BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------------------

VÕ PHÚ QUÝ

TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRONG VIỆC ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số

: 60.31.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. VŨ ANH TUẤN

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013

i

MỤC LỤC



Trang

Lời cam đoan

Phần mở đầu ...................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 3

3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3

4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 3

5. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 4

6. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 7

7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vai trò của lực lượng quản lý thị

trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong

quá trình hội nhập ............................................................................................. 9

1.1. Công tác quản lý thị trường .................................................................... 9

1.1.1. Lịch sử ngành quản lý thị trường ...................................................... 9

1.1.2. Công tác quản lý thị trường trong quá trình hội nhập ...................... 12

1.2. Các khái niệm sử dụng trong đề tài ...................................................... 16

1.2.1. Khái niệm về buôn lậu và hàng hóa nhập lậu ................................... 16

1.2.2. Khái niệm về gian lận thương mại .................................................... 17

1.2.3. Vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống

buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập ........................... 20

ii

1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong

đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập…26

1.3.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến công tác Quản lý thị

trường.. ......................................................................................................... 26

1.3.2. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong

đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập ... 28

1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương về tăng cường vai trò của lực

lượng Quản lý thị trường ................................................................................ 31

1.4.1. Tỉnh Long An .................................................................................. 31

1.4.2. Tỉnh Đồng Nai ................................................................................. 32

1.4.3. Tỉnh Khánh Hòa............................................................................... 33

Kết luận chương 1 ..................................................................................... 35

Chương 2: Thực trạng đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại

của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá

trình hội nhập và những vấn đề đặt ra ........................................................... 36

2.1. Bối cảnh ảnh hưởng đến công tác quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh

Tây Ninh .......................................................................................................... 36

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của địa phương ................................................... 36

2.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội ................................................................. 37

2.2. Thực trạng công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của lực

lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ................................... 39

2.2.1. Đánh giá tình hình chung ................................................................. 39

2.2.2. Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh..40

2.2.3. Thuận lợi ......................................................................................... 45

2.2.4. Khó khăn ......................................................................................... 46

iii

2.2.5. Kết quả hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại............... 48

2.3. Đánh giá thực trạng ............................................................................... 55

2.3.1. Những mặt đạt được ......................................................................... 55

2.3.2. Những hạn chế ................................................................................. 56

2.4. Những vấn đề cần giải quyết ................................................................. 60

2.4.1. Những vấn đề mang tính khách quan ............................................... 60

2.4.2. Những vấn đề về cơ chế chính sách dành cho lực lượng Quản lý thị

trường ...................................................................................................... 61

2.4.3. Những vấn đề về hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động buôn lậu và

gian lận thương mại ................................................................................. 64

2.4.4. Cần tăng cường giáo dục nhằm nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật

của người dân........................................................................................... 65

Kết luận chương 2 ..................................................................................... 66

Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của lực lượng Quản lý

thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trên

địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập ........................................... 67

3.1. Dự báo tình hình tác động đến công tác đấu tranh chống buôn lậu và

gian lận thương mại trong quá trình hội nhập .............................................. 67

3.2. Các chủ trương chính sách đối với công tác quản lý thị trường trong

quá trình hội nhập ........................................................................................... 68

3.3. Các giải pháp .......................................................................................... 70

3.3.1. Nhóm giải pháp hành chính.............................................................. 70

3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục . 81

3.3.3. Nhóm giải pháp kinh tế .................................................................... 85

Kết luận chương 3 ..................................................................................... 88

iv

Kết luận chung .......................................................................................... 89

Tài liệu tham khảo

Phụ lục 1

Phụ lục 2

Phụ lục 3

v

DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ATVSTP An toàn vệ sinh thực phẩm

BCĐ 127 Ban chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại

CCT Chi cục trưởng

GLTM Gian lận thương mại

KSV Kiểm soát viên

KTKS Kiểm tra kiểm soát

QLTT Quản lý thị trường

SCT Sở Công Thương

Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh

UBND Ủy ban nhân dân

VPHC Vi phạm hành chính

XHCN Xã hội chủ nghĩa

vi

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1: Hệ thống tổ chức lực lượng Quản lý thị trường ............................. 13

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Kết quả thực hiện công tác chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn

tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 2012 .......................................................... 51

Bảng 2.2: Các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 2012 ............... 54

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Kết quả đấu tranh chống buôn lậu giai đoạn 2008 – 2012 ....... 52

Biểu đồ 2.2: Kết quả đấu tranh chống GLTM giai đoạn 2008 – 2012 .......... 53

Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 2012 ... 54

Biểu đồ 2.4: Số lượng thuốc lá điếu nhập lậu bị lực lượng QLTT Tây Ninh

tịch thu giai đoạn 2008 – 2012 .................................................................... 57

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

- Xuất phát từ đặc điểm của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế

quốc tế. Trong đó, các nước cần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở cửa thị

trường trong nước đối với hàng hóa nước ngoài, và từ đó người tiêu dùng sẽ có

nhiều sự lựa chọn hơn. Đây là một cơ hội cho tất cả các nước, tùy vào lợi thế so

sánh của từng nước. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều

thách thức như: thứ nhất, tồn tại sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế – xã hội

giữa các quốc gia, điều này tạo cho người tiêu dùng trong nước tâm lý “sính hàng

ngoại” vì họ cho rằng hàng hóa từ các nước phát triển hơn sẽ có chất lượng tốt hơn;

thứ hai, với tiềm lực to lớn, các tập đoàn đa quốc gia có thừa khả năng và kinh

nghiệm để tạo sức ép cạnh tranh không nhỏ lên các doanh nghiệp trong nước nhằm

chiếm lĩnh thị trường nội địa, nhất là đối với ngành hàng tiêu dùng và bán lẻ; và

cuối cùng là việc mở rộng quan hệ kinh tế sẽ tạo điều kiện cho hàng lậu có cơ hội

nhập khẩu – cả hợp pháp và không hợp pháp – vào nước ta. Vì vậy, vấn đề đặt ra là

cần tăng cường vai trò và năng lực của các lực lượng chức năng trong kiểm tra,

kiểm soát thị trường, nhất là lực lượng Quản lý thị trường.

- Xuất phát từ đặc điểm tình hình trong nước: thực hiện chủ trương phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời đẩy mạnh công

nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để đến năm 2020, Việt Nam về cơ bản trở thành

một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Với chủ trương trên, bên cạnh những

thành tựu đạt được thì đồng thời xuất hiện ngày càng nhiều các khuyết tật của kinh

tế thị trường, trong số đó, vấn đề giá cả hàng hóa tăng bất thường vào các dịp lễ do

có sự đầu cơ, găm hàng, tung tin đồn thất thiệt…của các thương nhân làm ăn phi

pháp; số lượng và chất lượng hàng hóa không đúng như kỳ vọng so với số tiền mà

người tiêu dùng thanh toán,…, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế thị trường định

hướng XHCN và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế trong quá trình hội

nhập. Vấn đề đặt ra là làm sao ngăn chặn được các hành vi trên; có chế tài đủ mạnh

2

để răn đe, giáo dục họ; lực lượng nào sẽ chịu trách nhiệm chính để đấu tranh với các

đối tượng trên và vai trò, năng lực của lực lượng này có đủ đáp ứng yêu cầu tình

hình hay không?

- Xuất phát từ đặc điểm, tình hình địa phương: Tây Ninh nằm trong

vùng Đông Nam bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với các địa

bàn sôi động trong phát triển kinh tế như: Tp.HCM, Bình Dương, Long An. Ngoài

ra, Tây Ninh còn có đường biên giới dài khoảng 240 km giáp với 03 tỉnh của

Vương quốc Cambodia [dẫn theo 32]. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển

thương mại vùng biên. Tuy nhiên, những điều kiện trên cũng đặt ra thách thức

không nhỏ cho Tây Ninh trong việc quản lý hoạt động thương mại trên địa bàn. Nổi

cộm là vấn đề: buôn bán, vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu, việc kinh

doanh các mặt hàng do nước ngoài sản xuất như: đường cát, rượu… được nhập lậu

qua các đường tiểu ngạch; các đối tượng lợi dụng chính sách miễn thuế nhằm thu

lợi bất chính thông qua việc mua gom và bán lại hàng hóa miễn thuế; xuất lậu xăng

dầu mỗi khi xăng lên giá… Với đặc thù về tình hình buôn lậu và GLTM ở địa

phương như trên thì các lực lượng chức năng được giao nhiệm vụ đấu tranh chống

buôn lậu và GLTM trên địa bàn đã làm tốt vai trò, nhiệm vụ được giao hay chưa?

Với bối cảnh trên, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở

nước ta thì nhiệm vụ đặt ra đối với các cơ quan chức năng, các cấp, các ngành trong

cả nước nói chung và Tây Ninh nói riêng là cần tạo ra một sân chơi bình đẳng cho

các thành phần tham gia; đồng thời tăng cường vai trò của lực lượng chức năng,

nhất là lực lượng Quản lý thị trường, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý

nhà nước trong lĩnh vực thương mại đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và

bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, của những người sản xuất và kinh doanh chân

chính đảm bảo phát triển kinh tế trong nước; kiểm soát nguồn thu ngân sách. Vì

vậy, để đáp ứng các yêu cầu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tăng cường vai trò

của lực lượng quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian

lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập”.

3

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Góp phần làm rõ lý luận và nhận diện các biểu hiện của buôn lậu và

GLTM trong quá trình hội nhập. Phân tích đặc điểm, tính chất, quy luật hoạt động

và tác hại của chúng.

- Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về lịch sử, vai

trò, chức năng và nhiệm vụ của lực lượng Quản lý thị trường trong giai đoạn hiện

nay. Từ đó góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận, đồng thời phân tích những yếu tố

tác động đến vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và

GLTM.

- Nêu ra đặc điểm tình hình của địa phương để phân tích thực trạng của

vấn đề buôn lậu và GLTM. Đồng thời phân tích vai trò của lực lượng QLTT trong

việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn

2008 – 2012.

- Đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại và tăng cường

vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.

3. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: luận văn nghiên cứu công tác đấu tranh chống buôn lậu

và GLTM của lực lượng quản lý thị trường tỉnh Tây Ninh giai đoạn từ năm 2008

đến năm 2012 và đề xuất giải pháp cho những năm sắp tới.

- Về không gian: luận văn nghiên cứu công tác chống buôn lậu và

GLTM của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

4. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu sau:

- Do thực tiễn hoạt động buôn lậu và GLTM luôn biến đổi nên ta cần

xem xét, phân tích các vấn đề có liên quan bằng phương pháp biện chứng. Cụ thể

như sau:

4

+ Phân tích mối quan hệ và tác động qua lại giữa quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế và vai trò của lực lượng QLTT trong việc chống buôn lậu, GLTM.

Ví dụ: quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta có làm nảy sinh những thách

thức ảnh hưởng đến vai trò của lực lượng QLTT hay không?

+ Phân tích mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa vai trò của lực

lượng QLTT và các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Ví dụ: yếu tố con người ảnh hưởng

như thế nào đến vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và

GLTM? Khi thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì

có tăng cường vai trò của lực lượng QLTT hay không?

- Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp các số liệu thống kê, các

tài liệu liên quan đến vấn đề này để nêu lên và chỉ ra thực trạng của vấn đề, những

hạn chế, tồn tại cần khắc phục để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp khả thi cho

việc tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong những năm sắp tới. Phương pháp

này chủ yếu được sử dụng trong chương 2 (phần phân tích kết quả hoạt động và

đánh giá thực trạng nhằm chỉ ra những mặt đạt được và hạn chế trong quá trình thực

hiện công tác chống buôn lậu và GLTM của lực lượng QLTT trên địa bàn tỉnh Tây

Ninh, từ đó nêu ra bức tranh tổng quát về vai trò của lực lượng QLTT…).

- Vì hiện nay chưa có các ấn phẩm về ngành QLTT nên để tìm hiểu,

phân tích về lịch sử, kinh nghiệm của một số địa phương trong việc tăng cường vai

trò của lực lượng QLTT trong công tác chuyên môn thì tác giả tham khảo ý kiến các

chuyên gia tham gia công tác và gắn bó lâu năm trong ngành QLTT.

5. Tình hình nghiên cứu

Vấn đề buôn lậu và GLTM không phải là vấn đề mới, nó xuất hiện và tồn

tại cùng với kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về

vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tiếp cận được các công trình

nghiên cứu sau:

- Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thái (2003) trong đề tài “Chống

buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam (2000 – 2002) thực trạng và giải pháp”

theo học viên, kết quả nghiên cứu này có những mặt đạt được và hạn chế như sau:

5

+ Nêu khái niệm về buôn lậu và tội danh buôn lậu, theo đó, tác giả nêu

khái quát lịch sử về tội danh buôn lậu và khái niệm tội danh buôn lậu theo Bộ luật

hình sự năm 1985. Tuy nhiên, thời điểm thực hiện nghiên cứu là năm 2003 nhưng

tác giả không đề cập khái niệm tội danh buôn lậu theo Bộ luật hình sự năm 1999.

+ Nêu lên khái niệm về GLTM và 16 hình thức GLTM theo công ước

Quốc tế tại Hội nghị các tổ chức hải quan quốc tế về chống GLTM được tổ chức từ

ngày 9/10/1995 đến ngày 13/10/1995. Từ đó, tác giả thực hiện phân tích sự khác

biệt và xem xét mối quan hệ giữa buôn lậu và GLTM, đồng thời đánh giá sự tác

động của chúng đối với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do lĩnh vực quản lý của

ngành Hải quan có điểm khác biệt so với ngành QLTT nên cần thực hiện nghiên

cứu để nêu lên khái niệm về GLTM theo cách nhìn, góc độ quản lý nhà nước của

ngành QLTT.

+ Tác giả đã thực hiện tham khảo kinh nghiệm chống buôn lậu và

GLTM ở một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nga và Trung Quốc. Theo học viên,

việc tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên là không phù hợp với đặc điểm

của Việt Nam vì các quốc gia này có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn

Việt Nam, quy mô thị trường và tập quán kinh doanh khác với nước ta.

+ Tác giả thực hiện phân tích thực trạng tình hình buôn lậu và GLTM ở

Việt Nam giai đoạn 2000 – 2002, về không gian là các địa phương có tình hình

buôn lậu diễn biến phức tạp, nhất là các tỉnh vùng biên như: Lạng Sơn; Cao Bằng;

Lào Cai; Hà Tỉnh; Tây Ninh…Đồng thời nêu lên những kết quả đạt được và những

hạn chế, tồn tại trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM của các lực lượng chức

năng. Dựa vào kết quả phân tích thực trạng như trên, tác giả đề xuất 10 giải pháp

chống buôn lậu và GLTM ở Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, tác giả chưa

thể hiện rõ vai trò của các lực lượng chức năng trong công tác đấu tranh chống buôn

lậu và GLTM. Ngoài ra, thời điểm nghiên cứu của tác giả là trước khi Việt Nam gia

nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đó là thời điểm nền kinh tế nước ta

chưa hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Vì vậy, tình hình buôn lậu và GLTM

6

trong thời điểm hiện tại có nhiều thay đổi nên đòi hỏi phải có các nghiên cứu nhằm

bổ sung nền tảng lý luận về vấn đề buôn lậu và GLTM.

- Kết quả nghiên cứu của Phan Nguyễn Minh Mẫn (2006) trong Luận

văn thạc sĩ kinh tế có tên là: “Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát chống

buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của Chi cục Quản lý thị trường Tp.HCM”. Theo học

viên, nghiên cứu này đã đạt được một số kết quả tích cực sau:

+ Tác giả tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan như: khái niệm và

đặc điểm hàng hóa nhập khẩu; tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đối với kinh

tế – xã hội nước ta; các hình thức buôn lậu hàng hóa nhập khẩu ở nước ta; nêu lên

nhiệm vụ, vai trò chủ công trong KTKS thị trường nội địa và các đặc điểm liên quan

đến lực lượng QLTT. Tuy nhiên, trong phần nghiên cứu về hàng hóa nhập khẩu, tác

giả chưa nêu ra được các khái niệm liên quan đến buôn lậu hàng hóa nhập khẩu.

+ Phân tích thực trạng hoạt động kiểm tra, giám sát chống buôn lậu

hàng hóa nhập khẩu của Chi cục QLTT Tp.HCM giai đoạn 2003 – 2005 từ đó đánh

giá những mặt đạt được và những tồn tại, hạn chế cần khắc phục làm căn cứ cho

việc đề ra các giải pháp khả thi. Tác giả nêu lên vai trò chủ công trong kiểm tra,

kiểm soát thị trường nội địa của lực lượng Quản lý thị trường, nhất là trong đấu

tranh chống buôn lậu. Tuy nhiên, theo dự báo thì việc Việt Nam thực hiện đầy đủ

các cam kết khi gia nhập WTO sẽ có tác động rất lớn vào tình hình buôn lậu và

GLTM. Và do những khác biệt cơ bản về đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế – xã

hội giữa Tây Ninh và Tp.HCM nên cần tiến hành nghiên cứu diễn biến tình hình

buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh để bổ sung, hoàn thiện lý luận về vai

trò của lực lượng QLTT trong quá trình hội nhập. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm

đảm bảo lực lượng Quản lý thị trường đáp ứng được yêu cầu chống buôn lậu và

GLTM trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới.

Tóm lại, việc nghiên cứu về hoạt động của lực lượng QLTT và công tác

chống buôn lậu và GLTM đã được một số tác giả nghiên cứu trước đây. Nhưng để

đáp ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập; đồng thời với những đặc điểm rất riêng

về địa lý, về kinh tế – xã hội của tỉnh Tây Ninh thì cần phải tiến hành nghiên cứu để

7

nâng cao vai trò của lực lượng QLTT trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM đáp

ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

6. Những đóng góp của luận văn

Vì đây là lĩnh vực chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều nên tác giả hy vọng

kết quả nghiên cứu sẽ giải quyết được các vấn đề sau:

- Nghiên cứu một cách có hệ thống về lịch sử, về hoạt động và vai trò

của ngành QLTT đối với nền kinh tế nói chung, đối với việc đấu tranh chống buôn

lậu và GLTM nói riêng. Theo đó, giúp cho các cơ quan quản lý đề ra các chủ

trương, chính sách phát triển phù hợp đối với ngành QLTT.

- Nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về vấn đề buôn lậu và

GLTM trong quá trình hội nhập, kết hợp với việc phân tích vấn đề trên địa bàn tỉnh

Tây Ninh để từ đó chỉ ra tác hại của chúng và phân tích đặc điểm của từng loại để

áp dụng các biện pháp quản lý nhà nước cho phù hợp.

- Qua phân tích vai trò của lực lượng QLTT trong việc chống buôn lậu

và GLTM trong quá trình hội nhập, tác giả nêu ra những thành tựu đạt được trong

thời gian qua. Đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến vai trò của lực

lượng QLTT để từ đó đề xuất các giải pháp thực hiện có tính khả thi nhằm tăng

cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM

trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.

7. Kết cấu của luận văn

Kết cấu của luận văn gồm:

- Phần mở đầu.

- Ba chương nội dung:

+ Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vai trò của lực lượng

Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại

trong quá trình hội nhập.

+ Chương 2: Thực trạng đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương

mại của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội

nhập và những vấn đề đặt ra.

8

+ Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của lực lượng

Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trên

địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.

- Phần kết luận.

9

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LỰC

LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRONG VIỆC ĐẤU TRANH

CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRONG QUÁ

TRÌNH HỘI NHẬP

1.1. Công tác quản lý thị trường

1.1.1. Lịch sử ngành quản lý thị trường

Có thể khẳng định: việc hình thành và phát triển của lực lượng QLTT các

cấp gắn với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Cụ

thể:

1.1.1.1. Giai đoạn 1957 – 1975

 Sau năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta

kết thúc thắng lợi, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng nước nhà. Tuy nhiên, do

âm mưu của kẻ thù nên sau Hiệp định Geneve (1954), đất nước ta bị chia cắt thành

hai miền Nam – Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Vì vậy, các hoạt động kinh tế –

xã hội nhằm xây dựng CNXH đều diễn ra ở miền Bắc. Tuy đã đạt được những

thành tựu đáng khích lệ, nhưng quá trình này cũng gặp không ít khó khăn, nhất là

trong các khâu sản xuất, tiêu dùng và phân phối sản phẩm kinh tế do phần lớn cơ sở

hạ tầng đã bị chiến tranh phá hủy. Bên cạnh đó là việc các phần tử xấu lợi dụng tình

hình nhằm gây kích động về chính trị và gây rối thị trường, chúng thực hiện các

hành vi vơ vét, tích trữ hàng hóa nhằm tạo ra sự khan hiếm để nâng giá gây thiệt hại

cho người tiêu dùng và cho nền kinh tế quốc dân.

 Trước tình hình đó, bên cạnh việc thực hiện cải tạo công – thương

nghiệp tư bản tư doanh và thực hiện chế độ phân phối hàng hóa cho phù hợp với

yêu cầu thực tiễn thì việc kiểm soát thị trường hàng hóa nhằm ổn định tình hình

kinh tế, đảm bảo cho việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô, là

10

một yêu cầu cấp thiết. Để đáp ứng yêu cầu trên, ngày 03/7/1957 Thủ tướng Chính

phủ ký Nghị định thành lập Ban QLTT Trung ương và các Ban QLTT ở các tỉnh,

thành phố, khu tự trị, chức vụ trưởng Ban do cụ Bùi Công Trừng – Chủ nhiệm Văn

phòng Tài chính, Thương nghiệp Thủ tướng phủ – đảm nhiệm.

 Nhiệm vụ chính của Ban QLTT Trung ương là giúp Chính phủ nghiên

cứu chủ trương, chính sách QLTT, chống đầu cơ, tích trữ, đảm bảo các nhu yếu

phẩm được phân phối đến tận tay các đối tượng được Nhà nước cung cấp; đồng thời

chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó trong phạm vi toàn miền Bắc.

1.1.1.2. Giai đoạn 1975 – 1986

 Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ toàn thắng, cả nước ta cùng chung

tay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp cùng với hậu quả

nặng nề của chiến tranh và sự cấm vận của đế quốc Mỹ nên tình hình kinh tế – xã

hội của nước ta thời điểm này là vô cùng khó khăn, thị trường hàng hóa khan hiếm,

bắt đầu xuất hiện các hoạt động buôn lậu và GLTM với quy mô nhỏ.

 Trước yêu cầu mới của tình hình cách mạng, việc kiện toàn bộ máy tổ

chức của lực lượng QLTT là cần thiết nhằm tạo sự ổn định thị trường trong nước,

tạo đà cho việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế – xã hội khác. Vì vậy,

ngày 16/7/1982 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (HĐBT) ký Quyết định số 190/CP

thành lập Ban Chỉ đạo QLTT Trung ương trực thuộc HĐBT, chức vụ trưởng Ban do

đồng chí Bộ trưởng Bộ Nội thương phụ trách. Đồng thời, để có tổ chức trực tiếp

thực hiện nhiệm vụ KTKS thị trường, ngày 02/10/1985 HĐBT ban hành Nghị quyết

số 249 quyết định thành lập Đội QLTT trực thuộc Ban Chỉ đạo QLTT cấp tỉnh,

thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương và cấp huyện, thị xã đánh dấu việc hình

thành tổ chức chuyên trách kiểm tra.

1.1.1.3. Giai đoạn 1986 – 1995

 Thực hiện đường lối “Đổi mới” theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng, kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc: sản xuất

phát triển; lưu thông hàng hóa được mở rộng; đời sống nhân dân được cải thiện.

Bên cạnh đó, tình trạng buôn lậu qua biên giới, trốn thuế và đặc biệt là buôn lậu

11

đường biển thông qua các tàu viễn dương xuất hiện và gia tăng đáng báo động.

Trước tình hình đó, tháng 8/1990, Chủ tịch HĐBT quyết định thành lập Ban công

tác đặc nhiệm phía Nam và Ban công tác đặc nhiệm phía Bắc, hai Ban công tác này

được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch HĐBT, nhằm đáp ứng yêu cầu trong

công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Tuy nhiên, hai Ban công tác đặc

nhiệm này không thay thế Ban chỉ đạo QLTT Trung ương và không làm nhiệm vụ

tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp đấu tranh chống buôn lậu của các

ngành, các cấp mà có các Đội kiểm tra đặc biệt liên ngành hoạt động tại một số địa

bàn trọng điểm để KTKS nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các vụ buôn lậu.

Như vậy, để thực hiện việc KTKS thị trường chống buôn lậu và GLTM thì ngoài sự

tham gia của các cấp, các ngành, riêng ngành QLTT có ba đơn vị đều trực thuộc

HĐBT tham gia chỉ đạo và thực hiện trong cả nước; điều đó cho thấy sự quan tâm

của Đảng và Nhà nước trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM, tuy nhiên,

việc một ngành mà có tới ba tổ chức trực thuộc HĐBT là điều bất hợp lý, ảnh

hưởng đến hiệu quả hoạt động. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu tình hình mới, đồng thời

thống nhất chỉ đạo công tác QLTT, chống đầu cơ, buôn lậu, sản xuất và buôn bán

hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép khác, ngày 06/12/1991 Hội đồng Bộ

trưởng ra Nghị định số 398/ HĐBT về thành lập Ban chỉ đạo QLTT Trung ương

trên cơ sở hợp nhất Ban công tác đặc nhiệm phía Nam và phía Bắc với Ban chỉ đạo

QLTT Trung ương. Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập Ban chỉ

đạo QLTT tỉnh, thành phố trên cơ sở hợp nhất tiểu Ban đặc nhiệm chống buôn lậu

và Ban chỉ đạo QLTT dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố.

1.1.1.4. Giai đoạn từ 1995 đến nay

 Với việc Mỹ bãi bỏ cấm vận nước ta và Việt Nam trở thành thành

viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN) thì vị

thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã được nâng lên một cách rõ rệt, quan hệ

kinh tế đối ngoại được khai thông và mở rộng; bên cạnh đó, kinh tế trong nước đi

vào ổn định và có những bước phát triển mới. Vì vậy, công tác QLTT nhằm chống

đầu cơ, buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép

12

khác đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi Chính phủ phải tổ chức lại công tác chỉ đạo

QLTT theo hướng xây dựng lực lượng vừa hiện đại vừa chính quy, không là lực

lượng kiêm nhiệm, liên ngành nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập. Ngày 25/4/1994,

Chính phủ ban hành Nghị định số 35/CP giao Bộ Thương mại thống nhất chỉ đạo

công tác QLTT trong cả nước, tổ chức phối hợp giữa các ngành, các địa phương

trong việc chống đầu cơ, buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả và các hành vi

kinh doanh trái phép khác. Tiếp theo, ngày 23/01/1995, Chính phủ ban hành Nghị

định số 10/CP quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quản lý

thị trường. Đồng thời, Bộ Chính trị Trung ương Đảng có Nghị quyết số 12/NQ-TW

ngày 03/5/1996 về Thương nghiệp, Nghị quyết có định hướng xây dựng lực lượng

QLTT theo yêu cầu chính quy và tổ chức chặt chẽ [8].

1.1.2. Công tác quản lý thị trường trong quá trình hội nhập

Cơ sở pháp lý cho việc hình thành hệ thống tổ chức, xác định chức năng,

nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng QLTT trong quá trình hội nhập là Nghị định

số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ và Nghị định số 27/2008/NĐ-CP ngày

13/3/2008 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ.

1.1.2.1. Về tổ chức

 Cấp Trung ương: Cục QLTT trực thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ

Công Thương) trên cơ sở sáp nhập bộ máy chuyên trách của Ban Chỉ đạo QLTT

trung ương chuyển giao về Bộ Thương mại và Vụ quản lý thị trường thuộc Bộ

Thương mại. Cục QLTT do Cục trưởng phụ trách, có một số Phó cục trưởng giúp

việc; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Cục trưởng, Phó cục trưởng do Bộ trưởng Bộ

Công Thương quyết định.

 Cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương: Chi cục QLTT trực thuộc

Sở Thương mại – Du lịch (nay là Sở Công Thương) trên cơ sở tổ chức lại bộ máy

chuyên trách của Ban Chỉ đạo QLTT tỉnh. Chi cục QLTT do CCT (chức danh Phó

Giám đốc Sở) phụ trách, có một số Phó CCT giúp việc; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm

13

CCT do Chủ tịch UBND tỉnh quyết định; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó CCT do

Giám đốc Sở Công Thương quyết định sau khi thỏa thuận với Giám đốc Sở Nội vụ

tỉnh.

 Cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp

huyện) theo yêu cầu cụ thể trên từng địa bàn, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định việc

thành lập các Đội QLTT trực thuộc Chi cục QLTT hoạt động trên địa bàn huyện

hoặc liên huyện, trên cơ sở tổ chức lại các Đội kiểm tra thị trường hiện có ở địa

phương. Tên Đội QLTT thống nhất đặt theo số hiệu 1,2,3…để đảm bảo hoạt động

trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố, Đội được phân công kiểm tra trên địa bàn cụ thể

huyện hoặc liên huyện. Ngoài hình thức tổ chức Đội theo địa bàn, có thể tổ chức

Đội theo tính chất nghiệp vụ hoặc cơ động (không theo địa bàn). Trong mỗi Đội

được tổ chức thành nhiều Tổ công tác, mỗi tổ có từ 03 người trở lên. Đội QLTT do

Đội trưởng phụ trách, có một số Phó Đội trưởng giúp việc; việc bổ nhiệm, miễn

nhiệm Đội trưởng, Phó Đội trưởng do Giám đốc Sở Công Thương quyết định.

SƠ ĐỒ 1: HỆ THỐNG TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG

1.1.2.2. Về chức năng, nhiệm vụ

 Về chức năng

14

 Cục QLTT: là cơ quan tham mưu chỉ đạo và tổ chức thực hiện, giúp

Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác

KTKS thị trường, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại ở

thị trường trong nước; thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thương mại.

 Chi cục QLTT: là cơ quan triển khai thực hiện, giúp Giám đốc Sở

Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tổ chức việc thực hiện

nhiệm vụ KTKS thị trường, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật về

thương mại trên địa bàn tỉnh/thành phố; thực hiện chức năng thanh tra chuyên

ngành thương mại theo quy định.

 Đội QLTT: là đơn vị trực tiếp thực thi nhiệm vụ KTKS thị trường;

đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả và GLTM trên địa bàn được

phân công; thực hiện chức năng kiểm tra của Thanh tra chuyên ngành thương mại.

 Về nhiệm vụ

 Cục QLTT

+ Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về công tác kiểm

tra, chế độ và điều kiện làm việc đối với lực lượng QLTT.

+ Kiểm tra việc thi hành pháp luật và các chính sách, chế độ, thể

lệ trong hoạt động thương mại trên thị trường. Đề xuất với Bộ trưởng Bộ

Công Thương những chủ trương, biện pháp cần thiết để thực hiện đúng pháp

luật về các chính sách, chế độ.

+ Tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác KTKS thị trường và xử

phạt VPHC theo thẩm quyền các vụ việc trong hoạt động thương mại.

+ Hướng dẫn, tổ chức triển khai hoạt động kiểm tra và đảm bảo

một số điều kiện cần thiết cho hoạt động kiểm tra như: cấp thẻ kiểm tra thị

trường, ấn chỉ, tổ chức may trang phục đồng phục…

+ Kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động kiểm tra và

theo dõi, chỉ đạo việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của các đối tượng kinh

doanh về hoạt động kiểm tra.

15

+ Thường trực giúp việc cho BCĐ 127 Trung ương về chủ trì tổ

chức sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước và các lực lượng có

chức năng KTKS.

 Chi cục QLTT

+ Xây dựng chương trình, kế hoạch, phương án kiểm tra cụ thể

trên địa bàn.

+ Chỉ đạo các Đội QLTT thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.

+ Tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật; kiến nghị đảm bảo

việc thi hành và ngăn ngừa các vi phạm pháp luật thương mại.

+ Thường trực giúp việc cho BCĐ 127 tỉnh/thành phố về chủ trì

tổ chức sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước và các lực lượng

có chức năng KTKS trên địa bàn tỉnh/thành phố.

+ Kiểm tra hoạt động của các Đội QLTT, KSV thị trường và giải

quyết các khiếu nại tố cáo về hoạt động kiểm tra.

 Đội QLTT

+ Phát hiện, kiểm tra, áp dụng các biện pháp ngăn chặn VPHC và

xử lý các VPHC theo thẩm quyền.

+ Phối hợp với các cơ quan hữu quan và các lực lượng chức năng

trên địa bàn để kiểm tra.

+ Đề xuất các biện pháp quản lý và ngăn ngừa các vi phạm pháp

luật thương mại trên địa bàn hoặc lĩnh vực được phân công; phát hiện những

bất cập về chính sách, pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung.

 Về quyền hạn

 Được quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại

cung cấp tình hình, số liệu, chứng cứ và trả lời những vấn đề cần thiết liên quan trực

tiếp đến việc kiểm tra; được quyền kiểm tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp

luật thương mại tại hiện trường nơi sản xuất, cất giấu hàng hóa, tang vật, phương

tiện vi phạm, sổ sách, chứng từ, hóa đơn, hợp đồng và các giấy tờ có liên quan

khác.

16

 Được quan hệ với các tổ chức, cá nhân có liên quan để xác minh thu

thập tình hình, số liệu, chứng cứ phục vụ công tác kiểm tra.

 Lập biên bản kiểm tra và kiến nghị các biện pháp giải quyết.

 Được áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử phạt VPHC theo thẩm

quyền và theo các quy định của pháp luật.

1.2. Các khái niệm sử dụng trong đề tài

1.2.4. Khái niệm về buôn lậu và hàng hóa nhập lậu

 Khái niệm về hàng hóa nhập lậu: khoản 7 điều 3 Nghị định số

06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 của Chính phủ định nghĩa hàng hóa nhập lậu là

hàng hóa có các đặc điểm như sau:

+ Hàng hóa cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng nhập khẩu theo quy

định.

+ Hàng hóa nhập khẩu có điều kiện hoặc phải có giấy phép mà

không có giấy tờ hoặc giấy phép của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên

ngành cấp kèm theo hàng hóa.

+ Hàng hóa nhập khẩu không đi qua cửa khẩu quy định, không

làm thủ tục hải quan theo quy định hoặc gian lận số lượng, chủng loại hàng

hóa khi làm thủ tục hải quan.

+ Hàng hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường không có hoá

đơn, chứng từ kèm theo theo quy định hoặc có nhưng không đủ hoá đơn,

chứng từ hoặc có hoá đơn, chứng từ nhưng qua điều tra, xác minh của cơ

quan chức năng xác định là hoá đơn, chứng từ không hợp pháp như hoá đơn

giả, hoá đơn lập khống, hoá đơn mua bán bất hợp pháp, hoá đơn đã qua sử

dụng.

+ Hàng hóa nhập khẩu quy định phải dán tem hàng nhập khẩu

nhưng không có tem dán vào hàng hóa theo quy định hoặc có tem dán nhưng

là tem giả, tem đã qua sử dụng.

17

 Khái niệm về buôn lậu: hành vi buôn lậu; buôn bán, vận chuyển trái

phép hàng hóa qua biên giới được quy định tại Điều 153, 154 và 155 của Bộ Luật

hình sự năm 1999 và trong các Nghị định về xử phạt VPHC.

+ Buôn lậu là các hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép qua

biên giới những hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu theo quy định của

Nhà nước như: vũ khí; chất nổ; ngoại tệ; cổ vật; đồ chơi kích động bạo lực;

văn hóa phẩm độc hại…

+ Buôn lậu là các hành vi trốn tránh sự KTKS của các cơ quan

quản lý Nhà nước hoặc dùng các thủ đoạn gian dối để che mắt các cơ quan

này để vận chuyển hàng cấm; trốn, lậu thuế đối với việc buôn bán, vận

chuyển hàng hóa qua biên giới.

+ Ngoài ra, buôn lậu còn là hành vi buôn bán hàng hóa nhập lậu,

gồm các hành vi như: vận chuyển, tàng trữ, chứa chấp, buôn bán hàng hóa

nhập lậu trên thị trường nội địa, trốn tránh sự KTKS của các cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền.

1.2.5. Khái niệm về gian lận thương mại

 Khái niệm về hoạt động thương mại: theo khoản 1 điều 3 Luật

Thương mại năm 2005 thì “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh

lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và

các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.

 GLTM được hiểu là những hành vi dối trá, mánh khóe, lừa lọc trong

hoạt động thương mại và dịch vụ. Theo Bộ Luật hình sự năm 1999 tại điều 162 quy

định tội lừa dối khách hàng là việc mua, bán mà cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh

tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho

khách hàng.

 Theo công ước Quốc tế tại Hội nghị các tổ chức hải quan quốc tế về

chống GLTM được tổ chức từ ngày 9 đến ngày 13/10/1995 ở Brussel (Vương quốc

Bỉ) đã thống nhất phân chia các hình thức GLTM thành 16 loại [34, tr.8-9]:

18

+ Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát

của hải quan.

+ Khai báo sai chủng loại hàng hóa.

+ Khai tăng, giảm giá trị hàng hóa.

+ Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hóa.

+ Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng gia công.

+ Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập.

+ Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu.

+ Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước.

+ Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hóa.

+ Lợi dụng chế độ, mục đích sử dụng, buôn bán trái phép hàng

hóa được ưu đãi về thuế nhập khẩu cho những đối tượng sử dụng nhất định.

+ Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ

người tiêu dùng.

+ Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.

+ Buôn bán hàng không có sổ sách.

+ Làm giả, làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế hải quan.

+ Kinh doanh “ma” để hưởng tín dụng thuế trái phép.

+ Thanh lý, phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế

như: công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố

phá sản,…

 Với các khái niệm trên thì về cơ bản, buôn lậu và GLTM có những

đặc điểm tương đồng với nhau, đây đều là việc thực hiện những hành vi gian dối,

trái với quy định của pháp luật và né tránh sự KTKS của lực lượng chức năng với

mục đích thu được lợi nhuận cao, móc túi người tiêu dùng thông qua việc trốn lậu

thuế hoặc chiếm đoạt lợi nhuận bất hợp pháp.

 Trong lĩnh vực quản lý Nhà nước thì khái niệm GLTM được hiểu là

các hành vi vi phạm về kê khai giá, đăng ký giá, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ;

gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ [17]. Và

19

theo Thông tư số 11/2009/TT-BCT ngày 20/5/2009 của Bộ Công Thương, tại khoản

1 điều 11 mục II định nghĩa các hành vi trên như sau:

+

Hành vi vi phạm về kê khai giá, đăng ký giá, niêm yết giá hàng

hóa, dịch vụ gồm các hành vi sau: không niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ,

ngoại tệ, vàng; niêm yết giá không đúng quy định, không rõ ràng gây nhầm

lẫn cho khách hàng; bán hàng, thu phí dịch vụ cao hơn giá niêm yết; niêm

yết giá hàng hoá dịch vụ bằng ngoại tệ hoặc thu tiền bán hàng hoá dịch vụ

bằng ngoại tệ mà không được phép.

+ Hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa là gian lận

trong việc thực hiện các phép đo, phương pháp đo trong cân, đong, đo, đếm

hàng hóa (lượng hàng thiếu so với lượng ghi trên bao bì) làm thiếu hàng mà

người mua vẫn phải trả tiền theo giá đủ hàng, gây thiệt hại cho khách hàng.

+ Hành vi gian lận về chất lượng hàng hóa, dịch vụ là hành vi sản

xuất, chế biến, sang chiết, nạp, đóng gói, kinh doanh hàng hóa mà chất lượng

hàng hóa không đúng với công bố chất lượng hoặc ghi trên nhãn hàng hóa

gây thiệt hại cho khách hàng.

 Trong nghiên cứu này, tác giả tiếp cận khái niệm GLTM theo hướng:

GLTM là những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại của

thương nhân trực tiếp kinh doanh hàng hóa nhưng không phải là hành vi buôn

lậu; kinh doanh hàng giả, hàng hóa vi phạm sở hữu trí tuệ; và các vi phạm

trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Tác giả căn cứ vào chủ thể thực hiện

hành vi vi phạm hoặc tính chất của hành vi để nêu lên khái niệm trên. Trước hết,

cần khẳng định lại, GLTM là những hành vi dối trá, mánh khóe, lừa lọc trong hoạt

động thương mại, đây là những hành động xuất phát từ thương nhân trực tiếp kinh

doanh hàng hóa mà không phải là do sự tác động của các yếu tố kinh tế – xã hội hay

các yếu tố bên ngoài khác. Đối với hành vi buôn lậu, tuy đây cũng là một hành vi vi

phạm pháp luật trong hoạt động thương mại nhưng chủ thể thực hiện hành vi không

chỉ là thương nhân trực tiếp kinh doanh hàng hóa nhập lậu, mà có sự câu kết, “phân

công” của rất nhiều đối tượng; bên cạnh đó, xét về tính chất thì nguyên nhân và tác

20

động của nó là do các yếu tố kinh tế – xã hội như: tồn tại hàng rào thuế quan; tâm lý

sính hàng ngoại của người tiêu dùng… Đối với hành vi kinh doanh hàng giả, hàng

kém chất lượng và hàng hóa vi phạm sở hữu trí tuệ thì đây là những hành vi mà lỗi

không phải do thương nhân trực tiếp kinh doanh hàng hóa gây ra, họ là “nạn nhân”

vì không biết và không có đủ kiến thức, phương tiện để tránh bị nhà sản xuất lừa

dối. Như vậy, có thể liệt kê một số hành vi GLTM như sau: hành vi không đăng ký

kinh doanh và các thủ tục kinh doanh khác nhằm qua mặt các cơ quan quản lý nhà

nước, không thực hiện các nghĩa vụ khi kinh doanh; các hành vi kinh doanh phạm

pháp nhằm lừa dối người tiêu dùng, thu lợi bất chính như không niêm yết giá bán

hàng hóa, sử dụng phương tiện đo không kiểm định, kinh doanh hàng quá hạn sử

dụng…

1.2.6. Vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống

buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập

1.2.3.1. Tính chất, đặc điểm của buôn lậu và gian lận thương mại trong quá

trình hội nhập

Với các định nghĩa về buôn lậu và GLTM như trên, cùng với thực tiễn đang

diễn ra của hoạt động này thì ta có thể khái quát những tính chất, đặc điểm của

chúng trong thời kỳ hội nhập như sau:

 Là các hành vi gian dối, qua mặt cơ quan quản lý nhà nước và người

tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận bất chính. Cụ thể:

+ Chất lượng và số lượng hàng hóa không đúng so với kỳ vọng

của khách hàng. Vì hàng hóa nhập lậu là hàng hóa chưa qua kiểm định của

cơ quan chức năng và không có thương nhân chịu trách nhiệm đối với hàng

hóa đó.

+ Để ngăn chặn buôn lậu và GLTM trên thị trường nội địa cần

tập trung vào các vấn đề chính liên quan đến chế độ hóa đơn, chứng từ chứng

minh nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa; liên quan đến chế độ ghi nhãn hàng

21

hóa nhằm kiểm soát các đối tượng chịu trách nhiệm về sản phẩm, tiêu chuẩn

áp dụng và các thông tin khác liên quan đến sản phẩm.

 Hoạt động có tính quy luật: thường diễn ra vào ban đêm, ngoài giờ,

ngày nghỉ (Lễ, Tết, chủ nhật…) khi lực lượng kiểm tra nghỉ; thường rộ lên vào các

dịp Lễ, Tết; có tính mùa vụ khi có nhu cầu tiêu thụ tăng; nhằm vào các mặt hàng có

tỷ suất thuế cao...

 Ngày nay, các đối tượng buôn lậu và GLTM tận dụng triệt để những

thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, nhất là những thành tựu trong lĩnh vực điện

tử và công nghệ thông tin. Ví dụ: với những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ thông

tin thì bọn buôn lậu có thể nhanh chóng thông báo với nhau về tình hình hoạt động

của lực lượng chức năng, để từ đó tìm cách đối phó.

 Hoạt động có tổ chức chặt chẽ với một không gian hoạt động rộng

lớn. Về buôn lậu, đó là sự hoạt động của những đường dây buôn lậu xuyên quốc gia

và được tổ chức rất chặt chẽ, chúng gồm: những tên đầu sỏ, cầm đầu hay còn gọi là

đầu nậu; những người mang thuê, vác mướn hay còn gọi là cửu vạn; những kẻ được

thuê theo dõi lực lượng kiểm tra, trang bị hiện đại để đối phó với các cơ quan chức

năng và những đối tượng kinh doanh hàng hóa nhập lậu. Về GLTM, đó là sự cấu

kết với nhau của những đối tượng làm ăn bất chính nhằm thu lợi từ các thủ đoạn

GLTM, nhất là trong các mùa lễ hội hoặc đối với những hàng hóa có tính chất mùa

vụ.

 Đây là những hoạt động phi pháp, khi bị phát hiện, các đối tượng này

luôn tìm cách quanh co chối cải hoặc chống đối quyết liệt, sử dụng mọi thủ đoạn

tinh vi phức tạp và không từ thủ đoạn nào để đối phó với các lực lượng chức năng.

 Buôn lậu, GLTM và tham nhũng gắn bó mật thiết với nhau, các đối

tượng buôn lậu và GLTM có sự móc nối với các phần tử tha hóa, biến chất trong các

cơ quan Nhà nước và cơ quan kiểm tra thực hiện các hành vi phạm pháp với

phương châm “đôi bên cùng có lợi”.

 Các đối tượng buôn lậu và GLTM luôn tìm cách khai thác triệt để kẽ

hở của chính sách, pháp luật, chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế của từng

22

khu vực, khai thác triệt để các yếu tố về điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội... Trong

điều kiện kinh tế thị trường và thời đại công nghệ thông tin như hiện nay thì những

vấn đề trên được giải quyết rất nhanh chóng và chính xác.

 Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện

nay thì hoạt động buôn lậu và GLTM cũng đang dần được “quốc tế hóa”. Đó là sự

bắt tay giữa các đối tượng buôn lậu và GLTM giữa các nước với nhau, từ đó, chúng

tạo ra hệ thống chân rết nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động, giảm thiểu rủi ro.

1.2.3.2. Tác hại của buôn lậu và gian lận thương mại

 Buôn lậu và GLTM là mặt trái, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.

Một số đối tượng do mong muốn tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch, mong muốn làm

giàu nhanh chóng nên đã đi vào con đường làm ăn phi pháp, lừa dối người tiêu dùng

và các cơ quan quản lý nhà nước: “…quá trình theo đuổi lợi nhuận mù quáng cũng

làm cho kinh tế hàng hóa có thể phát triển không lành mạnh, gây nên sự mất cân đối

nhiều mặt trong nền kinh tế” [27, tr.235].

 Buôn lậu và GLTM gây tác hại rất lớn đối với nền sản xuất trong

nước: hàng lậu trốn thuế giá rẻ đầy ắp thị trường, cạnh tranh quyết liệt bóp nghẹt

sản xuất trong nước, làm cho hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến

nhiều doanh nghiệp phá sản, công nhân mất việc làm. Ngoài ra, việc chất lượng và

số lượng hàng hóa không được đảm bảo do chưa được kiểm nghiệm hoặc do sự gian

dối của người kinh doanh, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích và sức khỏe

của người tiêu dùng.

 Buôn lậu và GLTM làm ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh, nản

lòng các nhà đầu tư, do hàng hóa sản xuất ra từ các cơ sở đầu tư không tiêu thụ

được vì sự cạnh tranh quyết liệt của hàng nhập lậu và các hàng hóa có được lợi thế

nhờ GLTM.

 Buôn lậu và GLTM tác hại nghiêm trọng đối với sản xuất và đời sống

của nông dân vùng nguyên liệu (đường, thuốc lá: hơn 43.000 lao động mất việc làm

23

trong 4 - 5 tháng [28],…), ảnh hưởng tới tâm lý tiêu dùng của người dân, lâu ngày

người tiêu dùng sẽ có tâm lý sính ngoại, thích tiêu dùng hàng ngoại giá rẻ.

 Buôn lậu và GLTM gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Ngoài

việc thất thu do một lượng lớn hàng hóa được nhập lậu, trốn thuế hải quan khi đưa

vào lãnh thổ Việt Nam thì còn có các vấn đề như: không kiểm soát được thu nhập

của các đối tượng trên nên từ đó không thu được thuế thu nhập cá nhân…

Với những tác hại như trên thì vấn đề buôn lậu và GLTM ảnh hưởng rất lớn

tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, ảnh hưởng đến hình ảnh của

Việt Nam trên trường quốc tế trong quá trình hội nhập, từ đó làm giảm lòng tin của

nhân dân vào Đảng và Nhà nước ta. Để ngăn chặn tác hại của chúng, ta cần nghiên

cứu và tăng cường vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.

1.2.3.3. Công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội

nhập

Công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM là cuộc chiến lâu dài, khó khăn

và phức tạp. Đảng và Nhà nước ta chủ trương công tác quản lý thị trường, đấu tranh

chống buôn lậu và GLTM là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành. Do đó, để

công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM đạt hiệu quả, ta cần phát huy sức

mạnh tổng hợp cả nước, nhất là đối với các lực lượng chức năng. Cụ thể, phải có sự

phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng chống buôn lậu và

GLTM. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các lực lượng trên.

Các lực lượng chức năng có nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu và GLTM ở nước

ta gồm:

 Quản lý thị trường: đây là lực lượng thực hiện chức năng kiểm tra,

kiểm soát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động thương mại; đấu tranh chống

buôn bán hàng hóa nhập lậu, sản xuất và kinh doanh hàng giả, kinh doanh trái phép

và GLTM trên thị trường nội địa.

 Hải quan: đây là lực lượng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát

hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu, cảng biển, sân bay; thu thuế xuất nhập

24

khẩu. Đây còn là lực lượng trực tiếp chống buôn lậu hàng hóa và tiền tệ qua biên

giới, chống GLTM, ngăn chặn hàng lậu lọt vào thị trường nội địa.

 Thuế vụ: đây là lực lượng thực hiện chức năng thu thuế, thu ngân sách

trên địa bàn được phân công; kiểm tra, giám sát việc chấp hành, chống gian lận

trong lĩnh vực thuế, chủ trì và phối hợp với các cơ quan Nhà nước và các lực lượng

KTKS khác như Quản lý thị trường, Công an kinh tế…trong việc chống trốn, lậu

thuế, chống thất thu ngân sách.

 Công an kinh tế: đây là lực lượng chịu trách nhiệm phát hiện, điều tra

và xử lý các ổ nhóm, tụ điểm buôn lậu, sản xuất hàng giả và kinh doanh trái phép có

quy mô lớn; nhất là đối với những mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã

hội, đến hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân; thực hiện phối hợp với các lực

lượng chức năng như Hải quan, Bộ đội biên phòng trong việc kiểm tra và ngăn chặn

việc vận chuyển hàng hóa, ngoại tệ, cổ vật…trái phép qua biên giới; hỗ trợ các lực

lượng chức năng khác – khi có yêu cầu từ các lực lượng này – về người, phương

tiện để bắt giữ, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại.

 Bộ đội biên phòng: ngoài nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới, vùng

biển, vùng hải đảo thì đây còn là lực lượng chống buôn lậu ở các vùng biên giới và

trên biển, nơi chưa có Hải quan quản lý; hỗ trợ lực lượng Hải quan cửa khẩu chống

buôn lậu khi có yêu cầu.

 Cảnh sát biển: đây là lực lượng chủ yếu thực hiện chức năng phối hợp

với lực lượng Hải quân, Bộ đội biên phòng và Hải quan trong việc đấu tranh chống

buôn lậu trên biển, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của nước ta; ngăn chặn

hàng lậu lọt vào thị trường nội địa thông qua đường biển.

 Thanh tra quốc phòng: ngoài nhiệm vụ kiểm soát quân sự thì đây còn

là lực lượng có chức năng kiểm tra và xử lý các vụ buôn lậu, kinh doanh trái pháp

luật trong các đơn vị kinh tế của Quân đội; phối hợp với các lực lượng kiểm tra,

kiểm soát khác nhằm kiểm tra, bắt giữ và xử lý các vi phạm pháp luật của Quân

nhân và các đơn vị có liên quan đến Quân đội.

25

 Thanh tra chuyên ngành: đây là những đơn vị có chức năng thực hiện

nhiệm vụ kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực được giao.

Như vậy, công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội

nhập ở nước ta có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều đơn vị. Tuy nhiên, trên thị

trường nội địa thì ta thấy nổi rõ lên là vai trò của lực lượng QLTT, có thể nhận định

rằng đây là lực lượng chủ công trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong

nội địa.

1.2.3.4. Vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống

buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập

 Khái niệm: QLTT là lực lượng chuyên trách được tổ chức từ Trung

ương đến huyện, có chức năng KTKS thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp

luật trong hoạt động thương mại ở thị trường trong nước. Chi cục QLTT có chức

năng, nhiệm vụ kiểm tra việc tuân theo pháp luật các hoạt động thương mại, công

nghiệp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh, thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên

ngành thương mại [14], [19]. Ngoài ra, QLTT còn có nhiệm vụ “đề xuất với Sở

Công Thương và Ủy ban nhân dân tỉnh kế hoạch biện pháp về tổ chức thị trường,

bảo đảm lưu thông hàng hoá theo pháp luật, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi

phạm trong hoạt động thương mại, công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tổ chức tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về thương mại cho các tổ chức và cá nhân hoạt động liên

quan đến thương mại trên địa bàn tỉnh” [46].

 Như vậy, theo quy định của pháp luật, QLTT có thẩm quyền KTKS

đối với các hoạt động thương mại và các loại hàng hóa lưu thông, kinh doanh trên

thị trường; đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương

mại như kinh doanh hàng cấm, hàng hóa quá hạn sử dụng, hàng nhập lậu, hàng hóa

hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện, GLTM, kinh doanh trái phép

khác… Bên cạnh đó, QLTT còn có vai trò là Cơ quan thường trực BCĐ 127 – Ban

Chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại. Từ chức năng, nhiệm vụ

theo luật định như trên thì ta có thể hiểu vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu

tranh chống buôn lậu và GLTM như sau:

26

+ Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước: thực hiện chức năng KTKS

thị trường nhằm phát hiện các vi phạm trong hoạt động thương mại; tham

mưu với cơ quan cấp trên thực hiện các chính sách như tổ chức thị trường,

đảm bảo lưu thông hàng hóa; đồng thời thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến

pháp luật về thương mại nói chung, về lĩnh vực buôn lậu và GLTM nói riêng, cho thương nhân1.

+ Nhìn từ góc độ kinh tế – xã hội: bảo vệ người sản xuất, kinh

doanh chân chính từ đó góp phần bình ổn thị trường, phát triển sản xuất

trong nước theo định hướng chung của Đảng và Nhà nước; ngăn chặn tác hại

của buôn lậu và GLTM từ đó bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng.

Tóm lại, lực lượng QLTT có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh chống

buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập vì đây là lực lượng chủ yếu thực hiện

việc KTKS thị trường nội địa từ đó góp phần ngăn chặn tác hại của chúng, đồng

thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và của các thương nhân làm ăn chân

chính.

1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong

đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập

1.3.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến công tác quản lý thị trường

Kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế thế giới. Đây vừa

là thời cơ vừa là thách thức đối với kinh tế nước ta nói chung, đối với công tác quản

lý nhà nước trong hoạt động thương mại nói riêng, nhất là đối với công tác QLTT.

 Thời cơ: quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho hoạt

động thương mại diễn ra sôi động, hàng hóa lưu thông trên thị trường đa dạng về

chủng loại, mẫu mã, số lượng và giá thành. Từ đó, hạn chế được tình trạng độc

quyền, đầu cơ, găm hàng lũng đoạn thị trường; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

cho người tiêu dùng. Vì thế, công tác QLTT trong giai đoạn này có một số thuận lợi

1 Khái niệm thương nhân được hiểu theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005

như: thị trường được mở rộng, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn trong việc mua

27

hàng giảm được tình trạng bị thương nhân chèn ép, làm giá; điều kiện tiếp cận với

các thông tin chính thức của người dân ngày càng nhiều nên phần nào hạn chế được

việc bị thương nhân lừa đảo; các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng QLTT,

ngày càng được trang bị những phương tiện, trang thiết bị hiện đại và thông tin

được cập nhật liên tục, từ đó làm tăng tính hiệu quả trong công tác chuyên môn.

 Thách thức: quá trình hội nhập kinh tế quốc tế làm thay đổi bối cảnh

kinh tế trong nước, tạo ra những tiền đề cho quá trình phát triển kinh tế của nước ta.

Đồng thời, quá trình này cũng làm nảy sinh những mặt trái, mặt tiêu cực của kinh tế

thị trường như buôn lậu và GLTM. Do đó, để tận dụng những thời cơ mà quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra đòi hỏi công tác QLTT phải đáp ứng được yêu cầu,

nhiệm vụ của tình hình mới. Cụ thể: việc mở rộng hoạt động thương mại sẽ làm

xuất hiện nhiều hành vi, phương thức và thủ đoạn mới tinh vi, phức tạp hơn từ đó

đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước ta nhằm định

hướng cho công tác QLTT trong tình hình mới; con người phải thường xuyên được

đào tạo, cập nhật những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để nhận biết và xử lý kịp

thời, đúng quy định đối với những vi phạm; một khi thị trường được mở rộng, sự

lưu thông hàng hóa giữa các địa phương, giữa các quốc gia với nhau diễn ra thường

xuyên thì yêu cầu đặt ra là cần có sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong

việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM.

Học viên xin nêu ra một vài tác động đặc trưng và phổ biến của hội nhập

kinh tế quốc tế đến công tác QLTT như sau:

 Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ xuất hiện xu

thế mới như việc giảm các dòng thuế nhập khẩu giữa các quốc gia, việc áp dụng

ngày càng nhiều các biện pháp bảo hộ thương mại trong nước (áp dụng quota; áp

dụng các hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế số lượng hàng nhập khẩu từ các nước).

Từ đó sẽ làm thay đổi tính chất, qui mô, mức độ hoạt động của buôn lậu và GLTM.

 Tác động của cung cầu hàng hóa và giá cả hàng hóa trên thị trường

thế giới, nhất là đối với những hàng hóa mà Việt Nam chưa sản xuất được hoặc

những nguyên liệu phục vụ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế nước ta. Do đó

28

tác động trực tiếp đến hoạt động thương mại trong nước, làm cho tình hình buôn lậu

và GLTM diễn biến phức tạp.

 Các biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới có những tác động

nhất định đến công tác QLTT. Việt Nam nằm trong khu vực kinh tế năng động, đây

là điều kiện thuận lợi để ta mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhưng cũng đặt ra rất

nhiều thách thức đối với kinh tế nước ta, đặc biệt là hàng hóa trong nước phải đối

mặt với các loại hàng hóa nhập khẩu đa dạng và giá rẻ có nguồn gốc, xuất xứ từ

Trung Quốc và các quốc gia lân cận.

 Sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của lĩnh vực khoa học công

nghệ, nhất là công nghệ thông tin sẽ làm nảy sinh nhiều hành vi và thủ đoạn vi

phạm mới ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Ví dụ: các đối tượng buôn lậu lợi

dụng sự phát triển của công nghệ in và tin học để làm giả các hồ sơ, chứng từ chứng

minh nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa nhằm hợp pháp hóa hàng nhập lậu.

1.3.2. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong

đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập

Theo tôi, các yếu tố sau đây có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vai trò

của lực lượng QLTT trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội

nhập:

 Thứ nhất, năng lực của đội ngũ thực thi, gồm: đội ngũ nhân sự và các

nguồn lực vật chất phục vụ cho hoạt động công vụ.

+ Trước hết có thể khẳng định rằng đội ngũ nhân sự có vai trò

đặc biệt quan trọng và là điều kiện tiên quyết trong việc thực hiện và đảm

bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bất kỳ tổ chức nào, vì nó khác với các

nguồn lực khác của tổ chức là do chính bản chất con người: “chỉ có thông

qua những hoạt động cụ thể của đội ngũ cán bộ, công chức mà hệ thống pháp

luật được đưa vào quản lý xã hội; phần lớn các thất bại của công việc là do

những người tham gia vào công việc đã, hoặc không có đủ năng lực, hoặc

không có động cơ làm việc tốt” [31, tr.42].

29

+ Thứ hai, bên cạnh đội ngũ nhân sự thì nguồn lực vật chất nhằm

phục vụ cho hoạt động công vụ có vai trò quan trọng không kém. Chẳng hạn,

muốn kiểm tra nồng độ chỉ số Octane của xăng dầu thì cần phải trang bị máy

đo nồng độ chỉ số Octane; có như vậy, lực lượng QLTT mới có cơ sở để

khẳng định xem mẫu xăng dầu trên có đạt chất lượng hay không, từ đó mới

có thể đưa ra hướng xử lý theo đúng quy định.

+ Vì việc kiểm tra, phát hiện việc kinh doanh hàng lậu và GLTM

được thực hiện trực tiếp ở cấp Đội nên năng lực thi hành nhiệm vụ của cấp

Đội là yếu tố quyết định vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh

chống buôn lậu và GLTM.

+ Giả thuyết khoa học – H1: Nếu thực hiện các biện pháp

nhằm nâng cao năng lực thi hành nhiệm vụ của cấp Đội thì sẽ tăng

cường được vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống

buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập.

 Thứ hai, những quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực QLTT,

buôn lậu và GLTM. Các quy định của pháp luật là nền tảng, là cơ sở cho quá trình

thực thi quyền hạn, nhiệm vụ của lực lượng QLTT trong thực tiễn hoạt động thương

mại; đến lượt mình, quá trình thực thi quyền hạn, nhiệm vụ trên sẽ chỉ ra những tồn

tại, khiếm khuyết cần phải khắc phục của hệ thống pháp luật hiện hành. Các quy

định cụ thể gồm:

+ Những quy định liên quan đến lĩnh vực QLTT gồm: các văn

bản pháp luật quy định về phân cấp quản lý nhà nước trong hoạt động

thương mại; về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các chính sách đãi ngộ

đối với lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM.

Những quy định này nhằm xác lập quyền hạn, phạm vi hoạt động và những

yếu tố khác khẳng định vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh

chống buôn lậu và GLTM.

+ Những quy định của pháp luật trong hoạt động thương mại,

nhất là trong lĩnh vực buôn lậu và GLTM. Các quy định này giúp cơ quan

30

thực thi hiểu rõ là mình đang thực hiện vai trò, chức năng để KTKS vấn đề

gì? đồng thời điều chỉnh hành vi của thương nhân trong lĩnh vực buôn lậu và

GLTM, cụ thể là họ sẽ được phép làm gì, kinh doanh những gì và những

điều, những mặt hàng họ không được phép kinh doanh?... Nói cách khác,

những quy định này nhằm phân biệt đâu là “sân” của QLTT và đâu là “sân”

của thương nhân?

+ Ngoài ra, những quy định liên quan đến hàng hóa – yếu tố trực

tiếp chịu sự KTKS của QLTT – như các quy định về ghi nhãn hàng hóa, về

chất lượng hàng hóa…cũng góp phần không nhỏ vào việc tác động đến hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động thương mại nói chung, trong

việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM nói riêng.

+ Giả thuyết khoa học – H2: vai trò của QLTT trong việc đấu

tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại chỉ có thể được phát huy

khi và chỉ khi có một hệ thống pháp luật quy định rõ ràng, đầy đủ về các

vấn đề liên quan đến lực lượng QLTT, đến lĩnh vực buôn lậu và gian lận

thương mại, đến hàng hóa.

 Thứ ba, thị hiếu của người tiêu dùng và ý thức pháp luật của người

dân. Cụ thể:

+ Sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng tác động lên cầu [30,

tr.33], ảnh hưởng đến vấn đề buôn lậu và GLTM. Vì kinh tế thị trường chịu

sự tác động của quy luật cung cầu, một khi cầu về hàng hóa nhập lậu còn tồn

tại thì vấn đề buôn lậu còn tồn tại và diễn biến phức tạp. Khi cầu về hàng hóa

nhập lậu còn tồn tại đối với đại đa số người tiêu dùng thì hoạt động chống

buôn lậu và GLTM của lực lượng QLTT sẽ không nhận được sự ủng hộ và

đồng thuận của người dân; và ngược lại, khi tâm lý người tiêu dùng hướng

về hàng hóa được sản xuất trong nước thì hoạt động chống buôn lậu và

GLTM sẽ nhận được quan tâm, ủng hộ của người dân, từ đó lực lượng QLTT

sẽ phát huy vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

31

+ Ý thức pháp luật của người dân là một yếu tố vô cùng quan

trọng: “ không có nó thì sẽ không có hành động tự giác chấp hành pháp luật

của các chủ thể pháp luật” [33, tr.158]. Hoạt động QLTT chủ yếu là việc

thực thi pháp luật, trực tiếp áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn

nhằm điều chỉnh hành vi của các đối tượng tham gia hoạt động thương mại.

Tuy nhiên, do ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với thực tiễn xã hội và

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta vừa là cơ

hội để người dân phát triển kinh doanh, vừa là thách thức khi có ngày càng

nhiều quy định được điều chỉnh sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế nên để

hệ thống pháp luật phát huy hiệu quả thì ý thức thượng tôn pháp luật của

người dân là điều kiện tiên quyết.

+ Giả thuyết khoa học – H3: Nếu đẩy mạnh công tác tuyên

truyền nhằm thay đổi thị hiếu tiêu dùng và nâng cao ý thức chấp hành

pháp luật của người dân thì sẽ góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu

quả của công tác QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận

thương mại trong quá trình hội nhập.

 Ngoài ra, các đặc điểm kinh tế – xã hội khác cũng có tác động gián

tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Tuy các yếu tố này không trực tiếp tác động, ảnh hưởng

đến vai trò của lực lượng QLTT nhưng sẽ hạn chế được vấn đề buôn lậu và GLTM.

1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương về tăng cường vai trò của lực lượng

Quản lý thị trường

1.4.1. Tỉnh Long An:

Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh có đặc

điểm vị trí địa lý khá tương đồng với Tây Ninh: phía đông giáp với Tp.HCM và tỉnh

Tây Ninh; phía bắc tỉnh giáp với tỉnh Svay Rieng, Vương quốc Cambodia với hai

cửa khẩu chính là cửa khẩu Quốc tế Bình Hiệp (huyện Mộc Hóa) và cửa khẩu quốc

gia Mỹ Quý Tây (huyện Đức Huệ). Với đặc điểm trên, tình hình buôn lậu và GLTM

diễn ra khá phức tạp, nhất là hoạt động buôn lậu dọc theo tuyến biên giới. Các hàng

hóa nhập lậu chủ yếu gồm: thuốc lá điếu ngoại; rượu ngoại; đường cát; điện thoại di

32

động…các đối tượng buôn lậu chủ yếu là người dân địa phương ở các xã biên giới

có cuộc sống khó khăn nên tham gia vận chuyển thuê hàng lậu cho các đầu nậu,

hoạt động với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, phức tạp gây khó khăn trong

hoạt động chống buôn lậu của các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng QLTT.

Trước tình hình này, Chi cục QLTT tỉnh Long An đã đề ra một số giải pháp nhằm

tăng cường vai trò, tăng tính hiệu quả trong việc chống buôn lậu như sau:

 Chỉ đạo các Đội QLTT tăng cường công tác trinh sát nắm tình hình về

luồng tuyến và quy luật hoạt động buôn lậu trên địa bàn phụ trách, địa bàn giáp

ranh.

 Các Đội QLTT phối hợp với Phòng Kinh tế - Hạ tầng các huyện,

Phòng kinh tế Tp. Tân An, Đài truyền thanh địa phương tuyên truyền về việc cảnh

báo tổ chức, thương nhân người nước ngoài hoạt động mua bán trái phép tại Việt

Nam, đồng thời phối hợp với Công an địa phương lập đường dây nóng tiếp nhận

thông tin phản ảnh của người dân; Phối hợp Sở Thông tin và truyền thông tuyên

truyền các văn bản pháp luật liên quan như: Nghị định số 76/2010/NĐ-CP ngày

12/7/2010 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh

rượu, thuốc lá…

 Phối hợp với Báo Long An, Đài truyền thanh các huyện và thành phố

Tân An tổ chức tuyên truyền nội dung Điều 12, Quyết định số 1243/2000/QĐ-BTM

ngày 06/9/2000 của Bộ Thương Mại (nay là Bộ Công Thương) về ban hành quy chế

công tác của công chức QLTT để nhân dân biết và giám sát hoạt động của lực lượng

QLTT Long An.

1.4.2. Tỉnh Đồng Nai:

Đồng Nai là một trong bốn đỉnh của tứ giác kinh tế, gồm: Tp.HCM – Đồng

Nai – Bà Rịa Vũng Tàu – Bình Dương; đồng thời là địa bàn trung chuyển chính của

hàng hóa từ khu vực miền Bắc và miền Trung vào Tp.HCM. Với đặc điểm trên, nạn

buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh có những đặc thù riêng đòi hỏi phải có những

giải pháp phù hợp với tình hình địa phương. Cụ thể, trong công tác đấu tranh chống

33

buôn lậu và GLTM thì lực lượng QLTT tỉnh Đồng Nai đặc biệt chú trọng vào công

tác phòng ngừa như:

 Vận động các hộ kinh doanh thực hiện: không buôn bán, vận chuyển,

tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu; không sử dụng chất cấm trong sản xuất và kinh

doanh thức ăn chăn nuôi; không buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, trao đổi, sử dụng

và chiết nạp trái phép vỏ bình gas, bình gas có chứa khí dầu mỏ hóa lỏng giả và

bình gas mini tái sử dụng theo quy định.

 Phối hợp với Ban Quản lý các chợ trung tâm trên địa bàn trưng bày

“tủ hàng thật, hàng giả” tại các chợ để người dân tìm hiểu và phân biệt được sự

khác nhau giữa hàng thật và hàng giả, tránh mua lầm hàng giả, đồng thời kịp thời tố

giác với các cơ quan chức năng.

 In đĩa CD và tổ chức phối hợp với Đài truyền thanh các huyện, thị xã,

thành phố và Ban Quản lý các chợ loại 1, loại 2 [15] nhằm tuyên truyền, phổ biến

kiến thức cho nhân dân hiểu để chấp hành và giám sát hoạt động của thương nhân.

Nội dung tuyên truyền chủ yếu tập trung vào: Luật giá; Luật bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng; Luật an toàn vệ sinh thực phẩm;…

 Thiết lập “đường dây nóng” và đồng thời thông báo trên các phương

tiện thông tin đại chúng để người dân có kênh phản ánh, tố cáo các đối tượng buôn

lậu, sản xuất hàng giả và GLTM hoặc tố cáo các biểu hiện tiêu cực của người thi

hành công vụ.

1.4.3. Tỉnh Khánh Hòa:

Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung bộ có bờ biển dài hơn 200km

và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân Phong, Nha Trang,

Cam Ranh…cùng nhiều thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng khác [29]. Với

những lợi thế trên, Khánh Hòa trở thành một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng

của khu vực miền Trung và cả nước. Tuy nhiên, đồng thời với việc đẩy mạnh phát

triển du lịch thì công tác QLTT trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, đặc biệt là công tác

KTKS và xử lý các hành vi vi phạm về giá; bình ổn giá hàng hóa, dịch vụ trong các

mùa du lịch nhất là các đợt cao điểm như Lễ, Tết là một đòi hỏi mang tính cấp thiết.

34

Trước tình hình này, Chi cục QLTT tỉnh Khánh Hòa đã đề ra một số giải pháp như

sau:

 Thường xuyên xây dựng và triển khai các kế hoạch KTKS chuyên đề

về giá nhằm tăng cường công tác quản lý, ngăn chặn và xử lý kiên quyết đối với các

trường hợp lợi dụng sự biến động cung – cầu hàng hóa, dịch vụ trong các đợt cao

điểm để ép giá, bán tăng giá quá mức, thu lợi bất chính, gây bất ổn thị trường. Đồng

thời, chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng như: Sở Tài chính; Sở Giao thông

Vận tải; phòng Tài chính; phòng Kinh tế các huyện…thành lập các Đoàn kiểm tra

liên ngành triển khai nhiệm vụ kiểm tra chấp hành pháp luật về giá như: đăng ký

giá; kê khai giá; niêm yết giá và bán theo giá niêm yết đối với các tổ chức, cá nhân

kinh doanh trên địa bàn. Đặc biệt là trong các dịp cao điểm như Lễ, Tết và các sự

kiện được tổ chức tại địa phương, thực hiện việc bảo đảm môi trường du lịch lành

mạnh, phục vụ tốt cho du khách, Chi cục QLTT Khánh Hòa chủ động thực hiện

việc phối hợp với các ngành chức năng tổ chức kiểm tra chuyên đề về giá đối với

các ngành, nghề kinh doanh dịch vụ như: du lịch biển; đảo; lưu trú khách sạn; nhà

nghỉ; vận chuyển hành khách; ăn uống; khách sạn; các tụ điểm giữ xe…

 Gắn với nhiệm vụ KTKS, lực lượng QLTT tỉnh Khánh Hòa đã chủ

động thường xuyên phối hợp với Ban Quản lý các chợ trung tâm, UBND các xã,

phường thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật, tổ chức ký cam

kết thực hiện các quy định pháp luật trong hoạt động thương mại để từng cơ sở kinh

doanh nắm bắt và thực hiện.

35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về vai trò của lực lượng QLTT trong

việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập, có thể tóm tắt kết

quả nghiên cứu như sau:

 Khẳng định vai trò quan trọng của lực lượng QLTT đối với nền kinh

tế từ khi thành lập đến nay. Tuy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, nhiệm vụ mà

Đảng và Nhà nước ta giao phó cho lực lượng QLTT có sự khác nhau nhưng về cơ

bản là thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Hiện nay, với việc

nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì vai trò chủ công của lực

lượng QLTT trong việc KTKS thị trường nội địa càng được khẳng định, nhất là

trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM nhằm phát triển một nền thương mại

công bằng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân và người tiêu dùng.

 Để tạo cơ sở cho việc phân tích trong các chương sau, tác giả tập

trung làm rõ các khái niệm về buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập, qua đó,

tuy còn hạn chế nhưng các khái niệm nêu ra trong chương này đã phản ánh được

những đặc trưng cơ bản của hoạt động buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập.

 Phân tích các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng QLTT trong

đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập. Trong đó, các yếu tố

tác động trực tiếp đến vai trò của lực lượng QLTT gồm: thứ nhất là năng lực của

đội ngũ thực thi nhiệm vụ, nhất là ở cấp Đội QLTT; thứ hai là hệ thống pháp luật

liên quan đến lĩnh vực QLTT, buôn lậu và GLTM; thứ ba là thị hiếu của người tiêu

dùng và ý thức thượng tôn pháp luật của người dân.

Trình bày kinh nghiệm về tăng cường vai trò của lực lượng QLTT tại

một số địa phương có các đặc điểm tương đồng với tỉnh Tây Ninh như: Long An –

đây là tỉnh giáp Vương quốc Cambodia với tình hình buôn lậu diễn biến phức tạp;

Đồng Nai – địa bàn trung chuyển hàng hóa từ các tỉnh phía bắc và miền trung vào

Tp.HCM; Khánh Hòa – là tỉnh nổi tiếng về du lịch.

36

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN

THƯƠNG MẠI CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀ

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.5. Bối cảnh ảnh hưởng đến công tác quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh

Tây Ninh

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của địa phương

 Tây Ninh là tỉnh khu vực biên giới tây nam, nằm trong vùng Đông

Nam bộ và vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với các địa bàn sôi động

trong phát triển kinh tế; cụ thể, phía đông giáp hai tỉnh Bình Phước và Bình Dương

với đường ranh giới dài 123km, phía nam giáp Tp.HCM và tỉnh Long An với đường

ranh giới dài 36.5km, phía bắc và tây giáp Vương quốc Cambodia với đường biên

giới dài khoảng 240km tiếp giáp 03 tỉnh Svay Rieng, Prey Veng và Kampong

Cham, với 02 cửa khẩu quốc tế (Mộc Bài, Xa Mát), 04 cửa khẩu chính (Tống Lê

Chân, Kà Tum, Chàng Riệt và Phước Tân) và 10 cửa khẩu phụ do chính quyền tỉnh

Tây Ninh và các tỉnh giáp biên thuộc Vương quốc Cambodia thỏa thuận, ký kết. Địa

hình là đồng bằng, rừng rậm, có nhiều đường mòn qua lại biên giới giữa hai nước,

cư dân biên giới có quan hệ truyền thống lâu đời, qua lại trao đổi, mua bán hàng hóa

qua lại giữa hai nước [32].

Với vị trí địa lý như trên, Tây Ninh chính là cầu nối quan trọng giữa

Tp.HCM và thủ đô Phnom Penh của Vương quốc Cambodia. Theo quy hoạch,

đường xuyên Á đoạn từ Tp.HCM đến Phnom Penh sẽ trùng với toàn tuyến quốc lộ

22A (nối Tp.HCM qua các huyện Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu ra cửa khẩu quốc

tế Mộc Bài sang Cambodia). Đây là điều kiện thuận lợi để thông thương với nước

bạn, phát triển kinh tế địa phương; bên cạnh đó, điều này cũng làm nảy sinh các

37

hoạt động kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu và GLTM do các chính sách thuế, bảo

hộ kinh tế trong nước của cả Việt Nam và Cambodia, gây ảnh hưởng đến các

thương nhân làm ăn chân chính của cả hai nước. Hoạt động buôn lậu và lợi dụng

chính sách ưu đãi thuế dành cho khách du lịch để mua gom, vận chuyển hàng hóa

miễn thuế; hàng hóa nhập lậu chủ yếu tập trung và phát triển ở khu vực biên giới,

nhất là khu vực cửa khẩu Mộc Bài và các đường mòn dọc theo khu vực hai bên

cánh gà cửa khẩu.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội

Trong những năm qua, với sự quyết tâm của lãnh đạo các cấp và sự đồng

lòng của nhân dân, kinh tế Tây Ninh đã có những bước chuyển tích cực, cơ cấu kinh

tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch

vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2011 của tỉnh đạt 37.261,9 tỷ đồng, toàn tỉnh hiện

có 105 chợ lớn nhỏ và 7 siêu thị [45] (chủ yếu tập trung tại khu vực cửa khẩu Mộc

Bài). Hoạt động thương mại của tỉnh tập trung chủ yếu ở khu Kinh tế cửa khẩu Mộc

Bài; khu vực trung tâm Thị xã và các huyện. Trong đó, hoạt động buôn lậu và

GLTM tập trung chủ yếu ở các khu vực sau:

+

 Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài, huyện Bến Cầu:

Là khu kinh tế cửa khẩu với cửa khẩu quốc tế Mộc Bài và hai

cửa khẩu phụ Phước Chỉ và Long Thuận phục vụ cho các hoạt động giao lưu

kinh tế, văn hóa và quan hệ chính trị, ngoại giao giữa Việt Nam, Cambodia

và một số nước trong khối ASEAN; là trung tâm thương mại, du lịch và đầu

mối giao thông trong nước và quốc tế; trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học

kỹ thuật quan trọng của tỉnh Tây Ninh và vùng Đông Nam Bộ; có vị trí quan

trọng về an ninh, quốc phòng [42]. Phạm vi lập Quy hoạch chung xây dựng

Khu kinh tế bao gồm toàn bộ địa giới hành chính các xã Long Thuận, Tiên

Thuận, Lợi Thuận, An Thạnh, thị trấn Bến Cầu thuộc huyện Bến Cầu, các xã

Phước Lưu, Bình Thạnh, Phước Chỉ thuộc huyện Trảng Bàng với diện tích

21.284 ha. Hoạt động kinh tế chủ yếu diễn ra trong Khu Thương mại và

Công nghiệp thuộc Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài.

38

+

Khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài là khu phi thuế quan,

diện tích được quy hoạch 986 ha, được thực hiện cơ chế chính sách ưu đãi

theo Quyết định số 144/2004/QĐ-TTg ngày 12/8/2004 của Thủ tướng Chính

phủ. Theo đó, khách tham quan du lịch khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế

cửa khẩu được mua hàng miễn thuế mang vào nội địa với trị giá hàng hóa

không quá 500.000 đồng Việt Nam/1 người/1 ngày, trừ các loại hàng hóa

gồm thuốc lá điếu các loại, bia các loại, rượu các loại không áp dụng bán cho

người dưới 18 tuổi và đối với người từ 18 tuổi trở lên thì bán miễn thuế theo

định mức tối đa không quá 500.000 đồng Việt Nam/1 người/1 tháng. Căn cứ

vào các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi

hành của Bộ Tài chính, UBND tỉnh Tây Ninh đã ban hành Quy chế về mua –

bán hàng miễn thuế tại Khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài, tạo điều

kiện thuận lợi cho khách tham quan, du lịch, các doanh nghiệp hoạt động

+

trong khu và các cơ quan quản lý trong tổ chức thực hiện.

Hoạt động của Khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài có

hàng rào cứng ngăn cách với các khu khác trong khu kinh tế cửa khẩu Mộc

Bài, có 02 cổng vào Việt Nam và 02 cổng về hướng Cambodia đều có bố trí

lực lượng Hải quan chốt trực để kiểm tra, giám sát người, hàng hóa và các

phương tiện ra vào khu. Bên cạnh việc triển khai giám sát trực tiếp, cơ quan

Hải quan đã xây dựng và triển khai ứng dụng phần mềm quản lý bán hàng

của các doanh nghiệp trong khu, được nối mạng giữa Hải quan và doanh

nghiệp để quản lý chặt chẽ hoạt động bán hàng của các doanh nghiệp.

+

 Khu Kinh tế cửa khẩu Xa Mát, huyện Tân Biên:

Cửa khẩu Xa Mát là cửa khẩu quốc tế trên tuyến biên giới đất

liền Việt Nam – Cambodia, là cửa ngõ của tỉnh Tây Ninh trong việc phát

triển giao lưu thương mại, có vai trò quan trọng trong xây dựng, phát triển

kinh tế hướng ngoại, sau này trở thành trung tâm giao dịch thương mại quốc

tế. Khu kinh tế cửa khẩu Xa Mát được thành lập theo Quyết định số

186/2003/QĐ-TTg ngày 11/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ bao gồm 02 xã

39

Tân Lập và Tân Bình, huyện Tân Biên. Khu kinh tế cửa khẩu Xa Mát được

áp dụng các chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu biên giới quy định tại

Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ.

Khu kinh tế cửa khẩu Xa Mát là khu vực gồm có 4 cửa khẩu, trong đó cửa

khẩu quốc tế là cửa khẩu Xa Mát và các cửa khẩu phụ là: Tân Phú, Cây Gõ,

+

Chàng Riệc.

Hiện tại, Khu Kinh tế cửa khẩu Xa Mát đang trong quá trình

xây dựng, chưa được các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm nên hoạt

động kinh tế nói chung, hoạt động thương mại nói riêng chưa phát triển như

kỳ vọng và không nhộn nhịp như Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài.

 Trung tâm thương mại các huyện và thị xã, đây là nơi tập trung hoạt

động thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân bản địa. Với vị trí địa lý đặc

thù là tỉnh biên giới như Tây Ninh thì việc hàng hóa tiêu dùng có nguồn gốc từ nước

ngoài nhập lậu vào địa phương và được bày bán nhiều tại các cơ sở kinh doanh là

điều không tránh khỏi. Ngoài ra, do các chợ chưa được quy hoạch phát triển bày

bản, thói quen kinh doanh và trình độ dân trí nói chung, trình độ am hiểu luật pháp

của người dân, của người kinh doanh – hầu hết là tiểu thương, buôn bán nhỏ lẻ –

nên tình trạng GLTM có chiều hướng gia tăng qua các năm.

2.6. Thực trạng công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của lực

lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

2.2.1. Đánh giá tình hình chung

Nhìn chung, các đối tượng sản xuất, kinh doanh trên địa bàn chấp hành

tương đối tốt các quy định của pháp luật trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, do

chạy theo lợi nhuận nên còn một bộ phận không nhỏ thực hiện các hành vi buôn lậu

và GLTM gây ảnh hưởng đến các thương nhân làm ăn chân chính, đến người tiêu

dùng. Cụ thể:

 Giai đoạn 2008 – 2012, tình hình thị trường hàng hóa và giá cả ít biến

động, sự tăng giảm giá cả hàng hóa chủ yếu là do ảnh hưởng chung của lạm phát

đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, đối với các mặt hàng miễn thuế có nguồn gốc, xuất

40

xứ từ khu Thương mại – công nghiệp Mộc Bài và mặt hàng thuốc lá điếu ngoại

nhập lậu có giá diễn biến phức tạp, chủ yếu là do ảnh hưởng bởi nhu cầu của người

tiêu dùng, nhất là vào các dịp lễ tết. Từ đây làm cho hoạt động buôn lậu và GLTM

diễn biến phức tạp, ngày càng xuất hiện những phương thức thủ đoạn tinh vi hơn,

hiện đại hơn.

 Hàng hóa sản xuất trong nước đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, trên địa

bàn tỉnh không xảy ra các hiện tượng đầu cơ, găm hàng nhằm tăng giá quá mức.

Tuy nhiên, với đặc thù là tỉnh biên giới nên khi trên địa bàn xảy ra dịch bệnh như

dịch cúm gia cầm (năm 2009); dịch heo tai xanh (năm 2011) hoặc các đợt tăng giá

xăng dầu làm cho tình hình buôn lậu và GLTM trên địa bàn có diễn biến phức tạp.

2.2.2. Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

2.2.2.1. Tình hình buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

+

 Địa bàn hoạt động chủ yếu của buôn lậu gồm:

Khu vực biên giới: chủ yếu diễn ra ở khu vực Rạch Tràm, 3 xã

cánh tây (Phước Chỉ, Phước Lưu, Bình Thạnh) huyện Trảng Bàng; xã Thành

Long và xã Biên Giới huyện Châu Thành; xã An Thạnh huyện Bến Cầu; và

khu vực các cửa khẩu, hai bên cánh gà cửa khẩu. Cụ thể: khu vực cửa khẩu

quốc tế và khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài, Xa Mát; khu vực cửa khẩu và hệ

thống đường mòn, lối mở hai bên cánh gà các cửa khẩu địa phương: Tống Lê

+

Chân; Kà Tum; Chàng Riệt và Phước Tân.

Thị trường nội địa: tập trung nhiều ở khu vực nông thôn và các

trung tâm thương mại lớn của tỉnh như: thị xã Tây Ninh; khu vực chợ Long

Hoa – huyện Hòa Thành; khu vực chợ Gò Dầu – huyện Gò Dầu. Cùng với

Tp.HCM thì đây là những nơi tiêu thụ chủ yếu hàng hóa nhập lậu trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh.

+

 Các đối tượng buôn lậu chủ yếu:

Đầu nậu là những đối tượng cầm đầu, chúng là các “đầu mối”

phân phối hàng lậu do có tiềm lực tài chính mạnh mẽ và quan hệ rộng; các

41

đầu nậu thường ẩn mình, không xuất hiện, chúng hợp tác và có mối quan hệ

+

chặt chẽ với các đầu nậu nước ngoài.

Cửu vạn là những đối tượng được thuê để mang vác, vận

chuyển hàng lậu theo sự chỉ huy của các đầu nậu. Các đối tượng này thường

là cư dân khu vực biên giới, họ là những người dân nghèo, không có tư liệu

và đất sản xuất, không được học tập nên trình độ nhận thức kém, từ đó, họ bị

các đầu nậu dụ dỗ để vận chuyển hàng lậu cho chúng. Và khi gặp sự KTKS

+

của lực lượng chức năng thì các đối tượng này chống đối quyết liệt.

Các đối tượng mua bán nhỏ, chủ yếu là cư dân khu vực biên

giới và các huyện giáp ranh, xét về điều kiện kinh tế và trình độ nhận thức thì

các đối tượng này không có khác biệt nhiều so với cửu vạn. Tuy nhiên, điểm

khác nhau ở chổ là họ tự bỏ vốn (có được do vay mượn, cầm cố nhà cửa) để

mua hàng và sau đó thực hiện việc vận chuyển hàng hóa nhập lậu với số

lượng nhỏ phân phối cho các cửa hàng tạp hóa trong phạm vi huyện hoặc

+

liên huyện với mục đích kiếm sống qua ngày.

Khách du lịch tham quan các cửa khẩu, do nhu cầu về hàng hóa

miễn thuế lớn hơn so với mức thuế được miễn/người/ngày theo quy định nên

+

để thỏa mãn nhu cầu trên thì “vô tình” họ đã thực hiện hành vi buôn lậu.

Ngoài ra, có một số đối tượng không trực tiếp thực hiện hành

vi vận chuyển hay mua bán hàng lậu mà chúng luôn theo sát các hoạt động

của lực lượng chức năng nhằm cung cấp hay bán thông tin cho các đối tượng

buôn lậu để đối phó với lực lượng chức năng.

 Mặt hàng buôn lậu chủ yếu gồm: vàng; ngoại tệ; rượu ngoại; thuốc lá

điếu ngoại; đường; đồ điện tử…và các hàng hóa tiêu dùng thường ngày. Một số mặt

+

hàng tiêu biểu như:

Thuốc lá điếu ngoại: là mặt hàng nhập lậu chủ yếu, hàng hóa

được vận chuyển từ nước bạn Cambodia về và tập trung tại khu vực Rạch

Tràm giáp ranh giữa 2 tỉnh Long An và Tây Ninh; khu vực 3 xã cánh tây

42

huyện Trảng Bàng. Thuốc lá điếu ngoại nhập lậu thường gia tăng vào các

+

thời điểm sắp đến ngày lễ tết trong năm do nhu cầu thị trường tăng.

Xăng dầu: do chính sách trợ giá đối với mặt hàng xăng dầu của

nước ta nên xảy ra hiện tượng giá xăng dầu trên thị trường Việt Nam thấp

hơn giá xăng dầu trên thị trường Cambodia. Do đó, khi giá xăng dầu thế giới

tăng thì sẽ xảy ra hiện tượng xuất lậu xăng dầu từ các tỉnh biên giới Việt

Nam, trong đó có Tây Ninh, sang Vương quốc Cambodia. Tại Tây Ninh,

việc xuất lậu xăng dầu diễn ra chủ yếu ở khu vực biên giới – xã Tân Lập

huyện Tân Biên và xã Tân Hà huyện Tân Châu. Hiện nay, do sự điều chỉnh

phù hợp trong chính sách quản lý giá đối với mặt hàng xăng dầu nên hoạt

+

động xuất lậu xăng dầu không còn.

Đường cát: nhập lậu qua biên giới không nhiều, quy mô nhỏ,

chủ yếu là mặt hàng đường cát trắng do Thái Lan sản xuất nhằm phục vụ nhu

+

cầu tiêu dùng hằng ngày của cư dân khu vực biên giới và các vùng lân cận.

Gạo: chủ yếu là gạo Thái Lan và gạo Cambodia được cư dân

biên giới trao đổi, mua bán do người Việt Nam chuộng gạo lúa mùa, ít dùng

+

phân bón, thuốc trừ sâu.

Bia, bột ngọt, sữa: đây là các mặt hàng có nguồn gốc, xuất xứ

từ khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài được các con buôn mua gom với

số lượng vượt quá nhiều lần so với suất mua hàng miễn thuế 500.000 đồng

Việt Nam/người/ngày. Những mặt hàng này chủ yếu được đem đi tiêu thụ tại trung tâm các huyện lân cận và Tp.HCM.

+

 Phương thức, thủ đoạn:

Hàng lậu thông thường, nhất là mặt hàng thuốc lá điếu ngoại và

rượu ngoại, sẽ được các đầu nậu tập trung tại các địa điểm hoang vắng, ít

người lui tới dọc theo biên giới Cambodia – Việt Nam, sau đó, chúng thuê

cửu vạn hoặc bán lẻ lại cho các con buôn vận chuyển hàng hóa vào Việt

Nam.

43

+

Đối với các mặt hàng như vàng, ngoại tệ vì có đặc điểm như

giá trị lớn, gọn nhẹ dễ cất giấu nên bọn buôn lậu sử dụng rất nhiều thủ đoạn

tinh vi, cất giấu ở những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể gây khó khăn rất

+

nhiều đối với các lực lượng chức năng.

Về mặt hàng xăng dầu: do lực lượng chức năng siết chặt việc

kiểm soát đối với các cửa hàng xăng dầu khu vực biên giới, nên các đối

tượng xuất lậu xăng dầu thường tìm cách mua gom xăng dầu ở các cửa hàng

bán lẻ xăng dầu nằm sâu trong nội địa và tìm mọi cách chuyển lên biên giới

+

để xuất lậu.

Ngoài ra, để “lách” quy định về mức miễn thuế/người/ngày tại

khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài thì các đối tượng buôn lậu tìm cách thuê,

mượn chứng minh nhân dân của người thân và cư dân khu vực biên giới để

mua gom hàng miễn thuế.

+

 Quy mô, tính chất của hoạt động buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

Tùy từng lĩnh vực, địa bàn và mức lợi nhuận từng mặt hàng

đem lại mà hoạt động buôn lậu diễn ra với quy mô và tính chất khác nhau;

hoạt động buôn lậu diễn ra liên tục, không kể ngày đêm, vì đây là hoạt động

phạm pháp và đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của bản thân nên khi bị lực

lượng chức năng phát hiện thì các đối tượng buôn lậu tìm mọi cách chối cãi,

chống đối, không chấp hành trong khi được kiểm tra.

+

 Các hành vi buôn lậu phổ biến

Hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu không khai báo Hải quan

+

theo quy định hoặc không qua cửa khẩu.

Hàng hóa nhập khẩu được bày bán tại cửa hàng, tồn trữ trong

kho, đang vận chuyển trên đường không có hóa đơn, chứng từ chứng minh

nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hoặc có hóa đơn, chứng từ nhưng không

hợp lệ, hợp pháp.

44

+

Hàng hóa nhập khẩu theo quy định phải dán tem nhưng không

dán tem, dán tem không đúng chủng loại, tem giả, tem quay vòng; quy định

+

phải dán nhãn phụ nhưng không dán nhãn phụ theo quy định.

Ngoài ra, hàng hóa có nguồn gốc, xuất xứ từ khu Thương mại

– Công nghiệp Mộc Bài không có hóa đơn chứng từ hợp lệ thì được xem như

hàng nhập lậu [1].

2.2.2.2. Tình hình gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

 Về địa bàn: GLTM diễn ra mọi lúc, mọi nơi, ở bất kỳ nơi đâu có diễn

ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, nhất là các khu vực nông thôn nơi mà

người bán ít chịu sự cạnh tranh còn người mua thì “dễ dãi” trong việc lựa chọn. Tuy

nhiên, GLTM diễn ra thường xuyên, có tính quy luật là tại các trung tâm thương

mại lớn, các tụ điểm tham quan, du lịch của tỉnh.

 Đối tượng thực hiện các hành vi GLTM bao gồm tất cả các thành

phần kinh tế, từ nhà sản xuất đến người kinh doanh. Trong điều kiện hiện tại thì lực

lượng QLTT Tây Ninh chủ yếu thực hiện việc kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các

hộ kinh doanh cá thể, các cá nhân buôn chuyến và các doanh nghiệp tư nhân.

 Mặt hàng vi phạm: có thể là tất cả các hàng hóa, từ hàng hóa tiêu

dùng đến hàng hóa phục vụ cho sản xuất. Trong thời gian qua, trên địa bàn tỉnh,

việc GLTM chủ yếu diễn ra đối với các mặt hàng như: xăng dầu; phân bón; mũ bảo

hiểm…

+

 Phương thức, thủ đoạn và một số hành vi vi phạm phổ biến

Đối tượng vi phạm thường dùng các thủ đoạn dối trá, mánh

khóe, lừa lọc trong hoạt động thương mại như: gian lận về cân đong, đo đếm

– việc sử dụng phương tiện đo chưa qua kiểm định hoặc có dấu kiểm định

hết hiệu lực hoặc sử dụng công nghệ hiện đại như gắn chíp điện tử điều

khiển từ xa nhằm gian lận về số lượng hàng hóa bán ra; gian lận về chất

lượng hàng hóa – sử dụng các nguyên liệu kém chất lượng, pha trộn tạp chất

vào sản phẩm – chủ yếu là các mặt hàng: xăng dầu; phân bón.

45

+

Các vi phạm trong lĩnh vực giá: diễn ra đối với các ngành hàng

không do Nhà nước quy định giá. Các hành vi vi phạm chủ yếu: không niêm

yết giá hàng hóa tại cửa hàng, quầy hàng, địa điểm giao dịch với khách hàng;

hoặc niêm yết giá bán không rõ ràng, gây nhầm lẫn, không đúng theo quy

định. Mục đích của các hành vi trên là nhằm đánh lừa khách hàng, bán một

loại hàng hóa với nhiều mức giá khác nhau cho những đối tượng khách hàng

khác nhau.

 Về quy mô, tính chất thì GLTM không hề thua kém so với buôn lậu.

Nhất là các hành vi gian lận về chất lượng, số lượng trong lĩnh vực kinh doanh xăng

dầu, phân bón, mũ bảo hiểm…ảnh hưởng rất lớn đến lòng tin của người tiêu dùng,

đến sức khỏe, tài sản của nhân dân.

2.2.3. Thuận lợi

 Trong thời gian qua, hoạt động QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đã

nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa

phương và đặc biệt là sự chỉ đạo trực tiếp về mặt chuyên môn, nghiệp vụ từ lãnh

+

đạo Cục QLTT. Cụ thể:

Về chính quyền địa phương, là sự quan tâm chỉ đạo kịp thời,

tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động, nhất là trong giai đoạn đầu thành lập

các Đội QLTT huyện (tháng 7 năm 2009). Đó là sự chỉ đạo trong công tác

phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành chức năng của huyện với lực lượng

+

QLTT.

Đối với Cục QLTT, là sự quan tâm chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp

vụ chuyên môn thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn; các văn bản hướng

dẫn công tác xử lý nhằm điều chỉnh các hành vi vi phạm mà pháp luật chưa

quy định; là sự hướng dẫn, tổ chức triển khai hoạt động kiểm tra; cấp thẻ

kiểm tra thị trường kịp thời. Nhất là việc hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực

hiện công tác KTKS thị trường, với sự chỉ đạo kịp thời trên đã tạo nên sự gắn

kết, đồng bộ đối với công tác QLTT cả nước, tạo được sự đồng thuận trong

nhân dân từ đó làm nên sức mạnh tổng hợp. Cụ thể, năm 2012 Cục QLTT đã

46

ban hành trên 70 văn bản chỉ đạo QLTT địa phương KTKS và xử lý các hành

vi vi phạm, đặc biệt là kiểm tra, xử lý các vấn đề nóng, nổi cộm trên thị

trường như: kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về giá xăng dầu,

khí dầu mỏ hóa lỏng, phân bón (26 văn bản); chỉ đạo các Chi cục QLTT triển

khai các biện pháp ngăn chặn vận chuyển, kinh doanh gia cầm nhập lậu,

không qua kiểm dịch và phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, kiểm tra

việc sử dụng chất cấm thuộc nhóm Beta-Agonist trong chăn nuôi (12 văn

bản);…

 Bên cạnh đó, sự đoàn kết, hợp tác và làm việc lâu năm trong công tác

chống buôn lậu và GLTM của đội ngũ nhân sự hiện có tại Chi cục QLTT Tây Ninh

là một yếu tố ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả, vai trò của lực lượng. Đây là

những người có thâm niên hoạt động trong ngành QLTT nhiều năm, tuy có những

hạn chế nhất định về trình độ và tuổi tác nhưng họ hiểu rất rõ về địa bàn, tính chất,

đặc điểm; về phương thức hoạt động và thủ đoạn của các đối tượng buôn lậu và

GLTM.

2.2.4. Khó khăn

 Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động chung còn thiếu, lạc hậu không đáp

ứng yêu cầu công tác. Đặc biệt từ khi thành lập các Đội QLTT huyện, ngoại trừ trụ

sở cũ của các Đội liên huyện để lại thì đa phần các Đội còn lại đều phải xin UBND

huyện cho mượn tạm các công trình như nhà văn hóa thiếu nhi không còn sử dụng,

văn phòng Ban Quản lý bến xe khách của huyện… Điều này ảnh hưởng rất lớn đến

hoạt động của các Đội, vì hoạt động buôn lậu và GLTM thường diễn ra ngoài giờ

hành chính nên hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT cũng phải thích ứng với

đặc điểm trên, yêu cầu các thành viên trong Đội phải trực tại cơ quan và luôn trong

tư thế sẵn sàng công tác. Và với điều kiện về cơ sở vật chất như trên đã tạo những

khó khăn nhất định cho các Đội: nếu bố trí KSV làm đêm ngoài giờ thì điều kiện ăn

ở không tốt làm ảnh hưởng đến sức khỏe, còn nếu cho làm hết giờ hành chính rồi về

thì hiệu quả công việc thấp.

47

 Về nhân sự: lực lượng nhân sự của Chi cục QLTT tỉnh Tây Ninh hiện

nay còn rất mỏng, không đủ đáp ứng yêu cầu công tác, cũng như hoàn thành các

chức năng, nhiệm vụ được giao. Lực lượng QLTT là lực lượng chủ công trong việc

KTKS hoạt động thương mại trên thị trường nội địa, cụ thể, lực lượng QLTT được

phân công các nhiệm vụ như: chống buôn lậu; chống sản xuất, kinh doanh hàng giả;

chống GLTM; thanh tra chuyên ngành thương mại;…và theo yêu cầu công tác, đòi

hỏi các Đội QLTT phải luôn bố trí KSV trực công tác, kể cả ngày nghỉ. Tuy nhiên,

lực lượng QLTT Tây Ninh, đặc biệt là ở cấp Đội hiện nay còn rất mỏng. Năm 2012,

Chi cục QLTT Tây Ninh có tổng cộng 60 công chức và lao động hợp đồng, như vậy

các Đội QLTT huyện có quân số trung bình là 04 người (tính luôn cả Đội trưởng).

Theo Quy chế công tác của công chức QLTT [5] thì chỉ có công chức QLTT được

cấp Thẻ kiểm tra mới được quyền kiểm tra và khi kiểm tra phải có ít nhất từ 02

công chức QLTT trở lên. Tính trung bình, mỗi Đội có 02 công chức được cấp Thẻ

kiểm tra (gồm Đội trưởng và 01 công chức phục vụ lâu năm trong ngành) như vậy,

có không quá 01 tổ kiểm tra phụ trách địa bàn 01 huyện để thực hiện tất cả các chức

năng, nhiệm vụ được giao cả trong và ngoài giờ hành chính, điều này là hoàn toàn

không thể thực hiện được.

 Về phương tiện: phương tiện cũ kỷ lạc hậu. Mỗi Đội trung bình có 4

công chức nhưng đa số các Đội chỉ được trang bị 01 xe mô tô phục vụ công tác, và

các xe này đều là những xe có từ những năm 1990, phần lớn bị hư hại không đáp

ứng yêu cầu công tác. Như vậy, các Đội đều phải tận dụng xe cá nhân nhằm phục

vụ công tác.

 Ngoài ra, do trình độ phát triển kinh tế và tập quán kinh doanh nhỏ lẻ,

rãi rác, không tập trung và mang tính tự phát, không hiện đại nên gián tiếp ảnh

hưởng đến vai trò và hoạt động của lực lượng QLTT. Điều này tạo ra sự khó khăn

trong công tác quản lý địa bàn, cách thức hoạt động cũng như ý thức chấp hành

pháp luật của người kinh doanh. Cụ thể, với đặc điểm hoạt động thương mại như

trên sẽ gây khó khăn trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến các đối tượng

kinh doanh. Điều này cũng tạo ra tâm lý ỷ lại đối với người kinh doanh: họ ỷ lại vì

48

mình kinh doanh ở khu vực vùng sâu vùng xa nên không nhất thiết phải chấp hành

các quy định chung của pháp luật; họ ỷ lại vào sự hiểu biết, mặt bằng dân trí chung

của khu vực mình sinh sống và vin vào đó để biện hộ cho sự sai trái của mình...

 Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đây là điều

kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của nước ta nói chung, phát triển thương

mại nói riêng. Tính cạnh tranh sẽ được nâng lên, từ đó chất lượng hàng hóa sẽ tăng

lên, người tiêu dùng sẽ có nhiều lựa chọn hơn. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức

không nhỏ, nhất là đối với công tác làm luật ở nước ta: “Thực tiễn áp dụng các quy

định pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế cho thấy cần phải hoàn thiện các

quy định pháp luật trong nước theo hướng “nội luật hóa” các cam kết quốc tế, hủy

bỏ hoặc thay đổi những quy định pháp luật không phù hợp để tạo điều kiện thuận

lợi cho việc thực thi các cam kết quốc tế” [26, tr.306-307].

2.2.5. Kết quả hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại

2.2.5.1. Tác động của lực lượng Quản lý thị trường Tây Ninh đối với tình hình

kinh tế – xã hội tại địa phương

 Có thể khẳng định rằng: hoạt động của lực lượng QLTT đã tạo ra

những tác động tích cực, góp phần đảm bảo sự ổn định cho hoạt động thương mại

trên địa bàn tỉnh Tây Ninh phát triển đúng theo định hướng mà Đảng và Nhà nước

+

ta đã đề ra. Cụ thể:

Ngăn chặn tác hại của hàng hóa nhập lậu đối với kinh tế địa

phương thông qua việc KTKS thị trường, đấu tranh chống các hành vi mua

bán hàng hóa nhập lậu. Hàng lậu được xem là vấn nạn nhức nhối tại địa

phương, do những đặc thù riêng về vị trí địa lý nên Tây Ninh từ lâu đã là thị

trường và là cửa ngõ để hàng hóa có nguồn gốc từ Cambodia và các nước lân

cận nhập lậu vào thị trường Việt Nam. Hiện nay, căn cứ vào kết quả hoạt

động thì hàng năm lực lượng QLTT Tây Ninh tịch thu và xử lý số lượng

hàng lậu trị giá hàng chục tỷ đồng, tuy còn hạn chế so với thực trạng buôn

lậu và GLTM trên địa bàn nhưng kết quả trên đã góp phần không nhỏ vào

49

cuộc chiến giành lại thị trường của hàng hóa sản xuất trong nước, tạo thêm

+

công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động trong nước.

Thông qua việc thực thi các chức năng, nhiệm vụ được giao thì

lực lượng QLTT đã góp phần bình ổn thị trường, tạo điều kiện ổn định cho

hoạt động thương mại trên địa bàn diễn ra thuận lợi, không để xảy ra các

hiện tượng đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức; từng bước đưa hoạt động

sản xuất, kinh doanh trên địa bàn đi vào nền nếp. Vì vậy, có thể xem lực

lượng QLTT như là cánh tay nối dài của Đảng và Nhà nước ta trong việc tổ

chức, quản lý và hoạch định các chính sách liên quan đến hoạt động thương

mại trên địa bàn.

 Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số mặt hạn chế của lực lượng QLTT, tạo

ra những tác động không tốt đối với tình hình kinh tế – xã hội của địa phương, cần

phải khắc phục như: việc thực thi nhiệm vụ chống buôn lậu và GLTM của lực lượng

QLTT phần nào đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của người dân, nhất là trong tình

trạng hàng hóa sản xuất trong nước còn kém về chất lượng, mẫu mã so với hàng

nhập lậu. Do đó, cần phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng

nhân dân, tuyên truyền để họ ý thức được những tác hại to lớn của vấn nạn buôn lậu

và GLTM, từ đó tranh thủ sự đồng thuận của người dân nhằm tránh sự phản ứng

thái quá của họ. Đó là do tính chất nhạy cảm của công tác QLTT, hiện tại tuy trong

lực lượng QLTT chưa phát hiện tình trạng “bảo kê”, “làm luật” nhưng đã có rất

nhiều dư luận không tốt liên quan đến các vấn đề trên của công chức QLTT. Tác giả

xin cung cấp thêm thông tin là giai đoạn trước khi hội nhập, đã có nhiều công chức

QLTT Tây Ninh “nhúng chàm” và bị xử lý trước pháp luật gây ảnh hưởng không tốt

đến hình ảnh của ngành.

2.2.5.2. Kết quả đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại

 Giai đoạn 2008 – 2012 hoạt động buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh

+

Tây Ninh có nhiều diễn biến phức tạp.

Đây là giai đoạn đầu đi vào hoạt động của khu thương mại –

công nghiệp Mộc Bài, việc gia tăng các hoạt động mua gom hàng hóa có

50

nguồn gốc, xuất xứ từ Khu đã làm cho tình hình buôn lậu trên địa bàn ngày

càng phức tạp. Bên cạnh đó, việc buôn lậu mặt hàng thuốc lá điếu ngoại

không có dấu hiệu lắng xuống do lợi nhuận từ việc buôn lậu mặt hàng này

còn rất hấp dẫn đã làm phức tạp thêm tình hình. Nhìn chung, hoạt động buôn

lậu trong giai đoạn này vẫn phát triển mà nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu

thị trường còn lớn, nhất là đối với các mặt hàng như bia, sữa,…nên bọn buôn

lậu luôn tìm cách thay đổi phương thức hoạt động. Ví dụ như chúng tiến

hành chia nhỏ các lô hàng nhằm qua mắt lực lượng chức năng; tìm cách xoay

+

vòng hóa đơn nhằm hợp thức hóa việc nhập lậu hàng hóa…

Năm 2008, kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng ảnh hưởng tới

tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát của Việt Nam tăng, ảnh hưởng đến giá

cả một số mặt hàng thiết yếu. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có

những giải pháp đồng bộ nhằm ngăn chặn tác hại của khủng hoảng, phục hồi

kinh tế. Trong đó, một trong những mục tiêu cơ bản là ổn định sản xuất trong

nước, bình ổn thị trường, đảm bảo an sinh xã hội. Để thực hiện thành công

các mục tiêu trên, ngành QLTT được chỉ đạo cần tăng cường công tác KTKS

thị trường, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động thương

mại. Đặc biệt, tập trung vào việc kiểm tra niêm yết giá và bán theo giá niêm

yết, nhất là đối với các mặt hàng xăng dầu, gas, phân bón, lương thực, thực

 Kết quả thực hiện công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM của lực

phẩm, sữa…và các hành vi GLTM khác nhằm ổn định thị trường.

lượng QLTT trên địa tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 2012:

 Kết quả kiểm tra chung (xem bảng 2.1): giai đoạn 2008 – 2012, Chi

cục QLTT Tây Ninh thực hiện 13.233 lượt kiểm tra, phát hiện 9.260 vụ vi phạm

(đạt 70%), thu nộp ngân sách 19.584.586.000 đồng. Trong đó: vi phạm về buôn lậu

chiếm 72,3% (6.694 vụ/9.260 vụ) tổng số vụ vi phạm và 68,2% (13.360.296.000

đồng/ 19.584.586.000 đồng) số thu ngân sách; vi phạm về GLTM chiếm 24,8%

(2.300 vụ/ 9.260 vụ) tổng số vụ vi phạm và 24,8% (4.857.448.000

đồng/19.584.586.000 đồng) số thu ngân sách; còn lại là vi phạm khác. Như vậy, các

51

vi phạm về buôn lậu và GLTM chiếm đa số trong các hành vi vi phạm trong hoạt

động thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh (97,1% số vụ vi phạm và 93% số thu

ngân sách).

Bảng 2.1: Kết quả thực hiện công tác chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 20122

Đơn vị tính: 1.000 đồng

Năm Số vụ vi phạm

GLTM Khác

buôn lậu

buôn lậu

Số thu ngân sách GLTM (phạt HC)

Khác (phạt HC)

Phạt HC

Số vụ kiểm tra

Bán hàng tịch thu

1.808 948 331 24 180.850 3.621.389 472.600 210.000 2008

1.614 1.002 187 33 215.950 4.356.273 538.193 34.800 2009

2.574 1.312 408 55 171.750 1.929.925 1.064.850 141.037 2010

3.747 2.229 691 26 506.025 1.553.124 982.050 204.485 2011

3.490 1.799.755 398.780 426.230 1.203 683 128

776.520 2012 Tổng: 13.233 6.694 2.300 266 1.473.355 11.886.941 4.857.448 1.366.842

 Kết quả đấu tranh chống buôn lậu giai đoạn 2008 – 2012 (xem biểu

đồ 2.1): tình hình buôn lậu vẫn diễn biến phức tạp; năm 2010, 2011 và 2012, số vụ

tăng so với hai năm liền trước nhưng số thu nộp ngân sách nhà nước lại giảm,

nguyên nhân do: thứ nhất, hoạt động thương mại của khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài

không còn sôi động như trước và có dấu hiệu chùn xuống nên hoạt động mua gom

hàng hóa từ khu vực này giảm cả về tần suất lẫn số lượng dẫn đến lượng hàng nhập

lậu vào thị trường giảm mạnh (xem Phụ lục 2); thứ hai, với việc Chính phủ tăng

mức chế tài đối với hành vi kinh doanh thuốc lá điếu nhập lậu [20] thì lực lượng

QLTT tập trung vào việc kiểm tra gắt gao đối với các cơ sở kinh doanh mặt hàng

này, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm, vì vậy, tuy số thu ngân sách trong giai

đoạn này giảm mạnh nhưng số vụ gia tăng và việc kinh doanh mặt hàng thuốc lá

2 Nguồn: [9], [10], [11], [12], [13]

52

điếu nhập lậu tại các cơ sở kinh doanh tạp hóa, tủ thuốc lá lưu động, quán cà

2500

5.000.000

4.500.000

2000

4.000.000

3.500.000

1500

3.000.000

2.500.000

Thu ngân sách

Số vụ

1000

2.000.000

1.500.000

500

1.000.000

500.000

0

0

2008

2009

2010

2011

2012

phê…không còn công khai như trước.

Biểu đồ 2.1: Kết quả đấu tranh chống buôn lậu giai đoạn 2008 – 2012

 Kết quả đấu tranh chống GLTM giai đoạn 2008 – 2012 (xem biểu đồ

2.2): với việc Chính phủ ngày càng chú trọng vào việc hoàn thiện các quy định liên

quan đến hoạt động thương mại làm căn cứ để các lực lượng chức năng có đầy đủ

cơ sở pháp lý cho việc kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm, nhất là các hành vi

GLTM, kết quả đấu tranh chống GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh của lực lượng

QLTT đạt được những kết quả khả quan: số vụ vi phạm năm sau cao hơn năm trước

(năm 2009 giảm so với năm 2008 là do đây là năm thành lập các Đội địa bàn, có sự

thay đổi lớn về nhân sự); số thu ngân sách năm 2012 cao hơn năm 2011 trong khi số

vụ không tăng là do Chính phủ ban hành các Nghị định điều chỉnh hoạt động

thương mại đối với một số lĩnh vực cụ thể như: lĩnh vực giá [21]; xăng dầu [22]; khí

dầu mỏ hóa lỏng [23], các Nghị định này quy định mức chế tài cao hơn so với trước

đây.

53

800

2.000.000

1.800.000

700

1.600.000

600

1.400.000

500

1.200.000

400

1.000.000

Thu ngân sách

Số vụ

800.000

300

600.000

200

400.000

100

200.000

0

0

2008

2009

2010

2011

2012

+

Biểu đồ 2.2: Kết quả đấu tranh chống GLTM giai đoạn 2008 – 2012

Phân tích thêm về tỷ trọng các hành vi vi phạm về GLTM giai

đoạn 2008 – 2012 (xem bảng 2.2 và biểu đồ 2.3), ta thấy: hành vi vi phạm về

giấy phép kinh doanh (không đăng ký kinh doanh, không đủ các giấy phép

“con” đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện) chiếm tỷ lệ cao nhất

30,3% (697 vụ/2300 vụ); kế đến là vi phạm trong lĩnh vực giá với tỷ lệ

26,96% (620 vụ/ 2300 vụ). Như vậy, hai hành vi trên chiếm đến 57,26% số

vụ vi phạm về GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Điều này chứng tỏ sự thiếu

“chuyên nghiệp”, kinh doanh nhỏ lẻ và không mang tính chính quy, hiện đại

của các thương nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết về kiến

thức pháp luật và thủ tục hành chính (để xin cấp các giấy phép) còn rườm rà.

Bên cạnh đó, hành vi kinh doanh hàng hóa có nhãn vi phạm quy chế ghi

nhãn theo quy định [18] có tỷ lệ khá cao 20,22% ((465 vụ/2300 vụ), theo quy

định thì việc ghi nhãn hàng hóa là trách nhiệm của nhà sản xuất; tuy nhiên,

việc kinh doanh hàng hóa có nhãn (hoặc không có nhãn) ghi như thế nào là

do cơ sở kinh doanh quyết định. Vì vậy, với việc kinh doanh hàng hóa vi

54

phạm quy chế ghi nhãn thì các cơ sở kinh doanh đã thực hiện hành vi

GLTM). Bảng 2.2: Các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 20123

Hành vi vi phạm Năm

Niêm yết giá - Đo lường Giấy phép kinh doanh 58 - Quy chế ghi nhãn hàng hóa 42 Vi phạm khác 231 2008

59 - 77 40 11 2009

69 93 152 87 7 2010

234 40 261 116 40 2011

258 69 149 180 27 2012

620 202 697 465 316 Tổng

Tỷ lệ %

13.74%

26.96%

Niêm yết giá

Đo lường

20.22%

Giấy phép KD

Quy chế ghi nhãn hh

8.78%

Vi phạm khác

30.30%

Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 2012

3 Nguồn: [9], [10], [11], [12], [13]

55

2.7. Đánh giá thực trạng

2.3.3. Những mặt đạt được

Với sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Cục QLTT, cấp ủy và chính quyền địa

phương, lực lượng QLTT đã hoàn thành tốt vai trò và nhiệm vụ được giao, nhất là

trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

Trong giai đoạn 2008 – 2012, tuy tình hình còn diễn biến phức tạp nhưng công tác

chống buôn lậu và GLTM đã đạt được một số thành tựu nhất định như sau:

 Bước đầu ngăn chặn các hành vi mua bán, vận chuyển, chứa chấp,

tàng trữ hàng nhập lậu, nhất là các mặt hàng như: thuốc lá điếu ngoại, rượu… Kết

quả trên đã phần nào làm cho các đối tượng mua bán, vận chuyển hàng lậu không

còn hoạt động công khai, ngang nhiên như trước, hầu hết các đối tượng này đã giảm

quy mô hoạt động và điều chỉnh phương thức hoạt động nhằm tránh né sự kiểm tra

của các cơ quan chức năng, nhất là lực lượng QLTT. Tuy nhiên, số vụ kinh doanh

hàng cấm là thuốc lá điếu ngoại không giảm mà lại có chiều hướng gia tăng là do

lực lượng QLTT tăng cường KTKS đối với các cơ sở kinh doanh cố định và do chế

tài xử lý tăng. Để đối phó, các đối tượng buôn lậu tiến hành chia nhỏ lô hàng trong

quá trình vận chuyển nhằm “qua mặt” các cơ quan chức năng. Ví dụ: trước đây các

đối tượng vận chuyển thuốc lá điếu ngoại từ cửa khẩu Mộc Bài về huyện Củ Chi,

Tp.HCM thực hiện hành vi của mình một cách ngang nhiên, công khai và có tổ

chức; thì nay, với việc tăng cường KTKS của lực lượng QLTT, các đối tượng này

đã thu hẹp phạm vi hoạt động, chúng cử người giám sát hoạt động của lực lượng,

chúng thực hiện chia nhỏ lượng hàng và chỉ chuyên chở vào các thời điểm lực

lượng chức năng nghỉ.

 Góp phần bình ổn giá thị trường, đảm bảo đời sống nhân dân thông

qua việc tăng cường kiểm tra các phương tiện đo lường dùng để giao dịch với khách

hàng, kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết đối với các mặt hàng thiết

yếu, nhất là vào các dịp lễ tết, mùa du lịch; không để xảy ra các hiện tượng đầu cơ,

găm hàng, tăng giá quá mức…

56

 Thực hiện tốt công tác nghiên cứu, theo dõi sát diễn biến thị trường về

cung cầu và giá cả hàng hóa, nhất là nhóm hàng hoá thuộc “danh mục hàng lậu”. Từ

đó dự báo được tình hình thị trường hàng hóa, góp phần tham mưu cho SCT và

UBND tỉnh đề ra các chính sách nhằm bình ổn thị trường, đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của các thương nhân làm ăn chân chính tạo điều kiện phát triển sản xuất

trong nước. Ngoài ra, việc thực hiện tốt công tác dự báo tình hình thị trường giúp

lực lượng QLTT chủ động lập kế hoạch ngăn chặn được các hành vi buôn lậu và

GLTM.

 Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý địa bàn. Từ đó nắm được quy

luật vận động, tính chất, đặc điểm của các đối tượng buôn lậu và GLTM để có các

biện pháp hành động thích hợp như: lập phương án kiểm tra đúng địa bàn, đúng đối

tượng, đúng mặt hàng nâng cao hiệu quả hoạt động KTKS, tránh việc lạm quyền và

kiểm tra tràn lan ảnh hưởng xấu đến hình ảnh QLTT; kết hợp với các ngành chức

năng nhằm có biện pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp cho từng đối tượng để họ

nhận thức được tác hại của buôn lậu và GLTM từ đó không thực hiện hoặc tiếp tay

cho bọn buôn lậu và GLTM; từng bước đưa hoạt động kinh doanh trên địa bàn đi

vào nền nếp.

 Góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, thiết lập trật tự kỷ cương

pháp luật trong hoạt động thương mại, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh, bảo

vệ hoạt động thương mại hợp pháp và lợi ích của người tiêu dùng, tạo điều kiện cho

các ngành chức năng (Thuế, Hải quan) tăng thu ngân sách.

2.3.4. Những hạn chế

 Đối với mặt hàng thuốc lá: đây là mặt hàng “nóng” trong danh sách

các hàng hóa được nhập lậu qua đường biên giới của tỉnh Tây Ninh. Vì vậy, kết quả

thực hiện công tác chống buôn lậu thuốc lá điếu ngoại giai đoạn 2008 – 2012 chưa

thể hiện hết vai trò của lực lượng QLTT vì số lượng thuốc lá bị tịch thu còn rất hạn

chế nếu so với số lượng thuốc lá lậu trên thị trường. Tây Ninh là một trong những

địa bàn hoạt động chính của các đối tượng buôn lậu thuốc lá điếu ngoại [48]. Năm

57

2012, số lượng thuốc lá điếu ngoại nhập lậu vào nước ta là 900 triệu bao [28], tuy

không có số liệu thống kê chính thức về số lượng thuốc lá nhập lậu vào Tây Ninh

nhưng với 63.605 bao thuốc lá (xem biểu đồ 2.4 và phụ lục 2) nhập lậu bị lực lượng

120.000

100.000

80.000

60.000

40.000

20.000

0

2008

2009

2010

2011

2012

QLTT phát hiện và tịch thu năm 2012 thì đây là con số quá nhỏ so với thực tế.

Biểu đồ 2.4: Số lượng thuốc lá điếu nhập lậu bị lực lượng QLTT Tây Ninh

tịch thu giai đoạn 2008 – 2012

 Số vụ bị phát hiện so với thực tế buôn lậu và GLTM còn thấp, chưa

nắm bắt hoàn toàn được tính quy luật của hoạt động này do các đối tượng vi phạm

thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn nhằm đối phó với lực lượng chức

năng và người tiêu dùng.

 Chưa khám phá và xử lý được các đường dây, ổ nhóm buôn lậu lớn do

các đối tượng này hoạt động ngày càng tinh vi, phức tạp. Ví dụ, hiện nay có một số

đối tượng lợi dụng việc bán đấu giá tài sản tịch thu của các cơ quan chức năng, sau

đó, chúng dùng hóa đơn của cơ quan tài chính và tiến hành xoay vòng hóa đơn để

hợp thức hóa các lô hàng nhập lậu; một số vụ việc vi phạm pháp luật xử lý chưa

nghiêm (do luật còn hạn chế), tác dụng răn đe, phòng ngừa còn hạn chế.

58

 Công tác thông tin nhằm dự báo chuyên sâu về buôn lậu và GLTM

còn yếu, hệ thống dữ liệu về các thương nhân trên địa bàn, các đối tượng buôn lậu

và GLTM chưa được hoàn thiện, chưa được đưa vào quản lý chính quy mà nguyên

nhân chủ yếu là do trình độ KSV còn hạn chế. Ngoài ra, do tính chất nguy hiểm của

công tác chống buôn lậu và GLTM nên việc giữ bí mật nhằm đảm bảo an toàn cho

đầu mối cung cấp tin là cần thiết, vì vậy, thường chỉ có KSV trực tiếp nhận tin từ

đầu mối biết chính xác đối tượng này nên việc lưu trữ, lập danh sách quản lý đối với

các đối tượng trên chưa thực hiện được.

 Hạn chế về nguồn nhân lực ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác

và việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao. Hầu hết cán bộ, công chức chưa

được đào tạo chuyên sâu, bài bản về kiến thức chuyên môn; khi thực thi nhiệm vụ

chuyên môn thì chủ yếu dựa vào kinh nghiệm công tác lâu năm trong ngành để nhìn

nhận và xử lý vấn đề mang tính pháp lý. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện lịch

sử để lại, những cán bộ, công chức này phần lớn đã phục vụ trong ngành từ trước

năm 1995, khi được tuyển dụng vào chủ yếu là do họ đã từng có thời gian công tác

tại các Ban Quản lý thị trường huyện, số lượng các công chức này chiếm khoảng

20% (trong tổng số 58 biên chế chia đều cho văn phòng Chi cục, 10 Đội QLTT và

01 Tổ công tác QLTT tại Trạm kiểm soát liên hợp Mộc Bài) biên chế. Họ không có

suy thoái về tư tưởng nhưng biểu hiện tư tưởng an phận, thiếu động cơ phấn đấu,

thiếu năng động, thiếu tính chiến đấu, chờ đến tuổi nghỉ hưu, do đó ảnh hưởng rất

lớn đến kết quả công tác.

 Công tác phối hợp tuy đã được chú trọng nhưng hiệu quả chưa cao,

chưa có quy chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan. Do tính chất phức tạp và tinh

vi của hoạt động buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập nên đòi hỏi phải có sự

phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng, giữa các địa phương, giữa Tây Ninh với

các tỉnh giáp ranh và cả với các tỉnh thuộc Vương quốc Cambodia. Trong đó, cần

xác định rõ vai trò của các lực lượng chức năng tham gia nhằm thuận lợi trong việc

phân công trách nhiệm khi tham gia phối hợp.

59

 Tuy sản xuất trong nước đã có bước phát triển quan trọng, không ít

mặt hàng do ta sản xuất đã chiếm lĩnh được thị trường, nhưng nhìn chung, tính cạnh

tranh của hàng nội vẫn kém so với hàng ngoại, đặc biệt là giá cả chưa phù hợp với

thu nhập của nhiều tầng lớp dân cư, nhất là người có thu nhập thấp. Xét tình hình

thực tế tại tỉnh Tây Ninh, có thể thấy rằng, khả năng sản xuất và cung ứng hàng tiêu

dùng của tỉnh là rất hạn chế, hàng hóa chủ yếu được nhập từ các địa phương lân cận

như Tp.HCM, Bình Dương và Đồng Nai. Xét về khoảng cách địa lý, các địa

phương trên không có nhiều ưu thế so với Cambodia; xét về chất lượng hàng hóa,

hàng nội địa vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với các hàng hóa cùng loại từ nước ngoài.

Ví dụ, ngành sản xuất mía đường của ta có máy móc công nghệ lạc hậu, công suất

thấp, chi phí sản xuất và chế biến đường cao nên giá thành trung bình đường Việt

Nam luôn cao hơn các nước khoảng 50%…[41].

 Cơ chế, chính sách còn có kẽ hở để các đối tượng làm ăn phi pháp và

cán bộ công chức thực thi công vụ lợi dụng, mặt khác, một số cán bộ công chức

thoái hóa biến chất đã tham gia hoặc tiếp tay, “bảo kê” cho buôn lậu và GLTM. Giai

đoạn từ 2008 – 2012, tuy lực lượng QLTT Tây Ninh không có vụ việc nào liên quan

đến tiếp tay, “bảo kê” cho buôn lậu và GLTM nhưng như vậy không có nghĩa là

trên địa bàn Tây Ninh không có công chức QLTT biến chất. Xét ở góc độ kinh tế,

việc KTKS của lực lượng QLTT gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích bất chính của

các đối tượng vi phạm. Vì vậy, chúng sẽ luôn tìm cách mua chuộc, “làm thân” với

các công chức QLTT và với mức lương hiện tại thì rõ ràng việc công chức QLTT

“nhúng chàm” là có tồn tại, không riêng gì trong lực lượng QLTT Tây Ninh.

 Việc tháo gỡ khó khăn về kinh phí, phương tiện, biên chế, tổ chức của

các Bộ, ngành có liên quan cho lực lượng chức năng chưa kịp thời và chưa triệt để

dẫn đến kết quả đấu tranh chống buôn lậu và GLTM còn hạn chế. Hiện nay, việc

vận chuyển hàng lậu được các đối tượng dùng phương tiện hiện đại có tốc độ cao,

trong khi đa phần phương tiện của lực lượng QLTT đã xuống cấp và hư hỏng nặng.

Bên cạnh đó là việc các đối tượng này ngày càng tận dụng triệt để những thành quả

khoa học công nghệ hiện đại cho hoạt động buôn lậu và GLTM của chúng, trong

60

khi, công cụ được trang bị nhằm phục vụ hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT

tỉnh Tây Ninh hiện nay chủ yếu là gậy cao su và súng bắn đạn nhựa, hoàn toàn

không có các máy móc hiện đại phục vụ cho việc phân tích sơ bộ về chất lượng

hàng hóa hay đơn giản là các máy ghi hình. Trong khi đó, khi Luật Xử lý VPHC có

hiệu lực từ ngày 01/7/2013 thì cơ chế trích tiền thu được từ hoạt động chống buôn

lậu và GLTM đối với các lực lượng chức năng sẽ không được tiếp tục áp dụng.

Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần, thái độ làm việc và tạo thêm khó khăn

cho lực lượng QLTT.

 Công tác hướng dẫn, tuyên truyền pháp luật cho tổ chức, cá nhân sản

xuất, kinh doanh và người tiêu dùng tuy đã được chú trọng; nhiều nơi chưa khai

thác hoặc có nhưng quá ít thông tin của người dân báo cho các cơ quan chức năng

về hàng lậu và GLTM để đấu tranh và phòng ngừa. QLTT đụng chạm trực tiếp đến

lợi ích của tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm, vì vậy, khi thực thi công vụ đôi lúc

còn gặp sự cản trở, chống đối từ phía đương sự và người thân của họ. Điều này là

do hạn chế của hệ thống luật pháp vì chế tài chưa nghiêm; hạn chế do người dân

chưa có ý thức thượng tôn pháp luật.

2.8. Những vấn đề cần giải quyết

2.4.1. Những vấn đề mang tính khách quan

 Trước hết, có thể khẳng định rằng trình độ phát triển kinh tế của nước

ta, nhất là thu nhập bình quân đầu người và năng lực sản xuất hàng hóa trong nước,

phần nào ảnh hưởng đến vai trò của lực lượng QLTT. QLTT là công cụ thực hiện

quyền quản lý nhà nước trong hoạt động thương mại, phục vụ cho mục tiêu phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập,

bên cạnh việc tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước thì nhất thiết

phải tôn trọng quy luật vận động của kinh tế thị trường. Nếu việc thi hành chức

năng của lực lượng QLTT đi ngược lại quy luật thị trường, ảnh hưởng đến lợi ích

người tiêu dùng thì sẽ gặp sự phản kháng, không đồng tình từ nhân dân, từ đó sẽ

hạn chế vai trò của lực lượng QLTT trong việc chống buôn lậu và GLTM trong quá

trình hội nhập. Một khi người tiêu dùng còn tin dùng hàng hóa ngoại nhập hơn hàng

61

hóa sản xuất trong nước thì tất yếu còn tồn tại buôn lậu. Bên cạnh đó, việc thu nhập

bình quân của người dân còn thấp, mức chi tiêu cho tiêu dùng trên tổng thu nhập

còn lớn thì họ sẽ dễ có thái độ “chấp nhận” tiêu dùng hàng hóa trôi nổi, mua lẻ hàng

hóa. Điều này tạo điều kiện cho hoạt động GLTM tồn tại và phát triển.

 Thứ hai, đời sống của dân cư khu vực biên giới còn nhiều khó khăn,

trình độ nhận thức thấp. Do đó, những người này thường bị các đối tượng buôn lậu

lợi dụng để tiếp tay cho chúng. Vì vậy, chính quyền địa phương cần thực hiện

những chính sách tập trung cải thiện đời sống cho họ, chuyển đổi cơ cấu kinh tế

nhằm tạo công ăn việc làm cho các đối tượng này. Bên cạnh đó, cần kết hợp với các

lực lượng chức năng, nhất là QLTT tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho

họ hiểu và nắm bắt.

2.4.2. Những vấn đề về cơ chế chính sách dành cho lực lượng Quản lý thị

trường

Với vai trò là lực lượng chủ công trong việc kiểm tra và xử lý các hành vi

buôn lậu và GLTM trên thị trường nội địa thì những quy định của pháp luật liên

quan đến chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền sẽ tác động rất lớn đến hiệu quả, vai

trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá

trình hội nhập. Cụ thể, các vấn đề cần được giải quyết gồm:

 Thứ nhất, là các quy định ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực hoạt động

+

của lực lượng QLTT như: nguồn nhân lực; nguồn lực vật chất phục vụ công tác.

Về nhân lực, hiện tại đội ngũ nhân viên ngành QLTT tỉnh Tây

Ninh chưa đáp ứng yêu cầu công tác do: lực lượng quá mỏng và chưa xin

thêm được biên chế; lương thấp so với các ngành chức năng chống buôn lậu

và GLTM khác. Cụ thể, mức lương dành cho công chức QLTT chưa tương

xứng với mức độ và tính chất công việc QLTT. Công chức ngành QLTT

hưởng lương theo mức lương dành cho khối hành chính nhà nước và hưởng

thêm 25% phụ cấp ngành, thấp hơn nhiều nếu so với mức lương dành cho

các lực lượng như Hải quan, Bộ đội biên phòng và nhất là Cảnh sát kinh tế –

62

cùng với QLTT thì đây là lực lượng chính trong việc đấu tranh chống buôn

+

lậu và GLTM trên thị trường nội địa.

Về nguồn lực vật chất, có thể khẳng định, những khó khăn về

điều kiện làm việc, về phương tiện phục vụ công tác hiện nay của QLTT Tây

Ninh là do cơ chế, chính sách của ta còn rườm rà, nhiều bất cập. Cụ thể, khi

thành lập các Đội QLTT huyện vào tháng 7/2009 thì chủ trương, chính sách

chung của UBND tỉnh Tây Ninh là sẽ xây dựng trụ sở mới và trang bị thêm

xe môtô cho các Đội QLTT huyện. Nhưng từ khi có chủ trương trên đến khi

xây dựng xong được 04 trụ sở (trên tổng số 10 Đội) và cấp 10 xe môtô cho

các Đội là vào tháng 1/2013. Như vậy, phải mất đến hơn 3 năm để hoàn tất

+

việc xây dựng 04 trụ sở trên và “xin” được kinh phí để mua xe.

Hiện tại, các lực lượng chức năng chống buôn lậu, GLTM,

hàng giả được trích kinh phí hoạt động từ nguồn thu xử lý vi phạm pháp luật

trong lĩnh vực chống buôn lậu, GLTM, hàng giả. Phần kinh phí được trích để

sử dụng cho các mục đích như mua sắm trang thiết bị, phương tiện, chi bồi

dưỡng trong thời gian điều trị bệnh do tai nạn trong khi thi hành nhiệm vụ

[5], [6],…Tuy nhiên, đến tháng 7/2013 khi Luật Xử lý VPHC có hiệu lực thì

cơ chế trích như trên không còn được áp dụng nữa. Như vậy, khi các lực

lượng chức năng cần kinh phí phục vụ các mục đích trên thì phải đi “xin” và

chờ phân bổ kinh phí.

 Thứ hai là các quy định về tổ chức, quy chế làm việc của lực lượng

+

QLTT.

Trước hết, việc tổ chức lực lượng QLTT hiện đang được điều

chỉnh theo Nghị định số 10/CP ngày 23/01/1995 của CP và Nghị định số

27/2008/NĐ-CP ngày 13/3/2008 của CP. Theo quy định hiện hành thì lực

lượng QLTT hoạt động theo cơ chế “song trùng trực thuộc” vừa trực thuộc

SCT vừa chịu sự chỉ đạo theo ngành từ Cục QLTT. Điều này tạo ra những

khó khăn nhất định cho công tác chống buôn lậu và GLTM trong quá trình

hội nhập, do hệ thống tổ chức hiện tại đã hạn chế sự chỉ đạo của Cục QLTT

63

và sự phối hợp trong hoạt động giữa các Chi cục. Trong khi đó, phạm vi hoạt

động của buôn lậu và GLTM ngày càng được mở rộng, hệ thống “chân rết” ở

khắp nơi, không còn gói gọn trong một địa phương, một vùng mà mang tính

+

chất liên tỉnh, liên quốc gia.

Quy chế làm việc của lực lượng QLTT hiện đang tồn tại một số

điểm làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và vai trò của lực lượng QLTT

trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Cụ thể, Đội trưởng Đội QLTT có

quyền quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC, khi nơi cất

giấu là nơi ở thì quyết định khám phải được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ

tịch UBND huyện trước khi tiến hành [37], [39]. Do tính chất đặc thù của

hoạt động chống buôn lậu và GLTM là khi có cơ sở hoặc nhận được tin báo

thì cần tiến hành kiểm tra ngay, không để đối tượng có thời gian tẩu tán

phương tiện, tang vật vi phạm. Như vậy, quy định trên đã ngăn chặn phần

nào vai trò của lực lượng QLTT.

 Thứ ba, là những quy định về quy chế phối hợp giữa các lực lượng có

chức năng chống buôn lậu và GLTM với nhau, giữa lực lượng QLTT và các lực

lượng chức năng khác. Vấn đề này là do ảnh hưởng trực tiếp từ việc tổ chức và quy

chế hoạt động của BCĐ 127 cấp huyện. Hiện tại, theo quy chế thì các thành viên

BCĐ 127 hầu hết đều kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn tới việc chỉ đạo, điều hành

và đề ra các chủ trương, chính sách đối với công tác chống buôn lậu và GLTM.

Ngoài ra, việc thành lập BCĐ 127 cấp huyện là thực sự không cần thiết, theo tôi, do

các đơn vị trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chống buôn lậu và GLTM đều là “ngành

dọc” nên thực hiện theo chỉ đạo của cơ quan cấp trên và của BCĐ 127 tỉnh; đồng

thời, do tính chất của buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập liên quan đến

nhiều ngành, nhiều địa phương nên cần có một sự chỉ đạo chung và duy nhất từ một

cơ quan – BCĐ 127 tỉnh.

 Cuối cùng, việc quy định chức năng, nhiệm vụ của các ngành còn

chồng chéo, nhất là trong lĩnh vực Vệ sinh an toàn thực phẩm và đo lường chất

lượng. Vì vậy, thường xuyên xảy ra việc trùng lặp về đối tượng được kiểm tra, về

64

nội dung kiểm tra, gây ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động của các cơ sở sản

xuất, kinh doanh. Vấn đề đặt ra là cần có sự phối hợp nhịp nhàng hơn nữa trong

hoạt động kiểm tra giữa Chi cục Vệ sinh An toàn thực phẩm với các Đội QLTT,

giữa Chi cục Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng với các Đội QLTT.

2.4.3. Những vấn đề về hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động buôn lậu và

gian lận thương mại

 Thứ nhất, cần tập trung giải quyết những tồn tại trong chính sách lưu

thông hàng hóa, đặc biệt là các quy định về chế độ hóa đơn, chứng từ nhất là đối với

hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài. Cụ thể, cần xem xét chỉnh sửa Thông tư liên

tịch số 60/2011/TTLT-BTC-BCT-BCA ngày 12/5/2011 của liên Bộ Tài chính – Bộ

Công Thương – Bộ Công an về hướng dẫn chế độ hóa đơn, chứng từ đối với hàng

hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường. Đồng thời, thực hiện tốt việc dán tem nhập

khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu, nhất là đối với mặt hàng thuốc lá và rượu.

 Thứ hai, nhãn hàng hóa là một yếu tố quan trọng của sản phẩm, nó thể

hiện “lý lịch sản phẩm”, bao gồm nguồn gốc xuất xứ và chất lượng. Hiện tại, việc

ghi nhãn hàng hóa được điều chỉnh theo Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày

30/8/2006 của CP. Tuy nhiên, do các quy định trong Nghị định trên được áp dụng

đã lâu nên dần xuất hiện những tồn tại cần phải sửa đổi, bổ sung kịp thời phù hợp

với yêu cầu thực tiễn.

 Thứ ba, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì ngày càng xuất hiện

nhiều loại sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Do đó, hệ

thống tiêu chuẩn quốc gia, nhất là đối với nhóm hàng tiêu dùng, cần được xây dựng

và liên tục hoàn thiện để hướng dẫn, khuyến khích người sản xuất, đồng thời tạo cơ

sở pháp lý cho hoạt động KTKS thị trường.

 Cuối cùng, cần điều chỉnh những quy định về quyền và nghĩa vụ của

thương nhân, những điều kiện cần phải đạt được khi kinh doanh các hàng hóa kinh

doanh có điều kiện, hàng hóa hạn chế kinh doanh. Đồng thời, tăng mức chế tài xử lý

không chỉ nhắm vào việc phạt tiền mà còn “đánh” vào các điều kiện khác.

65

2.4.4. Cần tăng cường giáo dục nhằm nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật

của người dân

 Hiện nay, hoạt động chống buôn lậu và GLTM của lực lượng chức

năng còn gặp nhiều trở ngại do chưa được sự đồng thuận của người tiêu dùng, của

thương nhân. Nguyên nhân là do họ chưa có được cái nhìn đúng đắn về công tác

QLTT, về tác hại của vấn đề buôn lậu và GLTM đến nền kinh tế, đến sức khỏe và

lợi ích của mình. Vì vậy, khi lực lượng chức năng thi hành nhiệm vụ thì còn có

không ít người dân đứng ra che chở, tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu và GLTM,

chống lại người thi hành công vụ.

 Một trong những rào cản to lớn ngăn chặn công tác chống buôn lậu và

GLTM là tâm lý “sính hàng ngoại” của người tiêu dùng, là sự dễ dãi trong việc chấp

nhận tiêu dùng hàng hóa chỉ quan tâm tới giá cả mà không xét đến các yếu tố khác

như nguồn gốc, chất lượng… Để giải quyết vấn đề này, cần kết hợp nhiều giải pháp

nhằm thay đổi thói quen, nhận thức và sở thích của người tiêu dùng.

66

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Thông qua việc phân tích thực trạng công tác đấu tranh chống buôn lậu và

GLTM của lực lượng QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập, từ

đó chỉ ra những vấn đề cần giải quyết làm nền tảng cho việc đề xuất các giải pháp

trong chương 3. Kết quả phân tích trong chương 2 có thể được tóm tắt như sau:

 Phân tích những đặc trưng cơ bản về điều kiện tự nhiên và các đặc

điểm kinh tế – xã hội ảnh hưởng tới việc “phân bố” của hoạt động buôn lậu và

GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Cụ thể, khu vực tập trung hoạt động buôn lậu và

GLTM là 2 khu kinh tế cửa khẩu quốc tế (Mộc Bài và Xa Mát) và trung tâm thương

mại các huyện, thị xã. Đồng thời khái quát được các đặc điểm của hoạt động buôn

lậu và GLTM như: địa bàn hoạt động; đối tượng vi phạm; mặt hàng vi phạm;

phương thức, thủ đoạn của bọn buôn lậu và GLTM; và một số hành vi vi phạm chủ

yếu của bọn chúng.

Kết quả nghiên cứu cho thấy những mặt đạt được trong việc chống

buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 2012 như: bước

đầu ngăn chặn được tình trạng buôn lậu công khai, ngang nhiên; bình ổn thị trường

nội địa…có được là do sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo chính quyền địa

phương, của lãnh đạo Cục QLTT và sự đoàn kết, gắn bó lâu dài với nhau trong quá

trình công tác của đội ngũ nhân sự hiện có tại Chi cục QLTT Tây Ninh. Tuy nhiên,

bên cạnh mặt đạt được thì vẫn còn những hạn chế như: số vụ bị phát hiện so với

thực tế buôn lậu và GLTM còn thấp; chưa nắm bắt được tính quy luật của hoạt động

buôn lậu và GLTM; hạn chế về nguồn nhân lực ảnh hưởng đến việc thực thi vai trò,

nhiệm vụ của lực lượng QLTT Tây Ninh… Để khắc phục những hạn chế nêu trên,

ta cần phân tích, xem xét nguyên nhân và từ đó đề ra những vấn đề cần giải quyết cả

trong ngắn hạn lẫn dài hạn, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Theo đó, tác giả nêu ra 4 nhóm

vấn đề cần giải quyết để làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm

tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và

GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ở chương 3.

67

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA LỰC

LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRONG VIỆC ĐẤU TRANH

CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH TÂY NINH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP

3.4. Dự báo tình hình tác động đến công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian

lận thương mại trong quá trình hội nhập

 Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan đối với

sự tồn tại và phát triển của các quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế

quốc tế vừa là cơ hội, vừa là thách thức, vừa là quá trình hợp tác phát triển vừa đấu

tranh rất phức tạp trong đó có vấn đề phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm

kinh tế nói riêng bao gồm buôn lậu và GLTM làm nảy sinh những vấn đề rất mới cả

về đối tượng, tính chất, đặc điểm và quy luật hoạt động. Dự báo việc thực hiện các

dòng giảm thuế nhập khẩu theo cam kết khi gia nhập WTO, và việc sử dụng các

công cụ pháp lý ngăn chặn hàng hóa nước ngoài gia nhập thị trường nội địa nhằm

bảo hộ sản xuất trong nước thì buôn lậu có diễn biến phức tạp theo chiều hướng

giảm dần về cường độ nhưng tăng về số lượng, quy mô với những hình thức và thủ

đoạn mới tinh vi, phức tạp hơn. Bên cạnh đó, việc tăng cường giao lưu hợp tác kinh

tế quốc tế cùng với sự phát triển kinh tế trong nước làm cho các hành vi GLTM

ngày càng tăng.

 Các tập đoàn kinh tế lớn khi vào thị trường Việt Nam, ngoài tiềm lực

vượt trội về tài chính, về công nghệ và nguồn nhân lực thì họ còn nhận được sự hỗ

trợ về mặt pháp lý từ các công ty tư vấn luật có uy tín và có nhiều kinh nghiệm

trong việc khiếu kiện, xử lý các tranh chấp trong thương mại quốc tế. Do đó, công

tác kiểm tra và xử lý vi phạm của các lực lượng chức năng sẽ gặp rất nhiều khó

khăn và áp lực, đòi hỏi hệ thống pháp luật về thương mại cần được xây dựng theo

hướng hiện đại và phù hợp với luật pháp quốc tế; đồng thời, cần nâng cao năng lực

68

đối với đội ngũ thực thi thông qua việc xây dựng lực lượng QLTT theo hướng chính

quy, hiện đại.

 Sự phát triển kinh tế, mở rộng thị trường và sự xuất hiện của công

nghệ mới, nhất là của công nghệ thông tin sẽ xuất hiện nhiều hành vi và thủ đoạn vi

phạm mới tinh vi, phức tạp hơn. Ví dụ như việc các cửa hàng bán lẻ xăng dầu sử

dụng chip điện tử nhằm điều chỉnh lượng hàng bán ra, làm sai lệch độ chính xác của

cột bơm xăng dầu theo hướng có lợi cho người bán, khi bị kiểm tra thì chỉ với một

cái ấn nút là chủ cơ sở sẽ ngắt được tác động của chip điện tử và trả lại độ chính xác

vốn có cho cột bơm, đây là thủ đoạn “móc túi” người tiêu dùng khá tinh vi và khó

bị phát hiện.

3.5. Các chủ trương chính sách đối với công tác quản lý thị trường trong quá

trình hội nhập

Báo cáo chính trị trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng

khẳng định: “…Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các

nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng

bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh,

nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, định hướng phát triển, phát huy mặt tích

cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường;…” [2, tr.136-137].

QLTT là một ngành, công cụ để đảm bảo việc thực thi pháp luật trong thực tiễn hoạt

động thương mại nhằm hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường.

Đây là cuộc chiến lâu dài, khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao độ,

kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp và phát huy sức mạnh tổng hợp cả nước. Với tính

chất quan trọng như trên, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ

trương chính sách về công tác QLTT, nhất là xây dựng và phát triển lực lượng

QLTT cả nước theo hướng chính quy và hiện đại, từ đó góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:

 Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị về “Tiếp

tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định

69

hướng xã hội chủ nghĩa” khẳng định: lực lượng Quản lý thị trường được xây dựng

theo hướng chính qui, tổ chức chặt chẽ [8].

 Chỉ thị số 853/1997/CT-TTg ngày 11/10/1997 của Thủ tướng Chính

phủ về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới, khẳng định tính chất và tầm

quan trọng của việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM: “Đấu tranh chống buôn

lậu là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài của Nhà nước ta. Vì vậy, chính

quyền các cấp cần tập trung lực lượng để đấu tranh mạnh mẽ vào các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là các hoạt động buôn lậu có tổ chức” [43].

 Ngày 14/02/2002, trước yêu cầu đấu tranh chống buôn lậu và GLTM

trong tình hình mới của quá trình hội nhập, Văn phòng Chính phủ có Công điện số

1254/VPCP-V1 thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ,

Ngành và địa phương trong cả nước: “Phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách

và phải chỉ đạo thực hiện thường xuyên không chỉ làm theo kiểu chiến dịch “từng

đợt”. Nơi nào, địa bàn nào tình hình buôn lậu không giảm thì Chủ tịch UBND, Thủ

trưởng đơn vị lực lượng phụ trách địa bàn đó phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng

Chính phủ”. Đối với các Bộ, Ngành được giao làm nhiệm vụ chống buôn lậu và

GLTM: “Phải đặc biệt chú trọng tăng cường thanh tra, kiểm tra làm trong sạch đội ngũ làm nhiệm vụ” [47].

 Công điện số 1126/CĐ-TTg ngày 03/8/2012 của Thủ tướng Chính

phủ về việc tăng cường công tác chống buôn lậu, GLTM và hàng giả khẳng định

tính chất lâu dài và toàn diện của cuộc chiến chống buôn lậu và GLTM, cần có sự

tham gia phối hợp cũng như giám sát của nhân dân và các cơ quan thông tấn báo

chí: “Các cơ quan thông tấn báo chí phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng

phản ánh kịp thời, khách quan tình hình buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại;

tiêu cực, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng, đồng thời tuyên

truyền, vận động nhân dân không tham gia, không tiếp tay cho các hành vi vi phạm” [44].

 Hiện Bộ Công Thương đang trình Chính phủ xem xét và phê duyệt

“Chương trình quốc gia chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại giai đoạn

70

2012 – 2020” nhằm sử dụng tối đa nguồn lực hiện có, tránh chồng chéo, lãng phí;

củng cố bộ máy từ Trung ương đến địa phương nhằm bảo đảm thực thi tốt nhiệm vụ

KTKS để kịp thời can thiệp và từng bước xóa bỏ tình trạng buôn lậu, hàng giả và

GLTM.

Như vậy, có thể thấy rằng công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM là

một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay và đã

được thể chế bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với từng giai đoạn

phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Cụ thể là việc hình thành và phát triển lực

lượng chức năng như QLTT với vai trò là lực lượng chủ công trong công tác chống

buôn lậu, hàng giả và GLTM trên thị trường nội địa; đồng thời là việc hoàn thiện

các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi vi phạm với những quy định

và chế tài ngày càng chặt chẽ, mang tính răn đe nhiều hơn đối với các sai phạm

trong hoạt động thương mại và cả trong hoạt động KTKS của lực lượng chức năng.

3.6. Các giải pháp

 Vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và

GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay chưa được thể hiện rõ, nguyên nhân là

do những tồn tại chưa được khắc phục như đã phân tích trong chương II. Vì đây là

hoạt động liên quan đến nhiều lĩnh vực như: pháp luật, kinh tế và xã hội… nên

không thể có một giải pháp cụ thể nào có thể giải quyết được những tồn tại trên. Vì

vậy, để tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu

và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập, ta cần kết hợp các

giải pháp trong từng lĩnh vực cụ thể. Tác giả xin đề xuất 03 nhóm giải pháp sau:

3.3.1. Nhóm giải pháp hành chính

3.3.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý

 Mục tiêu giải pháp: hiện nay, hệ thống pháp luật trong hoạt động

thương mại vẫn còn nhiều bất cập do thực tế luôn thay đổi nên cần thường xuyên

xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định cho phù hợp: “…hệ thống pháp luật

Việt Nam đang thiếu nhiều quy định điều chỉnh các hoạt động thương mại” [26,

71

tr.308]. Đồng thời, hoạt động xây dựng văn bản pháp luật nói chung, văn bản pháp

luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói riêng, phải luôn cập nhật và đổi mới vì

thực tiễn luôn luôn thay đổi. Vì vậy, giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm

kịp thời phát hiện, điều chỉnh các quy định không còn phù hợp, đồng thời ban hành

các quy định điều chỉnh hoạt động thương mại cho phù hợp với thực tiễn trong quá

trình hội nhập.

 Biện pháp thực hiện:

 Chỉnh sửa các văn bản hiện hành theo hướng đảm bảo các chế tài đủ

mạnh nhằm giáo dục, răn đe các đối tượng vi phạm và những kẻ tiếp tay cho chúng.

Hiện nay, các Nghị định quy định hình thức xử phạt bằng tiền chủ yếu là căn cứ vào

giá trị hàng hóa vi phạm. Trong khi lạm phát ở nước ta luôn có xu hướng tăng cao

hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế nên các mức chế tài bằng tiền trên sẽ không đủ tính

răn đe sau một thời gian áp dụng. Vì thế, theo tôi cần quy định chế tài xử phạt thông

qua hành vi vi phạm của đối tượng. Ví dụ: khi một đối tượng kinh doanh hàng hóa

nhập lậu là dép lào do Thái Lan sản xuất với số lượng là 30 đôi thì Chính phủ cần

quy định mức xử phạt dựa trên một đôi và sau đó nhân lên để tính ra số tiền xử

phạt, trường hợp này là 30 lần mức tiền phạt đối với hành vi kinh doanh một đôi

dép lào lậu. Tuy nhiên, để thực hiện quy định trên cần lập danh mục các hàng hóa

có tính năng, tác dụng tương đồng nhau và đưa ra khung tiền phạt cho từng hành vi

đối với từng nhóm hàng hóa riêng biệt. Ví dụ: nhóm hàng tiêu dùng sẽ có khung

tiền phạt khác với nhóm hàng điện tử; nhóm hàng may mặc sẽ có khung tiền phạt

khác với nhóm hàng thực phẩm…

 Tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến việc tạo lập môi

trường kinh doanh và các điều kiện đối với thương nhân nhằm đảm bảo môi trường

kinh doanh lành mạnh, mang tính cạnh tranh cao, không hạn chế thương nhân tham

gia nếu họ đáp ứng được các điều kiện theo quy định. Trước hết, Chính phủ cần tiếp

tục bổ sung và hoàn thiện các quy định về hàng hóa cấm kinh doanh, kinh doanh có

điều kiện, hạn chế kinh doanh để từ đó các Bộ, ngành có cơ sở ban hành các quy

định về điều kiện đối với thương nhân kinh doanh hàng hóa thuộc phạm vi quản lý

72

của mình. Kế đến, khi thương nhân đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện và tiến hành

kinh doanh thì quy định rõ cách thức và các thông tin cần thiết họ sẽ phải cung cấp

hoặc thông báo để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.

+ Ví dụ, lĩnh vực kinh doanh xăng dầu hiện nay còn tồn tại

những bất cập trong cơ chế quản lý giá cả và chất lượng hàng hóa. Giá cả

hàng hóa là do thị trường quyết định, nhưng theo Nghị định số 84/2009/NĐ-

CP thì giá xăng trên thị trường được quyết định bởi liên Bộ Tài Chính và Bộ

Công Thương quyết định dựa trên đề nghị của các doanh nghiệp đầu mối.

Trên cơ sở đó, các cửa hàng bán lẻ xăng dầu bán hàng đúng theo giá đã quy

định. Trước hết, tác giả không phân tích theo hướng là liệu có hay không sự

cấu kết vì “lợi ích nhóm” của các doanh nghiệp đầu mối trong việc điều

chỉnh lên xuống giá xăng dầu mà đi vào hoạt động của các cửa hàng bán lẻ

xăng dầu. Kinh doanh xăng dầu là lĩnh vực kinh doanh hàng hóa có điều

kiện, để được mở đại lý bán lẻ xăng dầu thì thương nhân phải đáp ứng được

các điều kiện theo quy định. Vấn đề đặt ra là trong các điều kiện thì có điều

kiện về địa điểm kinh doanh và để mở một cửa hàng bán lẻ xăng dầu thì

thương nhân phải bỏ ra một số vốn không nhỏ, đồng thời người kinh doanh

không được bán khác so với giá đã quy định mà chỉ thu lợi nhuận thông qua

phần hoa hồng được thương nhân đầu mối trích lại – mức phổ biến hiện nay

là từ 200 đồng/lít đến 500 đồng/lít. Do đó, đa phần các cửa hàng bán lẻ xăng

dầu đều có thế “độc quyền” trong một khu vực địa lý nhất định và lợi nhuận

chủ yếu của họ là từ hoa hồng. Với mức hoa hồng như trên thì các cửa hàng

“độc quyền” ở các khu vực thành thị, khu đông dân cư sẽ có lãi, còn nếu

“độc quyền” tại các khu vực nông thôn thì không, nếu muốn có lãi thì chỉ

còn cách thực hiện hành vi GLTM bằng việc “điều chỉnh” số lượng, chất

lượng hàng bán ra. Như vậy, để khắc phục những tồn tại trên thì Chính phủ

cần xem xét sửa đổi các quy định về điều kiện kinh doanh và mức giá được

phép bán ra thị trường của các đại lý bán lẻ xăng dầu để họ được chủ động

trong kinh doanh.

73

 Hoàn thiện các quy định liên quan đến đối tượng chính của hoạt động

thương mại, đó là hàng hóa. Cụ thể như sau:

+ Nhãn hàng hóa là yếu tố không thể tách rời của hàng hóa, nó

thể hiện những phần cơ bản của hàng hóa như: do ai sản xuất, nguyên liệu sử

dụng, ngày sản xuất và hạn sử dụng… Do đó, để tăng tính hiệu quả quản lý

nhà nước trong hoạt động thương mại thì nhất thiết phải có hệ thống các quy

định rõ ràng, chặt chẽ đối với việc ghi nhãn hàng hóa của thương nhân chịu

trách nhiệm về hàng hóa đó. Hiện tại, theo Nghị định số 89/2006/NĐ-CP

ngày 30/8/2006 của Chính phủ thì những nội dung bắt buộc phải thể hiện

trên nhãn hàng hóa gồm các tiêu chí sau: tên hàng hóa; tên và địa chỉ của tổ

chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; xuất xứ hàng hóa. Theo tôi, quy

định trên là chưa đủ, trên nhãn hàng hóa cần thể hiện thêm các tiêu chí bắt

buộc như: tiêu chuẩn sản xuất và định lượng hàng hóa. Vì một khi đã sản

xuất hàng hóa để bán ra thị trường thì số lượng và chất lượng phải đồng nhất,

phải theo một tiêu chuẩn nhất định (tiêu chuẩn của cơ sở hoặc tiêu chuẩn

Nhà nước quy định). Nếu trên nhãn hàng hóa không thể hiện hai tiêu chí trên

thì sẽ gây ra khó khăn trong hoạt động KTKS chất lượng, số lượng hàng hóa

do không có cơ sở để xác định là sản phẩm không đạt chất lượng hay không

đủ về số lượng. Vì vậy, Chính phủ cần xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định

số 89/2006/NĐ-CP theo hướng yêu cầu thương nhân chịu trách nhiệm ghi

nhãn phải thể hiện thêm những thông tin bắt buộc như đã nêu ở trên.

+ Tiêu chuẩn đối với hàng hóa là cơ sở pháp lý cho việc KTKS

thị trường. “Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý

dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá

trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội

nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này” [25, tr.111].

Để đảm bảo hiệu quả hoạt động KTKS thị trường của lực lượng QLTT đối

với hàng hóa cụ thể thì nhất thiết hàng hóa đó phải được sản xuất dựa trên

một tiêu chuẩn nhất định và quan trọng hơn là QLTT phải có được tiêu

74

chuẩn quốc gia của sản phẩm đó. Hiện nay, các bộ tiêu chuẩn quốc gia do

Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng ban hành. Vì vậy, bên cạnh hoạt

động xây dựng và hoàn thiện các bộ tiêu chuẩn quốc gia thì cần có sự liên

kết theo hướng trao đổi thông tin nội bộ qua mạng internet giữa Cục QLTT

và Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng để kịp thời cập nhật những

thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT,

đồng thời phản ánh những bất cập khi áp dụng vào thực tiễn của những bộ

tiêu chuẩn trên.

+ Hóa đơn, chứng từ là các căn cứ để xác định nguồn gốc, xuất

xứ của hàng hóa. Vì vậy, các quy định về chế độ hóa đơn chứng từ rất quan

trọng đối với khâu lưu thông hàng hóa. Các quy định này phải vừa chặt chẽ

để giúp lực lượng chức năng xác định đúng đối tượng kiểm tra, đồng thời

phải vừa linh hoạt để tạo điều kiện cho hoạt động lưu thông hàng hóa diễn ra

thuận lợi, thúc đẩy phát triển kinh tế. Thực tế, hiện nay các đối tượng buôn

lậu lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất để buôn lậu các nguyên liệu, phụ

liệu, máy móc, thiết bị…hay sử dụng hóa đơn trong nước nhằm quay vòng

cho nhiều lô hàng lưu thông trên thị trường gây nhiều khó khăn trong công

tác kiểm tra, xử lý của lực lượng chức năng. Do đó, cần quy định chặt chẽ

hơn đối với hóa đơn, chứng từ của hàng hóa nhập khẩu. Cụ thể, cần quy định

khi thương nhân nhập khẩu xuất hóa đơn cho tổ chức/cá nhân kinh doanh

hàng hóa trong nước phải kèm theo hóa đơn nhập khẩu có đóng dấu của đơn

vị nhập khẩu; đồng thời, trên nhãn phụ hàng nhập khẩu phải thể hiện một số

thông tin của hóa đơn nhập khẩu lô hàng đó.

+ Ngoài các yếu tố trên thì tem hàng hóa cũng là một phần không

thể thiếu đối với các hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa trong nước sản xuất

nhưng được bày bán tại khu vực cửa khẩu và được hưởng các chính sách ưu

đãi về thuế. Hiện nay, tại khu Thương mại – công nghiệp Mộc Bài, ngoài các

loại hàng hóa nước ngoài được dán tem miễn thuế thì các hàng hóa “made in

Viet Nam” cũng được bày bán. Để tránh việc các đối tượng buôn lậu lợi

75

dụng chính sách ưu đãi về thuế nhằm mua gom hàng hóa và sau đó đem tiêu

thụ trong nước thu lợi bất chính, đề nghị Bộ Tài chính quy định việc dán tem

miễn thuế hoặc yêu cầu tổ chức bán hàng đóng dấu “HÀNG MIỄN THUẾ”

lên bao bì đối với những hàng hóa trên. Nếu không thực hiện các giải pháp

trên thì sẽ không có đủ căn cứ pháp lý để kết luận hàng hóa đó có phải là

hàng hóa được mua gom, trốn thuế hay không?

 Kết quả kỳ vọng: với giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý đã nêu

thì sẽ khắc phục được những tồn tại hiện có của hệ thống pháp luật về thương mại.

Tuy nhiên, do thực tiễn hoạt động thương mại luôn thay đổi nên giải pháp trên chỉ

thực sự đạt hiệu quả cao trong một khoảng thời gian nhất định, việc cần thiết là phải

liên tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

3.3.1.2. Nhóm giải pháp tăng cường năng lực thông qua các chính sách đối với

lực lượng Quản lý thị trường

 Mục tiêu giải pháp: hiện tại, những hạn chế về cơ chế, chính sách đã

hạn chế rất nhiều đến vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn

lậu và GLTM. Do vậy, đây là các giải pháp cơ bản, trực tiếp tác động đến năng lực

cũng như vai trò của lực lượng QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói riêng, cả nước

nói chung. Mục tiêu của giải pháp là thông qua việc kết hợp điều chỉnh các quy định

liên quan đến bộ máy tổ chức, cách thức hoạt động và các điều kiện liên quan đến

nguồn nhân lực nhằm tạo cơ chế thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động công vụ của

lực lượng QLTT.

 Biện pháp thực hiện

 Giải pháp liên quan đến việc tổ chức lực lượng QLTT. Theo cơ cấu tổ

chức hiện nay thì Chi cục QLTT là đơn vị “song trùng trực thuộc”, vừa chịu sự

quản lý của SCT, vừa chịu sự chỉ đạo của Cục QLTT. Điều này làm phát sinh

những hạn chế trong hoạt động chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập

(như đã phân tích ở chương 2). Vì vậy, cần tổ chức lại lực lượng QLTT theo hướng

nâng cấp Cục QLTT thành Tổng cục QLTT, Chi cục QLTT thành Cục QLTT và

chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp từ Tổng cục. Với mô hình tổ chức như đã đề xuất

76

sẽ tạo sự thuận lợi trong công tác chỉ đạo, điều hành từ Tổng cục đến Cục và các

Chi cục; từ đây hoạt động chống buôn lậu và GLTM sẽ được chỉ đạo thống nhất,

xuyên suốt và có sự liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh, thành.

 Giải pháp liên quan đến quá trình thực thi nhiệm vụ của lực lượng

QLTT. Vai trò của lực lượng QLTT được thể hiện rõ nhất và trực tiếp nhất là trong

quá trình thi hành nhiệm vụ, chức năng được giao. Để tăng cường vai trò này, ta cần

thực hiện các giải pháp cụ thể sau:

+ Việc đầu tiên và quan trọng nhất để công tác chống buôn lậu và

GLTM đạt hiệu quả cao là cần phải có một kế hoạch tốt, cụ thể và chi tiết với

đối tượng, địa điểm và mặt hàng kiểm tra cụ thể. Để có kế hoạch tốt, cần

thực hiện tốt công tác quản lý địa bàn nhằm thực hiện việc quản lý từ gốc,

KTKS hàng hóa từ nơi phát luồng. Tuy nhiên, để công tác quản lý địa bàn

đạt hiệu quả cao thì ngoài những kênh thông tin chính thức như: đơn vị chủ

động điều tra lập danh sách; các thông tin từ cơ sở dữ liệu của các cơ quan

chuyên ngành…thì đòi hỏi phải thu thập các thông tin phi chính thức như cài

cắm cơ sở (người dân hoặc những đối tượng đã từng hoặc đang hoạt động

buôn lậu và GLTM) để cung cấp tin báo. Với những quy định hiện hành thì

lực lượng QLTT được phép chi mua tin cơ sở phục vụ công tác kiểm tra

nhưng không được phép quan hệ với đương sự, đây là một chủ trương đúng

đắn nhằm hạn chế sự “bảo kê” của công chức QLTT. Những quy định trên

đã phần nào hạn chế nguồn cung cấp tin báo để từ đó lực lượng QLTT đưa

vào kế hoạch nhằm ngăn chặn hiệu quả các hành vi buôn lậu và GLTM. Do

vậy, giải pháp để thu thập được nhiều thông tin phi chính thức là cần thực

hiện xã hội hóa công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM (sẽ được trình

bày rõ hơn ở phần 3.3.2).

+ Để thực hiện có hiệu quả hoạt động KTKS thị trường, nhất là

trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM thì lực lượng QLTT cần

được trao quyền nhiều hơn trong việc dừng phương tiện để kiểm tra. Hiện

nay, theo quan điểm chỉ đạo chung thì lực lượng QLTT là lực lượng chủ

77

công trong việc KTKS thị trường nội địa nên không được dừng phương tiện.

Tuy nhiên, hàng hóa nhập lậu khi được vận chuyển vào thị trường nội địa thì

không chỉ tiêu thụ tại một địa điểm cụ thể mà sẽ được phân phối khắp thị

trường. Vì vậy, nếu nắm được tin báo có phương tiện vận chuyển hàng lậu đi

ngang qua địa phương của một Đội QLTT cụ thể nhưng điểm tập kết hàng

hóa là một địa phương khác thì phải xử lý như thế nào nếu không được phép

dừng phương tiện. Cần phân tích thêm rằng, chỉ có lực lượng cảnh sát giao

thông mới được dừng phương tiện và do đó, một khi lực lượng QLTT muốn

dừng xe phải nhờ hỗ trợ từ phía cảnh sát giao thông. Xét tính chất và mức độ

khẩn cấp của vấn đề thì khi có được sự hỗ trợ từ phía cảnh sát giao thông thì

phương tiện vận chuyển hàng lậu có khả năng đã di chuyển sang địa phương

khác. Đặc biệt, đối với địa phương có đặc thù là địa bàn trung chuyển hàng

hóa từ Cambodia về Tp.HCM để tiêu thụ, nếu không được quyền dừng xe thì

không thể tiến hành ngăn chặn việc vận chuyển hàng nhập lậu. Như vậy, để

giải quyết vấn đề trên, nhất thiết phải có các quy định cho phép lực lượng

QLTT được dừng phương tiện giao thông chở hàng lậu. Cụ thể, tiếp tục thực

hiện hoặc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 441/2002/QĐ-BTM ngày

16/4/2002 của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Và để khắc phục việc lạm quyền,

một khi áp dụng quy định trên, trong việc dừng phương tiện gây ảnh hưởng

đến tốc độ lưu thông hàng hóa của xã hội thì cần quy định rõ trách nhiệm và

chế tài xử lý thật nghiêm đối với các trường hợp dừng phương tiện tùy tiện,

không có cơ sở, kế hoạch cụ thể.

+ Buôn lậu và GLTM là những hành vi vi phạm pháp luật trong

hoạt động thương mại, vì vậy, đối tượng thực hiện những hành vi trên luôn

tránh né, che giấu tang vật, phương tiện dùng để thực hiện các hành vi này,

và nơi cất giấu kín nhất là nhà ở hoặc địa điểm kinh doanh. Theo quy định

hiện hành, chỉ có Chủ tịch UBND huyện mới được quyền ra quyết định

khám nhà ở nên khi cần kiểm tra các địa điểm trên thì lực lượng QLTT phải

xin lệnh từ Chủ tịch UBND huyện. Để tránh tình trạng tẩu tán tang vật,

78

phương tiện có thể xảy ra trong thời gian xin lệnh thì cần khắc phục bằng

những quy định cho phép Đội trưởng QLTT được quyền khám nơi ở, nhưng

phải báo cáo gấp với Chủ tịch UBND huyện trước khi buổi làm việc kết thúc

và phải có sự chứng kiến, phối hợp của chính quyền địa phương (cấp

phường, xã).

 Giải pháp khắc phục những tồn tại liên quan đến năng lực đội ngũ

nhân sự của lực lượng QLTT tỉnh Tây Ninh. Đội QLTT là đơn vị chính trong việc

thực hiện nhiệm vụ của lực lượng QLTT. Do đó, năng lực đội ngũ nhân sự cấp Đội

có vai trò quyết định đến sự thành công trong KTKS thị trường nói chung, đến việc

đấu tranh chống buôn lậu và GLTM nói riêng. Để nâng cao năng lực đội ngũ nhân

sự cấp Đội, cần thực hiện các giải pháp tập trung vào:

+ Hiện tại, lực lượng QLTT quá mỏng (như đã phân tích ở

Chương II), mỗi Đội QLTT hiện nay chỉ có trung bình 04 biên chế, trong đó

chỉ có từ một đến hai người được cấp thẻ KSV thị trường. Như vậy, mỗi Đội

chỉ có một tổ công tác để thực hiện tất cả các nhiệm vụ được giao. Do đó,

cần tăng thêm 35 biên chế để mỗi Đội có 07 công chức (hai tổ công tác). Bên

cạnh đó, hiện tại mỗi huyện đều đã thành lập một Đội QLTT, nhưng chỉ có

một Đội cơ động thực hiện nhiệm vụ chung. Do vậy, đề nghị UBND tỉnh

thành lập thêm một Đội cơ động chuyên trách chống buôn lậu và GLTM để

“chia lửa” với các Đội địa bàn.

+ Để giải quyết bài toán về nhân sự cho lực lượng QLTT thì

trước hết ta cần tập trung vào việc giải quyết vấn đề lương của công chức

ngành QLTT. Cụ thể, cần xem xét điều chỉnh lại mức lương tối thiểu và hệ

số đối với công chức Nhà nước; và đồng thời áp dụng tính lương thâm niên

cho công chức ngành QLTT. Bên cạnh đó, nâng cao các điều kiện tuyển

dụng đối với công chức QLTT, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Năm 2012, Chi cục QLTT Tây Ninh có 58 biên chế, trong đó: trình độ đại

học 23 người (chiếm 39,66%); trung cấp: 35 người (chiếm 60,34%) [13], với

trình độ nhân lực như trên thì chưa thể đáp ứng yêu cầu công tác chống buôn

79

lậu và GLTM trong giai đoạn hội nhập. Do vậy, trong những năm sắp tới cần

tuyển dụng thêm công chức có trình độ đại học, đồng thời cử đi đào tạo đối

với các công chức chưa đạt chuẩn nhằm nâng tỷ lệ công chức có trình độ đại

học và giảm dần tỷ lệ công chức có trình độ trung cấp.

+ Đẩy mạnh việc xin cấp đất và xây dựng mới trụ sở làm việc

cho 06 Đội địa bàn còn lại (các Đội QLTT số: 1; 2; 3; 5; 8; 10) nhằm tạo sự

ổn định trong công tác và sinh hoạt của các Đội trên. Đồng thời, đề nghị

UBND tỉnh xem xét trang bị thêm phương tiện phục vụ công tác cho cấp

Đội. Cụ thể, để đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới, cần trang bị

cho mỗi Đội QLTT một xe bán tải để phục vụ việc chuyên chở tang vật,

phương tiện VPHC; ngoài ra, việc trang bị xe bán tải thể hiện hình ảnh chính

quy, hiện đại cho lực lượng QLTT, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 12-

NQ/TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị.

+ Để chủ động về kinh phí trong công tác chống buôn lậu và

GLTM cho các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng QLTT, đề nghị Bộ

Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ

xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu và GLTM nhằm thay

thế Thông tư số 59/2008/TT-BTC ngày 04/7/2008 và Thông tư số

51/2010/TT-BTC ngày 14/4/2010 sau ngày 01/07/2013.

 Giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng

chức năng trong công tác chống buôn lậu và GLTM. Trước hết, ta cần tập trung vào

việc cải tổ lại cơ quan chỉ đạo liên ngành trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM

theo hướng giải thể BCĐ 127 cấp huyện, duy trì và tăng cường hiệu quả hoạt động

của BCĐ 127 tỉnh. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa các

lực lượng chức năng như QLTT và cảnh sát kinh tế.

+ Để tăng cường hiệu quả hoạt động của BCĐ 127 tỉnh, cần kiện

toàn quy chế tổ chức của đơn vị này. Hiện nay, Trưởng Ban BCĐ 127 tỉnh

do 01 phó Chủ tịch tỉnh đảm nhiệm và phó Trưởng ban thường trực do Giám

đốc SCT đảm nhiệm và đại diện của các ngành liên quan. Việc tổ chức trên

80

đã phần nào hạn chế hiệu quả hoạt động do sự kiêm nhiệm của phó Chủ tịch

tỉnh, ảnh hưởng trực tiếp tới việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của BCĐ 127

tỉnh. Theo tác giả, cần kiện toàn bộ máy BCĐ 127 tỉnh theo mô hình tổ chức

của BCĐ Trung ương. Cụ thể, giao Giám đốc SCT đảm nhiệm chức vụ

Trưởng ban, các ủy viên là phó Giám đốc SCT và phó Giám đốc các sở, ban

ngành có liên quan. Theo quy định thì CCT Chi cục QLTT đồng thời là phó

Giám đốc SCT, tuy nhiên, CCT Chi cục QLTT Tây Ninh hiện tại không đảm

nhiệm chức vụ phó Giám đốc SCT. Điều này đồng nghĩa với việc CCT Chi

cục QLTT không là ủy viên BCĐ 127 tỉnh. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Tây

Ninh xem xét bổ nhiệm CCT Chi cục QLTT đảm nhiệm chức vụ phó Giám

đốc SCT.

+ Tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa các lực lượng chức

năng theo hướng: đề ra các kế hoạch hành động chung, cùng nhau hợp tác

thực hiện các kế hoạch kiểm tra chuyên đề đối với từng lĩnh vực kinh doanh

cụ thể như xăng dầu, gas, phân bón, vật liệu xây dựng…đồng thời, tăng

cường trao đổi thông tin qua việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ,

nhất là công nghệ thông tin, để trao đổi với nhau các thông tin về quản lý địa

bàn, văn bản pháp lý thông qua việc kết nối cơ sở dữ liệu của các cơ quan. Ví

dụ: cần kết nối cơ sở dữ liệu về các đối tượng buôn lậu và GLTM giữa lực

lượng QLTT với bộ đội Biên phòng, Hải quan, công an; và kết nối cơ sở dữ

liệu về hệ thống tiêu chuẩn quốc gia giữa Chi cục Tiêu chuẩn – đo lường –

chất lượng với các đơn vị như QLTT, công an.

 Lực lượng QLTT hiện nay được giao quá nhiều nhiệm vụ như chống

buôn lậu, GLTM, kinh doanh trái phép, chống sản xuất và kinh doanh hàng giả,

thanh tra chuyên ngành thương mại, thanh tra trong lĩnh vực ATVSTP. Trong đó,

chức năng kiểm tra về ATVSTP và chất lượng sản phẩm hàng hóa có sự trùng lặp,

chồng chéo về lĩnh vực quản lý, phạm vi kiểm tra với các ngành chức năng khác, cụ

thể là Chi cục ATVSTP và Chi cục Tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng. Do vậy, để

giải quyết sự bất hợp lý trên, theo tác giả, đề nghị Chính phủ xem xét chuyển giao,

81

sáp nhập bộ phận thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra của 02 cơ quan trên vào

lực lượng QLTT. Một khi thực hiện việc sáp nhập trên sẽ tăng cường hiệu quả hoạt

động của Chi cục QLTT do tận dụng được khả năng chuyên môn và kinh nghiệm

quản lý của các cơ quan hiện hữu, đồng thời do được “giảm tải” nên sẽ có sự tập

trung hơn vào việc chống buôn lậu và GLTM.

 Kết quả kỳ vọng: với việc thực hiện giải pháp này, lực lượng QLTT

sẽ được tăng cường thêm nhân lực, trao nhiều quyền hơn trong hoạt động công vụ

nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, việc được trao nhiều quyền

lực cũng là một thách thức đối với lực lượng QLTT, do vậy, để tránh việc lạm

quyền của công chức QLTT thì yêu cầu trước tiên là phải xây dựng được một cơ

chế kiểm soát hoạt động hiệu quả.

3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục

 Mục tiêu giải pháp: giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên

truyền giáo dục tập trung vào việc thay đổi thói quen, nhận thức và ý thức pháp luật

của quần chúng nhân dân, công chức QLTT và của doanh nghiệp. Mục tiêu nhằm

huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân trong cuộc chiến chống buôn lậu và GLTM,

từ đó, tạo được sự đồng thuận trong xã hội đối với hoạt động của lực lượng QLTT.

 Biện pháp thực hiện

 Thực hiện xã hội hóa công tác chống buôn lậu và GLTM thông qua

việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục quần chúng, nhân dân và các cá nhân, tổ chức

làm ăn chân chính hiểu được mức độ vi phạm và tác hại của các hành vi buôn lậu và

GLTM đối với nền kinh tế, không tiếp tay cho các đối tượng thực hiện các hành vi

trên. Đồng thời tạo được sự đồng thuận đối với hoạt động của lực lượng chức năng,

giúp người dân hiểu và nêu cao tinh thần tố giác hành vi vi phạm. Cụ thể:

+ Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công chức QLTT phải nêu

cao tinh thần hướng dẫn, tuyên truyền để người dân, các hộ kinh doanh cá

thể hiểu được tác hại cũng như tính chất của vấn đề buôn lậu và GLTM. Do

tính chất nhạy cảm của công tác QLTT là đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của

đối tượng vi phạm nên trong khi thi hành nhiệm vụ, công chức QLTT cần

82

phải cư xử chuẩn mực, có thái độ hòa nhã và lý giải vấn đề một cách thấu

tình đạt lý, tránh sự phản ứng thái quá tạo cơ hội để các đối tượng buôn lậu

và GLTM kích động nhân dân và người thân chống người thi hành công vụ.

Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là phải e sợ hay lùi bước trước các đối

tượng vi phạm mà cần phải có thái độ kiên quyết đấu tranh, xử lý công khai,

minh bạch, đúng luật đối với các hành vi vi phạm. Thời gian gần đây, có

những vụ việc không tốt như tự ý “làm luật”, nhũng nhiễu doanh nghiệp qua

việc tự ý kiểm tra khi không có quyết định tạo dư luận không tốt, gây ảnh

hưởng xấu đối với hình ảnh của lực lượng QLTT. Do vậy, yêu cầu đặt ra là

cần chấn chỉnh kịp thời các hành động sai trái trên, đồng thời từng bước xây

dựng hình ảnh lực lượng QLTT là hoạt động với mục đích vì lợi ích người

tiêu dùng, vì một nền thương mại công bằng và phát triển, là người bạn đồng

hành của các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Để thực hiện yêu cầu trên, Bộ

Công Thương ban hành Chỉ thị số 14/CT-BCT ngày 04/9/2012 về thực hiện

một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động công vụ của công chức

QLTT nhằm chấn chỉnh và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ

QLTT với chủ đề xuyên suốt đến năm 2015 là “Rèn tác phong chính quy,

luyện ứng xử văn hóa”. Đối với công chức QLTT Tây Ninh, ngoài việc quán

triệt và thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị số 14/CT-BCT thì cần tập trung vào

việc học tập, nâng cao trình độ nắm rõ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ đáp

ứng yêu cầu công tác chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập (vì

đa phần công chức QLTT đã phục vụ trong ngành từ trước năm 2006, đây là

giai đoạn hoạt động vận chuyển hàng lậu diễn ra sôi động, nên đa phần đều

quen với việc rượt đuổi bắt hàng lậu và không nắm vững các nghiệp vụ kiểm

tra cơ sở kinh doanh).

+ Các Đội QLTT cần có sự kết hợp chặt chẽ với các đơn vị có

chức năng tuyên truyền của địa phương, nhất là Đài truyền thanh huyện

nhằm thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật thông qua

việc phát sóng các văn bản, Nghị định liên quan để các cơ sở kinh doanh

83

hiểu và thực hiện. Đồng thời, phổ biến các thủ đoạn vi phạm của những đối

tượng buôn lậu và GLTM để người tiêu dùng biết và cảnh giác; thông tin về

các đối tượng vi phạm và chế tài xử lý để răn đe.

+ Kết hợp với Ban Quản lý các chợ trung tâm huyện, thị xã thực

hiện việc tuyên truyền thông qua loa phát thanh, trưng bày cân đối chứng để

người tiêu dùng có cơ sở so sánh. Hiện nay, sự kết hợp giữa lực lượng QLTT

và Ban Quản lý các chợ huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh Tây Ninh chưa được

các Đội QLTT quan tâm đúng mức, chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ trong khâu

kiểm tra và thực hiện các chế tài xử lý mà không chú trọng vào công tác

tuyên truyền. Nguyên nhân là do nhận thức chưa đúng về tầm quan trọng của

công tác tuyên truyền, bên cạnh đó, Ban Quản lý chợ không đủ nhân lực và

kiến thức pháp luật để thực hiện việc tuyên truyền. Có thể khẳng định rằng,

việc kết hợp tuyên truyền kiến thức pháp luật đến cơ sở kinh doanh là việc có

lợi cho cả lực lượng QLTT lẫn Ban Quản lý chợ. Cụ thể: một khi cơ sở kinh

doanh hiểu biết rõ ràng về luật sẽ thuận lợi cho hoạt động kiểm tra của lực

lượng QLTT; thông qua hiệu quả hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT sẽ

giúp hoạt động kinh doanh trong khu vực chợ đi vào nền nếp, thuận tiện cho

việc quản lý của Ban Quản lý chợ. Vì vậy, nhất thiết phải thực hiện việc trao

đổi thông tin, kết hợp toàn diện giữa hai cơ quan để nâng cao hiệu quả công

tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thương mại tại các chợ trung tâm huyện,

thị xã.

+ Kêu gọi sự hỗ trợ, kết hợp từ các doanh nghiệp, các hiệp hội

trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Việc kết hợp này đem lại lợi

ích cho cả lực lượng QLTT và doanh nghiệp: với sự hỗ trợ của lực lượng

QLTT thông qua công tác kiểm tra sẽ ngăn chặn được hàng hóa nhập lậu tạo

điều kiện để hàng hóa sản xuất trong nước chiếm lại thị phần đã mất; bên

cạnh đó, với tiềm lực của mình, các doanh nghiệp sẽ hỗ trợ nhiều mặt để lực

lượng QLTT hoàn thành vai trò, nhiệm vụ được giao. Hiện tại, Chi cục

QLTT Tây Ninh đã ký kết thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau giữa Chi cục với Công

84

ty AJINOMOTO Việt Nam, theo đó công ty AJINOMOTO Việt Nam sẽ hỗ

trợ Chi cục QLTT thông qua việc cung cấp tin các cơ sở kinh doanh bột ngọt

giả nhãn hiệu AJINOMOTO và chi phí dành cho công tác kiểm tra, xử lý;

Chi cục QLTT Tây Ninh có trách nhiệm chỉ đạo các Đội QLTT trực thuộc

phối hợp chặt chẽ với nhân viên của công ty AJINOMOTO Việt Nam trong

việc kiểm tra. Ngoài ra, trong công tác phòng chống thuốc lá lậu thì Chi cục

QLTT Tây Ninh đã thực hiện ký kết thỏa thuận với Công ty B.A.T (British

American tobacco), nội dung thỏa thuận là công ty B.A.T sẽ hỗ trợ kinh phí

các vụ việc kinh doanh thuốc lá lậu mà các Đội QLTT kiểm tra và phát hiện;

đồng thời, công ty B.A.T sẽ chịu chi phí in các ấn phẩm tuyên truyền và bản

cam kết không kinh doanh thuốc lá lậu, Chi cục sẽ chỉ đạo các Đội QLTT

thực hiện việc phát các ấn phẩm trên và yêu cầu các cơ sở kinh doanh ký

cam kết không bán thuốc lá lậu. Hiệu quả từ các thỏa thuận trên cho thấy có

sự chuyển biến tích cực trong công tác chống buôn lậu và GLTM trên địa

bàn tỉnh Tây Ninh. Vì vậy, cần tiếp tục duy trì đồng thời ký thêm thỏa thuận

với các doanh nghiệp khác, nhất là doanh nghiệp trong lĩnh vực xăng dầu và

phân bón.

 Các cấp, các ngành cần thực hiện tốt cuộc vận động “Người Việt Nam

ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và các chương trình như bán hàng bình ổn giá, hàng

Việt về nông thôn. Nếu thực hiện thành công các chương trình trên sẽ làm tăng độ

phủ của hàng hóa sản xuất trong nước, giảm thị phần hàng nhập lậu. Đồng thời, tạo

thói quen và sự tin tưởng dùng hàng Việt đối với người tiêu dùng, dần dần loại bỏ

tâm lý “sính hàng ngoại”. Tuy nhiên, để các chương trình trên đạt hiệu quả cao thì

cần có sự hỗ trợ về kinh phí, trợ giúp về thủ tục hành chính cũng như các điều kiện

thực tế từ cấp ủy và chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, cần công khai, minh

bạch về các điều kiện cũng như yêu cầu đối với những doanh nghiệp tham gia

chương trình để đảm bảo giá cả phù hợp, chất lượng hàng hóa đạt chuẩn. Trong quá

trình thực hiện, nhất thiết phải có sự kiểm tra của lực lượng QLTT để đảm bảo các

doanh nghiệp không trà trộn hàng hóa kém phẩm chất, hàng quá hạn sử dụng để bán

85

cho người tiêu dùng. Hiện tại, UBND tỉnh Tây Ninh đang thực hiện các chương

trình trên, tuy nhiên, chưa đảm bảo được mức độ thường xuyên và các yếu tố khác

như mặt bằng (tháng 3/2013, SCT Tây Ninh kết hợp với Co.opmart Tây Ninh tổ

chức chương trình “Hàng Việt về nông thôn” trên địa bàn huyện Dương Minh

Châu, hai bên thỏa thuận sẽ tổ chức tại khu vực trung tâm, gần chợ Thị trấn. Tuy

nhiên, khi Co.opmart Tây Ninh liên hệ với UBND huyện Dương Minh Châu thì

được bố trí mặt bằng là khu vực cách xa trung tâm thị trấn. Điều này đã gây ảnh

hưởng không nhỏ đến mức độ thành công của chương trình, gây lãng phí). Do vậy,

cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan để các chương trình trên có

được sự thành công theo kế hoạch đã đề ra.

 Kết quả kỳ vọng: thực hiện thành công giải pháp này sẽ tạo được

chuyển biến tích cực trong nhận thức, thói quen tiêu dùng và tinh thần thượng tôn

pháp luật của các tầng lớp dân cư; đồng thời tạo được sự đồng thuận cao trong xã

hội, hướng tới thực hiện xã hội hóa việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Từ đó

góp phần tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn

lậu và GLTM.

3.3.3. Nhóm giải pháp kinh tế

3.3.3.1. Mục tiêu giải pháp

Vai trò của lực lượng QLTT đối với nền kinh tế là nhằm bảo vệ người sản

xuất, kinh doanh chân chính từ đó góp phần bình ổn thị trường, phát triển sản xuất

trong nước theo định hướng chung của Đảng và Nhà nước (như đã phân tích trong

Chương 1). Tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò của lực lượng QLTT nhưng

giải pháp kinh tế là giải pháp cơ bản và lâu dài trong việc phòng, chống buôn lậu và

GLTM: “Chỉ khi nào sản xuất hàng hóa trong nước phát triển về chủng loại, mẫu

mã, số lượng, chất lượng và giá thành đủ sức cạnh tranh với hàng lậu thì hàng lậu

khó tồn tại” [35, tr.79]. Do đó, cần ưu tiên phát triển sản xuất trong nước nhằm nâng

cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam đi đôi với đấu tranh chống các

hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh ở

nước ta. Trong xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra vấn đề

86

cốt yếu là các doanh nghiệp cần phải chú trọng đầu tư công nghệ, đổi mới trang

thiết bị tiên tiến, tổ chức quản lý hiệu quả để nâng cao chất lượng và giảm giá thành

hàng hóa. Đồng thời, Nhà nước cần có các chính sách cụ thể nhằm hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện phát triển đồng bộ các loại thị trường và chủ

động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

3.3.3.2. Biện pháp thực hiện

 Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa –

hiện đại hóa, phát triển thêm các cụm, khu công nghiệp nhẹ nhằm giải quyết lao

động dư thừa ở khu vực nông thôn, nhất là khu vực biên giới vì đa phần lao động

nhàn rỗi ở khu vực này là những người tiếp tay cho bọn đầu nậu trong việc vận

chuyển, buôn bán hàng lậu. Trước hết, cần tập trung phát triển hai khu kinh tế cửa

khẩu Mộc Bài và Xa Mát theo quy hoạch chung của Thủ tướng Chính phủ và các

Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội khu

vực vùng biên, đồng thời khơi dậy tiềm năng kinh tế của tỉnh.

 Xây dựng quy hoạch và phát triển mạng lưới các trung tâm thương

mại trên địa bàn theo hướng hiện đại. Việc buôn bán nhỏ lẻ, phân tán không tập

trung gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý, KTKS của các lực lượng chức

năng và tồn tại những bất cập sau: các cơ sở kinh doanh hoạt động không ổn định;

nguồn gốc hàng hóa không được kiểm soát; không có sự cạnh tranh giữa các cơ sở

kinh doanh dẫn đến việc người tiêu dùng không có nhiều sự lựa chọn và từ đó phát

sinh các hành vi GLTM… Bên cạnh việc phát triển các trung tâm thương mại tại

khu vực hai cửa khẩu quốc tế nằm trong quy hoạch chung thì cần đẩy mạnh việc

phát triển các trung tâm thương mại ở mỗi huyện, thị xã thông qua việc kêu gọi đầu

tư từ các công ty bán lẻ, nhà phân phối uy tín như: Saigon Co.op; Tổng công ty

thương mại Sài Gòn (SATRA)… Để thực hiện thành công chính sách trên, UBND

tỉnh cần tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước… đồng

thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục, ban hành các chủ

trương khuyến khích nhà đầu tư như giảm thuế.

87

 Nguyên nhân của buôn lậu và GLTM là lợi nhuận bất chính, lợi nhuận

siêu ngạch thu được từ các hành vi kinh doanh trái pháp luật. Do thuế suất nhập

khẩu hàng hóa còn cao; hàng hóa sản xuất trong nước có giá thành cao, chất lượng

chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Để giải quyết vấn đề trên, cần nâng cao

năng lực sản xuất trong nước và thực hiện liên doanh, liên kết với nước ngoài để

sản xuất những mặt hàng mà hàng hóa trong nước không cạnh tranh được với hàng

hóa nước ngoài, nhất là đối với các hàng hóa nằm trong nhóm những mặt hàng nhập

lậu nhiều vào nước ta. Cụ thể, ta có thể liên doanh với các hãng sản xuất thuốc lá

nước ngoài để sản xuất thuốc lá điếu hiệu Hero và Jet như đã từng làm đối với mặt

hàng bia Heineken [24]; như vậy sẽ giảm bớt tình trạng nhập lậu thuốc lá điếu như

hiện nay, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách.

3.3.3.3. Kết quả kỳ vọng

Khi các điều kiện kinh tế của nước ta nói chung, của tỉnh Tây Ninh nói riêng

được cải thiện thì sẽ tạo nền tảng phát triển một nền thương mại hiện đại, hướng tới

mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến lúc

đó, hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và GLTM của lực lượng QLTT sẽ nhận

được sự hỗ trợ tích cực từ những thành tựu của nền kinh tế như: môi trường kinh

doanh hiện đại; hàng hóa sản xuất trong nước dồi dào và có khả năng cạnh tranh với

hàng nhập lậu;… Theo đó phát huy được vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu

tranh chống buôn lậu và GLTM.

88

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Kết quả nghiên cứu trong chương 3 đã giải quyết được những vấn đề đặt ra

trong chương 2. Cụ thể như sau:

 Dự báo được tình hình tác động đến công tác đấu tranh chống buôn

lậu và GLTM trong quá trình hội nhập: thứ nhất là việc giảm các dòng thuế nhập

khẩu theo cam kết khi gia nhập WTO sẽ tác động đến quy mô, tính chất của hoạt

động buôn lậu và GLTM; thứ hai là việc tham gia thị trường trong nước của các tập

đoàn đa quốc gia đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại cho phù

hợp với luật pháp quốc tế; đồng thời yêu cầu trình độ của công chức ngành QLTT

phải được nâng cao, đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới; và cuối cùng là

việc áp dụng các thành tựu khoa học vào hoạt động buôn lậu và GLTM sẽ làm cho

tình hình càng thêm phức tạp.

 Nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối

với công tác QLTT trong quá trình hội nhập. Theo đó, công tác đấu tranh chống

buôn lậu và GLTM là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, với

việc xác định QLTT là một ngành thực hiện chức năng KTKS thị trường nội địa

nhằm hạn chế, khắc phục mặt trái, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường thì chủ trương

của Đảng là định hướng xây dựng lực lượng QLTT theo hướng chính qui, tổ chức

chặt chẽ.

 Đề xuất các giải pháp khả thi nhằm tăng cường vai trò của lực lượng

QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

trong quá trình hội nhập nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong chương 2. Cụ

thể, tác giả đã đề xuất 3 nhóm giải pháp gồm: giải pháp kinh tế; giải pháp hành

chính và các giải pháp liên quan đến công tác tuyên truyền, giáo dục. Với từng

nhóm giải pháp, tác giả nêu ra mục tiêu giải pháp, biện pháp thực hiện và kết quả kỳ

vọng nhằm thể hiện sự cần thiết và kết quả đạt được đối với từng giải pháp riêng

biệt. Tuy nhiên, vì đây là hoạt động liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nên

để đạt hiệu quả cao thì ta cần thực hiện kết hợp, đồng bộ các giải pháp đã đề xuất.

89

KẾT LUẬN CHUNG

Có thể khẳng định các kết quả nghiên cứu nêu ra trong luận văn đã giải quyết

được những mục tiêu đặt ra trong phần mở đầu, đồng thời có những đóng góp nhất

định trong lĩnh vực nghiên cứu. Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực chưa được quan tâm

nghiên cứu nhiều nên kết quả còn có phần hạn chế. Cụ thể:

 Những đóng góp của luận văn

 Làm rõ các vấn đề về lý luận liên quan đến buôn lậu và GLTM trong

quá trình hội nhập, cụ thể: đưa ra khái niệm về buôn lậu và GLTM đồng thời phân

tích những đặc điểm, đặc trưng cơ bản của chúng. Từ đó giúp ích cho việc phân biệt

sự khác nhau giữa buôn lậu và GLTM, tạo cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp

luật điều chỉnh các hoạt động trên.

 Hệ thống hóa các vấn đề liên quan đến lịch sử và vai trò, chức năng,

nhiệm vụ của lực lượng Quản lý thị trường trong giai đoạn hiện nay, đó là việc thực

hiện nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng nhằm phát triển một nền

thương mại công bằng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân và

người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra được các yếu tố liên quan đến hoạt

động của lực lượng QLTT như: nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất được trang bị;

các quy định của pháp luật; thị hiếu người tiêu dùng và ý thức pháp luật của người

dân là những yếu tố có tác động trực tiếp, ảnh hưởng đến vai trò của lực lượng

QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Điều này tạo cơ sở cho

hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển lực lượng QLTT trong thời gian

tới.

 Chứng minh rằng với những đặc điểm rất riêng về điều kiện tự nhiên

và kinh tế – xã hội của tỉnh Tây Ninh đã làm cho hoạt động buôn lậu và GLTM trên

địa bàn có những đặc thù riêng. Cụ thể: trước hết, đây là địa bàn trung chuyển hàng

hóa nhập lậu từ Cambodia về Tp.HCM; thứ hai, hoạt động thương mại còn nhỏ lẻ

dẫn đến khó kiểm soát và quản lý. Với những đặc điểm trên cùng với việc phân tích

kết quả hoạt động giai đoạn 2008 – 2012 của Chi cục QLTT Tây Ninh, luận văn đã

90

nêu ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục để từ đó đề xuất các giải pháp khả thi

nhằm tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu

và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.

 Những hạn chế của luận văn

 Thứ nhất, vì đây là lĩnh vực chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều

nên không có nhiều tài liệu nghiên cứu chuyên ngành phù hợp với nội dung nghiên

cứu của luận văn. Để khắc phục hạn chế trên, tác giả thực hiện nghiên cứu chủ yếu

dựa vào ý kiến tham khảo từ các chuyên gia, là những người công tác lâu năm trong

ngành, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn của chính mình. Do đó, kết quả nghiên

cứu không tránh khỏi những thiếu sót mang tính chủ quan.

 Thứ hai, tuy giữa buôn lậu và GLTM có những đặc điểm chung, có

thể cùng thực hiện một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của lực lượng QLTT,

nhưng do thực tiễn hoạt động buôn lậu và GLTM luôn thay đổi; đồng thời đây là 2

vấn đề, 2 lĩnh vực riêng biệt nên kết quả nghiên cứu chưa phản ánh đầy đủ, chi tiết

về đặc điểm, tính chất của từng vấn đề.

 Thứ ba, do lĩnh vực được phân công quản lý của ngành QLTT quá

rộng nên hiện tại, hầu hết hoạt động của lực lượng QLTT cả nước thường giải quyết

những vấn đề mang tính thời sự được dư luận đặc biệt chú ý. Vì vậy, tuy luận văn

đã đề xuất các giải pháp phù hợp nhưng để áp dụng chúng vào thực tiễn thì cần có

một quá trình lâu dài, nhất là đối với nhóm giải pháp tuyên truyền, giáo dục.

i

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo 127 Tây Ninh, 2008. Thông báo. Tây Ninh, tháng 2 năm 2008.

2. Ban Tuyên giáo Trung ương, 2011. Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

3. Bộ Công Thương, 2009. Thông tư quy định chi tiết một số điều của Nghị

định số 107/2008/NĐ-CP ngày 22/9/2008 của Chính phủ quy định xử phạt hành

chính các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu

và gian lận thương mại. Hà Nội, tháng 5 năm 2009.

4. Bộ Công Thương, 2012. Chỉ thị về thực hiện một số biện pháp nâng cao chất

lượng hoạt động công vụ của công chức Quản lý thị trường. Hà Nội, tháng 9 năm

2012.

5. Bộ Tài Chính, 2008. Thông tư hướng dẫn việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ

xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng

giả. Hà Nội, tháng 7 năm 2008.

6. Bộ Tài Chính, 2010. Thông tư về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số

59/2008/TT-BTC ngày 04/7/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, sử dụng

nguồn thu từ xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận

thương mại, hàng giả. Hà Nội, tháng 4 năm 2010.

7. Bộ Thương Mại, 2000. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại về ban

hành quy chế công tác của lực lượng Quản lý thị trường. Hà Nội, tháng 9 năm

2000.

8. Bộ Thương Mại, 2001. Thông tư hướng dẫn về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn

của lực lượng Quản lý thị trường ở địa phương. Hà Nội, tháng 4 năm 2001.

9. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2008. Báo cáo tổng kết công tác năm

2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009. Tây Ninh, tháng 12 năm 2008.

10. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2009. Báo cáo tổng kết công tác

năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010. Tây Ninh, tháng 12 năm 2009.

11. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2010. Báo cáo tổng kết công tác

năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011. Tây Ninh, tháng 12 năm 2010.

ii

12. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2011. Báo cáo công tác quản lý thị

trường năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012. Tây Ninh, tháng 12 năm

2011.

13. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2012. Báo cáo công tác quản lý thị

trường năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013. Tây Ninh, tháng 12 năm

2012.

14. Chính phủ, 1995. Nghị định về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Quản

lý thị trường. Hà Nội, tháng 1 năm 1995.

15. Chính phủ, 2003. Nghị định về phát triển và quản lý chợ. Hà Nội, tháng

01 năm 2003.

16. Chính phủ, 2006. Nghị định về nhãn hàng hóa. Hà Nội, tháng 8 năm 2006.

17. Chính phủ, 2008. Nghị định quy định xử phạt hành chính các hành vi đầu

cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương

mại. Hà Nội, tháng 9 năm 2008.

18. Chính phủ, 2008. Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

hoạt động thương mại. Hà Nội, tháng 1 năm 2008.

19. Chính phủ, 2008. Nghị định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn

của Quản lý thị trường. Hà Nội, tháng 3 năm 2008.

20. Chính phủ, 2010. Nghị định Sửa đổi, bổ sung Điều 11 Nghị định số

06/2009/NĐ-CP ngày 22/01/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh rượu và thuốc lá. Hà Nội, tháng 7 năm 2010.

21. Chính phủ, 2011. Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giá. Hà Nội, tháng 9 năm 2011.

22. Chính phủ, 2011. Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về kinh

doanh xăng dầu. Hà Nội, tháng 11 năm 2011.

23. Chính phủ, 2011. Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về kinh

doanh khí dầu mỏ hóa lỏng. Hà Nội, tháng 11 năm 2011.

iii

24. Đoàn công tác Uỷ ban Kinh tế - Quốc hội: Thăm và làm việc tại Tây Ninh.

4326-83d2-11fceebc16ea&ID=2627&Web=914d7bf3-7db3-45a9-8171-

246d27cf1f24>. [Ngày truy cập: 18 tháng 5 năm 2013].

25. Doãn Kế Bôn và Nguyễn Thị Thương Huyền, 2009. Giáo trình Khoa học

hàng hóa. Học viện Tài chính.

26. Hà Thị Thanh Bình, 2012. Bảo hộ thương mại trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất

bản Chính trị Quốc gia.

27. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn

khoa học Mác – Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2011. Giáo trình Kinh tế học chính

trị Mác – Lênin. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

28. Hồng Hạnh, 2013. Gian nan bài toán chống thuốc lá nhập lậu. <

http://www.tapchicongthuong.vn/gian-nan-bai-toan-chong-thuoc-la-nhap-lau-

20130527042228507p12c16.htm>. [Ngày truy cập: 20 tháng 5 năm 2013].

29. Khánh Hòa. .

[Ngày truy cập: 3 tháng 3 năm 2013].

30. Lê Bảo Lâm và cộng sự, 2009. Kinh tế vi mô. Tái bản lần III. Đại học

Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

31. Nguyễn Hữu Hải và cộng sự, 2012. Giáo trình hành chính nhà nước. Hà

Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

32. Nguyễn Ngọc Dũng và cộng sự, 2011. Tài liệu dạy – học Địa lý địa

phương tỉnh Tây Ninh. Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam.

33. Nguyễn Triều Hoa vs Võ Phước Long, 2011. Giáo trình lý luận nhà nước

và pháp luật. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

34. Nguyễn Văn Thái, 2003. Chống buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt

Nam (2000 – 2002) thực trạng và giải pháp. Đề tài tốt nghiệp. Học viện Ngân

Hàng.

iv

35. Phan Nguyễn Minh Mẫn, 2006. Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra,

giám sát chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của Chi cục Quản lý thị trường

Tp.HCM. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

36. Quốc Hội, 1999. Bộ Luật hình sự. Hà Nội, tháng 12 năm 1999.

37. Quốc Hội, 2002. Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xử lý

vi phạm hành chính. Hà Nội, tháng 7 năm 2002.

38. Quốc hội, 2005. Luật Thương mại. Hà Nội, tháng 6 năm 2005.

39. Quốc Hội, 2008. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh xử

lý vi phạm hành chính. Hà Nội, tháng 4 năm 2008.

40. Quốc hội, 2012. Luật xử lý vi phạm hành chính. Hà Nội, tháng 6 năm

2012.

41. Sản xuất đường mía ở việt nam hiện tại và tương lai.

nam_hien_tai_va_tuong_lai.aspx>. [Ngày truy cập: 1 tháng 10 năm 2012].

42. Tạp chí Công nghiệp – Vụ Thương mại miền núi, 2010. Phát triển khu

kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Công Thương.

43. Thủ tướng Chính phủ, 1997. Chỉ thị về đấu tranh chống buôn lậu trong

tình hình mới. Hà Nội, tháng 10 năm 1997.

44. Thủ tướng Chính phủ, 2012. Công điện về việc tăng cường công tác chống

BL, GLTM và hàng giả. Hà Nội, tháng 8 năm 2012.

45. Tổng Cục thống kê, 2012. Niên giám thống kê. Hà Nội: Nhà xuất bản

Thống kê.

46. UBND tỉnh Tây Ninh, 2009. Quyết định về việc Ban hành Quy định, chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Chi cục Quản lý thị

trường trực thuộc Sở Công thương. Tây Ninh, tháng 4 năm 2009.

47. Văn phòng Chính phủ, 2002. Công điện. Hà Nội, tháng 02 năm 2002.

48. Xuất hiện nhiều hành vi gian lận thương mại mới. <

http://www.tapchitaichinh.vn/Utilities/PrintView.aspx?distributionid=6372>. [Ngày

truy cập: 18 tháng 12 năm 2012].

v

PHỤ LỤC 1: Địa bàn quản lý của các Đội QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh

STT TÊN ĐỘI ĐỊA BÀN QUẢN LÝ

Huyện Gò Dầu Đội QLTT số 1 1

Thị xã Tây Ninh Đội QLTT số 2 2

Huyện Hòa Thành Đội QLTT số 3 3

Đội cơ động Đội QLTT số 4 4

Huyện Tân Châu Đội QLTT số 5 5

Huyện Châu Thành Đội QLTT số 6 6

Huyện Tân Biên Đội QLTT số 7 7

Huyện Trảng Bàng Đội QLTT số 8 8

Đội QLTT số 9 Huyện Dương Minh Châu 9

Đội QLTT số 10 Huyện Bến Cầu 10

Trạm KSLH Mộc Bài 11 Tổ công tác QLTT tại Trạm KSLH Mộc Bài

vi

PHỤ LỤC 2: Các mặt hàng nhập lậu chủ yếu giai đoạn 2008 – 2012

STT Tên hàng hóa

2011 2009

Thuốc lá điếu ngoại Đơn vị tính Gói Năm 2008 2012 2010 96.678 67.441 96.410 97.831 63.605

Chai 1.674 498 1.021 1.008 262

Kg 5.348 22.681 6.270 1.450 3.783

Kg 1.350 743 1.940 580 96

Kg 4.353 2.798 1.842 1.487 1.475

Cái 158 1.445 804 1.618 315

1 2 Rượu ngoại 3 Đường cát Thái Lan 4 Gạo, nếp Thái Lan 5 Bột ngọt 6 Điện thoại và linh kiện điện thoại di động Phụ tùng xe Cái 7.010 3.531 3.137 1.310 1.545 7

Hàng hóa được mua gom từ khu Thương mại – công nghiệp Mộc Bài

Lon/chai 113.563 82.955 36.108 11.008 8.525

Lon/chai 7.704 13.227 9.712 7.529 8.219

Hộp/chai 6.855 9.057 3.163 4.967 7.787

Lít 12.599 507 88 - - 8 Bia các loại Sữa các loại 9 10 Mỹ phẩm các loại 11 Dầu ăn các loại

Nguồn: Báo cáo năm của Chi cục QLTT Tây Ninh

vii

PHỤ LỤC 3: Một số vụ điển hình

1. Theo tin báo của quần chúng và được sự đồng ý của Chi cục QLTT,

ngày 26/7/2008 Đội QLTT số 3 đã tiến hành kiểm tra xe ô tô tải biển số 70H-0054

tại DNTN Thanh Tuyền do ông Đặng Phước Hòa làm chủ doanh nghiệp, địa chỉ: số

39 đường Sân Cu, ấp Long Đại, xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây

Ninh, phát hiện trên xe ô tô đang vận chuyển số hàng hóa: 80 cây sắt vụn và một số

phụ tùng ô tô tải đã qua sử dụng gồm: 11 cái vỏ cầu; 11 cái bọc đít; 22 cái láp

ngang; 03 cây số và 01 cốt máy. Qua điều tra, xác minh làm rõ: toàn bộ lô hàng phụ

tùng ô tô đã qua sử dụng và sắt vụn nói trên có nguồn gốc nhập lậu, trị giá hàng hóa

do Hội đồng định giá tỉnh định là 70,5 triệu đồng. Chi cục đã ra quyết định xử phạt

hành chính đối với ông Hoàng Văn Thắng – Giám đốc công ty TNHH Hoàng Thắng

và ông Đặng Phước Hòa – chủ DNTN Thanh Tuyền, số tiền phạt là: 28 triệu đồng

và tịch thu toàn bộ lô hàng phụ tùng ô tô đã qua sử dụng và sắt vụn nói trên.

2. Được nguồn tin báo của cơ sở, trên xe ô tô hiệu Daewoo biển số 70H-

7642 vận chuyển hàng nhập lậu theo lộ trình đi từ huyện Bến Cầu đi thị xã Tây

Ninh – huyện Gò Dầu về Tp.HCM. Sau khi xác minh nguồn tin, vào lúc 17 giờ

ngày 18/6/2011 tại xã Gia Bình, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Tổ công tác

Trạm KSLH Mộc Bài được sự hỗ trợ của Tổ tuần tra kiểm soát giao thông Suối Sâu

thuộc phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh kiểm tra xe ô tô trên do ông

Nguyễn Hoàng Thủy, người điều khiển đồng thời là chủ xe, hiện đang cư ngụ tại

khu phố 1, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Qua kiểm tra phát hiện

trên xe có 04 cái túi màu đen, trong đó chứa 120 cái điện thoại di động không có

hóa đơn chứng từ gồm: 118 cái điện thoại di động hiệu Iphone model A1332 do Mỹ

sản xuất (05 cái điện thoại di động Iphone 4-32GB màu trắng, 65 cái điện thoại di

động Iphone 4-16GB màu trắng và 48 cái điện thoại di động Iphone 4-16GB màu

đen) và 02 cái điện thoại di động hiệu HTC Incredible do Đài Loan sản xuất. Qua

làm việc, ông Nguyễn Hoàng Thủy khai nhận: 120 cái điện thoại của một người phụ

nữ tên Vên ở Cambodia từ Bến Cầu đi Gò Chai về thị xã Tây Ninh, rồi đi tiếp đến

viii

Tp.HCM. Ngày 18/7/2011 bà Lây tiếp tục điện thoại cho ông Thủy kêu qua khu vực

Bàu Quách, Cambodia để chở thuê 10 cái điện thoại di động về Tp.HCM và ông

Thủy đã thực hiện bằng xe mô tô, Trạm KSLH Mộc Bài đã phát hiện và tiếp tục bắt

giữ. Tổng trị giá hàng hóa trên 1.725.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm hai mươi lăm

triệu đồng).

Xét đây là vụ việc vận chuyển điện thoại di động nhập lậu có giá trị lớn, tính

chất nghiêm trọng, Trạm KSLH Mộc Bài chuyển giao vụ việc cho cơ quan Công an

điều tra làm rõ xử lý theo pháp luật. Kết quả tòa tuyên án xử phạt ông Nguyễn

Hoàng Thủy: 05 năm tù; phạt bổ sung 5.000.000 đồng và tịch thu hàng hóa, tang vật

vi phạm gồm: 130 cái điện thoại di động, 01 xe ô tô, 01 xe mô tô và một số tang vật

khác có liên quan.