ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGỌC HẢI ANH
THƠ LẨU Ở CHỢ ĐỒN, BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Thái Nguyên - Năm 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGỌC HẢI ANH
THƠ LẨU Ở CHỢ ĐỒN, BẮC KẠN
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hằng Phƣơng
Thái Nguyên - Năm 2014
Lời cảm ơn
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm –Đại
học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt quá trình học tập.
Tác giả xin chân thành cảm ơn các cơ quan trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn: Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn, phòng Văn hóa Thông tin huyện
Chợ Đồn; phòng Văn hóa Thông tin huyện Pác Nặm. thư viện tỉnh Bắc Kạn,
Đài truyền hình tỉnh Bắc Kạn.
Xin cảm ơn các ông Lâm Xuân Ân, Hà Sĩ Ngự, Hà Văn Tồn, Triệu Chấn
Chức, Hoàng Ngọc La... cùng gia đình đã nhiệt tình cung cấp thông tin và
nhiều tư liệu quý báu.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn: PGS.TS Nguyễn Hằng Phương. Cô luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả.
Tác giả
Ngọc Hải Anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
“Thơ Lẩu ở Chợ đồn, Bắc Kạn” đã
được chỉnh sửa theo ý kiến của hội đồng.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2014 Tác giả luận văn.
Ngọc Hải Anh
Xác nhận Xác nhận
của Khoa chuyên môn của ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS. TS Nguyễn Hằng Phƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
ii
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục ................................................................................................................. i
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
NỘI DUNG ........................................................................................................ 9
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU
THƠ LẨU Ở CHỢ ĐỒN - BẮC KẠN ............................................................. 9
1.1. Môi trường tự nhiên, xã hội, văn hóa ...................................................... 9
1.1.1. Môi trường tự nhiên ........................................................................ 9
1.1.2. Môi trường xã hội ............................................................................ 10
1.1.3 Đời sống văn hóa.............................................................................. 12
1.2. Khái quát về Thơ lẩu và nghi lễ đám cưới của người Tày ......................... 14
1.2.1. Khái niệm Thơ lẩu ........................................................................... 14
1.2.2. Khái quát về nghi lễ đám cưới của người Tày ................................. 18
1.2.2.1. Thời gian, không gian tổ chức đám cưới ............................ 18
1.2.2.2. Diễn biến lễ đón dâu, đưa dâu ............................................. 20
1.3. Mối quan hệ giữa Thơ lẩu với các tục lệ, tín ngưỡng dân gian
trong đám cưới ................................................................................................. 27
1.3.1. Thơ lẩu với tục chọn ngày, giờ cưới ........................................... 28
1.3.2. Thơ lẩu với tục chăng dây ............................................................ 28
1.3.3. Thơ lẩu với tục dâng tấm vải ướt khô ......................................... 29
1.3.4. Thơ lẩu với tín ngưỡng dân gian Tày .......................................... 30
Chƣơng 2: NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT CỦA CÁC BÀI THƠ
LẨU Ở CHỢ ĐỒN - BẮC KẠN ................................................................. 33
2.1. Nội dung của các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn ........................... 33
2.1.1. Thơ lẩu thay cho lời chào xã giao lịch sự ................................... 33
2.1.2. Thơ lẩu – lời khuyên dạy đạo lý, bổn phận làm người ............. 36
2.1.2.1. Lời khuyên về cách ứng xử trong quan hệ con cái -
cha mẹ .............................................................................................. 36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
iii
2.1.2.2. Lời khuyên về cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng ... 37
2.1.2.3. Lời khuyên về cách ứng xử trong quan hệ họ hàng ..... 39
2.1.2.4. Lời khuyên về cách ứng xử trong các quan hệ khác .... 42
2.1.3. Thơ lẩu thể hiện các vấn đề lịch sử - xã hội ............................... 43
2.2.1. Thời gian, không gian nghệ thuật ................................................ 45
2.2.1.1. Thời gian nghệ thuật ........................................................ 45
2.2.1.2. Không gian nghệ thuật ..................................................... 47
2.2.2. Ngôn ngữ ........................................................................................ 48
2.2.3. Hình ảnh, biểu tượng thơ .............................................................. 51
2.2.4. Thể thơ, nhan đề, nhịp điệu .......................................................... 57
2.2.5. Các biện pháp tu từ ........................................................................ 59
CHƢƠNG 3: THƠ LẨU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN
GIAN Ở CHỢ ĐỒN – BẮC KẠN ............................................................... 63
3.1. Nguồn gốc, quá trình phát triển Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn .......... 63
3.1.1. Nguồn gốc ....................................................................................... 63
3.1.2. Quá trình phát triển........................................................................ 64
3.2. Diễn xướng Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn .......................................... 67
3.2.1. Môi trường diễn xướng ................................................................. 68
3.2.2. Nhân vật diễn xướng ..................................................................... 69
3.2.3. Trang phục diễn xướng ................................................................. 70
3.2.4. Hình thức diễn xướng .................................................................... 71
3.3. Một số nét đặc sắc trong Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn. ...................... 74
3.3.1. Đặc sắc trong lời Thơ lẩu .............................................................. 74
3.3.2. Đặc sắc trong diễn xướng Thơ lẩu ............................................... 79
3.4. Thơ lẩu trong tâm thức dân gian ở Chợ Đồn - Bắc Kạn ........................ 83
4.3. Một số định hướng góp phần bảo lưu, phát triển Thơ lẩu ở Chợ
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn/
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Nền văn học của mỗi quốc gia bao giờ cũng được cấu thành từ hai thành
tố: văn học dân gian và văn học viết. Văn học Việt Nam hiện nay đã và đang
từng bước phát triển với nhiều thành tựu. Trong đó, văn học dân gian là bộ
phận quan trọng góp phần không nhỏ vào sự thành công ấy. Tuy nhiên, trong
xã hội hiện đại, nhiều người nhầm tưởng rằng văn học dân gian không
còn cơ hội tồn tại. Thực ra, văn học dân gian vẫn có bước tiến riêng, tuy
đồ thị phát triển đôi khi chững lại hoặc chùng xuống.
Hơn nữa, ở mỗi vùng miền, địa phương lại có một kho tàng văn học
dân gian mang đậm bản sắc riêng song chưa được quan tâm, nghiên cứu
đầy đủ, hệ thống. Nhiều loại hình dân gian chưa được giới thiệu rộng rãi
và có nguy cơ bị mai một về giá trị. Thơ lẩu - hình thức dân ca nghi lễ
độc đáo trong đám cưới người Tày, thuộc di sản văn hoá tinh thần Việt
Nam nói chung, văn hoá Tày nói riêng cũng chịu chung số phận như vậy.
Xưa nay, văn hóa Tày, truyện cổ tích Tày, truyện thơ Tày, hát Then,
hát Lượn... đã trở thành đối tượng thu hút khá nhiều đề tài nghiên cứu,
song Thơ lẩu của người Tày lại là vấn đề khoa học chưa được quan tâm,
nghiên cứu một cách hệ thống. Chúng tôi hi vọng luận văn thạc sĩ này sẽ
cung cấp cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn về một vấn đề khoa học có giá trị
và hấp dẫn.
Bắc Kạn là một trong những cái nôi của Thơ lẩu. Hiện nay, hoạt
động văn hoá dân gian này chỉ còn xuất hiện ở một số địa phương vùng
sâu, vùng xa. Huyện Chợ Đồn (gồm 1 thị trấn, 21 xã) - nơi lưu giữ được
khá nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống quý báu là địa bàn chúng
tôi chọn để nghiên cứu. Là một học viên người dân tộc Tày, viết về Thơ
lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn sẽ giúp tôi hiểu sâu sắc và đầy đủ hơn giá trị
1
văn hoá phi vật thể của dân tộc mình. Đó cũng như một sự tri ân chân
thành nhất mà tôi muốn gửi tới mảnh đất quê ngoại thân thương.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn “Thơ lẩu ở Chợ Đồn,
Bắc Kạn” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình. Mong rằng qua công
trình này, chúng tôi sẽ góp được một phần công sức bé nhỏ vào việc giới
thiệu, gìn giữ và phát triển hình thức văn hóa dân gian đặc sắc của tộc
người Tày ở một địa bàn miền núi.
2. Lịch sử vấn đề
Cánh cửa bước vào kho tàng văn hóa dân gian Tày ở Việt Bắc đã được
mở ra từ sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là sau Hội nghị bàn về công
tác sưu tầm văn hóa dân gian Miền Bắc tháng 12 năm 1964. Kết quả của
công cuộc nghiên cứu đó đã sưu tầm được một số thể loại văn học dân
gian Tày như Then, Lượn, truyện cổ tích, Thơ lẩu... với khá nhiều công
trình nghiên cứu khoa học quy mô. Trong thời gian này, các công trình
nghiên cứu về Thơ lẩu chưa nhiều, mới chỉ dừng lại ở một số bài viết
đăng báo, song đây cũng là những nguồn tài liệu có giá trị.
Thơ lẩu là tiếng hát được cất lên trong lễ đón dâu (lặp lùa) và đưa
dâu (slống lùa) trong đám cưới của người Tày. Việc nghiên cứu về Thơ
lẩu chỉ thật sự khởi sắc từ thập niên 70 của thế kỷ XX và được đánh dấu
bởi bài viết “Dân ca đám cưới Tày – Nùng” của nhà sưu tầm Vi Quốc
Bảo đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 3 - 1971.
Đến năm 1973, NXB Việt Bắc ấn hành cuốn Dân ca đám cưới Tày -
Nùng do Nông Minh Châu sưu tầm, biên soạn, dịch hơn 100 bài hát đám
cưới Tày - Nùng ra tiếng Việt. Cuốn sách trở thành tư liệu quý giá cho
những ai muốn tìm hiểu về dân ca đám cưới Tày - Nùng. Vi Quốc Bảo
khi viết lời giới thiệu cuốn sách đã có những nhận xét, đánh giá, phát
hiện xác đáng về nội dung, thi pháp, diễn xướng dân ca đám cưới Tày -
Nùng: Những bài hát đó kéo dài suốt quá trình đám cưới và chỉ kết thúc
2
khi các nghi thức đám cưới đã được thực hiện đầy đủ. Các bài hát đám
cưới là một yêu cầu về sinh hoạt văn hóa, văn nghệ. Giá trị của những
bài hát đó đã phản ánh, miêu tả xã hội và đời sống của dân tộc.
Năm 1974, sở Văn hóa thông tin Việt Bắc phát hành cuốn Bước đầu
tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, trong đó có bài “Nội dung của lượn” do
Vi Hồng viết. Tác giả đã nhận xét rất tinh tế về Thơ lẩu: Thơ quan lang
vừa cũ lại vừa mới lạ, lại vừa quen, vừa định hình mà lại linh hoạt biến
đổi phù hợp... như vị khách du lịch... nhập gia tùy tục. Vi Quốc Bảo với
bài “Những bài hát đám cưới - những bài thơ trữ tình”, cũng đã làm sáng tỏ
chất trữ tình trong Thơ lẩu:“...đôi bên nam nữ giãi bày quan điểm, tư tưởng,
thái độ của mình đối với các thủ tục, nghi lễ buổi đón dâu. Ở rất nhiều bài,
đôi bên nam nữ còn giãi bày tâm trạng, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước
mơ của mình đối với một vấn đề hệ trọng nhất của tuổi trẻ ở bất cứ thời đại
nào: tình yêu, hôn nhân, gia đình, hạnh phúc” [41, tr. 59-60].
Tiếp đó, tác giả Lường Văn Thắng với bài “Tìm hiểu giá trị nội dung
của một số bài thơ Quan lang” đã đưa ra nhận xét: “Thơ Quan lang của dân
tộc Tày chẳng qua cũng là một phương thức phản ánh một quan niệm sống,
một sự biết ơn, một sự ngợi ca, một sự khiêm tốn đáng quý... phản ánh một
truyền thống đạo đức của dân tộc một cách tế nhị, duyên dáng mà kín đáo
nhưng đậm đà”[41, tr.83]. Vi Hồng còn cho đăng loạt bài “Vài suy nghĩ
về hát quan lang, lượn, phong slư”, “Thử tìm hiểu về nội dung của Lượn”
trong Tạp chí Văn học số 3 - 1976 để giới thiệu và nói lên quan điểm của
mình về nội dung tổ chức, hình thức cơ bản, nguồn gốc của loại hình.
Như vậy, các bài viết về Thơ lẩu từ 1970 đến 1980 đã phần nào
giúp cho chúng ta có cái nhìn tương đối toàn diện về hình thức này.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX trở đi, thấm nhuần tinh thần văn
kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V về việc khẳng định vị trí, vai trò
của văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số trong nền văn hóa Việt Nam,
các nhà nghiên cứu tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu Thơ lẩu trong một số tài
3
liệu nói về đời sống văn hoá tinh thần của đồng bào Tày ở các địa
phương vùng Đông Bắc, như: Văn hoá Tày Nùng, Hà Văn Thư - Lã Văn Lô,
NXB Văn hoá, H., 1984; Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc, Hoàng
Quyết – Tuấn Dũng, NXB Văn hoá dân tộc, H., 1994; Bản sắc và truyền
thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Hà Văn Viễn, NXB Văn hoá dân
tộc, H.,2004… Trên khía cạnh này hay khía cạnh khác, các công trình cũng có
nhắc tới Thơ lẩu, song dừng lại ở việc giới thiệu nó như một sản vật văn hoá
vùng miền đặt bên cạnh loại hình văn hoá khác của dân tộc Tày mà không đi
sâu tìm hiểu nội dung, nghệ thuật, vai trò, ý nghĩa.
Năm 1996, cuốn Thơ lẩu, Triệu Đức Ngự, Hội văn học nghệ thuật Bắc
Thái đã sưu tầm, biên soạn và dịch hoàn chỉnh 100 khúc hát ở vùng phía Bắc
huyện Bạch Thông (Bắc Kạn) và sắp xếp theo trình tự của đám cưới (đại lễ),
đoàn đại diện nhà trai sang nhà gái đón dâu.
Tiếp đó là công trình nghiên cứu của Nông Văn Nhủng, Tiếng ca người Bắc
Kạn, ra đời nhân dịp kỉ niệm 100 năm thành lập tỉnh Bắc Kạn (1900 - 2000).
Trong cuốn sách này, tác giả đã cung cấp một cái nhìn bao quát từ thơ ca đến kết
cấu âm nhạc của hát Thơ lẩu trong đám cưới của dân tộc Tày - Nùng tỉnh Bắc
Kạn.
Cuốn Văn hóa dân gian Tày do Hoàng Ngọc La chủ biên, ấn hành năm
2002 cũng nhắc tới Thơ lẩu. Trong cuốn sách này, các tác giả chủ yếu tìm
hiểu nguồn gốc và đặc trưng văn hóa người Tày ở Việt Nam.
Cuốn Văn học dân gian Việt Nam, Đinh Gia Khánh chủ biên, in năm
2006 xếp Thơ lẩu vào nhóm các bài ca hôn lễ, thuộc tiểu loại dân ca nghi
lễ – phong tục và khẳng định: “Trong loại hình dân ca đám cưới của các
dân tộc, thì loại hát quan làng của người Tày hoặc thơ lẩu của người
Nùng là loại dân ca đám cưới có quy mô nhất” [25, tr. 672]. Tác phẩm đã
giới thiệu trình tự, nội dung cơ bản của Thơ lẩu, có lấy một số câu hát làm
dẫn chứng. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những điểm sơ lược nhất, cũng như
4
cách tác giả cuốn sách giới thiệu về hình thức hát đám cưới của các dân
tộc khác. Cuốn sách chưa chỉ ra nghệ thuật, diễn xướng của loại hình.
Tất cả các tác phẩm trên đều là những công trình khoa học quan
trọng, ít nhiều nghiên cứu về Thơ lẩu, song ở phạm vi rộng nên chưa thật
sự đầy đủ, sâu sắc. Các tác phẩm này đã tạo điều kiện bước đầu, là tiền
đề gợi mở giúp chúng tôi nghiên cứu luận văn.
Ngoài ra, Thơ lẩu còn được đề cập trên một số trang báo văn hóa nghệ
thuật, báo địa phương và một số trang web trên internet. Đây là những bài viết
chưa có tính chuyên biệt, phần nhiều chưa mang tính khoa học.
Gần đây, việc sưu tầm, nghiên cứu Thơ lẩu từ góc độ văn học dân gian ở
những địa phương cụ thể đã được quan tâm, nghiên cứu và có những đóng
góp nhất định. Tiêu biểu như: Lê Thương Huyền với luận văn thạc sĩ “Thơ
lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông, Bắc Kạn” năm 2011, Đàm Thùy
Linh với luận văn thạc sĩ “Hát quan lang của người Tày ở Thạch An, Cao
Bằng” năm 2009.
Hiện nay, Thơ lẩu vẫn còn tồn tại trong đời sống văn hóa tinh thần
của người Tày ở Việt Bắc. Tại nhiều địa phương, Thơ lẩu vẫn được tiếp
thu, sáng tạo và bổ sung. Thơ lẩu ở mỗi địa phương lại có sắc thái riêng
nên nghiên cứu Thơ lẩu ở từng địa phương cụ thể chính là đi khám phá sự
độc đáo, phong phú trong sự đa dạng, thống nhất của loại hình.
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn nay vẫn được lưu truyền. Nhưng bản
thân những người diễn xướng lại không ghi chép đầy đủ tất cả các lời
hát. Do đó, ngay ở các điểm văn hoá đa phương cũng chưa có một tài
liệu nào thật sự đầy đủ, khoa học.
Như vậy,
. Tuy nhiên, các công trình trên
chưa xem xét một cách đầy đủ về Thơ lẩu; đặc biệt là chưa có điều kiện
5
khảo cứu một cách hệ thống ở những địa bàn văn hóa cụ thể. Dù sao, đây
vẫn là nguồn tư liệu quý báu, là những trang viết có tính chất gợi mở cho
chúng tôi nghiên cứu luận văn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi là phần lời và diễn xướng
các bài Thơ lẩu sưu tầm được trong quá trình điền dã trong phạm vi một
huyện miền núi: Chợ Đồn - Bắc Kạn. Các tư liệu đó đều là văn bản tiếng
Tày và ít có cơ hội được diễn xướng trong đời sống dân gian nơi đây.
Để có cái nhìn toàn diện, khách quan, chúng tôi chọn nghiên cứu thêm
một số lời Thơ lẩu ở huyện Pác Nặm và Bạch Thông, Bắc Kạn để so sánh, đối
chiếu khi cần thiết.
4. Mục đích nghiên cứu
Với luận văn “Thơ lẩu ở Chợ Đồn, Bắc Kạn” chúng tôi mạnh dạn
đặt ra các mục đích:
Khám phá cái hay, cái đẹp trong nội dung và nghệ thuật các bài Thơ
lẩu để hiểu được tâm tư, tình cảm, phong tục tập quán, tài năng sáng tạo
của người nghệ sĩ dân gian. Chỉ ra được vị trí, vai trò, nét độc đáo của
Thơ lẩu trong đời sống văn hóa dân tộc Tày.
Có một cái nhìn tổng thể, toàn diện và chân thực nhất về nghi lễ đám
cưới cổ truyền của người Tày ở một địa phương cụ thể.
Góp phần giới thiệu, gìn giữ, phát triển một loại hình sinh hoạt văn
hoá dân gian đặc sắc của người Tày. Trên cơ sở đó, mong rằng luận văn sẽ khơi
dậy được phần nào tình yêu với văn hóa, văn học dân gian, góp một phần nhỏ bé
vào việc gìn giữ, phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
Tìm hiểu một số vấn đề lý luận và thực tế, một số khái niệm có liên
quan đến luận văn.
6
Tìm hiểu một số đặc điểm nội dung, nghệ thuật của những bài Thơ
lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn.
Khảo sát mối quan hệ giữa Thơ lẩu với các phong tục, nghi lễ trong
đám cưới. Chỉ ra vị trí, vai trò của loại hình trong đời sống sinh hoạt văn
hoá nhân dân.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
+ Tư liệu do tác giả sưu tầm trong đời sống văn hoá dân gian ở Chợ
Đồn – Bắc Kạn.
+ Tư liệu do tác giả sưu tầm trong đời sống văn hoá dân gian ở Pác
Nặm – Bắc Kạn.
+ Tư liệu trong đời sống văn hoá dân gian ở Bạch Thông – Bắc Kạn
do các công trình nghiên cứu khác sưu tầm.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu:
Luận văn này chúng tôi chủ yếu tập trung nghiên cứu một số nội
dung cơ bản, nghệ thuật tiêu biểu của các lời Thơ lẩu, hình thức diễn
xướng Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn. Trong điều kiện cho phép, chúng tôi
tìm hiểu thêm một số lời Thơ lẩu ở Pác Nặm và Bạch Thông - Bắc Kạn để so
sánh, đối chiếu khi cần thiết.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Chúng tôi tiếp cận chủ yếu theo quan điểm nghiên cứu ngữ văn tức là
dựa vào thành tố ngôn từ (lời Thơ lẩu) để khảo cứu.
Tuy nhiên, Thơ lẩu là loại hình diễn xướng tổng hợp và tồn tại không
tách rời đời sống văn hoá của người Tày, vì thế tiếp cận đối tượng theo quan
điểm văn hoá học là cần thiết. Đặc trưng của nghiên cứu theo quan điểm văn
hoá học là tiếp cận liên ngành, nghĩa là xem xét đối tượng từ nhiều góc độ
khác nhau.
7
- Trên bình diện phương pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng kết hợp các
phương pháp sau:
+ Phương pháp khảo sát thống kê.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp điền dã văn học.
+ Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
8. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu hệ thống về Thơ lẩu - một hình
thức văn hóa, nghệ thuật dân gian độc đáo của người Tày ở Chợ Đồn – Bắc Kạn.
Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả luận văn đã thu
thập được một số lượng đáng kể những bài Thơ lẩu. Kết quả khảo sát thực tế
trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bước đầu đề xuất hướng bảo tồn và
phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc Tày nói chung, trong đó có
dân tộc Tày ở Chợ Đồn – Bắc Kạn.
9. Bố cục
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tế của việc tìm hiểu Thơ lẩu ở
Chợ Đồn - Bắc Kạn.
Chương 2: Nội dung và nghệ thuật của các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn
– Bắc Kạn.
Chương 3: Thơ lẩu trong đời sống văn hóa dân gian ở Chợ Đồn –
Bắc Kạn.
KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
8
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM
HIỂU THƠ LẨU Ở CHỢ ĐỒN - BẮC KẠN
Thơ lẩu là một hình thức văn hoá dân gian đặc sắc của người Tày,
trong đó có người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn. Nó là sản phẩm của quá
khứ, hiện tại và vẫn còn khả năng phát triển trong tương lai. Thơ lẩu là
cái bóng, là sự khúc xạ hiện thực cuộc sống. Sự vận động phát triển của
Thơ lẩu phụ thuộc vào sự phát triển của đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội. Nghiên cứu về Thơ lẩu, trước tiên phải tìm hiểu những khái niệm có
liên quan và cuộc sống của người Tày ở địa phương. Đây là cơ sở lý luận
và thực tế cho việc nghiên cứu luận văn.
1.1. Môi trƣờng tự nhiên, xã hội, văn hóa
1.1.1. Môi trường tự nhiên
“Con người sống dựa vào thiên nhiên, như thế nghĩa là tự nhiên là thân thể
của con người, để khỏi phải chết con người phải ở trong quá trình trao đổi với
cơ thể đó” [34, tr.27]. Tự nhiên không những là môi trường sống, mà còn là đối
tượng để con người tác động, sản xuất ra của cải vật chất, phát triển xã hội và
hình thành nên đời sống văn hóa của mình. Như vậy, tự nhiên có ảnh hưởng rất
lớn tới sự phát triển và tồn tại của văn hoá, văn học nghệ thuật dân tộc.
Thiên nhiên Bắc Kạn khá đa dạng, phong phú, với nhiều tiềm năng kinh
tế, du lịch. Với trên 80% diện tích là đồi núi, có hệ thống núi đá, núi đất xen
kẽ nhau khá phức tạp. Từ ngàn xưa, núi rừng Bắc Kạn đã được biết đến là
một kho tài nguyên động, thực vật vô giá của đất nước. Rừng Bắc Kạn có
tổng diện tích 235.200 ha, độ che phủ 49% diện tích [13].
Thị xã Bắc Kạn nằm trên trục đường quốc lộ số 3, cách Hà Nội 166 km
về phía Bắc. Cách thị xã Bắc Kạn 46 km, hướng Tây Bắc là huyện miền núi
Chợ Đồn. Huyện Chợ Đồn nằm ở phía Tây tỉnh Bắc Kạn. Phía Đông giáp
9
huyện Bạch Thông và thị xã Bắc Kạn. Phía Nam giáp huyện Định Hóa (Thái
Nguyên). Phía Tây giáp huyện Chiêm Hóa, Na Hang (Tuyên Quang). Phía Bắc là huyện Ba Bể (Bắc Kạn). Huyện có diện tích 912 km2 . Các đơn vị hành
chính gồm 1 huyện lỵ (thị trấn Bằng Lũng) và 21 xã (xã Bình Trung, xã Yên
Nhuận, xã Nghĩa Tá, xã Lương Bằng, xã Phong Huân, xã Yên Mỹ, xã Đại
Xảo, xã Bằng Lãng, xã Đông Viên, xã Rã Bản, xã Phương Viên, xã Ngọc
Phái, xã Yên Thượng, xã Yên Thịnh, xã Bản Thi, xã Quảng Bạch, xã Bằng
Phúc, xã Tân Lập, xã Đồng Lạc, xã Xuân Lạc, xã Nam Cường). Thị trấn Bằng
Lũng nằm cách thị xã Bắc Kạn 45 km về hướng Tây theo đường tỉnh lộ 257.
Tuyến giao thông chính là tỉnh lộ 254 đi qua huyện ly, đi về hướng Bắc là
huyện Ba Bể, về hướng Nam là huyện Định Hóa (Thái Nguyên).
Huyện Chợ Đồn mang đầy đủ đặc điểm tự nhiên, thiên nhiên Bắc Kạn.
Khí hậu Chợ Đồn là khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuần hoàn theo bốn mùa rõ rệt.
Mùa hạ hơi nóng, mưa nhiều, mùa đông khô hanh, lạnh lẽo. Độ ẩm trung bình
trong năm cao, nguồn nước dồi dào, lượng mưa lớn, mật độ sông, suối tương
đối dày. Tất cả đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hệ động, thực
vật. Thực vật nơi đây đa dạng, phong phú với các loại cây lấy gỗ, cây dược
liệu… Động vật trước kia có nhiều loại thú quý, nhiều loài được ghi vào sách
đỏ Việt Nam như gà lôi trắng, voọc mũi hếch… Tiếc rằng do nhiều nguyên
nhân mà nguồn tài nguyên này đã bị suy giảm nghiêm trọng. Đến nay việc
trồng, bảo vệ rừng đã và đang được các cấp chính quyền, nhân dân quan tâm
theo chính sách của Đảng, Nhà nước đề ra.
Môi trường núi rừng tự nhiên đã giúp Chợ Đồn - Bắc Kạn có được cái
nôi vật chất nuôi sống đồng bào, đồng thời là đất mẹ sản sinh ra một nền văn
hóa miền núi đặc trưng, trong đó có Thơ lẩu.
1.1.2. Môi trường xã hội
Xét trên bình diện khảo cổ học - lịch sử, với các bằng chứng khảo cổ tìm
được cho tới nay, tuy mới chỉ là bước đầu và còn ít ỏi, nhưng đã khẳng định
10
sự có mặt từ rất sớm của người Tày cổ ở Bắc Kạn. Truyện “Tài Ngào” lưu
truyền ở Chợ Đồn - Bắc Kạn kể rằng: Xa xưa, người khổng lồ Tài Ngào đã
chọn mảnh đất này để làm ruộng. Những mỏm đá to lô nhô nằm giữa các con
suối - đầu nguồn dòng sông Cầu, ở phía Bắc xã Phương Viên là đàn trâu của
Tài Ngào đằm ở đó. Như vậy, chính những người Tày cổ cùng với sự phát
triển của lịch sử, đã lao động cần cù và đấu tranh không ngừng để sáng tạo ra
một nền văn hoá giàu sức sống và đậm sắc thái bản địa, cũng như đóng góp
trực tiếp vào nền văn minh Đông Sơn – Văn Lang trong lịch sử Việt Nam.
Xét về nguồn gốc lịch sử, người Tày Bắc Kạn gồm 3 bộ phận là: bộ phận
người Tày cổ bản địa, bộ phận người Tày gốc Kinh ở miền xuôi lên, bộ phận
Tày từ Quảng Tây (Trung Quốc) đến lập nghiệp [52, tr.46].
Huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn có dân số là 46.000 người (năm 2004) [4,
tr.8]. Nơi đây có số lượng người Tày cư trú đông, chủ yếu thuộc bộ phận
người Tày cổ bản địa [14]. Họ đã sáng tạo ra nghề nông lúa nước và xây dựng
nền văn hoá truyền thống địa phương. Họ sống theo gia đình. Các gia đình lại
sống quần tụ với nhau tạo nên các làng bản ở ven đồi, ven suối. Bản có thể ít
hoặc nhiều hộ, địa giới có thể dài, rộng cả cây số do địa hình chia cắt.
Xã hội phát triển, do sự cộng cư và giao lưu văn hoá, giờ đây cư dân Chợ
Đồn - Bắc Kạn còn có người Kinh, Dao Đỏ, Nùng... cùng sinh sống. Trong đó
có một bộ phận nhỏ những người khác tộc đã chuyển hoá thành người Tày.
Họ sống đoàn kết, thương yêu, tiếp thu văn hoá của nhau và tạo nên đại gia
đình các dân tộc anh em trên mảnh đất thân yêu này.
Kinh tế huyện Chợ Đồn vẫn lấy nông nghiệp làm chủ đạo, do địa hình
thuộc vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên khả năng phát triển về công nghiệp
và dịch vụ còn hạn chế. Người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn sống chủ yếu nhờ
trồng trọt, thu hái nông thổ sản, sau nữa là chăn nuôi, làm thủ công gia đình.
Họ sống bằng nghề nông nhưng thạo một số nghề thủ công truyền thống như:
đan lát, dệt vải, đan lưới, cất rượu...
11
Nếu trước đây, kinh tế của đồng bào ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là tự cung tự
cấp thì ngày nay, họ sản xuất không những đáp ứng đủ nhu cầu mà còn để
trao đổi, mua bán. Những buổi chợ phiên được tổ chức cách nhau 5 ngày
thường thu hút rất đông người. Đồng bào đến chợ không chỉ vì mục đích kinh
tế mà còn đi chơi chợ. Nhiều đôi trai gái đã nên vợ nên chồng sau những buổi
chợ phiên. Chợ phiên là một nét sinh hoạt văn hoá đặc trưng của đồng bào
miền núi Bắc Kạn.
Trong những năm gần đây (từ năm 2000 đến nay) tỉnh Bắc Kạn đã chú
trọng phát triển kinh tế tại huyện Chợ Đồn, trong đó kêu gọi các nhà đầu tư
tiến hành thăm dò và khai thác các nguồn lợi về khoáng sản (nhiều nhất là
quặng sắt, chì...), nên kinh tế huyện Chợ Đồn đã có bước tiến vượt bậc, góp
phần vào sự phát triển chung của tỉnh Bắc Kạn.
Chính sự phát triển của môi trường xã hội mà người Tày ở Chợ Đồn -
Bắc Kạn đã tiếp cận được với tinh hoa văn hoá của các dân tộc khác, dựa trên
nền văn hoá truyền thống lâu đời để hình thành, củng cố, phát triển văn hoá
xã hội Tày nói chung, Thơ lẩu nói riêng.
1.1.3 Đời sống văn hóa
Người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn có một đời sống văn hoá vật chất khá
đa dạng, giàu bản sắc dân tộc.
Về nhà ở, nhà sàn là kiểu nhà truyền thống của người Tày. Ngày nay,
một bộ phận người Tày ở gần chợ và dọc trục đường giao thông còn xây dựng
nhà đất, nhà sàn cải tiến. Nhưng nhìn chung, nhà sàn truyền thống vẫn được
ưa chuộng. Nhà sàn đã gắn với đời sống, nghi lễ, phong tục của đồng bào.
Trước kia, họ thường xây dựng chuồng trại chăn nuôi ngay dưới gầm nhà để
dễ dàng chăm sóc, bảo vệ vật nuôi. Ngày nay, do nhận thức tiến bộ hơn,
chuồng trại chăn nuôi được đồng bào tách khỏi khu ở. Đồng bào còn xây
dựng các công trình phụ khác: nhà kho, giếng nước, nhà vệ sinh...
12
Về trang phục, xa xưa, người Tày mặc quần áo vải chàm, tự khâu lấy.
Ngày nay, quần áo dân tộc không còn phổ biến. Họ ăn mặc theo kiểu thời
trang phổ thông. Những đám cưới ăn mặc kiểu truyền thống đã dần ít đi.
Người Tày có nghệ thuật ẩm thực khá phong phú. Bên cạnh những món
ăn truyền thống, họ còn sáng tạo thêm các món ăn hợp khẩu vị. Nhiều phụ nữ,
thầy cúng kiêng không ăn thịt trâu, bò, chó, mèo... cũng không đem những
thức ăn chế biến từ loại thịt này cúng thánh thần, gia tiên, bởi họ coi đó là đồ
ăn uế tạp, hoặc do tâm lý không ăn thịt động vật nuôi có ích, gần gũi. Đồ
uống của người Tày cũng khá đa dạng. Ngoài nước đã đun, các loại chè tự
trồng và sao được, họ còn nấu, cất rượu để dùng trong các dịp lễ hội, tụ tập
sinh hoạt. Chè và rượu là hai thức uống phổ biến, sang trọng trong sinh hoạt
văn hoá Tày.
Người Tày rất coi trọng văn hoá tinh thần. Trong văn hoá ứng xử, đồng
bào trọng đạo nghĩa. Hầu hết mỗi dòng họ đều có gia phả, thứ bậc theo chi
nhánh, chứ không theo quan niệm ai sinh ra trước là anh, là chị. Con cái phải
hiếu nghĩa với cha mẹ, vợ chồng phải chung thuỷ sắt son, anh em phải thuận
hoà, đoàn kết. Hàng xóm, bạn bè cũng coi như người trong gia đình “tối lửa
tắt đèn có nhau”. Người Tày đã tiếp thu cái hay, cái đẹp trong đạo đức lễ giáo
để xây dựng văn hoá ứng xử của dân tộc mình.
Người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn rất thích sinh hoạt tập thể như vui
chơi, ca hát. Họ hát Then, hát Lượn, hát đối đáp trong các dịp lễ hội, văn nghệ
quần chúng. Đám cưới hay đám ma đều có các bài ca nghi lễ.
Họ cũng có tiếng nói, từng có chữ viết riêng dùng trong giao tiếp và sáng
tác văn học nghệ thuật. Ngoài ra, họ còn dùng tiếng phổ thông để tiện cho
việc học tập, giao lưu, sản xuất hay trao đổi mua bán.
Do tác động của môi trường tự nhiên, xã hội, người Tày ở Chợ Đồn- Bắc
Kạn đã hình thành cho cộng đồng của mình một nền văn hoá phong phú, đậm
bản sắc dân tộc. Thơ lẩu là một hình thức văn hóa tồn tại từ bao đời, nên dấu
13
ấn của tự nhiên, xã hội, văn hóa được phản ánh khá rõ trong các bài hát và chi
phối sự tồn tại, phát triển của loại hình. Cuộc sống hiện đại làm cho môi
trường tự nhiên, văn hóa, xã hội có nhiều thay đổi, Thơ lẩu cũng ít nhiều bị
biến đổi và mất dần đi các giá trị vốn có. Do đó, yêu cầu khôi phục, giáo dục
ý thức giữ gìn, phát triển bản sắc văn hoá dân tộc đang trở thành vấn đề cấp
thiết, đòi hỏi các cấp chính quyền và nhân dân địa phương phải cùng phối hợp
thực hiện.
1.2. Khái quát về Thơ lẩu và nghi lễ đám cƣới của ngƣời Tày
1.2.1. Khái niệm Thơ lẩu
* Tên gọi
Người Tày gọi dân ca đám cưới bằng nhiều tên khác nhau. Có nơi gọi là
“Lượn lẩu” (Lượn trong đám cưới), cũng có nơi gọi là “Lượn pú ta” (Lượn
Quan làng) [26]. Người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn thì gọi là “Thơ lẩu” (Thơ
đám cưới) để phân biệt hát đám cưới với các loại lượn hát trong đời sống, lễ
hội hàng ngày. Theo tiếng Tày, Thơ lẩu có nghĩa là thơ uống rượu và cũng có
nghĩa là thơ cưới xin.
“Thơ lẩu” còn được gọi là “Hát Quan làng”. Sở dĩ có tên gọi này là vì
“Thơ lẩu” trong đám cưới chủ yếu được một Quan làng đại diện cho nhà trai
và một Pả mẻ đại diện cho nhà gái hát đối đáp với nhau. Trong đó phần hát
của Quan làng là nhiều hơn. Cách gọi này giúp hát đám cưới không thể nhầm
lẫn với các loại hình khác, bởi tên gọi “Hát Quan làng” đã gắn chặt với cách
gọi tên người diễn xướng của loại hình. “Hát Quan làng” cũng là cách người
Thái Trắng (Tày Khao) gọi dân ca đám cưới của mình. Cách gọi này khá phổ
biến ở một số xã vùng Đông Bắc của huyện Chợ Đồn (xã Phương Viên, xã
Đông Viên, xã Rã Bản) – nơi có một bộ phận người Thái Trắng (Tày Khao)
đến định cư. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh lại phân định rạch
ròi “hát quan làng của người Tày, thơ lẩu của người Nùng” [25, tr.672]. Trong
Văn hoá Tày Nùng, Hà Văn Thư - Lã Văn Lô cũng gọi thơ ca đám cưới của
người Tày là “xướng quan làng” hay “thơ quan làng” [47, tr.88].
14
Một số người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn còn gọi “Hát Quan làng” là
“Hát Quan lang” do cách phát âm trong đời sống từ “Quan làng” bị chệch
thành “Quan lang” để phát âm trùng thanh cho dễ nói, dễ nghe. Nhưng có
công trình nghiên cứu cho rằng ở tỉnh Cao bằng lại có sự phân biệt khá rõ hai
khái niệm “Quan lang” và “Quan làng”. “Quan làng” là một người đàn ông
đứng tuổi, có uy tín đứng ra giúp gia chủ tổ chức đám ma. “Quan lang” là
người đàn ông đại diện cho nhà trai đi đón dâu ở nhà gái [32].
“Thơ lẩu” còn có một tên gọi khác nữa là “Cỏ lảu”. “Cỏ lảu” nghĩa đen
là kể chuyện đám cưới bằng lời hát bóng bẩy, ví von nhiều hình tượng nghệ
thuật [35, tr.145]. Theo Vi Quốc Bảo thì người Tày ở Lạng Sơn, Cao Bằng,
Bắc Kạn, Yên Bái... thường gọi dân ca đám cưới là “Cỏ lẩu”. Tuy nhiên ngày
nay tên gọi này không còn phổ biến.
Như vậy, có rất nhiều cách gọi tên dân ca đám cưới của người Tày, tuỳ
thuộc vào cách gọi của cá nhân hay địa phương cụ thể, nhưng tựu chung đều
hướng tới các bài hát chỉ xuất hiện trong đám cưới. Nhà nghiên cứu Nông
Minh Châu cũng từng giải thích: xét cho kĩ, tất cả những tên gọi ấy đều không
sai và không khác nhau. Trong tiếng nói của người Tày vùng Bắc Kạn cũ, tiếng
“thơ” cũng có nghĩa là “hát”. Chỉ khác là khi nói đến “thơ” người ta sẽ nghĩ
ngay đến đám cưới, một bên là các phù rể, “Quan làng”, một bên là phù dâu,
“Pả mẻ” đối đáp. Và khi hát “thơ” người ta nghĩ ngay đến một âm điệu riêng,
không thể giống như hát “Then”, hát “Lượn”, hay đọc “Phong slư” [8, tr.23].
Ở luận văn này, chúng tôi theo cách gọi là “Thơ lẩu”. Bởi đây là cách gọi
hiện nay của đa số người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn và cũng là cách gọi đã
được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong một số tài liệu.
* Khái niệm
Thơ lẩu là tên một loại hình diễn xướng văn hoá, văn học dân gian có từ
lâu đời và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tày.
Thơ lẩu đã được đề cập tới trong nhiều sách nghiên cứu, nhưng chưa nhà
15
nghiên cứu nào đưa ra khái niệm cụ thể. Trên cơ sở tham khảo ý kiến của các
nhà nghiên cứu và khảo sát thực tế, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm Thơ
lẩu như sau:
Thơ lẩu thuộc loại hình dân ca nghi lễ đám cưới của người Tày. Đó là hệ
thống những bài hát đón dâu, có phân chia thành các phần tương ứng với các
nghi thức cụ thể trong đám cưới. Thông qua diễn xướng của đại diện nhà trai
(chủ yếu là Quan làng) và đại diện nhà gái (chủ yếu là Pả mẻ),các bài hát
này phản ánh, khuyên bảo cách ứng xử tinh tế, tao nhã của con người trong
đời sống. Các bài hát còn thay cho lời chào xã giao, lịch sự thể hiện tình cảm
trân trọng giữa hai gia đình nhà trai, nhà gái.
* Một vài cách hiểu về khái niệm
Nhà nghiên cứu Vi Quốc Bảo sử dụng khái niệm Thơ lẩu với cách hiểu:
Đây là một hình thức sinh hoạt văn nghệ quần chúng đặc sắc và rộng rãi trong
đám cưới. Hát đám cưới, thực chất là một cuộc hát đối đáp giữa nam và nữ,
một cuộc thi hát, một cuộc thi thơ... Nội dung chủ yếu của các bài hát là phản
ánh hiện thực xã hội đương thời, đồng thời thể hiện cái nhìn về vũ trụ và cuộc
đời cũng như tâm hồn, tình cảm của dân tộc Tày, Nùng [41, tr.53-63].
Hà Văn Thư - Lã Văn Lô trong Văn hóa Tày - Nùng có viết: “Thơ ca
đám cưới, người Tày gọi là xướng quan làng. Trong khi hành lễ nhất cử nhất
động đều phải thể hiện bằng thơ... Thơ ca đám cưới cũng rất nhiều màu, nhiều
vẻ và đậm màu sắc địa phương” [47, tr.88].
Nông Văn Nhủng, trong Tiếng ca người Bắc Kạn, đã xếp Thơ lẩu vào
dòng dân ca nghi lễ - phong tục văn hóa và hiểu Thơ lẩu là tục hát đối đáp
giữa hai đại diện nhà trai và nhà gái trong lễ cưới của dân tộc Tày - Nùng ở
Bắc Kạn. Thơ lẩu còn được hiểu là “Bài ca chuốc rượu” [40, tr.30].
Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam, Đinh Gia Khánh chủ biên, tác
giả xếp Thơ lẩu của người Tày vào nhóm các bài ca hôn lễ, trong tiểu loại dân
ca nghi lễ - phong tục, thuộc thể loại thơ ca dân gian Việt Nam. Tức là đã chỉ
ra Thơ lẩu là một tục lệ sinh hoạt ca hát phục vụ cho các nghi lễ đám cưới
[25, tr.666].
16
Cuốn Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn, Hà
Văn Viễn cùng các nhà nghiên cứu khẳng định: “Đây là loại dân ca nghi lễ
đám cưới. Nội dung chủ yếu phản ánh cách ứng xử lịch sự trong lối sống cũng
như trong cưới xin, sự kính trọng tổ tiên, cha mẹ, họ hàng, làng bản của người
Tày. Một đặc điểm dễ nhận biết là hát để thay cho lời mời chào xã giao, lịch
sự, trân trọng” [52, tr.141].
Hay trong Văn hoá Tày Nùng, Hà Văn Thư - Lã Văn Lô có viết: “xướng
quan làng” là “Trong khi hành lễ nhất cử nhất động đều phải thể hiện bằng
thơ… Thơ ca đám cưới cũng rất nhiều màu, nhiều vẻ và đậm đà màu sắc địa
phương” [47, tr.88].
Theo tài liệu từ mạng internet, nguồn Văn hoá nghệ thuật, trang
www.suutap.com.vn, bài “Đón dâu bằng thơ - nét đẹp trong văn hoá Tày” Lộc
Bích Kiệm cũng chỉ ra những điều cơ bản nhất trong khái niệm “Thơ lẩu”:
“Đó là những bài hát dành riêng cho đám cưới, chỉ cất lên trong đám cưới.
Những bài hát đám cưới của người Tày mang chức năng trao đổi tình cảm, lại
diễn xướng theo nghi lễ truyền thống nên không nằm ngoài nhu cầu về tinh
thần, trí tuệ, thẩm mỹ” [26].
* Điểm chung giữa các cách hiểu
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm “Thơ
lẩu”, nhưng bên cạnh những điểm chưa thống nhất, chúng tôi nhận thấy các
cách hiểu trên đều có điểm chung như sau:
Thứ nhất: Thơ lẩu là dân ca nghi lễ - phong tục trong đám cưới. Thơ lẩu
có một hệ thống các bài hát, được chia thành những bước cụ thể, tương ứng
với từng nghi lễ của đám cưới thông qua đại diện nhà trai (Quan làng) và đại
diện nhà gái (Pả mẻ).
Thứ hai: Nội dung của Thơ lẩu không chỉ thay cho lời mời chào xã giao,
thể hiện cách ứng xử tinh tế, khéo léo, tao nhã của con người trong đời sống
mà Thơ lẩu còn phản ánh hiện thực xã hội đương thời.
17
Thứ ba: Về mặt hình thức, Thơ lẩu là thơ ca dân gian giầu tính nghệ
thuật. Đó là những tác phẩm văn học dân gian mang những hình ảnh và ngôn
ngữ có sắc thái dân tộc miền núi, tính chất địa phương, vùng miền độc đáo.
1.2.2. Khái quát về nghi lễ đám cưới của người Tày
Cũng như các dân tộc khác, dân tộc Tày rất coi trọng việc hôn lễ, vì đó là
chuyện hệ trọng nhất của đời người. Không những vậy nó còn thể hiện ý thức
trách nhiệm với tổ tiên, giống nòi, là hình thức củng cố và phát triển xã hội.
Thành ngữ của người Tày có câu: “Co may đeo sinh mì lá cáng, lạc mạy tển,
tởi cần lì” tức là “Thân cây có một nhưng rất nhiều cành, lá; rễ cây ngắn
nhưng đời người rất dài”. Ý của câu thành ngữ này là con người phải sống với
nhau trong rất nhiều mối quan hệ lâu dài: họ hàng, làng xóm, bạn bè… khi
vui, buồn phải có nhau để chia sẻ. Do đó mỗi đám cưới đã trở thành một ngày
hội của niềm vui, tình yêu và hạnh phúc đối với mỗi đôi uyên ương, hai gia
đình và cả làng, cả bản. Để tổ chức được đám cưới như vậy đòi hỏi phải có sự
tính toán và chuẩn bị thật chu đáo từ trước.
1.2.2.1. Thời gian, không gian tổ chức đám cưới
Trong việc tổ chức đám cưới, người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn xưa có
tục lệ khá cầu kì, phức tạp. Tính từ buổi gặp gỡ đầu tiên giữa hai nhà đến
ngày cưới chính thức là cả một quãng thời gian dài. Có khi tới hơn 2 - 3 năm
và trong khoảng thời gian đó còn có rất nhiều tục lệ rườm rà khác.
Khi ướm được cô con dâu ưng ý, hai gia đình môn đăng hộ đối, cha mẹ
nhà trai sẽ tiến hành gặp nhà gái để ngỏ lời và bàn bạc các lễ nghi như:
Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, nhà trai ngỏ lời, nếu được đồng ý thì nhà gái
sẽ đưa lá số của cô con gái (ngày, giờ, tháng, năm sinh theo tuổi âm lịch) cho
nhà trai đem về so tuổi. Nếu hợp tuổi, nhà trai sẽ tiến hành lễ dạm vợ, mừng
hợp mệnh (hạp mỉnh) cho con, còn không hợp thì giữa hai nhà coi như chưa
có chuyện gì xảy ra.
18
Sau đó vài tháng đến 1- 2 năm là lễ ăn hỏi (kin lẹ). Khi đã tổ chức lễ này
thì cô gái được coi là đã gả bán và chàng trai cũng được coi là đã có vợ. Kể từ
đó đến lễ cưới, hàng năm nhà trai phải tổ chức lễ sêu tết (pây chầư) tức là
mang lễ vật cho nhà gái vào tết tháng giêng, rằm tháng bảy.
Lễ báo ngày cưới do nhà trai chủ động, tiến hành trước ngày cưới từ 2- 3
tháng trở lên để nhà gái chuẩn bị. Những điều bàn định trong lễ này được coi là
bất di bất dịch. Hai bên gia đình cứ nhớ mà tổ chức cho nghiêm túc, chu đáo.
Lễ cưới (kin lẩu) được tổ chức trong hai ngày liên tục. Ngày thứ nhất ở
nhà gái, ngày thứ hai bên nhà trai. Có đám cưới lớn còn tổ chức trong ba
ngày. Trong lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu được tổ chức theo đúng ngày, giờ
ước định. Lễ đón dâu, đưa dâu thường bắt đầu từ chiều tối hôm trước đến
hôm sau. Tại lễ này, hình thức Thơ lẩu mới được diễn xướng.
Ngày nay, đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn thường được
tổ chức vào mùa cưới, các nghi lễ cũng gọn, đơn giản hơn. Trai gái xây dựng
gia đình không theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” nữa mà được
tự do tìm hiểu và yêu đương. Khi tình yêu đã chín muồi, họ sẽ báo cho cha
mẹ. Đám cưới thường chỉ gồm ba lễ chính là lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ cưới. Thông
thường các thủ tục chỉ gói gọn trong một năm. Trong lễ cưới, nghi lễ đón dâu,
đưa dâu ít nhiều vẫn theo tập tục truyền thống.
Một đám cưới tổ chức ở Chợ Đồn - Bắc Kạn được cả bản biết tin, bởi
ngoài sự tham gia của họ hàng, làng xóm hai bên gia đình còn có sự tham gia
của Phường họ bạn (Phường). Trong cuốn Phong tục tập quán dân tộc Tày ở
Việt Bắc, Hoàng Quyết, Tuấn Dũng có chỉ ra: “Phường họ bạn là một tổ chức
do những người cùng cảnh ngộ tự nguyện lập nên. Phường họ bạn có mục
đích duy nhất là giúp đỡ nhau về vật chất và sức người trong một đám cưới.
Phường họ bạn thu nạp khoảng 20 - 30 thành viên” [45, tr.3]. Do có sự giúp
đỡ tận tình, chu đáo với tinh thần trách nhiệm cao của Phường họ bạn mà
không gian đám cưới được kéo rộng ra trong cả các gia đình thành viên trong
19
Phường. Ngoài ra, còn một thành phần Phường có mặt với tư cách là khách
mời được gọi là “ngồi Phường”.
Người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn quan niệm đời người có ba việc lớn và
quan trọng nhất. Đó là: làm nhà, cưới vợ và báo hiếu tứ thân phụ mẫu. Do
vậy, đám cưới có ý nghĩa rất quan trọng với người Tày trên mảnh đất này.
Thời gian tổ chức đám cưới phải là ngày lành tháng tốt, không gian đám cưới
càng rộng càng vui.
1.2.2.2. Diễn biến lễ đón dâu, đưa dâu
Đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn gồm rất nhiều nghi lễ.
Các nghi lễ chủ yếu là lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Lễ cưới được chú
trọng hơn cả, vì các nghi lễ khác cuối cùng cũng hướng tới nghi lễ này. Qua lễ
cưới cô dâu, chú rể được ra mắt đầy đủ họ hàng, bạn bè, hàng xóm hai bên gia
đình, và chính thức là vợ chồng. Lễ đón dâu, đưa dâu thu hút được sự chú ý
của nhiều người trong lễ cưới nhất.
Trước khi lên đường đón dâu, chú rể phải làm lễ bái tổ tại nhà. Đồ sính lễ
được giao cho một hoặc hai người gánh. Đến giờ đã định, đoàn đón dâu do
một ông Quan làng dẫn đầu gọi là Quan làng chính. Ngoài ra, còn có một
Quan làng phụ, chú rể (khươi), phù rể (khươi xẻp), hai Bà đón (gia lặp) và
người gánh đồ sính lễ. Số người trong đoàn đón dâu phải theo quy tắc “đi lẻ
về chẵn”. Đoàn đưa dâu từ nhà gái sang nhà trai do một bà Pả mẻ đứng đầu.
Đoàn đưa dâu gồm: một Pả mẻ già (pả mẻ ké), một Pả mẻ trẻ (pả mẻ ón), cô
dâu (lùa), phù dâu (lùa xẻp). Trong lễ đón, đưa dâu, Quan làng và Pả mẻ đều
thưa gửi bằng lời ca, tiếng hát thay cho đối thoại thông thường. Trong đó, vai
trò của Quan làng là quan trọng hơn cả, bởi Quan làng phải hát nhiều, hát để
tháo gỡ những thử thách mà nhà gái đưa ra. Nếu không hát đối đáp lại được,
Quan làng sẽ bị phạt uống rượu.
20
Căn cứ vào yêu cầu của nhà gái có thể chia lễ đón dâu, đưa dâu làm hai
giai đoạn: giai đoạn thử thách và giai đoạn đón dâu. Tương ứng với các giai
đoạn là các bài Thơ lẩu: Hát để vượt qua thử thách và hát để đón dâu.
* Giai đoạn thử thách
Giai đoạn thử thách được tính từ khi họ nhà trai đến ngõ, cổng nhà
gái, gặp chướng ngại vật đầu tiên nhà gái đem ra cản. Thử thách ở đây
được hiểu là phải ứng xử bằng thơ - văn hoá chứ không có nghĩa là khó
khăn, mang tính bắt buộc. Các bài ca hay chính là nghi lễ trong giai đoạn
này có thể sắp theo trình tự:
- Những bài ca chăng dây đón đường.
Ngay khi trông thấy đoàn đón dâu từ xa, nhà gái sẽ cử các cô gái trẻ
bạn của cô dâu hoặc một đám trẻ con (khoảng 7 - 10 người) đứng ở đầu
ngõ căng dây chặn lối dẫn vào nhà. Khi gặp đoàn nhà trai, thay cho việc
hỏi han xã giao, họ sẽ hát một bài chào, hỏi rất lịch sự.
“Pây chợ lụ pây phương?
Lụ cần pây liểu mường mà quá?”
(Hành hương hay buôn bán qua đây?
Mới tạt qua việc hay, việc tốt?...) [48, tr.1]
Trước những câu hát như vậy, Quan làng phải nhanh trí hát đối lại
một bài xưng tên tuổi, nhẹ nhàng nhắc chuyện hai nhà đã hẹn ước tới
ngày cưới hôm nay và xin phép cất dây chăng cho nhà trai vào.
- Những bài ca lên cầu thang.
Đó là những bài mời – chối lấy rượu rửa chân. Khi đoàn nhà trai sắp bước
lên cầu thang, nhà gái đưa rượu ra mời khách rửa chân vì nghĩ khách lạ là những
người cao quý. Hơn hết gia chủ cũng muốn thử thách xem khách sẽ ứng xử ra sao.
“…Pi quá vạ hạn quả
Pi nẩy vạ hạn héo...
Tỷ khỏi lẹo nặm dùng thật sự
21
Nhờ mì tối chẻn lẩu dùng thay
Mởi khách dào kha mừ củng đẩy...”
(... Năm ngoái trời hạn quá
Năm nay trời hạn khô…
Chỗ tôi hết nước dùng thật sự
Nhờ có đôi chén rượu dùng thay
Mời khách rửa chân tay cũng được...)[39, tr.10]
Rượu là thức uống cao lương dùng trong các dịp quan trọng, các
buổi tiệc vui, tụ tập sinh hoạt của người Tày. Có được rượu phải đổi
bằng mồ hôi, bằng sức lao động, nay nhà trai đồng ý lấy nó rửa chân thì
thật không biết ý. Quan làng nếu hát từ chối được, nhà gái sẽ đánh giá
rất cao.
“Lẹo nặm khỏi âu nhù mà xúc
Lẩu là cúa bách thức cần chin
Mà thẻ nặm làng tin lừ đẩy...”
(Hết nước ta lấy rơm chùi vậy
Rượu là đồ bách thức người ăn
Rượu thay nước rửa chân sao được...) [39, tr.10]
- Những bài ca giữ cửa.
Để tăng thêm tính thử thách nhà gái sẽ đem chổi đặt ngược, treo đèn
thắp, treo con mèo bị nhốt trong lồng, đặt thớt, đặt đó, đặt dao... chắn trước
cửa. Quan làng muốn chủ nhà cất đi phải hát, xin cất từng thứ một. Trong
đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn – Bắc Kạn những bài Thơ lẩu thường
được diễn xướng trong gian đoạn này đó là xin cất đó, cất đèn chắn cửa nhà.
“Khỏi chiềng mừa các á Lương Nga
Dày cần pây hảng pia hảng nạc...
Củ tin khỏi mà thâng lườn tản
Ngám thuông đếch chang bản hảng dày... ”
22
(Xin thưa với các nàng Lương Nga
Đó dùng để đơm cá, rái cá...
Chúng tôi xin đem cất đó
Cho đoàn được vào trong... )[39,tr.10]
Hay
“ Tởi hâư tạo pền đén thẻ dầu?
Tởi hâư tạo pền dầu chút đèn?
Bọn khỏi xo sham ngay thật thá...
Bấu mì cần củ pây hẩư khoái.”
(Đời nào tạo được đèn thế dầu?
Đời nào tạo được dầu thắp đèn?
Chúng tôi xin hỏi ngay thật thà...
Không thì người cất ngay giúp hộ.) [39, tr.10]
- Những bài ca trải chiếu.
Sau bao thử thách, cuối cùng đoàn nhà trai cũng vào được trong nhà, nhưng
oái oăm thay nhà gái lại không trải chiếu mời ngồi, khi trải lại trải ngược chiếu
hoặc gấp chiếu xếp vào nhau. Khách không được tự tiện ngồi ngay mà phải hát để
xin được chủ nhà trải chiếu cho ngay ngắn.
“Cần hâư hăn pjoói phục pjoói ngai
Bọn khỏi bẩu giám tài lồng nẳng...
Vàn noọng slao pjoóc tẻo hẩu đây
Bọn khỏi khách tàng quây xo nẳng.”
(Người nào thấy trải chiếu lộn ngược
Chúng tôi không dám xuống ngồi...
Mời em gái trải lại cho ngay
Chúng tôi khách đường xa xin toạ.) [1, tr.35]
* Giai đoạn đón dâu
23
Sau khi vượt qua thử thách, họ hàng nhà trai được vào tới gian chính
của ngôi nhà (chỗ tiếp khách), các thủ tục tiếp theo để đón được dâu về
không mang tính thử thách nữa mà mang tính giao tiếp. Các bài ca hay
nghi lễ trong giai đoạn này phần đa được diễn ra theo thứ tự:
- Những bài ca mời chào.
Đó là các bài hát chủ nhà mời khách ngồi, mời uống nước, mời dùng
thuốc, mời ăn trầu như:
“Lườn khỏi xằng cao chương pền nẳng...
Nhẹ lăng mì giường tắm, giường thung...
Bấu diền cỏi thong thả chùa căn
Nẳng lồng đuổi gia tung họ khỏi.”
(Nhà tôi chưa cao, chưa đáng toạ...
Lẽ ra có giường thấp, giường cao...
Không chê hãy thong thả rủ nhau
Ngồi xuống với gia trung họ mạc.) [1, tr.38]
Trước tấm chân tình, khiêm tốn của nhà chủ, đoàn khách vui mừng
đón nhận và thường khen ngời chủ nhà hết lời.
- Những bài ca hỏi - thưa danh tính, sự việc.
Khi đã yên vị, chủ - khách mới hỏi rõ danh tính của nhau.
“Đẩy chập căn pây hẩư mà ngộ...
Mà việc lăng lẻ páo hẩư ngay...
Thôi thôi cần cỏi lẩn oóc mà
Hẩư họ hàng tung gia khỏi chắc.”
(Được gặp nhau đi đâu đến ngộ...
Về việc gì thì báo cho ngay
Thôi thôi người hãy kể thật lòng
Cho họ hàng trong nhà tôi hiểu.) [1, tr.40]
24
Khách đáp và thưa lí do đến gặp mặt ngày hôm nay.
- Những bài ca trình tổ.
Quan làng hát xin được thắp đèn, thắp hương, trình báo với tổ tiên, mời hai
họ ra ngồi cùng chứng kiến, xin cho chú rể được thắp hương trước bàn thờ tổ
tiên bên nhà gái.
“Lườn cần hỡi slẳm slựa chút hương.
Chỏi lủng khóp tứ phương gia đáng
Lục khươi tẻ chiềng táng tổ tông
Vằn lẩu châm lục chinh định các.”
( Nhà người hãy chuẩn bị thắp hương.
Thắp đèn lên sáng toả cả nhà
Con rể sẽ kính tổ, kính tông
Ngày rượu hồng con cái kết hôn.) [1, tr.38]
- Những bài ca mời cơm.
Để đám cưới thêm thân tình, đầm ấm, Pả mẻ và Quan làng hát mời mọi người
cùng tham dự bữa cơm chia vui, chúc mừng hạnh phúc cho đôi vợ chồng trẻ.
“Củ pác xo sham quá tản cần
Đẩy kin lụ xằng cà noọng
Xa tắc téng tẻ tọn khửn thâng”.
(Cất lời xin hỏi qua đại biểu
Được ăn chưa hãy bảo em
Tìm, xếp mâm bưng lên ngay.) [39, tr.38]
- Những bài ca bái tổ.
Sau khi đã cơm no rượu say, Quan làng hát những bài xin bái tổ,
nộp lễ sinh thành, bái họ hàng để chuẩn bị đưa cô dâu về bên nhà trai
làm lễ.
25
“Lại thâng giờ ngoạt tiên thiên đức,
Giờ đây khỏi tải khươi kính tổ.
Nhất kính mừa khửn chỏ khửn chông
Nhì kính mừa thâng Đẳm táng
Tham kính khửn thản tềng hua
Giờ đây khỏi hẩư khươi kính tổ.”
(Đã đến giờ ngoạt tiên thiên đức,
Giờ tôn nghiêm đại lễ.
Thứ nhất xin kính thưa thủy tổ
Thứ nhì kính thưa bậc Tổ tiên
Thứ ba kính thưa tiên hiền gia chủ
Giờ đây tôi dẫn rể ra kính tổ.) [39, tr.51]
- Những bài ca đón dâu.
Đó là những bài hát xin dâu, đón dâu, tặng và nhận tặng phẩm, hát
chúc mừng. Trong những bài ca đón dâu, ngoài phần diễn xướng của
Quan làng, Pả mẻ, Phường họ bạn có thể sẽ tham gia diễn xướng khi trao
tặng tặng phẩm hoặc hát chúc mừng hạnh phúc cô dâu, chú rể.
“ Nói, nói củng nhận âu giá chổi
Của lẻ nọi – tình mì lai.
Củ pác khỏi xo nai Pả mẻ
Cỏi oóc mà nhận lệ khẩu mừa...”
(Ít, ít cũng nhận lấy đừng chối
Của thì ít – tình thì nhiều.
Mở miệng tôi xin mời Pả mẻ
Hãy ra để nhận lễ đi vào.) [39, tr.58]
- Những bài ca chia tay, nhắn gửi.
26
Đến khi gần chia tay đoàn đón dâu ở nhà gái hoặc đoàn đưa dâu ở nhà trai
những lời hát Thơ lẩu sẽ trầm xuống, mang nội dung tạm biệt lưu luyến. Quan làng,
Pả mẻ hát răn dạy, nhắn nhủ cô dâu, chú rể về đạo làm con, cách ứng xử trong mọi
mối quan hệ.
“Thôi đoạn khỏi so pây...
Khỏi so thắng mọi cần huôn hỉ
Cùng pỉ noọng puổn tỉ mọi cần
Núc ních tẻo tốc lả vằn đăm,
Tẻo bấu lập mừa thâng tung thoá.”
(Thôi đoàn xin ra về...
Người đi đây, đi đó
Cũng lại về quê hương
Dùng dằng lại tối đêm,
Lại không kịp tới nhà....) [48, tr.60]
Theo ông Hà Sĩ Ngự - Quan làng ở xã Phương Viên, huyện Chợ Đồn,
tỉnh Bắc Kạn thì các bước trong lễ đón dâu, đưa dâu là như trên, tuy nhiên
có sự khác biệt trong mỗi đám cưới tuỳ thuộc vào yêu cầu, thử thách của
hai họ. Do đó, các bài hát cũng thay đổi theo. Theo điều tra của chúng
tôi, các bước trong đám cưới ở các xã khác thuộc huyện Chợ Đồn cũng
đều có thứ tự như vậy. Để tiện theo dõi diễn biến lễ đón dâu, đưa dâu,
cũng như quá trình diễn xướng Thơ lẩu, luận văn đã phân chia các bài
Thơ lẩu theo trình tự trên. Cách chia này chỉ mang tính tương đối.
1.3. Mối quan hệ giữa Thơ lẩu với các tục lệ, tín ngƣỡng dân gian
trong đám cƣới
Thơ lẩu là một nghi thức trong đám cưới của đồng bào Tày ở Chợ Đồn -
Bắc Kạn. Trong quá trình diễn xướng, Thơ lẩu có mối quan hệ tác động qua
lại với các tục lệ, tín ngưỡng dân gian khác tạo thành một khối thống nhất,
27
không thể tách rời. Một số tục lệ, tín ngưỡng dân gian chỉ được biết đến qua
diễn xướng Thơ lẩu. Nhờ có các tục lệ, tín ngưỡng này mà Thơ lẩu mới phản
ánh đầy đủ mọi mặt của cuộc sống xã hội và trở nên hấp dẫn, sinh động hơn,
trở thành nét đẹp trong văn hóa của người Tày.
1.3.1. Thơ lẩu với tục chọn ngày, giờ cưới
Ngày, giờ được chọn để tổ chức lễ cưới phải là ngày, giờ đẹp.
Người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn cho rằng đám cưới được tổ chức vào
ngày đẹp, giờ đẹp mới bảo đảm được hạnh phúc trăm năm của đôi vợ
chồng. Do vậy, trước khi tổ chức đám cưới hai gia đình thường nhờ thầy
bói hoặc những người biết xem ngày, xem giờ xem cho cẩn thận, kĩ
càng.
Ngày, giờ cưới đẹp theo quan niệm của người Tày phải là ngày, giờ
hợp với việc cưới xin, hội họp họ hàng. Đó là ngày, giờ Phúc sinh,
Hoàng đạo, Thiên thai. Vào những ngày, giờ này kẻ đi ngược có ngựa,
kẻ đi xuôi có thuyền, hoẵng trên đồi không kêu, hổ rừng sâu không gào...
Ngược lại, tức là trời đất không thuận lòng người, báo điềm gở cho biết
trước. Khi đã xem định cẩn thận thì hai bên gia đình cứ đến ngày, giờ ấy
mà tiến hành đám cưới. Việc tiến hành phải đảm bảo đúng, không sai
chệch giờ giấc. Nhiều khi vì không chọn được ngày, giờ đẹp mà đám cưới
bị trì hoãn lại một thời gian khá dài. Việc chọn ngày, chọn giờ cưới của
người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn còn mang tính mê tín, nhưng do đã trở
thành tục lệ trong đời sống văn hoá tâm linh của đồng bào nên khó có thể
thay đổi được.
1.3.2. Thơ lẩu với tục chăng dây
Tục chăng dây (còn gọi là tục căng dây) là tục lệ đã có từ lâu đời
trong văn hoá truyền thống dân tộc Tày và một số dân tộc khác. Ở Chợ
Đồn - Bắc Kạn, tục chăng dây chỉ có trong đám cưới và được thực hiện
như một nghi lễ đón đường. Muốn những sợi dây được cất đi, chỉ có
28
cách là Quan làng phải hát một, hai bài xin cất dây chăng. Có khi đoàn
chăng dây còn cố tình kéo dài thời gian mà không chịu rút dây. Quan
làng phải bỏ tiền ra mừng, khéo xin đoàn chăng dây giúp đỡ.
Ở một số xã thuộc huyện Pác Nặm, Bắc Kạn tục chăng dây diễn ra
cầu kì hơn. Khi đoàn nhà trai đến đầu làng nhà gái sẽ gặp một tốp trẻ em (6 -
10 tuổi) chăng dây hoa hoặc sợi dây mỏng, bằng vải màu hồng chặn đường.
Trưởng đoàn đón dâu không phải hát, nhưng nhẹ nhàng tung khoảng chục
đồng tiền kim loại (mỗi đồng có mệnh giá khoảng 2.000 – 5.000 đồng) hoặc
bánh kẹo vào chỗ chăng dây. Lũ trẻ thấy vậy sẽ tranh nhau và làm đứt dây
chăng. Đến cách nhà gái vài chục mét, lại có một tốp người, trong đó có hai
thanh nữ đại diện căng một mảnh vải màu hồng, tượng trưng cho dây chăng
cản đường. Đoàn đón dâu phải dừng lại, Quan làng mới hát xin gỡ dây cho
đoàn qua.
Tục chăng dây là một nghi lễ, là cái cớ để hỏi danh tính trước khi
cho khách vào nhà. Đồng thời, những sợi dây được chăng ra tượng trưng
cho dây tơ hồng quấn quýt, nối kết tình duyên của đôi trẻ. Sợi dây có
màu hồng, đỏ là màu của hạnh phúc đắm say. Tục chăng dây đã hàm ý
như một lời chúc phúc cho tình yêu của hai vợ chồng trẻ.
1.3.3. Thơ lẩu với tục dâng tấm vải ướt khô
Thành ngữ Tày có câu “Nắc bẳng phia, na bẳng đán”, ý nói công ơn
của cha mẹ nặng và dày như núi đá. Con cái trong gia đình phải ghi nhớ
công lao ấy và thể hiện tấm lòng trân trọng, biết ơn cha mẹ bằng những
hành động cụ thể. Có dịp thuận tiện người ta nghĩ ngay đến sự đền đáp
công ơn cha mẹ. Tục dâng tấm vải ướt khô trong ngày cưới của người
Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn ra đời dựa trên cơ sở ấy.
Tục dâng tấm vải ướt khô (sằm khấu) được coi là một nghi lễ không
thể thiếu trong đám cưới. Nghi lễ này chỉ được thực hiện ở nhà cô dâu,
nhà chú rể không tổ chức nghi lễ này. Nghi lễ thể hiện hành động trả ơn
29
của người con rể đối với người mẹ hoặc người đã trực tiếp nuôi dưỡng
cô dâu từ lúc lọt lòng cho tới lúc lớn khôn. Tấm vải ướt khô là tấm vải
mang tính biểu tượng, có khổ rộng hai gang, dài khoảng 4m. Trước đây,
tấm vải được nhuộm màu hồng khoảng một phần ba đến một nửa. Phía
vải màu hồng tượng trưng cho vải ướt. Phía màu trắng tượng trưng cho
vải khô. Ngày nay, tấm vải được dâng chỉ có một màu đen. Nếu người
được kết hôn là em trong gia đình mà anh, chị chưa kết hôn thì tấm vải
mới có màu hồng hoặc đỏ. Trước bàn thờ gia tiên, người mẹ vô cùng xúc
động khi nhận từ con rể tấm vải này. Khi đó, Quan làng sẽ hát bài hát tạ
ơn. Không khí của đám cưới sẽ tự nhiên trầm xuống, nghiêm trang và
nghẹn ngào xúc động. Tấm vải này sẽ được người mẹ cất kĩ đi, khi nào
con gái sinh con, người mẹ sẽ lấy làm tã lót hoặc làm địu cho cháu ngoại
của mình.
Sở dĩ có tục lệ này, là do người Tày “hiểu sâu sa rằng, người đàn bà
đảm nhận vai trò vô cùng quan trọng trong lao động sản xuất, quản lí kinh
tế gia đình, và lớn lao hơn cả là trong sinh nở con cái, nuôi dưỡng chúng
trưởng thành” [44, tr.25]. Người Tày ở Chợ Đồn – Bắc Kạn có giai thoại:
Ngày xưa, khi cuộc sống còn khó khăn, người mẹ nuôi con nhiều khi phải
lấy vạt áo của mình lót thay tã cho con. Khi đêm ngủ, phần vạt áo lấy làm
tã cho con bị ướt, mẹ để nằm lên, còn phần khô mới lót cho con yên giấc.
Tục dâng tấm vải ướt khô là một nghi lễ quan trọng trong nộp lễ
sinh thành trong đám cưới, mang ý nghĩa rất sâu sắc, thể hiện thuần
phong mỹ tục đẹp đẽ của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn.
1.3.4. Thơ lẩu với tín ngưỡng dân gian Tày
Người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn không theo tôn giáo nào, nhưng
dấu ấn của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo cũng có mặt trong tín ngưỡng
của đồng bào. Phần lớn nhân dân lao động địa phương tiếp thu ảnh
hưởng của Tam giáo ở phần lý thuyết, mà chủ yếu là những khía cạnh
30
phù hợp với trình độ văn hoá sinh hoạt còn nhiều hạn chế như: triết học
về đạo đức của Đạo giáo, từ bi bác ái của Phật giáo, thuyết tu tề trị bình
trong Nho giáo...
Trong tín ngưỡng của đồng bào, những người làm nghề cúng bái và
xem bói như: Tào, Mo, Then, Pụt là những người rất được coi trọng. Họ
không tham gia vào diễn xướng Thơ lẩu, song lại chi phối rất nhiều tới
việc tổ chức đám cưới. Đám cưới được tổ chức hay không còn phụ thuộc
nhiều vào việc các thầy xem lá số của đôi trai gái có hợp nhau hay
không, xem giờ, xem ngày có thuận ngày lành, tháng tốt không.
Tín ngưỡng Tày thờ tổ tiên là chính. Tín ngưỡng này xuất phát từ
thuyết vạn vật hữu linh và tục thờ thần dòng họ. Trong gia đình người
Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, bàn thờ là nơi tôn nghiêm nhất. Cứ có việc gì
xảy ra trong gia đình hay những ngày mùng một, ngày rằm là con cháu
lại thắp hương lên bàn thờ tiên tổ. Việc thờ cúng được làm một cách tự
giác, đều đặn, thường xuyên. Trong đám cưới, lễ mời tổ tiên (mời đẳm)
là một nghi lễ bắt buộc. Chỉ khi nào cô dâu, chú rể được thắp hương, bái
lạy trước bàn thờ gia tiên hai họ thì coi như mới được sự chấp thuận của
tổ tiên, dòng họ và tổ tiên mới biết mặt. Đây cũng là một phong tục, tín
ngưỡng đẹp, thể hiện lòng biết ơn chân thành, sâu sắc của con cháu đối
với các thế hệ cha ông đi trước trong văn hoá Tày.
Trong đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, khi diễn
xướng Thơ lẩu còn có một tín ngưỡng nữa được thực hiện, đó là tín
ngưỡng đuổi ma gà, uế tạp bảo vệ cho cô dâu về nhà chồng. Tín ngưỡng
này được gọi là “giải vẻ”. Người ta sẽ tiến hành “giải vẻ” cho cô dâu
trước khi về nhà chồng. Pả mẻ sẽ vừa hát, vừa làm những động tác vẩy
rượu nhanh, mạnh, dứt khoát để đuổi tà ma khỏi cô dâu. Trên đường về
nhà chồng, cô dâu đi giữa để được bảo vệ. Cô dâu ngoài đội khăn vấn
tóc, quấn tóc quanh đầu, khăn vuông còn đội nón ra ngoài. Nón không
31
chỉ để che mưa nắng, mà còn có ý nghĩa tâm linh là bảo vệ. Tín ngưỡng
này đảm bảo sự trinh khiết cho cô dâu, vừa ngăn cô dâu không mang uế
tạp, tai hoạ về nhà chồng.
Tiểu kết:
Người Tày là cư dân đông nhất ở Chợ Đồn – Bắc Kạn. Đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội của họ gắn liền với điều kiện tự nhiên ở khu vực.
Huyện Chợ Đồn – Bắc Kạn là một huyện miền núi mang đầy đủ các đặc
điểm tự nhiên đặc trưng của vùng miền núi phía Đông Bắc Bộ. Người
Tày nơi đây sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp. Dù cuộc sống vật
chất còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ đã xây dựng cho mình một
nền kinh tế khá ổn định. Với ý thức cộng đồng cao, người Tày sống hòa
hợp, gắn bó cùng anh em các dân tộc ít người khác. Cuộc sống nơi núi
cao, vực sâu buộc họ phải xích lại gần nhau, hợp thành thể một thống
nhất để tạo nên sức mạnh tập thể. Qua quá trình sinh sống, sản xuất và
giao thoa văn hóa lâu đời đã giúp đồng bào Tày gây dựng được một kho
tàng văn hóa tinh thần đậm bản sắc dân tộc. Thơ lẩu là một hình thức
sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, được hình
thành và tồn tại trong đời sống của đồng bào Tày từ hàng ngàn đời nay.
Đó là những bài hát dân ca nghi lễ - phong tục độc đáo, chỉ được cất lên
trong đám cưới, nhưng đang dần mất đi giá trị. Sự phát triển của Thơ lẩu
phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như: điều kiện tự nhiên, xã hội, văn
hoá của địa phương. Để hiểu sâu hơn về loại hình, luận văn đã tìm hiểu
khái niệm, tên gọi, các nghi lễ, phong tục, tín ngưỡng có liên quan. Đây
là cơ sở lý luận, thực tế cho việc nghiên cứu đặc điểm nội dung, nghệ
thuật của các bài Thơ lẩu và Thơ lẩu trong đời sống của nhân dân ở
những chương sau.
32
Chƣơng 2
NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT CỦA CÁC BÀI THƠ LẨU
Ở CHỢ ĐỒN - BẮC KẠN
Thơ lẩu là một loại hình sinh hoạt văn hoá mang đậm màu sắc văn
học của dân tộc Tày. Nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật của các bài
Thơ lẩu, tức là nghiên cứu chất văn học trong phần ca từ của các bài ca
nghi lễ đám cưới. Việc nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta hiểu được cái
hay, cái đẹp trong nội dung tư tưởng, nghệ thuật thể hiện của phần lời
các bài ca. Tất nhiên, nội dung không thể tách rời khỏi nghệ thuật thể
hiện và môi trường diễn xướng của Thơ lẩu. Điều đó có nghĩa là chúng
tôi vẫn ý thức được mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng giữa văn bản lời ca
và hình thức diễn xướng của loại hình văn hóa dân gian này. Vấn đề này
sẽ được làm rõ trong chương sau, khi tìm hiểu về Thơ lẩu trong đời sống
văn hóa dân gian.
2.1. Nội dung của các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn
2.1.1. Thơ lẩu thay cho lời chào xã giao lịch sự
Trong đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, có rất đông người
tham dự. Họ đến đám cưới không chỉ để chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ, mà
còn để gặp gỡ, xây dựng và củng cố tình cảm tốt đẹp với nhau. Vậy nên, yêu
cầu đầu tiên đối với một bài Thơ lẩu là phải thể hiện được sự trân trọng, lịch
sự thay cho lời ăn, tiếng nói của mọi người. Mặt khác, Thơ lẩu là một nghi lễ
truyền thống có từ ngàn đời, là sản vật, là biểu trưng của nền văn hoá Tày vốn
rất trọng lễ nghi, đạo lý. Trong không gian đám cưới thân tình giữa hai họ thì
việc tránh những yếu tố thô tục, dễ gây bất hoà cũng là lẽ đương nhiên. Do
đó, các bài hát phải làm sao chuyển tải được tình cảm và tạo được không khí
lịch thiệp, tao nhã ngay từ đầu khi hai họ gặp nhau. Thơ lẩu trở thành sợi dây
nối buộc quan hệ.
33
Thơ lẩu thay cho lời chào hỏi xã giao đầu tiên của hai gia đình.
Thay cho việc hỏi khách là ai, từ đâu tới, đến có việc gì, đại diện chủ
nhà sẽ hát để chào hỏi thật lịch sự và phải phép. Trước những bài hát
như vậy, bên nhà khách phải nhanh trí hát đối lại một bài xưng tên tuổi,
nhẹ nhàng nhắc chuyện hai nhà đã hẹn ước tới ngày cưới hôm nay.
“ Thật khỏi cần cùng xạ, huyện, châu...
Họ khỏi dú quê cấu chắc tin
Tỏn thư mỉnh âu chồm hăn hợp.
Vằn nẩy chắng mì lệ mà thâng...”
(Thật tôi người cùng xã huyện châu…
Họ tôi ở quê cổ biết tin
Đón bản mệnh đem xem thấy hợp.
Hôm nay là có lễ tới nơi…) [39, tr.2]
Như vậy, qua tiếng hát những lời giới thiệu sơ lược nhất đã được nhà trai
trả lời. Sau lời chào hỏi, tình cảm giữa hai gia đình lần lượt được thể hiện,
tăng tiến qua các bài hát. Tình cảm ấy thể hiện rõ nét nhất qua các bài có nhã
ý mời mọc và từ chối hay nhận lời của hai họ. Các bài hát của chủ thường thể
hiện thái độ khiêm tốn, nhún nhường trước khách. Chủ nhà cho rằng nhà
mình nghèo, hoặc vì chưa chuẩn bị được chu đáo nên không có đồ sang đãi
khách. Việc mời khách cũng là các thử thách mà nhà chủ đưa ra, để qua đó sẽ
đánh giá được đạo đức, lễ nghi, tình cảm của đoàn nhà khách. Về phía khách
việc từ chối một lời mời quá sang trọng của chủ là hành động thể hiện sự
thông minh và có ý, biết người, biết ta.
Ngoài ra, trước lời mời khiêm tốn của chủ, khách thường có những
lời ca ngợi hết mức để lấy lòng. Tuy nhiên, những lời ca ngợi ấy không
biểu hiện sự tán nịnh, khách sáo, mà khách rất khôn khéo, chí tình để thể
hiện sự chân thành của mình. Như khi chủ nhà mời khách hút thuốc thì
ngần ngại, khiêm tốn:
34
“Lảo khỏi dự đẩy âu mà giá
Đếch bấu chắc giảng xá tềnh phầy
Mùi hom mền bân pây lẹo sluổn
Loọng cạ gia pác slổm mà thôi…”
(Thuốc tôi mua được lấy về rồi
Trẻ không biết đặt lên gác bếp
Mùi thơm nó bay hết không ngon
Gọi là đỡ buồn mồm mà thôi…) [39,tr.9]
Đoàn khách trước tấm lòng hiếu khách của nhà chủ thì khen hết lời:
“Lườn cần khẻo mì ỷ tiếp tân
Nặm lảo chậư mà hẩư đây đo...”
(Nhà người khéo có ý tiếp tân
Nước, thuốc, trầu mời dâng đầy đủ...)[39, tr.12]
Thái độ lịch sự của cả chủ và khách còn được thể hiện qua cung
cách xưng hô trong giao tiếp. Khách gọi chủ là “quý họ”, chủ gọi khách
là “khách lạ” nhưng cách nói chuyện lại thân tình như nói với người
trong một nhà. Trong mỗi thử thách, để xin chủ nhà tạo điều kiện giúp
mình, khách lại lễ phép xin nhà chủ giúp đỡ và hứa sẽ cảm tạ:
“Mì thương củ hẩư căn ơn bái...”
(Lòng thương cất cho nhau ơn huệ…)[39, tr.18]
“Vàn noọng á lương nga củ hẩư...”
(Nhờ em gái lương nga cất giúp…)[39, tr.22]
Thái độ lịch thiệp, nhã nhặn của chủ và khách đều thể hiện tấm chân tình
muốn kết thông gia. Đó là tình cảm trân trọng nhau của những người có văn hoá,
có lễ nghi trong cuộc sống. Qua các bài hát, truyền thống hiếu khách, lối sống
lịch sự, thật thà của đồng bào được giáo dục cho con cháu sau này.
35
2.1.2. Thơ lẩu – lời khuyên dạy đạo lý, bổn phận làm ngƣời
2.1.2.1. Lời khuyên về cách ứng xử trong quan hệ con cái - cha mẹ
Gia đình người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn thường có hai đến ba thế hệ
cùng sinh sống. Con cháu trong nhà phải có hiếu với ông bà, cha mẹ. Khi con
trai, con gái đến tuổi kết duyên, cha mẹ tổ chức đám cưới cho con, gia đình sẽ
có thêm thành viên mới. Thơ lẩu không chỉ chỉ ra trách nhiệm của con đẻ đối
với bố mẹ mình, mà còn chỉ ra nghĩa vụ của con dâu với bố mẹ chồng và con
rể với bố mẹ vợ. Sự phụng dưỡng, hiếu nghĩa với bố mẹ được coi là sự trả ơn
chân thành, sâu sắc nhất. Quan làng, Pả mẻ cũng hát các bài trong đó có các
câu ghi nhận công lao sinh thành, nuôi nấng, dạy bảo của hai bên cha mẹ
trong lễ dâng tấm vải ướt khô.
“Slon tạy lai công khỏ hiền lương
Công pỏ mẻ như slơn, như thủy
Tốp lụp mà bít bí pền cần...”
(Dạy dỗ nhiều công khó hài hoà
Công bố mẹ như sơn, như thuỷ
Vỗ về con trưởng thành nên người…) [39, tr.22]
Con cái trong gia đình phải ghi nhớ công lao ấy và thể hiện tình cảm
trân trọng, biết ơn bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống. Có ngày
vui, có dịp thuận tiện người ta nghĩ ngay đến sự đền đáp công ơn mẹ cha.
Tấm lòng của con cái đối với mẹ cha không chỉ được thể hiện qua
các lễ vật tạ ơn, mà còn được thể hiện ngay trong cung cách giao tiếp,
cách xưng hô với ông bà, cha mẹ. Ngoài cách xưng lễ phép là “lục”,
nghĩa là con, con cái trong nhà nhiều khi còn hạ thấp mình, khiêm tốn tự
xưng là “khỏi” (khói) có nghĩa là tôi tớ, đầy tớ với ông bà, cha mẹ.
Trong đám cưới, bên cạnh việc răn dạy cô dâu, chú rể về đạo làm con,
một số bài Thơ lẩu còn khuyên bố mẹ chồng nên có cách cư xử hợp lý với con
dâu của mình. Cô dâu mới về nhà chồng còn nhiều điều lạ lẫm, bố mẹ chồng
nên nhẹ nhàng khuyên bảo, giúp đỡ con dâu thích nghi với gia đình nhanh
chóng để thiên hạ khỏi cười chê là “khác máu tanh lòng”.
36
“Lục cần cỏi cạ, cỏi thon
Slon noọng khỏi đắc đạo,
Giảo noọng khỏi đắc thông”
(Con của người hãy bảo, hãy ban
Dạy em tôi có đạo,
Bảo em tôi thông minh)[39,tr.26]
Trong thời đại phát triển như hiện nay, người phụ nữ được giải
phóng, có quyền tham gia vào các hoạt động văn hoá, xã hội. Nội dung
các bài Thơ lẩu còn khuyên các bậc cha mẹ nên tạo điều kiện cho con
cháu làm tốt mọi nhiệm vụ xã hội. Có như vậy mới là cô con dâu “giỏi
việc nước, đảm việc nhà”, bố mẹ chồng cũng được mát mặt, mừng lây.
“Giá huông hảm dú lườn lảu lảu
Khi tập thể giao hẩư việc chung
Pú giả củng thêm dung slúc toọng.”
(Đừng hãm giữ ở nhà một chỗ
Khi tập thể giao cho việc chung
Ông bà cũng thêm mừng, đẹp ý)[39, tr.27].
Tóm lại, có thể nhận thấy rằng, các bài Thơ lẩu có ý nghĩa hết sức
lớn lao trong đời sống gia đình của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn.
Mỗi bài ca là một bài học ý nghĩa về ứng xử, không chỉ hướng tới răn
dạy con cái, mà khuyên bảo cả bậc làm cha, làm mẹ cùng góp sức để xây
dựng cuộc sống gia đình được êm ấm, thuận hoà hơn.
2.1.2.2. Lời khuyên về cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng
Xa xưa, người Tày đã thực hiện chế độ một vợ, một chồng. Chỉ
những cặp vợ chồng không có con, hoặc không có con trai nối dõi,
những người làm quan có chức quyền, lại giàu có mới lấy thêm các vợ
lẽ. Nhiều gia đình neo người không đủ sức lao động, hoặc hám tài, hám
sắc, ham danh vị thường cưỡng ép việc hôn nhân của con cái. Các đôi vợ
chồng lấy nhau tuy ít vì tình yêu, nhưng vẫn cư xử theo đúng phận sự,
trách nhiệm. Ngày nay, khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi, sinh đẻ
37
theo kế hoạch thì việc cưới xin không còn phụ thuộc quá nhiều vào quyết
định của cha mẹ như trước nữa. Trai gái tự tìm hiểu nhau đến lúc chín
muồi thì sẽ thưa chuyện với hai bên gia đình. Việc kết hôn hoàn toàn
trên cơ sở tình yêu đôi lứa tự nguyện. Tình yêu là cầu nối tới hôn nhân
và hạnh phúc.
Trong đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, Thơ lẩu còn
thay cho những lời răn dạy đôi trẻ ít kinh nghiệm về cách ứng xử trong
cuộc sống vợ chồng. Đã là vợ chồng thì phải hoà thuận, thương yêu
nhau. Trước khi chia tay, Pả mẻ hát rất nhiều bài hát căn dặn cô dâu phải
chú ý tới cách ứng xử với chồng để sao cho “gương vỡ lại lành”.
“Lọ lăng tình pỏ, mẻ chay lườn
Lăng phiến khỏe bại cằm tăn dốc...
Hậy pỏ đá nhịn phây thắc ỷ
Giả vờ lầu cảng ón hết đây...”
(Huống chồng, vợ trong nhà lâu ngày
Sao tránh khỏi những lời sai trái…
Ngộ chồng mắng nhịn đi đôi chút
Giả vờ mình bẽn lẽn làm lành…) [39, tr.28]
Những bài hát còn căn dặn hai vợ chồng phải sống thuỷ chung, tâm
đầu ý hợp trong lao động, sản xuất để xây dựng kinh tế gia đình:
“ Vun khẩu cằm thủy chung hâng vằn
Chin dú bố hẩư cằm họ cạ.”
(Vun đắp chữ thuỷ chung lâu ngày
Ăn ở đừng có lời họ nói…) [39, tr.29]
Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình có ấm êm, thuận hoà thì xã
hội mới phát triển bền vững. Các bài Thơ lẩu không chỉ nhằm mục đích
khuyên bảo đôi vợ chồng trẻ trong ngày cưới, mà còn hát để khuyên
những người có mặt, ai đã có gia đình thì hãy chăm lo cho hạnh phúc, ai
chưa có gia đình thì cùng lắng nghe như một bài bài học, một lời khuyên
bổ ích cho cuộc sống sau này.
38
2.1.2.3. Lời khuyên về cách ứng xử trong quan hệ họ hàng
Mỗi dòng họ người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn xưa thường sống
quây quần trong một bản. Họ vừa là hàng xóm, vừa là anh em. Ngày nay,
do điều kiện đi lại dễ dàng hơn, người trong cùng dòng họ không sống
tập trung tại một bản, nhưng nơi cư trú cũng không quá xa nhau. Ngay
trong đời sống sản xuất và sinh hoạt hàng ngày họ vẫn thường xuyên gặp
gỡ, tuy rằng không có mặt đầy đủ cả dòng họ. Do đó, họ hàng là những
người gần gũi và thân thiết nhất đối với đồng bào Tày.
Khi trong họ có đám cưới là cả họ cùng chuẩn bị cho đám cưới ấy,
bởi thêm dâu, thêm rể tức là thêm thành viên cho dòng họ. Trước khi
làm đám cưới, chàng trai hay cô gái muốn lấy vợ, lấy chồng ngoài việc
hỏi ý kiến gia đình còn phải được dòng họ thông qua. Bởi cưới xin là
việc hệ trọng của một đời người, mà biết đâu họ hàng có thể cho chàng
trai hay cô gái những lời đánh giá khách quan về người yêu của mình.
Không chỉ có đám cưới mà những việc quan trọng khác muốn tổ chức
chu đáo, đều được hỏi ý kiến họ hàng. Khi đoàn nhà trai đến đón dâu,
Quan làng cũng khẳng định việc hôn lễ đã được họ nhà trai thông qua và
nhất trí.
“Noọng khỏi lẩn phụ mậu tung gia
...Slam lùng, slam pả
Slao áo, slam a
Họ cần củng ná che, ná lược ...”
(Em tôi thưa bố mẹ trong nhà
…Hỏi bác, hỏi bá
Hỏi chú, hỏi cô
Họ người cũng không chê, không chọn…)[39, tr.13]
Trong quan hệ dòng họ, người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn quan
niệm: thứ nhất phải có tổ tiên, thứ nhì phải có họ hàng. Việc thờ cúng tổ
tiên là việc bắt buộc với tất cả mọi người. Con người chết đi không phải
trở về với cát bụi hoàn toàn, mà phần hồn, phần tinh anh của họ vẫn ở lại
39
bên cạnh người thân, phù hộ độ trì, chứng kiến từng bước sự phát triển
của cháu con. Do đó, khi có đám cưới phải thắp hương báo cho tổ tông
biết, mời tông tổ về cùng dự cuộc vui và chứng kiến, tác thành cho đôi
lứa được hạnh phúc trọn đời. Sau khi bái tổ, cô dâu, chú rể mới chính
thức được coi là thành viên trong gia đình. Các bài Thơ lẩu có ghi nhận.
“Mì cốc chắng mà pjai buốt nhọt
Mì ké chắng mì ón kế tông
Hôn hỷ củng chứ thâng tiên tổ
Bấu lừm đẩy nghĩa tình Đẳm tổ... ”
(Có gốc mới có ngọn nảy búp
Có già mới có trẻ kế tông
Hôn hỷ cũng nhớ đến tổ tiên
Không quên được nghĩa tình tông tổ…)[39, tr.19]
Đây là lối sống biết trước, biết sau, có tình, có nghĩa của con người,
là nét đẹp trong văn hoá ngàn đời của dân tộc Tày nói riêng, và của các
dân tộc trên đất nước Việt Nam nói chung.
Bên cạnh đó, Thơ lẩu còn chỉ ra tầm quan trọng của họ hàng trong
đời sống xã hội. Mỗi dòng họ người Tày đều có chi trưởng, chi thứ, con
bác, con chú, kẻ anh, người em... Thứ bậc này hình thành tự nhiên, được
ghi trong gia phả như một quy định về quan hệ giữa những người trong
cùng dòng họ. Mỗi người phải biết mình ở vị trí nào để có cách cư xử
hợp đạo lý với người khác. Từ “họ hàng” ở đây không chỉ hiểu là họ
hàng trong phạm vi cùng chi, cùng nhánh, mà cả họ hàng xa, họ hàng
bao đời nay cũng đều được coi là anh em trong một nhà.
“Cần lầu mì họ háng là đây
Mì họ xẩư, họ quây là trọng
Mì lai pỉ, lai noọng là hơn...”
(Đời người nhiều họ hàng là tốt
Có họ gần, họ xa là quý
Có nhiều anh, nhiều em là hơn…)[39, tr.22]
40
Trên cơ sở đó, các bài Thơ lẩu răn dạy mọi người sống phải có tình
nghĩa anh em, đặc biệt cô dâu mới về nhà chồng sống phải có tình, có
nghĩa với họ hàng, anh em chồng.
“Đuổi phua mả, giả pú tung gia
Đuổi pả bạc, áo a, khủ mử
Bấu diềm noọng cỏi chứ khẩu xu...
Đạo lùa lẻ kính nể gia tung... ”
(Với chồng con, ông bà trong gia
Với bác bá, chú cô, cậu mợ
Không kĩ tính em nhớ vào tai…
Đạo dâu phải kính nể gia đình... )[39, tr.27]
Đám cưới cũng là một dịp để họ hàng gặp gỡ. Con rể, con dâu qua đám
cưới mới biết mặt đầy đủ họ hàng. Hai bên gia đình mới có dịp trò chuyện,
quen biết, hiểu thêm về nhau. Biết nhau rồi thì phải sống sao cho có tình, có
nghĩa với nhau, chứ không thể như “người dưng nước lã”.
“Đẩy chắc nả bạc, pả, họ hàng
Thâng chục chập chang tàng pây tẻo
Chắc kèng chúp tảo lỉ khắm tham”
(Được biết mặt bá, bác, họ hàng
Sau này gặp ngoài đường đi lại
Biết ngả nón đạo nghĩa hỏi han)[39, tr.28]
Điều đặc biệt nữa trong quan hệ họ hàng của người Tày mà các dân
tộc khác ít có, đó là tục nhận anh em với người “khác Tồng” (khác làng
bản), có khi khác dân tộc nếu thấy người ấy trùng họ tên, trùng ngày,
tháng, năm sinh với mình. Cho đến nay, trong các đám cưới ở Chợ Đồn -
Bắc Kạn vẫn có tục mừng họ Nội, họ Ngoại (gọi là tiền chiêu Nội, chiêu
Ngoại) của nhà trai hay nhà gái để tỏ mối quan hệ gắn bó và sự trân
trọng họ hàng của gia đình mình.
41
2.1.2.4. Lời khuyên về cách ứng xử trong các quan hệ khác
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn còn thể hiện những lời khuyên về
cách ứng xử tốt đẹp trong các mối quan hệ bạn bè, hàng xóm, quan hệ
giữa người với người trong xã hội... Đây là những cách ứng xử cơ bản và
tối thiểu của mỗi công dân trong cộng đồng để cùng nhau xây dựng xã
hội đoàn kết, tiến bộ, thân tình.
Trong đám cưới, sự có mặt của bạn bè, hàng xóm không những giúp
đám cưới thêm đông vui, đầm ấm, mà họ còn là những người tham gia
vào quá trình thực hành nghi lễ. Các bài Thơ lẩu thể hiện niềm vui của
gia chủ khi được tiếp đón Phường, bạn bè, hàng xóm trong buổi đại lễ
của con cái mình. Gia chủ hiểu: họ không quản ngại đường xa, bỏ thời
gian, công việc đến góp vui với mình, tức là là họ có tình cảm, có lòng
thương tới mình.
“Bấu tả căn mì shim mà lọt...
Bấu quản ngại mì shương pjoọm nả”
(Không bỏ nhau có tâm về đến...
Không quản ngại lòng thương đủ mặt)[39, tr.15].
Như vậy, bạn bè, hàng xóm, người thân quen là thành phần không
thể thiếu trong đời sống tình cảm của đồng bào Tày. Họ là những người
“tối lửa tắt đèn có nhau”, buồn vui sẻ nửa, giúp đỡ lẫn nhau. Tình cảm
ấy được đồng bào rất trân trọng, bởi họ coi tình nghĩa, đạo lý là thước đo
chuẩn mực cho giá trị một con người. Mặt khác, chính cuộc sống nông
nghiệp của người Tày ở miền núi cao đầy khó khăn, hiểm trở này đã
buộc họ phải xích lại, hợp thành thể một thống nhất để tạo nên sức mạnh
cộng đồng chống lại kẻ thù và cùng phát triển.
“Tằng pỉ noọng đồng môn nhận nghĩa
Tứ hải giai huynh đệ nhất gia”
(Kể cả anh em bè bạn kết nghĩa
Khắp bốn bể anh em một nhà)[39, tr.22].
42
Các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là sản phẩm của nền văn hoá
nông nghiệp nên nó giáo dục tâm hồn mỗi con người lòng yêu thương,
đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống. Thơ lẩu không chỉ là một
nghi lễ phong tục trong đám cưới, mà còn chứa đựng cả một pho sách
quý với các bài học giáo dục đạo đức, truyền thống qua bao thế hệ.
2.1.3. Thơ lẩu thể hiện các vấn đề lịch sử - xã hội
Thơ lẩu ở Chợ Đồn- Bắc Kạn còn phản ánh các vấn đề lịch sử – xã hội
có liên quan. Đó là chế độ hôn nhân và các tập tục trong đám cưới của đồng
bào địa phương. Theo dòng chảy thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội,
chế độ hôn nhân và các tập tục trong đám cưới của đồng bào thay đổi. Thơ lẩu
là chứng tích sáng rõ, ghi chép lại các vấn đề lịch sử – xã hội, đặc biệt là
những vấn đề liên quan tới đám cưới của người Tày.
Nếu trước đây, chế độ hôn nhân của người Tày được xây dựng trên
cơ sở tư hữu, mang nặng tính chất mua bán, trao đổi. Người đàn ông bỏ
ra một số tiền và đồ sính lễ để cưới hỏi, thực chất là để mua người con
gái gia đình mình ưng về làm vợ. Người phụ nữ chẳng khác gì là một
món hàng. Quá trình mua bán này diễn ra công khai giữa đại diện của
hai bên gia đình [45, tr.42]. Việc cưới hỏi chủ yếu do cha mẹ sắp đặt và
hôn nhân thì đơn thuần chỉ để sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, hơn là
vì một tình yêu chân chính. Đám cưới được tổ chức chỉ cần sự hợp lá số
của đôi trai gái, sự đồng ý của hai bên gia đình, thậm chí còn không cần
đến sự chấp thuận của chàng trai hay cô gái. Thói tục xưa đã đẩy rất
nhiều đôi trẻ vào bi kịch của tình yêu, hôn nhân.
Ngày nay, trai gái được tự do yêu thương, tìm hiểu, nhưng hôn nhân
vẫn được tiến hành dựa trên sự hợp tuổi, hợp lá số theo như cách xem
bói, mang tính định mệnh, mê tín của đồng bào.
“Họ khỏi dú quê cấu chắc tin
Tỏn thư mỉnh âu chồm hăn hợp.
Vằn nẩy chắng mì lệ mà thâng... ”
(Họ tôi ở quê cổ biết tin
43
Đón bản mệnh đem xem thấy hợp.
Hôm nay là có lễ tới nơi...) [39, tr.2]
Chỉ khi có giấy phép đăng kí kết hôn của chính quyền địa phương
thì các cặp đôi yêu nhau mới được coi là vợ chồng hợp pháp. Các bài
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn có phản ánh nét đổi mới, tiến bộ này.
“Đảy chính quyền nhất trí kết hôn
Sloong bưởng chắng lo toan đại lệ”
(Được chính quyền nhất trí kết hôn
Hai bên họ mới lo toan đại lễ.)[39,tr.14]
Do đó, đám cưới cũng có mời đại diện chính quyền địa phương các
cấp đến góp vui, ăn mừng và chứng kiến hạnh phúc cho đôi trẻ.
“Mời xuân họ, uỷ ban, cấp ủy
Đại diện tằng thôn tổ nặm mường”
(Mời xuân họ, uỷ ban, các cấp
Đại diện cả thôn, tổ, làng quê.)[39, tr.15]
Cần phải nói thêm rằng, quyền bình đẳng nam nữ về kinh tế, chính trị,
văn hoá ở Chợ Đồn - Bắc Kạn hiện nay đã được thực hiện. Luật hôn nhân gia
đình đã góp phần tích cực vào việc giải phóng người phụ nữ. Họ được chính
quyền tạo điều kiện cho lao động, sản xuất kinh tế gia đình, được tham gia
sinh hoạt, xây dựng chính trị, văn hoá xã hội cho cộng đồng địa phương. Ca
từ của các bài Thơ lẩu cũng phản ánh nội dung này, đồng thời khuyên mọi
người hãy cùng nhau chung sức để xây dựng xã hội văn minh, vì làng bản, vì
đất nước Việt Nam giàu đẹp, hạnh phúc.
“Vui hạnh phúc noọng giá đẩy lừm
Mừa nhiệm vụ, việc chung xạ hội...
Chướng chắp nước măm kheng tởi tởi.”
(Vui hạnh phúc em đừng để quên
Về nhiệm vụ, việc chung xã hội...
Vun đắp nước vững mạnh đời đời.)[39, tr.30]
44
Như vậy, Thơ lẩu “tuy giới hạn trong phạm vi chật hẹp của các cuộc hôn
lễ gia đình, nhưng nội dung phản ánh của nó không phải chỉ bị ước thúc trong
phạm vi tục lệ hôn nhân, trong phạm vi quan điểm đạo đức gia đình, mà nhiều
khi nó vượt ra ngoài phạm vi đó để phản ánh những vấn đề xã hội – lịch sử
rộng lớn hơn nhiều” [25, tr.675]. Do chứa tải những nội dung vĩ mô mà các
bài Thơ lẩu có tính hiện thực cao và vẫn có sức sống trong kho tàng văn hoá
tinh thần của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn.
2.2. Nghệ thuật của các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn.
2.2.1. Thời gian, không gian nghệ thuật
2.2.1.1. Thời gian nghệ thuật
“Sự miêu tả, trần thuật trong văn học bao giờ cũng xuất phát từ
một điểm nhìn nhất định về thời gian. Cái được trần thuật bao giờ cũng
diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp
của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật.” [18, tr.322]
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn cũng có thời gian nghệ thuật phù hợp với
các sự kiện của bài hát. Thời gian nghệ thuật trong Thơ lẩu thường kéo
dài, nối liền quá khứ - hiện tại - tương lai.
Thời gian nghệ thuật trong các bài Thơ lẩu đa phần là thời gian hiện
tại. Đó là kiểu thời gian lẫn trong các diễn biến sinh hoạt, các nghi lễ,
thủ tục đám cưới, gắn liền với hoạt động của chủ thể diễn xướng và tổ
chức bên trong của hình tượng nghệ thuật. Khi người diễn xướng chạy
theo diễn biến sự kiện thì thời gian trôi nhanh, khi dừng lại trong một
nghi thức thì thời gian chậm lại.
Ngoài thời gian hiện tại dễ nhận thấy, trong các bài Thơ lẩu còn có thời
gian hồi khứ. Kiểu thời gian này thường có trong đoạn mở đầu các bài hát.
Trong lễ chăng dây, Quan làng đã khéo nhắc chuyện trước đó hay tin con gái
nhà người đến tuổi lấy chồng.
45
“Vằn cón ẻn khao biên thâng páo”
(Ngày nọ én trắng bay tới báo)[39, tr.2].
Hay trước những thử thách nhà gái đặt ra, nhà trai đều lựa lời
khuyên bảo bằng những câu chuyện từ quá khứ xa xưa như một bài học
khéo léo nhắc nhẹ nhà gái về cách ứng xử trong cuộc sống:
“Tự vạn cổ sơ thinh lẹ nghịa. ”
(Từ vạn cổ sơ sinh lễ nghĩa.)[39, tr.7]
Thơ lẩu mượn chuyện quá khứ để nói tới hiện tại, như cái cớ dẫn dắt
những điều sắp nói, hoặc thay cho lời nhắc nhở nhẹ nhàng, hoặc như
những chứng cứ, lí lẽ xác đáng bổ sung cho lập luận.
Nếu thời gian quá khứ được dùng với những ẩn ý nghệ thuật trên thì
thời gian tương lai trong các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn lại dùng
để căn dặn thân tình những chuyện gia đình của đôi vợ chồng trẻ sau
này. Thời gian tương lai không cụ thể trên câu chữ, mà nấp sau lời ca.
“Điếp lục điếp bưởng lăng
Lục bấu chắc khuyên ngăn tó nả...”
(Thương con thương ở đằng sau
Con không biết khuyên ngăn trước mặt… )[39, tr.29]
Tuy hôm nay mới là đám cưới nhưng Quan làng và Pả mẻ đều hát
khuyên hai vợ chồng trẻ về sau này phải sống với nhau ra sao, cư xử với
mọi người trong gia đình thế nào, có con cái phải dạy bảo những gì. Đây
là những chuyện mà đôi trẻ sẽ phải đối mặt trong tương lai gần.
Tóm lại, thời gian nghệ thuật trong Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn
được đo bằng nhiều thước đo khác nhau: bằng sự tiến triển của các diễn
biến, bằng các hiện tượng đời sống được ý thức (rõ nhất là gặp gỡ, chia
tay). Thời gian nghệ thuật được sử dụng có hàm ý nhất định, góp phần
bộc lộ nội dung, tư tưởng và đem lại hiệu quả thẩm mĩ cho bài hát.
46
2.2.1.2. Không gian nghệ thuật
“Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ
một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định về thời gian, qua đó
thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó ...
tạo thành viễn cảnh nghệ thuật” [18, tr.160]. Không gian nghệ thuật
trong Thơ lẩu, không chỉ là không gian thực mà còn gắn với cảm thụ chủ
quan của người diễn xướng. Do vậy không gian nghệ thuật có tính độc
lập tương đối, không quy được vào không gian địa lý. Không gian nghệ
thuật trong Thơ lẩu bao gồm không gian thiên nhiên và không gian sinh
hoạt. Trong đó, không gian sinh hoạt chiếm nhiều hơn cả. Đó là một
không gian rộng, vui tươi, gắn liền với không gian tổ chức các nghi lễ
đám cưới.
Không gian sinh hoạt không hiện hình cụ thể mà chỉ gợi lên qua
không gian gặp mặt đầm ấm, trang trọng, hạnh phúc, trong bầu không khí sum
họp của hai họ, xóm làng, bè bạn. Dấu ấn của không gian thực vào không gian
sinh hoạt ở phần lời Thơ lẩu được nhận thấy rất rõ sau các mô típ mở đầu và
các từ chỉ vị trí như đàng xa, trong nhà, ngoài... không gian nghệ thuật sẽ
dần hiện lên trước mắt người nghe. Người nghe sẽ nhận ra được không gian
đông vui ngay trong thực tại và cả trong lời ca. Ví dụ:
“Khỏi chiềng mừa khách lạ đàng xa”
(Tôi thưa đến khách lạ đàng xa) [39, tr.15]
Hay như:
“Khỏi chiềng mừa phụ mậu gia môn
Chiềng quý họ càn khôn ón ké”
(Tôi thưa đến bố mẹ trong nhà
Thưa quý họ mọi ngả trẻ già.) [39, tr.23]
47
Ngoài không gian sinh hoạt, trong các bài Thơ lẩu còn có không
gian thiên nhiên. Đó là những bức tranh sơn thủy hữu tình căng tràn
nhựa sống trong sự tương giao, ước mơ hòa hợp.
“Bưởm mèng ngưẩng tỏn bjoóc vằn xuân
Pja trang thôm lai vằn cúng ngưẩng
Óc vui nặm mạch bó thâư tích...”
(Bướm ong mong vui hoa ngày xuân
Cá trong ao nhiều ngày cũng mong
Ra vui nước mạch nguồn trong trẻo...)[39, tr.27]
Tuy nhiên những bức tranh này không rõ nét mà chỉ làm nền, hòa cùng
đến mức khó tách biệt với không gian sinh hoạt. Vẽ bức tranh thiên nhiên ,
người diễn xướng không tả cảnh đơn thuần mà chủ yếu tả cảnh ngụ tình.
Sự tình vui vẻ, chân thật và đáng yêu của con người lây lan sang vạn vật.
Không gian nghệ thuật trong Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, có tác dụng
mô hình hoá các mối liên hệ như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự, nghi
lễ. Không gian nghệ thuật góp phần tạo nên bức tranh đầy đủ về cuộc sống.
Do đó chỉ cần tiếp xúc với phần ca từ, ta cũng có thể mường tượng ra một
không gian đám cưới sống động, hạnh phúc, tươi vui.
2.2.2. Ngôn ngữ
Tiếng Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, rất gần với tiếng Việt
về hệ thống âm thanh và ngữ pháp. Nói về ngôn ngữ Tày trong các bài
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, luận văn chỉ xét trên phương diện tiếng
nói, bởi Thơ lẩu là loại hình văn hoá, văn học, tồn tại trong dân gian qua
hình thức diễn xướng và truyền miệng trong nhân dân.
Ngôn ngữ trong các bài Thơ lẩu thể hiện sự khiêm nhường, ý nhị của
người diễn xướng. Đó là sự khiêm tốn khi tự nói về bản thân, gia đình, đồng
thời cũng đề cao và coi trọng đối tượng giao tiếp với mình. Ngôn ngữ này
biểu đạt sự tinh tế của người Tày trong mọi mối quan hệ xã hội, thể hiện được
tình cảm chân thành, đằm thắm của người miền núi.
48
Tiếng nói Tày rất phong phú về các từ cơ bản để chỉ những sự vật,
sự việc cụ thể có liên quan đến thiên nhiên và mọi mặt trong đời sống
sinh hoạt của con người. Nhưng hầu hết những từ diễn đạt khái niệm
trừu tượng, danh từ văn học nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật đều mượn
trong vốn từ Hán Việt, tiếng Việt, và một số ít tiếng Quảng Đông. Phổ
biến hơn cả là sự đan xen ngôn ngữ giữa tiếng Tày – Nùng, Tày – Thái do
cùng ngữ hệ.
Sự vay mượn này phù hợp với quy luật phát triển, làm cho tiếng
Tày trở nên phong phú, đủ sức làm công cụ giao tiếp của người Tày
trong xã hội hiện đại. Song trong các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn,
những từ ngữ riêng của dân tộc (từ tiếng Tày truyền thống) vẫn chiếm số
lượng lớn và được sử dụng phổ biến. Thơ lẩu là sản phẩm của nền văn
hoá Tày nên sử dụng tiếng Tày truyền thống trong ngôn ngữ là lẽ đương
nhiên. Do đó, luận văn chỉ xét những từ tiếng Tày có được do sự vay
mượn từ các ngôn ngữ khác. Quá trình vay mượn đã diễn ra từ rất lâu,
cho nên ngày nay các từ vay mượn đã trở thành một thành phần không
thể thiếu trong ngôn ngữ Tày và khó có thể nhận biết được đó là từ vay
mượn hay từ truyền thống.
Có thể giải thích cơ sở của sự vay mượn các yếu tố ngôn ngữ này
như sau: Thơ lẩu phần đa là các sáng tác của quần chúng nhân dân lao
động, tuy nhiên tầng lớp nho sĩ bình dân Tày cũng có tham gia vào quá
trình sáng tác, lưu truyền. Họ góp phần xây dựng tính bác học cho Thơ
lẩu, bằng cách đưa vào những danh từ văn học mượn trong các yếu tố
ngôn ngữ khác. Đồng thời họ cũng lồng vào nội dung các bài hát những
quan điểm đạo đức, luân lý phong kiến, phù hợp với tâm tư tình cảm của
quần chúng lao động đương thời.
Trong Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, thường gặp một số từ vay
mượn từ các yếu tố ngôn ngữ khác, ví dụ:
49
Từ mượn từ yếu Phát âm theo Phát âm tiếng Nghĩa tiếng Việt
tố ngôn ngữ khác ngôn ngữ gốc Tày Hiện dùng
Quốc gia Quốc gia Nước nhà
Nhân duyên Nhân duyên Duyên con người
Thượng thiên Thượng thiên Trên trời
Trung gia Tung gia Trong nhà
Phu thê Phu thê Vợ chồng
Vốn từ Hán Việt Phụ mẫu Phụ mậu Bố mẹ
Tả hữu Bên trái, bên phải Tả hữu
Lâm sơn Lâm san Rừng núi
Phu phụ Phu phụ Vợ chồng
Bách vật Bách vật Trăm loại (thư)
Lâm môn Lâm môn Đến cửa (đến cổng)
Kim ngân… Kim ngần… Tiền vàng…
Thật thà Thật thà Thật thá Việc chưa từng thấy Sự lạ Thự lạ Buôn bán Buôn bán Buôn bản Đường Đường Đàng Sự giống nhau Cũng Củng Vốn từ tiếng Việt Tập hợp cùng loại Mọi Mọi Việc phải làm Công việc Công Phiệc Xấu tồi tệ, đáng khinh Xấu xa Xẩu xa Khôn ngoan, khéo Khôn khéo… Khôn khẻo… léo…
Pàng dàu Pàng dạu Bạn bè
Tiếng Xắn xich Xán xich Thân thích
Quảng Đông Xắn cha Xán cha Thông gia
Ngổ… Ngộ… Gặp gỡ…
50
2.2.3. Hình ảnh, biểu tƣợng thơ
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là sản phẩm văn hoá tinh thần của
phần đa người lao động nên nó thường mượn hình ảnh cuộc sống lao
động, sản xuất hàng ngày để chuyển tải nội dung, tư tưởng các bài hát.
Đó là những hình ảnh rất đỗi thân quen và bình dị trong cuộc sống như:
các dụng cụ lao động, vật dụng sinh hoạt, hình ảnh cây lúa, cọng rơm,
con cá, bờ ao... Tất cả đi vào trong lời Thơ lẩu như một điều tất yếu.
Những hình ảnh thân quen này góp phần tạo nên một bức tranh thế
giới sinh động, như thật trong các bài Thơ lẩu. Qua đó tình cảm – cái
trừu tượng trong tâm hồn của con người, được hình tượng – cụ thể hoá
cho người khác dễ hiểu và thông cảm. Cách sử dụng những hình ảnh này
phù hợp với bản chất thật thà, chất phác và trình độ văn hoá của đồng
bào.
Thơ lẩu của người Tày không chỉ là tác phẩm văn học nghệ thuật do
nhân dân lao động sáng tác, mà còn có sự tham gia sáng tác của tầng lớp
nho sĩ bình dân. Họ đã góp phần xây dựng tính bác học cho Thơ lẩu,
bằng cách đưa vào lời bài hát (thường trong những bài có nội dung kể về
tích cổ như cách tìm ra dầu thắp đèn, làm ra cây hương…) những danh
từ văn học mượn trong các sách kinh điển Hán Việt. Ví dụ như:
“Chử thượng hiết chử hạ bấu ưa
Phưn tẩu đè phưn nưa nao núng”
(Chữ thượng thành chữ hạ không nên
Chiếc dưới đè chiếc trên lẫn lộn.)[1, tr.15]
Những hình ảnh này góp phần đem lại sự lịch sự, trang trọng, tao nhã
cho các lời thơ. Mọi người sẽ cảm nhận được sự am hiểu văn hóa, lịch sử, tình
cảm trân trọng, thân tình của người hát chỉ đơn thuần qua một vài câu hát.
Một số hình ảnh trong Thơ lẩu là những biểu tượng văn hóa. Các
biểu tượng góp phần khái quát những đường nét cơ bản nhất của một nền văn
51
hóa. Biểu tượng là một sự vật mang tính chất thông điệp được dùng để chỉ ra
một cái ở bên ngoài nó, theo một quan hệ ước lệ giữa sự vật trong thông điệp
và sự vật ở bên ngoài [16]. “Biểu tượng là vật môi giới giúp ta tri giác cái bất
khả tri giác” [9, tr.67]. Xét về tu từ học, biểu tượng cũng là những hình ảnh ẩn
dụ: Từ ngữ này dùng để biểu thị một đối tượng khác ngoài các nội dung ngữ
nghĩa thông thường của nó.
Tìm hiểu các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn, chúng tôi bắt gặp khá
nhiều biểu tượng như: hoa, chim, Bụt, cây cầu, dòng suối, bướm ong...
Nhưng tiêu biểu nhất phải kể đến biểu tượng hoa và biểu tượng chim.
- Biểu tượng hoa (Bjoóc, va)
Hoa là một biểu tượng văn hoá trong nghệ thuật ngôn từ Thơ lẩu ở Chợ
Đồn - Bắc Kạn. Bởi lẽ thiên nhiên tươi đẹp và rất quan trọng đối với cuộc
sống của người dân miền núi. Vẻ đẹp của các loài hoa không chỉ là vẻ đẹp
tiêu biểu của đại ngàn, mà hơn cả là hoa với tư cách biểu tượng mang ý nghĩa
nhân sinh và tâm linh sâu sắc. Sau những vất vả, mệt nhọc của cuộc sống mưu
sinh, người Tày cũng có những giây phút thả hồn mình hòa với thiên nhiên.
“Một tâm hồn lấy hoa làm cơ sở cảm xúc, một cảm xúc lấy hoa làm tiêu
chí, một tình yêu thương lấy hoa làm tiêu chuẩn và điểm tô, một quan
niệm đạo đức lấy hoa làm nền... ước mơ và phấn đấu để có thể mỗi con
người là một bông hoa, cả bản mường là một rừng hoa” [23, tr.96].
Màu sắc của các loài hoa rừng quen thuộc như hoa bứa, hoa đào, hoa
ban, hoa vả... tràn ngập trong Thơ lẩu. Thơ lẩu như mở ra theo lời ca những
đóa hoa muôn hương sắc của tạo hóa và con người. Hoa trở thành biểu tượng
cho cái đẹp nói chung mà trước tiên là biểu tượng cho vẻ đẹp của một cô gái
xuân thì.
Người Tày thường hay ví con người với những vật quý giá, tươi đẹp
nhất mà thiên nhiên ban tặng. “Người ta là hoa của đất”, mỗi con người
là một bông hoa tươi thắm trong cuộc đời. “Hoa Người” là những bông
hoa tinh túy nhất, quý giá nhất trên đời.
52
“ Bjoóc mạy tốc lồng nặm pền pja
Bjoóc cà tốc lồng nà pền khẩu”
(Hoa công rơi xuống nước thành cá
Hoa danh rơi xuống ruộng thành lúa.) [39, tr.26]
Nhờ bàn tay và khối óc, con người lao động, sáng tạo ra thế giới, tạo
ra của cải vật chất nuôi sống bản thân mình và làm cho cuộc đời tươi đẹp
hơn. Bởi vậy đón cô gái về làm dâu con trong nhà, cũng là đưa một bông
hoa về giữa một rừng hoa để góp thêm sự sống, bừng nở thêm các bông
hoa khác. Như cách ẩn dụ tu từ khi Quan làng hát:
“Mà lặp đuông bjoóc khấư
Mà lặp nậu bjoóc ngần”
(Về đón bông hoa lúa
Về đón nụ hoa bạc) [39, tr.14]
Hoa lúa sẽ sinh ra hạt thóc, hạt gạo. Hoa bạc sẽ sinh ra quả bạc, cây
vàng. Ví người con dâu với bông hoa lúa, hoa bạc thể hiện tình cảm yêu
thương và trân trọng vai trò của người dâu mới trong gia đình nhà chồng.
Hình ảnh này cũng thể hiện quan niệm của người Tày về con người: cây
là số phận, hoa là linh hồn, con người là tinh túy của tự nhiên.
Hoa còn là biểu tượng cho tuổi trẻ, cho khát vọng tình yêu hạnh phúc.
Người trẻ tuổi được người Tày ở Chợ Đồn – Bắc Kạn nói một cách giầu hình
ảnh là những người đang trong tuổi hoa, tuổi nụ. Cây nảy nụ, hoa nở rồi hoa
tàn cũng giống như quy luật bất biến của một đời người: sinh ra, lớn lên rồi
cũng trở về với cát bụi. Tuổi trẻ là lứa tuổi đẹp nhất đời người. Khát vọng tình
yêu là khát vọng mãnh liệt nhất trong tâm hồn.
“Bjoóc phung mà mì xuân
Cần sling mà mì thí”
(Hoa nở về có xuân
Người sinh về có thì) [39, tr.13]
53
Từ lâu, hoa cũng được xem như là tiêu chuẩn thẩm mĩ của con người. Vẻ
đẹp khuôn mặt, nụ cười, giọng nói, dáng vẻ, đồ dùng của con người... đều có
thể so sánh với hoa. Hoa là chất liệu thiên nhiên để xây dựng các hình tượng
nghệ thuật.
“Cằm phuối thíp cằm khua bặng bjoóc.”
(Câu nói kèm nụ cười như hoa.) [1, tr.54]
Hay:
“Tha nả nàng bặng bjoóc đang phông”
Mặt múi nàng đẹp tựa hoa tươi) [48, tr.73]
“Liếc ngòi hăn slửa khoá như va”
(Liếc thầy quần áo như hoa) [48, tr.98]
Cho đến những vật dụng gia đình sử dụng trong đám cưới đều được trang
trí hình hoa:
“Thêm thong chồm cặp phục miển va
Mản cần tắm lai thắm miến va”
(Cặp chiếu hoa viền quanh kim tuyến
Khay đặt những ấm chén hoa văn.) [1, tr.51]...
Niềm vui mừng, hạnh phúc của mọi người trong ngày lễ tơ hồng cũng
lấy hoa làm thước đo. Lòng người khi được gặp gỡ, nói chuyện với nhau,
chứng kiến hôn lễ hưng phấn, rộn ràng chẳng khác nào như những đóa hoa
bùng nở trong rừng hoa bất tận của mùa xuân:
“Bọn khỏi vui bặng bjoóc mùa xuân”
(Chúng tôi vui như hoa nở mùa xuân) [1, tr.17]
“Tọng khỏi phung bặng bjoóc mùa xuân”
(Lòng tôi như hoa mùa xuân nở) [1, tr.21]...
Khảo sát hơn 180 bài Thơ lẩu sưu tầm ở Chợ Đồn – Bắc Kạn, chúng tôi
nhận thấy, biểu tượng hoa xuất hiện hầu khắp và đáng kể (104 lần /184 bài).
54
Người Tày nói về hoa với một tình cảm sâu sắc và ngưỡng mộ. Biểu tượng hoa
trong Thơ lẩu tạo nên những bức tranh thiên nhiên muôn ngàn hương sắc, căng
tràn sức sống.
- Biểu tượng chim (nộc)
Biểu tượng chim xuất hiện khá nhiều trong Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc
Kạn (62 lần /184 bài). Cách sử dụng biểu tượng chim hết sức linh hoạt, kết
hợp theo lối tư duy sáng tạo của đồng bào. Biểu tượng chim gồm các biến thể
là hình ảnh các loại chim như phượng hoàng (phượng vàng), chim công (nộc
công), chim én (ẻn), chim nhạn (nhạn), chim ri (nộc thẩy), chim sẻ (nộc
choóc) đi vào lời thơ đều có ý nghĩa.
Theo quan niệm của người dân Đông Á, Phượng hoàng là loài chim quý,
biểu tượng của thánh thần, vua chúa. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam,
phượng hoàng là một trong bốn tứ linh. Người Tày Chợ Đồn đã chọn phượng
hoàng làm biểu tượng, tượng trưng cho những con người cao quý.
“Phượng hoàng liệp phắng thông mà loạn.”
(Phượng hoàng từ trời xa hội tụ.) [1, tr.9]
Nếu như phượng hoàng ít nhiều mang tính huyền thoại thì chim công lại
là một loại chim có thật. Công còn được gọi với tên Hán - Việt là Khổng tước,
là một trong số những loài chim quý, đẹp nhất trên thế giới. Người Tày quan
niệm chim công có bộ lông đẹp, nhiều màu sắc cũng biểu tượng cho vẻ đẹp
cao quý.
“ Nộc dung liệp phắng khuổi mà thân”
(Chim công bay theo suối tới nơi.) [48, tr.66]
Trong lời Thơ lẩu thường xuất hiện hình ảnh hai loài chim phượng –
công sánh cặp để chỉ sự xứng đôi vừa lứa, đẹp duyên của đôi trai gái.
“Hẩu phượng vàng kết nghĩa chim công”
(Cho phượng hoàng kết nghĩa chim công.) [1, tr.42]
“Phượng vàng so kết nghĩa nộc công”
(Phượng hoàng xin kết nghĩa chim công.) [1, tr.34]
55
Gần gũi với cuộc sống của đồng bào hơn, có lẽ là hình ảnh chim én (ẻn) hay
còn gọi là chim nhạn (nhạn). Người Tày coi loài chim này là con vật linh thiêng,
có nhiệm vụ gắn kết tình cảm, truyền thông tin giữa thần thánh, tổ tiên trên trời
với con cháu hạ giới. Giai thoại ở Chợ Đồn – Bắc Kạn kể lại: Chim én do Mẹ tạo
hóa sinh ra, anh em kết nghĩa với Phật Thích Ca, được cử xuống trần giúp việc
thế gian. Khi con người có sự vụ gì đặc biệt, thắp hương lên khấn trời, én sẽ theo
mùi hương lan tỏa mà bay về trời báo cho thần thánh, tổ tiên biết. Do đó, trong
Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn cũng có diễn xướng bài “Xỉnh ẻn” nghĩa là hát
mời én về. Én nhạn cũng biểu tượng cho vẻ đẹp của con người.
“ Lườn cần mì ẻn nhạn khôn ngoan
(Nhà người có én nhạn khôn ngoan). [1, tr.24]
Hình ảnh én nhạn hay đi liền với nhau tượng trưng cho đôi trai tài gái
sắc, cho tình yêu hòa hợp.
“ Giò đây hẩư ẻn nhạn kỉnh tông
(Giờ đẹp cho én nhạn kính tông). [1, tr.49]
“ Ẻn ngộ nhạn se hương kết nghịa
(Én gặp nhạn se duyên kết nghĩa). [48, tr.56]
Bên cạnh đó, biểu tượng chim trong cuộc sống của người Tày ở Chợ Đồn
– Bắc Kạn còn mang chức năng trang trí trên đồ vật trong ngày cưới để gợi
lên sự sung túc của gia chủ và hơn hết là mong ước kết đôi, sự quấn quýt,
hạnh phúc. Bàn thờ, bàn trà, mâm sơn, đôi chiếu... đều có khắc, vẽ hình
phượng hoàng, én, hạc, chim công bên cạnh hình hoa, kỳ, lân .v.v.
“Phắng bôm tạc nộ công nộc phượng”
(Vành mâm chạm chim công, chim phượng.)
“Tu tang chạm ẻn nhạn, kỳ lân”
(Cánh cửa chạm én nhạn, lỳ lân.) [1, tr.39]
Biểu tượng chim còn được người diễn xướng sử dụng trong các câu Thơ
lẩu khi họ tự nói về bản thân. Trước tấm lòng hiếu khách chân thành, cao quý
của gia chủ, Quan làng, Pả mẻ thường khiêm tốn ví mình như những loài
chim bé nhỏ, thông thường như: chim ri (nộc thẩy), chim sẻ (nộc choóc).
56
“Nộc thẩy pía ơn ban bấu đẩy
Ơn bân hẩư nộc thẩy mì lai
Bấu phuối piàng chùa nai các á”
(Chim ri không được ơn trời
Ơn trời giúp chim ri vô hạn
Chúng tôi đã làm phiền chủ nhân) [39, tr.27]
Các biểu tượng trong Thơ lẩu đã cho thấy trí tưởng tượng vô cùng phong
phú của người Tày. Đời sống người Tày gần gũi với thiên nhiên. Thiên nhiên
góp phần đem đến cho lời thơ một hơi thở đặc biệt, nồng nàn dư vị đại ngàn. Đó
là cảm xúc có tính vũ trụ, vừa rộng lớn, thiêng liêng nhưng lại vừa gần gũi, thân
thuộc. Các biểu tượng này nâng đỡ cho những ước vọng mang đầy tính nhân văn
và thẩm mĩ của người Tày mà không hình tượng nào có thể thay thế.
2.2.4. Thể thơ, nhan đề, nhịp điệu
Thể thơ là một yếu tố quan trọng trong nghệ thuật ngôn từ. Nó chi phối
kết cấu, nhịp điệu, cách gieo vần trong thơ. Khảo sát các bài Thơ lẩu sưu tầm
ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, chúng tôi nhận thấy 103/184 bài (chiếm 56%) sử dụng
thể thơ thất ngôn (7chữ). Đây là thể thơ truyền thống hay được dùng trong các
sáng tác văn học dân gian của dân tộc Tày.
Ở mỗi đám cưới, mỗi địa phương lại có những tình huống, thử thách
khác nhau. Trước hoàn cảnh cụ thể người diễn xướng sẽ thêm bớt, thay đổi
câu từ, thậm chí thêm, bớt cả một đoạn thơ cho phù hợp với tâm trạng, tình
cảm. Điều đó tạo nên sự phá cách trong 81 bài Thơ lẩu (chiếm 44%) còn lại
sưu tầm được ở Chợ Đồn – Bắc Kạn. Có những câu hát gần như chuyển sang
dạng nói tự do nhưng có vần điệu, đôi khi thêm các câu thơ ngắn hơn (thường
là 5 chữ) hoặc dài hơn (10 - 12 chữ) để tạo thành một thể thơ khác, gần với lối
thơ tự do, thơ mới của người Kinh.
Cần phải nói thêm rằng thể thơ thất ngôn của người Tày rất tự do,
phóng túng. Do vậy mà các câu Thơ lẩu không bị gò ép trong một niêm
57
luật nào hết, kể cả cách gieo vần cũng rất linh hoạt, đa dạng. Trong bất
kì một đoạn của bài Thơ lẩu nào đều dễ dàng nhận ra lối gieo vần chân,
vần lưng rất khéo léo. Đặc biệt còn có lối gieo vần ở đầu câu khá độc đáo:
“Tha vằn trại mừa Tây
Dú lai tể tốc khuông đăm cẳm
Củ pác khỏi xo thắng tẻo mừa
Nộc kin mác lai cừa lừm ngoạc”
(Mặt trời ngả về Tây
Ở lâu lại đến chiều tối
Hé miệng tôi xin chào quay về
Chim ăn trái nhiều cành quên quay lại) [39, tr.25]
Tuy nhiên khi dịch các bài Thơ lẩu ra tiếng phổ thông, thể thơ, câu
chữ bị thay đổi, ta khó có thể cảm nhận được hết cái hay, cái đẹp trong
phần lời, âm điệu, nhịp điệu của các bài ca.
Các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, không có nhan đề. Thông
thường để khỏi lẫn, người ta gọi ngay tên nghi lễ diễn xướng, hoặc vài từ
khái quát nhất về nội dung bài hát để phân định các bài Thơ lẩu. Các bài hát
cũng có dung lượng không giống nhau. Có bài ngắn từ 6 - 9 câu như: “Phục
tẳng”(Chiếu dựng), “Nhận chin mjầu”(Nhận ăn trầu), “Xo phép chin pjầu”(chin
ngài) (Xin phép ăn cơm chiều) (trưa)... Cũng có bài như một bản trường thiên bất
tận như: “Thắng lùa hất chin”(Căn dặn cô dâu làm ăn), “Mời đẳm” (Mời tổ tiên)...
Nhịp điệu trong các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn cũng rất đặc biệt.
Các đoạn hát cũng có lúc ngân, lúc luyến, láy khác nhau, nhưng nhìn chung nhịp
điệu ít có đột biến, mà lặp đi, lặp lại một cách đều đặn trong từng câu hát.
Thường ở những câu 7 chữ hát theo nhịp 3/4. Những câu 5 chữ theo nhịp 3/2.
Cách ngắt nhịp nhất quán từ đầu tới cuối bài hát. Giữa các tiếng trong cùng một
câu hát có sự kéo dài, ít có sự ngắt giọng tách biệt. Lối hát này tạo âm hưởng dịu
dàng, nhẹ êm, dễ đi vào lòng người.
58
2.2.5. Các biện pháp tu từ
Giống như các sáng tác văn học, Thơ lẩu sử dụng rất nhiều biện pháp tu
từ như: so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, điệp từ, điệp ngữ... Những biện pháp này
được dùng linh hoạt và đạt hiệu quả thẩm mĩ cao, nhằm phản ánh tâm tư, tình
cảm của con người một cách sinh động và giàu sức biểu cảm.
So sánh, ví von là biện pháp được sử dụng nhiều nhất trong Thơ lẩu.
Qua phép so sánh, đồng bào thể hiện tình cảm kính trọng và khéo léo
nhắn gửi nhau những kinh nghiệm, lời khuyên trong ứng xử. Hình ảnh
đem so sánh thường là những hình ảnh bình dị, gần gũi trong đời sống
hàng ngày của nhân dân. Đó là những vật dụng lao động, đồ dùng sinh
hoạt gia đình.
Khảo sát 184 bài thơ, chúng tôi thấy: tác giả dân gian chủ yếu sử dụng
cấu trúc so sánh có ý nghĩa ngang bằng, xuất hiện 46/57 lần (chiếm gần 81%).
Cấu trúc so sánh hơn, kém chỉ xuất hiện 11/57 lần (chiếm 19%). Điều này
chứng tỏ người Tày ở Chợ Đồn – Bắc Kạn hay sử dụng cách so sánh cụ thể
với tính chất ngang bằng và tương đồng hơn cách so sánh "hơn" hoặc "kém".
Như vậy cũng phù hợp với thái độ khiêm nhường của người diễn xướng trong
Thơ lẩu.
Trong các câu so sánh có ý nghĩa ngang bằng, Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc
Kạn thường sử dụng các từ so sánh như: bặng (bằng, như), tồng bặng (giống
như), ỷ như (ví như, tựa), khỏi như (như), nắm táng lăng (chẳng khác gì) ví cạ
(ví như)... Quan làng, Pả mẻ thường sử dụng cấu trúc so sánh này nhằm mục
đích ca ngợi sự giàu có, thịnh vượng của gia chủ.
“Tỷ khỏi bấu mì đén lủng quang
Lước ngòi bặng tha vằn khửn mấu.”
(Chốn tôi không có đèn soi tỏa
Ngước nhìn như mặt trời mới mọc.) [48, tr.4]
“ Cúa ví cạ kim ngần nẳng tẩư, khẩu lẩu nẳng nưa”
(Của ví như vàng bạc đặt dưới, cơm rượu đặt trên) [48, tr.10]
59
Cấu trúc so sánh này còn được dùng để diễn tả niềm vui sướng của khách
khi đến nhà, được chủ nhà tiếp đãi long trọng và được kết thông gia.
“ Duyên noọng cắp duyên pí chập căn
Ỷ như pia vui phằng nặm mấư.”
(Duyên em với duyên anh gặp nhau
Ví như cá vui mừng nước mới.) [1, tr.13]
Đặc biệt câu so sánh mang đại ý lòng tôi vui như hoa mùa xuân
nở:“Toọng khỏi phông như bjoóc bươn xuân”,“Bọn khỏi vui bặng bjoóc mùa
xuân”,“Tọng khỏi phung bặng bjoóc mùa xuân” xuất hiện tới 22 lần.
Cấu trúc so sánh hơn, kém cũng xuất hiện trong các bài Thơ lẩu ở Chợ
Đồn – Bắc Kạn nhưng khá ít và không độc đáo. Pả mẻ, Quan làng dùng cấu
trúc này ở các lời hát khuyên Cô dâu về cách ứng xử gia đình như:
“Hẩư khách pậu đâng slim khỏi nghị
Bôm bàn slíp nhỉ vị bấu van.”
(Mâm cỗ mười hai món không ngon
Không bằng chấm muối trắng vui vẻ.) [1, tr.28]
Hoặc diễn tả niềm vui, sự may mắn của hai gia đình khi chọn được ngày
lành, tháng tốt để tổ chức hôn lễ.
“Slíp hay bấu tảy may giờ nảy”
(Mười hay không bằng một may giờ này) [1, tr.13]
Ngoài cách sử dụng các từ mang ý nghĩa so sánh, Thơ lẩu ở Chợ Đồn –
Bắc Kạn còn dùng cách so sánh ngầm - ẩn dụ. Biện pháp tu từ bác học này
xuất hiện khá nhiều (chủ yếu qua các biểu tượng). Ví như lời Pả mẻ
khuyên Cô dâu khi đoàn nhà gái chia tay ra về:
“Giá hất pia lỉn giản lìa vằng,
Giá hất bjoóc xằng phông tẻo lởi,
Giá hất mèng lỉn hội lai va.”
(Đừng làm cá trôi suối, lìa sông,
Đừng làm hoa chưa nở đã rụng,
Đừng làm bướm ong lượn nhiều hoa.) [1, tr.29]
60
Sự thủy chung là minh chứng cho tình yêu và sự tôn trọng lẫn nhau
trong cuộc sống vợ chồng. Lối sống trọng tình của người Tày rất đề cao
đức tính thủy chung. Hay như lời Pả mẻ khuyên cô dâu về cách ứng xử
trong mối quan hệ gia đình nên biết nhường nhịn và tiết chế cảm xúc vì:
“Chin phuối mì cằm thung cằm tắm
Phạc lườn mì piếng tắm piếng thung...”
(Ăn nói có lời cao, lời thấp
Dát nhà có tấm thấp, tấm cao...)[39, tr.27]
Nghệ thuật nhân hoá xuất hiện với tần suất khá cao, được sử dụng 27 lần
trong 184 bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn. Dưới con mắt của người lao động,
hoa, cỏ, bướm, ong, chim muông, cá, thú... tất cả đi vào thơ ca đều được miêu tả
như những con người. Chính qua những “con người” ấy, tình cảm, suy nghĩ của
những “con người thực” được thể hiện rất tinh vi và khéo léo. Ví dụ để thể hiện
niềm vui, sự mong đợi ngày được hội ngộ người Tày có hình ảnh:
“Pja ỷ nhằng ước mong mà hội
Nộc ỷ nhằng ước dương mà tím.”
(Cá nhỏ còn ước mong đến ngộ
Chim nhỏ còn ước hướng đến tìm.)[39, tr.24]
Như vậy, thiên nhiên đi vào Thơ lẩu không vô tri, vô giác, vô tình
mà là những thực thể sống động, có linh hồn và sự vận động riêng.
Thơ lẩu nặng về triết lý song không khô khan, đơn điệu mà là những lời
khuyên giầu hình ảnh, đầy ẩn ý, dễ đi sâu và đọng lại trong tâm trí người
nghe. Các biện pháp nghệ thuật trên cho thấy người Tày rất kín đáo, tế nhị,
khiêm nhường trong ứng xử, nhất là trong việc thể hiện đời sống nội tâm của
mình. Các biện pháp này đã góp phần biểu đạt tinh tế, sâu sắc thế giới nội tâm
của con người.
Biện pháp điệp từ, điệp câu, điệp kết cấu được sử dụng khá nhiều và nhận
thấy rõ nhất trong các bài Thơ lẩu. Có thể lí giải về hiện tượng này như sau: Thơ
61
lẩu đòi hỏi sự đối đáp nhanh trong một thời gian ngắn giữa những người diễn
xướng, nên việc lặp đi, lặp lại các cấu trúc mở đầu “Tôi thưa đến…”(Khỏi
chiềng mừa),“Thưa…”(Chiềng…), các từ giữa các bài hát sẽ giúp rút ngắn tối đa
thời gian suy nghĩ, sáng tác mà lại đảm bảo ý tứ đối đáp không bị lạc đề.
Các biện pháp tu từ có khả năng thực hiện việc trao đổi thông tin ngầm
và bộc lộ khéo léo mọi cung bậc tình cảm của con người một cách hữu hiệu.
Vì thế các nghệ nhân dân gian rất chú trọng sử dụng các biện pháp này trong
Thơ lẩu để tạo nên những bài thơ đẹp. Thơ lẩu khẳng định tư duy nghệ thuật
dân gian của người Tày vừa trực quan, hồn nhiên vừa thâm trầm sâu sắc.
Tiểu kết: Thơ lẩu là hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian có giá trị về
nhiều mặt. “Đó là giá trị về nội dung tư tưởng, về sử học, dân tộc học và nhất là
giá trị nghệ thuật thể hiện” [8]. Các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn thực sự là
những sáng tác dân gian giàu tính triết lý, tính lịch sử, tính nhân văn. Qua lời ca,
văn hóa ứng xử, quan niệm đạo đức ngàn đời… của tộc người Tày được giáo
dục tới bao thế hệ. Nội dung Thơ lẩu thể hiện tư tưởng tiến bộ và chất hiện thực
sâu sắc. Các yếu tố nghệ thuật góp phần quan trọng tạo nên giá trị cho lời ca. Với
thể thơ dân tộc truyền thống, ngôn ngữ đặc trưng giàu sức biểu cảm, thế giới
hình ảnh, biểu tượng phong phú độc đáo cùng các biện pháp tu từ được sử dụng
linh hoạt, kết hợp với không gian, thời gian phù hợp, các bài Thơ lẩu trở thành
những áng văn chương tinh túy, kết tinh tài năng, sức sáng tạo cũng như tâm
hồn, tình cảm của đồng bào. Tìm hiểu nội dung, nghệ thuật Thơ lẩu sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về những điều tâm huyết cha ông nhắn gửi.
Thơ lẩu trong dân gian chủ yếu được biết đến qua diễn xướng. Diễn
xướng là điều kiện sống còn đối với loại hình dân ca đám cưới đặc sắc này.
Tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của Thơ lẩu, song chúng tôi lại luôn ý thức
rằng đối với một thể loại văn hóa – văn học dân gian, nội dung, nghệ thuật
không thể tách rời khỏi diễn xướng và môi trường văn hóa. Chương 2 là tiền
đề cho chúng tôi đi từ việc tiếp cận một tác phẩm văn học nói chung đến thâm
nhập thực tế để tìm hiểu Thơ lẩu trong đời sống văn hóa dân gian.
62
CHƢƠNG 3
THƠ LẨU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN GIAN
Ở CHỢ ĐỒN – BẮC KẠN
Thơ lẩu là hình thức sinh hoạt văn hóa cổ truyền đặc sắc của người Tày.
được diễn xướng trong đám cưới. Với giai điệu nhẹ
nhàng, êm ái, các bài Thơ lẩu không chỉ là cung đàn hạnh phúc, tươi vui mà
còn như khúc ca muôn điệu lan tỏa vào tâm hồn con người và đọng lại ở đó
những gì tinh túy nhất. Chương này, chúng tôi muốn thâm nhập thực tế,
tìm hiểu, khám phá nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển lâu dài của
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, diễn xướng Thơ lẩu và nét độc đáo của hình
thức diễn xướng Thơ lẩu nơi đây; những suy nghĩ, tình cảm của đồng bào
về lời hát và sinh hoạt Thơ lẩu. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số định
hướng cho việc bảo lưu, phát triển hình thức văn hóa độc đáo này.
3.1. Nguồn gốc, quá trình phát triển Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn
3.1.1. Nguồn gốc
Thơ lẩu là một loại hình dân ca trữ tình của dân tộc Tày được lưu truyền
trong đời sống dân gian, qua nhiều thế hệ, qua nhiều địa phương. Thơ lẩu
không chỉ là hệ thống các bài dân ca đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn – Bắc
Kạn mà trong cả cộng đồng người Tày. Cho đến nay, khó có thể nhận định bài
Thơ lẩu nào có tác giả, bài nào do sáng tác vô danh, bài nào xuất hiện ở địa
phương nào đầu tiên. Vậy nên tìm hiểu nguồn gốc Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc
Kạn cũng chính là tìm hiểu thời gian, hoàn cảnh ra đời của Thơ lẩu nói chung.
Có giai thoại về nguồn gốc Thơ lẩu lưu truyền ở Cao Bằng như sau: Lê
Thế Khanh (không rõ người thời nào) là một người Tày ở Thạch Lâm – Cao
Bằng, khi còn trẻ đã từng về học ở Kinh đô Giao Châu. Sau này, ông mở lớp
để dạy chữ Hán ở nhiều nơi. Học trò của ông rất đông. Bên cạnh việc dạy
chữ, ông còn ghi chép lại các lời vấn đáp giữa hai nhà trong đám cưới rồi
63
sửa chữa, biên soạn thành thơ để dạy cho học trò. Ngoài hát đám cưới, ông
còn dạy các phong tục tập quán, nghi lễ dân gian khác, dạy học trò làm thơ
thất ngôn.
Trong các tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về Thơ lẩu ở Bắc Kạn
chưa chỉ ra thời gian Thơ lẩu xuất hiện. Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn thế
hệ cao niên sinh sống ở huyện Chợ Đồn: “Thơ lẩu xuất hiện tại địa phương từ
khi nào?” Không ai đưa ra câu trả lời có căn cứ khoa học. Các câu trả lời chúng
tôi nhận được rất khái quát chung chung: “Thơ lẩu có từ lâu lắm rồi!”
Tuy chưa thể đưa ra năm chính xác, nhưng qua nội dung và hình
thức các bài Thơ lẩu, chúng tôi tán thành phỏng đoán: Thơ lẩu chỉ ra đời
vào thời kì chế độ kinh tế cá thể đã phát triển khá cao, chế độ hôn nhân
một vợ một chồng đã thịnh hành trong xã hội. Ở thời kì này, địa bàn hôn
nhân đã được mở rộng, tức là thanh niên ở các địa phương khác nhau có
thể tìm hiểu và kết hôn. Tất nhiên việc cưới xin này chủ yếu do cha mẹ
và họ hàng hai bên thỏa thuận, xếp đặt [32].
Theo lời ông Hà Văn Tồn ở Phương Viên – Chợ Đồn – Bắc Kạn phỏng
đoán: Thơ lẩu ở địa phương xuất hiện từ thế kỷ XVII. Khi còn nhỏ ông đã
được nhìn thấy bản ghi chép Thơ lẩu bằng tiếng Nôm Tày của ông nội mình.
Nhưng do chưa có ý thức bảo tồn và qua thời gian bản ghi chép này đã bị thất
lạc. Ông Lâm Xuân Ân – nguyên Trưởng phòng văn hóa thông tin huyện Chợ
Đồn với những tìm hiểu của cá nhân cũng tán thành phỏng đoán này.
3.1.2. Quá trình phát triển
Căn cứ vào các tài liệu nghiên cứu đầu tiên đề cập tới Thơ lẩu, tức
là bài viết “Dân ca đám cưới Tày – Nùng” của nhà sưu tầm Vi Quốc Bảo
đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 3 – 1971, cuốn Dân ca đám cưới
Tày - Nùng do Nông Minh Châu sưu tầm, biên soạn, dịch thuật, NXB Việt
Bắc, ấn hành năm 1973, có thể khẳng định: Thơ lẩu đã ra đời và phát triển
cực thịnh trước thập niên 70 của thế kỷ XX. Qua tìm hiểu trong đời sống dân
64
gian ở Chợ Đồn – Bắc Kạn và lưu ý tới hai sự kiện lịch sử quan trọng, đó là
chiến tranh chống Pháp từ 1945 - 1954, chiến tranh chống Mĩ từ 1954 – 1975,
chúng tôi mạnh dạn đưa ra phỏng đoán cụ thể hơn về quá trình phát triển của
Thơ lẩu như sau:
Trước 1945, Thơ lẩu đã ra đời, tuy nhiên phạm vi, quy mô diễn xướng
còn manh mún, nhỏ lẻ. Thơ lẩu chỉ có thể được diễn xướng trong các đám
cưới ở những gia đình có địa vị cao trong xã hội. Vì chỉ những gia đình này
mới có đủ điều kiện về kinh tế để tổ chức một đám cưới có Thơ lẩu.
Từ 1945 đến những năm 1970, đồng bào Tày hăng hái hòa chung
với không khí chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước của đại dân tộc, Thơ
lẩu ít có điều kiện diễn xướng trong đời sống.
Thơ lẩu phát triển cực thịnh, được diễn xướng phổ biến từ khoảng
những năm 70 đến nửa cuối thập niên 90 của thế kỉ XX. Đặc biệt là từ
sau năm 1982, do thấm nhuần tinh thần văn kiện đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ V về việc khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa dân gian các dân
tộc thiểu số trong nền văn hóa Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn hóa
Tày tiếp tục đẩy mạnh công cuộc sưu tầm, nghiên cứu Thơ lẩu. Dân ca
đám cưới của người Tày vì thế có điều kiện được phổ biến rộng hơn
trong cộng đồng Tày nói chung, ở Chợ Đồn - Bắc Kạn nói riêng. Hầu
như ở xã nào, bản nào cứ có đám cưới là Thơ lẩu lại được diễn xướng với
tư cách là một nghi lễ, phong tục. Nhắc tới Thơ lẩu là nhắc tới những gì
bình dị nhất, thân thuộc nhất như đồng ruộng, con trâu, cái cày, hay núi rừng,
nhà sàn, bếp lửa...
Thơ lẩu trong đám cưới xưa trở thành những cuộc hội ca bất tận và
lan tỏa khắp không gian. Người ta mê Thơ lẩu vì nhiều lẽ, nhưng trước hết
là ở sự hiểu biết, văn minh, trang trọng, lịch sự và đặc biệt là tài đối đáp thơ
của ông Quan làng và bà Pả mẻ. Hơn nữa, Thơ lẩu phù hợp với phong tục tập
quán và cuộc sống bình lặng của người dân miền núi. Cuộc sống với những lo
65
toan vất vả bộn bề, thiếu thốn thông tin từ những phương tiện hiện đại, thiếu
các hình thức giải trí, vui chơi. Do đó đám cưới với người Tày ở Chợ Đồn -
Bắc Kạn xưa là một dịp vui của tất cả mọi người. Đến đám cưới, mọi người
không những được gặp gỡ, giao lưu mà còn được xem, nghe và có thể trổ tài
văn nghệ của mình. Đám cưới kết thúc, lời Thơ lẩu khép lại mà ý chưa
dừng, tình người vẫn nồng đượm, người nghe vẫn chưa thôi ham muốn
được nghe tiếp, nghe mãi những lời ca. Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn
như “chất muối”, “chất men”, “chất tình”, thiếu vắng nó đám cưới sẽ tẻ nhạt,
như thiếu đi chén rượu nồng trong ngày đại hỉ [5, tr.3]. Chính vì lí do đó mà
Thơ lẩu đã được lưu truyền qua bao thế hệ. Nhưng đáng tiếc, cuộc sống của
người Tày ở địa phương dần thay đổi và chẳng có gì là có thể tồn tại
vĩnh viễn mà vẹn nguyên trước dòng chảy của thời gian.
Từ cuối những năm 90 của thế kỉ XX, các đám cưới của người Tày ở
Chợ Đồn - Bắc Kạn được tổ chức đơn giản hơn, dẫn đến vai trò, giá trị của
nghi lễ, phong tục Thơ lẩu đã mai một đi nhiều. Các đám cưới vẫn diễn ra dù
không có Thơ lẩu. Trong đám cưới, có Thơ lẩu hay không còn phụ thuộc vào
nhu cầu của hai họ và sự thay đổi phong tục ở mỗi địa phương.
Thực tế, Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn giờ chỉ còn được diễn xướng
ở một số xã vùng sâu, vùng xa. Huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn gồm thị
trấn Bằng Lũng và 21 xã trực thuộc, song không phải xã, bản nào thơ lẩu
cũng được bảo tồn, diễn xướng và phát triển. Theo lời trao đổi của ông
Lâm Xuân Ân – nguyên trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện Chợ Đồn
– Bắc Kạn và qua quá trình khảo sát, sưu tầm chúng tôi thấy một số xã ở
Chợ Đồn - Bắc Kạn vẫn diễn xướng Thơ lẩu, tiêu biểu như: Xã Phương
Viên, xã Đông Viên, xã Rã Bản, xã Bằng Phúc, xã Xuân Lạc, xã Nam
Cường, xã Bản Thi, xã Yên Thượng, xã Yên Nhuận… Một số nơi hầu
như không còn diễn ra thể thức hát Thơ lẩu trong đám cưới. Như: thị trấn
Bằng Lũng, xã Bằng Lãng, xã Ngọc Phái, xã Bình Trung… Các xã khác
vẫn có diễn xướng Thơ lẩu song đã bị mai một đi rất nhiều.
66
Thơ lẩu không những bị thu hẹp phạm vi sử dụng mà số lượng các
lời hát cũng suy giảm. Trước đây, trong đám cưới có những phần cùng
một nội dung mà có tới hai, ba lời hát khác nhau. Nhưng ngày nay, số
lượng lời hát ít đi rõ rệt. Phần vì không được sưu tầm nên để lãng quên
theo thời gian, phần vì các thủ tục, nghi lễ đám cưới ngày càng gọn, đơn
giản hơn nên các nghệ nhân dân gian không có điều kiện để sáng tác
thêm. Không những vậy, Thơ lẩu còn bị thu hẹp cả về phạm vi ý nghĩa.
Nó không còn mang ý nghĩa nặng về nghi lễ, thủ tục, mà chủ yếu là hát
để góp vui cho bầu không khí ngày con cái xây dựng gia đình.
Những năm gần đây, tiếp thu tinh thần chỉ đạo chung của Đảng và
Nhà nước về việc khôi phục và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống,
các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương đã nhận thức được thực
trạng của Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn, có những biện pháp tích cực
song thành công mới chỉ là bước đầu và chưa đáng kể.
Điều kiện quan trọng nhất cho sự phát triển và tồn tại của Thơ lẩu
nói chung, Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn nói riêng chính là diễn xướng
Thơ lẩu trong đời sống dân gian.
3.2. Diễn xƣớng Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn
Khi nhắc tới một loại hình văn học dân gian người ta không thể
không nhắc tới hình thức diễn xướng của nó trong đời sống. Thơ lẩu ở
Chợ Đồn - Bắc Kạn chủ yếu được đồng bào biết đến, tiếp nhận, gìn giữ,
phát triển và coi như là một nghi thức trong đám cưới khi nó được diễn
xướng trong dân gian. Không có diễn xướng thì không có Thơ lẩu. Tách
Thơ lẩu ra khỏi diễn xướng chẳng khác nào tách cá ra khỏi nước. Để hiểu
sâu về Thơ lẩu buộc chúng ta phải hiểu khái niệm “diễn xướng”.
Trong quá trình phát triển, ngôn ngữ chỉ xuất hiện khi loài người đạt
tới một trình độ tư duy nhất định. Ngôn ngữ đầu tiên ra đời là ngôn ngữ
điệu bộ. Muốn trao đổi được thông tin với nhau, con người phải dùng hệ
67
thống các động tác, tín hiệu để bắt chước sự vật, hiện tượng. Như vậy,
“diễn” sẽ có trước “xướng”. “Diễn” câm sẽ có trước diễn nói và diễn hát.
“ Xướng” là phương thức phục vụ cho sự thể hiện nghệ thuật bắt chước
của hành động “diễn” [46].
Tác giả Hoàng Tiến Tựu trong các công trình nghiên cứu của mình đã
chia “diễn xướng” thành: Nói, hát, kể, diễn. Trong đó “diễn” bao gồm
nói, hát, động tác, điệu bộ... “Diễn” chính là hình thức biểu diễn chủ yếu
và tiêu biểu nhất của nghệ thuật sân khấu dân gian [50, tr.64]. Dựa trên
nghĩa của từ “diễn” này, khái niệm “diễn xướng” có thể hiểu theo hai
nghĩa sau:
Nghĩa rộng, diễn xướng chỉ toàn bộ các sáng tác phi kịch bản tồn tại bằng
phương thức biểu diễn không chuyên, có thể thay đổi để biểu đạt thông tin.
Nghĩa hẹp, diễn xướng chỉ các sáng tác dân gian có tính tổng hợp cao
được trình bày bằng phương thức sinh hoạt văn hóa có trình diễn [46].
Nói đến “diễn xướng” trong diễn xướng Thơ lẩu, ta hiểu theo nghĩa
hẹp như trên.
3.2.1. Môi trường diễn xướng
Thơ lẩu khác với các sản phẩm văn hoá khác của người Tày như:
hát Then, hát Lượn… ở phạm vi môi trường diễn xướng. Nếu hát Then,
hát Lượn là hình thức sinh hoạt dân gian thường thấy trong các lễ hội,
thì diễn xướng Thơ lẩu chỉ xuất hiện trong đám cưới, gắn liền với không
gian, thời gian tổ chức đám cưới. Diễn xướng Thơ lẩu thường được tổ
chức nhiều nhất vào mùa cưới (từ tháng mười đến tháng chạp âm lịch).
Đây là thời điểm đồng bào dân tộc đã kết thúc vụ mùa, ít bận công việc
nhà nông, dồi dào lương thực, vật chất, lại có nhiều thời gian nhàn rỗi.
Điều quan trọng hơn, thời điểm này là tiết thu đông có lẽ thường hay
đem lại những rung cảm tinh tế, ấm áp trong tâm hồn của mỗi con người,
nhất là làm bừng cháy thêm niềm khát khao hạnh phúc gia đình đối với
những kẻ đang yêu.
68
Không gian diễn xướng Thơ lẩu không trải rộng trên tất cả không
gian đám cưới mà chỉ tập trung nhất trong phạm vi hai gia đình nhà đám.
Các bài Thơ lẩu được diễn xướng cùng một số tục lệ, nghi lễ. Do vậy,
cổng nhà, cầu thang, cửa chính, gian tiếp khách, đến trước bàn thờ... đều
là “sân khấu”. Những đám cưới càng đông vui thì không gian diễn xướng
càng nhộn nhịp, thu hút được nhiều người.
Thực tế, Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn đang thay đổi và dần bị lãng
quên trong đời sống. Khi cuộc sống và các phong tục, tập quán của đồng
bào Tày ở địa phương thay đổi thì Thơ lẩu cũng sẽ vận động biến đổi
theo từ thời gian, không gian diễn xướng đến các lời ca, điệu hát.
3.2.2. Nhân vật diễn xướng
Nghiên cứu, khảo sát Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, dễ dàng nhận thấy
trong các bài hát không có sự xuất hiện rõ ràng của các nhân vật diễn xướng. Bởi
nhân vật diễn xướng và nhân vật trữ tình trong Thơ lẩu bị đồng nhất.
Người diễn xướng các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn không chỉ
có Quan làng, Pả mẻ mà còn có Chủ hôn và Phường họ bạn. Chủ hôn là
người đại diện cho gia đình, được cử ra để giao tiếp và đưa ra thử thách
với gia đình thông gia. Phường họ bạn tham gia vào diễn xướng Thơ lẩu
trong các nghi lễ như: chăng dây, giao tặng phẩm, chúc mừng... cũng cử
ra đại diện của mình. Chủ hôn và những người đại diện cho Phường nếu
không hát được có thể nhờ Quan làng hay Pả mẻ hát giúp. Ngoài ra, nếu
được yêu cầu thì Phù dâu, Phù rể cũng sẽ tham gia vào diễn xướng. Phù
dâu, Phù rể thường có tới 4 - 6 người. Họ là những người chưa vợ, chưa
chồng, hoạt bát, lanh lợi, có tài ứng khẩu. Họ có thể cử đại diện ra hát
hoặc nhờ Quan làng, Pả mẻ hát thay.
Như vậy, có thể nhận thấy vai trò của Quan làng và Pả mẻ rất quan
trọng trong diễn xướng Thơ lẩu. Họ dẫn dắt, tổ chức các bước của quá
trình diễn xướng, đồng thời là những nghệ nhân diễn xướng chủ yếu, là
người “giữ lửa”, là “linh hồn” của cả phái đoàn. Quan làng, Pả mẻ là người
69
thay mặt nhà trai, nhà gái, có đủ thẩm quyền và khả năng giải quyết mọi
công việc, thực hiện các nghi lễ đám cưới. Trong xã hội xưa, Quan làng
và Pả mẻ được chọn phải là những người đứng tuổi, thân thiết trong gia
đình, ngoại giao tốt, thuộc nhiều bài hát dân gian, biết làm thơ và nhanh
trí trong ứng xử. Họ cũng là người có uy tín, lịch thiệp, đông con, có cả
con trai lẫn con gái, vợ chồng song toàn. Nếu họ là người có địa vị trong
xã hội thì càng tốt. Quan làng, Pả mẻ là những người có uy tín trong việc
đưa dâu, đón dâu chứ không phải là những ông Then, thầy Pụt. Ngày
nay, Quan làng, Pả mẻ đã được “chuyên nghiệp hoá”, được coi như một
nghề trong cuộc sống. Nhưng nếu các nghề khác, con người lao động để
kiếm sống thì Quan làng và Pả mẻ lại coi việc giúp đỡ các gia đình nhà
đám là trọng. Họ hát để thực hiện các nghi lễ, gieo thêm niềm vui và
chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ trong đám cưới, còn thù lao với họ thì
chỉ đơn giản là một bữa cơm rượu hay đĩa xôi, con gà. Với sự nhiệt tình
như vậy, họ cũng được coi là thành viên của gia đình.
Các bài Thơ lẩu không thể hát tùy tiện, mà phải theo trật tự nhất định,
nên việc tổ chức hát cũng được quy định chặt chẽ và có những tiêu chuẩn nhất
định. Thơ lẩu mang tính “ngoại giao”, cho nên, bất kể ai khi diễn xướng, cái
tôi của họ sẽ hòa vào ca từ của bài hát để thể hiện vai trò, nhiệm vụ và bộc lộ
tâm tư, suy nghĩ, tình cảm của chính mình cũng là của cả phái đoàn với mọi
người. Nhân vật diễn xướng trong các lời hát hiện lên không chỉ là cá
nhân Quan làng hay Pả mẻ mà còn đại diện cho hai họ. Lúc này, nhân vật
trữ tình và nhân vật diễn xướng đều hòa nhập làm một, cảm xúc chứa đựng
trong mỗi lời ca tiếng hát là tiếng nói của con tim, hết sức chân thành, tha
thiết. Nói cách khác nhân vật diễn xướng và nhân vật trữ tình trong Thơ
lẩu là một.
3.2.3. Trang phục diễn xướng
Trong đám cưới người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn xưa, người diễn
xướng phải mặc quần áo truyền thống như cách ăn vận của mọi người.
Đó là áo chàm, bằng vải bông tự dệt và khâu lấy. Trang phục truyền
70
thống của người Tày được cắt may đơn giản, không màu sắc sặc sỡ và
không có hoa văn, hoạ tiết trang trí loè loẹt. Áo dài của đàn ông và phụ
nữ đều là áo năm thân. Áo của nữ giới màu chàm dài tới bắp chân, của
nam giới màu đen dài tới đầu gối. Ngoài áo chàm nữ giới còn mặc quần
hoặc váy, thắt lưng, khăn đội đầu, đi giày vải. Nam giới mặc quần đen
hoặc trắng, quấn khăn dài hoặc đội khăn xếp, hoặc đội mũ, đi giày vải.
Ngày nay, quần áo dân tộc không phổ biến. Người Tày chuyển sang
ăn mặc theo kiểu thời trang phổ thông như đồng bào miền xuôi. Nhưng
dù có ăn vận thế nào thì yêu cầu về trang phục của người diễn xướng
cũng phải thật chỉnh tề, sang trọng. Một số Quan làng còn mặc Âu phục,
nhưng đội mũ nồi. Một số Pả mẻ còn mặc áo dài của người Kinh.
Như vậy, trang phục diễn xướng Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn cũng
có sự thay đổi phù hợp với sự thay đổi về hoàn cảnh xã hội, tập tục sinh
hoạt của đồng bào địa phương. Tuy nhiên, tiếc rằng trang phục truyền
thống không còn phổ biến và đang bị thu hẹp phạm vi sử dụng một cách
nhanh chóng. Việc một đám cưới được tổ chức ăn mặc theo kiểu truyền
thống sẽ có tác động tích cực tới ý thức bảo tồn trang phục truyền thống
nói chung và các giá trị văn hoá của người Tày nói riêng.
3.2.4. Hình thức diễn xướng
* Hát
Nhìn chung, hình thức chủ yếu của diễn xướng Thơ lẩu ở Chợ Đồn -
Bắc Kạn là hát đối đáp. Hát đối đáp trước hết thể hiện ở người hát. Khi
diễn xướng, hai gia đình được chia ra làm hai phía. Phía nhà trai, đại
diện chủ yếu là Quan làng. Nhà gái đại diện chủ yếu là Pả mẻ. Thường
cứ đại diện nhà gái hát xong thì đại diện nhà trai sẽ hát tiếp lời. Quá
trình hát cứ nối nhau như vậy cho đến khi các nghi lễ đám cưới kết thúc.
Hình thức hát đối đáp còn được thể hiện ở nội dung bài hát. Thường đại
diện bên chủ nhà sẽ hát hỏi khách hoặc mời chào. Khách sẽ đáp lại để
71
giới thiệu, nhận lời hay từ chối một cách lịch sự, chân thành. Khi tiếng
hát của nhà chủ vừa dứt thì tiếng hát của khách lại được cất lên. Cứ p hát
triển như vậy, Thơ lẩu trở thành cuộc giao lưu, trò chuyện dưới hình
thức hát.
Ngoài hát đối đáp, Thơ lẩu còn sử dụng hình thức hát đơn (tự hát). Hình
thức này được dùng để chủ động giới thiệu về bản thân và tự thể hiện những
suy nghĩ, tình cảm chủ quan của mình một cách tự nhiên, không bị gò ép. Như
khi đoàn nhà trai lên nhà gái gặp rất nhiều vật cản, Quan làng phải tự cất tiếng
hát để nói lí lẽ và xin phép nhà gái cất giúp. Hay những bài chúc mừng, căn
dặn... cũng chỉ được đại diện một bên gia đình hát lên. Hình thức hát này làm
cho không khí đám cưới thêm thoải mái, thân thiện. Trong hát đơn còn có
cách hát nói (hát rọi). Người Tày gọi là Phuối pác, Phuối rọi. Đó là những câu
nói liên miên, hát như nói, nói như hát một cách tự nhiên, sáng tạo mà có vần,
có nhịp, lại không cần ngâm ca. Những câu nói này gần với lời ăn, tiếng nói
hàng ngày của đồng bào nhưng trong quá trình diễn xướng, qua nhiều tình
huống lặp lại nó được gọt giũa, cô đọng trở nên giàu chất thơ và mang tính xã
giao lịch sự. Hình thức này thường gặp trong những lời tự nguyện giới thiệu
về bản thân của Quan làng, Pả mẻ. Ví như lời Pả mẻ khiêm tốn giới thiệu:
“Khỏi chiềng mừa song thân quý họ. Khỏi chiềng mừa bác, pả ,áo, a.
Khỏi bố mì thon rộng tài cao, chin nũng bố khôn khẻo bẳng cần, đẩy bạc pả
khỏi gạ khỏi mà, thay nã pang nhình thống tua lan mà hết lùa,hết lục.”
(Kính thưa hai bên quý họ. Kính thưa bác, bá, cô, chú. Tôi không học
rộng tài cao, ăn nói không khôn khéo bằng người nhưng được sự ủy quyền
của bác bá, tôi thay mặt họ nhà gái đưa cháu về làm con dâu.)
Trong Thơ lẩu, những lời hát nói này thường không bắt buộc phải
có, mà tùy thuộc vào tâm tư, tình cảm, tài năng của người diễn xướng.
Thơ lẩu là một loại hình dân ca tổng hợp với nhiều làn điệu khác
nhau thể hiện theo các nghi lễ, vừa bao hàm cả thành phần giao duyên,
72
vừa kết hợp các làn điệu dân ca khác của người Tày như: Lượn, Sli,
Phong slư, Phuối Pác. Lượn là lặp lại, là luyến, là ru. Lượn có giai điệu
vang xa tha thiết; Có giai điệu bâng khuâng, thương nhớ; Có giai điệu lại
lắng đọng lòng người. Sli là những bài hát văn vần để giao duyên trong
những ngày hội của trai gái. Người Tày dùng từ “Lượn” để chỉ hầu hết
nền dân ca của họ, người Nùng lại dùng từ “Sli” để gọi tên nền dân ca
của mình. Phong slư là những bức thư tình buồn với những lời hoa mỹ,
ghi lại tâm tư thầm kín trong tình yêu trắc trở, xa cách [19].
Theo lời trao đổi với tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc La - người nghiên
cứu và có nhiều hiểu biết về Thơ lẩu, ông cho rằng các làn điệu Thơ lẩu
nói chung bình thường thì đều đặn, khoan thai, khi vui âm hưởng nhanh
hơn, trong lễ dâng tấm vải ướt khô hay căn dặn, chia tay âm hưởng các
bài hát lại chậm rãi, trầm lắng. Càng về gần kết thúc lễ cưới ở nhà gái,
làn điệu giao duyên càng ngậm ngùi, buồn nhiều hơn vui. Đặc biệt khi
gần kết thúc lễ cưới ở nhà trai, các bài Thơ lẩu chuyển hẳn sang làn điệu
giao duyên theo kiểu Phong slư để chia tay và chúc hạnh phúc cô dâu,
chú rể.
Hình thức hát trong diễn xướng Thơ lẩu rất phong phú, đa dạng. Chính
nhờ các hình thức hát này mà diễn xướng Thơ lẩu trở nên sinh động, không
bị nhàm chán và thu hút được nhiều người tham gia, theo dõi.
* Cử chỉ, động tác
Trong diễn xướng Thơ lẩu ở Đồn - Bắc Kạn, người diễn xướng cũng
sử dụng các cử chỉ, động tác để thể hiện thái độ, tình cảm. Những động
tác này không phức tạp, không mang tính nghệ thuật, mà là các động tác
đơn giản, dễ làm, phù hợp với nội dung bài hát.
Các động tác thường là: cung kính chắp tay, đưa tay, giơ tay cao
thấp, lắc lư theo âm điệu của bài hát... Động tác của người diễn xướng
phải gây được thiện cảm và phần nào phản ánh được tư tưởng chính của
73
bài hát, như: thể hiện thái độ lịch sự, thái độ trân trọng, thái độ thân tình
với mọi người... Nói chung việc sử dụng cử chỉ động, động tác trong
Thơ lẩu có hay không có là do khả năng của từng người diễn xướng.
Hoàn toàn không bắt buộc cứ cất tiếng hát lên là phải có các động tác
minh hoạ. Tuy nhiên, việc sử dụng đúng và phù hợp các cử chỉ, động tác
trong diễn xướng cũng góp phần tạo nên sự thành công cho việc chuyển
tải thái độ, tình cảm của người diễn xướng đến những người xung quan h.
* Âm nhạc
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, được diễn xướng không trên nền
nhạc cụ nào. Đây là điểm độc đáo trong diễn xướng Thơ lẩu so với các
loại hình dân ca khác của người Tày.
Đời sống của đồng bào Tày luôn gắn với âm nhạc. Trong các lễ hội,
tang ma, Then, Pụt đều có âm nhạc làm nền cho các bài ca. Âm thanh
của các loại nhạc cụ dân tộc như tiếng sáo, tiếng đàn tính, tiếng bộ xóc,
tiếng trống... rất quen thuộc trong sinh hoạt văn hoá của đồng bào. Từ xa
xưa, trong đám cưới, diễn xướng Thơ lẩu đã không có tiếng nhạc. Có lẽ,
do các bài Thơ lẩu mang tính ứng khẩu nhanh nên không theo khuôn
mẫu giai điệu nào. Âm điệu, độ dài các bài hát lại có thể thay đổi tuỳ vào
khả năng của người diễn xướng, nên không có cũng như khó có nhạc cụ
nào phụ hoạ, khớp nhạc theo cho phù hợp.
Thơ lẩu chủ yếu được biết đến qua hình thức diễn xướng trong đời sống dân
gian. Diễn xướng là điều kiện sống còn đối với hình thức hát đám cưới này.
3.3. Một số nét đặc sắc trong Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn.
3.3.1. Đặc sắc trong lời Thơ lẩu
Thơ lẩu trong đám cưới xưa ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là những cuộc hội
ca bất tận, lời ca được cất lên như theo gió lan tỏa khắp không gian, hòa
chung với âm hưởng của đại ngàn. Qua lời Thơ lẩu, người Tày hiểu thêm
về nhau, tin tưởng và quý trọng nhau hơn. Ở đây, chúng tôi không bàn
74
xét các lời Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là hay hay dở, mà qua việc đi
điền dã, phỏng vấn chúng tôi muốn bước đầu tìm hiểu một số nét khác
biệt trong lời Thơ lẩu sưu tầm được ở Chợ Đồn - Bắc Kạn so với lời Thơ
lẩu chúng tôi và các nhà nghiên cứu khác sưu tầm được ở những địa
phương khác. Những nét khác biệt này có thể tạo nên dấu ấn đặc sắc của
lời ca. Thực tế trong ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày, tiếng Tày ở các địa
phương còn có sự khác biệt nhiều hơn nữa.
Trước hết, chúng tôi nhận thấy tiếng Tày ở các vùng khác nhau có sự
khác biệt về phương ngữ. Có khi ở mặt từ ngữ, song chủ yếu là về mặt ngữ
âm. Nếu như người Tày ở Cao Bằng, Lạng Sơn có cách nói mềm mại, nhẹ
nhàng, êm ái thì người Tày Bắc Kạn, lại nói gọn âm, dứt khoát, mạnh mẽ hơn.
Nhưng so với người Tày ở một số địa phương khác trong tỉnh thì người Tày
Chợ Đồn lại được cho là có cách phát âm khá mềm mại.
Về kho từ vựng trong tiếng Tày cơ bản không có gì khác nhau, song do
điều kiện sống của người Tày ở mỗi vùng mà họ có thói quen dùng từ khác
nhau. Ví dụ:
Từ “nhìn” ở huyện Bạch Thông thường nói là “ngòi”; còn ở huyện Pắc
Nặm sẽ nói là “đếnh, dòm”, ở huyện Chợ Đồn phát âm là “lè”.
Từ “hai”, người Tày huyện Bạch Thông phát âm “sloong” còn ở huyện
Pác Nặm, Chợ Đồn phát âm là “thoong”.
Từ “gạo tẻ” người Tày huyện Bạch Thông phát âm là “khẩu lẹ”, người
Tày Chợ Đồn phát âm là “khẩu chăm”.
Từ “đi chơi” người Tày huyện Bạch Thông phát âm là “pây lỉn” người
Tày Chợ Đồn phát âm là “pây liều”.
Từ “đi chợ” người Tày huyện Bạch Thông phát âm là “pây háng”, người
Tày Chợ Đồn phát âm là “pây chợ”.
Từ “quả ớt” người Tày huyện Bạch Thông phát âm là “mác chiều”,
người Tày Chợ Đồn phát âm là “mác phết”.v.v
75
Ngay tại huyện Chợ Đồn, người Tày ở các xã khác nhau lại có thói quen
dùng những từ ngữ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, sự việc. Ví dụ:
Từ “đu đủ” người Tày ở các xã Đồng Lạc, Xuân Lạc, Nam Cường, Quảng
Bạch phát âm là “mác lào”, người Tày ở xã Yên Thượng, Yên Thịnh phát âm là
“mác cây”, người Tày ở Phương Viên, Đông Viên phát âm là “mác vả”.
Từ “nóng” người Tày ở các xã Đồng Lạc, Xuân Lạc, Nam Cường,
Quảng Bạch phát âm là “đướt”, người Tày ở xã Phương Viên, Đông Viên
phát âm là “mồm”.
Từ “con cá” người Tày ở xã Lương Bằng phát âm là “tua cha”, người
Tày ở xã Phương Viên, Đông Viên phát âm là “tua pia”.
Từ “con dao” người Tày các xã Lương Bằng, Yên Mỹ, Nghĩa Tá phát âm là
“mặc chạ”, người Tày ở xã Phương Viên, Đông Viên phát âm là “mặc pịa” .v.v
Về ngữ điệu trong tiếng Tày ở các địa phương cũng không giống nhau.
Nam thanh niên ở phía Nam huyện Chợ Đồn truyền tai nhau câu nói vui: “Âu
mè dú Yên Nhuận, Yên Mỹ, Đại Xảo mèn đá tó mì chếp” Nghĩa là: Lấy vợ xã
Yên Nhuận, Yên Mỹ, Đại Xảo mình bị mắng, nghe cũng không đau. Bởi
giọng nói của các cô gái ở đây luyến láy rất ngọt ngào. Ở các xã phía Đông
Bắc của huyện Chợ Đồn như Phương Viên, Đông Viên, Bằng Phúc hay ở thị
trấn Bằng Lũng cách phát âm lại có phần cứng và gọn hơn. Ví dụ:
Từ “đi chơi” người Tày ở Phương Viên, Đông Viên, Bằng Phúc phát âm
ngắn gọn là “pây liều” thì người Tày ở khu vực Yên Nhuận, Yên Mỹ, Đại
Xảo lại phát âm kéo dài hơi là “pây liếu…”
Từ “ăn tối” người Tày ở Phương Viên, Đông Viên, Bằng Phúc phát âm
ngắn gọn là “chin pjầu” thì người Tày ở khu vực Yên Nhuận, Yên Mỹ, Đại
Xảo lại phát âm kéo dài hơi là “chin chjầu…”
Thơ lẩu là một sản phẩm của nghệ thuật ngôn từ, dùng chính lời ăn
tiếng nói hàng ngày làm công cụ sáng tạo nên hiển nhiên Thơ lẩu ở các
địa phương khác nhau có sự khác nhau về lời ca. Ngay cả khi một bài
76
Thơ lẩu ở địa phương này được diễn xướng, lưu truyền và “sống” tại địa
phương khác thì lời ca của nó cũng phải thay đổi theo cho phù hợp.
Ngoài đặc sắc về ngôn từ, Thơ lẩu còn là kho tàng dân ca đám cưới
có giá trị về cả số lượng và chất lượng. Thực tế, qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy: Ở nhiều xã tồn tại tới hai hoặc hơn hai bài Thơ lẩu có cùng
chức năng thực hành một nghi lễ, cùng một nội dung muốn thổ lộ, giãi
bày. Qua diễn xướng, người Tày nghe và cảm nhận bài Thơ lẩu nào hay
hơn thì nó sẽ có sức sống mãnh liệt hơn so với các bài Thơ lẩu khác. Và
qua thời gian tuyển chọn, đến một lúc nào đó, các nghệ nhân dân gian sẽ
chỉ diễn xướng những bài Thơ lẩu đặc sắc nhất.
Ví như xưa kia Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn có ít nhất ba bài hát khác
nhau có thể diễn xướng khi Quan làng từ chối lấy rượu rửa chân. Song theo
lời trao đổi với ông Lâm Xuân Ân - nguyên trưởng phòng Văn hóa thông tin
huyện Chợ Đồn, ngày nay bài “Chối rượu rửa chân” ở các xã Phương Viên,
Đông Viên, Rã Bản… được diễn xướng phổ biến hơn cả vì lời hát mang tính
bác học hơn, phù hợp với nhu cầu thưởng thức của đồng bào.
“Khỏi chiềng mừa các á lườn cần
Pửa cón Vua Kim Long tạo óc
Tạo pền nặm bó luộc khao shâư
Bách thức kin và cần dào dụp.
Lệ vật cúa kim ngần nẳng tẩư
Đồ vật cúa khẩu lẩu nẳng nưa
Khẩu lẩu nẳng ngang vua ngọc váng
Nào cần au lồng làng dào kha
Lẹo nằm lầu au cà mà xút
Khẩu lẩu cúa bách thức cần kin.
Mà thẻ nặm làng tin lừ đảy
Cần cỏi nghị đâng thảy ngòi đu
77
Vàn cần cỏi mừa hẩư khỏi!”
(Xin thưa với các nàng tiếp tân
Ngày xưa vua Kim Long đã dạy
Khe cạn hãy đào lấy giếng khơi
Nước cần cho muôn đời, muôn kiếp.
Không chỉ riêng cho việc vệ sinh
Lễ vật cùng kim ngân hạng thứ
Gạo, rượu, thịt là chủ nhân gian
Những thứ xếp ngang hàng vua chúa.
Ai lại nỡ dùng rượu rửa chân
Bí quá thì cọ trên rơm rạ
Hãy cất thứ quý giá này đi!) [39, tr. 21].
Bài “Chối rượu rửa chân” của các xã Nam Cường, Quảng Bạch, Đồng
Lạc… hiện ít được diễn xướng tại huyện Chợ Đồn nhưng do các xã này gần
với huyện Pác Nặm – Bắc Kạn, nên bài “Chối rượu rửa chân” ở đây lại là một
trong những bài Thơ lẩu vẫn được diễn xướng khá phổ biến ở huyện Pác Nặm.
“Khỏi chiềng mừa các á lườn cần,
Khuốp pi slíp sloong bươn vận quá,
Nhân tâm mì nặm tả dào kha
Cần hâu âu lẩu trà mà quá.
Lẩu the thiết khách là khửn lồng,
Cúa vị cạ kim ngần nẳng tẩư,khẩu lẩu nẳng nưa.
Khẩu lẩu nẳng ngang vua Ngọc vàng
Hất làng âu lồng lảng dào kha.
Lẹo nằm khỏi âu nhù mà xúc,
Lẩu là của bách thức cần chin,
Mà thẻ nặm làng tin lừ đẩy,
Cần cói nghị đâng thảy ngòi đu.
78
Chắc cạ chử slắc câu lự bấu
Chứ căn cỏi củ hẩư mừa the.”
(Tôi thưa đến các con nhà người,
Trong năm mười hai tháng đã qua,
Nhân tâm có nước suối rửa chân
Có ai lấy rượu trà mà rửa.
Rượu để tiếp khách lạ lên xuống,
Của ví như vàng bác đặt dưới, cơm rượu đặt trên.
Cơm rượu đặt ngang vua Ngọc Hoàng
Nào ai lại đem xuống rửa chân.
Hết nước ta lấy rơm chùi vậy,
Rượu là đồ bách thức người ăn,
Rượu thay nước rửa chân sao được.
Mong người hãy nhủ long thương
Cất dùm rượu tôi xin cảm tạ)
Hay để xin cất dây chăng cản đường, xin cất đó chắn vào cửa nhà,
người Tày huyện Chợ Đồn cũng có tới ít nhất ba bài Thơ lẩu. Bài hát
mời khách ăn trầu, hát xin dâu, hát bái tổ... cũng có tới ít nhất hai bài.
Điều này cho thấy Thơ lẩu là hình thức dân ca đám cưới có quy mô,
phong phú, đa dạng về số lượng. Lời Thơ lẩu là loại văn vần, có ca từ độc
đáo, đặc sắc, giữa các bài không bị trùng lặp nhiều nên bài nào cũng có sức hấp
dẫn riêng. Những nét đặc sắc trong lời Thơ lẩu sẽ tạo nên sự kì diệu cho
các lời thơ vượt qua sự bào mòn của dòng chảy thời gian vẫn sẽ không bị
nhạt nhòa, tan biến mà mãi còn lại, vẫn thắm đượm và tỏa sáng.
3.3.2. Đặc sắc trong diễn xướng Thơ lẩu
Tìm hiểu nét đặc sắc trong diễn xướng Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn,
chúng tôi mạnh dạn phỏng vấn “Diễn xướng Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc
Kạn có gì đặc sắc?” Câu trả lời chúng tôi thu được khá phong phú vì đây
79
là một câu hỏi mang tính tự luận. Mỗi người đều có quan điểm riêng,
cách cảm nhận riêng về diễn xướng Thơ lẩu, tùy thuộc vào việc họ tiếp
nhận được gì qua hình thức diễn xướng và lớp vỏ ngôn từ đa dạng, giầu
màu sắc của ngôn ngữ dân tộc.
Quan làng Hà Sĩ Ngự ở Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn chia sẻ với
chúng tôi trong lời Hát Quan làng (Thơ lẩu) ở Phương Viên - Chợ Đồn -
Bắc Kạn có câu:
“Hất gần giá phuối lở hẩư căn
Nhằng phứa se oằn lăng tuộng ngải”
(Làm người chớ giở giọng đau
Còn phòng mai mốt gặp nhau lời chào.)
Do đó, Quan làng và Pả mẻ phải lựa chọn ngôn từ, sắp xếp thành những
lời thơ và diễn xướng sao cho thể hiện được sự chân thành, nhiệt tình, lịch sự.
Quan làng, Pả mẻ vừa phải hát nối tiếp, đối đáp logic với nhau vừa phải thể
hiện được sự khiêm tốn, nhã ý của mình. Sự giao tiếp giữa Quan làng, Pả mẻ
trước các nghi thức đám cưới là một sự giao tiếp đẹp, để lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người nghe, người xem. Mỗi Quan làng, Pả mẻ lại có tài giao tiếp,
khả năng diễn xướng khác nhau, đáp ứng các thử thách, đòi hỏi không giống
như một kịch bản có sẵn, ở từng đám cưới, ở mỗi địa phương. Chính những
lời hát được chọn lọc như vậy, kết hợp với các nghi lễ, nghi thức trong đám
cưới đã tạo nên sinh hoạt Thơ lẩu – một sinh hoạt văn hóa độc đáo của người
Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn.
Về làn điệu, diễn xướng Thơ lẩu, ở từng địa phương cũng có đặc sắc
riêng. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: “Về cơ bản, kết cấu âm nhạc của Thơ
lẩu theo giai điệu chủ yếu tiến hành bước lần, một đôi chỗ có bước nhảy
quãng 4 đúng (Đô - Sol, Sol - Đô) hoặc 6 thứ. Nội dung của toàn bộ cuộc hát
chủ yếu dựa trên một câu nhạc: Đô sol mì, đô sol đo, sol đô. Kết cấu này có
sự biến đổi đôi chỗ cho phù hợp giữa nốt, giai điệu nhạc với lời, sáng tạo ở
80
chỗ kết lửng, kết nửa, kết trọn, tạo nên sắc thái riêng trong điệu hát của mỗi
địa phương” [23, tr.36], [35, tr. 32]. Thơ lẩu ở huyện Bạch Thông - Bắc Kạn
được hát theo bốn làn điệu. Ban đầu, khi hai bên hỏi han, chào mời, trò chuyện
thì giọng điệu đều đặn, khoan thai. Khi buộc Quan làng phải vượt qua thử
thách thì đôi lúc chuyển sang vui tươi, giễu cợt. Khi thực hiện các nghi lễ, thủ
tục cưới xin, điệu ca trở nên chậm rãi, trầm lắng và trang trọng. Về gần cuối
cuộc hát, làn điệu lại trở nên êm đềm, da diết khi dặn dò, chia tay, tiễn biệt.
Trong khi đó, Thơ lẩu ở huyện Chợ Đồn và huyện Pác Nặm - Bắc Kạn, rất khó
nhận ra được các làn điệu. Họ chủ yếu hát đều đặn, trang nghiêm từ đầu cho
đến khi kết thúc cuộc hát, ít có biến tấu. Nếu có thay đổi thì chủ yếu là thay
đổi về giọng điệu cho phù hợp với tâm trạng người diễn xướng và nội dung
lời ca. Với những công chúng “khá sành” nghe Thơ lẩu, nhận biết được sự
khác biệt về làn điệu có thể giúp họ phỏng đoán được tương đối chính xác
Quan làng, Pả mẻ là người ở huyện nào.
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn còn đặc sắc trong nghi thức diễn xướng.
Mỗi bài Thơ lẩu là một lời thưa – đáp của mỗi bên gia đình trước việc đưa ra
thử thách, xin giúp vượt qua thử thách, mời chào, đón nhận hay thực hành nghi
lễ. Ngoài các bài Thơ lẩu mang tính thủ tục bắt buộc để thực hành nghi lễ trong
ngày lễ đón dâu, đưa dâu như: hỏi - đáp danh tính, xin thắp hương kính tổ, nộp
lễ sinh thành, xin dâu, trao bằng biên (tiền lì xì trả ơn), giao tặng phẩm; các bài
hát giao tiếp thông thường: mời khách, khách nhận các lời mời, chia tay, nhắn
gửi, hát chúc mừng hạnh phúc, Thơ lẩu còn có nhiều bài không mang tính bắt
buộc để thử thách, trêu ghẹo, đùa nghịch. Có diễn xướng các bài hát này trong
đám cưới hay không là do yêu cầu của nhà chủ. Nhu cầu của mỗi nhà khác
nhau đem đến cho Thơ lẩu nét đặc sắc trong từng cuộc diễn xướng.
Theo ông Lâm Xuân Ân – nguyên Trưởng phòng Văn hóa thông tin
huyện Chợ Đồn – Bắc Kạn, Thơ lẩu ở Chợ Đồn khi diễn xướng ít có các bài
để thử thách, trêu ghẹo, đùa nghịch như ở các huyện khác. Thơ lẩu ở Chợ Đồn
81
thường nặng về thực hành nghi lễ nhiều hơn. Nhiều khi làm Quan làng đi đón
dâu ở các huyện khác (như huyện Pác Nặm, huyện Bạch Thông) gặp nhà gái
treo con mèo hoặc con cá trước cửa, đặt dao trước cửa, ông cũng bối rối
không hát được mà chỉ nói đại ý theo nội dung thơ cổ, xin phép nhà gái cho
vào nhà. Dù ở huyện Chợ Đồn ít có các thử thách mang tính trêu ghẹo, đùa
nghịch như vậy, nhưng ông cũng phải hỏi các Quan làng khác, ghi chép lại
những bài hát dùng trong các trường hợp trên để phòng khi gặp lại.
Những bài Thơ lẩu hát để mời dùng tăm, dùng nước xúc miệng sau khi
ăn xong ở huyện Chợ Đồn cũng không còn được diễn xướng như các huyện
khác vì người Tày ở địa phương cho rằng lời hát này hơi vô duyên, chẳng
khác nào như chê khách không biết tự giác vệ sinh răng miệng.
Trong nhiều đám cưới của người Tày hiện nay, khi đưa dâu về nhà trai, ở
nhiều huyện tại Bắc Kạn, nhà trai cử người phụ nữ có uy tín, yên bề gia thất,
thay mặt gia đình trải màn chiếu sẵn và trang trí phòng cưới trước cho cô dâu
như đám cưới của người Kinh, nhưng ở huyện Chợ Đồn lại không làm như
vậy. Người Tày ở huyện Chợ Đồn vẫn giữ nguyên nghi lễ mời trải chiếu căng
màn như đám cưới truyền thống. Sau khi ra mắt họ hàng, thắp hương tổ tiên,
cô dâu được đưa về phòng cưới cất đồ, Quan làng phải hát mời Pả mẻ hoặc
một người phụ nữ là đại diện bên nhà gái vào trải chiếu, căng màn cho cô dâu.
Người Tày ở Chợ Đồn cho rằng làm như vậy là để họ hàng nhà gái được
chứng kiến sự đầy đủ về vật chất cũng như thái độ chăm sóc nâng niu nhà trai
dành cho con dâu mới về mà yên tâm hơn khi con cháu họ được gả về gia
đình tử tế.
Những đặc sắc trong Thơ lẩu đã lý giải vì sao Thơ lẩu là hình thức sinh
hoạt văn nghệ quần chúng không thể thiếu trong đám cưới truyền thống của
người Tày. Người Tày say lời Thơ lẩu cũng say mê hình thức diễn xướng đặc
thù của loại hình, bởi chỉ có trong sinh hoạt đám cưới, Thơ lẩu mới có điều
kiện để đi vào tâm thức dân gian một cách nhanh chóng nhất, hiệu quả nhất.
82
3.4. Thơ lẩu trong tâm thức dân gian ở Chợ Đồn - Bắc Kạn
Một tác phẩm văn học, nghệ thuật không thể tránh khỏi những phản
ứng trái chiều từ dư luận và người tiếp nhận. Việc tiếp nhận các bài Thơ
lẩu trong đời sống dân gian cũng không nằm ngoài quy luật. Trong phần
này, một điều mà chúng tôi cảm nhận được trong những lần đi điền dã,
phỏng vấn là khuôn mặt suy tư, bối rối của mọi người khi được hỏi: “Cá nhân anh,
chị nhớ được bao nhiêu lời Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn?” Để đưa ra câu trả lời,
mọi người đều cần một chút thời gian để hồi cố và suy ngẫm. Kết quả chúng tôi
thu được chỉ mang tính tương đối và khá khác nhau ở mỗi người, mỗi lứa tuổi.
Quan làng Hà Sĩ Ngự ở Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn cũng không
biết cụ thể mình có thể nhớ được đầy đủ bao nhiêu bài hát. Đôi khi gặp những
tình huống không ngờ tới hoặc không phổ biến, ông cũng phải chấp nhận
uống rượu phạt. Theo ông, với những người “lành nghề” tự dưng xem mình
nhớ được bao nhiêu bài hát là một vấn để chỉ có thể đưa ra câu trả lời tương
đối. Vì có những lời thơ tuy bây giờ chưa và khó có thể nhớ ra nhưng đứng
trước một nghi lễ cụ thể, hoàn cảnh cụ thể cần các lời hát đó, người nghệ nhân
dân gian phải lục tìm trong trí nhớ, hoặc đôi khi các lời hát khác tự nhiên hiện
về rõ nét trong tâm trí. Trong bản chép tay của ông Hà Sĩ Ngự có 49 lời hát.
Ông đã thuộc hết, song có những lời ít được diễn xướng nên cũng khó có thể
nhớ chính xác.
Ông Triệu Chấn Chức bắt đầu công việc sưu tầm Hát Quan làng (Thơ
lẩu) ở Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn từ năm 2003. Trong văn bản ghi
chép riêng của ông có tất cả 27 lời hát. Ông tâm sự vì yêu thích Hát Quan
làng (Thơ lẩu) nên khi đi đám cưới, ông thường mang theo giấy bút để ghi
chép nhanh với mong muốn có thể sẽ truyền lại cho các thế hệ sau. Nhưng vì
ông không phải là Quan làng, lại bận công việc riêng nên việc sưu tầm gặp rất
nhiều gián đoạn. Ông có thuộc những lời hát mà mình đã ghi chép, song để có
thể nhớ chính xác thì chỉ được khoảng chục bài (khoảng 35%).
83
Ông Hà Văn Tồn thuộc thế hệ cao niên tại địa phương. Ông đã cố nhớ,
sưu tầm và biên dịch những lời Hát Quan làng (Thơ lẩu) từ năm 2005. Trong
văn bản ông ghi chép có 64 lời hát. Ông có thể nhớ hơn 20 bài (hơn 30%) vì
đây là những bài khá phổ biến, vẫn được diễn xướng trong các đám cưới tại
địa phương. Chúng tôi thấy trong các lời hát ông Hà Văn Tồn sưu tầm chỉ có
02 lời hát trùng với ghi chép, sưu tầm của ông Hà Sĩ Ngự và Triệu Chấn
Chức. Cũng theo ông Tồn, các bài Hát Quan làng (Thơ lẩu) ông sưu tầm được
ở xã Phương Viên cũng được diễn xướng tại hai xã tiếp giáp là xã Đông Viên
và xã Rã Bản.
Ông Lâm Xuân Ân – nguyên Trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện
Chợ Đồn, hiện đang sống tại thị trấn Bằng Lũng cũng thường xuyên được
mời đi làm Quan làng. Theo ông, ở thị trấn Bằng Lũng và các xã lân cận như
Ngọc Phái, Bằng Lãng trong các đám cưới giờ không còn diễn xướng Thơ
lẩu. Do các xã này gần đường giao thông chính, kinh tế của các hộ dân khá
phát triển, có nhiều hình thức giải trí hiện đại hơn. Ông đã tự đi điền dã và ghi
chép lại hoặc nhờ người thân sưu tầm giúp các bài Thơ lẩu ở các xã phía
Đông của huyện Chợ Đồn như: xã Bản Thi, xã Yên Thượng, xã Yên
Thịnh... Đến nay ông ghi chép được 53 bài. Qua so sánh, đối chiếu
chúng tôi thấy có 05 bài trùng với các bài Thơ lẩu ở khu vực phía Tây
của huyện Chợ Đồn mà nhiều nhà sưu tầm ở khu vực này đã ghi chép.
Ông Lâm Xuân Ân cho biết mình thuộc hết các bài cá nhân sưu tầm
được nhưng nhiều khi bối rối nên cũng quên hoặc lẫn các bài với nhau.
Lúc ấy, ông lại phải ứng biến: có khi là chắp nối trong trí nhớ, khi lại
sáng tác thêm lời mới cho hợp ngữ cảnh.
Cũng câu hỏi này khi phỏng vấn người thuộc thế hệ trẻ, chúng tôi thu
được những câu trả lời khác.
Chị Lục Thị Luyên, 28 tuổi ở Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn đã được
chứng kiến một vài cuộc Hát Quan làng (Thơ lẩu) thì thẳng thắn tâm sự: Giới
84
trẻ nghe Hát Quan làng (Thơ lẩu) không phải vì thích thú mà phần lớn vì tò mò.
Khi được xem và nghe diễn xướng Hát Quan làng (Thơ lẩu) một lần rồi thì trí
tò mò được giải tỏa, Hát Quan làng (Thơ lẩu) không còn sức hút với giới trẻ
nữa. Những người trẻ tuổi và bản thân chị thích các bài hát nhạc trẻ hơn. Chị
chỉ có thể nhớ một số câu hát, còn lời hát của toàn bài thì không.
Anh Tô Văn Mạnh, 34 tuổi, ở Bằng Lũng - Chợ Đồn - Bắc Kạn cũng
không thích Thơ lẩu dù không phủ nhận giá trị của lời ca. Theo anh, hình thức
này không còn hợp với thị hiếu âm nhạc của giới trẻ. Mặt khác, các đám cưới
tại địa phương anh hiện nay được tổ chức theo đám cưới hiện đại nên giới trẻ
cũng khó có cơ hội được chứng kiến, tham gia vào diễn xướng Thơ lẩu. Vì
vậy nhớ được chính xác một lời Thơ lẩu với anh là quá khó.
Như vậy có thể thấy số lượng các lời Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn khá
phong phú (tổng cộng đã có 184 bài). Tuy nhiên việc nhớ chính xác các lời
Thơ lẩu còn phụ thuộc vào khả năng, sự say mê của từng người.
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vi Hồng nhận xét đại ý rằng: Muốn hiểu
“Thơ Quan làng” (Thơ lẩu) trước hết phải hiểu phong tục Quan làng. Trong quá
trình điền dã, phỏng vấn, chúng tôi cũng muốn tìm hiểu xem người Tày ở Chợ
Đồn - Bắc Kạn biết và cảm nhận được gì về phong tục Thơ lẩu. Tức là chúng tôi
cũng đang cố gắng tìm hiểu sinh hoạt Thơ lẩu trong tâm thức dân gian.
Những người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn khi được hỏi đều nhớ và có thể
kể tên được một số nghi thức, nghi lễ trong sinh hoạt Thơ lẩu. Điều này có
nghĩa là dù ít hay nhiều thì họ cũng đã từng được chứng kiến sinh hoạt Thơ
lẩu trong đời sống dân gian. Sinh hoạt Thơ lẩu trong mỗi đám cưới có thể
khác nhau ở một vài nghi thức.
Không phải sinh hoạt văn hóa nào cũng có thể đi vào tâm thức dân gian.
Thơ lẩu trở thành điệu hồn, đọng lại trong tâm trí nhân dân những tình cảm và
ấn tượng đẹp không chỉ bởi sinh hoạt hát đối đáp giúp chuyển tải các giá trị
của lời ca mà còn bởi nó chính là cuộc sống của đồng bào. Các sinh hoạt của
85
đời sống nhân dân đi vào sinh hoạt Thơ lẩu một cách tự nhiên, gần gũi. Theo
ông Liêu Chiến – phó tổng biên tập báo Thái Nguyên, một người quê gốc ở
Chợ Đồn - Bắc Kạn, dường như có thể tìm thấy cuộc sống đời thường của
đồng bào Tày qua Thơ lẩu. Cụ thể như: giao tiếp, mời chào, cúng tế, trả ơn
cha mẹ, lao động, vui chơi giải trí, hôn nhân, sinh hoạt cá nhân... Chính vì
Thơ lẩu gần gũi như thế mà người Tày nào ở địa phương cũng có thể nhớ và
kể tên được một số nghi thức, nghi lễ trong sinh hoạt Thơ lẩu. Sở dĩ Thơ lẩu
dù quen thuộc nhưng vẫn lôi cuốn được người xem là bởi nó diễn ra theo một
hình thức khác với các sinh hoạt đời thường, đó là diễn xướng.
Bên cạnh phần lớn các ý kiến đánh giá Thơ lẩu lôi cuốn, hấp dẫn và
bày tỏ niềm say mê với hình thức sinh hoạt này, chúng tôi cũng thu được
một số nhận xét trái chiều từ giới trẻ.
Em Hà Văn Tiệp, 23 tuổi, ở Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn nhận xét:
Sinh hoạt Hát quan làng (Thơ lẩu) quá cầu kì và nhiều nghi thức. Tổ chức một
đám cưới như vậy mất quá nhiều thời gian và lãng phí tiền của. Đám cưới hiện
đại không nên cầu kì trong nghi lễ. Mặt khác người dân không chỉ đến đám cưới
để chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ mà còn đến để gặp gỡ và giao lưu. Thời gian
một cuộc hát thường kéo dài mà lời hát lại ít có cao trào hay biến chuyển nên dễ
gây cảm giác chán ngán, mệt mỏi cho những người không am hiểu hoặc am hiểu
ít về hình thức này. Thơ lẩu không có sức hút mạnh với giới trẻ.
Em Triệu Thị Linh, 15 tuổi ở Bằng Lãng - Chợ Đồn - Bắc Kạn lại có
cách nhìn nông nổi và phiến diện hơn về sinh hoạt Thơ lẩu. Trong một lần đi
đám cưới, em có nghe và xem diễn xướng một số bài hát. Theo em, các lời
Thơ lẩu có giá trị về nội dung, tư tưởng song lại được diễn xướng bằng một
giọng hát đều đều, ít tính nghệ thuật. Quá trình diễn xướng rườm rà và mất
nhiều thời gian. Do đó em không thích diễn xướng Thơ lẩu. Suy nghĩ của em
Triệu Thị Linh là suy nghĩ của một người trẻ tuổi, mới chỉ nhìn nhận qua về
vấn đề, chưa đi sâu tìm hiểu đặc trưng của hình thức, giá trị nghệ thuật sâu sắc
86
ẩn trong từng lời ca. Em chỉ nghe và nhận xét giọng ca của người diễn xướng
đã vội quy kết Thơ lẩu ít giá trị nghệ thuật. Giọng hát của mỗi người là do
thiên bẩm, đâu phải ai cũng hát hay, cũng lôi cuốn được người nghe.
Trong quá trình điền dã, phỏng vấn, chúng tôi rất cố gắng tìm hiểu về
niềm say mê, yêu thích Thơ lẩu trong tâm thức dân gian của người Tày ở
Chợ Đồn - Bắc Kạn như thế nào và tại sao những người thuộc thế hệ cao niên
lại yêu thích, say mê thơ lẩu hơn những người trẻ tuổi?
Ông Lục Văn Vận - nguyên giám đốc sở giáo dục Thái Nguyên – người
con đã thoát li, xa mảnh đất quê hương Chợ Đồn - Bắc Kạn mấy chục năm
không nén nổi ngẹn ngào khi hồi tưởng lại và trả lời chúng tôi. Theo ông, các
lời Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn đẹp như một người thiếu nữ vùng sơn cước.
Cô gái ấy vừa có nét nhà quê thật thà, chân chất, vừa có sự lắng đọng trong
chiều sâu tâm hồn, vừa có ngoại hình khỏe khoắn, tươi vui và để rồi khiến cho
ai đó bất chợt gặp một lần là có thể nhớ mãi khôn nguôi.
Ông Hà Văn Tồn, 76 tuổi, nguyên chủ tịch xã Phương Viên - Chợ Đồn -
Bắc Kạn thì cho rằng Hát Quan làng (Thơ lẩu) sở dĩ còn lôi cuốn người nghe
là bởi tính nhân văn, tính triết lí, tính trữ tình của lời ca.
Cụ bà Hà Thị Sâm, 83 tuổi ở xã Đại Xảo - Chợ Đồn - Bắc Kạn vui vẻ kể
cho chúng tôi về đám cưới của mình. Đôi mắt hấp háy trên khuôn mặt hằn
nhiều nếp nhăn như sáng lên qua từng câu kể. “Đám cưới của cụ ngày xưa to
lắm! To là bởi nhiều cỗ bàn, lại có Thơ lẩu, hát Cảm chởm (hát giao duyên,
tán ghẹo) cả đêm không ngủ.” Cụ không tham gia diễn xướng vì là cô dâu
nhưng đứng sát vách tường mà lắng nghe như nuốt trọn từng câu.
Tiến sĩ Hoàng Ngọc La, nguyên giảng viên khoa Lịch sử trường Đại học
Sư Phạm Thái Nguyên, người đã tham gia tổ chức một đám cưới cổ truyền tại
huyện Pác Nặm, Bắc Kạn và chịu trách nhiệm nội dung xây dựng bộ VCD 3
tập “Lễ cưới cổ truyền của người Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn,” rất say
mê Thơ lẩu. Có lần tác giả luận văn đến phỏng vấn đã được ông góp ý, gợi ý
tìm hiểu và hát cho nghe một số trích đoạn tới tận đêm khuya.
87
Hay như bà La Thi Kiên, 55 tuổi, cán bộ phụ nữ xã Phương Viên - Chợ
Đồn - Bắc Kạn, vợ Quan làng Hà Sĩ Ngự cũng rất thích Thơ lẩu. Khi chúng
tôi đến phỏng vấn, cũng có nói chuyện, trao đổi với bà. Bà đã đóng vai Pả mẻ
để cùng chồng hát và phân tích giúp tác giả luận văn cảm thụ được rõ hơn về
cái hay, cái đẹp trong giá trị của các lời Thơ lẩu.
Tuy nhiên, không phải người dân nào ở Chợ Đồn - Bắc Kạn cũng thấy yêu,
thấy say Thơ lẩu như thế. Chúng tôi cũng phỏng vấn cảm nhận của một số thanh
niên địa phương để tìm hiểu xem điều gì đã chi phối tới hiện trạng trên.
Tuổi trẻ luôn bồng bột, thích tự do và phóng khoáng. Thường họ ưa
những gì mới mẻ, đơn giản. Họ hướng tới những cái thời thượng, tiên tiến. Họ
chạy theo các xu hướng chung, các yêu cầu vật chất phù hợp với tâm lí lứa
tuổi nhiều hơn là quay trở về quá khứ, với văn hóa cổ truyền. Khoảng cách và
sự khác biệt thời đại làm cho lời các bài Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn mất đi
tính thời sự và không còn là đối tượng thực sự hấp dẫn, thu hút được đông
đảo người nghe như trước. Cộng thêm sự phức tạp, rườm rà trong nghi thức
tạo nên những tồn tại, hạn chế trong tiếp nhận Thơ lẩu của giới trẻ và làm
chúng ta phải lo lắng, quan tâm, nhìn nhận một cách thẳng thắn.
Như vậy, qua điều tra, phỏng vấn có thể nhận thấy:
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn đã có sự thay đổi trong tâm thức dân gian.
Ngày nay, Thơ lẩu không còn là sở thích chung, thu hút được mọi lứa tuổi,
mọi tầng lớp người Tày như xưa. Cũng có rất nhiều suy nghĩ khác nhau về
Thơ lẩu. Thậm chí có cả những ý kiến trái chiều. Người trung và cao tuổi thì
rất thích, bởi họ coi các bài hát là những bài học đạo đức quý giá có thể
truyền lại cho con cháu đời sau thông qua diễn xướng độc đáo trong đám
cưới. Họ rất muốn Thơ lẩu được bảo lưu, phát triển. Những người trẻ tuổi thì
không thích nghe Thơ lẩu. Đây cũng là điều tất yếu, bởi các bài hát dù hay,
song phần lời có lẽ cũng cần được “trẻ hóa”, tức là phải được đổi mới về nội
dung sao cho phù hợp hơn với cuộc sống hiện đại.
Thơ lẩu là một nét đẹp trong kho tàng văn hoá truyền thống, đậm
bản sắc dân tộc của người Tày. Hình thức này ra đời cách thời đại của
88
chúng ta một khoảng thời gian khá xa và tồn tại, gắn bó với đời sống của
người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn trong suốt tiến trình lịch sử. Khoảng cách
thời đại đủ để lớp bụi thời gian phủ mờ những thời kì xa xưa của dân tộc.
Điều đó có nghĩa là Thơ lẩu xưa cũng có nhiều điều không còn phù hợp với
cuộc sống hiện đại. Tuy không ai phủ nhận các giá trị của loại hình, nhưng
đáng tiếc, cuộc sống của đồng bào địa phương dần thay đổi và chẳng có
gì là có thể tồn tại vĩnh viễn mà vẹn nguyên trước dòng chảy của thời
gian. Thơ lẩu trong tâm thức dân gian cũng vậy.
4.3. Một số định hƣớng góp phần bảo lƣu, phát triển Thơ lẩu ở Chợ
Đồn - Bắc Kạn.
Đất nước ta đang ngày một phát triển. Xu hướng toàn cầu hóa đã và đang
diễn ra. Toàn cầu hóa có thể tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc và mất độc
lập, tự chủ quốc gia, nhất là hủy hoại đời sống tinh thần con người thông qua
mặt phản giá trị, phản văn hóa của nó. Toàn cầu hóa có ảnh hưởng nhất định tới
nền văn hóa của dân tộc Tày nói chung, hình thức Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn
nói riêng. Qua quá trình điền dã, phỏng vấn, tìm hiểu về Thơ lẩu ở Chợ Đồn -
Bắc Kạn, chúng tôi thấy phần lớn người dân được hỏi bày tỏ nguyện vọng chân
thành, mộc mạc muốn bảo lưu hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo này.
Theo ông Hà Văn Tồn, nguyên chủ tịch xã Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc
Kạn, Hát Quan làng (Thơ lẩu) bị mai một đi là điều rất đáng tiếc. Bởi Thơ lẩu
không chỉ là phong tục, nghi lễ trong đám cưới mà còn là một hình thức giải trí
của đồng bào. Dù ngày nay, người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn đã có nhiều hình
thức giải trí hơn, song quay trở về với các hình thức sinh hoạt văn hóa truyền
thống vẫn phải được ưu tiên hàng đầu. Thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cần biết
đến, trân trọng và góp sức bảo tồn, phát triển các tài sản văn hóa phi vật thể làm
nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc mình. Do vậy, ông mong muốn Thơ lẩu
được bảo tồn và diễn xướng nhiều hơn trong đời sống của cộng đồng Tày không
chỉ ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, mà còn ở tất cả các vùng Tày.
89
Anh Tô Văn Hùng ở Bằng Lãng - Chợ Đồn - Bắc Kạn dù không thích
Thơ lẩu nhưng cũng có mong muốn bảo tồn hình thức này. Theo anh, nếu Thơ
lẩu được bảo lưu và diễn xướng nhiều hơn thì giới trẻ cũng sẽ biết nhiều hơn
về nó và có điều kiện để cảm được các giá trị của loại hình, từ đó dần hình
thành nên tình cảm yêu thích và say mê.
Trong khuôn khổ phạm vi luận văn, chúng tôi đã tổng kết các ý kiến
phỏng vấn được từ nhân dân và mạo muội đưa ra một số đề xuất nhỏ. Chúng
tôi hi vọng sẽ góp phần giúp bảo lưu, phát triển sinh hoạt Thơ lẩu ở Chợ Đồn
- Bắc Kạn dưới cả hai hình thức “tĩnh” và “động”.
Khôi phục, phát triển Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn nói riêng, ở các địa
danh khác mà cộng đồng Tày sinh sống nói chung, trước tiên cần có các biện
pháp phù hợp để bảo lưu và phát triển các lời Thơ lẩu. Nếu xét trong phạm vi
văn hóa cưới hỏi thì lời Thơ lẩu là bộ phận nghệ thuật ngôn từ của văn hóa
cưới hỏi. Các lời thơ lẩu còn là cơ sở, điều kiện đầu tiên và cần thiết để diễn
xướng Thơ lẩu tồn tại. Do đó, bảo lưu, phát triển các lời Thơ lẩu là vô cùng
quan trọng. Có thể bảo lưu, phát triển các lời Thơ lẩu bằng những biện pháp
như: sưu tầm, xuất bản các lời hát đã và đang diễn xướng trong các đám cưới
tại địa phương. Phải ghi chép các lời Thơ lẩu trong dân gian thành các văn
bản văn học viết một cách có hệ thống, đầy đủ, để có thể đưa ra được các
minh chứng cụ thể cho sự phong phú của lời Thơ lẩu và thuận tiện cho việc
học tập, lưu truyền.
Bên cạnh đó, có thể mở các lớp truyền dạy Thơ lẩu cho nhân dân, đặc
biệt là thế hệ trẻ, do các nghệ nhân dân gian (Quan làng, Pả mẻ, những người
am hiểu hình thức sinh hoạt văn hóa này) đảm nhiệm. Nếu chỉ trong các đám
cưới Thơ lẩu mới có cơ hội được lưu truyền, thì với thực tế việc tổ chức đám
cưới ngày càng đơn giản và hiện đại hơn, liệu rằng Thơ lẩu sẽ còn mấy cơ hội
để được diễn xướng, còn cơ hội nào cho thế hệ hôm nay được xem, được
nghe và có thể lưu truyền các bài Thơ lẩu? Việc mở các lớp truyền dạy Thơ
90
lẩu trong nhân dân tức là đã tạo thêm cơ hội cho Thơ lẩu được sống trong một
môi trường diễn xướng khác. Thơ lẩu sẽ được thế hệ người Tày hôm nay biết
đến nhiều hơn và thuộc nhiều hơn. Không chỉ dừng lại ở việc ghi chép, sưu
tầm, xuất bản, lưu truyền các lời Thơ lẩu đã có, mà chúng ta cần phải phát
huy, khơi dậy sự sáng tạo, khả năng sáng tác các lời Thơ lẩu mới trong nhân
dân sao cho phù hợp hơn với thực tế xã hội hiện đại bằng cách tạo dựng các
môi trường văn hóa phù hợp. Có như vậy, các lời Thơ lẩu sẽ luôn được làm
mới, làm đầy, nhân đôi và nảy sinh mãi mãi trong đời sống dân gian.
Các lời Thơ lẩu không thể sống, không thể đi vào tâm thức dân gian nếu
không được gắn kết với sinh hoạt Thơ lẩu trong các đám cưới cụ thể. Do đó
yêu cầu bảo lưu và phát triển sinh hoạt Thơ lẩu tại các địa bàn văn hóa cũng
là một yêu cầu thiết thực và cấp bách. Chúng ta có thể tổ chức các đám cưới
theo nghi thức cổ truyền có Thơ lẩu. Không nhất thiết đám cưới phải có Thơ
lẩu với đầy đủ nghi thức truyền thống, có thể cải biến, điều chỉnh, thay thế,
loại bỏ một vài nghi thức cho phù hợp với cuộc sống hiện nay. Ngoài ra,
chúng ta còn có thể tổ chức những buổi trò chuyện giữa thế hệ đi trước với
thế hệ thanh niên, học sinh về các giá trị văn hóa, văn học dân gian của dân
tộc Tày trong đó có hình thức Thơ lẩu.
Chúng tôi thiết nghĩ để các giải pháp trên cũng như tâm nguyện của
người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn được thực hiện và có hiệu quả thì không thể
thiếu một yếu tố cần thiết và vô cùng quan trọng đó là sự chỉ đạo sát sao hơn
nữa của Đảng bộ và chính quyền địa phương. Thực tế, các cấp Ủy Đảng và
chính quyền địa phương đã có quan tâm nhất định tới “sự sống” của Thơ lẩu.
Bằng chứng là cho tới nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về
Thơ lẩu ra đời. Thơ lẩu đã được UBND tỉnh Bắc Kạn, Sở Văn hóa Thể thao
và Du lịch tỉnh Bắc Kạn gây dựng trong dự án sưu tầm, bảo tồn “Thơ lẩu của
người Tày” từ năm 2012. Kết quả của Dự án đã thu được: gồm Đề cương thực
hiện dự án, Tập báo cáo khoa học về Thơ lẩu, tập bản dịch tiếng Việt các bài
91
Thơ lẩu, 02 album ảnh, 02 băng ghi hình tư liệu Betacam về đám cưới cổ
truyền của người Tày ở huyện Pác Nặm – Bắc Kạn. Tuy nhiên, qua tìm hiểu
của chúng tôi, nhiều xã vùng sâu, vùng xa vẫn có diễn xướng Thơ lẩu nhưng
chưa được khảo sát, nghiên cứu. Nếu được các cấp quản lí quan tâm, toàn dân
đồng thuận hơn nữa thì chắc chắn những giá trị văn hóa dân tộc nói chung,
Thơ lẩu nói riêng sẽ mãi bền vững và bất tử cùng thời gian.
Như vậy, ít nhiều các đề xuất của chúng tôi đã không chỉ dừng lại trên
trang viết mà được thực nghiệm trong thực tế tại các địa phương cụ thể.
Chúng tôi hi vọng từ bước đi đầu tiên này, những ai đồng quan điểm sẽ cùng
quan tâm và cùng thực hiện. Bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa dân tộc
đâu phải là công việc của cá nhân mà tất cả các cấp các ngành quản lý văn
hóa và mọi người dân cùng phải có ý thức, trách nhiệm.
Tiểu kết:
Diễn xướng Thơ lẩu là một nét đẹp trong văn hóa Tày, vẫn thu hút được
một lực lượng người nghe và say mê nhất định. Ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, Thơ
lẩu có quá trình hình thành, phát triển lâu đời. Hiện nay, Thơ lẩu chỉ còn được
diễn xướng ở các xã bản xùng sâu, vùng xa. Từ thực trạng đang báo động của
loại hình, tìm hiểu về Thơ lẩu trong đời sống văn hóa dân gian là một nỗ lực,
cố gắng ban đầu nhằm khám phá sâu hơn, toàn diện hơn những nét đẹp ẩn sâu
trong ca từ, diễn xướng, khơi dậy những mạch nguồn tư tưởng, tình cảm, ý
thức, trách nhiệm của người dân với các giá trị văn hóa truyền thống nói
chung, Thơ lẩu nói riêng. Đây là những nghiên cứu đầu tiên về Thơ lẩu trên
địa bàn văn hóa Chợ Đồn - Bắc Kạn. Chúng tôi cũng tổng kết và mạnh dạn
đưa ra một số đề xuất với hi vọng sẽ cày xới, vun trồng thêm, đưa Thơ lẩu
ngày một phát triển, đưa quê hương Chợ Đồn - Bắc Kạn nói riêng, các vùng
miền trên đất nước Việt Nam nói chung ngày một tươi đẹp, hãnh diện trong
vẻ đẹp của các giá trị văn hóa cổ truyền.
92
KẾT LUẬN
1. Thực tế, nhiều xã thuộc huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn vẫn trong vùng
kinh tế đặc biệt khó khăn như xã Bằng Phúc, xã Bản Thi, xã Xuân Lạc...
Người Tày Chợ Đồn sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo kiểu “tự cung tự
cấp” là chính, ít có khả năng phát triển về công nghiệp và dịch vụ. Sự nguy
hiểm của rừng thiêng, nước độc buộc người Tày muốn tồn tại và xây dựng cơ
sở vật chất phải sống gắn bó với nhau và với các dân tộc anh em thành một
cộng đồng vững mạnh. Điều kiện tự nhiên, xã hội như trên đã tạo nền tảng
để người Tày có một đời sống văn hóa miền núi đặc trưng với nhiều loại
hình sinh hóa văn hóa độc đáo. Chợ Đồn - Bắc Kạn trở thành cái nôi lí
tưởng nảy sinh Thơ lẩu – hình thức dân ca đám cưới của người Tày. Trải
qua quá trình phát triển lâu dài, cộng đồng Tày nơi đây đã xây dựng cho
mình một nền kinh tế vật chất ổn định hơn và bảo lưu được một kho tàng
văn hoá truyền thống giàu giá trị. Thơ lẩu là sản phẩm văn hoá mang đậm
dấu ấn dân gian Tày, chứa đựng tâm hồn, tình cảm, lễ nghi, tín ngưỡng Tày
tự ngàn xưa.
2. Xét về phương diện văn học, Thơ lẩu nằm trong nhóm các bài ca
hôn lễ, tiểu loại dân ca nghi lễ – phong tục, thuộc loại hình trữ tình dân
gian Việt Nam. Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn là những tác phẩm văn học
dân gian có giá trị về nội dung, nghệ thuật. Nội dung của Thơ lẩu
. Mặc dù nặng về nội dung đạo đức triết lí,
song các bài Thơ lẩu không phải là những câu dạy đời thô cứng hay lời giáo
huấn khô khan mà như những lời tâm tình dịu ngọt. Qua các bài hát
qua bao thế hệ. Có thể nói: Thơ lẩu là âm thanh của tình yêu và cuộc sống, là
cây cổ thụ trong đại ngàn Lượn hát của đồng bào.
93
Các yếu tố nghệ thuật giúp chuyển tải nội dung của lời ca. Sự hòa quyện
giữa các yếu tố thi pháp đã thể hiện tài năng sáng tạo, năng khiếu thơ ca của
các nghệ nhân dân gian. Thơ lẩu là làn điệu dân ca trữ tình không những
mang đậm chất dân gian mà còn phảng phất hơi thơ bác học. Tuy nhiên, giá
trị của các bài Thơ lẩu thường được đồng bào Tày biết đến, yêu quý và say
mê qua hình thức diễn xướng trong cộng đồng. Diễn xướng vừa là yếu tố thi
pháp, vừa là điều kiện sống còn đối với hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật độc đáo này. Nhắc tới diễn xướng Thơ lẩu không thể không nhắc tới
Quan làng và P - ,
những người “làm nghệ thuật” vì cộng đồng, vì sự gắn bó tình cảm tộc
người. Họ là người thổi linh hồn cho các điệu hát. Tiếng hát đối đáp êm ru,
nhẹ nhàng và các cử chỉ, điệu bộ chân thành, lịch sự của họ đã gieo thêm
niềm vui cho ngày lễ tơ hồng, gửi vào lòng người tình thân ái, hồn hậu và
chúc cho đôi vợ chồng trẻ mãi hạnh phúc, thủy chung.
Có thể nói, Thơ lẩu làm nên sức sống lâu bền trong kí ức dân gian
không chỉ nhờ tính nhân văn, tính triết lí, tính cộng đồng trong nội dung
lời hát, mà còn nhờ sức hấp dẫn, cách thể hiện riêng biệt, đặc sắc của
hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc này.
3. Thơ lẩu có ý nghĩa, vai trò quan trọng đối với đời sống tộc người
Tày. Đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn được diễn ra như một lễ
hội, bao gồm cả phần lễ và phần hội. Những nghi lễ, sinh hoạt trong đám cưới
là kết quả của một quá trình lâu dài được cộng đồng Tày dày công thiết lập.
Nó thể hiện ý thức của cả cộng đồng trước cuộc sống xã hội chung. Gạt bỏ đi
một số hạn chế tất yếu do lịch sử đem lại như tư tưởng Nho gia thần quyền, tư
tưởng duy tâm… về căn bản những nghi lễ trong đám cưới ở Chợ Đồn - Bắc
Kạn là tiến bộ. Các nghi lễ đã phản ánh ước vọng ngàn đời của nhân dân về
đạo lý làm người. Đó là tinh thần uống nước nhớ nguồn, là tình cảm đoàn kết,
keo sơn với họ hàng, người thân, là những lối ứng xử tao nhã, lịch thiệp trong
94
cuộc sống. Các nghi lễ trong đám cưới của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn
còn thể hiện sự trân trọng con người với những giá trị tốt đẹp nhất. Đó là mơ
ước thiết tha, chính đáng của đồng bào về một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm.
Do đó, sinh hoạt thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn mang ý nghĩa giáo dục, nhân
văn sâu sắc.
Với người Tày, lễ cưới là ngày vui của cuộc đời trước khi bước vào một cuộc
sống gia đình riêng. Đám cưới hạnh phúc, dư âm của nó sẽ theo suốt cuộc đời
con người. Mọi ý niệm, mọi lời nhắn gửi qua sinh hoạt Thơ lẩu trong đám cưới
giúp dồng bào ý thức rõ hơn về hạnh phúc sau này. Họ bước vào cuộc sống một
cách chủ động, vui vẻ và tự tin hơn. Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn không chỉ có
ý nghĩa đối với bản thân mỗi người mà còn có ý nghĩa với cộng đồng, làng xóm.
Thơ lẩu góp phần tạo dựng một sự gắn kết khăng khít giữa các thành viên trong
cộng đồng với nhau và giáo dục mỗi cá nhân hãy biết đặt cái tôi cá thể của mình
trong cái ta tập thể vững mạnh. Thơ lẩu là một sản phẩm văn hoá đặc trưng, góp
phần làm phong phú thêm cho kho tàng văn hoá phi vật thể của dân tộc. Thơ lẩu
làm cho cuộc sống của đồng bào Tày thêm thi vị, tươi vui. Qua Thơ lẩu, truyền
thống đạo đức tốt đẹp của người Tày được gìn giữ, lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Với vai trò, ý nghĩa như vậy, Thơ lẩu trở thành một phong tục đẹp trong đời
sống văn hoá dân tộc Tày nói chung, đời sống văn hoá dân gian Tày ở Chợ Đồn
– Bắc Kạn nói riêng.
4. Xa xưa, nhờ hàng trăm bài ca gắn với các nghi lễ đám cưới mà Thơ
lẩu đã chạm khắc vào không
, ở nhiều địa bàn văn hoá, Thơ lẩu chủ yếu chỉ
còn lưu lại trong kí ức của những thế hệ cao niên hay của những người làm
“nghề” Quan làng, P vùng sâu, vùng xa. Thơ lẩu đang
có nguy cơ bị diệt vong ngay chính tại mảnh đất đầu nguồn sản sinh ra nó.
Thơ lẩu ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là sinh hoạt văn hoá mang đậm bản sắc
truyền thống, nhưng không những bị thu hẹp về phạm vi sử dụng, số
95
lượng bài hát, mà còn bị suy giảm cả về vai trò, ý nghĩa. Nhận thức được
điều này, các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương đã có những biện
pháp tuyên truyền nhằm khôi phục, phát triển, song thành công mới chỉ
là bước đầu và chưa đáng kể.
5. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Thơ lẩu vẫn tồn tại trong đời sống
văn hoá Tày như một minh chứng cho sức sống và bản sắc dân tộc. Mong muốn
của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là bảo lưu, phát triển hình thức văn hóa này
nhưng phải làm gì để thế hệ hôm nay biết đến nhiều hơn về Thơ lẩu? Làm gì để
Thơ lẩu mãi sống trong lòng nhân dân như một nét đẹp truyền thống? Đó vẫn là
những câu hỏi khó, không dễ giải đáp. Qua việc khảo cứu, điều tra, tìm hiểu về
Thơ lẩu trong đời sống văn hóa dân gian ở Chợ Đồn - Bắc Kạn, luận văn thạc sĩ
này cũng thăm dò, tổng kết ý kiến và mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm
bảo lưu, phát triển Thơ lẩu ở cả hai hình thức “tĩnh” và “động”. Mong rằng các
giải pháp chúng tôi tổng kết được và đề xuất thêm sẽ nhận được sự quan tâm,
cùng đào sâu suy nghĩ từ nhiều người để có thể vực dậy nhanh chóng một hình
thức sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo.
Chúng tôi hi vọng, dòng chảy của văn hóa truyền thống sẽ tiếp tục được
thăng hoa trong niềm tự hào của người Tày, trong đó có cộng đồng Tày ở Chợ
Đồn – Bắc Kạn. Thơ lẩu sẽ như một nguồn mạch nối liền truyền thống với
hiện tại và tương lai. Mong rằng luận văn sẽ đem đến cái nhìn toàn diện hơn,
chân thực hơn, cập nhật hơn về Thơ lẩu - hình thức sinh hoạt văn hóa độc
đáo của người Tày ở một vùng quê cụ thể, góp phần giữ gìn, bảo lưu, phát
triển vốn văn hóa dân gian đặc sắc của dân tộc.
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lâm Xuân Ân, Thơ lẩu ở Chợ Đồn – Bắc Kạn, sưu tầm và biên dịch từ
năm 2001 (Tài liệu chưa xuất bản).
[2]. Triều Ân (1994), Ca dao Tày – Nùng, Nxb văn hóa dân tộc, H.
[3]. Triều Ân - Hoàng Quyết (1995), Tục cưới xin người Tày, Hội Văn hóa
dân tộc, H.
[4]. Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương (2009), Tổng điều
tra dân số và nhà ở Việt Nam, H.
[5]. Vi Quốc Bảo (1971), “Dân ca đám cưới Tày – Nùng”, Văn hóa nghệ
thuật số 3, H.
[6]. Lương Bèn (2011), Từ điển Tày – Việt, Nxb Đại học Thái Nguyên.
[7]. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và
Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H.
[8]. Nông Minh Châu (1973), Dân ca đám cưới Tày – Nùng, Nxb Việt Bắc,
Việt Bắc.
[9]. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa
thông tin, H.
[10]. Triệu Chấn Chức, Những bài Hát Quan làng, sưu tầm bằng tiếng Tày từ
ngày 1/2/2003, Tồng Chiêu - Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn (Tài
liệu chưa xuất bản).
[11]. Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb T.P Hồ Chí Minh
[12]. Lý Thị Cúc (2007), Những đặc trưng văn hóa trong lễ cưới truyền thống
của người Tày ở Bắc Kạn, Đề tài Nghiên cứu khoa học sinh viên, Đại
học Sư phạm Thái Nguyên.
[13]. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn, Niên giám thống kê năm 1999..
[14]. Cục thống kê tỉnh Bắc Kạn , Niên giám thống kê năm 2002.
[15]. Bế Viết Đẳng (1992), Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam, Viện dân tộc học, H.
97
[16]. Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2006), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao
truyền thống người Việt, Công trình nghiên cứu được giải ba A của Hội
Văn nghệ dân gian Việt Nam.
[17]. Hà Minh Đức (1995), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.
[18]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục, H.
[19]. Đỗ Thị Hòa (2003), trang phục các dân tộc người thiểu số nhóm ngôn
ngữ Việt – Mường và Tày – Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, H
[20]. Vi Hồng (1976), “Thử tìm hiểu về nội dung của Lượn”, Văn học số 3, H.
[21]. Vi Hồng (1976), “Vài suy nghĩ về hát quan lang, lượn, phong slư”, Văn
học số 3, H.
[22]. Vi Hồng (1994), Dân ca nghi lễ Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
[23]. Lê Thương Huyền (2011), Thơ lẩu của người Tày ở Hà Vị, Bạch Thông,
Bắc Kạn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
[24]. Ma Ngọc Hướng (2011), Hát Quan làng trong đám cưới của người
Tày Khao Hà Giang, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia, H.
[25]. Đinh Gia Khánh (2006), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
[26]. Lộc Bích Kiệm, “Đón dâu bằng thơ - nét đẹp trong văn hoá Tày”, Văn
hoá nghệ thuật, www.suutap.com.vn.
[27]. Lộc Bích Kiệm (2004), Đặc điểm dân ca đám cưới Tày – Nùng xứ Lạng,
Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn.
[28]. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn (1999), Tín ngưỡng dân gian Tày –
Lịch sử và hiện tại , Thái Nguyên.
[29]. Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa Toàn, Vũ Anh Tuấn (2002), Văn hóa dân
gian Tày, Sở Văn hóa thông tin, Thái Nguyên.
[30]. Hoàng Ngọc La, Lễ cưới cổ truyền của người Tày huyện Pác Nặm, tỉnh
Bắc Kạn, VCD 3 tập, Trung tâm trao đổi giáo dục với việt Nam, Quỹ hỗ
trợ bảo tồn nghệ thuật văn học dân gian, huyện uỷ, Đảng uỷ, UBND xã
Xuân La, phòng văn hoá thông tin huyện Pác Nặm, Bắc Kạn.
98
[31]. Đinh Trọng Lạc (1999), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, H.
[32]. Đàm Thùy Linh (2009), Hát Quan lang của người Tày ở Thạch An, Cao
Bằng, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Thái Nguyên.
[33]. Phương Lựu (2006), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, H.
[34]. C. Mac (1962), Bản thảo kinh tế- triết học, Nxb Sự thật, H.
[35]. Hoàng Nam (không rõ năm xuất bản), Văn hoá các dân tộc vùng Đông
Bắc Việt Nam, giáo trình đại học, Trường đại học Văn hoá, H.
[36]. Hoàng Nam (2001), Dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam, Nxb Văn hóa
thông tin, H.
[37]. Hoàng Tuấn Nam (2001), Việc dựng vợ gả chồng của người Tày Cao
Bằng, Trung tâm Văn hóa thông tin Cao Bằng, Cao Bằng.
[38]. Triệu Đức Ngự (1996), Thơ lẩu, Hội văn học nghệ thuật Bắc Thái, Bắc Thái.
[39]. Hà Sĩ Ngự, Những bài Hát Quan làng, sưu tầm thêm bằng tiếng Tày và
biên dịch từ ngày 25/11/2006 các bài Hát Quan làng do Triệu Chấn
Chức sưu tầm, Tồng Lường, Phương Viên, Chợ Đồn, Bắc Kạn (Tài liệu
chưa xuất bản).
[40]. Nông Văn Nhủng (2000), Tiếng ca người Bắc Kạn, Nxb Hội Văn học
nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn.
[41]. Nhiều tác giả (1974), Bước đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Sở Văn
hóa thông tin Việt Bắc, H.
[42]. Nhiều tác giả (2012), Nghi lễ dân gian một số dân tộc thiểu số Việt Nam,
Nxb Văn hóa dân tộc, H.
[43]. Ma Trường Nguyên (2012), Phượng hoàng núi, Nxb Đại học Thái Nguyên.
[44]. Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Huy Phách, Cung Văn Lược, Vương
Toàn (1993), Văn hoá truyền thống Tày Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
[45]. Hoàng Quyết – Tuấn Dũng (1994), Phong tục tập quán dân tộc Tày ở
Việt Bắc, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
99
[46]. Đặng Hoài Thu,“Khái niệm trò diễn và phân loại”, Văn hóa nghệ thuật,
www.vanhoanghe thuat.org.vn
[47]. Hà Văn Thư, Lã Văn Lô (1984), Văn hoá Tày Nùng, Nxb Văn hoá, H.
[48]. Hà Văn Tồn (2005), Những bài Hát Quan làng, sưu tầm và biên dịch
bằng tiếng Tày, Tồng Chiêu, Phương Viên, Chợ Đồn, Bắc Kạn (Tài
liệu chưa xuất bản).
[49]. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt Nam tập một, Nxb Giáo dục, H.
[50]. Hoàng Tiến Tựu (1997), “Góp phần xác định khái niệm diễn xướng dân
gian và tìm hiểu những yếu tố có tính chất kích thích trong dân ca”, Mối
quan hệ giữa diễn xướng dân gian và nghệ thuật sân khấu, Viện Nghệ
thuật – Bộ Văn hoá, H.
[51]. PGS. TS Đàm Thị Uyên (2009), Phong tục và tín ngưỡng tôn giáo
người Tày ở Cao Bằng, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
[52]. Hà Văn Viễn (2004), Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh
Bắc Kạn, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
[53]. Tân Việt (1997), Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb
Văn hoá Dân tộc, H.
[54]. Trần Quốc Vượng (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
[55]. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Kạn (2012), Đề cương thực hiện dự
án sưu tầm, bảo tồn “Thơ lẩu của người Tày” tỉnh Bắc Kạn, Bắc Kạn.
[56]. Nguyễn Thị Yên (2007), Tục ngữ ca dao Tày vùng Hồ Ba Bể, Sở Văn
hóa – Thông tin tỉnh Bắc Kạn, Nxb Văn hóa dân tộc, H.
100
PHỤ LỤC
1. Một số bài Thơ lẩu tiêu biểu
1.1. Một số bài hát Thơ lẩu tiêu biểu ở Chợ Đồn- Bắc Kạn
(Sắp xếp theo trình tự một cuộc diễn xướng Thơ lẩu)
Luận văn đã sưu tầm được 184 bài Thơ lẩu để tìm hiểu và nghiên cứu từ
các nguồn:
- Ông Lâm Xuân Ân, Bằng Lũng - Chợ Đồn - Bắc Kạn, sưu tầm và biên
dịch từ năm 2001.
- Ông Triệu Chấn Chức, Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn, sưu tầm từ
năm 2003. Ông Hà Sĩ Ngự, Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn bổ sung, biên
dịch từ năm 2006.
- Ông Hà Văn Tồn, Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn, sưu tầm và biên
dịch năm 2005.
- Tác giả luận văn sưu tầm các bài Thơ lẩu ở các xã Nam Cường, xã Đồng
Lạc - Chợ Đồn - Bắc Kạn từ nhiều nguồn khác nhau. Bản dịch của bà Hà Thị
Lợi nguyên quán Chợ Đồn - Bắc Kạn và tác giả luận văn.
Những bài Thơ lẩu mà chúng tôi sưu tầm, biên dịch được, tương đối
đầy đủ. Hiện nay, nhiều bài vẫn còn được diễn xướng trong đám cưới của
người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn. Sau đây xin dẫn một số bài tiêu biểu:
Nguyên bản tiếng Tày: Dịch:
* Bài ca chăng dây đón đƣờng:
Bài 1: Lền khên nọoc tàng Chăng dây cản đƣờng
Khỏi chiềng mừa khách lạ tàng mường Xin thưa quý khách lạ đàng xa
Khỏi so tham mọi cần tỉ nảy. Tôi xin được hỏi han điều này.
Pây chợ lụ pây phương Đi chợ hay hành hương
Lụ cần pây liểu mường mà quá? Hay qua đường mà tạt vào?
Đoàn cần kẻo mà thâng bản khỏi Cả đoàn người kéo đến bản tôi
Ham háp thêm xe cộ mà theo Cả hành lý, ngựa xe kéo đến
1
Chúp khao thêm quai kheo bjoóc bửa Nón trắng với quai xanh hoa bứa
Thửa khao thêm khoá lụa tốt thây Vận áo trắng, quần lụa tốt thay
Ham háp mì cúa đây, cúa mjạc. Gồng gánh những của hay, vật đẹp.
Bấu chử tàng hẩu khách pây puôn Đây không phải đường khách đi buôn
Bấu chử cạ tàng luông puôn pản Đây là đường vào thôn có chủ
Tàng nẩy là khẩu bản bọn là. Nên phải giữ người để hỏi thăm.
Khách lạ pây hâư mà thâng nảy? Khách lạ đi đâu mà đến đây?
Mà việc đây hại hảy lẩn căn Có việc vui hãy kể cho nhau
Bọn khỏi chắng ke lền hẩư khẩu./. Biết rõ chúng tôi sẽ bỏ dây cho vào./.
Bài 2: Lền khên nọoc tàng Chăng dây cản đƣờng
Khỏi chiềng mừa các á Lương nga Xin thưa cùng các nàng Lương nga
Củ tin dại khỏi mà, củ tin thoa khỏi lọt, Bước tiếp bước tôi đã đến đây,
Tốc tin thăng vườn bjoóc cần chướng Nơi này, nơi vườn hoa có chủ
Mì lục loàn khoáng sooc Có lũ trẻ chăng dây cản đường
Bấu hẩu cần pạng noọc khẩu pây
Khỏi dú tang mường bấu lụ Người mường lạ không đc vào
Bầu chắc răng duyên cớ cón lăng. Từ chốn xa tôi nào biết lí do.
Xo noọng nàng củ lền hẩu khỏi Xin các em hãy bỏ dây đi
Rặp khươi mấu khẩu bản khẩu rườn./. Để tôi đưa chú rể vào bản vào nhà./.
* Bài ca lên cầu thang:
Bài 3: Mời lẩu dào kha Mời rƣợu rửa chân
Khỏi chiềng mừa khách lạ đàng xa Tôi thưa đến khách lạ đường xa
Pi quá vạ hạn quả, Năm ngoái trời hạn quá,
Pi nẩy vạ hạn héo... Năm nay trời hạn khô…
Tỷ khỏi lẹo nặm dùng thật sự Chỗ tôi hết nước dùng thật sự
Nhờ mì tối chẻn lẩu dùng thay Nhờ có đôi chén rượu dùng thay
Mởi khách dào kha mừ củng đẩy./. Mời khách rửa chân tay cũng được./.
2
* Bài ca giữ cửa:
Bài 4: Dày hảng pác tu Đó chắn cửa nhà
Khỏi chiềng mừa các á Lương Nga Xin thưa với các nàng Lương Nga
Dày cần pây hảng pia hảng nạc. Đó dùng để đơm cá, rái cá.
Hảng nạc dú cốc phia, Rái cá ở vách đá,
Hảng pia dú chang khuổi Cá thì ở suối sông
Dày lăng mà hảng lối khửn lồng? Sao đặt đó trên đường đi lại?
Dày lăng hảng chang không pây tẻo? Sao cái đó lại chăng không?
Bọn khỏi dú ngoại kéo mà thâng Chúng tôi từ bên ngoài đi tới
Tải khươi mà cung các lườn cần Dẫn rể đến mà cung đón nàng dâu
Củ tin khỏi mà thâng lườn tản Chúng tôi xin đem cất đó
Ngám thuông đếch chang bản hảng dày Cho đoàn được vào trong
Vàn thao châm củ pây ơn bái ./. Xin cảm ơn, cảm tạ./.
Bài 5: Mời khay tu Mời mở cửa
Khỏi chiềng mừa họ hàng tung xuân Xin thưa cùng họ hàng giai nhân
Khỏi pền cần cách không mà ngộ Chúng tôi khách đàng bên hội ngộ
Hăn cần hắp tu khỏa au the Thấy cửa đóng then cài
Khỏa cần khảo teng tong Hai tay kéo không ra
Thong mừ khau bấu đảy Cậy nhờ nữ nhỉ trẻ
Củ pác vàn li lọi sthao eng Mở cửa cho đoàn vào
Khỏi so phép khẩu tu chiềng họ./. Tôi xin phép để thưa chào hai họ./.
Bài 6: Đén thƣ tu Đèn thắp giữ cửa
Khỏi chiềng mừa các á Lương Nga Tôi thưa với các nàng Lương Nga
Tỷ khỏi bấu mì đén lủng quang Chốn tôi không có đèn soi toả
Lước ngòi bặng tha vằn khửn mấư. Ngước nhìn như mặt trời mới mọc.
Tởi hâư tạo pền đén thẻ dầu? Đời nào tạo được đèn thế dầu?
Tởi hâư tạo pền dầu chút đèn? Đời nào tạo được dầu thắp đèn?
Bọn khỏi xo sham ngay thật thá Chúng tôi xin hỏi ngay thật thà
Cạ hẩư khỏi táng xạ chắc ngay Nói cho tôi ở khác xã biết
Bấu mì cần củ pây hẩư khoái./. Không thì người cất ngay giúp hộ./.
3
* Bài ca trải chiếu:
Bài 7: Phục pỉe Trải chiếu ngƣợc
Cần hâư hăn âu thâu lườn coóc, Người nào thấy cột nhà bằng sừng,
Cần hâư hăn pjoói phục pjoói ngai Người nào thấy trải chiếu lộn ngược
Bọn khỏi bẩu giám tài lồng nẳng. Chúng tôi không dám xuống ngồi.
Chiềng lườn cần cỏi ngẩm hẩư minh Thưa nhà người hãy ngẫm cho minh
Tự vạn cổ sơ thinh lẹ nghịa Từ vạn cổ sơ sinh lễ nghĩa
Bấu hăn phục pjoóc pỉe slắc pày. Không thấy chiếu trải ngược bao giờ.
Bọn khỏi khách tàng quây slim ngại Chúng tôi khách đường xa ái ngại
Nạp thửa vấy thây dại vô duyên. Mặc áo lộn trái quá vô duyên.
Khỏi xo lần tằng lườn hẩu lẹo Tôi xin kể cả nhà cho hết
Vàn noọng slao pjoóc tẻo hẩu đây Mời em gái trải lại cho ngay
Bọn khỏi khách tàng quây xo nẳng./. Chúng tôi khách đường xa xin toạ./.
* Bài ca mời chào:
Bài 8: Mời khách nẳng Mời khách ngồi
Khỏi chiềng mừa khách lạ táng mường Tôi thưa đến khách lạ khác mường
Lườn khỏi xằng cao chương pền nẳng Nhà tôi chưa cao, chưa đáng toạ
Nhẹ lăng mì giường tắm, giường thung. Lẽ ra có giường thấp, giường cao.
Giường thung lỉn lẩu cẳm, Giường cao chơi sớm tối,
Giường tắm lỉn pjầu ngài. Giường thấp ăn trưa chiều.
Bởi chương nhằng chập lai khỏ khát Bởi vì còn gặp nhiều hoàn cảnh
Nghị mà slim củng hác xiết xa Nghĩ về tâm cũng thấy xiết xa
Xằng tậu đẩy chiếu va, chiếu phượng Chưa sắm được chiếu hoa, chiếu phượng
The phứa khách lợi vượng mà lườn. Để đón khách sang vượng đến nhà.
Khách cần dú ngoại noọc mà thâng Khách người ở bên ngoài đến đây
Pjoói phục lẹ quá không pền chá Trải chiếu xoàng qua loa như vậy
Bấu diền cỏi thong thả chùa căn Không chê hãy thong thả rủ nhau
Nẳng lồng đuổi gia tung họ khỏi./. Ngồi xuống với gia trung họ mạc./.
4
Bài 9: Mời nặm chè Mời nƣớc chè
Khỏi chiêng mừa khách lạ tang quay Thưa quý khách đường xa
Mì việc cần chắng mà thâng khỏi Có việc thì các bà mới tới
Khửn khau them lồng khuổi khỏ khăn, Lặn lội qua nhiều suối khó khăn,
Mất lèng them tổn công mà lọt. Mất nhiều nhiều công sức.
Bọn khỏi vui bặng bjoóc mùa xuân Thực tôi vui như hoa nở mùa xuân
Bấu mì lăng lèn công cần đảy, Không có gì đền đáp,
Mởi thong tản cần hạy chùa căn Chỉ có bát nước chè quê là sẵn
Tạm chin chnr nặm mồm đợ khát, Uống tạm cho đỡ khát,
Bấu tang lăng chè sả phắng thôm Chẳng khác chi nước vôi
Bấu diềm che tản cần./. Không chê xin mời nhận./.
Bài 10: Mởi phƣờng chin nặm, lảo Mời bạn phƣờng hút thuốc, uống nƣớc
Khởi chiêng mừa tong phường bạn khỏa Tôi thưa chiềng bạn phường bằng hữu
Khửn khau thêm lồng tả mà thâng Vượt đèo và lội suối đến đây
Mất lèng thêm tổn công mà lọt Mất công sức cả ngày không tiếc
Tọng khỏi phông bặng bjoocs mùa xuân Lòng tôi vui như hoa xuân nở rộ
Mời phường chin nặm mồm gia đửa Xin mời phường uống chén nước
Chè hom dú cách lộ tang quay Chè thơm bán chợ xa
Noongj khỏi bấu lừ pây đảy đọt Em tôi không tới được
Chẳng kếp au chè nhọt sơn lâm Đành dùng chè sơn cước
Chin kẹo lẩu chin quá lảo pao Ăn kẹo và hút thuốc
Tổng phường cỏi vui duyên thong thả Thong thả ngồi góp vui
Mọi cần mọi quén nả lạ tên Mọi người đều quen quá
Khỏi bấu chắc từng tên đảy thóp Mà tên không nhớ hết
Nhình trài nả khao soác ỷ đây Ai cũng đẹp nết đẹp người
Phường hợi cỏi nhận pây hẩu khỏi Mời các bạn uống nước hút thuốc
5
* Bài ca hỏi danh tính:
Bài 11: Slam khách lạ Hỏi khách lạ
Slíp hay, bấu táy, giờ nảy Mười hay, không bằng một may, giờ này
Khách lạ cần chắng đẩy mà thâng Khách lạ người mới được về đến
Vằn nẩy khỏi tâu lườn gia tế Hôm nay tôi nối nhà, sửa cửa
Mừng vui đuổi cần ké slổng hâng Mừng vui với người già sống lâu
Đẩy chập căn pây hẩư mà ngộ Được gặp nhau đi đâu đến ngộ
Cần ké hẩư slam đu chắc kháo Người già hỏi han nhiều
Mà việc lăng lẻ páo hẩư ngay Về việc gì thì báo cho ngay
Khoi chắng chắc âu pây khẩu sổ . Tôi mới biết lấy ghi vào sổ.
Thôi thôi cần cỏi lẩn oóc mà Thôi thôi người hãy kể thật lòng
Hẩư họ hàng tung gia khỏi chắc./. Cho họ hàng trong nhà tôi hiểu./.
* Bài ca trình tổ:
Bài 12: Chút hƣơng, chƣợng đén chiềng tổ Thắp hƣơng, thắp đèn kính tổ
Mì cốc chắng mà pjai buốt nhọt, Có gốc mới có ngọn nảy búp,
Mì ké chắng mì ón kế tông. Có già mới có trẻ kế tông.
Hôn hỷ củng chứ thâng tiên tổ Hôn hỷ cũng nhớ đến tổ tiên
Lườn cần hỡi slẳm slựa chút hương. Nhà người hãy chuẩn bị thắp hương.
Chút hương khửn lủng toả tằng lườn, Thắp hương lên lò giang ngay ngắn,
Chỏi lủng khóp tứ phương gia đáng Thắp đèn lên sáng toả cả nhà
Lục khươi tẻ chiềng táng tổ tông Con rể sẽ kính tổ, kính tông
Vằn lẩu châm lục chinh định các./. Ngày rượu hồng con cái kết hôn./.
* Bài ca mời cơm:
Bài 13: Slam khẩu pầu Hỏi khách dùng cơm
Khỏi chiềng mừa khách lạ đàng xa Tôi thưa đến khách lạ đàng xa
Mì việc chắng đẩy mà thâng thoá Có việc mới được đến cửa nhà
6
Củ pác xo sham quá tản cần Cất lời xin hỏi qua đại biểu
Đẩy kin lụ xằng cà noọng Được ăn chưa hãy bảo em
Xa tắc téng tẻ tọn khửn thâng. Tìm, xếp mâm bưng lên ngay.
Kin pát khẩu đuổi căn tẻm toọng, Ăn bát cơm với nhau lót dạ,
Lụ kin dá cạ pjoóng hẩư căn. Hay ăn rồi cũng nói rõ cho nhau.
Thửa khát cần chiếm hăn, Áo rách người nhìn thấy,
Khửn lườn tẻo khút khú pây đai Lên nhà lại lủi thủi đi không
Mờt toọng khách vạng lai khỏ phuối . Mất lòng khách vãng lai khó nói.
Thật thà cần lẩn đuổi giờ này Thật thà người kể với giờ này
Bọn khỏi chắng chắc pây lo liệu./. Chúng tôi mới biết đi lo liệu./.
* Bài ca bái tổ:
Bài 14: Tải khƣơi lạy choòng Dẫn rể ra lạy tổ tiên
Lại thâng giờ ngoạt tiên thiên đức Đã đến giờ ngoạt tiên thiên đức
Giờ ngũ phúc lâm môn Giờ ngũ phúc lâm môn
Giờ đây khỏi tải khươi kính tổ Giờ tôn nghiêm đại lễ
Nhất kính mừa khửn chỏ khửn chông Thứ nhất xin kính thưa thủy tổ
Nhì kính mừa thâng Đẳm táng Thứ nhì kính thưa bậc Tổ tiên
Tham kính khửn thản tềng hua Thứ ba kính thưa tiên hiền gia chủ
Giờ đây khỏi hẩư khươi kính tổ./. Giờ đây tôi dẫn rể ra kính tổ./.
* Bài ca đón dâu:
Bài 15: Nhận hàng Quan làng nộp Nhận đồ sính lễ của nhà trai
Khỏi chiềng mừa thong tản Quan làng Xin thưa hai vị Quan làng
Mọi hang cần thẳm mà đo lẳm Mọi thứ lễ nhà trai sắm đủ
Lảo bâu thêm mầu chấm mì đo, Từ thuốc lá trầu cau,
Phjai rằm khấu chèn hua tật tang Vải “ lằm khấu” và tiền giường thờ
Tẻo thêm thong vuông phải quá hồng Có cả vải quá hồng
Mọi giổng đều mì ngần kèm lẹ Loại nào cũng có tiền kèm đủ
Pú giả cần chuẩn bị đây đa Chuẩn bị thật chu đáo
Thẻ họ khỏi tứn mà so nhận Chúng tôi xin đón nhận
7
Bài 16: Phƣờng nộp tặng phẩm Bạn phƣờng giao tặng phẩm
Khỏi chiềng mừa tồng phường bạn khoả Tôi thưa về đồng canh bè bạn
Khửn khau thêm lồng tả mà thâng, Leo núi thêm lội suối về đến,
Mất lèng thêm tổn công mà lọt Mất sức thêm tốn công về đến
Loọng cạ mì ăn tiểng đuổi cần. Gọi là có cái tiếng với nhau.
Lẹ vật bấu quá đai pện chá, Lễ vật gọi là có như vậy,
Nghị mà củng xẩy nả đuổi cần. Nghĩ về cũng xấu mặt với nhau.
Nói, nói củng nhận âu giá chổi Ít, ít cũng nhận lấy đừng chối
Của lẻ nọi – tình mì lai. Của thì ít – tình thì nhiều.
Củ pác khỏi xo nai pả mẻ Mở miệng tôi xin mời pả mẻ
Cỏi oóc mà nhận lệ khẩu mừa Hãy ra để nhận lễ đi vào
Của phường tặng hẩư lùa hất tích./. Vật phường tặng cho dâu làm tích./.
* Bài ca chia tay, nhắn gửi:
Bài 17: Thắng lƣờn bếp lạng pát Chào và cám ơn nhà bếp
Tha vằn chại mừa Tây tốc tằm Mặt trời ngả về Tây đã thấp
Củ pác khỏi so thẳng tẻo mừa Chúng tôi sắp lại quê
Pát chản tả tẩu nưa bấu lạng Trước khi ra về
Tả the hầu sthao bản lương lân Xin có mấy lời
Tọn tặp thêm dò bôm khỏ lẳm Các anh chị phục vụ khó khăn
Lắm tắm thêm pát nặm chậu mà Từ chiếc tăm chậu nước
Cởi lảo cắp bàn tà liền lạ Cơm nước thời ăn xong
Au mà tặt tó nả dường chang Mâm bát còn bỏ đó
Thiết đại khỏi chin pjom ơn bái ./. Chúng tôi xin chào và cảm ơn nhiều./.
Bài 18: Thắng xuân họ Chào xuân họ
Thôi đoạn khỏi so pây Thôi đoàn xin ra về
Tán lai tẻo tốc khuây đăm cẳm Nói nhiều kẻo say mê, trời tối
Củ pác khỏi so thắng tẻo mừa. Chúng tôi xin phép chào quay về.
Nộc kin mác lai cừa tẻo ngoạc Chim kiếm ăn nhiều nơi cũng về tổ
8
ỷ như lình kin mác đào tiên Ví như khỉ ăn quả đào tiên
Khỏi so thắng mọi cần huôn hỉ Người đi đây, đi đó
Cùng pỉ noọng puổn tỉ mọi cần Cũng lại về quê hương
Thuổn thảy tằng thao châm báo nọi Ruột gan đều hướng tới quê hương.
Núc ních tẻo tốc lả vằn đăm, Dùng dằng lại tối đêm,
Tẻo bấu lập mừa thâng tung thoá. Lại không kịp tới nhà.
So phép đuổi bảc pả tằng lai, Xin phép bác bá hai họ,
Thuổm đếch ké nhình chài xuân họ Cả trẻ già nữ, nam hai họ
Cỏi thong thả cảng cỏ tốc lăng Hãy thong thả nói chuyện ngồi sau
Khỏi tẻ so hồi quân quê các. Tôi xin phép thu quân về nhà.
Tốc lăng mạnh lèng mấư lưu niên, Ở sau được mạnh khoẻ lưu niên,
Hết kin đảy phúc tuyền mát mé, Làm ăn được vẹn tuyền mát mẻ,
Đắc thọ thổng vạn tuế thổ đa, Sống đắc thọ vạn tuế số đa,
Hết kin đảy vinh va, phú quý./. Chúng tôi người khác chốn xin về./.
1.2. Một số bài Thơ lẩu tiêu biểu ở Xuân La, Nghiên Loan - Pác Nặm- Bắc Kạn
(Sắp xếp theo trình tự một cuộc Thơ lẩu)
Ngoài những bài Thơ lẩu ở huyện Chợ Đồn - Bắc Kạn, luận văn còn sưu tập
được những bài Thơ lẩu ở Xuân La, xã Nghiên Loan - Pác Nặm - Bắc Kạn từ
nhiều nguồn khác nhau để làm tài liệu so sánh, đối chiếu. Bản dịch của bà Hà
Thị Lợi nguyên quán Chợ Đồn - Bắc Kạn và tác giả luận văn. Sau đây xin dẫn
một số bài hát tiêu biểu:
Nguyên bản tiếng Tày: Dịch:
* Bài ca chăng dây đón đƣờng:
Bài 1: Pjết lền khên tàng Xin tháo dây
Khỏi chiềng mừa slong á khên tàng Tôi kính thưa hai nàng chăng dây
Khỏi chiềng mừa slong nàng khên bjoóc Tôi kính thưa hai nàng chăng hoa
9
Bờu hử cần khảu óc pây mà Không cho người đi qua, đi lại
Lẹ nẩy khỏi mà cưởi hôn nhân Lễ này tôi để làm lễ cưới
Pjom nguyệt lạo xe pền phu phụ. Ơn nguyệt lão se nên vợ chồng.
Củ tin mà thâng xử rườn cần Đưa tin đến bản xứ nhà người
Lẹ vật khỏi mà thang kỉnh tổ. Lễ vật tôi dâng kính tổ.
Khỏi vàn mừa cách lộ củ pây Tôi nhờ người cách lộ cất dùm
Bọn khỏi cần tàng quây xo quá./. Chúng tôi người đàng xa xin quá./.
* Bài ca lên cầu thang:
Bài 2: Hảng dầy Đó chắn
Khỏi chiềng mừa quý chức Đông Tây Tôi kính thưa quý chức Đông Tây
Phiệc lăng cần âu dầy mà hảng? Việc gì người lấy đó về chăng?
Dầy cần củ khửn thắn ỷ đây Đó người cất lên trên cho tốt
Lục đếch chùa căn pây hắp thác Con trẻ rủ nhau đi đắp thác
Đảy pja mà phứa khéc tằng lai Được cá về đãi khách đường xa
Slao báo them nhình chài mà hội Thanh niên thêm nữ nam về hội
Càn nặm cần khẻo rọi khẩu chang Đòn gánh nước khéo luồn vào trong
Hạy củ dầy khửng các mừa sle Hãy cất đó lên gác để dành
Bọn khỏi cần cách quê ơn bái./. Bọn tôi người khác quê cảm tạ./.
* Bài ca giữ cửa:
Bài 3: Hảng đén pác tu Đèn thắp chắn cửa
Củ tin khỏi mà thâng khỏ lẳm Đưa tin tôi về đến khó khăn
Nắm hăn phầy mảy nặm slắc pầy Không thấy lửa cháy nước bao giờ
Bong khỏi xo tham ngay thật thá Chúng tôi xin hỏi ngay thật thà
Liệm mừ khỏi chiềng quá tổ tiên Liệu tay tôi hỏi qua tổ tiên
Đèn lăng cần mà khoen tỉ nảy? Đèn của ai mà treo chỗ này?
Phuối oóc mà chấp slẩy tằng lai Nói ra lại đau lòng nhiều người
Nắm chử khỏi tha lài táng cạ./. Không phải tôi hoa mắt tự nói./.
10
* Bài ca trải chiếu:
Bài 4: Phục pỉe Trải chiếu ngƣợc
Khỏi chiềng mừa quý chức táng mường Tôi thưa đến các vị khác mường
Lườn cần chăn giàu sang, phú quý. Nhà người thật giàu sang, phú quý.
Lườn pả khỏi pjá nỉ rặp riều Nhà bá tôi phải trả nợ nhiều
Tèn nỉ nắm khát theo slắc mự Trả không hết khất theo mùa vụ
Bảc pả khỏi pây dự au mà Bác bá tôi mới đi mua về
Dự đẩy phục lài va piết toọng Mua được chiếu ngọc hoa êm bụng
Au mà phứa pỉ noọng họ hàng. Lấy về phòng có khách, họ hàng.
Khỏi lo nặm tốc lồng piái pjẻ Tôi sợ nước rơi nên trải ngược
Khỏi tỉnh cằm tua ké cạ ngay Nghe theo lời người già dạy bảo
Cần mì phiệc lăng đây hạy nẳng./. Người có việc gì hay hãy ngồi./.
* Bài ca mời chào:
Bài 5: Mời khách nẳng Mời khách ngồi
Củ tin cần khửn mà thâng thoá Cất bước người được về đến đây
Bọn khỏi pjái phục thả đạ hâng. Chúng tôi trải chiếu chờ đã lâu.
Tản cần khửn mà thâng đảy lọt Đón người đến được vui
Chồm thuổn tằng chường bjoóc, va Xem hết cả giường hoa, giường ngọc
Chồm thuổn tằng phục va phục phượng Xem hết cả chiếu hoa, chiếu phượng
Tản cần chồm mọi dưởng đây lai Đón người xem mọi thứ được nhiều
Chiềng cần cỏi chỉ chai nẳng lồng, thôi a! Mời chị, anh ngồi xuống thôi ạ./.
* Bài ca trình tổ:
Bài 6: Chút hƣơng, chƣợng đén chiềng tổ Thắp hƣơng, thắp đèn kính tổ
Bàn cổ nhằng lộn lạo thể lương Bàn cỗ còn lộn xộn
Ngọc vàng xoi au hưởng khửn tiển Ngọc vàng xin lấy hương lên thắp
Khỏi chiềng mừa quỷ chức hương lân Tôi kính thưa quý chức hương lân
11
Pửa cón slinh mì nàng Hản Thị Ngày xưa sinh có nàng Hán Thị
Pỏ mẻ ép hử nhị mừa phua Bố mẹ ép chị lấy chồng
Nắm thúc toọng, cười chưa nả mjạc Chưa được lòng, cười chưa mặt đẹp
Nàng ni khửn sơn Nhạc vận thân Nàng chốn lên núi Nhạc nhờ thân
Chắng piến pền hương xông mạy quẻ Biến thành hương thơm cây quế
Slao báo khẩu ngản lạ pây xa Trai gái cơm ngán lạ đi tìm
Chắng xác pước au mà dảng xá Mới bóc vỏ lấy về treo bếp
Thôi đoạn au lồng chộc pây choỏng, Thôi thì lấy xuống cối để đập,
Au lồng loỏng pây tăm Lấy xuống thùng để giã
Càn khẻo au khửn lọc, nưa, xâng Lấy lên lọc, dần, sàng
Chắng khẩu đông au mạy lằm oón Mới vào rừng lấy cây ướt, mềm
Au mà chiếc hử pjọm sle hương Về chẻ làm thẻ hương
Chắng pền hương pền hoa khai chợ Mới nên hương, nên hoa bán chợ
Lườn cần chắng pây dự hương ban Nhà người mới đi mua hương thơm
Au mà chút rủng pàn đẳm táng./. Lấy về thắp sáng suốt ngày đêm.
12
2. Lƣợc đồ các địa danh có Thơ lẩu mà luận văn nghiên cứu
13
3. Một số hình ảnh về đời sống văn hóa của ngƣời Tày
3.1. Một số hình ảnh về đời sống văn hóa vật chất
Ảnh 1: Thôn bản của người Tày ở Phương Viên – Chợ Đồn – Bắc Kạn.
Ảnh do tác giả đề tài chụp ngày 17 tháng 05 năm 2008.
Ảnh 2: Trang phục truyền thống của phụ nữ Tày.
Theo nguồn www.baobackan.org.vn
14
3.2. Một số hình ảnh về đời sống văn hóa tinh thần
Ảnh 3: Lễ hội Lồng Tồng của người Tày. Theo nguồn www.baobackan.org.vn
Ảnh 4: Hội tung còn đầu xuân của người Tày.
Ảnh do nhà báo Liêu Chiến – Phó TBT báo Thái Nguyên cung cấp.
15
3.3 Một số hình ảnh về diễn xướng Thơ lẩu
Ảnh 5: Nhà trai chuẩn bị đồ sính lễ trong đám cưới cho nhà gái.
Ảnh chụp từ album Ảnh tư liệu Dự án bảo tồn “Thơ lẩu – Thơ đám cưới của
người Tày”, UBND – Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn.
Ảnh 6: Đoàn đón dâu trong đám cưới của người Tày
ở Phương Viên – Chợ Đồn – Bắc Kạn. Ảnh do Quan làng Hà Sĩ Ngự
ở Phương Viên – Chợ Đồn – Bắc Kạn cung cấp.
16
Ảnh 7: Nghi thức Chăng dây ở nhà gái trong diễn xướng Thơ lẩu.
Ảnh chụp từ album Ảnh tư liệu Dự án bảo tồn “Thơ lẩu – Thơ đám cưới của
người Tày”, UBND – Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn.
Ảnh 8: Nghi thức Mời – chối rượu rửa chân ở nhà gái trong diễn xướng Thơ lẩu.
Ảnh chụp từ album Ảnh tư liệu Dự án bảo tồn “Thơ lẩu – Thơ đám cưới của
người Tày”, UBND – Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn.
17
Ảnh 9: Đó chắn cầu thang ở nhà gái trước khi hát những bài Thơ lẩu xin vào nhà.
Ảnh từ VCD 3 tập,“Lễ cưới cổ truyền của người Tày huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc
Kạn”, chịu trách nhiệm Hoàng Ngọc La.
Ảnh 10: Trải chiếu ngược trước khi khách hát những bài Thơ lẩu xin trải lại chiếu.
Ảnh do Quan làng Hà Sĩ Ngự ở Phương Viên – Chợ Đồn – Bắc Kạn cung cấp.
18
Ảnh 11: Diễn xướng Hát Quan làng (Thơ lẩu) ở Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn.
Ảnh do Quan làng Hà Sĩ Ngự ở Phương Viên – Chợ Đồn – Bắc Kạn cung cấp
Ảnh 12: Thắp hương trình tổ trong diễn xướng Thơ lẩu
Ảnh chụp từ album Ảnh tư liệu Dự án bảo tồn “Thơ lẩu – Thơ đám cưới của
người Tày”, UBND – Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn.
19
Ảnh 13: Tư trang của Cô dâu mang về nhà chồng
Ảnh chụp từ album Ảnh tư liệu Dự án bảo tồn “Thơ lẩu – Thơ đám cưới của
người Tày”, UBND – Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn.
Ảnh 14: Bố mẹ vợ ngồi chuẩn bị cho nghi lễ Dâng tấm vải ướt – khô
Ảnh chụp từ album Ảnh tư liệu Dự án bảo tồn “Thơ lẩu – Thơ đám cưới của
người Tày”, UBND – Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn.
20
Ảnh 15: Tác giả luận văn đang phỏng vấn Quan làng Hà Sĩ Ngự, 63 tuổi,
ở Phương Viên - Chợ Đồn - Bắc Kạn. Ảnh chụp ngày 02/ 12/ 2007
Ảnh 16: Tác giả luận văn đang phỏng vấn Ông Lâm Xuân Ân, 57 tuổi,
nguyên Trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện Chợ Đồn – Bắc Kạn.
Ảnh chụp ngày 12/06/2013
21
Ảnh 17: Những bài Hát Quan làng do ông Triệu Chấn Chức,
sưu tầm được từ ngày 1/2/2003 ở Phương Viên – Chợ Đồn – Bắc Kạn.
Ảnh tác giả chụp ngày 12/02/2008.
Ảnh 18: Đề cương Dự án bảo tồn “Thơ lẩu – Thơ đám cưới của người Tày”,
UBND – Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Kạn.
Ảnh do tác giả luận văn chụp ngày 17/ 06/2013.
22