BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ----------------------------
VÕ PHÚ QUÝ
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRONG VIỆC ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị Mã số
: 60.31.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ ANH TUẤN
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
i
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Phần mở đầu ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 3
3. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 3
5. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 4
6. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 7
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 7
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vai trò của lực lượng quản lý thị
trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong
quá trình hội nhập ............................................................................................. 9
1.1. Công tác quản lý thị trường .................................................................... 9
1.1.1. Lịch sử ngành quản lý thị trường ...................................................... 9
1.1.2. Công tác quản lý thị trường trong quá trình hội nhập ...................... 12
1.2. Các khái niệm sử dụng trong đề tài ...................................................... 16
1.2.1. Khái niệm về buôn lậu và hàng hóa nhập lậu ................................... 16
1.2.2. Khái niệm về gian lận thương mại .................................................... 17
1.2.3. Vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống
buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập ........................... 20
ii
1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong
đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập…26
1.3.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến công tác Quản lý thị
trường.. ......................................................................................................... 26
1.3.2. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong
đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập ... 28
1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương về tăng cường vai trò của lực
lượng Quản lý thị trường ................................................................................ 31
1.4.1. Tỉnh Long An .................................................................................. 31
1.4.2. Tỉnh Đồng Nai ................................................................................. 32
1.4.3. Tỉnh Khánh Hòa............................................................................... 33
Kết luận chương 1 ..................................................................................... 35
Chương 2: Thực trạng đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại
của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá
trình hội nhập và những vấn đề đặt ra ........................................................... 36
2.1. Bối cảnh ảnh hưởng đến công tác quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh .......................................................................................................... 36
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của địa phương ................................................... 36
2.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội ................................................................. 37
2.2. Thực trạng công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của lực
lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ................................... 39
2.2.1. Đánh giá tình hình chung ................................................................. 39
2.2.2. Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh..40
2.2.3. Thuận lợi ......................................................................................... 45
2.2.4. Khó khăn ......................................................................................... 46
iii
2.2.5. Kết quả hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại............... 48
2.3. Đánh giá thực trạng ............................................................................... 55
2.3.1. Những mặt đạt được ......................................................................... 55
2.3.2. Những hạn chế ................................................................................. 56
2.4. Những vấn đề cần giải quyết ................................................................. 60
2.4.1. Những vấn đề mang tính khách quan ............................................... 60
2.4.2. Những vấn đề về cơ chế chính sách dành cho lực lượng Quản lý thị
trường ...................................................................................................... 61
2.4.3. Những vấn đề về hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động buôn lậu và
gian lận thương mại ................................................................................. 64
2.4.4. Cần tăng cường giáo dục nhằm nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật
của người dân........................................................................................... 65
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 66
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của lực lượng Quản lý
thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập ........................................... 67
3.1. Dự báo tình hình tác động đến công tác đấu tranh chống buôn lậu và
gian lận thương mại trong quá trình hội nhập .............................................. 67
3.2. Các chủ trương chính sách đối với công tác quản lý thị trường trong
quá trình hội nhập ........................................................................................... 68
3.3. Các giải pháp .......................................................................................... 70
3.3.1. Nhóm giải pháp hành chính.............................................................. 70
3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục . 81
3.3.3. Nhóm giải pháp kinh tế .................................................................... 85
Kết luận chương 3 ..................................................................................... 88
iv
Kết luận chung .......................................................................................... 89
Tài liệu tham khảo
Phụ lục 1
Phụ lục 2
Phụ lục 3
v
DANH MỤC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATVSTP An toàn vệ sinh thực phẩm
BCĐ 127 Ban chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại
CCT Chi cục trưởng
GLTM Gian lận thương mại
KSV Kiểm soát viên
KTKS Kiểm tra kiểm soát
QLTT Quản lý thị trường
SCT Sở Công Thương
Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
UBND Ủy ban nhân dân
VPHC Vi phạm hành chính
XHCN Xã hội chủ nghĩa
vi
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Hệ thống tổ chức lực lượng Quản lý thị trường ............................. 13
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả thực hiện công tác chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn
tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 2012 .......................................................... 51
Bảng 2.2: Các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 2012 ............... 54
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Kết quả đấu tranh chống buôn lậu giai đoạn 2008 – 2012 ....... 52
Biểu đồ 2.2: Kết quả đấu tranh chống GLTM giai đoạn 2008 – 2012 .......... 53
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 2012 ... 54
Biểu đồ 2.4: Số lượng thuốc lá điếu nhập lậu bị lực lượng QLTT Tây Ninh
tịch thu giai đoạn 2008 – 2012 .................................................................... 57
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Xuất phát từ đặc điểm của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Trong đó, các nước cần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở cửa thị
trường trong nước đối với hàng hóa nước ngoài, và từ đó người tiêu dùng sẽ có
nhiều sự lựa chọn hơn. Đây là một cơ hội cho tất cả các nước, tùy vào lợi thế so
sánh của từng nước. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều
thách thức như: thứ nhất, tồn tại sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế – xã hội
giữa các quốc gia, điều này tạo cho người tiêu dùng trong nước tâm lý “sính hàng
ngoại” vì họ cho rằng hàng hóa từ các nước phát triển hơn sẽ có chất lượng tốt hơn;
thứ hai, với tiềm lực to lớn, các tập đoàn đa quốc gia có thừa khả năng và kinh
nghiệm để tạo sức ép cạnh tranh không nhỏ lên các doanh nghiệp trong nước nhằm
chiếm lĩnh thị trường nội địa, nhất là đối với ngành hàng tiêu dùng và bán lẻ; và
cuối cùng là việc mở rộng quan hệ kinh tế sẽ tạo điều kiện cho hàng lậu có cơ hội
nhập khẩu – cả hợp pháp và không hợp pháp – vào nước ta. Vì vậy, vấn đề đặt ra là
cần tăng cường vai trò và năng lực của các lực lượng chức năng trong kiểm tra,
kiểm soát thị trường, nhất là lực lượng Quản lý thị trường.
- Xuất phát từ đặc điểm tình hình trong nước: thực hiện chủ trương phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước để đến năm 2020, Việt Nam về cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Với chủ trương trên, bên cạnh những
thành tựu đạt được thì đồng thời xuất hiện ngày càng nhiều các khuyết tật của kinh
tế thị trường, trong số đó, vấn đề giá cả hàng hóa tăng bất thường vào các dịp lễ do
có sự đầu cơ, găm hàng, tung tin đồn thất thiệt…của các thương nhân làm ăn phi
pháp; số lượng và chất lượng hàng hóa không đúng như kỳ vọng so với số tiền mà
người tiêu dùng thanh toán,…, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế trong quá trình hội
nhập. Vấn đề đặt ra là làm sao ngăn chặn được các hành vi trên; có chế tài đủ mạnh
2
để răn đe, giáo dục họ; lực lượng nào sẽ chịu trách nhiệm chính để đấu tranh với các
đối tượng trên và vai trò, năng lực của lực lượng này có đủ đáp ứng yêu cầu tình
hình hay không?
- Xuất phát từ đặc điểm, tình hình địa phương: Tây Ninh nằm trong
vùng Đông Nam bộ và Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với các địa
bàn sôi động trong phát triển kinh tế như: Tp.HCM, Bình Dương, Long An. Ngoài
ra, Tây Ninh còn có đường biên giới dài khoảng 240 km giáp với 03 tỉnh của
Vương quốc Cambodia [dẫn theo 32]. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển
thương mại vùng biên. Tuy nhiên, những điều kiện trên cũng đặt ra thách thức
không nhỏ cho Tây Ninh trong việc quản lý hoạt động thương mại trên địa bàn. Nổi
cộm là vấn đề: buôn bán, vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu, việc kinh
doanh các mặt hàng do nước ngoài sản xuất như: đường cát, rượu… được nhập lậu
qua các đường tiểu ngạch; các đối tượng lợi dụng chính sách miễn thuế nhằm thu
lợi bất chính thông qua việc mua gom và bán lại hàng hóa miễn thuế; xuất lậu xăng
dầu mỗi khi xăng lên giá… Với đặc thù về tình hình buôn lậu và GLTM ở địa
phương như trên thì các lực lượng chức năng được giao nhiệm vụ đấu tranh chống
buôn lậu và GLTM trên địa bàn đã làm tốt vai trò, nhiệm vụ được giao hay chưa?
Với bối cảnh trên, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta thì nhiệm vụ đặt ra đối với các cơ quan chức năng, các cấp, các ngành trong
cả nước nói chung và Tây Ninh nói riêng là cần tạo ra một sân chơi bình đẳng cho
các thành phần tham gia; đồng thời tăng cường vai trò của lực lượng chức năng,
nhất là lực lượng Quản lý thị trường, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý
nhà nước trong lĩnh vực thương mại đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và
bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, của những người sản xuất và kinh doanh chân
chính đảm bảo phát triển kinh tế trong nước; kiểm soát nguồn thu ngân sách. Vì
vậy, để đáp ứng các yêu cầu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tăng cường vai trò
của lực lượng quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian
lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập”.
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Góp phần làm rõ lý luận và nhận diện các biểu hiện của buôn lậu và
GLTM trong quá trình hội nhập. Phân tích đặc điểm, tính chất, quy luật hoạt động
và tác hại của chúng.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về lịch sử, vai
trò, chức năng và nhiệm vụ của lực lượng Quản lý thị trường trong giai đoạn hiện
nay. Từ đó góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận, đồng thời phân tích những yếu tố
tác động đến vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và
GLTM.
- Nêu ra đặc điểm tình hình của địa phương để phân tích thực trạng của
vấn đề buôn lậu và GLTM. Đồng thời phân tích vai trò của lực lượng QLTT trong
việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong giai đoạn
2008 – 2012.
- Đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại và tăng cường
vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: luận văn nghiên cứu công tác đấu tranh chống buôn lậu
và GLTM của lực lượng quản lý thị trường tỉnh Tây Ninh giai đoạn từ năm 2008
đến năm 2012 và đề xuất giải pháp cho những năm sắp tới.
- Về không gian: luận văn nghiên cứu công tác chống buôn lậu và
GLTM của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Do thực tiễn hoạt động buôn lậu và GLTM luôn biến đổi nên ta cần
xem xét, phân tích các vấn đề có liên quan bằng phương pháp biện chứng. Cụ thể
như sau:
4
+ Phân tích mối quan hệ và tác động qua lại giữa quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế và vai trò của lực lượng QLTT trong việc chống buôn lậu, GLTM.
Ví dụ: quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta có làm nảy sinh những thách
thức ảnh hưởng đến vai trò của lực lượng QLTT hay không?
+ Phân tích mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa vai trò của lực
lượng QLTT và các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Ví dụ: yếu tố con người ảnh hưởng
như thế nào đến vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và
GLTM? Khi thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thì
có tăng cường vai trò của lực lượng QLTT hay không?
- Sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp các số liệu thống kê, các
tài liệu liên quan đến vấn đề này để nêu lên và chỉ ra thực trạng của vấn đề, những
hạn chế, tồn tại cần khắc phục để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp khả thi cho
việc tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong những năm sắp tới. Phương pháp
này chủ yếu được sử dụng trong chương 2 (phần phân tích kết quả hoạt động và
đánh giá thực trạng nhằm chỉ ra những mặt đạt được và hạn chế trong quá trình thực
hiện công tác chống buôn lậu và GLTM của lực lượng QLTT trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh, từ đó nêu ra bức tranh tổng quát về vai trò của lực lượng QLTT…).
- Vì hiện nay chưa có các ấn phẩm về ngành QLTT nên để tìm hiểu,
phân tích về lịch sử, kinh nghiệm của một số địa phương trong việc tăng cường vai
trò của lực lượng QLTT trong công tác chuyên môn thì tác giả tham khảo ý kiến các
chuyên gia tham gia công tác và gắn bó lâu năm trong ngành QLTT.
5. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề buôn lậu và GLTM không phải là vấn đề mới, nó xuất hiện và tồn
tại cùng với kinh tế thị trường. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tiếp cận được các công trình
nghiên cứu sau:
- Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thái (2003) trong đề tài “Chống
buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam (2000 – 2002) thực trạng và giải pháp”
theo học viên, kết quả nghiên cứu này có những mặt đạt được và hạn chế như sau:
5
+ Nêu khái niệm về buôn lậu và tội danh buôn lậu, theo đó, tác giả nêu
khái quát lịch sử về tội danh buôn lậu và khái niệm tội danh buôn lậu theo Bộ luật
hình sự năm 1985. Tuy nhiên, thời điểm thực hiện nghiên cứu là năm 2003 nhưng
tác giả không đề cập khái niệm tội danh buôn lậu theo Bộ luật hình sự năm 1999.
+ Nêu lên khái niệm về GLTM và 16 hình thức GLTM theo công ước
Quốc tế tại Hội nghị các tổ chức hải quan quốc tế về chống GLTM được tổ chức từ
ngày 9/10/1995 đến ngày 13/10/1995. Từ đó, tác giả thực hiện phân tích sự khác
biệt và xem xét mối quan hệ giữa buôn lậu và GLTM, đồng thời đánh giá sự tác
động của chúng đối với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do lĩnh vực quản lý của
ngành Hải quan có điểm khác biệt so với ngành QLTT nên cần thực hiện nghiên
cứu để nêu lên khái niệm về GLTM theo cách nhìn, góc độ quản lý nhà nước của
ngành QLTT.
+ Tác giả đã thực hiện tham khảo kinh nghiệm chống buôn lậu và
GLTM ở một số quốc gia trên thế giới như Mỹ, Nga và Trung Quốc. Theo học viên,
việc tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên là không phù hợp với đặc điểm
của Việt Nam vì các quốc gia này có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn
Việt Nam, quy mô thị trường và tập quán kinh doanh khác với nước ta.
+ Tác giả thực hiện phân tích thực trạng tình hình buôn lậu và GLTM ở
Việt Nam giai đoạn 2000 – 2002, về không gian là các địa phương có tình hình
buôn lậu diễn biến phức tạp, nhất là các tỉnh vùng biên như: Lạng Sơn; Cao Bằng;
Lào Cai; Hà Tỉnh; Tây Ninh…Đồng thời nêu lên những kết quả đạt được và những
hạn chế, tồn tại trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM của các lực lượng chức
năng. Dựa vào kết quả phân tích thực trạng như trên, tác giả đề xuất 10 giải pháp
chống buôn lậu và GLTM ở Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, tác giả chưa
thể hiện rõ vai trò của các lực lượng chức năng trong công tác đấu tranh chống buôn
lậu và GLTM. Ngoài ra, thời điểm nghiên cứu của tác giả là trước khi Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đó là thời điểm nền kinh tế nước ta
chưa hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Vì vậy, tình hình buôn lậu và GLTM
6
trong thời điểm hiện tại có nhiều thay đổi nên đòi hỏi phải có các nghiên cứu nhằm
bổ sung nền tảng lý luận về vấn đề buôn lậu và GLTM.
- Kết quả nghiên cứu của Phan Nguyễn Minh Mẫn (2006) trong Luận
văn thạc sĩ kinh tế có tên là: “Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát chống
buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của Chi cục Quản lý thị trường Tp.HCM”. Theo học
viên, nghiên cứu này đã đạt được một số kết quả tích cực sau:
+ Tác giả tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan như: khái niệm và
đặc điểm hàng hóa nhập khẩu; tác động của hoạt động xuất nhập khẩu đối với kinh
tế – xã hội nước ta; các hình thức buôn lậu hàng hóa nhập khẩu ở nước ta; nêu lên
nhiệm vụ, vai trò chủ công trong KTKS thị trường nội địa và các đặc điểm liên quan
đến lực lượng QLTT. Tuy nhiên, trong phần nghiên cứu về hàng hóa nhập khẩu, tác
giả chưa nêu ra được các khái niệm liên quan đến buôn lậu hàng hóa nhập khẩu.
+ Phân tích thực trạng hoạt động kiểm tra, giám sát chống buôn lậu
hàng hóa nhập khẩu của Chi cục QLTT Tp.HCM giai đoạn 2003 – 2005 từ đó đánh
giá những mặt đạt được và những tồn tại, hạn chế cần khắc phục làm căn cứ cho
việc đề ra các giải pháp khả thi. Tác giả nêu lên vai trò chủ công trong kiểm tra,
kiểm soát thị trường nội địa của lực lượng Quản lý thị trường, nhất là trong đấu
tranh chống buôn lậu. Tuy nhiên, theo dự báo thì việc Việt Nam thực hiện đầy đủ
các cam kết khi gia nhập WTO sẽ có tác động rất lớn vào tình hình buôn lậu và
GLTM. Và do những khác biệt cơ bản về đặc điểm tự nhiên, đặc điểm kinh tế – xã
hội giữa Tây Ninh và Tp.HCM nên cần tiến hành nghiên cứu diễn biến tình hình
buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh để bổ sung, hoàn thiện lý luận về vai
trò của lực lượng QLTT trong quá trình hội nhập. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm
đảm bảo lực lượng Quản lý thị trường đáp ứng được yêu cầu chống buôn lậu và
GLTM trong giai đoạn hiện nay và những năm sắp tới.
Tóm lại, việc nghiên cứu về hoạt động của lực lượng QLTT và công tác
chống buôn lậu và GLTM đã được một số tác giả nghiên cứu trước đây. Nhưng để
đáp ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập; đồng thời với những đặc điểm rất riêng
về địa lý, về kinh tế – xã hội của tỉnh Tây Ninh thì cần phải tiến hành nghiên cứu để
7
nâng cao vai trò của lực lượng QLTT trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Những đóng góp của luận văn
Vì đây là lĩnh vực chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều nên tác giả hy vọng
kết quả nghiên cứu sẽ giải quyết được các vấn đề sau:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống về lịch sử, về hoạt động và vai trò
của ngành QLTT đối với nền kinh tế nói chung, đối với việc đấu tranh chống buôn
lậu và GLTM nói riêng. Theo đó, giúp cho các cơ quan quản lý đề ra các chủ
trương, chính sách phát triển phù hợp đối với ngành QLTT.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về vấn đề buôn lậu và
GLTM trong quá trình hội nhập, kết hợp với việc phân tích vấn đề trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh để từ đó chỉ ra tác hại của chúng và phân tích đặc điểm của từng loại để
áp dụng các biện pháp quản lý nhà nước cho phù hợp.
- Qua phân tích vai trò của lực lượng QLTT trong việc chống buôn lậu
và GLTM trong quá trình hội nhập, tác giả nêu ra những thành tựu đạt được trong
thời gian qua. Đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến vai trò của lực
lượng QLTT để từ đó đề xuất các giải pháp thực hiện có tính khả thi nhằm tăng
cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM
trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm:
- Phần mở đầu.
- Ba chương nội dung:
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vai trò của lực lượng
Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại
trong quá trình hội nhập.
+ Chương 2: Thực trạng đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương
mại của lực lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội
nhập và những vấn đề đặt ra.
8
+ Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của lực lượng
Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.
- Phần kết luận.
9
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LỰC
LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRONG VIỆC ĐẤU TRANH
CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP
1.1. Công tác quản lý thị trường
1.1.1. Lịch sử ngành quản lý thị trường
Có thể khẳng định: việc hình thành và phát triển của lực lượng QLTT các
cấp gắn với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Cụ
thể:
1.1.1.1. Giai đoạn 1957 – 1975
Sau năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta
kết thúc thắng lợi, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng nước nhà. Tuy nhiên, do
âm mưu của kẻ thù nên sau Hiệp định Geneve (1954), đất nước ta bị chia cắt thành
hai miền Nam – Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Vì vậy, các hoạt động kinh tế –
xã hội nhằm xây dựng CNXH đều diễn ra ở miền Bắc. Tuy đã đạt được những
thành tựu đáng khích lệ, nhưng quá trình này cũng gặp không ít khó khăn, nhất là
trong các khâu sản xuất, tiêu dùng và phân phối sản phẩm kinh tế do phần lớn cơ sở
hạ tầng đã bị chiến tranh phá hủy. Bên cạnh đó là việc các phần tử xấu lợi dụng tình
hình nhằm gây kích động về chính trị và gây rối thị trường, chúng thực hiện các
hành vi vơ vét, tích trữ hàng hóa nhằm tạo ra sự khan hiếm để nâng giá gây thiệt hại
cho người tiêu dùng và cho nền kinh tế quốc dân.
Trước tình hình đó, bên cạnh việc thực hiện cải tạo công – thương
nghiệp tư bản tư doanh và thực hiện chế độ phân phối hàng hóa cho phù hợp với
yêu cầu thực tiễn thì việc kiểm soát thị trường hàng hóa nhằm ổn định tình hình
kinh tế, đảm bảo cho việc hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội ở tầm vĩ mô, là
10
một yêu cầu cấp thiết. Để đáp ứng yêu cầu trên, ngày 03/7/1957 Thủ tướng Chính
phủ ký Nghị định thành lập Ban QLTT Trung ương và các Ban QLTT ở các tỉnh,
thành phố, khu tự trị, chức vụ trưởng Ban do cụ Bùi Công Trừng – Chủ nhiệm Văn
phòng Tài chính, Thương nghiệp Thủ tướng phủ – đảm nhiệm.
Nhiệm vụ chính của Ban QLTT Trung ương là giúp Chính phủ nghiên
cứu chủ trương, chính sách QLTT, chống đầu cơ, tích trữ, đảm bảo các nhu yếu
phẩm được phân phối đến tận tay các đối tượng được Nhà nước cung cấp; đồng thời
chỉ đạo việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó trong phạm vi toàn miền Bắc.
1.1.1.2. Giai đoạn 1975 – 1986
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ toàn thắng, cả nước ta cùng chung
tay xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp cùng với hậu quả
nặng nề của chiến tranh và sự cấm vận của đế quốc Mỹ nên tình hình kinh tế – xã
hội của nước ta thời điểm này là vô cùng khó khăn, thị trường hàng hóa khan hiếm,
bắt đầu xuất hiện các hoạt động buôn lậu và GLTM với quy mô nhỏ.
Trước yêu cầu mới của tình hình cách mạng, việc kiện toàn bộ máy tổ
chức của lực lượng QLTT là cần thiết nhằm tạo sự ổn định thị trường trong nước,
tạo đà cho việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế – xã hội khác. Vì vậy,
ngày 16/7/1982 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (HĐBT) ký Quyết định số 190/CP
thành lập Ban Chỉ đạo QLTT Trung ương trực thuộc HĐBT, chức vụ trưởng Ban do
đồng chí Bộ trưởng Bộ Nội thương phụ trách. Đồng thời, để có tổ chức trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ KTKS thị trường, ngày 02/10/1985 HĐBT ban hành Nghị quyết
số 249 quyết định thành lập Đội QLTT trực thuộc Ban Chỉ đạo QLTT cấp tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương và cấp huyện, thị xã đánh dấu việc hình
thành tổ chức chuyên trách kiểm tra.
1.1.1.3. Giai đoạn 1986 – 1995
Thực hiện đường lối “Đổi mới” theo Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng, kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc: sản xuất
phát triển; lưu thông hàng hóa được mở rộng; đời sống nhân dân được cải thiện.
Bên cạnh đó, tình trạng buôn lậu qua biên giới, trốn thuế và đặc biệt là buôn lậu
11
đường biển thông qua các tàu viễn dương xuất hiện và gia tăng đáng báo động.
Trước tình hình đó, tháng 8/1990, Chủ tịch HĐBT quyết định thành lập Ban công
tác đặc nhiệm phía Nam và Ban công tác đặc nhiệm phía Bắc, hai Ban công tác này
được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch HĐBT, nhằm đáp ứng yêu cầu trong
công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Tuy nhiên, hai Ban công tác đặc
nhiệm này không thay thế Ban chỉ đạo QLTT Trung ương và không làm nhiệm vụ
tổ chức thực hiện các chủ trương, biện pháp đấu tranh chống buôn lậu của các
ngành, các cấp mà có các Đội kiểm tra đặc biệt liên ngành hoạt động tại một số địa
bàn trọng điểm để KTKS nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các vụ buôn lậu.
Như vậy, để thực hiện việc KTKS thị trường chống buôn lậu và GLTM thì ngoài sự
tham gia của các cấp, các ngành, riêng ngành QLTT có ba đơn vị đều trực thuộc
HĐBT tham gia chỉ đạo và thực hiện trong cả nước; điều đó cho thấy sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM, tuy nhiên,
việc một ngành mà có tới ba tổ chức trực thuộc HĐBT là điều bất hợp lý, ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu tình hình mới, đồng thời
thống nhất chỉ đạo công tác QLTT, chống đầu cơ, buôn lậu, sản xuất và buôn bán
hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép khác, ngày 06/12/1991 Hội đồng Bộ
trưởng ra Nghị định số 398/ HĐBT về thành lập Ban chỉ đạo QLTT Trung ương
trên cơ sở hợp nhất Ban công tác đặc nhiệm phía Nam và phía Bắc với Ban chỉ đạo
QLTT Trung ương. Ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập Ban chỉ
đạo QLTT tỉnh, thành phố trên cơ sở hợp nhất tiểu Ban đặc nhiệm chống buôn lậu
và Ban chỉ đạo QLTT dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố.
1.1.1.4. Giai đoạn từ 1995 đến nay
Với việc Mỹ bãi bỏ cấm vận nước ta và Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN) thì vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã được nâng lên một cách rõ rệt, quan hệ
kinh tế đối ngoại được khai thông và mở rộng; bên cạnh đó, kinh tế trong nước đi
vào ổn định và có những bước phát triển mới. Vì vậy, công tác QLTT nhằm chống
đầu cơ, buôn lậu, sản xuất, buôn bán hàng giả và các hành vi kinh doanh trái phép
12
khác đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi Chính phủ phải tổ chức lại công tác chỉ đạo
QLTT theo hướng xây dựng lực lượng vừa hiện đại vừa chính quy, không là lực
lượng kiêm nhiệm, liên ngành nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập. Ngày 25/4/1994,
Chính phủ ban hành Nghị định số 35/CP giao Bộ Thương mại thống nhất chỉ đạo
công tác QLTT trong cả nước, tổ chức phối hợp giữa các ngành, các địa phương
trong việc chống đầu cơ, buôn lậu, sản xuất và buôn bán hàng giả và các hành vi
kinh doanh trái phép khác. Tiếp theo, ngày 23/01/1995, Chính phủ ban hành Nghị
định số 10/CP quy định về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quản lý
thị trường. Đồng thời, Bộ Chính trị Trung ương Đảng có Nghị quyết số 12/NQ-TW
ngày 03/5/1996 về Thương nghiệp, Nghị quyết có định hướng xây dựng lực lượng
QLTT theo yêu cầu chính quy và tổ chức chặt chẽ [8].
1.1.2. Công tác quản lý thị trường trong quá trình hội nhập
Cơ sở pháp lý cho việc hình thành hệ thống tổ chức, xác định chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng QLTT trong quá trình hội nhập là Nghị định
số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ và Nghị định số 27/2008/NĐ-CP ngày
13/3/2008 của Chính phủ quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ.
1.1.2.1. Về tổ chức
Cấp Trung ương: Cục QLTT trực thuộc Bộ Thương mại (nay là Bộ
Công Thương) trên cơ sở sáp nhập bộ máy chuyên trách của Ban Chỉ đạo QLTT
trung ương chuyển giao về Bộ Thương mại và Vụ quản lý thị trường thuộc Bộ
Thương mại. Cục QLTT do Cục trưởng phụ trách, có một số Phó cục trưởng giúp
việc; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Cục trưởng, Phó cục trưởng do Bộ trưởng Bộ
Công Thương quyết định.
Cấp tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương: Chi cục QLTT trực thuộc
Sở Thương mại – Du lịch (nay là Sở Công Thương) trên cơ sở tổ chức lại bộ máy
chuyên trách của Ban Chỉ đạo QLTT tỉnh. Chi cục QLTT do CCT (chức danh Phó
Giám đốc Sở) phụ trách, có một số Phó CCT giúp việc; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm
13
CCT do Chủ tịch UBND tỉnh quyết định; việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Phó CCT do
Giám đốc Sở Công Thương quyết định sau khi thỏa thuận với Giám đốc Sở Nội vụ
tỉnh.
Cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp
huyện) theo yêu cầu cụ thể trên từng địa bàn, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định việc
thành lập các Đội QLTT trực thuộc Chi cục QLTT hoạt động trên địa bàn huyện
hoặc liên huyện, trên cơ sở tổ chức lại các Đội kiểm tra thị trường hiện có ở địa
phương. Tên Đội QLTT thống nhất đặt theo số hiệu 1,2,3…để đảm bảo hoạt động
trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố, Đội được phân công kiểm tra trên địa bàn cụ thể
huyện hoặc liên huyện. Ngoài hình thức tổ chức Đội theo địa bàn, có thể tổ chức
Đội theo tính chất nghiệp vụ hoặc cơ động (không theo địa bàn). Trong mỗi Đội
được tổ chức thành nhiều Tổ công tác, mỗi tổ có từ 03 người trở lên. Đội QLTT do
Đội trưởng phụ trách, có một số Phó Đội trưởng giúp việc; việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm Đội trưởng, Phó Đội trưởng do Giám đốc Sở Công Thương quyết định.
SƠ ĐỒ 1: HỆ THỐNG TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG
1.1.2.2. Về chức năng, nhiệm vụ
Về chức năng
14
Cục QLTT: là cơ quan tham mưu chỉ đạo và tổ chức thực hiện, giúp
Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác
KTKS thị trường, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại ở
thị trường trong nước; thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thương mại.
Chi cục QLTT: là cơ quan triển khai thực hiện, giúp Giám đốc Sở
Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tổ chức việc thực hiện
nhiệm vụ KTKS thị trường, đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật về
thương mại trên địa bàn tỉnh/thành phố; thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành thương mại theo quy định.
Đội QLTT: là đơn vị trực tiếp thực thi nhiệm vụ KTKS thị trường;
đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả và GLTM trên địa bàn được
phân công; thực hiện chức năng kiểm tra của Thanh tra chuyên ngành thương mại.
Về nhiệm vụ
Cục QLTT
+ Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về công tác kiểm
tra, chế độ và điều kiện làm việc đối với lực lượng QLTT.
+ Kiểm tra việc thi hành pháp luật và các chính sách, chế độ, thể
lệ trong hoạt động thương mại trên thị trường. Đề xuất với Bộ trưởng Bộ
Công Thương những chủ trương, biện pháp cần thiết để thực hiện đúng pháp
luật về các chính sách, chế độ.
+ Tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác KTKS thị trường và xử
phạt VPHC theo thẩm quyền các vụ việc trong hoạt động thương mại.
+ Hướng dẫn, tổ chức triển khai hoạt động kiểm tra và đảm bảo
một số điều kiện cần thiết cho hoạt động kiểm tra như: cấp thẻ kiểm tra thị
trường, ấn chỉ, tổ chức may trang phục đồng phục…
+ Kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong hoạt động kiểm tra và
theo dõi, chỉ đạo việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của các đối tượng kinh
doanh về hoạt động kiểm tra.
15
+ Thường trực giúp việc cho BCĐ 127 Trung ương về chủ trì tổ
chức sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước và các lực lượng có
chức năng KTKS.
Chi cục QLTT
+ Xây dựng chương trình, kế hoạch, phương án kiểm tra cụ thể
trên địa bàn.
+ Chỉ đạo các Đội QLTT thực hiện nhiệm vụ kiểm tra.
+ Tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật; kiến nghị đảm bảo
việc thi hành và ngăn ngừa các vi phạm pháp luật thương mại.
+ Thường trực giúp việc cho BCĐ 127 tỉnh/thành phố về chủ trì
tổ chức sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước và các lực lượng
có chức năng KTKS trên địa bàn tỉnh/thành phố.
+ Kiểm tra hoạt động của các Đội QLTT, KSV thị trường và giải
quyết các khiếu nại tố cáo về hoạt động kiểm tra.
Đội QLTT
+ Phát hiện, kiểm tra, áp dụng các biện pháp ngăn chặn VPHC và
xử lý các VPHC theo thẩm quyền.
+ Phối hợp với các cơ quan hữu quan và các lực lượng chức năng
trên địa bàn để kiểm tra.
+ Đề xuất các biện pháp quản lý và ngăn ngừa các vi phạm pháp
luật thương mại trên địa bàn hoặc lĩnh vực được phân công; phát hiện những
bất cập về chính sách, pháp luật cần được sửa đổi, bổ sung.
Về quyền hạn
Được quyền yêu cầu các tổ chức, cá nhân kinh doanh thương mại
cung cấp tình hình, số liệu, chứng cứ và trả lời những vấn đề cần thiết liên quan trực
tiếp đến việc kiểm tra; được quyền kiểm tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp
luật thương mại tại hiện trường nơi sản xuất, cất giấu hàng hóa, tang vật, phương
tiện vi phạm, sổ sách, chứng từ, hóa đơn, hợp đồng và các giấy tờ có liên quan
khác.
16
Được quan hệ với các tổ chức, cá nhân có liên quan để xác minh thu
thập tình hình, số liệu, chứng cứ phục vụ công tác kiểm tra.
Lập biên bản kiểm tra và kiến nghị các biện pháp giải quyết.
Được áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xử phạt VPHC theo thẩm
quyền và theo các quy định của pháp luật.
1.2. Các khái niệm sử dụng trong đề tài
1.2.4. Khái niệm về buôn lậu và hàng hóa nhập lậu
Khái niệm về hàng hóa nhập lậu: khoản 7 điều 3 Nghị định số
06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 của Chính phủ định nghĩa hàng hóa nhập lậu là
hàng hóa có các đặc điểm như sau:
+ Hàng hóa cấm nhập khẩu hoặc tạm ngừng nhập khẩu theo quy
định.
+ Hàng hóa nhập khẩu có điều kiện hoặc phải có giấy phép mà
không có giấy tờ hoặc giấy phép của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành cấp kèm theo hàng hóa.
+ Hàng hóa nhập khẩu không đi qua cửa khẩu quy định, không
làm thủ tục hải quan theo quy định hoặc gian lận số lượng, chủng loại hàng
hóa khi làm thủ tục hải quan.
+ Hàng hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường không có hoá
đơn, chứng từ kèm theo theo quy định hoặc có nhưng không đủ hoá đơn,
chứng từ hoặc có hoá đơn, chứng từ nhưng qua điều tra, xác minh của cơ
quan chức năng xác định là hoá đơn, chứng từ không hợp pháp như hoá đơn
giả, hoá đơn lập khống, hoá đơn mua bán bất hợp pháp, hoá đơn đã qua sử
dụng.
+ Hàng hóa nhập khẩu quy định phải dán tem hàng nhập khẩu
nhưng không có tem dán vào hàng hóa theo quy định hoặc có tem dán nhưng
là tem giả, tem đã qua sử dụng.
17
Khái niệm về buôn lậu: hành vi buôn lậu; buôn bán, vận chuyển trái
phép hàng hóa qua biên giới được quy định tại Điều 153, 154 và 155 của Bộ Luật
hình sự năm 1999 và trong các Nghị định về xử phạt VPHC.
+ Buôn lậu là các hành vi vận chuyển, buôn bán trái phép qua
biên giới những hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu theo quy định của
Nhà nước như: vũ khí; chất nổ; ngoại tệ; cổ vật; đồ chơi kích động bạo lực;
văn hóa phẩm độc hại…
+ Buôn lậu là các hành vi trốn tránh sự KTKS của các cơ quan
quản lý Nhà nước hoặc dùng các thủ đoạn gian dối để che mắt các cơ quan
này để vận chuyển hàng cấm; trốn, lậu thuế đối với việc buôn bán, vận
chuyển hàng hóa qua biên giới.
+ Ngoài ra, buôn lậu còn là hành vi buôn bán hàng hóa nhập lậu,
gồm các hành vi như: vận chuyển, tàng trữ, chứa chấp, buôn bán hàng hóa
nhập lậu trên thị trường nội địa, trốn tránh sự KTKS của các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
1.2.5. Khái niệm về gian lận thương mại
Khái niệm về hoạt động thương mại: theo khoản 1 điều 3 Luật
Thương mại năm 2005 thì “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh
lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
GLTM được hiểu là những hành vi dối trá, mánh khóe, lừa lọc trong
hoạt động thương mại và dịch vụ. Theo Bộ Luật hình sự năm 1999 tại điều 162 quy
định tội lừa dối khách hàng là việc mua, bán mà cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh
tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho
khách hàng.
Theo công ước Quốc tế tại Hội nghị các tổ chức hải quan quốc tế về
chống GLTM được tổ chức từ ngày 9 đến ngày 13/10/1995 ở Brussel (Vương quốc
Bỉ) đã thống nhất phân chia các hình thức GLTM thành 16 loại [34, tr.8-9]:
18
+ Buôn bán hàng cấm qua biên giới hoặc ra khỏi sự kiểm soát
của hải quan.
+ Khai báo sai chủng loại hàng hóa.
+ Khai tăng, giảm giá trị hàng hóa.
+ Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ hàng hóa.
+ Lợi dụng chế độ ưu đãi đối với hàng gia công.
+ Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập.
+ Lợi dụng các yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu.
+ Lợi dụng chế độ quá cảnh đem dùng trong nước.
+ Khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hóa.
+ Lợi dụng chế độ, mục đích sử dụng, buôn bán trái phép hàng
hóa được ưu đãi về thuế nhập khẩu cho những đối tượng sử dụng nhất định.
+ Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ
người tiêu dùng.
+ Buôn bán hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã.
+ Buôn bán hàng không có sổ sách.
+ Làm giả, làm khống việc hoàn hay truy hoàn thuế hải quan.
+ Kinh doanh “ma” để hưởng tín dụng thuế trái phép.
+ Thanh lý, phá sản có chủ đích để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế
như: công ty đăng ký kinh doanh một thời gian ngắn, nợ thuế rồi tuyên bố
phá sản,…
Với các khái niệm trên thì về cơ bản, buôn lậu và GLTM có những
đặc điểm tương đồng với nhau, đây đều là việc thực hiện những hành vi gian dối,
trái với quy định của pháp luật và né tránh sự KTKS của lực lượng chức năng với
mục đích thu được lợi nhuận cao, móc túi người tiêu dùng thông qua việc trốn lậu
thuế hoặc chiếm đoạt lợi nhuận bất hợp pháp.
Trong lĩnh vực quản lý Nhà nước thì khái niệm GLTM được hiểu là
các hành vi vi phạm về kê khai giá, đăng ký giá, niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ;
gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa và chất lượng hàng hóa, dịch vụ [17]. Và
19
theo Thông tư số 11/2009/TT-BCT ngày 20/5/2009 của Bộ Công Thương, tại khoản
1 điều 11 mục II định nghĩa các hành vi trên như sau:
+
Hành vi vi phạm về kê khai giá, đăng ký giá, niêm yết giá hàng
hóa, dịch vụ gồm các hành vi sau: không niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ,
ngoại tệ, vàng; niêm yết giá không đúng quy định, không rõ ràng gây nhầm
lẫn cho khách hàng; bán hàng, thu phí dịch vụ cao hơn giá niêm yết; niêm
yết giá hàng hoá dịch vụ bằng ngoại tệ hoặc thu tiền bán hàng hoá dịch vụ
bằng ngoại tệ mà không được phép.
+ Hành vi gian lận về đo lường, đóng gói hàng hóa là gian lận
trong việc thực hiện các phép đo, phương pháp đo trong cân, đong, đo, đếm
hàng hóa (lượng hàng thiếu so với lượng ghi trên bao bì) làm thiếu hàng mà
người mua vẫn phải trả tiền theo giá đủ hàng, gây thiệt hại cho khách hàng.
+ Hành vi gian lận về chất lượng hàng hóa, dịch vụ là hành vi sản
xuất, chế biến, sang chiết, nạp, đóng gói, kinh doanh hàng hóa mà chất lượng
hàng hóa không đúng với công bố chất lượng hoặc ghi trên nhãn hàng hóa
gây thiệt hại cho khách hàng.
Trong nghiên cứu này, tác giả tiếp cận khái niệm GLTM theo hướng:
GLTM là những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại của
thương nhân trực tiếp kinh doanh hàng hóa nhưng không phải là hành vi buôn
lậu; kinh doanh hàng giả, hàng hóa vi phạm sở hữu trí tuệ; và các vi phạm
trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Tác giả căn cứ vào chủ thể thực hiện
hành vi vi phạm hoặc tính chất của hành vi để nêu lên khái niệm trên. Trước hết,
cần khẳng định lại, GLTM là những hành vi dối trá, mánh khóe, lừa lọc trong hoạt
động thương mại, đây là những hành động xuất phát từ thương nhân trực tiếp kinh
doanh hàng hóa mà không phải là do sự tác động của các yếu tố kinh tế – xã hội hay
các yếu tố bên ngoài khác. Đối với hành vi buôn lậu, tuy đây cũng là một hành vi vi
phạm pháp luật trong hoạt động thương mại nhưng chủ thể thực hiện hành vi không
chỉ là thương nhân trực tiếp kinh doanh hàng hóa nhập lậu, mà có sự câu kết, “phân
công” của rất nhiều đối tượng; bên cạnh đó, xét về tính chất thì nguyên nhân và tác
20
động của nó là do các yếu tố kinh tế – xã hội như: tồn tại hàng rào thuế quan; tâm lý
sính hàng ngoại của người tiêu dùng… Đối với hành vi kinh doanh hàng giả, hàng
kém chất lượng và hàng hóa vi phạm sở hữu trí tuệ thì đây là những hành vi mà lỗi
không phải do thương nhân trực tiếp kinh doanh hàng hóa gây ra, họ là “nạn nhân”
vì không biết và không có đủ kiến thức, phương tiện để tránh bị nhà sản xuất lừa
dối. Như vậy, có thể liệt kê một số hành vi GLTM như sau: hành vi không đăng ký
kinh doanh và các thủ tục kinh doanh khác nhằm qua mặt các cơ quan quản lý nhà
nước, không thực hiện các nghĩa vụ khi kinh doanh; các hành vi kinh doanh phạm
pháp nhằm lừa dối người tiêu dùng, thu lợi bất chính như không niêm yết giá bán
hàng hóa, sử dụng phương tiện đo không kiểm định, kinh doanh hàng quá hạn sử
dụng…
1.2.6. Vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống
buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập
1.2.3.1. Tính chất, đặc điểm của buôn lậu và gian lận thương mại trong quá
trình hội nhập
Với các định nghĩa về buôn lậu và GLTM như trên, cùng với thực tiễn đang
diễn ra của hoạt động này thì ta có thể khái quát những tính chất, đặc điểm của
chúng trong thời kỳ hội nhập như sau:
Là các hành vi gian dối, qua mặt cơ quan quản lý nhà nước và người
tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận bất chính. Cụ thể:
+ Chất lượng và số lượng hàng hóa không đúng so với kỳ vọng
của khách hàng. Vì hàng hóa nhập lậu là hàng hóa chưa qua kiểm định của
cơ quan chức năng và không có thương nhân chịu trách nhiệm đối với hàng
hóa đó.
+ Để ngăn chặn buôn lậu và GLTM trên thị trường nội địa cần
tập trung vào các vấn đề chính liên quan đến chế độ hóa đơn, chứng từ chứng
minh nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa; liên quan đến chế độ ghi nhãn hàng
21
hóa nhằm kiểm soát các đối tượng chịu trách nhiệm về sản phẩm, tiêu chuẩn
áp dụng và các thông tin khác liên quan đến sản phẩm.
Hoạt động có tính quy luật: thường diễn ra vào ban đêm, ngoài giờ,
ngày nghỉ (Lễ, Tết, chủ nhật…) khi lực lượng kiểm tra nghỉ; thường rộ lên vào các
dịp Lễ, Tết; có tính mùa vụ khi có nhu cầu tiêu thụ tăng; nhằm vào các mặt hàng có
tỷ suất thuế cao...
Ngày nay, các đối tượng buôn lậu và GLTM tận dụng triệt để những
thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, nhất là những thành tựu trong lĩnh vực điện
tử và công nghệ thông tin. Ví dụ: với những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ thông
tin thì bọn buôn lậu có thể nhanh chóng thông báo với nhau về tình hình hoạt động
của lực lượng chức năng, để từ đó tìm cách đối phó.
Hoạt động có tổ chức chặt chẽ với một không gian hoạt động rộng
lớn. Về buôn lậu, đó là sự hoạt động của những đường dây buôn lậu xuyên quốc gia
và được tổ chức rất chặt chẽ, chúng gồm: những tên đầu sỏ, cầm đầu hay còn gọi là
đầu nậu; những người mang thuê, vác mướn hay còn gọi là cửu vạn; những kẻ được
thuê theo dõi lực lượng kiểm tra, trang bị hiện đại để đối phó với các cơ quan chức
năng và những đối tượng kinh doanh hàng hóa nhập lậu. Về GLTM, đó là sự cấu
kết với nhau của những đối tượng làm ăn bất chính nhằm thu lợi từ các thủ đoạn
GLTM, nhất là trong các mùa lễ hội hoặc đối với những hàng hóa có tính chất mùa
vụ.
Đây là những hoạt động phi pháp, khi bị phát hiện, các đối tượng này
luôn tìm cách quanh co chối cải hoặc chống đối quyết liệt, sử dụng mọi thủ đoạn
tinh vi phức tạp và không từ thủ đoạn nào để đối phó với các lực lượng chức năng.
Buôn lậu, GLTM và tham nhũng gắn bó mật thiết với nhau, các đối
tượng buôn lậu và GLTM có sự móc nối với các phần tử tha hóa, biến chất trong các
cơ quan Nhà nước và cơ quan kiểm tra thực hiện các hành vi phạm pháp với
phương châm “đôi bên cùng có lợi”.
Các đối tượng buôn lậu và GLTM luôn tìm cách khai thác triệt để kẽ
hở của chính sách, pháp luật, chủ trương khuyến khích phát triển kinh tế của từng
22
khu vực, khai thác triệt để các yếu tố về điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội... Trong
điều kiện kinh tế thị trường và thời đại công nghệ thông tin như hiện nay thì những
vấn đề trên được giải quyết rất nhanh chóng và chính xác.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện
nay thì hoạt động buôn lậu và GLTM cũng đang dần được “quốc tế hóa”. Đó là sự
bắt tay giữa các đối tượng buôn lậu và GLTM giữa các nước với nhau, từ đó, chúng
tạo ra hệ thống chân rết nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động, giảm thiểu rủi ro.
1.2.3.2. Tác hại của buôn lậu và gian lận thương mại
Buôn lậu và GLTM là mặt trái, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.
Một số đối tượng do mong muốn tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch, mong muốn làm
giàu nhanh chóng nên đã đi vào con đường làm ăn phi pháp, lừa dối người tiêu dùng
và các cơ quan quản lý nhà nước: “…quá trình theo đuổi lợi nhuận mù quáng cũng
làm cho kinh tế hàng hóa có thể phát triển không lành mạnh, gây nên sự mất cân đối
nhiều mặt trong nền kinh tế” [27, tr.235].
Buôn lậu và GLTM gây tác hại rất lớn đối với nền sản xuất trong
nước: hàng lậu trốn thuế giá rẻ đầy ắp thị trường, cạnh tranh quyết liệt bóp nghẹt
sản xuất trong nước, làm cho hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được dẫn đến
nhiều doanh nghiệp phá sản, công nhân mất việc làm. Ngoài ra, việc chất lượng và
số lượng hàng hóa không được đảm bảo do chưa được kiểm nghiệm hoặc do sự gian
dối của người kinh doanh, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích và sức khỏe
của người tiêu dùng.
Buôn lậu và GLTM làm ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh, nản
lòng các nhà đầu tư, do hàng hóa sản xuất ra từ các cơ sở đầu tư không tiêu thụ
được vì sự cạnh tranh quyết liệt của hàng nhập lậu và các hàng hóa có được lợi thế
nhờ GLTM.
Buôn lậu và GLTM tác hại nghiêm trọng đối với sản xuất và đời sống
của nông dân vùng nguyên liệu (đường, thuốc lá: hơn 43.000 lao động mất việc làm
23
trong 4 - 5 tháng [28],…), ảnh hưởng tới tâm lý tiêu dùng của người dân, lâu ngày
người tiêu dùng sẽ có tâm lý sính ngoại, thích tiêu dùng hàng ngoại giá rẻ.
Buôn lậu và GLTM gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Ngoài
việc thất thu do một lượng lớn hàng hóa được nhập lậu, trốn thuế hải quan khi đưa
vào lãnh thổ Việt Nam thì còn có các vấn đề như: không kiểm soát được thu nhập
của các đối tượng trên nên từ đó không thu được thuế thu nhập cá nhân…
Với những tác hại như trên thì vấn đề buôn lậu và GLTM ảnh hưởng rất lớn
tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, ảnh hưởng đến hình ảnh của
Việt Nam trên trường quốc tế trong quá trình hội nhập, từ đó làm giảm lòng tin của
nhân dân vào Đảng và Nhà nước ta. Để ngăn chặn tác hại của chúng, ta cần nghiên
cứu và tăng cường vai trò, hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
1.2.3.3. Công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội
nhập
Công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM là cuộc chiến lâu dài, khó khăn
và phức tạp. Đảng và Nhà nước ta chủ trương công tác quản lý thị trường, đấu tranh
chống buôn lậu và GLTM là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành. Do đó, để
công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM đạt hiệu quả, ta cần phát huy sức
mạnh tổng hợp cả nước, nhất là đối với các lực lượng chức năng. Cụ thể, phải có sự
phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng chống buôn lậu và
GLTM. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các lực lượng trên.
Các lực lượng chức năng có nhiệm vụ đấu tranh chống buôn lậu và GLTM ở nước
ta gồm:
Quản lý thị trường: đây là lực lượng thực hiện chức năng kiểm tra,
kiểm soát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động thương mại; đấu tranh chống
buôn bán hàng hóa nhập lậu, sản xuất và kinh doanh hàng giả, kinh doanh trái phép
và GLTM trên thị trường nội địa.
Hải quan: đây là lực lượng thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát
hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu, cảng biển, sân bay; thu thuế xuất nhập
24
khẩu. Đây còn là lực lượng trực tiếp chống buôn lậu hàng hóa và tiền tệ qua biên
giới, chống GLTM, ngăn chặn hàng lậu lọt vào thị trường nội địa.
Thuế vụ: đây là lực lượng thực hiện chức năng thu thuế, thu ngân sách
trên địa bàn được phân công; kiểm tra, giám sát việc chấp hành, chống gian lận
trong lĩnh vực thuế, chủ trì và phối hợp với các cơ quan Nhà nước và các lực lượng
KTKS khác như Quản lý thị trường, Công an kinh tế…trong việc chống trốn, lậu
thuế, chống thất thu ngân sách.
Công an kinh tế: đây là lực lượng chịu trách nhiệm phát hiện, điều tra
và xử lý các ổ nhóm, tụ điểm buôn lậu, sản xuất hàng giả và kinh doanh trái phép có
quy mô lớn; nhất là đối với những mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã
hội, đến hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân; thực hiện phối hợp với các lực
lượng chức năng như Hải quan, Bộ đội biên phòng trong việc kiểm tra và ngăn chặn
việc vận chuyển hàng hóa, ngoại tệ, cổ vật…trái phép qua biên giới; hỗ trợ các lực
lượng chức năng khác – khi có yêu cầu từ các lực lượng này – về người, phương
tiện để bắt giữ, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại.
Bộ đội biên phòng: ngoài nhiệm vụ bảo vệ an ninh biên giới, vùng
biển, vùng hải đảo thì đây còn là lực lượng chống buôn lậu ở các vùng biên giới và
trên biển, nơi chưa có Hải quan quản lý; hỗ trợ lực lượng Hải quan cửa khẩu chống
buôn lậu khi có yêu cầu.
Cảnh sát biển: đây là lực lượng chủ yếu thực hiện chức năng phối hợp
với lực lượng Hải quân, Bộ đội biên phòng và Hải quan trong việc đấu tranh chống
buôn lậu trên biển, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của nước ta; ngăn chặn
hàng lậu lọt vào thị trường nội địa thông qua đường biển.
Thanh tra quốc phòng: ngoài nhiệm vụ kiểm soát quân sự thì đây còn
là lực lượng có chức năng kiểm tra và xử lý các vụ buôn lậu, kinh doanh trái pháp
luật trong các đơn vị kinh tế của Quân đội; phối hợp với các lực lượng kiểm tra,
kiểm soát khác nhằm kiểm tra, bắt giữ và xử lý các vi phạm pháp luật của Quân
nhân và các đơn vị có liên quan đến Quân đội.
25
Thanh tra chuyên ngành: đây là những đơn vị có chức năng thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực được giao.
Như vậy, công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội
nhập ở nước ta có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều đơn vị. Tuy nhiên, trên thị
trường nội địa thì ta thấy nổi rõ lên là vai trò của lực lượng QLTT, có thể nhận định
rằng đây là lực lượng chủ công trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong
nội địa.
1.2.3.4. Vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống
buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập
Khái niệm: QLTT là lực lượng chuyên trách được tổ chức từ Trung
ương đến huyện, có chức năng KTKS thị trường, đấu tranh chống các vi phạm pháp
luật trong hoạt động thương mại ở thị trường trong nước. Chi cục QLTT có chức
năng, nhiệm vụ kiểm tra việc tuân theo pháp luật các hoạt động thương mại, công
nghiệp của tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh, thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành thương mại [14], [19]. Ngoài ra, QLTT còn có nhiệm vụ “đề xuất với Sở
Công Thương và Ủy ban nhân dân tỉnh kế hoạch biện pháp về tổ chức thị trường,
bảo đảm lưu thông hàng hoá theo pháp luật, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi
phạm trong hoạt động thương mại, công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tổ chức tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về thương mại cho các tổ chức và cá nhân hoạt động liên
quan đến thương mại trên địa bàn tỉnh” [46].
Như vậy, theo quy định của pháp luật, QLTT có thẩm quyền KTKS
đối với các hoạt động thương mại và các loại hàng hóa lưu thông, kinh doanh trên
thị trường; đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương
mại như kinh doanh hàng cấm, hàng hóa quá hạn sử dụng, hàng nhập lậu, hàng hóa
hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện, GLTM, kinh doanh trái phép
khác… Bên cạnh đó, QLTT còn có vai trò là Cơ quan thường trực BCĐ 127 – Ban
Chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại. Từ chức năng, nhiệm vụ
theo luật định như trên thì ta có thể hiểu vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu
tranh chống buôn lậu và GLTM như sau:
26
+ Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước: thực hiện chức năng KTKS
thị trường nhằm phát hiện các vi phạm trong hoạt động thương mại; tham
mưu với cơ quan cấp trên thực hiện các chính sách như tổ chức thị trường,
đảm bảo lưu thông hàng hóa; đồng thời thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về thương mại nói chung, về lĩnh vực buôn lậu và GLTM nói riêng, cho thương nhân1.
+ Nhìn từ góc độ kinh tế – xã hội: bảo vệ người sản xuất, kinh
doanh chân chính từ đó góp phần bình ổn thị trường, phát triển sản xuất
trong nước theo định hướng chung của Đảng và Nhà nước; ngăn chặn tác hại
của buôn lậu và GLTM từ đó bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng.
Tóm lại, lực lượng QLTT có vai trò quan trọng trong việc đấu tranh chống
buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập vì đây là lực lượng chủ yếu thực hiện
việc KTKS thị trường nội địa từ đó góp phần ngăn chặn tác hại của chúng, đồng
thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và của các thương nhân làm ăn chân
chính.
1.3. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong
đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập
1.3.1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến công tác quản lý thị trường
Kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế thế giới. Đây vừa
là thời cơ vừa là thách thức đối với kinh tế nước ta nói chung, đối với công tác quản
lý nhà nước trong hoạt động thương mại nói riêng, nhất là đối với công tác QLTT.
Thời cơ: quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho hoạt
động thương mại diễn ra sôi động, hàng hóa lưu thông trên thị trường đa dạng về
chủng loại, mẫu mã, số lượng và giá thành. Từ đó, hạn chế được tình trạng độc
quyền, đầu cơ, găm hàng lũng đoạn thị trường; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho người tiêu dùng. Vì thế, công tác QLTT trong giai đoạn này có một số thuận lợi
1 Khái niệm thương nhân được hiểu theo Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005
như: thị trường được mở rộng, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn trong việc mua
27
hàng giảm được tình trạng bị thương nhân chèn ép, làm giá; điều kiện tiếp cận với
các thông tin chính thức của người dân ngày càng nhiều nên phần nào hạn chế được
việc bị thương nhân lừa đảo; các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng QLTT,
ngày càng được trang bị những phương tiện, trang thiết bị hiện đại và thông tin
được cập nhật liên tục, từ đó làm tăng tính hiệu quả trong công tác chuyên môn.
Thách thức: quá trình hội nhập kinh tế quốc tế làm thay đổi bối cảnh
kinh tế trong nước, tạo ra những tiền đề cho quá trình phát triển kinh tế của nước ta.
Đồng thời, quá trình này cũng làm nảy sinh những mặt trái, mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường như buôn lậu và GLTM. Do đó, để tận dụng những thời cơ mà quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra đòi hỏi công tác QLTT phải đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ của tình hình mới. Cụ thể: việc mở rộng hoạt động thương mại sẽ làm
xuất hiện nhiều hành vi, phương thức và thủ đoạn mới tinh vi, phức tạp hơn từ đó
đòi hỏi phải có sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Đảng và Nhà nước ta nhằm định
hướng cho công tác QLTT trong tình hình mới; con người phải thường xuyên được
đào tạo, cập nhật những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để nhận biết và xử lý kịp
thời, đúng quy định đối với những vi phạm; một khi thị trường được mở rộng, sự
lưu thông hàng hóa giữa các địa phương, giữa các quốc gia với nhau diễn ra thường
xuyên thì yêu cầu đặt ra là cần có sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong
việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM.
Học viên xin nêu ra một vài tác động đặc trưng và phổ biến của hội nhập
kinh tế quốc tế đến công tác QLTT như sau:
Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ xuất hiện xu
thế mới như việc giảm các dòng thuế nhập khẩu giữa các quốc gia, việc áp dụng
ngày càng nhiều các biện pháp bảo hộ thương mại trong nước (áp dụng quota; áp
dụng các hàng rào kỹ thuật nhằm hạn chế số lượng hàng nhập khẩu từ các nước).
Từ đó sẽ làm thay đổi tính chất, qui mô, mức độ hoạt động của buôn lậu và GLTM.
Tác động của cung cầu hàng hóa và giá cả hàng hóa trên thị trường
thế giới, nhất là đối với những hàng hóa mà Việt Nam chưa sản xuất được hoặc
những nguyên liệu phục vụ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế nước ta. Do đó
28
tác động trực tiếp đến hoạt động thương mại trong nước, làm cho tình hình buôn lậu
và GLTM diễn biến phức tạp.
Các biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới có những tác động
nhất định đến công tác QLTT. Việt Nam nằm trong khu vực kinh tế năng động, đây
là điều kiện thuận lợi để ta mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhưng cũng đặt ra rất
nhiều thách thức đối với kinh tế nước ta, đặc biệt là hàng hóa trong nước phải đối
mặt với các loại hàng hóa nhập khẩu đa dạng và giá rẻ có nguồn gốc, xuất xứ từ
Trung Quốc và các quốc gia lân cận.
Sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của lĩnh vực khoa học công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin sẽ làm nảy sinh nhiều hành vi và thủ đoạn vi
phạm mới ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Ví dụ: các đối tượng buôn lậu lợi
dụng sự phát triển của công nghệ in và tin học để làm giả các hồ sơ, chứng từ chứng
minh nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa nhằm hợp pháp hóa hàng nhập lậu.
1.3.2. Các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng Quản lý thị trường trong
đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập
Theo tôi, các yếu tố sau đây có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vai trò
của lực lượng QLTT trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội
nhập:
Thứ nhất, năng lực của đội ngũ thực thi, gồm: đội ngũ nhân sự và các
nguồn lực vật chất phục vụ cho hoạt động công vụ.
+ Trước hết có thể khẳng định rằng đội ngũ nhân sự có vai trò
đặc biệt quan trọng và là điều kiện tiên quyết trong việc thực hiện và đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bất kỳ tổ chức nào, vì nó khác với các
nguồn lực khác của tổ chức là do chính bản chất con người: “chỉ có thông
qua những hoạt động cụ thể của đội ngũ cán bộ, công chức mà hệ thống pháp
luật được đưa vào quản lý xã hội; phần lớn các thất bại của công việc là do
những người tham gia vào công việc đã, hoặc không có đủ năng lực, hoặc
không có động cơ làm việc tốt” [31, tr.42].
29
+ Thứ hai, bên cạnh đội ngũ nhân sự thì nguồn lực vật chất nhằm
phục vụ cho hoạt động công vụ có vai trò quan trọng không kém. Chẳng hạn,
muốn kiểm tra nồng độ chỉ số Octane của xăng dầu thì cần phải trang bị máy
đo nồng độ chỉ số Octane; có như vậy, lực lượng QLTT mới có cơ sở để
khẳng định xem mẫu xăng dầu trên có đạt chất lượng hay không, từ đó mới
có thể đưa ra hướng xử lý theo đúng quy định.
+ Vì việc kiểm tra, phát hiện việc kinh doanh hàng lậu và GLTM
được thực hiện trực tiếp ở cấp Đội nên năng lực thi hành nhiệm vụ của cấp
Đội là yếu tố quyết định vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh
chống buôn lậu và GLTM.
+ Giả thuyết khoa học – H1: Nếu thực hiện các biện pháp
nhằm nâng cao năng lực thi hành nhiệm vụ của cấp Đội thì sẽ tăng
cường được vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống
buôn lậu và gian lận thương mại trong quá trình hội nhập.
Thứ hai, những quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực QLTT,
buôn lậu và GLTM. Các quy định của pháp luật là nền tảng, là cơ sở cho quá trình
thực thi quyền hạn, nhiệm vụ của lực lượng QLTT trong thực tiễn hoạt động thương
mại; đến lượt mình, quá trình thực thi quyền hạn, nhiệm vụ trên sẽ chỉ ra những tồn
tại, khiếm khuyết cần phải khắc phục của hệ thống pháp luật hiện hành. Các quy
định cụ thể gồm:
+ Những quy định liên quan đến lĩnh vực QLTT gồm: các văn
bản pháp luật quy định về phân cấp quản lý nhà nước trong hoạt động
thương mại; về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các chính sách đãi ngộ
đối với lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM.
Những quy định này nhằm xác lập quyền hạn, phạm vi hoạt động và những
yếu tố khác khẳng định vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh
chống buôn lậu và GLTM.
+ Những quy định của pháp luật trong hoạt động thương mại,
nhất là trong lĩnh vực buôn lậu và GLTM. Các quy định này giúp cơ quan
30
thực thi hiểu rõ là mình đang thực hiện vai trò, chức năng để KTKS vấn đề
gì? đồng thời điều chỉnh hành vi của thương nhân trong lĩnh vực buôn lậu và
GLTM, cụ thể là họ sẽ được phép làm gì, kinh doanh những gì và những
điều, những mặt hàng họ không được phép kinh doanh?... Nói cách khác,
những quy định này nhằm phân biệt đâu là “sân” của QLTT và đâu là “sân”
của thương nhân?
+ Ngoài ra, những quy định liên quan đến hàng hóa – yếu tố trực
tiếp chịu sự KTKS của QLTT – như các quy định về ghi nhãn hàng hóa, về
chất lượng hàng hóa…cũng góp phần không nhỏ vào việc tác động đến hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động thương mại nói chung, trong
việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM nói riêng.
+ Giả thuyết khoa học – H2: vai trò của QLTT trong việc đấu
tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại chỉ có thể được phát huy
khi và chỉ khi có một hệ thống pháp luật quy định rõ ràng, đầy đủ về các
vấn đề liên quan đến lực lượng QLTT, đến lĩnh vực buôn lậu và gian lận
thương mại, đến hàng hóa.
Thứ ba, thị hiếu của người tiêu dùng và ý thức pháp luật của người
dân. Cụ thể:
+ Sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng tác động lên cầu [30,
tr.33], ảnh hưởng đến vấn đề buôn lậu và GLTM. Vì kinh tế thị trường chịu
sự tác động của quy luật cung cầu, một khi cầu về hàng hóa nhập lậu còn tồn
tại thì vấn đề buôn lậu còn tồn tại và diễn biến phức tạp. Khi cầu về hàng hóa
nhập lậu còn tồn tại đối với đại đa số người tiêu dùng thì hoạt động chống
buôn lậu và GLTM của lực lượng QLTT sẽ không nhận được sự ủng hộ và
đồng thuận của người dân; và ngược lại, khi tâm lý người tiêu dùng hướng
về hàng hóa được sản xuất trong nước thì hoạt động chống buôn lậu và
GLTM sẽ nhận được quan tâm, ủng hộ của người dân, từ đó lực lượng QLTT
sẽ phát huy vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.
31
+ Ý thức pháp luật của người dân là một yếu tố vô cùng quan
trọng: “ không có nó thì sẽ không có hành động tự giác chấp hành pháp luật
của các chủ thể pháp luật” [33, tr.158]. Hoạt động QLTT chủ yếu là việc
thực thi pháp luật, trực tiếp áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn
nhằm điều chỉnh hành vi của các đối tượng tham gia hoạt động thương mại.
Tuy nhiên, do ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với thực tiễn xã hội và
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta vừa là cơ
hội để người dân phát triển kinh doanh, vừa là thách thức khi có ngày càng
nhiều quy định được điều chỉnh sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế nên để
hệ thống pháp luật phát huy hiệu quả thì ý thức thượng tôn pháp luật của
người dân là điều kiện tiên quyết.
+ Giả thuyết khoa học – H3: Nếu đẩy mạnh công tác tuyên
truyền nhằm thay đổi thị hiếu tiêu dùng và nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của người dân thì sẽ góp phần tăng cường tính hiệu lực, hiệu
quả của công tác QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận
thương mại trong quá trình hội nhập.
Ngoài ra, các đặc điểm kinh tế – xã hội khác cũng có tác động gián
tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Tuy các yếu tố này không trực tiếp tác động, ảnh hưởng
đến vai trò của lực lượng QLTT nhưng sẽ hạn chế được vấn đề buôn lậu và GLTM.
1.4. Kinh nghiệm của một số địa phương về tăng cường vai trò của lực lượng
Quản lý thị trường
1.4.1. Tỉnh Long An:
Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh có đặc
điểm vị trí địa lý khá tương đồng với Tây Ninh: phía đông giáp với Tp.HCM và tỉnh
Tây Ninh; phía bắc tỉnh giáp với tỉnh Svay Rieng, Vương quốc Cambodia với hai
cửa khẩu chính là cửa khẩu Quốc tế Bình Hiệp (huyện Mộc Hóa) và cửa khẩu quốc
gia Mỹ Quý Tây (huyện Đức Huệ). Với đặc điểm trên, tình hình buôn lậu và GLTM
diễn ra khá phức tạp, nhất là hoạt động buôn lậu dọc theo tuyến biên giới. Các hàng
hóa nhập lậu chủ yếu gồm: thuốc lá điếu ngoại; rượu ngoại; đường cát; điện thoại di
32
động…các đối tượng buôn lậu chủ yếu là người dân địa phương ở các xã biên giới
có cuộc sống khó khăn nên tham gia vận chuyển thuê hàng lậu cho các đầu nậu,
hoạt động với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, phức tạp gây khó khăn trong
hoạt động chống buôn lậu của các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng QLTT.
Trước tình hình này, Chi cục QLTT tỉnh Long An đã đề ra một số giải pháp nhằm
tăng cường vai trò, tăng tính hiệu quả trong việc chống buôn lậu như sau:
Chỉ đạo các Đội QLTT tăng cường công tác trinh sát nắm tình hình về
luồng tuyến và quy luật hoạt động buôn lậu trên địa bàn phụ trách, địa bàn giáp
ranh.
Các Đội QLTT phối hợp với Phòng Kinh tế - Hạ tầng các huyện,
Phòng kinh tế Tp. Tân An, Đài truyền thanh địa phương tuyên truyền về việc cảnh
báo tổ chức, thương nhân người nước ngoài hoạt động mua bán trái phép tại Việt
Nam, đồng thời phối hợp với Công an địa phương lập đường dây nóng tiếp nhận
thông tin phản ảnh của người dân; Phối hợp Sở Thông tin và truyền thông tuyên
truyền các văn bản pháp luật liên quan như: Nghị định số 76/2010/NĐ-CP ngày
12/7/2010 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
rượu, thuốc lá…
Phối hợp với Báo Long An, Đài truyền thanh các huyện và thành phố
Tân An tổ chức tuyên truyền nội dung Điều 12, Quyết định số 1243/2000/QĐ-BTM
ngày 06/9/2000 của Bộ Thương Mại (nay là Bộ Công Thương) về ban hành quy chế
công tác của công chức QLTT để nhân dân biết và giám sát hoạt động của lực lượng
QLTT Long An.
1.4.2. Tỉnh Đồng Nai:
Đồng Nai là một trong bốn đỉnh của tứ giác kinh tế, gồm: Tp.HCM – Đồng
Nai – Bà Rịa Vũng Tàu – Bình Dương; đồng thời là địa bàn trung chuyển chính của
hàng hóa từ khu vực miền Bắc và miền Trung vào Tp.HCM. Với đặc điểm trên, nạn
buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh có những đặc thù riêng đòi hỏi phải có những
giải pháp phù hợp với tình hình địa phương. Cụ thể, trong công tác đấu tranh chống
33
buôn lậu và GLTM thì lực lượng QLTT tỉnh Đồng Nai đặc biệt chú trọng vào công
tác phòng ngừa như:
Vận động các hộ kinh doanh thực hiện: không buôn bán, vận chuyển,
tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu; không sử dụng chất cấm trong sản xuất và kinh
doanh thức ăn chăn nuôi; không buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, trao đổi, sử dụng
và chiết nạp trái phép vỏ bình gas, bình gas có chứa khí dầu mỏ hóa lỏng giả và
bình gas mini tái sử dụng theo quy định.
Phối hợp với Ban Quản lý các chợ trung tâm trên địa bàn trưng bày
“tủ hàng thật, hàng giả” tại các chợ để người dân tìm hiểu và phân biệt được sự
khác nhau giữa hàng thật và hàng giả, tránh mua lầm hàng giả, đồng thời kịp thời tố
giác với các cơ quan chức năng.
In đĩa CD và tổ chức phối hợp với Đài truyền thanh các huyện, thị xã,
thành phố và Ban Quản lý các chợ loại 1, loại 2 [15] nhằm tuyên truyền, phổ biến
kiến thức cho nhân dân hiểu để chấp hành và giám sát hoạt động của thương nhân.
Nội dung tuyên truyền chủ yếu tập trung vào: Luật giá; Luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng; Luật an toàn vệ sinh thực phẩm;…
Thiết lập “đường dây nóng” và đồng thời thông báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng để người dân có kênh phản ánh, tố cáo các đối tượng buôn
lậu, sản xuất hàng giả và GLTM hoặc tố cáo các biểu hiện tiêu cực của người thi
hành công vụ.
1.4.3. Tỉnh Khánh Hòa:
Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung bộ có bờ biển dài hơn 200km
và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân Phong, Nha Trang,
Cam Ranh…cùng nhiều thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng khác [29]. Với
những lợi thế trên, Khánh Hòa trở thành một trong những địa điểm du lịch nổi tiếng
của khu vực miền Trung và cả nước. Tuy nhiên, đồng thời với việc đẩy mạnh phát
triển du lịch thì công tác QLTT trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, đặc biệt là công tác
KTKS và xử lý các hành vi vi phạm về giá; bình ổn giá hàng hóa, dịch vụ trong các
mùa du lịch nhất là các đợt cao điểm như Lễ, Tết là một đòi hỏi mang tính cấp thiết.
34
Trước tình hình này, Chi cục QLTT tỉnh Khánh Hòa đã đề ra một số giải pháp như
sau:
Thường xuyên xây dựng và triển khai các kế hoạch KTKS chuyên đề
về giá nhằm tăng cường công tác quản lý, ngăn chặn và xử lý kiên quyết đối với các
trường hợp lợi dụng sự biến động cung – cầu hàng hóa, dịch vụ trong các đợt cao
điểm để ép giá, bán tăng giá quá mức, thu lợi bất chính, gây bất ổn thị trường. Đồng
thời, chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng như: Sở Tài chính; Sở Giao thông
Vận tải; phòng Tài chính; phòng Kinh tế các huyện…thành lập các Đoàn kiểm tra
liên ngành triển khai nhiệm vụ kiểm tra chấp hành pháp luật về giá như: đăng ký
giá; kê khai giá; niêm yết giá và bán theo giá niêm yết đối với các tổ chức, cá nhân
kinh doanh trên địa bàn. Đặc biệt là trong các dịp cao điểm như Lễ, Tết và các sự
kiện được tổ chức tại địa phương, thực hiện việc bảo đảm môi trường du lịch lành
mạnh, phục vụ tốt cho du khách, Chi cục QLTT Khánh Hòa chủ động thực hiện
việc phối hợp với các ngành chức năng tổ chức kiểm tra chuyên đề về giá đối với
các ngành, nghề kinh doanh dịch vụ như: du lịch biển; đảo; lưu trú khách sạn; nhà
nghỉ; vận chuyển hành khách; ăn uống; khách sạn; các tụ điểm giữ xe…
Gắn với nhiệm vụ KTKS, lực lượng QLTT tỉnh Khánh Hòa đã chủ
động thường xuyên phối hợp với Ban Quản lý các chợ trung tâm, UBND các xã,
phường thực hiện tốt công tác tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật, tổ chức ký cam
kết thực hiện các quy định pháp luật trong hoạt động thương mại để từng cơ sở kinh
doanh nắm bắt và thực hiện.
35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về vai trò của lực lượng QLTT trong
việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập, có thể tóm tắt kết
quả nghiên cứu như sau:
Khẳng định vai trò quan trọng của lực lượng QLTT đối với nền kinh
tế từ khi thành lập đến nay. Tuy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, nhiệm vụ mà
Đảng và Nhà nước ta giao phó cho lực lượng QLTT có sự khác nhau nhưng về cơ
bản là thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Hiện nay, với việc
nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì vai trò chủ công của lực
lượng QLTT trong việc KTKS thị trường nội địa càng được khẳng định, nhất là
trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM nhằm phát triển một nền thương mại
công bằng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân và người tiêu dùng.
Để tạo cơ sở cho việc phân tích trong các chương sau, tác giả tập
trung làm rõ các khái niệm về buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập, qua đó,
tuy còn hạn chế nhưng các khái niệm nêu ra trong chương này đã phản ánh được
những đặc trưng cơ bản của hoạt động buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập.
Phân tích các yếu tố tác động đến vai trò của lực lượng QLTT trong
đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập. Trong đó, các yếu tố
tác động trực tiếp đến vai trò của lực lượng QLTT gồm: thứ nhất là năng lực của
đội ngũ thực thi nhiệm vụ, nhất là ở cấp Đội QLTT; thứ hai là hệ thống pháp luật
liên quan đến lĩnh vực QLTT, buôn lậu và GLTM; thứ ba là thị hiếu của người tiêu
dùng và ý thức thượng tôn pháp luật của người dân.
Trình bày kinh nghiệm về tăng cường vai trò của lực lượng QLTT tại
một số địa phương có các đặc điểm tương đồng với tỉnh Tây Ninh như: Long An –
đây là tỉnh giáp Vương quốc Cambodia với tình hình buôn lậu diễn biến phức tạp;
Đồng Nai – địa bàn trung chuyển hàng hóa từ các tỉnh phía bắc và miền trung vào
Tp.HCM; Khánh Hòa – là tỉnh nổi tiếng về du lịch.
36
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN
THƯƠNG MẠI CỦA LỰC LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH TÂY NINH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.5. Bối cảnh ảnh hưởng đến công tác quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của địa phương
Tây Ninh là tỉnh khu vực biên giới tây nam, nằm trong vùng Đông
Nam bộ và vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam, tiếp giáp với các địa bàn sôi động
trong phát triển kinh tế; cụ thể, phía đông giáp hai tỉnh Bình Phước và Bình Dương
với đường ranh giới dài 123km, phía nam giáp Tp.HCM và tỉnh Long An với đường
ranh giới dài 36.5km, phía bắc và tây giáp Vương quốc Cambodia với đường biên
giới dài khoảng 240km tiếp giáp 03 tỉnh Svay Rieng, Prey Veng và Kampong
Cham, với 02 cửa khẩu quốc tế (Mộc Bài, Xa Mát), 04 cửa khẩu chính (Tống Lê
Chân, Kà Tum, Chàng Riệt và Phước Tân) và 10 cửa khẩu phụ do chính quyền tỉnh
Tây Ninh và các tỉnh giáp biên thuộc Vương quốc Cambodia thỏa thuận, ký kết. Địa
hình là đồng bằng, rừng rậm, có nhiều đường mòn qua lại biên giới giữa hai nước,
cư dân biên giới có quan hệ truyền thống lâu đời, qua lại trao đổi, mua bán hàng hóa
qua lại giữa hai nước [32].
Với vị trí địa lý như trên, Tây Ninh chính là cầu nối quan trọng giữa
Tp.HCM và thủ đô Phnom Penh của Vương quốc Cambodia. Theo quy hoạch,
đường xuyên Á đoạn từ Tp.HCM đến Phnom Penh sẽ trùng với toàn tuyến quốc lộ
22A (nối Tp.HCM qua các huyện Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu ra cửa khẩu quốc
tế Mộc Bài sang Cambodia). Đây là điều kiện thuận lợi để thông thương với nước
bạn, phát triển kinh tế địa phương; bên cạnh đó, điều này cũng làm nảy sinh các
37
hoạt động kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu và GLTM do các chính sách thuế, bảo
hộ kinh tế trong nước của cả Việt Nam và Cambodia, gây ảnh hưởng đến các
thương nhân làm ăn chân chính của cả hai nước. Hoạt động buôn lậu và lợi dụng
chính sách ưu đãi thuế dành cho khách du lịch để mua gom, vận chuyển hàng hóa
miễn thuế; hàng hóa nhập lậu chủ yếu tập trung và phát triển ở khu vực biên giới,
nhất là khu vực cửa khẩu Mộc Bài và các đường mòn dọc theo khu vực hai bên
cánh gà cửa khẩu.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội
Trong những năm qua, với sự quyết tâm của lãnh đạo các cấp và sự đồng
lòng của nhân dân, kinh tế Tây Ninh đã có những bước chuyển tích cực, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2011 của tỉnh đạt 37.261,9 tỷ đồng, toàn tỉnh hiện
có 105 chợ lớn nhỏ và 7 siêu thị [45] (chủ yếu tập trung tại khu vực cửa khẩu Mộc
Bài). Hoạt động thương mại của tỉnh tập trung chủ yếu ở khu Kinh tế cửa khẩu Mộc
Bài; khu vực trung tâm Thị xã và các huyện. Trong đó, hoạt động buôn lậu và
GLTM tập trung chủ yếu ở các khu vực sau:
+
Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài, huyện Bến Cầu:
Là khu kinh tế cửa khẩu với cửa khẩu quốc tế Mộc Bài và hai
cửa khẩu phụ Phước Chỉ và Long Thuận phục vụ cho các hoạt động giao lưu
kinh tế, văn hóa và quan hệ chính trị, ngoại giao giữa Việt Nam, Cambodia
và một số nước trong khối ASEAN; là trung tâm thương mại, du lịch và đầu
mối giao thông trong nước và quốc tế; trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học
kỹ thuật quan trọng của tỉnh Tây Ninh và vùng Đông Nam Bộ; có vị trí quan
trọng về an ninh, quốc phòng [42]. Phạm vi lập Quy hoạch chung xây dựng
Khu kinh tế bao gồm toàn bộ địa giới hành chính các xã Long Thuận, Tiên
Thuận, Lợi Thuận, An Thạnh, thị trấn Bến Cầu thuộc huyện Bến Cầu, các xã
Phước Lưu, Bình Thạnh, Phước Chỉ thuộc huyện Trảng Bàng với diện tích
21.284 ha. Hoạt động kinh tế chủ yếu diễn ra trong Khu Thương mại và
Công nghiệp thuộc Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài.
38
+
Khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài là khu phi thuế quan,
diện tích được quy hoạch 986 ha, được thực hiện cơ chế chính sách ưu đãi
theo Quyết định số 144/2004/QĐ-TTg ngày 12/8/2004 của Thủ tướng Chính
phủ. Theo đó, khách tham quan du lịch khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế
cửa khẩu được mua hàng miễn thuế mang vào nội địa với trị giá hàng hóa
không quá 500.000 đồng Việt Nam/1 người/1 ngày, trừ các loại hàng hóa
gồm thuốc lá điếu các loại, bia các loại, rượu các loại không áp dụng bán cho
người dưới 18 tuổi và đối với người từ 18 tuổi trở lên thì bán miễn thuế theo
định mức tối đa không quá 500.000 đồng Việt Nam/1 người/1 tháng. Căn cứ
vào các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi
hành của Bộ Tài chính, UBND tỉnh Tây Ninh đã ban hành Quy chế về mua –
bán hàng miễn thuế tại Khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài, tạo điều
kiện thuận lợi cho khách tham quan, du lịch, các doanh nghiệp hoạt động
+
trong khu và các cơ quan quản lý trong tổ chức thực hiện.
Hoạt động của Khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài có
hàng rào cứng ngăn cách với các khu khác trong khu kinh tế cửa khẩu Mộc
Bài, có 02 cổng vào Việt Nam và 02 cổng về hướng Cambodia đều có bố trí
lực lượng Hải quan chốt trực để kiểm tra, giám sát người, hàng hóa và các
phương tiện ra vào khu. Bên cạnh việc triển khai giám sát trực tiếp, cơ quan
Hải quan đã xây dựng và triển khai ứng dụng phần mềm quản lý bán hàng
của các doanh nghiệp trong khu, được nối mạng giữa Hải quan và doanh
nghiệp để quản lý chặt chẽ hoạt động bán hàng của các doanh nghiệp.
+
Khu Kinh tế cửa khẩu Xa Mát, huyện Tân Biên:
Cửa khẩu Xa Mát là cửa khẩu quốc tế trên tuyến biên giới đất
liền Việt Nam – Cambodia, là cửa ngõ của tỉnh Tây Ninh trong việc phát
triển giao lưu thương mại, có vai trò quan trọng trong xây dựng, phát triển
kinh tế hướng ngoại, sau này trở thành trung tâm giao dịch thương mại quốc
tế. Khu kinh tế cửa khẩu Xa Mát được thành lập theo Quyết định số
186/2003/QĐ-TTg ngày 11/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ bao gồm 02 xã
39
Tân Lập và Tân Bình, huyện Tân Biên. Khu kinh tế cửa khẩu Xa Mát được
áp dụng các chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu biên giới quy định tại
Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
Khu kinh tế cửa khẩu Xa Mát là khu vực gồm có 4 cửa khẩu, trong đó cửa
khẩu quốc tế là cửa khẩu Xa Mát và các cửa khẩu phụ là: Tân Phú, Cây Gõ,
+
Chàng Riệc.
Hiện tại, Khu Kinh tế cửa khẩu Xa Mát đang trong quá trình
xây dựng, chưa được các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm nên hoạt
động kinh tế nói chung, hoạt động thương mại nói riêng chưa phát triển như
kỳ vọng và không nhộn nhịp như Khu Kinh tế cửa khẩu Mộc Bài.
Trung tâm thương mại các huyện và thị xã, đây là nơi tập trung hoạt
động thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân bản địa. Với vị trí địa lý đặc
thù là tỉnh biên giới như Tây Ninh thì việc hàng hóa tiêu dùng có nguồn gốc từ nước
ngoài nhập lậu vào địa phương và được bày bán nhiều tại các cơ sở kinh doanh là
điều không tránh khỏi. Ngoài ra, do các chợ chưa được quy hoạch phát triển bày
bản, thói quen kinh doanh và trình độ dân trí nói chung, trình độ am hiểu luật pháp
của người dân, của người kinh doanh – hầu hết là tiểu thương, buôn bán nhỏ lẻ –
nên tình trạng GLTM có chiều hướng gia tăng qua các năm.
2.6. Thực trạng công tác chống buôn lậu và gian lận thương mại của lực
lượng Quản lý thị trường trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
2.2.1. Đánh giá tình hình chung
Nhìn chung, các đối tượng sản xuất, kinh doanh trên địa bàn chấp hành
tương đối tốt các quy định của pháp luật trong hoạt động thương mại. Tuy nhiên, do
chạy theo lợi nhuận nên còn một bộ phận không nhỏ thực hiện các hành vi buôn lậu
và GLTM gây ảnh hưởng đến các thương nhân làm ăn chân chính, đến người tiêu
dùng. Cụ thể:
Giai đoạn 2008 – 2012, tình hình thị trường hàng hóa và giá cả ít biến
động, sự tăng giảm giá cả hàng hóa chủ yếu là do ảnh hưởng chung của lạm phát
đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, đối với các mặt hàng miễn thuế có nguồn gốc, xuất
40
xứ từ khu Thương mại – công nghiệp Mộc Bài và mặt hàng thuốc lá điếu ngoại
nhập lậu có giá diễn biến phức tạp, chủ yếu là do ảnh hưởng bởi nhu cầu của người
tiêu dùng, nhất là vào các dịp lễ tết. Từ đây làm cho hoạt động buôn lậu và GLTM
diễn biến phức tạp, ngày càng xuất hiện những phương thức thủ đoạn tinh vi hơn,
hiện đại hơn.
Hàng hóa sản xuất trong nước đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng, trên địa
bàn tỉnh không xảy ra các hiện tượng đầu cơ, găm hàng nhằm tăng giá quá mức.
Tuy nhiên, với đặc thù là tỉnh biên giới nên khi trên địa bàn xảy ra dịch bệnh như
dịch cúm gia cầm (năm 2009); dịch heo tai xanh (năm 2011) hoặc các đợt tăng giá
xăng dầu làm cho tình hình buôn lậu và GLTM trên địa bàn có diễn biến phức tạp.
2.2.2. Tình hình buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
2.2.2.1. Tình hình buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
+
Địa bàn hoạt động chủ yếu của buôn lậu gồm:
Khu vực biên giới: chủ yếu diễn ra ở khu vực Rạch Tràm, 3 xã
cánh tây (Phước Chỉ, Phước Lưu, Bình Thạnh) huyện Trảng Bàng; xã Thành
Long và xã Biên Giới huyện Châu Thành; xã An Thạnh huyện Bến Cầu; và
khu vực các cửa khẩu, hai bên cánh gà cửa khẩu. Cụ thể: khu vực cửa khẩu
quốc tế và khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài, Xa Mát; khu vực cửa khẩu và hệ
thống đường mòn, lối mở hai bên cánh gà các cửa khẩu địa phương: Tống Lê
+
Chân; Kà Tum; Chàng Riệt và Phước Tân.
Thị trường nội địa: tập trung nhiều ở khu vực nông thôn và các
trung tâm thương mại lớn của tỉnh như: thị xã Tây Ninh; khu vực chợ Long
Hoa – huyện Hòa Thành; khu vực chợ Gò Dầu – huyện Gò Dầu. Cùng với
Tp.HCM thì đây là những nơi tiêu thụ chủ yếu hàng hóa nhập lậu trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh.
+
Các đối tượng buôn lậu chủ yếu:
Đầu nậu là những đối tượng cầm đầu, chúng là các “đầu mối”
phân phối hàng lậu do có tiềm lực tài chính mạnh mẽ và quan hệ rộng; các
41
đầu nậu thường ẩn mình, không xuất hiện, chúng hợp tác và có mối quan hệ
+
chặt chẽ với các đầu nậu nước ngoài.
Cửu vạn là những đối tượng được thuê để mang vác, vận
chuyển hàng lậu theo sự chỉ huy của các đầu nậu. Các đối tượng này thường
là cư dân khu vực biên giới, họ là những người dân nghèo, không có tư liệu
và đất sản xuất, không được học tập nên trình độ nhận thức kém, từ đó, họ bị
các đầu nậu dụ dỗ để vận chuyển hàng lậu cho chúng. Và khi gặp sự KTKS
+
của lực lượng chức năng thì các đối tượng này chống đối quyết liệt.
Các đối tượng mua bán nhỏ, chủ yếu là cư dân khu vực biên
giới và các huyện giáp ranh, xét về điều kiện kinh tế và trình độ nhận thức thì
các đối tượng này không có khác biệt nhiều so với cửu vạn. Tuy nhiên, điểm
khác nhau ở chổ là họ tự bỏ vốn (có được do vay mượn, cầm cố nhà cửa) để
mua hàng và sau đó thực hiện việc vận chuyển hàng hóa nhập lậu với số
lượng nhỏ phân phối cho các cửa hàng tạp hóa trong phạm vi huyện hoặc
+
liên huyện với mục đích kiếm sống qua ngày.
Khách du lịch tham quan các cửa khẩu, do nhu cầu về hàng hóa
miễn thuế lớn hơn so với mức thuế được miễn/người/ngày theo quy định nên
+
để thỏa mãn nhu cầu trên thì “vô tình” họ đã thực hiện hành vi buôn lậu.
Ngoài ra, có một số đối tượng không trực tiếp thực hiện hành
vi vận chuyển hay mua bán hàng lậu mà chúng luôn theo sát các hoạt động
của lực lượng chức năng nhằm cung cấp hay bán thông tin cho các đối tượng
buôn lậu để đối phó với lực lượng chức năng.
Mặt hàng buôn lậu chủ yếu gồm: vàng; ngoại tệ; rượu ngoại; thuốc lá
điếu ngoại; đường; đồ điện tử…và các hàng hóa tiêu dùng thường ngày. Một số mặt
+
hàng tiêu biểu như:
Thuốc lá điếu ngoại: là mặt hàng nhập lậu chủ yếu, hàng hóa
được vận chuyển từ nước bạn Cambodia về và tập trung tại khu vực Rạch
Tràm giáp ranh giữa 2 tỉnh Long An và Tây Ninh; khu vực 3 xã cánh tây
42
huyện Trảng Bàng. Thuốc lá điếu ngoại nhập lậu thường gia tăng vào các
+
thời điểm sắp đến ngày lễ tết trong năm do nhu cầu thị trường tăng.
Xăng dầu: do chính sách trợ giá đối với mặt hàng xăng dầu của
nước ta nên xảy ra hiện tượng giá xăng dầu trên thị trường Việt Nam thấp
hơn giá xăng dầu trên thị trường Cambodia. Do đó, khi giá xăng dầu thế giới
tăng thì sẽ xảy ra hiện tượng xuất lậu xăng dầu từ các tỉnh biên giới Việt
Nam, trong đó có Tây Ninh, sang Vương quốc Cambodia. Tại Tây Ninh,
việc xuất lậu xăng dầu diễn ra chủ yếu ở khu vực biên giới – xã Tân Lập
huyện Tân Biên và xã Tân Hà huyện Tân Châu. Hiện nay, do sự điều chỉnh
phù hợp trong chính sách quản lý giá đối với mặt hàng xăng dầu nên hoạt
+
động xuất lậu xăng dầu không còn.
Đường cát: nhập lậu qua biên giới không nhiều, quy mô nhỏ,
chủ yếu là mặt hàng đường cát trắng do Thái Lan sản xuất nhằm phục vụ nhu
+
cầu tiêu dùng hằng ngày của cư dân khu vực biên giới và các vùng lân cận.
Gạo: chủ yếu là gạo Thái Lan và gạo Cambodia được cư dân
biên giới trao đổi, mua bán do người Việt Nam chuộng gạo lúa mùa, ít dùng
+
phân bón, thuốc trừ sâu.
Bia, bột ngọt, sữa: đây là các mặt hàng có nguồn gốc, xuất xứ
từ khu Thương mại – Công nghiệp Mộc Bài được các con buôn mua gom với
số lượng vượt quá nhiều lần so với suất mua hàng miễn thuế 500.000 đồng
Việt Nam/người/ngày. Những mặt hàng này chủ yếu được đem đi tiêu thụ tại trung tâm các huyện lân cận và Tp.HCM.
+
Phương thức, thủ đoạn:
Hàng lậu thông thường, nhất là mặt hàng thuốc lá điếu ngoại và
rượu ngoại, sẽ được các đầu nậu tập trung tại các địa điểm hoang vắng, ít
người lui tới dọc theo biên giới Cambodia – Việt Nam, sau đó, chúng thuê
cửu vạn hoặc bán lẻ lại cho các con buôn vận chuyển hàng hóa vào Việt
Nam.
43
+
Đối với các mặt hàng như vàng, ngoại tệ vì có đặc điểm như
giá trị lớn, gọn nhẹ dễ cất giấu nên bọn buôn lậu sử dụng rất nhiều thủ đoạn
tinh vi, cất giấu ở những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể gây khó khăn rất
+
nhiều đối với các lực lượng chức năng.
Về mặt hàng xăng dầu: do lực lượng chức năng siết chặt việc
kiểm soát đối với các cửa hàng xăng dầu khu vực biên giới, nên các đối
tượng xuất lậu xăng dầu thường tìm cách mua gom xăng dầu ở các cửa hàng
bán lẻ xăng dầu nằm sâu trong nội địa và tìm mọi cách chuyển lên biên giới
+
để xuất lậu.
Ngoài ra, để “lách” quy định về mức miễn thuế/người/ngày tại
khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài thì các đối tượng buôn lậu tìm cách thuê,
mượn chứng minh nhân dân của người thân và cư dân khu vực biên giới để
mua gom hàng miễn thuế.
+
Quy mô, tính chất của hoạt động buôn lậu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
Tùy từng lĩnh vực, địa bàn và mức lợi nhuận từng mặt hàng
đem lại mà hoạt động buôn lậu diễn ra với quy mô và tính chất khác nhau;
hoạt động buôn lậu diễn ra liên tục, không kể ngày đêm, vì đây là hoạt động
phạm pháp và đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của bản thân nên khi bị lực
lượng chức năng phát hiện thì các đối tượng buôn lậu tìm mọi cách chối cãi,
chống đối, không chấp hành trong khi được kiểm tra.
+
Các hành vi buôn lậu phổ biến
Hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu không khai báo Hải quan
+
theo quy định hoặc không qua cửa khẩu.
Hàng hóa nhập khẩu được bày bán tại cửa hàng, tồn trữ trong
kho, đang vận chuyển trên đường không có hóa đơn, chứng từ chứng minh
nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa hoặc có hóa đơn, chứng từ nhưng không
hợp lệ, hợp pháp.
44
+
Hàng hóa nhập khẩu theo quy định phải dán tem nhưng không
dán tem, dán tem không đúng chủng loại, tem giả, tem quay vòng; quy định
+
phải dán nhãn phụ nhưng không dán nhãn phụ theo quy định.
Ngoài ra, hàng hóa có nguồn gốc, xuất xứ từ khu Thương mại
– Công nghiệp Mộc Bài không có hóa đơn chứng từ hợp lệ thì được xem như
hàng nhập lậu [1].
2.2.2.2. Tình hình gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
Về địa bàn: GLTM diễn ra mọi lúc, mọi nơi, ở bất kỳ nơi đâu có diễn
ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, nhất là các khu vực nông thôn nơi mà
người bán ít chịu sự cạnh tranh còn người mua thì “dễ dãi” trong việc lựa chọn. Tuy
nhiên, GLTM diễn ra thường xuyên, có tính quy luật là tại các trung tâm thương
mại lớn, các tụ điểm tham quan, du lịch của tỉnh.
Đối tượng thực hiện các hành vi GLTM bao gồm tất cả các thành
phần kinh tế, từ nhà sản xuất đến người kinh doanh. Trong điều kiện hiện tại thì lực
lượng QLTT Tây Ninh chủ yếu thực hiện việc kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các
hộ kinh doanh cá thể, các cá nhân buôn chuyến và các doanh nghiệp tư nhân.
Mặt hàng vi phạm: có thể là tất cả các hàng hóa, từ hàng hóa tiêu
dùng đến hàng hóa phục vụ cho sản xuất. Trong thời gian qua, trên địa bàn tỉnh,
việc GLTM chủ yếu diễn ra đối với các mặt hàng như: xăng dầu; phân bón; mũ bảo
hiểm…
+
Phương thức, thủ đoạn và một số hành vi vi phạm phổ biến
Đối tượng vi phạm thường dùng các thủ đoạn dối trá, mánh
khóe, lừa lọc trong hoạt động thương mại như: gian lận về cân đong, đo đếm
– việc sử dụng phương tiện đo chưa qua kiểm định hoặc có dấu kiểm định
hết hiệu lực hoặc sử dụng công nghệ hiện đại như gắn chíp điện tử điều
khiển từ xa nhằm gian lận về số lượng hàng hóa bán ra; gian lận về chất
lượng hàng hóa – sử dụng các nguyên liệu kém chất lượng, pha trộn tạp chất
vào sản phẩm – chủ yếu là các mặt hàng: xăng dầu; phân bón.
45
+
Các vi phạm trong lĩnh vực giá: diễn ra đối với các ngành hàng
không do Nhà nước quy định giá. Các hành vi vi phạm chủ yếu: không niêm
yết giá hàng hóa tại cửa hàng, quầy hàng, địa điểm giao dịch với khách hàng;
hoặc niêm yết giá bán không rõ ràng, gây nhầm lẫn, không đúng theo quy
định. Mục đích của các hành vi trên là nhằm đánh lừa khách hàng, bán một
loại hàng hóa với nhiều mức giá khác nhau cho những đối tượng khách hàng
khác nhau.
Về quy mô, tính chất thì GLTM không hề thua kém so với buôn lậu.
Nhất là các hành vi gian lận về chất lượng, số lượng trong lĩnh vực kinh doanh xăng
dầu, phân bón, mũ bảo hiểm…ảnh hưởng rất lớn đến lòng tin của người tiêu dùng,
đến sức khỏe, tài sản của nhân dân.
2.2.3. Thuận lợi
Trong thời gian qua, hoạt động QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đã
nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa
phương và đặc biệt là sự chỉ đạo trực tiếp về mặt chuyên môn, nghiệp vụ từ lãnh
+
đạo Cục QLTT. Cụ thể:
Về chính quyền địa phương, là sự quan tâm chỉ đạo kịp thời,
tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động, nhất là trong giai đoạn đầu thành lập
các Đội QLTT huyện (tháng 7 năm 2009). Đó là sự chỉ đạo trong công tác
phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành chức năng của huyện với lực lượng
+
QLTT.
Đối với Cục QLTT, là sự quan tâm chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ chuyên môn thông qua việc tổ chức các lớp tập huấn; các văn bản hướng
dẫn công tác xử lý nhằm điều chỉnh các hành vi vi phạm mà pháp luật chưa
quy định; là sự hướng dẫn, tổ chức triển khai hoạt động kiểm tra; cấp thẻ
kiểm tra thị trường kịp thời. Nhất là việc hướng dẫn tổ chức chỉ đạo thực
hiện công tác KTKS thị trường, với sự chỉ đạo kịp thời trên đã tạo nên sự gắn
kết, đồng bộ đối với công tác QLTT cả nước, tạo được sự đồng thuận trong
nhân dân từ đó làm nên sức mạnh tổng hợp. Cụ thể, năm 2012 Cục QLTT đã
46
ban hành trên 70 văn bản chỉ đạo QLTT địa phương KTKS và xử lý các hành
vi vi phạm, đặc biệt là kiểm tra, xử lý các vấn đề nóng, nổi cộm trên thị
trường như: kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về giá xăng dầu,
khí dầu mỏ hóa lỏng, phân bón (26 văn bản); chỉ đạo các Chi cục QLTT triển
khai các biện pháp ngăn chặn vận chuyển, kinh doanh gia cầm nhập lậu,
không qua kiểm dịch và phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm, kiểm tra
việc sử dụng chất cấm thuộc nhóm Beta-Agonist trong chăn nuôi (12 văn
bản);…
Bên cạnh đó, sự đoàn kết, hợp tác và làm việc lâu năm trong công tác
chống buôn lậu và GLTM của đội ngũ nhân sự hiện có tại Chi cục QLTT Tây Ninh
là một yếu tố ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả, vai trò của lực lượng. Đây là
những người có thâm niên hoạt động trong ngành QLTT nhiều năm, tuy có những
hạn chế nhất định về trình độ và tuổi tác nhưng họ hiểu rất rõ về địa bàn, tính chất,
đặc điểm; về phương thức hoạt động và thủ đoạn của các đối tượng buôn lậu và
GLTM.
2.2.4. Khó khăn
Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động chung còn thiếu, lạc hậu không đáp
ứng yêu cầu công tác. Đặc biệt từ khi thành lập các Đội QLTT huyện, ngoại trừ trụ
sở cũ của các Đội liên huyện để lại thì đa phần các Đội còn lại đều phải xin UBND
huyện cho mượn tạm các công trình như nhà văn hóa thiếu nhi không còn sử dụng,
văn phòng Ban Quản lý bến xe khách của huyện… Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động của các Đội, vì hoạt động buôn lậu và GLTM thường diễn ra ngoài giờ
hành chính nên hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT cũng phải thích ứng với
đặc điểm trên, yêu cầu các thành viên trong Đội phải trực tại cơ quan và luôn trong
tư thế sẵn sàng công tác. Và với điều kiện về cơ sở vật chất như trên đã tạo những
khó khăn nhất định cho các Đội: nếu bố trí KSV làm đêm ngoài giờ thì điều kiện ăn
ở không tốt làm ảnh hưởng đến sức khỏe, còn nếu cho làm hết giờ hành chính rồi về
thì hiệu quả công việc thấp.
47
Về nhân sự: lực lượng nhân sự của Chi cục QLTT tỉnh Tây Ninh hiện
nay còn rất mỏng, không đủ đáp ứng yêu cầu công tác, cũng như hoàn thành các
chức năng, nhiệm vụ được giao. Lực lượng QLTT là lực lượng chủ công trong việc
KTKS hoạt động thương mại trên thị trường nội địa, cụ thể, lực lượng QLTT được
phân công các nhiệm vụ như: chống buôn lậu; chống sản xuất, kinh doanh hàng giả;
chống GLTM; thanh tra chuyên ngành thương mại;…và theo yêu cầu công tác, đòi
hỏi các Đội QLTT phải luôn bố trí KSV trực công tác, kể cả ngày nghỉ. Tuy nhiên,
lực lượng QLTT Tây Ninh, đặc biệt là ở cấp Đội hiện nay còn rất mỏng. Năm 2012,
Chi cục QLTT Tây Ninh có tổng cộng 60 công chức và lao động hợp đồng, như vậy
các Đội QLTT huyện có quân số trung bình là 04 người (tính luôn cả Đội trưởng).
Theo Quy chế công tác của công chức QLTT [5] thì chỉ có công chức QLTT được
cấp Thẻ kiểm tra mới được quyền kiểm tra và khi kiểm tra phải có ít nhất từ 02
công chức QLTT trở lên. Tính trung bình, mỗi Đội có 02 công chức được cấp Thẻ
kiểm tra (gồm Đội trưởng và 01 công chức phục vụ lâu năm trong ngành) như vậy,
có không quá 01 tổ kiểm tra phụ trách địa bàn 01 huyện để thực hiện tất cả các chức
năng, nhiệm vụ được giao cả trong và ngoài giờ hành chính, điều này là hoàn toàn
không thể thực hiện được.
Về phương tiện: phương tiện cũ kỷ lạc hậu. Mỗi Đội trung bình có 4
công chức nhưng đa số các Đội chỉ được trang bị 01 xe mô tô phục vụ công tác, và
các xe này đều là những xe có từ những năm 1990, phần lớn bị hư hại không đáp
ứng yêu cầu công tác. Như vậy, các Đội đều phải tận dụng xe cá nhân nhằm phục
vụ công tác.
Ngoài ra, do trình độ phát triển kinh tế và tập quán kinh doanh nhỏ lẻ,
rãi rác, không tập trung và mang tính tự phát, không hiện đại nên gián tiếp ảnh
hưởng đến vai trò và hoạt động của lực lượng QLTT. Điều này tạo ra sự khó khăn
trong công tác quản lý địa bàn, cách thức hoạt động cũng như ý thức chấp hành
pháp luật của người kinh doanh. Cụ thể, với đặc điểm hoạt động thương mại như
trên sẽ gây khó khăn trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến các đối tượng
kinh doanh. Điều này cũng tạo ra tâm lý ỷ lại đối với người kinh doanh: họ ỷ lại vì
48
mình kinh doanh ở khu vực vùng sâu vùng xa nên không nhất thiết phải chấp hành
các quy định chung của pháp luật; họ ỷ lại vào sự hiểu biết, mặt bằng dân trí chung
của khu vực mình sinh sống và vin vào đó để biện hộ cho sự sai trái của mình...
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đây là điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế của nước ta nói chung, phát triển thương
mại nói riêng. Tính cạnh tranh sẽ được nâng lên, từ đó chất lượng hàng hóa sẽ tăng
lên, người tiêu dùng sẽ có nhiều lựa chọn hơn. Tuy nhiên, đây cũng là thách thức
không nhỏ, nhất là đối với công tác làm luật ở nước ta: “Thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật quốc gia và các điều ước quốc tế cho thấy cần phải hoàn thiện các
quy định pháp luật trong nước theo hướng “nội luật hóa” các cam kết quốc tế, hủy
bỏ hoặc thay đổi những quy định pháp luật không phù hợp để tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực thi các cam kết quốc tế” [26, tr.306-307].
2.2.5. Kết quả hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại
2.2.5.1. Tác động của lực lượng Quản lý thị trường Tây Ninh đối với tình hình
kinh tế – xã hội tại địa phương
Có thể khẳng định rằng: hoạt động của lực lượng QLTT đã tạo ra
những tác động tích cực, góp phần đảm bảo sự ổn định cho hoạt động thương mại
trên địa bàn tỉnh Tây Ninh phát triển đúng theo định hướng mà Đảng và Nhà nước
+
ta đã đề ra. Cụ thể:
Ngăn chặn tác hại của hàng hóa nhập lậu đối với kinh tế địa
phương thông qua việc KTKS thị trường, đấu tranh chống các hành vi mua
bán hàng hóa nhập lậu. Hàng lậu được xem là vấn nạn nhức nhối tại địa
phương, do những đặc thù riêng về vị trí địa lý nên Tây Ninh từ lâu đã là thị
trường và là cửa ngõ để hàng hóa có nguồn gốc từ Cambodia và các nước lân
cận nhập lậu vào thị trường Việt Nam. Hiện nay, căn cứ vào kết quả hoạt
động thì hàng năm lực lượng QLTT Tây Ninh tịch thu và xử lý số lượng
hàng lậu trị giá hàng chục tỷ đồng, tuy còn hạn chế so với thực trạng buôn
lậu và GLTM trên địa bàn nhưng kết quả trên đã góp phần không nhỏ vào
49
cuộc chiến giành lại thị trường của hàng hóa sản xuất trong nước, tạo thêm
+
công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động trong nước.
Thông qua việc thực thi các chức năng, nhiệm vụ được giao thì
lực lượng QLTT đã góp phần bình ổn thị trường, tạo điều kiện ổn định cho
hoạt động thương mại trên địa bàn diễn ra thuận lợi, không để xảy ra các
hiện tượng đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức; từng bước đưa hoạt động
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn đi vào nền nếp. Vì vậy, có thể xem lực
lượng QLTT như là cánh tay nối dài của Đảng và Nhà nước ta trong việc tổ
chức, quản lý và hoạch định các chính sách liên quan đến hoạt động thương
mại trên địa bàn.
Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số mặt hạn chế của lực lượng QLTT, tạo
ra những tác động không tốt đối với tình hình kinh tế – xã hội của địa phương, cần
phải khắc phục như: việc thực thi nhiệm vụ chống buôn lậu và GLTM của lực lượng
QLTT phần nào đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của người dân, nhất là trong tình
trạng hàng hóa sản xuất trong nước còn kém về chất lượng, mẫu mã so với hàng
nhập lậu. Do đó, cần phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng
nhân dân, tuyên truyền để họ ý thức được những tác hại to lớn của vấn nạn buôn lậu
và GLTM, từ đó tranh thủ sự đồng thuận của người dân nhằm tránh sự phản ứng
thái quá của họ. Đó là do tính chất nhạy cảm của công tác QLTT, hiện tại tuy trong
lực lượng QLTT chưa phát hiện tình trạng “bảo kê”, “làm luật” nhưng đã có rất
nhiều dư luận không tốt liên quan đến các vấn đề trên của công chức QLTT. Tác giả
xin cung cấp thêm thông tin là giai đoạn trước khi hội nhập, đã có nhiều công chức
QLTT Tây Ninh “nhúng chàm” và bị xử lý trước pháp luật gây ảnh hưởng không tốt
đến hình ảnh của ngành.
2.2.5.2. Kết quả đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại
Giai đoạn 2008 – 2012 hoạt động buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh
+
Tây Ninh có nhiều diễn biến phức tạp.
Đây là giai đoạn đầu đi vào hoạt động của khu thương mại –
công nghiệp Mộc Bài, việc gia tăng các hoạt động mua gom hàng hóa có
50
nguồn gốc, xuất xứ từ Khu đã làm cho tình hình buôn lậu trên địa bàn ngày
càng phức tạp. Bên cạnh đó, việc buôn lậu mặt hàng thuốc lá điếu ngoại
không có dấu hiệu lắng xuống do lợi nhuận từ việc buôn lậu mặt hàng này
còn rất hấp dẫn đã làm phức tạp thêm tình hình. Nhìn chung, hoạt động buôn
lậu trong giai đoạn này vẫn phát triển mà nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu
thị trường còn lớn, nhất là đối với các mặt hàng như bia, sữa,…nên bọn buôn
lậu luôn tìm cách thay đổi phương thức hoạt động. Ví dụ như chúng tiến
hành chia nhỏ các lô hàng nhằm qua mắt lực lượng chức năng; tìm cách xoay
+
vòng hóa đơn nhằm hợp thức hóa việc nhập lậu hàng hóa…
Năm 2008, kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng ảnh hưởng tới
tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát của Việt Nam tăng, ảnh hưởng đến giá
cả một số mặt hàng thiết yếu. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có
những giải pháp đồng bộ nhằm ngăn chặn tác hại của khủng hoảng, phục hồi
kinh tế. Trong đó, một trong những mục tiêu cơ bản là ổn định sản xuất trong
nước, bình ổn thị trường, đảm bảo an sinh xã hội. Để thực hiện thành công
các mục tiêu trên, ngành QLTT được chỉ đạo cần tăng cường công tác KTKS
thị trường, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong hoạt động thương
mại. Đặc biệt, tập trung vào việc kiểm tra niêm yết giá và bán theo giá niêm
yết, nhất là đối với các mặt hàng xăng dầu, gas, phân bón, lương thực, thực
Kết quả thực hiện công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM của lực
phẩm, sữa…và các hành vi GLTM khác nhằm ổn định thị trường.
lượng QLTT trên địa tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 2012:
Kết quả kiểm tra chung (xem bảng 2.1): giai đoạn 2008 – 2012, Chi
cục QLTT Tây Ninh thực hiện 13.233 lượt kiểm tra, phát hiện 9.260 vụ vi phạm
(đạt 70%), thu nộp ngân sách 19.584.586.000 đồng. Trong đó: vi phạm về buôn lậu
chiếm 72,3% (6.694 vụ/9.260 vụ) tổng số vụ vi phạm và 68,2% (13.360.296.000
đồng/ 19.584.586.000 đồng) số thu ngân sách; vi phạm về GLTM chiếm 24,8%
(2.300 vụ/ 9.260 vụ) tổng số vụ vi phạm và 24,8% (4.857.448.000
đồng/19.584.586.000 đồng) số thu ngân sách; còn lại là vi phạm khác. Như vậy, các
51
vi phạm về buôn lậu và GLTM chiếm đa số trong các hành vi vi phạm trong hoạt
động thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh (97,1% số vụ vi phạm và 93% số thu
ngân sách).
Bảng 2.1: Kết quả thực hiện công tác chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 20122
Đơn vị tính: 1.000 đồng
Năm Số vụ vi phạm
GLTM Khác
buôn lậu
buôn lậu
Số thu ngân sách GLTM (phạt HC)
Khác (phạt HC)
Phạt HC
Số vụ kiểm tra
Bán hàng tịch thu
1.808 948 331 24 180.850 3.621.389 472.600 210.000 2008
1.614 1.002 187 33 215.950 4.356.273 538.193 34.800 2009
2.574 1.312 408 55 171.750 1.929.925 1.064.850 141.037 2010
3.747 2.229 691 26 506.025 1.553.124 982.050 204.485 2011
3.490 1.799.755 398.780 426.230 1.203 683 128
776.520 2012 Tổng: 13.233 6.694 2.300 266 1.473.355 11.886.941 4.857.448 1.366.842
Kết quả đấu tranh chống buôn lậu giai đoạn 2008 – 2012 (xem biểu
đồ 2.1): tình hình buôn lậu vẫn diễn biến phức tạp; năm 2010, 2011 và 2012, số vụ
tăng so với hai năm liền trước nhưng số thu nộp ngân sách nhà nước lại giảm,
nguyên nhân do: thứ nhất, hoạt động thương mại của khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài
không còn sôi động như trước và có dấu hiệu chùn xuống nên hoạt động mua gom
hàng hóa từ khu vực này giảm cả về tần suất lẫn số lượng dẫn đến lượng hàng nhập
lậu vào thị trường giảm mạnh (xem Phụ lục 2); thứ hai, với việc Chính phủ tăng
mức chế tài đối với hành vi kinh doanh thuốc lá điếu nhập lậu [20] thì lực lượng
QLTT tập trung vào việc kiểm tra gắt gao đối với các cơ sở kinh doanh mặt hàng
này, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm, vì vậy, tuy số thu ngân sách trong giai
đoạn này giảm mạnh nhưng số vụ gia tăng và việc kinh doanh mặt hàng thuốc lá
2 Nguồn: [9], [10], [11], [12], [13]
52
điếu nhập lậu tại các cơ sở kinh doanh tạp hóa, tủ thuốc lá lưu động, quán cà
2500
5.000.000
4.500.000
2000
4.000.000
3.500.000
1500
3.000.000
2.500.000
Thu ngân sách
Số vụ
1000
2.000.000
1.500.000
500
1.000.000
500.000
0
0
2008
2009
2010
2011
2012
phê…không còn công khai như trước.
Biểu đồ 2.1: Kết quả đấu tranh chống buôn lậu giai đoạn 2008 – 2012
Kết quả đấu tranh chống GLTM giai đoạn 2008 – 2012 (xem biểu đồ
2.2): với việc Chính phủ ngày càng chú trọng vào việc hoàn thiện các quy định liên
quan đến hoạt động thương mại làm căn cứ để các lực lượng chức năng có đầy đủ
cơ sở pháp lý cho việc kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm, nhất là các hành vi
GLTM, kết quả đấu tranh chống GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh của lực lượng
QLTT đạt được những kết quả khả quan: số vụ vi phạm năm sau cao hơn năm trước
(năm 2009 giảm so với năm 2008 là do đây là năm thành lập các Đội địa bàn, có sự
thay đổi lớn về nhân sự); số thu ngân sách năm 2012 cao hơn năm 2011 trong khi số
vụ không tăng là do Chính phủ ban hành các Nghị định điều chỉnh hoạt động
thương mại đối với một số lĩnh vực cụ thể như: lĩnh vực giá [21]; xăng dầu [22]; khí
dầu mỏ hóa lỏng [23], các Nghị định này quy định mức chế tài cao hơn so với trước
đây.
53
800
2.000.000
1.800.000
700
1.600.000
600
1.400.000
500
1.200.000
400
1.000.000
Thu ngân sách
Số vụ
800.000
300
600.000
200
400.000
100
200.000
0
0
2008
2009
2010
2011
2012
+
Biểu đồ 2.2: Kết quả đấu tranh chống GLTM giai đoạn 2008 – 2012
Phân tích thêm về tỷ trọng các hành vi vi phạm về GLTM giai
đoạn 2008 – 2012 (xem bảng 2.2 và biểu đồ 2.3), ta thấy: hành vi vi phạm về
giấy phép kinh doanh (không đăng ký kinh doanh, không đủ các giấy phép
“con” đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện) chiếm tỷ lệ cao nhất
30,3% (697 vụ/2300 vụ); kế đến là vi phạm trong lĩnh vực giá với tỷ lệ
26,96% (620 vụ/ 2300 vụ). Như vậy, hai hành vi trên chiếm đến 57,26% số
vụ vi phạm về GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Điều này chứng tỏ sự thiếu
“chuyên nghiệp”, kinh doanh nhỏ lẻ và không mang tính chính quy, hiện đại
của các thương nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết về kiến
thức pháp luật và thủ tục hành chính (để xin cấp các giấy phép) còn rườm rà.
Bên cạnh đó, hành vi kinh doanh hàng hóa có nhãn vi phạm quy chế ghi
nhãn theo quy định [18] có tỷ lệ khá cao 20,22% ((465 vụ/2300 vụ), theo quy
định thì việc ghi nhãn hàng hóa là trách nhiệm của nhà sản xuất; tuy nhiên,
việc kinh doanh hàng hóa có nhãn (hoặc không có nhãn) ghi như thế nào là
do cơ sở kinh doanh quyết định. Vì vậy, với việc kinh doanh hàng hóa vi
54
phạm quy chế ghi nhãn thì các cơ sở kinh doanh đã thực hiện hành vi
GLTM). Bảng 2.2: Các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 20123
Hành vi vi phạm Năm
Niêm yết giá - Đo lường Giấy phép kinh doanh 58 - Quy chế ghi nhãn hàng hóa 42 Vi phạm khác 231 2008
59 - 77 40 11 2009
69 93 152 87 7 2010
234 40 261 116 40 2011
258 69 149 180 27 2012
620 202 697 465 316 Tổng
Tỷ lệ %
13.74%
26.96%
Niêm yết giá
Đo lường
20.22%
Giấy phép KD
Quy chế ghi nhãn hh
8.78%
Vi phạm khác
30.30%
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ các hành vi vi phạm về GLTM giai đoạn 2008 – 2012
3 Nguồn: [9], [10], [11], [12], [13]
55
2.7. Đánh giá thực trạng
2.3.3. Những mặt đạt được
Với sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Cục QLTT, cấp ủy và chính quyền địa
phương, lực lượng QLTT đã hoàn thành tốt vai trò và nhiệm vụ được giao, nhất là
trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
Trong giai đoạn 2008 – 2012, tuy tình hình còn diễn biến phức tạp nhưng công tác
chống buôn lậu và GLTM đã đạt được một số thành tựu nhất định như sau:
Bước đầu ngăn chặn các hành vi mua bán, vận chuyển, chứa chấp,
tàng trữ hàng nhập lậu, nhất là các mặt hàng như: thuốc lá điếu ngoại, rượu… Kết
quả trên đã phần nào làm cho các đối tượng mua bán, vận chuyển hàng lậu không
còn hoạt động công khai, ngang nhiên như trước, hầu hết các đối tượng này đã giảm
quy mô hoạt động và điều chỉnh phương thức hoạt động nhằm tránh né sự kiểm tra
của các cơ quan chức năng, nhất là lực lượng QLTT. Tuy nhiên, số vụ kinh doanh
hàng cấm là thuốc lá điếu ngoại không giảm mà lại có chiều hướng gia tăng là do
lực lượng QLTT tăng cường KTKS đối với các cơ sở kinh doanh cố định và do chế
tài xử lý tăng. Để đối phó, các đối tượng buôn lậu tiến hành chia nhỏ lô hàng trong
quá trình vận chuyển nhằm “qua mặt” các cơ quan chức năng. Ví dụ: trước đây các
đối tượng vận chuyển thuốc lá điếu ngoại từ cửa khẩu Mộc Bài về huyện Củ Chi,
Tp.HCM thực hiện hành vi của mình một cách ngang nhiên, công khai và có tổ
chức; thì nay, với việc tăng cường KTKS của lực lượng QLTT, các đối tượng này
đã thu hẹp phạm vi hoạt động, chúng cử người giám sát hoạt động của lực lượng,
chúng thực hiện chia nhỏ lượng hàng và chỉ chuyên chở vào các thời điểm lực
lượng chức năng nghỉ.
Góp phần bình ổn giá thị trường, đảm bảo đời sống nhân dân thông
qua việc tăng cường kiểm tra các phương tiện đo lường dùng để giao dịch với khách
hàng, kiểm tra việc niêm yết giá và bán theo giá niêm yết đối với các mặt hàng thiết
yếu, nhất là vào các dịp lễ tết, mùa du lịch; không để xảy ra các hiện tượng đầu cơ,
găm hàng, tăng giá quá mức…
56
Thực hiện tốt công tác nghiên cứu, theo dõi sát diễn biến thị trường về
cung cầu và giá cả hàng hóa, nhất là nhóm hàng hoá thuộc “danh mục hàng lậu”. Từ
đó dự báo được tình hình thị trường hàng hóa, góp phần tham mưu cho SCT và
UBND tỉnh đề ra các chính sách nhằm bình ổn thị trường, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các thương nhân làm ăn chân chính tạo điều kiện phát triển sản xuất
trong nước. Ngoài ra, việc thực hiện tốt công tác dự báo tình hình thị trường giúp
lực lượng QLTT chủ động lập kế hoạch ngăn chặn được các hành vi buôn lậu và
GLTM.
Tổ chức thực hiện tốt công tác quản lý địa bàn. Từ đó nắm được quy
luật vận động, tính chất, đặc điểm của các đối tượng buôn lậu và GLTM để có các
biện pháp hành động thích hợp như: lập phương án kiểm tra đúng địa bàn, đúng đối
tượng, đúng mặt hàng nâng cao hiệu quả hoạt động KTKS, tránh việc lạm quyền và
kiểm tra tràn lan ảnh hưởng xấu đến hình ảnh QLTT; kết hợp với các ngành chức
năng nhằm có biện pháp tuyên truyền, giáo dục phù hợp cho từng đối tượng để họ
nhận thức được tác hại của buôn lậu và GLTM từ đó không thực hiện hoặc tiếp tay
cho bọn buôn lậu và GLTM; từng bước đưa hoạt động kinh doanh trên địa bàn đi
vào nền nếp.
Góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền, thiết lập trật tự kỷ cương
pháp luật trong hoạt động thương mại, lành mạnh hóa môi trường kinh doanh, bảo
vệ hoạt động thương mại hợp pháp và lợi ích của người tiêu dùng, tạo điều kiện cho
các ngành chức năng (Thuế, Hải quan) tăng thu ngân sách.
2.3.4. Những hạn chế
Đối với mặt hàng thuốc lá: đây là mặt hàng “nóng” trong danh sách
các hàng hóa được nhập lậu qua đường biên giới của tỉnh Tây Ninh. Vì vậy, kết quả
thực hiện công tác chống buôn lậu thuốc lá điếu ngoại giai đoạn 2008 – 2012 chưa
thể hiện hết vai trò của lực lượng QLTT vì số lượng thuốc lá bị tịch thu còn rất hạn
chế nếu so với số lượng thuốc lá lậu trên thị trường. Tây Ninh là một trong những
địa bàn hoạt động chính của các đối tượng buôn lậu thuốc lá điếu ngoại [48]. Năm
57
2012, số lượng thuốc lá điếu ngoại nhập lậu vào nước ta là 900 triệu bao [28], tuy
không có số liệu thống kê chính thức về số lượng thuốc lá nhập lậu vào Tây Ninh
nhưng với 63.605 bao thuốc lá (xem biểu đồ 2.4 và phụ lục 2) nhập lậu bị lực lượng
120.000
100.000
80.000
60.000
40.000
20.000
0
2008
2009
2010
2011
2012
QLTT phát hiện và tịch thu năm 2012 thì đây là con số quá nhỏ so với thực tế.
Biểu đồ 2.4: Số lượng thuốc lá điếu nhập lậu bị lực lượng QLTT Tây Ninh
tịch thu giai đoạn 2008 – 2012
Số vụ bị phát hiện so với thực tế buôn lậu và GLTM còn thấp, chưa
nắm bắt hoàn toàn được tính quy luật của hoạt động này do các đối tượng vi phạm
thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn nhằm đối phó với lực lượng chức
năng và người tiêu dùng.
Chưa khám phá và xử lý được các đường dây, ổ nhóm buôn lậu lớn do
các đối tượng này hoạt động ngày càng tinh vi, phức tạp. Ví dụ, hiện nay có một số
đối tượng lợi dụng việc bán đấu giá tài sản tịch thu của các cơ quan chức năng, sau
đó, chúng dùng hóa đơn của cơ quan tài chính và tiến hành xoay vòng hóa đơn để
hợp thức hóa các lô hàng nhập lậu; một số vụ việc vi phạm pháp luật xử lý chưa
nghiêm (do luật còn hạn chế), tác dụng răn đe, phòng ngừa còn hạn chế.
58
Công tác thông tin nhằm dự báo chuyên sâu về buôn lậu và GLTM
còn yếu, hệ thống dữ liệu về các thương nhân trên địa bàn, các đối tượng buôn lậu
và GLTM chưa được hoàn thiện, chưa được đưa vào quản lý chính quy mà nguyên
nhân chủ yếu là do trình độ KSV còn hạn chế. Ngoài ra, do tính chất nguy hiểm của
công tác chống buôn lậu và GLTM nên việc giữ bí mật nhằm đảm bảo an toàn cho
đầu mối cung cấp tin là cần thiết, vì vậy, thường chỉ có KSV trực tiếp nhận tin từ
đầu mối biết chính xác đối tượng này nên việc lưu trữ, lập danh sách quản lý đối với
các đối tượng trên chưa thực hiện được.
Hạn chế về nguồn nhân lực ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác
và việc hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao. Hầu hết cán bộ, công chức chưa
được đào tạo chuyên sâu, bài bản về kiến thức chuyên môn; khi thực thi nhiệm vụ
chuyên môn thì chủ yếu dựa vào kinh nghiệm công tác lâu năm trong ngành để nhìn
nhận và xử lý vấn đề mang tính pháp lý. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện lịch
sử để lại, những cán bộ, công chức này phần lớn đã phục vụ trong ngành từ trước
năm 1995, khi được tuyển dụng vào chủ yếu là do họ đã từng có thời gian công tác
tại các Ban Quản lý thị trường huyện, số lượng các công chức này chiếm khoảng
20% (trong tổng số 58 biên chế chia đều cho văn phòng Chi cục, 10 Đội QLTT và
01 Tổ công tác QLTT tại Trạm kiểm soát liên hợp Mộc Bài) biên chế. Họ không có
suy thoái về tư tưởng nhưng biểu hiện tư tưởng an phận, thiếu động cơ phấn đấu,
thiếu năng động, thiếu tính chiến đấu, chờ đến tuổi nghỉ hưu, do đó ảnh hưởng rất
lớn đến kết quả công tác.
Công tác phối hợp tuy đã được chú trọng nhưng hiệu quả chưa cao,
chưa có quy chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan. Do tính chất phức tạp và tinh
vi của hoạt động buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập nên đòi hỏi phải có sự
phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng, giữa các địa phương, giữa Tây Ninh với
các tỉnh giáp ranh và cả với các tỉnh thuộc Vương quốc Cambodia. Trong đó, cần
xác định rõ vai trò của các lực lượng chức năng tham gia nhằm thuận lợi trong việc
phân công trách nhiệm khi tham gia phối hợp.
59
Tuy sản xuất trong nước đã có bước phát triển quan trọng, không ít
mặt hàng do ta sản xuất đã chiếm lĩnh được thị trường, nhưng nhìn chung, tính cạnh
tranh của hàng nội vẫn kém so với hàng ngoại, đặc biệt là giá cả chưa phù hợp với
thu nhập của nhiều tầng lớp dân cư, nhất là người có thu nhập thấp. Xét tình hình
thực tế tại tỉnh Tây Ninh, có thể thấy rằng, khả năng sản xuất và cung ứng hàng tiêu
dùng của tỉnh là rất hạn chế, hàng hóa chủ yếu được nhập từ các địa phương lân cận
như Tp.HCM, Bình Dương và Đồng Nai. Xét về khoảng cách địa lý, các địa
phương trên không có nhiều ưu thế so với Cambodia; xét về chất lượng hàng hóa,
hàng nội địa vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với các hàng hóa cùng loại từ nước ngoài.
Ví dụ, ngành sản xuất mía đường của ta có máy móc công nghệ lạc hậu, công suất
thấp, chi phí sản xuất và chế biến đường cao nên giá thành trung bình đường Việt
Nam luôn cao hơn các nước khoảng 50%…[41].
Cơ chế, chính sách còn có kẽ hở để các đối tượng làm ăn phi pháp và
cán bộ công chức thực thi công vụ lợi dụng, mặt khác, một số cán bộ công chức
thoái hóa biến chất đã tham gia hoặc tiếp tay, “bảo kê” cho buôn lậu và GLTM. Giai
đoạn từ 2008 – 2012, tuy lực lượng QLTT Tây Ninh không có vụ việc nào liên quan
đến tiếp tay, “bảo kê” cho buôn lậu và GLTM nhưng như vậy không có nghĩa là
trên địa bàn Tây Ninh không có công chức QLTT biến chất. Xét ở góc độ kinh tế,
việc KTKS của lực lượng QLTT gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích bất chính của
các đối tượng vi phạm. Vì vậy, chúng sẽ luôn tìm cách mua chuộc, “làm thân” với
các công chức QLTT và với mức lương hiện tại thì rõ ràng việc công chức QLTT
“nhúng chàm” là có tồn tại, không riêng gì trong lực lượng QLTT Tây Ninh.
Việc tháo gỡ khó khăn về kinh phí, phương tiện, biên chế, tổ chức của
các Bộ, ngành có liên quan cho lực lượng chức năng chưa kịp thời và chưa triệt để
dẫn đến kết quả đấu tranh chống buôn lậu và GLTM còn hạn chế. Hiện nay, việc
vận chuyển hàng lậu được các đối tượng dùng phương tiện hiện đại có tốc độ cao,
trong khi đa phần phương tiện của lực lượng QLTT đã xuống cấp và hư hỏng nặng.
Bên cạnh đó là việc các đối tượng này ngày càng tận dụng triệt để những thành quả
khoa học công nghệ hiện đại cho hoạt động buôn lậu và GLTM của chúng, trong
60
khi, công cụ được trang bị nhằm phục vụ hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT
tỉnh Tây Ninh hiện nay chủ yếu là gậy cao su và súng bắn đạn nhựa, hoàn toàn
không có các máy móc hiện đại phục vụ cho việc phân tích sơ bộ về chất lượng
hàng hóa hay đơn giản là các máy ghi hình. Trong khi đó, khi Luật Xử lý VPHC có
hiệu lực từ ngày 01/7/2013 thì cơ chế trích tiền thu được từ hoạt động chống buôn
lậu và GLTM đối với các lực lượng chức năng sẽ không được tiếp tục áp dụng.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần, thái độ làm việc và tạo thêm khó khăn
cho lực lượng QLTT.
Công tác hướng dẫn, tuyên truyền pháp luật cho tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh và người tiêu dùng tuy đã được chú trọng; nhiều nơi chưa khai
thác hoặc có nhưng quá ít thông tin của người dân báo cho các cơ quan chức năng
về hàng lậu và GLTM để đấu tranh và phòng ngừa. QLTT đụng chạm trực tiếp đến
lợi ích của tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm, vì vậy, khi thực thi công vụ đôi lúc
còn gặp sự cản trở, chống đối từ phía đương sự và người thân của họ. Điều này là
do hạn chế của hệ thống luật pháp vì chế tài chưa nghiêm; hạn chế do người dân
chưa có ý thức thượng tôn pháp luật.
2.8. Những vấn đề cần giải quyết
2.4.1. Những vấn đề mang tính khách quan
Trước hết, có thể khẳng định rằng trình độ phát triển kinh tế của nước
ta, nhất là thu nhập bình quân đầu người và năng lực sản xuất hàng hóa trong nước,
phần nào ảnh hưởng đến vai trò của lực lượng QLTT. QLTT là công cụ thực hiện
quyền quản lý nhà nước trong hoạt động thương mại, phục vụ cho mục tiêu phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập,
bên cạnh việc tăng cường vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước thì nhất thiết
phải tôn trọng quy luật vận động của kinh tế thị trường. Nếu việc thi hành chức
năng của lực lượng QLTT đi ngược lại quy luật thị trường, ảnh hưởng đến lợi ích
người tiêu dùng thì sẽ gặp sự phản kháng, không đồng tình từ nhân dân, từ đó sẽ
hạn chế vai trò của lực lượng QLTT trong việc chống buôn lậu và GLTM trong quá
trình hội nhập. Một khi người tiêu dùng còn tin dùng hàng hóa ngoại nhập hơn hàng
61
hóa sản xuất trong nước thì tất yếu còn tồn tại buôn lậu. Bên cạnh đó, việc thu nhập
bình quân của người dân còn thấp, mức chi tiêu cho tiêu dùng trên tổng thu nhập
còn lớn thì họ sẽ dễ có thái độ “chấp nhận” tiêu dùng hàng hóa trôi nổi, mua lẻ hàng
hóa. Điều này tạo điều kiện cho hoạt động GLTM tồn tại và phát triển.
Thứ hai, đời sống của dân cư khu vực biên giới còn nhiều khó khăn,
trình độ nhận thức thấp. Do đó, những người này thường bị các đối tượng buôn lậu
lợi dụng để tiếp tay cho chúng. Vì vậy, chính quyền địa phương cần thực hiện
những chính sách tập trung cải thiện đời sống cho họ, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nhằm tạo công ăn việc làm cho các đối tượng này. Bên cạnh đó, cần kết hợp với các
lực lượng chức năng, nhất là QLTT tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho
họ hiểu và nắm bắt.
2.4.2. Những vấn đề về cơ chế chính sách dành cho lực lượng Quản lý thị
trường
Với vai trò là lực lượng chủ công trong việc kiểm tra và xử lý các hành vi
buôn lậu và GLTM trên thị trường nội địa thì những quy định của pháp luật liên
quan đến chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền sẽ tác động rất lớn đến hiệu quả, vai
trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong quá
trình hội nhập. Cụ thể, các vấn đề cần được giải quyết gồm:
Thứ nhất, là các quy định ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực hoạt động
+
của lực lượng QLTT như: nguồn nhân lực; nguồn lực vật chất phục vụ công tác.
Về nhân lực, hiện tại đội ngũ nhân viên ngành QLTT tỉnh Tây
Ninh chưa đáp ứng yêu cầu công tác do: lực lượng quá mỏng và chưa xin
thêm được biên chế; lương thấp so với các ngành chức năng chống buôn lậu
và GLTM khác. Cụ thể, mức lương dành cho công chức QLTT chưa tương
xứng với mức độ và tính chất công việc QLTT. Công chức ngành QLTT
hưởng lương theo mức lương dành cho khối hành chính nhà nước và hưởng
thêm 25% phụ cấp ngành, thấp hơn nhiều nếu so với mức lương dành cho
các lực lượng như Hải quan, Bộ đội biên phòng và nhất là Cảnh sát kinh tế –
62
cùng với QLTT thì đây là lực lượng chính trong việc đấu tranh chống buôn
+
lậu và GLTM trên thị trường nội địa.
Về nguồn lực vật chất, có thể khẳng định, những khó khăn về
điều kiện làm việc, về phương tiện phục vụ công tác hiện nay của QLTT Tây
Ninh là do cơ chế, chính sách của ta còn rườm rà, nhiều bất cập. Cụ thể, khi
thành lập các Đội QLTT huyện vào tháng 7/2009 thì chủ trương, chính sách
chung của UBND tỉnh Tây Ninh là sẽ xây dựng trụ sở mới và trang bị thêm
xe môtô cho các Đội QLTT huyện. Nhưng từ khi có chủ trương trên đến khi
xây dựng xong được 04 trụ sở (trên tổng số 10 Đội) và cấp 10 xe môtô cho
các Đội là vào tháng 1/2013. Như vậy, phải mất đến hơn 3 năm để hoàn tất
+
việc xây dựng 04 trụ sở trên và “xin” được kinh phí để mua xe.
Hiện tại, các lực lượng chức năng chống buôn lậu, GLTM,
hàng giả được trích kinh phí hoạt động từ nguồn thu xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực chống buôn lậu, GLTM, hàng giả. Phần kinh phí được trích để
sử dụng cho các mục đích như mua sắm trang thiết bị, phương tiện, chi bồi
dưỡng trong thời gian điều trị bệnh do tai nạn trong khi thi hành nhiệm vụ
[5], [6],…Tuy nhiên, đến tháng 7/2013 khi Luật Xử lý VPHC có hiệu lực thì
cơ chế trích như trên không còn được áp dụng nữa. Như vậy, khi các lực
lượng chức năng cần kinh phí phục vụ các mục đích trên thì phải đi “xin” và
chờ phân bổ kinh phí.
Thứ hai là các quy định về tổ chức, quy chế làm việc của lực lượng
+
QLTT.
Trước hết, việc tổ chức lực lượng QLTT hiện đang được điều
chỉnh theo Nghị định số 10/CP ngày 23/01/1995 của CP và Nghị định số
27/2008/NĐ-CP ngày 13/3/2008 của CP. Theo quy định hiện hành thì lực
lượng QLTT hoạt động theo cơ chế “song trùng trực thuộc” vừa trực thuộc
SCT vừa chịu sự chỉ đạo theo ngành từ Cục QLTT. Điều này tạo ra những
khó khăn nhất định cho công tác chống buôn lậu và GLTM trong quá trình
hội nhập, do hệ thống tổ chức hiện tại đã hạn chế sự chỉ đạo của Cục QLTT
63
và sự phối hợp trong hoạt động giữa các Chi cục. Trong khi đó, phạm vi hoạt
động của buôn lậu và GLTM ngày càng được mở rộng, hệ thống “chân rết” ở
khắp nơi, không còn gói gọn trong một địa phương, một vùng mà mang tính
+
chất liên tỉnh, liên quốc gia.
Quy chế làm việc của lực lượng QLTT hiện đang tồn tại một số
điểm làm ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và vai trò của lực lượng QLTT
trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Cụ thể, Đội trưởng Đội QLTT có
quyền quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC, khi nơi cất
giấu là nơi ở thì quyết định khám phải được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ
tịch UBND huyện trước khi tiến hành [37], [39]. Do tính chất đặc thù của
hoạt động chống buôn lậu và GLTM là khi có cơ sở hoặc nhận được tin báo
thì cần tiến hành kiểm tra ngay, không để đối tượng có thời gian tẩu tán
phương tiện, tang vật vi phạm. Như vậy, quy định trên đã ngăn chặn phần
nào vai trò của lực lượng QLTT.
Thứ ba, là những quy định về quy chế phối hợp giữa các lực lượng có
chức năng chống buôn lậu và GLTM với nhau, giữa lực lượng QLTT và các lực
lượng chức năng khác. Vấn đề này là do ảnh hưởng trực tiếp từ việc tổ chức và quy
chế hoạt động của BCĐ 127 cấp huyện. Hiện tại, theo quy chế thì các thành viên
BCĐ 127 hầu hết đều kiêm nhiệm nên ảnh hưởng rất lớn tới việc chỉ đạo, điều hành
và đề ra các chủ trương, chính sách đối với công tác chống buôn lậu và GLTM.
Ngoài ra, việc thành lập BCĐ 127 cấp huyện là thực sự không cần thiết, theo tôi, do
các đơn vị trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chống buôn lậu và GLTM đều là “ngành
dọc” nên thực hiện theo chỉ đạo của cơ quan cấp trên và của BCĐ 127 tỉnh; đồng
thời, do tính chất của buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập liên quan đến
nhiều ngành, nhiều địa phương nên cần có một sự chỉ đạo chung và duy nhất từ một
cơ quan – BCĐ 127 tỉnh.
Cuối cùng, việc quy định chức năng, nhiệm vụ của các ngành còn
chồng chéo, nhất là trong lĩnh vực Vệ sinh an toàn thực phẩm và đo lường chất
lượng. Vì vậy, thường xuyên xảy ra việc trùng lặp về đối tượng được kiểm tra, về
64
nội dung kiểm tra, gây ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động của các cơ sở sản
xuất, kinh doanh. Vấn đề đặt ra là cần có sự phối hợp nhịp nhàng hơn nữa trong
hoạt động kiểm tra giữa Chi cục Vệ sinh An toàn thực phẩm với các Đội QLTT,
giữa Chi cục Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng với các Đội QLTT.
2.4.3. Những vấn đề về hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động buôn lậu và
gian lận thương mại
Thứ nhất, cần tập trung giải quyết những tồn tại trong chính sách lưu
thông hàng hóa, đặc biệt là các quy định về chế độ hóa đơn, chứng từ nhất là đối với
hàng hóa có nguồn gốc từ nước ngoài. Cụ thể, cần xem xét chỉnh sửa Thông tư liên
tịch số 60/2011/TTLT-BTC-BCT-BCA ngày 12/5/2011 của liên Bộ Tài chính – Bộ
Công Thương – Bộ Công an về hướng dẫn chế độ hóa đơn, chứng từ đối với hàng
hóa nhập khẩu lưu thông trên thị trường. Đồng thời, thực hiện tốt việc dán tem nhập
khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu, nhất là đối với mặt hàng thuốc lá và rượu.
Thứ hai, nhãn hàng hóa là một yếu tố quan trọng của sản phẩm, nó thể
hiện “lý lịch sản phẩm”, bao gồm nguồn gốc xuất xứ và chất lượng. Hiện tại, việc
ghi nhãn hàng hóa được điều chỉnh theo Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày
30/8/2006 của CP. Tuy nhiên, do các quy định trong Nghị định trên được áp dụng
đã lâu nên dần xuất hiện những tồn tại cần phải sửa đổi, bổ sung kịp thời phù hợp
với yêu cầu thực tiễn.
Thứ ba, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì ngày càng xuất hiện
nhiều loại sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Do đó, hệ
thống tiêu chuẩn quốc gia, nhất là đối với nhóm hàng tiêu dùng, cần được xây dựng
và liên tục hoàn thiện để hướng dẫn, khuyến khích người sản xuất, đồng thời tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động KTKS thị trường.
Cuối cùng, cần điều chỉnh những quy định về quyền và nghĩa vụ của
thương nhân, những điều kiện cần phải đạt được khi kinh doanh các hàng hóa kinh
doanh có điều kiện, hàng hóa hạn chế kinh doanh. Đồng thời, tăng mức chế tài xử lý
không chỉ nhắm vào việc phạt tiền mà còn “đánh” vào các điều kiện khác.
65
2.4.4. Cần tăng cường giáo dục nhằm nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật
của người dân
Hiện nay, hoạt động chống buôn lậu và GLTM của lực lượng chức
năng còn gặp nhiều trở ngại do chưa được sự đồng thuận của người tiêu dùng, của
thương nhân. Nguyên nhân là do họ chưa có được cái nhìn đúng đắn về công tác
QLTT, về tác hại của vấn đề buôn lậu và GLTM đến nền kinh tế, đến sức khỏe và
lợi ích của mình. Vì vậy, khi lực lượng chức năng thi hành nhiệm vụ thì còn có
không ít người dân đứng ra che chở, tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu và GLTM,
chống lại người thi hành công vụ.
Một trong những rào cản to lớn ngăn chặn công tác chống buôn lậu và
GLTM là tâm lý “sính hàng ngoại” của người tiêu dùng, là sự dễ dãi trong việc chấp
nhận tiêu dùng hàng hóa chỉ quan tâm tới giá cả mà không xét đến các yếu tố khác
như nguồn gốc, chất lượng… Để giải quyết vấn đề này, cần kết hợp nhiều giải pháp
nhằm thay đổi thói quen, nhận thức và sở thích của người tiêu dùng.
66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Thông qua việc phân tích thực trạng công tác đấu tranh chống buôn lậu và
GLTM của lực lượng QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập, từ
đó chỉ ra những vấn đề cần giải quyết làm nền tảng cho việc đề xuất các giải pháp
trong chương 3. Kết quả phân tích trong chương 2 có thể được tóm tắt như sau:
Phân tích những đặc trưng cơ bản về điều kiện tự nhiên và các đặc
điểm kinh tế – xã hội ảnh hưởng tới việc “phân bố” của hoạt động buôn lậu và
GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Cụ thể, khu vực tập trung hoạt động buôn lậu và
GLTM là 2 khu kinh tế cửa khẩu quốc tế (Mộc Bài và Xa Mát) và trung tâm thương
mại các huyện, thị xã. Đồng thời khái quát được các đặc điểm của hoạt động buôn
lậu và GLTM như: địa bàn hoạt động; đối tượng vi phạm; mặt hàng vi phạm;
phương thức, thủ đoạn của bọn buôn lậu và GLTM; và một số hành vi vi phạm chủ
yếu của bọn chúng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy những mặt đạt được trong việc chống
buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2008 – 2012 như: bước
đầu ngăn chặn được tình trạng buôn lậu công khai, ngang nhiên; bình ổn thị trường
nội địa…có được là do sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo chính quyền địa
phương, của lãnh đạo Cục QLTT và sự đoàn kết, gắn bó lâu dài với nhau trong quá
trình công tác của đội ngũ nhân sự hiện có tại Chi cục QLTT Tây Ninh. Tuy nhiên,
bên cạnh mặt đạt được thì vẫn còn những hạn chế như: số vụ bị phát hiện so với
thực tế buôn lậu và GLTM còn thấp; chưa nắm bắt được tính quy luật của hoạt động
buôn lậu và GLTM; hạn chế về nguồn nhân lực ảnh hưởng đến việc thực thi vai trò,
nhiệm vụ của lực lượng QLTT Tây Ninh… Để khắc phục những hạn chế nêu trên,
ta cần phân tích, xem xét nguyên nhân và từ đó đề ra những vấn đề cần giải quyết cả
trong ngắn hạn lẫn dài hạn, cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Theo đó, tác giả nêu ra 4 nhóm
vấn đề cần giải quyết để làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm
tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và
GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ở chương 3.
67
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA LỰC
LƯỢNG QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG TRONG VIỆC ĐẤU TRANH
CHỐNG BUÔN LẬU VÀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH TÂY NINH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
3.4. Dự báo tình hình tác động đến công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian
lận thương mại trong quá trình hội nhập
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan đối với
sự tồn tại và phát triển của các quốc gia. Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế vừa là cơ hội, vừa là thách thức, vừa là quá trình hợp tác phát triển vừa đấu
tranh rất phức tạp trong đó có vấn đề phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm
kinh tế nói riêng bao gồm buôn lậu và GLTM làm nảy sinh những vấn đề rất mới cả
về đối tượng, tính chất, đặc điểm và quy luật hoạt động. Dự báo việc thực hiện các
dòng giảm thuế nhập khẩu theo cam kết khi gia nhập WTO, và việc sử dụng các
công cụ pháp lý ngăn chặn hàng hóa nước ngoài gia nhập thị trường nội địa nhằm
bảo hộ sản xuất trong nước thì buôn lậu có diễn biến phức tạp theo chiều hướng
giảm dần về cường độ nhưng tăng về số lượng, quy mô với những hình thức và thủ
đoạn mới tinh vi, phức tạp hơn. Bên cạnh đó, việc tăng cường giao lưu hợp tác kinh
tế quốc tế cùng với sự phát triển kinh tế trong nước làm cho các hành vi GLTM
ngày càng tăng.
Các tập đoàn kinh tế lớn khi vào thị trường Việt Nam, ngoài tiềm lực
vượt trội về tài chính, về công nghệ và nguồn nhân lực thì họ còn nhận được sự hỗ
trợ về mặt pháp lý từ các công ty tư vấn luật có uy tín và có nhiều kinh nghiệm
trong việc khiếu kiện, xử lý các tranh chấp trong thương mại quốc tế. Do đó, công
tác kiểm tra và xử lý vi phạm của các lực lượng chức năng sẽ gặp rất nhiều khó
khăn và áp lực, đòi hỏi hệ thống pháp luật về thương mại cần được xây dựng theo
hướng hiện đại và phù hợp với luật pháp quốc tế; đồng thời, cần nâng cao năng lực
68
đối với đội ngũ thực thi thông qua việc xây dựng lực lượng QLTT theo hướng chính
quy, hiện đại.
Sự phát triển kinh tế, mở rộng thị trường và sự xuất hiện của công
nghệ mới, nhất là của công nghệ thông tin sẽ xuất hiện nhiều hành vi và thủ đoạn vi
phạm mới tinh vi, phức tạp hơn. Ví dụ như việc các cửa hàng bán lẻ xăng dầu sử
dụng chip điện tử nhằm điều chỉnh lượng hàng bán ra, làm sai lệch độ chính xác của
cột bơm xăng dầu theo hướng có lợi cho người bán, khi bị kiểm tra thì chỉ với một
cái ấn nút là chủ cơ sở sẽ ngắt được tác động của chip điện tử và trả lại độ chính xác
vốn có cho cột bơm, đây là thủ đoạn “móc túi” người tiêu dùng khá tinh vi và khó
bị phát hiện.
3.5. Các chủ trương chính sách đối với công tác quản lý thị trường trong quá
trình hội nhập
Báo cáo chính trị trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
khẳng định: “…Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng
bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, định hướng phát triển, phát huy mặt tích
cực, hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường;…” [2, tr.136-137].
QLTT là một ngành, công cụ để đảm bảo việc thực thi pháp luật trong thực tiễn hoạt
động thương mại nhằm hạn chế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường.
Đây là cuộc chiến lâu dài, khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao độ,
kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp và phát huy sức mạnh tổng hợp cả nước. Với tính
chất quan trọng như trên, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương chính sách về công tác QLTT, nhất là xây dựng và phát triển lực lượng
QLTT cả nước theo hướng chính quy và hiện đại, từ đó góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:
Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị về “Tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định
69
hướng xã hội chủ nghĩa” khẳng định: lực lượng Quản lý thị trường được xây dựng
theo hướng chính qui, tổ chức chặt chẽ [8].
Chỉ thị số 853/1997/CT-TTg ngày 11/10/1997 của Thủ tướng Chính
phủ về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới, khẳng định tính chất và tầm
quan trọng của việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM: “Đấu tranh chống buôn
lậu là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và lâu dài của Nhà nước ta. Vì vậy, chính
quyền các cấp cần tập trung lực lượng để đấu tranh mạnh mẽ vào các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại, nhất là các hoạt động buôn lậu có tổ chức” [43].
Ngày 14/02/2002, trước yêu cầu đấu tranh chống buôn lậu và GLTM
trong tình hình mới của quá trình hội nhập, Văn phòng Chính phủ có Công điện số
1254/VPCP-V1 thông báo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ,
Ngành và địa phương trong cả nước: “Phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm cấp bách
và phải chỉ đạo thực hiện thường xuyên không chỉ làm theo kiểu chiến dịch “từng
đợt”. Nơi nào, địa bàn nào tình hình buôn lậu không giảm thì Chủ tịch UBND, Thủ
trưởng đơn vị lực lượng phụ trách địa bàn đó phải chịu trách nhiệm trước Thủ tướng
Chính phủ”. Đối với các Bộ, Ngành được giao làm nhiệm vụ chống buôn lậu và
GLTM: “Phải đặc biệt chú trọng tăng cường thanh tra, kiểm tra làm trong sạch đội ngũ làm nhiệm vụ” [47].
Công điện số 1126/CĐ-TTg ngày 03/8/2012 của Thủ tướng Chính
phủ về việc tăng cường công tác chống buôn lậu, GLTM và hàng giả khẳng định
tính chất lâu dài và toàn diện của cuộc chiến chống buôn lậu và GLTM, cần có sự
tham gia phối hợp cũng như giám sát của nhân dân và các cơ quan thông tấn báo
chí: “Các cơ quan thông tấn báo chí phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng
phản ánh kịp thời, khách quan tình hình buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại;
tiêu cực, bất cập trong hoạt động của các cơ quan chức năng, đồng thời tuyên
truyền, vận động nhân dân không tham gia, không tiếp tay cho các hành vi vi phạm” [44].
Hiện Bộ Công Thương đang trình Chính phủ xem xét và phê duyệt
“Chương trình quốc gia chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại giai đoạn
70
2012 – 2020” nhằm sử dụng tối đa nguồn lực hiện có, tránh chồng chéo, lãng phí;
củng cố bộ máy từ Trung ương đến địa phương nhằm bảo đảm thực thi tốt nhiệm vụ
KTKS để kịp thời can thiệp và từng bước xóa bỏ tình trạng buôn lậu, hàng giả và
GLTM.
Như vậy, có thể thấy rằng công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM là
một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay và đã
được thể chế bằng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với từng giai đoạn
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Cụ thể là việc hình thành và phát triển lực
lượng chức năng như QLTT với vai trò là lực lượng chủ công trong công tác chống
buôn lậu, hàng giả và GLTM trên thị trường nội địa; đồng thời là việc hoàn thiện
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi vi phạm với những quy định
và chế tài ngày càng chặt chẽ, mang tính răn đe nhiều hơn đối với các sai phạm
trong hoạt động thương mại và cả trong hoạt động KTKS của lực lượng chức năng.
3.6. Các giải pháp
Vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và
GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay chưa được thể hiện rõ, nguyên nhân là
do những tồn tại chưa được khắc phục như đã phân tích trong chương II. Vì đây là
hoạt động liên quan đến nhiều lĩnh vực như: pháp luật, kinh tế và xã hội… nên
không thể có một giải pháp cụ thể nào có thể giải quyết được những tồn tại trên. Vì
vậy, để tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu
và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập, ta cần kết hợp các
giải pháp trong từng lĩnh vực cụ thể. Tác giả xin đề xuất 03 nhóm giải pháp sau:
3.3.1. Nhóm giải pháp hành chính
3.3.1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý
Mục tiêu giải pháp: hiện nay, hệ thống pháp luật trong hoạt động
thương mại vẫn còn nhiều bất cập do thực tế luôn thay đổi nên cần thường xuyên
xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định cho phù hợp: “…hệ thống pháp luật
Việt Nam đang thiếu nhiều quy định điều chỉnh các hoạt động thương mại” [26,
71
tr.308]. Đồng thời, hoạt động xây dựng văn bản pháp luật nói chung, văn bản pháp
luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói riêng, phải luôn cập nhật và đổi mới vì
thực tiễn luôn luôn thay đổi. Vì vậy, giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm
kịp thời phát hiện, điều chỉnh các quy định không còn phù hợp, đồng thời ban hành
các quy định điều chỉnh hoạt động thương mại cho phù hợp với thực tiễn trong quá
trình hội nhập.
Biện pháp thực hiện:
Chỉnh sửa các văn bản hiện hành theo hướng đảm bảo các chế tài đủ
mạnh nhằm giáo dục, răn đe các đối tượng vi phạm và những kẻ tiếp tay cho chúng.
Hiện nay, các Nghị định quy định hình thức xử phạt bằng tiền chủ yếu là căn cứ vào
giá trị hàng hóa vi phạm. Trong khi lạm phát ở nước ta luôn có xu hướng tăng cao
hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế nên các mức chế tài bằng tiền trên sẽ không đủ tính
răn đe sau một thời gian áp dụng. Vì thế, theo tôi cần quy định chế tài xử phạt thông
qua hành vi vi phạm của đối tượng. Ví dụ: khi một đối tượng kinh doanh hàng hóa
nhập lậu là dép lào do Thái Lan sản xuất với số lượng là 30 đôi thì Chính phủ cần
quy định mức xử phạt dựa trên một đôi và sau đó nhân lên để tính ra số tiền xử
phạt, trường hợp này là 30 lần mức tiền phạt đối với hành vi kinh doanh một đôi
dép lào lậu. Tuy nhiên, để thực hiện quy định trên cần lập danh mục các hàng hóa
có tính năng, tác dụng tương đồng nhau và đưa ra khung tiền phạt cho từng hành vi
đối với từng nhóm hàng hóa riêng biệt. Ví dụ: nhóm hàng tiêu dùng sẽ có khung
tiền phạt khác với nhóm hàng điện tử; nhóm hàng may mặc sẽ có khung tiền phạt
khác với nhóm hàng thực phẩm…
Tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan đến việc tạo lập môi
trường kinh doanh và các điều kiện đối với thương nhân nhằm đảm bảo môi trường
kinh doanh lành mạnh, mang tính cạnh tranh cao, không hạn chế thương nhân tham
gia nếu họ đáp ứng được các điều kiện theo quy định. Trước hết, Chính phủ cần tiếp
tục bổ sung và hoàn thiện các quy định về hàng hóa cấm kinh doanh, kinh doanh có
điều kiện, hạn chế kinh doanh để từ đó các Bộ, ngành có cơ sở ban hành các quy
định về điều kiện đối với thương nhân kinh doanh hàng hóa thuộc phạm vi quản lý
72
của mình. Kế đến, khi thương nhân đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện và tiến hành
kinh doanh thì quy định rõ cách thức và các thông tin cần thiết họ sẽ phải cung cấp
hoặc thông báo để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng.
+ Ví dụ, lĩnh vực kinh doanh xăng dầu hiện nay còn tồn tại
những bất cập trong cơ chế quản lý giá cả và chất lượng hàng hóa. Giá cả
hàng hóa là do thị trường quyết định, nhưng theo Nghị định số 84/2009/NĐ-
CP thì giá xăng trên thị trường được quyết định bởi liên Bộ Tài Chính và Bộ
Công Thương quyết định dựa trên đề nghị của các doanh nghiệp đầu mối.
Trên cơ sở đó, các cửa hàng bán lẻ xăng dầu bán hàng đúng theo giá đã quy
định. Trước hết, tác giả không phân tích theo hướng là liệu có hay không sự
cấu kết vì “lợi ích nhóm” của các doanh nghiệp đầu mối trong việc điều
chỉnh lên xuống giá xăng dầu mà đi vào hoạt động của các cửa hàng bán lẻ
xăng dầu. Kinh doanh xăng dầu là lĩnh vực kinh doanh hàng hóa có điều
kiện, để được mở đại lý bán lẻ xăng dầu thì thương nhân phải đáp ứng được
các điều kiện theo quy định. Vấn đề đặt ra là trong các điều kiện thì có điều
kiện về địa điểm kinh doanh và để mở một cửa hàng bán lẻ xăng dầu thì
thương nhân phải bỏ ra một số vốn không nhỏ, đồng thời người kinh doanh
không được bán khác so với giá đã quy định mà chỉ thu lợi nhuận thông qua
phần hoa hồng được thương nhân đầu mối trích lại – mức phổ biến hiện nay
là từ 200 đồng/lít đến 500 đồng/lít. Do đó, đa phần các cửa hàng bán lẻ xăng
dầu đều có thế “độc quyền” trong một khu vực địa lý nhất định và lợi nhuận
chủ yếu của họ là từ hoa hồng. Với mức hoa hồng như trên thì các cửa hàng
“độc quyền” ở các khu vực thành thị, khu đông dân cư sẽ có lãi, còn nếu
“độc quyền” tại các khu vực nông thôn thì không, nếu muốn có lãi thì chỉ
còn cách thực hiện hành vi GLTM bằng việc “điều chỉnh” số lượng, chất
lượng hàng bán ra. Như vậy, để khắc phục những tồn tại trên thì Chính phủ
cần xem xét sửa đổi các quy định về điều kiện kinh doanh và mức giá được
phép bán ra thị trường của các đại lý bán lẻ xăng dầu để họ được chủ động
trong kinh doanh.
73
Hoàn thiện các quy định liên quan đến đối tượng chính của hoạt động
thương mại, đó là hàng hóa. Cụ thể như sau:
+ Nhãn hàng hóa là yếu tố không thể tách rời của hàng hóa, nó
thể hiện những phần cơ bản của hàng hóa như: do ai sản xuất, nguyên liệu sử
dụng, ngày sản xuất và hạn sử dụng… Do đó, để tăng tính hiệu quả quản lý
nhà nước trong hoạt động thương mại thì nhất thiết phải có hệ thống các quy
định rõ ràng, chặt chẽ đối với việc ghi nhãn hàng hóa của thương nhân chịu
trách nhiệm về hàng hóa đó. Hiện tại, theo Nghị định số 89/2006/NĐ-CP
ngày 30/8/2006 của Chính phủ thì những nội dung bắt buộc phải thể hiện
trên nhãn hàng hóa gồm các tiêu chí sau: tên hàng hóa; tên và địa chỉ của tổ
chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; xuất xứ hàng hóa. Theo tôi, quy
định trên là chưa đủ, trên nhãn hàng hóa cần thể hiện thêm các tiêu chí bắt
buộc như: tiêu chuẩn sản xuất và định lượng hàng hóa. Vì một khi đã sản
xuất hàng hóa để bán ra thị trường thì số lượng và chất lượng phải đồng nhất,
phải theo một tiêu chuẩn nhất định (tiêu chuẩn của cơ sở hoặc tiêu chuẩn
Nhà nước quy định). Nếu trên nhãn hàng hóa không thể hiện hai tiêu chí trên
thì sẽ gây ra khó khăn trong hoạt động KTKS chất lượng, số lượng hàng hóa
do không có cơ sở để xác định là sản phẩm không đạt chất lượng hay không
đủ về số lượng. Vì vậy, Chính phủ cần xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 89/2006/NĐ-CP theo hướng yêu cầu thương nhân chịu trách nhiệm ghi
nhãn phải thể hiện thêm những thông tin bắt buộc như đã nêu ở trên.
+ Tiêu chuẩn đối với hàng hóa là cơ sở pháp lý cho việc KTKS
thị trường. “Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý
dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá
trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này” [25, tr.111].
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động KTKS thị trường của lực lượng QLTT đối
với hàng hóa cụ thể thì nhất thiết hàng hóa đó phải được sản xuất dựa trên
một tiêu chuẩn nhất định và quan trọng hơn là QLTT phải có được tiêu
74
chuẩn quốc gia của sản phẩm đó. Hiện nay, các bộ tiêu chuẩn quốc gia do
Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng ban hành. Vì vậy, bên cạnh hoạt
động xây dựng và hoàn thiện các bộ tiêu chuẩn quốc gia thì cần có sự liên
kết theo hướng trao đổi thông tin nội bộ qua mạng internet giữa Cục QLTT
và Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng để kịp thời cập nhật những
thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT,
đồng thời phản ánh những bất cập khi áp dụng vào thực tiễn của những bộ
tiêu chuẩn trên.
+ Hóa đơn, chứng từ là các căn cứ để xác định nguồn gốc, xuất
xứ của hàng hóa. Vì vậy, các quy định về chế độ hóa đơn chứng từ rất quan
trọng đối với khâu lưu thông hàng hóa. Các quy định này phải vừa chặt chẽ
để giúp lực lượng chức năng xác định đúng đối tượng kiểm tra, đồng thời
phải vừa linh hoạt để tạo điều kiện cho hoạt động lưu thông hàng hóa diễn ra
thuận lợi, thúc đẩy phát triển kinh tế. Thực tế, hiện nay các đối tượng buôn
lậu lợi dụng chính sách tạm nhập tái xuất để buôn lậu các nguyên liệu, phụ
liệu, máy móc, thiết bị…hay sử dụng hóa đơn trong nước nhằm quay vòng
cho nhiều lô hàng lưu thông trên thị trường gây nhiều khó khăn trong công
tác kiểm tra, xử lý của lực lượng chức năng. Do đó, cần quy định chặt chẽ
hơn đối với hóa đơn, chứng từ của hàng hóa nhập khẩu. Cụ thể, cần quy định
khi thương nhân nhập khẩu xuất hóa đơn cho tổ chức/cá nhân kinh doanh
hàng hóa trong nước phải kèm theo hóa đơn nhập khẩu có đóng dấu của đơn
vị nhập khẩu; đồng thời, trên nhãn phụ hàng nhập khẩu phải thể hiện một số
thông tin của hóa đơn nhập khẩu lô hàng đó.
+ Ngoài các yếu tố trên thì tem hàng hóa cũng là một phần không
thể thiếu đối với các hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa trong nước sản xuất
nhưng được bày bán tại khu vực cửa khẩu và được hưởng các chính sách ưu
đãi về thuế. Hiện nay, tại khu Thương mại – công nghiệp Mộc Bài, ngoài các
loại hàng hóa nước ngoài được dán tem miễn thuế thì các hàng hóa “made in
Viet Nam” cũng được bày bán. Để tránh việc các đối tượng buôn lậu lợi
75
dụng chính sách ưu đãi về thuế nhằm mua gom hàng hóa và sau đó đem tiêu
thụ trong nước thu lợi bất chính, đề nghị Bộ Tài chính quy định việc dán tem
miễn thuế hoặc yêu cầu tổ chức bán hàng đóng dấu “HÀNG MIỄN THUẾ”
lên bao bì đối với những hàng hóa trên. Nếu không thực hiện các giải pháp
trên thì sẽ không có đủ căn cứ pháp lý để kết luận hàng hóa đó có phải là
hàng hóa được mua gom, trốn thuế hay không?
Kết quả kỳ vọng: với giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý đã nêu
thì sẽ khắc phục được những tồn tại hiện có của hệ thống pháp luật về thương mại.
Tuy nhiên, do thực tiễn hoạt động thương mại luôn thay đổi nên giải pháp trên chỉ
thực sự đạt hiệu quả cao trong một khoảng thời gian nhất định, việc cần thiết là phải
liên tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3.3.1.2. Nhóm giải pháp tăng cường năng lực thông qua các chính sách đối với
lực lượng Quản lý thị trường
Mục tiêu giải pháp: hiện tại, những hạn chế về cơ chế, chính sách đã
hạn chế rất nhiều đến vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn
lậu và GLTM. Do vậy, đây là các giải pháp cơ bản, trực tiếp tác động đến năng lực
cũng như vai trò của lực lượng QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói riêng, cả nước
nói chung. Mục tiêu của giải pháp là thông qua việc kết hợp điều chỉnh các quy định
liên quan đến bộ máy tổ chức, cách thức hoạt động và các điều kiện liên quan đến
nguồn nhân lực nhằm tạo cơ chế thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động công vụ của
lực lượng QLTT.
Biện pháp thực hiện
Giải pháp liên quan đến việc tổ chức lực lượng QLTT. Theo cơ cấu tổ
chức hiện nay thì Chi cục QLTT là đơn vị “song trùng trực thuộc”, vừa chịu sự
quản lý của SCT, vừa chịu sự chỉ đạo của Cục QLTT. Điều này làm phát sinh
những hạn chế trong hoạt động chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập
(như đã phân tích ở chương 2). Vì vậy, cần tổ chức lại lực lượng QLTT theo hướng
nâng cấp Cục QLTT thành Tổng cục QLTT, Chi cục QLTT thành Cục QLTT và
chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp từ Tổng cục. Với mô hình tổ chức như đã đề xuất
76
sẽ tạo sự thuận lợi trong công tác chỉ đạo, điều hành từ Tổng cục đến Cục và các
Chi cục; từ đây hoạt động chống buôn lậu và GLTM sẽ được chỉ đạo thống nhất,
xuyên suốt và có sự liên kết chặt chẽ giữa các tỉnh, thành.
Giải pháp liên quan đến quá trình thực thi nhiệm vụ của lực lượng
QLTT. Vai trò của lực lượng QLTT được thể hiện rõ nhất và trực tiếp nhất là trong
quá trình thi hành nhiệm vụ, chức năng được giao. Để tăng cường vai trò này, ta cần
thực hiện các giải pháp cụ thể sau:
+ Việc đầu tiên và quan trọng nhất để công tác chống buôn lậu và
GLTM đạt hiệu quả cao là cần phải có một kế hoạch tốt, cụ thể và chi tiết với
đối tượng, địa điểm và mặt hàng kiểm tra cụ thể. Để có kế hoạch tốt, cần
thực hiện tốt công tác quản lý địa bàn nhằm thực hiện việc quản lý từ gốc,
KTKS hàng hóa từ nơi phát luồng. Tuy nhiên, để công tác quản lý địa bàn
đạt hiệu quả cao thì ngoài những kênh thông tin chính thức như: đơn vị chủ
động điều tra lập danh sách; các thông tin từ cơ sở dữ liệu của các cơ quan
chuyên ngành…thì đòi hỏi phải thu thập các thông tin phi chính thức như cài
cắm cơ sở (người dân hoặc những đối tượng đã từng hoặc đang hoạt động
buôn lậu và GLTM) để cung cấp tin báo. Với những quy định hiện hành thì
lực lượng QLTT được phép chi mua tin cơ sở phục vụ công tác kiểm tra
nhưng không được phép quan hệ với đương sự, đây là một chủ trương đúng
đắn nhằm hạn chế sự “bảo kê” của công chức QLTT. Những quy định trên
đã phần nào hạn chế nguồn cung cấp tin báo để từ đó lực lượng QLTT đưa
vào kế hoạch nhằm ngăn chặn hiệu quả các hành vi buôn lậu và GLTM. Do
vậy, giải pháp để thu thập được nhiều thông tin phi chính thức là cần thực
hiện xã hội hóa công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM (sẽ được trình
bày rõ hơn ở phần 3.3.2).
+ Để thực hiện có hiệu quả hoạt động KTKS thị trường, nhất là
trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM thì lực lượng QLTT cần
được trao quyền nhiều hơn trong việc dừng phương tiện để kiểm tra. Hiện
nay, theo quan điểm chỉ đạo chung thì lực lượng QLTT là lực lượng chủ
77
công trong việc KTKS thị trường nội địa nên không được dừng phương tiện.
Tuy nhiên, hàng hóa nhập lậu khi được vận chuyển vào thị trường nội địa thì
không chỉ tiêu thụ tại một địa điểm cụ thể mà sẽ được phân phối khắp thị
trường. Vì vậy, nếu nắm được tin báo có phương tiện vận chuyển hàng lậu đi
ngang qua địa phương của một Đội QLTT cụ thể nhưng điểm tập kết hàng
hóa là một địa phương khác thì phải xử lý như thế nào nếu không được phép
dừng phương tiện. Cần phân tích thêm rằng, chỉ có lực lượng cảnh sát giao
thông mới được dừng phương tiện và do đó, một khi lực lượng QLTT muốn
dừng xe phải nhờ hỗ trợ từ phía cảnh sát giao thông. Xét tính chất và mức độ
khẩn cấp của vấn đề thì khi có được sự hỗ trợ từ phía cảnh sát giao thông thì
phương tiện vận chuyển hàng lậu có khả năng đã di chuyển sang địa phương
khác. Đặc biệt, đối với địa phương có đặc thù là địa bàn trung chuyển hàng
hóa từ Cambodia về Tp.HCM để tiêu thụ, nếu không được quyền dừng xe thì
không thể tiến hành ngăn chặn việc vận chuyển hàng nhập lậu. Như vậy, để
giải quyết vấn đề trên, nhất thiết phải có các quy định cho phép lực lượng
QLTT được dừng phương tiện giao thông chở hàng lậu. Cụ thể, tiếp tục thực
hiện hoặc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 441/2002/QĐ-BTM ngày
16/4/2002 của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Và để khắc phục việc lạm quyền,
một khi áp dụng quy định trên, trong việc dừng phương tiện gây ảnh hưởng
đến tốc độ lưu thông hàng hóa của xã hội thì cần quy định rõ trách nhiệm và
chế tài xử lý thật nghiêm đối với các trường hợp dừng phương tiện tùy tiện,
không có cơ sở, kế hoạch cụ thể.
+ Buôn lậu và GLTM là những hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động thương mại, vì vậy, đối tượng thực hiện những hành vi trên luôn
tránh né, che giấu tang vật, phương tiện dùng để thực hiện các hành vi này,
và nơi cất giấu kín nhất là nhà ở hoặc địa điểm kinh doanh. Theo quy định
hiện hành, chỉ có Chủ tịch UBND huyện mới được quyền ra quyết định
khám nhà ở nên khi cần kiểm tra các địa điểm trên thì lực lượng QLTT phải
xin lệnh từ Chủ tịch UBND huyện. Để tránh tình trạng tẩu tán tang vật,
78
phương tiện có thể xảy ra trong thời gian xin lệnh thì cần khắc phục bằng
những quy định cho phép Đội trưởng QLTT được quyền khám nơi ở, nhưng
phải báo cáo gấp với Chủ tịch UBND huyện trước khi buổi làm việc kết thúc
và phải có sự chứng kiến, phối hợp của chính quyền địa phương (cấp
phường, xã).
Giải pháp khắc phục những tồn tại liên quan đến năng lực đội ngũ
nhân sự của lực lượng QLTT tỉnh Tây Ninh. Đội QLTT là đơn vị chính trong việc
thực hiện nhiệm vụ của lực lượng QLTT. Do đó, năng lực đội ngũ nhân sự cấp Đội
có vai trò quyết định đến sự thành công trong KTKS thị trường nói chung, đến việc
đấu tranh chống buôn lậu và GLTM nói riêng. Để nâng cao năng lực đội ngũ nhân
sự cấp Đội, cần thực hiện các giải pháp tập trung vào:
+ Hiện tại, lực lượng QLTT quá mỏng (như đã phân tích ở
Chương II), mỗi Đội QLTT hiện nay chỉ có trung bình 04 biên chế, trong đó
chỉ có từ một đến hai người được cấp thẻ KSV thị trường. Như vậy, mỗi Đội
chỉ có một tổ công tác để thực hiện tất cả các nhiệm vụ được giao. Do đó,
cần tăng thêm 35 biên chế để mỗi Đội có 07 công chức (hai tổ công tác). Bên
cạnh đó, hiện tại mỗi huyện đều đã thành lập một Đội QLTT, nhưng chỉ có
một Đội cơ động thực hiện nhiệm vụ chung. Do vậy, đề nghị UBND tỉnh
thành lập thêm một Đội cơ động chuyên trách chống buôn lậu và GLTM để
“chia lửa” với các Đội địa bàn.
+ Để giải quyết bài toán về nhân sự cho lực lượng QLTT thì
trước hết ta cần tập trung vào việc giải quyết vấn đề lương của công chức
ngành QLTT. Cụ thể, cần xem xét điều chỉnh lại mức lương tối thiểu và hệ
số đối với công chức Nhà nước; và đồng thời áp dụng tính lương thâm niên
cho công chức ngành QLTT. Bên cạnh đó, nâng cao các điều kiện tuyển
dụng đối với công chức QLTT, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Năm 2012, Chi cục QLTT Tây Ninh có 58 biên chế, trong đó: trình độ đại
học 23 người (chiếm 39,66%); trung cấp: 35 người (chiếm 60,34%) [13], với
trình độ nhân lực như trên thì chưa thể đáp ứng yêu cầu công tác chống buôn
79
lậu và GLTM trong giai đoạn hội nhập. Do vậy, trong những năm sắp tới cần
tuyển dụng thêm công chức có trình độ đại học, đồng thời cử đi đào tạo đối
với các công chức chưa đạt chuẩn nhằm nâng tỷ lệ công chức có trình độ đại
học và giảm dần tỷ lệ công chức có trình độ trung cấp.
+ Đẩy mạnh việc xin cấp đất và xây dựng mới trụ sở làm việc
cho 06 Đội địa bàn còn lại (các Đội QLTT số: 1; 2; 3; 5; 8; 10) nhằm tạo sự
ổn định trong công tác và sinh hoạt của các Đội trên. Đồng thời, đề nghị
UBND tỉnh xem xét trang bị thêm phương tiện phục vụ công tác cho cấp
Đội. Cụ thể, để đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới, cần trang bị
cho mỗi Đội QLTT một xe bán tải để phục vụ việc chuyên chở tang vật,
phương tiện VPHC; ngoài ra, việc trang bị xe bán tải thể hiện hình ảnh chính
quy, hiện đại cho lực lượng QLTT, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 12-
NQ/TW ngày 03/01/1996 của Bộ Chính trị.
+ Để chủ động về kinh phí trong công tác chống buôn lậu và
GLTM cho các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng QLTT, đề nghị Bộ
Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu và GLTM nhằm thay
thế Thông tư số 59/2008/TT-BTC ngày 04/7/2008 và Thông tư số
51/2010/TT-BTC ngày 14/4/2010 sau ngày 01/07/2013.
Giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng
chức năng trong công tác chống buôn lậu và GLTM. Trước hết, ta cần tập trung vào
việc cải tổ lại cơ quan chỉ đạo liên ngành trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM
theo hướng giải thể BCĐ 127 cấp huyện, duy trì và tăng cường hiệu quả hoạt động
của BCĐ 127 tỉnh. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa các
lực lượng chức năng như QLTT và cảnh sát kinh tế.
+ Để tăng cường hiệu quả hoạt động của BCĐ 127 tỉnh, cần kiện
toàn quy chế tổ chức của đơn vị này. Hiện nay, Trưởng Ban BCĐ 127 tỉnh
do 01 phó Chủ tịch tỉnh đảm nhiệm và phó Trưởng ban thường trực do Giám
đốc SCT đảm nhiệm và đại diện của các ngành liên quan. Việc tổ chức trên
80
đã phần nào hạn chế hiệu quả hoạt động do sự kiêm nhiệm của phó Chủ tịch
tỉnh, ảnh hưởng trực tiếp tới việc chỉ đạo, điều hành hoạt động của BCĐ 127
tỉnh. Theo tác giả, cần kiện toàn bộ máy BCĐ 127 tỉnh theo mô hình tổ chức
của BCĐ Trung ương. Cụ thể, giao Giám đốc SCT đảm nhiệm chức vụ
Trưởng ban, các ủy viên là phó Giám đốc SCT và phó Giám đốc các sở, ban
ngành có liên quan. Theo quy định thì CCT Chi cục QLTT đồng thời là phó
Giám đốc SCT, tuy nhiên, CCT Chi cục QLTT Tây Ninh hiện tại không đảm
nhiệm chức vụ phó Giám đốc SCT. Điều này đồng nghĩa với việc CCT Chi
cục QLTT không là ủy viên BCĐ 127 tỉnh. Vì vậy, đề nghị UBND tỉnh Tây
Ninh xem xét bổ nhiệm CCT Chi cục QLTT đảm nhiệm chức vụ phó Giám
đốc SCT.
+ Tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa các lực lượng chức
năng theo hướng: đề ra các kế hoạch hành động chung, cùng nhau hợp tác
thực hiện các kế hoạch kiểm tra chuyên đề đối với từng lĩnh vực kinh doanh
cụ thể như xăng dầu, gas, phân bón, vật liệu xây dựng…đồng thời, tăng
cường trao đổi thông tin qua việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ,
nhất là công nghệ thông tin, để trao đổi với nhau các thông tin về quản lý địa
bàn, văn bản pháp lý thông qua việc kết nối cơ sở dữ liệu của các cơ quan. Ví
dụ: cần kết nối cơ sở dữ liệu về các đối tượng buôn lậu và GLTM giữa lực
lượng QLTT với bộ đội Biên phòng, Hải quan, công an; và kết nối cơ sở dữ
liệu về hệ thống tiêu chuẩn quốc gia giữa Chi cục Tiêu chuẩn – đo lường –
chất lượng với các đơn vị như QLTT, công an.
Lực lượng QLTT hiện nay được giao quá nhiều nhiệm vụ như chống
buôn lậu, GLTM, kinh doanh trái phép, chống sản xuất và kinh doanh hàng giả,
thanh tra chuyên ngành thương mại, thanh tra trong lĩnh vực ATVSTP. Trong đó,
chức năng kiểm tra về ATVSTP và chất lượng sản phẩm hàng hóa có sự trùng lặp,
chồng chéo về lĩnh vực quản lý, phạm vi kiểm tra với các ngành chức năng khác, cụ
thể là Chi cục ATVSTP và Chi cục Tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng. Do vậy, để
giải quyết sự bất hợp lý trên, theo tác giả, đề nghị Chính phủ xem xét chuyển giao,
81
sáp nhập bộ phận thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra của 02 cơ quan trên vào
lực lượng QLTT. Một khi thực hiện việc sáp nhập trên sẽ tăng cường hiệu quả hoạt
động của Chi cục QLTT do tận dụng được khả năng chuyên môn và kinh nghiệm
quản lý của các cơ quan hiện hữu, đồng thời do được “giảm tải” nên sẽ có sự tập
trung hơn vào việc chống buôn lậu và GLTM.
Kết quả kỳ vọng: với việc thực hiện giải pháp này, lực lượng QLTT
sẽ được tăng cường thêm nhân lực, trao nhiều quyền hơn trong hoạt động công vụ
nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, việc được trao nhiều quyền
lực cũng là một thách thức đối với lực lượng QLTT, do vậy, để tránh việc lạm
quyền của công chức QLTT thì yêu cầu trước tiên là phải xây dựng được một cơ
chế kiểm soát hoạt động hiệu quả.
3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục
Mục tiêu giải pháp: giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền giáo dục tập trung vào việc thay đổi thói quen, nhận thức và ý thức pháp luật
của quần chúng nhân dân, công chức QLTT và của doanh nghiệp. Mục tiêu nhằm
huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân trong cuộc chiến chống buôn lậu và GLTM,
từ đó, tạo được sự đồng thuận trong xã hội đối với hoạt động của lực lượng QLTT.
Biện pháp thực hiện
Thực hiện xã hội hóa công tác chống buôn lậu và GLTM thông qua
việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục quần chúng, nhân dân và các cá nhân, tổ chức
làm ăn chân chính hiểu được mức độ vi phạm và tác hại của các hành vi buôn lậu và
GLTM đối với nền kinh tế, không tiếp tay cho các đối tượng thực hiện các hành vi
trên. Đồng thời tạo được sự đồng thuận đối với hoạt động của lực lượng chức năng,
giúp người dân hiểu và nêu cao tinh thần tố giác hành vi vi phạm. Cụ thể:
+ Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công chức QLTT phải nêu
cao tinh thần hướng dẫn, tuyên truyền để người dân, các hộ kinh doanh cá
thể hiểu được tác hại cũng như tính chất của vấn đề buôn lậu và GLTM. Do
tính chất nhạy cảm của công tác QLTT là đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của
đối tượng vi phạm nên trong khi thi hành nhiệm vụ, công chức QLTT cần
82
phải cư xử chuẩn mực, có thái độ hòa nhã và lý giải vấn đề một cách thấu
tình đạt lý, tránh sự phản ứng thái quá tạo cơ hội để các đối tượng buôn lậu
và GLTM kích động nhân dân và người thân chống người thi hành công vụ.
Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là phải e sợ hay lùi bước trước các đối
tượng vi phạm mà cần phải có thái độ kiên quyết đấu tranh, xử lý công khai,
minh bạch, đúng luật đối với các hành vi vi phạm. Thời gian gần đây, có
những vụ việc không tốt như tự ý “làm luật”, nhũng nhiễu doanh nghiệp qua
việc tự ý kiểm tra khi không có quyết định tạo dư luận không tốt, gây ảnh
hưởng xấu đối với hình ảnh của lực lượng QLTT. Do vậy, yêu cầu đặt ra là
cần chấn chỉnh kịp thời các hành động sai trái trên, đồng thời từng bước xây
dựng hình ảnh lực lượng QLTT là hoạt động với mục đích vì lợi ích người
tiêu dùng, vì một nền thương mại công bằng và phát triển, là người bạn đồng
hành của các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Để thực hiện yêu cầu trên, Bộ
Công Thương ban hành Chỉ thị số 14/CT-BCT ngày 04/9/2012 về thực hiện
một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động công vụ của công chức
QLTT nhằm chấn chỉnh và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động công vụ
QLTT với chủ đề xuyên suốt đến năm 2015 là “Rèn tác phong chính quy,
luyện ứng xử văn hóa”. Đối với công chức QLTT Tây Ninh, ngoài việc quán
triệt và thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị số 14/CT-BCT thì cần tập trung vào
việc học tập, nâng cao trình độ nắm rõ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ đáp
ứng yêu cầu công tác chống buôn lậu và GLTM trong quá trình hội nhập (vì
đa phần công chức QLTT đã phục vụ trong ngành từ trước năm 2006, đây là
giai đoạn hoạt động vận chuyển hàng lậu diễn ra sôi động, nên đa phần đều
quen với việc rượt đuổi bắt hàng lậu và không nắm vững các nghiệp vụ kiểm
tra cơ sở kinh doanh).
+ Các Đội QLTT cần có sự kết hợp chặt chẽ với các đơn vị có
chức năng tuyên truyền của địa phương, nhất là Đài truyền thanh huyện
nhằm thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật thông qua
việc phát sóng các văn bản, Nghị định liên quan để các cơ sở kinh doanh
83
hiểu và thực hiện. Đồng thời, phổ biến các thủ đoạn vi phạm của những đối
tượng buôn lậu và GLTM để người tiêu dùng biết và cảnh giác; thông tin về
các đối tượng vi phạm và chế tài xử lý để răn đe.
+ Kết hợp với Ban Quản lý các chợ trung tâm huyện, thị xã thực
hiện việc tuyên truyền thông qua loa phát thanh, trưng bày cân đối chứng để
người tiêu dùng có cơ sở so sánh. Hiện nay, sự kết hợp giữa lực lượng QLTT
và Ban Quản lý các chợ huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh Tây Ninh chưa được
các Đội QLTT quan tâm đúng mức, chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ trong khâu
kiểm tra và thực hiện các chế tài xử lý mà không chú trọng vào công tác
tuyên truyền. Nguyên nhân là do nhận thức chưa đúng về tầm quan trọng của
công tác tuyên truyền, bên cạnh đó, Ban Quản lý chợ không đủ nhân lực và
kiến thức pháp luật để thực hiện việc tuyên truyền. Có thể khẳng định rằng,
việc kết hợp tuyên truyền kiến thức pháp luật đến cơ sở kinh doanh là việc có
lợi cho cả lực lượng QLTT lẫn Ban Quản lý chợ. Cụ thể: một khi cơ sở kinh
doanh hiểu biết rõ ràng về luật sẽ thuận lợi cho hoạt động kiểm tra của lực
lượng QLTT; thông qua hiệu quả hoạt động kiểm tra của lực lượng QLTT sẽ
giúp hoạt động kinh doanh trong khu vực chợ đi vào nền nếp, thuận tiện cho
việc quản lý của Ban Quản lý chợ. Vì vậy, nhất thiết phải thực hiện việc trao
đổi thông tin, kết hợp toàn diện giữa hai cơ quan để nâng cao hiệu quả công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thương mại tại các chợ trung tâm huyện,
thị xã.
+ Kêu gọi sự hỗ trợ, kết hợp từ các doanh nghiệp, các hiệp hội
trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Việc kết hợp này đem lại lợi
ích cho cả lực lượng QLTT và doanh nghiệp: với sự hỗ trợ của lực lượng
QLTT thông qua công tác kiểm tra sẽ ngăn chặn được hàng hóa nhập lậu tạo
điều kiện để hàng hóa sản xuất trong nước chiếm lại thị phần đã mất; bên
cạnh đó, với tiềm lực của mình, các doanh nghiệp sẽ hỗ trợ nhiều mặt để lực
lượng QLTT hoàn thành vai trò, nhiệm vụ được giao. Hiện tại, Chi cục
QLTT Tây Ninh đã ký kết thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau giữa Chi cục với Công
84
ty AJINOMOTO Việt Nam, theo đó công ty AJINOMOTO Việt Nam sẽ hỗ
trợ Chi cục QLTT thông qua việc cung cấp tin các cơ sở kinh doanh bột ngọt
giả nhãn hiệu AJINOMOTO và chi phí dành cho công tác kiểm tra, xử lý;
Chi cục QLTT Tây Ninh có trách nhiệm chỉ đạo các Đội QLTT trực thuộc
phối hợp chặt chẽ với nhân viên của công ty AJINOMOTO Việt Nam trong
việc kiểm tra. Ngoài ra, trong công tác phòng chống thuốc lá lậu thì Chi cục
QLTT Tây Ninh đã thực hiện ký kết thỏa thuận với Công ty B.A.T (British
American tobacco), nội dung thỏa thuận là công ty B.A.T sẽ hỗ trợ kinh phí
các vụ việc kinh doanh thuốc lá lậu mà các Đội QLTT kiểm tra và phát hiện;
đồng thời, công ty B.A.T sẽ chịu chi phí in các ấn phẩm tuyên truyền và bản
cam kết không kinh doanh thuốc lá lậu, Chi cục sẽ chỉ đạo các Đội QLTT
thực hiện việc phát các ấn phẩm trên và yêu cầu các cơ sở kinh doanh ký
cam kết không bán thuốc lá lậu. Hiệu quả từ các thỏa thuận trên cho thấy có
sự chuyển biến tích cực trong công tác chống buôn lậu và GLTM trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh. Vì vậy, cần tiếp tục duy trì đồng thời ký thêm thỏa thuận
với các doanh nghiệp khác, nhất là doanh nghiệp trong lĩnh vực xăng dầu và
phân bón.
Các cấp, các ngành cần thực hiện tốt cuộc vận động “Người Việt Nam
ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và các chương trình như bán hàng bình ổn giá, hàng
Việt về nông thôn. Nếu thực hiện thành công các chương trình trên sẽ làm tăng độ
phủ của hàng hóa sản xuất trong nước, giảm thị phần hàng nhập lậu. Đồng thời, tạo
thói quen và sự tin tưởng dùng hàng Việt đối với người tiêu dùng, dần dần loại bỏ
tâm lý “sính hàng ngoại”. Tuy nhiên, để các chương trình trên đạt hiệu quả cao thì
cần có sự hỗ trợ về kinh phí, trợ giúp về thủ tục hành chính cũng như các điều kiện
thực tế từ cấp ủy và chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, cần công khai, minh
bạch về các điều kiện cũng như yêu cầu đối với những doanh nghiệp tham gia
chương trình để đảm bảo giá cả phù hợp, chất lượng hàng hóa đạt chuẩn. Trong quá
trình thực hiện, nhất thiết phải có sự kiểm tra của lực lượng QLTT để đảm bảo các
doanh nghiệp không trà trộn hàng hóa kém phẩm chất, hàng quá hạn sử dụng để bán
85
cho người tiêu dùng. Hiện tại, UBND tỉnh Tây Ninh đang thực hiện các chương
trình trên, tuy nhiên, chưa đảm bảo được mức độ thường xuyên và các yếu tố khác
như mặt bằng (tháng 3/2013, SCT Tây Ninh kết hợp với Co.opmart Tây Ninh tổ
chức chương trình “Hàng Việt về nông thôn” trên địa bàn huyện Dương Minh
Châu, hai bên thỏa thuận sẽ tổ chức tại khu vực trung tâm, gần chợ Thị trấn. Tuy
nhiên, khi Co.opmart Tây Ninh liên hệ với UBND huyện Dương Minh Châu thì
được bố trí mặt bằng là khu vực cách xa trung tâm thị trấn. Điều này đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến mức độ thành công của chương trình, gây lãng phí). Do vậy,
cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị liên quan để các chương trình trên có
được sự thành công theo kế hoạch đã đề ra.
Kết quả kỳ vọng: thực hiện thành công giải pháp này sẽ tạo được
chuyển biến tích cực trong nhận thức, thói quen tiêu dùng và tinh thần thượng tôn
pháp luật của các tầng lớp dân cư; đồng thời tạo được sự đồng thuận cao trong xã
hội, hướng tới thực hiện xã hội hóa việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Từ đó
góp phần tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn
lậu và GLTM.
3.3.3. Nhóm giải pháp kinh tế
3.3.3.1. Mục tiêu giải pháp
Vai trò của lực lượng QLTT đối với nền kinh tế là nhằm bảo vệ người sản
xuất, kinh doanh chân chính từ đó góp phần bình ổn thị trường, phát triển sản xuất
trong nước theo định hướng chung của Đảng và Nhà nước (như đã phân tích trong
Chương 1). Tuy không ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò của lực lượng QLTT nhưng
giải pháp kinh tế là giải pháp cơ bản và lâu dài trong việc phòng, chống buôn lậu và
GLTM: “Chỉ khi nào sản xuất hàng hóa trong nước phát triển về chủng loại, mẫu
mã, số lượng, chất lượng và giá thành đủ sức cạnh tranh với hàng lậu thì hàng lậu
khó tồn tại” [35, tr.79]. Do đó, cần ưu tiên phát triển sản xuất trong nước nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam đi đôi với đấu tranh chống các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh ở
nước ta. Trong xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra vấn đề
86
cốt yếu là các doanh nghiệp cần phải chú trọng đầu tư công nghệ, đổi mới trang
thiết bị tiên tiến, tổ chức quản lý hiệu quả để nâng cao chất lượng và giảm giá thành
hàng hóa. Đồng thời, Nhà nước cần có các chính sách cụ thể nhằm hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường, tạo điều kiện phát triển đồng bộ các loại thị trường và chủ
động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
3.3.3.2. Biện pháp thực hiện
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, phát triển thêm các cụm, khu công nghiệp nhẹ nhằm giải quyết lao
động dư thừa ở khu vực nông thôn, nhất là khu vực biên giới vì đa phần lao động
nhàn rỗi ở khu vực này là những người tiếp tay cho bọn đầu nậu trong việc vận
chuyển, buôn bán hàng lậu. Trước hết, cần tập trung phát triển hai khu kinh tế cửa
khẩu Mộc Bài và Xa Mát theo quy hoạch chung của Thủ tướng Chính phủ và các
Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội khu
vực vùng biên, đồng thời khơi dậy tiềm năng kinh tế của tỉnh.
Xây dựng quy hoạch và phát triển mạng lưới các trung tâm thương
mại trên địa bàn theo hướng hiện đại. Việc buôn bán nhỏ lẻ, phân tán không tập
trung gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý, KTKS của các lực lượng chức
năng và tồn tại những bất cập sau: các cơ sở kinh doanh hoạt động không ổn định;
nguồn gốc hàng hóa không được kiểm soát; không có sự cạnh tranh giữa các cơ sở
kinh doanh dẫn đến việc người tiêu dùng không có nhiều sự lựa chọn và từ đó phát
sinh các hành vi GLTM… Bên cạnh việc phát triển các trung tâm thương mại tại
khu vực hai cửa khẩu quốc tế nằm trong quy hoạch chung thì cần đẩy mạnh việc
phát triển các trung tâm thương mại ở mỗi huyện, thị xã thông qua việc kêu gọi đầu
tư từ các công ty bán lẻ, nhà phân phối uy tín như: Saigon Co.op; Tổng công ty
thương mại Sài Gòn (SATRA)… Để thực hiện thành công chính sách trên, UBND
tỉnh cần tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước… đồng
thời, đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục, ban hành các chủ
trương khuyến khích nhà đầu tư như giảm thuế.
87
Nguyên nhân của buôn lậu và GLTM là lợi nhuận bất chính, lợi nhuận
siêu ngạch thu được từ các hành vi kinh doanh trái pháp luật. Do thuế suất nhập
khẩu hàng hóa còn cao; hàng hóa sản xuất trong nước có giá thành cao, chất lượng
chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa. Để giải quyết vấn đề trên, cần nâng cao
năng lực sản xuất trong nước và thực hiện liên doanh, liên kết với nước ngoài để
sản xuất những mặt hàng mà hàng hóa trong nước không cạnh tranh được với hàng
hóa nước ngoài, nhất là đối với các hàng hóa nằm trong nhóm những mặt hàng nhập
lậu nhiều vào nước ta. Cụ thể, ta có thể liên doanh với các hãng sản xuất thuốc lá
nước ngoài để sản xuất thuốc lá điếu hiệu Hero và Jet như đã từng làm đối với mặt
hàng bia Heineken [24]; như vậy sẽ giảm bớt tình trạng nhập lậu thuốc lá điếu như
hiện nay, đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách.
3.3.3.3. Kết quả kỳ vọng
Khi các điều kiện kinh tế của nước ta nói chung, của tỉnh Tây Ninh nói riêng
được cải thiện thì sẽ tạo nền tảng phát triển một nền thương mại hiện đại, hướng tới
mục tiêu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến lúc
đó, hoạt động đấu tranh chống buôn lậu và GLTM của lực lượng QLTT sẽ nhận
được sự hỗ trợ tích cực từ những thành tựu của nền kinh tế như: môi trường kinh
doanh hiện đại; hàng hóa sản xuất trong nước dồi dào và có khả năng cạnh tranh với
hàng nhập lậu;… Theo đó phát huy được vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu
tranh chống buôn lậu và GLTM.
88
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Kết quả nghiên cứu trong chương 3 đã giải quyết được những vấn đề đặt ra
trong chương 2. Cụ thể như sau:
Dự báo được tình hình tác động đến công tác đấu tranh chống buôn
lậu và GLTM trong quá trình hội nhập: thứ nhất là việc giảm các dòng thuế nhập
khẩu theo cam kết khi gia nhập WTO sẽ tác động đến quy mô, tính chất của hoạt
động buôn lậu và GLTM; thứ hai là việc tham gia thị trường trong nước của các tập
đoàn đa quốc gia đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về thương mại cho phù
hợp với luật pháp quốc tế; đồng thời yêu cầu trình độ của công chức ngành QLTT
phải được nâng cao, đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới; và cuối cùng là
việc áp dụng các thành tựu khoa học vào hoạt động buôn lậu và GLTM sẽ làm cho
tình hình càng thêm phức tạp.
Nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối
với công tác QLTT trong quá trình hội nhập. Theo đó, công tác đấu tranh chống
buôn lậu và GLTM là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, với
việc xác định QLTT là một ngành thực hiện chức năng KTKS thị trường nội địa
nhằm hạn chế, khắc phục mặt trái, mặt tiêu cực của cơ chế thị trường thì chủ trương
của Đảng là định hướng xây dựng lực lượng QLTT theo hướng chính qui, tổ chức
chặt chẽ.
Đề xuất các giải pháp khả thi nhằm tăng cường vai trò của lực lượng
QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
trong quá trình hội nhập nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong chương 2. Cụ
thể, tác giả đã đề xuất 3 nhóm giải pháp gồm: giải pháp kinh tế; giải pháp hành
chính và các giải pháp liên quan đến công tác tuyên truyền, giáo dục. Với từng
nhóm giải pháp, tác giả nêu ra mục tiêu giải pháp, biện pháp thực hiện và kết quả kỳ
vọng nhằm thể hiện sự cần thiết và kết quả đạt được đối với từng giải pháp riêng
biệt. Tuy nhiên, vì đây là hoạt động liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nên
để đạt hiệu quả cao thì ta cần thực hiện kết hợp, đồng bộ các giải pháp đã đề xuất.
89
KẾT LUẬN CHUNG
Có thể khẳng định các kết quả nghiên cứu nêu ra trong luận văn đã giải quyết
được những mục tiêu đặt ra trong phần mở đầu, đồng thời có những đóng góp nhất
định trong lĩnh vực nghiên cứu. Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực chưa được quan tâm
nghiên cứu nhiều nên kết quả còn có phần hạn chế. Cụ thể:
Những đóng góp của luận văn
Làm rõ các vấn đề về lý luận liên quan đến buôn lậu và GLTM trong
quá trình hội nhập, cụ thể: đưa ra khái niệm về buôn lậu và GLTM đồng thời phân
tích những đặc điểm, đặc trưng cơ bản của chúng. Từ đó giúp ích cho việc phân biệt
sự khác nhau giữa buôn lậu và GLTM, tạo cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống pháp
luật điều chỉnh các hoạt động trên.
Hệ thống hóa các vấn đề liên quan đến lịch sử và vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của lực lượng Quản lý thị trường trong giai đoạn hiện nay, đó là việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng nhằm phát triển một nền
thương mại công bằng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân và
người tiêu dùng. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra được các yếu tố liên quan đến hoạt
động của lực lượng QLTT như: nguồn nhân lực, nguồn lực vật chất được trang bị;
các quy định của pháp luật; thị hiếu người tiêu dùng và ý thức pháp luật của người
dân là những yếu tố có tác động trực tiếp, ảnh hưởng đến vai trò của lực lượng
QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Điều này tạo cơ sở cho
hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển lực lượng QLTT trong thời gian
tới.
Chứng minh rằng với những đặc điểm rất riêng về điều kiện tự nhiên
và kinh tế – xã hội của tỉnh Tây Ninh đã làm cho hoạt động buôn lậu và GLTM trên
địa bàn có những đặc thù riêng. Cụ thể: trước hết, đây là địa bàn trung chuyển hàng
hóa nhập lậu từ Cambodia về Tp.HCM; thứ hai, hoạt động thương mại còn nhỏ lẻ
dẫn đến khó kiểm soát và quản lý. Với những đặc điểm trên cùng với việc phân tích
kết quả hoạt động giai đoạn 2008 – 2012 của Chi cục QLTT Tây Ninh, luận văn đã
90
nêu ra những tồn tại, hạn chế cần khắc phục để từ đó đề xuất các giải pháp khả thi
nhằm tăng cường vai trò của lực lượng QLTT trong việc đấu tranh chống buôn lậu
và GLTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập.
Những hạn chế của luận văn
Thứ nhất, vì đây là lĩnh vực chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều
nên không có nhiều tài liệu nghiên cứu chuyên ngành phù hợp với nội dung nghiên
cứu của luận văn. Để khắc phục hạn chế trên, tác giả thực hiện nghiên cứu chủ yếu
dựa vào ý kiến tham khảo từ các chuyên gia, là những người công tác lâu năm trong
ngành, kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn của chính mình. Do đó, kết quả nghiên
cứu không tránh khỏi những thiếu sót mang tính chủ quan.
Thứ hai, tuy giữa buôn lậu và GLTM có những đặc điểm chung, có
thể cùng thực hiện một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của lực lượng QLTT,
nhưng do thực tiễn hoạt động buôn lậu và GLTM luôn thay đổi; đồng thời đây là 2
vấn đề, 2 lĩnh vực riêng biệt nên kết quả nghiên cứu chưa phản ánh đầy đủ, chi tiết
về đặc điểm, tính chất của từng vấn đề.
Thứ ba, do lĩnh vực được phân công quản lý của ngành QLTT quá
rộng nên hiện tại, hầu hết hoạt động của lực lượng QLTT cả nước thường giải quyết
những vấn đề mang tính thời sự được dư luận đặc biệt chú ý. Vì vậy, tuy luận văn
đã đề xuất các giải pháp phù hợp nhưng để áp dụng chúng vào thực tiễn thì cần có
một quá trình lâu dài, nhất là đối với nhóm giải pháp tuyên truyền, giáo dục.
i
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo 127 Tây Ninh, 2008. Thông báo. Tây Ninh, tháng 2 năm 2008.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương, 2011. Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
3. Bộ Công Thương, 2009. Thông tư quy định chi tiết một số điều của Nghị
định số 107/2008/NĐ-CP ngày 22/9/2008 của Chính phủ quy định xử phạt hành
chính các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu
và gian lận thương mại. Hà Nội, tháng 5 năm 2009.
4. Bộ Công Thương, 2012. Chỉ thị về thực hiện một số biện pháp nâng cao chất
lượng hoạt động công vụ của công chức Quản lý thị trường. Hà Nội, tháng 9 năm
2012.
5. Bộ Tài Chính, 2008. Thông tư hướng dẫn việc quản lý, sử dụng nguồn thu từ
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng
giả. Hà Nội, tháng 7 năm 2008.
6. Bộ Tài Chính, 2010. Thông tư về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số
59/2008/TT-BTC ngày 04/7/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, sử dụng
nguồn thu từ xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chống buôn lậu, gian lận
thương mại, hàng giả. Hà Nội, tháng 4 năm 2010.
7. Bộ Thương Mại, 2000. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại về ban
hành quy chế công tác của lực lượng Quản lý thị trường. Hà Nội, tháng 9 năm
2000.
8. Bộ Thương Mại, 2001. Thông tư hướng dẫn về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn
của lực lượng Quản lý thị trường ở địa phương. Hà Nội, tháng 4 năm 2001.
9. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2008. Báo cáo tổng kết công tác năm
2008 và phương hướng nhiệm vụ năm 2009. Tây Ninh, tháng 12 năm 2008.
10. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2009. Báo cáo tổng kết công tác
năm 2009 và phương hướng nhiệm vụ năm 2010. Tây Ninh, tháng 12 năm 2009.
11. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2010. Báo cáo tổng kết công tác
năm 2010 và phương hướng nhiệm vụ năm 2011. Tây Ninh, tháng 12 năm 2010.
ii
12. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2011. Báo cáo công tác quản lý thị
trường năm 2011 và phương hướng nhiệm vụ năm 2012. Tây Ninh, tháng 12 năm
2011.
13. Chi cục Quản lý thị trường Tây Ninh, 2012. Báo cáo công tác quản lý thị
trường năm 2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013. Tây Ninh, tháng 12 năm
2012.
14. Chính phủ, 1995. Nghị định về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Quản
lý thị trường. Hà Nội, tháng 1 năm 1995.
15. Chính phủ, 2003. Nghị định về phát triển và quản lý chợ. Hà Nội, tháng
01 năm 2003.
16. Chính phủ, 2006. Nghị định về nhãn hàng hóa. Hà Nội, tháng 8 năm 2006.
17. Chính phủ, 2008. Nghị định quy định xử phạt hành chính các hành vi đầu
cơ, găm hàng, tăng giá quá mức, đưa tin thất thiệt, buôn lậu và gian lận thương
mại. Hà Nội, tháng 9 năm 2008.
18. Chính phủ, 2008. Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động thương mại. Hà Nội, tháng 1 năm 2008.
19. Chính phủ, 2008. Nghị định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 10/CP ngày 23/01/1995 của Chính phủ về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn
của Quản lý thị trường. Hà Nội, tháng 3 năm 2008.
20. Chính phủ, 2010. Nghị định Sửa đổi, bổ sung Điều 11 Nghị định số
06/2009/NĐ-CP ngày 22/01/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh rượu và thuốc lá. Hà Nội, tháng 7 năm 2010.
21. Chính phủ, 2011. Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giá. Hà Nội, tháng 9 năm 2011.
22. Chính phủ, 2011. Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về kinh
doanh xăng dầu. Hà Nội, tháng 11 năm 2011.
23. Chính phủ, 2011. Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về kinh
doanh khí dầu mỏ hóa lỏng. Hà Nội, tháng 11 năm 2011.
iii
24. Đoàn công tác Uỷ ban Kinh tế - Quốc hội: Thăm và làm việc tại Tây Ninh.
4326-83d2-11fceebc16ea&ID=2627&Web=914d7bf3-7db3-45a9-8171- 246d27cf1f24>. [Ngày truy cập: 18 tháng 5 năm 2013]. 25. Doãn Kế Bôn và Nguyễn Thị Thương Huyền, 2009. Giáo trình Khoa học hàng hóa. Học viện Tài chính. 26. Hà Thị Thanh Bình, 2012. Bảo hộ thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 27. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin Tư tưởng Hồ Chí Minh, 2011. Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác – Lênin. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 28. Hồng Hạnh, 2013. Gian nan bài toán chống thuốc lá nhập lậu. < http://www.tapchicongthuong.vn/gian-nan-bai-toan-chong-thuoc-la-nhap-lau- 20130527042228507p12c16.htm>. [Ngày truy cập: 20 tháng 5 năm 2013]. 29. Khánh Hòa. [Ngày truy cập: 3 tháng 3 năm 2013]. 30. Lê Bảo Lâm và cộng sự, 2009. Kinh tế vi mô. Tái bản lần III. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 31. Nguyễn Hữu Hải và cộng sự, 2012. Giáo trình hành chính nhà nước. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 32. Nguyễn Ngọc Dũng và cộng sự, 2011. Tài liệu dạy – học Địa lý địa phương tỉnh Tây Ninh. Tp. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam. 33. Nguyễn Triều Hoa vs Võ Phước Long, 2011. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 34. Nguyễn Văn Thái, 2003. Chống buôn lậu và gian lận thương mại ở Việt Nam (2000 – 2002) thực trạng và giải pháp. Đề tài tốt nghiệp. Học viện Ngân Hàng. 35. Phan Nguyễn Minh Mẫn, 2006. Nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, giám sát chống buôn lậu hàng hóa nhập khẩu của Chi cục Quản lý thị trường Tp.HCM. Luận văn Thạc sĩ. Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 36. Quốc Hội, 1999. Bộ Luật hình sự. Hà Nội, tháng 12 năm 1999. 37. Quốc Hội, 2002. Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc xử lý vi phạm hành chính. Hà Nội, tháng 7 năm 2002. 38. Quốc hội, 2005. Luật Thương mại. Hà Nội, tháng 6 năm 2005. 39. Quốc Hội, 2008. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Hà Nội, tháng 4 năm 2008. 40. Quốc hội, 2012. Luật xử lý vi phạm hành chính. Hà Nội, tháng 6 năm 2012. 41. Sản xuất đường mía ở việt nam hiện tại và tương lai. nam_hien_tai_va_tuong_lai.aspx>. [Ngày truy cập: 1 tháng 10 năm 2012]. 42. Tạp chí Công nghiệp – Vụ Thương mại miền núi, 2010. Phát triển khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà xuất bản Công Thương. 43. Thủ tướng Chính phủ, 1997. Chỉ thị về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới. Hà Nội, tháng 10 năm 1997. 44. Thủ tướng Chính phủ, 2012. Công điện về việc tăng cường công tác chống BL, GLTM và hàng giả. Hà Nội, tháng 8 năm 2012. 45. Tổng Cục thống kê, 2012. Niên giám thống kê. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê. 46. UBND tỉnh Tây Ninh, 2009. Quyết định về việc Ban hành Quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bộ máy của Chi cục Quản lý thị trường trực thuộc Sở Công thương. Tây Ninh, tháng 4 năm 2009. 47. Văn phòng Chính phủ, 2002. Công điện. Hà Nội, tháng 02 năm 2002. 48. Xuất hiện nhiều hành vi gian lận thương mại mới. < http://www.tapchitaichinh.vn/Utilities/PrintView.aspx?distributionid=6372>. [Ngày truy cập: 18 tháng 12 năm 2012]. PHỤ LỤC 1: Địa bàn quản lý của các Đội QLTT trên địa bàn tỉnh Tây Ninh STT TÊN ĐỘI ĐỊA BÀN QUẢN LÝ Huyện Gò Dầu Đội QLTT số 1 1 Thị xã Tây Ninh Đội QLTT số 2 2 Huyện Hòa Thành Đội QLTT số 3 3 Đội cơ động Đội QLTT số 4 4 Huyện Tân Châu Đội QLTT số 5 5 Huyện Châu Thành Đội QLTT số 6 6 Huyện Tân Biên Đội QLTT số 7 7 Huyện Trảng Bàng Đội QLTT số 8 8 Đội QLTT số 9 Huyện Dương Minh Châu 9 Đội QLTT số 10 Huyện Bến Cầu 10 Trạm KSLH Mộc Bài 11 Tổ công tác QLTT tại Trạm
KSLH Mộc Bài PHỤ LỤC 2: Các mặt hàng nhập lậu chủ yếu giai đoạn 2008 – 2012 STT Tên hàng hóa 2011 2009 Thuốc lá điếu ngoại Đơn vị
tính
Gói Năm
2008
2012
2010
96.678 67.441 96.410 97.831 63.605 Chai 1.674 498 1.021 1.008 262 Kg 5.348 22.681 6.270 1.450 3.783 Kg 1.350 743 1.940 580 96 Kg 4.353 2.798 1.842 1.487 1.475 Cái 158 1.445 804 1.618 315 1
2 Rượu ngoại
3 Đường cát Thái Lan
4 Gạo, nếp Thái Lan
5 Bột ngọt
6 Điện thoại và linh kiện
điện thoại di động
Phụ tùng xe Cái 7.010 3.531 3.137 1.310 1.545 7 Hàng hóa được mua gom từ khu Thương mại – công nghiệp Mộc Bài Lon/chai 113.563 82.955 36.108 11.008 8.525 Lon/chai 7.704 13.227 9.712 7.529 8.219 Hộp/chai 6.855 9.057 3.163 4.967 7.787 Lít 12.599 507 88 - - 8 Bia các loại
Sữa các loại
9
10 Mỹ phẩm các loại
11 Dầu ăn các loại Nguồn: Báo cáo năm của Chi cục QLTT Tây Ninh PHỤ LỤC 3: Một số vụ điển hình 1. Theo tin báo của quần chúng và được sự đồng ý của Chi cục QLTT, ngày 26/7/2008 Đội QLTT số 3 đã tiến hành kiểm tra xe ô tô tải biển số 70H-0054 tại DNTN Thanh Tuyền do ông Đặng Phước Hòa làm chủ doanh nghiệp, địa chỉ: số 39 đường Sân Cu, ấp Long Đại, xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh, phát hiện trên xe ô tô đang vận chuyển số hàng hóa: 80 cây sắt vụn và một số phụ tùng ô tô tải đã qua sử dụng gồm: 11 cái vỏ cầu; 11 cái bọc đít; 22 cái láp ngang; 03 cây số và 01 cốt máy. Qua điều tra, xác minh làm rõ: toàn bộ lô hàng phụ tùng ô tô đã qua sử dụng và sắt vụn nói trên có nguồn gốc nhập lậu, trị giá hàng hóa do Hội đồng định giá tỉnh định là 70,5 triệu đồng. Chi cục đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với ông Hoàng Văn Thắng – Giám đốc công ty TNHH Hoàng Thắng và ông Đặng Phước Hòa – chủ DNTN Thanh Tuyền, số tiền phạt là: 28 triệu đồng và tịch thu toàn bộ lô hàng phụ tùng ô tô đã qua sử dụng và sắt vụn nói trên. 2. Được nguồn tin báo của cơ sở, trên xe ô tô hiệu Daewoo biển số 70H- 7642 vận chuyển hàng nhập lậu theo lộ trình đi từ huyện Bến Cầu đi thị xã Tây Ninh – huyện Gò Dầu về Tp.HCM. Sau khi xác minh nguồn tin, vào lúc 17 giờ ngày 18/6/2011 tại xã Gia Bình, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Tổ công tác Trạm KSLH Mộc Bài được sự hỗ trợ của Tổ tuần tra kiểm soát giao thông Suối Sâu thuộc phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh kiểm tra xe ô tô trên do ông Nguyễn Hoàng Thủy, người điều khiển đồng thời là chủ xe, hiện đang cư ngụ tại khu phố 1, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Qua kiểm tra phát hiện trên xe có 04 cái túi màu đen, trong đó chứa 120 cái điện thoại di động không có hóa đơn chứng từ gồm: 118 cái điện thoại di động hiệu Iphone model A1332 do Mỹ sản xuất (05 cái điện thoại di động Iphone 4-32GB màu trắng, 65 cái điện thoại di động Iphone 4-16GB màu trắng và 48 cái điện thoại di động Iphone 4-16GB màu đen) và 02 cái điện thoại di động hiệu HTC Incredible do Đài Loan sản xuất. Qua làm việc, ông Nguyễn Hoàng Thủy khai nhận: 120 cái điện thoại của một người phụ nữ tên Vên ở Cambodia từ Bến Cầu đi Gò Chai về thị xã Tây Ninh, rồi đi tiếp đến Tp.HCM. Ngày 18/7/2011 bà Lây tiếp tục điện thoại cho ông Thủy kêu qua khu vực Bàu Quách, Cambodia để chở thuê 10 cái điện thoại di động về Tp.HCM và ông Thủy đã thực hiện bằng xe mô tô, Trạm KSLH Mộc Bài đã phát hiện và tiếp tục bắt giữ. Tổng trị giá hàng hóa trên 1.725.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm hai mươi lăm triệu đồng). Xét đây là vụ việc vận chuyển điện thoại di động nhập lậu có giá trị lớn, tính chất nghiêm trọng, Trạm KSLH Mộc Bài chuyển giao vụ việc cho cơ quan Công an điều tra làm rõ xử lý theo pháp luật. Kết quả tòa tuyên án xử phạt ông Nguyễn Hoàng Thủy: 05 năm tù; phạt bổ sung 5.000.000 đồng và tịch thu hàng hóa, tang vật vi phạm gồm: 130 cái điện thoại di động, 01 xe ô tô, 01 xe mô tô và một số tang vật khác có liên quan.iv
v
vi
vii
viii