ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGÔ THỊ HỒNG VÂN

LUẬN VĂN THẠC SỸ

THẾ GIỚI ĐỘNG VẬT TRONG SỬ THI BANA

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 602234

HÀ NỘI, THÁNG 9/2008

MỤC LỤC

Lời cảm ơn

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………1

2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….3

3. Mục đích nghiên cứu của luận văn…………………………………….5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………..5

5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………7

6. Bố cục luận văn………………………………………………………..8

CHƯƠNG 1

SỐ LIỆU THỐNG KÊ HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA

1. Một số nét về dân tộc Bana và sử thi Bana……………………………9

1.1. Dân tộc Bana………………………………………………………...9

1.2. Sử thi Bana…………………………………………………………10

2. Số liệu thống kê tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana…11

2.1. Bảng số liệu thống kê………………………………………………11

2.1.1.Bảng 1……………………………………………………………..12

2.1.2.Bảng 2……………………………………………………………..14

2.1.3.Bảng 3……………………………………………………………..16

2.1.4.Bảng 4……………………………………………………………..19

2.1.4.Bảng 5……………………………………………………………..20

2.2. Những nhận xét ban đầu qua các bảng thống kê…………………...20

CHƯƠNG 2

HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA

1.Chức năng của các hình ảnh động vật………………………………...28

1.1. Nhóm động vật có thực…………………………………………….29

1.1.1. Con vật nuôi trong nhà…………………………………………...30

1.1.2. Động vật hoang dã có trong tự nhiên…………………………….40

1.1.2.1. Động vật lớn……………………………………………………41

1.1.2.2. Động vật nhỏ…………………………………………………...46

1.2. Nhóm động vật không có thực……………………………………..62

2. Cách thức miêu tả…………………………………………………….69

CHƯƠNG 3

MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG SỬ THI VỚI ĐỜI SỐNG, VĂN HOÁ, TÂM LINH NGƯỜI BANA

1. Sử thi Bana thường dùng hình ảnh loài vật để phóng đại các chi tiết

nhằm lôi cuốn người nghe, thông qua đó nói lên tính cách hào hùng, bất

khuất của người Bana…………………………………………………...78

2. Tính nhân văn của sử thi Bana………………………………………..84

3. Hình ảnh đặc trưng của mỗi loài vật thường được sử dụng để miêu tả

người anh hùng………………………………………………………….86

4. Hình ảnh động vật có mặt trong sử thi được đưa vào nghệ thuật điêu

khắc, trong cuộc sống đời thường của người Bana……………………..87

5 Số lượng hình ảnh động vật có mặt trong 5 tác phẩm sử thi phản ánh sự

phong phú và giàu có của vùng đất Tây Nguyên……………………….89

6. Hình ảnh động vật có mặt trong sử thi xuất hiện trong đời sống thường

nhật, tín ngưỡng của người Bana ngày nay……………………………..91

7. Hình ảnh xuất hiện dưới lốt loài vật trong sử thi tác động đến quan

niệm sống của người Bana hiện tại……………………………………...92

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Sử thi là thuật ngữ văn hóa để chỉ một thể loại văn học tự sự,

thường có vần điệu, hàm chứa những “bức tranh” xã hội rộng lớn của

một cộng đồng trong một giai đoạn lịch sử. Tác phẩm sử thi là câu

chuyÖn vÒ nh÷ng ng êi anh hïng, hiÖp sÜ ®¹i diÖn cho mét thÕ giíi thÇn

t îng của một cộng đồng cư dân trong quá khứ. Sử thi tồn tại dưới dạng

truyền miệng và văn bản, nhưng phần lớn đều có nguồn gốc dân gian.

Sử thi là vốn quý trong kho tàng văn hoá của mỗi dân tộc và không

phải dân tộc nào cũng có những bộ sử thi nổi tiếng như Iliát và Ôđixê của

Hi Lạp và La Mã cổ đại; Ramayana và Mahabharata của Ấn Độ; Đalinin

của Séc; Kalêvala của Phần Lan... Trong đại gia đình các dân tộc Việt

Nam, đặc biệt các dân tộc ở Tây Nguyên có một kho tàng sử thi khá đồ sộ

và đặc sắc, tiêu biểu là sử thi Đam Xăn của dân tộc Êđê; Cây nêu thần,

Mùa rẫy bon Tiăng của dân tộc M’nông; Đăm Noi, Xing chi ôn, Giông

của dân tộc Bana… Điểm khác biệt của sử thi Tây Nguyên so với nhiều

sử thi trên thế giới đã được phát hiện là nó vẫn đang tồn tại trong đời sống

của cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, xuất hiện dưới hình thức

diễn xướng hát - kể.

Sử thi Tây Nguyên có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với

đồng bào Tây Nguyên mà còn có giá trị to lớn với cả dân tộc Việt Nam.

Nó không chỉ có giá trị đối với quá khứ mà còn có ý nghĩa sâu sắc trong

việc giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong bối cảnh

toàn cầu hoá của thời đại ngày nay.

Sử thi Tây Nguyên là một giá trị văn hoá tinh thần lớn trong di sản

văn hoá của các dân tộc Tây Nguyên và của đồng bào cả nước. Nó phản

ánh tình cảm, ước mơ cuộc sống của con người Tây Nguyên trong bối

2

cảnh văn hoá và giai đoạn lịch sử nhất định. Đó là tính nhân văn, là mối

quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội, là tình cảm và

sự hài hoà của con người trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên...

Đọc kho tàng sử thi Tây Nguyên, chúng ta nhận thấy sự quen thuộc của

những hình ảnh cỏ, cây, muông thú… Những hình ảnh ấy dưới cách nhìn

này hay cách nhìn khác không chỉ là sự thể hiện hiện thực cuộc sống

khách quan mà còn chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Sử thi Tây Nguyên

phản ánh rõ nét và sâu sắc xã hội Tây Nguyên. Trong tổng thể cũng như

trong chi tiết, cuộc sống của làng, của buôn và của con người, thiên nhiên

cũng như phong tục tập quán, tất cả đều được tái hiện lại, khiến cho sử thi

trở thành bộ sách bách khoa về Tây Nguyên.

Bước vào thế giới của sử thi, ta bắt gặp ở đó mọi mặt tri thức của

các dân tộc thời cổ. “Trong sử thi có đầy đủ các mặt về đời sống văn hoá

của các dân tộc, các nghi lễ phong tục tập quán, cách thức sinh hoạt, ăn

mặc, đi lại… tất cả điều đó khiến các nhà nghiên cứu coi sử thi như là “bộ

bách khoa thư”, là “cuốn từ điển sống” của mỗi dân tộc” [26, tr348]. Tất

cả những gì quen thuộc với cuộc sống đều xuất hiện trong sử thi. Nó là

một tấm gương phản ánh một cách toàn diện đời sống của mỗi dân tộc ở

một thời đã qua, đồng thời nói lên khát vọng của dân tộc ấy về một cuộc

sống hạnh phúc và thịnh vượng. Người Ấn Độ nói rằng: “Cái gì không có

trong hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana thì không thể tìm thấy ở

bất kì nơi nào trên đất Ấn Độ”. Đó là một câu nói nổi tiếng, một sự khẳng

định đầy kiêu hãnh, một niềm tự hào lớn lao của người Ấn Độ. Vì thế

người Việt Nam có quyền tự hào và phải biết tự hào khi sở hữu một kho

tàng sử thi đồ sộ. Đóng góp một phần không nhỏ vào kho tàng sử thi đồ

sộ ấy là những áng sử thi Tây Nguyên.

Bởi vậy, tìm hiểu về những hình ảnh trong kho tàng sử thi Tây

Nguyên, cũng là một cách tiếp cận về cuộc sống của người dân Tây

Nguyên. Hiện nay, có nhiều đề tài nghiên cứu về sử thi Tây Nguyên,

3

nhưng với riêng sử thi Bana thì các đề tài nghiên cứu còn ít. Để tìm hiểu

về cuộc sống của người dân Bana trong cộng đồng dân tộc Tây Nguyên,

có rất nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Với luận văn này, tác giả lựa chọn

một khía cạnh để nghiên cứu, đó là Thế giới động vật trong sử thi Bana.

2. Lịch sử vấn đề

Những công trình nghiên cứu sử thi đã cho thấy sự phong phú, đa

dạng, giá trị đặc sắc của thể loại này. Người mở đường cho công việc sưu

tầm, giới thiệu sử thi Tây Nguyên là Leopold Sabatier (người Pháp, đã

từng làm ở công sứ Đắc Lắc). Ông công bố sử thi Đam Săn vào năm

1927 tại Paris. Năm 1933, Leopold Sabatier công bố lần thứ hai tác phẩm

Đam Săn trên tờ tạp chí của Viện Viễn đông bác cổ. Năm 1955, trên tờ

tạp chí của Viện Viễn đông bác cổ, Dominique Antomarchi sưu tầm,

Georges Condominas công bố và giới thiệu sử thi Đăm Di. Như vậy,

trong giai đoạn từ năm 1927 đến năm 1955, hai tác phẩm sử thi Tây

Nguyên đã được người Pháp sưu tầm và công bố bằng tiếng Pháp và

tiếng Ê Đê.

Năm 1957 tại Hà Nội, tác phẩm Đăm Xăn được Đào Tử Chí dịch

từ tiếng Pháp ra tiếng Việt, công bố trên tạp chí Văn nghệ với tên gọi Bài

ca chàng Đam San. Sau đó năm 1959, tác phẩm này được Nhà xuất bản

văn hoá in thành sách. Năm 1972, sử thi Ẳm ệt luông của người Thái do

Khà Văn Tiến dịch ra tiếng Việt và được xuất bản tại Hoà Bình. Năm

1975, sử thi Đẻ đất đẻ nước do Vương Anh, Hoàng Anh Nhân sưu tầm ở

Thanh Hoá được xuất bản. Năm 1976, Đẻ đất đẻ nước do Bùi Thiện,

Thương Diễm, Quách Dao sưu tầm ở Hoà Bình được công bố. Sau đó,

nhiều công trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên do người Việt Nam thực

hiện đã có mặt như Trường ca Tây Nguyên, Trường ca Xinh- Chi- Ôn,

trường ca Mnông, Giông nghèo tám vợ… [ 8, tr 5]

4

Năm 1981, PGS. Võ Quang Nhơn bảo vệ luận án tiến sỹ ngữ văn

với đề tài Về thể loại sử thi anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên; năm

1993, Đỗ Hồng Kì bảo vệ luận án Tiến sỹ Sử thi thần thoại Mnông; năm

1988 Phan Đăng Nhật bảo vệ luận án Tiến sỹ khoa học Những đặc điểm

cơ bản của sử thi khan ở Việt Nam... Ngoài ra, phải kể đến những báo cáo

khoa học có giá trị của Đinh Gia Khánh, Tô Ngọc Thanh, Ngô Đức

Thịnh… được trình bày trong các cuộc hội thảo khoa học về sử thi Tây

Nguyên trong thời gian qua. Bên cạnh đó cũng phải nhắc đến một số bài

viết về sử thi đăng trên các tạp chí Nguồn sáng dân gian, Văn hoá dân

gian, Ngôn ngữ và đời sống, Nghiên cứu văn học… của các tác giả Phan

Đăng Nhật, Phạm Nhân Thành, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Chu Thái Sơn,

Nguyễn Chí Huyên, Nguyễn Quang Tuệ…

Năm 1997, Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn quốc gia (nay là

Viện Khoa học xã hội Việt Nam) phối hợp với UBND tỉnh Đắc Lắc tổ

chức hội thảo Sử thi Tây Nguyên – Việt Nam. Tham gia hội thảo có các

bản báo cáo Sử thi ở Việt Nam của GS. Đinh Gia Khánh, Nhìn lại quá

trình sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên trong bối cảnh sử thi Việt

Nam của GS.TSKH Phan Đăng Nhật, Vùng sử thi Tây Nguyên (một số

quan điểm cơ bản) của GS.TS Ngô Đức Thịnh, Sử thi thần thoại của

người Mơ Nông của TS. Đỗ Hồng Kỳ, Hơ mon, một loại thể diễn xướng

dân gian của người Bana ở An Khê, Gia Lai của GS.TSKH. Tô Ngọc

Thanh, Quá trình sử dụng thuật ngữ sử thi ở Việt Nam của GS.TS.

Nguyễn Xuân Kính, Cuộc cần hôn anh hùng trong sử thi Ê Đê và Mã Lai

của GS.TSKH Niculin… Năm 1998, kỷ yếu hội thảo này được Nhà xuất

bản Khoa học và xã hội, Hà Nội công bố với tên sách Sử thi Tây Nguyên.

Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng

sử thi Tây Nguyên được thực hiện từ năm 2001 đến năm 2007 có quy mô

lớn nhất trong quá trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên. Trong thời gian này,

các chuyên gia đã tiến hành điều tra, khảo sát hàng nghìn buôn, làng

5

(bom, plây) thuộc 530 xã (phường, thị trấn) thuộc 56 huyện (thị xã, thành

phố) thuộc các tỉnh Tây Nguyên và vùng phụ cận. Kết quả là đã phát hiện

sưu tầm được 5679 băng ghi âm tương đương với 801 tác phẩm hát kể,

quay được 15 bộ phim tư liệu về diễn xướng sử thi của các nghệ nhân tiêu

biểu, 6000 kiểu ảnh tư liệu về sinh hoạt văn hóa, diễn xướng sử thi, phiên

âm 123 tác phẩm, dịch nghĩa được 115 tác phẩm, Dự án đã xuất bản tổng

số 75 tác phẩm sử thi (xem phụ lục II). Điều đáng nói là ngoài bốn dân

tộc chủ yếu Êđê, Giarai, Mơnông, Bana, các chuyên gia còn phát hiện

nhiều dân tộc khác ở Tây Nguyên và các tỉnh phụ cận như: Chăm, Xơ

tiêng, Xêđăng, Kơho, Mạ… cũng có sử thi và đặc biệt còn nhiều nghệ

nhân kể sử thi. Nếu tính từ đầu thế kỷ 20, khi các chuyên gia nước ngoài

và học giả Việt Nam bắt đầu tiến hành sưu tầm, nghiên cứu về sử thi Tây

Nguyên thì đây là đợt sưu tầm, nghiên cứu đạt kết quả lớn nhất cả về số

lượng và chất lượng.

Với riêng sử thi Bana, đến nay đã có mét sè công trình nghiên cứu

chuyên sâu, tập trung vào các đối tượng như: Tìm hiểu tên nhân vật… của

Nguyễn Quang Tuệ, Thần linh… của Phạn Thị Hồng, Vài nét về bản

trường ca Bana mới của Phạm Thị Hà… Tuy nhiên riêng về vấn đề động

vật trong sử thi Bana chưa có công trình nghiên cứu dày dặn nào hoặc

một bài viết đề cập đến.

3. Mục đích nghiên cứu của luận văn

Mục đích của tác giả khi viết luận văn này là xác lập cụ thể, chi tiết

những dữ liệu về hình ảnh ®éng vËt, tìm hiểu ý nghĩa biểu hiện qua những

dữ liệu ấy để góp phần hoàn chỉnh hệ thống dữ liệu hình ảnh trong kho

tàng sử thi, đặc biệt là sử thi Bana, thông qua đó góp phần hình thành nên

một cơ sở dữ liệu ban đầu cho những nghiên cứu sâu hơn về sử thi Bana.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

6

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là động vật trong sử thi Bana.

Cụ thể là những từ, cụm từ chỉ hình ảnh của động vật xuất hiện trong sử

thi Bana. Tác giả làm công việc thống kê định lượng và phân loại các từ

các cụm từ chỉ hình ảnh động vật một cách tương đối rõ ràng và hệ thống

hóa rồi sau đó nghiên cứu, lý giải. Đồng thời chúng tôi cũng xem xét cách

sử dụng những hình ảnh động vật của đồng bào Bana trong việc thể hiện

đời sống văn hoá của người Bana và khả năng phản ánh văn hoá của sử

thi Bana.

4.2. Giới hạn phạm vi t liệu

Cho đến cuối năm 2007 đã có 75 tác phẩm in trong 62 tập thuộc

Dự án Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi

Tây Nguyên được thực hiện từ năm 2001 đến năm 2007 đã xuất bản (mỗi

tập khoảng 1000 trang, khổ 16 x 24cm). Hiện nay, việc công bố vẫn còn

tiếp tục với 25 tác phẩm sử thi Tây Nguyên trong thời gian 2009 – 2010.

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng năm tác phẩm sau:

- Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ

- Giông trong Yuăn

- Chàng Kơ Tam Gring Mah

- Giông đánh quỷ Bung Lung

- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ dang

7

Đây là một sự tập hợp ngẫu nhiên. Prốp khi xây dựng lí thuyết về

cấu trúc truyện cổ tích thần kỳ Nga, ông đã chọn ngẫu nhiên 100 truyện.

Đó là số lượng tư liệu đủ để xây dựng lí thuyết. Chúng tôi nghĩ với năm

tác phẩm trên cũng đủ để đi đến những kết quả thống kê

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Công việc đầu tiên của tác giả là làm công tác thống kê. Để thống kê

hoàn chỉnh, tác giả khảo sát các văn bản, hệ thống hoá tài liệu, phân tích

tổng hợp… nhằm đạt được mục đích đề ra. Cụ thể tác giả khảo sát các tác

phẩm lựa chọn, chỉ ra các hình ảnh, các từ cụm từ chỉ các động vật và lập

bảng thống kê định lượng. Phương pháp này giúp tác giả có được một

bảng dữ liệu đầy đủ về những từ, cụm từ chỉ hình ảnh động vật với những

con số chi tiết cụ thể.

Cách đọc bảng dữ liệu: Bảng tra cứu gồm những thông tin cơ bản

như số thứ tự, tên hình ảnh động vật, tần số xuất hiện, trong các văn bản

STT TÊN HÌNH ẢNH

TẦN SỐ XUẤT HIỆN/5

TRONG CÁC VĂN

ĐỘNG VẬT

VĂN BẢN KHẢO SÁT

BẢN

1

9

B1-2; B2-1; B4- 6

2

Quạ

3

B3- 1; B5- 2

..

..

..

(5 văn bản sử thi được khảo sát trên lần lượt đánh số 1-2-3-4-5)

Trong các bảng tra cứu sắp xếp theo thứ tự A, B, C. Trong một văn

bản hình ảnh động vật xuất hiện nhiều lần thì ghi luôn số lần để tiện tra

cứu và theo dõi (Ví dụ : B5-15 nghĩa là văn bản 5 xuất hiện 15 lần hình

ảnh động vật nào đó).

Ở chương 2, tác giả lựa chọn phương pháp liên ngành: văn học,

văn hoá học, sử học, dân tộc học, xã hội học… để tìm hiểu hình ảnh động

8

vật trong sử thi Bana. Tìm hiểu chức năng, cách diễn đạt trong sử thi

Bana về các hình ảnh này… qua đó phần nào hiểu thêm về con người, về

đời sống sinh hoạt, tín ngưỡng của người dân Bana.

Ở chương 3 tiến hành phân tích, tổng hợp các hình ảnh động vật để

khái quát về mối quan hệ giữa động vật với con người, tộc người Bana

trên vùng đất Tây Nguyên.

6. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận

văn gồm ba chương:

Chƣơng 1: Số liệu thống kê hình ảnh động vật trong kho tàng sử thi

Bana

Chƣơng 2: Hình ảnh động vật trong kho tàng sử thi Bana

Chƣơng 3: Mối quan hệ giữa hình ảnh động vật trong sử thi với đời

sống, văn hóa, tâm linh ngƣời Bana

9

CHƢƠNG 1

SỐ LIỆU THỐNG KÊ HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT

TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA

I. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC BANA VÀ SỬ THI

BANA

1.1. Dân tộc Bana

Bana là một trong những dân tộc bản

địa sinh sống lâu đời trên cao nguyên trung

phần miền Tây của Tổ quốc. Bana là dân tộc

lớn nhất nói tiếng Môn - Khơ me ở Tây

Nguyên, số dân hiện nay ước tỉnh khoảng

trên 20 vạn người. Địa bàn cư trú của người

Bana trải rộng từ Kon Tum, Gia Lai xuống

một số huyện miền núi các tỉnh Quảng Ngãi,

Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Theo

điều tra của các nhà dân tộc học thì người

Bana hiện nay gồm có các nhóm sau: Nhóm Bana Kon Tum ở xung

quanh thị xã Kon Tum, nhóm Tơ Lô ở An Khê, Mang Yang (tỉnh Gia

Lai), nhóm Rơngao ở quanh thị xã Kon Tum, Đắc Tô (tỉnh Kon Tum),

nhóm Giơlơng ở huyện Kon Plông, thị xã Kon Tum (tỉnh Kon Tum)…

Tuy được chia ra nhiều nhóm địa phương khác nhau nhưng người Bana

vẫn có một truyền thống văn hoá chung. Truyền thống văn hoá ấy được

thể hiện khá rõ nét trong phương thức sản xuất, phong tục tập quán, lễ

hội, văn học nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo… Hình thái tổ chức xã hội

của người Bana là plei (làng), làng là đơn vị cư trú của các gia đình phụ

hệ nhưng người phụ nữ vẫn đóng vai trò quan trọng trong mọi việc của

gia đình. Mỗi làng có từ 20 đến 70 hộ gia đình. Giữa làng có một ngôi

10

nhà rông – nơi sinh hoạt văn hoá cộng đồng. Để điều chỉnh công việc

trong làng là hội đồng già làng, đứng đầu là chủ làng. Già làng là người

thay mặt cho cả làng quyết định các công việc chung như việc làm nhà

rông, dời chuyển làng, tổ chức lễ hội, sản xuất, chiến đấu đến việc xử

phạt những cá nhân hay gia đình vi phạm những điều trái với luật tục.

1.2. Sử thi Bana

Người Tây Nguyên nói chung, người Bana nói riêng đều quan

niệm “vạn vật hữu linh”. Tất cả các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và

chính bản thân con người đều có linh hồn. Trong thế giới có một lực

lượng vô hình ảnh hưởng quyết định tới cuộc sống của con người đó là

Yang. Các Yang thường được đồng bào nhắc tới nhiều là: Yang Dak

(Thần nước), Yang Công (Thần núi), Yang Nam (Thần nhà), Yang Rông

(Thần nhà rông), Yang Chiêng (Thần cồng chiêng), Yang T’rưng…đặc

biệt Bok Keidei là vị thần tối cao. Ở đây, mối quan hệ giữa người với các

Yang rất bình đẳng, tác động qua lại, gắn bó với nhau một cách bền vững

tạo nên vẻ đẹp hồn nhiên của cuộc sống.

Người Bana có một đời sống tinh thần, tín ngưỡng phong phú đặc

sắc. Trí thông minh và óc tưởng tượng phong phú của các nghệ nhân

Bana từ bao đời nay đã để lại cho chúng ta một di sản văn hoá quý giá.

Trong đó phải kể đến một hình thức văn hoá dân gian hát kể mà đồng bào

gọi là hơ mon. Chính nhờ phương thức lưu truyền này mà hàng chục tác

phẩm sử thi tồn tại sống động trong đời sống của tộc người này cho đến

nay. Giống như những sử thi khác, sử thi Bana xứng đáng là “bách khoa

thư” của dân tộc Bana.

Trong môi trường văn học dân gian, hơ mon là một tác phẩm văn

học tổng hợp, nó thu hút hầu hết các giá trị văn hóa vốn có của dân tộc:

thơ ca, thần thoại, truyền thuyết, âm nhạc, diễn xướng, để thành một tác

phẩm tự sự bằng văn vần hay những làn điệu dài hơi lấy các nhân vật anh

11

hùng làm trung tâm để biểu đạt tư tưởng, ý nguyện, quan niệm sống của

cộng đồng. Hơ mon là một sinh hoạt văn hóa độc đáo được kể qua những

ngữ điệu trầm bổng lôi cuốn của những nghệ nhân Bana. Hơ mon là

những bài ca dài có tính chất tổng hợp, trong đó chuyển tải một khối

lượng lớn những thông tin về đời sống, tư tưởng tình cảm của một cộng

đồng người trong một thời gian dài. Hơ mon của người Bana có dung

lượng rất lớn, số lượng tác phẩm lên tới con số hàng trăm. So với các bộ

sử thi lớn của thế giới như sử thi Iliat, ¤®ixª, Ramayana thì sử thi Bana

có thể xếp vào hàng đầu về độ dài.

Tìm hiểu sử thi Bana cũng đồng nghĩa với việc nghiên cứu đời

sống văn hoá, phong tục tập quán, cách thức sinh hoạt, cách ăn mặc…của

tộc người Bana trên dải đất Tây Nguyên. Dường như thế giới của tự nhiên

có con vật gì thì sử thi đều phản ánh bằng cách miêu tả hay gọi tên loài

vật ấy. Thậm chí, không thoả mãn với tạo hoá, lớp lớp nghệ nhân Bana

còn tưởng tượng ra nhiều loài vật nữa, hết sức đa dạng và phong phú.

Những hình ảnh đó tạo điều kiện cho các tác giả dân gian dễ có sự liên hệ

giữa hiện thực cuộc sống với đời sống tinh thần của con người. Thế giới

động vật trong sử thi đã phản ánh được khả năng quan sát và khám phá

thế giới của con người. Thế giới động vật không chỉ là một thực thể bên

ngoài của tự nhiên mà còn thâm nhập rất sâu vào đời sống tinh thần của

con người.

II. SỐ LIỆU THỐNG KÊ TÊN HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT XUẤT HIỆN

TRONG SỬ THI BANA

2.1. Bảng số liệu thống kê

Để tiện cho việc tra cứu, tác giả thống kê tên hình ảnh động vật

theo 5 bảng dữ liệu, bao gồm Tên hình ảnh động vật, Phân nhóm động

vật theo tần số xuất hiện, Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và

12

không phải là vật thần, Tên hình ảnh động vật không có thực, Hình ảnh

các động vật xuất hiện nhiều trong sử thi Bana.

2.1.1. Bảng 1: Tra cứu về tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi

của dân tộc Bana (khảo sát qua 5 văn bản, theo thứ tự A,B,C… ). Bảng

tra cứu gồm những thông tin.

1. Số thứ tự

2. Tên hình ảnh động vật

3. Tần số xuất hiện

4. Trong các văn bản (5 văn bản sử thi được khảo sát) lần lượt

được đánh thứ tự:

B1- Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ

B2- Giông trong Yuăn

B3- Chàng Kơ Tam Gring Mah

B4- Giông đánh quỷ Bung Lung

B5- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ dang

TRONG CÁC VĂN BẢN

STT

TẦN SỐ XUẤT HIỆN/5 VĂN BẢN KHẢO SÁT 1 116 2 11 23 249 4 96 89 1 24 3 1

TÊN HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT Beo Bò Bọ chét Bò tót Bươm bướm Cá Cá sấu Chim Chó Chó sói Chuột Cò Cóc

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13

B1-1 B1-27; B2 -10; B3-31; B4-21; B5-27 B4–2 B1–1; B2-10 B2–20; B5-3 B1-56; B2-110; B3-55; B4-14; B5–14 B1- 3; B3–1 B1-23; B2-18; B3-33; B4-16; B5–6 B1– 44; B3-1; B5-44 B1-1 B1-3 ; B2-10; B3-1; B4-5; B5–5 B4-1; B5–2 B4–1

Bảng 1: Tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana

14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56

1 112 2 27 16 6 4 1 25 146 2 1 2 14 4 7 4 11 120 1 11 17 8 1 1 1 22 36 7 3 13 9 5 12 31 1 1 4 7 3 6 40 6

B3–1 B1-1; B2-1; B5-110 B1–2 B1-6; B3-11; B4-8; B5-2 B2- 2; B3-4 B1-2; B3–4 B1-1; B4-3 B4-1 B1–17; B4-4; B5-4 B1-46; B2-32; B3-28; B4-18; B5–22 B1– 2 B3–1 B4–2 B1–12; B3-1; B4-1 B1-1; B3-2; B5-1 B1-4; B4–3 B1-1; B2-1; B4-2 B1-3; B3-5; B5-3 B1-52; B2-37; B3-12; B4-9; B5–10 B1–1 B1-3; B3-4; B4-1; B5-3 B2–11; B4-6 B1-6; B4–2 B3–1 B2–1 B2-1 B1–21; B4-1 B5–36 B1-2; B3-3; B4-1; B5-1 B3-1; B4–2 B2-4; B3-7; B4-2 B1-1; B3-1; B4-7 B3-2; B4-2; B5-1 B2-12 B1-3; B3–28 B1–1 B2–1 B2-3; B4–1 B2-5; B5–2 B1-1; B4–2 B1-2; B4-1; B5-3 B1– 40 B3-1; B4–5

57

Con ăn mày Cọp Công Cua Dê Diều hâu Đom đóm Đỉa Ếch Gà Gấu Gián Hến Hổ Hươu Khỉ Kì đà Kiến Lợn Lươn Nai Ngựa Nhái Nhện Nhím Nòng nọc Mang Mèo Mối Muỗi Ong Ếch Quạ Rái cá Rắn Rồng Rúi Ruồi Sâu Sò Sóc Sư tử Thằn lằn (rắn mối) Thuồng luồng

4

B1–4

13

Tôm Trâu Trăn Trĩ Voi Vượn

11 127 13 1 16 5

B1-6; B3-2; B4-3 B1-14; B2-40; B3-30; B4-17; B5–26 B1-1; B2-12 B1–1 B1-2; B2-11; B3-2; B5–1 B1-4; B4–1

58 59 60 61 62 63

14

Như vậy, khảo sát trong 5 văn bản sử thi Bana: Giông, Giơ mồ côi

từ nhỏ, Giông trong Yuăn, Chàng Kơ Tam Gring Mah, Giông đánh quỷ

Bung Lung, Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ dang có tổng

cộng 63 hình ảnh động vật, xuất hiện 1548 lần. Trong đó, văn bản B1 -

Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ có số lượng cũng như tần số xuất hiện hình

ảnh các loài động vật nhiều nhất.

2.1.2. Bảng 2: Phân nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống

thấp.

Trên cơ sở bảng tra cứu dữ liệu đã thiết lập, tác giả đi vào phân

nhóm các hình ảnh theo tần số xuất hiện (tính từ trên xuống dưới). Cụ thể

chia ra làm ba khu vực tần số xuất hiện: cao, trung bình, thấp

Bảng 2 gồm những thông tin:

1. Loại tần số

2. Số thứ tự

3. Loài động vật

4. Tần số xuất hiện

LOẠI TẦN SỐ

STT LOÀI ĐỘNG VẬT

Bảng 2: Phân nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống thấp

Cao trở lên ( 70 lần trở lên)

1 2 3 4 5 6

Cá Gà Trâu Lợn Bò Cọp

TẦN SỐ XUẤT HIỆN 249 146 127 120 116 112

15

Trung bình ( 20 đến 69 lần)

Thấp ( 1 đến 10 lần)

Chim Chó Sư tử Mèo Rắn Cua ếch Chuột Bướm bướm Mang Ngựa Dê Voi Hổ Ong Trăn Rái cá Bò tót Kiến Nai Tôm ốc Nhái Khỉ Sâu Mối Diều hâu Sóc Thằn lằn (Rắn mối) Quạ Vượn Cá sấu Đom đóm Kì đà Hươu Thuồng luồng Ruồi Cò Muỗi Sò Bọ chét Công Gấu Hến Beo Cóc

7 8 1 2 3 4 5 6 7 8 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36

96 89 40 36 31 27 25 24 23 22 17 16 16 14 13 13 12 11 11 11 11 9 8 7 7 7 6 6 6 5 5 4 4 4 4 4 4 3 3 3 2 2 2 2 1 1

Con ăn mày Chó sói Đỉa Gián Lươn Nhện Nhím Nòng nọc Rồng Rúi Trĩ

37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47

1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

16

2.1.3 Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải

là vật thần.

Bảng này gồm có những thông tin sau:

1. Số thứ tự

2. Tên loài động vật

3. Tần số xuất hiện /5 văn bản

4. Vật thần

Tần số xuất hiện

Trong các văn bản

5. Không phải vật thần

Tần số xuất hiện

Trong các văn bản

VẬT THẦN

KHÔNG PHẢI VẬT THẦN

STT

LOÀI ĐỘNG VẬT

TẦN SỐ XUẤT HIỆN

TRONG CÁC VĂN BẢN

1 2

Beo Bò

1 116

TẦN SỐ XUẤT HIỆN

TRONG CÁC VĂN BẢN

TẦN SỐ XUẤT HIỆN 1 116

B1 B1-27; B2-10;

Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải là vật thần

10 17

B2-10 B2-17

2 1 6

B3-31; B4- 25 B4-2 B1-1 B2-3; B5-3

3 4 5

2 11 23

43

206

6

Bọ chét Bò tót Bươm bướm Cá

249

B1-1; B2- 42

2

B3-2

4 94

7 8

Cá sấu Chim

4 96

89

9

Chó

89

1 24

10 11

Chó sói Chuột

1 24

B1-55; B2- 48; B3-55; B4-14; B5-14 B1-3; B3-1 B1-23; B2- 18; B3-31; B4-16; B5-6 B1-44; B3-1; B5-44 B1-1 B1-3; B2-10; B3-1; B4-5; B5- 5 B4-1; B5-2 B4-1 B3-1

3 1 1

12 13 14

3 1 1

110 3

B5-110 B3-3

2 2 24

15 16 17

Cò Cóc Con ăn mày Cọp Công Cua

112 2 27

16 6 4 1 25

18 19 20 21 22

Dê Diều hâu Đom đóm Đỉa ếch

16 6 4 1 25

23

146

146

2 1 2 14

24 25 26 27

Gấu Gián Hến Hổ

2 1 2 14

B1-1; B2-1 B1-2 B1-6; B3- 8; B4–8; B5-2 B2-12; B3-4 B1-2; B3-4 B1-1; B4-3 B4-1 B1-17; B4-4; B5-4 B1-46; B2- 32; B3- 28; B4- 18; B5- 22 B1-2 B3-1 B4-2 B1-12; B3-1; B4-1 B1-1; B3-2;

4

28

Hươu

4

17

Khỉ Kì đà

7 4

29 30

7 4

B1-1

10

Kiến

11

31

1

Lợn

120

B2-9

111

32

9

Lươn Nai

1 11

33 34

1 11

Ngựa Nhái Nhện Nhím Nòng nọc Mang Mèo Mối

17 8 1 1 1 22 36 7

35 36 37 38 39 40 41 42

1 35 1

B2-1 B5-35 B1-1

17 8 1 1 22 1 6

Muỗi Ong

3 13

43 44

3 13

Ốc

9

45

9

Quạ

5

46

5

Rái cá Rắn Rồng Rúi Ruồi Sâu Sò Sóc

12 31 1 1 4 7 3 6

47 48 49 50 51 52 53 54

12 26

B2-12 B3-26

5 1 1 4 7 3 6

40 6

55 56

29

B1-29

11 6

B5-1 B1-4; B4-3 B1-1; B2-1; B4-2 B1-2; B3-5; B5-3 B1-52; B2- 28; B3-12; B4-9; B5-10 B1-1 B1-3; B3-4; B4-1; B5-3 B2-11; B4-6 B1-6; B4-2 B3-1 B2-1 B1-21; B4-1 B5-1 B1-1; B3-3; B4-1; B5-1 B3-1; B4-2 B2-4; B3-7; B4-2 B1-1; B3-1; B4-7 B3-2; B4-2; B5-1 B1-3; B3-2 B1-1 B2-1 B2-3; B4-1 B2-5; B5-2 B1-1; B4-2 B1-2; B4-1; B5- 3 B1-11 B3-1; B4-5

4

57

4

B1-4

Sư tử Thằn lằn (rắn mối) Thuồng luồng Tôm

11

58

11

59

B1-6; B3-2; B4-3 B1-14; B2-

Trâu

127

11

B2-11

116

18

60 61 62

Trăn Trĩ Voi

13 1 16

12

B2-12

1 1 16

Vượn

19

63

Tổng

5 1548

322

5 1226

29; B3-30; B4-17; B5- 26 B1-1 B1-1 B1-2; B2-11; B3-2; B5-1 B1-4; B4-1

2.1.4. Bảng 4: Phân nhóm hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana

không có thật trong cuộc sống.

Bảng này gồm có những thông tin sau:

1. Số thứ tự

2. Tên hình ảnh động vật

3. Tần số xuất hiện /5 văn bản

4. Trong các văn bản

TRONG CÁC VĂN BẢN

STT

TÊN HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT Rồng Thuồng luồng

1 2

TẦN SỐ XUẤT HIỆN/5 VĂN BẢN KHẢO SÁT 1 4

B1–1 B1–4

Bảng 4: Hình ảnh động vật trong sử thi Bana không có thật trong cuộc sống

Như vậy, hình ảnh động vật không có thật trong cuộc sống được

các nghệ nhân Bana đưa vào sử thi khá ít so với các loài vật có thật

(chiếm 3,1% trong tổng số các loài vật và 0,32% trong tổng số tần xuất

xuất hiện trong 5 văn bản sử thi được chọn khảo sát). Tuy nhiên, hình ảnh

các loài động vật được nhân cách hóa thành thần như chàng Bò tót - Thưk

Kưl, nàng Bướm bướm - Pơ lai, chàng Nhím - Bok Khem, Rái cá - Phei,

Cá trê - Sơ Kênh, Cá Chép Hồng - Ka unh, trâu đực có bảy đuôi, heo bảy

20

lần thay nanh, gà mào rộng bằng cái nia… xuất hiện nhiều trong các văn

bản sử thi Bana.

2.1.5. Bảng 5: Hình ảnh các động vật xuất hiện nhiều trong sử thi Bana

LOÀI

TRÂU

VĂN BẢN B1 B2 B3 B4 B5

Bảng 5: Hình ảnh các động vật xuất hiện nhiều trong sử thi Bana

Tổng cộng

56 110 55 14 14 249

27 10 31 21 27 116

46 32 28 18 22 146

14 40 30 17 26 127

2.2. Những nhận xÐt ban đầu qua các bảng thống kê

Sử thi là bách khoa thư về một dân tộc. Vì vậy khi đọc sử thi Bana,

chúng ta thấy được cuộc sống sinh hoạt, đời sống tinh thần của người

Bana. Và việc sử dụng những hình ảnh động vật trong sử thi Bana cũng

như là một sự thể hiện những những nét sinh hoạt, phong tục, tập quán và

tín ngưỡng của người Bana.

Qua thống kê khảo sát 5 văn bản sử thi Bana: B1- Giông, Giơ mồ côi

từ nhỏ, B2- Giông trong Yuăn, B3- Chàng Kơ Tam Gring Mah, B4-

Giông đánh quỷ Bung Lung, B5- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm

dơ dang, tác giả thu được một số lượng hình ảnh động vật là 63 hình ảnh,

bao gồm 1548 lần xuất hiện trong các văn bản sử thi. Như vậy, hình ảnh

động vật trong sử thi Bana chiếm một số lượng không nhỏ về tần số xuất

hiện. Và số loài cũng cho thấy hình ảnh động vật được thể hiện hết sức đa

dạng và phong phú.

Về số lần xuất hiện các hình ảnh động vật thì không có sự đồng đều

thậm chí là có sự chênh lệch khá lớn. Có những hình ảnh xuất hiện với số

lần xuất hiện cao như cá (249 lần ); gà (146 lần); trâu (127 lần), bò (116

21

lần)… Trong khi đó có rất nhiều hình ảnh chỉ xuất hiện có 1 lần như: đỉa,

nòng nọc, nhện, gián, lươn… Điều đó khẳng định những con vật gần gũi

với con người, thường xuyên tiếp xúc với con người dễ dàng đi vào sử thi.

Đó là những con vật nuôi gắn bó, gần gũi với con người, ảnh hưởng

đến nếp nghĩ của con người. Vì thế trong sinh hoạt thường ngày, cũng

như sinh hoạt tinh thần họ dễ dàng đưa tên gọi động vật vào.

Những hình ảnh động vật có lần xuất hiện cao phần lớn là những

hình ảnh quen thuộc phù hợp với đời sống lao động, sinh hoạt của người

dân Bana. Điều này cho thấy người dân Bana có xu hướng sử dụng những

hình ảnh quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày để sáng tạo

trong các loại hình nghệ thuật của dân tộc mình. Những hình ảnh đó tạo

điều kiện cho các tác giả dân gian dễ có sự liên hệ giữa hiện thực cuộc

sống và đời sống tinh thần của con người. Đặc biệt là những hình ảnh

động vật được tác giả dân gian sử dụng với những nét khác biệt, chúng

được lạ hoá so với bình thường đã cho thấy sự phong phú trong đời sống

tinh thần của người Bana.

22

Từ bảng thống kê số liệu chi tiết ở Bảng 1, tác giả tạm phân chia

mức độ cao thấp của tần số xuất hiện hình ảnh động vật ở Bảng 2: Phân

nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống thấp. Trong Bảng này,

tác giả đã tiến hành sắp xếp các hình ảnh động vật tính từ cao xuống thấp.

Cụ thể, tác giả tiến hành chia các hình ảnh động vật biểu hiện ở 3 cấp độ

khác nhau:

- Khu vực có tần số xuất hiện cao: 70 lần trở lên

- Khu vực có tần số xuất hiện trung bình: 20 - 69 lần

- Khu vực có tần số xuất hiện thấp: 1- 19 lần

Trong bảng dữ liệu, những thông số về tên hình ảnh động vật, số lần

xuất hiện hình ảnh, đơn vị văn bản có số lần xuất hiện hình ảnh đó đều

được thống kê một cách tỉ mỉ.

- Khu vực có hình ảnh xuất hiện với tần số cao (70 lần trở lên):

Khu vực có hình ảnh động vật xuất hiện với tần số cao có 8 hình ảnh

(chiếm 12,7 % trên tổng số các hình ảnh). Những xét về số lần xuất hiện

thì chúng lại được thể hiện bằng những con số rất cao với tổng số 1055

lần xuất hiện ( chiếm 68,2 % tổng số lần xuất hiện các loài cộng lại).

Trong khu vực này số loài vật nuôi chiếm con số áp đảo với 5 hình

ảnh (chiếm 62,5% trên tổng số các hình ảnh tổng khu vực): Gà (146 lần),

Trâu (127 lần), Bò (116 lần), Lợn (120 lần), Chó (89 lần). Loài vật không

phải là vật nuôi đóng góp 3 hình ảnh: Cọp (110 lần), Chim (96 lần), Cá

(249 lần). Tại sao số vật nuôi chiếm số lượng lớn như vậy, tác giả sẽ lý

giải kĩ ở phần sau.

- Khu vực hình ảnh xuất hiện với tần số trung bình (20 - 69 lần):

Khu vực này có tất cả là 8 hình ảnh (chiếm 12,7% tổng số các hình

ảnh) và có số lần xuất hiện là 228 lần (chiếm 14,7% tổng số xuất hiện các

hình ảnh). ở khu vực này sự chênh lệch về số lần xuất hiện các hình ảnh

động vật không đáng kể mà đều đặn nối tiếp nhau.

23

- Khu vực có hình ảnh động vật xuất hiện với tần số thấp (1 - 19

lần):

Đây là khu vực tập trung một số lượng lớn các hình ảnh, với 47 hình

ảnh (chiếm 74,6% tổng số các hình ảnh). Nhưng xét về số lần xuất hiện

thì những hình ảnh này xuất hiện không cao với 265 lần xuất hiện (chiếm

17,1% tổng só lần xuất hiện các hình ảnh). Những hình ảnh xuất hiện

trong khu vực này phần nhiều là những hình ảnh ít phổ biến, ít xuất hiện

trong cuộc sống của con người.

Ba khu vực này sắp xếp theo tần số xuất hiện: cao - trung bình - thấp

có những điểm khác biệt đáng kể. Khu vực cao và trung bình có hình ảnh

ít so với khu vực thấp chiếm 25,4%. Trong khi với 47 hình ảnh khu vực

thấp cao gần gấp 3 lần (2,9 lần) so với khu vực có tần số xuất hiện cao và

trung bình.

Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải

là vật thần. Ở bảng này tác giả đưa ra so sánh số liệu giữa vật thần và

không phải vật thần. Thực chất của vật thần và không phải vật thần chính

là việc thống kê số liệu giữa những con vật nuôi, con vật hoang dã (vật tự

nhiên) và con vật của trí tưởng tưởng. Con vật của trí tưởng tượng là

những con vật được lạ hoá mang trong nó những yếu tố thần kì và tác giả

tạm gọi là vật thần. Còn lại là những loài vật có thực trong cuộc sống, có

trong sinh hoạt lẫn trong tự nhiên thì tác giả gọi tên với sự đối nghịch với

vật thần, đó là nhóm động vật không phải là vật thần.

Trong bảng này số vật thần chiếm số lượng không lớn chỉ có 16 loài

trên tổng số 63 loài và xuất hiện 322 hình ảnh (chiếm 21% trên tổng số

hình ảnh xuất hiện). Tuy nhiên với con số vật thần đó có thể cho thấy

được sự phong phú, đa dạng trong cuộc sống sinh hoạt của người Bana

cũng như trong đời sống tinh thần của họ. Phần lớn các hình ảnh xuất

hiện là vật thần thì cũng luôn đi kèm với số hình ảnh không phải là vật

thần (vừa là vật thần vừa không phải là vật thần). Có điều dễ nhận thấy là

24

những con vật mang yếu tố thần kì thường chỉ xuất hiện trong một văn

bản như: Cọp xuất hiện chủ yếu trong văn bản 5 đến 110/112 lần xuất

hiện, Rái cá xuất hiện 12/12 lần trong văn bản 2…

Tất cả những con số được thể hiện ở bảng dữ liệu mà tác giả đã khảo

sát và cung cấp là những con số mang ý nghĩa rằng nhận thức của dân tộc

Bana về thế giới tự nhiên nhất là những hình ảnh động vật thật phong phú

và sinh động. Trên cơ sở những hình ảnh mà tác giả thu nhận được cho

thấy khả năng nhận thức và phản ánh thế giới xung quanh của người dân

Bana rất cụ thể, chi tiết và sinh động.

Trong quá trình thống kê, tác giả gặp trong sử thi Bana một loạt

những hình ảnh động vật mà chúng ta rất hiếm gặp trong những tác phẩm

dân gian như: rái cá, bọ chét, rúi, gián, ốc, nhái… Đặc biệt, tác giả bắt

gặp hình ảnh động vật với tên gọi khác lạ như rắn mối (con thằn lằn).

Thực chất đây là tên gọi theo tiếng địa phương và tên gọi này đã được

giải thích luôn ngay trong văn bản. Đặc biệt hơn nữa có tên động vật rất

lạ bắt gặp trong sử thi Bana, có tên gọi là con ăn mày, chỉ xuất hiện một

lần (trong văn bản 2). Đây là tên gọi theo nguyên văn tiếng Bana là yă

yưn - loài vật này giống con gián và nhỏ như con dế, có màu nâu sẫm,

được dùng để nấu cháo hoặc làm thức ăn. Trong khi khảo sát, tác giả giữ

nguyên tên gọi này và có đưa vào danh mục thông kê.

Theo con số thống kê cụ thể thì số động vật xuất hiện 1 lần có đến 13

hình ảnh (chiếm 20,6% tổng số hình ảnh). Trong khi đó số lần xuất hiện

cao có sự tập trung vào một số hình ảnh như Cá, Trâu, Gà, Bò… Nhìn

vào đó ta có thể thấy đây là những hình ảnh hết sức quen thuộc với con

người. Chính những con số cao ấy đã thể hiện mức độ thông dụng của các

hình ảnh động vật. Hơn nữa các hình ảnh này hầu hết xuất hiện với tần số

cao ở tất cả các văn bản đưa ra khảo sát. Những hình ảnh được sử dụng

nhiều khi không chỉ trong cách nói hàng ngày mà còn được sử dụng nhiều

25

để sáng tạo. Khả năng kết hợp và độ biểu cảm mà những hình ảnh thể

hiện hết sức phong phú.

Dân tộc Bana là một dân tộc có cuộc sống gắn bó mật thiết với thiên

nhiên. Sự ứng xử linh hoạt với môi trường tự nhiên - xã hội xuất phát từ

sự nhận thức còn thô sơ của con người. Vì vậy trong tâm trí của người

Bana, những hình ảnh động vật luôn tồn tại ở mức độ gắn bó với con

người một cách mật thiết. Những hình ảnh vật nuôi có mối liên hệ chặt

chẽ nhất định với đời sống con người. Hình ảnh của chúng vừa là sự thể

hiện hiện thực khách quan, vừa mang ý nghĩa nào đó. Những hình ảnh

động vật tự nhiên là những hình ảnh gắn bó với địa bàn cư trú của người

dân Bana, đó là vùng rừng núi Tây Nguyên với nhiều sản vật quý. Trong

đó một phần không thể thiếu đó là những động vật của tự nhiên, những

con vật phù hợp với cuộc sống săn bắn, hái lượm như hươu, nai, mang…,

những con vật của rừng rậm như khỉ, vượn, hổ, beo… Thậm chí những

con vật nhỏ bé cũng xuất hiện khá nhiều trong sử thi Bana như ruồi,

muỗi, kiến, gián, nòng nọc…

Mỗi một hình ảnh động vật mà tác giả thống kê được bằng cách này

hay cách khác đều là sự phản ánh chân thực cuộc sống con người. Với

xuất phát điểm là những cư dân lấy kinh tế nương rẫy chiếm vị trí trọng

yếu, nhưng kinh tế hái lượm và săn bắn còn đóng vai trò to lớn trong đời

sống hàng ngày của người Bana ở Tây Nguyên. Vì vậy tôm, cá là nguồn

thực phẩm quan trọng của người Bana sống gần sông suối, và nghề săn

bắt muông thú trong rừng rất phổ biến đưa về cho họ nguồn thực phẩm-

một nguồn lợi kinh tế đáng kể. Khu vực rừng rậm với các đồi cỏ tranh là

nơi quy tụ các động vật quý hiếm như voi, hổ, sư tử, gấu… Vì vậy thế

giới động vật được phản ánh trong sử thi hết sức đa dạng.

Với xuất phát điểm như vậy chúng ta có thể lý giải được sự xuất hiện

của các hình ảnh động vật với các tầng ý nghĩa. Và bảng dữ liệu sẽ là cơ

sở để chúng ta đưa ra những nhận xÐt mang tính khái quát:

26

 Thế giới động vật trong sáng tác dân gian (sử thi) của người

dân Bana hết sức phong phú đa dạng. Hầu như con vật nào có ở thế

giới tự nhiên thì đều xuất hiện trong sử thi của người Bana. Rất

đúng với nhận định của một nghệ nhân hát kể Hơ mon “...thấy hết

thấy như ở ngoài một cuộc sống như là thật”.

 Cuộc sống của cư dân người Bana chủ yếu là săn bắn hái

lượm vì vậy trong sử thi xuất hiện khá nhiều loài thú rừng mặc dù

tần số xuất hiện không nhiều. Và trong sử thi họ cũng sáng tạo

thêm thậm chí thần thánh hoá để thoả mãn nhu cầu, thoả mãn

những ước muốn của mình. Điều này rất phù hợp với những suy

nghĩ còn thô sơ của con người thời sử thi.

 Sử thi luôn phản ánh chân thực cuộc sống, những con vật

nhỏ bé, đời thường, thậm chí là tầm thường như ruồi, muỗi, bọ

chét, đỉa … cũng xuất hiện. Điều đó cho thấy người nghệ sĩ dân

gian đã sáng tạo những hình ảnh chân thực như trong cuộc sống.

 Cuộc sống của người Bana gắn với sông suối (người miền

đầu sông, người cuối sông). Chính vì vậy hình ảnh con cá là hình

ảnh quen thuộc và được nghệ sĩ dân gian sử dụng nhiều. Cá là hình

ảnh có tần số xuất hiện cao nhất trong tổng số các hình ảnh động

vật của sử thi Bana. Cả trong hình ảnh cụ thể, tả thực và cả trong

hình ảnh biểu trưng cho con người.

27

CHƢƠNG 2

HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG KHO TÀNG SỬ THI BANA

Tiếp xúc với sử thi Bana cũng như các tác phẩm sử thi của các

dân tộc khác, chúng ta đều cảm nhận được hơi thở cuộc sống của dân tộc

đó. Bởi trong sử thi nhiều khía cạnh được phác hoạ khá cụ thể và sinh

động. Đó là cảnh lao động sinh hoạt ở nhà rông, rừng cây, sông suối, núi

đồi, trang phục, ăn uống, lễ nghi, tập tục, cưới xin, vui chơi… thể hiện

thật sống động. Có thể khẳng định, sử thi Bana là một bức tranh rộng lớn

về đời sống của tộc người Bana. Thế giới động vật không chỉ là một thực

thể bên ngoài của tự nhiên mà còn thâm nhập rất sâu vào đời sống tinh

thần của con người. Trên một ý nghĩa nào đó, nhiều động vật đã được con

người hoá. Trong tín ngưỡng của người dân Bana, trong kinh tế, văn hoá,

trong điêu khắc… đặc biệt trong đời sống văn hoá - sử thi Bana, nó đã trở

thành một đối tượng không thể thiếu.

Đối tượng mà chúng ta đề cập đến đó là thế giới động vật trong

sử thi này. Vì vậy tất cả các tên gọi động vật đều được thống kê xem xét.

Đó là những tên gọi được dùng để định danh các động vật có trong tự

nhiên và cả những động vật được người hoá cho thấy sự phong phú, đa

dạng trong cảm quan của người Bana. Sự phong phú của thế giới động

vật không chỉ ở số lượng các loài (63 loài) và số lần xuất hiện các hình

ảnh động vật mà còn thể hiện ở việc sử dụng các hình ảnh ấy trong sử thi.

Trong cách nói hàng ngày của người dân Tây Nguyên nói chung và

người dân Bana nói riêng, hình ảnh động vật xuất hiện khá nhiều. Họ

thường mượn những hình ảnh này để diễn đạt một điều gì đó trong cuộc

sống của mình. Ví dụ như khi cụ thể hoá vẻ đẹp của con người sử thi

thường mượn loài vật để diễn tả, điều này rất phù hợp với cảm quan còn

thô sơ của người Bana xưa, đồng thời nó cũng chính là nét đặc trưng

28

không thể thiếu trong thể loại sử thi: “Nhìn họ ai cũng xinh cũng đẹp,

chẳng ai kém cả. Bước đi của họ như tia chớp tháng ba, hai chân họ

trắng nõn, toả ánh sáng ra xung quanh khiến các con vật đều bỏ trốn”.

Cách nói như vậy khiến cho ngôn ngữ sử dụng trở nên sinh động và nhiều

màu vẻ hơn, cụ thể hoá đối tượng đang bàn đến. Hơn nữa, khiến cho con

người như được tiếp xúc với giới tự nhiên một cách chân thật nhất. Trong

sử thi Bana, ta có thể bắt gặp hàng loạt hình ảnh động vật chỉ trong một

đoạn thoại ngắn: “Sau lời cầu của hai gã vừa dứt thì… tiếng chim hót

trước thì thì hót tốt, nhưng giờ thì thật xấu. Con hươu, con nai cùng kêu,

con chim cứ bay qua bay lại… Rắn chặn đường, những con ong kéo đến

đốt làm chúng kêu la hú hét và chạy khắp núi rừng… Mặt mũi chúng bị

ong đốt sưng vù…”. Không gian núi rừng, cảnh vật thiên nhiên như trực

diện đối với con người. Không khí ấy lan toả khiến cho màu sắc núi rừng

Tây Nguyên thêm hấp dẫn sinh động, phong phú… Như vậy hình ảnh

động vật là cách thức phổ biến và thông dụng được dùng trong sử thi.

Tuy nhiên, ở mỗi hình ảnh động vật lại có chức năng khác nhau và cách

thức miêu tả cũng khác nhau. Vì vậy, khi tìm hiểu về thế giới động vật

trong sử thi, đặc biệt là sử thi Bana, tác giả tiến hành tìm hiểu về chức

năng và cách thức miêu tả các hình ảnh động vật này.

I. CHỨC NĂNG CỦA CÁC HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT

Quan niệm về động vật của từng dân tộc không trùng khít với

khoa động vật học (Triều Nguyên). Mà mỗi dân tộc đều có một quan

niệm riêng về động vật. Quan niệm ấy được biểu hiện qua việc phân loại,

phân nhóm và đánh giá động vật. Theo tác giả Triều Nguyên ngoài việc

phân nhóm động vật qua các tiêu chí: ăn được - không ăn được; lớn - bé;

theo nơi ở, ông còn đưa thêm một tiêu chí nữa đó là linh thiêng và không

linh thiêng. Với tiêu chí này tác giả Triều Nguyên thực sự đã góp phần

29

khám phá một khía cạnh quan trọng trong đời sống tinh thần của con

người, cụ thể của người Việt.

Đọc sử thi Bana ta có thể nhận thấy khá nhiều điều thú vị, bổ ích

ẩn chứa trong hình ảnh loài vật. Nó là một phần để khám phá, tìm hiểu

những nét đẹp của tập quán sinh hoạt, lối sống của người Bana. Để tiện

cho việc tìm hiểu chức năng của các hình ảnh động vật trong sử thi Bana,

tác giả tạm phân chia thành 2 nhóm:

Nhóm 1 là nhóm động vật có thực. Đây là nhóm động vật quen

biết từng có vai trò quan trọng trong nền văn hoá dân tộc, thường là biểu

tượng cho các sinh hoạt vật chất và tinh thần. Đó là số động vật tiêu biểu,

có quan hệ gần gũi trong thực tiễn và trong quan niệm của người Bana.

Nhóm 2: là nhóm động vật không có thực, tồn tại trong trí tưởng

tượng diễn tả trí tưởng tượng kì diệu của người Bana. Đó là nhóm động

vật được người Bana người hoá, chúng có nhiều chức năng khác nhau,

mang trong mình những đặc điểm lạ hoá, có thể biết nói, có thể biến

hoá…

1.1. Nhóm động vật có thực

Với tư duy trực quan, người Bana quen với những điều mắt thấy

tai nghe, khả năng ghi nhớ và vận dụng vào việc phản ánh lại thế giới tạo

nên sự phong phú của thế giới động vật. Đọc sử thi Bana chúng ta bắt gặp

nhiều nhất là những hình ảnh động vật có thực trong thế giới tự nhiên.

Chúng mang nhiều chức năng khác nhau, từ những con vật to lớn, hung

dữ đến những con vật nhỏ bé thậm chí là tầm thường. Với 63 loài xuất

hiện 1548 lần thì có thể cho thấy rằng loài vật được nghệ sĩ dân gian chú

ý và xem chúng là một bộ phận không thể thiếu của Hơ mon Bana.

Trên cơ sở phân nhóm động vật của tác giả Triều Nguyên, tác giả

kế thừa và cũng tạm chia tách hình ảnh động vật theo chiều hướng nhỏ

hơn để tiện cho việc tìm hiểu cụ thể những những hình ảnh này.

30

1.1.1. Con vật nuôi trong nhà

Trong tâm trí của người dân Bana, những hình ảnh động vật luôn

tồn tại ở mức độ gắn bó với con người một cách mật thiết. Thời sử thi,

con người không chỉ có nguồn thức ăn trong thiên nhiên, không chỉ săn

bắn hái lượm mà dần dần con người đã thuần dưỡng và chăn nuôi trồng

trọt trong gia đình, vì vậy một bộ phận không nhỏ những vật nuôi đã xuất

hiện trong sử thi. Những hình ảnh vật nuôi có mối quan hệ chặt chẽ nhất

định với đời sống con người. Hình ảnh của chúng vừa là sự thể hiện hiện

thực khách quan vừa mang ý nghĩa sâu sắc. Trong kho tàng sử thi Tây

Nguyên, đặc biệt là bộ sử thi của dân tộc Bana đã phản ánh hết sức sinh

động và phong phú những hình ảnh vât nuôi này.

Một điểm chung có thể nhận thấy rất rõ, đó là những con vật nuôi

trong gia đình đã làm cho cuộc sống của người lao động thêm phần sung

túc, thêm phần gần gũi với thiên nhiên. Hơn nữa những con vật nuôi này,

không chỉ là nguồn nguyên liệu tạo nên các món ăn mà nó còn được coi

trọng vì những hình ảnh vật nuôi này thường được dùng trong tế lễ.

Hầu như tất cả những con vật nuôi này đều nằm trong khu vực có

tần số xuất hiện cao. Điều này cho thấy sự thông dụng trong việc sử dụng

những hình ảnh vật nuôi, trong cách nói quen thuộc hàng ngày của người

Bana. Những con vật nuôi như Trâu, Bò, Gà, Lợn, Dê, Ngựa…. trong sử

thi thường xuyên xuất hiện và luôn đi liền với nhau. ở mỗi một lần xuất

hiện các hình ảnh này đều mang chức năng khác nhau .

Phần lớn những con vật nuôi này xuất hiện trong sử thi là tượng

trưng cho sự giàu có, sung túc của một buôn làng cùng với đồng ruộng,

chiêng ché. Đây là lời của một già làng nói về xứ sở của mình:

“Cháu hãy coi đi, cách đồng ruộng kìa lúa ta không thiếu. Trâu,

bò, gà, lợn… ta có thừa. Ta không thiếu một cái gì.”

“Cánh đồng lúa mênh mông, kéo dài tận chân trời. Trâu, bò, lợn,

gà… nhiều vô kể, thả đầy rừng, chật núi. Đàn gà đông như đàn mối”

31

Đàn gia súc, theo lời bà Xok Ier rất giản đơn- đó là sự giàu có, là

những con vật để người ta ca ngợi.

“Người Bana chúng ta từ ngàn xưa vẫn vậy hai cháu à. Có nuôi

nhiều gà, trâu, bò... nếu như mang phúc đàn gia súc đó phát triển cũng

chẳng đổi chác được gì. Có đàn gia súc nhiều chỉ để cho thiên hạ ca

ngợi…”

Sự ca ngợi ấy chính là vai trò của loài gia súc đối với buôn làng.

Nó đã trở thành thước đo của sự giàu có, sung túc của buôn làng này với

buôn làng khác. Hình ảnh động vật, đặc biệt là loài vật nuôi xuất hiện

trong sử thi thường có những thông tin nhất định chứ không đơn thuần

chỉ là những con vật nuôi tầm thường.

Khung cảnh thiên nhiên trong sử thi, với sự xuất hiện của các loài

vật nuôi cho thấy sự gàu có, của một buôn làng. Đây là khung cảnh, theo

con mắt nhìn của nhân vật trong sử thi :

“Trâu bò Set còn nhiều, đông đúc chật cả bãi sông, lúa gạo dư dả,

hạt bo bo đầy cả mấy kho… Đúng là chẳng ai bằng Set cả. Cái gì Set

cũng có. Set giàu của cải, lúa gạo, cơm ăn. Trâu bò trong nhà, ngoài bãi

thiếu gì. Heo, gà như kiến chật cả đầy sân, đầy cả làng..”

Những động vật nuôi này, luôn gắn với con người, cuộc sống của

họ luôn có mặt chúng, chúng chính là tài sản của họ. Trong sử thi có

những trận chiến và khi miêu tả sự dữ dội của những trận chiến đó, tác

giả dân gian thường mượn đến những yếu tố thiên nhiên, trong đó thường

nói đến sự mất mát, thiệt hại đối với con người. Và một trong những sự

mất mát ấy, chính là những vật nuôi của họ vì nó là tài sản không thể

thiếu trong mỗi gia đình của người Bana.

“Nước lụt tràn khắp mọi nơi, ngập lụt cả miền cuối sống. Người

chết nhiều vô kể, nhà cửa, trâu bò bị cuốn trôi hết. Không ai biết đang có

chuyện gì xẩy ra…”

32

Những cuộc chiến trận trong sử thi có hai loại: một là cướp phá dân

làng và hai là giành lại người yêu. Thì trong những cuộc chiến chiếm đất

đai làng mạc chính là việc chiếm của cải, mà của cải của người Bana trên

dải đất Tây Nguyên ấy chính là những đàn gia súc như trâu, bò, dê, gà,

lợn.. Trong lời đối thoại của các nhân vật trong sử thi đã cho thấy điều ấy:

“Glaih Phang:

- Pư Pưng, Xor Mam à ! Các anh muốn đánh phá ai vậy ? Các

anh muốn cướp trâu, cướp bò của xứ sở nào vậy, các anh hãy nói đi!

Pư Pưng cười vang đáp lại:

- Kể cho mày nghe làm gì chứ ? Mày cứ chờ xem, rồi sẽ thấy bọn ta

kéo về trâu, bò, gùi về của cải,…

- Đánh để làm gì à ? đánh không phải vì chuyện kia mà đánh để lấy

của cải, trâu bò, đánh để đọ sức mạnh và lòng dũng cảm thôi”

Thậm chí trong sử thi Bana, để lôi kéo mọi người tham gia vào trận

chiến ấy, người ta đã lấy những đàn gia súc làm mồi dẫn dụ, để rủ người

cùng đi đánh chiếm.

“Trâu, bò của họ chật cả bãi sông, không đủ sức mà lùa hết đâu

em ạ ! Chúng ta sẽ thoả sức ăn uống, vui chới it nhất là vài năm. Thế

nào, em có muốn đi đánh không?”

Những con vật nuôi trâu, bò, gà, lợn, dê... luôn xuất hiện trong các

hội hè, đình đám với vai trò là những nguồn thực phẩm quan trọng. Nó là

những thức ăn không thể thiếu trong các cuộc vui, là căn cứ để đo sự giàu

có, sự tôn trọng khách… Trong những đám cưới, những cuộc cúng thần

linh, cuộc mừng chiến thắng, mừng gặp mặt, cuộc mừng trở về, hay việc

thết đãi khách… đều có sự xuất hiện của các hình ảnh động vật này cùng

với những ghè rượu:

“Mọi người trong gia đình rất trọng Kram Ngai. Thấy chàng về, ai

nấy đều vui mừng, họ xẻ lợn, mổ gà, khiêng rượu ghè chuẩn bị uống

mừng”

33

“Giông và Kram Ngai vừa về đến nhà, mọi thứ đã được chuẩn bị

sẵn để mở cuộc ăn uống chia tay cùng bà con dân làng. Họ chỉ trông đợi

Giông và Kram Ngai đến là bắt đầu uống ngay. Hàng chục con trâu bò

được xẻ thịt ăn uống hôm nay…”

“Ngoài cổng làng, người ta vẫn còn tiếp tục thui bò, thui trâu, khói

bay mù mịt. Ngay từ khi nghe tin bia Lui báo tin, Set đã bảo người ra

ngoài bãi sông lùa trâu bò về trước để làm thịt. Khi mọi việc đã xong, cả

gia đình họ hàng cùng ăn”.

Việc giết thịt loài gia súc để tiếp đãi khách, chính là thể hiện tấm

lòng cởi mở chân tình của người dân Bana. Họ thường mời mọc nhau :

“Các món ăn cứ ăn cho hết! Nếu còn muốn ăn nữa tôi sẽ cho giết

thịt trâu bò không ngại gì cả”

“Hai cháu cứ lấy thức ăn ở trong ống lồ ô đựng thịt khô kia ra mà

ăn nhé. Còn nếu như muốn dùng thịt tươi, thì ngoài kia còn có đủ cả: lợn,

gà, trâu, bò thiếu gì…”

“Hai anh em tha hồ mà ăn. Muốn ăn trâu, giết trâu, muốn ăn bò

thì mổ bò. Giông, Giơ ăn uống thả cửa. Ăn không hết bỏ. Biết bao nhiêu

là thịt: nào thịt trâu, thịt bò, thịt lợn, thịt gà…”

Trong đám cưới việc giết thịt trâu bò là công việc đầu tiên:

“A ơ ma Dong, ma Vắt… cha cháu sai đến gọi hai chú và tất cả

anh chị em xuống làm giúp thịt trâu, thịt heo, thịt gà, nấu cơm… Hôm

nay nhà cháu uống rượu cho bia Man và Giông trong Yuăn thành vợ

chồng”

Bữa cơm thịnh soạn là bữa cơm không thể thiếu trâu, bò, lợn, gà

trong những ngày có khách khứa đông vui. Đó là biểu hiện của sự hiếu

khách:

“Còn thức ăn muốn ăn loại nào, món gì? Thịt lợn, với đầy đủ gia

vị, làm đủ các món. Món gì cũng có. Muốn ăn thịt gà, có thịt gà. Muốn ăn

bất cứ món thịt nào đều có. Cứ ăn uống vui chơi thoả thích…”

34

“Bok Kơ Lênh Dêt lại bắt con gà trống to biết gáy đã tám năm,

bóp cổ mổ thịt mời ma Dong, ma Văt”.

Trong số loài vật nuôi trâu, bò, gà, lợn, dê, ngựa… ngoài các chức

năng như dùng để nói về sự giầu có, là nguồn thức ăn hàng ngày và trong

các ngày lễ trọng đại của gia đình và buôn làng thì số vật nuôi này còn là

những vật tế trong những lễ nghi của người Bana. Đó là tục lệ của người

Bana. Lễ nhận làm cha, làm mẹ của người Bana được phản ánh trong sử

thi khá rõ. Trong lễ này cần phải có máu gà, và máu lợn:

“Để cho đầy đủ khi nhận làm người cha, người mẹ không phải dễ,

không chỉ có máu lợn là đủ mà phải có cả gà nữa… Không đâu cháu ạ.

Không phải chỉ thế thôi đâu, tục lệ buộc phải có đầy đủ. Có như vậy các

thần linh mới chấp nhận chúng ta. Phải có máu gà, gan gà mới được. Chỉ

mỗi máu lợn là không phải. Máu lợn này con phải làm trước con hãy

uống đi. Đây là máu gà con nhé. Hãy uống đi. Con hãy tin ở cha, từ đây

cha là cha của các con…”

Đó là lễ vật cúng trong đám cưới, cần phải có đầy đủ những gia súc

này để dâng lên cho các vị thần linh.

“Chô yang, mời xuống đây ăn uống

Rượu, thịt trâu, heo, gà, bò, ngựa

Cho Bia Man và Giông Trong Yuăn

Được làm vợ chồng sống bên nhau”

Theo tục lệ các chàng trai cô gái đã đến tuổi lấy chồng, lấy vợ và đi

đến cưới hỏi đều phải có sự đồng ý từ hai bên. Sự đồng ý này đều phải trả

lời trực tiếp từ hai người, cha mẹ không ép gả. Và hai người, trong ngày

trả lời trực tiếp ấy cũng phải có lễ vật đi kèm. Lễ vật ấy không thể thiếu

rượu, máu lợn, máu dê, máu gà:

“Giờ các con hãy nắm tay nhau và cầm lấy ống hút uống rượu.

Đây là rượu máu dê, máu lợn, máu gà đã được cha tế lễ rồi. Cha làm lễ

cho hai con và chúc hai con thương yêu nhau mãi mãi… Mọi người đều

35

đứng dậy lấy rượu, lấy máu dê, máu bò, lợn, gà… chúc phúc cho các cặp

vợ chồng mới cưới theo đúng tập tục”

Trong các lễ cúng gọi hồn, máu của những con vật này, còn được

dùng để cúng thần linh.

“Nói đến đó, ông Grâm Kong lấy máu gà, máu lợn, máu dê trải ra

trước miệng ghè, lấy rượu trải ra xung quanh và gọi thần núi, thần nước,

thần trời, thần đất trả lại hồn cho các con gái ông”.

Trong các lễ vật cúng ông bà tổ tiên cũng không thể thiếu những

con vật này đặc biệt là con gà. Đây là con vật có số lần xuất hiện lớn nhất

trong số vật nuôi. Nó xuất hiện trong tất cả các sử thi. Ngoài chức năng

giống như các con vật nuôi khác như trâu, bò, lợn, dê… thể hiện sự giàu

có, là thức ăn không thể thiếu để tiếp đãi khách trong ngày trọng đại của

gia đình và buôn làng, là lễ vật cũng tế… thì con gà còn có chức năng

nữa đó là báo hiệu thời gian. Tiếng gà báo sáng được nhắc đến rất nhiều

trong sử thi Bana:

“Tiếng gà gáy lên từng hồi, đánh thức các nàng dệt vải xe tơ biết

trời đã sáng…”

“Sáng hôm sau, hai anh em thức giấc bởi tiếng gà gáy... hai anh

em thức từ bắt đầu gà gáy rồi đến khi trời sáng dần…”

Hơn nữa tiếng gà gáy sáng còn giúp con người thức tỉnh trước

những gian lao vất vả: “Gà vừa gáy sáng, Giông, Giơ chợt nhớ đến

đường về xa xôi”. Nó còn là âm thanh báo hiệu cuộc trò chuyện của đôi

trai gái đã kết thúc, là khởi điểm của cuộc chia li và cũng là mạch nối tiếp

của lời kể trong sử thi.

“Gà nhà ai gáy sớm thế? Bàn bạc chưa xong, tâm sự chưa vơi, gà

đã vội gáy… Sao lại thế được? Trong lòng em vẫn còn nhiều điều muốn

nói… Thật thế nỗi lòng chưa nói hết mà gà đã vội gáy…”

Con gà là hình ảnh quen thuộc gắn bó với con người. Nó là loài vật

có lợi ích thiết thực trong báo thức, nguyên liệu tạo nên những món ăn, là

36

thước đo của sự giàu có và nó còn được coi trọng vì nó còn là con vật có

tính thiêng, là hình ảnh thường xuyên được dùng trong tế lễ của người

Bana.

Trong những con vật nuôi đã nhắc đến có hình ảnh con ngựa. Đây

là hình ảnh có tần số xuất hiện ít nhất trong số loài vật nuôi (17 lần), nó

đứng ở khu vực có tần số thấp, trong khi đó các con vật nuôi kia lại đứng

ở khu vực có tần số xuất hiện cao (từ 70 lần trở lên). Ngoài những lợi ích

thiết thực về kinh tế, ngựa còn là phương tiện đi lại của con người.

“Nói xong, Xem Đum và Xem Treng lấy ngựa chạy đi báo cho anh

em, họ hàng khắp mọi nơi”

Tuy nhiên trong sử thi Bana, phương tiện đi lại chủ yếu và nhanh

nhất không phải là con ngựa mà là một vật thần - chiếc khiên thần biết

bay. Hình ảnh con ngựa thường bắt gặp trong sử thi Mông Cổ. Với người

Mông Cổ không có ngựa thì không có anh hùng. Vì vậy trong sử thi

Mông Cổ hình ảnh con ngựa thường gắn liền với nhân vật người anh

hùng. Điều này rất dễ để lí giải, vì môi trường địa lí, có nhiều thảo

nguyên mênh mông, rộng lớn, người anh hùng không thể thiếu ngựa

được. Với sử thi Bana, ta cũng bắt gặp hình ngựa nhưng không đứng vai

trò quan trọng đối với người anh hùng như trong sử thi Mông Cổ. Đó là

những nguyên nhân chính, khiến cho hình ảnh động vật này xuất hiện

không nhiều trong sử thi Bana.

Một hình ảnh vật nuôi khác luôn xuất hiện trong sử thi Bana và

đứng ở khu vực có tần số xuất hiện cao - hình ảnh con chó. Trong gia

đình, đây là con vật gần gũi nhất, quấn quýt bên con người nhất. Đó là

con vật trung thành vớí con người. Con chó đã gắn bó với cách nghĩ, cách

làm của người Bana. Trong sử thi Bana hình ảnh con chó mang nhiều

chức năng khác nhau chứ không chỉ đơn thuần là con vật nuôi trong gia

đình. Trong sử thi, con vật này đi liền với con lợn là những con vật nuôi

37

thân thiết, được con người chăm nuôi và thường được nhắc nhở trong lời

của các nhân vật:

“… món ăn nào không hết phải gói lại cẩn thận, cơm cũng vậy.

Nếu không muốn ăn cũng phải mang về làng cho con chó, con heo ăn,

chứ đừng bỏ vương lại trong rừng, trên núi..”

Cũng giống như người Việt, chó là con vật nuôi gắn bó với con

người Bana, nó thường được nuôi để giúp đỡ con người, trong công việc

lao động cũng như trong việc trong giữ nhà hàng ngày. Và có rất nhiều

loài chó: chó mực, chó đen, chó đốm.. Trong sử thi loài vật này cũng

được nhắc tên khá nhiều, nó được nuôi trước hết là để trông giữ nhà:

“Thấy khách lạ đến, chó sủa ầm lên…”

Giống như vật nuôi khác - con gà, con chó còn được dùng để báo

hiệu thời gian sáng. Tác giả dân gian thường sử dụng hai hình ảnh này đi

liền với nhau để báo hiệu thời gian:

“Gà đã gáy, chó đã sủa, trời sáng rồi…”

“Thế rồi đêm đã tàn, trời dần dần sáng rõ. Chó sủa râm ran. Mọi

người dậy sớm, chạy đi chạy lại…”

Đối với người Bana, khu vực sinh sống của họ là núi rừng Tây

Nguyên, cuộc sống của họ thời sử thi chủ yếu vẫn là săn bắn và hái lượm.

Vì vậy việc chăn nuôi, đặc biệt con vật nuôi là con chó, chủ yếu vẫn là

phục vụ cho việc săn bắn. Trong Hơ mon Bana, hình ảnh con chó giúp đỡ

con người trong việc săn bắn khá nhiều, nó có thể đi săn mang thức ăn về

cho chủ, nó bảo vệ chủ…

“Ta không cần phải đi xa cho mệt, chỉ chờ chực ở đây, mấy con

chó của ta chúng cắn thú rừng tha về đây thôi. Ta không làm rẫy…chỉ

chờ mấy con chó săn cắn rồi mang đến nhà cho… gày nào chúng cũng

tha về cho các con thú như con mang, con nai…”

Con chó còn là con vật giúp đỡ con người trong việc báo tin - báo

tin cho người ở xa:

38

“Ta sẽ sai lũ chó đây chạy đi báo tin. Khi nào họ thấy lũ chó này

họ biết ngay ta có một việc gì đó rất quan trọng. Thế là họ sẽ đến ngay.

Hai cháu cứ yên tâm”

Nó còn là thợ săn thú rất tốt :

“Dọc đường họ kiếm được khá nhiều đồ ăn như con nai, con sóc

mà chẳng cần bắn. Tất cả là nhờ đàn chó cắn về. Những con thú kiếm

được chất đầy gùi”

Con chó là con vật đánh hơi rất giỏi, trong cuộc đi săn nó giúp con

người phát hiện ra nhưng con vật lạ, đặc biệt là khi có thú dữ đến gần, nó

phát hiện và báo cho con người biết. Trong sử thi Bana có nhiều đoạn

nói về việc đi săn và con chó đã giúp cho con người trong việc phát hiện

ra thú dữ:

“… Sáng sớm hôm sau, đột nhiên con chó của Giông cất tiếng chó

sủa. Tiếng sủa của nó vang động cả núi rừng, vang tới lên đỉnh núi có đá

to, vang xuống dưới thung lũng có rừng trùng điệp dễ sợ, có bãi mía

rừng, có cánh rừng hằnh đường voi đi. Ôi ơ cha mẹ! Con chó vừa đi vừa

sủa, vừa cất lên…”.

Trong một cuộc đi săn, con chó là con vật không thể thiếu, đặc biệt

là con chó đầu đàn nó có vai trò rất lớn. Nó có thể dẫn dụ được các con

khác, nó dẫn đường rất giỏi, nó đánh hơi và phát hiện ra con thú, giúp con

người săn thú rừng và cũng giúp con người thoát khỏi những con vật

hung dữ. Tuy nhiên, trong chuyến đi săn nếu con chó đầu đàn có dấu hiệu

của uể oải, chán nản, không muốn đi thường là chuyến đi ấy, có chuyện

gì đó không may. Lời ông Set - cha của Giông nói với con cái cũng chính

là quan niệm của người dân Bana, khi đi săn, cần chú ý vào con chó đầu

đàn - nó có khả năng dự báo trước cho con người về những điều xẩy ra

trong chuyến đi ấy.

“Cha đã nghe ông bà kể lại lời mấy người đi săn thường nói. Họ

bảo rằng chuyến đi săn nào mà con chó đầu đàn không muốn, thường

39

chuyến đó gặp nhiều chuyện không may. Không biết có chuyện gì không?

Con xem nó có ốm đau gì không?... Phải cẩn thận nghe con, khi con chó

đã không thích đi như vậy là dễ gặp chuyện lắm…”

Và trong chuyến đi săn ấy quả thật. Giông và Giơ đã gặp chuyện

chẳng. Hai anh em bắt gặp một con cọp rừng và đi theo nó bị con cọp

rừng bắt ăn thịt và được hai cô gái có tài phép giúp đỡ. Hai anh emm

thoát được cái chết và giết được cọp, nhưng khi trở về lại rất lo sợ vì cả

đàn cọp sẽ kéo đến phá hoại buôn làng của mình.

Lời của ông Set nhắc nhở con cháu lại một lần nữa nói về vai trò

của con vật nuôi này:

“Đó các cháu thấy không, đã nói trước lại không tin. Con chó có

linh tính nên đã nán lại nhà, chui vào gầm giường rồi. Ông bà từ xưa đã

bảo khi nào con chó đầu đàn không muốn đi, thế nào cũng gặp chuyện..”

Cảm nhận của Giông - ngươi anh hùng trong bộ sử thi liên hoàn

của người Bana - về điều dự báo của loài vật nuôi này:

“Chỉ có một chuyện đó là con chó Bông đực đầu đảng của anh nó

không muốn đi, kéo đi cũng không muốn đi. Hoá ra nó biết chuyện dữ…”

Ngoài ra, hình ảnh con chó với dáng vẻ chầu chực đợi ăn còn được

dùng để chỉ sự khổ đau. Thân phận của nó đã được tác giả dân gian so

sánh để nói đến sự thảm thương trong cuộc sống. Đó là hình ảnh “con chó

chết”, hình ảnh “con chó chực bến” …

Thực chất con chó là hình ảnh vật nuôi trong gia đình rất thân

thiết, gắn bó với con người. Trong cách nói hàng ngày hình ảnh vật nuôi

này thường xuyên xuất hiện, đó là khi thể hiện nét tính cách khiêm

nhường của mình, người Bana thường mượn chúng để diễn tả. Đấy là khi

mọi người nhắc nhở già làng đến khuyên bảo dạy dỗ, con cháu của mình

trước khi chúng rời gia đình mình để về nhà chồng. Trước khi khuyên

bảo, già làng cũng nói rõ đứng trước một chàng trai như Giông - người

40

anh hùng, thì ông lại ấp a ấp úng, nói năng chẳng được rõ ràng Ông đã

mượn đến hình ảnh những con vật nuôi trong gia đình để nói về mình.

“Ai mà so được với chồng cháu, dù tuổi còn trẻ đã nói năng lưu

loát, khéo nói đủ điều. Còn ta, ta chỉ biết lải nhải lúc say, chỉ lớn tiếng

gọi chó, nặng lời gọi heo thôi, chứ nào biết khuyên răn dạy bảo ai

đâu…”

Cũng là vật nuôi thân thiết trong gia đình, nhưng con mèo xuất

hiện trong sử thi không nhiều. Sử thi Bana có nhắc đến hình ảnh này, đó

là con vật rất đẹp “con mèo tam thể, mắt xanh biếc thật trong, to bằng

cườm tay”. Tuy nhiên hình ảnh này xuất hiện trong sử thi lại chủ yếu gắn

cho nó nét thần thoại. Chúng là con vật thần kì giúp đỡ con người, là vật

thần của Yang - thần linh.

Tóm lại những con vật nuôi trong gia đình, xuất hiện trong sử thi

với tần số rất cao. Tuy không đa dạng nhưng nó đã phản ánh được một

thời kì người Bana biết sống nhờ vào trồng trọt và chăn nuôi. Con người

đã sống gần gũi và chia sẻ cùng nhưng con vật quanh mình. Con chó, con

mèo quấn quýt bên chân, giúp đỡ thêm trong công việc săn bắn hái lượm

và bảo vệ con người. Chúng còn có khả năng dự báo cho con người, tạo

được niềm tin trong cuộc sống cho người Bana xưa. Con trâu, bò, dê,

lợn… là tài sản, là thước đo sự giàu có của gia đình và buôn làng. Con

ngựa là phương tiện đi lại của con người. Con gà ngoài vai trò là tài sản,

là nguồn thức ăn không thể thiếu trong các ngày lễ, những cuộc vui thì nó

còn là công cụ để báo hiệu thời gian. Những con vật nuôi này còn là vật

không thể thiếu trong các lễ cúng tế… Tất cả đã làm cho cuộc sống của

người dân Bana thêm sinh động, cụ thể và rõ nét.

1.1.2. Động vật hoang dã có trong tự nhiên

Đây là những hình ảnh xuất hiện với số loài khá cao. Bởi cuộc

sống của người Bana sống trên dải đất Tây Nguyên, không chỉ là trồng

41

trọt chăn nuôi và đánh cá mà họ còn săn bắn. Hơn nữa vào thời sử thi,

nguồn lực kinh tế chính của người Bana chủ yếu vẫn là săn bắn và hái

lượm, nên những con vật nuôi như con chó công việc chính vẫn là phục

vụ, giúp đỡ con người trong công việc săn bắn. Và loài vật tồn tại trong

tự nhiên không thuộc vật nuôi chiếm tỉ lệ khá lớn.

Với 56 loài chiếm 88,9% trên tổng số các loài. Để tiện cho việc tìm

hiểu về những hình ảnh động vật này chũng tôi tạm phân loại động vật

hoang dã theo kích cỡ ( sự phân loại chỉ mang tính chất tương đối). Đó là

động vật lớn và động vật bé. Vì trong sử thi, trong cách nói của người

Bana, có nhiều loài động vật thường xuất hiện cùng nhau. Ví như khi săn

băn, những loại thú rừng như nai, mang, hươu, … thường đi liền với

nhau. Hay nói về những con vật nhỏ bé, những con côn trùng cũng

thường xuất hiện sóng đôi: như con kiến và con mối, con sâu và con

chuột…

1.1.2.1. Động vật lớn

Đó là những loài, nói chung là có kích thước, hình vóc to lớn xuất

hiện trong sử thi. Nhóm động vật lớn phải kể đến đầu tiên đó là con voi,

gấu, hổ, sư tử… Đây là những con vật tượng trưng cho rừng già Tây

Nguyên. Trong sử thi Bana, voi cũng là con vật mà người Bana thuần

dưỡng, để phục vụ cho cuộc sống. Vì vậy, trước tiên hình ảnh này cũng

giống như những gia súc - những vật nuôi trong gia đình, được nói đến để

thể hiện sự giàu có, sung túc của buôn làng. Lời kể của tác giả cho thấy

điều ấy.

“Yang Kôi Kông bảo bia Man đến nói với cha mẹ nàng hãy bắt,

nhốt hết heo, gà, trâu, bò, dê, ngựa, voi lại …”

Mặc dầu trong thực tế, voi là hình ảnh tượng trưng cho núi rừng

Tây Nguyên. Nhưng trong sử thi, hình ảnh con voi lại xuất hiện không

nhiều, nó thường đi liền với con vật khác cho thấy sự phong phú đa dạng

42

của núi rừng. Đặc biệt là âm thanh của nó gợi lên sự ghê sợ và càng cho

thấy sự nguyên sơ của rừng già Tây Nguyên.

“Trong rừng già âm u … đêm về chỉ nghe thấy tiếng hổ gầm, voi

rống… thật là ghê rợn”.

Khi sử dụng những hình ảnh này, tác giả dân gian thường lấy vóc

dáng to lớn của có để so sánh đối chiếu với loài vật nhỏ hơn, làm rõ sự

đối lập. Mục đích là cụ thể hoá một nét khác biệt của nhân vật trong sử

thi. Để nói về người xấu xí, thô kệch, họ thường so sánh đối lập: “… mắt

một bên to bằng mắt voi, còn bên kia nhỏ xíu vừa bằng mắt chuột…”

“ Tai một bên to như tai voi

Tai một bên bé bằng tai chuột”

Cùng sử dụng trong sự đối lập như thế, hình ảnh con voi cũng được

sử dụng ngay cả trong lời dạy bảo, với sự so sánh ví von làm cụ thể hoá

hơn điều mà người lớn tuổi dạy dỗ con cháu của mình. Điều này cho thấy

mức độ thộng dụng của các hình ảnh động vật, trong cách nói quen thuộc

hàng ngày của người Bana.

“Nếu trời cho ta giàu có, ta phải biết nghĩ đến người khác. Ta nghĩ

đến ta và cũng phải nghĩ đến người khác. Khi kẻ hoạn nạn đến cầu cứu

ta, ta không từ chối họ. Ta không ép buộc, ta không gậy khó cho họ.

Người ta bán đồ giá bao nhiêu, nếu mua nổi thì mua, không mua nổi thì

thôi, không ép uổng ai. Của quý giá ta mua theo giá cao. Của rẻ ta mua

theo giá rẻ. Giá của con voi không thể trả bằng con lợn, hay con gà…”.

Không to lớn như voi, nhưng hổ, gấu, sư tử… lại là những loài

động vật xuất hiện cũng với hình ảnh con voi trong sử thi, đó là những

con vật của rừng già Tây Nguyên. Đó cũng chính là khi tác giả dân gian

muốn nói đến sự ghê sợ, âm u, nguyên sơ của núi rừng Tây Nguyên.

Chính âm thanh ghê rợn của những động vật này, “Tiếng gầm của sư tử,

tiếng rống của gấu”; “ Hổ gầm voi rống”… đã mang lại cảnh tượng của

núi rừng đầy rẫy những hiểm nguy.

43

Hổ là con vật tượng trưng cho cái ác, thể hiện ở sự dữ tợn của nó.

Trong cách nói của con người cũng thường lấy nét dữ tợn của con vật này

để miêu tả, để hình dung cho một đối tượng nào đấy. Đó là khi tác giả

dân gian nói về sự tức giận của quỷ Bung Lung, đã mượn hình ảnh động

vật này: “Cái mặt hắn lúc ấy trông thật dữ tợn như con hổ lúc bị đói

không vồ được mồi…”

Đây là nét quen thuộc thường thấy trong cách nói hàng ngày của

con người, đặc biệt là người Bana xưa, vì cuộc sống của họ hoà hợp gắn

bó với thiên nhiên và hình ảnh này cũng là tượng trưng cho sức mạnh,

cho sự ghê gớm đem đến cho con người những tai ương. Điều đó đã

khiến cho hình ảnh này được sử dụng khi nói về sự dữ tợn, hung ác.

Con vật này cũng là đối tượng mà tác giả dân gian thường mượn để

hù doạ con người. Trong sử thi khi nói về anh em Giông Giơ trên đường

trở về với quê hương xứ sở gặp rất nhiều hiểm nguy và chặng cuối của

anh em Giông, Giơ có gặp hình ảnh một con hổ đội lốt bà nội của mình.

Đó là hình ảnh bà Xok Ier giả, thực chất là một con hổ vằn, đã giả làm

người để bắt anh em giông, Giơ. Nhưng nhờ có sự cẩn thận, nhanh trí,

dũng cảm hai anh em đã phát hiện ra và giết chết con hổ đó. Mượn nét

thần thoại này, đã khiến cho những áng sử thi có sức lôi cuốn mạnh mẽ.

“Em có biết bà Xok Ier này không em. Hắn là hổ tinh, là dầu đàn

của lũ hổ. Hắn có thể biến hoá thành người hay thành hổ dễ dàng và hắn

cũng làm ăn như người ta vậy…”

“Bà Xok Ier đâu mất rồi, giờ chỉ thấy một con hổ lù lù nằm đó. Nó

đã hoá nguyên hình. Ôi ghê gớm thật…”

Mặc dầu hổ là con vật nguy hiểm, hung dữ nhưng với người dân

Bana đã có lúc nó trở thành đối tượng mà họ muốn thuần dưỡng. Chính là

khi nói về người anh hùng - Giông trong sử thi Bana, một con người có

sức mạnh, có lòng dũng cảm, mang vẻ đẹp tài hoa… Một trong những

cách nói vể tài năng của Giông tác giả dân gian nói đến chi tiết, chàng

44

Giông đã bắt và thuần dưỡng con vật này trở thành vật nuôi giúp đỡ con

người trong việc săn bắn hái lượm.

“Đã đến giờ hai anh em Giông, Giơ đi làm về. Tiếng chuông lục

lạc ở đâu đó vang lên. Tiếng chó sủa ầm lên và tiếng hổ gầm gừ đi

trước… Ba bốn con vật đó Giông vừa mới bắt từ rừng về nuôi để dắt

chúng đi săn. Đánh hơi nghe mùi từ người khách già đang ở trong nhà

nên chúng sủa ầm vang lên.”

Mang nét hung dữ, gây hiểm nguy đến cho con người cùng với con

hổ, phải kể đến cọp, sư tử. Chúng đều là những con vật hung ác gây khổ

đau cho con người. Theo suy nghĩ của Giông, nó chính là con vật đại diện

cho cái ác, đã ăn thịt cha mẹ của chàng: “Anh đoán đấy chính là cọp, là

sư tử đã ăn thịt cha mẹ chúng ta…”. Nó còn được coi là chúa tể rừng:

“Gặp con thú khác còn đỡ lo, ai lại gặp phải chúa tể rừng, con cọp to

tướng đến thế. Cha mẹ cứ khóc mãi vì tưởng nó ăn thịt các con rồi. Làm

sao các con có thể chém được con cọp ghê gớm dễ sợ ấy cơ chứ.”

Đây là con vật có vai trò đáng kể trong sử thi. Nó là đầu mối dẫn

đến cuộc chiến giữa những người anh hùng với kẻ ác, kể xấu. Và nó cũng

chính đầu mối dẫn đến cuộc hôn nhân giữa những người anh hùng với

các cô gái đẹp. Đó chính là hai đề tài chính trong sử thi Bana. Động vật

với chức năng dẫn dắt cốt truyện, đôi khi sử thi sự dụng nét thần kì hoá

tạo sức hấp dẫn và cũng là nâng cao tầm vóc của người anh hùng. Hình

ảnh con cọp, trước hết nó là đối tượng đi săn của anh em Giông, Giơ. Khi

hai anh em đã giết chết cọp đầu đàn của Dăm Dơ Dang, thì Dăm Dơ

Dang đã cử cả đàn cọp với hai con thay thế con đầu đàn dẫn đường là Ju

Brông và Năk Nun xuống tàn phá sạch mọi của cải của làng Giông, ăn

thịt hết cả người và thú vật. Nhờ có thần linh giúp đỡ dưới lột con mèo

thần, dân làng của Giông đã thoát nạn. Và Dăm Dơ Dang thấch đấu với

Giông, cuối cùng bị Giông chém chết. Tiếp tục cuộc chiến là những

người bạn của Dăm Dơ Dang đến giúp Dăm Dơ Dang đánh nhau với

45

Giông. Chị em Rang Năr và Xem Yang theo dõi anh em Giông thấy họ

gặp nguy hiểm, bị cọp bắt và chuẩn bị ăn thịt , họ đã dùng phép thuật của

mình cứu giúp hai anh em và họ đã hứa kết thành vợ chồng. Trong cuộc

chiến với những kẻ thù hung bạo hai chị em Xem Yang và Rang Năr còn

giúp anh em Giông, Giơ đánh bại Dăm Dơ Dang và đồng bọn .

Trong số những loài vật to lớn phải kể đến loài diều hâu. Đây là

loại vật mà sử thi Bana thường dùng để nói về sự mạnh mẽ, nhanh nhẹn

và nó luôn sống cô đơn. Đó cũng chính là tập tính của loài vật này. Vì

vậy để có thể di chuyển nhanh, con người trong sử thi thường biến hoá

thành chim diều hâu.

“Đường xa nên Ot Plenh đi từ sáng sớm. Chàng hoá thành con

chim diều hâu bay lên trời cao. Chành bay mất khoảng nửa ngày thì đến

nơi. Trước khi hạ cánh, chành lượn vòng trên bầu trời để ngắm nhìn”

“Anh đi trước đi. Cứ để chúng em đi sau. Anh về dưới kia rồi sẽ

thấy sáu con chim diều hâu lớn với bộ lông có màu sặc sỡ đang bay lượn

trên trời mây, đó chính là chúng em…”

Diều hâu cũng là con vật mang vẻ đẹp, đôi lúc trong sử thi để làm

rõ hơn vẻ đẹp của con người - người con gái đẹp, cũng thường đưa con

vật này ra để so sánh.

“Sắc đẹp của hai nàng con diều hâu cũng không sánh kịp. Sắc đẹp

ấy khi soi xuống nước, nước cũng sáng lên rực rỡ”

Khi không đồng ý, không hài lòng với công việc của người thân vì

những công việc ấy gây ra sự khổ đau cho con người. Thì những người

em (chủ yếu là phụ nữ) luôn lấy thân mình ra để ngăn cản và họ thường

luôn ví mình sẽ biến thành chim diều hâu để bay mãi, để sống trong cô

đơn nếu như người thân của mình không nghe theo lời khuyên bảo: “Nếu

không sau này con sẽ biến thành cánh chim bay đi khắp phương trời đó

cha. Con sẽ trở thành chim diều cô đơn lẻ loi mà thôi”; “Em mong ước

46

hoá hoá thành con diều hâu bay lượn, kiếm ăn trong rừng vắng. Nơi nào

có rừng rậm thì nơi đó em sẽ đến, sẽ ở….”

Thuồng luồng và cá sấu cũng là những con vật to lớn. Trong sử thi

có xuất hiện hình ảnh động vật này và chúng có chức năng giống nhau.

Đó là những con vật hung dữ, gây nguy hiểm cho con người, nó sống ở

vùng sông nước. Trong sử thi khi nói về vùng sông nước, nhất là khi nói

về thiên nhiên hoang dại, hiểm nguy thường xuất hiện hình ảnh động vật

này. “Con sông lớn ghê gớm, dưới dòng sông ấy có biết bao nhiêu là cá

lớn, có cả thuồng luồng và cá sấu… Những đàn cá lớn, những con cá sấu

ghê sợ xuất hiện ở đây…”; “Dưới nước toàn là cá sấu bơi lội! Nơi này

hoang vắng, không có ai dám đến đây cả”; “Nước ở đây rộng bao la, bên

bờ có những tảng đá to, những tảng đá đốm, những cây cổ thụ cao to và

một cây đa, nơi ẩn trú của con rồng, cá sấu và các loài rắn độc khác”

Hầu hết những con vật của thế giới tự nhiên, đặc biệt là những con

vật có hình vóc to lớn đều là những loài vật tượng trưng cho sức mạnh,

mang nguy hiểm đến cho con người. Nó đều là những loài vật của rừng

già Tây Nguyên, đem đến cho núi rừng Tây Nguyên nét hoang sơ kì vĩ,

chứa đầy màu sắc của thiên nhiên bí ẩn thời sử thi.

1.1.2.2. Động vật nhỏ

Đây là những loài chiếm số lượng hình ảnh thật phong phú với sự

xuất hiện của đủ dạng hình ảnh, với nhiều môi trường sinh sống khác

nhau. Cho thấy sự nhận thức của người Bana về thế giới tự nhiên quả là

đa dạng và phong phú.

Xét về số lần xuất hiện thì hình ảnh con cá là hình ảnh có tần số

xuất hiện cao nhất trong sử thi. Hình ảnh này cũng là hình ảnh tiêu biểu

cho môi trường nước, cùng với tôm, cua, ốc, ò, ếch nhái, lươn. Xét cùng

với những loài cùng sống trong môi trường nước thì có sự chênh lệc giữa

các hình ảnh, thậm chí là có sự cách biệt rất lớn. Hình ảnh cá với 249 lần

47

xuất hiện cao gấp 9 lần so với hình ảnh có vị trí thứ hai cùng trong môi

trường nước là cua ( 27 lần). Có thể nói hình ảnh con cá là hình ảnh xuất

hiện bao quát nhất trong môi trường nước.

Cũng như các động vật khác, cá là thực phẩm trong gia đình, là

món ăn ngon, sang, dùng để mời khách quý, mời người thân. Trong sử thi

Bana có khá nhiều trường đoạn nói về món ăn từ cá. Họ mời mọc nhau,

họ thực tâm hiếu khách nên trong lời mời của họ loài vật này với vai trò

là một món ăn thơm ngon, thành loài vật mang giá trị cao và đôi lúc còn

được cụ thể hoá theo loài: “Hai người em gái xinh đẹp của Giông Trong

Yuăn là Brăt Vai và Brai Sem lo cơm nước xong xuôi, liền mời hai chú và

anh mình ăn. Cơm gạo thơm ngon, thịt cá vàng, cá bạc, cá chình ngọt bùi

thơm ngon”; “Về thức ăn nếu cứ ăn mãi thì lợn, gà cũng ớn cũng ngán,

thỉnh thoảng ta vào rừng săn con mang, con nai hay mò dưới suối kiếm

cá, ếch nhái, cua tôm để ăn thay đổi món”; “Muốn ăn cá có cá, muốn ăn

ếch có ếch, không thiếu thứ gì “

Hình ảnh con cá ngoài vai trò là nguồn thực phẩm quan trọng, chủ

yếu của người Bana xưa, thì loài vật này còn là sự giầu có phong phú của

sông hồ ở Tây Nguyên: “Nếu muốn ăn cá đến con suối kia mà bắt, cá

lóc, cá trê, …Cá lớn, cá nhỏ đủ cả …”; “Dưới dòng suối kia, hắn đặt lờ,

đó trúng nhiều cá. Nào cá trê, nào là cá lóc, lươn. Giông chẳng thèm lấy

làm gì. Giống lấy cái lờ đổ hết tôm, cua, cá xuống nước rồi vứt bỏ cái lờ

vì không ai dùng nữa”; “Trong nhà đầy lúa gạo, ngoài đồng rau cải

thiên nhiên mọc xanh tươi, ngoài sông suối cá nhiều vô kể. Yang ban cho

chúng ta mà sung sướng vô cùng”; “Đến thung lung dưới đồi dốc có cây

đa lớn. Có dòng suối nhỏ chảy róc rách, lòng suối trong vắt đầy cá bơi,

…. Nước trong mát quá, có thể tắm được. Ôi cá sao mà nhiều vậy ngắm

thật thích mắt”

Chính vì là nguồn lợi kinh tế khá lớn của người dân Bana, phục vụ

cho cuộc sống của con người nên công việc đánh bắt chúng cũng được sử

48

thi mô tả khá kĩ. Nó đã trở thành công việc hàng ngày, hoặc lúc nông

nhàn của tộc người Bana. Trong sử thi có rất nhiều đoạn nói về niềm vui

vì đánh bắt được nhiều cá. Chính chúng đã cho thấy sự giàu có của sông

suối Tây Nguyên.

“Hai chú Dong, Vawt xuống đặt sa. Sơk ruăh Sơ Krôi lấy đất đắp

bờ chặn nước. Một lúc sau đã thấy cá bơi tung tăng hàng đàn. Ai cũng

vui mừng vì thấy có nhiều cá..

Sơkruăh Sơkrôi tươi cười nói:

Ôi chu cha bắt cá hôm nay

Nhiều con ta, ta thật gặp may

Chưa khi nào được nhiều thế này

Ma Dong, ma Văt, Sơkruăh Sơkrôi bắt cá đầy ắp cả hai gùi mà vẫn còn

lại rất nhiều. Trong cái sa, cá cũng đã đầy. Ba người vui sướng trong

lòng, sửa soạn qua bến nước tắm rửa rồi trở về”

Công việc đánh bắt loài vật này là công việc yêu thích của con

người, được làm lúc rảnh rỗi - khi mùa nương rẫy đã kết thúc.

“Giông lên nhà rông thấy mọi người, có cả đàn ông, đàn bà, con

trai, con gái, trẻ nhỏ đang tụ tập cười đùa vui vẻ. Có người rủ nhau đi

xuống suối tìm cá hay bắt ếch. Chả thiếu gì cách tìm đồ ăn. Sau mùa

trăng làm việc vất vả mệt nhọc, mọi người đang nghỉ ngơi dưỡng sức

uống rượu chơi, tìm rau ăn cho no bụng…”

Việc đánh bắt nhưng loài vật này, là thú vui của người dân Bana

lúc nông nhàn, là công việc lao động thường ngày để kiếm thức ăn.

“Trông to vang vang

Trống nhỏ rồn rập

Báo mọi người biết

Ngày mai làng cữ

Trẻ già, trai gái

Nghỉ làm đi chơi

49

Bắt cá bắn chim

Kiếm thịt thay rau”

“Đây là mùa nắng ráo, là tháng ngày ăn chơi vui đùa thoả thích. Ai

muốn ở nhà ăn uống thì mặc. Còn ai muốn vào rừng kiếm ăn, đi săn bắn

con thú rừng hay đi tìm hái rau, hoặc đi xúc cá dưới sông suối thì tuỳ. Ai

muốn đi bắt ốc, bắt cua, bắt ếch nhái đâu đó, cứ đi…”.

Họ thường rủ nhau đi tát nước bắt cá:

“ Sơ Kruăh Sơ Krôi cất tiếng:

A ơ này ma Dong nhanh nhẹn

Ơ ma Văt thương yêu con người

Ta cùng đi bắt cá sông Ba

Gần bến nước làng ta các chú”

Trong sử thi xuất hiện khá nhiều đoạn nói về việc, con người gọi

nhau, rủ nhau đi bắt tôm, cua, cá vào những lúc nông nhàn. Hình ảnh con

cá với công việc đánh bắt đã trở thành tiêu biểu đặc trưng cho những loài

vật sống trong cùng môi trường nước. Từ lâu hình ảnh cá đã bắt gặp trong

cuộc sống sinh hoạt của người dân. Với dân tộc Việt Nam sinh tồn và gắn

bó mật thiết với không gian sông nước từ bao đời nay. Đây là hình ảnh

tương ứng với thực tiễn, bởi người dân Bana chủ yếu sinh sống gắn bó

với sông nước. Trong sử thi chủ yếu nói về chàng Dăm Giông người anh

hùng của xứ sở thượng nguồn có mối quan hệ với các làng khác, vùng

khác phía hạ nguồn. Có nghĩa cuộc sống của họ gắn bó theo dòng nước,

quê hương xứ sở của họ được gọi theo nơi định cư gắn với con sông nào

đó (phía thượng nguồn và phía hạ nguồn). Vì vậy hình ảnh cá thường

xuất hiện trong sử thi.

Ở đây theo nghĩa thực là cá sống ở ao, hồ, sông, suối, biển… với

những đặc điểm sinh học cụ thể. Trong cơ cấu bữa ăn của cư dân Bana

xưa, cũng như trong bữa ăn của người Bana nay, thì nó là thực phẩm

không thể thiếu. Đó là sản phẩm đặc trưng của vùng sông nước.

50

Cá chủ yếu là một đối tượng săn bắt tồn tại tách biệt với cuộc sống

con người nhưng sở dĩ chúng xuất hiện nhiều lần như vậy cũng cho thấy

sự quen thuộc về hình ảnh với người dân Bana. Hơn nữa lí do để hình ảnh

cá xuất hiện nhiều nhất trong các hình ảnh động vật có trong sử thi Bana,

chính là do lối trì hoãn, lối lặp lại mang tính khuôn mẫu của sử thi khiến

cho hình ảnh xuất hiện nhiều. Và nó vẫn mang chức năng chính là sản

phẩm của vùng sông nước phục vụ cho bữa ăn của con người.

Hình ảnh con cá đã trở thành hình ảnh quen thuộc với người Bana.

Trong lời nói của họ nó luôn được dùng để so sánh, để đối chiếu làm cụ

thể hoá lời nói bằng hình ảnh. Chính nhờ cách nói thô sơ mộc mạc ấy,

khiến cho sử thi luôn chứa đựng những nét hồn nhiên thô phác của con

người thời sử thi. Hơn nữa nhờ cách nói này mà sử thi tạo được sức hấp

dẫn đối với bạn đọc. Đây là nói của Giông khi đối đáp với cụ già làng:

“Ở nước nào, ở xứ nào cũng vậy người ta đâu lựa chọn bậy bạ người vô

dụng mà luôn tìm người đáng tin cậy. Cũng như trong ao có nhiều cá, có

cá to cá nhỏ, người ta phải cân nhắc chữ ạ”.

Con cá trong quan niêm của người Bana, còn là con vật hung dữ,

giống như các loài như cá sấu, thuồng luồng… Nó được mô tả to lớn,

sống ở vùng biển rộng. “Hắn cần được loại trừ và ném xuống giữa lòng

biển rộng, cho các loài cá lớn ăn thịt…Có con cá to miệng đầy răng

nanh lao tới nuốt lấy.”

Như vậy có thể thấy, hình ảnh con cá mang trong mình khá nhiều

chức năng khác nhau: tượng trưng cho thiên nhiên hoang sơ, dữ dằn, cho

sự phong phú bất tận của thiên nhiên, là nguồn nguyên liệu tạo nên nhưng

món ngon và hấp dẫn như những vật nuôi trong gia đình. Đôi khi nói về

sự khinh rẻ của con người với một đối tượng nào đó, thì trong sử thi cũng

mượn hình ảnh con cá: “Giông vung gươm chén Bung Lung thành nhiều

khúc, xô xuống biển rộng sâu. Cá nhìn thấy chẳng thèm đớp vì chỉ là một

51

đống xương khô. Da thịt của hắn đã bị tan biến ngay lúc Giông chém giết

hắn”.

Cũng giống như những loài vật khác sống ở môi trường nước, ếch

nhái cũng là những thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày của người Bana.

Công việc đi săn bắt nó cũng thường diễn ra trong những ngày rảnh rỗi.

Theo cách nghĩ của người Bana xưa thì núi rừng Tây Nguyên rất đa dạng

và phong phú về động vật. Nó là nguồn thức ăn dự trữ lớn, bất tận của

người Tây Nguyên. “Họ bảo không cần đem thức, ăn vào rừng thiếu gì

con thú, dù không bắn được con chim thì cũng bắt được con ếch nơi dòng

suối nhỏ…”

Thế giới loài vật trong sử thi quả là phong phú, không chỉ được

miêu tả trong cùng một không gian sinh tồn, mà chúng còn được miêu tả

ở nhiều không gian khác nhau. Điều đó phản ánh nhận thức của người

Bana về cuộc sống xung quanh là khá đầy đủ và chi tiết.

Loài chim là loài vật được được người dân Bana nói đến khá nhiều

trong sử thi. Với số lần xuất hiện và loài chim cụ thể được kể tên thì có

thể thấy rằng chim là loài vật được người dân Bana quen thuộc và gắn bó

trong đời sống của cộng đồng người Bana trên dải đất Tây Nguyên. Hình

ảnh loài chim là hình ảnh tượng trưng cho không gian rộng lớn, bầu trời

bao la. Vì vậy hình này thường gắn với sự bay bổng được thể hiện trong

suy nghĩ của người dân Bana. Đã có rất nhiều hình ảnh cánh chim với sự

tự do bay lượn được nói đến trong sử thi. Đó là những hình ảnh khi nói về

vẻ đẹp của con người, được tác giả dân gian so sánh với con chim trên

trời và con cá dưới nước:

Hơn nữa nhờ vào dáng vẻ tự do tung tăng bơi lội, nhờ vào vẻ đẹp

thướt tha của loài vật này, mà tác giả dân gian đã mượn nó để so sánh với

con người. Đặc biệt là khi miêu tả dáng đi của những cô gái đẹp, họ

thường so sánh với con cá dưới nước và con chim trên trời: “Nàng bước

52

đi nhẹ nhàng uyển chuyển, tựa như cánh chim én liệng trên trời, như con

cá lượn lờ dưới nước…”

Tuy nhiên hình ảnh con chim không đơn thuần như vậy, mà nó còn

bao hàm nhiều nét đặc trưng khác nữa mà trong sử thi Bana đã đề cập. Đó

là âm thanh của nó, tiếng chim kêu được nhắc đến khá phổ biến trong sử

thi. Âm thanh ấy trước hết là dấu hiệu của thiên nhiên, nó là âm thanh

không thể thiếu của núi rừng. Chính âm thanh này đã tạo nên một khung

cảnh thiên nhiên đầy nét hài hoà tương đồng, tạo nên sức cuốn hút khi

đến với núi rừng Tây Nguyên.

“ Họ đi qua một khu rừng già, nghe tiếng chim ca hót, tiếng vượn

kêu khỉ hú…”

“Ôi đẹp biết bao nhiêu! Trên bầu trời cao xung quanh, không một

áng mây mù che khuất. Khắp mọi nơi trong rừng rú tiếng hót của chim

muông rộn ràng như chào mừng một ngày rằm sắp đến và ngày đám cưới

của Giông sắp gần kề”

Đây là đoạn văn miêu tả cảnh Giông, Giơ và anh em, các cậu đến

làng của Jrai, Lao để hỏi tội. Vừa đến đầu làng mọi người đứng ngoài

đợi, chỉ Giông và Giơ vào làng. Trong lúc đợi tác giả dân gian xen vào đó

một khung cảnh thiên hiên đầy mơ mộng với âm thanh của tiếng chim

rừng:“… ánh nắng vừa chiếu qua đỉnh đồi… Đó đây tiếng chim rừng líu

lo hót vang trong nắng sớm, với tiếng hót của chim khướu đón mừng

nắng ấm”. Đặc biệt là khung cảnh thiên nhiên nơi nhà trời, không thể

thiếu được âm thanh tiếng chim kêu, nó là hiện thân cho sự thanh bình,

vui vẻ: “Ôi đâu đây nghe tiếng chim hót ca rộn ràng trong trời mây. Nhà

trời đẹp quá… Các cô gái thích thú ngắm nhìn những con bươm bướm,

con chim chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, lại nghe tiếng chim hót du dương…

Bia Lui vui sướng kêu lên:

- Đất nước của ông đẹp quá, chẳng có gì lo buồn cả”

53

Đặc biệt tiếng chim kêu còn có chức năng rất lớn và trong sử thi

phản ánh rất rõ. Đó chính là nhờ âm thanh tiếng chim kêu có thể báo

được điềm lành dữ. Đây đã trở thành một quan niệm của người dân Bana:

“Con chim hót báo hiệu không chỉ một lần, nó phải hót ba bốn lần trước

khi tới nơi. Và cũng còn phải xem cả mấy con kiến vàng có cánh bay

ngang nữa thì mới biết chắn được. Nếu tới vùng đầu sông mà chim vừa

hót vừa bay từ phải sang trái là báo hiệu điềm lành, còn nếu chim vừa

hót vừa bay từ trái sang phải là báo hiệu điềm dữ”.

Người Bana xưa dường như rất tin vào điều này vì vậy trước khi đi

đâu đó, hoặc làm một việc trọng đại họ thường cầu khấn Yang. Và trong

lời cầu khấn ấy luôn xuất hiện loài vật. Và loài chim là một trong số động

vật xuất hiện nhiều nhất dưới nhiều ngôn từ khác nhau. Mục đích để tìm

hiểu xem chuyến đi của mình có gặp may mắn hay gặp những điều rủi ro,

để còn có thể liệu tính trước. Đây là lời Giông Trong Yuăn cầu khấn

trước chuyến đi của mình:

“Chô Yang, nếu lời tôi con yang

Có sức mạnh, có tài giỏi giang

Đúng như ý mẹ mong cha muốn

Tôi gọi blang rừng sâu

Bay về đây hót cho tôi nghe

Nếu tôi bị người ta đánh chém

Chim sẽ hót từ đằng sau tới

Hoặc hót từ bên này, bên kia sông suối

Con kì đà ra chặn mặt khiên

Ông cọp rừng chặn đường hù doạ

Nếu tôi gặp những điều may mắn

Chim bên trái đường sẽ hót trước

Chim bên phải đáp lời tức khắc

54

Giông Trong Yuăn dứt lời, một lát sau, đã nghe tiếng chim blang hót lanh

lảnh bên trái rồi bên phải, Giông rạo rực mừng vui, đầu nghĩ rằng

chuyến đi này sẽ gặp nhiều may mắn”.

Chim blang chính là chim chào mào, chèo bẻo, chúng có khả năng

dự báo cho con người nhờ vào tiếng hót. Người Bana thời sử thi rất tin

vào điều này vì vậy họ thường mượn hình ảnh loài vật này để đoán định

trước chuyến đi của mình và cầu khấn chúng báo hiệu trước cho mình

trong mọi chuyến đi, thông qua tiếng kêu của chúng.

Tín ngưỡng này của người Bana dường như rất linh thiêng, họ rất

tin tưởng vào việc báo trước của những loài động vật này. Vì vậy khi làm

bất cứ một công việc gì họ đều cầu khấn loài vật này để biết được điều

lành dữ, họ rất tin tưởng vào tiếng hót báo hiệu của nó. “Bọn họ đi được

gần một tháng rồi mà vẫn chưa đến nơi. Jrai, Lao, Pư Pưng, Xor Mam

chờ tới khi đến gần vùng đầu sông thì mới gọi chim chào mào xem điềm

lành, điềm dữ. Trong ngày xuất quân, lúc đầu bước chân vào rừng Jrai

và Lao đã gọi chim chào mào lần thứ nhất và chim đã hót báo hiệu điều

tốt lành, điềm chiến thắng cho họ. Chính vì vậy nên đoàn quân của Jrai

và Lao lên đường thật hùng dũng”.

Trong sử thi Bana, thường có những trận chiến và trước mỗi trận

chiến ấy, mỗi người tham gia đôi lúc nhờ vào những loài động vật để làm

dự báo cho trận đánh sắp diễn ra của mình. Thực chất việc báo điềm lành

dữ, thì người Bana thường mượn đến rất nhiều loài động vật chứ không

riêng gì loài chim. Nhưng loài chim vẫn là hiện thân cao nhất của sự báo

hiệu điềm lành gở, trước mỗi trận chiến. Vì vậy người Bana thường có lời

cầu khấn với loài chim: “Chim ơi nếu chim cất tiếng hót, chúng ta sẽ giã

gạo cho ăn. Hãy hót đi chim, hãy hót cho tốt nhé. Hãy hót cho tác giả

được chiến thắng! Hãy hót đi mau lên ! Hãy cho tác giả được đánh thắng

để tác giả được ăn ngày, uống đêm, không phải được làm lụng gì”

55

Với lời kể rất chi tiết sinh động, tác giả dân gian đã khiến người

nghe như thâm nhập rất sâu vào đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người

Ba Ba xưa. Đó chính là khi miêu tả tiếng hót của chim báo trước tương

lai - điềm gở: “… trước kia nó cất tiếng hót tốt, nhưng giờ thì tiếng hót

của nó thật xấu. Tiếng hót ghê rợn từ phía trước về phía sau, tiếng hót

phía sau nhiều hơn tiếng hót phía trước. Con hươu, con nai cùng kêu, con

chim cứ bay qua bay lại che mắt bọn chúng. Rắn chặn đường, những con

ong kéo đến đốt làm chúng kêu la, hú hét chạy khắp núi rừng”

Điềm lành - báo hiệu niềm vui, niềm hạnh phúc. Đó là khi Rang

Năr và Xem Yang kết thân với hai anh em Giông, Giơ. Qua lời trách của

Rang Năr với Giơ khi Giơ tỏ ra khinh miệt hai chị em lúc họ biến thành

những con người già nua xấu xí. “… Mặc dù gương mặt thấy già nhưng

qua việc làm, đáng lẽ hai chàng cũng đoán ra chứ. Bà nội cũng đã nói,

hai chàng cũng đã nghe rõ rồi. Từ khi hai chàng chưa đặt chân đến đây

có thấy chim nào bay ngang không mà sao bây giờ chim rừng bay ngang,

chim klang bay qua, tìm đến Giông, Giơ. Chàng thấy điều đó không…”

Ngoài việc báo điềm lành – gở thì loài vật này còn được sử thi

miêu tả ở góc độ khác nữa. Đó chính là nơi ở của chúng, người Bana rất

khiêm tốn nên khi mời mọc khách thường ví ngôi nhà của mình giống

như nơi ở của loài chim rất nhỏ bé. Họ thường mời mọc khi có khách:

“Lên nhà, lên nhà đi hai chú

Nhà cửa ở đây như ổ chim cu

Nhà che mưa cũng chẳng kín nổi

Nhà tránh nắng cũng không được mát

Đừng ngại ngùng hai chú vào đây

Vào thăm nhà để biết

Tổ chim cu, chim cưởng

Vào chơi rồi lại đi”

56

“Các anh cứ ăn no đừng ngại! Tác giả gọi đây là nhà nhưng nhà

tác giả chỉ như chuồng chim bồ câu, không che được mưa nắng. Đây là

ngôi nhà tranh thôi…”

“Nói là nhà mà chẳng ra hồn. Nó tựa như tổ chim khướu, như

chuồng chim bồ câu. Mùa mưa bị dột, mùa nắng không đủ che nắng

gió…”

Cách nói này được lặp đi lặp lại, tạo nên nét đặc trưng của sử thi

cho thấy sự hồn nhiên, chất phác của người Bana thời sử thi.

Loài chim ngoài chức năng để diễn tả thiên nhiên đẹp đẽ, dùng báo

hiệu điềm lành gở cho con người…. Loài vật này còn giữ chức năng như

một nhân vật trong sử thi. Với sự nhanh nhẹn, nhỏ bé con người đã muốn

hoá thân thành loài chim để được như chúng. Trong sử thi có khá nhiều

trường đoạn nói về việc, con người muốn đi được nhanh chóng thường

hoá thân thành cánh chim. Đó là nét thần thoại thường thấy trong sử thi.

Hơn nữa loài chim theo quan niệm của người Bana xưa, chúng còn

là loài tinh khôn, biết nhiều nên chúng có khả năng dự báo cho con

người. Và vì vậy con người thường biến thành loài chim để tìm hiểu mọi

việc xung quanh: Đó khi là khi chàng Giông nghe loáng thoáng trong

rừng có tiếng động ầm ầm khác thường. “… Anh hỏi cha mẹ và các em

nhưng không ai rõ. Để biết rõ ràng hơn, anh hoá thành con chim bay

khắp khu rừng, tìm hiểu mọi chuyện”. Đó là chàng Kram Ngai biến thành

chim để đi tìm người yêu, mục đích là che mắt mọi người: “Kram Ngai

đâu có hiện nguyên hình người mà hoá mình thành một loài chim cho nên

không ai có thể ngờ được”. Sự biến hoá ấy đã tạo được sức mê hoặc, sự

thần kì đó chính là nét cuốn hút của sử thi. Đó cũng chính là nét đặc trưng

không thể thiếu của sử thi.

Nhân vật trong sử thi đôi lúc được tác giả dân gian gọi như con vật

đáng yêu. Con vật ấy đã trở thành một nhân vật không thể thiếu trong sử

thi . Điều đó cho thấy sự thân thuộc của thế giới động vật với người Bana.

57

“Thôi phải đi thôi, những bước chân hơi nghiêng ngả, trông như lả

lơi khêu gợi. Thôi đừng ai chú ý đến bước đi đã sai mất rồi không còn

như mọi hôm,… đừng nhìn lại bước đi đã sai rồi. Này con chim kia ơi!

Chim hãy bay lên đừng ngả nghiêng bên này bên kia”

Trong sử thi loài chim còn được nhắc đến với vai trò là một nhân

vật canh giữ sức mạnh cho loài quỷ, nếu như loài quỷ ấy trú ngụ ở một

cây to nào đó. Tác giả dân gian không cụ thể hoá nhân vật này như thế

nào mà chỉ gọi nó là chim thần.

“Cây cổ thụ thân to, đi vòng quanh thân cây một ngày chưa hết.

Xung quanh gốc cây toàn những tiếng quỷ, tiếng thần thì thào. Trên cây

có con chim thần canh giữ”

Con chuột, con sóc, con sâu còn được con người đội lốt để giúp đỡ

người thân của mình. Vì trong sử thi, thường có những trận chiến và

thường nó diễn ra rất ác liệt không phân thua thắng bại, loài quỷ chiến

đấu càng ngày càng hăng không hề biết mỏi mệt, con người khó có thể

chiến thắng được nếu không có sự giúp đỡ của thần linh và người thân.

Vì loài quỷ có sức mạnh ghê gớm và sức mạnh ấy được ẩn chứa, cất giấu

ở đâu đó. Và để đánh thắng được những kẻ như vậy thì phải phá bỏ sức

mạnh đó. Và thông thường để tìm đến được nơi cất giấu sức mạnh là rất

khó. Có thể là ở dưới bảy tầng đất, bảy tầng trời, trong gốc cây cổ thụ…

có người hoặc vật canh giữ. Để tìm được đường đến nới cất giấu sức

mạnh của đối phương con người thường phải biến thành loài vật nhỏ bé

để có thể chui rúc được sâu xuống lòng đất, hoặc qua được bảy tầng

trời…

“Họ lấy gậy thần dò tìm đúng gốc cây cổ thụ và đào lỗ xuống. Họ cùng

nhau hoá thành ba con chuột chui xuống lỗ đào. Cây gậy thần khoét đến

đâu họ chui theo đến đó, dần dần tới được tầng đất sâu”.

“Em à cái lỗ nhỏ quá. Làm thế nào chị em mình có thể chui qua được

nhỉ. Hay là bây giờ chị em mình hoá thành con chuột nhé. Vật của thần

58

đã đi trước rồi khoét sâu xuyên qua bảy tầng trời và bảy tầng đất rồi.

Thôi hai chị em mình hoá thành con chuột bò qua theo đường đục khoét

ấy.

Sau ba ngày, ba đêm, hai chị em hoá chuột đã qua bảy tầng trời bảy tầng

đất và đã đến nơi thế giới âm phủ, nơi ở của Bung Lung….

Cây gậy đi trước, Bia Lui và reng Chăm theo sau đội lốt của con chuột.

Sau ba ngày ba đêm, họ đã đi đến được xứ sở của Bung Lung…”

Loài chuột với đặc tính nhỏ bé, chui rúc đã được tác giả dân gian

mượn để giúp cho nhân vật trong sử thi. Bằng cách hoá thân thành những

loài vật này:“Bia Lui và chị dâu biến thành hai con chuột trắng tinh cầm

theo rìu sắt, bò theo lỗ khoắng của cây gậy ngọc ngà mà ông Glaih đã

giao cho. Một lớp rồi hai lớp đá bọc bị bể ra, đến lớp đá thứ ba thì thật

khó. Đây là lớp đá bọc thiếc tạo nên sức mạnh của Pư Pưng”.

Phần lớn việc hoá thân này là những cô gái, đó có thể là vợ là em

gái của người anh hùng. Họ nhờ sự giúp đõ của thân linh và bản thân họ

cũng có những phép thuật thì mới có thể giúp đỡ được chồng hoặc anh

trai của mình. Hầu hết tất cả những chi tiết này xuất hiện trong sử thi

Bana, thì người phụ nữ đều phải hoá thân thành những con vật bé nhỏ

như vậy. Rõ ràng với chức năng là một trợ thủ cho nhân vật chính, giúp

nhân vật chính vượt qua những khó khăn gian khổ trong cuộc sống cũng

như trong chiến đấu. Loài vật đã có chức năng nhất định, thậm chí không

thể thiếu trong sử thi Bana nói riêng và sử thi Tây Nguyên nói chung.

Những con vật bé nhỏ như con sâu, kiến cũng được sử thi nhắc đến

với những chức năng khác nhau cho thấy sự đa dạng về loài vật trong

cảm quan của người Bana xưa. Những con côn trùng như ruồi, muỗi, bọ

chét, ong…cũng xuất hiện khá nhiều trong sử thi. Phần lớn chúng được

dùng để khái quát hiện thực cuộc sống của người Bana. Họ thường dùng

trong cách nói hàng ngày, và đó là những loài xuất hiện khá nhiều và hiện

hữu xung quanh cuộc sống của con người. Chính cách nói này cho thấy

59

sự hồn nhiên, ngây thơ trong cách nói, trong cách phản ánh hiện thực của

người Bana xưa:“Mời hai anh lên uống miếng nước. Hai anh đến đúng

lúc bọn em có nhà. Thế à, cứ để cho hai anh đứng đợi lâu ở dưới đất, bọn

em thật có lỗi nặng. Tội nghiệp các anh đã bị muỗi đốt, bọ chét cắn. ở

làng bọn em đây dưới đất có rất nhiều bọ chét, còn trong nhà thì có rất

nhiều muỗi. Biết làm thế nào. Đành chịu vậy thôi”

Loài côn trùng này theo tín ngưỡng của người Bana xưa, chũng còn

là những con vật có tính thiêng nên trong những nghi lễ với người chết

thường có xuất hiện hình ảnh những động vật này. Đó là hình ảnh con

ruồi, hay con ong là những con vật mà sau lời cúng thì hồn người thường

biến thành chúng. Đó là hồn Cher Chor Hor Grong hoá thành ruồi vàng,

hồn dăm Aving biến thành con ong đực… Hơn nữa, con ong cũng giống

như con chim, nó còn là con vật có khả năng báo điềm hên xui, trước một

việc gì đó trọng đại.

Trong sử thi thường nhắc đến vật bùa ngải, đây là vật mà các nhân

vật thường dùng để gọi người, làm mê ngủ con người … Để bùa ngải có

thể bay tới tai người thường phải đi liền với câu thần chú. Người tiếp

nhận sẽ lơ mơ cảm nhận được điều đó, để diễn tả cái cảm giác ấy tác giả

dân gian thường mượn hình ảnh động vật. Đó là hình ảnh con ong:

“Thế là lời nói theo bùa ngải bay thẳng tới tai Giông, Lúc đó

Giông đang vót nan, đan gùi tại nhà Rông. Giông bảo:

- Ơ cái gì mà cứ bay vèo vèo qua mặt, qua tai vậy. Hình như là mấy

con ong thì phải?

Giông buông con dao vót xuống. Giơ cười bảo anh:

- Anh làm cái gì vậy

Giông: - Hình như có đàn ong bay vào trong nhà Rông chúng ta.

Giơ: ừ nhỉ! Chỗ của bọn em đây cũng vậy. Cái gì thế nhỉ?

Giông cảm thấy trong lòng không ổn”

60

Hình ảnh con kiến, con mối là những con vật nhỏ bé cũng xuất

hiện khá nhiều trong sử thi. Với vai trò tượng trưng cho số nhiều, số

đông, nên trong sử thi thường mượn hình ảnh này để so sánh đối chiếu

nói lên sự đông đúc : “Cọp đầu đàn đi trước dẫn đường, cả ngàn con

chạy theo sau, đông vô kể như kiến, như mối vậy…”

“ Từ phía dưới đoàn quân đông như kiến tiến dần lên…”

Những hình ảnh này khi được đưa ra so sánh với những con vật

nuôi thường được dùng để nói về sự giầu có của vùng thượng nguồn.

Chính sự so sánh ấy đã cụ thể hoá hơn sự giầu có của buôn làng. Đây

chính là cách nói bằng hình ảnh thường thấy trong sử thi: “Lợn gà của

cha cũng nhiều như đàn kiến, đàn mối, nhiều như cát sỏi ngoài bãi…”

“Đàn gà đông như đàn mối. Nhà ông Grâm Kong giầu vậy.”

“Trâu bò trong nhà ngoài bãi thiếu gì. Heo gà như kiến chật cả

sân đầy cả làng…”

Ngoài chức năng diễn tả số đông, số nhiều, sự giàu có… thì những

hình ảnh này đôi khi cũng có giá trị khác. Đó chính là chức năng báo tin,

báo điềm, đây là nét quen thuộc thường thấy được đúc rút qua thực tiễn.

“Ôi cháu của ta! Con trai của anh hùng Set. Cháu ơi! Ta đây cho dù

sống ở giữa chốn rừng sâu, xa cách làng xóm, nhưng ta vẫn biết rõ về

cháu qua lời đồn đại của lũ đàn kiến, đàn mối”

Hình ảnh con kiến vàng còn là con vật giúp đỡ con người. Con

người có tài phép dùng con kiến vàng xoa vào thân thể thì người đó sẽ

được trở lại như cũ. Ông Bok Tơ Lum thách Giông ăn thịt lão, Giông đã

ăn từng miếng thịt của lão Bok Tơ Lum và ăn thịt da lão. Con gái lão đã

xin Giông tha cho cha mình và dùng tài phép bằng con kiến vàng để cha

mình trở về như cũ: “Nàng bắt một con kiến vàng xoa vào thân thể ông

BokTơ Lum khiến ông biến thành thân hình như cũ. Không còn thấy dấu

vết xẻ da thịt ông”

61

Yếu tố thần kì hoá xuất hiện khá nhiều trong sử thi Bana. Hầu hết

các yếu tố ấy thường đi liền với hình ảnh động vật gợi sức hấp dẫn cho

những áng sử thi Tây Nguyên nói chung và sử thi Bana nói riêng. Đó là

chàng Giông có thuốc thần xoa vào người biến thành chim và bay được

lên trời, là những cô gái có thể hoá thành những con vật bé nhỏ để giúp

đỡ người thân của mình…

Như vậy, khi tiếp xúc với nhóm động vật có thật này tác giả nhận

thấy chúng có những vai trò cơ bản như: với nhóm vật nuôi chúng có

chức năng chính là cụ thể hoá về sự giàu có của buôn làng và luôn đi

cùng với chiêng ché; chúng còn có vai trò là nguồn nguyên liệu chính để

tạo nên các món ăn và luôn xuất hiện trong các cuộc vui của dân làng,

chúng luôn đi kèm với những kang rượu. Hơn nữa chúng còn là những

vật cúng tế của người Bana, trong các lễ hội như lễ bỏ mả, lễ mừng chiến

thắng, đám cưới… Với nhóm động vật hoang dã chúng đã khiến cho

thiên nhiên tạo vật của núi rừng Tây Nguyên phong phú, giàu có và hết

sức sinh động. Những loài vật có hình dáng to lớn đã khiến cho rừng già

Tây Nguyên thêm nguyên sơ, những loài vật nhỏ bé chủ yếu có vai trò

báo điềm lành dữ cho con người, chúng là đối tượng săn bắn của con

người, là nguồn thực phẩm của người Bana….

Bên cạnh đó, tác giả còn nhận thấy chúng có chức năng làm trợ

thủ cho các nhân vật chính trong sử thi: chúng giúp người anh hùng trong

những trận chiến, trong săn bắn, hái lượm… Chúng chủ yếu phản ánh

hiện thực cuộc sống của người Bana xưa, họ sống bằng săn bắn và hái

lượm là chính, tuy nhiên thời sử thi, người Bana cũng đã phần nào có

cuộc sống chăn nuôi và trồng trọt. Điều này được thể hiện qua những

hình ảnh vật nuôi trong gia đình của người Bana xuất hiện trong sử thi

khá phong phú. Thế giới loài vật xuất hiện trong sử thi Bana đã cung cấp

cho chúng ta những hiểu biết cơ bản nhất về con người, về cuộc sống, về

văn hoá phong tục của dân tộc Bana trên dải đất Tây Nguyên. Phần này

62

tác giả sẽ trình bày chi tiết ở chương sau khi tìm hiểu về mối quan hệ giữa

con người với thế giới động vật.

1.2 Nhóm động vật không có thực

Đây là nhóm động vật xuất hiện trong trí tưởng tượng của con

người, dựa trên những con vật có thật trong đời sống tự nhiên. Chúng là

loài vật đã được người hoá khiến chúng mang chức năng như những nhân

vật trong sử thi.

Trong sử thi Bana, tác giả bắt gặp khá nhiều những nhân vật được

đội lốt dưới hình dáng loài vật, mang tên của loài vật. Những con vật này

phần lớn đều mang nét thần kì hoá chúng có thể nói năng, hành động như

con người và phần lớn đều xuất hiện để giúp đỡ con người. Chính điều

này đã khiến cho những áng sử thi thêm lung linh, huyền ảo.

Trước tiên là nhóm động vật xuất hiện trong sử thi với vai trò là

những nhân vật, mang tên gọi động vật. Khi tìm hiểu về khía cạnh này tác

giả nhận thấy có khá nhiều điều thú vị, ẩn chứa trong tên gọi động vật

được phản ánh trong sử thi Bana. Cụ thể như chàng Bò tót - Thưk Kưl,

nàng Bướm bướm - Pơ lai, chàng Nhím - Bok Khem, Rái cá - Phei, Cá trê

- Sơ Kênh, Cá Chép Hồng - Ka unh, … Đó là những nhân vật cụ thể

trong sử thi, có quan hệ với các nhân vật khác. Chúng cũng như các nhân

vật khác có đầy đủ yếu tố của con người, thường giúp cho nhân vật chính

vượt qua những trở ngại trong cuộc sống, làm cho nhân vật chính hoàn

thiện hơn.

Bok Khem là một nhân vật xuất hiện trong sử thi với vai trò chính

là giúp đỡ con người, thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nhân vật này khi đối

thoại vời người anh hùng cũng đã khẳng định mình chỉ là một con thú

rừng. “Bây giờ ta về vì ta không phải là con người, ta chỉ là con thú

rừng. Nhưng trời phú cho ta, chỉ cho ta, sai bảo ta phải ra ngoài giúp con

63

vì biết rằng con đang có chuyện khổ tâm. Nếu không có việc gì, ta cũng ở

yên một chỗ hay trong núi vì thực sự ta chỉ là một con thú rừng”.

Bok Khem có đặc điểm “to lớn với những chiếc lông cứng nhọn

hoắt dựng đứng trông rất ghê sợ”. Nhân vật này đã giúp đỡ Giông, nghe

Giông kể chuyện về gia đình mình và giúp Giơ (em Giông) trở lại làm

người lúc chàng bị hoá thành ác quỷ Klơm bri. Hơn nữa nhân vật này còn

có những lời chỉ dạy cho nhân vật chính và dự báo cho nhân vật chính,

đặt niềm tin cho con người để tiếp tục công cuộc trở về quê hương của

nhân vật chính. Mà con đường ấy rất nhiều chông gai. “Con hãy nhớ ở

hiền luôn luôn gặp điều tốt lành. Nếu là kẻ ác thì không ai đến giúp đâu.

Thôi hai cháu ở lại ta về đây. Chúc hai cháu đi mạnh khoẻ, đi đến nơi

đến chốn. Chẳng còn bao lâu nữa, nếu có lâu lắm chỉ khoảng một tháng

nữa hai con sẽ tới quê nội”.

Loài Nhím ngoài vai trò giúp đỡ con người khi họ gặp khó khăn

hoạn nạn, chúng còn là loài vật biết nhiều điều. Vì vậy chúng đã trở thành

chỗ dựa tinh thần cho con người. Khi gặp điều khó hiểu thì người Bana

xưa cũng thường hỏi đến nhân vật này:

“Tôi không có khiên đao

Bay lên đánh trên trời

Tôi sẽ hỏi chàng nhím

Làm đường vào trong núi

Tôi và Giông Dâk Dâr

Sẽ đánh nhau nơi ấy

ấy sướng hơn, hay hơn”

Những nhân vật như chàng Bò tót, nàng Bươm bướm, được tác giả

dân gian miêu tả như những nhân vật bình thường khác, thậm chí đôi lúc

được kì vĩ hoá, thần thoại hoá làm rõ đặc trưng của thể loại sử thi. Đây là

hình ảnh nàng Bươm bướm, có công việc lao động giống như con người,

giúp đỡ con người khi họ gặp khó khăn: “Xinh đẹp tuyệt vời, chói chang

64

cả hoa lá rừng xanh, tài giỏi gớm ghê, có sức mạnh thần linh, chẳng ai

hơn được”; “… long lanh long lanh, nàng bươm bướm đẹp xinh, thoăn

thoắn mang gùi sau lưng cất bước ra đi. nàng ra rẫy hái rau, vào rừng

kiếm củi, nàng vừa đi vừa reo hò vang vang”

Hay hình ảnh các chàng Bò tót là những nhân vật có sức mạnh

gớm ghê. Có suy nghĩ và hành động như con người. Để giúp đỡ người khi

gặp hoạn nạn họ đã giấu vào trong nhà mình và đã có lúc phải nói dối để

che chở cho người gặp hoạn nạn, thậm chí khi bị doạ nạt vẫn một mực

che dấu. Đoạn đối thoại giữa đoàn người của Giông Trong Yuăn và các

anh chàng bò tót cho thấy điều ấy:

- A ơ này các anh chàng Bò tót

Có thấy ….

- Chúng tôi không biết, càng chẳng thấy

Người của các anh đâu vào đây.

- Chúng tao đã thấy chúng nó vào đây

Xin chúng mày ẩn nấp thoát thân

Sao bây giờ lại nói là không

Nói cho thật thì mây còn sống

Nếu không chúng mày bị chém hết

- Chúng tôi thật chẳng thấy

Chúng tôi thật không hay….

Loài cá cũng là những nhân vật, có lời nói, có hành động cụ thể

mang tính chất là vật thần. Cô chép Hồng - cô ruột của Giông sống ở nơi

đáy nước sâu. Nhân vật này có tài làm cho Giông trở nên đẹp đẽ: “Trong

lúc này, Yang Kôi Kông Giông Trong Yuăn đang lặn dưới lòng sông

Krong, tới nhà cá chép Hồng - cô ruột chàng. Chàng ta đến nhờ cô nặn,

sửa để con người mình thật đẹp”

65

Nhân vật này cũng có cuộc sống riêng, có gia đình, có vợ con

giống như những nhân vật khác trong sử thi. Lời đối thoại của các nhân

vật này cho thấy rõ điều ấy:

- Ơ các con rái cá kia ơi

Hãy đi gọi anh Trê chúng mày

Đến đây xem chỗ nào chưa đẹp

Mắt nó nhìn là giỏi lắm đấy

Bầy rái cá con bà chéo Hồng đi gọi cá Trê. Lên nhà anh Trê, chúng nói

lại lời mẹ

- A, ơ này anh cá Trê ơi

Mẹ sai đến gọi anh về xem

Mẹ đắp nặn hình Giông Trong Yuăn

Mắt tài nhìn, anh biết khen chê

Xem mẹ đã làm được hay chưa.

Trê nói với các em

- Tao đang bận cỗng cháu đây này

Chị chúng mày còn đi gùi nước

Lát nó về tao sẽ đến ngay

Cứ về bảo mẹ mình như vậy

Các nhân vật này đã giúp đỡ cho nhân vật chính hoàn thiện hơn,

trong cả ngoại hình, trong ngôn ngữ, trong cả việc thể hiện tài năng - múa

đao khiên. Hơn nữa những nhân vật này đã trở thành những người thân

thiết với Giông. Họ trò chuyện, quan tâm, chia sẻ với nhau thực sự là

những người thân, không hề có sự tách biệt giữa vật với người: “ Cô

cháu trò chuyện vui sướng ai nấy đều:

Cười ngất cười bò

Đầy cả miệng mồm

Hai người thật vui.”

66

Những nhân vật như rái cá, trăn, rắn, cá… là những nhân vật đã có

công phụ giúp vào thành công của nhân vật chính. Đó chính là sức mạnh

của cộng đồng, điều này cho thấy người Bana xưa đã thấy được vai trò to

lớn của cộng đồng tập thể. Người anh hùng tài giỏi là thế song có lúc

đuối sức cần nương tựa vào cộng đồng. Và các nhân vật đội dưới lốt động

vật chính là cộng đồng là nhân dân ủng hộ cho sức mạnh, tài năng và

chính nghĩa của người anh hùng trong sử thi Bana.

Nhóm nhân vật dưới lốt động vật mà ngay trong tên gọi đã có yếu

tố thần linh, như Rắn thần, Trăn thần, Mèo thần, Sư tử thần, Thuồng

luồng… Đây là nhóm nhân vật mang nét lạ hoá khá rõ ràng, ở dáng vẻ, ở

cuộc sống của chúng…

Sử tử là một nhân vật thần kì. Chúng biết nói năng, biết giúp đỡ

con người khi gặp khó khăn hoạn nạn. Đó là khi anh em Giông, Giơ phải

vượt qua bãi sa mạc trong lúc đang đói lả, mệt mỏi… Sư tử thần thương

tình cảnh của hai anh em Giông và Giơ: “... Sao các con chịu cực khổ đến

thế…Hãy lên lưng ta đây, ta sẽ đưa các con đi. Ôi tội nghiệp lũ các con

quá. Các con chớ sợ ta. Ta không hại hai con. Nhưng ta làm phúc cho

hai con… Ta không phải kẻ ác, ta yêu quý các con”.

Nhân vật này trong sử thi còn là tượng trưng cho cái ác, chúng

cũng có những lời lập luận với Giông về tai ương sẽ xẩy ra với anh em

Giông. “Tao biết chúng mày hùng mạnh, có lòng gan dạ. Giông ạ, tao

cũng biết mày vốn hiền lành, không làm phiền lòng ai. Khi mày đi chó

của mày nào muốn đi, mày không tin là gặp chuyện nên cứ đi. Hôm nay

tao sẽ ăn thịt chúng mày…”

Con mèo thần kì, đây là con vật của thần linh được phái xuống để

giúp đỡ dân làng khi dân làng gặp hoạn nạn. Nó là con vật biết bay, nó đã

giúp Giông và dân làng đánh chết lũ cọp của Dăm Dơ Dang. “Giông thả

bàn tay con mèo tự nhiên bay đi vút đến thượng ngàn rớt ngay ở khe núi

ngăn cách hai nước”.

67

Loài Trăn được nhắc đến trong sử thi là nhân vật thần kì giúp đỡ

con người. Đó là khi Giông Trong Yuăn gọi chúng đến làm cầu để qua

sông. Chúng có vẻ đẹp rực rỡ, biết nói năng, đối đáp lại với con người.

- Ơ trăn hoa từ trên

Ơ trăn đen từ dưới

Hãy đến đây làm cầu ngang sông

Để ta cùng bia Man về làng

Sau lời gọi: “Hai con trăn khổng lồ, trăn hoa đằng trên, trăn đen phía

dưới đến nằm vắt ngang sông làm cầu. Làn da đen trắng pha vàng của

hai con trăn ấy nổi lên rực rỡ, đẹp lạ lùng”

- Ơ hai em trăn đen, trăn hoa

Thật tốt đã giúp anh chị dâu

Các em ở chúng ta đi vội

- Anh chị dâu cứ về đi

Khi nào cần lại gọi chúng em

Hai đứa em sẽ đưa qua sông

Rắn thần ngoài vai trò giống như những loài vật khác, chóng cßn ® îc

ng êi Bana dùng để báo tin, và khi xuất hiện hình ảnh loài vật này chính

là khi có điềm dữ. Trong sử thi loài vật này cũng được xuất hiện với chức

năng là một nhân vật và nó thường là nhân vật đại diện cho cái ác, đem

đến điều không may cho con người. Đặc điểm của nhân vật này cũng rất

khác lạ: “… làm nhà trên một cây cột cao, đuôi đang gác lên mái nhà

đó. Thân mình của nó nằm dưới đáy biển sâu, còn đầu thì đang trên bờ,

rình nuốt trâu bò ở miền cuối sông”. Nhân vật này còn nuôi con, đó là

cua thần nhưng không biết cách dạy dỗ con nên chúng đã làm điều sai

trái, làm theo ý thích của chúng.

Như vậy nhân vật trong sử thi Bana không chỉ có con người mà

còn có cả những loài thú. Tất cả các nhân vật loại này đều có ngôn ngữ,

hành vi riêng và chúng là một phần cấu thành tác phẩm. Đọc sử thi Bana

68

tác giả nhận thấy tính chất cổ sơ của nó, chính bởi sự xuất hiện của các

nhân vật này, chúng có vẻ ngoài nghịch dị, đội dưới lốt động vật. Bởi

trong công cuộc chinh phục thiên nhiên đầy những khó khăn gian khổ,

những thử thách mà con người thời xưa – còn non nớt về nhận thức và

thiếu thốn về phương tiện - phải trải qua vô cùng ác liệt. Cuộc chiến với

thiên nhiên dữ dội hiểm nguy không kém cuộc chiến giữa người với

người. Cả sức mạnh của giới tự nhiên được hình tượng hoá thành những

quái vật kì dị.

Tuy nhiên bên cạnh đó còn là những thần linh, được hoá thân dưới

lốt động vật để giúp đỡ con người… Để giúp người anh hùng giành thắng

lợi trong các trận chiến, cũng như trong công cuộc chinh phục thiên

nhiên, ngoài sự trợ giúp đắc lực của con người còn có sự trợ giúp của

thần linh. Những thần linh này được đội dưới lốt động vật: đó là những

nhân vật như nhím - Bok Khem, thuồng luồng, sư tử thần, mèo thần…

thực chất chính là sự hoá thân của thần linh đều nhằm chung mục đích

giúp người anh hùng giành thắng lợi. Với hàng loạt các nhân vật dưới lớp

vỏ của động vật, trong mối quan hệ gắn bó với con người, đã phần nào

cho thấy xã hội Bana xưa - một xã hội mà con người và muôn vật có mối

quan hệ gần gũi, thân thiết.

Trong sử thi Bana chúng ta còn bắt gặp hàng loạt các nhân vật

người mang tên dưới lốt động vật. Điều này đã được tác giả Nguyễn

Quang Tuệ trong bài viết Bước đầu tìm hiểu tên nhân vật trong sử thi

Bana đã đề cập. Đó là khá nhiều tên nhân vật trong sử thi Bana là tên các

loài chim, thú quen thuộc với con người Bana. Ví dụ như rất nhiều các

nhân vật mang tên những loài chim rừng: Xem Đum thần có nghĩa là

chim hồng, Xem Yang có nghĩa là chim thần, Rêch Yang có nghĩa là

chim sẻ thần …

Một số con vật được lạ hoá như trâu đực có bảy đuôi, bảy mươi

núm vú, heo bảy lần thay nanh, gà mào rộng bằng cái nia… Đây có thể

69

coi là những con vật trong nhóm động vật không có thực, tuy nhiên khi

tìm hiểu tác giả nhận thấy đó chính là một cách nói trong sử thi mà thôi.

Vì vậy với những con vật này, tác giả xin đề cập trong phần hai đó là

cách thức miêu tả động vật trong sử thi.

Như vậy có thể nhận định rằng trong sử thi hệ thống các nhân vật

hết sức phong phú và đa dạng, có trẻ già, trai gái, có động thực vật và xen

lẫn với các thần linh nguyên thuỷ. Các nhân vật và động thực vật trong

Hơmon được thần thoại hoá rõ rệt.

2.2. Cách thức miêu tả

Hiện thực cuộc sống muôn mầu muôn vẻ, thế giới động vật cũng

sống động với nhiều những chủng, những loài khác nhau. Người nghệ sĩ

dân gian đã lấy chính hiện thực cuộc sống của mình gắn bó gần gũi với

loài vật để phản ánh trong sử thi. Tuy nhiên trong sử thi ngoài phương

thức phản ánh hiện thực khách quan còn có phương thức phản ánh phóng

đại hiện thực. Có nghĩa là hiện thực khách quan và hiện thực lí tưởng

luôn song hành trong cảm quan của người Bana. Vì thế thế giới loài vật

có trong trí tưởng của người Bana xuất hiện không ít. Nhờ đó thế giới

động vật trong sử thi Bana rất phong phú sinh động và nó phần nào làm

cho các áng sử thi Bana thêm lung linh hấp dẫn.

Trong sử thi thế giới động vật hiện ra sinh động và rất phong phú

đa dạng. Mỗi con vật đều phản ánh cuộc sống, tình cảm của người Bana

về thế giới. Dù là con vật bé nhỏ nhất hay những con vật có trong trí

tưởng tượng vủa con người thì họ cũng đều cho nó những tình cảm yêu

mến , gắn bó. Với số lượng những tên gọi động vật xuất hiện trong sử thi

có thể thấy rằng con người không chỉ gắn bó với cỏ cây hoa lá mà con

người còn gắn bó với thế giới những con vật. Từ hình ảnh của cá nước

chim trời, hình ảnh của thiên nhiên núi rừng Tây Nguyên hoang dã đến

hình ảnh những con vật nuôi trong gia đình, sử thi đều phản ánh sinh

70

động đầy đủ. Bằng tư duy trực quan người nghệ sĩ dân gian đã có một thế

giới động vật trong cảm quan của mình. Trong các tác phẩm sử thi có

nhiều thủ pháp nghệ thuật được nghệ nhân dân gian sử dụng như lối miêu

tả chi tiết, sự lặp lại mang tính khuôn mẫu, biện pháp so sánh, biện pháp

phóng đại hiện thực, … Chính nhờ các biện pháp nghệ thuật này mà tác

phẩm sử thi đã tái hiện được cuộc sống, xã hội của người Bana cổ xưa, đa

chiều hơn, phong phú toàn diện hơn. Vấn đề về thế giới động vật, cũng

không nằm ngoài cách thức miêu tả trên.

Sử thi Bana phản ánh nhiều vẫn đề về đời sống xã hội của cộng

đồng dân tộc này thời xa xưa. Đó là chiến tranh, là phong tục tập quán,

nếp sống sinh hoạt, … của tộc người Bana. Đọc sử thi Bana đưa lại cho

chúng ta nhiều hiểu biết về thế giới muôn màu của núi rừng Tây Nguyên

và cuộc sống của tộc người này. Với nghệ thuật miêu tả độc đáo tác giả

dân gian đã đem đến những niềm hứng thú say mê khi tìm hiểu vào thế

giới của những áng sử thi. Đặc biệt khi tìm hiểu cách thức miêu tả thế

giới động vật trong đó.

Người Bana thường dùng cách nói mang kết cấu đối xứng cặp đôi.

Trong tác phẩm sử thi các nhân vật thường xuất hiện theo cặp, trong đó

có một nhân vật chính, ví như anh em Giông và Giơ; chị em Rang Năr và

Xem Yang; hai ông cậu Dong và Wăt… Không chỉ trong việc miêu tả

các nhân vật mà với thế giới loài vật cũng được miêu tả theo đôi, theo

cặp. Đó là trường hợp loài cua và quạ, voi - chuột,…. trong sử thi Bana

thường xuyên sử dụng những hình ảnh này đi liền với nhau, trong sự đối

lập. Đó là khi miêu tả về tài năng, sức mạnh, vẻ đẹp của người anh hùng,

hoặc những nét lạ hoá của một nhân vật nào đó. Kết cấu này được lặp đi

lặp, tạo thành cặp kết cấu hình ảnh động vật trong sử thi. “Là thân trai ta

không sợ chết vì lẽ phải. Nếu ta chết dưới nước thì sẽ để cho cua cắp.

Nếu ta chết giữa núi rừng thì cứ để cho lũ quạ tha”.

71

Một số loài vật trong sử thi được miêu tả khá giống nhau trở thành

công thức. Đó là khi nói về việc cúng gọi hồn người và hồn người biến

thành một con vật gì đó trở về, hình ảnh con ong và con ruồi cùng trong

cách thức miêu tả trên. Sau lời cúng thì chúng “… ve ve ve bay lên và

đậu vào mệng ghè rượu”. Hình ảnh được nhắc đi nhắc lại mỗi khi cúng

gọi hồn người có thể là con ong đực to, có thể là con ruồi vàng …

Ngoài ra một số hình ảnh động vật được tác giả dân gian miêu tả

theo công thức đó là thường mượn tính chất, đặc điểm của con vật để so

sánh ví vón với con người. Đó là hình ảnh con rúi, đây là loài vật sống

dưới đất ở những lùm tre hay những cây lồ ô. Chúng có đặc điểm là khi

đào hang thường đào đến đâu thì lấp luôn phần sau lưng mình đến đấy,

đặc điểm này chính là cách thức để loài rúi tránh được kẻ thù. Trong sử

thi đặc điểm này của loài rúi đã được miêu tả thành công thức để người

Bana nói về sự bế tắc bí bách.

A ơ này anh Giông Trong Yuăn

Tai của anh con rúi nhét đất

Tai của anh trời đã lấp bịt

Đầu anh tròn tai anh không lỗ

Sao quên thuốc bôi vào lưỡi đao

Có nó rồi chém đâu thối đó

Người bị chết không thể sống lại

Với loài nòng nòng có thân thể mềm yếu, tác giả dân gian đã mượn

đặc điểm này để so sánh ví von với những người thất bại trong các trận

chiến.

Yếu mềm thân nòng nòng

Trần trụi đuôi cá lóc

Thấp hèn dưới chân thang

Lang thang xin hàng người

72

Hầu hết các nhân vật nữ trong sử thi Bana đều được mô tả khá kĩ

về vẻ đẹp và vẻ đẹp ấy được đưa ra so sánh đối chiếu với thiên nhiên. Các

yếu tố của thiên nhiên không thể thiếu hình ảnh động vật, hình ảnh này

với một đặc điểm cụ thể đã được tác giả dân gian miêu tả, so sánh với các

nhân vật. ở đây dường như tác giả dân gian tìm được những nét đẹp tinh

tế của loài vật để sánh với con người. Đó là những điểm ở loài vật có mà

các yếu tố thiên nhiên không có, ví như:

dẻo như…,

nhanh như…,

mạnh như…,

lấp lánh như…

Chính cách thức miêu tả chi tiết, cụ thể này đã khiến cho vẻ đẹp

của họ trở nên cụ thể, sinh động và đa sắc diện hơn. Đồng thời còn cho

thấy cảm quan hiên thực của người Bana xưa, họ sống gần gũi với thiên

nhiên và phản ánh thiên nhiên một cách sinh động nhất.

Loài vật còn có khả năng giúp đỡ con người, không chỉ trong công

việc săn bắn hái lượm, trồng trọt mà trong cả những trận chiến, chúng

cũng là đối tượng góp sức không nhỏ. Đó chính là việc chúng dự báo cho

con người và dấu hiệu báo trước điềm lành, dữ được tác giả dân gian mô

tả khá kĩ: “Những đàn ong bay vù vù đốt họ. Tiếng nai kêu chim hót

văng vẳng. Từ xưa tới nay, chưa bao giờ con chim báo trước tương lai lại

hót đêm cả. Vậy mà lúc này nó hót cả đêm dài”

“Trước kia nó cất tiếng hót tốt, nhưng giờ thì tiếng của nó thật xấu.

Tiếng hót ghê rợn cất từ phía trước về phía sau, tiếng hót phía sau nhiều

hơn phía trước. Con hươu, con nai cùng kêu, con chim cứ bay qua bay lại

che mắt bọn chúng. Rắn chặn đượng, những con ong kéo đến đốt làm

chúng kêu la, hú hét và chạy khắp núi rừng”

Tuy nhiên dường như chưa đủ người Bana còn phản ánh hiện thực

cuộc sống bằng những yếu tố hoang đường kì ảo, đem lại cho những áng

73

sử thi thêm lung linh huyền ảo. Hình ảnh động vật cũng không nằm ngoài

đặc điểm này của sử thi . Với nét miêu tả phong đại hiện thực đã cho thấy

sức trí tưởng tượng phong phú của người Bana xưa về thế giới loài vật.

Hình ảnh con cá được miêu tả phóng đại, kì vĩ: “Trong hồ nước đã

cạn sạch nhưng chẳng thấy gì ngoài cá. Cá to, cá nhỏ đầy một đáy hồ.

Có những con cá to bằng cả một cái chòi, có con to bàng cột nhà nhưng

chẳng ai muốn bắt”.

Hình ảnh Rắn thần: “thân mình nằm dưới đáy biển còn đầu thi đang trên

bờ rình nuốt trâu bò vùng cuối sông, xứ Lào, xứ Kinh”

Hình ảnh con mèo được tác giả dân gian miêu tả với nét lạ hoá: nó xuất

hiện trong lòng đất, không nhìn thấy mà chỉ nghe thấy tiếng kêu của nó.

Càng đập vào người nó thì nó càng to dần: “Con cọp đầu đàn liền xông

tới dáng sức đấm vào mèo. Mèo nổi công cũng dáng làm oai, cọp lại

đấm. Nhưng càng đấm mạnh, mèo càng mau lớn. Bây giờ mèo to bằng

cái trống rồi. Cọp bắt đầu hoảng, sao mà lạ thế. Tưởng chỉ sau một cú

đấm mèo sẽ gãy xương nát thịt, không ngờ mèo lại càng to, càng to, càng

ghê. Ôi mèo giờ đây đứng chật cả con đường rồi”.

Sư tử là loài vật khổng lồ trong con mắt nhìn của người Bana xưa, nó là

con vật nguy hại, thương mang đến những chết chóc cho con người. Vì

vậy khi miêu tả nó, tác giả dân gian đem đến cho nó những nét lạ hoá

theo khuynh hướng khổng lồ. Khiến người đọc cảm nhận đực sự hung ác,

gớm ghê mà loài vật này mang lại: “ Một con sư tử to như quả núi, có

tám cái đuôi, trăm cái tai, …”.

Nó là con vật có sức mạnh to lớn, sức mạnh ấy được miêu tả trong bước

chạy của nó kết hợp với so sánh đối chiếu: “Cọp lao xuống thung lũng,

mỗi bước chạy của nó làm văng những tảng đá lớn giống như núi bị sập

vậy”. Vì vậy ở nó ẩn chứa sự nguy hiểm nhất: “Cha ạ, chẳng ai ở hai

miền dám chém con thú vật này, con cọp to bằng trái núi ấy. Cha có biết

là con cọp gì không … Người ta đồn về con vật này khắp nơi nhưng vì nó

74

chưa đến nước mình nên ta không biết. Người hạ nguồn đều kinh sợ nó

trâu, bò bị nó ăn sạch”.

Một số hình ảnh những con vật nuôi bên cạnh những chi tiết tả

thực, còn được đan cài nét huyền ảo tạo nên những câu chuyện kể hết sức

gần gũi với thực tế nhưng cũng không kém phần bay bổng, thần kì. Hơn

nữa những nét thần kì này lại được tác giả dân gian lặp đi lặp lại tạo sức

hấp dẫn lôi cuốn với người nghe hát kể Hơ mon. Đó là hình ảnh con trâu

đực “có bảy đuôi, có bảy mươi núm vú”; con gà trống “ mào rộng bằng

cái nia”; con lợn “ mỡ dày như ruột bí đao”; con ngựa “ phi nhanh như

diều hâu”…

Bắt trâu đực to đầu có sừng

Húc đất thủng lọt cả ngọn đồi

Trâu bảy đuôi, trâu bảy mươi vú

Gà trống mào rộng bằng cái nia

Ba người khiêng bước đi loạng choạng

Heo đực thiến bảy lần thay nanh

Dài đủ bảy bàn chân nối tiếp

Mỡ heo dày như ruột bí đao

Lấy ghè rượu ngâm ba gùi hạt

Thơm ngon ngọt như thể mật ong

Xa ba ngày đường còn nghe hương

Những hình ảnh động vật được nhắc đến, với những chi tiết được

lạ hoá, cách ví von đậm chất dẫn dã, đậm màu sắc núi rừng Tây Nguyên:

“húc đất thủng lọt cả ngon đồi, dài đủ bảy bàn chân nối tiếp”, “xa ba ngày

đường còn nghe hương”, … đã cho thấy tính chất nguyên thuỷ của tư duy

và ngôn từ còn khá rõ của người Bana xưa. Tuy nhiên chính những suy

nghĩ còn thô phác này với nét phóng đại hiện thực đã cho thấy sức tưởng

tượng phong phú kì diệu của người Bana.

75

Những loài gia súc là vật không thể thiếu trong những ngày trọng

đại của cộng đồng. Chúng là minh chứng cho sự giàu có, cho sự hiếu

khách, ông Bok Rơh trong lời gọi nhắc chuẩn bị cho đám cưới của con

gái mình, đã nhắc đến những con vật này nhưng với nét miêu tả phóng

đại hiện thực: Ơ ma Dong, Văt làng con rể

Cùng ma Dong, ma Văt làng nàaw

Các chú hãy cùng nhau chở Kang

Để men thấm, nhiều cân đẹp đẽ

Để dân làng uống vui thoải mái

Các thanh niên hãy trói trâu đực

Đôi sừng to húc đất đồi lọt

Con trâu có bảy cái đuôi dài

Bảy mươi vú to đều như nhau

Heo đực thiến đã có răng nanh

To dài vừa đủ tám bàn chân

Giết gà trống tiếng gáy vang xa

Mào to rộng vừa bằng cái nia

Ba người khiêng loạng choạng như say

Trói bò được khoẻ nhất trong đàn

Suốt ngày kêu mồm không biết mỏi

Bắt ngựa phi nhanh như diều hâu

Tất cả cùng làm thịt nấu rau.

Chính nét phóng đại hiện thực đã làm cho những hình ảnh động vật

trở nên cụ thể hơn, sinh động hơn. Hơn nữa cùng với sự kì vĩ hoá từ

khung cảnh thiên nhiên, quang cảnh chiến trận, hành vi của con người

cho tới hình ảnh động vật đã tạo thành phong cách độc đáo của sử thi

Bana.

Lối phóng đại, kì vĩ hoá hiện thực là một đặc điểm quan trọng và

hết sức cần thiết của sử thi. Chính sự kì vĩ hoá hiện thực là điểm mạnh tạo

76

nên sự hoành tráng của tác phẩm. Ngoài các yếu tố thần kì, các vật

thiêng, thì hình ảnh những con vật được nhân dân tưởng tượng mang nét

thần kì đã góp phần tạo nên sự kì vĩ, hào hùng cho các tác phẩm sử thi.

Những yếu tố kì ảo đã khiến cho sử thi trở nên bay bổng, hấp dẫn. Cánh

chim trở thành phương tiện cho con người, giúp con người có thể đi

nhanh hơn, làm cho nhân vật đậm màu sắc thần thoại. Con người có thể

biến hoá bay lượn trên không trung như chim. Nét hoang đường kì ảo

chính là đặc trưng của sử thi, thiếu nó dường như những áng sử thi mất đi

cái hồn, mất đi sức hấp dẫn. Nét đặc trưng này rất phù hợp với suy nghĩ

còn thô sơ của con người thời sử thi.

ChÝnh c¸ch nãi phãng ®¹i, c¸ch diÔn t¶ “v ît xa h¬n c¸i mÉu” ®·

lµm cho t¸c phÈm sö thi chøa chan søc m¹nh. “ C¸ch nãi ®ã lµm cho h×nh

t îng nghÖ thuËt chøa ®ùng c¶ søc m¹nh cña céng ®ång thÞ téc, bé l¹c ®¹t

®Õn d¹ng hoµnh tr¸ng k× vÜ, theo tÇm vãc cña nói rõng T©y Nguyªn. C¸ch

nãi c êng ®iÖu k× vÜ ®ã kÝch thÝch m¹nh mÏ trÝ t ëng t îng cña ng êi

nghe, ng êi ®äc, thÓ hiÖn mét phong c¸ch s¸ng t¹o nghÖ thuËt theo

khuynh h íng lÝ t ëng ho¸ trµn ®Çy chÊt l·ng m¹n” [ 17,tr 91]

Thế giới động vật với chức năng và cách thức miêu tả đã cho thấy

ở sử thi con vật đã khá quen thuộc trong cuộc sống của con người. Đó

không chỉ là sự quấn quýt với thiên nhiên vạn vật mà đó còn là những suy

nghĩ về con vật đối với cuộc sống của con người. Thế giới động vật đã đi

vào sử thi với nhiều tình cảm suy nghĩ và chiêm nghiệm của con người về

cuộc sống, về tập tục của mình. Chúng đã đưa lại những hiểu biết cơ bản

nhất về phong tục, tín ngưỡng của đồng bào Bana xưa kia.

77

CHƢƠNG 3

MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT TRONG SỬ

THI VỚI ĐỜI SỐNG, VĂN HOÁ, TÂM LINH NGƢỜI BANA

Thế giới động vật đã có vai trò đáng kể trong cuộc sống của con

người, nó đã trở thành đối tượng không thể thiếu trong cuộc sống cũng

như trong đời sống tinh thần của người Bana. Chính loài vật đã tạo nên

sức hấp dẫn cho những áng sử thi Bana. Đó không chỉ đơn thuần với

những chức năng cụ thể ấy, mà còn đưa đến cho chúng ta nét phong tục

tập quán của tộc người Bana trên dải đất Tây Nguyên. Hơn nữa nhờ vào

cánh thức miêu tả những hình ảnh động vật này, đã cho thấy sức tưởng

tượng kì diệu của con người và cũng chính là ước mơ khát vọng của con

người, của tộc người Bana thời sử thi.

Trong sử thi Bana ta thấy những mối quan hệ trong xã hội được mô

tả khá cụ thể, như cha mẹ và con cái, thông gia, dâu rể, vợ chồng, họ

hàng... Nhiều phong tục tín ngưỡng, của đồng bào Bana xưa kia như uống

rượu, cưới xin, hỏi xin phép vào làng và cả niềm tin của người Bana

trước khi đi xa đều được phản ánh khá kĩ trong sử thi. Ví như khi ra khỏi

làng, hay đi săn… họ thường khấn để biết điều lành dữ và trong lời khấn

ấy thường xuất hiện những hình ảnh động vật, nó báo điềm lành - dữ cho

con người. Nét phong tục tập quán ấy đã phần nào thấy được mối quan hệ

của thế giới động vật với con người, tộc người Bana… Như vậy có thể

thấy ở sử thi bắt gặp những mối quan hệ đa chiều trong xã hội truyền

thống của người Bana.

Tác giả dân gian chú ý đến mối quan hệ giữa con người với cảnh

vật, với môi trường, với tài sản do con người sáng tạo, với những động

vật sống gần gũi với con người phục vụ cho cuộc sống của con người.

Chính những mối quan hệ này đã phản ánh một cách sinh động, khá chân

78

thực bộ mặt xã hội của người Bana ở một thời kì lịch sử nhất định, nói lên

ước nguyện của con người trong cuộc sống mang tính hướng thiện và

nhân văn: “… dưới lòng sông đầy cá, tiếng ếch nhái kêu inh ỏi nghe vui

tai. Trong rừng tiếng chim hót líu lo.... Ngoài đồng đàn gia súc đông đúc,

trâu bò cả đàn... Nhìn phía tay trái một đàn dê, nhìn sang phải một đàn

ngựa, trở vào làng một bầy heo, còn gà nhiều như con mối, đầy cả làng

chật cả xóm…”. Quang cảnh đầy nên thơ nói lên cuộc sống trù phú của

người Bana - một cuộc sống bình yên và sung túc do con người sáng tạo

xây dựng bằng tinh thần dũng cảm, bằng sức lao động cần cù.

Tìm hiểu mối quan hệ giữa thế giới động vật với con người - tộc

người Bana, chúng ta bắt gặp sự gắn bó thân thiết ở nhiều khía canh khác

nhau của cuộc sống. Ở chương 2, phần nào chúng ta đã thấy được mối

quan hệ giữa động vật với con người thời sử thi, hết sức gần gũi, gắn bó.

Chúng có thể coi là những nhân vật không thể thiếu trong đời sống sinh

hoạt cũng như tín ngưỡng của người Bana cổ đại. Ở chương này, tác giả

đề cập mối quan hệ giữa thế giới động vật với con người - tộc người Bana

trên các phương diện khác nhau.

1. Sử thi Bana thƣờng dùng hình ảnh loài vật để phóng đại các chi

tiết nhằm lôi cuốn ngƣời nghe, thông qua đó nói lên tính cách hào

hùng, bất khuất của ngƣời Bana

Sử thi thường sử dụng biện pháp phóng đại (phóng đại trong so

sánh, trong miêu tả, trong cảm nhận, trong đánh giá…). Một trong những

yếu tố ấy chính là việc phóng đại những hình ảnh động vật trong sử thi.

Như đoạn miêu tả cảnh giàu có của gia đình Bia Phu: “Đàn trâu đầy rẫy

trên bãi sông. Đàn bò chật đầy cả bãi biển”. Khi miêu tả về thiên nhiên

và người anh hùng chúng ta nhận thấy, thiên nhiên để cho người anh

hùng xuất hiện thường là một thiên nhiên kì vỹ (một bãi đất lớn, một đồi

cỏ gianh, một khu rừng rậm, một con suối lớn, một cánh đồng thẳng cánh

79

diều bay…). Hình ảnh người anh hùng trước kẻ thù đối kháng thường

được miêu tả dưới bút pháp tô đậm, phóng đại hay nhiều yếu tố thần kì

khác như chàng Giông có thuốc thoa vào người biến thành chim và bay

được lên trời hoặc “Giông, Giơ vượt qua một con sông rộng mênh mông,

phải mất năm ngày năm đêm với sự trợ giúp của thuồng luồng và các loại

cá lớn cả hai mới qua được bờ bên kia… Nhưng nhờ có sư tử giúp nên đã

vượt qua được. Hai anh em lại vượt qua hang con trăn đực sâu hun hút,

xuyên qua những rừng già đầy thú dữ, chẳng may gặp quỷ klơm bri…

gặp một con hổ giả danh bà nội dịnh hãm hại Giông, Giơ”… Đặc biệt là

khi nói về sức mạnh, tài năng của người anh hùng Bana: “Các thú dữ như

hổ, beo, sư tử, gấu, rắn… đều run rẩy sợ hãi và giật mình khi nghe tiếng

hú của Giơ.

Chúng tự hỏi:

ối! sao mà ghê gớm quá, không biết đó là tiếng người -

hay là tiếng thần linh hú giữa xứ sở của ta…

Chúng sợ hãi và chạy tán loạn không ai ngờ được đó là tiếng hú

của Giơ…”.

Những con vật như con chuột, con sóc, con sâu ngoài chức năng là

nguồn thực phẩm của người Bana còn mang thêm chức năng khác nữa,

đó là căn cứ vào vóc dáng bé nhỏ của mình nên chúng còn là loài vật

được con người dùng để nó về thời còn nhỏ của mình. Giông Trong Yuăn

khi nói về mình khi còn nhỏ mượn hình ảnh loài vật nhỏ bé này:

- Giấu ma còn chẳng được

Sao lại giám giấu trời

Theo mẹ kêu cha gọi

Từ ngày như sâu, chuột

Tôi là Giông Trong Yu¨n

Em trai của anh Giơ….

- Từ ngày còn bé

80

Nhữ con sâu, con chuột

Tắm mãi nồi bung nồi bảy

Chán lắm rồi, chán ngấy…

Căn cứ vào dáng vẻ nhỏ bé và nhanh nhẹn tác giả dân gian thường

đem so sánh đối chiếu với loài vật to lớn: “Mắt to như mắt voi. Mắt nhỏ

xíu vừa bằng mắt chuột…”.

Những người anh hùng trong sử thi khi nói về lòng quả cảm của

mình thường lấy hình ảnh động vật ra để diễn tả. Mượn con vật trên núi

cao và con vật dưới nước sâu để nói:

“Là thân trai ta không sợ chết vì lẽ phải

Nếu ta chết ở dưới nước sẽ làm mồi cho cua cá

Nếu ta chết giữa núi rừng thì cứ để cho lũ quạ tha

Nếu ta chết ở nhà để bà con khóc than”

“Không sao đâu hai chị đừng sợ. Thân trai có chết cùng chết, có

sống cùng sống. Hai chị đừng lo! Tác giả nếu chết trên núi thì để quạ ăn,

nếu chết dưới nước thì để cua cắp thôi mà”.

Chàng trai dũng cảm thường đứng về lẽ phải, không sợ thế lực nào

dù hung dữ đến mấy, họ chiến đấu và coi thường cái chết. Dù miêu tả ở

khía cạnh nào của người anh hùng cũng như các thế lực hung ác thì trong

sử thi luôn so sánh với những con vật. Đó có thể là vật nuôi lành, có thể

là những con vật hung ác gớm ghê đem những tai ương đến cho con

người.

Biện pháp phóng đại này trong sử thi Bana nhằm miêu tả không

gian hào hùng, sự tích anh hùng của người anh hùng để dựng lên một môi

trường tinh thần đặc biệt cho người anh hùng xuất hiện. Trong sử thi tất

cả phải là tuyệt đối chỉ có những giá trị tuyệt đối mới có những hình

tượng tuyệt đối. Biện pháp phóng đại đã nhằm giúp cho sử thi vươn tới

những mục đích của nghệ thuật đó.

81

Hình ảnh động vật thường xuyên xuất hiện trong lời ăn, tiếng nói

hàng ngày của người Bana. Họ thường so sánh ví von với hình ảnh động

vật, đó là tư duy hình tượng cảm tính của những người sống hoà mình với

tự nhiên. Bằng ngôn ngữ hình ảnh, tác giả dân gian đã làm hiện lên một

bức tranh sống động, hiện khá rõ những nét điển hình tiêu biểu cho cuộc

sống trù phú của dân làng cũng như vẻ đẹp của các chàng trai cô gái

Bana. Nhiều chi tiết trong tác phẩm sử thi được tác giả dân gian sử dụng

ngôn ngữ hình ảnh để vật thể hoá, tạo cho người đọc người nghe cái cảm

giác được mắt thấy tai nghe những sự vật, hiện tượng xẩy ra xung quanh.

Ngôn ngữ hình ảnh không chỉ được sử dụng để khắc hoạ các nhân vật

hoặc mô tả những cảnh lớn như cảnh sinh hoạt của buôn làng, cảnh hội hè

đông vui… mà ngay trong những lời giao tiếp hàng ngày cũng được diễn

đạt bằng lối nói hình ảnh sống động. Cách nói “lo quá như cái ách trên

cổ con trâu”, “tai một bên to như tai voi, tai một bên nhỏ như tai

chuột”… là những ví dụ tiêu biểu, cách nói ví von hình ảnh này chính là

những nét cơ bản đem lại sự hồn nhiên và hấp dẫn với người đọc khi tiếp

xúc với những áng sử thi Tây Nguyên, đặc biệt là sử thi Bana. Đây là

những hình ảnh động vật được miêu tả một cách hiện thực nhất, rất quen

thuộc và cũng đầy sức hấp dẫn.

Những hình ảnh đã trở thành công thức miêu tả thường thấy trong

các sử thi Bana. Loài vật được mô tả khá nhiều trong sử thi và luôn nằm

trong cách thức so sánh đối chiếu với con người, làm cho hình ảnh con

người trở nên kì vĩ hơn, khiến cho lời nói giàu hình ảnh, đậm chất sử thi.

Chẳng hạn khi mô tả bàn chân nhanh nhẹn của chàng Giông, nghệ nhận

dân gian đã mượn đặc điểm nhanh nhẹn của loài chim, loài sóc để mô tả.

“Bàn chân Giông đi thoăn thoắt, nhanh nhẹn hơn cả sóc chạy, chim

bay… chàng đi nhanh đén nỗi chim bay theo không kịp, khi đến làng mặt

trời còn đứng nghiêng trên ngọn cây”.

82

Bằng việc sử dụng lối ví von, so sánh, ngôn ngữ giàu hình ảnh

nhạc điệu… cái đẹp trong tác phẩm sử thi được miêu tả ở mức vượt trội,

phóng đại. Hình ảnh các cô gái là những nhân vật trong sử thi tạo nên sức

hấp dẫn của cốt truyện. Họ là những người con gái đẹp và có tài phép.

Những nhân vật này được miêu tả bằng những lời văn mượt mà tinh tế.

Cách so sánh, ví von từ lời ăn tiếng nói, dáng đi… phần nhiều đều có

hình ảnh loài vật và những hình ảnh này lại được lặp đi lặp lại khiến cho

những con người trong sử thi Bana có nét giống nhau về khuôn mặt, nước

da, thân hình, dáng dấp…

Đây là vẻ đẹp của Reng Chăm: “Đôi má hồng đỏ rực như khi

người ta đi dưới ánh nắng mặt trời gay gắt. Nàng xinh tươi như đoá hoa

dưa gang đang hé nở và đôi môi kia đỏ rực như bông hoa gạo chớm nở

về mùa hè. Mái tóc hoe vàng óng ả, nhìn từ người ta tưởng như đom đóm

lấp lánh tvrong đêm. Nàng đeo thêm bông hoa tai Hơ Dung rực rỡ như

bông hoa rừng, như ánh sao tháng hai, như ánh trăng tháng ba. Nàng có

dáng người tha thướt nhưng không cao lắm, chỉ vừa vặn thôi. Nàng cất

bước theo nhịp, nhón lên nhẹ nhàng, đạp đất bằng ngón chân cái với một

chút bàn chân. Dáng đi của nàng chẳng khác gì chim lượn cá lội…”.

Vẻ đẹp của Rang Năr: “Ôi xinh đẹp làm sao ! Khi nàng đi từ xa trông tựa

như con đom đóm lấp lánh lấp lánh… thật là đẹp tuyệt vời…”

Dáng vẻ của Pơ Lao Chươh Dreng được so sánh: “Nàng Pơ Lao Chươh

Dreng mặc chiếc váy có đính sợi dây vàng, dây bạc sáng long lanh.

Chiếc váy xẻ ở giữa cho dễ bước đi. Mỗi lần bước đi để lộ ra và thấy thấp

thoáng cặp đùi trắng nõn của nàng loé lên trong đêm như những tia

chớp, như những con đom đóm sáng lập loè…”

Mái tóc của Bia Lui: “Bia Lui có mái tóc dài óng mượt, lấp lánh như

vàng như bạc, buông xoã kín bờ vai và che khuất đôi má nửa kín nửa hở,

thấp thoáng. Nhìn từ xa người ta tưởng như con đom đóm lấp lánh bay

lượn vào lúc đêm tối. Càng nhìn càng thấy đẹp”.

83

Hay khi nói về vẻ đẹp của những cô gái Bana, các tác giả dân gian mượn

hình ảnh động vật, mượn đặc trưng hoặc tập tính của loài vật để diễn tả:

“Nàng bước đi uyển chuyển tựa như cánh chim én liệng trên trời, như

con cá lượn lờ dưới nước, chỉ thấy thấp thoáng gót chân trắng nõn”…

“Khi nàng đi từ xa tựa như con đom đóm lấp lánh, lấp lánh…”.

Tất cả các thủ pháp nghệ thuật đó nhằm xây dựng một hình tượng

hiện thân cho ước mơ ngàn đời của người Bana sinh sống trên vùng đất

cao nguyên hùng vĩ: một người đàn ông bình thường, có phẩm chất của

một người anh hùng, thông minh, tài giỏi, nhanh nhẹn, dũng cảm, gan dạ;

làm lụng giỏi, đánh giặc tài ba… Chính nhờ phẩm chất đó cộng với tinh

thần chiến đấu vì lẽ phải mà người anh hùng đã chiến thắng mọi kẻ thù,

đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân Bana. Có thể khẳng

định, với việc lấy hình ảnh của các loài vật nhằm phóng đại hoá hình ảnh

người anh hùng, nhân vật lý tưởng trong các áng sử thi Bana đã khiến họ

hiện ra với những phẩm chất cao đẹp, ngời sáng và là niềm tự hào của

cộng đồng các thế hệ người Bana.

Thi pháp sử thi còn hay sử dụng những mẫu hình quen thuộc có

sẵn trong tự nhiên, thường gặp trong đời sống hay những vật dụng thường

dùng để so sánh: so sánh thiên nhiên với con người: cái đẹp, ánh mắt của

nữ thần mặt trời, đoàn quân của anh hùng, đi bắt cá… Nó có mục đích

ngoài yếu tố tô đậm về người anh hùng thì nó có một mục đích nữa làm

sao để tác phẩm có âm hưởng hào hùng, kì vỹ, gây ấn tượng cho người

nghe. Chính vì thế mà cho đến ngày nay, mỗi lần nghe kể hơ mon, người

dân Bana thường tụ tập rất đông, thức thâu đêm để nghe nghệ nhân kể…

“Khi lời kể cất lên thì mọi người tìm đến, vòng trong, vòng ngoài và tất

cả đều nghe chăm chú. Họ ngồi từ lúc chập tối, lúc bắt đầu ngồi như thế

nào thi thâu đêm cho đến sớm mai, vẫn thấy họ ngồi nguyên như thế để

nghe những chuyển biến của các sự kiện trong sử thi thông qua điệu bộ

và âm thanh trầm bổng của người kể”.

84

2. Tính nhân văn của sử thi Bana

Tính nhân văn của sử thi Bana được thể hiện ở những hình ảnh

thần linh được nhân cách hoá từ những loài vật liên quan đến đời sống

hàng ngày. Ở luận văn này, tác giả đã phân loại hình ảnh thần linh thành

những vật thần (Bảng 3) như trâu đực có bảy đuôi, heo bảy lần thay nanh,

gà mào rộng bằng cái nia… “ Thần linh trong sử thi Bana không hiện diện

với những hình hài cụ thể và cùng con người sống mái với đối phương

như sử thi Hy Lạp và sử thi Ấn Độ. Con người có khả năng kỳ diệu đối

phó với với kẻ thù là đặc trưng của sử thi Bana. Vì thế có thể nói đến một

chủ nghĩa nhân đạo đặc thù của sử thi Bana khi nó để cho yếu tố thần kì

tác động mạnh mẽ đến số phận nhân vật”. [ 9, tr 33]

Tính nhân văn trong sử thi Bana còn được thể hiện qua mối quan

hệ giữa anh hùng và chiến tranh trong sử thi. Mọi cuộc chiến tranh đều

bắt nguồn từ những nguyên nhân xuất phát vì cộng đồng bị xúc phạm

(nhà rông của làng bị phá), vì những người vô tội bị hà hiếp (Cher Chor

Hor Grong bị phe Giông D©k Dâr đánh vô cớ…). Chiến tranh trong sử thi

nói chung và sử thi Bana nói riêng đều hướng tới mục đích vì sự trưởng

thành và sự phát triển chứ không phải là sự huỷ diệt. Chiến tranh trong sử

thi anh hùng, vì thế có giá trị và ý nghĩa nhân văn cao đẹp.

Trong thế giới loài vật, con chim là loài động vật có một không

gian sinh sống tự do nhất. Nó là loài vật tự do bay lượn, tự do kiếm mồi,

sống có bạn có đôi. Trong sử thi Bana, hình ảnh con chim còn là sự tượng

trưng cho sự cô đơn, bé nhỏ. Con người thường ví mình giống như loài

chim côi cút để gợi lòng thương: “Sao em lại chào mời tôi ? Tôi chỉ là

một con chim sẻ côi cút. Tôi chỉ là một kẻ lang thang, một giống gà hay

đổi chỗ ở chuồng này lại sang chuồng khác, gặp chỗ nào trú ngụ được là

ở lại ngay, gặp người nào có lòng dạ tốt thì chạy đến sống cùng với

người đó. Tôi không có xứ sở, không có làng mạc gì hết”. Thông qua

hình ảnh chim sẻ côi cút, tác giả dân gian Bana đã đưa ra những bài học

85

đạo lí với con người. Lời dạy ấy như lời truyền lại cho thế hệ con cháu

người Bana: phải biết sẻ chia, biết giúp đỡ. “Con ơi ! Kơ Tam Gring Mah

giờ chỉ như con chim sẻ mồ côi không nơi nương tựa… Chúng ta phải

giúp đỡ chàng. Con người đâu phải từ gốc cây từ lòng đất mà ra. Ai cũng

có cha, có mẹ, chẳng qua là ta chưa biết cội nguồn của chàng thôi”.

Hay hình ảnh con chim trong sử thi Bana hiện ra trong sự ước vọng

của con người. Đôi cánh chim tượng trưng cho khát vọng tự do, cho sự

mạnh mẽ, sự nhanh nhẹn. Vì vậy trong sử thi xuất hiện nhiều chi tiết

người hoá thành chim để có thể đi cho nhanh, cho xa và mạnh mẽ. Tiếng

hót của nó đã trở thành âm thanh đặc trưng của núi rừng, của thiên nhiên

tươi đẹp. Tiếng hót ấy còn là tiếng báo tin lành dữ cho con người... Con

chim là hình ảnh đẹp luôn đi liền với con cá lượn để miêu tả vẻ đẹp của

con người.

Thời sử thi, mối quan hệ xã hội của người Bana dựa trên cơ sở vật

chất sở hữu toàn dân về sức sản xuất và sự phân phối sản phẩm xã hội

cho toàn dân, không giành đặc quyền đặc lợi cho bất kỳ ai. Ảnh hưởng từ

sử thi cho đến cuộc sống thường nhật của người Bana rất rõ nét. Giữa

những người trong cùng một làng, nói chung có một tinh thần cộng đồng

rất rõ nét: như một nhà không bao giờ uống rượu của mình mà không mời

các gia đình khác. Nếu một ai đó mổ thịt một con lợn, một con dê hay

một con trâu, người ta chia thịt thành từng phần đủ cho từng người dân

trong làng và phần của người chủ không nhiều hơn phần của những người

khác. Không ai bị quên trong cuộc chia phần thân ái đó và, từ đứa trẻ còn

bú vú mẹ cho đến người già đáng kính nhất đều có phần bằng nhau. Con

nai, con lợn rừng, con mang bắt được trong các cuộc săn cũng theo luật

chia này; chỉ riêng những người thợ săn được chiếm phần hơi nhiều hơn

bù cho sự mệt nhọc của họ. Những đứa trẻ, được rèn luyện từ lâu theo

tinh thần của cha anh, đã noi theo gương họ từ tuổi bé thơ. Trong các

cuộc săn đuổi của chúng, khi bắt được một con rắn, một con thằn lằn hay

86

một con chuột, ta sẽ thấy, lúc trở về, đứa lớn nhất trong bọn cắt nhỏ con

vật ra thành nhiều miếng, không bao giờ vi phạm luật công bằng chặt chẽ

nhất.

Ngoài ra, sử thi Bana còn mang đậm chất trữ tình cao cả. Hãy xem

cách Giông cư xử với người anh phản trắc Dăm Jong. Khi Dăm Jong bị

giết chết, Giông rất đau xót tự chặt vào chân tay mình và xin Yang:

“…Xin đừng hóa đỉa hóa giòi hóa vắt

bởi nó đối với tôi có ác cũng anh em

một, xin hóa nhà rông

cho dân làng có chỗ hội làng

hai, xin hóa nhà sàn

cho dân làng có chỗ ở

ba, xin hóa kho lúa

cho dân có chỗ chứa cái ăn…”

3. Hình ảnh đặc trƣng của mỗi loài vật đƣợc sử dụng để miêu tả

ngƣời anh hùng

Anh hùng trong sử thi Bana là hình ảnh con người xuất sắc, siêu

việt phi thường, tiêu biểu tài ba trong mọi lĩnh vực nhưng không tách rời,

không đối lập với cộng đồng của mình. Sức khoẻ, tài năng của anh hùng

là chỗ dựa, niềm hi vọng của mọi người. Tài năng mà họ có, sự nghiệp

mà họ đạt được thực sự vì toàn thể cộng đồng, không chỉ vì cá nhân

người anh hùng. Anh hùng có một hình thức đẹp theo quan niệm thẩm

mỹ của Tây Nguyên “da đồng, tóc đen như rắn than, cặp mắt óng ánh như

mắt ong xây, bước đi hùng mạnh chao đều như sóng nước…”. Hơn nữa,

anh hùng gắn bó mật thiết với toàn thể các thành viên trong cộng đồng,

với tôi tớ, dân làng, anh em, bè bạn. Sở dĩ duy trì được sự hòa hợp tuyệt

đẹp này trong quan hệ giữa người với người là vì anh hùng sử thi cùng

87

mọi người sống trong xã hội thời cổ, lúc mà nguyên tắc sống là: dân chủ,

bình đẳng và thương yêu nhau.

Bên cạnh đó, sử thi Bana đã dành nhiều trang mô tả vẻ đẹp của con

người. Rất nhiều người được khắc hoạ giống nhau, cũng khuôn mặt, nước

da, thân hình, dáng dấp “mềm mại như chim bay”, “khoan thai như cá

lượt,” “đẹp chẳng khác gì như Kan Yang”… Ở đây rõ ràng tính chất lặp

lại những chi tiết đời sống hàng ngày của sử thi Bana khác với “lối nhắc

lại” như là một biện pháp kỹ thuật của sử thi.

4. Hình ảnh động vật cã mÆt trong sử thi đƣợc đƣa vào nghệ thuật

điêu khắc, trong cuộc sống đời thƣờng của ngƣời Bana

Những yếu tố thiên

nhiên và xã hội Tây Nguyên

đã làm nên chất liệu cuộc

sống chân thực sinh động đặc

sắc của sử thi Bana. Trong sử

thi Bana, hình ảnh động vật

được hiện thực hóa vào cuộc

sống thường ngày. Đến bất cứ

ngôi làng nào của người Bana, chúng ta cũng dễ nhận thấy các bức điêu

khắc tạc hình chim thú có mặt ở hầu khắp các ngôi nhà của người dân

Bana, đặc biệt là ở ngôi nhà rông. Nhà rông là một biểu tượng của sinh

hoạt văn hoá và xã hội của cả cộng đồng. Nó là nơi gắn bó với nhiều sinh

hoạt hàng ngày trong buôn làng: nơi già làng dạy dỗ con em trong làng,

đó cũng là nơi già làng xử các vụ xích mích trong cộng đồng, tiếp khác

các buôn làng đến thăm, là nơi thờ cũng các vị thần… Nghệ thuật tạc

tượng khắc gỗ bắt đầu từ cầu thang lên sàn cho tới nóc nhà rông với

những hoa văn hình học, hình người và hình chim thú. Các bức điêu khắc

này thường được bàn tay các nghệ nhân tài hoa chạm nổi. Mỗi con vật

88

được chạm thường phản ánh ước lệ một nội dung rất súc tích: hình tạc

chim Plang hay chim khách tượng trưng cho lòng hiếu khách, cởi mở của

dân làng đối với cư dân xung quanh; chim Pliêu hay chim chào mào

tượng trưng cho tiếng ríu ra, ríu rít, tụ họp đông vui của nhiều thế hệ; Kơ

tớp, những con cu cườm, cu gáy đứng trên nóc nhà rông cho thấy một vụ

mùa bội thu, lắm ngô nhiều thóc; chim nhồng, chim két tức chim Jông,

chim Dyé, những loài chim học được cách nhại lại tiếng người, ân cần

mời mọc mọi người uống rượu cần... Ngoài ra, chúng ta còn bắt gặp

những khối tượng gỗ tạc hình chim bói cá, chim gõ kiến, chim đại bàng,

chim đưm, chim cú... Tượng thú được tạc phổ biến là các loại khỉ, thỉnh

thoảng cũng bắt gặp tượng các loại chồn, voi. Trang trí trong nhà rông

thường xuất hiện những chi tiết liên quan đến thế giới loài vật. Ở các xà

ngang của nhà rông thường gác những bộ xương thú hoặc những tấm da

thú mà dân làng đã săn bắn được. Dọc theo phên vách người ta trang

hoàng những lông chim trĩ, lông chim công, sừng, đầu thú săn bắn được,

cùng với những vũ khí, những nhạc cụ chơi trong ngày lễ. Trên những vỉ

kèo nhà rông được trang trí những hoa văn sặc sỡ mang tính tôn giáo thờ

phụng, những sự tích huyền thoại của dũng sỹ thủa xưa, những thú vật

được cách điệu…

Hình ảnh động vật trong

sử thi cũng được các nghệ nhân

Bana hiện thực hóa bằng các

tượng nhà mồ. Người Bana có

câu: “Khẽi ning nơng, pơm

bơxát” nghĩa là “tháng nghỉ làm

nhà mồ”, tháng nghỉ đó lại là

mùa hội, mùa vui, mùa “uống

tháng, ăn năm, trâu đâm, lợn mổ”. Người Tây Nguyên nói chung và Bana

nói riêng quan niệm chết nghĩa là bắt đầu cuộc sống mới ở một thế giới

89

khác - thế giới bên kia, thế giới của hồn ma. Bởi vậy, khi người chết đã ra

đi là ra đi vĩnh viễn để sống cuộc sống khác. Ngôi nhà mồ, những pho

tượng mồ được làm ra để phục vụ cho lễ bỏ mả hay cuộc chia tay, cuộc

vui cuối cùng giữa người sống và người chết. Nếu thống kê hết tên gọi rồi

xếp vào một bảng danh mục, ta sẽ phải ngạc nhiên trước sự phong phú và

đa dạng về nội dung của tượng nhà mồ Tây Nguyên, vì hầu như toàn bộ

cuộc sống của con người đều được nghệ nhân dân gian thể hiện lên các

tác phẩm của mình. Thông thường, ở hai bên cửa nhà mồ đều có một cặp

tượng trai gái hoặc đang phô bày cơ quan sinh dục của mình hoặc đang

giao hoan. Đứng bên cặp tượng trai gái đó, là tượng người đàn bà chửa,

còn ở các góc rào xung quanh nhà mồ là tượng những hài nhi đang ngồi.

Tiếp đến lớp thứ hai của tượng nhà mồ là: người đánh trống, phụ nữ giã

gạo, thợ rèn, chàng thanh niên, cô gái, con voi, con chim, con cú… Tất cả

những hình tượng đó nhấp nhô quanh nhà mồ và tạo ra cả một bức tranh

sinh động về cuộc sống để người chết sẽ mang đi sau lễ bỏ mả. Theo

phong tục của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, tượng mồ được làm ra

để phục vụ cho lễ bỏ mả và chỉ có tác dụng trong những ngày hội lễ mà

thôi.

5. Sè l îng hình ảnh động vật có mặt trong 5 tác phẩm sử thi ph¶n

¸nh sự phong phú và giàu có của vùng đất Tây Nguyên

Như đã nói ở trên, sử thi Tây Nguyên nói chung và sử thi Bana nói

riêng là một tấm gương phản ánh một cách toàn diện đời sống của mỗi

dân tộc ở một thời đã qua. Như vậy, với 61 loài động vật hiện diện trong

sử thi, trong đó có những động vật rất hiếm gặp như Chó sói, Hổ, Mang,

Sư tử, Beo… chúng ta có thể khẳng định môi trường thiên nhiên vùng đất

Tây Nguyên xưa rất giàu có.

Với đặc điểm tư duy trực quan, người dân Bana xưa đơn giản trong

cách nghĩ, trong cách nhận xét về thế giới xung quanh. Rừng Tây

90

Nguyên, theo quan sát của người Bana xưa quả là phong phú với nhiều

chủng, nhiều loài. Những con vật như công, trĩ, kì đà, mang, nai… trước

hết là những đối tượng săn bắn của con người cho thấy sự phong phú của

núi rừng Tây Nguyên. “Hai anh em tiếp tục đi, mang theo biết bao con

thú: chim rừng, con kì đà, con trĩ, con công… cả một đống thú rừng đặt

xuống nền nhà chồ”. “Các anh muốn kiếm thức ăn ư ? Có cây đao có

cánh ná đó. Trong rừng đâu thiếu gì thức ăn. Săn bắn ở đó không mất

lòng người, không làm tổn hại đến ai. Trong rừng núi không thiếu gì loài

dê, loài hươu…”. Những con vật này được săn bắn để phục vụ cho cuộc

sống của người Bana: chúng trở thành thức ăn, thành đồ dùng của con

người. “Chàng là con nhà đàng hoàng tử tế. Khốn nỗi áo mặc khố mang

đã rách nát nên phải thay bằng da con mang, con nai trong rừng…”.

“Đêm qua anh chiêm bao thấy ở nơi này có rất nhiều con mang. Ta phải

tìm cách làm sao có thịt mang ăn chứ. Em cứ ở lại đây nhé. Để anh đi

săn một mình bắn con mang”.

Sự phong phú và giàu có về các loài động vật đã phản ánh được sự

giàu có của núi rừng Tây Nguyên nói riêng và của đất nước Việt nói

chung. Trên rừng có sản vật của rừng, dưới sống có sản vật của sông.

Rừng nối tiếp rừng, núi nối tiếp núi, đâu đâu cũng nghe tiếng chim kêu

vượn hót, đâu đâu cũng có thể sống được. Hình ảnh loài vật được tác giả

dân gian miêu tả theo con mắt nhìn rất hiện thực tạo nên một bức tranh

thiên nhiên và sinh hoạt đầy màu sắc, sinh động hấp dẫn. Cuộc sống của

người Bana trong bức tranh thu nhỏ này cho thấy cảnh thanh bình, sung

túc: “Hắn đi quanh quẩn đâu đó, nhìn con trâu của Bok Set, trông con bò

của Giông lúc nhúc, chen chúc nhau khắp trên cánh đồng ven sông, ven

suối… Đó đây những cặp bò húc nhau, con thua bỏ chạy tứ tung. Còn

ngựa thì đủ màu, đủ loại to nhỏ. Không phải là ít, không ai đếm được là

bao nhiêu cả…”

91

Khi miêu tả nét hoang sơ, dữ dằn của rừng già Tây Nguyên, sử thi

Bana mượn âm thanh ghê rợn của loài vật để miêu tả: “Tiếng hú của

vượn, tiếng kêu của khỉ, tiếng gầm của sư tử, tiếng giống của gấu nghe ồn

ào náo động…”. Chỉ có âm thanh, nhưng đã gợi được cả hình ảnh núi

rừng, phong phú nhiều chủng loài khác nhau, đồng thời cho thấy được sự

nguyên sơ của núi rừng Tây Nguyên thời sử thi.

6. Hình ảnh động vật cã mÆt trong sử thi xuất hiện trong đời sống

thƣờng nhật, tín ngƣỡng của ngƣời Bana ngày nay

Cuộc sống của người

Bana xưa gắn bó chặt chẽ

với những loài động vật:

trong sinh hoạt, trong tín

ngưỡng, ở đời sống vật chất

và cả tinh thần, ta đều bắt

gặp hình ảnh động vật.

Trong trang phục của người Bana có bóng dáng của những loài vật đó là

những trang trí, là hình ảnh loài vật trên váy áo của họ. Với người Bana,

cả nam lẫn nữ đặc biệt là phần tóc họ thường búi tóc sau gáy và cắm một

lông chim phần nhiều là lông chim công, Trong những ngày lễ, đặc biệt

là lễ bỏ mả họ thường điểm xuyết những vật đi liền với con vật tượng

trưng cho vẻ đẹp. Với những loại áo, váy, khố dùng trong ngày hội, ngày

lễ thì có dệt thêm các hoa văn màu tươi đẹp… tạo cảm giác đẹp khoẻ.

Hình các hoa văn này rất phong phú, trong đó có cả những con vật quen

thuộc; chó, hươu… Đồ trang sức của họ thường được dùng trong các hội

lễ, với người đàn ông thường vấn khăn và cài thêm lông chim, đàn bà thì

tai xỏ những vật trang sức bằng lồ ô, hoặc bằng ngà voi. Cách ăn mặc và

trang sức như vậy đã tạo cho người dân Tây Nguyên nói chung và người

92

Bana nói riêng có một vẻ dẹp giản dị, hồn nhiên, khoẻ khoắn đặc biệt là

rất gần gũi với thiên nhiên.

Trên cơ sở những sinh hoạt vật chất có nhiều nét gần gũi với thiên

nhiên đó, những sinh hoạt văn hoá tinh thần của người Ba Na cũng có

những yếu tố quan trọng tạo nên tính chất cộng đồng, gần gũi với thiên

nhiên tạo vật và với muôn loài. Như chúng ta đã biết trình độ sản xuất của

người Bana ở Tây Nguyên còn nhiều hạn chế, lệ thuộc vào thiên nhiên.

Chính vì vậy trước những hiện tượng trong cuộc sống, họ chưa lí giải

được, và thường quy cho đấy là do lực lượng siêu nhiên, tức là do các

loại thần tạo ra. Trong tín ngưỡng của họ xuất hiện khá nhiều các vị thần,

họ thờ cúng các vị thần trong sản xuất cũng như trong đời sống. Đó

chính là biểu hiện của tín ngưỡng đa thần theo chủ nghĩa vạn vật hữu

linh, đó là tín ngưỡng tồn tại phổ biến trong các dân tộc ở Tây Nguyên.

Những tín ngưỡng này dẫn đến các nghi lễ thờ cúng, rất phổ biến

trong đời sống hàng ngày của con người, tộc người Ba Na. Cũng với các

nghi lễ là các lời khấn câu ca, các điệu múa, bản nhạc chiêng cồng…. Các

nghi lễ ấy luôn luôn xuất hiện

những con vật gần gũi thân

quen, chúng luôn xuất hiện với

vai trò là vật hiến tế và sau

những nghi lễ nghi ấy chúng lại

phục vụ việc ăn uống vui mừng

của dân làng.

7. Hình ảnh xuất hiện dƣới lốt loài vật trong sử thi tác động đến quan

niệm sống của ngƣời Bana hiện tại

Thần linh trong sử thi Bana, ngoài những vị thần có tên gọi như

Bok Kơi dơi (vị thần tối cao được xem là ông tổ của người Bana), Yang

93

kông (thần núi), Yang jri (thần trú ngụ trong cây đa), Yang đắk (thần

nước), Kiêk Bung Lung (vị thần ma trông coi cõi âm), Ya Dui Dai (Bà

Diu Dai)…; còn có các vị thần linh đội lốt hình ảnh các loài vật được

nhân cách hoá như hình ảnh trâu đực có bảy đuôi, heo bảy lần thay nanh,

gà mào rộng bằng cái nia… Hình ảnh này không chỉ là sản phẩm của tín

ngưỡng mà còn phủ đầy tính chất hư cấu, tưởng tượng của văn học truyền

miệng. Ngoài việc góp phần giải thích các hiện tượng ngoài tầm hiểu biết

xảy ra trong thiên nhiên và đời sống xã hội, thần linh là điểm tựa tinh

thần cho bộ tộc trong quá trình

vật lộn, đấu tranh sinh tồn gian

khổ trên dải núi rừng hùng vỹ

nhưng cũng lắm thiên tai, bão

tố. Có thể khẳng định, thần

linh trong sử thi Bana là chất

men say của trí tưởng tượng, là

cứu tinh lúc lâm nguy, là thứ

kỷ luật tâm linh giúp con

người luôn nhớ đến điều thiện, tránh điều ác, cố gắng vươn lên và hy

vọng trong cuộc sống…

Người Bana, thông qua những nhân vật trung tâm trong sử thi của

họ luôn coi thần linh là một lực lượng che chở, bao bọc họ khi họ làm

điều tốt, điều thiện. Ngược lại, các đấng siêu nhiên sẽ không tha thứ cho

họ nếu họ làm điều ác, tổn hại đến dân làng. Con người ở một mức độ

nào đó phải sống nép theo ý muốn của thần linh, ý muốn này cũng chính

là những chuẩn mực sống tốt đẹp đã được thiết lập qua hàng ngàn năm

đấu tranh, vật lộn với thiên nhiên để sinh tồn. “ Trong suy nghĩ của người

Bana, cuộc sống của con người (lúc thịnh vượng cũng như khi tai ương,

hoạn nạn) luôn có sự can thiệp bí mật của thần linh. Tuy nhiên, niềm tin

chân thành đó không hề đồng nghĩa với việc con người phó thác cuộc

94

sống của mình vào ý muốn, sự điều khiển của lực lượng siêu nhiên”. [ 5, tr 297]

Không chỉ dừng lại trong sử thi, thần linh thực sự tồn tại trong đời

sống tín ngưỡng hàng ngày của người Bana. Họ quan niệm cuộc sống

gồm có hai phần luôn song hành với nhau: phần thiêng và phần tục, phần

tôn giáo và phần bình thường. Hai phần đó hoà quyện vào nhau thành

một thể thống nhất, khó phân biệt rạch ròi, tạo nên một sự cân bằng của

cuộc sống tinh thần cũng như vật chất. Không hẳn phần thiêng quyết định

phần tục, thần linh quyết định cuộc sống mà hai phần thiêng tục kết hợp

với nhau để bảo vệ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, bảo vệ những

tập tục, những quy tắc ứng xử, phong tục tập quán ngày xưa, để gìn giữ

không cho con người xử sự ra khỏi những chuẩn mực xã hội mà cha ông

đã quy định. Hình ảnh loài cá đã trở thành người bạn đồng hành, giúp đỡ

người anh hùng trong sử thi vượt qua những khó khăn thử thách. Chúng

dặn dò nhau kể cho nhau nghe những khó khăn hoạn nạn, trắc trở của

người anh hùng để nhắc nhở nhau phải biết thương yêu, biết giúp đỡ kẻ

khó:“các loại cá dữ khi nhìn thấy Giơ, Giông thì đã nhận ra là người

thân quen; Cá lớn dặn dò ngay: hỡi các con cháu, chớ động đến hai

người kia nhé. Nếu có thể chúng ta phải giúp đỡ, phải cứu vớt hai anh

em… Họ đang có chuyện buồn…”.

Lời dặn dò của những nhân vật này giống như một già làng đang

dặn dò lũ con cháu, phải sống hoà hợp, tương hỗ lẫn nhau. Đó dường như

là bài học đạo lí của người Bana xưa truyền lại cho thế hệ con cháu. Và

bài học ấy được diễn tả thông qua loài vật.

95

KẾT LUẬN

Trong sử thi Bana, thế giới động vật hiện ra rất sinh động và phong

phú đa dạng. Mỗi con vật đều phản ánh cuộc sống tình cảm của tộc người

Bana nói riêng và cộng đồng dân tộc Tây Nguyên nói chung về thế giới.

Dù là con vật bé nhỏ nhất hay những con vật có trong trí tượng tưởng thì

người Bana đều cho nó những tình cảm yêu mến gắn bó. Với hình ảnh

những loài vật xuất hiện trong sử thi có thể nói rằng con người không chỉ

gắn bó với cỏ cây, hoa lá trăng sao, gió mây, mà con người còn gắn bó

với thế giới những con vật. Từ hình ảnh của cá nước chim trời, đến những

con vật nuôi trong gia đình; từ những con thú với sức vóc to lớn đến

những con côn trùng, … đều phản ánh sinh động đầy đủ trong sử thi.

Bằng tư duy trực quan, người nghệ sĩ dân gian đã có một thế giới động

vật đầy hấp dẫn trong sử thi .

1. Sự phong phú và đa dạng của thế giới loài vật phản ánh trong sử thi thể

hiện khả năng quan sát khá tỉ mỉ kỹ càng của người Bana về thế giới động

vật. Sử thi đã phản ánh những hình ảnh bình thường nhất, dung dị nhất

thậm chí là rất tầm thường của cuộc sống con người. Với khả năng quan

sát người nghệ sĩ dân gian đã có một bộ sưu tập khá đầy đủ và đa dạng về

thế giới động vật. Đó là hình ảnh con nhện, gián, thằn lằn, ong, bọ chét,

công, trĩ, kì đà, mang, nai, chuột, sóc, sâu… và thậm chí những con vật

như ruồi, muỗi, kiến, mối cũng xuất hiện không ít. Hiện thực cuộc sống

qua cách hình dung của nhân dân thật đơn giản, không chút tô điểm đánh

bóng. Đó là những loài vật phần lớn đều mang hình ảnh hiện thực. Những

điều mắt thấy tai nghe, ăn sao nói vậy nó thuần phát chân chất mang đặc

điểm của người dân nghèo khó.

Trong luận văn này bằng phương pháp tiếp cận định lượng, tác giả

đã tiến hành thống kê, phân loại các hình ảnh động vật trong sử thi Bana

trong 5 văn bản cụ thể trong kho tàng sử thi Tây Nguyên:

96

B1- Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ

B2- Giông trong Yuăn

B 3- Chàng Kơ Tam Gring Mah

B4- Giông đánh quỷ Bung Lung

B5- Giông, Giơ đi săn chém cọp của Dăm dơ Dang

Kết quả mà tác giả có được là những bảng dữ liệu sau:

Bảng 1: Tên hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana

Bảng 2: Phân nhóm động vật theo tần số xuất hiện từ cao xuống

thấp

Bảng 3: Phân nhóm động vật theo góc độ là vật thần và không phải

là vật thần

Bảng 4: Hình ảnh động vật trong sử thi Bana không có thật trong

cuộc sống

Bảng 5: Hình ảnh các động vật xuất hiện nhiều nhất trong sử thi

Bana

Những kết quả rút ra được từ sử thi Bana là những con số chính xác,

khoa học tác giả thiết lập được bảng dữ liệu 1 gồm có các thông tin:

1. Số thứ tự

2. Tên hình ảnh động vật

3. Số lần xuất hiện

4. Tên đơn vị có sự xuất hiện của tên hình ảnh động vật tương

ứng với cột 3

Trên cơ sở của bảng tác giả tiến hành phân nhóm hình ảnh động vật

theo tần số xuất hiện, gồm 3 khu vực: Cao- Trung bình- thấp

Bảng 3 là bảng sắp xếp hình ảnh động vật theo hai nhóm vật thần và

không phải là vật thần, với những tần số xuất hiện cụ thể và trong các văn

bản cụ thể . Bảng 4 là bảng hình ảnh động vật không có thật trong cuộc

sèng. Sau khi đưa ra những nhận định ban đầu về Bảng 2- về tần số xuất

hiện các hình ảnh động vật, tác giả đã thu nhận được bảng 5 về những

97

hình ảnh động vật xuất hiện nhiêu nhất và hầu hết đều xuất hiện trong các

văn bản đưa ra khảo sát.

2. Trên cơ sở đó tác giả tiến hành viết chương 2 với cách tiếp cận văn hoá

để tìm hiểu chức năng và cách thức miêu tả những hình ảnh động vật

trong sử thi Bana. Qua đó có thể thấy một số điểm đáng chú ý:

- Hình ảnh động vật xuất hiện trong sử thi Bana khá phong phú và

đa dạng. Cuộc sống con người và đời sông văn hoá tình thần được thể

hiện rõ nét. Những hình ảnh động vật xuất hiện với tần số cao là những

hình ảnh gần gũi quen thuộc với người dân. Những hình này đều mang

trong mình những nét văn hoá nhất định.

- Hầu hết các hình ảnh động vật vừa là hình ảnh thực vừa là hình

ảnh được trừu tượng hoá. Số lần xuất hiện các hình ảnh động vật được lí

tưởng hoá cho thấy trí tưởng tượng bay bổng kì diệu của người Bana.

Đồng thời qua đó ta cũng thấy được khả năng phản ánh văn hoá của sử

thi qua hình ảnh động vật.

- Cách miêu tả chi tiết cùng với lối trì ho·n lặp lại trở thành công

thức trong sử thi đã khiến các hình động vật có tần số xuất hiện cao hơn

và tạo được sức hấp dẫn khi tìm hiểu vào các hình này.

Sáng tác dân gian là những sáng tác tập thể mang tình truyền

miệng. Dù ở thể loại nào thì nó đều là sáng tạo trong lao động, trong sinh

hoạt tình thần của con người. Với 1548 lần xuất hiện có hình ảnh của con

vật, với 63 tên con vật cụ thể đã cho thấy sử thi tuy chưa đạt được mức độ

sâu sắc như truyện cổ tích về loài vật nhưng đã cho thấy sự phong phú và

đa dạng về tên con vật được kể. Chính nhờ vào thế giới loài vật này đã

thể hiện một vốn sống của con người - tộc người Bana. Thế giới các con

vật đă được con người khám phá và ở thế giới con vật, dù là chưa đầy đủ

nhưng chúng ta cũng thấy rằng người dân Bana đã sống rất gần gũi với

loài vật, có lúc tưởng như cuộc sống của con người và loài vật được con

người đồng hoá với nhau.

98

3. Có thể thấy rằng dù chưa được đầy đủ và trọn vẹn nhưng thế giới động

vật trong sử thi Bana thật sự đã phản ánh được sự hiểu biết rất hồn nhiên

của con người về thế giới. Những hiểu biết và quan niệm của nhân dân

thật xa với những gì mà khoa sinh vật ngày nay quan niệm, nhưng trong

một giai đoan nhất định thì người Bana làm dược một công việc có ý

nghĩa. Dù là con vật quen thuộc được nuôi dưỡng thuần chủng hay những

con vật chỉ có trong trí tưởng tượng, con người đều dành cho chúng

những tình cảm yêu mến và gủi gắm bao khát vọng.

Trong khuôn khổ luận văn, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc thống kê

phân loại về hình ảnh động vật trong sử thi Bana. Với luận văn tốt nghiệp

này, tác giả mong muốn hoàn chỉnh hơn hệ thống dữ liệu về những hình

ảnh cụ thể trong văn học dân gian. Những kiến thức cơ bản và những

thông tin khoa học thú vị về hình ảnh động vật trong sử thi Bana chính là

một bước dẫn chúng ta đến với đời sống vật chất và tinh thần của người

dân Bana. Từ luận văn này có thể mở ra những hướng nghiên cứu khoa

học sâu hơn./

99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ngô Văn Doanh (1997), Grong bơxát cuộc trình diễn nghệ thuật

sân kháu dân gian đặc sắc của người Bana, Tạp chí Nghiên cứu Đông

Nam Á, số 1

2. Bùi Minh Đạo chủ biên (2006), Dân tộc Bana ở Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, H.

3. Phạm Thị Hà (dịch) Tô Ngọc Thanh (hiệu đính) (1982): Hmon

Đăm noi, Trường ca dân tộc Bana, Nxb Văn hoá.

4. Phan Thị Hồng (1996), Giông nghèo tám vợ, Tre vắt ghen ghét

Giông, Trường ca dân tộc Bana, Nxb Văn học dân tộc.

5. Phan ThÞ Hång ( 1998) ThÇn linh trong sö thi Bana,trong tËp s¸ch

nhiÒu t¸c gi¶ Sö thi T©y Nguyªn, Trung t©m khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n

quèc gia vµ uû ban nh©n d©n tØnh §¾c L¾c, Nxb Khoa häc x· héi. H

6. Nguyễn Thuý Khanh (1994), Đặc điểm định danh trong tên gọi

động vật tiếng Việt, Văn hoá dân gian 1, H

7. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2001), Văn

học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục tái bản, H.

8. Nguyễn Xuân Kính (2008), Quá trình sưu tầm và nhận thức lý luận

đối với sử thi Việt Nam, Báo cáo tại Hội thảo quốc tế sử thi Việt Nam

9. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2001), Đề tài của sử thi Bana, Văn hoá dân

gian, số 6, H.

10. Ka Sô LiÔng sưu tầm, biên dịch và giới thiệu (1997): Xinh Chi Ôn,

trường ca dân tộc Bana, Nxb Văn hoá dân tộc.

11. Triều Nguyên (1999), Tìm hiểu thế giới động vật dưới góc độ ngôn

ngữ - văn hoá dân gian người Việt, Nxb Thuận Hoá.

12. Phan Đăng Nhật (1977), Cố gắng phân loại văn học dân gian các

dân tộc ít người như nó vốn tồn tại trong cuộc sống, Văn học số 6, H

100

13. Phan Đăng Nhật (1984), Sử thi Tây Nguyên với hiện thực lịch sử

Tây Nguyên, Văn hoá dân gian, số 2, H.

14. Phan Đăng Nhật (1999), Vùng sử thi Tây Nguyên, Nxb Khoa học

xã hội, H.

15. Phan Đăng Nhật (2003), Thuộc tính cơ bản của sử thi, Văn hoá dân

gian, số 5, H.

16. Võ Quang Nhơn (1980), Về thể loại sử thi anh hùng của các dân

tộc Tây Nguyên, Luận án PTS, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

17. Võ Quang Nhơn (1996), Sử thi anh hùng Tây Nguyên, Nxb Giáo

dục, H.

18. Nguyễn Văn Nở (2006), Dấu ấn văn hoá dân tộc qua chất liệu biểu

tượng động vật và thực vật trong tục ngữ người Việt, Tạp chí Ngôn ngữ

và đời sống, th¸ng 10.

19. Nguyễn Duy Quý (1998), Sử thi Tây Nguyên và mối quan hệ giữa

văn hoá và phát triển, trong tËp s¸ch nhiÒu t¸c gi¶ Sö thi T©y Nguyªn,

Nxb Khoa học xã hội.

20. Chu Thái Sơn, Nguyễn Chí Huyên (1992), Một cách tiếp cận các

trường ca Tây Nguyên, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 3, H.

21. Tô Ngọc Thanh ( 1998), Hmon, một thể loại diễn xướng dân gian

của người Bana An Khê, Gia Lai, Nxb Khoa học xã hội.

22. Tô Ngọc Thanh, Đặng Nghiêm Vạn, Phạm Hùng Thoan, Vũ Thị

Hoa (1988), Fônclo Banahnaar, Sở Văn hoá Thông tin Gia Lai - Kon

Tum.

23. Phạm Nhân Thành (2001), Những đặc trưng thẩm mỹ của hệ thống

sử thi anh hùng Tây Nguyên, Văn hoá dân gian, số 6, H.

24. Nguyễn Quang Tuệ (2006), Bước đầu tìm hiểu tên nhân vật trong

sử thi Bana, Văn hoá dân gian, số 4, H.

25. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo

dục, H.

101

26. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia và UBND tỉnh

Đăk Lăk (1998), Sử thi Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, H.

27. Viện Văn hoá dân gian (1990), Văn hoá dân gian những phương

pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, H.

28. www.baobinhdinh.com.vn,

29. www.vae.org.vn,

30. www.vienvanhoc.org.vn,

31. www.vass.gov.vn,

32. www.vi.wikipedia.org,

33. www.vietnamnet.vn,

34. www.sggp.org.vn,

35. www.cpv.org.vn,

36. www.vietnamtourism.com.vn,

37. www.ubdt.gov.vn,

38. www.nhandan.com.vn,

39. www.vovnews.com.vn,

40. www.tuoitre.com.vn,

41. www.thanhnien.com.vn,

42. www.baovanhoa.vn…

102

PHỤ LỤC I

TỔNG HỢP TÊN NHÂN VẬT MANG HÌNH ẢNH ĐỘNG VẬT

TRONG MỘT SỐ SỬ THI BANA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI

Tên

Ghi chú

TT

Sem Đum

Giới Nam Là tên các loài chim, nhân vật thường đi

1

với nhau

Chim đo đất, biết nói như người.

2 3 4

Nam Chuồn chuồn ? Nam Atâu nghĩa là ma, con ma Nam Cọp rừng Cáo núi; tên có vần

5

Tên một loài chim rừng

6

Klo Ba Yăk yai prai kong (atâu) Yang Bul zok Kieứk Lă Diă Kla Kông bia Bơlang dăm Bih

Nữ Nam Nhân vật mang tên các loài thú (bih: rắn;

7

ving bing

dăm Ving Bing Klang

Nam klang: diều hâu; đoứk gle tre vet: cu li);

8

thường đi kề (rơnuứng: con lươn)

9

Nam Nam Thần có sức mạnh, phép thuật và tàn ác,

10

dăm Rơnuứng bók Drang hạ - Drang Hơm

sau bị Đăm Noi giết chết

11 K'lơm Bri/ Quỉ gan rừng Nam ác quỉ, sau bị Đăm Noi giết chết 12 bók Prao/ Prao

Nam Rồng thần, sau bị Đăm Noi giết chết Nam ác quỉ có sức mạnh, phép thuật, sau bị

dăm Noi giết chết

- zok

13

zok Pơdrang Hụứ Pơdrang Hơm/ Pơdrang zok dăm Prao

Nam Thần rồng, sống dưới biển (prao: rồng),

14

chồng yă bia Sơmăt Đak.

Deng Deứch

Nam Các nhân vật thường đi liền nhau, là tên

15

các loài

16 Rech Yang

Nam chim rừng. Nam ác quỉ, sau bị Noi giết chết

17

zok Klơm Bri/ ông Gan rừng

Nguyễn Quang Tuệ - Tạp chí Văn hóa Dân gian, số tháng 4/2006

103

PHỤ LỤC II

DANH MỤC 62 TẬP (75 TÁC PHẨM) CỦA

BỘ KHO TÀNG SỬ THI TÂY NGUYÊN

TT

TÊN SÁCH

DÂN TỘC

SỐ TRANG

NĂM XUẤT BẢN

Bana

996

2006

1

2

Bana

786

2007

3

Bana

528

2006

4

Bana

840

2007

5

Bana

1014

2006

6

Bana

608

2006

7

Bana

822

2006

8

Bana

762

2007

9

Bana

954

2007

(Xếp theo thứ tự tộc người)

• Nhong oh Glang Mam Anh em Glang Mam • Dăm Kơ Tam Gring Mah Chàng Kơ Tam Gring Mah • Kla rôp Giông oei ie Cọp bắt cóc Giông thuở bé • Bia Phu hrech Giông Bia Phu bỏ Giông • Dăm Noi • Giơ hao jrang • Giông oei Kơ hơ druh Bia Dak Giông cƣới nàng Khỉ • Atâu So Hle, Kơne Gơseng • Giông gum kon tơ ring pơ ngot hrăh Giông cứu đói dân làng mọi nơi • Giông hao kơ tao Giông leo cây mía thần • Giông hoai iok bia Rang Hu Giông cứu nàng Rang Hu • Giông năm cha akăn Giông đi tìm vợ Giông trâm kêng tơ bang Beh tơmo Giông đạp đổ núi đá cao ngất • Giông tơ blah păng bah krong vă dong dêh char Giông đánh hạ nguồn cứu dân làng • Giông teo kơtăp ier Giông bọc trứng gà • Giông năm tơ hre Giông đi đòi nợ • Giông koh kla xa pơlơi Set Giông giết sƣ tử cứu làng Sét

10 Giông, Giơ tơrit pơti dâng ie

Bana

620

2005

Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ

11 Giông bơ bơ xat

Bana

536

2005

12

Bana

912

2006

Giông làm nhà mồ • Giông năm iok khêl đao bok Kei Dei Giông lấy khiên đao của bok Kei Dei • Giông, Giơ lua koh ko tơ Dăm Hơ Dang Giông, Giơ săn cọp của Dăm Hơ Dang

Bana

1070

2006

13

Bana

1010

2007

14

Bana

1006

2007

15

104

• Giông oei kơ Bia Phu Giông lấy nàng Bia Phu • Giông tơ blăh kiăk Bung Lung Giông đánh quỷ Bung Lung • Giông tep tơ rông kơtu pơlei lôch rung Giông ngủ ở nhà rông của làng bỏ hoang • Giông lua pơnăh mim ju kru yang Giông săn trâu rừng • Giông yuơ yang kông gum ăn jing podrong Giông nhờ ơn thần núi làm cho giàu có • Giông tơ Pô Păng Tơ Dăm Glaih Phang Giông kết bạn với Glaih Phang

16 Diông Trong Yuăn

Bana

1160

2006

Bana

1058

2007

17

Giông Trong Yuăn • Set Jur yuăn năm hơpong ngôi păng pô hăp Set xuống đồng bằng thăm bạn • Giông jên de adruh yâu dak rông Giông dẫn các cô gái đi xúc cá

18 Ci Bri – Ci Brit

Chăm

966

2006

19

Chăm

906

2006

20

Ê Đê

710

2007

Chi Bri - Chi Brít Săp cêng mo ây Hbia Lơ Đă Tiếng cồng của ông bà HBia Lơ Đă • Ama H’Wứ • Dăm Tiông Chàng Dăm Tiông

21 Yklu, Ykla

Ê Đê

930

2007

Anh em Klu, Kla

22 Dăm Săn 23 Hbia Mlin 24 Khing Ju 25 MDrong Dăm 26 27

Ê Đê Ê Đê Ê Đê Ê Đê Ê Đê Ê Đê

1438 1026 1278 1172 1370 904

2006 2007 2007 2006 2007 2007

Sum Blum • Xing Nhă • Dăm Trao - Dăm Rao Anh em Dăm Trao, Dăm Rao

28 Chuh ndung klong trau Dak Huch

1059

2005

29

732

2006

Mơ Nông Mơ Nông

Bắt con lƣơn ở suối Dak Huch • Bing kon Măch hao sai a Yang Bing con Măch xin làm vợ Yang • Tiăng sok rlung kring bon Kla Tiăng lấy lại ché rlung chim phƣợng hoàng ở bon Kla 30 Glu sok bon Tiăng

1084

2005

Con đỉa nuốt bon Tiăng

31 Yau kăp me Rong

810

2006

Con hổ cắn mẹ Rông (Quyển1)

32 Yau kăp me Rong

790

2006

Con hổ cắn mẹ Rông (Quyển2) Pit Bung kon Klết

33

Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ

854

2007

34

828

2007

35

756

2005

36

1161

2004

105

Cƣớp Bung con Klết (Quyển1) Pit Bung kon Klết Cƣớp Bung con Klết (Quyển2) Pit ôi lêng Jrêng, Lêng kon Ôt Cƣớp chăn Lêng của Jrêng, Lêng con Ôt Pit ching yau bon Tiăng Cƣớp chiêng cổ bon Tiăng

37 Deh Lêng

1000

2006

Đẻ Lêng (Quyển1)

38 Deh Lêng

972

2006

Đẻ Lêng (Quyển2)

39 Nkoch yau ot ndrong

618

2006

Kể gia phả sử thi ot ndrong 40 Kră, Năng pit Bing, Kông kon Lông

804

2005

41

1274

2006

42

932

2005

43

902

2005

44

850

2004

Kră, Năng cƣớp Bing, Kông con Lông Sok rlung klang ndăng klau Tiăng Lấy ché con ó của Tiăng Sok kao prăk, kao kông Lấy hoa bạc, hoa đồng Lêng, Kong, Mbong sok yăng rveh nglang Lêng, Kong, Mbong lấy ché voi trắng Lêng nuănh mlă Yang Lêng nghịch đá thần của Yang

782

2006

45 Vă tơm prăk, tơm kông Lùa cây bạc, cây đồng 46 Rêch, Rông guăch huêng Lêng

622

2006

47

1490

2007

Rêch, Rông bắt hồn Lêng Sung, Trang kon Mung khât Tiăng Sung, Trang con Mung thăm Tiăng

48 Krau nglau Trôk, nglau Khay

1210

2005

Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông

Thuốc cá ở hồ Bầu Trời, Mặt Trăng (Quyển1)

49 Krau nglau Trôk, nglau Khay

1198

2005

Mơ Nông

50

1302

2006

51

1254

2006

52

1774

2007

53

802

2006

Thuốc cá ở hồ Bầu Trời, Mặt Trăng (Quyển2) Tiăng pit Djăn, Dje Tiăng cƣớp Djan, Dje (Quyển1) Tiăng pit Djăn, Dje Tiăng cƣớp Djan, Dje (Quyển2) Tiăng sok tơm ngâr Tiăng giành lại bụi tre lồ ô Tiăng sok đao dao Tiăng lấy gƣơm tự chém

54 Khit Ting, Rung

1470

2006

Ting, Rung chết (Quyển1)

55 Khit Ting, Rung

1444

2006

Ting, Rung chết (Quyển2)

56 Mbung rpu bon Tiăng tâl Krơng, Lơng kon

578

2006

Jiăng

Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông Mơ Nông

106

Trâu bon Tiăng chạy đến bon Glơng

674

2006

57 Yang tăch Bing kon Lông Yang bán Bing con Lông

58 Yơng, Yang sok ding prăk kon nuih

1094

2005

59

Mơ Nông Mơ Nông Giarai

1118

2007

Yơng, Yang lấy ống bạc tƣợng ngƣời • Amã ChiSa • Amã Cuvau VongCơi

60 Udai - Ujàc 61

1192 1130

2004 2006

Giarai Xơ Đăng

62

1074

2007

Xơ Đăng

• Dăm Duông bro dek wi Dăm Duông bị bắt làm tôi tớ • Dăm Duông dong Bia Bar Mă Dăm Duông cứu nàng Bar Mă • Dăm Duông jiâng kla bring brông Dăm Duông hoá cọp • Duông bă akar kră Duông trong lốt ông già