ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ MINH THƠ DƯƠNG THUẤN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ MINH THƠ DƯƠNG THUẤN DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS LÊ VĂN LÂN Hà Nội – 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài ...........................................................................................1
2.Lịch sử vấn đề ...............................................................................................3
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .....................................................................4
5.Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn .....................................................5
6.Cấu trúc của luận văn ....................................................................................6
CHƯƠNG 1: THƠ DƯƠNG THUẤN TRONG MẠCH NGUỒN VĂN
HÓA TÀY .......................................................................................................7
1.1.Mối quan hệ văn hóa – văn học ..................................................................7
1.1.1 Khái niệm văn hóa ...................................................................................7
1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học ...............................................................8
1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày ....................... 11
1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc .......................................................................... 11
1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày .............................................................................. 12
1.3.Khát quát về văn học Tày ......................................................................... 16
1.3.1 Văn học dân gian Tày ............................................................................ 16
1.3.2 Văn học viết Tày ................................................................................... 19
1.4.Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày ............................... 25
1.4.1 Vài nét về nhà thơ Dương Thuấn ........................................................... 25
1.4.2 Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày ............................ 27
CHƯƠNG 2: CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN .. 30
2.1 Thế nào là cảm thức văn hóa .................................................................... 30
2.2 Sự gắn bó, tự hào về quê hương ............................................................... 31
2.2.1 Tình yêu thiên nhiên .............................................................................. 32
2.2.2 Thái độ với truyền thống dân tộc ........................................................... 38
2.2.3 Tình yêu đối với con người .................................................................... 43
2.3 Trải nghiệm, triết lý .................................................................................. 49
2.3.1 Triết lí của một chàng trai miền núi ....................................................... 50
2.3.2 Triết lý của một người đi nhiều.............................................................. 54
CHƯƠNG 3: BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN . 59
3.1 Thế nào là biểu tượng văn hóa .................................................................. 59
3.2 Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn............................................. 61
3.2.1 Bản Hon ................................................................................................ 62
3.2.2 Núi ........................................................................................................ 64
3.2.3 Sông ...................................................................................................... 67
3.2.4 Nước ..................................................................................................... 70
3.2.5 Trăng ..................................................................................................... 73
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TRONG THƠ
DƯƠNG THUẤN ......................................................................................... 78
4.1 Ngôn ngữ ................................................................................................. 78
4.1.1 Mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa ........................................................... 78
4.1.2 Ngôn ngữ trong thơ Dương Thuấn ......................................................... 80
4.2 Giọng điệu ................................................................................................ 88
4.2.1 Giới thiệu về giọng điệu ........................................................................ 88
4.2.2 Giọng điệu trong thơ Dương Thuấn ....................................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................. 100
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học là sản phẩm của một quá trình văn hóa, nó phản ánh đời sống
xã hội, cải tạo cuộc sống con người và lưu giữ, lưu truyền văn hóa ngàn đời.
Đất nước Việt Nam bao gồm 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một bản sắc
văn hóa riêng được cấu thành từ hàng ngàn, hàng vạn thành tố văn hóa đặc
trưng cho dân tộc mình như: lịch sử, ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, các phong
tục tập quán, trang phục, quan hệ cộng đồng…Vì thế một sản phẩm tinh thần
do cả dân tộc hoặc cá nhân thuộc dân tộc đó sáng tạo nên đều ít nhiều thể hiện
bản sắc văn hóa của chính dân tộc mình. Mặt khác, bản sắc văn hóa dân tộc
ấy còn được thấm đẫm trong văn học hơn khi chính người nghệ sĩ sáng tác tự
nguyện trở thành sứ giả văn hóa cho dân tộc mình: “Một dân tộc có nền văn
hóa phát triển thì phải có những đại diện văn hóa. Chính những đại diện văn
hóa đó đã làm nên diện mạo lịch sử văn hóa các dân tộc. Họ có vai trò quan
trọng trong việc lưu giữ và phát triển các giá trị của dân tộc. Tôi còn nhớ câu
nói của nhà thơ Tagor, đại ý là mỗi nhà văn khi đến với thế giới phải mang
theo bản sắc của dân tộc mình, góp phần làm cho văn hóa nhân loại phong
phú hơn”[58].
Trong số 54 dân tộc anh em ở nước ta không phải dân tộc nào cũng
có những sứ giả văn hóa tích cực được dư luận chú ý và đánh giá cao.
Nguyên nhân là do một số dân tộc chưa có chữ viết cũng như chưa có văn
học thành văn, chưa có độc giả nhưng cơ bản vẫn là do trình độ văn hóa
nhận thức phát triển kém, đời sống kinh tế lạc hậu, nghèo nàn. Các nhà văn
dân tộc thiểu số nước ta chỉ tập trung vào một số dân tộc nhiều nhất là dân
tộc Tày chiếm gần 1/3.
Văn học Tày đã vượt qua ngưỡng dân gian truyền khẩu từ rất lâu, thể
1
hiện ý thức về dân tộc bằng chữ viết. Dòng văn học Tày bác học xuất hiện từ
rất sớm như tác giả Lê Thế Khanh (1389-1460), Nông Quỳnh Vân (1565-
1640), Bế Hữu Cung (1757-1820), Hoàng Ích Viêng (1890-1945). Từ đầu thế
kỉ XX, văn học Tày một mặt phát huy truyền thống, mặt khác chịu ảnh hưởng
của văn học miền xuôi, đã dần ghi dấu trưởng thành của nhiều gương mặt
như: Hoàng Văn Thụ (1906-1944), Nông Quốc Chấn (1923-2002), Nông
Minh Châu (1924-1979), Hoàng Triều Ân, Vi Thị Kim Bình, Ma Trường
Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Đoàn Ngọc Minh, Triệu Thị
Mai, Đoàn Lư, Dương Thuấn, Vi Thùy Linh…
So với những nhà thơ dân tộc ít người khác và so với chính đội ngũ
sáng tác văn nghệ của dân tộc Tày thì có lẽ Dương Thuấn là cây bút sung sức
hơn cả. Có thể nói Dương Thuấn đã thể hiện rất tích cực vai trò sứ giả văn
hóa cho dân tộc mình. Con đường thơ của Dương Thuấn gắn liền với cái nôi
văn hóa vùng Việt Bắc và dân tộc Tày. Quê hương, bản làng, xứ núi đã tạo
cho nhà thơ một mối giao cảm sâu sắc. Phía sau những vần thơ ấy là đời sống
của cá nhân tác giả và đời sống của quê hương xứ Tày. Sinh ra ở bản Hon, đi
khắp trăm nơi nhưng dù đi đâu, về đâu thì Dương Thuấn vẫn đau đáu về bản
Hon quê mình, vẫn nhớ những mái nhà, nhớ cái bậc cầu thang, rặng đá Mèo,
đèo mây phủ, những tên núi tên sông và những con người xứ Mây. Xin mượn
lời tác giả Uông Thái Biểu để khẳng định tính dân tộc bền bỉ trong thơ Dương
Thuấn: “Dù hạ sơn về phố đã hàng chục năm, Thuấn vẫn là con người “của
đồng bào mình”. Nếu xét chữ “tha hóa” theo nghĩa hẹp thì Dương Thuấn là
con người không dễ gì đánh rơi cái cốt, cái lõi trong tâm hồn mình”[44].
Và như vậy chúng tôi chọn khảo sát thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn
văn hóa nhằm làm rõ hơn bản sắc văn hóa Tày trong phong cách thơ ông. Từ
đó góp phần khẳng định những đóng góp đặc sắc của nhà thơ vào tiến trình
2
thơ ca dân tộc Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Mặc dù là nhà thơ thuộc thế hệ thứ ba nhưng các công trình, bài nghiên
cứu, bình luận về thơ Dương Thuấn đã xuất hiện nhiều trên các tạp chí nghiên
cứu văn học và các ấn phẩm văn hóa văn nghệ. Nhìn chung có thể chia các
bài viết đó thành hai loại sau:
Thứ nhất là các bài cảm nhận, bình thơ về một số bài thơ đơn lẻ tiêu
biểu của Dương Thuấn. Chúng tôi xin liệt kê một số bài viết mà trong quá
trình thực hiện đề tài chúng tôi có tra cứu, tham khảo: cảm nhận về bài thơ Đi
tìm bóng núi có bài của các tác giả như: Nguyễn Trọng Tạo, Bùi Việt Phương,
Lê Lanh, Đoàn Thục Nhi; cảm nhận về bài thơ Kìa thảo nguyên đẹp thế của
Thi Nguyễn, Gửi thơ mường Dôn của Đào Vĩnh, Ăn theo nước của Bế Kiến
Quốc, Cái lý đáng yêu của chàng trai Mông đi tìm vợ của Lê Nhật Ký, Bài
hát tỏ tình của Lê Quốc Hán, Nhớ chị Thìn – một bài thơ độc đáo của Hồ
Thủy Giang, Về bản – một cái nhìn triết học của Đỗ Thu Huyền, Cực tình của
Lò Ngân Sủn, Đọc Chia trứng công của Phùng Ngọc Diễn.
Thứ hai là các bài nghiên cứu, phê bình đối với một tập thơ hoặc tuyển
tập sáng tác của Dương Thuấn. Ở đây chúng tôi có thể nêu ra một số công
trình nghiên cứu sau: Dương Thuấn đi tìm bóng núi của Chu Văn Sơn, Thơ
Dương Thuấn của Phạm Quang Trung, Người rong ruổi đi tìm bóng núi của
Uông Thái Biểu, Dương Thuấn nhà thơ miền núi nghĩ chắc viết sâu của
Hoàng Văn An, Đọc thơ Dương Thuấn của Nông Quốc Chấn, Hình ảnh con
người trong thơ Dương Thuấn của Nguyễn Thị Hằng, Sự thô mộc có học của
Lò Ngân Sủn, Quên lý thuyết văn chương để đi đọc Dương Thuấn của
Inrasara, Thiên nhiên trong thơ Dương Thuấn của Hà Thị Dương (luận văn
thạc sĩ), Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Y Phương dưới góc nhìn văn hóa của
Đỗ Thị Thu Huyền (luận văn thạc sĩ, năm 2007), Một số biểu trưng văn hóa
3
trong thơ Y Phương và Dương Thuấn của Đỗ Thị Thu Huyền tại Hội thảo
Khoa học cuối năm, Viện Văn học, 2007, Bản sắc văn hóa dân tộc Tày trong
thơ Y Phương, Dương Thuấn (luận văn thạc sĩ) của Nguyễn Thị Huyền năm
2009 (đại học Thái Nguyên)
Tựu trung thì các đề tài về thơ Dương Thuấn mà chúng tôi thống kê ở
trên đều công nhận tài năng thơ của Dương Thuấn nhưng thực sự chưa có đề
tài nào triển khai đến tận cùng và phân tích chẻ ngọn một cách thấu đáo nhất về
phong cách thơ Dương Thuấn. Tuy thế với số lượng bài viết khá nhiều kể trên
đã phản chiếu sự ảnh hưởng của tiếng thơ Dương Thuấn đối với đông đảo bạn
đọc. Chọn đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi mong
muốn đưa ra cái nhìn toàn diện, hệ thống hơn về thơ Dương Thuấn xét trong
mạch nguồn văn hóa Tày để chứng minh rằng thơ Dương Thuấn đã kế thừa và
phát huy những giá trị văn học của dân tộc mình trong thơ như thế nào.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Do khuôn khổ của luận văn có hạn, chúng tôi chỉ tập trung tiến hành
khảo sát thơ Dương Thuấn trong ba tập thơ tập I: Bản Hon và những nơi
khác, tập II Thơ tình và tập III Thơ thiếu nhi thuộc Tuyển tập thơ Dương
Thuấn do Hội Nhà Văn xuất bản năm 2010. Lựa chọn ba tập thơ này vì chúng
tôi cho rằng đây là các tập thơ hội tụ những bài thơ tiêu biểu, đặc sắc nhất cho
phong cách thơ Dương Thuấn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, người viết phác họa lại diện mạo thơ Dương Thuấn
nhưng đặc biệt nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng của văn hóa vùng đến sáng tác
của ông. Cách thức tiến hành của chúng tôi không theo cách đi vào từng tác
phẩm cụ thể để nhận diện đặc điểm thơ Dương Thuấn mà sẽ thâu tóm những
tác phẩm cùng đề tài, chủ đề, tư tưởng để đưa ra kết luận nhằm phục vụ mục
đích nghiên cứu của luận văn. Trong khi thực hiện đề tài nghiên cứu này, tôi
4
đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu:
- Thống kê, nêu số liệu: số lượng các bài thơ cùng chủ đề, cảm hứng,
các hình ảnh được lặp đi lặp lại trong các bải thơ khác nhau.
- So sánh: so sánh nội dung, cảm hứng nghệ thuật, hình thức biểu hiện,
nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh thơ của Dương Thuấn với thơ của các tác giả
khác khi viết cùng về một đề tài.
- Phân tích: phân tích nội dung, hình thức của những dẫn chứng thơ.
Phân tích những lí luận về thơ để phục vụ cho các luận điểm của luận văn.
- Thi pháp học: nhằm nghiên cứu hình thức nghệ thuật, chỉ rõ đặc trưng cơ
bản tạo nên phong cách của tác giả.
- Văn hóa học: nhằm chỉ ra bản sắc văn hóa dân tộc trong các sáng tác của
tác giả.
- Liên phương pháp: có sự kết hợp của các phương pháp khi trình bày một
luận điểm như thống kê kết hợp nêu số liệu sau khi phân tích, so sánh. Sử dụng
phương pháp văn hóa học cùng phương pháp phân tích cấu trúc ngôn ngữ.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình khảo sát về thơ Dương Thuấn từ góc nhìn văn
hóa. Kết quả nghiên cứu của luận văn hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn khái
quát, đầy đủ hơn về thơ Dương Thuấn, từ đó thấy được những tìm tòi, đổi
mới, vận động và phát triển của thơ Dương Thuấn mang đậm bản sắc văn hóa
của một vùng quê.
Chúng tôi không đặt nhiều tham vọng đưa ra những kiến giải mới khác
với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu đã bàn về thơ Dương Thuấn mà chỉ
vận dụng những thành tựu đã có để đưa ra những đánh giá có tính chất cụ thể
theo một hướng mới. Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa là một cách
tiếp cận mới mẻ giúp ta hiểu thêm những giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Kết
5
quả nghiên cứu của luận văn góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu văn
học nhiều triển vọng đó là từ góc độ văn hóa - văn học, sự giao lưu, giao thoa
và ảnh hưởng qua lại để nhìn cho thấu đáo từ nhiều chiều kích, phương diện.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4
chương:
Chương 1: Thơ Dương Thuấn trong mạch nguồn văn hóa dân tộc Tày
Chương 2: Cảm thức văn hóa trong thơ Dương Thuấn
Chương 3: Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn
6
Chương 4: Một số phương thức nghệ thuật trong thơ Dương Thuấn
CHƯƠNG 1
THƠ DƯƠNG THUẤN TRONG MẠCH NGUỒN VĂN HÓA TÀY
1.1 Mối quan hệ văn hóa – văn học
1.1.1 Khái niệm văn hóa
Ở Việt Nam và trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về
khái niệm văn hóa. Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng: “Văn hóa
là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc
người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này
mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất
chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu
hiện thành một kiến thức lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các
kiểu lựa chọn của cá nhân hay các tộc người khác”[17, tr.17]. Giáo sư, Tiến
sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và
xã hội” [30, tr.10]. Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại định nghĩa:
“Văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có
được với tư cách là một thành viên của xã hội” [40, tr.8].
Văn hóa là sản phẩm của con người, là kết quả của sự tiến hóa nhân
loại. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và
khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Tuy nhiên để
hiểu về khái niệm “văn hóa” đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó
có những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Ngay trong bản thân khái niệm
văn hoá cho đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi do đứng ở nhiều góc độ khoa
học khác nhau để nghiên cứu. Tựu chung, xét về mặt biểu hiện, văn hoá là
7
một hiện tượng xã hội mà không phải là hiện tượng tự nhiên và nó thuộc về
giá trị tinh thần. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa
nhưng các định nghĩa đó vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: văn
hóa là một trong những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người
sáng tạo ra trong sự phát triển của dân tộc. Theo nghĩa chung nhất, văn hoá
được xem là toàn bộ những hoạt động sáng tạo của con người trong quá khứ
cũng như trong hiện tại tạo thành những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và
truyền thống, gọi chung là hệ giá trị - xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản
sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc.
1.1.2 Mối quan hệ văn hóa – văn học
Như chúng ta đã biết: văn học là một thành tố của văn hóa, nằm trong
văn hóa vì thế nó chịu sự chi phối của văn hóa như M. Bakhtin xác định:
“Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó
ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó
tồn tại”[24]. Mỗi nhà văn khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên
một nền tảng rộng lớn là văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn
học là một tấm gương vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng
thời đại vào trong đó. Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện
của văn hóa vào trong thế giới nghệ thuật của mình.
Những nhân tố như: ngôn ngữ, hoạt động kinh tế, lao động, sản xuất, ăn
mặc, ở, đi lại, sự phát triển của khoa học kĩ thuật… đều là điều kiện quan
trọng trong môi trường nảy sinh, hình thành những tác phẩm văn học. Những
thành tựu của văn hóa học ngày nay cho phép chúng ta có thể nhìn nhận văn
hóa như một tổng thể, một hệ thống gồm nhiều yếu tố như: ngôn ngữ, phong
tục tập quán, pháp luật, tín ngưỡng, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn,
văn học…
Trong hệ thống văn hóa, nhất là văn hóa Việt Nam, yếu tố chủ đạo
8
thường là văn học. Yếu tố chủ đạo này không phải là bất biến mà nó thường
xuyên thay đổi qua những thời đại văn hóa, tức là một hệ thống văn hóa. Là
một yếu tố mạnh, văn học luôn biết tiếp thu những gì ngoài hệ thống để phát
triển. Tiếp thu những cái ngoài hệ thống đến một mức độ nào đó, yếu tố văn
học sẽ không còn phù hợp với hệ thống văn hóa nữa, nó chống lại hệ thống,
làm cho hệ thống phải thay đổi cùng nó. Ở nước ta không ít công trình nghiên
cứu văn học đi sâu vào tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam, xem
bản sắc dân tộc như là phẩm chất của văn học, và cũng có không ít những
công trình nghiên cứu văn hoá xem trọng dẫn liệu văn học như những dấu
hiệu, những tiêu chí góp phần làm sáng tỏ đặc điểm văn hoá, bản sắc văn hoá
của dân tộc. Có thể kể tên những thành tựu mới mẻ, đầy triển vọng của một số
công trình nghiên cứu văn học theo hướng tiếp cận từ văn hóa học như công
trình nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Thuý – Mối quan hệ giữa văn hoá và văn
học (1997), Trần Ngọc Vương – Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung (1997), Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá (1999), Trần Nho Thìn –
Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá (2007)…
Văn học với tư cách là một bộ phận của tổng thể văn hóa, một yếu tố
của hệ thống văn hóa thì không thể và không có quyền qua mặt hệ thống để
tiếp xúc thẳng hoặc tác động trực tiếp đến hệ thống xã hội mà phải gián tiếp
qua hệ thống văn hóa và chỉ “quan hệ” được với hệ thống xã hội thông qua
văn hóa. Như vậy, khung nghiên cứu văn học cũng phải là khung văn hóa.
Trong quan hệ với chuyên ngành nghiên cứu văn học, văn hoá học xem xét
văn học từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu
vào văn học. Trong mối quan hệ với văn hóa học, nghiên cứu văn học và văn
hoá học có nhiều điểm tương đồng về quan điểm phương pháp luận, nhưng
vẫn khác nhau về cơ bản như: tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử, tính dân
tộc… của đối tượng đều được hai ngành quan tâm xem xét. Nghiên cứu văn
9
hoá học và nghiên cứu văn học đều coi trọng quan điểm hệ thống trong tiếp
cận đối tượng, đều quan tâm đến tính thống nhất trong đa dạng của đối tượng.
Nếu như xem xét từ góc độ thời gian, văn hoá học có văn hoá sử, nghiên cứu
văn học có văn học sử. Nếu xem xét từ góc độ không gian, văn hoá học có
văn hoá vùng, văn hoá khu vực, nghiên cứu văn học cũng có văn học vùng,
văn học khu vực. Nếu xem xét từ góc độ chủ thể, văn hoá học có văn hoá dân
tộc, nghiên cứu văn học có văn học dân tộc… Về mặt phương pháp, văn hoá
học và nghiên cứu văn học đều quan tâm đến tính liên ngành, đến việc vận
dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác áp dụng vào đối tượng
nghiên cứu cụ thể của mình.
Đọc một tác phẩm văn học theo quan điểm văn hóa học là vận dụng
những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác
phẩm. Một cách tổng quát, phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học từ góc
nhìn văn hóa ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa. Trong đó tác
phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn
giáo, đạo đức, chính trị, pháp luật, thẩm mỹ, quan niệm về con người cũng
như sự chi phối của các phương tiện khác nhau. Trong đời sống sinh hoạt xã
hội từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về
các mặt xây dựng nhân vật, kết cấi, mô-típ, hình tượng, cảm xúc, ngôn ngữ…
Phương pháp này có tính chất tổng hợp, trung gian giữa những phương pháp
đọc văn bản khác nhau nhưng vẫn có đặc trưng riêng. Nó thiên về nhiệm vụ
giải mã các hiện tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng
đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, đến tính chất mở của chúng trong
không gian và thời gian.
Tiếp cận văn hóa học không chủ trương miêu tả thế giới nghệ thuật của
tác phẩm như một vũ trụ khép kín, có giá trị tự thân mà đặt ra nhiệm vụ đối
chiếu, so sánh, truy nguyên các quan niệm văn hóa của thời đại nơi tác phẩm
10
được sản sinh để tìm nguồn gốc các dạng thức quan niệm về con người – thời
gian – không gian trong tác phẩm. Tiếp cận văn hóa học thực chất là tiếp cận
liên ngành trong nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu văn học ngày càng ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn học
với văn hoá, đặc biệt là nghiên cứu văn học tiếp nhận ở văn hoá học quan
điểm về tính tương tác của các hệ thống văn hoá, về góc nhìn văn hoá trong
nghiên cứu đối tượng đặc thù. Lý luận về sự giao thoa giữa văn học và văn
hoá trong lý luận văn học thế giới được giới thiệu khá phong phú ở nước ta
cũng là một trong những cơ sở giúp nghiên cứu văn học ngày càng khám phá
những chiều kích văn hoá trong đời sống năng động của văn học nước nhà.
1.2 Vài nét về văn hóa vùng Việt Bắc và văn hóa dân tộc Tày
1.2.1 Văn hóa vùng Việt Bắc
Dân tộc Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái sống chủ yếu ở các tỉnh
miền núi phía Bắc (vùng văn hóa Việt Bắc) như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc
Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang… Bản thân văn hóa Tày đã có
một bản sắc dân tộc riêng nhưng trước hết vì thuộc vùng văn hóa Việt Bắc
nên ít nhiều văn hóa Tày có sự ảnh hưởng của văn hóa vùng. Cư dân chủ yếu
của vùng Việt Bắc là người Tày và người Nùng, ngoài ra, còn một số dân tộc
ít người như: Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay.
Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản
giống các khu vực khác. Về tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư
dân Tày- Nùng hướng niềm tin của con người đến thần bản mệnh, trời đất, tổ
tiên. Họ thờ nhiều thần linh như thần sông, thần núi, thần đất. Ngoài ra, còn
có các ông vua, Giàng Then cũng được dân tộc nơi đây kính cẩn thờ phụng.
Diện mạo tôn giáo Việt Bắc cũng có những nét khác biệt. Các tôn giáo như
Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của
người Việt Bắc. Tam giáo được cư dân Việt Bắc tiếp nhận gần giống người
11
Việt nhưng ở mức độ thấp hơn và kết hợp với tín ngưỡng vật linh vốn có
trong đời sống dân gian. Về chữ viết, vào giai đoạn cổ đại, cư dân ở đây
không có chữ viết; sang giai đoạn cận đại thì có chữ Nôm và giai đoạn hiện
đại thì chữ Nôm tồn tại song song với chữ Latinh. Cũng chính vì vậy, nét
đáng chú ý là cư dân Tày – Nùng ở Việt Bắc đã có những nhà văn viết bằng
chữ viết dân tộc khá sớm như Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài
Đoàn… Trong khi đó, văn học dân gian Việt Bắc khá đa dạng về thể loại,
phong phú về số lượng tác phẩm, như thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói
ví, câu đố, đồng dao, dân ca. Đặc biệt, lời ca giao duyên: lượn cọi và lượn
tương, là những thể loại tiêu biểu được các thế hệ trẻ Tày – Nùng ưa chuộng.
Lễ hội của cư dân Tày – Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đồng là
Hội Lồng Tồng (hội xuống đồng), diễn ra hai phần: Lễ và hội. Nghi lễ chính
là rước thần đình và thần nông ra nơi mở hội ở ngoài đồng. Phần hội căn bản
là các trò chơi như đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật… Như vậy, về
bản chất, Hội Lồng Tồng là một sinh hoạt văn hóa.
Nói đến sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, không thể không
nói đến sinh hoạt hội chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là
nơi để nam nữ thanh niên trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến một
loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở vùng này, và có thể coi như một sinh hoạt
văn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc. Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hóa có
nhiều đặc thù. Tộc người chủ thể: Tày - Nùng với lịch sử và văn hóa của họ
tạo ra nét đặc thù này. Tuy nhiên, những đặc thù này không phá vỡ tính thống
nhất của văn hóa Việt Bắc và văn hoá cả nước.
1.2.2 Văn hóa dân tộc Tày
Nằm trong cái nôi văn hóa vùng Việt Bắc, ngoài những ảnh hưởng của
văn hóa vùng, dân tộc Tày còn có riêng một bản sắc văn hóa, cụ thể là:
Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền phát triển với đủ loại cây
12
trồng như lúa, ngô, khoai… Họ có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã
biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như đào mương,
bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày
còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả… Chăn nuôi phát triển với nhiều loại
gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn phổ biến. Các
nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với
nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Đặc điểm kinh tế mà đặc biệt về mặc nông
nghiệp này đã tạo nên những biểu tượng văn hóa trong tín ngưỡng dân tộc
Tày như tục thờ nước, thờ Mẹ Hoa, thờ thần lúa. Người dân thường ở chân
núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông.
Họ sống thành bản làng đông đúc, mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, nhiều
bản có tới hàng trăm nóc nhà. Dân tộc Tày còn có tên gọi là Thổ ở Việt Bắc,
hoặc Phén (tức là Phiên) ở Hải Ninh; nhưng tên “Tày” đúng hơn cả và được
nhân dân Tày xác nhận.
Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có quy định rõ ràng
trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà. Vợ chồng yêu thương nhau, ít ly
hôn. Đã từ lâu dân tộc Tày không còn tục ở rể. Nam nữ được tự do yêu
đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng không lại tùy thuộc vào bố
mẹ hai bên và số mệnh của họ có hợp nhau không. Vì thế trong quá trình đi
tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá só của cô gái về so với lá số của con
mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày
sinh nở mới về hẳn bên nhà chồng.
Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm. Cái độc đáo
đáng quan tâm của trang phục Tày không phải là lối dùng màu chàm phổ
biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên
trong áo ngoài màu chàm. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn
trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc
13
được dùng trong hoa văn mặt chăn hoặc các tấm thổ cẩm. Và “áo chàm” đã
trở thành một hoán dụ phổ biến xuất hiện nhiều trong thơ văn để chỉ đồng bào
dân tộc Tày nói riêng hoặc các cư dân Việt Bắc nói chung.
Đồng bào Tày có một nền văn hóa tín ngưỡng sâu đậm ngay từ thời kỳ
khởi nguyên, và được tiếp tục phát triển theo những xu hướng linh động cho
đến hiện tại (có nhiều điểm tương đồng văn hóa tín ngưỡng vùng Việt Bắc –
đã trình bày ở trên). Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên, ngoài ra còn thờ
cúng thổ công, vua bếp, bà mụ, Mẹ Hoa, lúa. Hàng năm có nhiều lễ tết với
những ý nghĩa khác nhau nhưng quan trọng nhất vẫn là tết Nguyên đán - mở
đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ
chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm
lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết
rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.
Chữ viết của người Tày xuất hiện khá sớm, chữ Nôm Tày xây dựng trên
mẫu tự tượng hình, gần giống chữ Nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được
dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng… Chữ Tày - Nùng dựa trên cơ
sở chữ cái Latinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa những năm 80, được
dùng trong các trường phổ thông cấp 1, vùng có người Tày – Nùng cư trú.
Đối với cư dân Tày, lễ hội là là sinh hoạt văn hóa quan trọng bậc nhất
trong đó đặc biệt là Hội Lồng Tồng (Hội xuống đồng) trở thành “đặc sản” sinh
hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân vùng Việt Bắc cũng như văn hóa Tày. Lễ
hội mang đậm những nét văn hóa truyền thống của dân tộc Tày, thường được
tổ chức ở những đám ruộng to rộng. Trước ngày hội, các gia đình đều quét
dọn nhà cửa, xóm bản sạch sẽ, chuẩn bị lương thực để đón khách. Khách đến
đây, dù quen dù lạ đều được đồng bào mời về nhà ăn nghỉ qua đêm chờ dự
hội. Trong ngày diễn ra lễ hội, phần lễ và phần hội đều diễn ra trang trọng, vui
tươi. Phần lễ là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hoà, cây cối
14
tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ðể chuẩn bị lễ ở ngoài đồng, mỗi
gia đình chuẩn bị một mâm cỗ theo khả năng, có nhiều nhà làm từ vài chục
đến một trăm món. Phần hội quan trọng nhất là hội xuống đồng. Một nông
dân cày giỏi được giao trọng trách mắc cày vào con trâu mộng, to khỏe để
vạch luống cày đầu tiên cho mùa vụ mới. Thầy cúng đi trước làm lễ, luống
cày theo sau như nở hoa trên đất hứa hẹn với bà con nông dân một mùa vụ
suôn sẻ, bội thu.
Hoạt động vui nhất, thu hút nhiều người tham gia nhất trong lễ hội là
hội tung còn. Nếu ở lễ hội này không có ai tung còn trúng vòng tròn thì dân
bản không vui, vì theo quan niệm của họ, phải có người tung còn trúng vòng
tròn làm rách giấy thì năm đó làm ăn mới thuận lợi, mưa thuận gió hoà. Trong
trò chơi này, nam nữ thanh niên thi tung còn cho nhau. Ngoài ra còn có các
hoạt động múa sư tử, múa võ, kéo co... Ðặc biệt, đêm về, nam nữ thanh niên
thi hát lượn đối đáp suốt canh dài...
Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại
thơ ca, múa, nhạc…. Nhiều làn điệu dân ca nổi tiếng như lượn, phong slư,
phuối pác, phuối, rọi, vén eng… Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then,
lượn nàng ới… là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng.
Đồng bào Tày thường lượn trong Hội Lồng Tồng, trong đám cưới, mừng nhà
mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương
có múa rối bằng gỗ khá độc đáo. Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng
kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con.
Bên cạnh những nét văn hóa trên, nền văn học dân gian Tày còn là kho
tàng về các loại thần thoại, truyện cổ, truyện thơ, dân ca… tiêu biểu là truyện
Quả bầu, Thạch Sanh, Cẩu Khây, Phú Lương Quân, Báo Luông – Sao Cải,
Khảm hải (Vượt biển) …
Từ những điều vừa tìm hiểu về đặc điểm văn hóa của dân tộc Tày như
15
trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng: mỗi một dân tộc đều mang trong mình
những dấu ấn văn hóa tạo nên đặc sắc của dân tộc đó. Bản sắc văn hóa hay
truyền thống dân tộc là quá trình chọn lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ. Nếu
một dân tộc không có bản sắc, không tiếp thu truyền thống thì văn hóa dân
tộc đó chỉ là hư vô. Do đó việc phát hiện, gìn giữ và phát huy truyền thống
văn hóa của từng dân tộc theo hướng ngày càng hiện đại nhưng vẫn giữ
được dấu ấn riêng là vấn đề ý nghĩa, mang tính thời sự, cập nhật. Trên đây là
một số đặc trưng văn hóa nổi bật của cư dân vùng Việt Bắc và dân tộc Tày.
Những đặc trưng văn hóa này sẽ là tiền đề hữu ích giúp chúng tôi triển khai
đề tài Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa có cơ sở thực tế và sức
thuyết phục hơn.
1.3 Khát quát về văn học Tày
1.3.1 Văn học dân gian Tày
Văn học dân tộc thiểu số ở nước ta tuy hình thành và phát triển muộn
nhưng có nhiều đóng góp đáng kể làm phong phú cho kho tàng văn học Việt
Nam. Hệ thống văn học dân gian Tày đặc biệt sinh động bởi sự góp mặt của
nhiều thể loại như: truyền thuyết, truyện thơ, dân ca, tục ngữ, ca dao. Nội
dung truyện cổ Tày thường tập trung giải thích các hiện tượng tự nhiên,
những mâu thuẫn trong đời sống con người, cuộc chiến giữa thiện và ác.
Truyện ngụ ngôn có rất nhiều tình tiết ly kỳ, chết đi sống lại hoá thân thành
con vật, cỏ cây, hoa lá hoặc có cuộc sống sung sướng, thậm chí làm vua,
quan… thể hiện khát vọng sống của con nguời. Tục ngữ ca dao đó là những
câu phản ánh tâm tư tình cảm, tâm trạng hoặc được đúc kết thành kinh
nghiệm, triết lý trong cuộc sống, kinh nghiệm trong sản xuất, đối nhân xử thế,
trong dấu tranh xã hội cũng như trong tự nhiên. Đáng chú ý nhất trong văn
học dân gian Tày là thể loại truyện thơ và dân ca.
Về thể loại truyện thơ, những tác phẩm truyện thơ nổi tiếng của dân tộc
16
Tày như: Thị Ðan, Quảng Tân - Ngọc Lương, Nàng Kim, Chim sáo, Chiêu
Ðức, Vượt biển... Đây là những truyện được mọi người biết đến và yêu thích
nhiều, có ý nghĩa khá quan trọng trong nền văn học dân gian truyền thống và
trong đời sống tinh thần của đồng bào. Những tác phẩm này ban đầu đều được
lưu truyền bằng phương thức truyền miệng do các nghệ nhân kể trong những
dịp lễ, tết hay vào lúc nông nhàn. Có thể cốt truyện nguyên sơ còn rất lỏng
lẻo, cùng một tên truyện nhưng lại có nhiều chi tiết khác nhau, sau này được
các nho sĩ chép lại, sắp xếp lại cho hoàn chỉnh hơn và tồn tại cho đến ngày
nay. Đề tài truyện thơ Tày thường chọn đó là: tình yêu nam nữ, thân phận
người phụ nữ và số phận người nghèo khổ. Chủ đề của truyện đều tập trung
vào chủ đề quyền sống tự do của con người trong xã hội cũ, lên án chế độ ép
gả trong hôn nhân, thể hiện quyền khao khát thay đổi số phận của người
nghèo khổ.
Về thể loại dân ca, có thể nói dân ca gắn liền trong đời sống sinh
hoạt, tín ngưỡng của người Tày nhiều và quan trọng nhất so với các thể
loại văn học khác. Dân ca Tày có ba dòng đặc trưng: dân ca giao duyên,
dân ca nghi lễ và dân ca tín ngưỡng. Dân ca giao duyên phong phú về thể
loại như phong slư, lượn, phuối pác (hát đối đáp)…thường được các đôi
trai gái sử dụng khi tìm hiểu nhau, do đó làn điệu thường ngân nga nhấn
nhá vang xa trong không gian thể hiện tâm trạng, tình cảm, nỗi nhớ nhung.
Phong slư là những bức thư tình, một thể thơ hết sức đặc sắc của trai gái
Tày. Bức thư này viết bằng chữ Nôm Tày trên nền vải sa tanh đỏ. Phong
slư nói về cung bậc tình cảm của những người đang yêu. Khi là tiếng nói
thủ thỉ tâm tình. Lúc hóa thành dòng thác nhớ nhung tha thiết. Tình yêu
nam, nữ thể hiện trong phong slư thường là tình yêu trong xa cách, trắc trở,
tan vỡ. Bởi vậy tiếng hát, giai điệu phong slư thường buồn da diết. Tuy
nhiên nó không hề bi lụy kêu than mà vẫn luôn sáng lên những ước mơ
17
lãng mạn, nhân văn.
Hãy tu thân chờ nhau bên ấy
Dẫu là không lấy được cũng cam
Yêu nhau để khắp mường được thấy
Tiếng thơm sẽ trọn vẹn mai sau
Tới trăm năm khi về âm phủ
Ta rủ nhau về chốn mường hơn
Lượn là một bộ phận thuộc loại hình nghệ thuật dân ca sinh hoạt của
người Tày. Lượn có nhiều tiểu loại, ngoài hai loại cơ bản là lượn cọi và lượn
slương, người Tày còn có lượn Then, lượn nàng Hai, lượn khắp,… Trong cái
nhìn đối sánh với văn hóa dân tộc Kinh, lượn là lối hát giao duyên có thể
tương tự như lối hát quan họ ở Bắc Ninh, loại dân ca này có giai điệu vang xa
tha thiết, lay động lòng người, gợi cảm giác bâng khuâng, thương nhớ. Có thể
nói lượn đã trở thành một thực thể trong đời sống tinh thần, một thành phần
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu bộc lộ tình cảm
của những người dân Tày yêu thích ca hát. Thông qua lượn mà tiếng hát, lời
ca ngân lên mọi lúc, mọi nơi, trong bản ngoài mường, trở thành một phần
không thể thiếu được trong đời sống tinh thần người Tày.
Phuối pác, phuối rọi là những lời nói có vần, có điệu của nam nữ thanh
niên Tày, Nùng thường dùng hàng ngày. Đây là lối nói tự do, dịch nôm là
“nói chuỗi” thường được diễn ra khi gặp nhau trên đường, ở chợ hay trong lễ
hội… Đó cũng là một hình thức thể hiện tình cảm, nó là những lời ướm hỏi
trêu ghẹo tình tứ thể hiện những sắc thái tình cảm trong tình yêu. Được thời
gian gọt giũa những lời phuối pác, phuối rọi ngày càng cô đọng bóng bẩy và
mềm mại một chất thơ lãng mạn. Phuối pác là nơi thể hiện tình yêu trai gái.
Nội dung chính của các bài hát này là lòng yêu lao động, tình yêu trai gái, tùy
tài năng và cảm xúc của người hát mà làn điệu bài bản các thể hát đó được
18
biến hoá, sáng tạo không ngừng. Phuối pác là thể dân ca hát đối đáp, có làn
điệu nhưng không ngân nga như lượn, thường được dùng nhiều nhất trong hai
trường hợp: khi mới gặp nhau và lúc tạm biệt nhau:
- Chàng ơi, nón cọ hay nón bạc
Nón chàng đội hai người được không
Đội được em xin đi cùng đường
- Chớ lừa nhau đặt lờ trên cây
Biết bao giờ mới được gặp cá
Dân ca nghi lễ, nổi bật nhất là hình thức quan làng trong các đám cưới.
Các quan làng (đại diện nhà trai) thường hát đối đáp với các pả mẻ (đại diện cho
nhà gái) phục vụ cho tiến trình nghi thức của một đám cưới. Dân ca tín ngưỡng
là lời xướng, giọng ca của những người hành nghề mang tính tâm linh…
Trên đây chúng tôi điểm lại những thể loại chính trong kho tàng văn
học dân gian của người Tày. Sự đa dạng về thể loại, đề tài và nội dung phản
ánh thể hiện đời sống tinh thần phong phú của đồng bào. Đây cũng là một
trong những giá trị văn hóa dân tộc cần được giữ gìn và phát huy qua các thế
hệ. Nó sẽ là bản sắc dân tộc, là nền tảng văn hóa, văn học vững chãi cho các
nhà văn nhà thơ sau này kế thừa và tiếp nối.
1.3.2 Văn học viết Tày
Do hệ thống chữ Nôm Tày xuất hiện khá sớm so với các dân tộc khác
(thế kỷ XV) nên nền văn học viết của người Tày đã sớm phát triển. Mỗi giai
đoạn đều có những thành tựu chung, đều ghi dấu ấn độc đáo của từng gương
mặt như các tác giả thời trung đại Lê Thế Khanh (1389-1460), Nông Quỳnh
Vân (1565-1640), Bế Hữu Cung (1757-1820), Hoàng Ích Viêng (1890-1945)
đến các tác giả thời hiện đại như Hoàng Văn Thụ (1906-1944), Nông Quốc
Chấn (1923-2002), Nông Minh Châu (1924-1979), Triều Ân, Vi Thị Kim
Bình, Ma Trường Nguyên, Y Phương, Mai Liễu, Triệu Lam Châu, Đoàn
19
Ngọc Minh, Triệu Thị Mai, Đoàn Lư, Dương Thuấn, Vi Thùy Linh…
Thời kì trước Cách mạng tháng Tám 1945, văn học dân tộc thiểu số nói
chung cũng như văn học Tày nói riêng thường tồn tại dưới loại hình văn học
dân gian. Phải đến sau Cách mạng, văn học các dân tộc thiểu số nói chung
mới bắt đầu phát triển với dấu ấn của cá nhân. Đội ngũ sáng tác văn học
người Tày được hình thành và phát triển trong số đó có một số tác giả đã trở
thành đại thụ hay hiện tượng trong nền văn học Việt Nam. Đầu tiên phải kể
đến lớp nhà văn nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, là những
người đặt nền móng đầu tiên cho văn học Tày hiện đại như: Nông Quốc Chấn,
Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Hoàng Triều Ân.
Trước hết về tác giả Nông Quốc Chấn – người anh cả của nền thơ ca
dân tộc thiểu số nói chung và thơ ca dân tộc Tày nói riêng. Ông được xem là
người dân tộc thiểu số đầu tiên: “mang hơi thở của núi rừng Việt Bắc vào thi
ca” là “cánh chim đầu đàn của những người làm văn học cách mạng của các
dân tộc thiểu số” (Tô Hoài). Đọc Nông Quốc Chấn ta thấy toát lên chất trữ
tình đằm thắm, ông viết mộc mạc, giản dị vừa sâu sắc, nhẹ nhàng vừa sôi nổi
như giáo sư Vũ Khiên đã từng nhận xét: “Tâm hồn anh từ nhỏ được nuôi
dưỡng từ chất thơ của tình người, trong giọng hát lượn then, trong âm thanh
đàn tính... thơ anh nhiều lúc hoang sơ như cây rừng, gập ghềnh như sườn
núi”. Bên cạnh việc giữ gìn, phát huy bản sắc dân tộc, Nông Quốc Chấn
luôn tìm tòi và học theo những đổi mới thơ miền xuôi. Ông say mê nghiên
cứu, luôn trăn trở với vấn đề sáng tác của văn học dân tộc thiểu số. Từ
những năm 60 trở đi, thơ Nông Quốc Chấn có nhiều thay đổi nhưng điều
quan trọng là ông ý thức rất rõ rằng bản sắc dân tộc không mâu thuẫn với
việc mở rộng đề tài, chủ đề, thủ pháp diễn đạt... Và thực sự Nông Quốc
Chấn không chỉ là nhà thơ của đồng bào Tày, Việt Bắc mà thơ ông còn được
20
cả nước đã biết đến và yêu mến.
Còn nhà văn nhà thơ Nông Viết Toại thì ngay từ những năm đầu kháng
chiến chống Pháp đã thổi bùng lòng yêu nước vào trong thơ văn mình qua
một số bài ca Cách mạng như: Nhớ chiến khu, Nhớ đàn chim Việt. Ðọc những
sáng tác của Nông Viết Toại càng thêm yêu mến làng bản, núi rừng quê
hương Việt Bắc với những hình ảnh rừng núi bạt ngàn nắng gió, những mái
nhà sàn xinh xắn, những nét sinh hoạt đầm ấm của những nguời dân miền núi
trong các thôn bản vùng núi cao.
Nói đến văn học Tày còn không thể không kể đến nhà văn nhà thơ
Nông Minh Châu, người có công đầu trong việc đặt nền móng cho văn xuôi
các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại. Những sáng tác của Nông
Minh Châu thường mang nội dung tuyên truyền cách mạng, ca ngợi quê
hương miền núi với những cảnh vật đẹp đẽ, nên thơ và những con nguời miền
núi thẳng thắn thật thà, chân chất nhưng rất giàu tình cảm… Sáng tác của Nhà
văn Nông Minh Châu không nhiều. Toàn bộ tác phẩm đã được xuất bản của
ông chỉ gồm một tập thơ bằng tiếng Kinh: Tung còn và Suối đàn (in chung
với Triều Ân,1963), tiểu thuyết Muối lên rừng (1964), tập truyện và ký Tiếng
chim gô (1979), trường ca tiếng Tày Cưa khửn đông (1967), Tuyển tập Nông
Minh Châu (2003), Thơ Nông Minh Châu tuyển chọn (2005). Nhưng, theo
đánh giá của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam thì Nông
Minh Châu là một trong những người viết trường ca sớm nhất trong lịch sử
văn học ông còn là một trong những người đặt viên gạch đầu tiên cho văn
xuôi dân tộc thiểu số.
Văn xuôi thời kỳ Cách mạng của văn học Tày còn ghi dấu cây đại thụ
Hoàng Triều Ân. Ông tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1943 và là
người lãnh đạo Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng trong nhiều năm. Thông
thường một người trời phú cho giỏi làm thơ nhưng khó thành công trong sáng
21
tác truyện nhưng Hoàng Triều Ân lại thành công cả trong hai lĩnh vực. Vào
đầu những năm 60 của thế kỷ XX ông đã đoạt nhiều giải thưởng thơ đến nay
ông đã cho xuất bản 8 tập thơ nhưng đánh giá khách quan thì có thể khẳng
định truyện ông viết hay hơn thơ cho dù truyện của ông ít đoạt giải hơn thơ.
Nhiều nhà thơ dân tộc thiểu số rất thành công nhưng đối với văn xuôi thì số
tác giả thành danh không có nhiều Triều Ân là một trong số người hiếm hoi
đó. Nhà văn Triều Ân đã xuất bản 5 tập truyện ngắn và 3 cuốn tiểu thuyết.
Một đời văn, một đời người làm được như vậy là đã nhiều. Nhưng giờ sự sáng
tạo của ông vẫn sung sức như ngày nào, bút lực vẫn dồi dào dù tuổi 80 đang
đến gần. Lĩnh vực sưu tầm nghiên cứu của Hoàng Triều Ân để lại nhiều dấu
ấn trong sự nghiệp của đời ông, đó là những đóng góp đáng kể cho dân tộc và
cho xã hội. Những tác phẩm điển hình như: Ca dao Tày, Nùng; Tục cưới xin
của người Tày; Chữ Nôm Tày và truyện thơ... đã nói lên điều đó. Thông qua
sưu tầm những vấn đề thuộc về văn nghệ dân gian nhà văn Hoàng Triều Ân
đã đóng góp công sức của mình vào việc bảo tồn gìn giữ, phát huy những giá
trị nền tảng văn hóa truyền thống.
Ðội ngũ sáng tác văn học của dân tộc Tày trong thời kì kháng chiến
chống Pháp chủ yếu là những tác giả được tắm mình trong nguồn mạch văn
hóa, văn học dân gian của dân tộc họ và sự nghiệp sáng tác của họ luôn gắn
liền với sự phát triển của dân tộc, của quê hương miền núi nơi mình sinh ra.
Vì thế những sáng tác của họ ở giai đoạn này chủ yếu là lên án tội ác của bọn
thực dân, phong kiến ở miền núi, ngợi ca con người miền núi trong kháng
chiến, trong công cuộc xây dựng quê hương, đất nước - sau khi sạch bóng
quân thù. Tuy nhiên, thời kì này đội ngũ sáng tác văn học Tày vẫn còn mỏng,
sáng tác còn mang tính tự phát và ảnh hưởng nhiều yếu tố dân gian… Nhưng
với những tác phẩm cụ thể của mình, đội ngũ sáng tác văn học dân tộc Tày
22
cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu đời sống văn hoá văn học của nhân
dân các dân tộc mình trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và xây dựng
hoà bình trên quê hương miền núi cao yêu dấu của họ.
Sang đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, Hội nghị sáng tác văn học
các dân tộc thiểu số ở miền Bắc lần thứ nhất họp tại Thái Nguyên (1964) đã
có ảnh hưởng rất lớn đối với văn học Tày. Hội nghị này đề cập đến những vấn
đề sáng tác văn học của các dân tộc thiểu số như vấn đề: cuộc sống mới, con
người miền núi mới; vấn đề các thể loại văn học phát triển như thế nào? vấn
đề song ngữ trong sáng tác văn học; vấn đề xây dựng đội ngũ nhà văn là con
em các dân tộc thiểu số ra sao thực sự được quan tâm và giải quyết. Văn học
Tày đã được hoà chung vào trong không khí ấy, những người sáng tác văn
học đã thực sự có ý thức về công việc sáng tạo văn chương của mình. Gương
mặt thơ văn Tày tiêu biểu thời kì này phải kể đến là Y Phương (sinh năm
1948) với các tác phẩm: Người núi hoa (kịch nói, 1982), Tiếng hát tháng
giêng (thơ, 1986), Lửa hồng một góc trời (thơ in chung, 1987), Lời chúc (thơ,
1991), Đàn then (thơ, 1996), Chín tháng (trường ca, 2000), Thơ Y Phương
(tuyển tập thơ, 2002). Thơ Y Phương có sự từng trải trong cuộc sống, với
cách diễn tả hồn nhiên mà sâu lắng, các đề tài rộng mở, “có đồng bằng và
biển, có phố phường sầm uất thị thành” nhưng đậm nhất, nhiều nhất và hay
nhất vẫn là hình ảnh cuộc chiến đấu anh dũng và cuộc sống vùng cao bình dị.
Y Phương của những ngày đầu làm thơ mộc mạc và đậm chất miền núi hồn
nhiên. Những giai đoạn sau này, thơ Y Phương ngày càng chứng tỏ sự điêu
luyện trong bút pháp, tầm triết luận sâu sắc trong nhận thức, trong từng vấn đề
thể hiện. Cái chất miền núi, chất Tày không mất đi mà kết hợp hài hòa với lối
tư duy hiện đại.
Nhìn chung nội dung thơ văn giai đoạn kháng chiến chống Mỹ của dân
tộc Tày chủ yếu phản ánh về công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên quê
23
hương, ca ngợi sự đổi mới trong đời sống văn hoá xã hội của quê hương đất
nước. Văn học đã thực sự là tiếng nói của đông đảo đồng bào Tày. Ðặc biệt giai
đoạn này đã có nhiều tác giả chú trọng việc sáng tác văn học bằng song ngữ.
Công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc của đất nước ta từ năm 1986 đã
tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế,
văn hoá, xã hội… trong đó có văn học nghệ thuật và văn học Tày cũng nằm
trong quy luật phát triển đó. Lớp nhà văn thứ ba của văn học Tày được hình
thành, đó là những tác giả mà tên tuổi của họ được gắn liền với những tác
phẩm văn học viết về thiên nhiên, cuộc sống, con nguời trên xứ Tày. Trong
những năm này văn học Tày dường như trẻ lại, ngay cả đối với các tác giả
thời kỳ trước cũng có sự thay đổi trong sáng tác, những tác phẩm của họ đã
mang những âm huởng mới, náo nức cảm hứng khám phá về con người, về
cuộc sống, về quê hương miền núi với những điều lớn lao và cũng rất đời
thường. Còn đối với các nhà thơ trẻ thuộc thế hệ trưởng thành trong giai đoạn
lịch sử này - thì sự đổi mới tư duy trong sáng tác văn học cũng thể hiện một
cách rõ rệt. Họ có nhiều sự sáng tạo độc đáo, cách viết của họ hiện đại hơn,
diễn đạt một cách mới lạ hơn tuy nhiên trong tâm hồn họ vẫn thấm đẫm tính
dân tộc và bản sắc dân tộc vẫn được thể hiện một cách sinh động trong từng
tác phẩm. Có thể điểm qua một số gương mặt thơ tiêu biểu của văn học Bắc
Kạn thời kì này là hai tác giả tiêu biểu nhất đó là Dương Thuấn và Vi Thùy
Linh. Vì đối tượng của luận văn chính là thơ ca Dương Thuấn nên chúng tôi
sẽ trình bày cụ thể, chi tiết ở phần sau luận văn. Về tác giả Vi Thùy Linh, Vi
Thùy Linh được xếp vào thế hệ nhà thơ trẻ nhất của thơ văn dân tộc miền núi
tuy nhiên nội dung những sáng tác của cô chủ yếu đào sâu về cảm giác, khát
vọng và ám ảnnh của người phụ nữ trong thế giới tình yêu, nhục cảm. Ít tìm
thấy đề tài, đối tượng hay chủ đề trong thơ Vi Thùy Linh viết về cuộc sống,
thiên nhiên miền núi nhưng chất miền núi của Vi Thùy Linh vẫn được thể
hiện qua quan niệm, cách sống nhiệt thành, hết mình, thẳng thắn - cách
24
sống, cách ứng xử của con người miền núi đúng như cô đã từng tâm sự:
“Trước tôi hăm hở đơn thuần, giống như một con ngựa liều lĩnh mơ mộng
đang phi trên những cánh đồng bao la, có thể phía trước tôi là bẫy, chông,
vực thẳm… nhưng tôi vẫn lao đi. Có những lúc đêm tối mịt mù, có khi là
trăng sao. Để giờ tôi biết thận trọng hơn, dù thế nào con ngựa ấy luôn đầy
sức sống. Tôi sẽ cố gắng giữ gìn hơi thơ có sức sống và lửa ấy”[52]. Chính
bản tính phóng khoáng, sôi nổi, mạnh mẽ của núi rừng đã phần nào tạo nên
một Vi Thùy Linh với Khát (1999), Linh (2000), Đồng tử (2006) với tư thế
đúng như nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có nói về cô - “nữ sĩ trẻ tuổi trên con
ngựa chữ dậy thì, đã độc mã phi thẳng vào rừng rậm thi ca”.
Qua mỗi giai đoạn khác nhau, các nhà văn nhà thơ dân tộc Tày cùng
kế thừa, tiếp thu mạch nguồn văn hóa dân tộc nhưng lại khẳng định theo
một cách riêng. Sự đa dạng, phong phú trên đã tạo nên bộ mặt văn học sinh
động của văn học Tày nói riêng và văn học dân tộc thiểu số nói chung.
1.4 Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày
1.4.1 Vài nét về nhà thơ Dương Thuấn
Dương Thuấn là người Tày, ông sinh ngày 7 tháng 7 năm 1959 tại bản
Hon, xã Bành Trạch, huyện Ba Bể cùng với nhiều nhà thơ dân tộc thế hệ thứ
ba, Dương Thuấn đã tiếp nối các thế hệ cha anh đi trước và hình thành cho
mình một phong cách tài hoa, độc đáo. Những năm cuối thập kỉ 70 của thế kỉ
trước, khi còn ngồi trên giảng đường trường Đại học Sư phạm Việt Bắc,
Dương Thuấn đã tham gia viết văn. Truyện ngắn đầu tay của ông với tựa đề:
Mùa hoa mạ thứ 3 - xuất bản năm 1981 đã đưa ông đến với con đường văn
chương. 10 năm sau, tập thơ đầu tay Cưỡi ngựa đi săn viết cho thiếu nhi năm
1991 đã được Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải A. Từ đó đến nay ông đã lần
lượt cho ra đời 13 tập thơ: Đi tìm bóng núi (1993), Đi ngược mặt trời (1995),
Bà lão và chích chòe (1997), Hát với sông Năng (2001), Đêm bên sông yên
lặng (2004), Thơ với tuổi thơ (2005), Chia trứng công (2006), Lính Trường
25
Sa thích đùa (2006), Soi bóng vào tôi (2009), trường ca Mười bảy khúc đảo
ca (2002) và các tập thơ tiếng Tày: Lục pjạ hết lúa (1995), Slíp nhỉ tua khoăn
(2002)… Hai lần liên tiếp ông được nhận giải B của Hội Văn nghệ dân tộc
thiểu số năm 2000 và 2006 với tập thơ Mười bảy khúc đảo ca và Chia trứng
công. Không chỉ có thế, anh còn được Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt
Nam trao giải B cho tập thơ Đêm bên dòng sông yên lặng vào năm 2005.
Ngoài ra, ông còn được tặng 12 giải thưởng khác của các tổ chức chính trị, xã
hội, các cuộc thi thơ do các báo và nhà xuất bản Trung ương tổ chức. Đặc
biệt, trong những tập thơ của ông đã xuất bản, trong những tập thơ anh đã
xuất bản, có những bài thơ đã được nhạc sĩ An Thuyên và nhạc sĩ Cầm
Phương phổ nhạc như Khúc ca cao nguyên, Đi tìm bóng núi, Tình ca bên
suối, Lá trầu… Ngoài sáng tác thơ, Dương Thuấn còn nghiên cứu văn hóa.
Ông vừa cổ súy việc bảo tồn và phát triển trong xu hướng hội nhập vừa trăn
trở đối với từng bước đi của văn học dân tộc thiểu số.
Là người con của xứ Tày – Bắc Kạn, những vần thơ của Dương Thuấn
luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời
sống sinh hoạt đến tâm hồn nếp suy nghĩ của con người qua giọng thơ bình dị,
đầy sức lôi cuốn đặc biệt ở cách sử dụng ngôn từ ví von, so sánh đầy tính trực
cảm và rất giàu biểu tượng – nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc thiểu
số. Dương Thuấn bộc bạch: “Tôi làm thơ bằng cả hai thứ tiếng: Tày và Kinh.
Khi viết tiếng Tày, tôi không nghĩ chỉ viết cho người Tày đọc, hoặc khi viết
bằng tiếng Kinh, tôi cũng không nghĩ chỉ viết cho người Kinh đọc. Tôi chỉ
nghĩ đến đối tượng đọc của tôi là con người. Theo tôi nhà thơ phải đứng trên
sự vật, trên cả thời đại mình đại để đem tiếng nói yêu thương tâm huyết nhất
của mình đến với mọi người. Tôi luôn luôn muốn khẳng định với mọi người
rằng: Tôi là như thế! Dân tộc tôi là như thế![26]
Trong văn học Việt Nam hiện đại, mảng sáng tác về miền núi chiếm vị
trí quan trọng. Những nhà văn, nhà thơ vùng cao đã góp phần không nhỏ
26
trong việc mang lại những âm điệu mới cho nền văn học dân tộc. Thơ ca Việt
Nam đã ghi dấu nhiều gương mặt thơ là người dân tộc tiêu biểu như: Nông
Quốc Chấn, Bài Tài Đoàn, Y Điêng, Lương Quy Nhân, Y Phương, Lò Ngân
Sủn, Inrasara, Dương Thuấn… Dù hiện nay sinh sống và làm việc ở thành
phố nhưng Dương Thuấn – nhà thơ của núi rừng Việt Bắc, người con của dân
tộc Tày vẫn luôn gắn bó máu thịt với quê hương, chung thủy với nguồn cội,
luôn khẳng định bản chất “chàng trai của núi” trong thơ mình. Không chỉ ý
thức được trọng trách “sứ giả văn hóa” cho dân tộc của một người nghệ sĩ mà
Dương Thuấn còn luôn nêu cao trách nhiệm, nghĩa vụ truyền tải văn hóa dân
tộc đến độc giả: “Người nghệ sĩ sẽ có tội lớn với dân tộc mình nếu không nắm
bắt được hồn của dân tộc mình, đem bó đuốc của hồn dân tộc mình thắp sáng
thêm hồn nhân loại”[26]. Có lẽ vì thế mà trong thơ Dương Thuấn luôn thấy
được thái độ trân trọng sự nâng niu, bảo tồn truyền thống. Tác phẩm của
Dương Thuấn góp phần làm giàu bản sắc văn hóa Tày nói riêng và văn hóa
Việt Nam nói chung trong thời đại mới.
1.4.2 Thơ Dương Thuấn tiếp nối mạch nguồn văn hóa Tày
Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, văn hóa “là hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội của mình”. Như vậy, văn hóa chính là cái cốt tủy của mỗi dân
tộc. Khai thác những nét đẹp văn hóa dân tộc luôn là khát vọng của nhiều
người cầm bút – Dương Thuấn là một trong số đó.
Thơ Dương Thuấn mang phong cách giản dị, hồn nhiên có phần hoang
dã như bản chất của con người miền núi núi. Phong cách thơ gắn liền với cá
tính, lối sống và kinh nghiệm sáng tác đồng thời cũng bắt nguồn từ sắc thái
dân tộc. Bản sắc dân tộc Tày của Dương Thuấn thể hiện ở nhiều mặt: tình yêu
thiên nhiên núi rừng, thái độ trân trọng nâng niu văn hóa phong tục, tình yêu
thương với con người xứ Mây. Nhà thơ đã từng tâm sự: “Đối với tôi, cảm xúc
27
để bật lên thành thơ không phải chỉ là cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp
sự vật hay điều gì lúc đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm trong tận đáy sâu tiềm
thức của tâm hồn đã sẵn có”[50].
Bên cạnh đó, văn hóa tâm linh của người Tày cũng được tác giả khai
thác với mong muốn khám phá mạch nguồn của cuộc sống đương đại, để gửi
tới người đọc những thông điệp quý báu về những giá trị lịch sử đầy tính nhân
văn trong văn hóa người Tày. Ở mảng đề tài này, đòi hỏi người viết phải có
bản lĩnh, một sự am hiểu nhất định về đặc tính về quê hương mình, dân tộc
mình. Dễ nhận thấy trong tâm thức của người Việt Nam, sự biết ơn không chỉ
dành cho người đang sống mà ngay cả những người đã khuất. Với tinh thần
ấy, người Việt luôn luôn trân trọng lịch sử của cha ông để lại. Đó chính là
dòng chảy tâm linh - một nguồn suối nuôi sống tâm hồn Việt Nam qua nhiều
thế kỉ. Dấu ấn văn hóa tâm linh trong thơ Dương Thuấn thường nghiêng về
các lễ hội, tục thờ cúng của đồng bào dân tộc Tày Nùng. Qua những bài thơ
ấy, dễ nhận thấy màu sắc huyền thoại lấp lánh trong đó. Với người Tày Nùng,
văn hóa tâm linh được thể hiện trước hết qua dịp lễ tết, hội hè.
Như vậy, với Dương Thuấn những kiến thức về văn hóa của ông về quê
hương là từ trong tiềm thức, là cảm xúc thường trực chảy tràn như cuộc sống
tự nhiên, dạt dào tình quê miền núi, tình người vùng cao. Thứ tình đó luôn
đầy ắp, sẵn trong lòng chứ không phải khuấy động lên mới có. Mảnh đất Bắc
Kạn với vẻ đẹp hữu tình, nên thơ của những con người chân thật, đáng yêu đã
hội tụ trong thơ Dương Thuấn một cách tự nhiên, sống động mà đầy gợi cảm.
Nó tạo nên sức sống, nét hấp dẫn không thể trộn lẫn với bất kì vùng miền nào,
dân tộc nào. Thơ Dương Thuấn thể hiện khát vọng của con người muốn nâng
niu, gìn giữ vẻ đẹp quê hương và giá trị đạo đức truyền thống dân tộc. Vì thế
có thể khẳng định những sáng tác của Dương Thuấn đã góp phần bồi đắp và
làm phong phú thêm văn hóa dân tộc Tày.
Xuất thân từ chàng trai của núi, Dương Thuấn ra đi về phía biển hát
28
khúc đảo ca rồi lại đem thơ mình đến với bạn bè thế giới nhưng chân trời
càng rộng mở thì nhà thơ càng muốn “ngược mặt trời” mà “tìm bóng núi” để
trở về “đêm bên dòng sông” và “hát với sông Năng”. Sinh ra và lớn lên ở Bắc
Kạn, hiện giờ sống ở thủ đô nhưng nỗi nhớ sơn cước luôn làm ông mất ngủ
giữa chốn kinh kỳ (Buổi chiều thành phố). Ông nhớ về Bản Hon, nhớ ngày
Lên rẫy, nhớ Núi Cơm Chiều, thèm Lời cô gái xứ Mây, khát lời Nàng ơi uống
rượu và luôn in đậm hình bóng Lượn cọi, Cái cầu thang cùng những buổi
chiều Việt Bắc Ôi nắng vàng như mật...
Có thể nói “chất Tày” luôn thấm đẫm trong thơ Dương Thuấn, nó là
“đinh”, là hồn cốt của phong cách thơ của ông. Nhà thơ đã cầm bút viết về
quê hương mình như một sự lắng đọng, ngưng kết đời sống tinh thần, văn
hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc mình, tạo thành nguồn suối hòa vào dòng
sông thi ca Việt để chảy vào biển cả văn hóa nhân loại. Khẳng định “chất
Tày” trong thơ Dương Thuấn, nhà nghiên cứu phê bình văn học Phạm Vĩnh
Cư đã phát biểu trong buổi giới thiệu bộ ba Tuyển tập thơ Dương Thuấn:
“Đọc thơ Dương Thuấn sẽ biết Dương Thuấn là ai? Dương Thuấn là bản
Hon! Dương Thuấn là sông Năng! Dương Thuấn là Bắc Kạn! Dương Thuấn
là miền núi! Và tôi cho rằng, Dương Thuấn chính là người Tày của người
Tày! Là miền núi của miền núi!(…) Bởi vì đọc thơ Dương Thuấn người ta
thấy anh yêu dân tộc anh, anh yêu quê hương anh một cách thấm đẫm, tự
nhiên, chân thật, mộc mạc nhưng với đầy niềm tự hào”[45]. Quê hương và
tuổi thơ với những câu chuyện huyền thoại về hồ Ba Bể, sông Năng, bản Hon
đã chắp cánh cho tâm hồn thơ Dương Thuấn. Vì vậy, người đọc thấy một thế
giới thơ giản dị, chân thực nhưng cũng lãng mạn, bay bổng, vừa hồn nhiên
trong sáng mà hóm hỉnh suy ngẫm. Ít nhà thơ có được một phong vị đậm đặc
29
về quê hương bản quán trong sáng tác như Dương Thuấn.
CHƯƠNG 2
CẢM THỨC VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN
2.1 Thế nào là cảm thức văn hóa
Cảm thức bao gồm hai yếu tố là cảm giác và nhận thức. Tâm lý học định
nghĩa cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh thuộc tính riêng lẻ của sự vật
hiện tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của ta. Cảm
giác không chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của đối tượng bên ngoài mà còn
phản ánh những trạng thái bên trong của cơ thể. Ví dụ như với một người lữ
khách tha phương khi nhìn thấy khói bếp lan tỏa trên những mái nhà trong lòng
tự trào dâng cảm xúc bồi hồi nhớ thương về quê nhà. Tâm lý học trong cuốn
Giải thích thuật ngữ Tâm lý – Giáo dục học cũng định nghĩa: nhận thức là toàn
bộ những quy trình mà nhờ đó những đầu vào cảm xúc được chuyển hoá, được
mã hoá, được lưu giữ và sử dụng. Hiểu nhận thức là một quy trình, nghĩa là nhờ
có quy trình đó mà cảm xúc của con người không mất đi, nó được chuyển hoá
vào đầu óc con người, được con người lưu giữ và mã hoá. Với yếu tố cảm giác
và nhận thức con người có khả năng tiếp cận trực tiếp hơn với bản chất của sự
việc. Ví dụ, khi đứng trước một người mới gặp, một số người có thể cảm nhận
được suy nghĩ tư tưởng của người đối diện như thế nào nhưng một số người
khác lại chỉ cảm nhận được về vẻ hình dáng bên ngoài. Trong cuộc sống có
không ít những người có khả năng cảm thức hơn những người bình thường như
Beethoven bị điếc nhưng ông lại có thể sáng tác ra những bản giao hưởng tuyệt
vời. Cho nên không thể nhìn vào trực giác về hình dáng bên ngoài để đánh giá
một con người. Do vậy cảm thức chính là sự kết hợp giữa cảm giác và nhận thức
Cảm thức cho ta một cái nhìn gần hơn với bản chất của sự vật, sự việc hoặc một
cái nhìn nhất định về sự vật, sự việc đó.
Như vậy có thể hiểu, cảm thức thơ đó là sự hòa quyện hữu cơ không
30
thể tách bạch giữa xúc cảm và trí tuệ, giữa cái nhà thơ cảm và cái nhà thơ
nghĩ. Nhà thơ nhiều khi thấy mình như đang trôi, đang đắm chìm, đang bị
cuốn đi trong một cõi hỗn mang của vô thức. Trong cái cõi đó, nhà thơ ta
nhận thức thế giới. Đây chính là con đường dẫn đến những phi lý của thơ ca
mà người ta thường ta thường nói tới những hiện tượng không thể lý giải.
Từ sự giải thích và định nghĩ hai thuật ngữ cảm thức và văn hóa (xem
Chương 1 mục 1.1.1 Khái niệm văn hóa), chúng ta có thể hiểu cảm thức văn
hóa là sự nhận thức về hệ giá trị xã hội - bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân
tộc. Quá trình nhận thức ấy, chủ thể sẽ phải dùng đến cảm xúc, trí tuệ để bày
tỏ thái độ của mình trước một hiện tượng hay một giá trị mà cộng đồng đã coi
là chuẩn mực. Như vậy cảm thức hoàn toàn là nhận thức chủ quan của một cá
nhân nhưng văn hóa lại là hệ giá trị của cả một tập thể. Cảm thức văn hóa suy
cho cùng chính là sự nhận thức lại (tác động của cả cảm xúc và trí tuệ) những
giá trị chuẩn mực của một dân tộc hoặc cộng đồng.
Dưới đây chúng tôi sẽ khảo sát nội dung thơ Dương Thuấn để thấy
được các Dương Thuấn đã cảm, đã tư duy về những giá trị văn hóa của cộng
đồng của dân tộc ông - dân tộc Tày như thế nào.
2.2 Sự gắn bó, tự hào về quê hương
Tuyển tập thơ Dương Thuấn gồm ba tập: Bản Hon và những nơi khác,
Thơ tình, Thơ thiếu nhi dày hơn 2000 trang, in song ngữ (tiếng Tày và tiếng
Việt) nhưng đó chắc chắn chưa phải là toàn bộ sáng tác của Dương Thuấn từ
trước đến nay. Cách phân chia thành ba tập thơ trên chỉ là cách phân chia theo
đề tài còn nếu thâu tóm theo chủ đề “gắn bó, tự hào về quê hương” thì không
chỉ gồm những bài thơ viết về bản Hon mà ngay cả thơ tình, thơ thiếu nhi của
Dương Thuấn cũng dạt dào tình cảm dành cho quê hương, bản làng. Tình yêu
với quê hương là cảm hứng luôn thôi thúc trong tác giả. Thơ viết về quê
hương của Dương Thuấn với cảm xúc tràn trề bất tận. Phải yêu nơi chôn rau
31
cắt rốn của mình đến khôn cùng, yêu luôn cả thiên nhiên đất trời, núi non, bản
làng, yêu gió, yêu mây, yêu cả từng con trâu, con ngựa, mỗi loài hoa, cây cỏ
thì số lượng bài thơ về quê hương mới phong phú, đồ sộ như thế (800 bài).
Dương Thuấn hát những bài ca về lao động, về vẻ đẹp thiên nhiên, con người,
phong tục hội hè, về tình yêu trai gái, tình yêu làng bản. Quê hương đi vào
trong thơ Dương Thuấn chân thực pha sức gợi cảm. Nó tạo nên sức sống, nét
hấp dẫn rất riêng không thể trộn lẫn.
2.2.1 Tình yêu thiên nhiên
Thiên nhiên là mảng đề tài quen thuộc trong thơ Dương Thuấn. Bằng
hai mạch cảm xúc: cảm xúc của một con người đang ở miền núi gắn bó, hòa
nhập với thiên nhiên và cảm xúc của một con người xa quê hương với bao kỉ
niệm sâu lắng, tha thiết, nhà thơ đã vẽ lại hình ảnh thiên luôn gắn với cuộc
sống của con người Việt Bắc vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Thiên nhiên Việt Bắc
đã từng xuất hiện nhiều trong thơ của nhiều tác giả đi trước như: Hồ Chí
Minh, Tố Hữu, Nông Quốc Chấn, Lò Ngân Sủn, Y Phương... khi bước vào
thơ Dương Thuấn, cảnh rừng Việt Bắc hiện lên vừa thơ mộng trữ tình nhưng
cũng không kém phần hoang sơ, hùng vĩ:
Quê tôi núi ngàn cao vời và lớn rộng
Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung
(Quê tôi núi ngàn)
Chỉ với hai câu thơ mà tác giả đã giới thiệu cho bạn đọc những nét đặc
trưng đầy thơ mộng về một miền núi ngàn rộng lớn, cao vời vợi, sớm chiều
sương phủ. Đặc biệt vào buổi chiều khi hoàng hồn xuống, hình ảnh những
ngọn núi, hang đá hiện lên thật hùng vĩ, trùng điệp:
Hoàng hôn xuống
Ngắm ngọn Bút Sơn
Ngắm núi Voi oai hùng xung trận
32
(Chiều bản Hon)
Dương Thuấn có khi đóng vai người chủ hiếu khách, ông làm thơ như
để cầm tay, mời gọi bạn đọc về thăm thú, thưởng ngoạn cảnh đẹp quê hương
mình. Nơi đây hút hồn người, níu bước chân du khách và ai đến đây cũng có
thể tức cảnh mà làm thơ, trở thành thi sĩ trong phút chốc:
Có thể anh chưa bao giờ làm thi sĩ
Đến Ba Bể cảnh thần tiên đẹp quá
Anh sẽ bồi hồi và tự làm thơ
(Mời anh về Ba Bể)
Lại có lúc nhà thơ hóa mình thành một du khách, bị vẻ đẹp rừng núi
làm say đắm. Hình ảnh “gió thổi lá vàng trong nắng thu rơi rơi”, “hoa dại nở
khắp triền đồi thắm đỏ” rồi hình ảnh của “trăng bạc thung thăng chạy trên
ngọn cỏ”... tạo nên bức tranh thiên thiên đầy thơ mộng, lãng mạn, quyến
luyến hồn người. Chính nhà thơ, người đã quá đỗi quen thuộc với những hình
ảnh thiên nhiên đó cũng không giấu khỏi sự ngỡ ngàng, vui sướng mà phải
thốt lên: “ôi nắng vàng như mật”, “kìa thảo nguyên đẹp thế”. Nếu ai đã sống
hoặc đến du ngoạn cảnh đẹp Việt Bắc chắc chắn sẽ đồng ý rằng, thiên nhiên
núi rừng nơi đây đẹp nhất là vào mùa xuân. Vì thế thơ tả cảnh đẹp mùa xuân
Việt Bắc cũng nhiều hơn trong sáng tác của các thi sĩ. Mùa xuân trên quê
hương Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng thường được tác giả miêu tả với những
hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là hình ảnh hoa lá tựa như tấm vải thổ
cẩm trải qua mặt bàn rực rỡ màu sắc trong thơ Nông Quốc Chấn:
Mùa xuân mới về với chúng ta
Lá hoa nhuộm đồi đèo rừng núi
Như thổ cẩm trải qua mặt bàn
Hay mùa xuân của hoa mơ trắng xuất hiện trong bức tranh tứ bình của
33
nhà thơ Tố Hữu:
Mùa xuân hoa nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
(Việt Bắc)
Nhưng có lẽ viết hay, viết nhiều về mùa xuân Việt Bắc nhất phải kể đến
Dương Thuấn. Mùa xuân trên rẻo cao thường được tác giả miêu tả với những
hình ảnh đậm màu sắc miền núi. Đó là những rừng đào rực hồng, rừng ban,
rừng mơ trắng muốt cùng đua nhau khoe sắc, tạo nên vẻ đẹp rực rỡ cho núi
rừng: “Hoa đào nở thắm rồi/ Rừng hoa ban nở trắng/ Dậy ra núi cùng chơi/
Mùa xuân đã đến rồi” (Bài ca mùa xuân) hay: “Theo mùa xuân lên núi/ Bạn
sẽ gặp hoa mơ/ Bông nở thành chiếc khuy/ Cài áo mây trắng xóa (Theo mùa
xuân đi).
So với mùa xuân, ba mùa (hạ, thu, đông) xuất hiện ít hơn trong thơ
Dương Thuấn nhưng cách cảm nhận, cách miêu tả mỗi mùa đó với Dương
Thuấn lại có phần lạ hơn so với các thi nhân khác. Cái lạ đó chính là hình ảnh
thiên nhiên miền núi trong mỗi mùa luôn mang đến cho người đọc một sự
khám phá, một niềm bất ngờ thích thú mới. Nếu như mùa hè ở đồng bằng hay
các vùng địa lí khác trên đất nước ta là mùa của nắng thì mùa hè ở vùng cao lại
là mùa lũ tràn về: Tháng sáu mưa ngàn/Bất ngờ cơn suối lũ (Tháng sáu). Mùa
thu trong thơ từ xưa nay thường mang đến một nỗi buồn man mác, dịu nhẹ
trong lòng người nhưng trong thơ viết cho thiếu nhi của Dương Thuấn thì mùa
thu lại đem đến một sự rộn ràng náo nức. Đây là đàn cá võng tung tăng bơi lội
giữa dòng nước trong xanh: Sáng sớm lạnh se se/ Sông xanh như lá nghệ/ Cá
võng đi từng đàn/ Xuôi theo dòng về bể (Tháng sáu). Và hình ảnh mùa đông
vui tươi trong thơ Dương Thuấn khác hẳn với mùa đông lạnh lẽo, đìu hiu, cô
đơn trong thơ ca cổ xưa. Đó là một mùa đông vui như đi trẩy hội, một mùa
đang được mong đợi: Mùa đông ra đi từ năm ngoái/ Đến hẹn năm nay lại trở
34
về/ Cầy hương vui hội trên ngọn móc/ Lợn lòi dúi mõm ủi dọc khe (Mùa đông).
Đọc thơ Dương Thuấn, miền quê Bắc Kạn hiện lên với nhiều địa danh,
danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: hồ Ba Bề, động Puông, rừng Phja Bjooc,
sông Năng, nước Bạc, thác Đầu Đẳng, Phủ Thông, đèo Giàng, đèo Gió...
nhưng có lẽ địa danh xuất hiện nhiều và ám ảnh nhà thơ nhất là hồ Ba Bể và
sông Năng. Hai cảm xúc viết về thiên nhiên của tác giả hòa quyện vào nhau
tan vào cảnh hồ Ba Bể và sông Năng để rồi tạo ra một cõi mơ huyền ảo, bồng
bềnh gió mây. Dương Thuấn đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại để
diễn tả cảm xúc thăng hoa khi viết về hồ Ba Bể:
Đứng ở sườn non đưa tay ra bắt cá
Trên thuyền hái được củi đem về
Còn với sông Năng, con sông ấy là hình ảnh đầu tiên hiện lên khi nhà
thơ nhớ về quê hương. Trong những đêm trằn trọc không ngủ, nhà thơ vẫn mơ
tiếng sóng của dòng sông, lúc nào ông cũng muốn quay trở về để được “hát
với sông Năng”.
Bây giờ mỗi đêm nằm lại nghe tiếng sóng
Tiếng thác reo chui vào trong chăn thành giấc mơ
Sự ám ảnh về dòng sông quê hương theo tác giả đi bất cứ nơi đâu, để
đến đâu nhà thơ cũng hướng về dòng sông quê hương, cũng nhớ về núi Chẻ
Dả, cũng muốn quay về hồ Ba Bể.
Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đẹp, thơ mộng là vậy nhưng có khi thiên
nhiên ấy cũng hiện lên thật sự dữ dội. Lũ rừng đã là một “đặc sản” của vùng
cao. Nó cuốn đi tất cả những rác rưởi cuộc đời, gây bao tác hại cho đồng bào:
Rác rưởi/ Cành khô/ Cuốn đi lớp lớp/ Nước cuồn cuộn trôi/ Gồng lưng đạp
vỡ bờ/ (...)/ Hỏi cơn lũ nào hơn phần dữ dội (Cơn lũ rừng – cơn lũ thời gian).
Nhà thơ miêu tả thiên nhiên hiểm trở để khắc họa nét gai góc của cảnh rừng
Việt Bắc mặt khác còn muốn chứng tỏ sức mạnh, nghị lực sống của con người
35
nơi đây trước sức hủy hoại ghê gớm của thiên tai.
Mỗi nhà thơ đều có một vùng quê riêng, gắn bó với bao kỉ niệm cuộc
đời. Quê hương Dương Thuấn là vùng núi cao Việt Bắc hùng vĩ chính vì vậy
những vần thơ của ông về quê hương bao giờ cũng bay bổng, phóng khoáng
như chính tậm hồn của người dân miền núi:
Tự gieo mình rơi xuống giữa đại ngàn
(…)Hóa thành thác bọt tung trắng xóa
(Thác Đầu Đẳng)
Tình yêu với thiên nhiên của nhà thơ không chỉ thể hiện ở hành động
chiêm ngưỡng, ngắm nhìn và mong muốn quảng bá hình ảnh quê hương đến
độc giả mà còn thể hiện ở mối quan hệ hòa quyện, gắn bó giữa thiên nhiên và
con người.
Trên khóm mai tiếng gà rừng thôi gáy
Người dắt trâu lộc cộc bước ra đường
Tiếng cối giã lên mặt sông rộn rịp
Mịt mù trôi đi dòng nước khói sương…
(Buổi sớm bản Hon)
Vào buổi sớm, bức tranh thiên nhiên ở bản Hon hiện với âm thanh
tiếng gà rừng, tiếng giã gạo, tiếng vó trâu lộc cộc cùng hình ảnh “dòng nước
khói sương” và hiện lên trên bức tranh ấy là hình ảnh người lao động. Một
ngày mới bắt đầu với cảnh vật thanh bình và con người lao động chăm chỉ,
mộc mạc. Để ý ta thấy, tất cả các địa danh nổi tiếng Bắc Kạn đều xuất hiện
trong thơ Dương Thuấn, đặt bên cạnh những địa danh đó là bản Hon bé nhỏ,
đơn sơ. Phải chăng bản Hon là một không gian thu nhỏ của các không gian
văn hóa nổi tiếng của Bắc Kạn? Miêu tả bản Hon, nhà thơ khắc họa đó là một
không gian động, có thiên nhiên và con người quấn quyện trong sự tuần hoàn,
36
hài hòa với nhau.
Những ai sinh sống ở rừng núi hay biển đảo đều thấm thía thế nào là
rừng thiêng nước độc, mưa rừng bão bể nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy
một câu thơ than thở, chê trách thiên nhiên núi rừng trong thơ Dương Thuấn.
Đó không phải do thơ Dương Thuấn phiến diện chỉ có cảm hứng ca ngợi
không mà bởi những khó khăn, thử thách do thiên nhiên gây ra đã được đồng
bào nơi đây vượt qua. Hay nói cách khác, thiên nhiên hòa quyện cùng đời
sống sinh hoạt của con người còn là cách con người nơi đây chinh phục, thuần
hóa thiên nhiên. Hãy nghe người con của núi rừng tự hào khi mang trong
mình những sức mạnh oai hùng của đại ngàn và một tâm hồn phóng khoáng
của gió trời:
Ta có con mắt của con nai bên suối
Ta có con mắt của con báo trong lồng
Ta đi bộ từ núi xuống đồng bằng
Ta ghé tai hổ nói:
- Ta là họ Dương
Hổ liền cõng ta vượt núi
Giữa đường gặp trăng sao
Ta ngồi cùng trăng sao uống rượu…
Yêu thiên nhiên, say mê cảnh đẹp quê hương khiến thơ Dương Thuấn
dày đặc những hình ảnh núi rừng, cây cỏ, sông núi xứ Tày. Đặc biệt có những
hình ảnh thiên nhiên xuất hiện với tần suất cao và trở thành biểu tượng văn
hóa trong thơ Dương Thuấn: núi 126 bài/800 bài, sông suối 165 bài/800 bài,
trăng 60 bài/800 bài. Bộ ba này theo nghĩa thực thì đó là biểu trưng quen thuộc,
gắn bó với cuộc sống con người miền núi. Như vậy ở tầng nghĩa thứ nhất, bộ
ba hình ảnh thể hiện sự giao hòa gắn kết giữa cuộc sống con người với thiên
nhiên xung quanh. Nhưng ở tầng nghĩa thứ hai - giá trị biểu tượng của những
37
hình ảnh đó lại tượng trưng cho vẻ đẹp con người và cho người mẹ lớn - quê
hương. Chúng tôi sẽ trình bày rõ ràng, cụ thể hơn giá trị tượng trưng của các
biểu tượng văn hóa này trong thơ Dương Thuấn ở chương 3 của luận văn.
Sự gắn bó, tự hào về quê hương của Dương Thuấn không chỉ bó hẹp
trong bản làng xứ Tày núi chung mà còn được ông mở rộng đến khắp vùng
miền trên khắp đất nước. Tập thơ Bản Hon và những nơi khác đã tái hiện hình
ảnh về cảnh quan thiên nhiên, các địa danh nơi tác giả đã đi qua với một thái
độ trân trọng, ngợi ca đồng thời thể hiện hoài bão khám phá của một chàng
trai miền núi: muốn đi nhiều, hiểu nhiều để viết nhiều. Đọc thơ Dương Thuấn
ta thấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên thật lung linh, tươi đẹp. Viết về
thiên nhiên Việt Bắc, Dương Thuấn đã thể hiện tình cảm thật sâu đậm của
ông với quê hương mình. Người con của núi rừng Việt Bắc ấy đã viết về Bắc
Kạn với một niềm tự hào, một tình yêu mãnh liệt.
2.2.2 Thái độ với truyền thống dân tộc
Thơ ca chỉ tồn tại và có được thành tựu khi nó thực sự gắn bó với dân
tộc, với truyền thống dân tộc đã sinh ra mình. Nói như cách của nhà thơ dân
tộc Chăm Inrasara là: “Truyền thống không phải là cái gì để chúng ta tìm tới
khai thác trục lợi mà là một sinh thể sống động luôn luôn mời gọi chúng ta
tiếp cận. Chỉ khi nào chúng ta nghiêm túc học hỏi và đối thoại với hàng ngàn
thế hệ con người đã chết, chúng ta mới có đủ lông cánh nói đến sáng tạo.
Chứ không phải thái độ học lỏm qua vài chuyến điền dã hay đọc qua loa các
“công trình khoa học lớt phớt ở vành ngoài”[54]. Trong các nhà thơ dân tộc
Tày, việc kế thừa, tiếp thu và phát huy mạch nguồn văn hóa dân tộc ở mỗi
người một khác, theo một cách riêng. Trước thế hệ nhà thơ Dương Thuấn có
thể kể đến các nhà thơ như: Nông Quốc Chấn, Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương
Quy Nhân... song có thế do hoàn cảnh lịch sử, việc giao lưu, quảng bá văn
38
hóa còn hạn chế. Đến Dương Thuấn, ông đã tiếp nối và mở mang con đường
mà các thế hệ đi trước đã làm, đó là khẳng định mạnh mẽ một đời sống văn
hóa văn nghệ cho dân tộc mình.
Đối với nhà thơ Dương Thuấn, truyền thống dân tộc thể hiện trong thơ
ông được dẫn dắt bởi hai tuyên ngôn: Một là, tuyên ngôn “ta là chàng trai
của núi” – tuyên ngôn về ý thức nguồn gốc. Hai là, “Ta ở đâu bản ta ở đó” -
tuyên ngôn về ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Phố phường Hà Nội là
nơi Dương Thuấn sống hằng ngày nhưng tâm hồn ông luôn “bay quẩn quanh
trên các ngọn núi cao”[50]. Đối với Dương Thuấn, cảm xúc để bật lên thành
thơ không phải là cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp sự vật hay điều gì lúc
đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm tận tiềm thức của tâm hồn đã có sẵn. Tình
yêu quê hương và những kỉ niệm, cũng như kiến thức về văn hóa, một vùng
quê phong cảnh đẹp và ấm áp tình người… Mọi thứ phải có từ trong tiềm
thức và có cảm xúc luôn luôn thường trực thì khi nhìn thực tế mới có cộng
hưởng ngân vang lên thành âm thanh và câu chữ. Và như thế thơ Dương
Thuấn chảy tràn như cuộc sống tự nhiên, dạt dào tình quê miền núi, tình
người vùng cao... Dù đã đi khắp mọi miền Tổ quốc, đã đi công tác tại nhiều
quốc gia nay sống giữa trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị xã hội của đất
nước nhưng Dương Thuấn vẫn “tự thú”: “Đọc thơ để thấy người, tôi có bao
giờ giấu nổi tôi đâu. Là người con của dân tộc Tày, những vần thơ của tôi
viết ra mang hồn vía của người Tày”[58]:
Người làm nương ăn theo lửa
Người làm đồng ăn theo nước
Sinh ra tắm nước thơm mới là con của mẹ
Lớn lên tắm nước sông mới là con của làng
Đóng tày đi ra bể
Tắm giữa đại dương mới là người của muôn nơi
39
(Ăn theo nước)
“Ta là chàng trai của núi”, “Ta ở đâu bản ta ở đó” như những lời nói
bình dị, mộc mạc nhưng nó chứa chan một ý nghĩa lớn lao. Đó là quan niệm
giàu chất nhân văn của các trí thức miền núi khi thực hiện sứ mệnh sứ giả văn
hóa của họ. Nhà thơ sinh ra từ bản, “đi khắp trăm nơi” (Làm ăn), “qua ngàn
vạn cánh rừng” (Con rết vua), “đã đến hàng trăm nơi biết muôn vàn thứ”
(Phía sau ngọn núi). Dù đi đâu về đâu, về đâu, dù có ở trên núi, đi xuống
đồng, đi ra biển, ở trong nước hay đi ra nước ngoài thì nhà thơ vẫn đau đáu về
bản Hon quê mình, vẫn nhớ về những mái nhà sàn, về cái bậc cầu thang, về
đèo mây phủ, về những ngọn núi, những cánh rừng. Dương Thuấn là người
không biết mệt mỏi ca ngợi cảnh vật và con người quê mình và chủ đề quê
hương chưa bao giờ trở thành nhàm chán đối với nhà thơ xứ Tày này.
Ý thức bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc được Dương Thuấn coi
như nhiệm vụ tiên phong, hàng đầu. Một trong những giá trị văn hóa mà
Dương Thuấn đặc biệt gìn giữ nhất đó là tiếng mẹ đẻ - tiếng Tày. Dương
Thuấn cho rằng: “Vai trò trách nhiệm của nhà thơ, nhà văn là phải bảo tồn
ngôn ngữ. Việc đưa sách văn học vào trong nhà trường cũng không thể bảo
tồn được. Trách nhiệm đó thuộc về các nhà văn, nhà thơ”[61]. Hiện nay, nhà
thơ thông thuộc bốn thứ tiếng nhưng ông vẫn không quên gìn giữ và trau
chuốt tiếng Tày bằng cách nghe đọc qua sách đĩa và đặc biệt sáng tác bằng
tiếng Tày. Những tập thơ viết bằng tiếng Tày như: Lục pjạ hết lùa (1995),
Slíp nhỉ tua khoăn (2002) và đặc biệt Tuyển tập gồm 3 tập thơ song ngữ (Tày
– Việt) vừa xuất bản 2010 là minh chứng giá trị nhất cho ý thức giữ gìn, bảo
tồn tiếng và chữ viết cho dân tộc mình của Dương Thuấn. Thơ dân tộc thiểu
số trong những năm gần đây đang có nhiều khởi sắc nhưng cũng có nhiều vấn
đề đáng bàn. Trong đó, việc sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ được quan tâm hơn cả.
Nhiều nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số khi bắt đầu viết họ nóng lòng muốn
40
được mọi người biết đến nên viết bằng tiếng Kinh, nhiều người cho đó là hiện
tượng “Kinh hóa” văn học thiểu số. Trước hiện tượng này, Dương Thuấn đã
bày tỏ quan điểm đánh giá “được”, “mất” khi nhà văn dân tộc thiểu số sáng
tác bằng tiếng Việt: “Họ được khá nhiều. Thứ nhất: họ sẽ nổi tiếng nhanh
hơn, nhiều người biết hơn. Thứ hai: sáng tác bằng tiếng Việt in ấn sẽ dễ hơn,
thuận lợi hơn… Tất nhiên họ cũng mất khá lớn. Chẳng hạn vai trò của nhà
văn đối với phát triển văn hóa dân tộc sẽ mất đi. Tôi nghĩ tác phẩm của nhà
văn có sống được hay không thì phải gắn liền với dân tộc, cụ thể là phải gắn
với ngôn ngữ dân tộc. Các tác phẩm văn học không gắn bó với nhiều dân tộc
chung chung, nếu như thế sẽ chỉ sống được trong chốc lát mà thôi”[62].
Tuyển tập thơ song ngữ 3 tập này của Dương Thuấn là một bằng chứng lớn
về tình yêu ngôn ngữ Tày của ông. Nhà thơ dày công viết thơ bằng hai thứ
tiếng (Tày và Kinh) thể hiện sự nỗ lực đưa nét đẹp ngôn ngữ của dân tộc mình
giao lưu với văn hóa của các dân tộc khác.
Thái độ đối với văn hóa truyền thống dân tộc trong thơ Dương Thuấn
còn thể hiện ở sự nâng niu, ca ngợi nếp sinh hoạt văn hóa, những phong tục
tập quán của riêng dân tộc Tày. Người Tày có nhiều phong tục mà đến giờ,
cho dù đã ở thành thị gần 20 năm, tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau
nhưng Dương Thuấn vẫn không thể quên phong tục tập quán của dân tộc
mình. Là người con của dân tộc Tày, Dương Thuấn sinh ra và lớn lên từ núi
rừng Việt Bắc tươi đẹp mà hùng vĩ. Ngay từ nhỏ, ông đã được nuôi nấng, hít
thở không khí văn hóa dân tộc mình. Từ những sinh hoạt hàng ngày, những
câu sli, lượn, câu then rồi lễ Hội Lồng Tồng đến phong tục tập quán của quê
hương đã bồi dưỡng cho ông một tâm hồn đậm chất Tày và đặc điểm ấy
thường xuyên in đậm suốt những bài thơ của ông. Đọc thơ Dương Thuấn, bạn
đọc sẽ được mở mang kiến thức về văn hóa dân tộc Tày hay hơn cả khi bạn
41
đọc một cuốn sách viết về văn hóa.
Nhà thơ Dương Thuấn đã phản ánh được những truyền thống tốt đẹp
trong đời sống tình cảm của người Tày vào thơ mình, đó là tục thờ cúng tổ
tiên. Đây là nét sinh hoạt văn hóa tốt đẹp được truyền lại qua bao đời đến nay
vẫn được người Tày lưu giữ. Nét sinh hoạt văn hóa tâm linh ấy đã đi vào thơ
Dương Thuấn một cách tự nhiên và đem đến cho người đọc những hiểu biết
về cuộc sống của đồng bào Tày.
Hôn nhân gia đình của người Tày tuy theo chế độ phụ hệ nhưng văn
hóa Tày vẫn đề cao, biết ơn vai trò người phụ nữ. Tục đi tết mẹ vợ là một
trong số những mỹ tục của người Tày. Mỗi lần đi thăm tết mẹ vợ người con rể
thường mang mang những vật phẩm cao quý như: một con gà trống thiến to
béo hay một miếng thịt lợn dài đúng bằng thân con lợn do anh ta nuôi. Dù ở
thành phố nhưng nhà thơ Dương Thuấn tâm sự hàng năm ông vẫn thực hiện
đầy đủ hiếu nghĩa này: “Đã làm con rể trẻ hay già/ Dù ở gần hay ở xa/ Đến
tháng giêng nhớ thăm mẹ vợ/ Người đã sinh thành nuôn lớn vợ ta” (Tháng
giêng thăm mẹ vợ).
Còn đây lại là suy nghĩ của một cô gái với bao bỡ ngỡ ngày mới về làm
dâu nhưng cô vẫn nêu cao tinh thần gìn giữ nề nếp gia đình đã trở thành mẫu
mực “công dung ngôn hạnh” của người phụ nữ Tày trong bài thơ Con dâu
nhà sàn: Con dâu nhà sàn bữa nay khép nép/ Không dám đi qua phía trước
bàn thờ/ Không dám ngồi ở mặt trên bếp lửa/ Không dám ăn chung mâm với
bố chồng/ Con dâu nhà sàn dậy sớm nhất mùa đông/ Gánh nước, quét nhà,
nắm cơm đi rẫy/ Nhớ bao điều được làm bao điều kiêng cấm/ Học nói học đi
giữ nếp gia đình
Có thể nói, thơ Dương Thuấn đã phản ánh, lưu giữ những nét đẹp trong
đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Tày, của những dân tộc anh em trên
vùng cao Việt Bắc. Bóng núi bản, bản Hon luôn ngự trị trong các chiều cảm
42
xúc của nhà thơ xứ Mây. Đó là nỗi niềm gắn bó với phong tục truyền thống
thiêng liêng nơi chôn rau cắt rốn của nhà thơ. Thơ Dương Thuấn là sự dốc
cháy một cách chân thực những tình cảm của ông về tình nghĩa và văn hóa
quê hương thông qua những hình ảnh ấn tượng và những cảm nhận về văn
hóa, con người.
2.2.3 Tình yêu đối với con người
Tình yêu đối với con người trong thơ Dương Thuấn chủ yếu được thể
hiện với đồng bào Tày – những con người xứ Mây. Đến nay Dương Thuấn đã
xuất bản 11 tập thơ nhưng số lượng viết về con người miền núi không nhiều
bằng hình ảnh cảnh vật quê hương. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa hình
ảnh con người miền núi giảm đi giá trị ấn tượng. Trên thực tế, hình ảnh nghệ
thuật này trong thơ ông đều gắn liền với những con người cụ thể trong cuộc
đời. Ông đã quy tụ vào đó nhiều phẩm chất cao đẹp đại diện cho cả cộng đồng
dân tộc. Với điểm nhìn của một nghệ sĩ, Dương Thuấn đã tạo nên được sự
thống nhất cao độ giữa cái cụ thể và cái khái quát, giữa thực và hư, giữa cái
phi lí và cái có lí, giữa tình cảm với trí tuệ để xây dựng nên những con người
miền núi có phẩm chất cao đẹp.
Những con người miền núi, đứng trên đỉnh núi với tay chạm vào mây,
từ thực tế ấy mà Dương Thuấn gọi đồng bào mình là những con người xứ
Mây. “Xứ Mây” không chỉ nói lên hoàn cảnh địa lí sống mà còn tạo ra chất
thơ bay bổng cho những tâm hồn phóng khoáng vượt núi băng rừng. Dương
Thuấn có một loạt bài thơ viết về Người xứ Mây, Bà mẹ xứ Mây, Cô gái xứ
Mây, Em bé xứ Mây… Nhà thơ luôn chú ý đến việc đưa con người lên vị trí
đại diện cho nét đẹp văn hóa của dân tộc. Mỗi con người cụ thể đều có những
phẩm chất, đức tính tốt đẹp nói chung của con người miền núi: hồn nhiên,
trong sáng, kiệm lời, có sức sống mãnh liệt, có tấm lòng hiếu khách, tấm lòng
hướng về nguồn cội. Nét thần diệu của hồn Tày trong thơ Dương Thuấn, biểu
43
hiện rõ nhất ở tính cách con người miền núi thấm đẫm trường văn hóa đậm
chất Tày. Nét văn hóa ấy vẫn còn tỏa sáng lòng người trên những bản làng
vùng cao hôm nay:
Khách đến nhà không vội hỏi tên
Mà chỉ hỏi:
- Con đường nào đã đưa anh đến…
Cũng không hỏi đi từ rừng hay từ biển
Mà nói rằng:
- Hãy uống cạn vò rượu cùng ta
Khách muốn gì xin tự nói ra
Khách đi chủ nhà chỉ nói:
- Đừng để cầu thang nhà tôi mọc cỏ gà…
Bài thơ thể hiện tấm lòng hiếu khách của chủ nhà không phải là sự
quyến luyến, bịn rịn khi chia tay mà là sự mong mỏi, ngóng chờ: khách sẽ
không quên mình mà trở lại thăm nhà mình. Cách nói đơn sơ, mộc mạc
“Đừng để cầu thang nhà tôi mọc cỏ gà” không hứa hẹn mâm cao cỗ đầy đón
khách mà mở ra cả một tấm lòng, đức tin vào tình cảm con người của người
miền núi. Niềm tin ấy được đồng báo nhắn nhủ không chỉ với khách lạ mà
còn với cả những đứa con sinh ra từ núi rừng mà ăn cơm gạo xứ người:
Đi đâu rồi cũng trở về
Nước múc gáo dừa
Gạo vẫn đong bằng đấu
Bên bếp mắt lại nhìn đau đáu
Đêm dài lửa ấm có em
(Quê hương)
Con người thực, đời sống thực tác động lên hồn thơ Dương Thuấn giúp
44
ông sáng tạo hình ảnh thơ mang ý nghĩa khái quát nhất định:
Ở vùng cao con người vất vả
Chiếc gùi đè nặng trên lưng
Cõng hết cửa nhà ngô lúa
Cõng trâu leo lên núi trập trùng
(Cõng trâu)
Dương Thuấn đã sáng tác bằng con mắt của người trong cuộc. Tâm hồn
nhà thơ đầy ắp nỗi niềm quê núi. Chính vì vậy có những nét hiện thực rất khó
có thể thành thơ, như vấn đề sức kéo trong nông nghiệp trên vùng cao. Hình
ảnh ông già cõng trâu lên núi đã gây bất ngờ cho bất cứ một người đọc nào
không sống ở miền núi. Hình ảnh thơ độc đáo đã chinh phục bạn đọc: chúng
ta thấy khâm phục, cảm động trước ý chí khắc phục khó khăn của người dân
miền núi. Bài thơ đã chạm đến trái tim độc giả, đó là sự thành công đáng giá
nhất của một tác phẩm nghệ thuật.
Với Dương Thuấn, làm thơ là viết về “đồng bào mình” để phục vụ dân
tộc mình. Thơ ông mang sinh khí riêng của cả một xứ sở nên cái riêng ấy
đang hòa nhập với cái hồn chung, cái sắc thái dân tộc chung để tạo nên sự
thống nhất. Trong thơ Dương Thuấn, hình ảnh người phụ nữ là mẹ, là “em”
hiện lên đằm thắm, đôn hậu, gần gũi và qua đó thể hiện những trân trọng ưu ái
đặc biệt của nhà thơ. Người mẹ xứ Mây gắn với lời ru, lời dặn dò: chỉ đường
dắt lối, dạy con trai tính can đảm, chính trực sống giữa cuộc đời (Mẹ đừng
thương, Bà mẹ xứ Mây). Hình ảnh những cô gái xứ Mây mang vẻ đẹp hình thể
chuẩn mực cho người con gái miền núi:
Nàng ngồi lặng bên bếp lửa một mình đun cám
Ôi da trắng, ngực đầy, khoeo dày, chân vững
“Da trắng, ngực đầy, khoeo dày, chân vững” thể hiện sắc diện và nguồn
sống khỏe khoắn, tươi trẻ của cô gái Tày. Đặc biệt chuẩn đẹp của người con
45
gái Tày được tác giả nhấn mạnh “chân vững” có điểm khác với chuẩn đẹp của
con gái miền xuôi - chân thon dài. Cái đẹp đó được tác giả phát hiện từ chính
đời sống lao động, làm việc của những người con gái miền núi: luôn phải leo
dốc, vượt suối lũ, đôi khi chân không vững sẽ bị lũ cuốn trôi. Người con gái
Tày không chỉ đẹp ở hình thể mà còn đẹp từ thần thái, tâm hồn:
Tiếng cười của em tan hết sương trời
(…)
Hồn của em trong trắng tựa hoa lê
(Ngày mai em mười tám)
Qua những trang thơ của Dương Thuấn, nét đẹp người phụ nữ đặc biệt
là con gái Tày là vẻ đẹp tự nhiên chứa đầy sức sống căng tràn hòa nhập cùng
thiên nhiên núi rừng.
Tình yêu đôi lứa luôn hiện hữu trong mỗi trái tim, mỗi tâm hồn. Nhân
loại từ xa xưa đến hiện đại chưa bao giờ nguôi thổn thức và ngừng yêu nhau.
Không ai có thể phủ nhận sức mạnh diệu kỳ của tình yêu, nó khiến bao lý trí
phải sụp đổ, bao băng giá phải tan chảy, nó khiến bao con người thông minh
uyên bác nhất cũng thành ra si mê, ngu muội. Và vì thế, tình yêu đã trở thành
đề tài quen thuộc nhưng chưa bao giờ nhàm chán đối với mỗi thi sĩ. Trong
lãnh địa thơ tình, Dương Thuấn cũng khẳng định vị thế của mình với tập Thơ
tình gồm hơn 200 bài trong đó có nhiều bài thơ “đinh” như: Đi tìm bóng núi,
Lá trầu, Cực tình, Bài hát tỏ tình… Dương Thuấn đã nói hộ nam nữ dân tộc
ông tiếng nói bồi hồi của trái tim khi yêu: Cái cây tình ái cong queo/ Ai chẳng
muốn trèo/ Trèo lên lòng lại rối tinh/ Cành thì thẳng/ Cành thì cụt/ Cành thì
cong/ La đà…(Cực tình).
Hai chữ “muốn trèo” thể hiện sự thèm khát, ham muốn đã trở thành nhu
cầu của con người trong tình yêu. Còn hai chữ “ rối tinh” lại nói lên sự phức
tạp, đủ mọi cung bậc:thẳng, cong, cụt, la đà… mà tình yêu đem lại. Trước sự
46
thử thách “Bước lên chồn gối/ Bước xuống mắt hoa của tình yêu, người con
trai và người con gái đang yêu trong thơ Dương Thuấn vẫn rất mạnh mẽ.
Người con trai thì bộc trực tình yêu cụ thể như sông như suối:
Thiếu cơm có thể nhịn ăn
Thiếu nước có thể nhịn khát
Thiếu nhà có thể ngủ gốc cây
Nhưng không thể thiếu em.
Hoặc có lúc anh chàng trẻ nên vô cùng cuồng nộ vì yêu:
Thiếu em chỉ có một ngày
Mà muốn đập nát tan trái đất
Còn người con gái trong Bài hát tỏ tình đã mạnh dạn tiếp thêm sức
mạnh cho chàng trai khi gặp cửa ải: bố người yêu: “Tôi vù qua ruộng/ Cắm cổ
tôi bay/ Nàng cũng ngừng tay/ Chui qua liếp cửa/ Nàng đến bên tôi/ Chỉ nhìn
không thở/ Rồi nàng nói nhỏ/ -Mới có thế thôi/ Mà anh đã sợ! Lòng can đảm
và tự tin của cô gái làm nên sức mạnh truyền cho chàng trai để chàng vững
bước trên con đường gập ghềnh của tình yêu. So với những cảm xúc đau khổ,
não tình, sướt mướt của các bài hát, bài thơ thất tình nhan nhản trên các
phương tiện truyền thông báo chí hiện nay thì sự mạnh mẽ, nồng nhiệt của các
chàng trai cô gái Tày đã làm vẻ đẹp khỏe khoắn, lành mạnh trong tình yêu.
Họ gắn bó với nhau bởi cái tình cái nghĩa, cách họ yêu cũng thật đặc biệt:
Yêu nhau thường hay mang bùa mê
Bỏ vào nước khi khát lòng lại nhớ
Ai uống rồi không xa được nữa
Bắt con tim lầm lạc tự về
Thơ tình Dương Thuấn còn làm tỏa sáng vẻ đẹp người con gái miền núi
khỏe mạnh cùng tâm hồn trong trắng (như đã phân tích trong phần hình ảnh
người phụ nữ). Vẻ đẹp ấy hóa thân trong những nhân vật “nàng”, “em” và trở
47
thành mạch nguồn của sự sống gần gũi xung quanh, là những gì đang hiện
hữu, lan tỏa và làm nên ý nghĩa đích thực cho cả cuộc đời: “Em là gì/ Anh
không biết nữa/ Dao có chuôi/ Nhà có cửa (…)/ Em là gì/ Khi sung sướng anh
thường hỏi thế/ Em là nguồn nước nhỏ/ Chảy vào vại nhà anh (Em – Người
xa lạ).
Tình yêu nam nữ trong thơ Dương Thuấn còn gây ấn tượng mạnh với
người đọc bởi tình yêu ly biệt, chia cắt (Nhớ chị Thìn, Đi tìm bóng núi, Lá
trầu, Chia ly, Nhớ lời em, Thiếu em một ngày…). Điều đáng nói là tuy tình
yêu tan vỡ, tuyệt vọng nhưng tình cảm đó không bi lụy mà trở thành nỗi buồn,
nỗi cô đơn trống trải da diết: “Bây giờ ngựa về tàu khác/ Một mình anh ôm
câu hát/ Đi tìm bóng núi ngày xưa/ Bây giờ không còn cơn mưa/ Hai đứa đội
chung tàu lá/ Bây giờ không còn mùa hạ/ Góc chiều đỏ chín chờ mong/ Bây
giờ em đã theo chồng/ Lên núi phát nương tra lúa/ Bây giờ buông hờ nỗi nhớ/
Anh lang thang giữa loài người” (Đi tìm bóng núi).
Bài thơ là hoài niệm của chàng trai về mối tình đã tan vỡ. Bây giờ tất cả
đều không còn bởi vì “Em đã theo chồng”, chỉ còn anh lang thang giữa loài
người ôm nỗi nhớ khôn nguôi. Sự cô đơn, nỗi tuyệt vọng truyền tải qua điệp
ngữ “không còn” đầy nhức nhối. “Không còn” đối lập giữa quá khứ thì có mà
hiện tại thì không, diễn tả tâm trạng nuối tiếc, thất vọng của một mối tình đẹp,
lãng mạn đã trở thành dĩ vãng. Hành động “buông hờ nỗi nhớ” khiến bài thơ
dù là thơ thất tình nhưng nó không ủy mị sầu não mà chỉ gieo vào độc giả nỗi
niềm nuối tiếc mênh mang. Bởi, “buông hờ” vừa pha chút vấn vương của tình
cảm vừa có sự kiểm soát của lý trí sự từng trải biến tình yêu dĩ vãng thành
tình yêu bất diệt ngay cả khi nó không trọn vẹn.
Tóm lại, xây dựng hình ảnh con người miền núi, Dương Thuấn luôn
chú ý đến việc đưa con người lên vị thế đại diện cho nét đẹp văn hóa của dân
tộc. Cô gái, chàng trai xứ Mây, ông già, em bé, những bà mẹ, họ là những con
48
người cụ thể của bản Hon song từ cách nói năng đến cách nghĩ của họ lại là
sự khái quát chung cho tất cả những con người miền núi với tính cách hồn
nhiên, trong sáng, trọng nghĩa tình, mạnh mẽ.
2.3 Trải nghiệm, triết lý
Mở đầu cho tuyển thơ, Dương Thuấn đề từ bằng hai câu thơ: Ta là
chàng trai của núi/ Ta chỉ biết nói lời cho quả sai. Rồi đến bài Nhìn trời
ngược nhà thơ đã khẳng định: Người sinh ra trên núi/ Cầm dao tự phát lối
cho mình. Có thể nói, những câu thơ trên như một tuyên ngôn trong thơ ông,
là tiếng nói của người nghệ sĩ dũng cảm đi tìm con đường riêng cho mình.
Với số lượng hơn 800 bài và hai trường ca, không có sự trùng lặp đã nói lên
được nội dung bên trong đời sống tâm hồn cũng như sự quan sát thế giới vô
cùng phong phú của Dương Thuấn. Bạn đọc thuộc nhiều lứa tuổi đều có thể
thuộc thơ ông, yêu thơ ông bởi có sức khái quát lớn, nói được hồn cốt của
lòng người và quan trọng, nó chứa đựng vẻ đẹp sâu lắng. Ông viết về đời
sống của dân tộc Tày, đất nước ta và nhân loại. Tính triết lý trong thơ ông
phần nào được thai nghén qua chính con mắt ưa quan sát, thích suy ngẫm về
thế giới xung quanh. Dương Thuấn tái hiện một thế giới đa dạng, được soi
chiếu với nhiều chiều kích khác nhau. Điều này thể hiện rõ của tuyển tập thơ
Dương Thuấn gồm ba tập: Thơ thiếu nhi, Thơ tình, Bản Hon và những nơi
khác. Dương Thuấn hướng con mắt thơ của mình ra khắp kiếp người và cõi
đời để đúc kết thành những câu thơ mang tính triết lý nhân sinh sâu sắc.
Tập thơ dành cho thiếu nhi thể hiện sự khám phá cái đẹp trong cái nhìn
hồn nhiên, ngộ nghĩnh của trẻ thơ: “Ơ cha, sao núi Rồng trước cửa/ Ơ mẹ,
sao núi Phượng sau nhà” (Núi Rồng núi Phượng) hay: “Ngày ấy những ngọn
núi/ Kéo thành lũ thành đàn/ Đi như trâu kìn kịt/ Đi qua bao vương quốc/ Đi
qua bao miền quê” (Sự tích những ngọn núi). Qua cái nhìn của trẻ thơ, mỗi
bài thơ là một khám phá và lí giải thú vị về sự vật, sự việc xung quanh. Cậu
49
bé Dương Thuấn say mê quan sát và hình dung về thế giới, dường như mở
mắt ra cậu thấy nhiều điều kì lạ nhưng khi nhắm mắt vào lại thấy một thế giới
khác cũng vô cùng thích thú không kém gì thế giới thực.
Tập Thơ tình với hơn hai trăm bài lại là những cung bậc yêu. Con mắt
yêu của nhà thơ đã khám phá được nhiều vẻ đẹp trong tâm hồn các chàng trai
cô gái miền núi đầy bất ngờ, đầy táo bạo. Bùa mê, quả yêu là những thứ hấp
dẫn trai gái ở khắp nơi từ muôn thuở, muôn đời nhưng thứ tình mãnh liệt, bạo
dạn mà không bi lụy, sướt mướt mới là nét tính cách yêu của trai gái dân tộc
Tày mà Dương Thuấn đã phát hiện được.
Với tập Bản Hon và những nơi khác thì đó là cách nhìn thế giới của
một người đàn ông đã chín chắn, trưởng thành với nhiều trải nghiệm về cuộc
sống bằng hành trình đi nhiều, nghĩ nhiều và viết nhiều. Mỗi bài thơ là một
câu chuyện về cuộc sống, lẽ nhân sinh. Có lẽ quê hương, tuổi thơ với những
câu chuyện huyền thoại về hồ Ba Bể, sông Năng, bản Hon và những chuyến
đi thực tế đã chắp cánh cho tâm hồn thơ Dương Thuấn. Thơ ông tạo nên sức
hấp dẫn, sức lôi cuốn mạnh mẽ và sức khái quát rộng lớn bởi nhà thơ có được
con mắt nghệ thuật tinh tế, có sự đắm chìm vào cuộc sống, gắn bó sâu sắc và
chiêm nghiệm hiện thực ấy.
2.3.1 Triết lí của một chàng trai miền núi
Có người nói rằng, Dương Thuấn nhìn vào đâu cũng “nhả ra” thơ tuy
nhiên sống giữa đô thị phồn hoa mà thơ ông luôn mang đậm những đặc trưng
văn hóa và hơi thở vùng cao. Có lẽ với Dương Thuấn, cảm xúc để bật lên
thành thơ không phải cảm hứng tức thì có được khi bắt gặp sự vật hay điều gì
lúc đó mà là tiếng vọng từ sâu thẳm trong tận đáy sâu tiềm thức của tâm hồn
đã có sẵn. Tình yêu quê hương, sự am hiểu truyền thống văn hóa dân tộc…
mọi thứ phải có từ trong tiềm thức để cảm xúc luôn thường trực thì khi nhìn
thực tế mới có cộng hưởng ngân vang lên thành âm thanh và câu chữ. Thơ
50
Dương Thuấn nói về nhà sàn, cầu thang, nói về ông bà, cha, mẹ, anh em bạn
bè đầy thân thương. Cảnh vật con người miền núi đi vào thơ ông giản dị, mộc
mạc, không khoa trương. Vốn sống, sự gắn bó với núi rừng bản làng đã giúp
nhà thơ truyền tải được những tâm sự để rồi đúc kết thành kinh nghiệm, bài
học nhận thức về cuộc sống chân thực, hình tượng. Cuộc sống của con người
miền núi với nét đặc trưng về sinh hoạt, văn hóa là chất liệu tạo nên những
hình ảnh thơ độc đáo mang nhiều ý nghĩa (Cưỡi ngựa, Cõng trâu, Những ông
già gieo hạt, Cọn nước, Phố huyện…). Người đọc bất ngờ bởi những sự vật
bình thường của cuộc sống qua con mắt của Dương Thuấn hiện lên đậm chất
thơ, phong phú và tươi mới. Ví như trong bài Cưỡi ngựa, qua cái nhìn hồn
nhiên, ngộ nghĩnh của cách nhìn, cách nghĩ của trẻ thơ về một trò chơi lại thể
hiện một triết lý: Buông dây lỏng/ Ngựa lì/ Cầm cương ghì/ Ngựa chạy/ Muốn
ngựa nhảy/ Quất roi
Bài thơ đem đến cho độc giả nhiều suy ngẫm. Có thể với các em thiếu
nhi thì bài thơ chỉ là một sự chỉ dẫn để cưỡi ngựa nhưng lớn thêm một chút
các em sẽ hiểu ngụ ý sâu xa của ba câu thơ ngắn này: việc cưỡi ngựa cũng
giống như việc định hướng cuộc đời, nếu cứ để cuộc đời trôi không chủ
đích thì sẽ mất phương hướng. Ngược lại, muốn đạt được nhiều bước nhảy
vọt thành công thì phải quyết tâm, mạnh dạn và cố gắng hết mình. Ý nghĩa
bài thơ sâu sắc nhưng ở đây không có sự cao đạo, lên giọng truyền giảng
mà cũng không phải là lối nói “cưa sừng làm nghé”, tác giả chỉ ngụ ý để
mỗi lứa tuổi có thể hấp thụ theo một cách riêng. Hay trong bài Cõng trâu,
tác giả nói về hình ảnh người dân miền núi kiên trì, nhẫn nại chiến thắng
hoàn cảnh khó khăn:
Ở vùng cao con người vất vả
Chiếc gùi đè nặng trên lưng
Cõng hết cửa nhà, ngô lúa
51
Cõng trâu leo lên núi trập trùng
Bằng một cách viết giàu chất thơ, chất ân tình tác giả thể hiện cái nhìn
dung dị mà nhiều ưu ái với những người nông dân cần cù biết vượt lên hoàn
cảnh sống bằng chính sức lao động chân chính. Người đọc nhiều khi bất ngờ
vì một cái gì đó vừa rất trong sáng, đáng yêu, vừa ngồ ngộ, vui vui lại được
diễn đạt bằng cách nói rất dân tộc, độc đáo mà chỉ người vùng núi mới có.
Sinh ra trên quê hương: Không đủ chỗ đánh rơi đồng xu/ Ba bước chân
gặp núi/ Ra khỏi cửa là leo là lội vì thế mà ngay từ ngày còn nằm nôi, Dương
Thuấn đã được cha mẹ nuôi dương khát vọng “ra đi” để tìm cho mình chân
trời tri thức. Ông đã tự ngẫm về hành trình đi thực hiện khát vọng của mình:
Sinh ra tắm nước thơm
Mới là con của mẹ
Lớn lên tắm nước sông
Mới thành người của làng
Đóng con tàu đi ra bể
Tắm giữa đại dương
Mới thành người của muôn nơi
Lời thơ giản dị nhưng ý tứ lại hết sức sâu xa về quá trình trưởng thành
của một con người từ con người gia đình đến khi trở thành thành viên của xã
hội. Hành trình ấy thôi thúc Dương Thuấn ra đi để trưởng thành nhưng càng
học nhiều càng đi xa bao nhiêu thì nhà thơ lại càng có sự chiêm nghiệm sâu
sắc:
Sinh ra làm người chẳng thể ngồi an
Khi ra bể lại muốn lên non
Khi lên non lại muốn về với bể
(Đi ngược mặt trời)
“Đi ngược mặt trời” chính là sự trở về với chính mình của Dương
52
Thuấn. Nỗi niềm mong ngóng được trở về quê hương cứ đau đáu khôn nguôi
vì thế mà thơ Dương Thuấn luôn mang cảm hứng của hồi ức, sự ngoái lại để
suy nghĩ khiến thơ ông giàu chất suy tư, trăn trở. Ta bắt gặp một cái tôi trải
nghiệm được hình thành sau những tháng ngày đi xa và cũng thấy Dương
Thuấn triết lý nhiều hơn. Như một người già, Dương Thuấn cảm nhận sâu sắc
về sự vô tận thời gian bên cạnh sự hữu hạn của đời người. Những đổi thay của
cảnh vật, làng xóm dù nhỏ nhất như một cành cây gãy, một cây si già nua hay
người già mất đi cũng đủ làm nhà thơ thảng thốt nhận ra quy luật tuần hoàn
khắc nghiệt của kiếp người: Người rủ nhau đi đâu/ Cảnh mỗi ngày mỗi khác”
(Về bản). Tuy nhiên khác với các thi sĩ khác khi đứng trước sự bào mòn của
thời gian với con người thường sẽ chọn thái độ sống gấp hoặc bi lụy thì
Dương Thuấn đến cuối bài thơ lại cho ta thấy sự lạc quan, vui vẻ: Trẻ con
chạy ra chào/ Người lớn chạy ra chào/ Người vui rối rít/ Cả bản xao xao.
Vẫn là tính cách mạnh mẽ của đứa con núi rừng quy luật đào thải của thời
gian như động lực để nhà thơ tìm được cách ứng xử thanh thản hơn. Tiếng
“rối rít”, “xao xao” ấy báo hiệu sự kế tục của lớp lớp con cháu và sự sống này
là không thể hủy diệt.
Sức hút của thơ Dương Thuấn nằm chính trong sự chân thực, không
chút kiểu cách nhưng đó là những câu thơ có khả năng đánh thức rung cảm
trái tim người đọc sâu sắc nhất. Sự khắc khoải ấy đã làm thành tính trữ tình
chiêm nghiệm trong thơ Dương Thuấn như trong bài Phố huyện:
Có chú bé con đi theo mẹ
Qua phố đếm xem phố mấy nhà
Bà mẹ còng lưng gùi muối nặng
Đếm bước chân về núi mờ xa
Phố huyện của Dương Thuấn không ồn ào, náo nhiệt như phố ở dưới
xuôi. trái lại nó mang thanh âm yên ả của núi rừng. Mặc dù các sự vật, con
53
người được kể tên trong bài thơ đều có hành động, suy nghĩ: núi lim dim, mây
nặng nhọc chở buồn, chim khách kêu em gái ngóng tin, chú sóc nâu kêu âm
âm, tiếng lá rơi, chùm rễ đa buông xòa, chú bé đếm nhà, bà mẹ gùi muối đếm
bước chân, nhưng toàn bài thơ lại nổi bật lên cái tĩnh lặng, im ắng của phố
huyện. Không gian có yên lặng thì tác giả mới cảm nhận được từng chi tiết,
cử động của sự vật. Và có lẽ đó cũng là cái hồn rất riêng của phố huyện ở
miền núi.
Dù sống ngay giữa bản làng hay khi đã trở thành người của muôn nơi
thì nhà thơ vẫn luôn luôn là người con của bản Hon. Những suy nghĩ, chiêm
nghiệm bắt nguồn từ những sự vật quen thuộc mái nhà sàn, cái cầu thang, cái
cọn nước, tiếng mõ trâu, con đường mòn… từ góc nhìn của Dương Thuấn trở
nên hồn nhiên, chân thật nhưng không kém phần ý nhị, sâu sắc. Nhà thơ sinh
ra từ bản của người có mào (Bản “Hon” trong tiếng Tày có nghĩa là bản có
mào), “theo nước đi” “đến khắp trăm nơi”, “qua ngàn vạn cánh rừng”, “đến
trăm nơi biết muôn vàn thứ” nhưng ông vẫn đau đáu về bản Hon, dân tộc và
đất nước mình:
Tôi – Đứa con của của bản Hon
Đứa con của dân tộc Tày
Tôi – Người con của Tự do
Công dân của nước Việt Nam độc lập
(Từ bản Hon đến Washington)
Lời thơ như lời tuyên ngôn về nguồn gốc xuất thân và hơn thế nữa, tác
giả khẳng định vị thế cá nhân, dân tộc, đất nước mình sánh ngang cùng thế
giới. Ông nêu cao ý thức giữ gìn bản sắc của dân tộc, cách nhìn, cách nghĩ,
cách nói của chàng trai miền núi làm cho giọng thơ triết lý đượm vẻ tự nhiên.
2.3.2 Triết lý của một người đi nhiều
Từ cuộc sống đi nhiều, quan sát kĩ và nghe nhiều, nhà thơ muốn gửi
54
đến người đọc vẫn là chuyện muôn thuở của loài người triết lý về tình người.
Đi nhiều, gặp nhiều, thấy nhiều, Dương Thuấn có cái nhìn đối chiếu về hiện
tượng, sự vật trong cuộc sống đặc biệt là những giá trị văn hóa truyền thống.
Một mặt là phong tục tốt đẹp muôn đời, một mặt là sự tác động của đời sống
kinh tế. Những thay đổi môi trường sống, cách sống: Cây rừng bị phát hết
làm nương/Con hươu chẳng có đường nào nữa/ Như mũi tên lao đi giữa đồi
không (Hươu rừng chạy về bản) hay Nghĩ chuyện làm ăn cũng khác đời (Làm
ăn) cùng những nghịch lý, bất công: Kẻ đang nguyền rủa thì cuộc đời lại yêu/
Người đáng kính trọng thì cuộc đời lại ghét (Kẻ ngu dốt và người thông thái).
Đặc biệt trong rất nhiều sự thay đổi tiêu cực đó thì văn hóa tập tục cũng bị
lung lay:
Đầu thế kỉ hai mươi mốt bờ rào đã mọc lên
Cái bờ rào nhìn vừa đáng yêu vừa đáng ghét
(…)
Không còn lo ban đêm có kẻ trộm đến rình
Sang nhà nhau phải đi vòng hơn một chút
(Cái bờ rào)
Tiện lợi của hàng rào ai cũng nhận ra nhưng chỉ có điều không tiện lợi
về tình cảm hàng xóm láng giềng. mặc dù: Chẳng ai thích đâu xây bờ rào
ngăn giữa/ Dẫu không muốn nhưng nay đành phải thế. Lời thơ, hình ảnh thơ
tự thân đã đem đến những suy ngẫm trực diện về hiện tượng thoạt nhiên rất
đỗi bình thường. Từ cái bờ rào ở bản lại có thể hiểu đến những rào chắn trong
cuộc đời, trong sự cư xử tình cảm giữa con người – con người thời kì đô thị
hóa nông thôn.
Năm 1995, Dương Thuấn ra mắt tập thơ Đi ngược mặt trời, ở tập thơ
này vẫn là những chuyến đi nhưng hình như sau một thời bươn trải nhà thơ đã
tìm ra được kết luận đích thực cho mình: “Sinh ra làm người chẳng thể ngồi
55
an/ Khi ra bể lại muốn lên non/ Khi lên non lại muốn về với bể”. Đi ngược
mặt trời chính là cái tôi trải nghiệm sau những chuyến đi. Đó là cái tôi nặng
nỗi niềm, lắm suy tư, giàu băn khoăn trăn trở… đôi khi còn thoáng một nỗi
buồn, chán nản thậm chí là khinh bạc:
Đêm đô thành ta đạp đổ
Ta là chàng trai núi khinh đời
Ta chẳng cần đô thành em đã biết hay chưa
Chẳng cần biết em qua bao ngôi nhà bị đổ…
Sau một thời va chạm và cọ xát với cuộc đời, nhà thơ còn nằm tính sổ
với chính mình:
Túi tình đầy bạc vạn
Đã tiêu hết với đời
Giờ không còn dính túi
Dù chỉ một chút hơi
Tư thế khinh đời có lúc đẩy cái tôi Dương Thuấn trở nên đơn côi nhưng
lại là cái đơn côi kiêu hãnh, kiêu sang:
Đi qua trăm miền quê
Chẳng nơi nào để nhớ
Đọc thơ Dương Thuấn, độc giả tự rút ra nhiều hiểu biết, kinh nghiệm
nhận thức, kinh nghiệm sống… Vì vậy thơ ông chính là sản phầm của sự kết
hợp thống nhất giữa tình cảm và trí tuệ. Thơ triết lý của Dương Thuấn đặc
biệt hay ở những bài viết về tình người, cách đối nhân xử thế và tình yêu. Các
bài thơ: Lá giầu, Ba quả tim của đàn ông, Cực tình, Người làm đồng, Những
bà già, Ớt gạo, Ông lão chăn trâu kể chuyện, Đêm bên dòng sông yên tĩnh,
Con rết vua, Cơn lũ rừng – cơn lũ thời gian, Vợ và người tình, Cành nắng,
cành râm… tiếp nối mạch thơ triết luận về cuộc đời. Cách triết luận của
56
Dương Thuấn là kể một câu chuyện, thuật lại các hiện tượng, nêu lên một
nhận xét còn ý nghĩa triết luận lại nằm ở bạn đọc - độc giả sẽ tự đọc và rút ra.
Chính điều này đã làm cách làm tăng tính tư tưởng cho thơ của Dương Thuấn.
Hành trình ra đi của Dương Thuấn một phần thỏa mãn khát vọng quan
sát, khám phá thế giới của ông đồng thời nó còn bồi đắp cho nhà thơ tình yêu
và lý tưởng dân tộc. Tính triết lý ở đây không còn là những bài học, những
kinh nghiệm sống hàng ngày nữa mà là những chiêm nghiệm mang chiều kích
dân tộc đất nước, thể hiện tính tư tưởng, tình yêu Tổ Quốc của tác giả. Điều
này thể hiện rất rõ qua trường ca Mười bảy khúc đảo ca. Tác phẩm mang
chiều sâu tư tưởng của thi ca, cháy lên sức mạnh Khảm hải mà nhà thơ mang
trong dòng máu của dân tộc mình:
Ôi cơn khát trong ta
Mơ vượt qua biển lớn
Biển dài rộng nhường nào
Nếu so với biển đời trước mặt
Sóng nổi đất bằng
Dễ muôn lần nếu vượt khơi xa
Tác giả luôn gắn cái thực với cái tưởng tượng, luôn gắn cái trực giác
với cái sâu xa – lý tưởng. Vượt muôn ngàn sóng gió ở biển dù có khó khăn
gian khổ nhưng vẫn còn dễ hơn ngàn lần so với vượt khó khăn khi sống giữa
biển đời. Từ một chàng trai của núi nay được ra với biển, Dương Thuấn chăm
chú quan sát, lắng nghe, cảm nhận và vỡ ra nhiều lẽ: Đất cũng như thở phập
phồng/ Mỗi buổi bình minh lên (Nói với đất liền), Ôi mặt trời thật nhanh/
Không dậy sớm không thể thấy bình minh (Hỏi mặt trời), Ở biển cá voi đây là
chúa/ Khác với chúa sơn lâm là ác/ Cá voi lại “hiền lành” (Đàn cá voi)…
Mỗi khúc ca, khi xây dựng nhà thơ đều chú ý đặc trưng của trường ca. Chủ đề
của mỗi khúc ca được nhà thơ tập trung khai thác, làm rõ. Khúc ca Hồi tưởng
57
trước lá cờ, Pháo đài, Bão giông đã tái hiện lại những trang lịch sử hào hùng,
vinh quang nhưng cũng không ít hy sinh của dân tộc ta. Ngôn ngữ trường ca
không nhiều tầng nghĩa như ở thơ song có nhiều câu, nhiều đoạn, tác giả đã
khéo léo tạo ra những nét bất ngờ, những hình ảnh chọn lọc mà vẫn đảm bảo
tính tư tưởng, tính giáo dục của thể loại. Kết lại trường ca, nhà thơ mở ra sự
định hướng - “hướng đạo” cho thế hệ trẻ - chủ nhân của đất nước về tình yêu
quê hương đất nước và những giá trị lịch sử:
Bài địa lý hôm nay em học:
Là cánh cửa mở vào đất nước nghìn năm
Em hãy đi và nghĩ
Em hãy sống và yêu
Em sẽ hiểu cuộc đời lớn rộng
…Em sẽ hiểu giữa biển khơi xa sóng hát điều gì…
(Khúc cuối không tên)
Sự phát huy tinh hoa văn hóa dân tộc (dân tộc Tày) cùng ý thức vai trò,
trách nhiệm công dân của dân tộc Việt Nam trong thơ Dương Thuấn đã đưa
thơ ông lên tầm tư tưởng, thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
Cảm thức văn hóa trong thơ Dương Thuấn được thể hiện một cách toàn
diện đối với những giá trị văn hóa của dân tộc ông. Núi non, đất trời của miền
cao và nền văn hóa Tày đặc sắc đã kết tinh thành tiếng thơ Dương Thuấn độc
đáo hôm nay. Tiếng thơ là tiếng lòng, phải yêu quê hương đến nhường nào thì
nhà thơ mới sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ đến như vậy đúng
như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định về thơ Dương Thuấn: “Anh
chân thành, hồn nhiên dẫn mọi người về tận nguồn cội của một đời sống
thuần phác, giàu ân tình, giàu cốt cách của dân tộc anh, để mọi người cùng
yêu cái anh yêu, cùng được tắm gội trên một vùng sông nước thật trong
58
trẻo”[tr.9, 33].
CHƯƠNG 3
BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN
3.1 Thế nào là biểu tượng văn hóa
Trở lại với khái niệm văn hóa (xem Chương 1 mục 1.1.1 Khái niệm văn
hóa), ta thấy sự hình thành và phát triển văn hoá luôn dựa vào năng lực của
con người trong việc nhận thức và sáng tạo ra các loại hình ngôn ngữ kí hiệu -
biểu tượng. Trong mọi nhu cầu của đời sống xã hội thì nhu cầu văn hoá là nhu
cầu cao nhất - nhu cầu giải trí và sáng tạo ra các tác phẩm văn hoá. Sự đa
dạng của văn hoá biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu
tượng. Nó là hình ảnh tượng trưng được phô bày ra khiến người ta cảm nhận
một giá trị, tức là thế giới của ý nghĩa, cũng là thế giới của văn hoá.
Nhiều nhà nhân học văn hoá còn cho rằng đơn vị cơ bản của văn hoá
chính là biểu tượng - vật hàm chứa thông tin, và là hạt nhân di truyền xã hội
đầu tiên của loài người. Văn hoá được coi như là một văn bản các hệ thống
biểu tượng (Theo định nghĩa văn hóa của L. White[15] “Văn hoá là cơ chế
của các hiện tượng, vật thể, hành động, tư tưởng, cảm xúc. Cơ chế này được
tạo ra nhờ việc sử dụng các biểu tượng hoặc phụ thuộc vào các biểu tượng
đó” [25]
Mỗi nền văn hóa đều được cấu thành bởi một tập hợp các hệ biểu
tượng. Việc nghiên cứu các biểu tượng là chìa khóa để giải mã đời sống văn
hóa, tinh thần của một cộng đồng. Nói như Jean Chevalier, tác giả cuốn Từ
điển biểu tượng văn hóa thế giới [9], tìm hiểu biểu tượng là tìm ra chìa khóa
của những con đường đẹp đẽ…. Vượt qua cái dáng vẻ bên ngoài, ta thấy được
những chân lý, niềm vui, những ý nghĩa ẩn kín và thiêng liêng của mọi điều
trên mặt đất quyến rũ và kinh khủng này.
Ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ văn học là kho tàng bảo lưu những giá
59
trị văn hóa của một dân tộc. Do đó, nghiên cứu về biểu tượng, không thể
không xem xét trong mối quan hệ với ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ thơ ca.
Giá trị thực sự của biểu tượng được xác lập không chỉ ở bình diện văn hóa nói
chung trong đời sống cộng đồng mà còn định hình và biến đổi trong sự điều
chỉnh, tiếp nhận của mỗi cá nhân, mỗi chủ thể.
Biểu tượng (symbol) là một thuật ngữ được nhiều ngành khoa học sử
dụng với những nội hàm khác nhau. Khởi nguyên, biểu tượng là một vật được
cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay kim loại. Hai người mỗi người giữ một phần,
chủ và khách, người cho vay và kẻ đi vay, hai kẻ hành hương, hai người sắp
chia tay nhau lâu dài… Sau này, ráp hai mảnh lại với nhau, họ sẽ nhận ra mối
thân tình xưa, món nợ cũ, tình bạn ngày trước. Biểu tượng chia ra và lại kết
lại với nhau như vậy nên nó chứa hai ý tưởng phân ly và tái hợp. Điều này
cũng có nghĩa mọi biểu tượng đều chứa đựng dấu hiệu bị đập vỡ ; ý nghĩa của
biểu tượng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là nối kết những phần của nó
đã bị vỡ ra.
Sau này, khi khoa học về biểu tượng hình thành và phát triển, có rất nhiều
quan điểm khác nhau đưa ra nhằm lí giải về ý nghĩa của biểu tượng và vai trò
của nó trong đời sống con người. Dưới đây xin được dẫn một vài nhận định:
Theo phân tâm học Freud, biểu tượng diễn đạt một cách gián tiếp, bóng
gió và ít nhiều khó nhận ra, niềm ham muốn hay các xung đột. Biểu tượng là
mối liên kết thống nhất nội dung rõ rệt của một hành vi, một tư tưởng, một lời
nói với ý nghĩa tiềm ẩn của chúng… Nhà nghiên cứu C.G. Jung thì cho rằng:
Biểu tượng là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta
mơ hồ nghi hoặc của tâm linh.
Các ý kiến trên đều ít nhiều có sự khác nhau song về cơ bản đều chỉ ra
rằng biểu tượng có hai mặt là cái biểu trưng và cái được biểu trưng. Từ đó,
một cách chung nhất, theo chúng tôi, có thể hiểu: biểu tượng là khái niệm
60
dùng để chỉ một thực thể bao gồm hai mặt: mặt tồn tại cảm tính trong hiện
thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người (cái biểu trưng) và
mặt ý nghĩa có mối quan hệ nội tại, tất yếu với mặt tồn tại cảm tính đó nhưng
không bị rút gọn trong những đặc điểm bản thể của sự tồn tại này (cái được
biểu đạt).
Theo đó, Biểu tượng văn hóa là những thực thể vật chất hoặc tinh thần
(sự vật, hành động, ý niệm…) có khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn
chính hình thức cảm tính của nó, tồn tại trong một tập hợp hệ thống đặc trưng
cho những nền văn hóa nhất định: nghi lễ, hành vi kiêng kị, thần linh… Biểu
tượng văn hóa là sự tồn tại ở bình diện phổ quát các biểu tượng phi trực quan.
3.2 Biểu tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn
Thơ Dương Thuấn dày đặc những hình ảnh mang hơi thở cuộc sống
miền núi. Viết về đề tài miền núi, Dương Thuấn đã chủ động thâu tóm thiên
nhiên, cảnh vật, phong tục tập quán đủ đầy và sinh động nhất. Người đọc thấy
hiện lên trong thơ ông hình ảnh thiên nhiên núi rừng với núi sông, mặt trăng,
mặt trời, gió ngàn, mưa rừng, thác lũ… hay con người, cảnh vật của cuộc
sống sinh hoạt và lao động hằng ngày cũng như những phong tục lễ hội, đời
sống tinh thần của cộng đồng. Cá biệt có những hình ảnh xuất hiện với tần số
cao, lặp đi lặp lại nhiều lần, khi đó chúng không còn là hình ảnh miêu tả đơn
thuần mà ẩn chứa nhiều dụng ý, tư tưởng của tác giả. Từ những hình ảnh tiêu
biểu cho quê hương nhà thơ đã nâng chúng trở thành biểu tượng văn hóa đặc
trưng cho những giá trị văn hóa dân tộc, bản làng quê ông. Trong phạm vi đề
tài nghiên cứu của luận văn, chúng tôi khảo sát kỹ hơn những hình ảnh – biểu
tượng văn hóa trong thơ Dương Thuấn: bản Hon, núi, sông, nước và trăng. Sở
dĩ có sự lựa chọn trên không chỉ vì những biểu tượng trên xuất hiện nhiều
trong thơ Dương Thuấn mà chúng còn là nhân chứng cho sự ra đi và trở về
61
với quê hương của tác giả.
3.2.1 Bản Hon
Bản Hon của dân tộc Tày - quê Dương Thuấn đã cho ông một suối
nguồn vô tận văn hóa Tày và ông luôn có ý thức phổ biến vẻ đẹp văn hóa ấy
trên thi đàn Việt và quốc tế. Từ “Hon” trong tiếng Tày có nghĩa là “mào”, ý
nói bản Hon toàn những người có mào. Theo tiếng Kinh thì đó là những
người có “máu mặt”, biết ăn nói và làm được việc. Có lẽ vì thế mà bản Hon
cũng giàu truyền thống văn hóa, phong tục hơn. Tâm thức văn hóa Tày luôn
nuôi dưỡng ông, cho ông một lộ trình thi ca, định dạng phong cách thơ ông –
vừa dân tộc lại vừa hiện đại. Hay nói đúng hơn, thơ Dương Thuấn đến với
hiện đại từ truyền thống. Trong quá trình sáng tạo, Dương Thuấn đã tôn vinh
được văn hóa Tày. Từ trong sâu thẳm văn hóa Tày là nguồn sữa mẹ nuôi
dưỡng tâm hồn nhà thơ và trở thành chất liệu cho ông sử dụng trong tác phẩm
của mình:
Bản Hon ở xa trên rẻo cao
Hà Nội lên đi xe một ngày
Qua mấy núi mấy đèo sẽ đến
Ở nhà sàn ăn nước sông Năng
Tới bản Hon ngồi trên mây
Những ngôi nhà sàn bốn mái
Ngói máng lên rêu xanh thẫm
Lên non đón khách xa thăm
(Về bản)
Những thi tập của Dương Thuấn đều có nguồn cội từ bản Hon – nơi
mạch nguồn nuôi dưỡng sáng tác cho ông. Bản Hon chiếm một số lượng lớn
những bài thơ hay trong tuyển tập của Dương Thuấn: 536/800 bài. Bản Hon
chính là bản của dân tộc Dương Thuấn, là quê hương miền núi máu thịt.
62
Trong hành trình sống của mình, nhà thơ hay trở về thăm quê để khi rời quê
hương ra đi nhiều lúc nhà thơ dừng lại để ngoái nhìn quê hương rồi lại đi tiếp.
Mỗi lần ngoái lại như thế là thêm một lần quê hương nạp cho ông thêm niềm
tin vào cội nguồn văn hóa dân tộc và tạo cảm hứng sáng tạo. Hành trình trở về
quê hương Dương Thuấn gọi là “đi ngược mặt trời” nhưng chính trong quá
trình đi ngược ấy, Dương Thuấn đã chạm được vào sâu thẳm nguồn mạch của
thi ca. Cái bản Hon của Dương Thuấn giờ đã trở thành một địa chỉ văn hóa.
Những trò chơi dân gian như ném còn, đánh cầu yến… đồng bào ông ai ai
cũng biết chơi, đối với nhà thơ chất liệu đó luôn là những gì thân thương chốn
quê nhà và đồng hành suốt trong hành trình sống luôn trong tiềm thức để dẫn
ông trở về bản Hon. Bản Hon là nơi lần đầu tiên Dương Thuấn nhìn thấy mặt
trời và cũng là chốn khởi đầu để ông được làm người, được làm thi sĩ: “Sải
dọc đo trời/ Sải ngang đo bể/ Bàn chân đi/ Bàn chân lại quay về”.
Từ quê hương Bắc Kạn, Dương Thuấn xuống đồng bằng đi nhiều nơi
và sang cả nước Mỹ tới đâu Dương Thuấn cũng nói về quê hương - bản Hon
mình bằng lối nói chân thật nhất. Quê hương đã cho ông một trữ lượng lớn tri
thức dân tộc để ông đủ tự tin khi nói về dân tộc Tày và non nước hữu tình Bắc
Kạn trong đó có ngôi nhà của ông ở bản Hon, bản Hon niềm tự hào của nhà
thơ. Kỉ niệm hai lần sang Mỹ thuyết trình về văn hóa Tày trong tiến trình hội
nhập, nhà thơ đã viết bài thơ Từ bản Hon đến Washington, ông tự hào nói:
Tôi – Đứa con của của bản Hon
Đứa con của dân tộc Tày
Tôi – Người con của Tự do
Công dân của nước Việt Nam độc lập
Tôi – Nhà thơ của hai thế ký
Thế kỉ hai mươi và thế kỷ hai mốt
Những ngày ở Mỹ chắc hẳn Dương Thuấn vẫn ngoái về bản Hon, vọng về
63
quê hương thân thương. Nhà thơ đã làm được một điều kì diệu trong đời mà tổ
tiên ông cha chưa làm được đó là vượt biển sang bên kia đại dương để nói về
truyền thống của văn hóa Tày trong thời đại hội nhập và phát triển. Đối với
Dương Thuấn mà nói, bản Hon - xứ sở của ông có một ý nghĩa cực kỳ quan
trọng. Xứ sở với ông không chỉ là nguồn cội mà còn mang một ý nghĩa nhân
bản: Nơi ông trở về thật với mình, sống hết mình, yêu hết mình, nơi khởi nguồn
của ngôn từ, của những giá trị làm nên chiều cao nhân cách của con người.
3.2.2 Núi
Qua tìm hiểu và khảo sát, chúng tôi thấy hình ảnh núi xuất hiện khá
nhiều trong các tập thơ của Dương Thuấn (có thể nói là nhiều nhất so với các
nhà thơ khác cùng chủ đề): 15 lần/33 bài trong tập Ði tìm bóng núi, 20 lần /52
bài trong tập Hát với sông Năng. Một nhà thơ Tày nổi tiếng viết về đề tài
miền núi là Y Phương nhưng số lượng các sáng tác về có “núi” trong thơ ông
có phần không dày đặc so với Dương Thuấn (20 bài/133 bài trong tập Thơ Y
Phương). Điều này chứng tỏ cảm xúc về núi của Dương Thuấn vô cùng dồi
dào và mãnh liệt.
Để thực hiện hành trình đi của mình, Dương Thuấn phải xa núi để ra
với biển vì vậy hình ảnh núi trở về trong thơ Dương Thuấn luôn điệp trùng nỗi
niềm, hồi ức. Nhà thơ như con chim của núi cao rừng thẳm luôn nhớ về tổ cũ
dù đã ra sông ra biển nhưng không nguôi nhớ ngọn nguồn. Núi là gốc gác, bản
chất mà suốt hành trình thơ và đời của Dương Thuấn, ông luôn đi tìm: “bóng
núi”. Bóng ở đây nên hiểu là gì? Bóng là phần ảo, phần mộng hay là phần hồn ,
phần tính? hay là cả hai? Đi tìm bóng núi là tên tập thơ xuất bản năm 1993 của
tác giả, toàn tập thơ là cuộc hành trình đi tìm cái đã xa, đã vuột khỏi tầm tay.
Nhà thơ Dương Thuấn từng tâm sự: hành trình đi tìm bóng “bóng núi” của ông
chính là hành trình tìm lại chính mình. Giã từ xứ núi, nghìn lạy mẹ, mẹ đẩy con
xuống thác, con đi, giữa dòng đời, con lang thang, buồn nhớ đi tìm bóng núi
64
ngày xưa. Đi tìm bóng núi là trở về ngọn nguồn dân tộc, trở về với bản sắc dân
tộc mình. Với Dương Thuấn, đi xa chính là trở về. Trở về để giữ lấy hồn vía
của quê hương, để làm giàu nội lực cho thơ. Núi là bản quán, gốc gác của nhà
thơ, là niềm tự hào, là tuyên ngôn nghệ thuật của ông:
Ta là chàng trai của núi
Ta chỉ biết nói lời cho quả sai
Núi trở thành nền tảng văn hóa vững chắc làm nên hồn thơ Dương
Thuấn. Ý thức mình là con của núi rừng càng khiến thơ Dương Thuấn có sức
neo trong tâm trí của người đọc nhiều hơn. Bởi chỉ cần một chút pha giọng
Dương Thuấn sẽ đánh mất cái bản chất “núi” của mình. Hình ảnh “bóng núi”
còn xuất hiện trong bài thơ tình nổi tiếng – một trong những thi phẩm làm
rạng danh nhà thơ:
Bây giờ ngựa về tàu khác
Một mình anh ôm câu hát
Đi tìm bóng núi ngày xưa
…
Bây giờ em đã theo chồng
Lên núi phát nương tra lúa
(Đi tìm bóng núi)
Cả bài thơ là tình yêu tuyệt vọng trong lặng câm. Suốt chiều dài tác
phẩm chỉ có chàng trai với trái tim nhức nhối yêu thương đang ôm chặt mối tình
si đã đi vào hoài niệm. Có một chữ “núi” ở đầu bài thơ và một chữ “núi” khi sắp
kết thúc bài đủ để bạn đọc vỡ lẽ “bóng núi” ở đây là ai. “Bóng núi” không chỉ là
bóng người thương cũ mà còn là cả một thế giới nội cảm, một cõi riêng mà chỉ
cần thêm một mình em nữa là anh đủ đầy. Một chữ “núi” làm tan nát một trái
tim, ngọn núi ấy giờ đã quá xa chỉ còn dành lại cho anh xót xa với cuộc đời. Từ
chất liệu núi của thiên nhiên qua lăng kính chủ quan của nhà thơ đã tạo nên một
65
biểu tượng núi tình. Bóng núi cũng là bóng hình, là bóng em vậy.
Nhà thơ Dương Thuấn rất tài tình với những khúc ca “Buộc hồn của núi
với hồn ai”. Ai đã đọc thơ ông rồi sẽ thấy yêu hơn cuộc sống thực tại, yêu cõi
nhân gian và cảnh đẹp thiên nhiên của quê hương ông mà không muốn trở về.
Mỗi vần thơ đều có sức gợi nhiều liên tưởng. Một ngọn núi có tên là núi Cơm
Chiều mà khơi gợi cả một miền ký ức dân tộc ông và nhân loại thuở xa xưa:
Núi Cơm Chiều cái tên mà như thế
Hay là ngày xưa chưa có đồng hồ
Ông bà nhìn bóng núi để thổi cơm…
(Núi Cơm Chiều)
Núi non ở đâu dữ dội chả biết, núi non trong thơ Dương Thuấn luôn
đẹp một cách thánh thiện dù ở đó còn lắm đói nghèo, thiệt thòi:
Quê tôi núi ngàn mênh mông và cao rộng
Sáng sớm mây trời bay trắng lòng thung
Chiều về từng đàn mây vờn nhau trên cỏ…
Núi quấn quyện, bao bọc cuộc sống của người dân vùng cao: Nhà tôi
dựng ở bên sông/ Buớc ra khỏi cửa là nhìn thấy núi. Cái hoang sơ, hùng vĩ
của thiên nhiên núi rừng thể hiện rõ nhất qua những ngọn núi sừng sững đồng
thời sức mạnh của con người nơi đây cũng được ví với sức lớn lao, to cao của
núi. Người con của núi rừng khi sinh ra được tắm nước sông, nước suối lớn
lên ra đi thực hiện hoài bão được núi non chở che, ngóng chờ:
Thế rồi núi không còn mọc
Thế rồi chim phượng chẳng bay về
Còn chúng tôi dần dần khôn lớn
Núi Chẻ Dạ ngóng lớp lớp người ra đi….
(Núi Chẻ Dạ)
Lớp lớp người bản Hon ra đi vì chí hướng, sự vật biến thiên, thời gian
66
trôi chảy chỉ có núi Chẻ Dạ là còn đó, sừng sững như một nhân chứng thời
gian sau bao năm tháng dài mong ngóng mỏi mòn đứa con quê hương trở về.
Núi Chẻ Dạ hay chính là tình cảm của những người ở lại, của cảnh vật, thiên
nhiên quê hương hằng dõi theo mỗi bước đường trưởng thành của mỗi người
con. Hình ảnh “Núi Chẻ Dạ ngóng lớp lớp người ra đi” như tạc vào thơ ca
hình bóng người cha, người mẹ già có tên gọi – Quê Hương luôn dõi theo, đợi
chờ đứa con mình xuống núi rồi sẽ quay về.
Núi gắn bó với người miền núi, mỗi lúc đi xa người ta lại tâm niệm một
điều “Dù đi đâu cũng quay đầu về núi”. Phải chăng đó là khởi nguồn cho ra
đi, hành hương và trở về:
Thuở bé tôi cứ tin
Sẽ có ngày núi mọc thêm một ngọn
Sẽ có ngày chim phuợng lại bay về
Tôi yêu chín mươi chín ngọn núi
Âm thầm tôi đợi một ngày kia
(Núi Rồng núi Phượng)
3.2.3 Sông
Dương Thuấn có duyên nợ gì với những dòng sông khi mà chiếm đến
hai trong số những tập thơ (gộp vào trong tuyển tập) của ông là thơ viết về
sông: Hát với sông Năng và Đêm sông yên lặng? Rừng núi – nơi bắt nguồn
của những con sông vì thế trong tâm thức người miền núi cách nghĩ về sông
có nét khác với với nếp nghĩ của người miền xuôi. Sông với họ là mạch
nguồn trong trẻo và quyết liệt chứ không đơn thuần là giao thông đi lại hay
phục vụ cho canh tác nông nghiệp. Đặc trưng nông nghiệp của người miền
núi không phải ở nơi cạnh sông hay những mảnh đất được bồi đắp từ phù sa
màu mỡ. Từ đó mà mỗi lần gặp sông, cách ứng xử với sông của họ cũng khác
67
các dân tộc ở vùng đồng bằng lưu vực các con sông hay duyên hải.
Với Dương Thuấn, dòng sông đã trở thành một tứ thơ ngầm. Chúng
không lộ diện trong mọi lúc mà có khi lặn thật sâu, lại có khi bất ngờ hiện ra ở
một miền đất lạ. Có nhiều dòng sông có tên có tuổi xuất hiện trong thơ Dương
Thuấn như: Sông Năng, sông Nậm Na, sông Hồng, sông Thương… rồi cả có
những con suối, có thác, hồ và sau này cả biển lớn nữa nhưng sông Năng vẫn
là hình ảnh có sức ám ảnh với nhà thơ nhất. Tác giả đã tâm sự: “Sông Năng là
dòng sông chảy qua bản Hon nơi tôi đã sinh ra, người bản Hon khi bắt đầu
tập đi cũng là lúc được luyện cho tập bơi, mỗi đứa trẻ sinh ra đều được tắm
nước sông lúc lọt lòng, khi được hai tháng tuổi cha mẹ đã mang ra sông Năng
để làm quen với nước… cho nên người bản Hon chúng tôi dù nam hay nữ
cũng đều như vậy, biết đi cũng đồng thời với biết bơi. Và vì thế người quê tôi
có quan niệm, ai đã sinh ra ở bản Hon sẽ không bao giờ bị chết đuối cũng
như ở bản Hon sẽ không bao giờ có người chết đuối... Ai cũng chỉ tin một
điều, người bản Hon thì “Ngã xuống sông không thể bị nước cuốn trôi. Rơi
vào trong đống lửa không thể bị thiêu cháy”[50]
Những kỉ niệm và con sông Năng yêu dấu khi đã về công tác và sống ở
thành phố Hà Nội, nhà thơ vẫn giữ và không nguôi thương nhớ:
Ơi con sông dài như giấc ngủ của rừng
Bao khúc quanh co ghềnh thác ì ầm
Có chỗ lặng lờ cho bản làng soi bóng
Chị đi lấy chồng nơi khác vẫn nhớ dòng sông
Ví von dòng sông “dài như giấc ngủ của rừng” là một cách nói nghệ
thuật đầy ấn tượng gây cho độc giả sự ám ảnh tâm hồn như là dòng sông
Năng đã ám ảnh tâm hồn tác giả. Đến cả trong giấc mơ, nhà thơ cũng mơ thấy
tiếng sóng của dòng sông. Tình yêu với dòng sông quê hương của ông đi qua
bao tháng ngày cũng không hề vơi cạn, ông khao khát được trở về bên dòng
68
sông tuổi thơ ấy. Trên hành trình của ông, dòng sông càng tràn đầy, càng bồi
đắp cho tâm hồn nhà thơ những lớp phù sa màu mỡ để ông có những cái nhìn
soi chiếu về cuộc đời, nhân tình thế thái.
Nếu Hát với sông Năng là tình cảm nồng nàn với quê hương thì Đêm bên
dòng sông yên lặng lại trầm tĩnh hơn và tư duy ở tầng sâu hơn. Thơ viết về quê
hương của Dương Thuấn dày đặc những hình ảnh núi non, lễ hội, mùa màng,
hiếu hỉ, những phong tục tập quán của người Tày, những trăn trở của người dân
lao động miền núi, những hồi ức về tuổi thơ, về con người xứ Mây của chính
nhà thơ. Phải chăng Dương Thuấn chủ định xâu chuỗi tất cả những nỗi niềm
thương nhớ quê hương ấy trở thành một dòng sông yên tĩnh. “Dòng sông yên
lặng” trở thành dòng sông tư tưởng, một ẩn dụ trữ tình cho tình yêu quê hương.
Dòng sông làm lắng dịu lại những xô bồ của cuộc đời mà tác giả đã trải qua. Trở
về bên dòng sông là để nhà thơ gột rửa, thanh lọc lại tâm hồn sau bao bụi đường
đời. Nhìn vào những lần có hình ảnh sông trong thơ Dương Thuấn ta có thể thấy
nó giống một dòng sông trong tiềm thức của tác giả với dáng dấp của nàng thơ
nhưng lại gợi rất nhiều cảm hứng triết luận. Nhà thơ đã từng đối thoại với sông
bằng nhiều cách thức: hỏi sông, hát với sông, nhớ sông…Mà mỗi lần như thế lại
là một dịp giãi bày, tự vấn. Hát với sông Năng nhưng sông đã trở thành“em”,
thành kỉ niệm lặn vào “tôi” rồi lại cồn cào than thở. Rồi có lúc nằm bên sông lại
thấy sông yên lặng quá, trầm tĩnh và đáng sợ quá.
Tôi và em yêu nhau rồi xa quê
Bây giờ mỗi đêm nằm lại nghe tiếng sóng
Tiếng thác reo chui vào trong chăn thành giấc mơ…
(Hát với sông Năng)
Đêm nay nằm bên sông yên lặng
Không tiếng thác gầm như sông quê hương
Tôi ngẩng đầu nhìn sao, đếm: một, hai, ba…
Oan hồn trên kia, đầy trời không thể đếm…
69
(Đêm bên sông yên lặng)
Không phải hồn vía đã làm cho sông thiêng mà chính trái tim mình đập
thay những nhịp sóng, tiếng thác tạo nên dòng sông của đời người ! Không vẽ
sông bằng hình ảnh, bằng âm thanh, bằng hồn vía (Giật mình còn tưởng tiếng
ai gọi đò - Sông lấp, Trần Tế Xương) mà tạo sông bằng nhịp đập trái tim. Có
thể đó là một sự đổi mới của Dương Thuấn chăng?
Ở trên núi là nhân chứng của quê hương khi tiễn biệt nhà thơ ra đi đến
đây nước lại là hình ảnh quê hương mà ông nghĩ tới đầu tiên khi trở về (cả khi
trở về trong tâm tưởng và ngoài đời thực). Sông núi trở thành nỗi ám ảnh của
nhiều người đọc bởi nó không đơn thuần là những biểu tượng đẹp mà là một
cấu tứ khá thú vị trong lối thơ của các giả này. Núi sông không những gắn bó
với tuổi thơ của một người, với tuổi tác của một cộng đồng mà đã nhanh
chóng chuyển hoá thành hai nhân vật trữ tình luôn được nhắc đến. Hình ảnh
núi và nước đã trở thành vòng tay mẹ chở che, vỗ về cho đứa con của quê
hương: “Núi và sông mang tính khái quát cao hợp thành hình ảnh Đất Nước
trọn vẹn ấm áp nghĩa tình”[52]. Ngoài ra, núi còn tượng trưng cho sức mạnh
mẽ, hiên ngang trong tính cách của người miền núi còn sông là thể hiện cho
sự mềm mại, hiền hòa, lắng đọng trong tâm hồn con người. Núi và sông tạo
thành cặp đôi hình ảnh tượng trưng cho hai nét tính cách, tình cảm của nhà
thơ nói riêng và đồng bào ông nói chung.
3.2.4 Nước
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới: “những ý nghĩa tượng trưng
của nước có thể quy về quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện
thanh tẩy, trung tâm tái sinh”[9]. So với “sông”, “nước” rộng lớn hơn bao gồm
mọi dòng chảy như sông suối, thác, hồ, biển vì thế mà nước có ý nghĩa khái quát
hơn sông. Ở trên, chúng tôi mới chỉ trình bày “sông” với ý nghĩa biểu tượng cho
hình ảnh quê hương, có vai trò như người bạn tâm tình của tác giả. Ở đây, chúng
70
tôi sẽ nghiên cứu nước đặt trong sự đối sánh với “nước” trong quan niệm truyền
thống của dân tộc Tày để tìm hiểu có hay không sự kế thừa và sáng tạo biểu tượng
trong thơ Dương Thuấn.
Đối với những cư dân miền núi, những con người quen nếp sống dựa vào
thiên nhiên, nước càng trở nên thiêng liêng bởi nước cũng là sự sống. Đọc thơ ca
dân gian của các dân tộc ít người Việt Nam, chúng ta càng thấm thía sức ám ảnh
của biểu tượng nước trong tâm thức dân gian. Dù là ở dân tộc nào, Tày hay
Mường hay Giáy, nước cũng là biểu trưng cho một giá trị, một quyền năng trong
đời sống con người. Sự đồng điệu trong cách cảm, cách nghĩ này cho thấy nước là
biểu tượng lớn của văn hoá dân gian các dân tộc ít người.
Những câu ca dao dân gian của người Tày thường mượn biểu tượng nước
mà định giá tình cảm:
- Thương nhau đựng sọt nước vơi
Không thương nước đựng cong rồi cũng khô.
- Thương nhau nước đựng vào sàng
Không thương nước đựng trong cang còn rò.
(Ca dao tình yêu Tày, tr.652)
Đặc tính về sự trôi chảy liên tục của nước khiến người ta thường liên tưởng
đến dòng đời, đến số phận. Trong những câu ca dao của người dân tộc thiểu số,
nước cũng xuất hiện với ý nghĩa là sự ám ảnh về số phận, về định mệnh. Trong
nỗi thương yêu da diết, người tình nhân không khỏi có lúc ngờ vực, nghi ngại về
số phận tình yêu về sau này. Lúc ấy, biểu tượng nước xuất hiện một cách thật tự
nhiên, giúp nhân vật trữ tình bày tỏ lòng mình trọn vẹn nhất:
Ta hẹn gặp đôi lúc
Biết đâu về sau này
Nước mỗi sông khác chảy
Khác lờ lại khác bẫy.
71
(Tùy em, Giáy, tr.480)
Kế thừa ý nghĩa nước biểu tượng cho số phận chảy trôi, biến thiên của
số phận con người giữa dòng đời, nhà thơ Dương Thuấn khai thác hình ảnh
“nước máng” để - một hình ảnh rất đặc trưng của cuộc sống vùng cao để khắc sâu
nỗi nhớ thương đau đáu trong tâm hồn người phụ nữ giữa cái bình thản chảy trôi
của số phận:
Ngày cưới
Anh đánh giặc ở chiến trường Nam Bộ
Tôi rất bé cũng đóng làm chú rể
Trèo non đi đón chị về
Đêm đó tôi nghe
Chị nấc
Đêm đó chị nghe
Nước máng đầu nhà rơi lắc rắc…
(Một ngày một đêm)
Nước máng đầu nhà rơi lắc rắc hay là thời gian cứ thờ ơ nhỏ giọt, hay là
đời sống cứ chậm rãi đi theo cái mạch tự nhiên, như thể đứng ngoài mong mỏi của
con người. Số phận của người phụ nữ trong bài thơ cũng như dòng nước kia, chỉ
chảy trôi ơ hờ bằng lối riêng của nó, bất chấp nỗi lòng của một người đang chờ
đợi trong khắc khoải.
Nếu trong quan niệm truyền thông dân tộc thiểu số, nước có vai trò là
một quyền năng và họ sùng bái nước thì Dương Thuấn lại khai thác khá sâu ý
nghĩa nước là nguồn cội. Nhà thơ Dương Thuấn đã lấy nước làm hình tượng chủ
đạo xuyên suốt bài thơ Theo nước đi:
Người làm nương ăn theo lửa
Người làm đồng ăn theo nước
Sinh ra tắm nước thơm
72
Mới là con của mẹ
Lớn lên tắm nước sông
Mới thành người của làng
Đóng tàu đi ra bể
Tắm giữa đại dương
Mới thành người của muôn nơi
Viết về những người làm đồng mà thật ra chính là đang viết về dân tộc Việt
Nam – dân tộc quen sống bằng nghề trồng lúa nước. Như thế cũng có nghĩa là nhà
thơ đã đem hồn thơ cá biệt của người Tày mà viết nên những vần thơ chung cho
đại đồng dân tộc Việt Nam. Nước trở thành biểu tượng cho mọi sự khởi nguyên:
để thành con của mẹ, thành người của làng, thành người của muôn nơi, con người
đều phải trải nghiệm cùng với nước.
"Mệnh" thuỷ chảy trong tâm thức mỗi con người theo cái nguyên lí:
suối – sông - biển. Tình quê hương, tình đất nước, tình nhân loại cũng lớn lên
theo bước tiến đó. Người mẹ nuôi dạy con khôn lớn, cứng cỏi như cách người
ta hạ thuỷ những chiến thuyền: Mẹ đẩy con xuống thác/ Con đi… Để rồi có
người đàn ông trở về từ biển lớn cuộc đời lại đắm mình với dòng mạch nhỏ:
Cái rãnh nhà bé nhỏ/Bước ngàn lần không qua. Có lẽ vì ông biết "đắm" mình
ở cái rãnh nhỏ cội nguồn ấy mà không "bị" đắm chìm giữa biển cả cuộc đời.
3.2.5 Trăng
Xưa nay trăng vốn là bạn của thi nhân, là kẻ đồng hành của thi
nhân:“Chè tiên, nước ghín nguyệt đeo về” (Nguyễn Trãi), “Một trăng, một
bóng, một người hóa ba” (Nguyễn Huy Tự). Trăng là người chứng giám
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Đinh ninh hai mặt một lời song song”
(Nguyễn Du). Có khi trăng là kẻ thóc mách “Gương nga chênh chếch dòm
song” (Nguyễn Du) “Song thưa để lọt ánh trăng vào” (Nguyễn Khuyến). Bị
73
chi phối bởi quan niệm “Thi dĩ ngôn chí” và quy phạm gò bó của thơ Đường
đã làm cho hình tượng vầng trăng trong thơ cổ ít đa diện hơn thơ mới 1932-
1945 và thơ ca hiện đại.
Đến thế hệ nhà thơ mới nhờ tưởng tượng phong phú, cảm xúc mạnh mẽ
đã làm thức nhọn giác quan chính vì vậy, nên trăng còn được mã hóa thành
biểu tượng của cảm giác cô đơn tràn ngập “Sao vàng lẻ một, trăng riêng
chiếc. Trăng ngà lặng lẽ buông như tuyết. Trong suốt không gian tịch mịch
đời” (Xuân Diệu - Buồn trăng). Có thể nói trong phong trào thơ Mới nói
riêng và cả nền văn học nước ta nói chung thì người bị “trăng” ám ảnh nhiều
nhất phải kể đến Hàn Mặc Tử. Với lối thơ kinh dị lạ thường, đặc biệt trong tất
cả các tập thơ của Hàn Mặc Tử đều chủ yếu nói về Trăng. Trăng như một
người bạn có linh hồn biết cười, biết khóc, biết gào thét, đôi khi lại như là
người tình trong mộng. Con người ta có thể say rượu, say hoa, say đàn, say
thuốc phiện, chưa thấy mấy ai say trăng như Hàn Mặc Tử. Trăng trở thành
người bạn tâm giao. Chưa ai thèm trăng, khát trăng như ông. Chưa bao giờ
người ta thấy trong một tập thơ mà tràn ngập cả ánh trăng như trong thơ Hàn
Mặc Tử: trăng đẹp, trăng lung linh, trăng huyền ảo cũng có, mà trăng điên,
trăng hủi cũng không ít.
Thơ ca Cách mạng sau này cũng ghi nhận hình ảnh trăng xuất hiện
nhiều trong các sáng tác, đặc biệt là thơ Hồ Chí Minh. Khác với ánh trăng cô
đơn, đau đớn trong thơ Mới, trăng trong thơ Hồ Chí Minh là người bạn của
chiến sĩ cách mạng, của thi nhân; nhà thơ mượn trăng để giãi bày tâm trạng,
chia sẻ nỗi niềm. Trăng trong Nhật ký trong tù của Bác là biểu hiện của khát
khao vươn tới tự do bay khắp nhân gian để tỏa sáng. Trăng như là hình ảnh lý
tưởng để chiến sĩ cách mạng vươn tới: Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn
(Giải đi sớm), Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh (Đêm lạnh), Trăng trên
trời lướt giữa làn mây (Đêm thu). Sau này khi trở về nước hoạt động Cách
74
mạng, trăng trở thành người bạn tri kỉ, tâm giao của thi nhân: Rằm xuân lồng
lộng trăng soi/ Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân/ Giữa dòng bàn bạc
việc quân/Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền (Rằm tháng giêng),
Trăng vào cửa sổ đòi thơ/ Việc quân đang bận xin chờ hôm sau (Tin thắng
trận), Tiếng suối trong như tiếng hát xa/ Trăng lồng cổ thủ bóng lồng hoa
(Cảnh khuya).
Trăng đã là đối tượng của thi ca ngàn đời vì vậy mà hiếm có nhà thơ
nào khi sáng tác lên tới hàng trăm bài lại không có bài nào viết về trăng. Khảo
sát trong các tập thơ của Dương Thuấn, chúng tôi thấy tần số xuất hiện hình
ảnh trăng: 6/36 bài trong tập thơ Cuỡi ngựa đi săn; 12/71 bài trong tập Ðêm
bên sông yên lặng, 11/52 bài trong tập Hát với sông Năng và 10/33 bài trong
tập Ði tìm bóng núi. Dương Thuấn say sưa viết về trăng không kém say sưa
viết về sông, về núi. Dù sinh sống ở thành phố đã lâu, Dương Thuấn vẫn luôn
luôn ý thức “ta là chàng trai của núi” và luôn khao khát được về thăm quê
“mai ta về lại núi”. Nhà phê bình Uông Thái Biểu đã từng nhận xét về Dương
Thuấn: “Anh chỉ muốn rút ruột cho đồng loại hiểu mình, hiểu một chàng trai
về phố chẳng quên trăng, về đồng bằng không quên núi”[44]. Nếu như ở phố
phường, trăng bị che mờ bởi nhà cao tầng và ánh điện thì ở thành phố hình
ảnh trăng đã trở thành ngọn đèn soi sáng, là người bạn thiên nhiên gắn bó mật
thiết với đời sống sinh hoạt của dân bản.
Trong thơ Dương Thuấn, hình ảnh trăng không đơn thuần được miêu tả
là một sự vật của thiên nhiên – vô tri, vô giác mà Dương Thuấn luôn để trăng
hiện lên sinh động, nhiều dáng vẻ. Nhà thơ nhân hóa trăng, cấp cho trăng
hành động, trạng thái biểu cảm như con người: trăng say, trăng mến thương
(Nàng ơi uống rượu), trăng chạy (Giấc mơ), trăng chếnh choáng (Khúc hát
người cao nguyên), Trăng đi ùm xòa/ Trăng đi ngoai ngoải/ Trăng bò xuống
ngọn câu kêu sà sã (Trăng khuya). Cách nói “trăng say”, “trăng chếnh
75
choáng”, “trăng kêu”, “trăng ướt đầm đìa” (Buổi chiều thành phố) là một sáng
tác độc đáo của Dương Thuấn. Có lẽ chỉ có người sinh ra ở núi, lớn lên ở núi,
đi hết trăm con suối, trăm núi đồi phải thức đêm cùng trăng, ngắm trăng trong
men say tiếng hát những đêm lượn cọi hay những tiệc rượu cần mới bắt được
hình ảnh đặc sắc như vậy. Trăng đã trở thành người bạn tri âm tri kỉ của nhà
thơ, cùng mang một biểu cảm, trạng thái tâm lí giống như thi nhân.
Yêu trăng, mến trăng Dương Thuấn đã biến trăng của thiên nhiên thành
trăng tượng trưng cho vẻ đẹp – vẻ đẹp của người phụ nữ:
- Em đẹp như trăng rằm tỏa sáng
Một đoàn người đón rước em sang
(Làm dâu)
- Ánh trăng đêm sáng nhất trên trời cao
Được ví như khuôn mặt tròn của em
(Em – trăng – hoa)
Không giống như chàng Đam San đi bắt nữ thần mặt trời, Dương
Thuấn đi tìm cho mình một nữ thần mặt trăng - tỏa sáng dịu dàng. So sánh vẻ
đẹp người phụ nữ với ánh trăng, Dương Thuấn muốn đưa cả hai vẻ đẹp đó trở
thành vĩnh viễn, bất diệt và đứng trên hết tất cả. Hình ảnh trăng trong thơ tình
Dương Thuấn trở nên mềm mại, duyên dáng và cực… tình: Những tối trăng
vàng em và tôi cùng tắm, Hát câu ca trăng ướt đầm đìa, Đêm gõ chiêng
chếnh choáng vầng trăng. Trong thơ Dương Thuấn, trăng được ví với người
con gái, mặt trời ví với người con trai vì vậy mà say trăng, chếnh choáng
trăng cũng là say em, đắm đuối em.
Trăng trong thơ Dương Thuấn còn trở thành biểu tượng thể hiện tấm
lòng son sắt, gắn bó với bản làng của nhà thơ. Dù đi xa ngàn dặm thì nhà thơ
cũng không thể quên được “bến trăng xưa”. Cũng giống như núi, sông, trăng
còn là nhân chứng cho sự ra đi đồng thời là điểm tựa trở về trong tâm tưởng
76
của nhà thơ:
Người đi mang một câu hát cũ
Người đi một bến trăng xưa
Dương Thuấn từng rong ruổi trong những đêm ngựa vàng ngay giữa
phố phường Hà Nội để thương nhớ một bầy ngựa bay trong đêm trăng:
Những con ngựa vàng
Bay trong đêm trăng
Muôn tiếng vó gõ lên trùng khơi
Muôn tiếng vó gõ lên đỉnh núi…
Một sự liên tưởng đầy mỹ cảm. Những bóng ngựa từng “khua vó lên
trăng” ấy động cả vào tâm thức. Trong cuộc hành trình mang tính chất duy
linh, chúng phóng qua cả nỗi buồn cố hữu, qua những dãy núi già nua, qua
mặt trời. Hình ảnh “ngựa khua vó đêm trăng” không chỉ đẹp mà còn lay động
trái tim những người miền núi xa bản, xa núi rừng.
Hình ảnh trong thơ Dương Thuấn là những hình ảnh dung dị, mang hơi
thở của cuộc sống miền núi. Những hình ảnh ấy không đơn thuần chỉ để tả,
phô diễn mà có khả năng gợi mở, khái quát cao. Ðiều đặc trưng trong hình
ảnh thơ Dương Thuấn là cái quen hóa lạ, giản dị mà độc đáo. Trên đây là năm
hình ảnh quen thuộc mang tính biểu tượng văn hóa cao trong thơ Dương
Thuấn, ngoài những biểu tượng trên, chúng ta có thể liệt kê thêm những biểu
tượng khác như: mặt trời, lửa, đá, ngựa. Mỗi hình ảnh dù giản dị, mộc mạc
đều mang những nét riêng của miền núi, ghi dấu được sự gắn bó của nhà thơ
với quê hương bản làng và cuộc sống của những con nguời noi dây. Từng
hình ảnh đều có ý nghĩa và sức gợi liên tưởng riêng tuy nhiên như đã đề cập
từ đầu, năm hình ảnh chúng tôi chọn là những hình ảnh đều có điểm chung là:
chứng kiến bước đường trưởng thành của nhà thơ. Chúng liên kết trong một
trường ngữ nghĩa: nhân chứng cho hành trình từ quê hương ra đi và trở về quê
hương của tác giả. Hành trình đó cũng chính là hành trình đi – tìm lại chính
mình của Dương Thuấn, tìm lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
77
tộc, quê hương ông.
CHƯƠNG 4
MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ DƯƠNG THUẤN
Nội dung và nghệ thuật là hai mặt song hành của một tác phẩm nghệ
thuật vì vậy đánh giá giá trị một tác phẩm văn chương nghệ thuật không thể
khẳng định một khía cạnh: nội dung hay nghệ thuật. Ở chương 2, chương 3
chúng tôi đã nghiên cứu nội dung thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa
đến chương 4 - chương cuối của luận văn, chúng tôi sẽ tiếp tục khảo sát một
số phương thức nghệ thuật mà chúng tôi cho là quan trọng nhất đã làm nên
giá trị văn hóa trong thơ Dương Thuấn.
4.1 Ngôn ngữ
Nếu như giai điệu, âm thanh là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường
nét là ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc thì ngôn
ngữ là chất liệu của tác phẩm văn chương. Là nghệ thuật “lấy ngôn ngữ làm
cứu cánh” (Jakobson), ngôn ngữ giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong thơ.
Ngôn ngữ thơ là một phương tiện hình thức luôn được coi trọng, là một giá trị
không thể phủ nhận trong thơ vì “thơ tức là phần tinh lọc nhất của ngôn ngữ”.
Ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc phong
phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc màu (tính họa) vừa giàu nhạc điệu
(tính nhạc). Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau tạo nên hình tượng thơ
lung linh, đa nghĩa.
4.1.1 Mối quan hệ ngôn ngữ - văn hóa
Định nghĩa “văn hóa” ở chương 1 ta cho ta hiểu văn hóa, trước hết, là
một hệ thống biểu trưng và ý nghĩa mà một cộng đồng đã tạo ra. Đến lượt nó,
văn hóa góp phần tạo ra cộng đồng, trong đó, mọi người tồn tại không phải
như những cá nhân riêng lẻ mà là những thành viên của cộng đồng. Tất cả đều
78
sử dụng một khung nhận thức và một bảng tiêu chí chung để diễn dịch và
đánh giá thực tại, để phán đoán quan hệ giữa người và người, từ đó, phân biệt
thiện và ác, đạo đức và vô luân, đẹp và xấu, hay và dở, những điều thích và
những điều không thích, v.v... Chính trên cơ sở hệ thống biểu tượng và ý
nghĩa như vậy, người ta mới dần dần tạo dựng và củng cố các hệ thống niềm
tin và giá trị; xây dựng các hệ thống thiết chế xã hội và chính trị, cách ứng xử,
phong tục tập quán khác; cuối cùng, dần dần hình thành các sản phẩm văn hóa
như văn học, âm nhạc, nghệ thuật, văn hóa dân gian, v.v...
Với cách hiểu văn hóa như một hệ thống biểu trưng và ý nghĩa như
vậy, người ta dễ dàng nhận ra mối quan hệ hữu cơ mật thiết giữa văn hóa và
ngôn ngữ. Mật thiết đến độ nhiều người cho ngôn ngữ, tự bản chất, là văn
hóa. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa có thể được nhìn thấy từ mấy góc
độ chính:
Một, ngôn ngữ là kho lưu trữ và gắn liền với những kinh nghiệm chung
mà cả văn hóa cộng đồng đều chia sẻ. Chính vì vậy mà ngôn ngữ không chỉ
có có tính nhận thức mà còn có cả sắc thái, tình cảm. Ví dụ, từ “con cò”
không chỉ nhận thức về loài cò mà còn gợi liên tưởng thân phận người phụ nữ
vất vả, cực khổ, chịu nhiều hy sinh. Hai, ngôn ngữ là một trong những
phương tiện chính để lưu truyền văn hóa. Cái gọi là tính chất truyền khẩu
trong văn hóa dân gian (folklore) chính là một minh chứng hùng hồn cho vai
trò của ngôn ngữ trong việc duy trì và nuôi dưỡng văn hóa nói chung. Ba, sử
dụng ngôn ngữ, dưới hình thức nói hoặc viết để chuyên chở điều mình muốn
truyền đạt bao gồm cả ý muốn nói và tình cảm nói.
Tất cả những sự phân tích trên đều nhằm để chứng minh một luận điểm
chính: ngôn ngữ thực chất là văn hóa. Từ những đặc điểm trên, ta thấy, trong
một tác phẩm văn học, nhà văn, nhà thơ là người tái hiện ngôn ngữ của nhân
dân. Như chúng ta đã biết, mỗi dân tộc có điều kiện sống khác nhau (ở
79
phương diện hình ảnh, ngôn ngữ…) việc lựa chọn sử dụng ngôn ngữ trong tác
phẩm vừa thể hiện được tài năng của người nghệ sĩ vừa phản ánh được bản
sắc văn hóa của tộc người đó.
4.1.2 Ngôn ngữ trong thơ Dương Thuấn
Một trong những điểm khác biệt quan trọng nhất của văn học dân tộc
thiểu số với văn học miền xuôi đó là ngôn ngữ. Các tác giả không những sáng
tác theo thể thơ truyền thống mà còn sáng tác theo thể thơ tự do để bắt nhịp
được với hơi thở của cuộc sống. Việc sáng tác thơ bằng tiếng Tày, các tác giả
đã góp phần bảo tồn, gìn giữ nét đặc sắc, độc đáo của ngôn ngữ Tày, gìn giữ
bản sắc văn hóa dân tộc. Các nhà văn nhà thơ dân tộc đều có ý thức rất rõ
trong việc dùng tiếng mẹ đẻ để sáng tác văn chương trong đó đặc biệt (nếu
không muốn nói là nhiều nhất) vẫn là Dương Thuấn mà tuyển tập thơ song
ngữ Tày – Kinh của ông là một dẫn chứng. Dương Thuấn thực sự đã làm phục
hưng ngôn ngữ Tày và văn học Tày. Trước đây có không ít người nói rằng
ngôn ngữ của dân tộc thiểu số sẽ mất đi khi mà mọi vấn đề hiện nay đều bị
quốc tế hóa nhưng Dương Thuấn đã chứng minh ngược lại bằng cách qua tác
phẩm văn học của mình đem đến cho ngôn ngữ Tày sức sống bất tử, vượt qua
mọi thời gian. Bộ tuyển tập thơ song ngữ dày hơn 2000 trang của Dương
Thuấn không chỉ là trường hợp hiếm có đối với văn học trong nước mà cả văn
học thế giới cũng rất hiếm. Tập thơ song ngữ này vừa nêu cao ý thức sáng tác
văn học bằng tiếng mẹ đẻ đồng thời Dương Thuấn cũng thể hiện thái độ muốn
giới thiệu văn hóa của một dân tộc thiểu số đến đông đảo độc giả sử dụng
tiếng phổ thông.
Ấn tượng nổi bật trong ngôn ngữ thơ Dương Thuấn còn là ngôn ngữ
mang chất dân gian đậm nét. Sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ chỉ là một khía cạnh
thể hiện tình yêu đối với văn hóa dân gian của Dương Thuấn. Chất dân gian
trong ngôn ngữ thơ Dương Thuấn còn thể hiện ở khát vọng vẽ chân dung
80
cộng đồng dân tộc mình bằng thơ. Những bài thơ mang tính triết lý như: Ông
câu biển, Chuyện đời xưa, Bỏ ruộng làm rẫy, Những bà già, Người trẻ người
già, Chuyện thằng đầu trọc, Đừng buồn lũ quét, Lời của pứt, Của quý, Bài
học niềm tin, Cõng trâu, Bà mẹ xứ Mây, Cô gái núi Hoa, Đoàn người không
bóng… đã tạo nên bức chân con người miền núi đẹp trong lao động và ý chí:
“Bức chân dung ấy đẹp, nhiều màu sắc còn là kết quả của sự thống nhất giữa
cái hư và thực, cái có lý và phi lý, tình cảm và trí tuệ trong việc thể hiện bút
pháp” [52]. Chính trong lời tâm sự cùng bạn đọc báo Văn hóa – Văn nghệ ông
có nói: “Tôi có bút pháp riêng cho từng bài nhưng bạn đọc cũng có thể nhận
ra bút pháp chung cho tất cả các bài thơ của tôi. Đó là câu kết của các bài
thơ bao giờ cũng gây sự ngạc nhiên cho người đọc khiến độc giả phải nghĩ và
nhớ về bài thơ đó. Một cách nữa là tôi thường đẩy sự việc đi đến tận cùng sự
phi lý nhưng sau khi đọc xong rồi người đọc lại thấy có lý”[50].
Đọc thơ Dương Thuấn người yêu thơ không bắt gặp tình trạng công
thức, khuôn sáo mà trái lại thơ Dương Thuấn ngập tràn ngôn từ của đời sống
tuôn chảy theo mạch cảm xúc chứ không theo quy phạm của thể loại. Vì
không bị ràng buộc bởi những công thức nên thơ Dương Thuấn vừa chân
thực, giản dị nhưng không kém phần bay bổng, hồn nhiên, trong sáng mà hóm
hỉnh gợi nhiều suy ngẫm. Ngôn từ trong thơ ông là thứ ngôn ngữ chắt lọc từ
lời ăn tiếng nói hàng ngày, đó là cách nói mang tính truyền thống của người
vùng cao, là sự chân thành, thẳng thắn trước cuộc sống đời thường. Chính vì
điều này Dương Thuấn trở thành thi sĩ “thật” nhất. Hãy nghe ông giãi bày tấm
lòng hiếu khách của người miền núi để từ đó chúng ta sẽ yêu hơn những con
người nồng nhiệt, chân thật nơi đây:
Khách đến nhà không vội hỏi tên
Mà chỉ hỏi:
Con đường nào đã đưa anh đến
81
Mà nói rằng
Hãy uống cạn vò rượu cùng ta
Và khi khách đi chủ nhà chỉ nói
Đừng để cầu thang nhà tôi mọc cả gà
Một câu nói tưởng chừng chẳng ăn nhập gì với sự quyến luyến, bịn rịn
chia tay khách trước lúc khách ra về nhưng ẩn sâu trong ấy là một sự mong
mỏi, ngóng chờ: khách sẽ trở lại thăm nhà mình và khi đó cầu thang sẽ không
có chỗ cho cỏ mọc. Cái thẳm sâu của lòng người miền núi được biểu hiện bởi
một câu nói rất mộc mạc đơn sơ.
Cảm thức văn hóa về quê hương luôn khiến nhà thơ bật ra những lời
thơ chân thực, tự nhiên nhất:
Quê hương không đủ chỗ đánh rơi đồng xu
Ba bước chân gặp núi
Ra khỏi cửa là leo là lội
Bằng ngôn ngữ mộc mạc của lời ăn tiếng nói hằng ngày, Dương Thuấn
đã trở thành họa sĩ vẽ bức tranh quê hương bằng ngôn từ sinh động, hiện thực
nhất. Vì vậy mà hiếm có nhà thơ nào có được phong vị đậm đặc về quê hương
bản quán trong sáng tác như Dương Thuấn. Bao trùm các trang thơ ông luôn
là cảm hứng ngợi ca cuộc sống, ngợi ca quê hương đất nước. Mỗi nhà thơ đều
có một vùng quê riêng, gắn với bao kỷ niệm yêu dấu của cuộc đời. Quê
hương Dương Thuấn là vùng cao Việt Bắc hùng vĩ chính vì thế mà những vần
thơ của ông về quê hương bao giờ cũng phóng khoáng, bay bổng như chính
tâm hồn của người dân miền núi:
Quê tôi núi ngàn cao vời và lớn rộng
Sáng sớm sương trời bay trắng lòng thung
Chiều về từng đàn mây vờn nhau trên cỏ
Xuân đến hoa đào nở đỏ, hoa lê trắng ngần…
82
(Quê tôi núi ngàn)
Những vần thơ giản dị trên được viết bằng một tư duy thơ thuần phác
miền núi đặc sắc, cách nói “đàn mây” đã biến mây trở thành những con vật
gần gũi với đời sống lao động sinh hoạt của người dân. Đó cũng là một nét
sáng tạo mang dấu ấn riêng của thơ miền núi hôm nay.
Lối quan sát gần, thực với những liên tưởng rất cụ thể, có thể tìm thấy
trong khắp các tập thơ của Dương Thuấn. Lối quan sát này tương ứng với loại
thơ nói – kể của người miền núi – đơn giản, rõ ràng không rối rắm phức tạp
nhưng không vì thế mà nó thô sơ. Ngôn ngữ thơ Dương Thuấn không có cái
điêu luyện như thơ Lương Định hay lối nói tưng tửng mà nghiêm túc, triết lí
đơn giản mà sâu sắc cùa Lò Ngân Sủn. Thơ Dương Thuấn luôn giản dị, đôi
khi nhà thơ đẩy giản dị lên đến tận cùng giới hạn:
Đi lâu lâu
Về lâu lâu
Cái cầu thang có dấu chân của mẹ…
(Về bản)
Ngay cả khi Dương Thuấn triết lý thì cũng vẫn là kiểu ngôn ngữ chân
chất, mộc mạc ấy: Người làm nương ăn theo lửa/ Người làm đồng ăn theo
nước/ Sinh ra tắm nước thơm/ Mới là con của mẹ/ Lớn lên tắm nước sông/
Mới là người của làng/ Đóng con tàu vượt bể/ Tắm giữa đại dương/ Mới
thành con của muôn nơi (Theo nước đi).
Thơ cần có độ nén, cô đọng, độ sâu, tính hàm súc, đa thanh, đa nghĩa.
Đấy là lý tưởng ngôn ngữ thơ của các thi nhân xưa. Ngày nay về cơ bản, ngôn
ngữ thơ vẫn cần phải có tính hàm súc nghệ thuật nhưng không có nghĩa quá
dụng công sáng tạo nên những tầng nghĩa phức tạp, rối rắm sẽ làm thơ trở nên
mơ hồ, khó hiểu, xa rời đời sống, quần chúng. Với cách nói đơn giản, mộc
83
mạc, Dương Thuấn phần nào đã giải thoát thơ ra khỏi sự phức tạp không cần
thiết của lối suy luận, diễn giải học để đưa người đọc tiếp cận với sự vật sự
việc trong thơ đúng như bản thể của chúng.
M.Gorki quan niệm: Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn chương. Điều
đó đúng bởi vì muốn thành văn chương phải nhờ chất liệu sinh động của ngôn
ngữ. Tuy nhiên giỏi ngôn ngữ chưa dễ làm được nhà văn, nhà thơ vì văn
chương chỉ phát lộ ở trong trái tim, khối óc. Từ ngôn ngữ đời sống qua lăng
kính của nhà thơ mang vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng bởi Dương Thuấn sáng
tác thơ với một tư duy độc lập, bất ngờ táo bạo chứ không đơn thuần chỉ là
nhặt nhạnh, ghi chép máy móc:
Tiếng ếch đồng buồn lắm
Một tiếng kêu nghe ốm ba ngày
Người già còn mài dao
Con trẻ đừng quên tập nỏ
Hãy cúi đầu trước từng ngọn cỏ
Cây cong còn có kẻ rào vườn
(Với Bàn Tài Đoàn)
Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh nghệ thuật, cách nói phóng đại (tiếng ếch
kêu ốm ba ngày) rồi nhún nhường (cúi đầu trước ngọn cỏ), hình ảnh tượng
trưng (người già mài dao, trẻ con tập nỏ) – cách nói này phù hợp với lối nói
và sinh hoạt của đồng bào Tày. Viết như vậy thoáng nghe có vẻ mộc mạc
nhưng thực tế là lối nói ví von, hình ảnh dễ nghe dễ cảm; là lời nói thật thà
vừa gần gũi vừa có tính khắc họa sâu. Tất cả điều đó hiện lên như kinh
nghiệm sống như chắt lọc từ trái tim, tâm tưởng, là truyền thống của lớp cha
anh đi trước truyền lại cho thế hệ sau.
Ở những bài thơ khác, chúng ta bắt gặp cách xây dựng ngôn ngữ giàu
84
hình ảnh, từ ngữ chọn lọc, có tính khát quát cao nhiều tình, nhiều nghĩa, hàm
súc cao. (Ví dụ: Cõng trâu, Phố huyện, Ông câu biển…). Như trong bài Ông
câu biển, hình ảnh người dân chài hiện lên bình thản, kiên gan, yêu lao động:
Đứng trên sóng
Ngồi trên sóng
Câu một bể cơm…
Sóng cong thành rắn dữ
Trời mưa tuôn cũng đành
Từ đây, tác giả nâng tầm “nhân vật” - người lao động - ông ngư dân lên
thành “ông câu biển” - thể hiện sự chế ngự biển cả, tâm thế làm chủ thiên nhiên:
Ai đi câu lợi. Ai đến câu ông
Mắt ông chỉ nhìn thấy biển
Tai ông chỉ nghe thấy biển
Ông câu bóng mình
Giáo sư Hà Minh Đức nhận định: “Cảm xúc và trí tưởng tượng là hai
mặt hoạt động hỗ trợ gần gũi của tư duy thi ca để tạo nên phần máu thịt chủ
yếu của hình tượng thơ”[6]. Vì vậy nếu không có cảm xúc, không có trí tưởng
tượng phong phú, không giàu ngôn ngữ nghệ thuật thì cũng không thể có
những bài thơ hay, ấn tượng. Ở đây điều quan tâm nữa là Dương Thuấn đã
làm chủ được ngôn ngữ nghệ thuật. Tiếng Việt đối với ông không chỉ là ngôn
ngữ học vấn mà còn là ngôn ngữ nghệ thuật. Là người sử dụng tiếng Việt như
ngôn ngữ giao tiếp chung của quốc gia thì việc dùng các biện pháp tu từ tiếng
Việt – phương tiện nhiều tầng nghĩa để sáng tạo thơ là một thành công lớn
của Dương Thuấn. Thơ Dương Thuấn mộc mạc, giản dị với lối kể hiền lành,
uyển chuyển, nhẹ nhàng, dân gian, dân tộc và có bố cục kết cấu vừa phải,
ngắn gọn, đúng như nhà thơ Lò Ngân Sủn đã nhận xét: “Phải chăng đó là cái
tạng, cái duyên, vẻ đẹp của Dương Thuấn – bởi cái thô mộc của sự trau
85
chuốt, chắt lọc, gọt dũa, ít mà nhiều, chật mà rộng, ngắn mà dài”[28]. Với
những ai ưa thích lối diễn giải trong thơ ca thì chắc chắn sẽ thất bại khi tìm
hiểu thơ Dương Thuấn bởi thơ ông không có chỗ cho những uẩn khúc vòng
vo. Nhưng có lẽ, sự độc đáo của thơ Dương Thuấn cũng chính là ở sự gần và
thực ấy. Thực nhưng không thô, giản dị nhưng không sơ sài mà trái lại vẫn
đầy sức lôi cuốn.
Tuyển tập thơ Dương Thuấn gồm 3 tập song ngữ ngoài các bài thơ còn
bao gồm hai trường ca Mười bảy khúc đảo ca và Bi phẫn. Vì vậy ngôn ngữ
trường ca còn là điểm mạnh khi bàn tới ngôn ngữ thơ Dương Thuấn. Mười
bảy khúc đảo ca là hành trình ra với biển còn Bi phẫn là hành trình trở về. Hai
trường ca tạo thành một hành trình ra đi để nhận thức về Tổ quốc, trách nhiệm
công dân và trở về để chiêm nghiệm, suy ngẫm lại những giá trị Chân - Thiện
- Mỹ trong cuộc đời của nhà thơ. Nếu như trong Mười bảy khúc đảo ca nhân
vật là những thủy thủ, người lính canh giữ biển đảo của Tổ quốc thì nhân vật
trong Bi phẫn là những cô gái, chàng trai, ông bà già, trẻ em trong cuộc sống
hằng ngày. Mười bảy khúc đảo ca tái hiện lại cuộc sống lao động và bảo vệ
biển đảo Tổ quốc và ngợi ca sức mạnh đoàn kết của dân tộc chínhh vì vậy mà
ngôn ngữ của trường ca này mang tính biểu cảm ngợi ca. Những từ ngữ trang
nghiêm, hào hùng, chính luận được sử dụng nhiều như: lá cờ Tổ quốc, đất
nước, ngôi nhà lớn, pháo đài, quân thù, chủ quyền dân tộc… nhằm nhấn mạnh
khí thế hào hùng, hiên ngang của người chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ
đất nước:
Có gì thiêng liêng như lá cờ Tổ quốc…
Lá quốc kỳ ở đây là chủ quyền dân tộc
Có núi, có sông, có đồng, có biển
Cả nước cùng chung một lá cờ…
86
(Hồi tưởng trước lá cờ)
Thế mạnh của Dương Thuấn là hiểu sâu và khai thác tốt mảng đề tài
liên quan bằng một kết cấu và ngôn ngữ thích hợp tạo ra được nét phong cách
độc đáo. Nhà thơ phát huy tốt đa khả năng xây dựng câu từ thể hiện tinh thần
cơ bản theo chủ đề của mỗi khúc ca. Song Mười bảy khúc đảo ca không chỉ
có mỗi ngôn từ biểm cảm “ca ngợi” mà hòa trong xu hướng đa dạng hoá
trường ca, khi trường ca đi vào cuộc sống đời thường thì cảm xúc lại được thể
hiện bằng ngôn ngữ thông tục. Ngôn từ biểu cảm của anh thực sự là ngôn từ
giao tiếp hàng ngày, với những từ ngữ thuộc khẩu ngữ rất đời thường:
- Muốn để khách ngủ ngon
Họ nằm yên vờ ngủ
(…)
Có thứ gì liên hoan thứ ấy
Đây lính biển đãi khách nhà thơ…
Nào mì khô, nào nước mắm
Nào hải sâm, cá mực, tôm , cua…
(Đêm thần tiên)
Trái ngược với Mười bảy khúc đảo ca - hành trình ra đi để nhận thức về
thế giới và trách nhiệm con người thì Bi phẫn lại là sự trở về để chiêm nghiệm
lại những gì đã trải qua, nhận thức lại những giá trị đích thực trong cuộc đời.
Tại sao gọi là Bi phẫn, nhà thơ đã giải thích ở chương cuối Dạo chơi và nghĩ:
Con người khi sinh ra khóc bi phẫn
Con người lớn lên nhờ bi phẫn
Bi phẫn mà tôi viết trường ca
Bi phẫn thành vui, tôi viết chơi mà…
Bi phẫn là những suy tư, bộc bạch, những câu hỏi được tác giả đặt ra trước
muôn vàn vấn đề của cuộc sống vì vậy mà ngôn ngữ ở trường ca thứ hai này
87
là ngôn ngữ tự vấn, được coi là một kiểu diễn đạt phù hợp với đặc điểm suy
tư triết lý. Nói suy tư triết lý chỉ là một cách đặt tên cho một xu hướng, thực tế
các nhà thơ không phải là những nhà triết học. Họ chỉ là những người muốn
cho thấy mình có trách nhiệm với dân tộc, với Tổ quốc. Họ bộc bạch những
suy tư về những vấn đề hết sức quen thuộc, diễn ra hằng ngày trong cuộc sống
của đồng bào mình từ đó nhận ra đâu mới là giá trị đích thực, đáng nâng niu
trân trọng.
4.2 Giọng điệu
4.2.1 Giới thiệu về giọng điệu
Trong các tác phẩm nghệ thuật ưu tú, giọng điệu bao giờ cũng mang
tính chất lượng, nó là sản phẩm sáng tạo đích thực của nhà văn. Giọng điệu
văn chương là một hiện tượng nghệ thuật mang tính cá nhân cao độ. Giọng
điệu là một yếu tố cơ bản của phong cách nghệ thuật. Một tác giả tài năng bao
giờ cũng phải tạo được một giọng điệu độc đáo. Giọng điệu gắn với cảm hứng
chủ đạo, giọng điệu góp phần tăng giảm hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn
chương.
Thế nào là giọng? Theo Từ điển Tiếng Việt [37] thì: Giọng là:1/ Độ cao
thấp, mạnh yếu của lời nói, tiếng hát. 2/ Cách phát âm của một địa phương. 3/
Cách diễn đạt bằng ngôn ngữ, biểu thị một thái độ, tình cảm nhất định. 4/
Gam đã xác định âm chủ.
Như vậy trong cuộc sống hằng ngày giọng được hình dung trước hết
như một tín hiệu âm thanh có âm sắc, trường độ, cao độ. Khái niệm giọng chủ
yếu nói về người, gắn với người, là giọng nói của người dùng trong ngôn ngữ
giao tiếp của mỗi người. Không chỉ tồn tại như một âm thanh, giọng nói của
người còn hàm chứa thái độ của người nói, chính ở đây người ta thường nói
đến giọng điệu.
Từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ biên soạn cho rằng giọng điệu là
88
“giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định”. Như vậy “giọng” là yếu tố
mang đậm tính vật lý trong khi “giọng điệu” lại được nhìn từ góc độ tâm lý.
Nhìn vào 2 định nghĩa về giọng và giọng điệu, ta thấy định nghĩa giọng điệu
trùng với nét thứ ba của định nghĩa về giọng. Vậy nên trong thực tế giao tiếp,
tùy vào hoàn cảnh, người ta thường đồng nhất hai khái niệm này. Như vậy có
thể nói có bao nhiêu hoàn cảnh giao tiếp, bao nhiêu nhân vật tham gia giao
tiếp thì có bấy nhiêu giọng điệu, ví dụ như: giọng khinh nhờn, bỡn cợt, chế
giễu, trịnh thượng, cung kính, vui sướng, thỏa mãn, chanh chua, hiền
hậu…..Rõ ràng giọng điệu thường thể hiện tâm tính con người, phản ánh tâm
trạng của họ. Âm thanh giọng điệu cũng phù hợp với nội dung cảm xúc, khi
vui giọng vang rõ, khi buồn giọng lắng lại, thấp xuống…
Trong cuộc sống giọng điệu thường mang tính nhất thời, khác với
giọng điệu trong tác phẩm văn học. Trong nghệ thuật, giọng điệu bao giờ
cũng được tổ chức công phu, là kết quả của một quá trình sáng tạo thực thụ.
Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ thuộc vào hệ thống không
phải là ngẫu hứng.
Không chỉ hàm chứa cảm xúc, thái độ của người nói, giọng điệu còn
thể hiện nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính của chủ thể phát ngôn. Giọng trẻ con
khác giọng người lớn, giọng người từng trải khác giọng người non nớt, giọng
người ít học khác với giọng người trí thức….
Giọng điệu như một hiện tượng nghệ thuật nhưng không nên tạo ra sự
ngăn cách giả tạo giữa giọng điệu trong đời sống với giọng điệu trong văn
chương. Trong tác phẩm văn học, giọng điệu cũng mang đặc tính âm thanh.
Ngay cả khi đọc thầm một câu thơ, câu văn, trong tâm trí người đọc vẫn vọng
lên cái âm hưởng, thậm chí đường nét của âm thanh. Chỉ có điều khi trở thành
một hiện tượng thẩm mĩ, cấu trúc và cơ chế vận hành của giọng điệu văn
89
chương phức tạp hơn nhiều so với giọng điệu thường ngày.
Giọng điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua
lời văn nghệ thuật. Không thể có giọng điệu nếu như không có những rung
động sâu sắc, những nỗi đau, những xót xa trước thân phận con người, không
chia sẻ với họ niềm vui và tình yêu trong cuộc sống. Trong nghệ thuật ngôn
từ, giọng điệu không chỉ bộc lộ qua âm thanh, nhịp điệu mà còn bộc lộ qua
màu sắc, đường nét, hình ảnh.
Không phải lúc nào trong tác phẩm cũng chỉ có một giọng điệu thuần
nhất. Việc phân chia loại hình giọng điệu cũng khác nhau, xuất phát từ những
tiêu chí khác nhau. Theo cấu trúc thì có thể chia thành giọng chính và giọng
phụ. Căn cứ vào sắc thái tình cảm thì có thể nói đến giọng gay gắt hay tình
cảm, trang trọng hay suồng sã, mạnh hay yếu, kính cẩn hay châm biếm….Căn
cứ vào dạng thức cảm hứng chủ đạo thì có giọng bi, giọng hài, giọng anh
hùng ca….Nếu chú ý khuynh hướng tư tưởng thì có các giọng: thông cảm hay
lên án, yêu thương hay tố cáo, khẳng định hay phủ định….Có khi từ cái nhìn
ngôn ngữ học chia thành giọng trần thuật, giọng nghi vấn, giọng cảm thán. Về
cơ bản giọng điệu bộc lộ các sắc điệu tình cảm của chủ thể phát ngôn.
4.2.2 Giọng điệu trong thơ Dương Thuấn
Nét nổi bật, phong cách riêng của Dương Thuấn chính là thơ kể vì vậy
mà giọng điệu chủ đạo, độc đáo của Dương Thuấn cũng là giọng kể, tả. Mỗi
bài thơ, Dương Thuấn đều thủ thỉ nói về kỷ niệm, phong tục, cảnh sắc quê
hương. Thoạt đọc những tiêu đề bài thơ trong tập Bản Hon và những nơi
khác, người đọc có thể gọi thơ Dương Thuấn là thơ kí sự (ví dụ như: Mời anh
về Ba Bể, Về bản, Lượn cọi, Cõng trâu, Lên rẫy, Sinh con, Ta ở đâu bản ta ở
đó… Đi đến đâu, làm gì Dương Thuấn cũng có thơ. Thơ như một phương tiện
để nhà thơ lưu trữ những ký ức, kỉ niệm và trải nghiệm. Các địa danh trong
nước: Cà Mau, Bắc Kạn, sông Hậu, Đồng Văn, Lâm Đồng, Trường Sa, Hoàng
90
Sa…, nước ngoài như Canada, Whashington, Nepal… không chỉ góp phần mở
rộng không gian nghệ thuật mà còn làm tăng tính chân thực cho nội dung hiện
thực được phản ánh trong tác phẩm. Đối với Dương Thuấn mà nói bản Hon
hay Trường Sa, Hoàng Sa; sông Năng, hồ Ba Bể hay biển Đông hoặc đại
dương, tất cả dưới ngòi bút của ông nó đều là những nơi để lại dấu ấn sâu sắc.
Dương Thuấn chịu khó lắng nghe, quan sát và kể lại bằng thơ. Nhà thơ
như người kể chuyện dân gian có một kho vô cùng tận những điều muốn nói,
muốn tâm tình. Cái duyên của người kể là cuốn hút, làm cho người nghe
không chán về những chuyện của mình. Cái tài của người kể là chọn chi tiết,
dựng câu chuyện sinh động, hấp dẫn. Người đọc chẳng những được biết mà
còn như được tham gia trực tiếp vào trong những sự kiện tác giả kể. Tiếng nói
nghệ thuật trong thơ Dương Thuấn luôn là tiếng nói đời sống, là tiếng nói của
người trong cuộc được giãi bày. Dương Thuấn không nói những điều to tát
mà là những điều bình thường giản dị như hơi thở, như tiếng nói. Ông cứ
nhẩn nha, rủ rỉ. Cõng trâu, lên rẫy, cưỡi ngựa, làm dâu, băng rừng, vượt núi,
sinh con, thăm mẹ vợ, làm dâu, hát lượn, dự hội lồng tồng, đón năm mới…
biết bao nhiêu là phong tục mang nét văn hóa dân tộc giàu bản sắc cứ trôi tuột
qua giọng kể thủ thỉ của nhà thơ (Làm dâu, Sinh con, Nàng ơi uống rượu,
Thăm mẹ vợ, Mùng một tết…)
Nhà nghiên cứu văn học Lâm Tiến từng nhận xét: “các tác giả văn học
dân tộc thiểu số thường đi sâu vào lối phô diễn của dân tộc mình nên họ đem
vào tác phẩm văn học một màu sắc dân tộc đích thực [36]. Dương Thuấn
không nằm ngoài số đó nên ông đã đặc biệt chú ý vào giọng kể gần gũi không
kiểu cách, câu lệ. Điều này cũng xuất phát chính từ cách lựa chọn ngôn ngữ
đời sống hàng ngày để đưa vào trong thơ ca của Dương Thuấn. Tự nhiên, gần
gũi là giọng thơ viết về đời sống sinh hoạt đã đành mà ngay cả trong thơ gửi
gắm tâm sự triết lý Dương Thuấn cũng triết lý một cách tự nhiên. Thơ triết lý
91
của Dương Thuấn thường tạo nên những tư duy sâu sắc nhưng lại bắt đầu từ
những tình thế bất ngờ chứ không phải là kết quả từ một sự dàn xếp, định
hướng trước:
Em nhìn vầng trăng và hát
Có ông già cúi gầm xuống đất
Nhớ vầng trăng đã quên…
(Vầng trăng)
Hoặc:
Quả chín mọng như muốn rơi vào lòng tay
Hăm hở trèo lên
Áo em rách rồi
Thôi đành… lỡ dại
Nhưng khó bình thản mà đi
Quả trong rào
Mọng thế kia
(Ăn trộm)
Từ những hình ảnh cụ thể, Dương Thuấn luôn tìm tòi, suy nghĩ và đúc
kết thành những bài học, những kinh nghiệm để tạo thành giọng điệu có tính
triết lý trong thơ. Đặc biệt giọng triết lý của Dương Thuấn có một dấu ấn
riêng, đó là cách triết lý từ sự từng trải đúc kết thành bài học tự nhiên, có thể
gọi đó là giọng điệu triết lý đậm chất miền núi. Nó không hề khô khan, giáo
điều, không lên gân cốt mà dễ hiểu, có sức lay động qua những hình ảnh quen
thuộc, gẫn gũi, đi vào lòng người. Có thể kể đến hàng loạt bài thơ của Dương
Thuấn mang đậm giọng điệu triết lý trên như: Người hạnh phúc, Ai sung
sướng hơn, Tiếng Con Người, Nghĩa không ở trong lời, Không đi không lại,
Khi ra khỏi nhà mình, Bà mẹ sau chiến tranh, Nỗi đau, Thanh kiếm, Cái bờ
rào đã mọc lên, Kẻ ngu dốt và người thông thái, Soi bóng, Đâu là khôn
92
ngoan, Hai nửa mặt người, Anh nghèo và lão nhà giàu… Tuy là triết lý đó
nhưng nhà thơ luôn biết cách tạo ra sự hóm hỉnh, dí dỏm để người đọc không
cảm thấy sự áp đặt, khiên cưỡng từ những bài học mà tác giả đã đúc kết. Hãy
nghe Dương Thuấn triết lý về tình cảm của người đàn ông mới biết Dương
Thuấn dí dỏm và sâu sắc thế nào:
Đàn ông có ba quả tim
Một quả cất để ở nhà
Một quả mang trong lồng ngực
Một quả đem giấu ở vườn hoa
(Ba quả tim của đàn ông)
Ba quả tim của người đàn ông: một cất ở nhà (dành cho vợ), một mang
trong ngực (dành cho mình để thở) và một đem giấu ở vườn hoa (dành cho
người tình). Ngay đến cả bí mật tế nhị nhất của giới đàn ông cũng bị Dương
Thuấn phơi bày nhưng lại bằng cách mà khó có ai mà giận được. Đọc bài thơ,
độc giả là phụ nữ hay đàn ông thì cũng đều cười xòa vì cái duyên, hóm hỉnh
của bài thơ nhưng sau đó chắc chắn người phụ nữ sẽ tự dặn mình: phải để ý
đến quả tim thứ ba của đàn ông còn người đàn ông phải tự nhủ: mình phải cẩn
thận hơn mới được.
Triết lý thơ của Dương Thuấn còn đạt đến độ tinh tế, tinh tế không phải
ở chỗ nhà thơ dụng công trau chuốt, gọt giũa hình ảnh, ngôn ngữ quá mức mà
lại nằm ở sự lạ hóa của cách nói:
Ở bản Hon có những bà già
Ngày ngày ra bên bờ sống Năng
Cúi đầu xuống dòng sông than thở
Sông ơi, tôi già quá rồi nhưng sao chưa chết?
(…)
Ai rồi già cũng đến
Ai rồi trẻ cũng qua…
93
(Những bà già)
Triết gia người vĩ đại người Hy Lạp Heraclit từng nói: Không ai tắm
hai lần trên một dòng sông, câu này hàm ý là mọi thứ đều luôn vận động
trong không gian và thời gian. Tất cả mọi sự vật và hiện tượng luôn luôn biến
đổi và phát triển không ngừng, cũng như dòng sông kia nước luôn luôn vận
động chảy trôi không bao giờ đứng lại. Ở đây, ta bắt gặp Dương Thuấn cũng
triết lý về sự vận động chảy trôi của sự vật, thời gian, không gian nhưng
không chỉ thế mà ông còn nói đến cả sự hữu hạn của kiếp người trước quy
luật phát sinh và tiêu vong: trẻ - già - chết. Biết được quy luật tuần hoàn đó
nhưng con người vẫn bất lực không thể thay đổi và họ chấp nhận, chấp nhận
nhưng vẫn nuối tiếc: “Ôi, con người bao giờ hạnh phúc/ Ai rồi già cũng đến/
Ai rồi trẻ cũng qua”. Hình ảnh những bà già ra bờ sông Năng than thở về quy
luật tuần hoàn của đời người là một hình ảnh lạ hóa trong thơ. Dương Thuấn
đã làm mới lại thơ của chính mình bằng cái nhìn sâu sắc từ hiện thực quen
thuộc hàng ngày ông nhìn thấy. Sự lạ hóa đôi khi không đến từ hình thức bên
ngoài (về từ ngữ) mà ở chỗ nhà thơ biết cấp cho những sự vật, hiện tượng gần
gũi dễ bị bỏ qua một cái nhìn sâu sắc hơn.
Với một số lượng tác phẩm viết về bản Hon và miền núi đồ sộ, Dương
Thuấn được mệnh danh là nhà thơ của núi rừng. Tuy nhiên chàng trai của núi
ấy đã băng rừng để đến với biển, hai tập thơ Lính Trường Sa thích đùa và
trường ca Mười bảy khúc đảo ca của ông đã để lại nhiều thành công và rất ấn
tượng đặc biệt về giọng thơ. Dương Thuấn viết về biển, về đảo, lấy cảm hứng
từ biển đảo nhưng tư duy thơ của ông vẫn là tư duy của người vùng núi, giọng
điệu của người miền núi. Đó là cách tư duy đơn giản, có sao nói vậy.
Chẳng hạn bài Ăn theo nước trong tập Lính Trường Sa thích đùa, nhà
thơ viết bài này giữa biển Đông, viết về biển nhưng tư duy lại đặc sệt rừng:
Người làm nương ăn theo lửa/ Người làm đồng ăn theo nước/ Sinh ra tắm
94
nước thơm mới là con của mẹ/ Lớn lên tắm nước sông mới là con của làng/
Đóng con tàu đi ra giữa đại dương mới thành người của muôn nơi... Từ cuộc
sống của cái tôi cá nhân nhà thơ đã hòa nhập với cái ta cộng đồng, dân tộc,
nhân loại, ý nghĩa lớn lao đó được nhà thơ diễn tả cực kỳ đơn giản. Bài thơ
mang đậm tư duy triết học về nhân sinh, cuộc sống, sự sinh tồn của con người
nhưng cũng là bài thơ riêng của cá nhân Dương Thuấn. Ông đã đi từ chậu
nước thơm tắm ở bản để thành con của mẹ lúc lọt lòng đến với đại dương bao
la, cũng như ông hành trình từ bản Hon đến với nhân loại.
Quen lối nói, cách tư duy của người miền núi Dương Thuấn tạo nên
một giọng thơ thật trong sáng, dung dị, vừa đủ để giãi bày. Ông không thích
những cách cắt nghĩa to tát, rườm rà hay những ngôn từ quá phận. Không phải
ngẫu nhiên mà Dương Thuấn đã hai lần được giải thưởng thơ viết cho thiếu
nhi do Hội Nhà văn và Trung ương Đoàn trao tặng. Thế giới trẻ thơ ùa vào
mỗi trang thơ Dương Thuấn vô cùng thân quen, gần gũi với cuộc sống của trẻ
em miền núi. Nhà thơ khi viết cho thiếu nhi phải nhìn bằng con mắt thiếu nhi,
nghĩ bằng cách nghĩ thiếu nhi, rung cảm cũng bằng chính tâm hồn thiếu nhi
thì thơ mới thoát khỏi sự cố già trước tuổi. Cùng ca ngợi điệu hát lượn quê
mình, ở bài Nàng ơi uống rượu, viết cho người lớn nên nhà thơ nhìn bằng con
mắt của chàng trai say men tình còn viết cho thiếu nhi ông lại kể về sự tích
các ngọn núi bằng một giọng cổ tích ngây thơ:
Ngày ấy… núi đi tìm nơi ở
Núi về đến quê mình
Có tiếng lượn nàng ơi
Núi đứng nghe mê mải
Mà chân không biết bước
Núi đứng đến bây giờ
Đọc bất cứ bài thơ viết cho thiếu nhi nào của Dương Thuấn ta cũng bất
95
ngờ vì chúng vừa trong sáng, đáng yêu lại vừa ngộ nghĩnh, ngây thơ. Từ
chuyện bẫy cá, hái măng bỏ bùa yêu nhau, Dương Thuấn đều có cách diễn đạt
tư duy của mình như tư duy của trẻ con mới lớn để ăn nhập với trẻ.
Đơn giản, ngắn gọn nhưng súc tích là đặc trưng của giọng điệu triết lý
trong thơ Dương Thuấn. Dương Thuấn ưa thích sự dễ hiểu, ngắn gọn vì thế có
khá nhiều bài thơ của ông giống chỉ có 3, 4 hoặc 5 dòng như những câu châm
ngôn về cuộc sống và con người: “Nếu bạn chấp nhận cuộc sống như nó tự
đến/ Bạn sẽ có cuộc sống không như bạn muốn/ Nhưng nếu bạn muốn có cuộc
sống tốt hơn/ Thì ắt cuộc sống tốt hơn sẽ đến/ Bởi vì bạn là người yêu cuộc
sống/ Còn cuộc sống chẳng bao giờ yêu bạn” (Cuộc sống), “Lòng người rộng
như bầu trời cao rộng/ Đựng bao nhiêu mây gió cũng không vừa/ Lòng người
hẹp như khe nhỏ hẹp/ Con rắn muốn đi chẳng có chỗ để bò” (Lòng người),
“Có một ngày từng đám cỏ trên mặt đất kêu lên/- Làm thằng ngốc họ sẽ lấy
hết ruộng nhà mình/ Làm người khôn quạ sẽ mổ ăn ruột mình”. (Tiếng cỏ)
Dương Thuấn sáng tác thơ cho nhiều đối tượng, lứa tuổi khác nhau vì
thế sẽ là đơn điệu, nhàm chán nếu nhà thơ chỉ có duy nhất một giọng điệu.
Bên cạnh giọng điệu kể tả, giọng điệu triết lý đậm chất miền núi làm chủ đạo
thì thơ Dương Thuấn còn thu hút được sự chú ý của người đọc bởi giọng điệu
khỏe khắn, vui tươi đúng như tính cách của con người miền núi. Từ bản Hon
nhỏ bé nhà thơ Dương Thuấn lên đường đi xuống đồng bằng rồi đi khắp bốn
phương trời nhưng tâm hồn vẫn đậm chất núi rừng: mạnh mẽ và can trường:
Ta có con mắt của con nai bên suối
Ta có con mắt của con báo trong lồng
Ta đi bộ từ núi xuống đồng bằng
Ta ghé tai hổ nói:
Ta là họ Dương
Hổ liền cõng ta vượt núi
Giữa đường gặp trăng sao
96
Ta ngồi cùng trăng sao uống rượu…
Những vần thơ giàu tính siêu thực ấy thể hiện tâm hồn phóng khoáng
của người con núi rừng. Hoà mình với thiên nhiên, cảnh vật, nhà thơ luôn dạt
dào cảm xúc, tâm hồn bay bổng, lâng lâng. Giống như con cá gặp nước, con
hổ được trở về rừng, giọng điệu thơ Dương Thuấn trở thành lời reo vui sướng
khiến câu thơ ngập tràn những cảm thán biểu lộ cảm xúc:
- Kìa thảo nguyên đẹp thế
- Ôi nắng vàng như mật
….
Thơ Dương Thuấn nói về cuộc sống miền núi. Dương Thuấn đã triệt để
khai thác mảng đề tài này bằng cách nói mộc mạc, hiền hậu, dân dã mà cụ thể,
sâu sắc của một người miền núi. Chính vì vậy mà cảnh vật, con người nơi đây
tuy đề cập đến nhiều nhưng không trở thành sáo mòn mà nó luôn để lại ấn
tượng đẹp trong lòng. Bởi xét tới cùng thì tận cùng của cái đẹp chính là sự
đơn giản.
Giọng điệu khỏe khoắn, vui tươi trong thơ Dương Thuấn còn thể hiện ở
cách nhà thơ nhìn về cuộc đời với một tinh thần lạc quan trước khó khăn,
hoạn nạn:
Thôi cũng đừng buồn nhé
Rừng còn cây thì cây lại ra hoa…
(Đừng buồn lũ quét)
Làm ăn nhớ nhìn sau trước
Khi khổ cực hãy nghĩ đến khi vui
Nghe lời của pứt, bến cuối cùng sẽ đến…
(Lời của pứt)
Hiểu rõ cuộc sống của người miền núi còn gặp nhiều khó khăn nhà thơ
97
làm dấy lên niềm yêu đời, tin vào ngày mai tươi sáng cho chính đồng bào
mình. Họ vốn mạnh mẽ như hổ báo của núi rừng vì thế có ý chí và niềm tin
chính là sức mạnh băng qua thử thách, gian khổ.
Đọc thơ Dương Thuấn ta nhận ra có sự đối nghịch trong giọng điệu.
Khi tác giả đau đớn thì giọng thơ đùa cợt nhưng sau cái ngạo mạn khinh đời
lại là nỗi cô đơn:
Đêm nay đô thành ta đạp đổ
Ta là chàng trai của núi khinh đời
Ta chẳng cần đô thành em đã biết chưa
Chẳng cần biết em qua bao ngôi nhà bị đổ
Trên hành trình ra đi của mình, cái tôi trải nghiệm của nhà thơ được
hình thành chính vì vậy mà Dương Thuấn triết lý nhiều hơn, giọng thơ nghe
ra nặng một nỗi niềm, giàu băn khoăn trăn trở. Vốn là một chàng trai núi
khinh đời, ra đi cũng với một tư thế khinh đời: Ta đi từ rừng xuống bể/ Không
nhìn mặt một ai. Tâm trạng buồn, chán nản xuất hiện khi nhà thơ đã nếm trải
nhiều va chạm với cuộc đời:
Túi tình đầy bạc vạn
Đã tiêu hết với đời
Giờ thì không còn dính túi
Dù chỉ một chút hơi
Dương Thuấn như một kẻ độc hành cô đơn giữa dòng đời và ông khao
khát được quay về cội. Bởi chỉ có về lại quê hương thì nỗi cô đơn đó mới
được khỏa lấp và nhà thơ mới trở lại là chính mình.
Trên đây chúng tôi chọn khảo sát hai phương diện nghệ thuật: ngôn
ngữ và giọng điệu trong thơ Dương Thuấn để làm rõ hơn giá trị văn hóa trong
thơ Dương Thuấn. Là một người con của xứ Tày Bắc Kạn những vần thơ của
Dương Thuấn luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh
98
thiên nhiên, đời sống sinh hoạt đến tâm hồn, nếp suy nghĩ của con người qua
giọng thơ kể tả bình dị nhưng đầy sức lôi cuốn. Đặc biệt ở cách sử dụng ngôn
từ ví von, so sánh giàu biểu tượng – nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc
thiểu số là một sự độc đáo hấp dẫn riêng từ những trang thơ của Dương
Thuấn. Đọc thơ để thấy người, có lẽ điều này hoàn toàn chính xác với Dương
Thuấn. Là người con của dân tộc Tày, những vần thơ ông viết ra mang hồn
vía của người Tày. Trong mọi sinh hoạt đời thường của người Tày luôn gắn
với sự giao thoa văn hóa. Bản sắc văn hóa của dân tộc cứ tự nhiên thấm vào
Dương Thuấn như hương thơm, như khí thở. Bằng một tâm hồn nhạy cảm
tinh tế, Dương Thuấn đã rút ruột mình để sáng tác nên những lời thơ tri ân
chính dân tộc đã sinh thành và nuôi dưỡng ông. Câu nói của người xưa “Nhân
lưu danh, hổ lưu bì” (Người để tiếng cho đời, hổ thì để tấm da) đã ứng vào
Dương Thuấn, ông đã lưu tiếng thơm vào lịch sử văn học và văn hóa không
99
chỉ của dân tộc mình mà còn trên cả nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
KẾT LUẬN
Một nhà văn, nhà thơ bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, một nền văn
hoá nhất định. Cho nên giá trị văn hóa của dân tộc trong văn học liên quan
chặt chẽ tới chủ thể sáng tạo ra nó. Chính họ là người bảo tồn, làm giàu và
phát huy (người giữ lửa và canh lửa - Raxun Gamzatốp) bản sắc dân tộc trong
văn học, làm cho bản sắc đó không mất đi mà trường tồn mãi mãi. Như vậy,
một tác phẩm muốn có được bản sắc dân tộc, nhà văn phải được tắm mình
trong cội nguồn của nền văn hóa đó. Hiểu sâu sắc và yêu tha thiết truyền
thống văn hoá của dân tộc mình, có cảm hứng và tài năng sáng tạo, thể hiện
giá trị văn hóa đó bằng nội dung và hình thức nghệ thuật.
Để truyền tải được những giá trị văn hóa của dân tộc mình trong văn
học không phải ngẫu nhiên mà tác giả nào cũng có, cũng không phải chỉ cố
gắng phấn đấu là có được, mà nó được nảy sinh trong những điều kiện nhất
định. Điều đó giải thích vì sao bản sắc dân tộc trong văn học dân tộc thiểu số
được thể hiện rõ ràng, tập trung và có thành tựu nhất lại thuộc về lứa tuổi trên
40 và 60 hiện nay. Đó là Nông Quốc Chấn, Y Phương, Inrasara, Cao Duy
Sơn, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn… Những nhà văn nhà thơ này đều được
sinh ra và lớn lên ở quê hương mình, có một bề dày văn hoá nhất định, đều tốt
nghiệp các trường Đại học hoặc qua trường viết văn Nguyễn Du (trừ
Inrasara). Họ sáng tác vào những năm 80 của thế kỷ XX đến nay. Đó là thời
kỳ mà ý thức dân tộc được thức tỉnh, thời kỳ mà văn học Việt Nam có nhiều
tìm tòi đổi mới. Các nhà văn dân tộc thiểu số háo hức tìm tòi, khám phá phát
hiện con người, cuộc sống dân tộc và miền núi, phấn đấu không mệt mỏi để
tìm hiểu và thể hiện văn hóa dân tộc mình trong văn học. Chưa bao giờ bản
sắc dân tộc trong văn học lại được bàn luận sôi nổi như thời kỳ này.
Một số nhà văn như Y Phương, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Mai Liễu,
100
Cao Duy Sơn, Triệu Lam Châu, ... sau này chuyển ra đô thị làm ăn và sinh
sống, nhưng họ vẫn giữ được bản sắc dân tộc của mình, mặc dù đề tài lúc này
có được mở rộng hơn. Như vậy cội nguồn, nội lực văn hoá dân tộc giữ vai trò
quyết định trong việc thể hiện giá trị văn hóa dân tộc, nó sẽ đi suốt và in đậm
dấu ấn trong quá trình sáng tạo. Với số lượng sáng tác đáng kể so với tuổi đời,
Dương Thuấn đã cống hiến cho nền thơ dân tộc Tày nói riêng, thơ ca dân tộc
Việt Nam nói chung những giá trị văn học to lớn. Nhà thơ cầm bút sáng tác về
quê hương mình như một sự lắng đọng, ngưng kết đời sống tinh thần, văn
hóa, lịch sử truyền thống dân tộc Tày tạo thành nguồn suối hòa vào dòng sông
Việt để chảy ra biển cả thế giới.
Tuyển tập Dương Thuấn được sáng tác bằng hai thứ tiếng: Tày và
Kinh, với độ dày trên 2000 trang, gồm 3 tập. Tác phẩm này, nhà thơ Dương
Thuấn đã dành 24 năm để sáng tác. Đây là lần đầu tiên Dương Thuấn in tuyển
tập và cũng là lần đầu tiên một nhà thơ dân tộc Tày có tác phẩm song ngữ đồ
sộ nhất bằng tiếng dân tộc mình - điều mà từ trước đến nay các nhà thơ dân
tộc thiểu số khác chưa làm được. Điều đáng nói hơn cả là Dương Thuấn đã
song hành cùng nhân loại là ông đã sáng tác thành công cả hai tác bản: tác
bản Tày và tác bản Kinh. Thành công của ông bắt đầu từ tài năng trời cho
nhưng cũng chính là từ tấm lòng yêu quê hương và yêu dân tộc của ông. Ông
cũng đã vun đắp cho nền văn học Tày, thực sự làm phục hưng ngôn ngữ Tày
và văn học Tày. Giữ gìn tiếng nói của một dân tộc đó là sự giữ gìn và phát
triển bản sắc dân tộc ấy. Bộ tuyển tập sáng tác bằng song ngữ đồ sộ của
Dương Thuấn không chỉ là trường hợp hiếm có đối với văn học trong nước
mà cả văn học thế giới cũng rất hiếm.
Tình yêu với quê hương, đất nước, những cảm xúc, suy tư, những triết
lý, chiêm nghiệm của nhà thơ trong cuộc đời, trong tình yêu được thể hiện
bằng một tư duy, cảm xúc cùng ngôn ngữ hình ảnh, giọng điệu độc đáo.
Dương Thuấn đã sáng tạo hàng loạt những hình ảnh đặc sắc có sức khái quát
101
trở thành biểu tượng văn hóa như: bản Hon, núi, sông, nước, trăng, đá,
ngựa… Cách sử dụng ngôn từ đời sống với lời ăn tiếng nói hằng ngày đã đưa
thơ Dương Thuấn đạt độ chân thật, gần gũi quần chúng, khắc họa thành công
tính cách của người miền núi quê ông. Điều này không những khẳng định
chiều sâu ý thức văn hóa mà nó còn tạo được phong cách riêng, tư duy độc
lập, cá tính sáng tạo và đã làm nên tên tuổi nhà thơ Dương Thuấn.
Qua quá trình tìm hiểu, chúng ta có thể khẳng định thơ Dương Thuấn
đã góp phần bảo tồn và phát huy nền văn hóa đặc sắc của dân tộc Tày trong
đời sống văn hóa – văn học Việt Nam hiện đại.
Muốn viết về đề tài miền núi thì phải bắt đầu từ sự hiểu biết, hay nói
cách khác là “thuộc” văn hoá. Sở dĩ các nhà văn như Tô Hoài, Nguyên Ngọc,
Ma Văn Kháng, Trung Trung Đỉnh thành công ở mảng đề tài miền núi là do họ
nắm được vốn văn hoá các dân tộc thiểu số mà họ định hướng ngòi bút đến.
Đơn cử một ví dụ, người Tày chúng tôi chỉ có một từ “ăn”. Uống nước cũng
gọi là “ăn nước”, uống rượu gọi là “ăn rượu”... nhưng đó là cuộc sống, còn khi
thể hiện vào văn học, thì người dân tộc thiểu số đòi hỏi một sự bình đẳng về
ngôn ngữ thể hiện văn hoá của họ được tôn trọng. Trong cuộc sống, người ta có
thể nói “ cái mày, cái tao”... là do vốn tiếng Kinh của họ quá ít để có thể diễn
đạt sự giao tiếp, nhưng nếu nhà văn coi đó là “văn hoá của người dân tộc” để
đưa những “cái mày, cái tao” vào sáng tác... thì lại là một sự miệt thị. Với
những người hiểu sâu về văn hoá các dân tộc, họ sẽ biết cách “mã hoá” ngôn
ngữ giao tiếp trong cuộc sống của người dân tộc thành ngôn ngữ hiện nay của
văn chương- đó mới chính là bản chất sâu thẳm mà rất ít người hiện nay làm
được. Bản thân tôi, một người con của miền núi, vậy mà cũng chỉ dám nhận là
đang trong quá trình tích luỹ, khám phá để “mã hoá” những vỉa tầng văn hoá
102
nguyên bản, hồn nhiên của người dân tộc đưa vào những trang văn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách tham khảo:
1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995, Nxb Khoa học
xã hội
2. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ÐHQG Hà Nội
3. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong tho ca Việt Nam hiện
đại, Nxb Văn hoá dân tộc
4. Nông Quốc Chấn chủ biên (1998), Tuyển tập văn học dân tộc và miền
núi, (II,III), Nxb Giáo dục
5. Hà Minh Ðức chủ biên (1997), Lí luận văn học (in lần thứ tư), Nxb Giáo dục
6. Hà Minh Ðức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Khoa học xã hội
7. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hoá, Vấn đề và suy nghĩ, Nxb
KHXH Hà Nội
8. Nguyễn Văn Huy chủ biên (1998), Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt
Nam, Nxb Giáo dục
9. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hoá thế
giới (bản dịch tiếng Việt của NXB Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du)
10. Đinh Gia Khánh (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa
11. Hoàng Ngọc La (chủ biên), Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn
hoá dân gian Tày, Sở Văn hoá thông tin Thái Nguyên
12. Tôn Phương Lan, Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa học xã hội, 2005.
13. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội
14. Mã Giang Lân (2005), Văn học Việt Nam hiện đại: Vấn đề tác giả, Nxb
Giáo dục
15. L.White (1941), The Science of Culture: A. Study of Man an Civilization.
Nxb New York
16. Phương Lựu (chủ biên) (1996), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục
17. Phan Ngọc (1998), Bản Sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin
18. Phan Ngọc (1999), Một cách tiếp cận văn hóa, Nxb Thanh niên
19. Vi hồng Nhân (2004), Văn hóa các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hoá dân tộc
20. Nhiều tác giả (2004), Những vấn đề văn học và ngôn ngữ, Nxb ÐHQG
Hà Nội
21. Nhiều tác giả (2004), Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh
Bắc Kạn, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội
22. Nhiều tác giả (2009), Dương Thuấn hành trình từ bản Hon, Nxb Hội nhà văn
23. Nhiều tác giả (1998), Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại,
Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội
24. Nhiều tác giả (1990), Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb. Khoa học
xã hội
25. Nhiều tác giả (1996), Khái niệm văn hoá, Nxb Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh
26. Nhiều tác giả (1994), Những gương mặt thơ mới tập 1 và tập 2, Nxb
Thanh niên
27. Hoàng Phê (chủ biên) (2002), Từ điển văn học, Nxb Ðà Nẵng
28. Lò Ngân Sủn (1999), Sự thô mộc có học, Hoa văn thổ cẩm II, Nxb Văn
hóa dân tộc
29. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Văn học
30. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục
31. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP
HCM
32. Ngô Ðức Thịnh (chủ biên) (1997), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội
33. Dương Thuấn (2010), Tuyển tập thơ Dương Thuấn song ngữ, tập 1, tập
2, tập 3, Nxb Hội nhà văn
34. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc
35. Ðỗ Thị Minh Thúy (1997), Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nxb
Văn hóa thông tin
36. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc Việt Nam hiện đại, Nxb Văn hoá
dân tộc
37. Bùi Thị Tịnh, Bùi Thị Phương Thanh (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Giáo dục
38. Nguyễn Ðức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn
ngữ và tư duy ở nguời Việt (Trong sự so sánh với dân tộc khác), Nxb Ðại
học quốc gia
39. Tuyển tập văn học các dân tộc thiểu số sau Cách mạng tháng Tám
(1995) Nxb Văn học
40. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hóa
41. Y Phương (2002), Thơ Y Phương, Nxb Hội nhà văn
Bài viết tham khảo:
42. Hoàng Văn An (1999), Dương Thuấn nhà thơ miền núi nghĩ sâu, viết
chắc, Nét đẹp trong thơ thơ văn và ngôn ngữ dân tộc, Nxb Văn hóa dân
tộc
43. Tạ Duy Anh, Đi tìm bóng núi – Dương Thuấn đến cõi thơ, Tạp chí văn
hóa các dân tộc (số 1)
44. Uông Thái Biểu (2003), Người đi tìm bóng núi, Báo Nhân dân diện tử
45. Phạm Vĩnh Cư: Tôi rất vui sướng thưởng ngoạn tuyển tập thơ Dương
Thuấn, http://vn.360plus.yahoo.com/duongthuan59, ngày 8/10/2010
46. Trinh Ðường (1992), Bản sắc dân tộc trong tho Duong Thuấn, Báo văn
nghệ (số 11), tr. 15
47. Nguyễn Hưng Hải (2005), Quê hương trong thơ Duong Thuấn, Báo
Nhân dân (số 17), tr.19
48. Chu Thu Hằng: Y Phương, Cả đời tôi chỉ đeo đuổi đề tài về người miền
núi, Báo Văn hóa (số 1609)
49. Dương Thu Hằng (2011), Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam trên
hành trình hội nhập, http://www.hcmup.edu.vn, cập nhật thứ ba ngày
20/12/2011, 00:00 (GMT + 7)
50. Đường Thiên Huệ (2008), Nhà thơ Dương Thuấn: Tôi là con trai của núi
cao rừng thẳm, http://60s.com.vn/index/1788198/11112008.aspx, cập
nhật thứ ba , 11/11/2008, 15: 17 (GMT+7)
51. Đỗ Thị Thu Huyền (2007), Thơ Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Y Phương
dưới góc nhìn văn hóa, Luận văn thạc sĩ
52. Đỗ Thị Thu Huyền, Thơ ca Tày hiện đại qua một số gương mặt tiêu biểu,
http://vienvanhoc.org.vn/print/nghiencuulyluan/464/tho-ca-tay-hien-dai-
qua-mot-so-guong-mat-tieu-bieu.aspx cập nhật Thứ sáu - 05/08/2011
13:51
53. Inrasara (2004), Quên lý thuyết văn chương đi để độc Dương Thuấn, Báo
Sài Gòn tiếp thị
54. Inrasara (2006), Thơ dân tộc Chăm từ nguồn gốc đến hiện đại, Tạp chí
nghiên cứu văn học (số 5)
55. Mã Giang Lân (2003), Nhận xét ngôn ngữ thơ hiện đại Việt Nam, Tạp
chí văn học (số3)
56. Mã Giang Lân (2006), Chữ và nghĩa trong thơ, Tạp chí Nghiên cứu văn
học
57. Vân Long (2004), Nhà thơ Dương Thuấn Nói lời cho quả sai, Báo Tiền
phong chủ nhật (số 10)
58. Trần Thị Nương (2009), Thơ Dương Thuấn – dòng sông Tày chảy mãi,
Tạp chí Dân tộc và phát triển, số ra ngày 19/01/200
59. Chu Van Sơn (2001), Dương Thuấn đi tìm bóng núi, Báo Văn nghệ
60. Nhà thơ Dương Thuấn: Nhà văn phải trở thành sứ giả văn hóa của dân
tộc mình, cand.com, 10/08/2011
61. Hồ Huy Sơn, Nhà thơ Dương Thuấn: Chỉ biết hát lời cho quả sai,
http://antgct.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=5222 cập nhật
05/08/2008
62. Hà Thanh Vân, Nhà văn người dân tộc thiểu số… có xuất phát điểm về
văn hoá chưa cao, http://vn.360plus.yahoo.com/duongthuan59, cập nhật
06/09/2008