ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH
THỂ CHÂN DUNG VĂN HỌC TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ TUẤN ANH
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
THÁI NGUYÊN - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những s
.
Tôi xin cam đoan m
.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
i
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng tới
Lãnh đạo trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các Thầy Cô giáo đã
tham gia giảng dạy và cung cấp những kiến thức cơ bản, sâu sắc, tạo điều kiện giúp
đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu rèn luyện tại nhà trường.
Đặc biệt với tấm lòng thành kính tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu
sắc nhất tới PGS.TS Vũ Tuấn Anh, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học
và tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu trường Cao
đẳng Công nghiệp Thái Nguyên đã tạo điều kiện về thời gian, vật chất, tinh
thần cho tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa học. Cảm ơn
bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã tận tình giúp đỡ động viên tác giả hoàn thành
khóa học và luận văn này.
Do điều kiện về thời gian và năng lực bản thân còn nhiều hạn chế nên
luận văn này còn có những khiếm khuyết, tác giả mong nhận được sự góp ý
chân thành của Thầy Cô và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
2.1. Về thể tài chân dung văn học ................................................................... 2
2.2. Về các công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học .................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 7
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
5. Mục đích nghiên cứu …………………………………………...………….. 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 7
7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 8
NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................................ 9
Chƣơng 1. THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 -
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ............................................ 9
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về thể tài chân dung văn học ..................................... 9
1.1.1. Giới thuyết khái niệm .............................................................................. 9
1.1.2. Mối quan hệ giữa thể tài chân dung văn học với thể loại kí và phê bình
văn học ................................................................................................................. 11
1.1.3. Các đặc điểm của thể tài chân dung văn học ....................................... 16
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học ............. 22
1.2.1. Cơ sở tiền đề cho sự ra đời của thể tài chân dung văn học ................. 22
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
iii
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học trong
văn học Việt Nam nói chung .......................................................................... 25
1.3. Thể tài chân dung văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - vị trí và
những đóng góp trong con đường hình thành và phát triển .............................. 27
Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN
1930 - 1945 TỪ BÌNH DIỆN NỘI DUNG ........................................................ 34
2.1. Những đặc điểm cơ bản ................................................................................ 34
2.1.1. Cảm hứng dựng chân dung .................................................................... 34
2.1.2. Đối tượng dựng chân dung: những nhà văn đương thời .......................... 38
2.1.3. Cung cấp tư liệu ..................................................................................... 41
2.1.4. Nhận thức và tôn vinh giá trị đích thực của tác phẩm, tác giả .................. 47
2.2. Góc độ tiếp cận đối tượng ............................................................................. 55
2.2.1. Tiếp cận với tư cách người trong cuộc, trong giới ................................... 55
2.2.2. Tiếp cận qua nhiều hình thức ................................................................. 59
2.3. Đặc điểm về cách dựng chân dung trong văn học giai đoạn 1930 - 1945 ....... 62
2.3.1. Cách tiếp cận gần gũi, thân ái mà trân trọng ................................... 62
2.3.2. Đặt cá nhân trong bối cảnh chung của văn học ....................................... 66
2.3.3. Sự chia sẻ, cảm thông của những người đồng nghiệp, đồng cảnh ...... 71
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 - TỪ BÌNH DIỆN NGHỆ THUẬT ............................... 76
3.1. Từ lát cắt hình dung bên ngoài đến tính cách của người văn, đời văn ....... 76
3.1.1. Sử dụng nghệ thuật thay đổi điểm nhìn trần thuật và kĩ thuật nhiếp ảnh .. 76
3.1.2. Sự lựa chọn tinh tế các chi tiết điển hình ............................................ 82
3.1.3. Tạo dựng không khí và bối cảnh ......................................................... 86
3.2. Đa thanh về giọng điệu ............................................................................... 88
3.3. Tính hình tượng, sự tinh tế và phong phú trong ngôn ngữ ......................... 90
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nghiên cứu văn học theo thể loại là một nhu cầu, một xu thế cấp
thiết của giới nghiên cứu văn học hiện nay. Các thể loại của văn học Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 cả về số lượng và chất lượng đã có những đóng góp
quan trọng vào sự hiện đại hóa của văn học dân tộc. Lịch sử văn học giai đoạn
này đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của thể chân dung văn học với tư
cách là một thể tài mới trong toàn bộ hệ thống thể loại văn học hiện đại. Giáo
sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng “Đây là thời kì, trong giới cầm bút, có sự thức
tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân. Mỗi người viết đều muốn có những tìm tòi riêng
về tư tưởng và nghệ thuật, đều muốn là một tiếng nói riêng. Vì thế, trong đời
sống văn học, có sự xuất hiện hàng loạt cá tính, phong cách độc đáo”. Trên
chặng đường phát triển 15 năm, thể chân dung văn học đã để lại những thành
tựu bước đầu đặc sắc. Với tất cả sự đón nhận và đánh giá rất tích cực của giới
nghiên cứu cũng như của độc giả, đã có đủ căn cứ thuyết phục để cho rằng thể
tài chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 có thể trở
thành một đối tượng nghiên cứu.
1.2. Văn học phản ánh cuộc sống, các văn nghệ sĩ là nhân vật của cuộc
sống nên họ là đối tượng khách quan cần được văn học phản ánh, bởi đằng
sau những trang viết của họ là tính cách, số phận, tài năng, buồn vui của một
con người và của cả một thời kỳ văn học. Đó chính là mảng hiện thực mà
nhiều nhà văn khai thác để dựng lên chân dung các nhà văn. Khi nghiên cứu
văn học, nghiên cứu tác giả, tác phẩm, dựa vào những tập chân dung người
đọc sẽ được cung cấp rất nhiều tư liệu về tiểu sử, cuộc đời không chỉ của
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
1
một con người bình thường mà còn là một nhà văn nổi tiếng, chính qua bức
chân dung ấy người ta có thể thấy được văn học của cả một thời đại.
1.3. Chân dung văn học cho đến nay vẫn là thể tài đang tiếp tục phát
triển. Bên cạnh đó, quan niệm về thể tài này còn có biên độ co giãn khác nhau
ở từng người viết, do vậy, vấn đề lí luận đưa ra những “tổng kết” mang tính
khái quát về lí thuyết vẫn còn khá ít ỏi và nhiều ý kiến khác nhau. Đứng trên
phương diện thực tiễn sáng tác, chúng ta nhận thấy dựng thành công chân dung
văn học về một tác giả - vốn là một đơn vị đích thực của văn học thành văn, là
một phạm trù bền vững trong phê bình và nghiên cứu văn học - không hề đơn
giản. “Đấy vừa là kết quả của việc “đọc” sáng tác của người ấy, lại vừa là kết
quả của việc “đọc” trực tiếp vào cuộc đời và sự nghiệp, quan niệm và hoạt
động của bản thân người ấy. Bản thân việc dựng một chân dung, về thực chất
cũng bao hàm sự lí giải về một nghệ sĩ, sự đánh giá vị trí và vai trò của con
người đó trong một nền văn nghệ” (Vương Trí Nhàn). Việc xếp và “dán nhãn”
thể tài chân dung văn học cho những tác phẩm trong thực tiễn sáng tác hiện
vẫn là vấn đề đòi hỏi sự “nghiêm nhặt” và thận trọng để đảm bảo sự chính xác
trong việc nhận dạng và phân loại. Vì thế, việc lựa chọn nghiên cứu những đặc
điểm của thể tài chân dung văn học trong văn học Việt Nam trong một giai
đoạn nhất định là cần thiết, giúp chúng ta định hình rõ nét hơn về thể tài này
trên cả phương diện lí thuyết và thực tiễn.
Một cái nhìn tổng quát về lịch sử nghiên cứu cho thấy mặc dù chúng ta đã
có những công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học trong văn học Việt
Nam dưới nhiều góc nhìn khác nhau nhưng chưa có công trình chuyên biệt đi sâu
vào thể tài này ở giai đoạn 1930 - 1945 - một thời kỳ đánh dấu sự hình thành và
phát triển đỉnh cao của thể tài này. Chính vì vậy, luận văn lựa chọn đề tài nghiên
cứu “Thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945”
với mong muốn có thể đóng góp thêm những khám phá hữu ích cho việc dựng lại
sự hình thành, phát triển và những đặc điểm riêng của thể tài này.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về thể tài chân dung văn học
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
2
Chân dung văn học là một thể tài khá mới mẻ trong văn học dân tộc.
Trước đây trong văn chương Việt chưa thấy xuất hiện thể tài này do rất nhiều lí
do xuất phát từ đặc điểm ý thức xã hội và văn chương. Đến giai đoạn 1930 -
1945 thể tài chân dung văn học đã xuất hiện, phát triển và có được vị trí mới,
dành được sự quan tâm đặc biệt của cả người sáng tác lẫn người đọc. Viết chân
dung được xem là một thể loại mới, nên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
có phân biệt hai khái niệm thể tài và thể loại . Trong nhiều tài liệu lí luận văn
học thì đây chỉ là hai cách dịch của cùng một thuật ngữ có gốc tiếng Pháp là
genre littéraire.
Cùng thuộc phạm trù thể trong sự phân biệt với phạm trù loại, khái niệm
thể loại thường được dùng để chỉ các hình thức cụ thể của sáng tác như tiểu
thuyết, thơ, truyện ngắn, truyện vừa. Còn khái niệm thể tài thích hợp với việc
chỉ định các sáng tác có những điểm chung về nội dung, đề tài (tất nhiên nội
dung, đề tài đó sẽ quy định một hình thức có tính đặc thù). Ở đây các tác phẩm
thuộc thể tài chân dung văn học gần như đều hướng đến việc dựng chân dung
của một nhà văn gắn liền với việc tìm hiểu một thời đại văn chương.
Trên thế giới, chúng ta thấy có những tác giả nổi tiếng viết chân dung
văn học như M.Gorki viết về L.Tolstoi, Chekhov, Essenin; S.Zweig viết về
Balzac, Dickens, Byron; Ehrenburg, Pautovski viết về nhiều nhà văn và nghệ sĩ
cùng thời... Những tác phẩm của các tác giả này đã trở thành mẫu mực của thể
tài chân dung văn học, trên cả bình diện nội dung và nghệ thuật. Ở Việt Nam
chúng ta cũng đã có nhiều tác giả viết chân dung văn học như Nguyễn Đình
Thi viết về Nam Cao và Trần Đăng; Nguyễn Tuân viết về Nguyễn Huy Tưởng
và Nguyên Hồng; Nguyễn Đức Bính viết về Hồ Xuân Hương và Ngô Tất Tố.
Ngoài ra, Vũ Ngọc Phan, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Tô Hoài,… cũng là những
tên tuổi đánh dấu trong việc xây dựng thể tài chân dung văn học ở nước ta.
Cùng với sự phát triển của thời gian, thể chân dung văn học ngày càng được
chú ý. Trong văn học Việt Nam hiện đại và đương đại đã có thể tìm thấy những
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
3
tác phẩm đặc sắc của thể tài này như “Chân dung văn học” của Hoài Anh,
“Bạn văn” của Nguyễn Quang Lập, “Viết về bè bạn” của Bùi Ngọc Tấn ... Bên
cạnh những tác phẩm trên, chúng ta còn có thể kể thêm những tác phẩm rất giá
trị tiêu biểu cho thể tài chân dung văn học. Có thể kể: Vương Trí Nhàn với sức
viết dồi dào; nghệ thuật viết chân dung văn học của ông thể hiện qua hàng loạt
tập sách như Những kiếp hoa dại (NXB Hội nhà văn, 1993), Cây bút, đời
người (NXB Trẻ, 2002), Ngoài trời lại có trời (NXB Hội nhà văn, 2003), Có
những nhà văn như thế (NXB Hội nhà văn, 2006), Cánh bướm và đóa hướng
dương (NXB Phụ nữ, 2006).
Nguyễn Khắc Phê với ý thức khắc họa chân dung khá độc đáo trong cuốn
Hiện thực và sáng tạo tác phẩm văn nghệ (NXB Hội nhà văn, 2006), giúp chúng
ta được mở rộng tầm hiểu biết, tôn kính về những con người của xứ Huế mà
cuộc đời và sự nghiệp khá lặng thầm như họa sĩ Lê Văn Miến, nữ sĩ Mai Am,
nữ sĩ Cao Ngọc Anh, Hải Triều; nhà thơ đầy chất Huế Nam Trân, Hải Bằng.
Văn Giá với Đời sống và đời viết (NXB Hội nhà văn, 2005) được viết
bằng một phong cách riêng, thể hiện sự hài hòa, hô ứng phê bình tác phẩm với
phác thảo chân dung tác giả trong chín bài dựng chân dung các tác giả Nguyễn
Nhược Pháp, Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Thâm Tâm, Hoài Thanh, Vũ
Bằng, Thanh Châu, Văn Cao. Văn Giá còn viết chung với Nguyễn Đăng Điệp,
Lê Quang Hưng, Nguyễn Phượng, Chu Văn Sơn trong cuốn Chân dung các
nhân vật Việt Nam hiện đại (2 tập, NXB Giáo dục, 2005), chủ yếu dựng chân
dung các nhà thơ, nhà văn có tác phẩm trong nhà trường phổ thông, những
người có ảnh hưởng lớn đến tri thức văn học sử Việt Nam hiện đại. Ở cuốn
sách này, chúng ta nhận thấy một cách viết chân dung khoa học, hệ thống, có
sự kết hợp giữa văn phong nghị luận và văn phong sáng tác, vừa cho người đọc
những tri thức cơ bản, vừa tạo thêm nhiều phát hiện mới mẻ, sâu sắc và giàu
cảm xúc thẩm mĩ.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
4
Khác với cách viết hệ thống của Chân dung các nhân vật Việt Nam hiện
đại, cuốn Văn khoa chân dung kí (NXB Hội nhà văn, 2006) của Hữu Đạt lại
viết dưới dạng chương hồi, không câu nệ thứ tự về thế hệ trước sau mà theo
cảm hứng văn chương của người viết. Cuốn sách dựng lại chân dung các giáo
sư Khoa Ngữ văn vẻ vang một thời của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay
là Trường ĐHKHXH&NV (ĐHQG Hà Nội). Chính vì thế, sự hấp dẫn của cuốn
sách chính là ở các sự kiện mang tính lịch sử được phản ánh qua thời gian dưới
các góc nhìn đa chiều đối với mỗi tính cách và mỗi con người. Hòa vào chiều
sâu liên tưởng khám phá đó, có thể kể thêm Dấu tích văn nhân (NXB Đà
Nẵng, 2001) của PGS. TS. Nguyễn Phong Nam như một cách cảm nhận chân
dung các văn nhân qua những dấu tích mà họ tạc vào những trang tác phẩm.
Trong mười tám bài viết, tác giả Nguyễn Phong Nam đã dựng chân dung các
nhà văn, nhà thơ bằng chính những tác phẩm của họ.
Gần đây nhất, những người quan tâm đến thể chân dung văn học đón
nhận cuốn Chân dung văn học Việt Nam (NXB Hội nhà văn, 2010) của
Nguyên An. Đọc cuốn sách này, ta cảm nhận được sự tâm huyết của tác giả
khi ông bỏ rất nhiều công sức nghiên cứu để trả lời cho được câu hỏi thế nào
là chân dung văn học và đưa ra một nhận định của riêng mình về thể loại
này. Nguyên An đã phác họa chân dung gần hai mươi nhà văn, nhà thơ: Tô
Hoài, Huy Cận, Vũ Cao, Nguyễn Duy, Thúy Toàn, Hữu Mai, Phùng Quán…
Cuốn Nhà văn độc hành độc bộ của Vũ Từ Trang được NXB Phụ nữ ấn
hành (quý II năm 2013), viết về những nhà văn, nhà thơ lớp đàn anh đã
thành danh đáng quí trọng như Yến Lan, Quang Dũng, Nguyễn Bản, Lê Bầu,
Nguyễn Xuân Khánh, Phan Xuân Hạt, Thái Giang, Thanh Tùng, Hoài Anh;
những nhà văn bạn bè cùng trang lứa như Tô Ngọc Hiến, Lưu Quang Vũ,
Nghiêm Đa Văn, Hoàng Việt Hằng; những người viết có số phận không mấy
an lành như Nguyễn Tuân, Phương Thúy, Nguyễn Ngọc Ly, Lương Vĩnh…
và cả về những người bình thường nhưng vì đam mê văn chương mà dấn
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
5
thân như Nguyễn Hữu Cung - một người sửa mo-rát của một nhà xuất bản;
như Nguyễn Thị Hoài Thanh. Giống như phần đông những người viết chân
dung, Vũ Từ Trang cũng đã giới thiệu giúp bạn đọc hiểu thêm về nhân vật,
những con đường khác nhau đến với văn chương cùng những thành tựu dù ít
dù nhiều nơi họ.
Có thể nói rằng, phần lớn những tập sách này đã dựng lên chân dung
nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong nước cũng như trên thế giới trong cuộc
sống đời thường và đời sống nghệ thuật. Đặc sắc nổi bật của các tập sách này
chính là dựng chân dung khá đầy đặn về các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng được
nhiều người biết đến. Qua các tác phẩm chân dung văn học đương đại ngay từ
khi xuất hiện người ta đã thấy được cách dựng chân dung nhà văn qua nhiều
cách tiếp cận, có sự kết hợp linh hoạt, đa dạng các sắc thái giọng điệu và sự
phong phú về từ ngữ. Nhờ đó các chân dung chân thực hơn và như đang bước
ra khỏi thế giới tác phẩm để đến với độc giả.
2.2. Về các công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học
Điểm lại những công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học,
chúng tôi thấy rằng đến nay đã có một số luận văn, khóa luận chú ý đến thể
tài này như: Luận văn Thạc sĩ Mảng chân dung văn học trong sáng tác của
Tô Hoài (Nguyễn Văn Quang - 1996, Đại học Vinh); các khóa luận tốt
nghiệp Đại học như Nghệ thuật dựng chân dung văn học của Vương Trí
Nhàn (Nguyễn Thị Xuân Giang - 2003, Đại học Vinh), Đóng góp của
Nguyễn Tuân đối với lí luận về tiểu thuyết và thể tài chân dung văn học (Bùi
Hà Phương - 2007, Đại học Vinh) ...
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều xoay quanh một số vấn
đề cơ bản như khái niệm thể tài chân dung văn học, đặc điểm, khía cạnh nổi bật
của thể tài chân dung văn học cũng như phong cách của người viết chân dung.
Những công trình nghiên cứu đó đã có những đóng góp đáng ghi nhận.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
6
Tuy nhiên, như trên đã giới thiệu, cho đến nay chưa có một công trình
nào nghiên cứu tập trung về thể chân dung văn học thời kỳ 1930 - 1945 với tư
cách là một đối tượng nghiên cứu. Vì vậy chúng tôi đã tìm đến thể tài chân
dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 với mong muốn
đóng góp vào việc nhận diện đặc trưng thể tài chân dung văn học cũng như
những nét đặc sắc của thể tài này trong giai đoạn 1930 - 1945.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn chúng tôi là: Các đặc điểm của thể
tài chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trên hai
bình diện nội dung và nghệ thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi lựa chọn phạm vi nghiên cứu là
các bài chân dung văn học được in trong các tập sách, trên báo chí của giai
đoạn 1930 - 1945.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp thống kê: thống kê một số các dữ liệu cần thiết trong quá
trình nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích: chúng tôi sử dụng phương pháp này để có thể
đi sâu nhận diện những giá trị của sáng tác.
- Phương pháp cấu trúc hệ thống.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
5. Mục đích nghiên cứu
Phát hiện, nhận diện để chỉ ra sự hình thành và phát triển của thể tài chân
dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trên các phương
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
7
diện nội dung cũng như nghệ thuật: cảm hứng dựng chân dung, sự lựa chọn đối
tượng, các phương diện hình thức như sự phối xen các giọng điệu, tạo dựng
không khí, bối cảnh.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, khẳng định những nét đặc sắc và ý nghĩa nhiều
mặt của thể tài chân dung văn học trong toàn cảnh của văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 - 1945.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
được cấu trúc làm 3 chương:
Chƣơng 1. Thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 - Quá
trình hình thành và phát triển
Chƣơng 2. Đặc điểm thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 -
từ bình diện nội dung
Chƣơng 3. Đặc điểm của thể tài chân dung văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 - 1945 - từ bình diện nghệ thuật
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
8
NỘI DUNG CHÍNH
Chƣơng 1.
THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1.1. Một số vấn đề lí thuyết về thể tài chân dung văn học
1.1.1. Giới thuyết khái niệm
Chân dung văn học là một thể tài ra đời tương đối muộn. Sự xuất hiện và
phát triển của chân dung văn học đánh dấu một ý nghĩa quan trọng trong đời
sống văn học nói chung và trong lịch sử phát triển của phê bình văn học nói
riêng, thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác.
Đây là một thể tài chỉ ra đời trên một cơ sở ý thức xã hội nhất định, khi
lịch sử chuyển sang thời kì hiện đại - thời kì mà việc viết văn, sáng tạo nghệ
thuật trở thành một loại hình lao động nghề nghiệp, nghề văn được coi trọng và
trở thành một loại hình lao động nghệ thuật được chuyên môn hóa. Từ đây văn
nghệ sỹ trở thành một tầng lớp có vị trí nhất định trong xã hội và trở thành đối
tượng miêu tả của văn học nghệ thuật, và theo sự phát triển theo thời gian, về
sau, đối tượng của chân dung văn học càng được mở rộng biên độ, còn hướng
đến việc phác thảo lại những con người tiêu biểu trong các lĩnh vực khác của
xã hội và cả những sự kiện, thời kì văn học.
Chân dung văn học là thể loại văn học đặc thù có nhiệm vụ tương tự như
thể loại chân dung trong hội họa và điêu khắc, miêu tả diện mạo của một con
người cụ thể, có thật, sao cho truyền được thần thái sống động của người đó, phát
hiện đặc điểm riêng cá nhân, độc đáo, không lặp lại của một nhân cách với thế
giới tinh thần của nó. Khác với hồi tưởng, ghi chép về một con người cụ thể, với
tư cách là một thể loại văn học, chân dung văn học miêu tả con người cụ thể với
một quan niệm xác định về nhân cách và tài năng văn chương.
Đứng từ góc độ thể loại, chân dung văn học được xem là một hình thức
đứng giữa ba thể loại: ký - truyện - phê bình văn học. Sở dĩ như thế là bởi chân
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
9
dung văn học được xây dựng trên những chất liệu lấy từ chính cuộc đời thực
của các đối tượng nhưng lại không hoàn toàn trùng khít, đồng nhất với con
người tiểu sử, bởi nó có xu hướng được „tiểu thuyết hóa”, có phần pha trộn với
truyện kể, suy tưởng và bình luận.
Chúng ta còn nhận thấy thể chân dung văn học được tồn tại ở dưới nhiều
dạng thức biến thể: có tác phẩm thiên về phê bình sáng tác, có tác phẩm như
một hồ sơ lí lịch, tiểu sử nhân vật; có bức chân dung là những kỉ niệm một
thời, ấn tượng sống động về những lần gặp gỡ; có chân dung như một nhật ký
cá nhân; có những chân dung là tổng hòa của những cái nói trên. Vì vậy,
nghiên cứu chân dung văn học yêu cầu cần có sự phân biệt với thể loại tiểu
luận nghiên cứu hay các bài báo, bài viết tưởng niệm có tính chất thời sự.
Chính điều này đặt ra đòi hỏi người dựng chân dung không dừng lại ở việc
cung cấp tư liệu, mà còn phải tạo nên những thần thái độc đáo riêng cho bài
viết của mình. Đối với chân dung mà tác giả là những nhà văn đầy tài năng như
Nguyễn Tuân, Tô Hoài, … thì giá trị không chỉ dừng lại ở đó, mà còn ở vẻ đẹp
nghệ thuật. Nghĩa là trên cơ sở tư liệu sống, người viết phải xây dựng được
những chân dung nghệ thuật giàu chất thẩm mĩ, đạt được phẩm chất nghệ thuật
cao và gây ấn tượng sâu sắc đối với độc giả. Những bài viết chân dung văn học
không chỉ đơn thuần là những bài giới thiệu tiểu sử hay những tiểu luận khoa
học viết về sự nghiệp của một tác giả nào đó mà quan trọng hơn phải bắt được
cái thần của văn nghiệp của người được tạo chân dung, phác họa nên được cái
hồn cốt của chân dung ấy. Chúng ta có thể bắt gặp những giá trị nhận thức giàu
chất thẩm mĩ này ở những tác phẩm chân dung văn học của Nguyễn Tuân, Tô
Hoài, Thạch Lam, Vũ Bằng, Ma Văn Kháng, Xuân Diệu ...
Như vậy, xét về mặt thể loại, chân dung văn học được xem là một thể tài
khá co giãn, không có đường biên ranh giới rạch ròi, dễ lẫn vào các thể loại
khác. Chính sự giao thoa giữa các thể loại khác nhau này đã tạo nên sự độc đáo
riêng của chân dung văn học.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
10
Xét về mặt giá trị, chân dung văn học được đánh giá dựa trên những thang
độ xây dựng từ các tiêu chí, đó là: sự đóng góp của tác giả trong việc cung cấp
những tư liệu quí báu, đặc sắc về chân dung đó; tính sinh động, hấp dẫn của việc
xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật và sau nữa là những giá trị thẩm mĩ,
nhận thức, giáo dục tác động sâu sắc đến người đọc ở mức độ nào.
Tóm lại, định nghĩa về chân dung văn học, chúng ta chấp nhận quan
niệm xem chân dung văn học là những sáng tác dựng lại chân dung của một
con người gắn liền với tác phẩm của họ, rộng hơn, gắn liền với một thời kì văn
học. Giá trị của chân dung văn học sẽ nằm cốt lõi ở sự thay đổi của người đọc
sau khi đọc xong văn bản, mà đúng như những nhà nghiên cứu nước ngoài đã
từng đánh giá rất cao vị trí của thể tài này. Đó là, một tác phẩm chân dung văn
học có thể “thay đổi cả cách nhìn về thế giới của cả một thế giới”, đúng như
câu hỏi mà Barbara Doyen đã đặt ra trong bài viết Hồi ký là gì? Điều gì tạo nên
sự khác biệt giữa hồi ký với tự truyện hoặc tiểu sử?(What is a memoir? What
makes a memoir defferent from an autobiography or biography?).
1.1.2. Mối quan hệ giữa thể tài chân dung văn học với thể loại kí và phê bình
văn học
- Chân dung văn học là một thể văn sáng tác thuộc loại kí văn học.
Định nghĩa về chân dung văn học, Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) cho rằng: “Thể loại văn
học đặc thù có nhiệm vụ tương tự như thể loại chân dung trong hội họa và
điêu khắc, miêu tả diện mạo của một con người cụ thể, có thật, sao cho
truyền được thần thái sống động của người đó, phát hiện đặc điểm riêng cá
nhân, độc đáo, không lặp lại của một nhân cách với thế giới tinh thần của
nó. Chân dung văn học miêu tả con người cụ thể với một quan niệm xác
định về nhân cách. Phương pháp của chân dung văn học là phương pháp
của thể kí. Nó không thiên về cốt truyện. Nhà văn phát huy sở trường về
quan sát, chọn lựa chi tiết, cử chỉ ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế hồi
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
11
tưởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của con người sao cho truyền được thần
thái sống động của con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ hoặc các nhà hoạt
động nổi tiếng” [11, tr.52].
Tô Hoài một nhà văn tiêu biểu của thể tài này cũng nhận định như
sau: “Chân dung văn học là việc dựng lại những bóng dáng thần thái văn
nhân, những câu nói cái cười, bước đi dáng đứng của họ mà mình từng thấy
từng biết” [14, tr.72].
Như vậy, bao quát lại, chân dung văn học là một thể loại văn học đặc thù
thuộc thể ký văn học nhằm miêu tả con người một cách cụ thể, có thật, tiêu
biểu, thông qua việc dựng lên một cách sinh động diện mạo, phẩm chất, tinh
thần của đối tượng. Người viết dựng lên diện mạo chân dung văn học về những
người có quan hệ trực tiếp thân mật của họ trong giới, trong nghề hoặc trong
những mối quan hệ quen biết.
Nhìn chung, người viết chân dung văn học phải phát huy cao độ năng
lực quan sát, vốn hiểu biết của mình về những tình cảm, cảm xúc mạnh mẽ về
đối tượng sử dụng nghệ thuật trong sáng tạo hình tượng nhân vật theo yêu cầu
thể ký văn học để đạt đến độ đặc sắc trong chân dung được tạo hình. Nếu
không có năng lực quan sát, không có kinh nghiệm sống với vốn hiểu biết
phong phú, không có những tình cảm, xúc cảm chân chính, mạnh mẽ và cao
đẹp thì không thể tạo dựng được thể chân dung văn học.
Với tác phẩm chân dung văn học, hình tượng nghệ thuật luôn được soi
sáng bởi một cái nhìn chủ quan của tác giả. Có lúc tác giả còn bộc lộ quan
điểm, tình cảm của mình. Nếu đem so sánh giữa chân dung văn học do các nhà
phê bình viết với chân dung văn học do các nhà văn viết thì ta thấy ít nhiều có
sự khác nhau. Đọc những chân dung do các nhà phê bình viết, ta thấy họ
thường có xu hướng thiên về phê bình và đánh giá, nhưng đối với những nhà
văn dựng chân dung, họ thường xem đây như là một hoạt động sáng tạo.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
12
- Chân dung văn học là một dạng đặc biệt của hoạt động phê bình văn học.
Ngoài ra, cũng phải thấy thêm rằng, chân dung văn học là một dạng đặc
biệt của hoạt động phê bình văn học. Căn cứ vào đặc trưng trên về đối tượng,
về thể loại và căn cứ vào thực tiễn sáng tác từ những năm 1930 của thế kỉ XX
trở lại đây, chúng ta thấy các nhà văn viết chân dung thường dựa vào hai cách
tiếp cận để dựng chân dung.
Thứ nhất là từ những chi tiết lấy từ đời sống của nhà văn, người dựng
chân dung làm hiện lên thế giới tinh thần và hình tượng con người nhà văn. Có
thể thấy rõ điều này trong những trang viết tiêu biểu như của Nguyễn Tuân viết
về Tú Xương, Ngô Tất Tố; Xuân Diệu viết về Hồ Xuân Hương; Nguyễn Đức
Bính viết về Hồ Xuân Hương và Ngô Tất Tố; Hoài Thanh - Hoài Chân viết về
bốn mươi sáu gương mặt xuất sắc của phong trào Thơ mới.
Thứ hai là đi từ những chi tiết của đời sống nhà văn mà làm sáng tỏ thế
giới tinh thần của họ trong tác phẩm để thấy “văn với người là một” (Nguyễn
Đăng Mạnh). Thông thường người dựng chân dung phải có khả năng thẩm văn
và tổng hợp được từ văn cái thần thái chung của nghệ thuật, hiểu được cả tư
tưởng phong cách mà nhà văn - người được tác giả dựng chân dung. Tiêu biểu
có những trang viết như của Nguyễn Tuân viết về Tản Đà, Nguyên Hồng;
Nguyễn Đăng Mạnh viết về Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu;
Vũ Bằng viết về Nguyễn Tuân, Tản Đà; Nam Cao viết về Nguyên Hồng …
Do đó, có thể nói, thể loại chân dung văn học là một dạng đặc biệt của
phê bình văn học. Tính chất phê bình văn học được xây dựng theo cách tiếp
cận thứ nhất tất nhiên không cần bàn nhiều. Tính chất phê bình văn học của
chân dung văn học được tiếp cận theo cách thứ hai không thể hiện thật rõ,
nhưng nhất thiết phải có để tránh lối kể chuyện dễ dãi.
Các tác phẩm thuộc thể loại chân dung có thể thiên về phê bình chân
dung, có thể là như một cuốn tiểu sử nhân vật, hay có thể lại như một cuộc dạo
chơi thơ thẩn trong tâm trí theo dòng hồi tưởng để tìm lại những gặp gỡ cũ. Dù
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
13
ở bất kì dạng nào, chúng ta cũng cảm nhận được sự cung cấp về mặt tư liệu
thật đáng quý. Tuy nhiên, giá trị của chân dung văn học không dừng lại ở việc
cung cấp tư liệu mà cái hay, cái độc đáo cốt nằm ở chỗ dựng chân dung sống
động của nhà văn, giúp chúng ta từ con người mà hiểu được văn, đúng như
Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Cái gốc gác, cốt lõi của nó, hay có thể gọi là
cái “thần” của văn” [21]. Đồng thời, cũng là hiểu được tư tưởng của nhà văn
ấy. Chẳng hạn như chân dung của Tản Đà hiện lên trong những hồi tưởng của
Nguyễn Tuân:
“Người ngày xưa… lôi - thôi lắm.
Tôi hãy bắt đầu bằng cái lôi - thôi của Nguyễn - Khắc - Hiếu đi tắm ở bể
Sầm Sơn. Thứ đến là cái lôi - thôi của Tản Đà khi cuốc cả nền nhà người ta lên
để làm vườn trồng rau thơm. Rồi thứ nữa là đem ra giới thiệu một ông Tản Đà
múa kiếm!
Gánh văn lên bán Chợ Giời; gửi thư lên thiên đình cầu hôn; xuống bể
Sầm Sơn bơi đứng và ăn hải sản sống; lên rừng tịch cốc; uống rượu sâm banh
với nem chua trên toa xe lửa tốc hành; đi thăm mả vua Tây Sơn với cái lối khấn
ngang tàng: “Bắc kỳ Sơn tây nhân Nguyễn Khắc Hiếu kinh quá thử địa”, làm
náo động cả quan nha một vùng địa phương Bình Định, quái gở ôi là quái gở
vậy thay. Chưa cho là đủ ngôn, chưa chịu chấm dấu hết, cái “quái - tượng” ấy lại
còn cầm đốc một thanh kiếm múa may quay cuồng nữa. Có đáng sợ không?
Thật là “đời chưa chán tớ, tớ còn chơi”. Có như thế, vong linh thi nhân
ạ!” [37, tr.689-690]. Từ chân dung ấy, chúng ta càng cảm thấu, lí giải rõ hơn
khí chất ngang tàng, cái “ngông” của một “khối tình” Tản Đà. Đồng thời, qua
lối phác thảo chân dung với chất giọng tài tử, thể hiện rõ một mối tương giao
đặc biệt giữa người được dựng chân dung và người dựng chân dung, chúng ta
càng hiểu hơn cái “ngông nghênh” trong những áng văn của nhà văn tài hoa
Nguyễn Tuân. Rồi đến lượt chân dung người văn đầy uyên bác Nguyễn Tuân
này lại được thể hiện thật cụ thể trong những hồi tưởng của Tô Hoài trong hồi
ký Cát bụi chân ai.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
14
Đó là một Nguyễn Tuân khác người từ cách ăn mặc: “đi bên này Hồ
Gươm thấy Nguyễn Tuân ngồi trong nhà hàng Hoàng Gia, cái quán rượu kiểu
Pháp che cánh sáo ra kín vỉa hè. Nhà văn chơi chua khác đời. Khăn lượt vố, áo
gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt ba thước thay ba toong, chân bít tất dận
giày mõm nhái Gia Định” [37, tr.383]… Cho đến ẩm thực: “Ít ai biết Nguyễn
Tuân chỉ ăn một thứ phở, phở chín, phở thịt bò chín… Thịt bò chín, nạm hay
mỡ, bánh vừa phải không nẫu vồng lên, không thái sẵn và thái máy như Sài
Gòn mà Nguyễn Tuân gọi đùa là vằn thắn phở. Xúc bánh xong, thái thịt bày
lên rắc hành hoa và hạt tiêu - không ớt, mặc dù thích cay” [37, tr.403]. Đến sở
thích cầu kì, tỉ mỉ cho mỗi chuyến đi cũng khác: “sửa soạn đi còn kĩ lưỡng hơn
đi” [37, tr.394], “mải mê quên ngày tháng, nhưng tính đếm sửa soạn thì phải
nhớ từng ly. Cái phóng khoáng của ông ấy không lẫn với buông tuồng, cẩu
thả” [37, tr.395].
Cái thú ăn chơi, sinh hoạt khác đời, khác người, vừa tinh tế, vừa rất
“ngông” ấy đi cả vào văn chương của ông: “Đem cái “duyên” đẹp đẽ mọi bề
quàng cho Nguyễn Tuân có thể chưa kín nghĩa, mà cũng không hẳn đúng. Về
nhà văn và cả về đời. Có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ. Có
người chỉ lướt một đoạn đã không chịu được cái giọng khụng khiệng, khệnh
khạng. Triết lí và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài sơn trong thang
thuốc bắc, ghé bổ một tý vô thưởng vô phạt. Cái chơi của Nguyễn Tuân cũng
thế. Với người này, không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người kia thì không chịu
đựng nổi” [37, tr.384-385].
Từ những hồi tưởng của Tô Hoài, ta có thể cắt nghĩa sâu sắc hơn thứ chủ
nghĩa xê dịch và duy mỹ trong văn chương Nguyễn Tuân.
Như thế, qua những chân dung văn học, ta không chỉ thấy được những chân
dung của những nhà văn, nhà thơ cùng thời, mà ta còn thấy được bức chân dung
của chính tác giả và cũng từ đó, hiểu được hơn chính về con người và văn chương
của người được dựng chân dung và cả người dựng chân dung; hiểu được hơn cả
một thời đại lịch sử, văn hóa, văn học đằng sau những thế hệ con người ấy.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
15
1.1.3. Các đặc điểm của thể tài chân dung văn học
Như trên chúng tôi đã đề cập, từ góc độ thể loại, lí luận văn học đã
xác định chân dung văn học là một thể loại đặc thù, thuộc về thể loại kí văn
học. Đây là thể loại lấy từ nguyên mẫu đời sống. Ký chính là một loại văn
xuôi tự sự trần thuật của những người viết người thật, việc thật với những
đặc điểm riêng biệt gắn liền với tính chất hư cấu và vai trò của người trần
thuật. Nói cách khác, điểm khác biệt của ký so với các thể loại văn học khác
là ở chỗ: ký viết về những cái có thực trong đời sống, có ý nghĩa thời sự
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Giống như người viết báo, người viết ký phải
đặc biệt tôn trọng, phải truyền đạt trung thực, chính xác những sự kiện của
đời thực, việc thực, cảm xúc thực.
Như vậy, xét về mặt truyền đạt sự kiện, rõ ràng ký luôn đòi hỏi sự
trung thực,chính xác. Tuy nhiên, ký vẫn là một thể trong văn chương ở chỗ
nó có những tính chất như: tính giọng điệu, tính đa nghĩa của văn bản. Thể
loại này vừa có yếu tố của truyện vừa có sự tham gia trực tiếp của tư duy
nghiên cứu. Sự hợp nhất giữa tư duy nghệ thuật và tư duy nghiên cứu là
đặc trưng của tư duy viết ký.
Trong ký, yếu tố chính luận là yếu tố có vai trò cốt yếu còn cốt truyện
chỉ là căn cứ cho sự phát triển, làm bàn đạp thực tại cho tư tưởng chính luận.
Vì vậy nên ngoài hiệu quả gây khoái cảm mỹ học, thể loại ký còn gây cho
người đọc những khoái thú thuần trí tuệ bằng việc cung cấp cho họ những tri
thức mà họ quan tâm, có khi chỉ là những kiến thức thỏa mãn óc tò mò
thông thường của con người “ở thể ký tác giả có quyền bộc lộ trực tiếp nỗi
niềm của mình” [8, tr.122].
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của thể loại ký nói chung. Bên cạnh
những điểm chung như thế, chân dung văn học cũng còn mang thêm trong
mình những đặc điểm tiêu biểu riêng.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
16
Đặc điểm tiêu biểu riêng trước hết của chân dung văn học đó là nó là
một loại kí (viết về “người thật việc thật” hay về những điều “mình từng thấy
từng biết”), mà ở đó nhân vật trung tâm là các nhà văn đồng nghiệp. Hay nói
cách khác, dựng chân dung văn học tức là lấy nhà văn làm đối tượng để nhận
thức và mô tả. Tiêu biểu như cùng với ngòi bút của nhà văn Tô Hoài, chúng ta
có chân dung của những tên tuổi lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam như
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hoàng Trung Thông,
Nguyễn Huy Tưởng ... Đó là những bạn văn mà ông đã gắn bó thân thiết trong
phần lớn quãng đời văn nghiệp của mình. Trong hồi kí của Tô Hoài, những con
người, những số phận văn chương ấy - được khắc họa đầy sắc cạnh, đầy dấu ấn
song cũng vô cùng gần gũi, chân thực.
Trong Mười chín chân dung nhà văn cùng thời của Vũ Bằng , tên gọi của tác
phẩm cũng đã cho thấy hình tượng trung tâm chính là các nhà văn đồng nghiệp
cùng thời, đó là những Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Đình
Long, Tam Ích, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Ngọc
Phách, Tú Mỡ, Văn Cao…
Bên cạnh hình tượng trung tâm là các nhà văn đồng nghiệp cùng thời,
thể chân dung văn học còn có thể khai thác chân dung của các cây bút “tiền
bối” hoặc những người nghệ sĩ mà người dựng chân dung tìm thấy những nét
giao cảm nào đó. Đó là Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Ưng Bình Thúc Giạ Thị,
Trịnh Công Sơn, Văn Cao, Đinh Cường, Bùi Giáng, Phùng Quán... Đó là
những “người của thời xưa”, hay “người của thời nay” được Hoàng Phủ Ngọc
Tường viết về họ với “một niềm kính yêu thiêng liêng như viết về những người
của cõi bất tử - “người của muôn thời” (Lý Hoài Thu).
Có thể nói, qua đó, các tác giả giúp người đọc không chỉ tiếp nhận được
một lượng thông tin tư liệu quí giá mà còn được chia sẻ với nhiều số phận nhân
vật. Đó là những con người có vị thế quan trọng trong nền văn học nước nhà,
lại vừa là những nhà văn có đời sống nội tâm phong phú và trong những thân
phận có nhiều éo le, cay đắng.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
17
Như vậy, bên cạnh việc mang trong mình đặc trưng cơ bản đầu tiên về đối
tượng phản ánh phải là các nhà văn có danh tiếng, chân dung văn học còn có những
đặc trưng chung và riêng khác trong phương thức thể hiện hình tượng trung tâm.
Xét trên bình diện phương thức thể hiện hình tượng nghệ thuật trung tâm, ta
thấy thể tài chân dung văn học thực chất cũng là một dạng đặc biệt của sáng tác
văn học. Nó cho phép người viết được quyền lựa chọn, giữ lại hay tước bỏ, nhấn
mạnh hoặc làm mờ một số đường nét, chi tiết, nhất là cho phép thể hiện ở một mức
độ nào đó cái tôi của người viết trong mối quan hệ với đối tượng được viết, nhằm
tạo ra được một chân dung trong con mắt riêng của mình.
Chẳng hạn như khi dựng chân dung hơn bốn mươi gương mặt tiêu biểu
cho Phong trào Thơ mới trong Thi nhân Việt Nam, trong tâm thế “chào đón
một thời đại mới của thi ca”, Hoài Thanh - Hoài Chân đã lựa chọn một số chi
tiết cốt yếu có thần nhất để từ đó phác thảo nên cái “hồn” nổi bật của mỗi thi
nhân. Hay chân dung Xuân Diệu hiện lên trong những khắc họa của Thế Lữ lại
mang hình ảnh của một thi nhân với dáng vẻ tài hoa, lộng lẫy: “Nhà thi sĩ ấy là
một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vương trên đài trán thơ
ngây, mặt như bao luyến mọi người và miệng cười như rộng mở như một tấm
lòng sẵn sàng nhân ái.” Điều đó có nghĩa ít nhiều yếu tố hư cấu và tưởng tượng
vẫn có mặt trong thể tài này. Tuy nhiên, dù tưởng tượng đó phóng khoáng đến
đâu, cũng phải dựa trên sự thật, tuyệt nhiên không được phép dựng chân dung
văn học về một nhà văn nào đó mà “hư cấu” và “tưởng tượng” ra những chi tiết
không có thật trong tiểu sử của nhà văn đó.
Một tác phẩm chân dung văn học giá trị phải là một sáng tạo nghệ thuật
thực sự, phải khêu gợi trí tưởng tượng thật sự, nhưng phải sáng tạo trên cơ sở
có thực, những chi tiết có thực (trong văn, trong đời). Đó là những nung nấu
dựa trên những dữ kiện đời sống có thật, mà đúng như Tô Hoài từng thổ lộ:
“Sáng tác chân dung văn học không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì
khi viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
18
ta đơn giản. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và
sự hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu người thật ấy, những kiểu việc
thật ấy” sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc thể hiện ghi chép của anh” [14,
tr.70]. Trong khuôn khổ và giới hạn của thể kí, sự sáng tạo này thể hiện chủ
yếu ở chỗ nắm bắt và chọn lựa chi tiết có ý nghĩa tiêu biểu và xuất thần của đối
tượng. Sự sáng tạo ở đây tương đối gần với sự sáng tạo của nhiếp ảnh hay hội
họa trong việc dựng chân dung.
Nói tóm lại, cũng giống như bất kì tác phẩm thuộc loại văn sáng tác nào,
chân dung văn học được coi là thành công phải là những tác phẩm xây dựng
được những hình tượng chân xác và sống động như thể loại kí, vừa tô đậm được
một cách sắc sảo các nét cá tính của nhà văn được dựng chân dung, lại vừa hàm
chứa những nét chung của giới văn nhân nghệ sĩ. Nhờ thể chân dung văn học mà
các nhà văn có dịp hiểu biết nhau kĩ càng hơn, những người nghiên cứu và giảng
dạy có một nguồn tư liệu tin cậy để làm tốt hơn cho quá trình giảng dạy, nghiên
cứu. Và cũng qua những chân dung văn học, người đọc rộng rãi có thể có thêm
nhiều nhận thức và cảm xúc phong phú hơn về các tác phẩm văn học.
Mặt khác, khi dựng chân dung người khác, người viết bao giờ cũng
bộc lộ thái độ và những đánh giá riêng của mình dưới dạng luận đề. Nghĩa
là chân dung văn học là một thể văn bộc lộ đậm nét tính chất chủ quan của
người viết. Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi chỉ ra rằng: “Nhà văn phát huy sở trường quan sát, lựa chọn chi
tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế, hồi tưởng để dựng lại bộ mặt
tinh thần của một con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ, các nhà hoạt động
xã hội nổi tiếng” [11, tr.152]. Chính vì vậy, mà những nhà văn viết chân
dung văn học thường quan tâm đến những cây bút có tài năng và có cá tính,
tức là quan tâm tới những nhà văn nổi tiếng - không mấy ai lại viết chân
dung của những nhà văn thiếu cá tính và ít tài năng. Độc giả cũng vậy, họ
thường quan tâm tới những chân dung văn học nổi tiếng, có cá tính, có tài
năng mà họ hâm mộ. Nhưng viết về chân dung thì bản thân người viết phải 19 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
là những người có cá tính, có phong cách. Nếu không có, thì không viết
được những chân dung đặc sắc. Điều ấy khiến cho tác phẩm chân dung văn
học luôn mang đậm tính chủ quan.
Các bức chân dung văn học, do thế luôn thể hiện cái tôi của người cầm
bút. Đọc những chân dung văn học xuất sắc nhất, ta thường thấy rất rõ tình cảm
nồng nhiệt của người viết đối với đối tượng của mình.
Tính chủ quan của chân dung văn học còn thể hiện rõ hơn nữa ở cách
khai thác và phát hiện riêng về đối tượng được khắc họa chân dung.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng quan niệm trong sáng tạo nghệ thuật: “Mỗi
người có một vision (nhãn quan) riêng. Nó đẻ ra phong cách. Do thế mà
anh thích tả gió, tả nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa. Anh thì có sở trường
này, sở trường nọ”. Như vậy, mỗi nhà văn đều có cái riêng của mình.
Những chân dung văn học do mỗi nhà văn tạo ra cũng đều mang một dấu
ấn độc đáo riêng, phong cách nghệ thuật riêng của tác giả ấy. Chẳng hạn
như, nếu những sáng tác chân dung văn học của Hoài Thanh - Hoài Chân
thu hút người đọc bởi một giọng văn tha thiết, duyên dáng, trong một cảm
hứng ngợi ca và dường như được giữ một khoảng cách thẩm mĩ, một
ngưỡng vọng với những đối tượng được dựng chân dung thì Vũ Ngọc Phan
lại tạo nên hiệu ứng thu hút nhờ chính sự sắc sảo trong ngòi bút và cảm
hứng nghiêng về phê bình văn học. Hay như Tô Hoài, khi viết chân dung,
ông lại luôn là cây bút hiện thực bám chặt vào “chất văn xuôi” của đời
sống bằng một giọng điệu trần thuật dí dỏm, khôi hài pha chút bông đùa,
đôi chút mỉa mai, tinh quái nhưng cũng rất nghiêm trang và thâm thúy.
Người ta có thể nhận ra khá nhiều sắc thái trong chân dung văn học: hóm
hỉnh mà sâu sắc, lại cũng đầy nỗi niềm như Vũ Bằng; chân thành và giản dị
như Bùi Ngọc Tấn; tài hoa và mượt mà như Hoàng Phủ Ngọc Tường… Hay có
khi đầy mới lạ với những cuộc đối thoại dài hơi, bạo dạn, sôi nổi với những
chân dung văn học nước nhà được dựng lên theo kiểu dựng chân dung Tây
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
20
phương với tính chất áp sát, ít nhiều ngẫu hứng và mang đậm chất chủ quan
như kiểu của Trần Đăng Khoa trong Chân dung và đối thoại. Chúng ta có thể
kể ra rất nhiều tên tuổi đã dựng chân dung văn học với những phong cách riêng
rất đáng chú ý như thế trong nền văn học nước nhà.
Như vậy, những tác phẩm văn học đích thực, được nhiều người thích đọc
bao giờ cũng thấm đẫm tính chủ quan của người viết. Chân dung văn học cũng
vậy, ở một mức độ nào đấy, chất chủ quan càng đậm đà được biểu hiện một
cách khéo léo, thì giá trị văn chương của tác phẩm càng cao, càng lôi cuốn
người đọc. Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét chân dung văn học là một thể
tài hiện đại. Nó ra đời khi giới cầm bút đã có sự thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá
nhân. Mỗi nhà văn đều muốn có tiếng nói riêng, gương mặt riêng không chịu
lẫn với ai. Và người đọc cũng thế, thích thú được tiếp xúc với những tài năng
có cá tính độc đáo. Đó là chỗ hấp dẫn riêng của chân dung văn học.
Qua chân dung văn học chẳng những biểu hiện được cá tính, phong cách
nhà văn - đối tượng dựng chân dung văn học mà còn biểu hiện cả cá tính,
phong cách nhà văn - tác giả chân dung văn học. Cái độc đáo của thể loại chân
dung văn học là ở đó.
Một đặc điểm nổi bật nữa của thể tài chân dung văn học đó là thể tài này
chỉ được ra đời trên cơ sở ý thức xã hội - văn học nhất định.
Thể tài chân dung văn học chỉ xuất hiện khi nền văn học đã có được
những thành tựu và trong giới cầm bút có ý thức tỉnh sâu sắc về cá nhân và cá
tính. Nhiều nhà văn đã xuất hiện với tiếng nói riêng, gương mặt riêng không
thể trộn lẫn để có thể nói lên tất cả những gì thuộc về con người, đi đến tận
cùng giới hạn của tâm hồn và số phận nhân vật với rất nhiều phong cách - bút
pháp nghệ thuật khác nhau. Qua những trang viết về chân dung, người ta có thể
hình dung ra những số phận văn chương trong quá khứ cũng như trong hiện tại
với những trải nghiệm sâu sắc và những suy tư, chiêm nghiệm đầy trăn trở về
người, về nghề, về nghiệp.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
21
1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học
1.2.1. Cơ sở tiền đề cho sự ra đời của thể tài chân dung văn học
1.2.1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội
Xét lại tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng nền
văn học Việt Nam trong mấy chục năm đầu thế kỉ XX, các thể văn học không
những chỉ tiếp tục phát triển hệ thống đã có mà nó còn tạo ra nhiều thể văn mới.
Cơ sở của hệ thống thể loại này, xét cho cùng là do vị trí mới của nền văn học
trong đời sống xã hội. Những điều kiện xã hội cho sự tồn tại và phát triển của nền
văn học mới chẳng những đòi hỏi văn học phải có một hệ thống thể loại phù hợp
mà còn tạo tiền đề cho hệ thống đó.
Chân dung văn học là một thể tài ra đời muộn, còn khá mới mẻ so với
những thể loại văn học khác trong tiến trình văn học Việt Nam. Ở Việt Nam,
chân dung văn học bắt đầu manh nha từ giai đoạn những thập niên 30 của thế
kỉ XX. Còn trước đó, ở thế kỉ XIX, thời kì văn học trung đại ta chưa thấy xuất
hiện thể loại này. Có lẽ là do quan niệm, do lí tưởng thẩm mĩ của mỗi thời đại
khác nhau. Lí tưởng thẩm mĩ của giai cấp phong kiến thiên về vẻ đẹp truyền
thống cổ điển, luôn lấy hình mẫu những con người từ thế kỉ trước khi mà xung
quanh những hình mẫu ấy đã lấp lánh hào quang, được tô vẽ bởi lòng người
mến mộ, có xu hướng trở thành mẫu hình lí tưởng nhằm phục vụ cho giáo lí
phong kiến. Sang đến thời cận đại và đặc biệt là thời hiện đại, lí tưởng thẩm mĩ
của người sáng tác đã có sự đổi khác. Người ta không thoả mãn với hình mẫu
xa xưa, người ta muốn ca ngợi, tìm hiểu, phát hiện cái đẹp ngay trong cuộc
sống đời thường. Không chỉ có nhu cầu thẩm mĩ, người ta còn có nhu cầu giải
quyết những vấn đề đầy tính mâu thuẫn mà thời đại đặt ra, nhu cầu tự đánh giá
và tự bộc lộ mình. Vì thế, văn học bắt đầu hướng tới những điều trước đó
người ta không dám nói tới và không thể nói tới, hướng tới việc bộc lộ những
suy nghĩ, tình cảm, thái độ, đánh giá của mình về cuộc sống và con người.
Chính bước chuyển mình của văn hóa lịch sử xã hội đã tạo điều kiện tiền đề
cho chân dung văn học phát triển.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
22
Bên cạnh đó, vào giai đoạn những năm 1930 của thế kỉ XX, nền văn
học nước nhà đã xuất hiện hàng loạt các nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật khác nhau với những tác phẩm phong phú về thể loại và đa dạng
về phong cách. Đồng thời, cũng trong những năm này, giới trí thức Việt
Nam và công chúng đô thị Việt Nam đã bắt đầu có thói quen đọc báo, đọc
sách. Trong tình hình đó, văn học đã có cơ hội phát triển mạnh mẽ, từ đây,
nhiều đại biểu xuất sắc, nhiều cây bút chủ lực của thời đại ra đời. Có những
tác phẩm đặc sắc in đậm dấu ấn cá tính. Chính sự xuất hiện này đã cung cấp
cho thể chân dung văn học những đối tượng để dựng chân dung, góp phần
đưa lại một thể tài mới. Trong đó, nổi bật là những gương mặt tiêu biểu,
những cây bút chủ lực và sáng giá nhất của văn học như: Phan Khôi, Vũ
Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tản Đà, Thâm Tâm, Quang Dũng,
Nguyễn Bính, Xuân Diệu và rất nhiều nhà văn, nhà báo khác. Đó là “nguồn
cung cấp” đối tượng để thể chân dung văn học quan sát, miêu tả. Sự khởi sắc
của cả một nền văn học và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng
báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Càng về sau,
đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học không chỉ bó hẹp trong làng
văn, làng báo mà càng được mở rộng. Đối tượng phản ánh của thời hiện đại
còn là những con người tiêu biểu trong các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội, đó là những nhà khoa học, các danh nhân văn hoá, những nhà hoạt động
xã hội nổi tiếng, đã tạo nên một mảng sinh động của đời sống văn học mà
trước đó chưa có. Đó cũng chính là hệ quả của một quá trình đổi thay trên
nhiều lĩnh lực của đời sống - xã hội.
Ngoài ra, nhu cầu bảo lưu tư liệu, nhằm giúp cho thế hệ sau tránh cái nhìn
sai lệch và phiến diện về những con người, những thời kì văn học đã qua, cũng
như nhu cầu đánh giá lại các hiện tượng văn học, hiểu thêm về những “người
văn”, “đời văn” gắn liền với cả một giai đoạn văn học, bối cảnh thời đại, và đã
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thể tài này. Đây âu cũng là một nhu
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
23
cầu tất yếu khi tầm nhìn, tư tưởng của con người thời đại về sau được nâng cao,
tạo tiền đề cho sự nở rộ của thể tài chân dung văn học trong nền văn học nước
nhà. Đặc biệt, kể từ giai đoạn những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ XX trở đi,
thể tài này càng phát triển rực rỡ, để lại nhiều dư âm, giá trị với sự xuất hiện của
hàng loạt những cây bút viết chân dung tên tuổi nổi tiếng.
Như vậy, có thể thấy rằng, dựa trên những thay đổi của tiền đề văn hóa -
lịch sử - xã hội, kể từ khi xuất hiện đến nay, cùng với quá trình vận động và
phát triển cho đến nay, thể tài văn học này ngày càng xác lập được chỗ đứng
riêng của mình và trở thành một thể văn thực thụ.
1.2.1.2. Cơ sở thẩm mĩ
Là một hình thái ý thức xã hội, một phương thức đồng hóa hiện thực
về mặt thẩm mĩ, một nghệ thuật dùng ngôn từ làm chất liệu để thể hiện, văn
học do vậy cũng gắn chặt với những cơ sở xã hội - thẩm mĩ nhất định. Cùng
với sự thay đổi của cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội, đời sống văn học nước
nhà cũng có nhiều chuyển biến mới tích cực. Vai trò của văn học được chú
trọng đổi mới, quan niệm sáng tác theo đó cũng được thay da đổi thịt, hướng
đến nhu cầu phản ánh chân thực về cuộc sống, con người. Những yêu cầu
thiết yếu như hiểu rõ hơn, đánh giá chính xác hơn, và cũng làm thỏa mãn
hơn thị hiếu của người đọc muốn tìm hiểu về văn nghiệp của những cây bút
tên tuổi trên văn đàn đã thúc đẩy sự phát triển của thể tài chân dung văn học.
Cũng vào khoảng thời gian những năm 30 của thế kỉ XX, lịch sử vừa
từng bước chuyển từ thời kì cận đại sang hiện đại, ý thức cá nhân ngày càng
được giải thoát trên sự phát triển cởi mở chung của tư tưởng xã hội. Nghề văn
được quan tâm thích đáng, cái tôi cá nhân và cá tính được đề cao. Nhà văn
được mở rộng cánh cửa tưởng tượng và sáng tạo, có tầm nhìn xa hơn, rộng
hơn. Sự ra đời, phát triển của thể tài chân dung văn học đã đáp ứng được nhu
cầu ấy. Từ đây, thể chân dung văn học cũng có điều kiện thuận lợi để phát
triển hơn cùng với sự phát huy năng lực sáng tạo của người viết chân dung.
Mỗi nhà văn tìm cho mình một hướng khai thác riêng về chân dung văn học.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
24
Thêm vào đó là sự tiếp thu ảnh hưởng nghệ thuật viết chân dung văn học
của những nhà văn nổi tiếng thế giới trong đó phải kể đến: M.Gorki, Erenbua,
Pautopxki, Stendal… đã làm cho thể chân dung hồi ký văn học nước ta có
những đổi mới đáng kể. Gắn liền sự hình thành các cá tính sáng tạo độc đáo
trong văn chương, đó chính là sự kích thích và chất liệu cho sự hình thành và
phát triển của thể chân dung văn học, với sự nở rộ của những tên tuổi dựng
chân dung từ thưở ban đầu như Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan,
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng…
Tóm lại thể chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng và thể
chân dung văn học Việt Nam nói chung được hình thành trên những cơ sở nhất
định: Đó là sự đổi thay của những tiền đề văn hóa - lịch sử - xã hội tạo điều
kiện cho sự xuất hiện phong phú, đa dạng của các tên tuổi văn học nổi tiếng,
cung cấp những mẫu hình tượng sống, chân thực làm đối tượng thẩm mĩ cho
thể chân dung văn học khai thác. Sự thay đổi về cơ sở văn hóa, xã hội đã thúc
đẩy sự khẳng định vị trí của văn học, cũng như tạo cơ hội giao lưu với văn học
thế giới đã dẫn đến nhu cầu mở rộng đời sống thể loại nói chung và thể kí nói
riêng bên trong nội sinh tiến trình phát triển văn học. Tiền đề xã hội thay đổi
kéo theo sự đổi mới trong ý thức thẩm mĩ, tạo điều kiện cho sự hình thành
những cây bút có cá tính độc đáo, cho nhu cầu được nhận chân, đánh giá lại
bản thân thông qua cách nhìn vào người khác để nhận ra mình, đồng thời nhận
ra cả giới văn chương. Chính những tiền đề như thế đã thúc đẩy sự thành công
của thể tài chân dung văn học trong nền văn học Việt Nam.
1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học trong
văn học Việt Nam nói chung
Một cái nhìn tổng quan dựa trên các tác phẩm liên quan đến thể tài chân
dung văn học cho thấy quá trình hình thành và phát triển của thể tài này trong văn
học Việt Nam nói chung được chia thành bốn giai đoạn cơ bản sau đây:
- Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX - 1930: Đây là giai đoạn mở đầu cho tiến trình
hiện đại hóa văn học. Giai đoạn này hầu như chưa có tác giả, tác phẩm viết về
chân dung văn học.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
25
- Giai đoạn từ 1930 - 1945: Quá trình hiện đại hóa văn học bước vào giai
đoạn hoàn tất. Nhu cầu mở rộng thể loại văn học phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt
là thể chân dung văn học đã hình thành và phát triển nở rộ với nhiều tác giả
tiêu biểu làm nên sự tỏa sáng cho một thời đại văn học như: Thiếu Sơn,Tản Đà,
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố …
- Giai đoạn từ 1945 - 1975: Văn học bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Mục đích của văn học thời kì này cũng thay đổi.
Thể tài chân dung văn học cũng bị hạn chế, có viết nhưng ít, chủ yếu mang cảm
hứng lí tưởng hóa, ngợi ca cách mạng.
- Giai đoạn từ 1975 - nay: Nền văn học của nước ta có sự chuyển động
mạnh mẽ về nhiều mặt. Cùng với sự cởi mở hơn về quan niệm văn chương,
sự tự do dân chủ trong không khí sáng tác và tiếp nhận, đời sống văn học đã
phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Đặc biệt từ 1986 đến nay, đất nước có nhiều
đổi mới trên nhiều lĩnh vực của đời sống, xã hội tạo tiền đề cho sáng tác văn
học, trong đó có thể tài chân dung văn học phát triển lên một bước mới với
nhiều cây bút chuyên viết về chân dung văn học như: Tô Hoài, Trần Đăng
Khoa, Vương Trí Nhàn...
Như vậy, kể từ khi xuất hiện, cùng với quá trình vận động phát triển từ
khoảng đầu những năm 1930 và phát triển cho đến nay gắn liền với lịch sử văn
học Việt Nam hiện đại, thể tài văn học này ngày càng phát triển và có sức hấp
dẫn riêng của nó. Nhiều thành tựu xuất sắc, được coi là một thể văn thực thụ.
Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo với số lượng tác phẩm ngày càng phong
phú như: Cát bụi chân ai - những gương mặt (Tô Hoài), Chân dung và đối
thoại (Trần Đăng Khoa), Mười chín chân dung nhà văn cùng thời (Vũ Bằng),
Những kiếp hoa dại; Cây bút đời người (Vương Trí Nhàn), Viết về bạn bè -
Tập chân dung văn nghệ sĩ (Bùi Ngọc Tấn), Một thoáng nhân văn (Nguyên
An), Nhà văn hiện đại chân dung tự họa (Lại Nguyên Ân - Ngô Thảo), Mười
khuôn mặt văn nghệ (Tạ Tỵ). Ngoài ra, chân dung văn học còn xuất hiện ở
nhiều trang mục trên các báo và tạp chí như: An ninh thế giới (cuối tháng), Văn
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
26
hóa thể thao, Giáo dục thời đại, Văn học, Văn học và tuổi trẻ, Văn nghệ quân
đội, Phụ nữ, Sông Hương… Đặc biệt, báo Văn nghệ còn dành riêng một chuyên
mục “Chuyện văn chuyện đời” cho thể tài này. Bên cạnh đó, trong điều kiện
hiện nay, chuyện đời tư của văn nghệ sĩ cũng được xã hội hóa bằng các phương
tiện thông tin đại chúng với nhiều chương trình và chuyên mục hấp dẫn: Người
đương thời, Một tuần một chân dung, Tác giả và tác phẩm. Đây hiển nhiên là
một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển mạnh của thể
chân dung văn học trong nền văn học nước nhà ngày nay.
1.3. Thể tài chân dung văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - vị trí và
những đóng góp trong con đường hình thành và phát triển
Giai đoạn 1930 - 1945 được xem là thời kì khai sinh ra thể tài chân dung
văn học. Tác phẩm được coi là mở đầu của thể chân dung văn học là công trình
Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn (trong đó có phần Phê bình nhân vật) viết về
chân dung những nhà văn như: Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Tản
Đà, Vũ Trọng Phụng ...
Phê bình và cảo luận là tác phẩm phê bình đầu tiên của nền phê bình văn
học còn non trẻ khi ấy và Thiếu Sơn được coi là người mở đầu cho lĩnh vực
phê bình của văn học quốc ngữ nước nhà. Trong Lời tựa, ông xác định công
việc của phê bình: “Nhà phê bình là kẻ đọc giùm cho người khác,… biết chỉ
cho người ta thấy cái nghĩa lý của câu chuyện, chỗ dụng ý của tác giả, cái nghệ
thuật của người làm cái văn thể của cuốn sách”. Phê bình và cảo luận là kết
quả của việc theo sát những vấn đề thời sự của văn học, kịp thời có những nhận
định về tác phẩm, tác giả và ít nhiều cũng phác họa những đường hướng phát
triển của văn học đương thời. Lối “phê bình nhân vật” của ông được ứng dụng
trong các bài viết về các nhà văn như Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyễn Khắc
Hiếu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Biểu
Chánh, Trân Tuấn Khải, Tương Phố.
Viết về Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn nhận xét: đây là một người “có cái thủ
cựu của một nhà Tây học”, là một người “học có bề mặt mà không có bề sâu, một
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
27
học giả gọi là bác mà không thúy”. Ông khẳng định: Phạm Quỳnh là một người
có công lớn trong việc dịch thuật, truyền bá văn học Âu châu vào Việt Nam, trong
việc dịch các sách văn học, triết học ra chữ quốc văn và đặc biệt văn phong của
Phạm Quỳnh đã có ảnh hưởng lớn đến “lối văn nghị luận diễn thuyết, triết lý và
khảo cứu” của văn chương quốc ngữ Việt Nam.
Khi viết về Tản Đà, ông có nhiều nhận xét tinh tường và thú vị. Những câu
như: “Tiên sinh sinh ra lại ngông hơn hết thảy. Đời đục tiên sinh trong, đời tối tiên
sinh sáng. Đời quay cuồng trong nhân dục tư lợi, tiên sinh sống trong thế giới tinh
thần”. Hoặc: “Ông đã có cái khí tiết thanh cao lại có tâm hồn lãng mạn, giữa cái
đời quay cuồng vật chất này, ông là người đã khiến cho đời ta được êm đềm và
cao thượng lên”….
Trong những bài phê bình ở cấp độ tác giả này, ông nhận ra cái đặc sắc về
sự nghiệp, phong cách, những đóng góp trong văn chương của những cây bút mở
đường, lớp đàn anh và những nhà văn đương thời… Viết về người cùng thời là
điều không dễ dàng, nhưng sự thẳng thắn và khách quan của ông khiến cho những
bức chân dung này vẫn hiện lên sinh động và hàm súc cả trong những khen tụng
cũng như trong lời nhận xét phê phán kín đáo. Với sự mẫn cảm và cái nhìn bao
quát lịch sử - văn hóa, các “nhân vật” qua ngòi bút ông ngay trong thời điểm ấy đã
mang bóng dáng những nhân vật có ý nghĩa văn học sử. “Phê bình nhân vật” của
Thiếu Sơn mới mẻ, gây được tiếng vang đương thời. Có thể coi đây là bước định
hình đầu tiên của thể chân dung văn học sau này - tác phẩm đặt nền móng cho thể
chân dung văn học hiện đại, định dạng đầu tiên và khá đầy đủ về chân dung văn
học. Sau sự mở đầu đó xuất hiện rất nhiều các bài phê bình giới thiệu các nhà văn
trong đó ít nhiều mang tính chất thể chân dung văn học.
Những thành tựu quan trọng của thể tài chân dung văn học giai đoạn này
phải kể đến đó chính là Tạp chí Tao Đàn với hai số đặc biệt viết về Tản Đà và Vũ
Trọng Phụng, trong đó có những bài viết về chân dung văn học đặc sắc của nhiều
nhà văn, nhà thơ viết về hai tác giả này để tưởng niệm hai nhà văn.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
28
Tao Đàn không phải là tiếng nói của một văn phái nào mà là một diễn
đàn rộng mở nhằm thu hút và tập hợp văn nghệ sĩ có chung lập trường bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy mọi cá tính trong sáng tạo văn
chương. Tôn chỉ và mục đích của Tao đàn được nêu rõ trong Lời nói đầu ở số
ra mắt: “Tao đàn sẽ là nơi gặp gỡ của hết thảy mọi trào lưu tư tưởng và mọi
khuynh hướng nghệ thuật, miễn là các trào lưu và khuynh hướng ấy cùng
chung một mục đích: gây dựng nền văn hóa Việt. Nhiều tên tuổi lớn của văn
chương đương thời đã góp mặt với Tao đàn như: Tản Đà, Phan Khôi, Nguyễn
Triệu Luật, Trương Tửu, Ngô Tất Tố, Lưu Trọng Lư, Vũ Trọng Phụng, Hoài
Thanh… Cùng với việc đăng các sáng tác thuộc nhiều khuynh hướng nghệ
thuật khác nhau, Tao đàn còn đặc biệt chú ý đến khảo cứu, phê bình, dịch
thuật, giới thiệu tinh hoa văn học nước ngoài. Qua những bài viết của các tác
giả trong tạp chí này, có thể thấy cái chết của Vũ Trọng Phụng cũng như cái
chết của Tản Đà, đã làm nổi bật bi kịch của kiếp văn sĩ nghèo bị hắt hủi trong
xã hội đồng tiền, càng nung nấu tâm sự chua xót phẫn uất của những kẻ cầm
bút khi đó. Trong số tạp chí, bên cạnh đôi bài có phần cường điệu là những
dòng chân thành cảm động của Ngô Tất Tố (Gia thế Vũ Trọng Phụng), Đồ
Phồn (Câu đối khóc Vũ Trọng Phụng), Lưu Trọng Lư (Điếu văn đọc bên mồ
Vũ Trọng Phụng), Thanh Châu (Đám tang Vũ Trọng Phụng)… Cũng như Tản
Đà, có thể nói Vũ Trọng Phụng được đề cao hơn bất kỳ nhà văn nào đương
thời. Người ta so Vũ Trọng Phụng với Bandắc (Lưu Trọng Lư), gọi ông là “nhà
văn của thời đại”, “người chiến sĩ đã tranh đấu đến phút cuối cùng” và đặt ông
vào vị trí “vinh quang của những người bất tử”. Vũ Trọng Phụng mất đi đã để
lại bao tiếc thương: “Người ấy mà chết vội thế ư? Đời còn cần người ấy biết
chừng nào”… Anh chưa được một nửa đời người. Văn chương còn mong đợi ở
anh nhiều lắm. Với cái chết của anh, chúng tôi đã mất đi một nửa cái văn tài…
(Lưu Trọng Lư).
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
29
Hai số đặc biệt của Tao đàn viết về Tản Đà và Vũ Trọng Phụng đã gây ấn
tượng đậm nét trong lòng độc giả cũng như trong lịch sử nghiên cứu, phê bình. Sự
ra đi của hai nhà văn lớn đã thu hút đông đảo những cây bút đồng nghiệp uy tín
với những bài viết chí tình, sâu sắc và cảm động, đạt đến trình độ mới của thể
chân dung văn học. Đồng thời có thể coi đây là những đánh giá khoa học và toàn
diện đầu tiên về hai nhà văn xuất sắc này, ghi nhận sự phát triển đỉnh cao của thể
chân dung văn học.
Bên cạnh đó, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Nhà văn hiện đại của
Vũ Ngọc Phan là hai tập sách phê bình, đề cập hầu hết các nhà văn, nhà thơ
đương thời trong đó đã phác ra nhiều chân dung văn học sinh động về họ. Hoài
Thanh được biết đến như một cây bút phê bình sắc sảo và có duyên đầu những
năm 30 của thế kỷ XX. Trong cuộc tranh luận giữa hai phái nghệ thuật vị nghệ
thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, tên tuổi ông càng nổi lên như một đại diện của
khuynh hướng văn học lãng mạn đương thời với tuyên ngôn “văn chương là văn
chương”. Thi nhân Việt Nam ra đời, ngay lập tức được đánh giá là một sự tổng kết
xuất sắc phong trào Thơ mới. Với 169 bài thơ của 46 nhà thơ tiêu biểu mà tác giả
tuyển chọn qua nhiều sách báo suốt mười năm (1932 - 1942) có thể được coi như
tinh hoa hội tụ của mười năm Thơ mới đi kèm với những lời bình tài hoa, xứng
tầm với những bài thơ đặc sắc được chọn lựa. Thi nhân Việt Nam là một hội ngộ
đẹp của một phong trào thơ có tầm vóc văn học sử với một cây bút phê bình. Nhờ
phong trào Thơ mới, nhà phê bình có dịp bộc lộ con người và tài năng mình trọn
vẹn nhất, và phong trào Thơ mới cũng chỉ qua sự tổng kết của Hoài Thanh mới có
được sự hiện diện toàn cảnh của chính nó để lần đầu tiên nhận ra mình và ý thức
về mình như một tư trào văn học. Đây là một hiện tượng đột khởi của sự phát
triển tư duy phê bình và phương pháp phê bình thời kỳ này, đặc biệt là phê bình
thơ. Nó thể hiện một cách tư duy mới, khoa học; sự quan sát về mặt lịch sử đi liền
với việc phân tích, bóc tách các lớp vỏ hiện tượng để nhận ra bản chất tinh thần
của Thơ mới, đồng thời đi sâu vào những biến đổi bên trong thể loại, hình thức
thơ, cùng những đặc sắc của từng phong cách.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
30
Trong Thi nhân Việt Nam thể hiện một tư thế rõ ràng và dứt khoát bản chất
đạo đức của phê bình. Tinh thần thẳng thắn và trung thực được Hoài Thanh đặt ra
cho mình, và rộng hơn, cho cả nền phê bình như một tâm niệm đạo đức: “Danh
vọng quý thật, nhưng còn điều quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy: lòng ngay
thẳng, mà ít nhất cũng phải giữ trọn trong văn chương”. Thi nhân Việt Nam được
viết bằng tư duy phê bình văn học, nhưng cũng được viết bằng chính tâm hồn thi
sĩ nữa. Tâm hồn thi sĩ ấy ẩn hiện trong mỗi nhận định, sau mỗi dòng chữ. Trước
hết là lối thẩm định bằng tất cả tâm hồn mình, “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.
Bởi vì, người phê bình, xét đến cùng cũng là người của Thơ mới, cảm nhận ở Thơ
mới sự đồng điệu: “Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng
Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua, đến lượt họ, họ
cũng mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.
Hoài Thanh là một đại diện xuất sắc của văn chương đương thời đã có công
dựng một tượng đài lộng lẫy cho Thơ mới, cả về thành tựu sáng tác cũng như
trong lĩnh vực lý luận - phê bình. Những nét phác thoáng qua của một số chân
dung thơ cũng cho thấy ít nhiều phong cách và tâm hồn của họ. Khi giới thiệu về
Xuân Diệu, Hoài Thanh cho biết: “Bởi Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn
với một chút hương xưa của đất nước, bao nhiêu nỗi niềm riêng của thanh niên
bây giờ. Xuân Diệu mới nhất trong những nhà Thơ mới nên chỉ những người lòng
còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu. Mà đã thích thì phải mê. Xuân Diệu không như
Huy Cận, vừa bước vào làng thơ đã được người ta dành ngay cho một chỗ ngồi
yên ổn. Xuân Diệu đến với chúng ta đến nay đã ngót năm năm mà những tiếng
khen chê vẫn chưa ngớt. Người khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời.
Song, những ai chê Xuân Diệu, tưởng Xuân Diệu có thể trả lời theo lối Lamartine
ngày trước: “Đã có những thanh niên, những thiếu nữ hoan nghênh tôi”. Với một
nhà thơ, còn gì quý hơn cho bằng sự hoan nghênh của tuổi trẻ”. Còn thơ Huy Cận
như thể là một đối cực với giọng sôi nổi và màu sắc rực rỡ của thơ Xuân Diệu.
“Huy Cận! Một tâm hồn đặc biệt quá, nóng chảy bên trong, e lệ bên ngoài, hay
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
31
nói nhỏ và hay làm thinh để cho men lòng càng rạo rực hơn nữa; một tâm hồn hay
lặng yên để nước mắt chảy, không biết khóc cái gì; vừa mạnh vừa yếu, rất mới và
rất xưa, rất Âu Tây và rất Á Đông; nghĩa là cả con người, con người phức tạp của
muôn thuở. Thơ Huy Cận không phải là một lời hứa hẹn nữa. Thơ ông chỉ chờ
một ít thời gian để chút hẳn cái vỏ còn sót lại, và lột ra bao nhiêu nụ lộc xanh tốt,
mạnh cứng, cho ta hưởng mật hương sống lạ lùng”. Bên cạnh Xuân Diệu, Huy
Cận, Hoài Thanh còn giới thiệu về Tế Hanh như một cây bút “vẫn còn trẻ lắm và
cũng mới bước vào làng thơ” đã kể lại ấn tượng về lần gặp gỡ với người thiếu
niên thi sĩ rụt rè, ngượng nghịu mới bước vào tuổi đôi mươi. Nhà phê bình nhớ
mãi đôi mắt nhà thơ trẻ - “đôi mắt nồng nàn lạ”, cũng như những vần thơ thể hiện
“cái nhìn sâu sắc của một con người sẵn có một tâm hồn tha thiết”. Người đọc biết
đến Tế Hanh bởi thơ ông thấm vào lòng người tự nhiên như một luồng gió nhẹ,
một ngụm nước trong. Mỗi bài thơ của Tế Hanh thực sự là một mảnh đời của ông,
là tấm gương phản chiếu tâm hồn ông – một hồn thơ luôn đằm thắm và trong trẻo.
Bên cạnh đó, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan cũng là một công trình
phê bình văn học khá đồ sộ viết về 78 chân dung nhà văn sáng tác bằng chữ quốc
ngữ. Thông qua việc đi sâu giới thiệu và phê bình từng nhà văn, tác giả dựng lên
được toàn cảnh văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX để độc giả hình dung được
những nét lớn của tiến trình văn học cũng như diện mạo và đời sống thể loại. Vũ
Ngọc Phan đã giới thiệu về chân dung Những nhà văn đi tiên phong trong việc
xây dựng quốc ngữ buổi đầu như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế
Bính, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Đông Hồ, Tương Phố… cho đến Những nhà
khảo cứu, dịch thuật như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Ngọc…, các
Tiểu thuyết gia và Thi gia của thời kỳ đầu nền văn học quốc ngữ như Hoàng Ngọc
Phách, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu… Các tên tuổi làm nên những
thành tựu của văn học Việt Nam được nhận diện khá đầy đủ qua các chân dung
Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu…
Ngòi bút phê bình của Vũ Ngọc Phan tỏ ra cẩn trọng, khách quan và không thiếu
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
32
sự sắc sảo, tinh tế. Viết về Nguyễn Tuân, ông cho biết: “Nguyễn Tuân, như người
ta đã thấy, là một nhà văn đứng riêng hẳn một phái. Những tập văn của ông, dầu
không phải là tùy bút cũng ngả về tùy bút chẳng ít thì nhiều; ông lại không thể nào
bỏ được cái lối phiếm luận, cái giọng khinh bạc bất cứ về việc gì, nên có nhiều
đoạn thật lê thê. Nhưng dù lê thê hay gọn gàng, đọc Nguyễn Tuân bao giờ người
ta cũng thấy một hứng thú đặc biệt: đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi
trong quan sát, sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam. Nguyễn Tuân là một
nhà văn theo thuyết hoài nghi; ông có khuynh hướng về chủ nghĩa vật chất và gần
như muốn tin ở cái ma lực của bản năng, ông lại ưa thích những cái cố hữu, nên
tuy là người muốn luôn luôn xê dịch, tuy tự nhận mình là một kẻ giang hồ, nhưng
sự thật thì chỉ những khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê hương
đất nước hay những cái có thể tưởng tượng nhớ đến quê hương đất nước, ông mới
viết tinh vi và sâu sắc. Ông là một nhà văn đặc Việt Nam, có tính hào hoa và có
cái giọng khinh bạc bậc nhất trong văn giới Việt Nam hiện đại. Nói như thế,
người ta mới hiểu được thân thế ông và văn ông, vì thân thế ông với văn ông theo
nhau như người với bóng”… Nhà văn hiện đại được coi là công trình phê bình có
giá trị văn học sử đầu tiên của nền phê bình văn học hiện đại, nó có sức sống với
thời gian: các nhà nghiên cứu cũng như người đọc không thể bỏ qua nó trên
đường tìm hiểu đời sống văn học sôi nổi và phức tạp nửa đầu thế kỷ XX.
Như vậy, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan là sự kết hợp giữa phê bình văn học và chân dung văn học, góp phần
tạo nên đặc sắc riêng và thành công của hai tác phẩm.
Mang tính chất mở đầu cho một thể tài đầy sức hấp dẫn, những tác phẩm
tiêu biểu kể trên đã gặt hái được những giá trị quý báu, tạo điều kiện tiền đề cho
sự phát triển mạnh của thể tài này trong giai đoạn văn học Việt Nam đương đại.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
33
Chƣơng 2.
ĐẶC ĐIỂM THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 TỪ BÌNH DIỆN NỘI DUNG
2.1. Những đặc điểm cơ bản
2.1.1. Cảm hứng dựng chân dung
Mỗi một hoạt động sáng tạo đều cần có cảm hứng, đặc biệt trong lĩnh
vực sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn khi phản ánh hiện thực với những sáng tạo
nghệ thuật phải dựa trên nguồn cảm hứng nhất định. Cảm hứng là thuật ngữ
được sử dụng để chỉ trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm
lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Nhưng phải thấy rằng trạng
thái hưng phấn cao độ đó chỉ có thể là cảm hứng trong tác phẩm văn học nghệ
thuật khi sự lí giải, đánh giá đối tượng đạt đến một chiều sâu nhất định. Trong
Dẫn luận nghiên cứu văn học, G.N. Pôxpêlôp viết: “Sự lí giải, đánh giá sâu sắc
và chân thật - lịch sử đối với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý
nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo
của nhà văn và của tác phẩm nhà văn[30, tr.141]. Những tác phẩm thuộc thể tài
chân dung văn học đã lựa chọn một mảng hiện thực làm cảm hứng sáng tạo, đó
chính là cuộc đời, số phận các nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa… Chân dung văn
học phải bắt nguồn từ sự thật về một con người, con người đó có thể đi vào cát
bụi hoặc còn sống. Người dựng chân dung phải biết tôn trọng sự thật, đảm bảo
sự thật. Tuy nhiên trong quá trình dựng chân dung, sự thật ấy được tái hiện
dưới góc độ thẩm mỹ, trong thăng hoa nghệ thuật - cái gọi là cảm hứng. Có
như vậy sáng tác ấy mới thực sự là một tác phẩm văn học.
Cảm hứng dựng chân dung của người cầm bút chính là sự khâm phục,
xúc động trước những tài năng văn chương viết nên những tác phẩm có giá
trị, những nhà văn có tư tưởng quan trọng và có ý nghĩa đối với văn chương
nước nhà.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
34
Tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố ra đời đã được xem là một thiên
tiểu thuyết có luận đề xã hội - hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có
thể gọi là kiệt tác. Ngô Tất Tố là người có óc quan sát tinh tường để làm rõ
cuộc sống của con người trong xã hội bấy giờ với những cảnh làm ruộng,
thu thuế, chè chén xôi thịt, hà lạm, ức hiếp, bán vợ đợ con của đám dân
quê… Nó để lại nguồn cảm hứng lớn cho nhiều độc giả cũng như nhiều nhà
văn sáng tác. Vì vậy đã có nhiều bài phê bình chân dung Ngô Tất Tố ra đời,
đánh giá về tài năng nghệ thuật của nhà văn này như: Vũ Trọng Phụng - Tắt
đèn của Ngô Tất Tố (báo Thời vụ); Phú Hưng - Tắt đèn, tiểu thuyết của Ngô
Tất Tố (báo Đông phương) …
Bên cạnh đó ta cũng thấy văn chương Vũ Trọng Phụng có sức thâm
nhập và khái quát những vấn đề bản chất của xã hội đương thời. Đó là sự phân
cách giàu nghèo, kẻ thống trị và người bị trị, dẫn tới đời sống bần cùng và tha
hóa của người nông dân và tầng lớp hạ lưu; sự thao túng và lộng hành của đồng
tiền; sự xâm nhập của văn minh Tây phương tạo ra cuộc sống đô thị với những
mặt trái và tệ lậu xã hội…
Vũ Trọng Phụng trước hết là nhà văn của thời đại ông. Nhưng một phần
không nhỏ những vấn đề mà ông nêu lên trong các tác phẩm còn bao chứa một
ý nghĩa xa rộng hơn thế: đó là những vấn đề văn hóa - xã hội của đời sống hiện
đại hôm nay. Chính điều này đã làm nên sức sống tươi mới lạ thường cũng như
tính hiện đại của văn chương Vũ Trọng Phụng. Vì thế đã có nhiều bài phê bình
chân dung Vũ Trọng Phụng ra đời để ca ngợi tài năng sáng tác cũng như sự
đánh giá trân trọng về văn chương của ông.
Trong Điếu văn của Nguyễn Vỹ đọc trước huyệt Vũ Trọng Phụng có
viết: “Tôi muốn kêu lên: không phải chúng tôi mất Vũ Trọng Phụng mà cả
nước Việt Nam mất Vũ Trọng Phụng… Thấy những đám ma của một vài
người mà thiên hạ cho là các chiến sĩ của dân chúng, có nghìn vạn người đi
đưa, có cả những bài tường thuật rầm rộ trong các tờ báo, rồi nhìn lại một dúm
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
35
nhà văn buồn bã đi theo quan tài của một bạn đồng nghiệp xấu số vô duyên mà
những tác phẩm đã làm vinh dự nước nhà, chúng tôi không khỏi không bị một
cơn ngậm ngùi bi thương vô hạn”. Cả đời Vũ Trọng Phụng sống trong nghèo
khổ. Những ngày cuối đời, trên giường bệnh ông từng phải thốt lên với người
bạn văn Vũ Bằng: “Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết ăn thì đâu có phải
chết non như thế này!”.
Bên cạnh nhà văn tài năng Vũ Trọng Phụng, ta còn thấy sự nghiệp thơ ca
của Hàn Mặc Tử có một ý nghĩa đặc biệt đối với thi ca đương thời và cả sau
này. Bắt đầu bằng thơ Đường luật, Hàn Mặc Tử nhanh chóng nhập vào quỹ đạo
Thơ mới, để rồi bằng sức sáng tạo phi thường, vượt thoát khỏi giới hạn của thơ
lãng mạn đương thời, vươn tới cõi tượng trưng và siêu thực. Hàn Mặc Tử là
nhà thơ “cổ điển một cách tân kỳ” – một hiện tượng độc sáng trong thơ Việt
thế kỷ XX. Nhưng ông lại là người có số phận bất hạnh – chết vì bệnh. “…
Cách đây tám tháng, tôi ghé Quy Nhơn thăm anh, vì có việc gấp phải đi ngay
nên chỉ ngồi chơi với anh được chừng năm phút. Bệnh anh càng ngày càng
nặng, nước da anh đã thay màu. Nhìn thấy một cảnh tượng thê thảm nghèo nàn,
tôi cảm động quá, cầm lấy tay anh. Một bàn tay đã viết ra bao nhiêu là ngà
ngọc mà nay lại khô và thâm tím, một bàn tay (tôi biết lắm) không ai dám cầm,
mà anh cũng không đưa cho ai cầm” (Lê Tràng Kiều – Quỳnh Dao trong bài
Hàn Mặc Tử, Tiểu thuyết thứ năm).
Trong bài viết Tôi với Tản Đà thi sĩ của Phan Khôi đã kể lại: “Tôi biết
ông Nguyễn Khắc Hiếu từ năm 1918, khi tôi bắt đầu ở Hà Nội viết cho tạp chí
Nam Phong. Một đêm mùa xuân lạnh ngắt, tôi đương nằm đọc sách ở cái gác
của nhà báo ấy ở Hàng Bông, tức là ngụ sở của ông Nguyễn Bá Trác bấy giờ.
Bỗng có khách vào. Ông Trác giới thiệu cùng tôi: Đây, ông Nguyễn Khắc Hiếu.
Tôi như có điện chạy trong người, ghê rợn, vùng đứng dậy! Thật thế. Cái tên
Nguyễn Khắc Hiếu bấy giờ không phải vừa, đối với tôi lại càng long trọng lắm.
Tôi nghe mà rùng rợn lên, có thế thật. Số là sự trứ tác quốc ngữ hồi đó còn ít
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
36
lắm, ít lắm nữa là về mặt sáng tạo. Thế mà trước kia đọc Đông Dương tạp chí,
tôi đã thấy những bài như Cái chứa trong bụng người của ông; lần ấy đến Hà
Nội lại vừa gặp Giấc mộng con của ông xuất bản, tôi không thể nào không phục
ông là tay đại tài. Tôi phê bình riêng trong trí thế này: “Anh Quỳnh, anh Vĩnh
chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến thằng cha này hắn viết ra tư
tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo”. Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên
mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại, là người đã có can đảm làm thi sĩ một cách
đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái “tôi”. Từ xưa, hồn
thơ Việt Nam tù túng trong khuôn khổ của lễ nghi, đạo đức. Tản Đà tiên sinh
sinh vào hồi giao thời lúc thơ cổ tàn và thơ kim đang phôi thai, “Tản Đà bắt đầu
ca lên những điệu mới đầy dẫy hồn thơ”. Ông đã dám sống một đời thi sĩ và đã
dám có một tâm hồn thi sĩ. Thơ của ông là tiếng nói dịu dàng trong trẻo của nàng
thơ Việt Nam. Vì thế, văn chương của ông đã được đặc biệt hoan nghênh.
Nói về Nguyễn Bính, Hoài Thanh có viết: “…Tôi muốn nói Nguyễn Bính
vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức
người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối và
hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính
tình căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã làm
những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người,
bây giờ đã có vô số những nhà thông thái nghiên cứu… Tiếc thay Nguyễn Bính
lại không phải người thời xưa! Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính
tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà
thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ như thế này
thì có gì?”. Họ có ngờ đâu họ đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được
bằng lý trí, một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước”.
Chân dung văn học dường như là một bức tranh tả thực về con người
nhà văn, nhà thơ với đời sống rất thực. Do vậy, khi đọc chân dung văn học,
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
37
người đọc có thể tiếp cận với nhà văn, nhà thơ một cách cận cảnh trong bộ
dạng, y phục hiện thực đời thường. Nói về họ với tư cách một tài năng nghệ
thuật nhưng cũng là một người bình thường của cuộc sống đời thường với
những yêu ghét, buồn vui, thăng trầm, được mất… Những trang chân dung văn
học cũng là sự chia sẻ, thông cảm với cuộc đời nghèo khó, lãng du, bất hạnh
của các nhà văn, nhà thơ như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tản Đà, Hàn Mặc
Tử, Nguyễn Bính…
Ứng chiếu vào trong những tác phẩm thuộc thể tài chân dung văn học
nói chung và thuộc giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng, chúng ta có thể nhận thấy
rõ nguồn cảm hứng chủ đạo, dạt dào, khơi gợi những áng văn chính là cảm
hứng dựng chân dung, cung cấp tư liệu về những đối tượng nghệ thuật, về tình
đồng nghiệp, văn chương, với một cách đánh giá (cả về cảm xúc và nhận thức),
những đánh giá về vị trí, vai tò to lớn của sự nghiệp họ để từ đó nhận thức và
tôn vinh giá trị đích thực của tác giả, tác phẩm.
2.1.2. Đối tượng dựng chân dung: những nhà văn đương thời
Như đã giới thiệu, giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến những năm 40 của
thế kỉ XX là một giai đoạn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển
văn học nghệ thuật. Xét trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam, đây
là giai đoạn hoàn thiện ở đỉnh cao của nền văn học, sự hoàn thiện được thể
hiện ở những thành tựu của tất cả các lĩnh vực của nền văn học; là giai
đoạn phát triển đa dạng và phong phú của nền văn học với sự phân hoá
thành các trào lưu, khuynh hướng, các nhóm văn học. Giữa các trào lưu,
khuynh hướng, nhóm văn học thường xuyên có sự tương tác, ảnh hưởng và
bản thân trong từng tác giả hoặc khuynh hướng văn học cũng thường
không thuần nhất. Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp
đối tượng, và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở
thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Nhiều nhà văn trong
quá trình hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật, đã tạo ra được những tác
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
38
phẩm xuất sắc, họ vươn tới đỉnh cao nghệ thuật như Nam Cao, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Thế Lữ, Nguyễn
Bính, Xuân Diệu… Những nhà văn nổi tiếng này dễ thu hút độc giả - người
thưởng thức, và thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác.
Đọc những bài viết thuộc thể tài chân dung văn học trong Tao đàn,
người đọc có cảm tưởng như được gặp gỡ và trò chuyện với các gương mặt
vốn thân quen và đáng kính trọng. Đặc biệt là chân dung của thi sĩ Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu và nhà văn Vũ Trọng Phụng. Họ hiện ra trước mắt chúng ta
bình dị và biết bao cảm động. Các tác giả đã khuấy động vào con tim khối óc
chúng ta trước những con người với những số phận lênh đênh, tài hoa nhưng
cũng lắm gian truân. Nhờ những bài viết này, chúng ta đã hiểu được số phận
những người nghệ sĩ tài ba, và hơn hết hiểu được sâu sắc “nghề văn” - một
nghề cao quí nhưng cũng đầy gian nan.
Đồng thời, sự gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây cũng đã
mang đến cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế
kỉ. Sự biến thiên đó đã kéo theo cả cuộc cách mạng của “một thời đại trong
thi ca” (chữ dùng của Hoài Thanh). Phong trào Thơ mới ra đời là một sự
đổi thay, chuyển mình của những tư tưởng mới, những hình thức mới của
cuộc đời. Khuôn khổ Thơ cũ rạn nứt, được thay bằng những thể thức thơ tự
do mới để chuyển tải những rung động tinh tế, vi diệu của tâm hồn, sự thức
tỉnh cái tôi cá nhân của một loạt những trí thức trẻ tuổi và theo đánh giá
của Hoài Thanh: “Hãy sánh thời đại cùng thời đại. Tôi quyết rằng trong
lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời
đại này” [36, tr.31]. Từ đây, trong tâm thế hân hoan, vừa đánh giá, tổng kết
sự thắng lợi của Thơ mới, vừa là tuyển chọn, giới thiệu những tinh hoa,
hơn bốn mươi gương mặt Thơ mới của một thời đại thi ca đã lần lượt xuất
hiện dưới ngòi bút của Hoài Thanh - Hoài Chân, đó là: Tản Đà, Thế Lữ, Vũ
Đình Liên, Lan Sơn, Thanh Tịnh, Thúc Tề, Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Đoàn
39
Phú Tứ, Xuân Diệu… Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
Sự tiếp xúc với nền học thuật Âu châu cũng đưa đến những thành tựu
lớn, trong đó có sự thành công của những nhà lí luận, phê bình văn học. Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình được tác giả xếp vào loại phê
bình văn học, tuy nhiên đường biên của thể loại đã được kéo giãn giao thoa,
thẩm thấu vào thể tài chân dung văn học, chúng ta được tiếp cận với bảy mươi
tám chân dung nhà văn hiện đại từ cuối thế kỉ XIX đến những năm của thập
niên 40 của thế kỉ XX. Theo giới thiệu của chính tác giả trong lời nói đầu của
bộ sách, đây chính là “những nhà văn cùng thời với chúng ta. Trong số ấy, có
một vài nhà văn đã quá cố, nhưng họ vẫn rất gần ta; còn phần đông là những
người đang tìm tòi, đang sáng tác để đi đến sự tận thiện tận mĩ” [27, tr.7]. Khái
niệm “nhà văn hiện đại” được đem làm đối tượng để dựng chân dung theo định
nghĩa của Vũ Ngọc Phan đó phải là “nhà văn, nhà bác học, là người đã làm
khuôn mẫu cho lớp nhà văn đi tiên phong, lớp người chuyên về dịch thuật và
biên khảo mà ta có thể coi là những lối văn mới” và “Nhà văn theo nghĩa (…)
dùng đây là những người viết văn xuôi hay văn vần, có tính cách vĩnh viễn,
đăng trong các báo chí hay trong những sách đã xuất bản, mà điều cốt yếu là
những văn phẩm của họ đã được nhiều người chú ý” [27, tr.12]. Như vậy, đối
tượng của thể chân dung văn học có thể còn vừa là những nhà văn vừa là
những nhà văn hoá, những nhà hoạt động xã hội, nhà báo nổi tiếng, góp phần
làm nên bộ mặt tinh thần, làm nên văn hóa dân tộc. Họ là những nguyên mẫu
trong văn học. Có thể coi đây là “lực lượng sáng tác” văn chương thời kỳ này.
Đây cũng là một mặt bằng rộng rãi, phong phú. Và đối tượng để dựng những
chân dung văn học chính là những cây bút kiệt xuất trong toàn bộ hệ thống. Cái
nhìn chọn lọc ấy sẽ là thao tác đầu tiên của người viết chân dung văn học.
Những bài viết trong Tao đàn và hai công trình tiêu biểu kể trên, bằng
những gì được thể hiện còn phác thảo nên những chân dung nữa, đó là chân
dung của chính tác giả của những bài viết, công trình đó, là những tên tuổi nổi
tiếng như Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu, Thanh Châu, Nguyễn
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
40
Triệu Luật, Lan Khai, Xuân Diệu, Trúc Khê Ngô Văn Triệu, Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyễn Nhất Lang, Đinh Gia Trinh, Lê Thanh, Tam Lang,
Tchya, Nguyễn Vỹ, anh em Hoài Thanh - Hoài Chân và Vũ Ngọc Phan. Với
thể tài chân dung này, sự nghiệp văn học của Hoài Thanh - Hoài Chân và Vũ
Ngọc Phan trở nên đầy đặn hơn, phong phú hơn. Những bài viết được xếp vào
nhóm thể tài này được in trên Tao đàn cũng đã đóng góp cho thể tài chân dung
văn học một tiếng nói mới, mở đường cho sự thành công của loại hình sáng tác
này trong những giai đoạn về sau.
Như vậy, “nhân vật chính” trong các trang chân dung là những con
người khác nhau với những tính cách và số phận mang tính cá thể. Trước hết,
họ là các nhân vật được dựng chân dung. Họ đến và đi qua một vài trang viết,
nhưng ấn tượng và dư vị cảm xúc họ để lại cho người đọc thì thật sự thấm thía,
dài lâu. Những dòng chữ “chân thực đến đáy” nhưng vẫn đầy trân trọng, yêu
thương của các tác giả dựng chân dung đã để lại cho người đọc niềm xúc cảm
sâu xa về từng con người cụ thể với từng tâm hồn và số phận riêng tây.
2.1.3. Cung cấp tư liệu
Chọn viết chân dung văn học, các nhà văn đã tự nhận về mình những
khó khăn của lớp người khai phá một thể loại mới trong lịch sử văn học dân
tộc. Sự khó khăn ấy kích thích thêm ý thức sáng tạo của nhà văn trước nhu cầu
cung cấp tư liệu văn học cho độc giả. Hay nói cách khác, một trong những yếu
tố làm nên cảm hứng dựng chân dung ở người cầm bút chính là mong muốn
được cung cấp tư liệu cho người đọc, mà đúng như I.Erenbua đã từng thổ lộ:
“Từ lâu tôi muốn viết về một số người mà trong đời tôi có gặp về một số sự
kiện mà tôi từng là kẻ tham gia hay chứng kiến”. Để làm được điều đó, đòi hỏi
người dựng chân dung phải có những hiểu biết về cuộc đời, số phận, sự nghiệp
của một con người đặc biệt, trong số những nhà văn, nhà thơ - đối tượng chính
của chân dung văn học. Những hiểu biết này có thể được thu lượm từ chính
mối quan hệ giao hữu thân sơ, từ chính những trải nghiệm với tư cách là người
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
41
trong cuộc cùng chứng kiến hay đôi khi là một sự hình dung “hư cấu” về người
văn thông qua trí tưởng tượng từ những cảm nhận trên hơi văn.
Chẳng hạn như chân dung Lưu Trọng Lư hiện lên trong trang viết của
Hoài Thanh được bắt đầu bằng những hình ảnh hết sức gần gũi được xây dựng
trên mối tình thân giữa ông với thi sĩ. Còn gì thú vị bằng được chứng kiến:
“Lư đang nằm trên giường xem quyển Tiếng thu bỗng ngồi dậy cười to:
- A ha! Thế mà mấy bữa ni cứ tưởng...
- ?
Hai câu
Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh,
Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi.
Mấy bữa ni tôi ngâm luôn mà cứ tưởng là của Thế Lữ...
Thì ra hai câu ấy của Lư!” [36, tr.321].
Hoài Thanh đã dành những lời âu yếm, đầy tình cảm cho người bạn văn
chương đáng yêu của mình: “Ở đời này, ít có người lơ đãng hơn. Nếu quả như
người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ, ngác ngác, chân bước chập chững trên
đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. Giá một ngày kia Lư có nhảy xuống
sông ôm bóng trăng mà chết ta cũng không ngạc nhiên một tí nào” [36, tr.321].
Nhưng cũng có những chân dung văn học được dựng nên chỉ dựa trên
câu chuyện liên quan đến sự xuất hiện của thi phẩm và trên những tưởng
tượng của tác giả trên tác phẩm của người được dựng chân dung, như là tác
giả T.T.Kh. Hoài Thanh cung cấp cho ta một ít tư liệu về sự có mặt của bài
thơ: “Hồi tháng 9-1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn của
Ô.Thanh Châu: “Hoa ti gôn”. Ít ngày sau tại tòa báo nhận được một bài thơ
nhan đề “Bài thơ thứ nhất”, rồi lại nhận được một bài nữa: “Hai sắc hoa ti
gôn”. Hai bài đều kí tên T.T.Kh. Và đều một nét chữ run run. Từ đấy tòa soạn
Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài nào nữa và cũng không biết T.T.Kh
ở đâu” [36, tr.380]. Và với ít tâm tình được gói trong bài thơ, Hoài Thanh đã
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
42
tưởng tượng nên hình ảnh một “cô bé T.T.Kh yêu” với hình ảnh “người yêu
của cô có nét mặt rầu rầu và có lẽ đã đọc nhiều văn Từ Trẩm Á” [36, tr.381].
Và rồi kết thúc đường kí họa chân dung bằng những nét phác thảo để lại trong
lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng khôn bờ bến: “Bốn năm đã qua từ
ngày tờ báo vô tình hé mở cho ra một cõi lòng. Ai biết “con người vườn
Thanh” bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn
riêng cho đến khi về chín suối”[36, tr.382].
Chân dung văn học có thể hướng vào việc dựng lại diện mạo toàn vẹn
(hình thể, tinh thần, sáng tác...) của nhân vật hoặc hướng vào việc khám phá
nét chủ đạo của cuộc đời “nhân vật” ấy, có khi qua một lát cắt thời gian nhất
định, để từ đó cung cấp được những tư liệu rất đáng quí cho người đọc.
Thành tựu của Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan trước hết là nằm ở
sự cung cấp một pho tư liệu cẩn thận, tỉ mỉ về bảy mươi tám gương mặt nhà
văn tham gia sáng tác từ cuối thế kỉ XIX đến đầu những năm 40 của thế kỉ
XX. Chính trong lời nói đầu của tác phẩm này, Vũ Ngọc Phan đã thể hiện rõ
mục đích “nói đến thân thế của các nhà văn để đặt họ vào những tác phẩm
của họ, đem cuộc đời của họ mà đọ với những ý nghĩ của họ” [27, tr.7], giúp
cho “những người hiếu văn tiện việc tra cứu, và nhất là muốn cho có thể xét
tất cả các tác phẩm của một nhà văn trong một mục, để đoán định về sự tiến
hóa và bước đường tương lai của nhà văn ấy” [27, tr.8], đồng thời giúp cho
“những người lưu tâm đến văn chương nước nhà tiện việc tra cứu và có thể
biết qua về sự tiến hóa của văn học hiện đại” [27, tr.10].
Giới thiệu bảy mươi tám chân dung mà công việc của họ đã tác động tới
hành trình tư duy của dân tộc Việt Nam trên 1000 trang sách, Vũ Ngọc Phan
đối với mỗi chân dung nhà văn luôn có sự giới thiệu rất cụ thể họ là ai, nghiêng
về sáng tác thể loại nào, khuynh hướng ra làm sao. Chẳng hạn, mở đầu trang
viết về Nhất Linh, ông nhận xét: “Ông là một tiểu thuyết gia có khuynh hướng
cải cách.” Về Trương Chính: “Ông là một nhà văn đến nay chỉ chuyên viết có
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
43
một loại phê bình” [27, tr.598]. Về Hoài Thanh: “Ông là một nhà văn chuyên
về mặt biên khảo” [27, tr.604]. Về Vi Huyền Đắc: “Ông nổi tiếng về kịch từ
trên mười năm nay” [27, tr.624]. Về Đoàn Phú Tứ: “Ông là một kịch gia mà tài
nghệ khác hẳn Vi Huyền Đắc. Có thể nói Vi Huyền Đắc thẳng thắn, nghiêm
trang đến cả trong các vở hài kịch, còn Đoàn Phú Tứ trong những vở không
hẳn là hài kịch cũng dí dỏm và tài hoa” [27, tr.636]. Về Nguyễn Giang: “Ông
chỉ làm rặt một lối thơ Đường luật” [27, tr.654]... Qua những lời giới thiệu mở
đầu rất gãy gọn, người đọc có thể hình dung ngay vai trò của nhà văn ấy trong
tiến trình lịch sử văn học dân tộc.
Đồng thời, để những tư liệu được cung cấp không trở nên khô khan, chỉ
mang tính liệt kê, Vũ Ngọc Phan đã thổi hồn vào trong những trang viết về mỗi
nhà văn Việt Nam hiện đại bằng cách nắm bắt lấy những đường nét cơ bản trong
sáng tạo của họ, để từ đó trình làng trước độc giả cái thần thái cốt yếu của từng
gương mặt nhà văn, nhà thơ. Ví như, nhận xét về Lưu Trọng Lư, tác giả nắm ngay
cái thần của thi sĩ mà có rất nhiều nét tương đồng trong cách nhìn về người thơ
này dưới con mắt của Hoài Thanh, đó là: “Có thể tóm tắt tất cả những ý trong thơ
của Lưu Trọng Lư vào hai chữ tình và mộng. Lưu Trọng Lư là một thi sĩ đa tình
và mơ mộng. Thơ của Lưu Trọng Lư là tất cả một tấm lòng thổn thức của con
người mơ mộng lúc nào cũng nặng lòng yêu dấu” [27, tr.672]. Hay đánh giá về
nhà văn tài hoa, có phong cách độc đáo là Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan đề cao:
“Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng, cả về lối văn lẫn về tư tưởng”
[27, tr.415]. Từ những dòng văn “gần tới sự toàn thiện toàn mĩ” Vang bóng một
thời, Vũ Ngọc Phan đã làm con đường đi ngược lại từ văn đến người, giúp người
đọc hình dung nên được một chân dung đầy thú vị của “tùy bút gia” với nét tính
cách đầy kiêu bạc không chỉ trong văn chương mà còn cả trong cuộc đời thường
nhật, với “lối hành văn đặc biệt của ông và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn
bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa
bãi, lôi thôi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một
trạng thái của tâm hồn” [27, tr.415].
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
44
Như vậy, với những tình cảm mến yêu, Vũ Ngọc Phan đã góp phần dựng
nên một chân dung văn học Nguyễn Tuân thêm sáng rõ thông qua việc dựng lại
con người ông trong văn chương. Nhờ vậy, người đọc đã tìm thấy được rất
nhiều tư liệu có tính học thuật cao, đồng thời cũng rút ra cho mình những cảm
nhận độc lập riêng, đầy thú vị.
Riêng những bài viết về Tản Đà và Vũ Trọng Phụng, bởi sự đặc biệt của
nó ra đời như những lời tưởng niệm sâu sắc, nghiêng mình của những người
bạn đồng giới trước sự ra đi của hai văn tài này, nên cuốn hút người đọc bằng
những lối viết giản dị, chân tình, đầy xúc động. Từ những câu chuyện chân
thực về cuộc đời và số phận của họ do các bạn văn dựng lại qua một vùng hồi
ức với những kỉ niệm, những trang viết trên Tao đàn ngày ấy đã tạo nên được
một hiệu quả kép cần có trong những chân dung văn học: giúp người đọc hiểu
một cách chân thực số phận, cuộc đời của hai tác giả sau mỗi con chữ của họ
và đánh giá đúng, khách quan giá trị văn chương của hai tác giả ấy.
Trương Tửu đã từng đề ra yêu cầu nhận thức về một nhà văn trong bài viết
Địa vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam cận đại: “Muốn hiểu con người Vũ
Trọng Phụng, muốn hiểu văn chương Vũ Trọng Phụng, phải truy cứu đến ảnh
hưởng quyết định của hoàn cảnh ấy” [37, tr.1350]. Những câu chuyện chi tiết được
tiết lộ về cuộc đời Vũ Trọng Phụng: “Vũ Trọng Phụng sinh trưởng trong một
gia đình nghèo và bồ côi cha từ nhỏ. Không được hưởng cái ấm cúng của
những gia đình phú quý, không được cái diễm phúc theo ở các trường cao cấp
như các con nhà phong lưu, ông mang nặng trong lòng từ lúc thiếu thời, toàn
những căm hờn, thù ghét và buồn tủi. Lớn lên, ở cái độ tuổi mà người khác
được thong dong học tập và đùa nghịch, ông phải lăn lưng vào cuộc đời, đổi
mồ hôi lấy bát cơm. Làm thư kí ở một hiệu buôn lớn của người Pháp, lại làm
thư kí ở một hiệu buôn lớn khác cho đến lúc ông đoạn tuyệt với đời viên chức.
Trong lúc mưu sinh, cái linh hồn ngây thơ của ông bị tắm gội trong những
hoàn cảnh phức tạp, ở đó sự va chạm bi đát và trào phúng các hạng người
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
45
thường diễn ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút cùng với những cái gì có thể gọi
là tồi tệ cực điểm của các thứ phong tục và tâm lí hạ đẳng. Ông bị bắt buộc
phải nhìn và hiểu cái thực trạng của thân thế mình và cái thực trạng xã hội...
Ông nhìn thấy rặt những cái giả dối, những cái bẩn thỉu ở chỗ này bị che lấp
dưới một màu sắc huy hoàng, ở chỗ kia bộc lộ một cách vô sỉ và bỉ ổi. Chỗ nào
ông cũng thấy mưu cơ xu nịnh, lừa đảo. Chỗ nào ông cũng thấy cá nhớn nuốt
cá bé, kẻ khỏe đè kẻ yếu. Chỗ nào cũng có tội ác và trụy lạc.
Có hiểu thêm như thế về cuộc đời Vũ Trọng Phụng, chúng ta mới lí giải
sâu sắc hơn cái thế giới xấu xa, đen tối với bao nhiêu thối mọt, cặn bã mà nhà văn
đã phơi bày trong tác phẩm của mình.
Thêm vào đó, từ những phác thảo của bạn bè, chúng ta - người đọc hiểu
hơn một chân dung Vũ Trọng Phụng - con người tài năng nhưng lại có một
cuộc đời “cơm áo ghì sát đất” với những nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh và
chiến đấu với bệnh tật dày vò thể xác. Dựng lại số phận và sự nghiệp sáng tác
của Vũ Trọng Phụng, những đồng nghiệp đã bày tỏ một niềm tiếc thương sâu
sắc với con người tài năng bạc mệnh, ra đi khi tài năng đang nở rộ, và mang
đến cho người đọc những tình cảm yêu mến, trân trọng và hiểu chính xác hơn
những chân giá trị đích thực trong văn phẩm của ông.
Có thể thấy rõ tác giả của những tác phẩm chân dung văn học là
những cây bút thuộc loại nhân vật chính của một thế kỉ văn chương và bối
cảnh câu chuyện ở đây lại là những sự kiện lớn lao cũng tức là cả mảng tài
liệu ngổn ngang mà ai quan tâm đến lịch sử đều muốn biết. Như vậy,
không chỉ cung cấp nguồn tư liệu phong phú về cuộc đời, số phận, văn
nghiệp của nhà văn, nhà thơ, các tác phẩm chân dung văn học thời kì này
còn đem lại cho người đọc những hiểu biết về một giai đoạn lịch sử, về xã
hội và bối cảnh văn học một thời. Đặt người nghệ sĩ sáng tác vào một trong
những giai đoạn ấy, bối cảnh thời đại ấy sẽ giúp ta có cái nhìn tổng quát,
toàn diện và cũng là đúng đắn hơn khi tiếp cận thế giới nghệ thuật.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
46
2.1.4. Nhận thức và tôn vinh giá trị đích thực của tác phẩm, tác giả
Dựng thành công chân dung văn học về một nhà văn, nhà thơ, nhà báo
không phải là chuyện đơn giản, dễ dàng. Đấy vừa là kết quả của việc “đọc”
sáng tác của người ấy, lại vừa là kết quả của việc “đọc” trực tiếp vào cuộc đời
và sự nghiệp, quan niệm và hoạt động của bản thân người ấy. Bản thân việc
dựng một chân dung, về thực chất cũng bao hàm sự lí giải về một nghệ sĩ, sự
đánh giá vị trí và vai trò của con người đó trong một nền văn nghệ. Nghĩa là
trong chiều sâu, nó không kém nghiêm ngặt so với yêu cầu đặt ra trong nghiên
cứu, phê bình, ấy là chưa nói đến tính hình tượng và sự cảm thụ trong ngôn từ.
Đến với thể tài chân dung văn học, người đọc được chứng kiến sự hồi
quang của cả một thời đại thông qua những trang viết. Bên cạnh tính chân thực,
thẳng thắn thừa nhận những hạn chế, bảo đảm sự thật vốn có, tác phẩm chân
dung văn học còn cuốn hút người đọc bởi cảm hứng ngợi ca về những con
người được dựng chân dung. Nhà văn - người dựng chân dung có thể ngợi ca
về một tài năng, một phẩm chất, một vẻ đẹp của đối tượng, nhưng sự ngợi ca
này không phải là tô hồng, khoác thêm những điều ngoài sự thật, bởi lẽ trung
thực là yêu cầu thiết yếu và cũng là trước hết của công việc dựng chân dung.
Từ sự thu nạp những chi tiết về người muốn ngợi ca, người viết đã dựng lên
một bức tranh hiện thực đa dạng và chân thực về cuộc sống, con người. Sự
ngợi ca đều xuất phát từ sự thật những gì đối tượng có, qua lăng kính chủ quan
của nhà văn nó đã được khúc xạ, ánh xạ.
Đọc lại những trang viết chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 ngày
ấy, độc giả được tiếp cận với đời sống của các nhà văn tên tuổi một thời -
những con người “hằn dấu mình lên dung mạo của thế kỉ”, với những đánh giá
trân trọng mang tính văn học sử.
Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình phê bình văn học khá
đồ sộ viết về bảy mươi tám chân dung nhà văn sáng tác bằng chữ quốc ngữ, đã góp
phần tạo nên “những tác phẩm xuất bản trong khoảng ba mươi năm gần đây”, ảnh
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
47
hưởng đến người đời, làm nên sự phong phú cho nền văn hóa đất Việt. Cảm hứng
ngợi ca đã đến ngay từ đầu trang sách khi tác giả giới thiệu trong lời nói đầu: “Đây
phần đông là những người đang tìm tòi, đang sáng tác để đi đến sự tận thiện tận
mĩ” [27, tr.7]. Và trong lời kết luận: “Rừng văn Việt Nam mỗi ngày một nẩy thêm
cây mới, ra hoa kết quả trùng trùng, làm cho đối với nền văn học hiện đại chúng ta,
không một ai có thể hoài nghi được” [27, tr.408].
Dựng chân dung về những con người, nhất là những người nổi tiếng, phải
đảm bảo dược sự chân thực và tin tưởng nhưng lại vừa phải đảm bảo cái độc
đáo, tinh tế trong cảm nhận mang tính chủ quan của riêng người viết. Với Vũ
Ngọc Phan, chúng ta vẫn tìm thấy cách phác thảo mỗi gương mặt viết văn rất
riêng song đồng thời vẫn nằm trong cái khuôn khổ tỉnh táo của con mắt một
người làm công tác phê bình. Sự am hiểu về đối tượng được dựng chân dung
của Vũ Ngọc Phan thực sự là cơ sở đáng tin cậy cho cảm hứng ngợi ca ở tập
sáng tác này. Ông cung cấp cho người đọc những đánh giá mang tính chất vừa
là giới thiệu vừa là tổng kết về vị trí của từng tác giả. Ví như với Phan Khôi,
Tản Đà, Nguyễn Tuân… Vũ Ngọc Phan dành những tình cảm rất mực trân
trọng: “Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho
học. Ở một nhà cựu học như ông, người ta đã thấy rất nhiều cái mới, nhiều cái
mà đến nhiều người tân học cũng phải cho là “mới quá”. Đó thật là một sự
chẳng ngờ” [27, tr.237]. Hay nhận xét về Tản Đà: “Ông là một nhà thơ biệt
phái, cũng như những bài ca có tiếng của ông là những bài mà tay thợ thơ
không tạo nên được” [27, tr.398]. Ông cũng sớm nhận ra: “Văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa khi mà
văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám
chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một vị trí xứng đáng hơn
nữa” [27, tr.439]. Cảm hứng ca ngợi đó thể hiện một sự nghiên cứu, tìm hiểu tỉ
mỉ của Vũ Ngọc Phan đối với toàn bộ sự nghiệp của Phan Khôi, Tản Đà,
Nguyễn Tuân và cũng là đối với nhiều nhà văn khác nữa.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
48
Những xét đoán mà Vũ Ngọc Phan đưa ra đối với mỗi chân dung cho
đến nay vẫn còn nguyên giá trị như những nguồn tư liệu đáng quí, giúp độc
giả có được định hướng khi tiếp cận văn nghiệp của các tác giả đã được
dựng chân dung. Đặc biệt, việc nhấn mạnh vai trò, đóng góp của từng
gương mặt nhà văn đối với lịch sử văn chương nước nhà rất được tác giả
chú trọng, như những nhận định: “Nếu đã đọc những tiểu thuyết của các
nhà văn đi tiên phong, từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải nhận ra rằng
từ Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu
đến bước vững vàng, để dần dần đi tới ngày nay là lúc đã có thể chia ra
nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [27, tr.342]. Điều đó tạo cho người đọc có
được sự tra cứu thuận lợi khi nhìn lại những mốc đánh dấu sự phát triển
của văn chương và học thuật của nền văn học Việt Nam.
Cái nhìn khách quan của ông không quên bỏ quên ngay cả đối với những
trường hợp phức tạp về chính trị, chẳng hạn như Phạm Quỳnh. Vũ Ngọc Phan
chỉ ra rằng Phạm Quỳnh có một vai trò đáng kể đối với tạp chí Nam phong thời
ấy, “ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam phong”. Ông nhận thấy con
người này là một con người “vững vàng, chắc chắn làm cho người đọc tin cậy”,
có “một khuynh hướng rõ ràng về học thuyết hay về những thứ mà phần tư
tưởng là phần cốt yếu”, “là người chủ trương cái thuyết: đọc sách Tây là để
thâu thái lấy tư tưởng, lấy tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền quốc
văn còn khiếm khuyết, để chọn lấy cái hay của người mà dung hòa với cái hay
của mình, ngõ hầy gìn giữ cho cái học của mình không mất bản sắc, mà vẫn có
cơ tiến hóa được” [27, tr.76]. Để từ đó, đi đến nhận định khách quan: “Cái
công Phạm Quỳnh “khai thác” lúc đầu cho nền quốc văn có ngày nay, thật là
một công không nhỏ” [27, tr.107].
Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã dành trọn tình
cảm, tâm huyết, niềm say mê của mình để dựng lại chân dung của hơn bốn
mươi gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Tác phẩm không chỉ
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
49
làm sống lại hồn thơ say đắm mà bơ vơ của cái tôi những người trí thức trẻ
một thuở khi chưa tìm ra con đường cách mạng, giải phóng khỏi sự tù túng,
áp bức mà còn là cảm thông, thấu hiểu tâm hồn của tác giả đối với họ, là sự
ca ngợi tài năng và tâm hồn của những người thơ một thời. Ngập tràn
những trang viết là một nguồn cảm hứng mê say, ngợi ca, đồng điệu ngân
lên khúc nhạc lòng với những tâm hồn Thơ mới.
Cái độc đáo, lối đi riêng của Hoài Thanh - Hoài Chân chính là ở tấm
lòng chắt lọc lấy ánh hào quang của cái đẹp mỗi linh hồn thơ, những người
có tên tuổi và nhận ra thơ họ đẹp, hồn họ đồng điệu với tác giả, thế là đủ.
Ngay chính trong lời kết thúc cuối tập chân dung, tác giả cũng trải lòng thổ
lộ: “Gặp thơ hay, tôi triền miên trong đó. Tôi ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy
hồn tôi để hiểu hồn người. Thỉnh thoảng có nói đến cái dở là cũng cốt để nói
lên cái hay mà thôi. Chứ dở thì giữa đời thiếu gì mà phải đi tìm trong thơ.
Nói chắc bạn không tin, nhưng thực tình tôi chẳng muốn chê ai mà cũng
chẳng muốn khen ai. Tôi chỉ muốn hiểu cho đúng - không phải cho đủ - hình
sắc các hồn thơ. Và như thế tôi đã phải cố gắng nhiều lắm. Vì trong các nhà
thơ cũng nhiều người tôi gặp giữa đời. Có người thơ tuyệt đẹp mà đối với tôi
lại toàn những cử chỉ rất mực xấu xa. Họ phũ phàng, họ nhỏ nhen… Nhưng
thôi, tôi nói ra làm gì. Những cử chỉ xấu kia là bề ngoài; phần sâu sắc nhất
trong tâm hồn họ đã ghi lại nơi những vần thơ đẹp. Tôi tin như thế. Đừng ai
làm tôi hết tin. Đừng ai làm tôi hết lòng tin. Trái lại, có những nhà thơ tử tế
với tôi vô cùng mà thơ của họ tôi lại chỉ thích…có hạn. Nếu bảo rằng tôi
không ái ngại người này, không khinh ghét người kia, thì e không thực.
Nhưng ái ngại hay khinh ghét, khi xem thơ tôi chỉ biết có thơ. Tôi không hề
nghĩ đến danh vọng của người hay của tôi. Danh vọng quí thật, nhưng còn
có điều quí hơn danh vọng, quí hơn hết thảy: lòng ngay thẳng, mà ít nhất
cũng phải giữ trọn trong văn chương” [36, tr.386-387].
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
50
Nếu như Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh - Hoài Chân có khuynh hướng dựng
chân dung bằng cách phân tích, luận bàn về khí cách tác phẩm, tư tưởng, phẩm
chất, phong cách sống và văn nghiệp của đối tượng và đặc biệt là dựa trên tác
phẩm để hình dung ngược lại về con người được dựng chân dung, thì những bài
viết trong hai số đặc biệt của Tao đàn về Vũ Trọng Phụng và Tản Đà và các bài
viết về các bậc đàn anh như bài Ông Phan Khôi và Ông Nguyễn Bá Trác của Lưu
Trọng Lư lại dựa trên sự khai thác những kỉ niệm, những hồi ức, những tưởng nhớ
chi tiết về cuộc đời riêng tư có ý nghĩa về người anh, người bạn mình lựa chọn
dựng chân dung. Hồi tưởng lại những kỉ niệm ấy, hình ảnh người được dựng chân
dung càng hiện lên sắc cạnh và rõ nét trong một tình cảm yêu thương, trân trọng.
Khi nhớ về Tản Đà tiên sinh, Bùi Công Trùng trong bài Thi sĩ Tản Đà tạ thế
không tiếc lời ca ngợi: “Những lúc đau khổ tiên sinh đã say túy lúy và không còn
biết trời đất là gì nữa, còn lại những thì giờ nào, thì tiên sinh chỉ hát nghêu ngao,
tìm cái vui thích của mình trong một câu văn, trong một món ăn, trong một điệu
múa (vì tiên sinh cũng là một tay kiếm sĩ), trong một giọng hát (vì tiên sinh cũng
còn là một kịch sĩ). Tiên sinh là người hành lạc và đã dạy ta “đạo” hành lạc,
không phải là một đạo hành lạc thô bỉ của kẻ tham lam, mà là cái đạo hành lạc
thanh khiết, cao thượng của một kẻ tài hoa. Cuộc đời vì thế đối với tiên sinh chỉ là
một “công trình mĩ thuật”. Mà tiên sinh chỉ là một “nghệ sĩ”, một nghệ sĩ của cuộc
đời nhiều hơn là của “thơ văn”. Viết văn, làm thơ, đối với tiên sinh cũng chỉ là
một cách hưởng thụ đời, nhưng hưởng thụ một cách… mĩ thuật hơn hết” [37,
tr.946]. Cảm hứng ngưỡng mộ trước một nhân cách tài hoa, khinh bạc ấy cũng là
cảm hứng chung của những bài viết về Tản Đà, như những đánh giá: “Không ai
chối cãi được rằng Tản Đà là một thiên tài. Ở một người mà kĩ thuật sống và kĩ
thuật làm thơ được trau dồi với một chú ý tinh tế ngang nhau, ít nhất cái tài và cái
tình cũng được hóa hợp thành một nguyên thể khôn thường” [37, tr.619], của
Trương Tửu trong Sự thai nghén của một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu,
hay: “Ảnh hưởng của Tản Đà đối với lớp tân học sau thật đã ra ngoài cái kết quả
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
51
mong đợi” [37, tr.649], của Trương Tửu trong Ảnh hưởng của Tản Đà đối với nhà
văn lớp sau. Sự ngợi ca ấy cũng được Nguyễn Tuân kết thúc trong bài viết Tản
Đà một kiếm khách bằng một lối văn độc đáo rất Nguyễn Tuân: “Cái buổi chiều
ấy là một buổi chiều ông Tản Đà khởi hành ra Hà Nội để rồi đi mãi mãi, đi…
thẳng luôn vào lịch sử, của nước Việt Nam văn chương” [37, tr.946].
Bên cạnh đó, những bài viết về chân dung của Vũ Trọng Phụng cũng trở
thành nguồn tư liệu đáng trân trọng, giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn, chính
xác hơn về nhân cách, con người ông. Vũ Trọng Phụng là một người tiên
phong, can đảm viết về cái tục, cái dâm của con người. Một cuộc tranh luận về
Vũ Trọng Phụng, tập trung vào vấn đề “dâm hay không dâm” đã nổ ra quanh
các tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục sì, Làm đĩ, Số đỏ, Giông tố… Nhiều ý
kiến đã phê phán, kết tội việc miêu tả trần trụi những cảnh dâm uế hoặc đi quá
sâu vào chủ đề dục tình trong đó nặng nề nhất là Thái Phỉ (Văn chương dâm
uế, Tin văn số 25, ngày 1.9.1936) và Nhất Chi Mai (Ý kiến của một người đọc:
Dâm hay không dâm? Báo Ngày nay số 15, ngày 14.3.1937). Trước những lời
lên án đó, Vũ Trọng Phụng đã không chỉ dõng dạc biện hộ cho mình mà còn có
những lời lẽ sắc sảo và mạnh mẽ nhân danh những nhà văn “tả chân xã hội” tấn
công lại quan niệm của những nhà tiểu thuyết lãng mạn, đưa ra nhiều ý kiến
sâu sắc về thiên chức của nhà văn trong việc phơi bày và tố cáo xã hội cũng
như quan niệm của ông về tiểu thuyết. Cuộc tranh luận “dâm hay không dâm”
thể hiện thái độ và quan điểm của các khuynh hướng văn học đương thời đối
với Vũ Trọng Phụng và với khuynh hướng tả chân: phái lãng mạn lên án gay
gắt, các cây bút “văn học vô sản” hưởng ứng thận trọng hoặc phê phán nặng
nề. Đây là dịp để Vũ Trọng Phụng phản bác các quan điểm đối lập, đồng thời
tuyên ngôn hùng hồn và sâu sắc về trách nhiệm của nhà văn, nhà tiểu thuyết
trước thực tại đen tối và những vấn đề xã hội đương thời. “Các ông muốn tiểu
thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu
thuyết là sự thực ở đời”(Vũ Trọng Phụng - Dâm hay không dâm, Báo Tương
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
52
lai số 9, ngày 25.3.1937). Điều này góp phần khẳng định vị trí - cái riêng trong
văn chương Vũ Trọng Phụng.
Trương Tửu tỏ rõ sự tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của một tài năng
trẻ. Với ông, sự ra đi của Vũ Trọng Phụng đã “lấy mất hẳn một đặc sắc” của
nền văn học Việt Nam. Ngậm ngùi trong buổi đưa tang Vũ Trọng Phụng,
Thanh Châu đau lòng hình dung Vũ như một “con người ốm yếu, tàn tật” trong
chính câu chuyện của Vũ Trọng Phụng năm xưa Chống nạng lên đường, và
trong mắt ông: “Vũ quân cũng vừa kiệt lực, chống nạng lên đường. Nhưng đây
là đường vinh quang của những vì bất tử. Vũ quân đã bước qua khải hoàn môn
của các nhà văn” [37, tr.1361]. Người đọc càng thấu xót hơn trước những lời bi
ai của Lưu Trọng Lư: “Anh chưa được một nửa đời người. Văn chương còn
mong đợi ở anh nhiều lắm. Với cái chết của anh, chúng tôi đã mất đi hết một
nửa cái văn tài. (…) anh là một “mặt lạ” trong văn chương, thiếu anh, chúng tôi
thiếu nhiều lắm” [37, tr.1430]. Những hồi ức của những người bạn văn như thế
thật sự đã giúp người đọc hiểu hơn về vị trí của Vũ Trọng Phụng.
Một cái nhìn tổng quan xuyên suốt những trang viết chân dung văn học
giai đoạn 1930 - 1945 cho thấy cảm hứng chủ đạo của các trang viết là nhận
thức và tôn vinh giá trị đích thực của tác giả, tác phẩm, dù viết về nhà văn, nhà
thơ, nhà báo hay nhà nghiên cứu. Đồng thời, sau mỗi trang viết, chúng ta còn
nhận được chính tầm giá trị của những tác phẩm dựng chân dung và vị trí, công
lao to lớn của những người làm công việc dựng chân dung.
Khi đọc lại những dòng hồi tưởng trong Tao đàn, chúng ta cũng càng
hiểu thêm chân dung về tình bạn cao đẹp và tấm lòng thiết tha với nghề của
những tên tuổi từng rạng rỡ một thời như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Lan
Khai, Trương Tửu, Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư. Rồi đây, khi nền
văn chương nước nhà sẽ lần lượt vắng bóng những tên tuổi lớn thì những
tác phẩm chân dung văn học, đặc biệt là chân dung văn học của các nhà
văn lớn, sẽ là những tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
53
và hiểu hơn về giới nhà văn. Hơn nữa, nó còn là những nguồn tư liệu quý
giá, đáng tin cậy để người nghiên cứu và giảng dạy có thêm kiến thức để
bồi đắp cho thế hệ học sinh mai sau. Chắc chắn, cùng với tên tuổi của tác
giả, những tác phẩm chân dung như thế sẽ còn được nhiều thế hệ độc giả
say mê, tìm đọc và trân trọng.
Ngoài ra, không chỉ giúp nhận thức, tôn vinh tác giả, tác phẩm, những
sáng tác thuộc thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 còn giúp chúng
ta cắt nghĩa cả một thời đại văn học đương thời, mà đặc điểm trước hết là sự
xác lập vị trí của văn chương và nghề văn kể từ giai đoạn này.
Nhìn vào các sáng tác thuộc thể chân dung văn học giai đoạn này, cho
thấy có nhiều bằng chứng chứng minh điều đó. Điển hình như trường hợp chân
dung Tản Đà. Thông qua một loạt các bài viết kỉ niệm về Tản Đà trong Tao
đàn như Sự thai nghén một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu của Trương
Tửu, Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau của Nguyễn Triệu Luật,
Mộng và mộng của Lê Thanh người đọc thấy rằng nếu xét trong những quy luật
của trường quyền lực và hệ giá trị thông thường của xã hội, Tản Đà là một cá
nhân “bỏ đi”. Ông là con nhà gia thế, cha và anh đều là nhà nho, đều đỗ đạt,
làm quan. Ông được gửi gắm niềm hy vọng của gia đình về việc sẽ trở thành
một nhà khoa bảng rạng danh dòng họ nhờ việc từ bé đã nổi tiếng thần đồng.
Bản thân Tản Đà từ nhỏ đã có một tình yêu cử nghiệp do có một tinh thần tự
tín rất cao về tài năng cá nhân. Thế nhưng toàn bộ quãng đời niên thiếu và tuổi
thanh niên của Tản Đà lại là một chuỗi thất bại trong việc thực hiện cái
“chương trình cuộc đời” được truyền thống định trước: Ông liên tục hỏng thi.
Cho đến năm 1915, bế tắc trong việc lập thân như cha, anh, Tản Đà bắt buộc
phải “phá nghiệp kiếm ăn xoàng”: viết cho tờ Đông Dương tạp chí của Nguyễn
Văn Vĩnh, một tờ báo quốc ngữ có uy tín ở miền Bắc. Và dường như đó là một
sự khởi đầu đầy vinh dự. Những bài viết của Tản Đà trên mục “Một lối văn
nôm” của tờ tạp chí này được công chúng tán thưởng đến mức Nguyễn Văn
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
54
Vĩnh đã dành riêng mục này cho ông và sau đó, đổi tên hẳn chuyên mục này
thành Tản Đà văn tập. Từ đó, cuộc đời của Tản Đà là một sự pha trộn sự
nghiệp của một nhà nho muốn cứu đạo Khổng và nền luân lí Á Đông, một ông
chủ bút và chủ xuất bản và một nhà nghệ sĩ tự do. Ông cũng chính là nhà nho
đầu tiên nói nhiều nhất và thành thật nhất về thân phận của người làm nghề
“bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu” trong xã hội tư sản.
Như vậy, vai trò của người cầm bút và giá trị của văn chương đã khẳng
định được vị trí của mình. Từ đây, trong lịch sử văn chương ở Việt Nam, viết
văn đã chính thức trở thành một nghề để kiếm sống với tất cả những sang hèn,
vinh nhục, viết văn “kiếm ăn”, viết văn “bán phố phường”, trong một thứ
“duyên nợ ba sinh” - một sự nghiệp mà người ta đeo đuổi với vô vàn gian khổ.
Điều này từng được Hoài Thanh nhắc đến trong những trang viết về chân dung
như Xuân Diệu, Nguyễn Vỹ, và được đề cập đặc biệt sâu sắc trong những bài
viết của Tao đàn về Vũ Trọng Phụng. Dẫu vậy, cũng từ các trang dựng chân
dung, ta nhận thấy, có những xác tín về một thứ văn chương mà các nhà văn
phải nhọc lòng, phải theo đuổi cả cuộc đời, một thứ văn chương mà họ phải
“rút ruột” đúc nên vẫn không suy suyển. Đó là một xác tín đã kịp trước bạ vào
trong đời sống trí thức Việt Nam từ trước đó nhiều thế kỉ. Như vậy, có thể nói
các sáng tác chân dung văn học thời kì này đã phản ánh và cắt nghĩa một cách
đầy đủ thời đại văn học trong những thập niên đầu thế kỉ XX.
2.2. Góc độ tiếp cận đối tƣợng
2.2.1. Tiếp cận với tư cách người trong cuộc, trong giới
Nhìn lại các sáng tác thuộc thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930-
1945, ta thấy mỗi bước đi là một bước phát triển, tạo tiền đề cho sự dày thêm
về số lượng và mĩ mãn hơn về chất lượng nghệ thuật của thể tài này trong giai
đoạn này về sau. Ta có thể gặp lại nhiều lần, nhiều nhân vật ở những tác phẩm
khác nhau, song không có sự trùng lặp nhàm chán mà gần như là bổ sung, hoàn
thiện, rõ nét bức chân dung hơn nữa mà thôi.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
55
Trên một bề diện rộng, các tác phẩm chân dung thời kì này đã viết về
các nhà văn nhà thơ, nhà viết kịch và cả những người hoạt động xã hội. Họ còn
hay mất, là nam hay nữ, thế hệ đàn anh hay lớp trẻ sau này, đã đi vào các trang
viết một cách tự nhiên, theo những cách thức riêng muôn màu muôn vẻ. Có
người được “chụp” riêng một bức chân dung, cũng có người hiện lên thấp
thoáng suốt toàn bộ tác phẩm với những độ đậm nhạt khác nhau.
Qua những sáng tác trong mảng chân dung văn học, ta không chỉ thấy
được những chân dung của những nhà văn, nhà thơ cùng thời, mà ta còn thấy
được bức chân dung của chính tác giả - người dựng chân dung. Hình tượng tác
giả được phác thảo với những nét cơ bản sau như là một nhân chứng đáng tin
cậy. Điểm đáng tin cậy đầu tiên là vì tác giả là người cùng thời. Không chỉ
cùng thời mà còn là cùng trong làng văn, làng báo, cũng đã từng nếm trải bao
vinh nhục, thăng trầm của một giai đoạn lịch sử đất nước nói chung và lịch sử
văn học Việt Nam nói riêng có nhiều biến động và không ngừng đổi thay. Là
người trong cuộc, Hoài Thanh - Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, các nhà văn
viết cho Tao đàn như Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Triệu Luật,
Lan Khai, Thanh Châu, Trương Tửu, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,
Tam Lang… đều am hiểu tường tận từng ngõ ngách của chuyện làng văn.
Họ trước hết là nhân chứng đáng tin cậy, nhân chứng sống của thời đại.
Chính Hoài Thanh cũng đã không ít lần tự nhận mình: “Nhưng tôi là người
thời bấy giờ. Dầu vui dầu buồn tôi muốn sáng cái đời bây giờ đã” [36,tr.
385] ; “Tôi đã sống trong lòng thời đại. Kể lịch sử thời đại làm sao có thể
không nhớ lại những năm vừa qua trong đời tôi. Cũng như nói về các nhà
thơ tôi thích làm sao lời nói của tôi không đượm chút bâng khuâng lúc xem
thơ ” [36, tr.388] và xếp mình cùng các thi sĩ thời ấy là “chúng tôi”. Vũ
Ngọc Phan cũng chung một bối cảnh như thế, điều đó đã được ông giới
thiệu trong lời nói đầu của tác phẩm, một công trình sáng tác viết về
“những nhà văn cùng thời với chúng ta” [36,tr.7]. Nhờ góc độ tiếp cận
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
56
này, độc giả thấy tin cậy hơn những tư liệu được cung cấp trong mỗi trang
viết bởi lẽ góc nhìn gần gũi ấy cho phép nhà văn đi sâu vào những ngõ
ngách sâu kín trong tâm hồn đối tượng được dựng chân dung, xóa đi
khoảng cách vô hình giữa nhà văn, nhà thơ, nhà báo - đối tượng, nhà văn -
tác giả với người đọc. Thêm vào đó, những lí giải, cắt nghĩa bên trong mỗi
chân dung được tạo nên trở nên xác đáng, quí giá hơn bởi sự thấu hiểu
hoàn cảnh, không khí thời đại và bối cảnh văn chương lúc bấy giờ của
người trong giới. Nó giúp xóa bỏ cái khoảng cách sử thi và những lí giải
đôi khi áp đặt, vô hình trong khoảng cách giữa các thế hệ quá cách xa
nhau. “Lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, không chỉ có Hoài Thanh - Hoài
Chân mà cả Vũ Ngọc Phan và những nhà văn khác khi dựng chân dung đều
nhận thấy điều ấy và dựa trên nguyên tắc ấy.
Nếu không sống cùng thời đại, cùng đau nỗi đau của người trí thức
trẻ bơ vơ chưa tìm được con đường giải phóng khỏi nô lệ, áp bức, Hoài
Thanh - Hoài Chân khó có những đồng cảm sâu sắc với thi sĩ trẻ Huy Cận
đến nhường ấy: “Đẹp làm gì, cao quí làm gì, thương mến làm gì, nếu lòng
chàng không hề đón được ít hương ân ái. Vũ trụ bao la quá, lòng chàng giá
lạnh quá, chàng muốn quên mình, quên hết thảy trong tình yêu của một
người, vô luận người nào. Chàng gõ cửa hết nơi này chốn nọ, song bao
nhiêu tâm tư đều đóng kín. Nỗi lòng xưa, nay sực tỉnh. Đọc thơ Huy Cận
tôi đã gặp lại một người em. Chỉ một người em ! Không ! Năm tháng dầu
đi qua, đời tôi dầu có khác, nhưng tuổi hai mươi đã thực chết trong lòng
tôi” [36, tr.157]. Sự bế tắc, cô đơn rợn ngợp ấy âu cũng là tâm trạng chung
của tác giả lúc bấy giờ. Lấy sự đồng điệu của tâm hồn làm bệ phóng, lấy
bối cảnh thời đại làm phông nền, chân dung Hoài Thanh - Hoài Chân cùng
những người thơ đã lần lượt được phô diễn từ những góc xoay khác nhau,
đưa đến cho người đọc một cuộc dạo xem đầy thi vị.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
57
Từ góc nhìn của người trong cuộc, trong giới, chân dung của Tản Đà
đã được dựng lên đầy độc đáo. Con người cá tính này trong con mắt của
những bạn văn, của các bậc đàn em hiện lên đầy ương ngạnh và cũng thật
đáng ngưỡng mộ. Tận mắt chứng kiến những thú chơi ngông, kì quái của
Tản Đà. Nguyễn Tuân - một nhà văn nổi tiếng với sự tài hoa, kiêu bạc,
ngông nghênh cũng phải thốt lên: “Giờ đây, tôi lại muốn đem một cái quái
tượng của xứ sở ra trình với mọi người: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu nhất
danh nữa là ấm Hiếu” [37, tr.689]. Và với tư cách người tận mắt mục sở thị
những thú ngông của Tản Đà, câu chuyện kể lại của Nguyễn Tuân về con
người này trở nên có sức hút lạ kì, khiến cho người đọc hoàn toàn tin cậy
và bị cuốn theo mạch kể của câu chuyện: “Người ngày xưa… lôi thôi lắm.
Tôi hãy bắt đầu bằng cái lôi thôi của Nguyễn Khắc Hiếu đi tắm bể Sầm
Sơn. Thứ đến là cái lôi thôi của Tản Đà khi cuốc cả nền nhà người ta để
làm vườn trồng rau thơm. Rồi thứ nữa là đem ra giới thiệu một ông Tản Đà
múa kiếm ” [37, tr.689]. Những câu chuyện có thật về một Tản Đà ngoài
đời gánh văn lên bán Chợ Giời, gửi thư lên thiên đình cầu hôn, xuống bể
Sầm Sơn bơi đứng và ăn hải sản sống; cuốc cả sân gạch hoa chỉ để trồng
rau húng, lên rừng tịch cốc, uống rượu sâm banh với nem chua trên toa xe
lửa tốc hành, đi thăm mả vua Tây Sơn với cái lối khấn ngang tàng Bắc kì
Sơn tây nhân Nguyễn Khắc Hiếu kinh quá thử địa, làm náo động cả quan
nha một vùng địa phương Bình Định, cầm đốc kiếm múa may quay cuồng
nữa… mà Nguyễn Tuân và những nhà văn cùng thời, cùng giới thuật lại đã
cho người đọc hiểu rõ hơn cái khoảng cách trùng khít giữa tính cách ngông
và giấc mộng, khối tình trong thơ của thi sĩ.
Khi Vũ Trọng Phụng mất đi, những nhà văn thân thiết cũng đã hồi
tưởng lại chân dung của ông từ cái nhìn đầy sẻ chia, thấm thía của người
trong cuộc. Đó là câu chuyện của Nguyễn Triệu Luật, một người mà “Vũ
Trọng Phụng với tôi, ngoài cái quan hệ cùng thuộc đoàn nhà văn với nhau
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
58
ra, còn có những quan hệ khác, gần như những quan hệ thuộc tộc đằng
huyết thống. Phụng vẫn coi tôi như một người trưởng thưởng mà tôi cũng
hằng coi Phụng như người nhà. Tôi có đáng Phụng coi như thế không, cái
đó là một chuyện khác, song sự thật là như thế. Quăng ra ngoài làng văn,
ngoài xã hội, thì chúng tôi như đôi bạn, nhưng về nhà thì chúng tôi đối với
nhau như thế.” [37, tr.1382]. Là một số kỉ niệm về Vũ Trọng Phụng của
Tam Lang, một người mà “Có lẽ tôi là người thứ nhất đã được chứng kiến
những bước chập chững đầu tiên của Vũ Trọng Phụng văn sĩ” [37, tr.1400].
Với những mối giao tình thâm sâu như thế, mỗi câu chuyện về Vũ Trọng
Phụng được các bạn văn trong giới, trong cuộc kể lại đã càng làm tăng
thêm sự gần gũi, tin cậy về những chi tiết xoay quanh cuộc đời và văn
nghiệp của ông.
Tóm lại, qua những sáng tác chân dung văn học tiêu biểu thời kì này,
người đọc nhận thấy đối tượng chủ yếu của thể tài này là các nhà văn, nhà thơ.
Để dựng chân dung của họ, các ngòi bút đều tiếp cận từ góc độ của người trong
cuộc, trong giới. Nói cách khác đây là cái nhìn của một người trong cuộc về
những người cùng hội cùng thuyền, về những người bạn văn của mình. Cái
nhìn này đã trở thành một nguyên tắc chiếm lĩnh và lí giải hiện thực, xuyên
suốt các tác phẩm chân dung văn học và chính nó đã khiến cho những chân
dung được dựng lên trở nên gần gũi, hấp dẫn hơn với người đọc.
2.2.2. Tiếp cận qua nhiều hình thức
Chân dung văn học là một loại bút kí mang tính chất tư liệu, viết về nhà văn,
nhà thơ, nhà báo, nhà hoạt động xã hội xây dựng trên cơ sở trò chuyện với
“nhân vật” đó. Cho đến nay, thực tiễn sáng tác của thể tài này cho thấy để
xây dựng được chân dung nhà văn, nhà thơ, người viết có thể lựa chọn tiếp
cận đối tượng được dựng chân dung qua nhiều hình thức, như phê bình văn
học gắn liền với chân dung tác giả; hoặc sử dụng phương thức phỏng vấn;
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
59
hoặc dựa trên sự hồi tưởng “đi tìm lại thời gian đã mất” qua dòng chảy của
hồi ức, làm sống lại những kỉ niệm.
Soi chiếu vào các tác phẩm chân dung văn học thời kì 1930 - 1945,
chúng ta thấy được sự độc đáo riêng trong mỗi cách thức tiếp cận đối
tượng. Có thể thấy Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một tác phẩm kì
công về tư liệu, cuốn hút về nội dung, được xây dựng trên cách tiếp cận
phê bình văn học gắn liền với chân dung tác giả. Lựa chọn giới thiệu những
điểm mốc tác phẩm tiêu biểu trong văn nghiệp, xu hướng phát triển cơ bản
của hướng sáng tác, phê bình một số điểm hay, dở của một số nội dung tác
phẩm tiêu biểu để từ đó làm nổi bật lên gương mặt riêng của mỗi nhà văn.
Nhà văn hiện đại đã trở thành một tác phẩm đứng trung dung trên cả đường
biên ranh giới của hai thể tài nghiên cứu, phê bình văn học và chân dung
văn học. Lựa chọn cách tiếp cận này, những chân dung văn học của Vũ
Ngọc Phan có phần khách quan, nghiêng về tính chất học thuật hơn so với
các tác phẩm thuộc thể tài chân dung văn học thời bấy giờ.
Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân dựng chân dung các bạn
thơ, bằng một cảm xúc hân hoan, chân thành như đang trò chuyện cùng bạn văn và
người đọc. Lối văn được viết là lối văn tâm tình, tha thiết, đầy xao động, khơi gợi
sự rung động mãnh liệt ở lòng người tiếp nhận.
Còn những người nghệ sĩ trong hội Tao đàn thì xúc động khắc họa lại
hình ảnh người anh, người bạn văn chương Tản Đà và Vũ Trọng Phụng của
mình bằng những nét bút tả thực sống động trên một “hậu cảnh” sáng rõ của
hồi ức. Những tưởng niệm đầy cảm động về một thời khốn khó gắn với hai tên
tuổi lớn của nền văn học Việt Nam cận, hiện đại cũng là những suy ngẫm của
người trong giới, trong cuộc về những thăng trầm của nghiệp văn chương. Khi
dựng chân dung văn học Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, các nhà văn, nhà thơ
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
60
thường dựng đối tượng lúc đậm nét, lúc lung linh mờ ảo tuỳ theo sự hồi tưởng
của mình. Sự hồi tưởng ấy thường theo những ấn tượng sâu đậm của nhà văn.
Có lúc được trình bày mạch lạc men theo những dòng hồi tưởng về một số thời
điểm nhất định trong đời văn của họ và bạn làng văn. Nhưng cũng có lúc nó
cũng không tuân theo sự mạch lạc ấy, khi đứt khi nối, tùy theo dòng cảm xúc
tuôn trào của người viết. Dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ
cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình của nhân vật. Các nhà văn đã dựng chân dung
Tản Đà và Vũ Trọng Phụng gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Những kỉ
niệm ấy, hầu hết đã được chứng kiến và được “mắt thấy tai nghe”, hay trực tiếp
là người cùng tham dự cho nên nó hiện rất sâu đậm, rõ ràng trong kí ức của nhà
văn. Là chân dung được dựng theo dòng hồi tưởng song trong giới hạn của
khuôn khổ một bài báo đăng trên tạp chí, nên các tác giả thường không kể về
toàn bộ cuộc đời sự nghiệp sáng tác của đối tượng được dựng chân dung theo
một trật tự thời gian nhất định mà chỉ kể ở từng đoạn, từng quãng đời mà nhà
văn biết, thậm chí biết rất kĩ. Quả là bao nhiêu chuyện, lúc chầm chậm hiện
dần lên, qua từng trang, mà lối suy tư cách ứng xử, thói tật vụn vặt cùng niềm
khát khao sống và viết ở họ cứ rõ dần, đậm dần; lúc lại vùn vụt chạy qua như
một đoạn phim tư liệu quay nhanh.
Tái hiện lại những “khúc đoạn” gập ghềnh của các số phận nghệ sĩ,
các nhà văn đã dựng nên hai bức chân dung đầy sắc cạnh, đầy dấu ấn song
cũng vô cùng gần gũi, chân thực. Các nhà văn đã khiến cho bạn đọc không
chỉ yêu mến các tác phẩm văn chương của họ mà còn giúp bạn đọc hiểu
được cuộc sống, sự nghiệp, phong cách và cá tính của mỗi người. Tất cả
những con người, những số phận văn chương ấy - qua cái nhìn ấm áp chân
tình của tác giả chân dung - đã gieo vào người đọc một niềm cảm thương,
chia sẻ. Các tác giả không hề “lạ hóa” bất cứ chân dung văn chương nào.
Trong chân dung văn học, họ là những tài năng nghệ thuật, song họ cũng là
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
61
những con người của cuộc sống đời thường, của vô vàn những yêu ghét,
buồn vui, thăng trầm, được mất của một kiếp người.
2.3. Đặc điểm về cách dựng chân dung trong văn học giai đoạn 1930 - 1945
2.3.1. Cách tiếp cận gần gũi, thân ái mà trân trọng
Tô Hoài từng nói “Chân dung văn học là việc dựng lại những bóng
dáng thần thái văn nhân, những câu nói cái cười, bước đi dáng đứng của họ
mà mình từng thấy từng biết”. Do đặc điểm của thời đại và phần do chủ
trương của người viết, Thi nhân Việt Nam và Nhà văn hiện đại dựng chân
dung với cách tiếp cận tương đối giữ khoảng cách. Lấy sự gần gũi của
người trong giới để nhìn nhận nhưng về cơ bản vẫn ít nhiều có một
“khoảng cách sử thi” trong cách tiếp cận đối tượng. Nhưng đến với những
bài viết trong Tao đàn thì cái cự li giữa người dựng chân dung và đối tượng
được dựng chân dung đã rút ngắn rất nhiều, như yêu cầu thẩm mĩ cần thiết
mà thể tài chân dung văn học cần có. Đây cũng là sự mở đường cho lối tiếp
cận “cự li gần” của những sáng tác chân dung văn học nổi tiếng sau này.
Từ đây, cái đời thường và con người bình thường (chính xác hơn là phương
diện đời thường của con người) có một sức cuốn hút riêng với các tác giả
dựng chân dung. Cũng chính với lối tiếp cận này, lần đầu tiên các nhà văn
đã đem lại cho độc giả hình ảnh một số “nhân vật lớn” của văn chương
nước nhà như Phan Khôi, Nguyễn Bá Trác, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng … ở
một cự ly gần, và thấy một sự thật về chân dung của các nhà văn.
Khi dựng chân dung các nhà văn trong đời thường, dường như các
cây bút không chỉ chú trọng đến việc dựng “chân dung tinh thần” của họ
mà còn hồi tưởng đến những chuyện mà chính Nguyễn Tuân đã gọi tên là
“chuyện lôi thôi”, từ những vẻ bề ngoài, ăn mặc, đi đứng, nói năng. Các
nhà văn đã để nhân vật của mình xuất hiện trong không khí đời thường,
giữa cái bộn bề phức tạp của cuộc sống. Viết chân dung văn học, đã giải
phóng một quan niệm sống, một quan điểm nghệ thuật, đó là có lẽ được
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
62
sống với mọi người bình thường, sống cuộc sống bình thường với những
cái “tuế toái”, “nhọ nhem” (chữ dùng của Tô Hoài) đó là hạnh phúc thiết
thực nhất, mà sau này, Tô Hoài - một bậc thầy kì tài thành công rực rỡ
trong loại thể tài này đã phát biểu: “Tôi thích trong con người có nhiều
hoạt động một lúc, không thích thần thánh hoá làm gì… Tôi thích con
người bình thường và không tả thành tầm thường”. Những trang viết chân
dung trên đã cho thấy những kỷ niệm trong đời tư của các nhà văn, quá
trình sống và tồn tại của họ, có cả quá trình hình thành và khao khát viết,
những vui buồn trong sự nghiệp văn chương. Tạo nên những chân dung
văn chương như thế đó cũng là dịp để giãi bày lòng mình, giải phóng cho
một tâm sự để thể hiện rõ hơn một quan niệm sống, quan điểm nghệ thuật.
Những nhà văn được dựng chân dung, họ không có cái độc đáo phi thường
của những bậc tài hoa tài tử mà dung dị giữa đời thường, lẫn với mọi người
trong xã hội. “Nhà văn cũng như nghề văn là cao quý, song nhà văn cũng
chính từ cuộc đời này mà ra”, đem người nghệ sĩ sáng tác ra giữa cái bề
bộn phức tạp của đời thường mà suy xét, mà tạo dựng nên, nhưng cũng
không vì thế mà làm mất đi niềm yêu quý của độc giả đối với các đối tượng
đã tạo dựng. Viết chân dung văn học cũng là dịp để các tác giả tự đánh giá
về mình. Không phải là dịp để người viết đề cao hay giới thiệu về mình
trước độc giả mà đây là những trang hồi ức hết sức chân thành, biết tự đánh
giá lấy mình tránh sự tô vẽ bịa đặt, nhất là trong những hình ảnh mà tác giả
là người duy nhất tham gia chứng kiến sự việc.
Lấy sự trân trọng bạn văn và nghề văn làm trọng, các nhà văn đã đặt
chân dung Tản Đà và Vũ Trọng Phụng vào giữa cái bộn bề phức tạp của
đời thường mà suy xét, mà tạo dựng lên. Bởi vậy, mà hình tượng của hai
con người tài năng ấy cùng giới cầm bút trong chân dung văn học đã được
đặt trong cuộc sống bình thường, nhọc nhằn, khổ ải, nhếch nhác và bụi
bặm. Tuy vậy những chân dung văn học không phải không có cái độc đáo
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
63
phi thường riêng của các bậc tài hoa, uyên bác. Không tô vẽ lý tưởng hoá,
nhưng niềm yêu quý, cảm thông đối với các đối tượng mà các tác giả dựng
thành chân dung văn học thì vẫn tự nhiên bộc lộ, thông qua chi tiết ngôn
từ, và những gì nhếch nhác của cuộc sống đời thường. Nhờ đó, mà độc giả
biết đến bao cái bình thường ở những con người họ. Chẳng hạn như Tản Đà
với cái ngông và thản nhiên của con người lịch sử “gạch nối của hai thế kỉ”
(chữ dùng của Hoài Thanh), với thú ăn chơi khác người đã xuất hiện như
thế trong mỗi trang hồi ức nhớ lại của các bậc văn sĩ. Đó là một con người
mà trong sự hồi tưởng của Lưu Trọng Lư, mãi đến hai rưỡi chiều mới bắt
đầu thức dậy cho một ngày mới và “bắt đầu ngồi vào chiếu rượu” cho đến
tận bốn giờ mới “vừa hạ đũa”. Theo tác giả, “Gặp Tản Đà một bận thì thật
là một điều khoái trá vô cùng, gặp ông ấy, lần thứ hai, thì vẫn còn là một
cái vui thích, một cái vui thích đã bắt đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ
ba, thì là một điều khó chịu. Và lần thứ tư, thứ năm …, thì xin thú thật là
một tai nạn” [37, tr.611]. Sở dĩ như vậy là vì “tiên sinh trong sự sống vụn
vặt hàng ngày - là một kẻ trần gian có nhiều ham muốn lôi thôi… bí hiểm,
khó mà làm cho thỏa được. Người ta thường bảo thi nhân là một đứa bé
hay vòi, và rất khó tính. Câu ấy chứa một phần sự thật.” Kể lại cái dỗi hờn
của Tản Đà không chịu dùng bữa mà chỉ nhắm rượu suông vì không có
được món ăn mình yêu thích; hay cái ngông nghênh, quái gỡ của ông khi
cố gắng bơi đứng cho ra bằng được mũi bể Cổ Rùa để uống rượu với
những con hầu sống bám trên mũi đá; hay câu chuyện ông cậy bật nền gạch
đá hoa chỉ để “Ấy, định trồng ít cái húng láng. Ăn uống thiếu rau cỏ, nhiều
khi bực đến chết. Chén rượu nào cũng nhạt phào” [37, tr.693], Lưu Trọng
Lư và Nguyễn Tuân đã đưa Tản Đà - một khách tiên trong những giấc
mộng trở về gần chúng ta trong đời thực. Tuy nhiên, dựng chân dung Tản
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
64
Đà với những chi tiết đậm nét đời thường, đặc biệt là với câu chuyện về
cuộc rượu say túy lúy của Tản Đà, về những câu chuyện lặt vặt, ngộ nghĩnh
như đi du lịch Đông Dương chỉ với vài đồng bạc, hay ở Nam Kỳ toàn uống
cognac thay rượu lậu đến nỗi “có vài tháng, nhà ông chất đến một tường vỏ
chai” của Nguyễn Công Hoan và của nhiều nhà văn khác kể lại nữa, các tác
giả vẫn chung trong một cảm hứng ngưỡng mộ trước tài nhân này. Những
yếu tố chân thực như thế giúp rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và
nhân vật, giúp chúng ta được tiếp cận, được bước vào một thế giới đời
thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh mà ta vẫn thường biết đến
qua tác phẩm của những nhà văn. Từ đó, thêm lòng kính trọng và cảm phục
những con người tài nhân.
Chính M.Gorki trong tác phẩm Chân dung Tônxtôi cũng đã từng phát
biểu: “Tôi không muốn Tônxtôi biến thành thánh, hãy để cho ông vẫn là
người tội lỗi, gần gũi với mỗi trái tim của thế giới đầy tội lỗi, vĩnh viễn gần
gũi với mỗi trái tim” [23, tr.116]. Khắc hoạ chân dung những tên tuổi, với
không ít những thói tật, không có nghĩa là đã bôi nhọ, hoặc có ý định hạ
thấp đối tượng, mà ngược lại qua đó càng nổi rõ lên một quan niệm: dù có
là những người nổi tiếng đi chăng nữa họ vẫn là những con người, mà đã là
con người thì trước hết họ cũng có diện mạo riêng, thói tật riêng, sở thích
riêng, và cũng có những đức tính của những con người bình thường. Trân
trọng sở thích, thói quen và cá tính của mỗi người - đó chính là cội nguồn
của mọi giá trị nhân bản đó. Chính nó đã tạo nên sự phong phú, sinh động,
độc đáo và hấp dẫn của mỗi chân dung văn học được dựng xây.
Có thể nói, với cách tiếp cận ở cự li gần gũi, thân mật nhưng không
suồng sã đã mang đến cho thể tài chân dung văn học một giá trị nhân bản sâu
sắc, để “từ chân trời một người đến chân trời mọi người”, tạo nên một sự đồng
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
65
cảm sâu sắc trong mối giao tình giữa người được dựng chân dung, người dựng
chân dung và người đọc.
2.3.2. Đặt cá nhân trong bối cảnh chung của văn học
Như trên chúng tôi đã giới thiệu, đối tượng nghiên cứu mà đồng thời
cũng là đối tượng sáng tác của thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945
là tác giả - một nhà văn, một nhà thơ, nhà báo… Tác giả tất nhiên là một con
người, với “gương mặt”, “vẻ mặt”, “chân dung” của mình. Tuy nhiên, trong
phê bình và nhất là nghiên cứu văn học, tác giả - đó chủ yếu lại là đặc điểm
sáng tác của anh ta, đặc điểm cái thế giới nghệ thuật do anh ta tạo ra trong các
tác phẩm của mình. Phê bình và nghiên cứu sẽ chủ yếu dựa vào tác phẩm của
tác giả ấy chứ không phải các chi tiết rườm rà về tiểu sử, sinh hoạt, cá tính,
hình thể. Người viết ở đây cần xuất hiện với tư cách một nhà văn, in cái nhìn,
cách cảm thụ và đánh giá cùng sự diễn đạt của nhà văn. Đây là nét tinh tế khiến
cho chân dung văn học đúng là văn học, có chỗ đứng trong văn học. Chất văn
học này cũng cho phép thể tài chân dung được phóng túng nhiều hơn so với lối
viết tiểu sử hoặc nghiên cứu một tác giả. Các thể tài phê bình vốn đã ít gò bó so
với các thể tài nghiên cứu. Chân dung văn học, hơn một mức nữa, còn có thể
phóng túng.
Như thế, chân dung văn học là một thể tài tương đối đặc biệt, vừa mang
trong mình đặc điểm chính yếu của các sáng tạo nghệ thuật là quyền được hư
cấu, song đồng thời lại phải thỏa mãn nguyên tắc cơ bản trong sáng tác là phải
tôn trọng sự thật, nằm ngoài hư cấu. Đó là sự thật về một con người - nhà văn,
nhà thơ, nhà báo, nhà nghiên cứu… và là sự thật của cả một bối cảnh thời đại
chung của văn học bấy giờ. Do vậy, các sáng tác thuộc thể tài chân dung văn
học thời kì này còn mang đặc điểm nổi bật đó là đặt cá nhân trong bối cảnh
chung của văn học để làm sáng rõ hơn diện mạo những chân dung văn học
được dựng lên.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
66
Đến với công trình dài hơn một nghìn trang Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan, một công trình mà tác giả đã gửi gắm ước muốn: “Tôi đã muốn đặt
cuốn sách vào thời của nó, tôi đã muốn cho độc giả thấy cái hoàn cảnh văn học
của một thời để hiểu rõ tính chất cuốn sách hơn” [27, tr.1176], người đọc cũng
được chứng kiến rõ sự xuất hiện theo trình tự thời gian của bảy mươi tám chân
dung nhà văn sáng tác bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế kỉ trước như Trương
Vĩnh Ký đến những cây bút trẻ nổi tiếng của đầu những năm 40 của thế kỉ XX.
Theo đánh giá của Trần Hữu Tá, để có được tập hợp qui mô đó, Vũ Ngọc Phan
đã “tốn bao sức lực mới chiếm lĩnh hơn sáu mươi năm văn học, dựng lên được
bức tranh chưa hoàn chỉnh nhưng phong phú, ghi lại được một quá trình phát
triển sôi nổi, bồng bột của văn chương” [27, tr.1182].
Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân cũng đã khéo léo dựng
lên ngay từ đầu một phông nền bối cảnh thời đại khá sáng tỏ để từ đó từng
gương mặt thi sĩ được trình chiếu. Những lời “cung chiêu anh hồn Tản Đà” mở
đầu tác phẩm cũng là sự giới thiệu về hoàn cảnh bản thân nhân vật chính - tác
giả cùng hơn bốn mươi đại diện tiêu biểu của Thơ mới: “Hội Tao đàn hôm nay
đông đủ hầu khắp mặt thi nhân, chúng tôi một lòng thành kính xin rước anh
hồn tiên sinh về chứng giám. Anh em ở đây, tuy người sau kẻ trước, những
ai nấy đều là con đầu lòng của thế kỉ hai mươi (…). Tiên sinh đã cùng
chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra
ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo (…). Tiên sinh
đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đương sắp
sửa”[36, tr.7-8]. Và ngay trong lời giới thiệu Một thời đại trong thi ca,
Hoài Thanh đã từng nhấn mạnh thời kì ông và các bạn văn sống là một thời
kì mà “cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay”. Cuộc Âu hóa
những năm đầu thế kỉ hai mươi như một cơn gió mạnh thổi vào “đã thay
đổi những tập quán sinh hoạt hàng ngày, đã thay đổi cách ta vận động tư
tưởng, (…) thay đổi cả cái nhịp rung cảm của ta nữa.” Khát vọng cởi trói 67 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
cho thi ca, khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, khát vọng được
thành thực “khẩn thiết đến đau đớn” đã thúc giục cá tính con người, cái tôi
cá nhân bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu được giải phóng với sức mạnh
“tung bờ vỡ đê”. Từ đây, những gương mặt thi sĩ với những đường nét
riêng lần lượt được tác giả gọi tên: “Một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ
màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như
Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì
dị như Chế Lan Viên.. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Từ
người này sang người khác, sự cách biệt rõ ràng” [36, tr.31].
Không chỉ các thi nhân trốn đời tìm vào trong thơ, mà ngay cả tác giả
của Thi nhân Việt Nam cũng từng thổ lộ với người đọc: “Tôi vốn rất say mê
Thơ mới ngay từ khi Thơ mới mới ra đời. Thơ mới hầu như là cái vui duy nhất
của tôi hồi bấy giờ.” [36, tr.391] Có thể thấy, một thời gian dài trước Cách
mạng, Thơ mới là niềm say mê, là nơi trú ngụ bình yên của tâm hồn Hoài
Thanh trước mọi sóng gió cuộc đời. Tác giả đã “lấy hồn tôi để hiểu hồn
người”, để say theo hồn người. 169 thi phẩm của trên bốn mươi chân dung nhà
thơ có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã như hòa với lời văn của tác giả để “hát
lên bài ca sầu não, mộng mơ, vui vội, buồn sầu, đau đớn ngơ ngác trước cuộc
đời - bài ca dường như bất tận của những tâm hồn, những con người “đầu thai
lầm thế kỉ” muốn ru hồn mình tới “tận cuối trời Quên”.
Say mê cùng các thi nhân nhưng tác giả cũng chỉ ra được bao nỗi
đắng cay, bao cảnh thương tâm về cuộc đời nghèo của kiếp người nghệ sĩ
trong xã hội cũ. Sự thật đằng sau thế giới thơ đầy mơ mộng là cái hỗn độn
của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ hai mươi, là nỗi chật vật của cuộc sống
hàng ngày. Là vật lộn với cuộc đời thực đầy lận đận, khó khăn: Nỗi đời cơ cực
đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ.(Xuân Diệu)
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
68
Không thể vượt thoát, họ chỉ còn biết tìm cách ru mình trong những cõi
huyền ảo hoặc cố tạo ra những mơ mộng để tự huyễn hoặc: Tôi chỉ là người
mơ ước thôi/ Là người mơ ước hão!Than ôi ! Bình minh chói lói đâu đâu ấy/
Còn chốn lòng riêng u ám hoài.(Thế Lữ)
Đọng lại trong mỗi chân dung là nỗi đau đời. Đau vì nỗi đời vất vả.
Đau vì kiếp làm dân một nước nô lệ và đau vì tủi nhục, nghèo hèn cứ gắn
hoài với thân phận. Sự quằn quại, đau đớn của những tâm hồn, của những
con người bé nhỏ cô đơn, lạnh lẽo trong sự buồn nản, thất vọng không tìm
ra lối thoát. Bối cảnh văn chương bế tắc và tù túng, dưới những kiểm soát
gắt gao về văn hóa, phản chiếu cái bể khổ bế tắc của xã hội cũ và thân phận
của những người nghệ sĩ ấy đã được tác giả Thi nhân Việt Nam tái dựng lại
qua từng chân dung của mỗi nhà thơ. Đấy là bi kịch của tác giả và cũng là
bi kịch chung của thế hệ các nhà Thơ mới. Hoài Thanh đã ghi lại rất đúng
cái bối cảnh bấy giờ: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta
đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ,
ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã
khép, tình yêu không bền, điên cuồng không tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta
ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn
nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn
xao đến thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước.
Phương Tây đã trao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào
đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng
tin đầy đủ. Đó, tất cả cái bi kịch đương ngấm ngầm dưới những phù hiệu
dễ dãi, trong hồn người thanh niên” [36, tr.57-58]. Từ đó vang lên lời kêu
gọi khẩn thiết: Hãy cứu lấy những con người đau khổ!
Có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà tác giả Thi nhân Việt Nam tạo
dựng, đặt chân dung cá nhân vào trong một bối cảnh lịch sử văn học như vậy.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
69
Với vai trò của một chứng nhân: “Tôi đã sống trong lòng thời đại. Kể lịch sử
thời đại làm sao có thể không nhớ lại những năm vừa qua trong đời tôi”[36,
tr.388], tác giả đã luôn đặt đối tượng được lựa chọn dựng chân dung trên một
nền hiện thực sắc nét, trong bầu không khí văn học để tự bộc lộ mình. Đồng
thời, đặt chân dung cá nhân trong bối cảnh thời đại còn đem đến cho độc giả
một sự khám phá, hiểu biết, cắt nghĩa về đời sống văn học của một thời đã qua.
Cắt nghĩa văn học một thời, Hoài Thanh- Hoài Chân đã góp phần cung cấp
thêm tư liệu về một mảng hiện thực khuyết thiếu trong lịch sử văn học, giúp có
một cái nhìn đánh giá công bằng, thỏa đáng hơn về những tác phẩm văn
chương của một thời.
Ở những trang viết tưởng niệm về Tản Đà như Bây giờ đây, khi cái nắp
quan tài đã đậy lại của Lưu Trọng Lư, Sự thai nghén một thiên tài (Trương
Tửu), Chén rượu vĩnh biệt (Nguyễn Tuân), Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn
lớp sau (Nguyễn Triệu Luật), Tản Đà triết học (Trúc Khê Ngô Văn Triện), Một
kỉ niệm về yêu thơ Tản Đà (Xuân Diệu), Tản Đà dịch văn (Nguyễn Xuân Huy),
Tản Đà, một kiếm khách (Nguyễn Tuân), Mộng và mộng (Lê Thanh), Điếu văn
đọc trước huyệt trong đám tang Tản Đà của Đinh Gia Trinh…, người đọc cũng
được chứng kiến chân dung Tản Đà xuất hiện sáng rõ trong bối cảnh văn học
bấy giờ. Con người nghệ sĩ ngông nghênh, kiêu bạc sinh ra “giữa lúc vận mệnh
của đất nước đang hồi nghiêng ngửa”. Sự đàn áp thẫm máu của chế độ quân
chủ phong kiến bắt tay cùng thực dân đối với các phong trào đấu tranh giải
phóng của các văn thân, nghĩa sĩ làm“Tổ quốc Việt Nam ngã gục trên mối hận.
Non sông khoác một màu tang”.Tản Đà “một ngôi sao, dù muốn hay không,
cũng phải tắm trong bầu trời sầu thảm ấy” và “bắt đầu nhận thấy, cùng với thân
thế riêng, cái tàn tạ của giai cấp mình. Ở đáy linh hồn trong trẻo kia, đã mờ
hiện một sầu não sớm sủa của sự già cỗi”[37, tr.620]. Những tình cảm tha thiết
với giống nòi, đất nước đã được Tản Đà chuyên chở vào những giấc mộng,
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
70
những khối tình con, một khối tình mà tác giả đã đem hòa vào non sông, làm
nên sự nghiệp. Những câu chuyện của những người bạn văn đồng lứa và lớp
sau đã hé mở cái bối cảnh văn học chung, cái không khí thời đại làm sinh ra
một chân dung độc đáo giao thời giữa hai thế kỉ. Một Tản Đà hăng hái hành
đạo theo ứng xử của nhà Nho bằng con đường tham gia làm báo, rồi những xử
thế trong đời thường với sự tiếp xúc của phong trào Âu hóa và cả những cái kì
lạ “lôi thôi” trong cuộc sống đời thường. Trên nền bối cảnh ấy hiện lên chân
dung một Tản Đà mà “Ở mọi thời gian và không gian, cái thiên tài sống với cái
ngộ nghĩnh của riêng mình, mỗi lần muốn vượt lên lề thói là một lần lại được
đời tặng cho danh hiệu: đứa con hoang của thời đại” [37, tr.688].
Dựng chân dung Tản Đà, những câu chuyện của bạn văn kể lại cũng vẫn
không quên nhắc đến cái bối cảnh văn nghệ gian nan, nghèo khó và bị dìm
trong những kiểm duyệt gắt gao lúc bấy giờ. Đó là cái không khí chung mà một
người tài nhân lớp sau của Tản Đà là Vũ Trọng Phụng đã thấm thía đầy đau
thương. Đặt cá nhân trong bối cảnh văn học chung ấy đã giúp cho những kí họa
chân dung càng trở nên sắc nét, ấn tượng trong lòng người đọc.
Như vậy, trong các tác phẩm chân dung văn học thời kì này, song
song với dòng chảy lịch sử mà các tác giả - với tư cách là những nhân chứng
nó- đã tái hiện khá toàn vẹn, chân thực; là dòng chảy văn chương mà họ -
với tư cách là những thành viên tích cực - cũng đã đưa đến một cái nhìn cận
cảnh, chính xác. Thông qua sự phát triển song song của cả hai mạch nguồn
cảm hứng này, chúng ta có thể nhận thấy sự tác động mạnh mẽ của lịch sử
đối với văn học nghệ thuật, với mỗi cá nhân nghệ sĩ trong ngôi nhà chung
của văn học Việt Nam.
2.3.3. Sự chia sẻ, cảm thông của những người đồng nghiệp, đồng cảnh
Dựng chân dung văn học về các bạn văn trong nghề, trong giới thực chất
cũng là một cuộc nhận chân, đi tìm chính chân dung bản thân mình trong đó. Trong 71 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
mỗi chân dung văn học được phác thảo nên lồng kết vào đó là sự chia sẻ, cảm
thông sâu sắc của những con người đồng nghiệp, đồng cảnh.
Với cây đàn muôn điệu tâm hồn, người dựng chân dung soi thấy
bóng dáng mình phảng phất đâu đó trong chính con người được dựng chân
dung. Mà không, đó dường như còn là sự phản chiếu khúc xạ phần nào
chính con người thật của tác giả, bởi lẽ họ là những tri âm tri kỉ, là những
người cùng chung một nỗi đau đời, cùng chung một số mệnh tài hoa nhưng
cuộc đời văn nhân luôn chứa đựng nhiều nỗi cô đơn sâu thẳm. Vì vậy, với
Huy Cận, Hoài Thanh rất thành thực mà thú nhận: “Trong đời người ta còn
tuổi nào buồn hơn tuổi hai mươi. Còn có tuổi nào vẩn vơ hơn. Tôi thấy thơ
Huy Cận trẻ lắm. Huy Cận đã đưa tôi về khoảng đời tôi bảy tám năm về
trước. Tôi bùi ngùi thương chàng niên thiếu hồi bấy giờ đã sống luôn mấy
năm trong hiu quạnh” [36, tr.157]. Từ sự đồng điệu đó, Hoài Thanh, Hoài
Chân đã nhìn thấu suốt nỗi niềm riêng sâu thẳm bên trong cái tôi say đắm,
cuống quýt, vồ vập yêu là nỗi cô đơn của cái tôi người trí thức trẻ lúc bấy
giờ. Tác giả nhận thấy ẩn chứa sau mỗi vần thơ tình nhiệt thành ấy là nỗi
đau khổ của con người “cảm thấy cái thê lương của vũ trụ, cái bi đát của
kiếp người. Họ tưởng có thể nhắm mắt làm liều, lấy cá nhân làm cứu cánh
cho cá nhân, lấy sự sống làm mục đích cho sự sống. Song đó chỉ là một cái
dối mình. “Chớ để riêng em phải gặp lòng em”, lời khẩn cầu của người kĩ
nữ cũng là lời khẩn cầu của con người muôn thuở.” và soi được nỗi lòng
của mình ở trong đó: “Bởi Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn với
một chút hương xưa của đất nước, bao nhiêu nỗi niềm riêng của thanh niên
bấy giờ” [36, tr.133].
Ngay cả giữa hai hồn thi sĩ tưởng như khó tương giao Tản Đà và Xuân
Diệu, người ta vẫn tìm thấy một sự tao ngộ giữa những mặc khách đầy lạ kì
trong lời tâm tình của Xuân Diệu: “Không biết với ai thì thế nào, nhưng đối với
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
72
tôi thì thi sĩ Tản Đà còn ở trong kí ức tôi, ở một nơi dịu dàng mà thảnh thơi, và
đọc lại thơ Tản Đà tức là tôi đọc lại thời thơ ấu” [37, tr.664].
Sự cảm thông, chia sẻ ấy còn tuôn trào trước sự ra đi của hai con
người tài năng Tản Đà và Vũ Trọng Phụng. Cái nghèo khổ, cay cực của
cuộc đời văn nhân nghèo đeo bám mỗi con người nghệ sĩ. Họ rút ruột như
con tằm nhả tơ để hiến dâng cho đời những áng văn chương quí giá với
thời gian, về phần họ, đổi vào đó là sự kiệt quệ về thể xác, ốm đau và
bệnh tật,“Tôi biết anh chỉ là một nhà văn, chỉ là một nhà văn sống trong
sự bần bạc, chết trong sự bần bạc”[37, tr.1430]. Tam Lang, một người bạn
thân thiết của Vũ Trọng Phụng đã từng thú nhận thành thực thấy “lo cho
anh hơn mừng” khi nhận thiếp hồng từ Vũ Trọng Phụng bởi lẽ “Tôi nghĩ
bụng: một cây bút, mặc dầu không lúc nào ráo mực, làm sao đủ cung cho
hai nhân mạng những nhu cầu trong cái thời buổi khó khăn này? Tôi, một
người cầm bút và một người chồng đã hối trót đi nhận một người đàn bà
làm vợ để làm khổ lây người ta, nay trông thấy một người đồng hội đồng
thuyền sa chân xuống hố, nỡ nào không ái ngại thay!” [37, tr.1404].
Cái tủi nhục của người bán từng con chữ để kiếm sống như nức nở
bật ra trong nỗi ngậm ngùi, đau xót trước số phận cơ cực của người bạn
văn Vũ Trọng Phụng: “Bây giờ, bây giờ anh Phụng, một văn sĩ nghèo túng
sống trong cảnh thiếu thốn và vì thiếu thốn mà chết. Bây giờ đã là lúc
chúng tôi nghĩ đến sự tự cứu chúng tôi chưa?” [37, tr.1406]. Đau trước nỗi
đau của bạn, trước sự ra đi của con người chưa từng được hưởng sự sung
sướng, dù chỉ là đôi lúc, luôn nỗ lực để đấu tranh, chiến đấu với cái khó
khăn đeo bám của cuộc mưu sinh, với bệnh tật bám riết từng ngày, vắt kiệt
tận cùng sức lực, các nhà văn càng thấm thía cái tủi phận thương thân của
cuộc đời những kiếp văn nhân. Họ lặng lẽ đưa tiễn người bạn Vũ Trọng
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
73
Phụng trong nỗi sợ hãi ngấm ngầm của bệnh tật, cái chết đang chờ đợi:
“Rồi đến lượt ai đây? Trên con đường này, mới trong vòng bốn tháng trời,
tôi đã đi tiễn hai người “về nơi yên nghỉ cuối cùng”. Hai cái thiên tài lỗi
lạc đã để lại nhiều cho đất nước: 7 Juin 1939, Tản Đà chết giữa cảnh
nghèo, 13 Octobre 1939, Vũ Trọng Phụng chết vì bệnh phổi. Cái đám
người còn lại, sống vì cán bút, đi cạnh hôm nay thưa thớt và không mấy
được khỏe lắm” [37, tr.1350]; “Nhìn lại một dúm nhà văn buồn bã đi theo
quan tài của một bạn đồng nghiệp xấu số vô duyên mà “những tác phẩm đã
làm vinh dự cho văn học nước nhà”, chúng tôi không khỏi không bị một
cơn ngậm bùi bi thương vô hạn. Anh Vũ Trọng Phụng, đi đưa đám ma anh,
tôi buồn lắm, tôi tủi cho anh, tôi tủi cho tất cả những bạn đi đưa anh, tôi tủi
cho Văn học nước Nam nhà mà anh là một trong những đại biểu xứng đáng
hơn hết. Nguyễn Khắc Hiếu chết cũng quạnh hiu như anh; Nguyễn Nhược
Pháp chết cũng quạnh hiu như anh; Vũ Lang chết cũng quạnh hiu như anh;
Đỗ Thúc Trâm chết cũng quạnh hiu như anh; Hoàng Tích Chu cũng vậy!”
[37, tr.1433] Than ôi! Đọc những dòng điếu văn tang tóc đó, mỗi người
đọc chúng ta không thể không xót thương vô hạn, ngậm ngùi vô hạn trước
chân dung số phận ngắn ngủi, bạc mệnh của những bậc kì tài. Họ đã sống,
đã cống hiến nhưng cuộc đời bất như ý. Qua dòng hồi tưởng của kí ức và
đối diện với sự mất mát của thực tại, các nhà văn càng thấm thía cái đau
thương của số phận người làm văn, làm báo lúc bấy giờ, một thời kì mà
“chúng ta sống trong một quốc gia khốn khổ và văn chương không được
một ngôi danh dự; mà nghệ thuật và tư tưởng chân chính của loài người bị
dìm xuống dưới những lớp bùn lầy của chính trị” [37, tr.1433].
Có thể nói, những dòng tưởng niệm như thế không chỉ giúp chúng
ta sáng rõ hơn bức chân dung về nhà văn, nhà thơ tài năng của dân tộc
Tản Đà và Vũ Trọng Phụng, mà còn giúp người đọc có được một hình
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
74
dung và nhận thức tường minh hơn về lịch sử nước nhà những năm tháng
đầy biến động.
Những chân dung và số phận văn chương trong quá khứ cũng như
hiện tại như thế cũng là những trải nghiệm thấm thía và những suy tư sâu
lắng về nghề, về nghiệp.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
75
Chƣơng 3.
ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 - TỪ BÌNH DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Từ lát cắt hình dung bên ngoài đến tính cách của ngƣời văn, đời văn
3.1.1. Sử dụng nghệ thuật thay đổi điểm nhìn trần thuật và kĩ thuật nhiếp ảnh
Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ
thuật xây dựng tác phẩm. Mỗi điểm nhìn cho phép người viết thể hiện một
quan điểm, một thái độ, một giọng điệu khác nhau. Điểm nhìn trần thuật được
phân chia thành nhiều loại, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Nếu xét trên
bình diện tâm lí, điểm nhìn trần thuật được phân thành điểm nhìn bên trong và
điểm nhìn bên ngoài. Ưu điểm của điểm nhìn bên trong là cho phép soi thấu
những thang bậc đa dạng tình cảm, cảm xúc của con người thì điểm nhìn bên
ngoài lại giúp miêu tả cái biểu hiện, cái bên ngoài mang tính cụ thể, xác thực
của mọi sự vật, hiện tượng.
Xét từ bình diện trường nhìn trần thuật, tức là điểm nhìn bao quát cái
phần thế giới được nhìn từ một chỗ đứng nào đó, có thể chia thành hai loại:
trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật. Trường nhìn tác giả là trần
thuật theo sự quan sát, hiểu biết của người trần thuật đứng ngoài truyện,
không bị hạn chế tầm nhìn, mang lại sự khách quan tối đa cho trần thuật.
Lúc này, người trần thuật trở thành người biết tuốt, đứng ở ngôi thứ ba, bên
ngoài tác phẩm kể, tái hiện sự việc, sự vật. Trường nhìn nhân vật tức là
trần thuật theo quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm. Trường nhìn
này bị hạn chế bởi địa vị, lập trường, quan điểm của nhân vật ấy, nhưng đổi
lại, nó cho phép người viết đưa vào trần thuật những quan điểm riêng, sắc
thái tâm lí, cá tính, mang đậm tính chủ quan, tăng cường chất trữ tình hoặc
sắc thái mỉa mai. Lúc này, người trần thuật ở ngôi thứ nhất, là người tham
gia vào câu chuyện trong vai trò là một nhân vật.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
76
Trong thực tế sáng tác, hai loại điểm nhìn trên nhiều khi không tách biệt
nhau mà phối hợp, luân phiên trong một hệ thống trần thuật phức tạp. Để có cái
nhìn đa dạng nhiều chiều, trong quá trình trần thuật, điểm nhìn trần thuật được
chuyển từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật này sang các nhân vật khác, giúp
làm tăng khả năng đánh giá, bao quát của trần thuật.
Sự phân chia điểm nhìn trần thuật nói trên thật ra chỉ mang tính lí thuyết.
Để có thể tái hiện sự vật, hiện tượng trong tính xác thực, toàn vẹn; để có thể đi
tới tận cùng của mọi cảm xúc, cảm giác, người viết thường kết hợp linh hoạt
các điểm nhìn như nhà quay phim ở mọi góc độ, đứng ở mọi vị trí.
Với thể tài chân dung văn học, một thể loại mà sức hấp dẫn phụ thuộc
phần nhiều vào nghệ thuật kể chuyện, phác thảo chân dung qua con mắt của
người trần thuật, việc xác định các điểm nhìn và phối kết linh hoạt càng chiếm
vị trí quan trọng. Điều đó quyết định sự thành công hay thất bại, sự lôi cuốn
hay nhàm chán của một tác phẩm chân dung văn học. Kết quả khảo sát các tác
phẩm chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 cho thấy sự kết hợp điểm nhìn
này tương đối phong phú, gây hứng thú cho người đọc, khiến cho những bài
viết không còn đơn thuần là những lời kể dông dài, tẻ nhạt, liệt kê các sự việc
mà đã thực sự trở thành một tác phẩm văn học nghệ thuật, đường biên thể loại
được mở rộng, đặt cơ sở cho sự phát triển, thành công của thể tài này trong các
giai đoạn về sau.
Từ đặc điểm của thể loại, chân dung văn học là thể tài thường kể lại
những chi tiết, sự kiện mà tác giả là người tham gia, chứng kiến hoặc phỏng
đoán, hư cấu thông qua văn chương của người được dựng chân dung để dựng
chân dung một nhân vật nghệ sĩ nào đấy. Do vậy, chân dung văn học thường sử
dụng cả trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật làm điểm nhìn chủ đạo,
bởi nhân vật kể chuyện chính là tác giả. Người kể chuyện là một thành viên
trong câu chuyện, một nhân vật trong tác phẩm, xưng tôi đứng ở ngôi thứ nhất
số ít kể lại những câu chuyện liên quan đến cuộc đời, và văn nghiệp của người
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
77
được dựng chân dung, những tình tiết, biến cố, những kỉ niệm… của người ấy
mà mình được tham gia hoặc chứng kiến.
Với Thi nhân Việt Nam, một tác phẩm mà tác giả của nó từng phân vân
“Vậy tôi viết gì đây và trong làng văn danh hiệu tôi là gì? Chẳng hạn có thể gọi
những bài tôi viết là tùy bút, tùy hứng. Nhưng không lẽ tôi là một nhà tùy bút,
một nhà tùy hứng, hay một tùy bút gia, một tiểu luận tác giả” [36, tr.390]. Và
từ chối nhận danh hiệu nhà phê bình, sự thâm nhập giữa ranh giới các thể loại
là điều mà chúng ta có thể nhận thấy rõ. Tuy nhiên, tại sao chúng tôi xếp nó
vào thể tài chân dung văn học hơn là vào thể phê bình văn học, bởi lẽ trong tập
sách này, có sự cung cấp tiểu sử tóm tắt cuộc đời và văn nghiệp của mỗi nghệ
sĩ, có sự trích lục một số thi phẩm tiêu biểu nhất cho từng tác giả, và quan
trọng nhất là lời giới thiệu nói về từng tác giả. Lời thuật đó lại rất đậm chất
sáng tạo văn chương, một ưu thế vượt trội được xem là phóng túng hơn của thể
tài chân dung văn học, cho phép thể hiện đậm nét cái tôi cá tính của người viết.
Vì vậy, việc xếp loại như vậy, theo chúng tôi là khá hợp lí. Đây cũng là lí do
để chúng tôi nghiên cứu về vấn đề điểm nhìn trần thuật (đúng hơn là điểm
nhìn sáng tác) trong tác phẩm này. Một cái nhìn tổng quan những vui buồn,
khen chê cùng tác giả với hơn bốn mươi gương mặt Thơ mới cho thấy có một
sự thay đổi khá tinh tế trong điểm nhìn trần thuật. Có những trang viết mà tôi
- (tạm gọi là người kể chuyện ngôi thứ nhất số ít) - xuất hiện khá đậm nét.
Tác giả xưng tôi và kể lại những cảm nhận riêng, mang đậm màu sắc chủ
quan cá nhân, thể hiện rõ tính chất trữ tình trong lối viết, khi thưởng lãm
một gương mặt thơ nào đấy. Chẳng hạn như, viết về Phạm Hầu, tác giả kể:
“Lần đầu tôi xem thơ Phạm Hầu trên tạp chí Tao đàn, những bài thơ in bằng
một thứ chữ chắc chắn, đậm nét. Lần ấy tôi bỏ qua. Hôm nay đại khái cũng
những bài thơ ấy tôi lại thích” [36, tr.180]. Hay dựng chân dung của Xuân
Tâm, tác giả lại bắt đầu bằng một câu hỏi thể hiện sự băn khoăn của lòng
mình: “Tôi không rõ Xuân Tâm, người học trò Quảng ấy, có phải lòng một
cô gái Huế không?” [36, tr.184]. Từ ngôi thứ nhất số ít đó, tác giả đã tận dụng 78 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
triệt để điểm nhìn bên trong cho phép được bày tỏ, bộc bạch hết những rung
động, xúc cảm khi tiếp xúc với một số gương mặt Thơ mới. Với điểm nhìn bên
trong này, các cung bậc của cảm xúc được soi chiếu, thể hiện hết sức vi diệu, ví
như những lời nói về Hàn Mặc Tử: “Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền
để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể quì lạy
cùng thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, tự tôi làm sao không ngợp vì cái
vẻ huy hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia?” [36, tr.235].
Tuy nhiên, nhiều khi để tạo nên sự linh hoạt, cuốn hút, tác giả lại thay đổi điểm
nhìn bên trong thành điểm nhìn bên ngoài và cái tôi ngôi thứ nhất số ít được
dấu nhẹm, chỉ để cho những lời nhận xét vang lên với dáng vẻ dường như
mang màu sắc khách quan, chân thực hơn, đó là khi tác giả viết về chân dung
Bàng Bá Lân, Đỗ Huy Nhiệm, Vũ Hằng Phương ... Chính điều này đã khiến
tác phẩm trở thành một sáng tác mà mỗi lần đọc chúng ta lại thêm sự rung
động mới mẻ.
Trong hai số tạp chí Tao đàn đặc biệt tập trung các bài viết về Tản Đà
(tháng 7-1939) và Vũ Trọng Phụng (12-1939), chúng ta thấy rằng đặc điểm
riêng biệt của những bài viết này là để dành tưởng niệm đến linh hồn người đã
khuất. Do vậy, trong bài viết, thường thấm đượm cảm xúc chân thành, xúc
động của cá nhân người viết. Mạch chảy của bài viết cũng thường đi theo dòng
hồi tưởng miên man về những kỉ niệm đã qua với người đã khuất, là nhắc nhớ
lại những chi tiết, sự kiện đáng ghi nhớ, đáng chú ý trong cuộc đời thường và
trong văn nghiệp của họ. Chính vì thế, trong các bài viết này cách lựa chọn
điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất là đặc trưng nổi bật. Với sự lựa chọn
điểm nhìn trần thuật như thế, các nhà văn không chỉ tái hiện lại cuộc đời của
nhân vật được dựng chân dung, từ mối quan hệ của nhân vật Tôi với người
được dựng chân dung, mà còn giúp tái hiện lại cái không khí chung của thời
đại, của đời sống văn nghệ, giúp người đọc tiếp cận, tìm hiểu, khám phá về một
thời kỉ niệm và cái thực tại đầy thương đau, mất mát là sự ra đi vĩnh viễn của
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
79
hai người bạn văn. Việc chọn điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất số ít chịu sự
qui định của thể loại song điều quan trọng tác giả phải xử lí tốt mối quan hệ
giữa cái riêng và cái chung, bởi riêng tư quá chưa hẳn đã gây xúc động với
nhiều người và có giá trị, vì đây là bài viết về con người của chung cho mọi
người. Nhưng chung quá thì không còn chuyện của cá nhân. Xử lí hài hòa mối
quan hệ đó là điều mà các bài viết trong Tao đàn đã làm được, tạo nên một
cách tiếp cận hiện thực riêng: tiếp cận hiện thực xã hội từ hiện thực đời tư của
đối tượng được dựng chân dung và tác giả; một kiểu trần thuật riêng: kiểu trần
thuật chủ quan với một giọng văn riêng, độc đáo.
Trong những bài viết như Bây giờ đây, khi cái nắp quan tài đã đậy lại
của Lưu Trọng Lư, Sự thai nghén một thiên tài (Trương Tửu), Chén rượu vĩnh
biệt (Nguyễn Tuân), Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau (Nguyễn
Triệu Luật), Tản Đà triết học (Trúc Khê Ngô Văn Triện), Một kỉ niệm về yêu
thơ Tản Đà (Xuân Diệu), Tản Đà dịch văn (Nguyễn Xuân Huy), Tản Đà, một
kiếm khách (Nguyễn Tuân), Mộng và mộng (Lê Thanh), Điếu văn đọc trước
huyệt trong đám tang Tản Đà của Đinh Gia Trinh, Địa vị Vũ Trọng Phụng
trong văn học Việt Nam cận đại (Trương Tửu), Đám tang Vũ Trọng Phụng
(Thanh Châu), Con người Vũ Trọng Phụng (Lan Khai), Vũ Trọng Phụng với
tôi (Nguyễn Triệu Luật) …, người kể chuyện luôn là nhân vật “tôi” đứng ở
ngôi thứ nhất số ít để kể về đời người được dựng chân dung và kể về những
việc có liên quan đến mình, hoặc mình được nghe, được biết, được chứng kiến
về đối tượng. Do vậy, người kể chuyện vừa là chủ thể trần thuật lại vừa có thể
là đối tượng phản ánh cùng đối tượng phản ánh chính là người được dựng chân
dung. Từ thực tế trên, trong bài viết, các tác giả có thể kết hợp cả điểm nhìn
bên trong, điểm nhìn bên ngoài. Chẳng hạn, miêu tả cái đêm họp đưa ma Vũ
Trọng Phụng ở nhà ả đào, Nguyễn Tuân sử dụng điểm nhìn bên ngoài, nhất là
khi tường thuật lại cuộc đối thoại của các bạn văn về Vũ Trọng Phụng, khiến
cho người đọc có cái nhìn khách quan, cảm động hơn về những tình cảm, thái
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
80
độ yêu mến của họ. Rồi thoắt cái tác giả lại đưa về những cảm giác nội tâm,
những kí ức của riêng mình đối với người bạn đã khuất: “Tôi nằm tiêm thuốc
bên khay đèn, tôi đã đánh cháy điếu thuốc… Tôi nhớ đến cái chuyện tôi mua
một bức tranh lụa bày ở phòng triển lãm mùa đông năm ngoái. Hồi ấy, thấy
tôi rước một bức thủy họa về để đến nỗi chậm cả áo mặc mùa rét đã dồn về
từ lâu, Phụng tìm đến tôi, ngắm bức họa với sự chế nhạo và “chửi” tôi là
một thằng điên và nói: “Tao không bao giờ lại có thể điên như thế” [37,
tr.1394], và ngẫm nghĩ đến số phận của những đồng nghiệp và bản thân
trong tương lai: “Nhân Phụng vừa nằm xuống, tôi lại tìm trong đầu xem
trong bọn nhà văn trẻ, những người nào là cầm lỏng được cái chết. Thế Lữ,
Tchya, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam, Nhất linh, Khái
Hưng đều là những người đủ tư cách lên đường sớm lắm. (…) Tôi không
độc mồm nguyền rủa ai. Trái lại. Và buồn thương lắm” [37, tr.1396]. Sự
thay đổi điểm nhìn này đã giúp tác giả tự đàm luận với chính thế giới tâm tư,
tình cảm với những đau đớn, buồn thương của chính bản thân. Sự phối kết
linh hoạt luân chuyển liên tục trong bài viết ngắn này tạo nên một sự cuốn
hút, hấp dẫn lạ kì, khiến người đọc bị cuốn vào câu chuyện như thể đang
chứng kiến tận mắt cái đêm họp đưa ma u ám, thảm đạm ấy.
Sự luân phối, di chuyển điểm nhìn trần thuật linh hoạt như thế trong một
số bài viết chân dung khác nữa đã giúp cho cái nhìn về con người, cuộc sống
được mở rộng, trải ra dưới nhiều góc độ.
Bên cạnh nghệ thuật thay đổi linh hoạt điểm nhìn, sự thành công của
việc dựng chân dung văn học còn phụ thuộc khá nhiều vào việc sử dụng khéo
léo “kĩ thuật chụp ảnh”.
Chân dung - có lẽ là thuật ngữ mượn hoặc nhờ gợi ý bởi hội họa, bởi
nhiếp ảnh. Nó cốt cho thấy cái mặt người và một người chụp ảnh có tài là
người phải biết “chớp” lấy cái khoảnh khắc thần thái nhất của một chân dung.
Không phải cú bấm máy nào cũng đem lại một “chân dung” tốt, cho nên cần
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
81
đến sự tư duy, nhận xét, quan sát của người bấm máy về chất người, kiểu người
mình chụp, để chọn thời điểm và tư thế tốt nhất, để so đọ với đối tượng thật, để
định giá sản phẩm do kỹ thuật tạo ra. Cho nên ý niệm “chân dung” ngoại hình
lại cần tương ứng với “chân dung” bên trong, chân dung tinh thần − cái phần
mà trách nhiệm là thuộc hẳn về người sáng tác (dẫu là người chụp ảnh) chứ
không thuộc kỹ thuật.
Lấy ngôn từ để chớp lấy khoảnh khắc thần thái, tạo nên một chân dung văn
học độc đáo do vậy hoàn toàn không phải là việc làm dễ dàng. Tuy nhiên, với
năng khiếu nhạy bén và khả năng cảm thấu cái đẹp đầy tinh tế, Hoài Thanh - Hoài
Chân đã triển lãm cho người xem hơn bốn mươi gương mặt không thể lẫn. Bức
ảnh nào cũng có một dấu ấn riêng, cho thấy cái phần hồn tinh túy nhất của cả thơ
và cả người thơ. Tác giả được chứng kiến một Thế Lữ với hồn thơ rộng mở, thoát
lên tiên, một Lưu Trọng Lư mơ màng và ngơ ngác cả trong đời thực lẫn trong
trong thơ, một trong sáng như tâm hồn cô bé tuổi mười lăm Nguyễn Nhược Pháp,
một quê mùa như Nguyễn Bính, băn khoăn, rạo rực, thiết tha như Xuân Diệu.
Hay với con mắt của người trong cuộc, Nguyễn Tuân chớp lấy ngay cái
chân dung Tản Đà “một quái tượng” ngông trong thơ và cả trong đời thực; một
Vũ Trọng Phụng mà sự nghiệp văn chương giá trị như vậy nhưng trong cuộc
đời thực thật tội nghiệp thay bởi gánh nặng mưu sinh để nuôi sống gia đình đè
trĩu trên vai: “Đời Phụng chưa có một cái mộng nào để mà ôm, chưa mơ màng
đến một cái gì để thỉnh thoảng lìa khỏi cái tẹp nhẹp mè nheo ở đời này. Trong
đời Phụng, Phụng cử động theo nhiều suy nghĩ quá. Chưa có một giây phút
nào, hắn dám điên cuồng lấy một tị” [37, tr.1393].
Để có thể chớp lấy những giây phút thần như thế, người dựng chân dung
trước hết phải biết lựa chọn tinh tế lấy các chi tiết điển hình.
3.1.2. Sự lựa chọn tinh tế các chi tiết điển hình
Một nét đặc sắc và rất cần cho chân dung văn học chính là chất văn học
của nó. Người viết ở đây cần xuất hiện với tư cách một nhà văn, in cái nhìn,
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
82
cách cảm thụ và đánh giá cùng sự diễn đạt của nhà văn. Đây là nét hơi tinh tế,
không phải bất cứ độc giả nào cũng thấy ngay, nhưng có lẽ là nét cốt yếu khiến
cho chân dung văn học đúng là văn học, có chỗ đứng trong văn học. Cái nhìn
có liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn chi tiết điển hình.
Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, GS Trần Đình Sử khẳng định:
“Cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người, nó có thể thâm
nhập vào sự vật, phát hiện đặc điểm của nó mà vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu
sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật, do đó cái nhìn được vận dụng muôn vẻ
trong nghệ thuật” [32, tr.106].
Sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với một tư tưởng nhất định.
Tư tưởng đó tập trung thể hiện qua cái nhìn của tác giả - một phẩm chất nghệ
thuật của nhà văn. Hay nói một cách khác, trong khi phản ánh đời sống người
nghệ sĩ không thể không có một cái nhìn nghệ thuật riêng. Thiếu quan tâm đầy
đủ tới cái nhìn nghệ thuật của tác giả, người phê bình dễ không đánh giá đúng
cái phong phú của sáng tác.
Nhà văn Pháp Mácxen Pruxt khi nói về tầm quan trọng của cái nhìn càng
khẳng định: “Đối với nhà văn cũng như nhà họa sĩ, phong cách không phải là
vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Do vậy cái nhìn là một biểu hiện tinh
thần đặc biệt của tác giả. Để hiểu được nội dung phong phú của cuộc sống
trong tác phẩm, chúng ta không thể không khám phá cái nhìn nghệ thuật, cách
tư duy, cách cảm nhận của chính nhà văn. Cái nhìn thể hiện trong tri giác, cảm
giác, quan sát, từ đó nó có thể phát hiện cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi. Cái
nhìn xuất phát từ một cá thể, mang thị hiếu và tình cảm yêu, ghét. Cái nhìn gắn
với liên tưởng, tưởng tượng, cảm giác nội tâm, biểu hiện trong ví von, ẩn dụ.
Cái nhìn có thể đem các thuộc tính xa nhau đặt bên nhau, hoặc đem tách rời
thuộc tính khỏi sự vật một cách trừu tượng.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
83
Trong tác phẩm nghệ thuật cái nhìn thể hiện trong chi tiết nghệ thuật, bởi
chi tiết là điểm rơi của cái nhìn. Như vậy “Chi tiết không đơn thuần chỉ là một
vật đã được quan sát. Chi tiết nghệ thuật mang nặng tính tổng quát. Đối với
những nghệ sĩ chân chính, chi tiết thuộc vào hệ thống của nghệ thuật. Nó nói
lên đặc điểm nhận thức của người nghệ sĩ đối với thế giới bên ngoài, cái quan
điểm riêng của người nghệ sĩ về môi trường xung quanh, cái bản chất nghệ sĩ
của anh ta (…) nhờ có chi tiết mà nhà văn mới phát hiện được những quan hệ
mới, những đặc điểm mới, những màu sắc mới. Chi tiết tức là bút pháp vậy”.
Chi tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện cái nhìn của nhà văn. Khi nhà
văn trình bày cái họ nhìn thấy cho ta cùng chiêm ngưỡng thì ta đã tiếp thu cái
nhìn của họ và cùng bước vào phạm vi ý thức của họ, chú ý cái mà họ chú ý.
Khi ta nhận thấy nhà văn này chú ý cái này, nhà văn kia chú ý cái kia, tức là ta
đã nhận ra con người nghệ sĩ của tác giả.
Để dựng thành công một chân dung văn học, người viết có tài phải là
người biết lựa chọn những chi tiết đắt, có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật, là một cách thức tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn của thể tài đặc biệt này. Thêm
vào đó, với dung lượng có hạn cho phép của thể tài, chọn lọc chi tiết là một yêu
cầu thiết yếu của nghệ thuật dựng chân dung, giúp cho những tường thuật của
các trang viết không rơi vào kể lể, kéo dài, gây nhàm chán cho người đọc.
Những chi tiết điển hình được lựa chọn có thể là một lời nói, một nét
ngoại hình, một khoảnh khắc theo hướng ngợi ca hay phê phán miễn là đảm
bảo phải làm sáng rõ chân dung nhân vật. Việc chộp bắt được những chi tiết có
vẻ ngẫu nhiên nhưng làm sao từ đó có thể toát lên cuộc đời, số phận, tính cách
của đối tượng được dựng chân dung là rất quan trọng. Chỉ có sống mới có chi
tiết. Điều đó hé mở rằng để có thể chắt lọc lấy chi tiết đặc sắc và ấn tượng về
đối tượng được dựng chân dung chỉ có con đường sống, tiếp xúc gần gũi, biết
đồng cảm văn với người thì mới làm được điều đó. Bên cạnh đó, cùng một chi
tiết, nhưng dưới cái nhìn, cái cảm quan riêng của mỗi người, nó sẽ được cảm
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
84
nhận theo một cách riêng, từ đó, đi vào trong văn chương cũng có hướng biểu
đạt riêng tùy theo cái phong cách riêng của mỗi người. Chẳng hạn như, cùng
chân dung Xuân Diệu, bằng sự cảm nhận vi diệu của tâm hồn, Hoài Thanh - Hoài
Chân đã chỉ ra cái độc đáo nhất của hồn thơ và cũng là tính cách tiêu biểu nhất của
con người luôn tha thiết, vồ vập, cuống quýt trước sự trôi chảy của cuộc sống và
tình yêu này đó là: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng,
sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như
khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết” [36, tr.129]. Hay trong Nhà văn hiện đại,
ngoài những chi tiết điển hình như “Xuân Diệu ở đâu cũng đem theo một hồn thơ
bát ngát và mơ màng”; “Bao giờ Xuân Diệu cũng là một thi sĩ, một thi sĩ rất giàu
lòng yêu dấu”, Vũ Ngọc Phan còn dí dỏm đưa ra chi tiết: “Người ta thấy Xuân
Diệu tính toán cả tình yêu, người ta thấy ông phàn nàn về sự thiệt thòi. Trong yêu
đương mà cũng không hoang phí, như thế mới thật hiếm” [27, tr.720]. Chi tiết ấy
cho thấy nhất cái tâm hồn khao khát yêu, khao khát được sống trong tình yêu rạo
rực, được dâng hiến hết thảy cho cuộc sống thanh xuân của ông hoàng thơ tình
Xuân Diệu. Hay bắt lấy cái chi tiết về tiếng cười phóng khoáng của Tản Đà: “Nói
dứt ông cười ha hả. Ông nói dứt, rồi lại cười ha hả. Ông lại cười. Cái cười vui đời
thế và vô lự” [37, tr.675]. Nguyễn Xuân Huy đã nhấn vào được “cái cốt cách vững
vàng”, “cái phong thái ung dung” và “cái dáng điệu ngang tàng” của con người “đã
đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ hai mươi với tấm lòng bình
thản của một người thời trước” [37, tr.8].
Bên cạnh những chi tiết được kể lại như thế, độc giả còn nhận thấy qua
những trang viết các tác giả còn lẩy chọn những câu thơ, những câu văn thần tình
của đối tượng được dựng chân dung. Những câu văn thơ ấy tự nó nói được rất
nhiều điều về một văn nghiệp, một cuộc đời, có mối liên hệ rất sâu sắc. Hoài Thanh
- Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan ... đều đã làm rất khéo léo điều này. Chẳng hạn như
xây dựng chân dung hồn thơ Xuân Diệu, để nói lên cái cô đơn rợn ngợp, bơ vơ,
khao khát tình yêu của thi nhân, tác giả đã trích những vần thơ hay nhất trong Lời kĩ
nữ của Xuân Diệu:
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
85
Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo /Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
Lựa chọn và lẩy ra những câu thơ thần tình như thế chính là một sự sáng
tạo trong nghệ thuật xây dựng chân dung bằng con đường đi từ tác phẩm đến
tác giả. Đó chính là những “tư liệu sống”, “nhân chứng sống” thiết thân nhất
mà người dựng chân dung có thể thu lượm, tuyển chọn để xây dựng bức tranh
đa chiều về những chân dung văn học sống động.
Những chi tiết điển hình như thế phải thỏa mãn được cái tiêu chí gợi lên
được thần thái, linh hồn của chân dung cá nhân nhân vật vừa phải có sức mạnh khái
quát lên được những đặc trưng tiêu biểu về tính cách, cuộc đời và số phận chân
dung ấy. Xa hơn nữa, sức mạnh giá trị của việc lựa chọn tinh tế những chi tiết điển
hình còn giúp hồi quang cả một thời đại, một thế kỉ văn chương đã qua.
3.1.3. Tạo dựng không khí và bối cảnh
Chân dung văn học chú ý tạo bối cảnh, không khí bởi nhân vật của thể
tài là những con người có thực sống trong nhiều hoàn cảnh, môi trường đa
dạng, phong phú. Bối cảnh, không khí trong chân dung văn học có thể chia
thành bối cảnh hẹp và bối cảnh rộng: thời thế và văn chương. Bối cảnh hẹp
trong chân dung văn học thường thấy là gia đình, cảnh sinh hoạt. Bối cảnh rộng
có thể là một thời đại, một hoàn cảnh đặc thù của xã hội, đất nước. Đó chính là
cái phông nền, cái màn kịch sân khấu cuộc đời để mỗi chân dung văn học được
trình chiếu, là sự khẳng định ý thức nhìn nhận con người ở nhiều hướng, nhiều
chiều của nhà văn. Chẳng hạn như dựng lại chân dung cuộc đời Vũ Trọng
Phụng, Thanh Châu đưa vào cái bối cảnh hẹp là buổi đưa tang Vũ Trọng
Phụng. Một đám ma “không kèn không trống. Đám tang lặng lẽ đi trên đường
Ngã tư sở - Thanh Xuân.” Trong đám đông đi đưa tang ấy có “người vợ góa
kia bận sô gai, khóc đã lả người vịn vào kẻ đi bên cạnh mà lê bước”, có “đứa
con gái nhỏ mồ côi, xinh xắn và ngây thơ kia mà người ta bồng trên tay cho
theo chiếc xe tang” cho đến cái “gian nhà trống lạnh với đau đớn và túng thiếu
ở ngoại ô Hà Nội” trong trí tưởng của tác giả; cho đến cái hiện thực trước mắt
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
86
“những cái đầu bù rối, có những bộ mặt thông minh nhưng già sớm, có những
người bận những áo quần mỏi mệt, mỏi mệt như bước đi của họ.” Đến đây, từ
bối cảnh hẹp là một cảnh đưa tang, tác giả đã mở ra cái cánh cửa bước vào cái
bối cảnh ngổn ngang, u ám của thời đại, của hoàn cảnh xã hội bấy giờ: “Đó là
những ngôi sao của văn học giới ở Kinh đô. Đó là những kẻ mỗi ngày thường
làm náo nức, vui buồn cả một thành thị, cả một nước. Họ là những nghệ sĩ,
những nhà văn, nhà thơ, nhà báo đã có tên tuổi hay đương còn mờ tối. Những
người thợ cần cù, tận tụy đương xây đài vinh quang cho giống nòi. Họ cúi đầu
đi, buồn nản, ngùi ngùi.” Họ đi đâu? Đến viếng đám tang của một người bạn,
một thiên tài trong văn giới, nhưng họ cũng ít nhiều cảm nhận con đường đi
đến cái chết của mình. Bởi đời sống quá khổ cực với ốm đau, bệnh tật, với cơn
đói triền miên và những nỗi lo chống chọi lại với cái thể chế chính trị tù túng,
ngột ngạt kia. Họ cảm nhận được sự quay về những ngôi nhà ngoại ô, “quê
hương của những nghệ sĩ nghèo nàn, của những kẻ đã mang hết tinh hoa của
đời họ để cống hiến, để giải trí cả một thành thị xa hoa và bội bạc” [37,
tr.1360]. Trên cái nền bối cảnh riêng chung ấy, chân dung người đã khuất Vũ
Trọng Phụng, chân dung người còn sống Thanh Châu và những nhà văn khác
nữa càng hiện lên rõ nét, làm lòng người đọc ngập tràn nỗi thương cảm sâu xa.
Như vậy, nếu như trước đây, các nhà văn chủ yếu tái hiện, đánh giá con
người theo các biểu hiện tư tưởng, đạo đức của nó, thì bây giờ văn học đã mở
rộng tư duy sang các bình diện của sự tồn tại con người như thời gian, môi
trường và cả năng lực ý thức của nó trước thế giới, trước hoàn cảnh xã hội.
Môi trường của các nhà văn chính là không khí văn học thời đại họ đang sống.
Đặt vào “môi trường” đó, ta mới hiểu được con người, mới đi đến khám phá
được những bí ẩn và tiềm năng bên trong, ngoài lớp vỏ bao bọc hoặc cứng cỏi,
dày dặn hoặc mềm mại, uyển chuyển. Dựng những chân dung văn học trên một
nền hiện thực sinh động, trong không khí văn học như thế đã giúp bạn đọc có
thể nhìn thấy và hiểu biết một cách toàn diện sâu sắc. Chính vì thế mà bức
87
tranh đọng lại trong tâm tư người đọc lâu bền, đầy ấn tượng. Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
3.2. Đa thanh về giọng điệu
Bên cạnh điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật có vai trò vô cùng
quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Bởi “nếu tác giả nào không có lối nói
riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả” (Sêkhôp). Thiếu một
giọng điệu nhất định, nhà văn cũng chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù có
đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ thống nhân vật. Như vậy, giọng điệu là một
trong những phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố hàng đầu tạo
nên phong cách của nhà văn và có tác dụng truyền cảm đến người đọc. Giọng
điệu trần thuật phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ
mỗi nhà văn. Mỗi giọng điệu chỉ có thể phù hợp với những đối tượng nhất
định, thể hiện cái tạng riêng của mỗi người cầm bút, tạo sức hấp dẫn cho mỗi
tác phẩm đến nay. Tuy nhiên, trong một tác phẩm có thể có nhiều giọng điệu
bao hàm nhiều sắc diện, nhiều sắc thái biểu cảm do trong nó thường hội tụ
nhiều hồn thơ, hồn văn trong những chiều kích không gian, thời gian khác
nhau. Hoặc có khi, cùng một chân dung nhưng lại có nhiều bài viết với nhiều
giọng điệu khác nhau tùy theo cái chất và lối viết ưa thích của mỗi tác giả.
Soi chiếu vào những trang viết chân dung văn học giai đoạn 1930 -
1945, ta thấy có sự góp mặt của nhiều giọng điệu: giọng trang trọng, tôn vinh;
giọng bùi ngùi, thương cảm; giọng triết lí; giọng dí dỏm, hài hước; và cả giọng
văn ngông nghênh, kiêu bạc, tài tử mà rất mực tình cảm của Nguyễn Tuân.
Qua những trang tạo dựng chân dung văn học, Vũ Ngọc Phan chinh
phục người đọc bằng một sự cuốn hút của một lối văn kết hợp của nhiều giọng
điệu: khi dí dỏm, hài hước, khi nghiêm nhặt trong phê bình, khi lại trữ tình,
ngọt ngào. Ví dụ như nhận xét về Lê Văn Trương, Vũ Ngọc Phan hài hước và
dí dỏm: “Lê Văn Trương còn dựng lên những thuyết rất lạ cho những nhân vật
của ông. Hãy lắng nghe những lời sau này: - Ta không thể yêu đàn bà. Ta chỉ
có thể yêu Nghệ thuật và Tổ Quốc.
Trước hết, “sự mê gái” với sự “yêu đàn bà” là hai việc rất khác nhau.
Những đại văn hào như Goethe ở Đức, Anatole France ở Pháp, đều nhận rằng
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
88
đàn bà đã tô điểm cho thế gian này rất nhiều, đàn bà đã giúp cho sự tiến hóa
của nghệ thuật, nếu không có đàn bà thì sự sống của loài người sẽ rất cằn cỗi,
khô khan. Người ta thường thấy người đàn bà đẹp làm đầu đề cho các thi gia,
văn gia và những họa sĩ, những nhà điêu khắc đại tài. Như vậy, tại sao đã yêu
nghệ thuật lại không thể yêu đàn bà được?” [27, tr.863].
Lại có khi sử dụng giọng văn rất trữ tình, tha thiết, chẳng hạn như đoạn
viết về Lưu Trọng Lư sau: “Lời thơ của tác giả tập thơ Tiếng thu là những lời
buồn thảm, những lời réo rắt làm xáo động tâm hồn người ta một cách rầu rầu
như những tiếng của mùa thu” [27, tr.672].
Đọc Thi nhân Việt Nam, ta nhận thấy giọng điệu chủ đạo nhất vẫn là giọng
trữ tình, say đắm, thể hiện một tâm hồn đồng điệu với khao khát muốn đón nhận
những vang động của tâm hồn thi nhân. Ví như khi miêu tả chân dung chàng thi sĩ
trẻ tuổi Tế Hanh, Hoài Thanh đã dùng giọng văn thật ý tứ, nhẹ nhàng để chỉ ra cái
tinh tế, sâu thẳm của sự giao hòa giữa thơ và người trong bức chân dung này: “Tế
Hanh sở dĩ nhìn đời một cách sâu sắc như thế là vì người sẵn có một tâm hồn tha
thiết. Hôm đầu tôi gặp người thiếu niên ấy, người rụt rè ngượng ngịu như một
chàng rể mới. Nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt. Đôi mắt nồng nàn lạ. Tôi nghĩ ở một
người như thế những điều cảm xúc, những nỗi đau xót sẽ quá mức thường và có
khi khác thường” [36, tr.171].
Đến với Tao đàn, viết về bậc tiền bối Nguyễn Công Trứ, ta được thấy
một giọng văn nghiêm cẩn: “Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức
Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử” [37, tr.112]. Và rồi cũng giọng
của Lưu Trọng Lư nhưng đã chuyển sang gần gũi hơn mà vẫn mang cái màu
sắc lai láng của một người thi nhân viết chân dung khi nói về Nguyễn Bá Trác:
“Tôi gặp một kẻ giang hồ. Kẻ ấy đã gợi cho tôi cái thú lang bạt muốn được
băng mình nơi xứ lạ, một hôm nằm ở một quán lạ, qua những song cửa nhìn
ánh trăng bạc tuôn trên một lối đi cỏ đã áy vàng...” [37, tr.567]. Rồi giọng điệu
ấy chuyển sang đầy ngậm ngùi, bi thiết trong bài văn tiễn đưa Vũ Trọng
Phụng: “Nhưng có bao giờ ai lại muốn: những hoa tàn ngay trong cái giờ hoa
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
89
nở. Thế mà số mệnh đã muốn anh đi ngay trong cái văn tài anh cũng vừa “nở”
giữa cái hương vị đầu tiên của cuộc đời. Anh là một đóa hoa còn mơn mởn ở
trên cành niên thiếu, thế mà giời ôi! Hoa đã rụng rồi!” [37, tr.1430].
Sự đa thanh về sắc thái giọng điệu khi xây dựng chân dung văn học như
thế chứng tỏ bản lĩnh của người viết và vốn sống, vốn hiểu biết của họ về đối
tượng được dựng chân dung. Việc tìm ra những giọng điệu thích hợp, hài hòa
sẽ góp phần khơi dậy những ấn tượng và xúc cảm ở trong lòng người đọc.
3.3. Tính hình tƣợng, sự tinh tế và phong phú trong ngôn ngữ
M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng”. Chính vì
ngôn ngữ thể hiện tư tưởng, bao bọc tư tưởng cho nên vấn đề ngôn ngữ là vấn
đề hết sức quan trọng đối với mỗi người cầm bút.
Ngôn ngữ trần thuật là phần lời của tác giả - người trần thuật. Với thể tài
chân dung văn học, thông thường tác giả và nhân vật xưng “tôi” là một, nên
ngôn ngữ trần thuật là lời của nhân vật - người đang kể câu chuyện về chính
cuộc đời mình, những người, những việc liên quan đến mình.
Song chân dung văn học không chỉ là câu chuyện của mỗi cá nhân mà
còn là tác phẩm văn chương nghệ thuật của đông đảo cộng đồng độc giả. Vì
vậy, các tác giả luôn có ý thức chọn lọc một hình thức ngôn từ biểu hiện phù
hợp để lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.
Soi chiếu vào các trang viết chân dung văn học thời kì 1930 - 1945, người
đọc cảm nhận được tính hình tượng, tinh tế và phong phú trong ngôn ngữ cũng là
một trong những nét đẹp trên phương diện hình thức của thể tài giai đoạn này.
Cái tạo nên sự khác biệt giữa một tiểu sử văn học với một sáng tác
thuộc thể tài chân dung văn học nằm ở chất văn học bên trong câu chữ.
Chính là chất văn học đã cho phép thể tài chân dung được phóng túng
nhiều hơn so với lối viết tiểu sử hoặc nghiên cứu một tác giả. Các thể tài
phê bình vốn đã ít gò bó so với các thể tài nghiên cứu. Chân dung văn học,
hơn một mức nữa, còn có thể phóng túng.
Văn của Hoài Thanh thực sự mỗi câu, mỗi chữ, mỗi dòng đều đẹp như
một bài thơ. Tác giả kì công trau chuốt, gọt dũa, tìm ra cái thần thái hơi văn
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
90
của mỗi thi sĩ để chọn lấy lối trình bày ngôn ngữ cũng tương đồng như thế.
Đọc Thi nhân Việt Nam, người ta thấy phảng phất cái say đắm trong cuộc của
chính tác giả. Ngay lối in chữ Hoài Thanh cũng cẩn thận chọn sắp chữ in
nghiêng, để lời văn của mình mang một dáng vẻ bay bổng, tài hoa, hòa hợp với
cái linh hồn mỏng mảnh của Thơ mới. Sự thay đổi linh hoạt của chủ thể nhân
xưng “tôi”, “ta”và gọi đối tượng dựng chân dung bằng người cũng cho thấy cái
tài năng dùng ngôn ngữ của nhà văn này.
Ngay cả Nhà văn hiện đại, một tác phẩm nằm trung dung giữa hai thể
tài chân dung văn học và phê bình văn học, Vũ Ngọc Phan cũng cho ta cái
nhìn phân loại nghiêng về thể tài chân dung, bởi lẽ lối văn tác giả dùng
cũng đầy chất văn chương. Đọc những câu văn đẹp như: “Cái ngày mà thơ
Tương Phố ra đời trong tạp chí Nam Phong, tức là ngày “ngọn gió thu” bắt
đầu thổi; rồi thu ấy qua, thu khác lại, ngọn gió thu vẫn không làm khô được
nước mắt của người sầu thu, vì không còn bài thơ nào của bà là không nhắc
nhở đến cái mùa cây khô lá vàng” [27, tr.156]; hay: “Lưu Trọng Lư là một
thi sĩ đa tình và mơ mộng. Ông say sưa tất cả những cái đẹp của người và
của tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức, trí não ông lúc nào cũng
mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng với thực, thổ lộ nên
những lời huyền ảo vô cùng” [27, tr.672]. Hay: “Lời thơ trong sáng êm như
ru; còn ý thơ nhẹ nhàng, man mác, tỏa ra như mây khói. Mà cảm động
huyền diệu biết bao. Tình tứ đến thế là cùng, cảm động đến thế là cùng.
Một người mang bệnh mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật
cũng là” khi nói về Hàn Mặc Tử, người đọc được hân thưởng những cảm xúc
tinh tế trong tâm hồn của người viết.
Các tác phẩm thuộc thể loại chân dung văn học giai đoạn 1930 -
1945 về số lượng tuy chưa nhiều nhưng lại có ý nghĩa to lớn. Chân dung
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
91
văn học không chỉ dừng lại ở việc giúp ta hiểu biết về thế giới nghệ thuật
nhà văn, mà còn giúp ích đối với sự phát triển của thể loại chân dung văn
học Việt Nam. Với ngòi bút điêu luyện đã trải qua bao khổ luyện công phu,
các nhà văn bấy giờ đã ghi được những thành công đáng kể trong thể loại
chân dung văn học của thời đại mình.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
92
KẾT LUẬN
Chân dung văn học là một thể tài khá mới mẻ trong lịch sử văn học
dân tộc, bao hàm trong đó những nét đặc sắc riêng về đặc điểm của thể tài.
Thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam đã thực sự được đặt nền
móng từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX và đã ghi nhận được những
thành tựu đặc sắc với các cây bút: Thiếu Sơn, Trương Tửu, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan... Ngày nay, với một cái nhìn
toàn diện và tổng quan lại thể tài chân dung văn học trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1930 - 1945, chúng ta nhận thấy các tác phẩm ấy đã được
xây dựng trên nhiều hình tượng nhà văn, nhà thơ, giúp người đọc nhận thức
được không chỉ tác giả, tác phẩm mà còn nhận diện được cả thế hệ người
cầm bút cũng như độc giả giai đoạn này.
Lựa chọn nghiên cứu thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945
với mong muốn góp phần làm sáng tỏ chân dung của cả một thời đại văn học
và cung cấp thêm những minh chứng cho lí thuyết về thể tài này qua đề tài Thể
chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, luận văn đã
hệ thống lí giải một số vấn đề sau:
1. Giới thuyết khái quát những vấn đề lí thuyết cơ bản có liên quan đến
khái niệm thể tài chân dung văn học, mối quan hệ giữa thể tài này với thể kí và
phê bình văn học, cùng những đặc điểm riêng của thể tài này. Bên cạnh đó,
trong chương 1 Thể tài chân dung văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 -
quá trình hình thành và phát triển, luận văn còn tập trung giới thiệu quá trình
hình thành và phát triển của thể tài trên hai luận điểm cơ bản là cơ sở tiền đề,
bao gồm: cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội và cơ sở thẩm mĩ; và bốn giai đoạn
phát triển cơ bản của thể tài này tại Việt Nam từ khi hình thành cho đến nay.
Ngoài ra, để nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của việc tìm hiểu các tác
phẩm thuộc thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945, luận văn cũng đã
nhấn mạnh đến vai trò, giá trị và đánh giá về vị trí của thể tài giai đoạn này
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
93
trong lịch sử phát triển chung với mong muốn dựng lên một toàn cảnh khái
lược nhất những vấn đề lí thuyết cơ bản cũng như đánh giá đúng vị trí của thể
chân dung giai đoạn này.
2. Lấy các sáng tạo nghệ thuật thuộc thể chân dung văn học giai đoạn
1930 - 1945 làm đối tượng nghiên cứu và lựa chọn phạm vi nghiên cứu là tựu
trung vào các tác phẩm tiêu biểu đó là Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn, Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài
Chân, cùng các số báo trong tạp chí Tao đàn có liên quan đến thể này. Chương 2
và chương 3 của luận văn đã khám phá đối tượng này lần lượt trên hai bình diện
đặc điểm và giá trị của những cảm hứng chủ đạo và những phương tiện nghệ
thuật biểu hiện các nguồn cảm hứng đó. Cụ thể là:
Luận văn đã đi sâu vào khám phá các tác phẩm trên ba phương diện: cảm
hứng dựng chân dung, góc độ tiếp cận đối tượng và đặc điểm của cách tiếp cận
chân dung của các tác phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng để khơi
nguồn cảm hứng dựng chân dung lúc bấy giờ là các nhà văn, nhà thơ, nhà báo,
nhà hoạt động xã hội; là những con người có những sáng tác bằng chữ quốc
ngữ có ảnh hướng lớn đến sự phát triển của văn học nước nhà. Đó là những
con người mà nói như tác giả Vũ Ngọc Phan “đang trên đường vươn đến sự
toàn mĩ hoàn thiện”. Với tấm lòng trân trọng, ưu ái, cảm thông sâu sắc và với
tư cách tiếp cận là người trong cuộc, trong giới, hiểu sâu sắc hơn ai hết những
đồng vọng, biến cố lớn lao của thời đại, các nhà văn - người dựng chân dung
đã làm được công việc lớn lao cung cấp một nguồn tư liệu dồi dào và phong
phú cho những ai quan tâm đến nền văn học Việt Nam. Ngày nay, nguồn tư
liệu ấy vẫn còn nguyên giá trị, không chỉ góp phần nhận thức và tôn vinh đúng
giá trị thực của tác phẩm, tác giả mà còn giúp trả về chân thực, nguyên vẹn
những giá trị xác đáng của những tác phẩm đã từng một thời bị đánh giá sai
lệch. Từ những chân dung văn học cá nhân, các tác giả đã dựng lại cả một đời
sống văn học của một thời kỳ lịch sử và trên cái nền của đời sống văn học ấy,
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
94
người ta thấy hiện lên chân dung của những nhà văn lớn tên tuổi của nền văn
học nước nhà, trong đó có cả chính chân dung tác giả như một hình thức “đồng
chân dung”. Đó là cái nhìn của người trong cuộc với bao diễn biến vui buồn,
những băn khoăn trăn trở, những khát khao náo nức, những gửi gắm lớn lao.
Người ta thấy được những dòng tâm sự về mình, thấy được sự sẻ chia, đồng
cảm của hình bóng mình trong đó, nhìn thấy được cả về những điều đã và chưa
làm được, cũng như thấy cả một hồi ức về quá trình khám phá và nhận thức về
con người và xã hội. Song đó không còn là suy tư của tác giả nữa mà còn là
suy nghĩ của cả một lớp người viết thời đó. Qua đấy, người đọc được tái hiện
lại chân thực gương mặt của cả một thời đại lịch sử đã đi qua. Đó cũng chính là
những đặc điểm lớn mà thể chân dung văn học giai đoạn này đã làm được, gợi
mở tiền đề cho sự thành công rực rỡ của thể tài này trong giai đoạn về sau.
3. Luận văn đã hướng vào giải quyết là khám phá sự thể hiện nội dung của
các tác phẩm trên các phương diện nghệ thuật chính yếu: điểm nhìn trần thuật, sử
dụng kĩ thuật nhiếp ảnh, chọn lựa chi tiết điển hình, giọng điệu và ngôn ngữ. Kết
quả thu được của những lí giải từ chương 3 cho thấy: Các tác giả đã có sự thay đổi
linh hoạt điểm nhìn trần thuật. Đặc biệt với sự chi phối, qui định do đặc trưng của
thể tài, ngôi trần thuật thứ nhất số ít, Tôi - người dựng chân dung được sử dụng
với sự biến hoạt linh động từ điểm nhìn bên ngoài, để tường thuật khách quan,
chân thực cái hiện thực như vốn có vào điểm nhìn bên trong, để giãi bày hết
những xúc cảm sâu kín, vi diệu trong tâm hồn. Sự linh hoạt về điểm nhìn kéo theo
sự đa thanh, nhiều gam, nhiều sắc về giọng điệu, mà trội lên cơ bản vẫn là giọng
nghiêm cẩn, giọng trữ tình, thiết tha, giọng hài hước dí dỏm, và cả giọng ngậm
ngùi, buồn thương. Để có thể tạo nên sự đa thanh trong giọng điệu ấy, các tác giả
đã kì công trong gọt giũa ngôn từ, tạo nên sự phong phú và tinh tế trong việc sử
dụng ngôn ngữ khi tạo dựng các chân dung văn học. Những chân dung văn học
thực sự là một tác phẩm thành công, được người dựng chân dung Vũ Ngọc Phan,
Hoài Thanh - Hoài Chân, Nguyễn Tuân, Trương Tửu, Lan Khai, Ngô Tất Tố,
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
95
Nguyễn Triệu Luật, Thanh Châu... “chộp bắt” lấy cái nét hồn thần thái từ sự chọn
lọc khéo léo những chi tiết điển hình. Qua đây, các nhà văn - người được dựng
chân dung và cả các nhà văn - người dựng chân dung và gương mặt văn chương
của một thời đại đã được nhìn nhận, đánh giá lại với tất cả tính thời sự của nó.
Như vậy, nảy sinh và phát triển trong một giai đoạn có nhiều biến động
lớn lao của lịch sử, thể tài chân dung văn học nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung giai đoạn những năm 1930 - 1945 của đầu thế kỉ XX đã có nhiều
đóng góp lớn cho văn học nước nhà. Bức tranh toàn cảnh về thể tài này cho
thấy, do những chế định của lịch sử, chân dung văn học chỉ bắt đầu thực sự ra
đời và phát triển vào những thập niên 30 của thế kỉ XX trở đi. Thuộc về giai
đoạn sơ khởi, do vậy, thể tài chân dung văn học giai đoạn này mang những đặc
điểm cụ thể riêng.
Thứ nhất, đó là còn có sự phân định chưa rạch ròi hoàn toàn về mặt thể
loại, hay nói cách khác, vẫn tồn tại sự thâm nhập, khoảng mờ giữa các thể chân
dung, văn học sử, nghiên cứu và phê bình văn học. Điều này thể hiện ngay chính
trong tựa đề bên dưới công trình của Vũ Ngọc Phan (ông viết: Nhà văn hiện đại-
Phê bình văn học) và nỗi băn khoăn của Hoài Thanh trong lời cuối của Thi nhân
Việt Nam, rằng: “Vậy tôi viết gì đây và trong làng văn danh hiệu tôi là gì?” [36,
tr.390]. Bên cạnh đó, những bài viết mang hơi hướng rõ nét hơn, có các đặc
điểm tương tự thể tài chân dung văn học ngày nay, được in trong tạp chí Tao
đàn thì số lượng chưa lớn. Các bài viết mới dừng lại ở chỗ như những lát cắt
ngang qua số phận, cuộc đời, văn nghiệp của người được dựng chân dung.
Thứ hai, vì sự hạn chế trên, nên xét về phương diện nghệ thuật dựng
chân dung, những tác phẩm thuộc về giai đoạn này cách thể hiện vẫn chưa thật
phong phú. Ví dụ, do đặc điểm của thời đại và phần do chủ trương của người
viết, Thi nhân Việt Nam và Nhà văn hiện đại vẫn chủ yếu dựng chân dung với
cách tiếp cận tương đối giữ khoảng cách. Lấy sự gần gũi của người trong giới
để nhìn nhận nhưng về cơ bản vẫn ít nhiều có một “khoảng cách sử thi” trong
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
96
cách tiếp cận đối tượng. Chỉ đến với những bài viết trong Tao đàn thì cái cự li
giữa người dựng chân dung và đối tượng được dựng chân dung đã rút ngắn rất
nhiều, như yêu cầu thẩm mĩ cần thiết mà thể tài chân dung văn học cần có. Đây
cũng là sự mở đường cho lối tiếp cận “cự li gần” của những sáng tác chân dung
văn học nổi tiếng sau này.
Nếu đặt ra một cái nhìn đối sánh về thể tài chân dung văn học giữa hai
thời kì 1930 -1945 và sau thời kì Đổi mới 1986 đến nay, với nhu cầu nhận chân
lại các giá trị lịch sử, con người, thời đại và tác phẩm, cho thấy có một sự cách
biệt khá xa trên cả mặt số lượng và chất lượng giữa hai thời kì. Cùng với sự nở
rộ về số lượng tác phẩm, những thủ pháp được sử dụng trong các sáng tác
thuộc thể tài này cũng có dụng ý nghệ thuật hơn, những kĩ thuật như tái hiện
dòng hồi ức đảo chiều, sắp xếp không theo trình tự biến thiên của thời gian mà
theo qui luật ngẫu nhiên của trí nhớ, tinh vi trong đa thanh về giọng điệu… đã
được tận dụng triệt để trong một dung lượng dày dặn và có sự kết nối liên văn
bản qua những minh chứng rõ nét như hồi kí của Anh Thơ, Tô Hoài, Bùi Ngọc
Tấn, Hoài Anh, Nguyễn Quang Lập… Tuy nhiên, nếu công bằng nhìn nhận,
chúng ta phải khẳng định rằng thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945
đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, trong vai trò mở đường, tạo dựng nền
móng cho thể tài chân dung văn học Việt Nam hiện đại phát triển.
Đứng trên phương diện lí luận, từ những kết quả thu về trên, chúng tôi
nhận thấy chân dung văn học là thể tài còn đang hình thành, quan niệm về nó
còn khá co giãn ở từng người viết khác nhau, cho nên khó mà có ngay một sự
“tổng kết”. Về thể tài này, sự khái quát lí thuyết vẫn còn khá ít ỏi. Xung quanh
nó chắc chắn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng cái chính vẫn là ở thực tế
sáng tác, tức là những tác phẩm chân dung văn học đã và sẽ được viết ra. Đấy
mới là cơ sở cụ thể để bàn đến lí thuyết về thể tài này. Để cho đời sống văn học
sinh động và năng động hơn, thiết tưởng các tạp chí và sách văn học cần tăng
thêm các loại bài viết về nhà văn, về hoạt động xã hội và hoạt động nghề
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
97
nghiệp của họ. Có thể ở dạng chân dung, có thể ở dạng phác thảo, cũng có thể
ở dạng các bài viết thông tin thường nhật, phỏng vấn, trò chuyện với họ. Điều
đó sẽ giúp mở rộng hiểu biết của người đọc về văn học, về lao động của người
làm văn học. Bên cạnh đó, việc mở rộng các công trình nghiên cứu, khám phá
những giá trị của thể tài này qua từng giai đoạn phát triển là công việc thực sự
hữu ích và mới mẻ, hứa hẹn nhiều đóng góp thú vị. Và khi ấy, nói như tác giả
Vương Trí Nhàn - một người đã thu hái những hoa thơm quả ngọt với thể tài
này - có thể các loại bài viết không định nhập vào thể chân dung lại làm hình
thành ở người đọc những chân dung - chân dung đơn, chân dung nhóm, chân
dung cả giới những người làm văn học hôm qua, hôm nay và cả ngày mai.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
98
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài An (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
2. Phạm Thị Lan Anh (2008), Hồi kí của một số nhà văn Việt Nam hiện đại,
LVThs Ngữ văn, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn.
3. Lại Nguyên Ân - Ngô Thảo (1995), Nhà văn Việt Nam chân dung tự họa,
Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Vũ Bằng (2002), Mười chín chân dung nhà văn cùng thời, Nxb ĐHQG
Hà Nội.
5. Baxhtin, M. (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Bộ Văn hóa
Thông tin & thể thao - Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
6. Chân dung văn học (1983) (chọn lọc), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
7. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
8. Hà Minh Đức (1996), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Êrenbua.I (1960), Công việc nhà văn, Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Xuân Giang (2003), Nghệ thuật dựng chân dung văn học của
Vương Trí Nhàn, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Vinh.
11. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Tô Hoài (1960), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.
13. Tô Hoài (1986), Những gương mặt Việt Nam, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
14. Tô Hoài (1997), Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
15. Trương Thị Huyền (2007), Đặc trưng của thể loại hồi kí Tô Hoài, LVThs,
ĐHSP Hà Nội.
16. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
17. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
99
18. Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại (Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX
đến năm 1945) (2010), Nxb Đại học Thái Nguyên.
19. Phan Trọng Luận, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà,
La Khắc Hòa, Thanh Thế Thái Bình (2002), Lí luận văn học , Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
20. Hữu Mai (1986), Bốn mươi năm văn học, Nxb Tác phẩm mới Hà Nội.
21. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Chân dung văn học, Nxb Thuận Hóa.
22. Nguyễn Lương Ngọc (2001), Nhớ bạn, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
23. Vương Trí Nhàn (2000) Chân dung văn học (Chọn lọc), Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
24. Vương Trí Nhàn (2001), Những kiếp hoa dại- tập chân dung và phiếm luận
văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
25. Vương Trí Nhàn (2002), Cây bút để đời- tập chân dung văn học, Nxb Trẻ.
26. Những sự kiện văn học Việt Nam (Từ 1865 đến 1945), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 2012.
27. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tập 1 và 2), Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
28. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
29. Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2000.
30. Pôxpêlôp, G.N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD-ĐT,
Vụ Gd, Hà Nội.
32. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Bùi Ngọc Tấn (2005), Viết về bạn bè, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
34. Bùi Ngọc Tấn (2005), Rừng xưa xanh lá, Một thời để mất, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
35. Tản Đà trong lòng thời đại, Nxb Hội nhà văn Hà Nội, 1997.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
100
36. Hoài Thanh - Hoài Chân (2008), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn hóa Sài Gòn,
Tp. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn Ngọc Thiện - Lữ Huy Nguyên (st) (1998), Tao đàn 1939 sưu tập
trọn bộ, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Thiếu Sơn Toàn tập, Nxb Văn học (Tập 1).
39. Lý Hoài Thu (2008), “Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới”, Tạp chí nghiên cứu
lí luận, phê bình và lịch sử văn học, Số 10, Hà Nội.
40. Đoàn Nhã Văn (2007), Phác thảo mười lăm chân dung văn học, Nxb Văn học,
Hà Nội.
Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/
101