ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGÔ THỊ HỒNG VÂN
LUẬN VĂN THẠC SỸ
THẾ GIỚI ĐỘNG VẬT TRONG SỬ THI BANA
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 602234
HÀ NỘI, THÁNG 9/2008
MỤC LỤC
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………1
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….3
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn…………………………………….5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………..5
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………7
6. Bố cục luận văn………………………………………………………..8
CHƯƠNG 1
SỐ LIỆU THỐNG KÊ HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA
1. Một số nét về dân tộc Bana và sử thi Bana……………………………9
1.1. Dân tộc Bana………………………………………………………...9
1.2. Sử thi Bana…………………………………………………………10
2. Số liệu thống kê tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana…11
2.1. Bảng số liệu thống kê………………………………………………11
2.1.1.Bảng 1……………………………………………………………..12
2.1.2.Bảng 2……………………………………………………………..14
2.1.3.Bảng 3……………………………………………………………..16
2.1.4.Bảng 4……………………………………………………………..19
2.1.4.Bảng 5……………………………………………………………..20
2.2. Những nhận xét ban đầu qua các bảng thống kê…………………...20
CHƯƠNG 2
HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA
1.Chức năng của các hình ảnh động vật………………………………...28
1.1. Nhóm động vật có thực…………………………………………….29
1.1.1. Con vật nuôi trong nhà…………………………………………...30
1.1.2. Động vật hoang dã có trong tự nhiên…………………………….40
1.1.2.1. Động vật lớn……………………………………………………41
1.1.2.2. Động vật nhỏ…………………………………………………...46
1.2. Nhóm động vật không có thực……………………………………..62
2. Cách thức miêu tả…………………………………………………….69
CHƯƠNG 3
MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG SỬ THI VỚI ĐỜI SỐNG, VĂN HOÁ, TÂM LINH NGƯỜI BANA
1. Sử thi Bana thường dùng hình ảnh loài vật để phóng đại các chi tiết
nhằm lôi cuốn người nghe, thông qua đó nói lên tính cách hào hùng, bất
khuất của người Bana…………………………………………………...78
2. Tính nhân văn của sử thi Bana………………………………………..84
3. Hình ảnh đặc trưng của mỗi loài vật thường được sử dụng để miêu tả
người anh hùng………………………………………………………….86
4. Hình ảnh động vật có mặt trong sử thi được đưa vào nghệ thuật điêu
khắc, trong cuộc sống đời thường của người Bana……………………..87
5 Số lượng hình ảnh động vật có mặt trong 5 tác phẩm sử thi phản ánh sự
phong phú và giàu có của vùng đất Tây Nguyên……………………….89
6. Hình ảnh động vật có mặt trong sử thi xuất hiện trong đời sống thường
nhật, tín ngưỡng của người Bana ngày nay……………………………..91
7. Hình ảnh xuất hiện dưới lốt loài vật trong sử thi tác động đến quan
niệm sống của người Bana hiện tại……………………………………...92
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sử thi là thuật ngữ văn hóa để chỉ một thể loại văn học tự sự,
thường có vần điệu, hàm chứa những “bức tranh” xã hội rộng lớn của
một cộng đồng trong một giai đoạn lịch sử. Tác phẩm sử thi là câu
chuyÖn vÒ nh÷ng ng êi anh hïng, hiÖp sÜ ®¹i diÖn cho mét thÕ giíi thÇn
t îng của một cộng đồng cư dân trong quá khứ. Sử thi tồn tại dưới dạng
truyền miệng và văn bản, nhưng phần lớn đều có nguồn gốc dân gian.
Sử thi là vốn quý trong kho tàng văn hoá của mỗi dân tộc và không
phải dân tộc nào cũng có những bộ sử thi nổi tiếng như Iliát và Ôđixê của
Hi Lạp và La Mã cổ đại; Ramayana và Mahabharata của Ấn Độ; Đalinin
của Séc; Kalêvala của Phần Lan... Trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam, đặc biệt các dân tộc ở Tây Nguyên có một kho tàng sử thi khá đồ sộ
và đặc sắc, tiêu biểu là sử thi Đam Xăn của dân tộc Êđê; Cây nêu thần,
Mùa rẫy bon Tiăng của dân tộc M’nông; Đăm Noi, Xing chi ôn, Giông
của dân tộc Bana… Điểm khác biệt của sử thi Tây Nguyên so với nhiều
sử thi trên thế giới đã được phát hiện là nó vẫn đang tồn tại trong đời sống
của cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, xuất hiện dưới hình thức
diễn xướng hát - kể.
Sử thi Tây Nguyên có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với
đồng bào Tây Nguyên mà còn có giá trị to lớn với cả dân tộc Việt Nam.
Nó không chỉ có giá trị đối với quá khứ mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hoá của thời đại ngày nay.
Sử thi Tây Nguyên là một giá trị văn hoá tinh thần lớn trong di sản
văn hoá của các dân tộc Tây Nguyên và của đồng bào cả nước. Nó phản
ánh tình cảm, ước mơ cuộc sống của con người Tây Nguyên trong bối
2
cảnh văn hoá và giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là tính nhân văn, là mối
quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội, là tình cảm và
sự hài hoà của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên...
Đọc kho tàng sử thi Tây Nguyên, chúng ta nhận thấy sự quen thuộc của
những hình ảnh cỏ, cây, muông thú… Những hình ảnh ấy dưới cách nhìn
này hay cách nhìn khác không chỉ là sự thể hiện hiện thực cuộc sống
khách quan mà còn chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Sử thi Tây Nguyên
phản ánh rõ nét và sâu sắc xã hội Tây Nguyên. Trong tổng thể cũng như
trong chi tiết, cuộc sống của làng, của buôn và của con người, thiên nhiên
cũng như phong tục tập quán, tất cả đều được tái hiện lại, khiến cho sử thi
trở thành bộ sách bách khoa về Tây Nguyên.
Bước vào thế giới của sử thi, ta bắt gặp ở đó mọi mặt tri thức của
các dân tộc thời cổ. “Trong sử thi có đầy đủ các mặt về đời sống văn hoá
của các dân tộc, các nghi lễ phong tục tập quán, cách thức sinh hoạt, ăn
mặc, đi lại… tất cả điều đó khiến các nhà nghiên cứu coi sử thi như là “bộ
bách khoa thư”, là “cuốn từ điển sống” của mỗi dân tộc” [26, tr348]. Tất
cả những gì quen thuộc với cuộc sống đều xuất hiện trong sử thi. Nó là
một tấm gương phản ánh một cách toàn diện đời sống của mỗi dân tộc ở
một thời đã qua, đồng thời nói lên khát vọng của dân tộc ấy về một cuộc
sống hạnh phúc và thịnh vượng. Người Ấn Độ nói rằng: “Cái gì không có
trong hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana thì không thể tìm thấy ở
bất kì nơi nào trên đất Ấn Độ”. Đó là một câu nói nổi tiếng, một sự khẳng
định đầy kiêu hãnh, một niềm tự hào lớn lao của người Ấn Độ. Vì thế
người Việt Nam có quyền tự hào và phải biết tự hào khi sở hữu một kho
tàng sử thi đồ sộ. Đóng góp một phần không nhỏ vào kho tàng sử thi đồ
sộ ấy là những áng sử thi Tây Nguyên.
Bởi vậy, tìm hiểu về những hình ảnh trong kho tàng sử thi Tây
Nguyên, cũng là một cách tiếp cận về cuộc sống của người dân Tây
Nguyên. Hiện nay, có nhiều đề tài nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên,
3
nhưng với riêng sử thi Bana thì các đề tài nghiên cứu còn ít. Để tìm hiểu
về cuộc sống của người dân Bana trong cộng đồng dân tộc Tây Nguyên,
có rất nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Với luận văn này, tác giả lựa chọn
một khía cạnh để nghiên cứu, đó là Thế giới động vật trong sử thi Bana.
2. Lịch sử vấn đề
Những công trình nghiên cứu sử thi đã cho thấy sự phong phú, đa
dạng, giá trị đặc sắc của thể loại này. Người mở đường cho công việc sưu
tầm, giới thiệu sử thi Tây Nguyên là Leopold Sabatier (người Pháp, đã
từng làm ở công sứ Đắc Lắc). Ông công bố sử thi Đam Săn vào năm
1927 tại Paris. Năm 1933, Leopold Sabatier công bố lần thứ hai tác phẩm
Đam Săn trên tờ tạp chí của Viện Viễn đông bác cổ. Năm 1955, trên tờ
tạp chí của Viện Viễn đông bác cổ, Dominique Antomarchi sưu tầm,
Georges Condominas công bố và giới thiệu sử thi Đăm Di. Như vậy,
trong giai đoạn từ năm 1927 đến năm 1955, hai tác phẩm sử thi Tây
Nguyên đã được người Pháp sưu tầm và công bố bằng tiếng Pháp và
tiếng Ê Đê.
Năm 1957 tại Hà Nội, tác phẩm Đăm Xăn được Đào Tử Chí dịch
từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, công bố trên tạp chí Văn nghệ với tên gọi Bài
ca chàng Đam San. Sau đó năm 1959, tác phẩm này được Nhà xuất bản
văn hoá in thành sách. Năm 1972, sử thi Ẳm ệt luông của người Thái do
Khà Văn Tiến dịch ra tiếng Việt và được xuất bản tại Hoà Bình. Năm
1975, sử thi Đẻ đất đẻ nước do Vương Anh, Hoàng Anh Nhân sưu tầm ở
Thanh Hoá được xuất bản. Năm 1976, Đẻ đất đẻ nước do Bùi Thiện,
Thương Diễm, Quách Dao sưu tầm ở Hoà Bình được công bố. Sau đó,
nhiều công trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên do người Việt Nam thực
hiện đã có mặt như Trường ca Tây Nguyên, Trường ca Xinh- Chi- Ôn,
trường ca Mnông, Giông nghèo tám vợ… [ 8, tr 5]
4
Năm 1981, PGS. Võ Quang Nhơn bảo vệ luận án tiến sỹ ngữ văn
với đề tài Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên; năm
1993, Đỗ Hồng Kì bảo vệ luận án Tiến sỹ Sử thi thần thoại Mnông; năm
1988 Phan Đăng Nhật bảo vệ luận án Tiến sỹ khoa học Những đặc điểm
cơ bản của sử thi khan ở Việt Nam... Ngoài ra, phải kể đến những báo cáo
khoa học có giá trị của Đinh Gia Khánh, Tô Ngọc Thanh, Ngô Đức
Thịnh… được trình bày trong các cuộc hội thảo khoa học về sử thi Tây
Nguyên trong thời gian qua. Bên cạnh đó cũng phải nhắc đến một số bài
viết về sử thi đăng trên các tạp chí Nguồn sáng dân gian, Văn hoá dân
gian, Ngôn ngữ và đời sống, Nghiên cứu văn học… của các tác giả Phan
Đăng Nhật, Phạm Nhân Thành, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Chu Thái Sơn,
Nguyễn Chí Huyên, Nguyễn Quang Tuệ…
Năm 1997, Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn quốc gia (nay là
Viện Khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với UBND tỉnh Đắc Lắc tổ
chức hội thảo Sử thi Tây Nguyên – Việt Nam. Tham gia hội thảo có các
bản báo cáo Sử thi ở Việt Nam của GS. Đinh Gia Khánh, Nhìn lại quá
trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên trong bối cảnh sử thi Việt
Nam của GS.TSKH Phan Đăng Nhật, Vùng sử thi Tây Nguyên (một số
quan điểm cơ bản) của GS.TS Ngô Đức Thịnh, Sử thi thần thoại của
người Mơ Nông của TS. Đỗ Hồng Kỳ, Hơ mon, một loại thể diễn xướng
dân gian của người Bana ở An Khê, Gia Lai của GS.TSKH. Tô Ngọc
Thanh, Quá trình sử dụng thuật ngữ sử thi ở Việt Nam của GS.TS.
Nguyễn Xuân Kính, Cuộc cần hôn anh hùng trong sử thi Ê Đê và Mã Lai
của GS.TSKH Niculin… Năm 1998, kỷ yếu hội thảo này được Nhà xuất
bản Khoa học và xã hội, Hà Nội công bố với tên sách Sử thi Tây Nguyên.
Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng
sử thi Tây Nguyên được thực hiện từ năm 2001 đến năm 2007 có quy mô
lớn nhất trong quá trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên. Trong thời gian này,
các chuyên gia đã tiến hành điều tra, khảo sát hàng nghìn buôn, làng
5
(bom, plây) thuộc 530 xã (phường, thị trấn) thuộc 56 huyện (thị xã, thành
phố) thuộc các tỉnh Tây Nguyên và vùng phụ cận. Kết quả là đã phát hiện
sưu tầm được 5679 băng ghi âm tương đương với 801 tác phẩm hát kể,
quay được 15 bộ phim tư liệu về diễn xướng sử thi của các nghệ nhân tiêu
biểu, 6000 kiểu ảnh tư liệu về sinh hoạt văn hóa, diễn xướng sử thi, phiên
âm 123 tác phẩm, dịch nghĩa được 115 tác phẩm, Dự án đã xuất bản tổng
số 75 tác phẩm sử thi (xem phụ lục II). Điều đáng nói là ngoài bốn dân
tộc chủ yếu Êđê, Giarai, Mơnông, Bana, các chuyên gia còn phát hiện
nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên và các tỉnh phụ cận như: Chăm, Xơ
tiêng, Xêđăng, Kơho, Mạ… cũng có sử thi và đặc biệt còn nhiều nghệ
nhân kể sử thi. Nếu tính từ đầu thế kỷ 20, khi các chuyên gia nước ngoài
và học giả Việt Nam bắt đầu tiến hành sưu tầm, nghiên cứu về sử thi Tây
Nguyên thì đây là đợt sưu tầm, nghiên cứu đạt kết quả lớn nhất cả về số
lượng và chất lượng.
Với riêng sử thi Bana, đến nay đã có mét sè công trình nghiên cứu
chuyên sâu, tập trung vào các đối tượng như: Tìm hiểu tên nhân vật… của
Nguyễn Quang Tuệ, Thần linh… của Phạn Thị Hồng, Vài nét về bản
trường ca Bana mới của Phạm Thị Hà… Tuy nhiên riêng về vấn đề động
vật trong sử thi Bana chưa có công trình nghiên cứu dày dặn nào hoặc
một bài viết đề cập đến.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích của tác giả khi viết luận văn này là xác lập cụ thể, chi tiết
những dữ liệu về hình ảnh ®éng vËt, tìm hiểu ý nghĩa biểu hiện qua những
dữ liệu ấy để góp phần hoàn chỉnh hệ thống dữ liệu hình ảnh trong kho
tàng sử thi, đặc biệt là sử thi Bana, thông qua đó góp phần hình thành nên
một cơ sở dữ liệu ban đầu cho những nghiên cứu sâu hơn về sử thi Bana.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
6
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là động vật trong sử thi Bana.
Cụ thể là những từ, cụm từ chỉ hình ảnh của động vật xuất hiện trong sử
thi Bana. Tác giả làm công việc thống kê định lượng và phân loại các từ
các cụm từ chỉ hình ảnh động vật một cách tương đối rõ ràng và hệ thống
hóa rồi sau đó nghiên cứu, lý giải. Đồng thời chúng tôi cũng xem xét cách
sử dụng những hình ảnh động vật của đồng bào Bana trong việc thể hiện
đời sống văn hoá của người Bana và khả năng phản ánh văn hoá của sử
thi Bana.
4.2. Giới hạn phạm vi t liệu
Cho đến cuối năm 2007 đã có 75 tác phẩm in trong 62 tập thuộc
Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi
Tây Nguyên được thực hiện từ năm 2001 đến năm 2007 đã xuất bản (mỗi
tập khoảng 1000 trang, khổ 16 x 24cm). Hiện nay, việc công bố vẫn còn
tiếp tục với 25 tác phẩm sử thi Tây Nguyên trong thời gian 2009 – 2010.
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng năm tác phẩm sau:
- Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ
- Giông trong Yuăn
- Chàng Kơ Tam Gring Mah
- Giông đánh quỷ Bung Lung
- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ dang
7
Đây là một sự tập hợp ngẫu nhiên. Prốp khi xây dựng lí thuyết về
cấu trúc truyện cổ tích thần kỳ Nga, ông đã chọn ngẫu nhiên 100 truyện.
Đó là số lượng tư liệu đủ để xây dựng lí thuyết. Chúng tôi nghĩ với năm
tác phẩm trên cũng đủ để đi đến những kết quả thống kê
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Công việc đầu tiên của tác giả là làm công tác thống kê. Để thống kê
hoàn chỉnh, tác giả khảo sát các văn bản, hệ thống hoá tài liệu, phân tích
tổng hợp… nhằm đạt được mục đích đề ra. Cụ thể tác giả khảo sát các tác
phẩm lựa chọn, chỉ ra các hình ảnh, các từ cụm từ chỉ các động vật và lập
bảng thống kê định lượng. Phương pháp này giúp tác giả có được một
bảng dữ liệu đầy đủ về những từ, cụm từ chỉ hình ảnh động vật với những
con số chi tiết cụ thể.
Cách đọc bảng dữ liệu: Bảng tra cứu gồm những thông tin cơ bản
như số thứ tự, tên hình ảnh động vật, tần số xuất hiện, trong các văn bản
STT TÊN HÌNH ẢNH
TẦN SỐ XUẤT HIỆN/5
TRONG CÁC VĂN
ĐỘNG VẬT
VĂN BẢN KHẢO SÁT
BẢN
1
Gà
9
B1-2; B2-1; B4- 6
2
Quạ
3
B3- 1; B5- 2
..
..
..
…
(5 văn bản sử thi được khảo sát trên lần lượt đánh số 1-2-3-4-5)
Trong các bảng tra cứu sắp xếp theo thứ tự A, B, C. Trong một văn
bản hình ảnh động vật xuất hiện nhiều lần thì ghi luôn số lần để tiện tra
cứu và theo dõi (Ví dụ : B5-15 nghĩa là văn bản 5 xuất hiện 15 lần hình
ảnh động vật nào đó).
Ở chương 2, tác giả lựa chọn phương pháp liên ngành: văn học,
văn hoá học, sử học, dân tộc học, xã hội học… để tìm hiểu hình ảnh động
8
vật trong sử thi Bana. Tìm hiểu chức năng, cách diễn đạt trong sử thi
Bana về các hình ảnh này… qua đó phần nào hiểu thêm về con người, về
đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng của người dân Bana.
Ở chương 3 tiến hành phân tích, tổng hợp các hình ảnh động vật để
khái quát về mối quan hệ giữa động vật với con người, tộc người Bana
trên vùng đất Tây Nguyên.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận
văn gồm ba chương:
Chƣơng 1: Số liệu thống kê hình ảnh động vật trong kho tàng sử thi
Bana
Chƣơng 2: Hình ảnh động vật trong kho tàng sử thi Bana
Chƣơng 3: Mối quan hệ giữa hình ảnh động vật trong sử thi với đời
sống, văn hóa, tâm linh ngƣời Bana
9
CHƢƠNG 1
SỐ LIỆU THỐNG KÊ HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT
TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA
I. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC BANA VÀ SỬ THI
BANA
1.1. Dân tộc Bana
Bana là một trong những dân tộc bản
địa sinh sống lâu đời trên cao nguyên trung
phần miền Tây của Tổ quốc. Bana là dân tộc
lớn nhất nói tiếng Môn - Khơ me ở Tây
Nguyên, số dân hiện nay ước tỉnh khoảng
trên 20 vạn người. Địa bàn cư trú của người
Bana trải rộng từ Kon Tum, Gia Lai xuống
một số huyện miền núi các tỉnh Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Theo
điều tra của các nhà dân tộc học thì người
Bana hiện nay gồm có các nhóm sau: Nhóm Bana Kon Tum ở xung
quanh thị xã Kon Tum, nhóm Tơ Lô ở An Khê, Mang Yang (tỉnh Gia
Lai), nhóm Rơngao ở quanh thị xã Kon Tum, Đắc Tô (tỉnh Kon Tum),
nhóm Giơlơng ở huyện Kon Plông, thị xã Kon Tum (tỉnh Kon Tum)…
Tuy được chia ra nhiều nhóm địa phương khác nhau nhưng người Bana
vẫn có một truyền thống văn hoá chung. Truyền thống văn hoá ấy được
thể hiện khá rõ nét trong phương thức sản xuất, phong tục tập quán, lễ
hội, văn học nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo… Hình thái tổ chức xã hội
của người Bana là plei (làng), làng là đơn vị cư trú của các gia đình phụ
hệ nhưng người phụ nữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong mọi việc của
gia đình. Mỗi làng có từ 20 đến 70 hộ gia đình. Giữa làng có một ngôi
10
nhà rông – nơi sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Để điều chỉnh công việc
trong làng là hội đồng già làng, đứng đầu là chủ làng. Già làng là người
thay mặt cho cả làng quyết định các công việc chung như việc làm nhà
rông, dời chuyển làng, tổ chức lễ hội, sản xuất, chiến đấu đến việc xử
phạt những cá nhân hay gia đình vi phạm những điều trái với luật tục.
1.2. Sử thi Bana
Người Tây Nguyên nói chung, người Bana nói riêng đều quan
niệm “vạn vật hữu linh”. Tất cả các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và
chính bản thân con người đều có linh hồn. Trong thế giới có một lực
lượng vô hình ảnh hưởng quyết định tới cuộc sống của con người đó là
Yang. Các Yang thường được đồng bào nhắc tới nhiều là: Yang Dak
(Thần nước), Yang Công (Thần núi), Yang Nam (Thần nhà), Yang Rông
(Thần nhà rông), Yang Chiêng (Thần cồng chiêng), Yang T’rưng…đặc
biệt Bok Keidei là vị thần tối cao. Ở đây, mối quan hệ giữa người với các
Yang rất bình đẳng, tác động qua lại, gắn bó với nhau một cách bền vững
tạo nên vẻ đẹp hồn nhiên của cuộc sống.
Người Bana có một đời sống tinh thần, tín ngưỡng phong phú đặc
sắc. Trí thông minh và óc tưởng tượng phong phú của các nghệ nhân
Bana từ bao đời nay đã để lại cho chúng ta một di sản văn hoá quý giá.
Trong đó phải kể đến một hình thức văn hoá dân gian hát kể mà đồng bào
gọi là hơ mon. Chính nhờ phương thức lưu truyền này mà hàng chục tác
phẩm sử thi tồn tại sống động trong đời sống của tộc người này cho đến
nay. Giống như những sử thi khác, sử thi Bana xứng đáng là “bách khoa
thư” của dân tộc Bana.
Trong môi trường văn học dân gian, hơ mon là một tác phẩm văn
học tổng hợp, nó thu hút hầu hết các giá trị văn hóa vốn có của dân tộc:
thơ ca, thần thoại, truyền thuyết, âm nhạc, diễn xướng, để thành một tác
phẩm tự sự bằng văn vần hay những làn điệu dài hơi lấy các nhân vật anh
11
hùng làm trung tâm để biểu đạt tư tưởng, ý nguyện, quan niệm sống của
cộng đồng. Hơ mon là một sinh hoạt văn hóa độc đáo được kể qua những
ngữ điệu trầm bổng lôi cuốn của những nghệ nhân Bana. Hơ mon là
những bài ca dài có tính chất tổng hợp, trong đó chuyển tải một khối
lượng lớn những thông tin về đời sống, tư tưởng tình cảm của một cộng
đồng người trong một thời gian dài. Hơ mon của người Bana có dung
lượng rất lớn, số lượng tác phẩm lên tới con số hàng trăm. So với các bộ
sử thi lớn của thế giới như sử thi Iliat, ¤®ixª, Ramayana thì sử thi Bana
có thể xếp vào hàng đầu về độ dài.
Tìm hiểu sử thi Bana cũng đồng nghĩa với việc nghiên cứu đời
sống văn hoá, phong tục tập quán, cách thức sinh hoạt, cách ăn mặc…của
tộc người Bana trên dải đất Tây Nguyên. Dường như thế giới của tự nhiên
có con vật gì thì sử thi đều phản ánh bằng cách miêu tả hay gọi tên loài
vật ấy. Thậm chí, không thoả mãn với tạo hoá, lớp lớp nghệ nhân Bana
còn tưởng tượng ra nhiều loài vật nữa, hết sức đa dạng và phong phú.
Những hình ảnh đó tạo điều kiện cho các tác giả dân gian dễ có sự liên hệ
giữa hiện thực cuộc sống với đời sống tinh thần của con người. Thế giới
động vật trong sử thi đã phản ánh được khả năng quan sát và khám phá
thế giới của con người. Thế giới động vật không chỉ là một thực thể bên
ngoài của tự nhiên mà còn thâm nhập rất sâu vào đời sống tinh thần của
con người.
II. SỐ LIỆU THỐNG KÊ TÊN HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT XUẤT HIỆN
TRONG SỬ THI BANA
2.1. Bảng số liệu thống kê
Để tiện cho việc tra cứu, tác giả thống kê tên hình ảnh động vật
theo 5 bảng dữ liệu, bao gồm Tên hình ảnh động vật, Phân nhóm động
vật theo tần số xuất hiện, Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và
12
không phải là vật thần, Tên hình ảnh động vật không có thực, Hình ảnh
các động vật xuất hiện nhiều trong sử thi Bana.
2.1.1. Bảng 1: Tra cứu về tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi
của dân tộc Bana (khảo sát qua 5 văn bản, theo thứ tự A,B,C… ). Bảng
tra cứu gồm những thông tin.
1. Số thứ tự
2. Tên hình ảnh động vật
3. Tần số xuất hiện
4. Trong các văn bản (5 văn bản sử thi được khảo sát) lần lượt
được đánh thứ tự:
B1- Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ
B2- Giông trong Yuăn
B3- Chàng Kơ Tam Gring Mah
B4- Giông đánh quỷ Bung Lung
B5- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ dang
TRONG CÁC VĂN BẢN
STT
TẦN SỐ XUẤT HIỆN/5 VĂN BẢN KHẢO SÁT 1 116 2 11 23 249 4 96 89 1 24 3 1
TÊN HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT Beo Bò Bọ chét Bò tót Bươm bướm Cá Cá sấu Chim Chó Chó sói Chuột Cò Cóc
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13
B1-1 B1-27; B2 -10; B3-31; B4-21; B5-27 B4–2 B1–1; B2-10 B2–20; B5-3 B1-56; B2-110; B3-55; B4-14; B5–14 B1- 3; B3–1 B1-23; B2-18; B3-33; B4-16; B5–6 B1– 44; B3-1; B5-44 B1-1 B1-3 ; B2-10; B3-1; B4-5; B5–5 B4-1; B5–2 B4–1
Bảng 1: Tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana
14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56
1 112 2 27 16 6 4 1 25 146 2 1 2 14 4 7 4 11 120 1 11 17 8 1 1 1 22 36 7 3 13 9 5 12 31 1 1 4 7 3 6 40 6
B3–1 B1-1; B2-1; B5-110 B1–2 B1-6; B3-11; B4-8; B5-2 B2- 2; B3-4 B1-2; B3–4 B1-1; B4-3 B4-1 B1–17; B4-4; B5-4 B1-46; B2-32; B3-28; B4-18; B5–22 B1– 2 B3–1 B4–2 B1–12; B3-1; B4-1 B1-1; B3-2; B5-1 B1-4; B4–3 B1-1; B2-1; B4-2 B1-3; B3-5; B5-3 B1-52; B2-37; B3-12; B4-9; B5–10 B1–1 B1-3; B3-4; B4-1; B5-3 B2–11; B4-6 B1-6; B4–2 B3–1 B2–1 B2-1 B1–21; B4-1 B5–36 B1-2; B3-3; B4-1; B5-1 B3-1; B4–2 B2-4; B3-7; B4-2 B1-1; B3-1; B4-7 B3-2; B4-2; B5-1 B2-12 B1-3; B3–28 B1–1 B2–1 B2-3; B4–1 B2-5; B5–2 B1-1; B4–2 B1-2; B4-1; B5-3 B1– 40 B3-1; B4–5
57
Con ăn mày Cọp Công Cua Dê Diều hâu Đom đóm Đỉa Ếch Gà Gấu Gián Hến Hổ Hươu Khỉ Kì đà Kiến Lợn Lươn Nai Ngựa Nhái Nhện Nhím Nòng nọc Mang Mèo Mối Muỗi Ong Ếch Quạ Rái cá Rắn Rồng Rúi Ruồi Sâu Sò Sóc Sư tử Thằn lằn (rắn mối) Thuồng luồng
4
B1–4
13
Tôm Trâu Trăn Trĩ Voi Vượn
11 127 13 1 16 5
B1-6; B3-2; B4-3 B1-14; B2-40; B3-30; B4-17; B5–26 B1-1; B2-12 B1–1 B1-2; B2-11; B3-2; B5–1 B1-4; B4–1
58 59 60 61 62 63
14
Như vậy, khảo sát trong 5 văn bản sử thi Bana: Giông, Giơ mồ côi
từ nhỏ, Giông trong Yuăn, Chàng Kơ Tam Gring Mah, Giông đánh quỷ
Bung Lung, Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ dang có tổng
cộng 63 hình ảnh động vật, xuất hiện 1548 lần. Trong đó, văn bản B1 -
Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ có số lượng cũng như tần số xuất hiện hình
ảnh các loài động vật nhiều nhất.
2.1.2. Bảng 2: Phân nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống
thấp.
Trên cơ sở bảng tra cứu dữ liệu đã thiết lập, tác giả đi vào phân
nhóm các hình ảnh theo tần số xuất hiện (tính từ trên xuống dưới). Cụ thể
chia ra làm ba khu vực tần số xuất hiện: cao, trung bình, thấp
Bảng 2 gồm những thông tin:
1. Loại tần số
2. Số thứ tự
3. Loài động vật
4. Tần số xuất hiện
LOẠI TẦN SỐ
STT LOÀI ĐỘNG VẬT
Bảng 2: Phân nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống thấp
Cao trở lên ( 70 lần trở lên)
1 2 3 4 5 6
Cá Gà Trâu Lợn Bò Cọp
TẦN SỐ XUẤT HIỆN 249 146 127 120 116 112
15
Trung bình ( 20 đến 69 lần)
Thấp ( 1 đến 10 lần)
Chim Chó Sư tử Mèo Rắn Cua ếch Chuột Bướm bướm Mang Ngựa Dê Voi Hổ Ong Trăn Rái cá Bò tót Kiến Nai Tôm ốc Nhái Khỉ Sâu Mối Diều hâu Sóc Thằn lằn (Rắn mối) Quạ Vượn Cá sấu Đom đóm Kì đà Hươu Thuồng luồng Ruồi Cò Muỗi Sò Bọ chét Công Gấu Hến Beo Cóc
7 8 1 2 3 4 5 6 7 8 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
96 89 40 36 31 27 25 24 23 22 17 16 16 14 13 13 12 11 11 11 11 9 8 7 7 7 6 6 6 5 5 4 4 4 4 4 4 3 3 3 2 2 2 2 1 1
Con ăn mày Chó sói Đỉa Gián Lươn Nhện Nhím Nòng nọc Rồng Rúi Trĩ
37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47
1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1
16
2.1.3 Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải
là vật thần.
Bảng này gồm có những thông tin sau:
1. Số thứ tự
2. Tên loài động vật
3. Tần số xuất hiện /5 văn bản
4. Vật thần
Tần số xuất hiện
Trong các văn bản
5. Không phải vật thần
Tần số xuất hiện
Trong các văn bản
VẬT THẦN
KHÔNG PHẢI VẬT THẦN
STT
LOÀI ĐỘNG VẬT
TẦN SỐ XUẤT HIỆN
TRONG CÁC VĂN BẢN
1 2
Beo Bò
1 116
TẦN SỐ XUẤT HIỆN
TRONG CÁC VĂN BẢN
TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 116
B1 B1-27; B2-10;
Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải là vật thần
10 17
B2-10 B2-17
2 1 6
B3-31; B4- 25 B4-2 B1-1 B2-3; B5-3
3 4 5
2 11 23
43
206
6
Bọ chét Bò tót Bươm bướm Cá
249
B1-1; B2- 42
2
B3-2
4 94
7 8
Cá sấu Chim
4 96
89
9
Chó
89
1 24
10 11
Chó sói Chuột
1 24
B1-55; B2- 48; B3-55; B4-14; B5-14 B1-3; B3-1 B1-23; B2- 18; B3-31; B4-16; B5-6 B1-44; B3-1; B5-44 B1-1 B1-3; B2-10; B3-1; B4-5; B5- 5 B4-1; B5-2 B4-1 B3-1
3 1 1
12 13 14
3 1 1
110 3
B5-110 B3-3
2 2 24
15 16 17
Cò Cóc Con ăn mày Cọp Công Cua
112 2 27
16 6 4 1 25
18 19 20 21 22
Dê Diều hâu Đom đóm Đỉa ếch
16 6 4 1 25
23
Gà
146
146
2 1 2 14
24 25 26 27
Gấu Gián Hến Hổ
2 1 2 14
B1-1; B2-1 B1-2 B1-6; B3- 8; B4–8; B5-2 B2-12; B3-4 B1-2; B3-4 B1-1; B4-3 B4-1 B1-17; B4-4; B5-4 B1-46; B2- 32; B3- 28; B4- 18; B5- 22 B1-2 B3-1 B4-2 B1-12; B3-1; B4-1 B1-1; B3-2;
4
28
Hươu
4
17
Khỉ Kì đà
7 4
29 30
7 4
B1-1
10
Kiến
11
31
1
Lợn
120
B2-9
111
32
9
Lươn Nai
1 11
33 34
1 11
Ngựa Nhái Nhện Nhím Nòng nọc Mang Mèo Mối
17 8 1 1 1 22 36 7
35 36 37 38 39 40 41 42
1 35 1
B2-1 B5-35 B1-1
17 8 1 1 22 1 6
Muỗi Ong
3 13
43 44
3 13
Ốc
9
45
9
Quạ
5
46
5
Rái cá Rắn Rồng Rúi Ruồi Sâu Sò Sóc
12 31 1 1 4 7 3 6
47 48 49 50 51 52 53 54
12 26
B2-12 B3-26
5 1 1 4 7 3 6
40 6
55 56
29
B1-29
11 6
B5-1 B1-4; B4-3 B1-1; B2-1; B4-2 B1-2; B3-5; B5-3 B1-52; B2- 28; B3-12; B4-9; B5-10 B1-1 B1-3; B3-4; B4-1; B5-3 B2-11; B4-6 B1-6; B4-2 B3-1 B2-1 B1-21; B4-1 B5-1 B1-1; B3-3; B4-1; B5-1 B3-1; B4-2 B2-4; B3-7; B4-2 B1-1; B3-1; B4-7 B3-2; B4-2; B5-1 B1-3; B3-2 B1-1 B2-1 B2-3; B4-1 B2-5; B5-2 B1-1; B4-2 B1-2; B4-1; B5- 3 B1-11 B3-1; B4-5
4
57
4
B1-4
Sư tử Thằn lằn (rắn mối) Thuồng luồng Tôm
11
58
11
59
B1-6; B3-2; B4-3 B1-14; B2-
Trâu
127
11
B2-11
116
18
60 61 62
Trăn Trĩ Voi
13 1 16
12
B2-12
1 1 16
Vượn
19
63
Tổng
5 1548
322
5 1226
29; B3-30; B4-17; B5- 26 B1-1 B1-1 B1-2; B2-11; B3-2; B5-1 B1-4; B4-1
2.1.4. Bảng 4: Phân nhóm hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana
không có thật trong cuộc sống.
Bảng này gồm có những thông tin sau:
1. Số thứ tự
2. Tên hình ảnh động vật
3. Tần số xuất hiện /5 văn bản
4. Trong các văn bản
TRONG CÁC VĂN BẢN
STT
TÊN HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT Rồng Thuồng luồng
1 2
TẦN SỐ XUẤT HIỆN/5 VĂN BẢN KHẢO SÁT 1 4
B1–1 B1–4
Bảng 4: Hình ảnh động vật trong sử thi Bana không có thật trong cuộc sống
Như vậy, hình ảnh động vật không có thật trong cuộc sống được
các nghệ nhân Bana đưa vào sử thi khá ít so với các loài vật có thật
(chiếm 3,1% trong tổng số các loài vật và 0,32% trong tổng số tần xuất
xuất hiện trong 5 văn bản sử thi được chọn khảo sát). Tuy nhiên, hình ảnh
các loài động vật được nhân cách hóa thành thần như chàng Bò tót - Thưk
Kưl, nàng Bướm bướm - Pơ lai, chàng Nhím - Bok Khem, Rái cá - Phei,
Cá trê - Sơ Kênh, Cá Chép Hồng - Ka unh, trâu đực có bảy đuôi, heo bảy
20
lần thay nanh, gà mào rộng bằng cái nia… xuất hiện nhiều trong các văn
bản sử thi Bana.
2.1.5. Bảng 5: Hình ảnh các động vật xuất hiện nhiều trong sử thi Bana
LOÀI
CÁ
BÒ
GÀ
TRÂU
VĂN BẢN B1 B2 B3 B4 B5
Bảng 5: Hình ảnh các động vật xuất hiện nhiều trong sử thi Bana
Tổng cộng
56 110 55 14 14 249
27 10 31 21 27 116
46 32 28 18 22 146
14 40 30 17 26 127
2.2. Những nhận xÐt ban đầu qua các bảng thống kê
Sử thi là bách khoa thư về một dân tộc. Vì vậy khi đọc sử thi Bana,
chúng ta thấy được cuộc sống sinh hoạt, đời sống tinh thần của người
Bana. Và việc sử dụng những hình ảnh động vật trong sử thi Bana cũng
như là một sự thể hiện những những nét sinh hoạt, phong tục, tập quán và
tín ngưỡng của người Bana.
Qua thống kê khảo sát 5 văn bản sử thi Bana: B1- Giông, Giơ mồ côi
từ nhỏ, B2- Giông trong Yuăn, B3- Chàng Kơ Tam Gring Mah, B4-
Giông đánh quỷ Bung Lung, B5- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm
dơ dang, tác giả thu được một số lượng hình ảnh động vật là 63 hình ảnh,
bao gồm 1548 lần xuất hiện trong các văn bản sử thi. Như vậy, hình ảnh
động vật trong sử thi Bana chiếm một số lượng không nhỏ về tần số xuất
hiện. Và số loài cũng cho thấy hình ảnh động vật được thể hiện hết sức đa
dạng và phong phú.
Về số lần xuất hiện các hình ảnh động vật thì không có sự đồng đều
thậm chí là có sự chênh lệch khá lớn. Có những hình ảnh xuất hiện với số
lần xuất hiện cao như cá (249 lần ); gà (146 lần); trâu (127 lần), bò (116
21
lần)… Trong khi đó có rất nhiều hình ảnh chỉ xuất hiện có 1 lần như: đỉa,
nòng nọc, nhện, gián, lươn… Điều đó khẳng định những con vật gần gũi
với con người, thường xuyên tiếp xúc với con người dễ dàng đi vào sử thi.
Đó là những con vật nuôi gắn bó, gần gũi với con người, ảnh hưởng
đến nếp nghĩ của con người. Vì thế trong sinh hoạt thường ngày, cũng
như sinh hoạt tinh thần họ dễ dàng đưa tên gọi động vật vào.
Những hình ảnh động vật có lần xuất hiện cao phần lớn là những
hình ảnh quen thuộc phù hợp với đời sống lao động, sinh hoạt của người
dân Bana. Điều này cho thấy người dân Bana có xu hướng sử dụng những
hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày để sáng tạo
trong các loại hình nghệ thuật của dân tộc mình. Những hình ảnh đó tạo
điều kiện cho các tác giả dân gian dễ có sự liên hệ giữa hiện thực cuộc
sống và đời sống tinh thần của con người. Đặc biệt là những hình ảnh
động vật được tác giả dân gian sử dụng với những nét khác biệt, chúng
được lạ hoá so với bình thường đã cho thấy sự phong phú trong đời sống
tinh thần của người Bana.
22
Từ bảng thống kê số liệu chi tiết ở Bảng 1, tác giả tạm phân chia
mức độ cao thấp của tần số xuất hiện hình ảnh động vật ở Bảng 2: Phân
nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống thấp. Trong Bảng này,
tác giả đã tiến hành sắp xếp các hình ảnh động vật tính từ cao xuống thấp.
Cụ thể, tác giả tiến hành chia các hình ảnh động vật biểu hiện ở 3 cấp độ
khác nhau:
- Khu vực có tần số xuất hiện cao: 70 lần trở lên
- Khu vực có tần số xuất hiện trung bình: 20 - 69 lần
- Khu vực có tần số xuất hiện thấp: 1- 19 lần
Trong bảng dữ liệu, những thông số về tên hình ảnh động vật, số lần
xuất hiện hình ảnh, đơn vị văn bản có số lần xuất hiện hình ảnh đó đều
được thống kê một cách tỉ mỉ.
- Khu vực có hình ảnh xuất hiện với tần số cao (70 lần trở lên):
Khu vực có hình ảnh động vật xuất hiện với tần số cao có 8 hình ảnh
(chiếm 12,7 % trên tổng số các hình ảnh). Những xét về số lần xuất hiện
thì chúng lại được thể hiện bằng những con số rất cao với tổng số 1055
lần xuất hiện ( chiếm 68,2 % tổng số lần xuất hiện các loài cộng lại).
Trong khu vực này số loài vật nuôi chiếm con số áp đảo với 5 hình
ảnh (chiếm 62,5% trên tổng số các hình ảnh tổng khu vực): Gà (146 lần),
Trâu (127 lần), Bò (116 lần), Lợn (120 lần), Chó (89 lần). Loài vật không
phải là vật nuôi đóng góp 3 hình ảnh: Cọp (110 lần), Chim (96 lần), Cá
(249 lần). Tại sao số vật nuôi chiếm số lượng lớn như vậy, tác giả sẽ lý
giải kĩ ở phần sau.
- Khu vực hình ảnh xuất hiện với tần số trung bình (20 - 69 lần):
Khu vực này có tất cả là 8 hình ảnh (chiếm 12,7% tổng số các hình
ảnh) và có số lần xuất hiện là 228 lần (chiếm 14,7% tổng số xuất hiện các
hình ảnh). ở khu vực này sự chênh lệch về số lần xuất hiện các hình ảnh
động vật không đáng kể mà đều đặn nối tiếp nhau.
23
- Khu vực có hình ảnh động vật xuất hiện với tần số thấp (1 - 19
lần):
Đây là khu vực tập trung một số lượng lớn các hình ảnh, với 47 hình
ảnh (chiếm 74,6% tổng số các hình ảnh). Nhưng xét về số lần xuất hiện
thì những hình ảnh này xuất hiện không cao với 265 lần xuất hiện (chiếm
17,1% tổng só lần xuất hiện các hình ảnh). Những hình ảnh xuất hiện
trong khu vực này phần nhiều là những hình ảnh ít phổ biến, ít xuất hiện
trong cuộc sống của con người.
Ba khu vực này sắp xếp theo tần số xuất hiện: cao - trung bình - thấp
có những điểm khác biệt đáng kể. Khu vực cao và trung bình có hình ảnh
ít so với khu vực thấp chiếm 25,4%. Trong khi với 47 hình ảnh khu vực
thấp cao gần gấp 3 lần (2,9 lần) so với khu vực có tần số xuất hiện cao và
trung bình.
Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải
là vật thần. Ở bảng này tác giả đưa ra so sánh số liệu giữa vật thần và
không phải vật thần. Thực chất của vật thần và không phải vật thần chính
là việc thống kê số liệu giữa những con vật nuôi, con vật hoang dã (vật tự
nhiên) và con vật của trí tưởng tưởng. Con vật của trí tưởng tượng là
những con vật được lạ hoá mang trong nó những yếu tố thần kì và tác giả
tạm gọi là vật thần. Còn lại là những loài vật có thực trong cuộc sống, có
trong sinh hoạt lẫn trong tự nhiên thì tác giả gọi tên với sự đối nghịch với
vật thần, đó là nhóm động vật không phải là vật thần.
Trong bảng này số vật thần chiếm số lượng không lớn chỉ có 16 loài
trên tổng số 63 loài và xuất hiện 322 hình ảnh (chiếm 21% trên tổng số
hình ảnh xuất hiện). Tuy nhiên với con số vật thần đó có thể cho thấy
được sự phong phú, đa dạng trong cuộc sống sinh hoạt của người Bana
cũng như trong đời sống tinh thần của họ. Phần lớn các hình ảnh xuất
hiện là vật thần thì cũng luôn đi kèm với số hình ảnh không phải là vật
thần (vừa là vật thần vừa không phải là vật thần). Có điều dễ nhận thấy là
24
những con vật mang yếu tố thần kì thường chỉ xuất hiện trong một văn
bản như: Cọp xuất hiện chủ yếu trong văn bản 5 đến 110/112 lần xuất
hiện, Rái cá xuất hiện 12/12 lần trong văn bản 2…
Tất cả những con số được thể hiện ở bảng dữ liệu mà tác giả đã khảo
sát và cung cấp là những con số mang ý nghĩa rằng nhận thức của dân tộc
Bana về thế giới tự nhiên nhất là những hình ảnh động vật thật phong phú
và sinh động. Trên cơ sở những hình ảnh mà tác giả thu nhận được cho
thấy khả năng nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh của người dân
Bana rất cụ thể, chi tiết và sinh động.
Trong quá trình thống kê, tác giả gặp trong sử thi Bana một loạt
những hình ảnh động vật mà chúng ta rất hiếm gặp trong những tác phẩm
dân gian như: rái cá, bọ chét, rúi, gián, ốc, nhái… Đặc biệt, tác giả bắt
gặp hình ảnh động vật với tên gọi khác lạ như rắn mối (con thằn lằn).
Thực chất đây là tên gọi theo tiếng địa phương và tên gọi này đã được
giải thích luôn ngay trong văn bản. Đặc biệt hơn nữa có tên động vật rất
lạ bắt gặp trong sử thi Bana, có tên gọi là con ăn mày, chỉ xuất hiện một
lần (trong văn bản 2). Đây là tên gọi theo nguyên văn tiếng Bana là yă
yưn - loài vật này giống con gián và nhỏ như con dế, có màu nâu sẫm,
được dùng để nấu cháo hoặc làm thức ăn. Trong khi khảo sát, tác giả giữ
nguyên tên gọi này và có đưa vào danh mục thông kê.
Theo con số thống kê cụ thể thì số động vật xuất hiện 1 lần có đến 13
hình ảnh (chiếm 20,6% tổng số hình ảnh). Trong khi đó số lần xuất hiện
cao có sự tập trung vào một số hình ảnh như Cá, Trâu, Gà, Bò… Nhìn
vào đó ta có thể thấy đây là những hình ảnh hết sức quen thuộc với con
người. Chính những con số cao ấy đã thể hiện mức độ thông dụng của các
hình ảnh động vật. Hơn nữa các hình ảnh này hầu hết xuất hiện với tần số
cao ở tất cả các văn bản đưa ra khảo sát. Những hình ảnh được sử dụng
nhiều khi không chỉ trong cách nói hàng ngày mà còn được sử dụng nhiều
25
để sáng tạo. Khả năng kết hợp và độ biểu cảm mà những hình ảnh thể
hiện hết sức phong phú.
Dân tộc Bana là một dân tộc có cuộc sống gắn bó mật thiết với thiên
nhiên. Sự ứng xử linh hoạt với môi trường tự nhiên - xã hội xuất phát từ
sự nhận thức còn thô sơ của con người. Vì vậy trong tâm trí của người
Bana, những hình ảnh động vật luôn tồn tại ở mức độ gắn bó với con
người một cách mật thiết. Những hình ảnh vật nuôi có mối liên hệ chặt
chẽ nhất định với đời sống con người. Hình ảnh của chúng vừa là sự thể
hiện hiện thực khách quan, vừa mang ý nghĩa nào đó. Những hình ảnh
động vật tự nhiên là những hình ảnh gắn bó với địa bàn cư trú của người
dân Bana, đó là vùng rừng núi Tây Nguyên với nhiều sản vật quý. Trong
đó một phần không thể thiếu đó là những động vật của tự nhiên, những
con vật phù hợp với cuộc sống săn bắn, hái lượm như hươu, nai, mang…,
những con vật của rừng rậm như khỉ, vượn, hổ, beo… Thậm chí những
con vật nhỏ bé cũng xuất hiện khá nhiều trong sử thi Bana như ruồi,
muỗi, kiến, gián, nòng nọc…
Mỗi một hình ảnh động vật mà tác giả thống kê được bằng cách này
hay cách khác đều là sự phản ánh chân thực cuộc sống con người. Với
xuất phát điểm là những cư dân lấy kinh tế nương rẫy chiếm vị trí trọng
yếu, nhưng kinh tế hái lượm và săn bắn còn đóng vai trò to lớn trong đời
sống hàng ngày của người Bana ở Tây Nguyên. Vì vậy tôm, cá là nguồn
thực phẩm quan trọng của người Bana sống gần sông suối, và nghề săn
bắt muông thú trong rừng rất phổ biến đưa về cho họ nguồn thực phẩm-
một nguồn lợi kinh tế đáng kể. Khu vực rừng rậm với các đồi cỏ tranh là
nơi quy tụ các động vật quý hiếm như voi, hổ, sư tử, gấu… Vì vậy thế
giới động vật được phản ánh trong sử thi hết sức đa dạng.
Với xuất phát điểm như vậy chúng ta có thể lý giải được sự xuất hiện
của các hình ảnh động vật với các tầng ý nghĩa. Và bảng dữ liệu sẽ là cơ
sở để chúng ta đưa ra những nhận xÐt mang tính khái quát:
26
Thế giới động vật trong sáng tác dân gian (sử thi) của người
dân Bana hết sức phong phú đa dạng. Hầu như con vật nào có ở thế
giới tự nhiên thì đều xuất hiện trong sử thi của người Bana. Rất
đúng với nhận định của một nghệ nhân hát kể Hơ mon “...thấy hết
thấy như ở ngoài một cuộc sống như là thật”.
Cuộc sống của cư dân người Bana chủ yếu là săn bắn hái
lượm vì vậy trong sử thi xuất hiện khá nhiều loài thú rừng mặc dù
tần số xuất hiện không nhiều. Và trong sử thi họ cũng sáng tạo
thêm thậm chí thần thánh hoá để thoả mãn nhu cầu, thoả mãn
những ước muốn của mình. Điều này rất phù hợp với những suy
nghĩ còn thô sơ của con người thời sử thi.
Sử thi luôn phản ánh chân thực cuộc sống, những con vật
nhỏ bé, đời thường, thậm chí là tầm thường như ruồi, muỗi, bọ
chét, đỉa … cũng xuất hiện. Điều đó cho thấy người nghệ sĩ dân
gian đã sáng tạo những hình ảnh chân thực như trong cuộc sống.
Cuộc sống của người Bana gắn với sông suối (người miền
đầu sông, người cuối sông). Chính vì vậy hình ảnh con cá là hình
ảnh quen thuộc và được nghệ sĩ dân gian sử dụng nhiều. Cá là hình
ảnh có tần số xuất hiện cao nhất trong tổng số các hình ảnh động
vật của sử thi Bana. Cả trong hình ảnh cụ thể, tả thực và cả trong
hình ảnh biểu trưng cho con người.
27
CHƢƠNG 2
HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA
Tiếp xúc với sử thi Bana cũng như các tác phẩm sử thi của các
dân tộc khác, chúng ta đều cảm nhận được hơi thở cuộc sống của dân tộc
đó. Bởi trong sử thi nhiều khía cạnh được phác hoạ khá cụ thể và sinh
động. Đó là cảnh lao động sinh hoạt ở nhà rông, rừng cây, sông suối, núi
đồi, trang phục, ăn uống, lễ nghi, tập tục, cưới xin, vui chơi… thể hiện
thật sống động. Có thể khẳng định, sử thi Bana là một bức tranh rộng lớn
về đời sống của tộc người Bana. Thế giới động vật không chỉ là một thực
thể bên ngoài của tự nhiên mà còn thâm nhập rất sâu vào đời sống tinh
thần của con người. Trên một ý nghĩa nào đó, nhiều động vật đã được con
người hoá. Trong tín ngưỡng của người dân Bana, trong kinh tế, văn hoá,
trong điêu khắc… đặc biệt trong đời sống văn hoá - sử thi Bana, nó đã trở
thành một đối tượng không thể thiếu.
Đối tượng mà chúng ta đề cập đến đó là thế giới động vật trong
sử thi này. Vì vậy tất cả các tên gọi động vật đều được thống kê xem xét.
Đó là những tên gọi được dùng để định danh các động vật có trong tự
nhiên và cả những động vật được người hoá cho thấy sự phong phú, đa
dạng trong cảm quan của người Bana. Sự phong phú của thế giới động
vật không chỉ ở số lượng các loài (63 loài) và số lần xuất hiện các hình
ảnh động vật mà còn thể hiện ở việc sử dụng các hình ảnh ấy trong sử thi.
Trong cách nói hàng ngày của người dân Tây Nguyên nói chung và
người dân Bana nói riêng, hình ảnh động vật xuất hiện khá nhiều. Họ
thường mượn những hình ảnh này để diễn đạt một điều gì đó trong cuộc
sống của mình. Ví dụ như khi cụ thể hoá vẻ đẹp của con người sử thi
thường mượn loài vật để diễn tả, điều này rất phù hợp với cảm quan còn
thô sơ của người Bana xưa, đồng thời nó cũng chính là nét đặc trưng
28
không thể thiếu trong thể loại sử thi: “Nhìn họ ai cũng xinh cũng đẹp,
chẳng ai kém cả. Bước đi của họ như tia chớp tháng ba, hai chân họ
trắng nõn, toả ánh sáng ra xung quanh khiến các con vật đều bỏ trốn”.
Cách nói như vậy khiến cho ngôn ngữ sử dụng trở nên sinh động và nhiều
màu vẻ hơn, cụ thể hoá đối tượng đang bàn đến. Hơn nữa, khiến cho con
người như được tiếp xúc với giới tự nhiên một cách chân thật nhất. Trong
sử thi Bana, ta có thể bắt gặp hàng loạt hình ảnh động vật chỉ trong một
đoạn thoại ngắn: “Sau lời cầu của hai gã vừa dứt thì… tiếng chim hót
trước thì thì hót tốt, nhưng giờ thì thật xấu. Con hươu, con nai cùng kêu,
con chim cứ bay qua bay lại… Rắn chặn đường, những con ong kéo đến
đốt làm chúng kêu la hú hét và chạy khắp núi rừng… Mặt mũi chúng bị
ong đốt sưng vù…”. Không gian núi rừng, cảnh vật thiên nhiên như trực
diện đối với con người. Không khí ấy lan toả khiến cho màu sắc núi rừng
Tây Nguyên thêm hấp dẫn sinh động, phong phú… Như vậy hình ảnh
động vật là cách thức phổ biến và thông dụng được dùng trong sử thi.
Tuy nhiên, ở mỗi hình ảnh động vật lại có chức năng khác nhau và cách
thức miêu tả cũng khác nhau. Vì vậy, khi tìm hiểu về thế giới động vật
trong sử thi, đặc biệt là sử thi Bana, tác giả tiến hành tìm hiểu về chức
năng và cách thức miêu tả các hình ảnh động vật này.
I. CHỨC NĂNG CỦA CÁC HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT
Quan niệm về động vật của từng dân tộc không trùng khít với
khoa động vật học (Triều Nguyên). Mà mỗi dân tộc đều có một quan
niệm riêng về động vật. Quan niệm ấy được biểu hiện qua việc phân loại,
phân nhóm và đánh giá động vật. Theo tác giả Triều Nguyên ngoài việc
phân nhóm động vật qua các tiêu chí: ăn được - không ăn được; lớn - bé;
theo nơi ở, ông còn đưa thêm một tiêu chí nữa đó là linh thiêng và không
linh thiêng. Với tiêu chí này tác giả Triều Nguyên thực sự đã góp phần
29
khám phá một khía cạnh quan trọng trong đời sống tinh thần của con
người, cụ thể của người Việt.
Đọc sử thi Bana ta có thể nhận thấy khá nhiều điều thú vị, bổ ích
ẩn chứa trong hình ảnh loài vật. Nó là một phần để khám phá, tìm hiểu
những nét đẹp của tập quán sinh hoạt, lối sống của người Bana. Để tiện
cho việc tìm hiểu chức năng của các hình ảnh động vật trong sử thi Bana,
tác giả tạm phân chia thành 2 nhóm:
Nhóm 1 là nhóm động vật có thực. Đây là nhóm động vật quen
biết từng có vai trò quan trọng trong nền văn hoá dân tộc, thường là biểu
tượng cho các sinh hoạt vật chất và tinh thần. Đó là số động vật tiêu biểu,
có quan hệ gần gũi trong thực tiễn và trong quan niệm của người Bana.
Nhóm 2: là nhóm động vật không có thực, tồn tại trong trí tưởng
tượng diễn tả trí tưởng tượng kì diệu của người Bana. Đó là nhóm động
vật được người Bana người hoá, chúng có nhiều chức năng khác nhau,
mang trong mình những đặc điểm lạ hoá, có thể biết nói, có thể biến
hoá…
1.1. Nhóm động vật có thực
Với tư duy trực quan, người Bana quen với những điều mắt thấy
tai nghe, khả năng ghi nhớ và vận dụng vào việc phản ánh lại thế giới tạo
nên sự phong phú của thế giới động vật. Đọc sử thi Bana chúng ta bắt gặp
nhiều nhất là những hình ảnh động vật có thực trong thế giới tự nhiên.
Chúng mang nhiều chức năng khác nhau, từ những con vật to lớn, hung
dữ đến những con vật nhỏ bé thậm chí là tầm thường. Với 63 loài xuất
hiện 1548 lần thì có thể cho thấy rằng loài vật được nghệ sĩ dân gian chú
ý và xem chúng là một bộ phận không thể thiếu của Hơ mon Bana.
Trên cơ sở phân nhóm động vật của tác giả Triều Nguyên, tác giả
kế thừa và cũng tạm chia tách hình ảnh động vật theo chiều hướng nhỏ
hơn để tiện cho việc tìm hiểu cụ thể những những hình ảnh này.
30
1.1.1. Con vật nuôi trong nhà
Trong tâm trí của người dân Bana, những hình ảnh động vật luôn
tồn tại ở mức độ gắn bó với con người một cách mật thiết. Thời sử thi,
con người không chỉ có nguồn thức ăn trong thiên nhiên, không chỉ săn
bắn hái lượm mà dần dần con người đã thuần dưỡng và chăn nuôi trồng
trọt trong gia đình, vì vậy một bộ phận không nhỏ những vật nuôi đã xuất
hiện trong sử thi. Những hình ảnh vật nuôi có mối quan hệ chặt chẽ nhất
định với đời sống con người. Hình ảnh của chúng vừa là sự thể hiện hiện
thực khách quan vừa mang ý nghĩa sâu sắc. Trong kho tàng sử thi Tây
Nguyên, đặc biệt là bộ sử thi của dân tộc Bana đã phản ánh hết sức sinh
động và phong phú những hình ảnh vât nuôi này.
Một điểm chung có thể nhận thấy rất rõ, đó là những con vật nuôi
trong gia đình đã làm cho cuộc sống của người lao động thêm phần sung
túc, thêm phần gần gũi với thiên nhiên. Hơn nữa những con vật nuôi này,
không chỉ là nguồn nguyên liệu tạo nên các món ăn mà nó còn được coi
trọng vì những hình ảnh vật nuôi này thường được dùng trong tế lễ.
Hầu như tất cả những con vật nuôi này đều nằm trong khu vực có
tần số xuất hiện cao. Điều này cho thấy sự thông dụng trong việc sử dụng
những hình ảnh vật nuôi, trong cách nói quen thuộc hàng ngày của người
Bana. Những con vật nuôi như Trâu, Bò, Gà, Lợn, Dê, Ngựa…. trong sử
thi thường xuyên xuất hiện và luôn đi liền với nhau. ở mỗi một lần xuất
hiện các hình ảnh này đều mang chức năng khác nhau .
Phần lớn những con vật nuôi này xuất hiện trong sử thi là tượng
trưng cho sự giàu có, sung túc của một buôn làng cùng với đồng ruộng,
chiêng ché. Đây là lời của một già làng nói về xứ sở của mình:
“Cháu hãy coi đi, cách đồng ruộng kìa lúa ta không thiếu. Trâu,
bò, gà, lợn… ta có thừa. Ta không thiếu một cái gì.”
“Cánh đồng lúa mênh mông, kéo dài tận chân trời. Trâu, bò, lợn,
gà… nhiều vô kể, thả đầy rừng, chật núi. Đàn gà đông như đàn mối”
31
Đàn gia súc, theo lời bà Xok Ier rất giản đơn- đó là sự giàu có, là
những con vật để người ta ca ngợi.
“Người Bana chúng ta từ ngàn xưa vẫn vậy hai cháu à. Có nuôi
nhiều gà, trâu, bò... nếu như mang phúc đàn gia súc đó phát triển cũng
chẳng đổi chác được gì. Có đàn gia súc nhiều chỉ để cho thiên hạ ca
ngợi…”
Sự ca ngợi ấy chính là vai trò của loài gia súc đối với buôn làng.
Nó đã trở thành thước đo của sự giàu có, sung túc của buôn làng này với
buôn làng khác. Hình ảnh động vật, đặc biệt là loài vật nuôi xuất hiện
trong sử thi thường có những thông tin nhất định chứ không đơn thuần
chỉ là những con vật nuôi tầm thường.
Khung cảnh thiên nhiên trong sử thi, với sự xuất hiện của các loài
vật nuôi cho thấy sự gàu có, của một buôn làng. Đây là khung cảnh, theo
con mắt nhìn của nhân vật trong sử thi :
“Trâu bò Set còn nhiều, đông đúc chật cả bãi sông, lúa gạo dư dả,
hạt bo bo đầy cả mấy kho… Đúng là chẳng ai bằng Set cả. Cái gì Set
cũng có. Set giàu của cải, lúa gạo, cơm ăn. Trâu bò trong nhà, ngoài bãi
thiếu gì. Heo, gà như kiến chật cả đầy sân, đầy cả làng..”
Những động vật nuôi này, luôn gắn với con người, cuộc sống của
họ luôn có mặt chúng, chúng chính là tài sản của họ. Trong sử thi có
những trận chiến và khi miêu tả sự dữ dội của những trận chiến đó, tác
giả dân gian thường mượn đến những yếu tố thiên nhiên, trong đó thường
nói đến sự mất mát, thiệt hại đối với con người. Và một trong những sự
mất mát ấy, chính là những vật nuôi của họ vì nó là tài sản không thể
thiếu trong mỗi gia đình của người Bana.
“Nước lụt tràn khắp mọi nơi, ngập lụt cả miền cuối sống. Người
chết nhiều vô kể, nhà cửa, trâu bò bị cuốn trôi hết. Không ai biết đang có
chuyện gì xẩy ra…”
32
Những cuộc chiến trận trong sử thi có hai loại: một là cướp phá dân
làng và hai là giành lại người yêu. Thì trong những cuộc chiến chiếm đất
đai làng mạc chính là việc chiếm của cải, mà của cải của người Bana trên
dải đất Tây Nguyên ấy chính là những đàn gia súc như trâu, bò, dê, gà,
lợn.. Trong lời đối thoại của các nhân vật trong sử thi đã cho thấy điều ấy:
“Glaih Phang:
- Pư Pưng, Xor Mam à ! Các anh muốn đánh phá ai vậy ? Các
anh muốn cướp trâu, cướp bò của xứ sở nào vậy, các anh hãy nói đi!
Pư Pưng cười vang đáp lại:
- Kể cho mày nghe làm gì chứ ? Mày cứ chờ xem, rồi sẽ thấy bọn ta
kéo về trâu, bò, gùi về của cải,…
- Đánh để làm gì à ? đánh không phải vì chuyện kia mà đánh để lấy
của cải, trâu bò, đánh để đọ sức mạnh và lòng dũng cảm thôi”
Thậm chí trong sử thi Bana, để lôi kéo mọi người tham gia vào trận
chiến ấy, người ta đã lấy những đàn gia súc làm mồi dẫn dụ, để rủ người
cùng đi đánh chiếm.
“Trâu, bò của họ chật cả bãi sông, không đủ sức mà lùa hết đâu
em ạ ! Chúng ta sẽ thoả sức ăn uống, vui chới it nhất là vài năm. Thế
nào, em có muốn đi đánh không?”
Những con vật nuôi trâu, bò, gà, lợn, dê... luôn xuất hiện trong các
hội hè, đình đám với vai trò là những nguồn thực phẩm quan trọng. Nó là
những thức ăn không thể thiếu trong các cuộc vui, là căn cứ để đo sự giàu
có, sự tôn trọng khách… Trong những đám cưới, những cuộc cúng thần
linh, cuộc mừng chiến thắng, mừng gặp mặt, cuộc mừng trở về, hay việc
thết đãi khách… đều có sự xuất hiện của các hình ảnh động vật này cùng
với những ghè rượu:
“Mọi người trong gia đình rất trọng Kram Ngai. Thấy chàng về, ai
nấy đều vui mừng, họ xẻ lợn, mổ gà, khiêng rượu ghè chuẩn bị uống
mừng”
33
“Giông và Kram Ngai vừa về đến nhà, mọi thứ đã được chuẩn bị
sẵn để mở cuộc ăn uống chia tay cùng bà con dân làng. Họ chỉ trông đợi
Giông và Kram Ngai đến là bắt đầu uống ngay. Hàng chục con trâu bò
được xẻ thịt ăn uống hôm nay…”
“Ngoài cổng làng, người ta vẫn còn tiếp tục thui bò, thui trâu, khói
bay mù mịt. Ngay từ khi nghe tin bia Lui báo tin, Set đã bảo người ra
ngoài bãi sông lùa trâu bò về trước để làm thịt. Khi mọi việc đã xong, cả
gia đình họ hàng cùng ăn”.
Việc giết thịt loài gia súc để tiếp đãi khách, chính là thể hiện tấm
lòng cởi mở chân tình của người dân Bana. Họ thường mời mọc nhau :
“Các món ăn cứ ăn cho hết! Nếu còn muốn ăn nữa tôi sẽ cho giết
thịt trâu bò không ngại gì cả”
“Hai cháu cứ lấy thức ăn ở trong ống lồ ô đựng thịt khô kia ra mà
ăn nhé. Còn nếu như muốn dùng thịt tươi, thì ngoài kia còn có đủ cả: lợn,
gà, trâu, bò thiếu gì…”
“Hai anh em tha hồ mà ăn. Muốn ăn trâu, giết trâu, muốn ăn bò
thì mổ bò. Giông, Giơ ăn uống thả cửa. Ăn không hết bỏ. Biết bao nhiêu
là thịt: nào thịt trâu, thịt bò, thịt lợn, thịt gà…”
Trong đám cưới việc giết thịt trâu bò là công việc đầu tiên:
“A ơ ma Dong, ma Vắt… cha cháu sai đến gọi hai chú và tất cả
anh chị em xuống làm giúp thịt trâu, thịt heo, thịt gà, nấu cơm… Hôm
nay nhà cháu uống rượu cho bia Man và Giông trong Yuăn thành vợ
chồng”
Bữa cơm thịnh soạn là bữa cơm không thể thiếu trâu, bò, lợn, gà
trong những ngày có khách khứa đông vui. Đó là biểu hiện của sự hiếu
khách:
“Còn thức ăn muốn ăn loại nào, món gì? Thịt lợn, với đầy đủ gia
vị, làm đủ các món. Món gì cũng có. Muốn ăn thịt gà, có thịt gà. Muốn ăn
bất cứ món thịt nào đều có. Cứ ăn uống vui chơi thoả thích…”
34
“Bok Kơ Lênh Dêt lại bắt con gà trống to biết gáy đã tám năm,
bóp cổ mổ thịt mời ma Dong, ma Văt”.
Trong số loài vật nuôi trâu, bò, gà, lợn, dê, ngựa… ngoài các chức
năng như dùng để nói về sự giầu có, là nguồn thức ăn hàng ngày và trong
các ngày lễ trọng đại của gia đình và buôn làng thì số vật nuôi này còn là
những vật tế trong những lễ nghi của người Bana. Đó là tục lệ của người
Bana. Lễ nhận làm cha, làm mẹ của người Bana được phản ánh trong sử
thi khá rõ. Trong lễ này cần phải có máu gà, và máu lợn:
“Để cho đầy đủ khi nhận làm người cha, người mẹ không phải dễ,
không chỉ có máu lợn là đủ mà phải có cả gà nữa… Không đâu cháu ạ.
Không phải chỉ thế thôi đâu, tục lệ buộc phải có đầy đủ. Có như vậy các
thần linh mới chấp nhận chúng ta. Phải có máu gà, gan gà mới được. Chỉ
mỗi máu lợn là không phải. Máu lợn này con phải làm trước con hãy
uống đi. Đây là máu gà con nhé. Hãy uống đi. Con hãy tin ở cha, từ đây
cha là cha của các con…”
Đó là lễ vật cúng trong đám cưới, cần phải có đầy đủ những gia súc
này để dâng lên cho các vị thần linh.
“Chô yang, mời xuống đây ăn uống
Rượu, thịt trâu, heo, gà, bò, ngựa
Cho Bia Man và Giông Trong Yuăn
Được làm vợ chồng sống bên nhau”
Theo tục lệ các chàng trai cô gái đã đến tuổi lấy chồng, lấy vợ và đi
đến cưới hỏi đều phải có sự đồng ý từ hai bên. Sự đồng ý này đều phải trả
lời trực tiếp từ hai người, cha mẹ không ép gả. Và hai người, trong ngày
trả lời trực tiếp ấy cũng phải có lễ vật đi kèm. Lễ vật ấy không thể thiếu
rượu, máu lợn, máu dê, máu gà:
“Giờ các con hãy nắm tay nhau và cầm lấy ống hút uống rượu.
Đây là rượu máu dê, máu lợn, máu gà đã được cha tế lễ rồi. Cha làm lễ
cho hai con và chúc hai con thương yêu nhau mãi mãi… Mọi người đều
35
đứng dậy lấy rượu, lấy máu dê, máu bò, lợn, gà… chúc phúc cho các cặp
vợ chồng mới cưới theo đúng tập tục”
Trong các lễ cúng gọi hồn, máu của những con vật này, còn được
dùng để cúng thần linh.
“Nói đến đó, ông Grâm Kong lấy máu gà, máu lợn, máu dê trải ra
trước miệng ghè, lấy rượu trải ra xung quanh và gọi thần núi, thần nước,
thần trời, thần đất trả lại hồn cho các con gái ông”.
Trong các lễ vật cúng ông bà tổ tiên cũng không thể thiếu những
con vật này đặc biệt là con gà. Đây là con vật có số lần xuất hiện lớn nhất
trong số vật nuôi. Nó xuất hiện trong tất cả các sử thi. Ngoài chức năng
giống như các con vật nuôi khác như trâu, bò, lợn, dê… thể hiện sự giàu
có, là thức ăn không thể thiếu để tiếp đãi khách trong ngày trọng đại của
gia đình và buôn làng, là lễ vật cũng tế… thì con gà còn có chức năng
nữa đó là báo hiệu thời gian. Tiếng gà báo sáng được nhắc đến rất nhiều
trong sử thi Bana:
“Tiếng gà gáy lên từng hồi, đánh thức các nàng dệt vải xe tơ biết
trời đã sáng…”
“Sáng hôm sau, hai anh em thức giấc bởi tiếng gà gáy... hai anh
em thức từ bắt đầu gà gáy rồi đến khi trời sáng dần…”
Hơn nữa tiếng gà gáy sáng còn giúp con người thức tỉnh trước
những gian lao vất vả: “Gà vừa gáy sáng, Giông, Giơ chợt nhớ đến
đường về xa xôi”. Nó còn là âm thanh báo hiệu cuộc trò chuyện của đôi
trai gái đã kết thúc, là khởi điểm của cuộc chia li và cũng là mạch nối tiếp
của lời kể trong sử thi.
“Gà nhà ai gáy sớm thế? Bàn bạc chưa xong, tâm sự chưa vơi, gà
đã vội gáy… Sao lại thế được? Trong lòng em vẫn còn nhiều điều muốn
nói… Thật thế nỗi lòng chưa nói hết mà gà đã vội gáy…”
Con gà là hình ảnh quen thuộc gắn bó với con người. Nó là loài vật
có lợi ích thiết thực trong báo thức, nguyên liệu tạo nên những món ăn, là
36
thước đo của sự giàu có và nó còn được coi trọng vì nó còn là con vật có
tính thiêng, là hình ảnh thường xuyên được dùng trong tế lễ của người
Bana.
Trong những con vật nuôi đã nhắc đến có hình ảnh con ngựa. Đây
là hình ảnh có tần số xuất hiện ít nhất trong số loài vật nuôi (17 lần), nó
đứng ở khu vực có tần số thấp, trong khi đó các con vật nuôi kia lại đứng
ở khu vực có tần số xuất hiện cao (từ 70 lần trở lên). Ngoài những lợi ích
thiết thực về kinh tế, ngựa còn là phương tiện đi lại của con người.
“Nói xong, Xem Đum và Xem Treng lấy ngựa chạy đi báo cho anh
em, họ hàng khắp mọi nơi”
Tuy nhiên trong sử thi Bana, phương tiện đi lại chủ yếu và nhanh
nhất không phải là con ngựa mà là một vật thần - chiếc khiên thần biết
bay. Hình ảnh con ngựa thường bắt gặp trong sử thi Mông Cổ. Với người
Mông Cổ không có ngựa thì không có anh hùng. Vì vậy trong sử thi
Mông Cổ hình ảnh con ngựa thường gắn liền với nhân vật người anh
hùng. Điều này rất dễ để lí giải, vì môi trường địa lí, có nhiều thảo
nguyên mênh mông, rộng lớn, người anh hùng không thể thiếu ngựa
được. Với sử thi Bana, ta cũng bắt gặp hình ngựa nhưng không đứng vai
trò quan trọng đối với người anh hùng như trong sử thi Mông Cổ. Đó là
những nguyên nhân chính, khiến cho hình ảnh động vật này xuất hiện
không nhiều trong sử thi Bana.
Một hình ảnh vật nuôi khác luôn xuất hiện trong sử thi Bana và
đứng ở khu vực có tần số xuất hiện cao - hình ảnh con chó. Trong gia
đình, đây là con vật gần gũi nhất, quấn quýt bên con người nhất. Đó là
con vật trung thành vớí con người. Con chó đã gắn bó với cách nghĩ, cách
làm của người Bana. Trong sử thi Bana hình ảnh con chó mang nhiều
chức năng khác nhau chứ không chỉ đơn thuần là con vật nuôi trong gia
đình. Trong sử thi, con vật này đi liền với con lợn là những con vật nuôi
37
thân thiết, được con người chăm nuôi và thường được nhắc nhở trong lời
của các nhân vật:
“… món ăn nào không hết phải gói lại cẩn thận, cơm cũng vậy.
Nếu không muốn ăn cũng phải mang về làng cho con chó, con heo ăn,
chứ đừng bỏ vương lại trong rừng, trên núi..”
Cũng giống như người Việt, chó là con vật nuôi gắn bó với con
người Bana, nó thường được nuôi để giúp đỡ con người, trong công việc
lao động cũng như trong việc trong giữ nhà hàng ngày. Và có rất nhiều
loài chó: chó mực, chó đen, chó đốm.. Trong sử thi loài vật này cũng
được nhắc tên khá nhiều, nó được nuôi trước hết là để trông giữ nhà:
“Thấy khách lạ đến, chó sủa ầm lên…”
Giống như vật nuôi khác - con gà, con chó còn được dùng để báo
hiệu thời gian sáng. Tác giả dân gian thường sử dụng hai hình ảnh này đi
liền với nhau để báo hiệu thời gian:
“Gà đã gáy, chó đã sủa, trời sáng rồi…”
“Thế rồi đêm đã tàn, trời dần dần sáng rõ. Chó sủa râm ran. Mọi
người dậy sớm, chạy đi chạy lại…”
Đối với người Bana, khu vực sinh sống của họ là núi rừng Tây
Nguyên, cuộc sống của họ thời sử thi chủ yếu vẫn là săn bắn và hái lượm.
Vì vậy việc chăn nuôi, đặc biệt con vật nuôi là con chó, chủ yếu vẫn là
phục vụ cho việc săn bắn. Trong Hơ mon Bana, hình ảnh con chó giúp đỡ
con người trong việc săn bắn khá nhiều, nó có thể đi săn mang thức ăn về
cho chủ, nó bảo vệ chủ…
“Ta không cần phải đi xa cho mệt, chỉ chờ chực ở đây, mấy con
chó của ta chúng cắn thú rừng tha về đây thôi. Ta không làm rẫy…chỉ
chờ mấy con chó săn cắn rồi mang đến nhà cho… gày nào chúng cũng
tha về cho các con thú như con mang, con nai…”
Con chó còn là con vật giúp đỡ con người trong việc báo tin - báo
tin cho người ở xa:
38
“Ta sẽ sai lũ chó đây chạy đi báo tin. Khi nào họ thấy lũ chó này
họ biết ngay ta có một việc gì đó rất quan trọng. Thế là họ sẽ đến ngay.
Hai cháu cứ yên tâm”
Nó còn là thợ săn thú rất tốt :
“Dọc đường họ kiếm được khá nhiều đồ ăn như con nai, con sóc
mà chẳng cần bắn. Tất cả là nhờ đàn chó cắn về. Những con thú kiếm
được chất đầy gùi”
Con chó là con vật đánh hơi rất giỏi, trong cuộc đi săn nó giúp con
người phát hiện ra nhưng con vật lạ, đặc biệt là khi có thú dữ đến gần, nó
phát hiện và báo cho con người biết. Trong sử thi Bana có nhiều đoạn
nói về việc đi săn và con chó đã giúp cho con người trong việc phát hiện
ra thú dữ:
“… Sáng sớm hôm sau, đột nhiên con chó của Giông cất tiếng chó
sủa. Tiếng sủa của nó vang động cả núi rừng, vang tới lên đỉnh núi có đá
to, vang xuống dưới thung lũng có rừng trùng điệp dễ sợ, có bãi mía
rừng, có cánh rừng hằnh đường voi đi. Ôi ơ cha mẹ! Con chó vừa đi vừa
sủa, vừa cất lên…”.
Trong một cuộc đi săn, con chó là con vật không thể thiếu, đặc biệt
là con chó đầu đàn nó có vai trò rất lớn. Nó có thể dẫn dụ được các con
khác, nó dẫn đường rất giỏi, nó đánh hơi và phát hiện ra con thú, giúp con
người săn thú rừng và cũng giúp con người thoát khỏi những con vật
hung dữ. Tuy nhiên, trong chuyến đi săn nếu con chó đầu đàn có dấu hiệu
của uể oải, chán nản, không muốn đi thường là chuyến đi ấy, có chuyện
gì đó không may. Lời ông Set - cha của Giông nói với con cái cũng chính
là quan niệm của người dân Bana, khi đi săn, cần chú ý vào con chó đầu
đàn - nó có khả năng dự báo trước cho con người về những điều xẩy ra
trong chuyến đi ấy.
“Cha đã nghe ông bà kể lại lời mấy người đi săn thường nói. Họ
bảo rằng chuyến đi săn nào mà con chó đầu đàn không muốn, thường
39
chuyến đó gặp nhiều chuyện không may. Không biết có chuyện gì không?
Con xem nó có ốm đau gì không?... Phải cẩn thận nghe con, khi con chó
đã không thích đi như vậy là dễ gặp chuyện lắm…”
Và trong chuyến đi săn ấy quả thật. Giông và Giơ đã gặp chuyện
chẳng. Hai anh em bắt gặp một con cọp rừng và đi theo nó bị con cọp
rừng bắt ăn thịt và được hai cô gái có tài phép giúp đỡ. Hai anh emm
thoát được cái chết và giết được cọp, nhưng khi trở về lại rất lo sợ vì cả
đàn cọp sẽ kéo đến phá hoại buôn làng của mình.
Lời của ông Set nhắc nhở con cháu lại một lần nữa nói về vai trò
của con vật nuôi này:
“Đó các cháu thấy không, đã nói trước lại không tin. Con chó có
linh tính nên đã nán lại nhà, chui vào gầm giường rồi. Ông bà từ xưa đã
bảo khi nào con chó đầu đàn không muốn đi, thế nào cũng gặp chuyện..”
Cảm nhận của Giông - ngươi anh hùng trong bộ sử thi liên hoàn
của người Bana - về điều dự báo của loài vật nuôi này:
“Chỉ có một chuyện đó là con chó Bông đực đầu đảng của anh nó
không muốn đi, kéo đi cũng không muốn đi. Hoá ra nó biết chuyện dữ…”
Ngoài ra, hình ảnh con chó với dáng vẻ chầu chực đợi ăn còn được
dùng để chỉ sự khổ đau. Thân phận của nó đã được tác giả dân gian so
sánh để nói đến sự thảm thương trong cuộc sống. Đó là hình ảnh “con chó
chết”, hình ảnh “con chó chực bến” …
Thực chất con chó là hình ảnh vật nuôi trong gia đình rất thân
thiết, gắn bó với con người. Trong cách nói hàng ngày hình ảnh vật nuôi
này thường xuyên xuất hiện, đó là khi thể hiện nét tính cách khiêm
nhường của mình, người Bana thường mượn chúng để diễn tả. Đấy là khi
mọi người nhắc nhở già làng đến khuyên bảo dạy dỗ, con cháu của mình
trước khi chúng rời gia đình mình để về nhà chồng. Trước khi khuyên
bảo, già làng cũng nói rõ đứng trước một chàng trai như Giông - người
40
anh hùng, thì ông lại ấp a ấp úng, nói năng chẳng được rõ ràng Ông đã
mượn đến hình ảnh những con vật nuôi trong gia đình để nói về mình.
“Ai mà so được với chồng cháu, dù tuổi còn trẻ đã nói năng lưu
loát, khéo nói đủ điều. Còn ta, ta chỉ biết lải nhải lúc say, chỉ lớn tiếng
gọi chó, nặng lời gọi heo thôi, chứ nào biết khuyên răn dạy bảo ai
đâu…”
Cũng là vật nuôi thân thiết trong gia đình, nhưng con mèo xuất
hiện trong sử thi không nhiều. Sử thi Bana có nhắc đến hình ảnh này, đó
là con vật rất đẹp “con mèo tam thể, mắt xanh biếc thật trong, to bằng
cườm tay”. Tuy nhiên hình ảnh này xuất hiện trong sử thi lại chủ yếu gắn
cho nó nét thần thoại. Chúng là con vật thần kì giúp đỡ con người, là vật
thần của Yang - thần linh.
Tóm lại những con vật nuôi trong gia đình, xuất hiện trong sử thi
với tần số rất cao. Tuy không đa dạng nhưng nó đã phản ánh được một
thời kì người Bana biết sống nhờ vào trồng trọt và chăn nuôi. Con người
đã sống gần gũi và chia sẻ cùng nhưng con vật quanh mình. Con chó, con
mèo quấn quýt bên chân, giúp đỡ thêm trong công việc săn bắn hái lượm
và bảo vệ con người. Chúng còn có khả năng dự báo cho con người, tạo
được niềm tin trong cuộc sống cho người Bana xưa. Con trâu, bò, dê,
lợn… là tài sản, là thước đo sự giàu có của gia đình và buôn làng. Con
ngựa là phương tiện đi lại của con người. Con gà ngoài vai trò là tài sản,
là nguồn thức ăn không thể thiếu trong các ngày lễ, những cuộc vui thì nó
còn là công cụ để báo hiệu thời gian. Những con vật nuôi này còn là vật
không thể thiếu trong các lễ cúng tế… Tất cả đã làm cho cuộc sống của
người dân Bana thêm sinh động, cụ thể và rõ nét.
1.1.2. Động vật hoang dã có trong tự nhiên
Đây là những hình ảnh xuất hiện với số loài khá cao. Bởi cuộc
sống của người Bana sống trên dải đất Tây Nguyên, không chỉ là trồng
41
trọt chăn nuôi và đánh cá mà họ còn săn bắn. Hơn nữa vào thời sử thi,
nguồn lực kinh tế chính của người Bana chủ yếu vẫn là săn bắn và hái
lượm, nên những con vật nuôi như con chó công việc chính vẫn là phục
vụ, giúp đỡ con người trong công việc săn bắn. Và loài vật tồn tại trong
tự nhiên không thuộc vật nuôi chiếm tỉ lệ khá lớn.
Với 56 loài chiếm 88,9% trên tổng số các loài. Để tiện cho việc tìm
hiểu về những hình ảnh động vật này chũng tôi tạm phân loại động vật
hoang dã theo kích cỡ ( sự phân loại chỉ mang tính chất tương đối). Đó là
động vật lớn và động vật bé. Vì trong sử thi, trong cách nói của người
Bana, có nhiều loài động vật thường xuất hiện cùng nhau. Ví như khi săn
băn, những loại thú rừng như nai, mang, hươu, … thường đi liền với
nhau. Hay nói về những con vật nhỏ bé, những con côn trùng cũng
thường xuất hiện sóng đôi: như con kiến và con mối, con sâu và con
chuột…
1.1.2.1. Động vật lớn
Đó là những loài, nói chung là có kích thước, hình vóc to lớn xuất
hiện trong sử thi. Nhóm động vật lớn phải kể đến đầu tiên đó là con voi,
gấu, hổ, sư tử… Đây là những con vật tượng trưng cho rừng già Tây
Nguyên. Trong sử thi Bana, voi cũng là con vật mà người Bana thuần
dưỡng, để phục vụ cho cuộc sống. Vì vậy, trước tiên hình ảnh này cũng
giống như những gia súc - những vật nuôi trong gia đình, được nói đến để
thể hiện sự giàu có, sung túc của buôn làng. Lời kể của tác giả cho thấy
điều ấy.
“Yang Kôi Kông bảo bia Man đến nói với cha mẹ nàng hãy bắt,
nhốt hết heo, gà, trâu, bò, dê, ngựa, voi lại …”
Mặc dầu trong thực tế, voi là hình ảnh tượng trưng cho núi rừng
Tây Nguyên. Nhưng trong sử thi, hình ảnh con voi lại xuất hiện không
nhiều, nó thường đi liền với con vật khác cho thấy sự phong phú đa dạng
42
của núi rừng. Đặc biệt là âm thanh của nó gợi lên sự ghê sợ và càng cho
thấy sự nguyên sơ của rừng già Tây Nguyên.
“Trong rừng già âm u … đêm về chỉ nghe thấy tiếng hổ gầm, voi
rống… thật là ghê rợn”.
Khi sử dụng những hình ảnh này, tác giả dân gian thường lấy vóc
dáng to lớn của có để so sánh đối chiếu với loài vật nhỏ hơn, làm rõ sự
đối lập. Mục đích là cụ thể hoá một nét khác biệt của nhân vật trong sử
thi. Để nói về người xấu xí, thô kệch, họ thường so sánh đối lập: “… mắt
một bên to bằng mắt voi, còn bên kia nhỏ xíu vừa bằng mắt chuột…”
“ Tai một bên to như tai voi
Tai một bên bé bằng tai chuột”
Cùng sử dụng trong sự đối lập như thế, hình ảnh con voi cũng được
sử dụng ngay cả trong lời dạy bảo, với sự so sánh ví von làm cụ thể hoá
hơn điều mà người lớn tuổi dạy dỗ con cháu của mình. Điều này cho thấy
mức độ thộng dụng của các hình ảnh động vật, trong cách nói quen thuộc
hàng ngày của người Bana.
“Nếu trời cho ta giàu có, ta phải biết nghĩ đến người khác. Ta nghĩ
đến ta và cũng phải nghĩ đến người khác. Khi kẻ hoạn nạn đến cầu cứu
ta, ta không từ chối họ. Ta không ép buộc, ta không gậy khó cho họ.
Người ta bán đồ giá bao nhiêu, nếu mua nổi thì mua, không mua nổi thì
thôi, không ép uổng ai. Của quý giá ta mua theo giá cao. Của rẻ ta mua
theo giá rẻ. Giá của con voi không thể trả bằng con lợn, hay con gà…”.
Không to lớn như voi, nhưng hổ, gấu, sư tử… lại là những loài
động vật xuất hiện cũng với hình ảnh con voi trong sử thi, đó là những
con vật của rừng già Tây Nguyên. Đó cũng chính là khi tác giả dân gian
muốn nói đến sự ghê sợ, âm u, nguyên sơ của núi rừng Tây Nguyên.
Chính âm thanh ghê rợn của những động vật này, “Tiếng gầm của sư tử,
tiếng rống của gấu”; “ Hổ gầm voi rống”… đã mang lại cảnh tượng của
núi rừng đầy rẫy những hiểm nguy.
43
Hổ là con vật tượng trưng cho cái ác, thể hiện ở sự dữ tợn của nó.
Trong cách nói của con người cũng thường lấy nét dữ tợn của con vật này
để miêu tả, để hình dung cho một đối tượng nào đấy. Đó là khi tác giả
dân gian nói về sự tức giận của quỷ Bung Lung, đã mượn hình ảnh động
vật này: “Cái mặt hắn lúc ấy trông thật dữ tợn như con hổ lúc bị đói
không vồ được mồi…”
Đây là nét quen thuộc thường thấy trong cách nói hàng ngày của
con người, đặc biệt là người Bana xưa, vì cuộc sống của họ hoà hợp gắn
bó với thiên nhiên và hình ảnh này cũng là tượng trưng cho sức mạnh,
cho sự ghê gớm đem đến cho con người những tai ương. Điều đó đã
khiến cho hình ảnh này được sử dụng khi nói về sự dữ tợn, hung ác.
Con vật này cũng là đối tượng mà tác giả dân gian thường mượn để
hù doạ con người. Trong sử thi khi nói về anh em Giông Giơ trên đường
trở về với quê hương xứ sở gặp rất nhiều hiểm nguy và chặng cuối của
anh em Giông, Giơ có gặp hình ảnh một con hổ đội lốt bà nội của mình.
Đó là hình ảnh bà Xok Ier giả, thực chất là một con hổ vằn, đã giả làm
người để bắt anh em giông, Giơ. Nhưng nhờ có sự cẩn thận, nhanh trí,
dũng cảm hai anh em đã phát hiện ra và giết chết con hổ đó. Mượn nét
thần thoại này, đã khiến cho những áng sử thi có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
“Em có biết bà Xok Ier này không em. Hắn là hổ tinh, là dầu đàn
của lũ hổ. Hắn có thể biến hoá thành người hay thành hổ dễ dàng và hắn
cũng làm ăn như người ta vậy…”
“Bà Xok Ier đâu mất rồi, giờ chỉ thấy một con hổ lù lù nằm đó. Nó
đã hoá nguyên hình. Ôi ghê gớm thật…”
Mặc dầu hổ là con vật nguy hiểm, hung dữ nhưng với người dân
Bana đã có lúc nó trở thành đối tượng mà họ muốn thuần dưỡng. Chính là
khi nói về người anh hùng - Giông trong sử thi Bana, một con người có
sức mạnh, có lòng dũng cảm, mang vẻ đẹp tài hoa… Một trong những
cách nói vể tài năng của Giông tác giả dân gian nói đến chi tiết, chàng
44
Giông đã bắt và thuần dưỡng con vật này trở thành vật nuôi giúp đỡ con
người trong việc săn bắn hái lượm.
“Đã đến giờ hai anh em Giông, Giơ đi làm về. Tiếng chuông lục
lạc ở đâu đó vang lên. Tiếng chó sủa ầm lên và tiếng hổ gầm gừ đi
trước… Ba bốn con vật đó Giông vừa mới bắt từ rừng về nuôi để dắt
chúng đi săn. Đánh hơi nghe mùi từ người khách già đang ở trong nhà
nên chúng sủa ầm vang lên.”
Mang nét hung dữ, gây hiểm nguy đến cho con người cùng với con
hổ, phải kể đến cọp, sư tử. Chúng đều là những con vật hung ác gây khổ
đau cho con người. Theo suy nghĩ của Giông, nó chính là con vật đại diện
cho cái ác, đã ăn thịt cha mẹ của chàng: “Anh đoán đấy chính là cọp, là
sư tử đã ăn thịt cha mẹ chúng ta…”. Nó còn được coi là chúa tể rừng:
“Gặp con thú khác còn đỡ lo, ai lại gặp phải chúa tể rừng, con cọp to
tướng đến thế. Cha mẹ cứ khóc mãi vì tưởng nó ăn thịt các con rồi. Làm
sao các con có thể chém được con cọp ghê gớm dễ sợ ấy cơ chứ.”
Đây là con vật có vai trò đáng kể trong sử thi. Nó là đầu mối dẫn
đến cuộc chiến giữa những người anh hùng với kẻ ác, kể xấu. Và nó cũng
chính đầu mối dẫn đến cuộc hôn nhân giữa những người anh hùng với
các cô gái đẹp. Đó chính là hai đề tài chính trong sử thi Bana. Động vật
với chức năng dẫn dắt cốt truyện, đôi khi sử thi sự dụng nét thần kì hoá
tạo sức hấp dẫn và cũng là nâng cao tầm vóc của người anh hùng. Hình
ảnh con cọp, trước hết nó là đối tượng đi săn của anh em Giông, Giơ. Khi
hai anh em đã giết chết cọp đầu đàn của Dăm Dơ Dang, thì Dăm Dơ
Dang đã cử cả đàn cọp với hai con thay thế con đầu đàn dẫn đường là Ju
Brông và Năk Nun xuống tàn phá sạch mọi của cải của làng Giông, ăn
thịt hết cả người và thú vật. Nhờ có thần linh giúp đỡ dưới lột con mèo
thần, dân làng của Giông đã thoát nạn. Và Dăm Dơ Dang thấch đấu với
Giông, cuối cùng bị Giông chém chết. Tiếp tục cuộc chiến là những
người bạn của Dăm Dơ Dang đến giúp Dăm Dơ Dang đánh nhau với
45
Giông. Chị em Rang Năr và Xem Yang theo dõi anh em Giông thấy họ
gặp nguy hiểm, bị cọp bắt và chuẩn bị ăn thịt , họ đã dùng phép thuật của
mình cứu giúp hai anh em và họ đã hứa kết thành vợ chồng. Trong cuộc
chiến với những kẻ thù hung bạo hai chị em Xem Yang và Rang Năr còn
giúp anh em Giông, Giơ đánh bại Dăm Dơ Dang và đồng bọn .
Trong số những loài vật to lớn phải kể đến loài diều hâu. Đây là
loại vật mà sử thi Bana thường dùng để nói về sự mạnh mẽ, nhanh nhẹn
và nó luôn sống cô đơn. Đó cũng chính là tập tính của loài vật này. Vì
vậy để có thể di chuyển nhanh, con người trong sử thi thường biến hoá
thành chim diều hâu.
“Đường xa nên Ot Plenh đi từ sáng sớm. Chàng hoá thành con
chim diều hâu bay lên trời cao. Chành bay mất khoảng nửa ngày thì đến
nơi. Trước khi hạ cánh, chành lượn vòng trên bầu trời để ngắm nhìn”
“Anh đi trước đi. Cứ để chúng em đi sau. Anh về dưới kia rồi sẽ
thấy sáu con chim diều hâu lớn với bộ lông có màu sặc sỡ đang bay lượn
trên trời mây, đó chính là chúng em…”
Diều hâu cũng là con vật mang vẻ đẹp, đôi lúc trong sử thi để làm
rõ hơn vẻ đẹp của con người - người con gái đẹp, cũng thường đưa con
vật này ra để so sánh.
“Sắc đẹp của hai nàng con diều hâu cũng không sánh kịp. Sắc đẹp
ấy khi soi xuống nước, nước cũng sáng lên rực rỡ”
Khi không đồng ý, không hài lòng với công việc của người thân vì
những công việc ấy gây ra sự khổ đau cho con người. Thì những người
em (chủ yếu là phụ nữ) luôn lấy thân mình ra để ngăn cản và họ thường
luôn ví mình sẽ biến thành chim diều hâu để bay mãi, để sống trong cô
đơn nếu như người thân của mình không nghe theo lời khuyên bảo: “Nếu
không sau này con sẽ biến thành cánh chim bay đi khắp phương trời đó
cha. Con sẽ trở thành chim diều cô đơn lẻ loi mà thôi”; “Em mong ước
46
hoá hoá thành con diều hâu bay lượn, kiếm ăn trong rừng vắng. Nơi nào
có rừng rậm thì nơi đó em sẽ đến, sẽ ở….”
Thuồng luồng và cá sấu cũng là những con vật to lớn. Trong sử thi
có xuất hiện hình ảnh động vật này và chúng có chức năng giống nhau.
Đó là những con vật hung dữ, gây nguy hiểm cho con người, nó sống ở
vùng sông nước. Trong sử thi khi nói về vùng sông nước, nhất là khi nói
về thiên nhiên hoang dại, hiểm nguy thường xuất hiện hình ảnh động vật
này. “Con sông lớn ghê gớm, dưới dòng sông ấy có biết bao nhiêu là cá
lớn, có cả thuồng luồng và cá sấu… Những đàn cá lớn, những con cá sấu
ghê sợ xuất hiện ở đây…”; “Dưới nước toàn là cá sấu bơi lội! Nơi này
hoang vắng, không có ai dám đến đây cả”; “Nước ở đây rộng bao la, bên
bờ có những tảng đá to, những tảng đá đốm, những cây cổ thụ cao to và
một cây đa, nơi ẩn trú của con rồng, cá sấu và các loài rắn độc khác”
Hầu hết những con vật của thế giới tự nhiên, đặc biệt là những con
vật có hình vóc to lớn đều là những loài vật tượng trưng cho sức mạnh,
mang nguy hiểm đến cho con người. Nó đều là những loài vật của rừng
già Tây Nguyên, đem đến cho núi rừng Tây Nguyên nét hoang sơ kì vĩ,
chứa đầy màu sắc của thiên nhiên bí ẩn thời sử thi.
1.1.2.2. Động vật nhỏ
Đây là những loài chiếm số lượng hình ảnh thật phong phú với sự
xuất hiện của đủ dạng hình ảnh, với nhiều môi trường sinh sống khác
nhau. Cho thấy sự nhận thức của người Bana về thế giới tự nhiên quả là
đa dạng và phong phú.
Xét về số lần xuất hiện thì hình ảnh con cá là hình ảnh có tần số
xuất hiện cao nhất trong sử thi. Hình ảnh này cũng là hình ảnh tiêu biểu
cho môi trường nước, cùng với tôm, cua, ốc, ò, ếch nhái, lươn. Xét cùng
với những loài cùng sống trong môi trường nước thì có sự chênh lệc giữa
các hình ảnh, thậm chí là có sự cách biệt rất lớn. Hình ảnh cá với 249 lần
47
xuất hiện cao gấp 9 lần so với hình ảnh có vị trí thứ hai cùng trong môi
trường nước là cua ( 27 lần). Có thể nói hình ảnh con cá là hình ảnh xuất
hiện bao quát nhất trong môi trường nước.
Cũng như các động vật khác, cá là thực phẩm trong gia đình, là
món ăn ngon, sang, dùng để mời khách quý, mời người thân. Trong sử thi
Bana có khá nhiều trường đoạn nói về món ăn từ cá. Họ mời mọc nhau,
họ thực tâm hiếu khách nên trong lời mời của họ loài vật này với vai trò
là một món ăn thơm ngon, thành loài vật mang giá trị cao và đôi lúc còn
được cụ thể hoá theo loài: “Hai người em gái xinh đẹp của Giông Trong
Yuăn là Brăt Vai và Brai Sem lo cơm nước xong xuôi, liền mời hai chú và
anh mình ăn. Cơm gạo thơm ngon, thịt cá vàng, cá bạc, cá chình ngọt bùi
thơm ngon”; “Về thức ăn nếu cứ ăn mãi thì lợn, gà cũng ớn cũng ngán,
thỉnh thoảng ta vào rừng săn con mang, con nai hay mò dưới suối kiếm
cá, ếch nhái, cua tôm để ăn thay đổi món”; “Muốn ăn cá có cá, muốn ăn
ếch có ếch, không thiếu thứ gì “
Hình ảnh con cá ngoài vai trò là nguồn thực phẩm quan trọng, chủ
yếu của người Bana xưa, thì loài vật này còn là sự giầu có phong phú của
sông hồ ở Tây Nguyên: “Nếu muốn ăn cá đến con suối kia mà bắt, cá
lóc, cá trê, …Cá lớn, cá nhỏ đủ cả …”; “Dưới dòng suối kia, hắn đặt lờ,
đó trúng nhiều cá. Nào cá trê, nào là cá lóc, lươn. Giông chẳng thèm lấy
làm gì. Giống lấy cái lờ đổ hết tôm, cua, cá xuống nước rồi vứt bỏ cái lờ
vì không ai dùng nữa”; “Trong nhà đầy lúa gạo, ngoài đồng rau cải
thiên nhiên mọc xanh tươi, ngoài sông suối cá nhiều vô kể. Yang ban cho
chúng ta mà sung sướng vô cùng”; “Đến thung lung dưới đồi dốc có cây
đa lớn. Có dòng suối nhỏ chảy róc rách, lòng suối trong vắt đầy cá bơi,
…. Nước trong mát quá, có thể tắm được. Ôi cá sao mà nhiều vậy ngắm
thật thích mắt”
Chính vì là nguồn lợi kinh tế khá lớn của người dân Bana, phục vụ
cho cuộc sống của con người nên công việc đánh bắt chúng cũng được sử
48
thi mô tả khá kĩ. Nó đã trở thành công việc hàng ngày, hoặc lúc nông
nhàn của tộc người Bana. Trong sử thi có rất nhiều đoạn nói về niềm vui
vì đánh bắt được nhiều cá. Chính chúng đã cho thấy sự giàu có của sông
suối Tây Nguyên.
“Hai chú Dong, Vawt xuống đặt sa. Sơk ruăh Sơ Krôi lấy đất đắp
bờ chặn nước. Một lúc sau đã thấy cá bơi tung tăng hàng đàn. Ai cũng
vui mừng vì thấy có nhiều cá..
Sơkruăh Sơkrôi tươi cười nói:
Ôi chu cha bắt cá hôm nay
Nhiều con ta, ta thật gặp may
Chưa khi nào được nhiều thế này
Ma Dong, ma Văt, Sơkruăh Sơkrôi bắt cá đầy ắp cả hai gùi mà vẫn còn
lại rất nhiều. Trong cái sa, cá cũng đã đầy. Ba người vui sướng trong
lòng, sửa soạn qua bến nước tắm rửa rồi trở về”
Công việc đánh bắt loài vật này là công việc yêu thích của con
người, được làm lúc rảnh rỗi - khi mùa nương rẫy đã kết thúc.
“Giông lên nhà rông thấy mọi người, có cả đàn ông, đàn bà, con
trai, con gái, trẻ nhỏ đang tụ tập cười đùa vui vẻ. Có người rủ nhau đi
xuống suối tìm cá hay bắt ếch. Chả thiếu gì cách tìm đồ ăn. Sau mùa
trăng làm việc vất vả mệt nhọc, mọi người đang nghỉ ngơi dưỡng sức
uống rượu chơi, tìm rau ăn cho no bụng…”
Việc đánh bắt nhưng loài vật này, là thú vui của người dân Bana
lúc nông nhàn, là công việc lao động thường ngày để kiếm thức ăn.
“Trông to vang vang
Trống nhỏ rồn rập
Báo mọi người biết
Ngày mai làng cữ
Trẻ già, trai gái
Nghỉ làm đi chơi
49
Bắt cá bắn chim
Kiếm thịt thay rau”
“Đây là mùa nắng ráo, là tháng ngày ăn chơi vui đùa thoả thích. Ai
muốn ở nhà ăn uống thì mặc. Còn ai muốn vào rừng kiếm ăn, đi săn bắn
con thú rừng hay đi tìm hái rau, hoặc đi xúc cá dưới sông suối thì tuỳ. Ai
muốn đi bắt ốc, bắt cua, bắt ếch nhái đâu đó, cứ đi…”.
Họ thường rủ nhau đi tát nước bắt cá:
“ Sơ Kruăh Sơ Krôi cất tiếng:
A ơ này ma Dong nhanh nhẹn
Ơ ma Văt thương yêu con người
Ta cùng đi bắt cá sông Ba
Gần bến nước làng ta các chú”
Trong sử thi xuất hiện khá nhiều đoạn nói về việc, con người gọi
nhau, rủ nhau đi bắt tôm, cua, cá vào những lúc nông nhàn. Hình ảnh con
cá với công việc đánh bắt đã trở thành tiêu biểu đặc trưng cho những loài
vật sống trong cùng môi trường nước. Từ lâu hình ảnh cá đã bắt gặp trong
cuộc sống sinh hoạt của người dân. Với dân tộc Việt Nam sinh tồn và gắn
bó mật thiết với không gian sông nước từ bao đời nay. Đây là hình ảnh
tương ứng với thực tiễn, bởi người dân Bana chủ yếu sinh sống gắn bó
với sông nước. Trong sử thi chủ yếu nói về chàng Dăm Giông người anh
hùng của xứ sở thượng nguồn có mối quan hệ với các làng khác, vùng
khác phía hạ nguồn. Có nghĩa cuộc sống của họ gắn bó theo dòng nước,
quê hương xứ sở của họ được gọi theo nơi định cư gắn với con sông nào
đó (phía thượng nguồn và phía hạ nguồn). Vì vậy hình ảnh cá thường
xuất hiện trong sử thi.
Ở đây theo nghĩa thực là cá sống ở ao, hồ, sông, suối, biển… với
những đặc điểm sinh học cụ thể. Trong cơ cấu bữa ăn của cư dân Bana
xưa, cũng như trong bữa ăn của người Bana nay, thì nó là thực phẩm
không thể thiếu. Đó là sản phẩm đặc trưng của vùng sông nước.
50
Cá chủ yếu là một đối tượng săn bắt tồn tại tách biệt với cuộc sống
con người nhưng sở dĩ chúng xuất hiện nhiều lần như vậy cũng cho thấy
sự quen thuộc về hình ảnh với người dân Bana. Hơn nữa lí do để hình ảnh
cá xuất hiện nhiều nhất trong các hình ảnh động vật có trong sử thi Bana,
chính là do lối trì hoãn, lối lặp lại mang tính khuôn mẫu của sử thi khiến
cho hình ảnh xuất hiện nhiều. Và nó vẫn mang chức năng chính là sản
phẩm của vùng sông nước phục vụ cho bữa ăn của con người.
Hình ảnh con cá đã trở thành hình ảnh quen thuộc với người Bana.
Trong lời nói của họ nó luôn được dùng để so sánh, để đối chiếu làm cụ
thể hoá lời nói bằng hình ảnh. Chính nhờ cách nói thô sơ mộc mạc ấy,
khiến cho sử thi luôn chứa đựng những nét hồn nhiên thô phác của con
người thời sử thi. Hơn nữa nhờ cách nói này mà sử thi tạo được sức hấp
dẫn đối với bạn đọc. Đây là nói của Giông khi đối đáp với cụ già làng:
“Ở nước nào, ở xứ nào cũng vậy người ta đâu lựa chọn bậy bạ người vô
dụng mà luôn tìm người đáng tin cậy. Cũng như trong ao có nhiều cá, có
cá to cá nhỏ, người ta phải cân nhắc chữ ạ”.
Con cá trong quan niêm của người Bana, còn là con vật hung dữ,
giống như các loài như cá sấu, thuồng luồng… Nó được mô tả to lớn,
sống ở vùng biển rộng. “Hắn cần được loại trừ và ném xuống giữa lòng
biển rộng, cho các loài cá lớn ăn thịt…Có con cá to miệng đầy răng
nanh lao tới nuốt lấy.”
Như vậy có thể thấy, hình ảnh con cá mang trong mình khá nhiều
chức năng khác nhau: tượng trưng cho thiên nhiên hoang sơ, dữ dằn, cho
sự phong phú bất tận của thiên nhiên, là nguồn nguyên liệu tạo nên nhưng
món ngon và hấp dẫn như những vật nuôi trong gia đình. Đôi khi nói về
sự khinh rẻ của con người với một đối tượng nào đó, thì trong sử thi cũng
mượn hình ảnh con cá: “Giông vung gươm chén Bung Lung thành nhiều
khúc, xô xuống biển rộng sâu. Cá nhìn thấy chẳng thèm đớp vì chỉ là một
51
đống xương khô. Da thịt của hắn đã bị tan biến ngay lúc Giông chém giết
hắn”.
Cũng giống như những loài vật khác sống ở môi trường nước, ếch
nhái cũng là những thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày của người Bana.
Công việc đi săn bắt nó cũng thường diễn ra trong những ngày rảnh rỗi.
Theo cách nghĩ của người Bana xưa thì núi rừng Tây Nguyên rất đa dạng
và phong phú về động vật. Nó là nguồn thức ăn dự trữ lớn, bất tận của
người Tây Nguyên. “Họ bảo không cần đem thức, ăn vào rừng thiếu gì
con thú, dù không bắn được con chim thì cũng bắt được con ếch nơi dòng
suối nhỏ…”
Thế giới loài vật trong sử thi quả là phong phú, không chỉ được
miêu tả trong cùng một không gian sinh tồn, mà chúng còn được miêu tả
ở nhiều không gian khác nhau. Điều đó phản ánh nhận thức của người
Bana về cuộc sống xung quanh là khá đầy đủ và chi tiết.
Loài chim là loài vật được được người dân Bana nói đến khá nhiều
trong sử thi. Với số lần xuất hiện và loài chim cụ thể được kể tên thì có
thể thấy rằng chim là loài vật được người dân Bana quen thuộc và gắn bó
trong đời sống của cộng đồng người Bana trên dải đất Tây Nguyên. Hình
ảnh loài chim là hình ảnh tượng trưng cho không gian rộng lớn, bầu trời
bao la. Vì vậy hình này thường gắn với sự bay bổng được thể hiện trong
suy nghĩ của người dân Bana. Đã có rất nhiều hình ảnh cánh chim với sự
tự do bay lượn được nói đến trong sử thi. Đó là những hình ảnh khi nói về
vẻ đẹp của con người, được tác giả dân gian so sánh với con chim trên
trời và con cá dưới nước:
Hơn nữa nhờ vào dáng vẻ tự do tung tăng bơi lội, nhờ vào vẻ đẹp
thướt tha của loài vật này, mà tác giả dân gian đã mượn nó để so sánh với
con người. Đặc biệt là khi miêu tả dáng đi của những cô gái đẹp, họ
thường so sánh với con cá dưới nước và con chim trên trời: “Nàng bước
52
đi nhẹ nhàng uyển chuyển, tựa như cánh chim én liệng trên trời, như con
cá lượn lờ dưới nước…”
Tuy nhiên hình ảnh con chim không đơn thuần như vậy, mà nó còn
bao hàm nhiều nét đặc trưng khác nữa mà trong sử thi Bana đã đề cập. Đó
là âm thanh của nó, tiếng chim kêu được nhắc đến khá phổ biến trong sử
thi. Âm thanh ấy trước hết là dấu hiệu của thiên nhiên, nó là âm thanh
không thể thiếu của núi rừng. Chính âm thanh này đã tạo nên một khung
cảnh thiên nhiên đầy nét hài hoà tương đồng, tạo nên sức cuốn hút khi
đến với núi rừng Tây Nguyên.
“ Họ đi qua một khu rừng già, nghe tiếng chim ca hót, tiếng vượn
kêu khỉ hú…”
“Ôi đẹp biết bao nhiêu! Trên bầu trời cao xung quanh, không một
áng mây mù che khuất. Khắp mọi nơi trong rừng rú tiếng hót của chim
muông rộn ràng như chào mừng một ngày rằm sắp đến và ngày đám cưới
của Giông sắp gần kề”
Đây là đoạn văn miêu tả cảnh Giông, Giơ và anh em, các cậu đến
làng của Jrai, Lao để hỏi tội. Vừa đến đầu làng mọi người đứng ngoài
đợi, chỉ Giông và Giơ vào làng. Trong lúc đợi tác giả dân gian xen vào đó
một khung cảnh thiên hiên đầy mơ mộng với âm thanh của tiếng chim
rừng:“… ánh nắng vừa chiếu qua đỉnh đồi… Đó đây tiếng chim rừng líu
lo hót vang trong nắng sớm, với tiếng hót của chim khướu đón mừng
nắng ấm”. Đặc biệt là khung cảnh thiên nhiên nơi nhà trời, không thể
thiếu được âm thanh tiếng chim kêu, nó là hiện thân cho sự thanh bình,
vui vẻ: “Ôi đâu đây nghe tiếng chim hót ca rộn ràng trong trời mây. Nhà
trời đẹp quá… Các cô gái thích thú ngắm nhìn những con bươm bướm,
con chim chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, lại nghe tiếng chim hót du dương…
Bia Lui vui sướng kêu lên:
- Đất nước của ông đẹp quá, chẳng có gì lo buồn cả”
53
Đặc biệt tiếng chim kêu còn có chức năng rất lớn và trong sử thi
phản ánh rất rõ. Đó chính là nhờ âm thanh tiếng chim kêu có thể báo
được điềm lành dữ. Đây đã trở thành một quan niệm của người dân Bana:
“Con chim hót báo hiệu không chỉ một lần, nó phải hót ba bốn lần trước
khi tới nơi. Và cũng còn phải xem cả mấy con kiến vàng có cánh bay
ngang nữa thì mới biết chắn được. Nếu tới vùng đầu sông mà chim vừa
hót vừa bay từ phải sang trái là báo hiệu điềm lành, còn nếu chim vừa
hót vừa bay từ trái sang phải là báo hiệu điềm dữ”.
Người Bana xưa dường như rất tin vào điều này vì vậy trước khi đi
đâu đó, hoặc làm một việc trọng đại họ thường cầu khấn Yang. Và trong
lời cầu khấn ấy luôn xuất hiện loài vật. Và loài chim là một trong số động
vật xuất hiện nhiều nhất dưới nhiều ngôn từ khác nhau. Mục đích để tìm
hiểu xem chuyến đi của mình có gặp may mắn hay gặp những điều rủi ro,
để còn có thể liệu tính trước. Đây là lời Giông Trong Yuăn cầu khấn
trước chuyến đi của mình:
“Chô Yang, nếu lời tôi con yang
Có sức mạnh, có tài giỏi giang
Đúng như ý mẹ mong cha muốn
Tôi gọi blang rừng sâu
Bay về đây hót cho tôi nghe
Nếu tôi bị người ta đánh chém
Chim sẽ hót từ đằng sau tới
Hoặc hót từ bên này, bên kia sông suối
Con kì đà ra chặn mặt khiên
Ông cọp rừng chặn đường hù doạ
Nếu tôi gặp những điều may mắn
Chim bên trái đường sẽ hót trước
Chim bên phải đáp lời tức khắc
54
Giông Trong Yuăn dứt lời, một lát sau, đã nghe tiếng chim blang hót lanh
lảnh bên trái rồi bên phải, Giông rạo rực mừng vui, đầu nghĩ rằng
chuyến đi này sẽ gặp nhiều may mắn”.
Chim blang chính là chim chào mào, chèo bẻo, chúng có khả năng
dự báo cho con người nhờ vào tiếng hót. Người Bana thời sử thi rất tin
vào điều này vì vậy họ thường mượn hình ảnh loài vật này để đoán định
trước chuyến đi của mình và cầu khấn chúng báo hiệu trước cho mình
trong mọi chuyến đi, thông qua tiếng kêu của chúng.
Tín ngưỡng này của người Bana dường như rất linh thiêng, họ rất
tin tưởng vào việc báo trước của những loài động vật này. Vì vậy khi làm
bất cứ một công việc gì họ đều cầu khấn loài vật này để biết được điều
lành dữ, họ rất tin tưởng vào tiếng hót báo hiệu của nó. “Bọn họ đi được
gần một tháng rồi mà vẫn chưa đến nơi. Jrai, Lao, Pư Pưng, Xor Mam
chờ tới khi đến gần vùng đầu sông thì mới gọi chim chào mào xem điềm
lành, điềm dữ. Trong ngày xuất quân, lúc đầu bước chân vào rừng Jrai
và Lao đã gọi chim chào mào lần thứ nhất và chim đã hót báo hiệu điều
tốt lành, điềm chiến thắng cho họ. Chính vì vậy nên đoàn quân của Jrai
và Lao lên đường thật hùng dũng”.
Trong sử thi Bana, thường có những trận chiến và trước mỗi trận
chiến ấy, mỗi người tham gia đôi lúc nhờ vào những loài động vật để làm
dự báo cho trận đánh sắp diễn ra của mình. Thực chất việc báo điềm lành
dữ, thì người Bana thường mượn đến rất nhiều loài động vật chứ không
riêng gì loài chim. Nhưng loài chim vẫn là hiện thân cao nhất của sự báo
hiệu điềm lành gở, trước mỗi trận chiến. Vì vậy người Bana thường có lời
cầu khấn với loài chim: “Chim ơi nếu chim cất tiếng hót, chúng ta sẽ giã
gạo cho ăn. Hãy hót đi chim, hãy hót cho tốt nhé. Hãy hót cho tác giả
được chiến thắng! Hãy hót đi mau lên ! Hãy cho tác giả được đánh thắng
để tác giả được ăn ngày, uống đêm, không phải được làm lụng gì”
55
Với lời kể rất chi tiết sinh động, tác giả dân gian đã khiến người
nghe như thâm nhập rất sâu vào đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người
Ba Ba xưa. Đó chính là khi miêu tả tiếng hót của chim báo trước tương
lai - điềm gở: “… trước kia nó cất tiếng hót tốt, nhưng giờ thì tiếng hót
của nó thật xấu. Tiếng hót ghê rợn từ phía trước về phía sau, tiếng hót
phía sau nhiều hơn tiếng hót phía trước. Con hươu, con nai cùng kêu, con
chim cứ bay qua bay lại che mắt bọn chúng. Rắn chặn đường, những con
ong kéo đến đốt làm chúng kêu la, hú hét chạy khắp núi rừng”
Điềm lành - báo hiệu niềm vui, niềm hạnh phúc. Đó là khi Rang
Năr và Xem Yang kết thân với hai anh em Giông, Giơ. Qua lời trách của
Rang Năr với Giơ khi Giơ tỏ ra khinh miệt hai chị em lúc họ biến thành
những con người già nua xấu xí. “… Mặc dù gương mặt thấy già nhưng
qua việc làm, đáng lẽ hai chàng cũng đoán ra chứ. Bà nội cũng đã nói,
hai chàng cũng đã nghe rõ rồi. Từ khi hai chàng chưa đặt chân đến đây
có thấy chim nào bay ngang không mà sao bây giờ chim rừng bay ngang,
chim klang bay qua, tìm đến Giông, Giơ. Chàng thấy điều đó không…”
Ngoài việc báo điềm lành – gở thì loài vật này còn được sử thi
miêu tả ở góc độ khác nữa. Đó chính là nơi ở của chúng, người Bana rất
khiêm tốn nên khi mời mọc khách thường ví ngôi nhà của mình giống
như nơi ở của loài chim rất nhỏ bé. Họ thường mời mọc khi có khách:
“Lên nhà, lên nhà đi hai chú
Nhà cửa ở đây như ổ chim cu
Nhà che mưa cũng chẳng kín nổi
Nhà tránh nắng cũng không được mát
Đừng ngại ngùng hai chú vào đây
Vào thăm nhà để biết
Tổ chim cu, chim cưởng
Vào chơi rồi lại đi”
56
“Các anh cứ ăn no đừng ngại! Tác giả gọi đây là nhà nhưng nhà
tác giả chỉ như chuồng chim bồ câu, không che được mưa nắng. Đây là
ngôi nhà tranh thôi…”
“Nói là nhà mà chẳng ra hồn. Nó tựa như tổ chim khướu, như
chuồng chim bồ câu. Mùa mưa bị dột, mùa nắng không đủ che nắng
gió…”
Cách nói này được lặp đi lặp lại, tạo nên nét đặc trưng của sử thi
cho thấy sự hồn nhiên, chất phác của người Bana thời sử thi.
Loài chim ngoài chức năng để diễn tả thiên nhiên đẹp đẽ, dùng báo
hiệu điềm lành gở cho con người…. Loài vật này còn giữ chức năng như
một nhân vật trong sử thi. Với sự nhanh nhẹn, nhỏ bé con người đã muốn
hoá thân thành loài chim để được như chúng. Trong sử thi có khá nhiều
trường đoạn nói về việc, con người muốn đi được nhanh chóng thường
hoá thân thành cánh chim. Đó là nét thần thoại thường thấy trong sử thi.
Hơn nữa loài chim theo quan niệm của người Bana xưa, chúng còn
là loài tinh khôn, biết nhiều nên chúng có khả năng dự báo cho con
người. Và vì vậy con người thường biến thành loài chim để tìm hiểu mọi
việc xung quanh: Đó khi là khi chàng Giông nghe loáng thoáng trong
rừng có tiếng động ầm ầm khác thường. “… Anh hỏi cha mẹ và các em
nhưng không ai rõ. Để biết rõ ràng hơn, anh hoá thành con chim bay
khắp khu rừng, tìm hiểu mọi chuyện”. Đó là chàng Kram Ngai biến thành
chim để đi tìm người yêu, mục đích là che mắt mọi người: “Kram Ngai
đâu có hiện nguyên hình người mà hoá mình thành một loài chim cho nên
không ai có thể ngờ được”. Sự biến hoá ấy đã tạo được sức mê hoặc, sự
thần kì đó chính là nét cuốn hút của sử thi. Đó cũng chính là nét đặc trưng
không thể thiếu của sử thi.
Nhân vật trong sử thi đôi lúc được tác giả dân gian gọi như con vật
đáng yêu. Con vật ấy đã trở thành một nhân vật không thể thiếu trong sử
thi . Điều đó cho thấy sự thân thuộc của thế giới động vật với người Bana.
57
“Thôi phải đi thôi, những bước chân hơi nghiêng ngả, trông như lả
lơi khêu gợi. Thôi đừng ai chú ý đến bước đi đã sai mất rồi không còn
như mọi hôm,… đừng nhìn lại bước đi đã sai rồi. Này con chim kia ơi!
Chim hãy bay lên đừng ngả nghiêng bên này bên kia”
Trong sử thi loài chim còn được nhắc đến với vai trò là một nhân
vật canh giữ sức mạnh cho loài quỷ, nếu như loài quỷ ấy trú ngụ ở một
cây to nào đó. Tác giả dân gian không cụ thể hoá nhân vật này như thế
nào mà chỉ gọi nó là chim thần.
“Cây cổ thụ thân to, đi vòng quanh thân cây một ngày chưa hết.
Xung quanh gốc cây toàn những tiếng quỷ, tiếng thần thì thào. Trên cây
có con chim thần canh giữ”
Con chuột, con sóc, con sâu còn được con người đội lốt để giúp đỡ
người thân của mình. Vì trong sử thi, thường có những trận chiến và
thường nó diễn ra rất ác liệt không phân thua thắng bại, loài quỷ chiến
đấu càng ngày càng hăng không hề biết mỏi mệt, con người khó có thể
chiến thắng được nếu không có sự giúp đỡ của thần linh và người thân.
Vì loài quỷ có sức mạnh ghê gớm và sức mạnh ấy được ẩn chứa, cất giấu
ở đâu đó. Và để đánh thắng được những kẻ như vậy thì phải phá bỏ sức
mạnh đó. Và thông thường để tìm đến được nơi cất giấu sức mạnh là rất
khó. Có thể là ở dưới bảy tầng đất, bảy tầng trời, trong gốc cây cổ thụ…
có người hoặc vật canh giữ. Để tìm được đường đến nới cất giấu sức
mạnh của đối phương con người thường phải biến thành loài vật nhỏ bé
để có thể chui rúc được sâu xuống lòng đất, hoặc qua được bảy tầng
trời…
“Họ lấy gậy thần dò tìm đúng gốc cây cổ thụ và đào lỗ xuống. Họ cùng
nhau hoá thành ba con chuột chui xuống lỗ đào. Cây gậy thần khoét đến
đâu họ chui theo đến đó, dần dần tới được tầng đất sâu”.
“Em à cái lỗ nhỏ quá. Làm thế nào chị em mình có thể chui qua được
nhỉ. Hay là bây giờ chị em mình hoá thành con chuột nhé. Vật của thần
58
đã đi trước rồi khoét sâu xuyên qua bảy tầng trời và bảy tầng đất rồi.
Thôi hai chị em mình hoá thành con chuột bò qua theo đường đục khoét
ấy.
Sau ba ngày, ba đêm, hai chị em hoá chuột đã qua bảy tầng trời bảy tầng
đất và đã đến nơi thế giới âm phủ, nơi ở của Bung Lung….
Cây gậy đi trước, Bia Lui và reng Chăm theo sau đội lốt của con chuột.
Sau ba ngày ba đêm, họ đã đi đến được xứ sở của Bung Lung…”
Loài chuột với đặc tính nhỏ bé, chui rúc đã được tác giả dân gian
mượn để giúp cho nhân vật trong sử thi. Bằng cách hoá thân thành những
loài vật này:“Bia Lui và chị dâu biến thành hai con chuột trắng tinh cầm
theo rìu sắt, bò theo lỗ khoắng của cây gậy ngọc ngà mà ông Glaih đã
giao cho. Một lớp rồi hai lớp đá bọc bị bể ra, đến lớp đá thứ ba thì thật
khó. Đây là lớp đá bọc thiếc tạo nên sức mạnh của Pư Pưng”.
Phần lớn việc hoá thân này là những cô gái, đó có thể là vợ là em
gái của người anh hùng. Họ nhờ sự giúp đõ của thân linh và bản thân họ
cũng có những phép thuật thì mới có thể giúp đỡ được chồng hoặc anh
trai của mình. Hầu hết tất cả những chi tiết này xuất hiện trong sử thi
Bana, thì người phụ nữ đều phải hoá thân thành những con vật bé nhỏ
như vậy. Rõ ràng với chức năng là một trợ thủ cho nhân vật chính, giúp
nhân vật chính vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc sống cũng
như trong chiến đấu. Loài vật đã có chức năng nhất định, thậm chí không
thể thiếu trong sử thi Bana nói riêng và sử thi Tây Nguyên nói chung.
Những con vật bé nhỏ như con sâu, kiến cũng được sử thi nhắc đến
với những chức năng khác nhau cho thấy sự đa dạng về loài vật trong
cảm quan của người Bana xưa. Những con côn trùng như ruồi, muỗi, bọ
chét, ong…cũng xuất hiện khá nhiều trong sử thi. Phần lớn chúng được
dùng để khái quát hiện thực cuộc sống của người Bana. Họ thường dùng
trong cách nói hàng ngày, và đó là những loài xuất hiện khá nhiều và hiện
hữu xung quanh cuộc sống của con người. Chính cách nói này cho thấy
59
sự hồn nhiên, ngây thơ trong cách nói, trong cách phản ánh hiện thực của
người Bana xưa:“Mời hai anh lên uống miếng nước. Hai anh đến đúng
lúc bọn em có nhà. Thế à, cứ để cho hai anh đứng đợi lâu ở dưới đất, bọn
em thật có lỗi nặng. Tội nghiệp các anh đã bị muỗi đốt, bọ chét cắn. ở
làng bọn em đây dưới đất có rất nhiều bọ chét, còn trong nhà thì có rất
nhiều muỗi. Biết làm thế nào. Đành chịu vậy thôi”
Loài côn trùng này theo tín ngưỡng của người Bana xưa, chũng còn
là những con vật có tính thiêng nên trong những nghi lễ với người chết
thường có xuất hiện hình ảnh những động vật này. Đó là hình ảnh con
ruồi, hay con ong là những con vật mà sau lời cúng thì hồn người thường
biến thành chúng. Đó là hồn Cher Chor Hor Grong hoá thành ruồi vàng,
hồn dăm Aving biến thành con ong đực… Hơn nữa, con ong cũng giống
như con chim, nó còn là con vật có khả năng báo điềm hên xui, trước một
việc gì đó trọng đại.
Trong sử thi thường nhắc đến vật bùa ngải, đây là vật mà các nhân
vật thường dùng để gọi người, làm mê ngủ con người … Để bùa ngải có
thể bay tới tai người thường phải đi liền với câu thần chú. Người tiếp
nhận sẽ lơ mơ cảm nhận được điều đó, để diễn tả cái cảm giác ấy tác giả
dân gian thường mượn hình ảnh động vật. Đó là hình ảnh con ong:
“Thế là lời nói theo bùa ngải bay thẳng tới tai Giông, Lúc đó
Giông đang vót nan, đan gùi tại nhà Rông. Giông bảo:
- Ơ cái gì mà cứ bay vèo vèo qua mặt, qua tai vậy. Hình như là mấy
con ong thì phải?
Giông buông con dao vót xuống. Giơ cười bảo anh:
- Anh làm cái gì vậy
Giông: - Hình như có đàn ong bay vào trong nhà Rông chúng ta.
Giơ: ừ nhỉ! Chỗ của bọn em đây cũng vậy. Cái gì thế nhỉ?
Giông cảm thấy trong lòng không ổn”
60
Hình ảnh con kiến, con mối là những con vật nhỏ bé cũng xuất
hiện khá nhiều trong sử thi. Với vai trò tượng trưng cho số nhiều, số
đông, nên trong sử thi thường mượn hình ảnh này để so sánh đối chiếu
nói lên sự đông đúc : “Cọp đầu đàn đi trước dẫn đường, cả ngàn con
chạy theo sau, đông vô kể như kiến, như mối vậy…”
“ Từ phía dưới đoàn quân đông như kiến tiến dần lên…”
Những hình ảnh này khi được đưa ra so sánh với những con vật
nuôi thường được dùng để nói về sự giầu có của vùng thượng nguồn.
Chính sự so sánh ấy đã cụ thể hoá hơn sự giầu có của buôn làng. Đây
chính là cách nói bằng hình ảnh thường thấy trong sử thi: “Lợn gà của
cha cũng nhiều như đàn kiến, đàn mối, nhiều như cát sỏi ngoài bãi…”
“Đàn gà đông như đàn mối. Nhà ông Grâm Kong giầu vậy.”
“Trâu bò trong nhà ngoài bãi thiếu gì. Heo gà như kiến chật cả
sân đầy cả làng…”
Ngoài chức năng diễn tả số đông, số nhiều, sự giàu có… thì những
hình ảnh này đôi khi cũng có giá trị khác. Đó chính là chức năng báo tin,
báo điềm, đây là nét quen thuộc thường thấy được đúc rút qua thực tiễn.
“Ôi cháu của ta! Con trai của anh hùng Set. Cháu ơi! Ta đây cho dù
sống ở giữa chốn rừng sâu, xa cách làng xóm, nhưng ta vẫn biết rõ về
cháu qua lời đồn đại của lũ đàn kiến, đàn mối”
Hình ảnh con kiến vàng còn là con vật giúp đỡ con người. Con
người có tài phép dùng con kiến vàng xoa vào thân thể thì người đó sẽ
được trở lại như cũ. Ông Bok Tơ Lum thách Giông ăn thịt lão, Giông đã
ăn từng miếng thịt của lão Bok Tơ Lum và ăn thịt da lão. Con gái lão đã
xin Giông tha cho cha mình và dùng tài phép bằng con kiến vàng để cha
mình trở về như cũ: “Nàng bắt một con kiến vàng xoa vào thân thể ông
BokTơ Lum khiến ông biến thành thân hình như cũ. Không còn thấy dấu
vết xẻ da thịt ông”
61
Yếu tố thần kì hoá xuất hiện khá nhiều trong sử thi Bana. Hầu hết
các yếu tố ấy thường đi liền với hình ảnh động vật gợi sức hấp dẫn cho
những áng sử thi Tây Nguyên nói chung và sử thi Bana nói riêng. Đó là
chàng Giông có thuốc thần xoa vào người biến thành chim và bay được
lên trời, là những cô gái có thể hoá thành những con vật bé nhỏ để giúp
đỡ người thân của mình…
Như vậy, khi tiếp xúc với nhóm động vật có thật này tác giả nhận
thấy chúng có những vai trò cơ bản như: với nhóm vật nuôi chúng có
chức năng chính là cụ thể hoá về sự giàu có của buôn làng và luôn đi
cùng với chiêng ché; chúng còn có vai trò là nguồn nguyên liệu chính để
tạo nên các món ăn và luôn xuất hiện trong các cuộc vui của dân làng,
chúng luôn đi kèm với những kang rượu. Hơn nữa chúng còn là những
vật cúng tế của người Bana, trong các lễ hội như lễ bỏ mả, lễ mừng chiến
thắng, đám cưới… Với nhóm động vật hoang dã chúng đã khiến cho
thiên nhiên tạo vật của núi rừng Tây Nguyên phong phú, giàu có và hết
sức sinh động. Những loài vật có hình dáng to lớn đã khiến cho rừng già
Tây Nguyên thêm nguyên sơ, những loài vật nhỏ bé chủ yếu có vai trò
báo điềm lành dữ cho con người, chúng là đối tượng săn bắn của con
người, là nguồn thực phẩm của người Bana….
Bên cạnh đó, tác giả còn nhận thấy chúng có chức năng làm trợ
thủ cho các nhân vật chính trong sử thi: chúng giúp người anh hùng trong
những trận chiến, trong săn bắn, hái lượm… Chúng chủ yếu phản ánh
hiện thực cuộc sống của người Bana xưa, họ sống bằng săn bắn và hái
lượm là chính, tuy nhiên thời sử thi, người Bana cũng đã phần nào có
cuộc sống chăn nuôi và trồng trọt. Điều này được thể hiện qua những
hình ảnh vật nuôi trong gia đình của người Bana xuất hiện trong sử thi
khá phong phú. Thế giới loài vật xuất hiện trong sử thi Bana đã cung cấp
cho chúng ta những hiểu biết cơ bản nhất về con người, về cuộc sống, về
văn hoá phong tục của dân tộc Bana trên dải đất Tây Nguyên. Phần này
62
tác giả sẽ trình bày chi tiết ở chương sau khi tìm hiểu về mối quan hệ giữa
con người với thế giới động vật.
1.2 Nhóm động vật không có thực
Đây là nhóm động vật xuất hiện trong trí tưởng tượng của con
người, dựa trên những con vật có thật trong đời sống tự nhiên. Chúng là
loài vật đã được người hoá khiến chúng mang chức năng như những nhân
vật trong sử thi.
Trong sử thi Bana, tác giả bắt gặp khá nhiều những nhân vật được
đội lốt dưới hình dáng loài vật, mang tên của loài vật. Những con vật này
phần lớn đều mang nét thần kì hoá chúng có thể nói năng, hành động như
con người và phần lớn đều xuất hiện để giúp đỡ con người. Chính điều
này đã khiến cho những áng sử thi thêm lung linh, huyền ảo.
Trước tiên là nhóm động vật xuất hiện trong sử thi với vai trò là
những nhân vật, mang tên gọi động vật. Khi tìm hiểu về khía cạnh này tác
giả nhận thấy có khá nhiều điều thú vị, ẩn chứa trong tên gọi động vật
được phản ánh trong sử thi Bana. Cụ thể như chàng Bò tót - Thưk Kưl,
nàng Bướm bướm - Pơ lai, chàng Nhím - Bok Khem, Rái cá - Phei, Cá trê
- Sơ Kênh, Cá Chép Hồng - Ka unh, … Đó là những nhân vật cụ thể
trong sử thi, có quan hệ với các nhân vật khác. Chúng cũng như các nhân
vật khác có đầy đủ yếu tố của con người, thường giúp cho nhân vật chính
vượt qua những trở ngại trong cuộc sống, làm cho nhân vật chính hoàn
thiện hơn.
Bok Khem là một nhân vật xuất hiện trong sử thi với vai trò chính
là giúp đỡ con người, thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nhân vật này khi đối
thoại vời người anh hùng cũng đã khẳng định mình chỉ là một con thú
rừng. “Bây giờ ta về vì ta không phải là con người, ta chỉ là con thú
rừng. Nhưng trời phú cho ta, chỉ cho ta, sai bảo ta phải ra ngoài giúp con
63
vì biết rằng con đang có chuyện khổ tâm. Nếu không có việc gì, ta cũng ở
yên một chỗ hay trong núi vì thực sự ta chỉ là một con thú rừng”.
Bok Khem có đặc điểm “to lớn với những chiếc lông cứng nhọn
hoắt dựng đứng trông rất ghê sợ”. Nhân vật này đã giúp đỡ Giông, nghe
Giông kể chuyện về gia đình mình và giúp Giơ (em Giông) trở lại làm
người lúc chàng bị hoá thành ác quỷ Klơm bri. Hơn nữa nhân vật này còn
có những lời chỉ dạy cho nhân vật chính và dự báo cho nhân vật chính,
đặt niềm tin cho con người để tiếp tục công cuộc trở về quê hương của
nhân vật chính. Mà con đường ấy rất nhiều chông gai. “Con hãy nhớ ở
hiền luôn luôn gặp điều tốt lành. Nếu là kẻ ác thì không ai đến giúp đâu.
Thôi hai cháu ở lại ta về đây. Chúc hai cháu đi mạnh khoẻ, đi đến nơi
đến chốn. Chẳng còn bao lâu nữa, nếu có lâu lắm chỉ khoảng một tháng
nữa hai con sẽ tới quê nội”.
Loài Nhím ngoài vai trò giúp đỡ con người khi họ gặp khó khăn
hoạn nạn, chúng còn là loài vật biết nhiều điều. Vì vậy chúng đã trở thành
chỗ dựa tinh thần cho con người. Khi gặp điều khó hiểu thì người Bana
xưa cũng thường hỏi đến nhân vật này:
“Tôi không có khiên đao
Bay lên đánh trên trời
Tôi sẽ hỏi chàng nhím
Làm đường vào trong núi
Tôi và Giông Dâk Dâr
Sẽ đánh nhau nơi ấy
ấy sướng hơn, hay hơn”
Những nhân vật như chàng Bò tót, nàng Bươm bướm, được tác giả
dân gian miêu tả như những nhân vật bình thường khác, thậm chí đôi lúc
được kì vĩ hoá, thần thoại hoá làm rõ đặc trưng của thể loại sử thi. Đây là
hình ảnh nàng Bươm bướm, có công việc lao động giống như con người,
giúp đỡ con người khi họ gặp khó khăn: “Xinh đẹp tuyệt vời, chói chang
64
cả hoa lá rừng xanh, tài giỏi gớm ghê, có sức mạnh thần linh, chẳng ai
hơn được”; “… long lanh long lanh, nàng bươm bướm đẹp xinh, thoăn
thoắn mang gùi sau lưng cất bước ra đi. nàng ra rẫy hái rau, vào rừng
kiếm củi, nàng vừa đi vừa reo hò vang vang”
Hay hình ảnh các chàng Bò tót là những nhân vật có sức mạnh
gớm ghê. Có suy nghĩ và hành động như con người. Để giúp đỡ người khi
gặp hoạn nạn họ đã giấu vào trong nhà mình và đã có lúc phải nói dối để
che chở cho người gặp hoạn nạn, thậm chí khi bị doạ nạt vẫn một mực
che dấu. Đoạn đối thoại giữa đoàn người của Giông Trong Yuăn và các
anh chàng bò tót cho thấy điều ấy:
- A ơ này các anh chàng Bò tót
Có thấy ….
- Chúng tôi không biết, càng chẳng thấy
Người của các anh đâu vào đây.
- Chúng tao đã thấy chúng nó vào đây
Xin chúng mày ẩn nấp thoát thân
Sao bây giờ lại nói là không
Nói cho thật thì mây còn sống
Nếu không chúng mày bị chém hết
- Chúng tôi thật chẳng thấy
Chúng tôi thật không hay….
Loài cá cũng là những nhân vật, có lời nói, có hành động cụ thể
mang tính chất là vật thần. Cô chép Hồng - cô ruột của Giông sống ở nơi
đáy nước sâu. Nhân vật này có tài làm cho Giông trở nên đẹp đẽ: “Trong
lúc này, Yang Kôi Kông Giông Trong Yuăn đang lặn dưới lòng sông
Krong, tới nhà cá chép Hồng - cô ruột chàng. Chàng ta đến nhờ cô nặn,
sửa để con người mình thật đẹp”
65
Nhân vật này cũng có cuộc sống riêng, có gia đình, có vợ con
giống như những nhân vật khác trong sử thi. Lời đối thoại của các nhân
vật này cho thấy rõ điều ấy:
- Ơ các con rái cá kia ơi
Hãy đi gọi anh Trê chúng mày
Đến đây xem chỗ nào chưa đẹp
Mắt nó nhìn là giỏi lắm đấy
Bầy rái cá con bà chéo Hồng đi gọi cá Trê. Lên nhà anh Trê, chúng nói
lại lời mẹ
- A, ơ này anh cá Trê ơi
Mẹ sai đến gọi anh về xem
Mẹ đắp nặn hình Giông Trong Yuăn
Mắt tài nhìn, anh biết khen chê
Xem mẹ đã làm được hay chưa.
Trê nói với các em
- Tao đang bận cỗng cháu đây này
Chị chúng mày còn đi gùi nước
Lát nó về tao sẽ đến ngay
Cứ về bảo mẹ mình như vậy
Các nhân vật này đã giúp đỡ cho nhân vật chính hoàn thiện hơn,
trong cả ngoại hình, trong ngôn ngữ, trong cả việc thể hiện tài năng - múa
đao khiên. Hơn nữa những nhân vật này đã trở thành những người thân
thiết với Giông. Họ trò chuyện, quan tâm, chia sẻ với nhau thực sự là
những người thân, không hề có sự tách biệt giữa vật với người: “ Cô
cháu trò chuyện vui sướng ai nấy đều:
Cười ngất cười bò
Đầy cả miệng mồm
Hai người thật vui.”
66
Những nhân vật như rái cá, trăn, rắn, cá… là những nhân vật đã có
công phụ giúp vào thành công của nhân vật chính. Đó chính là sức mạnh
của cộng đồng, điều này cho thấy người Bana xưa đã thấy được vai trò to
lớn của cộng đồng tập thể. Người anh hùng tài giỏi là thế song có lúc
đuối sức cần nương tựa vào cộng đồng. Và các nhân vật đội dưới lốt động
vật chính là cộng đồng là nhân dân ủng hộ cho sức mạnh, tài năng và
chính nghĩa của người anh hùng trong sử thi Bana.
Nhóm nhân vật dưới lốt động vật mà ngay trong tên gọi đã có yếu
tố thần linh, như Rắn thần, Trăn thần, Mèo thần, Sư tử thần, Thuồng
luồng… Đây là nhóm nhân vật mang nét lạ hoá khá rõ ràng, ở dáng vẻ, ở
cuộc sống của chúng…
Sử tử là một nhân vật thần kì. Chúng biết nói năng, biết giúp đỡ
con người khi gặp khó khăn hoạn nạn. Đó là khi anh em Giông, Giơ phải
vượt qua bãi sa mạc trong lúc đang đói lả, mệt mỏi… Sư tử thần thương
tình cảnh của hai anh em Giông và Giơ: “... Sao các con chịu cực khổ đến
thế…Hãy lên lưng ta đây, ta sẽ đưa các con đi. Ôi tội nghiệp lũ các con
quá. Các con chớ sợ ta. Ta không hại hai con. Nhưng ta làm phúc cho
hai con… Ta không phải kẻ ác, ta yêu quý các con”.
Nhân vật này trong sử thi còn là tượng trưng cho cái ác, chúng
cũng có những lời lập luận với Giông về tai ương sẽ xẩy ra với anh em
Giông. “Tao biết chúng mày hùng mạnh, có lòng gan dạ. Giông ạ, tao
cũng biết mày vốn hiền lành, không làm phiền lòng ai. Khi mày đi chó
của mày nào muốn đi, mày không tin là gặp chuyện nên cứ đi. Hôm nay
tao sẽ ăn thịt chúng mày…”
Con mèo thần kì, đây là con vật của thần linh được phái xuống để
giúp đỡ dân làng khi dân làng gặp hoạn nạn. Nó là con vật biết bay, nó đã
giúp Giông và dân làng đánh chết lũ cọp của Dăm Dơ Dang. “Giông thả
bàn tay con mèo tự nhiên bay đi vút đến thượng ngàn rớt ngay ở khe núi
ngăn cách hai nước”.
67
Loài Trăn được nhắc đến trong sử thi là nhân vật thần kì giúp đỡ
con người. Đó là khi Giông Trong Yuăn gọi chúng đến làm cầu để qua
sông. Chúng có vẻ đẹp rực rỡ, biết nói năng, đối đáp lại với con người.
- Ơ trăn hoa từ trên
Ơ trăn đen từ dưới
Hãy đến đây làm cầu ngang sông
Để ta cùng bia Man về làng
Sau lời gọi: “Hai con trăn khổng lồ, trăn hoa đằng trên, trăn đen phía
dưới đến nằm vắt ngang sông làm cầu. Làn da đen trắng pha vàng của
hai con trăn ấy nổi lên rực rỡ, đẹp lạ lùng”
- Ơ hai em trăn đen, trăn hoa
Thật tốt đã giúp anh chị dâu
Các em ở chúng ta đi vội
- Anh chị dâu cứ về đi
Khi nào cần lại gọi chúng em
Hai đứa em sẽ đưa qua sông
Rắn thần ngoài vai trò giống như những loài vật khác, chóng cßn ® îc
ng êi Bana dùng để báo tin, và khi xuất hiện hình ảnh loài vật này chính
là khi có điềm dữ. Trong sử thi loài vật này cũng được xuất hiện với chức
năng là một nhân vật và nó thường là nhân vật đại diện cho cái ác, đem
đến điều không may cho con người. Đặc điểm của nhân vật này cũng rất
khác lạ: “… làm nhà trên một cây cột cao, đuôi đang gác lên mái nhà
đó. Thân mình của nó nằm dưới đáy biển sâu, còn đầu thì đang trên bờ,
rình nuốt trâu bò ở miền cuối sông”. Nhân vật này còn nuôi con, đó là
cua thần nhưng không biết cách dạy dỗ con nên chúng đã làm điều sai
trái, làm theo ý thích của chúng.
Như vậy nhân vật trong sử thi Bana không chỉ có con người mà
còn có cả những loài thú. Tất cả các nhân vật loại này đều có ngôn ngữ,
hành vi riêng và chúng là một phần cấu thành tác phẩm. Đọc sử thi Bana
68
tác giả nhận thấy tính chất cổ sơ của nó, chính bởi sự xuất hiện của các
nhân vật này, chúng có vẻ ngoài nghịch dị, đội dưới lốt động vật. Bởi
trong công cuộc chinh phục thiên nhiên đầy những khó khăn gian khổ,
những thử thách mà con người thời xưa – còn non nớt về nhận thức và
thiếu thốn về phương tiện - phải trải qua vô cùng ác liệt. Cuộc chiến với
thiên nhiên dữ dội hiểm nguy không kém cuộc chiến giữa người với
người. Cả sức mạnh của giới tự nhiên được hình tượng hoá thành những
quái vật kì dị.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn là những thần linh, được hoá thân dưới
lốt động vật để giúp đỡ con người… Để giúp người anh hùng giành thắng
lợi trong các trận chiến, cũng như trong công cuộc chinh phục thiên
nhiên, ngoài sự trợ giúp đắc lực của con người còn có sự trợ giúp của
thần linh. Những thần linh này được đội dưới lốt động vật: đó là những
nhân vật như nhím - Bok Khem, thuồng luồng, sư tử thần, mèo thần…
thực chất chính là sự hoá thân của thần linh đều nhằm chung mục đích
giúp người anh hùng giành thắng lợi. Với hàng loạt các nhân vật dưới lớp
vỏ của động vật, trong mối quan hệ gắn bó với con người, đã phần nào
cho thấy xã hội Bana xưa - một xã hội mà con người và muôn vật có mối
quan hệ gần gũi, thân thiết.
Trong sử thi Bana chúng ta còn bắt gặp hàng loạt các nhân vật
người mang tên dưới lốt động vật. Điều này đã được tác giả Nguyễn
Quang Tuệ trong bài viết Bước đầu tìm hiểu tên nhân vật trong sử thi
Bana đã đề cập. Đó là khá nhiều tên nhân vật trong sử thi Bana là tên các
loài chim, thú quen thuộc với con người Bana. Ví dụ như rất nhiều các
nhân vật mang tên những loài chim rừng: Xem Đum thần có nghĩa là
chim hồng, Xem Yang có nghĩa là chim thần, Rêch Yang có nghĩa là
chim sẻ thần …
Một số con vật được lạ hoá như trâu đực có bảy đuôi, bảy mươi
núm vú, heo bảy lần thay nanh, gà mào rộng bằng cái nia… Đây có thể
69
coi là những con vật trong nhóm động vật không có thực, tuy nhiên khi
tìm hiểu tác giả nhận thấy đó chính là một cách nói trong sử thi mà thôi.
Vì vậy với những con vật này, tác giả xin đề cập trong phần hai đó là
cách thức miêu tả động vật trong sử thi.
Như vậy có thể nhận định rằng trong sử thi hệ thống các nhân vật
hết sức phong phú và đa dạng, có trẻ già, trai gái, có động thực vật và xen
lẫn với các thần linh nguyên thuỷ. Các nhân vật và động thực vật trong
Hơmon được thần thoại hoá rõ rệt.
2.2. Cách thức miêu tả
Hiện thực cuộc sống muôn mầu muôn vẻ, thế giới động vật cũng
sống động với nhiều những chủng, những loài khác nhau. Người nghệ sĩ
dân gian đã lấy chính hiện thực cuộc sống của mình gắn bó gần gũi với
loài vật để phản ánh trong sử thi. Tuy nhiên trong sử thi ngoài phương
thức phản ánh hiện thực khách quan còn có phương thức phản ánh phóng
đại hiện thực. Có nghĩa là hiện thực khách quan và hiện thực lí tưởng
luôn song hành trong cảm quan của người Bana. Vì thế thế giới loài vật
có trong trí tưởng của người Bana xuất hiện không ít. Nhờ đó thế giới
động vật trong sử thi Bana rất phong phú sinh động và nó phần nào làm
cho các áng sử thi Bana thêm lung linh hấp dẫn.
Trong sử thi thế giới động vật hiện ra sinh động và rất phong phú
đa dạng. Mỗi con vật đều phản ánh cuộc sống, tình cảm của người Bana
về thế giới. Dù là con vật bé nhỏ nhất hay những con vật có trong trí
tưởng tượng vủa con người thì họ cũng đều cho nó những tình cảm yêu
mến , gắn bó. Với số lượng những tên gọi động vật xuất hiện trong sử thi
có thể thấy rằng con người không chỉ gắn bó với cỏ cây hoa lá mà con
người còn gắn bó với thế giới những con vật. Từ hình ảnh của cá nước
chim trời, hình ảnh của thiên nhiên núi rừng Tây Nguyên hoang dã đến
hình ảnh những con vật nuôi trong gia đình, sử thi đều phản ánh sinh
70
động đầy đủ. Bằng tư duy trực quan người nghệ sĩ dân gian đã có một thế
giới động vật trong cảm quan của mình. Trong các tác phẩm sử thi có
nhiều thủ pháp nghệ thuật được nghệ nhân dân gian sử dụng như lối miêu
tả chi tiết, sự lặp lại mang tính khuôn mẫu, biện pháp so sánh, biện pháp
phóng đại hiện thực, … Chính nhờ các biện pháp nghệ thuật này mà tác
phẩm sử thi đã tái hiện được cuộc sống, xã hội của người Bana cổ xưa, đa
chiều hơn, phong phú toàn diện hơn. Vấn đề về thế giới động vật, cũng
không nằm ngoài cách thức miêu tả trên.
Sử thi Bana phản ánh nhiều vẫn đề về đời sống xã hội của cộng
đồng dân tộc này thời xa xưa. Đó là chiến tranh, là phong tục tập quán,
nếp sống sinh hoạt, … của tộc người Bana. Đọc sử thi Bana đưa lại cho
chúng ta nhiều hiểu biết về thế giới muôn màu của núi rừng Tây Nguyên
và cuộc sống của tộc người này. Với nghệ thuật miêu tả độc đáo tác giả
dân gian đã đem đến những niềm hứng thú say mê khi tìm hiểu vào thế
giới của những áng sử thi. Đặc biệt khi tìm hiểu cách thức miêu tả thế
giới động vật trong đó.
Người Bana thường dùng cách nói mang kết cấu đối xứng cặp đôi.
Trong tác phẩm sử thi các nhân vật thường xuất hiện theo cặp, trong đó
có một nhân vật chính, ví như anh em Giông và Giơ; chị em Rang Năr và
Xem Yang; hai ông cậu Dong và Wăt… Không chỉ trong việc miêu tả
các nhân vật mà với thế giới loài vật cũng được miêu tả theo đôi, theo
cặp. Đó là trường hợp loài cua và quạ, voi - chuột,…. trong sử thi Bana
thường xuyên sử dụng những hình ảnh này đi liền với nhau, trong sự đối
lập. Đó là khi miêu tả về tài năng, sức mạnh, vẻ đẹp của người anh hùng,
hoặc những nét lạ hoá của một nhân vật nào đó. Kết cấu này được lặp đi
lặp, tạo thành cặp kết cấu hình ảnh động vật trong sử thi. “Là thân trai ta
không sợ chết vì lẽ phải. Nếu ta chết dưới nước thì sẽ để cho cua cắp.
Nếu ta chết giữa núi rừng thì cứ để cho lũ quạ tha”.
71
Một số loài vật trong sử thi được miêu tả khá giống nhau trở thành
công thức. Đó là khi nói về việc cúng gọi hồn người và hồn người biến
thành một con vật gì đó trở về, hình ảnh con ong và con ruồi cùng trong
cách thức miêu tả trên. Sau lời cúng thì chúng “… ve ve ve bay lên và
đậu vào mệng ghè rượu”. Hình ảnh được nhắc đi nhắc lại mỗi khi cúng
gọi hồn người có thể là con ong đực to, có thể là con ruồi vàng …
Ngoài ra một số hình ảnh động vật được tác giả dân gian miêu tả
theo công thức đó là thường mượn tính chất, đặc điểm của con vật để so
sánh ví vón với con người. Đó là hình ảnh con rúi, đây là loài vật sống
dưới đất ở những lùm tre hay những cây lồ ô. Chúng có đặc điểm là khi
đào hang thường đào đến đâu thì lấp luôn phần sau lưng mình đến đấy,
đặc điểm này chính là cách thức để loài rúi tránh được kẻ thù. Trong sử
thi đặc điểm này của loài rúi đã được miêu tả thành công thức để người
Bana nói về sự bế tắc bí bách.
A ơ này anh Giông Trong Yuăn
Tai của anh con rúi nhét đất
Tai của anh trời đã lấp bịt
Đầu anh tròn tai anh không lỗ
Sao quên thuốc bôi vào lưỡi đao
Có nó rồi chém đâu thối đó
Người bị chết không thể sống lại
Với loài nòng nòng có thân thể mềm yếu, tác giả dân gian đã mượn
đặc điểm này để so sánh ví von với những người thất bại trong các trận
chiến.
Yếu mềm thân nòng nòng
Trần trụi đuôi cá lóc
Thấp hèn dưới chân thang
Lang thang xin hàng người
72
Hầu hết các nhân vật nữ trong sử thi Bana đều được mô tả khá kĩ
về vẻ đẹp và vẻ đẹp ấy được đưa ra so sánh đối chiếu với thiên nhiên. Các
yếu tố của thiên nhiên không thể thiếu hình ảnh động vật, hình ảnh này
với một đặc điểm cụ thể đã được tác giả dân gian miêu tả, so sánh với các
nhân vật. ở đây dường như tác giả dân gian tìm được những nét đẹp tinh
tế của loài vật để sánh với con người. Đó là những điểm ở loài vật có mà
các yếu tố thiên nhiên không có, ví như:
dẻo như…,
nhanh như…,
mạnh như…,
lấp lánh như…
Chính cách thức miêu tả chi tiết, cụ thể này đã khiến cho vẻ đẹp
của họ trở nên cụ thể, sinh động và đa sắc diện hơn. Đồng thời còn cho
thấy cảm quan hiên thực của người Bana xưa, họ sống gần gũi với thiên
nhiên và phản ánh thiên nhiên một cách sinh động nhất.
Loài vật còn có khả năng giúp đỡ con người, không chỉ trong công
việc săn bắn hái lượm, trồng trọt mà trong cả những trận chiến, chúng
cũng là đối tượng góp sức không nhỏ. Đó chính là việc chúng dự báo cho
con người và dấu hiệu báo trước điềm lành, dữ được tác giả dân gian mô
tả khá kĩ: “Những đàn ong bay vù vù đốt họ. Tiếng nai kêu chim hót
văng vẳng. Từ xưa tới nay, chưa bao giờ con chim báo trước tương lai lại
hót đêm cả. Vậy mà lúc này nó hót cả đêm dài”
“Trước kia nó cất tiếng hót tốt, nhưng giờ thì tiếng của nó thật xấu.
Tiếng hót ghê rợn cất từ phía trước về phía sau, tiếng hót phía sau nhiều
hơn phía trước. Con hươu, con nai cùng kêu, con chim cứ bay qua bay lại
che mắt bọn chúng. Rắn chặn đượng, những con ong kéo đến đốt làm
chúng kêu la, hú hét và chạy khắp núi rừng”
Tuy nhiên dường như chưa đủ người Bana còn phản ánh hiện thực
cuộc sống bằng những yếu tố hoang đường kì ảo, đem lại cho những áng
73
sử thi thêm lung linh huyền ảo. Hình ảnh động vật cũng không nằm ngoài
đặc điểm này của sử thi . Với nét miêu tả phong đại hiện thực đã cho thấy
sức trí tưởng tượng phong phú của người Bana xưa về thế giới loài vật.
Hình ảnh con cá được miêu tả phóng đại, kì vĩ: “Trong hồ nước đã
cạn sạch nhưng chẳng thấy gì ngoài cá. Cá to, cá nhỏ đầy một đáy hồ.
Có những con cá to bằng cả một cái chòi, có con to bàng cột nhà nhưng
chẳng ai muốn bắt”.
Hình ảnh Rắn thần: “thân mình nằm dưới đáy biển còn đầu thi đang trên
bờ rình nuốt trâu bò vùng cuối sông, xứ Lào, xứ Kinh”
Hình ảnh con mèo được tác giả dân gian miêu tả với nét lạ hoá: nó xuất
hiện trong lòng đất, không nhìn thấy mà chỉ nghe thấy tiếng kêu của nó.
Càng đập vào người nó thì nó càng to dần: “Con cọp đầu đàn liền xông
tới dáng sức đấm vào mèo. Mèo nổi công cũng dáng làm oai, cọp lại
đấm. Nhưng càng đấm mạnh, mèo càng mau lớn. Bây giờ mèo to bằng
cái trống rồi. Cọp bắt đầu hoảng, sao mà lạ thế. Tưởng chỉ sau một cú
đấm mèo sẽ gãy xương nát thịt, không ngờ mèo lại càng to, càng to, càng
ghê. Ôi mèo giờ đây đứng chật cả con đường rồi”.
Sư tử là loài vật khổng lồ trong con mắt nhìn của người Bana xưa, nó là
con vật nguy hại, thương mang đến những chết chóc cho con người. Vì
vậy khi miêu tả nó, tác giả dân gian đem đến cho nó những nét lạ hoá
theo khuynh hướng khổng lồ. Khiến người đọc cảm nhận đực sự hung ác,
gớm ghê mà loài vật này mang lại: “ Một con sư tử to như quả núi, có
tám cái đuôi, trăm cái tai, …”.
Nó là con vật có sức mạnh to lớn, sức mạnh ấy được miêu tả trong bước
chạy của nó kết hợp với so sánh đối chiếu: “Cọp lao xuống thung lũng,
mỗi bước chạy của nó làm văng những tảng đá lớn giống như núi bị sập
vậy”. Vì vậy ở nó ẩn chứa sự nguy hiểm nhất: “Cha ạ, chẳng ai ở hai
miền dám chém con thú vật này, con cọp to bằng trái núi ấy. Cha có biết
là con cọp gì không … Người ta đồn về con vật này khắp nơi nhưng vì nó
74
chưa đến nước mình nên ta không biết. Người hạ nguồn đều kinh sợ nó
trâu, bò bị nó ăn sạch”.
Một số hình ảnh những con vật nuôi bên cạnh những chi tiết tả
thực, còn được đan cài nét huyền ảo tạo nên những câu chuyện kể hết sức
gần gũi với thực tế nhưng cũng không kém phần bay bổng, thần kì. Hơn
nữa những nét thần kì này lại được tác giả dân gian lặp đi lặp lại tạo sức
hấp dẫn lôi cuốn với người nghe hát kể Hơ mon. Đó là hình ảnh con trâu
đực “có bảy đuôi, có bảy mươi núm vú”; con gà trống “ mào rộng bằng
cái nia”; con lợn “ mỡ dày như ruột bí đao”; con ngựa “ phi nhanh như
diều hâu”…
Bắt trâu đực to đầu có sừng
Húc đất thủng lọt cả ngọn đồi
Trâu bảy đuôi, trâu bảy mươi vú
Gà trống mào rộng bằng cái nia
Ba người khiêng bước đi loạng choạng
Heo đực thiến bảy lần thay nanh
Dài đủ bảy bàn chân nối tiếp
Mỡ heo dày như ruột bí đao
Lấy ghè rượu ngâm ba gùi hạt
Thơm ngon ngọt như thể mật ong
Xa ba ngày đường còn nghe hương
Những hình ảnh động vật được nhắc đến, với những chi tiết được
lạ hoá, cách ví von đậm chất dẫn dã, đậm màu sắc núi rừng Tây Nguyên:
“húc đất thủng lọt cả ngon đồi, dài đủ bảy bàn chân nối tiếp”, “xa ba ngày
đường còn nghe hương”, … đã cho thấy tính chất nguyên thuỷ của tư duy
và ngôn từ còn khá rõ của người Bana xưa. Tuy nhiên chính những suy
nghĩ còn thô phác này với nét phóng đại hiện thực đã cho thấy sức tưởng
tượng phong phú kì diệu của người Bana.
75
Những loài gia súc là vật không thể thiếu trong những ngày trọng
đại của cộng đồng. Chúng là minh chứng cho sự giàu có, cho sự hiếu
khách, ông Bok Rơh trong lời gọi nhắc chuẩn bị cho đám cưới của con
gái mình, đã nhắc đến những con vật này nhưng với nét miêu tả phóng
đại hiện thực: Ơ ma Dong, Văt làng con rể
Cùng ma Dong, ma Văt làng nàaw
Các chú hãy cùng nhau chở Kang
Để men thấm, nhiều cân đẹp đẽ
Để dân làng uống vui thoải mái
Các thanh niên hãy trói trâu đực
Đôi sừng to húc đất đồi lọt
Con trâu có bảy cái đuôi dài
Bảy mươi vú to đều như nhau
Heo đực thiến đã có răng nanh
To dài vừa đủ tám bàn chân
Giết gà trống tiếng gáy vang xa
Mào to rộng vừa bằng cái nia
Ba người khiêng loạng choạng như say
Trói bò được khoẻ nhất trong đàn
Suốt ngày kêu mồm không biết mỏi
Bắt ngựa phi nhanh như diều hâu
Tất cả cùng làm thịt nấu rau.
Chính nét phóng đại hiện thực đã làm cho những hình ảnh động vật
trở nên cụ thể hơn, sinh động hơn. Hơn nữa cùng với sự kì vĩ hoá từ
khung cảnh thiên nhiên, quang cảnh chiến trận, hành vi của con người
cho tới hình ảnh động vật đã tạo thành phong cách độc đáo của sử thi
Bana.
Lối phóng đại, kì vĩ hoá hiện thực là một đặc điểm quan trọng và
hết sức cần thiết của sử thi. Chính sự kì vĩ hoá hiện thực là điểm mạnh tạo
76
nên sự hoành tráng của tác phẩm. Ngoài các yếu tố thần kì, các vật
thiêng, thì hình ảnh những con vật được nhân dân tưởng tượng mang nét
thần kì đã góp phần tạo nên sự kì vĩ, hào hùng cho các tác phẩm sử thi.
Những yếu tố kì ảo đã khiến cho sử thi trở nên bay bổng, hấp dẫn. Cánh
chim trở thành phương tiện cho con người, giúp con người có thể đi
nhanh hơn, làm cho nhân vật đậm màu sắc thần thoại. Con người có thể
biến hoá bay lượn trên không trung như chim. Nét hoang đường kì ảo
chính là đặc trưng của sử thi, thiếu nó dường như những áng sử thi mất đi
cái hồn, mất đi sức hấp dẫn. Nét đặc trưng này rất phù hợp với suy nghĩ
còn thô sơ của con người thời sử thi.
ChÝnh c¸ch nãi phãng ®¹i, c¸ch diÔn t¶ “v ît xa h¬n c¸i mÉu” ®·
lµm cho t¸c phÈm sö thi chøa chan søc m¹nh. “ C¸ch nãi ®ã lµm cho h×nh
t îng nghÖ thuËt chøa ®ùng c¶ søc m¹nh cña céng ®ång thÞ téc, bé l¹c ®¹t
®Õn d¹ng hoµnh tr¸ng k× vÜ, theo tÇm vãc cña nói rõng T©y Nguyªn. C¸ch
nãi c êng ®iÖu k× vÜ ®ã kÝch thÝch m¹nh mÏ trÝ t ëng t îng cña ng êi
nghe, ng êi ®äc, thÓ hiÖn mét phong c¸ch s¸ng t¹o nghÖ thuËt theo
khuynh h íng lÝ t ëng ho¸ trµn ®Çy chÊt l·ng m¹n” [ 17,tr 91]
Thế giới động vật với chức năng và cách thức miêu tả đã cho thấy
ở sử thi con vật đã khá quen thuộc trong cuộc sống của con người. Đó
không chỉ là sự quấn quýt với thiên nhiên vạn vật mà đó còn là những suy
nghĩ về con vật đối với cuộc sống của con người. Thế giới động vật đã đi
vào sử thi với nhiều tình cảm suy nghĩ và chiêm nghiệm của con người về
cuộc sống, về tập tục của mình. Chúng đã đưa lại những hiểu biết cơ bản
nhất về phong tục, tín ngưỡng của đồng bào Bana xưa kia.
77
CHƢƠNG 3
MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG SỬ
THI VỚI ĐỜI SỐNG, VĂN HOÁ, TÂM LINH NGƢỜI BANA
Thế giới động vật đã có vai trò đáng kể trong cuộc sống của con
người, nó đã trở thành đối tượng không thể thiếu trong cuộc sống cũng
như trong đời sống tinh thần của người Bana. Chính loài vật đã tạo nên
sức hấp dẫn cho những áng sử thi Bana. Đó không chỉ đơn thuần với
những chức năng cụ thể ấy, mà còn đưa đến cho chúng ta nét phong tục
tập quán của tộc người Bana trên dải đất Tây Nguyên. Hơn nữa nhờ vào
cánh thức miêu tả những hình ảnh động vật này, đã cho thấy sức tưởng
tượng kì diệu của con người và cũng chính là ước mơ khát vọng của con
người, của tộc người Bana thời sử thi.
Trong sử thi Bana ta thấy những mối quan hệ trong xã hội được mô
tả khá cụ thể, như cha mẹ và con cái, thông gia, dâu rể, vợ chồng, họ
hàng... Nhiều phong tục tín ngưỡng, của đồng bào Bana xưa kia như uống
rượu, cưới xin, hỏi xin phép vào làng và cả niềm tin của người Bana
trước khi đi xa đều được phản ánh khá kĩ trong sử thi. Ví như khi ra khỏi
làng, hay đi săn… họ thường khấn để biết điều lành dữ và trong lời khấn
ấy thường xuất hiện những hình ảnh động vật, nó báo điềm lành - dữ cho
con người. Nét phong tục tập quán ấy đã phần nào thấy được mối quan hệ
của thế giới động vật với con người, tộc người Bana… Như vậy có thể
thấy ở sử thi bắt gặp những mối quan hệ đa chiều trong xã hội truyền
thống của người Bana.
Tác giả dân gian chú ý đến mối quan hệ giữa con người với cảnh
vật, với môi trường, với tài sản do con người sáng tạo, với những động
vật sống gần gũi với con người phục vụ cho cuộc sống của con người.
Chính những mối quan hệ này đã phản ánh một cách sinh động, khá chân
78
thực bộ mặt xã hội của người Bana ở một thời kì lịch sử nhất định, nói lên
ước nguyện của con người trong cuộc sống mang tính hướng thiện và
nhân văn: “… dưới lòng sông đầy cá, tiếng ếch nhái kêu inh ỏi nghe vui
tai. Trong rừng tiếng chim hót líu lo.... Ngoài đồng đàn gia súc đông đúc,
trâu bò cả đàn... Nhìn phía tay trái một đàn dê, nhìn sang phải một đàn
ngựa, trở vào làng một bầy heo, còn gà nhiều như con mối, đầy cả làng
chật cả xóm…”. Quang cảnh đầy nên thơ nói lên cuộc sống trù phú của
người Bana - một cuộc sống bình yên và sung túc do con người sáng tạo
xây dựng bằng tinh thần dũng cảm, bằng sức lao động cần cù.
Tìm hiểu mối quan hệ giữa thế giới động vật với con người - tộc
người Bana, chúng ta bắt gặp sự gắn bó thân thiết ở nhiều khía canh khác
nhau của cuộc sống. Ở chương 2, phần nào chúng ta đã thấy được mối
quan hệ giữa động vật với con người thời sử thi, hết sức gần gũi, gắn bó.
Chúng có thể coi là những nhân vật không thể thiếu trong đời sống sinh
hoạt cũng như tín ngưỡng của người Bana cổ đại. Ở chương này, tác giả
đề cập mối quan hệ giữa thế giới động vật với con người - tộc người Bana
trên các phương diện khác nhau.
1. Sử thi Bana thƣờng dùng hình ảnh loài vật để phóng đại các chi
tiết nhằm lôi cuốn ngƣời nghe, thông qua đó nói lên tính cách hào
hùng, bất khuất của ngƣời Bana
Sử thi thường sử dụng biện pháp phóng đại (phóng đại trong so
sánh, trong miêu tả, trong cảm nhận, trong đánh giá…). Một trong những
yếu tố ấy chính là việc phóng đại những hình ảnh động vật trong sử thi.
Như đoạn miêu tả cảnh giàu có của gia đình Bia Phu: “Đàn trâu đầy rẫy
trên bãi sông. Đàn bò chật đầy cả bãi biển”. Khi miêu tả về thiên nhiên
và người anh hùng chúng ta nhận thấy, thiên nhiên để cho người anh
hùng xuất hiện thường là một thiên nhiên kì vỹ (một bãi đất lớn, một đồi
cỏ gianh, một khu rừng rậm, một con suối lớn, một cánh đồng thẳng cánh
79
diều bay…). Hình ảnh người anh hùng trước kẻ thù đối kháng thường
được miêu tả dưới bút pháp tô đậm, phóng đại hay nhiều yếu tố thần kì
khác như chàng Giông có thuốc thoa vào người biến thành chim và bay
được lên trời hoặc “Giông, Giơ vượt qua một con sông rộng mênh mông,
phải mất năm ngày năm đêm với sự trợ giúp của thuồng luồng và các loại
cá lớn cả hai mới qua được bờ bên kia… Nhưng nhờ có sư tử giúp nên đã
vượt qua được. Hai anh em lại vượt qua hang con trăn đực sâu hun hút,
xuyên qua những rừng già đầy thú dữ, chẳng may gặp quỷ klơm bri…
gặp một con hổ giả danh bà nội dịnh hãm hại Giông, Giơ”… Đặc biệt là
khi nói về sức mạnh, tài năng của người anh hùng Bana: “Các thú dữ như
hổ, beo, sư tử, gấu, rắn… đều run rẩy sợ hãi và giật mình khi nghe tiếng
hú của Giơ.
Chúng tự hỏi:
ối! sao mà ghê gớm quá, không biết đó là tiếng người -
hay là tiếng thần linh hú giữa xứ sở của ta…
Chúng sợ hãi và chạy tán loạn không ai ngờ được đó là tiếng hú
của Giơ…”.
Những con vật như con chuột, con sóc, con sâu ngoài chức năng là
nguồn thực phẩm của người Bana còn mang thêm chức năng khác nữa,
đó là căn cứ vào vóc dáng bé nhỏ của mình nên chúng còn là loài vật
được con người dùng để nó về thời còn nhỏ của mình. Giông Trong Yuăn
khi nói về mình khi còn nhỏ mượn hình ảnh loài vật nhỏ bé này:
- Giấu ma còn chẳng được
Sao lại giám giấu trời
Theo mẹ kêu cha gọi
Từ ngày như sâu, chuột
Tôi là Giông Trong Yu¨n
Em trai của anh Giơ….
- Từ ngày còn bé
80
Nhữ con sâu, con chuột
Tắm mãi nồi bung nồi bảy
Chán lắm rồi, chán ngấy…
Căn cứ vào dáng vẻ nhỏ bé và nhanh nhẹn tác giả dân gian thường
đem so sánh đối chiếu với loài vật to lớn: “Mắt to như mắt voi. Mắt nhỏ
xíu vừa bằng mắt chuột…”.
Những người anh hùng trong sử thi khi nói về lòng quả cảm của
mình thường lấy hình ảnh động vật ra để diễn tả. Mượn con vật trên núi
cao và con vật dưới nước sâu để nói:
“Là thân trai ta không sợ chết vì lẽ phải
Nếu ta chết ở dưới nước sẽ làm mồi cho cua cá
Nếu ta chết giữa núi rừng thì cứ để cho lũ quạ tha
Nếu ta chết ở nhà để bà con khóc than”
“Không sao đâu hai chị đừng sợ. Thân trai có chết cùng chết, có
sống cùng sống. Hai chị đừng lo! Tác giả nếu chết trên núi thì để quạ ăn,
nếu chết dưới nước thì để cua cắp thôi mà”.
Chàng trai dũng cảm thường đứng về lẽ phải, không sợ thế lực nào
dù hung dữ đến mấy, họ chiến đấu và coi thường cái chết. Dù miêu tả ở
khía cạnh nào của người anh hùng cũng như các thế lực hung ác thì trong
sử thi luôn so sánh với những con vật. Đó có thể là vật nuôi lành, có thể
là những con vật hung ác gớm ghê đem những tai ương đến cho con
người.
Biện pháp phóng đại này trong sử thi Bana nhằm miêu tả không
gian hào hùng, sự tích anh hùng của người anh hùng để dựng lên một môi
trường tinh thần đặc biệt cho người anh hùng xuất hiện. Trong sử thi tất
cả phải là tuyệt đối chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có những hình
tượng tuyệt đối. Biện pháp phóng đại đã nhằm giúp cho sử thi vươn tới
những mục đích của nghệ thuật đó.
81
Hình ảnh động vật thường xuyên xuất hiện trong lời ăn, tiếng nói
hàng ngày của người Bana. Họ thường so sánh ví von với hình ảnh động
vật, đó là tư duy hình tượng cảm tính của những người sống hoà mình với
tự nhiên. Bằng ngôn ngữ hình ảnh, tác giả dân gian đã làm hiện lên một
bức tranh sống động, hiện khá rõ những nét điển hình tiêu biểu cho cuộc
sống trù phú của dân làng cũng như vẻ đẹp của các chàng trai cô gái
Bana. Nhiều chi tiết trong tác phẩm sử thi được tác giả dân gian sử dụng
ngôn ngữ hình ảnh để vật thể hoá, tạo cho người đọc người nghe cái cảm
giác được mắt thấy tai nghe những sự vật, hiện tượng xẩy ra xung quanh.
Ngôn ngữ hình ảnh không chỉ được sử dụng để khắc hoạ các nhân vật
hoặc mô tả những cảnh lớn như cảnh sinh hoạt của buôn làng, cảnh hội hè
đông vui… mà ngay trong những lời giao tiếp hàng ngày cũng được diễn
đạt bằng lối nói hình ảnh sống động. Cách nói “lo quá như cái ách trên
cổ con trâu”, “tai một bên to như tai voi, tai một bên nhỏ như tai
chuột”… là những ví dụ tiêu biểu, cách nói ví von hình ảnh này chính là
những nét cơ bản đem lại sự hồn nhiên và hấp dẫn với người đọc khi tiếp
xúc với những áng sử thi Tây Nguyên, đặc biệt là sử thi Bana. Đây là
những hình ảnh động vật được miêu tả một cách hiện thực nhất, rất quen
thuộc và cũng đầy sức hấp dẫn.
Những hình ảnh đã trở thành công thức miêu tả thường thấy trong
các sử thi Bana. Loài vật được mô tả khá nhiều trong sử thi và luôn nằm
trong cách thức so sánh đối chiếu với con người, làm cho hình ảnh con
người trở nên kì vĩ hơn, khiến cho lời nói giàu hình ảnh, đậm chất sử thi.
Chẳng hạn khi mô tả bàn chân nhanh nhẹn của chàng Giông, nghệ nhận
dân gian đã mượn đặc điểm nhanh nhẹn của loài chim, loài sóc để mô tả.
“Bàn chân Giông đi thoăn thoắt, nhanh nhẹn hơn cả sóc chạy, chim
bay… chàng đi nhanh đén nỗi chim bay theo không kịp, khi đến làng mặt
trời còn đứng nghiêng trên ngọn cây”.
82
Bằng việc sử dụng lối ví von, so sánh, ngôn ngữ giàu hình ảnh
nhạc điệu… cái đẹp trong tác phẩm sử thi được miêu tả ở mức vượt trội,
phóng đại. Hình ảnh các cô gái là những nhân vật trong sử thi tạo nên sức
hấp dẫn của cốt truyện. Họ là những người con gái đẹp và có tài phép.
Những nhân vật này được miêu tả bằng những lời văn mượt mà tinh tế.
Cách so sánh, ví von từ lời ăn tiếng nói, dáng đi… phần nhiều đều có
hình ảnh loài vật và những hình ảnh này lại được lặp đi lặp lại khiến cho
những con người trong sử thi Bana có nét giống nhau về khuôn mặt, nước
da, thân hình, dáng dấp…
Đây là vẻ đẹp của Reng Chăm: “Đôi má hồng đỏ rực như khi
người ta đi dưới ánh nắng mặt trời gay gắt. Nàng xinh tươi như đoá hoa
dưa gang đang hé nở và đôi môi kia đỏ rực như bông hoa gạo chớm nở
về mùa hè. Mái tóc hoe vàng óng ả, nhìn từ người ta tưởng như đom đóm
lấp lánh tvrong đêm. Nàng đeo thêm bông hoa tai Hơ Dung rực rỡ như
bông hoa rừng, như ánh sao tháng hai, như ánh trăng tháng ba. Nàng có
dáng người tha thướt nhưng không cao lắm, chỉ vừa vặn thôi. Nàng cất
bước theo nhịp, nhón lên nhẹ nhàng, đạp đất bằng ngón chân cái với một
chút bàn chân. Dáng đi của nàng chẳng khác gì chim lượn cá lội…”.
Vẻ đẹp của Rang Năr: “Ôi xinh đẹp làm sao ! Khi nàng đi từ xa trông tựa
như con đom đóm lấp lánh lấp lánh… thật là đẹp tuyệt vời…”
Dáng vẻ của Pơ Lao Chươh Dreng được so sánh: “Nàng Pơ Lao Chươh
Dreng mặc chiếc váy có đính sợi dây vàng, dây bạc sáng long lanh.
Chiếc váy xẻ ở giữa cho dễ bước đi. Mỗi lần bước đi để lộ ra và thấy thấp
thoáng cặp đùi trắng nõn của nàng loé lên trong đêm như những tia
chớp, như những con đom đóm sáng lập loè…”
Mái tóc của Bia Lui: “Bia Lui có mái tóc dài óng mượt, lấp lánh như
vàng như bạc, buông xoã kín bờ vai và che khuất đôi má nửa kín nửa hở,
thấp thoáng. Nhìn từ xa người ta tưởng như con đom đóm lấp lánh bay
lượn vào lúc đêm tối. Càng nhìn càng thấy đẹp”.
83
Hay khi nói về vẻ đẹp của những cô gái Bana, các tác giả dân gian mượn
hình ảnh động vật, mượn đặc trưng hoặc tập tính của loài vật để diễn tả:
“Nàng bước đi uyển chuyển tựa như cánh chim én liệng trên trời, như
con cá lượn lờ dưới nước, chỉ thấy thấp thoáng gót chân trắng nõn”…
“Khi nàng đi từ xa tựa như con đom đóm lấp lánh, lấp lánh…”.
Tất cả các thủ pháp nghệ thuật đó nhằm xây dựng một hình tượng
hiện thân cho ước mơ ngàn đời của người Bana sinh sống trên vùng đất
cao nguyên hùng vĩ: một người đàn ông bình thường, có phẩm chất của
một người anh hùng, thông minh, tài giỏi, nhanh nhẹn, dũng cảm, gan dạ;
làm lụng giỏi, đánh giặc tài ba… Chính nhờ phẩm chất đó cộng với tinh
thần chiến đấu vì lẽ phải mà người anh hùng đã chiến thắng mọi kẻ thù,
đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân Bana. Có thể khẳng
định, với việc lấy hình ảnh của các loài vật nhằm phóng đại hoá hình ảnh
người anh hùng, nhân vật lý tưởng trong các áng sử thi Bana đã khiến họ
hiện ra với những phẩm chất cao đẹp, ngời sáng và là niềm tự hào của
cộng đồng các thế hệ người Bana.
Thi pháp sử thi còn hay sử dụng những mẫu hình quen thuộc có
sẵn trong tự nhiên, thường gặp trong đời sống hay những vật dụng thường
dùng để so sánh: so sánh thiên nhiên với con người: cái đẹp, ánh mắt của
nữ thần mặt trời, đoàn quân của anh hùng, đi bắt cá… Nó có mục đích
ngoài yếu tố tô đậm về người anh hùng thì nó có một mục đích nữa làm
sao để tác phẩm có âm hưởng hào hùng, kì vỹ, gây ấn tượng cho người
nghe. Chính vì thế mà cho đến ngày nay, mỗi lần nghe kể hơ mon, người
dân Bana thường tụ tập rất đông, thức thâu đêm để nghe nghệ nhân kể…
“Khi lời kể cất lên thì mọi người tìm đến, vòng trong, vòng ngoài và tất
cả đều nghe chăm chú. Họ ngồi từ lúc chập tối, lúc bắt đầu ngồi như thế
nào thi thâu đêm cho đến sớm mai, vẫn thấy họ ngồi nguyên như thế để
nghe những chuyển biến của các sự kiện trong sử thi thông qua điệu bộ
và âm thanh trầm bổng của người kể”.
84
2. Tính nhân văn của sử thi Bana
Tính nhân văn của sử thi Bana được thể hiện ở những hình ảnh
thần linh được nhân cách hoá từ những loài vật liên quan đến đời sống
hàng ngày. Ở luận văn này, tác giả đã phân loại hình ảnh thần linh thành
những vật thần (Bảng 3) như trâu đực có bảy đuôi, heo bảy lần thay nanh,
gà mào rộng bằng cái nia… “ Thần linh trong sử thi Bana không hiện diện
với những hình hài cụ thể và cùng con người sống mái với đối phương
như sử thi Hy Lạp và sử thi Ấn Độ. Con người có khả năng kỳ diệu đối
phó với với kẻ thù là đặc trưng của sử thi Bana. Vì thế có thể nói đến một
chủ nghĩa nhân đạo đặc thù của sử thi Bana khi nó để cho yếu tố thần kì
tác động mạnh mẽ đến số phận nhân vật”. [ 9, tr 33]
Tính nhân văn trong sử thi Bana còn được thể hiện qua mối quan
hệ giữa anh hùng và chiến tranh trong sử thi. Mọi cuộc chiến tranh đều
bắt nguồn từ những nguyên nhân xuất phát vì cộng đồng bị xúc phạm
(nhà rông của làng bị phá), vì những người vô tội bị hà hiếp (Cher Chor
Hor Grong bị phe Giông D©k Dâr đánh vô cớ…). Chiến tranh trong sử thi
nói chung và sử thi Bana nói riêng đều hướng tới mục đích vì sự trưởng
thành và sự phát triển chứ không phải là sự huỷ diệt. Chiến tranh trong sử
thi anh hùng, vì thế có giá trị và ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Trong thế giới loài vật, con chim là loài động vật có một không
gian sinh sống tự do nhất. Nó là loài vật tự do bay lượn, tự do kiếm mồi,
sống có bạn có đôi. Trong sử thi Bana, hình ảnh con chim còn là sự tượng
trưng cho sự cô đơn, bé nhỏ. Con người thường ví mình giống như loài
chim côi cút để gợi lòng thương: “Sao em lại chào mời tôi ? Tôi chỉ là
một con chim sẻ côi cút. Tôi chỉ là một kẻ lang thang, một giống gà hay
đổi chỗ ở chuồng này lại sang chuồng khác, gặp chỗ nào trú ngụ được là
ở lại ngay, gặp người nào có lòng dạ tốt thì chạy đến sống cùng với
người đó. Tôi không có xứ sở, không có làng mạc gì hết”. Thông qua
hình ảnh chim sẻ côi cút, tác giả dân gian Bana đã đưa ra những bài học
85
đạo lí với con người. Lời dạy ấy như lời truyền lại cho thế hệ con cháu
người Bana: phải biết sẻ chia, biết giúp đỡ. “Con ơi ! Kơ Tam Gring Mah
giờ chỉ như con chim sẻ mồ côi không nơi nương tựa… Chúng ta phải
giúp đỡ chàng. Con người đâu phải từ gốc cây từ lòng đất mà ra. Ai cũng
có cha, có mẹ, chẳng qua là ta chưa biết cội nguồn của chàng thôi”.
Hay hình ảnh con chim trong sử thi Bana hiện ra trong sự ước vọng
của con người. Đôi cánh chim tượng trưng cho khát vọng tự do, cho sự
mạnh mẽ, sự nhanh nhẹn. Vì vậy trong sử thi xuất hiện nhiều chi tiết
người hoá thành chim để có thể đi cho nhanh, cho xa và mạnh mẽ. Tiếng
hót của nó đã trở thành âm thanh đặc trưng của núi rừng, của thiên nhiên
tươi đẹp. Tiếng hót ấy còn là tiếng báo tin lành dữ cho con người... Con
chim là hình ảnh đẹp luôn đi liền với con cá lượn để miêu tả vẻ đẹp của
con người.
Thời sử thi, mối quan hệ xã hội của người Bana dựa trên cơ sở vật
chất sở hữu toàn dân về sức sản xuất và sự phân phối sản phẩm xã hội
cho toàn dân, không giành đặc quyền đặc lợi cho bất kỳ ai. Ảnh hưởng từ
sử thi cho đến cuộc sống thường nhật của người Bana rất rõ nét. Giữa
những người trong cùng một làng, nói chung có một tinh thần cộng đồng
rất rõ nét: như một nhà không bao giờ uống rượu của mình mà không mời
các gia đình khác. Nếu một ai đó mổ thịt một con lợn, một con dê hay
một con trâu, người ta chia thịt thành từng phần đủ cho từng người dân
trong làng và phần của người chủ không nhiều hơn phần của những người
khác. Không ai bị quên trong cuộc chia phần thân ái đó và, từ đứa trẻ còn
bú vú mẹ cho đến người già đáng kính nhất đều có phần bằng nhau. Con
nai, con lợn rừng, con mang bắt được trong các cuộc săn cũng theo luật
chia này; chỉ riêng những người thợ săn được chiếm phần hơi nhiều hơn
bù cho sự mệt nhọc của họ. Những đứa trẻ, được rèn luyện từ lâu theo
tinh thần của cha anh, đã noi theo gương họ từ tuổi bé thơ. Trong các
cuộc săn đuổi của chúng, khi bắt được một con rắn, một con thằn lằn hay
86
một con chuột, ta sẽ thấy, lúc trở về, đứa lớn nhất trong bọn cắt nhỏ con
vật ra thành nhiều miếng, không bao giờ vi phạm luật công bằng chặt chẽ
nhất.
Ngoài ra, sử thi Bana còn mang đậm chất trữ tình cao cả. Hãy xem
cách Giông cư xử với người anh phản trắc Dăm Jong. Khi Dăm Jong bị
giết chết, Giông rất đau xót tự chặt vào chân tay mình và xin Yang:
“…Xin đừng hóa đỉa hóa giòi hóa vắt
bởi nó đối với tôi có ác cũng anh em
một, xin hóa nhà rông
cho dân làng có chỗ hội làng
hai, xin hóa nhà sàn
cho dân làng có chỗ ở
ba, xin hóa kho lúa
cho dân có chỗ chứa cái ăn…”
3. Hình ảnh đặc trƣng của mỗi loài vật đƣợc sử dụng để miêu tả
ngƣời anh hùng
Anh hùng trong sử thi Bana là hình ảnh con người xuất sắc, siêu
việt phi thường, tiêu biểu tài ba trong mọi lĩnh vực nhưng không tách rời,
không đối lập với cộng đồng của mình. Sức khoẻ, tài năng của anh hùng
là chỗ dựa, niềm hi vọng của mọi người. Tài năng mà họ có, sự nghiệp
mà họ đạt được thực sự vì toàn thể cộng đồng, không chỉ vì cá nhân
người anh hùng. Anh hùng có một hình thức đẹp theo quan niệm thẩm
mỹ của Tây Nguyên “da đồng, tóc đen như rắn than, cặp mắt óng ánh như
mắt ong xây, bước đi hùng mạnh chao đều như sóng nước…”. Hơn nữa,
anh hùng gắn bó mật thiết với toàn thể các thành viên trong cộng đồng,
với tôi tớ, dân làng, anh em, bè bạn. Sở dĩ duy trì được sự hòa hợp tuyệt
đẹp này trong quan hệ giữa người với người là vì anh hùng sử thi cùng
87
mọi người sống trong xã hội thời cổ, lúc mà nguyên tắc sống là: dân chủ,
bình đẳng và thương yêu nhau.
Bên cạnh đó, sử thi Bana đã dành nhiều trang mô tả vẻ đẹp của con
người. Rất nhiều người được khắc hoạ giống nhau, cũng khuôn mặt, nước
da, thân hình, dáng dấp “mềm mại như chim bay”, “khoan thai như cá
lượt,” “đẹp chẳng khác gì như Kan Yang”… Ở đây rõ ràng tính chất lặp
lại những chi tiết đời sống hàng ngày của sử thi Bana khác với “lối nhắc
lại” như là một biện pháp kỹ thuật của sử thi.
4. Hình ảnh động vật cã mÆt trong sử thi đƣợc đƣa vào nghệ thuật
điêu khắc, trong cuộc sống đời thƣờng của ngƣời Bana
Những yếu tố thiên
nhiên và xã hội Tây Nguyên
đã làm nên chất liệu cuộc
sống chân thực sinh động đặc
sắc của sử thi Bana. Trong sử
thi Bana, hình ảnh động vật
được hiện thực hóa vào cuộc
sống thường ngày. Đến bất cứ
ngôi làng nào của người Bana, chúng ta cũng dễ nhận thấy các bức điêu
khắc tạc hình chim thú có mặt ở hầu khắp các ngôi nhà của người dân
Bana, đặc biệt là ở ngôi nhà rông. Nhà rông là một biểu tượng của sinh
hoạt văn hoá và xã hội của cả cộng đồng. Nó là nơi gắn bó với nhiều sinh
hoạt hàng ngày trong buôn làng: nơi già làng dạy dỗ con em trong làng,
đó cũng là nơi già làng xử các vụ xích mích trong cộng đồng, tiếp khác
các buôn làng đến thăm, là nơi thờ cũng các vị thần… Nghệ thuật tạc
tượng khắc gỗ bắt đầu từ cầu thang lên sàn cho tới nóc nhà rông với
những hoa văn hình học, hình người và hình chim thú. Các bức điêu khắc
này thường được bàn tay các nghệ nhân tài hoa chạm nổi. Mỗi con vật
88
được chạm thường phản ánh ước lệ một nội dung rất súc tích: hình tạc
chim Plang hay chim khách tượng trưng cho lòng hiếu khách, cởi mở của
dân làng đối với cư dân xung quanh; chim Pliêu hay chim chào mào
tượng trưng cho tiếng ríu ra, ríu rít, tụ họp đông vui của nhiều thế hệ; Kơ
tớp, những con cu cườm, cu gáy đứng trên nóc nhà rông cho thấy một vụ
mùa bội thu, lắm ngô nhiều thóc; chim nhồng, chim két tức chim Jông,
chim Dyé, những loài chim học được cách nhại lại tiếng người, ân cần
mời mọc mọi người uống rượu cần... Ngoài ra, chúng ta còn bắt gặp
những khối tượng gỗ tạc hình chim bói cá, chim gõ kiến, chim đại bàng,
chim đưm, chim cú... Tượng thú được tạc phổ biến là các loại khỉ, thỉnh
thoảng cũng bắt gặp tượng các loại chồn, voi. Trang trí trong nhà rông
thường xuất hiện những chi tiết liên quan đến thế giới loài vật. Ở các xà
ngang của nhà rông thường gác những bộ xương thú hoặc những tấm da
thú mà dân làng đã săn bắn được. Dọc theo phên vách người ta trang
hoàng những lông chim trĩ, lông chim công, sừng, đầu thú săn bắn được,
cùng với những vũ khí, những nhạc cụ chơi trong ngày lễ. Trên những vỉ
kèo nhà rông được trang trí những hoa văn sặc sỡ mang tính tôn giáo thờ
phụng, những sự tích huyền thoại của dũng sỹ thủa xưa, những thú vật
được cách điệu…
Hình ảnh động vật trong
sử thi cũng được các nghệ nhân
Bana hiện thực hóa bằng các
tượng nhà mồ. Người Bana có
câu: “Khẽi ning nơng, pơm
bơxát” nghĩa là “tháng nghỉ làm
nhà mồ”, tháng nghỉ đó lại là
mùa hội, mùa vui, mùa “uống
tháng, ăn năm, trâu đâm, lợn mổ”. Người Tây Nguyên nói chung và Bana
nói riêng quan niệm chết nghĩa là bắt đầu cuộc sống mới ở một thế giới
89
khác - thế giới bên kia, thế giới của hồn ma. Bởi vậy, khi người chết đã ra
đi là ra đi vĩnh viễn để sống cuộc sống khác. Ngôi nhà mồ, những pho
tượng mồ được làm ra để phục vụ cho lễ bỏ mả hay cuộc chia tay, cuộc
vui cuối cùng giữa người sống và người chết. Nếu thống kê hết tên gọi rồi
xếp vào một bảng danh mục, ta sẽ phải ngạc nhiên trước sự phong phú và
đa dạng về nội dung của tượng nhà mồ Tây Nguyên, vì hầu như toàn bộ
cuộc sống của con người đều được nghệ nhân dân gian thể hiện lên các
tác phẩm của mình. Thông thường, ở hai bên cửa nhà mồ đều có một cặp
tượng trai gái hoặc đang phô bày cơ quan sinh dục của mình hoặc đang
giao hoan. Đứng bên cặp tượng trai gái đó, là tượng người đàn bà chửa,
còn ở các góc rào xung quanh nhà mồ là tượng những hài nhi đang ngồi.
Tiếp đến lớp thứ hai của tượng nhà mồ là: người đánh trống, phụ nữ giã
gạo, thợ rèn, chàng thanh niên, cô gái, con voi, con chim, con cú… Tất cả
những hình tượng đó nhấp nhô quanh nhà mồ và tạo ra cả một bức tranh
sinh động về cuộc sống để người chết sẽ mang đi sau lễ bỏ mả. Theo
phong tục của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, tượng mồ được làm ra
để phục vụ cho lễ bỏ mả và chỉ có tác dụng trong những ngày hội lễ mà
thôi.
5. Sè l îng hình ảnh động vật có mặt trong 5 tác phẩm sử thi ph¶n
¸nh sự phong phú và giàu có của vùng đất Tây Nguyên
Như đã nói ở trên, sử thi Tây Nguyên nói chung và sử thi Bana nói
riêng là một tấm gương phản ánh một cách toàn diện đời sống của mỗi
dân tộc ở một thời đã qua. Như vậy, với 61 loài động vật hiện diện trong
sử thi, trong đó có những động vật rất hiếm gặp như Chó sói, Hổ, Mang,
Sư tử, Beo… chúng ta có thể khẳng định môi trường thiên nhiên vùng đất
Tây Nguyên xưa rất giàu có.
Với đặc điểm tư duy trực quan, người dân Bana xưa đơn giản trong
cách nghĩ, trong cách nhận xét về thế giới xung quanh. Rừng Tây
90
Nguyên, theo quan sát của người Bana xưa quả là phong phú với nhiều
chủng, nhiều loài. Những con vật như công, trĩ, kì đà, mang, nai… trước
hết là những đối tượng săn bắn của con người cho thấy sự phong phú của
núi rừng Tây Nguyên. “Hai anh em tiếp tục đi, mang theo biết bao con
thú: chim rừng, con kì đà, con trĩ, con công… cả một đống thú rừng đặt
xuống nền nhà chồ”. “Các anh muốn kiếm thức ăn ư ? Có cây đao có
cánh ná đó. Trong rừng đâu thiếu gì thức ăn. Săn bắn ở đó không mất
lòng người, không làm tổn hại đến ai. Trong rừng núi không thiếu gì loài
dê, loài hươu…”. Những con vật này được săn bắn để phục vụ cho cuộc
sống của người Bana: chúng trở thành thức ăn, thành đồ dùng của con
người. “Chàng là con nhà đàng hoàng tử tế. Khốn nỗi áo mặc khố mang
đã rách nát nên phải thay bằng da con mang, con nai trong rừng…”.
“Đêm qua anh chiêm bao thấy ở nơi này có rất nhiều con mang. Ta phải
tìm cách làm sao có thịt mang ăn chứ. Em cứ ở lại đây nhé. Để anh đi
săn một mình bắn con mang”.
Sự phong phú và giàu có về các loài động vật đã phản ánh được sự
giàu có của núi rừng Tây Nguyên nói riêng và của đất nước Việt nói
chung. Trên rừng có sản vật của rừng, dưới sống có sản vật của sông.
Rừng nối tiếp rừng, núi nối tiếp núi, đâu đâu cũng nghe tiếng chim kêu
vượn hót, đâu đâu cũng có thể sống được. Hình ảnh loài vật được tác giả
dân gian miêu tả theo con mắt nhìn rất hiện thực tạo nên một bức tranh
thiên nhiên và sinh hoạt đầy màu sắc, sinh động hấp dẫn. Cuộc sống của
người Bana trong bức tranh thu nhỏ này cho thấy cảnh thanh bình, sung
túc: “Hắn đi quanh quẩn đâu đó, nhìn con trâu của Bok Set, trông con bò
của Giông lúc nhúc, chen chúc nhau khắp trên cánh đồng ven sông, ven
suối… Đó đây những cặp bò húc nhau, con thua bỏ chạy tứ tung. Còn
ngựa thì đủ màu, đủ loại to nhỏ. Không phải là ít, không ai đếm được là
bao nhiêu cả…”
91
Khi miêu tả nét hoang sơ, dữ dằn của rừng già Tây Nguyên, sử thi
Bana mượn âm thanh ghê rợn của loài vật để miêu tả: “Tiếng hú của
vượn, tiếng kêu của khỉ, tiếng gầm của sư tử, tiếng giống của gấu nghe ồn
ào náo động…”. Chỉ có âm thanh, nhưng đã gợi được cả hình ảnh núi
rừng, phong phú nhiều chủng loài khác nhau, đồng thời cho thấy được sự
nguyên sơ của núi rừng Tây Nguyên thời sử thi.
6. Hình ảnh động vật cã mÆt trong sử thi xuất hiện trong đời sống
thƣờng nhật, tín ngƣỡng của ngƣời Bana ngày nay
Cuộc sống của người
Bana xưa gắn bó chặt chẽ
với những loài động vật:
trong sinh hoạt, trong tín
ngưỡng, ở đời sống vật chất
và cả tinh thần, ta đều bắt
gặp hình ảnh động vật.
Trong trang phục của người Bana có bóng dáng của những loài vật đó là
những trang trí, là hình ảnh loài vật trên váy áo của họ. Với người Bana,
cả nam lẫn nữ đặc biệt là phần tóc họ thường búi tóc sau gáy và cắm một
lông chim phần nhiều là lông chim công, Trong những ngày lễ, đặc biệt
là lễ bỏ mả họ thường điểm xuyết những vật đi liền với con vật tượng
trưng cho vẻ đẹp. Với những loại áo, váy, khố dùng trong ngày hội, ngày
lễ thì có dệt thêm các hoa văn màu tươi đẹp… tạo cảm giác đẹp khoẻ.
Hình các hoa văn này rất phong phú, trong đó có cả những con vật quen
thuộc; chó, hươu… Đồ trang sức của họ thường được dùng trong các hội
lễ, với người đàn ông thường vấn khăn và cài thêm lông chim, đàn bà thì
tai xỏ những vật trang sức bằng lồ ô, hoặc bằng ngà voi. Cách ăn mặc và
trang sức như vậy đã tạo cho người dân Tây Nguyên nói chung và người
92
Bana nói riêng có một vẻ dẹp giản dị, hồn nhiên, khoẻ khoắn đặc biệt là
rất gần gũi với thiên nhiên.
Trên cơ sở những sinh hoạt vật chất có nhiều nét gần gũi với thiên
nhiên đó, những sinh hoạt văn hoá tinh thần của người Ba Na cũng có
những yếu tố quan trọng tạo nên tính chất cộng đồng, gần gũi với thiên
nhiên tạo vật và với muôn loài. Như chúng ta đã biết trình độ sản xuất của
người Bana ở Tây Nguyên còn nhiều hạn chế, lệ thuộc vào thiên nhiên.
Chính vì vậy trước những hiện tượng trong cuộc sống, họ chưa lí giải
được, và thường quy cho đấy là do lực lượng siêu nhiên, tức là do các
loại thần tạo ra. Trong tín ngưỡng của họ xuất hiện khá nhiều các vị thần,
họ thờ cúng các vị thần trong sản xuất cũng như trong đời sống. Đó
chính là biểu hiện của tín ngưỡng đa thần theo chủ nghĩa vạn vật hữu
linh, đó là tín ngưỡng tồn tại phổ biến trong các dân tộc ở Tây Nguyên.
Những tín ngưỡng này dẫn đến các nghi lễ thờ cúng, rất phổ biến
trong đời sống hàng ngày của con người, tộc người Ba Na. Cũng với các
nghi lễ là các lời khấn câu ca, các điệu múa, bản nhạc chiêng cồng…. Các
nghi lễ ấy luôn luôn xuất hiện
những con vật gần gũi thân
quen, chúng luôn xuất hiện với
vai trò là vật hiến tế và sau
những nghi lễ nghi ấy chúng lại
phục vụ việc ăn uống vui mừng
của dân làng.
7. Hình ảnh xuất hiện dƣới lốt loài vật trong sử thi tác động đến quan
niệm sống của ngƣời Bana hiện tại
Thần linh trong sử thi Bana, ngoài những vị thần có tên gọi như
Bok Kơi dơi (vị thần tối cao được xem là ông tổ của người Bana), Yang
93
kông (thần núi), Yang jri (thần trú ngụ trong cây đa), Yang đắk (thần
nước), Kiêk Bung Lung (vị thần ma trông coi cõi âm), Ya Dui Dai (Bà
Diu Dai)…; còn có các vị thần linh đội lốt hình ảnh các loài vật được
nhân cách hoá như hình ảnh trâu đực có bảy đuôi, heo bảy lần thay nanh,
gà mào rộng bằng cái nia… Hình ảnh này không chỉ là sản phẩm của tín
ngưỡng mà còn phủ đầy tính chất hư cấu, tưởng tượng của văn học truyền
miệng. Ngoài việc góp phần giải thích các hiện tượng ngoài tầm hiểu biết
xảy ra trong thiên nhiên và đời sống xã hội, thần linh là điểm tựa tinh
thần cho bộ tộc trong quá trình
vật lộn, đấu tranh sinh tồn gian
khổ trên dải núi rừng hùng vỹ
nhưng cũng lắm thiên tai, bão
tố. Có thể khẳng định, thần
linh trong sử thi Bana là chất
men say của trí tưởng tượng, là
cứu tinh lúc lâm nguy, là thứ
kỷ luật tâm linh giúp con
người luôn nhớ đến điều thiện, tránh điều ác, cố gắng vươn lên và hy
vọng trong cuộc sống…
Người Bana, thông qua những nhân vật trung tâm trong sử thi của
họ luôn coi thần linh là một lực lượng che chở, bao bọc họ khi họ làm
điều tốt, điều thiện. Ngược lại, các đấng siêu nhiên sẽ không tha thứ cho
họ nếu họ làm điều ác, tổn hại đến dân làng. Con người ở một mức độ
nào đó phải sống nép theo ý muốn của thần linh, ý muốn này cũng chính
là những chuẩn mực sống tốt đẹp đã được thiết lập qua hàng ngàn năm
đấu tranh, vật lộn với thiên nhiên để sinh tồn. “ Trong suy nghĩ của người
Bana, cuộc sống của con người (lúc thịnh vượng cũng như khi tai ương,
hoạn nạn) luôn có sự can thiệp bí mật của thần linh. Tuy nhiên, niềm tin
chân thành đó không hề đồng nghĩa với việc con người phó thác cuộc
94
sống của mình vào ý muốn, sự điều khiển của lực lượng siêu nhiên”. [ 5, tr 297]
Không chỉ dừng lại trong sử thi, thần linh thực sự tồn tại trong đời
sống tín ngưỡng hàng ngày của người Bana. Họ quan niệm cuộc sống
gồm có hai phần luôn song hành với nhau: phần thiêng và phần tục, phần
tôn giáo và phần bình thường. Hai phần đó hoà quyện vào nhau thành
một thể thống nhất, khó phân biệt rạch ròi, tạo nên một sự cân bằng của
cuộc sống tinh thần cũng như vật chất. Không hẳn phần thiêng quyết định
phần tục, thần linh quyết định cuộc sống mà hai phần thiêng tục kết hợp
với nhau để bảo vệ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, bảo vệ những
tập tục, những quy tắc ứng xử, phong tục tập quán ngày xưa, để gìn giữ
không cho con người xử sự ra khỏi những chuẩn mực xã hội mà cha ông
đã quy định. Hình ảnh loài cá đã trở thành người bạn đồng hành, giúp đỡ
người anh hùng trong sử thi vượt qua những khó khăn thử thách. Chúng
dặn dò nhau kể cho nhau nghe những khó khăn hoạn nạn, trắc trở của
người anh hùng để nhắc nhở nhau phải biết thương yêu, biết giúp đỡ kẻ
khó:“các loại cá dữ khi nhìn thấy Giơ, Giông thì đã nhận ra là người
thân quen; Cá lớn dặn dò ngay: hỡi các con cháu, chớ động đến hai
người kia nhé. Nếu có thể chúng ta phải giúp đỡ, phải cứu vớt hai anh
em… Họ đang có chuyện buồn…”.
Lời dặn dò của những nhân vật này giống như một già làng đang
dặn dò lũ con cháu, phải sống hoà hợp, tương hỗ lẫn nhau. Đó dường như
là bài học đạo lí của người Bana xưa truyền lại cho thế hệ con cháu. Và
bài học ấy được diễn tả thông qua loài vật.
95
KẾT LUẬN
Trong sử thi Bana, thế giới động vật hiện ra rất sinh động và phong
phú đa dạng. Mỗi con vật đều phản ánh cuộc sống tình cảm của tộc người
Bana nói riêng và cộng đồng dân tộc Tây Nguyên nói chung về thế giới.
Dù là con vật bé nhỏ nhất hay những con vật có trong trí tượng tưởng thì
người Bana đều cho nó những tình cảm yêu mến gắn bó. Với hình ảnh
những loài vật xuất hiện trong sử thi có thể nói rằng con người không chỉ
gắn bó với cỏ cây, hoa lá trăng sao, gió mây, mà con người còn gắn bó
với thế giới những con vật. Từ hình ảnh của cá nước chim trời, đến những
con vật nuôi trong gia đình; từ những con thú với sức vóc to lớn đến
những con côn trùng, … đều phản ánh sinh động đầy đủ trong sử thi.
Bằng tư duy trực quan, người nghệ sĩ dân gian đã có một thế giới động
vật đầy hấp dẫn trong sử thi .
1. Sự phong phú và đa dạng của thế giới loài vật phản ánh trong sử thi thể
hiện khả năng quan sát khá tỉ mỉ kỹ càng của người Bana về thế giới động
vật. Sử thi đã phản ánh những hình ảnh bình thường nhất, dung dị nhất
thậm chí là rất tầm thường của cuộc sống con người. Với khả năng quan
sát người nghệ sĩ dân gian đã có một bộ sưu tập khá đầy đủ và đa dạng về
thế giới động vật. Đó là hình ảnh con nhện, gián, thằn lằn, ong, bọ chét,
công, trĩ, kì đà, mang, nai, chuột, sóc, sâu… và thậm chí những con vật
như ruồi, muỗi, kiến, mối cũng xuất hiện không ít. Hiện thực cuộc sống
qua cách hình dung của nhân dân thật đơn giản, không chút tô điểm đánh
bóng. Đó là những loài vật phần lớn đều mang hình ảnh hiện thực. Những
điều mắt thấy tai nghe, ăn sao nói vậy nó thuần phát chân chất mang đặc
điểm của người dân nghèo khó.
Trong luận văn này bằng phương pháp tiếp cận định lượng, tác giả
đã tiến hành thống kê, phân loại các hình ảnh động vật trong sử thi Bana
trong 5 văn bản cụ thể trong kho tàng sử thi Tây Nguyên:
96
B1- Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ
B2- Giông trong Yuăn
B 3- Chàng Kơ Tam Gring Mah
B4- Giông đánh quỷ Bung Lung
B5- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ Dang
Kết quả mà tác giả có được là những bảng dữ liệu sau:
Bảng 1: Tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana
Bảng 2: Phân nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống
thấp
Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải
là vật thần
Bảng 4: Hình ảnh động vật trong sử thi Bana không có thật trong
cuộc sống
Bảng 5: Hình ảnh các động vật xuất hiện nhiều nhất trong sử thi
Bana
Những kết quả rút ra được từ sử thi Bana là những con số chính xác,
khoa học tác giả thiết lập được bảng dữ liệu 1 gồm có các thông tin:
1. Số thứ tự
2. Tên hình ảnh động vật
3. Số lần xuất hiện
4. Tên đơn vị có sự xuất hiện của tên hình ảnh động vật tương
ứng với cột 3
Trên cơ sở của bảng tác giả tiến hành phân nhóm hình ảnh động vật
theo tần số xuất hiện, gồm 3 khu vực: Cao- Trung bình- thấp
Bảng 3 là bảng sắp xếp hình ảnh động vật theo hai nhóm vật thần và
không phải là vật thần, với những tần số xuất hiện cụ thể và trong các văn
bản cụ thể . Bảng 4 là bảng hình ảnh động vật không có thật trong cuộc
sèng. Sau khi đưa ra những nhận định ban đầu về Bảng 2- về tần số xuất
hiện các hình ảnh động vật, tác giả đã thu nhận được bảng 5 về những
97
hình ảnh động vật xuất hiện nhiêu nhất và hầu hết đều xuất hiện trong các
văn bản đưa ra khảo sát.
2. Trên cơ sở đó tác giả tiến hành viết chương 2 với cách tiếp cận văn hoá
để tìm hiểu chức năng và cách thức miêu tả những hình ảnh động vật
trong sử thi Bana. Qua đó có thể thấy một số điểm đáng chú ý:
- Hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana khá phong phú và
đa dạng. Cuộc sống con người và đời sông văn hoá tình thần được thể
hiện rõ nét. Những hình ảnh động vật xuất hiện với tần số cao là những
hình ảnh gần gũi quen thuộc với người dân. Những hình này đều mang
trong mình những nét văn hoá nhất định.
- Hầu hết các hình ảnh động vật vừa là hình ảnh thực vừa là hình
ảnh được trừu tượng hoá. Số lần xuất hiện các hình ảnh động vật được lí
tưởng hoá cho thấy trí tưởng tượng bay bổng kì diệu của người Bana.
Đồng thời qua đó ta cũng thấy được khả năng phản ánh văn hoá của sử
thi qua hình ảnh động vật.
- Cách miêu tả chi tiết cùng với lối trì ho·n lặp lại trở thành công
thức trong sử thi đã khiến các hình động vật có tần số xuất hiện cao hơn
và tạo được sức hấp dẫn khi tìm hiểu vào các hình này.
Sáng tác dân gian là những sáng tác tập thể mang tình truyền
miệng. Dù ở thể loại nào thì nó đều là sáng tạo trong lao động, trong sinh
hoạt tình thần của con người. Với 1548 lần xuất hiện có hình ảnh của con
vật, với 63 tên con vật cụ thể đã cho thấy sử thi tuy chưa đạt được mức độ
sâu sắc như truyện cổ tích về loài vật nhưng đã cho thấy sự phong phú và
đa dạng về tên con vật được kể. Chính nhờ vào thế giới loài vật này đã
thể hiện một vốn sống của con người - tộc người Bana. Thế giới các con
vật đă được con người khám phá và ở thế giới con vật, dù là chưa đầy đủ
nhưng chúng ta cũng thấy rằng người dân Bana đã sống rất gần gũi với
loài vật, có lúc tưởng như cuộc sống của con người và loài vật được con
người đồng hoá với nhau.
98
3. Có thể thấy rằng dù chưa được đầy đủ và trọn vẹn nhưng thế giới động
vật trong sử thi Bana thật sự đã phản ánh được sự hiểu biết rất hồn nhiên
của con người về thế giới. Những hiểu biết và quan niệm của nhân dân
thật xa với những gì mà khoa sinh vật ngày nay quan niệm, nhưng trong
một giai đoan nhất định thì người Bana làm dược một công việc có ý
nghĩa. Dù là con vật quen thuộc được nuôi dưỡng thuần chủng hay những
con vật chỉ có trong trí tưởng tượng, con người đều dành cho chúng
những tình cảm yêu mến và gủi gắm bao khát vọng.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc thống kê
phân loại về hình ảnh động vật trong sử thi Bana. Với luận văn tốt nghiệp
này, tác giả mong muốn hoàn chỉnh hơn hệ thống dữ liệu về những hình
ảnh cụ thể trong văn học dân gian. Những kiến thức cơ bản và những
thông tin khoa học thú vị về hình ảnh động vật trong sử thi Bana chính là
một bước dẫn chúng ta đến với đời sống vật chất và tinh thần của người
dân Bana. Từ luận văn này có thể mở ra những hướng nghiên cứu khoa
học sâu hơn./
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Văn Doanh (1997), Grong bơxát cuộc trình diễn nghệ thuật
sân kháu dân gian đặc sắc của người Bana, Tạp chí Nghiên cứu Đông
Nam Á, số 1
2. Bùi Minh Đạo chủ biên (2006), Dân tộc Bana ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, H.
3. Phạm Thị Hà (dịch) Tô Ngọc Thanh (hiệu đính) (1982): Hmon
Đăm noi, Trường ca dân tộc Bana, Nxb Văn hoá.
4. Phan Thị Hồng (1996), Giông nghèo tám vợ, Tre vắt ghen ghét
Giông, Trường ca dân tộc Bana, Nxb Văn học dân tộc.
5. Phan ThÞ Hång ( 1998) ThÇn linh trong sö thi Bana,trong tËp s¸ch
nhiÒu t¸c gi¶ Sö thi T©y Nguyªn, Trung t©m khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n
quèc gia vµ uû ban nh©n d©n tØnh §¾c L¾c, Nxb Khoa häc x· héi. H
6. Nguyễn Thuý Khanh (1994), Đặc điểm định danh trong tên gọi
động vật tiếng Việt, Văn hoá dân gian 1, H
7. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2001), Văn
học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục tái bản, H.
8. Nguyễn Xuân Kính (2008), Quá trình sưu tầm và nhận thức lý luận
đối với sử thi Việt Nam, Báo cáo tại Hội thảo quốc tế sử thi Việt Nam
9. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2001), Đề tài của sử thi Bana, Văn hoá dân
gian, số 6, H.
10. Ka Sô LiÔng sưu tầm, biên dịch và giới thiệu (1997): Xinh Chi Ôn,
trường ca dân tộc Bana, Nxb Văn hoá dân tộc.
11. Triều Nguyên (1999), Tìm hiểu thế giới động vật dưới góc độ ngôn
ngữ - văn hoá dân gian người Việt, Nxb Thuận Hoá.
12. Phan Đăng Nhật (1977), Cố gắng phân loại văn học dân gian các
dân tộc ít người như nó vốn tồn tại trong cuộc sống, Văn học số 6, H
100
13. Phan Đăng Nhật (1984), Sử thi Tây Nguyên với hiện thực lịch sử
Tây Nguyên, Văn hoá dân gian, số 2, H.
14. Phan Đăng Nhật (1999), Vùng sử thi Tây Nguyên, Nxb Khoa học
xã hội, H.
15. Phan Đăng Nhật (2003), Thuộc tính cơ bản của sử thi, Văn hoá dân
gian, số 5, H.
16. Võ Quang Nhơn (1980), Về thể loại sử thi anh hùng của các dân
tộc Tây Nguyên, Luận án PTS, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
17. Võ Quang Nhơn (1996), Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Nxb Giáo
dục, H.
18. Nguyễn Văn Nở (2006), Dấu ấn văn hoá dân tộc qua chất liệu biểu
tượng động vật và thực vật trong tục ngữ người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ
và đời sống, th¸ng 10.
19. Nguyễn Duy Quý (1998), Sử thi Tây Nguyên và mối quan hệ giữa
văn hoá và phát triển, trong tËp s¸ch nhiÒu t¸c gi¶ Sö thi T©y Nguyªn,
Nxb Khoa học xã hội.
20. Chu Thái Sơn, Nguyễn Chí Huyên (1992), Một cách tiếp cận các
trường ca Tây Nguyên, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3, H.
21. Tô Ngọc Thanh ( 1998), Hmon, một thể loại diễn xướng dân gian
của người Bana An Khê, Gia Lai, Nxb Khoa học xã hội.
22. Tô Ngọc Thanh, Đặng Nghiêm Vạn, Phạm Hùng Thoan, Vũ Thị
Hoa (1988), Fônclo Banahnaar, Sở Văn hoá Thông tin Gia Lai - Kon
Tum.
23. Phạm Nhân Thành (2001), Những đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống
sử thi anh hùng Tây Nguyên, Văn hoá dân gian, số 6, H.
24. Nguyễn Quang Tuệ (2006), Bước đầu tìm hiểu tên nhân vật trong
sử thi Bana, Văn hoá dân gian, số 4, H.
25. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo
dục, H.
101
26. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia và UBND tỉnh
Đăk Lăk (1998), Sử thi Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, H.
27. Viện Văn hoá dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương
pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, H.
28. www.baobinhdinh.com.vn,
29. www.vae.org.vn,
30. www.vienvanhoc.org.vn,
31. www.vass.gov.vn,
32. www.vi.wikipedia.org,
33. www.vietnamnet.vn,
34. www.sggp.org.vn,
35. www.cpv.org.vn,
36. www.vietnamtourism.com.vn,
37. www.ubdt.gov.vn,
38. www.nhandan.com.vn,
39. www.vovnews.com.vn,
40. www.tuoitre.com.vn,
41. www.thanhnien.com.vn,
42. www.baovanhoa.vn…
102
PHỤ LỤC I
TỔNG HỢP TÊN NHÂN VẬT MANG HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT
TRONG MỘT SỐ SỬ THI BANA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI
Tên
Ghi chú
TT
Sem Đum
Giới Nam Là tên các loài chim, nhân vật thường đi
1
với nhau
Chim đo đất, biết nói như người.
2 3 4
Nam Chuồn chuồn ? Nam Atâu nghĩa là ma, con ma Nam Cọp rừng Cáo núi; tên có vần
5
Tên một loài chim rừng
6
Klo Ba Yăk yai prai kong (atâu) Yang Bul zok Kieứk Lă Diă Kla Kông bia Bơlang dăm Bih
Nữ Nam Nhân vật mang tên các loài thú (bih: rắn;
7
ving bing
dăm Ving Bing Klang
Nam klang: diều hâu; đoứk gle tre vet: cu li);
8
thường đi kề (rơnuứng: con lươn)
9
Nam Nam Thần có sức mạnh, phép thuật và tàn ác,
10
dăm Rơnuứng bók Drang hạ - Drang Hơm
sau bị Đăm Noi giết chết
11 K'lơm Bri/ Quỉ gan rừng Nam ác quỉ, sau bị Đăm Noi giết chết 12 bók Prao/ Prao
Nam Rồng thần, sau bị Đăm Noi giết chết Nam ác quỉ có sức mạnh, phép thuật, sau bị
dăm Noi giết chết
- zok
13
zok Pơdrang Hụứ Pơdrang Hơm/ Pơdrang zok dăm Prao
Nam Thần rồng, sống dưới biển (prao: rồng),
14
chồng yă bia Sơmăt Đak.
Deng Deứch
Nam Các nhân vật thường đi liền nhau, là tên
15
các loài
16 Rech Yang
Nam chim rừng. Nam ác quỉ, sau bị Noi giết chết
17
zok Klơm Bri/ ông Gan rừng
Nguyễn Quang Tuệ - Tạp chí Văn hóa Dân gian, số tháng 4/2006
103
PHỤ LỤC II
DANH MỤC 62 TẬP (75 TÁC PHẨM) CỦA
BỘ KHO TÀNG SỬ THI TÂY NGUYÊN
TT
TÊN SÁCH
DÂN TỘC
SỐ TRANG
NĂM XUẤT BẢN
Bana
996
2006
1
2
Bana
786
2007
3
Bana
528
2006
4
Bana
840
2007
5
Bana
1014
2006
6
Bana
608
2006
7
Bana
822
2006
8
Bana
762
2007
9
Bana
954
2007
(Xếp theo thứ tự tộc người)
• Nhong oh Glang Mam Anh em Glang Mam • Dăm Kơ Tam Gring Mah Chàng Kơ Tam Gring Mah • Kla rôp Giông oei ie Cọp bắt cóc Giông thuở bé • Bia Phu hrech Giông Bia Phu bỏ Giông • Dăm Noi • Giơ hao jrang • Giông oei Kơ hơ druh Bia Dak Giông cƣới nàng Khỉ • Atâu So Hle, Kơne Gơseng • Giông gum kon tơ ring pơ ngot hrăh Giông cứu đói dân làng mọi nơi • Giông hao kơ tao Giông leo cây mía thần • Giông hoai iok bia Rang Hu Giông cứu nàng Rang Hu • Giông năm cha akăn Giông đi tìm vợ Giông trâm kêng tơ bang Beh tơmo Giông đạp đổ núi đá cao ngất • Giông tơ blah păng bah krong vă dong dêh char Giông đánh hạ nguồn cứu dân làng • Giông teo kơtăp ier Giông bọc trứng gà • Giông năm tơ hre Giông đi đòi nợ • Giông koh kla xa pơlơi Set Giông giết sƣ tử cứu làng Sét
10 Giông, Giơ tơrit pơti dâng ie
Bana
620
2005
Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ
11 Giông bơ bơ xat
Bana
536
2005
12
Bana
912
2006
Giông làm nhà mồ • Giông năm iok khêl đao bok Kei Dei Giông lấy khiên đao của bok Kei Dei • Giông, Giơ lua koh ko tơ Dăm Hơ Dang Giông, Giơ săn cọp của Dăm Hơ Dang
Bana
1070
2006
13
Bana
1010
2007
14
Bana
1006
2007
15
104
• Giông oei kơ Bia Phu Giông lấy nàng Bia Phu • Giông tơ blăh kiăk Bung Lung Giông đánh quỷ Bung Lung • Giông tep tơ rông kơtu pơlei lôch rung Giông ngủ ở nhà rông của làng bỏ hoang • Giông lua pơnăh mim ju kru yang Giông săn trâu rừng • Giông yuơ yang kông gum ăn jing podrong Giông nhờ ơn thần núi làm cho giàu có • Giông tơ Pô Păng Tơ Dăm Glaih Phang Giông kết bạn với Glaih Phang
16 Diông Trong Yuăn
Bana
1160
2006
Bana
1058
2007
17
Giông Trong Yuăn • Set Jur yuăn năm hơpong ngôi păng pô hăp Set xuống đồng bằng thăm bạn • Giông jên de adruh yâu dak rông Giông dẫn các cô gái đi xúc cá
18 Ci Bri – Ci Brit
Chăm
966
2006
19
Chăm
906
2006
20
Ê Đê
710
2007
Chi Bri - Chi Brít Săp cêng mo ây Hbia Lơ Đă Tiếng cồng của ông bà HBia Lơ Đă • Ama H’Wứ • Dăm Tiông Chàng Dăm Tiông
21 Yklu, Ykla
Ê Đê
930
2007
Anh em Klu, Kla
22 Dăm Săn 23 Hbia Mlin 24 Khing Ju 25 MDrong Dăm 26 27
Ê Đê Ê Đê Ê Đê Ê Đê Ê Đê Ê Đê
1438 1026 1278 1172 1370 904
2006 2007 2007 2006 2007 2007
Sum Blum • Xing Nhă • Dăm Trao - Dăm Rao Anh em Dăm Trao, Dăm Rao
28 Chuh ndung klong trau Dak Huch
1059
2005
29
732
2006
Mơ Nông Mơ Nông
Bắt con lƣơn ở suối Dak Huch • Bing kon Măch hao sai a Yang Bing con Măch xin làm vợ Yang • Tiăng sok rlung kring bon Kla Tiăng lấy lại ché rlung chim phƣợng hoàng ở bon Kla 30 Glu sok bon Tiăng
1084
2005
Con đỉa nuốt bon Tiăng
31 Yau kăp me Rong
810
2006
Con hổ cắn mẹ Rông (Quyển1)
32 Yau kăp me Rong
790
2006
Con hổ cắn mẹ Rông (Quyển2) Pit Bung kon Klết
33
Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ
854
2007
34
828
2007
35
756
2005
36
1161
2004
105
Cƣớp Bung con Klết (Quyển1) Pit Bung kon Klết Cƣớp Bung con Klết (Quyển2) Pit ôi lêng Jrêng, Lêng kon Ôt Cƣớp chăn Lêng của Jrêng, Lêng con Ôt Pit ching yau bon Tiăng Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng
37 Deh Lêng
1000
2006
Đẻ Lêng (Quyển1)
38 Deh Lêng
972
2006
Đẻ Lêng (Quyển2)
39 Nkoch yau ot ndrong
618
2006
Kể gia phả sử thi ot ndrong 40 Kră, Năng pit Bing, Kông kon Lông
804
2005
41
1274
2006
42
932
2005
43
902
2005
44
850
2004
Kră, Năng cƣớp Bing, Kông con Lông Sok rlung klang ndăng klau Tiăng Lấy ché con ó của Tiăng Sok kao prăk, kao kông Lấy hoa bạc, hoa đồng Lêng, Kong, Mbong sok yăng rveh nglang Lêng, Kong, Mbong lấy ché voi trắng Lêng nuănh mlă Yang Lêng nghịch đá thần của Yang
782
2006
45 Vă tơm prăk, tơm kông Lùa cây bạc, cây đồng 46 Rêch, Rông guăch huêng Lêng
622
2006
47
1490
2007
Rêch, Rông bắt hồn Lêng Sung, Trang kon Mung khât Tiăng Sung, Trang con Mung thăm Tiăng
48 Krau nglau Trôk, nglau Khay
1210
2005
Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông
Thuốc cá ở hồ Bầu Trời, Mặt Trăng (Quyển1)
49 Krau nglau Trôk, nglau Khay
1198
2005
Mơ Nông
50
1302
2006
51
1254
2006
52
1774
2007
53
802
2006
Thuốc cá ở hồ Bầu Trời, Mặt Trăng (Quyển2) Tiăng pit Djăn, Dje Tiăng cƣớp Djan, Dje (Quyển1) Tiăng pit Djăn, Dje Tiăng cƣớp Djan, Dje (Quyển2) Tiăng sok tơm ngâr Tiăng giành lại bụi tre lồ ô Tiăng sok đao dao Tiăng lấy gƣơm tự chém
54 Khit Ting, Rung
1470
2006
Ting, Rung chết (Quyển1)
55 Khit Ting, Rung
1444
2006
Ting, Rung chết (Quyển2)
56 Mbung rpu bon Tiăng tâl Krơng, Lơng kon
578
2006
Jiăng
Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông
106
Trâu bon Tiăng chạy đến bon Glơng
674
2006
57 Yang tăch Bing kon Lông Yang bán Bing con Lông
58 Yơng, Yang sok ding prăk kon nuih
1094
2005
59
Mơ Nông Mơ Nông Giarai
1118
2007
Yơng, Yang lấy ống bạc tƣợng ngƣời • Amã ChiSa • Amã Cuvau VongCơi
60 Udai - Ujàc 61
1192 1130
2004 2006
Giarai Xơ Đăng
62
1074
2007
Xơ Đăng