ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH

THỂ CHÂN DUNG VĂN HỌC TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ TUẤN ANH

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

THÁI NGUYÊN - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những s

.

Tôi xin cam đoan m

.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

i

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn và sự kính trọng tới

Lãnh đạo trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các Thầy Cô giáo đã

tham gia giảng dạy và cung cấp những kiến thức cơ bản, sâu sắc, tạo điều kiện giúp

đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu rèn luyện tại nhà trường.

Đặc biệt với tấm lòng thành kính tác giả xin được gửi lời cảm ơn sâu

sắc nhất tới PGS.TS Vũ Tuấn Anh, người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học

và tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn

thành luận văn.

Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám Hiệu trường Cao

đẳng Công nghiệp Thái Nguyên đã tạo điều kiện về thời gian, vật chất, tinh

thần cho tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa học. Cảm ơn

bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã tận tình giúp đỡ động viên tác giả hoàn thành

khóa học và luận văn này.

Do điều kiện về thời gian và năng lực bản thân còn nhiều hạn chế nên

luận văn này còn có những khiếm khuyết, tác giả mong nhận được sự góp ý

chân thành của Thầy Cô và đồng nghiệp.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii

MỤC LỤC ......................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

2.1. Về thể tài chân dung văn học ................................................................... 2

2.2. Về các công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học .................... 6

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7

3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 7

3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 7

4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7

5. Mục đích nghiên cứu …………………………………………...………….. 7

6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 7

7. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 8

NỘI DUNG CHÍNH ............................................................................................ 9

Chƣơng 1. THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 -

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ............................................ 9

1.1. Một số vấn đề lí thuyết về thể tài chân dung văn học ..................................... 9

1.1.1. Giới thuyết khái niệm .............................................................................. 9

1.1.2. Mối quan hệ giữa thể tài chân dung văn học với thể loại kí và phê bình

văn học ................................................................................................................. 11

1.1.3. Các đặc điểm của thể tài chân dung văn học ....................................... 16

1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học ............. 22

1.2.1. Cơ sở tiền đề cho sự ra đời của thể tài chân dung văn học ................. 22

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

iii

1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học trong

văn học Việt Nam nói chung .......................................................................... 25

1.3. Thể tài chân dung văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - vị trí và

những đóng góp trong con đường hình thành và phát triển .............................. 27

Chƣơng 2. ĐẶC ĐIỂM THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN

1930 - 1945 TỪ BÌNH DIỆN NỘI DUNG ........................................................ 34

2.1. Những đặc điểm cơ bản ................................................................................ 34

2.1.1. Cảm hứng dựng chân dung .................................................................... 34

2.1.2. Đối tượng dựng chân dung: những nhà văn đương thời .......................... 38

2.1.3. Cung cấp tư liệu ..................................................................................... 41

2.1.4. Nhận thức và tôn vinh giá trị đích thực của tác phẩm, tác giả .................. 47

2.2. Góc độ tiếp cận đối tượng ............................................................................. 55

2.2.1. Tiếp cận với tư cách người trong cuộc, trong giới ................................... 55

2.2.2. Tiếp cận qua nhiều hình thức ................................................................. 59

2.3. Đặc điểm về cách dựng chân dung trong văn học giai đoạn 1930 - 1945 ....... 62

2.3.1. Cách tiếp cận gần gũi, thân ái mà trân trọng ................................... 62

2.3.2. Đặt cá nhân trong bối cảnh chung của văn học ....................................... 66

2.3.3. Sự chia sẻ, cảm thông của những người đồng nghiệp, đồng cảnh ...... 71

Chương 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 - TỪ BÌNH DIỆN NGHỆ THUẬT ............................... 76

3.1. Từ lát cắt hình dung bên ngoài đến tính cách của người văn, đời văn ....... 76

3.1.1. Sử dụng nghệ thuật thay đổi điểm nhìn trần thuật và kĩ thuật nhiếp ảnh .. 76

3.1.2. Sự lựa chọn tinh tế các chi tiết điển hình ............................................ 82

3.1.3. Tạo dựng không khí và bối cảnh ......................................................... 86

3.2. Đa thanh về giọng điệu ............................................................................... 88

3.3. Tính hình tượng, sự tinh tế và phong phú trong ngôn ngữ ......................... 90

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 93

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 99

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nghiên cứu văn học theo thể loại là một nhu cầu, một xu thế cấp

thiết của giới nghiên cứu văn học hiện nay. Các thể loại của văn học Việt Nam

giai đoạn 1930 - 1945 cả về số lượng và chất lượng đã có những đóng góp

quan trọng vào sự hiện đại hóa của văn học dân tộc. Lịch sử văn học giai đoạn

này đã ghi nhận sự hình thành và phát triển của thể chân dung văn học với tư

cách là một thể tài mới trong toàn bộ hệ thống thể loại văn học hiện đại. Giáo

sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng “Đây là thời kì, trong giới cầm bút, có sự thức

tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân. Mỗi người viết đều muốn có những tìm tòi riêng

về tư tưởng và nghệ thuật, đều muốn là một tiếng nói riêng. Vì thế, trong đời

sống văn học, có sự xuất hiện hàng loạt cá tính, phong cách độc đáo”. Trên

chặng đường phát triển 15 năm, thể chân dung văn học đã để lại những thành

tựu bước đầu đặc sắc. Với tất cả sự đón nhận và đánh giá rất tích cực của giới

nghiên cứu cũng như của độc giả, đã có đủ căn cứ thuyết phục để cho rằng thể

tài chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 có thể trở

thành một đối tượng nghiên cứu.

1.2. Văn học phản ánh cuộc sống, các văn nghệ sĩ là nhân vật của cuộc

sống nên họ là đối tượng khách quan cần được văn học phản ánh, bởi đằng

sau những trang viết của họ là tính cách, số phận, tài năng, buồn vui của một

con người và của cả một thời kỳ văn học. Đó chính là mảng hiện thực mà

nhiều nhà văn khai thác để dựng lên chân dung các nhà văn. Khi nghiên cứu

văn học, nghiên cứu tác giả, tác phẩm, dựa vào những tập chân dung người

đọc sẽ được cung cấp rất nhiều tư liệu về tiểu sử, cuộc đời không chỉ của

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

1

một con người bình thường mà còn là một nhà văn nổi tiếng, chính qua bức

chân dung ấy người ta có thể thấy được văn học của cả một thời đại.

1.3. Chân dung văn học cho đến nay vẫn là thể tài đang tiếp tục phát

triển. Bên cạnh đó, quan niệm về thể tài này còn có biên độ co giãn khác nhau

ở từng người viết, do vậy, vấn đề lí luận đưa ra những “tổng kết” mang tính

khái quát về lí thuyết vẫn còn khá ít ỏi và nhiều ý kiến khác nhau. Đứng trên

phương diện thực tiễn sáng tác, chúng ta nhận thấy dựng thành công chân dung

văn học về một tác giả - vốn là một đơn vị đích thực của văn học thành văn, là

một phạm trù bền vững trong phê bình và nghiên cứu văn học - không hề đơn

giản. “Đấy vừa là kết quả của việc “đọc” sáng tác của người ấy, lại vừa là kết

quả của việc “đọc” trực tiếp vào cuộc đời và sự nghiệp, quan niệm và hoạt

động của bản thân người ấy. Bản thân việc dựng một chân dung, về thực chất

cũng bao hàm sự lí giải về một nghệ sĩ, sự đánh giá vị trí và vai trò của con

người đó trong một nền văn nghệ” (Vương Trí Nhàn). Việc xếp và “dán nhãn”

thể tài chân dung văn học cho những tác phẩm trong thực tiễn sáng tác hiện

vẫn là vấn đề đòi hỏi sự “nghiêm nhặt” và thận trọng để đảm bảo sự chính xác

trong việc nhận dạng và phân loại. Vì thế, việc lựa chọn nghiên cứu những đặc

điểm của thể tài chân dung văn học trong văn học Việt Nam trong một giai

đoạn nhất định là cần thiết, giúp chúng ta định hình rõ nét hơn về thể tài này

trên cả phương diện lí thuyết và thực tiễn.

Một cái nhìn tổng quát về lịch sử nghiên cứu cho thấy mặc dù chúng ta đã

có những công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học trong văn học Việt

Nam dưới nhiều góc nhìn khác nhau nhưng chưa có công trình chuyên biệt đi sâu

vào thể tài này ở giai đoạn 1930 - 1945 - một thời kỳ đánh dấu sự hình thành và

phát triển đỉnh cao của thể tài này. Chính vì vậy, luận văn lựa chọn đề tài nghiên

cứu “Thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945”

với mong muốn có thể đóng góp thêm những khám phá hữu ích cho việc dựng lại

sự hình thành, phát triển và những đặc điểm riêng của thể tài này.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Về thể tài chân dung văn học

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

2

Chân dung văn học là một thể tài khá mới mẻ trong văn học dân tộc.

Trước đây trong văn chương Việt chưa thấy xuất hiện thể tài này do rất nhiều lí

do xuất phát từ đặc điểm ý thức xã hội và văn chương. Đến giai đoạn 1930 -

1945 thể tài chân dung văn học đã xuất hiện, phát triển và có được vị trí mới,

dành được sự quan tâm đặc biệt của cả người sáng tác lẫn người đọc. Viết chân

dung được xem là một thể loại mới, nên trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi

có phân biệt hai khái niệm thể tài và thể loại . Trong nhiều tài liệu lí luận văn

học thì đây chỉ là hai cách dịch của cùng một thuật ngữ có gốc tiếng Pháp là

genre littéraire.

Cùng thuộc phạm trù thể trong sự phân biệt với phạm trù loại, khái niệm

thể loại thường được dùng để chỉ các hình thức cụ thể của sáng tác như tiểu

thuyết, thơ, truyện ngắn, truyện vừa. Còn khái niệm thể tài thích hợp với việc

chỉ định các sáng tác có những điểm chung về nội dung, đề tài (tất nhiên nội

dung, đề tài đó sẽ quy định một hình thức có tính đặc thù). Ở đây các tác phẩm

thuộc thể tài chân dung văn học gần như đều hướng đến việc dựng chân dung

của một nhà văn gắn liền với việc tìm hiểu một thời đại văn chương.

Trên thế giới, chúng ta thấy có những tác giả nổi tiếng viết chân dung

văn học như M.Gorki viết về L.Tolstoi, Chekhov, Essenin; S.Zweig viết về

Balzac, Dickens, Byron; Ehrenburg, Pautovski viết về nhiều nhà văn và nghệ sĩ

cùng thời... Những tác phẩm của các tác giả này đã trở thành mẫu mực của thể

tài chân dung văn học, trên cả bình diện nội dung và nghệ thuật. Ở Việt Nam

chúng ta cũng đã có nhiều tác giả viết chân dung văn học như Nguyễn Đình

Thi viết về Nam Cao và Trần Đăng; Nguyễn Tuân viết về Nguyễn Huy Tưởng

và Nguyên Hồng; Nguyễn Đức Bính viết về Hồ Xuân Hương và Ngô Tất Tố.

Ngoài ra, Vũ Ngọc Phan, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Tô Hoài,… cũng là những

tên tuổi đánh dấu trong việc xây dựng thể tài chân dung văn học ở nước ta.

Cùng với sự phát triển của thời gian, thể chân dung văn học ngày càng được

chú ý. Trong văn học Việt Nam hiện đại và đương đại đã có thể tìm thấy những

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

3

tác phẩm đặc sắc của thể tài này như “Chân dung văn học” của Hoài Anh,

“Bạn văn” của Nguyễn Quang Lập, “Viết về bè bạn” của Bùi Ngọc Tấn ... Bên

cạnh những tác phẩm trên, chúng ta còn có thể kể thêm những tác phẩm rất giá

trị tiêu biểu cho thể tài chân dung văn học. Có thể kể: Vương Trí Nhàn với sức

viết dồi dào; nghệ thuật viết chân dung văn học của ông thể hiện qua hàng loạt

tập sách như Những kiếp hoa dại (NXB Hội nhà văn, 1993), Cây bút, đời

người (NXB Trẻ, 2002), Ngoài trời lại có trời (NXB Hội nhà văn, 2003), Có

những nhà văn như thế (NXB Hội nhà văn, 2006), Cánh bướm và đóa hướng

dương (NXB Phụ nữ, 2006).

Nguyễn Khắc Phê với ý thức khắc họa chân dung khá độc đáo trong cuốn

Hiện thực và sáng tạo tác phẩm văn nghệ (NXB Hội nhà văn, 2006), giúp chúng

ta được mở rộng tầm hiểu biết, tôn kính về những con người của xứ Huế mà

cuộc đời và sự nghiệp khá lặng thầm như họa sĩ Lê Văn Miến, nữ sĩ Mai Am,

nữ sĩ Cao Ngọc Anh, Hải Triều; nhà thơ đầy chất Huế Nam Trân, Hải Bằng.

Văn Giá với Đời sống và đời viết (NXB Hội nhà văn, 2005) được viết

bằng một phong cách riêng, thể hiện sự hài hòa, hô ứng phê bình tác phẩm với

phác thảo chân dung tác giả trong chín bài dựng chân dung các tác giả Nguyễn

Nhược Pháp, Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Thâm Tâm, Hoài Thanh, Vũ

Bằng, Thanh Châu, Văn Cao. Văn Giá còn viết chung với Nguyễn Đăng Điệp,

Lê Quang Hưng, Nguyễn Phượng, Chu Văn Sơn trong cuốn Chân dung các

nhân vật Việt Nam hiện đại (2 tập, NXB Giáo dục, 2005), chủ yếu dựng chân

dung các nhà thơ, nhà văn có tác phẩm trong nhà trường phổ thông, những

người có ảnh hưởng lớn đến tri thức văn học sử Việt Nam hiện đại. Ở cuốn

sách này, chúng ta nhận thấy một cách viết chân dung khoa học, hệ thống, có

sự kết hợp giữa văn phong nghị luận và văn phong sáng tác, vừa cho người đọc

những tri thức cơ bản, vừa tạo thêm nhiều phát hiện mới mẻ, sâu sắc và giàu

cảm xúc thẩm mĩ.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

4

Khác với cách viết hệ thống của Chân dung các nhân vật Việt Nam hiện

đại, cuốn Văn khoa chân dung kí (NXB Hội nhà văn, 2006) của Hữu Đạt lại

viết dưới dạng chương hồi, không câu nệ thứ tự về thế hệ trước sau mà theo

cảm hứng văn chương của người viết. Cuốn sách dựng lại chân dung các giáo

sư Khoa Ngữ văn vẻ vang một thời của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay

là Trường ĐHKHXH&NV (ĐHQG Hà Nội). Chính vì thế, sự hấp dẫn của cuốn

sách chính là ở các sự kiện mang tính lịch sử được phản ánh qua thời gian dưới

các góc nhìn đa chiều đối với mỗi tính cách và mỗi con người. Hòa vào chiều

sâu liên tưởng khám phá đó, có thể kể thêm Dấu tích văn nhân (NXB Đà

Nẵng, 2001) của PGS. TS. Nguyễn Phong Nam như một cách cảm nhận chân

dung các văn nhân qua những dấu tích mà họ tạc vào những trang tác phẩm.

Trong mười tám bài viết, tác giả Nguyễn Phong Nam đã dựng chân dung các

nhà văn, nhà thơ bằng chính những tác phẩm của họ.

Gần đây nhất, những người quan tâm đến thể chân dung văn học đón

nhận cuốn Chân dung văn học Việt Nam (NXB Hội nhà văn, 2010) của

Nguyên An. Đọc cuốn sách này, ta cảm nhận được sự tâm huyết của tác giả

khi ông bỏ rất nhiều công sức nghiên cứu để trả lời cho được câu hỏi thế nào

là chân dung văn học và đưa ra một nhận định của riêng mình về thể loại

này. Nguyên An đã phác họa chân dung gần hai mươi nhà văn, nhà thơ: Tô

Hoài, Huy Cận, Vũ Cao, Nguyễn Duy, Thúy Toàn, Hữu Mai, Phùng Quán…

Cuốn Nhà văn độc hành độc bộ của Vũ Từ Trang được NXB Phụ nữ ấn

hành (quý II năm 2013), viết về những nhà văn, nhà thơ lớp đàn anh đã

thành danh đáng quí trọng như Yến Lan, Quang Dũng, Nguyễn Bản, Lê Bầu,

Nguyễn Xuân Khánh, Phan Xuân Hạt, Thái Giang, Thanh Tùng, Hoài Anh;

những nhà văn bạn bè cùng trang lứa như Tô Ngọc Hiến, Lưu Quang Vũ,

Nghiêm Đa Văn, Hoàng Việt Hằng; những người viết có số phận không mấy

an lành như Nguyễn Tuân, Phương Thúy, Nguyễn Ngọc Ly, Lương Vĩnh…

và cả về những người bình thường nhưng vì đam mê văn chương mà dấn

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

5

thân như Nguyễn Hữu Cung - một người sửa mo-rát của một nhà xuất bản;

như Nguyễn Thị Hoài Thanh. Giống như phần đông những người viết chân

dung, Vũ Từ Trang cũng đã giới thiệu giúp bạn đọc hiểu thêm về nhân vật,

những con đường khác nhau đến với văn chương cùng những thành tựu dù ít

dù nhiều nơi họ.

Có thể nói rằng, phần lớn những tập sách này đã dựng lên chân dung

nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng trong nước cũng như trên thế giới trong cuộc

sống đời thường và đời sống nghệ thuật. Đặc sắc nổi bật của các tập sách này

chính là dựng chân dung khá đầy đặn về các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng được

nhiều người biết đến. Qua các tác phẩm chân dung văn học đương đại ngay từ

khi xuất hiện người ta đã thấy được cách dựng chân dung nhà văn qua nhiều

cách tiếp cận, có sự kết hợp linh hoạt, đa dạng các sắc thái giọng điệu và sự

phong phú về từ ngữ. Nhờ đó các chân dung chân thực hơn và như đang bước

ra khỏi thế giới tác phẩm để đến với độc giả.

2.2. Về các công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học

Điểm lại những công trình nghiên cứu về thể tài chân dung văn học,

chúng tôi thấy rằng đến nay đã có một số luận văn, khóa luận chú ý đến thể

tài này như: Luận văn Thạc sĩ Mảng chân dung văn học trong sáng tác của

Tô Hoài (Nguyễn Văn Quang - 1996, Đại học Vinh); các khóa luận tốt

nghiệp Đại học như Nghệ thuật dựng chân dung văn học của Vương Trí

Nhàn (Nguyễn Thị Xuân Giang - 2003, Đại học Vinh), Đóng góp của

Nguyễn Tuân đối với lí luận về tiểu thuyết và thể tài chân dung văn học (Bùi

Hà Phương - 2007, Đại học Vinh) ...

Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đều xoay quanh một số vấn

đề cơ bản như khái niệm thể tài chân dung văn học, đặc điểm, khía cạnh nổi bật

của thể tài chân dung văn học cũng như phong cách của người viết chân dung.

Những công trình nghiên cứu đó đã có những đóng góp đáng ghi nhận.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

6

Tuy nhiên, như trên đã giới thiệu, cho đến nay chưa có một công trình

nào nghiên cứu tập trung về thể chân dung văn học thời kỳ 1930 - 1945 với tư

cách là một đối tượng nghiên cứu. Vì vậy chúng tôi đã tìm đến thể tài chân

dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 với mong muốn

đóng góp vào việc nhận diện đặc trưng thể tài chân dung văn học cũng như

những nét đặc sắc của thể tài này trong giai đoạn 1930 - 1945.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn chúng tôi là: Các đặc điểm của thể

tài chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trên hai

bình diện nội dung và nghệ thuật.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi lựa chọn phạm vi nghiên cứu là

các bài chân dung văn học được in trong các tập sách, trên báo chí của giai

đoạn 1930 - 1945.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:

- Phương pháp thống kê: thống kê một số các dữ liệu cần thiết trong quá

trình nghiên cứu.

- Phương pháp phân tích: chúng tôi sử dụng phương pháp này để có thể

đi sâu nhận diện những giá trị của sáng tác.

- Phương pháp cấu trúc hệ thống.

- Phương pháp so sánh - đối chiếu.

5. Mục đích nghiên cứu

Phát hiện, nhận diện để chỉ ra sự hình thành và phát triển của thể tài chân

dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 trên các phương

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

7

diện nội dung cũng như nghệ thuật: cảm hứng dựng chân dung, sự lựa chọn đối

tượng, các phương diện hình thức như sự phối xen các giọng điệu, tạo dựng

không khí, bối cảnh.

6. Đóng góp của luận văn

Trên cơ sở nghiên cứu, khẳng định những nét đặc sắc và ý nghĩa nhiều

mặt của thể tài chân dung văn học trong toàn cảnh của văn học Việt Nam giai

đoạn 1930 - 1945.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn

được cấu trúc làm 3 chương:

Chƣơng 1. Thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 - Quá

trình hình thành và phát triển

Chƣơng 2. Đặc điểm thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 -

từ bình diện nội dung

Chƣơng 3. Đặc điểm của thể tài chân dung văn học Việt Nam giai

đoạn 1930 - 1945 - từ bình diện nghệ thuật

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

8

NỘI DUNG CHÍNH

Chƣơng 1.

THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

1.1. Một số vấn đề lí thuyết về thể tài chân dung văn học

1.1.1. Giới thuyết khái niệm

Chân dung văn học là một thể tài ra đời tương đối muộn. Sự xuất hiện và

phát triển của chân dung văn học đánh dấu một ý nghĩa quan trọng trong đời

sống văn học nói chung và trong lịch sử phát triển của phê bình văn học nói

riêng, thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác.

Đây là một thể tài chỉ ra đời trên một cơ sở ý thức xã hội nhất định, khi

lịch sử chuyển sang thời kì hiện đại - thời kì mà việc viết văn, sáng tạo nghệ

thuật trở thành một loại hình lao động nghề nghiệp, nghề văn được coi trọng và

trở thành một loại hình lao động nghệ thuật được chuyên môn hóa. Từ đây văn

nghệ sỹ trở thành một tầng lớp có vị trí nhất định trong xã hội và trở thành đối

tượng miêu tả của văn học nghệ thuật, và theo sự phát triển theo thời gian, về

sau, đối tượng của chân dung văn học càng được mở rộng biên độ, còn hướng

đến việc phác thảo lại những con người tiêu biểu trong các lĩnh vực khác của

xã hội và cả những sự kiện, thời kì văn học.

Chân dung văn học là thể loại văn học đặc thù có nhiệm vụ tương tự như

thể loại chân dung trong hội họa và điêu khắc, miêu tả diện mạo của một con

người cụ thể, có thật, sao cho truyền được thần thái sống động của người đó, phát

hiện đặc điểm riêng cá nhân, độc đáo, không lặp lại của một nhân cách với thế

giới tinh thần của nó. Khác với hồi tưởng, ghi chép về một con người cụ thể, với

tư cách là một thể loại văn học, chân dung văn học miêu tả con người cụ thể với

một quan niệm xác định về nhân cách và tài năng văn chương.

Đứng từ góc độ thể loại, chân dung văn học được xem là một hình thức

đứng giữa ba thể loại: ký - truyện - phê bình văn học. Sở dĩ như thế là bởi chân

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

9

dung văn học được xây dựng trên những chất liệu lấy từ chính cuộc đời thực

của các đối tượng nhưng lại không hoàn toàn trùng khít, đồng nhất với con

người tiểu sử, bởi nó có xu hướng được „tiểu thuyết hóa”, có phần pha trộn với

truyện kể, suy tưởng và bình luận.

Chúng ta còn nhận thấy thể chân dung văn học được tồn tại ở dưới nhiều

dạng thức biến thể: có tác phẩm thiên về phê bình sáng tác, có tác phẩm như

một hồ sơ lí lịch, tiểu sử nhân vật; có bức chân dung là những kỉ niệm một

thời, ấn tượng sống động về những lần gặp gỡ; có chân dung như một nhật ký

cá nhân; có những chân dung là tổng hòa của những cái nói trên. Vì vậy,

nghiên cứu chân dung văn học yêu cầu cần có sự phân biệt với thể loại tiểu

luận nghiên cứu hay các bài báo, bài viết tưởng niệm có tính chất thời sự.

Chính điều này đặt ra đòi hỏi người dựng chân dung không dừng lại ở việc

cung cấp tư liệu, mà còn phải tạo nên những thần thái độc đáo riêng cho bài

viết của mình. Đối với chân dung mà tác giả là những nhà văn đầy tài năng như

Nguyễn Tuân, Tô Hoài, … thì giá trị không chỉ dừng lại ở đó, mà còn ở vẻ đẹp

nghệ thuật. Nghĩa là trên cơ sở tư liệu sống, người viết phải xây dựng được

những chân dung nghệ thuật giàu chất thẩm mĩ, đạt được phẩm chất nghệ thuật

cao và gây ấn tượng sâu sắc đối với độc giả. Những bài viết chân dung văn học

không chỉ đơn thuần là những bài giới thiệu tiểu sử hay những tiểu luận khoa

học viết về sự nghiệp của một tác giả nào đó mà quan trọng hơn phải bắt được

cái thần của văn nghiệp của người được tạo chân dung, phác họa nên được cái

hồn cốt của chân dung ấy. Chúng ta có thể bắt gặp những giá trị nhận thức giàu

chất thẩm mĩ này ở những tác phẩm chân dung văn học của Nguyễn Tuân, Tô

Hoài, Thạch Lam, Vũ Bằng, Ma Văn Kháng, Xuân Diệu ...

Như vậy, xét về mặt thể loại, chân dung văn học được xem là một thể tài

khá co giãn, không có đường biên ranh giới rạch ròi, dễ lẫn vào các thể loại

khác. Chính sự giao thoa giữa các thể loại khác nhau này đã tạo nên sự độc đáo

riêng của chân dung văn học.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

10

Xét về mặt giá trị, chân dung văn học được đánh giá dựa trên những thang

độ xây dựng từ các tiêu chí, đó là: sự đóng góp của tác giả trong việc cung cấp

những tư liệu quí báu, đặc sắc về chân dung đó; tính sinh động, hấp dẫn của việc

xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật và sau nữa là những giá trị thẩm mĩ,

nhận thức, giáo dục tác động sâu sắc đến người đọc ở mức độ nào.

Tóm lại, định nghĩa về chân dung văn học, chúng ta chấp nhận quan

niệm xem chân dung văn học là những sáng tác dựng lại chân dung của một

con người gắn liền với tác phẩm của họ, rộng hơn, gắn liền với một thời kì văn

học. Giá trị của chân dung văn học sẽ nằm cốt lõi ở sự thay đổi của người đọc

sau khi đọc xong văn bản, mà đúng như những nhà nghiên cứu nước ngoài đã

từng đánh giá rất cao vị trí của thể tài này. Đó là, một tác phẩm chân dung văn

học có thể “thay đổi cả cách nhìn về thế giới của cả một thế giới”, đúng như

câu hỏi mà Barbara Doyen đã đặt ra trong bài viết Hồi ký là gì? Điều gì tạo nên

sự khác biệt giữa hồi ký với tự truyện hoặc tiểu sử?(What is a memoir? What

makes a memoir defferent from an autobiography or biography?).

1.1.2. Mối quan hệ giữa thể tài chân dung văn học với thể loại kí và phê bình

văn học

- Chân dung văn học là một thể văn sáng tác thuộc loại kí văn học.

Định nghĩa về chân dung văn học, Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá

Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên) cho rằng: “Thể loại văn

học đặc thù có nhiệm vụ tương tự như thể loại chân dung trong hội họa và

điêu khắc, miêu tả diện mạo của một con người cụ thể, có thật, sao cho

truyền được thần thái sống động của người đó, phát hiện đặc điểm riêng cá

nhân, độc đáo, không lặp lại của một nhân cách với thế giới tinh thần của

nó. Chân dung văn học miêu tả con người cụ thể với một quan niệm xác

định về nhân cách. Phương pháp của chân dung văn học là phương pháp

của thể kí. Nó không thiên về cốt truyện. Nhà văn phát huy sở trường về

quan sát, chọn lựa chi tiết, cử chỉ ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế hồi

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

11

tưởng để dựng lại bộ mặt tinh thần của con người sao cho truyền được thần

thái sống động của con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ hoặc các nhà hoạt

động nổi tiếng” [11, tr.52].

Tô Hoài một nhà văn tiêu biểu của thể tài này cũng nhận định như

sau: “Chân dung văn học là việc dựng lại những bóng dáng thần thái văn

nhân, những câu nói cái cười, bước đi dáng đứng của họ mà mình từng thấy

từng biết” [14, tr.72].

Như vậy, bao quát lại, chân dung văn học là một thể loại văn học đặc thù

thuộc thể ký văn học nhằm miêu tả con người một cách cụ thể, có thật, tiêu

biểu, thông qua việc dựng lên một cách sinh động diện mạo, phẩm chất, tinh

thần của đối tượng. Người viết dựng lên diện mạo chân dung văn học về những

người có quan hệ trực tiếp thân mật của họ trong giới, trong nghề hoặc trong

những mối quan hệ quen biết.

Nhìn chung, người viết chân dung văn học phải phát huy cao độ năng

lực quan sát, vốn hiểu biết của mình về những tình cảm, cảm xúc mạnh mẽ về

đối tượng sử dụng nghệ thuật trong sáng tạo hình tượng nhân vật theo yêu cầu

thể ký văn học để đạt đến độ đặc sắc trong chân dung được tạo hình. Nếu

không có năng lực quan sát, không có kinh nghiệm sống với vốn hiểu biết

phong phú, không có những tình cảm, xúc cảm chân chính, mạnh mẽ và cao

đẹp thì không thể tạo dựng được thể chân dung văn học.

Với tác phẩm chân dung văn học, hình tượng nghệ thuật luôn được soi

sáng bởi một cái nhìn chủ quan của tác giả. Có lúc tác giả còn bộc lộ quan

điểm, tình cảm của mình. Nếu đem so sánh giữa chân dung văn học do các nhà

phê bình viết với chân dung văn học do các nhà văn viết thì ta thấy ít nhiều có

sự khác nhau. Đọc những chân dung do các nhà phê bình viết, ta thấy họ

thường có xu hướng thiên về phê bình và đánh giá, nhưng đối với những nhà

văn dựng chân dung, họ thường xem đây như là một hoạt động sáng tạo.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

12

- Chân dung văn học là một dạng đặc biệt của hoạt động phê bình văn học.

Ngoài ra, cũng phải thấy thêm rằng, chân dung văn học là một dạng đặc

biệt của hoạt động phê bình văn học. Căn cứ vào đặc trưng trên về đối tượng,

về thể loại và căn cứ vào thực tiễn sáng tác từ những năm 1930 của thế kỉ XX

trở lại đây, chúng ta thấy các nhà văn viết chân dung thường dựa vào hai cách

tiếp cận để dựng chân dung.

Thứ nhất là từ những chi tiết lấy từ đời sống của nhà văn, người dựng

chân dung làm hiện lên thế giới tinh thần và hình tượng con người nhà văn. Có

thể thấy rõ điều này trong những trang viết tiêu biểu như của Nguyễn Tuân viết

về Tú Xương, Ngô Tất Tố; Xuân Diệu viết về Hồ Xuân Hương; Nguyễn Đức

Bính viết về Hồ Xuân Hương và Ngô Tất Tố; Hoài Thanh - Hoài Chân viết về

bốn mươi sáu gương mặt xuất sắc của phong trào Thơ mới.

Thứ hai là đi từ những chi tiết của đời sống nhà văn mà làm sáng tỏ thế

giới tinh thần của họ trong tác phẩm để thấy “văn với người là một” (Nguyễn

Đăng Mạnh). Thông thường người dựng chân dung phải có khả năng thẩm văn

và tổng hợp được từ văn cái thần thái chung của nghệ thuật, hiểu được cả tư

tưởng phong cách mà nhà văn - người được tác giả dựng chân dung. Tiêu biểu

có những trang viết như của Nguyễn Tuân viết về Tản Đà, Nguyên Hồng;

Nguyễn Đăng Mạnh viết về Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu;

Vũ Bằng viết về Nguyễn Tuân, Tản Đà; Nam Cao viết về Nguyên Hồng …

Do đó, có thể nói, thể loại chân dung văn học là một dạng đặc biệt của

phê bình văn học. Tính chất phê bình văn học được xây dựng theo cách tiếp

cận thứ nhất tất nhiên không cần bàn nhiều. Tính chất phê bình văn học của

chân dung văn học được tiếp cận theo cách thứ hai không thể hiện thật rõ,

nhưng nhất thiết phải có để tránh lối kể chuyện dễ dãi.

Các tác phẩm thuộc thể loại chân dung có thể thiên về phê bình chân

dung, có thể là như một cuốn tiểu sử nhân vật, hay có thể lại như một cuộc dạo

chơi thơ thẩn trong tâm trí theo dòng hồi tưởng để tìm lại những gặp gỡ cũ. Dù

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

13

ở bất kì dạng nào, chúng ta cũng cảm nhận được sự cung cấp về mặt tư liệu

thật đáng quý. Tuy nhiên, giá trị của chân dung văn học không dừng lại ở việc

cung cấp tư liệu mà cái hay, cái độc đáo cốt nằm ở chỗ dựng chân dung sống

động của nhà văn, giúp chúng ta từ con người mà hiểu được văn, đúng như

Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Cái gốc gác, cốt lõi của nó, hay có thể gọi là

cái “thần” của văn” [21]. Đồng thời, cũng là hiểu được tư tưởng của nhà văn

ấy. Chẳng hạn như chân dung của Tản Đà hiện lên trong những hồi tưởng của

Nguyễn Tuân:

“Người ngày xưa… lôi - thôi lắm.

Tôi hãy bắt đầu bằng cái lôi - thôi của Nguyễn - Khắc - Hiếu đi tắm ở bể

Sầm Sơn. Thứ đến là cái lôi - thôi của Tản Đà khi cuốc cả nền nhà người ta lên

để làm vườn trồng rau thơm. Rồi thứ nữa là đem ra giới thiệu một ông Tản Đà

múa kiếm!

Gánh văn lên bán Chợ Giời; gửi thư lên thiên đình cầu hôn; xuống bể

Sầm Sơn bơi đứng và ăn hải sản sống; lên rừng tịch cốc; uống rượu sâm banh

với nem chua trên toa xe lửa tốc hành; đi thăm mả vua Tây Sơn với cái lối khấn

ngang tàng: “Bắc kỳ Sơn tây nhân Nguyễn Khắc Hiếu kinh quá thử địa”, làm

náo động cả quan nha một vùng địa phương Bình Định, quái gở ôi là quái gở

vậy thay. Chưa cho là đủ ngôn, chưa chịu chấm dấu hết, cái “quái - tượng” ấy lại

còn cầm đốc một thanh kiếm múa may quay cuồng nữa. Có đáng sợ không?

Thật là “đời chưa chán tớ, tớ còn chơi”. Có như thế, vong linh thi nhân

ạ!” [37, tr.689-690]. Từ chân dung ấy, chúng ta càng cảm thấu, lí giải rõ hơn

khí chất ngang tàng, cái “ngông” của một “khối tình” Tản Đà. Đồng thời, qua

lối phác thảo chân dung với chất giọng tài tử, thể hiện rõ một mối tương giao

đặc biệt giữa người được dựng chân dung và người dựng chân dung, chúng ta

càng hiểu hơn cái “ngông nghênh” trong những áng văn của nhà văn tài hoa

Nguyễn Tuân. Rồi đến lượt chân dung người văn đầy uyên bác Nguyễn Tuân

này lại được thể hiện thật cụ thể trong những hồi tưởng của Tô Hoài trong hồi

ký Cát bụi chân ai.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

14

Đó là một Nguyễn Tuân khác người từ cách ăn mặc: “đi bên này Hồ

Gươm thấy Nguyễn Tuân ngồi trong nhà hàng Hoàng Gia, cái quán rượu kiểu

Pháp che cánh sáo ra kín vỉa hè. Nhà văn chơi chua khác đời. Khăn lượt vố, áo

gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt ba thước thay ba toong, chân bít tất dận

giày mõm nhái Gia Định” [37, tr.383]… Cho đến ẩm thực: “Ít ai biết Nguyễn

Tuân chỉ ăn một thứ phở, phở chín, phở thịt bò chín… Thịt bò chín, nạm hay

mỡ, bánh vừa phải không nẫu vồng lên, không thái sẵn và thái máy như Sài

Gòn mà Nguyễn Tuân gọi đùa là vằn thắn phở. Xúc bánh xong, thái thịt bày

lên rắc hành hoa và hạt tiêu - không ớt, mặc dù thích cay” [37, tr.403]. Đến sở

thích cầu kì, tỉ mỉ cho mỗi chuyến đi cũng khác: “sửa soạn đi còn kĩ lưỡng hơn

đi” [37, tr.394], “mải mê quên ngày tháng, nhưng tính đếm sửa soạn thì phải

nhớ từng ly. Cái phóng khoáng của ông ấy không lẫn với buông tuồng, cẩu

thả” [37, tr.395].

Cái thú ăn chơi, sinh hoạt khác đời, khác người, vừa tinh tế, vừa rất

“ngông” ấy đi cả vào văn chương của ông: “Đem cái “duyên” đẹp đẽ mọi bề

quàng cho Nguyễn Tuân có thể chưa kín nghĩa, mà cũng không hẳn đúng. Về

nhà văn và cả về đời. Có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ. Có

người chỉ lướt một đoạn đã không chịu được cái giọng khụng khiệng, khệnh

khạng. Triết lí và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài sơn trong thang

thuốc bắc, ghé bổ một tý vô thưởng vô phạt. Cái chơi của Nguyễn Tuân cũng

thế. Với người này, không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người kia thì không chịu

đựng nổi” [37, tr.384-385].

Từ những hồi tưởng của Tô Hoài, ta có thể cắt nghĩa sâu sắc hơn thứ chủ

nghĩa xê dịch và duy mỹ trong văn chương Nguyễn Tuân.

Như thế, qua những chân dung văn học, ta không chỉ thấy được những chân

dung của những nhà văn, nhà thơ cùng thời, mà ta còn thấy được bức chân dung

của chính tác giả và cũng từ đó, hiểu được hơn chính về con người và văn chương

của người được dựng chân dung và cả người dựng chân dung; hiểu được hơn cả

một thời đại lịch sử, văn hóa, văn học đằng sau những thế hệ con người ấy.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

15

1.1.3. Các đặc điểm của thể tài chân dung văn học

Như trên chúng tôi đã đề cập, từ góc độ thể loại, lí luận văn học đã

xác định chân dung văn học là một thể loại đặc thù, thuộc về thể loại kí văn

học. Đây là thể loại lấy từ nguyên mẫu đời sống. Ký chính là một loại văn

xuôi tự sự trần thuật của những người viết người thật, việc thật với những

đặc điểm riêng biệt gắn liền với tính chất hư cấu và vai trò của người trần

thuật. Nói cách khác, điểm khác biệt của ký so với các thể loại văn học khác

là ở chỗ: ký viết về những cái có thực trong đời sống, có ý nghĩa thời sự

hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Giống như người viết báo, người viết ký phải

đặc biệt tôn trọng, phải truyền đạt trung thực, chính xác những sự kiện của

đời thực, việc thực, cảm xúc thực.

Như vậy, xét về mặt truyền đạt sự kiện, rõ ràng ký luôn đòi hỏi sự

trung thực,chính xác. Tuy nhiên, ký vẫn là một thể trong văn chương ở chỗ

nó có những tính chất như: tính giọng điệu, tính đa nghĩa của văn bản. Thể

loại này vừa có yếu tố của truyện vừa có sự tham gia trực tiếp của tư duy

nghiên cứu. Sự hợp nhất giữa tư duy nghệ thuật và tư duy nghiên cứu là

đặc trưng của tư duy viết ký.

Trong ký, yếu tố chính luận là yếu tố có vai trò cốt yếu còn cốt truyện

chỉ là căn cứ cho sự phát triển, làm bàn đạp thực tại cho tư tưởng chính luận.

Vì vậy nên ngoài hiệu quả gây khoái cảm mỹ học, thể loại ký còn gây cho

người đọc những khoái thú thuần trí tuệ bằng việc cung cấp cho họ những tri

thức mà họ quan tâm, có khi chỉ là những kiến thức thỏa mãn óc tò mò

thông thường của con người “ở thể ký tác giả có quyền bộc lộ trực tiếp nỗi

niềm của mình” [8, tr.122].

Trên đây là những đặc trưng cơ bản của thể loại ký nói chung. Bên cạnh

những điểm chung như thế, chân dung văn học cũng còn mang thêm trong

mình những đặc điểm tiêu biểu riêng.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

16

Đặc điểm tiêu biểu riêng trước hết của chân dung văn học đó là nó là

một loại kí (viết về “người thật việc thật” hay về những điều “mình từng thấy

từng biết”), mà ở đó nhân vật trung tâm là các nhà văn đồng nghiệp. Hay nói

cách khác, dựng chân dung văn học tức là lấy nhà văn làm đối tượng để nhận

thức và mô tả. Tiêu biểu như cùng với ngòi bút của nhà văn Tô Hoài, chúng ta

có chân dung của những tên tuổi lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam như

Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hoàng Trung Thông,

Nguyễn Huy Tưởng ... Đó là những bạn văn mà ông đã gắn bó thân thiết trong

phần lớn quãng đời văn nghiệp của mình. Trong hồi kí của Tô Hoài, những con

người, những số phận văn chương ấy - được khắc họa đầy sắc cạnh, đầy dấu ấn

song cũng vô cùng gần gũi, chân thực.

Trong Mười chín chân dung nhà văn cùng thời của Vũ Bằng , tên gọi của tác

phẩm cũng đã cho thấy hình tượng trung tâm chính là các nhà văn đồng nghiệp

cùng thời, đó là những Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Đình

Long, Tam Ích, Ngô Tất Tố, Tô Hoài, Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoàng Ngọc

Phách, Tú Mỡ, Văn Cao…

Bên cạnh hình tượng trung tâm là các nhà văn đồng nghiệp cùng thời,

thể chân dung văn học còn có thể khai thác chân dung của các cây bút “tiền

bối” hoặc những người nghệ sĩ mà người dựng chân dung tìm thấy những nét

giao cảm nào đó. Đó là Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Ưng Bình Thúc Giạ Thị,

Trịnh Công Sơn, Văn Cao, Đinh Cường, Bùi Giáng, Phùng Quán... Đó là

những “người của thời xưa”, hay “người của thời nay” được Hoàng Phủ Ngọc

Tường viết về họ với “một niềm kính yêu thiêng liêng như viết về những người

của cõi bất tử - “người của muôn thời” (Lý Hoài Thu).

Có thể nói, qua đó, các tác giả giúp người đọc không chỉ tiếp nhận được

một lượng thông tin tư liệu quí giá mà còn được chia sẻ với nhiều số phận nhân

vật. Đó là những con người có vị thế quan trọng trong nền văn học nước nhà,

lại vừa là những nhà văn có đời sống nội tâm phong phú và trong những thân

phận có nhiều éo le, cay đắng.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

17

Như vậy, bên cạnh việc mang trong mình đặc trưng cơ bản đầu tiên về đối

tượng phản ánh phải là các nhà văn có danh tiếng, chân dung văn học còn có những

đặc trưng chung và riêng khác trong phương thức thể hiện hình tượng trung tâm.

Xét trên bình diện phương thức thể hiện hình tượng nghệ thuật trung tâm, ta

thấy thể tài chân dung văn học thực chất cũng là một dạng đặc biệt của sáng tác

văn học. Nó cho phép người viết được quyền lựa chọn, giữ lại hay tước bỏ, nhấn

mạnh hoặc làm mờ một số đường nét, chi tiết, nhất là cho phép thể hiện ở một mức

độ nào đó cái tôi của người viết trong mối quan hệ với đối tượng được viết, nhằm

tạo ra được một chân dung trong con mắt riêng của mình.

Chẳng hạn như khi dựng chân dung hơn bốn mươi gương mặt tiêu biểu

cho Phong trào Thơ mới trong Thi nhân Việt Nam, trong tâm thế “chào đón

một thời đại mới của thi ca”, Hoài Thanh - Hoài Chân đã lựa chọn một số chi

tiết cốt yếu có thần nhất để từ đó phác thảo nên cái “hồn” nổi bật của mỗi thi

nhân. Hay chân dung Xuân Diệu hiện lên trong những khắc họa của Thế Lữ lại

mang hình ảnh của một thi nhân với dáng vẻ tài hoa, lộng lẫy: “Nhà thi sĩ ấy là

một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vương trên đài trán thơ

ngây, mặt như bao luyến mọi người và miệng cười như rộng mở như một tấm

lòng sẵn sàng nhân ái.” Điều đó có nghĩa ít nhiều yếu tố hư cấu và tưởng tượng

vẫn có mặt trong thể tài này. Tuy nhiên, dù tưởng tượng đó phóng khoáng đến

đâu, cũng phải dựa trên sự thật, tuyệt nhiên không được phép dựng chân dung

văn học về một nhà văn nào đó mà “hư cấu” và “tưởng tượng” ra những chi tiết

không có thật trong tiểu sử của nhà văn đó.

Một tác phẩm chân dung văn học giá trị phải là một sáng tạo nghệ thuật

thực sự, phải khêu gợi trí tưởng tượng thật sự, nhưng phải sáng tạo trên cơ sở

có thực, những chi tiết có thực (trong văn, trong đời). Đó là những nung nấu

dựa trên những dữ kiện đời sống có thật, mà đúng như Tô Hoài từng thổ lộ:

“Sáng tác chân dung văn học không phải là những ghi chép đơn thuần, bởi vì

khi viết theo lối ghi chép người thật việc thật, sự sáng tạo cũng không cho phép

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

18

ta đơn giản. Bao nhiêu công phu và tâm sức bấy lâu quanh những thông cảm và

sự hiểu biết rộng của chúng ta về những “mẫu người thật ấy, những kiểu việc

thật ấy” sẽ đem lại giá trị cao cho sức nghĩ lúc thể hiện ghi chép của anh” [14,

tr.70]. Trong khuôn khổ và giới hạn của thể kí, sự sáng tạo này thể hiện chủ

yếu ở chỗ nắm bắt và chọn lựa chi tiết có ý nghĩa tiêu biểu và xuất thần của đối

tượng. Sự sáng tạo ở đây tương đối gần với sự sáng tạo của nhiếp ảnh hay hội

họa trong việc dựng chân dung.

Nói tóm lại, cũng giống như bất kì tác phẩm thuộc loại văn sáng tác nào,

chân dung văn học được coi là thành công phải là những tác phẩm xây dựng

được những hình tượng chân xác và sống động như thể loại kí, vừa tô đậm được

một cách sắc sảo các nét cá tính của nhà văn được dựng chân dung, lại vừa hàm

chứa những nét chung của giới văn nhân nghệ sĩ. Nhờ thể chân dung văn học mà

các nhà văn có dịp hiểu biết nhau kĩ càng hơn, những người nghiên cứu và giảng

dạy có một nguồn tư liệu tin cậy để làm tốt hơn cho quá trình giảng dạy, nghiên

cứu. Và cũng qua những chân dung văn học, người đọc rộng rãi có thể có thêm

nhiều nhận thức và cảm xúc phong phú hơn về các tác phẩm văn học.

Mặt khác, khi dựng chân dung người khác, người viết bao giờ cũng

bộc lộ thái độ và những đánh giá riêng của mình dưới dạng luận đề. Nghĩa

là chân dung văn học là một thể văn bộc lộ đậm nét tính chất chủ quan của

người viết. Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn

Khắc Phi chỉ ra rằng: “Nhà văn phát huy sở trường quan sát, lựa chọn chi

tiết, cử chỉ, ngôn luận, kể cả tác phẩm, tư thế, hồi tưởng để dựng lại bộ mặt

tinh thần của một con người, thường là nhà văn, nghệ sĩ, các nhà hoạt động

xã hội nổi tiếng” [11, tr.152]. Chính vì vậy, mà những nhà văn viết chân

dung văn học thường quan tâm đến những cây bút có tài năng và có cá tính,

tức là quan tâm tới những nhà văn nổi tiếng - không mấy ai lại viết chân

dung của những nhà văn thiếu cá tính và ít tài năng. Độc giả cũng vậy, họ

thường quan tâm tới những chân dung văn học nổi tiếng, có cá tính, có tài

năng mà họ hâm mộ. Nhưng viết về chân dung thì bản thân người viết phải 19 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

là những người có cá tính, có phong cách. Nếu không có, thì không viết

được những chân dung đặc sắc. Điều ấy khiến cho tác phẩm chân dung văn

học luôn mang đậm tính chủ quan.

Các bức chân dung văn học, do thế luôn thể hiện cái tôi của người cầm

bút. Đọc những chân dung văn học xuất sắc nhất, ta thường thấy rất rõ tình cảm

nồng nhiệt của người viết đối với đối tượng của mình.

Tính chủ quan của chân dung văn học còn thể hiện rõ hơn nữa ở cách

khai thác và phát hiện riêng về đối tượng được khắc họa chân dung.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng quan niệm trong sáng tạo nghệ thuật: “Mỗi

người có một vision (nhãn quan) riêng. Nó đẻ ra phong cách. Do thế mà

anh thích tả gió, tả nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa. Anh thì có sở trường

này, sở trường nọ”. Như vậy, mỗi nhà văn đều có cái riêng của mình.

Những chân dung văn học do mỗi nhà văn tạo ra cũng đều mang một dấu

ấn độc đáo riêng, phong cách nghệ thuật riêng của tác giả ấy. Chẳng hạn

như, nếu những sáng tác chân dung văn học của Hoài Thanh - Hoài Chân

thu hút người đọc bởi một giọng văn tha thiết, duyên dáng, trong một cảm

hứng ngợi ca và dường như được giữ một khoảng cách thẩm mĩ, một

ngưỡng vọng với những đối tượng được dựng chân dung thì Vũ Ngọc Phan

lại tạo nên hiệu ứng thu hút nhờ chính sự sắc sảo trong ngòi bút và cảm

hứng nghiêng về phê bình văn học. Hay như Tô Hoài, khi viết chân dung,

ông lại luôn là cây bút hiện thực bám chặt vào “chất văn xuôi” của đời

sống bằng một giọng điệu trần thuật dí dỏm, khôi hài pha chút bông đùa,

đôi chút mỉa mai, tinh quái nhưng cũng rất nghiêm trang và thâm thúy.

Người ta có thể nhận ra khá nhiều sắc thái trong chân dung văn học: hóm

hỉnh mà sâu sắc, lại cũng đầy nỗi niềm như Vũ Bằng; chân thành và giản dị

như Bùi Ngọc Tấn; tài hoa và mượt mà như Hoàng Phủ Ngọc Tường… Hay có

khi đầy mới lạ với những cuộc đối thoại dài hơi, bạo dạn, sôi nổi với những

chân dung văn học nước nhà được dựng lên theo kiểu dựng chân dung Tây

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

20

phương với tính chất áp sát, ít nhiều ngẫu hứng và mang đậm chất chủ quan

như kiểu của Trần Đăng Khoa trong Chân dung và đối thoại. Chúng ta có thể

kể ra rất nhiều tên tuổi đã dựng chân dung văn học với những phong cách riêng

rất đáng chú ý như thế trong nền văn học nước nhà.

Như vậy, những tác phẩm văn học đích thực, được nhiều người thích đọc

bao giờ cũng thấm đẫm tính chủ quan của người viết. Chân dung văn học cũng

vậy, ở một mức độ nào đấy, chất chủ quan càng đậm đà được biểu hiện một

cách khéo léo, thì giá trị văn chương của tác phẩm càng cao, càng lôi cuốn

người đọc. Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét chân dung văn học là một thể

tài hiện đại. Nó ra đời khi giới cầm bút đã có sự thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá

nhân. Mỗi nhà văn đều muốn có tiếng nói riêng, gương mặt riêng không chịu

lẫn với ai. Và người đọc cũng thế, thích thú được tiếp xúc với những tài năng

có cá tính độc đáo. Đó là chỗ hấp dẫn riêng của chân dung văn học.

Qua chân dung văn học chẳng những biểu hiện được cá tính, phong cách

nhà văn - đối tượng dựng chân dung văn học mà còn biểu hiện cả cá tính,

phong cách nhà văn - tác giả chân dung văn học. Cái độc đáo của thể loại chân

dung văn học là ở đó.

Một đặc điểm nổi bật nữa của thể tài chân dung văn học đó là thể tài này

chỉ được ra đời trên cơ sở ý thức xã hội - văn học nhất định.

Thể tài chân dung văn học chỉ xuất hiện khi nền văn học đã có được

những thành tựu và trong giới cầm bút có ý thức tỉnh sâu sắc về cá nhân và cá

tính. Nhiều nhà văn đã xuất hiện với tiếng nói riêng, gương mặt riêng không

thể trộn lẫn để có thể nói lên tất cả những gì thuộc về con người, đi đến tận

cùng giới hạn của tâm hồn và số phận nhân vật với rất nhiều phong cách - bút

pháp nghệ thuật khác nhau. Qua những trang viết về chân dung, người ta có thể

hình dung ra những số phận văn chương trong quá khứ cũng như trong hiện tại

với những trải nghiệm sâu sắc và những suy tư, chiêm nghiệm đầy trăn trở về

người, về nghề, về nghiệp.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

21

1.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học

1.2.1. Cơ sở tiền đề cho sự ra đời của thể tài chân dung văn học

1.2.1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội

Xét lại tiến trình lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta nhận thấy rằng nền

văn học Việt Nam trong mấy chục năm đầu thế kỉ XX, các thể văn học không

những chỉ tiếp tục phát triển hệ thống đã có mà nó còn tạo ra nhiều thể văn mới.

Cơ sở của hệ thống thể loại này, xét cho cùng là do vị trí mới của nền văn học

trong đời sống xã hội. Những điều kiện xã hội cho sự tồn tại và phát triển của nền

văn học mới chẳng những đòi hỏi văn học phải có một hệ thống thể loại phù hợp

mà còn tạo tiền đề cho hệ thống đó.

Chân dung văn học là một thể tài ra đời muộn, còn khá mới mẻ so với

những thể loại văn học khác trong tiến trình văn học Việt Nam. Ở Việt Nam,

chân dung văn học bắt đầu manh nha từ giai đoạn những thập niên 30 của thế

kỉ XX. Còn trước đó, ở thế kỉ XIX, thời kì văn học trung đại ta chưa thấy xuất

hiện thể loại này. Có lẽ là do quan niệm, do lí tưởng thẩm mĩ của mỗi thời đại

khác nhau. Lí tưởng thẩm mĩ của giai cấp phong kiến thiên về vẻ đẹp truyền

thống cổ điển, luôn lấy hình mẫu những con người từ thế kỉ trước khi mà xung

quanh những hình mẫu ấy đã lấp lánh hào quang, được tô vẽ bởi lòng người

mến mộ, có xu hướng trở thành mẫu hình lí tưởng nhằm phục vụ cho giáo lí

phong kiến. Sang đến thời cận đại và đặc biệt là thời hiện đại, lí tưởng thẩm mĩ

của người sáng tác đã có sự đổi khác. Người ta không thoả mãn với hình mẫu

xa xưa, người ta muốn ca ngợi, tìm hiểu, phát hiện cái đẹp ngay trong cuộc

sống đời thường. Không chỉ có nhu cầu thẩm mĩ, người ta còn có nhu cầu giải

quyết những vấn đề đầy tính mâu thuẫn mà thời đại đặt ra, nhu cầu tự đánh giá

và tự bộc lộ mình. Vì thế, văn học bắt đầu hướng tới những điều trước đó

người ta không dám nói tới và không thể nói tới, hướng tới việc bộc lộ những

suy nghĩ, tình cảm, thái độ, đánh giá của mình về cuộc sống và con người.

Chính bước chuyển mình của văn hóa lịch sử xã hội đã tạo điều kiện tiền đề

cho chân dung văn học phát triển.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

22

Bên cạnh đó, vào giai đoạn những năm 1930 của thế kỉ XX, nền văn

học nước nhà đã xuất hiện hàng loạt các nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực văn hóa

nghệ thuật khác nhau với những tác phẩm phong phú về thể loại và đa dạng

về phong cách. Đồng thời, cũng trong những năm này, giới trí thức Việt

Nam và công chúng đô thị Việt Nam đã bắt đầu có thói quen đọc báo, đọc

sách. Trong tình hình đó, văn học đã có cơ hội phát triển mạnh mẽ, từ đây,

nhiều đại biểu xuất sắc, nhiều cây bút chủ lực của thời đại ra đời. Có những

tác phẩm đặc sắc in đậm dấu ấn cá tính. Chính sự xuất hiện này đã cung cấp

cho thể chân dung văn học những đối tượng để dựng chân dung, góp phần

đưa lại một thể tài mới. Trong đó, nổi bật là những gương mặt tiêu biểu,

những cây bút chủ lực và sáng giá nhất của văn học như: Phan Khôi, Vũ

Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tản Đà, Thâm Tâm, Quang Dũng,

Nguyễn Bính, Xuân Diệu và rất nhiều nhà văn, nhà báo khác. Đó là “nguồn

cung cấp” đối tượng để thể chân dung văn học quan sát, miêu tả. Sự khởi sắc

của cả một nền văn học và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng

báo đã trở thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Càng về sau,

đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học không chỉ bó hẹp trong làng

văn, làng báo mà càng được mở rộng. Đối tượng phản ánh của thời hiện đại

còn là những con người tiêu biểu trong các lĩnh vực khác của đời sống xã

hội, đó là những nhà khoa học, các danh nhân văn hoá, những nhà hoạt động

xã hội nổi tiếng, đã tạo nên một mảng sinh động của đời sống văn học mà

trước đó chưa có. Đó cũng chính là hệ quả của một quá trình đổi thay trên

nhiều lĩnh lực của đời sống - xã hội.

Ngoài ra, nhu cầu bảo lưu tư liệu, nhằm giúp cho thế hệ sau tránh cái nhìn

sai lệch và phiến diện về những con người, những thời kì văn học đã qua, cũng

như nhu cầu đánh giá lại các hiện tượng văn học, hiểu thêm về những “người

văn”, “đời văn” gắn liền với cả một giai đoạn văn học, bối cảnh thời đại, và đã

tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thể tài này. Đây âu cũng là một nhu

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

23

cầu tất yếu khi tầm nhìn, tư tưởng của con người thời đại về sau được nâng cao,

tạo tiền đề cho sự nở rộ của thể tài chân dung văn học trong nền văn học nước

nhà. Đặc biệt, kể từ giai đoạn những năm cuối thập niên 80 của thế kỉ XX trở đi,

thể tài này càng phát triển rực rỡ, để lại nhiều dư âm, giá trị với sự xuất hiện của

hàng loạt những cây bút viết chân dung tên tuổi nổi tiếng.

Như vậy, có thể thấy rằng, dựa trên những thay đổi của tiền đề văn hóa -

lịch sử - xã hội, kể từ khi xuất hiện đến nay, cùng với quá trình vận động và

phát triển cho đến nay, thể tài văn học này ngày càng xác lập được chỗ đứng

riêng của mình và trở thành một thể văn thực thụ.

1.2.1.2. Cơ sở thẩm mĩ

Là một hình thái ý thức xã hội, một phương thức đồng hóa hiện thực

về mặt thẩm mĩ, một nghệ thuật dùng ngôn từ làm chất liệu để thể hiện, văn

học do vậy cũng gắn chặt với những cơ sở xã hội - thẩm mĩ nhất định. Cùng

với sự thay đổi của cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội, đời sống văn học nước

nhà cũng có nhiều chuyển biến mới tích cực. Vai trò của văn học được chú

trọng đổi mới, quan niệm sáng tác theo đó cũng được thay da đổi thịt, hướng

đến nhu cầu phản ánh chân thực về cuộc sống, con người. Những yêu cầu

thiết yếu như hiểu rõ hơn, đánh giá chính xác hơn, và cũng làm thỏa mãn

hơn thị hiếu của người đọc muốn tìm hiểu về văn nghiệp của những cây bút

tên tuổi trên văn đàn đã thúc đẩy sự phát triển của thể tài chân dung văn học.

Cũng vào khoảng thời gian những năm 30 của thế kỉ XX, lịch sử vừa

từng bước chuyển từ thời kì cận đại sang hiện đại, ý thức cá nhân ngày càng

được giải thoát trên sự phát triển cởi mở chung của tư tưởng xã hội. Nghề văn

được quan tâm thích đáng, cái tôi cá nhân và cá tính được đề cao. Nhà văn

được mở rộng cánh cửa tưởng tượng và sáng tạo, có tầm nhìn xa hơn, rộng

hơn. Sự ra đời, phát triển của thể tài chân dung văn học đã đáp ứng được nhu

cầu ấy. Từ đây, thể chân dung văn học cũng có điều kiện thuận lợi để phát

triển hơn cùng với sự phát huy năng lực sáng tạo của người viết chân dung.

Mỗi nhà văn tìm cho mình một hướng khai thác riêng về chân dung văn học.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

24

Thêm vào đó là sự tiếp thu ảnh hưởng nghệ thuật viết chân dung văn học

của những nhà văn nổi tiếng thế giới trong đó phải kể đến: M.Gorki, Erenbua,

Pautopxki, Stendal… đã làm cho thể chân dung hồi ký văn học nước ta có

những đổi mới đáng kể. Gắn liền sự hình thành các cá tính sáng tạo độc đáo

trong văn chương, đó chính là sự kích thích và chất liệu cho sự hình thành và

phát triển của thể chân dung văn học, với sự nở rộ của những tên tuổi dựng

chân dung từ thưở ban đầu như Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan,

Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng…

Tóm lại thể chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng và thể

chân dung văn học Việt Nam nói chung được hình thành trên những cơ sở nhất

định: Đó là sự đổi thay của những tiền đề văn hóa - lịch sử - xã hội tạo điều

kiện cho sự xuất hiện phong phú, đa dạng của các tên tuổi văn học nổi tiếng,

cung cấp những mẫu hình tượng sống, chân thực làm đối tượng thẩm mĩ cho

thể chân dung văn học khai thác. Sự thay đổi về cơ sở văn hóa, xã hội đã thúc

đẩy sự khẳng định vị trí của văn học, cũng như tạo cơ hội giao lưu với văn học

thế giới đã dẫn đến nhu cầu mở rộng đời sống thể loại nói chung và thể kí nói

riêng bên trong nội sinh tiến trình phát triển văn học. Tiền đề xã hội thay đổi

kéo theo sự đổi mới trong ý thức thẩm mĩ, tạo điều kiện cho sự hình thành

những cây bút có cá tính độc đáo, cho nhu cầu được nhận chân, đánh giá lại

bản thân thông qua cách nhìn vào người khác để nhận ra mình, đồng thời nhận

ra cả giới văn chương. Chính những tiền đề như thế đã thúc đẩy sự thành công

của thể tài chân dung văn học trong nền văn học Việt Nam.

1.2.2. Quá trình hình thành và phát triển của thể tài chân dung văn học trong

văn học Việt Nam nói chung

Một cái nhìn tổng quan dựa trên các tác phẩm liên quan đến thể tài chân

dung văn học cho thấy quá trình hình thành và phát triển của thể tài này trong văn

học Việt Nam nói chung được chia thành bốn giai đoạn cơ bản sau đây:

- Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX - 1930: Đây là giai đoạn mở đầu cho tiến trình

hiện đại hóa văn học. Giai đoạn này hầu như chưa có tác giả, tác phẩm viết về

chân dung văn học.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

25

- Giai đoạn từ 1930 - 1945: Quá trình hiện đại hóa văn học bước vào giai

đoạn hoàn tất. Nhu cầu mở rộng thể loại văn học phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt

là thể chân dung văn học đã hình thành và phát triển nở rộ với nhiều tác giả

tiêu biểu làm nên sự tỏa sáng cho một thời đại văn học như: Thiếu Sơn,Tản Đà,

Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố …

- Giai đoạn từ 1945 - 1975: Văn học bước vào cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Mục đích của văn học thời kì này cũng thay đổi.

Thể tài chân dung văn học cũng bị hạn chế, có viết nhưng ít, chủ yếu mang cảm

hứng lí tưởng hóa, ngợi ca cách mạng.

- Giai đoạn từ 1975 - nay: Nền văn học của nước ta có sự chuyển động

mạnh mẽ về nhiều mặt. Cùng với sự cởi mở hơn về quan niệm văn chương,

sự tự do dân chủ trong không khí sáng tác và tiếp nhận, đời sống văn học đã

phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Đặc biệt từ 1986 đến nay, đất nước có nhiều

đổi mới trên nhiều lĩnh vực của đời sống, xã hội tạo tiền đề cho sáng tác văn

học, trong đó có thể tài chân dung văn học phát triển lên một bước mới với

nhiều cây bút chuyên viết về chân dung văn học như: Tô Hoài, Trần Đăng

Khoa, Vương Trí Nhàn...

Như vậy, kể từ khi xuất hiện, cùng với quá trình vận động phát triển từ

khoảng đầu những năm 1930 và phát triển cho đến nay gắn liền với lịch sử văn

học Việt Nam hiện đại, thể tài văn học này ngày càng phát triển và có sức hấp

dẫn riêng của nó. Nhiều thành tựu xuất sắc, được coi là một thể văn thực thụ.

Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo với số lượng tác phẩm ngày càng phong

phú như: Cát bụi chân ai - những gương mặt (Tô Hoài), Chân dung và đối

thoại (Trần Đăng Khoa), Mười chín chân dung nhà văn cùng thời (Vũ Bằng),

Những kiếp hoa dại; Cây bút đời người (Vương Trí Nhàn), Viết về bạn bè -

Tập chân dung văn nghệ sĩ (Bùi Ngọc Tấn), Một thoáng nhân văn (Nguyên

An), Nhà văn hiện đại chân dung tự họa (Lại Nguyên Ân - Ngô Thảo), Mười

khuôn mặt văn nghệ (Tạ Tỵ). Ngoài ra, chân dung văn học còn xuất hiện ở

nhiều trang mục trên các báo và tạp chí như: An ninh thế giới (cuối tháng), Văn

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

26

hóa thể thao, Giáo dục thời đại, Văn học, Văn học và tuổi trẻ, Văn nghệ quân

đội, Phụ nữ, Sông Hương… Đặc biệt, báo Văn nghệ còn dành riêng một chuyên

mục “Chuyện văn chuyện đời” cho thể tài này. Bên cạnh đó, trong điều kiện

hiện nay, chuyện đời tư của văn nghệ sĩ cũng được xã hội hóa bằng các phương

tiện thông tin đại chúng với nhiều chương trình và chuyên mục hấp dẫn: Người

đương thời, Một tuần một chân dung, Tác giả và tác phẩm. Đây hiển nhiên là

một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển mạnh của thể

chân dung văn học trong nền văn học nước nhà ngày nay.

1.3. Thể tài chân dung văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 - vị trí và

những đóng góp trong con đường hình thành và phát triển

Giai đoạn 1930 - 1945 được xem là thời kì khai sinh ra thể tài chân dung

văn học. Tác phẩm được coi là mở đầu của thể chân dung văn học là công trình

Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn (trong đó có phần Phê bình nhân vật) viết về

chân dung những nhà văn như: Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Tản

Đà, Vũ Trọng Phụng ...

Phê bình và cảo luận là tác phẩm phê bình đầu tiên của nền phê bình văn

học còn non trẻ khi ấy và Thiếu Sơn được coi là người mở đầu cho lĩnh vực

phê bình của văn học quốc ngữ nước nhà. Trong Lời tựa, ông xác định công

việc của phê bình: “Nhà phê bình là kẻ đọc giùm cho người khác,… biết chỉ

cho người ta thấy cái nghĩa lý của câu chuyện, chỗ dụng ý của tác giả, cái nghệ

thuật của người làm cái văn thể của cuốn sách”. Phê bình và cảo luận là kết

quả của việc theo sát những vấn đề thời sự của văn học, kịp thời có những nhận

định về tác phẩm, tác giả và ít nhiều cũng phác họa những đường hướng phát

triển của văn học đương thời. Lối “phê bình nhân vật” của ông được ứng dụng

trong các bài viết về các nhà văn như Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyễn Khắc

Hiếu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Biểu

Chánh, Trân Tuấn Khải, Tương Phố.

Viết về Phạm Quỳnh, Thiếu Sơn nhận xét: đây là một người “có cái thủ

cựu của một nhà Tây học”, là một người “học có bề mặt mà không có bề sâu, một

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

27

học giả gọi là bác mà không thúy”. Ông khẳng định: Phạm Quỳnh là một người

có công lớn trong việc dịch thuật, truyền bá văn học Âu châu vào Việt Nam, trong

việc dịch các sách văn học, triết học ra chữ quốc văn và đặc biệt văn phong của

Phạm Quỳnh đã có ảnh hưởng lớn đến “lối văn nghị luận diễn thuyết, triết lý và

khảo cứu” của văn chương quốc ngữ Việt Nam.

Khi viết về Tản Đà, ông có nhiều nhận xét tinh tường và thú vị. Những câu

như: “Tiên sinh sinh ra lại ngông hơn hết thảy. Đời đục tiên sinh trong, đời tối tiên

sinh sáng. Đời quay cuồng trong nhân dục tư lợi, tiên sinh sống trong thế giới tinh

thần”. Hoặc: “Ông đã có cái khí tiết thanh cao lại có tâm hồn lãng mạn, giữa cái

đời quay cuồng vật chất này, ông là người đã khiến cho đời ta được êm đềm và

cao thượng lên”….

Trong những bài phê bình ở cấp độ tác giả này, ông nhận ra cái đặc sắc về

sự nghiệp, phong cách, những đóng góp trong văn chương của những cây bút mở

đường, lớp đàn anh và những nhà văn đương thời… Viết về người cùng thời là

điều không dễ dàng, nhưng sự thẳng thắn và khách quan của ông khiến cho những

bức chân dung này vẫn hiện lên sinh động và hàm súc cả trong những khen tụng

cũng như trong lời nhận xét phê phán kín đáo. Với sự mẫn cảm và cái nhìn bao

quát lịch sử - văn hóa, các “nhân vật” qua ngòi bút ông ngay trong thời điểm ấy đã

mang bóng dáng những nhân vật có ý nghĩa văn học sử. “Phê bình nhân vật” của

Thiếu Sơn mới mẻ, gây được tiếng vang đương thời. Có thể coi đây là bước định

hình đầu tiên của thể chân dung văn học sau này - tác phẩm đặt nền móng cho thể

chân dung văn học hiện đại, định dạng đầu tiên và khá đầy đủ về chân dung văn

học. Sau sự mở đầu đó xuất hiện rất nhiều các bài phê bình giới thiệu các nhà văn

trong đó ít nhiều mang tính chất thể chân dung văn học.

Những thành tựu quan trọng của thể tài chân dung văn học giai đoạn này

phải kể đến đó chính là Tạp chí Tao Đàn với hai số đặc biệt viết về Tản Đà và Vũ

Trọng Phụng, trong đó có những bài viết về chân dung văn học đặc sắc của nhiều

nhà văn, nhà thơ viết về hai tác giả này để tưởng niệm hai nhà văn.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

28

Tao Đàn không phải là tiếng nói của một văn phái nào mà là một diễn

đàn rộng mở nhằm thu hút và tập hợp văn nghệ sĩ có chung lập trường bảo tồn

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát huy mọi cá tính trong sáng tạo văn

chương. Tôn chỉ và mục đích của Tao đàn được nêu rõ trong Lời nói đầu ở số

ra mắt: “Tao đàn sẽ là nơi gặp gỡ của hết thảy mọi trào lưu tư tưởng và mọi

khuynh hướng nghệ thuật, miễn là các trào lưu và khuynh hướng ấy cùng

chung một mục đích: gây dựng nền văn hóa Việt. Nhiều tên tuổi lớn của văn

chương đương thời đã góp mặt với Tao đàn như: Tản Đà, Phan Khôi, Nguyễn

Triệu Luật, Trương Tửu, Ngô Tất Tố, Lưu Trọng Lư, Vũ Trọng Phụng, Hoài

Thanh… Cùng với việc đăng các sáng tác thuộc nhiều khuynh hướng nghệ

thuật khác nhau, Tao đàn còn đặc biệt chú ý đến khảo cứu, phê bình, dịch

thuật, giới thiệu tinh hoa văn học nước ngoài. Qua những bài viết của các tác

giả trong tạp chí này, có thể thấy cái chết của Vũ Trọng Phụng cũng như cái

chết của Tản Đà, đã làm nổi bật bi kịch của kiếp văn sĩ nghèo bị hắt hủi trong

xã hội đồng tiền, càng nung nấu tâm sự chua xót phẫn uất của những kẻ cầm

bút khi đó. Trong số tạp chí, bên cạnh đôi bài có phần cường điệu là những

dòng chân thành cảm động của Ngô Tất Tố (Gia thế Vũ Trọng Phụng), Đồ

Phồn (Câu đối khóc Vũ Trọng Phụng), Lưu Trọng Lư (Điếu văn đọc bên mồ

Vũ Trọng Phụng), Thanh Châu (Đám tang Vũ Trọng Phụng)… Cũng như Tản

Đà, có thể nói Vũ Trọng Phụng được đề cao hơn bất kỳ nhà văn nào đương

thời. Người ta so Vũ Trọng Phụng với Bandắc (Lưu Trọng Lư), gọi ông là “nhà

văn của thời đại”, “người chiến sĩ đã tranh đấu đến phút cuối cùng” và đặt ông

vào vị trí “vinh quang của những người bất tử”. Vũ Trọng Phụng mất đi đã để

lại bao tiếc thương: “Người ấy mà chết vội thế ư? Đời còn cần người ấy biết

chừng nào”… Anh chưa được một nửa đời người. Văn chương còn mong đợi ở

anh nhiều lắm. Với cái chết của anh, chúng tôi đã mất đi một nửa cái văn tài…

(Lưu Trọng Lư).

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

29

Hai số đặc biệt của Tao đàn viết về Tản Đà và Vũ Trọng Phụng đã gây ấn

tượng đậm nét trong lòng độc giả cũng như trong lịch sử nghiên cứu, phê bình. Sự

ra đi của hai nhà văn lớn đã thu hút đông đảo những cây bút đồng nghiệp uy tín

với những bài viết chí tình, sâu sắc và cảm động, đạt đến trình độ mới của thể

chân dung văn học. Đồng thời có thể coi đây là những đánh giá khoa học và toàn

diện đầu tiên về hai nhà văn xuất sắc này, ghi nhận sự phát triển đỉnh cao của thể

chân dung văn học.

Bên cạnh đó, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Nhà văn hiện đại của

Vũ Ngọc Phan là hai tập sách phê bình, đề cập hầu hết các nhà văn, nhà thơ

đương thời trong đó đã phác ra nhiều chân dung văn học sinh động về họ. Hoài

Thanh được biết đến như một cây bút phê bình sắc sảo và có duyên đầu những

năm 30 của thế kỷ XX. Trong cuộc tranh luận giữa hai phái nghệ thuật vị nghệ

thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, tên tuổi ông càng nổi lên như một đại diện của

khuynh hướng văn học lãng mạn đương thời với tuyên ngôn “văn chương là văn

chương”. Thi nhân Việt Nam ra đời, ngay lập tức được đánh giá là một sự tổng kết

xuất sắc phong trào Thơ mới. Với 169 bài thơ của 46 nhà thơ tiêu biểu mà tác giả

tuyển chọn qua nhiều sách báo suốt mười năm (1932 - 1942) có thể được coi như

tinh hoa hội tụ của mười năm Thơ mới đi kèm với những lời bình tài hoa, xứng

tầm với những bài thơ đặc sắc được chọn lựa. Thi nhân Việt Nam là một hội ngộ

đẹp của một phong trào thơ có tầm vóc văn học sử với một cây bút phê bình. Nhờ

phong trào Thơ mới, nhà phê bình có dịp bộc lộ con người và tài năng mình trọn

vẹn nhất, và phong trào Thơ mới cũng chỉ qua sự tổng kết của Hoài Thanh mới có

được sự hiện diện toàn cảnh của chính nó để lần đầu tiên nhận ra mình và ý thức

về mình như một tư trào văn học. Đây là một hiện tượng đột khởi của sự phát

triển tư duy phê bình và phương pháp phê bình thời kỳ này, đặc biệt là phê bình

thơ. Nó thể hiện một cách tư duy mới, khoa học; sự quan sát về mặt lịch sử đi liền

với việc phân tích, bóc tách các lớp vỏ hiện tượng để nhận ra bản chất tinh thần

của Thơ mới, đồng thời đi sâu vào những biến đổi bên trong thể loại, hình thức

thơ, cùng những đặc sắc của từng phong cách.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

30

Trong Thi nhân Việt Nam thể hiện một tư thế rõ ràng và dứt khoát bản chất

đạo đức của phê bình. Tinh thần thẳng thắn và trung thực được Hoài Thanh đặt ra

cho mình, và rộng hơn, cho cả nền phê bình như một tâm niệm đạo đức: “Danh

vọng quý thật, nhưng còn điều quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy: lòng ngay

thẳng, mà ít nhất cũng phải giữ trọn trong văn chương”. Thi nhân Việt Nam được

viết bằng tư duy phê bình văn học, nhưng cũng được viết bằng chính tâm hồn thi

sĩ nữa. Tâm hồn thi sĩ ấy ẩn hiện trong mỗi nhận định, sau mỗi dòng chữ. Trước

hết là lối thẩm định bằng tất cả tâm hồn mình, “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.

Bởi vì, người phê bình, xét đến cùng cũng là người của Thơ mới, cảm nhận ở Thơ

mới sự đồng điệu: “Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng

Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua, đến lượt họ, họ

cũng mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.

Hoài Thanh là một đại diện xuất sắc của văn chương đương thời đã có công

dựng một tượng đài lộng lẫy cho Thơ mới, cả về thành tựu sáng tác cũng như

trong lĩnh vực lý luận - phê bình. Những nét phác thoáng qua của một số chân

dung thơ cũng cho thấy ít nhiều phong cách và tâm hồn của họ. Khi giới thiệu về

Xuân Diệu, Hoài Thanh cho biết: “Bởi Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn

với một chút hương xưa của đất nước, bao nhiêu nỗi niềm riêng của thanh niên

bây giờ. Xuân Diệu mới nhất trong những nhà Thơ mới nên chỉ những người lòng

còn trẻ mới thích đọc Xuân Diệu. Mà đã thích thì phải mê. Xuân Diệu không như

Huy Cận, vừa bước vào làng thơ đã được người ta dành ngay cho một chỗ ngồi

yên ổn. Xuân Diệu đến với chúng ta đến nay đã ngót năm năm mà những tiếng

khen chê vẫn chưa ngớt. Người khen, khen hết sức; người chê, chê không tiếc lời.

Song, những ai chê Xuân Diệu, tưởng Xuân Diệu có thể trả lời theo lối Lamartine

ngày trước: “Đã có những thanh niên, những thiếu nữ hoan nghênh tôi”. Với một

nhà thơ, còn gì quý hơn cho bằng sự hoan nghênh của tuổi trẻ”. Còn thơ Huy Cận

như thể là một đối cực với giọng sôi nổi và màu sắc rực rỡ của thơ Xuân Diệu.

“Huy Cận! Một tâm hồn đặc biệt quá, nóng chảy bên trong, e lệ bên ngoài, hay

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

31

nói nhỏ và hay làm thinh để cho men lòng càng rạo rực hơn nữa; một tâm hồn hay

lặng yên để nước mắt chảy, không biết khóc cái gì; vừa mạnh vừa yếu, rất mới và

rất xưa, rất Âu Tây và rất Á Đông; nghĩa là cả con người, con người phức tạp của

muôn thuở. Thơ Huy Cận không phải là một lời hứa hẹn nữa. Thơ ông chỉ chờ

một ít thời gian để chút hẳn cái vỏ còn sót lại, và lột ra bao nhiêu nụ lộc xanh tốt,

mạnh cứng, cho ta hưởng mật hương sống lạ lùng”. Bên cạnh Xuân Diệu, Huy

Cận, Hoài Thanh còn giới thiệu về Tế Hanh như một cây bút “vẫn còn trẻ lắm và

cũng mới bước vào làng thơ” đã kể lại ấn tượng về lần gặp gỡ với người thiếu

niên thi sĩ rụt rè, ngượng nghịu mới bước vào tuổi đôi mươi. Nhà phê bình nhớ

mãi đôi mắt nhà thơ trẻ - “đôi mắt nồng nàn lạ”, cũng như những vần thơ thể hiện

“cái nhìn sâu sắc của một con người sẵn có một tâm hồn tha thiết”. Người đọc biết

đến Tế Hanh bởi thơ ông thấm vào lòng người tự nhiên như một luồng gió nhẹ,

một ngụm nước trong. Mỗi bài thơ của Tế Hanh thực sự là một mảnh đời của ông,

là tấm gương phản chiếu tâm hồn ông – một hồn thơ luôn đằm thắm và trong trẻo.

Bên cạnh đó, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan cũng là một công trình

phê bình văn học khá đồ sộ viết về 78 chân dung nhà văn sáng tác bằng chữ quốc

ngữ. Thông qua việc đi sâu giới thiệu và phê bình từng nhà văn, tác giả dựng lên

được toàn cảnh văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX để độc giả hình dung được

những nét lớn của tiến trình văn học cũng như diện mạo và đời sống thể loại. Vũ

Ngọc Phan đã giới thiệu về chân dung Những nhà văn đi tiên phong trong việc

xây dựng quốc ngữ buổi đầu như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế

Bính, Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Đông Hồ, Tương Phố… cho đến Những nhà

khảo cứu, dịch thuật như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Ngọc…, các

Tiểu thuyết gia và Thi gia của thời kỳ đầu nền văn học quốc ngữ như Hoàng Ngọc

Phách, Hồ Biểu Chánh, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu… Các tên tuổi làm nên những

thành tựu của văn học Việt Nam được nhận diện khá đầy đủ qua các chân dung

Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu…

Ngòi bút phê bình của Vũ Ngọc Phan tỏ ra cẩn trọng, khách quan và không thiếu

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

32

sự sắc sảo, tinh tế. Viết về Nguyễn Tuân, ông cho biết: “Nguyễn Tuân, như người

ta đã thấy, là một nhà văn đứng riêng hẳn một phái. Những tập văn của ông, dầu

không phải là tùy bút cũng ngả về tùy bút chẳng ít thì nhiều; ông lại không thể nào

bỏ được cái lối phiếm luận, cái giọng khinh bạc bất cứ về việc gì, nên có nhiều

đoạn thật lê thê. Nhưng dù lê thê hay gọn gàng, đọc Nguyễn Tuân bao giờ người

ta cũng thấy một hứng thú đặc biệt: đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi

trong quan sát, sự hành văn một cách hoàn toàn Việt Nam. Nguyễn Tuân là một

nhà văn theo thuyết hoài nghi; ông có khuynh hướng về chủ nghĩa vật chất và gần

như muốn tin ở cái ma lực của bản năng, ông lại ưa thích những cái cố hữu, nên

tuy là người muốn luôn luôn xê dịch, tuy tự nhận mình là một kẻ giang hồ, nhưng

sự thật thì chỉ những khi viết về những cái xưa cũ, những cái thuộc về quê hương

đất nước hay những cái có thể tưởng tượng nhớ đến quê hương đất nước, ông mới

viết tinh vi và sâu sắc. Ông là một nhà văn đặc Việt Nam, có tính hào hoa và có

cái giọng khinh bạc bậc nhất trong văn giới Việt Nam hiện đại. Nói như thế,

người ta mới hiểu được thân thế ông và văn ông, vì thân thế ông với văn ông theo

nhau như người với bóng”… Nhà văn hiện đại được coi là công trình phê bình có

giá trị văn học sử đầu tiên của nền phê bình văn học hiện đại, nó có sức sống với

thời gian: các nhà nghiên cứu cũng như người đọc không thể bỏ qua nó trên

đường tìm hiểu đời sống văn học sôi nổi và phức tạp nửa đầu thế kỷ XX.

Như vậy, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Nhà văn hiện đại của Vũ

Ngọc Phan là sự kết hợp giữa phê bình văn học và chân dung văn học, góp phần

tạo nên đặc sắc riêng và thành công của hai tác phẩm.

Mang tính chất mở đầu cho một thể tài đầy sức hấp dẫn, những tác phẩm

tiêu biểu kể trên đã gặt hái được những giá trị quý báu, tạo điều kiện tiền đề cho

sự phát triển mạnh của thể tài này trong giai đoạn văn học Việt Nam đương đại.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

33

Chƣơng 2.

ĐẶC ĐIỂM THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC

GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 TỪ BÌNH DIỆN NỘI DUNG

2.1. Những đặc điểm cơ bản

2.1.1. Cảm hứng dựng chân dung

Mỗi một hoạt động sáng tạo đều cần có cảm hứng, đặc biệt trong lĩnh

vực sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn khi phản ánh hiện thực với những sáng tạo

nghệ thuật phải dựa trên nguồn cảm hứng nhất định. Cảm hứng là thuật ngữ

được sử dụng để chỉ trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm

lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Nhưng phải thấy rằng trạng

thái hưng phấn cao độ đó chỉ có thể là cảm hứng trong tác phẩm văn học nghệ

thuật khi sự lí giải, đánh giá đối tượng đạt đến một chiều sâu nhất định. Trong

Dẫn luận nghiên cứu văn học, G.N. Pôxpêlôp viết: “Sự lí giải, đánh giá sâu sắc

và chân thật - lịch sử đối với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý

nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo

của nhà văn và của tác phẩm nhà văn[30, tr.141]. Những tác phẩm thuộc thể tài

chân dung văn học đã lựa chọn một mảng hiện thực làm cảm hứng sáng tạo, đó

chính là cuộc đời, số phận các nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa… Chân dung văn

học phải bắt nguồn từ sự thật về một con người, con người đó có thể đi vào cát

bụi hoặc còn sống. Người dựng chân dung phải biết tôn trọng sự thật, đảm bảo

sự thật. Tuy nhiên trong quá trình dựng chân dung, sự thật ấy được tái hiện

dưới góc độ thẩm mỹ, trong thăng hoa nghệ thuật - cái gọi là cảm hứng. Có

như vậy sáng tác ấy mới thực sự là một tác phẩm văn học.

Cảm hứng dựng chân dung của người cầm bút chính là sự khâm phục,

xúc động trước những tài năng văn chương viết nên những tác phẩm có giá

trị, những nhà văn có tư tưởng quan trọng và có ý nghĩa đối với văn chương

nước nhà.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

34

Tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố ra đời đã được xem là một thiên

tiểu thuyết có luận đề xã hội - hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có

thể gọi là kiệt tác. Ngô Tất Tố là người có óc quan sát tinh tường để làm rõ

cuộc sống của con người trong xã hội bấy giờ với những cảnh làm ruộng,

thu thuế, chè chén xôi thịt, hà lạm, ức hiếp, bán vợ đợ con của đám dân

quê… Nó để lại nguồn cảm hứng lớn cho nhiều độc giả cũng như nhiều nhà

văn sáng tác. Vì vậy đã có nhiều bài phê bình chân dung Ngô Tất Tố ra đời,

đánh giá về tài năng nghệ thuật của nhà văn này như: Vũ Trọng Phụng - Tắt

đèn của Ngô Tất Tố (báo Thời vụ); Phú Hưng - Tắt đèn, tiểu thuyết của Ngô

Tất Tố (báo Đông phương) …

Bên cạnh đó ta cũng thấy văn chương Vũ Trọng Phụng có sức thâm

nhập và khái quát những vấn đề bản chất của xã hội đương thời. Đó là sự phân

cách giàu nghèo, kẻ thống trị và người bị trị, dẫn tới đời sống bần cùng và tha

hóa của người nông dân và tầng lớp hạ lưu; sự thao túng và lộng hành của đồng

tiền; sự xâm nhập của văn minh Tây phương tạo ra cuộc sống đô thị với những

mặt trái và tệ lậu xã hội…

Vũ Trọng Phụng trước hết là nhà văn của thời đại ông. Nhưng một phần

không nhỏ những vấn đề mà ông nêu lên trong các tác phẩm còn bao chứa một

ý nghĩa xa rộng hơn thế: đó là những vấn đề văn hóa - xã hội của đời sống hiện

đại hôm nay. Chính điều này đã làm nên sức sống tươi mới lạ thường cũng như

tính hiện đại của văn chương Vũ Trọng Phụng. Vì thế đã có nhiều bài phê bình

chân dung Vũ Trọng Phụng ra đời để ca ngợi tài năng sáng tác cũng như sự

đánh giá trân trọng về văn chương của ông.

Trong Điếu văn của Nguyễn Vỹ đọc trước huyệt Vũ Trọng Phụng có

viết: “Tôi muốn kêu lên: không phải chúng tôi mất Vũ Trọng Phụng mà cả

nước Việt Nam mất Vũ Trọng Phụng… Thấy những đám ma của một vài

người mà thiên hạ cho là các chiến sĩ của dân chúng, có nghìn vạn người đi

đưa, có cả những bài tường thuật rầm rộ trong các tờ báo, rồi nhìn lại một dúm

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

35

nhà văn buồn bã đi theo quan tài của một bạn đồng nghiệp xấu số vô duyên mà

những tác phẩm đã làm vinh dự nước nhà, chúng tôi không khỏi không bị một

cơn ngậm ngùi bi thương vô hạn”. Cả đời Vũ Trọng Phụng sống trong nghèo

khổ. Những ngày cuối đời, trên giường bệnh ông từng phải thốt lên với người

bạn văn Vũ Bằng: “Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết ăn thì đâu có phải

chết non như thế này!”.

Bên cạnh nhà văn tài năng Vũ Trọng Phụng, ta còn thấy sự nghiệp thơ ca

của Hàn Mặc Tử có một ý nghĩa đặc biệt đối với thi ca đương thời và cả sau

này. Bắt đầu bằng thơ Đường luật, Hàn Mặc Tử nhanh chóng nhập vào quỹ đạo

Thơ mới, để rồi bằng sức sáng tạo phi thường, vượt thoát khỏi giới hạn của thơ

lãng mạn đương thời, vươn tới cõi tượng trưng và siêu thực. Hàn Mặc Tử là

nhà thơ “cổ điển một cách tân kỳ” – một hiện tượng độc sáng trong thơ Việt

thế kỷ XX. Nhưng ông lại là người có số phận bất hạnh – chết vì bệnh. “…

Cách đây tám tháng, tôi ghé Quy Nhơn thăm anh, vì có việc gấp phải đi ngay

nên chỉ ngồi chơi với anh được chừng năm phút. Bệnh anh càng ngày càng

nặng, nước da anh đã thay màu. Nhìn thấy một cảnh tượng thê thảm nghèo nàn,

tôi cảm động quá, cầm lấy tay anh. Một bàn tay đã viết ra bao nhiêu là ngà

ngọc mà nay lại khô và thâm tím, một bàn tay (tôi biết lắm) không ai dám cầm,

mà anh cũng không đưa cho ai cầm” (Lê Tràng Kiều – Quỳnh Dao trong bài

Hàn Mặc Tử, Tiểu thuyết thứ năm).

Trong bài viết Tôi với Tản Đà thi sĩ của Phan Khôi đã kể lại: “Tôi biết

ông Nguyễn Khắc Hiếu từ năm 1918, khi tôi bắt đầu ở Hà Nội viết cho tạp chí

Nam Phong. Một đêm mùa xuân lạnh ngắt, tôi đương nằm đọc sách ở cái gác

của nhà báo ấy ở Hàng Bông, tức là ngụ sở của ông Nguyễn Bá Trác bấy giờ.

Bỗng có khách vào. Ông Trác giới thiệu cùng tôi: Đây, ông Nguyễn Khắc Hiếu.

Tôi như có điện chạy trong người, ghê rợn, vùng đứng dậy! Thật thế. Cái tên

Nguyễn Khắc Hiếu bấy giờ không phải vừa, đối với tôi lại càng long trọng lắm.

Tôi nghe mà rùng rợn lên, có thế thật. Số là sự trứ tác quốc ngữ hồi đó còn ít

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

36

lắm, ít lắm nữa là về mặt sáng tạo. Thế mà trước kia đọc Đông Dương tạp chí,

tôi đã thấy những bài như Cái chứa trong bụng người của ông; lần ấy đến Hà

Nội lại vừa gặp Giấc mộng con của ông xuất bản, tôi không thể nào không phục

ông là tay đại tài. Tôi phê bình riêng trong trí thế này: “Anh Quỳnh, anh Vĩnh

chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến thằng cha này hắn viết ra tư

tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo”. Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên

mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại, là người đã có can đảm làm thi sĩ một cách

đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái “tôi”. Từ xưa, hồn

thơ Việt Nam tù túng trong khuôn khổ của lễ nghi, đạo đức. Tản Đà tiên sinh

sinh vào hồi giao thời lúc thơ cổ tàn và thơ kim đang phôi thai, “Tản Đà bắt đầu

ca lên những điệu mới đầy dẫy hồn thơ”. Ông đã dám sống một đời thi sĩ và đã

dám có một tâm hồn thi sĩ. Thơ của ông là tiếng nói dịu dàng trong trẻo của nàng

thơ Việt Nam. Vì thế, văn chương của ông đã được đặc biệt hoan nghênh.

Nói về Nguyễn Bính, Hoài Thanh có viết: “…Tôi muốn nói Nguyễn Bính

vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức

người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau, bụi chuối và

hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính

tình căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã làm

những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người,

bây giờ đã có vô số những nhà thông thái nghiên cứu… Tiếc thay Nguyễn Bính

lại không phải người thời xưa! Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính

tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà

thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ như thế này

thì có gì?”. Họ có ngờ đâu họ đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được

bằng lý trí, một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước”.

Chân dung văn học dường như là một bức tranh tả thực về con người

nhà văn, nhà thơ với đời sống rất thực. Do vậy, khi đọc chân dung văn học,

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

37

người đọc có thể tiếp cận với nhà văn, nhà thơ một cách cận cảnh trong bộ

dạng, y phục hiện thực đời thường. Nói về họ với tư cách một tài năng nghệ

thuật nhưng cũng là một người bình thường của cuộc sống đời thường với

những yêu ghét, buồn vui, thăng trầm, được mất… Những trang chân dung văn

học cũng là sự chia sẻ, thông cảm với cuộc đời nghèo khó, lãng du, bất hạnh

của các nhà văn, nhà thơ như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Tản Đà, Hàn Mặc

Tử, Nguyễn Bính…

Ứng chiếu vào trong những tác phẩm thuộc thể tài chân dung văn học

nói chung và thuộc giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng, chúng ta có thể nhận thấy

rõ nguồn cảm hứng chủ đạo, dạt dào, khơi gợi những áng văn chính là cảm

hứng dựng chân dung, cung cấp tư liệu về những đối tượng nghệ thuật, về tình

đồng nghiệp, văn chương, với một cách đánh giá (cả về cảm xúc và nhận thức),

những đánh giá về vị trí, vai tò to lớn của sự nghiệp họ để từ đó nhận thức và

tôn vinh giá trị đích thực của tác giả, tác phẩm.

2.1.2. Đối tượng dựng chân dung: những nhà văn đương thời

Như đã giới thiệu, giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến những năm 40 của

thế kỉ XX là một giai đoạn đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển

văn học nghệ thuật. Xét trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam, đây

là giai đoạn hoàn thiện ở đỉnh cao của nền văn học, sự hoàn thiện được thể

hiện ở những thành tựu của tất cả các lĩnh vực của nền văn học; là giai

đoạn phát triển đa dạng và phong phú của nền văn học với sự phân hoá

thành các trào lưu, khuynh hướng, các nhóm văn học. Giữa các trào lưu,

khuynh hướng, nhóm văn học thường xuyên có sự tương tác, ảnh hưởng và

bản thân trong từng tác giả hoặc khuynh hướng văn học cũng thường

không thuần nhất. Sự khởi sắc của cả một nền văn học dân tộc đã cung cấp

đối tượng, và những gương mặt tiêu biểu trong làng văn, làng báo đã trở

thành đối tượng chiếm lĩnh của chân dung văn học. Nhiều nhà văn trong

quá trình hoạt động sáng tác văn học nghệ thuật, đã tạo ra được những tác

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

38

phẩm xuất sắc, họ vươn tới đỉnh cao nghệ thuật như Nam Cao, Vũ Trọng

Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Thế Lữ, Nguyễn

Bính, Xuân Diệu… Những nhà văn nổi tiếng này dễ thu hút độc giả - người

thưởng thức, và thu hút cả giới nhà văn - những người sáng tác.

Đọc những bài viết thuộc thể tài chân dung văn học trong Tao đàn,

người đọc có cảm tưởng như được gặp gỡ và trò chuyện với các gương mặt

vốn thân quen và đáng kính trọng. Đặc biệt là chân dung của thi sĩ Tản Đà

Nguyễn Khắc Hiếu và nhà văn Vũ Trọng Phụng. Họ hiện ra trước mắt chúng ta

bình dị và biết bao cảm động. Các tác giả đã khuấy động vào con tim khối óc

chúng ta trước những con người với những số phận lênh đênh, tài hoa nhưng

cũng lắm gian truân. Nhờ những bài viết này, chúng ta đã hiểu được số phận

những người nghệ sĩ tài ba, và hơn hết hiểu được sâu sắc “nghề văn” - một

nghề cao quí nhưng cũng đầy gian nan.

Đồng thời, sự gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây cũng đã

mang đến cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế

kỉ. Sự biến thiên đó đã kéo theo cả cuộc cách mạng của “một thời đại trong

thi ca” (chữ dùng của Hoài Thanh). Phong trào Thơ mới ra đời là một sự

đổi thay, chuyển mình của những tư tưởng mới, những hình thức mới của

cuộc đời. Khuôn khổ Thơ cũ rạn nứt, được thay bằng những thể thức thơ tự

do mới để chuyển tải những rung động tinh tế, vi diệu của tâm hồn, sự thức

tỉnh cái tôi cá nhân của một loạt những trí thức trẻ tuổi và theo đánh giá

của Hoài Thanh: “Hãy sánh thời đại cùng thời đại. Tôi quyết rằng trong

lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời

đại này” [36, tr.31]. Từ đây, trong tâm thế hân hoan, vừa đánh giá, tổng kết

sự thắng lợi của Thơ mới, vừa là tuyển chọn, giới thiệu những tinh hoa,

hơn bốn mươi gương mặt Thơ mới của một thời đại thi ca đã lần lượt xuất

hiện dưới ngòi bút của Hoài Thanh - Hoài Chân, đó là: Tản Đà, Thế Lữ, Vũ

Đình Liên, Lan Sơn, Thanh Tịnh, Thúc Tề, Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Đoàn

39

Phú Tứ, Xuân Diệu… Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

Sự tiếp xúc với nền học thuật Âu châu cũng đưa đến những thành tựu

lớn, trong đó có sự thành công của những nhà lí luận, phê bình văn học. Nhà

văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình được tác giả xếp vào loại phê

bình văn học, tuy nhiên đường biên của thể loại đã được kéo giãn giao thoa,

thẩm thấu vào thể tài chân dung văn học, chúng ta được tiếp cận với bảy mươi

tám chân dung nhà văn hiện đại từ cuối thế kỉ XIX đến những năm của thập

niên 40 của thế kỉ XX. Theo giới thiệu của chính tác giả trong lời nói đầu của

bộ sách, đây chính là “những nhà văn cùng thời với chúng ta. Trong số ấy, có

một vài nhà văn đã quá cố, nhưng họ vẫn rất gần ta; còn phần đông là những

người đang tìm tòi, đang sáng tác để đi đến sự tận thiện tận mĩ” [27, tr.7]. Khái

niệm “nhà văn hiện đại” được đem làm đối tượng để dựng chân dung theo định

nghĩa của Vũ Ngọc Phan đó phải là “nhà văn, nhà bác học, là người đã làm

khuôn mẫu cho lớp nhà văn đi tiên phong, lớp người chuyên về dịch thuật và

biên khảo mà ta có thể coi là những lối văn mới” và “Nhà văn theo nghĩa (…)

dùng đây là những người viết văn xuôi hay văn vần, có tính cách vĩnh viễn,

đăng trong các báo chí hay trong những sách đã xuất bản, mà điều cốt yếu là

những văn phẩm của họ đã được nhiều người chú ý” [27, tr.12]. Như vậy, đối

tượng của thể chân dung văn học có thể còn vừa là những nhà văn vừa là

những nhà văn hoá, những nhà hoạt động xã hội, nhà báo nổi tiếng, góp phần

làm nên bộ mặt tinh thần, làm nên văn hóa dân tộc. Họ là những nguyên mẫu

trong văn học. Có thể coi đây là “lực lượng sáng tác” văn chương thời kỳ này.

Đây cũng là một mặt bằng rộng rãi, phong phú. Và đối tượng để dựng những

chân dung văn học chính là những cây bút kiệt xuất trong toàn bộ hệ thống. Cái

nhìn chọn lọc ấy sẽ là thao tác đầu tiên của người viết chân dung văn học.

Những bài viết trong Tao đàn và hai công trình tiêu biểu kể trên, bằng

những gì được thể hiện còn phác thảo nên những chân dung nữa, đó là chân

dung của chính tác giả của những bài viết, công trình đó, là những tên tuổi nổi

tiếng như Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu, Thanh Châu, Nguyễn

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

40

Triệu Luật, Lan Khai, Xuân Diệu, Trúc Khê Ngô Văn Triệu, Nguyễn Công

Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyễn Nhất Lang, Đinh Gia Trinh, Lê Thanh, Tam Lang,

Tchya, Nguyễn Vỹ, anh em Hoài Thanh - Hoài Chân và Vũ Ngọc Phan. Với

thể tài chân dung này, sự nghiệp văn học của Hoài Thanh - Hoài Chân và Vũ

Ngọc Phan trở nên đầy đặn hơn, phong phú hơn. Những bài viết được xếp vào

nhóm thể tài này được in trên Tao đàn cũng đã đóng góp cho thể tài chân dung

văn học một tiếng nói mới, mở đường cho sự thành công của loại hình sáng tác

này trong những giai đoạn về sau.

Như vậy, “nhân vật chính” trong các trang chân dung là những con

người khác nhau với những tính cách và số phận mang tính cá thể. Trước hết,

họ là các nhân vật được dựng chân dung. Họ đến và đi qua một vài trang viết,

nhưng ấn tượng và dư vị cảm xúc họ để lại cho người đọc thì thật sự thấm thía,

dài lâu. Những dòng chữ “chân thực đến đáy” nhưng vẫn đầy trân trọng, yêu

thương của các tác giả dựng chân dung đã để lại cho người đọc niềm xúc cảm

sâu xa về từng con người cụ thể với từng tâm hồn và số phận riêng tây.

2.1.3. Cung cấp tư liệu

Chọn viết chân dung văn học, các nhà văn đã tự nhận về mình những

khó khăn của lớp người khai phá một thể loại mới trong lịch sử văn học dân

tộc. Sự khó khăn ấy kích thích thêm ý thức sáng tạo của nhà văn trước nhu cầu

cung cấp tư liệu văn học cho độc giả. Hay nói cách khác, một trong những yếu

tố làm nên cảm hứng dựng chân dung ở người cầm bút chính là mong muốn

được cung cấp tư liệu cho người đọc, mà đúng như I.Erenbua đã từng thổ lộ:

“Từ lâu tôi muốn viết về một số người mà trong đời tôi có gặp về một số sự

kiện mà tôi từng là kẻ tham gia hay chứng kiến”. Để làm được điều đó, đòi hỏi

người dựng chân dung phải có những hiểu biết về cuộc đời, số phận, sự nghiệp

của một con người đặc biệt, trong số những nhà văn, nhà thơ - đối tượng chính

của chân dung văn học. Những hiểu biết này có thể được thu lượm từ chính

mối quan hệ giao hữu thân sơ, từ chính những trải nghiệm với tư cách là người

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

41

trong cuộc cùng chứng kiến hay đôi khi là một sự hình dung “hư cấu” về người

văn thông qua trí tưởng tượng từ những cảm nhận trên hơi văn.

Chẳng hạn như chân dung Lưu Trọng Lư hiện lên trong trang viết của

Hoài Thanh được bắt đầu bằng những hình ảnh hết sức gần gũi được xây dựng

trên mối tình thân giữa ông với thi sĩ. Còn gì thú vị bằng được chứng kiến:

“Lư đang nằm trên giường xem quyển Tiếng thu bỗng ngồi dậy cười to:

- A ha! Thế mà mấy bữa ni cứ tưởng...

- ?

Hai câu

Giật mình ta thấy bồ hôi lạnh,

Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi.

Mấy bữa ni tôi ngâm luôn mà cứ tưởng là của Thế Lữ...

Thì ra hai câu ấy của Lư!” [36, tr.321].

Hoài Thanh đã dành những lời âu yếm, đầy tình cảm cho người bạn văn

chương đáng yêu của mình: “Ở đời này, ít có người lơ đãng hơn. Nếu quả như

người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ, ngác ngác, chân bước chập chững trên

đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết. Giá một ngày kia Lư có nhảy xuống

sông ôm bóng trăng mà chết ta cũng không ngạc nhiên một tí nào” [36, tr.321].

Nhưng cũng có những chân dung văn học được dựng nên chỉ dựa trên

câu chuyện liên quan đến sự xuất hiện của thi phẩm và trên những tưởng

tượng của tác giả trên tác phẩm của người được dựng chân dung, như là tác

giả T.T.Kh. Hoài Thanh cung cấp cho ta một ít tư liệu về sự có mặt của bài

thơ: “Hồi tháng 9-1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn của

Ô.Thanh Châu: “Hoa ti gôn”. Ít ngày sau tại tòa báo nhận được một bài thơ

nhan đề “Bài thơ thứ nhất”, rồi lại nhận được một bài nữa: “Hai sắc hoa ti

gôn”. Hai bài đều kí tên T.T.Kh. Và đều một nét chữ run run. Từ đấy tòa soạn

Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài nào nữa và cũng không biết T.T.Kh

ở đâu” [36, tr.380]. Và với ít tâm tình được gói trong bài thơ, Hoài Thanh đã

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

42

tưởng tượng nên hình ảnh một “cô bé T.T.Kh yêu” với hình ảnh “người yêu

của cô có nét mặt rầu rầu và có lẽ đã đọc nhiều văn Từ Trẩm Á” [36, tr.381].

Và rồi kết thúc đường kí họa chân dung bằng những nét phác thảo để lại trong

lòng người đọc một nỗi buồn bâng khuâng khôn bờ bến: “Bốn năm đã qua từ

ngày tờ báo vô tình hé mở cho ra một cõi lòng. Ai biết “con người vườn

Thanh” bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn

riêng cho đến khi về chín suối”[36, tr.382].

Chân dung văn học có thể hướng vào việc dựng lại diện mạo toàn vẹn

(hình thể, tinh thần, sáng tác...) của nhân vật hoặc hướng vào việc khám phá

nét chủ đạo của cuộc đời “nhân vật” ấy, có khi qua một lát cắt thời gian nhất

định, để từ đó cung cấp được những tư liệu rất đáng quí cho người đọc.

Thành tựu của Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan trước hết là nằm ở

sự cung cấp một pho tư liệu cẩn thận, tỉ mỉ về bảy mươi tám gương mặt nhà

văn tham gia sáng tác từ cuối thế kỉ XIX đến đầu những năm 40 của thế kỉ

XX. Chính trong lời nói đầu của tác phẩm này, Vũ Ngọc Phan đã thể hiện rõ

mục đích “nói đến thân thế của các nhà văn để đặt họ vào những tác phẩm

của họ, đem cuộc đời của họ mà đọ với những ý nghĩ của họ” [27, tr.7], giúp

cho “những người hiếu văn tiện việc tra cứu, và nhất là muốn cho có thể xét

tất cả các tác phẩm của một nhà văn trong một mục, để đoán định về sự tiến

hóa và bước đường tương lai của nhà văn ấy” [27, tr.8], đồng thời giúp cho

“những người lưu tâm đến văn chương nước nhà tiện việc tra cứu và có thể

biết qua về sự tiến hóa của văn học hiện đại” [27, tr.10].

Giới thiệu bảy mươi tám chân dung mà công việc của họ đã tác động tới

hành trình tư duy của dân tộc Việt Nam trên 1000 trang sách, Vũ Ngọc Phan

đối với mỗi chân dung nhà văn luôn có sự giới thiệu rất cụ thể họ là ai, nghiêng

về sáng tác thể loại nào, khuynh hướng ra làm sao. Chẳng hạn, mở đầu trang

viết về Nhất Linh, ông nhận xét: “Ông là một tiểu thuyết gia có khuynh hướng

cải cách.” Về Trương Chính: “Ông là một nhà văn đến nay chỉ chuyên viết có

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

43

một loại phê bình” [27, tr.598]. Về Hoài Thanh: “Ông là một nhà văn chuyên

về mặt biên khảo” [27, tr.604]. Về Vi Huyền Đắc: “Ông nổi tiếng về kịch từ

trên mười năm nay” [27, tr.624]. Về Đoàn Phú Tứ: “Ông là một kịch gia mà tài

nghệ khác hẳn Vi Huyền Đắc. Có thể nói Vi Huyền Đắc thẳng thắn, nghiêm

trang đến cả trong các vở hài kịch, còn Đoàn Phú Tứ trong những vở không

hẳn là hài kịch cũng dí dỏm và tài hoa” [27, tr.636]. Về Nguyễn Giang: “Ông

chỉ làm rặt một lối thơ Đường luật” [27, tr.654]... Qua những lời giới thiệu mở

đầu rất gãy gọn, người đọc có thể hình dung ngay vai trò của nhà văn ấy trong

tiến trình lịch sử văn học dân tộc.

Đồng thời, để những tư liệu được cung cấp không trở nên khô khan, chỉ

mang tính liệt kê, Vũ Ngọc Phan đã thổi hồn vào trong những trang viết về mỗi

nhà văn Việt Nam hiện đại bằng cách nắm bắt lấy những đường nét cơ bản trong

sáng tạo của họ, để từ đó trình làng trước độc giả cái thần thái cốt yếu của từng

gương mặt nhà văn, nhà thơ. Ví như, nhận xét về Lưu Trọng Lư, tác giả nắm ngay

cái thần của thi sĩ mà có rất nhiều nét tương đồng trong cách nhìn về người thơ

này dưới con mắt của Hoài Thanh, đó là: “Có thể tóm tắt tất cả những ý trong thơ

của Lưu Trọng Lư vào hai chữ tình và mộng. Lưu Trọng Lư là một thi sĩ đa tình

và mơ mộng. Thơ của Lưu Trọng Lư là tất cả một tấm lòng thổn thức của con

người mơ mộng lúc nào cũng nặng lòng yêu dấu” [27, tr.672]. Hay đánh giá về

nhà văn tài hoa, có phong cách độc đáo là Nguyễn Tuân, Vũ Ngọc Phan đề cao:

“Ông là một nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng, cả về lối văn lẫn về tư tưởng”

[27, tr.415]. Từ những dòng văn “gần tới sự toàn thiện toàn mĩ” Vang bóng một

thời, Vũ Ngọc Phan đã làm con đường đi ngược lại từ văn đến người, giúp người

đọc hình dung nên được một chân dung đầy thú vị của “tùy bút gia” với nét tính

cách đầy kiêu bạc không chỉ trong văn chương mà còn cả trong cuộc đời thường

nhật, với “lối hành văn đặc biệt của ông và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn

bằng những giọng tài hoa, sâu cay và khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa

bãi, lôi thôi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một

trạng thái của tâm hồn” [27, tr.415].

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

44

Như vậy, với những tình cảm mến yêu, Vũ Ngọc Phan đã góp phần dựng

nên một chân dung văn học Nguyễn Tuân thêm sáng rõ thông qua việc dựng lại

con người ông trong văn chương. Nhờ vậy, người đọc đã tìm thấy được rất

nhiều tư liệu có tính học thuật cao, đồng thời cũng rút ra cho mình những cảm

nhận độc lập riêng, đầy thú vị.

Riêng những bài viết về Tản Đà và Vũ Trọng Phụng, bởi sự đặc biệt của

nó ra đời như những lời tưởng niệm sâu sắc, nghiêng mình của những người

bạn đồng giới trước sự ra đi của hai văn tài này, nên cuốn hút người đọc bằng

những lối viết giản dị, chân tình, đầy xúc động. Từ những câu chuyện chân

thực về cuộc đời và số phận của họ do các bạn văn dựng lại qua một vùng hồi

ức với những kỉ niệm, những trang viết trên Tao đàn ngày ấy đã tạo nên được

một hiệu quả kép cần có trong những chân dung văn học: giúp người đọc hiểu

một cách chân thực số phận, cuộc đời của hai tác giả sau mỗi con chữ của họ

và đánh giá đúng, khách quan giá trị văn chương của hai tác giả ấy.

Trương Tửu đã từng đề ra yêu cầu nhận thức về một nhà văn trong bài viết

Địa vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam cận đại: “Muốn hiểu con người Vũ

Trọng Phụng, muốn hiểu văn chương Vũ Trọng Phụng, phải truy cứu đến ảnh

hưởng quyết định của hoàn cảnh ấy” [37, tr.1350]. Những câu chuyện chi tiết được

tiết lộ về cuộc đời Vũ Trọng Phụng: “Vũ Trọng Phụng sinh trưởng trong một

gia đình nghèo và bồ côi cha từ nhỏ. Không được hưởng cái ấm cúng của

những gia đình phú quý, không được cái diễm phúc theo ở các trường cao cấp

như các con nhà phong lưu, ông mang nặng trong lòng từ lúc thiếu thời, toàn

những căm hờn, thù ghét và buồn tủi. Lớn lên, ở cái độ tuổi mà người khác

được thong dong học tập và đùa nghịch, ông phải lăn lưng vào cuộc đời, đổi

mồ hôi lấy bát cơm. Làm thư kí ở một hiệu buôn lớn của người Pháp, lại làm

thư kí ở một hiệu buôn lớn khác cho đến lúc ông đoạn tuyệt với đời viên chức.

Trong lúc mưu sinh, cái linh hồn ngây thơ của ông bị tắm gội trong những

hoàn cảnh phức tạp, ở đó sự va chạm bi đát và trào phúng các hạng người

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

45

thường diễn ra hàng ngày, hàng giờ, hàng phút cùng với những cái gì có thể gọi

là tồi tệ cực điểm của các thứ phong tục và tâm lí hạ đẳng. Ông bị bắt buộc

phải nhìn và hiểu cái thực trạng của thân thế mình và cái thực trạng xã hội...

Ông nhìn thấy rặt những cái giả dối, những cái bẩn thỉu ở chỗ này bị che lấp

dưới một màu sắc huy hoàng, ở chỗ kia bộc lộ một cách vô sỉ và bỉ ổi. Chỗ nào

ông cũng thấy mưu cơ xu nịnh, lừa đảo. Chỗ nào ông cũng thấy cá nhớn nuốt

cá bé, kẻ khỏe đè kẻ yếu. Chỗ nào cũng có tội ác và trụy lạc.

Có hiểu thêm như thế về cuộc đời Vũ Trọng Phụng, chúng ta mới lí giải

sâu sắc hơn cái thế giới xấu xa, đen tối với bao nhiêu thối mọt, cặn bã mà nhà văn

đã phơi bày trong tác phẩm của mình.

Thêm vào đó, từ những phác thảo của bạn bè, chúng ta - người đọc hiểu

hơn một chân dung Vũ Trọng Phụng - con người tài năng nhưng lại có một

cuộc đời “cơm áo ghì sát đất” với những nỗi nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh và

chiến đấu với bệnh tật dày vò thể xác. Dựng lại số phận và sự nghiệp sáng tác

của Vũ Trọng Phụng, những đồng nghiệp đã bày tỏ một niềm tiếc thương sâu

sắc với con người tài năng bạc mệnh, ra đi khi tài năng đang nở rộ, và mang

đến cho người đọc những tình cảm yêu mến, trân trọng và hiểu chính xác hơn

những chân giá trị đích thực trong văn phẩm của ông.

Có thể thấy rõ tác giả của những tác phẩm chân dung văn học là

những cây bút thuộc loại nhân vật chính của một thế kỉ văn chương và bối

cảnh câu chuyện ở đây lại là những sự kiện lớn lao cũng tức là cả mảng tài

liệu ngổn ngang mà ai quan tâm đến lịch sử đều muốn biết. Như vậy,

không chỉ cung cấp nguồn tư liệu phong phú về cuộc đời, số phận, văn

nghiệp của nhà văn, nhà thơ, các tác phẩm chân dung văn học thời kì này

còn đem lại cho người đọc những hiểu biết về một giai đoạn lịch sử, về xã

hội và bối cảnh văn học một thời. Đặt người nghệ sĩ sáng tác vào một trong

những giai đoạn ấy, bối cảnh thời đại ấy sẽ giúp ta có cái nhìn tổng quát,

toàn diện và cũng là đúng đắn hơn khi tiếp cận thế giới nghệ thuật.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

46

2.1.4. Nhận thức và tôn vinh giá trị đích thực của tác phẩm, tác giả

Dựng thành công chân dung văn học về một nhà văn, nhà thơ, nhà báo

không phải là chuyện đơn giản, dễ dàng. Đấy vừa là kết quả của việc “đọc”

sáng tác của người ấy, lại vừa là kết quả của việc “đọc” trực tiếp vào cuộc đời

và sự nghiệp, quan niệm và hoạt động của bản thân người ấy. Bản thân việc

dựng một chân dung, về thực chất cũng bao hàm sự lí giải về một nghệ sĩ, sự

đánh giá vị trí và vai trò của con người đó trong một nền văn nghệ. Nghĩa là

trong chiều sâu, nó không kém nghiêm ngặt so với yêu cầu đặt ra trong nghiên

cứu, phê bình, ấy là chưa nói đến tính hình tượng và sự cảm thụ trong ngôn từ.

Đến với thể tài chân dung văn học, người đọc được chứng kiến sự hồi

quang của cả một thời đại thông qua những trang viết. Bên cạnh tính chân thực,

thẳng thắn thừa nhận những hạn chế, bảo đảm sự thật vốn có, tác phẩm chân

dung văn học còn cuốn hút người đọc bởi cảm hứng ngợi ca về những con

người được dựng chân dung. Nhà văn - người dựng chân dung có thể ngợi ca

về một tài năng, một phẩm chất, một vẻ đẹp của đối tượng, nhưng sự ngợi ca

này không phải là tô hồng, khoác thêm những điều ngoài sự thật, bởi lẽ trung

thực là yêu cầu thiết yếu và cũng là trước hết của công việc dựng chân dung.

Từ sự thu nạp những chi tiết về người muốn ngợi ca, người viết đã dựng lên

một bức tranh hiện thực đa dạng và chân thực về cuộc sống, con người. Sự

ngợi ca đều xuất phát từ sự thật những gì đối tượng có, qua lăng kính chủ quan

của nhà văn nó đã được khúc xạ, ánh xạ.

Đọc lại những trang viết chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 ngày

ấy, độc giả được tiếp cận với đời sống của các nhà văn tên tuổi một thời -

những con người “hằn dấu mình lên dung mạo của thế kỉ”, với những đánh giá

trân trọng mang tính văn học sử.

Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một công trình phê bình văn học khá

đồ sộ viết về bảy mươi tám chân dung nhà văn sáng tác bằng chữ quốc ngữ, đã góp

phần tạo nên “những tác phẩm xuất bản trong khoảng ba mươi năm gần đây”, ảnh

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

47

hưởng đến người đời, làm nên sự phong phú cho nền văn hóa đất Việt. Cảm hứng

ngợi ca đã đến ngay từ đầu trang sách khi tác giả giới thiệu trong lời nói đầu: “Đây

phần đông là những người đang tìm tòi, đang sáng tác để đi đến sự tận thiện tận

mĩ” [27, tr.7]. Và trong lời kết luận: “Rừng văn Việt Nam mỗi ngày một nẩy thêm

cây mới, ra hoa kết quả trùng trùng, làm cho đối với nền văn học hiện đại chúng ta,

không một ai có thể hoài nghi được” [27, tr.408].

Dựng chân dung về những con người, nhất là những người nổi tiếng, phải

đảm bảo dược sự chân thực và tin tưởng nhưng lại vừa phải đảm bảo cái độc

đáo, tinh tế trong cảm nhận mang tính chủ quan của riêng người viết. Với Vũ

Ngọc Phan, chúng ta vẫn tìm thấy cách phác thảo mỗi gương mặt viết văn rất

riêng song đồng thời vẫn nằm trong cái khuôn khổ tỉnh táo của con mắt một

người làm công tác phê bình. Sự am hiểu về đối tượng được dựng chân dung

của Vũ Ngọc Phan thực sự là cơ sở đáng tin cậy cho cảm hứng ngợi ca ở tập

sáng tác này. Ông cung cấp cho người đọc những đánh giá mang tính chất vừa

là giới thiệu vừa là tổng kết về vị trí của từng tác giả. Ví như với Phan Khôi,

Tản Đà, Nguyễn Tuân… Vũ Ngọc Phan dành những tình cảm rất mực trân

trọng: “Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái nho

học. Ở một nhà cựu học như ông, người ta đã thấy rất nhiều cái mới, nhiều cái

mà đến nhiều người tân học cũng phải cho là “mới quá”. Đó thật là một sự

chẳng ngờ” [27, tr.237]. Hay nhận xét về Tản Đà: “Ông là một nhà thơ biệt

phái, cũng như những bài ca có tiếng của ông là những bài mà tay thợ thơ

không tạo nên được” [27, tr.398]. Ông cũng sớm nhận ra: “Văn Nguyễn Tuân

không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa khi mà

văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng hơn bây giờ, tôi dám

chắc những văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một vị trí xứng đáng hơn

nữa” [27, tr.439]. Cảm hứng ca ngợi đó thể hiện một sự nghiên cứu, tìm hiểu tỉ

mỉ của Vũ Ngọc Phan đối với toàn bộ sự nghiệp của Phan Khôi, Tản Đà,

Nguyễn Tuân và cũng là đối với nhiều nhà văn khác nữa.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

48

Những xét đoán mà Vũ Ngọc Phan đưa ra đối với mỗi chân dung cho

đến nay vẫn còn nguyên giá trị như những nguồn tư liệu đáng quí, giúp độc

giả có được định hướng khi tiếp cận văn nghiệp của các tác giả đã được

dựng chân dung. Đặc biệt, việc nhấn mạnh vai trò, đóng góp của từng

gương mặt nhà văn đối với lịch sử văn chương nước nhà rất được tác giả

chú trọng, như những nhận định: “Nếu đã đọc những tiểu thuyết của các

nhà văn đi tiên phong, từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng phải nhận ra rằng

từ Hoàng Ngọc Phách và Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết nước ta mới bắt đầu

đến bước vững vàng, để dần dần đi tới ngày nay là lúc đã có thể chia ra

nhiều ngả, phân ra nhiều loại” [27, tr.342]. Điều đó tạo cho người đọc có

được sự tra cứu thuận lợi khi nhìn lại những mốc đánh dấu sự phát triển

của văn chương và học thuật của nền văn học Việt Nam.

Cái nhìn khách quan của ông không quên bỏ quên ngay cả đối với những

trường hợp phức tạp về chính trị, chẳng hạn như Phạm Quỳnh. Vũ Ngọc Phan

chỉ ra rằng Phạm Quỳnh có một vai trò đáng kể đối với tạp chí Nam phong thời

ấy, “ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam phong”. Ông nhận thấy con

người này là một con người “vững vàng, chắc chắn làm cho người đọc tin cậy”,

có “một khuynh hướng rõ ràng về học thuyết hay về những thứ mà phần tư

tưởng là phần cốt yếu”, “là người chủ trương cái thuyết: đọc sách Tây là để

thâu thái lấy tư tưởng, lấy tinh thần văn hóa Âu Tây để bồi bổ cho nền quốc

văn còn khiếm khuyết, để chọn lấy cái hay của người mà dung hòa với cái hay

của mình, ngõ hầy gìn giữ cho cái học của mình không mất bản sắc, mà vẫn có

cơ tiến hóa được” [27, tr.76]. Để từ đó, đi đến nhận định khách quan: “Cái

công Phạm Quỳnh “khai thác” lúc đầu cho nền quốc văn có ngày nay, thật là

một công không nhỏ” [27, tr.107].

Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã dành trọn tình

cảm, tâm huyết, niềm say mê của mình để dựng lại chân dung của hơn bốn

mươi gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Tác phẩm không chỉ

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

49

làm sống lại hồn thơ say đắm mà bơ vơ của cái tôi những người trí thức trẻ

một thuở khi chưa tìm ra con đường cách mạng, giải phóng khỏi sự tù túng,

áp bức mà còn là cảm thông, thấu hiểu tâm hồn của tác giả đối với họ, là sự

ca ngợi tài năng và tâm hồn của những người thơ một thời. Ngập tràn

những trang viết là một nguồn cảm hứng mê say, ngợi ca, đồng điệu ngân

lên khúc nhạc lòng với những tâm hồn Thơ mới.

Cái độc đáo, lối đi riêng của Hoài Thanh - Hoài Chân chính là ở tấm

lòng chắt lọc lấy ánh hào quang của cái đẹp mỗi linh hồn thơ, những người

có tên tuổi và nhận ra thơ họ đẹp, hồn họ đồng điệu với tác giả, thế là đủ.

Ngay chính trong lời kết thúc cuối tập chân dung, tác giả cũng trải lòng thổ

lộ: “Gặp thơ hay, tôi triền miên trong đó. Tôi ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy

hồn tôi để hiểu hồn người. Thỉnh thoảng có nói đến cái dở là cũng cốt để nói

lên cái hay mà thôi. Chứ dở thì giữa đời thiếu gì mà phải đi tìm trong thơ.

Nói chắc bạn không tin, nhưng thực tình tôi chẳng muốn chê ai mà cũng

chẳng muốn khen ai. Tôi chỉ muốn hiểu cho đúng - không phải cho đủ - hình

sắc các hồn thơ. Và như thế tôi đã phải cố gắng nhiều lắm. Vì trong các nhà

thơ cũng nhiều người tôi gặp giữa đời. Có người thơ tuyệt đẹp mà đối với tôi

lại toàn những cử chỉ rất mực xấu xa. Họ phũ phàng, họ nhỏ nhen… Nhưng

thôi, tôi nói ra làm gì. Những cử chỉ xấu kia là bề ngoài; phần sâu sắc nhất

trong tâm hồn họ đã ghi lại nơi những vần thơ đẹp. Tôi tin như thế. Đừng ai

làm tôi hết tin. Đừng ai làm tôi hết lòng tin. Trái lại, có những nhà thơ tử tế

với tôi vô cùng mà thơ của họ tôi lại chỉ thích…có hạn. Nếu bảo rằng tôi

không ái ngại người này, không khinh ghét người kia, thì e không thực.

Nhưng ái ngại hay khinh ghét, khi xem thơ tôi chỉ biết có thơ. Tôi không hề

nghĩ đến danh vọng của người hay của tôi. Danh vọng quí thật, nhưng còn

có điều quí hơn danh vọng, quí hơn hết thảy: lòng ngay thẳng, mà ít nhất

cũng phải giữ trọn trong văn chương” [36, tr.386-387].

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

50

Nếu như Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh - Hoài Chân có khuynh hướng dựng

chân dung bằng cách phân tích, luận bàn về khí cách tác phẩm, tư tưởng, phẩm

chất, phong cách sống và văn nghiệp của đối tượng và đặc biệt là dựa trên tác

phẩm để hình dung ngược lại về con người được dựng chân dung, thì những bài

viết trong hai số đặc biệt của Tao đàn về Vũ Trọng Phụng và Tản Đà và các bài

viết về các bậc đàn anh như bài Ông Phan Khôi và Ông Nguyễn Bá Trác của Lưu

Trọng Lư lại dựa trên sự khai thác những kỉ niệm, những hồi ức, những tưởng nhớ

chi tiết về cuộc đời riêng tư có ý nghĩa về người anh, người bạn mình lựa chọn

dựng chân dung. Hồi tưởng lại những kỉ niệm ấy, hình ảnh người được dựng chân

dung càng hiện lên sắc cạnh và rõ nét trong một tình cảm yêu thương, trân trọng.

Khi nhớ về Tản Đà tiên sinh, Bùi Công Trùng trong bài Thi sĩ Tản Đà tạ thế

không tiếc lời ca ngợi: “Những lúc đau khổ tiên sinh đã say túy lúy và không còn

biết trời đất là gì nữa, còn lại những thì giờ nào, thì tiên sinh chỉ hát nghêu ngao,

tìm cái vui thích của mình trong một câu văn, trong một món ăn, trong một điệu

múa (vì tiên sinh cũng là một tay kiếm sĩ), trong một giọng hát (vì tiên sinh cũng

còn là một kịch sĩ). Tiên sinh là người hành lạc và đã dạy ta “đạo” hành lạc,

không phải là một đạo hành lạc thô bỉ của kẻ tham lam, mà là cái đạo hành lạc

thanh khiết, cao thượng của một kẻ tài hoa. Cuộc đời vì thế đối với tiên sinh chỉ là

một “công trình mĩ thuật”. Mà tiên sinh chỉ là một “nghệ sĩ”, một nghệ sĩ của cuộc

đời nhiều hơn là của “thơ văn”. Viết văn, làm thơ, đối với tiên sinh cũng chỉ là

một cách hưởng thụ đời, nhưng hưởng thụ một cách… mĩ thuật hơn hết” [37,

tr.946]. Cảm hứng ngưỡng mộ trước một nhân cách tài hoa, khinh bạc ấy cũng là

cảm hứng chung của những bài viết về Tản Đà, như những đánh giá: “Không ai

chối cãi được rằng Tản Đà là một thiên tài. Ở một người mà kĩ thuật sống và kĩ

thuật làm thơ được trau dồi với một chú ý tinh tế ngang nhau, ít nhất cái tài và cái

tình cũng được hóa hợp thành một nguyên thể khôn thường” [37, tr.619], của

Trương Tửu trong Sự thai nghén của một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu,

hay: “Ảnh hưởng của Tản Đà đối với lớp tân học sau thật đã ra ngoài cái kết quả

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

51

mong đợi” [37, tr.649], của Trương Tửu trong Ảnh hưởng của Tản Đà đối với nhà

văn lớp sau. Sự ngợi ca ấy cũng được Nguyễn Tuân kết thúc trong bài viết Tản

Đà một kiếm khách bằng một lối văn độc đáo rất Nguyễn Tuân: “Cái buổi chiều

ấy là một buổi chiều ông Tản Đà khởi hành ra Hà Nội để rồi đi mãi mãi, đi…

thẳng luôn vào lịch sử, của nước Việt Nam văn chương” [37, tr.946].

Bên cạnh đó, những bài viết về chân dung của Vũ Trọng Phụng cũng trở

thành nguồn tư liệu đáng trân trọng, giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn, chính

xác hơn về nhân cách, con người ông. Vũ Trọng Phụng là một người tiên

phong, can đảm viết về cái tục, cái dâm của con người. Một cuộc tranh luận về

Vũ Trọng Phụng, tập trung vào vấn đề “dâm hay không dâm” đã nổ ra quanh

các tác phẩm như Kỹ nghệ lấy Tây, Lục sì, Làm đĩ, Số đỏ, Giông tố… Nhiều ý

kiến đã phê phán, kết tội việc miêu tả trần trụi những cảnh dâm uế hoặc đi quá

sâu vào chủ đề dục tình trong đó nặng nề nhất là Thái Phỉ (Văn chương dâm

uế, Tin văn số 25, ngày 1.9.1936) và Nhất Chi Mai (Ý kiến của một người đọc:

Dâm hay không dâm? Báo Ngày nay số 15, ngày 14.3.1937). Trước những lời

lên án đó, Vũ Trọng Phụng đã không chỉ dõng dạc biện hộ cho mình mà còn có

những lời lẽ sắc sảo và mạnh mẽ nhân danh những nhà văn “tả chân xã hội” tấn

công lại quan niệm của những nhà tiểu thuyết lãng mạn, đưa ra nhiều ý kiến

sâu sắc về thiên chức của nhà văn trong việc phơi bày và tố cáo xã hội cũng

như quan niệm của ông về tiểu thuyết. Cuộc tranh luận “dâm hay không dâm”

thể hiện thái độ và quan điểm của các khuynh hướng văn học đương thời đối

với Vũ Trọng Phụng và với khuynh hướng tả chân: phái lãng mạn lên án gay

gắt, các cây bút “văn học vô sản” hưởng ứng thận trọng hoặc phê phán nặng

nề. Đây là dịp để Vũ Trọng Phụng phản bác các quan điểm đối lập, đồng thời

tuyên ngôn hùng hồn và sâu sắc về trách nhiệm của nhà văn, nhà tiểu thuyết

trước thực tại đen tối và những vấn đề xã hội đương thời. “Các ông muốn tiểu

thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu

thuyết là sự thực ở đời”(Vũ Trọng Phụng - Dâm hay không dâm, Báo Tương

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

52

lai số 9, ngày 25.3.1937). Điều này góp phần khẳng định vị trí - cái riêng trong

văn chương Vũ Trọng Phụng.

Trương Tửu tỏ rõ sự tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của một tài năng

trẻ. Với ông, sự ra đi của Vũ Trọng Phụng đã “lấy mất hẳn một đặc sắc” của

nền văn học Việt Nam. Ngậm ngùi trong buổi đưa tang Vũ Trọng Phụng,

Thanh Châu đau lòng hình dung Vũ như một “con người ốm yếu, tàn tật” trong

chính câu chuyện của Vũ Trọng Phụng năm xưa Chống nạng lên đường, và

trong mắt ông: “Vũ quân cũng vừa kiệt lực, chống nạng lên đường. Nhưng đây

là đường vinh quang của những vì bất tử. Vũ quân đã bước qua khải hoàn môn

của các nhà văn” [37, tr.1361]. Người đọc càng thấu xót hơn trước những lời bi

ai của Lưu Trọng Lư: “Anh chưa được một nửa đời người. Văn chương còn

mong đợi ở anh nhiều lắm. Với cái chết của anh, chúng tôi đã mất đi hết một

nửa cái văn tài. (…) anh là một “mặt lạ” trong văn chương, thiếu anh, chúng tôi

thiếu nhiều lắm” [37, tr.1430]. Những hồi ức của những người bạn văn như thế

thật sự đã giúp người đọc hiểu hơn về vị trí của Vũ Trọng Phụng.

Một cái nhìn tổng quan xuyên suốt những trang viết chân dung văn học

giai đoạn 1930 - 1945 cho thấy cảm hứng chủ đạo của các trang viết là nhận

thức và tôn vinh giá trị đích thực của tác giả, tác phẩm, dù viết về nhà văn, nhà

thơ, nhà báo hay nhà nghiên cứu. Đồng thời, sau mỗi trang viết, chúng ta còn

nhận được chính tầm giá trị của những tác phẩm dựng chân dung và vị trí, công

lao to lớn của những người làm công việc dựng chân dung.

Khi đọc lại những dòng hồi tưởng trong Tao đàn, chúng ta cũng càng

hiểu thêm chân dung về tình bạn cao đẹp và tấm lòng thiết tha với nghề của

những tên tuổi từng rạng rỡ một thời như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Lan

Khai, Trương Tửu, Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư. Rồi đây, khi nền

văn chương nước nhà sẽ lần lượt vắng bóng những tên tuổi lớn thì những

tác phẩm chân dung văn học, đặc biệt là chân dung văn học của các nhà

văn lớn, sẽ là những tư liệu quý giá, quan trọng giúp cho độc giả tiếp cận

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

53

và hiểu hơn về giới nhà văn. Hơn nữa, nó còn là những nguồn tư liệu quý

giá, đáng tin cậy để người nghiên cứu và giảng dạy có thêm kiến thức để

bồi đắp cho thế hệ học sinh mai sau. Chắc chắn, cùng với tên tuổi của tác

giả, những tác phẩm chân dung như thế sẽ còn được nhiều thế hệ độc giả

say mê, tìm đọc và trân trọng.

Ngoài ra, không chỉ giúp nhận thức, tôn vinh tác giả, tác phẩm, những

sáng tác thuộc thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 còn giúp chúng

ta cắt nghĩa cả một thời đại văn học đương thời, mà đặc điểm trước hết là sự

xác lập vị trí của văn chương và nghề văn kể từ giai đoạn này.

Nhìn vào các sáng tác thuộc thể chân dung văn học giai đoạn này, cho

thấy có nhiều bằng chứng chứng minh điều đó. Điển hình như trường hợp chân

dung Tản Đà. Thông qua một loạt các bài viết kỉ niệm về Tản Đà trong Tao

đàn như Sự thai nghén một thiên tài: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu của Trương

Tửu, Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau của Nguyễn Triệu Luật,

Mộng và mộng của Lê Thanh người đọc thấy rằng nếu xét trong những quy luật

của trường quyền lực và hệ giá trị thông thường của xã hội, Tản Đà là một cá

nhân “bỏ đi”. Ông là con nhà gia thế, cha và anh đều là nhà nho, đều đỗ đạt,

làm quan. Ông được gửi gắm niềm hy vọng của gia đình về việc sẽ trở thành

một nhà khoa bảng rạng danh dòng họ nhờ việc từ bé đã nổi tiếng thần đồng.

Bản thân Tản Đà từ nhỏ đã có một tình yêu cử nghiệp do có một tinh thần tự

tín rất cao về tài năng cá nhân. Thế nhưng toàn bộ quãng đời niên thiếu và tuổi

thanh niên của Tản Đà lại là một chuỗi thất bại trong việc thực hiện cái

“chương trình cuộc đời” được truyền thống định trước: Ông liên tục hỏng thi.

Cho đến năm 1915, bế tắc trong việc lập thân như cha, anh, Tản Đà bắt buộc

phải “phá nghiệp kiếm ăn xoàng”: viết cho tờ Đông Dương tạp chí của Nguyễn

Văn Vĩnh, một tờ báo quốc ngữ có uy tín ở miền Bắc. Và dường như đó là một

sự khởi đầu đầy vinh dự. Những bài viết của Tản Đà trên mục “Một lối văn

nôm” của tờ tạp chí này được công chúng tán thưởng đến mức Nguyễn Văn

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

54

Vĩnh đã dành riêng mục này cho ông và sau đó, đổi tên hẳn chuyên mục này

thành Tản Đà văn tập. Từ đó, cuộc đời của Tản Đà là một sự pha trộn sự

nghiệp của một nhà nho muốn cứu đạo Khổng và nền luân lí Á Đông, một ông

chủ bút và chủ xuất bản và một nhà nghệ sĩ tự do. Ông cũng chính là nhà nho

đầu tiên nói nhiều nhất và thành thật nhất về thân phận của người làm nghề

“bán văn buôn chữ kiếm tiền tiêu” trong xã hội tư sản.

Như vậy, vai trò của người cầm bút và giá trị của văn chương đã khẳng

định được vị trí của mình. Từ đây, trong lịch sử văn chương ở Việt Nam, viết

văn đã chính thức trở thành một nghề để kiếm sống với tất cả những sang hèn,

vinh nhục, viết văn “kiếm ăn”, viết văn “bán phố phường”, trong một thứ

“duyên nợ ba sinh” - một sự nghiệp mà người ta đeo đuổi với vô vàn gian khổ.

Điều này từng được Hoài Thanh nhắc đến trong những trang viết về chân dung

như Xuân Diệu, Nguyễn Vỹ, và được đề cập đặc biệt sâu sắc trong những bài

viết của Tao đàn về Vũ Trọng Phụng. Dẫu vậy, cũng từ các trang dựng chân

dung, ta nhận thấy, có những xác tín về một thứ văn chương mà các nhà văn

phải nhọc lòng, phải theo đuổi cả cuộc đời, một thứ văn chương mà họ phải

“rút ruột” đúc nên vẫn không suy suyển. Đó là một xác tín đã kịp trước bạ vào

trong đời sống trí thức Việt Nam từ trước đó nhiều thế kỉ. Như vậy, có thể nói

các sáng tác chân dung văn học thời kì này đã phản ánh và cắt nghĩa một cách

đầy đủ thời đại văn học trong những thập niên đầu thế kỉ XX.

2.2. Góc độ tiếp cận đối tƣợng

2.2.1. Tiếp cận với tư cách người trong cuộc, trong giới

Nhìn lại các sáng tác thuộc thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930-

1945, ta thấy mỗi bước đi là một bước phát triển, tạo tiền đề cho sự dày thêm

về số lượng và mĩ mãn hơn về chất lượng nghệ thuật của thể tài này trong giai

đoạn này về sau. Ta có thể gặp lại nhiều lần, nhiều nhân vật ở những tác phẩm

khác nhau, song không có sự trùng lặp nhàm chán mà gần như là bổ sung, hoàn

thiện, rõ nét bức chân dung hơn nữa mà thôi.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

55

Trên một bề diện rộng, các tác phẩm chân dung thời kì này đã viết về

các nhà văn nhà thơ, nhà viết kịch và cả những người hoạt động xã hội. Họ còn

hay mất, là nam hay nữ, thế hệ đàn anh hay lớp trẻ sau này, đã đi vào các trang

viết một cách tự nhiên, theo những cách thức riêng muôn màu muôn vẻ. Có

người được “chụp” riêng một bức chân dung, cũng có người hiện lên thấp

thoáng suốt toàn bộ tác phẩm với những độ đậm nhạt khác nhau.

Qua những sáng tác trong mảng chân dung văn học, ta không chỉ thấy

được những chân dung của những nhà văn, nhà thơ cùng thời, mà ta còn thấy

được bức chân dung của chính tác giả - người dựng chân dung. Hình tượng tác

giả được phác thảo với những nét cơ bản sau như là một nhân chứng đáng tin

cậy. Điểm đáng tin cậy đầu tiên là vì tác giả là người cùng thời. Không chỉ

cùng thời mà còn là cùng trong làng văn, làng báo, cũng đã từng nếm trải bao

vinh nhục, thăng trầm của một giai đoạn lịch sử đất nước nói chung và lịch sử

văn học Việt Nam nói riêng có nhiều biến động và không ngừng đổi thay. Là

người trong cuộc, Hoài Thanh - Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, các nhà văn

viết cho Tao đàn như Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Triệu Luật,

Lan Khai, Thanh Châu, Trương Tửu, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,

Tam Lang… đều am hiểu tường tận từng ngõ ngách của chuyện làng văn.

Họ trước hết là nhân chứng đáng tin cậy, nhân chứng sống của thời đại.

Chính Hoài Thanh cũng đã không ít lần tự nhận mình: “Nhưng tôi là người

thời bấy giờ. Dầu vui dầu buồn tôi muốn sáng cái đời bây giờ đã” [36,tr.

385] ; “Tôi đã sống trong lòng thời đại. Kể lịch sử thời đại làm sao có thể

không nhớ lại những năm vừa qua trong đời tôi. Cũng như nói về các nhà

thơ tôi thích làm sao lời nói của tôi không đượm chút bâng khuâng lúc xem

thơ ” [36, tr.388] và xếp mình cùng các thi sĩ thời ấy là “chúng tôi”. Vũ

Ngọc Phan cũng chung một bối cảnh như thế, điều đó đã được ông giới

thiệu trong lời nói đầu của tác phẩm, một công trình sáng tác viết về

“những nhà văn cùng thời với chúng ta” [36,tr.7]. Nhờ góc độ tiếp cận

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

56

này, độc giả thấy tin cậy hơn những tư liệu được cung cấp trong mỗi trang

viết bởi lẽ góc nhìn gần gũi ấy cho phép nhà văn đi sâu vào những ngõ

ngách sâu kín trong tâm hồn đối tượng được dựng chân dung, xóa đi

khoảng cách vô hình giữa nhà văn, nhà thơ, nhà báo - đối tượng, nhà văn -

tác giả với người đọc. Thêm vào đó, những lí giải, cắt nghĩa bên trong mỗi

chân dung được tạo nên trở nên xác đáng, quí giá hơn bởi sự thấu hiểu

hoàn cảnh, không khí thời đại và bối cảnh văn chương lúc bấy giờ của

người trong giới. Nó giúp xóa bỏ cái khoảng cách sử thi và những lí giải

đôi khi áp đặt, vô hình trong khoảng cách giữa các thế hệ quá cách xa

nhau. “Lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, không chỉ có Hoài Thanh - Hoài

Chân mà cả Vũ Ngọc Phan và những nhà văn khác khi dựng chân dung đều

nhận thấy điều ấy và dựa trên nguyên tắc ấy.

Nếu không sống cùng thời đại, cùng đau nỗi đau của người trí thức

trẻ bơ vơ chưa tìm được con đường giải phóng khỏi nô lệ, áp bức, Hoài

Thanh - Hoài Chân khó có những đồng cảm sâu sắc với thi sĩ trẻ Huy Cận

đến nhường ấy: “Đẹp làm gì, cao quí làm gì, thương mến làm gì, nếu lòng

chàng không hề đón được ít hương ân ái. Vũ trụ bao la quá, lòng chàng giá

lạnh quá, chàng muốn quên mình, quên hết thảy trong tình yêu của một

người, vô luận người nào. Chàng gõ cửa hết nơi này chốn nọ, song bao

nhiêu tâm tư đều đóng kín. Nỗi lòng xưa, nay sực tỉnh. Đọc thơ Huy Cận

tôi đã gặp lại một người em. Chỉ một người em ! Không ! Năm tháng dầu

đi qua, đời tôi dầu có khác, nhưng tuổi hai mươi đã thực chết trong lòng

tôi” [36, tr.157]. Sự bế tắc, cô đơn rợn ngợp ấy âu cũng là tâm trạng chung

của tác giả lúc bấy giờ. Lấy sự đồng điệu của tâm hồn làm bệ phóng, lấy

bối cảnh thời đại làm phông nền, chân dung Hoài Thanh - Hoài Chân cùng

những người thơ đã lần lượt được phô diễn từ những góc xoay khác nhau,

đưa đến cho người đọc một cuộc dạo xem đầy thi vị.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

57

Từ góc nhìn của người trong cuộc, trong giới, chân dung của Tản Đà

đã được dựng lên đầy độc đáo. Con người cá tính này trong con mắt của

những bạn văn, của các bậc đàn em hiện lên đầy ương ngạnh và cũng thật

đáng ngưỡng mộ. Tận mắt chứng kiến những thú chơi ngông, kì quái của

Tản Đà. Nguyễn Tuân - một nhà văn nổi tiếng với sự tài hoa, kiêu bạc,

ngông nghênh cũng phải thốt lên: “Giờ đây, tôi lại muốn đem một cái quái

tượng của xứ sở ra trình với mọi người: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu nhất

danh nữa là ấm Hiếu” [37, tr.689]. Và với tư cách người tận mắt mục sở thị

những thú ngông của Tản Đà, câu chuyện kể lại của Nguyễn Tuân về con

người này trở nên có sức hút lạ kì, khiến cho người đọc hoàn toàn tin cậy

và bị cuốn theo mạch kể của câu chuyện: “Người ngày xưa… lôi thôi lắm.

Tôi hãy bắt đầu bằng cái lôi thôi của Nguyễn Khắc Hiếu đi tắm bể Sầm

Sơn. Thứ đến là cái lôi thôi của Tản Đà khi cuốc cả nền nhà người ta để

làm vườn trồng rau thơm. Rồi thứ nữa là đem ra giới thiệu một ông Tản Đà

múa kiếm ” [37, tr.689]. Những câu chuyện có thật về một Tản Đà ngoài

đời gánh văn lên bán Chợ Giời, gửi thư lên thiên đình cầu hôn, xuống bể

Sầm Sơn bơi đứng và ăn hải sản sống; cuốc cả sân gạch hoa chỉ để trồng

rau húng, lên rừng tịch cốc, uống rượu sâm banh với nem chua trên toa xe

lửa tốc hành, đi thăm mả vua Tây Sơn với cái lối khấn ngang tàng Bắc kì

Sơn tây nhân Nguyễn Khắc Hiếu kinh quá thử địa, làm náo động cả quan

nha một vùng địa phương Bình Định, cầm đốc kiếm múa may quay cuồng

nữa… mà Nguyễn Tuân và những nhà văn cùng thời, cùng giới thuật lại đã

cho người đọc hiểu rõ hơn cái khoảng cách trùng khít giữa tính cách ngông

và giấc mộng, khối tình trong thơ của thi sĩ.

Khi Vũ Trọng Phụng mất đi, những nhà văn thân thiết cũng đã hồi

tưởng lại chân dung của ông từ cái nhìn đầy sẻ chia, thấm thía của người

trong cuộc. Đó là câu chuyện của Nguyễn Triệu Luật, một người mà “Vũ

Trọng Phụng với tôi, ngoài cái quan hệ cùng thuộc đoàn nhà văn với nhau

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

58

ra, còn có những quan hệ khác, gần như những quan hệ thuộc tộc đằng

huyết thống. Phụng vẫn coi tôi như một người trưởng thưởng mà tôi cũng

hằng coi Phụng như người nhà. Tôi có đáng Phụng coi như thế không, cái

đó là một chuyện khác, song sự thật là như thế. Quăng ra ngoài làng văn,

ngoài xã hội, thì chúng tôi như đôi bạn, nhưng về nhà thì chúng tôi đối với

nhau như thế.” [37, tr.1382]. Là một số kỉ niệm về Vũ Trọng Phụng của

Tam Lang, một người mà “Có lẽ tôi là người thứ nhất đã được chứng kiến

những bước chập chững đầu tiên của Vũ Trọng Phụng văn sĩ” [37, tr.1400].

Với những mối giao tình thâm sâu như thế, mỗi câu chuyện về Vũ Trọng

Phụng được các bạn văn trong giới, trong cuộc kể lại đã càng làm tăng

thêm sự gần gũi, tin cậy về những chi tiết xoay quanh cuộc đời và văn

nghiệp của ông.

Tóm lại, qua những sáng tác chân dung văn học tiêu biểu thời kì này,

người đọc nhận thấy đối tượng chủ yếu của thể tài này là các nhà văn, nhà thơ.

Để dựng chân dung của họ, các ngòi bút đều tiếp cận từ góc độ của người trong

cuộc, trong giới. Nói cách khác đây là cái nhìn của một người trong cuộc về

những người cùng hội cùng thuyền, về những người bạn văn của mình. Cái

nhìn này đã trở thành một nguyên tắc chiếm lĩnh và lí giải hiện thực, xuyên

suốt các tác phẩm chân dung văn học và chính nó đã khiến cho những chân

dung được dựng lên trở nên gần gũi, hấp dẫn hơn với người đọc.

2.2.2. Tiếp cận qua nhiều hình thức

Chân dung văn học là một loại bút kí mang tính chất tư liệu, viết về nhà văn,

nhà thơ, nhà báo, nhà hoạt động xã hội xây dựng trên cơ sở trò chuyện với

“nhân vật” đó. Cho đến nay, thực tiễn sáng tác của thể tài này cho thấy để

xây dựng được chân dung nhà văn, nhà thơ, người viết có thể lựa chọn tiếp

cận đối tượng được dựng chân dung qua nhiều hình thức, như phê bình văn

học gắn liền với chân dung tác giả; hoặc sử dụng phương thức phỏng vấn;

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

59

hoặc dựa trên sự hồi tưởng “đi tìm lại thời gian đã mất” qua dòng chảy của

hồi ức, làm sống lại những kỉ niệm.

Soi chiếu vào các tác phẩm chân dung văn học thời kì 1930 - 1945,

chúng ta thấy được sự độc đáo riêng trong mỗi cách thức tiếp cận đối

tượng. Có thể thấy Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một tác phẩm kì

công về tư liệu, cuốn hút về nội dung, được xây dựng trên cách tiếp cận

phê bình văn học gắn liền với chân dung tác giả. Lựa chọn giới thiệu những

điểm mốc tác phẩm tiêu biểu trong văn nghiệp, xu hướng phát triển cơ bản

của hướng sáng tác, phê bình một số điểm hay, dở của một số nội dung tác

phẩm tiêu biểu để từ đó làm nổi bật lên gương mặt riêng của mỗi nhà văn.

Nhà văn hiện đại đã trở thành một tác phẩm đứng trung dung trên cả đường

biên ranh giới của hai thể tài nghiên cứu, phê bình văn học và chân dung

văn học. Lựa chọn cách tiếp cận này, những chân dung văn học của Vũ

Ngọc Phan có phần khách quan, nghiêng về tính chất học thuật hơn so với

các tác phẩm thuộc thể tài chân dung văn học thời bấy giờ.

Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân dựng chân dung các bạn

thơ, bằng một cảm xúc hân hoan, chân thành như đang trò chuyện cùng bạn văn và

người đọc. Lối văn được viết là lối văn tâm tình, tha thiết, đầy xao động, khơi gợi

sự rung động mãnh liệt ở lòng người tiếp nhận.

Còn những người nghệ sĩ trong hội Tao đàn thì xúc động khắc họa lại

hình ảnh người anh, người bạn văn chương Tản Đà và Vũ Trọng Phụng của

mình bằng những nét bút tả thực sống động trên một “hậu cảnh” sáng rõ của

hồi ức. Những tưởng niệm đầy cảm động về một thời khốn khó gắn với hai tên

tuổi lớn của nền văn học Việt Nam cận, hiện đại cũng là những suy ngẫm của

người trong giới, trong cuộc về những thăng trầm của nghiệp văn chương. Khi

dựng chân dung văn học Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, các nhà văn, nhà thơ

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

60

thường dựng đối tượng lúc đậm nét, lúc lung linh mờ ảo tuỳ theo sự hồi tưởng

của mình. Sự hồi tưởng ấy thường theo những ấn tượng sâu đậm của nhà văn.

Có lúc được trình bày mạch lạc men theo những dòng hồi tưởng về một số thời

điểm nhất định trong đời văn của họ và bạn làng văn. Nhưng cũng có lúc nó

cũng không tuân theo sự mạch lạc ấy, khi đứt khi nối, tùy theo dòng cảm xúc

tuôn trào của người viết. Dòng hồi tưởng nào cũng vậy, các sự kiện bao giờ

cũng thấm đẫm cảm xúc trữ tình của nhân vật. Các nhà văn đã dựng chân dung

Tản Đà và Vũ Trọng Phụng gắn với những kỉ niệm của chính tác giả. Những kỉ

niệm ấy, hầu hết đã được chứng kiến và được “mắt thấy tai nghe”, hay trực tiếp

là người cùng tham dự cho nên nó hiện rất sâu đậm, rõ ràng trong kí ức của nhà

văn. Là chân dung được dựng theo dòng hồi tưởng song trong giới hạn của

khuôn khổ một bài báo đăng trên tạp chí, nên các tác giả thường không kể về

toàn bộ cuộc đời sự nghiệp sáng tác của đối tượng được dựng chân dung theo

một trật tự thời gian nhất định mà chỉ kể ở từng đoạn, từng quãng đời mà nhà

văn biết, thậm chí biết rất kĩ. Quả là bao nhiêu chuyện, lúc chầm chậm hiện

dần lên, qua từng trang, mà lối suy tư cách ứng xử, thói tật vụn vặt cùng niềm

khát khao sống và viết ở họ cứ rõ dần, đậm dần; lúc lại vùn vụt chạy qua như

một đoạn phim tư liệu quay nhanh.

Tái hiện lại những “khúc đoạn” gập ghềnh của các số phận nghệ sĩ,

các nhà văn đã dựng nên hai bức chân dung đầy sắc cạnh, đầy dấu ấn song

cũng vô cùng gần gũi, chân thực. Các nhà văn đã khiến cho bạn đọc không

chỉ yêu mến các tác phẩm văn chương của họ mà còn giúp bạn đọc hiểu

được cuộc sống, sự nghiệp, phong cách và cá tính của mỗi người. Tất cả

những con người, những số phận văn chương ấy - qua cái nhìn ấm áp chân

tình của tác giả chân dung - đã gieo vào người đọc một niềm cảm thương,

chia sẻ. Các tác giả không hề “lạ hóa” bất cứ chân dung văn chương nào.

Trong chân dung văn học, họ là những tài năng nghệ thuật, song họ cũng là

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

61

những con người của cuộc sống đời thường, của vô vàn những yêu ghét,

buồn vui, thăng trầm, được mất của một kiếp người.

2.3. Đặc điểm về cách dựng chân dung trong văn học giai đoạn 1930 - 1945

2.3.1. Cách tiếp cận gần gũi, thân ái mà trân trọng

Tô Hoài từng nói “Chân dung văn học là việc dựng lại những bóng

dáng thần thái văn nhân, những câu nói cái cười, bước đi dáng đứng của họ

mà mình từng thấy từng biết”. Do đặc điểm của thời đại và phần do chủ

trương của người viết, Thi nhân Việt Nam và Nhà văn hiện đại dựng chân

dung với cách tiếp cận tương đối giữ khoảng cách. Lấy sự gần gũi của

người trong giới để nhìn nhận nhưng về cơ bản vẫn ít nhiều có một

“khoảng cách sử thi” trong cách tiếp cận đối tượng. Nhưng đến với những

bài viết trong Tao đàn thì cái cự li giữa người dựng chân dung và đối tượng

được dựng chân dung đã rút ngắn rất nhiều, như yêu cầu thẩm mĩ cần thiết

mà thể tài chân dung văn học cần có. Đây cũng là sự mở đường cho lối tiếp

cận “cự li gần” của những sáng tác chân dung văn học nổi tiếng sau này.

Từ đây, cái đời thường và con người bình thường (chính xác hơn là phương

diện đời thường của con người) có một sức cuốn hút riêng với các tác giả

dựng chân dung. Cũng chính với lối tiếp cận này, lần đầu tiên các nhà văn

đã đem lại cho độc giả hình ảnh một số “nhân vật lớn” của văn chương

nước nhà như Phan Khôi, Nguyễn Bá Trác, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng … ở

một cự ly gần, và thấy một sự thật về chân dung của các nhà văn.

Khi dựng chân dung các nhà văn trong đời thường, dường như các

cây bút không chỉ chú trọng đến việc dựng “chân dung tinh thần” của họ

mà còn hồi tưởng đến những chuyện mà chính Nguyễn Tuân đã gọi tên là

“chuyện lôi thôi”, từ những vẻ bề ngoài, ăn mặc, đi đứng, nói năng. Các

nhà văn đã để nhân vật của mình xuất hiện trong không khí đời thường,

giữa cái bộn bề phức tạp của cuộc sống. Viết chân dung văn học, đã giải

phóng một quan niệm sống, một quan điểm nghệ thuật, đó là có lẽ được

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

62

sống với mọi người bình thường, sống cuộc sống bình thường với những

cái “tuế toái”, “nhọ nhem” (chữ dùng của Tô Hoài) đó là hạnh phúc thiết

thực nhất, mà sau này, Tô Hoài - một bậc thầy kì tài thành công rực rỡ

trong loại thể tài này đã phát biểu: “Tôi thích trong con người có nhiều

hoạt động một lúc, không thích thần thánh hoá làm gì… Tôi thích con

người bình thường và không tả thành tầm thường”. Những trang viết chân

dung trên đã cho thấy những kỷ niệm trong đời tư của các nhà văn, quá

trình sống và tồn tại của họ, có cả quá trình hình thành và khao khát viết,

những vui buồn trong sự nghiệp văn chương. Tạo nên những chân dung

văn chương như thế đó cũng là dịp để giãi bày lòng mình, giải phóng cho

một tâm sự để thể hiện rõ hơn một quan niệm sống, quan điểm nghệ thuật.

Những nhà văn được dựng chân dung, họ không có cái độc đáo phi thường

của những bậc tài hoa tài tử mà dung dị giữa đời thường, lẫn với mọi người

trong xã hội. “Nhà văn cũng như nghề văn là cao quý, song nhà văn cũng

chính từ cuộc đời này mà ra”, đem người nghệ sĩ sáng tác ra giữa cái bề

bộn phức tạp của đời thường mà suy xét, mà tạo dựng nên, nhưng cũng

không vì thế mà làm mất đi niềm yêu quý của độc giả đối với các đối tượng

đã tạo dựng. Viết chân dung văn học cũng là dịp để các tác giả tự đánh giá

về mình. Không phải là dịp để người viết đề cao hay giới thiệu về mình

trước độc giả mà đây là những trang hồi ức hết sức chân thành, biết tự đánh

giá lấy mình tránh sự tô vẽ bịa đặt, nhất là trong những hình ảnh mà tác giả

là người duy nhất tham gia chứng kiến sự việc.

Lấy sự trân trọng bạn văn và nghề văn làm trọng, các nhà văn đã đặt

chân dung Tản Đà và Vũ Trọng Phụng vào giữa cái bộn bề phức tạp của

đời thường mà suy xét, mà tạo dựng lên. Bởi vậy, mà hình tượng của hai

con người tài năng ấy cùng giới cầm bút trong chân dung văn học đã được

đặt trong cuộc sống bình thường, nhọc nhằn, khổ ải, nhếch nhác và bụi

bặm. Tuy vậy những chân dung văn học không phải không có cái độc đáo

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

63

phi thường riêng của các bậc tài hoa, uyên bác. Không tô vẽ lý tưởng hoá,

nhưng niềm yêu quý, cảm thông đối với các đối tượng mà các tác giả dựng

thành chân dung văn học thì vẫn tự nhiên bộc lộ, thông qua chi tiết ngôn

từ, và những gì nhếch nhác của cuộc sống đời thường. Nhờ đó, mà độc giả

biết đến bao cái bình thường ở những con người họ. Chẳng hạn như Tản Đà

với cái ngông và thản nhiên của con người lịch sử “gạch nối của hai thế kỉ”

(chữ dùng của Hoài Thanh), với thú ăn chơi khác người đã xuất hiện như

thế trong mỗi trang hồi ức nhớ lại của các bậc văn sĩ. Đó là một con người

mà trong sự hồi tưởng của Lưu Trọng Lư, mãi đến hai rưỡi chiều mới bắt

đầu thức dậy cho một ngày mới và “bắt đầu ngồi vào chiếu rượu” cho đến

tận bốn giờ mới “vừa hạ đũa”. Theo tác giả, “Gặp Tản Đà một bận thì thật

là một điều khoái trá vô cùng, gặp ông ấy, lần thứ hai, thì vẫn còn là một

cái vui thích, một cái vui thích đã bắt đầu gượng gạo, và gặp đến lần thứ

ba, thì là một điều khó chịu. Và lần thứ tư, thứ năm …, thì xin thú thật là

một tai nạn” [37, tr.611]. Sở dĩ như vậy là vì “tiên sinh trong sự sống vụn

vặt hàng ngày - là một kẻ trần gian có nhiều ham muốn lôi thôi… bí hiểm,

khó mà làm cho thỏa được. Người ta thường bảo thi nhân là một đứa bé

hay vòi, và rất khó tính. Câu ấy chứa một phần sự thật.” Kể lại cái dỗi hờn

của Tản Đà không chịu dùng bữa mà chỉ nhắm rượu suông vì không có

được món ăn mình yêu thích; hay cái ngông nghênh, quái gỡ của ông khi

cố gắng bơi đứng cho ra bằng được mũi bể Cổ Rùa để uống rượu với

những con hầu sống bám trên mũi đá; hay câu chuyện ông cậy bật nền gạch

đá hoa chỉ để “Ấy, định trồng ít cái húng láng. Ăn uống thiếu rau cỏ, nhiều

khi bực đến chết. Chén rượu nào cũng nhạt phào” [37, tr.693], Lưu Trọng

Lư và Nguyễn Tuân đã đưa Tản Đà - một khách tiên trong những giấc

mộng trở về gần chúng ta trong đời thực. Tuy nhiên, dựng chân dung Tản

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

64

Đà với những chi tiết đậm nét đời thường, đặc biệt là với câu chuyện về

cuộc rượu say túy lúy của Tản Đà, về những câu chuyện lặt vặt, ngộ nghĩnh

như đi du lịch Đông Dương chỉ với vài đồng bạc, hay ở Nam Kỳ toàn uống

cognac thay rượu lậu đến nỗi “có vài tháng, nhà ông chất đến một tường vỏ

chai” của Nguyễn Công Hoan và của nhiều nhà văn khác kể lại nữa, các tác

giả vẫn chung trong một cảm hứng ngưỡng mộ trước tài nhân này. Những

yếu tố chân thực như thế giúp rút ngắn khoảng cách giữa người đọc và

nhân vật, giúp chúng ta được tiếp cận, được bước vào một thế giới đời

thường phía sau thế giới nghệ thuật lung linh mà ta vẫn thường biết đến

qua tác phẩm của những nhà văn. Từ đó, thêm lòng kính trọng và cảm phục

những con người tài nhân.

Chính M.Gorki trong tác phẩm Chân dung Tônxtôi cũng đã từng phát

biểu: “Tôi không muốn Tônxtôi biến thành thánh, hãy để cho ông vẫn là

người tội lỗi, gần gũi với mỗi trái tim của thế giới đầy tội lỗi, vĩnh viễn gần

gũi với mỗi trái tim” [23, tr.116]. Khắc hoạ chân dung những tên tuổi, với

không ít những thói tật, không có nghĩa là đã bôi nhọ, hoặc có ý định hạ

thấp đối tượng, mà ngược lại qua đó càng nổi rõ lên một quan niệm: dù có

là những người nổi tiếng đi chăng nữa họ vẫn là những con người, mà đã là

con người thì trước hết họ cũng có diện mạo riêng, thói tật riêng, sở thích

riêng, và cũng có những đức tính của những con người bình thường. Trân

trọng sở thích, thói quen và cá tính của mỗi người - đó chính là cội nguồn

của mọi giá trị nhân bản đó. Chính nó đã tạo nên sự phong phú, sinh động,

độc đáo và hấp dẫn của mỗi chân dung văn học được dựng xây.

Có thể nói, với cách tiếp cận ở cự li gần gũi, thân mật nhưng không

suồng sã đã mang đến cho thể tài chân dung văn học một giá trị nhân bản sâu

sắc, để “từ chân trời một người đến chân trời mọi người”, tạo nên một sự đồng

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

65

cảm sâu sắc trong mối giao tình giữa người được dựng chân dung, người dựng

chân dung và người đọc.

2.3.2. Đặt cá nhân trong bối cảnh chung của văn học

Như trên chúng tôi đã giới thiệu, đối tượng nghiên cứu mà đồng thời

cũng là đối tượng sáng tác của thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945

là tác giả - một nhà văn, một nhà thơ, nhà báo… Tác giả tất nhiên là một con

người, với “gương mặt”, “vẻ mặt”, “chân dung” của mình. Tuy nhiên, trong

phê bình và nhất là nghiên cứu văn học, tác giả - đó chủ yếu lại là đặc điểm

sáng tác của anh ta, đặc điểm cái thế giới nghệ thuật do anh ta tạo ra trong các

tác phẩm của mình. Phê bình và nghiên cứu sẽ chủ yếu dựa vào tác phẩm của

tác giả ấy chứ không phải các chi tiết rườm rà về tiểu sử, sinh hoạt, cá tính,

hình thể. Người viết ở đây cần xuất hiện với tư cách một nhà văn, in cái nhìn,

cách cảm thụ và đánh giá cùng sự diễn đạt của nhà văn. Đây là nét tinh tế khiến

cho chân dung văn học đúng là văn học, có chỗ đứng trong văn học. Chất văn

học này cũng cho phép thể tài chân dung được phóng túng nhiều hơn so với lối

viết tiểu sử hoặc nghiên cứu một tác giả. Các thể tài phê bình vốn đã ít gò bó so

với các thể tài nghiên cứu. Chân dung văn học, hơn một mức nữa, còn có thể

phóng túng.

Như thế, chân dung văn học là một thể tài tương đối đặc biệt, vừa mang

trong mình đặc điểm chính yếu của các sáng tạo nghệ thuật là quyền được hư

cấu, song đồng thời lại phải thỏa mãn nguyên tắc cơ bản trong sáng tác là phải

tôn trọng sự thật, nằm ngoài hư cấu. Đó là sự thật về một con người - nhà văn,

nhà thơ, nhà báo, nhà nghiên cứu… và là sự thật của cả một bối cảnh thời đại

chung của văn học bấy giờ. Do vậy, các sáng tác thuộc thể tài chân dung văn

học thời kì này còn mang đặc điểm nổi bật đó là đặt cá nhân trong bối cảnh

chung của văn học để làm sáng rõ hơn diện mạo những chân dung văn học

được dựng lên.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

66

Đến với công trình dài hơn một nghìn trang Nhà văn hiện đại của Vũ

Ngọc Phan, một công trình mà tác giả đã gửi gắm ước muốn: “Tôi đã muốn đặt

cuốn sách vào thời của nó, tôi đã muốn cho độc giả thấy cái hoàn cảnh văn học

của một thời để hiểu rõ tính chất cuốn sách hơn” [27, tr.1176], người đọc cũng

được chứng kiến rõ sự xuất hiện theo trình tự thời gian của bảy mươi tám chân

dung nhà văn sáng tác bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế kỉ trước như Trương

Vĩnh Ký đến những cây bút trẻ nổi tiếng của đầu những năm 40 của thế kỉ XX.

Theo đánh giá của Trần Hữu Tá, để có được tập hợp qui mô đó, Vũ Ngọc Phan

đã “tốn bao sức lực mới chiếm lĩnh hơn sáu mươi năm văn học, dựng lên được

bức tranh chưa hoàn chỉnh nhưng phong phú, ghi lại được một quá trình phát

triển sôi nổi, bồng bột của văn chương” [27, tr.1182].

Với Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân cũng đã khéo léo dựng

lên ngay từ đầu một phông nền bối cảnh thời đại khá sáng tỏ để từ đó từng

gương mặt thi sĩ được trình chiếu. Những lời “cung chiêu anh hồn Tản Đà” mở

đầu tác phẩm cũng là sự giới thiệu về hoàn cảnh bản thân nhân vật chính - tác

giả cùng hơn bốn mươi đại diện tiêu biểu của Thơ mới: “Hội Tao đàn hôm nay

đông đủ hầu khắp mặt thi nhân, chúng tôi một lòng thành kính xin rước anh

hồn tiên sinh về chứng giám. Anh em ở đây, tuy người sau kẻ trước, những

ai nấy đều là con đầu lòng của thế kỉ hai mươi (…). Tiên sinh đã cùng

chúng tôi chia sẻ một nỗi khát vọng thiết tha, nỗi khát vọng thoát ly ra

ngoài cái tù túng, cái giả dối, cái khô khan của khuôn sáo (…). Tiên sinh

đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đương sắp

sửa”[36, tr.7-8]. Và ngay trong lời giới thiệu Một thời đại trong thi ca,

Hoài Thanh đã từng nhấn mạnh thời kì ông và các bạn văn sống là một thời

kì mà “cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay”. Cuộc Âu hóa

những năm đầu thế kỉ hai mươi như một cơn gió mạnh thổi vào “đã thay

đổi những tập quán sinh hoạt hàng ngày, đã thay đổi cách ta vận động tư

tưởng, (…) thay đổi cả cái nhịp rung cảm của ta nữa.” Khát vọng cởi trói 67 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

cho thi ca, khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, khát vọng được

thành thực “khẩn thiết đến đau đớn” đã thúc giục cá tính con người, cái tôi

cá nhân bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu được giải phóng với sức mạnh

“tung bờ vỡ đê”. Từ đây, những gương mặt thi sĩ với những đường nét

riêng lần lượt được tác giả gọi tên: “Một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ

màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như

Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì

dị như Chế Lan Viên.. và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu. Từ

người này sang người khác, sự cách biệt rõ ràng” [36, tr.31].

Không chỉ các thi nhân trốn đời tìm vào trong thơ, mà ngay cả tác giả

của Thi nhân Việt Nam cũng từng thổ lộ với người đọc: “Tôi vốn rất say mê

Thơ mới ngay từ khi Thơ mới mới ra đời. Thơ mới hầu như là cái vui duy nhất

của tôi hồi bấy giờ.” [36, tr.391] Có thể thấy, một thời gian dài trước Cách

mạng, Thơ mới là niềm say mê, là nơi trú ngụ bình yên của tâm hồn Hoài

Thanh trước mọi sóng gió cuộc đời. Tác giả đã “lấy hồn tôi để hiểu hồn

người”, để say theo hồn người. 169 thi phẩm của trên bốn mươi chân dung nhà

thơ có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã như hòa với lời văn của tác giả để “hát

lên bài ca sầu não, mộng mơ, vui vội, buồn sầu, đau đớn ngơ ngác trước cuộc

đời - bài ca dường như bất tận của những tâm hồn, những con người “đầu thai

lầm thế kỉ” muốn ru hồn mình tới “tận cuối trời Quên”.

Say mê cùng các thi nhân nhưng tác giả cũng chỉ ra được bao nỗi

đắng cay, bao cảnh thương tâm về cuộc đời nghèo của kiếp người nghệ sĩ

trong xã hội cũ. Sự thật đằng sau thế giới thơ đầy mơ mộng là cái hỗn độn

của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ hai mươi, là nỗi chật vật của cuộc sống

hàng ngày. Là vật lộn với cuộc đời thực đầy lận đận, khó khăn: Nỗi đời cơ cực

đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ.(Xuân Diệu)

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

68

Không thể vượt thoát, họ chỉ còn biết tìm cách ru mình trong những cõi

huyền ảo hoặc cố tạo ra những mơ mộng để tự huyễn hoặc: Tôi chỉ là người

mơ ước thôi/ Là người mơ ước hão!Than ôi ! Bình minh chói lói đâu đâu ấy/

Còn chốn lòng riêng u ám hoài.(Thế Lữ)

Đọng lại trong mỗi chân dung là nỗi đau đời. Đau vì nỗi đời vất vả.

Đau vì kiếp làm dân một nước nô lệ và đau vì tủi nhục, nghèo hèn cứ gắn

hoài với thân phận. Sự quằn quại, đau đớn của những tâm hồn, của những

con người bé nhỏ cô đơn, lạnh lẽo trong sự buồn nản, thất vọng không tìm

ra lối thoát. Bối cảnh văn chương bế tắc và tù túng, dưới những kiểm soát

gắt gao về văn hóa, phản chiếu cái bể khổ bế tắc của xã hội cũ và thân phận

của những người nghệ sĩ ấy đã được tác giả Thi nhân Việt Nam tái dựng lại

qua từng chân dung của mỗi nhà thơ. Đấy là bi kịch của tác giả và cũng là

bi kịch chung của thế hệ các nhà Thơ mới. Hoài Thanh đã ghi lại rất đúng

cái bối cảnh bấy giờ: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta

đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ,

ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn

Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã

khép, tình yêu không bền, điên cuồng không tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta

ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn

nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn

xao đến thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước.

Phương Tây đã trao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào

đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng

tin đầy đủ. Đó, tất cả cái bi kịch đương ngấm ngầm dưới những phù hiệu

dễ dãi, trong hồn người thanh niên” [36, tr.57-58]. Từ đó vang lên lời kêu

gọi khẩn thiết: Hãy cứu lấy những con người đau khổ!

Có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà tác giả Thi nhân Việt Nam tạo

dựng, đặt chân dung cá nhân vào trong một bối cảnh lịch sử văn học như vậy.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

69

Với vai trò của một chứng nhân: “Tôi đã sống trong lòng thời đại. Kể lịch sử

thời đại làm sao có thể không nhớ lại những năm vừa qua trong đời tôi”[36,

tr.388], tác giả đã luôn đặt đối tượng được lựa chọn dựng chân dung trên một

nền hiện thực sắc nét, trong bầu không khí văn học để tự bộc lộ mình. Đồng

thời, đặt chân dung cá nhân trong bối cảnh thời đại còn đem đến cho độc giả

một sự khám phá, hiểu biết, cắt nghĩa về đời sống văn học của một thời đã qua.

Cắt nghĩa văn học một thời, Hoài Thanh- Hoài Chân đã góp phần cung cấp

thêm tư liệu về một mảng hiện thực khuyết thiếu trong lịch sử văn học, giúp có

một cái nhìn đánh giá công bằng, thỏa đáng hơn về những tác phẩm văn

chương của một thời.

Ở những trang viết tưởng niệm về Tản Đà như Bây giờ đây, khi cái nắp

quan tài đã đậy lại của Lưu Trọng Lư, Sự thai nghén một thiên tài (Trương

Tửu), Chén rượu vĩnh biệt (Nguyễn Tuân), Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn

lớp sau (Nguyễn Triệu Luật), Tản Đà triết học (Trúc Khê Ngô Văn Triện), Một

kỉ niệm về yêu thơ Tản Đà (Xuân Diệu), Tản Đà dịch văn (Nguyễn Xuân Huy),

Tản Đà, một kiếm khách (Nguyễn Tuân), Mộng và mộng (Lê Thanh), Điếu văn

đọc trước huyệt trong đám tang Tản Đà của Đinh Gia Trinh…, người đọc cũng

được chứng kiến chân dung Tản Đà xuất hiện sáng rõ trong bối cảnh văn học

bấy giờ. Con người nghệ sĩ ngông nghênh, kiêu bạc sinh ra “giữa lúc vận mệnh

của đất nước đang hồi nghiêng ngửa”. Sự đàn áp thẫm máu của chế độ quân

chủ phong kiến bắt tay cùng thực dân đối với các phong trào đấu tranh giải

phóng của các văn thân, nghĩa sĩ làm“Tổ quốc Việt Nam ngã gục trên mối hận.

Non sông khoác một màu tang”.Tản Đà “một ngôi sao, dù muốn hay không,

cũng phải tắm trong bầu trời sầu thảm ấy” và “bắt đầu nhận thấy, cùng với thân

thế riêng, cái tàn tạ của giai cấp mình. Ở đáy linh hồn trong trẻo kia, đã mờ

hiện một sầu não sớm sủa của sự già cỗi”[37, tr.620]. Những tình cảm tha thiết

với giống nòi, đất nước đã được Tản Đà chuyên chở vào những giấc mộng,

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

70

những khối tình con, một khối tình mà tác giả đã đem hòa vào non sông, làm

nên sự nghiệp. Những câu chuyện của những người bạn văn đồng lứa và lớp

sau đã hé mở cái bối cảnh văn học chung, cái không khí thời đại làm sinh ra

một chân dung độc đáo giao thời giữa hai thế kỉ. Một Tản Đà hăng hái hành

đạo theo ứng xử của nhà Nho bằng con đường tham gia làm báo, rồi những xử

thế trong đời thường với sự tiếp xúc của phong trào Âu hóa và cả những cái kì

lạ “lôi thôi” trong cuộc sống đời thường. Trên nền bối cảnh ấy hiện lên chân

dung một Tản Đà mà “Ở mọi thời gian và không gian, cái thiên tài sống với cái

ngộ nghĩnh của riêng mình, mỗi lần muốn vượt lên lề thói là một lần lại được

đời tặng cho danh hiệu: đứa con hoang của thời đại” [37, tr.688].

Dựng chân dung Tản Đà, những câu chuyện của bạn văn kể lại cũng vẫn

không quên nhắc đến cái bối cảnh văn nghệ gian nan, nghèo khó và bị dìm

trong những kiểm duyệt gắt gao lúc bấy giờ. Đó là cái không khí chung mà một

người tài nhân lớp sau của Tản Đà là Vũ Trọng Phụng đã thấm thía đầy đau

thương. Đặt cá nhân trong bối cảnh văn học chung ấy đã giúp cho những kí họa

chân dung càng trở nên sắc nét, ấn tượng trong lòng người đọc.

Như vậy, trong các tác phẩm chân dung văn học thời kì này, song

song với dòng chảy lịch sử mà các tác giả - với tư cách là những nhân chứng

nó- đã tái hiện khá toàn vẹn, chân thực; là dòng chảy văn chương mà họ -

với tư cách là những thành viên tích cực - cũng đã đưa đến một cái nhìn cận

cảnh, chính xác. Thông qua sự phát triển song song của cả hai mạch nguồn

cảm hứng này, chúng ta có thể nhận thấy sự tác động mạnh mẽ của lịch sử

đối với văn học nghệ thuật, với mỗi cá nhân nghệ sĩ trong ngôi nhà chung

của văn học Việt Nam.

2.3.3. Sự chia sẻ, cảm thông của những người đồng nghiệp, đồng cảnh

Dựng chân dung văn học về các bạn văn trong nghề, trong giới thực chất

cũng là một cuộc nhận chân, đi tìm chính chân dung bản thân mình trong đó. Trong 71 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

mỗi chân dung văn học được phác thảo nên lồng kết vào đó là sự chia sẻ, cảm

thông sâu sắc của những con người đồng nghiệp, đồng cảnh.

Với cây đàn muôn điệu tâm hồn, người dựng chân dung soi thấy

bóng dáng mình phảng phất đâu đó trong chính con người được dựng chân

dung. Mà không, đó dường như còn là sự phản chiếu khúc xạ phần nào

chính con người thật của tác giả, bởi lẽ họ là những tri âm tri kỉ, là những

người cùng chung một nỗi đau đời, cùng chung một số mệnh tài hoa nhưng

cuộc đời văn nhân luôn chứa đựng nhiều nỗi cô đơn sâu thẳm. Vì vậy, với

Huy Cận, Hoài Thanh rất thành thực mà thú nhận: “Trong đời người ta còn

tuổi nào buồn hơn tuổi hai mươi. Còn có tuổi nào vẩn vơ hơn. Tôi thấy thơ

Huy Cận trẻ lắm. Huy Cận đã đưa tôi về khoảng đời tôi bảy tám năm về

trước. Tôi bùi ngùi thương chàng niên thiếu hồi bấy giờ đã sống luôn mấy

năm trong hiu quạnh” [36, tr.157]. Từ sự đồng điệu đó, Hoài Thanh, Hoài

Chân đã nhìn thấu suốt nỗi niềm riêng sâu thẳm bên trong cái tôi say đắm,

cuống quýt, vồ vập yêu là nỗi cô đơn của cái tôi người trí thức trẻ lúc bấy

giờ. Tác giả nhận thấy ẩn chứa sau mỗi vần thơ tình nhiệt thành ấy là nỗi

đau khổ của con người “cảm thấy cái thê lương của vũ trụ, cái bi đát của

kiếp người. Họ tưởng có thể nhắm mắt làm liều, lấy cá nhân làm cứu cánh

cho cá nhân, lấy sự sống làm mục đích cho sự sống. Song đó chỉ là một cái

dối mình. “Chớ để riêng em phải gặp lòng em”, lời khẩn cầu của người kĩ

nữ cũng là lời khẩn cầu của con người muôn thuở.” và soi được nỗi lòng

của mình ở trong đó: “Bởi Xuân Diệu đã gửi trong thơ của người lẫn với

một chút hương xưa của đất nước, bao nhiêu nỗi niềm riêng của thanh niên

bấy giờ” [36, tr.133].

Ngay cả giữa hai hồn thi sĩ tưởng như khó tương giao Tản Đà và Xuân

Diệu, người ta vẫn tìm thấy một sự tao ngộ giữa những mặc khách đầy lạ kì

trong lời tâm tình của Xuân Diệu: “Không biết với ai thì thế nào, nhưng đối với

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

72

tôi thì thi sĩ Tản Đà còn ở trong kí ức tôi, ở một nơi dịu dàng mà thảnh thơi, và

đọc lại thơ Tản Đà tức là tôi đọc lại thời thơ ấu” [37, tr.664].

Sự cảm thông, chia sẻ ấy còn tuôn trào trước sự ra đi của hai con

người tài năng Tản Đà và Vũ Trọng Phụng. Cái nghèo khổ, cay cực của

cuộc đời văn nhân nghèo đeo bám mỗi con người nghệ sĩ. Họ rút ruột như

con tằm nhả tơ để hiến dâng cho đời những áng văn chương quí giá với

thời gian, về phần họ, đổi vào đó là sự kiệt quệ về thể xác, ốm đau và

bệnh tật,“Tôi biết anh chỉ là một nhà văn, chỉ là một nhà văn sống trong

sự bần bạc, chết trong sự bần bạc”[37, tr.1430]. Tam Lang, một người bạn

thân thiết của Vũ Trọng Phụng đã từng thú nhận thành thực thấy “lo cho

anh hơn mừng” khi nhận thiếp hồng từ Vũ Trọng Phụng bởi lẽ “Tôi nghĩ

bụng: một cây bút, mặc dầu không lúc nào ráo mực, làm sao đủ cung cho

hai nhân mạng những nhu cầu trong cái thời buổi khó khăn này? Tôi, một

người cầm bút và một người chồng đã hối trót đi nhận một người đàn bà

làm vợ để làm khổ lây người ta, nay trông thấy một người đồng hội đồng

thuyền sa chân xuống hố, nỡ nào không ái ngại thay!” [37, tr.1404].

Cái tủi nhục của người bán từng con chữ để kiếm sống như nức nở

bật ra trong nỗi ngậm ngùi, đau xót trước số phận cơ cực của người bạn

văn Vũ Trọng Phụng: “Bây giờ, bây giờ anh Phụng, một văn sĩ nghèo túng

sống trong cảnh thiếu thốn và vì thiếu thốn mà chết. Bây giờ đã là lúc

chúng tôi nghĩ đến sự tự cứu chúng tôi chưa?” [37, tr.1406]. Đau trước nỗi

đau của bạn, trước sự ra đi của con người chưa từng được hưởng sự sung

sướng, dù chỉ là đôi lúc, luôn nỗ lực để đấu tranh, chiến đấu với cái khó

khăn đeo bám của cuộc mưu sinh, với bệnh tật bám riết từng ngày, vắt kiệt

tận cùng sức lực, các nhà văn càng thấm thía cái tủi phận thương thân của

cuộc đời những kiếp văn nhân. Họ lặng lẽ đưa tiễn người bạn Vũ Trọng

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

73

Phụng trong nỗi sợ hãi ngấm ngầm của bệnh tật, cái chết đang chờ đợi:

“Rồi đến lượt ai đây? Trên con đường này, mới trong vòng bốn tháng trời,

tôi đã đi tiễn hai người “về nơi yên nghỉ cuối cùng”. Hai cái thiên tài lỗi

lạc đã để lại nhiều cho đất nước: 7 Juin 1939, Tản Đà chết giữa cảnh

nghèo, 13 Octobre 1939, Vũ Trọng Phụng chết vì bệnh phổi. Cái đám

người còn lại, sống vì cán bút, đi cạnh hôm nay thưa thớt và không mấy

được khỏe lắm” [37, tr.1350]; “Nhìn lại một dúm nhà văn buồn bã đi theo

quan tài của một bạn đồng nghiệp xấu số vô duyên mà “những tác phẩm đã

làm vinh dự cho văn học nước nhà”, chúng tôi không khỏi không bị một

cơn ngậm bùi bi thương vô hạn. Anh Vũ Trọng Phụng, đi đưa đám ma anh,

tôi buồn lắm, tôi tủi cho anh, tôi tủi cho tất cả những bạn đi đưa anh, tôi tủi

cho Văn học nước Nam nhà mà anh là một trong những đại biểu xứng đáng

hơn hết. Nguyễn Khắc Hiếu chết cũng quạnh hiu như anh; Nguyễn Nhược

Pháp chết cũng quạnh hiu như anh; Vũ Lang chết cũng quạnh hiu như anh;

Đỗ Thúc Trâm chết cũng quạnh hiu như anh; Hoàng Tích Chu cũng vậy!”

[37, tr.1433] Than ôi! Đọc những dòng điếu văn tang tóc đó, mỗi người

đọc chúng ta không thể không xót thương vô hạn, ngậm ngùi vô hạn trước

chân dung số phận ngắn ngủi, bạc mệnh của những bậc kì tài. Họ đã sống,

đã cống hiến nhưng cuộc đời bất như ý. Qua dòng hồi tưởng của kí ức và

đối diện với sự mất mát của thực tại, các nhà văn càng thấm thía cái đau

thương của số phận người làm văn, làm báo lúc bấy giờ, một thời kì mà

“chúng ta sống trong một quốc gia khốn khổ và văn chương không được

một ngôi danh dự; mà nghệ thuật và tư tưởng chân chính của loài người bị

dìm xuống dưới những lớp bùn lầy của chính trị” [37, tr.1433].

Có thể nói, những dòng tưởng niệm như thế không chỉ giúp chúng

ta sáng rõ hơn bức chân dung về nhà văn, nhà thơ tài năng của dân tộc

Tản Đà và Vũ Trọng Phụng, mà còn giúp người đọc có được một hình

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

74

dung và nhận thức tường minh hơn về lịch sử nước nhà những năm tháng

đầy biến động.

Những chân dung và số phận văn chương trong quá khứ cũng như

hiện tại như thế cũng là những trải nghiệm thấm thía và những suy tư sâu

lắng về nghề, về nghiệp.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

75

Chƣơng 3.

ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ TÀI CHÂN DUNG VĂN HỌC

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 - TỪ BÌNH DIỆN NGHỆ THUẬT

3.1. Từ lát cắt hình dung bên ngoài đến tính cách của ngƣời văn, đời văn

3.1.1. Sử dụng nghệ thuật thay đổi điểm nhìn trần thuật và kĩ thuật nhiếp ảnh

Điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố quan trọng trong nghệ

thuật xây dựng tác phẩm. Mỗi điểm nhìn cho phép người viết thể hiện một

quan điểm, một thái độ, một giọng điệu khác nhau. Điểm nhìn trần thuật được

phân chia thành nhiều loại, dựa trên những tiêu chí khác nhau. Nếu xét trên

bình diện tâm lí, điểm nhìn trần thuật được phân thành điểm nhìn bên trong và

điểm nhìn bên ngoài. Ưu điểm của điểm nhìn bên trong là cho phép soi thấu

những thang bậc đa dạng tình cảm, cảm xúc của con người thì điểm nhìn bên

ngoài lại giúp miêu tả cái biểu hiện, cái bên ngoài mang tính cụ thể, xác thực

của mọi sự vật, hiện tượng.

Xét từ bình diện trường nhìn trần thuật, tức là điểm nhìn bao quát cái

phần thế giới được nhìn từ một chỗ đứng nào đó, có thể chia thành hai loại:

trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật. Trường nhìn tác giả là trần

thuật theo sự quan sát, hiểu biết của người trần thuật đứng ngoài truyện,

không bị hạn chế tầm nhìn, mang lại sự khách quan tối đa cho trần thuật.

Lúc này, người trần thuật trở thành người biết tuốt, đứng ở ngôi thứ ba, bên

ngoài tác phẩm kể, tái hiện sự việc, sự vật. Trường nhìn nhân vật tức là

trần thuật theo quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm. Trường nhìn

này bị hạn chế bởi địa vị, lập trường, quan điểm của nhân vật ấy, nhưng đổi

lại, nó cho phép người viết đưa vào trần thuật những quan điểm riêng, sắc

thái tâm lí, cá tính, mang đậm tính chủ quan, tăng cường chất trữ tình hoặc

sắc thái mỉa mai. Lúc này, người trần thuật ở ngôi thứ nhất, là người tham

gia vào câu chuyện trong vai trò là một nhân vật.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

76

Trong thực tế sáng tác, hai loại điểm nhìn trên nhiều khi không tách biệt

nhau mà phối hợp, luân phiên trong một hệ thống trần thuật phức tạp. Để có cái

nhìn đa dạng nhiều chiều, trong quá trình trần thuật, điểm nhìn trần thuật được

chuyển từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật này sang các nhân vật khác, giúp

làm tăng khả năng đánh giá, bao quát của trần thuật.

Sự phân chia điểm nhìn trần thuật nói trên thật ra chỉ mang tính lí thuyết.

Để có thể tái hiện sự vật, hiện tượng trong tính xác thực, toàn vẹn; để có thể đi

tới tận cùng của mọi cảm xúc, cảm giác, người viết thường kết hợp linh hoạt

các điểm nhìn như nhà quay phim ở mọi góc độ, đứng ở mọi vị trí.

Với thể tài chân dung văn học, một thể loại mà sức hấp dẫn phụ thuộc

phần nhiều vào nghệ thuật kể chuyện, phác thảo chân dung qua con mắt của

người trần thuật, việc xác định các điểm nhìn và phối kết linh hoạt càng chiếm

vị trí quan trọng. Điều đó quyết định sự thành công hay thất bại, sự lôi cuốn

hay nhàm chán của một tác phẩm chân dung văn học. Kết quả khảo sát các tác

phẩm chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945 cho thấy sự kết hợp điểm nhìn

này tương đối phong phú, gây hứng thú cho người đọc, khiến cho những bài

viết không còn đơn thuần là những lời kể dông dài, tẻ nhạt, liệt kê các sự việc

mà đã thực sự trở thành một tác phẩm văn học nghệ thuật, đường biên thể loại

được mở rộng, đặt cơ sở cho sự phát triển, thành công của thể tài này trong các

giai đoạn về sau.

Từ đặc điểm của thể loại, chân dung văn học là thể tài thường kể lại

những chi tiết, sự kiện mà tác giả là người tham gia, chứng kiến hoặc phỏng

đoán, hư cấu thông qua văn chương của người được dựng chân dung để dựng

chân dung một nhân vật nghệ sĩ nào đấy. Do vậy, chân dung văn học thường sử

dụng cả trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật làm điểm nhìn chủ đạo,

bởi nhân vật kể chuyện chính là tác giả. Người kể chuyện là một thành viên

trong câu chuyện, một nhân vật trong tác phẩm, xưng tôi đứng ở ngôi thứ nhất

số ít kể lại những câu chuyện liên quan đến cuộc đời, và văn nghiệp của người

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

77

được dựng chân dung, những tình tiết, biến cố, những kỉ niệm… của người ấy

mà mình được tham gia hoặc chứng kiến.

Với Thi nhân Việt Nam, một tác phẩm mà tác giả của nó từng phân vân

“Vậy tôi viết gì đây và trong làng văn danh hiệu tôi là gì? Chẳng hạn có thể gọi

những bài tôi viết là tùy bút, tùy hứng. Nhưng không lẽ tôi là một nhà tùy bút,

một nhà tùy hứng, hay một tùy bút gia, một tiểu luận tác giả” [36, tr.390]. Và

từ chối nhận danh hiệu nhà phê bình, sự thâm nhập giữa ranh giới các thể loại

là điều mà chúng ta có thể nhận thấy rõ. Tuy nhiên, tại sao chúng tôi xếp nó

vào thể tài chân dung văn học hơn là vào thể phê bình văn học, bởi lẽ trong tập

sách này, có sự cung cấp tiểu sử tóm tắt cuộc đời và văn nghiệp của mỗi nghệ

sĩ, có sự trích lục một số thi phẩm tiêu biểu nhất cho từng tác giả, và quan

trọng nhất là lời giới thiệu nói về từng tác giả. Lời thuật đó lại rất đậm chất

sáng tạo văn chương, một ưu thế vượt trội được xem là phóng túng hơn của thể

tài chân dung văn học, cho phép thể hiện đậm nét cái tôi cá tính của người viết.

Vì vậy, việc xếp loại như vậy, theo chúng tôi là khá hợp lí. Đây cũng là lí do

để chúng tôi nghiên cứu về vấn đề điểm nhìn trần thuật (đúng hơn là điểm

nhìn sáng tác) trong tác phẩm này. Một cái nhìn tổng quan những vui buồn,

khen chê cùng tác giả với hơn bốn mươi gương mặt Thơ mới cho thấy có một

sự thay đổi khá tinh tế trong điểm nhìn trần thuật. Có những trang viết mà tôi

- (tạm gọi là người kể chuyện ngôi thứ nhất số ít) - xuất hiện khá đậm nét.

Tác giả xưng tôi và kể lại những cảm nhận riêng, mang đậm màu sắc chủ

quan cá nhân, thể hiện rõ tính chất trữ tình trong lối viết, khi thưởng lãm

một gương mặt thơ nào đấy. Chẳng hạn như, viết về Phạm Hầu, tác giả kể:

“Lần đầu tôi xem thơ Phạm Hầu trên tạp chí Tao đàn, những bài thơ in bằng

một thứ chữ chắc chắn, đậm nét. Lần ấy tôi bỏ qua. Hôm nay đại khái cũng

những bài thơ ấy tôi lại thích” [36, tr.180]. Hay dựng chân dung của Xuân

Tâm, tác giả lại bắt đầu bằng một câu hỏi thể hiện sự băn khoăn của lòng

mình: “Tôi không rõ Xuân Tâm, người học trò Quảng ấy, có phải lòng một

cô gái Huế không?” [36, tr.184]. Từ ngôi thứ nhất số ít đó, tác giả đã tận dụng 78 Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

triệt để điểm nhìn bên trong cho phép được bày tỏ, bộc bạch hết những rung

động, xúc cảm khi tiếp xúc với một số gương mặt Thơ mới. Với điểm nhìn bên

trong này, các cung bậc của cảm xúc được soi chiếu, thể hiện hết sức vi diệu, ví

như những lời nói về Hàn Mặc Tử: “Hàn Mặc Tử đã dựng riêng một ngôi đền

để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể quì lạy

cùng thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, tự tôi làm sao không ngợp vì cái

vẻ huy hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo của lâu đài kia?” [36, tr.235].

Tuy nhiên, nhiều khi để tạo nên sự linh hoạt, cuốn hút, tác giả lại thay đổi điểm

nhìn bên trong thành điểm nhìn bên ngoài và cái tôi ngôi thứ nhất số ít được

dấu nhẹm, chỉ để cho những lời nhận xét vang lên với dáng vẻ dường như

mang màu sắc khách quan, chân thực hơn, đó là khi tác giả viết về chân dung

Bàng Bá Lân, Đỗ Huy Nhiệm, Vũ Hằng Phương ... Chính điều này đã khiến

tác phẩm trở thành một sáng tác mà mỗi lần đọc chúng ta lại thêm sự rung

động mới mẻ.

Trong hai số tạp chí Tao đàn đặc biệt tập trung các bài viết về Tản Đà

(tháng 7-1939) và Vũ Trọng Phụng (12-1939), chúng ta thấy rằng đặc điểm

riêng biệt của những bài viết này là để dành tưởng niệm đến linh hồn người đã

khuất. Do vậy, trong bài viết, thường thấm đượm cảm xúc chân thành, xúc

động của cá nhân người viết. Mạch chảy của bài viết cũng thường đi theo dòng

hồi tưởng miên man về những kỉ niệm đã qua với người đã khuất, là nhắc nhớ

lại những chi tiết, sự kiện đáng ghi nhớ, đáng chú ý trong cuộc đời thường và

trong văn nghiệp của họ. Chính vì thế, trong các bài viết này cách lựa chọn

điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất là đặc trưng nổi bật. Với sự lựa chọn

điểm nhìn trần thuật như thế, các nhà văn không chỉ tái hiện lại cuộc đời của

nhân vật được dựng chân dung, từ mối quan hệ của nhân vật Tôi với người

được dựng chân dung, mà còn giúp tái hiện lại cái không khí chung của thời

đại, của đời sống văn nghệ, giúp người đọc tiếp cận, tìm hiểu, khám phá về một

thời kỉ niệm và cái thực tại đầy thương đau, mất mát là sự ra đi vĩnh viễn của

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

79

hai người bạn văn. Việc chọn điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ nhất số ít chịu sự

qui định của thể loại song điều quan trọng tác giả phải xử lí tốt mối quan hệ

giữa cái riêng và cái chung, bởi riêng tư quá chưa hẳn đã gây xúc động với

nhiều người và có giá trị, vì đây là bài viết về con người của chung cho mọi

người. Nhưng chung quá thì không còn chuyện của cá nhân. Xử lí hài hòa mối

quan hệ đó là điều mà các bài viết trong Tao đàn đã làm được, tạo nên một

cách tiếp cận hiện thực riêng: tiếp cận hiện thực xã hội từ hiện thực đời tư của

đối tượng được dựng chân dung và tác giả; một kiểu trần thuật riêng: kiểu trần

thuật chủ quan với một giọng văn riêng, độc đáo.

Trong những bài viết như Bây giờ đây, khi cái nắp quan tài đã đậy lại

của Lưu Trọng Lư, Sự thai nghén một thiên tài (Trương Tửu), Chén rượu vĩnh

biệt (Nguyễn Tuân), Ảnh hưởng Tản Đà đối với nhà văn lớp sau (Nguyễn

Triệu Luật), Tản Đà triết học (Trúc Khê Ngô Văn Triện), Một kỉ niệm về yêu

thơ Tản Đà (Xuân Diệu), Tản Đà dịch văn (Nguyễn Xuân Huy), Tản Đà, một

kiếm khách (Nguyễn Tuân), Mộng và mộng (Lê Thanh), Điếu văn đọc trước

huyệt trong đám tang Tản Đà của Đinh Gia Trinh, Địa vị Vũ Trọng Phụng

trong văn học Việt Nam cận đại (Trương Tửu), Đám tang Vũ Trọng Phụng

(Thanh Châu), Con người Vũ Trọng Phụng (Lan Khai), Vũ Trọng Phụng với

tôi (Nguyễn Triệu Luật) …, người kể chuyện luôn là nhân vật “tôi” đứng ở

ngôi thứ nhất số ít để kể về đời người được dựng chân dung và kể về những

việc có liên quan đến mình, hoặc mình được nghe, được biết, được chứng kiến

về đối tượng. Do vậy, người kể chuyện vừa là chủ thể trần thuật lại vừa có thể

là đối tượng phản ánh cùng đối tượng phản ánh chính là người được dựng chân

dung. Từ thực tế trên, trong bài viết, các tác giả có thể kết hợp cả điểm nhìn

bên trong, điểm nhìn bên ngoài. Chẳng hạn, miêu tả cái đêm họp đưa ma Vũ

Trọng Phụng ở nhà ả đào, Nguyễn Tuân sử dụng điểm nhìn bên ngoài, nhất là

khi tường thuật lại cuộc đối thoại của các bạn văn về Vũ Trọng Phụng, khiến

cho người đọc có cái nhìn khách quan, cảm động hơn về những tình cảm, thái

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

80

độ yêu mến của họ. Rồi thoắt cái tác giả lại đưa về những cảm giác nội tâm,

những kí ức của riêng mình đối với người bạn đã khuất: “Tôi nằm tiêm thuốc

bên khay đèn, tôi đã đánh cháy điếu thuốc… Tôi nhớ đến cái chuyện tôi mua

một bức tranh lụa bày ở phòng triển lãm mùa đông năm ngoái. Hồi ấy, thấy

tôi rước một bức thủy họa về để đến nỗi chậm cả áo mặc mùa rét đã dồn về

từ lâu, Phụng tìm đến tôi, ngắm bức họa với sự chế nhạo và “chửi” tôi là

một thằng điên và nói: “Tao không bao giờ lại có thể điên như thế” [37,

tr.1394], và ngẫm nghĩ đến số phận của những đồng nghiệp và bản thân

trong tương lai: “Nhân Phụng vừa nằm xuống, tôi lại tìm trong đầu xem

trong bọn nhà văn trẻ, những người nào là cầm lỏng được cái chết. Thế Lữ,

Tchya, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Đoàn Phú Tứ, Thạch Lam, Nhất linh, Khái

Hưng đều là những người đủ tư cách lên đường sớm lắm. (…) Tôi không

độc mồm nguyền rủa ai. Trái lại. Và buồn thương lắm” [37, tr.1396]. Sự

thay đổi điểm nhìn này đã giúp tác giả tự đàm luận với chính thế giới tâm tư,

tình cảm với những đau đớn, buồn thương của chính bản thân. Sự phối kết

linh hoạt luân chuyển liên tục trong bài viết ngắn này tạo nên một sự cuốn

hút, hấp dẫn lạ kì, khiến người đọc bị cuốn vào câu chuyện như thể đang

chứng kiến tận mắt cái đêm họp đưa ma u ám, thảm đạm ấy.

Sự luân phối, di chuyển điểm nhìn trần thuật linh hoạt như thế trong một

số bài viết chân dung khác nữa đã giúp cho cái nhìn về con người, cuộc sống

được mở rộng, trải ra dưới nhiều góc độ.

Bên cạnh nghệ thuật thay đổi linh hoạt điểm nhìn, sự thành công của

việc dựng chân dung văn học còn phụ thuộc khá nhiều vào việc sử dụng khéo

léo “kĩ thuật chụp ảnh”.

Chân dung - có lẽ là thuật ngữ mượn hoặc nhờ gợi ý bởi hội họa, bởi

nhiếp ảnh. Nó cốt cho thấy cái mặt người và một người chụp ảnh có tài là

người phải biết “chớp” lấy cái khoảnh khắc thần thái nhất của một chân dung.

Không phải cú bấm máy nào cũng đem lại một “chân dung” tốt, cho nên cần

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

81

đến sự tư duy, nhận xét, quan sát của người bấm máy về chất người, kiểu người

mình chụp, để chọn thời điểm và tư thế tốt nhất, để so đọ với đối tượng thật, để

định giá sản phẩm do kỹ thuật tạo ra. Cho nên ý niệm “chân dung” ngoại hình

lại cần tương ứng với “chân dung” bên trong, chân dung tinh thần − cái phần

mà trách nhiệm là thuộc hẳn về người sáng tác (dẫu là người chụp ảnh) chứ

không thuộc kỹ thuật.

Lấy ngôn từ để chớp lấy khoảnh khắc thần thái, tạo nên một chân dung văn

học độc đáo do vậy hoàn toàn không phải là việc làm dễ dàng. Tuy nhiên, với

năng khiếu nhạy bén và khả năng cảm thấu cái đẹp đầy tinh tế, Hoài Thanh - Hoài

Chân đã triển lãm cho người xem hơn bốn mươi gương mặt không thể lẫn. Bức

ảnh nào cũng có một dấu ấn riêng, cho thấy cái phần hồn tinh túy nhất của cả thơ

và cả người thơ. Tác giả được chứng kiến một Thế Lữ với hồn thơ rộng mở, thoát

lên tiên, một Lưu Trọng Lư mơ màng và ngơ ngác cả trong đời thực lẫn trong

trong thơ, một trong sáng như tâm hồn cô bé tuổi mười lăm Nguyễn Nhược Pháp,

một quê mùa như Nguyễn Bính, băn khoăn, rạo rực, thiết tha như Xuân Diệu.

Hay với con mắt của người trong cuộc, Nguyễn Tuân chớp lấy ngay cái

chân dung Tản Đà “một quái tượng” ngông trong thơ và cả trong đời thực; một

Vũ Trọng Phụng mà sự nghiệp văn chương giá trị như vậy nhưng trong cuộc

đời thực thật tội nghiệp thay bởi gánh nặng mưu sinh để nuôi sống gia đình đè

trĩu trên vai: “Đời Phụng chưa có một cái mộng nào để mà ôm, chưa mơ màng

đến một cái gì để thỉnh thoảng lìa khỏi cái tẹp nhẹp mè nheo ở đời này. Trong

đời Phụng, Phụng cử động theo nhiều suy nghĩ quá. Chưa có một giây phút

nào, hắn dám điên cuồng lấy một tị” [37, tr.1393].

Để có thể chớp lấy những giây phút thần như thế, người dựng chân dung

trước hết phải biết lựa chọn tinh tế lấy các chi tiết điển hình.

3.1.2. Sự lựa chọn tinh tế các chi tiết điển hình

Một nét đặc sắc và rất cần cho chân dung văn học chính là chất văn học

của nó. Người viết ở đây cần xuất hiện với tư cách một nhà văn, in cái nhìn,

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

82

cách cảm thụ và đánh giá cùng sự diễn đạt của nhà văn. Đây là nét hơi tinh tế,

không phải bất cứ độc giả nào cũng thấy ngay, nhưng có lẽ là nét cốt yếu khiến

cho chân dung văn học đúng là văn học, có chỗ đứng trong văn học. Cái nhìn

có liên quan trực tiếp đến việc lựa chọn chi tiết điển hình.

Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, GS Trần Đình Sử khẳng định:

“Cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người, nó có thể thâm

nhập vào sự vật, phát hiện đặc điểm của nó mà vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu

sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật, do đó cái nhìn được vận dụng muôn vẻ

trong nghệ thuật” [32, tr.106].

Sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với một tư tưởng nhất định.

Tư tưởng đó tập trung thể hiện qua cái nhìn của tác giả - một phẩm chất nghệ

thuật của nhà văn. Hay nói một cách khác, trong khi phản ánh đời sống người

nghệ sĩ không thể không có một cái nhìn nghệ thuật riêng. Thiếu quan tâm đầy

đủ tới cái nhìn nghệ thuật của tác giả, người phê bình dễ không đánh giá đúng

cái phong phú của sáng tác.

Nhà văn Pháp Mácxen Pruxt khi nói về tầm quan trọng của cái nhìn càng

khẳng định: “Đối với nhà văn cũng như nhà họa sĩ, phong cách không phải là

vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Do vậy cái nhìn là một biểu hiện tinh

thần đặc biệt của tác giả. Để hiểu được nội dung phong phú của cuộc sống

trong tác phẩm, chúng ta không thể không khám phá cái nhìn nghệ thuật, cách

tư duy, cách cảm nhận của chính nhà văn. Cái nhìn thể hiện trong tri giác, cảm

giác, quan sát, từ đó nó có thể phát hiện cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi. Cái

nhìn xuất phát từ một cá thể, mang thị hiếu và tình cảm yêu, ghét. Cái nhìn gắn

với liên tưởng, tưởng tượng, cảm giác nội tâm, biểu hiện trong ví von, ẩn dụ.

Cái nhìn có thể đem các thuộc tính xa nhau đặt bên nhau, hoặc đem tách rời

thuộc tính khỏi sự vật một cách trừu tượng.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

83

Trong tác phẩm nghệ thuật cái nhìn thể hiện trong chi tiết nghệ thuật, bởi

chi tiết là điểm rơi của cái nhìn. Như vậy “Chi tiết không đơn thuần chỉ là một

vật đã được quan sát. Chi tiết nghệ thuật mang nặng tính tổng quát. Đối với

những nghệ sĩ chân chính, chi tiết thuộc vào hệ thống của nghệ thuật. Nó nói

lên đặc điểm nhận thức của người nghệ sĩ đối với thế giới bên ngoài, cái quan

điểm riêng của người nghệ sĩ về môi trường xung quanh, cái bản chất nghệ sĩ

của anh ta (…) nhờ có chi tiết mà nhà văn mới phát hiện được những quan hệ

mới, những đặc điểm mới, những màu sắc mới. Chi tiết tức là bút pháp vậy”.

Chi tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện cái nhìn của nhà văn. Khi nhà

văn trình bày cái họ nhìn thấy cho ta cùng chiêm ngưỡng thì ta đã tiếp thu cái

nhìn của họ và cùng bước vào phạm vi ý thức của họ, chú ý cái mà họ chú ý.

Khi ta nhận thấy nhà văn này chú ý cái này, nhà văn kia chú ý cái kia, tức là ta

đã nhận ra con người nghệ sĩ của tác giả.

Để dựng thành công một chân dung văn học, người viết có tài phải là

người biết lựa chọn những chi tiết đắt, có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ

thuật, là một cách thức tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn của thể tài đặc biệt này. Thêm

vào đó, với dung lượng có hạn cho phép của thể tài, chọn lọc chi tiết là một yêu

cầu thiết yếu của nghệ thuật dựng chân dung, giúp cho những tường thuật của

các trang viết không rơi vào kể lể, kéo dài, gây nhàm chán cho người đọc.

Những chi tiết điển hình được lựa chọn có thể là một lời nói, một nét

ngoại hình, một khoảnh khắc theo hướng ngợi ca hay phê phán miễn là đảm

bảo phải làm sáng rõ chân dung nhân vật. Việc chộp bắt được những chi tiết có

vẻ ngẫu nhiên nhưng làm sao từ đó có thể toát lên cuộc đời, số phận, tính cách

của đối tượng được dựng chân dung là rất quan trọng. Chỉ có sống mới có chi

tiết. Điều đó hé mở rằng để có thể chắt lọc lấy chi tiết đặc sắc và ấn tượng về

đối tượng được dựng chân dung chỉ có con đường sống, tiếp xúc gần gũi, biết

đồng cảm văn với người thì mới làm được điều đó. Bên cạnh đó, cùng một chi

tiết, nhưng dưới cái nhìn, cái cảm quan riêng của mỗi người, nó sẽ được cảm

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

84

nhận theo một cách riêng, từ đó, đi vào trong văn chương cũng có hướng biểu

đạt riêng tùy theo cái phong cách riêng của mỗi người. Chẳng hạn như, cùng

chân dung Xuân Diệu, bằng sự cảm nhận vi diệu của tâm hồn, Hoài Thanh - Hoài

Chân đã chỉ ra cái độc đáo nhất của hồn thơ và cũng là tính cách tiêu biểu nhất của

con người luôn tha thiết, vồ vập, cuống quýt trước sự trôi chảy của cuộc sống và

tình yêu này đó là: “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng,

sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như

khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết” [36, tr.129]. Hay trong Nhà văn hiện đại,

ngoài những chi tiết điển hình như “Xuân Diệu ở đâu cũng đem theo một hồn thơ

bát ngát và mơ màng”; “Bao giờ Xuân Diệu cũng là một thi sĩ, một thi sĩ rất giàu

lòng yêu dấu”, Vũ Ngọc Phan còn dí dỏm đưa ra chi tiết: “Người ta thấy Xuân

Diệu tính toán cả tình yêu, người ta thấy ông phàn nàn về sự thiệt thòi. Trong yêu

đương mà cũng không hoang phí, như thế mới thật hiếm” [27, tr.720]. Chi tiết ấy

cho thấy nhất cái tâm hồn khao khát yêu, khao khát được sống trong tình yêu rạo

rực, được dâng hiến hết thảy cho cuộc sống thanh xuân của ông hoàng thơ tình

Xuân Diệu. Hay bắt lấy cái chi tiết về tiếng cười phóng khoáng của Tản Đà: “Nói

dứt ông cười ha hả. Ông nói dứt, rồi lại cười ha hả. Ông lại cười. Cái cười vui đời

thế và vô lự” [37, tr.675]. Nguyễn Xuân Huy đã nhấn vào được “cái cốt cách vững

vàng”, “cái phong thái ung dung” và “cái dáng điệu ngang tàng” của con người “đã

đi qua giữa cái hỗn độn của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ hai mươi với tấm lòng bình

thản của một người thời trước” [37, tr.8].

Bên cạnh những chi tiết được kể lại như thế, độc giả còn nhận thấy qua

những trang viết các tác giả còn lẩy chọn những câu thơ, những câu văn thần tình

của đối tượng được dựng chân dung. Những câu văn thơ ấy tự nó nói được rất

nhiều điều về một văn nghiệp, một cuộc đời, có mối liên hệ rất sâu sắc. Hoài Thanh

- Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan ... đều đã làm rất khéo léo điều này. Chẳng hạn như

xây dựng chân dung hồn thơ Xuân Diệu, để nói lên cái cô đơn rợn ngợp, bơ vơ,

khao khát tình yêu của thi nhân, tác giả đã trích những vần thơ hay nhất trong Lời kĩ

nữ của Xuân Diệu:

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

85

Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo /Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.

Lựa chọn và lẩy ra những câu thơ thần tình như thế chính là một sự sáng

tạo trong nghệ thuật xây dựng chân dung bằng con đường đi từ tác phẩm đến

tác giả. Đó chính là những “tư liệu sống”, “nhân chứng sống” thiết thân nhất

mà người dựng chân dung có thể thu lượm, tuyển chọn để xây dựng bức tranh

đa chiều về những chân dung văn học sống động.

Những chi tiết điển hình như thế phải thỏa mãn được cái tiêu chí gợi lên

được thần thái, linh hồn của chân dung cá nhân nhân vật vừa phải có sức mạnh khái

quát lên được những đặc trưng tiêu biểu về tính cách, cuộc đời và số phận chân

dung ấy. Xa hơn nữa, sức mạnh giá trị của việc lựa chọn tinh tế những chi tiết điển

hình còn giúp hồi quang cả một thời đại, một thế kỉ văn chương đã qua.

3.1.3. Tạo dựng không khí và bối cảnh

Chân dung văn học chú ý tạo bối cảnh, không khí bởi nhân vật của thể

tài là những con người có thực sống trong nhiều hoàn cảnh, môi trường đa

dạng, phong phú. Bối cảnh, không khí trong chân dung văn học có thể chia

thành bối cảnh hẹp và bối cảnh rộng: thời thế và văn chương. Bối cảnh hẹp

trong chân dung văn học thường thấy là gia đình, cảnh sinh hoạt. Bối cảnh rộng

có thể là một thời đại, một hoàn cảnh đặc thù của xã hội, đất nước. Đó chính là

cái phông nền, cái màn kịch sân khấu cuộc đời để mỗi chân dung văn học được

trình chiếu, là sự khẳng định ý thức nhìn nhận con người ở nhiều hướng, nhiều

chiều của nhà văn. Chẳng hạn như dựng lại chân dung cuộc đời Vũ Trọng

Phụng, Thanh Châu đưa vào cái bối cảnh hẹp là buổi đưa tang Vũ Trọng

Phụng. Một đám ma “không kèn không trống. Đám tang lặng lẽ đi trên đường

Ngã tư sở - Thanh Xuân.” Trong đám đông đi đưa tang ấy có “người vợ góa

kia bận sô gai, khóc đã lả người vịn vào kẻ đi bên cạnh mà lê bước”, có “đứa

con gái nhỏ mồ côi, xinh xắn và ngây thơ kia mà người ta bồng trên tay cho

theo chiếc xe tang” cho đến cái “gian nhà trống lạnh với đau đớn và túng thiếu

ở ngoại ô Hà Nội” trong trí tưởng của tác giả; cho đến cái hiện thực trước mắt

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

86

“những cái đầu bù rối, có những bộ mặt thông minh nhưng già sớm, có những

người bận những áo quần mỏi mệt, mỏi mệt như bước đi của họ.” Đến đây, từ

bối cảnh hẹp là một cảnh đưa tang, tác giả đã mở ra cái cánh cửa bước vào cái

bối cảnh ngổn ngang, u ám của thời đại, của hoàn cảnh xã hội bấy giờ: “Đó là

những ngôi sao của văn học giới ở Kinh đô. Đó là những kẻ mỗi ngày thường

làm náo nức, vui buồn cả một thành thị, cả một nước. Họ là những nghệ sĩ,

những nhà văn, nhà thơ, nhà báo đã có tên tuổi hay đương còn mờ tối. Những

người thợ cần cù, tận tụy đương xây đài vinh quang cho giống nòi. Họ cúi đầu

đi, buồn nản, ngùi ngùi.” Họ đi đâu? Đến viếng đám tang của một người bạn,

một thiên tài trong văn giới, nhưng họ cũng ít nhiều cảm nhận con đường đi

đến cái chết của mình. Bởi đời sống quá khổ cực với ốm đau, bệnh tật, với cơn

đói triền miên và những nỗi lo chống chọi lại với cái thể chế chính trị tù túng,

ngột ngạt kia. Họ cảm nhận được sự quay về những ngôi nhà ngoại ô, “quê

hương của những nghệ sĩ nghèo nàn, của những kẻ đã mang hết tinh hoa của

đời họ để cống hiến, để giải trí cả một thành thị xa hoa và bội bạc” [37,

tr.1360]. Trên cái nền bối cảnh riêng chung ấy, chân dung người đã khuất Vũ

Trọng Phụng, chân dung người còn sống Thanh Châu và những nhà văn khác

nữa càng hiện lên rõ nét, làm lòng người đọc ngập tràn nỗi thương cảm sâu xa.

Như vậy, nếu như trước đây, các nhà văn chủ yếu tái hiện, đánh giá con

người theo các biểu hiện tư tưởng, đạo đức của nó, thì bây giờ văn học đã mở

rộng tư duy sang các bình diện của sự tồn tại con người như thời gian, môi

trường và cả năng lực ý thức của nó trước thế giới, trước hoàn cảnh xã hội.

Môi trường của các nhà văn chính là không khí văn học thời đại họ đang sống.

Đặt vào “môi trường” đó, ta mới hiểu được con người, mới đi đến khám phá

được những bí ẩn và tiềm năng bên trong, ngoài lớp vỏ bao bọc hoặc cứng cỏi,

dày dặn hoặc mềm mại, uyển chuyển. Dựng những chân dung văn học trên một

nền hiện thực sinh động, trong không khí văn học như thế đã giúp bạn đọc có

thể nhìn thấy và hiểu biết một cách toàn diện sâu sắc. Chính vì thế mà bức

87

tranh đọng lại trong tâm tư người đọc lâu bền, đầy ấn tượng. Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

3.2. Đa thanh về giọng điệu

Bên cạnh điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật có vai trò vô cùng

quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Bởi “nếu tác giả nào không có lối nói

riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả” (Sêkhôp). Thiếu một

giọng điệu nhất định, nhà văn cũng chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù có

đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ thống nhân vật. Như vậy, giọng điệu là một

trong những phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố hàng đầu tạo

nên phong cách của nhà văn và có tác dụng truyền cảm đến người đọc. Giọng

điệu trần thuật phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ

mỗi nhà văn. Mỗi giọng điệu chỉ có thể phù hợp với những đối tượng nhất

định, thể hiện cái tạng riêng của mỗi người cầm bút, tạo sức hấp dẫn cho mỗi

tác phẩm đến nay. Tuy nhiên, trong một tác phẩm có thể có nhiều giọng điệu

bao hàm nhiều sắc diện, nhiều sắc thái biểu cảm do trong nó thường hội tụ

nhiều hồn thơ, hồn văn trong những chiều kích không gian, thời gian khác

nhau. Hoặc có khi, cùng một chân dung nhưng lại có nhiều bài viết với nhiều

giọng điệu khác nhau tùy theo cái chất và lối viết ưa thích của mỗi tác giả.

Soi chiếu vào những trang viết chân dung văn học giai đoạn 1930 -

1945, ta thấy có sự góp mặt của nhiều giọng điệu: giọng trang trọng, tôn vinh;

giọng bùi ngùi, thương cảm; giọng triết lí; giọng dí dỏm, hài hước; và cả giọng

văn ngông nghênh, kiêu bạc, tài tử mà rất mực tình cảm của Nguyễn Tuân.

Qua những trang tạo dựng chân dung văn học, Vũ Ngọc Phan chinh

phục người đọc bằng một sự cuốn hút của một lối văn kết hợp của nhiều giọng

điệu: khi dí dỏm, hài hước, khi nghiêm nhặt trong phê bình, khi lại trữ tình,

ngọt ngào. Ví dụ như nhận xét về Lê Văn Trương, Vũ Ngọc Phan hài hước và

dí dỏm: “Lê Văn Trương còn dựng lên những thuyết rất lạ cho những nhân vật

của ông. Hãy lắng nghe những lời sau này: - Ta không thể yêu đàn bà. Ta chỉ

có thể yêu Nghệ thuật và Tổ Quốc.

Trước hết, “sự mê gái” với sự “yêu đàn bà” là hai việc rất khác nhau.

Những đại văn hào như Goethe ở Đức, Anatole France ở Pháp, đều nhận rằng

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

88

đàn bà đã tô điểm cho thế gian này rất nhiều, đàn bà đã giúp cho sự tiến hóa

của nghệ thuật, nếu không có đàn bà thì sự sống của loài người sẽ rất cằn cỗi,

khô khan. Người ta thường thấy người đàn bà đẹp làm đầu đề cho các thi gia,

văn gia và những họa sĩ, những nhà điêu khắc đại tài. Như vậy, tại sao đã yêu

nghệ thuật lại không thể yêu đàn bà được?” [27, tr.863].

Lại có khi sử dụng giọng văn rất trữ tình, tha thiết, chẳng hạn như đoạn

viết về Lưu Trọng Lư sau: “Lời thơ của tác giả tập thơ Tiếng thu là những lời

buồn thảm, những lời réo rắt làm xáo động tâm hồn người ta một cách rầu rầu

như những tiếng của mùa thu” [27, tr.672].

Đọc Thi nhân Việt Nam, ta nhận thấy giọng điệu chủ đạo nhất vẫn là giọng

trữ tình, say đắm, thể hiện một tâm hồn đồng điệu với khao khát muốn đón nhận

những vang động của tâm hồn thi nhân. Ví như khi miêu tả chân dung chàng thi sĩ

trẻ tuổi Tế Hanh, Hoài Thanh đã dùng giọng văn thật ý tứ, nhẹ nhàng để chỉ ra cái

tinh tế, sâu thẳm của sự giao hòa giữa thơ và người trong bức chân dung này: “Tế

Hanh sở dĩ nhìn đời một cách sâu sắc như thế là vì người sẵn có một tâm hồn tha

thiết. Hôm đầu tôi gặp người thiếu niên ấy, người rụt rè ngượng ngịu như một

chàng rể mới. Nhưng tôi vẫn nhớ đôi mắt. Đôi mắt nồng nàn lạ. Tôi nghĩ ở một

người như thế những điều cảm xúc, những nỗi đau xót sẽ quá mức thường và có

khi khác thường” [36, tr.171].

Đến với Tao đàn, viết về bậc tiền bối Nguyễn Công Trứ, ta được thấy

một giọng văn nghiêm cẩn: “Nguyễn Công Trứ vào đời nghiêm trang như đức

Trọng Ni, ra đời hiền vui như thầy Trang Tử” [37, tr.112]. Và rồi cũng giọng

của Lưu Trọng Lư nhưng đã chuyển sang gần gũi hơn mà vẫn mang cái màu

sắc lai láng của một người thi nhân viết chân dung khi nói về Nguyễn Bá Trác:

“Tôi gặp một kẻ giang hồ. Kẻ ấy đã gợi cho tôi cái thú lang bạt muốn được

băng mình nơi xứ lạ, một hôm nằm ở một quán lạ, qua những song cửa nhìn

ánh trăng bạc tuôn trên một lối đi cỏ đã áy vàng...” [37, tr.567]. Rồi giọng điệu

ấy chuyển sang đầy ngậm ngùi, bi thiết trong bài văn tiễn đưa Vũ Trọng

Phụng: “Nhưng có bao giờ ai lại muốn: những hoa tàn ngay trong cái giờ hoa

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

89

nở. Thế mà số mệnh đã muốn anh đi ngay trong cái văn tài anh cũng vừa “nở”

giữa cái hương vị đầu tiên của cuộc đời. Anh là một đóa hoa còn mơn mởn ở

trên cành niên thiếu, thế mà giời ôi! Hoa đã rụng rồi!” [37, tr.1430].

Sự đa thanh về sắc thái giọng điệu khi xây dựng chân dung văn học như

thế chứng tỏ bản lĩnh của người viết và vốn sống, vốn hiểu biết của họ về đối

tượng được dựng chân dung. Việc tìm ra những giọng điệu thích hợp, hài hòa

sẽ góp phần khơi dậy những ấn tượng và xúc cảm ở trong lòng người đọc.

3.3. Tính hình tƣợng, sự tinh tế và phong phú trong ngôn ngữ

M.Gorki từng nói: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng”. Chính vì

ngôn ngữ thể hiện tư tưởng, bao bọc tư tưởng cho nên vấn đề ngôn ngữ là vấn

đề hết sức quan trọng đối với mỗi người cầm bút.

Ngôn ngữ trần thuật là phần lời của tác giả - người trần thuật. Với thể tài

chân dung văn học, thông thường tác giả và nhân vật xưng “tôi” là một, nên

ngôn ngữ trần thuật là lời của nhân vật - người đang kể câu chuyện về chính

cuộc đời mình, những người, những việc liên quan đến mình.

Song chân dung văn học không chỉ là câu chuyện của mỗi cá nhân mà

còn là tác phẩm văn chương nghệ thuật của đông đảo cộng đồng độc giả. Vì

vậy, các tác giả luôn có ý thức chọn lọc một hình thức ngôn từ biểu hiện phù

hợp để lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.

Soi chiếu vào các trang viết chân dung văn học thời kì 1930 - 1945, người

đọc cảm nhận được tính hình tượng, tinh tế và phong phú trong ngôn ngữ cũng là

một trong những nét đẹp trên phương diện hình thức của thể tài giai đoạn này.

Cái tạo nên sự khác biệt giữa một tiểu sử văn học với một sáng tác

thuộc thể tài chân dung văn học nằm ở chất văn học bên trong câu chữ.

Chính là chất văn học đã cho phép thể tài chân dung được phóng túng

nhiều hơn so với lối viết tiểu sử hoặc nghiên cứu một tác giả. Các thể tài

phê bình vốn đã ít gò bó so với các thể tài nghiên cứu. Chân dung văn học,

hơn một mức nữa, còn có thể phóng túng.

Văn của Hoài Thanh thực sự mỗi câu, mỗi chữ, mỗi dòng đều đẹp như

một bài thơ. Tác giả kì công trau chuốt, gọt dũa, tìm ra cái thần thái hơi văn

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

90

của mỗi thi sĩ để chọn lấy lối trình bày ngôn ngữ cũng tương đồng như thế.

Đọc Thi nhân Việt Nam, người ta thấy phảng phất cái say đắm trong cuộc của

chính tác giả. Ngay lối in chữ Hoài Thanh cũng cẩn thận chọn sắp chữ in

nghiêng, để lời văn của mình mang một dáng vẻ bay bổng, tài hoa, hòa hợp với

cái linh hồn mỏng mảnh của Thơ mới. Sự thay đổi linh hoạt của chủ thể nhân

xưng “tôi”, “ta”và gọi đối tượng dựng chân dung bằng người cũng cho thấy cái

tài năng dùng ngôn ngữ của nhà văn này.

Ngay cả Nhà văn hiện đại, một tác phẩm nằm trung dung giữa hai thể

tài chân dung văn học và phê bình văn học, Vũ Ngọc Phan cũng cho ta cái

nhìn phân loại nghiêng về thể tài chân dung, bởi lẽ lối văn tác giả dùng

cũng đầy chất văn chương. Đọc những câu văn đẹp như: “Cái ngày mà thơ

Tương Phố ra đời trong tạp chí Nam Phong, tức là ngày “ngọn gió thu” bắt

đầu thổi; rồi thu ấy qua, thu khác lại, ngọn gió thu vẫn không làm khô được

nước mắt của người sầu thu, vì không còn bài thơ nào của bà là không nhắc

nhở đến cái mùa cây khô lá vàng” [27, tr.156]; hay: “Lưu Trọng Lư là một

thi sĩ đa tình và mơ mộng. Ông say sưa tất cả những cái đẹp của người và

của tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức, trí não ông lúc nào cũng

mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng với thực, thổ lộ nên

những lời huyền ảo vô cùng” [27, tr.672]. Hay: “Lời thơ trong sáng êm như

ru; còn ý thơ nhẹ nhàng, man mác, tỏa ra như mây khói. Mà cảm động

huyền diệu biết bao. Tình tứ đến thế là cùng, cảm động đến thế là cùng.

Một người mang bệnh mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật

cũng là” khi nói về Hàn Mặc Tử, người đọc được hân thưởng những cảm xúc

tinh tế trong tâm hồn của người viết.

Các tác phẩm thuộc thể loại chân dung văn học giai đoạn 1930 -

1945 về số lượng tuy chưa nhiều nhưng lại có ý nghĩa to lớn. Chân dung

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

91

văn học không chỉ dừng lại ở việc giúp ta hiểu biết về thế giới nghệ thuật

nhà văn, mà còn giúp ích đối với sự phát triển của thể loại chân dung văn

học Việt Nam. Với ngòi bút điêu luyện đã trải qua bao khổ luyện công phu,

các nhà văn bấy giờ đã ghi được những thành công đáng kể trong thể loại

chân dung văn học của thời đại mình.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

92

KẾT LUẬN

Chân dung văn học là một thể tài khá mới mẻ trong lịch sử văn học

dân tộc, bao hàm trong đó những nét đặc sắc riêng về đặc điểm của thể tài.

Thể chân dung văn học trong văn học Việt Nam đã thực sự được đặt nền

móng từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX và đã ghi nhận được những

thành tựu đặc sắc với các cây bút: Thiếu Sơn, Trương Tửu, Ngô Tất Tố,

Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan... Ngày nay, với một cái nhìn

toàn diện và tổng quan lại thể tài chân dung văn học trong văn học Việt

Nam giai đoạn 1930 - 1945, chúng ta nhận thấy các tác phẩm ấy đã được

xây dựng trên nhiều hình tượng nhà văn, nhà thơ, giúp người đọc nhận thức

được không chỉ tác giả, tác phẩm mà còn nhận diện được cả thế hệ người

cầm bút cũng như độc giả giai đoạn này.

Lựa chọn nghiên cứu thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945

với mong muốn góp phần làm sáng tỏ chân dung của cả một thời đại văn học

và cung cấp thêm những minh chứng cho lí thuyết về thể tài này qua đề tài Thể

chân dung văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, luận văn đã

hệ thống lí giải một số vấn đề sau:

1. Giới thuyết khái quát những vấn đề lí thuyết cơ bản có liên quan đến

khái niệm thể tài chân dung văn học, mối quan hệ giữa thể tài này với thể kí và

phê bình văn học, cùng những đặc điểm riêng của thể tài này. Bên cạnh đó,

trong chương 1 Thể tài chân dung văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 -

quá trình hình thành và phát triển, luận văn còn tập trung giới thiệu quá trình

hình thành và phát triển của thể tài trên hai luận điểm cơ bản là cơ sở tiền đề,

bao gồm: cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội và cơ sở thẩm mĩ; và bốn giai đoạn

phát triển cơ bản của thể tài này tại Việt Nam từ khi hình thành cho đến nay.

Ngoài ra, để nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của việc tìm hiểu các tác

phẩm thuộc thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945, luận văn cũng đã

nhấn mạnh đến vai trò, giá trị và đánh giá về vị trí của thể tài giai đoạn này

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

93

trong lịch sử phát triển chung với mong muốn dựng lên một toàn cảnh khái

lược nhất những vấn đề lí thuyết cơ bản cũng như đánh giá đúng vị trí của thể

chân dung giai đoạn này.

2. Lấy các sáng tạo nghệ thuật thuộc thể chân dung văn học giai đoạn

1930 - 1945 làm đối tượng nghiên cứu và lựa chọn phạm vi nghiên cứu là tựu

trung vào các tác phẩm tiêu biểu đó là Phê bình và cảo luận của Thiếu Sơn, Nhà

văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài

Chân, cùng các số báo trong tạp chí Tao đàn có liên quan đến thể này. Chương 2

và chương 3 của luận văn đã khám phá đối tượng này lần lượt trên hai bình diện

đặc điểm và giá trị của những cảm hứng chủ đạo và những phương tiện nghệ

thuật biểu hiện các nguồn cảm hứng đó. Cụ thể là:

Luận văn đã đi sâu vào khám phá các tác phẩm trên ba phương diện: cảm

hứng dựng chân dung, góc độ tiếp cận đối tượng và đặc điểm của cách tiếp cận

chân dung của các tác phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối tượng để khơi

nguồn cảm hứng dựng chân dung lúc bấy giờ là các nhà văn, nhà thơ, nhà báo,

nhà hoạt động xã hội; là những con người có những sáng tác bằng chữ quốc

ngữ có ảnh hướng lớn đến sự phát triển của văn học nước nhà. Đó là những

con người mà nói như tác giả Vũ Ngọc Phan “đang trên đường vươn đến sự

toàn mĩ hoàn thiện”. Với tấm lòng trân trọng, ưu ái, cảm thông sâu sắc và với

tư cách tiếp cận là người trong cuộc, trong giới, hiểu sâu sắc hơn ai hết những

đồng vọng, biến cố lớn lao của thời đại, các nhà văn - người dựng chân dung

đã làm được công việc lớn lao cung cấp một nguồn tư liệu dồi dào và phong

phú cho những ai quan tâm đến nền văn học Việt Nam. Ngày nay, nguồn tư

liệu ấy vẫn còn nguyên giá trị, không chỉ góp phần nhận thức và tôn vinh đúng

giá trị thực của tác phẩm, tác giả mà còn giúp trả về chân thực, nguyên vẹn

những giá trị xác đáng của những tác phẩm đã từng một thời bị đánh giá sai

lệch. Từ những chân dung văn học cá nhân, các tác giả đã dựng lại cả một đời

sống văn học của một thời kỳ lịch sử và trên cái nền của đời sống văn học ấy,

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

94

người ta thấy hiện lên chân dung của những nhà văn lớn tên tuổi của nền văn

học nước nhà, trong đó có cả chính chân dung tác giả như một hình thức “đồng

chân dung”. Đó là cái nhìn của người trong cuộc với bao diễn biến vui buồn,

những băn khoăn trăn trở, những khát khao náo nức, những gửi gắm lớn lao.

Người ta thấy được những dòng tâm sự về mình, thấy được sự sẻ chia, đồng

cảm của hình bóng mình trong đó, nhìn thấy được cả về những điều đã và chưa

làm được, cũng như thấy cả một hồi ức về quá trình khám phá và nhận thức về

con người và xã hội. Song đó không còn là suy tư của tác giả nữa mà còn là

suy nghĩ của cả một lớp người viết thời đó. Qua đấy, người đọc được tái hiện

lại chân thực gương mặt của cả một thời đại lịch sử đã đi qua. Đó cũng chính là

những đặc điểm lớn mà thể chân dung văn học giai đoạn này đã làm được, gợi

mở tiền đề cho sự thành công rực rỡ của thể tài này trong giai đoạn về sau.

3. Luận văn đã hướng vào giải quyết là khám phá sự thể hiện nội dung của

các tác phẩm trên các phương diện nghệ thuật chính yếu: điểm nhìn trần thuật, sử

dụng kĩ thuật nhiếp ảnh, chọn lựa chi tiết điển hình, giọng điệu và ngôn ngữ. Kết

quả thu được của những lí giải từ chương 3 cho thấy: Các tác giả đã có sự thay đổi

linh hoạt điểm nhìn trần thuật. Đặc biệt với sự chi phối, qui định do đặc trưng của

thể tài, ngôi trần thuật thứ nhất số ít, Tôi - người dựng chân dung được sử dụng

với sự biến hoạt linh động từ điểm nhìn bên ngoài, để tường thuật khách quan,

chân thực cái hiện thực như vốn có vào điểm nhìn bên trong, để giãi bày hết

những xúc cảm sâu kín, vi diệu trong tâm hồn. Sự linh hoạt về điểm nhìn kéo theo

sự đa thanh, nhiều gam, nhiều sắc về giọng điệu, mà trội lên cơ bản vẫn là giọng

nghiêm cẩn, giọng trữ tình, thiết tha, giọng hài hước dí dỏm, và cả giọng ngậm

ngùi, buồn thương. Để có thể tạo nên sự đa thanh trong giọng điệu ấy, các tác giả

đã kì công trong gọt giũa ngôn từ, tạo nên sự phong phú và tinh tế trong việc sử

dụng ngôn ngữ khi tạo dựng các chân dung văn học. Những chân dung văn học

thực sự là một tác phẩm thành công, được người dựng chân dung Vũ Ngọc Phan,

Hoài Thanh - Hoài Chân, Nguyễn Tuân, Trương Tửu, Lan Khai, Ngô Tất Tố,

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

95

Nguyễn Triệu Luật, Thanh Châu... “chộp bắt” lấy cái nét hồn thần thái từ sự chọn

lọc khéo léo những chi tiết điển hình. Qua đây, các nhà văn - người được dựng

chân dung và cả các nhà văn - người dựng chân dung và gương mặt văn chương

của một thời đại đã được nhìn nhận, đánh giá lại với tất cả tính thời sự của nó.

Như vậy, nảy sinh và phát triển trong một giai đoạn có nhiều biến động

lớn lao của lịch sử, thể tài chân dung văn học nói riêng và văn học Việt Nam

nói chung giai đoạn những năm 1930 - 1945 của đầu thế kỉ XX đã có nhiều

đóng góp lớn cho văn học nước nhà. Bức tranh toàn cảnh về thể tài này cho

thấy, do những chế định của lịch sử, chân dung văn học chỉ bắt đầu thực sự ra

đời và phát triển vào những thập niên 30 của thế kỉ XX trở đi. Thuộc về giai

đoạn sơ khởi, do vậy, thể tài chân dung văn học giai đoạn này mang những đặc

điểm cụ thể riêng.

Thứ nhất, đó là còn có sự phân định chưa rạch ròi hoàn toàn về mặt thể

loại, hay nói cách khác, vẫn tồn tại sự thâm nhập, khoảng mờ giữa các thể chân

dung, văn học sử, nghiên cứu và phê bình văn học. Điều này thể hiện ngay chính

trong tựa đề bên dưới công trình của Vũ Ngọc Phan (ông viết: Nhà văn hiện đại-

Phê bình văn học) và nỗi băn khoăn của Hoài Thanh trong lời cuối của Thi nhân

Việt Nam, rằng: “Vậy tôi viết gì đây và trong làng văn danh hiệu tôi là gì?” [36,

tr.390]. Bên cạnh đó, những bài viết mang hơi hướng rõ nét hơn, có các đặc

điểm tương tự thể tài chân dung văn học ngày nay, được in trong tạp chí Tao

đàn thì số lượng chưa lớn. Các bài viết mới dừng lại ở chỗ như những lát cắt

ngang qua số phận, cuộc đời, văn nghiệp của người được dựng chân dung.

Thứ hai, vì sự hạn chế trên, nên xét về phương diện nghệ thuật dựng

chân dung, những tác phẩm thuộc về giai đoạn này cách thể hiện vẫn chưa thật

phong phú. Ví dụ, do đặc điểm của thời đại và phần do chủ trương của người

viết, Thi nhân Việt Nam và Nhà văn hiện đại vẫn chủ yếu dựng chân dung với

cách tiếp cận tương đối giữ khoảng cách. Lấy sự gần gũi của người trong giới

để nhìn nhận nhưng về cơ bản vẫn ít nhiều có một “khoảng cách sử thi” trong

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

96

cách tiếp cận đối tượng. Chỉ đến với những bài viết trong Tao đàn thì cái cự li

giữa người dựng chân dung và đối tượng được dựng chân dung đã rút ngắn rất

nhiều, như yêu cầu thẩm mĩ cần thiết mà thể tài chân dung văn học cần có. Đây

cũng là sự mở đường cho lối tiếp cận “cự li gần” của những sáng tác chân dung

văn học nổi tiếng sau này.

Nếu đặt ra một cái nhìn đối sánh về thể tài chân dung văn học giữa hai

thời kì 1930 -1945 và sau thời kì Đổi mới 1986 đến nay, với nhu cầu nhận chân

lại các giá trị lịch sử, con người, thời đại và tác phẩm, cho thấy có một sự cách

biệt khá xa trên cả mặt số lượng và chất lượng giữa hai thời kì. Cùng với sự nở

rộ về số lượng tác phẩm, những thủ pháp được sử dụng trong các sáng tác

thuộc thể tài này cũng có dụng ý nghệ thuật hơn, những kĩ thuật như tái hiện

dòng hồi ức đảo chiều, sắp xếp không theo trình tự biến thiên của thời gian mà

theo qui luật ngẫu nhiên của trí nhớ, tinh vi trong đa thanh về giọng điệu… đã

được tận dụng triệt để trong một dung lượng dày dặn và có sự kết nối liên văn

bản qua những minh chứng rõ nét như hồi kí của Anh Thơ, Tô Hoài, Bùi Ngọc

Tấn, Hoài Anh, Nguyễn Quang Lập… Tuy nhiên, nếu công bằng nhìn nhận,

chúng ta phải khẳng định rằng thể tài chân dung văn học giai đoạn 1930 - 1945

đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó, trong vai trò mở đường, tạo dựng nền

móng cho thể tài chân dung văn học Việt Nam hiện đại phát triển.

Đứng trên phương diện lí luận, từ những kết quả thu về trên, chúng tôi

nhận thấy chân dung văn học là thể tài còn đang hình thành, quan niệm về nó

còn khá co giãn ở từng người viết khác nhau, cho nên khó mà có ngay một sự

“tổng kết”. Về thể tài này, sự khái quát lí thuyết vẫn còn khá ít ỏi. Xung quanh

nó chắc chắn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng cái chính vẫn là ở thực tế

sáng tác, tức là những tác phẩm chân dung văn học đã và sẽ được viết ra. Đấy

mới là cơ sở cụ thể để bàn đến lí thuyết về thể tài này. Để cho đời sống văn học

sinh động và năng động hơn, thiết tưởng các tạp chí và sách văn học cần tăng

thêm các loại bài viết về nhà văn, về hoạt động xã hội và hoạt động nghề

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

97

nghiệp của họ. Có thể ở dạng chân dung, có thể ở dạng phác thảo, cũng có thể

ở dạng các bài viết thông tin thường nhật, phỏng vấn, trò chuyện với họ. Điều

đó sẽ giúp mở rộng hiểu biết của người đọc về văn học, về lao động của người

làm văn học. Bên cạnh đó, việc mở rộng các công trình nghiên cứu, khám phá

những giá trị của thể tài này qua từng giai đoạn phát triển là công việc thực sự

hữu ích và mới mẻ, hứa hẹn nhiều đóng góp thú vị. Và khi ấy, nói như tác giả

Vương Trí Nhàn - một người đã thu hái những hoa thơm quả ngọt với thể tài

này - có thể các loại bài viết không định nhập vào thể chân dung lại làm hình

thành ở người đọc những chân dung - chân dung đơn, chân dung nhóm, chân

dung cả giới những người làm văn học hôm qua, hôm nay và cả ngày mai.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

98

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoài An (2001), Chân dung văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

2. Phạm Thị Lan Anh (2008), Hồi kí của một số nhà văn Việt Nam hiện đại,

LVThs Ngữ văn, ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn.

3. Lại Nguyên Ân - Ngô Thảo (1995), Nhà văn Việt Nam chân dung tự họa,

Nxb Văn học, Hà Nội.

4. Vũ Bằng (2002), Mười chín chân dung nhà văn cùng thời, Nxb ĐHQG

Hà Nội.

5. Baxhtin, M. (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Bộ Văn hóa

Thông tin & thể thao - Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

6. Chân dung văn học (1983) (chọn lọc), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

7. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

8. Hà Minh Đức (1996), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Êrenbua.I (1960), Công việc nhà văn, Nxb Văn học, Hà Nội.

10. Nguyễn Thị Xuân Giang (2003), Nghệ thuật dựng chân dung văn học của

Vương Trí Nhàn, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Vinh.

11. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Tô Hoài (1960), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Nxb Văn học, Hà Nội.

13. Tô Hoài (1986), Những gương mặt Việt Nam, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

14. Tô Hoài (1997), Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

15. Trương Thị Huyền (2007), Đặc trưng của thể loại hồi kí Tô Hoài, LVThs,

ĐHSP Hà Nội.

16. Trần Đăng Khoa (1998), Chân dung và đối thoại, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

17. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

99

18. Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại (Giai đoạn từ đầu thế kỉ XX

đến năm 1945) (2010), Nxb Đại học Thái Nguyên.

19. Phan Trọng Luận, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà,

La Khắc Hòa, Thanh Thế Thái Bình (2002), Lí luận văn học , Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

20. Hữu Mai (1986), Bốn mươi năm văn học, Nxb Tác phẩm mới Hà Nội.

21. Nguyễn Đăng Mạnh (1990), Chân dung văn học, Nxb Thuận Hóa.

22. Nguyễn Lương Ngọc (2001), Nhớ bạn, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.

23. Vương Trí Nhàn (2000) Chân dung văn học (Chọn lọc), Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

24. Vương Trí Nhàn (2001), Những kiếp hoa dại- tập chân dung và phiếm luận

văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

25. Vương Trí Nhàn (2002), Cây bút để đời- tập chân dung văn học, Nxb Trẻ.

26. Những sự kiện văn học Việt Nam (Từ 1865 đến 1945), Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội, 2012.

27. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tập 1 và 2), Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

28. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

29. Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2000.

30. Pôxpêlôp, G.N. (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

31. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ GD-ĐT,

Vụ Gd, Hà Nội.

32. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

33. Bùi Ngọc Tấn (2005), Viết về bạn bè, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

34. Bùi Ngọc Tấn (2005), Rừng xưa xanh lá, Một thời để mất, Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

35. Tản Đà trong lòng thời đại, Nxb Hội nhà văn Hà Nội, 1997.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

100

36. Hoài Thanh - Hoài Chân (2008), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn hóa Sài Gòn,

Tp. Hồ Chí Minh.

37. Nguyễn Ngọc Thiện - Lữ Huy Nguyên (st) (1998), Tao đàn 1939 sưu tập

trọn bộ, Nxb Văn học, Hà Nội.

38. Thiếu Sơn Toàn tập, Nxb Văn học (Tập 1).

39. Lý Hoài Thu (2008), “Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới”, Tạp chí nghiên cứu

lí luận, phê bình và lịch sử văn học, Số 10, Hà Nội.

40. Đoàn Nhã Văn (2007), Phác thảo mười lăm chân dung văn học, Nxb Văn học,

Hà Nội.

Soá hoùa bôûi Trung taâm Hoïc lieäu –ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn/

101