suy tƣởng nội tâm đã

phong phú nhờ lao động bồi dƣỡng thêm vào”[84, tr. 298]. Đối diện với mỗi

trang thơ, Chế Lan Viên đã đọc bằng cả tấm lòng mình, đem sự rung cảm của

tâm hồn mình để hoà với bao rung cảm của tâm hồn những bạn thơ mà ông

yêu quý.

43

Phê bình với Chế Lan Viên trƣớc hết là cách để ông đƣợc thoả mãn

niềm say mê nghệ thuật, và hơn nữa còn là cách ông sống hết mình, thẳng

thắn và trung thực trong nghề. Yêu và trân trọng những thành tựu thi ca, Chế

Lan Viên ý thức rõ vai trò lớn lao của ngƣời cầm bút phê bình: vai trò định

hƣớng nghệ thuật. Chúng tôi nhận thấy có một số lƣợng lớn các bài viết có

tính chất định hƣớng, soi đƣờng, đồng hành cùng tiến trình phát triển thơ

trong lý luận, phê bình của Chế Lan Viên. “Sông Hƣơng, sông Thƣơng trong

dòng văn học”, “Có phải ca dao đang có vấn đề?” “Mấy vấn đề về Tuyển tập

thơ (1945-1960), “Thơ trong các sách giáo khoa”…là những bài viết có ý

nghĩa nhƣ thế.

Trƣớc hết, chúng tôi nhận thấy, ông không ngại nói thật, không ngại

đấu tranh trong phê bình. Viết Sông Hƣơng, sông Thƣơng trong dòng văn

học, Chế Lan Viên đã viết bằng chính sự trải nghiệm của bản thân, của ngƣời

đã rất “hiểu cái khí hậu”, “cái không khí” của thời đó, của ngƣời đã đi qua

bao thăng trầm, của ngƣời đã từng nhất quyết dứt khoát với Thơ mới, …để

nhìn nhận, đánh giá về Thơ mới. Từ chiều sâu của nhận thức và độ lùi cần

thiết của lịch sử, Chế Lan Viên tha thiết khẳng định Thơ mới chính là máu

thịt của dân tộc, nằm trong văn mạch dân tộc, không thể vứt bỏ. “Có một thời

cho tất cả…có một thời vứt đá đi. Có một thời lại nhặt đá về. Phải nhặt chứ.

Dân tộc ta còn nghèo, đâu có gì nhiều mà bạ cái gì cũng vứt. Lỡ còn hòn đá

nào dùng đƣợc, lỡ còn vàng nữa thì sao. Lỡ đó là máu thịt ta thì có tội”[86, tr.

493]. Tha thiết đến thế với Thơ mới cho nên nhà thơ đã không ngại nói thẳng

cảm xúc của mình khi Thơ mới đến nay (1986) vẫn còn bị coi là “lãng mạn

tiêu cực”, khi vẫn còn đó những đánh giá thiếu đúng đắn về Thơ mới ngay cả

trong Sách giáo khoa. “Tệ nhất là trong Sách giáo khoa lớp 12 – cho đến nay

còn lƣu hành – nhận định về văn học lãng mạn thì cho rằng “nói chung không

có lợi cho đấu tranh mà còn có hại”[86, tr. 497]. Nhƣ vậy, rõ ràng cùng với sự

44

thay đổi của lịch sử, xã hội, Chế Lan Viên cũng đã có những đổi mới trong tƣ

tƣởng, trong nhận thức về giá trị của Thơ mới.Từ phủ định đến khẳng định

giá trị Thơ mới trong quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên là một hành

trình gian nan của nhận thức dƣới sự chi phối của nhiều yếu tố khách quan.

Song ông đã vƣợt lên tất cả để trả lại cho Thơ mới cũng nhƣ những nhà thơ

của phong trào Thơ mới những giá trị nghệ thuật chân chính.

Chế Lan Viên đã không ngại ngần thể hiện niềm vui sƣớng và tự hào

của ông trƣớc thành tựu của thơ Việt Nam từ 1945 – 1960 qua Tuyền tập thơ

Việt Nam: “Cái cần phải vui sƣớng cùng nhau ngay là thời đại của chúng ta đã

có thể đóng góp vào kho tàng văn học của cha ông để lại”[84, tr. 357]. Không

che giấu niềm vui sƣớng tự hào, ông cũng không che giấu sự lo âu trƣớc

những “vấn đề” của tuyển tập thơ. Theo Chế Lan Viên, “thơ của chúng ta

trong bƣớc trƣởng thành đặt cho chúng ta – những độc giả, những nhà phê

bình, những nhà thơ – lắm điều suy nghĩ”[84, tr. 371]. Là một nhà thơ, là một

nhà phê bình, Chế Lan Viên thấy, “thơ cần phải mê hơn”, “cần có thêm chất

tƣ tƣởng”, “cần có nhiều cá tính riêng”. Cũng vậy, với thơ chống Mỹ những

năm 60, Chế Lan Viên thấy “chất anh hùng chƣa cao, giọng điệu anh hùng ca

còn yếu”, “chƣa đặt đƣợc nhiều vấn đề” và đặc biệt “còn không ít tâm trạng”.

Với ca dao trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa, Chế Lan Viên không

khỏi băn khoăn. “hình nhƣ ca dao đang “có vấn đề”?[84, tr. 434]. Ông thẳng

thắn bộc bạch: “Có thể là ta sƣu tầm chƣa hết ca dao hay hiện nay? Có thể là

cái hay hiện nay, phải chờ nó lùi xa một tí trong thời gian rồi ta mới “kịp

thời” nhận thấy? Có thể là tôi đã làm một việc quá đơn giản: của ngày qua thì

quên đi những câu dở, của ngày nay chƣa tìm cho hết những câu hay, lấy cái

kết tinh của ngày qua so sánh với cái chƣa đọng lại của bây giờ để rồi bảo

rằng chất nƣớc bể ngày nay không mặn bằng chất muối của ngày hôm trƣớc?

45

Có thể có tất cả những giả thuyết đó. Nhƣng cũng có thể có giả thuyết là ca

dao đang có vấn đề”[84, tr. 435].

Chế Lan Viên không vòng vo, không sợ mất lòng, không sợ ai trách cứ,

chỉ sợ những viên sỏi nhỏ cũng có thể làm cản dòng chảy của thi ca. Cho nên,

bằng phê bình, Chế Lan Viên muốn chỉ cho ngƣời làm thơ thấy sạn, thấy đá

sỏi gồ ghề, để từ đó mà cùng tránh, cùng lật xoay, làm thế nào để khơi thật

trong, thật sâu rộng dòng chảy của nền văn học nƣớc nhà. Những ý kiến đánh

giá, những nhận xét, những góp ý, những tranh luận của Chế Lan Viên trên

mỗi dòng phê bình về thơ ca Việt Nam hiện đại trƣớc hết bắt nguồn từ tấm

lòng tha thiết của nhà thơ đối với một nền thơ. Từ kinh nghiệm của môt đời

thơ, Chế Lan Viên đã có những nhận xét đánh giá đúng đắn, khách quan,

những góp ý tranh luận thẳng thắn, chân thành. Có thể nói, phê bình thơ của

Chế Lan Viên chính là kết tinh của vị “muối” mặn mòi mà Chế Lan Viên đã

để lại cho thơ và để lại cho đời.

1.2.3. Nghệ thuật phê bình độc đáo

Phê bình văn học đặt trong mối quan hệ với sáng tác và tiếp nhận có vai

trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện của các công trình nghiên cứu, các tác

giả phê bình cho thấy sự vận động không ngừng của văn học nghệ thuật. Phê

bình là tiếng nói đòi hỏi đáp ứng yêu cầu nghệ thuật từ phía công chúng, đƣợc

soi sáng bằng hệ thống lý luận chặt chẽ. Những công trình, những bài viết

nghiên cứu, lý luận, phê bình không chỉ là sản phẩm của sự am hiểu nghệ

thuật sâu sắc, của vốn sống, vốn hiểu biết phong phú mà còn là sản phẩm của

những rung cảm mãnh liệt nơi ngòi bút của ngƣời viết.

Từ yêu cầu của thời đại, Chế Lan Viên đã viết phê bình và tiểu luận

bằng một nền tảng tƣ tƣởng chính trị vững vàng, bằng sự gắn bó máu thịt của

ông với nghệ thuật, bằng tất cả tấm lòng, tâm huyết, bằng tất cả sự dấn thân

đầy bản lĩnh để thúc đẩy bƣớc tiến của nghệ thuật nƣớc nhà. Với những công

46

trình phê bình, tiểu luận đã xuất bản, Chế Lan Viên đã thực sự định hình nên

một phong cách phê bình độc đáo, góp nên sự phong phú đã dạng trong dòng

chảy chung của nền phê bình văn học nƣớc nhà.

Là một nhà thơ viết phê bình, Chế Lan Viên có ƣu thế của một tâm

hồn nghệ sỹ vốn nhạy cảm với đời và nhạy cảm với thơ. Phê bình với Chế

Lan Viên không phải là minh hoạ cho một số nguyên lý rút ra từ sách vở có

sẵn mà là những tìm tòi, khám phá và trƣớc hết là những cảm nhận tinh tế,

những xúc động chân thành từ chính tâm hồn ngƣời viết phê bình. Lối phê

bình của Chế Lan Viên thiên về trực cảm. Ông không ngại bộc lộ trực tiếp

cảm xúc của mình khi đến với mỗi trang thơ. Hơn ai hết, Chế Lan Viên hiểu,

ngƣời nghệ sỹ có hai nhiệm vụ thống nhất với nhau, hoặc là kêu gọi ta đi đến

với mộng tƣởng, tƣơng lai, với những điều xa lạ ta hằng mơ ƣớc; hoặc là thức

tỉnh ta dậy trƣớc những cái ta có mà hằng quên đi, quen thuộc quá đến nỗi ta

không hiểu rằng cái ta đang có ấy cũng làm say sƣa mãnh liệt nhƣ những cái

ta hằng ao ƣớc. Cho nên khi đọc thơ Huy Cận, Chế Lan Viên đã thầm cảm ơn

ngƣời bạn thơ của mình đã cho ông yêu lại một cách mới mẻ những cảnh

quen thuộc gần nhƣ cũ kỹ này:

“Sông quen nhớ cả chuyến đò

Nhớ khi bến đá, xe bò kêu vang”

Thơ Huy Cận cứ thầm thì mãi trong lòng ta khi ông viết:

“Đƣợc tin con tập đi,

Cha mừng không ngủ đƣợc

Cha nằm đếm thầm thì

Từng bƣớc chân con bƣớc”.

Chế Lan Viên cho rằng, những điều Huy Cận viết là cái tình bình

thƣờng cho nên dễ lẫn với tầm thƣờng. Nhƣng điều đáng trân trọng chính là

những cái bình thƣờng đến tầm thƣờng ấy. Bởi “Làm cho ta nếm đƣợc vị ngọt

47

trong rƣợu, cái ấy đáng khen. Nhƣng làm cho ta nếm đƣợc vị ngọt trong nƣớc

ta uống hàng ngày, điều ấy càng đáng khen hơn nữa”[84, tr. 296]. Đọc thơ

Huy Cận, có lẽ Chế Lan Viên đã đƣợc gặp lại tâm hồn mình trong những nhịp

điệu của một cuộc sống đời thƣờng giản dị.

Đến với một câu thơ cũ của Huy Cận, Chế Lan Viên cũng tƣởng không

thể rứt ra:

“Sông mát tràn xuân nƣớc ngập bờ”

Và rõ ràng, ông đã cảm nhận câu thơ thần tình này của Huy Cận bằng cả một

tâm hồn sóng sánh cảm xúc: “Sông cũng mát, mát là mát, tràn là nƣớc mát

tuôn ra, mùa xuân rất mát đã đành, bờ đậm là màu cỏ đang làm mát. Câu thơ

mát toàn thân. Không phải ta chỉ lãnh hội một ý mát, mà ta còn cảm xúc một

cảm giác mát gần nhƣ da thịt” [84, tr. 298].

Thoát thai từ cuộc đời, điều gì khiến thơ ở lại với đời, có lẽ trƣớc hết

phải là những rung cảm tinh tế, chân thành nơi sâu thẳm tâm hồn ngƣời viết.

Chế Lan Viên đã cảm nhận đƣợc những rung cảm tinh tế, chân thành nơi hồn

thơ Huy Cận và ông cũng rất tự nhiên, để ngòi bút phê bình của mình hoà

cùng nhịp điệu rung cảm ấy, để đồng điệu, để trân trọng, để tin yêu.

Chế Lan Viên yêu thơ của nhân dân đầu tuyến lửa, những con ngƣời

làm thơ nhƣ đánh giặc, cấy cày, lấp hố bom, đi dân công tải đạn. Bởi một lẽ,

thơ của họ ngồn ngộn (chữ dùng của Chế Lan Viên) một chất sống, điều mà

Chế Lan Viên vẫn hằng mong mỏi về một thời điểm rực sáng của nó ở trong

thơ. Khi đọc tập Thơ chống Mỹ, cứu nƣớc, ông băn khoăn, “…Chƣa có bài

thơ nào tả trực tiếp một trận đánh. Phần nhiều là trƣớc và sau khi đánh, hành

quân, lá nguỵ trang. Mà phải đâu trận đánh không thể nào tả hay đƣợc. Những

bài thơ hay của Victor Hugo nhƣ Waterlo là tả trận đánh lúc đang diễn ra.

Đồng bào hoả tuyến ăn, ngủ, học, làm việc dƣới hầm trên một năm nay, chƣa

bài thơ nào ghi lại việc ấy.”[85, tr. 231]. Đọc thơ của nhân dân Vĩnh Linh –

48

Quảng Bình, những thiếu sót ấy đã đƣợc lấp đầy. Những bài thơ tả trận đánh

ở đây, đánh đồn, đánh máy bay B.52, đánh bằng pháo mặt đất, bắn tỉa…đều

đƣợc tả trực diện, lúc ta đang đánh, ta trong hành động. Với chất sống, chất

tình ngƣời quện vào cảnh và sự việc đã thành thơ rất tự nhiên. Chế Lan Viên

tỏ ra đầy hứng thú khi đọc những dòng thơ nhân dân tả những phút cuối cùng

của VO.10.A:

“Một thằng loạng choạng rồi rơi

Đâm đầu lộn cổ hết đời dò la

Hai thằng giặc lái ra ma

Nhƣ hai tảng đá trên đà đang rơi

Thân tàn rách nát tả tơi

Tõm ngay xuống suối làm mồi cá ăn”

Ông cảm phục ngƣời thi sĩ nhân dân, bởi: “làm sao mà với một bút

pháp dân giã, cổ truyền, anh lại có thể xử lý một đề tài hiện đại – một đề tài

của thế kỷ XX – tài tình nhƣ vậy?”[85, tr. 233]. Đọc thơ, nhận xét, đánh giá

về thơ, ông thƣờng nhấn mạnh đầu tiên cái ấn tƣợng rất trực cảm của riêng

mình. Giọng điệu sôi nổi, thái độ nhiệt thành, khiếu thƣởng thức nghệ thuật

tinh tế khiến những dòng bình luận văn chƣơng của Chế Lan Viên có sức hấp

dẫn rất riêng trong lòng bạn đọc.

Ở phƣơng diện này, chúng tôi nhận thấy phê bình của Chế Lan Viên có

nét tƣơng đồng với phê bình trực cảm của Hoài Thanh. Viết phê bình, Hoài

Thanh rất coi trọng cảm nhận ban đầu của bản thân khi tiếp xúc với một tác

phẩm nghệ thuật. Với quan niệm phê bình “lấy hồn ta để hiểu hồn ngƣời”,

đọc phê bình văn học của Hoài Thanh, ngƣời đọc có cảm giác đƣợc nghe

những lời thủ thỉ, tâm tình, ngọt ngào tha thiết. Nhƣ con tằm rút ruột nhả tơ,

ngƣời viết phê bình mỗi lần cầm bút là mỗi lần trải lòng mình trên từng trang

49

viết. Phê bình văn học của Chế Lan Viên và Hoài Thanh trƣớc hết là tấm lòng

của những con ngƣời vốn nặng lòng với nghệ thuật thi ca.

Điều làm cho phê bình, tiểu luận của Chế Lan Viên có vị trí quan trọng

trong dòng chảy chung của văn học nghệ thuật, không chỉ từ lối viết phê bình

trực cảm mà còn vì vẻ đẹp trí tuệ rất riêng của Chế Lan Viên thể hiện sâu sắc

trong từng trang viết.

Dù đối viện với đời hay đối diện với nghề, dù khi sáng tác hay khi phê

bình, ngƣời đọc đều thấy Chế Lan Viên đang suy ngẫm. Trƣớc hết, những suy

ngẫm, trăn trở, băn khoăn trong phê bình của Chế Lan Viên đều hƣớng về

một tâm điểm “Suy nghĩ trong những điều Đảng nghĩ”. Hồ Sỹ Vịnh trong bài

viết Nghĩ về “Suy nghĩ và bình luận” của Chế Lan Viên đã nhận thấy: “Với

tâm hồn nhạy cảm và khả năng suy nghĩ sâu của một nghệ sỹ chân chính, anh

nhìn mọi hiện tƣợng xã hội, mọi biến cố của thời đại […] trên chỗ đứng của

một chiến sỹ văn hoá”[1, tr. 476]. Những đánh giá, nhận xét, phê bình của

Chế Lan Viên không chỉ phù hợp với sự phát triển của lịch sử, với lý tƣởng xã

hội chủ nghĩa mà còn bám chắc, cắm sâu vào truyền thống văn hoá, văn hiến

của dân tộc và đặc biệt là suy nghĩ của Đảng. Giữa lúc tình hình phê bình văn

học đƣơng thời còn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu thực tế, nhiều cây bút viết

phê bình thiếu tìm tòi suy nghĩ, thiếu hiểu biết từ lý luận đến thực tiễn, những

hiện tƣợng cực đoan, những xu hƣớng khen chê trái ngƣợc cùng xuất hiện,

phê bình của Chế Lan Viên có ý nghĩa định hƣớng đúng đắn cho phê bình và

sáng tác đƣơng thời. Trình bày tham luận tại Đại hội các nhà văn năm 1963,

Chế Lan Viên đã chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng tính và cá tính một cách đầy

sâu sắc: “Trong đời làm văn nghệ của chúng ta, cũng có khi ra hiểu lầm thế

này thế nọ. Có ngƣời thấy kim địa bàn luôn chỉ về hƣớng Bắc thì nghĩ rằng,

nó làm hẹp địa dƣ, hạn chế cuộc hành trình. Nhƣng chính nhờ có địa bàn ấy là

tha hồ đi xa không sợ lạc. Khi đã có Đảng tính sắc bén, thì chính là lúc chúng

50

ta dám cả gan mở rộng đề tài. Tha hồ cho ta đi trong cái rộng rinh của bể khơi

hay cái sâu thẳm của tình ngƣời, miễn là ở đâu chúng ta cũng giữ đƣợc con

mắt và tấm lòng của Đảng”[85, tr. 14]. Đọc tuyển thơ của các nhà thơ trẻ, Chế

Lan Viên vừa yêu mến, trân trọng vừa lên tiếng thúc giục “đốt cháy hơn nữa

ngọn lửa lý tƣởng trong thơ bạn trẻ”. Bởi khi gập tập sách lại, lắng nghe, Chế

Lan Viên thấy hình nhƣ sức nặng chƣa nhiều, hình nhƣ lòng ta chƣa thực sự

đƣợc đào sâu, trí ta chƣa thực sự đƣợc nâng cao. Tập thơ nói đến lý tƣởng xã

hội chủ nghĩa, lý tƣởng tiêu diệt đế quốc mỹ, giải phóng miền Nam.. “nhƣng

lý tƣởng ấy chƣa thành một sức mạnh thôi thúc”[85, tr. 100]. Chế Lan Viên

chỉ rõ yêu cầu của thời đại trong thơ: “Chúng ta cần thấy chất thép nhọn sắc

hơn và tiếng xung phong hào hùng hơn trong thơ các bạn. Phải cất cao hơn

tiếng nói của lý tƣởng cách mạng trong thơ”[85, tr. 101].

Đọc những trang phê bình tiểu luận của Chế Lan Viên, ngƣời đọc ghi

nhận một tấm lòng gắn bó với Đảng, với Cách mạng, ghi nhận sự trung thành

và nhiệt huyết trong mọi bài viết về chế độ chính trị xã hội. Suy nghĩ và bình

luận của Chế Lan Viên đƣợc soi sáng bằng lý tƣởng của Đảng. Trong suốt

hành trình sáng tạo của mình, Chế Lan Viên luôn tâm niệm: “Hãy hấp thụ lấy

sự suy nghĩ của Đảng, của dân tộc, của thời đại, để mỗi ngày nâng cao lên

tầm suy nghĩ, sáng tạo của mỗi chúng ta”[85, tr. 18].

Song khi nhìn nhận lại, chúng tôi thấy, phê bình của Chế Lan Viên là

thứ phê bình đề cao tƣ tƣởng chính thống, quan phƣơng, ca ngợi tính Đảng

một chiều. Đặt bút viết phê bình, điều ông quan tâm trƣớc hết là tƣ tƣởng, nội

dung của tác phẩm. Tác phẩm có phản ánh đƣợc đời sống hiện thực không?

Có thể hiện đƣợc đƣờng lối chính trị không? Có nêu cao đƣợc lý tƣởng Cách

mạng không?...Đây không phải chỉ là hạn chế riêng trong phê bình của Chế

Lan Viên mà là hạn chế chung của nền phê bình văn học một thời.

51

Khi đánh giá về thành tựu trong phê bình và tiểu luận của Chế Lan

Viên , chúng tôi nhận thấy, thành công của mỗi trang phê bình của Chế Lan

Viên không chỉ ở tính Đảng của tƣ tƣởng mà còn là do phƣơng pháp làm việc

của nhà phê bình. Bằng tƣ duy trí tuệ sắc bén, phê bình của Chế Lan Viên có

khả năng khái quát lớn, sức liên tƣởng và so sánh phong phú. Viết về đêm

liên hoan văn nghệ chống Mỹ diễn ra ở Nhà hát nhân Hà Nội, Chế Lan Viên

liên tƣởng đến một đêm vui mừng nhƣ thế ở giữa Sài Gòn, khi chúng ta đã

quét xong bọn bán nƣớc và cƣớp nƣớc. Đọc hồi ký của Nguyễn Nho Tuý, 55

năm trên sân khấu Tuồng, ông liên tƣởng đến thơ và công việc làm thơ. Từ

câu nói của Tổng bí thƣ Lê Duẩn khi đến thăm một khu triển lãm các mặt

trống đồng Ngọc Lũ, các pho tƣợng mới đào ở bến đò Kia (“Các chú phải để

lại cho trăm năm sau một cái gì nhƣ thế của chủ nghĩa xã hội”), Chế Lan Viên

đã ngỡ nhƣ câu ấy, Tổng bí thƣ đang nói cùng giới văn học nghệ thuật nƣớc

nhà…Ở nhiều bài viết, bằng sự suy nghĩ khá lắng sâu, cách diễn đạt cô đúc,

chắt lọc, sức liên tƣởng phong phú, Chế Lan Viên đã đem đến cho ngƣời đọc

những nhận thức sâu sắc, đa chiều trƣớc những vấn đề lịch sử, đời sống, xã

hội và nghệ thuật.

Chất trí tuệ trong phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên còn đƣợc thể

hiện ở những phƣơng diện nghịch lý, đối lập của vấn đề đƣợc ông nắm bắt và

thể hiện đầy sắc sảo. Nói chuyện với anh chị em văn nghệ sỹ Sài Gòn dự lớp

nghiên cứu chính trị và văn nghệ khoá II tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 3-

8-1976, Chế Lan Viên tìm cách tháo gỡ những rào cản tƣ tƣởng mà bấy lâu

những văn nghệ sỹ Sài Gòn vƣơng phải khi hiểu sai về xã hội chủ nghĩa, hiểu

sai về những nhà văn nhà thơ xã hội chủ nghĩa. Ông lý giải là vì sách báo ở

đây (Sài Gòn) đã nói sai quá nhiều về chủ nghĩa xã hội. Ông lấy chính mình

làm ví dụ. “Đến tôi cũng đƣợc sách báo ở đây cho đi cải tạo. Tôi vào đây có

đƣợc đọc tờ Văn học, số đặc biệt về tôi. Trong ấy có bài của anh Nguyễn

52

Phan viết nhƣ sau: “Năm 1961, Chế Lan Viên làm thơ ca tụng lắm cũng nhàm

lại bị bạn bè xỏ xiên nên cao hứng sáng tác thơ tình cảm mang tựa là Tình ca

ban mai. Bài thơ đăng ít lâu thì Đảng hỏi thăm ông. Và cán bộ bảo: “Sao đồng

chí Chế Lan Viên còn uỷ mị than mây khóc gió gọi chim nhớ rừng làm vậy?

Nếu thích rừng, Đảng sẽ cho đồng chí lên rừng đi lao động vài tháng để cải

tạo tƣ tƣởng.” Nghe thấy hai chữ cải tạo là sợ hãi, kể từ đó Chế Lan Viên hết

dám làm thơ tình”[85, tr. 598]. Gạt đi những lệch lạc, những xuyên tạc, Chế

Lan Viên khẳng định: “Từ đó đến giờ, tôi vẫn làm thơ tình, báo Văn học ạ!

[…] Nhƣng thơ tình của tôi thấm gì với của anh Tế Hanh, của anh Huy

Cận…Những lúc yêu tôi phải vay thơ của các anh ấy. Ngƣời vay, ngƣời cho

vay chƣa ai phải đi cải tạo bao giờ”[85, tr. 599]. Đem cái đúng đặt cạnh cái

sai, đem cái logic hiển nhiên đặt cạnh cái phi logic, vấn đề tự nó trở nên thông

suốt trong tƣ tƣởng của ngƣời đọc. Câu văn bình luận của Chế Lan Viên trở

nên hết sức khách quan, đầy tính thuyết phục. Cái cách ông đặt vấn đề rồi lại

lật xuôi, lật ngƣợc vấn đề thoăn thoắt khiến ngƣời đọc đôi khi cần một sự

tỉnh táo đáng kể để theo dõi những phán đoán của ông. Sức lôi cuốn của phê

bình Chế Lan Viên ít nhiều nằm ở phƣơng diện trí tuệ này.

Sức hấp dẫn trong mỗi trang phê bình của Chế Lan Viên ít nhiều còn

bởi ông có một lối viết hết sức tài hoa. Nguyễn Xuân Nam cho rằng: “Văn

của Chế Lan Viên không thuần phác, bình đạm. Có ngƣời đã ví văn anh với

ngƣời đàn bà mang nhiều trang sức. Phải nói ngay rằng ngƣời đàn bà này sắc

sảo và am hiểu thấu đáo nghệ thuật làm đẹp, nổi bật giữa đám ngƣời quá chân

chất hoặc diêm dúa lòe loẹt”[1, tr. 506]. Câu văn phê bình của Chế Lan Viên

không vì triết lý, bình luận, đánh giá mà khô khan. Hình ảnh và cảm xúc là ƣu

thế để Chế Lan Viên viết lên những câu văn giàu chất gợi, tinh tế và tạo ấn

tƣợng sắc nét trong lòng ngƣời đọc. Lãng mạn và hiện thực trong vẻ đẹp giao

hoà, bƣớc vào trang lý luận của Chế Lan Viên hoá cánh đồng lúa chín lung

53

linh sắc vàng và những dòng sông ăm ắp những dòng chảy kỳ diệu. “Hiện

thực khi đã đầy thì đẻ ra lãng mạn, nhƣ cánh đồng lúa chín đẻ ra một sắc

vàng, và nhƣ con sông Nhị kia ăm sắp nƣớc đầy, liền đẻ ra trong tâm hồn ta

những hình ảnh về máu đời, mạch đời, dòng đời kỳ diệu”[84, tr. 296]. Tâm

hồn thơ Tế Hanh, trong cảm nhận tinh tế và cách diễn đạt hình tƣợng của Chế

Lan Viên hoá “cây trinh nữ”, “tƣởng chỉ một tiếng thét to có thể làm cho anh

khép mình”[84, tr. 342]. Tuyển tập thơ Việt Nam (1945 - 1960) là thành công

lớn của thơ ca Việt Nam hiện đại, song Chế Lan Viên vẫn nhìn thấy ở đó

“lắm vấn đề”. Yêu cầu thơ cần phải mê hơn, ông đã hình tƣợng hoá chất gây

mê của nghệ thuật ấy bằng những câu văn say đắm lòng ngƣời: “Khi ấy con

mắt không phải chỉ đẹp mà còn biết đong đƣa, đầu tóc không phải chỉ sóng

nhƣ mây mà còn xổ cả hồn thơm ra trong gió, cái cây bên đƣờng không phải

chỉ có hoa, có lá, mà xôn xao một cái bóng bên chân, lửa cháy lên từ củi rồi

mà còn dợn lên ánh sáng và hình ảnh trên tƣờng, tỏa một hơi ấm ra trong

không khí”[84, tr. 374].

Viết văn là một cách đối thoại với bạn đọc. Chế Lan Viên có ý thức làm

cho cuộc đối thoại sinh động, hoạt bát, thú vị bằng trí tuệ sắc sảo, bằng sự am

tƣờng về nghệ thuật và hệ thống lý luận chặt chẽ. Đến với văn thơ, ông luôn

chú ý những vấn đề về phƣơng hƣớng chiến lƣợc của văn nghệ nhƣng không

quên khám phá, làm sống dậy vẻ đẹp của văn chƣơng. Chất suy tƣởng phong

phú kết hợp với năng lực cảm thụ văn chƣơng nhạy cảm, tinh tế; vốn sống

dày dặn và vốn lý luận sâu sắc; lối tƣ duy nghệ thuật độc đáo, vừa trí tuệ, vừa

trữ tình…tất cả những yếu tố đó đã tạo nên sức hấp dẫn riêng trong mỗi trang

phê bình của Chế Lan Viên. Đánh dấu một phong cách phê bình độc đáo

trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

54

Tiểu kết chƣơng 1

Hơn 50 năm cầm bút, sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên đã gặt hái

đƣợc không ít thành công. Là một nhà thơ lớn, một cây bút văn xuôi và bút ký

độc đáo, một nhà phê bình sắc sảo, Chế Lan Viên đã thực sự cống hiến hết

mình. Cầm bút viết phê bình, nhà thơ lớn Chế Lan Viên đã viết bằng tất cả

tình yêu nghề, niềm say mê nghệ thuật, những tâm huyết của ông trong nghề

cũng nhƣ những sôi nổi, chân thành, mạnh mẽ nơi ngòi bút tinh tế và nhạy

cảm của ngƣời nghệ sỹ. Ông không ngại khó mà hết lòng xây dựng phong

trào. Ông không ngại “nhiêu khê” mà thẳng thắn, đóng góp, bình luận thơ văn

nghệ thuật. Ông sợ sự tầm thƣờng, mờ nhạt sẽ đánh đồng cá nhân với tập thể

mà nỗ lực không ngừng để tạo dựng một phong cách phê bình độc đáo mang

đậm dấu ấn sáng tạo của riêng ông. 9 tập phê bình và tiểu luận xứng đáng là

thành tựu đáng tự hào trong sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên nói riêng

mà còn là tài sản đáng quý của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Có

thể coi Chế Lan Viên là một nhà phê bình văn học lớn của văn học nghệ thuật

Việt Nam hiện đại.

55

Chƣơng 2

QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ NHÀ THƠ VÀ NGHỀ

LÀM THƠ

2.1. Thi sĩ – thi nhân của thế giới siêu hình

Trƣớc Cách mạng, Chế Lan Viên gây ấn tƣợng với ngƣời đọc bởi tập

Điêu Tàn, xuất bản năm 1937, khi nhà thơ 17 tuổi. Tập thơ lạ khi nó không

nằm trong dòng thi tứ chung của Thơ mới. Ngƣời thi sĩ “ru theo trăng và vơ

vẩn cùng mây”, những nguồn thơ “đẫm tình và mộng” đã đƣợc thay thế bằng

ngƣời thi nhân cực đoan, mạnh mẽ, dị thƣờng, và một thế giới huyền bí với

yêu ma, sọ ngƣời, xƣơng trắng...Hoài Thanh nhận xét: “Quyển Điêu tàn đã

đột ngột xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam nhƣ một niềm kinh dị”[44, tr. 239].

Không chỉ độc giả hôm qua mà chúng tôi tin rằng cả độc giả hôm nay và mai

sau vẫn “kinh dị” trƣớc một quan niệm về thi sỹ, con ngƣời của thế giới siêu

hình với những phẩm chất khác thƣờng mà Chế Lan Viên đã thể hiện trong

Điêu tàn.

Mở đầu bài Tựa cho tập Điêu tàn, Chế Lan Viên viết: “Thi sĩ không

phải là Ngƣời. Nó là Ngƣời Mơ, Ngƣời Say, Ngƣời Điên. Nó là Tiên, là Ma,

là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xáo trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm

tƣơng lai. Ngƣời ta không hiểu đƣợc nó vì nó nói những điều vô nghĩa, tuy

rằng những cái vô nghĩa hợp lý”[80, tr. 23]. Đã là thi nhân, chƣa ai nhận mình

là ngƣời bình thƣờng. Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) trong thơ luôn tự cho

mình là một “trích tiên”, bị đày xuống hạ giới vì tội “ngông”. Xuân Diệu, nhà

thơ mới nhất trong các nhà thơ mới tự nhận mình là “Con chim đến từ núi lạ -

Ngứa cổ hót chơi”. Thế Lữ, Huy Cận, những nhà thơ tiêu biểu của phong trào

Thơ mới, ngƣời thì coi mình là “Ngƣời bộ hành phiêu lãng”, ngƣời lại thấy

mình là “Một chiếc linh hồn nhỏ - Mang mang thiên cổ sầu”. Do ảnh hƣởng

của chủ nghĩa tƣợng trƣng, siêu thực, Chế Lan Viên và những nhà thơ của

56

Trƣờng thơ loạn đã đẩy sự khác thƣờng của thi nhân lên đến tột cùng. Với

Chế Lan Viên, thi sĩ không phải ngƣời bình thƣờng và công việc của thi sĩ là

làm những việc phi thƣờng. Thi sĩ, ngƣời Mơ, ngƣời Say, ngƣời Điên, là Tiên,

là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu...là ngƣời thơ của thế giới siêu hình và bất định

(“Ai bảo giùm: Ta có có ta không?”). Với Điêu tàn, Chế Lan Viên đã có định

hƣớng siêu nhiên về bản chất của thi sĩ. “Thi sĩ không phải là Ngƣời”. Thi sĩ

“thoát hiện tại”, “xối trộn dĩ vãng”, “ôm trùm tƣơng lai”, nói những điều “vô

nghĩa hợp lý”. Chế Lan Viên trong quan niệm của mình đã siêu hình hoá mọi

trạng thái, mọi phẩm chất, mọi cảm thức về không gian, thời gian, về ý nghĩa

cuộc sống của nhà thơ.

Tất cả những hình tƣợng về ma quái, yêu tinh, xƣơng máu, trăng

sao...trong Điêu tàn chính là kết quả tƣ duy nghệ thuật của một chủ thể siêu

nhiên. Đối lập nhà thơ với con ngƣời bình thƣờng, đẩy thơ ra khỏi cuộc sống

thực tại, các nhà thơ trong Trƣờng thơ loạn và tiêu biểu là Chế Lan Viên đã tự

xác lập một lãnh địa thơ riêng. Vùng thơ ấy bị ngƣời đời “chê là giả dối”,

“không chân thật”, “những cái vô nghĩa”. Song với Chế Lan Viên, đó là

“những cái vô nghĩa hợp lý”, những điều “giả dối với ngƣời”, còn với nhà

thơ, ngƣời thi sĩ “không phải là Ngƣời” kia thì “cái gì nó nói đều có cả”. Điêu

tàn của Chế Lan Viên là một thế giới hƣ cấu, tuởng tƣợng, siêu hình. Cái đẹp

thuần tuý, mang màu sắc duy mỹ trong quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ

đƣơng thời không còn xuất hiện ở đây. Đọc Điêu tàn, ngƣời đọc hình dung về

một ngƣời thi sỹ với khả năng siêu nhiên, khi anh ta đƣa thế giới thơ xuống

đến tận cõi âm mờ mịt, qua một bãi tha ma đầy sọ ngƣời, ma quỷ, yêu

tinh...sau đó trở về cõi ta rồi bay lên vũ trụ. Có một nƣớc non Chàm rên rỉ,

khóc than trong những đổ nát đến rợn ngƣời của Điêu tàn. Nhiều ngƣời cho

rằng, Chế Lan Viên sinh ra ở Bình Định, những chứng tích u trầm, những

tháp Chàm lẻ loi và bí mật trên nền đất cũ Chiêm Thành đã thành nỗi ám ảnh

57

trong tâm trí của chàng thi nhân trẻ tuổi. Điều này đúng, nhƣng chƣa đủ. Khi

nhìn lại những đổi thay trên chặng đƣờng thơ của chính mình, Chế Lan Viên

đã cắt nghĩa căn nguyên sâu sa của tƣ tƣởng siêu hình trong ngƣời thi sỹ thời

kì Điêu tàn, đó là những cơn mê “khó tỉnh” từ các nền tôn giáo mà ông đã trót

đắm say. “Thích Ca! Jésus! Khổng Khâu! Lão Tử! Tôi đều thành tâm cúi đầu

trƣớc uy linh huyền diệu của các Ngài!”[84, tr. 20]. Con ngƣời sầu khổ đau

thƣơng tìm đến những “uy linh huyền diệu” mong cầu một sự cứu rỗi. “Có ai

đem thánh giá đến lòng chăng? Khi lòng tôi sụp đổ thành một huyệt sâu,

chiều nay, ở đó không một ai đến chết”[84, tr. 20]. Khi lòng ngƣời đã không

còn niềm tin để bám víu, Thích Ca, Jésus, Khổng Khâu, Lão Tử, đều trở

thành cõi siêu độ linh thiêng. Song không phải lúc nào, con ngƣời thi sĩ cũng

có thể nƣơng nhờ nơi ấy. Trong những chơi vơi, thi sĩ rơi vào cõi u mê tăm tối

của ảm đạm và thê lƣơng. Nơi ấy hƣ vô, siêu hình, bất định bởi nó xa lạ với

thế giới con ngƣời.

Thế giới siêu hình ấy đƣợc sáng tác trong một trạng thái bất thƣờng.

Trong Tựa cho Điêu tàn, Chế Lan Viên cũng đã nói với ngƣời đọc về trạng

thái bất thƣờng ấy: “Hàn Mặc Từ nói: làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ

là sự phi thƣờng”. Điên ở đây là một trạng thái sáng tạo. Khi ngƣời nghệ sỹ

rơi vào cơn sáng tạo bất thƣờng, miên man, sẽ khƣớc từ mọi yếu tố của tƣ duy

lý trí. Cảm xúc đƣợc đẩy đến tột cùng. Ngƣời thi sỹ “gào vỡ sọ”, “thét đứt

hầu”, “khóc trào nƣớc mắt”, “cƣời tràn cả tuỷ là tuỷ”. Có thể khẳng định, tột

cùng của cảm xúc chính là nguyên tắc mỹ học của trƣờng thơ loạn mà Chế

Lan Viên đã cất cao giọng điệu để tuyên ngôn.

Giống nhƣ biết bao các nhà thơ của phong trào Thơ mới, Chế Lan

Viên cũng đã ý thức sâu sắc về bản ngã. Trên hành trình đi tìm chính mình,

trong đêm trƣớc của cuộc Cách mạng tháng Tám, đã không ít ngƣời rơi vào

trạng thái hoang mang, không ít ngƣời đi lạc trong những cõi mơ, cõi mộng.

58

Còn Chế Lan Viên thì lại đi mãi về phía siêu hình, huyền bí, hƣ vô. Bƣớc

chân lạc đƣờng nên càng mê mải. Bài Tựa quyển Điêu tàn đƣợc coi là tuyên

ngôn nghệ thuật của một Trƣờng phái thơ. Những ngƣời thơ của Trƣờng phái

thơ ấy tự đối lập bản thân với con ngƣời, có thể là bất kể chủ thể siêu hình nào

(Ma, Quỷ, Tiên, Tinh) nhƣng không phải là ngƣời. Đem quan niệm về nhà thơ

đƣợm màu siêu hình ấy, Chế Lan Viên bƣớc vào bầu ánh sáng của Cách

mạng. Sự hoà nhập với tƣ tƣởng nghệ thuật cách mạng thực sự không phải dễ

dàng, cần ở ngƣời nghệ sỹ một bản lĩnh cứng cỏi và trên hết là một trách

nhiệm lớn lao với nghề, với thơ.

2.2. Thi sĩ – Nhà thơ chiến sỹ

2.2.1. Nhà thơ với vấn đề “Sống và viết”

“Khi Cách mạng tháng Tám đến thành phố Quy Nhơn, mỉa mai thay tôi

đang tắm biển, triền miên trong cái biển thiên nhiên, với tôi, đó cũng là biển

siêu hình”[85, tr. 610]. Đây là những lời tâm sự của Chế Lan Viên trong bài

nói chuyện với anh chị em văn nghệ sỹ Sài Gòn dự lớp nghiên cứu chính trị

và văn nghệ khoá II tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1976. Nhìn lại những

ngày đầu tiên náo nức bƣớc theo ngọn cờ của Đảng, Chế Lan Viên không

tránh khỏi cảm giác mặc cảm. “Sao mình không đến với Đảng khi đảng viên

chỉ có nghĩa là bị tù, bị bắn và bây giờ Đảng là ngƣời chiến thắng thì mình

mới đến xin vào?”[85, tr. 471]. “Tôi đang trong cơn mê của tôi thì Cách mạng

về. Trong khi tôi đang say một Đức Chúa Trời tạo ra thế giới bằng Lời thì

Nhân dân đã tạo ra thế giới bằng Hành động. Trong khi tôi suy tƣ, nghĩ,

không làm thì dân tộc đã làm”[85, tr. 615]. Nhìn lại chặng đƣờng đi lạc,

những dòng thơ tự phán xét của Chế Lan Viên không tránh khỏi những băn

khoăn day dứt: “Đi xa về hoá chậm – Biết bao là nhiêu khê”. Những câu hỏi

trở đi trở lại (Ta là ai? Ta vì ai?) nhắc về ý thức trách nhiệm lớn lao với đời,

với nghề của một nhà thơ. Vì vậy, khi thấy ngọn cờ cứu nƣớc, Chế Lan Viên

59

đã “Đi lẹ, đi ngay cho kịp sự sống vĩ đại đang ào ào trƣớc mắt. Đi lẹ, đi ngay

để bù vào sự chậm trễ, trì trệ của mình”[85, tr. 611]. Nhờ có Đảng, nhờ có

nhân dân, Chế Lan Viên thực sự đã trở thành “một ngọn sóng, một vị mặn,

một hạt muối trong biển đời vô tận”[85, tr. 611].

Từ đây, Chế Lan Viên và văn nghiệp của ông thực sự gắn bó với sự

nghiệp cách mạng của Đảng. Ông trở thành nhà thơ chiến sỹ trên mặt trận văn

hóa nghệ thuật. Từ những định nghĩa siêu hình về ngƣời thi sĩ, từ những trạng

thái tột cùng của cảm xúc, từ những bất định hƣ vô của một thế giới nghệ

thuật xa lạ với tƣ duy lý tính thông thƣờng, giờ đây, Chế Lan Viên tuyên bố

rõ nét về một quan niệm hoàn toàn ngƣợc hẳn: “Cảm xúc, cảm tình là chất

liệu quý báu nhƣng không vì thế mà chúng ta quên mất sự việc là cái đẻ ra nó

(…). Vả chăng sau này muốn truyền cảm cho ngƣời đọc, cố nhiên không phải

chỉ nói cái cảm xúc của ta mà phải nói cả sự việc. Nghe cảm xúc chƣa hẳn

độc giả đã hình dung lại sự việc. Nhƣng nghe sự việc nhất định độc giả sẽ nhờ

đó mà cùng ta cảm xúc”[84, tr. 92]. Khi cái tôi đã hoà trong cái ta chung, khi

yếu tố cá nhân tìm thấy sự thống nhất trong tập thể, khi cái chủ quan hài hoà

với cái khách quan, Chế Lan Viên hiểu rõ, sự sống dạt dào chính là mạch

nguồn của thơ ca, ngƣời thi sĩ cần sống để viết và viết để sống. Đó là một yêu

cầu khắt khe của nghệ thuật.

Trong những trang phê bình, tiểu luận của mình, vấn đề “sống và viết”

đƣợc Chế Lan Viên trao đổi nhiều lần qua nhiều bài viết. Trong tập Kinh

nghiệm tổ chức sáng tác, vấn đề sống đƣợc ông coi là phƣơng pháp tìm tài

liệu hiệu quả nhất. Trong tập Nói chuyện văn thơ, vốn sống thực tế đƣợc

Chàng Văn coi là “cái bột cho ta gột nên hồ”. Trong những câu chuyện Vào

nghề, Sự sống và tác phẩm là vấn đề đầu tiên đƣợc ông bàn đến. Sống và viết

là bài tiểu luận mở đầu cho tập Phê bình văn học… Điều đó thể hiện tầm quan

60

trọng của vấn đề sống trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của mỗi ngƣời nghệ

sỹ, trong đó có Chế Lan Viên.

Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, Nam Cao viết nhật ký Ở

rừng (1948) với quan niệm “Sống đã rồi hãy viết”. “Sống” trong quan niệm

của Nam Cao đƣợc hiểu là “góp sức vào công việc không nghệ thuật” để

“chuẩn bị cho một thứ nghệ thuật cao hơn”. Cũng với quan niệm sống ấy, Chế

Lan Viên đặt ra vấn đề “Sống và viết”. “Sống” với Chế Lan Viên tức là tham

gia trực tiếp vào hoạt động phong trào, không phải chỉ ngồi trong phòng văn

mà phải bƣớc ra cuộc đời, lao động và chiến đấu. Chúng tôi cần phải khẳng

định rằng, đây không phải là quan niệm của riêng Chế Lan Viên mà là đòi

hỏi, là yêu cầu của thời đại đối với ngƣời nghệ sỹ đƣơng thời. Có một thế hệ

những ngƣời nghệ sỹ sẵng sàng từ bỏ “cuộc đời riêng nhỏ hẹp” để lên đƣờng,

dấn thân, hòa mình, để “sống” và để “viết”.

Hiện thực cuộc sống, chiến đấu hào hùng của dân tộc “nhƣ một bài học

chép chƣa thành mà chúng ta cũng nhƣ những cậu học trò đọc chƣa thạo”[84,

tr. 70]. Làm văn ngày nay không phải là cách ngƣời nghệ sỹ bóp méo hay thổi

phồng sự thực, nói bóng nói gió về cuộc đời. Làm văn ngày nay là hành trình

ngƣời nghệ sỹ từ sự thực mà đi để trở về với sự thực. Trong sự thực có cái dở,

có cái hay, có cái đƣơng vƣơn lên, có cái đang đi xuống, nếu chúng ta không

sống giữa sự thực để viết và thể hiện sự thực của cuộc đời thì tác phẩm của

chúng ta thể hiện cũng không xong mà cổ vũ cũng không thành. Bởi vậy, Chế

Lan Viên cho rằng, vấn đề đặt ra đối với mỗi ngƣời nghệ sỹ, không phải chỉ

ngƣời nghệ sỹ hôm nay mà là ngƣời nghệ sỹ của muôn thời, trƣớc nhất là vấn

đề sống. Sống để tích luỹ vốn. Sống định hƣớng tƣ tƣởng, cảm xúc. Và hơn

tất cả, mục đích cuối cùng chính là sống để viết, để biến mỗi trang viết của

mình thành vị “muối” của đời, để khi trở lại với đời có thể góp thêm vị mặn

cho cái biển đời mênh mông ấy.

61

Sống và viết là hai quá trình gắn bó khăng khít, chi phối lẫn nhau. Sống

là hoạt động cách mạng, là sống cuộc sống của ngƣời cách mạng, “Sống bắt

phải viết và viết bắt phải sống”[84, tr. 484]. Hiện thực cuộc sống căng đầy

những buồn vui, hạnh phúc, sầu thảm, bi thƣơng…ngƣời nghệ sỹ trên hành

trình kiếm tìm vốn để viết chắc chắn không ít lần đặt bút viết trong trạng thái

thúc bách của cảm xúc. “Bọn Ngô Đình Diệm dùng thuốc độc giết một ngàn

bà con ta ở miền Nam. Không thể im đƣợc! Không thể không viết đƣợc! Phải

trút sự phẫn nộ, căm thù của ta lên đầu quân địch! Liên Xô phóng tên lửa lên

mặt trăng! Không thể không viết đƣợc. Phải đem tất cả lòng vui sƣớng của ta

truyền cho chung quanh, phải viết ơn Liên Xô , biết ơn Đảng, biết ơn khoa

học, phải ca tụng sự thông minh tài trí của con ngƣời”[84, tr. 485]. Có khi

không phải một vấn đề thời sự nóng hổi nào thúc đẩy ta viết cả. Mà là do ta

đã tìm hiểu một vấn đề đến lúc đầy đủ, đến lúc chín muồi, cốc nƣớc đầy và nó

phải tràn ra. Thế là phải viết. “Cái quả chín muồi và nó tìm một trang giấy

trắng mà rơi”[84, tr. 485].

Theo Chế Lan Viên, chỉ có đặt bút viết mới biết mình thiếu cái gì. Và

khi ấy mới đặt ra vấn đề sống và tích luỹ. “Có sống và tích luỹ cho chín muồi

mới thấy thật cần viết. Và có thấy cần viết luôn luôn mới tích luỹ luôn

luôn”[84, tr. 486]. Đó là vòng tròn khép kín của quá trình sáng tạo nghệ thuật.

Trong quá trình sáng tạo ấy, sống và viết không phải là điểm khởi đầu và

điểm kết thúc mà là những đòi hỏi không ngừng của nghệ thuật.

Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Không có thiên tài nào – huống gì

là một tài năng, huống gì là một khả năng bình thƣờng – tách rời khỏi đồng

loại, khỏi chiến đấu mà thành thi sỹ”[84, tr. 240]. Nếu không có sự sống chắp

cánh, ngƣời nghệ sỹ cũng chỉ giống nhƣ “con diều giấy đập đôi cánh khô bất

lực ở trên tƣờng”[84, tr. 240]. Theo Chế Lan Viên, con diều ấy, muốn có sự

sống thật phải ở giữa bầu trời, ngƣời nghệ sỹ muốn tung đôi cánh phải sống

62

với những hoạt động cách mạng. Phải sống để hấp thu cái không khí của thời

đại, lƣu giữ bằng những ghi chép trên giấy tờ và những rung động của cảm

xúc, để rồi chất chứa trong tim, trong khối óc, trong tâm hồn biết bao nhiêu

hình ảnh, sự việc, nhân vật mà chúng ta đã nghe đƣợc, thấy đƣợc, biết đƣợc.

Tất cả đó chính là nguồn tài liệu vô giá của ngƣời nghệ sỹ. Nguồn tài liệu

phong phú ấy chỉ có thể có đƣợc khi ngƣời nghệ sỹ ấy đã sống rất phong phú

và mãnh liệt. Nói cách khác, sống chính là phƣơng pháp tìm tài liệu hiệu quả

nhất mà trƣớc hết và sau cùng ta phải dùng đến.

Nhiều ngƣời cho rằng, không cần đến sống tận nơi cũng sáng tác đƣợc.

Chỉ cần thu thập thật nhiều tài liệu, rồi xếp đặt lại, tƣởng tƣợng thêm là có thể

dựng nên tác phẩm. Họ dẫn chứng hùng hồn rằng những nhà viết chuyện lịch

sử, không sống ở thời xƣa thế mà dùng tài liệu và trí tƣởng tƣợng cũng tái tạo

đƣợc nhiều cảnh lịch sử. Song nếu ai đã yêu văn chƣơng, tâm huyết với thi ca

nghệ thuật, có thể thấy ngay rằng: Cái độc đáo, cái mê hồn của thi ca không

đơn giản là ở những gì nó thể hiện, nó phản ánh mà là ở cái nó gợi lên, nó

khơi lên, nó làm dậy lên trong lòng ngƣời đọc. Đó là cái khả năng lây lan cảm

xúc diệu kỳ của thi ca. Điều kỳ diệu ấy chỉ có thể có đƣợc khi tác phẩm thi ca

tạo đƣợc xung quanh nó một bầu không khí nghệ thuật riêng. Chỉ có sống

thực, và nhờ sự sống thực ấy mà kích thích sự sống của bản thân nhà thơ để

nhờ đó mà tạo nên tác phẩm. Bởi một lẽ: “ Một đám cháy ở Đô Lƣơng vì lửa

nấu bếp vô ý có khác gì một đám cháy vì lửa thiêu nhà của giặc ở Bình Trị

Thiên: cũng một ngọn lửa, cũng dăm bảy đống tro mun. Tuy vậy, cần đến tận

Bình Trị Thiên để thấy đƣợc một đống tro mun nhƣ thế. Vì ở đấy ngoài đống

tro mun, ta còn thấy cả căm thù. Thấy tro mun chỉ tả đƣợc tro mun, nhƣng

thấy căm thù, ta còn vẽ đƣợc nhiều nét mà trong đống tro mun ta không

thấy”[84, tr. 89].

63

Nếu nhƣ có ngƣời dƣơng dƣơng tự đắc rằng, không cần đến tận nơi

cũng có thể sáng tác đƣợc thì lại có ngƣời tâm sự với Chế Lan Viên về nông

nỗi: “Tôi là anh bộ đội, nhƣng mỗi lần viết về anh bộ đội lại rất bí”[84, tr.

146]. Có nghĩa là, dù đã sống rất thực, đã trải nghiệm sâu sắc, nhƣng con

ngƣời nghệ sỹ ấy vẫn không thể cầm bút. Bởi lẽ, dù anh đã sống thực sự

nhƣng sự sống ấy vẫn là chƣa đủ để tạo vốn cho thi ca. Vì sáng tạo nghệ thuật

có quy luật riêng của nó, cuộc sống không thể cứ nguyên xi nhƣ thế bƣớc vào

trang sách. “Mà thƣờng phải làm nhƣ Lỗ Tấn, ghép một cái miệng ở Triết

Giang với một cái mặt ở Bắc Kinh vào một bộ y phục ở Sơn Tây vậy. Hay

nhƣ Maxime Gorki dạy: “Phải thấy hàng chục, hàng trăm công chức, rồi mới

tạo ra một công chức kết tinh của trăm ngƣời kia”[84, tr. 147-148]. Chỉ có

những vốn sống nhƣ thế mới gỡ đƣợc thế bí của ngƣời viết văn.

Phản ánh hiện thực là thuộc tính của văn nghệ. Trƣớc hiện thực kháng

chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội lớn lao, phản ánh hiện thực đã đƣợc xem

là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá văn nghệ. Quan niệm một thời ấy đòi hỏi

ngƣời nghệ sỹ phải có vốn sống, phần nào hạ thấp vai trò của tài năng và cá

tính sáng tạo cũng nhƣ yếu tố xuất thần trong nghệ thuật. Chế Lan Viên một

phần rất đề cao vốn sống, mặt khác ông không cực đoan nhất nhất cho rằng,

ngƣời nghệ sỹ phải dấn thân, phải hòa nhập, phải thể nghiệm mới có thể sáng

tác.

Đồng thời với việc đặt ra vấn đề sống với ngƣời nghệ sỹ, Chế Lan Viên

thẳng thắn phê bình những nhận thức sai lầm trong vấn đề sống và viết. Để

viết, không nhất định ngƣời nghệ sỹ phải sống và thể nghiệm bản thân. Bởi có

nhiều ngƣời vốn là kĩ sƣ, bác sỹ, là giáo viên, công nhân, bộ đội…họ đã sống

một cuộc đời rất thực, yêu văn chƣơng và muốn tự mình viết nên những tác

phẩm nghệ thuật của chính mình, về chính mình mà thất bại. Là một ngƣời

nghệ sỹ dày dạn kinh nghiệm, Chế Lan Viên đã thật chân thành và cởi mở

64

truyền nghề, dạy nghề. Chỉ cho những ngƣời mới bƣớc vào nghề hiểu sống

nhƣ thế nào để có thể cầm bút viết.

Nếu ai đó hỏi Chế Lan Viên: “Sống là gì?”, ngƣời nghệ sỹ ấy sẽ không

ngần ngại mà nói rằng: “Sống không phải là không chết”[84, tr. 240]. Sống

không đơn giản chỉ là sự tồn tại. Vấn đề ở đây là cách sống của ngƣời nghệ

sỹ, sống sao cho có thể sáng tác, và không dừng lại ở đó mà còn sống sao cho

có thể sáng tác những tác phẩm không chỉ là nghệ thuật mà còn là cuộc sống.

Chế Lan Viên chỉ rõ: “Sống không phải chỉ đơn giản là có mặt trong quần

chúng, hay nhƣ ta thƣờng nói là “đi vào quần chúng”. Rót dầu “vào” nƣớc thì

nó không “vào” mà nó lại “ra”. Đứng gần một cánh đồng lúa, nhƣng nếu gió

thổi trái mùi hƣơng, thì ta có ngửi thấy gì đâu. Phải cùng một “chiều” chiến

đấu, nghĩ suy với quần chúng, thì ta mới thấy đƣợc quần chúng”[84, tr. 241].

Điều Chế Lan Viên yêu cầu ở đây chính là tƣ tƣởng, tình cảm của ngƣời nghệ

sỹ trong quá trình trải nghiệm thực tiễn. Muốn tả ngƣời nông dân, không phải

chỉ xắn quần lội xuống bùn, cắm vài ba nhánh mạ là xong. Đó mới chỉ là cái

sống ở bên ngoài. Khi ngƣời nghệ sỹ cùng ngƣời nông dân cấy cày giữa cái

nắng tháng sáu chói chang, những nhọc nhằn cùng trải nghiệm, những gian

lao cùng vƣợt qua, yêu thƣơng trân trọng cứ dâng trào trong lòng ngƣời nghệ

sỹ. Khi ấy, trong lòng ngƣời nghệ sỹ đã có ngƣời nông dân, cảm xúc mãnh

liệt thôi thúc nhà thơ phải viết, câu chữ cứ thế ùa về thật tự nhiên. Sự sống

của ngƣời nghệ sỹ khi ấy mới thật sự đúng nghĩa.

Sống không có nghĩa là phải đi thật nhiều, đi rộng, đi xa. Nhƣng không

phải ai yêu nghệ thuật cũng có thể có điều kiện để đi khắp đó đây. Muốn thay

đổi những quan niệm có phần cực đoan về vấn đề trải nghiệm sự sống của

không ít cá nhân, Chế Lan Viên nhận định: “Dù ở nơi nào vẫn phải đi vào

cuộc sống, tìm hiểu chung quanh. Nếu đi sâu vào một nơi, hiểu rõ một nơi, thì

lại còn lợi gấp mấy cái kiểu “đi rất nhiều, nhƣng sống chẳng bao nhiêu”, chữ

65

Pháp gọi là “Đá lăn không bám tí rêu”, mà ta gọi là “chuồn chuồn đạp nƣớc”

vậy (…) Đời dù sống một chỗ, mà sống cho thật “cừ” thì làm sao mà mòn

đƣợc”[84, tr. 154].

“Vấn đề Đất đặt ra trƣớc vấn đề Hoa hồng. Vấn đề Sống đặt ra trƣớc

vấn đề Nghệ thuật, tác phẩm”[84, tr. 239]. Sống để viết và viết để sống, đó

không chỉ là tâm niệm sâu sắc trong đời thơ của ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên

mà còn là yêu cầu cần thiết đối với mỗi ngƣời nghệ sỹ. Trong thời đại Cách

mạng, ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên đã thực sự sống hết mình với hiện thực,

thực sự đã hòa nhập, thực sự đã dấn thân lao động và chiến đấu. Đồng thời,

ông không rơi vào cực đoan khi đặt ra vấn đề sống. Với ông, lao động tƣ duy

không đơn giản chỉ là thể nghiệm bản thân. Vấn đề sống đối với ngƣời nghệ

sỹ là quan trọng, nhƣng bên cạnh đó, làm nghệ thuật còn cần có tài năng, cảm

xúc mãnh liệt… Nghệ thuật không đơn thuần chỉ là phản ánh hiện thực, nó là

sự nhận thức, nghiền ngẫm về hiện thực. Điều đó lý giải hiện tƣợng Điêu tàn

của chính Chế Lan Viên khi ông mới 17 tuổi, vốn sống rõ ràng không nhiều

nhƣng đã có thể làm “sửng sốt” cả một nền thơ.

2.2.2. Nhà thơ là người nghệ sỹ giàu cá tính sáng tạo

Vấn đề cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật là một trong những

vấn đề lý luận quan trọng của văn học kim cổ, Đông, Tây. Là một nhà thơ, lại

là ngƣời có tƣ duy lý luận sắc sảo, Chế Lan Viên có ý thức rất rõ về vấn đề

này. “Nhà thơ vừa đi vào thực tế của dân tộc, của thời đại, lại vừa phải “sáng

tạo”, làm nên cuộc đời của riêng mình”[84, tr. 248]. Đó là điều Chế Lan Viên

luôn đòi hỏi trong hành trình sáng tạo nghệ thuật.

Trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, văn học vận động và phát

triển theo hƣớng Cách mạng, gắn bó sâu sắc với vận mệnh của dân tộc. Ở

giữa dòng chung ấy, Chế Lan Viên hiểu rằng: “Cách mạng là cái vốn chung

của tất cả chúng ta, nhƣng nó cũng đáng yêu là nó làm giàu thêm cho chúng ta

66

nhiều phong cách riêng để đi đến tiếp thu, yêu mến cái kho tàng chung

ấy”[84, tr. 380]. Khơi lên cá tính sáng tạo giữa một nền văn học của sự thống

nhất cao độ giữa cái tôi và cái ta, giữa ý thức cá nhân và ý thức cộng đồng,

giữa cái riêng và cái chung…là một vấn đề khiến Chế Lan Viên băn khoăn

trong mỗi trang tiểu luận, phê bình. Cá tính sáng tạo là vấn đề mang dấu ấn

dân tộc, thời đại và xã hội, đồng thời đó cũng là những nét riêng biệt độc đáo

của tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh đời sống. Bàn đến những

điều này, có khi Chế Lan Viên đặt ra thành một vấn đề lớn đối với cả nền văn

học (Trong bài Mấy vấn đề về thơ qua Tuyển tập thơ Việt Nam 1945 – 1960,

trích từ tập Phê bình văn học); có khi là những câu trả lời thoả mãn những

thắc mắc của bạn đọc trong tập Nói chuyện văn chƣơng; có khi là những điều

suy nghĩ sâu sắc mà thấm thía buộc ngƣời nghệ sĩ phải cầm bút viết nhƣ trong

bài Suy nghĩ trong những điều Đảng nghĩ, trích từ tập Suy nghĩ và bình luận,

bài Tự do và ràng buộc trong tập Từ gác Khuê Văn đến Quán Trung

Tân…Bằng tƣ duy lý luận sắc sảo, bằng kinh nghiệm nghệ thuật dạn dày, Chế

Lan Viên đã đem đến cho ngƣời đọc những nhận thức quý giá về tầm quan

trọng của cá tính sáng tạo đối với ngƣời nghệ sĩ.

Cá tính sáng tạo là phẩm chất riêng của mỗi ngƣời nghệ sĩ, đánh dấu sự

trƣởng thành của một đời thơ và của một nền thơ. Ngƣời nghệ sĩ chân chính là

ngƣời tạo dựng đƣợc dấu ấn riêng ấy. Vì thế, Chế Lan Viên đòi hỏi : “Nền thơ

chung cần có rất nhiều cá tính riêng”[84, tr. 380]; “Cần có nhiều phong cách

trong thơ”[84, tr. 579]. Nếu nhƣ cuộc sống luôn đòi hỏi sự xuất hiện những

nhân tố mới mẻ thì nghệ thuật chân chính, nghệ thuật phục vụ đời sống, vì thế

càng đòi hỏi sự sáng tạo không ngừng của ngƣời nghệ sĩ. Tài năng của ngƣời

nghệ sĩ là đƣa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua

những phƣơng thức, phƣơng tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của

ngƣời sáng tạo. Khi đọc Tuyển tập thơ Việt Nam 1945 – 1960, Chế Lan Viên

67

đặc biệt hào hứng khi phát hiện ra những cá tính sáng tạo độc đáo của từng

nhà thơ trong nền thơ chung của dân tộc. “Chàng Văn thích Tế Hanh, Tố Hữu

ở chỗ các anh trầm lặng. Chàng Văn yêu cái khỏe của Xuân Diệu, của Hoàng

Trung Thông, Chàng Văn thích cái suy nghĩ của Huy Cận, Nguyễn Đình Thi,

Phạm Hổ”[84, tr. 581]. Ông tâm sự: “Sau một sự suy nghĩ của Huy Cận,

Nguyễn Đình Thi, ta muốn có một cái nhìn nhẹ nhõm tƣơi mát của Bàng Sỹ

Nguyên; bên cạnh cái ngọt ngào nhƣ suối của Tố Hữu, Tế Hanh, tôi vẫn thèm

sự trục trặc gân guốc của Trần Mai Ninh; và nếu có cái nhìn giản dị đáng mến

của Trần Hữu Thung, Anh Thơ thì cũng phải có cái nhìn phức tạp của Nguyên

Hồng”[84, tr. 380]. Cùng trƣởng thành từ một nền thơ chung, nhƣng mỗi

ngƣời thi sĩ đã cảm nhận và viết về hiện thực đời sống ấy với một con mắt

riêng, với một lối tƣ duy nghệ thuật riêng, với một giọng điệu riêng không

trộn lẫn. “Nhờ có mỗi nhà thơ nhƣ thế, ta lại có thêm một cách riêng để nhìn

sự vật”[84, tr. 380]. Nền văn học Cách mạng của Việt Nam, nhờ có những

nhà thơ nhƣ thế đã đem lại cho ngƣời đọc những mỹ cảm dồi dào. Nó không

chỉ đánh dấu sự trƣởng thành của một nhà thơ mà nó còn đánh dấu sự trƣởng

thành của một nền văn học.

Dấu ấn dân tộc và thời đại trong cá tính sáng tạo là vấn đề không phải

ngƣời nghệ sĩ nào khi hoà mình vào dòng chảy thi ca cũng có thể có đƣợc

nhận thức rõ ràng. Trên hành trình hồ hởi cất bƣớc theo Cách mạng, Chế Lan

Viên đã nhiều lần phải đối diện với chính mình, đối diện với con ngƣời nghệ

sỹ cũ trong mình (ngƣời nghệ sỹ ngỡ đã chết rồi), để tìm câu trả lời cho nỗi

băn khoăn: “Rồi đây có còn có thơ hay, có còn tự do trong nghệ thuật nữa hay

không?”[85, tr. 629]. Đây không chỉ là những băn khoăn của riêng Chế Lan

Viên. Thế hệ các nhà thơ, nhà văn trẻ trƣớc Cách mạng, trên hành trình hoà

nhập ít nhiều đã trù trừ do dự bởi vì lẽ ấy. Hay nói khác đi, thì chính là họ sợ

rằng, khi đem cái tôi hoà vào với cái ta chung, cái tôi sẽ mất đi, cá tính sáng

68

tạo sẽ không còn nữa. Khi các nhà thơ đều thuộc về một thời đại, cùng chung

mục đích, cùng đi theo một đƣờng lối, cùng một thế giới quan thì phong cách

tác giả hay cá tính sáng tạo sẽ chỉ còn là những giá trị lạc lõng?

Trƣớc những nhận thức ấy, Chế Lan Viên đã thẳng thắn, mạnh mẽ và

cƣơng quyết phân tích, diễn giải những hƣớng đi của nghệ thuật trong thời đại

Cách mạng. Trong bài tiểu luận Tự do và ràng buộc, Chế Lan Viên đã nói hộ

tâm tƣ của nhiều ngƣời, bởi những băn khoăn ấy cũng đã từng khiến ông trăn

trở: “Lúc đầu tôi nghĩ: “Mất hết tự do của mình cũng đƣợc. Miễn có hạnh

phúc cho nhân dân, độc lập cho Tổ quốc là đƣợc lắm rồi”. Nhƣng sự thực đâu

có “mất”. Sự thực là không phải chỉ có ngƣời công dân “đƣợc”, mà ngƣòi làm

thơ cũng “đƣợc”. Đƣợc mùa. Đƣợc ở giữa mùa”[85, tr. 629]. Ông nhắc nhở

ngƣời làm nghệ thuật: “Có cá tính mà không có Đảng tính thì văn nghệ sỹ dễ

rơi vào vũng bùn của những sai lầm. Nhƣng Đảng cũng hiểu rằng nếu chỉ có

Đảng tính mà không có cá tính thì không có sáng tạo trong nghệ thuật”[85, tr.

14]. Ông lên án gay gắt việc đánh mất cá tính của ngƣời nghệ sỹ trong quá

trình sáng tạo: “Thử hỏi, dù thực tế trong thơ ta có đem lại vĩ đại phong phú

đến bao nhiêu đi nữa, tình cảm có đắm đuối say mê bao nhiêu đi nữa, nhƣng

tất cả TUYỂN TẬP THƠ này chỉ là của một ngƣời, hay là của một trăm ngƣời

nhƣng lại nhất cử, nhất động đều giống nhau, thế thì còn gì buồn tẻ hơn và

làm ta “chán đời” hơn nữa?”[84, tr. 380]. “Chàng Văn không bao giờ đòi

cùng một mùa xuân thì cái lá phải đỏ nhƣ hoa, cái hoa phải xanh nhƣ lá, và

cũng một bầu trời thì mặt trời phải mát nhƣ mặt trăng và mặt trăng phải ấm

nhƣ mặt trời”[84, tr. 581]. “Không thể có cá tính chiến đấu của Tố Hữu nếu

không có Đảng. Không có cá tính ngọt ngào của anh nếu không có xứ Huế

hay miền Trung. Ngày nay, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Lƣu Trọng Lƣ,

Huyền Kiêu, Xuân Sanh có những tính cách mạng mà ngày xƣa các anh

không có”[84, tr. 383]. Thời đại mới sản sinh ra những con ngƣời mới. Những

69

ngƣời nghệ sỹ mới đã hấp thu tinh thần chung của thời đại và phản ánh thời

đại bằng những nét cá tính độc đáo của riêng mình. Càng nhiều cá tính sáng

tạo độc đáo càng chứng mình sự trƣởng thành của một nền thơ. Vì thế nhà thơ

phải là ngƣời có cá tính sáng tạo. Đó là yếu tố quyết định sự thành, bại của

một đời thơ.

“Mỗi công dân đều có một dạng vân tay

Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ

Không trộn lẫn”

(Vân chữ, Lê Đạt)

Nhà thơ phải là ngƣời nghệ sỹ giàu cá tính. Đó không phải chỉ là một

quan niệm nghệ thuật đúng đắn về ngƣời nghệ sỹ mà còn là ý thức trách

nhiệm lớn lao của Chế Lan Viên đối với nghề thơ. Những trang viết của Chế

Lan Viên về ngƣời nghệ sỹ và cá tính sáng tạo đã góp phần hoàn chỉnh hệ

thống lý luận về thơ trong hệ thống lý luận chung của nền văn học nƣớc nhà.

Nhìn lại nền văn học Cách mạng của dân tộc, chúng ta đã có những

thành tựu hết sức lớn lao. Các nhà văn, nhà thơ trong đó có Chế Lan Viên,

trong thời kỳ ấy đã tìm thấy sự thống nhất giữa cái tôi và cái ta, giữa cá nhân

và cộng đồng, giữa cá tính sáng tạo và những định hƣớng chung của cả một

nền nghệ thuật…để viết, để sáng tạo và cống hiến bằng tất cả ý thức tự giác,

tự nguyện chân thành. Họ thấy nên và cần làm nhƣ thế.

Nhƣng xét ở một khía cạnh khác, những quan niệm mà Chế Lan Viên

đã rất cao giọng để giới thuyết, để bình luận, để lý giải nhƣ đã trình bày ở trên

ít nhiều mang tính minh họa, tuyên truyền. Đành rằng, văn học phụng sự

kháng chiến là nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng, phù hợp với thời đại và lịch sử.

Song cũng không thể phủ nhận rằng, vì thế mà nền văn học đã hạn chế rất

nhiều những cá tính sáng tạo. Chế Lan Viên đi tìm “tự do” trong “ràng buộc”.

Ông cho rằng “khi đã có hƣớng rồi” thì ngƣời nghệ sỹ tha hồ sáng tạo mà

70

không sợ lạc đƣờng, lạc lối. Quan niệm ấy xuất phát từ yêu cầu lịch sử của

một thời và chúng ta khi nhìn lại đã thấy có những sai lầm và hạn chế. Đƣờng

lối chính sách của Đảng đối với văn nghệ có ý nghĩa soi đƣờng, dẫn lối giúp

nhà văn nhìn thấy những vấn đề thực tế sâu xa của đất nƣớc, gợi ý cho nhà

văn những suy nghĩ, chiêm nghiệm quý báu. Trong thơ của mình, chúng tôi

nhận thấy, Chế Lan Viên nhận thức sâu sắc về điều đó: “Thơ không chỉ đƣa

ru mà còn thức tỉnh/ Không chỉ ơ hời mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan”

(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…). Để rồi sau này, khi nhìn lại, chính bản

thân ông đã không ít trăn trở: “Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng

trầm/ Tiếng hát lẫn với im lìm của đất/ Vƣờn lặng yên mà thơm mùi mít mật/

Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân” (Giọng trầm). Một mặt, chúng ta

không phủ nhận thành tựu thơ ca của một thời Cách mạng hào hùng, nhƣng

mặt khác, chúng ta cần nhận thức rõ ràng, với một nhiệm vụ cao cả (phục vụ

đắc lực cho cuộc kháng chiến), những ngƣời nghệ sỹ một thời trong đó có

Chế Lan Viên đã ít nhiều phải mài mòn đi cá tính sáng tạo vốn mãnh liệt

trong con ngƣời nghệ sỹ của mình để phù hợp với thời đại và yêu cầu lịch sử.

2.2.3. Nhà thơ – người nghệ sỹ có tư tưởng lớn, tình cảm lớn

Những năm 1945 – 1975, trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, văn

học đã sống hết mình với thời đại. Cùng với mô hình nhà văn – chiến sỹ, tiêu

chí nghệ thuật đƣợc đánh giá chủ yếu dựa trên giá trị nội dung tƣ tƣởng. Nhà

văn lớn là nhà văn truyền tải đƣợc trên mỗi trang viết của mình những tƣ

tƣởng lớn. Tƣ tƣởng lớn đƣợc hiểu là tƣ tƣởng vô sản, là tƣ tƣởng Cách mạng,

là lý tƣởng cộng sản, là cách ngƣời nghệ sỹ phân biệt rành mạch ranh giới của

những đúng sai, tốt xấu… Tình cảm lớn là tình yêu cuộc sống, là tình cảm

thời đại, là tấm lòng biết ơn Đảng, biết ơn nhân dân, biết ơn Tổ quốc.

Trong phê bình và tiểu luận, Chế Lan Viên đã dùng ngòi bút nhƣ một

thứ vũ khí đắc lực để lên tiếng yêu cầu mỗi ngƣời nghệ sỹ trƣớc khi cầm bút

71

cần trau dồi tƣ tƣởng và tình cảm, những tƣ tƣởng Cách mạng và tình cảm

Cách mạng. Bởi đây là yêu cầu đòi hỏi lớn lao của thời đại nên Chế Lan Viên

phần lớn sử dụng lối nói quyền uy, áp đặt một chiều. Ông sử dụng lặp lại

nhiều những từ ngữ mang tính yêu cầu tuyệt đối: “cần”, “phải”…Những ngợi

ca hay phê phán trong đánh giá nghệ thuật của ông có khi trở nên cực đoan

bởi phần nhiều dựa vào giá trị tƣ tƣởng.

Chế Lan Viên đã phiến diện khi ông yêu cầu “Thơ cần có thêm chất tƣ

tƣởng”(trong bài Mấy vấn đề về thơ qua TUYỂN TẬP , trích từ tập Phê bình

văn học). Ông cho rằng, thời đại Cách mạng lớn lao cần có những nhà thơ có

tƣ tƣởng lớn lao, có những suy nghĩ lớn lao. Đó là suy nghĩ của đồng bào Tây

Nguyên khi đã thấm nhuần tƣ tƣởng cộng sản:

“Thiếu muối, dân làng đốt tranh ăn thay đƣợc

Thiếu cơm, đào củ sắn, củ môn

Nhƣng thiếu cộng sản không có gì thay đƣợc”

Trong suy nghĩ chân chất của ngƣời dân Tây Nguyên, cộng sản chính là

sự sống không gì thay thế đƣợc. Tƣ tƣởng ấy thực sự khiến Chế Lan Viên xúc

động.

Chế Lan Viên yêu bài thơ “Dƣới bóng câu Kơnia” bởi tƣ tƣởng gắn bó

với cội nguồn Việt Bắc, gắn bó khăng khít với Đảng, Bác Hồ của đồng bào

Tây Nguyên anh dũng kiên cƣờng:

“Em hỏi cây Kơnia:

- Gió mày thổi về đâu?

- Về phƣơng mặt trời mọc

Mẹ hỏi cây Kơnia:

- Rễ mày uống nƣớc đâu?

- Uống nƣớc nguồn miền Bắc…”

72

Ông yêu mến cái tình “anh, em” ở thơ Vũ Cao, bởi vì đằng sau câu

chuyện “anh, em” ấy là những suy nghĩ về lý tƣởng của nhà thơ:

“Anh đi bộ đội – sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đƣờng

Em sẽ là hoa trên đỉnh núi

Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”.

Trong hoàn cảnh lịch sử đất nƣớc có chiến tranh, văn học nghệ thuật

đƣợc coi là một thứ mặt trận thì ngƣời nghệ sỹ - chiến sỹ càng cần thấm

nhuần tƣ tƣởng Cách mạng. Thiếu tƣ tƣởng Cách mạng, nhà thơ có lẽ khó có

thể khơi nguồn cảm hứng. Tiếng thơ nhƣ thế trong thời đại hào hùng này có lẽ

sẽ chỉ là những giá trị lạc lõng. Quan niệm nghệ thuật này, một phần đã khơi

gợi thấm nhuần những tƣ tƣởng Cách mạng trong tâm trí của mỗi nhà văn nhà

thơ, song mặt khác đã rơi vào chủ nghĩa cực đoan khi quá đề cao tƣ tƣởng

Cách mạng mà xem nhẹ những yếu tố nghệ thuật khác trong một tác phẩm

văn chƣơng.

Trong lời Tựa cho tập thơ Sức mới (1965), chúng tôi thấy Chế Lan

Viên cất cao lời kêu gọi phần nhiều mang tính tuyên truyền: “Phải cất cao hơn

tiếng nói của lý tƣởng Cách mạng trong thơ”[85, tr. 101]. Theo ông nhà thơ

trong những năm tháng quyết liệt, sôi sục của dân tộc phải có đƣợc sự thôi

thúc, ám ảnh của lý tƣởng cách mạng đến thành một tâm trạng. “Và chính với

đôi mắt tâm trạng đầy lý tƣởng ấy mà nhà thơ sẽ nhìn hiện thực của cuộc đời,

làm cho độc giả khi đọc thơ ta, họ không hiểu họ đang thấy một cảnh thực tế

hay là nghe một tâm trạng nữa”[85, tr. 101]. Và khi ấy, thơ mới có thể trở

thành một sức mạnh thôi thúc. Ông tâm sự: “Tôi bỗng nhớ đến những bài thơ

của Tố Hữu, khi anh mƣời bảy, mƣời tám tuổi. Có lẽ lúc ấy anh chƣa tả gì

nhiều về các cảnh sống, anh chƣa tìm ra lắm chi tiết về cuộc đời, nhƣng lý

tƣởng cộng sản của anh, nhiệt huyết, hoài bão cách mạng của anh đã làm anh

73

đi qua nền văn học cách mạng nhƣ một sự thức tỉnh. Ngƣời ta không thể ngồi

yên trƣớc ngọn lửa và cơn gió ấy”[85, tr. 100].

Tƣ tƣởng lớn mà mỗi nhà thơ cần bồi đắp, trong quan niệm của Chế

Lan Viên còn là ý thức dân tộc. Đây là điều đáng trân trọng trong quan niệm

của Chế Lan Viên. Ông cho rằng, bản sắc dân tộc, cốt cách dân tộc phải là

nền tảng của thi ca. Những xúc động sâu xa về dân tộc chính là cội rễ của lâu

bền của mọi cảm hứng nghệ thuật. Nói đến cuộc sống xã hội ngày nay, Tố

Hữu đã không quên những giọt lệ đã chảy quanh cô Kiều thuở trƣớc. Nguyễn

Đình Thi nghe tiếng rì rầm của đất tự thời xƣa. Xuân Diệu, Huy Cận, Tế

Hanh luôn luôn gắn bó mơ ƣớc của mình về xã hội tƣơng lai với những xúc

động về kháng chiến ngày nay, về cha ông trong quá khứ. Từ tiếng thơ của

các nhà thơ lớn, Chế Lan Viên muốn hƣớng tới những nhà thơ trẻ, muốn khơi

gợi mạch nguồn dân tộc trong tƣ duy thơ của họ. Bởi chỉ có gắn bó với dân

tộc, chỉ có tha thiết với dân tộc, các nhà thơ mới có đƣợc điểm tựa vững chãi

về mặt tƣ tƣởng để đƣa thơ đến muôn nẻo đƣờng nghệ thuật mà không sợ lỡ

bƣớc, sa chân.

Hoàn cảnh lịch sử, bầu không khí tâm lý xã hội đặc biệt mấy chục năm

kháng chiến đã định hình nên những quan niệm tƣ tƣởng lớn lao trong ngƣời

nghệ sỹ, không chỉ riêng Chế Lan Viên. Nhà thơ đồng thời là nhà chính trị tƣ

tƣởng xuất phát từ đòi hỏi của thời đại: “Nay ở trong thơ nên có thép” (Hồ

Chí Minh); từ quan niệm “thơ là vũ khí đấu tranh”. Bằng phê bình, tiểu luận,

Chế Lan Viên chỉ góp thêm tiếng nói, làm sắc nét hơn vấn đề này. Có điều,

quan niệm của Chế Lan Viên rõ ràng mang tính quan phƣơng, thiên về ca

ngợi một chiều. Văn nghệ phục vụ chính trị, chính trị hóa văn nghệ một thời

rơi vào tình trạng tập trung vào chủ đề chính trị theo nghĩa hẹp, thiên về khai

thác các vấn đề trực tiếp liên quan đến nhiệm vụ trƣớc mắt, đến các công cuộc

vận động, đến chủ trƣơng chính sách của Đảng. Điều đó là đúng và cần song

74

chƣa đủ. Trong quan niệm của Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy ông thiên

về khẳng định một chiều, nhà văn trong thời đại Cách mạng phải có tƣ tƣởng

Cách mạng, phải là nói đƣợc những điều Đảng nghĩ…tức là phải chứa đựng

những tƣ tƣởng lớn lao. Quan niệm ấy thấy thiếu sự suy ngẫm của tƣ tƣởng cá

nhân nhà văn. Xét từ mối quan hệ với những vấn đề chính trị thì chuyện cái

đẹp, chuyện tình yêu, niềm vui, nỗi khổ của cá nhân con ngƣời dƣờng nhƣ chỉ

là lãng mạn, yếu đuối. Song trong mối quan hệ với cuộc đời thì đó lại là

những gì hết sức máu thịt. Rõ ràng không thể hình dung cuộc đời nếu thiếu sự

nghiềm ngẫm mang tính chất cá nhân ấy trong ngƣời nghệ sỹ. Chính trị là cái

cốt yếu quan trọng của xã hội, nhƣng cuộc đời rộng hơn chính trị. Ở những

hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt, trong chiến tranh, cách mạng, khi tất cả cùng

hƣớng về một mục đích quan trọng là giải phóng dân tộc, Chế Lan Viên cũng

nhƣ biết bao ngƣời nghệ sỹ đƣơng thời đem ngòi bút của mình phục vụ cách

mạng với những tƣ tƣởng mang tính lý tƣởng. Nhƣng từ quan niệm của Chế

Lan Viên trong một thời, chúng tôi cho rằng, sẽ không đúng khi cho rằng

nhiệm vụ của văn nghệ chủ yếu chỉ là tuyên truyền cổ động, thuyết minh tƣ

tƣởng, và hễ cứ tuyên truyền, cổ động hay là thành nghệ thuật.

Bên cạnh quan niệm nhà thơ phải là ngƣời nghệ sỹ có tƣ tƣởng lớn,

Chế Lan Viên cũng cho rằng nhà thơ còn là ngƣời nghệ sỹ có tình cảm lớn.

Trƣớc hết là tình yêu cuộc sống trong những ngƣời nghệ sỹ. Nhiều

ngƣời hỏi Chế Lan Viên: trƣớc khi làm thơ thì phải làm gì? Chàng Văn trong

Nói chuyện thơ văn và Vào nghề đều thống nhất một câu trả lời: “Ngƣời ta gọi

thi sỹ là đa cảm, vậy thì trƣớc lúc làm thơ có lẽ phải cảm chăng?”[84, tr. 563].

“Cảm” ở đây là tình cảm, xúc cảm trƣớc cuộc sống. Nghe tiếng gió mùa, Chế

Lan Viên nhớ đến những câu thơ của Huy Cận:

“Đêm nay gió giữa hai mùa

Thổi sao vi vút mây lùa một bên

75

Mùa quê hƣơng tƣởng đã quen

Nửa đêm gió thổi nằm yên đƣợc nào…”

và đặt ra yêu cầu, ngƣời nghệ sỹ ở giữa cuộc đời phải có những xúc cảm nhƣ

thế. “Cảm tiếng gió, cảm bốn mùa, cảm đất nƣớc, quê hƣơng! Chứ nếu nghe

gió mà chỉ thấy gió thôi, thậm chí nghe gió vẫn không cảm thấy gió nữa thì

còn thơ thẩn cái quái gì?”[84, tr. 564]. Nói chuyện thơ với những ngƣời thợ,

Chế Lan Viên muốn khơi lên ở họ một tình yêu nghề ở bề sâu, muốn tìm thấy

ở họ cái xúc động nghẹn ngào khi các nhà máy mới đang đƣợc hình thành, cái

đau xót vì bao công trình đã bị bọn Mỹ huỷ diệt. Ông băn khoăn khi thấy “sự

chƣa sâu trong xúc cảm” của những ngƣời thợ khi nói về nghề nghiệp của

chính mình trong thơ. Ông tâm tình, thủ thỉ: “Một đời mình cũng không phải

đã đủ để yêu thƣơng, để hiểu biết, quan sát nghề nghiệp của mình, sự sống lao

động của mình và đồng đội”[85, tr. 227].

Trái tim nhà thơ nhạy cảm với mọi buồn vui, sƣớng khổ của con ngƣời,

say đắm trƣớc vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên. Chỉ khi nào cảm

hứng dạt dào thì khi đó thơ mới tuôn chảy dƣới ngòi bút thi nhân. Tứ gọi tứ,

tình gọi tình và câu nọ gọi câu kia để kết thành một bài thơ hoàn chỉnh. Nếu

trái tim nhà thơ lạnh lùng, vô cảm thì không bao giờ có đƣợc thơ hay. Những

chữ viết ra trên trang giấy chỉ là một mớ ngôn từ trống rỗng và nhạt nhẽo. Tập

thơ Sức mới (1965), sản phẩm của thế hệ các nhà thơ trẻ trƣởng thành trong

cuộc kháng chiến chống Mỹ oanh liệt của dân tộc, đã đem đến cho Chế Lan

Viên biết bao cảm xúc. “Tập thơ này đáng yêu vì đồng thời với việc làm cho

ta thấy cuộc sống, nó còn làm cho ta yêu cuộc sống”[85, tr. 98]. Khả năng

truyền cảm ấy của thơ chỉ có thể có đƣợc khi trong lòng nhà thơ vốn đã sẵn

một tấm lòng tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống. Ông cho rằng: “Nhờ tình yêu

quê hƣơng đất nƣớc sâu sắc, Bếp lửa của Bằng Việt không quanh quẩn chỉ là

một bài thơ bà cháu riêng tây. Cảnh cán bộ ở nhà dân rồi lại ra đi là một cảnh

76

cơm bữa hằng ngày, nhƣng tình yêu nhân dân, lòng mong mỏi thống nhất,

…”[85, tr. 98]. Những tình cảm lớn lao ấy trong lòng nhà thơ đã biến những

đề tài bé nhỏ, giản dị đời thƣờng trở nên lớn lao cao đẹp.

Nhiệt tình cách mạng trong Chế Lan Viên còn biểu hiện ở quan niệm:

thơ không đơn giản chỉ phản ánh sự việc thời đại mà còn phải phản ánh tình

cảm thời đại. Tức là nhà thơ cũng phải nuôi dƣỡng để làm nảy nở trong tâm

hồn mình những tình cảm thời đại lớn lao. Trong thời đại ấy, tình cảm Chế

Lan Viên muốn nói tới là tình yêu Đảng, yêu Tổ quốc, yêu những ngƣời công

nhân, nông dân... “Chúng tôi yêu Đảng vì Đảng phục vụ cho giải phóng dân

tộc, kiến thiết cuộc đời xã hội chủ nghĩa no cơm ấm áo cho dân tộc. Chúng tôi

yêu giai cấp công nhân vì đó là bộ phận tiên tiến nhất của dân tộc hiện

nay.”[84, tr. 314-315]. Đó là tấm lòng biết ơn tha thiết, chân thành của ngƣời

nghệ sỹ đối với Đảng. Với Chế Lan Viên, Đảng là ngƣời dìu dắt nhà thơ đi từ

“thung lũng đau thƣơng ra cánh đồng vui”, là ngƣời đã “thay đổi đời tôi”,

ngƣời “thay đổi thơ tôi”. . Đó là cách ngƣời nghệ sỹ hoà từng nhịp đập trái

tim mình với hơi thở chung của thời đại. Những tình cảm mãnh liệt ấy trong

trái tim ngƣời nghệ sỹ tự nó trở thành những tiếng thơ tha thiết lòng ngƣời.

Nhà thơ là ngƣời có tƣ tƣởng lớn và tình cảm lớn, đó là một yêu cầu

thiết yếu của nghệ thuật đối với ngƣời nghệ sỹ. Có tƣ tƣởng và tình cảm đẹp

đẽ, ngƣời nghệ sỹ có thể đến với bất kỳ đề tài nào(dù là đề tài tiểu tƣ sản), có

thể khơi cảm xúc từ bất kì nguồn thi hứng nào(dù là tình cảm lứa đôi) mà vẫn

đạt đƣợc những giá trị thẩm mĩ lớn lao. Văn chính là ngƣời. Chế Lan Viên

quan niệm, “muốn có tác phẩm tốt nhất định phải có con ngƣời tốt”[84, tr.

135]. Muốn có con ngƣời tốt nhất định phải tƣ tƣởng tốt và tình cảm tốt. Cho

nên, bồi đắp tƣ tƣởng và tình cảm cho tốt, cho lớn lao là điều kiện cần thiết để

nhà thơ làm nên những tác phẩm thật giá trị.

77

Lý luận phê bình có chức năng soi đƣờng dẫn lối. Phê bình của Chế

Lan Viên một mặt đã thực hiện xuất sắc chức năng của mình, song mặt khác,

phê bình quyền uy của Chế Lan Viên đã thực sự trở thành “cái roi” quất vào

sáng tác. Trƣớc hết là sáng tác thực tiễn của chính tác giả. Lý luận về thơ, về

tƣ tƣởng lớn và tình cảm lớn của nhà thơ trong những trang phê bình tiểu luận

đã đi vào thực tế sáng tác của Chế Lan Viên một cách hào hùng. Có một thời,

thơ Chế Lan Viên đã thực sự trở thành phát ngôn của những tƣ tƣởng lớn:

-“Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn

…Cái ngày cả dân tộc đoàn viên chính là ngày vĩ đại

Lịch sử có nhiều thế kỷ, nhiều năm, nhiều tháng, nhiều ngày

Những năm tháng này chói lòa, hóa thân, đột biến

Là rốn bão, là hỏa diệm sơn, động biển”

(Ngày vĩ đại)

-“ Đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng

Ta mọc dậy trƣớc mắt nhìn nhân loại

Hai chữ Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng”

(Thời sự hè 72, bình luận)

Nếu nhƣ trong phê bình và tiểu luận, Chế Lan Viên dành nhiều trang

viết để nói đến tƣ tƣởng lớn, tình cảm lớn của ngƣời nghệ sỹ trong thời đại

Cách mạng, thì trong thơ ca ông chắc chắn không cho phép ngƣời làm thơ

đứng sang một bên tách biệt với cuộc kháng chiến của dân tộc. Nhà thơ phải

có tầm vóc thời đại, phải thấm đẫm trong lòng mình âm hƣởng hùng tráng của

thời đại. Chế Lan Viên đã có khi tranh luận trong thơ:

“Nếu nhà thơ không cao, không lý tƣởng

Không nhƣ vầng trăng nhìn ngắm bởi trăm nhà

Mà chỉ là ngọn khói phất phơ trên mái xám

78

Thì thơ ơi! Ai cần anh nữa?

Khách qua đƣờng sẽ bỏ đi qua”

(Nghĩ về thơ, Hoa ngày thƣờng – Chim báo bão)

Hiện thực lịch sử mới của dân tộc không có chỗ đứng cho những “ngọn khói

phất phơ”. Nhà thơ phải vƣợt lên giới hạn nhỏ hẹp của riêng mình để “nhìn

ngắm bởi trăm nhà”, để mang trong lòng mình một lý tƣởng cao cả nhằm mục

đích viết nên những tráng ca, chứ không phải những bi ca sầu thƣơng, ảo não.

Nhà thơ cần có khả năng bao quát hiện thực lịch sử lớn lao của Cách mạng,

của dân tộc. Quan niệm này xuất phát từ ý thức sâu sắc của Chế Lan Viên khi

đặt sứ mệnh của ngƣời làm thơ trong hoàn cảnh thời đại xã hội vang dội

đƣơng thời. Chỉ khi nào nhà thơ ý thức đƣợc nhiệm vụ lớn lao của mình, có

đƣợc tƣ tƣởng, tình cảm lớn lao, thì khi đó, tiếng thơ viết lên mới phù hợp với

thực tiễn lịch sử, mới lột tả đƣợc tính chất vĩ đại và thần thánh của hai cuộc

kháng chiến hào hùng của dân tộc.

15 năm sau, khi hoàn cảnh lịch sử và thời đại thay đổi, những ngợi ca

hô hào đanh thép ông đã viết một thời trở nên lạc lõng. Những phát ngôn một

thời với những cổ vũ, tuyên truyền giờ trở nên đại ngôn, “cao giọng”. Khi trở

về với “tinh tế cỏ hoa”, Chế Lan Viên, trong hành trình đi tìm bản thể, đau

đớn nhận ra ông đã tự đánh mất mình:

“Ngƣời diễn viên ấy đóng trăm vai vai nào cũng giỏi

Chỉ có một vai không đóng nổi.

- Vai mình.

…Anh đóng giỏi trăm vai lại đánh mất mình

(Thơ về thơ)

Đọc thơ Chế Lan Viên những năm cuối đời, chúng tôi nhận thấy có

những mâu thuẫn sâu sắc giữa lý luận một thời ông đã cao giọng với những

suy tƣ đa chiều ông thể hiện trong sáng tác thơ ca. Di cảo thơ trở đi trở lại

79

hình ảnh sân khấu cuộc đời, và ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên nhƣ một diễn

viên, nhƣ một con rối. Nhìn lại đời thơ của mình, ông thấm thía kết cục thảm

hại, đáng thƣơng: sự nổi tiếng, sự thành công, hào quang, danh vọng nhiều

khi lại trở thành cái lồng nhốt chính bản thân mình. Những tƣ tƣởng lớn,

những tình cảm lớn, một thời ông say sƣa ca hát lại chính là cái lồng nhốt

tiếng thơ của chính ông. Ông chẳng khác nào nhƣ con chim bị nhốt lâu trong

lồng đến mức “quên mình có đôi cánh” và chức năng bay, “suýt nữa nó đồng

nhất nó với lồng chim nhốt nó. Ghét thù sự bay”. Nguyễn Minh Châu, trong

Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa cho rằng, chúng ta

có một nền văn học, với những ngƣời nghệ sỹ đã tự “bạt chiều cao”, tự “ép

khuôn khổ” để thỏa mái đi trong một “hành lang” nghệ thuật có sẵn và chật

hẹp. Hình ảnh “con chim” và “chiếc lồng” trong thơ của Chế Lan Viên có nét

tƣơng đồng với quan niệm nghệ thuật minh họa của Nguyễn Minh Châu.

Nhận thức sâu sắc điều này, cho nên, có khi Chế Lan Viên đau đớn tƣởng nhƣ

muốn phủ nhận tiếng thơ của chính mình:

“Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ

Có phải tôi viết đâu? Một nửa

Cái cần viết vào thơ tôi đã giết đi rồi

Giết một tiếng đau, giết một tiếng cƣời

Giết một kỉ niệm, giết một ƣớc mơ,

Tôi giết cái cánh sắp bay…trƣớc khi tôi viết”

(Trừ đi)

Những mâu thuẫn giữa lý luận và sáng tác của Chế Lan Viên một phần

xuất phát từ tính chất phức tạp trong tƣ duy thơ của chính nhà thơ, ngƣời nghệ

sỹ luôn trăn trở và ƣa tìm tòi. Mặt khác, khi đặt lý luận và sáng tác của Chế

Lan Viên trong thời đại cách mạng, chúng tôi không tìm thấy mâu thuẫn. Mâu

thuẫn chỉ nảy sinh khi ngƣời nghệ sỹ - chiến sỹ trở về từ chiến tranh và sống

80

giữa muôn mặt đời thƣờng, làm một con ngƣời đời thƣờng trong cuộc sống.

Điều này có thể dễ dàng lý giải bởi nhận thức của ngƣời nghệ sỹ về hiện thực

là một quá trình, đó là quá trình động, và đối với Chế Lan Viên vốn chƣa bao

giờ xác định đƣợc thời điểm dừng chân để thỏa mãn, bằng lòng.

2.2.4. Làm thơ là một nghề

Nghệ thuật với Chế Lan Viên là một quá trình lao động nghiêm túc,

công phu và có phần nghiệt ngã. Nghệ thuật vì thế không phải là lĩnh vực chỉ

cần có tài năng, hay lòng đam mê, hay sự căng tràn của cảm xúc...mà trƣớc

hết và hơn hết phải là ý thức sâu sắc của ngƣời nghệ sỹ đối với nghề. Với Chế

Lan Viên, làm thơ là một nghề. Ở bài Nghề thơ ông đã đặt câu hỏi “Sao làm

thơ không có nghề nhƣ thơ nhỉ?” “Làm thơ có nghề” là để phân biệt với các

nhà thơ nghiệp dƣ, phân biệt với thứ thơ chƣa ra thơ của một số thi sỹ, đặc

biệt là để phân biệt với quan niệm làm thơ “là việc làm nhàn rỗi”, việc làm

giải khuyây, giải sầu, là nghề tay trái, hoặc thơ không phải là nghề.

Thơ Chế Lan Viên đạt đến đỉnh cao trong thời kì phong trào sáng tác

văn nghệ quần chúng phát triển rực rỡ. Quần chúng cách mạng là những

ngƣời công nhân, những ngƣời nông dân, những nhà giáo yêu nghệ thuật,

những bà, những mẹ...Sáng tác văn nghệ quần chúng phong phú từ truyền

miệng, đến báo tƣờng, đến tạp chí, từ sáng tác cá nhân đến sáng tác tập

thể...Chế Lan Viên đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cho nhân dân sáng

tác, thúc đẩy phong trào văn nghệ, đồng thời gửi gắm tâm huyết muốn nâng

cao chất lƣợng thơ, nâng cao tính chuyên nghiệp trong thơ. Tức là ông muốn

“làm thơ”, trong ý thức sáng tạo của quần chúng không đơn giản là làm cho

có phong trào mà phải là làm thơ với ý thức trách nhiệm của một thứ nghề đòi

hỏi lắm công phu.

Lại Nguyên Ân cho rằng, phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên có

“Giọng của môt ngƣời có nghề đi truyền nghề, dạy nghề” [1, tr. 513]. Triêu

81

Dƣơng thấy Chế Lan Viên có những “đóng góp nghiêm túc của một ngƣời đã

sống lâu năm trong nghề, bây giờ “nghĩ về nghề” cố gắng truyền đạt lại cho

lớp ngƣời đi sau những kinh nghiệm thiết thân rất đáng hoan nghênh” [1, tr.

489]. Dạy nghề cho ngƣời không làm nghề, Chế Lan Viên bàn nhiều về vấn

đề phƣơng pháp: phƣơng pháp sử dụng tài liệu, phƣơng pháp học, phƣơng

pháp làm việc; ông nói nhiều đến những điều “nên” hay “không nên” trong

mọi vấn đề sáng tác từ khâu tìm tài liệu đến chọn đề tài, từ cảm hứng, thi tứ

đến sáng tác, từ đặt bút viết ở thời điểm nào trong quá trình sáng tạo đến viết

đƣợc đến đâu sửa đến đó hay viết xong rồi sửa...Chế Lan Viên chân thành, tỉ

mỉ, tận tâm, tận sức diễn giảng, phân tích, chứng minh, giải thích mọi thắc

mắc lớn nhỏ của ngƣời yêu thơ, của ngƣời mới tập làm thơ. Thúc đẩy sáng tác

đồng thời cần nâng cao tính chuyên nghiệp trong thơ quần chúng. Chế Lan

Viên rõ ràng muốn quần chúng Cách mạng, những ngƣời sáng tác thơ không

chuyên có nghề hơn trong mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình.

Khi Chế Lan Viên tâm niệm làm thơ là một nghề thì chính ông cũng

luôn đòi hỏi ý thức trách nhiệm cao của ngƣời nghệ sỹ đối với nghề: “Nhƣ

ngƣời thợ gặt lớn không thể gieo bừa, ngƣời tƣớng lớn không thể đánh bừa,

ngƣời tình nhân chân chính không thể yêu bừa, tất cả đều bị ràng buộc bởi

mùa màng của mình, trận đánh của mình, tình yêu và hạnh phúc của

mình”[85, tr. 631]. Nhà thơ, ngƣời nghệ sỹ chân chính cũng vậy, cũng bị ràng

buộc bởi chính lƣơng tâm, trách nhiệm, tấm lòng mình. Nhƣng họ luôn có tự

do. Chế Lan Viên cho rằng, tự do của họ có đƣợc bởi sự ý thức vô cùng việc

họ làm. Ngƣời nghệ sỹ muốn thăng hoa nghệ thuật phải có ý thức sâu sắc về

nghề, từ đó mà trách nhiệm với nghề. Ý thức trách nhiệm ấy trong ngƣời nghệ

sỹ chính là sợi dây nối kết con diều nghệ thuật với mặt đất, giữ cho con diều

đủ sức căng để bay lƣợn tự do, phóng túng trên bát ngát trời xanh.

82

Trong thời đại cách mạng, ý thức về nghề của Chế Lan Viên luôn gắn

liền với ý thức về trách nhiệm của ngƣời nghệ sỹ trƣớc những máu xƣơng đã

đổ. Là nhà thơ đã đi qua những biến cố lịch sử lớn lao, Chế Lan Viên hiểu

“máu đẻ ra thơ” nhƣng thói đời “thơ lại hòng quên”. Vì thế, ông đòi hỏi trách

nhiệm lớn lao ở ngƣời nghệ sỹ và ở chính mình. Trách nhiệm của nhà thơ là

ghi lại, truyền đi, nhân lên sự hi sinh ấy. Chế Lan Viên khẳng định: “Khi một

chiến sỹ ngã xuống, anh đã làm nửa bài hát, câu thơ mà chúng tôi viết tiếp,

cũng nhƣ vậy, khi các đồng chí xây nên một nhà máy, gặt một cánh đồng,

chính các đồng chí đã xây trong lòng chúng tôi những xúc cảm lớn, giúp cho

chúng tôi gặt những vụ gặt tinh thần”[86, tr. 327]. Khi ngƣời thi sỹ ý thức rõ

về trách nhiệm của ngòi bút trên mỗi trang giấy trắng cũng chính là lúc những

ngƣời nghệ sỹ luôn trăn trở với nghề nhƣ Chế Lan Viên nói riêng và nền thơ

ca nghệ thuật nói chung có thể trông chờ và tin tƣởng vào những trang thơ có

ích cho đời.

Bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ý thức trách nhiệm về

nghề của nhà thơ tiếp tục đƣợc Chế Lan Viên nhận thức sâu sắc, song không

phải trong mối quan hệ với dân tộc, lịch sử mà trong mối quan hệ với đạo

đức, nhân sinh thế sự:

“Giờ hòa bình tôi vẫn làm thơ, nhặt lá

Không phải đất nƣớc mình còn chiến tranh, nghèo khó

Mà vì có bao nhiêu thằng đang sống xa hoa

Vì có bọn ngƣời thoái hóa

Khiến cho thắng trận rồi mà vẫn còn nhặt lá kẻ làm thơ”

(Hốt lá)

Yêu nghề, gắn bó cả đời ngƣời với nghề thơ, Chế Lan Viên thấm thía những

cay đắng trong nghề. Tự nhìn lại thơ mình giữa những “danh vọng ầm ào,

vinh quang xí xố”, ông không khỏi xót xa bởi thứ hƣ danh ấy không khiến

83

ngƣời làm thơ sống đƣợc với nghề. Ngƣời nghệ sỹ trót “mang cái ách văn

chƣơng” cả một đời “làm thơ” và “nhặt lá”. Song dù có phải “nhặt lá” ngƣời

nghệ sỹ ấy vẫn cứ “làm thơ” bởi ý thức về nghề của ngƣời làm thơ với Chế

Lan Viên trƣớc hết là ý thức về một chữ “tâm”:

“Những nhà thơ bị sách phản thùng, phản chủ

Anh ta bảo: Tôi viết với tất cả tâm hồn, tất cả

Sách cãi lại: Cái tâm hồn thổ tả

Thiếu tâm đi thì nào có ra hồn

Thà cứ là trang giấy trắng xóa còn hơn”

(Tâm và hồn)

“Vạn pháp đều qui tôn/ Miễn anh có tâm hồn”, tâm hồn của nhà thơ sẽ giữ

cho thơ ở lại với đời. Nếu không có hồn thơ, không có cái tâm của ngƣời nghệ

sỹ thì mọi thi pháp cũng chỉ là cái xác không hồn. Nhà thơ chỉ là những ngƣời

thợ khéo tay mà thôi.

Đối với nghề thơ, Chế Lan Viên là ngƣời yêu nghề, có ý thức rất cao về

nghề, có sự khổ công, có những “lao tâm khổ tứ” vì nghề. Nghề thơ với Chế

Lan Viên không xuôn xẻ, xuôi chiều, ngƣời nghệ sỹ phải trải qua nhiều thăng

trầm, cay đắng để hái đƣợc quả ngọt trái thơm. Từ quan niệm thơ là một nghề

trong lý luận đến sự nghiệp sáng tác thơ ca đồ sộ của Chế Lan Viên cho thấy

sức sáng tạo, sự công phu, cũng nhƣ những nghiêm túc của ngƣời nghệ sỹ lớn

Chế Lan Viên trong nghề.

Dƣới thời đại Cách mạng, ngƣời đọc thấy Chế Lan Viên, dù làm phê

bình hay sáng tác thơ đều luôn tự đấu tranh với con ngƣời cũ của riêng mình

để sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì chỉ cần trở thành cây bút

phục vụ tốt cho cuộc Cách mạng của dân tộc. Trong những năm cuối đời, Chế

Lan Viên ít viết phê bình, tiểu luận. Ông dồn hết thời gian cho thơ. Khi Di

cảo thơ ra mắt ngƣời đọc, nhiều nguời đọc những câu thơ tự phán xét của Chế

84

Lan Viên về nhà thơ, vị trí và trách nhiệm của nhà thơ trƣớc cuộc đời, giật

mình thấy ông “sám hối”. Những quan niệm về nhà thơ đƣợc ông “cao giọng”

thể hiện trong những năm trƣớc 1975 trong phê bình và tiểu luận đến đây thấy

có những mâu thuẫn, giằng xé và nhiều day dứt đến đau đớn trong ngƣời nghệ

sỹ. Từ những đòi hỏi lớn lao của thời đại và lịch sử đến những dấn thân của

nhà thơ trong hiện thực lớn, Chế Lan Viên đã nói thật mạnh mẽ, sôi nổi

những tƣ tƣởng lớn, tình cảm lớn, trách nhiệm lớn của ngƣời nghệ sỹ đối với

nhân dân đất nƣớc. Đến khi bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh, đặc biệt khi đối

diện với thời gian, không gian của sự sống riêng mình, Chế Lan Viên có lẽ có

nhiều khoảng lặng để chiêm nghiệm sâu xa hơn về ngƣời nghệ sỹ và chính

mình trong thơ. Thơ Di cảo nói về ngƣời nghệ sỹ với nỗi đau của sự bé nhỏ,

thừa thãi, và có phần vô dụng. Sự mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật đƣợc

thể hiện trong phê bình, tiểu luận trƣớc 1975 với thơ sau 1975 theo chúng tôi

đó là những mâu thuẫn khó lòng tránh đƣợc bởi sự thay thế giữa ý thức công

dân và ý thức nghệ sỹ trƣớc những thay đổi của hoàn cảnh xã hội. Khi mà

cuộc sống và lịch sử luôn vận động và biến đổi, ý thức nghệ sỹ thoát dần ra

khỏi vỏ bọc chắc chắn của ý thức công dân để trở về với cội nguồn của nó và

phán xét tất cả theo ý thức chủ quan của mình. Nhìn lại chặng đƣờng văn học

đã qua, những câu thơ cổ vũ tuyên truyền ông đã viết, những quan niệm lớn

lao về ngƣời nghệ sỹ ông đã trình bày, chúng ta không phủ nhận những thành

tựu trong sự nghiệp văn học của ông đã đạt đƣợc nhờ bao nhiêu trí tuệ và mồ

hôi. Nhƣng chính ông, khi nhìn lại con đƣờng mình đã đi cũng không khỏi xót

xa nuối tiếc bởi đã viết quá nhiều “những điều lớn lao” mà đành gạt đi những

“tinh tế cỏ hoa” vốn là máu thịt của ngƣời nghệ sỹ. Bƣớc qua những cái nhất

thời để tìm về với cái muôn đời, đó là một hành trình nhiều trăn trở và mâu

thuẫn.

85

Vì sao Chế Lan Viên không thể sống và nghĩ một cách dễ dãi, giản

đơn? Vì sao ông không bao giờ bằng lòng với chính mình? Đọc thơ Chế Lan

Viên, Tố Hữu đã lý giải cặn kẽ căn nguyên sâu xa cho những quan niệm thơ

trái chiều trong sáng tác của Chế Lan Viên ở phƣơng diện nhà thơ, ngƣời

nghệ sỹ: “Thƣơng Anh biết mấy là thƣơng – Một đời thơ những vấn vƣơng lẽ

đời” (Nhớ Chế Lan Viên). “Những vấn vƣơng lẽ đời” đã tạo nên tính chất

phức tạp trong thơ ông. Song cần phải khẳng định rằng, tất cả những biểu

hiện phức tạp, trái chiều trong thơ ông dù tạo nên mâu thuẫn với những quan

niệm nghệ thuật mà ông đã dõng dạc thể hiện trong những bài phê bình và

tiểu luận thì tầm vóc của ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên không vì thế mà trở

nên nhỏ hẹp. Bởi dù ngợi ca hay phê phán, dù hào hùng khí thế hay chán nản,

dù giọng cao hay giọng trầm đều là giọng của ngƣời nghệ sỹ tha thiết với đời,

dù những tha thiêt ấy có lúc hoá thành nỗi đau khắc khoải, có khi hoá thành

một lời tạ tội chân thành:

“Anh không mang đi! Anh còn để lại

Để lại một câu thơ, một lời tạ tội”

(Tạ tội)

Nhƣng chúng ta hiểu rằng, cuộc đời này phải cảm ơn ông – một tài năng, một

nhân cách lớn. Canh cánh một trọng trách với đời, quan niệm của Chế Lan

Viên về nhà thơ vì thế luôn nhất quán ở trách nhiệm của ngƣời nghệ sỹ. Có

thể thấy rằng, ông đã trả cho đời nhiều hơn những gì đời đã cho ông.

86

Tiểu kết chƣơng 2

Tìm hiểu quan niệm của Chế Lan Viên về nhà thơ, chúng tôi nhận thấy

quan niệm về nhà thơ trong hệ thống tƣ duy lý luận của Chế Lan Viên có

nhiều thay đổi qua các thời kỳ. Từ thời Điêu tàn với quan niệm nhà thơ là

ngƣời của thế giới siêu hình với những phẩm chất đặc biệt, thơ Chế Lan Viên

bƣớc vào thời đại Cách mạng với nhiều thay đổi về quan niệm. Nhà thơ trong

thời đại ấy phải là ngƣời của sự sống muôn màu, là ngƣời của cá tính sáng tạo

với những tƣ tƣởng lớn và tình cảm lớn. Làm thơ với Chế Lan Viên là một

nghề và hơn hết nhà thơ phải là ngƣời có trách nhiệm lớn lao, trách nhiệm với

thơ ca nghệ thuật và trách nhiệm với đời. Những quan niệm về nhà thơ có

phần nghiêm khắc ấy đã đƣợc Chế Lan Viên dùng chính cuộc đời mình và thi

ca nghệ thuật của mình để thể hiện và chứng minh.

87

Chƣơng 3

QUAN NIỆM CỦA CHẾ LAN VIÊN VỀ THƠ

Là một trong những loại hình kỳ diệu của nghệ thuật, thi ca đƣợc Bùi

Giáng nói đến nhƣ là một “cõi phiêu bồng”. Thế giới ấy mở ra trăm nghìn lối,

song hành với những mê say sáng tạo của ngƣời nghệ sỹ là câu hỏi lớn: thơ là

gì? Đi tìm bản thể của thơ ca luôn là một hành trình đầy bí ẩn. Giải mã thơ

vốn không có điểm dừng, không có chuẩn mực nào để kết thúc. Với mỗi

ngƣời nghệ sỹ, con đƣờng tìm kiếm bản thể thơ nhƣ mở rộng thêm, đa sắc, đa

chiều.

Chế Lan Viên vì thế, cũng không phải là ngƣời duy nhất vừa sáng tác,

vừa chiêm nghiệm về vấn đề lý luận này. Có điều, với ông, quan niệm về thơ

đƣợc trình bày nhƣ một hệ thống xuyên suốt hành trình thơ với một tƣ duy

triết học biện chứng, có phủ định, có kế thừa và phát triển, bổ sung cho phù

hợp với tinh thần thời đại và quy luật của thơ ca.

Trong nền văn học nghệ thuật dân tộc, số lƣợng các bài thơ viết về thơ

của Chế Lan Viên nhiều hơn bất kỳ một nhà thơ nào khác. Những suy nghĩ về

nghề trong thơ ông, khiến cho thơ mang đậm màu sắc lý luận, phê bình. Nghĩ

về nghề…nghĩ về thơ…nghĩ đƣợc tác giả đặt vào tập tiểu luận, phê bình Bay

theo đƣờng dân tộc đang bay khi in thành tuyển bởi tính chất lý luận đặc biệt

của nó. 9 tập phê bình và tiểu luận cùng những bài tựa viết cho một số tác giả

mà ông yêu quý đã bày ra trƣớc mắt ngƣời đọc những vốn liếng đồ sộ của

Chế Lan Viên về thơ.

Là một nhà thơ lớn, Chế Lan Viên chƣa bao giờ tự bằng lòng với

những gì đã có. Tìm tòi, sáng tạo và thể nghiệm là cách Chế Lan Viên khẳng

định vị trí và tên tuổi của ông trên văn đàn. Những quan niệm thơ và tƣ duy

thơ phức tạp của Chế Lan Viên thể hiện trong phê bình và tiểu luận, trong

những bài thơ nghĩ về thơ, nghĩ về nghề là kết quả của một quá trình vận động

88

không ngừng của ngƣời nghệ sỹ để sáng tạo và đổi mới. Những quan niệm

nghệ thuật của ông trƣớc hết rất có ý nghĩa đối với lý luận thơ ca và thực tiễn

sáng tác. Nhƣng trên hành trình đi từ lý luận đến thực tiễn sáng tác của Chế

Lan Viên, chúng tôi nhận thấy, ở giai đoạn cuối đời, thơ Chế Lan Viên có

nhiều mâu thuẫn với lý luận nghệ thuật thơ của chính ông.

3.1. Thơ là tiếng nói cất lên từ thế giới siêu thực trong tột cùng cảm

xúc

Tác giả Nguyễn Bá Thành trong chuyên luận Chế Lan Viên với phong

cách suy tƣởng đã khẳng định: “Thoát ly vào thơ và làm cho thơ thoát ly hiện

thực. Đó là đặc điểm cốt lõi nhất của phong trào Thơ mới nói chung và Chế

Lan Viên nói riêng”[46, tr. 45]. Nếu Thế Lữ ôm giấc mộng lên tiên, Lƣu

Trọng Lƣ phiêu lƣu trong trƣờng tình, Huy Cận chôn thơ trong những mối sầu

thiên cổ...thì Chế Lan Viên (cùng những nhà thơ trong trƣờng thơ loạn) lại

chọn đi mãi về phía siêu hình. Nếu Hàn Mặc Tử nói: “Làm thơ tức là điên”,

thì Chế Lan Viên thêm: “Làm thơ là làm sự phi thƣờng”. Quan niệm ấy của

Chế Lan Viên đã nâng thơ vƣợt lên trên nhiệm vụ phản ánh hiện thực để bƣớc

vào một cõi mới lạ, một thế giới khiến ngƣời thi sỹ rung cảm hồn phách, “đê

mê” và “khoái lạc” (Chữ dùng của Bích Khê). Thế giới thơ ấy đối lập với thế

giới hiện thực đời thƣờng, vì thế không thể lấy cách cảm, cách nghĩ, những tƣ

duy của con ngƣời đời thƣờng để giải mã đƣợc thứ nghệ thuật thi ca ấy. Trong

bài Tựa cho tập Điêu tàn, Chế Lan Viên quy thơ mình về thế giới của những

điều “vô nghĩa hợp lý” và cƣời nhạo những ngƣời “tự cho là hiểu đƣợc nó”,

để rồi “chê nó là giả dối”. Ông thấy cần phải nói cụ thể hơn về vấn đề này:

“Thấy dòng sông Linh quằn quại trong thơ tôi, thấy ngƣời dũng sỹ vùng vẫy

trong sách tôi, ngƣời ta hỏi: sông Linh ở đâu? Ngƣời dũng sỹ ăn mặc nhƣ thế

nào? Hãy nghĩ lại! Có ai thấy vào buổi chiều, rụng ở tháp một viên gạch cũ

mà hỏi: Viên gạch ấy chu vi bao nhiêu? Đúc từ đời nào? Ở đâu? Bởi ai? Và

89

để làm gì?”[80, tr. 23]. “Dòng sông Linh”, “viên gạch vỡ”, thuộc về quá khứ

của một vong quốc Chàm. Đó là thế giới hƣ cấu, siêu hình đƣợc viết nên hoàn

toàn trong trí tƣởng tƣợng của nhà thơ.

Sọ dừa, đầu lâu, ma hời sờ soạng, ...thế giới rùng rợn ấy trong Điêu tàn

của Chế Lan Viên là sản phẩm của một khát vọng lớn lao đƣợc thành thật của

tâm hồn ngƣời thi sĩ. Trƣớc hết đó là sự thành thật với chính mình. Khi ngƣời

thơ sáng tác, là khi “nó gào, nó thét, nó khóc, nó cƣời. Cái gì của nó cũng tột

cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cƣời tràn cả

tủy là tủy”[80, tr. 23]...Cho nên thơ, trong quan niệm của Trƣờng thơ loạn mà

tiêu biểu là Chế Lan Viên có thể coi là mĩ học của sự tột cùng, tột cùng cảm

xúc và tột cùng của sự chân thành. Vì thế, ngƣời đời có thể cho rằng, những

điều ngƣời thi sỹ kia nói là “vô nghĩa” nhƣng với nhà thơ, “cái gì nó nói đều

có cả”. Có nghĩa là tác giả đặt lòng tin tƣởng tuyệt đối vào tiếng thơ của chính

mình. Và xúc động thay, lòng tin tƣởng, sự thành thật của ông đặt trong thế

giới thơ siêu hình ấy, lại có rất nhiều ngƣời tin ông và hiểu ông thành thật.

Hoài Thanh đọc thơ ông và cảm nhận rất sâu sắc điều này. “Khi Chế Lan

Viên kêu:

“Hồn của ai trú ẩn ở đầu ta?

Ý của ai trào lên trong đáy óc,

Để bay đi theo tiếng cƣời điệu khóc?”

tôi nhất quyết thi nhân thành thực hơn tôi khi tôi nói, chẳng hạn: tờ giấy kia

trắng. Vì câu nói của tôi là một câu nói hờ hững, xuất tự tri giác, tôi vẫn tin

mà không để vào đó tất cả lòng tin. Chế Lan Viên trái lại, đã để trong tiếng

kêu hốt hoảng của mình một lòng tin đau đớn.

Ấy, ngƣời thƣờng có những nỗi đau tựa hồ vô lý vậy mà thành thực vô

cùng”[44, tr. 240]. Đến với thơ Chế Lan Viên, Hoài Thanh đã đọc bằng cả

tấm lòng của một ngƣời tri kỉ. Bởi những gì Hoài Thanh cảm nhận cũng chính

90

là những gì Chế Lan Viên khao khát khi quyển Điêu tàn đến tay bạn đọc. Kết

thúc bài Tựa ông đã tâm tình: “Nếu, khi sách đọc xong mà cái buồn, cái chán,

cái hãi hùng cũng ùa nhau đến bọc lấy hồn anh, làm cho anh phải cƣời, phải

gào, phải khóc, thì xin anh chớ hẹp hòi gì mà cƣời cho mênh mang, gào cho

vỡ cổ, khóc cho hả hê”[80, tr.24]

Với quan niệm thơ thoát ly hiện thực, Chế Lan Viên đã đƣa thơ thoát ra

khỏi thời gian và không gian tồn tại bình thƣờng của cuộc sống con ngƣời,

đƣa thơ từ cõi ý thức đến cõi vô thức, đƣa thơ từ cõi hữu hình đến cõi siêu

hình. Cõi siêu hình trong Điêu tàn chính là quá khứ nƣớc non Chàm, một thế

giới đau thƣơng thuộc về quá khứ, một miền xa xôi cách biệt với cuộc sống

thực một khoảng cách vô tận. Khách thể thẩm mĩ độc đáo này đã khiến biết

bao ngƣời yêu thơ Chế Lan Viên tìm cách lý giải. Song, theo chúng tôi, quá

khứ dân tộc Chàm đi vào thơ Chế Lan Viên và trở thành đối tƣợng thẩm mỹ

là bởi vì đối tƣợng thẩm mỹ này có thể cho phép nhà thơ tạo ra một quá khứ

tƣởng tƣợng, trong những không gian và thời gian tƣởng tƣợng, để từ đó, Chế

Lan Viên có thể âm thầm nói lên nỗi đau của một ngƣời dân nô lệ, nói lên nỗi

u hoài, uất nghẹn của một thế hệ những nhà thơ không tìm thấy lối đi cho

hành trình thơ cũng nhƣ hành trình cuộc đời của chính mình. Quan niệm thơ

thoát ly trong cõi siêu hình phần nào đã đƣa thơ Chế Lan Viên đi khá xa về

phía hƣ vô thần bí nhƣng phần nào vẫn khiến ngƣời đọc cảm nhận rõ tấm lòng

của ông trƣớc thực tại, nói nhƣ Tố Hữu, chính là ngoảnh mặt nhƣng không

quay lòng, trí lạc nhƣng lòng không lạc.

Trƣớc Cách mạng, do chịu ảnh hƣởng của trƣờng phái thơ tƣợng trƣng

siêu thực phƣơng Tây thế kỉ XIX, Chế Lan Viên cho rằng thơ chính là tiếng

nói của tột cùng cảm xúc trong thế giới siêu hình, một thế giới khác lạ hoàn

toàn với đời thƣờng, với ngƣời thƣờng mà vô cùng chân thật với chính bản

thân ngƣời nghệ sỹ. Quan niệm ấy đã đƣa thơ ông đến tận cõi hƣ vô xa xăm

91

mà vẫn không thoát khỏi nỗi buồn. Song ở một khía cạnh khác, chính nỗi

buồn mang dấu ấn thời đại ấy là biểu hiện tha thiết của tấm lòng yêu đời, khao

khát gắn bó với đời trong Chế Lan Viên. Tấm lòng ấy của ngƣời thi sỹ chính

là điểm tựa tinh thần lớn lao để sau Cách mạng, con ngƣời “đi xa về hoá

chậm” này có thể chan hoà với cuộc sống, chiến đấu, lao động của nhân dân

trong thời đại Cách mạng hào hùng.

Trong hành trình hòa nhập, dấn thân của ngƣời nghệ sỹ đến với Cách

mạng, phục vụ Cách mạng, Chế Lan Viên cũng nhƣ những văn nghệ sỹ tiền

chiến lúc bấy giờ đã lên tiếng phủ nhận Thơ mới (trong đó có Điêu tàn). Họ

tiến hành một cuộc “lột xác” để giác ngộ. Nhƣng dẫu sao, đó vẫn là máu thịt

của tâm hồn ngƣời, nói “bỏ” không phải là chuyện giản đơn. Sau này, trong

bài viết Thơ trong sách giáo khoa (Viết cho tạp chí Văn học 8/1963), Sông

Thƣơng, sông Hƣơng trong dòng văn học (1986), Chế Lan Viên đã lên tiếng

bênh vực Thơ mới, chiêu tuyết cho Thơ mới. Điều ấy khẳng định, Thơ mới có

một ý nghĩa quan trọng, không thể phủ nhận trong tiến trình phát triển văn

học. Điêu tàn của Chế Lan Viên cũng nhƣ tƣ duy thơ tƣợng trƣng siêu thực

vốn không mâu thuẫn với tƣ duy thơ Cách mạng. Để phù hợp nhiệm vụ thơ

phục vụ chính trị, tƣ duy thơ siêu thực tuy vắng bóng trong thành tựu thơ Chế

Lan Viên trong thời đại Cách mạng, song ngƣời đọc lại thấy dấu ấn của Điêu

tàn, thấy sự xuất hiện trở lại của tƣ duy thơ siêu thực khi ông viết Di cảo thơ.

Quan niệm nghệ thuật thơ là thế giới của tƣ duy siêu thực trở lại không chỉ

trong thơ của Chế Lan Viên mà còn xuất hiện đậm nét trong nhiều nhà thơ,

đặc biệt là nhà thơ Thanh Thảo với nhu cầu đổi mới nghệ thuật sâu sắc. Điều

đó khẳng định những tìm tòi, sáng tạo trong thơ của Chế Lan Viên từ những

năm đầu thế kỉ XX.

92

3.2. Thơ không chỉ là tiếng nói của cảm xúc mà còn là tiếng nói của

lí trí trƣớc hiện thực khách quan

3.2.1. Thơ là ngọn lửa cháy sáng từ hiện thực

Cách mạng tháng Tám năm 1945 vĩ đại đã mở ra một kỉ nguyên mới

cho dân tộc ta. Từ đây một nền văn học mới gắn với lý tƣởng độc lập, tự do

và chủ nghĩa xã hội đƣợc khai sinh. Đáp ứng yêu cầu lịch sử, vì mục tiêu

chung của toàn dân tộc, văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 chủ

yếu vận động theo hƣớng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung

của đất nƣớc. Nền văn học ấy đã sinh thành nên một kiểu nhà văn mới: nhà

văn-chiến sỹ. Ý thức, trách nhiệm công dân của ngƣời nghệ sỹ đƣợc đề cao.

Gắn bó với dân tộc, với nhân dân và đất nƣớc, dùng ngòi bút để phục vụ

kháng chiến, cổ vũ chiến đấu là đòi hỏi, yêu cầu của thời đại đồng thời cũng

là tình cảm, ý thức tự giác của ngƣời nghệ sỹ. Trong dòng chảy chung của

thời đại ấy, Chế Lan Viên đã hăm hở đứng vào đội ngũ những ngƣời cách

mạng. Biến cố vĩ đại của lịch sử đất nƣớc, dòng thác cách mạng cuồn cuộn đã

buộc ông lột xác cả về tƣ tƣởng, tâm hồn và cả thơ ca.

Những ngƣời nghệ sỹ tiền chiến nhƣ Chế Lan Viên đã biến mình từ

“ngọn lửa ma trơi chấp chới giữa trời thành ngọn đèn con soi trang sách học,

từ chất rƣợu riêng cay đắng rót ra từng chén con riêng mà nhấm nháp, đã biến

thành chất dầu đổ vào guồng máy chung, góp phần chuyển động cuộc sống

chung”[85, tr. 89]. Thực chất, đối với Chế Lan Viên, quá trình biến đổi ấy

không hề dễ dàng. Quá trình ấy diễn ra trong suốt 10 năm. Suốt 10 năm tham

gia kháng chiến, ngƣời nghệ sỹ ấy đã đƣa thơ đi từ tƣ duy thơ siêu hình, vô

thức trở về với hiện thực, đến với cuộc sống và chiến đấu kiên cƣờng của

nhân dân trong kháng chiến; đƣa thơ từ tƣ tƣởng thoát ly hiện thực đến ý thức

trở về với cuộc sống lớn của nhân dân để khơi nguồn cảm hứng; đƣa thơ từ

93

cảm xúc riêng tây, từ nỗi trống trải, bơ vơ của một ngƣời đến với khí thế hào

hùng của muôn triệu con ngƣời đang hƣớng về cách mạng.

Và Khi đã có hƣớng rồi, Chế Lan Viên không chỉ sáng tác làm nên

những đỉnh cao mới của thời đại mới, ông còn tiếp tục viết phê bình và tiểu

luận. Là một nhà thơ, trong phê bình và tiểu luận, Chế Lan Viên cũng đặc biệt

quan tâm đến những vấn đề về nghệ thuật thơ. Ông trình bày quan niệm của

mình về thơ, xác định mục đích thơ, vai trò của thơ, đi tìm mạch nguồn và

cảm hứng cho thơ. Song trƣớc nhất, chúng tôi nhận thấy, ông viết nhiều, viết

sâu sắc về mối quan hệ giữa thơ và hiện thực đời sống. Từ đó có thể thấy

rằng, trong quan niệm của Chế Lan Viên, thơ trƣớc hết, phải là ngọn lửa khởi

phát từ hiện thực.

Thời đại Cách mạng đã nuôi dƣỡng hồn thơ của những ngƣời nghệ sỹ,

và nhƣ một lẽ đƣơng nhiên, thơ đƣợc sinh thành từ thời đại cách mạng sẽ gắn

bó chặt chẽ với vận mệnh chung của dân tộc, ăn nhịp với từng chặng đƣờng

lịch, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nƣớc. Đọc Tuyển tập thơ Việt

Nam (1945-1960) Chế Lan Viên đã thấy sự gắn bó máu thịt ấy. “Đọc Nhớ

máu nhớ ngày Tổng khởi nghĩa, Ngọn quốc kì nhớ cách mạng bắt đầu, Phá

đƣờng lúc đi vào kháng chiến, Ta đi tới khi trở lại hoà bình...Quả là ta đi tìm

thơ, mà cũng gặp đƣợc bƣớc đƣờng của lịch sử”[84, tr. 360].

Nhìn lại chặng đƣờng dài của lịch sử, cái nguồn sữa sinh thành nên nền

thơ ca dân tộc, ngƣời nghệ sỹ Chế Lan Viên không khỏi xót xa mà cũng rất

đỗi tự hào: “Dân tộc chúng tôi là một dân tộc đời này tiếp đời khác đã phải

chống những kẻ ngoại xâm mạnh hơn mình, và chiến đấu nhƣ vậy với cái

bụng đói suốt trong hai nghìn năm. Cái diệu kì này đã đẻ ra cái diệu kì khác:

cuộc sống chúng tôi đã đẻ ra một nền thơ. Đứa trẻ con này sinh ra ở chiến

trƣờng, ngỡ chỉ biết thét, nhƣng nó đã biết hát. Một tiếng hát dân tộc đầy tin

tƣởng và đầy cả tình thƣơng nhân đạo”[84, tr. 392]. Cách nói hình ảnh vốn là

94

một ƣu điểm của phong cách Chế Lan Viên trong phê bình và tiểu luận. Nói

nền thi ca Việt Nam nhƣ một đứa trẻ “sinh ra ở chiến trƣờng” ngƣời nghệ sỹ

ấy không chỉ muốn gợi lên cái đau thƣơng vốn đã ăn sâu vào từng chặng

đƣờng phát triển của lịch sử dân tộc mà còn gợi đƣợc cái hoàn cảnh đặc biệt

đã sinh ra một nền thơ. Thời đại nào có văn học đó, không sai! Đứa trẻ sinh ra

giữa chiến trƣờng từ sự thúc bách của thời đại đã cất tiếng thét dữ dội, hào

hùng, mạnh mẽ. Nhƣng đó chƣa phải tất cả của một nền thơ. Đứa trẻ ấy còn

biết hát, tiếng hát dân tộc chan chứa tình yêu thƣơng. Đó là nguồn mạch nhân

văn đẹp đẽ tạo nền giá trị trƣờng tồn cho nền thi ca dân tộc dù đƣợc sinh

thành trong bất kì hoàn cảnh nào.

“Xƣa tôi hát và bây giờ tôi tập nói,

Chỉ nói thôi mới nói hết đƣợc đời.

Bao giờ thuộc hết tiếng của đời, ta xin hát lại

Khúc hát hay đâu có lắm lời”

(Sổ tay thơ)

Khao khát “nói hết đƣợc đời” chỉ có thể đạt đƣợc khi ngƣời nghệ sỹ tìm

thấy thơ từ cuộc sống. Từ một nhà thơ thoát ly hiện thực trở thành một nhà

thơ gắn bó với hiện thực, từ một thế giới thơ hƣ vô siêu hình, thơ Chế Lan

Viên trở về với đời sống và cuộc chiến đấu lớn lao của nhân dân. Thơ gắn liền

với cuộc sống, không thể tìm thơ từ “quỹ đạo các trời xa”, đó là điều Chế Lan

Viên đƣa vào Sổ tay thơ để tự nhắc chính mình:

“ Đừng làm nhà thơ đi tìm kiếm sao Kim,

Thứ vàng ấy loài ngƣời chƣa thiết đến”.

Sự gắn bó ấy càng đƣợc Chế Lan Viên thể hiện không chỉ sâu sắc trong thơ

mà còn trở đi trở lại trong những bài phê bình và tiểu luận.

Đọc tập thơ Sức mới (1965) bằng quan niệm thơ ấy, ông đã bộc lộ thật

nhiệt thành niềm vui mừng của mình trƣớc những thành quả của thế hệ các

95

nhà thơ trẻ. “Đáng yêu nhất của tập thơ này là nó nồng ấm cái hơi thở của

cuộc sống – cuộc sống xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc nƣớc ta”[85, tr. 96].

Hình tƣợng trung tâm của tập thơ này là những con ngƣời mới trong cuộc

sống mới. Điều đáng trọng hơn nữa ở đây là: “Cái lõi ấy gắn chặt, hữu cơ với

cả cuộc sống toàn diện đang bao bọc quấn quýt lấy nó: đám mây trên vọng

gác non cao, tiếng chim tu hú nơi quê bà nội, làn khói bếp bay trên những mái

nhà hợp tác...”[85, tr. 96]. Rõ ràng thơ gắn với hiện thực đã trở thành tiêu chí

đầu tiên của Chế Lan Viên trong quá trình thẩm bình thơ.

“Ở Việt Nam chúng tôi, thơ ca không thể tách rời cuộc sống”(Trích từ

Thơ ở nƣớc chúng tôi đang đánh Mỹ, Tham luận tại cuộc họp bàn tròn quốc tế

về Thơ tại Liên Xô). Có thể thấy, đối với Chế Lan Viên, thơ khởi phát từ thực

tế đã không chỉ là một quan niệm thơ mà còn trở thành một tuyên ngôn dõng

dạc về thơ. Ông tìm thấy sự thống nhất hữu cơ giữa ngƣời cầm bút để phục vụ

chính trị và những cán bộ chuyên môn bắt đầu cầm bút. Rất nhiều bài thơ hay

trên đất nƣớc này đến từ một mâm pháo, một bệnh viện, một công trƣờng,

một sân bay...Nhìn lại chặng đƣờng văn học sau ba năm chống Mỹ (Nhân đọc

Tuyển tập thơ ba năm chống Mỹ) Chế Lan Viên nhận ra một điều đáng trân

trọng: “Hầu hết các nhà thơ đều ở vị trí thƣờng trực chiến đấu”[85, tr. 160].

Sức vƣơn mạnh mẽ của thơ chỉ có thể có đƣợc khi thơ đƣợc nuôi dƣỡng từ

sức sống mạnh mẽ của những con ngƣời kháng chiến, những năm tháng

kháng chiến vĩ đại.

Ở thời đại mà biết bao thi sĩ không có đủ chữ, đủ thì giờ để diễn tả

tâm hồn mình, biết bao tác phẩm tài năng không in ra, Chế Lan Viên đã đi tìm

câu trả lời cho một câu hỏi lớn: “Ai là nhà thơ lớn nhất, thiên tài nhất ở nƣớc

tôi hiện nay?” Không phải các nhà thơ chuyên nghiệp, không phải những con

ngƣời đời thƣờng vào thời khắc bừng sáng của cảm xúc mà là sự sống. “Nhà

thơ lớn nhất vẫn là sự sống”[85, tr. 383]. Trƣớc khi có chiến thắng Điện Biên

96

Phủ, không thể có một bài thơ nào về chiến thắng ấy. Rõ ràng, không có hiện

thực sẽ không có thi ca. Nhƣ một quy luật tất yếu, khi mỗi ngƣời làm thơ đã

đem cái tôi cá nhân của mình chan hoà trong cái ta chung của dân tộc thì thơ

của họ chính là một ngọn lửa rực cháy từ cuộc sống, từ đó mà soi sáng chính

cuộc sống đã sinh thành nên mỗi hồn thơ.

Từ quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy

ông đã có những đóng góp sâu sắc làm cụ thể hơn những vấn đề lý luận cơ

bản về nghệ thuật thi ca. Lý luận từ thực tiễn của ông góp thêm một tiếng nói

nhấn mạnh vấn đề: hiện thực đời sống là nguồn gốc của văn chƣơng, là mảnh

đất nuôi dƣỡng văn chƣơng.

Song cũng từ quan niệm của Chế Lan Viên, chúng tôi nhận thấy lý luận

của ông còn bị gò bó bởi mục đích phản ánh hiện thực của văn chƣơng để phù

hợp với nhiệm vụ lịch sử xã hội. Chế Lan Viên coi phản ánh hiện thực nhƣ là

tiểu chuẩn cao nhất để đánh giá, phê bình văn nghệ. Trong khi đó, từ góc độ

lý luận toàn diện về nghệ thuật, chúng ta hiểu rõ, mục đích của văn chƣơng

nghệ thuật không đơn giản là mục đích phản ánh hiện thực mà còn là sự nhận

thức, xúc cảm. Giá trị nội dung của tác phẩm văn chƣơng, trƣớc hết không

phải chỉ đơn giải ở sự thể hiện chân thực các chi tiết, ở những sự kiện lịch sử -

xã hội đƣợc mô tả chính xác. Nghệ thuật không phải là hiện thực, không chỉ là

hiện thực.

3.2.2. Thơ là ngọn lửa soi sáng hiện thực

Tác dụng, vai trò của thơ là vấn đề Chế Lan Viên luôn trăn trở. Thơ

cháy sáng từ hiện thực đồng thời soi sáng hiện thực. Hay nói cách khác, thơ

cần có ích cho chính mảnh đất hiện thực đã sinh thành nên thơ. Đây không

phải là khám phá mới mẻ của Chế Lan Viên về quan niệm thơ. Truyền thống

dân tộc đã chứng minh sức mạnh hùng hồn của thơ ca trên hành trình đấu

tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc. Từ những bài thơ nặng tình đời, tình dân tộc

97

của ngƣời anh hùng Nguyễn Trãi đến những câu thơ đau đời của đại thi hào

Nguyễn Du, từ những cảnh Chạy giặc tan tác chia lìa trong thơ của nhà thơ

mù Nguyễn Đình Chiểu đến những câu thơ dậy sóng của ngƣời chí sĩ yêu

nƣớc Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng...thơ ca đã không

chỉ là tiếng nói cảm xúc của một con ngƣời cá nhân nhà thơ mà đã là những

tiếng thơ thấu động lòng ngƣời, thực sự cần thiết cho mỗi con ngƣời, mỗi thời

đại. Đến lƣợt mình, Chế Lan Viên trƣớc hết là nói sự trải nghiệm, chiêm

nghiệm của riêng mình, nói sự tự giác trong nhận thức của mình để góp thêm

một tiếng nói làm sâu sắc hơn vai trò của nghệ thuật thi ca, đặc biệt là trong

thời đại Cách mạng. Giữa nền thơ lấy hiện thực cách mạng làm đối tƣợng

phản ánh, lấy phục vụ cách mạng làm mục đích, Chế Lan Viên bằng tài năng

tƣ duy sắc sảo đã có những quan niệm riêng của mình về tính có ích của thơ.

Những quan niệm ấy đƣợc ông trình bày thành một hệ thống chặt chẽ, không

chỉ ở trong những trang phê bình và tiểu luận mà còn ở trong những bài thơ

nhƣ Nghĩ về nghề; Sổ tay thơ; Nghĩ về thơ, nghĩ về nghề, nghĩ...Trong những

bài thơ này, quan niệm của Chế Lan Viên về vai trò của thơ ca đƣợc ông trình

bày sâu sắc với một hệ thống hình tƣợng mang tính suy luận chặt chẽ. Vì vậy

có thể coi đây là những trang tiểu luận bằng thơ hết sức tài hoa của Chế Lan

Viên.

Theo Chế Lan Viên, thơ cần có ích. Hai chữ “có ích” trong quan niệm

của Chế Lan Viên xuất phát từ phƣơng châm phục vụ chính trị của thơ trong

thời đại Cách mạng.

Cuộc sống cần thơ, hiện thực kháng chiến cần thơ. Nếu nhƣ thơ ca bắt

nguồn từ cuộc sống thì cuộc sống cũng rất cần những lời đồng vọng của thơ

ca:

“Đời cần thơ nhƣ cần hồn chiến trận

Cần tiếng sáo thổi lòng thời đại

98

Cần giao liên dẫn dắt qua đƣờng”

(Nghĩ về thơ)

Trong bài tiểu luận Thơ ở nƣớc chúng tôi đang đánh Mỹ, ông đem so sánh sự

cần thiết của thơ nhƣ “cần thiết mặt trời, cần thiết ánh sáng, cần thiết hoa lá,

cần thiết vũ khí”[85, tr. 149]. Ý nghĩa của thơ, trong quan niệm của Chế Lan

Viên nằm ở chỗ, có thể làm cho cuộc sống con ngƣời trở nên sâu xa hơn, chỉ

mƣời phút có thể sống cả một năm. “Thơ ca không kéo dài cuộc sống của con

ngƣời, nhƣng nó làm cho cuộc sống có một dung tích lớn hơn”[85, tr. 149].

Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, khi mà ở đâu đâu trên

mảnh đất Việt Nam này cuộc sống và cái chết song hành hiện hữu thì “thơ ca

đối với chúng tôi cực kỳ cần thiết nhƣ một ngƣời cố vấn, nhƣ ngƣời yêu,

ngƣời mẹ an ủi chúng tôi. Nhân dân không thể sống không có thơ ca, cũng

nhƣ không có vũ khí”[85, tr. 149].

Từ những trăn trở của Chế Lan Viên về Cuộc sống và nhà văn, ngƣời

đọc hiểu thêm về nỗi băn khoăn của ngƣời nghệ sỹ trên hành trình đƣa thơ trở

thành vị muối hay giọt mật cho đời. Đi đến với các nhà máy, ngắm những ống

khói ngút trời trong niềm vui sƣớng hân hoan trƣớc những đổi thay của đất

nƣớc, Chế Lan Viên tƣởng có thể trong một tuần, làm nhanh cũng đƣợc độ

bảy tám bài hay một trƣờng ca độ 900 câu. Để rồi, khi đến gần hơn với cuộc

sống ở nơi đây, ngƣời thi sĩ ấy mới nhận ra: “không thể dứt áo ra đi, vứt lại

đấy một bài thơ ta tuy thích mà họ (những ngƣời công nhân) không cần”[85,

tr. 293]. Ngƣời nghệ sỹ đi thực tế để khơi nguồn sáng tác nhƣng đồng thời

cũng là để hiểu cho thấu những nhu cầu của cuộc sống đối với thơ ca, để làm

thế nào cho mỗi tác phẩm thi ca đƣợc viết nên từ những nguồn cảm hứng lớn

ấy có thể trở lại cuộc sống thắp sáng những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống muôn

hình muôn dạng, phức tạp và đa chiều.

99

Giữa những con ngƣời bảo vệ sự sống, tạo ra sự sống, Chế Lan Viên

thấy thi ca cũng cần có nhiệm vụ “Làm cái gì có ích cho những con ngƣời

ấy?”[85, tr. 179] Tức là thơ ca có thể tiếp thêm sức mạnh, có thể thổi bùng lên

tình yêu hay sự căm hờn, có thể khiến con ngƣời trở về từ những đau thƣơng

mất mát và vẫn có thể ngời lên niềm tin yêu hi vọng. Đặt thơ trong mối quan

hệ giữa sự sống và cái chết, không chỉ của một con ngƣời mà là của cả dân

tộc, nhiệm vụ của thơ vì thế càng trở nên lớn lao hơn bao giờ hết:

“Ta sống những năm viên đạn nặng hơn ngƣời

Nhiệm vụ thơ nặng hơn trang giấy, các tài thơ”

(Thời sự hè 72, bình luận)

Trong bài viết Nền văn hoá từ cuộc sống, Chế Lan Viên thêm một lần nữa nói

rõ hơn về nhiệm vụ của thơ: “Làm cái gì có ích cho những con ngƣời ấy? Cho

bà mẹ ban đêm bế con xuống hầm, ngày mai vẫn đủ sức, tinh thần gieo gặt

các mùa màng? [...] Cho các chiến sỹ hạ máy bay, giữa hai trận đánh lại vẫn

yêu đời, đến hôn những bông hoa bên mân pháo của mình? Làm cái gì cho

giữa chiến tranh, họ vẫn có tâm hồn ngày một nâng cao; ở ngoài đời là tiếng

bom, nhƣng trong hồn họ vẫn là tiếng hát”[85, tr. 179].

Là một nhà thơ cách mạng Chế Lan Viên có thể cảm nhận sâu sắc sứ

mệnh cũng nhƣ vinh quang của thơ ca. “Đƣợc [...] làm thơ văn phục vụ cho

một chiến sỹ giải phóng quân trƣớc giờ anh ra trận, hay là để an ủi, động viên

cho một đồng bào ta ở miền Nam đang còn ngạt thở dƣới hầm sâu của Mỹ và

tay sai...hỏi còn vinh dự nào cho anh chị em văn nghệ chúng ta hơn làm các

công việc hữu ích ấy?”[85, tr. 90].

Trong thời kỳ ấy, đồng thời với việc đề cao, ca ngợi tính chất có ích,

tính chất phục vụ Cách mạng của thơ ở những phƣơng diện lớn lao, Chế Lan

Viên không ngại phê phán những trang thơ trôi xuôi, chƣa thể tự đốt cháy

chính mình chứ chƣa nói gì đến có thể toả sáng hiện thực đã sinh thành ra nó.

100

“Lẽ ra thơ phải nói cho đƣợc lòng tin tƣởng ở thắng lợi, sự quyết tâm chiến

đấu chống xâm lăng, tình thuỷ chung giữa bạn bè, vợ chồng, nỗi hận thù đối

với đế quốc xâm lƣợc Mỹ, cái bình tĩnh của tâm trí, cái thanh thản của một

tâm hồn Việt Nam...thì thơ lại nặng tả một nhà máy, một cánh đồng, một bến

phà”[85, tr. 172-173].

Có những bài thơ chỉ thuộc về một thời, có những bài thơ đi cùng năm

tháng, có những bài thơ chƣa kịp đọc lên đã bị lãng quên, có những bài thơ có

khả năng thắp sáng cả triệu trái tim ngƣời đọc. Sức sống mãnh liệt ấy trong

thơ, phần nhiều đƣợc tạo nên bởi giá trị có ích của thơ đối với ngƣời đọc. Dù

trong thơ là chuyện của một ngƣời hay của muôn ngƣời, dù thơ tả tình hay tả

cảnh, dù thơ kể chuyện hay chỉ đơn thuần ghi nhanh vài dòng cảm xúc, điều

cốt yếu là tiếng thơ ấy, khi đọc lên, hát lên có thể làm bừng sáng lòng ngƣời,

có thể xoa dịu nỗi đau hay thôi thúc con ngƣời hành động...tức là có giá trị gì

đối với con ngƣời và cuộc sống. Cả đời làm thơ, Chế Lan Viên luôn tâm

niệm:

“Dù hình tháp hay hình thoi, mỗi hạt gạo phải làm nên máu thịt

Dù cành thấp hay cành cao, mỗi chùm hoa đều phải gọi ong về

Thơ cần có ích

Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi”

(Nghĩ về thơ)

Nhƣ chúng tôi đã trình bày ở trên, quan niệm về tính có ích của thơ của

Chế Lan Viên không mới, nhƣng trong thời điểm lịch sử cụ thể, trong những

năm tháng “viên đạn nặng hơn ngƣời”, thì những quan niệm của Chế Lan

Viên thực sự đã đóng góp làm sâu sắc hơn lý luận về thơ đồng thời trở thành

hành trang đẹp đẽ của biết bao nhà thơ cũng nhƣ biết bao ngƣời yêu thơ trên

suốt hành trình “Xẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc”(Tố Hữu).

101

Trong những năm cuối của cuộc đời mình, Chế Lan Viên nói càng nhiều

đến tính có ích của thơ ca (dù ông không phát biểu trực tiếp bằng phê bình,lý

luận). Mặc dù ông chƣa bao giờ và không bao giờ phủ nhận vai trò của thơ ca,

nhƣng trong Di cảo thơ chúng tôi đã thấy ông có những phán xét, hoài nghi

về vai trò có ích của thi ca với một thái độ tƣởng chừng nhƣ không còn tin

tƣởng, băn khoăn đến mức bi quan. Theo chúng tôi đây là quan niệm thơ đau

đớn nhất và chua xót nhất trong suốt hành trình thơ Chế Lan Viên:

“Mậu Thân 2000 ngƣời xuống đồng bằng

Chỉ một đêm còn sống có 30

Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 ngƣời đó?

Tôi! Tôi – ngƣời viết những câu thơ cổ võ

Ca tụng ngƣời không tiếc mạng mình trong cuộc xung phong”

(Ai? Tôi!)

Chế Lan Viên hiểu rằng trong lúc “Ta đang tính đến sinh mệnh triệu

con ngƣời và vạn khoảnh non sông” là lúc không thể thiếu vắng “tiếng hét ở

chiến hào”. Nhƣng hôm nay, nhìn lại những việc đã làm, không khỏi day dứt,

ông tự quy kết trách nhiệm cho mình, tự kết tội mình vì ông đã viết “những

câu thơ cổ võ - Ca tụng ngƣời không tiếc mạng mình trong cuộc xung

phong”. Câu hỏi “Ai chịu trách nhiệm…Ai”? Vang lên riết róng. Chế Lan

Viên đóng vai một quan toà đồng thời cũng là một tội nhân. Đau đớn và dũng

cảm, ông thú tội “Tôi”. Bao nhiêu năm đã qua mà nỗi ăn năn sám hối, sự day

dứt ám ảnh cứ còn đeo đẳng mãi. Nhà thơ thấy mình không chỉ có tội với

ngƣời đã chết mà còn có tội với ngƣời đang sống:

“Một trong ba mƣơi ngƣời kia ở mặt trận về sau mƣời năm

Ngồi bán quán bên đƣờng nuôi đàn con nhỏ

Quán treo huân chƣơng đầy mọi cỡ

Chả huân chƣơng nào nuôi đƣợc ngƣời lính cũ

102

…Ngƣời lính cần một câu thơ giải đáp về đời

Tôi ú ớ

(Ai? Tôi!)

Ngƣời nghệ sỹ đã từng viết những câu thơ có sức cổ vũ hàng vạn ngƣời giờ

đây day dứt bởi chẳng có câu thơ nào của mình có thể giúp ngƣời chiến sỹ

năm xƣa nuôi đàn con nhỏ. Ngƣời nghệ sỹ một thời làm thơ với tầm vóc

“ngang tầm chiến luỹ” nay cay đắng chua chát, thẳng thắn nhận diện thơ anh

viết chƣa thực sự giúp con ngƣời có thể sống. Từ quan niệm “thơ có ích” cho

lịch sử và dân tộc, cho Cách mạng vào thời điểm trƣớc năm 1975, Chế Lan

Viên hƣớng sự “có ích” của thơ tới sự sống của mỗi cá nhân con ngƣời khi

bƣớc ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc (sau 1975). Từ quan niệm thơ có ích

cho một thời đến quan niệm thơ có ích cho mọi thời, hành trình ấy là một

cuộc đấu tranh không dễ dàng trong chính nhà thơ, và đặc biệt trong thời đại

“Vị trí nhà thơ nhƣ rác đổ thùng”:

“Dù anh có để cho đời sau

Thì đời sau đọc của đời sau chứ cần gì anh đấy

Và những trang anh viết bay đi nhƣ thóc lép,

nhƣ là mùa, nhƣ giấy vàng hồ, nhƣ những tàn tro!

(Uổng công)

Khi thơ phải đối mặt với nhữ “ti vi”, “xe cúp”, Chế Lan Viên đau đớn nhận ra

ý nghĩa cảm hóa tâm hồn nhân loại của thơ ca đã mai một đi nhiều:

“Những thế kỷ đông ngƣời mà nhân loại vắng tanh

Uổng công con công thơ xòe đuôi ngôn ngữ của mình

Sao bằng khi nhân loại còn ở hang tiền sử

Chƣa có thơ gì nhƣng giọt lệ đã long lanh”

(Thế kỷ)

103

Chế Lan Viên đã nhìn thấy một sự thật phũ phàng: số ngƣời quan tâm đến thơ

ngày càng ít, sự tác động của thơ đến hồn ngƣời là không đáng kể. Ông đã

nhìn nhận vào vấn đề đầy đau đớn này không phải chỉ bằng trái tim của một

ngƣời nghệ sỹ, mà bằng lý trí của một triết nhân, bằng sự dũng cảm của một

nhà Cách mạng. Chúng tôi cho rằng, những mâu thuẫn trong quan niệm nghệ

thuật về thơ có ích của Chế Lan Viên qua các thời kỳ không có tính chất loại

trừ, quan niệm thời kỳ sau không loại trừ quan niệm thời kỳ trƣớc. Mà cần

hiểu đó là mạch vận động của một tƣ duy thơ nhiều trăn trở về nghề thơ và

cuộc đời, về những giá trị nhất thời và vĩnh cửu trong thơ.

3.2.3. Thơ cần có ý, có tư tưởng và trí tuệ

Cái cốt lõi của thơ là trữ tình. Ngƣời làm thơ nhƣ Chế Lan Viên cũng

nhƣ ngƣời yêu thơ, ngƣời đọc thơ hiểu rằng thơ bao giờ cũng là tấm gƣơng

của tâm hồn, là tiếng nói của tình cảm con ngƣời, những rung động của trái

tim trƣớc cuộc đời.

Thơ là thể loại ra đời rất sớm. Những bài hát trong lao động của ngƣời

nguyên thuỷ đƣợc xem là những hình thức đầu tiên của thơ ca. Trƣớc Công

nguyên, ở Trung Quốc, từ thơ ca dân gian, Khổng Tử đã san định Kinh thi.

Trong văn học Việt Nam, từ trung đại, cận đại cho đến hiện đại, thơ là thể loại

có nhiều thành tựu nhất. Lý giải cho những thành tựu lớn lao cũng nhƣ tính

phổ biến của thi ca trong tiến trình phát triển của lịch sử loài ngƣời, trƣớc hết

phải nói đến khả năng biểu đạt cảm xúc của thi ca

Có thể nói, tình cảm là sinh mệnh của thơ. Tình cảm mãnh liệt ở đây

không phải thứ tình cảm kêu gào, khóc cƣời ồn ào ở bên ngoài, mà là sự rung

động mãnh liệt ở bên trong, sự giày vò, chấn động trong tâm hồn. Tình cảm

mãnh liệt ở đây có nghĩa là nhà thơ phải sống rất sâu vào tâm hồn mình, lắng

nghe các xao động trong tâm hồn mình, đau đớn, sƣớng vui với những gì

trong ấy.

104

Thơ là sự thổ lộ tình cảm một cách mãnh liệt. Nhƣng thơ không phải là

sự thổ lộ tình cảm một cách bản năng, trực tiếp. Tình cảm trong thơ là tình

cảm đƣợc ý thức, tình cảm đƣợc lắng lọc qua cảm xúc thẩm mỹ, gắn liền với

khoái cảm của sự tự ý thức về mình và cuộc đời. Chế Lan Viên trong bài Ý

trong thơ, in trong tập Phê bình văn học cũng đã lên tiếng thể hiện sắc nét

quan niệm của mình: “Chúng ta phải làm thơ có ý với một sự dụng ý rõ

rệt”[84, tr. 301].

Làm thơ có ý, đó là cách Chế Lan Viên phân biệt thơ của “chúng ta”, thơ

của thời đại cách mạng hôm nay với thơ trƣớc cách mạng. “Ông cha ta cách

đây mấy trăm năm đã dạy: “Làm thơ là để đạt cái chí của mình”. Nhƣng có

anh em ta cách đây mƣời mấy năm lại dạy: “Làm thơ là để không cần nói cái

gì cả”. Hồi ấy, nếu trong làng thơ có ai bảo: “Bài thơ phải có một cái ý gì”, thì

có ngƣời sẽ cho là anh ấy chƣa biết đạo làm thơ. Thơ, theo lúc bấy giờ là Cảm

xúc, là Hình ảnh, là Nhạc điệu, hay là Đạo. Gì thì gì, chứ thơ là ý, là Tƣ

tƣởng, là Lý trí thì lập tức có ngƣời giẫy nẩy lên”[84, tr. 302]. Không đồng

tình với quan niệm thơ chỉ là cảm xúc, chỉ là hình ảnh, hay chỉ là nhạc điệu,

Chế Lan Viên cho rằng, quan niệm thơ nhƣ thế, vô hình chung đã tạo nên một

sợi “thòng lọng” thít chặt lấy thế giới thi ca và tâm hồn ngƣời nghệ sỹ. Nghĩ

lại quan niệm thơ một thời, ông không khỏi rùng mình sợ hãi: “Và hú vía!

Nếu Cách mạng không đến, thì tôi cũng đùn vào cái thòng lọng tắc tị ấy, cả

tâm hồn và nghệ thuật của tôi”[84, tr. 302].

Theo ông, cái ý, cái lý trí đóng vai trò nòng cốt, giúp ngƣời làm thơ có

thể kiểm soát những cảm xúc của mình nhiều khi rất cần kiểm soát. Nếu

ngƣời làm thơ chỉ chăm chữ, chăm câu, chăm hình ảnh thì thơ ấy là thứ thơ

hình thức; nếu ngƣời làm thơ không dùng suy nghĩ, lý trí để lọc thực tế, suy

nghĩ về thực tế, nâng nó lên, làm cho nó có chất tƣ tƣởng của thời đại và của

chính mình, thì thơ ấy là thứ thơ tự nhiên chủ nghĩa; nếu ngƣời làm thơ không

105

coi trọng công tác phục vụ chính trị, chỉ viết nhƣ trang thơ tình ái riêng tây,

thì thơ ấy là thơ thoát ly chính trị... Và rõ ràng, nếu từ chối cái ý, từ chối cái lý

trong thơ thì sẽ không khác nào ngƣời làm thơ từ chối khoa học, từ chối khoa

học xã hội, từ chối chính trị vào trong thơ. Lên tiếng phê phán quan niệm thơ

chỉ là cảm xúc, chỉ là hình ảnh,... Chế Lan Viên đồng thời khẳng định tính

đúng đắn của quan niệm thơ có ý trong các nhà thơ thuộc thời đại Cách mạng.

“Thực tế thì sau mƣời mấy năm kháng chiến, cách mạng, bài thơ bây giờ đều

có ý, đều có cái lý tối thiểu của mình”[84, tr. 303].

Đem ý đặt giữa thế giới của cảm xúc và nhạc điệu, Chế Lan đặt vấn đề

“Làm sao cho bài thơ không dụng ý một cách loã lồ, không tuyên truyền một

cách trắng trợn”[84, tr. 302]. Nghĩa là ông rất quan tâm tới vấn đề, làm thế

nào để biến ý trừu tƣợng ra hình ảnh cụ thể, làm thế nào để không đƣa thẳng

đuột ý của mình vào thơ? Giải quyết vấn đề này, ông nhấn mạnh, thơ có tính

riêng biệt. Đó là tính riêng biệt của một thứ nghệ thuật không chỉ thể hiện tình

cảm mà còn thể hiện tƣ tƣởng, không phải bằng trừu tƣợng, mà bằng những

hình ảnh rất sinh động trong cuộc sống. Để giải quyết mạch lạc vấn đề lý luận

này tới bạn đọc, Chế Lan Viên đã dẫn ra một loạt những ví dụ: từ ý trừu

tƣợng “đọc sách”, Nguyễn Du đã biến nó thành “Cảo thơm, lần giở trƣớc

đèn” làm hiển hiện trƣớc ngƣời đọc một quyển sách, một ánh lửa, một bàn

tay; từ ý “đức, hạnh” đến hình ảnh “Ngƣời trồng cây hạnh ngƣời chơi-Ta

trồng cây đức để đời về sau” là quá trình đi từ cụ thể đến trừu tƣợng của thơ;

từ ý khao khát tự do, giải phóng bài thơ của Hồ Chí Minh đƣợc ra đời bằng

những hình ảnh lớn lao đẹp đẽ: “Nhà lao thƣ thả ngủ chơi trƣa-Một giấc miên

man suốt mấy giờ-Mơ thấy cƣỡi rồng lên thƣợng giới-Tỉnh ra trong ngục vẫn

nằm trơ”.

Nguyễn Đình Thi từng viết: “Làm thơ không phải là phiên dịch ý, tình

bằng hình ảnh cầu kỳ. Hình ảnh của thơ trái lại, phải là hình ảnh thực nảy lên

106

trong tâm hồn khi ta sống trong một cảnh huống hoặc trạng thái nào đấy”[84,

tr. 306]. Đề cao vai trò của ý ở trong thơ, Chế Lan Viên tỏ ý kiến đồng tình

với quan niệm của Nguyễn Đình Thi. Ông viết: “Phải viết những hình ảnh có

ý tƣởng, hay phải diễn tả những ý tƣởng dính ảnh hình, bằng ảnh hình...Đó là

hai mặt của một việc làm là làm thơ, nhƣ bật ngọn lửa lên vừa có một hình

ảnh sáng, vừa có một sức nóng, không thể nào bảo cái nào trƣớc, cái nào sau

đƣợc”[84, tr. 307].

Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã đƣợc ý thức. Trong thơ, nhà thơ

nhìn mình theo một con mắt rộng hơn chính mình, một con mắt phổ quát.

Trong thơ, nhà thơ không bị tình cảm mãnh liệt của mình chi phối, trái lại, ý

thức nhà thơ làm chủ tình cảm của mình bằng một tƣ tƣởng. Nhƣ vậy, đối với

Chế Lan Viên, thơ không chỉ là cảm xúc, thơ còn cần phải có ý, có tƣ tƣởng.

Có thể thấy rằng, nền thơ của một thời đại, chỉ có trái tim, dù trái tim xúc

cảm si mê đến đâu cũng không đủ. Thơ phản ánh thực tế là phản ánh bằng tƣ

duy hình tƣợng. Nghĩa là hình tƣợng trong thơ là hình tƣợng có tƣ duy, có tƣ

tƣởng. Đây là quan niệm nghệ thuật mang tính quan phƣơng, đề cao vai trò

của yếu tố tƣ tƣởng, coi tƣ tƣởng (đặc biệt là tƣ tƣởng Cách mạng, lý tƣởng

cộng sản) là một trong những tiêu chí để thẩm bình, định giá thi ca nghệ thuật.

Chế Lan Viên cho rằng: “Trong những cái mà Đảng đƣa lại cho ta, cái quý

nhất chính là cái hơi thở của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”[85, tr. 170].

Chất tƣ tƣởng mà Chế Lan Viên muốn nói đến ở đây là tƣ tƣởng Cách mạng,

là lý tƣởng cộng sản, là tƣ duy Cách mạng, là những suy nghĩ của cả một thời

đại, một dân tộc trong thơ. Cách mạng là hành động lớn của những suy nghĩ

lớn. Thơ ca phản ánh hiện thực Cách mạng đồng thời phải thể hiện đƣợc

những suy nghĩ lớn ấy. Trƣớc đây, trong mỗi bài thơ, ta chỉ thấy cái nhìn của

một ngƣời. Giờ đây trong mỗi bài thơ cần thấy đƣợc cái suy nghĩ của cả một

dân tộc. Những lời phát biểu của Bác, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, các

107

đƣờng lối, nghị quyết của Đảng, những lễ kỷ niệm các anh hùng dân tộc –

Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...tất cả sự sống, chiến đấu, sản xuất, nghĩ suy của

dân ta gộp lại sẽ cho những ngƣời cầm bút cái suy nghĩ lớn.

Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, song trong cái gia tài văn học, nghệ

thuật của cha ông để lại, tỷ lệ những bài thơ hƣớng đƣợc đến tầm suy nghĩ của

dân tộc và thời đại chƣa nhiều. Cái ấm nóng trong thơ còn thua xa cái cháy

bỏng ngoài đời. Nghĩ về thơ ca trong thời đại Cách mạng rực lửa, Chế Lan

Viên có nhiều băn khoăn: “Lẽ ra cầm quyển sách ta lên phải là cái bìa cháy

bỏng, trang giấy cháy bỏng, những câu thơ cháy bỏng” [85, tr. 170]. Những

hạn chế về mặt tƣ tƣởng của thơ ca thời đại Cách mạng đƣợc Chế Lan Viên

nhận thức sâu sắc. Ông chỉ rõ trong những năm toàn đất nƣớc có một tâm

hồn, có chung khuôn mặt, thì xã hội chủ nghĩa, chống Mỹ là tiếng nói riêng

của dân tộc Việt Nam. Nó phải in lên vầng trán, phản chiếu vào đôi mắt mọi

nhà thơ. Song cái ngọn gió chung, cái hoài bão chung, cái tâm huyết chung ấy

rất rõ ngoài đời, nhƣng chƣa rõ trong thơ.

Nguyễn Minh Châu khi nhìn lại nền văn học thời đại Cách mạng nhận

thấy tính “minh họa” xuất hiện nhƣ là một hành lang chật hẹp của tƣ duy nghệ

thuật. Hoàng Ngọc Hiến coi đó là nền “Văn học phải đạo”. Chế Lan Viên khi

một mực đề cao chất tƣ tƣởng Cách mạng trong thơ đã rơi vào sự “minh họa”

và “phải đạo” trong quan niệm nghệ thuật nhƣ Nguyễn Minh Châu và Hoàng

Ngọc Hiến từng nhận định. Song trong những năm kháng chiến, cùng nhân

dân, lực lƣợng thơ đã đóng góp không nhỏ vào việc tạo nên sự giữ vững vàng

của trận địa tinh thần dân tộc. Tƣ tƣởng Cách mạng, tƣ tƣởng thời đại, những

suy nghĩ lớn lao của dân tộc, lịch sử trong thơ đã tạo nên sức mạnh ấy. Là một

nhà thơ của nền văn học Cách mạng, Chế Lan Viên vừa đồng thời thể hiện

đƣợc tƣ tƣởng lớn của mình trong thơ, vừa trình bày sâu sắc quan niệm thơ

mang tính tƣ tƣởng trong những trang phê bình tiểu luận. Nếu nhƣ văn học

108

nghệ thuật là một mặt trận thì Chế Lan Viên chính là ngƣời chiến sỹ đã chiến

đấu hết mình trên mặt trận ấy. Những đóng góp lớn ấy của Chế Lan Viên

trong dòng chung của văn học thời đại Cách mạng là không thể phủ nhận.

Trong quan niệm nghệ thuật về thơ, Chế Lan Viên đặc biệt lƣu tâm đến

vấn đề trí tuệ trong thơ. Với vấn đề này, ông trao đổi về hai khuynh hƣớng mà

theo ông đều không đúng khi bàn bạc và đánh giá: đề cao quá mức là không

đúng, mà xem thƣờng nó, hạ thấp nó cũng là không đúng.

Với xu hƣớng đề cao thơ trí tuệ, Chế Lan Viên đã có lần tâm sự: “Khi

có ai bảo, anh ấy làm thơ trí tuệ, tôi cứ ngƣợng, cứ nhƣ ngƣời ta nói: “Kìa anh

ta đeo kính gọng vàng”. Giá đừng đeo kính, mà có một đôi mắt đẹp có hơn

không?”[85, tr. 327]. Ông không thích đƣợc gọi là làm thơ trí tuệ. Bởi hai lý

do. Thứ nhất, khi ông làm thơ “trí tuệ”, ông thấy mình không có gì khác trong

ngƣời cả, nhƣ khi ông làm thơ về tình yêu, về con trẻ. Và trong quan niệm của

riêng ông, làm cho đƣợc một bài thơ tình yêu, một bài thơ về con trẻ, về liễu

mùa xuân, nào có dễ gì. Thứ hai, đã là thơ hay thì thơ nào với Chế Lan Viên

cũng đáng trân trọng. Vì nhu cầu của con ngƣời là rất phong phú. Độc giả

thích những bài thơ làm suy nghĩ nhƣng cũng thích những bài thơ ru mình đi,

thích “Ôi thời đại...” nhƣng cũng thích “Bống bống bang bang”...Ông đã có

lúc đùa với Tế Hanh rằng: “Mình quen làm triết nhân nửa mùa đến quên làm

tình nhân và hay hét quá đến không hát trầm đƣợc nữa”[85, tr. 328]. Lời nói

đùa ấy thực chất là những nhận thức sâu sắc của Chế Lan Viên về thơ trí tuệ,

những suy tƣ, những chiêm nghiệm của ông về thơ, ý nghĩa và tác dụng của

nó.

Đề cao thơ trí tuệ, xem nhƣ đó là cái gì thời đại nhất là không ổn.

Nhƣng với những quan niệm xem thƣờng thơ trí tuệ, Chế Lan Viên cũng đã

tranh luận thẳng thắn để đi đến một quan niệm đúng đắn nhất về thơ. “Tôi đọc

nhiều bài thơ trí tuệ của Eluard, của Brecht còn rung động hơn nhiều bài tình

109

cảm sƣớt mƣớt hay rề rà tả tình, tả cảnh! Đừng có nói trái tim cao hơn bộ óc!

Không khéo thì rơi vào chủ nghĩa phi lý lúc nào cũng nên”[85, tr. 328].

Khi đã là thơ, thật khó để phân biệt đâu là bộ óc, đâu là trái tim. Theo

Chế Lan Viên, tình cảm và trí tuệ đối với thơ là rất quan trọng. Không thể cứ

dựa vào tình cảm mà phủ định ý thơ, chất tƣ tƣởng cũng nhƣ chất trí tuệ của

thơ. Cũng không thể đề cao thơ trí tuệ, thơ tƣ tƣởng mà coi thƣờng thơ tình

cảm. Từ những các bài phê bình, tiểu luận, tựa các tập thơ, hay tham luận

trong nƣớc và quốc tế, Chế Lan Viên đã định hình một cách có hệ thống,

mang tính lý luận sâu sắc những quan niệm của bản thân về thơ. Thơ khởi

phát từ sự mãnh liệt của cảm xúc, nhƣng thơ không chỉ là cảm xúc, thơ trong

quan niệm của Chế Lan Viên là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã đƣợc ý thức.

Nói cách khác, thơ là sự kết hợp hài hoà của tình và ý, của tƣ tƣởng và cảm

xúc, của trí tuệ và nhịp rung động sâu xa trong trái tim và tâm hồn ngƣời thi

sỹ.

3.3. Thơ là tiếng nói của trí tƣởng tƣợng

Nếu tình cảm là sinh mệnh của thơ thì tƣởng tƣợng là đôi cánh của thơ.

Tƣởng tƣợng là hoạt động tâm lý, phân giải, tổ hợp các biểu tƣợng đã có để

tạo ra hình tƣợng hoàn toàn mới. Mọi nghệ thuật đều cần đến tƣởng tƣợng.

Thơ không xây dựng các hình tƣợng khách thể nhƣ nhân vật trong truyện hay

kịch, kí mà xây dựng hình tƣợng của bản thân dòng ý thức, cảm xúc đang

diễn ra, vì thế, tƣởng tƣợng trong thơ càng có vai trò quan trọng. Trong quan

niệm của nhà thơ Chế Lan Viên “thơ không có tƣởng tƣợng nhƣ bể đã cạn hết

nƣớc, con cá không sống vào đâu đƣợc nữa”[85, tr. 697]. Thơ phản ánh thực

tế bằng lung linh, bằng đƣờng cong cho nên nhà thơ rất cần trí tƣởng tƣợng.

Song tƣởng tƣợng Chế Lan Viên nói đến ở đây không phải là thứ tƣởng

tƣợng huyễn hoặc thoát ly cuộc sống. Đồng thời với việc đề cao trí tƣởng

tƣợng trong quan niệm về thơ của mình, ông quan tâm đặc biệt để lý giải sâu

110

sắc mối quan hệ khăng khít giữa trí tƣởng tƣợng và hiện thực. Trong bài nói

chuyện Bình thơ – giảng thơ ông cho rằng: “Tƣởng tƣợng đi trƣớc mở đƣờng

cho thực tế nhƣng chính tƣởng tƣợng là con đẻ của thực tế. Tác giả của Mai

đình mộng kí nói rất đúng: “Chỉ những ngƣời có đại giác mới có đại mộng”.

Sự hiểu biết rộng lớn ở đây trƣớc hết là sự hiểu biết thực tế, nên có thể nói:

Có thực tế lớn mới có mơ mộng lớn”[85, tr. 696]. Mối quan hệ giữa tƣởng

tƣợng trong thơ và thực tế đƣợc Chế Lan Viên thể hiện bằng hình ảnh con

diều và sợi dây của nó. Thơ phải “lung linh” giữa giải thích đƣợc và không

giải thích đƣợc, giống nhƣ con diều “khả bay và bất khả bay”, phải tung cánh

đƣợc lên trời rất cao, đừng có chỉ là là mặt đất, nhƣng cũng phải có cái dây

mà kéo xuống đất đƣợc, chứ đừng theo tƣởng tƣợng mà bay mất. Vấn đề là

phải biết tƣởng tƣợng nhƣ thế nào, tƣởng tƣợng phải có sự giám sát của lý trí.

Thơ thể hiện những hình ảnh của cuộc đời, đồng thời tạo thêm ra nhiều hình

ảnh khác cho cuộc đời. Chế Lan Viên cho rằng thơ cần cái thật:

Em là con gái Bắc Giang

Nhƣng nó cũng cần cái hƣ:

Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?

Em có tuổi hay không có tuổi?

Ông yêu cầu thơ cần cái chân xác:

Cá nục, cá chim cùng cá đé...

Và cũng cần cái huyễn hoặc:

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng...

Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi.

Hiện thực cuộc sống và thế giới cảm xúc trong thơ có hàng trăm, hàng

nghìn cách thể hiện. Có lúc nói thực, có lúc nói hƣ, có khi nói thẳng, mà có

lúc quanh co cũng rất cần thiết. Nghệ thuật đi bằng đƣờng cong dù nó vẫn là

“đất đối đất”:

111

“Những câu thơ pháo đất đối đất phải qua trời bằng

một đƣờng cong

Có những lúc câu thơ phải bắn cầu vồng

Mà ngƣời nhắm vẫn là nhắm thẳng”

(Nghĩ về nghề...nghĩ về thơ...nghĩ)

Chế Lan Viên nói chuyện đi xem múa rối, có ngƣời nói con rối chỉ làm

đƣợc mấy động tác, sao không đƣa ngƣời thật lên sân khấu có hơn không?

Ông phản đối gay gắt: “Nói nhƣ vậy thì còn gì nghệ thuật múa rối nữa”. Thơ

cũng vậy, “không có trí tƣởng tƣợng thì làm sao có đƣợc những câu thơ

hay”[85, tr. 696].

Thơ cần sự thành thực của ngƣời nghệ sỹ. Mà tâm hồn ngƣời nghệ sỹ

vốn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn và bay bổng. Cho nên, khi ngƣời nghệ sỹ viết

nhƣng câu thơ mông lung, ảo diệu thì có thể đó chính là những thành thật nhất

của tâm hồn con ngƣời ấy. Quan niệm thơ là nghệ thuật của trí tƣởng tƣợng,

Chế Lan Viên muốn đƣa ngƣời đọc đến với muôn cách thể hiện của thơ ca về

hiện thực cuộc sống và thế giới tâm hồn của ngƣời nghệ sỹ, đồng thời mỗi

ngƣời nghệ sỹ, bằng tất cả sự chân thành của trái tim và tâm hồn cần thiết

phải làm cho thơ đạt đến cõi ảo, cõi mê.

3.4. Vấn đề hình thức trong thơ

Là một nhà thơ chịu tìm tòi, suy ngẫm trong nghề, Chế Lan Viên nói

nhiều đến vấn đề hình thức thơ không chỉ trong thơ mà còn trong các bài phê

bình, tiểu luận. Chúng tôi tập trung vào những vấn đề về hình thức trở đi trở

lại trong phê bình và tiểu luận của Chế Lan Viên: ngôn ngữ thơ, vần điệu

trong thơ, những bộ phận của một bài thơ và sự phù hợp giữa nội dung và

hình thức thơ.

Bàn về vấn đề ngôn ngữ trong thơ, trong bài viết Ngôn ngữ của quần

chúng và của nhà văn, Chế Lan Viên đặc biệt nhấn mạnh hai khía cạnh: Thứ

112

nhất, phải học tiếng nói của quần chúng và học trong tất cả vẻ đa dạng của nó;

thứ hai, phải coi trọng vai trò của nhà văn trong vấn đề sáng tạo ngôn ngữ.

Ngôn ngữ của quần chúng tạo nên sự đa dạng cho ngôn ngữ thơ. Sự đa dạng

ấy thể hiện rõ rệt trong ca dao. Khảo sát ngôn ngữ ca dao, điều ấn tƣợng nhất

của Chế Lan Viên đó là cảm giác “lạ vô cùng” ngay cả đối với những câu thơ

rất quen thuộc. Đi tìm cái lạ trong ngôn ngữ thơ quần chúng, khẳng định mỗi

ngƣời nghệ sỹ cần phải học những sáng tạo của quần chúng, Chế Lan Viên

đồng thời nêu rõ quan niệm của ông về ngôn ngữ thơ. Với ông, ngôn ngữ thơ

là thứ ngôn ngữ của sự sáng tạo. Quần chúng sáng tạo ngôn ngữ ngay trong

lời nói hằng ngày của chính bản thân mình. Ngƣời nghệ sỹ cũng vậy, trong

mỗi sáng tác, đừng để ngôn ngữ mãi là tài sản chung của xã hội, hãy biến

ngôn ngữ thành sản phẩm riêng của cá nhân, hãy đem đến cho ngôn ngữ thơ

cái dấu ấn cá nhân đậm nét.

Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ đƣợc tinh lọc, gọt giũa. Nhà thơ chính là

ngƣời thợ ngôn ngữ ấy, vào trong cái bể bao la vô tận của quần chúng, tìm lấy

cái đẹp vĩ đại của ngôn ngữ đang hoà tan trong ấy, và cấu tạo nên những tác

phẩm. Theo Chế Lan Viên, một tác phẩm dù là tuyệt tác đi nữa, có là gì đâu

trƣớc ngôn ngữ vô cùng phong phú của quần chúng nhân dân, nhƣ hạt muối

có là gì bên cạnh bể. “Nhƣng về cấu tạo, về tổ chức mà nói, có phải hạt muối

kia cao hơn chất mặn hoà tan trong bể? Những tác phẩm văn học nhƣ

TRUYỆN KIỀU, Chinh phụ ngâm, THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG, THƠ YÊN ĐỔ,

Xống chụ xon xao (Thái), Tiếng hát làm dâu (Mèo), (...) là cao hơn tiếng nói

thƣờng vì ngôn ngữ ở đấy nhờ có các tác giả vô danh hay hữu danh đã đƣợc

kết tinh”[85, tr. 144].

Tài năng của ngƣời nghệ sỹ biểu hiện trong việc sáng tạo ngôn ngữ.

Chế Lan Viên làm sáng tỏ điều này bằng một loạt những ví dụ: “Cùng một ý

ngƣời đàn bà khóc nhƣ cành hoa lê đẫm mƣa” lấy từ thơ Bạch Cƣ Dị (Lê hoa

113

nhất chi xuân đái vũ), Nguyễn Du viết: “Cành hoa lê đã đầm đìa giọt

mƣa”...Tản Đà viết: “Cành hoa lê trĩu hạt mƣa xuân dầm”. Cùng một ý “bàn

tay đàn đến chảy máu”, Nguyễn Du viết: “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón

tay”. Tƣơng An quận vƣơng viết: “Bốn dây ứa máu tì bà”...[85, tr. 146]. Ngôn

ngữ trong thơ là thứ ngôn ngữ cô đọng, súc tích, giàu hình ảnh và giàu cảm

xúc. Đó là thứ ngôn ngữ đã đƣợc tinh luyện qua sự chọn lọc khắt khe của

ngƣời nghệ sỹ. Song không nên hiểu rằng, cứ ngôn ngữ chau chuốt, cứ sáng

tạo ngôn ngữ đa dạng mà có thể thành thơ. Thơ còn là tình, là ý, là tƣ tƣởng,

là trí tuệ... vấn đề ở đây là Chế Lan Viên muốn nhấn mạnh ngôn ngữ của hình

thức trong sự phù hợp với nội dung.

Với phong cách phê bình tranh biện, Chế Lan Viên trong những bài phê

bình hay tiểu luận của mình thƣờng có cách nêu vấn đề từ các ý kiến trái

chiều, để từ đó thể hiện ý kiến của bản thân, hoặc bác bỏ, hoặc đồng tình.

Giọng điệu phê bình đanh thép từ tƣ duy phê bình quyền uy khiến Chế Lan

Viên thƣờng đại ngôn khi trình bày quan niệm, viện dẫn Đảng nhƣ một nền

tảng tƣ tƣởng vững vàng. Bàn về ngôn ngữ thơ hiện đại cần phải “mộc”. Chế

Lan Viên đồng tình. Song có ngƣời khác lại bảo “chỉ mộc mới là thơ”. Và

Chế Lan Viên đã ngay lập tức lên tiếng: “ Quả là các bạn ấy chƣa đƣợc thông

tin về vấn đề này. Họ không đọc kĩ Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng khi Thủ

tƣớng nói về câu ca dao mộc: “Hỡi cô tát nƣớc bên đàng”...và về câu thơ

“Long lanh đáy nƣớc in trời” điêu luyện. “Một hòn ngọc hãy còn mộc mạc

của dân gian và một hòn ngọc đã qua tay ngƣời thợ thiên tài””[85, tr. 325].

Quan niệm ngôn ngữ thơ mộc mạc với quan niệm ngôn ngữ thơ tinh luyện

không đối lập mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Nó song hành tồn tại

trong một nhà thơ, trong một nền thơ. Xuân Diệu viết không chút văn

chƣơng: “Hỡi xe đang chạy với bu gà”. Lại cũng văn chƣơng đẹp đẽ khi ông

viết: “Ngày hoá bếp hồng em chụm thổi - Đêm thành lụa tuyết để em thêu”. Ở

114

Việt Nam, ngƣời ta yêu ca dao mộc mạc và đề cao Truyện Kiều điêu luyện,

tinh hoa.

Chế Lan Viên cho rằng, phải điêu luyện cật lực mới trở nên trong sáng.

Ngôn ngữ thơ trong quan niệm Chế Lan Viên vì thế là thứ ngôn ngữ sáng tạo,

tinh luyện, mà vẫn mộc mạc, giản dị và trong sáng. Đó là một yêu cầu nghệ

thuật lớn lao và muôn thuở đối với ngôn ngữ thơ ca.

Hình thức thơ còn là vấn đề tạo vần cho thơ. Vần là một bộ phận của

hình thức, vần góp phần làm ra thơ nhƣng thơ không phải là vần. Có rất nhiều

ngƣời làm thơ dở nhƣng lại bỏ vần rất tuyệt. Nhƣ vậy, vần có thể tạo nên vẻ

đẹp cho thơ, nhƣng chỉ có vần đẹp thì không thể là bài thơ hay.

Học làm thơ, nhiều ngƣời băn khoăn hỏi Chế Lan Viên về cách gieo

vần. Trả lời họ, ông đã nhắc đi nhắc lại quan niệm của mình về vai trò của

vần trong thơ: “Thơ là tƣ tƣởng, là tình cảm, là cảm giác, là hình ảnh ...rồi thứ

đến mới là vần và bằng trắc. Có nhiều ngƣời viết văn xuôi nhƣ Tô Hoài,

Nguyễn Tuân, Nguyên Ngọc mà vẫn đƣợc gọi là thi sỹ, trong khi đó, nhiều

nhà thơ vì có vần quá, nên lại rất “văn xuôi””[84, tr. 606].

Vần điệu trong thơ đƣợc Chế Lan Viên nói đến nhƣ chuyện của ngƣời

phụ nữ đan áo, hay ngƣời đánh cờ mồm. Đan len và đánh cờ vốn không phải

chuyện giản đơn, thế mà họ không nhầm lấy một mũi kim, một nƣớc cờ. Bởi

họ đã thuộc lối đan len và lối đánh cờ. Nhà thơ cũng phải thuộc, phải quen lối

gieo vần, lối bắt vần phối hợp với âm thanh, nhịp điệu, thì khi sáng tác mới có

đƣợc sự thoả mái nhƣ ngồi đan len hay đánh cờ. Một bài thơ hay không thể

đƣợc sáng tác từ một ngƣời làm thơ, cứ viết một chữ lại nhẩm xem có vần hay

không vần, nó trắc trắc hay bằng bằng, cái câu tám chữ hay còn bảy chữ.

Ngƣời làm thơ muốn sáng tạo nghệ thuật phải quen thuộc các âm thanh, vần

điệu, quen thuộc những quy luật của ngôn ngữ của hình thức đến gần nhƣ có

thể sử dụng nó trôi chảy nhƣ ngƣời đan len không biết tay mình lần từng mũi,

115

đánh cờ mà vẫn tiếp tục gánh lúa đi đƣờng, và bỏ vần, bỏ hàng chục hàng

trăm vần hiểm hóc, éo le mà ý bài thơ vẫn cứ phăng phăng đi tới.

Vần không phải là tất cả bài thơ, nhƣng một trong những đặc trƣng của

thơ là nhạc điệu, nhịp điệu đƣợc tạo nên trƣớc hết bởi cách gieo vần. Việc

gieo vần trong thơ là tùy vào sự phù hợp của không chỉ nội dung mà còn thể

loại. Nhƣng đối với ngƣời mới học làm thơ, Chế Lan Viên khuyên nên tập

làm thơ có vần luôn, cho quen, cho thuộc bởi trƣớc hết vần điệu chính là đặc

trƣng của thơ. Nếu không làm đƣợc thơ thì học thuộc và khi đã thấm sâu thì

cách gieo vần tự nhiên trở thành khuôn mẫu vô hình trong tâm thức của chúng

ta. “Và đến ngày kia mình quen với vần điệu nhƣ cá quen nƣớc. Cá đâu phải

rẽ nƣớc ra mà đi một cách khó khăn, ngƣợc lại chính nƣớc đã nâng đỡ cho cá

lội. Vần điệu sẽ không ngăn cản mà lại trợ hứng rất nhiều cho ngòi bút của

chúng ta”[84, tr. 609].

Chế Lan Viên đã từng ví von: Thơ hay nhƣ ngƣời con gái đẹp, đi đến

đâu cũng lấy đƣợc chồng. Theo cách ví von của ông thì có lẽ nội dung của thơ

chính là vẻ đẹp tâm hồn, còn hình thức chính là dong dáng ngoại hình, tóc dài

da trắng của cô gái đẹp. Trong mối quan hệ giữa vẻ đẹp tâm hồn bên trong và

vẻ đẹp hình thức bên ngoài của con ngƣời, ca dao có câu: “tốt gỗ hơn tốt nƣớc

sơn”. Có nghĩa là đặt trong lý luận về thơ, mối quan hệ giữa nội dung và hình

thức của thơ là mối quan hệ khăng khít, phụ thuộc. Nội dung quyết định hình

thức, hình thức thơ nhất định sẽ phải phù hợp với nội dung thơ nhất định. Sẽ

không có nội dung nào nằm ngoài hình thức và ngƣợc lại, không có hình thức

nào lại không thể hiện nội dung.

Về vấn đề hình thức thơ, Chế Lan Viên rất quan tâm tới những cấu trúc

của một bài thơ. Nếu trừ một bài thơ quá ngắn, thì thƣờng thƣờng, một bài thơ

gồm có nhiều đoạn, một đoạn gồm có nhiều câu và một câu gồm có nhiều

chữ. Và vì thế, để có một tác phẩm thi ca nghệ thuật hoàn mỹ về mặt hình

116

thức thì chữ, câu trong bài thơ là những bộ phận quan trọng, rất đáng quan

tâm.

Chế Lan Viên cho rằng: “Chữ, từ là đơn vị thấp nhất, bé nhất trong bài

thơ, bài văn. Thế nhƣng không đƣợc coi thƣờng nó. Thiếu một chữ, sai một từ

có khi hỏng cả bài”[85, tr. 40]. Thơ hay ở sự súc tích cô đọng, cho nên lựa

chọn chữ trong thơ là điều khiến ngƣời viết cần thận trọng. Ông hình dung

rằng, chữ nhƣ một đạo quân và ngƣời làm thơ nhƣ ngƣời chỉ huy đạo quân ấy,

để khi xếp chữ nào vào câu nào thì ở đó đã không chỉ tạo nên nghĩa mà còn

tạo nên một sức gợi sâu sa trong lòng ngƣời đọc. Chữ trong thơ cần chính xác,

những nếu chỉ cần chính xác thì các nhà khoa học có lẽ sẽ không còn tìm đến

thơ. Thơ độc đáo là ở sự sáng tạo, sáng tạo trên từng con chữ. Khoa học nói

một là một hai là hai, còn trong thơ thì “Mình với ta tuy hai mà một/ Ta với

mình tuy một mà hai”. Chữ trong thơ có khả năng biến hóa khôn lƣờng nhƣ

thế nên có khi, nhìn lại nghệ thuật thi ca trong triết lý và chiêm nghiệm, Chế

Lan Viên coi nghệ thuật thi ca chính là một thứ nghệ thuật “chơi chữ”:

“Ở đây chơi chữ

Chữ trá hình – đang là ta, mà nó hóa ra mình

Chữ đa nghĩa - ở bên bờ vô nghĩa

Để chơi trò chơi ấy

Những kẻ đã sống thật, đem đời mình thật

Ra mà chơi chữ

Đầu chơi sau thật”

(Chơi)

Từ vấn đề của chữ trong thơ, đến đây, suy tƣởng Chế Lan Viên hƣớng

tới nghề làm thơ trong tính chất trò chơi đầy nghiệt ngã. Ngƣời nghệ sỹ trên

hành trình làm nghệ thuật có khi phải dám đánh đổi, “đem đời mình thật” mà

“chơi trong chữ”. Và khi ấy, mỗi chữ trong thơ đã soi bóng cả đời sống tâm

117

hồn ngƣời nghệ sỹ, không phải chỉ có ngọt bùi mà cả những đắng đót lặn vào

trong.

Trong những suy nghĩa về thơ, ngƣời đọc thấy Chế Lan Viên nhiều lần

suy nghĩ về câu thơ. Câu trong thơ khó viết bởi: “Vừa phải chở ý, vừa phải

thông dòng, mà lại còn phải hay nữa. Thế mới thành thơ chứ chỉ chở ý và

thông dòng thì đấy chỉ là câu văn vần” [85, tr. 44]. Tức là, theo Chế Lan Viên,

câu thơ cần có sự thống nhất hài hòa trong một chỉnh thể, câu trƣớc gọi câu

sau, câu sau nâng đỡ câu trƣớc để cùng chuyển tải đƣợc nội dung của bài thơ.

Bài thơ đƣợc tạo nên từ những câu thơ, cho nên Chế Lan Viên yêu cầu cần có

nhiều câu thơ hay, ý thơ đẹp, để tạo nên những bài thơ độc đáo và hấp dẫn.

Nhƣ vậy, trong quan niệm của Chế Lan Viên hình thức thơ là một vấn

đề quan trọng. Bởi không có một tác phẩm nghệ thuật nào nằm ngoài một

hình thức nhất định. Hình thức rõ ràng bị chi phối bởi nội dung song nội dung

chỉ có thể đƣợc thể hiện khi nó ở trong một hình thức phù hợp. Trả lời bạn

yêu thơ về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của thơ, Chế Lan Viên có

những khẳng định nội dung quyết định hình thức, ngƣợc lại hình thức cũng có

ảnh hƣởng quan trọng đến nội dung. Nếu tả cái khí thế ào ạt của một cuộc

biểu tình trong thể thơ lục bát, thì cái hình thức êm ả của lục bát sẽ phần nào

hạn chế khí thế của cuộc biểu tình. Nội dung một bài thơ đã hay thì khi có vần

có điệu vào càng hay, mà kể không bằng miệng, bằng văn xuôi cũng đảm bảo

hay, thì vần điệu thêm vào mới không là nƣớc sơn giả phủ lên một thứ gỗ xấu.

Ngƣời làm thơ, khi mới cầm bút viết thƣờng hay băn khoăn nên viết

thơ tự do hay thơ vần luật, nên viết thơ bảy chữ hay thơ tám chữ, nên viết thơ

có vần hay không vần...và cuối cùng thì, khi ý đã tới, tƣ tƣởng đã sáng, cảm

xúc đã mãnh liệt, có lẽ thơ sẽ tự tìm đƣợc hình thức phù hợp.

118

Tiểu kết chƣơng 3:

Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, chúng tôi xuất phát

từ quan niệm thơ siêu thực của Chế Lan Viên trƣớc Cách mạng đến quan

niệm thơ hiện thực Cách mạng, từ đó thấy đƣợc những yêu cầu có phần khắt

khe của Chế Lan Viên trong thơ: thơ cần gắn bó với hiện thực, cần có ích, thơ

cần có ý, có tƣ tƣởng và trí tuệ, cần có trí tƣởng tƣợng. Chế Lan Viên đồng

thời rất đề cao vai trò của hình thức trong thơ.

Trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại, Chế Lan Viên là ngƣời

tham gia tích cực, là tiếng nói đƣợc chờ đợi trong giới phê bình, lý luận. Đọc

lý luận phê bình của Chế Lan Viên, ta thấy rõ tiềm lực dồi dào của một trí tuệ

năng động. Những suy nghĩ, những quan niệm về thơ của Chế Lan Viên đã

đóng góp không nhỏ cho lý luận văn học nƣớc nhà ở cả phƣơng diện lý luận

lý thuyết đến kinh nghiệm thực tiễn sáng tác rất đáng trân trọng.

119

PHẦN KẾT LUẬN

1. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Chế Lan Viên đã để lại cho nền văn học Việt

Nam một văn nghiệp đồ sộ, phong phú và đa dạng ở tất cả các thể loại, từ thơ

ca, bút ký đến phê bình và tiểu luận. Với đề tài: “Quan niệm nghệ thuật thơ

Chế Lan Viên qua phê bình và tiểu luận”, chúng tôi đã góp thêm những

nghiên cứu chuyên sâu và tổng quát về quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan

Viên đƣợc thể hiện trong những tập phê bình và tiểu luận. Song dù là một chi

lƣu của văn nghiệp Chế Lan Viên thì những trang phê bình và tiểu luận cũng

đã lên tới con số hàng nghìn. Những vấn đề về quan niệm thơ đƣợc đề cập ở

đây thực sự sâu sắc, phong phú lớn lao và nhiều ý nghĩa.

2. Từ cái nhìn khái quát về sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên, chúng

tôi nhận thấy, mảng phê bình và tiểu luận có vai trò hết sức quan trọng, không

chỉ đối với sáng tác của riêng ông. Điểm lại sự nghiệp văn học của Chế Lan

Viên ở các phƣơng diện thơ ca, văn xuôi bút kí và phê bình tiểu luận, chúng

tôi hƣớng đến mục đích nhấn mạnh những giá trị của phê bình và tiểu luận

của Chế Lan Viên trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại, từ

tiếng nói cổ vũ thúc đẩy phong trào sáng tác đến những nhận định khách quan

và khoa học về thơ và nghệ thuật phê bình độc đáo.

3. Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên qua phê bình và

tiểu luận, chúng tôi tập trung hƣớng tới quan niệm của Chế Lan Viên về nhà

thơ, nghề thơ và quan niệm về thơ. Trong quan niệm của ông về nhà thơ, “vấn

đề sống và viết”, tƣ tƣởng và tình cảm, trách nhiệm của nhà thơ đối với nghề

và đối với đời đƣợc ông đặc biệt quan tâm. Về thơ, chúng tôi nhận thấy có sự

vận động trong quan niệm của Chế Lan Viên qua các thời kỳ. Thời kỳ Điêu

tàn là thơ siêu thực, thời kỳ kháng chiến là thơ hiện thực cách mạng, đến

những năm cuối đời, thơ Chế Lan Viên lại một lần nữa xuất hiện dấu ấn của

thơ siêu thực trong Di cảo. Có thể thấy sự vận động của quan niệm thơ từ lý

120

luận đến sáng tác cho thấy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng trong tƣ duy thơ

Chế Lan Viên. Song dù có sự vận động và thay đổi thì quan niệm về thơ của

Chế Lan Viên vẫn nhất quán ở vai trò của thơ đối với đời sống: “Thơ cần có

ích”, thơ viết cho con ngƣời, vì con ngƣời và vì cuộc sống.

4. Tìm hiểu những quan niệm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên qua phê

bình và tiểu luận trong thế đối sánh với sáng tác thực tiễn, chúng tôi nhận thấy

có sự thống nhất và mâu thuẫn qua các thời kỳ. Điều này đƣợc lý giải từ chính

tƣ duy thơ vốn tồn tại nhiều mâu thuẫn trong Chế Lan Viên. Đó là sự vận

động không ngừng để đổi mới của một nhà thơ lớn. Đồng thời có thể thấy vấn

đề thời đại, lịch sử cũng là những nhân tố ảnh hƣởng không nhỏ dẫn tới

những mâu thuẫn từ lý luận đến sáng tác của Chế Lan Viên. Khi ý thức công

dân trở thành tiếng nói chủ đạo trong thời kỳ Cách mạng đã nhƣờng chỗ cho

cái tôi nghệ sỹ trong giai đoạn sau 1980, đƣơng nhiên sẽ dẫn đến những thay

đổi trong tƣ duy nghệ thuật của Chế Lan Viên. Những quan niệm về thơ trong

phê bình và tiểu luận đƣợc ông viết chủ yếu trong giai đoạn kháng chiến, gặp

đời sống văn học nghệ thuật với hiện thực những năm cuối thế kỷ XX sẽ dẫn

đến nhiều mâu thuẫn. Bởi thế, những mâu thuẫn từ lý luận về thơ trong phê

bình và tiểu luận với sáng tác thực tiễn trong những năm 1980 của Chế Lan

Viên là điều chúng ta cần hiểu rõ và trân trọng.

5. Cả một đời làm thơ, Chế Lan Viên đã sống hết mình với niềm đam mê

thi ca nghệ thuật. Nhà thơ đã đem hết tài năng, sự suy ngẫm, sự trải nghiệm

cuộc đời để khám phá, sáng tạo nên một cuộc đời thứ hai bằng ngôn ngữ. Tạo

nên văn nghiệp đồ sộ, phong phú của Chế Lan Viên, mảng phê bình và tiểu

luận cùng những quan niệm về thơ đã đƣợc ông trình bày hấp dẫn có những

đóng góp đáng kể. Sự thống nhất cũng nhƣ mâu thuẫn giữa nhà thơ – nhà phê

bình, lý luận đã làm nên một Chế Lan Viên, tác gia văn học lớn của thế kỷ

XX.

121

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

2.

3.

4. 5. 6.

Vũ Tuấn Anh (Tuyển chọn và giới thiệu, 2001), Chế Lan Viên - Tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội Vũ Tuấn Anh (Tuyển chọn và giới thiệu, 2009), Chế Lan Viên - Tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội Lại Nguyên Ân (1997), Sống với văn học cùng thời, Nxb Văn học, Hà Nội Hoàng Minh Châu (1999), Nghĩ về nghề, ghi về bạn, Nxb Văn học, Hà Nội Hoàng Diệp (1991), Chế Lan Viên, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn Xuân Diệu (1958), Những bƣớc đƣờng tƣ tƣởng của tôi, Nxb Văn hóa, Hà Nội 7. Xuân Diệu (1960), Phê bình giới thiệu thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 8. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 9. Phạm Tiến Duật (2003), Vừa làm vừa nghĩ, Nxb Văn học, Hà Nội 10. Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945-1975), tập

I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội

11. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình (Qua một số nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới), Nxb Văn học, Hà Nội 12. Hà Minh Đức (chủ biên, 1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội

13. Hà Minh Đức (1997), “Chế Lan Viên” - Khảo luận văn chƣơng, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội

14. Hà Minh Đức (1998), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội 15. Hà Minh Đức (2010), Chế Lan Viên ngƣời trồng hoa trên đá, Nxb Văn

học, Hà Nội

16. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn

học, Hà Nội

17. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2004),

Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội

18. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Văn học… gần và xa, Nxb Giáo dục, Hà Nội

122

19. Đỗ Đức Hiểu - Nguyễn Huệ Chi - Phùng Văn Tửu - Trần Hữu Tá (Chủ

biên 2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội

20. Hội Nhà văn Việt Nam (1984), Văn học trong giai đoạn cách mạng

mới, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội

21. Hội Nhà văn Việt Nam (1985), Các nhà văn nói về văn, tập I, Nxb Tác

phẩm mới, Hà Nội

22. Đoàn Trọng Huy (2006), Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (Chuyên luận),

Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội

23. Mai Hƣơng - Thanh Việt (2003), Thơ Chế Lan Viên những lời bình,

Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội

24. Lê Đình Kỵ (1969), Đƣờng vào thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 25. Phong Lan (Sƣu tầm, tuyển chọn, biên soạn, 1995), Chế Lan Viên -

ngƣời làm vƣờn vĩnh cửu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

26. Phong Lan - Mai Hƣơng (Tuyển chọn và giới thiệu, 2002), Tố Hữu về

tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội

27. Phong Lê - Vũ Văn Sĩ - Bích Thu - Lƣu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt

Nam hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội

28. Nguyễn Long - Đào Thủy Nguyên (2002), Suy nghĩ từ những trang

văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội

29. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (Chủ biên, 2005), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội

30. Phƣơng Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 31. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tƣ tƣởng, phong cách, Nxb Tác

phẩm mới, Hà Nội

32. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội

33. Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyễn Văn Long (2002), Lịch sử văn học Việt

Nam tập III, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội

34. Phạm Thị Ngọc - Nguyễn Anh Vũ (tuyển chọn - 2002), Điêu tàn - Tác

phẩm và dƣ luận, Nxb Văn học, Hà Nội

123

35. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng

Tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội

36. Nhiều tác giả (2001), Chế Lan Viên - Tác phẩm và dƣ luận, NxbVăn

học, Hà Nội

37. Nhiều tác giả (2002), Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học,

Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

38. Lê Lƣu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam (1975-1990, Chuyên luận),

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

39. Nhƣ Phong (1977), Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Néi 40. Đào Xuân Quý (1998), Nhà thơ và cuộc sống, Nxb Quân đội Nhân dân,

Hà Nội

41. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục,

Hà Nội

42. Trần Đình Sử (1999), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội 43. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội

44. Hoài Thanh - Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam (Tái bản), Nxb

Văn học, Hà Nội

45. Nguyễn Bá Thành - Bùi Việt Thắng (1990), Văn học Việt Nam(1965-

1975), Nxb Đại học Tổng hợp, Hà Nội

46. Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy

tƣởng, Nxb Giáo dục, Hà Nội

47. Nguyễn Bá Thành (1999), Giáo trình Tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội

48. Nguyễn Toàn Thắng (2007), Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định, Nxb

Giáo dục, Hà Nội

49. Nguyễn Ngọc Thiện - Nguyễn Thị Kiều Anh - Phạm Hồng Toàn (1997), Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam (1900 - 1945), tập IV, Nxb Văn học, Hà Nội

50. Nguyễn Ngọc Thiện (1998), Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội

124

51. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) - Nguyễn Đăng Điệp - Tôn Thảo Miên - Hà Công Tài - Nguyễn Thị Kiều Anh - Trần Hoài Anh - Cao Kim Lan (2008), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lý luận - phê bình 1945-1975, Quyển Năm, tập XVII, Nxb Văn học, Hà Nội

52. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) - Nguyễn Đăng Điệp - Tôn Thảo Miên - Hà Công Tài - Nguyễn Thị Kiều Anh - Trần Hoài Anh - Cao Kim Lan (2008), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lý luận - phê bình 1945-1975, Quyển Năm, tập XVIII, Nxb Văn học, Hà Nội

53. Trần Mạnh Tiến (2008), Lý luận phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ

XX, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội

54. Lƣu Khánh Thơ (2007), Chế Lan Viên nhà thơ song hành cùng thời

đại, Nxb Trẻ, Hà Nội

55. Lƣu Khánh Thơ (2009), Xuân Diệu - Tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo

dục, Hà Nội

56. Đỗ Lai Thuý (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội 57. Lê Quang Trang - La Yên (Biên soạn, tuyển chọn, 2000),Chế Lan Viên giữa chúng ta, Nxb Giáo dục - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.

58. Phạm Quang Trung (1995), Tiếp cận giá trị văn chƣơng, Nxb Thanh

niên, Hà Nội

59. Nguyễn Tuân (1999), Bàn về văn học nghệ thuật, Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội

60. Chế Lan Viên (1951), Kinh nghiệm tổ chức sáng tác, Nxb Thép Mới,

Hà Nội

61. Chế Lan Viên (1955), Gửi các anh, Nxb Văn Nghệ, Hà Nội 62. Chế Lan Viên (1960), Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, Hà Nội 63. Chế Lan Viên (1960), Nói chuyện thơ văn, Nxb Văn học, Hà Nội 64. Chế Lan Viên (1960), Vào nghề, Nxb Văn học, Hà Nội 65. Chế Lan Viên (1962), Phê bình văn học, Nxb Văn học, Hà Nội 66. Chế Lan Viên (1967), Hoa ngày thƣờng, chim báo bão, Nxb Văn học,

Hà Nội

125

67. Chế Lan Viên (1971), Suy nghĩ và bình luận, Nxb Văn học, Hà Nội 68. Chế Lan Viên (1972), Những bài thơ đánh giặc, Nxb Thanh niên, Hà

Nội

69. Chế Lan Viên (1973), Đối thoại mới, Nxb Văn học, Hà Nội 70. Chế Lan Viên (1977), Hái theo mùa, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội 71. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội 72. Chế Lan Viên (1981), Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác

phẩm mới, Hà Nội

73. Chế Lan Viên (1984), Hoa trên đá, Nxb Văn học, Hà Nội 74. Chế Lan Viên (1986), Ta gửi cho mình, Nxb Văn học, Hà Nội 75. Chế Lan Viên (1987), Ngoại vi thơ, Nxb Thuận Hoá 76. Chế Lan Viên (1987), Những ngày nổi giận ( Bút kí), Nxb Văn học, Hà Nội 77. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, Tập I, Nxb Thuận Hóa, Huế 78. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, Tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế 79. Chế Lan Viên (1992), Di cảo thơ, Tập III, Nxb Thuận Hóa, Huế 80. Chế Lan Viên (2002), Toàn tập, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội 81. Chế Lan Viên (2002), Toàn tập, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội 82. Chế Lan Viên (2006), Tác phẩm văn học đƣợc Giải thƣởng Hồ Chí

Minh, quyển I, Nxb Văn học, Hà Nội

83. Chế Lan Viên (2006), Tác phẩm văn học đƣợc Giải thƣởng Hồ Chí

Minh, quyển II, Nxb Văn học, Hà Nội

84. Chế Lan Viên (2009), Toàn tập, tập III, Nxb Văn học, Hà Nội 85. Chế Lan Viên (2009), Toàn tập, tập IV, Nxb Văn học, Hà Nội 86. Chế Lan Viên (2009), Toàn tập, tập V, Nxb Văn học, Hà Nội

126