ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN HÀ NỘI ----------------------------------------------- HÀ THỊ THU HÀ So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC Hà Nội - 2008
1
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................... 3 CHƢƠNG I: HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG SỬ THI ÊĐÊ ..................................................................................................... 8 1.1. Sơ lƣợc về đặc điểm sinh hoạt xã hội và văn hoá của ngƣời Êđê ....... 8 1.2. Nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê là ngƣời tù trƣởng hùng mạnh . 11 1.3. Những đặc điểm của hình tƣợng ngƣời anh hùng của sử thi Êđê...... 13 1.3.1. Ngƣời anh hùng với nguồn gốc kỳ lạ ............................................. 13 1.3.2. Ngƣời anh hùng có hình thức đẹp đẽ và tính cách phi thƣờng ....... 15 1.3.3. Ngƣời anh hùng có tài năng vƣợt trội ............................................. 17 1.3.4. Hình tƣợng ngƣời anh hùng trong mối quan hệ với cộng đồng: .... 19 1.3.5. Cái kết của tác phẩm sử thi và số phận của ngƣời tù trƣởng anh hùng:.......................................................................................................... 25 1.4. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng ngƣời anh hùng của sử thi Êđê ..... 27 1. 4.1. Xây dựng nhân vật anh hùng trong sự đối lập với kẻ xấu ............. 28 1.4.2. Nghệ thuật so sánh tạo nên những hình ảnh độc đáo, thú vị : ........ 30 1.4. 3. Ngôn ngữ khoa trƣơng, phóng đại, mang tính kịch nâng tầm vóc của ngƣời anh hùng trở nên phi thƣờng: ................................................... 32 1.4.4. Công thức tả- kể mang tính chất lặp đi lặp lại: ............................... 36 CHƢƠNG II: HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT ANH HÙNG TRONG SỬ THI MNÔNG ............................................................................................ 41 2.1. Sơ lƣợc về đời sống ........................................................................... 41 2.2. Ngƣời anh hùng chiến trận trong sử thi Mnông là nhân vật trung tâm của tác phẩm ............................................................................................. 43 2.3. Hình tƣợng ngƣời anh hùng chiến trận trong các tác phẩm sử thi Mnông ....................................................................................................... 46 2.3.1. Nguồn gốc của những ngƣời anh hùng chiến trận .......................... 46 2.3.2. Vẻ đẹp và tài năng xuất chúng của những ngƣời anh hùng chiến trận trong sử thi Mnông ............................................................................ 47 2.3.3. Nhân vật anh hùng chiến trận trong những mối quan hệ với cộng đồng xã hội ................................................................................................ 49 2.3. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật anh hùng của sử thi Mnông ................................................................................................................... 59 2.3.1. Những nhân vật đối lập trong các cuộc giao tranh đều là những ngƣời anh hùng ......................................................................................... 59 2.3.2. Nghệ thuật so sánh và ngôn ngữ khoa trƣơng làm nổi lên vẻ đẹp của ngƣời anh hùng ................................................................................... 61 2.3. 4. Ý nghĩa của sự xuất hiện các yếu tố trùng lặp ............................... 65 CHƢƠNG III: SO SÁNH HÌNH TƢỢNG NGƢỜI ANH HÙNG TRONG SỬ THI ÊĐÊ VÀ SỬ THI MNÔNG ........................................................ 69
2
3.1. Những điểm tƣơng đồng của hình tƣợng ngƣời anh hùng trong sử thi hai dân tộc Êđê và Mnông ........................................................................ 69 3.2. Những điểm khác nhau của hai hình tƣợng anh hùng ....................... 70 3.3. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng ngƣời anh hùng trong sử thi Êđê đạt tới độ hoàn thiện hơn sử thi Mnông .......................................................... 75 3.4. Nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt giữa hai hình tƣợng nghệ thuật .................................................................................................. 79 3.4.1. Sự tƣơng đồng về bối cảnh xã hội và văn hoá của hai tộc ngƣời Êđê và Mnông .................................................................................................. 79 3.4.2. Sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử và trình độ phát triển văn hoá của hai cộng đồng Êđê và Mnông ................................................................... 82 KẾT LUẬN ............................................................................................... 87
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vùng văn hóa Tây Nguyên hấp dẫn biết bao nhà nghiên cứu bởi
những điều mới lạ, độc đáo. Trong các di sản văn hoá còn tồn tại đến
ngày nay, không thể không nhắc tới kho tàng sử thi dân gian của đồng
bào nơi đây, với tƣ cách nhƣ một thể loại văn học xuất hiện từ rất sớm.
Với quy mô lớn hơn bất cứ một thể loại văn học nào khác cùng thời,
sử thi có điều kiện phản ánh một hiện thực rộng lớn của đời sống xã
hội. Qua đó, chúng ta hiểu đƣợc một cách chân thực nhất, rõ ràng nhất
về lịch sử, xã hội và đời sống tinh thần của mỗi cộng đồng.
Muốn tìm hiểu sâu hơn về nền văn hoá của các đồng bào dân
tộc Tây Nguyên, chúng tôi con đƣờng tìm hiểu qua kho tàng văn học
dân gian, trong đó sử thi là một trong những thể loại quan trọng nhất.
Thông qua hình tƣợng ngƣời anh hùng thể hiện trong sử thi, nơi tập
trung cao nhất những khát vọng, ƣớc mơ của cộng đồng, chúng ta hiểu
thêm về đời sống tâm hồn, những sinh hoạt văn hoá, xã hội của con
ngƣời nơi đây. Đồng thời, trong mối tƣơng quan so sánh, đối chiếu,
chúng ta cũng tìm thấy nhiều nét đặc sắc văn hoá của mỗi tộc ngƣời.
Những nét đặc sắc đó làm cho bức tranh văn hoá của cộng ngƣời Tây
Nguyên trở nên sinh động, đa dạng hơn rất nhiều.
Sẽ là quá tham vọng nếu chỉ với khuôn khổ một luận văn để tìm
hiểu toàn bộ các vấn đề của hai tộc ngƣời này. Song với việc chọn đề
tài "So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi Ê Đê và sử thi
Mnông" chúng tôi hy vọng sẽ thu nhận đƣợc thêm nhiều tri thức về
vùng văn hoá Tây Nguyên, một vùng văn hoá, không hẳn quá mới,
song còn có nhiều điều lý thú đang chờ đợi chúng ta khám phá.
3
2. Giới thuyết khái niệm sử thi
Từ năm 1980 trở về trƣớc, do chƣa có điều kiện nghiên cứu nên
ngƣời ta thƣờng dùng một khái niệm trƣờng ca để chỉ những tác phẩm dài
ca ngợi cuộc đời vẻ vang lừng lẫy của những dũng sĩ nhƣ Iliat và Ođixê,
hay ở Việt Nam là Đam Săn.
Theo Từ điển văn hoá dân gian (Vũ Ngọc Khánh, NXB Văn hoá
thông tin, 2002): “ Anh hùng ca là tác phẩm tự sự ca ngợi sự nghiệp anh
hùng của dân tộc trong buổi bình minh lịch sử, nhân vật chính là các anh
hùng, tráng sĩ, cốt truyện là các biến cố phi thường chủ yếu là những
chiến công.
Cũng theo Từ điển văn hoá dân gian, khái niệm Sử thi cũng đƣợc
hiểu trong nghĩa tƣơng đồng với anh hùng ca. Sử thi theo đó là những tác
phẩm: Ca ngợi sự nghiệp anh hùng có tính chất toàn dân của một cộng
đồng trong buổi bình minh lịch sử. Sử thi miêu tả những anh hùng tráng
sĩ có chiến công lừng lẫy và có vẻ đẹp kỳ diệu, khác thường được miêu tả
với những màu sắc thần kỳ và thiên về hành động
Theo nguồn tƣ liệu từ Website Wikipedia, khái niệm Sử thi đƣợc
hiểu nhƣ sau: Đây là một thể loại tự sự dân gian về thời kỳ lịch sử khi
loài người bước vào xã hội văn minh, kể về những kỳ tích, sự nghiệp anh
hùng có tầm vóc lớn. Sử thi là những sáng tác tự sự có qui mô tương đối
lớn, bằng văn vần hay thứ văn xuôi giàu chất thơ. Nội dung bao quát cả
đời sống toàn dân trong suốt một thời kỳ lịch sử dài mà trung tâm là
những sự kiện có ý nghĩa trọng đại trong đời sống cộng đồng.
Các nhà nghiên cứu sử thi trong và ngoài nƣớc đều nhất trí chia thể
loại sử thi thành hai loại: sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại (hay còn gọi là sử
thi cổ điển).
Sử thi cổ sơ đƣợc hình thành trong điều kiện xã hội có sự đồng hoá
và thâm nhập lẫn nhau giữa các bộ lạc tạo thành liên minh bộ lạc.
Sử thi cổ đại đƣợc hình thành trên cơ sở ”quá trình kết hợp các liên
4
minh bộ lạc để trở thành một quốc gia cổ đại”.
Nếu đem xem xét và áp dụng cho sử thi của hai dân tộc Êđê và dân
tộc Mnông, chúng ta sẽ nhận thấy cả hai pho sử thi này đều thuộc loại sử
thi cổ sơ. Điểm tƣơng đồng lớn nhất của chúng đó chính là sự tƣơng đồng
về mặt thể loại. Tất cả những tác phẩm sử thi của cả hai tộc ngƣời này
đều hình thành trong giai đoạn xã hội đang có sự thâm nhập giữa các bộ
lạc với nhau. Tình trạng giao tranh giữa các bộ lạc xảy ra thƣờng xuyên
và chúng đã đƣợc phản ánh rất nhiều thông qua các tác phẩm.
Ngoài ra còn rất nhiều nguồn tƣ liệu đánh giá về thể loại sử thi.
Tuy vậy, tựu trung lại sử thi đƣợc hiểu một cách ngắn gọn nhất đó là một
thể loại tự sự dân gian, kể về những ngƣời anh hùng có công khai sáng,
mang một tầm vóc lớn lao. Một đặc điểm nữa của sử thi đó là quy mô
tƣơng đối lớn với nội dung bao quát một thời kỳ lịch sử.
3. Lịch sử vấn đề
Chỉ tính riêng trong nƣớc ta, việc nghiên cứu sử thi đã đƣợc bắt
đầu từ cách đây khá nhiều năm qua những công trình có giá trị tiêu
biểu nhƣ:
- Luận án PTS “ Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc
Tây Nguyên” (1981)- Võ Quang Nhơn
- Phần “ Sử thi anh hùng”- Võ Quang Nhơn ( trong cuốn “ Văn
học dân gian Việt Nam”- Đinh Gia Khánh chủ biên, NXBGD 2001, tái
bản)
- "Những đặc điểm cơ bản của sử thi khan ở Việt Nam”- luận án
tiến sĩ (1989)- Phan Đăng Nhật
Nghiên cứu sử thi đã và đang là có sức hấp dẫn đối với nhiều
ngƣời. Chúng tôi chọn đề tài “ So sánh hình tượng người anh hùng
trong sử thi Êđê và sử thi Mnông” với mong muốn bổ sung vào những
nghiên cứu phần so sánh về sự tƣơng đồng và khác biệt trong nội dung
5
và nghệ thuật sử thi của đồng bào Êđê và Mnông.
Gần đây nhất, dự án “Điều tra, sƣu tầm, bảo quản, biên dịch và
xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên” do Viện khoa học xã hội Việt
Nam tiến hành đã sƣu tầm và biên soạn hơn sáu trăm tác phẩm sử thi
của đồng bào Êđê, Mnông, Bana...Đó là may mắn đối với chúng tôi
khi tiến hành đề tài “So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi
Êđê và sử thi Mnông”. Trong bối cảnh nghiên cứu văn hoá dân gian ở
các dân tộc đang đƣợc chú trọng nhƣ hiện nay, mong muốn tìm hiểu,
nghiên cứu sâu thêm là điều cần thiết và hoàn toàn có cơ sở để phát
triển hơn nữa.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Với đề tài “So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi
Êđê và sử thi Mnông” chúng tôi vào khảo sát hình tƣợng ngƣời anh
hùng chiến trận đƣợc thể hiện trong các tác phẩm sử thi của hai cộng
đồng ngƣời Êđê và Mnông trong mối tƣơng quan so sánh với nhau.
Trong khuôn khổ có hạn của luận văn này, chúng tôi đã lựa chọn một
số tác phẩm tiêu biểu đã đƣợc Viện khoa học xã hội Việt Nam biên
soạn, đó là: Đam Săn, Khing Ju, Mdrong Dăm (sử thi Êđê), Lêng
nghịch đá thần của Yang, Cướp chiêng cổ bon Tiăng, (sử thi
Mnông)…Đây là những tác phẩm thể hiện một cách tập trung nhất
hình tƣợng những ngƣời anh hùng chiến trận, kết tinh khát vọng, ý chí
của cả cộng đồng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài “ So sánh hình tượng người anh hùng trong sử thi
Êđê và sử thi Mnông” chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp chủ yếu:
phƣơng pháp thống kê, phân tích văn bản và so sánh đối chiếu.
Đọc và phân tích văn bản là thao tác đầu tiên đối với bất kỳ ai
có nhu cầu tìm hiểu văn học. Đồng thời cũng qua thao tác phân tích, sẽ
6
chỉ ra đƣợc nhiều khía cạnh của vấn đề muốn tìm hiểu trong tác phẩm.
Phƣơng pháp thống kê có nhiệm vụ sơ lƣợc thống kê về mặt
ngôn từ, tần suất của các yếu tố trong nghệ thuật kể chuyện của sử thi.
Cuối cùng, phƣơng pháp so sánh đối chiếu đƣợc sử dụng để tìm
ra sự tƣơng đồng và khác biệt của hai mẫu hình ngƣời anh hùng trong
sử thi của các dân tộc Êđê và Mnông. Đồng thời phần nào lý giải đƣợc
căn nguyên của những điểm tƣơng đồng và khác biệt đó.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục tài liệu tham khảo, bản
luận văn này gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Hình tƣợng ngƣời anh hùng trong sử thi Êđê
Chƣơng 2: Hình tƣợng ngƣời anh hùng trong sử thi Mnông
Chƣơng 3: So sánh hình tƣợng nhân vật anh hùng trong sử thi
7
Êđê và sử thi Mnông
CHƢƠNG I: HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT ANH
HÙNG TRONG SỬ THI ÊĐÊ
1.1. Sơ lƣợc về đặc điểm sinh hoạt xã hội và văn hoá của ngƣời
Êđê
Êđê là cộng đồng có gần 195.000 ngƣời có địa bàn cƣ trú tƣơng
đối tập trung ở tỉnh Đắc Lắc và miền tây hai tỉnh Khánh Hoà, Phú Yên.
Ngoài ra, còn có các nhóm địa phƣơng nhƣ Kpa, Adham, Bih, Ktul…với
những tên gọi khác nhƣ Rađê, Đê, Kpa, Ktul…
Ngƣời Êđê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bih làm ruộng nƣớc theo
lối cổ xƣa có trâu dẫm đất thay cho việc cày xới. Ngƣời Êđê không đi vào
cải tiến những công cụ làm rẫy mà tập trung vào thay đổi các khâu canh
tác để giữ gìn cải tạo đất nhƣ luân canh, xen canh…. Khai thác những
đặc điểm khác biệt của tiểu khí hậu chẳng hạn nhƣ khi phơi rẫy thì gặp
nắng, trỉa lúa thì có mƣa…Ngƣời dân Êđê có rất nhiều hiểu biết về những
biến đổi thời tiết hàng năm, về đất đai, cây cỏ, muông thú. Mặc dù đó mới
chỉ là những tri thức ở dạng kinh nghiệm dân gian.
Mặt khác, ở trình độ phát triển tƣ duy của mình, ngƣời Êđê vẫn
quan niệm rằng những thành bại của nghề nƣơng rẫy là do thần linh, hồn
lúa. Vì vậy, song song với việc canh tác nƣơng rẫy, ngƣời Êđê còn tiến
hành các lễ nghi nông nghiệp, tìm sự trợ giúp của thần linh với ƣớc mong
về mùa màng bội thu sung túc.
Canh tác nƣơng rẫy theo kiểu luân canh đã hình thành cho ngƣời
Êđê một thói quen di chuyển thƣờng xuyên. Cũng nhƣ những dân tộc làm
nƣơng rẫy khác, từ xa xƣa ngƣời Êđê cƣ trú nửa năm ở ngoài nƣơng, nửa
năm ở trong buôn. Đến khi có thiên tai, đất đai khan hiếm, ngƣời Êđê còn
di chuyển cả buôn làng đến một nơi ở mới. Tại đây họ chặt phá cây làm
nhà, đốt rừng làm nƣơng. Chính lối canh tác đó đã khiến cho đồng bào
8
Êđê một tập quán sinh hoạt du canh du cƣ, tự do, tạm bợ, tùy tiện.
Ngoài trồng trọt, ngƣời Êđê còn làm những việc nhƣ săn bắt, hái
lƣợm, đánh cá, dệt... Sống giữa thiên nhiên, núi rừng hoang dã, ngƣời Êđê
từ xa xƣa có nghề săn bắn, thuần phục voi. Ngoài ra họ hái lƣợm, săn bắt
những thứ rau quả, măng nấm, cá tôm, một số côn trùng ăn đƣợc…Ngoài
nhu cầu sinh nhai, đó còn là cách để họ quay về với thế giới thiên nhiên
thân thuộc của mình.
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế của xã hội, ngƣời Êđê
cũng có những thay đổi trong đời sống lao động của mình đó là việc mở
rộng những ngành nghề mới. Trồng cà phê hiện đƣợc coi là một nghề
quan trọng của đồng bào Êđê.
Trong số những dân tộc thiểu số ở nƣớc ta, Êđê là dân tộc có đời
sống tinh thần phong phú. Trong sinh hoạt của ngƣời Êđê vẫn bảo lƣu tàn
dƣ của xã hội tiền giai cấp: lấy buôn làng làm đơn vị tổ chức xã hội nhỏ
nhất. Đứng đầu buôn là Khoa pin Ea, ngƣời chủ bến nƣớc cũng là chủ
buôn. Tuy vậy cùng với sự phát triển của xã hội, quyền lực của các Khoa
ngày càng giảm, thƣờng chỉ cúng bến nƣớc và tiến hành một số nghi thức
tâm linh khác.
Hợp thành buôn là các gia đình, đại gia đình theo chế độ mẫu hệ.
Trong xã hội Êđê truyền thống dòng họ đóng vai trò hết sức quan
trọng.Trong quan hệ kết hôn, ngƣời Êđê duy trì tập tục nối dây giữa chị
em vợ và anh em chồng(chuê nuê), khi ngƣời chồng chết, ngƣời vợ có
quyền đòi nhà chồng có một ngƣời em chồng để nối nòi. Cũng theo đó,
ngƣời vợ chết ngƣời chồng có thể đòi hỏi một ngƣời em vợ để nối nòi.
Trong xã hội Êđê truyền thống, đời sống hiện thực của con ngƣời
luôn gắn bó chặt chẽ với tín ngƣỡng, nghi lễ. Các thần linh, những lực
lƣợng chi phối đến đời sống hiện thực của con ngƣời. Con ngƣời muốn có
đƣợc sự bình yên, sản xuất và chiến đấu với các bộ lạc khác đƣợc thuận
9
lợi phải cầu xin để tìm sự che chở của các đấng siêu nhiên.
Trong sinh hoạt của xã hội Êđê, các hoạt động lễ nghi tín ngƣỡng
chiếm vị trí hết sức quan trọng. Vai trò của những thầy cúng, thầy bói
đƣợc đặc biệt đề cao. Ngoài ra, còn phải kể đến những nghệ nhân dân
gian gọi là Pôkhan (ngƣời kể Khan), Pô Mtul Ching (ngƣời sửa chiêng)…
Môi trƣờng sinh hoạt hội hè vui chơi ở các dân tộc Tây Nguyên,
hoà với lời ca tiếng hát, hầu nhƣ không thể thiếu đƣợc tiếng chiêng. Nhạc
chiêng chiếm vị trí quan trọng xứng đáng trong sinh hoạt văn hoá tinh
thần của nhân dân Tây Nguyên. Tiéng chiêng gắn với sinh hoạt cộng
đồng của buôn làng: mừng năm mới, mừng công việc làm ăn no đủ sau
một năm….Tiếng chiêng làm ngƣời ta rạo rực trƣớc cuộc sống, tự hào vì
truyền thống oanh liệt mà cha ông đã gây dựng. Tiếng chiêng gắn với
bƣớc đi trong cuộc đời mỗi con ngƣời từ lúc sinh thành cho tới khi nằm
xuống với các nghi lễ: thổi tai, bỏ mả…Tiếng chiêng bƣớc vào văn học
dân gian với những hình ảnh ví von, mỹ lệ: “Nhà Đăm săn dài như một
tiếng chiêng ngân” và trở thành một biểu tƣợng văn hoá. Có nhiều khi,
chiêng lại là nguyên nhân của các cuộc giao tranh giữa các buôn làng bởi
đó là một tài sản lớn, thể hiện sự giàu có, sang trọng. Tiếng chiêng là
niềm kiêu hãnh vì sự giàu mạnh của buôn làng. Ngƣời dân tộc xƣa kia
không lấy vàng bạc làm thƣớc đo cho sự giàu có mà ƣớc tính bằng chiêng
ché, trâu bò.
Vì còn phát triển ở trình độ tiền chữ viết, nền văn hoá của ngƣời
Êđê về cơ bản vẫn là văn hoá dân gian. Kho tàng văn hoá của đồng bào
nơi đây bao gồm khá nhiều thể loại nhƣ truyện thơ, ngụ ngôn và đặc biệt
là những tác phẩm sử thi- khan đƣợc truyền miệng từ đời này sang đời
khác nhƣ Đam Săn, Đăm Di, Xinh Nhã….Khan của ngƣời Êđê là những
tác phẩm văn học dân gian đƣợc các nhà nghiên cứu phát hiện sớm nhất
10
trong số những di sản văn hoá còn lại của đồng bào dân tộc Tây Nguyên.
1.2. Nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê là ngƣời tù trƣởng
hùng mạnh
Với chủ đề chính mô tả các cuộc chiến tranh liên miên kéo dài giữa
các buôn làng, bộ tộc, âm hƣởng chính của sử thi Êđê là âm hƣởng ngợi
ca chiến công vang dội của những ngƣời anh hùng- những ngƣời tù
trƣởng hùng mạnh giàu có. Có thể kể đến những Đăm Di, Khing Jú, Xing
Nhã…những ngƣời tù trƣởng giàu có, đẹp đẽ, là tập trung khát vọng của
cả một cộng đồng. Đặc biệt, trong đó, Đam Săn là hình mẫu tiêu biểu
nhất, kết tinh những đặc điểm, hình thức, phẩm chất của một ngƣời anh
hùng.
Ra đời trong bối cảnh xã hội đã tƣơng đối ổn đinh về mặt thiết chế
nhƣng trong lòng nó đang nảy sinh những tƣ tƣởng mới đi ngƣợc lại tập
tục cũ. Ngƣời tù trƣởng giàu mạnh là ƣớc mơ của cả một cộng đồng. Đại
diện cho một lớp ngƣời mới xuất hiện, trỗi dậy trong xã hội- không chịu
gò theo tục, khuôn khổ, những nhân vật anh hùng luôn đi ngƣợc lại
những sắp đặt của trời của buôn làng. Đối với họ chỉ có ƣớc muốn của
bản thân duy nhất một lý tƣởng, một thứ quyền lực mạnh mẽ là động cơ
cho mọi hành động, mọi sự lựa chọn. Họ không chịu bất kỳ ai, hay bất cứ
điều gì ngăn cản dù đó là ông trời. Họ tự hào vì chính sự giàu mạnh, tài
năng của bản thân. Qua hình tƣợng Đăm Săn, tác giả dân gian muốn nói
đến một sự thay đổi trong nhận thức của con ngƣời, một khát vọng đƣợc
vƣợt ra khỏi lề thói cũ, tập tục cũ.
Ngƣời tù trƣởng hùng mạnh giàu có đƣợc thể hiện qua sự trù phú,
giàu có của buôn làng. Hình dung về cảnh tƣợng ngôi làng của Đăm Săn:
“Dân làng đông như đàn hươu đàn kiến….Bến nước vòi ở dưới dát đồng,
ở trên dát vàng. Các chàng trai đi lại ngực chạm ngực, các cô gái đi lại
vú sát vú. Buôn làng to lớn giàu có, buôn phía đông, làng phía tây, không
11
có buôn làng nào bằng”
Thông thƣờng sau khi giành chiến thắng, đánh bại kẻ thù, các tù
trƣởng Êđê bắt tay vào chăm lo xây dựng buôn làng giàu có đẹp đẽ. Họ
chia đất, làm làng mới. Trong sử thi đã có nhiều đoạn khắc hoạ cảnh buôn
làng lao động sôi nổi, tƣơi vui, đạt tới mức độ sinh động: “Họ bắt con voi
đuôi ngà dài rộng, những loại voi biết kêu và ngà chạm đất. Con voi đực
họ bắc bành hoa, con voi cái thắng bành mây, con voi gái bắc bành
tra…Chàng Đăm Di gọi dân làng ra đi. Họ theo đường cong, đường
queo, dáo mác như bông lau lách cung nỏ như nhánh cây, ống tên như
trái mướp… Người đông như kiến như mối, một trăm người đi trước, một
nghìn người đi sau…”. Trên cái nền của cuộc sống lao động, ngƣời anh
hùng hiện lên với vai trò trung tâm, đẹp đẽ và gần gũi với bao thế hệ
ngƣời nghe. Tình yêu lao động, mơ ƣớc cuộc sống yên ổn, sung túc là
khát vọng chính đáng của bất cứ một dân tộc nào trên thế giới này. Khát
vọng đó đƣợc gửi gắm qua những bản anh hùng ca, qua hình tƣợng những
ngƣời tù trƣởng giàu mạnh, tài giỏi.
Tài giỏi trong việc cai quản buôn làng, chỉ bảo cho nhân dân săn
bắt, khai phá tự nhiên, ngƣời tù trƣởng càng nổi bật hơn nữa trong các
cuộc giao tranh với kẻ thù. Với tinh thần thƣợng võ của ngƣời Tây
Nguyên, sức mạnh và tài thao lƣợc chính là một phẩm chất quan trọng
nhất khi đánh giá về ngƣời anh hùng. Đó là nơi để thi triển hết sức mạnh,
ý chí và cả lòng can đảm của con ngƣời. Đăm Săn bảy lần đi giành lại vợ
từ tay các tù trƣởng khác. Hết lần này qua lần khác, chàng luôn chiến
thắng thật oanh liệt. Chiến công trong lao động của những ngƣời anh
hùng là một phần quan trọng bổ sung vào với chiến công của họ ở chiến
trận, làm tròn vẹn hình tƣợng ngƣời anh hùng trong sử thi. Bên cạnh cái
hùng tráng của cuộc chiến là sự trù phú, no ấm của cuộc sống núi rừng và
con ngƣời Tây Nguyên. Chất hiện thực của cuộc sống lao động xen lẫn
với màu sắc huyền ảo của các cuộc chiến, của thần linh làm cho các tác
12
phẩm sử thi vừa linh thiêng vừa gẫn gũi với ngƣời dân Tây Nguyên. Bức
tranh về cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên vì thế mà hài hoà hơn rất
nhiều.
Những nhân vật anh hùng, tù trƣởng tài ba của sử thi Êđê nhƣ
Khing Ju, Đăm Di, Mdrong Đăm…đều hiện lên thật đẹp, oai hùng. Trong
số đó, Đăm Săn tiêu biểu hơn cả, chàng hiện thân là lý tƣởng cho hình
mẫu ngƣời tù trƣởng- ngƣời anh hùng của sử thi Êđê.
1.3. Những đặc điểm của hình tƣợng ngƣời anh hùng của sử thi
Êđê
1.3.1. Ngƣời anh hùng với nguồn gốc kỳ lạ
Chúng ta đã từng gặp trong các cổ tích, truyền thuyết của ngƣời
Kinh những sự ra đời kỳ lạ của các nhân vật nhƣ Thánh Dóng, Sọ
Dừa….tất cả đều mang một màu sắc huyền thoại. Có một mô típ phổ biến
đó là một cặp vợ chồng đã già rồi mà vẫn chƣa có con, ngƣời vợ ăn phải
dị vật (uống nƣớc trong quả dừa rồi thụ thai- Sọ Dừa) hoặc giẫm phải vết
chân (Thánh Dóng), đứa trẻ đƣợc sinh ra cũng khác biệt với những ngƣời
khác ( Thánh Gióng ba năm không biết nói biết cƣời, chỉ đến khi nghe sứ
giả rao tìm ngƣời tài mới bật tiếng gọi. Câu nói đầu tiên là câu nói muốn
đánh giặc). Còn Sọ Dừa lớn lên trong vỏ bọc xấu xí, dị hợm nhƣ một cục
thịt đỏ hỏn, chàng là kết quả của một sự thụ thai kỳ lạ. Mẹ Sọ Dừa trong
một buổi đi làm đồng trời nắng, khát nƣớc, nhìn thấy có một quả dừa bên
trong đựng đầy nƣớc. Bà uống nƣớc và mang thai.
Mặc nhiên, trong trí tƣởng tƣợng của dân gian, những nhân vật anh
hùng xuất chúng nhƣ vậy đều không thể đƣợc sinh ra nhƣ những con
ngƣời bình thƣờng. Họ phải là con của những thế lực siêu nhiên, kỳ
lạ…vv. Cũng chính vì thế, họ sống một cuộc đời khác với những ngƣời
phàm trần khác.
Sử thi Tây Nguyên cũng kể về những nhân vật anh hùng đều có sự
13
ra đời kỳ lạ, thậm chí không rõ nguồn gốc. Chỉ biết họ là con của thần,
của trời đất…Sử thi Tây Nguyên thƣờng cho một dung lƣợng nhất định
để kể về thời thơ ấu của các nhân vật chính nhƣ Hơ Nhị, Hơ Bhi. Khing
Ju...
Trong ba tác phẩm sử thi Êđê mà chúng tôi khảo sát: Đam Săn,
Khing Ju và Mdrông Đăm đều có sự tƣơng đồng với nhau về kết cấu của
tác phẩm cũng nhƣ sự ra đời kỳ lạ của nhân vật chính. Trong Khing Ju,
hai chị em H’ing và H’ Ring đi vào rừng lấy củi, khát nƣớc. Họ đƣợc quạ
chỉ cho chỗ uống nƣớc ở hốc cây gạo. Uống xong ngứa khắp ngƣời và tự
nhiên có mang. Họ hẹn sẽ gả con cho nhau. Những đứa trẻ mà sau này trở
thành các tù trƣởng anh hùng, những cô gái xinh đẹp nhất bon làng là kết
quả của sự thụ thai kỳ lạ đó.
Sự ra đời của Mdrong Dăm rất kỳ lạ. Mẹ chàng ăn phải trái cây
giữa thân, hái hoa rừng trên nguồn thác và mang thai. Kỳ lạ hơn nữa, khi
mẹ Hbia Knhi đặt tên đứa bé theo các tù trƣởng giàu mạnh nhất bấy giờ,
đứa bé vẫn khóc. Chỉ khi ông Trời đặt tên nó là Mdrong Dăm nó mới nín.
Theo tiếng Ê Đê Mdrong Dăm có nghĩa là “chàng trai giàu có, tài giỏi và
hùng mạnh”. Qủa thật, khát vọng của cộng đồng đƣợc thể hiện qua tên
gọi rất phù hợp với cuộc đời oanh liệt của ngƣời tù trƣởng anh hùng này.
Điều đặc biệt là trong các tác phẩm sử thi Êđê tồn tại cho tới ngày
nay, chỉ riêng nhân vật Đăm Săn lại không đƣợc nhắc tới thời thơ ấu. Dù
nguồn gốc của chàng chắc hẳn cũng đặc biệt không kém gì những nhân
vật anh hùng khác nhƣng nó lại không trở thành một nội dung đƣợc kể
trong những câu chuyện. Chỉ có những chi tiết nhỏ đƣợc nhắc tới sơ lƣợc
thông qua lời kể của Hơ Nhị. Cũng giống nhƣ sử thi Iliat, những nhân vật
anh hùng khi bƣớc vào sử thi đã đƣợc chuẩn bị sẵn một lai lịch đầy đủ, họ
thƣờng là con của các vị thần linh. Nội dung của sử thi Iliat chỉ gói gọn ở
những ngày cuối cùng của cuộc chiến 10 năm thành Tơ roa. Về điểm này,
14
Đăm Săn và sử thi Iliat có điểm tƣơng đồng.
Những sự ra đời kỳ lạ của nhân vật anh hùng cũng chính là việc
khoác lên nhân vật anh hùng một chiếc áo mang màu sắc huyền ảo của
thế giới siêu nhiên. Sự ra đời kỳ lạ là báo trƣớc về một số phận, một cuộc
đời phi thƣờng. Điều đó biểu hiện một phần thế giới quan của ngƣời xƣa
trong cách nhìn nhận về tự nhiên và về con ngƣời.
1.3.2. Ngƣời anh hùng có hình thức đẹp đẽ và tính cách phi
thƣờng
Khi xây dựng hình tƣợng những ngƣời anh hùng, tác giả dân gian
bao giờ cũng dành cho họ những lời ngợi ca, sự trân trọng nhất. Trong
tiềm thức của họ, những ngƣời anh hùng chính là sự kết hợp một cách
hoàn hảo nhất sức mạnh, tài trí, lòng dũng cảm và cả hình thức đẹp đẽ
nhất.
Nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê đƣợc nghệ nhân hƣớng tới sự
“hoàn tất” (với ý nghĩa các mặt đều có phẩm giá cao nhất) và toàn vẹn
với ý nghĩa nhƣ M. Bakhtin đã nói về nhân vật trung tâm của sử thi Anh
hùng “giữa bản chất thật của nó và sự biểu hiện bên ngoài của nó không
có mảy may sự khác biệt”. Đam Săn là loại nhân vật tiêu biểu nhất (Đỗ
Hồng Kỳ, Kho tàng sử thi Tây Nguyên, sử thi Đam Săn).
Đam Săn hiện lên với vẻ đẹp nổi bật của một tù trƣởng giàu có:
đầu đội khăn xếp, vai mang túi da. Hình dáng Đam Săn đƣợc miêu tả với
vẻ hùng dũng, mạnh mẽ: “Râu mép Đam Săn như mây song bột, râu cằm
như mây song đá, râu quai nón mọc từ cằm đến sát tai. Lông chân thì
quăn, lông đùi thì rậm, lông mi cong, mặt mũi đỏ hồng như men rượu
nồng”.
Trang phục của Đăm Săn thật rực rỡ, tƣơng xứng với sự giàu sang
và vẻ đẹp oai hùng của chàng: “ Đăm Săn quấn khố dọc đỏ có tua ngang
đầu gối, chàng mặc áo dày khuy trông lấp lánh…khăn nhiễu chít trên
đầu, khăn đỏ quàng cổ”- trang phục thể hiện sự giàu có, sang trọng, nó
15
tôn lên vẻ đẹp của ngƣời anh hùng. Nó vƣợt qua ngoài ý nghĩa là những
vật dụng thông thƣờng mà để bao hàm những khía cạnh văn hoá, xã hội
nhất định.
Vũ khí của ngƣời anh hùng cũng nhƣ một thứ đồ “trang sức” quan
trọng mà họ mang theo. Tƣơng xứng với sự phi thƣờng của ngƣời anh
hùng, vũ khí cũng mang một kích thƣớc hơn mức bình thƣờng mà những
ngƣời khác khó có thể sử dụng đƣợc:“Lưỡi giáo của chàng to bản tựa cột
nhà, thanh kiếm dài đặt ở vách, chạm xà dọc”
Trong bối cảnh xã hội chƣa có sự phân hoá giàu nghèo rõ rệt, mọi
của cải làm ra là sở hữu chung của buôn làng. Ngƣời tù trƣởng là ngƣời
có công to lớn nhất, cai quản công việc làm ăn, trồng trọt, săn bắt làm cho
buôn làng thịnh vƣợng. Về một chừng mực nào đó, việc ngƣời tù trƣởng
nắm quyền quyết định của buôn làng cũng manh nha xuất hiện sự tƣ hữu.
Tuy vậy, quan hệ giữa ngƣời bóc lột và ngƣời bị bóc lột chƣa xuất hiện.
Mọi của cải trong làng là sở hữu chung của cộng đồng. Một ngƣời tù
trƣởng giàu có cũng đồng nghĩa với việc dân làng có nhiều của cải,
chiêng ché, trâu bò. Đó cũng là một tiêu chí quan trọng mà ngƣời xƣa
dùng để đánh giá về ngƣời anh hùng. Nó đƣợc đo bằng số lƣợng của cải,
chiêng ché, trâu bò…của buôn làng mà ngƣời tù trƣởng cai quản.
Tất cả các tù trƣởng anh hùng trong sử thi Êđê đều đƣợc kể là
những ngƣời giàu có. Theo tiếng của đồng bào Êđê, Mdrông nghĩa là giàu
có. Vậy là ngay từ tên của nhân vật, ƣớc mong và sự ngƣỡng mộ của cả
cộng đồng này đã đƣợc gửi gắm. Còn chàng Khing Ju cũng đƣợc nhắc tới
là nhân vật “giàu có nhất vùng, tiếng đồn vang khắp nơi”. Sự giàu có của
Đăm Săn đƣợc coi nhƣ lý tƣởng trong tiềm thức ngƣời Êđê : “Chàng
Đam Săn là người giàu có, hùng mạnh, phi thường, tiếng tăm đã vang
đến thần linh, đến tận núi non, vang ra xa ngoài buôn làng vì thế buôn
phía đông rất muốn gọi, phía tây rất muốn thưa”.
Sở dĩ sự giàu sang của ngƣời anh hùng đƣợc coi là một điều kiện
16
quan trọng để đánh giá mức độ vĩ đại của họ trƣớc hết bởi nó chứng tỏ tài
năng trong việc cai quản bộ tộc của mình, biết dạy dân trồng trọt hái
lƣợm, săn bắt. Và thêm nữa, sự giàu có của ngƣời tù trƣởng là do trời ủng
hộ mới thành. Ngƣời tù trƣởng có đủ phẩm chất tài trí và lòng dũng cảm
mới xứng đáng đƣợc trời đất, thần linh cho giàu sang, điều đó cũng là
một vinh dự lớn.
1.3.3. Ngƣời anh hùng có tài năng vƣợt trội
Đi cùng với vẻ đẹp, sự giàu sang, một phẩm chất quan trọng của
ngƣời anh hùng đƣợc nhân dân đề cao đó là tài năng, lòng dũng cảm. Đây
mới chính là mảnh đất để thể hiện sự ƣu việt của ngƣời anh hùng trong cả
cộng đồng. Tƣơng ứng với hai nội dung đƣợc thể hiện trong tác phẩm sử
thi Êđê đó là đời sống của buôn làng với cảnh sinh hoạt nhộn nhịp tấp nập
và những cuộc giao tranh của ngƣời anh hùng với các tù trƣởng để bảo vệ
buôn làng. Tài năng của ngƣời anh hùng đƣợc thể hiện ở hai phƣơng
diện: trong các cuộc giao tranh và trong quá trình cai quản bộ tộc, săn bắt,
sản xuất.
Những biểu hiện về tài năng của ngƣời anh hùng bắt đầu từ những
trò chơi thƣở thiếu thời: ”Buồn chán chàng lấy con quay ra đánh từ sáng
đến tối, từ khi mặt trời lên khỏi đỉnh núi đến khi trời tối. Lũ trai làng
đánh quay không thắng nổi chàng. Đi đánh quay ở buôn xa buôn gần
không một ai thắng nổi chàng” (Khing Jú). Mdrong Dam từ bé cũng đã tỏ
ra là một đứa bé có tài trí khác thƣờng. Cậu biết dùng lời lẽ thấu tình đạt
lý của mình để thuyết phục, giảng hoà cho mọi ngƣời xung quanh. Khi
Mtao Hwik chiếm đoạt voi của Mtao Go, Mdrong Dam đã tìm lời giải
thích khiến cho dân làng đều đồng thuận, hƣởng ứng. Hai tù trƣởng buộc
phải giảng hoà với nhau.
Sử thi Êđê tái hiện trƣớc ngƣời nghe một khung cảnh trù phú yên
ấm của buôn làng. Trong bức tranh đó, ngƣời anh hùng là trung tâm của
17
mọi hoạt động, là ngƣời chỉ huy tất cả mọi công việc sản xuất, trồng trọt
của buôn làng. Tài năng của ngƣời tù trƣởng anh hùng đƣợc thể hiện qua
những cảnh săn bắn hái lƣợm, những cảnh xây dựng buôn làng giàu
mạnh. Lời ca ngợi buôn làng nhiều chiêng ché, trâu bò, dân làng vui chơi
”ăn năm uống tháng”...cũng chính là sự ca ngợi tài năng của ngƣời tù
trƣởng anh hùng.
Khi nói tới tài năng của ngƣời anh hùng bao giờ ngƣời xƣa cũng
gắn liền với sức mạnh và tài quân sự của họ trên các chiến trận. Tinh thần
thƣợng võ, khát vọng về sức mạnh, lòng can đảm chính là điểm nổi bật
trong cách nghĩ của nhiều dân tộc nói chung và của ngƣời Êđê nói riêng.
Đối với ngƣời đàn ông, chiến trận là nơi thi triển tài năng rõ rệt nhất, là
nơi để họ bộc lộ phẩm chất anh hùng. Xuất phát từ hiện thực xã hội,
những tác phẩm sử thi Êđê, một phần quan trọng đã mô tả các cuộc giao
tranh giữa các buôn làng với nhau, trong đó, vai trò của ngƣời tù trƣởng-
thủ lĩnh quân sự- là tiêu biểu. Hầu hết các tác phẩm sử thi Êđê đều có
chung một môtip về chiến tranh: ngƣời anh hùng cùng nhân dân đi vào
rừng, ở nhà vợ chàng bị các tù trƣởng tới bắt cóc, họ đi tìm và đánh thắng
kẻ thù để giành lại vợ. Trong các cuộc chiến tranh đó, dù không phải là ác
liệt, cam go với cảnh đầu rơi máu chảy, nhƣng đã thể hiện đƣợc sự vững
vàng về tinh thần, sức mạnh của ngƣời anh hùng. Mặc dù chiến thắng của
họ có sự trợ giúp của thần linh nhƣng sức mạnh, lòng can đảm của con
ngƣời mới là thứ đƣợc đề cao. Có thể nói, chiến tranh là nơi để các anh
hùng chứng tỏ đƣợc phẩm chất, sự phi thƣờng của mình. Ngƣời đƣợc coi
là vĩ đại nhất phải là ngƣời chiến thắng trên chiến trƣờng.
Theo nghĩa đó, Đăm Săn chính là nhân vật tiêu biểu nhất cho kiểu
mẫu ngƣời tù trƣởng anh hùng, ngƣời thủ lĩnh quân sự trong số các các
nhân vật anh hùng của sử thi Êđê. Nếu nhƣ những nhân vật anh hùng
khác nhƣ có đôi lúc bị thất bại dƣới tay kẻ thù: Khing Ju bị chết dƣới mũi
đao của Mtao Msei, Mdrong Dăm bị mảnh áo sắt của Mtao Msei đâm
18
chết...và phải đợi đến thế hệ thứ hai: những đứa cháu của ngƣời anh hùng
trƣởng thành, thay bác mình đi tiêu diệt kẻ thù; hay cũng có khi nhân vật
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng và bị trời phạt: Mdrong Dăm chết
vì vô cớ giết nhiều ngƣời trong buôn làng của Mtao Msei và phải đến thế
hệ thứ hai, đời cháu của Mdrong Dăm, ông trời lại cho thuốc để cứu
ngƣời anh hùng sống dậy. Có thể nói Đăm Săn là nhân vật hoàn hảo nhất
trong số các anh hùng của sử thi Ê Đê "toàn vẹn với ý nghĩa nhƣ M.
Bakhtin đã nói về nhân vật trung tâm của sử thi anh hùng” giữa bản chất
thật của nó và sự biểu hiện bên ngoài của nó không mảy may có sự khác
biệt”
1.3.4. Hình tƣợng ngƣời anh hùng trong mối quan hệ với cộng
đồng:
Trong sử thi dân gian, mỗi tộc ngƣời đều gửi gắm những khát
vọng, lý tƣởng vào các nhân vật anh hùng của mình. Bằng tất cả tình cảm
và tài nghệ của mình, dân gian xây dựng những nhân vật anh hùng đó trở
thành biểu tƣợng cho dân tộc, cho cộng đồng mình. Những gì liên quan
đến cuộc đời của các nhân vật anh hùng này đều đƣợc dân gian chắp thêm
đôi cánh của tƣởng tƣợng.
Trong các mối quan hệ cộng đồng, ngƣời anh hùng luôn nhận đƣợc
những tình cảm yêu mến, tán thƣởng. Còn những gì trái ngƣợc với ý chí
của họ đều bị mọi ngƣời không đồng tình, chê trách.
Hình tƣợng ngƣời anh hùng trong các cuộc chiến tranh
Lịch sử phát triển của nhân loại, từ thƣở bình minh đến thời kỳ
hiện đại, luôn gắn liền với các cuộc chiến tranh, tất nhiên, ở các mức độ,
quy mô khác nhau. Xét riêng ở một khía cạnh nào đó, trong thời cổ đại,
chiến tranh là nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tạo động lực cho xã hội
phát triển đi lên. Văn học phản ánh chiến tranh xƣa nay luôn những thành
tựu nổi bật. Đối với riêng thể loại sử thi, chiến tranh đã trở thành một đề
tài phổ biến, đề tài trung tâm và các cuộc chiến tranh đều phong phú, sinh
19
động và cuốn hút đến mức độ “ người lớn, trẻ con có thể ngồi bất động,
chăm chú lắng nghe đến thâu đêm suốt sáng”. Các cuộc chiến tranh trong
sử thi anh hùng đều nhằm mục đích chống lại mọi kẻ thù đến uy hiếp, phá
hoại sự bình yên của buôn làng. Tuy nhiên, tính chất và phạm vi của các
cuộc chiến tranh đó lại đƣợc thể hiện ở những dạng thức khác nhau. Và
động lực của các cuộc cũng vì thế mà không hoàn toàn giống nhau. Khi
thì đó là cuộc chiến tranh để trả thù nhƣ trong các sử thi: Bơ roa Đam,
Đăm Thí. Sử thi Đam Săn, chiến tranh là để cƣớp lại ngƣời phụ nữ, nàng
Hơ Nhị xinh đẹp.
Khúc tráng ca Iliat kể về cuộc chiến thành Tơ roa, giữa một bên là
đoàn quân Hy Lạp và một bên là các chiến binh của thành Tơ roa. Qua
những lời văn miêu tả cuộc chiến tranh khốc liệt đó, hình tƣợng của các
thủ lĩnh quân sự hiện lên sống động với vai trò quan trọng quyết định hầu
nhƣ hoàn toàn thành bại của cuộc chiến. Giữa rất nhiều những chiến binh
dũng cảm, xuất sắc của cả hai bên chiến tuyến, hình tƣợng Asin hiện lên
nhƣ một chiến binh dũng cảm nhất, xuất sắc nhất. Trong cuộc chiến tranh
ác liệt ấy, hai bên chiến tuyến đều có những nhân vật đƣợc nể trọng.
Không có sự đối lập giữa chính nghĩa và gian tà, giữa thiện và ác ở đây.
Phía bên quân Tơ roa, Hécto là nhân vật đƣợc đề cao nhất, đƣợc mô tả
với những phẩm cách đáng trọng. Chàng xông xáo vào những chỗ khó
khăn nhất, hoặc để cứu vãn tình thế, hoặc để khích lệ cuộc giao tranh,
trong những điều kiện bất lợi, chàng biết rút quân vào thành, bảo mẹ tới
đền thờ Atênê cầu cứu nữa thần giúp đỡ. Trận chiến cuối cùng, chàng
vƣợt qua nƣớc mắt và mọi lời khuyên ngăn của cha mẹ chàng. Dù biết
Asin có sức mạnh hơn mình, nhƣng chàng kiên quyết không lẩn tránh,
không rút lui trƣớc quân Hy Lạp. Quyết đấu là lý tƣởng lớn nhất của thời
đại chàng.
Các cuộc chiến tranh cũng luôn là chủ đề quan trọng nhất đƣợc mô
tả trong nhiều tác phẩm sử thi Tây Nguyên. Dù quy mô của các cuộc
20
chiến tranh không phải là những đoàn quân đông đảo hay những cảnh tàn
sát đẫm máu nhƣ trong sử thi của nhiều dân tộc khác trên thế giới. Nhƣng
đó cũng vẫn là mảnh đất để những nhân vật anh hùng bộc lộ rõ nét nhất,
có tầm vóc đẹp và kỳ vĩ nhất
Sử thi Ê Đê mà tiêu biểu là Đam Săn kể về những cuộc giao tranh
của Đam Săn với các kẻ thù, các tù trƣởng của các bộ tộc khác muốn tới
chiếm đoạt đất đai, tài sản, ngƣời phụ nữ của chàng. Cuộc giao tranh của
Đam Săn và Mtao Mxây đƣợc miêu tả khá sống động: “Thế là Đam Săn
lại múa. Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, như
gió lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi, khi chàng múa dưới thấp,
vang lên tiếng khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng khiên
kênh. Khi chàng vừa múa vừa chạy, ba quả núi toác ra, ba đồi tranh bật
rễ tung bay. Cây giáo thần, cây giáo dính đầy những oan hồn của chàng
nhằm đùi mtao Mxây phóng tới nhưng không thủng. Chàng đâm vào
người Mtao Mxây cũng không thủng. Đến lúc này, Đam Săn đã thấm mệt.
Chàng vừa chạy vừa ngủ, mộng thấy ông trời”
Các cuộc giao tranh trong sử thi Êđê là cuộc chiến giữa hai cá
nhân, hai tù trƣởng đại diện cho hai bên.Các cuộc chiến tranh đƣợc tái
hiện trong sử thi Êđê, chúng ta không nhìn thấy sự khốc liệt, tàn ác hay
những cảnh đầu rơi máu chảy. Chúng kết thúc kết thúc ngay khi ngƣời
thủ lĩnh giành chiến thắng. Họ sẽ thu phục dân chúng, tôi tớ của bên đối
phƣơng theo mình và cầu khẩn ông trời ban phép cho những ngƣời tử trận
bên họ sống dậy. Ngƣời tù trƣởng không chỉ nắm quyền tối cao trong việc
cai quản buôn làng mà ngay cả trong các cuộc giao tranh, họ cũng chính
là những thủ lĩnh quân sự, quyết định thành bại của cuộc chiến.
Tuy vậy, nhìn chung, các cuộc chiến tranh trong sử thi Tây
Nguyên, dù là đề tài phổ biến nhất xuyên suốt các tác phẩm, là cái nền để
thể hiện hình ảnh ngƣời thủ lĩnh tài ba, dũng cảm song chƣa có đƣợc cái
không khí hùng tráng, vĩ đại nhƣ các cuộc chiến tranh nhƣ trong sử thi
21
của các dân tộc khác. Sau những trận chiến, không để lại những hậu quả
nặng nề đau xót, không có cảnh tàn phá dữ dội, thây ngƣời, xác ngựa
ngổn ngang. Cách miêu tả nhân vật trong sử thi Tây Nguyên dù còn nhiều
ƣớc lệ, tƣợng trƣng và dập khuôn công thức nhƣng đã phần nào làm hiện
rõ đƣợc chân dung của những ngƣời anh hùng thật đẹp, oai hùng khác
thƣờng. Đặc biệt trong các cuộc giao tranh, hình ảnh ngƣời anh hùng đẹp
hơn bao giờ hết. Ở đó sức mạnh, ý chí và lòng dũng cảm là những phẩm
chất luôn đƣợc con ngƣời đề cao, là tinh thần thƣợng võ là khát vọng mà
cộng đồng ngƣời Tây Nguyên gửi trọn vẹn vào những nhân vật anh hùng
của mình.
Ngƣời tù trƣởng anh hùng trong mối quan hệ với các nhân vật
khác
Tổ chức xã hội quy định vai trò của các cá nhân trong cả một cộng
đồng. Đối với sử thi Tây Nguyên, khi xem xét hình tƣợng ngƣời anh hùng
chúng ta không thể không đặt họ trong mối tƣơng quan với cộng đồng xã
hội và với những cá nhân khác trong cộng đồng đó.
Ngoài nhân vật Đam Săn, tuyệt đối trong tác phẩm, không có một
nhân vật nào có thể sánh đƣợc với chàng về sức mạnh, tài trí và cả sự
giàu có, hùng mạnh. Trong buôn làng, ngƣời tù trƣởng là ngƣời đứng đầu
cai quản, quyết định mọi vấn đề nên việc chàng là ngƣời giàu có nhất,
hùng mạnh nhất cũng là điều dễ hiểu. Ngay cả với các buôn làng khác,
cũng không ai mạnh bằng chàng. Tiếng tăm của Đam Săn là ngƣời giàu
có, chiêng lắm la nhiều, đã vang khắp nơi, không một tù trƣởng nào sánh
bằng. Đam Săn là nhân vật lý tƣởng nhất, trung tâm của cả tác phẩm.
Ngƣời tù trƣởng trong sử thi Êđê đóng vai trò trung tâm, quyết
định vận mệnh của cả cộng đồng. Sau cái chết của Đam Săn, ngƣời Êđê
“phải” nối dài câu chuyện của mình, nối dài tƣơng lai của cộng đồng
mình, với việc hồn Đăm Săn biến thành con ruồi bay vào miệng Hơ Âng-
chị gái chàng. Đăm Săn cháu ra đời tiếp tục nối nghiệp cậu, về ở với Hơ
22
Nhị và trở thành ngƣời tù trƣởng hùng mạnh. Nhân vật ngƣời anh hùng
không hoàn toàn biến mất mà phải tiếp tục quay trở lại, dù bằng dạng
thức nào, để đảm đƣơng vị trí của một tù trƣởng, cai quản cả buôn làng và
viết tiếp lịch sử của cộng đồng.
Ra đời trong thời kỳ bình minh của nhân loại, khi mà những quan
niệm về thế giới của con ngƣời còn rất sơ khai, “sử thi mang trong lồng
ngực mình hơi thở của các vị thần” đã phản ánh điều đó. Có quá nhiều
điều mà con ngƣời, bằng trình độ nhận thức còn hạn chế, đành phải kiến
giải bởi một thế lực siêu nhiên nào đó bất tử và làm đƣợc những chuyện
phi thƣờng với quyền năng vô hạn. Thế giới thần linh đóng một vai trò vô
cùng quan trọng trong đời sống tinh thần lẫn sinh hoạt xã hội của con
ngƣời.
Theo cách nghĩ của ngƣời dân Tây Nguyên xƣa kia, và có lẽ là với
con ngƣời ở nhiều nơi khác trên khắp thế giới này, dƣờng nhƣ đâu đâu
cũng có những vị thần “giám sát” cuộc sống của họ, gieo họa hay ban
phúc. Trong đời sống tự nhiên cũng có nhiều vị thần: thần lớn: thần núi,
sông, mƣa gió, sấm sét…Bên cạnh đó còn có các thần nhỏ: nhƣ thần cây,
một hòn đá…mà ta thƣờng gặp trong các tác phẩm sử thi Tây Nguyên.
Đó là cơ sở xuất phát đồng thời cũng là biểu hiện cụ thể của tín
ngưỡng đa thần theo quan niệm vạn vật hữu linh tồn tại phổ biến trong
các dân tộc Tây nguyên. Tín ngƣỡng đó dẫn đến các nghi lễ thờ cúng,
cũng rất phổ biến trong đời sống hàng ngày của các dân tộc. Các lễ hội
quan trọng; năm mới, mừng sức khoẻ, đâm trâu, bỏ mả….đều là những
nghi lễ hết sức quen thuộc đối với ngƣời dân Tây Nguyên. Nó gắn liền
với mỗi con ngƣời nơi đây từ lúc sinh ra tới lúc lìa bỏ cõi đời.
Các vị thần xuất hiện trong sử thi, cũng nhƣ nhiều thể loại văn học
dân gian khác của đổng bào thiểu số, nhƣ những nhân vật tham gia vào
nội dung của tác phẩm ở những mức độ khác nhau. Sức ảnh hƣởng, mối
23
quan hệ của các nhân vật thần linh đối với các nhân vật chính, những
ngƣời anh hùng của sử thi mỗi dân tộc khác nhau lại tồn tại ở những cấp
độ khác nhau.
Trong Khan Đăm Săn, thần linh mà cụ thể là ông Du, ông Diê (ông
trời) đã đích thân can thiệp vào chuyện hôn nhân của chàng Đăm Săn với
nàng Hơ Nhị: “Nếu lấy vợ buôn phía tây, buôn phía đông, cháu sẽ thành
người chăn trâu, ngựa, voi, kẻ lau cồng chiêng cho nhà giàu, cháu thành
kẻ chăn bò, thân có mùi khai, thành kẻ chăn trâu, người cháu có mùi hôi
đất bùn, cháu thành kẻ chăn heo, gà cho người giàu có, thành người giữ
chiêng cái, dọn phân ngực, voi cho nhà giàu. Nếu cháu lấy Hơ Nhị, Hơ
Bhi thì cháu sẽ thành người giàu có. Chân cháu sẽ đi mua con voi, bàn
tay sẽ đổi cồng chiêng. Cháu sẽ là người giàu nhất xứ”. Dụ dỗ, đe doạ
đến năm lần bảy lƣợt nhƣ vậy, ông trời bị Đăm Săn từ chối. Khiến cho
ông Trời phải lấy ống điếu gõ vào đầu làm chàng chết giấc. Sau đó, ông
lại làm phép cho chàng sống lại. Lặp đi lặp lại bảy lần, Đam Săn mới chịu
lấy chị em Hơ Nhị. Sự giàu sang, địa vị của Đăm Săn cũng chính do ông
Trời sắp xếp. Chính ông là ngƣời cho Đăm Săn giống lúa tốt để gieo
trồng giúp cho buôn làng ngày một no ấm giàu có. Sau khi đã làm cho
Đăm Săn trở thành ngƣời tù tƣởng giàu có, hoàn thành chuyện mối lái
cho chàng cô vợ đẹp tuyệt trần, ông Trời vẫn tiếp tục theo sát chàng trong
suốt các cuộc giao tranh với kẻ thù- các tù trƣởng của buôn làng khác. Ở
các lần giao tranh giữa Đam Săn và kẻ thù, các tù trƣởng Mtao Tuôr,
Mtao Mxây, Mtao Grƣ… thần linh chỉ xuất hiện, trợ giúp khi nhân vật
thực sự lâm vào tình thế khó khăn. Bất kì lúc nào, khi nhân vật đuối sức
khó lòng giành thắng lợi, ông trời lại trợ giúp cho. Ông luôn bày cách để
Đăm Săn thắng đƣợc kẻ thù: “ Ơ cháu, tay giáo, tay đao cháu có sắc thì
cháu mới thắng được tên nhà giàu hung dữ này. Cháu hãy cầm lấy chày
ngắn chày dài ném thử xem. Cháu hãy giắt theo cây cuốc bàn ở hông, vác
theo cây cuốc đập trên vai; gọi đông đảo thanh niên trai gái tới, kẻ có
24
dao thì đào lỗ nhỏ, kẻ có cuốc thì đào lỗ lớn, đào chi chít khắp nơi những
lỗ sâu. Rồi bằng những bước ngắn, bước dài cháu hãy nhảy cho giỏi cho
kịp, kéo lê khố áo của cháu làm cho bụi mù lên như một đám mây đen,
cháu ạ”.
Tuy vậy, trong Đăm Săn vai trò của thần linh không phải hoàn toàn
quyết định. Thần chỉ xuất hiện khi ngƣời anh hùng lâm vào khó khăn,
thƣờng là khi nhân vật đã “ mệt nhoài, ngủ say”. Ở các cuộc chiến, vị trí
trung tâm, nổi bật vẫn là ngƣời anh hùng. Thần linh, tất nhiên, không
tham gia trận đánh với tƣ cách là một nhân vật tham chiến mà chỉ đứng
đằng sau trợ giúp trong những trƣờng hợp thực sự cần thiết.
Sử thi Êđê chỉ còn thấp thoáng bóng của các thế lực thần linh.
Thậm chí, trong Đăm Săn, có đôi lúc, hành động của ngƣời anh hùng
thậm chí đƣợc coi nhƣ một khát vọng chế ngự cả thế lực siêu nhiên mà
hành động của Đăm Săn khi hỏi nữ thần Mặt trời làm vợ là điển hình. Cái
chết của Đăm Săn ngay sau khi lời cầu hôn bị từ chối là bi kịch của một
thời đại khi mà khát vọng của con ngƣời mong muốn chế ngự đƣợc mọi
thế lực siêu nhiên vẫn còn nằm ngoài khả năng, nhận thức của họ. Đăm
Săn, gợi chúng ta nhớ tới Prômêtê- nhân vật đầu tiên trong lịch sử triết
học « tuẫn tiết vì loài người », dù biết mình sẽ chết vẫn nhất quyết dấn
bƣớc. Đam Săn chết ngay tại ngƣỡng ranh giới giữa cuộc sống của con
ngƣời bình thƣờng và những thế lực siêu nhiên, thần thánh.
1.3.5. Cái kết của tác phẩm sử thi và số phận của ngƣời tù
trƣởng anh hùng:
Bản anh hùng ca vĩ đại Iliat kết thúc với đám tang của Hecto,
ngƣời anh hùng của thành Tơ roa. Vinh quang chiến thắng, tang thƣơng
của chiến trận đó là những âm hƣởng vang vọng trong tâm trí ngƣời đọc
khi những trang cuối của pho sử thi vĩ đại này khép lại. Cái kết thúc của
pho sử thi, nhƣ bất kỳ một áng văn chƣơng nào, chứa đựng những tƣ
25
tƣởng, nhận thức, đánh giá của ngƣời nghệ sĩ đối với các vấn đề mà tác
phẩm phản ánh. Đồng thời cũng qua đó bày tỏ tình cảm, niềm xót thƣơng
của cả thời đại với ngƣời anh hùng.
Không giống nhƣ cái kết thúc của các tác phẩm khác trong hệ
thống sử thi Tây Nguyên nói chung và sử thi Êđê nói riêng, Đăm Săn đã
có một cách kết thúc đặc biệt. Ngƣời tù trƣởng anh hùng dù biết trƣớc sẽ
gặp nguy hiểm đến tính mạng, nhƣng với bản tính cƣơng quyết, không
chịu lùi đã không hề nao núng. Cái chết của Đăm Săn vừa hào hùng, oanh
liệt vừa mang màu sắc bi kịch. Bi kịch là mâu thuẫn giữa cái lý tƣởng mà
chàng muốn đạt tới với sức mạnh hữu hạn của con ngƣời. Đồng thời
trong đó có niềm tự hào, tin tƣởng mãnh liệt vào một thế hệ mới sẽ tiếp
tục. Sự đầu thai của Đăm Săn trở lại là một biểu trƣng cho sự sống vẫn
tiếp tục. Đăm Săn cháu sẽ lớn và nối tiếp sự nghiệp lừng lẫy của Đăm
Săn cậu, trở thành ngƣời tù trƣởng hùng mạnh và giàu có nhất.
Tất cả các nghiên cứu từ xƣa tới nay khi nói về Đăm Săn, ngƣời ta
đều nói về cái kết thúc đậm chất bi tráng này. Có ngƣời cho rằng cái chết
của Đăm Săn là do chàng có ý định lấy nữ thần Mặt trời về làm vợ tức là
thay đổi địa vị của Hơ Nhị xuống hàng thứ hai. Chống lại chế độ mẫu hệ,
chống lại tục chuê nuê, tức là Đăm Săn vi phạm phải quy định của xã hội.
Cái chết của chàng là hậu quả tất yếu. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Đỗ
Hồng Kỳ, cách suy nghĩ trên có phần khiên cƣỡng, áp đặt những tƣ
tƣởng, nếp nghĩ của ngƣời hiện đại cho ngƣời xƣa. Theo ông, cái chết của
Đăm Săn chỉ đơn giản là hậu quả tất yếu của việc chàng không chịu nghe
theo lời dặn nữ thần Mặt Trời. Việc nữ thần Mặt Trời không chịu lấy
Đăm Săn cũng chính là do nữ thần sợ sự sống sẽ mất đi trên mặt đất và
bầu trời : «Nếu ta đi...chết cả người Ê Đê êga vì không còn nước
uống....Cây trong rừng sẽ tuyệt diệt, cây trên rú sẽ chết khô, lau lách
ngừng đâm chồi, cây cỏ sẽ tàn lụi, đất đai sẽ nứt nẻ, sông suối sẽ cạn
khô ». Cái chết của Đăm Săn đó là vì chàng cố tình không chịu nghe theo
26
lời thần linh, đi quá giới hạn mà thần linh cho phép.
Đồng tình với quan điểm này, chúng tôi cho rằng, xét trong cả hệ
thống các tác phẩm sử thi của ngƣời Ê Đê, cái chết mang đậm chất bi
tráng của Đăm Săn mang tầm thời đại của chàng. Đăm Săn không chống
tục chuê nuê, nhƣng chàng phản ứng lại những gì là rào cản trên bƣớc
đƣờng trở thành ngƣời giàu có và lừng lẫy tiếng tăm của chàng. Cái chết
của Đăm Săn không chỉ là kết thúc của một số phận mà đó còn thể hiện
những vấn đề đang nảy sinh trong lòng xã hội. Sự mâu thuẫn giữa năng
lực và khát vọng chế ngự tự nhiên của con ngƣời, giữa cái mới đang lên
trong lòng xã hội và những luật tục cũ.
Cái kết thúc của các pho sử thi chính là sự đánh giá về vai trò của
ngƣời anh hùng trong cộng đồng. Qua đó thể hiện tình cảm của cộng
đồng đối với những ngƣời con dũng cảm, tiêu biểu cho sức mạnh, ý chí
của cả bộ lạc. Trong đó có cả sự yêu mến, kính phục và đôi khi cả sự
thƣơng cảm, xót xa trƣớc sự hi sinh của ngƣời anh hùng. Nhƣng trên tất
cả, đó là niềm tự hào vì những chiến công oanh liệt mà những ngƣời anh
hùng của họ đã lập nên. Âm hƣởng tự hào đó còn vang vọng mãi cho tới
ngày nay, trƣờng tồn cùng những pho sử thi quý báu của đồng bào Tây
Nguyên.
1.4. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng ngƣời anh hùng của sử
thi Êđê
Ngƣời anh hùng là nhân vật trung tâm của tác phẩm sử thi. Xây
dựng kiểu mẫu nhân vật anh hùng chính là yếu tố quan trọng nhất trong
nghệ thuật sử thi. Trong trƣờng ca Iliat, nhân vật trung tâm là Asin. Bên
cạnh đó còn nhiều những nhân vật khác, dù ở nhiều mức độ khác nhau :
có ngƣời đƣợc miêu tả khá chi tiết, tỉ mỉ, cũng có những nhân vật chỉ xuất
hiện trong vài câu nhƣng vẫn in dấu ấn trong lòng ngƣời đọc. Một Asin,
« ngƣời con của Pêlê » thật dũng mãnh, anh hùng, trung thực với tính
cách mãnh liệt : đau đớn, xót xa, căm hận. Một Uylix cũng dũng mãnh
27
anh hùng nhƣng lại thể hiện trong sự khôn ngoan, thận trọng trong mọi cử
chỉ, lời ăn tiếng nói. Ở bên kia chiến tuyến, Hecto cũng đƣợc miêu tả nhƣ
một ngôi sao sáng chói: cũng dũng cảm, hiên ngang khi đối đầu với kẻ
địch, dù đó là Asin vô cùng hùng mạnh. Hàng trăm nhân vật trong sử thi
cứ thế hiện lên trong tâm trí ngƣời đọc, ngƣời nghe sinh động, hấp dẫn.
Để tạo đƣợc những nhân vật sinh động, hấp dẫn và có sức sống lâu
bền dƣờng ấy, ngƣời nghệ nhân dân gian, dù chƣa đặt việc sáng tác thành
một phƣơng pháp nhƣ trong văn học thành văn, nhƣng chắc hẳn đã có
những ý đồ sáng tạo nghệ thuật thể hiện qua những cách nói, cách kể lôi
cuốn ngƣời nghe. Chính những thủ pháp đó đƣợc coi là đặc trƣng của văn
học dân gian nói chung, của sử thi nói riêng, đã làm cho những nhân vật,
những câu chuyện cứ thế đi vào lòng ngƣời dân biết bao thế hệ.
Đọc sử thi Êđê, chúng ta không khỏi thán phục trƣớc những hình
ảnh, những câu chuyện lôi cuốn, sinh động. Đặc biệt, hình tƣợng ngƣời tù
trƣởng anh hùng đƣợc xây dựng với nhiều nét nghệ thuật đặc trƣng của sử
thi, có lúc đạt tới mức tinh tế, điêu luyện, đã tạo nên sức lôi cuốn mãnh
liệt đối với ngƣời nghe
1. 4.1. Xây dựng nhân vật anh hùng trong sự đối lập với kẻ xấu
Khi xây dựng một nhân vật, tác giả dân gian bao giờ cũng đem đặt
bên cạnh nhân vật mình yêu mến trong thế tƣơng phản đối lập với những
những nhân vật phản diện. Sự đối lập đƣợc miêu tả từ hình dáng, phong
thái đến tính cách càng làm cho chân dung nhân vật thể hiện rõ nét hơn.
Trong văn học thành văn, không thiếu những hình tƣợng, những cặp nhân
vật, hình ảnh trái chiều nhằm tô đậm thêm sự vật, sự việc cần miêu tả.
Đối với văn học thành văn, thủ pháp này đƣợc sử dụng rất nhiều, nhất là
văn học trung đại. Tuy nhiên đối với hệ thống sử thi của các dân tộc thiểu
số ở nƣớc ta, không phải khi nào nghệ nhân dân gian cũng chú ý tới điều
này mặc dù, trong các tác phẩm về đề tài chiến trận luôn có sự xung đột,
28
va chạm giữa các nhân vật với nhau.
Sử thi Tây Nguyên cũng có nhiều cặp nhân vật trái chiều. Các nhân
vật này thƣờng đại diện cho hai bên thế lực giao tranh, là kẻ thù không
đội trời chung với nhau. Trong những tác phẩm đang khảo sát, cả ở sử thi
Mnông và Êđê, phần lớn các nhân vật đều có mâu thuẫn bắt nguồn từ việc
tranh chấp, chiếm đoạt của cải, phụ nữ....Tuy vậy sự trái ngƣợc của các
nhân vật này lại thể hiện ở nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau trong sử
thi mỗi dân tộc.
Cái hay trong việc đặt nhân vật trong sự đối lập với một số nhân
vật khác nằm ở chỗ nó làm cho hình ảnh ngƣời anh hùng thêm đậm nét và
kẻ thù trở nên càng đáng chê cƣời, coi thƣờng hơn. Hình tƣợng chàng
Đam Săn thật mạnh mẽ oai hùng đối lập với vẻ gian trá hiểm độc, thấp
hèn của các tù trƣởng. Sự đối lập đó thể hiện trên rất nhiều phƣơng diện
nhƣ dáng vẻ, hình thức đến tài năng và đặc biệt là khí chất, phẩm cách
con ngƣời.
Đam Săn hiện lên với vẻ đẹp uy dũng, hiên ngang của một ngƣời tù
trƣởng “đầu đội khăn kép và vai mang túi da" dƣờng nhƣ đối lập với vẻ
ngoài hung tợn của Mtao Mxây, một tù trƣởng giàu mạnh: “Lông chân
dày như đắp lên một lớp. Lông mày sắc như đá mài. Con mắt sáng người
như đã uống hết một chum rượu, đến nỗi con trâu lớn cũng không dám đi
qua”- đó là vẻ hung tợn, tàn ác khiến cho mọi ngƣời đều kinh sợ, xa lánh.
Ngƣời anh hùng càng uy dũng bao nhiêu kẻ thù dƣờng nhƣ càng
hèn nhát đến bấy nhiêu. Đối lập ngay từ trong động cơ của hành động:
trong lúc Đăm Săn cùng mọi ngƣời vào rừng lao động thì các tù trƣởng
lợi dụng tình thế của chàng. Nếu nhƣ Mtao Msei sợ hãi, e ngại phải đối
mặt với Đam Săn, đã dặn tôi tớ: “ơ chim chích một ngàn, chim cu một
trăm, đầy tớ bốn trăm, hãy ra cổng xem là ai! Nếu là khách ốm yếu thì
cho vào, nếu là khách khoẻ mạnh thì đóng cổng vào cho chắc”. Thì Đăm
29
Săn đƣờng hoàng tìm tới buôn làng của kẻ thù để đòi lại vợ.
Bên cạnh ngoại hình, tính cách của hai nhân vật này cũng đƣợc
khắc hoạ với những lời nói, hành động đối lập nhau hoàn toàn, nếu nhƣ
Mtao Msei lo sợ bị Đam Săn đâm khi chƣa kịp xuống thang: “khoan
khoan, để tao xuống. đừng vội đâm tao trước lúc tao xuống” thì Đam Săn
lại vô cùng cao thƣợng, khí khái: “ Tao không thèm đâm mày trước lúc
mày xuống. Con lợn dưới đất tao không đâm thì mày tao cũng không
đâm”. Cũng trong những cuộc giao tranh đó, những tƣơng phản mà ngƣời
Ê Đê đã tạo ra có nhiều chỗ rất thú vị, sinh động. Chân dung của Đăm
Săn hiện lên thật dũng mãnh, thiện chiến: “Đam Săn vung khiên múa.
Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng
vượt qua một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua
phía tây..." trong khi đó kẻ thù của chàng lại thật nực cƣời, thảm hại: "
Mtao Anur múa bên phải, bên trái làm mọi người phải ngó theo....đôi
chân nặng trịch như có ai cột đá, đôi tay rã rời như không cầm nổi khiên,
bàn tay run run như không cầm nổi thanh kiếm». Ở đây có một ranh giới
hoàn toàn rõ nét giữa ngƣời anh hùng và kẻ thù, giữa ngƣời tốt và kẻ xấu,
kẻ ác. Một bên là Đăm Săn đƣờng hoàng, oai phong một bên là kẻ thù
hèn nhát.
Sự tƣơng phản rõ nét giữa ngƣời anh hùng đăm săn với kẻ thù càng
khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ. Cái chính nghĩa, cao đẹp đối lập
hoàn toàn với cái ác, cái xấu. Chính vì lẽ đó, khi tiếp nhận sử thi Êđê, cụ
thể là khan Đăm Săn, ngƣời nghe dành rất nhiều thiện cảm đối với nhân
vật anh hùng. Hình tƣợng Đam Săn có sức sống lâu bền trong đời sống
văn hoá của ngƣời Ê Đê nói riêng, ngƣời Việt Nam nói chung là vì vậy.
1.4.2. Nghệ thuật so sánh tạo nên những hình ảnh độc đáo, thú
vị :
Một phần trong nghệ thuật của sử thi là tạo nên các hình ảnh đẹp
30
dựa trên cơ sở thói quen so sánh. Do đặc điểm tƣ duy của ngƣời xƣa bắt
nguồn từ những sự vật, hình ảnh trong tự nhiên. Nguyễn Văn Khoả trong
cuốn «Anh hùng ca Home » đã nhận định rằng, các ngƣời nghệ sĩ dân
gian bao giờ cũng tìm «một sự vật, một hình ảnh tương ứng, gần gụi với
hình thể, diện mạo bên ngoài hoặc có thể phản ánh được bản chất bên
trong của đối tượng miêu tả, rồi so sánh cho đối tượng miêu tả có sức
truyền cảm mạnh hơn, cụ thể hơn». Sử thi Iliat đã để lại trong ngƣời đọc
những ấn tƣợng đẹp bởi những hình ảnh rực rỡ.
Ngƣời Tây Nguyên có trí tƣởng tƣợng phong phú, óc liên tƣởng
khá thú vị. Có rất nhiều hình ảnh đẹp, có sức gợi tả thú vị trở thành độc
đáo trong kho tàng văn học không chỉ của đồng bào ngƣời dân tộc mà còn
cả của nền văn học việt nam.
So sánh đã tạo nên những chi tiết, hình ảnh thú vị, hóm hỉnh khi
miêu tả về những kẻ thù của Đăm Săn. Mtao Grự khi thua trận đƣợc miêu
tả nhƣ «khập khiễng như gà gẫy cánh lảo đảo như gà gẫy chân ». Mtao
Mxây lại đƣợc ví nhƣ «gà làng mới mọc cựa chân, chưa ai giẫm phải mà
gẫy mất cánh». Những so sánh này tạo nên vẻ nực cƣời, thảm hại, đáng
thƣơng của những tên tù trƣởng này khiến ngƣời đọc ngƣời nghe thấy vui
sƣớng, hả hê trƣớc thất bại của cái ác, cái xấu.
Đọc sử thi Tây Nguyên, ngƣời ta cũng bắt gặp nếp nhà rông của
Đăm Săn “dài hết một tiếng chuông ngân, hiên nhà dài bằng một hơi
ngựa chạy » vừa trữ tình, giàu chất thơ vừa có gì đó nguyên sơ, gần gũi
với cuộc sống. Bên cạnh đó một không khí cũng rất đỗi hùng tráng, sục
sôi của đoàn ngƣời cùng Đăm Săn đi đánh kẻ thù : « Đoàn người ra đi,
đông như bầy cà tong, đặc như bầy thiêu thân, ùn ùn như kiến, như mối »
nhƣ đƣợc tái hiện lại trƣớc mắt ngƣời đọc.
Đối tƣợng đem để so sánh có khi cụ thể trong thực tại : «bầy thiêu
thân», «kiến, mối », có khi không có hình khối cụ thể mà phải bằng cảm
nhận : «tiếng chuông ngân», «hơi ngựa chạy». Nghệ thuật so sánh trong
31
sử thi Êđê đã đạt tới mức độ khá nhuần nhuyễn, điêu liệu, tô điểm thêm
vẻ đẹp cho «viên ngọc quý» nhƣ lời ngƣời ta đã dùng để ca ngợi về khan
Đăm Săn. Tất cả những hình ảnh đẹp đẽ đó trƣờng tồn trong văn học nhƣ
những hình ảnh nên thơ, kỳ thú nhất, rực rỡ nhất.
So sánh là một yếu tố quan trọng trong nghệ thuật kể chuyện của
sử thi Tây Nguyên. Xuất phát từ khả năng nhận thức một cách trực quan
của ngƣời xƣa. Dù có phần thơ ngây, chất phác trong cách tƣ duy song
ngƣời đọc vẫn phải ghi nhận rằng chính nó đã làm nên những giá trị, sức
hấp dẫn lâu bền của các pho sử thi đối với đông đảo ngƣời nghe.
1.4. 3. Ngôn ngữ khoa trƣơng, phóng đại, mang tính kịch nâng
tầm vóc của ngƣời anh hùng trở nên phi thƣờng:
Trên nền cảnh của núi rừng Tây Nguyên kỳ vĩ, những lời kể sử thi
nhƣ hoà với khung cảnh thiên nhiên, đƣa ngƣời nghe về với một bầu
không khí xa xƣa hùng tráng, sục sôi. Sử thi tạo cho ngƣời nghe một bầu
không khí hùng tráng, những khung cảnh vừa mĩ lệ vừa dữ dội của một
thời kỳ lịch sử xa xƣa. Khi những cuộc giao tranh giữa các buôn làng, các
thành bang liên tục diễn ra. Những gì mà các pho sử thi miêu tả lại có thể
và chắc chắn là không có thực hoàn toàn trong đời sống con ngƣời nhƣng
ngƣời nghe hoàn toàn cảm thấy thoải mái, thú vị với chúng. Bởi nhƣ
Arixtôt đã nói trong cuốn Nghệ thuật thơ ca : « Mặc dầu những con
người mà hoạ sĩ Dơxixơ đã vẽ ra đều không thể tồn tại trong thực tế
nhưng cần rất coi trọng cái không thể có đó, vì phải vượt qua xa hơn cái
mẫu ». Chính cách nói «vượt xa hơn cái mẫu », phóng đại sự vật, lối diễn
tả khoa trƣơng làm cho các pho sử thi anh hùng mang một vẻ mạnh mẽ,
phi thƣờng. Hình tƣợng nghệ thuật đạt tới một tầm kích lớn lao mang
theo cả vẻ hoành tráng, kỳ vĩ của núi rừng Tây Nguyên. Cách kể phóng
đại sự vật đó kích thích sức tƣởng tƣợng của ngƣời nghe, ngƣời đọc biết
bao thế hệ. Nó là biểu hiện cho óc tƣởng tƣợng phong phú thể hiện qua
32
phong cách sáng tạo lý tƣởng hoá mang đậm chất lãng mạn của con ngƣời
xa xƣa. Ngƣời anh hùng, nhân vật trung tâm của sử thi đƣợc nâng lên một
tầm kích lớn lao, sánh ngang với vũ trụ. Hình tƣợng của ngƣời anh hùng
Đăm Săn đƣợc miêu tả qua vẻ ngoài đẹp đẽ tới mức siêu phàm. Những
hành động của chàng cũng phi thƣờng không kém với một nhịp điệu đều
đặn, nhịp nhàng giàu nhạc tính : « Chàng múa khiên, khiên quay như
chong chóng, tạo ra gió bão. Đam Săn lia đao, gió bay ù ù...Đam Săn
hướng khiên về bên trái tạo thành bão dập nát chuồng trâu, hướng về bên
phải tào thành gió làm đổ sập chuồng dê..hướng vào hàng rào buôn làng
Mtao Msei, buối sáng hàng rào bị bay, buổi chiều bị dồn vào sông suối
trôi theo dòng nước » - những hành động mang tính chất lý tƣởng, cƣờng
điệu hoá rất nhiều song lại tạo nên âm hƣởng và không khí bừng bừng
của những tác phẩm sử thi.
Một điểm đặc biệt trong ngôn ngữ miêu tả của sử thi Ê Đê đó là sự
chi tiết, tỉ mỉ tới từng đƣờng nét. Nhất là trong khi xây dựng hình ảnh
ngƣời anh hùng, tác giả dân gian đã đi vào miêu tả những đƣờng nét
chạm khắc rất. Khi miêu tả về Đăm Săn, ngƣời Ê Đê đã dụng công tới
từng chi tiết: " Tay trái chàng đeo vòng bạc, tay phải đeo vòng vàng.
Miệng chàng như gặm nhai hoa săm mluê, đôi môi đỏ như rau dja, mắt
long lanh như mắt trâu đực, thân thì trắng, bắp chân như có tạc....".
Trong sử thi Ê Đê, đặc biệt là khan Đăm Săn, hình ảnh ngƣời anh hùng,
những cô gái đẹp đều đƣợc miêu tả một cách tỉ mỉ. Cách tả đó phần nhiều
gợi sự liên tƣởng đối với ngƣời nghe, ngƣời đọc chứ không chỉ đơn thuần
phô diễn các chi tiết rồi ghép chúng lại theo những mảng khối nhất định.
Sự vật, con ngƣời đƣợc miêu tả vì vậy mà trở nên đẹp hơn, hấp dẫn hơn
rất nhiều.
Ngôn từ đối thoại vốn đƣợc coi là phƣơng tiện nghệ thuật chủ yếu
để tái tạo hành vi của con ngƣời và các giao tiếp tinh thần của con ngƣời
trong những mối quan hệ. Đối thoại là một trong những đối tƣợng miêu tả
33
quan trọng bậc nhất trong mọi thể loại văn học. Các phát ngôn của nhân
vật ở các tác phẩm tự sự thƣờng tồn tại dƣới dạng phát ngôn đối thoại
hoặc phát ngôn độc thoại. Sử thi, với tƣ cách là một loại hình tự sự dân
gian, cũng đã sử dụng ngôn từ đối thoại làm đối tƣợng để thể hiện các
quan hệ giao tiếp của nhân vật khác nhau. Ngôn từ đối thoại trong sử thi
thƣờng đơn giản, ít cầu kỳ hơn ngôn từ đối thoại trong các thể loại tự sự
của văn học thành văn. Sử thi Êđê cũng vậy, ngoài những lời để trao đổi,
nó cũng đã phần nào bày tỏ đƣợc những suy nghĩ, những quan điểm thậm
chí cả một phần cá tính của nhân vật.
Lời nói của nhân vật trƣớc tiên thể hiện một phần tâm lý, suy nghĩ
của nhân vật. Chẳng hạn, trong Đăm Săn, sau khi chàng chịu lấy Hơ Nhị
theo sự dàn xếp của ông Trời, tuy vậy chàng vẫn không khỏi hoài nghi:
”Nhưng ông ơi, có thật lấy Hơ Nhị, Hơ Bhi chân cháu không phải xuống
đất mà nô lệ vẫn có, chân cháu không chạy mà voi vẫn có không ông?”.
Lời đó khi đối thoại thực hiện chức năng giao tiếp thông thƣờng của nhân
vật với các đối tƣợng khác trong tác phẩm và đồng thời cũng thể hiện sự
suy nghĩ riêng của nhân vật.
Ở một cấp độ cao hơn, ngôn từ đối thoại trong tác phẩm văn học
không chỉ thể hiện chức năng thông tin bình thƣờng mà còn phải chứa
đựng trong đó những nét tiêu biểu về đặc trƣng tính cách, những cá tính
của ngƣời phát ngôn. Khi đó, ngôn từ đối thoại đƣợc mang tính chất cá
thể hoá. Ngôn từ đối thoại của nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê bƣớc
đầu có những tính cá thể hoá khá rõ rệt. Cái ngang tàng, hùng hồn trong
lời nói của Đam Săn càng làm tô đậm thêm tính cách của nhân vật. Lời
của Đăm Săn nói với ông Trời khi bị ép buộc phải lấy hai chị Hơ Nhị,
Hơbhi: " Có chết cháu cũng không lấy Hơ Nhị, cháu cũng không lấy Hơ
bhi", hay khi chàng quyết đi tìm nữ thần Mặt Trời để lấy nàng về làm vợ:
” Tôi đi đây để bắt nữ thần Mặt Trời. Có bắt được nàng tôi mới thực sự
trở thành một tù trưởng giàu có, chiêng lắm la nhiều, mới thật sự đâu đâu
34
cũng phải khuất phục tôi....Tôi đi đến đâu, ở đó tre le phải nghiêng mình,
tre lồ ô phải cúi rạp...Khắp các tù trưởng không một ai sánh tày tôi
nữa....Tôi nghe danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu
đâu cũng nói Nữ thần Mặt Trời là một cô gái xinh đẹp, đôi bắp chân
chàng tròn trạnh, váy nàng mặc tuyệt vời là đẹp. Vì vậy, các cô đừng
mong đợi tôi làm gì” đã thể hiện quyết tâm của ngƣời anh hùng với khát
vọng lớn lao đƣợc vang danh khắp nơi, muốn tất cả phải quy phục mình.
Đôi lúc, cái tôi đầy kiêu hãnh của chàng khi nói về sự giàu mạnh của
buôn làng, khẳng định vị trí cao nhất, không ai có thể sánh bằng. Những
lời nói thoát khỏi khuôn mẫu có sẵn, làm nổi lên suy nghĩ, tính cách của
các nhân vật trong tác phẩm
Trong các tác phẩm tự sự, vai trò của ngƣời kể chuyện khá quan
trọng dẫn dắt mạch phát triển của câu chuyện. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện
có khi ẩn giấu cái tôi chủ quan để dẫn dắt mạch truyện phát triển một
cách tự nhiên khách quan. Nhiều khi, ngƣời kể chuyện có thể đƣa ra
những nhận xét, những bình luận về sự kiện, nhân vật xuất hiện trong tác
phẩm để định hƣớng cho ngƣời đọc, ngƣời nghe đi theo một quan điểm
nào đó. Thậm chí, trong nhiều trƣờng hợp ngƣời kể chuyện đóng vai trò
là một nhân vật của tác phẩm (trƣờng hợp này không có trong sử thi)
Ngoài ngôn từ miêu tả, ngôn từ đối thoại của nhân vật, trong sử thi
Tây Nguyên còn có ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện thể hiện qua những
lời dẫn, lời kể. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện có khi đơn giản, khách quan
cũng có khi kèm theo những sắc thái biểu cảm nhất định. Đó có khi niềm
tự hào trƣớc sự giàu mạnh của buôn làng. Đó cũng có khi là âm hƣởng
ngợi ca chiến công của ngƣời tù trƣởng. Cũng có khi là sự xót thƣơng
trƣớc hi sinh của ngƣời anh hùng mà họ hằng yêu mến. Nhiều khi lại là
tiếng cƣời, mỉa mai trƣớc sự thất bại của kẻ thù....Rất nhiều sắc thái biểu
cảm đƣợc thể hiện qua ngôn ngữ của ngƣời kể chuyện càng làm cho các
35
pho sử thi thêm sống động và gần gũi, dễ đi vào lòng ngƣời nghe.
Riêng với sử thi Đăm Săn, có sự xuất hiện với tần số khá lớn của
các lời bình luận, cảm thán của ngƣời kể chuyện. Qua những đoạn miêu
tả, ngƣời dẫn chuyện không chỉ làm nhiệm vụ giới thiệu nhân vật mà còn
góp phần nói rõ đặc điểm , phẩm chất, tính chất hiện tƣợng, thể hiện quan
điểm thẩm mỹ của ngƣời kể. Tả về nhan sắc của Hơ nhị nhƣ sau: " Thân
hình nàng càng tuyệt vời là đẹp! Lưng nàng trơn bóng, ngực nàng nõn
nà. Ngón tay như lông nhím, đôi bắp chân thì tròn một màu vàng của hoa
ring đơng. Váy nàng cứ loang loáng như chớp, anh ánh như sét rọi trong
lên xóm làng những tia sáng muôn màu. Mắt nàng ngời sáng như một
ngôi sao đẹp nhất ban đêm. Tiếng nói khác nào tiếng chiêng Lào, tiếng
cười khác nào tiếng cồng hlong. Thật là một cô gái tuyệt vời xinh đẹp" .
Khi nói về sự giàu sang, hùng mạnh của ngƣời tù trƣởng: ” Quả là nhà
Đăm Săn rất giàu có” hay lúc miêu tả hình ảnh của ngƣời anh hùng trên
chiến trận: "Đăm Săn múa đao rất giỏi, múa khiên rất tài”... Những lời
bình luận, cảm thán thể hiện tâm lý ngợi ca, ngƣỡng mộ của ngƣời kể đối
với các nhân vật mà mình yêu quý.
Qua giọng kể của nghệ nhân Pôkhan, lời của ngƣời kể chuyện vừa
đóng vai trò dẫn dắt, lôi cuốn ngƣời đọc theo dõi từng chặng phát triển
của câu chuyện, hứng thú với những cuộc giao tranh quyết liệt của ngƣời
anh hùng. Đồng thời, nghe trong đó, ta cảm nhận đƣợc sự ngƣỡng mộ,
yêu mến và tự hào đối với ngƣời anh hùng của cả một cộng đồng thông
qua âm hƣởng ngợi ca trong từng lời cảm thán của ngƣời kể.
1.4.4. Công thức tả- kể mang tính chất lặp đi lặp lại:
Khi Bài ca chàng Đam Săn đƣợc xuất bản năm 1959 dựa trên bản
tiếng Pháp của L. Sabatier (1933), bản dịch tiếng Việt của Đào Tử Chí,
các nhà soạn giả đã lƣợc bỏ đi những đoạn lặp "các lời đều giống nhau và
36
đều lặp lại một cách vô vị". Cốt truyện vì thế mà ngắn gọn hơn rất nhiều.
Trong Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Võ Quang Nhơn đã nêu rõ
quan điểm của mình đối với việc lƣợc bỏ đó, ông cho rằng khi đó ngƣời
làm công tác khảo cứu, sƣu tầm đã đặt dấu ấn chủ quan lên những tác
phẩm quá nhiều và nhƣ thế là chƣa thoả đáng trong nghiên cứu khoa học.
Từ những pho sử thi lớn của nhân loại nhƣ Iliat và Ođixe chúng ta
đều có thể nhận thấy sự có mặt của một số câu thơ, đoạn thơ đƣợc lặp đi
lặp lại nhƣ một công thức. Những đoạn này thƣờng dùng để mô tả các sự
việc, dựng nên những hoàn cảnh nhất định: ngƣời anh hùng đƣợc so sánh
với « thần linh », khi họ xung trận đƣợc ví nhƣ ”con sƣ tử ”, « con chim
ƣng », chiếc khiên sáng bóng đƣợc so với « bức tƣờng thành vững
chắc »…Xuất phát từ nhu cầu truyền miệng, ngƣời viết phải làm sao để
ngƣời nghe nắm đƣợc nội dung câu chuyện, các tình tiết, diễn biến. Có
nhiều khi câu chuyện bị ngắt quãng vì quá dài. Và việc lặp đi lặp lại từ,
các hình ảnh cũng xuất từ yêu cầu gây ấn tƣợng với ngƣời đọc mà các đồ
vật, con ngƣời, sự việc, hiện tƣợng thƣờng đƣợc mô tả bằng các định ngữ
quen thuộc đó.
Thực tế, ta phải thừa nhận rằng việc sử dụng các công thức tả kể
một cách thƣờng xuyên, có tính chất lặp đi lặp lại là một đặc điểm quan
trọng trong nghệ thuật hát kể sử thi nói riêng và của văn học truyền miệng
nói chung của ngƣời xƣa. Do đặc thù của môi trƣờng diễn xƣớng, ngƣời
nghệ nhân sử dụng các đoạn tả kể mang tính lặp đi lặp lại. Đó nhƣ một
công thức đã có sẵn mà ngƣời nghệ nhân chỉ việc lắp ghép vào đó các
nhân vật, chi tiết khác nhau cho phù hợp với mỗi câu chuyện.
Khảo sát các văn bản sử thi Êđê ta gặp rất nhiều những đoạn nhƣ
vậy. Trong việc miêu tả hình tƣợng ngƣời anh hùng, tác giả dân gian
cũng sử dụng những đoạn tả kể lặp đi lặp lại. Điều đó đƣợc chấp nhận
nhƣ một nét trong nghệ thuật kể sử thi
Việc lặp lại đƣợc sử dụng trong sử thi Êđê ở nhiều cấp độ và quy
37
mô khác nhau. Trƣớc hêt. việc lặp đƣợc triển khai trong cả toàn bộ cấu
trúc của tác phẩm. Sử thi Đăm Săn lần lƣợt kể về các cuộc giao tranh giữa
các tù trƣởng: Mtao Anur, Mtao Grƣ, Mtao Msei, Mtao Kuăt, Mtao
Kông, Mtao Yang Êa, Mtao Yang Hruê (thần Mặt Trời). Tất cả các cuộc
giao tranh lần lƣợt đƣợc kể lại có một kiểu kết cấu, nhân vật gần giống
với nhau. Ban đầu, nhân vật chính đi vào rừng cùng buôn làng để lao
động, ngƣời vợ ở nhà bị kẻ xấu đến lừa làm khách trọ, bắt đi. Ngƣời anh
hùng nhận đƣợc tin báo thƣờng là do vợ tìm cách nhắn lại bèn đi tới tìm
kẻ thù. Trên đƣờng đi, chàng lƣu lại nhà bà Duôn Sun và cháu gái xinh
đẹp của bà nhƣ: Hbia Ring Djao, Hbia Ling Pang.... Ngƣời anh hùng ở lại
qua đêm, thăm dò kẻ thù. Hôm sau, chàng tới thẳng buôn làng của kẻ thù
và đòi lại vợ.
Công thức tả- kể trong sử thi Êđê không chỉ dừng lại ở phạm vi của
một tác phẩm mà thậm chí nó đƣợc dùng nhƣ những công thức có sẵn đối
với nhiều tác phẩm khác nhau. Đọc Khing Ju chúng ta sẽ bắt gặp cấu trúc
quen thuộc nhƣ ở Mdrông Đăm và cũng có nhiều nét tƣơng đồng với
Đăm Săn.
Việc lặp còn thể hiện cả trong những đoạn mô tả cuộc giao tranh
giữa Khing Jú với tù trƣởng Mtao Ak. Khing Ju: “ Hãy xuống đất đi,
Mtao Ak, để ta cùng cưỡi ngựa, cùng đua voi!”. Mtao Ak: ”Ta không
xuống. Nếu ta xuống cháu đâm ta thì sao?. Khing Ju: Tôi không thèm
đâm ông lúc ông đang xuống, nếu đâm thì tôi đã dâm con heo dưới đất
này rồi”. Mtao Ak: ”nếu ta nhảy xuống, Khing Ju có đâm ta không?” .
Khing Ju: Nếu tôi đâm ông thì tôi đã đâm chết con chó đang nằm dưới
sàn nhà này rồi....
Về cấu trúc, ngôn ngữ đầy tính kịch lẫn cả phong thái của các nhân
vật đều có nhiều điểm tƣơng đồng với đoạn đối thoại giữa Đăm Săn với
các tù trƣởng để giành lại nàng Hơ Nhị. Những đoạn lặp đi lặp lại đó ở
mỗi tác phẩm cũng có sự biến đổi đôi chút ở từ ngữ, trật tự, tuy nhiên về
38
cơ bản, chúng vẫn có nhiều điểm tƣơng đồng, liên tục tác động tới tâm trí
ngƣời nghe. Tuy nhiên, với riêng trƣờng hợp của Đăm Săn, dù yếu tố lặp
lại khá nhiều song chúng ta vẫn thấy trong những lời nói, cử chỉ, hành
động của nhân vật, tác giả dân gian đã cố gắng dùng những hình ảnh mới,
ngôn ngữ mới khác với các sử thi còn lại của Êđê. Bảy lần giao tranh của
Đăm Săn với các tù trƣởng đều giống nhau ở trong cấu trúc: Đăm săn
chửi mắng -> đối phƣơng không xuống sàn -> Đăm Săn doạ phá nhà ->
đối phƣơng chịu xuống nhƣng nói không đƣợc đâm khi đang xuống ->
Hai bên đánh nhau -> Đăm Săn mệt mỏi, hỏi ông Trời -> ông Trời bày
cho cách đánh -> Đăm Săn nghe theo -> Đam Săn chiến thắng kẻ thù.
Tuy cùng một cấu trúc đƣợc định sẵn nhƣng bảy cuộc giao tranh của sử
thi Đam Săn vẫn có những nét khác biệt. Nếu nhƣ trong sử thi Mdrong
Đăm, nhân vật chính bị mảnh áo sắt của Mtao Msei bay trúng gót chân và
bị chết thì sử thi Đam Săn, chàng đã chiến thắng mọi kẻ thù của mình, tất
nhiên, có sự trợ giúp nhất định của ông Trời. Vì vậy, có thể nói, trong tất
cả các nhân vật anh hùng của sử thi Ê Đê, Đăm Săn là hình tƣợng hoàn
hảo nhất, mạnh mẽ, tài năng nhất.
Hình anh chàng Đam Săn dù vẫn có những điểm tƣơng đồng với
các nhân vật anh hùng khác nhƣ Khing Ju, Đam Di....song sắc nét, nổi
trội hơn. Hình tƣợng Đam Săn là tập trung cao nhất, thậm chí ở mức độ lý
tƣởng tất cả các phẩm chất của ngƣời anh hùng. Khan Đam Săn vì thế mà
vừa đƣợc coi là tác phẩm tiêu biểu nhất lại vừa đƣợc coi là độc đáo nhất
trong kho tàng sử thi Êđê nói riêng, sử thi Tây Nguyên nói chung.
Nhƣ đã nói ở trên, sử thi Êđê, đặc biệt là Đam Săn, nhiều khi đã
thoát ly khỏi cấu trúc lặp kể thông thƣờng để có một hình tƣợng ngƣời
anh hùng mang tính chất cá biệt, rõ rệt. Vẻ đẹp của Đam Săn hiện lên vừa
mang cái chung của kiểu mẫu ngƣời tù trƣởng anh hùng vừa có nét độc
đáo, vƣợt trội hơn bất kỳ nhân vật nào trong cùng hệ thống sử thi Tây
Nguyên. Khi tả về Đam Săn ngoài những đoạn mẫu có sẵn để miêu tả
39
hành động của ngƣời anh hùng trong các cuộc giao tranh, tƣơng tự với
Khing Ju, Mdrông Đăm, tác giả dân gian đã biến đối một số chi tiết khiến
cho tác phẩm bớt đi rất nhiều sự lặp lại một cách đơn điệu và nhàm chán.
So sánh với các tác phẩm khác của sử thi Êđê, chúng ta thấy về mặt
cốt truyện, Đam Săn cũng có một sự thay đổi nhất định. Nếu nhƣ các tác
phẩm kia, ở đoạn đầu tiên, tác giả đã dành một thời lƣợng khá dài để kể
về sự ra đời, thời niên thiếu của các nhân vật anh hùng thì Đam Săn bắt
đầu ngay với việc hôn nhân của Đam Săn với Hơ Nhị. Cách kết thúc của
sử thi Đam Săn với cái chết của Đam Săn trên đƣờng rời khỏi chỗ của nữ
thần Mặt trời, sau khi lời cầu hôn của chàng bị khƣớc từ, cũng khác biệt
so với các tác phẩm kia. Chƣa kể tới những chi tiết khác biệt trong quá
trình xây dựng hình tƣợng nhân vật trung tâm. Đam Săn đƣợc miêu tả kỹ
càng hơn, rõ nét hơn với nhiều ngôn từ bóng bẩy, chau chuốt đạt tới kỹ
thuật điêu luyện hơn nhiều so với các nhân vật anh hùng khác.
Nhân vật trung tâm của sử thi Êđê chính là những ngƣời tù trƣởng
anh hùng, những ngƣời thủ lĩnh quân sự tài ba không chỉ trong chiến trận
mà còn xứng đáng là ngƣời chăm lo cho sự giàu mạnh của buôn làng.
Những nhân vật nhƣ Khing Ju, Xing Nhã, Mdrong Dăm và đặc biệt là
Đam Săn, mang lý tƣởng thẩm mỹ, tập trung toàn bộ khát vọng về sức
mạnh, tài năng và phẩm chất của cả cộng đồng. Các nhân vật này đã vƣợt
qua những khó khăn, nguy hiểm trong các cuộc chiến tranh với kẻ thù.
Dù có những nhân vật phải hi sinh tính mạng, nhƣng họ đã để lại một
cuộc đời huy hoàng, oanh liệt với những chiến công.
Sử thi Êđê, bên cạnh âm hƣởng ngợi ca cuộc sống của cộng đồng
còn tập trung đề cao hình tƣợng ngƣời anh hùng bằng những lời lẽ trang
trọng nhất, đẹp nhất. Nghệ thuật sử thi của ngƣời Ê Đê cũng đạt tới một
trình độ phát triển khá cao với những nhân vật, những hình ảnh đẹp và
40
sinh động khiến ta không khỏi ngỡ ngàng, thán phục.
CHƢƠNG II: HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT ANH HÙNG
TRONG SỬ THI MNÔNG
2.1. Sơ lƣợc về đời sống Dân tộc Mnông hiện còn khoảng 67.000 ngƣời. Cƣ trú chủ yếu ở
tỉnh Đắc Nông và một số vùng thuộc các tỉnh Đắc Lắc, Lâm Đồng và
Bình Phƣớc.
Tiếng nói của ngƣời Mnông thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khơ-me. Do
việc cƣ trú phân tán và sự hạn chế giao lƣu giữa các vùng đã phân chia
dân cƣ Mnông thành nhiều nhóm địa phƣơng nhƣ Gar, Nông, Chil,
Kuênh, Đíp, Bhiêt, Pơ râng, Preh, Rlâm, Si tô, Bu dông. Cộng đồng
Mnông có rất nhiều phƣơng ngữ tuy vậy sự khác biệt không đáng kể.
Đối với đời sống kinh tế của ngƣời Mnông, nƣơng rẫy chiếm vị trí
hàng đầu. Ruộng nƣớc chỉ có quanh những vùng có sông ngòi, ao hồ. Cây
lƣơng thực chính của đồng bào Mnông là cây lúa tẻ. Ngoài lúa, ngƣời ta
cũng trồng ngô, khoai, sắn làm lƣơng thực phụ. Bầu bí, dƣa, ngô, khoai
đƣợc trồng xem canh với lúa rẫy. Hàng năm việc xác định các vùng canh
tác là của nhiệm vụ của ngƣời đứng đầu làng và những ngƣời chủ gia
đình phối hợp với nhau. Mỗi làng đƣợc phép canh tác trên một phạm vi
nhất định, ranh giới đƣợc định dựa vào những đặc điểm tự nhiên nhƣ
sông suối ao hồ, bìa rừng, chân núi.
Ở một mức độ nào đó, đời sống sinh hoạt văn hoá của ngƣời
Mnông ít nhiều có những điểm tƣơng đồng với ngƣời Êđê. Những lễ hội
dân gian của ngƣời Mnông gắn liền với thế giới tâm linh, các nghi thức
quanh hoạt động sản xuất nông nghiệp, canh tác nƣơng rẫy. Dù còn sơ
khai, song ngƣời Mnông cũng đã hình thành quan niệm về một thế giới có
sự phân cấp thành ba thầng: trời, đất và dƣới mặt đất. Mỗi tầng lại có các
thần linh cai quản. Thế giới thần linh đã chi phối lên mọi mặt đời sống
của con ngƣời nhƣ với sản xuất, với thiên nhiên thậm chí trong cả quan
41
hệ giữa ngƣời với ngƣời. Mọi nghi thức xét xử hay hoà giải đều có sự
chứng giám của thần linh. Chính nghi thức này tạo nên sự cân bằng trong
quan hệ cộng đồng.
Cũng nhƣ dân tộc Êđê, ngƣời Mnông có một kho tàng văn học dân
gian phong phú, trong đó tiêu biểu nhất là các truyện thần thoại, truyện cổ
và đặc biệt là sử thi – Ot nrông, thể loại đƣợc diễn xƣớng bằng văn vần.
Cũng nhƣ Pokhan của ngƣời Êđê, những nghệ nhân hát kể sử thi Ot nrông
nắm giữ vai trò quan trọng trong việc lƣu truyền những tác phẩm dân gian
quý báu của cộng đồng dân tộc Mnông. Những ngƣời kể Ot nrông có trí
nhớ tài tình, khả năng kể chuyện hấp dẫn vì vậy nên đƣợc những ngƣời
trong buôn làng kính trọng song họ lại luôn luôn khiêm nhƣờng vì sợ
mình hát kể sử thi không hay sẽ khiến mọi ngƣời cƣời chê. Trong việc
sƣu tầm và gìn giữ những tác phẩm sử thi, những nghệ nhân này giữ vai
trò quan trọng. Họ là cầu nối giúp cho sử thi đến với những thế hệ sau
này.
Qua tìm hiểu của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, khái niệm
về sử thi của ngƣời Mnông chính là hình thức Ot nrong. Ot nrong là hình
thức hát kể những câu chuyện xa xƣa của cộng đồng, là tập hợp những
câu chuyện của ngƣời Mnông về vũ trụ, về đời sống vật chất và tinh thần.
Những câu chuyện đƣợc kết nối theo kiểu liên hoàn, tức là nó có chung
một hệ thống nhân vật. Ngƣời Mnông coi những nhân vật trong các tác
phẩm của mình là đại diện cho những phẩm chất lý tƣởng đã đƣợc mô tả:
đẹp nhƣ Bing, nhƣ Jong, khéo nhƣ Kông, nhƣ Glơng, giàu có nhƣ Bơng,
đƣợc nể phục nhƣ Tiang hay dũng cảm, gan dạ nhƣ Lêng, Mbong...
Trong cuốn Sử thi thần thoại Mnông của tác giả Đỗ Hồng Kỳ,
NXB Khoa học xã hội- năm 1996, đi theo hƣớng phân tích các kiểu nhân
vật trong sử thi Mnông dựa vào việc kiến giải về thế giới của ngƣời
Mnông với các tầng tồn tại khác nhau của con ngƣời: Tầng trời, tầng mặt
đất, tầng âm phủ. Với ba tầng tồn tại nhƣ vậy, thế giới nhân vật trong sử
42
thi Mnông rất đa dạng và phong phú. Qua điền dã, các nhà nghiên cứu
văn hoá dân gian đã sƣu tầm đƣợc rất nhiều tác phẩm khác nhau, trong đó
có hẳn một tác phẩm: Kể gia phả Ot Ndrong. Theo tác phẩm đó, phần lớn
các nhân vật của sử thi Mnông đều thuộc dòng con cháu mẹ Chau. Chỉ
tính riêng ở hàng con, mẹ Chau đã có tới 23 ngƣời, từ đó tiếp tục tản ra
các nhánh. Nhƣ vậy, trong kho tàng sử thi Mnông, số lƣợng nhân vật là
rất lớn mà chúng tôi chƣa có điều kiện khảo sát ở đây. Các nhân vật: cả
thần linh và con ngƣời đan cài vào nhau, tạo nên một thế giới sử thi sôi
động, ồn ào.
Giữa thế giới nhân vật sôi động đó, những nhân vật anh hùng
dƣờng nhƣ nối bật, là đề tài đƣợc ngƣời Mnông kể nhiều nhất:
”Buổi sáng kể chuyện nương rẫy
Buổi chiều kể chuyện củi nước
Buổi trưa kể chuyện anh hùng
Tối sáng trăng kể chuyện Ndu, Tiang....”
Câu chuyện về ngƣời anh hùng rất đỗi gần gũi, thân thiết đối với
ngƣời dân Mnông nhƣ những chuyện sinh hoạt sản xuất đời thƣờng. Cũng
nhƣ sử thi của ngƣời Ê Đê hay rộng hơn là sử thi của nhiều dân tộc khác
trên thế giới, sử thi của ngƣời Mnông cũng lấy những nhân vật anh hùng
làm trung tâm của mọi câu chuyện.
2.2. Ngƣời anh hùng chiến trận trong sử thi Mnông là nhân vật
trung tâm của tác phẩm
Khảo sát sơ bộ qua những tác phẩm sử thi của ngƣời Mnông nhƣ
Cướp chiêng cổ Bon Tiang, Lêng nghịch đá thần của Yang…chúng ta đều
nhận thấy sự xuất hiện của các nhân vật anh hùng trong đây có những vị
thế khác nhau. Các nhà nghiên cứu, căn cứ vào vai trò và vị thế của nhân
vật đối với cộng đồng, đã nhất trí ở việc chia các nhân vật anh hùng của
sử thi Mnông thành hai kiểu mẫu: anh hùng văn hoá và anh hùng chiến
43
trận.
Trong số các nhân vật quan trọng của hệ thống sử thi Mnông, nếu
xét đến vai trò là một dấu gạch nối cho xã hội từ mông muội, dã man đến
ngƣỡng của thời đại văn minh thì Tiang là nhân vật anh hùng văn hoá tiêu
biểu, đại diện cho sức mạnh văn hoá của cả cộng đồng. Nhân vật này
đƣợc dệt nên với một sự ra đời vô cùng kỳ lạ, chàng có nguồn gốc từ
nƣớc biển. Với rất nhiều lần đầu thai Tiang đã trở thành ngƣời thông thái
nhất đƣợc cả cộng đồng nể phục. Tiang đảm trách mọi công việc để kiến
tạo nên xã hội. Chàng tổ chức, phân chia mọi ngƣời thành các bon làng
khác nhau theo gia tộc mẫu hệ. Chàng phân chia nhiệm vụ lao động cho
mọi ngƣời, dạy mọi ngƣời biết làm ăn. Và cũng chính chàng, với sự thông
thái của mình, đã khai phá trí tuệ, văn hoá cho cả cộng đồng:
“Người Đip đến nhờ Tiang dạy mpring
Người Ding ở phía bắc đến nhờ Tiang dạy rma doih”
Tiang mang niềm tin yêu, ngƣỡng mộ của cả cộng đồng ngƣời
Mnông. Trong tiềm thức của đồng bào nơi đây, Tiang là biểu tƣợng về
ngƣời anh hùng văn hoá đã có công khai thiên lập địa, dạy cách làm ăn và
truyền cho họ cả tri thức về văn hoá, xã hội.
Bên cạnh đó, một nội dung quan trọng của các pho sử thi Mnông
cũng nhƣ trong sử thi của nhiều dân tộc khác đó là phản ánh các cuộc
giao tranh giữa các bon làng khác nhau. Ra đời trong giai đoạn lịch sử khi
mà các bộ tộc đã có sự phân chia nhất định thành về mặt tổ chức xã hội.
Hiện thực trong các pho sử thi nói đến chính là tình trạng giao tranh giữa
các buôn làng với nhau để phân định lại ranh giới, quyền lợi. Chiến tranh,
về một chừng mực nào đó, có mặt tích cực của nó, đó là thúc đẩy cho xã
hội tiến tới những hình thái tổ chức cao hơn và sắp xếp lại trật tự của nó.
Khi mà sự mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi giữa các cá nhân chƣa rõ
ràng, ở đó mới chỉ có các cuộc tranh chấp tập thể giữa bon làng này với
bon làng khác. Sứ mệnh của ngƣời anh hùng đó là đại diện cho tập thể,
44
chiến đấu với kẻ thù- thƣờng là những ngƣời ngoại tộc tới cƣớp bóc, phá
hoại. Họ là ngƣời đem tới chiến thắng, làm nên bản hùng ca về sức mạnh
của cộng đồng.
Với ngƣời Êđê, ngƣời anh hùng cũng chính là ngƣời tù trƣởng
hùng mạnh, giàu có. Còn với ngƣời Mnông, những ngƣời anh hùng chiến
trận đứng bên cạnh những ngƣời thủ lĩnh của bon làng, đƣợc coi nhƣ
những anh hùng văn hoá, để làm nên một sức mạnh tập thể. Vai trò của
hai kiểu mẫu anh hùng văn hoá và anh hùng chiến trận thể hiện trong
từng thời điểm khác nhau của lịch sử. Nhƣng những ngƣời dũng sĩ trong
sử thi Mnông mới thực sự làm nên linh hồn của cuộc chiến. Có thể kể tới
nhiều nhân vật nhƣ Lêng, Mbong, Yang…trong số đó, Lêng nổi lên nhƣ
một ngƣời anh hùng xuất chúng, với sức mạnh phi thƣờng.
Ra đời trong bối cảnh xã hội đã tƣơng đối ổn định về mặt thiết chế,
hình tƣợng ngƣời anh hùng, tù trƣởng giàu có trong sử thi Êđê là kết quả
của sự tích hợp giữa sức mạnh văn hoá và sức mạnh quân sự tạo nên. Còn
trong sử thi Mnông, do đặc điểm tình hình phát triển của xã hội, đang
trong giai đoạn hình thành chế độ, hình tƣợng ngƣời anh hùng văn hoá-
tƣơng ứng với chặng đầu của sự hình thành xã hội, giai đoạn sơ khai, lý
giải về nguồn gốc hình thành của sự vật và con ngƣời. Tiếp đến là kiểu
mẫu anh hùng trong các cuộc chiến tranh tƣơng ứng với chặng phát triển
tiếp theo của xã hội, khi đã có một sự phân hoá về lãnh thổ, quyền lực
giữa các bon làng. Trong sử thi Mnông, hiện thực lịch sử với các cuộc
chiến tranh giữa các bon làng là một nội dung chủ yếu và hình tƣợng
ngƣời anh hùng chiến trận, ngƣời dũng sĩ là nhân vật trung tâm của các
tác phẩm.
Trong khuôn khổ của luận văn này chỉ xét tới hình tƣợng những
ngƣời anh hung trong các cuộc chiến tranh tƣơng ứng với thể loại đề tài
chiến tranh, bảo vệ bộ tộc và tranh giành ngƣời đẹp. Hình tƣợng ngƣời
anh hùng văn hoá trong sử thi Mnông, chúng tôi sẽ có dịp khảo sát trong
45
quá trình nghiên cứu sau này.
2.3. Hình tƣợng ngƣời anh hùng chiến trận trong các tác phẩm
sử thi Mnông
2.3.1. Nguồn gốc của những ngƣời anh hùng chiến trận Ngƣời dân xƣa kia, đặc biệt trong thƣở bình minh của nhân loại,
luôn cố gắng giải thích về thế giới. Tuy vậy, vẫn có nhiều quá nhiều điều
nằm ngoài tầm nhận thức của họ. Tác giả dân gian cố gắng khoác lên
nhân vật một màn sƣơng huyền thoại của thế giới thần linh, kỳ ảo. Vì thế
mà những nhân vật dũng sĩ trong sử thi Mnông, nhƣ Lêng, Mbong…dù là
con của ngƣời trần nhƣng đều đƣợc hƣ cấu thêm vẻ hoang đƣờng.
Sử thi Mnông, các nhân vật đều có một nguồn gốc nhất định. Điều
này thể hiện qua ngay tên gọn nhƣ Lêng con Rung, Ndu con Srât…sự ra
đời của các nhân vật trung tâm của cả hệ thống sử thi đƣợc kể đến ít
nhiều trong một số cốt truyện liên hoàn. Nhân vật Lêng trong sử thi
Mnông có một sự ra đời kỳ lạ. Chàng là con của mẹ…Từ lúc mới vài
ngày tuổi đã ngỗ nghịch, ngang tàn. “ dọc ngang nào biết trên đầu có ai”,
cậu bé Lêng mới vài ngày tuổi đã bỏ nhà rời mẹ để đi bắng Bing, Jông
những ngƣời phụ nữ đẹp về làm vợ cho Yang sau khi nhận lời thách đấu
của Yang. Đói lả, cậu bé chết mòn mỏi trong rừng sâu và đƣợc các
thần…cho vào đúc lại thành. Từ đó Lêng có hình dáng, sức vóc mạnh mẽ
không mấy ai sánh nổi. Cậu bé Lêng trở thành chàng dũng sĩ mạnh mẽ
nhất cộng đồng.
Sự hình thành của một Lêng- dũng sĩ là một phần nội dung quan
trọng đƣợc trong nhiều tác phẩm nrông nhƣ: Đẻ Lêng, Lêng nghịch đá
thần của Yang…..Sự ra đời kỳ lạ là một dấu hiệu báo trƣớc về một cuộc
đời phi thƣờng. Các nhân vật này đƣợc bao quanh mình một vầng hào
quang trong suốt cả cuộc đời: từ khi sinh ra, trƣởng thành, lập chiến công
cho đến lúc lìa đời. Đó cũng là một điểm tƣơng đồng giữa sử thi của
46
nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới
2.3.2. Vẻ đẹp và tài năng xuất chúng của những ngƣời anh
hùng chiến trận trong sử thi Mnông
Kho tàng Ndrông của ngƣời Mnông có đƣợc sức hấp dẫn nhờ vào
những hình tƣợng ngƣời dũng sĩ. Những nhân vật anh hùng chiến trận là
những ngƣời có sức khoẻ, tài giỏi phi thƣờng. Trong đó nhân vật Lêng là
tập trung cao nhất những phẩm chất của ngƣời anh hùng chiến trận trong
sử thi Mnông.
Trong tiếng Mnông, lêng có nghĩa là nƣớc tràn. Tên gọi đó thật phù
hợp với nhân vật này từ tính cách đến sức mạnh, tài năng. Đến thần linh
cũng phải thừa nhận rằng “Sức của Lêng mạnh hơn cả trăm người”
Những ngƣời dũng sĩ trong sử thi Mnông hiện lên với vẻ đẹp rắn
rỏi, mạnh mẽ:
“ Người của Lêng cứng như hòn đá
Người của Lêng cứng như thanh sắt”
Những hành động của Lêng thật phi thƣờng:
“Lêng bỏ sẵn trong người ngọn lửa
Lêng vỗ đùi ra ngay hạt muối
Lấy trong người ra lửa mặt trời”
Còn trang phục của Lêng cũng đƣợc chăm chút khá cầu kỳ. Nó phù
hợp với vẻ đẹp đẽ , sang trọng, rất "ra vẻ anh hùng" của nhân vật:
“Lêng búi tóc cắm lá đuôi công
Lông đuôi công nở to bằng nia
Lêng cột tóc bằng chiếc khăn đỏ
Lêng mặc vào chiếc áo màu xanh
Lêng đeo cổ ba chục xâu cườm
…Đeo xâu cườm cùng màu vòng cổ
Đeo bông ngà hợp với gò má…”
Vũ khí của Lêng cũng đƣợc miêu tả với một tầm kích khác thƣờng,
47
nó chỉ dành cho ngƣời có sức khoẻ hơn ngƣời mới dùng đƣợc:
“ Lêng mang rựa to bằng máng tre
Lêng mang rựa to bằng suối Rlâp
Lêng mang khiên to bằng bậc thác...”
Không chỉ có thế, phong cách thần thái của những nhân vật anh
hùng này cũng thật khác thƣờng. Bƣớc đi của Lêng đƣợc miêu tả ”nhẹ
nhàng như sư tử con”, chàng xuống thang tựa ” như một lằn sét”.
Bên cạnh dáng vóc đẹp đẽ khác thƣờng, nhân vật anh hùng còn có
những tính cách vƣợt trội khác hẳn với những ngƣời xung quanh. Trong
cuốn Sử thi thần thoại Mnông, tác giả Đỗ Hồng Kỳ phân định sự phát
triển tính cách của nhân vật anh hùng trong sử thi thành hai giai đoạn:
tuổi ấu thơ và khi đã trƣởng thành. Mặc dù phân chia nhƣ vậy nhƣng ở
mỗi giai đoạn, tính cách của các nhân vật không có sự khác nhau về bản
chất. Những biểu hiện của ngƣời anh hùng trong giai đoạn đầu là sự báo
trƣớc tính cách của anh ta trong giai đoạn trƣởng thành mà thôi. Tính
cách của ngƣời anh hùng đều có một sự nhất quán nhất định đó là sự
mạnh mẽ, dữ dội khác hẳn với những ngƣời bình thƣờng khác.
Tuổi ấu thơ của Lêng, bên cạnh sức khoẻ hơn ngƣời bình thƣờng
còn có tính tình ngỗ ngƣợc, quậy phá:
Lêng chơi ngoài sân giết chết lợn nái
Lêng chơi sân làng, chém chết người
Ai can ngăn như hối Lêng làm
Ai khuyên can như giục Lêng làm”
Chơi chán những trò phá phách nghịch ngợm rồi, Lêng bắt đầu
quan tâm tò mò đến sự giàu có của Yang và rồi cậu bé cũng muốn mình
đƣợc sang giàu nhƣ thế bất chấp Yang khuyên can. Lêng lục tìm đƣợc đá
thần của Yang, thứ nắm giữ sinh mệnh, sự giàu có của anh. Mọi ngƣời
khuyên can thế nào cũng không làm cho Lêng trả lại đá cho Yang, kể cả
48
dụ dỗ, doạ nạt. Cái khí phách quật cƣờng, khát vọng trở thành ngƣời ƣu
tú nhất, giàu sang nhất đã thôi thúc một đứa trẻ trở thành một ngƣời anh
hùng mạnh mẽ,
Đến khi Yang cầu khẩn không đƣợc bèn túm cổ đánh Lêng để cƣớp
lại đá. Dù mọi ngƣời tìm mọi cách năn nỉ, chiều chuộng, Lêng vẫn khóc
lóc, ăn vạ không ngớt:
” Lêng kêu khóc bảy đêm tám ngày
Lêng khóc vang bon Guih Bu Lung
Lêng khóc vang bon Tung Bu Nga”
Nhưng chỉ sau câu thách đố của Yang:
” Nếu Lêng này muốn to hơn Yang
Lêng đi cướp này Bing con Jri
Lêng đi cướp nàng Bông con Jri”
Tính cách mạnh mẽ, quyết liệt vốn đã có sẵn trong ngƣời Lêng từ
lúc nhỏ. Sau khi không giành đƣợc đá thần để trở thành ”ngƣời sang
giàu”, chỉ vì lời thách đố của Yang mà cậu bé sẵn sàng bỏ nhà cửa, băng
rừng đi tìm bắt đƣợc hai nàng Bing, Jông về.
Tính cách của của ngƣời dũng sĩ thật mãnh liệt, dữ dội, phi thƣờng.
Nhiều khi họ bƣớng bỉnh, ngang ngƣợc đến độ thái quá và không chịu bất
kỳ một sự kiềm toả nào, một quy tắc nào. Nhƣng trên tất cả mọi điều,
cộng đồng vẫn yêu mến, cảm phục vì chính họ đã dũng cảm bảo vệ mọi
ngƣời trƣớc sự xâm hại của kẻ thù.
2.3.3. Nhân vật anh hùng chiến trận trong những mối quan hệ
với cộng đồng xã hội
2.2..3.1. Hình tƣợng ngƣời anh hùng chiến trận trong các cuộc
giao tranh quyết liệt
Hiện thực xã hội đƣợc phản ánh qua hệ thống sử thi Ndrông của
ngƣời Mnông đó là tình trạng các cuộc giao tranh giữa các bon làng liên
49
tục xảy ra. Nó là một phần quan trọng của đời sống con ngƣời thời kỳ đó.
Với nội dung nhƣ vậy, sử thi Mnông tập trung mô tả hình tƣợng ngƣời
anh hùng trong các cuộc chiến ác liệt đó.
Chiến tranh trong sử thi Mnông xảy ra do rất nhiều nguyên nhân
khác nhau. Có khi là do các nhân vật thổi ngải, chuyển ma lai cho nhau.
Có khi những ngƣời của bon làng Tiang đi lấy lại các vật quý nhƣ đàn
ndring, Yang di lấy ống bạc tƣợng ngƣời, Lêng, Lông, Mbong đi lấy ché
con voi trắng...vv. Một nguyên nhân cũng rất quan trọng đó là việc bắt
cóc phụ nữ nhƣ Lêng đi cƣớp nàng Bing con Jri. Nhiều khi nguyên nhân
để xảy ra các cuộc chiến tranh đó là các gia tộc đi chiếm đoạt đồ vật của
nhau: Lêng đi cƣớp hoa bạc, hoa đồng, những ngƣời bon Ndu con Srât đi
cƣớp chiêng cổ của bon Tiăng. Xuất phát từ đặc điểm xã hội. thời điểm
mà tác phẩm ra đời có sự mâu thuẫn về quyền lợi, tình trạng cƣớp bóc,
tranh giành giữa các bon làng với nhau. Theo tác giả Đỗ Hồng Kỳ trong
sử thi Mnông có tới khoảng 100 trận đánh nhau. Trong đó đánh nhau vì
bắt cóc nam nữ và bon làng Tiăng con Rong đi giành lại các kỷ vật chiếm
tới khoảng 60%.
Trong sử thi Cướp chiêng cổ bon Tiăng, những ngƣời đàn ông
trong làng sau khi nằm mơ thấy anh em của mình ở xa gặp nguy hiểm, họ
sốt ruột lên đƣờng tới thăm. Những ngƣời ở lại bon làng đem chiêng quý
ra đánh, tiếng chuông vang động tới những bon làng khác làm những
ngƣời lạ nảy sinh lòng tham. Họ tới làng lừa cƣớp chiêng, bắt những
ngƣời phụ nữ của làng theo. Những ngƣời đàn ông của bon Tiăng biết
chuyện liền đi trả thù, giành lại chiêng cổ và những ngƣời phụ nữ của bon
làng mình.
Nhƣng cuộc chiến trong sử thi Mnông là sự gắn kết của một tập thế
gồm nhiều cá nhân xuất sắc, mỗi ngƣời mỗi tài năng, thế mạnh:
“ Họ tập trung toàn người anh hùng
Họ tập trung toàn người can đảm
50
Họ tập trung toàn người gan dạ
Người tay giỏi bắt con cào cào
Người tay giỏi phóng lao đâm hổ
Người tay giỏi cầm gươm chém người
Gồm những người nhanh như con trăn
Gồm những người hung như thần Sét
Gồm những người khoẻ như con trâu rừng”
( Cƣớp chiêng cổ bon Tiang, tr 862)
Cũng tƣơng tự nhƣ vậy phía phe Ndu con Srât cũng đƣợc nhắc tới
nhƣ một tập hợp những ngƣời anh hùng, ngang sức ngang tài với bon
Tiang:
“Đoàn con Srât toàn ngưòi can đảm
Đoàn con Srât toàn người gan dạ
Người tài giỏi bắt được cào cào
Người tài giỏi phóng lao đâm hổ ”
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng; tr 951)
Các nhân vật tham gia vào những cuộc chiến khốc liệt giữa bon
Tiang và những ngƣời thuộc phe Ndu con Srât đều đƣợc gọi chung bằng
đại từ “họ”. Tính chất tập thể đƣợc làm rõ qua những hành động:
“ Họ vỗ đùi lấy ra hạt muối
Lấy trong người có lửa mặt trời
Họ hét to miệng phun ra lửa”
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng, tr 881)
Cuộc chiến giữa bon Tiang và đoàn con Srât diễn ra cam go, khốc
liệt, ngang sức ngang tài.
“ Họ vật nhau tung lên trên bờ
Họ vật nhau lăn lộn nhiều vòng”
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng; tr 937)
Hai bên đều có những lúc tiến lúc lùi, có khi giành thắng thế, có
51
khi phải vừa đánh vừa lui, tháo chạy. Có lúc những ngƣời của bon Tiang
truy kích đối phƣơng ráo riết. Có lúc họ lại bị những ngƣời đoàn con Srât
đuổi lại. Nhiều phen bất phân thắng bại, các thần cũng phải can thiệp vào
cục diện của cuộc chiến tranh. Phần thắng cuối cùng thuộc về đoàn bon
Tiang, những ngƣời con Srât bị bắt, bị xỏ kim qua mũi, bị giết chết.
Trong sử thi Mnông, ngƣời đọc khó có thể nhận ra đƣợc sự khác
biệt giữa hai bên đối thủ. Ấn tƣợng giữa thiện và ác, chính nghĩa và gian
tà không rõ rệt. Nguyên nhân của cuộc chiến tranh đều xuất phát từ hai
phía, hành động và tính chất, mục đích của hai bên là nhƣ nhau. Mặc dù,
trong tâm thức, ngƣời nghệ nhân Mnông dành thiện cảm cho bon Tiăng,
một bon giàu có và hùng mạnh hơn ngƣời. Mối quan hệ giữa bon Tiăng
với các bon làng khác luôn luôn có sự biến đổi vai trò: có khi họ là kẻ
thù, đánh đuổi nhau hết sức ác liệt song lại có khi trở thành đồng minh
cùng đi đánh một kẻ thù khác.
Nhƣ đã nói ở trên, chiến tranh trong sử thi Mnông là những cuộc
chiến tập thể với rất nhiều những nhân vật tài giỏi, hùng mạnh. Hình ảnh
chàng dũng sĩ Lêng đƣợc xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm. Đặc
biệt có những tác phẩm vai trò của ngƣời dũng sĩ này đƣợc xây dƣng một
cách nổi bật. Dù vậy, bên cạnh Lêng, còn có rất nhiều những ngƣời anh
hùng khác. Họ hợp thành sức mạnh chung của cả cộng đồng và điều đó
mới quyết định phần thắng trong những cuộc giao tranh.
Lực lƣợng tham gia các cuộc giao tranh, đƣợc miêu tả với tƣ cách
là những nhân vật đóng vai trò nhất định, của sử thi Mnông rất nhiều, hơn
hẳn so với sử thi Êđê. Các cuộc giao tranh trong sử thi Êđê chỉ miêu tả
hai cá nhân, hai tù trƣởng đại diện cho hai bên, những ngƣời quyết định
cuộc chiến, các nhân vật khác hầu nhƣ vắng bóng và không có giá trị
quyết định trừ nhân vật ông Trời, tuyến sinh lực của ngƣời anh hùng. Các
cuộc chiến trong sử thi Mnông là cuộc chiến của cả một tập thể. Ở đó vai
52
trò của những ngƣời anh hùng không tuyệt đối nhƣ trong sử thi Êđê.
Cách miêu tả nhân vật trong sử thi Tây Nguyên dù còn nhiều ƣớc
lệ, tƣợng trƣng và dập khuôn công thức nhƣng đã phần nào làm hiện rõ
đƣợc chân dung của những ngƣời anh hùng thật đẹp, oai hùng khác
thƣờng. Đặc biệt trong các cuộc giao tranh, hình ảnh ngƣời anh hùng đẹp
hơn bao giờ hết. Ở đó sức mạnh, ý chí và lòng dũng cảm là những phẩm
chất luôn đƣợc con ngƣời đề cao, tinh thần thƣợng võ là khát vọng mà
cộng đồng ngƣời Tây Nguyên gửi trọn vẹn vào những nhân vật anh hùng
của mình.
Các cuộc chiến tranh đƣợc tái hiện trong sử thi Êđê, chúng ta
không nhìn thấy sự khốc liệt, tàn ác hay những cảnh đầu rơi máu chảy.
Chúng kết thúc ngay khi những ngƣời thủ lĩnh chấm dứt cuộc tranh tài và
những ngƣời thuộc phe bại trận tình nguyện đi theo kẻ chiến thắng. Sử thi
Mnông dƣờng nhƣ có quy mô rộng lớn hơn sử thi Êđê với những cảnh
giao tranh tập thể hết sức ác liệt. Sử thi Mnông thƣờng kết thúc với thắng
lợi thuộc về bon Tiăng. Tuy nhiên, đây không phải là cách kết thúc có
hậu nhƣ trong truyện cổ tích, khi mà tác giả dân gian muốn đề cao sự
chiến thắng của cái thiện trƣớc cái ác. Cái kết thúc trong sử thi Mnông
không nhấn mạnh về chiến thắng của cái chính nghĩa trƣớc cái phi nghĩa
mà ngầm sau đó, phản ánh một sự thực lịch sử qua cách nhìn của ngƣời
Mnông xƣa kia: kẻ mạnh hơn sẽ hạ gục kẻ yếu, bên nào đƣợc thần linh
ủng hộ nhiều bên đó sẽ giành chiến thắng.
Nhìn chung, các cuộc chiến tranh trong sử thi Tây Nguyên, dù là đề
tài phổ biến nhất, là cái nền để thể hiện hình ảnh ngƣời thủ lĩnh tài ba,
dũng cảm song chƣa có đƣợc cái không khí hùng tráng, vĩ đại nhƣ các
cuộc chiến tranh trong sử thi thế giới. Sau những trận chiến, không để lại
những hậu quả nặng nề đau xót, không có cảnh tàn phá dữ dội, thây
ngƣời, xác ngựa ngổn ngang.
2.2.3.2. Ngƣời anh hùng trong những mối quan hệ với cộng
53
đồng và thế giới thần linh
Sử thi Mnông, ngoài những nhân vật đứng đầu bon làng có nhiệm
vụ cai quản và sắp xếp xã hội theo một thiết chế nhất định, thƣờng mang
ý nghĩa nhƣ những ngƣời anh hùng văn hoá nhƣ Tiang, Yang…còn phải
nhắc tới những nhân vật anh hùng, những ngƣời dũng sĩ của chiến trận.
Họ chính là linh hồn của cuộc chiến.
Xuất phát từ thời điểm xã hội mà sử thi Mnông ra đời: xã hội thị
tộc- bộ lạc, với tình trạng tranh chấp lãnh thổ, tài sản giữa các bon làng
xảy ra thƣờng xuyên. Vai trò của ngƣời anh hùng văn hoá tập trung vào
việc cai quản bộ tộc. Bên cạnh họ, trong các bon làng đều phải có những
ngƣời dũng sĩ tài giỏi, thiện chiến sẵn sàng bảo vệ bon làng trong những
cuộc giao tranh với các bộ tộc khác. Ở giai đoạn lịch sử với các cuộc
chiến tranh là thƣờng xuyên, vai trò của ngƣời dũng sĩ anh hùng hơn khi
nào hết đƣợc đề cao. Họ là thành luỹ để giữ gìn sự tồn vong của cộng
đồng trƣớc kẻ thù, họ là cơ sở cho sức mạnh của cộng đồng. Tuy vậy, họ
không là ngƣời đứng đầu bộ tộc. Sức mạnh của họ chỉ nhằm góp phần
vào cái chung của cả cộng đồng.
Ở sử thi Mnông, sự phân hoá của xã hội hầu nhƣ còn rất sơ khai.
Sự tập trung vai trò quyền lực của cộng đồng vào một cá nhân gần nhƣ
chƣa hề có. Tính chất tập thể của sử thi Mnông bộc lộ rõ ràng, vai trò độc
tôn cá nhân không rõ rệt nhƣ trong sử thi Êđê.
Cũng nhƣ nhiều sử thi của các dân tộc khác, trong sử thi Mnông,
thần linh cũng là một nhân vật quan trọng tham gia vào đời sống của con
ngƣời. Đọc sử thi Mnông, chúng ta đƣợc sống trong cái không khí sôi
sục của những cuộc giao tranh với không khí nửa hƣ, nửa thực. Ở đó có
cả sức mạnh của những dũng sĩ phi thƣờng và cả những vị thần che chở
cho các bon làng. Các vị thần trong sử thi Mnông chiếm vị trí khá đông
đảo: Ting, Mbong con Jri (thần cây Đa), hai nữ thần Deh, Dai là em của
thần Ting, Mbong; thần Krong, Dong là các thần âm thanh chiêng, đồng
54
la, thần Vah, Vănh là các nữ thần ngải….Mỗi thần lại có những chức
năng riêng của mình: thần thì trông giữ chân trời (Deh, Dai), thần trông
giữ bầu trời (Bing, Jông con Lêt), thần Kêng, Kăng con Unh lại làm
nhiệm vụ coi giữ lửa...Điều đặc biệt thú vị của sử thi Mnông đó là sự đa
dạng về đặc điểm tính cách của thế giới thần linh. Cũng nhƣ con ngƣời,
thần linh của sử thi Mnông cũng có những cá tính nhất định. Ngƣời trần
có tính xấu nào, thần linh cũng có nhƣ vậy. Trong đó, nổi trội nhất hơn cả
phải kể đến Lêt, Mai- hai nhân vật thần linh xuất hiện nhiều nhất trong sử
thi Mnông. Hành động của hai thần này thƣờng là nguyên nhân gieo hiềm
khích cho con ngƣời và các thần linh khác. Nhiều khi họ chính là nguyên
nhân của những cuộc giao tranh rất ác liệt đã đƣợc sử thi mô tả. Hay nhƣ
hai nữ thần Deh, Dai mặc dù đƣợc thần Ting giao cho theo dõi hành vi
của Lêt và Mai nhƣng vì bản tính cả tin mà họ thƣờng không làm tròn
bổn phận của mình. Thế giới thần linh trong sử thi Mnông hết sức sống
động, đan cài với thế giới con ngƣời làm nên bức tranh của sử thi Mnông
trở nên náo nhiệt, sinh động.
Dù có gần gũi với đến vậy nhƣng đối với những ngƣời Mnông,
thần linh vẫn là lực lƣợng nắm giữ các quyền năng nhất định quyết định
đến đời sống của con ngƣời. Cũng tƣơng tự nhƣ ngƣời Êđê, khi bắt đầu ra
trận, công việc đầu tiên mà những ngƣời Mnông phải làm đó là khấn các
thần linh đi theo, phù hộ mình:
“Ta khấn vái các vị thần linh
Khấn mời thần ba chân ba tay
Khấn mời thần ba tay sáu chân
Mời thần rừng chin tay mười chân
Mời các thần cùng đi với ta
Mời các thần theo giúp cho Sung
Mời các thần đi giúp cho Trang”
55
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng)
Cướp chiêng cổ bon Tiăng kể về cuộc chiến tranh giữa một bên là
ngƣời phƣơng bắc gồm có Lêng con Rung, Mbong con Tiang…(những
ngƣời này của bon Tiang) và một bên là những ngƣời phƣơng Nam gồm
có Ndu con Srât, Yang con Srăng. Trong cuộc chiến này, hai bên đều có
một lực lƣợng thần linh ủng hộ. Về phía ngƣời phƣơng bắc đƣợc sự che
chở của các thần: Bing Jông, thần Lêt Mai, thần Deh Dai, ngƣời phƣơng
nam lại đƣợc các thần Tet Klong giúp sức. Ngoài ra, đi đến đâu, những
ngƣời anh hùng chiến trận trong sử thi Mnông còn gặp các vị thần Nƣớc,
thần Rừng, thần gốc cây đa…
Vai trò của thần linh trong sử thi của ngƣời Mnông khá bình đẳng
với con ngƣời, dù những họ vẫn mang sức mạnh của thế giới siêu nhiên.
Họ cũng có những tính xấu, đôi khi tham lợi thậm chí còn gây hại cho
chính ngƣời mà mình phải che chở.
Quang cảnh thần linh chuẩn bị ra trận theo đoàn quân phƣơng bắc,
những ngƣời bon Tiăng, cũng đƣợc ngƣời Mnông miêu tả hết sức sinh
động. Các thần “ chu đáo, tƣơm tất” giống ngƣời trần:
“Thần mang theo áo nước áo sương
Mang áo sương để chống nóng lửa
Mang cơm khô để ăn theo suối
Mang cơm nếp để ăn theo đường »
Cuộc chiến của hai bên rất ác liệt và các thần cũng tham chiến nhƣ
những ngƣời trong bon làng :
« Thần hai bên lời qua tiếng lại
Thần cãi nhau đến sôi nước bọt »
Cãi nhau không phân thắng bại, các vị thần cũng dùng vũ lực nhƣ
ngƣời trần :
« Thần Lêt đẩy Tet Klong ngã ngửa
Thần Mai đẩy Sung Klong ngã ngửa
56
Thần Krăch Krong lấy cây đánh tiếp
Thần Srêm Srai lấy cây đánh tiếp »
Kết thúc cuộc giao tranh cũng là lúc các thần hoàn tất nhiệm vụ của
mình. Thần của phe bại trận thì giã biệt những ngƣời mình yểm trợ nhƣ
Ndu con Srât, Yang con Srăng, Ting con Srât…và thừa nhận thất bại của
mình :
« Thần chúng tôi chịu thua họ rồi
Thần chúng tôi đành phải rút về »
Thái độ của ngƣời Mnông đối với các vị thần thể hiện qua sử thi
cũng hết sức đơn giản, bình đẳng, không có sự kiêng dè sợ sệt kiểu “kính
nhi viễn chi”. Nhiều khi, quan hệ giữa hai bên khá sòng phẳng, “mặc cả”
rõ ràng:
“ Giúp chúng tôi đánh thắng kẻ thù
Chiến thắng về ta cúng ché rượu
Chiến thắng về ta cúng trâu to
Ăn con lợn ta cúng thịt đùi
Ăn con trâu ta cúng thịt vai
Ăn con gà ta cúng thịt ngực
.........................................
Có ống tép mời thần ăn trước
Có rượu ngon mời thần ăn trước”
(cƣớp chiêng cổ, 6720, tr 887)
Thậm chí, đôi lúc họ còn « bất kính » doạ dẫm cả thần linh nhƣ
Yang đã từng doạ:
“Ta cầu khấn thần chiêng cổ này
Nay ta lấ chiêng cổ xuống đánh
Uống nửa đêm phải vang tiếng chuông
Uống nửa đêm phải mang tiếng cồng
…Nếu chiêng không vang đến nam bắc
57
Nếu chiêng không vang đến đông tây
Nếu chiêng không vang đến R‟ ông Nong
Ta sẽ bán chiêng cổ đổi bạc
Ta sẽ bán chiêng cổ đổi kho”
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng, 2545- 2563)
Lời đe doạ của Yang khiến cho thần linh cũng phải đắn đo, cân
nhắc, phải e sợ, lúng túng:
“ Nếu trái lời anh Tiang không được
Trái lời Tiang có chuyện xảy ra
Trái lời Tiang có chuyện rủi ro »
Thần linh cũng có những suy nghĩ, những đắn đo tính toán thiệt
hơn hệt nhƣ con ngƣời. Cái tâm lý « ăn cây nào rào cây đấy » cũng là một
tâm lý rất « ngƣời » mà các thần linh trong sử thi Mnông thƣờng có.
Cuộc chiến trong sử thi Mnông, tƣơng tự nhƣ trong sử thi Iliat, là
cuộc chiến hai tầng : một của thần linh, một là những ngƣời trần mà họ
bảo trợ. Dù không can thiệp sâu nhƣ trong sử thi Iliat, nhƣng các vị thần
trong sử thi Mnông cũng có mặt từ đầu tới cuối tác phẩm, chứng kiến
nguyên nhân xảy ra cuộc chiến, diễn biến của cuộc chiến cho tới hết. Đôi
khi chính những tật xấu của họ là nguyên nhân của mâu thuẫn đối với
mọi ngƣời và làm nổ ra các cuộc chiến tranh. Sử thi Mnông rõ ràng có xu
hƣớng đời sống hoá các nhân vật thần linh. Ranh giới giữa thần linh và
con ngƣời gần nhƣ bị làm mờ đi. Các nhân vật thần linh có mặt trong mọi
biến cố của con ngƣời. Đồng thời rất gần gũi và có những suy nghĩ cũng
«thƣờng tình » nhƣ con ngƣời.
Qua mối quan hệ với các thế lực thần linh, phần nào cho chúng ta
thấy đƣợc vị thế của nhân vật anh hùng trong sử thi của hai dân tộc Êđê
và Mnông trong xã hội, trong đời sống văn hoá tín ngƣỡng của cộng
58
đồng.
2.3. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật anh hùng của sử
thi Mnông
2.3.1. Những nhân vật đối lập trong các cuộc giao tranh đều là
những ngƣời anh hùng
Trong kho tàng sử thi đồ sộ của ngƣời Mnông, có tới hàng
trăm cuộc giao tranh giữa các gia tộc, bon làng. Nguyên nhân của các
cuộc chiến xuất phát từ nhiều lý do : có khi là sự hằn thù do thổi bùa ngải,
chuyền ma lai cho nhau ; có khi là do một bên lấy đồ vật và bên bị mất đi
trừng phạt đối phƣơng để đòi lại đồ vật của mình...Những cuộc chiến
tranh ác liệt trong sử thi Mnông với đại diện của các buôn làng. Lực
lƣợng đƣợc phân chia rõ rệt. Một bên là những ngƣời phƣơng bắc, bon
Tiang bao gồm những nhân vật Tiang con Rong, Yang con Rung, Lêng
con Rung và một số ngƣời họ hàng ở các bon khác nhƣ Ndu con Kông,
Yang con Kông, Kong con Bong...Một bên kia là những ngƣời phƣơng
nam, những ngƣời tới cƣớp chiêng cổ. Họ là những ngƣời bon của Ndu
con Srât : Yang con Srăng, Ting con Srât, Mbong con Srăng....Trong
cuộc chiến đấu ác liệt của giữa hai bên. Những ngƣời dũng sĩ của cả hai
bên đều trổ hết tài năng, lòng gan dạ để hạ gục đối phƣơng. Bên nào cũng
có những cá nhân xuất sắc, và đều khiến cho đối phƣơng e ngại:
Sử thi Mnông cũng có những nhân vật đối lập nhau, đó là những kẻ
thù địch trong các cuộc giao tranh ác liệt. Xung đột giữa hai thế lực xuất
phát từ sự mâu thuẫn về mặt lợi ích, sở hữu, tranh giành chiếm đoạt.
Những ngƣời ở bon con Srât sau khi đƣợc tiếng chiêng cổ của bon Tiang
vọng tới đã nổi lòng tham:
“ Chiêng của họ đánh nghe rất kêu
Chiêng của họ đánh nghe rất vang
Được chiêng đó chúng ta vui sướng
Có chiêng đó chúng ta vui mừng”
59
( Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng, tr 744)
Không chỉ có vậy, họ còn âm mƣu đoạt đƣợc những ngƣời phụ nữ
đẹp, Bing, Jông vợ của những ngƣời đàn ông trong bon Tiang:
“ Cướp họ về để giã gùi lúa
Cướp họ về đề bổ củi dra
Cướp họ về để nấu cơm nia
Cướp họ về dọn cơm khách ăn”
Bản thân chính Ndu con Srất khi nghe ngƣời khác can không nên
“chọc đàn ong hung dữ” đã tuyên bố:
“Ta sợ gì chỉ có một Lêng
Ta sợ gì chỉ có một Mbong”
Thế là đoàn ngƣời của bon Ndu con Srât đã tới Bon Tiang, lừa lúc
những ngƣời đàn ông trụ cột của bon đi vắng, cƣớp chiêng cổ, cƣớp luôn
cả mấy ngƣời phụ nữ đem đi.
Lêng sau khi biết chuyện đã vô cùng căm giận, quyết giành lại
bằng đƣợc những gì đã bị bon Ndu con Srât cƣớp mất:
“Ta không thể bỏ mặc gió cuốn
Ta không thể bỏ qua bọn Ndu
Ta không thể bỏ cho briang ăn
Ta không thể bỏ cho khỉ ăn”
( tr 819, Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng)
Vậy là cuộc chiến cân sức giữa ngƣời phƣơng bắc và ngƣời
phƣơng nam đã xảy ra. Họ đều là những ngƣời mƣu mẹo, mạnh khoẻ,
thiện chiến. Dù rất ngạo mạn, tự kiêu về sức mạnh của cá nhân mình nhƣ
Lêng, nhƣ Ndu con Srât, nhƣng họ vẫn phải thừa nhận đối phƣơng và
không khỏi lo lắng trƣớc sức mạnh của kẻ thù:
« Ndu con Srât ngắt lời ngăn cản
…...............................................
Ta rất ngại em Lêng con Rung
60
Ta rất ngại em Mbong con Tiang
..................................................
Ta đừng chọc ong klo ong klôr
Ta đừng chọc con hổ đang gầm
Ta đừng bắt lươn thần đáy nước”
( Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng, tr 738)
Còn Lêng, dù đƣợc các thần cũng nhƣ con ngƣời coi là ngƣời hùng
mạnh nhất, đôi lúc cũng phải nao núng, e dè:
” Lêng nói rằng việc khó khăn lắm
Người của họ nhanh như con trăn
Người của họ hùng như thần Sét
Người họ khoẻ như con trâu rừng
...................................................
Đoàn của ta không thắng nổi họ”
Các cuộc chiến trong sử thi Mnông không phân biệt rõ bên chính
bên tà. Trong một số tác phẩm, các nhân vật là kẻ thù, đánh giết nhau rất
ác liệt nhƣng họ lại trở thành đồng minh, cùng đi đánh kẻ thù trong một
số tác phẩm. Sử thi Mnông phản ánh một sự thực lịch sử đó là tình trạng
tranh giành giữa các gia tộc, bộ lạc chứ không nhằm nhấn mạnh thể hiện
những ý nghĩa triết lý của cuộc sống nhƣ cái thiện cái ác, cái tốt cái xấu.
Ngoài sự xung đột về quyền lợi, về mục đích, sử thi Mnông chƣa
có những cặp nhân vật trái chiều, tƣơng phản thật sự với nhau về hình
dáng, tính tình, nhân cách.
2.3.2. Nghệ thuật so sánh và ngôn ngữ khoa trƣơng làm nổi lên
Cũng giống nhƣ nhiều sử thi của các dân tộc khác, trong sử thi
vẻ đẹp của ngƣời anh hùng
Mnông, so sánh là phƣơng tiện phản ánh thực tại khá nhiều. Thủ pháp
này đã làm tăng thêm hiệu quả tác động thẩm mĩ của đối tƣợng đƣợc so
61
sánh.
Trong sử thi Mnông ta cũng bắt gặp những so sánh, liên tƣởng rất
thú vị trong những đoạn tả về cuộc sống sinh hoạt của con ngƣời hoặc tả
về trạng thái cảm xúc, hình thức của chính các nhân vật.
Khi tả về tài nội trợ của những ngƣời phụ nữ :
«Gạo nhà chị trắng như hoa mpang
Cơm nhà chị nở như bông vải »
Hoặc cũng có khi tả về vẻ đẹp của các cô gái : „cặp vú lú tròn như
hoa chuối‟, "Tiếng cười giòn trắng như hạt gạo" . Tiếng nói êm ái đƣợc
ví nhƣ "tơ nhện" nhƣ "tiếng cồng".
Ngƣời Mnông thƣờng mƣợn cái cụ thể thƣờng thấy trong hiện thực
cuộc sống để so sánh với những đối tƣợng, sự việc cần miêu tả. Đối
tƣợng đó có khi vô hình nhƣ cơn giận, sự bực bội...của con ngƣời :
« Bing tức đắng như quả bồ hòn
Cục giận Kông to như cái cối »
Hoặc cũng có khi đối tƣợng là những sự vật hữu hình :
« Đôi vú nhú lên như bắp chuối »
« Tay sà xuống như dây đuổi chim »
Với việc miêu tả chân dung ngƣời anh hùng, nghệ thuật so sánh
cũng đƣợc ngƣời Mnông sử dụng với một tần xuất khá lớn và phát huy
tác dụng của nó tạo hiệu quả nhất định về mặt thẩm mỹ
Hình ảnh Lêng đƣợc miêu tả với vẻ mạnh mẽ khác thƣờng :
« Người của Lêng cứng như thanh sắt
Lêng bỏ sẵn ngọn lửa trong người
Lêng vỗ đùi lấy ra hạt muối
Lấy trong người ra lửa mặt trời
Lêng hét to miệng phun ra lửa »
Những hình ảnh đƣợc ngƣời Mnông đem so sánh với hành động
62
của con ngƣời rất gần gũi, sinh động mang tính chất trực quan nhiều hơn
là sự cảm nhận, tƣởng tƣợng. Phép so sánh của sử thi Mnông thƣờng thô
sơ, đơn giản nhiều khi không có sự chọn lọc, tinh thế, gọt dũa
So sánh là một yếu tố quan trọng trong nghệ thuật kể chuyện của
sử thi Tây Nguyên. Xuất phát từ khả năng nhận thức một cách trực quan
của ngƣời xƣa. Dù có phần thơ ngây, chất phác trong cách tƣ duy song
ngƣời đọc vẫn phải ghi nhận rằng chính nó đã làm nên những giá trị, sức
hấp dẫn lâu bền của các pho sử thi đối với đông đảo ngƣời nghe.
Cũng giống nhƣ nhiều pho sử thi khác, sử thi Mnông cũng sử dụng
lối kể chuyện phóng đại, cƣờng điệu hoá một cách thƣờng xuyên từ đầu
tới cuối tác phẩm. Khi miêu tả về nhân vật anh hùng chiến trận, sử thi
Mnông cũng có những hình ảnh mang vẻ đẹp khác thƣờng. Vũ khí của họ
cũng đƣợc miêu tả với một tầm kích khác thƣờng :
« Những lưỡi gươm nhiều như lá mía
Những lưỡi dao nhiều như cỏ tranh
Tên ná bóng như mỏ kring
Những chiếc khiên to bằng mặt trăng »
Hình thức của họ đƣợc xây dựng với một
Lối miêu tả chi tiết, tỉ mỉ cũng thƣờng đƣợc ngƣời Mnông sử dụng
trong việc thể hiện các sự vật, hiện tƣợng khác nhau, đã tái hiện lại trƣớc
mắt ngƣời nghe, ngƣời đọc một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống, sinh
hoạt, đấu tranh của ngƣời Mnông khá sinh động, cụ thể
Một điểm dễ nhận thấy là trong những đoạn tả chi tiết của sử thi
Mnông thƣờng là việc sắp xếp các sự việc nhỏ tạo thành một chuỗi liên
tục thống nhất. Cách kể- tả này nhiều khi kéo dài nhịp độ làm cho sự việc
nhƣ chậm lại. Các nhà nghiên cứu gọi đó là "lối trì hoãn sử thi". Trong sử
thi Mnông, lối trì hoãn sử thi này đƣợc thực hiện thông qua những đoạn
tả kéo dài sự thể hiện hành động của nhân vật. Cũng có khi, việc trì hoãn
lại đƣợc thực hiện thông qua việc liệt kê nhiều các sự vật liên tiếp nhau
63
trong chuỗi sự kiện :
« Họ về nhà sửa soạn hành trang
Họ mặc vào một lớp áo mỏng
Họ mặc vào một lớp áo dày
Họ khoác ngoài áo đá áo sắt
Họ khoác ngoài áo sắt áo đồng
Người của họ còn ló lỗ mũi... »
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng, tr 746)
Tuy nhiên, việc trì hoãn sử thi của sử thi Mnông chƣa có đƣợc sự
chọn lọc những chi tiết. Sự việc đƣợc mô tả nhiều khi khiến ngƣời đọc
hôm nay có cảm giác rƣờm rà, khó chịu. Song với trình độ tƣ duy, nhận
thức trực quan, việc ngƣời nghệ nhân dân gian Mnông nhặt nhạnh hầu
nhƣ tất cả chi tiết trong hiện thực cuộc sống rồi hát kể lại cho mọi ngƣời
là điều hoàn toàn có thể hiểu đƣợc. Phân tích nét nghệ thuật trong sử thi
của ngƣời dân tộc xƣa kia, chúng ta không nên áp dụng những cách tiếp
nhận văn chƣơng hiện đại mà phải đặt chúng trong mối tƣơng quan về
văn hoá và trình độ nhận thức của con ngƣời thời kỳ đó.
Sử thi Mnông đƣợc cấu tạo nên do các đoạn văn vần và các đoạn
về hình thức nhƣ thơ tự do của thơ hiện đại, xen vào đó có các câu đối
thoại theo ngôn từ giao tiếp thông thƣờng hàng ngày của con ngƣời. Tất
nhiên, những câu đối thoại đó đã đƣợc chuyển thành thơ với những mức
độ dài ngắn khác nhau. Trong sử thi của ngƣời Mnông, những câu nói đối
đáp nhiều khi đƣợc lặp đi lặp lại đối với các nhân vật. Đối thoại cốt để
chuyển tải nội dung, sự kiện chứ không nhằm để lột tả khí chất, tinh thần
của nhân vật. Đối thoại mang chức năng thông tin nhiều hơn là tính biểu
cảm:
« Lêng vừa đi vừa khấn vái thần
Lêng vừa đi vừa khấn vái Yang
…Ta khấn vái thần rừng cây trum
64
Ta khấn vái thần ao trâu tắm
Mời các thần giúp ta mang gạo
Mời các thần phù hộ cho Lêng
Mời các thần che chở cho Lêng”
Ngôn từ đối thoại trong sử thi Mnông thƣờng thiếu chọn lọc, hàm
súc mà thiên vào việc diễn tả dài dòng, kể lể, chẳng hạn nhƣ đoạn Ndu
nói chuyện với Lêng trong tác phẩm Cướp chiêng cổ bon Tiăng.
Ngôn ngữ trong sử thi Mnông mang tính trần thuật khách quan gần
với văn xuôi nhiều hơn. Những câu chuyện trong sử thi đƣợc kể với một
giọng điệu trần thuật giản dị, đều đặn tuần tự từ chuyện này sang chuyện
khác từ nhân vật này sang nhân vật khác:
" Lúc buổi sáng bàn chuyện cán rìu
Lúc buổi chiều bàn kiếm cán rìu
Giữa buổi trưa kể chuyện anh hùng..."
Hay nhƣ khi mô tả về hình thức của nhân vật, cũng với một giọng
điệu so sánh thông thƣờng:
”Người em Lêng cứng như hòn đá
Người em Lêng cứng như thanh sắt”
Hầu nhƣ không có thêm một sự bình luận, cảm thán nào thêm nhƣ
trong sử thi Êđê. Nhân vật ở hai bên chiến tuyến đều đƣợc miêu tả khá
cân bằng với nhau, không có sự ƣu ái quá rõ rệt đối với bên nào. Giọng
ngƣời kể chuyện mang sắc thái trần thuật, cảm xúc hầu nhƣ vắng bóng
trong lời kể.
2.3. 4. Ý nghĩa của sự xuất hiện các yếu tố trùng lặp Ở sử thi Mnông, phƣơng thức tả kể cũng đƣợc lặp đi lặp lại. Ngƣời
nghệ nhân dân gian đã đúc thành những mẫu có sẵn cho việc kể chuyện-
diễn tả. Mở đầu mỗi câu chuyện, ngƣời kể bao giờ cũng dùng những câu
mào đầu kiểu nhƣ:
65
“ Buổi sáng ta bàn chuyện cán cào
Buổi chiều ta bàn chuyện cán rìu
Buổi trưa, ta kể chuyện anh hùng
Trời sáng trăng kể chuyện Ndu, Tiang”
Tựa nhƣ ngƣời Kinh bắt đầu những câu chuyện cổ của mình bằng
cụm từ: “ngày xửa ngày xƣa”
Khi trong làng có những ngƣời phải đi xa nhƣ thăm hỏi, cƣớp bóc
hay đi giúp những ngƣời họ hàng đánh kẻ thù, việc đầu tiên họ dặn những
ngƣời ở lại phải kiêng cữ hết sức cẩn thận. Lời dặn đó thông thƣờng là:
“ Các em phải giữ tục kiêng cữ
Các em kiêng tục cữ đi xa
Giữ tục cữ ăn uống đi xa
Đốt muối tro người đi đau bụng
Ăn quả xanh người đi bị nhọt
Giỡn với tình người đi ong chích
…..
Mắc ngải drôn đau quặn trong bụng
Mắc ngải biăt đau quặn trong ngực
Mắc ngải yêu đau xót con tim”
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiang, tr 763-778)
Đây là một đoạn miêu tả việc đón khách của những ngƣời Mnông :
« Khách preh đến nấu cơm ba ke
Khách Rđe đến nấu cơm ba săn
…
Nồi glah ngo hãy sôi cho mau
Nồi glah kông hãy sôi cho mau
Sôi mau chín dọn cơm đãi khách
Dũng đũa bếp trộn gạo cho đều
Dùng giẻ mướp hớt bọt miệng nồi
66
Họ nấu món canh tip bằng ống
Nướng món tép gói lá rbau
Họ nấu canh măng chua măng non
.............................................
Thịt lợn nạc to bằng khúc gỗ”
Giấc ngủ say yên bình của ngƣời Mnông đƣợc kể- tả với một công
thức nhƣ sau :
«Giữa đêm khuya màn lạnh đã xuống
Đàn chuột con gọi nhau đi ăn
Căp tình nhân yên giấc bên nhau
Các con trẻ ngủ yên đùi mẹ »
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng, tr 353)
Còn rất nhiều các đoạn tả kể khác nhƣ lời đáp trả của chủ nhà về
tục kiêng cữ khi có khách hỏi, cúng thần linh, tả cảnh các thần ra trận
đánh. Khi lặp lại, ngƣời kể cũng có đôi chút thay đổi về từ ngữ hoặc trật
tự giữa các câu. Tuy vậy, về cơ bản các cấu trúc này vẫn đƣợc đảm bảo.
Nếu khảo sát các văn bản sử thi của ngƣời Mnông sẽ thấy một hiện
tƣợng, các đoạn tả- kể lặp lại ở mức độ nhiều nhƣng chỉ trong giới hạn
từng đoạn nhỏ, không có sự lặp cấu trúc của cả một câu chuyện lớn nhƣ
trong sử thi Êđê. Mỗi tác phẩm sử thi của ngƣời Mnông kể về các câu
chuyện khác nhau và với các cấu trúc khác nhau.
Một đặc điểm của sử thi Mnông đó là việc ghép nối của các cốt
truyện đơn tạo thành một cốt truyện liên kết đồng nghĩa với việc có một
hệ thống nhân vật chung nhất. Hành động của các nhân vật đƣợc nói tới ở
nhiều cốt truyện khác nhau. Hành động của nhân vật đƣợc tập trung phản
ánh ở một số tác phẩm và rải rác ở một số tác phẩm khác. Hành động của
Lêng đƣợc tập trung ở một số tác phẩm chính nhƣ: Đẻ Lêng, Lêng đoạt
nhạc cụ ndring, Lêng nghịch đá thần của Yang...ngoài ra, bóng dáng của
nhân vật này còn đƣợc nhắc tới ít nhiều ở một số tác phẩm khác. Xuất
67
phát từ đặc điểm những câu chuyện trong sử thi Mnông có một sự tiếp
nối nhau nhất định về mặt nội dung, các truyện chung nhau một hệ thống
nhân vật nhƣ vậy nên không có việc lặp lại trên cả một câu chuyện lớn.
Việc lặp trong sử thi Mnông cũng vẫn đƣợc sử dụng thƣờng xuyên, thậm
chí có thể nhiều hơn trong sử thi Êđê, tất nhiên, ở những đơn vị khác
nhau của văn bản nhƣ: các đoạn, các câu, các từ...vv
Còn sử thi Mnông, việc xuất hiện các yếu tố trùng lặp với tần số
cao hơn sử thi Êđê và quan trọng hơn việc lặp trong sử thi Mnông trải
rộng trên tất cả các sự vật, hiện tƣợng. Nhân vật anh hùng cũng đƣợc
miêu tả bằng những công thức lặp đi lặp lại. Tính khác biệt của nhân vật
chính với các nhân vật khác không khác nhau là mấy. Hình tƣợng Lêng
”lấy trong người ra lửa mặt trời” cũng tƣơng tự nhƣ những ngƣời anh
hùng khác trong bon làng:
” Họ bỏ sẵn ngọn lửa trong người
Họ võ đùi ra ngay hạt muối
Lấy trong người ra ngọn lửa trời
Họ hét to miệng phun ra lửa”
(Cƣớp chiêng cổ bon Tiang, tr867)
Hình tƣợng ngƣời anh hùng đƣợc xây dựng từ những ”cấu kiện
đƣợc đúc sẵn” nên có thể lý giải đƣợc sự giống nhau của các nhân vật.
Nhân vật anh hùng trong sử thi Mnông không có đƣợc sự đặc sắc, sinh
động mang tính cá thể để nhân vật là chính nó chứ không lẫn với bất kỳ
68
nhân vật nào khác.
CHƢƠNG III: SO SÁNH HÌNH TƢỢNG NGƢỜI ANH
HÙNG TRONG SỬ THI ÊĐÊ VÀ SỬ THI MNÔNG
3.1. Những điểm tƣơng đồng của hình tƣợng ngƣời anh hùng
Hình tƣợng nhân vật anh hùng trong sử thi của hai dân tộc đều hiện
trong sử thi hai dân tộc Êđê và Mnông
lên thật đẹp, là trung tâm của cộng động. Sự phi thƣờng của nhân vật nằm
ngay trong hình thức vô cùng đẹp đẽ của họ. Vẻ đẹp của Đăm Săn, hình
tƣợng nhân vật tiêu biểu của kho tàng sử thi Êđê, đƣợc miêu tả đạt tới
mức độ lý tƣởng đƣợc tất cả mọi ngƣời đều ngƣỡng mộ, nể phục. Lêng,
Mbong...của sử thi Mnông cũng đƣợc miêu tả với chân dung của ngƣời
dũng sĩ gân guốc, khoẻ mạnh hơn ngƣời.
Họ đều là những nhân vật tiêu biểu, trung tâm giải quyết mọi mối
quan hệ của cả cộng đồng. Tài năng của họ đều thể hiện trên những bình
diện khác nhau nhƣ chiến đấu, tài . Tập trung nhất và tiêu biểu nhất cho
tài năng của ngƣời anh hùng chính là trong những cuộc giao tranh với các
kẻ thù nhằm bảo vệ cộng đồng, đoạt lấy những gì đã bị kẻ thù cƣớp mất.
Cũng giống nhƣ bất kỳ ngƣời anh hùng của thời đại nào khác,
phẩm chất đƣợc đề cao nhất của những ngƣời anh hùng trong sử thi Tây
Nguyên đó là lòng dũng cảm, gan dạ. Trong cả sử thi Êđê và sử thi
Mnông, chúng ta đều thấy đƣợc những phẩm chất đó đƣợc thể hiện tập
trung trong hình tƣợng những ngƣời anh hùng: Đăm Săn, Mdrông Dăm,
Lêng,.....
Sự phi thƣờng về mặt tài năng, tính cách của các nhân vật anh hùng
cũng là một điểm tƣơng đồng đƣợc thể hiện cả trong sử thi Ê Đê và sử thi
Mnông. Nhìn chung, những đặc điểm đó cũng khá phổ quát đối với sử thi
nói riêng và trong các thể loại tự sự của văn học dân gian khắp các dân
tộc trên thế giới nói chung. Mức độ trác tuyệt của ngƣời anh hùng chính
là thể hiện một khát vọng, lý tƣởng của cộng đồng về phẩm chất, tài năng,
69
tinh thần thƣợng võ...
Mối quan hệ của nhân vật anh hùng với các nhân vật khác trong sử
thi của hai dân tộc cũng có những điểm tƣơng đồng nhất định. Đối với
thần linh, ngƣời anh hùng trong sử thi dƣờng nhƣ không có vẻ e dè sợ sệt.
Dù vẫn coi trọng sức mạnh của những thế lực siêu nhiên, nhƣng ngƣời
anh hùng vẫn có quan hệ khá bình đẳng với họ. Nhân vật thần linh là
ngƣời luôn ủng hộ những ngƣời anh hùng trong các cuộc chiến tranh.
Thần linh đóng vai trò là tuyến sinh lực, hỗ trợ cho nhân vật chính mỗi
khi gặp khó khăn, bày cho họ cách chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Cũng
có khi, thần linh lại có tác động theo chiều hƣớng không tích cực, đi
ngƣợc với ý chí của nhân vật chính. Thần là nguyên nhân của mối bất hoà
làm nổ ra các cuộc chiến tranh nhƣ trong một số tác phẩm sử thi Mnông.
Tƣơng đồng về thể loại, sử thi Êđê và sử thi Mnông có những điểm
tƣơng đồng nhất định về mặt thi pháp sáng tác. Những đặc điểm về ngôn
ngữ nghệ thuật nhƣ: phóng đại, khoa trƣơng, so sánh, lối miêu tả chi tiết,
việc sử dụng các yếu tố lặp đi lặp lại đều xuất hiện trong sử thi của hai
dân tộc. Những nét tƣơng đồng này cũng là tình trạng chung của sử thi
các dân tộc trên thế giới. Tuy vậy, trong sử thi mỗi dân tộc, những nét
nghệ thuật đó có thể tồn tại ở những cấp độ khác nhau. Điều này còn tuỳ
thuộc vào trình độ phát triển về nghệ thuật của mỗi tộc ngƣời. Các phần
tiếp theo sẽ lần lƣợt làm rõ nguyên nhân của những sự khác biệt này.
3.2. Những điểm khác nhau của hai hình tƣợng anh hùng Ra đời trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau, vai trò của ngƣời
anh hùng trong sử thi Êđê và sử thi Mnông có những đặc điểm không
tƣơng đồng. Ngoài những đặc điểm chung đã phân tích ở trên, qua so
sánh, chúng ta nhận thấy đƣợc giữa hai hình mẫu nhân vật có sự khác biệt
nhất định. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật hay rộng hơn là nghệ
thuật sử thi của hai dân tộc đã có nhiều thay đổi. Điều đó tạo ra hai hình
70
tƣợng nhân vật anh hùng ở mỗi dân tộc, thời đại những nét thú vị riêng.
Nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê là nhân vật duy nhất trong cả
tác phẩm có vai trò quyết định đối với mọi biến cố của cộng đồng, tập
trung toàn bộ sức mạnh. Những Đăm Săn, Mdrong Dăm, Xing Nhã...đều
là nhân vật trung tâm của tác phẩm, là linh hồn của cộng đồng. Họ tập
trung ý chí và khát vọng của cộng đồng. Trong khi đó, ở sử thi của ngƣời
Mnông, hình tƣợng ngƣời anh hùng chiến trận dù đƣợc đề cao, ca ngợi
song họ chƣa phải là đối tƣợng duy nhất của tác phẩm. Bên cạnh họ, còn
nhiều cá nhân xuất sắc khác, về sự tài giỏi, lòng dũng cảm đƣợc ca ngợi
không kém gì.
Có điều này là do sử thi Êđê nhấn mạnh về vai trò của một cá nhân,
sử thi Mnông mô tả về sức mạnh của tập thể chứ không riêng của một cá
nhân. Hình tƣợng ngƣời tù trƣởng anh hùng trong sử thi Êđê bao trùm lên
toàn bộ tác phẩm. Về mặt xã hội, với quyền lực tối cao, họ có ý nghĩa
quyết định đối với toàn bộ các vấn đề của cộng đồng. Từ việc xây dựng
buôn làng đến việc chiến đấu bảo vệ bờ cõi, họ đều đảm đƣơng những
trách nhiệm ở mức độ cao nhất. Sử thi Êđê, ngƣời tù trƣởng cũng chính là
thủ lĩnh quân sự, quyết định thắng lợi của những cuộc giao tranh. Âm
hƣởng chủ đạo trong mỗi tác phẩm là ngợi ca tài năng, sự anh dũng của
ngƣời tù trƣởng- cá nhân xuất sắc nhất của cộng đồng.
Sử thi Mnông dƣờng nhƣ quyền lực xã hội đƣợc chia đều ra mỗi cá
nhân. Có những ngƣời là chủ bon làng nhƣ Tiang, Yang,...còn những
ngƣời dũng sĩ chỉ thật sự có vai trò quan trọng khi xảy ra các cuộc giao
tranh với kẻ thù là các bon làng khác. Trong sử thi Mnông, chƣa có sự
xuất hiện của mẫu hình ngƣời thủ lĩnh quân sự. Sức mạnh chiến thắng
trong sử thi Mnông là sức mạnh của tập thể, cộng đồng. Sử thi Mnông
nhấn mạnh đến tinh thần tập thể, sức mạnh tập thể. Dù vẫn ghi nhận, ngợi
ca những chiến tích của ngƣời anh hùng tài giỏi song toát lên toàn bộ tác
phẩm vẫn là chất hào hùng, vang dội của cả một tập thể. Qua sử thi
71
Mnông, ngƣời đọc ngƣời nghe cảm nhận thấy một bầu không khí chiến
tranh rõ rệt, sôi sục hơn so với những cuộc giao tranh trong sử thi Ê Đê
khá nhiều. Tuy nhiên, ở đó sức mạnh của tập thể mới là yếu tố đƣợc đề
cao hơn cả, vƣợt trội so với cái cá nhân.
Tính cách của ngƣời anh hùng trong sử thi của cả hai dân tộc đều
chƣa đạt tới mức độ cá thể kiểu ”Con ngƣời này” nhƣ cách gọi của
Hêghen song nếu so sánh giữa hình tƣợng ngƣời tù trƣởng của sử thi Êđê
với ngƣời anh hùng chiến trận trong sử thi Mnông với nhau, chúng ta
thấy có một sự khác biệt tƣơng đối rõ. Ngƣời tù trƣởng anh hùng trong sử
thi Êđê cũng đƣợc xây dựng theo những đặc điểm chung nhất nhƣ: đẹp về
hình thức, giàu có hơn bất kỳ ai, mạnh mẽ can trƣờng trong các cuộc giao
tranh...Nhƣng với hình tƣợng Đam Săn, ngƣời Êđê đã bắt đầu chú ý tới
nét độc đáo của nhân vật. Đam Săn dù vẫn đƣợc xây dựng với những ƣớc
lệ về mẫu hình tù trƣởng anh hùng song đã có nét khác biệt với những
nhân vật còn lại. Đam Săn là nhân vật tiêu biểu nhất cho kiểu mẫu anh
hùng của sử thi Êđê.
Sử thi Mnông miêu tả những con ngƣời ”hãy còn chưa tách khỏi
cuống rốn của công xã nguyên thuỷ” (Mac). Nhân vật hoàn toàn là bản
sao các ý niệm của cộng đồng. Nhân vật không xuất hiện với một cá tính
riêng biệt mà mang ý nghĩa chung, khái quát nhất của cả cộng đồng. Các
nhân vật cũng đƣợc xây dựng nên với những nét nổi trội về tính cách,
song cũng chỉ đủ để phân định họ thành những kiểu mẫu nhân vật khác
nhau mà thôi. Ngƣời anh hùng văn hoá thì tài giỏi, thông minh; ngƣời anh
hùng chiến trận thì dũng mãnh, xông xáo và có phần ngang tàn. Sự xuất
hiện của các nhân vật trong tác phẩm thƣờng với chức năng nhƣ: bảo vệ
cộng đồng, chiến đấu với kẻ thù. Vì vậy, tính cách của các nhân vật đƣợc
ngƣời nghệ nhân dân gian ghép vào với chức năng đó sao cho tƣơng
thích, phù hợp. Những phẩm chất của ngƣời anh hùng nhƣ xông xáo,
72
dũng mãnh, tài giỏi....là những phẩm chất mang tính cố đinh, bất biến.
Chúng hoàn toàn thích ứng với nhiệm vụ là đại diện cho sức mạnh, tinh
thần chiến đấu của cả cộng đồng.
Bản thân ngƣời anh hùng trong sử thi Êđê, dƣờng nhƣ, ý thức sâu
sắc hơn về tài năng, phẩm chất của mình. Niềm tự hào, kiêu hãnh đó là
âm hƣởng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Trong khi đó, ở các nhân vật anh
hùng của sử thi Mnông, niềm tự hào cá nhân vẫn đƣợc nhắc tới nhiều
thông qua lời nói, đặc biệt là Lêng, tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp,
chính bản thân ngƣời anh hùng này lại có những tâm lý hoài nghi, e ngại
về sức mạnh của mình. Mặc dù đƣợc mọi ngƣời và các vị thần linh coi là
ngƣời khoẻ mạnh và tài giỏi nhất, bản thân Lêng cũng nhiều khi rất tự tin
về phẩm chất, tài năng của mình, nhƣng cũng có khi chàng tỏ ra hoang
mang: “Ta như hạt lúa trắng, sợ người ta lại nói giống hạt lúa đen. Ta là
con trai, ta chỉ sợ mọi người nói ta không xứng con trai ».Ý thức của
nhân vật anh hùng về giá trị bản thân trong sử thi Êđê rõ nét hơn, mãnh
liệt hơn sử thi Mnông là điều chúng ta có thể nhận thấy đƣợc.
Nhân vật anh hùng trong sử thi Êđê đƣợc xây dựng nhất quán hơn
trong tài năng và tính cách so với nhân vật anh hùng trong sử thi Mnông.
Theo tác giả Đỗ Hồng Kỳ, trong cuốn Sử thi thần thoại Mnông, nếu làm
một phép so sánh, nhân vật anh hùng trong sử thi thần thoại Mnông vẫn
còn đôi chỗ khiếm khuyết, chƣa đạt tới độ hoàn thiện nhƣ nhân vật anh
hùng trong sử thi Êđê. Nếu Đam Săn ngay thẳng bao nhiêu thì Mtao
Msei- địch thủ của Đam Săn lại càng thiếu ngay thẳng bấy nhiêu. Còn sự
ngay thẳng của Lêng so với Kra, Năng- địch thủ của Lêng- chẳng khác là
mấy. Điều này một phần xuất phát từ bản chất của các cuộc chiến tranh
trong sử thi Mnông không phải là sự đối lập giữa ngƣời tốt và kẻ xấu,
càng không phải là sự đáp trả thích đáng của cái thiện đối với cái ác. Các
cuộc chiến trong sử thi Mnông không nhấn mạnh đến ranh giới đó mà chỉ
phản ánh một sự thật của xã hội. Đó là sự va chạm quyền lợi, tranh chấp
73
giữa các bon làng với nhau theo nghĩa những ai làm việc gì xấu sẽ bị phía
bên kia đáp trả thích đáng. Nó phản ánh một phản ứng rất tự nhiên của
con ngƣời: có ngƣời gây tai hoạ thì ắt sẽ có ngƣời trả thù. Trong bon làng,
nếu nhƣ có ai đó gặp chuyện thua thiệt, bị chiếm đoạt thì những ngƣời
anh em sẽ cùng đứng lên bảo vệ, trả thù. Đó chính là nghĩa vụ, trách
nhiệm của cả một cộng đồng. Sau khi cuộc giao tranh kết thúc, bên thắng
triệt hạ đối phƣơng nhƣng không giết những ngƣời phụ nữ và trẻ em. Đó
chính là hiện thực của ngƣời Mnông. Vì vậy, có ngƣời đã nhận xét rằng :
« Chiến tranh trong sử thi Mnông, đằng sau màn sương huyền thoại là
một sự thực lịch sử »
Cái kết thúc của tác phẩm sử thi cũng chính là cách giải quyết số
phận của những ngƣời anh hùng. Với ngƣời Êđê, cách kết thúc có phần
nào đó mang tính chất làm thoả đáng nguyện vọng của con ngƣời. Nó gần
với kiểu kết thúc có hậu của các chuyện cổ tích nhiều hơn. Khi nhân vật
anh hùng chiến đấu và bị sát hại, bằng cách này hay cách khác, tác giả
dân gian vẫn tiếp tục kéo dài câu chuyện với sự xuất hiện của thế hệ thứ
hai. Sau đó, những ngƣời anh hùng, với phép màu của thần linh đƣợc
sống lại.
Cách kết thúc của sử thi Mnông cũng một phần nào đó có hậu với
việc ngƣời làm việc xấu sẽ bị phía đối phƣơng trả thù nhƣng không hoàn
toàn theo lối của những câu chuyện cổ tích. Những ngƣời làm việc sai trái
bị thua. Nhƣng đó không phải là sự triệt tiêu hoàn toàn cái xấu, cái ác.
Những ngƣời thua cuộc cũng chỉ chấp nhận thất bại chứ không rút ra
đƣợc những điều mình đã làm sai. Sử thi Mnông phản ánh một sự thực
lịch sử chứ không nhằm giảng giải những bài học đạo đức nhƣ truyện cổ
tích nên việc kết thúc các tác phẩm không mang những ý nghĩa nhƣ sự
răn đe cái xấu, ngợi ca cái thiện
Sử thi Mnông có cũng cách kết thúc khá đặc biệt : sau khi kết thúc,
bên thua cuộc vẫn còn sống và lại tiếp tục xuất hiện ở những tác phẩm
74
khác. Cách kết thúc đó vừa đóng lại sự kiện của tác phẩm vừa mở để cho
các nhân vật tham gia vào nữhng câu chuyện khác. Cách kết thúc này
xuất phát từ đặc điểm liên kết giữa các cốt truyện đơn với nhau thành cốt
truyện liên hoàn. Với kết thúc kiểu nhƣ sử thi Mnông, ngƣời đọc, ngƣời
nghe có cảm giác những câu chuyện vẫn còn đang tiếp diễn.
Hình tƣợng ngƣời anh hùng trong sử thi Êđê nổi bật hơn trong sử
thi Mnông có khá nhiều lý do. Ngoài đặc điểm về mặt xã hội gắn với sự
phát triển về mặt nhận thức vai trò của mỗi cá nhân, nguyên nhân của sự
khác biệt này còn nằm ở nghệ thuật sử thi với cách xây dựng nhân vật có
những điểm không tƣơng đồng.
3.3. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng ngƣời anh hùng trong sử
Cơ sở để tạo dựng những hình tƣợng nhân vật anh hùng xuất phát
thi Êđê đạt tới độ hoàn thiện hơn sử thi Mnông
từ nghệ thuật sử thi của mỗi dân tộc. Trong quá trình khảo sát, nghiên cứu
các văn bản sử thi của hai dân tộc Êđê và Mnông, chúng tôi nhận thấy có
sự giống và khác nhau trong nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật
anh hùng.
Cũng nhƣ sử thi của các dân tộc khác, sử thi Êđê và sử thi Mnông
những điểm tƣơng đồng nhất định về mặt nghệ thuật nói chung và nghệ
thuật xây dựng hình tƣợng ngƣời anh hùng nói riêng. Sự tƣơng đồng về
mặt loại thể đƣợc biểu hiện qua những đặc điểm chung nhất của nghệ
thuật sử thi
Hầu hết các nét chính trong nghệ thuật xây dựng nhân vật sử thi
đều đƣợc tác giả dân gian của hai cộng đồng Êđê và Mnông sử dụng
trong tác phẩm của mình. Những đặc trƣng về ngôn ngữ nhƣ lối so sánh,
ngoa dụ, cƣờng điệu hoá, các cấu trúc lặp đi lặp lại...đều xuất hiện trong
sử thi Êđê và Mnông. Chúng xuất phát từ thói quen tƣ duy trực quan của
ngƣời xƣa, cảm nhận mọi sự vật, sự việc trong mối quan hệ tƣơng đồng
75
đối chiếu với các sự vật, sự việc có thực trong cuộc sống. Đó là lối tƣ duy
đơn giản, thô sơ phản ánh trình độ phát triển văn hoá của một giai đoạn
lịch sử, thời kỳ sơ khai của con ngƣời.
Tuy vậy, việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong sử thi mỗi
dân tộc lại tồn tại ở những cấp độ khác nhau. Chúng phản ánh một phần
trình độ tƣ duy nghệ thuật, trình độ phát triển văn hoá và thế giới quan
của mỗi tộc ngƣời có những nét không tƣơng đồng trong mối quan hệ so
sánh với nhau.
Sử thi Êđê đã tạo đƣợc những cặp nhân vật trái chiều nhau đó là
ngƣời anh hùng và các tù trƣởng Mtao tới cƣớp vợ của anh ta. Cuộc chiến
đƣợc mô tả trong tác phẩm không chỉ chăm chú đến kết cục của sự việc
mà còn khắc họa đƣợc những nét đối lập của hai nhân vật về tính cách,
phẩm chất. Tác giả dân gian đã biết nhấn mạnh vào những điểm đối lập
nhằm thể hiện tính cách của mỗi nhân vật nhƣ lời nói, tác phong, cử
chỉ...Những nhân vật chính trong sử thi Êđê khá hoàn tất từ hình thức đến
phẩm chất, tính tình. Để làm nổi bật hình tƣợng ngƣời anh hùng, nhấn
mạnh đến vẻ đẹp của hình thức, trí tuệ và lòng can đảm của họ, tác giả
dân gian cũng đã dựng nên chân dung những nhân vật, theo cách gọi hiện
đại, là nhân vật phản diện: đó chính là những tù trƣởng Mtao. Các nhân
vật này với một chân dung hèn nhát, thảm hại càng làm cho vẻ đẹp của
ngƣời anh hùng hiện lên đẹp hơn, tốt hơn nhiều. Sự đối lập của nhân vật
anh hùng với kẻ thù làm cho câu chuyện phát triển sinh động, hấp dẫn,
thu hút ngƣời nghe. Sử thi Mnông mới chỉ dừng lại ở việc mô tả các nhân
vật đối lập với nhau trong các mối quan hệ với cộng đồng xã hội chƣa có
đƣợc sự tƣơng phản về mặt bản chất. Trong sử thi Mnông không có sự
đối lập của cái tốt với cái xấu. Cả hai bên đối đầu đều có những nhân vật
anh hùng, can đảm đƣợc ca ngợi. Sử thi Mnông, sự trái ngƣợc này chỉ
dừng lại ở mức độ là những kẻ thù xung đột về lợi ích chứ không có sự
76
trái ngƣợc về tính cách, phẩm chất đạo đức.
Ngôn từ trong sử thi Êđê giàu tính biểu cảm đƣợc gọt dũa công
phu. Nhiều câu văn khiến chúng ta không khỏi ngỡ ngàng vì sự thú vị,
hấp dẫn trong cách liên tƣởng: ”...anh đến đây từ vùng đất mọc lông, nơi
có hòn đá hình lưng con cóc, anh đến đây từ ngọn núi biết khóc, từ dòng
sông biết hát”. Có nhiều đoạn trong sử thi Đăm Săn, cách diễn đạt đã tới
độ tinh tế: ” Chàng Đăm Săn và nàng Hơ Nhị cùng con ngựa đực có cái
chân đi khoẻ, chạy nhanh đã bị chìm xuống đất sáp ong; chân trái trượt
sang phía đông, chân phải lún xuống bùn ngập chìm tới đất sáp ong đen.
Hơ Nhị kêu khóc ầm ĩ, Đăm Săn cũng khóc, con ngựa vừa dãy dụa vừa hí
vang. Lúc này là cuối tháng, mặt trăng mờ mờ”. Đoạn miêu tả này vừa
tái hiện những thời khắc cuối cùng của ngƣời anh hùng đồng thời cũng
cho ngƣời đọc, ngƣời nghe một cảm giác buồn bã, thƣơng xót trƣớc cái
chết của ngƣời anh hùng. Trong khi đó, sử thi Mnông ngôn ngữ vẫn giữ
vẻ thô ráp, đơn giản, mộc mạc của nếp nghĩ, nếp cảm nhận trực quan.
Ngôn từ trong sử thi Mnông mang sắc thái trần thuật, ít sự biểu cảm và
thƣờng thiếu tính chọn lọc. Trình độ khái quá hoá, trừu tƣợng hoá của
ngƣời Êđê rõ ràng có những bƣớc tiến xa hơn ngƣời Mnông. Dƣới góc độ
so sánh, đối chiếu, không khó để nhận thấy ngôn ngữ miêu tả của ngƣời
Mnông còn thô mộc, chất phác, các nhân vật cứ thế hiện lên theo từng
mảng khối “Có nét gì giống với các tượng nhà mồ Tây Nguyên” (TS.
Ngô Đức Thịnh- Lêng nghịch đá thần của Yang, tr22). Trong khi đó,
cũng với cách nói khoa trƣơng, phóng đại, khan Đăm Săn của ngƣời Êđê
lại đã từng đƣợc G. Condominas coi là « viên ngọc quý của văn học
truyền miệng ở Đông Dương » bởi những hình ảnh trau chuốt, gọt giũa có
lúc đạt tới mức điêu luyện.
Ngôn từ đối thoại trong sử thi Đăm Săn sinh động và mang dấu ấn
cá nhân nhiều hơn. Lời nói của nhân vật ngoài việc chuyển tải suy nghĩ
của nhân vật còn thể hiện đƣợc thái độ, cá tính của ngƣời anh hùng đó là
77
sự ngang tàn, mạnh mẽ, quyết liệt của ngƣời anh hùng. Còn sử thi
Mnông, ngôn ngữ đối thoại thƣờng thiếu tính chọn lọc hàm súc. Lời của
các nhân vật nhiều khi dài dòng, kể lể theo lối trần thuật nhiều hơn. Ngôn
từ đối thoại thƣờng chỉ mang chức năng thông tin theo các ”khuôn mẫu”
có sẵn chứ chƣa để lại dấu ấn cá nhân rõ rệt nhƣ trong sử thi Êđê.
Lời của ngƣời dẫn chuyện làm cho sử thi Êđê có sức biểu cảm, thể
hiện cảm xúc ngƣỡng mộ tôn sùng ngƣời tù trƣởng anh hùng. Có khi đó
là lời ngợi ca vẻ đẹp, tài năng mà mọi ngƣời yêu quý dành cho nhân vật.
Cũng có khi là sự bình phẩm, chê trách những kẻ xấu, đối nghịch với
nhân vật chính: ” Sử thi Mnông, sắc thái biểu cảm ít hơn, giọng điệu
mang tính trần thuật là chủ yếu kể lại những sự kiện liên tiếp nhau theo
trình tự diễn biến của câu chuyện.
Qua thao tác thống kê, phân tích, chúng tôi nhận thấy việc xuất
hiện các yếu tố lặp đi lặp lại, những công thức có sẵn trong việc tả- kể của
sử thi Mnông xảy ra với tần xuất cao hơn nhiều so với sử thi Êđê. Ngoại
trừ việc, sử thi Êđê lặp lại trên một cấu trúc lớn trong khi sử thi Mnông
lại là một chuỗi các cốt truyện liên hoàn, việc lặp lại trên một cấu trúc lớn
là điều khó có thể xảy ra.
Việc sử dụng, khai thác các kết cấu có sẵn đối với việc xây dựng
hình tƣợng nhân vật của sử thi hai dân tộc cũng có những mức độ thể
hiện khác nhau. Sử thi Êđê, việc lặp lại xảy ra trên cả một cấu trúc lớn
của tác phẩm. Sử thi Đăm Săn với 7 cuộc giao tranh của ngƣời anh hùng
với các tù trƣởng khác. Dù vẫn theo một kết cấu có sẵn nhƣng mỗi lần
nhƣ vậy, tác giả dân gian đều cố gắng thay đổi một vài chi tiết khiến cho
mỗi lần giao tranh có những điểm thu hút thú vị riêng. Các cuộc giao
tranh trong sử thi vì vậy mà không quá nhàm chán, đơn điệu.
Sử thi Mnông sử dụng rất nhiều các ”cấu kiện đúc sẵn. Các khuôn
mẫu đó đƣợc lặp lại ở tất cả các đơn vị ngôn ngữ của văn bản. Từ các lời
tả kể về con ngƣời, sự vật đến các đoạn đối thoại đều đƣợc lặp lại một
78
cách thƣờng xuyên trong tác phẩm và lặp lại ở nhiều tác phẩm. Đặc điểm
này của sử thi một phần để phù hợp với môi trƣờng diễn xƣớng hát kể.
Ngƣời nghệ nhân chỉ cần nhớ nội dung của câu chuyện rồi ghép các đơn
vị kết cấu có sẵn đó lại để diễn tả nội dung câu chuyện. Mặt khác, nó
cũng phản ánh mức độ tƣ duy của con ngƣời xƣa kia còn khá mơ hồ, chƣa
có đủ nhận thức đối với mọi sự vật, sự việc. Việc sử dụng các kết cấu có
sẵn trong sử thi Mnông nhiều hơn sử thi Êđê khá nhiều, chính đó là
nguyên nhân khiến cho tính cá thể của nhân vật trong sử thi Mnông mờ
nhạt hơn trong sử thi Êđê.
Việc tồn tại ở những cấp độ khác nhau của các yếu tố nghệ thuật
trong sử thi Êđê và sử thi Mnông phản ánh một sự tƣơng đồng nhất định
của sử thi hai dân tộc này trong hệ thống sử thi Tây Nguyên nói riêng, sử
thi thế giới nói chung. Mặc khác, chúng cũng bộc lộ những khác biệt cơ
bản, thể hiện khả năng nhận thức và tƣ duy của hai tộc ngƣời này. Với
ngƣời Êđê, trình độ nhận thức và khái quát sự vật dù chƣa cao song đã có
một khoảng cách nhất định so với ngƣời Mnông. Chính vì lẽ đó, sử thi
Êđê, tiêu biểu là khan Đam Săn đã có nhiều thành tựu nghệ thuật đƣợc
các học giả và những ngƣời quan tâm ghi nhận là tác phẩm sử thi hoàn
thiện nhất, ”viên ngọc quý” của sử thi Tây Nguyên. Kho tàng sử thi
Mnông, dù rất đồ sộ hoành tráng về quy mô, song vẫn chƣa thể sánh đƣợc
với sử thi Êđê ở mức độ tinh xảo về nghệ thuật.
3.4. Nguyên nhân của sự tƣơng đồng và khác biệt giữa hai hình
tƣợng nghệ thuật
3.4.1. Sự tƣơng đồng về bối cảnh xã hội và văn hoá của hai tộc
ngƣời Êđê và Mnông
Sử thi hình thành khi mà con ngƣời còn đang ở trong giai đoạn xã
hội nguyên thuỷ với các hình thức tổ chức sơ khai. Đối với xã hội nguyên
thuỷ, tuy quá trình phát triển chƣa có sự phân hoá mạnh mẽ, song chúng
ta có thể tạm chia ra thành hai giai đoạn phát triên: giai đoạn thị tộc bộ lạc
79
(giai đoạn tiền nhà nƣớc) và giai đoạn nhà nƣớc sơ khai, giai đoạn phát
triển cao hơn. Tƣơng ứng với 2 giai đoạn phát triển của xã hội, các nhà
nghiên cứu sử thi trong và ngoài nƣớc đều nhất trí chia thể loại sử thi
thành hai loại: sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại (hay còn gọi là sử thi cổ điển).
Sử thi cổ sơ đƣợc hình thành trong điều kiện xã hội có sự đồng hoá
và thâm nhập lẫn nhau giữa các bộ lạc tạo thành liên minh bộ lạc.
Sử thi cổ đại đƣợc hình thành trên cơ sở ”quá trình kết hợp các liên
minh bộ lạc để trở thành một quốc gia cổ đại”.
Nếu đem xem xét và áp dụng cho sử thi của hai dân tộc Êđê và dân
tộc Mnông, chúng ta sẽ nhận thấy cả hai pho sử thi này đều thuộc loại sử
thi cổ sơ. Điểm tƣơng đồng lớn nhất của chúng đó chính là sự tƣơng đồng
về mặt thể loại. Tất cả những tác phẩm sử thi của cả hai tộc ngƣời này
đều hình thành trong giai đoạn xã hội đang có sự thâm nhập giữa các bộ
lạc với nhau. Tình trạng giao tranh giữa các bộ lạc xảy ra thƣờng xuyên
và chúng đã đƣợc phản ánh rất nhiều thông qua các tác phẩm. Phạm vi
nghiên cứu của luận văn này đều xoay quanh phản ánh một chủ đề đó là
các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc.
Sự tƣơng đồng về hoàn cảnh xã hội nhƣ vậy chính là cơ sở để tạo
nên sự giao thoa nhất định giữa sử thi của hai dân tộc. Cụ thể hơn, trong
những tác phẩm này, chúng ta thấy hình tƣợng ngƣời anh hùng, nhân vật
trung tâm của những pho sử thi đó có khá nhiều điểm giống nhau. Họ đều
là những nhân vật ƣu tú đại diện cho sức mạnh, nguyện vọng và ý chí của
cả cộng đồng.
Vì còn phát triển ở trình độ tiền chữ viết, nên văn hoá của ngƣời
Êđê về cơ bản vẫn là văn hoá dân gian. Kho tàng văn hoá của đồng bào
nơi đây bao gồm khá nhiều thể loại nhƣ truyện thơ, ngụ ngôn và đặc biệt
là những tác phẩm sử thi- khan đƣợc truyền miệng từ đời này sang đời
khác nhƣ Đam Săn, Đăm Di, Xinh Nhã….Khan của ngƣời Êđê là những
tác phẩm văn học dân gian đƣợc các nhà nghiên cứu phát hiện sớm nhất
80
trong số những di sản văn hoá còn lại của đồng bào dân tộc Tây Nguyên.
Ở một mức độ nào đó, đời sống sinh hoạt văn hoá của ngƣời
Mnông ít nhiều có những điểm tƣơng đồng với ngƣời Êđê. Những lễ hội
dân gian của ngƣời Mnông gắn liền với thế giới tâm linh, các nghi thức
quanh hoạt động sản xuất nông nghiệp, canh tác nƣơng rẫy. Dù còn sơ
khai, song ngƣời Mnông cũng đã hình thành quan niệm về một thế giới có
sự phân cấp thành ba thầng: trời, đất và dƣới mặt đất. Mỗi tầng lại có các
thần linh cai quản. Thế giới thần linh đã chi phối lên mọi mặt đời sống
của con ngƣời nhƣ với sản xuất, với thiên nhiên thậm chí trong cả quan
hệ giữa ngƣời với ngƣời. Mọi nghi thức xét xử hay hoà giải đều có sự
chứng giám của thần linh. Chính nghi thức này tạo nên sự cân bằng trong
quan hệ cộng đồng.
Cũng nhƣ dân tộc Êđê, ngƣời Mnông có một kho tàng văn học dân
gian phong phú, trong đó tiêu biểu nhất là các truyện thần thoại, truyện cổ
và đặc biệt là sử thi – Ot nrông, thể loại đƣợc diễn xƣớng bằng văn vần.
Cũng nhƣ Pokhan của ngƣời Êđê, những nghệ nhân hát kể sử thi Ot nrông
nắm giữ vai trò quan trọng trong việc lƣu truyền những tác phẩm dân gian
quý báu của cộng đồng dân tộc Mnông. Những ngƣời kể Ot nrông có trí
nhớ tài tình, khả năng kể chuyện hấp dẫn vì vậy nên đƣợc những ngƣời
trong buôn làng kính trọng song họ lại luôn luôn khiêm nhƣờng vì sợ
mình hát kể sử thi không hay sẽ khiến mọi ngƣời cƣời chê. Trong việc
sƣu tầm và gìn giữ những tác phẩm sử thi, những nghệ nhân này giữ vai
trò quan trọng. Họ là cầu nối giúp cho sử thi đến với những thế hệ sau
này.
Ot – nrông là một chuỗi các truyện kể đƣợc ghép lại thành một cốt
truyện liên hoàn nhằm tái dựng lại lịch sử dân tộc từ ngày khai thiên lập
địa, con ngƣời đƣợc sinh ra và các cuộc chiến tranh bộ lạc…Mỗi chặng
đƣờng đó lại có các nhân vật anh hùng đảm trách những vai trò khác
nhau. Nhƣ Tiang, Mbong là anh hùng có công khai thiên lập địa, tạo dựng
81
văn hoá. Lêng, Rung là anh hùng chiến trận, những nhân vật này xuất
hiện trong sử thi những giai đoạn khi mà cộng đồng Mnông đã có sự ổn
định tƣơng đối về mặt tổ chức. Vai trò của những anh hùng chiến trận chủ
yếu đƣợc thể hiện trong các cuộc chiến tranh bộ tộc mà xung đột chủ yếu
là quyền lợi, hôn nhân, phụ nữ…
3.4.2. Sự khác biệt về hoàn cảnh lịch sử và trình độ phát triển
Lý giải nguyên nhân của sự khác nhau giữa những hình tƣợng nhân
văn hoá của hai cộng đồng Êđê và Mnông
vật anh hùng trong sử thi của hai dân tộc này có lẽ xuất phát chính từ đời
sống, trình độ phát triển về mặt văn hóa của họ. Đó chính là cơ sở cho
những vấn đề đƣợc phản ánh trong sử thi.
Sử thi Đam Săn của ngƣời Êđê, đƣợc nhiều nhà nghiên cứu khẳng
định ra đời vào khoảng thế ký thứ XIV thậm chí sớm hơn. Thời kỳ này,
cộng đồng ngƣời Tây Nguyên với các dân tộc nhƣ Êđê, Bana, Giarai đang
ở vào cuối chế độ công xã nguyên thuỷ khi mà chế độ này đang trên con
đƣờng tan rã. Tuy xã hội vẫn còn tồn tại dƣới dạng cộng đồng. Tổ chức
dân cƣ đƣợc tập trung thành hững nhóm nhỏ theo đơn vị buôn làng và
chƣa có liên kết phô biến giữa các thị tộc nhỏ. Tất cả mọi tài sản tự nhiên:
đất đai, làng mạc, núi rừng....đều thuộc vào sở hữu chung. Tuy vậy, trong
xã hội bắt đầu có những sự tƣ hữu dẫn tới sự phân biệt giàu nghèo, dù
chƣa hẳn lớn. Đứng đầu các buôn làng là những vị thủ lĩnh, tù trƣởng
giàu có, hùng mạnh. Sau mới đến dân làng và cuối cùng là tôi tớ. Xã hội
đã manh nha có tình trạng bóc lột nhƣng chƣa phải là hiện tƣợng phổ
biến. Nhìn trên diện rộng, đó là một xã hội chƣa có áp bức bóc lột, chƣa
có sự tƣ hữu, thống trị.
Thiết chế xã hội của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên theo dòng
mẫu hệ. Tất cả mọi hình thức hôn nhân đều do ngƣời phụ nữ quyết định.
Con gái đi hỏi ngƣời con trai mình ƣng về làm chồng. Con trai đến ở nhà
82
vợ. Phụ nữ nắm vai trò làm chủ gia đình song nam giới mức thực sự có
vai trò quyết định đối với vận mệnh của cộng đồng. Đặc biệt là những
ngƣời tù trƣởng đầu buôn làng mà Đăm Săn, Khinh Ju, Đăm Di....là
những hình tƣợng tiêu biểu.
Vai trò của ngƣời tù trƣởng trong tất cả các lĩnh vực nhƣ quản lý
đời sống vật chất của cộng đồng buôn làng, bảo vệ lãnh thổ, gìn giữ
những tập tục đời sống nhƣ cƣớp vợ, nối dây...đều đƣợc phản ánh một
cách khá chân thực qua những tác phẩm sử thi Tây Nguyên mà chúng ta
nghiên cứu.
Sử thi Mnông cũng phản ánh một hiện thực xã hội khá rõ nét trong
hầu hết các tác phẩm. Dù cho tới nay, chúng ta chƣa thể hoàn toàn chắc
chắn tất cả hiện thực của đời sống xã hội Mnông đã đƣợc mô tả hết trong
các tác phẩm hay chƣa. Nhƣng có cơ sở để khẳng định rằng, một phần
quan trọng nhất trong bức tranh hiện thực thời kỳ đó của xã hội và con
ngƣời Mnông đã đƣợc miêu tả kỹ càng thông qua tác phẩm sử thi. Đó là
tình trạng các cuộc giao tranh liên tục xảy ra, nhƣ một phần tất yếu của sự
phát triển xã hội. Bên cạnh một số tác phẩm lý giải về sự tồn tại thế giới,
các vị thần linh...phần lớn các tác phẩm sử thi của cộng đồng ngƣời
Mnông tập trung phản ánh hiện thực chiến tranh. Hàng trăm cuộc giao
tranh tạo nên một bức tranh sử thi Mnông đầy khí thế, sục sôi của một
thời kỳ lịch sử.
Kho tàng nrông đồ sộ của ngƣời Mnông trải dài theo một quá trình
của lịch sử bắt đầu từ thƣở hồng hoang của loài ngƣời, khi vũ trụ mới
hình thành:
” Từ thời xa xưa
Có con bướm quan hệ với đá
Con chuồn chuồn quan hệ với nước
Hòn đá đẻ ra một trăm con người
83
Dòng thác sinh ra một nghìn con người”
Cho tới khi lịch sử sang một trang mới, hình thái đầu tiên của xã
hội thị tộc đã xuất hiện. Nhân vật Tiang, đƣợc coi là mẫu hình anh hùng
văn hoá, ngƣời đã thực hiện vai trò xây dựng thế giới từ thƣở hỗn mang,
tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả của mình, tổ chức và quản lý xã
hội thị tộc vừa mới hình thành. Việc phân định các bon làng cũng dựa vào
mối quan hệ gia tộc theo chế độ mẫu hệ, tất cả những ngƣời con đều đƣợc
nhắc tới trong mối liên hệ với những ngƣời mẹ: Lêng con Rung,....
Về thời điểm ra đời, dù cùng trong một hình thái xã hội, nhƣng sử
thi Mnông, có lẽ, xuất hiện sớm hơn sử thi Êđê một khoảng thời gian nhất
định. Giai đoạn những pho sử thi của ngƣời Mnông ra đời, những thiết
chế xã hội của chế độ thị tộc bộ lạc đang ở giai đoạn ổn định nhất. Khi
đó, tính bền vững
Sử thi Êđê ra đời muộn hơn sử thi Mnông khi mà chế độ thị tộc, bộ
lạc đang trong giai đoạn suy tàn. Trong các tác phẩm sử thi của cộng
đồng này, cụ thể và tiêu biểu nhất là Khan Đăm Săn, chúng ta bắt đầu
nhìn thấy một sự thực lịch sử đó là sự va chạm giữa cái cũ, những lề thói
luật tục cũ với cái mới đang lên. Hình tƣợng Đăm Săn và hành động của
chàng kiên quyết chống lại tục lệ cũ phần nào nói lên sự thực lịch sử đó.
Cái chết của Đăm Săn nếu đƣợc coi là một bi kịch thì bi kịch đó, chẳng
qua là: ”sự mâu thuẫn giữa cái yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử và tình
trạng không có khả năng thực hiện yêu cầu nào đó mà thôi”(văn hoá dân
gian Mnông)
Sử thi Êđê và sử thi Mnông ra đời vào những thời điểm khác nhau
trong quá trình phát triển của chế độ thị tộc bộ lạc. Hai thời điểm với
những nhận thức, tầm văn hoá khác nhau đã in bóng xuống những tác
phẩm hết sức rõ ràng.
Vai trò của cá nhân trong cộng đồng xã hội của sử thi mỗi dân tộc
84
cũng đƣợc thể hiện ở những mức độ khác nhau. Vào giai đoạn phát triển
của chế độ thị tộc- bộ lạc khi mà sự cố kết cộng đồng tập thể còn chặt
chẽ, khăng khít.
Nằm vào chặng cuối của con đƣờng hình thành, phát triển và suy
tàn của chế độ xã hội thị tộc, cái cá nhân trong sử thi Êđê dƣờng nhƣ phát
triển cao hơn, mạnh hơn thể hiện qua những nhân vật anh hùng tiêu biểu.
Có thể nhắc tới Đăm Săn nhƣ một ví dụ tiêu biểu cho cái cá nhân đang
dần lớn mạnh và có xu hƣớng phát triển trong xã hội Êđê. Hình tƣợng
Đăm Săn mang tầm vóc của cái tôi cá nhân khá rõ rệt, mạnh mẽ trong
mọi hoạt động của cộng đồng. Từ việc xây dựng buôn làng đến những lần
giao tranh với kẻ thù, ngƣời anh hùng luôn khẳng định đƣợc cái riêng với
uy thế lừng lẫy và trái ngƣợc hẳn với bất kỳ một kẻ thù nào. Cái cá nhân
kiêu hãnh đó không chấp thuận, thậm chí đối đầu chống lại cái cũ và dám
đánh đổi vinh quang bằng mạng sống của bản thân mình.
Các cuộc chiến tranh của ngƣời Mnông, nơi tập trung sức mạnh
của nhiều cá nhân giỏi giang, mạnh mẽ, phần nào phản ánh vai trò của tập
thể cộng đồng. Sự nhấn mạnh vào sức mạnh tập thể cho thấy rõ trong xã
hội nảy sinh sử thi Mnông, mức độ phân hoá trong xã hội chƣa rõ ràng.
Cái cá nhân mờ nhạt trong cái chung. Vai trò của tập thể đƣợc nhấn mạnh
và đề cao.
Đời sống văn học liên tục vận hành theo lịch sử của loài ngƣời. Sự
phát triển của cái tôi cá nhân cũng vận hành theo quỹ đạo đó. Vai trò của
cái riêng, cái cá nhân trong văn học dƣờng nhƣ mỗi lúc một rõ rệt. Từ
những dấu ấn mờ nhạt của cái tôi trong văn học dân gian đến cái tôi trong
văn học trung đại bị bó buộc trong khuôn khổ của những niêm luật chặt
chẽ. Cái tôi cá nhân phát triển tự do, phóng khoáng trong văn chƣơng
hiện đại.
Mối quan hệ giữa cái cá nhân, cái riêng và cái chung, tập thể phần
nào cho chúng ta thấy đƣợc sự phát triển về thế giới quan, về trình độ
85
phát triển văn hoá của mỗi thời đại, nơi mỗi tác phẩm ra đời. Cơ sở xã hội
làm nảy sinh những tác phẩm sử thi Êđê, có lẽ, khi đó, trình độ tƣ duy
nghệ thuật, đời sống văn hoá đã tiến xa hơn sử thi Mnông một khoảng
86
cách nhất định
KẾT LUẬN Sử thi ra đời từ khá sớm trong quá trình hình thành và phát triển
của văn học dân gian nhân loại. Từ đó đến nay, trải qua bao biến cố của
lịch sử nhƣng những pho sử thi vẫn giữ đƣợc sức hấp dẫn mãnh liệt bởi
sự hùng tráng, oanh liệt của một giai đoạn lịch sử chói lọi đã «một đi
không trở lại»
Dù ra đời muộn hơn, chỉ cách thời đại của chúng ta ngày nay hơn
năm thế kỷ nhƣng sử thi Tây Nguyên cũng đã đóng một vai trò quan
trọng không gì thay thế đƣợc trong đời sống sinh hoạt văn hoá tinh thần
của đồng bào thiểu số. Và, nhƣ một hiện tƣợng văn hoá, chúng đã thu hút
rất nhiều sự quan tâm, công sức của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nƣớc. Thậm chí, có học giả Pháp đã từng nhận định rằng : « Người ta
không thể nói đến Folklore tiền Đông Dương mà trong đầu không xuất
hiện nhan đề tác phẩm sử thi Đăm Săn. »
Những công trình nghiên cứu gần đây của các cơ quan văn hoá ở
Việt Nam, rất nhiều pho sử thi Tây Nguyên đã dần đƣợc khám phá, sƣu
tầm, biên dịch lại để cho chúng đƣợc lƣu truyền mãi mãi nhƣ những viên
ngọc quý trong kho tàng văn hoá dân gian. Góp trong đó, niềm yêu mến
đối với những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc đã thôi thúc chúng tôi
tìm hiểu sâu hơn trên cơ sở so sánh đối chiếu giữa sử thi Êđê và sử thi
Mnông, mà đặc biệt thông qua hình tƣợng ngƣời anh hùng- trung tâm của
những tác phẩm.
Từ những nhận thức sơ bộ về văn hoá hai tộc ngƣời Êđê và Mnông
cũng nhƣ qua khảo sát các tác phẩm tiêu biểu trong Kho tàng sử thi Tây
Nguyên, chúng tôi chỉ ra những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa hình
tƣợng ngƣời anh hùng trong sử thi của hai dân tộc này. Nếu nhƣ trong sử
87
thi Êđê, ngƣời anh hùng, ngƣời tù trƣởng bộ tộc đƣợc cả cộng đồng
ngƣỡng mộ, tôn sùng thì trong sử thi Mnông, sự anh hùng đó lại đƣợc thể
hiện ở mức độ khác với nhiều kiểu mẫu anh hùng- ngƣời dũng sĩ chiến
trận. Vai trò của ngƣời anh hùng trong sử thi Êđê đối với bộ tộc dƣờng
nhƣ tuyệt đối. Các cuộc giao tranh trong sử thi Êđê dù vẫn nằm trong
khuôn khổ của các buôn làng với nhau, nhƣng ở đó vai trò của ngƣời tù
trƣởng hùng mạnh quyết định toàn bộ thắng bại. Còn sử thi Mnông ta lại
gặp cái không khí sôi sục của cuộc giao tranh tập thể gồm những ngƣời
xuất sắc, tài giỏi nhất của buôn làng. Sử thi Mnông cũng có những nhân
vật anh hùng xuyên suốt qua cả hệ thống các tác phẩm, tuy nhiên, mức độ
điển hình của các nhân vật chƣa tuyệt đối. Dấu ấn của các nhân vật dƣờng
nhƣ mờ đi trong cái chung của cả cộng đồng.
Việc tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật anh
hùng của sử thi Êđê và sử thi Mnông ở chƣơng ba là một việc làm cần
thiết, bám sát ngay trên bề mặt văn bản của tác phẩm. Chúng tôi dựa vào
những đặc điểm thƣờng gặp trong nghệ thuật kể chuyện của sử thi nhƣ :
sự xuất hiện của các yếu tố lặp đi lặp lại, ngôn ngữ khoa trƣơng, lối so
sánh ví von…đây cũng chính là những đặc điểm quan trọng không chỉ
riêng của sử thi Tây Nguyên mà đối còn với các pho sử thi vĩ của thế giới
nhƣ Iliat, Ôđixê.
Những nhân vật anh hùng, là tiêu biểu cho khát vọng của cả cộng
đồng dân tộc về sức mạnh, vẻ đẹp và lòng dũng cảm, anh hùng. Họ có
sức sống lâu bên trong tâm hồn ngƣời nghe, ngƣời đọc cũng chính vì lẽ
đó.
Cách xa chúng ta rất nhiều năm lịch sử, những giá trị đó có thể đã
cũ, có thể ngây thơ đơn giản trong cách nhìn hiện đại ngày nay. Nhƣng
những nhân vật anh hùng trong cái không khí sử thi vô cùng đẹp đẽ,
thiêng liêng đó mãi mãi tồn tại nhƣ một phần lịch sử. Mỗi khi đọc, chúng
ta vẫn sẽ cảm thấy yêu mến, tự hào nhƣ những ký ức đẹp về thời thơ ấu
88
của loài ngƣời sẽ không bao giờ quay trở lại.
89