ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ HỒNG
SO SÁNH VIỆC THỂ HIỆN XÃ HỘI TRONG KIM VÂN KIỀU TRUYỆN (THANH TÂM TÀI NHÂN) VÀ TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU)
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60 22 34
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS. TS. TRẦN NHO THÌN
HÀ NỘI: 2009
TRANG
1
10 10 10
18
28
28
39
45
52
53
53
63
71
80
88
92
92
96
hội- cấu 102
MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………… CHƯƠNG 1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI KỲ ĐỔI MỚI………………………………………………………………………. 1. 1.1 Sự hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam………………..…… 1.1.1 Quan niệm về tầng lớp doanh nhân Việt Nam…………………….. 1.1.2 Quá trình và cơ sở hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới………………………………………………………………………… 1.2 Đặc điểm của tầng lớp doanh nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới….. 1.2.1 Đặc điểm về số lượng và chất lượng của tầng lớp doanh nhân Việt Nam……………………………………………………………………… 1.2.2 Đặc điểm về cơ cấu của tầng lớp doanh nhân Việt Nam................. 1.2.3 Đặc điểm về vị trí của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai cấp……………………………………………..……………. CHƯƠNG 2. VAI TRÒ VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI KỲ ĐỔI MỚI…………………………………………………………....... 2.1 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới…………………………………..................... 2.1.1 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với giai công cấp nhân………………………………………………………..... 2.1.2 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với giai cấp nông dân……………………..……………………………………. 2.1.3 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với đội ngũ trí thức…………………………………………………………….. 2.1.4 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với đội ngũ cán bộ công chức……………………………………………………. 2.1.5 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ nội bộ…………………………………………………………………………………. 2.2 Xu hướng biến đổi của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới………………………………….... 2.2.1 Xu hướng phát triển về số lượng, chất lượng và biến đổi về cơ cấu của tầng lớp doanh nhân Việt Nam…………………………………….. 2.2.2 Xu hướng liên kết của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai cấp …………………………………………………………………. 2.2.3 Xu hướng quan hệ lợi ích của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong giai xã kết cấp…………………...……………………………...........
112
112
112 và đội dân ngũ
117
123
129
129
138
144
154 tầng
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI KỲ ĐỔI MỚI………………………………………………..... 3.1 Quan điểm phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới……………………....... 3.1.1 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam gắn với phát huy sức mạnh của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông trí thức……………...……………………………… 3.1.2 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước…………………......... 3.1.3 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam là nhiệm vụ chung của các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai cấp, nhưng trước hết phải từ sự nỗ lực của chính tầng lớp doanh nhân…………….. 3.2 Giải pháp phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới……………….............. 3.2.1 Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai cấp xã hội về tầng lớp doanh nhân Việt Nam... 3.2.2 Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tầng trong kết cấu xã hội- giai lớp doanh nhân Việt Nam cấp…………………… 3.2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước trong điều chỉnh quan hệ giữa tầng lớp doanh nhân Việt Nam với các giai cấp, tầng lớp của kết cấu xã hội- giai cấp………..………… 3.2.4 Nhóm giải pháp phát huy trách nhiệm của những tổ chức chính trị- xã hội và nghề nghiệp đại diện cho các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai cấp đối với lớp doanh nhân Việt Nam............................ KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. Danh mục công trình khoa học đã công bố có liên quan đến luận án Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………..
159 161 163
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự ra đời và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của tầng lớp DNVN.
Không chỉ có tiềm năng về kinh tế, mà cùng với sức mạnh về trí tuệ và bản
lĩnh của mình, DNVN đang có sự đóng góp ngày càng tích cực vào quá trình
phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Một bộ phận doanh nhân có khả năng
thích ứng với sự biến động của đời sống xã hội, tạo thêm được nhiều ngành
nghề, thu hút được hàng triệu lao động, đạt được nhiều thành tựu trong hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nhân đã có trách nhiệm với cộng
đồng, bước đầu tự giác và sáng tạo trong hợp tác với nhau cũng như liên kết
với các giai tầng xã hội khác nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, mở rộng quan hệ hợp tác trong nước và quốc tế, góp phần ổn
định chính trị- xã hội. Thành viên của tầng lớp này xuất thân từ hầu hết các
giai tầng xã hội và đang tồn tại trong mọi ngành nghề sản xuất kinh doanh ở
nước ta...
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu,
DNVN đã và đang bộc lộ không ít nhược điểm. Số lượng doanh nhân ít và
chất lượng còn hạn chế so với lực lượng doanh nhân ở nhiều quốc gia trong
khu vực và trên thế giới. Không nhiều doanh nhân được đào tạo bài bản,
chuyên nghiệp. Tính cộng đồng của DNVN chưa cao. Một số doanh nhân có
những hành vi phạm pháp (như trốn thuế, gian lận thương mại, cạnh tranh
không lành mạnh, ngược đãi, bóc lột cũng như đối xử bất bình đẳng với công
nhân...). Nhìn chung, DNVN còn chưa tích cực, chủ động hợp tác với các giai
tầng khác trong xã hội để củng cố, mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh cũng như nhằm thúc đẩy tất cả các giai tầng xã hội cùng phát
1
triển... Việc xây dựng một tầng lớp DNVN lớn mạnh được đặt ra cấp thiết cho
đất nước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
IX) chỉ rõ: "Coi trọng vai trò của các doanh nhân trong phát triển kinh tế- xã
hội". Ở thời điểm đó, doanh nhân được Đảng ta xếp vị trí thứ tám trong kết
cấu giai tầng xã hội. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng,
doanh nhân được đưa lên vị trí thứ tư (chỉ sau công nhân, nông dân và trí
thức). Sự sắp xếp thứ tự các giai tầng xã hội trong Văn kiện của Đảng cũng
chỉ mang tính tương đối. Tuy nhiên, việc Đảng ta đưa doanh nhân lại gần hơn
với vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cũng
phần nào chứng tỏ rằng, tầng lớp DNVN đang trở thành một trong những lực
lượng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế- xã hội nước ta có thể tiến triển mạnh mẽ và vững chắc
trong thời gian qua, một phần do Đảng đã tạo được sự liên kết giữa tầng lớp
DNVN với các giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của tầng lớp DNVN, còn hàng loạt
vấn đề có tính thời sự đang đặt ra: Doanh nhân là ai? Vị trí và vai trò của tầng
lớp này trong kết cấu xã hội - giai cấp ở nước ta thời kỳ đổi mới? DNVN là
tầng lớp hay là giai cấp, họ có phải là tư sản như những nhà tư sản ở các nước
tư bản không? Nếu là tầng lớp thì DNVN có thể phát triển thành giai cấp
không? Trong xu thế toàn cầu hoá, sự liên kết, hợp tác của tầng lớp DNVN
với các giai tầng khác trong kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta cũng như với
các đối tác trên thế giới sẽ diễn ra theo xu hướng nào? Vai trò lãnh đạo của
Đảng và các tổ chức xã hội đối với tầng lớp DNVN được thể hiện ra sao?
Làm thế nào để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của tầng lớp
doanh nhân trong kết cấu xã hội- giai cấp...? Tất cả những câu hỏi trên đều
2
đang rất cần câu trả lời thoả đáng nhằm góp phần làm sáng tỏ chiến lược cũng
như con đường phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam.
Để giải quyết những vấn đề cấp thiết trên, phải nhìn nhận đúng đắn về
vị trí và vai trò của các giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp nước ta, ở đó,
tầng lớp doanh nhân- một tầng lớp xã hội mới, đang vận động và phát triển
mạnh mẽ trong nền kinh tế nhiều thành phần. Phải nêu lên những ưu điểm của
tầng lớp DNVN và tìm cách phát huy những ưu điểm đó. Thẳng thắn chỉ ra
những hạn chế trong quá trình tồn tại và phát triển của tầng lớp xã hội này và
đưa ra giải pháp khắc phục những hạn chế ấy, để tầng lớp DNVN thực sự là
một thành tố hữu cơ trong kết cấu xã hội- giai cấp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khoảng gần một thập kỷ trở lại đây, không ít công trình khoa học đã đề
cập đến một số khía cạnh liên quan đến đề tài. Tiêu biểu là những công trình
có tính chuyên khảo sau:
Dưới góc độ triết học, những nghiên cứu về kết cấu xã hội- giai cấp đã
được đặt ra khá sâu sắc. Luận án tiến sĩ triết học của Quản Văn Trung: “Sự
biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp ở Việt Nam trong quá trình phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Hà
Nội, 1999) đã phân tích thực trạng từng giai cấp, tầng lớp xã hội, chỉ ra những
đặc trưng, xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội- giai cấp ở nước ta thời kỳ đổi
mới. Công trình cho thấy, cơ cấu xã hội- giai cấp ở Việt Nam đã và đang biến
động khá mạnh mẽ. Sự biến động mạnh mẽ đó còn được thể hiện trong bản
thân mỗi giai tầng xã hội, trong đó có tầng lớp doanh nhân.
Nghiên cứu kết cấu xã hội- giai cấp dưới góc độ tiếp cận của xã hội
học, công trình: "Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội" của Nguyễn Đình Tấn,
NXB Lý luận chính trị (Hà Nội, 2005) đã trình bày những nội dung cơ bản về
cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, đồng thời đưa ra những phân tích thực tiễn
3
về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội ở Việt Nam, những dự báo xu hướng
biến đổi và một số kiến nghị lên các cấp lãnh đạo, quản lý nhằm nhận diện
đúng đắn những biến đổi thực tế về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, qua đó
có thêm cơ sở khoa học để hoạch định đường lối, đề ra các chính sách đúng
đắn...
Bên cạnh những nghiên cứu về thực trạng và xu hướng biến đổi của kết
cấu xã hội- giai cấp ở nước ta là những nghiên cứu về sự tồn tại và phát triển
của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa- cơ sở kinh tế của sự hình thành và phát triển tầng lớp DNVN. Với
hướng nghiên cứu này, nổi bật là các công trình khoa học sau:
“Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa” của Trần
Ngọc Bút, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2002). Công trình đã đề cập đến
cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam và tình hình
phát triển kinh tế tư nhân hiện nay cũng như xu hướng phát triển kinh tế tư
nhân ở nước ta thời gian tới.
Khi đề cập đến vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều
thành phần; vấn đề quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân; thực trạng kinh
tế tư nhân ở nước ta và phương hướng phát triển kinh tế tư nhân trong tình
hình mới... công trình khoa học: “Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với
kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay”- Hồ Văn Vĩnh (chủ biên), NXB. Chính trị
Quốc gia (Hà Nội, 2003) đã thể hiện khá sâu sắc những nội dung này.
Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, kinh tế tư
nhân ngày càng thể hiện rõ vai trò tích cực. Công trình: “Kinh tế tư nhân
trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay”- Viện Thông tin Khoa học xã hội,
NXB. Khoa học Xã hội (Hà Nội, 2003) đã giới thiệu những nét khái quát về
khu vực kinh tế nhạy cảm này qua những nghiên cứu của nhiều chuyên gia
quốc tế. Trước hết, đó là những thay đổi trong nhận thức về phát triển kinh tế
4
tư nhân; những yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa chế độ tư bản chủ nghĩa và
chế độ xã hội chủ nghĩa trong suốt nhiều thập kỷ qua. Công trình cũng tập
trung vào luận giải sự tồn tại tất yếu của sở hữu tư nhân trong giai đoạn phát
triển hiện nay: phân tích và đánh giá sự tiến triển đa dạng của nó ở cả phương
Tây và phương Đông...
Công trình khoa học: "Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân ở Việt
Nam- Thực trạng và giải pháp” của Lê Khắc Triết, NXB. Lao động (Hà Nội,
2005) đã trình bày thực trạng của kinh tế tư nhân Việt Nam từ những năm
1986 đến nay và góp phần chỉ ra những nhân tố tích cực cùng những cản trở
tiêu cực và đề xuất những giải pháp cho sự đổi mới, phát triển kinh tế tư nhân
Việt Nam.
Cũng phải kể đến công trình khoa học: “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn
Thanh Tuyền, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2006). Công trình này đề
cập đến vị trí, vai trò của sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực trạng sở hữu tư nhân và kinh tế tư
nhân trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam và phương hướng xã hội hoá kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa...
Các công trình khoa học bàn về kinh tế tư nhân kể trên mặc dù đã thu
được nhiều kết quả quan trọng, nhưng việc bàn về chủ thể của thành phần
kinh tế tư nhân- tầng lớp doanh nhân với tư cách là một tầng lớp xã hội mới,
chưa được chú ý nhiều.
Nghiên cứu các vấn đề liên quan trực tiếp đến tầng lớp DNVN, có một
số công trình khoa học đáng chú ý: "Doanh nhân Việt Nam xưa và nay" Tập
1, Tập 2, Tập 3- Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam, NXB. Thống kê (Hà
Nội, 2004); "Doanh nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới"- Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2003); “Hội thảo
5
Văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân trong quá trình hội nhập”- Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam tổ chức (Hà Nội, 2006); “Doanh nghiệp, doanh nhân trong kinh tế thị
trường” của Vũ Quốc Tuấn, NXB. Chính trị Quốc gia (Hà Nội, 2001);
“Doanh nhân viết”, NXB. Trẻ, Thời Báo kinh tế Sài Gòn, (Hà Nội, 2005).
Các công trình khoa học trên là của các tác giả trong nước từ nhiều chuyên
ngành khác nhau, ít nhiều đã bàn về vị trí, vai trò của tầng lớp doanh nhân với
tư cách là một tầng lớp xã hội mới ở Việt Nam trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và đưa ra một số phương hướng phát triển tầng lớp
doanh nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam thời gian tới. Tuy nhiên, các công trình khoa học này đều chưa đi sâu
nhìn nhận DNVN trong mối quan hệ chặt chẽ với các giai tầng xã hội.
Nguyễn Hồng Dung và các chuyên gia của PACE đã hoàn thành công
trình khoa học khá công phu: “Lương Văn Can xây dựng đạo kinh doanh cho
người Việt” và “Bạch Thái Bưởi khẳng định doanh tài nước Việt” do Tổ hợp
giáo dục PACE và NXB. Trẻ phát hành năm 2007. Đây là hai phần trong bộ
sách Đạo kinh doanh Việt Nam và thế giới. Hai công trình khoa học trên trình
bày lịch sử hình thành và phát triển nghề kinh doanh của nước ta với những
doanh nhân khởi đầu cho sự hình thành và phát triển của tầng lớp DNVN.
Cũng phải kể đến công trình khoa học do Lê Đăng Doanh làm chủ
biên: “Doanh nhân, doanh nghiệp và cải cách kinh tế” của, NXB. Trẻ. Thời
báo kinh tế (Sài Gòn, 2005). Công trình này là sản phẩm của nhiều nhà khoa
học khác nhau, đã trình bày lý luận chung về doanh nghiệp, DNVN, thực
trạng năng lực của đội ngũ doanh nhân nước ta, những yêu cầu, đòi hỏi đặt ra
cho đội ngũ doanh nhân và cách thức để doanh nghiệp, doanh nhân thành
công trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế... Mặc dù vậy, do không hệ
thống và hoàn chỉnh nên công trình chưa mang tính chuyên khảo.
6
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, chuyên ngành quản lý kinh tế,
đề tài: “Phát triển đội ngũ doanh nhân trên địa bàn Quận Cầu giấy Thành
phố Hà Nội” của Nguyễn Văn Thắng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (Hà Nội, 2006), đã tiến hành khảo sát đối tượng nghiên cứu ở quy mô
nhỏ, bước đầu nhìn nhận về tầng lớp doanh nhân và bản chất của khái niệm
doanh nhân, trình bày thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ
doanh nhân trên một phạm vi nhất định.
Cũng liên quan chặt chẽ đến đối tượng nghiên cứu của đề tài, công
trình khoa học: “Giám đốc doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị
Kim Phương (chủ biên) (Hà Nội, 2004), đã phân tích thực trạng họat động của
chủ doanh nghiệp tư nhân và làm rõ một số yếu tố ảnh hưởng đến nhân cách
của giám đốc doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý,
giáo dục đào tạo đội ngũ này trong tình hình mới.
Hội thảo “Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp và đội ngũ
doanh nhân Việt Nam” do VCCI tổ chức tháng 10/2006, đã bàn về tầm quan
trọng của việc xây dựng chiến lược phát triển hệ thống doanh nghiệp cũng
như đội ngũ DNVN trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế...
Ngoài ra còn một số công trình khoa học khác liên quan đến hướng
nghiên cứu của đề tài đạt được một số thành quả nhất định…
Từ tình hình nghiên cứu kể trên, có thể thấy, việc nghiên cứu về đối
tượng của đề tài đã và đang được nhiều nhà khoa học quan tâm, khai thác từ
nhiều góc độ khác nhau, trong đó, triết học đã góp một phần tiếng nói của
mình. Tuy vậy, chưa tác giả nào đề cập một cách hệ thống đến vị trí, vai trò
và xu hướng biến đổi của tầng lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp thời
kỳ đổi mới ở nước ta.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tầng
lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta thời kỳ đổi mới, nêu lên
những quan điểm cơ bản và giải pháp thiết thực để phát huy hơn nữa vai trò
của tầng lớp này ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích đặt ra, luận án cần giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Thứ nhất, xác định nội dung khái niệm tầng lớp DNVN và những đặc
điểm cơ bản của tầng lớp DNVN; trình bày cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
của sự hình thành, phát triển tầng lớp DNVN.
Thứ hai, phân tích vị trí, vai trò và xu hướng biến đổi của tầng lớp
DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới.
Thứ ba, đề xuất và luận giải một số quan điểm và giải pháp nhằm phát
huy vai trò của tầng lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Về đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu về tầng lớp DNVN đặt trong mối
quan hệ với các giai cấp và tầng lớp khác của kết cấu xã hội- giai cấp nước ta.
Về phạm vi nghiên cứu: DNVN là khái niệm được hiểu theo nghĩa rộng
và nghĩa hẹp, nhưng trong khuôn khổ luận án, chỉ nhìn nhận tầng lớp này theo
nghĩa hẹp, nghĩa là chủ yếu nghiên cứu bộ phận doanh nhân trong khu vực
kinh tế tư nhân ở nước ta hay bộ phận doanh nhân mới (mới hình thành trong
quá trình đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay). Do chưa tìm được từ ngữ
thích hợp ngắn gọn để gọi tên bộ phận doanh nhân này nên tác giả tạm gọi tắt
là tầng lớp doanh nhân Việt Nam và viết tắt là DNVN.
Hiện nay, có một bộ phận DNVN ở nước ngoài (hoạt động sản xuất
kinh doanh ở nước ngoài), nhưng do không có điều kiện nghiên cứu, nên tác
giả chưa xem xét bộ phận doanh nhân này.
8
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
của luận án
Về cơ sở lý luận: Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Tác giả sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó chủ yếu là phương pháp kết hợp
lôgíc- lịch sử và tiếp cận liên ngành khoa học.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận án
Làm rõ khái niệm và đặc điểm của tầng lớp DNVN.
Đánh giá vị trí, vai trò và xu hướng biến đổi của tầng lớp DNVN trong
mối quan hệ với các giai tầng ở kết cấu xã hội- giai cấp nước ta thời kỳ đổi
mới dưới góc độ triết học.
Đưa ra một số quan điểm và đề xuất các nhóm giải pháp khả thi nhằm
phát huy vai trò của tầng lớp DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới
hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: Góp phần làm luận cứ cho đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với doanh nhân cũng như giải quyết mối quan hệ giữa
các tầng lớp xã hội; làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy
những vấn đề liên quan đến tầng lớp này.
Về mặt thực tiễn: Góp phần để các giai cấp và tầng lớp xã hội hiểu rõ
và thông cảm hơn với doanh nhân Việt Nam, qua đó điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội tiến tới đồng thuận, cùng phát triển trong công cuộc đổi mới đất
nước.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 3 chương (7 tiết), Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo.
9
CHƢƠNG I
SỰ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1 Sự hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam
1.1.1 Quan niệm về tầng lớp doanh nhân Việt Nam
Từ “doanh nhân” theo tiếng Pháp, có nguồn gốc và nghĩa ban đầu là
người tổ chức về giải trí ca nhạc hoặc các hình thức giải trí khác. Từ điển
tiếng Anh (xuất bản năm 1879) cũng định nghĩa doanh nhân theo ý nghĩa
tương tự là giám đốc hoặc người quản lý một tổ chức ca nhạc công cộng có
năng khiếu trong lĩnh vực giải trí đặc biệt là khả năng trình diễn ca nhạc. Đầu
thế kỷ XVI, từ “doanh nhân” được áp dụng vào lĩnh vực quân sự, cụ thể là
những người được tuyển chọn cho những đội quân viễn chinh. Khái niệm này
cũng được mở rộng cho các hoạt động xây dựng dân dụng và xây dựng trong
quân sự ở thế kỷ XVII. Cho đến đầu thế kỷ XVIII, khái niệm doanh nhân sử
dụng trong lĩnh vực kinh tế. Như vậy, sự phát triển của khái niệm doanh nhân
kéo dài hơn bốn thế kỷ, được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
Richard Cantillon- Người Ai- len sinh sống tại Pháp lần đầu tiên giới
thiệu thuật ngữ doanh nhân và hàm số chấp nhận rủi ro độc đáo trong kinh tế
học của ông ngay từ đầu thế kỷ XVIII. Ông ta định nghĩa doanh nhân là người
mua các yếu tố sản xuất với một giá cả nhất định để kết hợp chúng trong sản
xuất sản phẩm và bán với giá không chắc chắn trong tương lai. Ông miêu tả
rằng, một người chủ trang trại trả tiền theo hợp đồng đã ký cho người chủ đất
và người làm công theo một giá đã biết nhưng lại bán những sản phẩm theo
giá “không chắc chắn”. Ông nói thêm rằng, những nhà buôn cũng làm như
vậy bằng việc trả tiền trước và mong đợi thu về khoản tiền chưa được xác
định. Vì vậy, họ cũng được gọi là doanh nhân chấp nhận rủi ro.
10
Frank H. Knight- Người sáng lập trường phái kinh tế học Chicago đã
mô tả doanh nhân là một nhóm người được chuyên môn hoá mà gánh lấy
những điều không chắc chắn. Khái niệm không chắc chắn được định nghĩa
như là rủi ro mà không thể bảo đảm và không thể tính toán được. Vì vậy, ông
ta rút ra một điểm khác biệt giữa rủi ro thông thường và điều không chắc
chắn. Một rủi ro có thể được giảm thiểu thông qua các nguyên tắc bảo đảm,
nơi mà sự phân bố kết quả của một nhóm đã được biết. Ngược lại, điều không
chắc chắn là những rủi ro không tính toán được. Người doanh nhân, cũng theo
ý kiến của Knight, là người làm việc trong lĩnh vực kinh tế mà thực hiện các
trách nhiệm về điều không chắc chắn mà tự nó không có bảo đảm, không
được cấp vốn và trả lương.
Jean Baptiste Say- Nhà kinh tế người Pháp đã phát triển khái niệm về
doanh nhân hơn một chút mà đã tồn tại suốt hai thế kỷ. Ông quan niệm:
“Chính doanh nhân là người phán đoán những nhu cầu và nhất là những
phương tiện; vì vậy đức tính chủ yếu của người đó là đầu óc phán đoán. Về
phương diện cá nhân, người đó có thể không cần đến sự am hiểu của mình
bằng cách sử dụng một cách đúng đắn sự am hiểu của những người khác;
người đó có thể tránh không tự mình bắt tay vào việc bằng cách sử dụng bàn
tay của người khác; nhưng người đó không thể thiếu đầu óc phán đoán; bởi vì
nếu như vây, người đó có thể tiêu tốn rất nhiều để làm ra những cái chẳng có
giá trị gì" [Theo 88, 19]. Theo định nghĩa này, Jean Baptiste Say đã gắn khái
niệm doanh nhân với các chức năng điều phối, tổ chức và giám sát.
Joseph A. Schumpeter- Nhà kinh tế người Áo, lần đầu tiên vào năm
1934, đã gắn vai trò cốt lõi của “cải cách” cho doanh nhân trong tác phẩm
chính của mình là “Lý thuyết về Phát triển kinh tế”. Schumpeter đã coi phát
triển kinh tế như là sự thay đổi năng động riêng biệt là do doanh nhân mang
đến bằng cách xây dựng các kết hợp mới về các yếu tố sản xuất (như: cải
11
cách, đổi mới). Ông cũng làm rõ sự khác nhau giữa nhà phát minh và nhà cải
cách. Một nhà phát minh là người khám phá các phương pháp mới và vật liệu
mới. Nhưng đối với nhà cải cách thì tận dụng các phát minh mới và khám
phá mới để tạo ra những sự kết hợp mới.
H.N. Casson- Nhà kinh tế người Pháp đã ghiên cứu toàn diện hơn về
doanh nhân. Ông nêu ra 2 phương pháp định nghĩa doanh nhân: Theo chức
năng và theo hình thức biểu thị hay còn gọi là địa vị pháp lý. Phương pháp
định nghĩa theo chức năng chỉ ra chức năng nhất định và những ai thực hiện
chức năng này sẽ được coi là doanh nhân. Phương pháp xác định theo hình
thức biểu thị đưa ra sự mô tả cách nhận ra doanh nhân theo cách mà anh ta
được thừa nhận. Không giống như định nghĩa theo chức năng, định nghĩa theo
hình thức biểu thị mô tả doanh nhân theo địa vị của anh ta có thể là về pháp lý
hoặc xác định theo quan hệ hợp đồng với các bên khác, địa vị của anh ta trong
xã hội.
Hai phương pháp tiếp cận của H.N. Casson về doanh nhân đã được sử
dụng làm cơ sở để hiểu về doanh nhân một cách khách quan. Redlich đã tìm
cách mô tả các chức năng nhất định cuả doanh nhân và không phải của doanh
nhân. Ông chia chức năng doanh nhân làm 3 phần: 1. Nhà tư bản: Người cung
cấp tư bản (vốn) và các nguồn lực không phải là con người; 2. Nhà quản lý:
Người giám sát và điều phối các hoạt động sản xuất; 3. Doanh nhân: Người
lập kế hoạch, người ra quyết định cuối cùng trong doanh nghiệp sản xuất. ở
đây doanh nhân được hiểu là người tham gia riêng vào quá trình sản xuất. Vai
trò chịu trách nhiệm rủi ro tài chính, tổ chức nguồn lực và chịu trách nhiệm về
các hoạt động quản lý được coi không phải là vai trò doanh nhân. Khái niệm
doanh nhân gắn liền với ba thành phần là: chấp nhận rủi ro, tổ chức và cải
cách. Một doanh nhân có thể được xác định như là một người đang cố gắng
tạo ra những giá trị mới, tổ chức sản xuất và chấp nhận các rủi ro mạo hiểm
12
và xử lý các yếu tố không chắc chắn mang tính kinh tế liên quan đến doanh
nghiệp.
Ở Việt Nam, giáo sư Hoàng Phê quan niệm rằng, doanh nhân là “người
làm nghề kinh doanh” [75, 218]. Bách khoa toàn thư tiếng Việt định nghĩa:
"Doanh nhân được hiểu là những người chủ chốt trong việc quản trị, điều
hành một doanh nghiệp. Đó có thể là những người đại diện cho các cổ đông,
cho các chủ sở hữu (thành viên Hội đồng Thành viên, Hội đồng Quản trị, Ban
Kiểm soát) hoặc trực tiếp điều hành các doanh nghiệp (thành viên Ban Giám
đốc). Theo nghĩa rộng thì doanh nhân là những người có vị trí trong một
doanh nghiệp và làm công việc quản trị trong doanh nghiệp" [110].
Có quan điểm cho rằng, doanh nhân là người làm nghề kinh doanh
(buôn bán) có nghĩa là kinh doanh đồng nhất với thương nghiệp và doanh
nhân đồng nhất với thương nhân. Thực tế thì, kinh doanh là khái niệm có nội
dung rộng hơn thương nghiệp và doanh nhân là khái niệm có nội hàm rộng
hơn thương nhân. Chữ doanh cũng có nghĩa là quản lý, còn kinh doanh là
quản lý kinh tế.
Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2005 giải thích: “Kinh doanh là việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư,
từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi” [57, 22]. Pháp luật thuế hiện hành ở nước ta quy hệ thống
các hoạt động kinh doanh trong xã hội vào sáu ngành lớn: sản xuất, thương
nghiệp, ngành ăn uống, dịch vụ, xây dựng và vận tải. Kinh doanh là khái niệm
bao trùm cả ba lĩnh vực là sản xuất hàng hoá, buôn bán và dịch vụ. Doanh
nhân hay nhà kinh doanh là đối tượng tham gia một hoặc nhiều ngành hoạt
động nói trên trong nền kinh tế nhằm mục đích cơ bản là tìm kiếm lợi nhuận.
13
Hiện nay ở nước ta, có nhiều khái niệm liên quan đến khái niệm doanh
nhân. Nhìn nhận dưới góc độ triết học, có thể thấy, nội dung của khái niệm
doanh nhân có sự tương đồng cũng như đan xen với một số khái niệm sau:
Thương nhân là từ Hán Việt, trong đó: thương là thương nghiệp, trao
đổi và mua bán hàng hoá và nhân là người. Như vây, thương nhân là khái
niệm chỉ một lớp người hoạt động trong lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hoá,
xúc tiến thương mại, đầu tư và cung ứng dịch vụ. Hoạt động của lớp người
này nhìn chung là tách khỏi hoạt động sản xuất. Luật Thương mại quy định:
“Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh” [58, 9].
Người sử dụng lao động, trong Điều 6 Bộ luật lao động quy định:
“Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân, nếu
là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi, có thuê mướn, sử dụng và trả công lao
động” [12, 7]. Người sử dụng lao động có thể là doanh nhân nếu họ là cá nhân
đủ 18 tuổi trở lên, được cấp giấy phép hành nghề kinh doanh theo Luật Doanh
nghiệp, có thuê mướn, sử dụng và trả công lao động theo quy định của pháp
luật...
Chủ doanh nghiệp thường được hiểu là người đứng đầu doanh nghiệp,
tự bỏ vốn, thuê (hay huy động) các nguồn lực để thực hiện công việc sản xuất,
kinh doanh hay dịch vụ nhằm thu lợi nhuận.
Giám đốc doanh nghiệp là khái niệm không dùng để phân biệt tính
chất sở hữu. Giám đốc doanh nghiệp có thể hoạt động trong doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân hay doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà
nước. Giám đốc doanh nghiệp có thể là chủ sở hữu doanh nghiệp hay là người
được chủ sở hữu doanh nghiệp uỷ quyền để hoạch định, quản lý, điều hành
14
một doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước doanh nghiệp, pháp luật, xã hội
về các quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Người quản lý doanh nghiệp, trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy
định phạm vi điều chỉnh của Luật là “người đứng đầu công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế” [57, 21]. “Người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu,
giám đốc doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, Chủ
tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên Hội đồng quản trị,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các chức danh quản lý khác do Điều lệ
công ty quy định” [57, 24].
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá IX, Đảng ta đã chủ trương: "Đối với các nhà doanh nghiệp: Coi
trọng vai trò của các doanh nhân trong việc phát triển kinh tế- xã hội..." [6,
41]. Như vậy, Đảng ta đã đồng nhất nhà doanh nghiệp với doanh nhân.
Những khái niệm: chủ doanh nghiệp, giám đốc doanh nghiệp và người
quản lý doanh nghiệp hay nhà doanh nghiệp là những khái niệm có nội dung
tương đồng với khái niệm doanh nhân (theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp).
Căn cứ vào những quan niệm trên, khái niệm DNVN có thể được nhìn
nhận theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.
Theo nghĩa hẹp, DNVN là khái niệm chỉ những người Việt Nam đứng
đầu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, đại diện cho doanh
nghiệp trước pháp luật, có khả năng lãnh đạo, quản lý và tham gia lãnh đạo,
quản lý doanh nghiệp.
Theo nghĩa rộng, DNVN là những người Việt Nam trong cơ cấu tổ
chức quản lý doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; họ có thể là chủ sở
hữu (hay tham gia sở hữu, thậm chí không sở hữu) tư liệu sản xuất và do đó
15
quản lý (hay tham gia quản lý) sản xuất, phân phối (hay tham gia phân phối)
sản phẩm lao động.
Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, DNVN là những chủ thể người Việt
Nam, không nhất thiết phải tham gia sở hữu tư liệu sản xuất trong doanh
nghiệp, không nhất thiết phải trực tiếp phân phối sản phẩm lao động, nhưng
doanh nhân phải là người chịu trách nhiệm quản lý và điều hành doanh
nghiệp. Trên thực tế, nhiều doanh nhân không cần bỏ tiền ra thành lập doanh
nghiệp hay sở hữu cổ phần của doanh nghiệp, nhưng vẫn tham gia hiệu quả
vào nền kinh tế quốc dân dựa trên việc huy động tiền của xã hội.
Cần tránh đồng nhất tất cả cổ đông với doanh nhân, vì cổ đông có thể
chỉ là những người góp vốn vào công ty (chẳng hạn như bằng hình thức mua
cổ phiếu). Cổ đông không nhất thiết phải là người trực tiếp quản lý, điều hành
doanh nghiệp cũng như chưa chắc đã đứng trong cơ cấu tổ chức quản lý
doanh nghiệp. Cho dù là cổ đông lớn, có khả năng tổ chức, lãnh đạo doanh
nghiệp, nhưng không tham gia vào công tác tổ chức, lãnh đạo doanh nghiệp
với tư cách là thành viên trong cơ cấu tổ chức lãnh đạo doanh nghiệp, thì cũng
không được xem là doanh nhân.
Nói đến doanh nhân là nói đến một chủ thể đặt trong mối quan hệ biện
chứng với một cơ sở sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ. Một trong những mối
quan hệ cơ bản ràng buộc doanh nhân với cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
là quan hệ tổ chức, lãnh đạo. Như vậy, theo nghĩa rộng, những người đứng
trong cơ cấu tổ chức lãnh đạo, chịu trách nhiệm quản lý, lãnh đạo những
doanh nghiệp nhà nước cũng được coi là doanh nhân.
Vấn đề đặt ra là, gọi DNVN là tầng lớp hay giai cấp? Để làm rõ vấn đề
này, cần nhìn nhận lại hai khái niệm cơ bản: tầng lớp và giai cấp.
Cho đến nay, khái niệm “tầng lớp” chưa được nhiều nhà khoa học đề
cập đến cũng như chưa được định hình một cách rõ ràng . Theo Từ điển tiếng
16
Việt điện tử Vi.wiktionary.org, thì: “Tầng lớp là tập hợp những người thuộc
một hoặc nhiều giai cấp trong xã hội, có địa vị kinh tế, xã hội và những lợi ích
như nhau”.
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin định nghĩa : “Người ta gọi
giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao
động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người
mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập
đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định” [50,
17-18]
Căn cứ vào định nghĩa tầng lớp và giai cấp ở trên, có thể thấy rằng,
DNVN hiện nay là một tầng lớp xã hội. Bởi vì: Thứ nhất, số lượng thành viên
trong tầng lớp xã hội này chưa đủ để trở thành “tập đoàn người to lớn”. Thứ
hai, giai cấp luôn tồn tại gắn liền với phương thức sản xuất nhất định trong
lịch sử, trong khi DNVN được nảy sinh và phát triển trong điều kiện nền kinh
tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội- nền kinh tế không có phương thức sản xuất
thống trị. Với sự đang định hình của các phương thức sản xuất trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì các giai tầng xã hội tương ứng với các
phương thức sản xuất đó cũng đang trong quá trình hình thành và phát triển.
Ở nước ta, khu vực kinh tế tư nhân mới có bước phát triển mạnh mẽ trong
thời kỳ đổi mới, chủ thể của khu vực kinh tế này cũng từ đó mà mới hình
thành, do vậy, không thể coi lực lượng này là một giai cấp xã hội.
Tầng lớp DNVN hiện nay được cấu thành từ các bộ phận chủ yếu như:
bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước, bộ phận doanh nhân
17
trong khu vực kinh tế tập thể và bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế tư
nhân. Và như đã trình bày, DNVN theo nghĩa hẹp, nghĩa là bộ phận doanh
nhân trong khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm: thành viên hội đồng quản trị
trong công ty cổ phần tư nhân; chủ sở hữu, chủ tịch, giám đốc hoặc tổng giám
đốc công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân; giám đốc doanh nghiệp tư nhân;
thành viên hợp danh của công ty hợp danh tư nhân. Bộ phận doanh nhân này
còn được gọi là doanh nhân mới (“mới” theo nghĩa mới tái hình thành gần
đây, trong thời kỳ đổi mới đất nước). Do chưa tìm được từ ngữ thích hợp
ngắn gọn để gọi tên bộ phận DNVN trong khu vực kinh tế tư nhân mới hình
thành này, nên tạm gọi tắt là tầng lớp doanh nhân Việt Nam và viết tắt là
DNVN. Đây là đối tượng chuyên bàn đến trong luận án.
1.1.2 Quá trình và cơ sở hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam thời kỳ
đổi mới
Để hiểu rõ hơn về tầng lớp DNVN thời kỳ đổi mới đất nước, cần nhìn
lại đôi chút về quá khứ của tầng lớp này. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nói
chung vị thế của doanh nhân nước ta chưa được đánh giá đúng mức. Hiện
nay, vị thế của DNVN đã được nâng lên, không chỉ trong văn bản, nghị quyết
mà còn trong thực tiễn đời sống. Nhìn nhận DNVN với tư cách là một tầng
lớp xã hội có tính lịch sử để thấy sự hình thành và phát triển của nó là cần
thiết, tất yếu trong quá trình hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Trong xã hội phong kiến ở nước ta, việc buôn bán không được xã hội
coi trọng. Nhà nước phong kiến với cơ chế “trọng nông ức thương” khiến cho
sự trao đổi hàng hóa khó phát triển, làm cho mọi mặt của đời sống mang đậm
tính chất tự cấp tự túc. Hệ tư tưởng phong kiến lại bị ảnh hưởng bởi quan
điểm của Nho giáo: coi thường chữ lợi, coi thương nhân là gian trá, ép thương
mại trở thành nghề xếp sau cùng trong xã hội (sĩ, nông, công, thương)... đã
18
gián tiếp kìm hãm kinh tế hàng hóa, và do đó cản trở sự hình thành và phát
triển của tầng lớp DNVN.
Vào giữa thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, chủ nghĩa
tư bản với những đặc trưng của phương thức sản xuất mới, là một trong
những cơ sở hình thành tầng lớp DNVN. Thời kỳ này, kinh tế tư bản ngoại
quốc đã làm lung lay tính chất tự nhiên của nền kinh tế Việt Nam. Hệ quả là,
nền kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển, lực lượng công nhân làm thuê xuất
hiện ngày càng nhiều, có tác dụng kích thích sự phát triển khách quan của
thành phần kinh tế tư bản tư nhân Việt Nam. Sự phát triển của sản xuất hàng
hóa cùng với hoạt động thương mại sôi động đã thúc đẩy một số nhà sản xuất
công nghiệp nước ta ra đời. Tuy nhiên, hoạt động của họ còn nhỏ lẻ và rời
rạc.
Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914- 1918), tận dụng cơ hội
khi thực dân Pháp đang tham gia vào cuộc chiến, DNVN đã tranh thủ mở
rộng sản xuất kinh doanh trong một số ngành nghề và nhanh chóng củng cố
tiềm lực kinh tế. Cũng từ đây, tầng lớp DNVN thực sự hình thành và phát
triển nhanh về số lượng, chất lượng và bắt đầu một quá trình tích lũy vốn, tri
thức, kinh nghiệm… để cạnh tranh với tư bản nước ngoài. Tuy nhiên, trong xã
hội thuộc địa, đội ngũ doanh nhân nước ta khó thoát khỏi sự lệ thuộc cả về
kinh tế và chính trị vào chủ nghĩa thực dân. Những doanh nhân tiêu biểu như
Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà... đã không thể cạnh tranh
được với tư bản nước ngoài.
Như vậy, đã có một bộ phận DNVN được hình thành trong xã hội thuộc
địa (trước Cách mạng Tháng Tám- 1945 ), nhưng cả về số lượng và chất
lượng, còn nhiều hạn chế. Địa vị kinh tế cũng như chính trị của tầng lớp
DNVN chưa được khẳng định rõ ràng để tầng lớp này trở thành một lực lượng
chính trị- xã hội độc lập. Theo số liệu thống kê, toàn bộ lực lương nòng cốt
19
của tầng lớp tư sản dân tộc Việt Nam vào cuối những năm 20 của thế kỷ XX
chỉ vào khoảng 2000 người, chiếm 0,1% dân số cả nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, có một vị nguyên thủ quốc gia quan
tâm tới tầng lớp doanh nhân (thời điểm đó gọi là giới công thương). Chỉ sáu
tuần sau ngày độc lập, 13/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một bức thư
gửi đến giới công thương để khích lệ tinh thần kinh doanh làm giàu cho Tổ
quốc. Tinh thần đó còn được đưa vào một chỉ thị của Trung ương Đảng (ngày
25/11/1945): “Mở lại các nhà máy do Nhật bỏ, khai thác cả mỏ, cho tư nhân
góp vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy, khuyến khích giới công
thương mở hợp tác xã, mở các cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà [28,
27-28].
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc đã hoàn toàn giải
phóng nhưng do chiến tranh tàn phá, kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề và đi vào
giai đoạn suy thoái. Trước tình hình đó, Đảng ta đã chủ trương tận dụng mọi
nguồn lực để nhanh chóng khôi phục kinh tế; nhờ đó, kinh tế miền Bắc được
phục hồi nhanh chóng, kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư doanh phát triển
khá mạnh mẽ. Sau ba năm khôi phục kinh tế, cả nước ta đã xuất hiện trên ba
nghìn cơ sở tư bản tư doanh, cá thể, tiểu chủ.
Bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sản xuất
hàng hoá không được công nhận là hình thức kinh tế phù hợp với con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội; khu vực kinh tế tư nhân bị coi là “phi xã hội chủ
nghĩa”, chủ doanh nghiệp tư nhân là đối tượng phải "cải tạo"... Đảng, Nhà
nước ta đã đề ra chính sách quốc hữu hóa và tập thể hóa các cơ sở sản xuất
kinh doanh tư nhân, hạn chế tối đa sự hình thành và phát triển của tầng lớp
DNVN.
Từ cuối năm 1960, kết cấu kinh tế miền Bắc chỉ còn hai thành phần
kinh tế. Thành phần kinh tế cá thể tuy bị thu hẹp nhiều trong cơ chế kế hoạch
20
hóa tập trung, nhưng vẫn âm thầm tồn tại. Số lượng doanh nhân nước ta thời
điểm này nhìn chung không tăng, chỉ tồn tại trong khu vực kinh tế quốc doanh
và kinh tế hợp tác xã. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước là doanh nhân- công
chức và phải hoạt động sản xuất kinh doanh theo sự điều hành tuyệt đối của
Nhà nước. Cũng trong thời điểm này, “trách nhiệm tập thể” là điều được nhắc
tới nhiều hơn “trách nhiệm cá nhân”, vai trò của doanh nhân trong hoạt động
sản xuất kinh doanh không thực sự được coi trọng.
Sau khi đất nước thống nhất, từ năm 1976, nước ta có khoảng 2000
doanh nghiệp, năm 1980 là 2540 doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp nhà
nước. Trong lĩnh vực công thương nghiệp, với việc 1500 doanh nghiệp tư
nhân bị quốc hữu hoá và chuyển đổi thành 650 doanh nghiệp nhà nước, các
hoạt động của doanh nghiệp tư nhân gần như bị chặn lại. Chủ trương xây
dựng khu vực kinh tế công nghiệp theo mô hình kinh tế Liên Xô cùng với
chính sách tập thể hoá nông nghiệp đã khiến nền kinh tế ngày một suy thoái.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981-1985), Chính phủ đã ban hành
một loạt quyết định liên quan đến hệ thống doanh nghiệp quốc doanh. Những
chủ trương đó đã phát huy tác dụng không chỉ đối với khu vực doanh nghiệp
quốc doanh, mà còn ảnh hưởng đến cả khu vực doanh nghiệp tư nhân. Tuy
nhiên, bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn dè dặt trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó, sự đóng góp của họ vào nền kinh tế
quốc dân còn hạn chế.
Bước vào thời kỳ đổi mới, từ năm 1986, Việt Nam mới bắt đầu xoá bỏ
dần cơ chế bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước. Đây là thời điểm đánh
dấu sự xuất hiện và tiến triển khá mạnh của tầng lớp DNVN.
Sự biến đổi của tầng lớp DNVN có tính chất bước ngoặt vào thập niên
90 của thế kỷ XX- giai đoạn đầu của quá trình đổi mới kinh tế. Việc cơ cấu lại
khu vực doanh nghiệp nhà nước, sự xuất hiện các nhà đầu tư nước ngoài theo
21
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, tiếp theo là sự ra đời của Luật Doanh
nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990, đã đưa tới sự hình thành một lực
lượng doanh nhân mới. Đây là thời điểm phát triển mạnh mẽ của tầng lớp
DNVN.
Như vậy, một thời gian dài trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vì những
nguyên nhân khác nhau, nghề kinh doanh chưa có điều kiện phát triển. Điều
đó khiến chúng ta chưa có nền tảng, kinh nghiệm kinh doanh cũng như kiến
thức về quản lý kinh tế. Nhưng sự áp đặt hay những tác động chủ quan không
ngăn cản được xu thế phát triển khách quan của khu vực kinh tế tư nhân.
Trong những điều kiện khó khăn, kinh tế tư nhân cũng như chủ thể của nó vẫn
tồn tại và ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế. Khi
nói về sức sống của kinh tế tư nhân, Kornai Jánas- nhà kinh tế học nổi tiếng
người Hunggari nhận định: "Sức sống của khu vực kinh tế tư nhân được
chứng minh bằng thực tế rằng, ngay trong môi trường "đào thải" khắc nghiệt
mà nó vẫn hình thành và phát triển được... Các đợt quốc hữu hoá, tập thể hoá
và tịch thu hầu như đã hoàn toàn tiêu diệt khu vực tư nhân, khởi xướng tư
nhân, sở hữu tư nhân. Thế mà, chỉ cần nới lỏng một vài trói buộc, và ngay lập
tức các hoạt động tư lại xuất hiện như nấm sau mưa" [Theo 15, 20].
Lớp doanh nhân ra đời sau Luật Doanh nghiệp năm 2000, Luật Doanh
nghiệp năm 2005, được coi là sản phẩm của thời kỳ hội nhập. Tầng lớp doanh
nhân mới, phần lớn là doanh nhân trẻ, năng động, sáng tạo, được đào tạo, bồi
dưỡng về kiến thức quản trị kinh doanh… đang và sẽ là một trong những
động lực không nhỏ cho sự phát triển kinh tế- xã hội nước ta.
Nếu năm 1991, tổng số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là
414 doanh nghiệp thì đến năm 1992 là 5.198 doanh nghiệp, đến năm 1997 là
25.202 doanh nghiệp. Tính đến cuối năm 2001, cả nước có 65.974 doanh
nghiệp. Từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2000 đến tháng 3/2002
22
đã có trên 42.000 doanh nghiệp và hơn 300.000 hộ kinh doanh mới đăng ký,
nhiều hơn cả số doanh nghiệp đăng ký trong mười năm trước đó. Đến đầu
năm 2003, cả nước có gần 10 triệu hộ kinh doanh cá thể, trên 92.000 doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã chủ trương cho
phép đảng viên làm kinh tế tư nhân: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải
gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh
chấp hành điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương. Những
quy định ấy cần sớm được ban hành và chỉ đạo thực hiện, đảm bảo vừa phát
huy khả năng làm kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư cách, phẩm chất
đảng viên và bản chất của Đảng” [32, 50]. Sự đổi mới về tư duy và hành động
của Đảng đã không chỉ là điều kiện thuận lợi cho tầng lớp DNVN tăng lên cả
về số lượng và chất lượng mà còn cải biến được sự nhìn nhận của xã hội về
doanh nhân. Vị trí của tầng lớp DNVN cũng từ đây được nâng lên trong kết
cấu xã hội- giai cấp, được đưa trở lại quỹ đạo phát triển theo đúng quy luật
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là lực lượng lao động
có vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có
vị thế quan trọng cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí
thức… trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Có thể nhận định rằng, sự hình thành và phát triển tầng lớp DNVN (hay
tầng lớp doanh nhân mới) trên cơ sở hình thành, phát triển thành phần kinh tế
tư nhân ở nước ta cũng như sự vận động biến đổi của hệ thống sản xuất xã hội
từ nền sản xuất hàng hóa nhỏ lên hình thức sản xuất hàng hóa lớn theo hướng
kinh tế thị trường. Học thuyết Mác- Lênin về kinh tế tư nhân và sự tồn tại tất
yếu của nó trong nền kinh tế thị trường đã mang lại cho chúng ta một trong
những cơ sở khoa học để thay đổi quan điểm trong nhận thức và hành động
xung quanh sự tồn tại, phát triển của thành phần kinh tế này.
23
Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, con người cũng không thể lựa
chọn quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng một cách chủ
quan duy ý chí. Sở hữu vừa là kết quả, vừa là điều kiện cho sự phát triển của
lực lượng sản xuất; hơn nữa, nó còn là hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy
hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, mỗi hình thức sở hữu chưa
thể mất đi hoàn toàn khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, và cũng không thể (không nên) tùy tiện dựng lên, hay thủ tiêu
chúng đi khi lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi.
Sự xuất hiện và tồn tại của kiểu quan hệ sản xuất nào, về mặt nguyên
tắc, là tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với một nền kinh
tế chưa phát triển, lực lượng sản xuất còn ở trình độ sản xuất nhỏ, thủ công,
không thể không tận dụng kinh tế tư nhân với tính cách là một trong những
nguồn động lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Đã từng có thời điểm trong
lịch sử, chúng ta chủ trương xóa bỏ sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
mong muốn sớm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nền tảng một nền kinh tế
kém phát triển được quốc hữu hóa một cách gò ép. Hậu quả là kinh tế nước ta
bị ảnh hưởng nghiêm trọng, sản xuất bị đình đốn, đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra rằng, kinh tế tư nhân- với
tính cách là những "mảnh" của các phương thức sản xuất trước xã hội- xã hội
chủ nghĩa, sẽ còn chung sống lâu dài với các thành phần kinh tế khác trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào mà trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất chưa cho phép "xã hội chủ nghĩa hoá" toàn bộ các quan hệ sản
xuất, thì kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân còn tồn tại và phát triển. Quá trình
chuyển hoá đó cũng diễn ra dần dần, thông qua việc cải tạo để cho các
24
"mảnh" tiền xã hội chủ nghĩa ngày càng chứa nhiều yếu tố xã hội chủ nghĩa
hơn chứ không phải bằng cách thủ tiêu nó thông qua mệnh lệnh hành chính.
Nói về sự tồn tại tất yếu của sở hữu tư nhân và điều kiện để xoá bỏ sở
hữu tư nhân, C.Mác và F.Ăngghen nhận định: "Trong công nghiệp lớn thì
mâu thuẫn giữa công cụ sản xuất và sở hữu tư nhân chỉ là sản vật của nền
công nghiệp lớn, và nền công nghiệp lớn này phải đạt đến một trình độ phát
triển cao mới có thể tạo ra mâu thuẫn đó. Như vậy là chỉ với công nghiệp lớn,
mới có khả năng xoá bỏ được sở hữu tư nhân" [63, 94-95]; và "Sở hữu tư
nhân là hình thức giao tiếp cần thiết ở một trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Hình thức giao tiếp đó không thể bị xoá bỏ, và là điều kiện cần thiết
cho sự sản xuất ra đời sống vật chất trực tiếp, chừng nào mà chưa tạo ra được
những lực lượng sản xuất, mà đối với chúng, sở hữu tư nhân trở thành xiềng
xích hoặc trở ngại" [63, 514].
Khi vận dụng cơ sở lý luận trên vào điều kiện thực tế ở nước ta- một
nền kinh tế đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi sản
xuất nhỏ vẫn chiếm tỷ lệ cao trong nền kinh tế quốc dân, thì có thể khẳng định
rằng, chưa có đủ điều kiện xóa bỏ sở hữu tư nhân. Sự tồn tại, phát triển của
kinh tế tư nhân cũng như sở hữu tư nhân và chủ thể của nó- tầng lớp DNVN
vẫn đang và sẽ là một trong những động lực quan trọng cho sự phát triển kinh
tế- xã hội.
Bàn về xu hướng phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin chỉ ra: "Cần phải sử dụng tất
cả những gì mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra về phương diện giá trị văn hoá để
chống lại chúng ta… Chỉ có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội bằng những
gì mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra để chống lại chúng ta, và chúng ta phải sử
dụng những cái đó để xây dựng, để củng cố chủ nghĩa xã hội" [49, 522]. Với
quan điểm này của V.I.Lênin, có thể thấy được sự cần thiết phải vận dụng một
25
cách sâu rộng quan điểm phủ định biện chứng với tính kế thừa trong quá trình
phát triển kinh tế- xã hội. Kinh tế xã hội nói chung, xã hội- xã hội chủ nghĩa
nói riêng không thể phát triển trên một khoảng đất trống không, mà nhất thiết
phải kế thừa những thành tựu mọi mặt của nhân loại nói chung, chủ nghĩa tư
bản nói riêng…
Đề cập đến những yếu tố tích cực của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin viết:
“Chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt
so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình
trạng phân tán của những người tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có
điều kiện để chuyển trực tiếp từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi
vậy, trong một mức độ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là
sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy, chúng ta phải lợi
dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa
tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa
xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực
lượng sản xuất lên” [52, 276].
Căn cứ vào quan điểm về kinh tế tư nhân, sở hữu tư nhân của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã thừa
nhận:"Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất" [24,
57]. Đảng ta còn khẳng định: Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là "bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại" [29, 84]. Có thể cho
rằng, với một mức độ phối hợp nào đó giữa các hình thức sở hữu, thì sự lớn
26
mạnh của kinh tế tư nhân khó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vấn đề là phải tạo ra một sự liên kết hợp lý giữa các yếu tố cấu thành
quan hệ sản xuất cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, nghĩa
là phải tạo ra một sự đan xen hài hoà giữa các hình thức sở hữu và lực lượng
sản xuất.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá và là
thành tựu của nhân loại. Chủ nghĩa tư bản là phương thức sản xuất đầu tiên tổ
chức nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường và đã đạt được những thành
quả nhất định. Thực tế cho thấy, chưa có quốc gia nào thành công trong việc
xây dựng và phát triển kinh tế thị trường mà thiếu sự tồn tại cũng như sự đóng
góp của khu vực kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân là động lực to lớn thúc đẩy
sản xuất hàng hoá phát triển trong kinh tế thị trường. Ngược lại, kinh tế thị
trường là môi trường tồn tại và phát triển thuận lợi của thành phần kinh tế
kinh tế tư nhân…
Tầng lớp DNVN hình thành và phát triển mạnh mẽ cùng quá trình hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi các yếu
tố cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xuất hiện đầy đủ
thì tầng lớp DNVN mới có điều kiện phát triển thuận lợi nhất.
Các loại thị trường ở Việt Nam đều chủ yếu được hình thành và phát
triển trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và nay là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam
đang được hình thành ngày một rõ nét. Đường lối đổi mới của Đảng đã được
thể chế thành Hiến pháp và Pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Chế độ sở
hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở hữu toàn dân,
27
sở hữu tập thể (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) sang hình thức sở hữu
nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động
lực và điều kiện cơ bản cho việc khai thác nội lực và ngoại lực vào phát triển
kinh tế- xã hội. Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển
thống nhất trong nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước đã đi vào cuộc sống, thâm nhập sâu rộng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp, tầng lớp
DNVN.
C.Mác từng nhận định: “Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu
dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản
xuất; nhưng sự phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của
chính ngay phương thức sản xuất" [66, 36-37]. Để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, không thể không xóa
bỏ mọi yếu tố cản trở lực lượng sản xuất cũng như không thể không tận dụng
một cách chọn lọc những yếu tố có khả năng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Với khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta, nếu được phát huy tốt và đúng
hướng, sẽ tạo động lực không nhỏ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc
dân.
Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế quốc dân, kinh tế tư nhân đã đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh
tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần ổn
định chính trị- xã hội. Chủ thể của khu vực kinh tế tư nhân đã và đang hoạt
động trong mọi ngành nghề của nền kinh tế quốc dân và cung cấp phần lớn
các sản phẩm thiết yếu cho đời sống xã hội. Với lợi thế vốn có (năng động,
nhạy bén, táo bạo..), các chủ thể của khu vực tư nhân thâm nhập vào mọi lĩnh
vực sản xuất kinh doanh với các hình thức hoạt động linh hoạt, mà khu vực
kinh tế nhà nước có quy mô lớn khó hoạt động hiệu quả hay không cần thiết
28
đầu tư mà để tập trung vào những ngành trọng điểm, mũi nhọn, có tính dẫn
dắt vĩ mô trong nền kinh tế.
Sự hình thành, phát triển của tầng lớp DNVN trong nền kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu tất yếu
và nổi bật của thời kỳ đổi mới, khẳng định tính đúng đắn trong việc lựa chọn
con đường phát triển kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
1.2 Đặc điểm của tầng lớp doanh nhân Việt Nam thời kỳ đổi mới
1.2.1 Đặc điểm về số lượng và chất lượng của tầng lớp doanh nhân Việt Nam
+ Về mặt số lượng:
Bước vào thời kỳ đổi mới, đội ngũ doanh nhân mới- những chủ tịch hội
đồng quản trị, chủ tịch công ty, giám đốc, tổng giám đốc doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân, công ty cổ phần tư nhân và công
ty hợp danh tư nhân (được thành lập theo Luật Doanh nghiệp) đã ra đời và
ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tại Đại hội X, cùng với quyết định cho phép
đảng viên làm kinh tế tư nhân, Đảng ta còn tiếp tục khẳng định chủ trương
xây dựng và phát huy vai trò tích cực của thành phần kinh tế tư nhân, của tầng
lớp doanh nhân. Báo cáo chính trị trong Đại hội X của Đảng đã khẳng định:
“…kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền
kinh tế” và “phát triển mạnh các loại hình kinh doanh cá thể và các loại hình
doanh nghiệp của tư nhân... xoá mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển
không hạn chế về quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh
doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm” [32, 83-87-119].
Khi xem xét tầng lớp DNVN, thời gian qua, nhìn một cách đại thể, các
nhà nghiên cứu đã đồng nhất số lượng doanh nghiệp với số lượng doanh
nhân. Tuy nhiên, nếu xem xét khái niệm doanh nhân theo nghĩa rộng (đã trình
bày ở mục 1.1.1) thì số lượng doanh nhân phải nhiều hơn số lượng doanh
29
nghiệp. Doanh nhân gồm toàn bộ thành viên trong cơ cấu tổ chức quản lý
công ty (được Luật Doanh nghiệp quy định). Như vậy, doanh nghiệp tư nhân
phải có tối thiểu một doanh nhân (giám đốc doanh nghiệp tư nhân); công ty
trách nhiệm hữu hạn tư nhân tối thiểu phải có một doanh nhân (chủ sở hữu
công ty); công ty cổ phần tư nhân tối thiểu có ba doanh nhân (toàn thể thành
viên của hội đồng quản trị); công ty hợp danh tư nhân tối thiểu có hai doanh
nhân (toàn bộ thành viên hợp danh)...
Mặc dù vậy, nếu theo nghĩa rộng của khái niệm DNVN, có thể khẳng
định rằng, từ trước đến nay, chưa có tổ chức hay cá nhân nào ở nước ta có con
số thống kê chính xác về số lượng DNVN trong một thời điểm cụ thể. Đơn cử
như ở những công ty hợp danh khác nhau, số lượng thành viên hợp danh có
thể không bằng nhau; các công ty cổ phần khác nhau có số lượng thành viên
hội đồng quản trị cũng có thể không bằng nhau... Trên thực tế, khó có thể
thống kê từng công ty hợp danh tư nhân (chẳng hạn) để xem số thành viên
hợp danh là bao nhiêu, trong khi thành viên hợp danh trong các công ty hợp
danh tư nhân cũng như thành viên hội đồng quản trị trong các công ty cổ
phần… có thể được bổ sung hay cắt giảm bất kỳ vì nhiều nguyên nhân.
Thực tế cho thấy, người đứng đầu doanh nghiệp (chủ sở hữu công ty
trách nhiệm hữu hạn tư nhân, giám đốc doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội
đồng quản trị công ty cổ phần…) chưa chắc đã phải là người đại diện cho
doanh nghiệp trước pháp luật; mà người đại diện này có thể là do điều lệ
doanh nghiệp đó quy định. Nếu điều lệ công ty cổ phần quy định tổng giám
đốc là người đại diện cho công ty trước pháp luật, khi ta gọi tổng giám đốc
công ty cổ phần đó là doanh nhân thì ta không thể không coi chủ tịch hội
đồng quản trị, phó chủ tịch hội đồng quản trị hay các thành viên hội đồng
quản trị là doanh nhân (vì thường thì chủ tịch hội đồng quản trị cũng như các
thành viên khác trong hội đồng quản trị có vị trí và vai trò to lớn hơn tổng
30
giám đốc- nếu trong trường hợp này, tổng giám đốc là người được hội đồng
quản trị thuê về làm). Giả dụ, người đại diện cho công ty trách nhiệm hữu hạn
là chủ tịch công ty, ta gọi chủ tịch công ty là doanh nhân, thì ta cũng không
thể không gọi chủ sở hữu công ty là doanh nhân (trong trường hợp chủ sở hữu
công ty và chủ tịch công ty không là một người), vì thực ra, chủ tịch công ty
chỉ là người do chủ sở hữu công ty lựa chọn (thuê) để thay mặt mình điều
hành công việc của công ty…
Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới từ năm 2000 đến hết 2008:
Doanh nghiệp nhà nƣớc 16 27 12 20 6 8 7 1 4 101 Công ty trách nhiệm hữu hạn 1 Thành viên 0 0 59 98 125 292 902 8404 14.299 24.179 Doanh nghiệp tƣ nhân 14.441 19.773 21.464 27.653 37.099 39.659 45.754 50.504 51.015 307.362 Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng số Tổng số 14.457 19.800 21.535 27.771 37.230 39.959 46.663 58.908 65.318 331.641
Nguồn: Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp (Cục Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ- Bộ Kế hoạch và Đầu tư), 2009
Tính cả khoảng 60.000 doanh nghiệp được thành lập từ 1990- 2000,
hiện nay cả nước có trên 350.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Tuy
nhiên, số liệu của Tổng Cục Thống kê cũng như của các cơ quan thuế và ngân
hàng cho thấy, số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trên thực tế thấp hơn số
liệu doanh nghiệp đăng ký của Trung tâm Thông tin doanh nghiệp khoảng
40%. Như vây, trong số trên 350.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, chỉ
có khoảng 220.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên thực tế. Trên 300.000
31
doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh nhưng chỉ có hơn 200.000 doanh
nghiệp đang hoạt động trên thực tế, trong đó, công ty trách nhiệm hữu hạn và
doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất, chiếm khoảng
70-80% tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Như vậy, nếu xác định doanh
nhân là toàn bộ thành viên trong cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp
(theo quy định của Luật Doanh nghiệp), thì số lượng doanh nhân trong khu
vực kinh tế tư nhân hiện nay ở Việt Nam ước tính khoảng trên 250.000 người.
Trên 200.000 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được thành
lập và đang hoạt động trong hơn 20 năm qua ở nước ta đã hình thành một tầng
lớp xã hội- tầng lớp doanh nhân mới (trung bình trên 300 người dân thì có
một doanh nghiệp). So với đa số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những
nước phát triển thì với số lượng DNVN hiện nay còn ít, chưa đủ tạo ra động
lực to lớn cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Tại nước Pháp, với khoảng 60
triệu dân đã có 2,5 triệu doanh nhân; Đài Loan có 22 triệu dân thì có tới 1,2
triệu doanh nhân; Singapore cứ 4 người có một doanh nghiệp; Trung Quốc,
200 người có một doanh nghiệp; Australia, 21 người có một doanh nghiệp,
Mỹ, 10 người có 1 doanh nghiệp. Các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ,
Đức, Anh, Xin-ga-po, Hàn Quốc... số lượng doanh nhân chiếm khoảng 10 đến
22% dân số. Thực tế này đã chứng minh tầm quan trọng của đội ngũ doanh
nhân đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.
Nếu nhìn vào mục tiêu mà các nền kinh tế APEC phấn đấu đạt 1 doanh
nghiệp trên 20 người dân, thì tỷ lệ doanh nghiệp, doanh nhân ở nước ta vẫn
còn hạn chế. So sánh với số lượng doanh nhân ở các nước phát triển trong khu
vực và trên thế giới cũng như so với số lượng thành viên của các giai tầng
khác trong kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta thì thấy, DNVN là một tầng lớp
xã hội nhỏ bé.
+ Về mặt chất lượng:
32
Chất lượng của tầng lớp DNVN trước hết thể hiện ở trình độ học vấn
của các thành viên trong tầng lớp này.
Tính đến giữa năm 2007, nước ta có khoảng 2,6 triệu người có trình độ
đại học trở lên, trong đó trí thức làm việc trong khu vực sự nghiệp chiếm
71%, khu vực hành chính chiếm gần 22%. Riêng khu vực kinh doanh, trí thức
chỉ chiếm khoảng 7% (tức là khoảng 200.000 người). Trong số 7% trí thức
hoạt động trong khu vực kinh doanh, nhìn chung không phải là những trí thức
hàng đầu. Có thể khẳng định rằng, khối lượng kiến thức chuyên môn, kinh
nghiệm kinh doanh của tầng lớp DNVN nhìn chung đang còn thiếu và yếu...
Cuộc điều tra về tinh thần kinh doanh (entrepreneurship) do Viện
Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với tổ chức JICA của Nhật
Bản tiến hành trong khuôn khổ Dự án Ishikawa năm 2000, đối với 481 doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã cho thấy, tỷ lệ doanh nhân đã trải
qua đào tạo đại học và chuyên môn đạt 80,5%, một tỷ lệ cao so với các nước
Đông Nam á. Tuy nhiên, chỉ có 0,6% có bằng Thạc sĩ và 0,8% có bằng Tiến
sĩ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng vừa công bố báo cáo về cuộc điều tra đối
với 63.000 doanh nghiệp tư nhân trên cả nước đã đưa ra số liệu: 43% chủ
doanh nghiệp có trình độ từ cấp 3 trở xuống (nghĩa là chỉ trên 50% chủ doanh
nghiệp có trình độ cấp 3 trở lên). Báo cáo này cho rằng, ở trình độ này, các
chủ doanh nghiệp sẽ rất khó khăn và cần nhiều thời gian để tiếp cận và hiểu
được các công cụ quản lý hiện đại mới được du nhập từ nước ngoài. Trong
khi đó, theo Chương trình phát triển khu vực kinh tế tư nhân tiểu vùng sông
Mê Kông (MPDF) thuộc Công ty Tài chính Quốc tế (IFC), các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân lại đang đối mặt với thực tế: thị trường nguồn
nhân lực quản lý và tư vấn quản lý ở Việt Nam vẫn chưa phát triển. Hơn thế,
không nhiều doanh nghiệp tư nhân đủ năng lực tài chính để sử dụng các dịch
33
vụ tư vấn chuyên nghiệp và còn vướng phải những khó khăn trong việc tuyển
dụng, sử dụng và giữ chân nhân tài.
Những hạn chế trên của tầng lớp DNVN bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, một trong những nguyên nhân cơ bản là hệ thống giáo dục- đào tạo ở
nước ta chưa phát triển ngang tầm để tạo ra những doanh nhân lớn, có trình
độ chuyên ngành sâu, rộng, có khả năng cạnh tranh và giành chiến thắng
trước doanh nhân ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Hệ
thống pháp luật kinh doanh ở nước ta đã được thiết lập nhưng chưa hoàn thiện
để có thể điều chỉnh và hỗ trợ một cách tích cực việc hình thành thói quen
kinh doanh hiện đại. Bên cạnh đó, nguyên nhân nội tại xuất phát từ tính tự
giác, sự nỗ lực phấn đấu rèn luyện, giao lưu học hỏi của DNVN chưa cao…
Chất lượng của tầng lớp DNVN thể hiện ở sự liên kết trong nội bộ tầng
lớp xã hội này.
Bước vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, DNVN đã và đang bộc lộ
nhược điểm cơ bản: tính cộng đồng chưa cao. Do ít có sự phối hợp, liên kết
để tạo thành những mô hình kinh tế có quy mô lớn, nên nhiều đối tác trên thế
giới đã không ký hợp đồng đặt hàng vì khối lượng hàng mà họ cần vượt quá
khả năng cung ứng của không ít doanh nghiệp nước ta. Tuy nhiên, trong điều
kiện hiện nay, việc để cho các doanh nghiệp, DNVN tự liên kết với nhau thì
khó có thể hình thành những tập đoàn kinh tế lớn mạnh, bởi tập đoàn kinh tế
là mô hình kinh tế mới mẻ ở Việt Nam. Bên cạnh đó, tư tưởng cục bộ vẫn còn
in đậm trong cách thức kinh doanh của người Việt, nên việc tự giác liên kết
với nhau của các doanh nghiệp, doanh nhân là điều không dễ thực hiện.
Thực tế cho thấy, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc liên kết, sát
nhập trong nội bộ tầng lớp doanh nhân đã ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và
chính trị của họ theo hai xu hướng chính: ảnh hưởng tích cực (lợi ích kinh tế
và chính trị của doanh nhân được củng cố và tăng cường) và ảnh hưởng tiêu
34
cực (lợi ích kinh tế và chính trị của doanh nhân bị giảm sút, thậm chí bị triệt
tiêu). Nhiều doanh nghiệp nhỏ sau khi sáp nhập vào doanh nghiệp lớn, chủ
doanh nghiệp nhỏ cũng đồng thời trở thành đối tượng chịu sự điều hành, bị
chi phối bởi chủ thể kinh tế khác. Nhìn chung, tính cộng đồng của DNVN còn
mang đậm phong cách tiểu nông.
Không ít DNVN từng có nhu cầu thành lập những tập đoàn kinh tế,
nhưng đa số họ vẫn chưa thành công. Sự thất bại này, ngoài nguyên nhân nội
tại của doanh nghiệp cũng như năng lực của bản thân doanh nhân thì còn có
bất cập khác là, thể chế, luật pháp chưa hoàn thiện. Bộ máy hành chính chưa
được bố trí, sắp xếp một cách khoa học cũng là một trong nhiều yếu tố kìm
hãm sự vận động phát triển của tầng lớp DNVN.
Chất lượng của DNVN được thể hiện ở sự đóng góp của lực lượng xã
hội này vào nền kinh tế quốc dân.
Thực tiễn cho thấy tính tích cực của thành phần kinh tế tư nhân cũng
như của tầng lớp DNVN đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, khi nó tham gia
tích cực vào việc giải quyết việc làm và thu nhập cho phần lớn người lao
động, góp phần làm tăng đáng kể nguồn thu ngân sách nhà nước, tạo môi
trường cạnh tranh ngày càng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, hạn chế sự độc quyền của khu vực kinh tế nhà nước, tạo
thêm động lực nội sinh cho sự phát triển kinh tế- xã hội... “Kinh tế tư nhân từ
xuất phát điểm không có gì đến nay đã chiếm 40% GDP (tổng sản phẩm quốc
nội, cao hơn cả doanh nghiệp nhà nước- chỉ chiếm 38% GDP)” [86, 13-11-
2003]. Tuy vậy, trong khi đội ngũ doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước
chỉ giải quyết được 5% số việc làm của lao động cả nước, thì doanh nhân
trong khu vực tư nhân đã tạo được khoảng 90% số việc làm.
Ở Việt Nam, mặc dù số lượng doanh nhân còn ít, nhưng có đóng góp
không nhỏ vào tổng thu nhập của nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình hội
35
nhập, đặc biệt, từ khi nước ta là thành viên chính thức của Tổ chức Thương
mại quốc tế (WTO), tầm quan trọng của doanh nhân lại càng được thể hiện.
Từ năm 2000 đến cuối năm 2007, mỗi năm khu vực kinh tế tư nhân đóng góp
hơn 6.000 tỉ đồng tiền thuế, chiếm 14,8% tổng thu ngân sách Nhà nước.
Trong 6 năm thực hiện Luật Đầu tư mới, các doanh nghiệp đã đăng ký số vốn
khoảng 321.200 tỉ đồng (khoảng 21 tỉ USD) và số vốn đăng ký bổ sung trên
103.000 tỉ đồng (khoảng 6,3 tỉ USD). Như vậy, tỷ trọng đầu tư của các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng đầu tư phát triển toàn xã hội tăng từ
22,6% (năm 2000) lên 32% (năm 2005), đầu tư khu vực doanh nghiệp nhà
nước là 50%. Tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp tư nhân đạt 18 -
24%, khu vực nhà nước đạt dưới 10%; song tỷ trọng trong GDP của cả hai
khu vực này là tương đương nhau (doanh nghiệp tư nhân 40,1% và khu vực
Nhà nước 40,6% trong năm 2005 [87, 5].
Thời gian gần đây, để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, nhiều doanh nhân đã và đang nỗ lực góp công
sức, trí tuệ để giải quyết những vấn đề bức thiết của quốc gia: tạo công ăn
việc làm ổn định cho người lao động, xóa bỏ các hủ tục cũng như tệ nạn xã
hội, giới thiệu và quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra cộng đồng quốc tế; một
bộ phận không nhỏ doanh nhân đã chủ động đứng ra đảm nhiệm một số công
việc đáng khích lệ trong xã hội- những công việc mà trước đó chưa có ai làm
hoặc có thể do những tổ chức xã hội khác (Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ…)
thực hiện: phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng, nuôi dạy những trẻ
em khuyết tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, phát triển những biện pháp
nhằm cải thiện môi trường, ủng hộ, góp phần xây dựng các Hội người cao
tuổi, tu bổ các trường học, xây nhà tình nghĩa, lập các quỹ khuyến học, quỹ
ủng hộ các nạn nhân từ các vụ thiên tai trong và ngoài nước, xây nhà ở xã hội
36
cho cán bộ công nhân viên yên tâm công tác... Những việc làm mang tính
trách nhiệm xã hội đã góp thêm phần khẳng định vị trí, vai trò của tầng lớp
DNVN trong kết cấu xã hội- giai cấp.
Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế,
bên cạnh bộ phận doanh nhân làm ăn chân chính, vì mục tiêu phát triển kinh
tế- xã hội, vẫn có một bộ phận doanh nghiệp, DNVN kinh doanh phi pháp.
Tình trạng làm hàng nhái, hàng giả, vi phạm bản quyền về sở hữu trí tuệ, cạnh
tranh không lành mạnh, buôn lậu, gian lận thương mại… vẫn đang tồn tại.
Một số doanh nghiệp, doanh nhân còn thực hiện ký hợp đồng ngắn hạn với
người lao động để tránh nộp bảo hiểm xã hội nhưng lại khai tăng số lượng lao
động để tăng chi phí lương nhằm tính tăng chi phí, giảm số thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp. Nhiều doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân
không thành lập các tổ chức xã hội- nghề nghiệp trong doanh nghiệp của
mình, như công đoàn, tổ chức đảng, đoàn thanh niên, hội phụ nữ... nhằm mục
đích "bưng bít" thông tin, tránh phân tán quyền lực, đã làm hạn chế quyền lợi
chính đáng của người lao động. Một số doanh nghiệp, doanh nhân còn lợi
dụng việc kinh doanh những loại hình dịch vụ văn hoá, vui chơi giải trí để
làm ăn phi pháp, làm nơi chứa chấp các tệ nạn xã hội... Những vụ nước tương
nhiễm chất độc, nước mắm chứa urê, hay chất kích thích tăng trưởng ngấm
vào thịt gia súc qua thức ăn chăn nuôi, sữa nhiễm hoá chất melamine, rượu
được sản xuất bằng cồn công nghiệp, các chủ cây xăng gian dối, sản xuất
bánh kẹo từ bột đá... Tình trạng trên, cộng với hành động huỷ hoại môi
trường, phần nào cho thấy đạo đức kinh doanh cũng như trách nhiệm xã hội
của một bộ phận doanh nghiệp, DNVN đang có xu hướng suy giảm và diễn
biến ngày càng phức tạp.
Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong thời
kỳ này, những yếu tố cũ- mới, tiến bộ- lạc hậu... có thể tồn tại đan xen, hòa
37
quyện vào nhau. Trong bối cảnh đó, nước ta phải tranh thủ huy động mọi
nguồn lực kinh tế- xã hội để thiết lập (xây dựng) nền tảng vật chất cho xã hội.
Tuy nhiên, là nước đang phát triển, có nhiều điều kiện học hỏi kinh nghiệm
của các nước phát triển; lại được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật ngày một
hoàn chỉnh và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… nên chúng ta vẫn có
thể kiểm soát được phần nào những hạn chế, rủi ro và tận dụng được thời cơ
thuận lợi để phát triển.
Chất lượng của DNVN được thể hiện ở năng lực cạnh tranh của tầng
lớp xã hội này với lực lượng doanh nhân ở các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Nhận định về quy mô và năng lực của cộng đồng doanh nghiệp, doanh
nhân Việt Nam, theo TS Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam thì, sự thuận lợi và thăng hoa của nền kinh tế Việt Nam
trong những năm qua đã nhanh chóng tạo nên đà tăng trưởng nhanh của đội
ngũ doanh nhân. Cơ hội đã được giới doanh nhân tận dụng và khai thác tốt.
Nhiều doanh nghiêp, doanh nhân đã kịp lớn lên, nhiều thương hiệu lớn của
Việt Nam đã xuất hiện trong khoảng 10 năm trở lại đây. Tuy nhiên, thực tiễn
thị trường năm 2008 cho thấy tầm vóc của doanh nghiêp, doanh nhân Việt
Nam vẫn còn hạn chế. “Cú vượt cạn” đầu tiên sau hội nhập của doanh nghiêp
Việt Nam đã cho thấy khoảng cách vẫn còn xa giữa doanh nghiệp Việt Nam
và khu vực. ở đây, tính chuyên nghiệp, năng lực, trình độ quản trị đang nổi
lên là những rào cản lớn khiến doanh nghiệp Việt Nam chưa vững tay chèo
khi ra biển lớn. Thực tiễn cho thấy, nhiều doanh nghiệp hoạt động khá tốt khi
ở quy mô nhỏ và vừa, nhưng lại gặp rắc rối khi lớn hơn. Có lẽ đây cũng chính
là một trong những nguyên nhân khiến sau hơn 20 năm đổi mới, cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa có một đại diện tầm cỡ khu vực và thế giới.
38
Đang có sự phân hoá rõ rệt trong quá trình tồn tại và phát triển của tầng
lớp DNVN. Nếu như một bộ phận không ít doanh nhân lựa chọn lối làm ăn
"chụp giật", không có chiến lược đồng bộ và bước đi cụ thể, thì một bộ phận
doanh nhân khác (trong đó đa phần là doanh nhân trẻ) đã lựa chọn con đường
bài bản, chuẩn bị cho mình các kiến thức chuẩn mực về quản trị doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và khả năng ứng phó linh hoạt...
Không ít doanh nghiệp, doanh nhân đã tận dụng được cơ hội trong khó khăn
để tiếp tục duy trì và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Xu thế mở rộng môi trường kinh doanh trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với tầng lớp DNVN. Là nước
đang phát triển, mới có điều kiện tham gia vào thị trường khu vực và thế giới,
DNVN đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc thiết lập quan hệ hợp tác
với cộng đồng doanh nhân ở các nước phát triển. Trong quan hệ kinh tế với
các đối tác quốc tế, về cơ bản, DNVN không nắm được ưu thế trên hầu hết
các phương diện.
Môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều yếu tố cũng như
những quy định không thuận lợi cho các nước đang phát triển như nước ta.
Do hạn chế về ngoại ngữ cũng như thông tin kinh tế, pháp luật quốc tế nên
doanh nghiệp, DNVN thường bị thua thiệt. Ở môi trường kinh tế mở, doanh
nhân ở các nước lớn, các tổ chức, các công ty đa quốc gia đã và đang tăng
cường liên kết với nhau nhằm nắm quyền chi phối thị trường thế giới. Nghịch
lý là, trong khi các nước đang phát triển như Việt Nam luôn gặp sức ép đòi
phải mở cửa thị trường, thì trên thực tế, các rào cản thuế và phi thuế cũng như
các "hàng rào kỹ thuật" lại được các nước phát triển "dựng lên" ngày càng
nhiều, gây trở ngại cho việc thâm nhập vào đời sống kinh tế thế giới của cộng
đồng doanh nhân ở các nước đang phát triển. Trong xu thế hội nhập, tầng lớp
DNVN còn đang bị sức ép rất lớn về thời gian. Nước ta cần hội nhập nhanh
39
hơn, nhưng cộng đồng doanh nghiệp, tầng lớp doanh nhân nước ta lại có quá
ít thời gian để chuẩn bị cả nhân lực và vật lực. Tuy nhiên, tầng lớp DNVN
buộc phải chấp nhận cạnh tranh ngay từ bây giờ với các đối tác lớn mạnh,
trong khi năng lực cạnh tranh của DNVN còn chưa cao cũng như phải mất
nhiều thời gian, của cải và công sức để cải thiện.
Thời cơ lẫn thách thức mới đang mở ra cho DNVN: vừa hội nhập, vừa
nỗ lực vươn lên nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập. Mục tiêu đến
năm 2010, cả nước sẽ có 50 vạn doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả đang
tạo điều kiện cho tầng lớp DNVN phát triển về số lượng và chất lượng. Muốn
thực hiện mục tiêu có 500.000 doanh nghiệp hoạt động hiệu quả vào năm
2010, Nhà nước ta phải tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho kinh tế tư nhân
phát triển sâu rộng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội.
Như vậy, DNVN là một tầng lớp xã hội mới hình thành, có nguồn gốc
từ nhiều giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp. Hầu hết DNVN có tinh thần
dân tộc cao, có suy nghĩ và hành động tích cực cho xã hội cũng như có ý thức
gắn bó với vận mệnh đất nước và nhân dân lao động. Mặc dù so với các giai
tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp như giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức, số lượng DNVN chiếm tỷ lệ thấp hơn nhiều, nhưng với
đặc thù cũng như vai trò của mình, tầng lớp DNVN đã và đang có những
đóng góp không thể phủ nhận cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định, vai trò của tầng lớp DNVN là
tương ứng với quy mô phát triển của tầng lớp này; do đó, việc định hướng cho
sự tồn tại và phát triển của tầng lớp doanh nhân Việt Nam vẫn tiếp tục được
đặt ra.
1.2.2 Đặc điểm về cơ cấu của tầng lớp doanh nhân Việt Nam
Một trong những thành tựu to lớn của thời kỳ đổi mới ở nước ta là đã
hình thành một nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
40
có sự quản lý của nhà nước. Trong nền kinh tế đó, khu vực kinh tế tư nhân
cũng như tầng lớp DNVN đang ngày càng có vai trò to lớn. Nếu giai cấp công
nhân nước ta hình thành từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cùng với chính
sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp; giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức đã xuất hiện song hành với hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước… thì DNVN chỉ thực sự được nhìn nhận là một tầng lớp xã hội khi công
cuộc đổi mới chính thức được Đảng ta phát động. Trong hơn 20 năm tồn tại
và phát triển cũng như trong thời gian tới, để có thể trở thành động lực cơ bản
cho sự tăng trưởng nền kinh tế quốc dân và tham gia hội nhập quốc tế thành
công, khu vực kinh tế tư nhân cũng như tầng lớp DNVN sẽ phải phát huy hơn
nữa vai trò của mình trong đời sống kinh tế- xã hội.
Về nguồn gốc xuất thân:
Tầng lớp DNVN được hình thành từ nhiều giai tầng trong kết cấu xã
hội- giai cấp, trong đó, có bộ phận doanh nhân từng bị cấm đoán, không dám
hoạt động hoặc hoạt động "ngầm", nay đứng ra thành lập doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật. Một số doanh nhân xuất thân từ những gia đình
những nhà tư sản đã được cải tạo. Bên cạnh đó, bộ phận doanh nhân xuất thân
từ giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, cán bộ, đảng viên...
ngày càng nhiều. Đặc điểm cơ cấu này cho thấy, nhìn chung, đại bộ phận
DNVN mới tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, chưa có nhiều kinh
nghiệm.
Một hiện tượng đáng chú ý, thời gian qua ở nước ta, sự di chuyển của
một bộ phận không ít cán bộ cao cấp từ khu vực kinh tế nhà nước chuyển
sang khu vực kinh tế tư nhân. Đặc biệt, từ năm 2000, khi Luật Doanh nghiệp
có hiệu lực, nhiều người có kinh nghiệm quản lý, kiến thức chuyên môn đã
chuyển ra ngoài khu vực kinh tế nhà nước và tự lập công ty riêng của mình,
không ít người trong số họ đã thành công trên cương vị mới và trở thành
41
những doanh nhân thành đạt. Một số người thì bán hoặc thế chấp toàn bộ tài
sản để tạo ra vốn kinh doanh. Ngoài ra, một bộ phận doanh nhân xuất hiện từ
sự phân hóa kinh tế tập thể và sự phát triển của kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Trong số hơn 3 triệu người Việt Nam định cư ở nước ngoài, hiện đã có
hàng trăm người trở về Việt Nam thành lập doanh nghiệp và làm ăn có hiệu
quả. Có thể cho rằng, những doanh nhân Việt kiều đã đứng ra thành lập công
ty theo Luật Doanh nghiệp, đang làm ăn và sinh sống tại nước ta cũng thuộc
về cộng đồng DNVN.
Theo kết quả điều tra, hiện nay có khoảng 66% DNVN xuất thân từ
các gia đình cán bộ nhà nước (kể cả cán bộ của Đảng và các đoàn thể, quân
đội, doanh nghiệp quốc doanh, cấp Trung ương và địa phương); 16% xuất
thân từ các gia đình buôn bán, kinh doanh, số còn lại từ các giai tầng khác
trong xã hội. Đa số doanh nhân xuất thân từ cán bộ nhà nước hay đã trải qua
phục vụ trong quân đội. Tỷ lệ phục vụ trong quân đội là 11,2%, trong doanh
nghiệp nhà nước là 24,9%, trong các cơ quan nhà nước khác là 20%, 16,6%
đã hoạt động trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác.
Số liệu thống kê này cho thấy sự điều chỉnh đáng kể lực lượng quản lý
kinh tế từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân. Khu vực kinh tế nhà nước
luôn chiếm vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế nước ta, đã từng thu hút và
sử dụng đại đa số lực lượng lao động được đào tạo; từ khi xuất hiện khu vực
kinh tế tư nhân, việc chuyển dịch lực lượng lao động như trên là xu thế tất
nhiên.
Nguồn gốc gia đình của hầu hết DNVN cho thấy, không có sự khác biệt
lớn giữa doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước và doanh nhân trong khu
vực kinh tế tư nhân. Thành kiến về doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân
không có căn cứ về mặt hoàn cảnh xã hội và nguồn gốc gia đình. Nhiều người
cùng một nguồn gốc, đã từng làm việc trong quân đội và doanh nghiệp nhà
42
nước, cơ quan nhà nước, nay chỉ thay đổi môi trường hoạt động. Còn theo
khảo sát 1800 doanh nhân được phỏng vấn trên cả nước thời gian gần đây của
VCCI cho thấy, trong tổng số 1.800 doanh nhân được phỏng vấn trên phạm vi
cả nước, có 38,93% doanh nhân đó từng là bộ đội, công an, công nhân và cán
bộ, công chức nhà nước. Tỷ lệ doanh nhân là đảng viên chiếm 19,2%; Đoàn
viên thanh niên là 28,34%; tỷ lệ doanh nhân đã từng là cán bộ, công chức nhà
nước chiếm 17,6 %, bộ đội và công an chiếm 11,46 %, công nhân là 9,89%.
Từ những con số trên cho thấy, đa số những doanh nhân thành đạt ngày
nay đều có một quá trình tôi luyện trong môi trường cách mạng, được sinh ra
và lớn lên trong chế độ mới, chủ yếu xuất thân từ cán bộ, công chức nhà
nước, quân đội, công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức mới... Trong số họ,
có nhiều người phải mất hàng chục năm "chìm, nổi" mới khẳng định được tên
tuổi của mình, nhưng cũng có những người chỉ vài ba năm đã thành đạt, thành
"đại gia". Mỗi người đi tới thành công bằng một con đường khác nhau, nhưng
tựu trung họ đều có ước muốn đó là làm giàu cho bản thân và cho xã hội. [92,
ngày 8-10-2009].
Bên cạnh đó, một bộ phận DNVN hình thành bằng con đường không
hợp pháp. Nguồn vốn ban đầu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ
được huy động thông qua các hành vi vi phạm pháp luật (như khai thác tài
nguyên thiên nhiên của quốc gia một cách phi pháp, cưỡng đoạt tài sản của
người khác, tiếp tay cho tội phạm…). Một số DNVN thì được hình thành trên
cơ sở kế thừa nguồn vốn, tài sản từ các thế hệ đi trước…
Về tuổi và giới tính:
Ra đời và phát triển gắn liền với công cuộc đổi mới, tầng lớp DNVN
nhìn chung tuổi đời còn trẻ. Đây là ưu thế nổi trội của doanh nhân nước ta
trong tiến trình hội nhập. Theo số liệu khảo sát của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
tiến hành trên 40.000 doanh nghiệp vào giữa năm 2005, số doanh nhân từ độ
43
tuổi 30 đến 40 chiếm 25,7%; từ 41 đến 50 chiếm 31,7%; có nghĩa là số doanh
nhân từ độ tuổi từ 30 đến 50 chiếm khoảng 57,4%. Cũng phải kể đến lớp
doanh nhân cỡ tuổi 20 đến 30 đang tỏ ra rất nhiều triển vọng. Theo con số
thống kê hiện nay, các doanh nhân trẻ Việt Nam chiếm khoảng 75-80% lực
lượng doanh nhân trong cả nước, thậm chí có địa phương có 90% doanh
nghiệp do các doanh nhân trẻ lãnh đạo. Thực tế cho thấy, doanh nhân trẻ nước
ta hầu hết được đào tạo cũng như được trang bị một cách căn bản về kiến thức
kinh doanh, giàu lòng yêu nước, có ý chí làm giàu, dám mạo hiểm, chấp nhận
rủi ro, muốn cống hiến tâm sức cho nước nhà bằng việc tạo lập ngày càng
nhiều thương hiệu Việt Nam có uy tín trong khu vực và trên thế giới. Doanh
nhân trẻ nước ta đã và đang là một trong những lực lượng tiến bộ của đất
nước trong công cuộc phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Thời kỳ kinh tế
Việt Nam đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường cũng là thời điểm tồn tại
nhiều cơ hội lớn cho bộ phận doanh nhân trẻ thành công và cống hiến.
Tuy nhiên, do phần lớn DNVN có tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm trong
hoạt động sản xuất kinh doanh còn ít cũng như sự trải nghiệm cuộc sống chưa
nhiều, mặt khác, là “sản phẩm” của quá trình giáo dục nặng về lý thuyết trong
nhà trường… đã và đang hạn chế năng lực, tầm ảnh hưởng của DNVN và sản
phẩm hàng hóa của họ ra ngoài lãnh thổ quốc gia.
Trong tổng số trên 300.000 doanh nghiệp trên cả nước, có khoảng 25%
doanh nghiệp do doanh nhân nữ lãnh đạo [19, 05-03-2009]. Như vậy, bộ phận
doanh nhân nữ ở nước ta chiếm khoảng một phần tư trong tổng số DNVN.
Theo tính toán của giới phân tích, hiện nay, các công ty có giám đốc nữ chiếm
tới 30% giá trị vốn hóa của thị trường chứng khoán Việt Nam. ở Mỹ, chỉ có
gần 2% trong số danh sách 500 công ty lớn nhất nước này do tạp chí Fortune
bình chọn có lãnh đạo là phụ nữ. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, phụ nữ thường
không được khuyến khích theo đuổi sự nghiệp riêng và hiếm khi đột phá được
44
tới những vị trí quản lý doanh nghiệp cao cấp. Hiện nay, doanh nhân nữ ở
nước ta đang cần thêm sự ủng hộ của xã hội để họ có thể cống hiến cho gia
đình và công việc kinh doanh nhiều hơn những gì đang làm. Thách thức đối
với doanh nhân nữ Việt Nam là sự ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo.
Bên cạnh đó, các quy định luật pháp về lao động theo hướng bảo vệ người
phụ nữ và đi sâu vào vấn đề giới tại Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều bất
cập.
Về ngành nghề và quy mô doanh nghiệp:
Đa số DNVN khởi nghiệp từ nền tảng vốn ít. Vốn là một trong những
cơ sở chủ yếu để tạo nên quy mô doanh nghiệp và thường tỷ lệ thuận với quy
mô doanh nghiệp. Để coi một doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ hay doanh
nghiệp lớn, trước hết, căn cứ vào vốn điều lệ của nó. Theo số liệu điều tra
năm 2007, 51,3% doanh nghiệp có dưới 10 người lao động, 44% doanh
nghiệp có từ 10 đến 200 lao động, chỉ có 1,43% doanh nghiệp có từ 200 đến
300 lao động, 42% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỉ đồng, 37% doanh nghiệp có
vốn từ 1 tỉ đến 5 tỉ đồng và chỉ có 8,18% doanh nghiệp có vốn từ 5 tỉ đến 10 tỉ
đồng. Trong số trên 260.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên thực tế, gần
75% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, số còn lại hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất. Hiện cả nước có 95% trong khoảng trên 350.000
doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh là doanh nghiệp nhỏ và vừa (theo tiêu
chí mỗi doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỉ đồng và dưới 300 lao động). Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa có tổng số vốn khoảng 85 tỉ USD, hằng năm đóng
góp khoảng 40%, 50% việc làm mới. Cũng theo nhìn nhận của Hiệp hội
doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, hiện có hơn 60% đang gặp khó khăn
(70.000 doanh nghiệp đang ngừng trệ, đóng cửa hoặc đã phá sản); chỉ có
khoảng 200.000 doanh nghiệp đang làm ăn tốt. Tuy nhiên, vốn và trình độ
quản lý luôn đi song hành. Vốn không thể sinh ra vốn nếu nằm trong tay một
45
người không có năng lực điều hành, sử dụng số vốn đó (theo số liệu của Tổng
cục Thống kê năm 2008).
Số liệu trên phần nào cho thấy, quy mô của doanh nghiệp ở nước ta là
nhỏ cũng như điều kiện, nền tảng và năng lực cạnh tranh chưa cao.
So với các giai tầng khác trong kết cấu xã hội- giai cấp, DNVN hiện
nay là một tầng lớp xã hội mới, nhỏ với cơ cấu đa dạng, phức tạp. Những mặt
hạn chế trong quá trình tồn tại và phát triển của tầng lớp DNVN một mặt do
sự hạn chế về năng lực của bản thân mỗi doanh nhân, mặt khác, do chính sách
điều hành kinh tế vĩ mô của các cơ quan chức năng... Khắc phục những tồn
tại, yếu kém trong hoạch định chủ trương, chính sách điều hành kinh tế vĩ mô
của Đảng, Nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân hay với tầng lớp DNVN
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng này phát triển, trở thành động lực to
lớn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
1.2.3 Đặc điểm về vị trí của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã
hội- giai cấp
Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức luôn là lực lượng cơ bản của nước ta trong công cuộc kháng chiến cũng
như kiến thiết đất nước. Tại các Văn kiện của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội,
thường xác định những bộ phận giai tầng cơ bản và hoạch định chính sách đối
với các giai tầng này. Qua đó có thể thấy được quan điểm của Đảng ta về vị
trí của các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai cấp ở mỗi giai đoạn
lịch sử.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của Đại hội VII, Đảng đã chủ trương: “Phát triển giai cấp công nhân về số
lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây
46
dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng giai cấp nông dân về mọi mặt để xứng đáng
là lực lượng cơ bản trong việc xây dựng nông thôn mới, góp phần đắc lực vào
sự nghiệp công nghiệp hóa. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm năng
của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Đặc biệt
là coi trọng việc xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh
doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và những nhà khoa học kỹ thuật có trình
độ cao… vì sự nghiệp ích nước lợi nhà” [12, 16].
Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII
của Đảng nhận định: “Giai cấp công nhân là nòng cốt trong xây dựng khối
liên minh vững chắc với nông dân, trí thức và các tầng lớp lao động khác để
thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung,
công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn nói riêng; thực hiện tốt chính sách
đại đoàn kết dân tộc của Đảng, hợp tác với các nhà tư sản dân tộc, các chủ
đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế; tôn trọng quyền lợi hợp pháp của giới
chủ, đồng thời đấu tranh, thuyết phục họ đảm bảo lợi ích chính đáng của
người lao động và làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước” [26, 94]. Đến Văn kiện
Đại hội VIII của Đảng, DNVN được gọi là các nhà doanh nghiệp tư nhân và
được nêu vị trí sau công nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ.
Quyết định số 990/QĐ-TTg ngày 20-9-2004 của Thủ tướng Chính phủ
về việc lấy ngày 13 tháng 10 hàng năm làm ngày truyền thống DNVN đã thể
hiện sự đánh giá cao của Đảng, Nhà nước ta về vị thế doanh nhân trong đời
sống chính trị- xã hội của dân tộc. Giới doanh nhân đã thực sự được công
nhận như một chủ thể xã hội, có quyền tự hào về vị thế của mình như các giai
tầng khác trong xã hội.
Trong văn kiện Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “Chúng ta cần tiếp tục
đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp,
các dân tộc, các tôn giáo; chú trọng chính sách đối với giai cấp công nhân,
47
giai cấp nông dân, trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh,
người cao tuổi, đồng bào định cư ở nước ngoài” [32, 42].
Như vậy, trong quá trình đổi mới đất nước, ở các Văn kiện, vị trí của
tầng lớp DNVN đã luôn luôn thay đổi khi Đảng ta đề cập đến các giai tầng xã
hội. Ngay bản thân khái niệm doanh nhân cũng chưa được Đảng ta sử dụng
nhất quán trong các Văn kiện. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta dùng khái niệm những nhà kinh
doanh; Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa VII,
Đảng ta lại sử dụng khái niệm các nhà tư sản dân tộc hay giới chủ; đến Đại
hội VIII, Đảng ta gọi là các nhà doanh nghiệp tư nhân; Đại hội IX thì lại
dùng khái niệm các nhà doanh nghiệp; Đại hội X mới sử dụng khái niệm
doanh nhân.
Có hai xu hướng nhìn nhận về cách sắp xếp vị trí của tầng lớp DNVN
trong các Văn kiện của Đảng. Một xu hướng cho rằng, đó là sự sắp xếp ngẫu
nhiên, không tỷ lệ thuận với vị thế kinh tế, chính trị của các giai tầng xã hội.
Xu hướng thứ hai thì cho rằng, Đảng ta không phải ngẫu nhiên trong cách sắp
xếp đó, mà là có chủ ý. Thực tế chỉ ra rằng, bất cứ khi nào đề cập đến khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta luôn có sự sắp đặt nhất quán: giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức… rồi mới đến các giai tầng xã hội
khác. Cách sắp đặt này là có chủ ý, vị trí của các giai tầng phản ánh tỷ lệ
thuận với địa vị kinh tế, chính trị của nó trong xã hội. Có thể cho rằng, vị trí
chính trị của các giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta phản ánh
một cách tương đối chính xác vị trí kinh tế của giai tầng đó trong nền kinh tế
quốc dân. Là một tầng lớp xã hội mới so với các giai tầng trong xã hội ta cũng
như so với cộng đồng doanh nhân ở các nước phát triển trong khu vực và trên
thế giới, với chỉ khoảng trên 20 năm để thể hiện vai trò của mình trong nền
kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng
48
DNVN đã và đang ngày càng cho thấy, mình là một bộ phận không thể tách
rời của nền kinh tế quốc dân, của kết cấu xã hội- giai cấp cũng như của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cơ sở chủ yếu của sự liên kết giữa doanh nhân với công nhân, nông
dân và trí thức là quan hệ lợi ích. Mặt khác, sự phân biệt thành viên trong các
giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau cũng chỉ mang tính tương đối, bởi trong
quá trình phát triển của đời sống xã hội, không ít công nhân, nông dân, trí
thức đã trở thành doanh nhân và cũng có những doanh nhân đồng thời là
người trực tiếp lao động sản xuất, có trình độ như trí thức, tham gia các hoạt
động khoa học.
Về mặt kinh tế, quan hệ giữa doanh nhân và công nhân biểu hiện sự
liên kết của chủ thể đầu tư vốn, tạo việc làm và chủ thể có nhu cầu làm việc.
Nhà nước ban hành luật lao động để điều hoà lợi ích giữa người sử dụng lao
động và người lao động, giải quyết mâu thuẫn nảy sinh từ mối quan hệ này
theo hướng, quan tâm đến quyền lợi của người lao động, có chính sách điều
tiết thu nhập hợp lý để thực hiện công bằng xã hội nhưng không làm ảnh
hưởng đến lợi ích chính đáng của người người sử dụng lao động.
Trong mối quan hệ với nông dân, doanh nhân là lực lượng cung ứng
các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất (vật tư nông nghiệp, vốn, kỹ
thuật…), đồng thời là đối tượng thu mua, chế biến, tiêu thụ nông sản, giúp
cho sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường trong và ngoài nước… Sự liên
kết nông dân với doanh nhân là điều kiện quan trọng để công nghiệp hóa nông
nghiệp, mở rộng ngành nghề ở nông thôn, nâng cao đời sống nông dân…
Sự phát triển của kinh tế thị trường cũng như sự cạnh tranh diễn ra
ngày càng gay gắt trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tất yếu sẽ đòi hỏi
doanh nghiệp, doanh nhân phải thường xuyên cập nhật, ứng dụng các kết quả
nghiên cứu khoa học công nghệ mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm
49
nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa... Thực tế này trở thành một động lực
quan trọng, củng cố mối quan hệ giữa trí thức và doanh nhân, nhằm thúc đẩy
sự phát triển khoa học công nghệ gắn với hoạt động thực tiễn, góp phần nâng
cao trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp...
Liên minh giữa công nhân với nông dân, trí thức, doanh nhân cùng các
tầng lớp nhân dân khác trong xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đang ngày
càng được tăng cường, tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc- động lực
quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam đang thực hiện một nhiệm vụ to lớn là công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Để hoàn thành nhiệm vụ này, phải phấn đấu đạt được mục tiêu kép,
đó là làm cho dân giàu, nước mạnh (mục tiêu kinh tế, vật chất) và xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh (mục tiêu con người, xã hội và văn hóa), gắn với giải
pháp xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong các
nhiệm vụ trên, nhiệm vụ xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của đất
nước. Bởi, nền kinh tế nước ta kém phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, hiện nay đang có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước phát triển
trong khu vực và trên thế giới. Nếu không phát triển được kinh tế, chúng ta sẽ
không thực hiện được ước vọng lớn lao của cha ông, nước độc lập thì nhân
dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do (ngược lại nếu nước độc lập mà nhân
dân không được hạnh phúc, tự do thì độc lập không có ý nghĩa gì - như lời
Chủ tịch Hồ Chí Minh). Cách đây hơn 60 năm, sau khi nước nhà giành lại nền
độc lập, bắt tay vào sự nghiệp “kiến quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn
nhận, giới công thương (doanh nhân) phải hoạt động để góp phần xây dựng
nền kinh tế tài chính vững vàng và thịnh vượng; nền kinh tế quốc dân thịnh v-
ượng nghĩa là sự kinh doanh của các nhà công thương thịnh vượng...
50
Nhân tố thời đại cũng góp phần to lớn quy định vị thế của DNVN nói
riêng và doanh nhân ở mọi quốc gia nói chung. Một quốc gia kinh tế thấp
kém, không xác lập được các quan hệ hợp tác với các quốc gia khác thì sẽ
không có sự chi phối mạnh mẽ trên các diễn đàn quốc tế. Sự khẳng định vị trí
của DNVN trong xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một trong các
tiền đề cho sự khẳng định vị thế của nước ta trong hội nhập.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh thì phải huy động sự nỗ lực
của toàn thể các giai tầng xã hội, trong đó, doanh nhân là một trong những
tầng lớp xã hội những người tiên phong trong việc làm giàu cho bản thân và
cho cộng đồng. Trong lời phát biểu khi đón tiếp đoàn đại biểu Trung tâm Văn
hóa doanh nhân Việt Nam, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã khẳng định:
“Doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam chính là người làm giàu cho đất n-
ước” [8, 13]. Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An cũng đánh giá cao
vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam, coi đội ngũ này như một nguồn lực
quý báu của nhân dân trong sự phát triển: “Đội ngũ doanh nhân giữ vai trò
quan trọng không thể thiếu trong nền kinh tế đất nước. Từ khi đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, các doanh nhân đã thực sự tạo một nguồn của cải vật
chất lớn đóng góp vào sự phồn vinh của xã hội. Thật khó có thể hình dung
nếu thiếu đi đội ngũ hùng hậu hàng chục vạn doanh nhân, đất nước sẽ mất đi
một nguồn của cải lớn như thế nào và tốc độ phát triển các mặt khác của xã
hội sẽ bị ảnh hưởng ra sao” [16, 13].
Kết luận chƣơng 1:
Cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tầng lớp DNVN đã hình thành và phát triển nhanh
chóng về cả số lượng và chất lượng. Cơ cấu của tầng lớp DNVN đã và đang
biến đổi ngày càng phù hợp hơn với điều kiện và hoàn cảnh mới. Các mối liên
kết trong nội bộ tầng lớp DNVN đang được củng cố và mở rộng, tạo động lực
51
không nhỏ cho sự lớn mạnh của tầng lớp xã hội mới này. Sự tồn tại hợp quy
luật của DNVN trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã và
đang được thể hiện bằng những đóng góp không nhỏ của tầng lớp xã hội này
vào nền kinh tế quốc dân. DNVN đã chính thức trở thành một tầng lớp xã hội,
có vị trí và vai trò nhất định trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Quá trình hình thành và phát triển tầng lớp DNVN là kết quả trực tiếp
từ những định hướng và đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng với việc đề ra nhiệm vụ xây dựng nền
kinh tế nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu bao cấp, cho phép các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân
phát triển đã thực sự tạo điều kiện cho tầng lớp doanh nhân hình thành. Tầng
lớp DNVN là thành quả và đang là một nguồn lực trong thời kỳ đổi mới ở
nước ta.
Vai trò của doanh nhân đã được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (năm 2003). Trong Nghị
quyết này, các nhà doanh nghiệp, doanh nhân được nêu lên như là một tầng
lớp xã hội, cùng với các giai cấp và các tầng lớp xã hội khác tạo thành khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết yêu cầu: Bổ sung và hoàn chỉnh chính
sách xây dựng giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức và doanh
nhân… trong tình hình mới. Quyết định số 990/QĐ-TTg ngày 20 tháng 9 năm
2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc lấy ngày 13 tháng 10 hàng năm làm
ngày truyền thống của doanh nhân đã góp phần khẳng định vị thế của doanh
nhân trong đời sống chính trị- xã hội của đất nước. Từ đây, tầng lớp DNVN
đã thực sự đuợc công nhận như một chủ thể xã hội và Ngày Doanh nhân,
ngoài ý nghĩa khẳng định vị thế của doanh nhân, tôn vinh doanh nhân, còn tạo
điều kiện phát động tinh thần kinh doanh và ý chí làm giàu của cả dân tộc.
52
CHƢƠNG 2
VAI TRÕ VÀ XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Cơ cấu xã hội (trong đó có cơ cấu xã hội giai cấp) hay kết cấu xã hội, là
một nội dung lý luận có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của
xã hội. Ph.Ănggen nêu rõ: “Trong mỗi thời đại lịch sử sản xuất kinh tế và cơ
cấu xã hội- cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra- cả hai cái đó
cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng thời đại ấy” [71, 509].
Vấn đề cơ cấu xã hội gắn sát thực với đời sống của cá nhân và cộng đồng.
Cơ cấu xã hội là tổng hợp những cộng đồng người có liên quan trực
tiếp với nhau và toàn bộ các quan hệ do sự tác động lẫn nhau của các cộng
đồng ấy tạo nên. Trong các khoa học lý luận chính trị, nghiên cứu cơ cấu xã
hội, chủ yếu đề cập đến những cộng đồng được hình thành một cách khách
quan trong xã hội. Cơ cấu xã hội rất phong phú, có thể chia thành các loại
hình cơ bản như: cơ cấu xã hội- giai cấp, cơ cấu xã hội- dân số (nhân khẩu),
cơ cấu xã hội- địa lý, cơ cấu xã hội- nghề nghiệp, cơ cấu xã hội- dân tộc, cơ
cấu xã hội- tôn giáo… Các loại hình cơ cấu xã hội có liên quan đến nhau và
tạo thành hệ thống cơ cấu xã hội của một xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất
định, trong đó, cơ cấu xã hội- giai cấp là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất.
Cơ cấu xã hội- giai cấp là hệ thống các giai cấp và các tầng lớp xã hội
(có quan hệ trực tiếp đến giai cấp) và những mối quan hệ giữa chúng. Nghiên
cứu cơ cấu xã hội- giai cấp là chỉ ra được đầy đủ những giai cấp và tầng lớp
tồn tại khách quan trong lịch sử xã hội, xác định rõ vị trí của các giai cấp và
tầng lớp (cơ bản hay không cơ bản, thống trị hay bị trị, quan hệ bình đẳng hay
không bình đẳng…), cho thấy xu hướng phát triển của các giai cấp và tầng
53
lớp ấy… Cơ cấu xã hội- giai cấp là bộ phận cơ bản và quan trọng nhất trong
cơ cấu xã hội vì nó liên quan đến các đảng phái chính trị và nhà nước; sở hữu
tư liệu sản xuất, địa vị xã hội của con người trong hệ thống sản xuất, tổ chức
lao động và phân phối lợi ích xã hội. Cơ cấu xã hội- giai cấp quyết định đến
bản chất và xu hướng vận động của các loại hình cơ cấu xã hội. Nó là yếu tố
đặc trưng cho sự khác nhau về chất giữa cơ cấu xã hội của xã hội này với cơ
cấu xã hội của xã hội khác.
Chủ nghĩa Mác cho rằng, khi hình thái kinh tế- xã hội phát triển từ giai
đoạn này sang một giai đoạn khác, thì kết cấu xã hội- giai cấp cũng biến đổi
theo; trong quá trình đó, có thể có giai cấp mất đi, giai cấp mới xuất hiện; vai
trò, địa vị của mỗi giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp cũng biến đổi
tương ứng.
Kết cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta rất đa dạng và phức tạp, luôn biến động và phát triển trong xu hướng
vừa mâu thuẫn, vừa liên minh với nhau giữa các giai tầng xã hội (giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp doanh nhân…), dần
xoá bỏ những hiện tượng bất bình đẳng giữa người với người, đưa đến sự gắn
kết ngày càng chặt chẽ về lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong xã
hội. Trong khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay, cùng với nền tảng là
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, thì tầng lớp doanh nhân đang thể hiện vai trò ngày càng quan trọng.
2.1 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai
cấp thời kỳ đổi mới
2.1.1 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với giai
cấp công nhân
Hiện nay, số lượng công nhân Việt Nam là khoảng trên 9,5 triệu người
(chiếm 11% dân số và 21% lực lượng lao động xã hội). Công nhân đang tăng
54
nhanh trong một số ngành kinh tế mũi nhọn như: điện lực, dầu khí, điện tử, tin
học, viễn thông... và ngày càng đa dạng về cơ cấu ngành nghề, với trình độ
học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp được nâng lên đáng kể. Đội ngũ
công nhân có trình độ chuyên môn cao là lực lượng nòng cốt trong mọi lĩnh
vực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã hình thành ngày càng đông
đảo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khoá X của Đảng tiếp tục
khẳng định sứ mệnh lich sử của giai cấp công nhân Việt Nam, đưa ra quan
niệm và đề cập đến những yếu tố đặc trưng của giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo đó, giai cấp
công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động chân tay và trí óc (hình
thức và tính chất lao động), làm công hưởng lương (địa vị kinh tế trong xã
hội) trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản
xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp (gắn liền với công
nghiệp, kinh tế công nghiệp, xã hội công nghiệp).
Vai trò của doanh nhân với công nhân được biểu hiện ra ngoài xã hội
là quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Trong mối quan hệ này, còn nhiều cách nhìn nhận khác nhau về vị trí,
vai trò của doanh nhân cũng như những yếu tố nảy sinh từ đó. Có quan điểm
cho rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư
nhân mà một phần đáng kể là tư bản tư nhân đang hoạt động sản xuất- kinh
doanh có hiệu quả rõ rệt. Đối với thành phần kinh tế tư nhân đó, ngoài những
đóng góp tích cực, sẽ dẫn tới việc khôi phục sự bóc lột người lao động trong
xã hội ta. Cần hiểu thực chất vấn đề này như thế nào?
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, tất yếu tồn tại
hiện tượng lao động làm thuê (hiện tượng mua bán sức lao động). Đây là một
trong những khả năng dẫn đến sự bóc lột sức lao động. Thực tế cho thấy, một
55
số chủ doanh nghiệp tìm cách để giảm chi phí trả công lao động nhằm thu lợi
nhuận tối đa dẫn đến thu nhập của người lao động không tương xứng với sức
lao động mà họ bỏ ra. Tình trạng này được thực hiện dưới nhiều dạng khác
nhau như: dùng mức lương tối thiểu để trả cho lao động kỹ thuật, không trả
lương làm thêm giờ, hoặc tính cả tiền ăn trưa, tiền lễ tết vào tiền lương để so
sánh với lương tối thiểu… Bên cạnh đó, không ít chủ doanh nghiệp trong khu
vực kinh tế tư nhân ở nước ta đã tạo lập được mối quan hệ ổn định, bền vững
với người lao động, có những biện pháp thiết thực nhằm nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của công nhân... Ở những môi trường hài hòa như thế,
năng suất và chất lượng lao động thường tăng cao…
Tuy vậy, tại Hội nghị Trung ương sáu khóa X, Đảng ta cũng thẳng thắn
chỉ ra rằng: “Phần lớn doanh nghiệp ngoài nhà nước còn vi phạm nghiêm
trọng các quy định pháp luật về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất; chưa chăm lo cải thiện
điều kiện lao động, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
công nhân tương xứng với kết quả lao động của họ” [8, 28].
Theo kết quả khảo sát của Ban Tư tưởng, Văn hoá Trung ương thì,
65,8% số công nhân có nhu cầu thuê nhà ở tại doanh nghiệp, nhưng nhìn
chung, doanh nghiệp mới chỉ đáp ứng được khoảng 3% chỗ ở, còn lại, người
lao động phải ở trọ xung quanh khu công nghiệp, điều kiện sống rất hạn chế.
Trên thực tế, không ít công nhân đã bị bớt xén tiền công và các chế độ phúc
lợi. Nhiều doanh nghiệp, doanh nhân sau khi bị buộc phải tăng lương theo
Nghị định 03 của Chính phủ, đã tìm cách giảm các chế độ phúc lợi xã hội của
người lao động như, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, với lý do, phải tăng
lương nên doanh nghiệp thiếu tiền. Khó khăn về vật chất, tinh thần, cùng với
các mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ lao động (điều kiện làm việc tạm bợ,
56
chủ doanh nghiệp đối xử không công bằng…) nên, theo một kết quả khảo sát,
có tới hơn 50% số công nhân không muốn gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
Một trong những mục đích cốt lõi của hoạt động sản xuất kinh doanh là
lợi nhuận- cơ sở tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, doanh nhân trong
mọi nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường. Mặt khác, ở nước ta hiện
nay, doanh nhân còn là những người đầu tư tiền của, công sức, trí tuệ của
mình vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Nghiên cứu lý luận về giá trị thặng dư của C.Mác cho thấy, trong quan
hệ thuê mướn công nhân, không phải lúc nào cũng nảy sinh quan hệ bóc lột
giá trị thặng dư. Thuê mướn công nhân là một trong những hoạt động kinh tế
bình thường, trong quá trình sử dụng sức lao động của công nhân, chỉ có một
trong ba khả năng nảy sinh quan hệ bóc lột mà thôi.
Khả năng thứ nhất, năng suất lao động cá biệt vượt qua thời gian lao
động tất yếu (c+ m> v), tức là m> 0, công nhân đã tạo ra giá trị thặng dư.
Trong điều kiện này, nếu chủ doanh nghiệp không phân phối thêm cho người
lao động ngoài số tiền công (hay phân phối không thỏa đáng với sức lao động
mà công nhân đã bỏ thêm ra để lao động sản xuất, làm nảy sinh và gia tăng
giá trị thặng dư), thì anh ta trở thành kẻ bóc lột. Khả năng thứ hai, năng suất
lao động cá biệt chỉ đạt đến mức độ thời gian lao động tất yếu (c+m= v), khi
đó, m= 0, công nhân không tạo ra giá trị thặng dư, chủ doanh nghiệp hòa vốn.
Trong điều kiện này, không thể có quan hệ bóc lột giá trị thặng dư. Khả năng
thứ ba, năng suất lao động cá biệt của công nhân, thậm chí không đạt tới điểm
hòa vốn (năng suất lao động của công nhân thấp hơn thời gian lao động tất
yếu). Khi đó, doanh nghiệp bị thua lỗ, không bù đắp được các chi phí đầu vào
và không thể có giá trị thặng dư.
57
Như vậy, ngoài trường hợp thứ nhất, còn hai trường hợp sau, dù có biện
luận thế nào đi nữa, cũng đều không có giá trị thặng dư, do đó, không có quan
hệ bóc lột giá trị thặng dư.
Thực tế cũng cho thấy, nếu không có các yếu tố ban đầu (tài sản cố
định, tiền vốn cùng nguồn tri thức cao- tri thức quản lý…), thì sẽ không có
nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị để tạo ra năng suất lao động tương ứng
với sự gia tăng tỷ suất giá trị thặng dư. Và như thế, sau khi đã trả công cho
người lao động tương xứng với sức lao động của họ theo quy định của pháp
luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ xã hội khác, thì số lợi nhuận còn lại sẽ
thuộc quyền sở hữu hay sử dụng của doanh nghiệp, doanh nhân là chính đáng.
Lao động tham gia vào quá trình sản xuất giá trị là khá phong phú nên việc
phân phối giá trị mới tạo ra cũng cần phải tính đến các loại lao động này. Với
cách nhìn nhận như vậy, thì toàn bộ lợi nhuận mà doanh nhân thu được không
chỉ có nguồn gốc từ giá trị thặng dư của công nhân làm thuê mà còn bao hàm
trong đó cả lao động trí óc, lao động quản lý… Ông cha ta đã từng nói: “Một
người lo bằng một kho người làm”, hiện nay, điều này vẫn đúng với các nhà
quản lý doanh nghiệp nói chung, DNVN nói riêng. Đảng ta cũng chủ trương:
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc
lợi xã hội” [29, 88].
Hiện tại ở nước ta, giá trị thặng dư do công nhân sản xuất ra đã và đang
được hướng tới phân phối trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước theo
nguyên tắc: vừa để các doanh nhân tiếp tục phát triển doanh nghiệp, vừa trả
công được cho công nhân theo mặt bằng giá cả sức lao động có thể chấp nhận
được, vừa đóng góp được cho Nhà nước qua các sắc luật thuế và vào phúc lợi
xã hội… Ở góc độ này, trong một thời gian và không gian nhất định, chúng ta
58
có thể chấp nhận hiện tượng doanh nhân (người sử dụng lao động) khấu trừ
một phần giá trị thặng dư do người công nhân (người lao động) sản xuất ra ở
một mức độ hợp lý (nếu việc khấu trừ đó nhằm mục đích phục vụ cho nhu
cầu, lợi ích không chỉ của bản thân doanh nhân, mà còn phục vụ cho lợi ích
lâu dài của người lao động cũng như của xã hội).
Như vậy, ở nước ta vẫn còn tồn tại hiện tượng bóc lột giá trị thặng dư
trong cơ sở sản xuất kinh doanh ở một mức độ nhất định, song không thể phủ
nhận rằng, một phần giá trị thặng dư bị “khấu trừ” đó, có thể (đã từng) được
chuyển vào những hoạt động vì cộng đồng. Và có thể nói, một bộ phận
DNVN là đối tượng trung gian đưa một phần hiệu quả lao động sản xuất kinh
doanh của công nhân vào phát triển xã hội.
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta
chủ trương: "Bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và
người sử dụng lao động. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng
lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, tương
thân tương ái. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao
lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội" [30, 58- 59].
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường… thì những hiện tượng
bóc lột sức lao động chỉ bị lên án và nghiêm cấm khi nó đã lỗi thời về mặt
lịch sử. Ở nước ta, giữa hành vi bóc lột và sự chia sẻ lợi ích trong các giai cấp,
tầng lớp xã hội, ở một góc độ nhất định, là tất yếu, thậm chí còn thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
Về cơ bản, mối quan hệ giữa doanh nhân và công nhân ở nước ta đã
được thiết lập và đang biến đổi ngày càng phù hợp với xu thế của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, vì cả nguyên nhân khách
59
quan và chủ quan, vẫn còn một bộ phận DNVN còn chưa tạo lập được sự hài
hòa cần thiết về mặt lợi ích trong mối quan hệ với công nhân.
Vai trò của doanh nhân với công nhân được thể hiện thông qua mối
quan hệ chủ- thợ.
Quan hệ chủ- thợ là quan hệ giữa hai đối tượng, trong đó "chủ" là đối
tượng sở hữu tư liệu sản xuất hay có năng lực quản lý và (hoặc) tham gia
quản lý cơ sở sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ; "thợ" là đối tượng thường
không (hoặc ít) sở hữu tư liệu sản xuất, không tham gia quản lý, chỉ sở hữu
sức lao động của mình là chính.
Chúng ta cũng cần phân biệt khái niệm nhà tư bản với khái niệm nhà
quản lý. Nhà tư bản với tư cách là kẻ bóc lột sức lao động, là những người mà
trong suốt quá trình tạo ra sản phẩm, hàng hóa, không có (hoặc ít có) sự tham
gia lao động quản lý trực tiếp, mà sống và làm giàu chủ yếu nhờ đầu tư tư bản
và chiếm đoạt giá trị thặng dư do công nhân làm thuê tạo ra. Hoặc có tham gia
vào quá trình lao động sản xuất ở một mức độ nhất định, nhưng được phân
phối (hay tự trả thù lao cho mình) hơn nhiều giá trị thực tế từ hiệu quả lao
động của họ. Nhà quản lý là người mà trong quá trình tạo ra sản phẩm hàng
hóa, có tham gia lao động quản lý, vì thế, trong thu nhập của họ là thù lao
quản lý. Với cách nhìn nhận này, ở Việt Nam hiện nay không có nhiều những
nhà doanh nghiệp sống và làm giàu chỉ thuần túy nhờ chiếm đoạt giá trị thặng
dư của công nhân làm thuê. Về cơ bản, như đã nói ở phần trên, DNVN đã bỏ
vốn, mua tư liệu sản xuất, thuê công nhân, bỏ công sức lãnh đạo, quản lý
doanh nghiệp, (vừa đầu tư vốn, vừa lao động nhằm mục đích làm gia tăng
nguồn vốn đó để thu lợi nhuận); xét cho cùng, nhiều DNVN vẫn là những
người trực tiếp lao động (trực tiếp quản lý doanh nghiệp hay trực tiếp tham
gia vào một khâu của quá trình tạo ra sản phẩm…).
60
Ở nước ta hiện nay, lao động tham gia vào việc tạo ra giá trị thặng dư
trong các doanh nghiệp tư nhân bao gồm lao động trực tiếp của công nhân và
lao động quản lý của chủ doanh nghiệp. Nếu sử dụng công thức c+v+m, ta
thấy lợi nhuận mà chủ doanh nghiệp thu được không phải tất cả đều có nguồn
gốc từ giá trị thặng dư của công nhân làm ra, mà trong đó có hai phần, một
phần liên quan đến lao động quản lý, một phần liên quan đến vai trò chủ sở
hữu tư liệu sản xuất. Phần thu nhập thứ nhất là hoàn toàn chính đáng. Vấn đề
là, phần thu nhập thứ hai có chính đáng không? Trước hết cần khẳng định
rằng, việc hưởng thụ giá trị thặng dư là một phạm trù kinh tế- xã hội, tính chất
của nó không hoàn toàn như nhau dưới các chế độ xã hội khác nhau. Điều đó
là do quan hệ sản xuất thống trị và thượng tầng kiến trúc của chế độ nơi nó
sinh ra quy định. Nếu giá trị thặng dư được sản xuất ra trong điều kiện của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thì kinh tế tư nhân hoàn toàn do quy luật
giá trị thặng dư chi phối. Trong trường hợp này, phần thu nhập dựa trên sự
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là sự chiếm đoạt thành quả lao động
của công nhân làm thuê. Các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam thì khác, được
hình thành và phát triển trong điều kiện quan hệ sản xuất thống trị không phải
là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà là quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa- chi phối bởi kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa, do đó, sự tồn tại
và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân không hoàn toàn do quy luật giá trị
thặng dư chi phối.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân không hoàn toàn giống như tư bản tư
nhân ở xã hội tư bản. Doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta vận động và phát triển theo những đặc trưng định hướng xã hội chủ
nghĩa. Có bóc lột hay không? Bóc lột ở mức độ nào… còn tuỳ thuộc vào khả
năng điều tiết của Nhà nước và việc chấp hành của các chủ thể kinh tế. Nhà
nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoàn toàn có thể xây
dựng hệ thống pháp luật, thể chế phù hợp, từng bước hoàn thiện cơ chế phân
61
phối, để vừa đảm bảo nguyên tắc của kinh tế thị trường vừa góp phần điều
hoà thu nhập, hạn chế tối đa sự chênh lệch phân phối giá trị thặng dư [3, 232].
Thời gian gần đây, các cơ quan chức năng đã có những chủ trương và
hành động cụ thể, thiết thực tác động vào quá trình phân phối sản phẩm của
doanh nghiệp, điều chỉnh nó theo hướng hài hoà và có lợi cho cả ba chủ thể:
Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động. Mặc dù vậy, nhìn
chung, “...một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những
thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình” như ghi
nhận trong Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Khóa X
của Đảng ta [8, 11].
Kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác
nhau, do đó có nhiều nguyên tắc phân phối khác nhau chứ không chỉ có hình
thức phân phối theo lao động. Mặt khác, trong quá trình hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường ở nước ta, việc phân bổ các nguồn lực phải tuân theo cơ chế
thị trường, nghĩa là giá trị mới tạo ra không chỉ phân phối cho lao động tạo ra
nó, mà còn có thể được phân phối cho tất cả các yếu tố có thể tạo điều kiện
cho sức lao động được phát huy hơn nữa.
Từ một khía cạnh nhìn nhận khác, quan hệ của doanh nhân với công
nhân được thể hiện thông qua mối quan hệ giữa các cổ đông với nhau, hơn
nữa, giữa cổ đông chi phối và cổ đông bị chi phối..
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để từng bước xóa bỏ
độc quyền doanh nghiệp, thì cổ phần hóa được coi là một trong những giải
pháp cơ bản. Với phương thức cổ phần hóa, việc sở hữu tư liệu sản xuất trong
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không còn là đặc quyền của chủ sở hữu
hay chủ thể quản lý, mà một phần còn thuộc quyền của công nhân lao động.
Tất nhiên, mức độ sở hữu tư liệu sản xuất sẽ tỷ lệ tương ứng với quyền kiểm
soát, chi phối cũng như vị trí của thành viên trong công ty. Và như vậy, người
công nhân thường chỉ sở hữu một phần rất nhỏ trong toàn bộ khối tư liệu sản
xuất của cơ sở sản xuất kinh doanh.
62
Cổ phần hóa doanh nghiệp có thể đưa người lao động lên một vị thế
mới: trở thành cổ đông- chủ sở hữu một phần vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Từ đó, người lao động có quyền tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp ở
một mức độ nhất định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, với vai trò là cổ đông nhỏ
(những người chỉ sở hữu một lượng cổ phần rất hạn chế trong cơ sở sản xuất,
kinh doanh hay dịch vụ), thì tầm ảnh hưởng của công nhân chưa được rõ nét
trong quá trình điều hành doanh nghiệp.
Như đã nhận định, doanh nhân là chủ thể có thể sở hữu hay không sở
hữu tư liệu sản xuất, nhưng không thể không tham gia quản lý sản xuất. Thực
tế chỉ ra rằng, hầu hết những chủ thể nắm quyền quản lý thì cũng đồng thời
tham gia sở hữu tư liệu sản xuất. Về phía công nhân, với tư cách là người làm
thuê, mặc dù được mua cổ phần, nhưng họ khó có thể trở thành chủ thể tham
gia sở hữu tư liệu sản xuất ở mức độ chi phối mạnh mẽ mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Mỗi khi một cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát hành cổ
phiếu thưởng hay cổ phiếu ưu đãi cho cán bộ công nhân viên của cơ sở, thì
công nhân thường là đối tượng được chia số lượng cổ phần ít nhất. Và xét cho
cùng, họ vẫn bị những cổ đông lớn chi phối về mọi quan hệ cơ bản trong quá
trình lao động sản xuất.
Do cách đánh giá vấn đề một cách máy móc, nên một thời gian khá dài,
chúng ta chưa hiểu đúng vị trí và vai trò của tầng lớp doanh nhân trong xã hội
cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay, vị trí và vai trò đó
đang được nhìn nhận đúng hơn, nhưng không vì thế mà hạ thấp vai trò quyết
định về mặt kinh tế và chính trị của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân nước ta có đầy đủ những yếu tố khách quan và chủ
quan để mang một sứ mệnh lịch sử to lớn là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp tiên phong trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội; lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
63
hiện đại hóa đất nước; bộ phận nòng cốt trong liên minh công nhân, nông dân,
trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ở nước ta hiện nay.
Hiện nay ở nước ta, sự hài hoà tương đối trong mối quan hệ giữa giai
cấp công nhân và tầng lớp DNVN đã được thiết lập. Dù còn tồn tại một số bất
cập trong quan hệ kinh tế của hai đối tượng này, nhưng dẫu sao, đó cũng chỉ
là một trong những tồn tại tất yếu của bất kỳ một quốc gia nào đang trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải là ở chỗ tìm mọi cách thủ
tiêu hoặc hạn chế việc sản xuất ra giá trị thặng dư, mà là phải khuyến khích,
đẩy mạnh sản xuất để làm gia tăng thêm giá trị thặng dư trên cơ sở phân phối
thỏa đáng nguồn giá trị này vào cộng đồng nhằm từng bước thực hiện công
bằng xã hội. Hình thức bóc lột nào cản trở sự phát triển của lực lượng sản
xuất thì phải xoá bỏ, hình thức nào còn thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản
xuất thì cũng nên đặt ra xem xét thiệt- hơn...
Với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, các
quan hệ sản xuất phi xã hội chủ nghĩa không những không đủ khả năng kìm
hãm mà còn đang có sự phù hợp nhất định và góp phần thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Giữa công nhân và doanh nhân có sự thống nhất
tương đối trong quan hệ lợi ích (thống nhất trong mâu thuẫn). Lợi ích của giai
cấp công nhân, của dân tộc, của chủ nghĩa xã hội cũng phần nào được giải
quyết thông qua mối quan hệ này. Không thể không thấy rằng, DNVN là
những người có điều kiện để bóc lột sức lao động của công nhân, và một bộ
phận doanh nhân đã lạm dụng điều kiện đó. Tuy nhiên, phải nhìn vào thực tế
hiện nay ở nước ta để có sự đánh giá đúng mức và khách quan về một lớp
người đang hình thành và phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế nhiều thành
phần- tầng lớp doanh nhân mới. Vai trò ngày càng quan trọng của họ trong
đời sống kinh tế cũng như trong kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta trong
những năm gần đây là không thể phủ nhận. Nếu không có doanh nhân bỏ vốn
64
thành lập công ty, thì không thể có sự kết hợp giữa công nhân với tư liệu sản
xuất, tạo ra của cải cho xã hội và bản thân người lao động.
Cần khẳng định thêm rằng, sự hài hoà trong mối quan hệ giữa công
nhân và doanh nhân ở nước ta hiện nay đã và đang từng bước được thiết lập.
Những hạn chế còn tồn tại trong quá trình phát triển của một tầng lớp xã hội
non trẻ là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, những hạn chế đó có thể dần được
khắc phục trong quá trình phát triển tất yếu khách quan của tầng lớp xã hội
này cùng với sự hoàn thiện về chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
cũng như quy định của các tổ chức chính trị, kinh tế- xã hội và sự góp sức của
mọi tầng lớp nhân dân ở nước ta.
2.1.2 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với giai
cấp nông dân
Quá trình đổi mới kinh tế do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ
năm 1986 đến nay nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, là quá trình chuyển đổi toàn diện từ lực lượng sản xuất đến
quan hệ sản xuất, từ cơ cấu thành phần kinh tế đến cơ chế quản lý kinh tế. Sự
biến đổi đó đã tạo ra sự phát triển đa dạng các quan hệ kinh tế, các hình thức
liên kết kinh tế trong đời sống kinh tế- xã hội. Trong đó, mối quan hệ giữa
tầng lớp doanh nhân và giai cấp nông dân đã và đang được phát huy ngày
càng phù hợp với cơ chế thị trường, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có quan niệm thống nhất về nông dân,
trong khi nội hàm của khái niệm này không ngừng thay đổi theo từng hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Tuy nhiên, về cơ bản, có thể cho rằng, nông dân là người
lao động sản xuất nhỏ, cư trú ở nông thôn, sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng
cũng như các ngành nghề truyền thống khác với tư liệu sản xuất chính là đất
đai.
65
Là một lực lượng xã hội có lịch sử lâu đời và đông đảo nhất trong kết
cấu xã hội- giai cấp, gắn chặt với mọi biến cố lịch sử của đất nước, giai cấp
nông dân đã và đang có những đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế quốc
dân... Đảng ta chủ trương: “Đối với giai cấp nông dân, phát huy vai trò quan
trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ
tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất.
Tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và
dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với các nhà doanh nghiệp, hợp tác
xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống...” [32,
118-119].
Cùng với khu vực công nghiệp và dịch vụ, khu vực nông nghiệp đã góp
phần to lớn vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Trong hơn hai mươi năm
đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra
khối lượng hàng nông sản lớn, đảm bảo cho đất nước ổn định về lương thực,
dự trữ quốc gia và xuất khẩu; đời sống của nông dân ở hầu hết các vùng, miền
được cải thiện rõ nét... Những thành tựu to lớn này có được là nhờ một phần
đóng góp của tầng lớp DNVN.
Vai trò của doanh nhân với nông dân được nhìn nhận trên một số
phương diện chủ yếu sau:
Vai trò của doanh nhân với nông dân được thể hiện thông qua mối
quan hệ qua lại giữa người bán và người mua nông sản.
Nông dân là đối tượng bán nguyên liệu, sản phẩm nông nghiệp cho
doanh nhân; còn doanh nhân là đối tượng thu mua nông sản để sản xuất, chế
biến... Liên kết giữa doanh nhân và nông dân còn được biểu hiện thông qua
quan hệ giữa công nghiệp với nông nghiệp. Thông qua mối quan hệ này,
doanh nhân chuyển giao vật tư nông nghiệp cho nông dân, góp phần thực hiện
66
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Bên
cạnh đó, liên kết kinh tế giữa doanh nhân và nông dân còn bị chi phối bởi
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhân tố chính trị cũng có tác động
nhất định đến liên kết kinh tế giữa hai giai tầng xã hội này…
Mô hình liên kết kinh tế giữa doanh nhân và nông dân là mô hình liên
kết khép kín giữa một bên là doanh nghiệp chế biến nguyên liệu nông, thủy
sản với một bên là nông dân- đối tượng cung ứng nông, thủy sản và những
nguyên liệu khác. Nội dung liên kết kinh tế giữa doanh nhân và nông dân còn
bao gồm công tác chuyển giao máy móc, trang thiết bị hay đầu tư, chuyển
giao vật tư nông nghiệp. Từ quan hệ kinh tế này, nông dân có thêm điều kiện
thuận lợi để tạo ra hàng hóa nông sản có chất lượng ngày càng cao nhằm cung
ứng cho doanh nghiệp, doanh nhân và cộng đồng.
Liên kết giữa doanh nhân và nông dân còn được thể hiện ở sự tư vấn
của doanh nhân cho nông nhân về các phương thức hoạt động lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp (kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc cây, con…)…
Mặc dù vậy, quan hệ kinh tế giữa doanh nhân và nông dân vẫn đang tồn
tại không ít bất cập xuất phát từ sự tranh chấp kinh tế giữa hai chủ thể liên
kết. Từ cuộc khủng hoảng thừa cá tra, cá ba sa đến việc người dân vùng
nguyên liệu chặt mía để trồng sắn; từ việc nông dân phải đổ đi hàng chục
nghìn lít sữa tươi vì không bán được, đến mới đây nhất là các doanh nghiệp
chậm trễ trong thu mua hơn 4 triệu tấn lúa cho người dân vùng Đồng bằng
sông Cửu Long… phần nào là những biểu hiện bất cập trong liên kết giữa
doanh nhân và nông dân.
Mâu thuẫn cơ bản nổi lên từ mối quan hệ giữa doanh nhân và nông dân
ở nước ta hiện nay là, doanh nhân thường ép giá để thu mua nông sản theo
hướng có lợi cho mình nhất, còn nông dân thì không nhất quán trong quá trình
tiêu thụ nông sản (giá thấp thì nông dân tuân theo hợp đồng đã ký với doanh
67
nhân, nhưng khi giá nông sản lên cao thì nông dân đơn phương phá hợp đồng
để bán cho đối tượng khác với giá có lợi hơn…). Mặt khác, để mở rộng cơ sở
sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp đã mua đất nông nghiệp với giá quá rẻ,
hơn nữa không thực hiện những quy định chung (đưa con em nông dân vào
doanh nghiệp làm việc, bảo vệ môi trường sinh thái…), đã gây thiệt hại không
nhỏ cho nông dân, đồng thời, thu hẹp diện tích đất canh tác nông nghiệp.
Cũng từ quan hệ kinh tế, giữa tầng lớp doanh nhân và giai cấp nông
dân, đang tồn tại một khoảng cách không nhỏ. Nông dân- lực lượng chiếm đa
số trong xã hội, nhưng nhìn chung, vẫn là đối tượng có thu nhập thấp và còn
hạn chế về trình độ học vấn.
Vai trò của doanh nhân với nông dân được thể hiện thông qua mối
quan hệ công nghiệp và nông nghiệp.
Đây là quan hệ tương hỗ trong hoạt động lao động (công nhân chính là
đối tượng trực tiếp chế biến nguyên liệu nông nghiệp do nông dân cung ứng
cho doanh nghiệp, doanh nhân; công nhân cũng là đối tượng trực tiếp sản xuất
ra trang thiết bị, vật tư nông nghiệp cho nông dân…). Đứng ở góc độ nhìn
nhận này, trong khối đại đoàn kết dân tộc, doanh nhân là một trong những lực
lượng trung gian gắn kết chặt chẽ hơn mối quan hệ truyền thống trong kết cấu
xã hội- giai cấp ở nước ta: giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Bác Hồ
đã dạy rằng, nếu nước nhà độc lập mà nhân dân vẫn không được cơm no áo
ấm thì dù độc lập cũng là vô nghĩa. Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khoá III của Đảng, Người đã phân tích về mối quan hệ hữu cơ
giữa công nghiệp và nông nghiệp, theo đó, công nghiệp phát triển mạnh để
cung cấp đủ hàng tiêu dùng cần thiết cho nhân dân, trước hết là nông dân,
cung cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... cho nên công nghiệp
và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển, như hai chân đi
khoẻ và đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi tới đích. Và cũng thông
68
qua mối quan hệ ngày càng chặt chẽ và mang tính phụ thuộc giữa công
nghiệp với nông nghiệp, doanh nhân và nông dân có thêm điều kiện để liên
kết chặt chẽ hơn.
Vai trò của doanh nhân với nông dân được biểu hiện ngay trong cơ cấu
của giai tầng xã hội này.
Một bộ phận DNVN xuất thân từ giai cấp nông dân. Ở một phạm vi
nhất định, nông dân, với tư cách là một trong những nguồn bổ sung vào lực
lượng doanh nhân đang phát triển và mở rộng, tạo thành xu hướng doanh
nhân hoá nông dân. Đây cũng là hướng phấn đấu của một bộ phận nông dân
Việt Nam để trở thành doanh nhân nông nghiệp, chủ trang trại, đồn điền…
Mặt khác, một bộ phận không nhỏ nông dân đã “chuyển hoá” thành công
nhân- đối tượng đặt dưới sự quản lý lao động của doanh nhân.
Lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta có tiềm năng to lớn; tuy nhiên, hiện
nay, tiềm năng đó vẫn chưa được khai thác với hiệu quả cao. Một trong những
mục tiêu phấn đấu quan trọng của nước ta là đến năm 2020, cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Với điều kiện đặc thù của Việt
Nam- một nước nông nghiệp đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, việc hình thành một bộ phận doanh nhân nông nghiệp đông đảo là điều
hoàn toàn có thể xảy ra.
Vai trò của doanh nhân với nông dân được thể hiện thông qua mối
quan hệ giữa thành thị và nông thôn.
Liên kết kinh tế giữa doanh nhân và nông dân là một trong nhiều mối
quan hệ trao đổi hàng hoá giữa thành thị với nông thôn, tạo cơ sở để quan hệ
thành thị, nông thôn phát triển hài hòa, khoảng cách giàu nghèo được rút
ngắn. Nhằm thúc đẩy sự phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn cũng như
để tăng cường mối quan hệ giữa doanh nhân và nông dân, ngày 24-6-2002,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính
69
sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng. Nhà nước
cũng khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động tiêu thụ các
mặt hàng nông sản. Ngày 1-3-2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
cùng Hội Nông dân Việt Nam, Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam
và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký bản cam kết liên tịch nhằm phối hợp
phục vụ sản xuất của nông dân gồm liên kết "Bốn nhà" (nhà nông, nhà doanh
nghiệp, nhà khoa học và Nhà nước). Qua một số năm thực hiện mô hình liên
kết "Bốn nhà", một bộ phận doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp đã phối hợp với nông dân, tạo thành quy
trình khép kín từ khâu thu mua, sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Tuy
nhiên, sự phối hợp đó nhìn chung có hiệu quả chưa đồng bộ. Sự thiếu đồng bộ
này cũng xuất phát từ cung cách làm ăn nhỏ lẻ, trình độ học vấn thấp của
phần lớn nông dân...
Trong điều kiện mới, khi kinh tế, chính trị, an ninh, môi trường đang
diễn biến phức tạp, chứa đựng ngày càng nhiều rủi ro tiềm ẩn, thì vấn đề an
ninh lương thực đang được đặt ra bức thiết cho mọi quốc gia; liệu các nước
trên thế giới có thể vượt qua thách thức này không? Câu trả lời là: có thể, nếu
mỗi quốc gia đều có sự quan tâm, đầu tư thoả đáng cho nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. Nếu không có chiến lược phát triển khu vực nông nghiệp kết
hợp, mà chỉ đơn thuần đầu tư tập trung vào khu vực công nghiệp, tất yếu sẽ
dẫn đến sự mất cân bằng trong nội tại nền kinh tế, và kết quả là các vấn đề
nghèo đói, bất bình đẳng, thất nghiệp sẽ trở nên trầm trọng hơn.
Thời gian qua, tăng trưởng kinh tế của nước ta hàng năm đều cao,
nhưng ở khu vực nông nghiệp, chỉ tăng khoảng 3,5%, trong khi mức tăng giá
khoảng 8%; với tình hình lạm phát cao như vậy, hơn 70% dân số ở khu vực
nông thôn, nhìn chung, nằm ngoài ảnh hưởng tích cực, thậm chí ngày càng bị
bỏ lại đằng sau sự phát triển kinh tế xã hội.
70
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, cuối
năm 2002, số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm
khoảng 14% tổng số doanh nghiệp của cả nước, năm 2003 giảm còn trên
11%, đến cuối năm 2005 chỉ còn 10%, hiện nay, còn khoảng 16.000 doanh
nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Bên cạnh đó, số doanh
nghiệp nông nghiệp đăng ký thành lập mới chủ yếu tập trung ở địa bàn các
thành phố, thị xã; nông thôn vẫn là khu vực kém hấp dẫn với đội ngũ doanh nhân [Theo 33]. Một con số thống kê khác còn chỉ ra rằng, trong 10 năm liên
lục, tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp nói chung bình quân 25-26%,
nhưng các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp lại rất thấp, khoảng 2%, tức
là thấp hơn 10 lần. Lý giải điều này, nhiều doanh nhân cho rằng, đầu tư vào
lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta nhiều rủi ro, hiệu quả không cao...
Hiện nay ở Việt Nam, khoảng trên 50.000 nông dân mới có 1 doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Đây là một tỷ lệ quá chênh
lệch, phản ánh sự liên kết chưa chưa chặt chẽ giữa giai cấp nông dân và tầng
lớp DNVN. Nếu các doanh nghiệp ở nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ như hiện nay,
nông nghiệp và kinh tế nông thôn vẫn ở trong tình trạng nhỏ lẻ, phân tán theo
quy mô hộ gia đình với cách nhìn hạn hẹp của mỗi cá nhân, thì chưa thể nói
đến sự thành công trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá lớn ở nông thôn.
Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, nông dân vẫn là lực lượng lao động dồi dào, nông thôn vẫn là thị trường
tiềm năng của xã hội. Chúng ta không thể để cho sản lượng nông nghiệp bị
giảm sút như một số nước đã hoàn thành công nghiệp hóa trước nước ta.
Trong xu thế toàn cầu hoá, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, doanh
nhân cũng như của các thương hiệu hàng hoá không chỉ là ở nguồn tài nguyên
dồi dào, nguồn nhân công rẻ hay những ưu đãi của các cơ quan chức năng...
mà là sự tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá một cách bền vững,
71
được xây dựng trên cơ sở liên kết chặt chẽ giữa các mắt khâu của quá trình
tạo ra sản phẩm.
Như vậy, không thể phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn một
cách biệt lập, mà phải liên kết với các lực lượng xã hội khác, trong đó có
doanh nhân. Trên thực tế, quan hệ giữa nông dân và DNVN vẫn chưa có
chiến lược tổng thể, đồng bộ cũng như còn tồn tại nhiều bất cập.
Trước mắt cũng như lâu dài, kinh tế nông nghiệp có vai trò hết sức to
lớn trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta. Quan tâm đầu tư phát triển nông
nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, xã hội... Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X “Về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn” là đường lối chiến lược rất cơ bản của Đảng sẽ
là bước đột phá để nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện với tốc độ cao
theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và
cuối cùng là đời sống về vật chất, tinh thần của người nông dân sẽ tiếp tục
được nâng lên.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang mang lại nhiều lợi ích nhưng cũng đem
đến không ít những thách thức cho Việt Nam, nhất là đối với lĩnh vực nông
nghiệp. Trở thành thành viên của WTO, hàng hóa nông sản của nước ta đã và
đang có thêm điều kiện mở rộng thị trường ra các nước trên thế giới và được
hưởng quy chế đối xử bình đẳng. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản, đầu
tư cho nông nghiệp, nông thôn, hỗ trợ nông dân, ưu đãi doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực nông nghiệp... sẽ tạo điều kiện cho hàng nông sản Việt
Nam thâm nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường thế giới. Đây là cơ sở chủ
yếu đảm bảo cho sự thành công của chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn, đưa Việt Nam vững bước trên con đường phát triển vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.1.3 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với đội
ngũ trí thức
72
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X
“Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” đã chỉ ra: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình
độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập,
sáng tao, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và
vật chất có giá trị đối với xã hội” [5, 13-08-2008]. Có thể khẳng định rằng,
trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nếu không có trí thức, đội
ngũ doanh nhân không thể phát triển bền vững, còn nếu không có doanh nhân
thì trí thức cũng thiếu một động lực mạnh mẽ để hoạt động lao động sáng tạo.
Vai trò của doanh nhân đối với trí thức được thể hiện ở một số khía cạnh cơ
bản sau:
Vai trò của doanh nhân với trí thức được thể hiện thông qua mối quan
hệ giữa người tiếp nhận và người sáng tạo ra thành tựu khoa học công nghệ.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay, trí thức thường đóng vai
trò là đối tượng chuyển giao thành tựu khoa học công nghệ cho doanh nghiệp,
doanh nhân nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch
vụ, hạ giá thành sản phẩm... Một trong những động lực hoạt động lao động và
sáng tạo của đội ngũ trí thức nước ta hiện nay là cộng đồng doanh nghiệp,
tầng lớp doanh nhân- đối tượng sẵn sàng đầu tư thỏa đáng cho công tác
nghiên cứu- phát minh, sáng chế của trí thức nếu các kết quả nghiên cứu hay
những thành tựu khoa học có thể góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, doanh nhân phát triển. Thực tế cho thấy, nhu cầu
không ngừng cải tiến công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, doanh nhân tạo
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực khoa học công nghệ.
Trong điều kiện hiện nay, doanh nhân phải hoạt động lao động (đặc
biệt là lao động trí óc) với tần suất ngày càng cao. Giới quản lý nước Mĩ đưa
ra sáu tiêu chuẩn của doanh nhân: hiệu quả cao, chủ động tiến thủ; có năng
73
lực tư duy lôgic, năng lực khái niệm hoá, năng lực phán đoán; quan tâm, giúp
đỡ mọi người bằng những hành động tích cực, khéo gây ảnh hưởng đến mọi
người; lãnh đạo tập thể, sử dụng đúng quyền lực; cá tính tâm lý chín muồi,
biết tự kiềm chế, khách quan, cố gắng, tự chủ; có tri thức phong phú.
Tuy vậy, mối quan hệ giữa chủ thể tiếp nhận thành tựu khoa học và đối
tượng chuyển giao thành tựu khoa học vẫn còn những bất cập nhất định.
Những bất cập này chủ yếu bắt nguồn từ nhu cầu cũng như sự cung ứng của
cả hai đối tượng liên kết. Cung- cầu không gặp nhau trong hoạt động lao động
của doanh nhân và trí thức đã dẫn tới thực trạng: doanh nghiệp, DNVN rất
cần thành tựu khoa học để cải tiến quy trình hoạt động của doanh nghiệp
nhưng trí thức Việt Nam chưa đáp ứng được hoặc chỉ đáp ứng được một
phần. Trí thức cần phải dựa vào nhu cầu của doanh nghiệp, doanh nhân để
hoạt động lao động sáng tạo. Tuy nhiên, thực tế lại chỉ ra rằng, trong mối
quan hệ giữa trí thức và doanh nhân, không phải bất kỳ lúc nào hoạt động lao
động của trí thức cũng căn cứ vào nhu cầu, đòi hỏi từ doanh nghiệp, doanh
nhân. Sự hoạt động lao động thiếu cơ sở đầu ra của sản phẩm khoa học công
nghệ đã dẫn đến thực trạng các công trình khoa học sau khi được nghiệm thu
đã không được triển khai vào thực tiễn cuộc sống. Đôi khi đòi hỏi, nhu cầu
của doanh nghiệp, doanh nhân quá cao, vượt ra ngoài khả năng đáp ứng của
trí thức cũng dẫn đến sự mất cân bằng trong mối quan hệ giữa hai lực lượng
xã hội này.
Như vậy, quan hệ giữa trí thức và DNVN còn bộc lộ những hạn chế
khó tránh khỏi, là một trong những nguyên nhân khiến DNVN phải thiết lập
quan hệ với trí thức ở các nước phát triển trên thế giới- lực lượng có thể đáp
ứng được nhu cầu không ngừng tăng cao của doanh nghiệp, doanh nhân về
ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
74
Vai trò của doanh nhân với trí thức được thể hiện ngay trong quá trình
đào tạo của các cơ sở giáo dục.
Thời gian vừa qua ở nước ta, sự liên kết giữa trí thức và doanh nhân
được thể hiện khá phong phú, sôi động trong môi trường đào tạo. Các khóa
đào tạo nghiệp vụ cho doanh nhân, diễn đàn, hội thảo trao đổi kinh nghiệm,
đề xuất nhu cầu, nguyện vọng giữa doanh nhân và trí thức, sự hợp tác liên kết
giữa cơ sở đào tạo với cơ sở sản xuất kinh doanh... đã góp phần củng cố và
tăng cường mối quan hệ giữa hai lực lượng xã hội này. Ngày 6 tháng 9 năm
2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã ký thoả
thuận hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học giai đoạn 2007-2012. Sau đó,
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam cũng đã ký kết văn bản hợp tác với Đại học
Quốc gia Hà Nội. Trước đó, cuối tháng 3 năm 2007, Trường Đại học Công
nghệ thông tin (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) đã có cuộc “bắt
tay” với Microsolf. Khoa Kinh tế của Trường cũng ký kết với Công ty cổ
phần Hoa sen để cùng đào tạo nhân lực và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá
trình phát triển...
Vai trò của DNVN còn được thể hiện rõ nét trong quá trình đào tạo ở
các cơ sở giáo dục thời gian qua, như việc tài trợ các trang thiết bị học tập,
nghiên cứu, tạo điều kiện cho sinh viên thực tập, thực hành, tiếp nhận "đầu
ra", cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực, tham gia vào quá trình giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, biên soạn giáo trình, tài liệu phục vụ học tập...
Có thể khẳng định rằng, sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa cơ sở đào
tạo và doanh nghiệp, doanh nhân là xu thế chung của mọi quốc gia, đem lại
lợi ích cho tất cả các bên liên kết. Tuy vậy, ở Việt Nam, mối quan hệ trên còn
đang ở trạng thái sơ khai và rời rạc. Không ít trường hợp, doanh nghiệp và cơ
sở giáo dục ký kết thỏa thuận hợp tác, nhưng cả hai bên không tuân thủ. Thực
75
trạng này đang là một tác nhân khiến quan hệ giữa trí thức và doanh nhân
nước ta chưa thật sâu rộng.
Vai trò của doanh nhân với trí thức được thể hiện thông qua việc tiếp
nhận và sử dụng sản phẩm của cơ sở giáo dục.
Ở phạm vi xem xét này, doanh nhân có thể được xem là nhà quản lý,
người sử dụng lao động, ông chủ hay chủ thể quản lý, và một bộ phận trí thức
được coi là đối tượng quản lý. Khi xét về quan hệ chính trị, trong kết cấu xã
hội- giai cấp, trí thức là tầng lớp luôn được Đảng ta xếp trước tầng lớp doanh
nhân bởi vai trò chính trị của hai tầng lớp xã hội này; nhưng trong quan hệ
kinh tế, trí thức có thể đứng ở vị trí thấp hơn doanh nhân trong cơ sở sản xuất
kinh doanh.
Thực tế cho thấy, trí thức, với tư cách là nguồn nhân lực cao, ảnh
hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tại không ít
doanh nghiệp, lực lượng lao động này được chủ doanh nghiệp tạo điều kiện
thuận lợi trong lao động cũng như trong cuộc sống. Quan hệ giữa trí thức và
doanh nhân trong nhiều doanh nghiệp ở nước ta là quan hệ đa dạng. Trong
những môi trường quan hệ đa chiều, hài hòa về lợi ích, doanh nhân và trí thức
có nhiều điều kiện để liên kết chặt chẽ với nhau trong hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm đạt mục tiêu chung.
Khi nhìn nhận mối quan hệ giữa doanh nhân với trí thức với tư cách là
quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động, đã và đang có không
ít vấn đề đặt ra cho cả hai đối tượng này. Trong phạm vi nhất định, trí thức
còn có thể là đối tượng bị bóc lột sức lao động bởi doanh nhân- ông chủ.
Thực trạng này thường xảy ra ở những doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân, khi hợp đồng tuyển dụng của doanh nghiệp có những điều khoản chưa
thỏa đáng nhằm ràng buộc, thậm chí ép buộc đối tượng được tuyển dụng.
76
Khi DNVN còn lúng túng, hời hợt trong việc liên kết với các cơ sở đào
tạo để thu hút, giữ chân nhân lực, nhân tài thì ngay ở thị trường nội địa, hàng
loạt công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài, các công ty liên doanh, các tập
đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã và đang sử dụng rất nhiều hình thức tuyển
dụng nhân sự. Với sự đãi ngộ thỏa đáng, không ít trí thức, nhân sự cao cấp ở
các các doanh nghiệp do DNVN làm chủ đã bỏ sang làm việc cho các doanh
nghiệp do doanh nhân nước ngoài quản lý, làm chủ. Chẳng hạn như thời gian
gần đây ở nước ta, những ngân hàng nước ngoài vừa được thiết lập, bằng
nhiều biện pháp, họ đã thu hút được một nguồn không nhỏ nhân lực cao cấp
khiến thị trường nhân lực tài chính, ngân hàng trở nên khan hiếm. Thực trạng
đáng quan tâm này chẳng khác nào hiện tượng “chảy máu trong” của nền kinh
tế. Đây lại là bài học lớn cho Việt Nam cũng như cho tầng lớp DNVN trong
quá trình hội nhập.
Thực tiễn các hội chợ việc làm được tổ chức gần đây cho thấy, mặc dù
được tuyển chọn lao động trong điều kiện thị trường có không ít cử nhân đang
khát khao tìm việc, song các doanh nghiệp, doanh nhân vẫn không dễ dàng
tuyển được những ứng viên thích hợp. Ngay cả sau khi đã tuyển được nhân sự
thì họ cũng phải đầu tư thời gian, kinh phí đào tạo lại cho phù hợp với yêu cầu
chuyên môn của doanh nghiệp. Phải chăng các doanh nghiệp, doanh nhân mới
ở nước ta đang thiếu cơ chế tuyển dụng và sử dụng nhân sự hay nước ta đang
thiếu đội ngũ nhân sự chất lượng cao? Thị trường lao động nước ta đang rất
cần các cơ sở đào tạo đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của
doanh nghiệp, doanh nhân. Sự tồn tại và phát triển của các cơ sở đào tạo trong
điều kiện hiện nay cũng phụ thuộc nhiều vào việc tiếp nhận của thị trường nói
chung, doanh nghiệp, doanh nhân nói riêng đối với sản phẩm đào tạo của họ.
Thời gian vừa qua, về cơ bản, các cơ sở giáo dục ở Việt Nam ít chú
trọng đào tạo những lực lượng lao động có thể đáp ứng ngay và đầy đủ nhu
77
cầu của doanh nghiệp, doanh nhân; họ chưa nhận thấy sản phẩm đào tạo của
mình được xã hội chấp nhận đến đâu. Doanh nghiệp, DNVN thì dường như
đã quen phó mặc nhiệm vụ cung ứng nhân lực cho các cơ sở đào tạo, mặc dù
theo họ thì công tác đào tạo trong các cơ sở giáo dục ở nước ta còn chưa sát
với thực tế, nặng về lý thuyết. Các cơ sở đào tạo lại cho rằng, doanh nghiệp,
doanh nhân không có những yêu cầu cụ thể về chất lượng, ngành nghề, kỹ
năng... nên họ không thể đào tạo ra những thế hệ nhân lực đáp ứng ngay được
nhu cầu của từng loại hình doanh nghiệp… Trước thực trạng này, trí thức và
DNVN cần tăng cường liên kết với nhau một cách chặt chẽ, chủ động và linh
hoạt hơn…
Cùng với đội ngũ trí thức trong các trường đại học và cao đẳng, các nhà
khoa học ở các viện, trung tâm nghiên cứu... cũng có mối liên hệ chặt chẽ với
tầng lớp DNVN. Vai trò của doanh nhân trong mối quan hệ này biểu hiện ở
chỗ:
Doanh nhân vừa là đối tác vừa là cộng sự của các nhà khoa học.
Trong mối tương quan giữa con người trong xã hội, người sở hữu vốn
và tự trả công cho sức lao động của chính mình đó là chủ, còn người lao động
được người khác trả lương hay chia sẻ lợi ích (ở thế phụ thuộc) là người làm
thuê. Xét về phương diện này thì giới doanh nhân là chủ, còn nhà khoa học là
người làm thuê. Quan hệ giữa nhà khoa học và doanh nhân có thể vừa là đối
tác, vừa là cộng sự.
Mục đích cốt lõi của hoạt động sản xuất, kinh doanh là tạo ra lợi nhuận.
Doanh nhân đòi hỏi nhà khoa học tạo ra các sản phẩm có giá trị ngày càng
cao, những sản phẩm đảm bảo chất lượng, đem lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Thương hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp thường gắn với những
nhà khoa học- những nguời đã góp phần sáng tạo ra các thương hiệu đó.
Doanh nhân cũng cần nhà khoa học có khả năng thương thảo, quảng bá và có
78
thể minh chứng cho tính chính xác của một số tình huống trong kinh doanh…
Trong các mối quan hệ này, thực tế chỉ ra rằng, đôi khi cũng không tránh khỏi
có những bất cập. Nguyên nhân xuất phát từ cả hai bên liên kết, đặc biệt là từ
phía một bộ phận doanh nghiệp, doanh nhân, làm tổn hại đến lợi ích của cả
nhà khoa học lẫn doanh nghiệp.
Quá trình tồn tại và phát triển, các nhà khoa học cần sự hỗ trợ của
doanh nghiệp, doanh nhân.
Mục tiêu nhân văn trong hoạt động lao động của nhà khoa học là sáng
tạo ra ngày càng nhiều những sản phẩm mang lại lợi ích thiết thực cho xã hội
cũng như cho chính bản thân mình. Với vai trò là người làm thuê (hay người
bán, cung ứng ý tưởng, thành tựu khoa học công nghệ), nhà khoa học luôn
cần doanh nhân đặt hàng sản phẩm, ý tưởng khoa học công nghệ và tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của mình. Nhà
khoa học cũng cần những doanh nhân biết đánh giá đúng và trả thù lao tương
xứng cho kết quả lao động của nhà khoa học. Ở các nước có nền khoa học
công nghệ tiên tiến, hoạt động nghiên cứu và phát triển trong doanh nghiệp
chiếm khoảng 70% tổng chi phí cho nghiên cứu và phát triển của quốc gia.
Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp là động lực thúc đẩy
sáng tạo, tạo ra sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Theo
số liệu thống kê mới gần đây, 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa không có chiến
lược đầu tư cho khoa học công nghệ [59, 29-04-2009]. Số liệu trên phần nào
chỉ ra rằng, sự hợp tác giữa doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam với hoạt
động nghiên cứu nói chung, các nhà khoa học nói riêng chưa thực sự được
chú trọng.
Doanh nhân có vai trò là một trong những lực lượng kết nối nhà khoa
học với các giai tầng xã hội khác.
79
Vì lợi ích chung và lâu dài của tất cả các bên liên kết, nhà khoa học còn
đòi hỏi doanh nhân phải biết kết nối nhà khoa học với các tầng lớp xã hội
khác. Trong phạm vi nhiệm vụ này, doanh nhân là lực lượng trung gian giúp
các giai tầng trong xã hội (đặc biệt là giai cấp nông dân- một trong những đối
tác quan trọng của mình) tìm đến với nhà khoa học để đề xuất nhu cầu,
nguyện vọng của họ cũng như đặt hàng sản phẩm. Nhiệm vụ của nhà khoa
học lúc này là nỗ lực sáng tạo ra những sản phẩm khoa học thiết thực, phục
vụ nhu cầu không ngừng tăng của mọi tầng lớp nhân dân. Nhìn chung, quan
hệ giữa nhà khoa học và doanh nhân phải thể hiện tính minh bạch (giá trị
thực), và sự tôn trọng nhau (có giá trị tinh thần vượt trội hơn giá trị vật chất).
Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ, doanh
nghiệp, doanh nhân phải thường xuyên đổi mới công nghệ, nhưng hầu hết
công nghệ đang được sử dụng trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
đã lạc hậu, chắp vá, không tương thích với trình độ phát triển ngày càng cao
của người lao động... Trước tình hình này, doanh nhân phải dựa vào đội ngũ
trí thức để chuyển giao và sử dụng hợp lý, hiệu quả những thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại...
Thực tế cho thấy, trí thức và doanh nhân thường song hành tích cực
trên con đường hội nhập. Xét ở một khía cạnh, trí thức cần học hỏi doanh
nhân- đối tượng tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh và đào thải
ngày càng khốc liệt. Để tồn tại và phát triển vững vàng, doanh nhân phải luôn
sáng tạo, đổi mới trong hoạt động lao động, có bản lĩnh vững vàng và sự
quyết tâm cao độ... Tuy vậy, doanh nhân cũng cần phấn đấu rèn luyện cả đức
và tài để trở thành người doanh nhân có trình độ hiểu biết và có văn hóa. Trí
thức và doanh nhân cần thiết lập một mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung để cùng
nhau đạt được mục tiêu chính đáng của mỗi giai tầng xã hội và phát huy tốt
vai trò của mình trong xã hội.
80
Lịch sử nước ta cho thấy, những người Việt Nam đầu tiên chọn con
đường kinh doanh khởi đầu cho sự hình thành tầng lớp doanh nhân, phần
nhiều lại là những trí thức. Trước những biến động về chính trị và kinh tế của
thế giới và ở một số nước như Liên Xô và Đông Âu, bộ phận trí thức này đã
chuyển hướng rất nhanh. Với lượng kiến thức đã được trang bị từ các trường
đại học, cộng với điều kiện xã hội và ý chí làm giàu, họ đã thành đạt trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta chủ trương: “Đổi mới tổ chức, xây
dựng quy chế liên kết giữa khoa học, công nghệ với giáo dục và đào tạo, giữa
nghiên cứu và giảng dạy với sản xuất, kinh doanh. Xây dựng quy chế về
nghiên cứu khoa học trong các trường đại học và về công tác giảng dạy, đào
tạo của các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ. Có chính sách khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới và chuyển giao công nghệ, nghiên
cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Phát triển quan hệ liên kết, đặt hàng giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các
tổ chức và cá nhân có nhu cầu với các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp, trước hết là các tổng công ty lớn,
triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ” [32, 211].
Phải thừa nhận rằng, “tầm" của DNVN nói chung còn có những hạn
chế nhất định; một bộ phận không nhỏ doanh nhân trưởng thành chỉ từ kinh
nghiệm, không nhiều người được đào tạo bài bản, đủ các kỹ năng, tố chất của
một doanh nhân chuyên nghiệp. Thực tế này cũng được thể hiện ở sự liên kết
lỏng lẻo, thiếu đồng bộ của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân với lĩnh vực
giáo dục, đào tạo. Đây là bất cập lớn, hạn chế tầm nhìn của DNVN ra thị
trường thế giới, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như sức cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam trước đối tác nước ngoài.
81
Trong xu thế mở cửa hội nhập, việc hình thành một chiến lược liên kết
chặt chẽ, toàn diện giữa trí thức và doanh nhân ở nước ta đang được đặt ra cấp
thiết. Chính phủ đã thông qua đề án phát triển thị trường công nghệ và ban
hành nghi định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa
học công nghệ công lập. Đó là những cơ sở pháp lý thuận lợi cho các tổ chức
khoa học công nghệ chủ động nắm bắt nhu cầu đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp để định hướng cho họat động của mình; đồng thời thúc đẩy các
doanh nghiệp, doanh nhân chủ động đặt hàng với các tổ chức khoa học và
công nghệ... Như vây, đang có nhiều điều kiện thuận lợi cho các tổ chức khoa
học công nghệ và doanh nghiêp (trí thức và doanh nhân) tìm đến nhau để đáp
ứng nhu cầu, vì lợi ích của cả hai phía.
Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta
đã thông qua các Nghị quyết về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn
và về xây dựng đội ngũ trí thức. Hiện nay Đảng ta đang lấy ý kiến của mọi
tầng lớp nhân dân để chuẩn bị đưa ra Nghị quyết về doanh nhân. Qua đó, có
thể thấy sự quan tâm của Đảng và vai trò không nhỏ của DNVN trong đời
sống xã hội. Mối quan hệ giữa doanh nhân và trí thức, giữa văn hóa doanh
nghiệp và văn hóa dân tộc đã trở thành những vấn đề lớn, rất cần được nghiên
cứu, phân tích, làm rõ và có những giải pháp khả thi thích ứng với những lĩnh
vực, hoạt động cụ thể.
Những doanh nghiệp- với vai trò là cơ quan tuyển dụng lao động trực
tiếp và đầu mối quản lý lao động ở các bộ, ngành liên kết với các cơ sở giáo
dục thời gian qua mới chỉ là sự khởi đầu. Với khoảng trên 30 vạn doanh nhân,
chúng ta đang mong muốn lực lượng xã hội này ngày càng liên kết chặt chẽ
với tầng lớp trí thức cùng như các tầng lớp xã hội khác vì mục tiêu chung-
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
82
2.1.4 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ với đội
ngũ cán bộ công chức
Thời gian qua ở nước ta, cùng với sự hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, sự đổi mới của cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp, thì sự cải thiện
môi trường kinh doanh đã mang lại nhiều ích lợi, cơ hội phát triển cho bản
thân doanh nghiệp, doanh nhân; tinh thần kinh doanh được nâng lên, tư duy
và sức sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh được phát huy... Thành
tựu này cũng có sự đóng góp của các cơ quan chức năng và của đội ngũ cán
bộ công chức nước ta. Quan hệ giữa DNVN và đội ngũ cán bộ công chức
nước ta là mối quan hệ đa chiều và tất yếu. Trong mối quan hệ này, vai trò
của DNVN được thể hiện trên các phương diện chủ yếu sau:
Vai trò của DNVN với đội ngũ cán bộ công chức được thể hiện thông
qua mối quan hệ giữa đối tượng giải quyết thủ tục hành chính và chủ thể giải
quyết thủ tục hành chính.
Trước hết, với đội ngũ cán bộ công chức (chủ thể giải quyết thủ tục hành
chính), tầng lớp DNVN chủ yếu có vai trò là đối tượng được giải quyết thủ
tục hành chính. Đứng ở góc độ xem xét này, thông qua việc giải quyết thủ tục
hành chính, doanh nhân đã tạo điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ công
chức. DNVN có vai trò như một bộ phận "khách hàng" của đội ngũ cán bộ
công chức. Thông qua mối quan hệ này là, doanh nhân giải quyết được các
thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển ổn định, còn đội ngũ cán bộ công chức
góp phần vào việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động ổn định.
Vai trò của DNVN với đội ngũ cán bộ công chức được thể hiện thông
qua mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các cơ quan chức năng.
Ở một khía cạnh xem xét khác, mối quan hệ giữa tầng lớp DNVN với
đội ngũ cán bộ công chức là mối quan hệ gián tiếp giữa doanh nghiệp và Nhà
83
nước. Thông qua đội ngũ cán bộ công chức, nguyện vọng, nhu cầu, kiến nghị
của tầng lớp doanh nhân được chuyển đến, giải quyết tại các cấp có thẩm
quyền.
Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, DNVN còn đang có vai trò không nhỏ
trong đời sống chính trị- xã hội. Nhiệm vụ chính trị của DNVN là không
những phải tuân thủ và tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, mà còn thể hiện thông qua vai trò người tham mưu cho các cơ quan
chức năng về đường lối phát triển kinh tế- xã hội. Với tư cách là những người
trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, có kinh nghiệm và kiến thức nhất
định về lĩnh vực này, đồng thời có mối quan hệ sâu rộng với các đối tác trên
thế giới… tầng lớp DNVN có thể đề xuất các phương hướng, giải pháp thiết
thực cho Đảng, Nhà nước hoạch định chính sách cũng như trong các quan hệ
đối ngoại…
Vai trò của DNVN với đội ngũ cán bộ công chức được thể hiện thông
qua mối quan hệ giữa chủ thể quản lý sản xuất và chủ thể quản lý nhà nước
về kinh tế- xã hội..
Có thể thấy rằng, đây là mối quan hệ ở hai cấp độ khác nhau. Doanh
nhân quản lý doanh nghiệp (cấp vi mô), còn các cơ quan chức năng quản lý
kinh tế nói chung (cấp vĩ mô). Sự liên kết của hai chủ thể quản lý này là chặt
chẽ, thường xuyên biến động theo sự phát triển của đời sống xã hội. Mối quan
hệ giữa tầng lớp DNVN với đội ngũ cán bộ công chức đã và đang diễn ra theo
xu hướng: giảm dần sự “can thiệp” quá sâu của các cơ quan chức năng vào
quá trình tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, doanh nhân để tạo sự độc lập
tương đối của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, sự phân biệt hai đối
tượng này cũng chỉ mang tính tương đối. Thực tế cho thấy, những chủ thể
quản lý kinh tế cũng có thể tham gia quản lý doanh nghiệp, đã và đang tham
84
gia quản lý doanh nghiệp; chủ thể quản lý doanh nghiệp cũng có thể tham gia
vào công tác quản lý kinh tế vĩ mô.
Về phía Nhà nước, bằng những nỗ lực trong cải cách hành chính, nâng
cao tính nhất quán, minh bạch và bình đẳng của khuôn khổ pháp lý về kinh
doanh, đã tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng hơn giữa
các loại hình doanh nghiệp cũng như cải thiện mức độ lành mạnh trong cạnh
tranh- một trong những yếu tố cơ bản và cũng là động lực to lớn của kinh tế
thị trường. Phương thức và công cụ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp đã
được đổi mới cơ bản theo hướng, năng lực quản lý phải được xây dựng để
thúc đẩy và chi phối được quá trình phát triển ở mức độ nhất định, coi trọng
sự hợp tác, tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân hoạt
động sản xuất kinh doanh ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của thể chế
kinh tế thị trường. Công tác giải quyết thủ tục hành chính diễn ra thuận lợi,
nhanh chóng và đỡ tốn kém hơn cho doanh nghiệp...
Mối quan hệ giữa tầng lớp DNVN với đội ngũ cán bộ công chức ở nước
ta còn tồn tại không ít hạn chế, trong đó, nổi bật là các vấn đề dính líu ít nhiều
đến tham nhũng. Có ba dạng tham nhũng cơ bản liên quan đến doanh nhân:
(1) Tham nhũng phát sinh từ mối quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giải quyết các nhu cầu của doanh nghiệp (gây khó dễ,
chậm thực thi hay cố tình đặt ra các yêu cầu sai quy định để doanh nghiệp
buộc phải hối lộ). (2) Tham nhũng phát sinh khi có sự cấu kết giữa doanh
nghiệp với những người có chức vụ, quyền hạn ở khu vực công để giành được
lợi thế cạnh tranh hoặc các hợp đồng bất hợp pháp. (3) Tham nhũng phát sinh
trong nội bộ doanh nghiệp.
Theo kết quả cuộc "Khảo sát gian lận toàn cầu năm 2008" do
Ernst&Young- một công ty kiểm toán hàng đầu thế giới thực hiện và công bố
ngày 22 tháng 9 năm 2008, có tới 96% doanh nghiệp Việt Nam được phỏng
85
vấn đã xác nhận là từng có liên quan đến hối lộ hay tham nhũng trong vòng
hai năm gần đây. Tỷ lệ này cao gấp đôi mức trung bình của khu vực Châu á
Thái Bình Dương (56%), gấp khoảng 4 lần mức trung bình toàn cầu (24%) và
cao hơn nhiều lần so với một số quốc gia trong khu vực như: Singapore (7%),
Malaysia (16%), Philippin (17%). Trung Quốc- một quốc gia từng “nổi tiếng”
về tham nhũng- cũng còn một khoảng cách khá xa so với Việt Nam (81%).
Đây là lần đầu tiên, Ernst&Young đưa Việt Nam vào cuộc "Khảo sát
gian lận toàn cầu". Các cuộc khảo sát này thường tập trung vào tình trạng
tham nhũng- hối lộ, cũng như khả năng kiểm soát gian lận của các doanh
nghiệp. Ersnt&Young cho biết, họ đã thực hiện 1.186 cuộc phỏng vấn lãnh
đạo cao cấp của nhiều doanh nghiệp tại các quốc gia. Riêng ở Việt Nam,
Ernst&Young đã thực hiện 25 cuộc phỏng vấn và 60% doanh nghiệp Việt
Nam được phỏng vấn thừa nhận từng bị yêu cầu đưa hối lộ để có hoặc được
tiếp tục nhận các hợp đồng... Tỷ lệ này tại Việt Nam ngang với Nam Hàn và
cao hơn mức trung bình toàn cầu l23%. Ngoài ra, có đến 48% doanh nghiệp
Việt Nam xác nhận từng bị mất hợp đồng vào tay đối thủ cạnh tranh chỉ vì
không chịu đưa hối lộ... Kết quả của các cuộc khảo sát trên có thể chưa đứng
ở mức độ vấn đề nghiêm trọng, nhưng điều đó chứng tỏ rằng, tham nhũng có
liên quan đến DNVN, và hiện tượng này có xu hướng gia tăng, do đó, cần
tham khảo các ý kiến đa chiều để tìm cách khắc phục.
Thực tế cho thấy, tham nhũng góp phần đẩy chi phí sản xuất, kinh
doanh lên cao, là cách thức để nhiều doanh nghiệp có được lợi thế đặc biệt
trong cạnh tranh, chiến thắng đối thủ hoặc tham ô tài sản Nhà nước... Điều
kiện cho dạng tham nhũng này tồn tại, phát triển chủ yếu là thông qua các
cuộc đấu thầu, các dự án đầu tư công. Sau khi hối lộ để có được hợp đồng sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, những doanh nghiệp này sẽ vận dụng các thủ đoạn
khác nhau để nhanh chóng "thu hồi vốn". Hệ quả là, không chỉ ngân sách nhà
86
nước bị tổn thất, mà toàn xã hội có thể phải hứng chịu những sản phẩm có
chất lượng không đảm bảo... Những doanh nghiệp có lợi thế trong những vụ
việc tham nhũng này (thường là các doanh nhân ở các công ty lớn) có "quan
hệ ngầm” với một bộ phận cán bộ công chức nhà nước.
Thua thiệt trong những cuộc cạnh tranh không lành mạnh thường thuộc
về những doanh nghiệp nhỏ. Tham nhũng càng phát triển, môi trường cạnh
tranh càng trở nên thiếu lành mạnh, không chỉ khiến nhiều doanh nghiệp,
doanh nhân trong nước bị tổn thất, mà còn làm giảm động lực đầu tư của các
tổ chức, cá nhân nước ngoài vào nước ta…
Môi trường xã hội cũng như môi trường kinh doanh càng kém minh
bạch thì tham nhũng càng có nhiều điều kiện nảy sinh và doanh nghiệp phải
cạnh tranh trong môi trường không công bằng. Thực tế chỉ ra rằng, hầu hết
các cuộc khủng hoảng kinh tế đều là hệ quả của sự liên kết không lành mạnh
giữa giới lãnh đao chính quyền với các tập đoàn kinh tế hoạt động phi pháp.
Thực trạng này đã và đang manh nha tồn tại ở nước ta thông qua các vụ việc
tham ô có tổ chức liên quan trực tiếp đến một bộ phận cán bộ, công chức vừa
bị phát hiện và xử lý thời gian vừa qua.
Theo báo cáo về Môi trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới công
bố ngày 26 tháng 9 năm 2009, thủ tục hành chính vẫn là yếu tố gây cản trở
lớn nhất với môi trường kinh doanh của Việt Nam, dù đã có nhiều cải thiện.
Thủ tục hành chính gây cản trở tất cả các mặt, tiêu phí thời gian, tiền bạc và
làm giảm tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Còn không ít các thủ tục
hành chính phức tạp, gây tốn kém thời gian và tiền bạc đã làm tăng chi phí
giao dịch của doanh nghiệp. Giảm thiểu được các thủ tục cũng như chi phí
này, sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Trước hết phải thừa nhận rằng, các doanh nghiệp của nước ta chủ yếu
là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ hiểu biết luật pháp cũng như ý thức chấp
87
hành pháp luật của một bộ phận chủ doanh nghiệp chưa cao. Kết quả khảo sát
của Ernst&Young còn cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp
luật ở Việt Nam rất thấp, chỉ có 24% so với mức trung bình toàn cầu là 40%
(Singapore đến 85%).
Về phía doanh nghiệp tư nhân, trong các hoạt động kinh doanh, còn
nhiều biểu hiện thiếu minh bạch, một số doanh nhân chưa thực hiện nghiêm
túc chế độ kế toán, kê khai không đúng thu nhập và tài sản, chưa tuân thủ các
điều kiện kinh doanh. Lối quản lý chỉ dựa trên kinh nghiệm, thiếu chiến lược
và kế hoạch kinh doanh cụ thể đang là hiện tượng phổ biến trong tầng lớp
DNVN. Nhiều doanh nhân còn nhầm lẫn, thậm chí đánh đồng giữa vai trò
quản lý và vai trò sở hữu trong doanh nghiệp. Rất ít các giao dịch của doanh
nghiệp tư nhân thực hiện qua hệ thống ngân hàng; công tác ghi chép, cập
nhật, lưu trữ sổ sách còn yếu; việc lập sổ sách kế toán, thống kê vẫn chưa phải
để "công khai hóa" giúp hiểu đúng và đủ về thực trạng tài chính, về các điểm
mạnh, điểm yếu của các doanh nghiệp...
Trong hệ thống pháp luật, còn những điều khoản chưa rõ ràng cùng với
cơ chế vận hành chưa hợp lý đã và đang làm cản trở quá trình quản lý, giám
sát của các cơ quan công quyền, giảm niềm tin của các nhà cấp vốn đối với
các doanh nghiệp tư nhân cũng như của các cơ quan công quyền khi cấp phép,
xử lý các vấn đề luật pháp và thể chế phát sinh trong hoạt động của doanh
nghiệp. Sự thiếu minh bạch của khuôn khổ luật pháp và các thể chế cùng với
tâm lý chưa tin tưởng của các cơ quan quản lý nhà nước đối với một bộ phận
DNVN là nguyên nhân chủ yếu làm tăng các cuộc kiểm tra và kéo dài thời
gian xử lý công việc.
Như vậy, một bộ phận cán bộ công chức ở nước ta vẫn chưa thể hiện tốt
vai trò của mình trong mối quan hệ với tầng lớp doanh nhân nhằm góp phần
thiết lập một môi trường kinh doanh công bằng. Thực tế cho thấy, trong nhiều
88
vụ việc tranh chấp thương mại, không ít doanh nghiệp, doanh nhân không đưa
đến giải quyết ở các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương. Lý do mà các
doanh nghiệp đưa ra là thủ tục rườm rà, tốn nhiều thời gian, hoặc vì họ không
tin tưởng vào sự công bằng và tính hiệu lực các phán quyết của cơ quan chức
năng này. Do vậy, nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan chức
năng địa phương sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp, doanh nhân có được một
môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.
Sự chậm trễ trong việc xử lý, giải quyết thủ tục hành chính của một bộ
phận đội ngũ cán bộ công chức hiện nay xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Ngoài năng lực yếu kém của một bộ phận cán bộ công chức, là những hạn chế
xuất phát từ cộng đồng doanh nghiệp, DNVN. Khó có thể phủ nhận rằng, thời
gian qua ở nước ta, tồn tại một bộ phận DNVN đã ngầm liên kết với các quan
chức nhà nước nhằm trục lợi. Không ít hợp đồng cũng đã được chuyển cho
các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu thông qua mối quan hệ thân thiết. Một số ít
cán bộ công chức "đỡ đầu" cho doanh nghiệp, doanh nhân, giúp doanh nhân
thực hiện những hành vi phi pháp như gian lận thương mại, trốn thuế, cạnh
tranh không lành mạnh, chi phối, lũng đoạn đời sống kinh tế- xã hội... Chúng
ta ủng hộ sự phát triển lành mạnh của các doanh nghiệp tư nhân thông qua sự
điều hành của các chủ thể quản lý. Nhưng đó phải là sự phát triển theo đúng
quy luật cạnh tranh của thị trường chứ không phải theo mô hình của chủ nghĩa
tư bản thân hữu.
Hành lang pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân cũng như tầng lớp
DNVN đang ngày càng hoàn thiện, nhưng một số cán bộ công chức có vai trò
thực thi ở cấp địa phương không thực hiện đúng, thiếu trách nhiệm trong mối
quan hệ với doanh nghiệp, doanh nhân. Trong khi chế tài xử phạt doanh
nghiệp thì rõ ràng, nhưng lại thiếu chế tài phù hợp để xử lý cán bộ công quyền
89
sai phạm trong quản lý thực thi pháp luật cũng như trong mối quan hệ với
doanh nghiệp, doanh nhân.
Ở nước ta, nhiều thói quen từ thời kỳ bao cấp đã hằn sâu trong tâm trí
không ít người, trong đó có quan niệm về một nền kinh tế được coi như một
phần của hệ thống hành chính công. Trong hệ thống đó, thành viên của doanh
nghiệp, từ người quản lý, điều hành cho đến công nhân trực tiếp lao động sản
xuất, được đối xử theo quy chế công chức. Cung cách chủ quản hành chính
theo kiểu thượng cấp, cửa quyền đối với doanh nghiệp vẫn được duy trì đến
nay và đang ảnh hưởng đến cả khu vực kinh tế tư nhân. Trong điều kiện một
nền kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò vừa là chủ thể quản lý, vừa là
chủ thể đầu tư, thì rõ ràng, hệ thống quản lý đó tạo điều kiện cho sự khai thác
lợi ích từ những mối quan hệ gắn bó giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước và
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mối quan hệ giữa tầng lớp DNVN với đội ngũ cán bộ công chức ở
nước ta là mối quan hệ hai chiều, tác động qua lại, hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
Không thể phủ nhận những bất cập trong mối quan hệ này, và nguyên nhân
xuất phát từ nhiều phía. Tuy vậy, cùng với sự nỗ lực không ngừng để nâng
cao trình độ chuyên môn, cung cách làm việc của các đối tượng liên kết, mối
quan hệ này sẽ được cải thiện, trở thành một trong những động lực cơ bản cho
sự tồn tại và phát triển của các lực lượng xã hội trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.5 Vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong mối quan hệ nội bộ
Như trên đã đề cập, đề tài chủ yếu bàn đến tầng lớp doanh nhân trong
khu vực kinh tế tư nhân và tạm dùng từ “DNVN” để chỉ đối tượng này. Như
vậy, khái niệm DNVN là theo nghĩa hẹp, còn theo nghĩa rộng, còn có bộ phận
doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước.
90
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, sự phân công lao động xã hội đã
dẫn đến thực trạng, các thành phần kinh tế cũng như các hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh và chủ thể của nó không tồn tại và phát triển biệt lập mà có
mối quan hệ qua lại, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Mỗi thành phần kinh tế dựa
vào một hình thức sản xuất nhất định, có tính độc lập tương đối, nhưng lại có
thể liên kết lại với nhau để hình thành các hình thức kinh tế hỗn hợp. Vị trí,
vai trò của mỗi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân tùy thuộc một
phần vào năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ doanh nhân cũng như hiệu
quả sản xuất kinh doanh và sự đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế- xã
hội.
Thực tiễn sau hơn 20 năm đổi mới, đặc biệt là từ năm 1991 đến nay, sự
phát triển của thành phần kinh tế tư nhân cũng như tầng lớp DNVN đã và
đang tạo ra sự biến đổi về cơ cấu sở hữu ở nước ta, từ một nền kinh tế chỉ có
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thành một nên kinh tế đa sở hữu, tạo điều
kiện để chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, sự tác động giữa chủ thể của các
thành phần kinh tế ngày càng diễn ra đa dạng và phức tạp.
Vai trò của bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân với bộ
phận doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước biểu hiện mối quan hệ giữa
hình thức sở hữu tư nhân và hình thức sở hữu công.
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của bộ phận doanh nhân thuộc khu
vực kinh tế tư nhân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang
xóa bỏ dần tình trạng độc quyền của khu vực kinh tế nhà nước, góp phần làm
cho quá trình phân công lao động xã hội diễn ra mạnh mẽ hơn, thị trường tăng
tính cạnh tranh và đào thải, nền kinh tế quốc dân trở nên sống động, thúc đẩy
bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước biến đổi theo chiều
hướng tích cực cũng như phải tự đổi mới một cách toàn diện để thích ứng với
91
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Bên cạnh đó, bộ phận
doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước cũng có vai trò không nhỏ tác
động đến sự tồn tại và phát triển của bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh
tế tư nhân: định hướng, khơi dậy và phát huy các nguồn lực của khu vực kinh
tế tư nhân, góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững.
Sự hợp tác giữa các bộ phận doanh nhân trong các khu vực kinh tế ở
Việt Nam đang diễn ra theo xu hướng tích cực. “Sự có mặt ngày càng nhiều
và hoạt động có hiệu quả của khu vực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực
mà pháp luật không cấm đã tạo một áp lực bắt buộc các doanh nghiệp nhà
nước phải vươn lên để tự đổi mới một cách toàn diện cả về tổ chức, quản lý
và con người để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Thực tế này “không những không làm cho doanh nghiệp
nhà nước mất đi vai trò, vị trí của mình, mà còn mạnh lên trên nhiều mặt” [99,
118-119].
Thời gian qua ở nước ta, nơi nào Nhà nước xây dựng nhà máy chế biến
nông, lâm, thủy sản thì nơi đó, kinh tế tư nhân được mở rộng và phát triển,
hình thành các vùng sản xuất, cung ứng nguyên liệu nông nghiệp cho các
doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh
tế nhà nước cũng liên kết, liên doanh với bộ phận doanh nhân trong khu vực
kinh tế tư nhân để sản xuất những chủng loại hàng hóa có quy mô lớn. Chủ
thể trong khu vực kinh tế nhà nước còn bán cổ phần cho các chủ thể trong khu
vực kinh tế tư nhân để hình thành các mô hình doanh nghiệp liên doanh, trong
đó, nhà nước nắm vai trò chi phối. Đây là một trong những điều kiện quan
trọng đưa kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh
nghiệp nhà nước có thể kết nạp các chủ thể trong khu vực kinh tế tư nhân làm
thành viên, làm công ty con trong công ty mẹ hay làm "vệ tinh" cho doanh
nghiệp nhà nước để cùng sản xuất kinh doanh một ngành hay một sản phẩm,
92
thực hiện sự phân công lao động theo hướng xã hội hóa ngày càng chuyên
sâu, phát huy được lợi thế so sánh của từng loại doanh nghiệp...
Cho đến nay, bộ phận doanh nhân thuộc khu vực kinh tế tư nhân vẫn
còn mặc cảm, tự ti trong mối quan hệ với bộ phận doanh nhân trong khu
vực nhà nước. Trong nội bộ tầng lớp doanh nhân còn có sự phân biệt, chia
tách. Mặc dù, về mặt số lượng, so với bộ phận doanh nhân trong khu vực
kinh tế nhà nước, thì bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế tư nhân
nhiều hơn về số lượng, nhưng không vì thế mà khu vực kinh tế nhà nước
cũng như bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế này mất đi vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân. Vai trò của bộ phận doanh nhân trong khu
vực kinh tế nhà nước không chỉ đơn thuần dựa vào sức mạnh của các doanh
nghiệp nhà nước- những doanh nghiệp mà trong đó, nhà nước nắm vai trò
chi phối về mặt sở hữu, mà còn dựa vào sức mạnh của kiến trúc thượng tầng
được xác lập trên nền tảng kinh tế đó. Thực tế này đã từng được V.I.Lênin
chỉ ra: chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, có vai trò định hướng cho
sự vận hành của kinh tế. Tính hiệu quả của hoạt động kinh tế phụ thuộc
nhiều vào tính hợp lý của chính sách kinh tế.
Bài học về sự khủng hoảng, suy thoái kinh tế thế giới hiện nay (bắt
nguồn từ sự khủng hoảng tài chính, nhà đất ở Mĩ) đã và đang chứng tỏ vai trò
không thể thiếu của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Với
mật độ tồn tại thích hợp và có chính sách điều hành kinh tế vĩ mô hợp lý, khu
vực kinh tế nhà nước cũng như chủ thể điều hành nó sẽ trở thành tiền đề cơ
bản cho sự phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia, trái lại, sẽ cản trở sự
phát triển đó. Khi vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mất đi, vai trò của khu
vực kinh tế tư nhân chiếm vị trí độc tôn trong nền kinh tế, thì sớm hay muộn,
khủng hoảng kinh tế sẽ xảy ra. Điều này đã được C.Mác dự đoán trong tác
phẩm bất hủ của ông: "Tư bản": Khi các nhà tư bản trao đổi tiền để lấy tiền,
93
chủ nghĩa tư bản sẽ thoái trào. Theo C.Mác, cách tốt nhất để can thiệp và làm
giảm hậu quả của những cuộc khủng hoảng về kinh tế và tài chính là nhà
nước phải ra tay cứu nền kinh tế, bởi những hoạt động gần như "quốc hữu
hóa" nền kinh tế vốn do tư nhân thống trị.
Củng cố, xây dựng khu vực kinh tế nhà nước vững mạnh trong những
lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế quốc dân một mặt phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước- quản lý kinh tế vĩ mô, mặt khác, tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thông
qua các chủ thể của nó. "Khi chưa đạt tới điểm "giao hòa" giữa quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất, thì vai trò lịch sử của kinh tế tư nhân chưa kết
thúc. Kinh tế tư nhân phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ là
nền tảng vững chắc để kinh tế nhà nước phát huy đầy đủ vai trò chủ đạo trong
quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam" [99, 145-146].
Việc phát triển của bộ phận doanh nhân thuộc khu vực kinh tế tư nhân
tạo điều kiện để đưa nền kinh tế nước ta, trong đó có các loại hình kinh tế
khác nhau cũng như chủ thể của nó mở rộng quan hệ đối ngoại, hỗ trợ, thâm
nhập vào nhau, cùng tham gia hội nhập. Trong xu thế toàn cầu hóa và hợp tác
kinh tế quốc tế, một trong những điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát
triển của bộ phận doanh nhân thuộc khu vực kinh tế tư nhân cũng như cho sự
tồn tại của cộng đồng DNVN là phải liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở
cùng có lợi. Đây là cơ hội và cũng là thách thức lớn cho cộng đồng DNVN
trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường trong nước và quốc
tế.
Nhìn chung, quan hệ của tầng lớp DNVN với các giai tầng trong kết
cấu xã hội giai cấp là quan hệ đa dạng phong phú. Sự phân biệt các mối quan
hệ và sự chi phối giữa các giai tầng xã hội với nhau cũng mang ý nghĩa tương
94
đối. Xét cho cùng, vị trí, vai trò của tầng lớp DNVN trong mối quan hệ với
các giai cấp, tầng lớp của kết cấu xã hội- giai cấp được quy định bởi sự vận
động, phát triển của nền sản xuất xã hội. Trong mối quan hệ, phạm vi xem xét
này, doanh nhân có thể có vai trò chi phối, nhưng trong mối quan hệ, phạm vi
xem xét khác, các giai tầng xã hội khác lại nắm vai trò đó. Nhìn một cách đại
thể, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các giai tầng xã
hội phải tồn tại nương tựa vào nhau, giai tầng xã hội này không thể tồn tại và
phát triển ổn định nếu không có sự liên kết với các giai tầng xã hội khác.
2.2 Xu hƣớng biến đổi của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu
xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới
2.2.1 Xu hướng phát triển về số lượng, chất lượng và biến đổi về cơ cấu của
tầng lớp doanh nhân Việt Nam
Đảng ta đã chủ trương: “Thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển
doanh nghiệp. Xây dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số
lượng, có sức cạnh tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một
số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo
môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường;
bồi dưỡng, đào tạo và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt”
[32, 84]. Chủ trương này là một cơ sở quan trọng để dự báo về tầng lớp
DNVN. Tầng lớp DNVN sẽ tiếp tục phát triển nhanh về số lượng và chất
lượng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của bộ phận doanh nhân trong khu vực
tư nhân sẽ ngày càng phát triển nhanh cùng với sự hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự tăng lên nhanh chóng
của bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế này, các loại hình doanh
nghiệp phổ biến trong thời gian tới sẽ là công ty cổ phần tư nhân, công ty
trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên, công ty mẹ- con, tập đoàn kinh
95
tế... Trong bối cảnh mới, nhu cầu thành lập các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp
hội ngành nghề, câu lạc bộ doanh nhân… sẽ ngày càng sâu rộng.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, trong từng thời điểm lịch sử cụ
thể, số lượng DNVN có thể tăng lên hay giảm đi, nhưng về cơ bản, xu hướng
tăng vẫn là chủ đạo. Để đạt được mục tiêu có 500.000 doanh nghiệp thành lập
và hoạt động hiệu quả vào năm 2010, ngoài việc cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh, khuyến khích thành lập doanh nghiệp… thì chuyển đổi các hộ
kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp là một giải pháp cấp thiết. Báo cáo
Chính trị tại Đại hội X đã nêu lên chủ trương: “Phát triển mạnh các hộ kinh
doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân” [18, 86]. Từ nay đến
năm 2010, cùng với việc hoàn thiện cơ chế chuyển đổi, xu hướng các hộ kinh
doanh cá thể chuyển thành doanh nghiệp diễn ra rất mạnh mẽ. Đến năm 2010,
Việt Nam sẽ hoàn thành chỉ tiêu đặt ra về số lượng doanh nghiệp thành lập và
đi vào hoạt động.
Tầng lớp DNVN sẽ tiếp tục phát triển về số lượng, nâng cao về chất
lượng và ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế
quốc dân như một thành viên tích cực, sáng tạo trong kết cấu xã hội- giai cấp
cũng như trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tuy vậy, có nhiều ý kiến đặt ra
là: thời gian tới, tầng lớp DNVN có thể phát triển thành một giai cấp xã hội
hay không? Với những tiêu chí của một giai cấp như trong định nghĩa giai cấp
của V.I.Lênin (đã nêu ở phần trên), có thể khẳng định rằng, tầng lớp DNVN
chưa thể trở thành giai cấp. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước
ta không có quan hệ sản xuất độc nhất, mà có nhiều quan hệ sản xuất khác
nhau tồn tại đan xen nhau, ở đó, DNVN tồn tại trong hầu hết các phương thức
sản xuất, họ khó có thể thống nhất với nhau để tạo thành giai cấp. Mặt khác,
sự sở hữu tư liệu sản xuất xã hội, quyền lực chính trị cũng như các quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa trong quá trình sản xuất (từ khâu sở hữu đến khâu
96
phân phối sản phẩm lao động) của khu vực kinh tế tư nhân cũng như của tầng
lớp DNVN đều bị giới hạn và điều tiết bởi những quan hệ kinh tế định hướng
xã hội chủ nghĩa. Thực tế lịch sử cho thấy, chỉ cần có sự nới lỏng hay hạn chế
về mặt cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến hoạt động sản
xuất kinh doanh (chẳng hạn như điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện
thành lập doanh nghiệp…) là có thể dẫn tới sự tăng lên hay giảm đi một cách
nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp, doanh nhân trong nền kinh tế quốc
dân.
Lịch sử đã và đang chỉ ra rằng, sự tác động của Đảng và Nhà nước ta
vào tầng lớp DNVN bằng các cơ chế, chủ trương, chính sách thời gian qua, về
cơ bản là phù hợp, không những tuân thủ quy luật khách qụan, mà còn đang
góp phần hạn chế những "khuyết tật" trong quá trình phát triển tự phát của
khu vực kinh tế này cũng như chủ thể của nó mà nhiều quốc gia trên thế giới
đã trải qua.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định rằng, nếu Đảng ta giữ vững
lập trường tư tưởng, Nhà nước quản lý sáng tạo, có hiệu quả trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tầng lớp
DNVN không thể phát triển thành giai cấp tư sản như giai cấp tư sản ở các
nước tư bản.
Khi xem xét cách phân định quyền sở hữu tư tư liệu sản xuất của một
số quốc gia, chẳng hạn như Trung Quốc, đã không đặt ra tiêu chí về kinh tế tư
bản và giai cấp (tầng lớp) tư sản, mà chỉ phân định các quan hệ sở hữu theo
khu vực kinh tế nhằm đảm bảo sự công bằng cho các nhà đầu tư. Bản thân tên
gọi không quan trọng, song dùng cùng khái niệm sẽ làm cho vấn đề truyền
thông hiệu quả hơn rất nhiều, và xét từ khía cạnh đó vấn đề tên gọi của khái
niệm cũng rất quan trọng, nhất là trong thời hội nhập toàn cầu. Và, "cho dù
kinh tế tư bản chủ nghĩa tất yếu có cơ sở cho sự hình thành hệ tư tưởng và văn
97
hoá tư sản, nhưng tư tưởng tư sản đó có tồn tại cũng không thể phát triển tự
do mà phải cải tạo, phục tùng hệ tư tưởng vô sản” [107, 237]. Trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, có hay không có sự chuyển biến của tầng lớp DNVN
thành giai cấp hoặc tầng lớp tư sản Việt Nam là vấn đề cần được tiếp tục
nghiên cứu.
Sự bóc lột giá trị thặng dư có thể được tiến hành bằng nhiều phương
pháp, như tăng thời gian lao động, tăng cường độ lao động… Đại bộ phận
DNVN là nhân dân lao động, trong đó không ít là đảng viên, trí thức, được
rèn luyện và thử thách qua các cuộc đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo,
được hoạt động lao động trong môi trường pháp luật ngày càng hoàn thiện, thì
nguy cơ chệch hướng trong tư tưởng cũng như hành động của cả một tầng lớp
xã hội là khó xảy ra.
Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra cho tầng lớp
DNVN những nhiệm vụ to lớn, đặc biệt là việc nâng cao trình độ kiến thức
cũng như năng lực quản trị. Trong thời gian tới, cơ cấu của tầng lớp DNVN sẽ
có sự biến động rõ rệt, số lượng trí thức- doanh nhân sẽ tăng lên. DNVN sẽ
ngày càng được đào tạo bài bản để trở thành những nhà quản trị chuyên
nghiệp, tự tin trong hợp tác và cạnh tranh với cộng đồng doanh nhân ở các
nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Cùng với chính sách phù hợp của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông dân và nông thôn, bộ phận doanh nhân trong khu vực nông
nghiệp sẽ tăng lên về số lượng và chất lượng. Hiện nay, trước tác động của
suy thoái kinh tế toàn cầu, để giúp các doanh nghiệp, doanh nhân thay đổi
chiến lược kinh doanh, tạo động lực to lớn gắn kết chặt chẽ hơn hai lực lượng
xã hội: nông dân và doanh nhân, các cơ quan chức năng đã xây dựng chương
trình “Hướng về nông thôn”, trong đó, gói kích cầu trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn đã và đang phát huy tác dụng tích cực. Đồng thời, bổ sung
98
các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp, khu vực nông thôn (ưu đãi thuế, vay vốn kích cầu, tạo điều kiện về
mặt bằng sản xuất kinh doanh, thủ tục hành chính…)
Với nhiều chủ trương và chính sách thiết thực khuyến khích sự hình
thành và phát triển của các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, các chủ hộ
kinh doanh cá thể ở nước ta đang và sẽ có thêm nhiều điều kiện để chuyển
hoá thành các doanh nghiệp, và bản thân họ sẽ trở thành những doanh nhân.
Trong thời gian tới, cơ cấu tầng lớp DNVN ngày càng phù hợp, thể
hiện tính chuyên nghiệp, tiếp cận dần với trình độ của cộng đồng doanh nhân
ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Song song với chủ
trương của Đảng ta về việc tăng cường lãnh đạo cộng đồng doanh nghiệp,
doanh nhân, nhiệm vụ kinh tế và nhiệm vụ chính trị của tầng lớp DNVN sẽ
ngày càng được thống nhất. Tầng lớp doanh nhân ngày càng tham gia tích cực
và thiết thực hơn vào các hoạt động chính trị, xã hội. Trách nhiệm xã hội của
DNVN ngày càng được nâng cao.
Phát biểu tại lễ tôn vinh sự học của doanh nhân, bà Gaynor Lewis,
Giám đốc điều hành Học viện Lãnh đạo và Quản lý Anh Quốc (ILM), một tổ
chức giáo dục có lịch sử lâu đời và uy tín toàn cầu trong lĩnh vực đào tạo và
phát triển đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp đã tin tưởng rằng, với tri thức thế
giới và giá trị thực học, sẽ có một ngày DNVN sẽ vươn lên ngang tầm doanh
nhân thế giới.
2.2.2 Xu hướng liên kết của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã
hội- giai cấp
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, hội nhập ngày càng sâu rộng hơn
vào nền kinh tế toàn cầu là tham gia vào môi trường cạnh tranh và đào thải
ngày càng mạnh mẽ. Trong bối cảnh này, tầng lớp DNVN phải nhanh chóng
hoàn thiện nhân cách, đoàn kết, đồng lòng thì mới có thể chủ động và thành
99
công trước thách thức mới. Để vượt qua tình trạng nhỏ lẻ, manh mún, cạnh
tranh nội bộ thiếu lành mạnh, hướng đến nền kinh tế tri thức, DNVN phải liên
kết để tạo thành sức mạnh hợp tác. Đây là yêu cầu tất yếu và đang là đòi hỏi
cấp thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đạo lý kinh doanh buôn bán thể hiện tinh thần tập thể, tính cấu kết
cộng đồng ở nước ta đã được thể hiện bằng những câu châm ngôn: “Buôn có
bạn, bán có phường”, hay “Đi buôn nhớ phường, đi đường nhớ lối”. Phường
là một đơn vị kinh tế- xã hội xuất hiện ở Việt Nam từ thời Trần và tồn tại đến
trước cách mạng tháng Tám năm 1945, ở phía Nam, kiểu tổ chức xã hội- nghề
nghiệp này còn tồn tại đến giữa năm 1975. Phường buôn ra đời trên cơ sở hợp
tác tự nguyện, bình đẳng về lợi ích nghề nghiệp, có sự tương trợ giúp đỡ lẫn
nhau giữa các thành viên. Ngày nay, các phường buôn được thay thế bằng các
câu lạc bộ, các hội hay lớn hơn là các hiệp hội… Kiểu tổ chức này đang thu
hút sự tham gia của đông đảo doanh nghiệp, doanh nhân và ngày càng khẳng
định vai trò, lợi ích của nó trong đời sống hiện đại.
Đạo lý buôn bán của người xưa còn được thể hiện qua những triết lý về
của cải và sự giàu có. Dân gian khẳng định lợi ích nhãn tiền của công việc
buôn bán trong đời sống: “Phi thương bất phú”. Nhưng để có phú quý bền lâu
ông cha ta không quan niệm “thương” với nghĩa là buôn bán dưới mọi hình
thức để kiếm lợi nhuận. Sự giàu có do gian dối, lọc lừa là không bền: “Của
phù vân không chân hay chạy”, “Của phù vân sớm họp tối tan”, hay “Của phù
vân vần xuống bể”. Từ đó, ca dao người Việt đã đúc kết nên một bài học sâu
sắc về đạo lý buôn bán mà ý nghĩa của nó vẫn còn rất thiết thực ở hiện tại:
“Tin nhau buôn bán cùng nhau
Thiệt hơn hơn thiệt trước sau như lời
Hay gì lừa đảo kiếm lời
Một nhà ăn uống tội Trời riêng mang
100
Theo chi những thói gian tham
Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau
Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền”.
Một phương diện khác trong quan niệm về đạo lý buôn bán của người
xưa là sự kịch liệt phê phán mặt trái của nghề buôn, bao gồm: thói hám lợi, sự
vô tình vô nghĩa: “Càng quen càng lèn cho đau”, “Được mối hàng mẹ chẳng
nhường cho con”, “Được mối hàng chị chẳng nhường cho em”; sự coi đồng
tiền là trên hết, quan hệ trao đổi lạnh lùng trên cơ sở tiền bạc: “Tiền trao cháo
múc”, “Tiền trao ra, gà bắt lấy”, “Trâu trao chạc, bạc trao tay”; hay sự gian
giảo, lọc lừa táng tận lương tâm: “Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu”, “Hàng có lá
mặt, lá trái”…Tuy nhiên, đây không phải là thái độ phê để diệt mà là sự phê
phán trên tinh thần xây dựng, góp ý để sửa đổi.
Những năm đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua cho thấy, các
quan niệm của người xưa về đạo lý buôn bán của ông cha ta vẫn còn nguyên
giá trị. Không ít nhà doanh nghiệp lấy những đạo lý này làm tôn chỉ cho hoạt
động kinh doanh của mình. Thực tế đã minh chứng cho họ bằng những thành
công, trở thành các doanh nghiệp tầm cỡ như: Việt Á, Nam Cường, Trung
Nguyên... Không ít doanh nhân đang từng ngày, từng giờ vượt mọi khó khăn,
âm thầm kế thừa và phát triển các giá trị văn hóa tích cực mà các thế hệ trước
đã để lại, góp phần tạo dựng một văn hóa riêng- Văn hóa doanh nhân. Bên
cạnh đó, không ít doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chụp giật, lừa đảo nhằm
thu lợi nhuận nhanh và nhiều nhất có thể. Song, một phần lớn trong số những
doanh nhân này đã và đang phải trả giá bằng việc bị loại khỏi thương trường...
Hiện nay, DNVN đang “buôn bán” trong một “phường lớn” có hơn 150
quốc gia- đối tác cũng như hàng triệu doanh nhân khắp năm châu, trong đó có
những doanh nghiệp, doanh nhân tầm cỡ quốc tế với thương hiệu- văn hóa
101
doanh nghiệp nổi tiếng. Trong bối cảnh hội nhập đó, việc trông mong vào sự
độc lập, tự chủ, thắng lợi của mỗi doanh nghiệp, DNVN trên thương trường
ngày càng trở nên khó khăn. Hình thức tồn tại và phát triển hợp lý nhất hiện
nay của DNVN là đoàn kết lại thành một khối thống nhất. Thương trường
cũng như “chiến trường”, cần biết tổng hợp và phát huy sức mạnh tập thể. Chỉ
khi nghệ thuật "chiến tranh nhân dân" của nhân dân ta trong công cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm được cải biến thành chiến lược "kinh doanh nhân
dân" thì tầng lớp doanh nhân của chúng ta mới có thể tự tin cạnh tranh và
giành thắng lợi trên thương trường cũng như đưa ra chính kiến của mình trong
các diễn đàn hợp tác quốc tế.
Thực tế cho thấy, không ít doanh nghiệp, DNVN vẫn chú ý đến việc
cạnh tranh với nhau hơn là hợp tác lại để bảo vệ nhau, cùng phát triển vững
vàng trước các đối tác lớn trên thế giới. Khi đánh giá sự thành công của các
nước Đông á như Nhật Bản, Nam Hàn, Trung Quốc... Chúng ta đều có thể
thấy rõ nét sự đoàn kết, thống nhất và luôn biết hun đúc tinh thần kinh doanh
của đội ngũ doanh nhân. Tại Mĩ, các doanh nghiệp có quy mô lớn và nhỏ
không phải là những mảng khu vực riêng biệt trong nền kinh tế, trái lại, họ
mua sản phẩm của nhau và tranh thủ sự đổi mới từ mỗi bên để tạo ra tăng
trưởng kinh tế. Tại đây, sự duy trì, tồn tại và phát triển mạnh mẽ của doanh
nhân Mĩ đòi hỏi mỗi doanh nhân không chỉ đơn thuần tránh cạm bẫy của đồng
tiền mà còn phải có sức mạnh vươn tới và có được vị thế như của các tập
đoàn kinh tế lớn... Sự đoàn kết và thống nhất của tầng lớp DNVN hiện nay
đang trở thành mối quan tâm lớn của toàn xã hội.
Nói về tính tất yếu phải liên kết doanh nghiệp, DNVN trong quá trình
phát triển kinh tế- xã hội, Bộ Thương mại định hướng: “Tùy theo từng giai
đoạn phát triển của doanh nghiệp mà phương pháp, chiến lược tích lũy nguồn
lực kinh doanh cũng khác. Khi doanh nghiệp còn non trẻ, bản lĩnh và năng lực
102
của cá nhân người lãnh đạo công ty rất quan trọng... sau khi doanh nghiệp
phát triển một bước lớn sẽ có nhiều cơ hội đẩy nhanh quá trình tích lũy các
nguồn lực kinh doanh. Ngoài việc đầu tư cho nguồn nhân lực, đầu tư cho
nghiên cứu và triển khai, chẳng hạn, doanh nghiệp có thể chọn các hình thức
liên kết (linkage) hàng dọc hoặc hàng ngang với các công ty đa quốc gia để có
thể làm cho quá trình tích lũy tiến nhanh. Nói chung, để liên tục tăng cường
năng lực kinh doanh và sử dụng hiệu quả năng lực đó, nhà kinh doanh, người
lãnh đạo công ty phải có tinh thần doanh nghiệp” [13, 27].
Ngay cả trong tư duy, khi nghiên cứu một sự vật hiện tượng, ta thường
tách sự vật hiện tượng đó ra thành nhiều bộ phận để xem xét từng bộ phận
(phân tích). Sau khi xem xét các bộ phận cấu thành sự vật hiện tượng, để chỉ
ra bản chất của sự vật hiện tượng, tư duy phải tổng hợp các thông tin đã được
phân tích lại. Trong tầng lớp DNVN hiện nay, hoạt động độc lập, riêng rẽ vẫn
đang là xu thế phổ biến. Đây là biểu hiện của xu thế phân tích (sự hoạt động
độc lập, riêng rẽ của những cá thể riêng biệt); nhưng những cá thể đó phải
luôn có xu hướng liên kết (tổng hợp) để khẳng định sức mạnh cũng như sự
tồn tại hợp quy luật của mình.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang giai đoạn mới, hội nhập kinh tế
quốc tế đi vào chiều sâu, thì tầng lớp DNVN đang đứng trước yêu cầu mới là
phải phát huy hơn nữa vai trò của mình, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, mở rộng kinh doanh trên nhiều lĩnh vực,
nhất là lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh,
tăng cường liên kết, liên doanh để tạo thêm sức mạnh mới... Mỗi doanh
nghiệp, doanh nhân cũng như toàn thể tầng lớp DNVN phải trang bị đủ bản
lĩnh và trí tuệ, không những để đứng vững trên thị trường trong nước mà còn
phải hướng ra thị trường khu vực và thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế thành
công.
103
Về cơ bản, thời gian tới, cùng với sự hoàn thiện cơ chế, chính sách liên
quan tới việc liên kết, liên doanh, sát nhập của doanh nghiệp, xu hướng liên
kết, triển vọng hợp tác giữa các doanh nghiệp, doanh nhân cũng như các
thành phần kinh tế ở nước ta sẽ diễn ra ngày càng chặt chẽ, đa dạng và hoàn
thiện hơn với nhiều hình thức, quy mô và thời gian liên kết khác nhau, như
liên kết ngang, liên kết dọc, liên kết chiến lược (lâu dài) và liên kết thời vụ
(hợp đồng liên kết)... Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty sẽ xuất hiện ngày
càng nhiều; DNVN cũng ý thức rõ hơn về lợi ích cũng như tính tất yếu của sự
liên kết với nhau trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Liên kết sẽ tạo ra sức mạnh, nguyên tắc này không chỉ đúng với mọi
giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp ở mọi thời điểm lịch sử khác nhau của
dân tộc, mà còn phù hợp với các doanh nghiệp, doanh nhân trong trào lưu
mua bán và sát nhập doanh nghiệp thời kỳ đổi mới. Sự tập hợp, liên kết của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho phép họ mạnh hơn trong các mối quan hệ
với khách hàng cũng như đối tác. Ban đầu, sự liên kết, liên minh giữa các
doanh nghiệp là nhằm mục đích phòng vệ để rồi sau đó có thể cùng nhau đi
vào những thị trường khu vực và thế giới- nơi mà nếu không có sự liên kết, họ
sẽ khó thâm nhập.
Ngoài ra, sự liên kết doanh nghiệp, doanh nhân còn nhằm để đáp ứng
những đơn hàng lớn từ phía đối tác trong và ngoài nước. Thời gian qua,
không ít doanh nghiệp ở nước ta đã thất bại trong đấu thầu các hợp đồng lớn
với đối tác nước ngoài, bởi quy mô sản xuất của doanh nghiệp trong nước quá
nhỏ, không đáp ứng được đơn đặt hàng lớn (tiêu biểu là các doanh nghiệp
thuộc lĩnh vực chế biến thủy sản, da dày, gỗ, công nghiệp chính xác…).
Quan hệ hợp tác trong nội bộ tầng lớp DNVN ngày càng chặt chẽ, biểu
hiện sinh động, góp phần phát triển kinh tế- xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
104
hoá, hiện đại hoá đất nước, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của công
cuộc đổi mới.
Dù sự hợp tác diễn ra dưới hình thức và cấp độ nào, thì các doanh
nghiệp, DNVN cũng đồng thời có sự phân hoá mạnh mẽ thành các nhóm có
quy mô, chất lượng và hiệu quả kinh doanh khác nhau. Về tổng thể, sẽ hình
thành một tầng lớp doanh nhân với sự phân hoá thành hai bộ phận rõ nét hơn,
một bộ phận là số doanh nghiệp, doanh nhân lớn với tiềm lực tài chính mạnh,
năng lực khoa học công nghệ cao, kỹ năng kinh doanh và phản ứng thị trường
tốt, hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng; bộ phận còn lại bao gồm những
doanh nhân có tiềm lực vốn nhỏ, kinh nghiệm ít, hoạt động chủ yếu ở một
phạm vi nhỏ trong nước.
Như vậy, bên cạnh sự phát triển của giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức là sự phát triển ngày càng vững mạnh của tầng lớp
DNVN. Sự liên kết trong nội bộ tầng lớp doanh nhân ngày càng được củng cố
và phát triển. Đây là xu thế tất yếu khách quan. Mục tiêu xây dựng tầng lớp
DNVN là phát triển mỗi doanh nhân trở thành một cá thể có chất lượng ngày
càng cao. Bước vào xu thế toàn cầu hóa, DNVN phải trang bị đầy đủ tri thức
cần thiết, có tầm nhìn xa và rộng thì mới có thể cạnh tranh hiệu quả với các
đối tác trên thế giới. Có học giả cho rằng, việc trao giải thưởng Sao đỏ, Sao
vàng đất Việt, Doanh nhân tiêu biểu... "chỉ là những động thái chính trị nhằm
khích lệ các doanh nhân". Theo chúng tôi, quan điểm này chưa hoàn toàn hợp
lý. Thực tế thì trong những năm gần đây, "những động thái chính trị" ít ỏi đó
cũng đã phản ánh tương đối chính xác năng lực kinh tế của tầng lớp DNVN.
TS Vũ Tiến Lộc- Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) đã từng nhận định: Con đường không hề bằng phẳng để có được
những con số ấn tượng, những giải thưởng vinh danh, tôn vinh đặc biệt...
giành cho lớp người đang được ghi nhận là chủ công của hội nhập- những
105
người lính thời bình- lực lượng xã hội đang nỗ lực phát huy được vai trò của
mình, liên kết, hợp tác ngày càng chặt chẽ, toàn diện, phấn đấu trở thành đồng
minh kinh tế năng động, sáng tạo và đáng tin cậy của Đảng trong sự nghiệp
xây dựng đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh.
2.2.3 Xu hướng quan hệ lợi ích của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết
cấu xã hội- giai cấp
Một trong những đòi hỏi của xã hội hiện đại là khả năng đáp ứng nhanh
chóng các nhu cầu mới nảy sinh. Sự thoả mãn nhu cầu, đối với chủ thể hành
động, là đạt được lợi ích. Vì vậy, lợi ích là cái đáp ứng nhu cầu và nó chỉ có
nghĩa là lợi ích khi được đặt trong quan hệ với nhu cầu. Ngoài mối quan hệ
đó, cái được coi là lợi ích không còn là lợi ích nữa. Xét về bản chất, lợi ích
chính là mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài chủ
thể với nhu cầu của chủ thể, còn về mặt nội dung, lợi ích là cái thoả mãn nhu
cầu, đáp ứng lại nhu cầu.
Trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, nhu cầu quyết định lợi ích.
Do đó, nó là cơ sở của lợi ích, còn lợi ích thì ngược lại, xuất phát từ nhu cầu,
dựa trên nhu cầu, là sự thể hiện của nhu cầu. Như vậy tính chất động lực của
nhu cầu được thực hiện không phải một cách trực tiếp mà gián tiếp thông qua
lợi ích, còn lợi ích là khâu trực tiếp hơn cả trong việc tạo nên động cơ tư
tưởng thúc đẩy con người hành động nhằm thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu ngày
càng lớn thì sự hấp dẫn của lợi ích đối với chủ thể càng lớn và do đó, động cơ
tư tưởng nảy sinh trên cơ sở của lợi ích này cũng càng thúc đẩy con người
hành động.
Quan hệ của doanh nhân với công nhân, nông dân và trí thức không chỉ
dựa vào sự hòa đồng về lòng yêu nước và tinh thần dân tộc mà còn có sự gắn
bó về lợi ích. Thêm vào đó, trong sự phát triển tự nhiên của đời sống xã hội,
106
có không ít công nhân, nông dân, trí thức trở thành doanh nhân và cũng có
những doanh nhân đồng thời là người trực tiếp sản xuất và có trình độ của trí
thức.
Trong quan hệ về lợi ích giữa doanh nhân và công nhân, mặt chủ yếu
không phải là sự đối kháng theo quan điểm đấu tranh giai cấp máy móc, mà là
sự hợp tác giữa người đầu tư vốn tạo việc làm và người có sức lao động cần
chỗ làm việc, hai bên dựa vào nhau và cùng có lợi, cùng làm giàu cho mình
và cho đất nước. Nhà nước ban hành Bộ Luật Lao động để điều hoà lợi ích
của cả hai phía, giải quyết mâu thuẫn nảy sinh, quan tâm bảo hộ quyền lợi của
người làm thuê, đồng thời có chính sách điều tiết thu nhập hợp lý để thực hiện
cống bằng xã hội nhưng không làm nản chí người đầu tư kinh doanh.
Khi doanh nhân thực hiện đúng các quy định của luật pháp, thì có thể
coi lợi nhuận kinh doanh còn lại sau khi nộp thuế là chính đáng, bao gồm thu
nhập từ hoạt động lao động kinh doanh và quản trị doanh nghiệp (là loại lao
động phức tạp, đòi hỏi cao về trí tuệ và tâm sức), từ lãi suất của đồng vốn và
có phần bù đắp cho những rủi ro trong kinh doanh (không phải mọi trường
hợp đầu tư kinh doanh đều có lãi). Lợi nhuận đó có tác dụng kích thích đầu tư
kinh doanh và là nguồn vốn mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm và của cải
cho xã hội. Quan điểm giáo điều, máy móc về đấu tranh giai cấp và xoá bỏ
bóc lột không phù hợp với cuộc sống và không có lợi cho việc thực hiện dân
giàu, nước mạnh, đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì lẽ đó, trong các đặc trưng chủ
yếu của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, Đại hội VII của
Đảng năm 1991 nêu: "con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất
công", đến Đại hội X năm 2006 đã bỏ đi hai chữ "bóc lột". Trên cơ sở ngày
nay, đất nước ngày càng phồn vinh, nhân dân ngày càng no ấm, thì ngày mai,
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, từ đó, bóc lột cũng sẽ không còn nữa.
107
Đối với nông dân, doanh nhân và các doanh nghiệp là người cung ứng
đầu vào (vật tư và vốn) cho sản xuất, người mua gom, chế biến và tiêu thụ
nông sản, giúp cho sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường trong cả nước và
thị trường ngoài nước. Sự liên kết nông dân với doanh nhân là yếu tố rất quan
trọng để phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, mở rộng ngành nghề ở nông
thôn, nâng cao đời sống nông dân. Thực tế đòi hỏi phải tăng cường và cải
thiện sự liên kết này để bảo đảm hài hoà lợi ích của các bên, khắc phục tình
trạng sản xuất và thu nhập của nông dân không ổn định, chịu thua thiệt.
Sự phát triển của kinh tế thị trường đặt doanh nhân và các doanh nghiệp vào
địa vị đối tác quan trọng trong việc đặt hàng và ứng dụng kết quả nghiên cứu
của các cơ sở khoa học và công nghệ, đồng thời nâng cao năng lực nghiên
cứu công nghệ của doanh nghiệp. Sự liên kết trí thức với doanh nhân vừa thúc
đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ gắn với thực tiễn vừa nâng cao trình
độ công nghệ và quản lý của doanh nghiệp.
Doanh nhân- chủ thể kinh tế luôn tìm kiếm lợi nhuận thông qua hoạt
động sản xuất kinh doanh. Còn lợi của người nông dân, người thợ là lợi trong
lao động tạo ra của cải vật chất; lợi mà trí thức tìm kiếm lại chủ yếu xuất phát
từ giá trị các sản phẩm tinh thần. Ngày nay, lợi nhuận được hiểu chủ yếu là
hiệu quả của vốn đầu tư. Doanh nhân chỉ có thể thu được nguồn lợi nhuận to
lớn và bền vững khi lợi ích cơ bản của người lao động được đảm bảo.
Thực tế đã chỉ ra rằng, tại những doanh nghiệp mà doanh nhân có
những biện pháp thích hợp trong mối quan hệ với công nhân… thì ở đó, công
nhân hăng say lao động, sáng tạo, gia tăng lượng giá trị hàng hóa- cơ sở quan
trọng của sự phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng
như tiềm lực kinh tế của doanh nhân. Trái lại, khi chủ doanh nghiệp chỉ (hay
quá) chú trọng đến lợi ích của bản thân mà không (hay chưa) đảm bảo lợi ích
chính đáng của công nhân, không hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người lao
108
động… thì mâu thuẫn giữa chủ và thợ sớm muộn sẽ xảy ra, ảnh hưởng tiêu
cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta, khi lợi ích trước mắt và lâu dài
của người nông dân chưa được bảo đảm một cách tương đối thì chưa thể nói
đến sự phát triển bền vững của doanh nhân trong khu vực đầy tiềm năng này.
Thời gian qua, bằng tư duy cục bộ cũng như kiểu hoạt động sản xuất kinh
doanh “chụp giật”… một bộ phận doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp đã kiếm được những khoản lợi nhuận không nhỏ trong mối quan hệ
với nông dân; nhưng xét về lâu dài, họ sẽ bị mất đi “sân sau” hay “hậu
phương” của doanh nghiệp. Lòng tin của người nông dân đối với một bộ phận
doanh nghiệp, doanh nhân bị giảm sút, quan hệ kinh tế giữa hai đối tượng này
bị gián đoạn. Khi bị mất đi đối tác chiến lược (nông dân), doanh nghiệp,
doanh nhân trong khu vực nông nghiệp sẽ khó đảm bảo sự tăng trưởng ổn
định. Thực tế cho thấy, khi doanh nhân có biện pháp đảm bảo quyền và lợi
ích chính đáng của nông dân ở những vùng nguyên liệu, thì doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp luôn được đảm bảo về số lượng và chất
lượng nguồn nguyên liệu đầu vào. Đây là cơ sở quan trọng của quá trình sản
xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa. Trái lại, không ít doanh
nghiệp, doanh nhân thường xuyên thiếu hụt nguồn nguyên liệu, dẫn đến việc
họ phải lo bù đắp, tồn kém thời gian, công sức, tiền của… ảnh hưởng đến chất
lượng, tiến độ sản xuất hàng hóa, đẩy cao giá thành sản phẩm, giảm tính cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường…
Những doanh nghiệp, doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực chế tạo máy
móc nông nghiệp, chế biến vật tư nông nghiệp, để tồn tại và phát triển mạnh
cũng như để tạo động lực cho sự liên kết của nông dân- với tư cách là đối
tượng mua vật tư, máy móc nông nghiệp, đã không ngừng đổi mới công nghệ
nhằm nâng cao năng suất lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
109
nông dân, thường xuyên gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của người
nông dân.
Về nguồn nhân lực, khi chưa có sự liên kết chặt chẽ với các trường đại
học, các viện nghiên cứu, cũng như với đội ngũ trí thức, doanh nghiệp sẽ
không đảm bảo nhu cầu tuyển dụng nhân sự chất lượng cao. Thêm vào đó, khi
đã có nguồn nhân lực chất lượng cao, nếu doanh nhân không có biện pháp
thích hợp trong công tác quản lý, sử dụng, không phân phối thỏa đáng… thì
hiện tượng “chảy máu chất xám” sẽ xảy ra. Nhân sự cấp cao sẽ bỏ sang những
cơ sở sản xuất kinh doanh có điều kiện phù hợp hơn… Trong những tình
huống này, nếu không có sự chuẩn bị trước về nhân sự thay thế, thì sự “nhảy
việc” ở một số vị trí nhân sự cốt yếu trong doanh nghiệp sẽ dẫn dến hậu quả
không nhỏ cho doanh nghiệp, doanh nhân.
Đứng ở một góc độ nhìn nhận, công nhân và trí thức có thể cùng hoạt
động lao động trong một môi trường doanh nghiệp, họ là đồng nghiệp của
nhau, đều là những người làm thuê cho doanh nhân. Trong doanh nghiệp,
nhìn chung trí thức là những người hoạt động lao đông trí óc ở các vị trí quan
trọng khác nhau. Quan hệ giữa người làm thuê với chủ doanh nghiệp là quan
hệ hai chiều, quan hệ này không chỉ được pháp luật bảo vệ mà bản thân chủ
doanh nghiệp và người lao động cũng phải cùng nhau xây dựng. Nhân sự có
là tài sản bền vững của doanh nghiệp hay không thì còn phụ thuộc vào mô
hình quản lý cũng như cách thức lãnh đạo của doanh nhân. Khi lợi ích những
người điều hành doanh nghiệp và lợi ích của những người trực tiếp lao động
sản xuất kinh doanh được đặt trong một quan hệ hài hòa về lợi ích, người lao
động sẽ được gắn kết hơn với cơ sở sản xuất kinh doanh.
Về lâu dài, thực hiện trách nhiệm xã hội là điều kiện không thể thiếu
giúp doanh nghiệp hình thành hệ thống quản lý lao động hiệu quả hơn. Khi
chủ doanh nghiệp quan tâm tới người lao động, thường xuyên chú trọng đào
110
tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho họ, thực hiện tốt các chế độ bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế và các phúc lợi xã hội… sẽ hạn chế tỷ lệ lao động nghỉ
việc, bỏ việc, giảm chi phí tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới, qua đó góp
phần nâng cao năng suất lao động, tạo lợi thế cho doanh nghiệp thu hút và giữ
được những người lao động có tay nghề cao...
Người Nhật quan niệm rất đúng rằng, doanh nghiệp hoạt động không
chỉ bởi mục tiêu kinh tế mà còn vì mục tiêu đạo đức. Mọi thành viên trong
doanh nghiệp phải liên kết với nhau vì mục đích chung. DNVN phải quan tâm
không chỉ đến lợi nhuận trước mắt mà còn phải quan tâm đến lợi ích lâu dài
của người lao động. Sự thống nhất giữa chủ doanh nghiệp và người lao động
trong doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tồn tại và phát
triển mạnh mẽ.
Trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, tầng lớp DNVN không thể tồn
tại và phát triển vững vàng nếu không gắn lợi ích của mình với lợi ích của các
giai tầng khác trong kết cấu xã hội- giai cấp. Trong điều kiện hiện nay ở nước
ta, lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội khác cũng khó có thể được đảm bảo
nếu không gắn với lợi ích chính đáng của tầng lớp doanh nhân. Về cơ bản, sự
tăng lên hay giảm đi về lợi ích của doanh nhân và lợi ích của các giai tầng xã
hội khác là tỷ lệ thuận với nhau. Khi lợi ích của doanh nhân được đặt lên cao
hơn lợi ích của các giai tầng xã hội khác, xung đột lợi ích sẽ xảy ra. Trái lại,
khi lợi ích của các giai tầng xã hội trong kết cấu xã hội- giai cấp được doanh
nghiệp, doanh nhân nâng lên trên (trước) lợi ích của mình, thì thậm chí, sẽ tạo
lên động lực to lớn đưa doanh nghiệp, doanh nhân cũng như thương hiệu, sản
phẩm hàng hóa của họ đến với mọi tầng lớp xã hội.
Trong mối quan hệ của DNVN với các giai tầng trong kết cấu xã hội-
giai cấp, không chỉ tồn tại quan hệ kinh tế, mà còn tồn tại quan hệ chính trị,
văn hóa, xã hội, tôn giáo, đạo đức… tuy nhiên, quan hệ kinh tế vẫn là quyết
111
định, chi phối các quan hệ lợi ích trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị… Nếu tuyệt
đối hóa lợi ích kinh tế giữa doanh nhân với các giai tầng xã hội khác mà coi
nhẹ các quan hệ lợi ích khác thì cũng chưa đầy đủ, khi đó, sự gượng ép, cứng
nhắc trong quan hệ người- người có thể ảnh hưởng tiêu cực đến con đường
mà nước ta đang đi cũng như mục đích mà chúng ta đang hướng tới- nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể cho rằng, trong liên minh
các giai cấp và tầng lớp làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà
thiếu tầng lớp doanh nhân thì không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế-
xã hôị, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Cùng với lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị cũng có một vị trí nhất định
trong mối quan hệ giữa DNVN với các giai tầng khác trong kết cấu xã hội-
giai cấp. Quan hệ lợi ích chính trị của các giai tầng xã hội trong kết cấu xã
hội- giai cấp là quan hệ trong đó, các giai tầng xã hội khẳng định vị thế chính
trị của mình trong xã hội. Lợi ích chính trị cao nhất của doanh nhân cũng như
của các giai tầng khác là được làm dân của một nước độc lập tự do. Nếu độc
lập tự do được giữ vững, vị thế chính trị của nước ta ngày càng cao trên
trường quốc tế, thì đó là niềm vinh quang, hãnh diện chung cho nhân dân Việt
Nam nói chung, DNVN nói riêng.
Ở nước ta, Đảng Cộng sản không chỉ là đội tiền phong, đại diện cho lợi
ích của giai cấp công nhân, mà còn đồng thời là đội tiền phong, đại diện trung
thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, trong đó có doanh
nhân. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, trong đó có doanh nhân. Mọi chủ thể của các thành
phần kinh tế đều thuộc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
được bình đẳng trước pháp luật. Trong danh sách đại biểu quốc hội nước ta,
ngày càng có nhiều đại biểu là doanh nhân. Nếu Đảng tiếp tục đổi mới, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, Nhà nước tiếp tục phát huy dân chủ,
112
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… thì lợi ích
chính trị của các giai tầng trong kết cấu xã hội giai cấp sẽ ngày càng được
củng cố và nâng cao.
Gia nhập WTO, Việt Nam đã tham gia vào một môi trường kinh tế lớn,
ở đó, tất cả các vấn đề phát triển thương mại đều phải gắn liền với những quy
định chung, mà nếu thành viên nào không thực hiện, sẽ bị đào thải. Hiện nay,
muốn thâm nhập vào thị trường của các nước phát triển, doanh nghiệp,
DNVN phải đáp ứng được những yêu cầu về quan hệ lao động, môi trường,
sức khoẻ, đầu vào của sản phẩm, an toàn và bảo vệ môi trường... Các đối tác
kinh tế sẽ “tẩy chay” sản phẩm hàng hoá của nước thành viên nào mà doanh
nghiệp sản xuất ra sản phẩm đó không thực hiện đúng chuẩn mực về trách
nhiệm xã hội.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, để đứng vững trong xu thế toàn
cầu hóa kinh tế- xu thế mà số lượng doanh nghiệp, doanh nhân ở các quốc gia
phát triển đã và đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều và cạnh tranh
ngày càng gay gắt trên tất cả các khâu của quá trình sản xuất, để đảm bảo lợi
ích cho mình, dù muốn hay không, DNVN cũng phải liên kết chặt chẽ với các
giai tầng xã hội khác trong kết cấu xã hội- giai cấp. Sự gắn kết lợi ích của
doanh nghiệp, doanh nhân và lợi ích của các giai tầng xã hội xuất phát từ yêu
cầu khách quan của đời sống.
Hoạt động kinh doanh của DNVN liên quan chặt chẽ đến lợi ích cả vật
chất và tinh thần của nhiều tầng lớp xã hội, do đó, cần phải được điều chỉnh
trên những cơ sở mang tính nhân văn và khoa học. Những tiêu chuẩn văn hoá
kinh doanh một mặt buộc các doanh nghiệp, doanh nhân tuân theo những tiêu
chuẩn nhân bản phổ quát, mặt khác tạo cho doanh nhân một không gian tự do
để hoạt động hiệu quả. Môi trường ấy phải được xây dựng trên những tiêu
113
chuẩn văn hoá kinh doanh, đồng thời phải được sự đồng tình ủng hộ của xã
hội.
Kết luận chƣơng 2
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc thiết lập mối quan hệ đa
chiều ngày càng sâu rộng giữa các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai
cấp là xu hướng tất yếu. Để nắm bắt nhu cầu, đòi hỏi, thị hiếu, tâm lý tiêu
dùng của nhân dân, phục vụ nhân dân, thông qua kết quả sản xuất kinh doanh
của mình, DNVN đã và đang thâm nhập ngày càng sâu, rộng vào mọi mặt của
đời sống cũng như vào quá trình lao động sản xuất, học tập, nghiên cứu của
mọi giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai cấp. DNVN đang từng bước
thiết lập quan hệ hài hòa với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí
thức cùng các tầng lớp nhân dân khác, góp phần tạo nên sự thống nhất tương
đối về lợi ích trong cộng đồng xã hội, củng cố và tăng cường, khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Bối cảnh hội nhập quốc tế, cũng như sự phát triển của nền
sản xuất xã hội, đang tác động đến mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, trong đó có
tầng lớp DNVN, góp phần tạo nên những biến động lớn về số lượng, chất
lượng, cơ cấu cũng như về mối quan hệ của lực lượng xã hội này với các lực
lượng xã hội khác.
Trong khó khăn, nhiều doanh nhân đã thể hiện tài năng, trí tuệ và bản
lĩnh trụ vững giữa sóng gió của thương trường, góp phần đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế. Quá trình phát triển, doanh nghiệp, doanh nhân thuộc khu vực
kinh tế tư nhân luôn được Đảng và Nhà nước tạo nhiều điều kiện phát triển
cũng như mở rộng mối quan hệ lợi ích (đặc biệt là lợi ích kinh tế) với các giai
cấp và tầng lớp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
114
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM TRONG KẾT CẤU XÃ HỘI- GIAI CẤP THỜI KỲ ĐỔI MỚI
3.1 Quan điểm phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong
kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới
3.1.1 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam gắn với phát huy
sức mạnh của khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nền kinh tế này phù hợp với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam và có đặc trưng quan trọng là nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế, nên cũng dần tạo nên trong thực tế nhiều giai
tầng khác nhau. Các giai tầng có mối quan hệ đa dạng, phong phú vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Trong kết cấu xã hội- giai cấp ở Việt Nam, giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức là lực lượng cơ bản, đông đảo. Đảng ta luôn chú
trọng xây dựng khối liên minh công- nông- trí thức, coi đây là nhiệm vụ chiến
lược để tạo nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập sâu vào kinh tế thế giới trong
điều kiện khoa học công nghệ thế giới phát triển hết sức nhanh chóng. Điều
đó đòi hỏi phát triển mạnh mẽ kinh tế công nghiệp và nông nghiệp, mở rộng
115
giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, bảo đảm lợi ích của nông dân,
từng bước đưa nông dân lao động vào những hợp tác sản xuất từ thấp đến cao
theo định hướng xã hội chủ nghĩa bảo đảm đời sống vật chất và nâng cao dần
trình độ văn hoá, khoa học - kĩ thuật, ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho
công nông, đó là những phương hướng và nội dung cơ bản để duy trì và củng
cố khối liên minh công- nông- trí thức.
Bên cạnh những nhà khoa học quản lý và khoa học xã hội, số đông
những nhà trí thức khoa học công nghệ đã có nhiều sáng chế, phát minh được
áp dụng vào sản xuất và đời sống. Việc lai tạo nhiều giống cây và giống con
cho năng suất cao, đã làm cho nền nông nghiệp nước ta có những đóng góp
quan trọng vào chương trình lương thực, thực phẩm thế giới. Trong thực tế,
tầng lớp trí thức đã là lực lượng xung kích, nòng cốt của hơn 40 triệu lao động
nước ta, đang xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong đường lối đổi mới, Đảng ta đã coi khoa học và công nghệ là một
động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới. Khi thực hiện mục tiêu kinh tế - xã
hội do Đại hội X đề ra, không thể tách rời việc xây dựng một nền nông nghiệp
toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá với các mục tiêu phát triển kinh tế hỗ
trợ cho nông nghiệp như công nghiệp nặng, kết cấu hạ tầng và các ngành văn
hoá, xã hội. Không những thế cần chú trọng xây dựng giai cấp công nhân,
nông dân và đội ngũ trí thức.
Khối liên minh giữa công nhân với giai cấp nông và đội ngũ trí thức ở
nước ta là bộ phận dân cư đông đảo, trở thành cơ sở kinh tế, chính trị- xã hội
tin cậy, điều kiện căn bản để tập hợp, đồng thuận mọi giai tầng trong kết cấu
xã hội- giai cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công xã hội- xã
hội chủ nghĩa…
116
Hiện nay, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của
Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự thắng lợi
bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, sự tồn tại và
phát triển của các giai tầng xã hội nói riêng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng đã nêu rõ nhiệm vụ
quan trọng và cấp bách hiện nay đối với giai cấp công nhân: “Phát triển về số
lượng và chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình
độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số
công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp
luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp... Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền
lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân…” [32, 118]
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X của Đảng về
tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước đã chủ trương, chiến lược xây dựng giai cấp công
nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý đúng
đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hoà lợi ích giữa
công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp
thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân. Đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hoá
giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt quan tâm xây dựng
117
thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao,
ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị
vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.
Đối với giai cấp nông dân, Đảng ta chủ trương: “phát huy vai trò quan
trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ
tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất.
Tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và
dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ
trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả
sử dụng đất, tiêu thụ nông sản hàng hoá. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân
học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ” [32, 118-
119].
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ở những nước nông nghiệp chiếm đa số,
công nghiệp chỉ có thể phát triển mạnh nếu sức mua của nông dân mạnh. Đầu
tư cho nông nghiệp, nông dân cũng là gián tiếp đầu tư cho công nghiệp, công
nhân. Do đó, phải đưa những cơ chế, giải pháp, hữu hiệu vào chiến lược xây
dựng và phát triển khu vực nông thôn, nông nghiêp và nông dân Việt Nam.
Cần phân định rõ vị trí, vai trò cũng như nhiệm vụ của các giai tầng xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, nông dân không chỉ củng cố quan hệ với
công nhân và trí thức mà còn phải thiết lập quan hệ với tầng lớp doanh nhân-
với tư cách là người mua nguyên vật liệu nông nghiệp của nông dân và bán
vật tư nông nghiệp cho nông dân… Giai cấp nông dân nước ta chỉ có thể phát
triển bền vững khi tạo được mối quan hệ chặt chẽ với giai cấp công nhân và
các giai tầng khác, trong đó có tầng lớp DNVN. Doanh nhân trong lĩnh vực
nông nghiệp và nông dân phải dựa sát vào nhu cầu, điều kiện của nhau để
hoạt động sản xuất kinh doanh. Phát huy vai trò của giai cấp nông dân Việt
118
Nam là nhiệm vụ cấp thiết của toàn xã hội, tuy nhiên, hiệu quả đến đâu thì
còn phụ thuộc vào bản thân giai cấp này trên cơ sở tiếp nhận và phát huy hiệu
quả những chính sách ưu đãi của cả hệ thống chính trị cũng như trong sự hợp
tác ngày càng toàn diện với tầng lớp doanh nhân cùng các giai tầng khác
trong kết cấu xã hội- giai cấp.
Trong mối quan hệ kinh tế của giai cấp nông dân với tầng lớp doanh
nhân, về phía nông dân, không nên chờ khi nào doanh nghiệp, doanh nhân
đến đặt hàng thì mới lao động sản xuất. Nông dân phải nhanh nhạy nắm bắt
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, hoạt động theo yêu cầu thị trường trong
từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể, phấn đấu làm ra những sản phẩm ngày càng
có chất lượng cao.
Cùng với chủ trương phát huy vai trò của giai cấp công nhân và giai
cấp nông dân, Đai hội X của Đảng cũng nhấn mạnh đến vai trò quan trọng
của trí thức và đặt ra yêu cầu: “Phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông
tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà
khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng
những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước” [18, 119].
Trong xu thế toàn cầu hoá, tri thức ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong mọi hoạt
động lao động cũng như trong các thành quả của hoạt động lao động. Để đáp
ứng nhu cầu không ngừng tăng lên trong đời sống xã hội, mọi lực lượng lao
động phải thường xuyên ứng dụng thành công những thành tựu khoa học mới
vào quá trình tạo ra sản phẩm. Một trong những lực lượng chủ yếu có vai trò
sáng tạo ra những thành tựu khoa học mới chính là tầng lớp trí thức.
Trong quan hệ kinh tế với giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trí
thức có vai trò là lực lượng chuyển giao thành tựu khoa học công nghệ,
nghiên cứu, ứng dụng sản phẩm khoa học công nghệ vào quá trình lao động
119
của công nhân và nông dân. Trong quan hệ với doanh nhân, trí thức là nguồn
nhân lực bổ sung lớn vào tầng lớp xã hội này.
Trong điều kiện hiện nay, DNVN không thể tồn tại tách rời khối liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quan
hệ của khối liên minh này với tầng lớp DNVN là quan hệ qua lại, bổ sung, hỗ
trợ cho nhau, mặt này lấy mặt kia làm điều kiện tồn tại và phát triển của mình.
Trong mối quan hệ đó, các giai tầng đều là những lực lượng xã hội tồn tại độc
lập tương đối với nhau trên nhiều phương diện, nhưng đều dưới sự lãnh đạo
của Đảng, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: xây dựng đất nước giàu
mạnh thông qua sự giàu mạnh của từng cá nhân cũng như từng giai tầng trong
xã hội. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay, DNVN là
một trong những lực lượng có vai trò giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tạo ra những giá trị mới cho xã
hội. Khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức phát triển bền vững sẽ là động lực to lớn cho thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới, nâng cao vị thế của quốc gia, củng cố vai trò làm chủ đất nước của
nhân dân ta nói chung, trong đó có tầng lớp DNVN.
3.1.2 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
Việc xây dựng cũng như phát huy vai trò của tầng lớp DNVN không
thể không dựa trên điều kiện cụ thể của đất nước. Chỉ khi căn cứ vào chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội, mới có thể hoạch định được những đường lối,
chính sách đúng đắn cũng như đưa ra những biện pháp phù hợp để phát huy
vai trò của tầng lớp DNVN.
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI được Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX khái quát là: “Đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân
120
dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường;
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” [29, 159]. Chặng
đường 10 năm đầu thế kỷ XXI sắp kết thúc, ở tất cả các chỉ tiêu đặt ra, chúng
ta đã đạt được những thành tựu không nhỏ, song bên cạnh đó, còn bộc lộ
không ít hạn chế. Khi đánh giá tổng quát kết quả 5 năm đầu thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội, Đại hội X của Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ:
“Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá nhanh. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu. Hội nhập kinh tế quốc tế và
đối ngoại có bước tiến mới rất quan trọng. Tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất-
kỹ thuật được tăng cường đáng kể... Tuy nhiên, hoạt động kinh tế- xã hội còn
kém hiệu quả... Trình độ phát triển kinh tế và công nghệ vẫn tụt hậu so với
nhiều nước xung quanh. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, chất lượng và tính
bền vững của sự phát triển còn kém... Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
chưa được phát huy thật tốt. Thực trạng trên để lại nhiệm vụ nặng nề cho 5
năm 2006-2010” [32, 177-178].
Việc xây dựng tầng lớp DNVN lớn mạnh phải bám sát vào các nhiệm
vụ chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2010, đáng chú
ý là các nhiệm vụ sau: "Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu
hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh
tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của
nước đang phát triển có thu nhập thấp" [32, 186].
121
Chính phủ đã chủ trương đến 2010 sẽ thành lập và đi vào hoạt động có
hiệu quả 500.000 doanh nghiệp, trong đó chiếm phần lớn là các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Trong giai đoạn 2006-2010, việc xây dựng
tầng lớp DNVN đã được nhìn nhận trên nguyên tắc: định vị chính xác nền
kinh tế Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu để hướng tới những thay đổi
mạnh mẽ, bằng việc xây dựng các chương trình phát triển doanh nghiệp trọng
điểm với lộ trình cụ thể. Một trong những tư tưởng xuyên suốt trong kế hoạch
là: (1) phải coi doanh nghiệp, doanh nhân là đội quân chủ lực trong phát triển
kinh tế và hội nhập. (2) Xây dựng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam lớn
mạnh chính là một thành tố quan trọng bậc nhất của chiến lược phát triển kinh
tế- xã hội 5 năm 2006-2010. (3) Coi nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội là tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho
sự ra đời và hoạt động hiệu quả, có trật tự, kỷ cương của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế.
Việt Nam đang tham gia vào thị trường toàn cầu, ở đó, nguồn lực của
các quốc gia đang được phân chia lại theo những nguyên tắc mới. Không hiểu
những nguyên tắc đó, không thể dự báo chính xác những ngành nào của Việt
Nam có năng lực cạnh tranh và tồn tại; những ngành nào cần tập trung phát
triển để phát huy lợi thế so sánh; và từ đó xác định những ưu tiên cũng như sự
đánh đổi cần thiết. Ngay cả cách thức can thiệp của Chính phủ đối với từng
lĩnh vực cũng cần có “tư duy hiện đại” và “tầm nhìn toàn cầu” để tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, DNVN tiếp cận được những nguồn lực
cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong xu thế đó, Nhà nước đóng
vai trò chủ lực trong việc dự báo, định hướng phát triển quốc gia và hỗ trợ
doanh nghiệp, doanh nhân chứ không làm thay doanh nghiệp, DNVN.
Để huy động mọi tiềm năng, đưa đất nước nhanh chóng phát triển, thì
không thể không tận dụng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân- một trong
122
những nguồn lực cơ bản chi phối mạnh mẽ đến sự tồn tại và phát triển của
nền kinh tế quốc dân. Việc tập trung đầu tư trí lực và vật lực để khu vực kinh
tế tư nhân, tầng lớp DNVN phát triển phù hợp với xu thế chung của khuynh
hướng phát triển kinh tế- xã hội, phải trở thành nhiệm vụ trọng tâm của cả xã
hội. Kế hoạch của Chính phủ về việc xây dựng và đi vào hoạt động hiệu quả
500.000 doanh nghiệp đến 2010 có thể sẽ dừng lại ở chủ trương nếu như
không khai thác một cách hiệu quả hơn tiềm năng của khu vực kinh tế tư
nhân.
Đại hội X của Đảng còn đề ra nhiệm vụ: “Phát triển mạnh khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao năng lực nguồn nhân lực, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và gắn với phát triển kinh tế
tri thức” [18, 187].
Hiện nay, nguồn nhân lực với tay nghề, tác phong công nghiệp cũng
như ý thức chính trị chưa cao đang là trở ngại đối với sự phát triển kinh tế- xã
hội nước ta, hạn chế việc tiếp thu thành tựu khoa học công nghệ. Nhìn một
cách đại thể, hệ thống đào tạo nói chung ở Việt Nam chưa gắn chặt với nhu
cầu của doanh nghiệp, doanh nhân cũng như của xã hội, gây ra sự lãng phí
lớn. Để xây dựng, phát triển kinh tế thị trường, đòi hỏi việc đào tạo nguồn
nhân lực phải gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội nói chung, nhu
cầu của doanh nghiệp, doanh nhân nói riêng. Các chính sách tuyển dụng, sử
dụng nhân tài và phát huy lợi thế một quốc gia có dân số trẻ luôn luôn dựa
trên cơ sở thị trường... Tinh thần kinh doanh và ý chí làm giàu chân chính cần
được tạo lập cho học sinh, sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường
nếu muốn có một thế hệ doanh nhân có nền tảng tri thức vững vàng, sánh
ngang với cộng đồng doanh nhân ở các nước phát triển trong khu vực và trên
thế giới.
123
Khi nền giáo dục nước ta còn tồn tại nhiều bất cập, tầng lớp DNVN
phải được phát triển theo hướng, vừa hạn chế được nhược điểm cơ bản của
các cơ sở đào tạo, vừa phù hợp với cơ chế thị trường. Đây là nhiệm vụ không
dễ, đòi hỏi doanh nhân phải năng động, sáng tạo, không chỉ chờ đợi các cơ sở
đào tạo đáp ứng yêu cầu của mình.
Trong bối cảnh hội nhập mọi mặt của đời sống với thế giới cũng như
trong cơ chế thị trường ngày càng cạnh tranh khắc nghiệt, ở đó rủi ro và lợi
nhuận luôn cùng tồn tại song hành, DNVN- những chủ thể luôn hướng đến
yếu tố lợi nhuận trong kinh doanh không dễ gì giữ vững bản lĩnh chính trị,
văn hóa cổ truyền cũng như đạo đức kinh doanh... Một trong những điều kiện
cần và cũng là đòi hỏi tất yếu để DNVN có thể tồn tại vững vàng trong xu thế
hội nhập là việc xây dựng ý thức chính trị, rèn luyện đạo đức kinh doanh. Tuy
nhiên, ý thức chính trị và đạo đức kinh doanh chỉ có thể được hình thành đầy
đủ ở tầng lớp DNVN nếu các tổ chức chính trị- xã hội cũng như các cơ quan
công quyền hoạt động có hiệu quả cao bên cạnh một hệ thống pháp luật cũng
như những quy định ràng buộc quyền và trách nhiệm của tầng lớp doanh nhân
ngày càng hoàn thiện.
Thực tế cho thấy, khi lợi ích kinh tế được đặt lên một vị trí quá cao
trong hệ giá trị của mình, một bộ phận DNVN có thể liên kết ngầm với hệ
thống chính trị. Khi đó, doanh nhân không còn là những người kinh doanh
đơn thuần nữa mà họ trở thành những nhà đầu cơ chính trị bằng tiền, từ đó tạo
nên một hiện tượng kinh doanh thiếu lành mạnh. Bản thân các nhà chính trị
cũng có thể bị lợi dụng bởi các hành vi kinh tế có mục đích không lành mạnh
của doanh nhân. Thực tế này phản ảnh sự liên minh giữa kinh tế và chính trị.
Nhiều quốc gia đang phát triển và cả các quốc gia phát triển đã và đang gánh
chịu hậu quả của các hiện tượng tiêu cực khi có sự liên minh không lành
mạnh giữa kinh tế và chính trị như Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia,
124
Malaysia... Một trong những hậu quả to lớn của liên minh này là tạo nên một
lớp doanh nhân có thói quen dựa dẫm. Ở phạm vi xem xét này, chính trị trở
thành công cụ của kinh tế. DNVN cần có một môi trường lành mạnh và bình
đẳng để hoạt động, cạnh tranh và phát triển. Đó chính là động lực của sự gia
tăng giá trị trên phạm vi toàn xã hội, vì lợi ích của toàn xã hội.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tầng lớp DNVN cần xác định
rằng, mình là một bộ phận không thể thiếu, có vai trò khách quan như một
giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp. Sự tồn tại và phát triển cũng như vị trí
và vai trò của tầng lớp DNVN được khẳng định chỉ khi các giai tầng trong xã
hội cũng như khối đại đoàn kết các giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp
phát triển ổn định. Nhiệm vụ và cũng là quyền lợi của tầng lớp DNVN hiện
nay còn là góp phần củng cố và phát huy hơn nữa sự đoàn kết, thống nhất của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tầng lớp DNVN cũng như bản thân mỗi
doanh nhân, phải tuân thủ pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của Đảng, quy
định của các Hiệp hội doanh nghiệp... và chịu sự điều động, phân công của
các tổ chức xã hội có liên quan vì lợi ích chung của dân tộc.
Khi đánh giá về các cơ quan hành chính nước ta trong mối quan hệ với
tầng lớp DNVN, các nhà khoa học đã thẳng thắn chỉ ra: “Thời gian qua, một
bộ phận không ít cán bộ, công chức chưa đủ năng lực quản lý điều hành và
làm tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành những chủ trương chính sách
phù hợp với tiến trình đổi mới. Trong số đó còn có những người vì lợi ích cục
bộ, vì lợi ích cá nhân, và với những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, tha hoá về đạo
đức đã có những hành vi tham nhũng, cửa quyền hách dịch, phân biệt đối xử,
gây khó dễ cho các doanh nghiệp tư nhân. Những tư tưởng đó, những con
người đó đã đi ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, làm giảm sút lòng tin của dân với Đảng
125
và Nhà nước, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, đi ngược lại xu thế phát
triển của thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế” [103, 8-9].
Cùng với nhiệm vụ kinh tế của mình, việc chủ động tham gia vào phát
hiện, tố cáo hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí... lại là một trong những
nhiệm vụ chính trị- xã hội của DNVN. Việc ngăn chặn những biểu hiện tiêu
cực trên phải là hành động thường xuyên, lâu dài và có kế hoạch cụ thể nhằm
góp phần làm cho môi trường kinh doanh của nước ta thêm lành mạnh, qua đó
làm tăng hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, doanh nhân.
Phát huy vai trò của tầng lớp DNVN đồng thời với việc thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước cũng là để gắn kết lợi ích xã hội
và lợi ích cá nhân, “ích nước” với “lợi nhà”. Nếu không xử lý hài hòa quan hệ
đó, doanh nhân khó có thể đạt được các mục đích chính đáng cũng như sự
phát triển ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, tầng lớp DNVN luôn được Đảng
và Nhà nước ta định hướng về tư tưởng và hành động để nhanh chóng hòa
nhập vào xu thế chung của sự phát triển kinh tế- xã hội. Sự định hướng của
Đảng và Nhà nước một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho tầng lớp doanh nhân
liên kết chặt chẽ hơn với các giai tầng xã hội, mặt khác, hạn chế, khắc phục
những biểu hiện tiêu cực, những khuynh hướng tự phát có thể nảy sinh của
tầng lớp xã hội này.
Nhìn lại quá trình phát triển của tầng lớp DNVN thời gian qua, dễ nhận
thấy rằng, sự phát triển đó đã được gắn chặt vào chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước. Xã hội ngày càng đánh giá cao vai trò của tầng lớp doanh
nhân, sự tôn trọng doanh nhân ngày càng rõ hơn trong các tầng lớp nhân
dân... Tất cả đã góp phần khẳng định vị trí của tầng lớp xã hội mới này trong
kết cấu xã hội- giai cấp ở nước ta.
126
3.1.3 Phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam là nhiệm vụ chung
của các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội- giai cấp, nhưng trước hết
phải từ sự nỗ lực của chính tầng lớp doanh nhân
Trong những năm qua, cùng với sự ủng hộ của các tổ chức chính trị- xã
hội cũng như của mọi giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp, tầng lớp DNVN
đã từng bước hình thành và phát triển. Tuy nhiên, về cơ bản, những nỗ lực
của các cơ quan chức năng ở nước ta thời gian qua vẫn chưa thực sự đi sát
vào mục tiêu xây dựng tầng lớp DNVN thành một lực lượng xã hội vững
mạnh.
Không ít doanh nghiệp, DNVN chưa hài lòng về quy trình giải quyết
thủ tục hành chính cũng như thực hiện một số quy định của pháp luật liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi nhìn chung, quy trình đó còn
nhiều bất cập, thiếu linh hoạt so với hệ thống hành chính ở các nước phát triển
trong khu vực và trên thế giới. Thực trạng này cũng sẽ tác động gián tiếp đến
quan hệ hài hoà giữa người sử dụng lao động và người lao động, cản trở các
nguồn nhân lực di chuyển tự nhiên từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác nhằm
đạt hiệu quả xã hội cao...
Những bất cập của hệ thống pháp luật (Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh
tranh, Luật Thương mại, Luật Đầu tư...) đã phần nào cản trở DNVN thiết lập
được quan hệ chặt chẽ với đối tác chiến lược. Cách thức điều hành của Chính
phủ vẫn chưa theo kịp sự vận động, phát triển không ngừng của đời sống kinh
tế; những yêu cầu về sự minh bạch hoá, công khai hoá chính sách vẫn chưa
được thể hiện bằng những hành động thống nhất của tất cả các cấp chính
quyền. Môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh
nghiệp, tầng lớp DNVN chưa phù hợp với trình độ, năng lực cũng như nhu
cầu của họ...
127
Để tầng lớp DNVN phát triển nhanh, đúng định hướng trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực sự trở thành một bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân cũng như của kết cấu xã hội-
giai cấp, ngoài việc thực hiện nhất quán chủ trương của Đảng về phát triển
kinh tế tư nhân, cần tạo lập hành lang pháp luật và môi trường tâm lý xã hội
ngày càng ổn định, khoa học cho sự phát triển của khu vực kinh tế này.
Góp phần vào việc nâng cao vị thế kinh tế, chính trị, xã hội của tầng
lớp DNVN, báo chí là một trong những công cụ quan trọng. Tuy nhiên, thời
gian gần đây vẫn có một số phương tiện thông tin đại chúng dùng từ "thương
lái", “con buôn”… khi đề cập đến DNVN. Báo chí không chỉ có vai trò cung
cấp thông tin và định hướng cho công việc quản lý, điều hành doanh nghiệp
của doanh nhân, mà còn có khả năng tạo dựng niềm tin của các giai tầng xã
hội vào một tầng lớp xã hội mới, có vai trò tích cực trên cơ sở những thành
tựu do tầng lớp xã hội đó đã đạt được. Thông qua việc quảng bá thành tựu đạt
được cũng như những bất cập còn tồn tại của tầng lớp DNVN, các phương
tiện thông tin đại chúng mang đến cho mọi tầng lớp nhân dân cái nhìn đầy đủ
và khách quan về vị trí, vai trò của một trong những lực lượng xã hội hình
thành và phát triển trong thời kỳ đổi mới.
Hành động của doanh nhân có thể được phản ánh bởi những luồng
thông tin không giống nhau, nhưng yếu tố cốt lõi nhất là doanh nhân đó có
làm lợi cho xã hội hay không. Hành lang pháp lý có lúc quá giàn trải, lúc lại
quá chật hẹp và thường đi sau sự vận động cũng như đòi hỏi của cuộc sống.
Trong bối cảnh đó, doanh nhân tất yếu sẽ phản ứng với hành lang pháp lý.
Nếu như hệ thống pháp luật trở nên quá lạc hậu so với thực tiễn và sự phản
ứng của doanh nhân là nhằm cải tiến hệ thống pháp luật đó cho phù hợp hơn
với đòi hỏi của thực tiễn, thì sự phản ứng này cần phải được xã hội đánh giá
đúng mức.
128
Tất cả các giai tầng xã hội ở nước ta cần phát huy hơn nữa tinh thần
đoàn kết, vì chiến lược phát triển kinh tế của quốc gia, thay đổi cách nhìn
nhận về doanh nhân cũng như tạo thêm điều kiện thuận lợi để doanh nhân có
thêm động lực và niềm tin trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, sự
hợp tác, ủng hộ của các giai tầng trong xã hội vẫn chỉ là điều kiện cần cho sự
phát triển của tầng lớp DNVN; điều kiện đủ phải xuất phát từ sự nỗ lực của
bản thân tầng lớp này.
Xã hội tôn vinh doanh nhân cũng là khẳng định vai trò lịch sử của một
trong những lớp người đi đầu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng, đồng thời cũng nhắc nhở trách
nhiệm của doanh nhân đối với cộng đồng trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. DNVN cần nhận thấy
trách nhiệm to lớn của mình đối với xã hội. Trong điều kiện và tình hình mới,
nhiệm vụ của tầng lớp DNVN phải phấn đấu trở thành lớp người có tâm và
tài.
Một trong những điểm yếu hiện nay của DNVN là trình độ quản trị còn
hạn chế, còn khoảng cách khá xa với những chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Không ít DNVN chưa qua các khóa đào tạo cơ bản về quản trị kinh doanh.
Ngay cả số các chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học
trở lên thì cũng rất ít người được đào tạo về kiến thức chuyên môn một cách
bài bản. Việc điều hành doanh nghiệp của nhiều doanh nhân chủ yếu dựa trên
kinh nghiệm. Nâng cao trình độ cho DNVN đang là yêu cầu bức thiết.
Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt
Nam thì chúng ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh
nghiệp lớn ở Việt hiện nay cũng chỉ tương đương với các doanh nghiệp nhỏ
và vừa ở các nước phát triển. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình lịch sử, nghề kinh
doanh của Việt Nam mới được khôi phục trong một thời gian không dài. Vị
129
trí và vai trò của doanh nhân mới được nhìn nhận và đánh giá đúng hơn trong
những năm gần đây, thì những đánh giá của UNDP là phản ánh đúng thực
trạng tầng lớp DNVN.
Ở bất kỳ quốc gia nào, doanh nhân luôn là một trong những lực lượng
quan trọng để đón đầu và vượt qua những thách thức của đời sống kinh tế- xã
hội. Trong bối cảnh hiện nay, để cạnh tranh được với doanh nhân ở các nước
phát triển trên thế giới, DNVN không thể không có tầm nhìn chiến lược.
Trước đây, khi muốn thành công ở thị trường trong nước, doanh nhân có thể
chỉ cần trang bị tầm nhìn quốc gia; hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh
tế, DNVN phải có tầm nhìn khu vực và quốc tế. Khi đã có tầm quốc tế, sẽ nảy
sinh nhu cầu ở doanh nhân, đó là động lực cho sự sáng tạo những giá trị vật
chất và tinh thần mới, để hình thành nên những doanh nghiệp, doanh nhân
lớn.
Phải thừa nhận rằng, tầm nhìn của không ít DNVN còn hạn chế. Phần
đông DNVN khi lập nghiệp chỉ dám nghĩ đến việc xây dựng một công ty
mang tầm cỡ quốc gia, ít người có chí hướng xây dựng một thương hiệu toàn
cầu cũng như tham gia vào việc giải quyết nhu cầu tiêu dùng không ngừng
tăng cho nhiều quốc gia trên thế giới... Để đạt được những mục tiêu to lớn,
DNVN cần phải tích cực hơn trong việc tìm kiếm, xử lý và làm chủ thông tin,
tri thức, kỹ năng mới. Trong bối cảnh hiện nay, điều kiện trau dồi tri thức, kỹ
năng cho DNVN là rất thuận lợi, doanh nhân có thể học tập mọi lúc, mọi nơi
thông qua nhiều phương tiện khác nhau. Chỉ thông qua việc không ngừng học
hỏi, DNVN mới có thể nhanh chóng hội nhập, phát triển, thâm nhập ngày
càng sâu rộng vào thị trường thế giới.
Để DNVN chứng tỏ được tài năng của mình, cần xây dựng một chế độ
dân chủ, một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự. Nhà nước phải
là tổ chức đại diện quyền lợi của toàn xã hội, điều chỉnh để tạo sự hài hòa lợi
130
ích chính đáng của mọi cá nhân, mọi giai tầng cũng như mọi thành phần kinh
tế. Phải xác định rõ thể chế kinh tế và chế độ sở hữu ở nước ta trong quá trình
phát triển kinh tế- xã hội, trong đó lợi ích doanh nhân đến đâu, lợi ích xã hội
đến đâu? Khi đã thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân cũng như
của tầng lớp DNVN là tất yếu khách quan, lâu dài trong kết cấu xã hội- giai
cấp, cũng có nghĩa là phải đặt mọi khu vực kinh tế trong nền kinh tế quốc dân
vào môi trường bình đẳng. Về mặt pháp lý, doanh nhân trong khu vực nhà
nước hay doanh nhân ngoài khu vực nhà nước đều phải chịu trách nhiệm như
nhau trước pháp luật và xã hội. Trong sản xuất kinh doanh, các thành phần
kinh tế hợp tác, cạnh tranh và cùng chịu sự tác động của các quy luật của thị
trường, do đó, DNVN cần phải được đối xử bình đẳng trên nhiều phương
diện. Mọi sự ưu tiên cho khu vực này, hạn chế, gây trở ngại cho khu vực khác
là làm trái với bản chất của các quy luật kinh tế, gây tác động tiêu cực cho nền
kinh tế. Đây là điều kiện quan trọng để huy động tối đa tiềm lực vốn, lao
động, công nghệ của khu vực kinh tế tư nhân.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng trên
được xác định là do doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước đã và đang
được hưởng quá nhiều điều kiện thuận lợi trong tiếp cận các nguồn vốn mới,
trong hoạt động sản xuất kinh doanh… Đây là một trong những nguyên nhân
cơ bản khiến bộ phận doanh nhân trong khu vực kinh tế nhà nước thấy chưa
cần thiết phải huy động vốn thông qua hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp,
và người lao động (công nhân) chưa hiện thực hóa được quyền làm chủ của
mình. Thực trạng này đã và đang trở nên bức xúc, bởi cũng từ đây, quyền lợi
chính đáng của người lao động đang bị ảnh hưởng tiêu cực.
Tầng lớp DNVN phải ý thức rõ hơn về vai trò của mình trong sự
nghiệp phát triển kinh tế để xứng đáng với sự ủy thác và tin cậy của nhân dân.
Nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, một trong
131
những yêu cầu cấp bách là, thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển nhanh và
bền vững. Để góp phần thực hiện được nhiệm vụ to lớn này, đòi hỏi DNVN
phải nhanh chóng tạo dựng nền tảng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân trong
tư duy và hành động.
Để DNVN từng bước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế một cách
vững chắc mà không bị “hòa tan”,
thì tinh thần dân tộc cần trở thành một bộ phận cấu thành nên phẩm chất của
tầng lớp xã hội này. Cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam đang được triển khai rộng khắp trong xã hội, không chỉ có ý nghĩa tích
cực đối với người tiêu dùng, mà còn có ý nghĩa quan trọng với cộng đồng
doanh nghiệp, doanh nhân. Bản lĩnh, trình độ của DNVN được thể hiện trước
hết qua năng lực làm chủ thị trường nội địa, đáp ứng nhu cầu của nhân dân
trong nước. Mục đích hoạt động lao động của DNVN cần được gắn liền với
nhu cầu chính đáng của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Khi đã có đóng
góp để đất nước giàu mạnh lên thì bản thân tầng lớp DNVN cũng sẽ phát triển
tương ứng.
DNVN phải trau dồi các phẩm chất đạo đức căn bản, trước hết là đạo
đức kinh doanh. Từ xưa đến nay, nhân dân ta coi trọng những đức tính nào là
căn cốt, chuẩn mực, đáng tôn kính của con người thì việc buôn bán, kinh
doanh cũng cần có những tiêu chí ấy. Đó chính là sự trung thực, hiếu tín, tình
nghĩa, thuỷ chung. Sự trung thực trước hết thể hiện ở phương diện giá cả:
“Buôn chín bán mười”, không mánh khóe, gian lận trong quan hệ với khách
hàng cũng như với bạn hàng: “Bán buôn gìn giữ ngay lòng, chớ cho ai lận chớ
hòng lận ai”. Từ có Trung mà người kinh doanh sẽ đạt được Tín theo quan hệ
nhân quả, nhờ đó, hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ thuận lợi. Nhưng nguyên
tắc quan trọng hơn cả trong đạo lý kinh doanh buôn bán của người xưa là:
“Mãi mại thuận nhân tình” nghĩa là việc buôn bán phải phù hợp với tình
132
người, với đạo làm người, hay nói theo ngôn ngữ hiện đại là phải có sự đồng
thuận về lợi ích giữa người mua và người bán, người sử dụng dịch vụ và nhà
cung cấp dịch vụ. Hoạt động kinh doanh, buôn bán không được đặt mục đích
lợi nhuận lên trên hết, chà đạp lên nhân tình, đạo lý mà phải lấy Nhân, Nghĩa,
yếu tố Con Người đặt lên hàng đầu. Phải thấy kinh doanh buôn bán cũng là
một hoạt động nhằm phục vụ Con Người - hai chữ viết hoa, bởi vậy cần phải
có cách hành xử cho phù hợp.
Bên cạnh đó, để tầng lớp DNVN tồn tại và phát triển vững vàng trong
xu thế mới, không thể thiếu sự hỗ trợ của mọi giai tầng trong kết cấu xã hội-
giai cấp. Cần tiếp tục xây dựng sự thống nhất về nhận thức và hành động giữa
các cơ quan chức năng, các tầng lớp xã hội với tầng lớp DNVN, tìm ra các
giải pháp cụ thể để có bước chuyển biến mạnh mẽ, tạo động lực to lớn hơn
cho sự phát triển hợp quy luật của tầng lớp xã hội này.
Vấn đề phát huy vai trò của doanh nhân trong đời sống xã hội hiện nay
là quan điểm hết sức cơ bản, quan trọng của Đảng và Nhà nước đối với doanh
nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra phương hướng tạo môi trường để
phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Đó là xây
dựng một môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa tổng thể để tầng lớp
doanh nhân phát triển. Đường lối đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, xu thế mở cửa hội nhập quốc tế và dân chủ hóa đời sống xã
hội chính là những tiền đề quan trọng để tạo ra môi trường tổng thể cho sự tồn
tại và phát triển của tầng lớp DNVN.
3.2 Giải pháp phát huy vai trò của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong
kết cấu xã hội- giai cấp thời kỳ đổi mới
3.2.1 Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức của các giai cấp, tầng lớp trong
kết cấu xã hội- giai cấp về tầng lớp doanh nhân Việt Nam
133
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhìn chung, doanh nhân (thời điểm
đó là thương nhân) không được coi trọng tương xứng với vị trí cũng như vai
trò của lực lượng này trong xã hội. Chế độ phong kiến, xuất phát từ ý thức
hệ tư tưởng Nho giáo, coi trọng trật tự “sĩ, nông, công, thương”, coi “luân
lý” và “danh phận” có vai trò tuyệt đối trong đời sống kinh tế- xã hội; mọi
mặt của đời sống gần như không có chỗ cho khái niệm “tự do" và “bình
đẳng”- những khái niệm vốn xuất hiện từ các cuộc cách mạng tư sản. “Nhân
nghĩa” và “lợi” là những phạm trù hoàn toàn đối lập. Hơn nữa, là một nước
thuần nông, chính sách kinh tế “dĩ nông vi bản”- lấy nông nghiệp làm lĩnh
vực sản xuất cơ bản cho sự phát triển kinh tế xã hội- đã hầu như tồn tại
xuyên suốt các triều đại ở nước ta. Với thái độ cũng như "chủ trương"
“trọng nông ức thương”, cùng quan điểm “đi buôn nói ngay không bằng đi
cày nói dối”…, thương nghiệp nước ta bị chèn ép, doanh nhân không được
khuyến khích cũng như tạo điều kiện phát triển. Triều Nguyễn thi hành
những chính sách kinh tế có tính chất kìm hãm sự phát triển của công
thương nghiệp, đánh thuế thật cao vào các ngành nghề thủ công, buôn bán...
Doanh nhân Lương Văn Can từng chỉ ra một trong những nguyên
nhân khiến công thương bị coi nhẹ trong quá khứ: “Cổ nhân thường khinh
sự buôn là mạt nghệ, bởi vì người đời xưa trọng đạo đức mà khinh công-
lợi, thấy người buôn tham lợi vô yếm, ít có nói thực, sợ mất cái lòng đạo
đức đi, vả lại đời xưa thuỷ bộ giao thông chưa tiện lắm, tin tức chậm chạp,
vận tải gian nan, buôn bán không được lợi lắm, cho nên thường khinh bỉ mà
ít người chịu làm” [23, 125]. Thời điểm này, vai trò của những người làm
công việc kinh doanh buôn bán không được xã hội coi trọng, xã hội phong
kiến thường ca ngợi giới trí thức.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, sự nhìn nhận và đánh giá về
DNVN đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Tuy nhiên, hiện nay
134
còn không ít yếu tố xã hội có nguồn gốc từ ý thức hệ Nho giáo và hệ tư
tưởng phong kiến đang là tác nhân cản trở sự hình thành, phát triển của tầng
lớp DNVN. Thể chế, môi trường xã hội ở trình độ nào, thường thì sẽ hình
thành một đội ngũ doanh nhân có trình độ và phẩm chất tương ứng. Trong
một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, nằm trong khu vực các nước
kém phát triển trên thế giới, khi mà môi trường kinh doanh chưa minh bạch,
còn tồn tại không ít hiện tượng bất bình đẳng, cơ chế chính sách rườm rà...
thì chưa thể hình thành một tầng lớp doanh nhân lớn mạnh. Để tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi cho tầng lớp DNVN tồn tại và phát triển mạnh
mẽ, không thể không khắc phục những hạn chế đó.
Từ phía tầng lớp DNVN, một bộ phận hiện vẫn làm ăn nhỏ lẻ, manh
mún, chụp giật, phi pháp, không chuyên nghiệp, không có chiến lược dài
hạn, không thực hiện đủ nghĩa vụ cũng như vai trò của mình đối với người
lao động, với Đảng, Nhà nước và xã hội... Vẫn còn hiện tượng chủ doanh
nghiệp không tôn trọng cấp dưới, đối xử không công bằng với người lao
động, gây tâm lý, thái độ và hành động thể hiện sự bất bình sâu sắc... Đó
cũng là nguyên nhân dẫn đến sự nhìn nhận không mấy thiện cảm của một bộ
phận nhân dân trong xã hội (trước hết là một bộ phận người lao động trong
doanh nghiệp) với tầng lớp doanh nhân. Tuy nhiên, không phải bất kỳ thời
điểm nào, người lao động trong doanh nghiệp cũng có thể nhìn nhận, đánh
giá cũng như có hành vi phù hợp đối với người sử dụng lao động. Thực tế
cho thấy, có thể do lôi kéo, xúi giục, cố tình gây mâu thuẫn, không ít công
nhân đã có những biểu hiện không công bằng đối với chủ doanh nghiệp:
như cư xử thiếu văn hoá, bỏ việc tập thể vì những lý do không chính đáng,
ép chủ doanh nghiệp phải thực hiện những yêu sách không công bằng...
Thực trạng này có thể được hạn chế, khắc phục nếu vai trò của các tổ chức
135
chính trị, xã hội, nghề nghiệp trong doanh nghiệp được phát huy ngang tầm
nhiệm vụ.
Sự nhìn nhận sai lệch về tầng lớp DNVN cũng được thể hiện ở một bộ
phận nông dân ở nước ta, theo đó, doanh nhân, thực chất là những thương
lái, con buôn, những kẻ làm ăn theo lối chụp giật, nhỏ lẻ, thường xuyên
chèn ép nông dân trong quá trình mua bán hàng hoá nông sản nhằm mục
đích thu được lợi nhuận cao nhất có thể cho bản thân.
Đối với phần lớn trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ hiện nay, trở thành
một doanh nhân thành đạt là một khát vọng, một động lực không nhỏ để họ
phấn đấu, rèn luyện trong học tập, nghiên cứu... Thế nhưng, một số trí thức
khác lại vẫn còn quan niệm, doanh nhân là đối tượng có nhiều thủ đoạn tinh
vi như buôn gian, bán lận, trốn thuế, làm giả hồ sơ, chứng từ, báo cáo, sổ
sách, để hưởng các chế độ ưu đãi...
Như vậy, một bộ phận các tầng lớp nhân dân ở nước ta đã và đang
nhìn nhận không thiện cảm cũng như hiểu chưa hoàn toàn chính xác về khu
vực kinh tế tư nhân và chủ thể của nó. Việc làm ăn chưa có chiến lược, chụp
giật, lừa đảo, phi pháp, thiếu chữ tín… là những hiện tượng có thật ở một số
doanh nghiệp tư nhân nhưng không phải là đa số, càng không phải là tất cả.
Thực ra thì, mọi khu vực kinh tế, ở bất kỳ quốc gia nào, từ xưa đến nay
cũng luôn tồn tại những bất cập nhất định. Cũng vì lẽ đó, chúng ta không
nên chỉ căn cứ một số hạn chế của một bộ phận nhỏ doanh nhân mà đưa ra
những khái quát, nhận định một cách chủ quan về cả một tầng lớp xã hội.
Sự kỳ thị, cái nhìn không mấy thiện cảm về doanh nhân của một bộ
phận nhân dân trong lịch sử dân tộc cũng như trong điều kiện hiện nay còn
chủ yếu do sự yếu kém, sai phạm cũng như cung cách làm ăn của một bộ
phận doanh nhân. Với quan điểm của A.Smith thì: “Động cơ duy nhất thúc
đẩy người có tư bản đem dùng tư bản vào nông nghiệp, vào công nghiệp
136
hoặc vào một ngành nào đó của thương nghiệp bán buôn hoặc bán lẻ, là việc
chạy theo lợi nhuận của bản thân anh ta. Anh ta không bao giờ có ý nghĩ
tính xem mỗi một phương thức sử dụng tư bản đó sẽ đưa bao nhiêu lao động
sản xuất vào hoạt động hoặc sẽ tăng giá trị sản phẩm hàng năm của đất đai
và của sản phẩm trong nước mình đến mức nào” [71, 160]. Tuy nhiên, khi
đã bước sang một giai đoạn lịch sử mới, khi mà phần lớn DNVN đã có
những đóng góp nhất định cho xã hội, và cho dù, về cơ bản, động cơ lớn
nhất thúc đẩy họ đầu tư sản xuất kinh doanh vẫn là yếu tố lợi nhuận, thì sự
kỳ thị cũng như cái nhìn không thiện cảm về doanh nhân cũng cần phải
được cải biến tương ứng. Nắm giữ và sử dụng quan điểm, cách nhìn nhận cũ
trong điều kiện mới không chỉ thể hiện sự bảo thủ, lạc hậu, mà còn tác động
tiêu cực đến sự tồn tại và phát triển của tầng lớp DNVN.
Chính sách đổi mới của Đảng đã và đang góp phần xoá bỏ về cơ bản
những sự nhìn nhận định kiến, khắt khe của một bộ phận xã hội dân cư về
tầng lớp DNVN, mở ra nhiều cơ hội cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân với chủ thể là những doanh nhân có năng lực, có quyết tâm và ý chí
thành đạt. Sự đổi mới này, trước hết được ghi nhận trong văn kiện, nghị
quyết của Đảng và Nhà nước. Mặc dù hiện nay, các văn kiện, nghị quyết
của Đảng, Nhà nước đều chỉ rõ việc thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng trên thực tế vẫn còn có những
quan điểm trái ngược nhau đối với sự phát triển của thành phần kinh tế tư
nhân. Những ưu thế của khu vực kinh tế tư nhân đã được thừa nhận, nhưng
việc triển khai các chính sách đó vẫn còn nhiều bất cập.
Đến nay, xã hội ta, về cơ bản, đã không còn quan niệm “giàu có là tội
lỗi”, không còn coi doanh nhân là những kẻ xấu xa. Tuy vậy, trong cách
nhìn nhận của một bộ phận nhân dân, doanh nhân vẫn là những kẻ bóc lột
sức lao động, thậm chí bóc lột nặng nề. Đây là một trong những nguyên
137
nhân cơ bản nhất khiến vị trí của tầng lớp DNVN vẫn chưa được thừa nhận
tương xứng với vai trò của họ trong xã hội.
Gần đây, việc trao các giải thưởng Sao đỏ, Sao vàng đất Việt, Doanh
nhân tiêu biểu, Doanh nhân đất Việt, Bông hồng vàng, Thắp sáng tài năng
kinh doanh, Doanh nhân Tâm- Tài, Doanh nhân văn hóa tiêu biểu, Doanh
nhân Asian, Doanh nhân trẻ khởi nghiệp, Cúp Thánh Gióng... cho những
doanh nhân tiêu biểu trong nhiều lĩnh vực khác nhau như là sự tôn vinh của
Đảng, Nhà nước và xã hội đối với doanh nhân. Những động thái khích lệ và
biểu dương này là cần thiết đối với tầng lớp DNVN- lực lượng xã hội đang
phát triển và thể hiện vai trò không nhỏ trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nói đến doanh nhân là nói đến đối tượng luôn có khát vọng làm giàu.
Nhưng trước khi là doanh nhân, nếu họ là một công dân yêu nước, biết kết
hợp lợi ích cá nhân với lợi ích của cộng đồng thì việc làm giàu của họ, về cơ
bản, sẽ diễn ra theo xu hướng tích cực, góp phần vào sự phát triển của xã
hội. Bên cạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh thuần tuý, tầng lớp
DNVN, với tư cách là những người có tiềm lực tài chính, năng lực kinh
doanh, đã thể hiện trách nhiệm xã hội, có những đóng góp tích cực vào các
hoạt động cộng đồng… Những việc làm đó, ở một góc độ nhìn nhận, còn
được coi là sự đầu tư dài hạn của doanh nhân, bởi lẽ, một xã hội phát triển
ổn định và phồn vinh, có trình độ tổ chức và văn hoá cao, sẽ là điều kiện
thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nhân.
So với nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI chỉ có 22 đại biểu là doanh nhân
thì nhiệm kỳ Quốc hội khoá XII, số lượng doanh nhân là đại biểu đã tăng
lên 26 người. Thực tế này chứng tỏ rằng, doanh nhân ngày càng giữ vai trò
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước. Xã hội không những đã bắt đầu coi trọng doanh nhân mà còn đang
138
đòi hỏi họ có những đóng góp trong hoạt động lập pháp và hoạch định chính
sách kinh tế.
Trong nhận thức của một bộ phận nhân dân, việc khuyến khích phát
triển kinh tế tư nhân, tầng lớp DNVN dường như là một biểu hiện chệnh
khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đang vận dụng sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong một điều kiện cụ thể, "tận dụng" chủ
nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế tư nhân theo
định hướng xã hội chủ nghĩa còn là một trong những con đường khắc phục
những bất cập trong quản lý kinh tế của nước ta nhằm phát huy tiềm năng
kinh tế trong đời sống nhân dân, giải phóng sức sản xuất để đẩy nhanh và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Doanh nhân đã, đang và sẽ là lực lượng có một vị trí, vai trò nhất định
trong đời sống kinh tế- xã hội. Môi trường hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ ngày càng mở rộng, quan hệ giao tiếp đa chiều trong một con người
với những vai trò và vị thế khác nhau, nhiều khi còn xung đột, mâu thuẫn
nhau ngay từ định hướng giá trị khiến cho sự hình thành nhân cách doanh
nhân nói chung diễn ra khá phức tạp, đòi hỏi DNVN phải tự vượt lên để
khẳng định vị trí, vai trò của mình trong xã hội cũng như trên thương
trường. Môi trường pháp lý hoàn thiện, tâm lý xã hội lành mạnh... sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của tầng lớp doanh nhân vững mạnh, làm
giàu cho mình và góp phần làm giàu cho xã hội trong sự thống nhất giữa ích
nước với lợi nhà.
Các giá trị cũng như các yếu tố văn hóa truyền thống của dân tộc đang
phần nào biến đổi theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Trong bối cảnh đó, DNVN- với tư cách là công dân, không thể
không chịu sự tác động. Tầng lớp DNVN vẫn đang không ngừng góp phần
sản xuất ra của cải vật chất, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người từ
139
mọi giai tầng trong xã hội, đóng góp công sức, trí tuệ vào quá trình phát
triển của nền kinh tế quốc dân trong suốt hơn hai thập kỷ qua.
Ngày 13-10-2004, lần đầu tiên trong lịch sử, tầng lớp DNVN có ngày
truyền thống. Tháng 4-2009, Chính phủ đã quyết định lấy ngày 20-4 hàng
năm là "Ngày Thương hiệu Việt Nam"… Thực tế này chính là biểu hiện rõ
nét nhất về sự tôn trọng và thừa nhận của xã hội đối với doanh nhân. Cùng
với niềm vinh dự là trách nhiệm to lớn đặt ra cho tầng lớp DNVN: “Giáo
dục truyền thống yêu nước, tự cường, chủ động sáng tạo của tầng lớp doanh
nhân, động viên phong trào thi đua sản xuất kinh doanh, nâng cao kỷ luật,
đạo đức văn hoá kinh doanh của các doanh nghiệp, doanh nhân”. Đó cũng
chính là ý nghĩa của Ngày Doanh nhân Việt Nam mà trong Quyết định số
990/QĐ TTg của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ. Báo cáo Chính trị tại Đại
hội X của Đảng cũng đã chủ trương: “Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội
và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư
nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể
cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật
không cấm” [32, 86-87], và “Xoá bỏ mọi phân biệt đối xử theo hình thức sở
hữu; Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số
ngành…” [32, 84].
Để hiện thực hóa chỉ thị của Đảng, thái độ cũng như hành động cần
phải có của các tổ chức chính trị và các giai tầng xã hội đối với DNVN nên là
thái độ tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự tồn tại và phát triển
của tầng lớp xã hội này thông qua hệ thống chính sách cụ thể, thiết thực và
khoa học. Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành một bộ phận cấu thành hữu cơ
của nền kinh tế nhiều thành phần cũng như để tầng lớp DNVN thực sự trở
thành một thành tố hữu cơ trong kết cấu xã hội- giai cấp, cần loại bỏ tư tưởng
cùng chính sách phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế một cách chủ
140
quan duy ý chí. Phải có chính sách tác động vào các thành phần kinh tế tương
xứng với những đóng góp của nó vào nền kinh tế quốc dân. Chỉ với thái độ và
hành động như vậy, tầng lớp DNVN mới tin tưởng và tiếp tục đóng góp cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Khi đang tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa yêu cầu phát triển đất nước
theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh với
thực trạng lạc hậu về trình độ phát triển kinh tế- xã hội, thì chúng ta cần có
cách tiếp cận mới về cơ cấu sở hữu cũng như thành phần kinh tế nhằm khắc
phục tâm lý nặng nề, bất lợi cho việc phát huy tiềm năng của kinh tế tư bản tư
nhân cũng như tầng lớp DNVN. Cần xóa bỏ quan điểm cực đoan về giai cấp
và đấu tranh giai cấp, bóc lột và chống bóc lột; tạo điều kiện để hình thành cơ
chế quản lý thông thoáng và linh hoạt hơn, trước hết để huy động mọi nguồn
lực cho nền kinh tế phát triển bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Báo chí với chức năng tuyên truyền, có tác dụng cải biến sự nhìn nhận,
nâng cao trình độ hiểu biết chung trong xã hội cũng như của toàn bộ các thành
viên trong doanh nghiệp về vị trí và vai trò của những người đang nắm trong
tay quyền sở hữu, quản lý hay điều hành doanh nghiệp. Cần tăng cường
truyền tải những quan niệm mới về vị trí, vai trò của tầng lớp DNVN. Biểu
dương những tấm gương doanh nhân giỏi, có nhiều đóng góp cho cộng đồng,
xã hội, đồng thời phê phán những doanh nhân vi phạm pháp luật, thiếu đạo
đức kinh doanh… Việc xây dựng hình tượng doanh nhân đúng như diện mạo
của họ sẽ góp phần làm cho xã hội nhìn nhận đúng đắn hơn về DNVN, góp
phần tích cực vào sự phát triển tầng lớp xã hội mới này.
Thái độ của các giai tầng xã hội đối với tầng lớp DNVN sẽ ngày càng
được cải thiện song song với những đóng góp thiết thực của doanh nhân vào
đời sống xã hội. Được cộng đồng chính thức thừa nhận, qua những bước
thăng trầm, tầng lớp DNVN đã bắt đầu thực sự trở thành một lực lượng xã hội
141
có vị thế quan trọng, cùng công nhân, nông dân và trí thức trong kết cấu xã
hội- giai cấp tích cực xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới. Doanh nhân trong
các thành phần kinh tế đang góp phần thu hút ngày càng đông đảo thành viên
từ các giai tầng khác trong kết cấu xã hội- giai cấp và kiều bào ta ở nước
ngoài tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh để góp phần làm giàu
cho đất nước. Tầng lớp DNVN và lực lượng lao động của hàng trăm nghìn
doanh nghiệp gắn liền với các giai tầng trong xã hội, làm cho doanh nghiệp,
doanh nhân ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn
kết toàn dân tộc.
DNVN đang có vị trí lịch sử mà họ chưa từng có trong lịch sử. Đã đến
lúc toàn xã hội phải nhìn nhận công bằng hơn với DNVN- tầng lớp xã hội
đang đảm đương những nhiệm vụ nặng nề, mặc dù có thể nhiều người trong
số họ cũng chưa ý thức được đầy đủ để tự rèn luyện bản lĩnh, kinh nghiệm
và phẩm cách của mình.
3.2.2 Nhóm giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tầng lớp
doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội- giai cấp
Trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, việc
nhanh chóng trang bị cho tầng lớp DNVN một bản lĩnh chính trị vững vàng
đang được đặt ra. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khóa IX đã chủ trương: "Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của
các tổ chức chính trị- xã hội… đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng như
trong từng doanh nghiệp tư nhân" [30, 59].
Việc cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân không hạn chế về quy mô
đã trở thành một trong những quyết sách hợp lý và kịp thời của Đảng. Đây
còn là điều kiện thuận lợi để các tổ chức chính trị- xã hội hoà nhập sâu rộng
hơn vào cộng đồng doanh nghiệp, tầng lớp doanh nhân. Thời gian qua, hiệu
quả từ công tác lãnh đạo của tổ chức đảng trong cộng đồng doanh nghiệp,
142
DNVN là không thể phủ nhận. Sau khi được thành lập, các chi bộ đã bám sát
vào sự chỉ đạo của cấp trên để xây dựng nghị quyết và đề ra biện pháp thực
hiện. Có chi bộ mới thành lập nhưng đã chỉ đạo người lao động trong doanh
nghiệp cùng các tổ chức đoàn thể huy động nhân dân tham gia vào các hoạt
động vì cộng đồng như nâng cấp, tu sửa các tuyến đường liên thôn, liên xóm,
vận động quyên góp tiền xây nhà tình nghĩa, giúp đỡ nhiều trẻ em mồ côi, cơ
nhỡ, lập những quỹ khuyến học, tìm ra nhiều biện pháp, cách làm ăn mới giúp
người dân phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần...
Trong nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, tổ chức đảng đã phối hợp chặt
chẽ với chính quyền (hội đồng quản trị hay ban giám đốc) để xây dựng chiến
lược sản xuất kinh doanh, soạn thảo quy chế làm việc, tuyển dụng, sắp xếp,
bố trí cán bộ, vận động người lao động đoàn kết, rèn luyện bản lĩnh chính trị,
ý thức đạo đức, thi đua nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó, người
lao động toàn tâm, toàn ý hoàn thành tốt cả nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ
kinh tế... Những đóng góp trên của các tổ chức đảng trở thành động lực không
nhỏ cho sự phát triển, thành công của doanh nghiệp, tầng lớp DNVN.
Trong các cơ sở sản xuất kinh doanh, hoạt động lãnh đạo và hoạt động
quản lý phải được đặt song song với nhau nếu nhà quản lý muốn tổ chức của
mình ổn định và phát triển bền vững. Hoạt động quản lý là nhiệm vụ chủ yếu
của ban giám đốc hay hội đồng quản trị, còn hoạt động lãnh đạo thường thuộc
nhiệm vụ của tổ chức đảng. Thực tế cho thấy, cơ sở sản xuất kinh doanh nào
có sự phối hợp đồng bộ, linh hoạt giữa tổ chức đảng với hội đồng quản trị,
ban giám đốc thì nơi đó có sự phát triển vững mạnh.
Ở nước ta, những tổ chức đảng được thành lập và hoạt động hiệu quả
chủ yếu nằm trong doanh nghiệp nhà nước, còn doanh nghiệp thuộc khu vực
tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì số lượng tổ chức đảng
đã được thành lập và hoạt động hiệu quả là không nhiều. Tại Thành phố Hồ
143
Chí Minh, số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh là trên 32.000 nhưng đến
nay mới chỉ có khoảng 200 cơ sở đảng được thành lập trong doanh nghiệp.
Theo báo cáo của các tỉnh thành, đến cuối năm 2005, cả nước mới chỉ có
khoảng 421 tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân với 5507 đảng
viên...
Về cơ bản, vai trò của tổ chức đảng và sự thành đạt của doanh nghiệp,
DNVN vận động tỷ lệ thuận với nhau. Doanh nghiệp, doanh nhân tạo điều
cho tổ chức đảng hoạt động thuận lợi bao nhiêu thì tổ chức đảng góp phần vào
sự thành đạt của doanh nghiệp, doanh nhân bấy nhiêu.
Tại Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa- nền
tảng tinh thần của xã hội”. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức đảng trong doanh nghiệp, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 07-CT/TW
ngày 23-11-1996 về tăng cường công tác xây dựng đảng và các đoàn thể nhân
dân trong doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần tư nhân và công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Ban Bí thư Trung ương đã
ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ trong
doanh nghiệp nhà nước (Quy định số 96-QĐ/TW ngày 22-3-2004), doanh
nghiệp có vốn nhà nước liên doanh với nước ngoài (Quy định số 99-QĐ/TW
ngày 4-6-2004), doanh nghiệp tư nhân (Quy định số 100-QĐ.TW ngày 4-6-
2004), công ty cổ phần có vốn nhà nước (Quy định số 140-QĐ/TW ngày 15-
5-2005) và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (Quy định số 141-QĐ/TW
ngày 16-5-2005), Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28-8-2006 của Ban Chấp
hành Trung ương... Đây chính là những cơ sở chỉ đạo để tổ chức đảng trong
doanh nghiệp phát huy vai trò của mình trong việc lãnh đạo doanh nghiệp gắn
kết nhiệm vụ chính trị với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Tại Đại hội X, Đảng
ta cũng chủ trương: "Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định về
144
chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở
đảng, chú trọng các loại hình mới như tổ chức đảng trong các công ty cổ
phần, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài" [32,
298].
Quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng trong cộng
đồng doanh nghiệp, tầng lớp DNVN vẫn đang vấp phải những khó khăn,
thách thức không nhỏ. Nhìn một cách đại thể, hoạt động của tổ chức đảng
trong doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chưa bám sát vào nhiệm vụ kinh tế
của doanh nghiệp, do đó, chưa làm cho doanh nhân thấy được sự cần thiết
thành lập tổ chức đảng cũng như tạo điều kiện phát huy vai trò của tổ chức
đảng trong doanh nghiệp. Không ít DNVN vẫn còn quan niệm rằng, việc
thành lập tổ chức đảng trong doanh nghiệp sẽ dẫn đến sự phân tán quyền lực,
chia sẻ lợi nhuận, gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh, mang tính hình
thức, không thiết thực... Không ít doanh nhân còn tránh tiếp xúc với cấp uỷ,
chính quyền, đoàn thể địa phương khi các tổ chức này đặt vấn đề thành lập tổ
chức đảng. Bên cạnh đó, nhiều đảng viên khi làm việc tại doanh nghiệp tư
nhân hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được sinh hoạt đảng
tại doanh nghiệp mà phải sinh hoạt đảng tại địa phương (do doanh nghiệp
chưa thành lập tổ chức đảng...). Một bộ phận doanh nghiệp, DNVN thì cố tình
không thành lập những tổ chức xã hội- nghề nghiệp trong cơ sở của mình để
dễ dàng bưng bít thông tin, cục bộ giải quyết những khuyết điểm, hạn chế của
doanh nghiệp...
Việc thành lập tổ chức đảng ở doanh nghiệp vừa phải tuân thủ nguyên
tắc nhất quán: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ,
vừa phải căn cứ vào điều kiện, nhu cầu hợp lý của doanh nghiệp, doanh nhân.
Chúng ta thống nhất với quan điểm: sự lãnh đạo của Đảng là toàn diện và duy
nhất và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể thiếu vai trò
145
lãnh đạo của Đảng cũng như doanh nghiệp, DNVN không thể thiếu sự lãnh
đạo trực tiếp của các tổ chức đảng. Sự kết hợp nhiệm vụ chính trị với nhiệm
vụ kinh tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của doanh
nghiệp, DNVN.
Từ khi Đại hội X của Đảng quy định cho phép đảng viên làm kinh tế tư
nhân không hạn chế về quy mô... thì số lượng và chất lượng doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân do đảng viên làm chủ đã không ngừng tăng lên.
Những doanh nghiệp này thường có tổ chức đảng hoạt động hiệu quả, bởi
cương vị bí thư chi uỷ, chi bộ thường do chủ doanh nghiệp nắm giữ. Thực tế
chỉ ra rằng, nếu trong hội đồng quản trị, ban giám đốc không có đảng viên thì
chi uỷ, chi bộ ở doanh nghiệp đó, nếu tồn tại, cũng ít có điều kiện để phát
triển mạnh; như vậy, sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng tới doanh
nghiêp, doanh nhân không hiệu quả. Mặt khác, hiện nay, một số chủ doanh
nghiệp “chưa” muốn vào Đảng, do đó, tuyên truyền, thuyết phục họ phấn đấu
vào Đảng là một trong những nhiệm vụ không dễ của các cơ quan chức năng.
Cho đến nay, tỷ lệ doanh nghiệp trên cả nước đã thành lập tổ chức đảng
và tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức đảng đi vào hoạt động hiệu quả là không
nhiều. Điều đó đồng nghĩa với thiếu sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống
doanh nghiệp cũng như tầng lớp DNVN.
Để phát huy nhanh chóng và mạnh mẽ hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Đảng (tổ chức đảng) trong cộng đồng doanh nghiệp, tầng lớp DNVN, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Về phía các cơ quan chức năng, tăng cường tuyên truyền tới từng
doanh nghiệp, doanh nhân để lực lượng này thấy được vị trí, vai trò, của tổ
chức đảng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hoạt động của chi bộ đảng và đoàn thể cũng không ngoài mục đích là giúp
cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, nhằm đảm bảo sự hài hòa lợi ích doanh
146
nghiệp, nhà nước và người lao động. Mục đích hoạt động của chi bộ đảng và
các đoàn thể trong doanh nghiệp tư nhân là tập hợp, giáo dục người lao động
giác ngộ giai cấp, sống có lý tưởng, nâng cao ý thức kỷ luật lao động, góp
phần nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả trong sản xuất kinh doanh…
Hiện nay, một số quy định liên quan đến tổ chức đảng trong doanh
nghiệp đã bộc lộ những bất cập, chồng chéo, đang là tác nhân gây mất lòng
tin của một bộ phận doanh nhân vào vai trò của tổ chức đảng trong doanh
nghiệp. Trước tình hình đó, phải nhanh chóng tìm ra những điểm bất cập,
chồng chéo để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Nhanh chóng bổ sung, thành lập Đảng bộ khối doanh nghiệp ở các địa
bàn có nhiều doanh nghiệp hoạt động để thuận lợi trong công tác lãnh đạo,
giám sát các tổ chức đảng cũng như lãnh đạo hoạt động của doanh nghiệp,
doanh nhân. Đảng bộ khối doanh nghiệp cần tạo điều kiện cho các tổ chức
đảng trong các doanh nghiệp được thành lập và lãnh đạo, chỉ đạo để các tổ
chức đảng thống nhất về chức năng, nhiệm vụ cơ bản. Đảng bộ khối doanh
nghiệp phải phát huy vai trò là cầu nối để cộng đồng doanh nghiệp, tầng lớp
doanh nhân trao đổi thông tin về công tác xây dựng Đảng, về nghiệp vụ
chuyên môn, liên kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh... Mặt khác, Đảng
bộ khối doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp và chính quyền địa phương
phải thường xuyên phối hợp với nhau để giải quyết những vấn đề tồn tại, bất
cập nảy sinh trong công tác lãnh đạo, quản lý tổ chức đảng.
Phải phân rõ nhiệm vụ, chức năng của từng tổ chức trong doanh nghiệp
để tránh tình trạng "lấn sân", mất đoàn kết. Tổ chức đảng phải tạo điều kiện
thuận lợi để hội đồng quản trị, ban giám đốc thực hiện nhiệm vụ chính trị và
kinh tế theo đúng vai trò, chức năng và phải thường kỳ thông báo kết quả hoạt
động của mình cũng như đề xuất nhu cầu, nguyện vọng của đảng viên, quần
chúng tới hội đồng quản trị, ban giám đốc. Phải phối hợp chặt chẽ với hội
147
đồng quản trị, ban giám đốc để giải quyết những nảy sinh, bất cập trong quá
trình hoạt động của doanh nghiệp.
Việc tôn vinh những doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu, thành đạt
cũng nên bổ sung tiêu chí: có sự tồn tại và hoạt động hiệu quả của tổ chức
đảng trong doanh nghiệp. ở những doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức đảng
thì đảng bộ khối doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cùng chính quyền địa
phương phải tạo điều kiện để bồi dưỡng, khuyến khích quần chúng ưu tú phấn
đấu vào Đảng, thúc đẩy nhanh sự hình thành tổ chức đảng.
Về phía tổ chức đảng trong doanh nghiệp, phải không ngừng đổi mới
phương thức lãnh đạo; cập nhật sự chỉ đạo của cấp trên. Đảng viên phải luôn
bổ sung kiến thức cả về nghiệp vụ của doanh nghiệp cũng như kiến thức xã
hội; tôn trọng chủ doanh nghiệp cũng như người lao động trong doanh
nghiệp... Trên cơ sở này, đề ra những nhiệm vụ cụ thể, thiết thực, gắn sát hơn
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân. Bên cạnh
đó, tổ chức đảng còn phải lãnh đạo, chỉ đạo, giám sát đảng viên, quần chúng
thực hiện những nhiệm vụ kinh tế và chính trị theo đúng chủ trương, đường
lối, điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Trong điều kiện mới, khi tầng lớp DNVN đang có những biến chuyển
mạnh mẽ, bộc lộ cả những ưu điểm to lớn và hạn chế không nhỏ, thì vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với tầng lớp xã hội này được đặt ra cấp thiết. Xét cho
cùng, nhiệm vụ của tổ chức đảng trong doanh nghiệp cũng là hướng tới phát
huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm trong quá trình thực thi nhiệm vụ kinh tế và
chính trị của doanh nghiệp, doanh nhân, tạo nên sự đoàn kết, đồng lòng của
mọi người lao động trong doanh nghiệp, tạo nên động lực to lớn cho sự phát
triển và bền vững của tổ chức. Tổ chức đảng trong doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả sẽ góp phần kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phát triển.
148
3.2.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật của Nhà
nước trong điều chỉnh quan hệ giữa tầng lớp doanh nhân Việt Nam với các
giai cấp, tầng lớp của kết cấu xã hội- giai cấp
Trong xu thế hội nhập, sự liên kết chặt chẽ, toàn diện giữa các giai cấp
và tầng lớp xã hội ở nước ta đang được đặt ra cấp thiết. Thực tế cho thấy,
quan hệ của các giai cấp và tầng lớp xã hội còn tồn tại không ít bất cập. Cần
phải hạn chế, khắc phục những bất cập đó bằng một hệ thống những cơ chế,
chính sách đồng bộ, khoa học nhằm góp phần củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Hiện thực hóa chủ trương của Đảng, nhằm góp phần thiết lập sự hài
hoà trong quan hệ lợi ích giữa giai cấp công nhân và tầng lớp doanh nhân, cần
thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:
Về phía các cơ quan chức năng, tiếp tục cải thiện môi trường sản xuất
kinh doanh cũng như tạo thêm nhiều chính sách thuận lợi nhằm khuyến khích
sự đầu tư của doanh nhân trong và ngoài nước, giúp họ có thể thu được lợi
nhuận một cách chính đáng. Nhà nước phải đảm bảo quyền sở hữu và lợi ích
hợp pháp của các nhà doanh nghiệp, khuyến khích họ đẩy mạnh sản xuất kinh
doanh theo đúng quy định của pháp luật. Chính phủ đang thực hiện một số
giải pháp trước mắt và lâu dài để xây dựng quan hệ lao động hài hòa và ổn
định trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những chính sách đó đã và
đang góp phần giải quyết những khó khăn trước mắt cho cộng đồng doanh
nghiệp, tầng lớp doanh nhân cũng như người lao động trong doanh nghiệp;
nhưng về lâu dài, các cơ quan chức năng cần tập trung khuyến khích doanh
nghiệp, doanh nhân thiết lập những điều kiện cần thiết cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh như trình độ, kỹ năng, công nghệ, nhân lực…
Nhà nước phải đảm bảo quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của doanh
nhân, khuyến khích họ đẩy mạnh đầu tư sản xuất kinh doanh theo đúng quy
149
định của pháp luật. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: "Kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ
không theo hướng chủ nghĩa tư bản". Trong nền kinh tế nhiều thành phần, có
thành phần kinh tế tư bản, mà “nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng
Chính phủ ngăn cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ
quyền lợi của công nhân..." [61, 222-248].
Các cơ quan chức năng đang tiến hành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung
toàn diện Bộ luật Lao động, bao gồm nội dung về quan hệ lao động; xây dựng
và hoàn thiện các thiết chế về quan hệ lao động phù hợp với cơ chế thị trường
và sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam; tăng cường năng lực cho các cơ
quan quản lý Nhà nước cũng như các đối tác xã hội. Các chính sách và giải
pháp cụ thể đang được triển khai để thúc đẩy đối thoại, thương lượng, làm
cho hoạt động này trở nên thực chất hơn theo phương châm 4 thật: “đối tác
thật, đối thoại- thương lượng thật, nội dung thật và thực hiện thật”.
Chấp nhận để kinh tế tư nhân phát triển không có nghĩa là doanh nhân
có thể mặc sức bóc lột sức lao động dưới mọi hình thức. Việc xác định có hay
không có hiện tượng bóc lột sức lao động trong một cơ sở sản xuất kinh
doanh có thể căn cứ vào việc xác định tỷ lệ tiền công và lợi nhuận của cơ sở
đó. Cần đặt ra những tiêu chuẩn của một cơ sở sản xuất kinh doanh không có
biểu hiện bóc lột sức lao động một cách quá đáng và phi pháp. Lưu ý rằng, lợi
nhuận của nhà doanh nghiệp và tiền công của người lao động thường vận
động ngược chiều nhau. Nhà nước cùng các Hiệp hội doanh nghiệp cần có
chính sách nhằm tác động hợp lý hơn vào quá trình phân chia lợi nhuận trong
các cơ sở sản xuất kinh doanh, làm cho việc phân phối không quá thiên về các
doanh nhân, đồng thời, cần có những biện pháp thiết thực nhằm bảo đảm lợi
ích thỏa đáng của người lao động. Cần tạo mối quan hệ hài hòa giữa Nhà
150
nước- nhà doanh nghiệp- người lao động theo phương châm "chủ thợ đều
lợi", "công tư đều lợi".
Để từng bước thực hiện công bằng xã hội nói chung, sự hài hoà trong
quan hệ lợi ích công nhân- doanh nhân mới nói riêng, các cơ quan chức năng
phải có chiến lược điều tiết thu nhập hợp lý, sự điều tiết này không chỉ hướng
vào việc phân phối kết quả sản xuất, mà còn phải hướng vào việc tạo thêm
điều kiện cải thiện thu nhập và nâng cao đời sống cho những nhóm người có
thu nhập thấp, như việc tạo thêm cơ chế để người nghèo hay người có thu
nhập thấp được sở hữu hay sử dụng những yếu tố sản xuất (tài sản sinh lời),
như cổ phần, ruộng đất, công nghệ... Bên cạnh đó, cần có chính sách điều tiết
vĩ mô quan hệ cung- cầu và giá cả thị trường để đảm bảo rằng tiền công của
công nhân là tiền công thực tế chứ không phải là tiền công danh nghĩa (tiền
công đuổi theo sự gia tăng của giá cả thị trường). Có thể dùng những công cụ
điều tiết thu nhập như: thuế thu nhập doanh nhân, thuế sử dụng đất, thuế tài
sản... Các chính sách, công cụ kinh tế đó phải vừa bảo vệ được lợi ích của
người lao động, vừa không làm triệt tiêu hoặc suy giảm động lực đầu tư và
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nhân.
Đẩy mạnh công tác biểu dương dưới nhiều hình thức những DNVN có
thành tích cao trong sản xuất kinh doanh dựa trên một hệ tiêu chuẩn cụ thể;
trong đó, tiêu chí hàng đầu là phải thiết lập được quan hệ hài hòa về lợi ích
kinh tế với người lao động nói riêng và với xã hội nói chung. Hệ tiêu chí đánh
giá một doanh nhân tiêu biểu phải ngày càng được hoàn thiện. Chính phủ, các
Hiệp hội doanh nghiệp cần lập ra một ban thanh tra độc lập với nhiệm vụ chủ
yếu là nghiên cứu, lập kế hoạch, lấy phiếu điều tra trực tiếp từ người lao động
trong những cơ sở sản xuất kinh doanh đánh giá về các doanh nhân trên các
phương diện như thái độ làm việc, cung cách ứng xử, mức độ phân chia lợi
nhuận, thời gian lao động, cường độ lao động, sự quan tâm tới đời sống của
151
người lao động... Quy định này vừa có tác dụng nâng cao ý thức đạo đức, thái
độ làm việc, sự phân chia lợi nhuận... của doanh nhân, vừa góp phần phát huy
những quyền lợi hợp pháp của người lao động. Đảng ta đã từng nhấn mạnh:
“Cần phải thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp. Xây
dựng một hệ thống doanh nghiệp Việt Nam nhiều về số lượng, có sức cạnh
tranh cao, có thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đoàn kinh tế
lớn dựa trên hình thức cổ phần. Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát
triển có hiệu quả các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo
và tôn vinh các doanh nhân có tài, có đức và thành đạt” [32, 84]; và Đảng
cũng chủ trương: "Cổ vũ và biểu dương kịp thời và xứng đáng đối với những
doanh nhân hay đơn vị sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có
đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế- xã hội đất nước, bảo đảm lợi ích
người lao động..." [30, 58].
Tạo cơ chế giám sát để doanh nhân phải đàm phán với người lao động
những thỏa ước liên quan đến sở hữu, tổ chức, quản lý, phân phối… Hoàn
thiện cơ chế giải quyết tranh chấp lao động.
Về phía DNVN, để tạo sự hài hòa về mặt lợi ích trong mối quan hệ với
công nhân, trước hết, doanh nhân phải nắm được và tuân thủ quy định của
Luật Doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động. Công
tác đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ… cần phải trở thành nhiệm vụ
thường xuyên của DNVN- xét cho cùng, cũng là quyền lợi của họ, vì công tác
đào tạo nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác cho công nhân, tạo
điều kiện thuận lợi cho công nhân… sẽ tạo động lực cho công nhân trong lao
động sản xuất, tạo thêm nhiều giá trị thặng dư, góp phần thúc đẩy doanh
nghiệp phát triển mạnh mẽ, nâng cao uy tín của doanh nhân.
152
Doanh nghiêp, doanh nhân cần phối hợp với các cơ sở đào tạo để người
lao động có điều kiện hoàn thiện tay nghề, nâng cao trình độ kiến thức, đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công việc. Không ít nhà khoa học đã từng
cảnh báo rằng: Nếu lãnh đạo doanh nghiệp không bắt tay vào việc phát triển
nhân tài cho chính doanh nghiệp của mình thì sẽ phải trông chờ vào nơi khác,
hoặc phải dùng lương cao và phúc lợi hấp dẫn hơn để thu hút những người mà
chưa chắc kiến thức và kỹ năng của họ khiến bạn hài lòng.
Thường xuyên đào tạo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động,
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho họ một cách thiết thực, hiệu quả…
đang là những nhiệm vụ hàng đầu của doanh nhân trong mối quan hệ với
công nhân. Tạo điều kiện cho người lao động chính là nghĩa vụ, là sự thể hiện
tính nhân văn của chủ doanh nghiệp, là đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh
nghiệp trong giai đoạn hiện nay.
Cần có cơ chế chính sách đồng bộ, phù hợp, tạo động lực cho công
nhân lao động gắn bó với lợi ích lâu dài của doanh nghiệp; có chính sách ưu
đãi công nhân lao động bậc cao, khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân
mua cổ phần của doanh nghiệp; đặc biệt, cần xây dựng phương thức phân
phối phù hợp với chủ trương của Đảng: “Chính sách phân phối và phân phối
lại phải bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh
nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích
quốc gia” [8, 77].
Về phía công nhân, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát
triển mạnh mẽ, quá trình toàn cầu hóa kinh tế trên thế giới đòi hỏi giai cấp
công nhân nước ta phải không ngừng học tập để có thể bắt kịp xu thế phát
triển của thời đại, có thể vận hành được các công cụ lao động ngày càng hiện
đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao
động để xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
153
đại hóa đất nước. Trong quan hệ sản xuất, trước hết, công nhân phải thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, mặt khác, phải có sự ứng xử thích hợp
với người sử dụng lao động trên tinh thần hai bên cùng có lợi. Khi đề cập đến
mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh
nghiệp, Bác Hồ từng động viên công nhân: “…anh chị em thợ cũng để cho
chủ được số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức. Chủ và thợ đều tự giác tự
động, tăng gia sản xuất lợi cả đôi bên” [61, 222-248].
Để tăng cường mối quan hệ giữa doanh nhân và nông dân, cần phải tiến
hành đồng bộ các giải pháp sau:
Về phía các cơ quan chức năng, cần tạo điều kiện thuận lợi hơn để
khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân tích cực đầu tư vào lĩnh vực nông
nghiệp. Tạo điều kiện về thủ tục thành lập, thuê đất, giải phóng mặt bằng, vay
vốn, thuế, liên kết sản xuất kinh doanh, tìm kiếm và xử lý thông tin thị trường.
Ưu tiên các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản,
phục hồi, phát triển làng nghề nông thôn, thu hút, sử dụng lao động nông
thôn. Xây dựng những quy định cụ thể hơn xung quanh vấn đề ký kết các hợp
đồng kinh tế giữa doanh nhân với nông dân. Để doanh nghiệp gắn bó chặt
chẽ, lâu dài với nông dân, cần đưa ra cơ chế tối ưu để doanh nghiệp thành lập
quỹ hỗ trợ rủi ro (bảo hiểm) hỗ trợ nông dân trong quá trình lao động sản
xuất. Phải hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện thuận lợi để nông dân có thể bán
nông sản cho các doanh nghiệp, doanh nhân. Tăng cường đầu tư, hỗ trợ xây
dựng vùng sản xuất quy mô lớn, vùng nguyên liệu tập trung để thúc đẩy các
hình thức liên kết, hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ giữa doanh nhân và nông
dân.
Thành lập các Hiệp hội doanh nghiệp nông nghiệp- nông thôn trên cơ
sở liên kết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp với các
hợp tác xã, hội nông dân, cán bộ chuyên trách nông nghiệp, nông dân… Tổ
154
chức trung gian này có nhiệm vụ đại diện cho quyền và lợi ích của các doanh
nghiệp, hợp tác xã và nông dân trước pháp luật, tạo môi trường liên kết, hợp
tác cho các hội viên trong sản xuất kinh doanh, xúc tiến thương mại, dịch vụ
đầu tư, nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng, chuyển giao công nghệ,
làm “trọng tài” trong giải quyết tranh chấp kinh tế giữa các hội viên, thường
xuyên cung cấp thông tin cũng như đào tạo, bồi dưỡng các doanh nghiệp và
hợp tác xã... Các cơ quan chức năng cần có những chính sách giám sát quá
trình ký kết hợp đồng giữa doanh nhân và nông dân, từ đó ngăn chặn, xử lý
kịp thời những biểu hiện tiêu cực của các bên tham gia hợp đồng. Khuyến
khích và tạo điều kiện cho doanh nhân liên kết với các hợp tác xã nông nghiệp
của nông dân để hình thành một quy trình khép kín trong quá trình sản xuất và
tiêu thụ nông sản, từng bước quảng bá và xây dựng thương hiệu hàng hóa
nông sản cho nông dân…
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ở những nước nông nghiệp chiếm đa số,
công nghiệp chỉ có thể phát triển mạnh nếu sức mua của nông dân mạnh. Đầu
tư cho nông nghiệp, nông dân cũng là gián tiếp đầu tư cho công nghiệp. Khi
khu vực nông nghiệp, nông thôn phát triển thuận lợi, đời sống nông dân khá
lên nhanh chóng, khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn sẽ
được rút ngắn lại tương ứng. Do vậy, phải đưa những cơ chế hữu hiệu vào
chiến lược xây dựng và phát triển nông nghiêp, nông dân, nông thôn, ở đó,
cần phân định rõ vị trí, vai trò cũng như nhiệm vụ của tầng lớp DNVN.
Về phía DNVN, khi cổ phần hóa doanh nghiệp thu mua, chế biến, kinh
doanh nông sản, nên dành một số lượng cổ phiếu ưu đãi nhất định cho nông
dân vùng nguyên liệu nhằm thúc đẩy sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nhân và
nông dân. Doanh nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và nông dân
phải dựa sát vào nhu cầu, điều kiện của nhau để hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Doanh nghiệp, doanh nhân cần phải thiết lập chiến lược đầu tư khoa
155
học hơn thay cho tình trạng ký hợp đồng hàng loạt với nhiều hộ nông dân như
hiện nay để tránh tình trạng khó quản lý, giàn trải. Nếu doanh nghiệp, doanh
nhân chỉ ký hợp đồng mà không đầu tư chi phí sản xuất cho người nông dân
thì nông dân có thể sẽ phá vỡ hợp đồng... Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp cần có những biện pháp hỗ trợ nông dân ở những vùng
nguyên liệu để họ có thể nâng cao kỹ năng lao động, tạo ra những sản phẩm
nông nghiệp có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu
của doanh nghiệp, doanh nhân.
Về phía nông dân, trong điều kiện hội nhập, để không bị tụt lại ngày
càng xa so với các giai tầng trong kết cấu xã hội- giai cấp, nông dân Việt Nam
cũng cần phải được đào tạo nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng lao động...
Nhiệm vụ này sẽ được giải quyết một cách tối ưu nếu có sự phối hợp của các
cơ quan chức năng cũng như các giai tầng xã hội, trong đó có tầng lớp
DNVN. Về phía nông dân, bên cạnh việc tự giác học tập nâng cao trình độ, kỹ
năng lao động, nông dân phải tuân theo hợp đồng kinh tế đã ký với doanh
nhân… Để gắn bó được với doanh nghiệp, doanh nhân cũng như để đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường thì trước hết, nông dân cần liên kết
chặt chẽ với nhau.
Theo thống kê, hiện nay tỷ lệ nghèo của cả nước ta là khoảng 14,7%,
trong đó có trên 90% là nông dân. Phần lớn nông dân mới chỉ sử dụng khoảng
60% thời gian lao động và còn lao động dưới dạng thủ công, năng suất thấp.
Doanh nhân cần nghiên cứu để khai thác tiềm năng không nhỏ của lực lượng
lao động nhàn rỗi ở nông thôn, như thành lập, khôi phục các làng nghề thủ
công truyền thống, có chính sách thu hút, sử dụng nguồn lao động này...
Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước, nông thôn Việt Nam vẫn là một trong những khu vực cung cấp lao động
chính và là thị trường tiềm năng của xã hội. Chúng ta không thể để cho sản
156
lượng nông nghiệp bị giảm sút như một số nước đã hoàn thành công nghiệp
hóa trước đây. Trong xu thế hội nhập, năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, doanh nhân cũng như của các thương hiệu hàng hoá không chỉ là ở
nguồn tài nguyên dồi dào, nguồn nhân công rẻ hay những ưu đãi của các cơ
quan chức năng... mà là sự tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá một
cách bền vững, được xây dựng trên cơ sở liên kết chặt chẽ giữa các mắt khâu
của quá trình tạo ra sản phẩm. Không thể xây dựng cũng như tác động đến
khu vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn một cách biệt lập, mà phải liên kết
với các “nhà” khác, trong đó không thể thiếu nhà doanh nghiệp.
Để tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cũng
như giữa trí thức và doanh nhân, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Về phía các cơ quan chức năng, phải tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa
cho sự liên kết giữa doanh nhân và trí thức: tạo môi trường kinh doanh minh
bạch, thông thoáng, ổn định, trong đó mọi doanh nghiệp, doanh nhân được
cạnh tranh bình đẳng và được đối xử công bằng. Môi trường đó phải bao gồm
hệ thống pháp luật, hành chính hữu hiệu, đội ngũ công chức có năng lực
chuyên môn và có đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo sự cung ứng các dịch vụ hạ
tầng, giáo dục- đào tạo, khoa học công nghệ và các dịch vụ khác... Bên cạnh
đó, phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để không
chỉ doanh nhân mà ngay cả đội ngũ trí thức nước ta có môi trường cạnh tranh,
đào thải mạnh mẽ hơn và thể hiện tối đa năng lực của bản thân trong quá trình
học tập, nghiên cứu cũng như ứng dụng...
Các Hiệp hội doanh nghiệp cũng như các tổ chức quản lý doanh nghiệp
cần tăng cường chủ động liên kết với các cơ sở đào tạo trong nước và quốc tế
để qua đó, các tổ chức trên có cái nhìn đầy đủ hơn về mục đích, nhu cầu của
nhau, từ đó dễ dàng bao quát, chỉ đạo sự liên kết, phối hợp giữa trí thức và
doanh nhân... Chính phủ cũng như các hiệp hội doanh nghiệp cần tạo cơ chế
157
khuyến khích doanh nhân tham gia các khóa đào tạo cần thiết cho hoạt động
quản lý, kinh doanh cũng như rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị trong tình
hình mới. Có những chính sách ràng buộc mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo với
doanh nghiệp, doanh nhân, chẳng hạn như đưa ra cơ chế: doanh nghiệp,
doanh nhân thành đạt phải có “nguồn” đào tạo nhân sự vững chắc; cơ sở đào
tạo uy tín phải có “nguồn” đầu ra ổn định...
Về phía các cơ sở đào tạo, cần xác định rõ: doanh nghiệp là đối tác
chiến lược của mình nhằm tiến tới xã hội hoá việc đào tạo theo đơn đặt hàng
của doanh nghiệp, doanh nhân. Trên tinh thần: "đào tạo theo nhu cầu của xã
hội", các cơ sở đào tạo cần chủ động mời doanh nhân tham gia vào hội đồng
khoa học, đào tạo của mình, tranh thủ ý kiến đóng góp của họ để công tác đào
tạo đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường nói chung, doanh
nghiệp, DNVN nói riêng. Sự tham gia của doanh nghiệp, doanh nhân vào quá
trình đào tạo sẽ không chỉ dừng lại ở việc thoả thuận về tiếp nhận học sinh,
sinh viên thực tập hay sau khi tốt nghiệp hoặc hỗ trợ trang thiết bị dạy học,
học bổng... mà các cơ sở đào tạo cần xây dựng chương trình đào tạo, giáo
trình, tài liệu học tập và giảng dạy mà trong đó có sự tham gia của cộng đồng
doanh nghiệp, doanh nhân hay các đơn vị tuyển dụng lao động. Cơ sở đào tạo
cần nhìn nhận doanh nghiệp, doanh nhân cùng các cơ sở tuyển dụng lao động
như những “cơ sở khám chữa bệnh” của mình. Thông qua đó, các cơ sở đào
tạo có thể điều chỉnh quá trình đào tạo của mình cho phù hợp với yêu cầu của
nhà tuyển dụng.
Về phía doanh nghiệp, doanh nhân, phải thấy rằng, các cơ sở đào tạo là
hậu phương, đội ngũ trí thức là một trong những điều kiện tiên quyết để
doanh nghiệp phát triển thông qua việc cung ứng nhân lực, cải tiến công nghệ.
Doanh nhân phải đầu tư vào toàn bộ hệ thống nhân lực, hoàn thiện cơ chế thu
hút, ưu đãi và sử dụng nhân lực một cách đồng bộ và khoa học. Theo tinh
158
thần đó, hai bên cùng tạo lập chiến lược hợp tác, cùng triển khai các giải pháp
nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào giải quyết các
vấn đề đặt ra ở doanh nghiệp cũng như ở cơ sở đào tạo...
Chính phủ đã thông qua đề án phát triển thị trường công nghệ và ban
hành nghị định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa
học công nghệ công lập. Đây là một cơ sở thuận lợi cho các tổ chức khoa học
công nghệ chủ động nắm bắt nhu cầu đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp để định hướng cho hoạt động của mình.
Tóm lại, quan hệ của tầng lớp DNVN với các giai tầng xã hội khác
trong kết cấu xã hội- giai cấp là quan hệ tương hỗ; sự tồn tại, phát triển của
giai tầng xã hội này phụ thuộc vào sự tồn tại, phát triển của giai tầng xã hội
khác. DNVN đã và đang thể hiện vai trò quan trọng của mình trong nền kinh
tế quốc dân thông qua sự liên kết ngày càng chặt chẽ với các giai tầng xã hội
khác vì lợi ích chung. Phải thừa nhận rằng, mối quan hệ đa chiều này còn
không ít bất cập, nhưng hoàn toàn có thể khắc phục, để khối đại đoàn kết toàn
dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển.
3.2.4 Nhóm giải pháp phát huy trách nhiệm của những tổ chức chính trị- xã
hội và nghề nghiệp đại diện cho các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội-
giai cấp đối với tầng lớp doanh nhân Việt Nam
Để phát huy vai trò của tầng lớp DNVN, không thể không tăng cường
trách nhiệm và sự liên kết giữa những tổ chức chính trị- xã hội và nghề nghiệp
đại diện cho các giai cấp, tầng lớp cơ bản trong kết cấu xã hội- giai cấp, trong
đó, trước hết là các tổ chức: Công đoàn, Hội Nông dân, Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam…
Trong giai đoạn hiện nay, việc tập hợp doanh nghiệp lại để hình thành
các Hội, Hiêp hội ngành nghề nhằm huy động sức mạnh tập thể, góp phần
159
khẳng định vị thế cũng như sức mạnh của tầng lớp DNVN là một trong những
đòi hỏi quan trọng. Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (VCCI), xuất phát từ nhu cầu "buôn có bạn, bán có phường", đến
nay cả nước có trên 300 hiệp hội doanh nghiệp. Qua các vụ việc tranh chấp
thương mại cho thấy việc kinh doanh đơn lẻ đã gặp không ít rủi ro, buộc
doanh nghiệp, doanh nhân phải liên kết lại để cùng thành công trên thương
trường, vì lợi ích cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân cũng như lợi ích của
xã hội. Hiệu quả của sự liên kết này đã bước đầu được thể hiện: một số hiệp
hội như chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), Hiệp hội Xe đạp
và xe máy, Hội Thuỷ sản, Hiệp hội Dệt- May, Hiệp hội Thép... đã tích cực
tham gia các vụ kiện chống phá giá và thu được những kết quả nhất định.
Tuy vậy, số lượng hiệp hội doanh nghiệp hoạt động hiệu quả như trên
chưa nhiều. Sự liên kết của các doanh nghiệp nhìn chung vẫn chỉ dừng lại ở
trạng thái sơ khai, chưa có chiến lược cụ thể, hoạt động theo kiểu "mạnh ai
nấy làm". Lợi ích của doanh nghiệp, doanh nhân này chưa được gắn kết chặt
chẽ với lợi ích của doanh nghiệp, doanh nhân kia, do đó chưa tạo được sự
đồng thuận cũng như sức mạnh tổng hợp. Sự linh hoạt và chủ động trong việc
vận động thành viên tham gia còn chưa cao cũng như chưa có chiến lược cụ
thể trong quá trình hoạt động. Quá trình đóng góp, phản biện nhằm bảo vệ
quyền lợi của các thành viên chưa chuyên nghiệp… Thực trạng này đã làm
giảm uy tín của Hiệp hội doanh nghiệp trên thương trường. Trước tình hình
đó, việc nâng cao trách nhiệm của các Hiệp hội doanh nghiệp trong quá trình
tồn tại, phát triển của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân được đặt ra cấp
thiết.
Để phát huy vai trò của tầng lớp DNVN trong mối quan hệ với giai cấp
công nhân, các hiệp hội doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam… cần phối hợp chặt chẽ với tổ chức công đoàn cơ sở. Thời gian
160
qua, mối quan hệ lao động tại không ít doanh nghiệp (đặc biệt là khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh) còn nhiều bất cập, biểu hiện ra ngoài xã hội bằng nhiều
cuộc đình công, lãn công của công nhân. Nguyên nhân chính là do, chủ doanh
nghiệp không thực hiện đúng, đầy đủ các chế độ chính sách cho người lao
động (tiền lương, phúc lợi xã hội…).
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp, doanh nhân không xây dựng ngay
thang bảng lương khi áp dụng chế độ tiền lương mới dẫn đến việc người lao
động bị thiệt thòi. Tất nhiên, khi quyền lợi chính đáng bị vi phạm đến một
mức độ nhất định, người lao động sẽ có phản ứng. Trước tình hình này, một
số công đoàn cơ sở đã nhanh chóng phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp
giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh giữa chủ doanh nghiệp và người lao
động, giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, chủ doanh nghiệp yên tâm đầu tư,
công nhân yên tâm lao động. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, vị trí, vai trò của công
đoàn cơ sở cũng như của hiệp hội doanh nghiệp còn mờ nhạt, chưa thực hiện
đúng, đầy đủ chức năng của mình, còn lúng túng trong việc giải quyết các
mâu thuẫn phát sinh trong quá trình lao động.
Mâu thuẫn trong quan hệ lao động cũng xuất phát từ năng lực còn hạn
chế của không ít cán bộ công đoàn, cán bộ hiệp hội. Phần lớn cán bộ công
đoàn trong các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là cán bộ kiêm
nhiệm, hưởng lương của doanh nghiệp, bị phụ thuộc lợi ích kinh tế vào doanh
nghiệp, doanh nhân…
Trong nhiều doanh nghiệp, công đoàn chỉ có thể hoạt động tốt khi chủ
doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng
chưa đưa ra cơ được chế hữu hiệu để bảo vệ cán bộ công đoàn...
Với vai trò là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng
cho người lao động, tổ chức công đoàn trong thời gian tới cần đổi mới nội
dung, phương thức hoạt động, tăng cường liên kết với các tổ chức đại diện
161
cho doanh nghiệp, doanh nhân nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục cho cả
chủ doanh nghiệp và công nhân lao động hiểu biết đầy đủ về pháp luật lao
động, thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
công đoàn cần vận động người lao động tham gia vào nhiều hoạt động của
doanh nghiệp, nhằm làm cho người lao động ngày càng gắn bó với doanh
nghiệp…
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa tầng lớp DNVN với giai cấp nông
dân, sự phối hợp giữa các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, doanh nhân với
Hội Nông dân là việc làm cần thiết.
Thực tế cho thấy, bản thân người nông dân nhiều khi không thể giải
quyết được hết những vấn đề phát sinh trong mối quan hệ kinh tế với doanh
nhân, mà phải thông qua các tổ chức đại diện của mình. Hiệp hội Doanh
nghiệp liên kết chặt chẽ với Hội Nông dân sẽ góp phần thiết lập điều kiện liên
kết, hợp tác giữa doanh nhân và nông dân. Các tổ chức đại diện cho nông dân
và doanh nhân có vai trò là “cầu nối” giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa
các hội viên, hạn chế tối đa thiệt hại, đảm bảo cạnh tranh đúng pháp luật, tạo
sự đồng thuận và hài hòa về lợi ích giữa hai lực lượng xã hội này…
Để củng cố và phát triển mối quan hệ giữa doanh nhân và trí thức, không
thể thiếu vai trò của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Tổ
chức đại diện cho đội ngũ trí thức này cần tăng cường phối hợp với các Hiệp
hội doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhằm đào
tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, đào tạo lại lực lượng lao động,
cung cấp các dịch vụ tư vấn, thông tin, nghiên cứu thị trường, xúc tiến xuất
khẩu và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, muốn theo kịp trình độ phát triển
của lực lượng doanh nhân ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới, muốn sử dụng thành thạo các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến để
162
phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cùng với xu hướng liên
kết chặt chẽ của các tổ chức đại diện cho các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu
xã hội- giai cấp, DNVN phải không ngừng học tập nhằm nâng cao trình độ
kiến thức và năng lực quản lý. Là một tầng lớp xã hội mới trong kết cấu xã
hội- giai cấp, lại đang tồn tại và phát triển trong một điều kiện xã hội còn
nhiều yếu tố khá phức tạp- các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn có ý
định chống phá nhằm xóa bỏ con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa
chọn… Nếu không được trang bị một khối lượng kiến thức cơ bản, một bản
lĩnh chính trị vững vàng, một thế giới quan khoa học, DNVN sẽ chệch hướng
trong tư tưởng và hành động. Thực tế cho thấy, trước sự cám dỗ không nhỏ
của lợi ích vật chất, một bộ phận DNVN đã trở nên tha hóa, biến chất, thậm
chí “quay lưng” lại với dân tộc ta, nhân dân ta. Trước tình hình này, vai trò
của các tổ chức đại diện cho các giai tầng được đặt ra ngày càng cấp thiết.
Kết luận chƣơng 3:
Để tạo sự hài hòa về lợi ích giữa tầng lớp DNVN với các giai tầng
trong kết cấu xã hội- giai cấp, cần phải đi từ việc thay đổi cách nhìn nhận còn
sai lệch của một bộ phận nhân dân trong xã hội về tầng lớp DNVN. Trong xu
thế hội nhập kinh tế quốc tế, mọi tầng lớp nhân dân cần thay đổi sự nhìn nhận
về một tầng lớp xã hội đã có nhiều biến đổi mạnh mẽ và ngày càng thể hiện
vai trò không nhỏ của mình trong nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở thống nhất
cao trong quan điểm nhìn nhận của các giai cấp, tầng lớp trong kết cấu xã hội-
giai cấp về tầng lớp xã hội này, xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm
tác động, điều chỉnh mối quan hệ của DNVN với các giai tầng xã hội khác.
Điều kiện cần để các giải pháp phát huy vai trò của tầng lớp DNVN có thể
thành công, là sự lãnh đạo của Đảng, sự ủng hộ của các giai cấp, tầng lớp xã
hội, sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức đại diện cho các giai cấp, tầng lớp
trong kết cấu xã hội- giai cấp… Hệ thống giải pháp đồng bộ từ tư tưởng đến
163
hành động cũng như sự ủng hộ của tất cả các tầng lớp nhân dân sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển hợp quy luật của tầng lớp DNVN- với tư cách là
một bộ phận hữu cơ của kết cấu xã hội- giai cấp trong thời kỳ đổi mới ở nước
ta.
164
KẾT LUẬN
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
của Đảng đã xác định: “Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài
trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa,
góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh
tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội
nhập kinh tế quốc tế” [60, 57-58]. Kinh tế tư nhân gắn liền với sở hữu tư nhân
là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, trong đó chủ thể của nó-
tầng lớp DNVN hoạt động lao động một cách tự chủ vì lợi ích của bản thân,
và thông qua đó thực hiện nghĩa vụ và đem lại lợi ích cho xã hội.
Hiện nay trên thế giới, kinh tế tư nhân là khu vực cung cấp khối lượng
sản phẩm nhiều nhất cho xã hội. Sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân cũng
như tầng lớp DNVN là lâu dài trong nền kinh tế quốc dân, bắt nguồn từ quy
luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Mặc dù có không ít vấn đề đã và đang nảy sinh trong quá trình tồn tại
và phát triển của tầng lớp DNVN, nhưng dẫu sao, đây lại là một trong những
lực lượng xã hội có tiềm năng lớn để phát huy tiềm lực kinh tế của quốc gia.
Tầng lớp DNVN sẽ ngày càng gắn lợi ích của mình với lợi ích của giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức cũng như toàn thể nhân dân
lao động. Quan hệ giữa tầng lớp DNVN với các giai tầng trong xã hội là quan
hệ nội bộ nhân dân, hợp tác và đấu tranh vì mục tiêu chung: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc bổ sung thêm những cơ
chế phù hợp để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của tầng lớp DNVN là đòi hỏi
165
cấp bách. Phát huy vai trò của tầng lớp DNVN là vấn đề chiến lược lâu dài,
động lực quan trọng để phát triển kinh tế- xã hội.
Sự tồn tại và phát triển của tầng lớp DNVN qua những thăng trầm đã
chứng tỏ tầng lớp này có khả năng tự điều chỉnh vươn lên vượt qua những
khó khăn và biến động về chính trị, kinh tế- xã hội. Tuy vậy, năng lực của
tầng lớp DNVN hiện nay vẫn chưa được phát huy một cách đầy đủ do nhiều
nguyên nhân, trong đó có sự chậm trễ trong việc hiện thực hoá chủ trương đổi
mới của Đảng; thiếu khoa học trong cơ chế, phối hợp hoạt động của các cơ
quan chức năng; nhìn nhận còn sai lệch của một bộ phận nhân dân trong xã
hội cũng như năng lực còn hạn chế của bản thân tầng lớp doanh nhân...
Khó khăn trên con đường phát triển của tầng lớp DNVN còn không ít.
Nhưng những quan điểm, giải pháp hợp lý cũng như các đề xuất thiết thực sẽ
góp phần tạo điều kiện cho tầng lớp DNVN phát triển hợp quy luật trong nền
kinh tế quốc dân.
Từ thời điểm mà từ doanh nhân chưa có chỗ trong từ điển tiếng Việt
tới lúc được nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng, đến khi
DNVN có ngày truyền thống của mình và sắp tới, có Nghị quyết của Đảng
về doanh nhân... là sự ghi nhận, động viên lớn lao của xã hội đối với tầng
lớp DNVN.
Mặc dù vậy, các vấn đề thời sự xung quanh mối quan hệ giữa tầng lớp
doanh nhân với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và
các giai tầng khác trong kết cấu xã hội- giai cấp; phương thức lãnh đạo của
Đảng và quản lý của Nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp, tầng lớp doanh
nhân; trách nhiệm xã hội của doanh nhân… vẫn là những đề tài cần phải
được tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay.
166
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Vũ Tiến Dũng (2004), Phát triển kinh tế tư nhân và sự hình thành tầng lớp
tư sản dân tộc ở nước ta hiện nay, Tap chí Triết học, số 6 (157)
2. Vũ Tiến Dũng (2005), Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của
nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở Hà Nội hiện
nay, Tuyển tập báo cáo Hội nghị khoa học công nghệ lần thứ 14, Trường Đại
học xây dựng
3. Vũ Tiến Dũng (2007), Phát triển kinh tế tư nhân và sự hình thành, phát
triển đội ngũ doanh nhân mới ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học, số 3
4 Vũ Tiến Dũng (2007), Một số giải pháp phát triển đội ngũ doanh nhân Việt
Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7
5 Vũ Tiến Dũng (2007), Xây dựng cộng đồng doanh nhân Việt Nam hùng
mạnh, Tạp chí Cộng sản, số 780
6 Vũ Tiến Dũng (2007), Làm gì để tạo sự đồng thuận trong cộng đồng các
doanh nhân Việt Nam trước yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế?,
Tạp chí Mặt trận, số 48
7 Vũ Tiến Dũng (2008), Tăng cường mối quan hệ giữa trí thức và doanh nhân
Việt Nam trong đào tạo nguồn nhân lực, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5
8 Vũ Tiến Dũng (2008), Nhìn nhận về vị trí, vai trò của tầng lớp doanh nhân
Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, số 60
9 Vũ Tiến Dũng (2008), Tạo sự hài hòa về lợi ích giữa công nhân và doanh
nhân ở Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 3 (202)
167
10 Vũ Tiến Dũng (2009), Vai trò tầng lớp doanh nhân mới trong phát triển
kinh tế- xã hội và xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, Tạp chí Mặt trận,
số 66
11 Vũ Tiến Dũng (2009), Tăng cường mối quan hệ giữa nông dân và doanh
nhân ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 800, tháng 6.
12. Vũ Tiến Dũng (2010), Bước đầu tìm hiểu về tầng lớp doanh nhân Việt Nam, Tạp chí Mặt trận, số 75
168
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Văn Ân (2004), Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế nhiều thành phần, Tạp chí cộng sản, số 8, Cơ quan Lý luận và Chính trị của
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Minh Anh (2005), Tiêu chuẩn dùng người của 500 tập đoàn hàng đầu thế
giới, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
3. Vũ Đình Bách (chủ biên) (2004), Một số vấn đề về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
4. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam (2006), Hội thảo Văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân trong
quá trình hội nhập, Hà Nội
5. Ban Chấp hành Trung ương khóa X (2008), Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội
nghị lần thứ bảy, website www.cpv.org.vn
6. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu các Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy BCHTƯ Đảng khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
7. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, , Hà Nội
8. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Tài liệu nghiên cứu các nghi quyết
Hội nghị Trung ương 6, khóa X, Hà Nội
9. Báo Cứu Quốc, số 66, ngày 13/10/1945
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), Báo cáo đánh giá tình hình thi hành Luật
doanh nghiệp, Hà Nội
169
12. Bộ luật lao động (Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, năm 2006) (2007),
NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội
13. Bộ Thương mại (2006), Doanh nghiệp, sản phẩm và dịch vụ, NXB Thế
giới, Hà Nội
14. Trần Ngọc Bút (2002), Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ
nghĩa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
15. Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam (2004), Doanh nhân Việt Nam xưa và
nay, NXB Thống kê, Hà Nội
16. Câu lạc bộ Văn hóa doanh nhân (2005), Tạp chí Văn hóa doanh nhân Việt
Nam, số 1&2
17. Trần Thị Minh Châu (2001), Thái độ của cư dân Việt Nam với kinh tế thị
trường và kinh doanh, Nghiên cứu kinh tế, , số 272, Viện Kinh tế học- Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
18. Huệ Chi, Lương công nhân FDI không cao như mong đợi, webside
www.antd.vn
19. CT, Ba mươi nữ doanh nhân tiêu biểu được trao cúp Bông hồng vàng,
webside www.anninhthudo.vn
20. Tô Xuân Dân (2003), Cơ chế chính sách đặc thù phát triển Thủ đô Hà
Nội: một số định hướng cơ bản, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội
21. Trần Quốc Dân (2003), Tinh thần doanh nghiệp và giá trị định hướng của
văn hoá kinh doanh Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
22. Lê Đăng Doanh (2005), Doanh nhân, doanh nghiệp và cải cách kinh tế,
NXB Trẻ Thời báo kinh tế Sài Gòn
23. Nguyễn Hồng Dung (2007), Lương Văn Can Xây dựng đạo đức kinh
doanh cho người Việt, NXB Trẻ, Hà Nội
24. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần
thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội
170
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban
chấp hành Trung ương khóa VII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
27. Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Hà Nội
29. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
30. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
31. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Tạp chí Cộng sản, số 13 (181)
34. Phạm Văn Đức (2002), Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã
hội trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí triết học, số 1
(128), Viện Triết học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
35. Trần Văn Giàu (1957), Giai cấp công nhân Việt Nam, NXB Sự thật, Hà
Nội
36. Nguyễn Ngọc Hà (2003), Có phải làm kinh tế tư bản tư nhân là bóc lột,
Tạp chí triết học, số 3 (142), Viện Triết học, Trung tâm Khoa học Xã hội và
Nhân văn
37. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 1992 (2002).
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
171
38. Trịnh Vĩnh Hội (2006), Vai trò của giám đốc doanh nghiệp trong nền kinh
tế Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội
39. Hội đồng lý luận Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình Tư
Tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
40. Hội đồng lý luận Trung ương (2004), Vững bước trên con đường đã chọn,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
41. Hội thảo Chiến lược quốc gia về phát triển doanh nghiệp và đội ngũ
doanh nhân Việt Nam (2006), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
Hà Nội
42. Nguyễn Huy (2002), “Bóc lột" và hướng giải quyết "vấn đề bóc lột" trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí
triết học, số 12 (139), Viện Triết học, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân
văn
43. Phan Văn Khải, Dương Trung quốc, Doanh nhân Việt Nam- tâm và tài
(2005), NXB Trancosin, Hà Nội
44. Komai Zanos (2002) Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, NXB Văn
hoá Thông tin, Hà Nội
45. Nguyễn Thị Lan, Đánh giá của người dân về năng lực kinh doanh của các
chủ doanh nghiệp tư nhân, Tâm lý học,Viên nghiên cứu, Viện tâm lý học và
Nhà sử học Dương Trung Quốc, Trang Wed-dnvn.com
46. Nguyễn Thị Lan (2006), Nhìn nhận của người dân về đạo đức kinh doanh
của các chủ doanh nghiệp tư nhân, Tâm lý học, số 5, Viện Nghiên cứu, Viện
Tâm lý học và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
47. Nguyễn Kim Lân (2005), Doanh nhân thời hiện đại: khởi nghiệp- thăng
tiến- thành đạt, NXB Giáo dục, Hà Nội
48. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36 (1977), NXB Tiến bộ, Mátxcơva
172
49. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37 (1977), NXB Tiến bộ, Mátxcơva
50. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39 (1977), NXB Tiến bộ, Mátxcơva
51. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 40 (1978), NXB Tiến bộ, Mátxcơva
52. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 43 (1978), NXB Tiến bộ, Mátxcơva
53. Vũ Tiến Lộc (2004), Để cộng đồng doanh nhân Việt Nam là lực lượng
chủ lực, xung kích trong công cuộc chấn hưng kinh tế đất nước, Tạp chí cộng
sản, số 21, Cơ quan Lý luận và Chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam
54. Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân và hướng dẫn thi hành
(1991), Nxb Pháp lý, Hà Nội
55. Luật Công ty. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật công ty. Luật
doanh nghiệp tư nhân. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật doanh tư
nhân (1994), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
56. Luật cạnh tranh và văn bản hướng dẫn thi hành (2005), NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội
57. Luật Doanh nghiệp năm 2005 (2006), NXB Tư pháp, Hà Nội
58. Luật Thương mại (2006), NXB Lao động, Hà Nội
59. T.Lưu, 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa không có chiến lược đầu tư cho
khoa học công nghệ, webside www.kinhte.com
60. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1 (2002), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
61. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7 (1996), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
62. C.Mác-F.ăngghen, Toàn tập, tập2, (1980), NXB Tiến Bộ, Mátxcơva
63. C.Mác-F.ănggen, Toàn tập, tập 3 (1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
64. C.Mác-F.ăngghen, Toàn tập, tập 4 (1987), NXB Sự thật, Hà Nội
65. C.Mác-F.ănggen, Toàn tập, tập 13 (1993), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
173
66. C.Mác-F.ănggen, Toàn tập, tập 19 (1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
67. C.Mác-F.ănggen, Toàn tập, tập 21 (1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
68. C.Mác và F ăngghen Toàn tập, tập 23 (1993), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
69. C.Mác-F.ănggen, Toàn tập, tập 32 (1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
70. C.Mác-F.ănggen, Toàn tập, tập 43 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội
71. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 1 (1980), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
72. C.Mác và Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 1 (2004), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
73. Marie Lavigne (2002), Các nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch tập
trung sang kinh tế thị trường, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
74. Dương Xuân Ngọc (2004), Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
75. Hoàng Phê (2007), Từ điển tiếng Việt. Trung tâm từ điển học, Hà Nội
76. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2007), Cẩm nang doanh
nghiệp Việt Nam năm 2004, 2005,2006, NXB Thế giới, Hà Nội
77. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), Doanh nhân Việt
Nam thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
78. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (20005), Doanh nhân, số 5
79. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2005), Doanh nhân, số 9
80. Nguyễn Thị Kim Phương (chủ biên) (2004), Giám đốc doanh nghiệp tư
nhân hoạt động trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
174
ta hiện nay, Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội
81. Lê Quốc Sử (2004), Nhà doanh nghiệp cần biết: Nghề giám đốc kinh
doanh, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
82. Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, NXB Lý
luận chính trị, Hà Nội
83. Đỗ Khánh Tặng (1999), Đặc điểm và xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội
giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Hà Nội
84. Trần Phúc Thăng (2005), Giai cấp và đấu tranh giai cấp- Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội
85. Nguyễn Văn Thắng (2006), Phát triển đội ngũ doanh nhân trên địa bàn
Quận Cầu giấy Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, chuyên ngành quản lý
kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
86. Thời báo kinh tế Sài Gòn (2003), ngày 13-11
87. Thông tấn xã Việt Nam (07-12-2006), Thông tin tư liệu, số146 (842)
88. Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001, 2002, 2003
(2004), NXB thống kê, Hà Nội
89. Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2003, 2004, 2005
(2006), NXB Thống kê, Hà Nội
90. Lý Trần, Đáng lo giáo dục đại học Việt Nam, webside
http://www.vneconomy.vn
91. Quản Văn Trung (1999), Sự biến đổi của cơ cấu xã hội giai cấp ở Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến sĩ triết học
92. Quốc Anh (2009), Tự hào doanh nhân Việt Nam, website
http://www.dddn.com.vn
175
93. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2003), Kinh tế tư
nhân trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, NXB Khoa học xã hội và Nhân
văn, Hà Nội
94. Trường Đại học mở Hà Nội (2006), Giáo trình quản trị học, NXB Thống
kê, Hà Nội
95. Tổng cục thống kê (2005), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra
năm 2002, 2003, 2004, NXB Thống kê, Hà Nội
96. Vũ Quốc Tuấn (2000), Chủ doanh nghiệp và chức năng quản lý nguồn
nhân lực, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh
97. Vũ Quốc Tuấn (2001), Doanh nghiệp, doanh nhân trong cơ chế thị
trường, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
98. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Hoa (2001), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam,
Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, Trung tâm Thông tin tư
liệu, NXB Thống kê, Hà Nội
99. Nguyễn Thanh Tuyền (2006), Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội
100. Vũ Thị Bạch Tuyết, Nguyễn Tiến Thuận, Vũ Duy Vĩnh (2004), Giải
pháp huy động vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ- Vốn nước ngoài đối với
phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam, NXB Tài Chính, Hà Nội
101. Vũ Thị Bạch Tuyết (2004), Vốn đầu tư nước ngoài đối với phát triển
kinh tế tư nhân Việt Nam, NXB Tài Chính, Hà Nội
102. Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư
nhân lý luận và chính sách, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
103. Lê Khắc Triết (2005), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam-
Thực trạng và giải pháp, NXB Lao động, Hà Nội
176
104. Viện nghiên cứu, Viện tâm lý học và Viện khoa học xã hội Việt Nam
(2005), Thử phác hoạ một số nét nhân cách cần thiết của một nhà kinh doanh
giỏi, Tâm lý học, số 6
105. Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (1992), Cơ cấu xã hội giai cấp ở nước
ta, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội
106. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (1998), Những nhà kinh
doanh của thế giới thứ ba. NXB Khoa học Xã hội và Nhân văn. Hà Nội
107. Viện Thông tin Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Kinh tế tư nhân Việt
Nam sau hai thập kỷ đổi mới. Thực trạng và những vấn đề, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội
108. Hồ Văn Vĩnh (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh
tế tư nhân ở nớc ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
109. Nguyễn Như ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Hà Nội, NXB Văn hoá
Thông tin, Hà Nội
110. website http://vi.wikipedia.org
177