ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
PHÙNG THỊ NGÂN
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUAN NIỆM VĂN HỌC
VÀ SÁNG TÁC CỦA CAO BÁ QUÁT
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
PHÙNG THỊ NGÂN
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUAN NIỆM VĂN HỌC
VÀ SÁNG TÁC CỦA CAO BÁ QUÁT
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Nho Thìn
Hà Nội – 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ........................................................ 11
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 12
5. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................. 12
CHƢƠNG 1 BỐI CẢNH VĂN HÓA VĂN HỌC ................................................ 13
1.1. Bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – đầu
thế kỷ XIX .......................................................................................................... 13
1.2. Đời sống văn học ......................................................................................... 20
CHƢƠNG 2 QUAN NIỆM VĂN HỌC CỦA CAO BÁ QUÁT .......................... 32
2.1. Thuyết tính linh trong tƣ tƣởng thi học cổ Trung Quốc ......................... 32
2.1.1. Tính linh thời Nam Bắc triều (Lưu Hiệp – Văn tâm điêu long) ............... 32
2.1.2. Quan niệm về tính linh ở thời Đường (Bạch Cư Dị) ............................... 35
2.1.3. Thuyết tính linh thời Minh – Thanh (Viên Mai) ...................................... 36
2.2 . Quan niệm về tính linh trong tƣ tƣởng thi học Việt Nam thế kỷ XVIII ...... 41
2.3. Từ thuyết tính linh đến quan điểm sáng tác văn chƣơng của Cao Bá Quát . 45
CHƢƠNG 3 SÁNG TÁC CỦA CAO BÁ QUÁT ................................................ 56
3.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến văn chƣơng Cao Bá Quát ..................... 56
3.1.1. Những nhân tố khách quan ...................................................................... 56
3.1.2. Những nhân tố chủ quan .......................................................................... 57
3.2. Các dạng đề tài trong thơ Cao Bá Quát ................................................... 58
3.2.1. Đề tài về nỗi nhớ gia đình, quê hương .................................................... 58
3.2.2. Đề tài về tình yêu thiên nhiên đất nước ................................................... 63
3.2.3. Đề tài gắn với niềm cảm thông, thương yêu con người ........................... 67
3.2.4. Thơ bộc lộ nội tâm ................................................................................... 70
1
3.2.5. Các dạng cảm xúc trong thơ Cao Bá Quát ............................................. 72
3.3. Thể thơ và ngôn ngữ ................................................................................... 76
3.3.1. Thể thơ ..................................................................................................... 76
3.3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 84
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 95
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 97
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX có
bước phát triển vượt trội cả về số lượng và chất lượng. Đây là thời kỳ xuất hiện
hàng loạt những tác giả lớn cùng những tác phẩm tiêu biểu cho một thời đại và cho
cả nền văn học. Trong đó có những tác giả trở thành “hiện tượng” văn học và gây
được sự chú ý. Văn học thời kỳ này có sự phát triển vượt trội như vậy chủ yếu là do
những tác động, ảnh hưởng của bối cảnh xã hội. Xã hội phong kiến Việt Nam cuối
thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX là xã hội phong kiến khủng hoảng, nội bộ tranh chấp,
khởi nghĩa nông dân diễn ra nhiều nơi. Xã hội ấy không còn đủ sức kiềm tỏa con
người trong những khuôn khổ nhỏ hẹp của đạo đức nho gia. Mặt khác, sự tiếp xúc
bước đầu của văn hóa phương tây với những điều xa lạ với văn hóa phương đông
truyền thống tạo cơ hội cho con người thời kỳ này có điều kiện tiếp thu với nhiều
điều mới mẻ. Tuy vậy không thể không nhắc tới sự ảnh hưởng của những yếu tố
trong nền văn hóa Trung hoa, nhất là trong văn học. Tất cả tạo nên xu hướng coi
trọng tình cảm, coi trọng sự chân thực, tự nhiên của cảm xúc là nét chủ đạo trong
văn học Việt Nam thời kỳ này. Văn học bộc lộ cái tôi cá nhân cùng những cảm xúc
chân thật ở đầy đủ các trạng thái khác nhau thật mạnh mẽ và mãnh liệt mà những
giai đoạn trước không có được.
Lê Quý Đôn có thể coi là người đầu tiên đề cập đến vấn đề tình trong lý luận
thơ ca có hệ thống nhất và đặt mối quan hệ giữa ba yếu tố tình – cảnh – sự, trong đó
tình là quan trọng nhất. Các tác giả giai đoạn này cũng đề cập nhiều đến yếu tố tình
cảm trong thơ, thể hiện sự trân trọng tình cảm và cảm xúc chân thật. Trong thơ họ
xuất hiện nhiều cung bậc trạng thái khác nhau của cảm xúc, cái tôi cá nhân được
khẳng định mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Như thế, sự chuyển biến trong lòng xã hội
kết hợp với những nhân tố bên ngoài đã thúc đẩy sự chuyển biến trong văn học, tạo
nền tảng cho sự biến đổi từ quan niệm con người thánh nhân quân tử trở về với con
3
người tự nhiên, trần thế trong văn chương. Các tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng
trên như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn
Công Trứ..., không thể bỏ qua cái tên Cao Bá Quát.
Trong văn học trung đại Việt Nam, Cao Bá Quát là người đưa thuyết tính linh
lên đến đỉnh cao và thể hiện được điều đó trong sáng tác thơ ca của mình. Ông viết
trong Bài bạt tập thơ của Thương Sơn Công như sau: “bàn về thơ, tuy phải chú
trọng về quy cách nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình. Nếu việc nào cũng bắt
chước cũ, câu nào cũng học theo người, đầu thôn tạm biệt đã hát câu “chén rượu
Dương Quan”, xóm gần qua chơi đã hát câu “tiếng gà điếm cỏ”. Nắn nót những lời
biến tái, lòe người là tuyệt điệu Gia Châu, chải chuốt các thể trong cung, tự phu là
văn nòi Thiếu Bá. Có thể nghìn bài chứa đầy bể khổ, trăm bài đã cạn ruột héo khô,
ham được khoe nhiều, không quan hệ gì tới tính linh cả...”. Cao Bá Quát phê phán
lối sáng tác sử dụng nhiều điển tích, điển cố, dùng nhiều đề tài và thể loại sáo mòn,
sự mô phỏng bắt chước tiền nhân thực chất là của hoàng phái nhà Nguyễn, nhưng
chính bản thân chủ thể sáng tạo lại trống rỗng, không có tư tưởng tình cảm chân
thực thì không có giá trị. Từ đó mà đi đến chỗ khái quát quan niệm của ông đề cao
tính chân thực của tình cảm, cảm xúc. Thực chất thuyết tính linh là lý thuyết đề cao
những tình cảm, cảm xúc chân thành, tự nhiên của con người. Trong đó chú ý tới
mối quan hệ giữa con người với ngoại cảnh. Ở đó con người sống với chính mình,
với những cảm xúc vốn có của con người. Đó là con người thật nhất, hiểu theo
nghĩa con người tự nhiên chứ không phải con người chức năng. Ông ngầm ý phê
phán lối thơ của hoàng phái nhà Nguyễn vì thiếu tình cảm cuộc sống, thiên về mô
phỏng, nệ cổ và không có cá tính riêng. Chính những tình cảm, cảm xúc chân thật
trong thơ làm nên thời kỳ văn học đặc sắc với nhiều thành tựu.
Khi nhắc đến tác giả Cao Bá Quát, từ trước đến nay đã có nhiều công trình
nghiên cứu về con người, sự nghiệp, phong cách cùng những yếu tố thuộc quan
niệm sáng tác của ông. Tuy nhiên vẫn chưa có công trình nghiên cứu đầy đủ và toàn
vẹn đặt trong một chỉnh thể từ bối cảnh văn hóa văn học ở thời kỳ mà ông sinh sống
để hiểu rõ hơn về quan niệm sáng tác, ý nghĩa mới mẻ, tích cực của những quan
niệm đó trên nền tảng bối cảnh đương thời. Song song với việc tiếp cận tác phẩm thì
4
việc tìm hiểu quan niệm văn học của ông có ý nghĩa quan trọng. Bởi lẽ nếu nắm
được những tư tưởng này chúng ta sẽ nắm được chìa khóa để tìm hiểu tác phẩm của
ông, sự thể hiện của nó trong nội dung và nghệ thuật để thấy được mối liên hệ trong
toàn bộ sự nghiệp văn chương của tác giả này, cũng như theo tiến trình lịch sử văn
học dân tộc.
Đề tài tập trung tìm hiểu hoàn cảnh văn hóa, quan niệm văn học (tập trung vào
thơ, bộ phận thể hiện hầu hết giá trị văn học) của Cao Bá Quát cùng ảnh hưởng của
quan niệm ấy đến đề tài, thể thơ và ngôn ngữ; nhất là thông qua việc nghiên cứu tìm
hiểu về lịch sử hình thành, phát triển của thuyết tính linh trong tư tưởng thi học
Trung Quốc để có thể đối sánh quan niệm văn học đề cao sự chân thật tự nhiên của
tình cảm, cảm xúc thơ Cao Bá Quát. Xét theo dòng chảy văn học dân tộc thì quan
niệm văn học này cùng những đóng góp trong sáng tác của ông được nhìn nhận sâu
sắc hơn, đồng thời với đó, xét theo mặt đồng đại cho thấy sự tiếp thu có chọn lọc
mang màu sắc văn hóa Việt trên cơ sở văn hóa - văn học Trung hoa.
Với những lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giữa quan niệm văn học
và sáng tác của Cao Bá Quát” nhằm góp thêm một chút sức lực vào khối lượng những
công trình nghiên cứu về Cao Bá Quát, góp phần tìm hiểu thấu đáo và sâu sắc về sự
nghiệp thơ ca của nhà thơ nổi tiếng này. Do thời gian hạn chế nên luận văn mới chỉ quan
tâm đến bối cảnh văn hóa văn học, quan niệm văn chương (hạt nhân là thuyết tính linh)
và sự thể hiện quan niệm trong sáng tác của Cao Bá Quát.
2. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu, tiếp nhận văn chương Cao Bá Quát chia làm hai giai đoạn:
trước và sau cách mạng tháng Tám - 1945. Trước cách mạng, tình hình nghiên cứu
về tác giả Cao Bá Quát nói chung, sự nghiệp văn học của ông nói riêng cũng được
chú ý. Nhìn chung các bài viết thường giới thiệu về tiểu sử, những nét khái quát về
cuộc đời và thơ văn của ông chứ chưa đi sâu nghiên cứu về tác phẩm. Một số bài
viết: Dật sử ông Cao Bá Quát (Đông Thanh tạp chí -1932), Thân thế và văn chương
hai ông họ Cao (tạp chí Văn học -1932), Một nhân vật tỉnh Bắc Ninh: ông Cao Bá
5
Quát (Nam Phong tạp chí -1934), Cao Bá Quát (tạp chí Tri Tân -1943)…
Từ năm 1945 đến nay, nhận thức về văn chương Cao Bá Quát được khơi dậy
và có những bước tiến không ngừng, từ thành tựu dịch thuật đến thành tựu nghiên
cứu (quan niệm văn chương và thực tiễn sáng tác thơ văn).
Dịch thuật góp phần không nhỏ trong việc đưa các tri thức về quan niệm văn
chương của Cao Bá Quát đến với độc giả và làm nền tảng cho những nghiên cứu
sau này. Việc dịch thuật bài viết thể hiện quan niệm văn học của Cao Bá Quát được
nói đến trong một số công trình tiêu biểu như: Từ trong di sản (1981), Người xưa
bàn luận về văn chương (1993), Mười thế kỷ bàn về văn chương (2007)… Tuy
nhiên trong việc chuyển dịch còn một số hạn chế. Việc giới thiệu các tác phẩm hoặc
các lời bạt, lời tựa thể hiện quan niệm văn học Cao Bá Quát chưa đầy đủ (trong
cuốn Người xưa bàn luận về văn chương, tác giả Đỗ Văn Hỷ chỉ tuyển dịch Bài viết
đặt sau tập thơ “Yên Đài Anh Ngữ”, tác phẩm mới thể hiện một phần trong quan
niệm văn chương của Cao Bá Quát), lược bỏ tên bài và việc giám định văn bản chưa
thống nhất. Ví như bài Nhờ du lịch muôn dặm mới tới được cái thần diệu của văn
chương trong cuốn sách Từ trong di sản đề tên của tác giả Phan Huy Vịnh. Sau này
trong cuốn sách Mười thế kỷ bàn luận về văn chương chỉnh lại với tên tác giả Cao
Bá Quát. Cuốn sách Từ trong di sản được coi là công trình tư liệu đầu tiên tập hợp
những ý kiến của cha ông ta bàn về thơ từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX, trong đó
trình bày tư liệu về quan niệm văn học của Cao Bá Quát khá hệ thống. Tuy nhiên
tác giả cuốn sách sử dụng nội dung trong bài để đặt tiêu đề cho cả bài đó là chưa
chính xác và dễ gây hiểu nhầm. Trong các lời bạt, lời tựa của Cao Bá Quát thường
không chỉ bao gồm một nội dung mà hàm chứa trong đó một số luận điểm khác
nhau, tập trung vào lý thuyết tính linh. Ví như việc lấy tên “Cái tệ của lối học khoa
cử” thay cho Bài tựa đề cuối tập thơ Thương Sơn Công là chưa đầy đủ vì nội hàm
quan trọng nhất của bài này là việc ông coi gốc của thơ là ở chữ tình, ở sự chân thật
của cảm xúc, phản đối lối thơ nệ cổ, bắt chước, từ đó mở rộng một số luận điểm
khác, trong đó có việc phê phán “cái tệ của lối học khoa cử”… Trên cơ sở tiếp thu
những thành tựu dịch thuật đã có, một số bài nghiên cứu về quan niệm văn học của
Cao Bá Quát đã xuất hiện. Luận văn của chúng tôi cũng theo tinh thần trên, đồng
6
thời cố gắng khắc phục theo khả năng có thể những điều đã nói ở trên.
Trên phương diện văn bản, năm 1970 đánh dấu một bước tiến mới trong việc
nghiên cứu, xử lý và công bố các tư liệu thơ văn Cao Bá Quát với công trình Thơ
chữ hán Cao Bá Quát, gồm 156 bài thơ cả chữ Hán và chữ Nôm. Tác giả Nguyễn
Lộc đã đánh giá công trình này như sau: “chính nhờ giới thiệu rộng rãi thơ chữ hán
của Cao Bá Quát như thế nên việc đánh giá nhà thơ trong giới nghiên cứu cũng như
đông đảo công chúng mới ngày càng được chính xác...”. Từ năm 2000 trở lại đây
xuất hiện những công trình lớn thực hiện việc biên soạn, dịch thuật, giới thiệu tác
giả và tác phẩm Cao Bá Quát khá đầy đủ. Đáng chú ý là cuốn sách Cao Bá Quát
toàn tập (tập 1, tập 2) do tác giả Mai Quốc Liên chủ biên cung cấp nguyên văn chữ
Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ của 1.353 bài thơ chữ Hán (một số bài thơ
không có phần dịch thơ) và một số tác phẩm văn xuôi, truyện ngắn, thuyết, tự, văn
tế, câu đối; Cuốn sách Thơ văn Cao Bá Quát (2010) do tác giả Vũ Khiêu chủ biên
và viết lời giới thiệu trên cơ cở phát triển cuốn sách Thơ chữ hán Cao Bá Quát, có
bổ sung thêm một số bài thơ, văn xuôi, thơ phú nôm, giai thoại, đặc biệt nêu rõ thời
gian sáng tác thơ qua đó giúp người đọc nhìn nhận dễ dàng hơn đặc điểm thơ của
Cao Bá Quát trong từng thời kỳ. Cũng trong cuốn sách này trích dẫn một số bài
nghiên cứu tiêu biểu ở các thời kỳ, trên các khía cạnh khác nhau về quan niệm văn
chương, giá trị nội dung và nghệ thuật đưa đến cái nhìn toàn cảnh về sáng tác văn
chương của ông. Đây là những công trình có ý nghĩa quan trọng giúp người đọc tiếp
xúc đầy đủ và chính xác hơn với các sáng tác của Cao Bá Quát, tạo tiền đề thuận lợi
cho việc nghiên cứu toàn diện và sâu sắc sự nghiệp văn học của ông sau này .
Khi nhắc tới các công trình nghiên cứu về Cao Bá Quát phải nhắc tới công
trình Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam (1995) của tác giả Trần Ngọc Vương. Tuy
đây không phải là công trình chuyên biệt về Cao Bá Quát nhưng nó có ý nghĩa quan
trọng trong việc đánh giá về loại hình nhà nho mới bên cạnh những loại hình truyền
thống mà Cao Bá Quát là tiêu biểu. Qua công trình này, hình ảnh Cao Bá Quát –
nhà nho tài tử được nhìn nhận một cách sâu sắc, toàn diện trên những phương diện
mới, giàu sức thuyết phục. Tác giả Trần Đình Hượu trước đó và tác giả Trần Ngọc
Vương trong công trình này đã xác lập được cái nhìn khoa học trên cơ sở khảo sát
7
các tác giả, trong đó có Cao Bá Quát để nêu ra những đặc trưng có tính loại hình
học của một kiểu tác giả giai đoạn văn học thế kỷ XVIII - thế kỷ XIX. Đây là hướng
tiếp cận đầy triển vọng cho phép đi sâu nghiên cứu Cao Bá Quát trên nhiều bình
diện mà trước hết là một Cao Bá Quát với tư cách là một tác gia văn học tiêu biểu
cho một loại hình là nhà nho tài tử, một khuynh hướng văn học đặc sắc trong văn
học Việt Nam trung đại.
Trên phương diện nghiên cứu quan niệm văn học của Cao Bá Quát có những
bài viết, công trình nghiên cứu đáng chú ý. Tác giả Trần Đình Sử trong bài nghiên
cứu Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát trên tạp chí Nghiên Cứu Văn
học, số 11 – 2008 tuy không trực tiếp bàn về thuyết tính linh nhưng đã đề cập về
một số khía cạnh của thuyết tính linh trong thơ văn Cao Bá Quát như: coi trọng chữ
tình trong văn chương, phê bình thơ thiếu cá tính sáng tạo, chủ trương làm văn lòng
phải chân thật, tự nhiên. Tuy nhiên tác giả vẫn đánh giá quan niệm văn chương của
Cao Bá Quát “về cơ bản là quan niệm văn học nho gia” và tác giả mới nêu “đôi
điều” về quan niệm văn học chứ chưa đi sâu phân tích để thấy tính hệ thống trong
quan niệm của Cao Bá Quát. Tác giả Nguyễn Tài Thư có bài Quan điểm sáng tác và
nghệ thuật thơ ca của của Cao Bá Quát chỉ ra một số luận điểm trong quan niệm
văn chương của Cao Bá Quát (gốc của thơ là tư tưởng, tình cảm người sáng tác
(tính tình là gốc của thơ); thơ ca cần hình thức đẹp nhưng ông phản đối chủ nghĩa
hình thức và lối sáng tác cầu kỳ kiểu cách; ý thức về việc kế thừa tinh hoa dân tộc
nhưng cần biến hóa trong quá trình sáng tác…). Tác giả Nguyễn Tài Thư đã chứng
minh quan điểm văn chương trên thể hiện trong phong cách tư tưởng, sắc thái tình
cảm và ngôn ngữ hình tượng trong thơ của Cao Bá Quát nhưng do chưa thoát khỏi
những quan niệm truyền thống nên chưa khai thác hết giá trị mới mẻ trong quan
niệm văn chương của Cao Bá Quát, cũng như chưa chỉ ra được mối quan hệ giữa
quan niệm với nội dung mà Cao Bá Quát thể hiện trong thơ. Hơn nữa tác giả cho
rằng quan niệm văn chương Cao Bá Quát có được chủ yếu là do tư tưởng tự tin,
sáng tạo của chính tác giả mà bỏ qua vai trò của yếu tố quan trọng là sự tiếp thu lý
luận văn học Trung hoa.
Tác giả Nguyễn Thanh Tùng có bài nghiên cứu Vài nét về thuyết tính linh
8
trong tư tưởng thi học Việt Nam thời trung đại trình bày khá hệ thống quan niệm về
tính linh ở Trung hoa, Việt Nam và có đề cập vai trò của Cao Bá Quát là người đưa
tính linh thành lý thuyết thực thụ. Trong khuôn khổ bài nghiên cứu tác giả mới chỉ
nêu lên, chưa chỉ ra luận điểm rõ ràng. Năm 2010, Nguyễn Thanh Tùng trong luận
án tiến sĩ của mình là Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế
kỉ XIX có phát triển những luận điểm trong bài viết trên khá sâu sắc từ sự nảy sinh,
phát triển của lý thuyết này ở Trung hoa và những đặc điểm, nội dung của nó thể
hiện cụ thể trong các tác giả trung đại Việt Nam. Thuyết tính linh ở đây được nhắc
đến với vai trò là một trong số những lý thuyết được hình thành và phát triển trong
văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX và trong tổng thể các tư tưởng thi
học của cả thời kỳ văn học trung đại Việt Nam. Nói riêng về quan niệm tính linh
của Cao Bá Quát, Nguyễn Thanh Tùng chỉ ra luận điểm đề cao chữ tình trong thơ,
phê phán lối thơ bắt chước, mô phỏng phổ biến trong văn chương đương thời và chỉ
ra được sự ảnh hưởng từ quan niệm tính linh của Viên Hoằng Đạo, Viên Mai
(Trung Quốc) đến quan niệm tính linh của Cao Bá Quát. Dẫu vậy, trong khuôn khổ
luận án về tư tưởng thi học của mười thế kỷ văn học trung đại, quan niệm tính linh
của Cao Bá Quát được đề cập trong hai trang văn bản thì chưa thể hiện đầy đủ quan
niệm và ý nghĩa tích cực về tính linh của tác giả Cao Bá Quát.
Tác giả Nguyễn Thanh Tùng là một trong số những tác giả theo hướng nghiên
cứu khái quát toàn bộ hệ thống quan niệm văn học Việt Nam thời trung đại. Tác giả
Phương Lựu cùng công trình Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung
đại có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu tư tưởng thi học trung đại Việt Nam.
Tác giả đã xây dựng hệ thống quan niệm văn học theo tiến trình lịch sử, có đề cập
quan niệm văn học của Cao Bá Quát nhưng hướng quan niệm văn chương của Cao
Bá Quát tới khuynh hướng hiện thực và nhân dân trong thời kỳ phong kiến suy tàn,
bỏ qua giá trị nổi bật nhất là việc đề cao chữ tình và cảm xúc chân thực trong quan
niệm của ông. Tác giả Phạm Quang Trung trong cuốn sách Quan niệm văn chương
cổ Việt Nam từ một góc nhìn đã dành một mục về quan niệm văn chương Cao Bá
Quát với ba nội dung: văn chương là báu vật, văn chương hay ở đâu và văn chương
hay do đâu. Tác giả đã chỉ ra một số điểm trong quan niệm văn chương Cao Bá
9
Quát như việc đề cao văn chương dân tộc, đề cao chữ tình, sự chân thực giản dị
trong văn chương, cái hay văn chương được thể hiện qua chủ thể sáng tạo... Nhìn
chung các tác giả theo hướng nghiên cứu này đã chỉ ra một số đặc điểm trong quan
niệm văn học của Cao Bá Quát nhưng do phạm vi nghiên cứu trải rộng theo nhiều
thế kỷ, với nhiều tác giả nên vai trò của Cao Bá Quát trên phương diện lý luận văn
học còn mờ nhạt, chưa chỉ ra điểm quan trọng nhất trong quan niệm văn chương của
ông là lý thuyết về tính linh.
Nhìn vào lịch sử nghiên cứu về Cao Bá Quát từ trước đến nay có thể thấy đã
đạt được nhiều thành tựu về nghiên cứu tiểu sử, nghiên cứu nội dung tư tưởng, thế
giới nghệ thuật, nhất là quan niệm văn chương... Những thành tựu đã đạt được
phong phú và quý báu nhưng chưa phải đã khai thác hết giá trị văn chương Cao Bá
Quát cả bề rộng và bề sâu. Đây là cơ sở để chúng tôi tiếp tục tìm hiểu trong phạm vi
thích hợp quan niệm văn học của Cao Bá Quát nói riêng, sự nghiệp văn chương của
ông nói chung để khẳng định vị trí của tác giả này trong nền văn học nước nhà. Nói
cách khác, vấn đề tồn tại là chúng ta vẫn chưa có công trình nghiên cứu có tính hệ
thống về quan niệm văn học (trọng tâm là thuyết tính linh) đặt trong bối cảnh thời
đại và sự thể hiện của nó trong các tác phẩm của ông trên phương diện nội dung,
hình thức để thấy rõ mối liên hệ và sự độc đáo, mới mẻ trong đó. Có một số bài viết,
công trình có nói đến quan niệm sáng tác của ông nhưng chưa trở thành hệ thống
mang tính độc lập, nhiều khi các vấn đề chỉ được nhắc đến để minh họa cho một
quan niệm hay ý tưởng. Điều đó chưa tương xứng với giá trị và ý nghĩa của những
đóng góp văn chương của Cao Bá Quát trong lịch sử văn học dân tộc. Việc nghiên
cứu một cách thống nhất biện chứng ba vấn đề (quan niệm văn học thể hiện thống
nhất ở nội dung và hình thức) giúp hình thành nên đặc điểm phong cách nghệ thuật
trong sáng tác của ông. Đặt trong tiến trình văn học dân tộc nói chung, bối cảnh văn
hóa văn học của thời đại đó nói riêng càng khẳng định đây việc làm cần thiết, có ý
nghĩa khoa học. Trong luận văn này, chúng tôi không tham vọng làm được tất cả
mọi vấn đề nhưng việc nghiên cứu “mối quan hệ giữa quan niệm văn học và sáng
tác của Cao Bá Quát”, trong đó chúng tôi đi sâu nghiên cứu bối cảnh thời đại, nguồn
10
gốc những quan niệm, sự ảnh hưởng và phản ánh của quan niệm văn học đó đến
việc lựa chọn đề tài, thể thơ và ngôn ngữ, đích cuối cùng là hình thành nên cái nhìn
toàn diện về phong cách của nhà thơ tài tử này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là “Mối quan hệ giữa quan
niệm văn học và sáng tác của Cao Bá Quát”. Để làm rõ đối tượng và phạm vi
nghiên cứu này, đề tài của chúng tôi tập trung nghiên cứu ba vấn đề lớn sau:
Thứ nhất là bối cảnh văn hóa văn học, bao gồm những nét lớn về văn hóa xã
hội Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, nhất là khi
triều đình nhà Nguyễn thống nhất đất nước, ổn định chính trị, xã hội và thi hành
nhiều biện pháp có liên quan chặt chẽ đến xã hội nói chung, văn học giai đoạn này
nói riêng. Trong bối cảnh đó, Cao Bá Quát đưa ra quan niệm về tính linh, đề cao
chữ tình, sự chân thật của cảm xúc đối lập với văn học hoàng phái nhà Nguyễn, phê
phán lối thơ bắt chước, thiếu tính chân thực và cá tính. Từ đó giúp người đọc hình
dung sự tiếp nối, khu biệt trong tư tưởng văn học của Cao Bá Quát với đương thời.
Thứ hai là thuyết tính linh trong lý luận văn học Trung quốc, văn học Việt
Nam, đặc biệt là thuyết tính linh trong quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát. Để giải
quyết được vấn đề này, chúng tôi sẽ tìm hiểu những tư liệu, nhất là qua các tác giả
và các tác phẩm tiêu biểu trực tiếp đề cập đến sự hình thành, phát triển của quan
niệm này trong lý luận văn học Trung hoa và văn học trung đại Việt Nam. Ở Việt
Nam, thuyết tính linh được Lê Quý Đôn nhắc tới đầu tiên. Tuy nhiên Cao Bá Quát
lại là người phát triển lý thuyết này lên đỉnh cao và thể hiện nó thống nhất trong sự
nghiệp thi ca của mình. Trong quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát hạt nhân chính
là thuyết tính linh. Đây là vấn đề quan trọng của đề tài. Phần này chúng tôi sẽ tập
trung tìm hiểu những bài phát biểu về văn học của Cao Bá Quát trong các lời bạt,
lời tựa, hoặc tác giả gửi gắm trong tác phẩm của mình.
Thứ ba là sự thể hiện quan niệm sáng tác đó trong đề tài, thể thơ và ngôn ngữ
thơ Cao Bá Quát, từ đó chứng minh quan niệm văn học của Cao Bá Quát có ảnh
hưởng như thế nào đến thơ ca của ông xét trên phương diện nội dung và hình thức.
Những vấn đề thuộc về nội dung và hình thức trong sáng tác của ông luôn được đặt
11
trong sự soi chiếu bởi quan niệm sáng tác, cụ thể là thuyết tính linh. Chúng tôi sẽ
tiến hành khảo sát thơ chữ Hán Cao Bá Quát bởi đây là bộ phận văn học chủ yếu và
đóng góp hầu hết những giá trị văn chương của ông để tìm ra những giá trị nội dung
cũng như những đặc trưng về mặt nghệ thuật trong mối quan hệ hữu cơ với quan
niệm sáng tác của ông.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
chính sau:
- Phương pháp thống kê: đề tài sử dụng phương pháp này nhằm tập hợp tư
liệu phục vụ cho phần lịch sử vấn đề, thứ hai là để khảo sát phần quan niệm văn
chương và nhất là sáng tác của Cao Bá Quát, lấy đó làm tư liệu, dẫn chứng cho phần
khai triển, cũng như chia ra các đề tài, đề mục cho ba chương của luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là những phương pháp chính được
chúng tôi sử dụng hoặc riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau tùy theo mục đích từng phần
mục nhằm phân tích vấn đề, đưa ra ý kiến, nhận định và tổng hợp những luận điểm
cơ bản trong từng phần. Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp trên để đọc các tài
liệu tham khảo, đọc thơ... từ đó tạo cơ sở triển khai thành những vấn đề cụ thể trong
từng chương mục nhằm giải quyết vấn đề chung nhất là quan niệm sáng tác văn học
cùng sự thể hiện của nó trong sáng tác của Cao Bá Quát.
- Phương pháp so sánh chúng tôi đặc biệt sử dụng để nhấn mạnh điểm khác
biệt và cũng là điểm nổi bật trong sáng tác của Cao Bá Quát so với một số các tác
giả nổi tiếng khác trong nền văn học trung đại về nội dung và hình thức.
5. Cấu trúc của đề tài
Tương ứng với nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn chia thành 3 chương:
Chương 1. Bối cảnh văn hóa văn học
Chương 2. Quan niệm văn học của Cao Bá Quát
12
Chương 3. Sáng tác của Cao Bá Quát
CHƢƠNG 1 BỐI CẢNH VĂN HÓA VĂN HỌC
1.1 . Bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – đầu
thế kỷ XIX
Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX là thời kỳ diễn ra những chuyển
biến to lớn. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn phá vỡ tình trạng cát cứ hai miền kéo dài gần
hai trăm năm. Sau đó là cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh chấm dứt
với sự sụp đổ của nhà Tây Sơn. Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802 đưa nước ta vào
thời kỳ thống nhất dưới sự trị vì của triều Nguyễn. Thời gian lịch sử nửa cuối thế kỷ
XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX có một số điểm khác biệt. Tuy nhiên giữa hai mốc
thời gian này có nhiều điểm tương đồng về mặt văn hóa xã hội, đặc biệt là văn học.
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung phân tích những vấn đề có liên quan trực
tiếp nội dung luận văn chúng tôi triển khai.
Lịch sử triều Nguyễn về cơ bản chia thành hai giai đoạn trước và sau khi Pháp
xâm lược. Niên biểu tác giả Cao Bá Quát (1808 – 1855) nằm trọn trong giai đoạn
đầu khi triều Nguyễn độc lập cũng là thời kỳ nhà Nguyễn được đánh giá có nhiều
đóng góp cho lịch sử dân tộc, trải qua bốn vị vua đầu nhà Nguyễn: Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Nguyễn Ánh lên ngôi sau khi đất nước đã thống nhất về
cương vực lãnh thổ tiến hành độc tôn Nho giáo để thống nhất chính trị, tư tưởng.
Đây là sự kiện có ý nghĩa lớn và ảnh hưởng đến nhiều mặt trong đời sống văn hóa
xã hội và văn học. Nho giáo trong vai trò là học thuyết chính trị đạo đức gần với
người Việt Nam từ lâu đời, qua mấy thế kỷ thăng trầm của lịch sử, sức ảnh hưởng
của Nho giáo đối với xã hội có những biến đổi nhưng chưa bao giờ mất đi vị trí của
mình. Việc triều Nguyễn tiếp tục dòng mạch độc tôn Nho giáo cũng là điều dễ hiểu.
Hơn nữa nội dung cốt lõi của Nho giáo là tam cương, ngũ thường trong đó đề cao
nhất mối quan hệ vua tôi, đề cao tư tưởng trung quân, đặt nhà nho vào thế trung
thành tuyệt đối với vua. Xã hội Việt Nam suốt hai thế kỷ (XVII - XVIII) chứng kiến
sự khủng hoảng cả chính trị lẫn tư tưởng. Trước tình hình đó, Gia Long thống nhất
đất nước chọn Nho giáo để thiết lập lại tình trạng ổn định trong tư tưởng chính trị,
13
đạo đức từ triều đình đến toàn xã hội.
Triều Nguyễn đưa ra nhiều chính sách nhằm củng cố chính quyền, tăng cường
sự thống nhất đất nước. Gia Long trong vai trò là người khai cơ của triều đại nên
những năm đầu phải tập trung củng cố chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Công cuộc cải cách, phát triển mọi mặt đặt lên vai ông vua thứ hai Minh Mạng. Đây
cũng là vị vua được đánh giá cao nhất của triều Nguyễn kéo dài hơn một trăm năm.
Ngay từ thời Gia Long đã chú trọng đến các chính sách thu hút nhân tài làm quan
trong triều đình, điều này càng được đẩy mạnh hơn dưới sự trị vì của Minh Mạng.
Vua Minh Mạng quan tâm đến vấn đề giáo dục, xây dựng hệ thống các cơ sở giáo
dục của triều đình đến các địa phương. Triều đình đặc biệt chú trọng đến việc giảng
dạy cho các hoàng tử cho nên các vị vua đều là những người có học vấn cao, bên
cạnh đó các hoàng tử anh em với vua cũng là những người học nhiều, thuộc nhiều
kinh điển và giáo lý nho gia mà sau này chính các vị vua và các hoàng thân tập hợp
với nhau tạo thành dòng văn chương của hoàng tộc nhà Nguyễn. Họ viết văn làm
thơ và sử dụng văn thơ là công cụ để tu dưỡng nhân cách và đề cao đạo lý cương
thường trong xã hội. Các ông vua nhà Nguyễn cũng chú trọng việc lập các trường
học ở phủ huyện để xây dựng nền giáo dục, mở mang kiến thức và học vấn trong xã
hội, thông qua đó đào tạo người tài, quan lại trên nền tảng đề cao tinh thần đạo đức
nhà nho duy trì từ những thế hệ trước.
Nội dung giáo dục cũng chưa thay đổi so với các thời đại trước. Minh Mạng
khẳng định “trước hết phải giảng ngũ kinh và tứ truyện để hiểu rõ nghĩa lý rồi giảng
đến sách chư, tử và chư sử để thông hiểu lý sự, cứ mỗi tháng bốn lần khảo hạch
hoặc học thêm văn thù phụng mà làm ra bài hỏi về những việc đời nay” [25, tr.83].
Không khí học tập thực hành các luân lý, đạo đức Nho giáo dấy lên mạnh mẽ.
Trong thời đại Nho giáo giữ vị trí chính thống và chi phối hệ tư tưởng thì chắc chắn
nội dung việc học không thể khác biệt với tư tưởng Nho giáo, coi trọng lễ nghĩa, coi
trọng văn. Văn có vai trò xứ mệnh cao cả, ở vị trí giúp vua dẫn đến quan niệm sùng
bái văn chương, sùng bái nội dung về văn trong nền giáo dục.
Cùng với việc quan tâm giáo dục thì thiết chế có ý nghĩa quan trọng để tăng
cường củng cố cho Nho giáo chính là việc nhà Nguyễn tổ chức các kỳ thi tuyển
14
chọn quan lại bằng con đường văn chương. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của văn học. Xuất phát từ quan niệm Nho giáo, văn chương là linh thiêng,
có vị trí - chức năng xã hội tạo thành không khí sùng bái văn chương. Nhìn tổng thể
văn học nước ta theo chiều dài lịch sử, đặc biệt ở triều Nguyễn khi Nho giáo được
độc tôn trở lại thì những yếu tố của cá nhân ít nhiều bị hạn chế, và mở ra sự phát
triển mạnh của văn học chính thống hướng về triều đình, phục vụ những giáo lý cơ
bản của chế độ quân chủ đề cao vua và đạo đức nhà nho. Lý do chọn văn chương là
nội dung khoa cử có quan hệ thống nhất với quan niệm về văn chương. Xuất phát từ
cách thức cai trị bằng giáo hóa của nhà nước phong kiến chuyên chế (văn là công cụ
thực thi giáo hóa), từ lề lối cai trị, cung cách cai trị của ông quan (sản phẩm của
khoa cử), người ta đã chọn văn làm nội dung để chọn người tài, lấy văn làm thước
đo năng lực trình độ học vấn cũng như khả năng quản lý xã hội của nho sĩ- vị quan.
Văn chương được đồng nhất với tri thức. Đối tượng được lựa chọn phải là những
người đạt tiêu chuẩn đạo đức, học thuộc và hiểu nhiều kinh điển của nho gia. Cho
nên nếu nói đến văn chương khoa cử là “thứ văn chương khô khan, dùng nhiều
khuôn phép định sẵn về những nội dung kinh điển. Nhưng đó là văn chương chính
thống, chính đạo. Hàng trăm thế hệ những người đi học, đi thi phải coi nó mới là
văn chương” [11, tr.37]. Ngay chính vua Minh Mạng cũng nhận thấy những điểm
hạn chế của loại văn này, cho rằng “văn chương cử nghiệp chỉ câu nệ sáo cũ hủ lậu
mà hãnh diện với nhau, dựng riêng ra một môn, nhân phẩm cao thấp ở đấy, khoa
trường lấy đậu hay không là do ở đây, vậy nhân tài ngày càng kém, không lấy gì
làm lạ vậy. Nhưng tập tục nhai duyên đã lâu khó mà thay đổi ngay được” [25,
tr.81]. Minh Mạng cho rằng vì “tập tục nhai duyên đã lâu khó mà thay đổi được” để
giải thích cho việc tiếp tục mạch văn chương khoa cử trong tuyển chọn quan lại là
điều đúng nhưng chưa đủ. Mảng văn chương này có nội dung Nho giáo đậm đặc bởi
vì thi là thi nho học, nội dung lấy từ kinh điển Nho giáo. Nói cách khác giáo dục
khoa cử chính là hình thức tồn tại, tái sinh của Nho giáo.
Trong bối cảnh học tập, thi cử như trên dẫn đến sự thiếu hụt tri thức người học,
nhất là trên các phương diện kiến thức khoa học, kỹ thuật, thương mại… Không thể
phủ nhận những giá trị của nho học và chế độ khoa cử đào tạo, tuyển chọn cho triều
15
đình nhà Nguyễn những danh nhân, người tài giúp nước, để lại nhiều giá trị văn
hóa, văn học. Mặt khác, lối học văn chương luân lý đạo đức làm gốc không còn phù
hợp trước sự thay đổi của lịch sử, nhất là sự phát triển nhanh của cách mạng công
nghiệp ở phương tây và ảnh hưởng đến phương đông mạnh mẽ. Những trí thức nhà
Nguyễn vẫn say sưa học hành, thực hành nội dung Nho giáo, say sưa văn chương cử
tử, gọt câu đẽo chữ mà không quan tâm đến các vấn đề thực tế khác. Lại thêm tư tưởng
thủ cựu bảo trì lâu dài ở quốc gia và xã hội theo khuôn khổ Nho giáo làm cơ sở trật tự
xã hội, lấy đạo đức làm gốc, bảo vệ nếp cổ theo văn hóa Trung hoa truyền thống làm
mẫu mực là những đặc điểm có thể nhận thấy rõ trong xã hội triều Nguyễn.
Bên cạnh đó, các ông vua nhà Nguyễn với tư cách là người đứng đầu triều
đình cũng là những nhà nho chính hiệu là người trực tiếp tuyển giảng Nho giáo, tự
mình đề ra các đề thi Đình, tạo ra các đề tài cho đình thần ứng đối. Trong bối cảnh
đó hàng loạt các bài thơ ngự chế của vua quan ra đời. Bản thân các vua Nguyễn, các
hoàng thân nhà Nguyễn cũng ham thích thơ văn và cũng có tài văn chương. Những
tác giả tiêu biểu cho dòng văn học nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức,
Miên Thẩm, Miên Trinh, Miên Bửu… Xuất phát từ nguyên nhân chủ quan (yêu
chuộng văn thơ) của hoàng phái nhà Nguyễn kéo theo đội ngũ quan lại văn thần
đông đảo hưởng ứng tạo nên không khí sáng tác, bình phẩm văn chương sôi nổi.
Trong xã hội trọng văn, người làm văn đồng thời là nhà nho trong ngàn năm lịch sử
quen nghiên cứu nghiền ngẫm sách vở kinh viện nho giáo, ít chú trọng đến những
vấn đề tìm kiếm cái mới cả về nội dung lẫn hình thức. Dù nội dung có chứa những
nhận thức hay tình cảm, cảm xúc thì nó vẫn giữ gìn cho có trừng mực đúng chính
đạo. Về nghệ thuật quan tâm sự tìm tòi trong thế gọt giũa tìm câu tìm chữ cho phù
hợp, nhắc lại mà không sáng tạo. Không thể phủ nhận hoàn toàn loại văn chương
này nhưng giá trị của nó không lớn đối với sự phát triển của nền văn học nói chung.
Tuy nhiên sự ảnh hưởng của bộ phận hay một dòng văn học không bao trùm toàn bộ
giá trị của cả nền văn học. Đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX với
sự phát triển nhiều dòng văn học khác nhau, chưa từng xuất hiện trong các giai đoạn
văn học trước đó, không chỉ có xu hướng đối lập với dòng văn học cung đình mà
cho thấy sự phát triển của cả nền văn học Việt Nam giai đoạn này với những thay
16
đổi, phát triển phù hợp với tiến trình lịch sử.
Nói đến xã hội triều Nguyễn không thể không nhắc tới quan hệ giữa triều
Nguyễn với phương tây. Việc triều Nguyễn “đóng cửa” trong quan hệ với phương
tây và tiếp thu những ảnh hưởng của văn hóa Trung hoa đã được thừa nhận. Hiện
nay đã có nhiều thay đổi trong cách đánh giá về triều Nguyễn trên các phương diện.
Nguyễn Ánh, vị vua sáng lập triều Nguyễn cũng là người chủ động hợp tác với
Pháp xuất phát từ mục đích muốn khôi phục lại giang sơn nhà Nguyễn, lợi dụng ưu
thế kinh tế, kỹ thuật chiến thắng nhà Tây Sơn. Trong lịch sử Việt Nam thì Nguyễn
Ánh là người có quan hệ hợp tác với phương tây khá toàn diện trên các phương diện
quân sự, ngoại giao, kinh tế và chính trị mà trước đó chưa một nhân vật lịch sử nào
làm được. Sau Gia Long có Minh Mạng và Thiệu Trị tiếp tục giao hảo với Pháp
nhưng có những hạn chế nhất định. Tác giả Vĩnh Sính cung cấp những thông tin cho
thấy mối quan hệ giao thương giữa Việt Nam với phương tây. Tác giả cho rằng địa
danh Hạ Châu mà Cao Bá Quát được phái đi dương trình hiệu lực “trên nguyên tắc
được dùng không những để chỉ Singapore mà còn để gọi cả Penang và Malacca –
tức là các thuộc địa của người tây phương trên biển Malacca…” [57]. Hơn nữa thời
điểm 1844 diễn ra chuyến đi này có thể coi là thời điểm nhạy cảm bởi “đây là một
trong các phái bộ đầu tiên do triều đình Nguyễn gửi sang Hạ châu ngay sau khi
Thanh triều vì bị thất trận nặng nề trong cuộc chiến tranh nha phiến (1839 – 1842)
nên phải nuốt nhục ký điều ước Nam kinh (1842) với nước Anh” [57]. Chúng tôi
đồng tình với ý kiến của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn rằng “việc các chuyến
thuyền do triều đình sai đi Hạ Châu vẫn nằm trong xu thế chung là hết sức dè dặt
trong quan hệ với thế giới bên ngoài… Bản thân việc nhà Nguyễn cử các phái đoàn
đi sang Đông Nam Á vừa để giao thương, buôn bán, vừa nắm thông tin về mọi mặt
trước sự hiện diện của Anh và các cường quốc phương tây cho thấy thực ra nhà
Nguyễn có quan tâm đến các vấn đề ứng xử với các thế lực mới này”[54, tr.8-9].
Việc nhà Nguyễn có những quan hệ giao thương với phương tây (nhất là ở ba
vị vua đầu triều Nguyễn) có những tác động đến xã hội triều Nguyễn giai đoạn này.
Những đô thị như Hội An, Phố Hiến, Gia Định… phát triển ở thế kỷ trước thì đến
nay vẫn tiếp tục phát triển trong vai trò của những trung tâm kinh tế, thương mại và
17
sự thay đổi về văn hóa tinh thần trong đời sống đô thị. Có lẽ tác động quan trọng từ
đời sống đô thị, xã hội thị dân chính là “sự xuất hiện những nhân vật xã hội” (Trần
Ngọc Vương). Trong đó “các nhà nho phi cổ truyền tạo nên trong đời sống tinh thần
một luồng sinh khí mới, vừa thể hiện tính tất yếu của sự vận động của bản thân cuộc
sống, cũng vừa mâu thuẫn với những xác tín, những nguyên lý ứng xử chính thống”
[40, tr.69]. Sự ra đời và phát triển của một lớp nhà nho với tư tưởng và lối sống
mới, có khuynh hướng đối lập và phá vỡ khuôn khổ truyền thống, tạo lập tính cá
nhân đã tạo hương sắc mới cho thời kỳ này và thể hiện rõ trong những sáng tác văn
học của họ. Cao Bá Quát là trường hợp tiêu biểu. Hơn nữa việc Cao Bá đi dương
trình hiệu lực được tận mắt chứng kiến những điều xa lạ, thể hiện trong văn chương
của mình với những tư tưởng, nhận thức mới so với thời đại của ông chính là sản
phẩm của sự tiếp thu văn hóa của con người cởi mở, đầy cá tính.
Triều Nguyễn độc tôn Nho giáo nhưng thời kỳ này vẫn có sự tồn tại và phát
triển của Phật giáo, Đạo giáo tạo nên đời sống tinh thần đa dạng. Nho giáo quay trở
lại vị trí độc tôn nhưng tư tưởng của lớp nho sĩ đã có sự chuyển biến, họ không
tuyệt đối tin theo những giáo lý Nho giáo như trước đây. Tác giả Nguyễn Thanh
Tùng cho rằng tư tưởng của giai đoạn này là “tam giáo đồng nguyên”, “cư nho mộ
thích” mà bản chất của hai tư tưởng này khác biệt không lớn bởi “tam giáo nhưng
thực chất là tam giáo dưới cái nhìn của Nho giáo. Phật, Đạo chỉ có thể gây ra ảnh
hưởng qua con đường ảnh hưởng của Nho giáo” [39, tr.104]. Thực tế Phật, Đạo chỉ
có thể gây ảnh hưởng qua Nho là điều đó chưa chẳn. Nho giáo là học thuyết chính
trị, đạo đức, là đạo lý nhập thế vốn không phải là tôn giáo. Vì vậy họ tìm đến Phật,
Đạo để “bù đắp” những thiết hụt trong đời sống mà Nho giáo không đưa lại. Tác giả
Nguyễn Huệ Chi khi nghiên cứu về đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam nhấn
mạnh “văn học cổ Việt Nam chịu sự chi phối của ba hệ thống tư tưởng tôn giáo Phật
giáo, Đạo giáo và Nho giáo… Ở những chặng đường sau tuy có lúc Nho giáo giữ vị
trí độc tôn nhưng chưa bao giờ Đạo giáo và Phật giáo mất hẳn địa vị trong việc
nâng đỡ tinh thần và cảm hứng cho mọi thế hệ người cầm bút viết văn” [4, tr.1000].
Cũng có nghĩa ảnh hưởng của Phật, Đạo trong tư tưởng tầng lớp trí thức không thể
mạnh như Nho nhưng sự tồn tại của chúng tách biệt trong khoảng cách nhất định và
18
sự ảnh hưởng là khác nhau chứ không phải chỉ dựa vào Nho, thông qua Nho. Trong
đó Nho giáo với lịch sử tư tưởng tồn tại lâu bền trong nhà nho thì luôn chiếm vị trí
hàng đầu.
Sự phức tạp không chỉ diễn ra trong đời sống tư tưởng xã hội mà bản thân tầng
lớp nho sĩ thất vọng, đổ vỡ đối với lý thuyết của Nho giáo. Sự tồn tại của tam giáo
như trên chứng tỏ tư tưởng tầng lớp trí thức không thuần nhất Nho mà có sự tìm
kiếm, ảnh hưởng của Phật và Đạo để thay thế những tín điều mà Nho không mang
lại. Từ sự chuyển biến trong tư tưởng sẽ dẫn đến thay đổi trong quan niệm, đời sống
thực tiễn cũng như đời sống văn học. Sự khủng hoảng trong tư tưởng tầng lớp trí
thức, sự đình đốn suy sụp của nền kinh tế, đời sống nhân dân cực khổ trước tình
trạng chiến tranh liên miên dẫn đến hàng loạt các cuộc khởi nghĩa. Sử sách triều
Nguyễn ghi nhận con số gần 500 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trong khoảng thời gian từ
1802 – 1883 dưới sự trị vì của bốn vị vua đầu triều Nguyễn. Chiến tranh loạn lạc
không chỉ là tình trạng khủng hoảng kinh tế mà sâu sắc hơn bởi nguyên nhân là “sự
mất tin tưởng, hoài nghi hết mọi tín điều, không phải ở phương diện trừu tượng của
giáo lý mà ở phương diện cụ thể của con người ban phát thực hành giáo lý” [4,
tr.754]. Tuy nhà Nguyễn độc tôn Nho giáo nhưng không thể lấy lại giá trị nguyên
vẹn mà Nho giáo xây dựng trong thời kỳ thịnh trị của nó. Trên phương diện văn hóa
– xã hội, trực tiếp nhất là đời sống văn học, quan niệm thuộc về chính thống phát
triển thành dòng riêng, thu hút lực lượng lớn tham gia xung quanh triều đình trung
ương Huế nhưng những vùng có tính truyền thống như Thăng Long và hệ thống các
tác giả ở đây vẫn theo những tư tưởng và dòng mạch dân chủ, hướng đến những giá
trị thuộc về con người cá nhân, con người tự do của giai đoạn trước đó.
Tình hình xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX diễn các cuộc
chiến tranh giữa các giai tầng trong xã hội, khởi nghĩa nông dân, sự khủng hoảng ý
thức hệ chính trị cũng như trong tầng lớp trí thức nhà nho, sự phát triển của kinh tế
thương mại xuất hiện những đô thị và đời sống thị dân… đã tác động không nhỏ lên
đời sống văn học cũng như lực lượng sáng tác thời kỳ này. Triều Nguyễn thi hành
nhiều những biện pháp củng cố Nho giáo cùng sự phát triển của dòng văn học cung
đình với tính chất văn chương chính thống tác động không nhỏ đến xã hội. Trong
19
bối cảnh này, chúng tôi nghiên cứu quan niệm văn chương của Cao Bá Quát và sự
thể hiện của nó trong sáng tác của ông để đưa ra cách nhìn toàn diện hơn tại sao Cao
Bá Quát lại có quan điểm như vậy trong tương quan với bối cảnh đương đại để nhận
định chính xác nhất về ý nghĩa quan niệm văn chương của ông.
Đánh giá về triều Nguyễn cần nhìn nhận vào sự thật lịch sử để đưa ra cái nhìn
toàn cảnh, khách quan hơn. Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng kéo dài
gần 150 năm đã đóng góp nhiều giá trị, nhất là với những vị vua đầu triều Nguyễn
trước khi thực dân Pháp xâm lược. Việc nhà Nguyễn khôi phục Nho giáo bị coi là
cổ hủ, thậm chí là phản động trên quan điểm phản phong bởi mục đích của nó là
bảo vệ giai cấp, bảo vệ triều đại phong kiến. Nhưng ngay tại thời điểm đó chưa xuất
hiện học thuyết hay tôn giáo, đường lối cai trị nào tỏ ra ưu thế vượt trội hơn so với
Nho giáo. Gia Long cố gắng xây dựng chính quyền quân chủ mạnh và thiết lập triều
đại để củng cố sự thống trị về cương vực lãnh thổ từ bắc tới nam như hiện nay là
đóng góp đáng ghi nhận. Những di sản văn hóa tinh thần mà triều Nguyễn để lại rất
giá trị. Sự khủng hoảng kinh tế xã hội, sự thất bại trước thực dân Pháp xâm lược cho
thấy hạn chế của triều Nguyễn nhưng không thể phủ định sạch trơn những đóng góp
của triều đại này.
1.2. Đời sống văn học
Trong nhiều thế kỷ Thăng Long là kinh đô nhà nước, nơi tập trung hoạt động
chính trị, văn hóa cũng là trung tâm văn học của nước ta. Văn học được phát triển
dưới sự bảo trợ của triều đình phong kiến, phục vụ cho những mục đích của triều
đại. Bản thân các tác giả văn học thi cử quan lại bằng văn là một trong nhân tố quan
trọng tạo nên sự phát triển văn học và những thể loại văn học – chính trị nhà nước.
Suốt thời kỳ dài của lịch sử chứng kiến sự tồn tại của trung tâm chính trị - văn học
Thăng Long nhưng tình hình thay đổi cùng với những biến động của tình hình đất
nước khi Nguyễn Ánh lên ngôi lấy Phú Xuân - Huế làm kinh đô.
Văn học không phải là sự minh chứng của lịch sử nhưng nó chịu ảnh hưởng
của lịch sử, chính trị, kinh tế của đất nước. Thế kỷ XVII – VXIII đánh dấu sự phân
chia quyền lực, lãnh thổ giữa vua Lê chúa Trịnh đàng ngoài và chúa Nguyễn đàng
trong dẫn tới sự thay đổi của không gian văn học. Ở đàng ngoài Thăng Long vẫn là
20
trung tâm văn học xứ bắc nhưng xứ đàng trong hình thành nên trung tâm văn học
mới được định danh là không gian văn học Thuận Quảng (chữ dùng của nhà nghiên
cứu Trần Nho Thìn). Việc nhấn mạnh không gian văn học này để lưu ý đến những
đặc điểm của văn hóa vùng miền, phương diện tư tưởng thẩm mỹ riêng. Triều
Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, quy tụ một tầng lớp nho sĩ, trí thức tập trung quanh
kinh đô mới này tạo nên một số đặc trưng văn học khác với vùng văn học Thăng
Long truyền thống. Một số tác giả đất bắc vào Huế làm quan và có sự nghiệp văn
chương gắn với vùng đất mới này có những nét khác, vừa bổ sung vừa đối lập, nhất
là về tư tưởng, quan niệm.
Sự chuyển dịch không gian văn học theo hướng tiến về phía nam được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm để định danh tên gọi cho vùng văn học này. Tác giả Cao
Tự Thanh gọi là văn học đàng trong thế kỷ XVII – XVIII trên cơ sở “khái niệm địa
chính trị” để chỉ nửa phần đất ở phương nam từ sau khi Nguyễn Hoàng trở về
Thuận Hóa (1600) thiết lập chính quyền riêng với chính quyền đàng ngoài. Tác giả
Nguyễn Khoa Điềm trên cơ sở tìm hiểu đội ngũ tác giả tác phẩm, công chúng văn
học, thị trường văn học, mối quan hệ giữa văn học với giới cầm quyền… thừa nhận
không gian văn học Thừa Thiên-Huế với đời sống riêng từ mốc 1600, là thời điểm
Nguyễn Hoàng vào Thừa Thiên Huế lần hai trong ý muốn tách khỏi đất Bắc Hà.
Cũng theo tác giả này thì “đời sống văn hóa tinh thần của đất Thuận Quảng sau năm
1600 đã định hình và khu biệt nhất định với văn học Thăng Long là cơ sở để hình
thành đời sống văn học Thừa Thiên Huế về cả đội ngũ, chủ đề, bút pháp và tầm ảnh
hưởng của nó” [56]. Tác giả Trần Nho Thìn trên góc nhìn không gian địa - văn học
cho thấy quá trình vận động văn học cùng với quá trình mở rộng lãnh thổ về phía
nam để từ không gian văn học mà trung tâm là Thăng Long và các tỉnh quanh
Thăng Long (gọi là tứ trấn gồm Kinh Bắc, Sơn Nam, Sơn Tây, Hải Dương) mở
rộng về phía nam với sự kiện Đào Duy Từ bỏ đàng ngoài vào đàng trong theo các
chúa Nguyễn và việc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa. Nhưng không gian văn học
tiếp tục được mở rộng theo quá trình nam tiến. Theo ông quá trình nam tiến cuối thế
kỷ XVII đã lan rộng đến tận Đồng Nai, Gia Định rồi Hà Tiên để văn học Hán –
Nôm được mở rộng.
Có điểm chung trong ý kiến của các nhà nghiên cứu là sự chuyển dịch không
21
gian văn học diễn ra ở thế kỷ XVII với sự kiện Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa trong
xu hướng muốn tạo độc lập với chính quyền đàng ngoài và một phần trong sự độc
lập đó là sự chuyển dịch của văn học mang những đặc điểm riêng bởi nó chịu sự chi
phối của tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa đàng trong. Tuy nhiên việc định danh
bằng một tên gọi chính thức cho không gian văn học này vẫn chưa có sự thống nhất.
Tác giả Cao Tự Thanh định danh văn học đàng trong gắn với không gian địa –
chính trị của khu vực rộng lớn. Nếu chỉ nhìn nhận văn học theo góc nhìn địa lý thì
chưa thể chính xác bởi vùng đất Nam Bộ gồm Gia Định, Hà Tiên hình thành muộn
hơn so với Thuận Hóa và có những nét riêng trong đời sống văn hóa tinh thần của
vùng đất mới được khai phá. Tác giả Trần Nho Thìn nhận xét chính xác rằng “khả
năng ảnh hưởng hạn chế của triều đình trung ương trong ý đồ nhất thể hóa mọi mặt
đời sống, kể cả đời sống văn hóa tư tưởng ở các vùng miền do không gian đất nước
quá rộng so với trình độ kỹ thuật rất hạn chế, do truyền thống văn hóa, đặc trưng
riêng của các vùng miền mà lịch sử để lại…”[33, tr.632]. Nếu gọi là văn học Thừa
Thiên-Huế hình thành từ đời sống văn hóa tinh thần của đất Thuận Quảng trong vai
trò trung tâm văn học giống như Thăng Long thì chưa bao quát hết phạm vi không
gian. Nói cách khác sự xuất hiện của vùng văn học Thuận Quảng với trung tâm là
Phú Xuân - Huế, chủ lưu văn học của hoàng phái nhà Nguyễn có ảnh hưởng nhất
định đến nền văn học thời kỳ này. Sự chuyển dịch không gian văn học này xuất hiện
từ thế kỷ XVII –XVIII nhưng đến thời điểm đầu thế kỷ XIX khi Gia Long lên ngôi,
tổ chức triều đại độc lập thống nhất toàn cõi Việt Nam thì không gian văn học này
chính thức được xác lập. Dòng văn học cung đình Huế đầu thế kỷ XIX khi triều
đình nhà Nguyễn cố gắng khẳng định địa vị của mình, xây dựng chính quyền đất
nước, độc tôn Nho giáo đã quy tụ một số tác giả lớn phía bắc thi cử và làm quan ở
đây (Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu…) tạo nên
không khí văn học sôi nổi. Việc nghiên cứu vùng văn học này trong tương quan với
nền văn học dân tộc cũng như đối chiếu với tác giả Cao Bá Quát sẽ cho chúng ta
thấy được những khác biệt cũng như tại sao hình thành những đặc điểm văn chương
của Cao Bá Quát có tính đối lập với bối cảnh văn học mà tác giả tương tác.
Trong không gian văn học Thuận Quảng, văn học cung đình Huế phát triển mà
22
chủ lưu là dòng văn học hoàng phái nhà Nguyễn, đứng đầu là các ông vua đầu triều
Nguyễn: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức (vua Gia Long gắn với công cuộc khai
quốc, bước đầu xây dựng đất nước thống nhất bằng quân sự vũ trang chưa thể quan
tâm nhiều đến công cuộc văn trị). Các ông vua này đều là những ông vua hay chữ
và có nhiều thơ. Họ là người đại diện triều đình phong kiến và giai cấp thống trị
trong vai trò những nhà văn, nhà thơ thì việc tuyên truyền, giáo huấn đạo trung hiếu
và khẳng định quyền lực thống trị của triều Nguyễn là nội dung quan trọng. Triều
Nguyễn độc tôn Nho giáo cùng các chính sách thi cử quan lại bằng văn chương,
giáo dục đạo đức nho gia hay hoạt động sáng tác văn học cung đình hướng tới
truyền bá, khẳng định Nho giáo hữu ích và để phục vụ triều đình.
Trong dòng văn học nhà Nguyễn còn có sự xuất hiện của các thi xã, tiêu biểu
nhất là Mặc Vân thi xã do hoàng tử Miền Thẩm, Miên Trinh là chủ soái cùng với
nhiều hoàng tử, công chúa, quan lại triều đình, văn thân quốc thích nhà Nguyễn
tham gia. Hoạt động xướng họa, bình thơ văn tạo ra không khí sôi nổi. Phủ của
Miên Thẩm là nơi gặp gỡ, hội tụ những người hoạt động xướng họa văn thơ: “trong
phủ không ngày nào số văn nhân đến hội họp dưới nửa trăm người. Còn ở xa gần
các danh sĩ hưởng ứng theo, gửi thơ, bài xướng họa cũng lắm… Ngoài ra, những
hạng con em ham học ở những làng xung quanh nghe tiếng thi xã tình nguyện vào
học hỏi không biết bao nhiêu” [19, tr.38]. Dưới triều Nguyễn, nhất là dưới các vị
vua đầu triều Nguyễn có loại hình phủ đệ, nơi ở của các hoàng tử công chúa như
một quốc gia nhỏ, độc lập với bên ngoài, được vua ban phát lương bổng để duy trì
và tồn tại theo nếp sống sung túc của hoàng gia. Trong số phủ đệ thì phủ của Tùng
Thiện Vương Miên Thẩm không chỉ là nơi giao lưu học tập trong lĩnh vực xướng
họa văn thơ, sử sách ghi lại trường hợp Nguyễn Trọng Hợp (quê Hải Dương) sau đỗ
cử nhân hán học vào xin bái yết Miên Thẩm để học tiếp cho đến ngày đỗ tiến sĩ; hay
trường hợp của Phạm Phú Thứ cũng vậy. Trường hợp Tam Khanh (ba công chúa là
em Miên Thẩm gồm Trọng Khanh, Thúc Khanh, Quý Khanh) được Miên Thẩm
“giáo dục tận tâm” trở thành ba nữ thi sĩ (dẫn theo tác giả Lê Quang Thái trong
cuốn Nghiên cứu Huế). Điều đó cho thấy bản thân người đứng đầu Mặc Vân thi xã
có vai trò nhất định (thường gọi là mạnh thường quân) có ảnh hưởng không chỉ
23
trong tầng lớp hoàng tộc mà còn đối với một số quan lại, bậc đại khoa, hoàng thân
quốc thích… tạo nên không khí sinh hoạt văn học có tiếng ở kinh thành Huế. Trong
số những quan lại được Miên Thẩm giúp đỡ có Cao Bá Quát tạo nên tình bạn thân
thiết, sau này Cao Bá Quát đi xa nhớ về bạn bè có thơ về Miên Thẩm.
Dòng văn học triều Nguyễn nổi bật lên tính chất chính thống rõ nét. Trong
diễn ngôn của dòng văn học này từ vua đến các cá nhân hoàng tộc thì chức năng,
giá trị hàng đầu của văn học vẫn xoay quanh nội dung cốt lõi là tuyên truyền, giáo
huấn đạo trung hiếu, khẳng định quyền lực thống trị của vua và triều đình. Không
phải tất cả những trí thức, văn nhân nho sĩ kinh thành đều chịu ảnh hưởng, quy tụ về
hướng triều đình (chỉ xét góc độ văn chương) mà có một số tác giả có khuynh
hướng “ly khai” đi theo hướng khác, nhất là các tác giả đến từ đất bắc thi cử, làm
quan cho triều Nguyễn (Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du…). Sức ảnh
hưởng lan tỏa từ dòng văn học hoàng phái nhà Nguyễn tạo nên diện mạo, bộ phận
của văn học Việt Nam thế kỷ XIX. Vua Minh Mạng trong phát biểu của mình đã
khẳng định trách nhiệm của vua chúa đế vương, mà mở rộng ra là cả tầng lớp trí
thức về ý thức trách nhiệm trước triều đình thể hiện qua văn chương: “thơ phải
luyện cái linh tính hơn các ý muốn khác nhưng cái học của đế vương khác với
người thư sinh, tuy là ngâm vịnh nhưng vẫn ngụ ý với vua, với nước, với nhân dân
nếu không chỉ là một văn sĩ mà thôi” [25, tr.92]. Việc triều Nguyễn khôi phục Nho
giáo, các ông vua đều tinh thông nho học, là người trực tiếp giảng dạy, thậm chí
chính vua Tự Đức còn diễn nôm cuốn Luận ngữ để mọi người đều biết nằm trong
xu hướng này.
Các vị vua Minh Mạng, Thiệu Trị tỏ ra đặc biệt tôn sùng Lê Thánh Tông.
Minh Mạng xuống dụ từ Thanh Hóa đến Ninh Bình thu thập lại sách vở ngự chế,
thơ văn của Lê Thánh Tông để ban bố trong cả nước. Thậm chí Minh Mạng hỏi ý
kiến của quan lại trong triều muốn so sánh thơ mình với thơ Lê Thánh Tông. Các
hình thức vua tôi xướng họa với nhau rất phổ biến dưới triều Nguyễn. Vua Thiệu
Trị là người hay thơ, đi đâu cũng có thơ. Vua ở vườn Cơ Hạ ban rằng: “nay làm thơ
ứng chế, cả thảy 18 người, vừa đúng 18 học sĩ đời Đường được lên tới Dinh Châu.
Ban cho mỗi người một bút, giấy mực. Vua tôi xướng họa dưới ánh trăng trong” [1,
24
tr.34]. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng: “việc vua tôi xướng họa đem lại
nhiều lợi ích cho công cuộc trị vì. Nhiều vị vua triều Nguyễn cũng mô phỏng mô
hình hoạt động trước tác, xướng họa văn chương của Lê Thánh Tông để phục vụ
cho công cuộc cai trị, khẳng định đức độ và tài năng của họ, ca ngợi chế độ, tập hợp
quân thần…” [33, tr.24]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc nhận xét văn học triều
Nguyễn bên cạnh mạch tiếp tục phát triển theo giai đoạn trước thì có khuynh hướng
có tính chất giáo huấn, kêu gọi con người ra sức phục vụ triều đình. Sáng tác của
các ông vua đầu triều Nguyễn đều thể hiện dụng ý sáng tác ngay từ các đầu đề thi
tập. Tính chính thống theo khuôn mẫu và hướng tới triều đình lôi cuốn nhiều tác giả
cho thấy sức ảnh hưởng của dòng văn học này. Thêm vào đó triều Nguyễn tổ chức
những kỳ thi tuyển quan lại bằng văn chương với đặc điểm nổi bật là “tải đạo”,
“ngôn chí”. Văn chương khoa cử có thể coi là sản phẩm đặc trưng của giáo dục nho
học Việt Nam, là sản phẩm mang tính đặc trưng về tính chính thống, nhất là trên
phương diện nội dung. Những tư tưởng diễn đạt trong văn chương khoa cử đều
hướng đến tư tưởng của bậc thánh nhân, lý tưởng xã hội và với triều đại.
Một đặc điểm nổi bật trong dòng văn học triều Nguyễn, nhất là lối thơ của
hoàng phái nhà Nguyễn là việc sử dụng la liệt điển tích điển cố. Họ là những nhà
thơ hoàng tộc cung đình, những người nhàn rỗi, lương cao bổng hậu, có thời giờ tập
cổ, khoe tài học vấn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Khuê chỉ rõ lối sống an nhàn, hưởng
lạc của hoàng tộc nhà Nguyễn: “được hưởng lương cấp dưỡng quá cao nhưng lại
thường không giữ chức vụ nào trong triều đình nên các người trong hoàng tộc, nhất
là các ông hoàng đã sống một cuộc đời xa hoa, nhàn hạ… Trong cảnh sống “ngồi
mát ăn bát vàng”, để giết thì giờ, các ông hoàng thường lưu liên du ngoạn, thả
thuyền lênh đênh trên sông nước để ngắm cảnh, uống rượu, ngâm thơ, đánh cờ…
Được hưởng những quyền lợi lớn lao, được sống cuộc đời vương giả, tất nhiên giai
cấp quý tộc phải cố bảo vệ những đặc quyền của mình bằng sự trung quân, bằng
cách ca tụng triều đại của mình và đề cao chế độ đương quyền” [13, tr.79]. Xét trên
góc độ văn chương, việc sử dụng quá nhiều điển tích, điển cố khiến văn chương khô
khan, khó hiểu, thiên về phô bày học vấn và kỹ xảo mà thiếu đi cá tính sáng tạo.
Việc viết văn làm thơ không phải để thể hiện tình cảm, cảm xúc chân thực mà quan
25
trọng hơn nó được rèn luyện theo công thức có sẵn, mô phỏng, nệ cổ. Vì vậy loại
văn này nhiều khi giả tạo, trống rỗng, hầu như không có giá trị chân thực của cảm
xúc, tình cảm cá nhân. Điều này được Cao Bá Quát phê phán rõ ràng qua Bài tựa đề
cuối tập thơ Thương Sơn Công: “… người kém thì khổ về dựa dẫm, dễ dãi; người
có hào khí thì mắc vào bệnh ăn sống nuốt tươi. Còn những người sức học gọi là dồi
dào, hí hửng tự đắc thì chỉ muốn vơ vét trăm nhà, thâu tóm mọi bề, thành ra mô
phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo nhưng tinh thần còn
thấp... Nếu việc nào cũng bắt chước cũ, câu nào cũng học theo người, đầu thôn tạm
biệt đã hát câu “chén rượu Dương Quan”, xóm gần qua chơi đã hát câu “tiếng gà
điếm cỏ”. Nắn nót những lời biến tái, lòe người là tuyệt điệu Gia Châu, chải chuốt các
thể trong cung, tự phu là văn nòi Thiếu Bá. Có thể nghìn bài chứa đầy bể khổ, trăm bài
đã cạn ruột héo khô, ham được khoe nhiều, không quan hệ gì tới tính linh cả” [35,
tr.244-245]. Cao Bá Quát phê phán lối sáng tác sử dụng nhiều điển tích, điển cố, dùng
nhiều đề tài và thể loại sáo mòn, mô phỏng bắt chước tiền nhân của hoàng phái nhà
Nguyễn, nhưng bản thân chủ thể sáng tạo lại trống rỗng, không có tư tưởng tình cảm
chân thực để từ đó đưa ra quan niệm về tính linh của ông.
Bên cạnh đó, dòng văn học nhà Nguyễn còn có đặc điểm là ưa chuộng hình
thức. Trên tinh thần này có vua, người đứng đầu triều đình và một số quan lại, trí
thức, nho sĩ tạo bầu không khí văn chương: “… vua mở khoa hội, thân duyệt quyển
phê văn. Lại thường đứng giữa triều đình làm cho quần thần “lác mắt” bằng những
chữ sách hiểm hóc, những vần thơ tài tình. Đến vua Thiệu Trị, Tự Đức kế sau cũng
được đào luyện như vậy... Nó có thể đem lại thỏa mãn cho một số nho gia dốc chí
vào khoa cử, đặt vui thích và kiêu hãnh vào việc mài gọt câu thơ vần phú và sung
sướng gặp được ông vua “tri âm” biết thưởng thức và đề cao những ngón ấy...” [3,
tr.139]. Tiêu biểu cho trường phái này là vua Thiệu Trị với bài thơ Vũ trung sơn
thủy, một bài thơ xếp theo hình tròn bát quoái theo lối liên hoàn. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Tài Cẩn tìm ra 128 cách đọc bài thơ này. Cụ thể là 32 cách đọc theo thể thơ
thất ngôn bát cú, từ đây sản sinh ra 32 cách đọc theo thể ngũ ngôn bát cú, 32 cách
đọc theo thể thơ tứ tuyệt thất ngôn, 32 cách đọc theo thể tứ tuyệt ngũ ngôn. Đây là
điển hình của lối thơ không có tình cảm chân thực mà chạy theo kỹ xảo cầu kỳ,
26
“nhai văn nhá chữ”. Từ đó Cao Bá Quát mạnh mẽ đưa ra quan niệm về tính linh đề
cao cảm xúc chân thực, phê phán lối thơ cầu kỳ kiểu cách, chạy theo kỹ thuật chứ
không phải vì tâm tư tình cảm của con người của lối thơ hoàng phái nhà Nguyễn.
Trên phương diện quan niệm văn học, giai đoạn cuối thế kỷ XVIII – đầu thế
kỷ XIX là thời kỳ phát triển của nhiều quan niệm như: thuyết tam yếu, thuyết quý
chân, thuyết tính linh, thuyết thần vận, thuyết cách điệu… Tuy nhiên, có một thực tế
cần nhìn nhận là lý luận văn học nói chung, thơ ca nói riêng của các tác giả hầu như
chưa được xây dựng thành tác phẩm có tính hệ thống hoàn chỉnh. Nhiều tác giả
không thuần nhất theo một lý thuyết mà có sự đan xen, nhiều khi khá phức tạp giữa
các lý thuyết. Trường hợp Lê Quý Đôn là ví dụ. Ông đề cao tình cảm chân thật
trong thơ nhưng ông không dứt bỏ những quan niệm cho thơ cần thể hiện và hướng
tới tư tưởng kinh điển, lý tưởng nhân cách và lý tưởng xã hội. Có lẽ ông và các tác
giả cùng thời đều là nhà nho chưa thoát khỏi tư duy của thời trung đại. Tuy nhiên
những quan điểm được các tác giả thời kỳ này đưa ra khá phong phú chứng tỏ sự
phát triển về lý luận văn học hơn hẳn so với các giai đoạn trước.
Một nội dung trong lý luận văn chương thời này là khuynh hướng đề cao quan
niệm chính thống tồn tại ở nhiều tác giả với những mức độ khác nhau. Tuy nhiên có
thể nhận thấy rõ nhất, đặc trưng nhất trong dòng văn học nhà Nguyễn. Dòng văn
học này đi theo xu hướng phục hồi thi luận kinh học xét về mặt quan niệm. Không
chỉ các ông vua mà các ông hoàng trong Mặc Vân thi xã sinh hoạt văn chương rất
sôi nổi và dùng văn chương để dẫn dắt, thể hiện quan niệm đạo đức, chính trị.
Trong đó hai tác giả hoàng tộc có quan niệm thi học rõ ràng và hệ thống nhất là
Miên Thẩm và Miên Trinh. Với Miên Thẩm, những quan niệm trong tư tưởng thi
học của ông phản ánh nội dung của thuyết cách điệu theo tình thần sùng cổ, phục
cổ. Tác giả Nguyễn Thanh Tùng chỉ ra ba đặc điểm quan trọng khi nói về thuyết
cách điệu của Miên Thẩm: 1. Miên Thẩm đề cao thơ Đường và những hiện tượng
của thơ Đường; 2. Miên Thẩm chú ý đến “cách”, “điệu” tức là đề cao âm luật, vần
luật trong thơ tức là chú ý đến hình thức bên ngoài; 3. Miên Thẩm chủ trương học
tập tiền nhân, chĩa mũi nhọn phê phán Viên Mai vì chủ trương đổi mới, không câu
nệ vào cổ nhân và đề cao tính chân thực của cảm xúc. Theo Từ điển thuật ngữ văn
27
học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên) thơ Đường là thể
thơ cách luật ngũ ngôn hoặc thất ngôn được đặt ra từ thời Đường mà điểm nổi bật
nhất của nó là tuân theo quy tắc nghiêm ngặt về bằng, trắc trong từng câu, từng bài
và những quy tắc chặt chẽ về đối, gieo vần… Đây là thể loại đòi hỏi người sáng tác
phải tuân theo khuôn khổ giới hạn, đề cao tính cách luật, hạn chế việc thể hiện cảm
xúc, tình cảm. Tinh thần sùng cổ, phục cổ thúc đẩy người làm văn chương chú trọng
mô phỏng thậm chí bắt chước miễn sao gần với cổ nhân nhất. Lối sáng tác này
hạn chế năng lực sáng tạo và giới hạn về tình cảm cá nhân. Sau này vua Tự Đức
là người tiếp tục phát triển những tư tưởng thuyết cách điệu trên trong văn
chương bởi nó phù hợp với quan niệm thi luận kinh học và phục vụ cho chính trị,
ca ngợi công đức.
Quan niệm văn chương của Miên Trinh “về cơ bản chịu ảnh hưởng từ người
anh, người thầy Miên Thẩm. Tuy nhiên khác với Miên Thẩm, Miên Trinh có thiên
hướng ngả về thần vận” [39, tr.139]. Miên Trinh đưa ra quan điểm “động”, “tĩnh”
“là biến tướng của thần vận và cách điệu” (Nguyễn Thanh Tùng). So với Miên
Thẩm thì Miên Trinh cũng có lúc tán đồng với thuyết tính linh của Viên Mai đề cao
tình cảm tự nhiên và sự chân thực của cảm xúc. Cho nên ông từng nói “thơ người
đời nay không bằng người xưa, việc người đời nay lại càng chẳng bằng xưa, phải
chăng đây là trọng xa khinh gần… Tại sao cho rằng thơ nay không hay bằng thơ
xưa? Tôi thường hoài nghi lời nói ấy…” [35, tr.265]. Tuy nhiên về cơ bản những
quan niệm thi học của Miên Trinh vẫn hướng về chữ đạo, đề cao đạo lý trong văn
chương. Ông nhắc lại lời người xưa “từ xưa lại đây những kẻ sĩ lệch lạc, có kẻ hay
ở nghề thơ, vì cái cớ lả lướt mà mờ mắt nơi thanh sắc duyên tình… Đến Âu, Tô,
Vương, Tăng và Hàn Dũ đều cao thấp nông sâu với đạo, có thể đủ thấy phẩm chất
của họ” [35, tr.269]. Từ đó ông đưa ra ý kiến của mình “văn trở đạo, không chân
thực ở trong thì không biểu lộ ra ngoài được” [35, tr.269]. Quan niệm văn học chính
thống hướng đến tuyên truyền đạo đức nho gia. Văn chương được coi trọng vì nó là
biểu hiện của những phẩm chất tốt đẹp bên trong, hay vẻ đẹp bên ngoài được văn
thể hiện là nội dung bên trong gọi là đạo. Nhìn chung quan niệm văn chương của
28
hai tác giả này vẫn đậm chất khuôn mẫu của quan niệm truyền thống.
Vấn đề là vì sao đến triều Nguyễn lại có sự phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện
của thuyết cách điệu và thuyết thần vận. Hai lý thuyết này không phải đến cuối thế
kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX mới hình thành cũng như nó chỉ tồn tại riêng trong dòng
văn học nhà Nguyễn mà nó đã có thời gian phát triển trong tư tưởng văn học Việt
Nam từ những thế kỷ trước và sau này, khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước
ta thì những lý thuyết này đi vào giai đoạn thoái trào để thay thế cho dòng văn học
yêu nước. Sự phát triển của hai lý thuyết trên, tiêu biểu trong dòng văn học nhà
Nguyễn theo khuynh hướng bảo thủ là bởi khuynh hướng đề cao chữ tình phát triển
nở rộ. Mặt khác triều Nguyễn coi trọng chủ nghĩa hình thức. Việc một số vua
Nguyễn có những bài thơ cầu kỳ kiểu cách về hình thức như thể hồi văn liên hoàn
mà chúng tôi dẫn chứng ở trên là biểu hiện cho chủ nghĩa hình thức, chủ trương phô
tài khoe chữ trong kỹ xảo viết văn làm thơ mà không liên quan đến tình cảm, cảm
xúc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn gọi đây là “trò chơi kỹ xảo”. Người ta không
phải làm thơ mà là chơi thơ như một thú chơi trong nếp sống hoàng tộc. Hoặc xu
hướng sử dụng điển tích, điển cố la liệt trong văn chương để thể hiện kiến văn kim
cổ cũng được đặt trong xu thế này.
Bên cạnh quan niệm chính thống là những quan niệm phi chính thống. Khuynh
hướng này được thể hiện qua nội dung của một số lý thuyết như thuyết quý chân,
thuyết tam yếu, thuyết tính linh… Các lý thuyết này có điểm chung của là đề cao
tình cảm chân thật, tự nhiên trong sáng tác và sự sáng tạo của cá nhân. Tác giả
Nguyễn Thanh Tùng cho rằng thuyết quý chân “đề cao sự chân thực trong tư tưởng
thi học, đó là việc đề cao sự chân thực của cảm xúc thơ, tình thơ” [39, tr.112]. Tác
giả Lê Quý Đôn viết: “thơ khởi tự trong lòng người ta. Ba trăm bài thơ trong kinh
thi phần nhiều xuất phát từ điền phu (người làm ruộng), khuê phụ (người đàn bà nơi
khuê phòng) mà các văn sĩ về sau không theo kịp được là vì nó chân thật… Cho nên
ta thường làm thơ có ba điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Tiếng tự
nhiên (thiên lãi) kêu ở trong lòng động vào máy tình, nhãn căn tiếp xúc với ngoài,
cảnh động vào ý… Tình là người, cảnh là trời, sự là hợp cả trời đất mà quán thông”
[35, tr.119-120]. Ở đây tác giả muốn đề cao chữ tình trong văn chương mà gốc là sự
chân thật của cảm xúc, lấy tự nhiên của cảm xúc để soi chiếu các yếu tố khác trong
29
quá trình sáng tác văn chương. “Thiên lãi” được hiểu là âm hưởng tự nhiên chân
thật khởi phát từ trong lòng người để thơ khởi phát ra. Cảm xúc chân thật là gốc của
thơ thì dù người sáng tác là nông dân hay người phụ nữ chốn khuê phòng thì tác
phẩm đó vẫn giá trị.
Trong thời kỳ này phổ biến quan niệm “người cùng thì thơ hay” của Âu
Dương Tu để phản ánh tâm trạng, cảm xúc chân thật của nhà thơ. Cao Bá Quát thừa
nhận “người cùng thơ dễ hay, con người đạt thơ khó hay”. Nguyễn Án lý giải cái
hay cho tập thơ của Phạm Đình Hổ bằng quan niệm trên và khẳng định sự chân thật
của cảm xúc thơ. Nguyễn Du có câu thơ “Tông quốc tam niên bi phóng trục – Sở từ
vạn cổ thiện văn chương” khi nói về nhà thơ Khuất Nguyên với ý nghĩa cuộc đời ba
năm đau buồn vì bị xua đuổi nhưng nhiều bài thơ Sở từ của ông (Khuất Nguyên),
những tác phẩm chứa đầy sự phẫn uất là áng văn chương tuyệt tác bởi nó được sáng
tác từ chính cảm xúc chân thành của nhà thơ. Con người và văn chương ở đây hòa
hợp với nhau thành thể thống nhất lấy tình cảm chân thực là điệu kiện tiên quyết.
Nhà thơ Nguyễn Du đã nhiều lần cảm nhận ý nghĩa của mệnh đề “người cùng thì
thơ hay” để lý giải cho cuộc đời lận đận của ông.
Thời kỳ này còn có sự phát triển của thuyết tính linh. Thuyết này đề cao tình
cảm chân thật của nhà thơ, đề cao sự biến hóa, năng động của hình thức, phản đối
thuyết cách điệu thiên về mô phỏng, nệ cổ cổ nhân. Tại Việt Nam, Lê Quý Đôn là
người đầu tiên nhắc hai chữ tính linh với ý nghĩa chỉ tính tình. Sau Lê Quý Đôn,
Cao Bá Quát là người đưa thuyết tính linh lên đỉnh cao với nội dung đề cao tình
cảm chân thật, tự nhiên, chủ trương sáng tạo dựa vào tính cách, cá tính, phê phán lối
thơ bắt chước, nệ cổ không liên quan đến cảm xúc phổ biến trong văn chương nhà
Nguyễn đương thời. Đây là những quan niệm rất tích cực, mới mẻ.
Những quan niệm văn chương phi chính thống trong văn học trung đại Việt
Nam giai đoạn này có đặc điểm nổi bật là đề cao sự chân thực của cảm xúc, tính tự
nhiên của tư tưởng, tình cảm, hướng về tự do cá nhân, giải phóng con người thoát
khỏi những ràng buộc của lý tính đạo đức nho gia… Tất cả những điều đó đưa văn
học đến gần với đời sống, thể hiện sự chân thực của cảm xúc, coi nghệ thuật là giá
trị cần được đề cao. Văn chương không phải là phương tiện của chính trị mà văn
30
chương vì con người và hướng đến những giá trị trong cuộc sống con người.
Như vậy, trên phương diện quan niệm văn chương có thể chia văn học thời kỳ
này thành hai khuynh hướng chính. Một là tư tưởng phục cổ, nệ cổ, điển hình là văn
học của hoàng phái nhà Nguyễn. Hai là tư tưởng đề cao tình cảm chân thật trong
văn chương (Cao Bá Quát là tiêu biểu), phê phán lối thơ “nhai văn nhá chữ”, thiếu
đi sự chân thực và cá tính. Những quan niệm của Cao Bá Quát rất tích cực, mới mẻ
không chỉ đặt trong tương quan với bối cảnh văn học đương thời mà còn giúp đưa
văn học đến gần với giá trị văn chương đích thực. Bên cạnh đó, thời kỳ này chứng
kiến sự thay đổi của văn học trên nhiều phương diện: quan niệm về con người
(chuyển từ con người thánh nhân sang con người trần thế); nhân vật trong tác phẩm
nhiều người là phụ nữ, ca nhi, kỹ nữ cùng nhiều số phận bất hạnh trong xã hội;
phương diện thể loại (ngâm khúc, truyện thơ, hát nói là thể loại giúp thể hiện nội
dung đề cao tình cảm con người)... Sự phát triển của quan niệm cũng như sáng tác
văn học thuần chất văn chương ở thời kỳ này bởi hai nguyên nhân chính là sự tiếp
thu văn học Trung hoa và sự vận động trong nội tại văn học nước ta. Tuy nhiên sự
tiếp thu mang tính chọn lọc phù hợp với văn hóa văn học Việt Nam. Bên cạnh đó là
vai trò vô cùng quan trọng của những nhân tố bên trong (nhân tố nội sinh). Yếu tố
quan trọng chính là sự chuyển biến trong tư tưởng của lớp trí thức, nhà nho khi họ
“vỡ mộng”, thất vọng về vai trò của tầng lớp mình, “họ không hứng thú với quan
niệm thi ngôn chí nữa (tất nhiên vẫn có một số ít vẫn nói đến thi ngôn chí)… Đây là
tiền đề tư tưởng để nhiều trí thức nho sĩ đã tự giác hay tự phát rời bỏ quan niệm thi
ngôn chí để đến với chủ trương thi nói tình, tức là đề cao phương diện cảm xúc, tình
cảm và nghệ thuật trong thi ca” [53, tr.48]. Sự tiếp xúc với văn hóa phương tây dẫn
đến sự thay đổi trong đời sống, tư tưởng của xã hội, nhất là một bộ phận nho sĩ
đương thời, điển hình là thế hệ các nhà nho tài tử đã hướng con người đến đời sống
tự do và giải phóng tư tưởng tư tưởng tình cảm cá nhân. Sự phát triển của nền văn
nghệ dân gian là yếu tố quan trọng cũng như sự phát triển dòng văn học viết bằng
chữ Nôm phản ánh sự trưởng thành của ý thức dân tộc. Tất cả làm nên thời kỳ văn
31
học đặc sắc cùng nhiều tác giả nổi tiếng.
CHƢƠNG 2 QUAN NIỆM VĂN HỌC CỦA
CAO BÁ QUÁT
2.1 . Thuyết tính linh trong tƣ tƣởng thi học cổ Trung Quốc
Thuyết tính linh là một lý thuyết quan trọng trong tư tưởng thi học cổ Trung
Quốc. Thuyết tính linh ngay từ khi xuất hiện chưa phải đã định hình thành là một lý
thuyết. Trải qua các thời đại lịch sử, thuyết tính linh hình thành, phát triển nhưng ở
mỗi thời kỳ lại mang những đặc điểm riêng và không thuần nhất trong lịch sử phát
triển của mình. Gắn với mỗi thời kỳ, tính linh thường được đi liền với các tác giả
tiêu biểu, đại diện cho thời đại đó cũng như cho từng giai đoạn phát triển để tính
linh tiến lên thành học thuyết quan trọng, có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến lý luận
thơ ca Trung Quốc và một số nước lân cận, trong đó có Việt Nam.
2.1.1. Tính linh thời Nam Bắc triều (Lưu Hiệp – Văn tâm điêu long)
Sự phát triển của tính linh đầu tiên được bàn đến trong Văn tâm điêu long của
Lưu Hiệp thời kỳ Nam Tề. Văn tâm điêu long được coi là tác phẩm lý luận văn học
kinh điển của Trung Quốc thời kỳ cổ đại. Lưu Hiệp tinh thông phật học nên ở phần
lý luận về văn học, quan niệm về tính linh có nhiều yếu tố liên quan đến vấn đề của
tâm tính và tư duy.
Văn học Trung Quốc cổ đại đã có nhiều cách tiếp cận và đặt ra vấn đề tính
linh. Ngay cùng thời của tác giả Lưu Hiệp cũng có nhiều cách hiểu khác nhau.
Nhiều người phân chia tính linh thành tính và linh có nghĩa là thiên tính, tâm tính tự
nhiên của con người. Từ tính linh sử dụng trong thể thống nhất gồm hai từ trên có
thể xuất hiện từ thời Nam triều trong bối cảnh Phật giáo rất thịnh hành. Phan Ngọc
cho rằng “Lưu Hiệp muốn xây dựng một lý luận văn học dựa trên những nguyên lý
của Nho giáo. Nhưng ông là người tiếp thu Phật giáo rất sâu sắc cho nên ông sử
dụng cơ chế lý luận của Phật giáo” [10, tr.11]. Chữ “văn” ở đây hiểu là văn học, chữ
“tâm” có “gốc Phật giáo là bản chất, cái tinh túy” và Văn tâm điêu long có thể hiểu
là “bàn tản mạn về bản chất văn học” (Phan Ngọc). Như thế chữ “tâm” được xếp
vào vị trí quan trọng trong lý luận văn học Nam triều, trở thành một phần nguồn gốc
32
của văn học. Ở đây, tính linh có sự kết hợp của thuyết Tâm vật cảm ứng giúp tăng
cường, củng cố năng lực sáng tạo của tâm hồn mỗi con người. Lưu Hiệp có nói về
vấn đề này như sau: “… chỉ có con người là tham dự được vào sự biến hóa của trời
đất, bởi vì người là nơi chung đúc của cái linh thiêng của thiên tính (tính linh)…
con người có hoạt động tinh thần (tâm) thì lời nói xuất hiện, lời nói xuất hiện thì văn
sáng lên” [10, tr.15-16].
Lưu Hiệp cho rằng tính linh chỉ tâm hồn, tâm linh, là thế giới tinh thần và tình
cảm của con người. Tính linh được thể hiện qua việc đề cao chữ tình trong sáng tác
thơ ca: “người sẵn có bảy tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dụ), bị sự vật xúc động thì sinh
cảm xúc. Cảm xúc (trước sự thật thì) thì nói lên cái chí. Cái đó là tự nhiên” [10,
tr.40]. Nguyên văn chữ Hán là “nhân bẩm thất tình, ứng vật tư cảm, cảm vật ngâm
thi, mạc phi tự nhiên”. Nghĩa là ông chú ý đến tình cảm, cảm xúc tự nhiên, cùng
mối liên hệ giữa thơ ca và hiện thực. Bàn đến chữ tình trong thơ, Lưu Hiệp có nhận
xét: “vì nội dung (tình) mà làm thì cốt cho gọn và nói chân thực, vì hình thức (văn)
mà viết thì hoa lệ quá đáng mà rắc rối thừa thãi...” [10, tr.99]. Lưu Hiệp đề cao tình
trong sáng tác, coi tình là gốc của văn chương vì có như vậy thì lời văn sâu sắc và
chân thực. Một mặt Lưu Hiệp đề cao chữ tình nhưng mặt khác phản đối loại văn
chạy theo cái đẹp của hình thức, chau chuốt ngôn từ.
Có lúc ông nhấn mạnh thêm “cái hình thức nghệ thuật của văn là để trang sức cho
lời nói mà việc thấy được cái gốc ở tình cảm và tư tưởng của nhà văn. Cho nên tình
cảm là cái cơ bản của văn chương…” [10, tr.99]. Qua ý kiến trên của Lưu Hiệp còn thể
hiện quan niệm về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Người sáng tác nói chung
xuất phát từ cảm xúc, tình cảm sau đó lựa chọn các yếu tố thể hiện tình cảm đầy đủ
nhất tạo nên những tác phẩm chân thực. Ngược lại tác phẩm chú trọng hình thức (văn)
thì không thực, trống rỗng. Tình cảm, cảm xúc tạo bởi cuộc sống đi vào trong văn
chương thực chất là nhấn mạnh đến yếu tố thuộc nội dung. Trong đó ông nhấn mạnh vị
trí quan trọng hàng đầu của tình cảm. Ông dẫn chứng về Kinh thi, một tác phẩm dân
gian tiêu biểu cho việc đề cao tình: “các bài thơ của các nhà thơ trong Kinh thi ngày
xưa viết ra làm văn để diễn đạt nội dung tình… sáng tác ra đều là do cái chí khí và
cái tâm tư của nhà thơ tràn đầy, buồn bực nên họ mới ngâm vịnh ra để diễn tả tình
33
cảm và tính cách của họ, để khuyên răn những người ở trên” [10, tr.99].
Lưu Hiệp còn đề cập đến tài của nhà văn nhà thơ. Tài ở đây được hiểu theo
nghĩa là tài năng: “nói chung gừng và quế đều ở đất mà ra, nhưng cay là do bản
tính. Văn chương do học mà có nhưng làm giỏi là ở thiên tư. Cái tài là do từ trong
ra, cái lực là do từ ngoài đưa vào. Có người học đầy đủ nhưng trí nông cạn; có
người tài nhiều nhưng học nghèo nàn. Người học nghèo nàn thì sự nghiệp gay go
khó nhọc; người tài kém thì nhọc mệt ở văn từ và tình cảm. Đó là sự phân biệt khác
nhau giữa trong và ngoài… Cái trong và cái ngoài nâng đỡ cho nhau, đó là điều
thống nhất từ xưa đến nay” [10, tr.124]. “Tài” là yếu tố quan trọng nhất với mỗi con
người cũng như trong sáng tạo văn học. “Tài” ở đây được Lưu Hiệp nhắc đến theo
nghĩa nghiêng về cá tính, là “thiên tư” tự nhiên của mỗi con người. Cá tính độc đáo
là điều kiện để hình thành phong cách. Đây cũng là một trong những yếu tố quan
trọng hình thành nên giá trị văn học. Tuy nhiên trong văn học không chỉ dựa vào cá
tính và phong cách mà nó phải là tổng hòa của nhiều yếu tố. Nói về điều này Lưu
Hiệp khẳng định: “Tình cảm bị xúc động, thì lời nói xuất hiện; cái lẽ đương nhiên
đã phát hiện được thì văn hiện ra. Đó là cái việc từ chỗ ẩn (tình cảm, lý tính là hai
cái kín) đi ra đến chỗ sáng rõ (ngôn ngữ, văn), nhờ bên trong mà phù hợp với bên
ngoài vậy. Nhưng tài năng mỗi người một khác: có người tầm thường, có người ưu
tú. Khí lực có người cứng rắn, có kẻ mềm yếu. Sức học có người nông cạn, có kẻ
sâu xa. Lối sống có người trang nhã, có kẻ dâm dật. Người ta do chỗ tình cảm và
bản tính đào luyện, do sự giáo dục và ảnh hưởng bên ngoài tích lũy lại mà lời văn
và sáng tác mỗi người một khác. Cho nên lời văn và lý lẽ tầm thường, hay ưu tú
không ai có thể đổi cái tài của mình… Mọi người đều lấy cái tâm của mình làm thầy
cho nên đều khác nhau như mặt người” [10, tr.83]. Lưu Hiệp chỉ ra việc rèn luyện,
giáo dục và ảnh hưởng từ bên ngoài đến việc hình thành cá tính cá nhân. Nhưng mỗi
người có một cá tính riêng, chỉ có những cái thuộc về “tâm” – thế giới tâm hồn độc
34
đáo mới giúp hình thành một phong cách.
2.1.2. Quan niệm về tính linh ở thời Đường (Bạch Cư Dị)
Đến thời Đường tác giả Bạch Cư Dị (772-846) là tác giả tiêu biểu cho tư tưởng
hiện thực và nhân dân (Phương Lựu), nhưng chính ông là người tiếp tục phát triển
lý luận về tính linh của Lưu Hiệp ở thời đại trước. Ông nhận thức được “tầm quan
trọng hàng đầu của tư tưởng tình cảm tác giả, sự thống nhất biện chứng giữa nội
dung và hình thức” [51, tr.72]. Những tư tưởng của ông thể hiện tập trung nhất
trong tác phẩm Thư gửi Nguyên Chẩn. Đây được coi là sự đúc kết lý luận về thơ ca
của bạch Cư Dị.
Bạch Cư Dị có cùng quan niệm với Lưu Hiệp ở chỗ ông cho rằng tính linh
trong thơ ca được hiểu là tính tình, đặc biệt đề cao cảm xúc: “đại phàm con người
cảm xúc trước sự việc, tất sẽ xúc động trong tình cảm rồi hứng lên ngâm nga mà
hình thành nên thơ ca vậy” (đại phàm nhân chi cảm vu sự, tắc tất động vu tình,
nhiên hậu hứng vu ta thán, nhi hình vu ca thi hĩ) [15, tr.23]. Nghĩa là Bạch Cư Dị rất
chú ý đến việc thơ phải có cảm xúc, làm thơ xuất phát từ tình cảm vì tình cảm là thứ
gợi lên những rung động, sự tương liên giữa các đối tượng: “ trên từ bậc thánh hiền,
dưới đến kẻ ngu si, nhỏ bé như lợn cá, thần bí như quỷ thần, chủng loại bất đồng
nhưng tinh thần tương tự, hình dạng khác biệt nhưng tình cảm tương thông, không
một thứ gì nghe được âm thanh mà không đáp ứng, không một thứ gì tiếp nhận
được tình cảm mà không rung động” [51, tr.73]. Thơ xuất phát từ tình cảm thì gợi
lên được rung cảm, cảm xúc từ con người đến vạn vật trong thế giới, từ bậc thánh
hiền đến người phàm bởi điểm chung không gì ngoài chữ tình. Bạch Cư Dị đánh giá
cao chữ tình và giá trị của nó trong thơ.
Ông nêu lên một cách toàn diện và sâu sắc: “cái cảm hóa được lòng người
chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần
gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ thì gốc là tình cảm, mầm
lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa” [51, tr.73]. Bạch Cư Dị nhận thấy
điều quan trọng nhất ở chỗ tình cảm là gốc trong sáng tạo thơ (thi giả, căn tình,
miêu ngôn, hoa thanh, thực nghĩa...). Nếu coi bài thơ gồm nhiều nhân tố tạo thành
thì tình cảm tác động đến tâm hồn con người là gốc, là điều đầu tiên được chú ý rồi
35
đến ngôn ngữ, ý nghĩa. Tuy nhiên đó không thuần túy là những tình cảm hay “cảm
xúc hời hợt bản năng mà là nhận thức, lý trí, bằng tư tưởng đã chín muồi nhuần
nhuyễn” [17, tr.92]. Ông nói rõ hơn quan niệm của mình “âm có vần, nghĩa có loại,
vần hài hòa thì ngôn ngữ lưu loát thì âm thanh dễ vào, nghĩa loại phân minh thì tình
hiện rõ, tình hiện rõ thì dễ lay động lòng người, do đó mà bao hàm được mọi cái to
lớn, sâu rộng…” [51, tr.73]. Quan niệm trên gần với quan niệm của tác giả Lê Quý
Đôn ở Việt Nam sau này. Dẫu quan niệm về những yếu tố tạo nên thơ giữa hai tác
giả có khác biệt nhưng điểm gặp nhau giữa họ là coi tình là gốc của thơ và cần thể
hiện nó thật chân thành.
Cũng trong Thư gửi Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị nêu ra tầm quan trọng và khó
khăn trong sáng tác thơ ca: “tối tập đọc sách, thỉnh thoảng lại làm thơ, không còn
thời gian để nghỉ ngơi. Đến nỗi lưỡi thành ung nhọt, khuỷu tay thành chai, đã lớn
mà da dẻ dúm dó, chưa già mà tóc bạc răng long, mắt hoa lên như thấy hàng vạn
chấm đen di động tựa ruồi bay. Vì khổ học, cố sức làm văn mà nên nông nỗi ấy, nói
lên thấy cũng thấy thật đáng thương”. Sự khó khăn, tinh thần rèn luyện khắc khổ
trong sáng tác văn chương được Bạch Cư Dị nói đến như một công việc mang tính
khổ hạnh cao. Ông thấy rằng thơ văn không chỉ bắt nguồn từ hiện thực mà còn phải
phản ánh chân thực cuộc sống, thâm nhập vào cuộc sống để hiểu nó: “văn khen chê
mà không chân thực thì việc khuyên răn cũng sẽ thiếu sót... tuy gọt câu rũa chữ mà
nào có ích gì”. Ông đòi hỏi làm thơ không chỉ phản ánh chân thực cuộc sống mà
yêu cầu cuộc sống ấy phải được đi qua lăng kính tâm hồn của nhà thơ để tác giả
cảm thụ về chính cuộc sống ấy mới là điều sâu sắc. Nhìn chung Bạch Cư Dị quan
niệm tính linh chính là việc đề cao tình cảm, cảm xúc chân thật và nhấn mạnh giá trị
của tình cảm chân thật trong văn chương có sức mạnh cảm hóa lòng người.
2.1.3. Thuyết tính linh thời Minh – Thanh (Viên Mai)
Bước sang thời đại nhà Minh, Lý Chí với thuyết Đồng tâm (trái tim trẻ thơ) rất
nổi tiếng, tuy chưa đề cập trực tiếp đến tính linh nhưng bước đầu đề cập yếu tố quan
trọng trong thuyết tính linh. Ông chủ chương văn học thể hiện cái “tâm hồn trẻ thơ”
(xích tử chi tâm),“đồng tâm” chính là chân thực, chân thực trong tâm, chân thực
trong cảm xúc để sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị: “kia trái tim trẻ thơ là trái
36
tim chân thực vậy… Nếu để mất trái tim trẻ thơ tức là mất trái tim chân thật và mất
luôn cả người chân thật… Còn như nếu đã lấy cái đạo lý nghe được, thấy được làm
cái tâm của mình thì những lời nói ra đều thuộc về cái đạo lý nghe được, thấy được
đó mà thôi, không phải là lời nói từ trái tim trẻ thơ. Ngôn từ tuy công phu nhưng đối
với ta có ích gì! Há chẳng phải là người nói lời giả, làm việc giả, viết loại văn giả đó
sao?... Những áng văn chương hay nhất trong thiên hạ chưa bao giờ lại không nảy
sinh ra từ trái tim trẻ thơ cả” [31, tr.106]. Nghĩa là văn học cần viết về “đồng tâm”
với bản chất là sự chân thực của tình cảm, xúc cảm tự nhiên của con người, phản
đối sự giả tạo, trống rỗng của loại văn đạo lý nho gia.
Cùng với thuyết Đồng tâm của Lý Chí với nội dung đề cao tính tự nhiên, chân
thực của cảm xúc thì “tính linh được sử dụng khá nhiều giữa thời Minh (Tiêu Táp,
Lý Duy Trinh…) để chỉ tình cảm chân thật của nhà thơ. Từ cái nền chung đó tính
linh được đẩy lên thành thuật ngữ, là hạt nhân quan trọng nhất trong lý thuyết thơ
của phái Công An” [55, tr.109]. Phái Công An cuối đời Minh đứng đầu là ba anh
em họ Viên (Viên Tông Đạo, Viên Hoằng Đạo, Viên Trung Đạo) chủ trương “độc
trữ tính linh, bất câu cách sáo” (biểu hiện tính linh của riêng mình, không câu nệ,
khuôn sáo). Nội dung thuyết tính linh của phái này là đề cao chân tình, nhấn mạnh
việc sáng tác thơ ca thể hiện trực tiếp tâm hồn, bộc lộ tình cảm chân thực của nhà
thơ, phản đối việc mô phỏng theo thuyết cách điệu. Theo Nguyễn Thanh Tùng, “sự
thịnh hành của thuyết tính linh thời kỳ này có liên quan đến phái Tâm học mà đại
biểu là Vương Dương Minh. Họ Vương đề cao chữ “tâm”, gọi nó là “linh minh”…
Từ đó, trong phái tâm học một loạt khái niệm tương tự cũng được sử dụng phổ biến
như “tinh linh”, “linh cơ”, “linh căn”...” [55, tr.109]. Khái niệm tính linh ở đây là
tình cảm, là khả năng nắm bắt và thể hiện tình cảm đó một cách tự nhiên, linh hoạt.
Việc sáng tác văn chương thì nhất định phải mô tả tính linh của nhà văn, biểu hiện ở
tình cảm chân thực, bộc lộ một cách tự nhiên, phản đối việc bắt chước cổ nhân. Tác
phẩm văn học chỉ cần bộc lộ cá tính “chân”, tình cảm “chân”.
Bước sang thời đại nhà Thanh, Viên Mai là đại diện tiêu biểu, người đưa
thuyết tính linh lên đến đỉnh cao. Thuyết tính linh của Viên Mai “chịu ảnh hưởng
của trào lưu tư tưởng có màu sắc duy vật và dân chủ cuối Minh đầu Thanh và hầu
37
như chỉ tập trung bàn về những vấn đề của thơ, Viên Mai có điều kiện phát huy
mạnh mẽ những quan điểm hợp lý trong các quan niệm về tính linh của những
người đi trước” [50, tr.33]. Chính vì vậy Viên Mai là người đưa thuyết tính linh lên
độ hoàn thiện.
Viên Mai hiểu tính linh theo nghĩa tính tình chân thật và khẳng định “thơ là
tính tình của con người”. Hai chữ “tính tình” được Viên Mai sử dụng rất nhiều trong
quan niệm thơ ca của ông. “Tình” hiểu là tình cảm, trạng thái cảm xúc của con
người. “Tính” thường được hiểu theo nghĩa nghiêng về cá tính, màu sắc riêng của
người sáng tạo. Về điều này tác giả Nguyễn Kim Châu lý giải như sau: “…nếu tình
chủ yếu dùng để chỉ những trạng thái cảm xúc, những hỷ nộ ái ố đời thường ai cũng
có, thì tính lại dùng để chỉ bản chất, tính cách được hình thành bởi tâm lý riêng và
ổn định chi phối mọi ứng xử của cá nhân, tạo nên sự khác biệt, thậm chí độc đáo
đến mức có thể xác định một “cái tôi” không hòa lẫn trong đời sống và trong thơ
ca” [44, tr.59]. Trong yếu tố tình ông đã lấy “chân” là giá trị cao nhất của nhân sinh
để sáng tác. “Chân” là giá trị chuẩn mực tư tưởng lý luận của ông. Vì thế thơ ca có
thể thể hiện sự phá bỏ của đạo đức, chỉ cần tính tình “chân” là tác phẩm có giá trị:
“đối với thơ văn của người ta, trước hết phải lấy ý chân thực, như trẻ con rủ đôi bím
tóc mà vái chào, tự nhiên thấy đẹp, đeo râu vào, làm bộ lom khom thì sẽ làm cho
người ta đâm ghét” [18, tr.33]. Đối với một tác phẩm văn học, ông yêu cầu phải
biểu hiện tính tình một cách chân thực nhưng phải có sinh khí từ nội tâm con người.
Hay tính linh đòi hỏi thơ ca biểu hiện tính tình chân thực từ người sáng tạo: “thơ để
nói lên mối tình của ta, cho nên ta muốn làm gì thì làm, không muốn làm thì thôi…
Vì thế ba trăm bài thơ trong Kinh thi nói ra đúng như lòng mình, không ghi họ tên,
không để ý gì về việc truyền thơ, cũng không có ý gì về việc người sau truyền lại
thơ mình, ôi, sở dĩ thơ rất hay là nhờ đấy chăng?” [18, tr.36]. Việc Viên Mai nhấn
mạnh người làm văn chương không mất đi tấm lòng tự nhiên gần với thuyết tâm
hồn trẻ thơ của Lý Chí ở trên. Tính tình chân thật không chỉ là ngọn nguồn của thơ
mà cũng là nội dung chủ yếu mà thơ ca cần miêu tả.
Viên Mai nhấn mạnh đến sự chân thực của tình cảm, cảm xúc nên ông đứng về
phía Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị vì họ “dựng lên một ngọn cờ riêng, chính là ở chỗ
38
họ không theo đuôi khuôn giáo của thịnh Đường” và phê phán Vương Sĩ Trinh
rằng: “Sĩ Trinh cốt ở chỗ trau truốt mà không chú ý vào tính tình, xem ông ta đến
chỗ nào cũng làm thơ, trong thơ thế nào cũng dùng điển, đủ tưởng tượng mà biết
rằng những điều mừng, giận, buồn, vui của ông ta không chân thật” [18, tr.39]. Ở
thời đại của Viên Mai phổ biến quan niệm cách điệu, phục cổ, nệ cổ chú trọng hình
thức sáo rỗng mà thiếu tính chân thực của cảm xúc và cá tính theo công thức “văn
tất Tiền Hán, thơ tất Thịnh Đường”. Chính vì vậy ông kịch liệt phê phán thuyết cách
điệu: “xưa nay những người tài phận thấp kém thường hay nói cách điệu (tức cách
luật và âm điệu) mà không hiểu phong thú. Vì sao vậy? Vì cách điệu là một thứ
khung rỗng tuếch, còn phong thú thì chuyên miêu tả tính linh của con người… Có
tính tình tức có cách luật, cách luật không ngoài ở tính tình” [18, tr.14]. Theo ông,
“cách” chỉ là sự hợp quy cách về mặt thể thơ, “điệu” là những vấn đề thuộc gieo
vần, thanh điệu còn nội dung quan trọng nhất là chữ tình bên trong đó. Cho nên “ba
trăm bài thơ ở Kinh thi, phần nửa đều là câu nói ngôn tình của những người lao khổ
hoặc những người đàn bà nhớ thương, buột miệng nói ra, nào có ai bày cách luật
cho họ mà những người nghiên cứu cách điệu đời nay có ai vượt được ra ngoài
phạm vi ấy không?” [18, tr.15]. Có sự trùng lặp ngẫu nhiên hay cố ý từ Lưu Hiệp,
Bạch Cư Dị và Viên Mai trong lý luận của họ ở chỗ đều nêu lên dẫn chứng để ca
ngợi thơ ca trong Kinh thi nhưng điểm gặp gỡ giữa họ chính là việc đề cao tình
cảm, cảm xúc (ngôn tình) trong đó. Viên Mai mạnh dạn đưa ra quan điểm của mình
rằng “tôi làm thơ vốn không thích dùng điệp vần, họa vần hoặc dùng vần của người
xưa vì cho rằng làm thơ cốt tả tính tình”.
Ông đưa ra quan niệm “có tính tình thì sẽ có niêm luật, cách luật, cách luật
không nằm ngoài tính tình” muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của nội dung (tính
tình) hơn hình thức (cách luật). Ông thẳng thắn chỉ ra căn bệnh thơ đương thời:
“một là nhồi nhét sách vở, điển cố vào làm cho đầy rẫy hơi chết mà tự khoe là sâu
rộng. Hai là lời lẽ chẳng có gì dồi dào, súc tích buột miệng nói ra mà tự khoe là
thẳng thắn. Ba là gần đây lại có người nghiên cứu về thanh điệu, khuyên bằng điểm
trắc để làm thi phả hoặc là răn chê các thể gọi là “phong yêu, hạc tất hiệp vần, song
thanh” để cho nghiêm ngặt rồi hớn hở khoe khoang rằng đó là bí quyết riêng mà
39
mình nắm được” [18, tr.188]. Ông không phủ nhận ý nghĩa học tập từ cổ nhân
nhưng đòi hỏi sự chọn lọc sáng tạo: “người có thể thu nhận được tinh hoa của mọi
nhà và nhả ra được cặn bã của họ thì ắt sẽ vứt bỏ được mọi điều xấu”.
Sau sự chân thực tình cảm, cảm xúc Viên mai cho rằng thơ ca cần có sự sáng
tạo dựa vào tính cách, cá tính. Đây là một phương diện quan trọng trong thuyết tính
linh của Viên Mai. Việc Viên Mai đặc biệt chú trọng tới cá tính được xem như hệ
quả của việc nhấn mạnh chân tình. Ông cho rằng “tác thi bất khả dĩ vô ngã” (làm
thơ không thể không có cái tôi): “làm thơ không nên không có bản ngã, không có
bản ngã thì cái tệ bắt chước, phô diễn sẽ rất lớn, vì thế Hàn Dũ có câu “lời thơ của
người xưa tất phải tự mình làm ra”. Tổ Dinh người Bắc Ngụy có nói “làm văn
chương phải tự mình làm ra nề nếp, làm thành phong cốt riêng của một nhà, không
nên nhờ vả vào người khác” [18, tr.75]. “Bản ngã” theo cách dịch của tác giả
Nguyễn Đức Vân là cái tôi với hàm nghĩa chỉ cá tính, sự cảm thụ độc đáo cùng
ngôn ngữ mang màu sắc riêng để làm nổi bật phong cách của nhà thơ. Cá tính của
mỗi nhà thơ ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến nội dung và phương thức nghệ thuật vì nó
tạo nên sự độc đáo cho thơ. Tác giả Nguyễn Khắc Phi cho rằng “luận điểm về cái
tôi được đưa ra nhằm phê phán quan điểm phục cổ của Thẩm Đức Tiềm: “tính tình
và cảnh ngộ, ai cũng có cái tôi ở trong đó, không thể theo hình dạng cổ nhân mà bắt
chước, không thể sợ cổ nhân mà bắt chước theo. Vì thể hiện cái tôi nên văn học
hiển nhiên phải có cá tính”[50, tr.33].
Ông quan niệm thơ phải chân thực nhưng cũng phải sống động. Tính linh cần
phải chân thực thì cũng cần một sự biểu hiện linh hoạt. Viên Mai nói: “nếu ngòi bút
linh hoạt thì việc viết trung, hiếu, tiết, nghĩa vẫn có sinh khí, nếu ngòi bút cứng đờ
thì vịnh có cái phòng khuê nhỏ vẫn thiếu tình tứ” tức là phải có sự chân thực của
tình, có cá tính của tác giả nhưng rất cần sáng tạo riêng để tạo phong vị tươi mới,
phong phú tạo nên bài thơ hay. Ông nói về điều này thật hình tượng: “bàn tay con
gấu, bào thai con báo là thức ăn rất quý, nếu mà ăn tươi nuốt sống thì không bằng
rau, măng; mẫu đơn, thược dược là loài hoa rất đẹp, nếu cắt giấy ra mà làm thì
không bằng hoa quỳ, hoa liễu. Vị ăn cho tươi, phong phú phải cho thật, người ta có
40
biết điều đó sau mới có thể nói đến thơ” [18, tr.23].
Qua những phần đã trình bày ở trên chúng ta thấy rằng lý thuyết tính linh xuất
hiện ở Trung Quốc khá sớm. Theo Nguyễn Thanh Tùng “về mặt khái niệm, từ “tính
linh” đã xuất hiện từ lâu ở Trung hoa (ít ra là ở trong thiên nhạc chí (thượng) sách
Tấn thư… Thuyết tính linh nảy nở ở thời Minh và chín muồi vào thời Thanh” [39,
tr.141-142]. Cũng theo tác giả này trích dẫn theo sách Hán ngữ đại từ điển để giải
thích về tính linh theo 4 nghĩa: 1. thế giới nội tâm con người chỉ tinh thần, tư tưởng,
tình cảm; 2. chỉ tính tình; 3. chỉ trí tuệ, sự thông minh; 4. liên quan đến thuyết tính
linh của Viên Hoằng Đạo, Viên Mai. Hai tác giả Trung Quốc là Vương Vận Hy và
Cố Dịch Sinh cho rằng tính linh chủ yếu là việc bộc lộ tình cảm chân thực của cá
nhân một cách tự nhiên, thú vị, là sự kết hợp của tính tình với sự nhạy cảm (“tính”
là tính tình, tình cảm; “linh” ý nói đến sự nhạy cảm). Tác giả Phương Lựu cho tính
linh là “tính tình và linh cảm”. Nhìn chung nội dung của thuyết tính linh là đề cao
sự chân thực của tình cảm, cảm xúc trong tâm hồn nhà thơ và sự sáng tạo, độc đáo
trong phong cách. Nói riêng về thuyết tính linh của Viên Mai, người đưa lý thuyết
này hoàn thiện, ông đề cao tính linh là đề cao sự chân thực của tình cảm, cảm xúc;
có cá tính và sự sáng tạo của tác giả; phê phán các thuyết thần vận, thuyết cách điệu
chủ trương phục cổ, nệ cổ, mô phỏng, chú trọng hình thức mà không liên quan tình
cảm người làm văn làm thơ. Lý thuyết này tiếp tục ảnh hưởng đến quan niệm văn
học Việt Nam.
2.2. Quan niệm về tính linh trong tƣ tƣởng thi học Việt Nam thế kỷ XVIII
Văn học Việt Nam nói chung, quan niệm văn chương nói riêng chịu nhiều ảnh
hưởng từ văn học Trung Quốc. Nền văn học nước ta thời kỳ này phát triển rực rỡ
với hàng loạt tác giả và tác phẩm tiêu biểu. Tuy nhiên các lý thuyết văn chương của
các tác giả Việt Nam giai đoạn này hầu như chưa trở thành hệ thống mà thể hiện rải
rác trong các tác phẩm văn chương, trên các tựa sách, hay những lời phát biểu về
thơ của tác giả khác… Đáng kể đến là phần trình bày quan điểm văn học của Lê
Quý Đôn trong cuốn sách Vân đài loại ngữ.
Trong Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã bộc lộ khá nhiều quan điểm của mình
về văn học nhưng điểm đáng chú ý nhất là việc ông đề cập đến tính linh. Có thể nói
41
rằng Lê Quý Đôn là người đầu tiên nhắc đến hai chữ tính linh trong lý luận văn học
Việt Nam. Lê Quý Đôn dẫn lời Nhan Chi Thôi và đưa ra ý kiến của mình rằng: “từ
xưa đến nay, các văn nhân phần nhiều mắc phải cái bệnh khinh bạc, nguyên là cái
thể chất văn chương làm cho hứng của họ thì bay lên cao vút, tính linh của họ thì
phát lộ một cách bồng bột mà trở thành kiêu căng, quên cả việc giữ gìn và hăng hái
tiến thủ. Ta cho rằng, đó là vì học vấn ít, thiếu hàm dưỡng, thành ra bị cái khí nó sai
sử. Nếu ý hứng, tính linh vẫn giữ được bình đạm, một khi nêu lên và phát ra, lại
càng thấy ung dung” [7, tr.239]. Theo cách nói trên thì “tính linh” là một từ ngữ chỉ
“tính tình”, nhấn mạnh cảm xúc, cảm hứng chủ quan của tác giả. Những trạng thái
cảm xúc, tư tưởng tình cảm cần bình dị nhưng thể hiện chân thực. Tuy nhiên quan
niệm trên có ý nghĩa “mở đầu cho việc đưa khái niệm này vào lý luận văn học nước
nhà. Ông đã dùng nó gần với ý nghĩa nguyên gốc tính tình...” [39, tr.145].
Cũng trong tác phẩm này, ông rất nhấn mạnh đến cảm xúc chân thực trong tác
phẩm văn chương: “thơ phát khởi từ trong lòng người ta. Ba trăm bài trong kinh thi
phần nhiều là của nông dân, phụ nữ làm ra nhưng có những bài mà văn sĩ đời sau
không theo kịp được, như thế là vì nó chân thực. Những bài ca, bài hành của nhạc
phủ đời Hán, đời Ngụy làm có ý vị đời cổ. Từ đấy về sau bó buộc về thanh luật, hạn
chế về âm vận, người có tài còn lo vấp váp, người vô tài khổ về câu nệ mà lời thơ
phát ra không được thực” [7, tr.252]. Qua cách nói của ông cho thấy quan niệm về
tính chân thực rất sâu sắc mà ông điểm nhấn. Cái chân thực được khởi phát từ lòng
người mà ra gây nên những rung cảm mạnh mẽ, cho dẫu người sáng tác là những
con người đời thường bình dị (nông dân, phụ nữ) chứ không phải con người cộng
đồng hay con người lý tưởng xã hội. Tính chân thực của tình cảm, cảm xúc như
thước đo giá trị của mỗi sáng tác. Ngay cả với những người có tài năng thơ ca đã
khó huống chi những người không tài càng khó hơn bởi cách họ nệ cổ, bắt chước để
tạo ra văn chương mà không phải bắt nguồn từ cảm xúc chân thật của chính họ. Như
thế có nghĩa sự chân thực của cảm xúc, tình cảm được xem như một trong những
khía cạnh quan trọng trong quan niệm về tính linh của Lê Quý Đôn. Có chân thực
với chính tâm hồn, tấm lòng của mình thì văn chương mới có giá trị.
Quan niệm về thơ của Lê Quý Đôn được tổng hợp lại như sau: “cho nên ta
42
thường cho làm thơ có ba điểm chính: một là tình, hai là cảnh, ba là sự. Thiên lãi
(tiếng sáo thiên thai) kêu ở trong lòng, động vào máy tình, nhãn căn (con mắt) tiếp
xúc với ngoài, cảnh động vào ý, dựa cổ chứng kim, chép việc thuật chuyện, thu lãm
lấy tinh thần, tuy tư tưởng không phải chỉ có một mối nhưng đại khái không ngoài
ba điều ấy.... Tình là người, cảnh là trời, sự là hợp cả trời đất mà quản thông. Lấy
tình tham cảnh, lấy cảnh hội việc, gặp việc thì phát ra lời nói, nhân nói thành tiếng;
cảnh không hẹn đến mà tự đến, nói không mong hay mà tự hay, cứ như thế có thể
lên đến bậc thơ tao nhã được” [7, tr.251-252]. Lê Quý Đôn chú trọng đến ba yếu tố
“tình”, “cảnh”, “sự” trong mối liên hệ mật thiết với nhau. “Tình” là tình cảm, cảm
xúc cũng là cái chủ quan của tác giả. “Cảnh” và “sự” là cái khách quan bên ngoài
gồm sự vật, hiện tượng diễn ra trong đời sống. Tác giả Nguyễn Thanh Tùng đưa
thêm ý nghĩa của “sự” rằng “thông thường, sự là sự kiện, sự việc. Điều đó hiển
nhiên là đúng, nhưng chưa đủ. Trong thơ văn xưa, Sự còn được hiểu là điển tích,
điển cố. Việc sử dụng điển tích điển cố còn được gọi là dụng sự” [39, tr.121]. Điều
này có nghĩa “sự” không chỉ là sự vật, hiện tượng diễn ra trực tiếp trong đời sống
mà mở rộng ra gồm sự kiện quá khứ qua sách vở. Nhưng điều cốt yếu nhất ở đây là
việc ông coi trọng tình và lấy nó làm gốc trong quá trình sáng tạo. Sáng tác văn học
ra đời do nhu cầu, sự thôi thúc của tình cảm cá nhân, sự gắn kết tình cảm chủ quan
của tác giả với hiện thực cuộc sống chứ không phải xuất phát từ quan hệ văn và đạo
theo quan niệm chính thống nho gia. “Thiên lãi” hiểu là cái tâm, tiếng tự nhiên từ
trong lòng khởi phát ra tiếp xúc với thế giới bên ngoài tạo vẻ đẹp chân thực của
cảnh và tình. Tác giả Trần Nho Thìn giải thích khái niệm “thiên lãi” “là khái niệm
của mỹ học Trang Tử nói đến trong thiên Tề vật luận (Nam hoa kinh)… Tiếng sáo
này tự nhiên phát ra, tự nhiên thi nhiên, hoàn toàn không do con người tác động…
Lê Quý Đôn đã vô tình hay hữu ý dùng khái niệm mỹ học Lão Trang vốn có tinh
thần phản biện tinh thần văn luận nho gia để trình bày văn luận” [33, tr.242]. Cùng
quan điểm về âm hưởng tự nhiên trong văn chương, tác giả Quỳ Giang Nguyễn
Địch Cát nhận xét nét nổi bật trong tập thơ Thập anh đường thi tập của Ngô Nhân
Tĩnh ở chỗ thơ ưa tự nhiên bởi “sáo trời vang lên, ý tới thì bút tới, không phải cái
phí sức gọt dũa tìm tòi mà cũng không thấy cái dấu vết gọt đẽo chạm trổ” [35,
43
tr.226]. Lê Quý Đôn không chỉ đặt vấn đề chân thực của sáng tác văn chương trong
mối tương quan với hiện thực mà yêu cầu người sáng tạo đứng trước đối tượng
miêu tả cần tình cảm chân thực và thể hiện đúng những tình cảm tự nhiên của chính
mình. Quan niệm này nhất quán với quan niệm coi trọng tình cảm chân thật từ tâm
hồn con người, không đề cao những sáng tác theo lối “câu nệ”, bắt chước, rập
khuôn khuôn sáo.
Như vậy, theo Lê Quý Đôn thì tính linh được hiểu theo nghĩa tính tình, kết hợp
với sự chân thực của những tình cảm và sự tự nhiên của cảm xúc trong văn chương.
Mở rộng ra là việc đề cao chữ tình chứ không phải chữ chí để khẳng định xu hướng
phát triển của quan niệm phi chính thống, văn học nghiêng về vẻ đẹp thuần chất văn
chương. Nói cách khác “việc Lê Quý Đôn luận về quan hệ tình – cảnh – sự, lưu ý
người làm thơ lấy tình để đối cảnh đã phản ánh sự chuyển biến từ “thi ngôn chí”
sang “thi duyên tình” của thi luận thế kỷ XVIII” [33, tr.242]. Tác giả Nguyễn Thanh
Tùng cho rằng việc đề cao tính chân thực (thuyết quý chân) là “tiền đề” hình thành
một lý thuyết cùng giai đoạn là thuyết tính linh. Thực chất thuyết tính linh mà Cao
Bá Quát quan niệm chính là việc đề cao chữ tình trong văn chương nhưng ông đặc
biệt nhấn mạnh tính chân thật, tự nhiên của tình cảm. Lê Quý Đôn là người đúc kết
và phản ánh xu hướng đề cao chữ tình và sự chân thực trong thi ca thời kỳ này.
Điều này đối lập với khuynh hướng mô phỏng, nệ cổ, coi trọng hình thức phổ biến
trong văn chương đương thời để hướng tới giá trị văn chương chân chính với nguồn
gốc từ tình cảm.
Cùng thời với Lê Quý Đôn có hai tác giả khác sử dụng khái niệm về tính linh.
“Phan Lê Phiên trong Bài khải về ngự chế càn nguyên thi tập của Trịnh Doanh viết
“các thành vương trước nối ngôi, nhờ được di mưu của các thánh tổ, chuộng việc
văn, kính theo mưu trước, trọng việc học xét lời dạy xưa. Để sửa sang đạo hóa thì
tìm rõ đầu mối ở chính kinh, để nung đúc tính linh thì thường thấm nhuần lục
nghĩa...”. Ninh Tốn trong bài Hoa trình học bộ thi tập tự của Vũ Huy Đĩnh viết: “thi
học của thầy, vốn được dấu kín trong lòng mà nay phát tiết ra nơi cảnh đẹp của
Trung Châu, có thể nói đó là có điều gặp gỡ vậy, dạy ở nhà mà biểu lộ ra ở cái hội
gió mây nơi triều đình, có thể nói đó là sự nối truyền vậy. Đâu phải chỉ là luôn luôn
44
vấn vương với quang cảnh, khuôn nặn tính linh, chỉ một mực cùng các ông thời
Tấn, thời Đường bàn về thanh vận sao”. Tính linh ở đây ngoài nghĩa về tính tình
dường như đã hàm chứa trong nó quan niệm về sự “chân thành”, “chân tình” của
cảm xúc thơ. Hơn nữa, tính linh theo Phan Lê Phiên và Ninh Tốn không chỉ có tự
nhiên vốn có mà còn phải nung đúc, khuôn nặn mới nên” [55, tr.113]. Nhìn chung
các tác giả thời kỳ này mới nhắc đến và chỉ ra một số điểm về tính linh. Trong đó
nhấn mạnh đến tình cảm, cảm xúc tự nhiên và sự thể hiện chân thực trong các sáng
tác. Dẫu vậy lý thuyết này vẫn chưa định hình thành hệ thống có quan niệm rõ ràng.
Sang thế kỷ XIX thuyết tính linh mới thực sự được hình thành với tên tuổi nổi bật là
Cao Bá Quát.
2.3 . Từ thuyết tính linh đến quan điểm sáng tác văn chƣơng của Cao Bá Quát
Như trên đã nói, tính linh ở thế kỷ XVIII mang tính đơn lẻ, chưa tự giác, bước
sang thế kỷ XIX thuyết tính linh ở Việt Nam mới thực sự được định hình. Cao Bá
Quát là người đưa tính linh thành lý thuyết văn học có tính hệ thống. Trong quan
niệm sáng tác của Cao Bá Quát có nhiều điểm nhưng tựu trung lại hình thành nội
dung của thuyết tính linh - tiêu biểu cho lý luận thơ ca ở Việt Nam thế kỷ XIX. Vì
vậy khi nghiên cứu về quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát, chúng tôi đi sâu tìm
hiểu về tính linh và hệ thống lý luận của nó cũng như sự thể hiện trong thơ ca của
tác giả này.
Giai đoạn thế XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX văn học nước ta đạt được nhiều
thành tựu. Tuy nhiên mảng lý luận văn học hay quan niệm văn chương chưa có
nhiểu tác phẩm có tính lý luận thực sự. Hầu hết các quan niệm văn chương của thời
kỳ này thường thể hiện qua lời bạt, lời tựa hay câu văn, câu thơ nói lên quan niệm
văn học phản ánh trong tác phẩm văn chương. Lê Quý Đôn là số ít trong lịch sử văn
học nước ta xây dựng một cách hệ thống quan niệm văn chương của mình. Tác giả
Cao Bá Quát cũng không ngoại lệ. Quan niệm về văn học của ông nói chung thể
hiện qua lời tựa, bài bạt, lời nhận xét về thơ của tác giả khác và trong một số tác
phẩm của ông. Dẫu vậy ông đã đưa ra những quan niệm có tính hệ thống về thuyết
tính linh trong nền văn học trung đại Việt Nam.
Trong Bài tựa đề cuối tập thơ của Thương Sơn Công (Thương Sơn Công thi
45
tập hậu tự), Cao Bá Quát đã nói đến tính linh thật rõ ràng: “hiện nay cái học khoa cử
in sâu vào người ta đã mấy trăm năm, tiếng vang của phong nhã hầu như đã tắt hẳn.
Quốc triều ta trị giáo sáng sủa, các tác gia lại nối gót nhau mà xuất hiện. Nhưng vì
cái thói ủy mị, yếu ớt còn rơi rớt lại, ít có người còn tự thoát ra được: người kém thì
khổ về dựa dẫm dễ dãi, người có hào khí thì mắc vào căn bệnh ăn sống nuốt tươi.
Còn những người sức học gọi là dồi dào, hý hửng tự đắc thì chỉ muốn vơ vét trăm
nhà, thâu tóm mọi bề thành ra mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm
có khéo nhưng tinh thần còn thấp... Đúng như Khương Tây Minh đã nói: “ Rập theo
những hơi ngân, câu rườm, cho đó là khí tượng để giả thác làm thơ Thịnh Đường,
đó là thói quen của những người say đắm vào thi thoại của các nhà, ăn món ăn của
cổ nhân mà không tiêu hóa được!”. Bàn về thơ, tuy phải chú trọng về quy cách
nhưng làm thơ thì gốc phải ở tính tình. Nếu việc nào cũng bắt chước câu cũ, câu nào
cũng học theo người, đầu thôn tạm biệt đã hát câu “chén rượu Dương Quan”, xóm
gần qua chơi đã ngâm câu “tiếng gà điếm cỏ”. Nắn nót những lời biến tái, lòe người
là tuyệt diệu Gia Châu, chải chuốt các thể trong cung, tự phu là văn nòi Thiếu Bá.
Có thể nghìn bài chứa đầy bể khổ, trăm bài đã cạn ruột héo khô, ham được khoe
nhiều, không quan hệ đến tính linh cả” [35, tr.244]. Qua lời phát biểu trên trước hết
Cao Bá Quát nêu lên “căn bệnh” văn chương đương thời: “dựa dẫm dễ dãi”, “ăn
sống nuốt tươi”, “mô phỏng quá nhiều mà phong cốt chưa cao, tô điểm có khéo
nhưng tinh thần còn thấp”, “ăn món ăn của cổ nhân mà không tiêu hóa được”. Thực
chất ông đang phê phán tình trạng sáng tác thiếu tình cảm chân thực, thiếu cá tính
(phong cốt), mô phỏng, bắt chước, thiên về kỹ xảo mà không liên tới cảm xúc phổ
biến trong xã hội đương thời. Đây là thứ văn chương vay mượn quá nhiều điển tích,
điển cố, sử dụng lối diễn đạt có sẵn của người khác mà không thể hiện đúng tình
cảm, cá tính cá nhân. Ông đưa ra quan niệm của mình rằng làm thơ gốc phải ở tính
tình, sự chân thực của cảm xúc, nhà thơ giữ được chân thực của tâm hồn, có “phong
cốt” (cá tính) sáng tạo riêng.
Ở đây Cao Bá Quát ngầm ý tranh luận với Miên Thẩm về tính linh. Miên
Thẩm là tác giả thuộc hoàng phái nhà Nguyễn mà đứng đầu là các vị vua Nguyễn.
Thơ của phái này rất cầu kỳ, thiên về kỹ sảo (ví như trường hợp thơ Thiệu Trị được
46
gọi là “trò chơi kỹ xảo”), sử dụng nhiều điển tích điển cố để phô tài khoe chữ mà
thiếu đi tình cảm chân thành, tự nhiên cùng tính sáng tạo. Miên Thẩm còn là chủ
soái của Mặc Vân thi xã chịu ảnh hưởng lớn của thi học chính thống, tiêu biểu là
thuyết thần vận và thuyết cách điệu. Theo Trương Đăng Quế thì Miên Thẩm “nối
gót học phục cổ của hai đời Hán, ba đời Đường” chủ trương phục cổ, nệ cổ. Phái
phục cổ chỉ phái thi học chính thống đời Thanh, chủ trương học tập thơ Đường –
Tống, kịch liệt phê phán thuyết tính linh của Viên Mai. Cao Bá Quát đứng về phía
Viên Mai thể hiện qua việc yêu cầu thơ gốc ở sự chân thực của tình cảm. Ông ngầm
ý phê phán lối thơ của hoàng phái nhà Nguyễn vì thiếu tình cảm cuộc sống, cảm xúc
tự nhiên của con người tức là “không quan hệ đến tính linh” mà thiên về mô phỏng,
nệ cổ. Nội dung này rất gần với quan điểm của Viên Mai mà chúng tôi đã nói ở trên.
Viên Mai phê phán mạnh mẽ thuyết thần vận của Vương Sĩ Trinh và thuyết cách
điệu của Thẩm Đức Tiềm, phê phán lối thơ bắt chước, phục cổ, nệ cổ, dùng điển
tích điển cố quá nhiều mà không quan tâm đến cảm xúc có nhiều điểm tương đồng
với Cao Bá Quát khi ông phê phán căn bệnh của dòng văn chương nhà Nguyễn và
đưa ra quan niệm của riêng ông. Nói về điều này tác giả Trần Nho Thìn cho rằng
“cũng có thể việc Cao Bá Quát nêu thuyết tính linh, giống Viên Mai từng nêu thuyết
tính linh để phản đối tư tưởng phục cổ, nệ cổ rất phổ biến đương thời, khiến thơ ca
thiếu cốt cách, cá tính. Chúng ta liên tưởng đến giai thoại còn truyền lại cách đánh
giá của các văn thi nhân Việt Nam đời Nguyễn bằng thước đo Tần Hán, Thịnh
Đường “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường”,
giống hệt như sự nệ cổ của nhóm Tiền hậu thất tử đời Minh “văn tất Tần Hán, thi tất
Thịnh Đường”… Tư tưởng phục cổ trong văn thi luận đời Thanh là sản phẩm của
chế độ phong kiến muốn phục hồi Tống Nho. Đời Nguyễn ở nước ta cũng có nét
tương tự, chủ trương phục hồi tư tưởng bảo thủ Tống Nho, Minh Nho” [33, tr.253].
Quan điểm của Cao Bá Quát và Viên Mai gần nhau như vậy không chỉ bởi họ quan
niệm về tính linh, yêu cầu tình cảm chân thực khởi phát từ tấm lòng mà có lẽ cũng
bởi sự tương đồng về bối cảnh. Cao Bá Quát cho rằng làm thơ thì phải theo tuân
theo luật lệ về câu chữ, vần điệu nhưng điều quan trọng nhất trong sáng tác, cái
quyết định là tình cảm, cảm xúc chân thành của người viết thể hiện trong đó vì lý do
47
đơn giản là “thơ gốc ở tính tình”.
Trong bài thơ Đề sát viện Bùi công “Yên đài anh ngữ”, “Cao Bá Quát từng
phê phán gay gắt học phong nhà Nguyễn, lối làm thơ “nhai văn nhá chữ” như con
sâu đo muốn đo cả đất trời mà chính ông một thời lầm lạc, tinh thần nhất trí với bài
bạt ông viết cho tập thơ của Miên Thẩm này” [33, tr.254] như sau:
“Ta ngã bế hộ điêu trùng, xỉ khẩu giảo văn tự,
Hữu như xích hoạch lượng thiên địa.”
(Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt rũa câu văn, lải nhải nhai lại từng
câu từng chữ - Có khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời).
Trong cuộc đời Cao Bá Quát chơi thân với Miên Thẩm mà sách vở ghi lại
nhiều. Tác giả Nguyễn Đắc Xuân trong bài viết Những người Hà Nội đã góp phần
làm nên diện mạo văn học Huế vào thế kỷ XIX có ghi lại câu chuyện về tình bạn
giữa Cao Bá Quát và Miên Thẩm rằng khi Cao Bá Quát xem bài thơ xướng họa
trong thi xã, ông bình: “Ngán cho cái mũi vô duyên – Câu thơ thi xã, con thuyền
Nghệ An” (đem cái mùi thơ của Mặc Vân thi xã ví với mùi hôi của con thuyền trở
nước mắm Nghệ An). Dẫu vậy, Miên Thẩm vẫn trọng nhân tài, trước đây đã nghe
tài thơ của Cao Bá Quát và biết tính ngông của ông nên “không những không giận
mà ngược lại hai ông còn hạ mình tìm đến thăm Cao và tìm cách mời Cao tham gia
thi xã”, rồi “chia sẻ bớt một phần khó khăn về đời sống” của Cao Bá Quát và cuối
cùng Cao Bá Quát tham gia vào thi xã. Chưa thể khẳng định tính chính xác của câu
chuyện trên nhưng qua thơ của Miên Thẩm và Cao Bá Quát viết về nhau, thậm chí
Cao Bá Quát khi phải đi xa vẫn dành niềm ưu ái đến Miên Thẩm là điều xác thực.
Theo tác giả Lương An, Miên Thẩm mến mộ Cao Bá Quát ở “một tấm lòng liên
tài”. Cao Bá Quát “trân trọng hết mực” với Miên Thẩm khi ông luôn “mở rộng tấm
lòng để đón khách văn chương”. Trong cuộc đời thực hai người là bạn nhưng quan
niệm văn học của hai người lại trái ngược nhau. Điều này có vẻ bất đồng nhưng có
thể lý giải. Hai tác giả cùng gặp nhau ở điểm yêu thích văn chương từ tấm lòng của
những người tri kỷ. Tuy nhiên dù có những điểm chung nhưng mỗi người sống
trong hoàn cảnh khác nhau, có suy nghĩ và tư tưởng riêng không phải lúc nào cũng
có thể gặp gỡ. Nhất là với Cao Bá Quát, một con người cá tính mạnh mẽ (ngông),
48
phóng khoáng với những tư tưởng riêng dường như khó trộn lẫn. Dù chơi với Miên
Thẩm, có giao lưu với Mặc Vân thi xã nhưng Cao Bá Quát vẫn chọn cho mình lối
riêng. Cho nên “tình bạn giữa Miên Thẩm và Cao Bá Quát được xem như một quan
hệ ít có, từ tri ngộ văn chương mà vượt lên sự cách biệt của hai tầng lớp xã hội, sự
rẽ đôi của hai khuynh hướng tư tưởng và hai đường lối” [24, tr.354]. Cao Bá Quát
không chỉ mạnh mẽ phê phán lối thơ cầu kỳ, thiếu tình cảm chân thực của dòng thơ
hoàng phái nhà Nguyễn mà việc đi theo lối thơ hoàn toàn khác thể hiện sự mới
mẻ, tư tưởng phóng túng, tự do cùng bản lĩnh cứng cỏi. Những giai thoại kể Cao
Bá Quát làm thơ “xược” vua Minh Mạng và Tự Đức có lẽ nằm trong tư tưởng
này.
Cao Bá Quát luôn khẳng định gốc của thơ là ở tính tình. Chữ tính tình ở đây
được hiểu là tình cảm, cảm xúc chân thực của người sáng tạo. Từ quan điểm đề cao
chữ tình Cao Bá Quát đã đưa ra nhận xét khi đọc truyện Hoa Tiên: “xưa nay nỗi khổ
của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng sự gặp gỡ.
Đem cái đó mà giải thích ra, theo loại mà suy rộng ra thì cái lý trong thiên hạ đã biết
được quá nửa rồi. Ta đối với truyện Hoa Tiên có một mối cảm là vì thế” [12,
tr.725]. Có biết bao vấn đề cần chú ý nhưng Cao Bá Quát đặc biệt chú ý đến yếu tố
“tình” bởi với ông truyện Hoa Tiên “chữ tình được thể hiện sâu sắc, đến như tan
hợp, buồn vui, vị trí cảnh ngộ thực éo le kì lạ, lời nói thì bi tráng, văn vẻ nhiều chỗ
trầm hùng, những cái đó khác nào như bụi bặm, cám bã mà đem hun đúc thành gạch
ngói, giúp đỡ tác giả, khiến cho sau này Kim Vân Kiều có thể xuất hiện” [52, tr.19].
Việc coi trọng chữ tình trong sáng tác văn chương không phải là hoàn toàn mới mẻ
nhưng nếu đặt quan điểm này trong bối cảnh chung thời điểm 1843 khi viết bài này,
lúc Cao Bá Quát đang làm quan trong triều Nguyễn ở Huế, khi mà văn chương ở
đây chịu ảnh hưởng nặng nề của quan niệm chính thống. Ông mạnh dạn chỉ ra “căn
bệnh” trong văn chương của thời đại, nhất là dòng văn học hoàng phái nhà Nguyễn
để từ đó đưa ra lối đi cho riêng mình. Ông cho rằng quan niệm thơ gốc ở tính tình –
sự chân thực của tình cảm, mạnh phê phán lối thơ mô phỏng, nệ cổ, thiếu cá tính
sáng tạo tức là ông đã xác định được cái cốt tủy của văn chương, rất cá tính và có ý
49
nghĩa tiến bộ.
Mặt khác, trong Hoa Tiên tự truyện (bài tựa truyện Hoa Tiên) Cao Bá Quát
còn thể hiện quan niệm về văn chương và chữ quốc ngữ (chữ Nôm): “sống ở đất
này có thể bỏ được tiếng quốc ngữ không? Không bỏ được! Đọc sách quốc ngữ có
thể bỏ được truyện Hoa Tiên và Kim Vân Kiều không? Không bỏ được. Ôi! Người
xưa đã đem tâm chí đúc chuốt thành lời hay ý đẹp. Cốt để chắp lông nối cánh cho
văn chương của ta, mà ta lại coi thường được sao... Than ôi! Lấy quốc ngữ làm văn
chương thì ta chưa dám nhưng lấy văn chương mà coi quốc ngữ thì ta có phần tán
thành” [12, tr.725-726]. Quan niệm này nằm ngoài phạm vi của thuyết tính linh
nhưng chúng tôi nêu lên để thể hiện toàn vẹn hơn quan niệm văn học của Cao Bá
Quát. Mặt khác, điều này cho thấy quan niệm văn chương của ông không phải thuần
nhất trong suốt quá trình mà có những thay đổi nhất định. Đúng như nhận định của
tác giả Trần Đình Sử: “quốc ngữ không thể bỏ được. Quốc ngữ lại được trau truốt
làm nền tảng cho văn chương nước nhà như Hoa Tiên, Kim Vân Kiều là điều không
thể phủ nhận, không ai phủ nhận. Vì vậy có thể lấy quốc ngữ làm văn chương được
không?... Ông chưa dám lấy quốc ngữ làm văn chương”. [52, tr.17]. Điều này lý
giải tại sao trong sự nghiệp văn chương của mình, Cao Bá Quát viết hơn một nghìn
bài thơ chữ Hán nhưng ông chỉ có một bài phú và hơn mười bài thơ viết bằng chữ
Nôm. Cuối bài ông kết luận “Kim Vân Kiều là tiếng nói hiểu đời, Hoa Tiên là tiếng
nói răn đời vậy”. Tại sao có sự “do dự” trong quan niệm của Cao Bá Quát giữa một
bên ông đặc biệt nhấn mạnh chữ tình và cá tính cá nhân nhưng có lúc ông chưa
thoát khỏi hoàn toàn những quan niệm thuộc chính thống. Lý giải điều này chúng
tôi đặc biệt chú ý đến bài nghiên cứu của tác giả Trần Đình Hượu về truyện Hoa
Tiên và sự tiếp nhận của nó trong lớp nhà nho tài tử mà Cao Bá Quát là một trong
số đó. Trần Đình Hượu cho rằng “nhà nho tài tử khác với nhà nho chính thống là
người cẩn trọng tu thân, giữ lễ, an bần lạc đạo… Nhà nho tài tử đề cao tài và tình
chứ không phải đức và tính… Họ bắt đầu có ý thức về cá nhân, hạnh phúc cá nhân,
bất mãn với số mệnh không cưng chiều người tài sắc, không quý trọng tài tình.
Nhưng họ cũng không chống thể chế chuyên chế về mặt chính trị và Nho giáo ý
thức hệ… Họ chỉ đi đến được đòi hỏi nới rộng những ràng buộc khắt khe, làm cho
50
hợp nhân tình… Không chỉ là muốn có một thứ văn chương “đau xót mà không bi
thương”, vui mà không cuồng loạn, có tác dụng giáo hóa mà còn là không dâm,
không tục” [41, tr.125-126]. Có thể hiểu điều này theo mỹ học “trung hậu” (trung
hòa) có liên quan đến lễ giáo nhưng không chỉ để bảo vệ lễ giáo. Đây dường như là
đặc điểm chung của lớp nhà nho tài tử ở thời đại đó cho nên Cao Bá Quát đưa ra
quan niệm như vậy. Nó cho thấy quan niệm riêng của Cao Bá Quát nhưng cũng là
quan niệm chung của thời đại. Cho nên ông nhận định: “Hoa Tiên là một câu
chuyện bắt đầu từ chỗ vợ chồng riêng tây ân ái cho đến đạo cha con, nghĩa vua tôi,
nhã ý thân thiết giữa bạn bè, mối tình yêu thương giữa anh em… Văn thì kỳ, nghĩa
thì chính, nói lý thì rành mạch không bế tắc, nói thế thì lắt léo nhưng văn vẫn ở
trong đạo thường” [12, tr.725].
Cao Bá Quát đã nhiều lần nhấn mạnh đến chữ tình trong quan niệm của mình:
“đã rằng ồn hay tĩnh là tùy nơi, khổ hay vui là tùy cảnh, song trông đến vật mà cảm
đến việc rồi lặng lẽ ngậm ngùi cho cái đã qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên như
thế” [12, tr.721]. Dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào hay bất kì tác phẩm nào quan niệm
chữ tình là gốc của văn chương luôn được đề cao. Khi người nghệ sĩ bắt gặp cảnh
huống cuộc đời thì nảy sinh những tình cảm, cảm xúc rồi nảy sinh thơ thì đó mới là
tác phẩm thực sự của trái tim con người. Con người cảm nhận cuộc sống như thế
nào thì thể hiện trong thơ như vậy. Đó là tác phẩm chân thực của tấm lòng, có sức
truyền cảm mạnh mẽ: “người ta sống ở trên đời, dài ngắn có hạn, mà tính chất của
sự vật thì có lâu có chóng, có đi có lại, cứ nối tiếp không cùng; đem cái có hạn ứng
phó với cái không cùng, lòng với cảnh gặp nhau, tình cảm tự nhiên vấn vít” [12,
tr.720].
Cao Bá Quát quan niệm tính linh là sự chân thực của tình cảm nhưng mặt khác
là sự biến hóa của hình thức nghệ thuật. Tức là Cao Bá Quát quan niệm nội dung
cần tình cảm chân thực và đòi hỏi hình thức diễn dạt của riêng mình, phù hợp với
cảm xúc của chính mình: “ví như học viết, nếu cứ theo lề lối không biết biến hóa thì
tuy có hệt được cái mặt ngoài của lối chữ Lan Đình cũng chẳng ai thèm kể vào đâu.
Tô Đông Pha bàn về cách viết, có nói: “không học là hơn”. Ai hiểu được ý ấy thì có
thể cùng bàn chuyện làm thơ được...” [12, tr.731]. Ông muốn nhấn mạnh đến sự tự
51
nhiên và biến hóa của hình thức. Thơ không chỉ cần có sự chân thực mà còn cần có
sự sáng tạo, sáng tạo để phát huy tối đa giá trị của riêng ta. Ông phê phán lối thơ rập
khuôn, bắt chước mà không sáng tạo, vay mượn nhiều điển tích, điển cố, vay mượn
lối diễn đạt có sẵn của người khác mà không có tính linh. Bởi lẽ lối diễn đạt có sẵn
đó không thể chuyển tải hết, đúng những gì thuộc về cá tính riêng. Mặt khác nó chỉ
làm nên vẻ bề ngoài mà mất đi giá trị chân thực. Đó là những tác phẩm của chủ
nghĩa hình thức, nhiều khi trống rỗng, giả tạo. Sự mới mẻ, sáng tạo mới làm nên
phong cách, cá tính và giá trị cho tác phẩm. Ông khẳng định: “cái bản chất của cây
chuối luôn luôn làm cho bẹ mới nõn mới. Có cái mới mà làm cho nó mới lên, đó là
nghĩa vậy. Có chất ngọt mà làm cho nó lớn lên, đó là tiết vậy” [35, tr.246]. Với ông,
kẻ rập theo khuôn mẫu mà không sáng tạo thì không đáng kể. “Không học là hơn”
để giữ được sự chân thực, giữ được tính tự nhiên trong tâm hồn. “Ý ấy” ám chỉ tình
cảm chân thực cùng sự linh hoạt, biến hóa của nghệ thuật để phát huy hiệu quả nội
dung. Thơ Cao Bá Quát là minh chứng sinh động cho quan niệm thơ của ông. Các
sáng tác theo hình thức tịch thượng tác, tẩu bút, hý bút, túng bút là những hình thức
sáng tác ngay trên chiếu văn hay trong bất cứ hoàn cảnh nào, khi cảm xúc nhà thơ
trào dâng ngòi bút cất lên thì tình cảm lại chan chứa trong thơ. Đây là những hình
thức phát huy tối đa cảm xúc nảy sinh tức thì thật tự nhiên, dung dị và chân thực.
Trong bài thơ Văn tất kỉ xuất (văn phải tự mình làm ra), ông phê phán lối thơ
nhai văn nhá chữ, “đạo văn” để khẳng định sự chân thật, tự nhiên của tấm lòng và
tinh thần sáng tạo:
Khởi hữu điêu nhiên hủ, “Đâu cần tài chạm khắc
Nhi vi tế thát văn? Làm văn tế cá sông
Tu từ thành đại kỷ Tu từ lòng thành thật
Si tảo tất siêu quần. Màu sắc phải siêu quần
Phiêu thiết đồng tao phách, Đạo văn là cặn bả
Thanh tân xuất điển phần. Ý mới trong điển thần
Trần ngôn như khử thảo, Lời cũ diệt như cỏ
Diệu thế dục vân lăng. Tứ lạ vút từng không
Lam bổn không ô nhĩ, Theo mẫu tự bôi bẩn
52
Thanh tiền thục tuyển quân? Liền cũ chẳng ai cần
Ngôn chân thành thất tử, Lời thật nên tác giả
…Nhân vân mạn diệc vân. …Lời viết theo người khác
Trừ tương thiên miếu khí, Chỉ đáng cúng quỷ thần
Ký vọng tối tình ân. Dám gửi trọn ước mong”.
Cao Bá Quát chủ trương viết văn làm thơ thì tấm lòng phải thành thật, tình
cảm tự nhiên nảy sinh từ trái tim mình. Ông yêu cầu “tu từ lòng thành thật” và “tứ
lạ vút tầng không”. Từ văn chương cũng như chuyện uống chè, ý của Cao Bá Quát
thật rõ ràng “uống chè không nên ướp hoa – ướp hoa sẽ mất chân vị của chè”. Vì
ông coi trọng giá trị chân thực, ông không muốn hương vị khác làm mất đi bản chất
thực của chè. Ông coi trọng tính chân thực của tình cảm trong thơ và trong cả các
khía cạnh của đời sống nên ông chỉ ra rằng: “Áo lòe loẹt không làm cho dáng người
thêm mạnh mẽ - Âm điệu rườm rà làm mất đi thể thơ đại nhã”. Chân thực, giản dị
mà cảm hóa lòng người, bỏ qua sự cầu kỳ, kiểu cách mà trống rỗng, vô vị.
Cao Bá Quát tiếp tục nhấn mạnh quan niệm làm thơ từ tình cảm, xúc cảm tự
nhiên, không cầu kỳ gọt đẽo qua bài thơ Đúng là mưa giục thơ. Trong bài thơ “ông
hình dung trận mưa gợi cho ông từ ý thơ tới nhịp điệu, ngôn ngữ: Đầy trời mưa
đúng lúc – Giúp ta có hứng ngâm – Chèo thuyền giục tay bút – Đối khách thơ mới
ra – Tinh thần tràn đầy mặt giấy – Tí tách vó ngựa phi – Ngân hà tranh rửa bút –
Tầm sét mượn tu từ - Khạc lời nghĩ theo gió – Ngọc nẩy kết ý hay – Rào rào tiếng
vang rội – Lời chọn thấm đẫm tình – Chắc sớm tìm li châu – Chỉ sợ nâng chén
muộn – Trong mắt chẳng ai hơn – Chỉ mơ màng ông Đỗ” [52, tr.20]. Bài thơ thể
hiện thi pháp tự nhiên, nghĩa là thơ theo phép tự nhiên, tự nhiên vận động kéo theo
sự vận động chân thực của cảm xúc con người. Cảm xúc tới đâu, ngòi bút tới đó.
Tình cảm chân thực không chỉ là gốc của thơ mà còn tạo cảm hứng để thúc giục
người sáng tác.
Bài thơ Đề sát viện Bùi công “Yên đài anh ngữ” được sáng tác sau khi Cao Bá
Quát trở về từ chuyến đi dương trình hiệu lực. Trong chuyến đi ấy, ông được mắt
thấy tai nghe những điều mới mẻ trong nền văn hóa xa lạ khiến ông hiểu ra nhiều
điều. Những tác phẩm ông viết trong khoảng thời gian ấy là minh chứng tiêu biểu
53
cho điều đó. Xét trên phương diện quan niệm văn học chuyến đi này đã tác động
không nhỏ đến tư tưởng của Cao Bá Quát bởi lẽ “Từ khi vượt bể qua đất Ba Sơn -
Mới cảm thấy vũ trụ là bao la – Chuyện văn chương trước đây thực là trẻ con”.
Trong tư tưởng này Cao Bá Quát khẳng định ý nghĩa to lớn của việc mở mang tri
thức trong quá trình tiếp xúc thực tiễn, đi nhiều học nhiều chứ không phải “chỉ đóng
cửa mà gọt rũa câu văn, lải nhải nhai lại từng câu từng chữ” để làm nên cái hay, cái
thực của văn chương. Hiểu được điều đó ông càng ý thức rõ hơn về tình cảm cuộc
sống, cho dù viết về con người hay cuộc đời thì đều cần giá trị chân của cảnh và
chân của tình: “văn chương của người xưa phần nhiều có sự giúp đỡ của non sông.
Thái Sử công đi khắp bốn biển nên văn chương có khí lạ, Liễu Tử Hậu đi khắp Lĩnh
Nam dò hết điều kỳ lạ, Tô Đông Pha đi hải ngoại, buông tuồng mênh mông. Không
ai là không nhờ du lịch muôn dặm mà sau đó mới tới được cõi thần diệu cả. Học
thức bình sinh của tôi không thể so sánh được với người xưa, nhưng nhờ có những
chuyến đi để phát huy chí khí của mình, ngõ hầu không uổng công phu đọc sách”
[35, tr.249]. Đây là quan niệm tích cực, mới mẻ của Cao Bá Quát. Sự chân thực
trong văn chương ở cảm xúc, tình cảm của người sáng tạo nhưng cái chân ở đây
cũng có nghĩa là chân thực bắt nguồn từ cuộc sống. Văn chương muốn chân thực
thì phải bắt nguồn từ cuộc sống thực, cuộc đời thực. Những trải nghiệm từ cuộc
sống đi vào văn chương sẽ tạo được sự chân thực của cảnh và tình.
Do quan niệm sáng tác đề cao tính tình, đề cao cảm xúc cảm hứng chân thực
nên ông đã đề cao cái tôi trong sáng tạo. Cái hay của bài thơ là phải nói được con
người của riêng mình vì kỹ thuật tuy quan trọng nhưng không quan trọng bằng bài
thơ nói lên được cái tính chất riêng. Cái tôi sáng tạo hình thành nên cá tính và
phong cách riêng. Văn chương không nên bắt chước cổ nhân, học theo khuôn phép
cũ, luôn chú trọng sử dụng điển cố điển tích khiến lời thơ cô đúc khó hiểu. Người
đọc rất khó khăn để hiểu ý nghĩa của điển tích điển cố nếu không có kiến văn cổ
kim. Nói như thế cũng không có nghĩa ông hoàn toàn loại bỏ yếu tố của truyền
thống nhưng bên cạnh nét truyền thống cần nét “hiện đại”, và cái “hiện đại” mà ông
muốn đề cập ở đây là yếu tố tình cảm, cảm xúc, sự tìm tòi sáng tạo, sự chân thực
của tấc lòng người sáng tạo. Từ đó nâng cao thành cái tôi trong sáng tạo nghệ thuật
54
hay phong cách nghệ thuật. Phong cách ấy như chính con người đời thực, văn
phong gắn với cách tư duy của mỗi con người, là phát hiện riêng của mỗi cá nhân.
Ông khẳng định: “thơ không có phẩm chất nhất định, phẩm chất của người là phẩm
chất của thơ. Phẩm chất của người cao thì phẩm chất của thơ cao…” [35, tr.246].
Tóm lại, thuyết tính linh ở Việt Nam vừa là sự tiếp thu ảnh hưởng của tư tưởng
thi học Trung Quốc, trực tiếp nhất là tư tưởng thi học thời Minh – Thanh, vừa là kết
quả của sự vận động từ nội tại tư tưởng thi học Việt Nam thời trung đại. Thế kỷ
XVIII tính linh mới chỉ được manh nha, đến thế kỷ XIX thuyết tính linh mới thực
sự được hình thành. “Thuyết tính linh vào Việt Nam đã được “giản hóa” cho phù
hợp với đặc điểm văn hóa, văn học dân tộc, với đặc điểm là ngắn gọn, điều hòa,
thiên về vấn đề nội dung hơn so với Trung Quốc. Tuy giản hóa nhưng vẫn giữ được
nội dung cốt yếu, đó là sự chân thực, tự nhiên của cảm xúc thơ; sự biến hóa, linh
hoạt, sáng tạo về mặt hình thức” [55, tr.114]. Đặc biệt yếu tố “tình” như kim chỉ
nam cho mọi hoạt động sáng tạo thơ.
Nói riêng về quan niệm văn chương của Cao Bá Quát, lý thuyết tính linh thể
hiện hầu hết nội dung quan niệm văn học của ông. Trong đó tính linh là sự chân
thực của tình cảm. Mối quan hệ giữa con người đời thực và con người trong thơ
phải tương hợp. Thơ chỉ tô vẽ cho hay cho đẹp, cho cao quý thì không có tính linh
vì không thật, giả dối. Thơ cần thể hiện tình cảm chân thật sâu kín trong lòng. Với
nội dung như vậy cần những hình thức diễn đạt mang màu sắc cá nhân, phù hợp với
chính cảm xúc của mình. Sáng tác mà vay mượn quá nhiều điển tích, điển cố thì
không có tính linh vì lối diễn đạt có sẵn đó không thể hiện hết cá tính sáng tạo của
cá nhân. Tương truyền có câu “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán – Thi đáo Tùng,
Tuy thất Thịnh Đường”, lấy khuôn thước chuẩn mực của Tiền Hán, Thịnh Đường
làm tiêu chuẩn đánh giá văn chương, qua đó thể hiện tính chất bảo thủ, tư tưởng
phục cổ, nệ cổ trong văn chương hoàng phái nhà Nguyễn. Vì vậy, Cao Bá Quát
quan niệm tính linh, ngầm ý phê phán nhóm thơ hoàng phái nhà Nguyễn vốn thiếu
tình cảm chân thực, thiên về mô phỏng, nệ cổ mà không có cá tính sáng tạo. Những
quan niệm trên của Cao Bá Quát rất tích cực, mới mẻ không chỉ đặt trong tương
quan với bối cảnh văn học đương thời mà còn giúp đưa văn học đến gần với giá trị
55
văn chương đích thực.
CHƢƠNG 3 SÁNG TÁC CỦA CAO BÁ QUÁT
3.1 . Những nhân tố ảnh hƣởng đến văn chƣơng Cao Bá Quát
3.1.1. Những nhân tố khách quan
Cao Bá Quát sinh trưởng vào giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn
đã ổn định về tình hình chính trị và các chính sách kinh tế xã hội. Nhà Nguyễn chủ
trương độc tôn Nho giáo, biến Nho giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị. Sống trong
hoàn cảnh đó, Cao Bá Quát không thể thoát khỏi con đường tiến thân bằng khoa cử,
không thể không dùi kinh mài sử để đi thi, mong đỗ đạt làm quan và cống hiến cho
đời giống như các thế hệ nhà nho truyền thống khác. Nhìn từ bối cảnh lịch sử, văn
hóa dân tộc, Cao Bá Quát vẫn là một nhà nho. Trước sau tư tưởng và hành động của
ông không vượt ra ngoài khuôn khổ của Nho giáo truyền thống. Cao Bá Quát từng
suy nghĩ nhiều về trách nhiệm của mình, mong muốn tha thiết nhân dân có cuộc
sống yên vui: “Thốn tâm ưu thế trọc - Lão nhãn vọng hà thanh” (Tấc lòng lo trời
loạn - Con mắt già chỉ mong sông Hà nước trong). Qua văn chương có thể nhìn
nhận ông là nhà nho hành đạo nhưng thực tế ông không tuân thủ các quy phạm Nho
giáo thấu triệt. Cá tính cá nhân trong ông luôn ly tâm, luôn muốn vươn lên để bộc lộ
và khẳng định cái tôi của mình. Tuy nhiên, ông không tìm được nguồn sáng tạo nào
khác biệt với lý tưởng Nho giáo. Giữa cái muốn và thực tế xã hội là hai việc quá xa
vời, đứng trước thực tế phũ phàng như thế mà không thể làm gì nên nảy sinh bất
mãn, ức chế. Vì thế trong thơ ông có nhiều bài thể hiện cảm hứng “bi phẫn”, bất lực
khi không tìm ra được con đường cho mình.
Văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc ở nhiều mặt như
quan niệm văn chương, đề tài, thể thơ, ngôn ngữ... Có nhiều lý thuyết văn học được
du nhập vào Việt Nam, thuyết tính linh mà Cao Bá Quát tiếp thu, tiếp biến mang
màu sắc Việt Nam và đưa thuyết này lên đến đỉnh cao trong nền văn học là ví dụ.
Chính điều ấy tạo nên bước chuyển biến trong quan niệm sáng tác cũng như nội
dung, nghệ thuật lấy những cảm xúc, cảm hứng chân thực là nền tảng trong thơ ông.
Thời kì này có sự tiếp xúc và ảnh hưởng bước đầu của văn hóa phương tây xa
lạ với văn hóa phương đông truyền thống. Sự ảnh hưởng này dẫn đến việc hình
56
thành nhiều tư tưởng, quan niệm mới trong văn hóa và văn học. Yếu tố mới và yếu
tố truyền thống nhiều khi xung đột với nhau. Cái truyền thống nhiều khi tỏ ra lạc
hậu, không còn phù hợp hay không đáp ứng được với hiện tại nữa. Cái mới góp
phần hình thành những tư tưởng mới, nhất là trong tư tưởng của lớp nhà nho thị tài,
đa tình như Cao Bá Quát. Cao Bá Quát là nhà nho sống trong xã hội như vậy nên
cũng bị tác động ít nhiều. Thơ ca của ông không chỉ xuất phát từ tấm lòng của con
người yêu tự do, phóng túng mà còn mang nét đặc trưng cho tinh thần của thời đại
bấy giờ. Yếu tố tình cảm chân thật được nói đến nhiều trong thơ ông. Không phải
cái tình với bậc quân vương, cái tình thuộc đạo đức mà là tình cảm cá nhân riêng tư,
tình cảm cuộc sống chân thành và giản dị nhưng gần gũi, cảm động. Nghĩa là Cao
Bá Quát vừa ảnh hưởng bởi việc đề cao tình cảm chân thật trong thuyết tính linh và
cũng ảnh hưởng chung của thời đại đó.
3.1.2. Những nhân tố chủ quan
Cao Bá Quát là con người có nội lực, con người của tư tưởng rộng lớn, luôn
mở lòng hướng tới cuộc sống bao la của núi cao, sông dài, trời biển và của những
con người trong cuộc đời thực. Những suy nghĩ trong thế giới tâm hồn được dồn
vào thơ, coi thơ như một phương tiện để thể hiện, nói hộ, giải tỏa khiến cho vốn thơ
của ông dồi dào hơn hẳn so với các nhà thơ cùng thời. Kết quả hơn 1000 bài thơ chữ
Hán, 21 bài văn xuôi cùng một số bài thơ Nôm được giữ lại trong cuộc đời ngắn
ngủi của ông là con số đáng kể.
Dù chịu ảnh hưởng từ quan niệm của Nho giáo về văn học nhưng với bản tính
yêu tự do, phóng túng nên nói như tác giả Trần Đình Sử thì “chiếc nón nghênh
ngang lẫn với đời – “Giang ngoại xuân” dạo hát thảnh thơi – chịu sao nổi mái nhà
thấp khúm núm cúi ngửa theo ý người”... Vì thế về nội dung văn học, Cao Bá Quát
đã có nhiều cởi mở. Trong khi nhiều nhà nho cùng thời không dám bộc bạch những
nỗi niềm cảm xúc và tâm trạng riêng tư thì Cao Bá Quát lại là người tiêu biểu cho
lối dùng văn chương nói lên bản ngã chân thực, chan chứa tình cảm tự nhiên cùng
tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Chúng ta có thể nhận thấy những thăng trầm diễn ra đến quá nửa cuộc đời ông.
Cuộc đời ông biết bao lần di chuyển, xa quê hương gia đình suốt thời gian dài.
57
Chính vì vậy ông rất nặng tình cảm với gia đình, quê hương. Ông nói nhiều đến tuổi
già của cha mẹ, tình cảm nhớ thương vợ con, tình làng nghĩa xóm, cả những khung
cảnh gợi nhớ về nơi quê hương ấy thường trực xuất hiện trong thơ ông. Tình cảm
dành cho vợ con, đặc biệt là người vợ tần tảo được ông nhắc đến nhiều lần với
những cung bậc cảm xúc khác nhau hết sức chân thành, cảm động mà so với các tác
giả khác trong nền văn học không có được. Hình ảnh người vợ hiện lên trong thơ
ông cùng nỗi niềm nhớ thương, niềm khao khát rất đỗi đời thường tạo màu sắc mới.
Chuyến đi dương trình hiệu lực năm 1884 đã có ảnh hưởng lớn đối với tư
tưởng của ông, đặc biệt gắn với thơ ca. Thực tế tiếp xúc với văn hóa và con người
phương tây đã giúp ông hiểu nhiều điều về thế giới xa lạ. Những gì ông viết trong
thơ khi đi dương trình hiệu lực cũng những chuyển biến trong tư tưởng sau đó cho
thấy tư tưởng riêng của ông. Trước hết đó là đề tài về người phương tây. Với tầm
nhìn sáng suốt, Cao Bá Quát thấy trước được hiểm họa xâm lược của thực dân
phương tây. Cao Bá Quát không hề có cái nhìn kì thị văn hóa, không lấy quan điểm
Nho giáo mà phán xét, thể hiện rõ nhất qua bài thơ Dương phụ hành. Những suy
nghĩ, ý tưởng như thế chưa nhiều nhưng chúng khẳng định tính chất đúng đắn, tích
cực trong suy nghĩ của ông.
3.2. Các dạng đề tài trong thơ Cao Bá Quát
3.2.1. Đề tài về nỗi nhớ gia đình, quê hương
3.2.1.1. Nỗi nhớ gia đình
Cuộc đời nhiều sóng gió khiến thời gian Cao Bá Quát phải xa gia đình rất
nhiều. Ở nơi đất khách quê người đó, ông luôn hướng về gia đình và người thân với
những tình cảm yêu thương trìu mến nhất. Ông có những câu thơ thương vợ, thương
con với tình cảm mộc mạc, chân thực mà dường như ông không muốn vẻ đẹp của
tài thơ làm mờ đi nét thực của cảm xúc.
Bài thơ Hữu sở tư là nỗi nhớ da diết của ông dành cho những đứa con yêu dấu
của mình. Tác giả tình cờ nhìn thấy hai đứa nhỏ mà ông đã gặp bất ngờ trên đường
đã khiến ông nảy sinh nỗi nhớ về gia đình nhỏ với những đứa con thơ đáng yêu bởi
“đã mấy người quên hẳn được tình – ta cũng nhớ đến con ta”. Những kỷ niệm về
chúng lại ùa về trong tâm trí nhà thơ khiến cảm xúc trong ông trào dâng mãnh liệt,
58
ông không ngừng hồi tưởng: “Khi quấy mẹ kêu đói - Lúc học ông chào người”. Có
thể đó không phải là những kỉ niệm vui nhưng khi ấy gia đình ông vẫn sống hạnh
phúc. Cuộc sống có khó khăn thiếu thốn về vật chất nhưng tinh thần vui vì có mẹ,
có cha và các con luôn ở bên nhau. Kết thúc bài thơ, nỗi nhớ ngập tràn trong tâm
hồn đã được ông bộc bạch chân thực, thẳng thắn: “Trước nhà nay nửa vắng -
Tưởng nhớ vì con ai”.
Cùng cảm xúc về niềm thương nỗi nhớ với các con của mình, Cao Bá Quát
viết bài thơ Mộng vong nữ đầy xúc động:
“Thân viễn ngô đương bệnh, “Nhà xa bệnh lại dày vò,
Tư nhi mỗi tiết ai. Nhớ con hằng nén xót chua nghẹn ngào
Hốt nhiên trung dạ mộc, Đêm qua bỗng thấy chiêm bao,
Sậu kiến lệ như thôi. Gặp con, giọt lệ tuôn dào như mưa.
Y phục hàn nhưng phá, Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,
Dung nham nhảm bất khai. Ủ ê nét mặt, bơ phờ hình dung!
Thái diêm bần vị khuyết, Tuy nghèo dưa muối đủ dùng,
Tân khổ nhữ qui lai!” Đắng cay con hãy về cùng với cha!”
Bài thơ là sự kết hợp của bút pháp hiện thực và lãng mạn, của yếu tố hiện thực
và trữ tình, vừa đối thoại lại vừa độc thoại. Nhà thơ đang sống trong hoàn cảnh cơ
cực nhưng không ngừng nhớ về các con. Và “hạ sách” mà nhà thơ đưa ra trong
hoàn cảnh ấy là trở về gặp con trong giấc chiêm bao. Mới trông thấy hình của con
nhà thơ đã không kìm lòng mình mà lệ rơi. Bài thơ là hiện thực về cái chết của
người con gái nhưng những gì ông nói thật cảm động bởi tình phụ tử thiêng liêng.
Nhà thơ quên đi nỗi đau của bản thân để dành tất cả tình thương cho con.
Trong bài thơ khác, cũng trong hoàn cảnh bị ốm nặng, ông vẫn không nguôi
nỗi niềm nhung nhớ về vợ về con. Hình như nỗi nhớ niềm thương với gia đình luôn
thường trực trong ông ở mọi thời điểm, ở bất cứ nơi đâu:
“Chuyết thê ỷ chẩm sơ bồng mấn “Tựa gối vợ đần tung tóc chải,
Trĩ tử khiên y tạ khúc quăng”. Lôi tay con nhỏ ngã đầu nằm”.
Hình ảnh người vợ có thể coi là hình ảnh trung tâm trong thơ khi ông nhớ về
gia đình. Dù ở xa nhau nhưng ông luôn nhớ về người vợ nơi quê nhà. Ông luôn
59
dành cho vợ những tình cảm sâu đậm, tha thiết nhất cùng một “địa vị danh dự”:
“Tự quân chi xuất hỹ, “Từ ngày anh ra đi,
Dạ dạ thủ không sàng. Đêm đêm giương quạnh hiu.
Hải nguyệt chiếu cô mộng, Trăng khơi soi mộng lẻ,
Giang phong sinh mộ lương. Gió bến lạnh hơi chiều.
Tiểu kính ký viễn nhiếp, Áo rét em cất giữ,
Hàn y lưu cố phường. Gương nhỏ anh mang theo.
Trì thử các tự uý, Tạm cùng để yên ủi
Bất khiển lưỡng tương vương”. Không lạt tình thương yêu”.
(Tư quân chi xuất hỹ)
Bài thơ là sự “hóa thân” của chính Cao Bá Quát vào thân phận của người vợ
thân yêu khi ông đi xa. Ông hóa thân và tưởng tượng ra cảnh người vợ cô đơn trong
nỗi niềm thương nhớ với người chồng, cùng tình nghĩa thủy chung. Thiên nhiên
(trăng, gió, sông) như nghe thấu nỗi niềm tâm trạng của lòng người. Những kỉ niệm
được ông mang ra nâng niu giúp xua tan nỗi nhớ thương, gợi nhớ về lời hẹn ước
ngày trở về bình an và tình cảm vẹn nguyên. Bài thơ đâu chỉ là niềm thương nỗi nhớ
của ông với người vợ mà ông đang sống chung với tâm trạng của vợ khi ông tưởng
tượng ra hình ảnh người vợ cô đơn trong căn phòng vắng, giữ gìn những kỉ niệm
thân thương giữa hai người. Hai con người cùng hiểu nhau, cùng nặng tình với
người kia để đợi mong ngày hạnh phúc xum vầy.
Cuộc sống xa nhà nên khi nhận được tấm áo bông vợ gửi cho, ông rất cảm
động trước tình yêu thương của vợ, cảm động trước từng đường kim mũi chỉ:
“Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề, “Trước đèn thư mở,lệ muôn hàng,
Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê. Hồn gửi phòng the luống vấn vương
Trường hận thùy giao luân cảm tự? Kiếp hận, ai xui thêu chữ gấm,
Độc miên nhân tự vọng kim kê. Đêm suông ta những ngắm gà vàng.
Hàn y ổn thiếp phong tân tứ, Áo mền, ủ ấm bao tình tứ,
Tố quản tiêm minh tẩy cựu đề. Bút mới dầm tan mọi thảm thương!
Lai nhất tha thời hảo qui khứ, Rồi nữa nhà Lai khi trở lại,
Nhập môn tri hữu nhẫm thung thê”. Bước vào mừng có bạn tao khang”.
60
(Tiếp nội thư tính ký hàn y, bút điều sổ tự)
Cảm động biết mấy khi chứng kiến những giọt lệ của người chồng phải tuôn
rơi khi nhận được lá thư từ người vợ. Cao Bá Quát hình dung trong tâm hồn việc trở
về nơi “chốn buồng thêu”, nơi có người vợ ngày đêm mong ngóng, chờ đợi ông trở
về. Tình cảm nhớ nhung mặn nồng tới mức nhìn cảnh vợ chồng người khác đang
hạnh phúc bên nhau cũng khiến ông xúc động, trạnh lòng và nỗi niềm nhớ thương
lại trào lên mãnh liệt:
“Tây dương thiếu phụ y như tuyết, “Cô gái phương tây áo như tuyết,
Độc bặng lang kiên tọa thanh nguyệt. Ngồi kề vai chồng dưới ánh nguyệt.
Khước vọng nam thuyền đăng hỏa minh, Nhìn sang thuyền ta đèn sáng
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết. Níu áo, cùng chồng nói ríu rít.
Nhất uyển đề hồ thư lãn trì, Uể oải cốc sữa biếng cầm tay.
Dàn hạ vô ná hải phong xuy. Gió bể chừng e đêm lạnh đây!
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi, Nhích lại còn đòi chồng đỡ dậy,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly”. Tình ta ly biệt có ai hay”.
(Dương phụ hành)
Bài thơ cảm động người đọc bởi xuất phát từ xúc cảm “trông người lại nghĩ
đến ta”, một bên là nhà thơ cô đơn nơi đất khách quê người với bao nỗi niềm nhớ
thương với một bên là cảnh vợ chồng hạnh phúc. Vị trí ấy nhấn mạnh cái tội nghiệp
của cảnh biệt ly và niềm thương nhớ người vợ thân yêu nơi quê nhà của tác giả. Bài
thơ toát lên cái nhìn hoàn toàn mới mẻ. Ông không theo tư duy truyền thống của
Nho giáo mà quan sát một cách chăm chú và hứng thú nói lên tinh thần đề cao phụ
nữ của tây dương. Giữa những lời thơ tri ân với vợ của ông và cái nhìn mới mẻ về
người phụ nữ phương tây là sự thống của quan niệm coi trọng người phụ nữ nói
chung, đặc biệt là hình ảnh người vợ trong tư tưởng của ông.
Qua những bài thơ mà Cao Bá quát viết về người vợ, hình như ông luôn thể
hiện tình yêu, niềm cảm thông, sự trân trọng. Trong thơ, người vợ hiện lên không
phải là người phụ nữ tài sắc mà là người phụ nữ bình dị nhất với những lo toan của
cuộc sống đời thường, đôi khi là khổ cực bởi phải thay chồng gánh vác trách nhiệm
với gia đình. Thế nhưng người vợ ấy hiện lên thật đẹp với những phẩm chất của
61
người phụ nữ Việt Nam truyền thống: nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó, rất mực yêu
thương chồng con, thủy chung son sắt đợi chờ người chồng nơi phương xa, thay
chồng hoàn thành nghĩa vụ với gia đình… Người đọc cảm động hơn trước những
tình cảm mà ông dành cho vợ. Đó đâu chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng mà còn
là tình yêu, tình thương, sự cảm thông, thấu hiểu, là lời tri ân của ông dành cho vợ.
Ông đã ghi công cho người vợ yêu quý cả trong lòng và trong thơ.
3.2.1.2. Nỗi nhớ quê hương
Đối với quê hương, Cao Bá Quát có niềm trìu mến đặc biệt. Viết về quê hương
bằng tình yêu dạt dào và nỗi nhớ tha thiết vô bờ bến. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực
trong ông. Ngắm nhìn cảnh vật khi chiều về, Cao Bá Quát bồi hồi nhớ về quê
hương. Cảnh vật đó rất đỗi gần gũi và quen thuộc: khói bếp, rặng tre, tiếng giã gạo,
tiếng hát trèo đò... Tất cả tạo nên một bản nhạc du dương với thanh âm trong trẻo
rất đỗi yên bình của cuộc sống đời thường. Những âm thanh nhộn nhịp, sum vầy,
đầm ấm đã tác động vào tâm hồn nhớ quê, yêu quê, làm cho nỗi nhớ ấy cứ tràn lên
trong lòng nhà thơ. Ngắm cảnh sông nước mênh mông, nhà thơ như tìm về được cõi
bình yên, thảnh thơi trong tâm hồn (bài thơ Thôn cư vãn cảnh).
Ngồi lặng lẽ giữa giữa đêm khuya gió lạnh, ông càng thấm thía hơn sự chia lìa
xa cách. Tâm hồn ông dù ở đâu vẫn luôn hướng về quê hương với một tình yêu tha
thiết, cháy bỏng (bài thơ Hàn dạ tức sự). Cao Bá Quát nhìn cảnh đẹp ở nước ngoài
cũng nghĩ về quê hương mình:
“Hương quốc tam xuân ý, “Quê quán bâng khuâng dạ,
Kiến không vạn lý tình. Đất trời man mác tình!
Đã lâu tần bắc vọng. Lầu thuyền trông hướng bắc,
Độc kiến tảo yên hoành”. Mịt mù buổi bình minh”.
(Châu trung hiểu vọng phụng trình đồng châu chư quân tử)
Đi giữa muôn dặm trên bước đường xa xôi, gặp bao trắc trở và sóng gió, lòng
ông vẫn nhớ về quê hương. Quê hương là nơi khơi dậy niềm tin và ý chí vượt lên
những khó khăn trong cuộc đời nhà thơ. Một lần nữa, Cao Bá Quát lại mượn cảnh
62
thiên nhiên để nói hộ lòng mình:
“Vũ thấp phàm nhưng trọng, “Mưa thấm buồm nặng trĩu,
Phong hồi đĩnh khước lưu. Gió quanh thuyền đỗ lâu,
Khách trình do vạn lý, Tính đường còn vạn dặm,
Hương tứ kịch tam thu”. Nhớ nước tưởng ba thu”.
Sau bao năm xa cách nhà thơ lại được trở về với quê hương yêu dấu của mình,
khi trở về ông thấy cảnh vật quê hương vẫn bình yên như ngày ông đi:
“Cao cao mộc miên thụ, “Cây gạo cao cao đó,
Cán cổ hà thanh sơ! Gốc cỗi ngọn thanh thanh.
Thiều thiều vọng thử bang, Xa xa trông nẻo ấy,
Quyết hữu cao nhân lư...” Nhà ở bậc cao minh...”
(Tương đáo cố hương)
Hình ảnh cây gạo, biểu tượng cho sự bình yên, dân dã quen thuộc của làng quê
là hình ảnh cứ trở đi trở lại trong thơ Cao Bá Quát. Tuy Cao Bá Quát là một người
có khí phách, phóng túng nhưng ông còn là một người có tâm hồn đã sầu đa cảm.
Làm sao nói rằng không có tình cảm ở một con người chỉ mới chợt nghe tiếng sáo
vọng trên sông mà đã dậy lên niềm nhớ quê da diết, day dứt dù cả trong giấc mơ
(Du Hội An phùng vị thành ca giả). Có thể nói tình yêu với quê hương là thứ tình
cảm thiêng liêng trong thơ của Cao Bá Quát. Lúc nào, ở đâu, ở trạng thái nào trong
lòng ông vẫn luôn luôn nhớ về một nơi ấy. Tình yêu quê hương giúp ông vững bước
vượt qua các thử thách, là điểm tựa tinh thần nhưng cũng là cái đích cuối mà ông
hướng về. Thế nên tình cảm ấy thể hiện chân thành, tha thiết, mãnh liệt và đầy xúc
động trong thơ ông.
3.2.2. Đề tài về tình yêu thiên nhiên đất nước
Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn cho rằng trong thơ Cao Bá Quát ta thường bắt
gặp cảnh núi non bởi nhà thơ muốn “đăng cao” để ôm trọn cảnh vật vào tầm mắt.
Ông miêu tả núi non cũng là để bộc lộ cái tôi của mình. Trên đường đi thi Hội, ông
nhìn thấy cảnh đẹp “kỳ tuyệt” của núi Dục Thúy tạo nên nguồn cảm hứng trong
lòng cùng cái tôi muốn chinh phục và chiếm lĩnh vẻ đẹp “kỳ tuyệt” ấy khiến nhà thơ
63
làm nên bài thơ hào sảng:
“Thiên địa hữu tư sơn, “Trời đất có núi ấy,
Vạn cổ hữu tư tự, Muôn thủa có chùa này,
Phong cảnh dỹ kỳ tuyệt, Phong cảnh đã kì tuyệt,
Nhi ngã diệc lai thử, Lại thêm ta đến đây,
Ngã dục đăng cao sầm, Ta muốn lên đỉnh núi,
Hạ ca ký vân thủy...” Hát vang gửi với nước mây...”
(Quá Dục Thúy sơn)
Cảm hứng muốn chiếm lĩnh trước tự nhiên kì vĩ tạo nên những câu thơ hảo
sảng khí phách. Nhà thơ không chỉ muốn chiếm lĩnh mà còn muốn hòa hồn mình
với cảnh để gửi tấm tình với nước mây. Đi qua núi Cù Mông, ông nhớ lại những
trận giao chiến quyết liệt giữa quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn:
“Nam phong dạ tác đào thanh, “Gió nam đêm thổi sóng gầm vang
Ký đắc Cù Mông lĩnh ngoại hành. Qua núi Cù Mông thấy rõ ràng
Hiểu vọng quần sơn hoành nhất đái, Sớm ngắm núi bày ngang một dãy,
Ức phong khứ sứ cựu ao binh”. Nơi vòng muôn ngọn dấu sa trường”
(Quá Bình Định dương phận vọng Cù Mông Sơn Hạ Châu tạp thi)
Có lẽ cảm hứng đăng cao để chiếm trọn thiên nhiên trong con mắt của thi sĩ để
ông làm chủ nó, mặc sức tận hưởng và thưởng thức theo cách riêng của cảm xúc, vì
thế có những câu thơ hào sảng trong Hoành Sơn vọng hải ca. Cứ mỗi lần đi tới đâu,
nhìn thấy cảnh đẹp non nước hữu tình ông đều dành cho nơi ấy một cái nhìn đẹp và
một tình cảm đẹp (Vịnh Tản Viên sơn). Cao Bá Quát dành cho núi Tản Viên vẻ đẹp
hùng tráng, mạnh mẽ của cảnh thực và cả truyền thuyết thì đến núi Mèo, cảm thức
đó vẫn cứ nguyên vẹn (Vịnh Thanh Hóa Miêu Tử sơn)… Tóm lại những bài thơ Cao
Bá Quát dùng để nói về núi non bao giờ cũng có mạch cảm xúc hào sảng, mạnh mẽ
từ nét chân của cảnh, từ truyền thuyết và lịch sử, sau cùng tình cảm, cảm xúc xúc
động, niềm tự hào của chính nhà thơ.
Sau hình ảnh núi là hình ảnh của trăng. Có thể nói hình ảnh trăng là hình ảnh
quen thuộc, là người bạn tri âm tri kỉ với các nhà thơ. Cao Bá Quát cũng vậy, ông
luôn dành những tình cảm ân tình cho trăng. Trăng hiện lên trong thơ ông không chỉ
64
đẹp mà còn đầy tâm tư, xúc cảm của con người. Trăng trong thơ Cao Bá Quát
thường được miêu tả qua hai thế đối: trăng với các sự vật thiên nhiên khác và trăng
với tác giả. Dẫu ở thế đứng nào thì trăng hiện lên trong thơ luôn đẹp và là nơi gửi
gắm tình người bởi nó là sợi dây tình cảm liên kết với tác giả.
Trước hết ở thế hài hòa với các sự vật thiên nhiên khác, trăng hiện lên vẻ đẹp
hiền dịu, nhiều màu vẻ. Trong cảm giác của con người cô đơn ngồi ngắm cảnh thiên
nhiên buổi đêm thì ánh trăng ấy mờ mờ theo cái lâng lâng của phút cảm xúc con
người. Ví như bài thơ Cửu tọa, mây – trăng – gió – sương trong bức tranh toàn cảnh
dường như nhòa đi cho cảm hứng tác giả hiện hữu. Một đêm trăng khác mà Cao Bá
Quát cùng hai người bạn ngắm trăng trò chuyện thâu đêm thì vẻ đẹp của trăng là sự
hòa điệu của trăng cùng những tình cảm, cảm xúc của chính nhà thơ và hai người
bạn trong đêm trò chuyện (Dạ bàn Nạp Lương Đông Trần Ngộ Hiên, Lê Trực
Hiên). Trăng gió, núi sông được thu vào tầm mắt nhà thơ khiến nhà thơ “say” mà
không muốn về (Ninh Bình đạo trung). Trăng và thiên nhiên cảnh vật là chốn đồng
cảm xúc với ông. Nhiều khi trăng như là người bạn đi cùng nhà thơ trong một
quãng đời vậy (Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân). Trăng
vừa là bạn lại vừa là đối tượng làm nổi rõ sự cô đơn và giúp nhà thơ thổ lộ nỗi lòng
đơn côi nơi đất khách quê người (Khuê oán)…
Khi nói về trăng trong thơ Cao Bá Quát có lẽ không thể bỏ qua bài thơ Trà
giang thu nguyệt ca bởi lẽ bài thơ này là một trong số ít bài thơ tái hiện hình ảnh
trăng một cách trọn vẹn nhất. Bài thơ có ba nhân vật: nhà thơ, trăng (nhân vật trực
tiếp) và người bạn (ông Bảo Xuyên). Trăng ở đây không chỉ đặt ở thế đối với tác giả
mà trăng là nhân vật trung gian giúp tác giả nói lên tiếng lòng của mình với người
bạn thân thiết sắp đi xa. Thực ra, tác giả nói tặng người bạn nhưng người bạn đó chỉ
là cái cớ để tác giả tập trung thể hiện tấm lòng cùng trăng. Vì thế trăng mang vẻ đẹp
đời sống tình cảm con người. Trăng đêm nay sáng hơn vì lòng người dạt dào cảm
xúc vấn vương. Trăng là nhân vật nói hộ tình cảm tác giả cũng là nơi tác giả trút bầu
tâm sự với biết bao ân tình đơn xơ nhưng mặn mà tha thiết.
Cao Bá Quát có nói nhiều về trăng nhưng dường như ông không dành
nhiều bài thơ chỉ nói về trăng. Tuy vậy chúng ta vẫn cảm thấy hết vẻ đẹp của
65
trăng. Trăng không đơn thuần là sự vật vô tri vô giác mà nó được Cao Bá
Quát coi là người bạn, người chứng kiến bao cảm xúc của chính ông: sự cô
đơn trống vắng, lúc mặn mà, khi thiết tha... vẻ đẹp của trăng cùng nét trữ tình
trong cảm xúc sinh động, chân thực ở mỗi hoàn cảnh cụ thể nơi con người là yếu
tố đọng lại sâu sắc trong tâm trí người đọc.
Cao Bá Quát không chỉ chú ý đến những hình ảnh lớn lao, kì vĩ như núi, trăng
mà ông rất quan tâm đế các loại hoa, nơi hội tụ vẻ đẹp và hương thơm của tự nhiên.
Trước hết ông ưu tiên cho hoa mai (bài thơ Tài mai):
“Thi tương mai tử trịch sơn gian, “Đầu non nắm hạt mai reo,
Nhất ác thanh tư ký bích loan, Thanh gửi chốn núi đèo xanh tươi,
Ký thủ lai thời xuân sắc hảo Nữa mai xuân điểm bầu trời,
Dữ nhân công tác họa đồ khan”. Bức tranh tuyệt tác cho đời ngắm chung”.
Tác giả đã gửi gắm tình yêu thiên nhiên, thú thưởng lãm du ngoạn của nhà nho
xưa vào hoa mai. Nhìn thấy cảnh núi đồi trùng điệp mà ông liên tưởng đến việc
trồng mai thì đó quả là sự liên tưởng bất ngờ. Tác giả muốn tạo nên những cảnh đẹp
thanh cao, làm nên một bức tranh nghệ thuật cho muôn đời. Sau hoa mai, hoa cúc
cùng vẻ đẹp của nó đã lọt vào mắt xanh nhà thơ:
“Bạch á hoàng dao nhiễu tửu bôi, “Vàng trắng đua nhau phô, rượu sẵn bày
Vũ thoa tranh khán đạo nhân lại. Đạo nhân cùng tới để xem hoa.
Y nhiên cựu kiến giao tân kiến, Bạn xưa, bạn mới cùng vui cả,
Tích đã năng khai thả bán khai” Bông nhú, bông xòe vẫn tiếc thay”
(Đối cúc chuyết hiên trạch đồng chư hãn phú)
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới thì hoa cúc có ý nghĩa như: 1. sự
trường thọ, bất tử; 2. sự viên mãn toàn vẹn; 3. biểu tượng đặc tính giản dị, chất
phác, kín đáo – những đức tính của đạo gia. Theo lời thơ trên, tác giả ngầm ý tự chỉ
mình là người có đạo, người theo đuổi một lý tưởng. Hoa cúc chính là người bạn
của nhà thơ. Người và hoa trong trạng thái đồng điệu ở một nét đẹp riêng. Ở con
người là lý tưởng của người có đạo, ở hoa là vẻ đẹp tiềm ẩn, tượng trưng cho phẩm
chất giản dị, chất phác của đạo nhân.
Cao Bá Quát đã làm nhiều bài thơ về hoa lan, lan sánh ngang với phẩm chất
66
của người quân tử: trang nhã, trong sạch, hoài bão lớn, có tài văn chương, có đức,
có “danh hương” nhưng “cô đơn”. Trong quan niệm của nhà thơ, lan là người bạn
của hoa sen. Hoa sen biểu tượng cho sự trong trắng, tiết độ, cứng rắn của con người,
là hình ảnh đức hạnh, thanh khiết và nguyên vẹn giữa xã hội đầy tăm tối (Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới). Cũng có lẽ Cao Bá Quát đã nhìn hoa lan, hoa sen
không chỉ bởi vẻ đẹp tự nhiên của nó mà chính từ những phẩm chất trên:
“Vi hoa dương tác liên, “Làm hoa nên làm hoa sen
Hương thanh, cán trực tư dong tiên. Hương thơm thân chẳng dám ưa nhìn
Hoàng nê ngũ đẩu, thủy nhất xích, Bùn vàng năm đấu nước một thước,
Biệt hữu phong trí như động thiên Phong cách dường như chiếm cõi riêng
…Nghiêm phong thê lộ bản sinh ý, …Gió ghê, sương buốt, cỏ sinh hóa
Bất tác quá đáng ngô thiên tuyền” Bình thường giữ được tính trời nguyên”
(Di xuân dĩ bồn liên vi thu phong hữu thi kiên ký, nhân thứ kỳ vận, ca dĩ họa chi)
Mỗi loài hoa khác nhau trong con mắt nhà thơ vừa mang vẻ đẹp tự nhiên vốn có
nhưng chúng đẹp lung linh hơn bởi vẻ đẹp biểu trưng mà nó mang theo. Vẻ đó được
tạo nên chính bởi chiều sâu của cảm xúc nhà thơ luôn chan chứa yêu thương và sẵn
sàng cùng chan hòa cảnh vật.
3.2.3. Đề tài gắn với niềm cảm thông, thương yêu con người
Tình yêu thương giữa con người với con người được thể hiện trong thơ ông
khá đa dạng với nhiều cảm xúc và những cảnh ngộ khác nhau. Thơ của nhà nho tài
tử này luôn dành địa vị nhất định trong cho người phụ nữ. Ông viết về họ với niềm
cảm thông sâu sắc. Bài thơ Chinh phụ nhân (vợ chinh nhân) thể hiện niềm cảm
thông, chia sẻ với nỗi niềm của người vợ có chồng đi chiến trường, nàng cô đơn đợi
chờ sự trở về của người chồng, nhưng giặc chưa dẹp yên nên người chồng trở về
“qua quýt” để lại sự hụt hẫng, cô đơn cùng bao nỗi niềm ngổn ngang chốn khuê
phòng. Tiếp nối mạch cảm hứng trên, Cao Bá Quát làm chùm thơ (ba bài) mang tên
Khuê oán (nỗi oán khuê phòng) để diễn tả nỗi lòng người phụ nữ sinh đẹp, trẻ trung
nhưng mang nỗi niềm chốn phòng khuê: nhớ nhung, cô đơn, khát khao, hụt hẫng,
bất hạnh bởi họ luôn chịu sự ghẻ lạnh từ người chồng hững hờ.
Không chỉ cảm thông với nỗi niềm của người phụ nữ mà Cao Bá Quát mở
67
rộng lòng mình để đón nhận và trao đi tình cảm của mình cho bao lớp người khác
nhau trong xã hội, những con người bất hạnh. Có lần trên đường đi ông gặp người
đói. Ông rất thương cảm mà hỏi han bằng những lời tha thiết. Biết được hoàn cảnh
của người đó, bằng những gì mình có, ông mở lòng mời họ một bữa ăn đạm bạc (bài
thơ Đạo phùng ngã phu):
“Vũ vũ thùy gia tử “Một người đi thất thểu,
Y phá lập bất hoàn Áo nón rách tả tơi.
…Phùng nhân đẫn ngộ hỉ, …Gặp người những mừng hụt.
Dục ngôn thanh lũ cam muốn nói không ra lời
-Y! Tử thả hưu lệ! - Than ôi! Hãy ngừng lệ,
Nhất quĩ dữ tử hoan...” Một bữa ta tạm mời...”
Một lần khác, ông gặp và hiểu được nỗi thống khổ đến cùng đường của người
phu khuôn vác. Ông cảm động như muốn rơi lệ. Niềm cảm thông, sự sẻ chia dạt dào
trong bài thơ Phụ tương tử:
“Vũ vũ phụ tương tử, “Thất thểu anh vác hòm,
Nhất bộ nhất hồi thán. Mỗi bước lại than thở.
Hốt phùng y quan nhân. Bỗng gặp người áo khăn,
Ác thủ lệ doanh nhãn…” Cầm tay lệ giàn giụa..”.
Những lời hỏi han quan tâm của ông không có tác dụng thay đổi số phận con
người nhưng trong những lúc cùng cực đó, một sự quan tâm sẻ chia cũng giúp
người trong cuộc phấn chấn hơn trong cuộc sống vì trên cõi đời này vẫn còn những
người tốt. Lời thơ tái hiện cảnh cùng cực của từng số phận khiến người đọc rất xúc
động. Nhưng trước hết là sự xúc động trước tấm chân tình của người nghệ sĩ. Cao
Bá Quát, một nhà nho tài tử đâu chỉ biết ham hố khẳng định cái tôi, thể hiện và
khẳng định cái “ngông” trước cuộc đời đầy rẫy ngang trái. Ông đâu chỉ biết lúc nào
cũng ngẩng cao đầu để cái tôi là tất cả mà ông biết “cúi mình” trước nỗi đau khổ
của người khác để cảm thông và chia sẻ với họ. Cuộc đời ông không phải bằng
phẳng. Ông đã từng nói lên hoàn cảnh tàn tạ của chính ông trước sự tra tấn dã man
mà chỉ biết kêu hai chữ “Khổ! Oan uổng” trong Đằng tiên ca. Nỗi đau của ông, sự
khổ cực mà thân xác ông đang phải gánh chịu có thấm vào đâu trước bao nỗi đói
68
khổ của người dân một vùng trước ngày phát chẩn. Niềm mong mỏi của họ khác gì
đâu tâm lý trời đại hạn mong mưa. Ông chứng kiến những cảnh thương tâm thấy bất
lực, hổ thẹn (bài thơ Quan chẩn). Ông thương tâm trước cảnh người ăn xin đang
cận kề với cái chết, nỗi đau ấy bị lại khoét sâu hơn sự khinh rẻ của những người
khác (thậm chí cả những đứa trẻ). Đó là nạn nhân đau khổ nhất ở thời điểm thu thuế
(bài thơ Cái tử). Rồi một buổi chiều tối nhá nhem, ông vô cùng xúc động khi bắt
gặp trên cầu cô gái làng bên, cô vừa mới đi cầm cố manh áo rét duy nhất để mua về
cho gia đình chút tấm cám đắt như châu ngọc. Cô gái cứ thản nhiên băng mình qua
sương gió lạnh thấu xương như không biết gì tới cái rét nữa. Trong lòng cô lúc này
chỉ có một hình ảnh duy nhất là ở nhà đang có người tựa cửa mong cô về. Ghi lại
được cảnh xúc động đó, Cao Bá Quát không chỉ gửi gắm tấm lòng thương cảm bình
dị mà là sự cảm phục kín đáo (bài thơ Mộ kiều quy nữ).
Cuộc đời ông tha hương quá lâu nhưng khi trở về quê hương, ông luôn gần gũi
với con người nơi đây bằng những tình cảm chân thành tha thiết. Ông thấy vui
mừng sảng khoái với cái niềm vui của những người nông dân trong dịp được mùa:
“Thôn biên tam ngũ thùy gia tử, “Con ai bên xóm năm ba ngã,
Nhật mộ hà sừ cam túy quy. Chiều vác bừa về say nghiêng ngả.
Phụ ác đồn đề nhi tải tửu, Vợ cầm giò lợn, con mang rượu,
Nhất chước nhất ca sừ tại thủ. Vừa uốn, vừa ca, bừa vẫn kéo.
Lạp phiêu tiễn thấu kỷ trùng y, Nón nghiêng ướt thấm áo bao lần,
Do tự hoan nhan thoại nam mẫu. Vui chuyện đồng ruộng nói líu tíu.
Thả quy liêu ly vạn tự tương, Sửa soạn nhiều thêm vạn bịch bồ,
Vũ thuận phong hòa bảo tuế nhượng...” Gió hòa mưa thuận được mùa to...”
(Các thí nông nhu lạc tuế hành)
Tình thương, sự cảm thông hay đúng hơn là thứ tình người cao cả đã đi vào
thơ Cao Bá quát thật dung dị khiến người đọc hết sức xúc động. Ông viết về những
cảnh huống khác nhau của những thân phận đau khổ không phải bởi mục đích gì
khác, đơn giản chỉ là phút giây xúc động của tâm hồn giàu tình yêu thương. Cuộc
đời ông trải qua bao thăng trầm, thậm chí kết cục bi thảm chu di tam tộc của chính
69
ông dường như cũng khởi phát từ mong ước thay đổi cuộc sống con người. Tình
yêu thương con người của nhà thơ ở đây không dám nói là thương tất cả bỏ quên
mình nhưng những gì ông thể hiện trong thơ khiến chúng ta thực sự xúc động.
3.2.4. Thơ bộc lộ nội tâm
Cao Bá Quát có một nhận thức sâu sắc về nhân cách, về đạo làm người. Thơ
của ông chính là nơi ghi lại chân thực và cảm động tất cả những tâm sự của chính
ông. Đó là khát vọng vươn lên thoát khỏi cuộc sống tầm thường, đau khổ của xã hội
đang ở giai đoạn khủng hoảng. Đó là lòng khinh ghét cuộc sống chật hẹp, ti tiện. Đó
là tâm hồn chỉ biết tự do và hiên ngang, cùng sự mở rộng tâm hồn đón nhận điều
mới mẻ. Cái tự do và chân lý nhiều khi là cảm tính tự phát, gần như bản tính tự
nhiên của con người, khó có thể tìm thấy trong sách vở nhà nho.
Những bài thơ mà Cao Bá Quát để lại đến ngày hôm nay có bài thơ Sa hành
đoản ca, một bài thơ tiêu biểu cho những nỗi niềm tâm trạng của ông trước cuộc
đời. Bài thơ viết về hành trình gian nan, vất vả một của người đi trên bãi cát mênh
mông, vừa đi vừa đi suy nghĩ về cuộc đời để rồi cất lên tiếng hát, cũng là tiếng khóc
“độc hành” (ý kiến của tác giả Vũ Dương Quỹ), tự phán xét cuộc đời đầy gió cát.
Tác giả đặc tả hình ảnh bãi cát mịt mù vô định để thể hiện cho hình ảnh cái tôi mất
phương hướng giữa cuộc đời. Bài thơ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nhân cách của
nhà thơ. Đó là nhà thơ tài hoa, giàu tình cảm, một nhân cách bản lĩnh cùng khát
vọng vượt qua mọi chông gai của cuộc đời để vương tới xã hội tốt đẹp.
Bên cạnh những bài thơ lấy cảm hứng từ cuộc sống, từ hiện tại khách quan ta
còn thấy nhiều bài viết về tâm sự riêng của Cao Bá Quát nhiều khi không có những
chi tiết cụ thể của đời sống, nhưng ở đó suy nghĩ lại bện chặt với niềm vui, nỗi buồn
của nhà thơ. Do đó tạo cho bài thơ chiều sâu, âm hưởng sâu lắng (ví như bài thơ
Độc dạ cảm hoài; Bệnh trung...). Nhiều khi viết về hiện thực khách quan cũng là
viết về con người cá nhân nhà thơ. Hiện thực chỉ là phương tiện để nhà thơ tự thể
hiện. Khát vọng được cống hiến tài năng và sức lực cho đời là nét nổi bật trong tư
tưởng thơ. Tình cảm trong thơ Cao Bá Quát là những rung động và xúc động cá
nhân luôn gắn bó với vận mệnh của nhân dân, đất nước là lẽ sống của cuộc đời.
Cuộc đời Cao Bá Quát gặp nhiều đau khổ hơn niềm vui, nhiều day dứt trăn trở
70
hơn sự thỏa mãn. Do đó thơ văn ông trĩu nặng suy tư, chứa chan cảm xúc. Nhiều tác
phẩm của ông là tiếng nói nội tâm đau đớn. Ông thương mình, thương đời, mong
mỏi đem lại niềm vui cho mọi người, khao khát được “trí quân trạch dân” nhưng
ông không được thỏa nguyện. Vì thế đằng sau những bức tranh hiện là mong muốn
của ông luôn thấm đẫm dòng nước mắt thương cảm, đầy tính nhân văn. Nhưng ở
thời buổi loạn lạc ấy, Cao Bá Quát nhận ra hiện thực phũ phàng. Vì nhận thức rõ về
bối cảnh xã hội, Cao Bá Quát dường như muốn phó mặc tất cả cho cuộc đời (Văn
du Sài Sơn vũ hậu đặng sơn đầu đề bích đề bích, tứ thủ). Cả cuộc đời ông là một bài
ca buồn, nhiều khi ngồi buồn một mình ông lại mượn rượu làm thú vui ngẫm lại sự
đời (Thu dạ độc tọa tức sự). Bài thơ Xuân dạ độc thư là nỗi xót xa của chính ông
khi nghĩ về số phận lận đận của mình, với ông danh lợi chỉ là hư vô. Tuy vậy những
khi bản tính của nhà nho trỗi dậy lại khiến ông khao khát được công hiến cho cuộc
đời (Văn lưu nguyệt trì bắc hành khuyết di diện biệt phụng kí nhi thủ)…
Khi nói đến tâm sự của Cao Bá Quát với cuộc đời không thể không đề cập tới
những bài thơ thể hiện nhận thức mới của ông về vấn đề đang còn là mới mẻ trong
thời đại bầy giờ, vấn đề quan hệ với người Tây Dương. Khi tận mắt nhìn thấy sức
mạnh vật chất của người tây dương qua hình ảnh chiếc tàu thủy Hồng Mao (bài thơ
Hồng Mao hỏa thuyền ca), ông nhận thức rõ trong sức mạnh vật chất cùng dã tâm
xâm lược của bọn thực dân. Chúng đang ngang nhiên hoành hành ở trên vùng biển
vốn không phải là của chúng. Ở thời điểm ấy, tác giả dám nhìn sự vật của người tây
dương một cách khách quan trên ý thức hệ phong kiến thủ cựu là điều táo bạo. Một
đêm tình cờ xem người Trung Quốc diễn kịch, nhìn tên tướng phường tuồng “mắt
trừng trừng ngồi chễm chệ trên yên ngựa” cùng bọn “tráng sĩ râu tua tủa đang
nghênh ngang với bộ áo giáp”, ông không nén nổi căm giận và khinh bỉ:
“Xuất thế khởi vô chân diện mục, “Tướng quân đã lên yên trợn mắt ngồi
Phùng trường lãng tiếu cổ y quan. Tai mặt đời đâu toàn bộ giả
Hổ Môn cận sự quân tri phủ? Áo xiêm xưa cũng thực trò cười,
Thán tức hà nhân ủng tỵ khan? Hổ Môn biết việc gần đây chửa?
Thán tức hà nhân ủng tị khan!” Ngán nỗi ai kia nghếch mũi coi!”
71
(Dạ quan thanh nhân diễn kịch trường)
Những lời này ông dành cho người nước ngoài cũng là muốn nói với người
nào đó trong nước trước sự xâm lược của người tây dương. Tuy có những nhận thức
nhanh nhạy, hợp thời nhưng cảm quan nho giáo vẫn ngự trị trong ông nên nhiều khi
trong cách nhìn nhận của ông vẫn mang màu sắc Nho giáo. Đây không phải là mâu
thuẫn trong tư tưởng Cao Bá Quát mà đó là do hạn chế của lịch sử đã quy định
những nhận thức con người. Ngược lại, có được điều đó là tự trong con người ông
khởi phát ra, chứng tỏ sự nhanh nhạy về thời thế của nhà thơ trước những biến thiên
của lịch sử. Bản tính tự do cùng tâm hồn rộng mở, luôn sẵn sàng đón nhận hiện thực
cuộc sống giúp phản ánh sinh động trong hiện thực trong thơ.
3.2.5. Các dạng cảm xúc trong thơ Cao Bá Quát
Những phần mục trên triển khai phân tích bốn đề tài lớn trong thơ chữ Hán
Cao Bá Quát. Sợi dây nối kết tất cả những đề tài trên trong tổng thể chính là mạch
ngầm cảm xúc của tác giả. Với mỗi đề tài, Cao Bá Quát có cách cảm riêng, cách
viết riêng dưới sự chi phối của từng loại cảm xúc. Những cảm xúc đó là những cảm
xúc chân thực, sống động, khi bồng bột, lúc tha thiết, bền lâu... Những tình cảm,
cảm xúc trong thơ ông gắn với các đề tài rất đa dạng, chúng tôi xin được tổng kết lại
trong hai mạch cảm xúc chính. Đó là dòng cảm xúc gắn với đề tài mang tính “hàn
lâm” quen thuộc và cảm xúc gắn với những đề tài mới.
Trước hết là những tình cảm, cảm xúc gắn với đề tài mang tính “hàn lâm”.
Tình yêu với quê hương là tình cảm muôn thủa trong thơ. Đó là thứ tình mới trên
nền cũ bởi lẽ mỗi nhà thơ có một miền quê, một trạng thái tình cảm khác nhau trên
sự cảm nhận và thể hiện mang phong cách riêng. Trong thơ Cao Bá Quát, tình yêu
quê hương là tình cảm chủ đạo. Dường như trong bài thơ nào của ông cũng đề cập
đến thứ tình cảm ấy. Có khi là cả bài thơ nhưng nhiều lúc tình cảm ấy chỉ thoáng
hiện lên trong một hai câu thơ, ý thơ, hay thậm chí là một từ “quê hương” xuất hiện,
có lúc là cái cúi đầu hướng đầu về phía bắc khi ông đang ở dải đất miền trung... Tuy
vậy, người đọc vẫn cảm thấy sự da diết nặng sâu của nỗi nhớ, tính liên tục được nối
kết từ bài thơ này đến bài thơ khác như mạch ngầm văn bản vậy. Tình yêu đó luôn
ngự trị trong ông ở mọi thời điểm, mọi nơi, ở bất kì trạng thái nào (thức ngủ) thì
72
tâm hồn nhà thơ vẫn hướng về một và chỉ một nơi mà thôi.
Cao Bá Quát cũng giống như bao nhà thơ khác, gặp cảnh đẹp, địa danh đẹp
đều có thơ. Cảm hứng đăng cao viễn vọng giúp ông nhìn, cảm và viết được những
dòng thơ đẹp bởi khung cảnh và tình cảm lắng đọng mà ông dành cho thiên nhiên.
Với mỗi sự vật luôn được gửi gắm theo đó tình cảm thầm kín nào đó của ông (tình
yêu quê hương, tình với vợ con, hay đơn thuần chỉ là những tâm sự riêng...). Cao Bá
Quát cảm nhận vẻ đẹp tự nhiên chỉ là điều kiện để ông nói lên tình cảm nào đó của
mình. Tình cảm, cảm xúc trong thơ là cái chỉ đạo nội dung thơ, nó giúp cho người ta
hiểu tấm chân tình của nhà thơ. Mỗi bài thơ kết lại là tâm tình chân thực của Cao Bá
Quát.
Tình cảm, cảm xúc gắn với đề tài cảm thông, yêu thương con người cho chúng
ta cảm nhận khía cạnh khác trong tâm hồn nhà nho tài tử này. Đây là tình cảm nằm
trong khuynh hướng nhân đạo chủ nghĩa nổi bật trong văn học Việt Nam giai đoạn
này với tên tuổi của nhiều tác giả lớn. Đại thi hào Nguyễn Du có những vần thơ cảm
động về thân phận người phụ nữ thì Cao Bá Quát cũng dành những tình cảm cho
thân phận hồng nhan. Dòng thơ ông viết về họ dạt dào niềm cảm thông cùng sự chia
sẻ. Ông cũng dành nhiều tình cảm cho những người bất hạnh, đau khổ trong xã hội
khiến lòng người xúc động. Ông viết trong thơ không chỉ cảnh bất hạnh của con
người trong xã hội mà trong đó còn thấm đẫm tâm trạng cá nhân bởi sự bất lực của
ông khi phải chứng kiến cảnh tượng đau khổ của kiếp người mà chẳng thể giúp gì
cho họ. Những lời thơ này gợi cho người đọc nghĩ tới hình ảnh của nhà nho hành
đạo hơn là vai trò của nhà thơ. Nhưng nhà nho hành đạo ấy lại mang trong mình đầy
sự tân tiến. Theo quan điểm hà khắc của Nho giáo không thấy tồn tại cách cư xử khi
nhà nho phải “cúi mình” cảm thông, quan tâm đến nỗi niềm của thân phận phụ nữ
nhỏ bé trong xã hội. Cái mà một nhà nho chính thống cần quan tâm là lẽ xuất xử, là
làm sao giúp vua xây dựng xã hội tốt đẹp theo đúng tiêu chuẩn của Nho giáo. Có lẽ
chính vì vậy mà phần trách nhiệm hay hình bóng nhà nho trong thơ Cao Bá Quát bị
mờ đi, đọng lại trong thơ là tình cảm chân thực, tự nhiên từ tấm lòng con người luôn
nặng lòng với tình người, tình đời.
Bên cạnh những vần thơ đó là những vần thơ thể hiện những tình cảm mới mẻ.
73
Trước hết cần phải đề cập đến những bài thơ nhà thơ thể hiện tình cảm với vợ với
con. Nhớ quê hương là tình cảm quen thuộc nhưng nhớ vợ nhớ con thì ít gặp trong
thơ. Theo dòng chảy lịch sử, các nhà thơ nổi tiếng khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn
Du hầu như không có những bài thơ thể hiện tình cảm với vợ con, trực tiếp nhất là
nỗi nhớ với người vợ thân yêu. Khi tìm đọc tuyển tập thơ chữ Hán của hai tác giả
trên chắc chắc độc giả sẽ thấy rõ điều đó. Nguyễn Trãi toàn tập (tập 1) gồm toàn bộ
tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập của ông nhưng không hề xuất hiện hình bóng của
những vần thơ viết về vợ con của mình. Có lẽ Nguyễn Trãi là tác giả ở thế kỷ XV,
khi mà Nho giáo đang ở thời kì thịnh trị, nhất là với tư cách một nhà nho hành đạo
mẫu mực thì thơ ông không xuất hiện những vần thơ nói về tình cảm riêng tư thầm
kín cũng là điều dễ lý giải. Sang những thế kỷ sau này, khá gần thời với Cao Bá
Quát là tác gia Nguyễn Du. Trong Toàn tập Nguyễn Du (tập1) bao quát toàn bộ
những bài thơ chữ Hán của ông từ ba tập là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp
ngâm, Bắc Hành tạp lục với 238 bài thơ. Trong số này ông có nhiều bài thơ viết về
thân phận người phụ nữ đáng thương trong xã hội với sự cảm thông sâu sắc nhưng
chỉ có hai bài thơ viết về vợ con, cũng không thấy xuất hiện những vần thơ nói về
tình cảm tự nhiên của tình vợ chồng đằm thắm, tình cha con thân thiết. Còn với Cao
Bá Quát, qua phần trên đã phân tích chúng ta có thể thấy rõ tình cảm chân thành, tự
nhiên nhất của tình vợ chồng đằm thắm, tình cha con nồng ấm thể hiện chân thật
trong thơ mà không cần giấu giếm hay mờ khuất đi. Nó dung dị như ngoài đời thực
vậy. Nhiều khi còn khiến người ta phải rơi lệ theo nỗi nhớ nhung da diết cùng
những khát khao đời thường quá đỗi.
Thậm chí ở lớp thế hệ các nhà thơ sau Cao Bá Quát như Nguyễn Khuyến hay
Tú Xương cũng không thể có được những tình cảm đó. Nguyễn Khuyến có bài thơ
Khóc vợ, Nhất vợ nhì trời, câu đối Khóc con nhưng đó chỉ là sự tri ân, cảm thông
cho số phận người vợ với nỗi khổ khi bà thay chồng gánh vác mọi trách nhiệm với
gia đình, bà ra đi để lại sự hụt hẫng trong lòng người chồng Nguyễn Khuyến.
Nhưng ông làm thơ khóc vợ chỉ khi vợ đã ra đi. Mạnh dạn hơn, Tú Xương có bài
thơ thể hiện sự tri ân với người vợ tần tảo thay ông hoàn thành trách nhiệm với gia
đình, với cả người chồng “hờ”. Đỉnh cao của sự tri ân, sự trân trọng khi ông làm hẳn
74
bài Văn tế sống vợ. Dẫu vậy, đó cũng chỉ là sự trả nghĩa, đền bù, tri ân với những gì
mà người vợ đã làm được cho cuộc đời nhà thơ, những yếu tố tình cảm người chồng
với người vợ không thấy xuất hiện. Trong khi đó Cao Bá Quát đã không ngần ngại
thể hiện tình cảm vợ chồng đằm thắm, nồng nàn, những phút giây nhớ nhung, thậm chí
nhà thơ làm cả cuộc trở về trong tâm tưởng gặp vợ, gặp con. Ngay ở thời điểm đó mà
Cao Bá Quát mạnh mẽ thể hiện tình cảm của mình như vậy thật là điều đáng trọng.
Bài thơ Dương phụ hành là bài thơ tiêu biểu cho cảm xúc mới mẻ trong thơ
Cao Bá Quát. Ông là người có tư tưởng tự do, phóng khoáng, ông không có cái nhìn
phiến diện, kì thị với văn hóa tây phương xa lạ với văn hóa phương đông truyền
thống. Ông chẳng hề thấy ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh một người phụ nữ
phương tây nũng nịu chồng hết sức tự nhiên, điều mà ở văn hóa Việt Nam, kể cả
văn hóa phương đông nói chung không thể có. Đây có thể coi là “chứng cứ cho
phép hiểu được tầm nhìn nội dung hiếm hoi của nhà nho trước một nền văn hóa
khác lạ. Không theo tư duy truyền thống của nho gia, dễ dãi phán xét Hoa – Di đối
với cái không giống mình, Cao Bá Quát quan sát chăm chú và hứng thú với những
biểu hiện ứng xử nói lên tinh thần đề cao phụ nữ của người Tây Dương và chợt
nhận ra tình cảnh xa nhà cùng người vợ nơi quê nhà” [54, tr.9]. Ở Việt Nam hay
Trung Quốc trung đại thường nói đến mệnh đề trọng nam khinh nữ thì bài thơ này
của Cao Bá Quát về người phụ nữ tây phương là trường hợp hiếm hoi. Nó thể hiện
được cá tính phóng khoáng của Cao Bá Quát, không chịu bó mình trong khuôn khổ
nho giáo. Hay nói như Nguyễn Nghiệp là “giữa một anh nhà nho phương đông còn
đang ở thời kì bế quan tỏa cảng, với một cặp vợ chồng tây dương hoàn toàn không
có gì là “đồng văn đồng chủng” cả mà có được một sự giao cảm nhân đạo chủ nghĩa
đến thế thì thật là một điều mới mẻ, phi thường” [3, tr.116]. Tác giả Vĩnh Sính đưa
ra nhận xét giúp chúng ta hiểu rõ ý nghĩa tư tưởng này của Cao Bá Quát: “trong
mảng thơ văn đi sứ hay đi công cán nước ở nước ngoài của các sứ thần Việt Nam
vào thế kỷ XIX, bài thơ của Cao Bá Quát về người phụ nữ tây phương là một
trường hợp rất hiếm hoi và có ý nghĩa bởi lẽ điều này nói lên cá tính phóng khoáng
của Cao Bá Quát – không chịu bó mình trong những khuôn phép Nho giáo. Chính
những khuôn thước gò bó của Nho giáo đã ngăn chặn các sứ thần của Việt Nam hay
75
Trung Quốc khi đi sứ ở Tây phương quan sát hay ghi lại những điều gì có liên quan
đến nếp sống của người phụ nữ nói riêng hay sinh hoạt hàng ngày của dân chúng
nói chung…” [57].
Cao Bá quát không giấu được cảm xúc khi chứng kiến tàu thủy chạy bằng hơi
nước của người tây dương và ông để lại bài thơ Hồng Mao hỏa thuyền ca. Đây là
phát minh khoa học của người phương tây nhưng cũng là kết quả của nền khoa học,
kỹ thuật riêng mà thời Nguyễn cũng như các nhà nho giai đoạn này không hiểu
được điều đó, bởi họ vẫn lấy cái nhìn của tư tưởng phong kiến để đánh giá. Cao Bá
Quát “là trí thức mẫn cảm trước thời cuộc. Trên thực tế, Cao Bá Quát là một trong
số ít người Việt Nam đã cảm nhận rất sớm – ngay giữa thập niên 1840 – về mối
hiểm họa Tây xâm và chế độ khoa cử lỗi thời chỉ dựa trên từ chương và hư văn.”
[57]. Qua đó chứng tỏ tính đúng đắn trong suy nghĩ nhà thơ. Hơn thế, “đó là sự
sòng phẳng trong tư duy của con người dám nghĩ một cách mới về cái mới, dám
thừa nhận sự ưu việt của kỹ thuật phương tây” (Trần Nho Thìn). Không những vậy
ông còn mạnh dạn thể hiện điều đó trong thơ thì quả là điều táo bạo, mới mẻ. Chúng
ta có thể nhận ra thế giới thơ có nét riêng không thể trộn lẫn với các nhà thơ cùng
thời hay khác thời, cũng có thể nói đó là đóng góp của nhà thơ với đất nước trên
phương diện góc nhìn mới.
3.3. Thể thơ và ngôn ngữ
3.3.1. Thể thơ
3.3.1.1. Kết cấu bài thơ
Thơ Cao Bá Quát kết hợp giữa chất trí tuệ và những cảm xúc chân thực. Hai
yếu tố tình và ý luôn hòa quyện vào nhau. Ý là chất trí tuệ, sự suy tư; tình là cảm
xúc, bản năng thiên phú của người làm thơ. Chất trí tuệ càng làm rạng rỡ những
cảm xúc chân thật, cảm xúc và tư duy là hai mặt được kết hợp chặt chẽ, đó là phong
cách thơ Cao Bá Quát. Ông không chỉ độc đáo trong những suy nghĩ với tình cảm
phóng túng mà còn bộc lộ những cung bậc trạng thái khác nhau gây được ấn tượng
với người đọc.
Tình cảm đó không có hiện tượng mờ nhạt, vui buồn không rõ ràng mà nó
được biểu hiện thật mạnh mẽ và dứt khoát, yêu ghét, buồn vui, mừng giận... đều
76
hiển hiện. Tính chất mạnh mẽ, rõ rệt của tình cảm, cảm xúc không những được
thoát ra từ những đối tượng cảm xúc giàu chất thơ như một cảnh thiên nhiên đẹp,
một vị anh hùng… mà có những khi nó được bộ lộ ngay trong những đối tượng ít
chất thơ như gà mẹ nuôi vịt con, con khỉ bắt chước người, con sáo bị cắt lưỡi do biết
nói tiếng người... Đó là những tình cảm chân thành, tự nhiên và dung dị như nó vốn
có của con người luôn nặng lòng với thiên nhiên, cảnh vật, cuộc sống con người. Đó
là những rung động và xúc cảm chân thành, tự nhiên của con người gắn bó nhân
dân, đất nước.
Tình cảm được thể hiện trong thơ ông là thứ tình cảm trong sáng, tươi vui. Nó
bao trùm toàn bộ sáng tác của ông. Bởi lẽ nó được xuất phát từ những rung cảm tinh
tế của ông trước một tin mừng (đỗ đạt, được tuyển dụng, nhận được thư nhà...),
trước một niềm vui (uống rượu, trò chuyện với bạn bè...), trước một khoái cảm (một
buổi trời đẹp, thiên nhiên hùng vĩ, kì thú...). Nhiều khi lại có được từ những cảm
xúc của ông về những chuyện không vui (con mất, bệnh tật, mất mùa, lũ lụt...).
Cũng có lúc trong thơ ông có sự buồn chán, nỗi u hoài. Trong những tình cảm
không vui đó vẫn chất chứa niềm tin, sự đi lên và nghị lực khác thường.
Yếu tố tự nhiên, chân thật của cảm xúc nổi lên hàng đầu trong thơ ông. Có
được điều đó là bởi chúng xuất phát từ những rung động thật sự, sự rung cảm tự đáy
lòng. Cho nên những tình cảm yêu ghét, vui buồn, sung sướng hay khổ đau... đều
mang cá tính rõ rệt của ông. Niềm nhớ thương vợ con, yêu thiên nhiên vạn vật, ghét
những xấu xa, bất công trong xã hội, vui khi thấy cảnh được mùa của nhân dân, vì
vượt qua được khó khăn, buồn vì không được trọng dụng..., khó để tả hết những nỗi
niềm, cung bậc tình cảm trong thơ Cao Bá Quát nhưng có thể kết lại một điều là sự
chân thật, tự nhiên của cảm xúc giúp ông thể hiện sinh động tình cảm của mình ở
những trạng thái khác nhau, đa dạng mà khó có thể trộn lẫn. Đây là sự thống nhất
trong đa dạng của các sắc thái tình cảm trong thơ Cao Bá Quát.
Thơ Cao Bá Quát có tình cảm, cảm xúc rất dồi dào đồng thời lại có nhiều chất
suy tư. Cảm xúc và suy nghĩ là hai mặt kết hợp chặt chẽ trong thơ ông. Cao Bá quát
không bao giờ miêu tả thiên nhiên chỉ vì thiên nhiên. Đối với ông, thiên nhiên vạn
vật luôn gắn chặt với con người. Cho nên dù viết về cảnh vật thì kết lại bài thơ vẫn
77
là yếu tố tình. Mỗi hiện tượng thiên nhiên, cảnh vật đều là một hiện tượng phong
phú đặt trong mối quan hệ với con người và hoàn cảnh xung quanh, một hiện tượng
dù nhỏ bé đều gợi lên bao tâm tư, tình cảm. Cho dẫu hoa sen, hoa lan, cây gạo, cây
chuối…, những hình ảnh quen thuộc đều được Cao Bá Quát nhắc tới và gắn chặt
với tâm trạng và cá tính con người.
Cao Bá Quát không bó hẹp cảm xúc trong những giới hạn cụ thể của đối tượng
phản ánh hay miêu tả bởi xu hướng mở rộng, nâng cao được tạo nên từ chiều sâu
của tư duy. Chất suy tư nâng tầm một sự vật này đến một sự vật khác, từ một hiện
tượng của tự nhiên đến một hiện tượng xã hội, từ một đối tượng cụ thể đến một
nhận thức có tính chất phổ biến, khái quát. Ông viết về cỏ cây, cơn mưa, bãi cát, sự
thay đổi của thiên nhiên, một chuyến đi... tất cả đều không bị giới hạn, mà qua
những suy ngẫm của nhà thơ đặt ra được bao vấn đề của xã hội và nhân sinh, gắn
với con người và cuộc đời. Bài Sa hành đoản ca nhà thơ tả cảnh một người đi trên
bãi cát, ông suy ngẫm đến hiện tượng “xưa nay hạng người danh lợi – vẫn tất tả ở
ngoài đường xá” thì bãi cát không đơn thuần là bãi cát nữa mà trở thành cảnh bế tắc
trong cuộc đời, xã hội. Bài thơ Kim nhật hành cũng vậy, ông kể hôm qua trời lạnh,
gió thổi heo hút, buổi sáng sương lạnh không dấu chân người. Hôm sau mặt trời lại
như hun như đốt, bức bối khó chịu. Bài thơ không còn là chuyện thay đổi của thời
tiết nữa mà là chuyện đời sống, chuyện ấm lạnh của lòng người...
Nói chung Cao Bá Quát luôn trình bày những suy nghĩ bắt nguồn từ đời sống,
con người gắn liền với những hình ảnh chân thực, lấy cảm xúc làm nền tảng. Ngay
cả những bài thơ viết về tâm sự riêng của ông có khi không xuất hiện những chi tiết
của đời sống thì những tư duy lại kết hợp chặt với niềm vui, nỗi buồn của chính ông
nên bài thơ vẫn có chiều sâu tạo nên từ âm hưởng tâm trạng, cảm xúc. Có những bài
thơ ông viết về hiện thực khách quan chỉ là thể hiện con người cá nhân của chính
mình. Trong thơ ông, hiện thực nhiều khi chỉ là cái cớ để nhà thơ nói lên nỗi lòng,
tình cảm của mình mà thôi.
Như vậy, nếu chia một bài thơ của Cao Bá Quát ra làm hai phần là cảnh vật và
tình cảm thì cảnh là nền tảng, cơ sở để nhà thơ thể hiện thế giới tình cảm và những
tâm tư khác nhau. Chất cảm xúc luôn là yếu tố chính chỉ đạo hướng phát triển của
78
một bài thơ. Tiến trình phát triển của một bài thơ của ông là sự thống nhất cao độ
giữa quan niệm sáng tác và thực tiễn sáng tác của ông. Đó là việc đề cao chữ “tình”
trong thơ. Tình cảm đó chân thực, tự nhiên, có sự kết hợp bởi tư duy, suy ngẫm tạo
chiều sâu cho cảm xúc. Nhưng điều đáng chú ở đây là kết cấu cảnh trước tình sau
thường thấy trong thơ Cao Bá Quát được ông sử dụng khá tinh vi, đó là dụng ý nghệ
thuật của chính ông. Thơ Cao Bá Quát thường không lớn, bài thơ ít kéo dài câu chữ
nhưng dung lượng vẫn lớn, “vẫn dài” (cách nói của Xuân Diệu) bởi cái dài do suy
tư, bởi cái ngâm nga của suy nghĩ.
3.3.1.2. Các bài thơ theo hình thức “tịch thượng tác”, “tẩu bút”, “hý bút”...
Cao Bá Quát đề cao chữ tình chân thật trong thơ nên những bài thơ của ông là
minh chứng cho quan niệm đó. Thơ ông có sự hòa hợp giữa nội dung và hình thức.
Nội dung phong phú, hình thức đa dạng. Nội dung đề cao sự chân của tình thì tất
yếu có những hình thức đặc trưng để thể hiện sinh động nhất nội dung cần hướng
đến.
Hình thức “tẩu bút” nghĩa là viết chạy, “túng bút” nghĩa là phóng bút, tiêu biểu
như: Đoàn tính lâm hành bả tửu vi biệt tẩu bút dữ chi; Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở
thị tẩu bút họa chi; Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm,
tẩu bút dữ chi; Thập nhất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân; Chí nhật đồng chí
đình tiểu ẩm tẩu bút thứ vận; Cấm sở cảm tự, túng bút ngẫu thư... Hình thức “hý
bút” nghĩa là viết đùa, tiêu biểu như các bài thơ: Tiêu ẩm hý bút; Mộ phạn bất cấp
hý bút ký sự... Hình thức “tịch thượng tác” nghĩa là ứng tác ngay trên chiếu văn,
tiêu biểu như các bài thơ: Bệnh trung hữu hữu nhân chiêu ẩm tịch thượng tác; Đông
tác tuần phủ tịch thượng ẩm; Tân mông hồi bộ, túy trung hữu tác... Đây có thể coi là
hình thức độc đáo trong thơ ông bởi nó đặc biệt đề cao được cảm xúc, cảm xúc tràn
trề là hạ bút viết ngay được.
Bên cạnh những hình thức đó còn những hình thức tương tự nhưng được đặt
dưới hình thức tên gọi khác như “cảm tác”, “ngẫu cảm”, “ngẫu thành”... Các bài thơ
tiêu biểu như: Thanh minh nhật cảm tác, họa Trần Ngộ Hiên; Trệ vũ chung dã cảm
tác; Đăng Long thành lãm thắng hữu cảm... Những bài thơ viết theo phong cách này
thường đề cao yếu tố cảm hứng bất chợt, mang tính ngẫu hứng, ngay tức thời, ghi
79
nhanh, viết chạy nhưng không phải là làm nhanh theo chiếu lệ mà nhanh như thế để
bắt được, đuổi kịp cảm xúc trong những thời điểm nhất định. Cũng chính vì vậy mà
các hình thức sáng tác thơ này phát huy tối đa tình cảm trong thơ.
Có thể nói rằng đặc điểm lớn nhất của các bài thơ được sáng theo lối “tịnh
thượng tác”,“tẩu bút”,“hý bút”... là việc thể hiện tình cảm chân thực, sâu sắc, và
ngay tức thời. Do đó tính chất cảm xúc bột phát, tự nhiên, bộc trực là rất lớn. Từ đặc
điểm này kéo theo những yếu tố khác. Cụ thể như không gian, thời gian (bối cảnh)
tự do, bất định. Xét theo bối cảnh không gian thì đa dạng bởi đó có thể là không
gian trong phòng giam (Cấm sở tự, túng bút ngẫu thư), không gian nước bạn (Dữ
Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi), thậm
chí ngay trên bữa tiệc rượu nhà người bạn (Đông tác tuần phủ tịch thượng ẩm)...
Thời gian cũng vô định, khi là buổi chiều tối (Mộ phạn bất cấp hý bút ký sự), khi là
buổi đêm ngắm trăng (Thập thất dạ thừa nguyệt tẩu bút ký hữu nhân)... Tính chất
bất định là yếu tố chịu sự chi phối rất lớn của tình cảm, cảm xúc. Ở bất cứ nơi đâu,
trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào chỉ cần nhà thơ đứng trước một sự vật sự
việc, nhiều khi chỉ là cảm xúc bất chợt nảy sinh là ngòi bút lại cất lên và tình cảm
lại chan chứa trong thơ. Tình cảm dường như không bị tiết chế bởi yếu tố khách
quan. Tình cảm, cảm xúc là trước hết và trên hết. Vì vậy muốn thể hiện tình cảm,
cảm xúc nảy sinh nhanh chóng như vậy khiến cho nhà thơ phải sử dụng lối viết
nhanh, viết chạy, ứng tác ngay trên chiếu văn để bắt kịp với cảm xúc đó.
Những bài thơ được viết theo lối này có thể theo thể thất ngôn bát cú Đường
luật tuân thủ về số câu, chữ, vần điệu, cũng có thể viết theo thể tự do (một bài nhiều
câu, số chữ trong câu là năm hay bất định...) nhưng tất cả không quan trọng vì dù là
thể thơ cổ thể hay cận thể thì cái quan trọng nhất cũng chỉ là những tình cảm tác giả
gửi gắm trong đó.
Lối sáng tác này được bắt nguồn trực tiếp từ cảm xúc bất chợt nên nó thường
được sáng tác trong những hoàn cảnh chia ly hay hội ngộ. Đó là những thời điểm
mà con người ta dễ xúc động nhất. Ví như bài thơ làm ngay trong bữa tiệc rượu nhà
người bạn (Đông Tác Tuần Phủ tịch thượng ẩm). Bài thơ tổng quát lại, ghi lại
những suy nghĩ về quãng đời mà ông và bạn đã trải qua, tuy mỗi người một công
80
việc, mỗi người một đường đi riêng nhưng giờ đây, tại thời điểm này thì điều đó
không còn quan trọng nữa. Điều quan trọng giờ này chỉ là tình bạn đằm thắm của
hai người mà thôi. Rồi một lần khác, được ngồi trò truyện với người bạn Trung hoa,
ông cảm xúc mà “viết chạy” tiễn đưa bạn lúc chia ly. Bài thơ giống tiếng thở dài
của Cao Bá Quát sau bước đường làm quan mà không làm được gì nhiều cho đời,
thậm chí thân phận giờ đây là người xa xứ nặng mối tình nhớ về quê hương và tình
bạn tha thiết (Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm, tẩu
bút dữ chi). Trong bữa tiệc tiễn bạn sắp lên đường, nhà thơ cảm tác “viết chạy” để
tặng bạn (Đoàn tính lâm hành bả tửu vi biệt tẩu bút dữ chi)… Đó là những bài thơ
được viết xuất phát từ những cảm xúc nảy sinh khi tiễn biệt bạn bè hay sự hội ngộ,
gặp gỡ. Tuy nhiên tình cảm, cảm xúc có tính chất không cố định cho nên trong
nhiều hoàn cảnh khác, đôi khi rất giản dị thôi nhưng là con người giàu cảm xúc thì
Cao Bá Quát đều có thể viết lên những trang thơ chứa chan chữ tình. Chỉ là buổi
chiều không cơm mà cảm xúc lên khiến nhà thơ viết thành thơ. Bài thơ kết lại tình
người cao đẹp và bản lĩnh, bình thản trước cuộc đời (Mộ phạn bất cấp hý bút ký sự).
Ngay cả khi ngồi trong nhà giam mà những cảm xúc trào dâng thì nhà thơ cũng có
thể viết thành thơ. Bài thơ cho thấy phong thái phóng khoáng, vô tư của nhà thơ
trước những biến thiên của cuộc đời. Một đêm trăng sáng ông ngắm trăng và cảm
hứng trào dâng để ông viết thành bài thơ đặc sắc tặng bạn (Thập thất dạ thừa nguyệt
tẩu bút ký hữu nhân)…
Có thể thấy rằng những bài thơ sáng tác theo lối “tịch thượng tác”, “tẩu bút”,
“túng bút”... là hình thức thể hiện tối đa cảm xúc tức thời, tự nhiên. Cao Bá Quát đề
cao chữ tình chân thực trong thơ, thể hiện chữ tình đó không chỉ bằng nội dung câu
chữ mà bằng cả hình thức. Ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ thời điểm hay hoàn cảnh
nào, chỉ cần cảm xúc là có thơ. Bài thơ do đó là sự kết hợp khéo léo của cảnh vật và
những tình cảm tự nhiên, chân thành, sâu sắc.
3.3.1.3. Những bài thơ sáng tác theo thể ca, hành
So với các nhà thơ khác thì Cao Bá Quát là người sử dụng khá nhiều thể loại
cổ thể, trường thiên, ca, hành. Đây là những thể loại tương đối tự do và dung lượng
lớn, giúp ông thể hiện được nhiều điều hơn trong thơ. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử
81
nói về điều này như sau: “do quan niệm thơ chân thành, tự nhiên, có cá tính sáng
tạo, phản bắt chước mà Cao Bá Quát có cách lựa chọn hình thức thơ cho mình. Thơ
tiếng Việt ông thích thể hát nói, thơ chữ Hán ông thích thơ ca, hành, cổ phong,
những thể thơ tự do, ít làm luật. Đây là điểm có khác Nguyễn Du. Thơ chữ Hán
Nguyễn Du có 249 bài, trong đó có 22 bài ca hành, cổ phong, chiếm khoảng 8,8%,
trong khi đó thơ ca chữ Hán của Cao Bá Quát (toàn tập, tập 1) có 418 bài, trong đó
có 77 bài cổ phong, ca hành, tương đương 18,4%, nhiều hơn gấp đôi”.
Những bài thơ viết theo thể này không chịu sự dàng buộc chặt chẽ bởi những
quy chuẩn nghiêm ngặt về số câu, số chữ trong bài thơ cũng như về vần, luật. Bài
thơ có thể có 9 câu (Hoành sơn vọng hải ca), 16 câu (Sa hành đoản ca), hay nhiều
hơn thế (Kim nhật hành – 25 câu), thậm chí là rất nhiều (An trường hành).... Số chữ
trong mỗi câu không cũng không giống nhau. Một bài thơ không bị hạn định bởi số
câu, số chữ trong bài tạo sự thoải mái cho người viết khi không phải bó hẹp cảm
xúc, suy nghĩ trong lượng từ nhất định, càng không phải trau truốt, tìm tòi những từ
ngữ cầu kì và phải thật thật chính xác để làm sao nén trong đó dung lượng ý nghĩa
khi số chữ bị hạn định. Sự tự do giúp cho người sáng tác thoải mái trong việc sử
dụng từ ngữ để diễn tả ý của mình, nhất là không gò bó những tình cảm theo khuôn
sáo chuẩn mực. Tình cảm được thể hiện chân thực, tự nhiên nhất.
Sự tự do của câu chữ khiến cho cảm xúc trong các bài ca, hành này cũng khá
đa dạng. Đó là cảm xúc trước những điều mới lạ (Hồng mao hỏa thuyền ca; Dương
phụ hành...). Đó là cảm xúc trước thiên nhiên nhưng thiên nhiên ở đây thường là
những sự vật “có tầm cỡ” đủ sức diễn tả tình cảm rộng mở, và tâm hồn phóng
khoáng của nhà thơ (Hoành sơn vọng hải ca; Trà giang thu nguyệt; Dữ thi hữu Phan
Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân...). Nhan đề bài thơ Hoành Sơn
vọng hải ca (bài ca đứng trên núi Hoành Sơn nhìn ra bể) đã cho thấy tầm vóc lớn
lao qua cái nhìn toàn cảnh với những con sóng trắng xóa, gió táp, sấm ran chớp giật,
lớp lớp núi kéo dài từ bắc vào nam. Tất cả những sự vật hết sức lớn lao ấy thu vào
tầm mắt nhà thơ, gợi lên trong ông những liên tưởng về những khó khăn trắc trở
trên đường công danh “Công danh đã mấy ai nhàn? Mũ lọng nhộn nhịp, ta cũng đi
đây”. Bài Kim nhật hành cho thấy diễn biến bất ngờ của thời tiết theo cách sáng
nắng chiều mưa để từ đó nhà thơ khái quát lên quy luật vận động của đời người, xã
82
hội cũng diễn ra những điều bất thường nào ai có thể biết trước, nhưng nhà thơ cho
rằng không chỉ ngồi đó mà thụ động đón nhận, thay vào đó là tâm thế chủ động, sẵn
sàng đón nhận tất cả, dù khó khăn trắc trở.
Nếu là bài ca, hành mang nội dung tâm sự trước cuộc đời hay có ý nghĩa nhân
sinh nào đó thì Cao Bá Quát thường xây dựng nên cuộc gặp gỡ, trò chuyện tâm tình
giữa hai con người. Ở đây không nhất thiết là con người thực mà nhiều khi là sự vật
được nhân hóa, một con người tưởng tượng ra trong tâm trí nhà thơ để giúp ông nói
lên tình cảm, suy nghĩ, triết lý của mình về cuộc đời. Nếu như tác giả đứng trước
thiên nhiên để nhìn thiên nhiên rồi suy ngẫm về cuộc đời thì thiên nhiên chính là
chủ thể thứ hai trong tâm tưởng của chính nhà thơ. Với riêng những bài thơ theo
hướng này thì những cuộc gặp gỡ tâm tình thân mật giữa hai người bạn giúp tác giả
(người trong cuộc) nói hết nỗi lòng, suy ngẫm không hề dấu diếm.
Bài thơ Trà giang thu nguyệt ca (bài ca trăng thu sông Trà) được tác giả nói là
tặng bác Bảo Xuyên đi quân thứ ở An Giang nhưng từ đầu đến cuối không hề thấy
nhân vật này xuất hiện, chỉ có hai nhân vật là tác giả và trăng. Tác giả và trăng làm
cuộc gặp gỡ cùng tâm tình bên nhau. Kết lại bài thơ sự ra đi của trăng tượng trưng
cho ra đi của người bạn, “đấng trượng phu”, lòng người cố nén lại những tình cảm
bịn rịn nhất. Bài thơ Đằng tiên ca (bài ca cái roi song) không chỉ thấy cảnh tra tấn
người tù mà mà còn có cuộc đối thoại giữa chính người tù đó và cái roi song, thứ
công cụ hành hình tù nhân. Trong cuộc đối thoại đó, người tù (tác giả) khẳng định
bản lĩnh rắn rỏi, tinh thần của cây tùng cây bách trước tất cả. Bài thơ An Trường
hành (bài hành An Trường) là cuộc gặp gỡ giữa nhà thơ và vị tiên trên trời xuống
kết bạn, nói chuyện và trong cuộc nói chuyện đó vị tiên kể lại cả thời kì đất nước
dưới thời Lê – Trịnh thi nhau giấu vàng bạc, tranh giành thế lực mà không hề lo tích
đức cho dân. Bài thơ kết lại không chỉ là lời tâm sự tri ân, lời khuyên, lời cảnh báo
của Cao Bá Quát với triều đình vua chúa nào đó, mà nó còn có ý nghĩa với chính
con người.
Có thể nói rằng thể ca, hành có sự cởi mở trong việc sử dụng những từ ngữ,
83
câu chữ và nhất là nó truyền tải được thông điệp tình cảm của nhà thơ về cuộc đời,
con người. Vì thế Cao Bá Quát sử dụng khá thành công những thể thơ này để diễn
đạt ý tình của mình.
3.3.2. Ngôn ngữ
3.3.2.1. Từ ngữ trong thơ Cao Bá Quát
Tuy viết bằng chữ Hán nhưng lời thơ thật giản dị, không sử dụng nhiều điển
tích điển cố cầu kỳ mà chỉ là những lời dễ hiểu, thật thấm thía. Đó là những tiếng
nói chân thành được cất lên từ một trái tim đa sầu đa cảm. Chúng tôi khảo sát trên
văn bản tập sách Thơ văn Cao Bá Quát (Gs.Vũ Khiêu chủ biên) so với những cuốn
sách giới thiệu thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du thì có thể nhận thấy một
điều là thơ chữ Hán Cao Bá Quát ít sử dụng điển tích điển cố hơn so với các nhà thơ
trên. Những bài thơ được các dịch giải giải thích điển tích điển cố thường không
quá bốn điển tích, và số lượng những bài như thế là không nhiều. Cách sử dụng điển
tích, điển cố trong thơ Cao Bá Quát dường như là dụng ý nghệ thuật trong thế giới
riêng của ông. Thơ của ông có nhiều đề tài gắn với những tình cảm, cảm xúc khác
nhau như trên đã phân tích. Ở đó, gắn với những đề tài thể hiện nỗi niềm nhớ vợ,
nhớ con, hay những bài thơ cho thấy nhận thức của ông với người tây dương, người
phụ nữ tây dương, cũng tức là những đề tài gắn với cảm xúc mới mẻ trong thơ thì
ông hầu như không sử dụng điển tích điển cố (có thì chỉ rất ít mà thôi). Đây là
những bài thơ mà có lẽ cảm xúc, tình cảm mạnh mẽ, cần dung lượng lớn từ ngữ
trong bài thơ đó để có thể nói hết, diễn đạt hết cho lòng người. Cảm xúc tự nhiên
nhất như được bật ra một cách bộc phát, trực tiếp và không chịu sự chi phối của lý
trí nữa nên tình cảm đến đâu, ngòi bút đến đấy, cả thế giới tâm hồn nhà thơ như
muốn bay theo bòi ngút để nói cho thỏa nỗi lòng vậy. Và khi mà tình cảm ngự trị và
chiến thắng hoàn toàn lý trí thì lời thơ không chịu sự chi phối của suy nghĩ, lý trí
nữa, khi ấy những gì thuộc về nguyên tắc, khuôn sáo, chính thống không tồn tại
trong thơ nữa mà chỉ có tình cảm, cảm xúc mà thôi. Tiêu biểu như các bài thơ:
Dương phụ hành; Hồng Mao hỏa thuyền ca; Hữu sở tư; Tư quân chi xuất hỹ; Mộng
vong nữ; Để gia; Đắc gia thư thị nhật tác; Bệnh trung; Tiếp nội thư tính ký hàn y bút
84
điều sổ tự...
Sau những bài thơ trên thì những bài thơ viết về nỗi niềm cảm thông, sẻ chia
và thương yêu thân phận bất hạnh trong cuộc sống nhà thơ cũng rất ít sử dụng điển
tích trong thơ. Ví như các bài: Đạo phùng ngã phu; Phụ tương tử; Phúc Lâm lão;
Cái tử; Hàn dạ ngâm... Nhìn chung các bài thơ Cao Bá Quát viết thể hiện nỗi niềm,
tâm trạng cá nhân và viết về tình bạn có sử dụng những điển tích điển cố nhiều hơn.
Bởi lẽ tác giả muốn mượn những điển tích để nói hộ tâm trạng thầm kín, đôi khi
không dễ dàng thể hiện ra theo cách trực tiếp, thì lúc này những điển tích đó được
ông sử dụng như công cụ hữu hiệu để thay thế mà vẫn truyền tải thông điệp cần
diễn tả. Các bài thơ tiêu biểu như: Sa hành đoản ca; Cấm sở tự túng bút ngẫu thư;
Đằng tiên ca; Bệnh trung; Thập nguyệt thập nhất nhật thừa lễ bộ nghiêm tần hậu
cưỡng bệnh mạn chí tứ thủ; Tội định...
Ngôn ngữ là phương tiện để biểu đạt tư tưởng, tình cảm của tác giả. Nét đặc
trưng trong ngôn ngữ thơ Cao Bá Quát là sử dụng ngôn ngữ hình ảnh. Trong đó mỗi
từ, mỗi câu là một hình ảnh sinh động về thế giới khách quan hay về hiện tượng
phức tạp trong tâm hồn nhà thơ. Ngôn ngữ giàu hình tượng này giúp thể hiện rõ cá
tính tác giả. Những hình ảnh trong thơ Cao Bá Quát là những hình ảnh thân thuộc,
gần gũi với đất nước. Nói đến thế nước chảy là thấy hình ảnh dã gạo, nói đến con
thuyền là hình ảnh chiếc lá: “Sông Lục Đầu dòng chảy về đông, nước như giã gạo”
(Đồng Thúc Minh du Vạn An toại đảng Nam Tào sơn), “phiến phàm dư diệp, thủy
như thung – cánh buồm như lá, nước chảy như dã gạo” (Vũ trung độ Linh giang).
Nói đến dòng sông là thấy hình ảnh thanh kiếm và dải lụa: “trường giang như kiếm
lặp thanh thiên – con sông dài như thanh kiếm dựng giữa trời xanh” (Hiểu quá
Hương giang), “giang tự mỹ nhân thanh luyện đới – sông như dải lụa của cô gái
đẹp” (Ninh Bình đạo trung). Nói đến điểm chấm phá trên nền trời là thấy hình ảnh
con cò trắng: “xuân tĩnh giang hồ nhất bạch âu – một con cò trắng trên mặt hồ giữa
cảnh xuân lặng lẽ” (Hoa thận tư)... Giã gạo, chiếc lá, thanh kiếm, dải lụa, cò
trắng… đều là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi đời sống, tạo cảm giác thân
quen, tự nhiên, đậm đà hồn việt.
Những hình ảnh trong thơ Cao Bá Quát là những hình ảnh tự nhiên, phù hợp
85
với tình cảm, cảm xúc chân thực, sâu sắc của nhà thơ. Cùng là núi nhưng có chỗ
như đàn lợn mẹ con: “sơn thế do liên tử mẫu chư – thế núi liền nhau như là mẹ con
lợn” (Do địa bàn sơn thủ lộ kinh Lưỡng Trúc vãn vọng khiển hoài), có chỗ lại như
hòn cục “quần sơn như khoái hải như bôi – chòm núi như hòn cục, biển như chiếc
chén” (Đề Mỹ Tường điếm chủ Hoàng thị nạp lương lâu), có chỗ như chén rượu:
“sơn như túy khách bích loa bôi – núi như chiếc chén hình ốc biếc của người khách
say” (Ninh Bình đạo trung), có chỗ như ngón tay: “hải khí quyển sơn sơn như chỉ -
hơi biển quyện vào núi, núi như ngón tay” (Hoành sơn vọng hải ca). Cây gạo ở đầu
làng đã để lại trong thơ ông nhiều hình ảnh thân thuộc, song mỗi lần về quê hình
ảnh đó lại hiện ra một khác, có khi là “cao cao mộc miên thụ, cổ cán hà thanh sơ –
cây gạo cao cao kia, thân già mà còn xanh đẹp sao” (Tương đáo cố hương); có lần
thì “mộc miên điếm lý sương thu tảo, Thiên Mã hồ biên nhật thướng trì – chỗ điếm
Cây Gạo sương tan sớm, bên hồ Ngựa Trời mặt trời lên muộn” (Để gia)... Một sự
vật được ghi lại bằng nhiều hình ảnh khác nhau, theo những góc nhìn khác nhau bị
quy chiếu bởi tình cảm, cảm xúc khác nhau sẽ cho sự vật khác nhau.
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát sử dụng nhiều điệp ngữ: “Du du từ cố quốc - Man
man hướng trường lộ” (Phó nam cung, xuất giao môn biệt chư đệ tử); “Tiểu tiểu
nhân giai tử - Song song bộ ngữ trì” (Hữu sở tư); “Mang mang thân thể tri hà liễu -
Hạo hạo kiền khôn tích tam phân” (Biệt phạm lang trung)… Chúng ta có thể bắt
gặp rất nhiều những câu thơ tương tự như thế. Chính sự lựa chọn từ ngữ độc đáo
này làm cho lời thơ của ông không hề khô khan bởi những con chữ được giới hạn
trong trong khuôn khổ từ vựng, ngược lại chúng có nhịp điệu và âm hưởng gần gũi.
Do đó thơ chữ Hán của ông có sắc thái nhịp nhàng, truyền đạt được những ấn tượng
thú vị, có lúc nhẹ nhàng thanh thoát, có lúc thâm trầm, thấm đượm chất thơ.
Thơ ca chữ Hán của Cao Bá Quát có vốn từ ngữ rất phong phú, đa dạng. Cùng
một hiện tượng, cùng một đối tượng cảm xúc nhưng được diễn tả thành nhiều vẻ với
những từ ngữ và kết cấu khác nhau cũng xuất hiện nhiều trong thơ ông. Ví như bức
tranh cảnh vật về hồ Tây, cùng một lúc nhà thơ có tám bài với những phong cảnh
khác nhau. Một cảnh “nhàn” ở kinh đô Huế, cùng một thời gian ông viết mười bài
thơ… Ở đó mỗi bài là một ý một tình, một lời lẽ mà không có hiện tượng trùng lặp.
Làm được điều đó là do ông có tứ thơ dồi dào, cảm xúc nhạy bén, cũng bởi nhà thơ
86
có sẵn khối lượng ngôn từ phong phú tạo thành những bài thơ đặc sắc. Cho nên
cùng một đề tài nhưng bằng tài năng và phong cách, ông lại cho ra những tác phẩm
mang màu vẻ khác nhau, mỗi bài thơ là mỗi cách diễn đạt tình cảm, cảm xúc giản dị
và chân thành.
Cao Bá Quát còn sử dụng nhiều hình thức so sánh, liên tưởng, ẩn dụ... đặc biệt
là nhân hóa để lời thơ sinh động, mới mẻ. Thơ Cao Bá Quát thường được kết cấu
theo cấu trúc cảnh – tình, tất cả chỉ để nói lên tâm tư, tình cảm của con người. Cũng
vì vậy ông sử dụng nhiều biện pháp nhân hóa để đối tượng vô tri vô giác được hình
tượng hóa mang chất người nhất, giúp nói được chữ tình chân thực của tác giả nhất.
Tất cả các hiện thực khách quan dù di chuyển hay cố định, dù lớn nhỏ, từ ngọn núi,
dòng sông, trăng sao, làn sóng... đều được nhà thơ nhân hóa mang hình dáng và tính
chất con người. Điều quan trọng nhất là nó giúp ông truyền tải thông điệp tình cảm
rất rõ ràng, xúc động. Sự nhân hóa trong thơ ông rất đa dạng. Có khi một sự vật
khách quan được xây dựng thành hình tượng hoàn chỉnh, có khi sự vật đó chỉ được
phú cho những phẩm chất và hành vi con người. Khi cần phát hiện vẻ đẹp có tính
chất lãng mạn của cảm xúc thì tác giả thường nhân hóa hoàn chỉnh, biến đối tượng
đó thành người với đây đủ tính cách con người. Ở đây tác giả có thể tự do miêu tả,
đối thoại và tự tình với chính cảm xúc của mình đang trào dâng mãnh liệt. Trong bài
Trà giang thu nguyệt ca, tác giả đã biến trăng thành người bạn để tâm tình, thổ lộ
tình cảm, cảm xúc như hai người bạn đã quen biết nhau từ lâu. Trăng có tính cách
con người, cũng là đối tượng để tác giả giãi bày. Hay trong chùm bài thơ Du Tây
Hồ bát nguyệt, nhà thơ muốn khai thác vẻ đẹp có tính chất lãng mạn của hồ Tây nên
có lúc hồ Tây hiện lên như người con gái đẹp. Nhân hóa không chỉ giúp nhà nói
được sự phong phú của tâm hồn cùng phút giây thăng hoa của cảm xúc, bởi khi
nguồn cảm xúc trào dâng kết hợp với chất tài tử nghệ sĩ thì sự vật thiên nhiên đơn
thuần đâu chỉ có như thế mà phải lãng mạn, mang cá tính riêng để tiếp ứng với chất
nghệ sĩ và cái tình dạt dào.
Nhưng dù nhân hóa theo cách nào, với phương thức nào thì Cao Bá Quát vẫn
đề cao nguyên tắc cảm xúc thực, rung động thực phát ra từ tâm hồn nhạy cảm, đa
tình. Vì vậy hình tượng trong thơ ông được xây dựng bao giờ cũng có hồn, có tình,
87
luôn sinh động và hấp dẫn. Hình tượng ấy mang sắc thái riêng. Đó là sắc thái tài tử
phong lưu, đa tình, đa phong cách nhưng tựu chung lại nhất vẫn là tình cảm tự
nhiên, chân thực như khởi phát ra từ đáy lòng.
Tóm lại, với phong cách sử dụng từ ngữ dễ hiểu, giàu hình ảnh, giàu nhạc
điệu, không cầu kỳ khó hiểu bởi những điển tích giúp truyền tải tình cảm, cảm xúc
chân thật của nhà thơ đến với độc giả. Cao Bá Quát đem đến cho thơ sự gần gũi hơn
so với các nhà thơ cùng thời với ông. Người đọc rất ấn tượng với thơ của ông từ sự
gần gũi, bình dị bởi từ ngữ và bởi sự chân thành, mộc mạc của tình cảm trong đó
nhưng lời thơ vẫn giàu chất lãng mạn. Đằng sau tất cả chính là sự tài hoa và nghệ sĩ
của tâm hồn giàu tình yêu với thiên nhiên vạn vật và con người.
3.3.2.2. Bút pháp miêu tả
Cao Bá Quát viết thơ ở nhiều đề tài khác nhau. Cảm xúc, tình cảm luôn là nét
chủ đạo chi phối các yếu tố trong sáng tác của ông. Bên cạnh đó là việc sử dụng khá
linh hoạt các bút pháp vẽ cảnh tạo nên những màu sắc tươi mới, đa dạng trong thơ
ông. Trong đó nổi bật là ba bút pháp lãng mạn, hiện thực, liên tưởng.
Thông thường với những đề tài thể hiện nỗi nhớ gia đình, tình yêu với thiên
nhiên đất nước thì ông thường sử dụng bút pháp lãng mạn. Chính điều đó tạo nên
bức tranh đẹp bởi cảnh vật và chân bởi tình tự nhiên. Bút pháp ấy có hiệu quả thẩm
mỹ một phần do ông sử dụng những biện pháp so sánh, nhân hóa. Tiêu biểu là hình
ảnh của Cao Bá Quát xuất hiện trong thơ với nhiều dáng vẻ qua đôi mắt lãng mạn
của chính ông. Khi thì ông cảm nhận mình là “giữa đất trời nhốt một anh tù làm
thơ” (Độc dạ cảm hoài), có lúc ông lại nhìn ra hình ảnh “con chim có sức bay cao
mà lại bị nhốt trong lồng” (Tức sự). Đang ở tù, nhà thơ tưởng tượng cảnh mình
được chắp cánh bay lên tận tầng mây rồi ông khoa tay từ từ sa xuống với ngọn gió
nồm, ông huýt hồi sáo dài, nâng chén rượu lên để hỏi trời nhưng “trời cao không thể
hỏi được” (Lục nguyệt thập ngũ dạ, nguyệt hạ, tác phụng cố chi cố nhân).
Bút pháp lãng mạn giàu cảm xúc khiến ông tưởng tượng nên cảnh ông trò
chuyện với trăng như với người bạn tri ân, ông mời trăng cùng uống rượu, và những
lúc buồn thì “nhìn trăng cả hai đều không nói” (Thu dạ độc tọa tức sự). Hơn thế
nữa, sự lãng mạn của tâm hồn và cảm xúc giúp ông đến, tâm sự với sông, với nước,
hoa... Trong con mắt tình tứ của ông, hồ Tây đẹp như nàng Tây Thi thủa trước “Vẻ
88
mày nở nang là khi lớp sóng mới lặng - Dây lưng uốn éo là lúc ngọn cỏ đương
xanh” (Du Tây Hồ bát nguyệt). Con sông Hương lại giống như lưỡi kiếm dựng giữa
trời xanh (Hiểu quá Hương giang), còn núi Tản thì cao chót vót “mây giáp đến tận
trời, các chòm sao có thể hái được”. Thậm chí vào thời điểm nửa đêm ngồi hóng
mát ông cũng thấy “Trời xanh bên ghế dựa. Sao thấp lẫn vào rèm. Đầu sóng ghè
trăng vỡ. Bụng buồm chứa gió lên”…
Nhìn chung phong cách lãng mạn của ông thích hợp với những vần thơ giàu
tình cảm và phong phú cảm xúc. Đó thường là khi nhà thơ được mở rộng tâm hồn ra
thế giới bên ngoài để cùng cảm nhận, chan hòa và lời thơ phát ra. Tuy nhiên, với
những bài thơ miêu tả cảnh cùng cực của con người hoặc một số bài thơ viết về quê
hương của chính ông thì ông thường sử dụng bút pháp hiện thực. Đứng trước nỗi
đau khổ của con người và những bất công, ngang trái trong xã hội thì không thể
lãng mạn hóa khung cảnh đó được, nhất là với nhà thơ nặng tình đời, tình người như
Cao Bá Quát. Những bài thơ này ông không sử dụng lối hư cấu có tính chất phóng
đại, không dùng những ẩn dụ, hoán dụ mà thay vào đó là những chi tiết tả thực.
Những bài thơ viết về con người đau khổ, ông thường để nhân vật tự thuật, tự nói
lên cảnh ngộ của chính họ. Điều đó giúp tăng tính khách quan của sự việc. Những
bài thơ tiêu biểu cho phong cách này như: Đạo phùng ngã phu, Phụ tương tử, Phúc
lâm lão... Trong những bài thơ trực tiếp viết về quê hương, nhà thơ thường miêu tả
khá tỉ mỉ, chi tiết. Hình ảnh làng Phú Thị hiện lên trong thơ ông từ xa với hình ảnh
của cây gạo cao cao, “gốc già mà ngọn thanh đẹp”, rồi đến hình ảnh của điếm Cây
Gạo, hồ Ngựa Trời, và đến gần hơn là những xóm chợ, con đường làng, cái cổng
tre, lũ tre hàng xóm thì thụp nhìn trộm khi nhà hàng xóm có khách lạ... Tất cả cứ
hiện lên thật chân thực, dung dị như đời thường vây.
Thơ Cao Bá Quát bao giờ cũng xem cảnh là hiện thực khách quan, là đối
tượng của cảm xúc, là cơ sở để nói lên tư tưởng, tình cảm. Vì thế cảnh và tình
thường hòa vào nhau chặt chẽ trong thơ. Để tạo được cảnh ông sử sụng bút pháp tả
thực, để nói được tình ông thường sử dụng những yếu tố lãng mạn, trữ tình trên cơ
sở của sự tả thực đó. Thơ ông do đó luôn có sự thống nhất giữa khách quan và tâm
hồn. Ta có thể bắt gặp nhiều bài thơ có sự kết hợp tinh tế của hai bút pháp này. Ví
như bài thơ Trần Ngộ Hiên nhục hữu sở thị, tẩu bút họa chi, thuyền lướt trong cảnh
89
xuân là cảnh thực, ước mơ có cây bút vẽ khéo là lãng mạn, cả hai nét vẽ tả thực và
lãng mạn đó cho thấy một tâm hồn tự do, khoan khoái giữa biển xuân đẹp đẽ. Cảnh
và tình đều đẹp!
Bên cạnh đó Cao Bá Quát thường sử dụng bút pháp liên tưởng. Nó đóng vai
trò quan trọng trong việc diễn đạt tư tưởng, tình cảm của tác giả. Trong thơ của
mình ông thường sử dụng bút pháp liên tưởng tương đồng, tức là sự liên tưởng mà ở
đó các cảm xúc nối tiếp nhau có cùng tính chất, cảm xúc trước là khởi nguồn, cảm
xúc sau là sự lắng đọng, giữa những cảm xúc này có sự liên hệ khiến cho tình cảm
càng thêm sâu sắc. Bài thơ Phó nam cung, xuất giao môn biệt chư đệ tử là bài thơ
có sự nối mạch của hai xúc cảm theo cách nói trên. Ở đây, cảnh biệt ly trước mắt
gợi nhớ đến cảnh biệt ly những năm trước, rồi lại quay lại cảnh biệt ly hiện tại, làm
cho tình cảm thêm xốn xang, bịn rịn. Cũng có khi là sự liên tưởng có tính tương
phản. Bài thơ Dương phụ hành là ví dụ. Đối lập với khung cảnh cặp vợ chồng hạnh
phúc là nhà thơ cô đơn, xa gia đình, xa người vợ thân yêu, phảng phất trong đó sự
chạnh lòng có phần tủi thân cùng niềm ao ước hạnh phúc sum vầy.
Nhìn chung chúng ta có thể tìm thấy những bài thơ được viết theo hình thức đó
là khá nhiều. Hình thức này tạo cho bài thơ phát triển theo quy luật diễn biến của tư
tưởng, tình cảm. Khi nhà thơ chứng kiến cảnh huống nào đó gợi cảm xúc cho nhà
thơ liên tưởng hay đưa ra tổng quát mang tính cá nhân bởi nó được xuất phát từ
trong chính con người tác giả, từ thế giới nội tâm và những kinh nghiệm thực tế đã
tích lũy được. Nó tạo cho bài thơ nhịp điệu lên bổng xuống trầm theo dòng cảm xúc
của tác giả, giúp khẳng định thế giới tâm hồn phong phú, cảm xúc chân thực.
Qua việc tìm hiểu thơ chữ Hán Cao Bá Quát cho chúng ta thấy thơ ca luôn gắn
liền với cuộc đời, với quan niệm văn chương của ông. Ông viết thơ như để giải tỏa
và bộc bạch những cảm xúc tâm trạng chân thực của mình trước thiên nhiên, con
người và trước cuộc đời. Đọc thơ ông người đọc cảm nhận được tâm hồn luôn muốn
chan hòa vào thiên nhiên và cuộc sống để yêu thương, chia sẻ và an ủi với chính
bản thân. Khi sáng tác thơ, Cao Bá Quát luôn coi trọng tình cảm chân thực, tự nhiên
của mình, coi trọng sự thể hiện con người cá tính trong thơ. Vì vậy qua thơ ông thấy
được sức sống mới, hơi thở mới đầy cá tính sáng tạo độc đáo, chân thực, mang đậm
90
dấu ấn riêng.
So sánh mở rộng: Để thấy rõ hơn đặc điểm của thơ Cao Bá Quát về nội dung
và nghệ thuật chúng tôi lập bảng so sánh. Trên cơ sở số lượng thơ chữ Hán đã được
tập hợp của các tác giả như: Nguyễn Trãi trong Nguyễn Trãi toàn tập (tập 1),
Nguyễn Du trong Toàn tập Nguyễn Du (tập 1), Cao Bá Quát trong Cao Bá Quát
toàn tập (tập 1), Nguyễn Khuyến trong Thơ văn Nguyễn Khuyến, chúng tôi tiến
hành khảo sát trên phương diện nội dung và nghệ thuật (quy ra tỷ lệ %) giúp đưa ra
cái nhìn toàn diện hơn về thơ Cao Bá Quát.
Đơn vị: %
Nội Dung Nghệ thuật Tác giả
Thể đường Thể ca, Hình thức Về vợ con, Về người Về người luật (cận hành, cổ tịch thượng Tổng số gia đình phụ nữ ăn xin thể) phong tác,tẩu bút...
Nguyễn Trãi 0 0 0 97,9 2,1 0 (99 bài)
Cao Bá Quát
Nguyễn Du 2,1 2,5 0,4 91.6 8.4 0.4 (238 bài)
5,5 2,2 1.2 81.6 18.4 6 (418 bài)
Nguyễn
4,8 0,6 0,6 86,7 13,3 0.6 Khuyến
(166 bài)
Để có những số liệu cụ thể chúng tôi căn cứ trên một số tiêu chí, tuy nhiên
trong quá trình thực hiện chúng tôi gặp phải không ít khó khăn, phức tạp. Hơn nữa
việc lập bảng trên cơ sở tổng hợp số lượng thơ chữ hán của bốn tác giả là rất lớn
trong khuôn khổ thời gian có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Dẫu vậy
chúng tôi cố gắng khảo sát toàn diện trên hai phương diện nội dung và hình thức để
91
làm nổi bật một số đặc điểm thơ Cao Bá Quát.
Phương diện nội dung, chúng tôi tập trung ba nội dung trong thơ chữ Hán của
bốn tác giả viết về vợ con, về người phụ nữ, về người ăn xin có mở rộng tới thân
phận bất hạnh, cùng cực trong xã hội. Nhìn tổng quát có thể nhận thấy số lượng thơ
mà bốn tác giả viết về ba nội dung trên là không lớn trong tổng số thơ chữ Hán của
họ, nhưng chúng là những tác phẩm có giá trị quan trọng trong việc đưa văn chương
của họ nói riêng, văn học nói chung đến gần với đời sống, với giá trị văn chương
đích thực trong việc đề cao con người trần thế, con người bản thể và phản ánh chân
thật đời sống của bao lớp người trong xã hội. Văn học của những giai đoạn trước
hầu như vắng bóng hình ảnh của con người đời thường với tâm tư tình cảm, những
cảnh đời thực mà chỉ thấy bóng dáng của con người thánh nhân, bậc quân tử mang
trong mình lý tưởng nhân cách, lý tưởng xã hội. Tính chính thống ngự trị lâu dài
trong văn học hướng văn học rời xa vấn đề con người bản thể, những giá trị xã hội
không coi trọng khiến cho văn học thiếu đi giá trị nghệ thuật. Điều đó lý giải tại sao
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi không xuất hiện thơ về ba nội dung trên.
Nguyễn Trãi sống ở thời kỳ thịnh trị của Nho giáo trong lịch sử xã hội phong kiến
Việt Nam, lại trong vai trò của một nhà nho hành đạo điển hình thì tư tưởng, hành
động và cả trong thơ của ông, điều quan trọng nhất là trí quân trạch dân, tải đạo
ngôn chí, hướng về con người cộng đồng, hầu như không thấy sự xuất hiện của con
người “nhân bản”.
Với ba tác giả Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, tỷ lệ thơ viết về vợ
con, gia đình của Cao Bá Quát cao hơn so với hai tác giả còn lại. Xét về nội dung cụ
thể dễ dàng phân biệt nội dung thơ của Cao Bá Quát với nội dung thơ của Nguyễn
Du, Nguyễn Khuyến trong việc coi tình cảm chân thật, tự nhiên, nhiều khi bản năng
luôn là gốc khi ông thể hiện con người trong thơ. Tình thương yêu chân thành, nỗi
nhớ nhung da diết luôn là những tình cảm thể hiện rõ ràng, sâu sắc và cảm động
nhất (điều này chúng tôi đã phân tích ở phần trên). Thơ chữ Hán Nguyễn Du thường
được mọi người chú ý bởi những bài thơ viết về người phụ nữ - kiếp hồng nhan bạc
mệnh, người tài hoa mà bất hạnh. Cao Bá Quát cũng có những vần thơ viết về phụ
nữ rất cảm động. Chúng tôi đã đề cập trong phần quan niệm văn chương, Lê Quý
92
Đôn là tác giả nói về chủ thể sáng tạo là những bình dị như người điền phu, người
phụ nữ với nỗi niềm chốn phòng khuê. Trong thực tiễn văn học thời kỳ này chứng
kiến sự phát triển của dòng văn chương hướng đến con người riêng tư, con người cá
nhân với thân phận, cảnh ngộ và tâm tư, tình cảm của chính họ hơn là con người
của cộng đồng. Những con người bất hạnh, đau khổ không chỉ người dân nói chung
mà cả nghệ sĩ, thi nhân, nhà nho không thành đạt, thậm chí cả người phụ nữ. Mệnh
đề “người cùng thì thơ hay” xuất phát từ chủ thể sáng tạo nhưng nó cũng được
chứng minh qua sáng tác mà đối tượng không phải con người xã hội mà là con
người của đời sống thực với tình cảm hết sức đời thường. Trong khuynh hướng này,
các nhà thơ như Nguyễn Du, Cao Bá Quát đặc biệt chú ý đến người phụ nữ, những
con người yếu đuối và chịu nhiều bất hạnh nhất trong xã hội. Các tác giả không chỉ
gửi gắm tâm trạng của mình qua hình tượng nhân vật mà còn thể hiện niềm cảm
thông sâu sắc với kiếp người bất hạnh tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm
của họ. Thơ Nguyễn Du và Cao Bá Quát dẫu số lượng thơ viết về nội dung đó
không lớn nhưng có ý nghĩa quan trọng góp phần đưa văn học hướng đến những giá
trị văn chương đích thực vì con người và cảm thông con người. Trong sáng tác của
Nguyễn Trãi trước đó và thậm chí trong sáng tác của một số tác giả trước thế kỷ
XVII hầu như không xuất hiện nội dung này. Về cơ bản thì văn chương của họ
thuần túy là “ngôn chí”. Tác giả Nguyễn Khuyến sinh trưởng muộn hơn với Cao Bá
Quát lúc triều đình nhà Nguyễn lần lượt thất bại trước sự xâm lược của thực dân
Pháp. Thời kỳ ấy những vấn đề, nội dung thuộc về con người cá nhân trong văn
chương mờ đi thay vào đó là những vấn đề thời sự liên quan đến vận mệnh đất nước
và nhân dân trước nạn ngoại xâm. Vì vậy thơ ông viết về người phụ nữ, người ăn
xin hay những con người bất hạnh trong xã hội là rất ít, và ngôn ngữ thơ nhiều khi
mang tính châm biếm nhiều hơn giọng cảm thương.
Trên phương diện nghệ thuật, qua bảng số liệu cho thấy Cao Bá Quát là người
có số lượng thơ viết theo thể ca, hành cổ phong cao nhất (18,4%), sau đó là Nguyễn
Du. Lê Quý Đôn có nhận xét như sau: “thơ tứ ngôn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn,
ca, hành, nhạc phủ của các đời Hán, Ngụy, Tề, Lương gọi là cổ thể. Thơ ngũ ngôn,
thất ngôn luật, thất ngôn tứ tuyệt từ đời Đường đến nay gọi là cận thể. Cổ thể chú
93
trọng trôi chảy, sinh động, luật chú trọng đối ngẫu; cổ quý cao siêu, khoáng đạt, cận
quý thanh nhã, diễm lệ; kết cấu và phong cách (của hai loại đó) khác hẳn nhau.
Người xưa nói: luật có thể xen cổ chứ cổ không thể xen luật được” [23, tr.86]. Sách
Từ điển thuật ngữ văn học (2013) chỉ ra một số đặc điểm riêng biệt của thơ cổ - cận
thể. Thơ cổ thể không bị niệm luật, vần, số chữ, số câu trong bài gò bó nên có được
màu sắc tự do, phóng khoáng, có khả năng miêu tả phong phú. Trong khi đó thơ cận
thể tuân theo sự quy định chặt chẽ bằng trắc trong từng câu và từng bài và nhiều
quy tắc về đối, gieo vần... Giữa cổ thể, cận thể có những điểm khác biệt mà khác
biệt lớn nhất giữa chúng ở chỗ thơ làm theo cận thể thì chặt chẽ, hạn định người viết
theo khuôn mẫu định sẵn, hạn chế những sáng tạo cả nội dung và hình thức. Thơ
cận thể tự do hơn về niêm luật, câu chữ… nên thể hiện tốt hơn những biểu hiện cảm
xúc và nội dung phong phú. Thơ Cao Bá Quát chú trọng đến tình cảm, cảm xúc và
coi đó là yếu tố quan trọng vì vậy mà trong sáng tác ông sử dụng nhiều thơ theo
hình thức ca, hành cổ phong bởi nó giúp nhà thơ tự do hơn trong việc thể hiện cảm
xúc của mình. Thêm vào đó, ông là tác giả sử dụng khá nhiều và thành công các bài
thơ được viết theo hình thức tịch thượng tác, tẩu bút, túng bút, hý bút - những hình
thức ứng tác ngay trên chiếu văn giúp thể hiện tối đa nhất những tình cảm nảy sinh
tức thì. Đây có thể coi là hình thức thơ thể hiện rõ cá tính riêng của Cao Bá Quát.
Ông quan niệm về tính linh đề cao sự chân thực của tình cảm, mối quan hệ thống
nhất giữa con người đời thực và con người trong thơ. Bên cạnh đó ông đòi hỏi
những hình thức diễn đạt của riêng mình, phù hợp với cảm xúc của mình mà các
sáng tác theo hình thức tịch thượng tác, tẩu bút, túng bút trên phát huy hiệu quả cảm
xúc chân thành, tự nhiên trong thơ. Đó là sự thống nhất giữa quan niệm văn học và
thực tiễn sáng tác của ông. Có được những đặc điểm như vậy trong thơ của Cao Bá
Quát một phần là do tiếp thu những bên ngoài nhưng cũng là kết quả của cá tính
94
sáng tạo, bản tính yêu thích tự do, phóng túng của chính ông.
KẾT LUẬN
Trong lịch sử văn hóa, văn học Việt Nam, Cao Bá Quát là nhân vật nổi tiếng
về nhân cách và tài năng cùng nhiều nét độc đáo trong sáng tạo văn chương. Luận
văn góp phần xác lập quan niệm văn học của Cao Bá Quát mà hạt nhân là thuyết
tính linh trên cơ sở tìm hiểu bối cảnh văn hóa, văn học cũng như bước đầu tìm hiểu
nguồn gốc ra đời và quá trình phát triển của thuyết tính linh, sự ảnh hưởng của
thuyết tính linh tới lý luận văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa
đầu thế kỷ XIX. Có thể thấy rằng Cao Bá Quát là nhà thơ có tư tưởng tiến bộ, tiếp
thu văn hóa văn học Trung hoa rộng lớn để tạo nên quan niệm văn chương cùng sự
nghiệp thơ ca độc đáo như vậy. Ông là con người cá tính, phóng túng, yêu thích tự
do và sẵn sàng đón nhận những điều mới mẻ. Ông không chỉ mạnh mẽ phê phán
văn chương đương thời, nhất là lối văn chương của hoàng phái nhà Nguyễn mà
mạnh mẽ khẳng định và thể hiện thống nhất quan niệm của ông. Những quan niệm
này có ý nghĩa tích cực, mới mẻ trong bối cảnh đương thời.
Khảo sát thơ ca chữ Hán của Cao Bá Quát (đề tài, thể thơ và ngôn ngữ) và đặt
những sáng tác ấy trong mối quan hệ với quan niệm sáng tác văn học ta thấy nét đặc
trưng trong thơ ông là sự chân thật của tình cảm, cảm xúc, cùng dấu ấn sáng tạo
mang màu sắc cá nhân rất rõ. Một mặt ảnh hưởng từ thuyết tính linh của Viên Mai
nhưng mặt khác ông đưa ra những quan điểm mang màu sắc cá nhân để viết nên
những vần thơ chân thực, tự nhiên nhất về cuộc đời, về số phận cùng tất cả những
tình cảm, cảm xúc của con người bản thể. Thơ ca của ông tiêu biểu cho quan niệm
đề cao chữ tình và khẳng định nhu cầu sống tự nhiên của con người. Qua việc tìm
hiểu sự nghiệp thơ ca chữ Hán cho thấy sự thống nhất và tiếp nối giữa quan niệm
văn học và thực tiễn sáng tác thơ ca trên cả phương diện đề tài, thể thơ và ngôn ngữ
của nhà thơ giàu cá tính này.
So với các nhà thơ khác trong nền văn học (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn
Khuyến, Tú Xương) thì thơ của Cao Bá Quát trải rộng trên nhiều đề tài. Bên cạnh
những đề tài gắn với những tình cảm truyền thống thì ông khai thác thơ trên nhiều
95
đề tài gắn với cảm xúc mới. Kết hợp những nội dung về sự chân thành, tự nhiên của
tình cảm và cảm xúc là những hình thức thơ phù hợp để phát huy tối đa tình cảm
chân thật như chính cá tính con người mà ông muốn truyền tải. Đây nét riêng hình
thành phong cách thơ độc đáo của nhà nho tài tử này mà khi nói đến sự nghiệp thơ
ca của ông không thể bỏ qua.
Cuộc đời nhà thơ Cao Bá Quát gắn nhiều với chữ đa cùng. Dẫu có đa cùng
nhưng tâm hồn ông vẫn luôn rộng mở để yêu quê hương đất nước, yêu thương con
người, những thân phận bất hạnh trong xã hội. Trong tính cách, phẩm chất con
người Cao Bá Quát là tinh thần phản kháng. Ông phản kháng lại một xã hội phong
kiến chuyên chế, mong muốn được thể hiện khát vọng sống với tài năng của mình
và xây dựng được một xã hội tốt đẹp. Ông không ngần ngại thể hiện chân thực
những tình cảm, tâm tư hay ước mong về con người và cuộc đời trong thơ. Đó là sự
hòa hợp giữa con người cuộc đời và con người trong thơ. Vì thế thơ nói riêng, sự
nghiệp sáng tác của ông nói chung gần gũi, bình dị nhưng sâu sắc và cảm động.
Trên phương diện văn học (gồm quan niệm văn chương và thực tiễn sáng tác) Cao
Bá Quát cùng với tên tuổi của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương,
Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều... tạo nên thời kỳ văn học phát
triển rực rỡ với nhiều thành tựu, đóng góp những tiền đề cho sự phát triển của nền
96
văn học nước nhà giai đoạn tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tôn Thất Bình (2011), Kể chuyện các vua Nguyễn, Nxb Văn hóa –Thông tin.
2. Nguyễn Tài Cẩn (1998), Tìm hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn trong bài Vũ
Trung Sơn Thủy của Thiệu trị, Nxb Thuận Hóa.
3. Giản Chi, Tảo Trang, Nguyễn Quảng Tuân biên dịch (2004), Cao Bá Quát -
tư liệu, bài viết từ trước đến nay, Nxb Văn học.
4. Nguyễn Huệ Chi (2013), Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hóa
đến các mã nghệ thuật, Nxb Giáo dục.
5. Xuân Diệu (1979), Thơ văn Nguyễn Khuyến, Nxb Văn học.
6. Trịnh Bá Đĩnh chủ biên (2013), Lịch sử lý luận, phê bình văn học Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
7. Lê Quý Đôn (1960), Vân đài loại ngữ, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
8. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX
đến cách mạng tháng tám (tập 1), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên (2013), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
10. Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long (Phan Ngọc dịch - 2007), Nxb Giáo dục.
11. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb
Văn hóa Thông tin.
12. Vũ Khiêu chủ biên (2010), thơ văn Cao Bá quát, Nxb Hà Nội.
13. Nguyễn Khuê (2006), Tâm trạng Tương An Quận Vương, Nxb Văn nghệ.
14. Mai Quốc Liên, Nguyễn Khuê, Nguyễn Quảng Tuân (1990), Nguyễn Trãi
toàn tập tân biên (tập 1), Nxb Văn học.
15. Nguyễn Lộc (1977), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế
kỉ XIX (tập 1), Nxb Giáo dục.
16. Nguyễn Lộc (2012), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ
XIX (tập 1), Nxb Giáo dục.
17. Phương Lựu (1989), Tinh hoa Lý Luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb
97
Giáo dục.
18. Viên Mai, Tùy viên thi thoại (Nguyễn Phúc tuyển chọn, Nguyễn Đức Vân
giới thiệu - 1999), Nxb Giáo dục.
19. Trần Thanh Mại (2000), Tuy Lý Vương (lịch sử ký sự), Nxb Thuận Hóa.
20. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Văn Long chủ biên (2010), Lịch sử văn học
Việt Nam (tập 3), Nxb Đại học Sư phạm.
21. Nguyễn Nghiệp (1982), Cao Bá Quát, Nxb Văn hóa.
22. Nguyễn Khắc Phi (1999), Thơ văn cổ Trung hoa, mảnh đất quen mà lạ, Nxb
Giáo dục.
23. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2011), Hệ thống giáo dục và khoa cử nho giáo triều
Nguyễn, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật.
24. Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn (1998), Ngô Gia Văn Phái, Nguyễn Gia Thiều,
Lý Văn Phức, Nguyễn Miên Thẩm, Ngô Thì Nhậm, Nxb Văn nghệ thành phố
Hồ Chí Minh.
25. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mạng chính yếu (tập III), Nxb
Thuận Hóa.
26. Trần Trọng San chủ biên, Đặng Đức Siêu, Bùi Thanh Ba (1997), Lý Bạch –
Bạch Cư Dị - Đỗ Phủ - Thôi Hiệu: tuyển trọn và trích dẫn những bài phê
bình – bình luận văn học của các nhà văn và các nhà nghiên cứu Việt Nam,
Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo chủ biên (2006), Cao Bá Quát về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
28. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
29. Trần Đình Sử dịch (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo dục.
30. Nguyễn Minh Tấn chủ biên (1988), Từ trong di sản, Nxb Tác phẩm mới.
31. Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc (Mai
Xuân Hải dịch - 1994), Nxb Giáo dục.
32. Trần Nho Thìn (2008), Văn học Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo
dục.
33. Trần Nho Thìn (2013), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX,
98
Nxb Giáo dục.
34. Nguyễn Tài Thư (1980), Cao Bá Quát – con người và tư tưởng, Nxb Trẻ,
KHXH Hà Nội.
35. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn (2007), Mười
thế kỷ bàn luận về văn chương, Nxb Giáo dục.
36. Phạm Quang Trung (2011), Quan niệm văn chương cổ Việt Nam từ một góc
nhìn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Trung tâm nghiên cứu quốc học (1996), Toàn tập Nguyễn Du (tập 1), Nxb
Văn học.
38. Trung tâm nghiên cứu Huế (2012), Nghiên cứu Huế (tập 8), Nxb Thuận
Hóa.
39. Nguyễn Thanh Tùng (2010), Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế
kỉ X đến hết thế kỉ XIX , Luận án tiến sĩ ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội.
40. Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình học tác giả văn học: nhà nho tài tử và
văn học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
41. Trần Ngọc Vương giới thiệu và tuyển chọn (2008), Trần Đình Hượu tuyển
tập (tập 2), Nxb Giáo dục.
42. Trần Ngọc Vương chủ biên (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX,
những vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Giáo dục.
43. Nguyễn Đắc Xuân (2012), Nghiên cứu triều Nguyễn và Huế xưa (tập 2),
Nxb Thuận Hóa- Huế.
44. Nguyễn Kim Châu (2014), Viên Mai bàn về thơ nữ trong Tùy Viên thi
thoại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 3), tr.54-64.
45. Nguyễn Huệ Chi (1961), Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao
Bá Quát, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 6), tr.21-36.
46. Nguyễn Huệ Chi (2003), Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo
trong thơ Cao Bá Quát, Tạp chí Văn học (số 8), tr.13-22.
47. Đinh Thị Minh Hằng (2010), Khuynh hướng đề cao tính chân thực và tình
cảm tự nhiên trong quan niệm văn học thế kỷ XVIII-XIX, Tạp chí Nghiên
cứu Văn học (số 1), tr.67-82.
48. Vương Vận Hy, Cố Dịch Sinh (Đoàn Lê Giang dịch, chú thích - 2003), Viên
99
Mai bàn về thơ, Tạp chí Văn học (số 4), tr.53-64.
49. Đoàn Ánh Loan (2000), Ảnh hưởng của quan niệm thẩm mỹ cổ phương
đông trong việc sử dụng điển cố, Tạp chí Văn học (số 3), tr.70-74.
50. Nguyễn Khắc Phi (1997), Viên Mai – con người, nhà lý luận phê bình, nhà
thơ, Tạp chí Văn học (số 8), tr.31-40.
51. Nguyễn Khắc Phi giới thiệu và dịch (1998), Thư gửi Nguyên Chẩn (Bạch
Cư Dị), Tạp chí Văn học (số 5), tr.71-80.
52. Trần Đình Sử (2008), Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát, Tạp
chí Nghiên cứu Văn học (số 11), tr.17-21.
53. Trần Nho Thìn (2003), Tài tình- một vấn đề văn hóa của thời đại Nguyễn
Du, Tạp chí Văn học (số 7), tr.42-54.
54. Trần Nho Thìn (2008), Chuyến đi dương trình hiệu lực năm 1884 và tư
tưởng Cao Bá Quát, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 11), tr.3-16.
55. Nguyễn Thanh Tùng (2008), Vài nét về thuyết tính linh trong tư tưởng thi
học Việt Nam thời trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (số 1), tr.108-115
56. Nguyễn Khoa Điềm, Bước đầu tìm hiểu văn học Thừa Thiên – Huế,
http://www.vanhocviet.org/tu-lieu-van-hoc-1/chuyn--trit-hc---vn-ha-hc-v-
vn-hc/-nguyn-khoa-im-bc-u-tm-hiu-vn-hc-tha-thin---hu. 1/9/2011.
57. Vĩnh Sính, Thử tìm hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá
100
Quát, http://vietsciences.free.fr/timhieu/tramhoa/thutimhieu-caobaquat.htm.