ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ MINH THƠ DƯƠNG THUẤN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ MINH THƠ DƯƠNG THUẤN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS LÊ VĂN LÂN Hà Nội – 2012

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................1

1.Lý do chọn đề tài ...........................................................................................1

2.Lịch sử vấn đề ...............................................................................................3

3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .....................................................................4

5.Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn .....................................................5

6.Cấu trúc của luận văn ....................................................................................6

CHƯƠNG 1: THƠ DƯƠNG THUẤN TRONG MẠCH NGUỒN VĂN

HÓA TÀY .......................................................................................................7

1.1.Mối quan hệ văn hóa – văn học ..................................................................7

1.1.1 Khái niệm văn hóa ...................................................................................7

1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học ...............................................................8

1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày ....................... 11

1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc .......................................................................... 11

1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày .............................................................................. 12

1.3.Khát quát về văn học Tày ......................................................................... 16

1.3.1 Văn học dân gian Tày ............................................................................ 16

1.3.2 Văn học viết Tày ................................................................................... 19

1.4.Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày ............................... 25

1.4.1 Vài nét về nhà thơ Dương Thuấn ........................................................... 25

1.4.2 Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày ............................ 27

CHƯƠNG 2: CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN .. 30

2.1 Thế nào là cảm thức văn hóa .................................................................... 30

2.2 Sự gắn bó, tự hào về quê hương ............................................................... 31

2.2.1 Tình yêu thiên nhiên .............................................................................. 32

2.2.2 Thái độ với truyền thống dân tộc ........................................................... 38

2.2.3 Tình yêu đối với con người .................................................................... 43

2.3 Trải nghiệm, triết lý .................................................................................. 49

2.3.1 Triết lí của một chàng trai miền núi ....................................................... 50

2.3.2 Triết lý của một người đi nhiều.............................................................. 54

CHƯƠNG 3: BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN . 59

3.1 Thế nào là biểu tượng văn hóa .................................................................. 59

3.2 Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn............................................. 61

3.2.1 Bản Hon ................................................................................................ 62

3.2.2 Núi ........................................................................................................ 64

3.2.3 Sông ...................................................................................................... 67

3.2.4 Nước ..................................................................................................... 70

3.2.5 Trăng ..................................................................................................... 73

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG THƠ

DƯƠNG THUẤN ......................................................................................... 78

4.1 Ngôn ngữ ................................................................................................. 78

4.1.1 Mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa ........................................................... 78

4.1.2 Ngôn ngữ trong thơ Dương Thuấn ......................................................... 80

4.2 Giọng điệu ................................................................................................ 88

4.2.1 Giới thiệu về giọng điệu ........................................................................ 88

4.2.2 Giọng điệu trong thơ Dương Thuấn ....................................................... 90

KẾT LUẬN ................................................................................................. 100

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Văn học là sản phẩm của một quá trình văn hóa, nó phản ánh đời sống

xã hội, cải tạo cuộc sống con người và lưu giữ, lưu truyền văn hóa ngàn đời.

Đất nước Việt Nam bao gồm 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một bản sắc

văn hóa riêng được cấu thành từ hàng ngàn, hàng vạn thành tố văn hóa đặc

trưng cho dân tộc mình như: lịch sử, ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, các phong

tục tập quán, trang phục, quan hệ cộng đồng…Vì thế một sản phẩm tinh thần

do cả dân tộc hoặc cá nhân thuộc dân tộc đó sáng tạo nên đều ít nhiều thể hiện

bản sắc văn hóa của chính dân tộc mình. Mặt khác, bản sắc văn hóa dân tộc

ấy còn được thấm đẫm trong văn học hơn khi chính người nghệ sĩ sáng tác tự

nguyện trở thành sứ giả văn hóa cho dân tộc mình: “Một dân tộc có nền văn

hóa phát triển thì phải có những đại diện văn hóa. Chính những đại diện văn

hóa đó đã làm nên diện mạo lịch sử văn hóa các dân tộc. Họ có vai trò quan

trọng trong việc lưu giữ và phát triển các giá trị của dân tộc. Tôi còn nhớ câu

nói của nhà thơ Tagor, đại ý là mỗi nhà văn khi đến với thế giới phải mang

theo bản sắc của dân tộc mình, góp phần làm cho văn hóa nhân loại phong

phú hơn”[58].

Trong số 54 dân tộc anh em ở nước ta không phải dân tộc nào cũng

có những sứ giả văn hóa tích cực được dư luận chú ý và đánh giá cao.

Nguyên nhân là do một số dân tộc chưa có chữ viết cũng như chưa có văn

học thành văn, chưa có độc giả nhưng cơ bản vẫn là do trình độ văn hóa

nhận thức phát triển kém, đời sống kinh tế lạc hậu, nghèo nàn. Các nhà văn

dân tộc thiểu số nước ta chỉ tập trung vào một số dân tộc nhiều nhất là dân

tộc Tày chiếm gần 1/3.

Văn học Tày đã vượt qua ngưỡng dân gian truyền khẩu từ rất lâu, thể

1

hiện ý thức về dân tộc bằng chữ viết. Dòng văn học Tày bác học xuất hiện từ

rất sớm như tác giả Lê Thế Khanh (1389-1460), Nông Quỳnh Vân (1565-

1640), Bế Hữu Cung (1757-1820), Hoàng Ích Viêng (1890-1945). Từ đầu thế

kỉ XX, văn học Tày một mặt phát huy truyền thống, mặt khác chịu ảnh hưởng

của văn học miền xuôi, đã dần ghi dấu trưởng thành của nhiều gương mặt

như: Hoàng Văn Thụ (1906-1944), Nông Quốc Chấn (1923-2002), Nông

Minh Châu (1924-1979), Hoàng Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, Ma Trường

Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Đoàn Ngọc Minh, Triệu Thị

Mai, Đoàn Lư, Dương Thuấn, Vi Thùy Linh…

So với những nhà thơ dân tộc ít người khác và so với chính đội ngũ

sáng tác văn nghệ của dân tộc Tày thì có lẽ Dương Thuấn là cây bút sung sức

hơn cả. Có thể nói Dương Thuấn đã thể hiện rất tích cực vai trò sứ giả văn

hóa cho dân tộc mình. Con đường thơ của Dương Thuấn gắn liền với cái nôi

văn hóa vùng Việt Bắc và dân tộc Tày. Quê hương, bản làng, xứ núi đã tạo

cho nhà thơ một mối giao cảm sâu sắc. Phía sau những vần thơ ấy là đời sống

của cá nhân tác giả và đời sống của quê hương xứ Tày. Sinh ra ở bản Hon, đi

khắp trăm nơi nhưng dù đi đâu, về đâu thì Dương Thuấn vẫn đau đáu về bản

Hon quê mình, vẫn nhớ những mái nhà, nhớ cái bậc cầu thang, rặng đá Mèo,

đèo mây phủ, những tên núi tên sông và những con người xứ Mây. Xin mượn

lời tác giả Uông Thái Biểu để khẳng định tính dân tộc bền bỉ trong thơ Dương

Thuấn: “Dù hạ sơn về phố đã hàng chục năm, Thuấn vẫn là con người “của

đồng bào mình”. Nếu xét chữ “tha hóa” theo nghĩa hẹp thì Dương Thuấn là

con người không dễ gì đánh rơi cái cốt, cái lõi trong tâm hồn mình”[44].

Và như vậy chúng tôi chọn khảo sát thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn

văn hóa nhằm làm rõ hơn bản sắc văn hóa Tày trong phong cách thơ ông. Từ

đó góp phần khẳng định những đóng góp đặc sắc của nhà thơ vào tiến trình

2

thơ ca dân tộc Việt Nam hiện đại.

2. Lịch sử vấn đề

Mặc dù là nhà thơ thuộc thế hệ thứ ba nhưng các công trình, bài nghiên

cứu, bình luận về thơ Dương Thuấn đã xuất hiện nhiều trên các tạp chí nghiên

cứu văn học và các ấn phẩm văn hóa văn nghệ. Nhìn chung có thể chia các

bài viết đó thành hai loại sau:

Thứ nhất là các bài cảm nhận, bình thơ về một số bài thơ đơn lẻ tiêu

biểu của Dương Thuấn. Chúng tôi xin liệt kê một số bài viết mà trong quá

trình thực hiện đề tài chúng tôi có tra cứu, tham khảo: cảm nhận về bài thơ Đi

tìm bóng núi có bài của các tác giả như: Nguyễn Trọng Tạo, Bùi Việt Phương,

Lê Lanh, Đoàn Thục Nhi; cảm nhận về bài thơ Kìa thảo nguyên đẹp thế của

Thi Nguyễn, Gửi thơ mường Dôn của Đào Vĩnh, Ăn theo nước của Bế Kiến

Quốc, Cái lý đáng yêu của chàng trai Mông đi tìm vợ của Lê Nhật Ký, Bài

hát tỏ tình của Lê Quốc Hán, Nhớ chị Thìn – một bài thơ độc đáo của Hồ

Thủy Giang, Về bản – một cái nhìn triết học của Đỗ Thu Huyền, Cực tình của

Lò Ngân Sủn, Đọc Chia trứng công của Phùng Ngọc Diễn.

Thứ hai là các bài nghiên cứu, phê bình đối với một tập thơ hoặc tuyển

tập sáng tác của Dương Thuấn. Ở đây chúng tôi có thể nêu ra một số công

trình nghiên cứu sau: Dương Thuấn đi tìm bóng núi của Chu Văn Sơn, Thơ

Dương Thuấn của Phạm Quang Trung, Người rong ruổi đi tìm bóng núi của

Uông Thái Biểu, Dương Thuấn nhà thơ miền núi nghĩ chắc viết sâu của

Hoàng Văn An, Đọc thơ Dương Thuấn của Nông Quốc Chấn, Hình ảnh con

người trong thơ Dương Thuấn của Nguyễn Thị Hằng, Sự thô mộc có học của

Lò Ngân Sủn, Quên lý thuyết văn chương để đi đọc Dương Thuấn của

Inrasara, Thiên nhiên trong thơ Dương Thuấn của Hà Thị Dương (luận văn

thạc sĩ), Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Y Phương dưới góc nhìn văn hóa của

Đỗ Thị Thu Huyền (luận văn thạc sĩ, năm 2007), Một số biểu trưng văn hóa

3

trong thơ Y Phương và Dương Thuấn của Đỗ Thị Thu Huyền tại Hội thảo

Khoa học cuối năm, Viện Văn học, 2007, Bản sắc văn hóa dân tộc Tày trong

thơ Y Phương, Dương Thuấn (luận văn thạc sĩ) của Nguyễn Thị Huyền năm

2009 (đại học Thái Nguyên)

Tựu trung thì các đề tài về thơ Dương Thuấn mà chúng tôi thống kê ở

trên đều công nhận tài năng thơ của Dương Thuấn nhưng thực sự chưa có đề

tài nào triển khai đến tận cùng và phân tích chẻ ngọn một cách thấu đáo nhất về

phong cách thơ Dương Thuấn. Tuy thế với số lượng bài viết khá nhiều kể trên

đã phản chiếu sự ảnh hưởng của tiếng thơ Dương Thuấn đối với đông đảo bạn

đọc. Chọn đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi mong

muốn đưa ra cái nhìn toàn diện, hệ thống hơn về thơ Dương Thuấn xét trong

mạch nguồn văn hóa Tày để chứng minh rằng thơ Dương Thuấn đã kế thừa và

phát huy những giá trị văn học của dân tộc mình trong thơ như thế nào.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Do khuôn khổ của luận văn có hạn, chúng tôi chỉ tập trung tiến hành

khảo sát thơ Dương Thuấn trong ba tập thơ tập I: Bản Hon và những nơi

khác, tập II Thơ tình và tập III Thơ thiếu nhi thuộc Tuyển tập thơ Dương

Thuấn do Hội Nhà Văn xuất bản năm 2010. Lựa chọn ba tập thơ này vì chúng

tôi cho rằng đây là các tập thơ hội tụ những bài thơ tiêu biểu, đặc sắc nhất cho

phong cách thơ Dương Thuấn.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong luận văn, người viết phác họa lại diện mạo thơ Dương Thuấn

nhưng đặc biệt nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng của văn hóa vùng đến sáng tác

của ông. Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào từng tác

phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm thơ Dương Thuấn mà sẽ thâu tóm những

tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, tư tưởng để đưa ra kết luận nhằm phục vụ mục

đích nghiên cứu của luận văn. Trong khi thực hiện đề tài nghiên cứu này, tôi

4

đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu:

- Thống kê, nêu số liệu: số lượng các bài thơ cùng chủ đề, cảm hứng,

các hình ảnh được lặp đi lặp lại trong các bải thơ khác nhau.

- So sánh: so sánh nội dung, cảm hứng nghệ thuật, hình thức biểu hiện,

nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh thơ của Dương Thuấn với thơ của các tác giả

khác khi viết cùng về một đề tài.

- Phân tích: phân tích nội dung, hình thức của những dẫn chứng thơ.

Phân tích những lí luận về thơ để phục vụ cho các luận điểm của luận văn.

- Thi pháp học: nhằm nghiên cứu hình thức nghệ thuật, chỉ rõ đặc trưng cơ

bản tạo nên phong cách của tác giả.

- Văn hóa học: nhằm chỉ ra bản sắc văn hóa dân tộc trong các sáng tác của

tác giả.

- Liên phương pháp: có sự kết hợp của các phương pháp khi trình bày một

luận điểm như thống kê kết hợp nêu số liệu sau khi phân tích, so sánh. Sử dụng

phương pháp văn hóa học cùng phương pháp phân tích cấu trúc ngôn ngữ.

5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình khảo sát về thơ Dương Thuấn từ góc nhìn văn

hóa. Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái

quát, đầy đủ hơn về thơ Dương Thuấn, từ đó thấy được những tìm tòi, đổi

mới, vận động và phát triển của thơ Dương Thuấn mang đậm bản sắc văn hóa

của một vùng quê.

Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra những kiến giải mới khác

với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu đã bàn về thơ Dương Thuấn mà chỉ

vận dụng những thành tựu đã có để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ thể

theo một hướng mới. Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa là một cách

tiếp cận mới mẻ giúp ta hiểu thêm những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Kết

5

quả nghiên cứu của luận văn góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu văn

học nhiều triển vọng đó là từ góc độ văn hóa - văn học, sự giao lưu, giao thoa

và ảnh hưởng qua lại để nhìn cho thấu đáo từ nhiều chiều kích, phương diện.

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4

chương:

Chương 1: Thơ Dương Thuấn trong mạch nguồn văn hóa dân tộc Tày

Chương 2: Cảm thức văn hóa trong thơ Dương Thuấn

Chương 3: Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn

6

Chương 4: Một số phương thức nghệ thuật trong thơ Dương Thuấn

CHƯƠNG 1

THƠ DƯƠNG THUẤN TRONG MẠCH NGUỒN VĂN HÓA TÀY

1.1 Mối quan hệ văn hóa – văn học

1.1.1 Khái niệm văn hóa

Ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về

khái niệm văn hóa. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng: “Văn hóa

là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc

người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này

mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất

chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu

hiện thành một kiến thức lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các

kiểu lựa chọn của cá nhân hay các tộc người khác”[17, tr.17]. Giáo sư, Tiến

sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá

trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt

động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và

xã hội” [30, tr.10]. Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại định nghĩa:

“Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo

đức, pháp luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có

được với tư cách là một thành viên của xã hội” [40, tr.8].

Văn hóa là sản phẩm của con người, là kết quả của sự tiến hóa nhân

loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và

khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên để

hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó

có những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Ngay trong bản thân khái niệm

văn hoá cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi do đứng ở nhiều góc độ khoa

học khác nhau để nghiên cứu. Tựu chung, xét về mặt biểu hiện, văn hoá là

7

một hiện tượng xã hội mà không phải là hiện tượng tự nhiên và nó thuộc về

giá trị tinh thần. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa

nhưng các định nghĩa đó vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: văn

hóa là một trong những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người

sáng tạo ra trong sự phát triển của dân tộc. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá

được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ

cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và

truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản

sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc.

1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học

Như chúng ta đã biết: văn học là một thành tố của văn hóa, nằm trong

văn hóa vì thế nó chịu sự chi phối của văn hóa như M. Bakhtin xác định:

“Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó

ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó

tồn tại”[24]. Mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên

một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn

học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng

thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện

của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình.

Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động, sản xuất, ăn

mặc, ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kĩ thuật… đều là điều kiện quan

trọng trong môi trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Những

thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn

hóa như một tổng thể, một hệ thống gồm nhiều yếu tố như: ngôn ngữ, phong

tục tập quán, pháp luật, tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn,

văn học…

Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ đạo

8

thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó thường

xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức là một hệ thống văn hóa. Là

một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát

triển. Tiếp thu những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn

học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống,

làm cho hệ thống phải thay đổi cùng nó. Ở nước ta không ít công trình nghiên

cứu văn học đi sâu vào tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam, xem

bản sắc dân tộc như là phẩm chất của văn học, và cũng có không ít những

công trình nghiên cứu văn hoá xem trọng dẫn liệu văn học như những dấu

hiệu, những tiêu chí góp phần làm sáng tỏ đặc điểm văn hoá, bản sắc văn hoá

của dân tộc. Có thể kể tên những thành tựu mới mẻ, đầy triển vọng của một số

công trình nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận từ văn hóa học như công

trình nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Thuý – Mối quan hệ giữa văn hoá và văn

học (1997), Trần Ngọc Vương – Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn

chung (1997), Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá (1999), Trần Nho Thìn –

Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá (2007)…

Văn học với tư cách là một bộ phận của tổng thể văn hóa, một yếu tố

của hệ thống văn hóa thì không thể và không có quyền qua mặt hệ thống để

tiếp xúc thẳng hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội mà phải gián tiếp

qua hệ thống văn hóa và chỉ “quan hệ” được với hệ thống xã hội thông qua

văn hóa. Như vậy, khung nghiên cứu văn học cũng phải là khung văn hóa.

Trong quan hệ với chuyên ngành nghiên cứu văn học, văn hoá học xem xét

văn học từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu

vào văn học. Trong mối quan hệ với văn hóa học, nghiên cứu văn học và văn

hoá học có nhiều điểm tương đồng về quan điểm phương pháp luận, nhưng

vẫn khác nhau về cơ bản như: tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử, tính dân

tộc… của đối tượng đều được hai ngành quan tâm xem xét. Nghiên cứu văn

9

hoá học và nghiên cứu văn học đều coi trọng quan điểm hệ thống trong tiếp

cận đối tượng, đều quan tâm đến tính thống nhất trong đa dạng của đối tượng.

Nếu như xem xét từ góc độ thời gian, văn hoá học có văn hoá sử, nghiên cứu

văn học có văn học sử. Nếu xem xét từ góc độ không gian, văn hoá học có

văn hoá vùng, văn hoá khu vực, nghiên cứu văn học cũng có văn học vùng,

văn học khu vực. Nếu xem xét từ góc độ chủ thể, văn hoá học có văn hoá dân

tộc, nghiên cứu văn học có văn học dân tộc… Về mặt phương pháp, văn hoá

học và nghiên cứu văn học đều quan tâm đến tính liên ngành, đến việc vận

dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác áp dụng vào đối tượng

nghiên cứu cụ thể của mình.

Đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng

những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác

phẩm. Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc

nhìn văn hóa ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa. Trong đó tác

phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn

giáo, đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng

như sự chi phối của các phương tiện khác nhau. Trong đời sống sinh hoạt xã

hội từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về

các mặt xây dựng nhân vật, kết cấi, mô-típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ…

Phương pháp này có tính chất tổng hợp, trung gian giữa những phương pháp

đọc văn bản khác nhau nhưng vẫn có đặc trưng riêng. Nó thiên về nhiệm vụ

giải mã các hiện tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng

đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong

không gian và thời gian.

Tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của

tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối

chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm

10

được sản sinh để tìm nguồn gốc các dạng thức quan niệm về con người – thời

gian – không gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận

liên ngành trong nghiên cứu khoa học.

Nghiên cứu văn học ngày càng ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn học

với văn hoá, đặc biệt là nghiên cứu văn học tiếp nhận ở văn hoá học quan

điểm về tính tương tác của các hệ thống văn hoá, về góc nhìn văn hoá trong

nghiên cứu đối tượng đặc thù. Lý luận về sự giao thoa giữa văn học và văn

hoá trong lý luận văn học thế giới được giới thiệu khá phong phú ở nước ta

cũng là một trong những cơ sở giúp nghiên cứu văn học ngày càng khám phá

những chiều kích văn hoá trong đời sống năng động của văn học nước nhà.

1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày

1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc

Dân tộc Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái sống chủ yếu ở các tỉnh

miền núi phía Bắc (vùng văn hóa Việt Bắc) như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc

Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang… Bản thân văn hóa Tày đã có

một bản sắc dân tộc riêng nhưng trước hết vì thuộc vùng văn hóa Việt Bắc

nên ít nhiều văn hóa Tày có sự ảnh hưởng của văn hóa vùng. Cư dân chủ yếu

của vùng Việt Bắc là người Tày và người Nùng, ngoài ra, còn một số dân tộc

ít người như: Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay.

Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản

giống các khu vực khác. Về tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư

dân Tày- Nùng hướng niềm tin của con người đến thần bản mệnh, trời đất, tổ

tiên. Họ thờ nhiều thần linh như thần sông, thần núi, thần đất. Ngoài ra, còn

có các ông vua, Giàng Then cũng được dân tộc nơi đây kính cẩn thờ phụng.

Diện mạo tôn giáo Việt Bắc cũng có những nét khác biệt. Các tôn giáo như

Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của

người Việt Bắc. Tam giáo được cư dân Việt Bắc tiếp nhận gần giống người

11

Việt nhưng ở mức độ thấp hơn và kết hợp với tín ngưỡng vật linh vốn có

trong đời sống dân gian. Về chữ viết, vào giai đoạn cổ đại, cư dân ở đây

không có chữ viết; sang giai đoạn cận đại thì có chữ Nôm và giai đoạn hiện

đại thì chữ Nôm tồn tại song song với chữ Latinh. Cũng chính vì vậy, nét

đáng chú ý là cư dân Tày – Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết bằng

chữ viết dân tộc khá sớm như Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài

Đoàn… Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng về thể loại,

phong phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói

ví, câu đố, đồng dao, dân ca. Đặc biệt, lời ca giao duyên: lượn cọi và lượn

tương, là những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày – Nùng ưa chuộng.

Lễ hội của cư dân Tày – Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đồng là

Hội Lồng Tồng (hội xuống đồng), diễn ra hai phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính

là rước thần đình và thần nông ra nơi mở hội ở ngoài đồng. Phần hội căn bản

là các trò chơi như đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật… Như vậy, về

bản chất, Hội Lồng Tồng là một sinh hoạt văn hóa.

Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, không thể không

nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là

nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến một

loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vùng này, và có thể coi như một sinh hoạt

văn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc. Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hóa có

nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể: Tày - Nùng với lịch sử và văn hóa của họ

tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này không phá vỡ tính thống

nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hoá cả nước.

1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày

Nằm trong cái nôi văn hóa vùng Việt Bắc, ngoài những ảnh hưởng của

văn hóa vùng, dân tộc Tày còn có riêng một bản sắc văn hóa, cụ thể là:

Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền phát triển với đủ loại cây

12

trồng như lúa, ngô, khoai… Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã

biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như đào mương,

bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày

còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… Chăn nuôi phát triển với nhiều loại

gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn phổ biến. Các

nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với

nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Đặc điểm kinh tế mà đặc biệt về mặc nông

nghiệp này đã tạo nên những biểu tượng văn hóa trong tín ngưỡng dân tộc

Tày như tục thờ nước, thờ Mẹ Hoa, thờ thần lúa. Người dân thường ở chân

núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông.

Họ sống thành bản làng đông đúc, mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều

bản có tới hàng trăm nóc nhà. Dân tộc Tày còn có tên gọi là Thổ ở Việt Bắc,

hoặc Phén (tức là Phiên) ở Hải Ninh; nhưng tên “Tày” đúng hơn cả và được

nhân dân Tày xác nhận.

Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có quy định rõ ràng

trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly

hôn. Đã từ lâu dân tộc Tày không còn tục ở rể. Nam nữ được tự do yêu

đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng không lại tùy thuộc vào bố

mẹ hai bên và số mệnh của họ có hợp nhau không. Vì thế trong quá trình đi

tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá só của cô gái về so với lá số của con

mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày

sinh nở mới về hẳn bên nhà chồng.

Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm. Cái độc đáo

đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối dùng màu chàm phổ

biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên

trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn

trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc

13

được dùng trong hoa văn mặt chăn hoặc các tấm thổ cẩm. Và “áo chàm” đã

trở thành một hoán dụ phổ biến xuất hiện nhiều trong thơ văn để chỉ đồng bào

dân tộc Tày nói riêng hoặc các cư dân Việt Bắc nói chung.

Đồng bào Tày có một nền văn hóa tín ngưỡng sâu đậm ngay từ thời kỳ

khởi nguyên, và được tiếp tục phát triển theo những xu hướng linh động cho

đến hiện tại (có nhiều điểm tương đồng văn hóa tín ngưỡng vùng Việt Bắc –

đã trình bày ở trên). Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên, ngoài ra còn thờ

cúng thổ công, vua bếp, bà mụ, Mẹ Hoa, lúa. Hàng năm có nhiều lễ tết với

những ý nghĩa khác nhau nhưng quan trọng nhất vẫn là tết Nguyên đán - mở

đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ

chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm

lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết

rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Chữ viết của người Tày xuất hiện khá sớm, chữ Nôm Tày xây dựng trên

mẫu tự tượng hình, gần giống chữ Nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được

dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng… Chữ Tày - Nùng dựa trên cơ

sở chữ cái Latinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa những năm 80, được

dùng trong các trường phổ thông cấp 1, vùng có người Tày – Nùng cư trú.

Đối với cư dân Tày, lễ hội là là sinh hoạt văn hóa quan trọng bậc nhất

trong đó đặc biệt là Hội Lồng Tồng (Hội xuống đồng) trở thành “đặc sản” sinh

hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân vùng Việt Bắc cũng như văn hóa Tày. Lễ

hội mang đậm những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, thường được

tổ chức ở những đám ruộng to rộng. Trước ngày hội, các gia đình đều quét

dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khách đến

đây, dù quen dù lạ đều được đồng bào mời về nhà ăn nghỉ qua đêm chờ dự

hội. Trong ngày diễn ra lễ hội, phần lễ và phần hội đều diễn ra trang trọng, vui

tươi. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối

14

tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ở ngoài đồng, mỗi

gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài chục

đến một trăm món. Phần hội quan trọng nhất là hội xuống đồng. Một nông

dân cày giỏi được giao trọng trách mắc cày vào con trâu mộng, to khỏe để

vạch luống cày đầu tiên cho mùa vụ mới. Thầy cúng đi trước làm lễ, luống

cày theo sau như nở hoa trên đất hứa hẹn với bà con nông dân một mùa vụ

suôn sẻ, bội thu.

Hoạt động vui nhất, thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội là

hội tung còn. Nếu ở lễ hội này không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân

bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng

tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hoà. Trong

trò chơi này, nam nữ thanh niên thi tung còn cho nhau. Ngoài ra còn có các

hoạt động múa sư tử, múa võ, kéo co... Ðặc biệt, đêm về, nam nữ thanh niên

thi hát lượn đối đáp suốt canh dài...

Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại

thơ ca, múa, nhạc…. Nhiều làn điệu dân ca nổi tiếng như lượn, phong slư,

phuối pác, phuối, rọi, vén eng… Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then,

lượn nàng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng.

Đồng bào Tày thường lượn trong Hội Lồng Tồng, trong đám cưới, mừng nhà

mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương

có múa rối bằng gỗ khá độc đáo. Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng

kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con.

Bên cạnh những nét văn hóa trên, nền văn học dân gian Tày còn là kho

tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca… tiêu biểu là truyện

Quả bầu, Thạch Sanh, Cẩu Khây, Phú Lương Quân, Báo Luông – Sao Cải,

Khảm hải (Vượt biển) …

Từ những điều vừa tìm hiểu về đặc điểm văn hóa của dân tộc Tày như

15

trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng: mỗi một dân tộc đều mang trong mình

những dấu ấn văn hóa tạo nên đặc sắc của dân tộc đó. Bản sắc văn hóa hay

truyền thống dân tộc là quá trình chọn lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ. Nếu

một dân tộc không có bản sắc, không tiếp thu truyền thống thì văn hóa dân

tộc đó chỉ là hư vô. Do đó việc phát hiện, gìn giữ và phát huy truyền thống

văn hóa của từng dân tộc theo hướng ngày càng hiện đại nhưng vẫn giữ

được dấu ấn riêng là vấn đề ý nghĩa, mang tính thời sự, cập nhật. Trên đây là

một số đặc trưng văn hóa nổi bật của cư dân vùng Việt Bắc và dân tộc Tày.

Những đặc trưng văn hóa này sẽ là tiền đề hữu ích giúp chúng tôi triển khai

đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa có cơ sở thực tế và sức

thuyết phục hơn.

1.3 Khát quát về văn học Tày

1.3.1 Văn học dân gian Tày

Văn học dân tộc thiểu số ở nước ta tuy hình thành và phát triển muộn

nhưng có nhiều đóng góp đáng kể làm phong phú cho kho tàng văn học Việt

Nam. Hệ thống văn học dân gian Tày đặc biệt sinh động bởi sự góp mặt của

nhiều thể loại như: truyền thuyết, truyện thơ, dân ca, tục ngữ, ca dao. Nội

dung truyện cổ Tày thường tập trung giải thích các hiện tượng tự nhiên,

những mâu thuẫn trong đời sống con người, cuộc chiến giữa thiện và ác.

Truyện ngụ ngôn có rất nhiều tình tiết ly kỳ, chết đi sống lại hoá thân thành

con vật, cỏ cây, hoa lá hoặc có cuộc sống sung sướng, thậm chí làm vua,

quan… thể hiện khát vọng sống của con nguời. Tục ngữ ca dao đó là những

câu phản ánh tâm tư tình cảm, tâm trạng hoặc được đúc kết thành kinh

nghiệm, triết lý trong cuộc sống, kinh nghiệm trong sản xuất, đối nhân xử thế,

trong dấu tranh xã hội cũng như trong tự nhiên. Đáng chú ý nhất trong văn

học dân gian Tày là thể loại truyện thơ và dân ca.

Về thể loại truyện thơ, những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng của dân tộc

16

Tày như: Thị Ðan, Quảng Tân - Ngọc Lương, Nàng Kim, Chim sáo, Chiêu

Ðức, Vượt biển... Đây là những truyện được mọi người biết đến và yêu thích

nhiều, có ý nghĩa khá quan trọng trong nền văn học dân gian truyền thống và

trong đời sống tinh thần của đồng bào. Những tác phẩm này ban đầu đều được

lưu truyền bằng phương thức truyền miệng do các nghệ nhân kể trong những

dịp lễ, tết hay vào lúc nông nhàn. Có thể cốt truyện nguyên sơ còn rất lỏng

lẻo, cùng một tên truyện nhưng lại có nhiều chi tiết khác nhau, sau này được

các nho sĩ chép lại, sắp xếp lại cho hoàn chỉnh hơn và tồn tại cho đến ngày

nay. Đề tài truyện thơ Tày thường chọn đó là: tình yêu nam nữ, thân phận

người phụ nữ và số phận người nghèo khổ. Chủ đề của truyện đều tập trung

vào chủ đề quyền sống tự do của con người trong xã hội cũ, lên án chế độ ép

gả trong hôn nhân, thể hiện quyền khao khát thay đổi số phận của người

nghèo khổ.

Về thể loại dân ca, có thể nói dân ca gắn liền trong đời sống sinh

hoạt, tín ngưỡng của người Tày nhiều và quan trọng nhất so với các thể

loại văn học khác. Dân ca Tày có ba dòng đặc trưng: dân ca giao duyên,

dân ca nghi lễ và dân ca tín ngưỡng. Dân ca giao duyên phong phú về thể

loại như phong slư, lượn, phuối pác (hát đối đáp)…thường được các đôi

trai gái sử dụng khi tìm hiểu nhau, do đó làn điệu thường ngân nga nhấn

nhá vang xa trong không gian thể hiện tâm trạng, tình cảm, nỗi nhớ nhung.

Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc sắc của trai gái

Tày. Bức thư này viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải sa tanh đỏ. Phong

slư nói về cung bậc tình cảm của những người đang yêu. Khi là tiếng nói

thủ thỉ tâm tình. Lúc hóa thành dòng thác nhớ nhung tha thiết. Tình yêu

nam, nữ thể hiện trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách, trắc trở,

tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong slư thường buồn da diết. Tuy

nhiên nó không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ

17

lãng mạn, nhân văn.

Hãy tu thân chờ nhau bên ấy

Dẫu là không lấy được cũng cam

Yêu nhau để khắp mường được thấy

Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau

Tới trăm năm khi về âm phủ

Ta rủ nhau về chốn mường hơn

Lượn là một bộ phận thuộc loại hình nghệ thuật dân ca sinh hoạt của

người Tày. Lượn có nhiều tiểu loại, ngoài hai loại cơ bản là lượn cọi và lượn

slương, người Tày còn có lượn Then, lượn nàng Hai, lượn khắp,… Trong cái

nhìn đối sánh với văn hóa dân tộc Kinh, lượn là lối hát giao duyên có thể

tương tự như lối hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa

tha thiết, lay động lòng người, gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Có thể

nói lượn đã trở thành một thực thể trong đời sống tinh thần, một thành phần

có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu bộc lộ tình cảm

của những người dân Tày yêu thích ca hát. Thông qua lượn mà tiếng hát, lời

ca ngân lên mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần

không thể thiếu được trong đời sống tinh thần người Tày.

Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam nữ thanh

niên Tày, Nùng thường dùng hàng ngày. Đây là lối nói tự do, dịch nôm là

“nói chuỗi” thường được diễn ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ

hội… Đó cũng là một hình thức thể hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi

trêu ghẹo tình tứ thể hiện những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời

gian gọt giũa những lời phuối pác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và

mềm mại một chất thơ lãng mạn. Phuối pác là nơi thể hiện tình yêu trai gái.

Nội dung chính của các bài hát này là lòng yêu lao động, tình yêu trai gái, tùy

tài năng và cảm xúc của người hát mà làn điệu bài bản các thể hát đó được

18

biến hoá, sáng tạo không ngừng. Phuối pác là thể dân ca hát đối đáp, có làn

điệu nhưng không ngân nga như lượn, thường được dùng nhiều nhất trong hai

trường hợp: khi mới gặp nhau và lúc tạm biệt nhau:

- Chàng ơi, nón cọ hay nón bạc

Nón chàng đội hai người được không

Đội được em xin đi cùng đường

- Chớ lừa nhau đặt lờ trên cây

Biết bao giờ mới được gặp cá

Dân ca nghi lễ, nổi bật nhất là hình thức quan làng trong các đám cưới.

Các quan làng (đại diện nhà trai) thường hát đối đáp với các pả mẻ (đại diện cho

nhà gái) phục vụ cho tiến trình nghi thức của một đám cưới. Dân ca tín ngưỡng

là lời xướng, giọng ca của những người hành nghề mang tính tâm linh…

Trên đây chúng tôi điểm lại những thể loại chính trong kho tàng văn

học dân gian của người Tày. Sự đa dạng về thể loại, đề tài và nội dung phản

ánh thể hiện đời sống tinh thần phong phú của đồng bào. Đây cũng là một

trong những giá trị văn hóa dân tộc cần được giữ gìn và phát huy qua các thế

hệ. Nó sẽ là bản sắc dân tộc, là nền tảng văn hóa, văn học vững chãi cho các

nhà văn nhà thơ sau này kế thừa và tiếp nối.

1.3.2 Văn học viết Tày

Do hệ thống chữ Nôm Tày xuất hiện khá sớm so với các dân tộc khác

(thế kỷ XV) nên nền văn học viết của người Tày đã sớm phát triển. Mỗi giai

đoạn đều có những thành tựu chung, đều ghi dấu ấn độc đáo của từng gương

mặt như các tác giả thời trung đại Lê Thế Khanh (1389-1460), Nông Quỳnh

Vân (1565-1640), Bế Hữu Cung (1757-1820), Hoàng Ích Viêng (1890-1945)

đến các tác giả thời hiện đại như Hoàng Văn Thụ (1906-1944), Nông Quốc

Chấn (1923-2002), Nông Minh Châu (1924-1979), Triều Ân, Vi Thị Kim

Bình, Ma Trường Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Đoàn

19

Ngọc Minh, Triệu Thị Mai, Đoàn Lư, Dương Thuấn, Vi Thùy Linh…

Thời kì trước Cách mạng tháng Tám 1945, văn học dân tộc thiểu số nói

chung cũng như văn học Tày nói riêng thường tồn tại dưới loại hình văn học

dân gian. Phải đến sau Cách mạng, văn học các dân tộc thiểu số nói chung

mới bắt đầu phát triển với dấu ấn của cá nhân. Đội ngũ sáng tác văn học

người Tày được hình thành và phát triển trong số đó có một số tác giả đã trở

thành đại thụ hay hiện tượng trong nền văn học Việt Nam. Đầu tiên phải kể

đến lớp nhà văn nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, là những

người đặt nền móng đầu tiên cho văn học Tày hiện đại như: Nông Quốc Chấn,

Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Hoàng Triều Ân.

Trước hết về tác giả Nông Quốc Chấn – người anh cả của nền thơ ca

dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Tày nói riêng. Ông được xem là

người dân tộc thiểu số đầu tiên: “mang hơi thở của núi rừng Việt Bắc vào thi

ca” là “cánh chim đầu đàn của những người làm văn học cách mạng của các

dân tộc thiểu số” (Tô Hoài). Đọc Nông Quốc Chấn ta thấy toát lên chất trữ

tình đằm thắm, ông viết mộc mạc, giản dị vừa sâu sắc, nhẹ nhàng vừa sôi nổi

như giáo sư Vũ Khiên đã từng nhận xét: “Tâm hồn anh từ nhỏ được nuôi

dưỡng từ chất thơ của tình người, trong giọng hát lượn then, trong âm thanh

đàn tính... thơ anh nhiều lúc hoang sơ như cây rừng, gập ghềnh như sườn

núi”. Bên cạnh việc giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, Nông Quốc Chấn

luôn tìm tòi và học theo những đổi mới thơ miền xuôi. Ông say mê nghiên

cứu, luôn trăn trở với vấn đề sáng tác của văn học dân tộc thiểu số. Từ

những năm 60 trở đi, thơ Nông Quốc Chấn có nhiều thay đổi nhưng điều

quan trọng là ông ý thức rất rõ rằng bản sắc dân tộc không mâu thuẫn với

việc mở rộng đề tài, chủ đề, thủ pháp diễn đạt... Và thực sự Nông Quốc

Chấn không chỉ là nhà thơ của đồng bào Tày, Việt Bắc mà thơ ông còn được

20

cả nước đã biết đến và yêu mến.

Còn nhà văn nhà thơ Nông Viết Toại thì ngay từ những năm đầu kháng

chiến chống Pháp đã thổi bùng lòng yêu nước vào trong thơ văn mình qua

một số bài ca Cách mạng như: Nhớ chiến khu, Nhớ đàn chim Việt. Ðọc những

sáng tác của Nông Viết Toại càng thêm yêu mến làng bản, núi rừng quê

hương Việt Bắc với những hình ảnh rừng núi bạt ngàn nắng gió, những mái

nhà sàn xinh xắn, những nét sinh hoạt đầm ấm của những nguời dân miền núi

trong các thôn bản vùng núi cao.

Nói đến văn học Tày còn không thể không kể đến nhà văn nhà thơ

Nông Minh Châu, người có công đầu trong việc đặt nền móng cho văn xuôi

các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại. Những sáng tác của Nông

Minh Châu thường mang nội dung tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê

hương miền núi với những cảnh vật đẹp đẽ, nên thơ và những con nguời miền

núi thẳng thắn thật thà, chân chất nhưng rất giàu tình cảm… Sáng tác của Nhà

văn Nông Minh Châu không nhiều. Toàn bộ tác phẩm đã được xuất bản của

ông chỉ gồm một tập thơ bằng tiếng Kinh: Tung còn và Suối đàn (in chung

với Triều Ân,1963), tiểu thuyết Muối lên rừng (1964), tập truyện và ký Tiếng

chim gô (1979), trường ca tiếng Tày Cưa khửn đông (1967), Tuyển tập Nông

Minh Châu (2003), Thơ Nông Minh Châu tuyển chọn (2005). Nhưng, theo

đánh giá của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam thì Nông

Minh Châu là một trong những người viết trường ca sớm nhất trong lịch sử

văn học ông còn là một trong những người đặt viên gạch đầu tiên cho văn

xuôi dân tộc thiểu số.

Văn xuôi thời kỳ Cách mạng của văn học Tày còn ghi dấu cây đại thụ

Hoàng Triều Ân. Ông tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1943 và là

người lãnh đạo Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng trong nhiều năm. Thông

thường một người trời phú cho giỏi làm thơ nhưng khó thành công trong sáng

21

tác truyện nhưng Hoàng Triều Ân lại thành công cả trong hai lĩnh vực. Vào

đầu những năm 60 của thế kỷ XX ông đã đoạt nhiều giải thưởng thơ đến nay

ông đã cho xuất bản 8 tập thơ nhưng đánh giá khách quan thì có thể khẳng

định truyện ông viết hay hơn thơ cho dù truyện của ông ít đoạt giải hơn thơ.

Nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số rất thành công nhưng đối với văn xuôi thì số

tác giả thành danh không có nhiều Triều Ân là một trong số người hiếm hoi

đó. Nhà văn Triều Ân đã xuất bản 5 tập truyện ngắn và 3 cuốn tiểu thuyết.

Một đời văn, một đời người làm được như vậy là đã nhiều. Nhưng giờ sự sáng

tạo của ông vẫn sung sức như ngày nào, bút lực vẫn dồi dào dù tuổi 80 đang

đến gần. Lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu của Hoàng Triều Ân để lại nhiều dấu

ấn trong sự nghiệp của đời ông, đó là những đóng góp đáng kể cho dân tộc và

cho xã hội. Những tác phẩm điển hình như: Ca dao Tày, Nùng; Tục cưới xin

của người Tày; Chữ Nôm Tày và truyện thơ... đã nói lên điều đó. Thông qua

sưu tầm những vấn đề thuộc về văn nghệ dân gian nhà văn Hoàng Triều Ân

đã đóng góp công sức của mình vào việc bảo tồn gìn giữ, phát huy những giá

trị nền tảng văn hóa truyền thống.

Ðội ngũ sáng tác văn học của dân tộc Tày trong thời kì kháng chiến

chống Pháp chủ yếu là những tác giả được tắm mình trong nguồn mạch văn

hóa, văn học dân gian của dân tộc họ và sự nghiệp sáng tác của họ luôn gắn

liền với sự phát triển của dân tộc, của quê hương miền núi nơi mình sinh ra.

Vì thế những sáng tác của họ ở giai đoạn này chủ yếu là lên án tội ác của bọn

thực dân, phong kiến ở miền núi, ngợi ca con người miền núi trong kháng

chiến, trong công cuộc xây dựng quê hương, đất nước - sau khi sạch bóng

quân thù. Tuy nhiên, thời kì này đội ngũ sáng tác văn học Tày vẫn còn mỏng,

sáng tác còn mang tính tự phát và ảnh hưởng nhiều yếu tố dân gian… Nhưng

với những tác phẩm cụ thể của mình, đội ngũ sáng tác văn học dân tộc Tày

22

cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu đời sống văn hoá văn học của nhân

dân các dân tộc mình trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng

hoà bình trên quê hương miền núi cao yêu dấu của họ.

Sang đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Hội nghị sáng tác văn học

các dân tộc thiểu số ở miền Bắc lần thứ nhất họp tại Thái Nguyên (1964) đã

có ảnh hưởng rất lớn đối với văn học Tày. Hội nghị này đề cập đến những vấn

đề sáng tác văn học của các dân tộc thiểu số như vấn đề: cuộc sống mới, con

người miền núi mới; vấn đề các thể loại văn học phát triển như thế nào? vấn

đề song ngữ trong sáng tác văn học; vấn đề xây dựng đội ngũ nhà văn là con

em các dân tộc thiểu số ra sao thực sự được quan tâm và giải quyết. Văn học

Tày đã được hoà chung vào trong không khí ấy, những người sáng tác văn

học đã thực sự có ý thức về công việc sáng tạo văn chương của mình. Gương

mặt thơ văn Tày tiêu biểu thời kì này phải kể đến là Y Phương (sinh năm

1948) với các tác phẩm: Người núi hoa (kịch nói, 1982), Tiếng hát tháng

giêng (thơ, 1986), Lửa hồng một góc trời (thơ in chung, 1987), Lời chúc (thơ,

1991), Đàn then (thơ, 1996), Chín tháng (trường ca, 2000), Thơ Y Phương

(tuyển tập thơ, 2002). Thơ Y Phương có sự từng trải trong cuộc sống, với

cách diễn tả hồn nhiên mà sâu lắng, các đề tài rộng mở, “có đồng bằng và

biển, có phố phường sầm uất thị thành” nhưng đậm nhất, nhiều nhất và hay

nhất vẫn là hình ảnh cuộc chiến đấu anh dũng và cuộc sống vùng cao bình dị.

Y Phương của những ngày đầu làm thơ mộc mạc và đậm chất miền núi hồn

nhiên. Những giai đoạn sau này, thơ Y Phương ngày càng chứng tỏ sự điêu

luyện trong bút pháp, tầm triết luận sâu sắc trong nhận thức, trong từng vấn đề

thể hiện. Cái chất miền núi, chất Tày không mất đi mà kết hợp hài hòa với lối

tư duy hiện đại.

Nhìn chung nội dung thơ văn giai đoạn kháng chiến chống Mỹ của dân

tộc Tày chủ yếu phản ánh về công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên quê

23

hương, ca ngợi sự đổi mới trong đời sống văn hoá xã hội của quê hương đất

nước. Văn học đã thực sự là tiếng nói của đông đảo đồng bào Tày. Ðặc biệt giai

đoạn này đã có nhiều tác giả chú trọng việc sáng tác văn học bằng song ngữ.

Công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc của đất nước ta từ năm 1986 đã

tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,

văn hoá, xã hội… trong đó có văn học nghệ thuật và văn học Tày cũng nằm

trong quy luật phát triển đó. Lớp nhà văn thứ ba của văn học Tày được hình

thành, đó là những tác giả mà tên tuổi của họ được gắn liền với những tác

phẩm văn học viết về thiên nhiên, cuộc sống, con nguời trên xứ Tày. Trong

những năm này văn học Tày dường như trẻ lại, ngay cả đối với các tác giả

thời kỳ trước cũng có sự thay đổi trong sáng tác, những tác phẩm của họ đã

mang những âm huởng mới, náo nức cảm hứng khám phá về con người, về

cuộc sống, về quê hương miền núi với những điều lớn lao và cũng rất đời

thường. Còn đối với các nhà thơ trẻ thuộc thế hệ trưởng thành trong giai đoạn

lịch sử này - thì sự đổi mới tư duy trong sáng tác văn học cũng thể hiện một

cách rõ rệt. Họ có nhiều sự sáng tạo độc đáo, cách viết của họ hiện đại hơn,

diễn đạt một cách mới lạ hơn tuy nhiên trong tâm hồn họ vẫn thấm đẫm tính

dân tộc và bản sắc dân tộc vẫn được thể hiện một cách sinh động trong từng

tác phẩm. Có thể điểm qua một số gương mặt thơ tiêu biểu của văn học Bắc

Kạn thời kì này là hai tác giả tiêu biểu nhất đó là Dương Thuấn và Vi Thùy

Linh. Vì đối tượng của luận văn chính là thơ ca Dương Thuấn nên chúng tôi

sẽ trình bày cụ thể, chi tiết ở phần sau luận văn. Về tác giả Vi Thùy Linh, Vi

Thùy Linh được xếp vào thế hệ nhà thơ trẻ nhất của thơ văn dân tộc miền núi

tuy nhiên nội dung những sáng tác của cô chủ yếu đào sâu về cảm giác, khát

vọng và ám ảnnh của người phụ nữ trong thế giới tình yêu, nhục cảm. Ít tìm

thấy đề tài, đối tượng hay chủ đề trong thơ Vi Thùy Linh viết về cuộc sống,

thiên nhiên miền núi nhưng chất miền núi của Vi Thùy Linh vẫn được thể

hiện qua quan niệm, cách sống nhiệt thành, hết mình, thẳng thắn - cách

24

sống, cách ứng xử của con người miền núi đúng như cô đã từng tâm sự:

“Trước tôi hăm hở đơn thuần, giống như một con ngựa liều lĩnh mơ mộng

đang phi trên những cánh đồng bao la, có thể phía trước tôi là bẫy, chông,

vực thẳm… nhưng tôi vẫn lao đi. Có những lúc đêm tối mịt mù, có khi là

trăng sao. Để giờ tôi biết thận trọng hơn, dù thế nào con ngựa ấy luôn đầy

sức sống. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn hơi thơ có sức sống và lửa ấy”[52]. Chính

bản tính phóng khoáng, sôi nổi, mạnh mẽ của núi rừng đã phần nào tạo nên

một Vi Thùy Linh với Khát (1999), Linh (2000), Đồng tử (2006) với tư thế

đúng như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có nói về cô - “nữ sĩ trẻ tuổi trên con

ngựa chữ dậy thì, đã độc mã phi thẳng vào rừng rậm thi ca”.

Qua mỗi giai đoạn khác nhau, các nhà văn nhà thơ dân tộc Tày cùng

kế thừa, tiếp thu mạch nguồn văn hóa dân tộc nhưng lại khẳng định theo

một cách riêng. Sự đa dạng, phong phú trên đã tạo nên bộ mặt văn học sinh

động của văn học Tày nói riêng và văn học dân tộc thiểu số nói chung.

1.4 Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày

1.4.1 Vài nét về nhà thơ Dương Thuấn

Dương Thuấn là người Tày, ông sinh ngày 7 tháng 7 năm 1959 tại bản

Hon, xã Bành Trạch, huyện Ba Bể cùng với nhiều nhà thơ dân tộc thế hệ thứ

ba, Dương Thuấn đã tiếp nối các thế hệ cha anh đi trước và hình thành cho

mình một phong cách tài hoa, độc đáo. Những năm cuối thập kỉ 70 của thế kỉ

trước, khi còn ngồi trên giảng đường trường Đại học Sư phạm Việt Bắc,

Dương Thuấn đã tham gia viết văn. Truyện ngắn đầu tay của ông với tựa đề:

Mùa hoa mạ thứ 3 - xuất bản năm 1981 đã đưa ông đến với con đường văn

chương. 10 năm sau, tập thơ đầu tay Cưỡi ngựa đi săn viết cho thiếu nhi năm

1991 đã được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải A. Từ đó đến nay ông đã lần

lượt cho ra đời 13 tập thơ: Đi tìm bóng núi (1993), Đi ngược mặt trời (1995),

Bà lão và chích chòe (1997), Hát với sông Năng (2001), Đêm bên sông yên

lặng (2004), Thơ với tuổi thơ (2005), Chia trứng công (2006), Lính Trường

25

Sa thích đùa (2006), Soi bóng vào tôi (2009), trường ca Mười bảy khúc đảo

ca (2002) và các tập thơ tiếng Tày: Lục pjạ hết lúa (1995), Slíp nhỉ tua khoăn

(2002)… Hai lần liên tiếp ông được nhận giải B của Hội Văn nghệ dân tộc

thiểu số năm 2000 và 2006 với tập thơ Mười bảy khúc đảo ca và Chia trứng

công. Không chỉ có thế, anh còn được Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt

Nam trao giải B cho tập thơ Đêm bên dòng sông yên lặng vào năm 2005.

Ngoài ra, ông còn được tặng 12 giải thưởng khác của các tổ chức chính trị, xã

hội, các cuộc thi thơ do các báo và nhà xuất bản Trung ương tổ chức. Đặc

biệt, trong những tập thơ của ông đã xuất bản, trong những tập thơ anh đã

xuất bản, có những bài thơ đã được nhạc sĩ An Thuyên và nhạc sĩ Cầm

Phương phổ nhạc như Khúc ca cao nguyên, Đi tìm bóng núi, Tình ca bên

suối, Lá trầu… Ngoài sáng tác thơ, Dương Thuấn còn nghiên cứu văn hóa.

Ông vừa cổ súy việc bảo tồn và phát triển trong xu hướng hội nhập vừa trăn

trở đối với từng bước đi của văn học dân tộc thiểu số.

Là người con của xứ Tày – Bắc Kạn, những vần thơ của Dương Thuấn

luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời

sống sinh hoạt đến tâm hồn nếp suy nghĩ của con người qua giọng thơ bình dị,

đầy sức lôi cuốn đặc biệt ở cách sử dụng ngôn từ ví von, so sánh đầy tính trực

cảm và rất giàu biểu tượng – nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc thiểu

số. Dương Thuấn bộc bạch: “Tôi làm thơ bằng cả hai thứ tiếng: Tày và Kinh.

Khi viết tiếng Tày, tôi không nghĩ chỉ viết cho người Tày đọc, hoặc khi viết

bằng tiếng Kinh, tôi cũng không nghĩ chỉ viết cho người Kinh đọc. Tôi chỉ

nghĩ đến đối tượng đọc của tôi là con người. Theo tôi nhà thơ phải đứng trên

sự vật, trên cả thời đại mình đại để đem tiếng nói yêu thương tâm huyết nhất

của mình đến với mọi người. Tôi luôn luôn muốn khẳng định với mọi người

rằng: Tôi là như thế! Dân tộc tôi là như thế![26]

Trong văn học Việt Nam hiện đại, mảng sáng tác về miền núi chiếm vị

trí quan trọng. Những nhà văn, nhà thơ vùng cao đã góp phần không nhỏ

26

trong việc mang lại những âm điệu mới cho nền văn học dân tộc. Thơ ca Việt

Nam đã ghi dấu nhiều gương mặt thơ là người dân tộc tiêu biểu như: Nông

Quốc Chấn, Bài Tài Đoàn, Y Điêng, Lương Quy Nhân, Y Phương, Lò Ngân

Sủn, Inrasara, Dương Thuấn… Dù hiện nay sinh sống và làm việc ở thành

phố nhưng Dương Thuấn – nhà thơ của núi rừng Việt Bắc, người con của dân

tộc Tày vẫn luôn gắn bó máu thịt với quê hương, chung thủy với nguồn cội,

luôn khẳng định bản chất “chàng trai của núi” trong thơ mình. Không chỉ ý

thức được trọng trách “sứ giả văn hóa” cho dân tộc của một người nghệ sĩ mà

Dương Thuấn còn luôn nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ truyền tải văn hóa dân

tộc đến độc giả: “Người nghệ sĩ sẽ có tội lớn với dân tộc mình nếu không nắm

bắt được hồn của dân tộc mình, đem bó đuốc của hồn dân tộc mình thắp sáng

thêm hồn nhân loại”[26]. Có lẽ vì thế mà trong thơ Dương Thuấn luôn thấy

được thái độ trân trọng sự nâng niu, bảo tồn truyền thống. Tác phẩm của

Dương Thuấn góp phần làm giàu bản sắc văn hóa Tày nói riêng và văn hóa

Việt Nam nói chung trong thời đại mới.

1.4.2 Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày

Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, văn hóa “là hệ thống hữu cơ

các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá

trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự

nhiên và xã hội của mình”. Như vậy, văn hóa chính là cái cốt tủy của mỗi dân

tộc. Khai thác những nét đẹp văn hóa dân tộc luôn là khát vọng của nhiều

người cầm bút – Dương Thuấn là một trong số đó.

Thơ Dương Thuấn mang phong cách giản dị, hồn nhiên có phần hoang

dã như bản chất của con người miền núi núi. Phong cách thơ gắn liền với cá

tính, lối sống và kinh nghiệm sáng tác đồng thời cũng bắt nguồn từ sắc thái

dân tộc. Bản sắc dân tộc Tày của Dương Thuấn thể hiện ở nhiều mặt: tình yêu

thiên nhiên núi rừng, thái độ trân trọng nâng niu văn hóa phong tục, tình yêu

thương với con người xứ Mây. Nhà thơ đã từng tâm sự: “Đối với tôi, cảm xúc

27

để bật lên thành thơ không phải chỉ là cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp

sự vật hay điều gì lúc đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm trong tận đáy sâu tiềm

thức của tâm hồn đã sẵn có”[50].

Bên cạnh đó, văn hóa tâm linh của người Tày cũng được tác giả khai

thác với mong muốn khám phá mạch nguồn của cuộc sống đương đại, để gửi

tới người đọc những thông điệp quý báu về những giá trị lịch sử đầy tính nhân

văn trong văn hóa người Tày. Ở mảng đề tài này, đòi hỏi người viết phải có

bản lĩnh, một sự am hiểu nhất định về đặc tính về quê hương mình, dân tộc

mình. Dễ nhận thấy trong tâm thức của người Việt Nam, sự biết ơn không chỉ

dành cho người đang sống mà ngay cả những người đã khuất. Với tinh thần

ấy, người Việt luôn luôn trân trọng lịch sử của cha ông để lại. Đó chính là

dòng chảy tâm linh - một nguồn suối nuôi sống tâm hồn Việt Nam qua nhiều

thế kỉ. Dấu ấn văn hóa tâm linh trong thơ Dương Thuấn thường nghiêng về

các lễ hội, tục thờ cúng của đồng bào dân tộc Tày Nùng. Qua những bài thơ

ấy, dễ nhận thấy màu sắc huyền thoại lấp lánh trong đó. Với người Tày Nùng,

văn hóa tâm linh được thể hiện trước hết qua dịp lễ tết, hội hè.

Như vậy, với Dương Thuấn những kiến thức về văn hóa của ông về quê

hương là từ trong tiềm thức, là cảm xúc thường trực chảy tràn như cuộc sống

tự nhiên, dạt dào tình quê miền núi, tình người vùng cao. Thứ tình đó luôn

đầy ắp, sẵn trong lòng chứ không phải khuấy động lên mới có. Mảnh đất Bắc

Kạn với vẻ đẹp hữu tình, nên thơ của những con người chân thật, đáng yêu đã

hội tụ trong thơ Dương Thuấn một cách tự nhiên, sống động mà đầy gợi cảm.

Nó tạo nên sức sống, nét hấp dẫn không thể trộn lẫn với bất kì vùng miền nào,

dân tộc nào. Thơ Dương Thuấn thể hiện khát vọng của con người muốn nâng

niu, gìn giữ vẻ đẹp quê hương và giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Vì thế

có thể khẳng định những sáng tác của Dương Thuấn đã góp phần bồi đắp và

làm phong phú thêm văn hóa dân tộc Tày.

Xuất thân từ chàng trai của núi, Dương Thuấn ra đi về phía biển hát

28

khúc đảo ca rồi lại đem thơ mình đến với bạn bè thế giới nhưng chân trời

càng rộng mở thì nhà thơ càng muốn “ngược mặt trời” mà “tìm bóng núi” để

trở về “đêm bên dòng sông” và “hát với sông Năng”. Sinh ra và lớn lên ở Bắc

Kạn, hiện giờ sống ở thủ đô nhưng nỗi nhớ sơn cước luôn làm ông mất ngủ

giữa chốn kinh kỳ (Buổi chiều thành phố). Ông nhớ về Bản Hon, nhớ ngày

Lên rẫy, nhớ Núi Cơm Chiều, thèm Lời cô gái xứ Mây, khát lời Nàng ơi uống

rượu và luôn in đậm hình bóng Lượn cọi, Cái cầu thang cùng những buổi

chiều Việt Bắc Ôi nắng vàng như mật...

Có thể nói “chất Tày” luôn thấm đẫm trong thơ Dương Thuấn, nó là

“đinh”, là hồn cốt của phong cách thơ của ông. Nhà thơ đã cầm bút viết về

quê hương mình như một sự lắng đọng, ngưng kết đời sống tinh thần, văn

hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc mình, tạo thành nguồn suối hòa vào dòng

sông thi ca Việt để chảy vào biển cả văn hóa nhân loại. Khẳng định “chất

Tày” trong thơ Dương Thuấn, nhà nghiên cứu phê bình văn học Phạm Vĩnh

Cư đã phát biểu trong buổi giới thiệu bộ ba Tuyển tập thơ Dương Thuấn:

“Đọc thơ Dương Thuấn sẽ biết Dương Thuấn là ai? Dương Thuấn là bản

Hon! Dương Thuấn là sông Năng! Dương Thuấn là Bắc Kạn! Dương Thuấn

là miền núi! Và tôi cho rằng, Dương Thuấn chính là người Tày của người

Tày! Là miền núi của miền núi!(…) Bởi vì đọc thơ Dương Thuấn người ta

thấy anh yêu dân tộc anh, anh yêu quê hương anh một cách thấm đẫm, tự

nhiên, chân thật, mộc mạc nhưng với đầy niềm tự hào”[45]. Quê hương và

tuổi thơ với những câu chuyện huyền thoại về hồ Ba Bể, sông Năng, bản Hon

đã chắp cánh cho tâm hồn thơ Dương Thuấn. Vì vậy, người đọc thấy một thế

giới thơ giản dị, chân thực nhưng cũng lãng mạn, bay bổng, vừa hồn nhiên

trong sáng mà hóm hỉnh suy ngẫm. Ít nhà thơ có được một phong vị đậm đặc

29

về quê hương bản quán trong sáng tác như Dương Thuấn.

CHƯƠNG 2

CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN

2.1 Thế nào là cảm thức văn hóa

Cảm thức bao gồm hai yếu tố là cảm giác và nhận thức. Tâm lý học định

nghĩa cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh thuộc tính riêng lẻ của sự vật

hiện tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của ta. Cảm

giác không chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của đối tượng bên ngoài mà còn

phản ánh những trạng thái bên trong của cơ thể. Ví dụ như với một người lữ

khách tha phương khi nhìn thấy khói bếp lan tỏa trên những mái nhà trong lòng

tự trào dâng cảm xúc bồi hồi nhớ thương về quê nhà. Tâm lý học trong cuốn

Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học cũng định nghĩa: nhận thức là toàn

bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được chuyển hoá, được

mã hoá, được lưu giữ và sử dụng. Hiểu nhận thức là một quy trình, nghĩa là nhờ

có quy trình đó mà cảm xúc của con người không mất đi, nó được chuyển hoá

vào đầu óc con người, được con người lưu giữ và mã hoá. Với yếu tố cảm giác

và nhận thức con người có khả năng tiếp cận trực tiếp hơn với bản chất của sự

việc. Ví dụ, khi đứng trước một người mới gặp, một số người có thể cảm nhận

được suy nghĩ tư tưởng của người đối diện như thế nào nhưng một số người

khác lại chỉ cảm nhận được về vẻ hình dáng bên ngoài. Trong cuộc sống có

không ít những người có khả năng cảm thức hơn những người bình thường như

Beethoven bị điếc nhưng ông lại có thể sáng tác ra những bản giao hưởng tuyệt

vời. Cho nên không thể nhìn vào trực giác về hình dáng bên ngoài để đánh giá

một con người. Do vậy cảm thức chính là sự kết hợp giữa cảm giác và nhận thức

Cảm thức cho ta một cái nhìn gần hơn với bản chất của sự vật, sự việc hoặc một

cái nhìn nhất định về sự vật, sự việc đó.

Như vậy có thể hiểu, cảm thức thơ đó là sự hòa quyện hữu cơ không

30

thể tách bạch giữa xúc cảm và trí tuệ, giữa cái nhà thơ cảm và cái nhà thơ

nghĩ. Nhà thơ nhiều khi thấy mình như đang trôi, đang đắm chìm, đang bị

cuốn đi trong một cõi hỗn mang của vô thức. Trong cái cõi đó, nhà thơ ta

nhận thức thế giới. Đây chính là con đường dẫn đến những phi lý của thơ ca

mà người ta thường ta thường nói tới những hiện tượng không thể lý giải.

Từ sự giải thích và định nghĩ hai thuật ngữ cảm thức và văn hóa (xem

Chương 1 mục 1.1.1 Khái niệm văn hóa), chúng ta có thể hiểu cảm thức văn

hóa là sự nhận thức về hệ giá trị xã hội - bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân

tộc. Quá trình nhận thức ấy, chủ thể sẽ phải dùng đến cảm xúc, trí tuệ để bày

tỏ thái độ của mình trước một hiện tượng hay một giá trị mà cộng đồng đã coi

là chuẩn mực. Như vậy cảm thức hoàn toàn là nhận thức chủ quan của một cá

nhân nhưng văn hóa lại là hệ giá trị của cả một tập thể. Cảm thức văn hóa suy

cho cùng chính là sự nhận thức lại (tác động của cả cảm xúc và trí tuệ) những

giá trị chuẩn mực của một dân tộc hoặc cộng đồng.

Dưới đây chúng tôi sẽ khảo sát nội dung thơ Dương Thuấn để thấy

được các Dương Thuấn đã cảm, đã tư duy về những giá trị văn hóa của cộng

đồng của dân tộc ông - dân tộc Tày như thế nào.

2.2 Sự gắn bó, tự hào về quê hương

Tuyển tập thơ Dương Thuấn gồm ba tập: Bản Hon và những nơi khác,

Thơ tình, Thơ thiếu nhi dày hơn 2000 trang, in song ngữ (tiếng Tày và tiếng

Việt) nhưng đó chắc chắn chưa phải là toàn bộ sáng tác của Dương Thuấn từ

trước đến nay. Cách phân chia thành ba tập thơ trên chỉ là cách phân chia theo

đề tài còn nếu thâu tóm theo chủ đề “gắn bó, tự hào về quê hương” thì không

chỉ gồm những bài thơ viết về bản Hon mà ngay cả thơ tình, thơ thiếu nhi của

Dương Thuấn cũng dạt dào tình cảm dành cho quê hương, bản làng. Tình yêu

với quê hương là cảm hứng luôn thôi thúc trong tác giả. Thơ viết về quê

hương của Dương Thuấn với cảm xúc tràn trề bất tận. Phải yêu nơi chôn rau

31

cắt rốn của mình đến khôn cùng, yêu luôn cả thiên nhiên đất trời, núi non, bản

làng, yêu gió, yêu mây, yêu cả từng con trâu, con ngựa, mỗi loài hoa, cây cỏ

thì số lượng bài thơ về quê hương mới phong phú, đồ sộ như thế (800 bài).

Dương Thuấn hát những bài ca về lao động, về vẻ đẹp thiên nhiên, con người,

phong tục hội hè, về tình yêu trai gái, tình yêu làng bản. Quê hương đi vào

trong thơ Dương Thuấn chân thực pha sức gợi cảm. Nó tạo nên sức sống, nét

hấp dẫn rất riêng không thể trộn lẫn.

2.2.1 Tình yêu thiên nhiên

Thiên nhiên là mảng đề tài quen thuộc trong thơ Dương Thuấn. Bằng

hai mạch cảm xúc: cảm xúc của một con người đang ở miền núi gắn bó, hòa

nhập với thiên nhiên và cảm xúc của một con người xa quê hương với bao kỉ

niệm sâu lắng, tha thiết, nhà thơ đã vẽ lại hình ảnh thiên luôn gắn với cuộc

sống của con người Việt Bắc vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Thiên nhiên Việt Bắc

đã từng xuất hiện nhiều trong thơ của nhiều tác giả đi trước như: Hồ Chí

Minh, Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Y Phương... khi bước vào

thơ Dương Thuấn, cảnh rừng Việt Bắc hiện lên vừa thơ mộng trữ tình nhưng

cũng không kém phần hoang sơ, hùng vĩ:

Quê tôi núi ngàn cao vời và lớn rộng

Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung

(Quê tôi núi ngàn)

Chỉ với hai câu thơ mà tác giả đã giới thiệu cho bạn đọc những nét đặc

trưng đầy thơ mộng về một miền núi ngàn rộng lớn, cao vời vợi, sớm chiều

sương phủ. Đặc biệt vào buổi chiều khi hoàng hồn xuống, hình ảnh những

ngọn núi, hang đá hiện lên thật hùng vĩ, trùng điệp:

Hoàng hôn xuống

Ngắm ngọn Bút Sơn

Ngắm núi Voi oai hùng xung trận

32

(Chiều bản Hon)

Dương Thuấn có khi đóng vai người chủ hiếu khách, ông làm thơ như

để cầm tay, mời gọi bạn đọc về thăm thú, thưởng ngoạn cảnh đẹp quê hương

mình. Nơi đây hút hồn người, níu bước chân du khách và ai đến đây cũng có

thể tức cảnh mà làm thơ, trở thành thi sĩ trong phút chốc:

Có thể anh chưa bao giờ làm thi sĩ

Đến Ba Bể cảnh thần tiên đẹp quá

Anh sẽ bồi hồi và tự làm thơ

(Mời anh về Ba Bể)

Lại có lúc nhà thơ hóa mình thành một du khách, bị vẻ đẹp rừng núi

làm say đắm. Hình ảnh “gió thổi lá vàng trong nắng thu rơi rơi”, “hoa dại nở

khắp triền đồi thắm đỏ” rồi hình ảnh của “trăng bạc thung thăng chạy trên

ngọn cỏ”... tạo nên bức tranh thiên thiên đầy thơ mộng, lãng mạn, quyến

luyến hồn người. Chính nhà thơ, người đã quá đỗi quen thuộc với những hình

ảnh thiên nhiên đó cũng không giấu khỏi sự ngỡ ngàng, vui sướng mà phải

thốt lên: “ôi nắng vàng như mật”, “kìa thảo nguyên đẹp thế”. Nếu ai đã sống

hoặc đến du ngoạn cảnh đẹp Việt Bắc chắc chắn sẽ đồng ý rằng, thiên nhiên

núi rừng nơi đây đẹp nhất là vào mùa xuân. Vì thế thơ tả cảnh đẹp mùa xuân

Việt Bắc cũng nhiều hơn trong sáng tác của các thi sĩ. Mùa xuân trên quê

hương Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng thường được tác giả miêu tả với những

hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là hình ảnh hoa lá tựa như tấm vải thổ

cẩm trải qua mặt bàn rực rỡ màu sắc trong thơ Nông Quốc Chấn:

Mùa xuân mới về với chúng ta

Lá hoa nhuộm đồi đèo rừng núi

Như thổ cẩm trải qua mặt bàn

Hay mùa xuân của hoa mơ trắng xuất hiện trong bức tranh tứ bình của

33

nhà thơ Tố Hữu:

Mùa xuân hoa nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

(Việt Bắc)

Nhưng có lẽ viết hay, viết nhiều về mùa xuân Việt Bắc nhất phải kể đến

Dương Thuấn. Mùa xuân trên rẻo cao thường được tác giả miêu tả với những

hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là những rừng đào rực hồng, rừng ban,

rừng mơ trắng muốt cùng đua nhau khoe sắc, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ cho núi

rừng: “Hoa đào nở thắm rồi/ Rừng hoa ban nở trắng/ Dậy ra núi cùng chơi/

Mùa xuân đã đến rồi” (Bài ca mùa xuân) hay: “Theo mùa xuân lên núi/ Bạn

sẽ gặp hoa mơ/ Bông nở thành chiếc khuy/ Cài áo mây trắng xóa (Theo mùa

xuân đi).

So với mùa xuân, ba mùa (hạ, thu, đông) xuất hiện ít hơn trong thơ

Dương Thuấn nhưng cách cảm nhận, cách miêu tả mỗi mùa đó với Dương

Thuấn lại có phần lạ hơn so với các thi nhân khác. Cái lạ đó chính là hình ảnh

thiên nhiên miền núi trong mỗi mùa luôn mang đến cho người đọc một sự

khám phá, một niềm bất ngờ thích thú mới. Nếu như mùa hè ở đồng bằng hay

các vùng địa lí khác trên đất nước ta là mùa của nắng thì mùa hè ở vùng cao lại

là mùa lũ tràn về: Tháng sáu mưa ngàn/Bất ngờ cơn suối lũ (Tháng sáu). Mùa

thu trong thơ từ xưa nay thường mang đến một nỗi buồn man mác, dịu nhẹ

trong lòng người nhưng trong thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn thì mùa

thu lại đem đến một sự rộn ràng náo nức. Đây là đàn cá võng tung tăng bơi lội

giữa dòng nước trong xanh: Sáng sớm lạnh se se/ Sông xanh như lá nghệ/ Cá

võng đi từng đàn/ Xuôi theo dòng về bể (Tháng sáu). Và hình ảnh mùa đông

vui tươi trong thơ Dương Thuấn khác hẳn với mùa đông lạnh lẽo, đìu hiu, cô

đơn trong thơ ca cổ xưa. Đó là một mùa đông vui như đi trẩy hội, một mùa

đang được mong đợi: Mùa đông ra đi từ năm ngoái/ Đến hẹn năm nay lại trở

34

về/ Cầy hương vui hội trên ngọn móc/ Lợn lòi dúi mõm ủi dọc khe (Mùa đông).

Đọc thơ Dương Thuấn, miền quê Bắc Kạn hiện lên với nhiều địa danh,

danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: hồ Ba Bề, động Puông, rừng Phja Bjooc,

sông Năng, nước Bạc, thác Đầu Đẳng, Phủ Thông, đèo Giàng, đèo Gió...

nhưng có lẽ địa danh xuất hiện nhiều và ám ảnh nhà thơ nhất là hồ Ba Bể và

sông Năng. Hai cảm xúc viết về thiên nhiên của tác giả hòa quyện vào nhau

tan vào cảnh hồ Ba Bể và sông Năng để rồi tạo ra một cõi mơ huyền ảo, bồng

bềnh gió mây. Dương Thuấn đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại để

diễn tả cảm xúc thăng hoa khi viết về hồ Ba Bể:

Đứng ở sườn non đưa tay ra bắt cá

Trên thuyền hái được củi đem về

Còn với sông Năng, con sông ấy là hình ảnh đầu tiên hiện lên khi nhà

thơ nhớ về quê hương. Trong những đêm trằn trọc không ngủ, nhà thơ vẫn mơ

tiếng sóng của dòng sông, lúc nào ông cũng muốn quay trở về để được “hát

với sông Năng”.

Bây giờ mỗi đêm nằm lại nghe tiếng sóng

Tiếng thác reo chui vào trong chăn thành giấc mơ

Sự ám ảnh về dòng sông quê hương theo tác giả đi bất cứ nơi đâu, để

đến đâu nhà thơ cũng hướng về dòng sông quê hương, cũng nhớ về núi Chẻ

Dả, cũng muốn quay về hồ Ba Bể.

Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đẹp, thơ mộng là vậy nhưng có khi thiên

nhiên ấy cũng hiện lên thật sự dữ dội. Lũ rừng đã là một “đặc sản” của vùng

cao. Nó cuốn đi tất cả những rác rưởi cuộc đời, gây bao tác hại cho đồng bào:

Rác rưởi/ Cành khô/ Cuốn đi lớp lớp/ Nước cuồn cuộn trôi/ Gồng lưng đạp

vỡ bờ/ (...)/ Hỏi cơn lũ nào hơn phần dữ dội (Cơn lũ rừng – cơn lũ thời gian).

Nhà thơ miêu tả thiên nhiên hiểm trở để khắc họa nét gai góc của cảnh rừng

Việt Bắc mặt khác còn muốn chứng tỏ sức mạnh, nghị lực sống của con người

35

nơi đây trước sức hủy hoại ghê gớm của thiên tai.

Mỗi nhà thơ đều có một vùng quê riêng, gắn bó với bao kỉ niệm cuộc

đời. Quê hương Dương Thuấn là vùng núi cao Việt Bắc hùng vĩ chính vì vậy

những vần thơ của ông về quê hương bao giờ cũng bay bổng, phóng khoáng

như chính tậm hồn của người dân miền núi:

Tự gieo mình rơi xuống giữa đại ngàn

(…)Hóa thành thác bọt tung trắng xóa

(Thác Đầu Đẳng)

Tình yêu với thiên nhiên của nhà thơ không chỉ thể hiện ở hành động

chiêm ngưỡng, ngắm nhìn và mong muốn quảng bá hình ảnh quê hương đến

độc giả mà còn thể hiện ở mối quan hệ hòa quyện, gắn bó giữa thiên nhiên và

con người.

Trên khóm mai tiếng gà rừng thôi gáy

Người dắt trâu lộc cộc bước ra đường

Tiếng cối giã lên mặt sông rộn rịp

Mịt mù trôi đi dòng nước khói sương…

(Buổi sớm bản Hon)

Vào buổi sớm, bức tranh thiên nhiên ở bản Hon hiện với âm thanh

tiếng gà rừng, tiếng giã gạo, tiếng vó trâu lộc cộc cùng hình ảnh “dòng nước

khói sương” và hiện lên trên bức tranh ấy là hình ảnh người lao động. Một

ngày mới bắt đầu với cảnh vật thanh bình và con người lao động chăm chỉ,

mộc mạc. Để ý ta thấy, tất cả các địa danh nổi tiếng Bắc Kạn đều xuất hiện

trong thơ Dương Thuấn, đặt bên cạnh những địa danh đó là bản Hon bé nhỏ,

đơn sơ. Phải chăng bản Hon là một không gian thu nhỏ của các không gian

văn hóa nổi tiếng của Bắc Kạn? Miêu tả bản Hon, nhà thơ khắc họa đó là một

không gian động, có thiên nhiên và con người quấn quyện trong sự tuần hoàn,

36

hài hòa với nhau.

Những ai sinh sống ở rừng núi hay biển đảo đều thấm thía thế nào là

rừng thiêng nước độc, mưa rừng bão bể nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy

một câu thơ than thở, chê trách thiên nhiên núi rừng trong thơ Dương Thuấn.

Đó không phải do thơ Dương Thuấn phiến diện chỉ có cảm hứng ca ngợi

không mà bởi những khó khăn, thử thách do thiên nhiên gây ra đã được đồng

bào nơi đây vượt qua. Hay nói cách khác, thiên nhiên hòa quyện cùng đời

sống sinh hoạt của con người còn là cách con người nơi đây chinh phục, thuần

hóa thiên nhiên. Hãy nghe người con của núi rừng tự hào khi mang trong

mình những sức mạnh oai hùng của đại ngàn và một tâm hồn phóng khoáng

của gió trời:

Ta có con mắt của con nai bên suối

Ta có con mắt của con báo trong lồng

Ta đi bộ từ núi xuống đồng bằng

Ta ghé tai hổ nói:

- Ta là họ Dương

Hổ liền cõng ta vượt núi

Giữa đường gặp trăng sao

Ta ngồi cùng trăng sao uống rượu…

Yêu thiên nhiên, say mê cảnh đẹp quê hương khiến thơ Dương Thuấn

dày đặc những hình ảnh núi rừng, cây cỏ, sông núi xứ Tày. Đặc biệt có những

hình ảnh thiên nhiên xuất hiện với tần suất cao và trở thành biểu tượng văn

hóa trong thơ Dương Thuấn: núi 126 bài/800 bài, sông suối 165 bài/800 bài,

trăng 60 bài/800 bài. Bộ ba này theo nghĩa thực thì đó là biểu trưng quen thuộc,

gắn bó với cuộc sống con người miền núi. Như vậy ở tầng nghĩa thứ nhất, bộ

ba hình ảnh thể hiện sự giao hòa gắn kết giữa cuộc sống con người với thiên

nhiên xung quanh. Nhưng ở tầng nghĩa thứ hai - giá trị biểu tượng của những

37

hình ảnh đó lại tượng trưng cho vẻ đẹp con người và cho người mẹ lớn - quê

hương. Chúng tôi sẽ trình bày rõ ràng, cụ thể hơn giá trị tượng trưng của các

biểu tượng văn hóa này trong thơ Dương Thuấn ở chương 3 của luận văn.

Sự gắn bó, tự hào về quê hương của Dương Thuấn không chỉ bó hẹp

trong bản làng xứ Tày núi chung mà còn được ông mở rộng đến khắp vùng

miền trên khắp đất nước. Tập thơ Bản Hon và những nơi khác đã tái hiện hình

ảnh về cảnh quan thiên nhiên, các địa danh nơi tác giả đã đi qua với một thái

độ trân trọng, ngợi ca đồng thời thể hiện hoài bão khám phá của một chàng

trai miền núi: muốn đi nhiều, hiểu nhiều để viết nhiều. Đọc thơ Dương Thuấn

ta thấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên thật lung linh, tươi đẹp. Viết về

thiên nhiên Việt Bắc, Dương Thuấn đã thể hiện tình cảm thật sâu đậm của

ông với quê hương mình. Người con của núi rừng Việt Bắc ấy đã viết về Bắc

Kạn với một niềm tự hào, một tình yêu mãnh liệt.

2.2.2 Thái độ với truyền thống dân tộc

Thơ ca chỉ tồn tại và có được thành tựu khi nó thực sự gắn bó với dân

tộc, với truyền thống dân tộc đã sinh ra mình. Nói như cách của nhà thơ dân

tộc Chăm Inrasara là: “Truyền thống không phải là cái gì để chúng ta tìm tới

khai thác trục lợi mà là một sinh thể sống động luôn luôn mời gọi chúng ta

tiếp cận. Chỉ khi nào chúng ta nghiêm túc học hỏi và đối thoại với hàng ngàn

thế hệ con người đã chết, chúng ta mới có đủ lông cánh nói đến sáng tạo.

Chứ không phải thái độ học lỏm qua vài chuyến điền dã hay đọc qua loa các

“công trình khoa học lớt phớt ở vành ngoài”[54]. Trong các nhà thơ dân tộc

Tày, việc kế thừa, tiếp thu và phát huy mạch nguồn văn hóa dân tộc ở mỗi

người một khác, theo một cách riêng. Trước thế hệ nhà thơ Dương Thuấn có

thể kể đến các nhà thơ như: Nông Quốc Chấn, Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương

Quy Nhân... song có thế do hoàn cảnh lịch sử, việc giao lưu, quảng bá văn

38

hóa còn hạn chế. Đến Dương Thuấn, ông đã tiếp nối và mở mang con đường

mà các thế hệ đi trước đã làm, đó là khẳng định mạnh mẽ một đời sống văn

hóa văn nghệ cho dân tộc mình.

Đối với nhà thơ Dương Thuấn, truyền thống dân tộc thể hiện trong thơ

ông được dẫn dắt bởi hai tuyên ngôn: Một là, tuyên ngôn “ta là chàng trai

của núi” – tuyên ngôn về ý thức nguồn gốc. Hai là, “Ta ở đâu bản ta ở đó” -

tuyên ngôn về ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Phố phường Hà Nội là

nơi Dương Thuấn sống hằng ngày nhưng tâm hồn ông luôn “bay quẩn quanh

trên các ngọn núi cao”[50]. Đối với Dương Thuấn, cảm xúc để bật lên thành

thơ không phải là cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp sự vật hay điều gì lúc

đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm tận tiềm thức của tâm hồn đã có sẵn. Tình

yêu quê hương và những kỉ niệm, cũng như kiến thức về văn hóa, một vùng

quê phong cảnh đẹp và ấm áp tình người… Mọi thứ phải có từ trong tiềm

thức và có cảm xúc luôn luôn thường trực thì khi nhìn thực tế mới có cộng

hưởng ngân vang lên thành âm thanh và câu chữ. Và như thế thơ Dương

Thuấn chảy tràn như cuộc sống tự nhiên, dạt dào tình quê miền núi, tình

người vùng cao... Dù đã đi khắp mọi miền Tổ quốc, đã đi công tác tại nhiều

quốc gia nay sống giữa trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị xã hội của đất

nước nhưng Dương Thuấn vẫn “tự thú”: “Đọc thơ để thấy người, tôi có bao

giờ giấu nổi tôi đâu. Là người con của dân tộc Tày, những vần thơ của tôi

viết ra mang hồn vía của người Tày”[58]:

Người làm nương ăn theo lửa

Người làm đồng ăn theo nước

Sinh ra tắm nước thơm mới là con của mẹ

Lớn lên tắm nước sông mới là con của làng

Đóng tày đi ra bể

Tắm giữa đại dương mới là người của muôn nơi

39

(Ăn theo nước)

“Ta là chàng trai của núi”, “Ta ở đâu bản ta ở đó” như những lời nói

bình dị, mộc mạc nhưng nó chứa chan một ý nghĩa lớn lao. Đó là quan niệm

giàu chất nhân văn của các trí thức miền núi khi thực hiện sứ mệnh sứ giả văn

hóa của họ. Nhà thơ sinh ra từ bản, “đi khắp trăm nơi” (Làm ăn), “qua ngàn

vạn cánh rừng” (Con rết vua), “đã đến hàng trăm nơi biết muôn vàn thứ”

(Phía sau ngọn núi). Dù đi đâu về đâu, về đâu, dù có ở trên núi, đi xuống

đồng, đi ra biển, ở trong nước hay đi ra nước ngoài thì nhà thơ vẫn đau đáu về

bản Hon quê mình, vẫn nhớ về những mái nhà sàn, về cái bậc cầu thang, về

đèo mây phủ, về những ngọn núi, những cánh rừng. Dương Thuấn là người

không biết mệt mỏi ca ngợi cảnh vật và con người quê mình và chủ đề quê

hương chưa bao giờ trở thành nhàm chán đối với nhà thơ xứ Tày này.

Ý thức bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc được Dương Thuấn coi

như nhiệm vụ tiên phong, hàng đầu. Một trong những giá trị văn hóa mà

Dương Thuấn đặc biệt gìn giữ nhất đó là tiếng mẹ đẻ - tiếng Tày. Dương

Thuấn cho rằng: “Vai trò trách nhiệm của nhà thơ, nhà văn là phải bảo tồn

ngôn ngữ. Việc đưa sách văn học vào trong nhà trường cũng không thể bảo

tồn được. Trách nhiệm đó thuộc về các nhà văn, nhà thơ”[61]. Hiện nay, nhà

thơ thông thuộc bốn thứ tiếng nhưng ông vẫn không quên gìn giữ và trau

chuốt tiếng Tày bằng cách nghe đọc qua sách đĩa và đặc biệt sáng tác bằng

tiếng Tày. Những tập thơ viết bằng tiếng Tày như: Lục pjạ hết lùa (1995),

Slíp nhỉ tua khoăn (2002) và đặc biệt Tuyển tập gồm 3 tập thơ song ngữ (Tày

– Việt) vừa xuất bản 2010 là minh chứng giá trị nhất cho ý thức giữ gìn, bảo

tồn tiếng và chữ viết cho dân tộc mình của Dương Thuấn. Thơ dân tộc thiểu

số trong những năm gần đây đang có nhiều khởi sắc nhưng cũng có nhiều vấn

đề đáng bàn. Trong đó, việc sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ được quan tâm hơn cả.

Nhiều nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số khi bắt đầu viết họ nóng lòng muốn

40

được mọi người biết đến nên viết bằng tiếng Kinh, nhiều người cho đó là hiện

tượng “Kinh hóa” văn học thiểu số. Trước hiện tượng này, Dương Thuấn đã

bày tỏ quan điểm đánh giá “được”, “mất” khi nhà văn dân tộc thiểu số sáng

tác bằng tiếng Việt: “Họ được khá nhiều. Thứ nhất: họ sẽ nổi tiếng nhanh

hơn, nhiều người biết hơn. Thứ hai: sáng tác bằng tiếng Việt in ấn sẽ dễ hơn,

thuận lợi hơn… Tất nhiên họ cũng mất khá lớn. Chẳng hạn vai trò của nhà

văn đối với phát triển văn hóa dân tộc sẽ mất đi. Tôi nghĩ tác phẩm của nhà

văn có sống được hay không thì phải gắn liền với dân tộc, cụ thể là phải gắn

với ngôn ngữ dân tộc. Các tác phẩm văn học không gắn bó với nhiều dân tộc

chung chung, nếu như thế sẽ chỉ sống được trong chốc lát mà thôi”[62].

Tuyển tập thơ song ngữ 3 tập này của Dương Thuấn là một bằng chứng lớn

về tình yêu ngôn ngữ Tày của ông. Nhà thơ dày công viết thơ bằng hai thứ

tiếng (Tày và Kinh) thể hiện sự nỗ lực đưa nét đẹp ngôn ngữ của dân tộc mình

giao lưu với văn hóa của các dân tộc khác.

Thái độ đối với văn hóa truyền thống dân tộc trong thơ Dương Thuấn

còn thể hiện ở sự nâng niu, ca ngợi nếp sinh hoạt văn hóa, những phong tục

tập quán của riêng dân tộc Tày. Người Tày có nhiều phong tục mà đến giờ,

cho dù đã ở thành thị gần 20 năm, tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau

nhưng Dương Thuấn vẫn không thể quên phong tục tập quán của dân tộc

mình. Là người con của dân tộc Tày, Dương Thuấn sinh ra và lớn lên từ núi

rừng Việt Bắc tươi đẹp mà hùng vĩ. Ngay từ nhỏ, ông đã được nuôi nấng, hít

thở không khí văn hóa dân tộc mình. Từ những sinh hoạt hàng ngày, những

câu sli, lượn, câu then rồi lễ Hội Lồng Tồng đến phong tục tập quán của quê

hương đã bồi dưỡng cho ông một tâm hồn đậm chất Tày và đặc điểm ấy

thường xuyên in đậm suốt những bài thơ của ông. Đọc thơ Dương Thuấn, bạn

đọc sẽ được mở mang kiến thức về văn hóa dân tộc Tày hay hơn cả khi bạn

41

đọc một cuốn sách viết về văn hóa.

Nhà thơ Dương Thuấn đã phản ánh được những truyền thống tốt đẹp

trong đời sống tình cảm của người Tày vào thơ mình, đó là tục thờ cúng tổ

tiên. Đây là nét sinh hoạt văn hóa tốt đẹp được truyền lại qua bao đời đến nay

vẫn được người Tày lưu giữ. Nét sinh hoạt văn hóa tâm linh ấy đã đi vào thơ

Dương Thuấn một cách tự nhiên và đem đến cho người đọc những hiểu biết

về cuộc sống của đồng bào Tày.

Hôn nhân gia đình của người Tày tuy theo chế độ phụ hệ nhưng văn

hóa Tày vẫn đề cao, biết ơn vai trò người phụ nữ. Tục đi tết mẹ vợ là một

trong số những mỹ tục của người Tày. Mỗi lần đi thăm tết mẹ vợ người con rể

thường mang mang những vật phẩm cao quý như: một con gà trống thiến to

béo hay một miếng thịt lợn dài đúng bằng thân con lợn do anh ta nuôi. Dù ở

thành phố nhưng nhà thơ Dương Thuấn tâm sự hàng năm ông vẫn thực hiện

đầy đủ hiếu nghĩa này: “Đã làm con rể trẻ hay già/ Dù ở gần hay ở xa/ Đến

tháng giêng nhớ thăm mẹ vợ/ Người đã sinh thành nuôn lớn vợ ta” (Tháng

giêng thăm mẹ vợ).

Còn đây lại là suy nghĩ của một cô gái với bao bỡ ngỡ ngày mới về làm

dâu nhưng cô vẫn nêu cao tinh thần gìn giữ nề nếp gia đình đã trở thành mẫu

mực “công dung ngôn hạnh” của người phụ nữ Tày trong bài thơ Con dâu

nhà sàn: Con dâu nhà sàn bữa nay khép nép/ Không dám đi qua phía trước

bàn thờ/ Không dám ngồi ở mặt trên bếp lửa/ Không dám ăn chung mâm với

bố chồng/ Con dâu nhà sàn dậy sớm nhất mùa đông/ Gánh nước, quét nhà,

nắm cơm đi rẫy/ Nhớ bao điều được làm bao điều kiêng cấm/ Học nói học đi

giữ nếp gia đình

Có thể nói, thơ Dương Thuấn đã phản ánh, lưu giữ những nét đẹp trong

đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Tày, của những dân tộc anh em trên

vùng cao Việt Bắc. Bóng núi bản, bản Hon luôn ngự trị trong các chiều cảm

42

xúc của nhà thơ xứ Mây. Đó là nỗi niềm gắn bó với phong tục truyền thống

thiêng liêng nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ. Thơ Dương Thuấn là sự dốc

cháy một cách chân thực những tình cảm của ông về tình nghĩa và văn hóa

quê hương thông qua những hình ảnh ấn tượng và những cảm nhận về văn

hóa, con người.

2.2.3 Tình yêu đối với con người

Tình yêu đối với con người trong thơ Dương Thuấn chủ yếu được thể

hiện với đồng bào Tày – những con người xứ Mây. Đến nay Dương Thuấn đã

xuất bản 11 tập thơ nhưng số lượng viết về con người miền núi không nhiều

bằng hình ảnh cảnh vật quê hương. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa hình

ảnh con người miền núi giảm đi giá trị ấn tượng. Trên thực tế, hình ảnh nghệ

thuật này trong thơ ông đều gắn liền với những con người cụ thể trong cuộc

đời. Ông đã quy tụ vào đó nhiều phẩm chất cao đẹp đại diện cho cả cộng đồng

dân tộc. Với điểm nhìn của một nghệ sĩ, Dương Thuấn đã tạo nên được sự

thống nhất cao độ giữa cái cụ thể và cái khái quát, giữa thực và hư, giữa cái

phi lí và cái có lí, giữa tình cảm với trí tuệ để xây dựng nên những con người

miền núi có phẩm chất cao đẹp.

Những con người miền núi, đứng trên đỉnh núi với tay chạm vào mây,

từ thực tế ấy mà Dương Thuấn gọi đồng bào mình là những con người xứ

Mây. “Xứ Mây” không chỉ nói lên hoàn cảnh địa lí sống mà còn tạo ra chất

thơ bay bổng cho những tâm hồn phóng khoáng vượt núi băng rừng. Dương

Thuấn có một loạt bài thơ viết về Người xứ Mây, Bà mẹ xứ Mây, Cô gái xứ

Mây, Em bé xứ Mây… Nhà thơ luôn chú ý đến việc đưa con người lên vị trí

đại diện cho nét đẹp văn hóa của dân tộc. Mỗi con người cụ thể đều có những

phẩm chất, đức tính tốt đẹp nói chung của con người miền núi: hồn nhiên,

trong sáng, kiệm lời, có sức sống mãnh liệt, có tấm lòng hiếu khách, tấm lòng

hướng về nguồn cội. Nét thần diệu của hồn Tày trong thơ Dương Thuấn, biểu

43

hiện rõ nhất ở tính cách con người miền núi thấm đẫm trường văn hóa đậm

chất Tày. Nét văn hóa ấy vẫn còn tỏa sáng lòng người trên những bản làng

vùng cao hôm nay:

Khách đến nhà không vội hỏi tên

Mà chỉ hỏi:

- Con đường nào đã đưa anh đến…

Cũng không hỏi đi từ rừng hay từ biển

Mà nói rằng:

- Hãy uống cạn vò rượu cùng ta

Khách muốn gì xin tự nói ra

Khách đi chủ nhà chỉ nói:

- Đừng để cầu thang nhà tôi mọc cỏ gà…

Bài thơ thể hiện tấm lòng hiếu khách của chủ nhà không phải là sự

quyến luyến, bịn rịn khi chia tay mà là sự mong mỏi, ngóng chờ: khách sẽ

không quên mình mà trở lại thăm nhà mình. Cách nói đơn sơ, mộc mạc

“Đừng để cầu thang nhà tôi mọc cỏ gà” không hứa hẹn mâm cao cỗ đầy đón

khách mà mở ra cả một tấm lòng, đức tin vào tình cảm con người của người

miền núi. Niềm tin ấy được đồng báo nhắn nhủ không chỉ với khách lạ mà

còn với cả những đứa con sinh ra từ núi rừng mà ăn cơm gạo xứ người:

Đi đâu rồi cũng trở về

Nước múc gáo dừa

Gạo vẫn đong bằng đấu

Bên bếp mắt lại nhìn đau đáu

Đêm dài lửa ấm có em

(Quê hương)

Con người thực, đời sống thực tác động lên hồn thơ Dương Thuấn giúp

44

ông sáng tạo hình ảnh thơ mang ý nghĩa khái quát nhất định:

Ở vùng cao con người vất vả

Chiếc gùi đè nặng trên lưng

Cõng hết cửa nhà ngô lúa

Cõng trâu leo lên núi trập trùng

(Cõng trâu)

Dương Thuấn đã sáng tác bằng con mắt của người trong cuộc. Tâm hồn

nhà thơ đầy ắp nỗi niềm quê núi. Chính vì vậy có những nét hiện thực rất khó

có thể thành thơ, như vấn đề sức kéo trong nông nghiệp trên vùng cao. Hình

ảnh ông già cõng trâu lên núi đã gây bất ngờ cho bất cứ một người đọc nào

không sống ở miền núi. Hình ảnh thơ độc đáo đã chinh phục bạn đọc: chúng

ta thấy khâm phục, cảm động trước ý chí khắc phục khó khăn của người dân

miền núi. Bài thơ đã chạm đến trái tim độc giả, đó là sự thành công đáng giá

nhất của một tác phẩm nghệ thuật.

Với Dương Thuấn, làm thơ là viết về “đồng bào mình” để phục vụ dân

tộc mình. Thơ ông mang sinh khí riêng của cả một xứ sở nên cái riêng ấy

đang hòa nhập với cái hồn chung, cái sắc thái dân tộc chung để tạo nên sự

thống nhất. Trong thơ Dương Thuấn, hình ảnh người phụ nữ là mẹ, là “em”

hiện lên đằm thắm, đôn hậu, gần gũi và qua đó thể hiện những trân trọng ưu ái

đặc biệt của nhà thơ. Người mẹ xứ Mây gắn với lời ru, lời dặn dò: chỉ đường

dắt lối, dạy con trai tính can đảm, chính trực sống giữa cuộc đời (Mẹ đừng

thương, Bà mẹ xứ Mây). Hình ảnh những cô gái xứ Mây mang vẻ đẹp hình thể

chuẩn mực cho người con gái miền núi:

Nàng ngồi lặng bên bếp lửa một mình đun cám

Ôi da trắng, ngực đầy, khoeo dày, chân vững

“Da trắng, ngực đầy, khoeo dày, chân vững” thể hiện sắc diện và nguồn

sống khỏe khoắn, tươi trẻ của cô gái Tày. Đặc biệt chuẩn đẹp của người con

45

gái Tày được tác giả nhấn mạnh “chân vững” có điểm khác với chuẩn đẹp của

con gái miền xuôi - chân thon dài. Cái đẹp đó được tác giả phát hiện từ chính

đời sống lao động, làm việc của những người con gái miền núi: luôn phải leo

dốc, vượt suối lũ, đôi khi chân không vững sẽ bị lũ cuốn trôi. Người con gái

Tày không chỉ đẹp ở hình thể mà còn đẹp từ thần thái, tâm hồn:

Tiếng cười của em tan hết sương trời

(…)

Hồn của em trong trắng tựa hoa lê

(Ngày mai em mười tám)

Qua những trang thơ của Dương Thuấn, nét đẹp người phụ nữ đặc biệt

là con gái Tày là vẻ đẹp tự nhiên chứa đầy sức sống căng tràn hòa nhập cùng

thiên nhiên núi rừng.

Tình yêu đôi lứa luôn hiện hữu trong mỗi trái tim, mỗi tâm hồn. Nhân

loại từ xa xưa đến hiện đại chưa bao giờ nguôi thổn thức và ngừng yêu nhau.

Không ai có thể phủ nhận sức mạnh diệu kỳ của tình yêu, nó khiến bao lý trí

phải sụp đổ, bao băng giá phải tan chảy, nó khiến bao con người thông minh

uyên bác nhất cũng thành ra si mê, ngu muội. Và vì thế, tình yêu đã trở thành

đề tài quen thuộc nhưng chưa bao giờ nhàm chán đối với mỗi thi sĩ. Trong

lãnh địa thơ tình, Dương Thuấn cũng khẳng định vị thế của mình với tập Thơ

tình gồm hơn 200 bài trong đó có nhiều bài thơ “đinh” như: Đi tìm bóng núi,

Lá trầu, Cực tình, Bài hát tỏ tình… Dương Thuấn đã nói hộ nam nữ dân tộc

ông tiếng nói bồi hồi của trái tim khi yêu: Cái cây tình ái cong queo/ Ai chẳng

muốn trèo/ Trèo lên lòng lại rối tinh/ Cành thì thẳng/ Cành thì cụt/ Cành thì

cong/ La đà…(Cực tình).

Hai chữ “muốn trèo” thể hiện sự thèm khát, ham muốn đã trở thành nhu

cầu của con người trong tình yêu. Còn hai chữ “ rối tinh” lại nói lên sự phức

tạp, đủ mọi cung bậc:thẳng, cong, cụt, la đà… mà tình yêu đem lại. Trước sự

46

thử thách “Bước lên chồn gối/ Bước xuống mắt hoa của tình yêu, người con

trai và người con gái đang yêu trong thơ Dương Thuấn vẫn rất mạnh mẽ.

Người con trai thì bộc trực tình yêu cụ thể như sông như suối:

Thiếu cơm có thể nhịn ăn

Thiếu nước có thể nhịn khát

Thiếu nhà có thể ngủ gốc cây

Nhưng không thể thiếu em.

Hoặc có lúc anh chàng trẻ nên vô cùng cuồng nộ vì yêu:

Thiếu em chỉ có một ngày

Mà muốn đập nát tan trái đất

Còn người con gái trong Bài hát tỏ tình đã mạnh dạn tiếp thêm sức

mạnh cho chàng trai khi gặp cửa ải: bố người yêu: “Tôi vù qua ruộng/ Cắm cổ

tôi bay/ Nàng cũng ngừng tay/ Chui qua liếp cửa/ Nàng đến bên tôi/ Chỉ nhìn

không thở/ Rồi nàng nói nhỏ/ -Mới có thế thôi/ Mà anh đã sợ! Lòng can đảm

và tự tin của cô gái làm nên sức mạnh truyền cho chàng trai để chàng vững

bước trên con đường gập ghềnh của tình yêu. So với những cảm xúc đau khổ,

não tình, sướt mướt của các bài hát, bài thơ thất tình nhan nhản trên các

phương tiện truyền thông báo chí hiện nay thì sự mạnh mẽ, nồng nhiệt của các

chàng trai cô gái Tày đã làm vẻ đẹp khỏe khoắn, lành mạnh trong tình yêu.

Họ gắn bó với nhau bởi cái tình cái nghĩa, cách họ yêu cũng thật đặc biệt:

Yêu nhau thường hay mang bùa mê

Bỏ vào nước khi khát lòng lại nhớ

Ai uống rồi không xa được nữa

Bắt con tim lầm lạc tự về

Thơ tình Dương Thuấn còn làm tỏa sáng vẻ đẹp người con gái miền núi

khỏe mạnh cùng tâm hồn trong trắng (như đã phân tích trong phần hình ảnh

người phụ nữ). Vẻ đẹp ấy hóa thân trong những nhân vật “nàng”, “em” và trở

47

thành mạch nguồn của sự sống gần gũi xung quanh, là những gì đang hiện

hữu, lan tỏa và làm nên ý nghĩa đích thực cho cả cuộc đời: “Em là gì/ Anh

không biết nữa/ Dao có chuôi/ Nhà có cửa (…)/ Em là gì/ Khi sung sướng anh

thường hỏi thế/ Em là nguồn nước nhỏ/ Chảy vào vại nhà anh (Em – Người

xa lạ).

Tình yêu nam nữ trong thơ Dương Thuấn còn gây ấn tượng mạnh với

người đọc bởi tình yêu ly biệt, chia cắt (Nhớ chị Thìn, Đi tìm bóng núi, Lá

trầu, Chia ly, Nhớ lời em, Thiếu em một ngày…). Điều đáng nói là tuy tình

yêu tan vỡ, tuyệt vọng nhưng tình cảm đó không bi lụy mà trở thành nỗi buồn,

nỗi cô đơn trống trải da diết: “Bây giờ ngựa về tàu khác/ Một mình anh ôm

câu hát/ Đi tìm bóng núi ngày xưa/ Bây giờ không còn cơn mưa/ Hai đứa đội

chung tàu lá/ Bây giờ không còn mùa hạ/ Góc chiều đỏ chín chờ mong/ Bây

giờ em đã theo chồng/ Lên núi phát nương tra lúa/ Bây giờ buông hờ nỗi nhớ/

Anh lang thang giữa loài người” (Đi tìm bóng núi).

Bài thơ là hoài niệm của chàng trai về mối tình đã tan vỡ. Bây giờ tất cả

đều không còn bởi vì “Em đã theo chồng”, chỉ còn anh lang thang giữa loài

người ôm nỗi nhớ khôn nguôi. Sự cô đơn, nỗi tuyệt vọng truyền tải qua điệp

ngữ “không còn” đầy nhức nhối. “Không còn” đối lập giữa quá khứ thì có mà

hiện tại thì không, diễn tả tâm trạng nuối tiếc, thất vọng của một mối tình đẹp,

lãng mạn đã trở thành dĩ vãng. Hành động “buông hờ nỗi nhớ” khiến bài thơ

dù là thơ thất tình nhưng nó không ủy mị sầu não mà chỉ gieo vào độc giả nỗi

niềm nuối tiếc mênh mang. Bởi, “buông hờ” vừa pha chút vấn vương của tình

cảm vừa có sự kiểm soát của lý trí sự từng trải biến tình yêu dĩ vãng thành

tình yêu bất diệt ngay cả khi nó không trọn vẹn.

Tóm lại, xây dựng hình ảnh con người miền núi, Dương Thuấn luôn

chú ý đến việc đưa con người lên vị thế đại diện cho nét đẹp văn hóa của dân

tộc. Cô gái, chàng trai xứ Mây, ông già, em bé, những bà mẹ, họ là những con

48

người cụ thể của bản Hon song từ cách nói năng đến cách nghĩ của họ lại là

sự khái quát chung cho tất cả những con người miền núi với tính cách hồn

nhiên, trong sáng, trọng nghĩa tình, mạnh mẽ.

2.3 Trải nghiệm, triết lý

Mở đầu cho tuyển thơ, Dương Thuấn đề từ bằng hai câu thơ: Ta là

chàng trai của núi/ Ta chỉ biết nói lời cho quả sai. Rồi đến bài Nhìn trời

ngược nhà thơ đã khẳng định: Người sinh ra trên núi/ Cầm dao tự phát lối

cho mình. Có thể nói, những câu thơ trên như một tuyên ngôn trong thơ ông,

là tiếng nói của người nghệ sĩ dũng cảm đi tìm con đường riêng cho mình.

Với số lượng hơn 800 bài và hai trường ca, không có sự trùng lặp đã nói lên

được nội dung bên trong đời sống tâm hồn cũng như sự quan sát thế giới vô

cùng phong phú của Dương Thuấn. Bạn đọc thuộc nhiều lứa tuổi đều có thể

thuộc thơ ông, yêu thơ ông bởi có sức khái quát lớn, nói được hồn cốt của

lòng người và quan trọng, nó chứa đựng vẻ đẹp sâu lắng. Ông viết về đời

sống của dân tộc Tày, đất nước ta và nhân loại. Tính triết lý trong thơ ông

phần nào được thai nghén qua chính con mắt ưa quan sát, thích suy ngẫm về

thế giới xung quanh. Dương Thuấn tái hiện một thế giới đa dạng, được soi

chiếu với nhiều chiều kích khác nhau. Điều này thể hiện rõ của tuyển tập thơ

Dương Thuấn gồm ba tập: Thơ thiếu nhi, Thơ tình, Bản Hon và những nơi

khác. Dương Thuấn hướng con mắt thơ của mình ra khắp kiếp người và cõi

đời để đúc kết thành những câu thơ mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc.

Tập thơ dành cho thiếu nhi thể hiện sự khám phá cái đẹp trong cái nhìn

hồn nhiên, ngộ nghĩnh của trẻ thơ: “Ơ cha, sao núi Rồng trước cửa/ Ơ mẹ,

sao núi Phượng sau nhà” (Núi Rồng núi Phượng) hay: “Ngày ấy những ngọn

núi/ Kéo thành lũ thành đàn/ Đi như trâu kìn kịt/ Đi qua bao vương quốc/ Đi

qua bao miền quê” (Sự tích những ngọn núi). Qua cái nhìn của trẻ thơ, mỗi

bài thơ là một khám phá và lí giải thú vị về sự vật, sự việc xung quanh. Cậu

49

bé Dương Thuấn say mê quan sát và hình dung về thế giới, dường như mở

mắt ra cậu thấy nhiều điều kì lạ nhưng khi nhắm mắt vào lại thấy một thế giới

khác cũng vô cùng thích thú không kém gì thế giới thực.

Tập Thơ tình với hơn hai trăm bài lại là những cung bậc yêu. Con mắt

yêu của nhà thơ đã khám phá được nhiều vẻ đẹp trong tâm hồn các chàng trai

cô gái miền núi đầy bất ngờ, đầy táo bạo. Bùa mê, quả yêu là những thứ hấp

dẫn trai gái ở khắp nơi từ muôn thuở, muôn đời nhưng thứ tình mãnh liệt, bạo

dạn mà không bi lụy, sướt mướt mới là nét tính cách yêu của trai gái dân tộc

Tày mà Dương Thuấn đã phát hiện được.

Với tập Bản Hon và những nơi khác thì đó là cách nhìn thế giới của

một người đàn ông đã chín chắn, trưởng thành với nhiều trải nghiệm về cuộc

sống bằng hành trình đi nhiều, nghĩ nhiều và viết nhiều. Mỗi bài thơ là một

câu chuyện về cuộc sống, lẽ nhân sinh. Có lẽ quê hương, tuổi thơ với những

câu chuyện huyền thoại về hồ Ba Bể, sông Năng, bản Hon và những chuyến

đi thực tế đã chắp cánh cho tâm hồn thơ Dương Thuấn. Thơ ông tạo nên sức

hấp dẫn, sức lôi cuốn mạnh mẽ và sức khái quát rộng lớn bởi nhà thơ có được

con mắt nghệ thuật tinh tế, có sự đắm chìm vào cuộc sống, gắn bó sâu sắc và

chiêm nghiệm hiện thực ấy.

2.3.1 Triết lí của một chàng trai miền núi

Có người nói rằng, Dương Thuấn nhìn vào đâu cũng “nhả ra” thơ tuy

nhiên sống giữa đô thị phồn hoa mà thơ ông luôn mang đậm những đặc trưng

văn hóa và hơi thở vùng cao. Có lẽ với Dương Thuấn, cảm xúc để bật lên

thành thơ không phải cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp sự vật hay điều gì

lúc đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm trong tận đáy sâu tiềm thức của tâm hồn

đã có sẵn. Tình yêu quê hương, sự am hiểu truyền thống văn hóa dân tộc…

mọi thứ phải có từ trong tiềm thức để cảm xúc luôn thường trực thì khi nhìn

thực tế mới có cộng hưởng ngân vang lên thành âm thanh và câu chữ. Thơ

50

Dương Thuấn nói về nhà sàn, cầu thang, nói về ông bà, cha, mẹ, anh em bạn

bè đầy thân thương. Cảnh vật con người miền núi đi vào thơ ông giản dị, mộc

mạc, không khoa trương. Vốn sống, sự gắn bó với núi rừng bản làng đã giúp

nhà thơ truyền tải được những tâm sự để rồi đúc kết thành kinh nghiệm, bài

học nhận thức về cuộc sống chân thực, hình tượng. Cuộc sống của con người

miền núi với nét đặc trưng về sinh hoạt, văn hóa là chất liệu tạo nên những

hình ảnh thơ độc đáo mang nhiều ý nghĩa (Cưỡi ngựa, Cõng trâu, Những ông

già gieo hạt, Cọn nước, Phố huyện…). Người đọc bất ngờ bởi những sự vật

bình thường của cuộc sống qua con mắt của Dương Thuấn hiện lên đậm chất

thơ, phong phú và tươi mới. Ví như trong bài Cưỡi ngựa, qua cái nhìn hồn

nhiên, ngộ nghĩnh của cách nhìn, cách nghĩ của trẻ thơ về một trò chơi lại thể

hiện một triết lý: Buông dây lỏng/ Ngựa lì/ Cầm cương ghì/ Ngựa chạy/ Muốn

ngựa nhảy/ Quất roi

Bài thơ đem đến cho độc giả nhiều suy ngẫm. Có thể với các em thiếu

nhi thì bài thơ chỉ là một sự chỉ dẫn để cưỡi ngựa nhưng lớn thêm một chút

các em sẽ hiểu ngụ ý sâu xa của ba câu thơ ngắn này: việc cưỡi ngựa cũng

giống như việc định hướng cuộc đời, nếu cứ để cuộc đời trôi không chủ

đích thì sẽ mất phương hướng. Ngược lại, muốn đạt được nhiều bước nhảy

vọt thành công thì phải quyết tâm, mạnh dạn và cố gắng hết mình. Ý nghĩa

bài thơ sâu sắc nhưng ở đây không có sự cao đạo, lên giọng truyền giảng

mà cũng không phải là lối nói “cưa sừng làm nghé”, tác giả chỉ ngụ ý để

mỗi lứa tuổi có thể hấp thụ theo một cách riêng. Hay trong bài Cõng trâu,

tác giả nói về hình ảnh người dân miền núi kiên trì, nhẫn nại chiến thắng

hoàn cảnh khó khăn:

Ở vùng cao con người vất vả

Chiếc gùi đè nặng trên lưng

Cõng hết cửa nhà, ngô lúa

51

Cõng trâu leo lên núi trập trùng

Bằng một cách viết giàu chất thơ, chất ân tình tác giả thể hiện cái nhìn

dung dị mà nhiều ưu ái với những người nông dân cần cù biết vượt lên hoàn

cảnh sống bằng chính sức lao động chân chính. Người đọc nhiều khi bất ngờ

vì một cái gì đó vừa rất trong sáng, đáng yêu, vừa ngồ ngộ, vui vui lại được

diễn đạt bằng cách nói rất dân tộc, độc đáo mà chỉ người vùng núi mới có.

Sinh ra trên quê hương: Không đủ chỗ đánh rơi đồng xu/ Ba bước chân

gặp núi/ Ra khỏi cửa là leo là lội vì thế mà ngay từ ngày còn nằm nôi, Dương

Thuấn đã được cha mẹ nuôi dương khát vọng “ra đi” để tìm cho mình chân

trời tri thức. Ông đã tự ngẫm về hành trình đi thực hiện khát vọng của mình:

Sinh ra tắm nước thơm

Mới là con của mẹ

Lớn lên tắm nước sông

Mới thành người của làng

Đóng con tàu đi ra bể

Tắm giữa đại dương

Mới thành người của muôn nơi

Lời thơ giản dị nhưng ý tứ lại hết sức sâu xa về quá trình trưởng thành

của một con người từ con người gia đình đến khi trở thành thành viên của xã

hội. Hành trình ấy thôi thúc Dương Thuấn ra đi để trưởng thành nhưng càng

học nhiều càng đi xa bao nhiêu thì nhà thơ lại càng có sự chiêm nghiệm sâu

sắc:

Sinh ra làm người chẳng thể ngồi an

Khi ra bể lại muốn lên non

Khi lên non lại muốn về với bể

(Đi ngược mặt trời)

“Đi ngược mặt trời” chính là sự trở về với chính mình của Dương

52

Thuấn. Nỗi niềm mong ngóng được trở về quê hương cứ đau đáu khôn nguôi

vì thế mà thơ Dương Thuấn luôn mang cảm hứng của hồi ức, sự ngoái lại để

suy nghĩ khiến thơ ông giàu chất suy tư, trăn trở. Ta bắt gặp một cái tôi trải

nghiệm được hình thành sau những tháng ngày đi xa và cũng thấy Dương

Thuấn triết lý nhiều hơn. Như một người già, Dương Thuấn cảm nhận sâu sắc

về sự vô tận thời gian bên cạnh sự hữu hạn của đời người. Những đổi thay của

cảnh vật, làng xóm dù nhỏ nhất như một cành cây gãy, một cây si già nua hay

người già mất đi cũng đủ làm nhà thơ thảng thốt nhận ra quy luật tuần hoàn

khắc nghiệt của kiếp người: Người rủ nhau đi đâu/ Cảnh mỗi ngày mỗi khác”

(Về bản). Tuy nhiên khác với các thi sĩ khác khi đứng trước sự bào mòn của

thời gian với con người thường sẽ chọn thái độ sống gấp hoặc bi lụy thì

Dương Thuấn đến cuối bài thơ lại cho ta thấy sự lạc quan, vui vẻ: Trẻ con

chạy ra chào/ Người lớn chạy ra chào/ Người vui rối rít/ Cả bản xao xao.

Vẫn là tính cách mạnh mẽ của đứa con núi rừng quy luật đào thải của thời

gian như động lực để nhà thơ tìm được cách ứng xử thanh thản hơn. Tiếng

“rối rít”, “xao xao” ấy báo hiệu sự kế tục của lớp lớp con cháu và sự sống này

là không thể hủy diệt.

Sức hút của thơ Dương Thuấn nằm chính trong sự chân thực, không

chút kiểu cách nhưng đó là những câu thơ có khả năng đánh thức rung cảm

trái tim người đọc sâu sắc nhất. Sự khắc khoải ấy đã làm thành tính trữ tình

chiêm nghiệm trong thơ Dương Thuấn như trong bài Phố huyện:

Có chú bé con đi theo mẹ

Qua phố đếm xem phố mấy nhà

Bà mẹ còng lưng gùi muối nặng

Đếm bước chân về núi mờ xa

Phố huyện của Dương Thuấn không ồn ào, náo nhiệt như phố ở dưới

xuôi. trái lại nó mang thanh âm yên ả của núi rừng. Mặc dù các sự vật, con

53

người được kể tên trong bài thơ đều có hành động, suy nghĩ: núi lim dim, mây

nặng nhọc chở buồn, chim khách kêu em gái ngóng tin, chú sóc nâu kêu âm

âm, tiếng lá rơi, chùm rễ đa buông xòa, chú bé đếm nhà, bà mẹ gùi muối đếm

bước chân, nhưng toàn bài thơ lại nổi bật lên cái tĩnh lặng, im ắng của phố

huyện. Không gian có yên lặng thì tác giả mới cảm nhận được từng chi tiết,

cử động của sự vật. Và có lẽ đó cũng là cái hồn rất riêng của phố huyện ở

miền núi.

Dù sống ngay giữa bản làng hay khi đã trở thành người của muôn nơi

thì nhà thơ vẫn luôn luôn là người con của bản Hon. Những suy nghĩ, chiêm

nghiệm bắt nguồn từ những sự vật quen thuộc mái nhà sàn, cái cầu thang, cái

cọn nước, tiếng mõ trâu, con đường mòn… từ góc nhìn của Dương Thuấn trở

nên hồn nhiên, chân thật nhưng không kém phần ý nhị, sâu sắc. Nhà thơ sinh

ra từ bản của người có mào (Bản “Hon” trong tiếng Tày có nghĩa là bản có

mào), “theo nước đi” “đến khắp trăm nơi”, “qua ngàn vạn cánh rừng”, “đến

trăm nơi biết muôn vàn thứ” nhưng ông vẫn đau đáu về bản Hon, dân tộc và

đất nước mình:

Tôi – Đứa con của của bản Hon

Đứa con của dân tộc Tày

Tôi – Người con của Tự do

Công dân của nước Việt Nam độc lập

(Từ bản Hon đến Washington)

Lời thơ như lời tuyên ngôn về nguồn gốc xuất thân và hơn thế nữa, tác

giả khẳng định vị thế cá nhân, dân tộc, đất nước mình sánh ngang cùng thế

giới. Ông nêu cao ý thức giữ gìn bản sắc của dân tộc, cách nhìn, cách nghĩ,

cách nói của chàng trai miền núi làm cho giọng thơ triết lý đượm vẻ tự nhiên.

2.3.2 Triết lý của một người đi nhiều

Từ cuộc sống đi nhiều, quan sát kĩ và nghe nhiều, nhà thơ muốn gửi

54

đến người đọc vẫn là chuyện muôn thuở của loài người triết lý về tình người.

Đi nhiều, gặp nhiều, thấy nhiều, Dương Thuấn có cái nhìn đối chiếu về hiện

tượng, sự vật trong cuộc sống đặc biệt là những giá trị văn hóa truyền thống.

Một mặt là phong tục tốt đẹp muôn đời, một mặt là sự tác động của đời sống

kinh tế. Những thay đổi môi trường sống, cách sống: Cây rừng bị phát hết

làm nương/Con hươu chẳng có đường nào nữa/ Như mũi tên lao đi giữa đồi

không (Hươu rừng chạy về bản) hay Nghĩ chuyện làm ăn cũng khác đời (Làm

ăn) cùng những nghịch lý, bất công: Kẻ đang nguyền rủa thì cuộc đời lại yêu/

Người đáng kính trọng thì cuộc đời lại ghét (Kẻ ngu dốt và người thông thái).

Đặc biệt trong rất nhiều sự thay đổi tiêu cực đó thì văn hóa tập tục cũng bị

lung lay:

Đầu thế kỉ hai mươi mốt bờ rào đã mọc lên

Cái bờ rào nhìn vừa đáng yêu vừa đáng ghét

(…)

Không còn lo ban đêm có kẻ trộm đến rình

Sang nhà nhau phải đi vòng hơn một chút

(Cái bờ rào)

Tiện lợi của hàng rào ai cũng nhận ra nhưng chỉ có điều không tiện lợi

về tình cảm hàng xóm láng giềng. mặc dù: Chẳng ai thích đâu xây bờ rào

ngăn giữa/ Dẫu không muốn nhưng nay đành phải thế. Lời thơ, hình ảnh thơ

tự thân đã đem đến những suy ngẫm trực diện về hiện tượng thoạt nhiên rất

đỗi bình thường. Từ cái bờ rào ở bản lại có thể hiểu đến những rào chắn trong

cuộc đời, trong sự cư xử tình cảm giữa con người – con người thời kì đô thị

hóa nông thôn.

Năm 1995, Dương Thuấn ra mắt tập thơ Đi ngược mặt trời, ở tập thơ

này vẫn là những chuyến đi nhưng hình như sau một thời bươn trải nhà thơ đã

tìm ra được kết luận đích thực cho mình: “Sinh ra làm người chẳng thể ngồi

55

an/ Khi ra bể lại muốn lên non/ Khi lên non lại muốn về với bể”. Đi ngược

mặt trời chính là cái tôi trải nghiệm sau những chuyến đi. Đó là cái tôi nặng

nỗi niềm, lắm suy tư, giàu băn khoăn trăn trở… đôi khi còn thoáng một nỗi

buồn, chán nản thậm chí là khinh bạc:

Đêm đô thành ta đạp đổ

Ta là chàng trai núi khinh đời

Ta chẳng cần đô thành em đã biết hay chưa

Chẳng cần biết em qua bao ngôi nhà bị đổ…

Sau một thời va chạm và cọ xát với cuộc đời, nhà thơ còn nằm tính sổ

với chính mình:

Túi tình đầy bạc vạn

Đã tiêu hết với đời

Giờ không còn dính túi

Dù chỉ một chút hơi

Tư thế khinh đời có lúc đẩy cái tôi Dương Thuấn trở nên đơn côi nhưng

lại là cái đơn côi kiêu hãnh, kiêu sang:

Đi qua trăm miền quê

Chẳng nơi nào để nhớ

Đọc thơ Dương Thuấn, độc giả tự rút ra nhiều hiểu biết, kinh nghiệm

nhận thức, kinh nghiệm sống… Vì vậy thơ ông chính là sản phầm của sự kết

hợp thống nhất giữa tình cảm và trí tuệ. Thơ triết lý của Dương Thuấn đặc

biệt hay ở những bài viết về tình người, cách đối nhân xử thế và tình yêu. Các

bài thơ: Lá giầu, Ba quả tim của đàn ông, Cực tình, Người làm đồng, Những

bà già, Ớt gạo, Ông lão chăn trâu kể chuyện, Đêm bên dòng sông yên tĩnh,

Con rết vua, Cơn lũ rừng – cơn lũ thời gian, Vợ và người tình, Cành nắng,

cành râm… tiếp nối mạch thơ triết luận về cuộc đời. Cách triết luận của

56

Dương Thuấn là kể một câu chuyện, thuật lại các hiện tượng, nêu lên một

nhận xét còn ý nghĩa triết luận lại nằm ở bạn đọc - độc giả sẽ tự đọc và rút ra.

Chính điều này đã làm cách làm tăng tính tư tưởng cho thơ của Dương Thuấn.

Hành trình ra đi của Dương Thuấn một phần thỏa mãn khát vọng quan

sát, khám phá thế giới của ông đồng thời nó còn bồi đắp cho nhà thơ tình yêu

và lý tưởng dân tộc. Tính triết lý ở đây không còn là những bài học, những

kinh nghiệm sống hàng ngày nữa mà là những chiêm nghiệm mang chiều kích

dân tộc đất nước, thể hiện tính tư tưởng, tình yêu Tổ Quốc của tác giả. Điều

này thể hiện rất rõ qua trường ca Mười bảy khúc đảo ca. Tác phẩm mang

chiều sâu tư tưởng của thi ca, cháy lên sức mạnh Khảm hải mà nhà thơ mang

trong dòng máu của dân tộc mình:

Ôi cơn khát trong ta

Mơ vượt qua biển lớn

Biển dài rộng nhường nào

Nếu so với biển đời trước mặt

Sóng nổi đất bằng

Dễ muôn lần nếu vượt khơi xa

Tác giả luôn gắn cái thực với cái tưởng tượng, luôn gắn cái trực giác

với cái sâu xa – lý tưởng. Vượt muôn ngàn sóng gió ở biển dù có khó khăn

gian khổ nhưng vẫn còn dễ hơn ngàn lần so với vượt khó khăn khi sống giữa

biển đời. Từ một chàng trai của núi nay được ra với biển, Dương Thuấn chăm

chú quan sát, lắng nghe, cảm nhận và vỡ ra nhiều lẽ: Đất cũng như thở phập

phồng/ Mỗi buổi bình minh lên (Nói với đất liền), Ôi mặt trời thật nhanh/

Không dậy sớm không thể thấy bình minh (Hỏi mặt trời), Ở biển cá voi đây là

chúa/ Khác với chúa sơn lâm là ác/ Cá voi lại “hiền lành” (Đàn cá voi)…

Mỗi khúc ca, khi xây dựng nhà thơ đều chú ý đặc trưng của trường ca. Chủ đề

của mỗi khúc ca được nhà thơ tập trung khai thác, làm rõ. Khúc ca Hồi tưởng

57

trước lá cờ, Pháo đài, Bão giông đã tái hiện lại những trang lịch sử hào hùng,

vinh quang nhưng cũng không ít hy sinh của dân tộc ta. Ngôn ngữ trường ca

không nhiều tầng nghĩa như ở thơ song có nhiều câu, nhiều đoạn, tác giả đã

khéo léo tạo ra những nét bất ngờ, những hình ảnh chọn lọc mà vẫn đảm bảo

tính tư tưởng, tính giáo dục của thể loại. Kết lại trường ca, nhà thơ mở ra sự

định hướng - “hướng đạo” cho thế hệ trẻ - chủ nhân của đất nước về tình yêu

quê hương đất nước và những giá trị lịch sử:

Bài địa lý hôm nay em học:

Là cánh cửa mở vào đất nước nghìn năm

Em hãy đi và nghĩ

Em hãy sống và yêu

Em sẽ hiểu cuộc đời lớn rộng

…Em sẽ hiểu giữa biển khơi xa sóng hát điều gì…

(Khúc cuối không tên)

Sự phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc (dân tộc Tày) cùng ý thức vai trò,

trách nhiệm công dân của dân tộc Việt Nam trong thơ Dương Thuấn đã đưa

thơ ông lên tầm tư tưởng, thể hiện tính dân tộc sâu sắc.

Cảm thức văn hóa trong thơ Dương Thuấn được thể hiện một cách toàn

diện đối với những giá trị văn hóa của dân tộc ông. Núi non, đất trời của miền

cao và nền văn hóa Tày đặc sắc đã kết tinh thành tiếng thơ Dương Thuấn độc

đáo hôm nay. Tiếng thơ là tiếng lòng, phải yêu quê hương đến nhường nào thì

nhà thơ mới sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ đến như vậy đúng

như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định về thơ Dương Thuấn: “Anh

chân thành, hồn nhiên dẫn mọi người về tận nguồn cội của một đời sống

thuần phác, giàu ân tình, giàu cốt cách của dân tộc anh, để mọi người cùng

yêu cái anh yêu, cùng được tắm gội trên một vùng sông nước thật trong

58

trẻo”[tr.9, 33].

CHƯƠNG 3

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN

3.1 Thế nào là biểu tượng văn hóa

Trở lại với khái niệm văn hóa (xem Chương 1 mục 1.1.1 Khái niệm văn

hóa), ta thấy sự hình thành và phát triển văn hoá luôn dựa vào năng lực của

con người trong việc nhận thức và sáng tạo ra các loại hình ngôn ngữ kí hiệu -

biểu tượng. Trong mọi nhu cầu của đời sống xã hội thì nhu cầu văn hoá là nhu

cầu cao nhất - nhu cầu giải trí và sáng tạo ra các tác phẩm văn hoá. Sự đa

dạng của văn hoá biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu

tượng. Nó là hình ảnh tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận

một giá trị, tức là thế giới của ý nghĩa, cũng là thế giới của văn hoá.

Nhiều nhà nhân học văn hoá còn cho rằng đơn vị cơ bản của văn hoá

chính là biểu tượng - vật hàm chứa thông tin, và là hạt nhân di truyền xã hội

đầu tiên của loài người. Văn hoá được coi như là một văn bản các hệ thống

biểu tượng (Theo định nghĩa văn hóa của L. White[15] “Văn hoá là cơ chế

của các hiện tượng, vật thể, hành động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được

tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu tượng hoặc phụ thuộc vào các biểu tượng

đó” [25]

Mỗi nền văn hóa đều được cấu thành bởi một tập hợp các hệ biểu

tượng. Việc nghiên cứu các biểu tượng là chìa khóa để giải mã đời sống văn

hóa, tinh thần của một cộng đồng. Nói như Jean Chevalier, tác giả cuốn Từ

điển biểu tượng văn hóa thế giới [9], tìm hiểu biểu tượng là tìm ra chìa khóa

của những con đường đẹp đẽ…. Vượt qua cái dáng vẻ bên ngoài, ta thấy được

những chân lý, niềm vui, những ý nghĩa ẩn kín và thiêng liêng của mọi điều

trên mặt đất quyến rũ và kinh khủng này.

Ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ văn học là kho tàng bảo lưu những giá

59

trị văn hóa của một dân tộc. Do đó, nghiên cứu về biểu tượng, không thể

không xem xét trong mối quan hệ với ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thơ ca.

Giá trị thực sự của biểu tượng được xác lập không chỉ ở bình diện văn hóa nói

chung trong đời sống cộng đồng mà còn định hình và biến đổi trong sự điều

chỉnh, tiếp nhận của mỗi cá nhân, mỗi chủ thể.

Biểu tượng (symbol) là một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử

dụng với những nội hàm khác nhau. Khởi nguyên, biểu tượng là một vật được

cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi người giữ một phần,

chủ và khách, người cho vay và kẻ đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp

chia tay nhau lâu dài… Sau này, ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối

thân tình xưa, món nợ cũ, tình bạn ngày trước. Biểu tượng chia ra và lại kết

lại với nhau như vậy nên nó chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Điều này

cũng có nghĩa mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ ; ý nghĩa của

biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối kết những phần của nó

đã bị vỡ ra.

Sau này, khi khoa học về biểu tượng hình thành và phát triển, có rất nhiều

quan điểm khác nhau đưa ra nhằm lí giải về ý nghĩa của biểu tượng và vai trò

của nó trong đời sống con người. Dưới đây xin được dẫn một vài nhận định:

Theo phân tâm học Freud, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng

gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là

mối liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời

nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng… Nhà nghiên cứu C.G. Jung thì cho rằng:

Biểu tượng là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta

mơ hồ nghi hoặc của tâm linh.

Các ý kiến trên đều ít nhiều có sự khác nhau song về cơ bản đều chỉ ra

rằng biểu tượng có hai mặt là cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Từ đó,

một cách chung nhất, theo chúng tôi, có thể hiểu: biểu tượng là khái niệm

60

dùng để chỉ một thực thể bao gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện

thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người (cái biểu trưng) và

mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng

không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của sự tồn tại này (cái được

biểu đạt).

Theo đó, Biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần

(sự vật, hành động, ý niệm…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn

chính hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng

cho những nền văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi kiêng kị, thần linh… Biểu

tượng văn hóa là sự tồn tại ở bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan.

3.2 Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn

Thơ Dương Thuấn dày đặc những hình ảnh mang hơi thở cuộc sống

miền núi. Viết về đề tài miền núi, Dương Thuấn đã chủ động thâu tóm thiên

nhiên, cảnh vật, phong tục tập quán đủ đầy và sinh động nhất. Người đọc thấy

hiện lên trong thơ ông hình ảnh thiên nhiên núi rừng với núi sông, mặt trăng,

mặt trời, gió ngàn, mưa rừng, thác lũ… hay con người, cảnh vật của cuộc

sống sinh hoạt và lao động hằng ngày cũng như những phong tục lễ hội, đời

sống tinh thần của cộng đồng. Cá biệt có những hình ảnh xuất hiện với tần số

cao, lặp đi lặp lại nhiều lần, khi đó chúng không còn là hình ảnh miêu tả đơn

thuần mà ẩn chứa nhiều dụng ý, tư tưởng của tác giả. Từ những hình ảnh tiêu

biểu cho quê hương nhà thơ đã nâng chúng trở thành biểu tượng văn hóa đặc

trưng cho những giá trị văn hóa dân tộc, bản làng quê ông. Trong phạm vi đề

tài nghiên cứu của luận văn, chúng tôi khảo sát kỹ hơn những hình ảnh – biểu

tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn: bản Hon, núi, sông, nước và trăng. Sở

dĩ có sự lựa chọn trên không chỉ vì những biểu tượng trên xuất hiện nhiều

trong thơ Dương Thuấn mà chúng còn là nhân chứng cho sự ra đi và trở về

61

với quê hương của tác giả.

3.2.1 Bản Hon

Bản Hon của dân tộc Tày - quê Dương Thuấn đã cho ông một suối

nguồn vô tận văn hóa Tày và ông luôn có ý thức phổ biến vẻ đẹp văn hóa ấy

trên thi đàn Việt và quốc tế. Từ “Hon” trong tiếng Tày có nghĩa là “mào”, ý

nói bản Hon toàn những người có mào. Theo tiếng Kinh thì đó là những

người có “máu mặt”, biết ăn nói và làm được việc. Có lẽ vì thế mà bản Hon

cũng giàu truyền thống văn hóa, phong tục hơn. Tâm thức văn hóa Tày luôn

nuôi dưỡng ông, cho ông một lộ trình thi ca, định dạng phong cách thơ ông –

vừa dân tộc lại vừa hiện đại. Hay nói đúng hơn, thơ Dương Thuấn đến với

hiện đại từ truyền thống. Trong quá trình sáng tạo, Dương Thuấn đã tôn vinh

được văn hóa Tày. Từ trong sâu thẳm văn hóa Tày là nguồn sữa mẹ nuôi

dưỡng tâm hồn nhà thơ và trở thành chất liệu cho ông sử dụng trong tác phẩm

của mình:

Bản Hon ở xa trên rẻo cao

Hà Nội lên đi xe một ngày

Qua mấy núi mấy đèo sẽ đến

Ở nhà sàn ăn nước sông Năng

Tới bản Hon ngồi trên mây

Những ngôi nhà sàn bốn mái

Ngói máng lên rêu xanh thẫm

Lên non đón khách xa thăm

(Về bản)

Những thi tập của Dương Thuấn đều có nguồn cội từ bản Hon – nơi

mạch nguồn nuôi dưỡng sáng tác cho ông. Bản Hon chiếm một số lượng lớn

những bài thơ hay trong tuyển tập của Dương Thuấn: 536/800 bài. Bản Hon

chính là bản của dân tộc Dương Thuấn, là quê hương miền núi máu thịt.

62

Trong hành trình sống của mình, nhà thơ hay trở về thăm quê để khi rời quê

hương ra đi nhiều lúc nhà thơ dừng lại để ngoái nhìn quê hương rồi lại đi tiếp.

Mỗi lần ngoái lại như thế là thêm một lần quê hương nạp cho ông thêm niềm

tin vào cội nguồn văn hóa dân tộc và tạo cảm hứng sáng tạo. Hành trình trở về

quê hương Dương Thuấn gọi là “đi ngược mặt trời” nhưng chính trong quá

trình đi ngược ấy, Dương Thuấn đã chạm được vào sâu thẳm nguồn mạch của

thi ca. Cái bản Hon của Dương Thuấn giờ đã trở thành một địa chỉ văn hóa.

Những trò chơi dân gian như ném còn, đánh cầu yến… đồng bào ông ai ai

cũng biết chơi, đối với nhà thơ chất liệu đó luôn là những gì thân thương chốn

quê nhà và đồng hành suốt trong hành trình sống luôn trong tiềm thức để dẫn

ông trở về bản Hon. Bản Hon là nơi lần đầu tiên Dương Thuấn nhìn thấy mặt

trời và cũng là chốn khởi đầu để ông được làm người, được làm thi sĩ: “Sải

dọc đo trời/ Sải ngang đo bể/ Bàn chân đi/ Bàn chân lại quay về”.

Từ quê hương Bắc Kạn, Dương Thuấn xuống đồng bằng đi nhiều nơi

và sang cả nước Mỹ tới đâu Dương Thuấn cũng nói về quê hương - bản Hon

mình bằng lối nói chân thật nhất. Quê hương đã cho ông một trữ lượng lớn tri

thức dân tộc để ông đủ tự tin khi nói về dân tộc Tày và non nước hữu tình Bắc

Kạn trong đó có ngôi nhà của ông ở bản Hon, bản Hon niềm tự hào của nhà

thơ. Kỉ niệm hai lần sang Mỹ thuyết trình về văn hóa Tày trong tiến trình hội

nhập, nhà thơ đã viết bài thơ Từ bản Hon đến Washington, ông tự hào nói:

Tôi – Đứa con của của bản Hon

Đứa con của dân tộc Tày

Tôi – Người con của Tự do

Công dân của nước Việt Nam độc lập

Tôi – Nhà thơ của hai thế ký

Thế kỉ hai mươi và thế kỷ hai mốt

Những ngày ở Mỹ chắc hẳn Dương Thuấn vẫn ngoái về bản Hon, vọng về

63

quê hương thân thương. Nhà thơ đã làm được một điều kì diệu trong đời mà tổ

tiên ông cha chưa làm được đó là vượt biển sang bên kia đại dương để nói về

truyền thống của văn hóa Tày trong thời đại hội nhập và phát triển. Đối với

Dương Thuấn mà nói, bản Hon - xứ sở của ông có một ý nghĩa cực kỳ quan

trọng. Xứ sở với ông không chỉ là nguồn cội mà còn mang một ý nghĩa nhân

bản: Nơi ông trở về thật với mình, sống hết mình, yêu hết mình, nơi khởi nguồn

của ngôn từ, của những giá trị làm nên chiều cao nhân cách của con người.

3.2.2 Núi

Qua tìm hiểu và khảo sát, chúng tôi thấy hình ảnh núi xuất hiện khá

nhiều trong các tập thơ của Dương Thuấn (có thể nói là nhiều nhất so với các

nhà thơ khác cùng chủ đề): 15 lần/33 bài trong tập Ði tìm bóng núi, 20 lần /52

bài trong tập Hát với sông Năng. Một nhà thơ Tày nổi tiếng viết về đề tài

miền núi là Y Phương nhưng số lượng các sáng tác về có “núi” trong thơ ông

có phần không dày đặc so với Dương Thuấn (20 bài/133 bài trong tập Thơ Y

Phương). Điều này chứng tỏ cảm xúc về núi của Dương Thuấn vô cùng dồi

dào và mãnh liệt.

Để thực hiện hành trình đi của mình, Dương Thuấn phải xa núi để ra

với biển vì vậy hình ảnh núi trở về trong thơ Dương Thuấn luôn điệp trùng nỗi

niềm, hồi ức. Nhà thơ như con chim của núi cao rừng thẳm luôn nhớ về tổ cũ

dù đã ra sông ra biển nhưng không nguôi nhớ ngọn nguồn. Núi là gốc gác, bản

chất mà suốt hành trình thơ và đời của Dương Thuấn, ông luôn đi tìm: “bóng

núi”. Bóng ở đây nên hiểu là gì? Bóng là phần ảo, phần mộng hay là phần hồn ,

phần tính? hay là cả hai? Đi tìm bóng núi là tên tập thơ xuất bản năm 1993 của

tác giả, toàn tập thơ là cuộc hành trình đi tìm cái đã xa, đã vuột khỏi tầm tay.

Nhà thơ Dương Thuấn từng tâm sự: hành trình đi tìm bóng “bóng núi” của ông

chính là hành trình tìm lại chính mình. Giã từ xứ núi, nghìn lạy mẹ, mẹ đẩy con

xuống thác, con đi, giữa dòng đời, con lang thang, buồn nhớ đi tìm bóng núi

64

ngày xưa. Đi tìm bóng núi là trở về ngọn nguồn dân tộc, trở về với bản sắc dân

tộc mình. Với Dương Thuấn, đi xa chính là trở về. Trở về để giữ lấy hồn vía

của quê hương, để làm giàu nội lực cho thơ. Núi là bản quán, gốc gác của nhà

thơ, là niềm tự hào, là tuyên ngôn nghệ thuật của ông:

Ta là chàng trai của núi

Ta chỉ biết nói lời cho quả sai

Núi trở thành nền tảng văn hóa vững chắc làm nên hồn thơ Dương

Thuấn. Ý thức mình là con của núi rừng càng khiến thơ Dương Thuấn có sức

neo trong tâm trí của người đọc nhiều hơn. Bởi chỉ cần một chút pha giọng

Dương Thuấn sẽ đánh mất cái bản chất “núi” của mình. Hình ảnh “bóng núi”

còn xuất hiện trong bài thơ tình nổi tiếng – một trong những thi phẩm làm

rạng danh nhà thơ:

Bây giờ ngựa về tàu khác

Một mình anh ôm câu hát

Đi tìm bóng núi ngày xưa

Bây giờ em đã theo chồng

Lên núi phát nương tra lúa

(Đi tìm bóng núi)

Cả bài thơ là tình yêu tuyệt vọng trong lặng câm. Suốt chiều dài tác

phẩm chỉ có chàng trai với trái tim nhức nhối yêu thương đang ôm chặt mối tình

si đã đi vào hoài niệm. Có một chữ “núi” ở đầu bài thơ và một chữ “núi” khi sắp

kết thúc bài đủ để bạn đọc vỡ lẽ “bóng núi” ở đây là ai. “Bóng núi” không chỉ là

bóng người thương cũ mà còn là cả một thế giới nội cảm, một cõi riêng mà chỉ

cần thêm một mình em nữa là anh đủ đầy. Một chữ “núi” làm tan nát một trái

tim, ngọn núi ấy giờ đã quá xa chỉ còn dành lại cho anh xót xa với cuộc đời. Từ

chất liệu núi của thiên nhiên qua lăng kính chủ quan của nhà thơ đã tạo nên một

65

biểu tượng núi tình. Bóng núi cũng là bóng hình, là bóng em vậy.

Nhà thơ Dương Thuấn rất tài tình với những khúc ca “Buộc hồn của núi

với hồn ai”. Ai đã đọc thơ ông rồi sẽ thấy yêu hơn cuộc sống thực tại, yêu cõi

nhân gian và cảnh đẹp thiên nhiên của quê hương ông mà không muốn trở về.

Mỗi vần thơ đều có sức gợi nhiều liên tưởng. Một ngọn núi có tên là núi Cơm

Chiều mà khơi gợi cả một miền ký ức dân tộc ông và nhân loại thuở xa xưa:

Núi Cơm Chiều cái tên mà như thế

Hay là ngày xưa chưa có đồng hồ

Ông bà nhìn bóng núi để thổi cơm…

(Núi Cơm Chiều)

Núi non ở đâu dữ dội chả biết, núi non trong thơ Dương Thuấn luôn

đẹp một cách thánh thiện dù ở đó còn lắm đói nghèo, thiệt thòi:

Quê tôi núi ngàn mênh mông và cao rộng

Sáng sớm mây trời bay trắng lòng thung

Chiều về từng đàn mây vờn nhau trên cỏ…

Núi quấn quyện, bao bọc cuộc sống của người dân vùng cao: Nhà tôi

dựng ở bên sông/ Buớc ra khỏi cửa là nhìn thấy núi. Cái hoang sơ, hùng vĩ

của thiên nhiên núi rừng thể hiện rõ nhất qua những ngọn núi sừng sững đồng

thời sức mạnh của con người nơi đây cũng được ví với sức lớn lao, to cao của

núi. Người con của núi rừng khi sinh ra được tắm nước sông, nước suối lớn

lên ra đi thực hiện hoài bão được núi non chở che, ngóng chờ:

Thế rồi núi không còn mọc

Thế rồi chim phượng chẳng bay về

Còn chúng tôi dần dần khôn lớn

Núi Chẻ Dạ ngóng lớp lớp người ra đi….

(Núi Chẻ Dạ)

Lớp lớp người bản Hon ra đi vì chí hướng, sự vật biến thiên, thời gian

66

trôi chảy chỉ có núi Chẻ Dạ là còn đó, sừng sững như một nhân chứng thời

gian sau bao năm tháng dài mong ngóng mỏi mòn đứa con quê hương trở về.

Núi Chẻ Dạ hay chính là tình cảm của những người ở lại, của cảnh vật, thiên

nhiên quê hương hằng dõi theo mỗi bước đường trưởng thành của mỗi người

con. Hình ảnh “Núi Chẻ Dạ ngóng lớp lớp người ra đi” như tạc vào thơ ca

hình bóng người cha, người mẹ già có tên gọi – Quê Hương luôn dõi theo, đợi

chờ đứa con mình xuống núi rồi sẽ quay về.

Núi gắn bó với người miền núi, mỗi lúc đi xa người ta lại tâm niệm một

điều “Dù đi đâu cũng quay đầu về núi”. Phải chăng đó là khởi nguồn cho ra

đi, hành hương và trở về:

Thuở bé tôi cứ tin

Sẽ có ngày núi mọc thêm một ngọn

Sẽ có ngày chim phuợng lại bay về

Tôi yêu chín mươi chín ngọn núi

Âm thầm tôi đợi một ngày kia

(Núi Rồng núi Phượng)

3.2.3 Sông

Dương Thuấn có duyên nợ gì với những dòng sông khi mà chiếm đến

hai trong số những tập thơ (gộp vào trong tuyển tập) của ông là thơ viết về

sông: Hát với sông Năng và Đêm sông yên lặng? Rừng núi – nơi bắt nguồn

của những con sông vì thế trong tâm thức người miền núi cách nghĩ về sông

có nét khác với với nếp nghĩ của người miền xuôi. Sông với họ là mạch

nguồn trong trẻo và quyết liệt chứ không đơn thuần là giao thông đi lại hay

phục vụ cho canh tác nông nghiệp. Đặc trưng nông nghiệp của người miền

núi không phải ở nơi cạnh sông hay những mảnh đất được bồi đắp từ phù sa

màu mỡ. Từ đó mà mỗi lần gặp sông, cách ứng xử với sông của họ cũng khác

67

các dân tộc ở vùng đồng bằng lưu vực các con sông hay duyên hải.

Với Dương Thuấn, dòng sông đã trở thành một tứ thơ ngầm. Chúng

không lộ diện trong mọi lúc mà có khi lặn thật sâu, lại có khi bất ngờ hiện ra ở

một miền đất lạ. Có nhiều dòng sông có tên có tuổi xuất hiện trong thơ Dương

Thuấn như: Sông Năng, sông Nậm Na, sông Hồng, sông Thương… rồi cả có

những con suối, có thác, hồ và sau này cả biển lớn nữa nhưng sông Năng vẫn

là hình ảnh có sức ám ảnh với nhà thơ nhất. Tác giả đã tâm sự: “Sông Năng là

dòng sông chảy qua bản Hon nơi tôi đã sinh ra, người bản Hon khi bắt đầu

tập đi cũng là lúc được luyện cho tập bơi, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được tắm

nước sông lúc lọt lòng, khi được hai tháng tuổi cha mẹ đã mang ra sông Năng

để làm quen với nước… cho nên người bản Hon chúng tôi dù nam hay nữ

cũng đều như vậy, biết đi cũng đồng thời với biết bơi. Và vì thế người quê tôi

có quan niệm, ai đã sinh ra ở bản Hon sẽ không bao giờ bị chết đuối cũng

như ở bản Hon sẽ không bao giờ có người chết đuối... Ai cũng chỉ tin một

điều, người bản Hon thì “Ngã xuống sông không thể bị nước cuốn trôi. Rơi

vào trong đống lửa không thể bị thiêu cháy”[50]

Những kỉ niệm và con sông Năng yêu dấu khi đã về công tác và sống ở

thành phố Hà Nội, nhà thơ vẫn giữ và không nguôi thương nhớ:

Ơi con sông dài như giấc ngủ của rừng

Bao khúc quanh co ghềnh thác ì ầm

Có chỗ lặng lờ cho bản làng soi bóng

Chị đi lấy chồng nơi khác vẫn nhớ dòng sông

Ví von dòng sông “dài như giấc ngủ của rừng” là một cách nói nghệ

thuật đầy ấn tượng gây cho độc giả sự ám ảnh tâm hồn như là dòng sông

Năng đã ám ảnh tâm hồn tác giả. Đến cả trong giấc mơ, nhà thơ cũng mơ thấy

tiếng sóng của dòng sông. Tình yêu với dòng sông quê hương của ông đi qua

bao tháng ngày cũng không hề vơi cạn, ông khao khát được trở về bên dòng

68

sông tuổi thơ ấy. Trên hành trình của ông, dòng sông càng tràn đầy, càng bồi

đắp cho tâm hồn nhà thơ những lớp phù sa màu mỡ để ông có những cái nhìn

soi chiếu về cuộc đời, nhân tình thế thái.

Nếu Hát với sông Năng là tình cảm nồng nàn với quê hương thì Đêm bên

dòng sông yên lặng lại trầm tĩnh hơn và tư duy ở tầng sâu hơn. Thơ viết về quê

hương của Dương Thuấn dày đặc những hình ảnh núi non, lễ hội, mùa màng,

hiếu hỉ, những phong tục tập quán của người Tày, những trăn trở của người dân

lao động miền núi, những hồi ức về tuổi thơ, về con người xứ Mây của chính

nhà thơ. Phải chăng Dương Thuấn chủ định xâu chuỗi tất cả những nỗi niềm

thương nhớ quê hương ấy trở thành một dòng sông yên tĩnh. “Dòng sông yên

lặng” trở thành dòng sông tư tưởng, một ẩn dụ trữ tình cho tình yêu quê hương.

Dòng sông làm lắng dịu lại những xô bồ của cuộc đời mà tác giả đã trải qua. Trở

về bên dòng sông là để nhà thơ gột rửa, thanh lọc lại tâm hồn sau bao bụi đường

đời. Nhìn vào những lần có hình ảnh sông trong thơ Dương Thuấn ta có thể thấy

nó giống một dòng sông trong tiềm thức của tác giả với dáng dấp của nàng thơ

nhưng lại gợi rất nhiều cảm hứng triết luận. Nhà thơ đã từng đối thoại với sông

bằng nhiều cách thức: hỏi sông, hát với sông, nhớ sông…Mà mỗi lần như thế lại

là một dịp giãi bày, tự vấn. Hát với sông Năng nhưng sông đã trở thành“em”,

thành kỉ niệm lặn vào “tôi” rồi lại cồn cào than thở. Rồi có lúc nằm bên sông lại

thấy sông yên lặng quá, trầm tĩnh và đáng sợ quá.

Tôi và em yêu nhau rồi xa quê

Bây giờ mỗi đêm nằm lại nghe tiếng sóng

Tiếng thác reo chui vào trong chăn thành giấc mơ…

(Hát với sông Năng)

Đêm nay nằm bên sông yên lặng

Không tiếng thác gầm như sông quê hương

Tôi ngẩng đầu nhìn sao, đếm: một, hai, ba…

Oan hồn trên kia, đầy trời không thể đếm…

69

(Đêm bên sông yên lặng)

Không phải hồn vía đã làm cho sông thiêng mà chính trái tim mình đập

thay những nhịp sóng, tiếng thác tạo nên dòng sông của đời người ! Không vẽ

sông bằng hình ảnh, bằng âm thanh, bằng hồn vía (Giật mình còn tưởng tiếng

ai gọi đò - Sông lấp, Trần Tế Xương) mà tạo sông bằng nhịp đập trái tim. Có

thể đó là một sự đổi mới của Dương Thuấn chăng?

Ở trên núi là nhân chứng của quê hương khi tiễn biệt nhà thơ ra đi đến

đây nước lại là hình ảnh quê hương mà ông nghĩ tới đầu tiên khi trở về (cả khi

trở về trong tâm tưởng và ngoài đời thực). Sông núi trở thành nỗi ám ảnh của

nhiều người đọc bởi nó không đơn thuần là những biểu tượng đẹp mà là một

cấu tứ khá thú vị trong lối thơ của các giả này. Núi sông không những gắn bó

với tuổi thơ của một người, với tuổi tác của một cộng đồng mà đã nhanh

chóng chuyển hoá thành hai nhân vật trữ tình luôn được nhắc đến. Hình ảnh

núi và nước đã trở thành vòng tay mẹ chở che, vỗ về cho đứa con của quê

hương: “Núi và sông mang tính khái quát cao hợp thành hình ảnh Đất Nước

trọn vẹn ấm áp nghĩa tình”[52]. Ngoài ra, núi còn tượng trưng cho sức mạnh

mẽ, hiên ngang trong tính cách của người miền núi còn sông là thể hiện cho

sự mềm mại, hiền hòa, lắng đọng trong tâm hồn con người. Núi và sông tạo

thành cặp đôi hình ảnh tượng trưng cho hai nét tính cách, tình cảm của nhà

thơ nói riêng và đồng bào ông nói chung.

3.2.4 Nước

Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “những ý nghĩa tượng trưng

của nước có thể quy về quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện

thanh tẩy, trung tâm tái sinh”[9]. So với “sông”, “nước” rộng lớn hơn bao gồm

mọi dòng chảy như sông suối, thác, hồ, biển vì thế mà nước có ý nghĩa khái quát

hơn sông. Ở trên, chúng tôi mới chỉ trình bày “sông” với ý nghĩa biểu tượng cho

hình ảnh quê hương, có vai trò như người bạn tâm tình của tác giả. Ở đây, chúng

70

tôi sẽ nghiên cứu nước đặt trong sự đối sánh với “nước” trong quan niệm truyền

thống của dân tộc Tày để tìm hiểu có hay không sự kế thừa và sáng tạo biểu tượng

trong thơ Dương Thuấn.

Đối với những cư dân miền núi, những con người quen nếp sống dựa vào

thiên nhiên, nước càng trở nên thiêng liêng bởi nước cũng là sự sống. Đọc thơ ca

dân gian của các dân tộc ít người Việt Nam, chúng ta càng thấm thía sức ám ảnh

của biểu tượng nước trong tâm thức dân gian. Dù là ở dân tộc nào, Tày hay

Mường hay Giáy, nước cũng là biểu trưng cho một giá trị, một quyền năng trong

đời sống con người. Sự đồng điệu trong cách cảm, cách nghĩ này cho thấy nước là

biểu tượng lớn của văn hoá dân gian các dân tộc ít người.

Những câu ca dao dân gian của người Tày thường mượn biểu tượng nước

mà định giá tình cảm:

- Thương nhau đựng sọt nước vơi

Không thương nước đựng cong rồi cũng khô.

- Thương nhau nước đựng vào sàng

Không thương nước đựng trong cang còn rò.

(Ca dao tình yêu Tày, tr.652)

Đặc tính về sự trôi chảy liên tục của nước khiến người ta thường liên tưởng

đến dòng đời, đến số phận. Trong những câu ca dao của người dân tộc thiểu số,

nước cũng xuất hiện với ý nghĩa là sự ám ảnh về số phận, về định mệnh. Trong

nỗi thương yêu da diết, người tình nhân không khỏi có lúc ngờ vực, nghi ngại về

số phận tình yêu về sau này. Lúc ấy, biểu tượng nước xuất hiện một cách thật tự

nhiên, giúp nhân vật trữ tình bày tỏ lòng mình trọn vẹn nhất:

Ta hẹn gặp đôi lúc

Biết đâu về sau này

Nước mỗi sông khác chảy

Khác lờ lại khác bẫy.

71

(Tùy em, Giáy, tr.480)

Kế thừa ý nghĩa nước biểu tượng cho số phận chảy trôi, biến thiên của

số phận con người giữa dòng đời, nhà thơ Dương Thuấn khai thác hình ảnh

“nước máng” để - một hình ảnh rất đặc trưng của cuộc sống vùng cao để khắc sâu

nỗi nhớ thương đau đáu trong tâm hồn người phụ nữ giữa cái bình thản chảy trôi

của số phận:

Ngày cưới

Anh đánh giặc ở chiến trường Nam Bộ

Tôi rất bé cũng đóng làm chú rể

Trèo non đi đón chị về

Đêm đó tôi nghe

Chị nấc

Đêm đó chị nghe

Nước máng đầu nhà rơi lắc rắc…

(Một ngày một đêm)

Nước máng đầu nhà rơi lắc rắc hay là thời gian cứ thờ ơ nhỏ giọt, hay là

đời sống cứ chậm rãi đi theo cái mạch tự nhiên, như thể đứng ngoài mong mỏi của

con người. Số phận của người phụ nữ trong bài thơ cũng như dòng nước kia, chỉ

chảy trôi ơ hờ bằng lối riêng của nó, bất chấp nỗi lòng của một người đang chờ

đợi trong khắc khoải.

Nếu trong quan niệm truyền thông dân tộc thiểu số, nước có vai trò là

một quyền năng và họ sùng bái nước thì Dương Thuấn lại khai thác khá sâu ý

nghĩa nước là nguồn cội. Nhà thơ Dương Thuấn đã lấy nước làm hình tượng chủ

đạo xuyên suốt bài thơ Theo nước đi:

Người làm nương ăn theo lửa

Người làm đồng ăn theo nước

Sinh ra tắm nước thơm

72

Mới là con của mẹ

Lớn lên tắm nước sông

Mới thành người của làng

Đóng tàu đi ra bể

Tắm giữa đại dương

Mới thành người của muôn nơi

Viết về những người làm đồng mà thật ra chính là đang viết về dân tộc Việt

Nam – dân tộc quen sống bằng nghề trồng lúa nước. Như thế cũng có nghĩa là nhà

thơ đã đem hồn thơ cá biệt của người Tày mà viết nên những vần thơ chung cho

đại đồng dân tộc Việt Nam. Nước trở thành biểu tượng cho mọi sự khởi nguyên:

để thành con của mẹ, thành người của làng, thành người của muôn nơi, con người

đều phải trải nghiệm cùng với nước.

"Mệnh" thuỷ chảy trong tâm thức mỗi con người theo cái nguyên lí:

suối – sông - biển. Tình quê hương, tình đất nước, tình nhân loại cũng lớn lên

theo bước tiến đó. Người mẹ nuôi dạy con khôn lớn, cứng cỏi như cách người

ta hạ thuỷ những chiến thuyền: Mẹ đẩy con xuống thác/ Con đi… Để rồi có

người đàn ông trở về từ biển lớn cuộc đời lại đắm mình với dòng mạch nhỏ:

Cái rãnh nhà bé nhỏ/Bước ngàn lần không qua. Có lẽ vì ông biết "đắm" mình

ở cái rãnh nhỏ cội nguồn ấy mà không "bị" đắm chìm giữa biển cả cuộc đời.

3.2.5 Trăng

Xưa nay trăng vốn là bạn của thi nhân, là kẻ đồng hành của thi

nhân:“Chè tiên, nước ghín nguyệt đeo về” (Nguyễn Trãi), “Một trăng, một

bóng, một người hóa ba” (Nguyễn Huy Tự). Trăng là người chứng giám

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Đinh ninh hai mặt một lời song song”

(Nguyễn Du). Có khi trăng là kẻ thóc mách “Gương nga chênh chếch dòm

song” (Nguyễn Du) “Song thưa để lọt ánh trăng vào” (Nguyễn Khuyến). Bị

73

chi phối bởi quan niệm “Thi dĩ ngôn chí” và quy phạm gò bó của thơ Đường

đã làm cho hình tượng vầng trăng trong thơ cổ ít đa diện hơn thơ mới 1932-

1945 và thơ ca hiện đại.

Đến thế hệ nhà thơ mới nhờ tưởng tượng phong phú, cảm xúc mạnh mẽ

đã làm thức nhọn giác quan chính vì vậy, nên trăng còn được mã hóa thành

biểu tượng của cảm giác cô đơn tràn ngập “Sao vàng lẻ một, trăng riêng

chiếc. Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết. Trong suốt không gian tịch mịch

đời” (Xuân Diệu - Buồn trăng). Có thể nói trong phong trào thơ Mới nói

riêng và cả nền văn học nước ta nói chung thì người bị “trăng” ám ảnh nhiều

nhất phải kể đến Hàn Mặc Tử. Với lối thơ kinh dị lạ thường, đặc biệt trong tất

cả các tập thơ của Hàn Mặc Tử đều chủ yếu nói về Trăng. Trăng như một

người bạn có linh hồn biết cười, biết khóc, biết gào thét, đôi khi lại như là

người tình trong mộng. Con người ta có thể say rượu, say hoa, say đàn, say

thuốc phiện, chưa thấy mấy ai say trăng như Hàn Mặc Tử. Trăng trở thành

người bạn tâm giao. Chưa ai thèm trăng, khát trăng như ông. Chưa bao giờ

người ta thấy trong một tập thơ mà tràn ngập cả ánh trăng như trong thơ Hàn

Mặc Tử: trăng đẹp, trăng lung linh, trăng huyền ảo cũng có, mà trăng điên,

trăng hủi cũng không ít.

Thơ ca Cách mạng sau này cũng ghi nhận hình ảnh trăng xuất hiện

nhiều trong các sáng tác, đặc biệt là thơ Hồ Chí Minh. Khác với ánh trăng cô

đơn, đau đớn trong thơ Mới, trăng trong thơ Hồ Chí Minh là người bạn của

chiến sĩ cách mạng, của thi nhân; nhà thơ mượn trăng để giãi bày tâm trạng,

chia sẻ nỗi niềm. Trăng trong Nhật ký trong tù của Bác là biểu hiện của khát

khao vươn tới tự do bay khắp nhân gian để tỏa sáng. Trăng như là hình ảnh lý

tưởng để chiến sĩ cách mạng vươn tới: Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn

(Giải đi sớm), Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh (Đêm lạnh), Trăng trên

trời lướt giữa làn mây (Đêm thu). Sau này khi trở về nước hoạt động Cách

74

mạng, trăng trở thành người bạn tri kỉ, tâm giao của thi nhân: Rằm xuân lồng

lộng trăng soi/ Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân/ Giữa dòng bàn bạc

việc quân/Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền (Rằm tháng giêng),

Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau (Tin thắng

trận), Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thủ bóng lồng hoa

(Cảnh khuya).

Trăng đã là đối tượng của thi ca ngàn đời vì vậy mà hiếm có nhà thơ

nào khi sáng tác lên tới hàng trăm bài lại không có bài nào viết về trăng. Khảo

sát trong các tập thơ của Dương Thuấn, chúng tôi thấy tần số xuất hiện hình

ảnh trăng: 6/36 bài trong tập thơ Cuỡi ngựa đi săn; 12/71 bài trong tập Ðêm

bên sông yên lặng, 11/52 bài trong tập Hát với sông Năng và 10/33 bài trong

tập Ði tìm bóng núi. Dương Thuấn say sưa viết về trăng không kém say sưa

viết về sông, về núi. Dù sinh sống ở thành phố đã lâu, Dương Thuấn vẫn luôn

luôn ý thức “ta là chàng trai của núi” và luôn khao khát được về thăm quê

“mai ta về lại núi”. Nhà phê bình Uông Thái Biểu đã từng nhận xét về Dương

Thuấn: “Anh chỉ muốn rút ruột cho đồng loại hiểu mình, hiểu một chàng trai

về phố chẳng quên trăng, về đồng bằng không quên núi”[44]. Nếu như ở phố

phường, trăng bị che mờ bởi nhà cao tầng và ánh điện thì ở thành phố hình

ảnh trăng đã trở thành ngọn đèn soi sáng, là người bạn thiên nhiên gắn bó mật

thiết với đời sống sinh hoạt của dân bản.

Trong thơ Dương Thuấn, hình ảnh trăng không đơn thuần được miêu tả

là một sự vật của thiên nhiên – vô tri, vô giác mà Dương Thuấn luôn để trăng

hiện lên sinh động, nhiều dáng vẻ. Nhà thơ nhân hóa trăng, cấp cho trăng

hành động, trạng thái biểu cảm như con người: trăng say, trăng mến thương

(Nàng ơi uống rượu), trăng chạy (Giấc mơ), trăng chếnh choáng (Khúc hát

người cao nguyên), Trăng đi ùm xòa/ Trăng đi ngoai ngoải/ Trăng bò xuống

ngọn câu kêu sà sã (Trăng khuya). Cách nói “trăng say”, “trăng chếnh

75

choáng”, “trăng kêu”, “trăng ướt đầm đìa” (Buổi chiều thành phố) là một sáng

tác độc đáo của Dương Thuấn. Có lẽ chỉ có người sinh ra ở núi, lớn lên ở núi,

đi hết trăm con suối, trăm núi đồi phải thức đêm cùng trăng, ngắm trăng trong

men say tiếng hát những đêm lượn cọi hay những tiệc rượu cần mới bắt được

hình ảnh đặc sắc như vậy. Trăng đã trở thành người bạn tri âm tri kỉ của nhà

thơ, cùng mang một biểu cảm, trạng thái tâm lí giống như thi nhân.

Yêu trăng, mến trăng Dương Thuấn đã biến trăng của thiên nhiên thành

trăng tượng trưng cho vẻ đẹp – vẻ đẹp của người phụ nữ:

- Em đẹp như trăng rằm tỏa sáng

Một đoàn người đón rước em sang

(Làm dâu)

- Ánh trăng đêm sáng nhất trên trời cao

Được ví như khuôn mặt tròn của em

(Em – trăng – hoa)

Không giống như chàng Đam San đi bắt nữ thần mặt trời, Dương

Thuấn đi tìm cho mình một nữ thần mặt trăng - tỏa sáng dịu dàng. So sánh vẻ

đẹp người phụ nữ với ánh trăng, Dương Thuấn muốn đưa cả hai vẻ đẹp đó trở

thành vĩnh viễn, bất diệt và đứng trên hết tất cả. Hình ảnh trăng trong thơ tình

Dương Thuấn trở nên mềm mại, duyên dáng và cực… tình: Những tối trăng

vàng em và tôi cùng tắm, Hát câu ca trăng ướt đầm đìa, Đêm gõ chiêng

chếnh choáng vầng trăng. Trong thơ Dương Thuấn, trăng được ví với người

con gái, mặt trời ví với người con trai vì vậy mà say trăng, chếnh choáng

trăng cũng là say em, đắm đuối em.

Trăng trong thơ Dương Thuấn còn trở thành biểu tượng thể hiện tấm

lòng son sắt, gắn bó với bản làng của nhà thơ. Dù đi xa ngàn dặm thì nhà thơ

cũng không thể quên được “bến trăng xưa”. Cũng giống như núi, sông, trăng

còn là nhân chứng cho sự ra đi đồng thời là điểm tựa trở về trong tâm tưởng

76

của nhà thơ:

Người đi mang một câu hát cũ

Người đi một bến trăng xưa

Dương Thuấn từng rong ruổi trong những đêm ngựa vàng ngay giữa

phố phường Hà Nội để thương nhớ một bầy ngựa bay trong đêm trăng:

Những con ngựa vàng

Bay trong đêm trăng

Muôn tiếng vó gõ lên trùng khơi

Muôn tiếng vó gõ lên đỉnh núi…

Một sự liên tưởng đầy mỹ cảm. Những bóng ngựa từng “khua vó lên

trăng” ấy động cả vào tâm thức. Trong cuộc hành trình mang tính chất duy

linh, chúng phóng qua cả nỗi buồn cố hữu, qua những dãy núi già nua, qua

mặt trời. Hình ảnh “ngựa khua vó đêm trăng” không chỉ đẹp mà còn lay động

trái tim những người miền núi xa bản, xa núi rừng.

Hình ảnh trong thơ Dương Thuấn là những hình ảnh dung dị, mang hơi

thở của cuộc sống miền núi. Những hình ảnh ấy không đơn thuần chỉ để tả,

phô diễn mà có khả năng gợi mở, khái quát cao. Ðiều đặc trưng trong hình

ảnh thơ Dương Thuấn là cái quen hóa lạ, giản dị mà độc đáo. Trên đây là năm

hình ảnh quen thuộc mang tính biểu tượng văn hóa cao trong thơ Dương

Thuấn, ngoài những biểu tượng trên, chúng ta có thể liệt kê thêm những biểu

tượng khác như: mặt trời, lửa, đá, ngựa. Mỗi hình ảnh dù giản dị, mộc mạc

đều mang những nét riêng của miền núi, ghi dấu được sự gắn bó của nhà thơ

với quê hương bản làng và cuộc sống của những con nguời noi dây. Từng

hình ảnh đều có ý nghĩa và sức gợi liên tưởng riêng tuy nhiên như đã đề cập

từ đầu, năm hình ảnh chúng tôi chọn là những hình ảnh đều có điểm chung là:

chứng kiến bước đường trưởng thành của nhà thơ. Chúng liên kết trong một

trường ngữ nghĩa: nhân chứng cho hành trình từ quê hương ra đi và trở về quê

hương của tác giả. Hành trình đó cũng chính là hành trình đi – tìm lại chính

mình của Dương Thuấn, tìm lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân

77

tộc, quê hương ông.

CHƯƠNG 4

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN

Nội dung và nghệ thuật là hai mặt song hành của một tác phẩm nghệ

thuật vì vậy đánh giá giá trị một tác phẩm văn chương nghệ thuật không thể

khẳng định một khía cạnh: nội dung hay nghệ thuật. Ở chương 2, chương 3

chúng tôi đã nghiên cứu nội dung thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa

đến chương 4 - chương cuối của luận văn, chúng tôi sẽ tiếp tục khảo sát một

số phương thức nghệ thuật mà chúng tôi cho là quan trọng nhất đã làm nên

giá trị văn hóa trong thơ Dương Thuấn.

4.1 Ngôn ngữ

Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường

nét là ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì ngôn

ngữ là chất liệu của tác phẩm văn chương. Là nghệ thuật “lấy ngôn ngữ làm

cứu cánh” (Jakobson), ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ.

Ngôn ngữ thơ là một phương tiện hình thức luôn được coi trọng, là một giá trị

không thể phủ nhận trong thơ vì “thơ tức là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ”.

Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc phong

phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa) vừa giàu nhạc điệu

(tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ

lung linh, đa nghĩa.

4.1.1 Mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa

Định nghĩa “văn hóa” ở chương 1 ta cho ta hiểu văn hóa, trước hết, là

một hệ thống biểu trưng và ý nghĩa mà một cộng đồng đã tạo ra. Đến lượt nó,

văn hóa góp phần tạo ra cộng đồng, trong đó, mọi người tồn tại không phải

như những cá nhân riêng lẻ mà là những thành viên của cộng đồng. Tất cả đều

78

sử dụng một khung nhận thức và một bảng tiêu chí chung để diễn dịch và

đánh giá thực tại, để phán đoán quan hệ giữa người và người, từ đó, phân biệt

thiện và ác, đạo đức và vô luân, đẹp và xấu, hay và dở, những điều thích và

những điều không thích, v.v... Chính trên cơ sở hệ thống biểu tượng và ý

nghĩa như vậy, người ta mới dần dần tạo dựng và củng cố các hệ thống niềm

tin và giá trị; xây dựng các hệ thống thiết chế xã hội và chính trị, cách ứng xử,

phong tục tập quán khác; cuối cùng, dần dần hình thành các sản phẩm văn hóa

như văn học, âm nhạc, nghệ thuật, văn hóa dân gian, v.v...

Với cách hiểu văn hóa như một hệ thống biểu trưng và ý nghĩa như

vậy, người ta dễ dàng nhận ra mối quan hệ hữu cơ mật thiết giữa văn hóa và

ngôn ngữ. Mật thiết đến độ nhiều người cho ngôn ngữ, tự bản chất, là văn

hóa. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa có thể được nhìn thấy từ mấy góc

độ chính:

Một, ngôn ngữ là kho lưu trữ và gắn liền với những kinh nghiệm chung

mà cả văn hóa cộng đồng đều chia sẻ. Chính vì vậy mà ngôn ngữ không chỉ

có có tính nhận thức mà còn có cả sắc thái, tình cảm. Ví dụ, từ “con cò”

không chỉ nhận thức về loài cò mà còn gợi liên tưởng thân phận người phụ nữ

vất vả, cực khổ, chịu nhiều hy sinh. Hai, ngôn ngữ là một trong những

phương tiện chính để lưu truyền văn hóa. Cái gọi là tính chất truyền khẩu

trong văn hóa dân gian (folklore) chính là một minh chứng hùng hồn cho vai

trò của ngôn ngữ trong việc duy trì và nuôi dưỡng văn hóa nói chung. Ba, sử

dụng ngôn ngữ, dưới hình thức nói hoặc viết để chuyên chở điều mình muốn

truyền đạt bao gồm cả ý muốn nói và tình cảm nói.

Tất cả những sự phân tích trên đều nhằm để chứng minh một luận điểm

chính: ngôn ngữ thực chất là văn hóa. Từ những đặc điểm trên, ta thấy, trong

một tác phẩm văn học, nhà văn, nhà thơ là người tái hiện ngôn ngữ của nhân

dân. Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc có điều kiện sống khác nhau (ở

79

phương diện hình ảnh, ngôn ngữ…) việc lựa chọn sử dụng ngôn ngữ trong tác

phẩm vừa thể hiện được tài năng của người nghệ sĩ vừa phản ánh được bản

sắc văn hóa của tộc người đó.

4.1.2 Ngôn ngữ trong thơ Dương Thuấn

Một trong những điểm khác biệt quan trọng nhất của văn học dân tộc

thiểu số với văn học miền xuôi đó là ngôn ngữ. Các tác giả không những sáng

tác theo thể thơ truyền thống mà còn sáng tác theo thể thơ tự do để bắt nhịp

được với hơi thở của cuộc sống. Việc sáng tác thơ bằng tiếng Tày, các tác giả

đã góp phần bảo tồn, gìn giữ nét đặc sắc, độc đáo của ngôn ngữ Tày, gìn giữ

bản sắc văn hóa dân tộc. Các nhà văn nhà thơ dân tộc đều có ý thức rất rõ

trong việc dùng tiếng mẹ đẻ để sáng tác văn chương trong đó đặc biệt (nếu

không muốn nói là nhiều nhất) vẫn là Dương Thuấn mà tuyển tập thơ song

ngữ Tày – Kinh của ông là một dẫn chứng. Dương Thuấn thực sự đã làm phục

hưng ngôn ngữ Tày và văn học Tày. Trước đây có không ít người nói rằng

ngôn ngữ của dân tộc thiểu số sẽ mất đi khi mà mọi vấn đề hiện nay đều bị

quốc tế hóa nhưng Dương Thuấn đã chứng minh ngược lại bằng cách qua tác

phẩm văn học của mình đem đến cho ngôn ngữ Tày sức sống bất tử, vượt qua

mọi thời gian. Bộ tuyển tập thơ song ngữ dày hơn 2000 trang của Dương

Thuấn không chỉ là trường hợp hiếm có đối với văn học trong nước mà cả văn

học thế giới cũng rất hiếm. Tập thơ song ngữ này vừa nêu cao ý thức sáng tác

văn học bằng tiếng mẹ đẻ đồng thời Dương Thuấn cũng thể hiện thái độ muốn

giới thiệu văn hóa của một dân tộc thiểu số đến đông đảo độc giả sử dụng

tiếng phổ thông.

Ấn tượng nổi bật trong ngôn ngữ thơ Dương Thuấn còn là ngôn ngữ

mang chất dân gian đậm nét. Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ chỉ là một khía cạnh

thể hiện tình yêu đối với văn hóa dân gian của Dương Thuấn. Chất dân gian

trong ngôn ngữ thơ Dương Thuấn còn thể hiện ở khát vọng vẽ chân dung

80

cộng đồng dân tộc mình bằng thơ. Những bài thơ mang tính triết lý như: Ông

câu biển, Chuyện đời xưa, Bỏ ruộng làm rẫy, Những bà già, Người trẻ người

già, Chuyện thằng đầu trọc, Đừng buồn lũ quét, Lời của pứt, Của quý, Bài

học niềm tin, Cõng trâu, Bà mẹ xứ Mây, Cô gái núi Hoa, Đoàn người không

bóng… đã tạo nên bức chân con người miền núi đẹp trong lao động và ý chí:

“Bức chân dung ấy đẹp, nhiều màu sắc còn là kết quả của sự thống nhất giữa

cái hư và thực, cái có lý và phi lý, tình cảm và trí tuệ trong việc thể hiện bút

pháp” [52]. Chính trong lời tâm sự cùng bạn đọc báo Văn hóa – Văn nghệ ông

có nói: “Tôi có bút pháp riêng cho từng bài nhưng bạn đọc cũng có thể nhận

ra bút pháp chung cho tất cả các bài thơ của tôi. Đó là câu kết của các bài

thơ bao giờ cũng gây sự ngạc nhiên cho người đọc khiến độc giả phải nghĩ và

nhớ về bài thơ đó. Một cách nữa là tôi thường đẩy sự việc đi đến tận cùng sự

phi lý nhưng sau khi đọc xong rồi người đọc lại thấy có lý”[50].

Đọc thơ Dương Thuấn người yêu thơ không bắt gặp tình trạng công

thức, khuôn sáo mà trái lại thơ Dương Thuấn ngập tràn ngôn từ của đời sống

tuôn chảy theo mạch cảm xúc chứ không theo quy phạm của thể loại. Vì

không bị ràng buộc bởi những công thức nên thơ Dương Thuấn vừa chân

thực, giản dị nhưng không kém phần bay bổng, hồn nhiên, trong sáng mà hóm

hỉnh gợi nhiều suy ngẫm. Ngôn từ trong thơ ông là thứ ngôn ngữ chắt lọc từ

lời ăn tiếng nói hàng ngày, đó là cách nói mang tính truyền thống của người

vùng cao, là sự chân thành, thẳng thắn trước cuộc sống đời thường. Chính vì

điều này Dương Thuấn trở thành thi sĩ “thật” nhất. Hãy nghe ông giãi bày tấm

lòng hiếu khách của người miền núi để từ đó chúng ta sẽ yêu hơn những con

người nồng nhiệt, chân thật nơi đây:

Khách đến nhà không vội hỏi tên

Mà chỉ hỏi:

Con đường nào đã đưa anh đến

81

Mà nói rằng

Hãy uống cạn vò rượu cùng ta

Và khi khách đi chủ nhà chỉ nói

Đừng để cầu thang nhà tôi mọc cả gà

Một câu nói tưởng chừng chẳng ăn nhập gì với sự quyến luyến, bịn rịn

chia tay khách trước lúc khách ra về nhưng ẩn sâu trong ấy là một sự mong

mỏi, ngóng chờ: khách sẽ trở lại thăm nhà mình và khi đó cầu thang sẽ không

có chỗ cho cỏ mọc. Cái thẳm sâu của lòng người miền núi được biểu hiện bởi

một câu nói rất mộc mạc đơn sơ.

Cảm thức văn hóa về quê hương luôn khiến nhà thơ bật ra những lời

thơ chân thực, tự nhiên nhất:

Quê hương không đủ chỗ đánh rơi đồng xu

Ba bước chân gặp núi

Ra khỏi cửa là leo là lội

Bằng ngôn ngữ mộc mạc của lời ăn tiếng nói hằng ngày, Dương Thuấn

đã trở thành họa sĩ vẽ bức tranh quê hương bằng ngôn từ sinh động, hiện thực

nhất. Vì vậy mà hiếm có nhà thơ nào có được phong vị đậm đặc về quê hương

bản quán trong sáng tác như Dương Thuấn. Bao trùm các trang thơ ông luôn

là cảm hứng ngợi ca cuộc sống, ngợi ca quê hương đất nước. Mỗi nhà thơ đều

có một vùng quê riêng, gắn với bao kỷ niệm yêu dấu của cuộc đời. Quê

hương Dương Thuấn là vùng cao Việt Bắc hùng vĩ chính vì thế mà những vần

thơ của ông về quê hương bao giờ cũng phóng khoáng, bay bổng như chính

tâm hồn của người dân miền núi:

Quê tôi núi ngàn cao vời và lớn rộng

Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung

Chiều về từng đàn mây vờn nhau trên cỏ

Xuân đến hoa đào nở đỏ, hoa lê trắng ngần…

82

(Quê tôi núi ngàn)

Những vần thơ giản dị trên được viết bằng một tư duy thơ thuần phác

miền núi đặc sắc, cách nói “đàn mây” đã biến mây trở thành những con vật

gần gũi với đời sống lao động sinh hoạt của người dân. Đó cũng là một nét

sáng tạo mang dấu ấn riêng của thơ miền núi hôm nay.

Lối quan sát gần, thực với những liên tưởng rất cụ thể, có thể tìm thấy

trong khắp các tập thơ của Dương Thuấn. Lối quan sát này tương ứng với loại

thơ nói – kể của người miền núi – đơn giản, rõ ràng không rối rắm phức tạp

nhưng không vì thế mà nó thô sơ. Ngôn ngữ thơ Dương Thuấn không có cái

điêu luyện như thơ Lương Định hay lối nói tưng tửng mà nghiêm túc, triết lí

đơn giản mà sâu sắc cùa Lò Ngân Sủn. Thơ Dương Thuấn luôn giản dị, đôi

khi nhà thơ đẩy giản dị lên đến tận cùng giới hạn:

Đi lâu lâu

Về lâu lâu

Cái cầu thang có dấu chân của mẹ…

(Về bản)

Ngay cả khi Dương Thuấn triết lý thì cũng vẫn là kiểu ngôn ngữ chân

chất, mộc mạc ấy: Người làm nương ăn theo lửa/ Người làm đồng ăn theo

nước/ Sinh ra tắm nước thơm/ Mới là con của mẹ/ Lớn lên tắm nước sông/

Mới là người của làng/ Đóng con tàu vượt bể/ Tắm giữa đại dương/ Mới

thành con của muôn nơi (Theo nước đi).

Thơ cần có độ nén, cô đọng, độ sâu, tính hàm súc, đa thanh, đa nghĩa.

Đấy là lý tưởng ngôn ngữ thơ của các thi nhân xưa. Ngày nay về cơ bản, ngôn

ngữ thơ vẫn cần phải có tính hàm súc nghệ thuật nhưng không có nghĩa quá

dụng công sáng tạo nên những tầng nghĩa phức tạp, rối rắm sẽ làm thơ trở nên

mơ hồ, khó hiểu, xa rời đời sống, quần chúng. Với cách nói đơn giản, mộc

83

mạc, Dương Thuấn phần nào đã giải thoát thơ ra khỏi sự phức tạp không cần

thiết của lối suy luận, diễn giải học để đưa người đọc tiếp cận với sự vật sự

việc trong thơ đúng như bản thể của chúng.

M.Gorki quan niệm: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn chương. Điều

đó đúng bởi vì muốn thành văn chương phải nhờ chất liệu sinh động của ngôn

ngữ. Tuy nhiên giỏi ngôn ngữ chưa dễ làm được nhà văn, nhà thơ vì văn

chương chỉ phát lộ ở trong trái tim, khối óc. Từ ngôn ngữ đời sống qua lăng

kính của nhà thơ mang vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng bởi Dương Thuấn sáng

tác thơ với một tư duy độc lập, bất ngờ táo bạo chứ không đơn thuần chỉ là

nhặt nhạnh, ghi chép máy móc:

Tiếng ếch đồng buồn lắm

Một tiếng kêu nghe ốm ba ngày

Người già còn mài dao

Con trẻ đừng quên tập nỏ

Hãy cúi đầu trước từng ngọn cỏ

Cây cong còn có kẻ rào vườn

(Với Bàn Tài Đoàn)

Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh nghệ thuật, cách nói phóng đại (tiếng ếch

kêu ốm ba ngày) rồi nhún nhường (cúi đầu trước ngọn cỏ), hình ảnh tượng

trưng (người già mài dao, trẻ con tập nỏ) – cách nói này phù hợp với lối nói

và sinh hoạt của đồng bào Tày. Viết như vậy thoáng nghe có vẻ mộc mạc

nhưng thực tế là lối nói ví von, hình ảnh dễ nghe dễ cảm; là lời nói thật thà

vừa gần gũi vừa có tính khắc họa sâu. Tất cả điều đó hiện lên như kinh

nghiệm sống như chắt lọc từ trái tim, tâm tưởng, là truyền thống của lớp cha

anh đi trước truyền lại cho thế hệ sau.

Ở những bài thơ khác, chúng ta bắt gặp cách xây dựng ngôn ngữ giàu

84

hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, có tính khát quát cao nhiều tình, nhiều nghĩa, hàm

súc cao. (Ví dụ: Cõng trâu, Phố huyện, Ông câu biển…). Như trong bài Ông

câu biển, hình ảnh người dân chài hiện lên bình thản, kiên gan, yêu lao động:

Đứng trên sóng

Ngồi trên sóng

Câu một bể cơm…

Sóng cong thành rắn dữ

Trời mưa tuôn cũng đành

Từ đây, tác giả nâng tầm “nhân vật” - người lao động - ông ngư dân lên

thành “ông câu biển” - thể hiện sự chế ngự biển cả, tâm thế làm chủ thiên nhiên:

Ai đi câu lợi. Ai đến câu ông

Mắt ông chỉ nhìn thấy biển

Tai ông chỉ nghe thấy biển

Ông câu bóng mình

Giáo sư Hà Minh Đức nhận định: “Cảm xúc và trí tưởng tượng là hai

mặt hoạt động hỗ trợ gần gũi của tư duy thi ca để tạo nên phần máu thịt chủ

yếu của hình tượng thơ”[6]. Vì vậy nếu không có cảm xúc, không có trí tưởng

tượng phong phú, không giàu ngôn ngữ nghệ thuật thì cũng không thể có

những bài thơ hay, ấn tượng. Ở đây điều quan tâm nữa là Dương Thuấn đã

làm chủ được ngôn ngữ nghệ thuật. Tiếng Việt đối với ông không chỉ là ngôn

ngữ học vấn mà còn là ngôn ngữ nghệ thuật. Là người sử dụng tiếng Việt như

ngôn ngữ giao tiếp chung của quốc gia thì việc dùng các biện pháp tu từ tiếng

Việt – phương tiện nhiều tầng nghĩa để sáng tạo thơ là một thành công lớn

của Dương Thuấn. Thơ Dương Thuấn mộc mạc, giản dị với lối kể hiền lành,

uyển chuyển, nhẹ nhàng, dân gian, dân tộc và có bố cục kết cấu vừa phải,

ngắn gọn, đúng như nhà thơ Lò Ngân Sủn đã nhận xét: “Phải chăng đó là cái

tạng, cái duyên, vẻ đẹp của Dương Thuấn – bởi cái thô mộc của sự trau

85

chuốt, chắt lọc, gọt dũa, ít mà nhiều, chật mà rộng, ngắn mà dài”[28]. Với

những ai ưa thích lối diễn giải trong thơ ca thì chắc chắn sẽ thất bại khi tìm

hiểu thơ Dương Thuấn bởi thơ ông không có chỗ cho những uẩn khúc vòng

vo. Nhưng có lẽ, sự độc đáo của thơ Dương Thuấn cũng chính là ở sự gần và

thực ấy. Thực nhưng không thô, giản dị nhưng không sơ sài mà trái lại vẫn

đầy sức lôi cuốn.

Tuyển tập thơ Dương Thuấn gồm 3 tập song ngữ ngoài các bài thơ còn

bao gồm hai trường ca Mười bảy khúc đảo ca và Bi phẫn. Vì vậy ngôn ngữ

trường ca còn là điểm mạnh khi bàn tới ngôn ngữ thơ Dương Thuấn. Mười

bảy khúc đảo ca là hành trình ra với biển còn Bi phẫn là hành trình trở về. Hai

trường ca tạo thành một hành trình ra đi để nhận thức về Tổ quốc, trách nhiệm

công dân và trở về để chiêm nghiệm, suy ngẫm lại những giá trị Chân - Thiện

- Mỹ trong cuộc đời của nhà thơ. Nếu như trong Mười bảy khúc đảo ca nhân

vật là những thủy thủ, người lính canh giữ biển đảo của Tổ quốc thì nhân vật

trong Bi phẫn là những cô gái, chàng trai, ông bà già, trẻ em trong cuộc sống

hằng ngày. Mười bảy khúc đảo ca tái hiện lại cuộc sống lao động và bảo vệ

biển đảo Tổ quốc và ngợi ca sức mạnh đoàn kết của dân tộc chínhh vì vậy mà

ngôn ngữ của trường ca này mang tính biểu cảm ngợi ca. Những từ ngữ trang

nghiêm, hào hùng, chính luận được sử dụng nhiều như: lá cờ Tổ quốc, đất

nước, ngôi nhà lớn, pháo đài, quân thù, chủ quyền dân tộc… nhằm nhấn mạnh

khí thế hào hùng, hiên ngang của người chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ

đất nước:

Có gì thiêng liêng như lá cờ Tổ quốc…

Lá quốc kỳ ở đây là chủ quyền dân tộc

Có núi, có sông, có đồng, có biển

Cả nước cùng chung một lá cờ…

86

(Hồi tưởng trước lá cờ)

Thế mạnh của Dương Thuấn là hiểu sâu và khai thác tốt mảng đề tài

liên quan bằng một kết cấu và ngôn ngữ thích hợp tạo ra được nét phong cách

độc đáo. Nhà thơ phát huy tốt đa khả năng xây dựng câu từ thể hiện tinh thần

cơ bản theo chủ đề của mỗi khúc ca. Song Mười bảy khúc đảo ca không chỉ

có mỗi ngôn từ biểm cảm “ca ngợi” mà hòa trong xu hướng đa dạng hoá

trường ca, khi trường ca đi vào cuộc sống đời thường thì cảm xúc lại được thể

hiện bằng ngôn ngữ thông tục. Ngôn từ biểu cảm của anh thực sự là ngôn từ

giao tiếp hàng ngày, với những từ ngữ thuộc khẩu ngữ rất đời thường:

- Muốn để khách ngủ ngon

Họ nằm yên vờ ngủ

(…)

Có thứ gì liên hoan thứ ấy

Đây lính biển đãi khách nhà thơ…

Nào mì khô, nào nước mắm

Nào hải sâm, cá mực, tôm , cua…

(Đêm thần tiên)

Trái ngược với Mười bảy khúc đảo ca - hành trình ra đi để nhận thức về

thế giới và trách nhiệm con người thì Bi phẫn lại là sự trở về để chiêm nghiệm

lại những gì đã trải qua, nhận thức lại những giá trị đích thực trong cuộc đời.

Tại sao gọi là Bi phẫn, nhà thơ đã giải thích ở chương cuối Dạo chơi và nghĩ:

Con người khi sinh ra khóc bi phẫn

Con người lớn lên nhờ bi phẫn

Bi phẫn mà tôi viết trường ca

Bi phẫn thành vui, tôi viết chơi mà…

Bi phẫn là những suy tư, bộc bạch, những câu hỏi được tác giả đặt ra trước

muôn vàn vấn đề của cuộc sống vì vậy mà ngôn ngữ ở trường ca thứ hai này

87

là ngôn ngữ tự vấn, được coi là một kiểu diễn đạt phù hợp với đặc điểm suy

tư triết lý. Nói suy tư triết lý chỉ là một cách đặt tên cho một xu hướng, thực tế

các nhà thơ không phải là những nhà triết học. Họ chỉ là những người muốn

cho thấy mình có trách nhiệm với dân tộc, với Tổ quốc. Họ bộc bạch những

suy tư về những vấn đề hết sức quen thuộc, diễn ra hằng ngày trong cuộc sống

của đồng bào mình từ đó nhận ra đâu mới là giá trị đích thực, đáng nâng niu

trân trọng.

4.2 Giọng điệu

4.2.1 Giới thiệu về giọng điệu

Trong các tác phẩm nghệ thuật ưu tú, giọng điệu bao giờ cũng mang

tính chất lượng, nó là sản phẩm sáng tạo đích thực của nhà văn. Giọng điệu

văn chương là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Giọng

điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một tác giả tài năng bao

giờ cũng phải tạo được một giọng điệu độc đáo. Giọng điệu gắn với cảm hứng

chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn

chương.

Thế nào là giọng? Theo Từ điển Tiếng Việt [37] thì: Giọng là:1/ Độ cao

thấp, mạnh yếu của lời nói, tiếng hát. 2/ Cách phát âm của một địa phương. 3/

Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị một thái độ, tình cảm nhất định. 4/

Gam đã xác định âm chủ.

Như vậy trong cuộc sống hằng ngày giọng được hình dung trước hết

như một tín hiệu âm thanh có âm sắc, trường độ, cao độ. Khái niệm giọng chủ

yếu nói về người, gắn với người, là giọng nói của người dùng trong ngôn ngữ

giao tiếp của mỗi người. Không chỉ tồn tại như một âm thanh, giọng nói của

người còn hàm chứa thái độ của người nói, chính ở đây người ta thường nói

đến giọng điệu.

Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ biên soạn cho rằng giọng điệu là

88

“giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định”. Như vậy “giọng” là yếu tố

mang đậm tính vật lý trong khi “giọng điệu” lại được nhìn từ góc độ tâm lý.

Nhìn vào 2 định nghĩa về giọng và giọng điệu, ta thấy định nghĩa giọng điệu

trùng với nét thứ ba của định nghĩa về giọng. Vậy nên trong thực tế giao tiếp,

tùy vào hoàn cảnh, người ta thường đồng nhất hai khái niệm này. Như vậy có

thể nói có bao nhiêu hoàn cảnh giao tiếp, bao nhiêu nhân vật tham gia giao

tiếp thì có bấy nhiêu giọng điệu, ví dụ như: giọng khinh nhờn, bỡn cợt, chế

giễu, trịnh thượng, cung kính, vui sướng, thỏa mãn, chanh chua, hiền

hậu…..Rõ ràng giọng điệu thường thể hiện tâm tính con người, phản ánh tâm

trạng của họ. Âm thanh giọng điệu cũng phù hợp với nội dung cảm xúc, khi

vui giọng vang rõ, khi buồn giọng lắng lại, thấp xuống…

Trong cuộc sống giọng điệu thường mang tính nhất thời, khác với

giọng điệu trong tác phẩm văn học. Trong nghệ thuật, giọng điệu bao giờ

cũng được tổ chức công phu, là kết quả của một quá trình sáng tạo thực thụ.

Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ thuộc vào hệ thống không

phải là ngẫu hứng.

Không chỉ hàm chứa cảm xúc, thái độ của người nói, giọng điệu còn

thể hiện nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính của chủ thể phát ngôn. Giọng trẻ con

khác giọng người lớn, giọng người từng trải khác giọng người non nớt, giọng

người ít học khác với giọng người trí thức….

Giọng điệu như một hiện tượng nghệ thuật nhưng không nên tạo ra sự

ngăn cách giả tạo giữa giọng điệu trong đời sống với giọng điệu trong văn

chương. Trong tác phẩm văn học, giọng điệu cũng mang đặc tính âm thanh.

Ngay cả khi đọc thầm một câu thơ, câu văn, trong tâm trí người đọc vẫn vọng

lên cái âm hưởng, thậm chí đường nét của âm thanh. Chỉ có điều khi trở thành

một hiện tượng thẩm mĩ, cấu trúc và cơ chế vận hành của giọng điệu văn

89

chương phức tạp hơn nhiều so với giọng điệu thường ngày.

Giọng điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua

lời văn nghệ thuật. Không thể có giọng điệu nếu như không có những rung

động sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước thân phận con người, không

chia sẻ với họ niềm vui và tình yêu trong cuộc sống. Trong nghệ thuật ngôn

từ, giọng điệu không chỉ bộc lộ qua âm thanh, nhịp điệu mà còn bộc lộ qua

màu sắc, đường nét, hình ảnh.

Không phải lúc nào trong tác phẩm cũng chỉ có một giọng điệu thuần

nhất. Việc phân chia loại hình giọng điệu cũng khác nhau, xuất phát từ những

tiêu chí khác nhau. Theo cấu trúc thì có thể chia thành giọng chính và giọng

phụ. Căn cứ vào sắc thái tình cảm thì có thể nói đến giọng gay gắt hay tình

cảm, trang trọng hay suồng sã, mạnh hay yếu, kính cẩn hay châm biếm….Căn

cứ vào dạng thức cảm hứng chủ đạo thì có giọng bi, giọng hài, giọng anh

hùng ca….Nếu chú ý khuynh hướng tư tưởng thì có các giọng: thông cảm hay

lên án, yêu thương hay tố cáo, khẳng định hay phủ định….Có khi từ cái nhìn

ngôn ngữ học chia thành giọng trần thuật, giọng nghi vấn, giọng cảm thán. Về

cơ bản giọng điệu bộc lộ các sắc điệu tình cảm của chủ thể phát ngôn.

4.2.2 Giọng điệu trong thơ Dương Thuấn

Nét nổi bật, phong cách riêng của Dương Thuấn chính là thơ kể vì vậy

mà giọng điệu chủ đạo, độc đáo của Dương Thuấn cũng là giọng kể, tả. Mỗi

bài thơ, Dương Thuấn đều thủ thỉ nói về kỷ niệm, phong tục, cảnh sắc quê

hương. Thoạt đọc những tiêu đề bài thơ trong tập Bản Hon và những nơi

khác, người đọc có thể gọi thơ Dương Thuấn là thơ kí sự (ví dụ như: Mời anh

về Ba Bể, Về bản, Lượn cọi, Cõng trâu, Lên rẫy, Sinh con, Ta ở đâu bản ta ở

đó… Đi đến đâu, làm gì Dương Thuấn cũng có thơ. Thơ như một phương tiện

để nhà thơ lưu trữ những ký ức, kỉ niệm và trải nghiệm. Các địa danh trong

nước: Cà Mau, Bắc Kạn, sông Hậu, Đồng Văn, Lâm Đồng, Trường Sa, Hoàng

90

Sa…, nước ngoài như Canada, Whashington, Nepal… không chỉ góp phần mở

rộng không gian nghệ thuật mà còn làm tăng tính chân thực cho nội dung hiện

thực được phản ánh trong tác phẩm. Đối với Dương Thuấn mà nói bản Hon

hay Trường Sa, Hoàng Sa; sông Năng, hồ Ba Bể hay biển Đông hoặc đại

dương, tất cả dưới ngòi bút của ông nó đều là những nơi để lại dấu ấn sâu sắc.

Dương Thuấn chịu khó lắng nghe, quan sát và kể lại bằng thơ. Nhà thơ

như người kể chuyện dân gian có một kho vô cùng tận những điều muốn nói,

muốn tâm tình. Cái duyên của người kể là cuốn hút, làm cho người nghe

không chán về những chuyện của mình. Cái tài của người kể là chọn chi tiết,

dựng câu chuyện sinh động, hấp dẫn. Người đọc chẳng những được biết mà

còn như được tham gia trực tiếp vào trong những sự kiện tác giả kể. Tiếng nói

nghệ thuật trong thơ Dương Thuấn luôn là tiếng nói đời sống, là tiếng nói của

người trong cuộc được giãi bày. Dương Thuấn không nói những điều to tát

mà là những điều bình thường giản dị như hơi thở, như tiếng nói. Ông cứ

nhẩn nha, rủ rỉ. Cõng trâu, lên rẫy, cưỡi ngựa, làm dâu, băng rừng, vượt núi,

sinh con, thăm mẹ vợ, làm dâu, hát lượn, dự hội lồng tồng, đón năm mới…

biết bao nhiêu là phong tục mang nét văn hóa dân tộc giàu bản sắc cứ trôi tuột

qua giọng kể thủ thỉ của nhà thơ (Làm dâu, Sinh con, Nàng ơi uống rượu,

Thăm mẹ vợ, Mùng một tết…)

Nhà nghiên cứu văn học Lâm Tiến từng nhận xét: “các tác giả văn học

dân tộc thiểu số thường đi sâu vào lối phô diễn của dân tộc mình nên họ đem

vào tác phẩm văn học một màu sắc dân tộc đích thực [36]. Dương Thuấn

không nằm ngoài số đó nên ông đã đặc biệt chú ý vào giọng kể gần gũi không

kiểu cách, câu lệ. Điều này cũng xuất phát chính từ cách lựa chọn ngôn ngữ

đời sống hàng ngày để đưa vào trong thơ ca của Dương Thuấn. Tự nhiên, gần

gũi là giọng thơ viết về đời sống sinh hoạt đã đành mà ngay cả trong thơ gửi

gắm tâm sự triết lý Dương Thuấn cũng triết lý một cách tự nhiên. Thơ triết lý

91

của Dương Thuấn thường tạo nên những tư duy sâu sắc nhưng lại bắt đầu từ

những tình thế bất ngờ chứ không phải là kết quả từ một sự dàn xếp, định

hướng trước:

Em nhìn vầng trăng và hát

Có ông già cúi gầm xuống đất

Nhớ vầng trăng đã quên…

(Vầng trăng)

Hoặc:

Quả chín mọng như muốn rơi vào lòng tay

Hăm hở trèo lên

Áo em rách rồi

Thôi đành… lỡ dại

Nhưng khó bình thản mà đi

Quả trong rào

Mọng thế kia

(Ăn trộm)

Từ những hình ảnh cụ thể, Dương Thuấn luôn tìm tòi, suy nghĩ và đúc

kết thành những bài học, những kinh nghiệm để tạo thành giọng điệu có tính

triết lý trong thơ. Đặc biệt giọng triết lý của Dương Thuấn có một dấu ấn

riêng, đó là cách triết lý từ sự từng trải đúc kết thành bài học tự nhiên, có thể

gọi đó là giọng điệu triết lý đậm chất miền núi. Nó không hề khô khan, giáo

điều, không lên gân cốt mà dễ hiểu, có sức lay động qua những hình ảnh quen

thuộc, gẫn gũi, đi vào lòng người. Có thể kể đến hàng loạt bài thơ của Dương

Thuấn mang đậm giọng điệu triết lý trên như: Người hạnh phúc, Ai sung

sướng hơn, Tiếng Con Người, Nghĩa không ở trong lời, Không đi không lại,

Khi ra khỏi nhà mình, Bà mẹ sau chiến tranh, Nỗi đau, Thanh kiếm, Cái bờ

rào đã mọc lên, Kẻ ngu dốt và người thông thái, Soi bóng, Đâu là khôn

92

ngoan, Hai nửa mặt người, Anh nghèo và lão nhà giàu… Tuy là triết lý đó

nhưng nhà thơ luôn biết cách tạo ra sự hóm hỉnh, dí dỏm để người đọc không

cảm thấy sự áp đặt, khiên cưỡng từ những bài học mà tác giả đã đúc kết. Hãy

nghe Dương Thuấn triết lý về tình cảm của người đàn ông mới biết Dương

Thuấn dí dỏm và sâu sắc thế nào:

Đàn ông có ba quả tim

Một quả cất để ở nhà

Một quả mang trong lồng ngực

Một quả đem giấu ở vườn hoa

(Ba quả tim của đàn ông)

Ba quả tim của người đàn ông: một cất ở nhà (dành cho vợ), một mang

trong ngực (dành cho mình để thở) và một đem giấu ở vườn hoa (dành cho

người tình). Ngay đến cả bí mật tế nhị nhất của giới đàn ông cũng bị Dương

Thuấn phơi bày nhưng lại bằng cách mà khó có ai mà giận được. Đọc bài thơ,

độc giả là phụ nữ hay đàn ông thì cũng đều cười xòa vì cái duyên, hóm hỉnh

của bài thơ nhưng sau đó chắc chắn người phụ nữ sẽ tự dặn mình: phải để ý

đến quả tim thứ ba của đàn ông còn người đàn ông phải tự nhủ: mình phải cẩn

thận hơn mới được.

Triết lý thơ của Dương Thuấn còn đạt đến độ tinh tế, tinh tế không phải

ở chỗ nhà thơ dụng công trau chuốt, gọt giũa hình ảnh, ngôn ngữ quá mức mà

lại nằm ở sự lạ hóa của cách nói:

Ở bản Hon có những bà già

Ngày ngày ra bên bờ sống Năng

Cúi đầu xuống dòng sông than thở

Sông ơi, tôi già quá rồi nhưng sao chưa chết?

(…)

Ai rồi già cũng đến

Ai rồi trẻ cũng qua…

93

(Những bà già)

Triết gia người vĩ đại người Hy Lạp Heraclit từng nói: Không ai tắm

hai lần trên một dòng sông, câu này hàm ý là mọi thứ đều luôn vận động

trong không gian và thời gian. Tất cả mọi sự vật và hiện tượng luôn luôn biến

đổi và phát triển không ngừng, cũng như dòng sông kia nước luôn luôn vận

động chảy trôi không bao giờ đứng lại. Ở đây, ta bắt gặp Dương Thuấn cũng

triết lý về sự vận động chảy trôi của sự vật, thời gian, không gian nhưng

không chỉ thế mà ông còn nói đến cả sự hữu hạn của kiếp người trước quy

luật phát sinh và tiêu vong: trẻ - già - chết. Biết được quy luật tuần hoàn đó

nhưng con người vẫn bất lực không thể thay đổi và họ chấp nhận, chấp nhận

nhưng vẫn nuối tiếc: “Ôi, con người bao giờ hạnh phúc/ Ai rồi già cũng đến/

Ai rồi trẻ cũng qua”. Hình ảnh những bà già ra bờ sông Năng than thở về quy

luật tuần hoàn của đời người là một hình ảnh lạ hóa trong thơ. Dương Thuấn

đã làm mới lại thơ của chính mình bằng cái nhìn sâu sắc từ hiện thực quen

thuộc hàng ngày ông nhìn thấy. Sự lạ hóa đôi khi không đến từ hình thức bên

ngoài (về từ ngữ) mà ở chỗ nhà thơ biết cấp cho những sự vật, hiện tượng gần

gũi dễ bị bỏ qua một cái nhìn sâu sắc hơn.

Với một số lượng tác phẩm viết về bản Hon và miền núi đồ sộ, Dương

Thuấn được mệnh danh là nhà thơ của núi rừng. Tuy nhiên chàng trai của núi

ấy đã băng rừng để đến với biển, hai tập thơ Lính Trường Sa thích đùa và

trường ca Mười bảy khúc đảo ca của ông đã để lại nhiều thành công và rất ấn

tượng đặc biệt về giọng thơ. Dương Thuấn viết về biển, về đảo, lấy cảm hứng

từ biển đảo nhưng tư duy thơ của ông vẫn là tư duy của người vùng núi, giọng

điệu của người miền núi. Đó là cách tư duy đơn giản, có sao nói vậy.

Chẳng hạn bài Ăn theo nước trong tập Lính Trường Sa thích đùa, nhà

thơ viết bài này giữa biển Đông, viết về biển nhưng tư duy lại đặc sệt rừng:

Người làm nương ăn theo lửa/ Người làm đồng ăn theo nước/ Sinh ra tắm

94

nước thơm mới là con của mẹ/ Lớn lên tắm nước sông mới là con của làng/

Đóng con tàu đi ra giữa đại dương mới thành người của muôn nơi... Từ cuộc

sống của cái tôi cá nhân nhà thơ đã hòa nhập với cái ta cộng đồng, dân tộc,

nhân loại, ý nghĩa lớn lao đó được nhà thơ diễn tả cực kỳ đơn giản. Bài thơ

mang đậm tư duy triết học về nhân sinh, cuộc sống, sự sinh tồn của con người

nhưng cũng là bài thơ riêng của cá nhân Dương Thuấn. Ông đã đi từ chậu

nước thơm tắm ở bản để thành con của mẹ lúc lọt lòng đến với đại dương bao

la, cũng như ông hành trình từ bản Hon đến với nhân loại.

Quen lối nói, cách tư duy của người miền núi Dương Thuấn tạo nên

một giọng thơ thật trong sáng, dung dị, vừa đủ để giãi bày. Ông không thích

những cách cắt nghĩa to tát, rườm rà hay những ngôn từ quá phận. Không phải

ngẫu nhiên mà Dương Thuấn đã hai lần được giải thưởng thơ viết cho thiếu

nhi do Hội Nhà văn và Trung ương Đoàn trao tặng. Thế giới trẻ thơ ùa vào

mỗi trang thơ Dương Thuấn vô cùng thân quen, gần gũi với cuộc sống của trẻ

em miền núi. Nhà thơ khi viết cho thiếu nhi phải nhìn bằng con mắt thiếu nhi,

nghĩ bằng cách nghĩ thiếu nhi, rung cảm cũng bằng chính tâm hồn thiếu nhi

thì thơ mới thoát khỏi sự cố già trước tuổi. Cùng ca ngợi điệu hát lượn quê

mình, ở bài Nàng ơi uống rượu, viết cho người lớn nên nhà thơ nhìn bằng con

mắt của chàng trai say men tình còn viết cho thiếu nhi ông lại kể về sự tích

các ngọn núi bằng một giọng cổ tích ngây thơ:

Ngày ấy… núi đi tìm nơi ở

Núi về đến quê mình

Có tiếng lượn nàng ơi

Núi đứng nghe mê mải

Mà chân không biết bước

Núi đứng đến bây giờ

Đọc bất cứ bài thơ viết cho thiếu nhi nào của Dương Thuấn ta cũng bất

95

ngờ vì chúng vừa trong sáng, đáng yêu lại vừa ngộ nghĩnh, ngây thơ. Từ

chuyện bẫy cá, hái măng bỏ bùa yêu nhau, Dương Thuấn đều có cách diễn đạt

tư duy của mình như tư duy của trẻ con mới lớn để ăn nhập với trẻ.

Đơn giản, ngắn gọn nhưng súc tích là đặc trưng của giọng điệu triết lý

trong thơ Dương Thuấn. Dương Thuấn ưa thích sự dễ hiểu, ngắn gọn vì thế có

khá nhiều bài thơ của ông giống chỉ có 3, 4 hoặc 5 dòng như những câu châm

ngôn về cuộc sống và con người: “Nếu bạn chấp nhận cuộc sống như nó tự

đến/ Bạn sẽ có cuộc sống không như bạn muốn/ Nhưng nếu bạn muốn có cuộc

sống tốt hơn/ Thì ắt cuộc sống tốt hơn sẽ đến/ Bởi vì bạn là người yêu cuộc

sống/ Còn cuộc sống chẳng bao giờ yêu bạn” (Cuộc sống), “Lòng người rộng

như bầu trời cao rộng/ Đựng bao nhiêu mây gió cũng không vừa/ Lòng người

hẹp như khe nhỏ hẹp/ Con rắn muốn đi chẳng có chỗ để bò” (Lòng người),

“Có một ngày từng đám cỏ trên mặt đất kêu lên/- Làm thằng ngốc họ sẽ lấy

hết ruộng nhà mình/ Làm người khôn quạ sẽ mổ ăn ruột mình”. (Tiếng cỏ)

Dương Thuấn sáng tác thơ cho nhiều đối tượng, lứa tuổi khác nhau vì

thế sẽ là đơn điệu, nhàm chán nếu nhà thơ chỉ có duy nhất một giọng điệu.

Bên cạnh giọng điệu kể tả, giọng điệu triết lý đậm chất miền núi làm chủ đạo

thì thơ Dương Thuấn còn thu hút được sự chú ý của người đọc bởi giọng điệu

khỏe khắn, vui tươi đúng như tính cách của con người miền núi. Từ bản Hon

nhỏ bé nhà thơ Dương Thuấn lên đường đi xuống đồng bằng rồi đi khắp bốn

phương trời nhưng tâm hồn vẫn đậm chất núi rừng: mạnh mẽ và can trường:

Ta có con mắt của con nai bên suối

Ta có con mắt của con báo trong lồng

Ta đi bộ từ núi xuống đồng bằng

Ta ghé tai hổ nói:

Ta là họ Dương

Hổ liền cõng ta vượt núi

Giữa đường gặp trăng sao

96

Ta ngồi cùng trăng sao uống rượu…

Những vần thơ giàu tính siêu thực ấy thể hiện tâm hồn phóng khoáng

của người con núi rừng. Hoà mình với thiên nhiên, cảnh vật, nhà thơ luôn dạt

dào cảm xúc, tâm hồn bay bổng, lâng lâng. Giống như con cá gặp nước, con

hổ được trở về rừng, giọng điệu thơ Dương Thuấn trở thành lời reo vui sướng

khiến câu thơ ngập tràn những cảm thán biểu lộ cảm xúc:

- Kìa thảo nguyên đẹp thế

- Ôi nắng vàng như mật

….

Thơ Dương Thuấn nói về cuộc sống miền núi. Dương Thuấn đã triệt để

khai thác mảng đề tài này bằng cách nói mộc mạc, hiền hậu, dân dã mà cụ thể,

sâu sắc của một người miền núi. Chính vì vậy mà cảnh vật, con người nơi đây

tuy đề cập đến nhiều nhưng không trở thành sáo mòn mà nó luôn để lại ấn

tượng đẹp trong lòng. Bởi xét tới cùng thì tận cùng của cái đẹp chính là sự

đơn giản.

Giọng điệu khỏe khoắn, vui tươi trong thơ Dương Thuấn còn thể hiện ở

cách nhà thơ nhìn về cuộc đời với một tinh thần lạc quan trước khó khăn,

hoạn nạn:

Thôi cũng đừng buồn nhé

Rừng còn cây thì cây lại ra hoa…

(Đừng buồn lũ quét)

Làm ăn nhớ nhìn sau trước

Khi khổ cực hãy nghĩ đến khi vui

Nghe lời của pứt, bến cuối cùng sẽ đến…

(Lời của pứt)

Hiểu rõ cuộc sống của người miền núi còn gặp nhiều khó khăn nhà thơ

97

làm dấy lên niềm yêu đời, tin vào ngày mai tươi sáng cho chính đồng bào

mình. Họ vốn mạnh mẽ như hổ báo của núi rừng vì thế có ý chí và niềm tin

chính là sức mạnh băng qua thử thách, gian khổ.

Đọc thơ Dương Thuấn ta nhận ra có sự đối nghịch trong giọng điệu.

Khi tác giả đau đớn thì giọng thơ đùa cợt nhưng sau cái ngạo mạn khinh đời

lại là nỗi cô đơn:

Đêm nay đô thành ta đạp đổ

Ta là chàng trai của núi khinh đời

Ta chẳng cần đô thành em đã biết chưa

Chẳng cần biết em qua bao ngôi nhà bị đổ

Trên hành trình ra đi của mình, cái tôi trải nghiệm của nhà thơ được

hình thành chính vì vậy mà Dương Thuấn triết lý nhiều hơn, giọng thơ nghe

ra nặng một nỗi niềm, giàu băn khoăn trăn trở. Vốn là một chàng trai núi

khinh đời, ra đi cũng với một tư thế khinh đời: Ta đi từ rừng xuống bể/ Không

nhìn mặt một ai. Tâm trạng buồn, chán nản xuất hiện khi nhà thơ đã nếm trải

nhiều va chạm với cuộc đời:

Túi tình đầy bạc vạn

Đã tiêu hết với đời

Giờ thì không còn dính túi

Dù chỉ một chút hơi

Dương Thuấn như một kẻ độc hành cô đơn giữa dòng đời và ông khao

khát được quay về cội. Bởi chỉ có về lại quê hương thì nỗi cô đơn đó mới

được khỏa lấp và nhà thơ mới trở lại là chính mình.

Trên đây chúng tôi chọn khảo sát hai phương diện nghệ thuật: ngôn

ngữ và giọng điệu trong thơ Dương Thuấn để làm rõ hơn giá trị văn hóa trong

thơ Dương Thuấn. Là một người con của xứ Tày Bắc Kạn những vần thơ của

Dương Thuấn luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh

98

thiên nhiên, đời sống sinh hoạt đến tâm hồn, nếp suy nghĩ của con người qua

giọng thơ kể tả bình dị nhưng đầy sức lôi cuốn. Đặc biệt ở cách sử dụng ngôn

từ ví von, so sánh giàu biểu tượng – nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc

thiểu số là một sự độc đáo hấp dẫn riêng từ những trang thơ của Dương

Thuấn. Đọc thơ để thấy người, có lẽ điều này hoàn toàn chính xác với Dương

Thuấn. Là người con của dân tộc Tày, những vần thơ ông viết ra mang hồn

vía của người Tày. Trong mọi sinh hoạt đời thường của người Tày luôn gắn

với sự giao thoa văn hóa. Bản sắc văn hóa của dân tộc cứ tự nhiên thấm vào

Dương Thuấn như hương thơm, như khí thở. Bằng một tâm hồn nhạy cảm

tinh tế, Dương Thuấn đã rút ruột mình để sáng tác nên những lời thơ tri ân

chính dân tộc đã sinh thành và nuôi dưỡng ông. Câu nói của người xưa “Nhân

lưu danh, hổ lưu bì” (Người để tiếng cho đời, hổ thì để tấm da) đã ứng vào

Dương Thuấn, ông đã lưu tiếng thơm vào lịch sử văn học và văn hóa không

99

chỉ của dân tộc mình mà còn trên cả nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

KẾT LUẬN

Một nhà văn, nhà thơ bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, một nền văn

hoá nhất định. Cho nên giá trị văn hóa của dân tộc trong văn học liên quan

chặt chẽ tới chủ thể sáng tạo ra nó. Chính họ là người bảo tồn, làm giàu và

phát huy (người giữ lửa và canh lửa - Raxun Gamzatốp) bản sắc dân tộc trong

văn học, làm cho bản sắc đó không mất đi mà trường tồn mãi mãi. Như vậy,

một tác phẩm muốn có được bản sắc dân tộc, nhà văn phải được tắm mình

trong cội nguồn của nền văn hóa đó. Hiểu sâu sắc và yêu tha thiết truyền

thống văn hoá của dân tộc mình, có cảm hứng và tài năng sáng tạo, thể hiện

giá trị văn hóa đó bằng nội dung và hình thức nghệ thuật.

Để truyền tải được những giá trị văn hóa của dân tộc mình trong văn

học không phải ngẫu nhiên mà tác giả nào cũng có, cũng không phải chỉ cố

gắng phấn đấu là có được, mà nó được nảy sinh trong những điều kiện nhất

định. Điều đó giải thích vì sao bản sắc dân tộc trong văn học dân tộc thiểu số

được thể hiện rõ ràng, tập trung và có thành tựu nhất lại thuộc về lứa tuổi trên

40 và 60 hiện nay. Đó là Nông Quốc Chấn, Y Phương, Inrasara, Cao Duy

Sơn, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn… Những nhà văn nhà thơ này đều được

sinh ra và lớn lên ở quê hương mình, có một bề dày văn hoá nhất định, đều tốt

nghiệp các trường Đại học hoặc qua trường viết văn Nguyễn Du (trừ

Inrasara). Họ sáng tác vào những năm 80 của thế kỷ XX đến nay. Đó là thời

kỳ mà ý thức dân tộc được thức tỉnh, thời kỳ mà văn học Việt Nam có nhiều

tìm tòi đổi mới. Các nhà văn dân tộc thiểu số háo hức tìm tòi, khám phá phát

hiện con người, cuộc sống dân tộc và miền núi, phấn đấu không mệt mỏi để

tìm hiểu và thể hiện văn hóa dân tộc mình trong văn học. Chưa bao giờ bản

sắc dân tộc trong văn học lại được bàn luận sôi nổi như thời kỳ này.

Một số nhà văn như Y Phương, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Mai Liễu,

100

Cao Duy Sơn, Triệu Lam Châu, ... sau này chuyển ra đô thị làm ăn và sinh

sống, nhưng họ vẫn giữ được bản sắc dân tộc của mình, mặc dù đề tài lúc này

có được mở rộng hơn. Như vậy cội nguồn, nội lực văn hoá dân tộc giữ vai trò

quyết định trong việc thể hiện giá trị văn hóa dân tộc, nó sẽ đi suốt và in đậm

dấu ấn trong quá trình sáng tạo. Với số lượng sáng tác đáng kể so với tuổi đời,

Dương Thuấn đã cống hiến cho nền thơ dân tộc Tày nói riêng, thơ ca dân tộc

Việt Nam nói chung những giá trị văn học to lớn. Nhà thơ cầm bút sáng tác về

quê hương mình như một sự lắng đọng, ngưng kết đời sống tinh thần, văn

hóa, lịch sử truyền thống dân tộc Tày tạo thành nguồn suối hòa vào dòng sông

Việt để chảy ra biển cả thế giới.

Tuyển tập Dương Thuấn được sáng tác bằng hai thứ tiếng: Tày và

Kinh, với độ dày trên 2000 trang, gồm 3 tập. Tác phẩm này, nhà thơ Dương

Thuấn đã dành 24 năm để sáng tác. Đây là lần đầu tiên Dương Thuấn in tuyển

tập và cũng là lần đầu tiên một nhà thơ dân tộc Tày có tác phẩm song ngữ đồ

sộ nhất bằng tiếng dân tộc mình - điều mà từ trước đến nay các nhà thơ dân

tộc thiểu số khác chưa làm được. Điều đáng nói hơn cả là Dương Thuấn đã

song hành cùng nhân loại là ông đã sáng tác thành công cả hai tác bản: tác

bản Tày và tác bản Kinh. Thành công của ông bắt đầu từ tài năng trời cho

nhưng cũng chính là từ tấm lòng yêu quê hương và yêu dân tộc của ông. Ông

cũng đã vun đắp cho nền văn học Tày, thực sự làm phục hưng ngôn ngữ Tày

và văn học Tày. Giữ gìn tiếng nói của một dân tộc đó là sự giữ gìn và phát

triển bản sắc dân tộc ấy. Bộ tuyển tập sáng tác bằng song ngữ đồ sộ của

Dương Thuấn không chỉ là trường hợp hiếm có đối với văn học trong nước

mà cả văn học thế giới cũng rất hiếm.

Tình yêu với quê hương, đất nước, những cảm xúc, suy tư, những triết

lý, chiêm nghiệm của nhà thơ trong cuộc đời, trong tình yêu được thể hiện

bằng một tư duy, cảm xúc cùng ngôn ngữ hình ảnh, giọng điệu độc đáo.

Dương Thuấn đã sáng tạo hàng loạt những hình ảnh đặc sắc có sức khái quát

101

trở thành biểu tượng văn hóa như: bản Hon, núi, sông, nước, trăng, đá,

ngựa… Cách sử dụng ngôn từ đời sống với lời ăn tiếng nói hằng ngày đã đưa

thơ Dương Thuấn đạt độ chân thật, gần gũi quần chúng, khắc họa thành công

tính cách của người miền núi quê ông. Điều này không những khẳng định

chiều sâu ý thức văn hóa mà nó còn tạo được phong cách riêng, tư duy độc

lập, cá tính sáng tạo và đã làm nên tên tuổi nhà thơ Dương Thuấn.

Qua quá trình tìm hiểu, chúng ta có thể khẳng định thơ Dương Thuấn

đã góp phần bảo tồn và phát huy nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Tày trong

đời sống văn hóa – văn học Việt Nam hiện đại.

Muốn viết về đề tài miền núi thì phải bắt đầu từ sự hiểu biết, hay nói

cách khác là “thuộc” văn hoá. Sở dĩ các nhà văn như Tô Hoài, Nguyên Ngọc,

Ma Văn Kháng, Trung Trung Đỉnh thành công ở mảng đề tài miền núi là do họ

nắm được vốn văn hoá các dân tộc thiểu số mà họ định hướng ngòi bút đến.

Đơn cử một ví dụ, người Tày chúng tôi chỉ có một từ “ăn”. Uống nước cũng

gọi là “ăn nước”, uống rượu gọi là “ăn rượu”... nhưng đó là cuộc sống, còn khi

thể hiện vào văn học, thì người dân tộc thiểu số đòi hỏi một sự bình đẳng về

ngôn ngữ thể hiện văn hoá của họ được tôn trọng. Trong cuộc sống, người ta có

thể nói “ cái mày, cái tao”... là do vốn tiếng Kinh của họ quá ít để có thể diễn

đạt sự giao tiếp, nhưng nếu nhà văn coi đó là “văn hoá của người dân tộc” để

đưa những “cái mày, cái tao” vào sáng tác... thì lại là một sự miệt thị. Với

những người hiểu sâu về văn hoá các dân tộc, họ sẽ biết cách “mã hoá” ngôn

ngữ giao tiếp trong cuộc sống của người dân tộc thành ngôn ngữ hiện nay của

văn chương- đó mới chính là bản chất sâu thẳm mà rất ít người hiện nay làm

được. Bản thân tôi, một người con của miền núi, vậy mà cũng chỉ dám nhận là

đang trong quá trình tích luỹ, khám phá để “mã hoá” những vỉa tầng văn hoá

102

nguyên bản, hồn nhiên của người dân tộc đưa vào những trang văn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách tham khảo:

1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995, Nxb Khoa học

xã hội

2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ÐHQG Hà Nội

3. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong tho ca Việt Nam hiện

đại, Nxb Văn hoá dân tộc

4. Nông Quốc Chấn chủ biên (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền

núi, (II,III), Nxb Giáo dục

5. Hà Minh Ðức chủ biên (1997), Lí luận văn học (in lần thứ tư), Nxb Giáo dục

6. Hà Minh Ðức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,

Nxb Khoa học xã hội

7. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hoá, Vấn đề và suy nghĩ, Nxb

KHXH Hà Nội

8. Nguyễn Văn Huy chủ biên (1998), Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt

Nam, Nxb Giáo dục

9. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế

giới (bản dịch tiếng Việt của NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du)

10. Đinh Gia Khánh (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa

11. Hoàng Ngọc La (chủ biên), Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn

hoá dân gian Tày, Sở Văn hoá thông tin Thái Nguyên

12. Tôn Phương Lan, Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa học xã hội, 2005.

13. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội

14. Mã Giang Lân (2005), Văn học Việt Nam hiện đại: Vấn đề tác giả, Nxb

Giáo dục

15. L.White (1941), The Science of Culture: A. Study of Man an Civilization.

Nxb New York

16. Phương Lựu (chủ biên) (1996), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục

17. Phan Ngọc (1998), Bản Sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin

18. Phan Ngọc (1999), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên

19. Vi hồng Nhân (2004), Văn hóa các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hoá dân tộc

20. Nhiều tác giả (2004), Những vấn đề văn học và ngôn ngữ, Nxb ÐHQG

Hà Nội

21. Nhiều tác giả (2004), Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh

Bắc Kạn, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội

22. Nhiều tác giả (2009), Dương Thuấn hành trình từ bản Hon, Nxb Hội nhà văn

23. Nhiều tác giả (1998), Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại,

Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội

24. Nhiều tác giả (1990), Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb. Khoa học

xã hội

25. Nhiều tác giả (1996), Khái niệm văn hoá, Nxb Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh

26. Nhiều tác giả (1994), Những gương mặt thơ mới tập 1 và tập 2, Nxb

Thanh niên

27. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển văn học, Nxb Ðà Nẵng

28. Lò Ngân Sủn (1999), Sự thô mộc có học, Hoa văn thổ cẩm II, Nxb Văn

hóa dân tộc

29. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại,

Nxb Văn học

30. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục

31. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP

HCM

32. Ngô Ðức Thịnh (chủ biên) (1997), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội

33. Dương Thuấn (2010), Tuyển tập thơ Dương Thuấn song ngữ, tập 1, tập

2, tập 3, Nxb Hội nhà văn

34. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc

35. Ðỗ Thị Minh Thúy (1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb

Văn hóa thông tin

36. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hoá

dân tộc

37. Bùi Thị Tịnh, Bùi Thị Phương Thanh (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb

Giáo dục

38. Nguyễn Ðức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn

ngữ và tư duy ở nguời Việt (Trong sự so sánh với dân tộc khác), Nxb Ðại

học quốc gia

39. Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số sau Cách mạng tháng Tám

(1995) Nxb Văn học

40. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hóa

41. Y Phương (2002), Thơ Y Phương, Nxb Hội nhà văn

Bài viết tham khảo:

42. Hoàng Văn An (1999), Dương Thuấn nhà thơ miền núi nghĩ sâu, viết

chắc, Nét đẹp trong thơ thơ văn và ngôn ngữ dân tộc, Nxb Văn hóa dân

tộc

43. Tạ Duy Anh, Đi tìm bóng núi – Dương Thuấn đến cõi thơ, Tạp chí văn

hóa các dân tộc (số 1)

44. Uông Thái Biểu (2003), Người đi tìm bóng núi, Báo Nhân dân diện tử

45. Phạm Vĩnh Cư: Tôi rất vui sướng thưởng ngoạn tuyển tập thơ Dương

Thuấn, http://vn.360plus.yahoo.com/duongthuan59, ngày 8/10/2010

46. Trinh Ðường (1992), Bản sắc dân tộc trong tho Duong Thuấn, Báo văn

nghệ (số 11), tr. 15

47. Nguyễn Hưng Hải (2005), Quê hương trong thơ Duong Thuấn, Báo

Nhân dân (số 17), tr.19

48. Chu Thu Hằng: Y Phương, Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền

núi, Báo Văn hóa (số 1609)

49. Dương Thu Hằng (2011), Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam trên

hành trình hội nhập, http://www.hcmup.edu.vn, cập nhật thứ ba ngày

20/12/2011, 00:00 (GMT + 7)

50. Đường Thiên Huệ (2008), Nhà thơ Dương Thuấn: Tôi là con trai của núi

cao rừng thẳm, http://60s.com.vn/index/1788198/11112008.aspx, cập

nhật thứ ba , 11/11/2008, 15: 17 (GMT+7)

51. Đỗ Thị Thu Huyền (2007), Thơ Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Y Phương

dưới góc nhìn văn hóa, Luận văn thạc sĩ

52. Đỗ Thị Thu Huyền, Thơ ca Tày hiện đại qua một số gương mặt tiêu biểu,

http://vienvanhoc.org.vn/print/nghiencuulyluan/464/tho-ca-tay-hien-dai-

qua-mot-so-guong-mat-tieu-bieu.aspx cập nhật Thứ sáu - 05/08/2011

13:51

53. Inrasara (2004), Quên lý thuyết văn chương đi để độc Dương Thuấn, Báo

Sài Gòn tiếp thị

54. Inrasara (2006), Thơ dân tộc Chăm từ nguồn gốc đến hiện đại, Tạp chí

nghiên cứu văn học (số 5)

55. Mã Giang Lân (2003), Nhận xét ngôn ngữ thơ hiện đại Việt Nam, Tạp

chí văn học (số3)

56. Mã Giang Lân (2006), Chữ và nghĩa trong thơ, Tạp chí Nghiên cứu văn

học

57. Vân Long (2004), Nhà thơ Dương Thuấn Nói lời cho quả sai, Báo Tiền

phong chủ nhật (số 10)

58. Trần Thị Nương (2009), Thơ Dương Thuấn – dòng sông Tày chảy mãi,

Tạp chí Dân tộc và phát triển, số ra ngày 19/01/200

59. Chu Van Sơn (2001), Dương Thuấn đi tìm bóng núi, Báo Văn nghệ

60. Nhà thơ Dương Thuấn: Nhà văn phải trở thành sứ giả văn hóa của dân

tộc mình, cand.com, 10/08/2011

61. Hồ Huy Sơn, Nhà thơ Dương Thuấn: Chỉ biết hát lời cho quả sai,

http://antgct.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=5222 cập nhật

05/08/2008

62. Hà Thanh Vân, Nhà văn người dân tộc thiểu số… có xuất phát điểm về

văn hoá chưa cao, http://vn.360plus.yahoo.com/duongthuan59, cập nhật

06/09/2008