ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------

NNGGUUYYỄỄNN VVĂĂNN HHƯƯNNGG

THƠ TRẦN NHUẬN MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thái Nguyên, năm 2011

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------

NNGGUUYYỄỄNN VVĂĂNN HHƯƯNNGG

THƠ TRẦN NHUẬN MINH CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thái Nguyên, năm 2011

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX và tiếp nối

sang đầu thế kỉ XXI, Trần Nhuận Minh là nhà thơ có một khối lượng sáng tác

hết sức phong phú và đa dạng. Nếu chỉ dừng lại ở một vài tập thơ trong từng

thời điểm thì thật khó có thể vẽ lên bức chân dung văn học của ông. 25 năm

trước thời kì đổi mới, người ta biết đến ông trên thi đàn, với những bài thơ hiền

lành, giản dị nhưng cũng không kém phần sâu sắc, hóm hỉnh; cho đến 25 năm

sau đổi mới, tính đến nay, bước đi của Trần Nhuận Minh đột ngột và dồn dập,

biến ảo và sâu sắc, như cuộc sống đa chiều đang diễn ra hàng ngày.

Sáng tác thơ đối với Trần Nhuận Minh là cả một quá trình đầy hạnh phúc

nhưng cũng đầy lo âu và dằn vặt. Làm thơ rất sớm, năm 1960, ông đã có thơ

đăng báo. Tập thơ đầu tiên: Đấy là tình yêu ra đời năm 1971, sau đó ông lần

lượt cho ra đời các tập thơ: Âm điệu một vùng đất (1980), Thành phố bên này

sông (1982), Hoa cỏ (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Nhà thơ và hoa cỏ (1993),

Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và

Miền dân gian mây trắng (2008).

Quá trình sáng tác là một quá trình vận động trong nhận thức của Trần

Nhuận Minh. Từ chỗ làm thơ như theo “một công thức có sẵn, là thứ thơ mang

tính chất minh họa”, ông đã cương quyết “bỏ lại đọc đƣờng” những đứa con tinh

thần “khô cứng” của mình để đi tới con đường nghệ thuật đích thực, đó là: “Hãy

áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Trong số nhà thơ thế hệ chống Mĩ,

có lẽ, chỉ có Trần Nhuận Minh là dứt khoát từ bỏ 25 năm “thơ bao cấp của

mình”. Đây không phải là đoạn tuyệt với quá khứ mà là đoạn tuyệt với một kiểu

tư duy bao cấp của ông trong quá khứ. Và cũng chính từ đây, trang thơ ông thật

sự “lật cánh”.

Không quan sát một cách duy cảm, mà bằng những va chạm trực tiếp với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đời sống hiện thực, thơ ông thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về những nỗi đau có

2

thực của những kiếp người, về những trạng thái xã hội đầy những khiếm khuyết,

đầy những nhức nhối, xót xa qua bức chân dung số phận con người đa dạng và

phức tạp.

Đặc điểm nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh là sự đan kết thực – hư

trong việc xây dựng thế giới hình tượng đã mở ra khả năng chiếm lĩnh, nắm bắt

và giải thích hiện thực, đồng thời diễn tả thế giới tâm linh vốn nhiều bí ẩn và

những dấu hiệu mong manh mơ hồ, khó nắm bắt. Người đọc vì thế khi tiếp cận

thơ ông phải tiếp cận trong tính chất đa chiều, khái quát và phong phú. Thơ ông,

quả là một thứ thơ có màu sắc riêng, có phong cách riêng và có một vị trí riêng

trong đời sống thơ ca hiện đại.

Để đánh giá một cách xác đáng về thơ Trần Nhuận Minh, nếu chúng ta

chỉ dừng lại ở một vài bài nghiên cứu thì không thể có cái nhìn khái quát về thơ

ông. Phải xâu chuỗi cả đời thơ nửa thế kỉ qua, dưới nhiều góc cạnh mới thấy hết

được sự sáng tạo đáng trân trọng của Trần Nhuận Minh. Có như vậy, chúng ta

mới nhận diện được thơ Trần Nhuận Minh và khẳng định những cống hiến của

ông trong văn học nghệ thuật suốt 50 năm qua. Mới hiểu vì sao ông được tặng

giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho hai tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ

và Bản Xô nát hoang dã, về hàng chục Huân chương, Huy chương, Kỉ niệm

chương và nhiều giải thưởng văn học cao quý khác...

1.2. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo, công bằng về

những đóng góp cũng như sáng tạo độc đáo của nhà thơ Trần Nhuận Minh cho

tới nay vẫn còn ở dạng rất “khiêm tốn”. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi,

thì hiện tại mới có hai luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số phương diện nghệ

thuật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác thơ của Trần Nhuận Minh, đó là: Lê Thị

Hải Hà với đề tài: Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh, và Chung Thị

Thúy với đề tài: Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh.

Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu, phê bình về tác giả, tác phẩm của Trần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nhuận Minh của các nhà nghiên cứu có uy tín như: GS. Phong Lê, GS. Mai

3

Quốc Liên, nhà phê bình Vũ Quần Phương…trong một số công trình nghiên cứu

chung về thơ văn thời kì hiện đại; hoặc ở dạng bài nghiên cứu lẻ. Chính vì vậy,

chúng tôi đã lựa chọn đề tài Thơ Trần Nhuận Minh chủ yếu nghiên cứu sâu về

thế giới hình tượng nghệ thuật của ông, mà cụ thể là hình tượng con người – một

hình tượng trung tâm, nổi bật, đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của Trần Nhuận

Minh, nhằm có một cái nhìn khá hệ thống và toàn diện ở cả hai phương diện: nội

dung và hình thức trong sáng tác của nhà thơ này. Với hi vọng sẽ góp phần nào

vào việc tìm hiểu và đánh giá những nét đặc sắc, những thành công nổi bật và sự

đóng góp quan trọng của nhà thơ này đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại (đặc

biệt sau những năm 1986 trở lại đây).

1.3. Với một lí do nữa cũng rất có ý nghĩa với người thực hiện đề tài, đó là:

nếu luận văn được thực hiện thành công, thì đây sẽ là một công trình nghiên

cứu, một tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho các thày cô giáo tỉnh Hải

Dương (quê hương của tác giả Trần Nhuận Minh và tác giả luận văn) giảng dạy

tốt hơn về một tác giả thơ nổi tiếng của vùng đất xứ Đông thời kì hiện đại.

2. Lịch sử vấn đề

Trần Nhuận Minh là một trong các nhà thơ đã để lại “một vệt riêng” cho

thơ trữ tình Việt Nam cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, nên thơ ông đã thu hút

được sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học trong thời gian qua. Đã

có một số những công trình, bài viết, phê bình, giới thiệu, nghiên cứu về thơ

ông. Chúng tôi xin điểm lại tình hình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của ông

như sau:

Sáng tác trong những năm tháng “khủng hoảng vật vã” chuyển mình từ

cái cũ sang cái mới, những năm tháng chất chứa “những giọt nƣớc mắt đời

không thấy”, Trần Nhuận Minh nhận thức rõ vai trò, chức năng của văn học khi

nhà thơ đưa ra quan niệm “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Nhà

nghiên cứu Phong Lê trong bài viết “Trần Nhuận Minh ba lần định vị cho thơ”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã thấu suốt quan niệm sáng tác này của nhà thơ. Theo ông, Trần Nhuận Minh

4

đã “bám chặt và áp mặt vào đời để gợi thức và đánh động lƣơng tâm” [13.17].

Cũng theo GS. Phong Lê, thơ Trần Nhuận Minh có ba lần định vị, lần thứ nhất

là “Đi tìm hoa và cỏ hoa cỏ” [5.17], lần thứ hai là “Hành trình về với bản

thân”[16.25], lần thứ ba là “Bâng khuâng tự vấn về sự tồn tại con ngƣời trong

cõi ngƣời, cõi đời”[20.30]. Ba lần định vị đã “ghim” một dấu mốc cho những

bước chuyển mình của thơ Trần Nhuận Minh qua các giai đoạn sáng tác.

Còn GS. Mai Quốc Liên khi “Đọc thơ Trần Nhuận Minh” đã phát hiện

thấy ẩn chứa đằng sau mỗi vần thơ là “một tâm hồn thành thực, chân quê, nhƣng

lại tích hợp bao tầng văn hóa xƣa nay đã nhạy cảm làm sao trƣớc dƣ chấn của

thời đại mình đang sống”[11.39]. Đó chính là lí do khiến thơ ông đi đến được

cái chân thực, cái đích thực và dò ra cái “rốn bể” của thơ là nỗi niềm chính

mình. Tác giả còn khẳng định: “Thi pháp cuối cùng và cao nhất của thơ, là chỗ

nó chở cuộc đời nhẹ nhƣ không thơ, không cần đến câu chữ nữa”[25.44].

Lê Thị Hải Hà trong đề tài Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận

Minh (Luận văn thạc sĩ khoa học ĐHHSP Hà Nội, năm 2008 ) đã nhận xét thơ

Trần Nhuận Minh như sau: “Có thể thấy thơ ông thƣờng tập trung chú ý nhiều

hơn tới hiện thực số phận con ngƣời cụ thể với những vấn đề triết lí đạo đức

nhân sinh, vừa thể hiện ý thức cá nhân của chủ thể trữ tình. Trần Nhuận Minh

thuộc kiểu nhà thơ trữ tình thế sự đời tƣ”[21.39].

Chung Thị Thúy – tác giả luận văn thạc sĩ khoa học (Đại học Vinh), năm

2009 với đề tài Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh đã

viết: “Nhƣng khi lịch sử bƣớc sang một trang mới, cuộc sống với tất cả sự nhức

nhối, bức thiết của nó, thơ ca không phải mãi say sƣa ngợi ca mà phải hƣớng

tới phản ánh toàn diện hiện thực của con ngƣời. Cảm hứng thế sự, đời tƣ trong

thơ Trần Nhuận Minh là cảm hứng hƣớng đến những vấn đề của đời thƣờng,

thấm thía hơn nỗi buồn sau chiến tranh”[21.38]. Trần Nhuận Minh cũng như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bao nhà thơ khác ý thức sâu sắc vai trò trách nhiệm xã hội của mình.Với khát

5

vọng dân chủ, ý thức tôn trọng sự thật, thơ Trần Nhuận Minh đã chạm đến cốt

lõi của cuộc sống hiện thực hôm nay.

Trần Nhật Thu trong bài Câu thơ như mảnh hồn người, đã viết: “Thơ

Trần Nhuận Minh có những bài, những câu, đẹp đến nao lòng, nhƣng lại có

những bài, những câu, đau đến xé lòng. Có lẽ anh không thể viết khác đƣợc, khi

mà anh muốn “áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”…[9.230].

Nguyễn Xuân Đức khi viết bài Thơ Trần Nhuận Minh, đã đánh giá cao

giá trị cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh. Ông nhận định, Trần

Nhuận Minh “không đứng ngoài quan sát một cách duy lí mà tự hòa đồng để

cảm nhận số phận của mỗi kiếp ngƣời. Có thể nói anh không chỉ sống có một

kiếp ngƣời”[6.130]. Với bài viết này, Nguyễn Xuân Đức đã chỉ cho ta thấy thơ

Trần Nhuận Minh viết về những con người với số phận thực bằng một tình cảm

sâu sắc, chân thành.

Tác giả Tô Thùy Anh sau khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ đã cảm nhận “bỗng

thấy trƣớc mắt mình sống lại những cảnh đời, bao số phận con ngƣời. Cũng có

lúc thơ anh động đến nỗi đau đời của cả một dân tộc. Cái chất dung dị hồn

nhiên quyện thêm chất suy tƣ trăn trở, dằn vặt”[8.219] kết hợp cùng một “giọng

thơ nồng đƣợm, hàm súc, lay động hồn ngƣời” đã giúp Trần Nhuận Minh “vƣơn

tới triết lí Đông phƣơng cổ điển”[13.219]. Điều đó càng khẳng định vững chắc

thơ Trần Nhuận Minh luôn bắt nguồn từ “truyền thống đạo đức Việt Nam ngàn

đời”[14.219].

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã gọi Trần Nhuận Minh là “ngƣời bay bằng

chân” bởi lẽ “ khi sống hết lòng với cái chân thực của cõi ngƣời, Trần Nhuận

Minh đƣợc cả cái hƣ ảo của trời đất”[23.73].

Khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ, tác giả Đào Tiến Thi đã nhận thấy cái Tôi

Trữ tình “luôn da diết nỗi niềm nhân thế nhƣng da diết nhất là những bài có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hình tƣợng nhân vật”[11.265]. Hình tượng nhân vật vừa ở góc độ cá thể hóa vừa

6

ở góc độ khái quát hóa, và “ám ảnh tìm về’’ với vẻ đẹp nguyên khối của con

người xưa.

Nhà thơ Hữu Thỉnh trên Tạp chí Tác phẩm Mới số 5/1989 nhận định thế

giới nghệ thuật trong trong tập thơ Nhà thỏ và hoa cỏ đã “mở rộng không gian

cảm nhận, xử lí đề tài”. Và cái mới trong tập thơ là “nhà thơ tiếp cận thế giới

tâm hồn của ngƣời lao động với thƣớc đo của văn hóa”. Những bài thơ thành

công của Trần Nhuận Minh là sự cộng hưởng chất sống và kinh nghiệm sống,

những thảng thốt bất chợt, đan xen vẻ đẹp bình dị thường ngày.

Tập thơ Bản Xô nát hoang dã là bước chuyển mình của cái Tôi Trữ

tình. Tác giả Đặng Văn Sinh viết bài Khát vọng về một tình yêu thần thánh đã

chỉ ra rằng “Hình tƣợng quán xuyến trong toàn bộ tác phẩm là cái tôi trữ tình

biến động, lúc hữu hình, lúc vô ảnh, lúc là hiện thực khách quan, lúc chỉ là giả

tƣởng”[14.66]. Bên cạnh đó, tác giả bài viết còn nhận thấy trong Bản Xô nát

hoang dã “thế giới hình tƣợng ở đây, là thế giới lƣỡng phân, hai mảng sáng tối

thƣờng phân tầng và luôn đƣợc xem xét trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau

của triết học cổ phƣơng Đông”[9.168].

Nghiên cứu “Bản Xô nát hoang dã từ góc độ thiền học”, tác giả Nguyễn

Văn Sơn cho rằng tác phẩm đã “phản ánh năng lực tƣ duy nghệ thuật hết sức

nhạy cảm trong việc khéo léo lựa chọn hình thức thể hiện hình tƣợng nghệ thuật

và chất liệu ngôn ngữ thi ca”[19.178]. Tất cả để nhằm thể hiện tư tưởng chỉ đạo

xuyên suốt là tư tưởng giác ngộ, nhận biết về vũ trụ nhân sinh.

Nhận định về tập thơ 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh trong bài viết

“Khúc đàn bầu thân phận”, nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng: “Tác giả đã làm

một cuộc viễn du, tạm đứng ra ngoài đời mà nhìn lại chính mình…suy tƣởng

khái quát nhƣ ôm vào thân phận nhân gian của mọi thời, nhƣng xuất phát từ thế

sự cụ thể hôm nay, từ tâm trạng bây giờ”[3.189]. Giọng tự sự, miêu tả, tưởng

như quen bút của Trần Nhuận Minh, đã thành giọng trữ tình chiêm nghiệm. Một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cuộc đối thoại với hư không, về chính nỗi lòng mình. Trần Nhuận Minh mượn

7

tiếng đàn bầu dân gian, dân tộc, nghĩ ngợi cái đời mình, cái kiếp mình, cũng là

một cách tìm chân dung thời mình đang sống.

Tác giả Vũ Ngọc Thảo với bài viết “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,

đánh thức những miền tiềm thức lạ” nhận ra rằng: “Những khúc thức đƣợc xây

dựng theo những cảm hứng của nhà thơ…Dòng chảy thi ca trải dài theo dòng

thời gian, không gian, từ làng quê ra phố phƣờng, từ góc tối của kẻ sĩ đến sự

hèn của chính khách”[19.209].

Trong bài viết “Thi pháp ca dao trong Miền dân gian mây trắng”, tác giả

Hữu Tuân đã phát hiện: “Các đề tài là bức tranh sinh hoạt đời thƣờng diễn ra

hàng ngày quanh ta”[11.346]. Điểm mạnh của Trần Nhuận Minh ở góc này là

trào phúng kết hợp với trữ tình. “Nói tập thơ nghiêng về đề tài thƣờng nhật, giản

dị nhƣng không vì thế mà đơn điệu. Trái lại, rất đa dạng, nhiều bài đạt tới độ

sâu triết lí nhân sinh”[4.346]. Trần Nhuận Minh đã đến được cái đích là chủ

nghĩa nhân văn và truyền thống văn hóa, đạo lí dân tộc.

Như vậy, xung quanh việc nghiên cứu, phê bình thơ Trần Nhuận Minh nói

chung và các tập thơ cụ thể của ông nói riêng đã có nhiều ý kiến khác nhau,

nhiều mức độ lí giải khác nhau. Hầu hết các tác giả đều tập chung nghiên cứu

các vấn đề sau:

- Cuộc đời và con đường thơ Trần Nhuận Minh: nghiên cứu, giới thiệu các

tập thơ và khuynh hướng vận động thơ Trần Nhuận Minh.

- Giới thiệu, nghiên cứu, đánh giá về các tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ, Bản Xô

nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây trắng.

- Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh: những bài viết

này chủ yếu khai thác, khám phá điểm độc đáo, cá tính sáng tạo của nhà thơ ở

những phương diện nội dung, hình thức, tư tưởng nghệ thuật…trong các tác

phẩm đặc sắc. Tuy nhiên, những vấn đề này cũng mới chỉ được nghiên cứu ở

dạng điểm qua hoặc đưa ra các nhận xét, nhận định, chứ chưa có các công trình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghiên cứu quy mô thấu đáo.

8

Như vậy, chúng ta thấy: việc nghiên cứu về thơ Trần Nhuận Minh cũng đã

được nhiều người quan tâm, nhưng cho tới nay chưa có một tác giả nào trực tiếp

nghiên cứu về vấn đề về hình tượng con người - một hình tượng trung tâm trong

thơ Trần Nhuận Minh (bao gồm đầy đủ các tầng lớp con người trong xã hội )

trước và sau thời kì đổi mới, để thấy được cả một quá trình sáng tác thơ của ông

luôn xoáy sâu vào số phận của mọi con người (thuộc mọi đối tượng khác nhau)

trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có

tính mới, chuyên sâu về thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ thế giới hình tượng, để

từ đó, có một cái nhìn hệ thống và khá toàn diện về đặc điểm nổi bật thơ Trần

Nhuận Minh - thơ viết về “chân dung”, “thơ của những số phận con ngƣời”.

Qua đó sẽ góp thêm một tiếng nói khẳng định những thành tựu, nét đặc sắc và

những đóng góp quan trọng của thơ ông đối với sự vận động, phát triển của nền

thơ ca hiện đại Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI.

3. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về Thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người,

do đó, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là tất cả các tập thơ của ông:

- Đấy là tình yêu (1971)

- Âm điệu một vùng đất (1980)

- Thành phố bên này sông (1982)

- Nhà thơ áp tải (1989)

- Hoa cỏ (1982)

- Nhà thơ và hoa cỏ (1993)

- Bản Xô nát hoang dã (2003)

- 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh ((2007)

- Miền dân gian mây trắng ( 2008))

Tuy nhiên, chúng tôi sẽ đi sâu vào khảo sát, phân tích một số tập thơ tiêu

biểu, mang tính chất dấu mốc như: Âm điệu một vùng đất, Nhà thơ và hoa cỏ,

Bản Xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trắng.

9

Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm thơ khác

cùng thời với Trần Nhuận Minh (để so sánh, đối chiếu) và tham khảo một số

sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở lí luận cho công trình nghiên cứu của

mình.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:

4.1. Phương pháp thống kê - phân loại 4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu 4.3. Phương pháp phân tích ( tác giả, tác phẩm ) 4.4. Một số phương pháp khác ( phương pháp tổng hợp, nghiên cứu liên ngành) 5. Đóng góp của luận văn

Nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người (trên cả

phương diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện), luận văn nhằm mục

đích:

Chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thế giới hình tượng con người trong thơ

Trần Nhuận Minh. Qua đó khẳng định những nét sáng tạo, độc đáo, mang tính

đặc trưng của nhà thơ trong quá trình thể hiện hình tượng nghệ thuật trung tâm

này.

Chỉ ra những đóng góp quan trọng của nhà thơ Trần Nhuận Minh đối với

sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt giai đoạn sau

Đổi mới (1986 tới nay).

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương chính:

Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh – sự vận động không ngừng trong quá

trình phát triển

Chƣơng 2: Hình tƣợng con ngƣời – một hình tƣợng trung tâm trong thơ

Trần Nhuận Minh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Trần Nhuận Minh

10

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1

THƠ TRẦN NHUẬN MINH – SỰ VẬN ĐỘNG KHÔNG NGỪNG

TRONG QUA TRÌNH PHÁT TRIỂN

1.1. Trần Nhuận Minh – con ngƣời và sự nghiệp thơ ca

Trần Nhuận Minh sinh ngày 20 tháng 8 năm 1944 trong một gia đình có

truyền thống nho học, tại làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh

Hải Dương. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Khi còn là

học sinh cấp 2 trường huyện, ông đã được đọc tờ báo Nhân dân có đăng bài

Hoan hô chiến sĩ Điên Biên của Tố Hữu, đó là bài thơ đầu tiên ông được “đọc

bằng mắt” (trước đây ông chỉ được nghe qua người khác). Từ đó, Trần Nhuận

Minh đã có sự ảnh hưởng của thơ Tố Hữu, ông bắt đầu làm thơ (chủ yếu là thơ

cổ động cho huyện Nam Sách – quê hương ông). Trong suốt những năm từ 1962

– 1969, ông vừa dạy học ở khu mỏ Hồng Quảng, Quảng Ninh vừa miệt mài sáng

tác thơ ca. Năm 1969, ông công tác tại Ban Vận động Thành lập Hội văn học

Nghệ thuật Quảng Ninh, là Ủy viên Chấp hành, Thường vụ, Thư kí, Phó Chủ

tịch, rồi Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ninh (2

khóa), Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuât Việt

Nam, Phó Ban công tác Nhà văn các tỉnh phía Bắc của Hội nhà văn Việt Nam.

Cho tới nay, Trần Nhuận Minh đã xuất bản 15 tập thơ và 3 tập văn xuôi.

Đó là các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980),

Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Hoa cỏ (1982), Nhà

thơ và hoa cỏ (1993 - tái bản lần thứ 19, 2009), Giọt phù sa vạn dặm (2000),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bản Xô nát hoang dã (2003-tái bản lần thứ 8, 2009), Trần Nhuận Minh - Thơ

11

với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đường ( 2005 - tái bản lần thứ 4, 2009), Trần

Nhuận Minh, Tuyển tập thơ (2005), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007–

tái bản lần thứ 2, 2009), Miền dân gian mây trắng (2008 – tái bản lần 1, 2009),

Bốn mùa – Four seasons (2008), Bốn mùa (2009 – Tuyển tập).

Và các tập văn xuôi: Trước mùa mưa bão (1980 – in lần thứ 5, 2010), Hòn

đảo phía chân trời ( 2000 – in lần thứ 5, 2010), Truyện chọn lọc cho thiếu nhi

(2002).

Trong suốt 50 năm miệt mài sáng tác, Trần Nhuận Minh đã khẳng định

được những bước đi vững chắc và đôi khi là đột phá của mình trong lĩnh vực

văn học nghệ thuật. Chính sự cống hiến hết mình cho thơ ca nói riêng, văn học

nghệ thuật nói chung, nhà thơ Trần Nhuận Minh “định vị” được tên tuổi của

mình trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ bắt đầu đổi

mới tới nay.

1.2. Quá trình vận động của thơ Trần Nhuận Minh

Trong sự nghiệp 50 năm cầm bút, Trần Nhuận Minh sáng tác một số

lượng tác phẩm thơ đáng nể. Ông đã từng phát biểu rằng, ông rất cám ơn công

cuộc Đổi mới, chính công cuộc Đổi mới đã “sinh ra tôi lần thứ hai”. Và sau này

khi làm tuyển tập, ông chỉ chọn 28 bài tiêu biểu nhất sáng tác trong vòng 25

năm, kể từ trước năm 1986 đưa vào phần phụ lục với tiêu đề Bỏ lại dọc đường

để độc giả có dịp tham khảo.

Thế nhưng khách quan mà nói, khi nhìn lại chặng đường sáng tác 25 năm

trước thời kì Đổi mới, thơ Trần Nhuận Minh có một quá trình vận động cùng với

xu hướng phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông được coi là

“nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ về đề tài công nghiệp, ông đƣợc lĩnh

vinh dự, và có trách nhiệm phát ngôn và tôn vinh cho nó suốt hai thập niên 60

và 70…”[26.16,17]. Do đó, khi nghiên cứu chặng đường thơ của Trần Nhuận

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Minh, chúng ta không thể bỏ qua thời kì sáng tác của ông trước năm 1986.

12

Vì vậy, nghiên cứu quá trình vận động thơ của Trần Nhuận Minh chúng

tôi vẫn chia ra làm hai thời kì, đánh dấu hai chặng đường thơ của nhà thơ họ

Trần quê hương Hải Dương nhưng lại thành danh ở vùng đất mỏ Quảng Ninh

này.

1.2.1. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1960 – 1985 Bắt đầu sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX, Trần Nhuận Minh đã

in hai tập thơ chung: Sức mới (1967) và Ca bình minh (1972) với đề tài công

nghiệp. Bằng sự lao động nghiêm túc, miệt mài trong lĩnh vực nghệ thuật khi

gắn bó với vùng đất vàng đen của Tổ quốc, Trần Nhuận Minh đã cho ra đời tập

thơ in riêng đầu tiên: Đấy là tình yêu (1971).

Trong bài thơ Trình bày viết năm 1970, Trần Nhuận Minh đã tự giới

thiệu về con đường lập nghiệp của mình:

Bạn ơi, tôi có hai lá phổi

Một làng Điền Trì mùa thu nƣớc nổi

Một nửa phố mỏ Hòn Gai

Quanh năm rừng rực nắng trời.

Giữa hai lá phổi lành, đây, trái tim tôi

Hai miền quê: một là vùng đồng chiêm nước trũng nhưng chứa đựng bề

dày bao tầng văn hóa; một là vùng “phố mỏ” tấp nập, đông vui “quanh năm

rừng rực nắng trời” đã gắn bó với nhà thơ và không thể tách rời. Rõ ràng “phố

mỏ Hòn Gai”- vùng công nghiệp vàng đen của tổ quốc với Trần Nhuận Minh

vốn không phải là nơi chôn rau cắt rốn, nhưng ông đã gắn bó máu thịt và đã

cống hiến suốt cả một thời tuổi trẻ, suốt cả quá trình hoạt động sáng tác và đã

thành danh ở nơi này; còn với Nam Sách – Hải Dương – nơi đã sinh ra ông luôn

là quê hương yêu dấu, chốn đi về của tâm hồn và trái tim ông. Cả hai vùng quê

với hai dạng văn hóa khác nhau đã hun đúc tài năng, đã cung cấp cho Trần

Nhuận Minh những chất liệu, những “tài nguyên” quý giá, phong phú để ông có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể viết lên những vần thơ, trang thơ thấm đẫm chất dân gian mềm mại, dịu dàng

13

bên cạnh chất liệu hiện thực đầy gai góc, khốc liệt, phong phú và phức tạp thời

kì hiện đại.

Từ chỗ là một anh nông dân trở thành giáo viên và gắn bó với giai cấp

công nhân, đã tạo nên một bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời và trong

sáng tác của Trần Nhuận Minh và đã làm nên “cuộc định vị lần thứ nhất” cho

thơ ông, như sự khẳng định của nhà nghiên cứu Phong Lê.

Ở buổi đầu những năm 60, với đóng góp của đội ngũ thơ chủ lực của nền

cách mạng, đó là cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của sự nghiệp giải phóng một nửa đất

nước, và đồng thời là cái nhìn từ những ước mơ bao đời nay đang hiện dần lên

sự thật. Trần Nhuận Minh cũng đã khẳng định mình là nhà thơ chân chính, là

người con mang tình yêu lớn với quê hương và có chung khát vọng dân tộc.

Trong sự hấp dẫn của lí tưởng, có bao hàm những khát vọng riêng tư của

tuổi trẻ. Nhưng thực ra, sự hấp dẫn của vùng mỏ đối với Trần Nhuận Minh còn

có cái gì đó, mộng nhiều hơn thơ…Và đây là một trong những bài thơ ông viết

về vùng mỏ:

Nơi đây là mỏ Mạo Khê

Một vùng cung núi, bốn bề than đen

Nơi đây anh đã gặp em

Một đêm mở vỉa sao đêm đầy trời.

(Mạo Khê)

Trần Nhuận Minh đến với thơ như vậy, háo hức và hăm hở. Tuy vậy,

nhiệt tình ấy chưa phải là điều kiện đủ cho thơ ông có sự thành công. Có thể dẫn

bài Anh thợ lò – bạn tôi:

Bƣớc ra khỏi lò

Anh nhƣ đi trên sóng

Khoảng đất bằng và rộng

Anh đi không thật chân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chính anh cũng lạ cho mình

14

Không có cái nhìn của người đồng bằng về mỏ, Trần Nhuận Minh khó

có thể đưa vào thơ những trực giác sinh động ấy, mà những người lâu năm ở đây

chưa dễ đã nói được. Đây cũng chính là nét riêng, là “duyên” thơ của ông, còn

mãi đến bây giờ, góp phần giúp ta nhận ra ông trong hàng loạt những cây bút

vùng mỏ như Yên Đức, Phạm Doanh, Đào Ngọc Vĩnh…

Dễ hiểu vì sao những bài thơ được người đọc ưa thích hơn trong Đấy là

tình yêu vẫn là những bài ghi lại cảm xúc suy nghĩ từ những gì ông thân quen,

từ chiếc cổng làng:

Nơi niềm vui theo năm tháng sinh sôi

Mùi nếp thoảng bay nhịp chày khua gấp

Tiếng súng dội về bao đêm trở giấc

Trâu cọ cổng tre lấp lánh lƣỡi cày…

(Cổng làng)

Rồi những gì chung hơn, vẫn là cái làng – cái làng mới “cách mỏ ba cây

số”, nơi “có con tầu chạy ngang đồng lúa lấn vào chân mỏ” mà đôi mắt và tấm

lòng người ở đây cứ nửa quen, nửa lạ:

Sáng sáng nhìn lên mỏ

Đôi mắt thăm thẳm đen

Cầy ruộng bật than lên

Lòng bồi hồi xúc động

(Làng ven mỏ)

Nói đúng hơn, thành công bước đầu ở thơ Trần Nhuận Minh chưa phải là

những bài thơ viết về người thợ, mà chủ yếu là những đổi thay dễ nhận ở môi

trường mới mà ông sống. Khi nhìn chặng đường đầu, Trần Nhuận Minh thấy

“thơ mình vẫn đi ven ven ngoài mỏ”. Trong cách nói, nhìn có phần làm duyên,

ông bắt đầu có ý thức một cách rõ rệt và cụ thể hướng đi của thơ mình. Miền đất

và con người vùng mỏ rất thơ và rất mộng. Nhưng sự thơ mộng này khác hẳn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những gì trước đây mà ông tưởng tượng. Rằng đến với vùng mỏ, không phải đến

15

với những vinh quang giành cho tuổi hai mươi chấp nhận. Chứng kiến cảnh lao

động hết sức gian khổ của người thợ, ông tự nói với mình sự gian khổ của người

thợ là có thật, và sự có thật của thơ mình là giả. Ý nghĩ chân thành và nghiêm

khắc ấy đã hướng thơ ông đi những bước chắc chắn vào Âm điệu một vùng đất

(1980) và Thành phố bên này sông (1982).

Nếu Đấy là tình yêu mới chỉ là nhận thức cảm tính về vùng mỏ mới đứng

ở bên ngoài quan sát, và viết về những người thợ mỏ, thì Âm điệu một vùng đất

và Thành phố bên này sông, Trần Nhuận Minh đã hình thành một quan niệm

thơ với ý thức trách nhiệm của một nhà thơ công nhân đứng trong đội ngũ công

nhân, viết theo cách nghĩ, cách cảm của những người công nhân mỏ.

Cuộc sống phát triển, giàu có thêm chất liệu mới do bàn tay và sức nghĩ,

sức sáng tạo của con người. Rồi từ những đổi mới này mà hình thành dần một

cảm xúc mới – cảm xúc trước đời sống công nghiệp của Trần Nhuận Minh. Với

bài thơ Đá cháy gồm 7 đoạn thơ, 224 câu, viết năm 1985, Trần Nhuận Minh đã

làm một “cuộc định vị lần thứ hai” cho thơ mình. Lửa, Than và Tỏa sáng là ba

“nhân vật” chính trong quá trình diễn ra “Đá cháy”. Bài Đá cháy được xem như

là tuyên ngôn nghệ thuật của Trần Nhuận Minh. Với vị trí, tư cách của một nhà

thơ công nhân khao khát có thể làm nên những điều có ý nghĩa hơn trong cuộc

sống hối hả, vất vả và đang vận động tích cực này:

Tôi sẽ đầu thai làm ngọn lửa

Cháy điên khùng trong đất tối âm u

“Tỏa sáng” là cách tồn tại của quá trình diễn ra đá cháy và “không tỏa

sáng thì không tồn tại”. Đó cũng là cách nhà thơ khẳng định quan điểm sống và

sáng tác của mình, đúng như nhận định của nhà nghiên cứu Phong Lê: “Một

khẳng định đến từ sứ mệnh của giai cấp công nhân, mà nhà thơ muốn (hoặc đã)

là ngƣời đại diện, khi từ là Tảng đất sét bên sông Kinh Thầy, anh đã trƣởng

thành tảng đá đen nguyên khối xù xì của một vùng than mênh mông – miền vàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đen trong lòng đất Đông Bắc của Tổ quốc[16.28].

16

Đây cũng chính là sự định vị lần thứ hai của nhà thơ đất mỏ này. Ông đã

quyết định trở thành nhà thơ của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong của

cách mạng Việt Nam. Và nói như nhà ngiên cứu, phê bình Phong Lê thì về

“khách quan nó ghi nhận đƣợc gƣơng mặt đất nƣớc và gƣơng mặt thơ một thời

trong và sau chiến tranh còn chƣa phai nhạt âm hƣởng hào hùng của đất nƣớc

chống ngoại xâm, và trong buổi đầu sự nghiệp xây dựng chống đói nghèo còn

rất giàu tự tin đến thành lãng mạn”[5.30].

Và quả thật, Trần Nhuận Minh đã thực hiện được niềm khao khát đó.

Ông đã trở thành một nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ của vùng mỏ

Quảng Ninh với những tập thơ đã trở thành niềm tự hào của bao người công

nhân mỏ thời kì lịch sử ấy. Đấy là tình yêu, Âm điệu một vùng đất và Thành

phố bên này sông, Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều gương mặt thơ

gắn bó tâm huyết với đề tài công nghiệp, với những người thợ mỏ của đất Quảng

Ninh đầy than, bụi và mầu áo thợ.

1.2.2. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1986 đến nay Đại hội VI của Đảng năm 1986 là một cái mốc, một sự kiện lớn của

dân tộc. Và Nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn hóa, văn nghệ quả là một sự

“cởi trói” theo đúng nghĩa của nó cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong quá trình

sáng tạo nghệ thuật của mình. Phương châm của Đảng ta lúc đó là “lấy dân làm

gốc” và mọi hành động cần phải “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,

nói rõ sự thật”. Nằm trong xu hướng chung đó, thơ Trần Nhuận Minh có những

sự vận động và đổi mới quan trọng. Với bài thơ Nhà thơ áp tải (1989), thể hiện

một quan niệm nhân sinh quan tích cực phù hợp với thực tiễn và nhu cầu về một

nền văn học mới – áp tải sự thật. Vì vậy, có thể xem: Trần Nhuận Minh như là

một trong những đại diện tiêu biểu của một khuynh hướng sáng tác mới –

khuynh hướng phản ánh sự thật với tất cả những mặt phải – trái, trắng – đen,

những sự phức tạp, sự chói gắt, sự tốt đẹp cũng như sự phũ phàng của nó một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách trung thực nhất:

17

Hãy áp tải sự thât

Đến những bến cuối cùng

( Nhà thơ áp tải)

Chính công cuộc Đổi mới đã sinh ra một nhà thơ Trần Nhuận Minh thứ

hai. Nhận thức được trước mặt là chân trời nghệ thuật mới vô cùng khoáng đạt,

văn học mới đã chuyển lên “đƣờng ray”, có nghĩa là cuộc hành trình mới của

Trần Nhuận Minh được khởi động. Nó được khởi động từ một cảm hứng mới về

sự thật, từ một đòi hỏi cao hơn, toàn diện hơn về nhận thức sự thật; và từ một ý

thức mới, quan niệm mới đang hình thành và được khẳng định thiên về chức của

nhà thơ trong thời kì mới của đất nước.

Tiếp nối sự đổi mới ở giai đoạn trước, trong Hoa cỏ đã đưa Trần Nhuận

Minh sang một thế giới khác, thế giới của cảnh đời và tình người. Rồi từ Hoa

cỏ, ông đã in tiếp tập thơ thứ sáu có tên Nhà thơ và hoa cỏ. Ở tập thơ này, Trần

Nhuận Minh đã đi sâu vào việc viết về số phận nhân dân, “viết về nỗi đau con

ngƣời”, viết về thế sự, nhân sinh với tất cả bộn bề chói gắt của nó. Tập thơ đã

khắc họa tập trung đầy đủ nhất và cũng đậm nét nhất về số phận người lao động

trong xã hội:

Câu thơ nhƣ gan ruột

Phơi ra giữa trời mây

Mỗi ngƣời một số phận

Ngang qua thế kỉ này

(Lời đề tựa trong tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ)

Đã có một thời do hoàn cảnh chiến tranh, văn học cần phải thực hiện một

cách hiệu quả nhất chức năng giáo dục; và do yêu cầu của chức năng giáo dục,

chính trị, tư tưởng mà văn học cần phải tập trung vào việc phản ánh cái tích cực,

cái tốt đẹp như là bản chất của xã hội, thì giờ đây, văn học thực sự muốn đạt

được chức năng giáo dục lại phải làm sáng tỏ sự thật một cách toàn diện, không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

che đậy cả những mặt khuất tối, những tiêu cực tồn tại trong xã hội, và Trần

18

Nhuận Minh đã thực hiện được điều đó. Trên bức tranh hiện thực trong thơ Trần

Nhuận Minh, cái cũ, cái xấu, cái ác không còn ở vị trí mờ nhạt, chỉ có nhiệm vụ

làm nổi bật cái mới, cái tốt đẹp, cái tích cực của xã hội mà bản thân cái cũ, cái

xấu, cái ác cũng đã chứa một vị trí tương xứng để đạt một giá trị nhận thức và

hiệu quả của văn học nghệ thuật là: cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn trong xã

hội, cảnh tỉnh về nhân cách, đạo đức cho con người thời kì hiện đại.

Như vậy, trong mười lăm năm đầu, kể từ Đại hội VI (1986) trở lại đây,

với chủ trương “áp tải sự thật” thơ Trần Nhuận Minh đã tập trung vào việc phản

ánh về số phận nhân dân ở mọi góc cạnh của đời sống. Ngòi bút hiện thực của

ông đã đi sâu vào từng số phận con người để mô tả, phản ánh những nỗi niềm,

những tâm sự, những đớn đau, bất hạnh bên cạnh những hạnh phúc. Đồng thời,

ông đã khẳng định được khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình để tạo nên một

gương mặt thơ riêng, nổi lên trong dàn đồng ca chung, trong gương mặt chung

của đồng đội mà không lẫn nhòa. Ông tự tiến hành được cả một cuộc đi cho

mình, một cuộc đối thoại, trò chuyện với bạn đọc hôm nay mà không sợ nghèo,

không sợ nhạt, không sợ trùng lặp, không sợ vô bổ - đó mới là vấn đề đặt ra cho

thơ ca hôm nay, càng là vấn đề đặt ra cho thơ viết về số phận nhân dân mà Trần

Nhuận Minh giành cả tâm huyết, trí tuệ, tình cảm của mình vào trong đó.

Nếu như tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ được Trần Nhuận Minh hoàn thành

trong 15 năm cuối thế kỉ XX (1986 – 2001) thì sang đầu thế kỉ XXI, ông đã liên

tiếp cho ra đời 3 ba tập thơ: Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của

kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008). Mỗi tập nhà thơ viết liền

một mạch, rõ ràng và liên tục với một cảm hứng riêng, say mê và nhất quán, lần

lượt được xuất bản trong mấy năm đầu của thế kỉ XXI. Các tập thơ của Trần

Nhuận Minh giai đoạn này đã tập trung viết về “đời sống thứ hai của con

ngƣời”. Ở đây khái niệm “Nhân Dân” được thay thế bằng khái niệm“Con

Ngƣời”. Cuộc đời với những chiêm nghiệm suy tưởng, đúc kết,…đã trở thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hồn vía của hiện thực. Hiện thực ở đây không chỉ được nhìn nhận, thẩm thấu

19

bằng mắt, bằng tai…mà còn được thẩm thấu bằng cả tâm hồn, bằng cả đáy tâm

linh sâu thẳm, hư ảo, huyễn hoặc…Thật đúng như tác giả của “Ba lần định vị

cho thơ” đã viết: Cảm rõ vị đời, anh đã có một chỗ đứng cho câu hỏi: Ta vì ai?

Ta thuộc về ai? Rồi sẽ đến với anh câu hỏi: Ta là ai?...sẽ đến với những bức

tranh nhân thế, không còn là tả thực mà hòa trộn với tâm linh, là sự cộng cảm

giữa cảnh đời và cảm nhận về đời, để đem lại cho thơ anh một sắc diện mới với

rất nhiều bâng khuâng”[6.32].

Cuộc sống hiện đại với bao sục sôi, cuộn chảy tới chóng mặt, nên nhiều

khi đã lướt qua cả những mảnh đời, những số phận nhỏ bé đầy thua thiệt của con

người. Trần Nhuận Minh thở dài khi nhận ra những vấn đề phức tạp, đầy sự đối

lập, đầy mâu thuẫn luôn tồn tại bên nhau, luôn lấn át nhau…trong cuộc sống

hôm nay:

Khi hai bờ xa nối đƣợc với nhau bằng một cây cầu

Thì hồn vía con sông hoàn toàn đổi khác

Tiếng giận hờn bên này

Sự lạnh lùng bên kia

Đều lấn sang nhau

Con sông mất giới tính

Chảy miên man về phía cuối chân trời…

(Bản Xô nát hoang dã)

Nhưng ông vẫn thành tâm:

Ta giáng sinh vào tâm hồn của Cây

Cho mùa thu hiu hiu buồn trong lá

Ta giáng sinh vào trí tuệ của Đất

Để đêm xuân râm ran tiếng côn trùng.

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Với một trái tim nhạy cảm, đặc biệt là trước những nỗi buồn, bất hạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của con người, thơ Trần Nhuận Minh vẫn ánh lên niềm tin vào những điều tốt

20

đẹp và cất lên lời tâm sự mang tính khuyên răn nhân thế, hãy biết yêu thương,

giúp đỡ, trân trọng con người:

Tiền giúp ngƣời nghèo là tiền Ông Trời vay

Ông sẽ trả con ta gấp đôi, cháu ta gấp ba khi ta nằm dƣới mộ

(Miền dân gian mây trắng)

Và ngƣời trồng cây phúc

Thì quả phúc đầy vƣờn

(Bản Xô nát hoang dã)

Đó là một điều đáng quý, đáng trân trọng ở nhà thơ “dân gian” mà “bác

học” này.

Từ Trình bày rồi Đá cháy, đến Bừng thức, Vô thức, Tự thuật, Trần

Nhuận Minh đã ba lần định vị cho thơ – hay nói cách khác đi là 3 lần tự nhận

thức về vai trò, chức năng của thơ, của nhà thơ trong cuộc sống thời kì hiện đại.

Có thể thấy rằng ở mỗi chặng đường sáng tác, Trần Nhuận Minh đều rất

có ý thức tự đổi mới mình, tự đổi mới sự nhận thức của mình về thơ, về nhà thơ,

với khát vọng là: góp thêm tiếng nói của mình vào công cuộc đổi mới văn

chương, góp thêm một tiếng thơ để phản ánh hiện thực cuộc sống với tính chất

phức tạp, đa chiều của nó, với sự vận động không ngừng của nó ở cả hai phía:

tích cực và tiêu cực, tươi sáng và ẩn khuất.

Như vậy trong nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Trần Nhuận Minh đã tạo

dựng cho mình cả một hành trình thơ, trong đó có những tập thơ bề thế, nhiều

tầng, nhiều vỉa trên cả phương diên nội dung và nghệ thuật. Mỗi một giai đoạn

sáng tác, là một lần Trần Nhuận Minh tự đổi mới tư duy nghệ thuật của mình.

Một đời thơ ba lần định vị và mỗi lần đều có những sáng tạo đáng được

trân trọng, được ghi nhận trong cuộc sống thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong đời

sống văn học Quảng Ninh. Trần Nhuận Minh xứng đáng là cánh chim đầu đàn

trong lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật, trở thành nhà thơ tiêu biểu của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vùng công nghiệp mỏ than Đông Bắc của Tổ Quốc. Có thể lấy lời đánh giá của

21

nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi ( Tuyển tập thơ Việt Nam thế kỉ XX, NXBGD, 2005) về

tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ để khẳng định vị trí của Trần Nhuận Minh trong nền

thi ca hiện đại Việt Nam như sau: “Trần Nhuận Minh không hề né tránh một sự

thật nào, dù là đau đớn kinh hoàng đến đâu. Tập thơ đã đƣợc tái bản (…) lần

đƣa Trần Nhuận Minh lên vị trí hàng đầu trong số những nhà thơ thời chống Mĩ

cứu nƣớc”.

1.3. Quan niệm về nghệ thuật của nhà thơ Trần Nhuận Minh

1.3.1. Quan niệm của Trần Nhuận Minh về sứ mệnh của thi ca với hiện thực cuộc sống Trong 50 năm cầm bút, thơ Trần Nhuận Minh luôn đồng hành cùng dân

tộc trên những chặng đường đầy cam go và thử thách. Ông luôn “áp mặt vào đời

để gợi thức và đánh động lƣơng tâm” nhằm phản ánh một cách trung thực hiện

thực cuộc sống. Theo ông, “Văn học có chức năng phản ánh hiện thực, điều ấy

không có gì phải bàn. Cái có điều để bàn là hiện thực là gì, hiện thực đó đƣợc

nhìn bằng con mắt mở hay con mắt khép, thậm chí không nhìn bằng mắt. Rồi

hiện thực đó đƣợc phản ánh qua thể loại nào, ở đây hiện thực của thơ không

giống với hiện thực của tiểu thuyết, không phải ở dung lƣợng mà ở bản chất của

nó, dù cùng một tác giả viết cùng một phƣơng pháp sáng tác”[2.2]. Đối với Trần

Nhuận Minh, hiện thực cuộc sống cần phải được nhìn nhận bằng con mắt đa

chiều, cho nên những va đập của cuộc đời, những đổi thay theo guồng xoáy của

thời cuộc đều được ông nắm bắt bằng cảm quan hiện thực nhạy bén. Sự thật với

khuôn mặt đích thực của nó, đang là mục tiêu kiếm tìm của văn học và không

thể đổ lỗi cho sự thật nếu cuộc sống đang ẩn chứa và hiện hữu những sự thực đó.

Chỉ có thể đổ lỗi cho văn học nếu sự thật trong tác phẩm là nhạt nhẽo, gầy guộc,

hoặc chỉ là sự vờn quanh, là nửa vời, hoặc không đầy đủ. Nếu như trước đây,

người viết còn phải đắn đo trước việc phản ánh hiện thực với những sự thật chưa

đầy đủ, chưa đa chiều vì một lí do khách quan hoặc chủ quan nào đó, thì bây giờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sự đắn đo, tránh né hiện thực với những sự thật đa chiều phong phú, phức tạp

22

của nó lại là một sự thiếu bản lĩnh hoặc vô trách nhiệm của nhà văn. Và, Trần

Nhuận Minh đã không đắn đo, ngại ngần khi đưa ra một tuyên ngôn trong sáng

tác của mình là: “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng” (Nhà thơ áp

tải). Đây chính là một thái độ dứt khoát đầy trách nhiệm của nhà thơ đất mỏ này

đối với hiện thực xã hội.

Ở từng thời kì sáng tác, Trần Nhuận Minh luôn có ý thức cố gắng làm

mới mình trong nghệ thuật để khỏi bị trùng lặp với người khác hay khỏi trùng

lặp với chính mình. Ông luôn đặt ra cho mình một nguyên tắc đó là lấy hiện

thực cuộc sống làm trung tâm để làm đối tượng phản ánh trong thơ. Tuy nhiên

đó là hiện thực gì? Phản ánh như thế nào – nhằm mục đích gì? Thì lại luôn là

vấn đề mà ông luôn trăn trở, kiếm tìm câu trả lời thích đáng.

Như đã biết, mục đích quan trọng nhất của văn học nghệ thuật là phản ánh

nhận thức, khám phá hiện thực đời sống con người theo quy luật vận hành của

xã hội để có thể phản ánh được những điều cơ bản nhất của thời đại. Muốn vậy,

thơ ca phải bám sát vào hiện thực phản ánh được những vấn đề thuộc về bản

chất của hiện thực, của thời đại. Thơ Trần Nhuận Minh đã minh chứng cho loại

thơ ca bám sát vào từng chặng đường lịch sử của đất nước, cho nên thơ ông

“không bao giờ né tránh một sự thật nào, cho dù sự thật đó có đau đớn đến kinh

hoàng” [25.218]. Tuy nhiên, trong cả một thời gian dài trước Đổi mới (1986)

với cơ chế bao cấp (trong đó có cả bao cấp trong tư tưởng, trong đời sống văn

học nghệ thuật) - thơ Trần Nhuận Minh cũng như thơ của các tác giả khác đã

chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự “bao cấp” trong sáng tạo nghệ thuật. Ông cũng

bám rất chắc vào hiện thực cuộc sống, cũng đã phản ánh một cách chân thực

cuộc sống – nhưng đó mới chỉ là một mặt của hiện thực chứ chưa phải là tất cả

các mặt của nó, nhất là các góc khuất tối sau lưng nó. Vì vậy sau năm 1986, với

sự đổi mới tư duy trong sáng tạo nghệ thuật, Trần Nhuận Minh đã mau chóng

phát hiện ra điều đó ở mình trong các sáng tác thuộc thời gian trước đây. Ông đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhận ra và dũng cảm quyết tự đổi mới mình, đã vượt qua chính mình để tiếp tục

23

sáng tạo nghệ thuật dưới một cách nhìn nhận, cách phản ánh mới đa chiều,

phong phú hơn, và vì thế mà chiều sâu hiện thực cũng được phản ánh sinh động,

cụ thể hơn. Ông đã từng tâm sự: “Hiện thực đất nƣớc hôm nay là những biểu

hiện của một xã hội đang vận hành trong cơ chế thị trƣờng, từng bƣớc hội nhập

với thế giới, với tất cả những mảng sáng, tối của nó. Nói thật gọn, tôi rất quan

tâm tới mảng hiện thực này. Vì nó đang tác động rất ráo riết đến đời sống của

cả xã hội và của tất cả mọi ngƣời”[34.2]. Xét trong cả quá trình, hiện thực trong

sáng tác của Trần Nhuận Minh được phản ánh như sau:

Thời kì trước 1986: đó là hiện thực cuộc sống của nhân dân, đặc biệt là

của công nhân (vùng mỏ) trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đấu tranh giải

phóng miền Nam. Thế giới nhân vật của ông là những chàng trai, cô gái trẻ

trung, phới phới, yêu đời, hăng say lao động, hi sinh tất cả vì vùng mỏ thân yêu,

vì tương lai đất nước; cuộc sống thường ngày của họ tuy còn vất vả, thiếu thốn

nhưng tràn đầy niềm vui, đầy sự yêu thương, xẻ chia của cộng đồng. Trần

Nhuận Minh đã từng phát biểu về hiện thực cuộc sống mà tác giả phản ánh trong

giai đoạn này cụ thể: “Giai đoạn này, tôi viết để phục vụ nhiệm vụ chính trị

trƣớc mắt. Nghĩa là viết về cái mà cuộc sống cần mình. Chủ đề tƣ tƣởng là cái

nhiệm vụ chính trị cần phải đạt đến. Nội dung hiện thực là thực tế nó cần phải

xẩy ra, còn nó có xẩy ra thật hay không, điều đó không quan trọng. Tôi nghĩ cả

một nền thơ của một giai đoạn lịch sử đã đƣợc viết trong quan điểm đó, rất

trong sáng và chân thành. Chính vì thế mà “Toàn đất nƣớc có chung tâm hồn,

có chung gƣơng mặt”(Chế Lan Viên)[4.18]. Nhưng đó là hiện thực của những

năm trước 1975. Sau chiến thắng năm 1975, trong niềm vui lướn lao của dân

tộc, Trần Nhuận Minh cùng một số các nhà thơ, nhà văn khác đã có một sự linh

cảm về những khó khăn, gian lao mới, cam go và ác liệt mới…mà nhân dân sẽ

phải gánh chịu, bởi sau sự tàn phá của chiến tranh với bao hậu quả ghê gớm của

nó để lại cho dân tộc; bởi sự thay đổi cơ chế quản lí, từ cách quản lí xã hội trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thời chiến, sang quản lí xã hội thời bình với bao sự mới mẻ, lạ lẫm, đầy khó

24

khăn, thử thách! Do đó, hiện thực được phản ánh trong thơ ông không chỉ còn là

một chiều (trong sáng, ngợi ca), mà là một hiện thực đa chiều hơn, nhiều mảng

hiện thực trong vùng khuất tối đã được phản ánh; nhiều số phận bất hạnh, nhiều

tình huống trớ trêu của kiếp người đã được mô tả với nỗi niềm xót xa, đau dớn

của nhà thơ. Đến thời kì 15 năm cuối của thế kỉ XX (1986 – 2000) – giai đoạn

đầu của thời kì đổi mới, hiện thực trong sáng tác của ông là một hiện thực đa

chiều, trong đó có số phận của nhiều tầng lớp nhân dân với những va đập của

cuộc sống thời kì mở cửa với bao sự phức tạp, bao sự mâu thuẫn (ở cả trong

nước và nước ngoài). Trong thơ Trần Nhuận Minh ở thời kì này có đủ các loại

người trong xã hội: “từ nhà lãnh đạo đầu tỉnh (nhƣ nhà khoán hộ Kim Ngọc)

đến một tên tƣớng cƣớp ở sân bay nƣớc Nga, nếu có thiếu thì, có lẽ chỉ thiếu

một loại ngƣời nhiễm HIV”[20.3]. Hiện thực đó được phản ánh một cách sinh

động trong hai tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ (1993) và Giọt phù sa vạn dặm

(2000). Ông đã nêu rõ quan điểm khi cầm bút của mình giai đoạn này là:“Giai

đoạn hai, từ năm 1986, tôi viết về cái mà mình cần phải có ở tác phẩm của

mình, nỗi ám ảnh của cá nhân mình trƣớc mọi cái mắt thấy tai nghe, cùng với

những tổng kết, trải nghiệm của cuộc sống mà mình tích tụ đƣợc đến lúc đó, qua

lăng kính của chủ nghĩa nhân văn. Không viết đƣợc nhƣ thế mình mình không

sống đƣợc bình thƣờng nhƣ mọi ngƣời”[15.18]. Rồi tiếp theo 10 năm đầu thế kỉ

XXI, hiện thực trong sáng tác của Trần Nhuận Minh là: hiện thực về “cõi

Ngƣời” nói chung, với mọi nỗi niềm của CON NGƯỜI, kể cả nỗi niềm của

CON NGƯỜI trước cõi “Vô Cùng” của vũ trụ, trước sự huyền bí của tâm linh

đã được phản ánh sâu sắc, thâm trầm trong ba tập thơ: Bản xô nát hoang dã

(2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và Miền dân gian mây trắng

(2008).

Nhà thơ Trần Nhuận Minh đã suy nghĩ rất nhiều về cái gọi là hiện thực

và sự thật trong thơ. Ông cho rằng: Bây giờ là lúc toàn bộ sự thật phải được nhìn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhận lại, cố nhiên trên lập trường và lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Sự thật

25

và trách nhiệm phải nói thật, cùng với quyền được nói thật như chính Đảng yêu

cầu. Không được giả dối, che đậy, xuyên tạc; không nên “uốn cong ngòi bút” và

“viết theo kiểu tùy thời” mà sự thật phải được phản ánh như chính nó đang tồn

tại. Hầu hết các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh đều cho

rằng: thơ Trần Nhuận Minh là thơ thế sự. Nghĩa là thơ hiện thực chủ nghĩa. Cảm

hứng của nó thường là những vấn đề thuộc về những mặt trái của xã hội, những

biểu hiện tiêu cực của xã hội với mục đích là phê phán. Vì thế giọng điệu thơ ở

đây thường nhuốm vị đắng cay, chua chát, xót xa.. Trần Nhuận Minh cũng đã

từng nói về thơ thế sự của mình như sau: “Tôi xin nói thêm, viết về mặt trái của

đời sống và cơ chế xã hội, nhƣng tôi viết với sự chia sẻ từ trong gan ruột là nỗi

đau của chính mình”[8.213]. Nhà thơ Bằng Việt trong lời giới thiệu thơ Trần

Nhuận Minh đăng trên Tạp chí Hội nhà văn, có nhận xét rất đúng rằng: “Anh chỉ

đau niềm đau duy nhất “đau đời”. Nỗi đau nhân sinh đó, trong anh, vừa ở góc

độ cá thể hóa, vừa ở tầm phổ quát”. Đó là một điều đáng quý ở nhà thơ hiền

lành nhưng sâu sắc này. Ông không như một vài cây bút khác: viết về những

điều tiêu cực với giọng hằn học để thỏa mãn sự bức xúc cá nhân của chính mình.

Ông viết về mặt trái của xã hội như sự kiếm tìm những non yếu, thiếu sót để đấu

tranh, để loại bỏ, hoặc ít nhất là để cảnh báo cho tất cả mọi người! Bởi nói theo

cách nói của nhà nghiên cứu, phê bình nổi tiếng Biêlinski thì: “Một dân tộc

càng mạnh, càng vƣơn cao về mặt đạo đức bao nhiêu, thì nó càng dũng cảm

nhìn vào mặt non yếu và những thiếu sót của mình bấy nhiêu. Một dân tộc yếu

hèn hoặc già cỗi, tàn tạ đến mức không thể tiến lên đƣợc nữa thì chỉ thích ca

tụng mình…Một dân tộc vĩ đại, đầy sức sống không nhƣ vậy đƣợc” (dẫn theo Lê

Sơn: Tiếng cười của một trái tim nổi giận; Tạp chí văn học số 3/1976). Trong

tương quan với hiện thực, và đối chiếu với sự thật, nhà thơ Trần Nhuận Minh có

một sứ mệnh rất lớn: “sứ mệnh tìm kiếm. Một sự tìm kiếm không dễ dàng, có lúc

đầy vất vả, gian truân. Không hiếm những dằn vặt, khổ đau, những hi sinh trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sự truy tìm hoặc kiên trì một chân lí”. Cái cụ thể và xác định trong thơ Trần

26

Nhuận Minh không có gì khác mà chính đó là cái cụ thể và xác định của những

chất liệu trực tiếp trong đời sống hiện thực, từ: một cảnh ngộ, một tâm trạng,

một hình ảnh, một con người cụ thể,v.v…tất cả đều từ trong hiện thực cuộc sống

mà ra. Và Trần Nhuận Minh đã tự khái quát về bút pháp hiện thực trong sáng tác

của mình: “Nhƣ vậy là tôi đã đi bằng đôi chân hiện thực để đi từ sông ra biển,

từ công nhân đến với nhân dân và từ nhân dân đến với con ngƣời”[30.3].

Theo Trần Nhuận Minh, sứ mệnh của thi ca còn phải thực hiện chức năng

nhân đạo hóa con người, thanh lọc tâm hồn con người để ngày càng hoàn thiện

hơn, để có thể vươn tới những tình cảm lớn lao hơn. Nhưng cách giáo dục của

thơ là phải thông qua những rung cảm nghệ thuật để nâng cao những năng lực

thẩm mĩ cho độc giả. Thơ ca không phản ánh cuộc sống một cách lạnh lùng, mà

trải qua sự trăn trở, đau đớn, hi vọng với những xúc cảm thật mãnh liệt. Trong

tác phẩm văn học đằng sau bức tranh hiện thực đời sống bao giờ cũng chứa

đựng những khát vọng thiết tha muốn thể hiện một tư tưởng, một quan niệm

riêng của người sáng tác về chân lí đời sống, về cái thiện, về cái ác, về cái tốt

đẹp cũng như cái xấu xa trong quan hệ giữa con người với con người. Ngòi bút

của ông lúc nào cũng bám sát vào cuộc sống con người và đi tới tận cùng với

từng số phận riêng của họ. Ông đã từng phát biểu: “Tôi viết về nỗi đau của con

ngƣời”, nên khi đọc thơ Trần Nhuận Minh, ta thấy hiện lên những con người có

tên cụ thể, bên cạnh những con người vô danh như: Mợ Hữu, thím Hai Vui, Bá

Kim, cháu Thủy, ông Hủi, gã đánh giậm, con đĩ… ,“tên tất cả các nhân vật của

thơ tôi đều không phải là tên thật ở ngoài đời, dù bài thơ nào cũng xuất phát từ

một ngƣời có thật, hoặc đƣợc gợi ý từ một việc có thật. Tôi đã sử dụng phƣơng

pháp “xây dựng nhân vật điển hình” của chủ nghĩa hiện thực, để tạo dựng các

chân dung thơ của mình để ngƣời đó vừa là “ngƣời đó”, với tƣ cách là một cá

thể riêng lẻ, nhƣ tôi đã gặp hoặc sống cùng với họ, nhƣng đồng thời còn là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“loại ngƣời đó” với tƣ cách là một khái quát nghệ thuật mang tính cộng

27

đồng”[22.217]. Tất cả đều thể hiện sự phản ánh về “số phận nhân dân có những

bi kịch lạ lùng”.

Là người tham gia vào lịch sử và có một phần trách nhiệm trước lịch sử,

Trần Nhuận Minh có niềm tin vào chính mình, niềm tin vào nhân dân mình, cho

dù có phải trải qua đắng cay trong cuộc đời dâu bể thì nhà thơ vẫn tỉnh táo nhận

ra rằng: “Anh hãy cạn đến tận cùng cái chén cay đắng của cuộc đời, ở đáy cốc

nhất định sẽ có vị ngọt, nhƣng vấn đề là anh có uống cạn cái cốc đời ấy không?

Và anh có khả năng nhận ra cái vị ngọt ấy không? Sau những rủi ro, vận may

thế nào cũng rụt rè gõ cửa, cái chính là tai ta phải tinh tế nhận ra tiếng gõ cửa

nhẹ nhàng đó. Cũng nhƣ sau bão, thƣờng có mƣa đền cây. “Không phải là niềm

vui mà chính là nỗi khổ/Đã dạy tôi thành ngƣời…”[31.325]. Cho nên Trần

Nhuận Minh viết về nỗi đau con người như một niềm hạnh phúc: “Tôi muốn

ngƣời đọc nhận ra nụ cƣời sau những giọt nƣớc mắt và theo tôi, chỉ có những ai

thẩm thấu đƣợc vị mặn chát của những giọt nƣớc mắt mới hiểu đƣợc hạnh phúc

thực sự là thế nào. Đấy cũng là một cách để tiếp cận hạnh phúc”[38.2].

Có thể thấy, Trần Nhuận Minh có khả năng đổi mới tư duy và thích ứng

với hoàn cảnh mới một cách nhanh chóng. Đối mặt với hiện thực bề bộn, đầy

khó khăn và thách thức của cuộc sống thời kì sau chiến tranh, nhà thơ không

ngơ ngác, không hốt hoảng! Thật bình tĩnh, ông tự cho mình một sự thoải mái

cần thiết để nhập cuộc. Khéo léo, năng động và bén nhạy, ông bám sát vào từng

bước đi của đời sống, tìm kiếm, khám phá, lí giải các vấn đề của đời sống từ

chính cái hôm nay ngổn ngang bề bộn ấy! Bước sang thời kì đổi mới, ông lặng

lẽ và mải mốt kiếm tìm một cách nhìn nhận và phản ánh hiện thực mới: phong

phú, phức tạp, đa chiều và đầy sự ngang trái, trớ trêu, cũng như biểu hiện của sự

tiêu cực; Đặt chân sang thế kỉ XXI, ông tỏ ra bình tĩnh hơn, bình tâm hơn để suy

tư, chiêm nghiệm để vươn tới một tầmvóc mới: vấn đề CON NGƯỜI trong thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

kì hiện đại. Có thể khẳng định: Hiện thực nhiều mặt chất chứa nhiều mâu thuẫn

28

và phức tạp ấy đã trở thành “mảnh đất phì nhiêu” cho ngòi bút ưa kiếm tìm mâu

thuẫn và xung đột của Trần Nhuận Minh thả sức tung hoành.

Thông qua những sáng tác cụ thể, thông qua những lời tâm sự, những ý

kiến trực tiếp của nhà thơ về sứ mệnh của thi ca với hiện thực cuộc sống, chúng

ta càng thêm hiểu, thêm kính trọng và yêu mến nhà thơ – cùng với quan niệm

hết sức rõ ràng, triệt để của ông là: Thi ca phải bám sát cuộc sống, phải phản ánh

thật trung thực bộ mặt và bản chất cuộc sống. Nếu có phê phán hiện thực cuộc

sống, thì sự phê phán ấy cũng chỉ là để tự gột rửa, tự thức tỉnh, là để tự vươn lên

cái Thiện, cái Mỹ mà thôi – chứ không phải là sự hằn học, phá phách và mất

lòng tin vào những điều tốt đẹp!

1.3.2. Quan niệm của Trần Nhuận Minh về nhà thơ Trong lần trả lời phỏng vấn Tạp chí Phố Hiến, nhà thơ Trần Nhuận Minh

đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong sáng tác: “Thơ chỉ cần hay. Nhƣng

trong ý nghĩ của tôi, cái hay không tách rời cái mới. Không phải cái mới nào

cũng hay, song bất cứ cái hay nào cũng có cái mới…Vì thế, đổi mới cũng là sự

sống còn của thơ…”. Trần Nhuận Minh nhấn mạnh vào cá tính sáng tạo của nhà

thơ. Lao động của nhà thơ là lao động sáng tạo, nghề văn là nghề sáng tạo.

Không sáng tạo thì không phải là nghệ sĩ đích thực. Nhà thơ đích thực không

chấp nhận cách viết dễ dãi, rập khuôn, không có sự sáng tạo, không có dấu ấn

riêng. Trần Nhuận Minh luôn nghiêm túc, tỉnh táo nhìn lại mình và đi sâu vào

những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình sáng tạo của mình. Ông đã truy

tìm nguyên nhân dẫn đến hậu quả của lối thơ viết không sáng tạo đó là do kiểu

viết theo một công thức đã định sẵn. Kiểu thi sĩ như thế sẽ tạo ra một lối văn

chương minh họa, ít có sự sáng tạo. Sau khi đã truy tìm được nguyên nhân của

sự “dậm chân tại chỗ” trong sáng tác, Trần Nhuận Minh đặt ra vấn đề là phải

thay đổi cách nghĩ, cách viết để tìm hướng đi mới cho mình không xa rời tính

dân tộc, xa rời cái căn cốt của văn học dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đảng đưa ra chủ trương: “phải nhì thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, thì ông

29

cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác đã ào lên như những “chiến sĩ – nghệ sĩ”

thực hiện chủ trương đúng đắn, kịp thời một cách tích cực, hết mình.

Đại hội VI của Đảng (1986) như một luồng sinh khí mới dẫn lưu cho

dòng chảy của thơ ông từ “sông ra biển lớn”. Thơ ông đã chuyển hẳn sang

khuynh hướng thơ thế sự, đời tư. Trong khi đó, nhiều nhà thơ vẫn còn dừng lại ở

cảm hứng ngợi ca, hoặc là còn rụt rè hay né tránh để khỏi chạm đến những vấn

đề nhạy cảm nhất của xã hội. Nhận thức được vận hội mới, Trần Nhuận Minh đã

tìm được lối rẽ riêng, dám nhấn vào những nghịch cảnh trái ngang, những

nghịch lí nhức nhối của đất nước, những bi kịch về số phận con người trong các

sáng tác của mình. Đặc biệt nhà thơ chuyên chú vào việc nhìn nhận con người ở

phương diện đời thường để phát hiện và tỏa sáng tình thương, tạo nên một chiều

sâu văn chương thế sự, đời tư trong thời kì hiện đại.

Bài thơ Nhà thơ áp tải là mốc đầu tiên của lần “lột xác” này. Với tập

Nhà thơ và hoa cỏ, Trần Nhuận Minh đã làm nên “vệt thơ chân dung” mà

Nguyễn Bùi Vợi cho rằng thơ ông đã đổi mới, đã thật sự “lật cánh để bay ở một

tầm bay mới”. Thơ chân dung đã đưa Trần Nhuận Minh trở thành nhà thơ thế sự

có một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Và, ông đã bộc lộ quan điểm khi hướng

ngòi bút của mình sang dòng thơ thế sự: “thực ra, tôi nghĩ viết về trời đất bao

la, viết về con ngƣời, cũng tức là viết về mình đấy. Và nhƣ thế, mình có mặt ở

khắp mọi nơi, tự tan ra trong nỗi vui buồn của rất nhiều ngƣời. Vậy thì cái đƣợc

lại càng nhân lên, còn gì sung sƣớng hơn nữa. Viết về ngƣời, vẫn cần hoa mĩ,

trữ tình, nếu bài thơ yêu cầu cần phải nhƣ thế để bộc lộ một vấn đề, một cốt

cách hay một nhân cách. Thông thƣờng thơ thế sự cần mộc hơn, nhƣng cũng

phải tinh hơn, không mộc thì mất cái chân xác, không tinh thì mất cái hàm súc,

dƣ ba…thơ sẽ không sống đƣợc”[21.254].

Thế nhưng không chỉ cứ mãi dừng lại ở “vệt thơ chân dung” này, “Tôi

nghĩ là mình phải bật lên một kênh khác thì mới nên viết tiếp”[11.373]. Một lần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nữa nhà thơ lại rơi vào “cảm giác trống vắng” vì không biết viết như thế nào để

30

làm mới mình. Trong một đêm dự biểu diễn văn nghệ, trước thể Xô nát du

dương, trầm bổng vừa như còn mơ hồ vừa như đã định hình, ông “vô cùng xúc

động”, tâm hồn nhà thơ như được tràn đầy thi hứng, với quyết tâm làm mới

mình - Bản Xô nát hoang dã ra đời. Có ý kiến cho rằng, sau Bản Xô nát hoang

dã, Trần Nhuận Minh sẽ kiệt sức. Đáp lại ý kiến đó, ông trả lời: “Không chỉ có

trong sáng tác mà cả ngay trong công việc,… bao giờ tôi cũng hết lòng,…làm

việc hay viết, đều cố gắng đi đến tận cùng cái có thể trong cái không thể. Và trở

lại, nhƣ phù sa của một dòng sông, cái kiệt cùng đó sẽ bồi đắp lại cho mình, để

sẽ có một mùa thu hoạch sau”[15.374].

Người xưa nói “bất bình tắc minh”, không có tâm sự khốc liệt thì không

bật ra thành tiếng kêu, không thành văn chương được. Hoàn cảnh cá nhân nhà

thơ, hoàn cảnh xã hội (qua các thời kì khác nhau của đất nước), hoàn cảnh của

bao thân phận, bao số kiếp của con người trong vòng xoáy của cuộc đời đã là

chất liệu, là cảm hứng nghệ thuật để Trần Nhuận Minh sáng tạo nên những bài

thơ, tập thơ đầy tâm huyết, chất chứa gan ruột của mình! Ông đã làm nên một

“vệt thơ” riêng cho mình – hay nói cách khác: ông đã dày công lao động và sáng

tạo làm nên những tác phẩm nghệ thuật có “nhan sắc” riêng biệt! Nhấn vào bản

chất sáng tạo của nhà thơ, Trần Nhuận Minh cũng đề cập đến một yêu cầu có

liên quan trách nhiệm của người cầm bút. Nhà thơ là người hướng dẫn độc giả

về nhân sinh quan, về đạo đức và có khả năng chinh phục công chúng bằng nghệ

thuật ngôn từ. Vì thế mà thơ ông làm xúc động người đọc ngay cả khi ông đưa

ra những triết lí (có vẻ căng cứng) về sự vô trách nhiệm của thái độ “im lặng”,

thái độ thờ ơ, lạnh lùng…của bao kẻ đối với sự bất công luôn gắn chặt với số

phận của bao người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội:

Mọi đặc quyền đều xúc phạm nhân dân

Và bất công nhƣ quả bóng lăn tròn

Từ chân ngƣời này sang chân ngƣời khác

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Im lặnh là vàng ƣ?

31

Im lặng là tội ác

(Bản Xô nát hoang dã)

Bởi đằng sau những câu thơ này, người ta nhận thấy thái độ bất bình,

lòng xót xa vô hạn của nhà thơ trước hiện thực phũ phàng. Chính vì thế, với tư

cách, trách nhiệm của một nhà thơ chân chính, ông nguyện đem theo cây bút

suốt đời bên mình để phụng sự nhân dân, phụng sự cuộc sống:

Bạn ơi!

Ta yêu Nhân Dân

Yêu Cuộc Đời này

Và chính bạn

Ngay cả sau khi Ta chết

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Với ông, cây bút, câu thơ cũng là một thứ vũ khí – như thanh kiếm của vị

anh hùng, vì chúng cùng một mục đích: đấu tranh vì sự công bằng và hạnh phúc

của con người, mặc dù đây là một cuộc đấu tranh rất lâu dài, đầy khó khăn:

Vị anh hùng ơi!

Đi đêm

Nhớ mang theo thanh kiếm

Còn Ta

Ta mang theo câu thơ

Và:

Viết đƣợc một câu thơ trung thực với Nhân Dân

Tôi đã đi qua bốn mƣơi năm bão táp

Cả xã hội diệt trừ cái ác

Cái ác vẫn ngang nhiên cƣời nói giữa đời

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Ý thức trách nhiệm của một nhà thơ có trái tim tràn đầy nhiệt huyết, với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cảm hứng thế sự, đời tư đầy tâm trạng đã đem đến cho sự nghiệp thơ Trần

32

Nhuận Minh những giá trị nhân văn sâu sắc: “góp thêm một tiếng nói có hiệu

lực vào thức tỉnh lƣơng tri của con ngƣời, mong muốn con ngƣời lƣơng thiện

hơn, yêu thƣơng và trân trọng nhau hơn…Không ít câu thơ của tôi thấm đẫm

nƣớc mắt…Tôi yêu cuộc đời này, sống, chết cho nó, viết vì nó, và không bao giờ

mất niềm tin vào nó, khi chính nó đã tự thay đổi nhiều bậc thang giá trị”[8.271].

Lời phát biểu trên của Trần Nhuận Minh cùng với những tập thơ mang

đậm chất hiện thực và tính nhân văn của ông đã là một bằng chứng cho những

quan niệm hết sức đúng đắn của tác giả về vai trò, trách nhiệm của nhà thơ đối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với cuộc đời, với xã hội, với dân tộc.

33

Chƣơng 2

HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI – MỘT HÌNH TƢỢNG TRUNG TÂM

TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH

2.1. Hình tƣợng ngƣời lao động – một hình tƣợng nổi bật, đặc sắc trong thơ

Trần Nhuận Minh

Đọc toàn bộ các tập thơ của Trần Nhuận Minh, người ta nhận ra rất rõ

một điều: hầu như tất cả thế giới hình tượng con người trong thơ ông đều là

những người lao động. Họ là những người công nhân vùng mỏ than, họ là những

người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, họ là những người lao động trí óc, là

những nhà thơ, nhà văn lao động cật lực trên trang giấy, trong trường học…

Trong từng thời kì lịch sử của đất nước, họ luôn là những hình tượng trung

tâm trong thơ của Trần Nhuận Minh. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ thấy nhà

thơ Trần Nhuận Minh đã gắn bó, đã hòa đồng với họ, đã giành hết tình cảm của:

yêu thương, kính trọng, xót xa, đắng đót…trước những số phận, những cảnh ngộ

của những người lao động.

Khi viết về hình tượng người lao động trong các tác phẩm của mình ở hai

giai đoạn lịch sử: trước và sau Đổi mới, Trần Nhuận Minh có cách nhìn nhận và

thể hiện khác nhau (tuy nhiên không đối lập nhau, chỉ là sự mở rộng và bổ sung

cho nhau). Nếu như trước 1986, chủ yếu là hình tượng người lao động được

phản ánh dưới góc nhìn của cộng đồng, họ hiện lên trong tư thế của cái Ta nhiều

hơn tư thế của cái Tôi. Tuy nhiên, ngay sau 1975 thì chân dung cái Tôi đã bắt

đầu hiện rõ hơn, cụ thể hơn. Còn sau 1986 đến nay thì chân dung người lao động

trong thơ ông đã hoàn toàn mang tư cách cái Tôi, đầy tính cá thể: mỗi con người

một số phận, mỗi mảnh đời một màu sắc, cụ thể và sinh động trong sự phong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phú, phức tạp của xã hội thời kì hiện đại với cơ chế thị trường đầy biến ảo và

34

đầy hiểm họa, bên cạnh bao điều tốt đẹp đã được khẳng định sau hơn 20 năm

đổi mới của xã hội Việt Nam.

2.1.1. Hình tượng người công nhân vùng “mỏ vàng đen” của tổ quốc Từ một anh thanh niên vùng quê nông thôn ra thành phố và gắn bó với

vùng vàng đen Đông Bắc từ những năm 60 của thế kỉ trước, thơ Trần Nhuận

Minh mang nặng một tình yêu đất mỏ, cái lấp lánh của than đen, của giọt mồ hôi

thợ mỏ đã làm nên chất thơ, và phần nào tạo nên vẻ riêng cho thơ Trần Nhuận

Minh. Những tảng than đen “nguyên khối xù xì” đã trở thành tiêu chí của

nguyên tắc sáng tác mà Trần Nhuận Minh kí thác và đó như một thông điệp:

Mỗi câu thơ anh viết

Nhƣ tảng kíp lê đen

Không hoa lá cầu kì

Không yếu hèn dôi trá

(4.000.000 – Âm điệu một vùng đất)

Cuộc sống của Trần Nhuận Minh trong những ngày đó là sự cộng hưởng

giữa vị ngọt êm dịu của khúc hát ru nơi đồng quê với vùng sinh quyển ồn ào,

náo nhiệt của miền đất “vàng đen”:

Nơi khúc dân ca nuôi chúng tôi tuổi thơ

Là nóng bỏng tiếng xe gào ủi đất

Núm ruột chúng tôi mẹ vùi sâu trong than

Day dứt chúng tôi là tình yêu đất than.

(Lên tầng)

Những bài thơ viết về đất mỏ của Trần Nhuận Minh luôn được viết với

một tình yêu như thế. Như người thợ mỏ mở lò, khai vỉa, khơi những suối than,

Trần Nhuận Minh cũng cố gắng khai thác chất liệu thơ đặc thù của vùng đất

công nghiệp, trong sinh hoạt lao động của người thợ mỏ. Khả năng quan sát,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nắm bắt chi tiết, sống trực tiếp với lao động sản xuất, đã làm cho thơ ông giầu

35

có về chất liệu đủ sức xây dựng lên hình tượng người công nhân trong công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 60 của thế kỉ XX.

Có thể thấy, Trần Nhuận Minh viết về hình tượng người công nhân thợ

mỏ bằng một niềm rung cảm được gạn chắt từ mồ hôi, than bụi. Điều đáng quý

là ngòi bút của ông không tìm chỗ dựa ở sự thi vị hóa hoặc những lời ca ngợi từ

sự nhìn ngắm bên ngoài. Ngòi bút của Trần Nhuận Minh chắt chiu những vẻ đẹp

ngay trong lao động nặng nhọc, lam lũ, trong đời sống thường ngày của người

thợ còn nghèo nàn, vất vả.

Người công nhân thợ mỏ ở vùng đất đầy nắng vàng, gió biển và bụi bặm

của than mang trong mình một “tình yêu kì lạ”. Không phải là tình yêu sâu nặng

với nơi chôn rau, cắt rốn, cũng không phải là tình yêu tha thiết đầu đời dành cho

một người thiếu nữ, mà là tình yêu ấm nóng của người thợ gói trọn vào than,

một tình cảm máu thịt của sức trẻ đã thấm đẫm vào than:

Thế đấy, anh thợ lò bạn tôi

Anh chỉ sống hết mình với tình yêu kì lạ

Là khi anh vào than

Nhất là khi vào than.

(Anh thợ lò – bạn tôi)

Tình yêu hòa trộn vào than là thế. Ở vùng đất này, bao niềm vui, nỗi buồn

của người thợ đều như “vết than lặn vào da thịt”. Và cũng chính nơi đây “mái

nhà còn lợp dầu, bữa ăn ca đêm còn thiếu cá, thiếu rau” nhưng vẫn thắp lên

trong trái tim người thợ một niềm tin mãnh liệt từ bàn tay lao động của mình.

Thành công của Trần Nhuận Minh ở chỗ ông đã nhập thân được vào

cuộc đời người thợ, khám phá được chiều sâu tâm lí cùng những tâm tình của

họ. Trần Nhuận Minh đã lựa chọn và sử dụng các chi tiết giàu chất thơ, giàu tính

khái quát để phản ánh hiện thực. Trong trường ca Đá cháy, hình tượng người

công nhân được phác họa một cách khá sinh động và chân thực. Đó là cả một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tập thể công nhân, tuy công việc khác nhau, có vị trí công tác khác nhau, nhưng

36

họ lại có chung một niềm say mê trong lao động, có chung một niềm tin vào

tương lai của đất nước.

Có biết bao gương mặt những người công nhân, gương mặt người lao động

đã được Trần Nhuận Minh khắc họa trong tác phẩm của mình. Một cô công

nhân “quét giác hót phân”; một anh công nhân “đi lò đá nhanh” trong tư thế

“chân xoạc tay giƣơng bình khí ép”, vật lộn với “vòm đá oang oang” trong

những âm thanh ầm ĩ, inh tai, nhức óc của “tiếng máy rú khê nồng”, tất cả trí tuệ

và sức mạnh thân thể của anh dồn vào công việc: “Mắt phồng căng và ngực

cuộn rung”; một anh “chống xén” ngày đêm sống trong “bụi hoang dại hai lá

phổi/Mỗi ca đào một thìu lò…”; một chú “gõ ghét va gông” “tới tấp vung

búa/Mắt bời bời nhòe nắng hoa bay”; một cháu gái lao động hợp đồng trong

hoàn cảnh “không gạo, chậm lƣơng” với một công việc nặng nhọc “gánh nƣớc

ngày ngày leo từng bậc núi”, nhưng luôn có tinh thần kỉ luật cao, có trách nhiệm

vì công việc: “cháu thì khát mà nƣớc dành để dội/Xuống lỗ khoan sâu chảy khét

đất gan gà…”; một anh kĩ sư trắc địa, người đã “hốc hác mệt phờ” mà vẫn kiên

trì dõi “mắt nheo nheo tìm mạch vỉa than qua ống ngắm”... Ngay cả những

người lãnh đạo ở vùng than này kể cả là ông Tổng giám đốc Công ty tuy đã lớn

tuổi nhưng vẫn rất trẻ trung, rất hăng say công tác: “Tuổi sáu mƣơi áo thun quần

soóc” và cũng rất gần gũi, ân tình với cấp dưới: “Tặng bác thợ tiện về hƣu/Chiếc

đồng hồ nhỏ mạ vàng”. Rồi một cô thợ sơn như một vũ nữ tài hoa: “tập múa

quay tròn” với dáng điệu uyển chuyển, mềm mại, “chân co lên nhƣ cái com pa

êm dịu” (Đá cháy).

Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta được tiếp xúc với những con người

cụ thể: Cô thợ mài “dƣới vòng tay tung tóe vòng hoa lửa”(Gặp cô thợ mài là

người quên cũ); cô thợ hàn “cầm que có dây điện đài, hễ bấm nhẹ lửa tung ra

bẩy sắc”(Thưa mẹ); anh thợ hầm lò hát ru con “gõ vào chân cột nhƣ khi anh

đánh thìu”(Anh thợ lò – bạn tôi); rồi “ngƣời nổ mìn ở mỏ lộ thiên” với những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dây chuyền tiếng nổ “làm chúng tan những cái phải tan”; anh lái ben la, bánh xe

37

cao hơn đầu ngƣời, đổ ra đất đá phi nhƣ ngựa cổ tích, sau tràng vỗ tay của trẻ

con, biến vào trong mây đặc quánh bầu trời của vùng mỏ (Trên tầng cao 380);

rồi anh thợ gõ nồi hơi, thợ chống lò, thợ làm đường, mở vỉa…

Có những người thợ có tên, có tuổi như Anh hùng Vũ Xuân Thủy:

Năm năm liền không nghỉ một ngày công

Anh vẫn khỏe nhƣ một chiếc máy xúc

Từ ngƣời thợ, anh trở thành quản đốc

Gót chân anh in khắp nẻo công trƣờng

Hay anh công nhân Nguyễn Văn Vỡi có chiếc chìa khóa mầu nhiệm luôn

luôn “gài vào hốc cột trƣớc hiên nhà” như cánh tay nhô ra đón mọi người đến

chơi, đến ở:

Ở tổ lao động xã hội chủ nghĩa của anh

Ngƣời ta thấy có nhiều ngƣời trƣớc đây hƣ hỏng.

Có ngƣời, mấy lần bị thi hành kỉ luật

Nặng hơn, có ngƣời mỏ định tống đi

Anh nhận về tổ anh

Và sau một thời kì

Họ thành thợ giỏi

(Chiếc chìa khóa của anh Vóc)

Từ anh hùng lao động Vũ Xuân Thủy đến anh công nhân Nguyễn Văn

Vóc, hai con người, hai danh vị khác nhau, nhưng ở họ lại lấp lánh vẻ đẹp của

tình người, tình đời, tình giai cấp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Có người thợ trọn cuộc đời dấn thân trong hầm lò. Những thành quả hôm

nay, từ sản lượng đạt 4.000.000 tấn đến những vỉa than óng ánh đang được phát

lộ đã in hằn dấu ấn trên đôi bàn tay chai sạn, chằng chịt những vết sẹo của người

thợ già trước phút lâm chung:

Bàn tay ngƣời mở ra nhƣ cái lắc lê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hằn vết sẹo từ thời nƣớc mất

38

Ngón tay ngƣời run run

Dần chụm lại nhƣ một bông hoa héo

(Phút lâm chung của người thợ già)

Và đồng đội của ông, thế hệ lớp thợ trẻ tiếp nối đã có lời hứa chắc nịch

với di nguyện của người đi trước bằng cả tấm lòng thành thực và một niềm tin

vĩnh cửu:

Xin ngƣời cứ yên tâm vĩnh biệt đời

Chúng tôi biết mình có bàn tay tƣơi trẻ

Mang sức lớn của tâm hồn trí tuệ

Của giai cấp công nhân in lên mỗi công trình

(Phút lâm chung của người thợ già)

Và biết bao người thợ khác đang ngày đêm hăng say lao động để tạo

thành một chuỗi mắt xích dây chuyền vận hành suôn sẻ cho những mẻ than ra lò

như: người trực máng ga, người lái cần cẩu tháp, người tán đinh đồng, người

chữa xe ben lát, người lái máy xúc, người bơm xăng, người chặt gỗ trụ lò, người

xạc đèn ác quy, người kéo cáp điện…Tất cả những con người ấy không ai được

định danh, họ được gọi tên theo nghề nghiệp, chức vụ, nhưng điều đáng quý ở

họ là: từ lãnh đạo đến công nhân, từ kĩ sư hay lao động phổ thông, “cƣờng tráng

hay ho hen, hiền lành hay ngang bƣớng, có sáng kiến hay không sáng kiến, đang

làm hay sắp nghỉ hƣu, những ngƣời giản dị và rắc rối, hăng hái và chán

nản…”, nhưng đều “không bao giờ nghi ngờ về tƣơng lai”.

Cứ như thế, ngòi bút của Trần Nhuận Minh đi sâu vào phản ánh hình

tượng người công nhân vùng đất mỏ này. Nhà thơ tỏ ra rất am hiểu về mọi niềm

vui, nỗi buồn của họ. Trong đời người thợ, không có niềm vui sướng nào hơn

khi họ chứng kiến những vỉa than “nục nạc” nằm sâu trong lòng đất đang lộ dần

ra trước mắt. Có một sự liên tưởng thú vị của anh chàng lái xe khi “những cơn

mƣa khô” không phải do thiên nhiên ban phát, mà nó được xuất hiện từ chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mồ hôi, nước mắt và những đôi bàn tay săn chắc của người thợ dội xuống, để

39

bóc đi một lớp áo đất đá đày đặc bao phủ hàng triệu năm, làm phát lộ một màu

vàng đen óng ánh phơi giữa nắng trời. Trước thành quả lao động, người thợ trào

dâng một cảm xúc vừa nghẹn ngào, vừa tự hào, lâng lâng:

Cơn mƣa này mở rộng niềm vui

Than hiện trên những tầng vỉa dày nục nạc

Nhìn vỉa than mừng rơi nƣớc mắt

Tổ quốc mình giàu có thế này ƣ?

(Trên tầng cao 380)

Cảm xúc đó xuất phát từ tình yêu lao động và tâm huyết của người công

nhân thợ mỏ trước tiếng gọi làm giầu cho tổ quốc:

Tổ quốc mình bát ngát cánh đồng xƣa

Đang nuôi lớn những vùng công nghiệp

Làm thật nhiều than, đấy là điều tâm huyết

Đang gọi trong tim tôi hôm nay

(Trên tầng cao 380)

Trang thơ Trần Nhuận Minh luôn có sự kết hợp, đan xen giữa chất hiện

thực với chất lãng mạn. Từ hiện thực cuộc sống của người thợ, Trần Nhuận

Minh đã tìm thấy, đã phát hiện ra những vẻ đẹp đầy chất lãng mạn. Trên cái nền

của công trường bụi bặm đầy nắng gió, ở độ cao của khung nhà cao tầng, hình

ảnh người nữ công nhân được ví “nhƣ chiếc lá xanh”, mỏng mảnh “nẩy trên cây

sắt thép” và đang rực rỡ phát tỏa trước “muôn ngàn sao sa” bởi “từ tay em

những tia lửa bay ra”:

Em đứng trên khung nhà cao tầng

Nhƣ chiếc lá xanh, nẩy trên cây sắt thép

Từ tay em những tia lửa bay ra

Em thành trung tâm muôn ngàn sao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Cô thợ hàn trên khung nhà cao tầng)

40

Hay vẻ đẹp lãng mạn của người thợ lái xe được lồng trong công việc ở

trên độ cao của lưng đèo, của đỉnh núi mà tưởng như đang chạm tới mây trời:

Chính anh nào phải ai nào

Lái xe giữa một tầng cao chín tầng

Nhìn qua óng ánh mây trời

Vùng than điện sáng cũng dầy nhƣ sao

(Thư cho em gái)

Trước yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong đà xây dựng và tiến lên chủ

nghĩa xã hội, người thợ đã nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình là đem

sức lực, lòng hăng say và trí tuệ để đánh thức những “mỏ vàng đen” còn đang

nằm ngủ trong lòng đất. Người thợ mỏ trăn trở, lo toan với những con số tưởng

như trần trụi và khô khan – con số sản lượng pháp lệnh than của mỏ: 4.000.000

tấn nhưng chứa đựng bao tình cảm lãng mạn bay bổng của trái tim và tấm lòng

người thợ:

Hôm nay anh đi

Suốt vùng than

Trong tiếng ồn ào con số

Trong mỗi lo toan đời thợ

…Em ơi

Có vƣợt qua những ngày gian khổ

Mới hiểu đƣợc vì sao

Vì sao con số

Trần trụi

Khô khan

Con số

Lại vỗ vào đời anh nhƣ sóng vỗ

Lại đập vào ngực anh nhƣ trận gió rừng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(4.000.000 – Âm điệu một vùng đất)

41

Nhưng sau những bộn bề lo toan và trải qua bao nỗi vất vả, nhọc nhằn

trong lao động, người thợ lại có một khoảng bình yên để cởi lòng mình trong nỗi

rung động tình yêu, và trải hồn mình vào không gian lãng mạn đầy chất thơ giữa

màu nước xanh trong, của biển, của gió trời để tận hưởng cái cảm giác mát mẻ,

thanh tân:

Anh muốn ngồi bên em trên bờ Hạ Long

Tâm hồn ta nhƣ hòa vào xanh trong

Hƣơng biển mát đến tận cùng tim phổi.

(Âm điệu một vùng đất)

Tình yêu của người thợ sẽ được lên hƣơng, dậy sắc trên mảnh đất lành.

Họ đến với nhau từ những cảm xúc đầy lãng mạn của tâm hồn tuổi trẻ, và từ

chính tình yêu về vùng đất đang cần sức trẻ gieo mầm sự sống này. Cuộc hành

trình kiến tạo vùng đất mỏ cũng chính là cuộc hành trình đi từ tình yêu “lặng

thầm và cháy bỏng” đến cái đích của niềm tin và hạnh phúc:

Và rồi em sẽ quen anh

Tay gạt núi, mở chân trời thơ mộng

Anh yêu em lặng thầm và cháy bỏng

Đến tận cùng năm tháng cuộc đời anh…

(Em về vùng mỏ)

Và rồi hạnh phúc tươi hồng cũng đã đến với người thợ. Đó là hạnh phúc

của anh “lái bò” có tiếng còi rất điệu, cất giọng nam cao ngang tàng trong ngày

cưới của mình với cô vẫy đầu đường hàng ngày để cho xe anh đổ đá:

Anh lái bò cất giọng nam cao

Giọng rắn khỏe vút từ lồng ngực

Tay quen lái những cung đƣờng gấp khúc

Lời ca quen những âm điệu ngang tàng.

“có bỏ chúng anh không ơi hỡi cô nàng…”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đám cưới cô vẫy đầu đường và anh chàng lái xe bò tót)

42

“Có bỏ chúng anh” tức là “có bỏ nghề không” cũng có nghĩa là “có lấy

anh không”. Đứng vẫy đầu đường ở mỏ lộ thiên, nghề đơn giản mà nắng sương

vất vả nên đã có bao nhiêu cô gái, hễ lấy chồng là phải chuyển nghề.

Chính mảnh đất “phố mỏ Hòn Gai quanh năm rừng rực nắng trời” này đã

xe duyên, kết mối cho bao đôi lứa người thợ khi họ gặp nhau trên một công

trường. Đây là lời anh thợ gõ nồi hơi đưa “cô bạn” thợ hàn về quê ra mắt mẹ:

Bạn con đấy, rất hiền mẹ ạ

Biết têm trầu và biết khâu vá

Biết nấu canh cua đồng với rau mồng tơi

(Thưa mẹ)

Cứ như thế, thật dí dỏm, vui tươi, nồng thắm tình người, hình tượng người

thợ mỏ trong thơ Trần Nhuận Minh ngày càng rõ nét, như là kết quả của sự khảo

sát, tìm hiểu, thâm nhập vào các mảnh đời, kết quả của tình cảm được thử thách

của tác giả sau bao nhiêu năm ông sống với vùng mỏ, với những người công

nhân mỏ nơi này.

Nhưng khi viết về người công nhân, Trần Nhuận Minh không chỉ mãi

dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà nhà thơ còn hướng ngòi bút sang cảm hứng thế

sự, để bám sát hiện tượng, sự vật, sự việc đang ngày đêm diễn ra ở cái vùng mỏ

đầy ắp than và cũng đầy ắp mồ hôi nước mắt này – nhất là khi lịch sử dân tộc

đang bước sang một hoàn cảnh mới: sau chiến tranh, tái thiết cuộc sống trong

muôn vàn gian khó, thiếu thốn, vất vả. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào

mảng hiện thực khuất lấp phía sau để phản ánh hình ảnh người công nhân trong

những ngày cực kì khó khăn của đất nước, với cái nhìn đầy sự xẻ chia, thông

cảm, đầy xót xa, đắng đót:

Anh thợ lò mang tín phiếu ra chợ

Tôi có ba mƣơi ngàn, ai trả bao nhiêu?

Gạo nhà nƣớc, bốn tháng liền nợ sổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lũ trẻ trƣa nay lại phải treo niêu…

43

(Bên đường)

Lời rao bán tín phiếu của “anh thợ lò” cứ găm vào lòng người đọc một

nỗi thương cảm đến quặn thắt. Hình ảnh người công nhân đứng giữa chợ đông

kẻ qua, người lại, với “cơn ớn lạnh, chạy qua tim” và sự“rùng mình” khi nghĩ

đến những đứa con còn chưa “no lòng” và đành hạ giá: “hãy trả tôi dƣới mƣời

ngàn cũng đƣợc”, nhưng rồi lại thất vọng khi “họ mỉm cƣời, và càng bƣớc thêm

nhanh” khiến cho người đọc không khỏi nao lòng.

Bên cạnh hình ảnh người thợ đứng ngơ ngác ở “bên đƣờng” mỏi mắt chờ

mong bán tín phiếu (được trả thay lương) để lấy tiền mua gạo nuôi con là một

hình ảnh, một cảnh ngộ khác, khiến ta càng xót xa hơn, đó là cảnh ngộ: một

người bạn có vợ được chọn đi làm Ô sin ở Đài Loan chớp lấy cơ hội gia đình

mình thuộc diện chính sách, anh công nhân nọ đã động viên vợ đi làm thuê ở xứ

người, tạm thời xa chồng con và gia đình với hy vọng sẽ chèo lái con thuyền

cuộc sống vượt qua “cái tao đoạn” của cuộc khủng hoảng kinh tế trong ngành

than:

Ƣu tiên gia đình liệt sĩ

Mình mới đƣợc làm Ô sin

Ngành than hiện đang giãn thợ

Biết đâu có việc mà tìm

Anh động viên vợ bằng lời lẽ vừa chân tình, vừa chua xót, vừa dí dỏm

mà đớn đau dưới dáng vẻ rất vô tư:

Thôi vui mà đi, mình nhé

Dùng dằng ngƣời khác sẽ thay

Lƣơng tám trăm đô, mỗi tháng

Ơn giời còn một cơ may…

Nhưng ẩn bên trong những lời lẽ tưởng như vô tư và lạc quan đó là một

tâm trạng buồn đến trĩu lòng, bởi đằng sau nụ “cƣời ngơ ngác” là “giọt lệ” của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nỗi niềm đắng chát, tái tê:

44

Bạn nói rồi cƣời ngơ ngác

Bâng khuâng gƣơng mặt hao gày

Giọt lệ của ngƣời đứng tuổi

Biết rơi vào cõi nào đây…

Có thể thấy, ngay từ trước thời kì Đổi mới, trong thơ Trần Nhuận Minh

đã có một sự chuyển đổi nhận thức và phương pháp phản ánh hiện thực. Từ chỗ

trong thơ ông chỉ một mầu tươi sáng, lạc quan khi viết về hình tượng người công

nhân vùng mỏ, đến chỗ thơ ông đã khắc họa những bức tranh hiện thực có một

màu sắc trầm và buồn cùng nỗi xót xa, lo lắng về số phận của những người công

nhân quen sống trong cơ chế bao cấp, nay phải đối diện với cơ chế thị trường.

Đó là một cách phản ánh hiện thực đa chiều hơn, phức tạp hơn. Chính vì vậy,

ông đã từng đúc kết về hình tượng người công nhân trong thơ của mình một

cách chân thực và đầy tính nhân văn như sau:

Họ lặn vào thơ tôi…thành câu

Với những hi sinh

Bền bỉ lặng thầm

Để vít đầu xuống

những cơn bão đang sinh thành

bùng phát cuối chân trời

Để đất nƣớc này rạng rỡ tên tuổi

Để đất nƣớc này, vƣợt lên…trong bình yên

(Đá cháy)

Quan niệm viết về người thợ là viết về cái xu thế phát triển của giai cấp

công nhân, Trần Nhuận Minh không nề hà tách ngòi bút thơ vào tất cả những

mẫu người vùng mỏ. Ông đã miêu tả những tình cảm, suy nghĩ khát vọng của

người công nhân trong mối quan hệ với đất nước, với dân tộc. Những suy nghĩ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình cảm, khát vọng đó không phải là những khái niệm chung chung. Nó có màu

45

sắc cụ thể. Nó được cắm rễ lâu bền từ trên mảnh đất cụ thể mà người thợ đã

sống, đã làm việc với ý thức của giai cấp mình.

Thơ Trần Nhuận Minh viết về người công nhân phong phú chất liệu hiện

thực, có khi dồn ép đến quá tải những bộn bề thực tế sản xuất vào thơ. Khi ông

chú ý khai thác cái phần sâu tâm tình người thợ, hồn thơ ông tỏ ra nhạy cảm với

những khía cạnh tinh tế của cuộc đời. Chỗ mạnh của Trần Nhuận Minh khi viết

về thực tế sản xuất chính là sự phong phú tươi mới của đời sống, của chất liệu

hiện thực cùng với trí tưởng tượng và sự tài hoa của nhà thơ. Tuy nhiên thơ Trần

Nhuận Minh cũng không ít những nhược điểm dễ nhận. Một mặt mô phạm trong

cấu tứ, song mặt khác, lại thường lạm dụng ngôn ngữ lời nói của người thợ trong

diễn đạt. Đã thấy thấp thoáng ở thơ ông đôi ý, đôi câu mòn sáo. Phải chăng Trần

Nhuận Minh cần mở thêm những mũi khoan thăm dò trên chính vùng đề tài

quen thuộc để phát hiện những vỉa mới, những mẫu quặng còn đang tiềm ẩn và

để tìm thêm cách khai thác và xử lí mới những chất liệu ấy.

Gắn bó và viết trên đất mỏ, Trần Nhuận Minh đã góp cho thơ Việt Nam

những câu thơ hay, những bài thơ hay, đặc sắc về người thợ. Nhiều bài thơ giúp

cho người đọc thêm yêu vùng mỏ, yêu những người thợ mỏ trong bất cứ thử

thách gian khổ nào.

2.1.2. Hình tượng người nông dân – những mảnh đời phức hợp Thơ chân dung là một mảng thơ rất độc đáo của Trần Nhuận Minh,

trong đó, chân dung người nông dân được phác họa rất rõ nét. Họ là những con

người cụ thể, đơn lẻ nhưng lại có chung những nét đặc trưng.

Trần Nhuận Minh viết về nông thôn, về đồng quê với một thứ tình cảm

hết sức chân thật, gan ruột. Ông đã đề cập tới những sự thật không thể coi

thường hay chối bỏ ở chốn này. Thơ ông như đã phát huy tối đa những thế mạnh

của chủ nghĩa hiện thực trữ tình trong ca dao, dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Đáng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mừng thay, sau Nguyễn Bính, hồn quê Việt Nam như được tái sinh thăm thẳm

46

tình người, bâng khuâng, thao thức, cồn cào, trong các bài thơ của Trần Nhuận

Minh khi viết về nông thôn và những chủ nhân của nó ngày hôm nay.

Ngòi bút của Trần Nhuận Minh đã điểm xuyết tới tất cả những gương mặt

người nông dân lao động với những phát hiện hết sức tinh vi, sâu sắc cả bằng

trực quan và cả bằng trực cảm của mình. Họ xuất hiện với những cái tên cụ thể:

thím Hai Vui, bá Kim, ông Vọng, Dì Nga, …ngay cái tên đã báo hiệu một định

mệnh trái ngược với nó. Họ là một tập hợp cảnh ngộ éo le, không ai giống ai,

song họ đều phải gánh chịu những khó khăn, vất vả của cuộc sống thời hậu

chiến và chới với, lo lắng, bất hạnh trước ngưỡng cửa của thời buổi kinh tế thị

trường.

Trong thơ Trần Nhuận Minh, hình như mỗi người phụ nữ nông thôn đều

có một số phận như những con nước trong mùa hạn hán. Mỗi con nước có một

nguồn riêng, nhưng phần lớn đều là cạn kiệt trước khi hòa mình vào dòng lớn.

Hình ảnh một thím Hai Vui hết sức chăm chỉ, đảm đang, nay phải đón

nhận một nghịch cảnh đau xót trong cuộc đời với những bất hạnh không thể nào

biết trước. Trước đây, khi đất nước xẩy ra chiến tranh, thím là hậu phương vững

chắc: “Nuôi hai con ăn học/Cày cấy đến quắt ngƣời” để chồng yên tâm xông

pha nơi tiền tuyến. Lúc ấy thím lại cảm thấy rất vui vẻ và hạnh phúc: “Thím bảo

những năm ấy/Là những năm hòa bình”. Nhưng đến khi đất nước hòa bình, thím

tưởng sẽ được tận hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc trọn vẹn trong khúc khải

hoàn ca chung của dân tộc như bao người vợ khác khi có chồng chiến thắng trở

về, nhưng nào ngờ bi kịch gia đình bây giờ mới thực sự ập xuống đầu thím như

một cuộc chiến tranh mới vậy: “Chỉ thƣơng thím Hai Vui/Mặt mũi luôn thâm

tím/Đến bây giờ chiến tranh/Mới đến thật với thím”. Cả cuộc đời có hai lần thím

cười, cả hai lần hòa cùng nước mắt. Đó là lúc thím gặp lại chồng: “Thím cƣời

mà nhƣ mếu”, và lúc thím li hôn chồng: “Miệng mếu lại thành cƣời”, trong nụ

cười ấy tồn tại những đối cực cảm xúc đầy mâu thuẫn. Từ một người phụ nữ có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gia đình, thím lại bị đẩy vào tình cảnh không gia đình: “Nghe đâu thím lên

47

tỉnh/Rửa bát cho ngƣời ta”, bao nhiêu nỗi gian truân, vất vả, thím có đủ bản lĩnh

vượt qua, nhưng vết thương tinh thần đã làm thím quỵ ngã, thím mặc cảm trước

sự thương hại của người đời: “Thấy ai quen cũng lánh/Những mặt phấn quần

hoa…”. Trần Nhuận Minh đã thấu hiểu một nghịch cảnh thật nghiệt ngã. Trong

chiến tranh tuy xa cách thiếu thốn vất vả nhưng con người vẫn thấy bình an hạnh

phúc bởi có sự hòa hợp, thấu hiểu và yêu thương sẻ chia. Nhưng nay trước cơn

bão của kinh tế thị trường, lối sống thực dụng xâm nhập và sự ích kỉ các nhân

lên ngôi, con người bỗng thấy trơ trọi và không đủ sức chống đỡ. Đối với người

phụ nữ, chiến tranh đã đem lại bao hi sinh, gian khổ, nhưng hậu chiến tranh, với

những mất mát trong cuộc sống gia đình mới chính là nỗi bất hạnh lớn nhất

không thể vượt qua.

Khác với hoàn cảnh của thím Hai Vui, người phụ nữ ở làng biển tuy có

một gia đình hạnh phúc, nhưng trong lòng chị lúc nào cũng phấp phỏng, lo âu

một tai họa của thiên nhiên có thể giáng xuống. Hạnh phúc của chị cũng rất

mong manh khi người chồng thường xuyên phải đối mặt với những cơn thịch lộ

của biển. Mặc dù cơn bão biển đang tan nhưng cơn bão lòng trong chị vẫn đang

tồn tại:

Không phải sáng nào cũng đứng cân tôm

Chẳng phải chiều nào cũng ngồi vá lƣới

Có điều gì chị còn chƣa kịp nói

Khi anh bồng bềnh đi về phía bão đang tan

Có vẻ gì phấp phỏng lo toan

Trong vời vợi gian nhà ngƣời đánh cá

(Ở nhà người đánh cá biển)

Để có một hạnh phúc bền lâu, có một gia đình yên ấm, không bất trắc,

đối với người phụ nữ vùng biển này thật khó lắm thay! Đó là một sự thật không

thể nào khác được, cho dù ở bất cứ thời kì xã hội nào cũng vậy – vì thiên nhiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cũng khắc nghiệt chẳng kém gì lòng người!

48

Ngòi bút của Trần Nhuận Minh còn đụng đến cả những số phận của

những người phụ nữ nông thôn có những hoàn cảnh ngang trái, trớ trêu và họ có

những sự “nổi loạn” một cách mạnh mẽ trong việc tìm đến hạnh phúc đích thực

của mình. Hình ảnh cuộc đời của dì Nga là một cảnh đời như vậy. Với dì Nga,

nửa đời mình an phận trước sự sắp đặt để vừa lòng cha mẹ: “Lấy chồng theo ý

mẹ/Dạy con vâng lời cha”. Dì có một cuộc sống sung túc: “Chuỗi bạc trong

ngực áo/Vòng vàng ngoài cổ tay”, tưởng là dì hạnh phúc, nhưng cuộc sống vật

chất chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy trái tim băng giá của dì hằng đêm chưa

tìm được nhịp đập đồng điệu. Không chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình

yêu và nhận thức được giá trị của hạnh phúc, dì Nga trút bỏ tất cả để đến với

chốn neo đậu đích thực cho mình:

Dì theo một anh chàng

Chuyên nghề câu cá vƣợc

Bên nhau trong khoang thuyền

Giữa bốn bề mây nƣớc

(Dì Nga)

Hạnh phúc phải chăng luôn là một ẩn số trong bài toán cuộc đời mà con

người phải nhọc công tìm kiếm. Và dì Nga phải mất gần nửa cuộc đời còn lại

mới tìm ra đáp số.

Dưới ngòi bút của mình, Trần Nhuận Minh đã đặt ra những vấn đề bức

xúc, nhức nhối trong tình yêu và hôn nhân trước cuộc sống đầy biến động hôm

nay. Đó là vấn đề bạo hành trong gia đình, là sự đồng cảm trong quan hệ vợ

chồng, là sự chạy chốn trong tình yêu hay cố gắng để có được tình yêu…, dù là

vấn đề nào thì nạn nhân cũng là người phụ nữ. Họ vừa là nạn nhân của người

khác, vừa là nạn nhân của chính mình. Trong số họ, có người đã may mắn tìm

cho mình một lối thoát nhưng vết thương lòng thì không thể nào hàn gắn được.

Cảnh đời của những người phụ nữ không chỉ mang nặng vết thương do

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tổn thất về tình cảm gia đình, mà họ còn là nạn nhân bị đẩy tới phân cực giàu

49

nghèo bởi những cú va đập của nền kinh tế thị trường, thậm chí còn chịu nhiều

thua thiệt trong mối quan hệ bất bình đẳng của xã hội. Lúc nào con người nhỏ bé

cũng bị rẻ rúng, bị đối xử tàn nhẫn. Cô gái nông dân trên sân bay quốc tế

Seremechevô là một thực cảnh đau lòng:

Mấy ai thƣơng đến kẻ nghèo

Tấm thân đầy đọa đến điều…chƣa xong.

Người phụ nữ ấy vốn xuất thân nơi đồng chua nước mặn, mong muốn một

cuộc đổi đời để thoát khỏi kiếp cơ hàn cứ vây bủa: “Tƣởng rằng hết kiếp ngựa

trâu/Nào ngờ lại thấy trên đầu dùi cui”. Số phận con người nhỏ bé dường như

đã được an bài, càng muốn bứt phá, để chiếm lĩnh cuộc sống thì càng bị vòng

đời đen tối xiết chặt, quây hãm, không cho họ một lối thoát:

Đỏ xanh cũng môt chân trời

Đến đâu cũng một cuộc đời làm thuê

Đau xót hơn, khi lũy tre làng không còn là nơi bình yên để níu giữ bước

chân của những người phụ nữ vốn có tâm hồn thuần phác, có bản tính quê mùa.

Họ đã dấn thân vào con đường đầy gian truân, bươn trải ngược xuôi, và phải đối

mặt với những nghiệt ngã phũ phàng:

Quanh co trò chuyện đôi hồi

Thì ra em đã là ngƣời lƣu vong

Chôn con, bỏ việc, không chồng

Dây đời ai cởi trong vong ấy ra

(Tình cờ gặp người quen trên tầu tốc hành)

Viết về số phận của người phụ nữ nông thôn, giọng thơ của Trần Nhuận

Minh luôn tràn đầy yêu thương, thông cảm, đầy lo lắng, suy nghĩ, nhất là với

những người phụ nữ bất hạnh.

Hình tượng người nông dân cứ trở đi trở lại trong thơ Trần Nhuận Minh

như một sự ám ảnh, day dứt. Nhà thơ đặc biệt quan tâm tới những trẻ em có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những cảnh đời bất hạnh. Hơn bao giờ hết, Trần Nhuận Minh đã phản ánh cuộc

50

sống của trẻ em trước thực trạng của đất nước đang trong cơ chế thị trường đầy

biến động. Đằng sau bức tranh xã hội năng động thời mở cửa trong xu hướng

hội nhập quốc tế, thì còn nhiều bức tranh đời đẫm nước mắt vẫn hiện ra. Hình

ảnh một cháu gái đi giúp việc gia đình ở nước ngoài là một điển hình:

Tập hầu cơm ông trẻ

Đƣa tăm cháu phải quỳ

Tập ăn thừa dƣới bếp

Tập khóc chẳng ai hay

(Cụ Chiến tiễn cháu gái đi giúp việc gia đình ở nước ngoài)

Cháu gái cụ Chiến là một trong nhiều mảnh đời phải li hương vì miếng

cơm, manh áo với bao nỗi buồn tủi đang đợi nơi xứ người. Cuộc đời cụ Chiến

từng là chứng nhân những năm tháng đau thương, tủi nhục của dân tộc trong

vòng nô lệ. Giờ đây, cụ lại xót xa trước nỗi niềm đứa cháu gái tội nghiệp sắp

bươn trải trên đất nước người: “Bài học thời mất nƣớc/Ai ngờ dùng hôm nay”.

Trong thời cuộc mới, với sự vận động mau lẹ tới chóng mặt của nền kinh

tế thị trường với những quy luật khắt khe của nó. Khoảng cách giàu nghèo,

khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng rõ rệt, mặc dù nhà nước đã

có những chính sách để giảm bớt đói nghèo, thu hẹp khoảng cách. Do đó trong

vùng nông thôn bao quanh thành phố đã xuất hiện bao cảnh trẻ em (bên cạnh

người lớn) đã phải bỏ làng, bỏ nhà cửa, xa dời tuổi thơ bình dị để phiêu bạt ra

thành phố kiếm sống. Nhà thơ đau xót khi chứng kiến cảnh ngộ những em bé

lang thang, không một chốn nương thân trong đêm giao thừa:

Những em bé lang thang làm nghề bới rác

Bị xua ra khỏi nơi trú cuối cùng

(Giao thừa)

Và một đứa trẻ phải ăn cắp chiếc bánh mì để giữ lấy sự sống cũng bị

người đời đánh đập tàn nhẫn:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mặt nó sƣng vêu tím nhƣ ốc nhồi

51

Răng nó lung lay, mép dòng máu đỏ

Có thể nó không còn mẹ còn bố…

(Bài thơ không định viết)

Trước cảnh tượng đó, Trần Nhuận Minh không thể dửng dưng, vô tình,

ông đã kịp thời lưu vào trong “hồ sơ xã hội” của mình một trong những mảnh

đời thương tâm vẫn còn tồn hiện trong xã hội thời mở cửa, và đang có nguy cơ

bị xói mòn về môi trường đạo đức:

Không ai vô can khi một em bé

Đến ngày nay vẫn còn đói bánh mì

(Bài thơ không định viết)

Cảnh đời của em bé có phần nào giống cảnh đời của Giăng Văn Giăng

trong số “những ngƣời khốn khổ”. Có chăng khác nhau ở chỗ, Giăng Văn Giăng

phải cướp miếng bánh mì cho đứa cháu khỏi chết đói mà bị tù khổ sai, còn em

bé kia, dù sao sống giữa dòng đời đầy sự vô tâm, vô tình nhưng vẫn có “một tấm

lòng trong thiên hạ” cúi xuống xẻ chia và xót xa trước nỗi khổ của đời em.

Rồi còn bao nỗi bất hạnh khác từ “trên trời rơi xuống” đến với những

người nông dân nghèo khổ. Đó là bệnh tật hiểm nghèo, đó là tai nạn thương

tâm...ập xuống bất ngờ: Số phận cháu Thủy là một minh chứng, sự bất công nằm

ngay trong phán quyết của tạo hóa:

Ngƣời tốt mà mắc bệnh

Thƣờng khó qua hiểm nghèo

…Cháu một mình chịu đựng

Những giày vò nhân gian

(Cháu Thủy)

Cháu Thủy quẫy đạp trước bất hạnh của số phận, cố vượt lên nhưng bất

lực. Ở đây con người chỉ là trò chơi của tạo hóa. Câu hỏi cuối của bài thơ đọng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lại một nỗi niềm day dứt: “Sao ngắn đến thế này?/Cuộc đời một ngƣời tốt”.Cái

52

đớn đau của tác giả là: sao những người tốt lại phải chịu đoản mệnh còn bao kẻ

ác lại cứ nhởn nhơ sống?

Còn cuộc đời em Mừng bị đẩy vào một bi kịch đau lòng. Đó là bi kịch của

một con người “đã qua cái thời đói rách/làm sao còn khổ thế này”. Gánh nặng

gia đình đặt trên đôi vai, bắt em phải “đi đào than thổ phỉ/lấy tiền nuôi mẹ nuôi

em”, nhưng tạo hóa lạnh lùng, định mệnh cay nghiệt đã đánh đổi cuộc đời của

một đứa con hiếu thảo bằng một kết cục thương tâm: “Sập lò, cột đè gãy nát/Xác

buộc túm trong vải bạt…/Nƣớc than ngâm cháu đen sì/Rửa đến bao giờ cho

sạch”(Cháu đi đào than thổ phỉ).

Viết về những “tuổi thơ dữ dội”, Trần Nhuận Minh như muốn gửi tới

toàn thể xã hội một thông điệp khẩn thiết: đất nước đang trên đà hội nhập, phát

triển nhưng vẫn còn rất nhiều cuộc đời bất hạnh, vẫn còn đói nghèo ở quanh ta!

Tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm để xóa đi, để giảm thiểu sự đói nghèo

cho cuộc sống giữa con người gần khoảng cách hơn.

Thơ Trần Nhuận Minh còn tập hợp rất nhiều cảnh ngộ người nông dân

nghèo khổ khác. Họ phải bươn trải, vật lộn với cuộc sống thường ngày để mưu

sinh. “Đôi mắt xanh” biết yêu thương, trân trọng những người lao động nghèo

khổ của một nhà thơ đã khiến ông luôn đến bên họ để yêu thương, để cảm

thông, để biết ơn họ:

Bà tôi có chiếc đòn gánh cong

Nửa đời gánh mƣớn kiếp long đong

Đƣờng lầy gánh nặng vai cháy bỏng

Mỗi bƣớc chân đi nƣớc mắt ròng

(Chiếc đòn gánh cong)

Hình ảnh người bà cơ cực “thắt lƣng bó que” gánh trên đôi vai gầy bao

nỗi nhọc nhằn, cay đắng, bước thấp bước cao trên con đường thụt lầy, trơn trượt,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

gợi lên một mối thương cảm da diết đến như vậy.

53

Cảm nhận về nỗi bất hạnh của những kiếp người, những thân phận bé

nhỏ giữa cõi nhân gian, bài thơ ông Hủi đặt ra vấn đề về sự tồn tại của con

người trước những biến thiên dữ dội của cuộc đời:

Đồn rằng ông Hủi ngày xƣa

Qua đây trong một đêm mƣa lìa đời

Mối xông thành áo niệm ngƣời

Mong manh nƣớc trắng. Bời bời cỏ xanh

Khi còn sống, ông Hủi phải chịu cảnh “một đời đói khổ lao đao/ mịt mù

nào biết lối nào mà ra”, đến ngay cả danh tính và nguồn gốc xuất thân của ông

cũng không được rõ: “Không tên tuổi, chẳng quê hƣơng/Một mình quặn một

niềm thƣơng một mình”. Ông mang một nỗi đau thân xác trà xát với nỗi đau tinh

thần để gánh cả cuộc đời đầy đớn đau, khắc khoải, và lúc chết đi cũng chưa hết

nỗi buồn nhân thế, không thể giãi bày với đồng loại: “Bốn bề cây cỏ lặng

thinh/Trời xanh một sắc oan tình đó sao?”.

Giá trị nhân văn trong thơ Trần Nhuận Minh hầu như đều được bắt

nguồn từ những sự thật không né tránh, kiêng kị, từ những mất mát, đau thương,

những bất hạnh và những bi kịch của số phận con người. Do vậy đã hàm ẩn

trong nó tình yêu thương, sự đồng cảm thực sự với con người lao động của nhà

thơ. Trần Nhuận Minh là một nghệ sĩ tinh tế, cực nhạy cảm với những nỗi đau,

sự bất hạnh của con người, vì thế đọc thơ ông - người đọc luôn bị xúc động,

luôn bị cảm giác tức ngực, đầy sự lo lắng, xót xa và mong muốn được xẻ chia

cùng các số phận không may đó.

Những bức chân dung về người nông dân lao động của Trần Nhuận

Minh đã để lại trong lòng độc giả một nỗi ám ảnh, đôi khi thật da diết về một

kiếp người, về những con người trong làng quê Việt Nam thời kì hiện đại. Đó

cũng là một mặt của hiện thực xã hội ngày nay. Nhưng bên cạnh những mảnh

đời bất hạnh, những bi kịch thương tâm, những cuộc sống ảm đạm, vẫn lấp lánh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những trang đời tươi sáng. Một Bá Kim, một Ông Vọng… dù còn phải rất vất vả

54

trong công việc làm ăn nhưng trong họ vẫn đầy ắp những tình cảm cao quý về

một nhân cách sống đáng trân trọng.

Bá Kim đã nguyện hiến dâng hai núm ruột của mình cho Tổ quốc, hai

người con trai hi sinh trên chiến trường để lại bá đơn độc trong túp lều tranh

“sau vƣờn mía”, với “niêu đất nấu cơm- chõng tre giải ổ”. Mặc dù là gia đình

liệt sĩ, có đồng tiền trợ cấp nhưng bá vẫn sống cuộc đời lam lũ: “Trƣớc móc cua

bây giờ cũng móc cua/Mu bàn tay chéo chằng vết xƣớc”. Bá an nhiên với cuộc

sống giản dị, không đòi hỏi bất cứ điều gì, vẫn trải tấm lòng nhân hậu, bao dung

ra với mọi người: “Bá bán cua khắp Huyện chợ Đình/Còn tiền lẻ, bá mua bỏng

bẹ/Tha hồ cho các cháu học sinh”.

Rồi một ngày kia bá Kim thanh thản ra đi vào cõi vĩnh hằng, không một

chút khổ lụy. Vì đó chính là cuộc ra đi cuối cùng của người mẹ anh hùng về

đoàn tụ với các con nơi bên kia thế giới:

Rồi một sớm ngọn đèn vẫn sáng

Cái hũ nằm bên…Bá đã đi rồi

Gƣơng mặt bá dịu hiền thanh thản

Không hề vƣơng những buồn khổ cõi đời

(Bá Kim)

Nếu cuộc đời bá Kim vừa bình dị vừa kì vĩ để “hồn thơm thảo đã lẫn

vào trời đất”, thì ông Vọng cũng là một dạng tính cách nhân hậu, chất phác, thật

thà. Sống bằng nghề đánh dậm nhưng ông vẫn hy vọng một cuộc sống tốt đẹp

hơn cho mình và đồng loại. Ông chắt chiu những nỗi cơ cực của mình để vắt

thành những giọt tình thương ấm áp phân phát cho những con người có cuộc

sống bi đát hơn mình:

Ông thƣờng bán tôm cá rẻ

Cho ai còn khổ hơn mình

Và sống ung dung, thanh thản một cuộc đời đạm bạc:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Có tiền ông mua cút rƣợu

55

Nhắm với hành tƣơi chuối xanh

Hình ảnh ông Vọng có gì giống với hình ảnh Lão Hạc trong tác phẩm

cùng tên của Nam Cao. Họ đều chan chứa tình thương, sáng ngời nhân cách, sẵn

sàng hi sinh tư lợi cá nhân cho người khác. Nhưng ở đây, có lẽ ông Vọng sung

sướng hơn Lão Hạc, ông không hề vướng bận riêng tư, không bị đẩy vào bi

kịch, mà luôn cháy bỏng trong mình ước mong tốt lành về một tương lai phía

trước:

Có đêm ông vừa thiếp ngủ

Cá tôm chạy chốn phƣơng nào

Ông bỗng thấy mình rực sáng

Vục lên cả một trời sao

(Ông Vọng)

Cuộc đời của bá Kim và ông Vọng dù sao cũng là nốt nhạc vui hiếm hoi

trong dàn đồng ca trầm buồn của bản hợp xướng về cuộc đời người nông dân

trong thơ Trần Nhuận Minh.

Đọc thơ Trần Nhuận Minh, qua bức chân dung về số phận người nông

dân lao động, chúng ta rơi lệ vì tâm niệm sâu thẳm của nhà thơ: “Tôi viết về nỗi

đau của con ngƣời”. Hình tượng những con người bé nhỏ như “Hoa cỏ” giữa

thảo nguyên mênh mông được nhà thơ trân trọng, cung kính: “Tôi chắp tay

trƣớc màu xanh muôn thuở…”. Cái chắp tay ấy là bản lĩnh và niềm vui vĩnh cửu

của Trần Nhuận Minh và người yêu thơ.

Cách xây dựng hình tượng nhân vật cho ta thấy quan niệm nghệ thuật về

con người của nhà thơ. Việc khai thác số phận người nông dân lao động ở nhiều

chiều, nhiều hướng, nhiều góc cạnh đã cho thấy cái nhìn cuộc sống và con người

trong thơ Trần Nhuận Minh đạt đến độ sâu sắc, đầy chiêm nghiệm đúc kết của

một nhà thơ từng trải. Có trách nhiệm với ngòi bút, sống và viết hết mình, thật

mình, luôn trăn trở, băn khoăn cho số phận người lao động (người công nhân và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người nông dân). Dường như chưa bao giờ nhà thơ lo âu, suy nghĩ nhiều cho

56

kiếp người như lúc này, nhưng chưa bao giờ Trần Nhuận Minh mất đi niềm tin

và không thôi khát vọng về con người với bao điều tốt đẹp.

Với dung lượng câu chữ ngắn gọn trong thơ, Trần Nhuận Minh đã dựng

lên được những bức chân dung sinh động về con người lao động, đó là kết quả

của sự trải đời, hiểu người, yêu người và thương người biết bao của “nhà thơ và

hoa cỏ” này. Thế giới hình tượng nhân vật của Trần Nhuận Minh - thế giới của

những mảnh đời phức hợp.

2.1.3. Hình tượng người lao động nghệ thuật Là người lao động trong lĩnh vực nghệ thuật, nên Trần Nhuận Minh có

một sự hiểu biết và đồng cảm đặc biệt tới hoàn cảnh, số phận của các nhà văn,

nhà thơ tự cổ chí kim.

Cuộc đời con người là một “lát cắt” trong quy luật vận hành của tự nhiên.

Số phận của văn nghệ sĩ thời phong kiến trong thơ Trần Nhuận Minh thường

gặp nhiều bất hạnh vì định mệnh, bất hạnh vì dòng xoáy thế cuộc xô đẩy, và vì

chính sự tài hoa nhất bậc của mình. Bởi lẽ, xã hội phong kiến mà họ sống và

phụng sự ấy vốn không trân trọng, không muốn dung nạp những người tài trí,

tâm sáng như sao Khuê đó; vì ánh sáng của trí tuệ, ánh sáng của lòng nhân ái

của họ có thể còn làm lu mờ cả thứ ánh sáng nơi điện vàng cung ngọc.

Danh nhân Nguyễn Trãi lúc sinh thời từng được suy tôn “vi thần”, có tài

thao lược “kinh bang tế thế”, “viết thƣ thảo hịch có sức mạnh nhƣ mƣời vạn

hùng binh”, góp phần quan trọng vào việc đánh thắng giặc Minh, khôi phục

giang sơn; một con người luôn có tư tưởng tiến bộ, thân dân, cận dân, lấy dân

làm gốc: “Lật thuyền mới biết dân nhƣ nƣớc”, một anh hùng văn võ toàn tài:

“Bóng Ức trai đi, động gió bốn phƣơng trời” thế mà lại bị rơi vào nỗi oan khiên

thảm khốc, phải rơi đầu trong vụ án Lệ Chi Viên:

Cụ Nguyễn Trãi ôm chăn ngồi trƣớc mũi thuyền

Gió buốt thổi sau lƣng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Sông Kinh Thầy cuồn cuộn đỏ chảy về Đông

57

Cửa Bạch Đằng nƣớc triều dâng tới sáng

Cùng với mặt trời lên

Câu thơ phải rơi đầu.

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Không phải chịu một kết cục bi thảm như danh nhân Nguyễn Trãi, thi hào

Nguyễn Du cũng phải đối mặt với một xã hội phi nhân tính và sống trong thời

đại thấy “toàn nƣớc mắt” và nghe được những “tiếng kêu đứt ruột” của con

người , nên ông suốt đời trân trọng, cảm thương cho những vẻ đẹp của thế gian

và luôn cúi xuống nỗi đau của nhân loại, nhưng lại bất lực trước xã hội đầy bất

công. Trang thơ nào của ông đọc lên cũng có thể khiến ta rơi lệ bởi những kiếp

người bị vùi dập tàn nhẫn. Số phận Nguyễn Du cũng không tránh khỏi cái án

của “thiên mệnh” như bao con người tài hoa bạc phận khác: “Cõi đời đâu cũng

long đong/Văn chƣơng bạc phận, má hồng vô duyên”(Nguyễn Du). Ớn lạnh

trước “chính trƣờng sấp mặt, đồng tiền xoay ngang”, Nguyễn Du đã chủ động

đoạn tuyệt cuộc sống để được hòa mình vào với thập loại chúng sinh:

Cụ Nguyễn Du không chịu uống thuốc

Sờ xem ta chết đến đâu rồi

Ừ. Đƣợc

Cụ nói thế và đi

Lẫn trong thập loại chúng sinh

( 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Viết về hai nhà thơ lỗi lạc, hai đại diện tiêu biểu cho những người lao

động nghệ thuật của dân tộc có cuộc đời nhiều tai ương, bất trắc, và đầy bi kịch,

Trần Nhuận Minh thể hiện rõ sự ngưỡng mộ, trân trọng, và đầy thương tiếc, đớn

đau cho số phận của những bậc thiên tài.

Trong thơ, ông còn nhắc tới Lão Xá – một nhà thơ Trung Quốc tài hoa

nhưng lại phải đón nhận một bi kịch đau đớn, kinh hoàng bởi cuộc Cách mạng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Văn hóa đã quy kết và xử lí ông một cách tàn nhẫn: “Lũ trẻ con từng rút lƣng da

58

có móc sắt quất chéo vào mặt Ông/Hả hê lôi xác Ông lên phơi nắng”. Nhưng rồi

cuối cùng ông cũng đã được nhân dân chiêu tuyết,và mãi bất tử cùng với kiệt tác

của mình:

Văn chƣơng lỗi lạc một thời

Bể dâu đến thế thì thôi còn gì

Chúng đốt Tường Lạc Đà của ông

Nhƣng nó mãi mãi vẫn là một trang kiệt tác

Nhân dân Trung Hoa nhờ những kiệt tác ấy mà bất tử.

(Lão Xá)

Cũng rơi vào bi kịch đau lòng không kém, Khuất Nguyên, một nhà thơ

lớn của Trung Quốc cổ đại, đã nhẩy xuống sông Mịch La tự vẫn, để trốn chạy

cuộc đời đầy bất công và lòng người đầy hiểm ác, nhưng cái chết lại đưa nhà thơ

vào thế giới không khác gì thế giới mà ông đang sống. Ở đây,Trần Nhuận Minh

đã có cái nhìn “giải cổ tích” về cuộc đời, về số phận của nhà thơ Khuất Nguyên

qua chuỗi “bi kịch liên hoàn” nhằm lí giải một hiện thực đen tối của triều đại

phong kiến Trung Quốc mà Khuất Nguyên đã sống:

Khuất Nguyên

Chê cuộc đời quá đục

Chọn chỗ nƣớc trong để trẫm mình

Tiếc thay!

Con cá lớn nuốt Ông

Trong bụng cá

Thức ăn đã thối rữa…

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Còn với hình tượng nhà thơ Êxênin – niềm tự hào của nước Nga một thuở,

cái chết đầy bi kịch của ông mãi vẫn là nỗi niềm day dứt cho những nhà thơ như

Trần Nhuận Minh:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Môi dập máu những câu thơ trong trẻo

59

Đến bây giờ, còn day dứt lòng nhau

(Đến làng Kôn xtan tinôvô quê hương thi hào Nga Xergây Êxênin)

Và đây là hình tượng nhà văn nước Nga Lep-Tônxtôi hiện lên giữa đối

cực của hai bờ hư – thực. “Bộ óc khổng lồ” sản sinh ra những kiệt tác bất hủ,

mà trong đó kết tụ hình ảnh một trái tim vĩ đại đập cùng nhịp đập với nhân dân

Nga. Đến lúc vĩnh biệt cõi đời, thân xác cũng lại trở về với cát bụi, nấm mộ ông

cô đơn bên cạnh hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm của mình:

Những tác phẩm thiên tài

Vƣợt ra ngoài

Các giới hạn

Đấng Tạo Hóa nằm đây

Nhỏ bé cô đơn

Bên gốc một cây sồi

(Trước mộ Đại văn hào Lep-Tônxtôi)

Cuộc đời con người luôn hữu hạn trước cái vô hạn của dòng chảy thời

gian. Chỉ có thơ ca là tài sản tinh thần có sức lan tỏa, tồn tại vĩnh cửu. Lầu

Hoàng Hạc sẽ chẳng còn gạch nối của một thời vàng son nếu không có bàn tay

Thôi Hiệu đề thơ trên đó. “Người thơ” giờ đã đi xa, nhưng di tích thì còn đó, và

đang bị biến dạng bởi sự can thiệp của bàn tay con người thời hiện đại, và bị

thương mại hóa, đã khiến cho Trần Nhuận Minh cũng cảm thấy se xót, thương

cảm, bàng hoàng:

Sau một ngàn hai trăm bốn mƣơi nhăm năm,

Thôi Hiệu làm sao hình dung đƣợc

Có một nhà thơ từ tận phƣơng Nam,

đến ngắm làn mây bay qua thơ Ông

mà thƣơng cảm bàng hoàng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Mây trắng)

60

Tất cả các văn nghệ sĩ trong thơ Trần Nhuận Minh ở những thời đại

trước, ở mỗi dân tộc đều là những thiên tài. Họ sống trên cõi đời phải đối mặt

với hiện thực tàn nhẫn, những ngổn ngang, oan trái của thế thái nhân tình, thậm

chí có người phải gánh chịu một bi kịch thảm khốc, một nỗi oan khôn nguôi của

thời đại, khiến cho lịch sử không bao giờ lãng quên. Nhưng họ đã trở thành bất

tử khi những kiệt tác của mình vượt thời gian để tồn tại vĩnh hằng. Họ được

phục sinh trong nỗi ám ảnh, sự ngưỡng mộ của hậu thế như một niềm tri ân

thành kính, nhưng cũng để lại bao nhức nhối, bao xót xa trong trái tim của

những người lao động nghệ thuật đích thực này.

Không chỉ thấu hiểu và cảm kích trước các bậc tiền nhân, Trần Nhuận

Minh còn thấu hiểu, còn giành cả tình cảm yêu thương, quý trọng và sự đánh giá

đúng vai trò của người lao động nghệ thuật ngày nay.

Những người lao động nghệ thuật (trong đó có những nhà văn, nhà thơ)

đều là những người đang phải đối mặt với bao vất vả, khó khăn chồng chất. Họ

vừa phải lao động kiếm sống như bao người khác, lại vừa phải ra sức sáng tạo

những tác phẩm văn chương có giá trị đích thực! Vì vậy, họ phải hai lần vất vả,

hai lần đổ mồ hôi, công sức, trí tuệ, tình cảm để hoàn thành nhiệm vụ cao cả của

mình.

Với nhà văn Võ Huy Tâm, anh lấy đời người thợ để tìm cảm hứng sáng

tác cho đời mình. Anh chấp nhận dấn thân vào con đường lao động cật lực mong

có thể vượt ra ngoài khả năng bẩm sinh sáng tác, nhằm đưa những tác phẩm

nghệ thuật của mình đến đỉnh cao hơn, có nhiều sáng tạo hơn:

Không vào rừng thì đói

Nhà văn lại cƣời xòa

Mà văn chƣơng lại phải

Vƣơn lên những tầm xa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Tinh chất)

61

Còn nhà thơ Thanh Tùng, trước khi đến với thơ, anh là một người thợ.

Cho nên, ở anh - một con người đảm nhiệm hai thiên chức, vừa lao động chân

tay: “Bạn làm nghề áp tải/Đƣờng bộ và đƣờng sông”, vừa sáng tạo nghệ thuật:

“Thơ trong đầu nổi loạn/Mà chẳng nên bài nào”. Hai lĩnh vực khác nhau nhưng

lại gắn bó hữu cơ trong một con người để hình thành nên bức chân dung đầy ý

nghĩa: Nhà thơ áp tải:

Đất nƣớc có một thời

Kẻ gian nhiều nhƣ nấm

Không ngờ một nhà thơ

Lại sống bằng… nấm đấm.

(Nhà thơ áp tải)

Những người lao động nghệ thuật luôn có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp

của chính mình. Họ muốn để lại cho đời những những tác phẩm nghệ thuật có ý

nghĩa, nên cho dù vất vả, cho dù hiểm nguy, họ vẫn vượt qua hoàn cảnh, vượt

qua chính mình để có thể hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng của một nhà thơ

quyết: “áp tải sự thật/đến những bến cuối cùng”

Viết về văn nghệ sĩ cùng thời, Trần Nhuận Minh đã dựng lên bức chân

dung đời thường của họ rất chân thực và vô cùng xúc động. Mặc dù hiện tại,

“cơm áo không đùa với khách thơ”, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, thách

thức, xã hội vẫn tồn tại những khiếm khuyết, những bất cập nhất định, nhưng họ

vẫn miệt mài lao động trên lĩnh vực văn học nghệ thuật bằng cái tâm, cái tài,

bằng niềm tin vào cuộc sống, niềm tin vào tương lai tốt đẹp.

2.1.4. Hình tượng người trí thức trước vòng xoáy của cơ chế thị trường Sau năm 1985, xã hội có nhiều thay đổi mạnh mẽ, không ít người trở

nên hoang mang hoài nghi trước sự phức tạp của đời sống, sự đảo lộn của một

số giá trị và chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Điều đó tác động mạnh mẽ đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quan niệm thẩm mĩ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ.

62

Tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh, người đọc sẽ thấy xuất hiện hình tượng

người trí thức được phản ánh ở nhiều chiều kích khác nhau. Nhà thơ đã quy tụ

những gương mặt ở mọi góc độ, mọi hoàn cảnh để dựng lên bức chân dung đời

thường, sống động. Họ là tầng lớp trí thức, tầng lớp cấp tiến trong xã hội, nhưng

chính xã hội của nền kinh tế thị trường như một guồng xoáy đã xô đẩy họ vào

mọi ngả của lối rẽ. Là chứng nhân của thời kì mở cửa, bên cạnh những biến

động tích cực của đất nước, thì vẫn còn những bất ổn, những tiêu cực tồn tại và

nẩy sinh, cho nên, Trần Nhuận Minh luôn nhạy cảm, xót xa, đau đớn trước sự

băng hoại môi trường và nhân cách con người nhất là những người trí thức –

những người có học, có văn hóa nhất trong xã hội.

Hình ảnh một cô Bổng đã từng đứng trên bục giảng, mang dấu ấn một

thời được xã hội vinh danh, được đồng nghiệp tín nhiệm: “Bầu cô đi dự đại hội

trên”, còn khi: “Về hƣu cô dƣợc dân cử/Thắp nhang và quét sân đền”. Cũng vì ý

nghĩa của cuộc sống mà nửa cuộc đời lúc trước, khi còn thời bao cấp, kinh tế

khó khăn, cô Bổng vẫn gắn bó say mê với nghề dạy học. Nay được tự do tín

ngưỡng, cô lao vào “kinh doanh” nghề mê tín dị đoan để thu nhập cá nhân nơi

cửa đền. Trước đây, cũng chiếc cặp này vẫn đựng những trang giáo án, còn “bây

giờ thấy thẻ với bùa”. Đồng hành với nền kinh tế xã hội đi lên là bước thụt lùi

của nét thuần phong mĩ tục. Con người đang có nguy cơ biến dạng lối sống bởi

ngoại cảnh.

Người trí thức nhiều khi cũng không cưỡng nổi trước sức lôi kéo mãnh

liệt của đồng tiền. Đồng tiền trong nền kinh tế thị trường có một ma lực đáng sợ,

nó thúc đẩy con người phải sống, phải làm việc tận lực, nó cũng đem đến bi kịch

cho con người đang ngùn ngụt khát vọng đổi đời bằng mọi giá và cũng phải trả

giá quá đắt:

Sự đời bác đến thế thì

Đã làm ông giáo còn đi buôn nhà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Sớm mai bác phải ra tòa

63

(Bạn chơi từ thuở quàng khăn đỏ)

Khi cảnh báo về sự xuống cấp đạo đức của xã hội, Trần Nhuận Minh

đặc biệt quan tâm và lo lắng cho những người trí thức vốn có bản chất lương

thiện nhưng do hoàn cảnh mà bị tha hóa. Bằng sự từng trải và bằng tất cả khả

năng của mình, ông muốn cảnh báo người trí thức, muốn giữ họ lại bên bờ vực

của sự tha hóa, muốn tránh cho họ những sai lầm đáng tiếc bởi hậu quả khôn

lường của cám dỗ đồng tiền.

Xã hội thời mở cửa có nhiều đảo lộn về chuẩn mực và các thang bậc giá

trị, thì xuất hiện những con người thích nghi nhanh chóng với lối sống mới cũng

là chuyện đương nhiên…Khôn ngoan, thức thời, tìm và tạo cơ hội làm giàu cho

mình không phải hoàn toàn là việc xấu, không hoàn toàn là người xấu - nếu như

đó không phải là lối sống có tác động tiêu cực đến cộng đồng. Một ông chủ tịch

huyện mới lên nắm địa vị, có chức quyền trong tay đã tự vẽ ra cho mình viễn

cảnh trong một buổi tiệc khao chức vụ :

Có gì nhƣ vẻ thơ ngây

Khi anh vẽ những ƣớc mơ xa vời

Ai ai mặt cũng ngời ngời

Hết lòng kính phục hết lời cậy trông

Nhưng họ đâu biết rằng, sông có khúc, người có lúc, cuộc sống cũng như

dòng sông không bao giờ chảy thẳng, cạm bẫy danh vọng luôn dăng mắc mọi

lúc, mọi nơi:

Đây là một khúc con sông

Rồi sau khúc đục khúc trong thế nào.

(Tiệc đêm)

Cơ chế thị trường là luồng sinh khí mới nhưng nó cũng mang theo

không ít độc hại, có thể phá hủy nhân cách con người, biến con người thành nô

lệ của dục vọng. Hình ảnh một ông giám đốc đang trượt dần xuống dốc của lối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống tha hóa, lúc nào cũng có nhân tình đi theo – thật trớ trêu:

64

Đứa thì làm giám đốc ngành

Đi đâu cũng có nhân tình đi theo

(Bạn chơi từ thuở quàng khăn đỏ)

Nhưng có lẽ đối với Trần Nhuận Minh, điều mà nhà thơ quan tâm và đau

đáu hơn cả không phải chỉ là sự thay đổi lối sống buông thả của người trí thức

mà hơn hết là sự thay đổi nhân cách của họ trước sự tác động của môi trường

sống mới. Lối sống thực dụng hiện đại phát triển, những khoảng tối, góc khuất

trong tâm hồn người trí thức có cơ hội lộ diện. Hình ảnh một người bạn xưa

thành đạt, nhưng từng bước đã trở thành lố bịch, đáng trách: “Từng làm chủ tịch

huyện/Từng làm giám đốc ngành” thế mà: “Về già chơi chống bỏi/Tom chát đủ

tam khoanh” (Thăm bạn); hình ảnh Bác Vương Liên – một thời từng là anh bộ

đội cụ Hồ, vào sinh ra tử nơi chiến trường máu lửa; đã từng sống một cuộc sống

cơ cực, nhưng nay khi đã trở lên giầu có thì lại sa ngã, sa đọa:

Nghe đâu bác bây giờ

Đóng tiền vào bao tải

Thuê những hai hầu gái

Giặt quần và đấm lƣng

(Gửi bác Vương Liên)

Cái khúc sông cuộc đời của bác Vương Liên phất lên về hậu vận, nhưng

khúc sông lòng thì lại bắt đầu vẩn đục. Trong thời buổi kinh tế thị trường, mọi

bậc thang giá trị đã thay đổi, bác Vương Liên đã có một cách suy nghĩ khác để

biện minh cho lối sống thực dụng:

Trƣớc cần lí lịch tốt

Giờ cần có lắm tiền

“Phải chăng bác nói đúng” - khi đồng tiền đã từng làm mưa, làm gió trong

Truyện Kiều, thì nay nó lại trở về vị trí thống soái cho mọi hành động tiêu cực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của con người trong thời hiện đại. Tác giả xót xa viết câu thơ đó.

65

Hình ảnh Tú Lão – một cán bộ lãnh đạo, một Đảng viên, vậy mà trước cơ

chế thị trường đã không xác định được hướng đi, đó là một tấm gương xấu cho

thế hệ sau, khi lão:

Lão bảo Lão vừa xin ra khỏi Đảng

Kệ xác sự đời những biến thiên

Hằng ngày uống rƣợu và cƣời khẩy

Lão chỉ quan tâm mỗi chuyện tiền

(Tú Lão)

Lão thờ ơ với sự đời, dửng dưng trước dư luận xã hội, lãnh đạm với vợ

con, sòng phẳng trong chuyện tình cảm với bồ nhí để hưởng lạc dục vọng mới:

Lão bảo cƣới nhí về làm thiếp

Tính Lão chẳng ƣa việc lòng thòng

Thuê hẳn hai hàng bình bịch

Vừa đi vừa bắn pháo bông

(Tú Lão)

Mặt trái của nền kinh tế thị trường và tác động mạnh mẽ của nó đến đời

sống xã hội ngày càng góp phần đẩy xã hội tới phân cực gay gắt giữa các mặt

đối lập, giữa nhân cách và phi nhân cách, đạo đức và phi đạo đức…, và cũng

đẩy xa hơn rất nhiều khoảng cách giữa người giầu và người nghèo, giữa kẻ có

chức quyền với người lao động:

Lúc họp trung ƣơng họp tỉnh

Hỏi thầy tìm thuốc chán rồi

Chả làm sao mà gầy đƣợc

Em nhƣ xấu quá chị ơi

Nhiều khi những hành động của họ đã tạo lên hình ảnh mặt trái của tấm

huân chương:

Chỉ sợ nhà em bồ bịch

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nào ai biết đƣợc thế nào

66

Chị ơi đừng tin các lão

À thôi…em thử ra sao…

(Nghe trộm hai bà trò chuyện)

Những lo lắng đầy trách nhiệm trước sự rạn nứt những giá trị văn hóa,

đạo đức tốt đẹp của dân tộc, những xót xa trắc ẩn trước những cảnh đời éo le

ngang trái, khiến Trần Nhuận Minh đặc biệt quan tâm đến những người trí thức

bị tha hóa bởi hoàn cảnh. Người cháu đi nghiên cứu sinh tại Liên Xô, thay vì

đèn sách, dùi mài kinh sử thì anh ta lại đánh mất lương tâm, đã tự thiêu rụi

tương lai sáng lạn của mình để đi vào con đường trộm cướp xứ người:

Cháu đã lƣu vong làm tƣớng cƣớp

Đoạt của, đánh ngƣời chẳng ghê tay

Cháu là nỗi kinh hoàng trên các sân bay…

(Chú sang Liên Xô có gặp cháu)

Đọc thơ Trần Nhuận Minh, người đọc không thể không khắc khoải suy

nghĩ, lo âu cho những con người cá nhân khi họ đang trượt dài trên con đường

kiếm tìm đồng tiền để làm giàu nhanh nhất, kể cả những việc làm ghê tởm: giết

người, cướp của. Không ai có thể phủ nhận những tác động tích cực của cơ chế

thị trường vì đã giúp thay đổi bộ mặt kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của

số đông con người. Nhưng cơ chế thị trường cũng có mặt trái của nó. Trong cơ

chế ấy, con người dễ quen với lối sống hưởng thụ, với quan hệ mua bán lạnh

lùng mà nếu không đủ bản lĩnh để chế ngự dục vọng thấp hèn thì con người dễ

tha hóa, và sẽ đánh mất chính mình.

Khắc họa hình tượng người trí thức trong đời thường, Trần Nhuận Minh

chủ yếu đi vào phê phán những người trí thức bị tha hóa, biến chất bởi cơ chế thị

trường. Ông đã “không ngại né tránh một sự thật nào, cho dù sự thật đó có đau

đớn kinh hoàng đến đâu”. Thái độ và phương thức chiếm lĩnh hiện thực của

Trần Nhuận Minh luôn đề cao sự thật, nhà thơ dũng cảm “áp tải” nó tới bến bờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của chân lí. Giữa đời sống kinh tế thị trường điên đảo với những tệ nạn và tham

67

vọng, những vần thơ của Trần Nhuận Minh như một hồi chuông cảnh tỉnh mọi

người hãy dừng lại giữa dòng đời hối hả để nhìn lại chính mình và lên tiếng

trước thực trạng xã hội đang làm suy đồi về đạo đức, và băng hoại nhân cách

con người.

2.2. Hình tƣợng ngƣời lính trong thời chiến và thời bình

2.2.1. Người lính trong chiến tranh lấp lánh vẻ đẹp anh hùng Trong một thời gian dài, cuộc đấu tranh trường kì vĩ đại của dân tộc ta đã

trở thành mối quan tâm hầu hết của các văn nghệ sĩ. Đây là lẽ tự nhiên, bởi

không có một nghệ sĩ chân chính nào có thể đứng ngoài những sự kiện gắn liền

với vận mệnh của tổ quốc. Nói như nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng người Nga

Biêlinski: “Nhà thơ trƣớc hết là con ngƣời, sau đấy là công dân của đất nƣớc

mình, là con đẻ của thời đại mình. Tinh thần của nhân dân và của thời đại tác

động vào nhà văn không thể ít hơn ngƣời khác” (Báo Văn nghệ ngày

25/3/1969).

Thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong trong cuộc kháng chiến

chống Mĩ, sống trong bầu không khí hào hùng của những năm tháng cả dân tộc

hành quan ra trận, nên khi viết về người lính trong chiến tranh, giọng thơ Trần

Nhuận Minh mang âm hưởng ngợi ca, đậm chất sử thi của thời đại. Cảm hứng

trong các tác phẩm của ông bắt nguồn từ sự tự hào và ngợi ca sức mạnh tinh

thần của người lính.

Người lính trong thơ Trần Nhuận Minh vốn xuất thân nơi gốc rạ, bờ tre,

con người hiền hậu, chất phác như củ khoai, bông lúa. Truyền thống bất khuất,

anh hùng đã nặn sâu vào từng đường gân, từng mạch huyết quản của biết bao

thế hệ. Họ lên đường ra trận trong “những năm xao xác bờ tre từng hồi trống

giục”. Một hình ảnh rất đẹp và cảm động:

Chi chít những dấu chân trai làng ra trận

Dấu chân con in lên dấu chân cha.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Cổng làng)

68

Những dấu chân của nhiều thế hệ là một cuộc tiếp sức vĩ đại trong cuộc

kháng chiến trường kì của dân tộc, thắp lên ngọn lửa truyền thống của lòng yêu

nước bền bỉ, cháy mãi và tỏa sáng cho đến khi quê hương sạch bóng quân thù.

Những người lính trong thơ Trần Nhuận Minh là những con người say

mê lí tưởng, dám sống và chiến đấu theo lí tưởng mà mình đã lựa chọn, dám

hiến dâng tất cả đời mình cho Tổ quốc, để tên tuổi của họ tấu lên thành giai điệu

“có một bài ca không bao giờ quên”:

Bạn thấy chăng

Hàng triệu triệu ngƣời

Lần lƣợt lao vào lửa đạn

Cho Tổ Quốc sáng bừng tên tuổi

(Bản Xô nát hoang dã)

Chiến tranh đã gieo rắc bao đau thương cho quê hương, xứ sở: “những

làng xóm thân yêu tím bầm trong vết đạn”. Đất nước đang phải quằn quại, chảy

máu dưới bom đạn kẻ thù. Vì Tổ quốc thân yêu, vì khát vọng hòa bình, người

lính đã xả thân, xông pha nơi hòn tên mũi đạn, lập lên những chiến công vang

dội:

Mảnh máy bay rơi trắng đƣờng Cò Tuất

Tân Hiệp, Giồng Riềng, xác giặc ngổn ngang phơi…

Và lời tuyên thề của người lính sang sảng như tiếng vàng, tiếng thép, như

đinh đóng cột, như rựa chém đá được đáp lại bằng những kì tích phi thường

mang tính sử thi:

Đất nƣớc này quyết không dung giặc Mĩ

Hàng loạt đồn nát vụn dƣới chân anh.

(Gửi Rạch Giá)

Thế nhưng “đánh cho Mĩ cút , đánh cho Ngụy nhào” chưa được bao lâu,

vết thương chiến tranh chưa kịp hàn gắn, chiến tranh biên giới lại nổ ra. Những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

người lính chiến trận năm nào, nay lại gánh vác sứ mệnh cao cả, chuẩn bị lao

69

vào cuộc chiến đấu mới để giữ trọn vẹn thành quả mà nhân dân ta phải đổ biết

bao xương máu mới giành lại được:

Những chiến sĩ ngày đêm giữ chốt

Xẻ dọc chiến hào

Lại thấy hàng cột mốc

Của ông cha

Dƣới hàng cọc biên thùy…

(Thành phố bên này sông)

Nhưng chiến tranh đâu chỉ có những bản anh hùng ca thắng trận, ngay cả

trong ánh hào quang chiến thắng, còn có nhiều mất mát, hy sinh. Những người

lính còn trẻ tuổi, đương độ căng trào sức sống, nhưng vì non sông chìm trong bể

máu, cho nên các anh ngã xuống mà “chẳng tiếc đời xanh”:

Nấm mồ ngƣời lính trẻ

Hiện ra bên chiến hào

(Hoành Mô mấy trắng)

Người đọc nhận ra sau mỗi dấu chấm kết thúc của mỗi câu thơ ấy là sự

cảm thương của tác giả giành cho những người lính phải từ giã cuộc đời khi còn

quá trẻ. Nhưng đối với người lính:“Chết vì tổ quốc/Chết ấy vinh quang/Lòng ta

sung sƣớng/Trí ta nhẹ nhàng” (Nguyễn Thái Học).

Đất nước được hồi sinh, bất tử, vĩnh hằng, nhưng lại phải đánh đổi bằng

cuộc sinh li tử biệt giữa người lính với người thân và gia đình. Các anh hy sinh

trong những trận đánh mang tính quyết định cho sự sống còn của dân tộc ở

những thời điểm lịch sử cam go và quyết liệt nhất. Có người đã ngã xuống ở tiền

tiêu khi hành trình đến ngày đại thắng chỉ còn tính bằng giây phút đồng hồ:

Con cả mất khi chiếm hầm Đờ Cát

Con thứ hi sinh lúc giành lại Sài Gòn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Bá Kim)

70

Người lính ngã xuống, đất nước ru họ trong giấc ngủ bình yên, quê

hương xứ sở đã ôm ấp hình hài của họ vào lòng:

Thời gian đắp cho anh tấm chăn màu hoa cỏ

Anh ngủ giữa trời sao đâu có cạnh đƣờng mòn

(Tiễn vợ một người lính)

Sự hi sinh của người lính không còn là sự mất mát hay tan biến vào cõi

hư vô mà được hóa thân, thăng hoa thành những biểu tượng cho sự sống tinh

thần bất diệt, cho khát vọng tự do hòa bình:

Sẽ bay lên nhƣ cánh chim

Sẽ bay lên…

bay lên…

bay lên…

nhƣ cánh chim

Nhƣ – cánh – chim…

(100 bước cuối cùng)

Họ đời thường “sống cùng dân”, “mặc quần đùi khiêng pháo lội qua

sông” (Thanh Thảo) mà lại rất đỗi anh hùng, trước cái chết họ thấy mình “tinh

khôi vừa đƣợc sinh ra”, hóa thân mình trong hình ảnh mùa xuân đất nước:

Trên mộ anh, gió lúc nào cũng mát

Xanh biếc bốn mùa đều là cỏ Mùa Xuân

(Trên mộ người cộng sản)

Những nấm mồ vô danh

Tạc lên hình đất nƣớc

(Bạn thơ mời rượu bên sông Tiền)

Những câu thơ viết về người lính trong chiến tranh của Trần Nhuận

Minh đã làm thổn thức lòng người đọc bởi những suy ngẫm sống sao cho xứng

đáng với thế hệ cha anh, với Tổ quốc, và càng thêm yêu quý non sông đất nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

này. Viết về số phận người lính trong chiến tranh không phải là đề tài mới,

71

nhưng Trần Nhuận Minh viết với thái độ và cách nhìn mới có sự hòa trộn giữa

hai điểm nhìn lí tưởng hóa và hiện thực. Trần Nhuận Minh trong tư cách là

người nhập cuộc, người tham gia vào lịch sử cất lên khúc sử thi hào hùng của

một thế hệ dám sống, dám chiến đấu và hi sinh cho lí tưởng, cho mùa xuân bất

diệt của đất nước.

2.2.2. Người lính trong thời bình đối mặt với những thách thức đầy bất ổn Sau năm 1975, Đất nước sạch bóng quân thù. Những người lính anh hùng

bước ra từ cuộc chiến để trở về với cuộc sống đời thường. Trước mắt là cả một

quãng đường dài không ít những khó khăn, trở ngại mà họ cần phải vượt qua để

tồn tại. Nhưng cuộc sống thời bình không hoàn toàn làm cho người lính ung

dung, thanh thản. Xây dựng hình tượng người lính trong đời thường, Trần

Nhuận Minh đã đạt tới chiều sâu trong việc khám phá tâm lí nhân vật. Nhà thơ

đi vào từng cảnh ngộ cụ thể của người lính để nắm bắt lấy những biểu hiện,

phản ứng tâm lí của họ trước một hoàn cảnh xã hội đầy sự biến động và phát

triển.

Hình ảnh một Đại tá quân đội về hưu với đồng lương ít ỏi phải làm nghề

bơm xe đạp; một người bạn từng có mặt trong khắp các trận đánh cho đến ngày

đất nước thống nhất vẹn tròn, khi giải ngũ về quê, vẫn khoác trên mình bộ quân

phục giản dị, bắt đầu bước vào cuộc sống của một lão nông tri điền:

Đứa thì đánh giặc liên miên

Về quê vẫn chú lính quèn vậy thôi

(Bạn chơi từ thời quàng khăn đỏ)

Còn rất nhiều người lính bước ra từ cuộc sống binh nghiệp đầy gian khó.

Họ phải đối mặt với một cuộc sống mới mà mọi giá trị đang biến đổi từng ngày.

Họ khó hòa nhập với cuộc sống thị trường đầy bon chen, với những quan hệ xô

bồ, và vì thế, cứ ngơ ngác giữa dòng đời và người thân. Một người lính già lúc

trẻ lập nhiều chiến công hiển hách, huân chương treo đầy trên tường, bây giờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bỗng thấy mình lạc lõng giữa cuộc sống đang đổi thay một cách nhanh chóng,

72

nên chỉ còn biết sống với hoài niệm của một thời chiến tranh ác liệt nhưng hào

hùng:

Chẳng ai cƣời ngƣời già lão

Ơn Giời, Giời để tuổi cho

Chiến công còn ghi sử sách

Huân chƣơng để trên bàn thờ

Mai ngày về cùng các cụ

Nhớ thuê hai đội kèn đồng

Thổi toàn bài ca chiến trận

Đã từng vang dội núi sông.

(Quê ta)

Con người là nguyên khối nhưng cũng là con người của phân thân và

đối lập, người lính luôn mang trong mình một nỗi lo lớn cho sự tồn tại của cuộc

đời, vốn bao giờ cũng là sự song hành giữa hai bờ buồn – vui, được – mất, bi

quan – lạc quan, thất vọng và hy vọng. Số phận người lính luôn được Trần

Nhuận Minh đặt trong một sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa thời chiến

và đời thường. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc, hình tượng người lính hiện lên

dũng cảm, mưu chí và phi thường:

Thân qua trăm tầm đạn

Không hề có vết thƣơng

Chiến tranh lùi xa vào kí ức, người chiến binh trở về đã và đang phải đối

diện với cuộc sống ngổn ngang thách thức của thời bình. Cuộc sống hiện đại với

trăm ngàn biến ảo thì có trăm ngàn lí do đẩy người lính vào trạng thái cô đơn

khiến họ như rơi vào thảm cảnh hoang vắng, trống trải trong tâm hồn và luôn

cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời. Họ phải đối mặt với những bi kịch,

những cảnh ngộ buồn đau: “vợ bỏ”, “con vƣợt biên”, “nhà bán”, “thơ đếch ai

in”. Lúc phải đối mặt với chiến tranh ác liệt, người lính đã dũng cảm vượt qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

để có thể tự hào, ngẩng cao đầu trong tư thế của người chiến thắng, nhưng trong

73

cuộc sống đời thường, đầy sự biến động, vận động không ngừng, khiến họ ngơ

ngác, không theo kịp, không thích ứng kịp, nên nhiều khi lại muốn được quay lại

nơi chiến trường máu lửa để được hi sinh anh dũng qua những trận đánh:

Tớ muốn làm liệt sĩ

Đất nƣớc không chiến trƣờng

Hi sinh đâu phải dễ

(Bạn cũ)

Chiến tranh đã đem lại bao đau thương, mất mát cho con người, và chiến

tranh cũng làm cho người lính tỏa sáng hào quang bởi những chiến công vang

dội. Thời thế tạo nên những người lính anh hùng, nhưng chính thời thế cũng làm

nẩy sinh thói công thần trong người lính. Rất nhiều người lính sống sót trở về

sau chiến tranh để trở thành người chồng thủy chung, người cha mẫu mực và

người công dân tốt, nhưng trong bài thơ Thím Hai Vui, có những người lính

từng bạo lực với kẻ thù trong chiến tranh chuyển sang bạo lực trong gia đình

thời bình. Bản tính đó như một hội chứng hậu chiến trút lên đầu thím Hai Vui:

Thế rồi…biết vì đâu

Yên lành không chịu đƣợc

Vợ con chú đánh trƣớc

Xóm giềng chú đánh sau

Chớ dại mà can chú

Chú nhất cả huyện rồi

Người lính đó từng góp công để kết thúc cuộc chiến tranh vệ quốc, nhưng

lại đem đến cuộc chiến tranh cho gia đình: “Chú đòi phải li dị/Mỗi con về một

nơi”. Người lính đã tự đánh mất đi hạnh phúc của mình, gây nên tình cảm li tán,

và đã tạo nên một vết thương lòng vĩnh viễn không thể hàn gắn trong sự đổ nát

tình cảm vợ chồng, dẫn đến bi kịch gia đình người lính là những mảnh vỡ không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoàn nguyên.

74

Hình tượng người lính trong thơ Trần Nhuận Minh được phác họa trong sự

đối lập. Trong chiến tranh, người lính lấp lánh phẩm chất anh hùng, với bản lĩnh

dũng cảm, yêu nước, thương dân. Sự hi sinh của họ không thể nào đo đếm được,

không thể gọi tên. Nhưng trong đời thường, nhà thơ lại phát hiện ra một thực tế

xót xa trước số phận của người lính, đầy bất trắc, và thương cảm. Vì thế số phận

người lính, như một minh chứng cho những nghịch lí đau buồn trước cuộc sống

đầy biến động và phát triển. Sự mãnh liệt của cảm xúc ngợi ca song hành với

một lí trí tỉnh táo trong cảm hứng thế sự, giúp Trần Nhuận Minh tái hiện sinh

động và chân thực về hiện thực ở góc nhìn số phận người lính cả trong thời

chiến và trong thời bình.

2.3. Hình tƣợng Mẹ - vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam truyền thống

Trong thơ ca, số bài thơ viết về tình mẫu tử chiếm một lượng không

nhỏ. Số lượng thi phẩm này có sức thuyết phục lòng người, kể cả những độc giả

khó tính nhất. Bởi nó vượt qua những tiêu chí về nghệ thuật mà để lại cái tình

trong thơ, khiến người đọc xúc động và không thể quên.

Trần Nuận Minh viết về mẹ bằng tất cả tình yêu thương, sự thành kính và

lòng biết ơn vô hạn. Người mẹ trong thơ ông là người phụ nữ nông thôn hiền từ,

chất phác, sống ở nơi đồng quê bên kia con sông Kinh Thầy giáp với vùng đất

mỏ. Cũng như biết bao hình tượng người phụ nữ khác, hình tượng người mẹ ở

đây mang một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, tháo

vát, nhân hậu, bao dung, giàu đức vị tha, hết lòng yêu chồng thương con. Trong

kháng chiến, mẹ từng nuôi dấu cán bộ cách mạng và tiếp tế cho bộ đội, khi hòa

bình lập lại, mẹ là trụ cột của gia đình, phải gồng mình trong lao động: “mẹ tôi

vào phƣờng cấy thuê” và ngược xôi “trên chuyến đò đầy” để nuôi dưỡng những

tài thơ lớn lên từ mái nhà tranh vách nứa.

Hình tượng người mẹ trong thơ Trần Nhuận Minh được khắc họa bởi một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cảm xúc chân thành, sâu sắc. Mẹ đã phải trải qua bao nỗi nhọc nhằn, cay đắng.

75

“Chiếc đòn gánh cong” ngày nào đè nặng trên đôi vai của bà, giờ đây lại vít trĩu

lên đôi vai của mẹ:

Mẹ tôi lại gánh chiếc đòn cong

Lại đi gánh mƣớn lại long đong

Cuộc đời vít trĩu đôi đầu gánh

Lƣng mẹ già nua còng lại còng

(Chiếc đòn gánh cong)

Bởi lẽ đối với Trần Nhuận Minh, chỉ có một người mẹ vất vả, cơ hàn mới

được khắc sâu trong tâm khảm của thi nhân bởi một nét “long đong” và một

hình ảnh “già nua còng lại còng”. Cái dáng còng của mẹ ở chốn làng quê nghèo

lại hiện lên trong tâm thức của người con:

Dáng mẹ hao gầy

Còng lƣng sách nƣớc

Cái cầu ao

Gióng tre ngà thân thuộc

(100 bước cuối cùng)

Hình bóng mẹ có ý nghĩa biểu tượng cho những con người lao động lam

lũ, cần cù, chịu biết bao lao khổ dưới gánh nặng cuộc đời:

Bóng tối nặng trùm lên vai mẹ

Mẹ còn gánh cát chạy đƣờng đê.

(Chiếc đong gánh cong)

Trong sự sống bộn bề, náo nhiệt của đời thường, người con đã gợi lại kí

ức ở những giây phút tĩnh lặng, thảng thốt, xót xa trước hình ảnh mẹ:

Mƣời mấy năm rồi tôi vẫn nhớ

Có lần mẹ gánh gãy xƣơng lƣng

Mẹ dúi cho tôi vài củ lạc

Nhìn tôi mà nƣớc mắt rƣng rƣng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Chiếc đòn gánh cong)

76

Người đọc cảm nhận ra giọt “nƣớc mắt rƣng rƣng”, mặn mòi của mẹ rơi

xuống để tưới mát sự khôn lớn cho đời con.

Hành trình của mẹ đi từ đói nghèo, cơ cực rồi cũng có ngày đến được

chân trời của cuộc sống mới. Ta nhận ra nét cười rạng rỡ mà dịu hiền bên giọt

nước mắt tràn ngập niềm vui, làm sáng cả không gian, làm đẹp cảnh vật thuở ấu

thơ thời xa vắng:

Mẹ cƣời, lệ bỗng lăn trên má

Hợp tác đời vui mái ngói hồng

(Chiếc đòn gánh cong)

Bằng suy luận, Trần Nhuận Minh đã nhận ra một sự đối lập. Đó là sự

đối lập giữa cuộc sống bên ngoài với lời kể của mẹ trong những câu chuyện cổ

tích, giữa hiện thực đắng chát và cảm xúc ân tình mẹ dành cho con:

Con dần hiểu vì sao mẹ cực khổ thế

Mà chuyện kể, lời ru chỉ có ngọt ngào

(Mẹ)

Lời ru của mẹ đã sinh ra từ trái tim ăm ắp tình yêu thương và vòng tay

êm ấm. Lời mẹ chở đầy hương vị cuộc đời. Cuộc đời được chắt ra từ những giọt

buồn, niềm vui, sự ngọt ngào và cả cay đắng.

Lời ru năm nào của mẹ ru con, giờ đây lại dành để ru cho cháu mà sao

cứ thấy xót xa, nghẹn ngào:

Nghe mẹ lại đang ngọt ngào ru cháu

Chỉ có vậy thôi

Mà sao con thấy nghẹn

Cứ tự nhiên ứa nƣớc mắt ra

(Mẹ)

Lời ru đấy không chỉ ngọt ngào, êm ái trong chiếc nôi đưa, mà còn có

sức tỏa nhiệt trên đầu lưỡi kiếm của những anh hùng ra trận:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lƣỡi kiếm ra trận của ngƣời anh hùng

77

Đã tôi trong lời ru của mẹ

(Đá cháy)

Cũng trong sự đối lập, Trần Nhuận Minh nhận ra một thực tế: cuộc đời

mẹ phải đối mặt với hiện thực đắng cay, nhưng mẹ lại gieo vào tâm hồn con trẻ

một tuổi thơ trong sáng, giầu mơ ước giúp con đi trọn cuộc hành trình vững

bước niềm tin:

Con dần hiểu

Nếu mẹ chỉ dạy con những sự thực cay đắng

Thì chắc con cũng không thành con hôm nay

(Mẹ)

Và Trần Nhuận Minh rất có lí khi chiêm nghiệm rằng:

Ông trời sinh ra Ngƣời Mẹ

Để thay mặt cho mình

Đi hết đời vẫn không hết nỗi lo toan của Mẹ

Và ngẩng lên lúc nào cũng thấy bóng mây xanh

(Đá cháy)

“Nỗi lo toan của Mẹ” rất vô hình nhưng cũng thật vô giá, nó được đặt

trong trong thế đối xứng với cái hữu hình: “đám mây xanh” để nâng hình tượng

người mẹ thêm kì vĩ.

Nhưng hạnh phúc lớn lao nhất của người mẹ vĩ đại là đã sinh ra những

đứa con cứng chắc như “Tảng Đá”, ý chí hừng hực như “Ngọn Lửa”, đặc biệt

hơn là xứng đáng với danh hiệu “Ngƣời”:

Mẹ đã sinh ra con nhƣ một Tảng Đá

…Mẹ đã sinh ra con nhƣ một Ngọn Lửa

…Nhƣng trƣớc hết mẹ đã sinh ra con là Ngƣời.

(Đá cháy)

Tình cảm của người mẹ được ví von với cái vô cùng của thiên nhiên, lấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thiên nhiên làm chuẩn mực để so sánh như trong câu hát: “Lòng mẹ bao la nhƣ

78

biển Thái Bình hiền hòa/Lòng mẹ tha thiết nhƣ vầng trăng tròn mùa thu” hay

trong câu ca dao: “Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra”, nhưng ở trong thơ

Trần Nhuận Minh có sự ngược lại, tấm lòng người mẹ trở thành nét đẹp chuẩn

mực để so sánh cho bất cứ một đối tượng, sự vật nào trên đời:

Những cổng làng nhƣ lòng mẹ thƣơng con

(Cổng làng)

Và chính tấm lòng đó đã trở thành con đường vô hình nối cuộc sống của

con gói trọn trong vòng tỏa ấm của tình mẹ:

Nơi ở chúng tôi có những con đƣờng vô hình

Dẫn đến tấm lòng ngƣời mẹ

(Nơi ở của chúng tôi)

Viết về hình tượng người mẹ, Trần Nhuận Minh dồn hết cảm xúc yêu

thương vào bút lực để hướng về vùng đất bên kia con sông Kinh Thầy, nơi có

người mẹ già nua vẫn sống gắn bó với hương vị đồng quê, với bề dầy của trầm

tích văn hóa. Trong trường ca Đá cháy, hình tượng mẹ xuất hiện suốt chiều dài

bài thơ.

Có một khoảng không gian sắc màu được pha trộn bởi bước luân chuyển

thời gian, đã nhuộm dáng hình mẹ đang chen chúc trên chuyến đò đầy nguy

hiểm lúc trời chiều trở gió:

Sông Kinh Thầy mùa xuân nƣớc xanh

Sông Kinh Thầy mùa thu nƣớc đỏ

Cánh buồm trắng mong manh chiều trở gió

Mẹ tôi đi chuyến đò đầy

Trần Nhuận Minh có lúc phải thảng thốt, giật mình khi nhận ra “màu

mây” trên mái tóc “Ngƣời” ở cái lúc “chợ chiều bóng xế”, mà cảm thấy trong

lòng rưng rưng:

Mẹ tôi tóc đã bạc trắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bạc hơn bất cứ mầu mây nào

79

Mỗi lần bƣớc lên thềm nhà

Hai tay ngƣời phải chống vào đầu gối

Phải có những “cuộc cháy” của nhận thức, của lòng mình, con người

mới cảm nhận ra mình đã sống vì ai, và sẽ sống cho ai trong cuộc đời dâu bể.

Và, lúc đó con người bật lên một cảm xúc vỡ òa trước thâm tình của mẹ:

Con sung sƣớng vì trên đời này có mẹ

Mẹ cũng chẳng bao giờ tủi hổ vì con

Hình tượng người mẹ trong thơ Trần Nhuận Minh được viết bằng tất cả

những cảm xúc chân thành, thôi thúc, bằng tình cảm máu thịt sâu sắc bật lên từ

trong sâu thẳm của trái tim nhà thơ. Hình tượng mẹ có ý nghĩa như một biểu

tượng thiêng liêng, cao quý và bất diệt trong cuộc đời mỗi con người: bởi công

dưỡng sinh, dưỡng dục, bởi tình yêu cách mạng, tình yêu tổ quốc mà mẹ sẵn

sàng góp một phần công sức của mình làm nên hậu phương vững chắc cho tiền

tuyến. Chính vì thế, hình tượng mẹ là kết tinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt

Nam truyền thống.

2.4. Hình tƣợng Em – nỗi ám ảnh trong tình yêu

Mỗi người nghệ sĩ đều có hình tượng người tình lí tưởng trong tâm hồn

mình. Đó là mẫu hình lí tưởng theo quan niệm và khát vọng thẩm mĩ riêng của

người nghệ sĩ ấy, là hiện thân của cái đẹp mà họ tìm kiếm và tôn thờ trong suốt

cuộc đời mình. Với Trần Nhuận Minh, đó là nhân vật “Em” - bình dị và mộc

mạc nhưng cũng thật nên thơ và huyền ảo.

Ông từng nói rằng: phần lớn các nhà thơ khi viết thơ tình, nhân vật

“em”, “nàng”, trong bài thơ tình đó, chưa chắc đã là nhân vật có thật, hiện hữu

và ám ảnh, theo suốt cuộc đời dài dằng dặc của họ. Chưa chắc người tình trong

những bài thơ tình đó có thật, hay là một người duy nhất, mà đó chỉ có thể là

những hình ảnh, những ảo ảnh, hoặc rất nhiều người tình được tồn tại trong nhân

vật “em” ấy. Với nhà thơ Trần Nhuận Minh, không thế. Ông tự phong cho mình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là người viết những bài thơ tình đích thực. Tại sao gọi là đích thực? Bởi nhân

80

vật trong những bài thơ tình, có những bài nổi tiếng của ông như: Thơ tình ngày

không em, Vào phút ấy thì em nên đến nhé…,thì hình ảnh người con gái, nhân

vật người tình trong các bài thơ tình của ông, là hoàn toàn có thực. Không

những có thực, mà trong cả cuộc đời thơ của ông, người con gái đó, lúc xuất

hiện mơ hồ, bảng lảng như chút “nợ nần khói sƣơng”, lúc thì hiện lên rõ rệt, đau

đớn và cồn cào trong tâm hồn nhiều dằn vặt của thi sĩ, lúc sừng sững như một

ngọn núi đá, mà nhà thơ Trần Nhuận Minh: “muốn làm cũng chẳng đƣợc làm

ngƣời dƣng”, “có đi trăm nẻo, đến trăm nơi, gặp gỡ trăm ngƣời con gái khác,

cũng không thể xóa nhòa đi, hình ảnh đã đóng đinh vào cuộc đời ông”[69.331].

Trần Nhuận Minh sáng tác thơ tình không nhiều, thống kê trong tập Nhà

thơ và hoa cỏ có 12 bài, tập Bản Xô nát hoang dã có 5 khúc, tập 45 khúc đàn

bầu của kẻ vô danh có 5 khúc. Mỗi bài thơ là sự hoài niệm về tình yêu đã qua,

thứ tình yêu mà Orabengon từng nhắc nhở “Tránh đừng động vào cây mùa lá

rụng – Nhắc suốt đời cũng dường bấy nhiêu thôi”. Theo thói thông thường, cái

gì đã qua, không có được thì con người luôn tiếc nuối, đam mê trong tâm tưởng

và nghĩ về nó đầy lí tưởng, mĩ hóa.

Trong thơ tình của Trần Nhuận Minh, hình tượng “Em” xuất hiện trong

tâm tưởng của nhà thơ vừa hư, vừa thực, vừa cụ thể, vừa ảo mộng của một thời

dấu xưa:

Đêm ấy rừng thu thơm lạ lùng, thơm lạ lùng

Tà áo em đầy gió

Vòm ngực em đầy gió

Đôi môi em đầy trăng

Đôi mắt em đầy trăng

(Đêm cuối rừng thu)

Không gian đêm rừng thu có gió, trăng đan kết lại thành một không gian tơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

duyên. Cảnh vật thiên nhiên huyền ảo, diễm lệ, tràn trề ánh trăng dát bạc, làn gió

81

đưa hương thoang thoảng giăng mắc cả một vùng. Sự tồn tại của cảnh vật đều

được tâm trạng hóa để diễn tả tình cảm nhớ thương nồng nàn. Hình ảnh “em”

nổi bật giữa thế giới nên họa, nên thơ.

Bức chân dung của nhân vật “em” luôn là tâm điểm trong ý thức của

anh, là nơi hội tụ của ánh mắt anh ngắm nhìn, rất nhẹ nhàng mà cũng rất mơ hồ,

mong manh:

Em đi nhƣ dáng chiều

Đu đƣa nhƣ trên ngọn cây phù du

(Bản Xô nát hoang dã)

Em được tạo nên từ những gì tinh túy nhất của trời đất: “đầu em là đõ

ong rừng”, “mật ứa đôi môi”, “vòm ngực em là hũ rƣợu thơm”, “bụng em là

quả đồi xanh tƣơi”…Tác giả sử dụng những hình ảnh so sánh độc đáo, tạo nên

những liên tưởng thú vị cho người đọc, bức chân dung của em hay là bức chân

dung của nữ thần đầy uy lực, mà không kém sự ngọt ngào, quyến rũ.

Thậm chí trong cái nhìn si tình, tác giả còn thấy em hóa thân trong giai

điệu tiếng đàn bầu dân tộc

Ta tìm em

Trong tiếng đàn bầu

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Ở em toát lên vẻ đẹp lí tưởng hóa cả về thể xác và tinh thần, khiến anh

ngập ngừng, rụt rè, không giám bày tỏ tình yêu của mình:

Anh muốn nắm tay em mà không dám nắm tay em

Anh cũng muốn nói điều đó nhƣng anh im lặng

Trong thế giới nhỏ bé của anh, em có sức mạnh phi thường: “Chỉ một giọt

nƣớc mắt/Cũng làm dấy lên trong tôi/ Bao nỗi xót xa ân hận”, thậm chí chi phối

mọi quy luật tồn tại của thế giới ấy, “Ta đứng chờ em bạc cả sắc thu xanh”.

Mối tình của anh và em là mối tình đậm sắc hương cổ tích, tồn tại trong day dứt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cõi lòng:

82

Em tìm ai áo tía đến nao lòng

Môi ta chạm mầu nắng mòn nhạt thếch

Mối tình hoang xanh rờn hƣơng cổ tích

Mơ hồ giăng trong sắc đắng hoa mua

(Đà Lạt)

Thời gian nghệ thuật là “biểu tượng, một tượng trưng thể hiện một quan

niệm của nhà văn về cuộc đời con người” [57.84].. Trong tình yêu, nhịp đập trái

tim chính là nhịp đo thời gian, thời gian không tồn tại khách quan, mà là thời

gian tâm lí tồn tại trong hồi tưởng, thương nhớ, mong mỏi, nuối tiếc, khao khát.

Nhân vật trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh hầu như chỉ sống trong một buổi

chiều, thời khắc ấy rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng buồn, suy tư, nhớ

thương, hoài niệm:

- Có một chiều xanh thẳm ở trong nhau

- Có một chiều xa vắng ở bên nhau

- Có một chiều yên ấm ở xa nhau

(Chiều xanh)

Dấu ấn tình yêu không chỉ hiện hữu theo dòng thời gian mà còn hiện hữu

trên nền không gian. Một góc vườn xưa từng có hình bóng em, ăm ắp kỉ niệm

hiện về:

Và góc vƣờn khuya

Nơi đầu tiên tôi đứng hôn em

Vang vang nở

Một nụ tầm xuân

Biêng biếc tím

Nhỏ và run nhƣ

Cúc áo

Em

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Rơi…

83

(Bản Xô nát hoang dã)

Hình ảnh nụ tầm xuân xuất hiện gợi cho người đọc nhớ tới nụ tầm xuân

trong ca dao “Bƣớc xuống vƣờn cà hái nụ tầm xuân/Nụ Tầm xuân nở ra xanh

biếc/Em có chồng anh tiếc lắm thay”. Không gian của thực tại, nhưng thời gian

và hình ảnh là sự hòa nhập, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, tất cả chỉ là niềm

tiếc nuối.

Khi muốn quên, người ta thường né tránh nhắc đến. Tình yêu đã qua thì

chôn chặt trong lòng, nhưng đôi lúc gặp lại cảnh cũ, nó ùa về xâm lấn tâm hồn.

Tình yêu của nhân vật trữ tình gắn chặt với “gian gác nhỏ, bậc thềm già”, “con

đƣờng dốc” thân quen, bình dị:

Gian gác nhỏ mƣa lan mờ bến bãi

Gió non thổi bậc thềm già nắng trái

Con đƣờng dốc em đi không trở lại

(Chiều xanh)

Đó đều là những gian nhỏ hẹp đủ để chứa những cảm xúc riêng tư đôi

lứa. Đọc thơ tình Trần Nhuận Minh có cảm giác như gặp chính mình ở đó.

Tình yêu trong tâm tưởng rất khác với tình yêu hiện tại, thế giới của

chàng trai là thế giới của những gam màu thương nhớ. Hình ảnh “em” luôn tươi

trẻ, hồn nhiên như như hương sắc bốn mùa, lúc nào cũng mới lạ, cũng hấp dẫn

trong mắt anh:

Có một chiều xanh thẳm ở trong nhau

Gian gác nhỏ mƣa lan mờ bến bãi

Áo em ngắn hết một thời con gái

Nỗi yêu anh còn biết dấu vào đâu

(Chiều xanh)

Em hắt lên anh màu thu biếc ngƣời

Em nhƣ vầng trăng sang bên kia trời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Màu xưa)

84

Hình tượng “em” hiện lên trong thơ Trần Nhuận Minh đầy thơ mộng và

lãng mạn. Đấy là cách để ông trút xả tâm sự, tình cảm của mình về mối tình đầu,

về thời đã qua với những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ. Và khi đó là những rung

động bất chợt về một nửa thế giới trong cuộc sống. Hình tượng “em” này xuất

phát trong cảm hứng trữ tình cá nhân, đời tư của tác giả. Nó cho thấy phong phú

hồn thơ Trần Nhuận Minh, và đồng thời như là sự “tự cân bằng” của chính ông

bên những vần thơ thế sự nóng bỏng mang đậm tinh thần, trách nhiệm xã hội và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiệt tình công dân

85

Chƣơng 3

NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU THƠ TRẦN NHUẬN MINH

3.1. Ngôn ngữ

Văn học nói chung và thơ ca nói riêng là loại hình nghệ thuật sử dụng

chất liệu ngôn từ, lấy ngôn từ làm phương tiện, chất liệu tái hiện đời sống, biểu

lộ tư tưởng tình cảm, xây dựng thế giới nghệ thuật. Về bản chất ngôn từ mang

tính kí hiệu, có khả năng gợi lên những hình tượng nghệ thuật, đưa ta thâm nhập

vào thế giới của chủ thể trữ tình với những cảm xúc, ấn tượng, suy

tưởng…Muốn vậy ngôn từ phải được tổ chức, kết cấu theo dụng ý nghệ thuật

của tác giả để tạo ra các giá trị biểu cảm mong muốn. Theo Phương Lựu, ngôn

từ văn học “là ngôn từ của tác phẩm văn học, của thế giới nghệ thuật, kết quả

sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn từ giàu tính hình tượng và giàu sức biểu hiện

nhất, được tổ chức một cách đặc biệt để phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng,

tình cảm và tác động thẩm mĩ tới người đọc”[143.185].

Như vậy ngôn ngữ trong văn chương là một hiện tượng nghệ thuật có

chức năng sáng tạo ra khách thể thẩm mĩ, sáng tạo ra bản thân các hình tượng

ngôn từ, hình thức lời thơ, lời văn nghệ thuật…đặc biệt nó thể hiện rõ nhất hình

tượng nghệ thuật.

3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh – một thứ ngôn ngữ dung dị, đời thường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.1.1.1. Ngôn ngữ mang tính dân gian

86

Trong thơ Trần Nhuận Minh, đặc biệt là thơ lục bát, ta thấy ngôn từ thơ

ông được lấy từ chất liệu ngôn ngữ đời sống. Đó là lời ăn tiếng nói giản dị, mộc

mạc, dân dã của nhân dân trong hiện thực cuộc sống đời thường. Do đó, thơ của

ông đượm tính dân tộc, với thứ ngôn ngữ dân gian và với thứ ngôn ngữ ca dao

truyền thống. Có thể khẳng định điều đó ngay qua cách đặt tên cho bài thơ của

ông.

Ca dao vốn không định danh từng bài. Người đời sau thường dựa vào

câu thơ đầu để đặt tên như: Tát nước đầu đình, Trèo lên cây bưởi hái hoa,

Người thợ mộc Thanh Hoa…,Trần Nhuận Minh cũng vậy. Hơn bốn mươi bài

thơ lục bát trong Miền dân gian mây trắng đều được đặt tên như thế cả. Nào là

Con chim nó đậu…, Ngày này tháng nọ…, Ta qua bến lú…, nào là Sáng qua

anh đến…, Gió đưa khói bếp…, Hỏi chàng quân tử…, Châu chấu sang

hỏi…nghe vừa hóm hỉnh, vừa dân dã mà ẩn ý sâu xa. Đặt tên bài thơ kiểu này

dễ gây hứng thú cho người đọc.

Thơ Trần Nhuận Minh là thơ thế sự đời tư, phản ánh chân thực “muôn mặt

của đời thƣờng”, trong mối quan hệ đa chiều, có mảng sáng, góc tối của cuộc

sống, có niềm vui và nỗi khổ, có hy vọng và bi kịch của con người. Để truyển tải

thấu đáo đầy hàm ý về vấn đề nhân sinh thế sự, Trần Nhuận Minh đã vận dụng

thành ngữ dân gian vào trong thơ mình một cách sáng tạo, độc đáo.

Thành ngữ dân gian có khi được sử dụng ở tình huống trêu trọc trong

cuộc đối thoại giữa cô gái với chàng trai đã tạo tính hài hước, hóm hỉnh pha chút

hờn dỗi, trách móc của nhân vật trữ tình:

Ối giời ơi! Đến nỗi này

Ăn gì mà bụng mỗi ngày một to…

- Ứ hừ…Ai khiến anh lo

Lo trâu đen cổ, lo bò trắng răng…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Ngày nào em đẹp…)

87

Biểu đạt thái độ của con người khi muốn bứt phá, tìm tới một chân trời

mới để cải thiện môi trường cuộc sống vốn ngột ngạt, o ép. Dù con đường đi đến

đích còn muôn vàn gian khổ, nhưng sự quyết tâm như một thúc hối giục bước

chân đi, nhà thơ đã vận dụng thành ngữ dạng tỉnh lược:

Một đi ba bẩy cũng đi

Sáng thì núi Bắc, chiều thì biển Nam

(Một đi…)

Có khi là một lời khuyên phải biết ăn ở có trước, có sau cho trọn nghĩa

vẹn tình:

Qua cầu chớ rút ván cầu

Giếng làng giữ sạch lần sau còn dùng

(Gió đưa khói bếp…)

Chủ thể trữ tình khẳng định ý thức sống tự do, tự tại, hồn nhiên, trong

sáng, không chi phối ai và cũng không bị ai chi phối, không chấp nhận làm công

cụ sai khiến của kẻ khác:

Ta sống dung dị và tự nhiên nhƣ Cây nhƣ Đá

Không là công cụ trong tay ai để đánh chó dọa người

(Ta sống dung dị)

Thơ Trần Nhuận Minh có khi sử dụng ngôn ngữ diễn đạt lặp lại ca dao,

nhưng được cách tân nhằm đạt hiệu quả cao trong sáng tạo nghệ thuật:

Sáng qua anh đến thăm em

Thấy cha đứng ở bên thềm tƣới hoa

Thấy em soạn sách trong nhà

(Sáng qua anh đến…)

Làm ta nhớ đến bài ca dao:

Hôm qua anh đến chơi nhà

Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thấy nàng mải miết quay tơ

88

Cũng trong dòng chảy thế sự, ngòi bút Trần Nhuận Minh phê phán những

biểu hiện mặt trái của đạo lí và cung cách hành xử của con người bằng ngôn ngữ

mang âm ca dao, vừa nhẹ nhàng, vừa hóm hỉnh nhưng sâu sắc:

Đêm qua gió lạnh sân chùa

Có hai bà vãi bỏ bùa cho sƣ…

(Châu chấu sang hỏi…)

Có lẽ nhà thơ lấy cái tứ từ bài ca dao xưa:

Ba cô đội gạo lên chùa

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sƣ

Cũng có khi nhà thơ dẫn nguyên câu ca dao vào trong bài thơ để diễn tả

tâm trạng của nhân vật trữ tình xót xa, nuối tiếc trước lẽ đời dâu bể, trước

những biến thiên của lòng người do các cuộc vật đổi sao rời:

Ta về ta tắm ao ta

Nghe câu hát cũ mà da sƣng phồng

(Trăng sưa)

Khi triết lí về cuộc đời, về sự thay bậc đổi ngôi trong xã hội, Trần

Nhuận Minh cũng hấp dẫn người đọc bằng cách vận dụng tực ngữ, ca dao:

Kẻ khôn sẽ dại bất ngờ

Trƣớc chê trời thấp bây giờ đi khom

Gỗ vuông đẽo chẳng nên tròn

Mèo già trông thấy chuột con cúi chào…

(Bên dòng tục ngữ)

Và cũng như ca dao, để làm phong phú về thế giới nhân vật, Trần Nhuận

Minh đã nhân hóa cây cối, động vật, đồ vật…khi là cây chanh, con cá, con châu

chấu hoặc con cào cào:

Châu chấu sang hỏi cào cào

Nƣớc trong cá sống thế nào hở anh?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Con gà đến hỏi cây chanh

89

Chặt lau, làm cái cột đình, đƣợc chƣa?

(Châu chấu sang hỏi…)

Bộc lộ cảm xúc da diết về kiếp người lao động lam lũ, cực nhọc, tác giả

cũng sử dụng các biện pháp tu từ thơ ca dân gian như phép ẩn dụ;

Anh nhìn gió động bờ tre

Thƣơng con cò trắng bay về, bơ vơ

(Sáng qua anh đến…)

Cũng có khi dùng cách nói phiếm chỉ thời gian, tạo cảm giác nửa thực,

nửa mơ hồ, chuyện xẩy ra thời nào cũng được, mà ca dao, truyện cổ tích hay

dùng:

Ngày này, tháng nọ, năm kia

Tình cờ vào một quán bia, gặp nàng

(Ngày này tháng nọ…)

Sử dụng thành ngữ, trích dẫn ca dao, tục ngữ, Trần Nhuận Minh rất linh

hoạt và khéo léo. Từ những thành ngữ có trong tiếng phổ thông đến việc vận

dụng ca dao, tục ngữ đều súc tích, dễ hiểu, tạo màu sắc bình dị, gần gũi trên

từng trang sách của nhà thơ. Chính những yếu tố đó đã tạo nên ngôn ngữ mang

tính dân gian trong thơ Trần Nhuận Minh.

3.1.1.2. Sử dụng ngôn ngữ đời thƣờng Thông thường, người ta hay thấy lớp ngôn từ này trong truyện ngắn,

trong tiểu thuyết và rất ít khi thấy đề cập nó trong thơ. Nhưng Trần Nhuận Minh

có điểm khác, nhà thơ chú ý đến những góc cạnh rất đời thường của cuộc sống

hiện tại, lớp ngôn từ nhà thơ sử dụng không đơn giản chỉ ra thực tại ngoài nó mà

tái hiện thực tại ấy vào trong nó. Có thể nói một phần thành công ở mảng thơ thế

sự đời tư là do nhà thơ biết chắt lọc ngôn từ đời thường giản dị, thời sự để đưa

vào thơ.

Có thể kể đến các từ ngữ “đường phố” trong Nhà thơ áp tải:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đã từng cho một “chƣởng”

90

Những thằng đến “mổ” hàng

(…)Thả phanh nhai thịt gà

(…)Bạn “choảng liền một mạch”

Với cách dùng từ như thế, Trần Nhuận Minh khắc họa bức chân dung

người bạn thơ rất đời thường của mình, đằng sau đó thấp thoáng nụ cười hóm

hỉnh của nhà thơ. Hay trong Thoáng là hình ảnh những con người tha hóa đạo

đức, lối sống:

Đàn bà khoác bị cói, đeo kính cơn, mặc quần soóc ra phố

Gã chốn tù, tội đánh ngƣời và khoét gạch

Vào quán ghểnh chân làm choác bia hơi

Các từ ngữ này có khả năng đặc tả chân dung, tính cách nhân vật, thường

đi với lối “hành thơ kể chuyện” đặc biệt xuất hiện trong các bài thơ chân dung:

Mợ Hữu, Thím Hai Vui, Phúc, Tú Lão…

Hay sử dụng ngôn ngữ nói tạo tính đối thoại trực tiếp cho lời thơ

Ta giơ hai nắm tay hoan hô ông Giời

Đùa một tí mà thành muôn vẻ đẹp

(Chơi thuyền trên vịnh Hạ Long)

Em đứng lặng úp mặt vào bóng tối

Khổ thân em có nói đƣợc gì đâu

(Thơ tình ngày không em)

Mặt trời trắng và lành nhƣ một đồng xu nhỏ

Ta chẳng thèm tiêu

(Trong sương mù Cao Bằng)

Có khi là ngôn ngữ suồng sã, mang đậm phong cách khẩu ngữ sinh hoạt

được sử dụng trong lời đối thoại trực tiếp của một câu chuyện:

Hỏi vợ: “Vợ bỏ tớ”

Hỏi con: “Nó vƣợt biên”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hỏi nhà: “Nhà tớ bán”

91

Hỏi thơ: “Đếch ai in…”

(Bạn cũ)

Bỗng hôm nay

Nhìn ảnh hắn đăng trên báo

Họ mỉm cƣời và bảo

- Cái thằng đến là trẻ lâu!

(Anvơret)

Tuy nhiên có nhiều độc giả cho rằng cách sử dụng từ ngữ như vậy sẽ

làm mất đi chất thơ của thơ. Cần thấy rằng chất thơ không có nghĩa là sự mượt

mà bay bổng của từ ngữ, hình ảnh, hiện thực gai góc cũng tạo nên chất thơ vì

khi tái hiện hiện thực, chất thơ toát lên từ những gì gần gũi đời thường, sinh

động. Nói cách khác việc đưa những từ ngữ này vào trong thơ Trần Nhuận Minh

đã bổ khuyết cho “chất thơ đang thiếu”.

3.1.2. Ngôn ngữ mang tính triết lí sâu sắc Đọc thơ Trần Nhuận Minh, ta thấy ngôn ngữ thơ ông không chỉ dung dị,

thể hiện đậm nét ở tính dân gian và tính đời thường, mà ngôn ngữ thơ ông còn

mang tính triết lí sâu sắc. Triết lí lặn sâu vào trong ngôn từ, có ở trong câu chữ,

mỗi đoạn thơ, mỗi bài thơ. Trong tất cả các tập thơ, từ “những điều trông thấy”,

Trần Nhuận Minh đã trải lòng mình ra để chiêm nghiệm, để thâu về những ngôn

ngữ đắc dụng, thâm trầm, ẩn chứa tính triết lí về cõi đời, cõi người trong cái hữu

hạn và trước cái vô cùng.

3.1.2.1. Sử dụng lập luận mang tính triết lí Lập luận là đưa ra lí lẽ hoặc dẫn chứng để dẫn dắt người đọc, người

nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đó.

Trần Nhuận Minh thường sử dụng những từ ngữ tạo lên hình ảnh tương

phản nhưng có thực của đời thường để lập luận cho chân lí cuộc đời. Để khẳng

định quy luật sinh tồn cho tất cả mọi người, nhà thơ dùng cặp từ đối lập để làm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

luận cứ:

92

Sống úp mặt xuống đất

Chết ngửa mặt lên trời

Giàu nghèo hay vinh nhục

Và kết luận bằng kết cục giống nhau: “Cũng trong vòng ấy thôi”.

Có khi dựa vào quy luật nhân - quả để lập luận cho hành động có mục

đích hay vô tình của con người qua những cặp quan hệ từ: “và – thì”, “nếu –

thì”:

Và ngƣời trồng Cây Phúc

Thì Quả Phúc đầy vƣờn

Nếu vô tình xéo vào lƣng con rắn độc

Thì con rắn độc sẽ biến thành sợi dây…

(Bản Xô nát hoang dã)

Sức nặng thơ Trần Nhuận Minh chính là ở chỗ, niềm ưu ái với cuộc sống,

đối với con người, chất đời thường được lồng trong triết lí nhân sinh. Chuyện

thời sự mà mang theo nỗi niềm thế sự. Nhà thơ đã vận dụng quy luật lịch sử để

lập luận cho lẽ thịnh suy của các triều đại vua chúa:

Khi Vƣơng triều không còn hợp lòng dân

Thì thành đá cũng chỉ là bùn nhão

Ngai vàng không đổ không mùa mƣa bão

Mặt xâm lăng lố nhố khắp kinh thành

(Đứng trên thành nhà Hồ ở Thanh Hóa…)

Nhìn vào sự suy vong thảm hại của nhà Tần ở Trung Quốc thời phong

kiến, nhà thơ đúc kết một triết lí cho mọi thời đại bằng ngôn ngữ khẳng định:

Bức trƣờng thành bền vững nhất của

mọi quốc gia chính là lòng Dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Vạn Lí Trường Thành ca)

93

Cũng với cách sử dụng ngôn ngữ khẳng định, chúng ta có thể nhận ra một

chân lí đơn giản, thế mà nhiều dân tộc đã phải trả giá quá đắt trong từng giai

đoạn lịch sử:

Có lắm anh hùng, đất nƣớc bình yên là một điều vĩ đại

Không cần có lắm anh hùng,

Đất nƣớc vẫn bình yên, còn vĩ đại hơn nhiều

(Năm khúc hát bên bờ Trường Giang)

Trần Nhuận Minh cũng đi vào giải thích những hiện tượng có vẻ trái

chiều, phi lí trong xã hội, nhưng thực chất vấn đề đó lại rất hợp lí trong từng

hoàn cảnh. Nhà thơ vận dụng các liên từ “thế - mà” để diễn đạt:

Ông chủ và kẻ mƣớn

Có bao giờ ngang nhau

Lẽ đời đơn giản thế

Mà nhầm đến bạc đầu

(Họp phố)

Những lập luận có căn cứ nhờ sử dụng những cặp từ tương phản, đối lập

đã tạo được hiệu quả cao trong cách diễn đạt ngôn ngữ mang tính triết lí sâu

sắc.

3.1.2.2. Dùng ngôn ngữ hàm ẩn để triết lí Chủ thể trữ tình ham triết luận đã huy động tối đa thứ ngôn ngữ hàm ẩn

mang tính triết lí trong toàn bộ sáng tác của mình. Bằng sự trải nghiệm dày dặn

kết hợp với cảm quan hiện thực và lối tư duy biện chứng, nhà thơ đã đứng cạnh

số phận nhân dân mà quằn quại trút vào ngôn từ hàm ẩn những triết lí nhân sinh

ngậm ngùi:

Con ngƣời lớn lên từ các cuộc tranh giành

Và cái ác thấm dần vào trong máu

Những hận thù hôn nhân, điền thổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Vẫn ngắm ngầm sau bao lũy tre xanh

94

Có cơn mƣa chết cả lúa đồng

Lời ngon ngọt mà thêm ngƣời đổ gãy

Để đưa ra một nhận thức về sức mạnh của trí tuệ mạnh hơn sức mạnh vật

lí, nhà thơ đã cũng sử dụng ngôn ngữ hàm ẩn::

Kẻ giỏi hạ cây đâu cần đến sức rìu

Và biểu đạt sự đối lập giữa ý nghĩ bên trong và hành động bên ngoài trong

một con người trước cuộc sống, Trần Nhuận Minh đưa ra triết lí theo lối nói

hàm ẩn. Nhờ hoàn cảnh và ngôn từ được dùng, người đọc có thể suy ra hàm ý

mà nhà thơ truyển tải:

Kẻ khôn ngoan thƣờng dấu điều mình biết

Ý nghĩ ở đằng đông. Miệng nói ở đằng tây

Chân trong ngõ quê. Tay đã ra ngoài phố

Giấu mƣu toan dƣới những cốc rƣợu đầy

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Trần Nhuận Minh rút ra một nhận định ẩn dụ, hàm ý phê phán mang tính

triết lí sâu sắc:

Khi anh đứng quay lƣng về phía mặt trời

Bóng tối của chính anh sẽ ngả dài trƣớc mặt…

(Khi anh đứng…)

Cảm hứng thế sự được nẩy sinh từ những đúc kết, chiêm nghiện về hiện

thực cuộc sống đa tầng ở mọi góc độ, trên mọi bình diện xã hội. Để hàm ý về sự

thăng – giáng trong cuộc đời con người, tác giả sử dụng các từ ngữ nghi vấn:

“thế nào, làm sao, là bao”:

Đây là khúc một con sông

Rồi sau khúc đục khúc trong thế nào

Sự đời biết tính làm sao

Nắm tay nhau đƣợc là bao…sẽ rời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Tiệc đêm)

95

Với việc sử dụng ngôn ngữ hàm ẩn đắc dụng, giúp người đọc rút ra chân

lí từ cách mô tả các hiện tượng mà nhà thơ đúc kết. Điều đó còn tạo ra sự tự

nhiên, dung dị cho các câu thơ triết luận.

Ngôn ngữ thơ Trần Nhuận Minh đậm chất triết lí, nhưng đấy không phải

là thứ ngôn ngữ biểu đạt tư tưởng đầy màu xám, mà thông qua nghệ thuật ngôn

từ, tác phẩm của ông đã trở thành “cây đời mãi mãi xanh tƣơi” trong nền thơ ca

dân tộc. Qua thứ ngôn ngữ mang tính triết lí, cuộc sống con người đã được khúc

xạ bởi tâm hồn yêu đời đến khổ lụy của Trần Nhuận Minh, nên thơ ông mới máu

thịt và mặn mòi vị nước mắt của đời.

3.1.3. Sử dụng các cặp từ trái nghĩa Trần Nhuận Minh là nhà thơ ham triết luận, các triết luận được đưa ra

thường là kết quả của cách nhìn đa chiều về hiện thực. Một trong những phương

thức được sử dụng nhiều là luận giải vấn đề bằng hệ thống các cặp từ trái nghĩa.

Trong Bản Xô nát hoang dã, để hiểu về “tự do”, tác giả cắt nghĩa về từ

“cầm tù”:

Đức vua rất khổ

Vì bị cầm tù trên ngai vàng

Kẻ Hành Khất rất khổ

Vì đƣợc tự do đói rét

Để hiểu về “sống” đặt trong tương quan với “chết”:

Tôi Thứ nhất đã chết

Nằm duỗi thẳng trong quan tài

Tôi Thứ Hai vẫn sống

Là linh hồn

Mà chẳng phải linh hồn…

(Bản Xô nát hoang dã)

Để hiểu về “cái ác” tác giả đặt song hành với “cái thiện”: “Kẻ ác đôi khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

làm việc thiện/Đánh thuốc độc cả tiếng cƣời” (45 khúc đàn bầu của kẻ vô

96

danh), sự “sinh thành” trong sự “hủy diệt” (Bản Xônat hoang dã); để hiểu về

“chiến tranh”, tác giả đặt nó bên cạnh “hòa bình” (Thím Hai Vui); để hiểu về

“tốt” thì lí giải về “xấu”: “Cuộc đời toàn ngƣời tốt cả/Không ai xấu với ai đâu”

(Với chị Hồng Tâm)…

Bên cạnh đó, Trần Nhuận Minh đặt quan hệ trái ngược cho các từ vốn

không có ý nghĩa trái ngược:

Trời ơi! Vàng đến thế này

Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian

(Trong đồng cỏ hoa vàng)

Cái giả dối, hào hoa của Ánh Trăng

Đâu có bị cái thuần phác

của Mặt Đất

Xua đuổi

Cái Màn Đêm phản trắc đầy cạm bẫy

Đâu có bị cái Ánh Ngày chính trực anh minh ruồng bỏ…

(Bản Xônát hoang dã)

Các từ “Ánh Trăng”, “Mặt Đất”, “Màn Đêm”, “Ánh Ngày” được sử

dụng như danh từ riêng, đặt trong thế đối lập. Cuộc sống bao giờ cũng có hai

mặt của nó. Có cái giả dối song hành với cái thuần phác. Cái phản trắc đi cùng

cái chính trực anh minh…như “Đêm” và “Ngày”, như “Ánh Trăng” và “Mặt

Đất”…Nhận thức này, bắt nguồn từ cách nhìn vấn đề mang tính biện chứng cao.

Hay trong trường hợp khác:

Không gian đằm thắm

Huyền ảo mong manh

Là lúc sinh ra

Thiên Thần và Quỷ Sứ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Là lúc Nhà Thơ và Kẻ Trộm

97

Cùng hào hứng bƣớc ra ngoài

(Bản Xô nát hoang dã)

Những từ “Thiên Thần” và “Quỷ Sứ”; “Nhà Thơ” và “Kẻ Trộm” là

những căp từ biểu hiện những mặt của xã hội được tác giả đặt trong mối quan hệ

đối lập, trong sự thống nhất lịch sử.

Thơ Trần Nhuận Minh sử dụng rất nhiều các cặp từ trái nghĩa làm tăng

khả năng diễn đạt, đem lại hiệu quả nhận thức mang tính đa chiều.

3.1.4. Sử dụng các kết từ lạ, độc đáo Bất cứ thế giới nghệ thuật của một nhà thơ nào cũng đều được tạo

dựng nhờ hệ thống hình ảnh riêng, độc đáo, là kết quả của cách kết hợp từ độc

đáo, mới lạ.

Bằng cách kết hợp sau danh từ là một tính từ chỉ màu sắc, nhà thơ đã

hữu hình hóa sự vật vốn vô hình, trừu tượng:

- Nhớ xƣa gió biếc chân trời mong manh

- Ta ở đâu giữa mùa xưa xanh ngát

- Lá non tỏa màu em biêng biếc sáng

- Em hắt lên anh màu thu biếc ngƣời

- Những bí ẩn xanh rờn/Dào dạt tuôn chảy từ trời cao

Hoặc hư ảo hóa những sự vật cụ thể:

- Giọt mưa xuân xanh quá/Bay ngang trời Hạ Long

- Gió đã xanh thổi lên từ Hoa Cỏ

- Chiều nghiêng một sắc vô tình

- Ngoài làn mây trắng bay ở ngang trời và trái tim xanh

đập trong lồng ngực/Anh chẳng còn gì hết

- Đồng xa, xanh mảnh trăng gầy treo nghiêng

Với cách kết hợp từ này, thế giới hình ảnh trong thơ ông vừa thực vừa hư

ảo, nó không đơn giản là thế giới khách quan mà trở thành thế giới tâm tưởng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoài niệm. Vạn vật được nhuộm bởi sắc xanh đến nao lòng: “A ha! Trời xanh,

98

nƣớc xanh, núi xanh, ta xanh”. Màu xanh trở thành màu chủ đạo trong thế giới

nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh, mang ý nghĩa biểu tượng.

Nhà thơ phá vỡ tư duy hình ảnh, ấn tượng quen thuộc bằng cách thay đổi

trật tự từ của lôgíc ngôn ngữ thông thường. Nói cách khác nhà thơ có một

phương pháp chế tác ngôn ngữ rất độc đáo. Chúng ta rất hay bắt gặp cách diễn

đạt đưa thành phần định ngữ lên trước danh từ, hoặc thành phần bổ ngữ lên

trước động từ. Nhà thơ miêu tả hình ảnh khu vườn xưa:

- Buồn xƣa - vàng vạt nắng rơi

Nhớ xƣa - gió biếc chân trời mong manh

- Đồng cỏ xanh non

Run rẩy vài ba hoa lê trắng

Bến Tầm Dƣơng canh khuya

Vàng lá ngô đồng rụng

- Vĩnh biệt nhé, ráng chiều côi cút gió

Ta một mình với Đắng Mê Tơi

Nơi ấy, gió, nắng, hoa, lá…của hiện tại nhưng ẩn chứa một nỗi niềm quá

khứ. Con mắt nhìn nhà thơ không hướng đến sự vật trong thời gian khách quan

mà cảm nhận ở thời gian hồi tưởng, kí ức nhờ kết cấu đảo ngữ. Từ đó có cái

được đặc tả ở đây không phải hình ảnh mà là dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình.

Cách kết cấu câu như vậy tạo nên những phản tiền đề có tính lôgíc cao

khiến người đọc phải suy ngẫm, phải nhận thức lại.

3.1.5. Sử dụng các biện pháp tu từ * Biện pháp nhân hóa:“Nhân hóa còn gọi là nhân cách hóa, là biện

pháp tu từ trong đó người ta lấy từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu con người

để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải của con người nhằm

làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu, đồng thời làm cho chủ thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phát ngôn có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình”[35.63].

99

Bằng sự liên tưởng và tưởng tượng phong phú, Trần Nhuận Minh đã

đem đến cho thế giới sự vật thơ ông sức sống nội tại qua những biện pháp nhân

hóa tài tình. Cảm nhận về không gian thật độc đáo:

Giữa khoảng ngập ngừng của vũ trụ

Từ láy “ngập ngừng” là từ láy tượng hình gợi cảm xúc, tái hiện được

một cách sinh động, độc đáo khoảng không gian nơi giao hòa của hai thế giới,

nửa vươn tới cõi tiên giới, nửa vương bụi trần. Đây là một động từ trạng thái

được sử dụng như một tính từ theo phương thức chuyển loại từ làm tăng giá trị

biểu đạt, sức khơi mở của hình ảnh thơ.

Trong không gian giăng mắc những sợi tơ tình, vạn vật như đã phải lòng

nhau:

Hàng cây lơ mơ thức ngủ

Trong tấm áo choàng cô dâu

Đến nỗi những ngôi nhà cổ

Đêm nào cũng phải lòng nhau

(Đêm trắng)

Nhân hóa đem đến sự lạ hóa cho hình ảnh thơ quen thuộc. Không còn là

trăng soi dưới dòng sông mà là “Đánh đắm cả trời sao” bằng sự im lặng không

tiếng của mình. Dường như sông và trăng là một “cặp tình nhân” của đêm vắng.

Cảnh mang chứa tình bởi mọi cảnh vật đều đón nhận bằng con người

tinh thần của nhà thơ. Ta bắt gặp ở thế giới ấy một “vầng trăng gầy, ngẫm ngĩ

khuyết đêm khuya”, một “áng mây trinh nữ”, “chập chờn thức ngủ giữa rừng

thông”, “ngơ ngác” giữa cơn mưa…, một “giọt mƣa buồn gõ xám mái nhà

Vua”, âm thanh tiếng “ngẹn ngào của những ngôi sao”, âm thanh “tiếng hạc

thảng thốt” vọng về…Con người tinh thần đã thổi linh hồn vào cho vạn vật

trong thế giới mà nó chiếm lĩnh. Ngay cả thời gian cũng được hữu hình hóa nhờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhân hóa: “một nửa mùa thu nghiêng bóng xuống khoang thuyền”.

100

Biện pháp nhân hóa là tu từ tất yếu nhà thơ phải sử dụng. Hình tượng

nghệ thuật trong thơ ông phong phú, con ve với lí lẽ thời gian mùa hè, con chim

từ bỏ tự do vì nếp quen, một con chó trung thành đến hơi thở cuối cùng…Khi

vươn tới tầm cao triết luận, các hình ảnh thơ của ông có ý nghĩa biểu tượng sâu

sắc, ví như các tác giả miêu tả “cỏ” bằng các tính từ chỉ định tính con người

“bao dung”, “dịu dàng”, “long đong”, “dầu dãi”…Có thể nói nhân hóa tạo sự

sống cho thế giới thơ Trần Nhuận Minh, là một phương thức hiệu quả thể hiện

hình tượng nghệ thuật.

* Biện pháp so sánh: So sánh là biện pháp tu từ quen thuộc trong văn học

Việt Nam, đặc biệt là xuất hiện nhiều trong ca dao, dân ca dân gian, là biểu hiện

của lối tư duy hình tượng. Trên cơ sở đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực

tế khách quan không hoàn toàn đồng nhất mà chỉ chung nhau một nét nghĩa nào

đó để diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng. So sánh cũng

là một nghệ thuật tu từ quen thuộc trong thơ Trần Nhuận Minh.

Mô hình phép so sánh trong thơ ông rất đa dạng. Nhà thơ lấy cái cụ thể

đối chiếu cái cụ thể tạo sự gần gũi cho hình ảnh:

- Núi sông nhƣ chiếc quạt xòe trong tay

- Những câu thơ mỏng tựa cánh chuồn

Ngàn năm bay ngƣợc bão

Hoặc lấy cái cụ thể làm rõ cái trừu tượng:

- Giao thừa đi nhƣ cô gái chƣa chồng

Đẹp nức nở những muộn màng đắng chát

- Cái lạnh nhƣ lƣỡi cƣa

Xẻ chéo tầng đá xám

Để mờ hóa cảm xúc của chủ thể trữ tình về thế giới, Trần Nhuận Minh

còn lấy cái trừu tượng để soi chiếu cái cụ thể:

- Tiếng chuông nhƣ hồn ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cô đơn và thăm thẳm

101

Có khi nhà thơ lấy cái trừu tượng so sánh với cái trừu tượng, nhưng lại

có khă năng tạo hình khối cho cảm xúc:

Nỗi gì khắc khoải không yên

Đập nhƣ giọt đắng trong tim thế này

Thậm chí trong một câu thơ, nhà thơ có thể sử dụng chuỗi so sánh tạo

chuỗi hình ảnh liên tưởng:

- Đất đã tự quên dấu tích oai hùng để tiếng chim nhƣ chuỗi bạc

long lanh, rập rờn sông núi

- Núi nhƣ ngƣời đàn bà đang yêu

Và sông bằng nhƣ một mảnh thƣ tình bị bóc trộm

Nhờ so sánh hình ảnh mà trong thơ Trần Nhuận Minh có sự kết nối độc

đáo, mới lạ:

- Mặt trời trắng và lành nhƣ một đồng xu nhỏ

Sáng thinh không, chiếc lá nhƣ giọt lửa

Nhờ có so sánh, Trần Nhuận Minh nắm bắt được hồn cảnh và hồn người

trong sự giao hòa làm một trong không gian tâm linh vùng đất Yên Tử:

Chợt ngân một tiếng chuông

Sắc cỏ bỗng hoe vàng

Nhƣ có ai lững thững

Trong bóng chiều lang thang

(Chiều Yên Tử)

* Biện pháp Ẩn dụ: Ẩn dụ là sự định danh thứ hai cho sự vật, mang ý

nghĩa hình tượng dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa các khách thể.

Biện pháp ẩn dụ được Trần Nhuận Minh sử dụng như một công cụ nghệ thuật

đắc lực trong xây dựng các hình ảnh biểu tượng như hoa cỏ, gió heo may, mây,

Đấng Mê Tơi, Đấng Âm U…

Ngoài ra ẩn dụ còn được ông sử dụng như một công cụ quan trọng trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quá trình làm lạ hóa hình ảnh cũ. Nói cách khác, nhờ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác,

102

sự vật vốn cảm nhận bằng giác quan này được chuyển sang cảm nhận bằng giác

quan khác. Thời gian nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh được cảm nhận có

đường nét: “Năm tháng cuộn trên sừng bò khắc khoải”, có màu sắc: “Ta ở đâu

giữa mùa xƣa xanh ngát”. Sự vật vô hình được hình khối hóa thành từng giọt:

“Giọt trăng cũ tan trong hồn cúc dại”, “Lá phong buồn ven sông/Khẽ rơi một

giọt vàng”, “Tiếng chim rơi ngƣợc bóng núi sông Đà”, “tiếng sếu rơi vào vạt

áo khuya”…Trần Nhuận Minh đã “cởi trói giác quan” để đón nhận sự tác động

của hiện thực. Trong cơn gió nồm thấy được mùi vị mặn nồng của biển: “Biển

ập vào cơn gió nồng mặn chát”, trong mái phố thấy nỗi buồn của mùa đông còn

sót lại: “Mái phố sẵm nỗi buồn mùa đông rớt/Chân ta vấp bóng chiều ẩm ƣớt”,

lắng nghe âm thanh tiếng thở dài của núi trong cái trong cái ướt lạnh của buổi

sương chiều: “Tiếng thở dài của núi Tản viên/Làm ƣớt đẫm sƣơng chiều”…Như

vậy, từ sự kết hợp và chuyển đổi các yếu tố cảm giác khác nhau: màu sắc trở nên

có đường nét, hình khối; âm thanh thành màu sắc; cái vô hình thành vật thể hữu

hình…,Trần Nhuận Minh đã đem đến những hình ảnh thơ độc đáo, tạo khả năng

liên tưởng phong phú, là sự thể hiện cho những khám phá thế giới bằng cộng

hưởng nhiều giác quan của nhà thơ.

3.2. Một tiếng thơ đa giọng điệu

Theo từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ tình cảm, lập

trƣờng tƣ tƣởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tƣợng đƣợc miêu tả thể hiện

trong lời văn quy định cách xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách

cảm thụ, xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm

biếm”[48.112].

Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố

hàng đầu tạo nên phong cách riêng của mỗi nhà văn, tạo nên sự khác nhau giữa

các nhà văn và sức hấp dẫn cho tác phẩm. Giọng điệu là yếu tố đặc trưng của

hình tượng tác giả. Giọng điệu của của tác phẩm ở mức độ nào đó phụ thuộc vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đặc điểm miêu tả cũng như cách cảm nhận về chúng. Chỉ có những nhà văn thực

103

sự có tài năng mới có giọng điệu riêng. “Đó chính là đặc điểm chủ yếu của một

tài năng sống độc đáo” (M.B.Khrapchencô).

Nhà văn tài năng phải có giọng điệu riêng và được thể hiện trong toàn bộ

sự nghiệp sáng tác. Nhưng giọng điệu biểu hiện như thế nào? Căn cứ vào đâu để

có thể nhận diện được chính xác giọng điệu của một tác phẩm, một tác

giả?...Vấn đề này không đơn giản bởi trong tác phẩm, giọng điệu không phải là

phép cộng của câu chữ mà nó được tạo thành do sự cộng hưởng, kết hợp hài hòa

của nhiều yếu tố ngôn ngữ cùng sự thăng hoa cảm xúc của chủ thể.

Là một nhà thơ trưởng thành từ những năm kháng chiến chống Mĩ và

sáng tác đến tận bây giờ, cho nên Trần Nhuận Minh đã tạo cho mình một tiếng

thơ đa giọng điệu: có giọng ngợi ca, khẳng định; có giọng day dứt, hoài nghi; có

giọng xót xa, thương cảm; có giọng hài hước, mỉa mai, châm biếm. Tất nhiên,

trong từng giai đoạn lịch sử, từng tác phẩm cụ thể, nó có những biểu hiện khác

nhau, gắn với những cung bậc cụ thể của tình cảm, những tình điệu thẩm mĩ

khác nhau. Người đọc có thể nhận ra chất giọng chủ yếu qua từng cấp độ khác

nhau của văn bản nghệ thuật ngôn từ. Có khi nó thấm sâu vào từng câu chữ và

lan tỏa khắp bài thơ, có lúc lại ngân vang qua những lời đề từ, cũng có khi nó lại

toát lên từ âm hưởng chung của những cuộc đời, những số phận cụ thể được

phản ánh trong tác phẩm. Những biểu hiện sinh động của chất giọng ấy có thể

tìm thấy trong hầu hết các tập thơ của Trần Nhuận Minh.

3.2.1. Giọng ngợi ca, khẳng định Trong những năm của thập kỉ sáu mươi, bẩy mươi, cả miền Bắc vừa

chiến đấu vừa bước vào thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội với tất cả vẻ

đẹp quyến rũ, với những hy vọng tràn trề về một tương lai rực rỡ, sán lạn. Phần

lớn các tác phẩm ra đời thời kì này đều miêu tả những bức tranh hiện thực đẹp

đẽ và tươi tắn với chỉ một sắc hồng. Tinh thần quyết tâm đánh giặc, không khí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hồ hởi của con người và cuộc sống tạo nên giọng điệu ngợi ca, khẳng định. Và

104

giọng điệu thơ Trần Nhuận Minh cũng nằm trong âm hưởng chung của dàn đồng

ca đó.

Chất giọng ngợi ca, khẳng định được vận dụng, sử dụng phổ biến như

một phương tiện chủ đạo nhằm tôn vinh đất nước, nhân dân anh hùng, ngợi ca

những con người lao động mới, cuộc sống mới:

Tôi sống trong thành phố của tôi

Thành phố một ngàn năm gan góc

Kiên trì giữ gìn những tinh hoa dân tộc

Đây là Việt Nam

Việt Nam đến tận cùng

(Thành phố bên này sông)

Trong Mùa xuân thứ nhất, mùa xuân đầu tiên của đất nước thống nhất

vẹn tròn, Trần Nhuận Minh đã ghi lại được suy nghĩ của một người cha trên

đường đánh giặc nói với con bằng một giọng lạc quan tin tưởng:

Con ơi, cha đâu phải là ngƣời thơ mộng

Lòng vẫn rƣng rƣng khi nghĩ đến mai sau

Của con, dải than đen dài rộng dƣới đất sâu

Của con chín khúc sông Hồng phù sa cuộn đỏ

Của con, ba ngàn cây số biển khơi trắng trời sóng gió…

Giọng ngợi ca thấm đẫm tinh thần nhân đạo cộng sản quả có sức cổ vũ,

động viên con người vươn lên chủ động giành lấy thành quả bằng chính bàn tay

lao động sáng tạo của mình:

Tổ quốc mình bát ngát cánh đồng xƣa

Đang nuôi lớn những vùng công nghiệp

Làm thật nhiều than, đấy là điều tâm huyết

Đang gọi trong tim tôi hôm nay

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Trên tầng cao 380)

105

Đậm đà và sâu sắc trong chất giọng ngợi ca, đằm thắm, ân tình vẫn là

những bài thơ viết về vùng đất bên bờ Vịnh Hạ Long:

Đất sẽ lên dần vị ngọt

Và một phần Hạ Long sẽ hóa thành đồng

Màu đẹp nhất vẫn là màu lúa chín

Có đảo xa sắc chiều buông tím

Có cánh buồm hồng mặt trời lên

(Làm thủy lợi ở giáp khẩu)

Hát nữa em, giữa bốn bề tiếng sóng

Cánh buồm ra khơi, mái chèo vào lộng

Đêm nay em có buông lƣới chi đâu

Anh ngồi nghe nhƣ con cá mắc câu

(Nghe hát dân trài trên biển đảo Quan Lạn)

Cũng là giọng ngợi ca, khẳng định về con người mới, cuộc sống mới,

nhưng Trần Nhuận Minh không chạy theo các sự việc, không lấy các biến cố,

các sự kiện cách mạng làm mục đích phản ánh. Hiện thực cuộc sống lao động,

xây dựng trong thế đi lên với không khí sôi nổi, khẩn trương, với sự đổi mới

từng ngày, từng giờ trên gương mặt đất nước, quả có chất men say là ngòi bút

của Trần Nhuận Minh rung động một niềm say mê tha thiết với cảnh vật và

con người lao động:

Những buổi tối ở đây

Nhà sáng xanh đèn mỏ

Ngƣời chồng lo cho vợ

Chọn giống, bón đòng đòng

Ngƣời vợ lo cho chồng

Bữa ngon ngày mở vỉa

Niềm vui và gian khổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chia đều cho hai nơi

106

(Làng ven mỏ)

Có khi cần khẳng định, giọng độc thoại cũng được cất lên một cách vững

vàng, mạnh mẽ. Nhà thơ độc thoại mà như đối thoại với tất cả những người thợ.

Lời nói với mình song cũng là lời nói với đời:

Tôi sống ở đây sẽ chết ở đây nhƣ một Ngƣời Thợ

Ngày đêm trút linh hồn vào chữ…

Từng giọt mồ hôi đều dâng hiến cho Đời

Từng chữ trong câu đều vang động hồn Ngƣời

(Đá cháy)

Thơ Trần Nhuận Minh còn có cả chất giọng đanh thép, hào sảng, sắc

mạnh, làm cho tiếng thơ như có sức mạnh hơn trước sức mạnh của kẻ thù:

Đêm nay anh đánh đâu những ngƣời dũng sĩ

Diệt viện An Viên hay phá bốt Châu Thành

Đất nƣớc này quyết không dung giặc Mĩ

Hàng loạt đồn nát vụn dƣới chân anh

(Gửi Rạch Giá)

Có lúc tự nhủ mình, giọng độc thoại lại trở về những lời thủ thỉ, tâm

tình:

Có hạnh phúc nào bằng về cùng đồng đội

Đêm chờ thù, nghe gió thổi bờ tre…

(Gửi Rạch Giá)

Nhìn chung, giọng điệu ngợi ca, khẳng định trong thơ Trần Nhuận Minh

mang âm hưởng sử thi, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống đang trên đà canh tân đất

nước, ca ngợi những con người lao động ngày đêm cống hiến sức lực cho đời và

khẳng định một niềm tin bất diệt vào sự trường tồn của dân tộc. Có thể nói, đấy

là giọng điệu chủ đạo của thơ ông trước năm 1975

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3.2.2. Giọng day dứt, hoài nghi

107

Sau năm 1975, đời sống thế sự thời hậu chiến và những biến động to

lớn của đời sống kinh tế chính trị trong nước và trên thế giới đã có những tác

động trực tiếp đến thơ Trần Nhuận Minh. Đối mặt với hiện thực mới, thơ Trần

Nhuận Minh có nhiều thay đổi. Hình ảnh về đời sống, con người trong các mối

quan hệ xã hội được nhìn nhận thực tế hơn, thô ráp và trần trụi như chính sự tồn

tại của nó. Sự đảo lộn, lung lay của những giá trị tinh thần cũng được nhà thơ đề

cập…Hợp với nội dung này là giọng điệu trăn trở, suy tư, day dứt, hoài nghi…

Nhà thơ luôn trăn trở, lo lắng khi quan sát thấy sự bất bình đẳng phân

hóa giàu nghèo vẫn còn tồn tại trong xã hội hiện đại, và suy ngẫm về tiền đồ

tương lai của đất nước bằng giọng day dứt, hoài nghi:

Lí do nào, để giận

Nỗi niềm gì để thƣơng

Một mai nƣớc có giặc

Biết ai ra chiến trƣờng…

(Họp phố)

Và có một cái nhìn chân thật, từng trải về sự bất bình thường, ẩn chứa

mâu thuẫn có ngay trong những cảnh huống đời thường, thực trạng xã hội không

lí tưởng, đầy khiếm khuyết:

Trời ơi! vàng đến thế này

Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian…

(Trong đồng cỏ hoa vàng)

Nhà thơ lo âu thấy “cái tập thể đẻ non biến thành cái cá nhân còi cọc”.

“Trai làng phóng @ nhƣ điên, đầu cạo trọc” không thể là biểu hiện của sự giàu

sang, thịnh vượng. Cái hiện thực hôm nay, nhiều điều phấn chấn, nhưng đôi khi

sao lại có tiếng khóc ở bên trong:

Tổ tiên đã chết ở đây

Những gò đống cỏ xanh, nay đã ủi đi rồi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

San sát vũ trƣờng, sân gôn, quán nhậu

108

Còn sót lại một cách cò trắng mong manh

Thấp thoáng bay

Trong ráng đỏ chiều hôm, không tìm ra chỗ đậu…

Song hành với nhận thức về sự mong manh, hư ảo của thế giới lí tưởng,

nhà thơ cảm thấy mất chỗ đứng, mất niềm tin, thậm chí luôn lo âu, bất ổn trước

dự cảm về tương lai:

Sự đời bao rắc rối

Phải trái tính sau đây

Lòng mình thì nhàu nát

Kinh sách thì thơ ngây

(Gửi bác Vương Liên)

Cuộc sống đời thường luôn chứa đựng những tình huống có vấn đề mà

mọi biểu hiện bề ngoài chỉ là hình thức, là lớp vỏ bọc che đậy bên trong:

Bạn nói rồi cƣời ngơ ngác

Bâng khuâng gƣơng mặt hao gầy

Giọt lệ của ngƣời đứng tuổi

Biết rơi vào cõi nào đây…

(Lời một người bạn có cợ được chọn đi làm ô sin)

Chủ thể trữ tình cũng mong muốn đạt tới chân lí theo tinh thần hướng đạo

tích cực để cải thiện bản thân và cải thiện thế giới nhân sinh nhưng lại có cảm

giác bất lực:

Ta bàng hoàng trƣớc Cái Không Thể Biết

Đang nhào nặn ta trong cõi vô cùng

Chả nhẽ mỗi chấm ngƣời mong manh trên trái đất

Lại là biểu hiện mơ hồ huyền bí của không trung…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Vô thức)

109

Con người luôn vận động thuận chiều với sự vận động của xã hội và

dòng chảy của thời gian theo hướng tuyến tính, nhưng có lúc con người hãy tìm

lại, nhận thức lại chính mình, và vẫn còn cảm thấy hoài nghi:

Hƣ ảo hỡi! Giữa vô cùng còn mất

Ta là ai? Thăm thẳm có Ta không?

Thông qua việc miêu tả trực tiếp các hiện tượng xã hội, số phận con

người cụ thể, nhà thơ khái quát lên một phạm vi hiện thực cuộc sống đa chiều,

thuận nghịch về hạnh phúc của những người phụ nữ bằng giọng điệu day dứt,

hoài nghi.

Với Mợ Hữu:

Mợ đáng thƣơng hay là đáng trách

Trời ơi tách bạch làm chi

Dòng sông muôn đời vẫn thế

Đục trong thì cứ trôi đi

Còn Dì Nga:

Chả biết dì sung sƣớng

Hay là dì khổ đau

Nửa đời…Ừ sao nhỉ

Họ không tìm thấy nhau…

Giọng điệu day dứt hoài nghi đã được lồng vào trong cảm xúc của chủ

thể trữ tình để có cơ giãi bày nỗi niềm thế sự về bức tranh hiện thực cuộc sống:

Chợt thấy muôn trùng cây cỏ

Bảng lảng nhuốm màu chiêm bao

Sự thế buồn vui lẫn lộn

Nào ai hiểu đƣợc vì sao…

(Cô Bổng)

Và lắm lúc cũng phải thảng thốt, rùng mình trước sự xoay vần của thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thế:

110

Lòng băn khoăn không không dứt

Bỗng thèm một chén trà

Cuối trời tia nắng quái

Cháy kinh hoàng sau ta

(Thăm bạn)

Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh, người đọc sẽ thấy

xuất hiện cái tôi nhạy cảm luôn day dứt, hoài nghi trước môi trường và nhân

cách con người, trước những tồn tại còn đầy khiếm khuyết của xã hội hiện tại.

Sự hình thành môi trường sống mà ở đó mọi điều kiện có thể xẩy ra, họa phúc

khôn lường, người tốt chưa chắc đã gặp lành, kẻ quyền chức đâu bởi tài năng,

người cống hiến cả đời tay trắng trở về, mọi lời hứa chỉ là cơn gió thoảng, con

người lạnh lùng, vô cảm với nỗi đau của những mảnh đời bất hạnh xung quanh

trở thành nỗi nhức nhối khôn tả. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề làm nên giọng

điệu day dứt, hoài nghi trong sáng tác của Trần Nhuận Minh.

3.2.3. Giọng xót xa, thương cảm Nhà văn T. Sê-Khốp đã khẳng định: “Một nhà văn chân chính phải là nhà

nhân đạo trong cốt tủy”. Trái tim chân thành, thương mến của nhà văn được bộc

lộ qua giọng điệu xót xa, thương cảm. Trần Nhuận Minh không phải là một

ngoại lệ.

Giọng điệu chủ đạo trong thơ Trần Nhuận Minh (đặc biệt là giai đoạn

sau năm 1986) là giọng xót xa, thương cảm. Chất giọng này gắn với cảm hứng

nhân văn trong sáng tác của nhà thơ. Nó gắn với âm hưởng chủ đạo là nói về nỗi

đau và những ưu tư của người viết trước những bể dâu của số phận và nhân tình.

Đi vào thân phận những con người bất hạnh, nhà thơ không nén nổi tiếng thở dài

sâu tận bên trong như thế, ông đau với nỗi đau nhân tình thế thái, ông buồn

trước những cảnh đời cơ cực, éo le…Vì thế, giọng điệu xót xa, thương cảm lắng

đọng trong từng câu, từng chữ, ẩn trong nỗi thống khổ của những kiếp người bất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hạnh. Giọng xót xa, thương cảm là một dụng công trong ý đồ nghệ thuật để Trần

111

Nhuận Minh viết về thơ chân dung. Nó góp một phần lớn tạo lên tiếng nói đa

thanh trên nhiều cung bậc.

Một trong những mối quan tâm lớn nhất của Trần Nhuận Minh là thân

phận con người. Nhà thơ rất nhạy cảm với những cảnh ngộ, những éo le ngang

trái mà con người gặp phải trong cuộc sống, đặc biệt là nỗi niềm trăn trở, xót xa

về con người vô danh có bi kịch đau lòng.

Trước cuộc đời một ông Hủi bị đày đọa tàn nhẫn bởi tình người băng lạnh

và căn bệnh quái gở trên trên cõi nhân gian hành hạ cho đến lúc chết, giọng thơ

Trần Nhuận Minh dóng lên những âm điệu thật bi thiết, cứa rát tâm hồn người

đọc:

Hỡi ông nằm dƣới đất này

Buồn đau muôn kiếp đọa đày một thân

(Ông Hủi)

Hay khi tiễn vợ một người lính từ giã cõi đời, giọng xót xa, thương cảm

như tiếng kèn ai oán não lòng tấu lên khúc bi ai về số phận người “Chinh phụ”

đã từng chịu đựng cảnh cô đơn, góa bụa đầy tủi hờn và oan trái:

Chinh phụ nàng ơi! Đƣờng âm, quanh co và u tối

Hãy vịn cành dƣơng mà về với cõi Ngƣời!

…Chinh phụ nàng ơi! Trần gian lắm tủi hờn và oan nghiệt

Thì đi đi, họ mạc đã đủ rồi

…Chinh phụ nàng ơi! Cành dƣơng úa, lú đƣờng quay trở lại

Thì đi đi! đừng để anh mong

Hỡi quỷ thần! Trong cõi đen nhƣ đêm

Đừng để nàng một lần nữa mất chồng…

(Tiễn vợ một người bạn lính)

Thơ Trần Nhuận Minh viết về nỗi đau của con người, mỗi cảnh đời là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một bi kịch thương tâm, không ai giống ai. Nhà thơ đã sẻ chia sâu sắc với niềm

112

đau của con người, xót xa cho sự mong manh của cuộc sống. Trước cái chết bi

thảm của cháu Mừng, giọng thơ rung lên nức nở:

Cháu nằm túm trong vải bạt

Mặt mũi than đè giập nát

Xe than đổi một mạng ngƣời

Chú biết kêu cùng ai đựợc

Mừng ơi!

(Cháu đi đào than thổ phỉ)

Khi sang thăm Trung Quốc, ông khóc cho Lão Xá – một nhà thơ Trung

Quốc bằng giọng mang âm hưởng thơ của Nguyễn Du:

Văn chƣơng lỗi lạc một thời

Bể dâu đến thế thì thôi còn gì

(Lão Xá)

Cũng giọng xót xa, thương cảm ấy, khi chứng kiến cảnh Cháu Thủy bị

mắc bệnh hiểm nghèo, tâm trạng nhà thơ bàng hoàng, thổn thức trong giọng

điệu:

Chú đứng nhìn cháu thở

Tƣởng rách cả ruột gan

Cháu một mình chịu đựng

Những dày vò nhân gian

(Cháu Thủy)

Thơ Trần Nhuận Minh thường hướng đến những kiếp người nhỏ bé,

mong manh, những kiếp người chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ để xót xa, ngậm

ngùi:

Biết tìm đâu tấm lòng huyền thoại

Mở cửa từ bi đón các em vào

Mặt mũi nhọ nhem, áo quần mùi xó xỉnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cũng là ngƣời mà đến nỗi này sao?

113

(Giao thừa)

Và càng bức xúc trước dòng đời đen bạc, càng thương xót cho các trẻ

em nghèo khổ:

Giành một miếmg ăn mà bị xử đến mức này

Với trẻ con sao các ngƣời ác thế?

Không ai vô can khi một em bé

Đến ngày hôm nay vẫn còn đói bánh mì…

(Bài thơ không định viết)

Có tiếng rơi thầm của những giọt nước mắt lặng lẽ trong những câu thơ

xúc động ấy. Tình cảm đó xuất phát từ tấm lòng đầy cảm thương của một trái

tim nhân hậu. Điều này chứng tỏ Trần Nhuận Minh giành sự quan tâm đến nhiều

số phận, nhất là những con người bất hạnh, không gặp may mắn trong cuộc sống.

Khi chia sẻ với những người đồng nghiệp có tâm hồn chất phác, có ngòi

bút trung thực, có cuộc sống cần lao, Trần Nhuận Minh không khỏi nghẹn ngào,

nhòe lệ:

Cả một vùng tụ lại

Dƣới đáy chiếc bao này

Nhìn anh cƣời hiền hậu

Tôi bỗng nhòe mắt cay…

(Tinh chất)

Trước cảnh đời của cô gái đi làm ăn ở bên Nga, khi đến sân bay để về

nước thì bị cướp mất hàng, nhà thơ rộng lòng chia sẻ:

Tƣởng rằng hết kiếp ngựa trâu

Nào ngờ lại thấy trên đầu… dùi cui

Đỏ xanh cũng một chân trời

Đến đâu cũng một cuộc đời làm thuê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Trên sân bay quốc tế Semerechecô)

114

Ngưỡng vọng thiên tài Nguyễn Du mà cảm thương cho cuộc đời Thúy

Kiều chìm nổi trong kiếp đoạn trường, giọng thơ Trần Nhuận Minh chất chứa

nỗi niềm xót xa của một hồn thơ với một hồn thơ:

Tiền đƣờng sầm sập đêm mƣa

Nƣớc âm u chảy nhƣ chƣa vớt Kiều

(Nguyễn Du)

Không chỉ kêu gọi lòng thương cảm, chia sẻ của mọi tiếng lòng trong xã

hội, mà ở vị trí một người cha trong gia đình, ông cũng luôn dạy con mình biết

hướng thiện, phải có lòng nhân từ để chia sẻ, cảm thông với những người cùng

khổ:

Chẳng ai muốn làm hành khất

Tội trời đày ở nhân gian

Con không đƣợc cƣời giễu họ

Dù họ hôi hám úa tàn

(Dặn con)

Không có sự rung động đến thổn thức cõi lòng thì không có giọng điệu

cảm thương, đau xót đến thế. Nhưng giọng điệu đó đâu chỉ có dừng lại ở những

số phận con người, mà còn dành cho cả hết thảy mọi sinh linh trên cõi đời. Cụ

thể như bài thơ: Con chó của bạn tôi:

Vậy mà vẫn bị ai đánh bả

Lê tấm thân tê dại về nhà

Nó cố kìm cơn đau xé ruột

Ngƣớc chào ông, hai giọt lệ sa…

(Con chó của bạn tôi)

Đọc thơ Trần Nhuận Minh, người đọc cảm nhận tình yêu thương là

“chất nhựa thơm” của cuộc sống và dễ dàng đồng cảm với tiếng lòng chân thành

của một tâm hồn nghệ sĩ giàu lòng trắc ẩn trước cuộc đời và con người. Có thể

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nói với cái nhìn đa chiều, đa diện, Trần nhuận Minh đã phản ánh cuộc sống một

115

cách xúc động và chân thực, những cảnh đời ngang trái, những kiếp người khổ

đau. Với giọng xót xa, thương cảm, Trần Nhuận Minh đã thể hiện tình yêu mến

chân thành, sự sẻ chia sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ, đồng thời với

những vần thơ ngổn ngang thế sự ấy, ông mong muốn khơi dậy được nhiều tâm

hồn đồng cảm, thức tỉnh người đọc khát vọng tạo dựng một cuộc sống hiền

lương, trong trẻo tình yêu thương của cộng đồng, của gia đình, người thân.

3.2.4. Giọng hài hước, mỉa mai, châm biếm Giọng hài hước cũng là nét nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh. Đây là

chất giọng tạo nên ấn tượng khó phai cho những câu thơ của tác giả. Chất giọng

này chủ yếu gắn với cảm hứng phê phán, được biểu hiện ở những cung bậc khác

nhau góp phần làm phong phú và sâu sắc cho chất giọng của tác giả. Hơn 40 bài

thơ có giọng điệu hài hước, châm biếm nhẹ nhàng mà không kém phần sâu cay.

Có khi nhà thơ phê phán hiện thực bằng giọng “cực nghiêm”, nhưng có khi lại

hài hước, dí dỏm như bỡn cợt, tiếng cười bỡn cợt, đáng mỉa mai, phê phán trong

cuộc sống.

Qua hình ảnh Làng tôi, Trần Nhuận Minh phê phán xã hội nông thôn

trước sự tác động của kinh tế thị trường. Làng tôi bình yên chỉ còn là chuyện

quá khứ. Sự đô thị hóa nông thôn đã tạo nhịp sống mới, cơ hội mới, tư duy mới,

nhưng lại dường như không còn giữ lại được những nét thuần phong mĩ tục của

làng văn hóa xưa kia:

Làng tôi thành quán hết rồi

Bún gà, lòng lợn…cứ xơi suốt ngày

Hàng Tầu cho đến hàng Tây

Hàng nào cũng có…phơi ngay ra đƣờng

Chẳng ai bàn chuyện ruộng nƣơng

Chỉ bàn xem ở trung ƣơng thế nào?

Lu bù hội họp, xƣớng ca

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Cháu con nhẩy múa nhƣ là choi choi…

116

(Làng tôi thành quán…)

Với cái nhìn sắc sảo như thấu gan, thấu ruột thiên hạ bởi những tình cảnh

khiến người ta cười ra nước mắt, Trần Nhuận Minh đã phơi bày những mặt tiêu

cực của xã hội thời kì hiện đại với những vấn đề nóng bỏng như: vấn đề trái với

đạo lí thuần phong mĩ tục, lòng tham, lối sống hưởng thụ…Nhà thơ luôn tạo ra

những tình huống khác lạ, những tình huống như những điểm nhấn để từ đó bức

tranh xã hội, con người hiện ra với tất cả đường nét và dáng vẻ xiêu xó tức cười.

Trong quan hệ nam nữ, nó cũng mang màu sắc của thời buổi kinh tế thị trường,

nhà thơ đã nhìn nó và biểu hiện bằng những từ ngữ “cặp bồ”, “xoắn xít”,

“hững hờ”, “váy ngắn”, “thân gầy” làm nên một chất giọng hài hước:

Trời cho nhan sắc hơn ngƣời

Chị tôi cùng thủ trƣởng tôi cặp bồ

Khi xoắn xít, lúc hững hờ

Ngƣời nhàu váy ngắn, kẻ trơ thân gầy…

(Trời cho nhan sắc…)

Trần Nhuận Minh cười cái lố lăng đồi bại đang diễn ra hàng ngày, không

những thế, nhà thơ không còn ngần ngại phanh phui, mổ xẻ các hiện tượng để

phê phán. Nó làm nên màu sắc trào lộng cho giọng điệu độc đáo của nhà thơ:

Nghe đâu, nàng – mụ Tú Bà

Buôn hàng tƣơi mát chuyển ra biên thùy

Ngày này, tháng nọ, năm sau

Thấy nàng giảng lớp làm dâu xứ ngƣời

Mừng nàng làm cán bộ rồi

Có hai con gửi hai nơi xa nhà

Một con thì giống Chánh tòa

Một con…nhƣ là…Cục trƣởng Hải quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Ngày này, tháng nọ…)

117

Có lúc giọng điệu hài hước lại hướng vào những cô gái mới lớn đã bán

rẻ giá trị nhân phẩm của tuổi xuân để lấy những ham muốn nhục dục:

Hỏi nàng thục nữ chƣa chồng

Rằng – Dăm bẩy chục đàn ông chẳng từ

(Hỏi chàng quân tử…)

Khi nhìn vào hiện thực, mổ xẻ, phân tích bản chất của hiện tượng, nhà

thơ thủng thẳng ném cái nhìn sâu sắc vào cuộc đời, thì ẩn sau tiếng cười hài

hước, mỉa mai ấy là nỗi đau trước hiện thực. Có khi Trần Nhuận Minh nói bằng

ngôn ngữ gây cười, nhưng tiếng cười không cất lên được, bởi đằng sau đó là sự

xót xa, là nỗi đau ẩn chứa dư vị đắng cay chua chát:

Một trai duy nhất, con ông

Làm quan đầu tỉnh cũng không kém đời…

Áo sô một bộ mà thôi

Sao giờ lắm thế toàn ngƣời không quen?

Cũng chống gậy cũng đứng bên

Cũng sụt sùi khóc…Ông nhìn ngẩn ngơ…

Oan tôi! Xin chớ nghi ngờ

Tôi không con bịch con bồ ở đâu

(Ông già nằm trong quan tài)

Đối tượng mà Trần Nhuận Minh mỉa mai, châm biếm là những cán bộ

thái hóa biến chất, vi phạm đạo đức con người, làm ăn bất chính chạy theo lối

hưởng thụ, sa đọa. Khi bị ra tòa, họ sẵn sàng bỏ tiền, đô la đút lót để chạy án:

Con gà nó đứng giữa sân

Chào rằng, chị ở nơi gần hay xa

Ngày mai chồng chị ra Tòa

Muốn tha thì phải vào nhà mà kêu…

Vàng, đô…phải có nhiều nhiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thôi về bán quán, bán lều…mà lo…

118

(Con chim nó đậu…)

Như vậy có thể thấy, giọng điệu hài hước là một điểm nhấn độc đáo

trong thơ Trần Nhuận Minh. Ông đã thâu tóm chất trào lộng vào trong thơ nụ

cười châm biếm hóm hỉnh của dân gian. Nhà thơ cũng đã đánh thức rất thông

minh, khéo léo những câu hát phản kháng trong ca dao dân ca, âm hưởng trào

phúng của Hồ Xuân Hương, cách giễu cợt thâm trầm của Nguyễn Khuyến và

tiếp tục nụ cười phê phán của Tú Xương…Tiếp thu tinh hoa của các thế hệ đi

trước, Trần Nhuận Minh đã tạo cho mình một tiếng thơ riêng: mượn lối nói thâm

thúy trào lộng, mỉa mai, châm biếm để hướng tới con người hiện tại, để nói lên

những vấn đề của cuộc sống đương thời.

Trên hành trình năm mươi năm sáng tạo nghệ thuật, viết về đề tài gì, đối

tượng thẩm mĩ nào, Trần Nhuận Minh cũng giành hết tâm huyết và huy động hết

khả năng sáng tạo của mình. Giọng điệu nghệ thuật đa dạng của Trần Nhuận

Minh góp phần quan trọng vào việc truyển tải các vấn đề phức tạp của đời sống

và con người đương thời. Tuy nhiên dù nhà thơ viết với giọng điệu nào thì người

đọc vẫn bắt gặp trong thơ ông một hình tượng tác giả với những niềm suy tư,

trăn trở trước cuộc đời, một trái tim đầy tình yêu thương và lòng trắc ẩn với con

người. Những tác phẩm sáng tác sau năm 1986 của Trần Nhuận Minh không chỉ

khẳng định thành tựu của tác giả mà nó còn góp phần không nhỏ làm nên diện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mạo thơ ca Việt Nam trong thời kì mới của đất nước, của dân tộc.

119

KẾT LUẬN

1.Trần Nhuận Minh là một trong số ít các nhà thơ tạo dựng được “một vệt

riêng” cho thơ trữ tình cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI. Là nhà thơ có mặt ở hai

giai đoạn trước và sau thời kì đổi mới 1986, với sức lao động dẻo dai, bền bỉ,

Trần Nhuận Minh có một “gia tài” tác phẩm thơ với số lượng khá lớn. Thơ ông

có sự biến chuyển rõi rệt qua từng thời kì lịch sử của đất nước, từ cảm hứng

ngợi ca theo xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa sang cảm hứng thế sự đời tư.

Đặc biệt ở giai đoạn sau năm 1975, cảm hứng thế sự đã trở thành cảm hứng chủ

đạo, và đã khẳng định một phong cách sáng tạo riêng của Trần Nhuận Minh.

Nếu xét trong dòng chảy liên tục của nền văn học Việt Nam nói chung, thơ Trần

Nhuận Minh có một giá trị xác định riêng biệt, như bất kì một sự nghiệp văn học

đích thực nào khác. Sở dĩ có điều này là bởi: Trần Nhuận Minh có tấm lòng

thành thực, trong sáng, có cảm quan hiện thực, nhìn cuộc đời bằng con mắt

khách quan, và quan sát hiện tượng bằng con mắt đa chiều. Là người nghệ sĩ

luôn nhiệt huyết với đời, với con người, trong quá trình lao động nghệ thuật,

Trần Nhuận Minh luôn có ý thức rất cao về vai trò sứ mệnh của thơ ca, của nhà

thơ, là phải dõi theo, bám sát vào hiện thực của đất nước. Từ sau Đại hội Đảng

VI (1986), với quan điểm đổi mới tư duy, “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói rõ sự

thật”, Trần Nhuận Minh còn phát huy được cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ,

ngòi bút của ông ngày một chiếm lĩnh sâu sắc hơn về hiện thực đời sống trong

quá trình vận động và đi lên của nó. Đó là sự sáng tạo đúng hướng với lịch sử

phát triển của thi ca. Vì thế, Trần Nhuận Minh có một chỗ đứng vững chắc trong

nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

2. Đi sâu vào tìm hiểu hình tượng con người, một hình tượng trung tâm

trong thơ Trần Nhuận Minh, ta thấy những biểu hiện đa dạng, phong phú, sự vận

động mau chóng, phức tạp và mạnh mẽ của con người trước sự tác động của

hiện thực khách quan. Hình tượng người công nhân lao động đi vào thơ Trần

Nhuận Minh ở mọi khía cạnh, từ nghề nghiệp chung đến cuộc sống riêng, từ nỗi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

120

chung đến niềm riêng. Cuộc sống của họ không chỉ nẩy nở trên cái khía hồng

hào, tươi tắn mà còn hiện hữu trên cả những mặt còn lam lũ, vất vả trong đời

thường. Viết về hình tượng người nông dân, Trần Nhuận Minh xoáy sâu vào

những cảnh đời bất hạnh, những nỗi đau khổ của kiếp người nhỏ bé, những phận

“thảo dân” để sẻ chia, thương cảm. Viết về hình tượng người lính, Trần Nhuận

Minh thiên về cảm hứng ngợi ca những người lính anh hùng trong trong chiến

tranh, đồng thời hướng cảm hứng thế sự vào người lính trong thời bình khi họ

phải đối mặt với hiện thực nghiệt ngã và đầy thử thách của cuộc sống. Viết về

những người lao động nghệ thuật, nhà thơ cho người đọc thấy được những số

phận, bi kịch của các bậc tiền nhân thiên cổ trước mọi biến thiên của cuộc đời

dâu bể, và bùi ngùi thương cảm cho những người đồng nghiệp cùng thời khi

phải đối mặt với cuộc sống đầy phồn tạp, với hiện thực: “Cơm áo không đùa với

khách thơ”. Viết về hình tượng người mẹ, vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam

truyền thống bằng tình cảm về tình mẫu tử thiêng liêng, mãi mãi tồn tại trong kí

ức con người, và đúng với truyền thống đạo lí ngàn đời của nhân dân Việt Nam.

Viết về hình tượng Em, Trần Nhuận Minh luôn ám ảnh bởi mối tình trong sáng,

lãng mạn, đã trở thành hoài niệm, đôi khi bất chợt ùa về trong tâm thức của

mình.

Tuy nhiên, những biểu hiện cụ thể trong việc xây dựng chân dung con

người, đặc biệt là chân dung con người lao động, Trần Nhuận Minh đôi khi phát

triển theo khuynh hướng tiêu cực, quá nhạy cảm với thực trạng khiếm khuyết,

hoặc nhìn vào cuộc sống toàn thấy màu ảm đạm, mà không cảm nhận thấy bên

cạnh đó còn rất nhiều phương diện đời sống tốt đẹp, và số phận con người thực

sự cũng đã được đổi đời cùng với xu hướng phát triển chung của đất nước. Đó

chính là những hạn chế trong thơ Trần Nhuận Minh khi phản ánh hiện thực

thông qua góc nhìn về số phận nhân dân trong thời kì đổi mới.

3. Đặc trưng ngôn ngữ thơ Trần Nhuận Minh vừa dung dị, vừa đậm chất

triết lí. Ngôn ngữ dung dị được thể hiện trong việc vận dụng linh hoạt các thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

121

ngữ, tục ngữ, ca dao kết hợp với lớp ngôn ngữ đời thường bằng những từ ngữ

“đường phố”, “tiếng lóng”, nhằm tạo được hiệu quả cao trong lối diễn đạt cho

dòng thơ thế sự. Ngôn ngữ thơ Trần Nhuận Minh còn mang tính triết lí sâu sắc.

Triết lí lặn sâu vào trong ngôn từ, có ở trong câu chữ, để chiêm nghiệm về cõi

người, cõi đời. Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ của ông còn thể hiện cách phối hợp

sóng đôi các cặp từ trái nghĩa làm tăng sức mở, và sử dụng các kết hợp từ lạ, độc

đáo đi liền với phương thức tổ chức so sánh, nhân hóa, ẩn dụ làm lạ hóa hình

ảnh trong thơ.

Giọng điệu, yếu tố then chốt khẳng định sự tồn tại của một cá tính sáng

tạo, một bản lĩnh nghệ thuật, và là phương thức thể hiện rõ nhất của nhà thơ.

Thơ Trần Nhuận Minh có sự đa dạng về giọng điệu, trong đó chủ đạo là giọng

ngợi ca, khẳng định; giọng điệu day dứt, hoài nghi; giọng điệu xót xa, thương

cảm; giọng điệu hài hước, mỉa mai, châm biếm. Người đọc nhận ra chất giọng

chủ đạo qua từng cấp độ khác nhau của từng tập thơ. Có khi nó thấm sâu vào

từng câu chữ, lan tỏa khắp bài thơ, có lúc lại ngân vang qua những lời đề từ,

cũng có khi lại toát lên từ những âm hưởng chung của những cuộc đời, những số

phận cụ thể được phản ánh trong tác phẩm của Trần Nhuận Minh.

4. Nhìn lại chặng đường sáng tạo thơ của Trần Nhuận Minh, ta thấy sự cố

gắng lỗ lực vượt thoát chính mình bằng những tìm tòi và thể nghiệm độc đáo,

thú vị, rất đáng trân trọng trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua

khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp một số phương diện đắc sắc trong thơ

Trần Nhuận Minh, chúng tôi thấy Trần Nhuận Minh luôn khẳng định cá tính

sáng tạo trong sáng tác nghệ thuật của mình. Cá tính sáng tạo đó được xuất hiện

ổn định trong nhiều giai đoạn, trên nhiều thể loại và hiện diện qua nhiều phương

diện: từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đến triết lí về cõi đời, cõi người;

hình tượng nhân vật đa dạng, được biểu hiện ở mọi góc độ, mọi khía cạnh, trong

“muôn mặt của đời thường”; một tiếng thơ đa giọng điệu, đến ngôn ngữ bình

dân, đậm chất triêt lí. Thơ Trần Nhuận Minh đã làm lên một hương sắc riêng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

122

độc đáo, không thể lẫn nhòa. Qua đó, có thể khẳng định Trần Nhuận Minh là

một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Với

đề tài này, chúng tôi mong muốn cung cấp cho độc giả có thêm một cái nhìn

toàn diện, sâu sắc hơn, hệ thống hơn về thơ Trần Nhuận Minh. Tuy nhiên việc

nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh vẫn còn là đề tài mở để cho những người yêu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

quý và quan tâm đến tài năng và cái duyên của “Nhà thơ và Hoa cỏ” này.

123

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1985, NXB KHXH,

Hà Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định,

NXB KHXH, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới.

4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội.

5. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch,

trường Viết văn Nguyễn Du.

6. Nguyễn Phan Cảnh (1984), Ngôn ngữ thơ, NXBĐH và GDCN.

7. Mai Ngọc Chừ (2005), Vần thơ Việt Nam dƣới ánh sáng ngôn ngữ học,

NXB Văn hóa - Thông tin.

8. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lí luận và ứng dụng,

NXBGD, Hà Nội.

9. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, NXBGD, Hà Nội.

10. Hữu Đạt (1999), Nhà văn sự sáng tạo nghệ thuật, NXB Hội nhà văn.

11. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học.

12. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (2010), Thi pháp học ở Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

13. Hà Minh Đức (1993) (Chủ biên), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.

14. Hà Minh Đức (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục.

15. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

16. Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể lọai, NXB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

KHXH.

124

17. Trinh Đường (Chủ biên) (1999), Thơ Việt thế kỉ XX chọn lọc và lời bình,

NXB Thanh niên.

18. Heghen- Mĩ học, (tập 2) (1999), Phan Ngọc dịch, (TL Viện văn học).

19. Trần Minh Hà, Trần Nhuận Vinh ( Biên soạn) (2009), Trần Nhuận Minh

và ba lần định vị cho thơ, NXB Văn học.

20. Lê Thị Hải Hà (2008), Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh, Luận

văn thạc sĩ Ngữ vănm, ĐHSP Hà Nội.

21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004)- Từ

điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học vấn đề

và suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.

23. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Văn học gần và xa, NXB Giáo dục, Hà Nội.

24. Thái Doãn Hiểu (2008), Thơ phải lay động mọi ngƣời về số phận nhân

dân, Tạp chí văn nghệ Quân đội- tháng 3.

25. Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, NXB

KHXH.

26. Bùi Công Hùng (1985), Những đặc trƣng cơ bản của thơ Việt Nam hiện

đại 1945 – 1975, Tạp chí Văn học số 1.

27. Bùi Công Hùng (2000), Quá trình sáng tạo thơ ca, NXB Văn hóa –

Thông tin.

28. Hoàng Hưng (1995) , Thơ Mới và thơ hiện nay, Tạp chí VH số 2.

29. Lê Đình Kị (1969), Đƣờng vào thơ, NXB Văn học.

30. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 phƣơng tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

31. Mã Giang Lân (1987), Tìm hiểu thơ, NXB Văn hóa- Thông tin.

32. Phong Lê (Chủ biên) (tập 1) (1985), Văn học về đề tài công nhân, NXB

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lao động.

125

33. Phong Lê (Chủ biên) (tập 2) (1985), Văn học về đề tài công nhân, NXB

Lao động.

34. Phong Lê (Chủ biên) (1990), Văn học và hiện thực, NXB KHXH.

35. Phong Lê, Vũ Văn Sĩ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2000), Thơ Việt Nam

hiện đại, NXB Lao động.

36. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, NXB Hội

nhà văn.

37. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp, NXB ĐHQG

Hà Nội.

38. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

39. Nguyễn văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975

những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.

40. Phương Lựu (Chủ biên) (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

41. Phương Lựu (Chủ biên) (2002), Văn học, nhà văn, bạn đọc, NXB ĐHSP

Hà Nội.

42. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

43. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tƣ tƣởng và phong cách, NXB

ĐHQG, Hà Nội.

44. Trần Nhuận Minh (2004), Nhà thơ và hoa cỏ, NXB Văn học và TT

Nghiên cứu Quốc học.

45. Trần Nhuận Minh (2007), Tuyển tập 1960-2003, NXB Văn học.

46. Trần Nhuận Minh (2008), Bốn lăm khúc đàn bầu của kẻ vô danh, NXB

Văn học.

47. Trần Nhuận Minh (2009), Bốn mùa (Tuyển 1960 – 2008), NXB Văn học.

48. Trần Nhuận Minh (2011), Thơ đến từ đâu, NXB Văn học.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

49. Nam Mộc (1978), Luyện thêm chất thép cho ngòi bút, NXB Văn học.

126

50. Nguyễn Xuân Nam (1985), Thơ, tìm hiểu và thƣởng thức, NXB Tác phẩm

mới.

51. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể

loại, NXB ĐHQG, Hà Nội.

52. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng

Tám, NXB ĐHQG, Hà Nội.

53. Nhiều tác giả (1997), Việt Nam nửa thế kỉ văn học, NXB Hội nhà văn.

54. Nhiều tác giả (2002), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa dân tộc.

55. Nhiều tác giả (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, NXB Lao động.

56. Nhiều tác giả (2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

57. Nhiều tác giả (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

58. Lê Lưu Oanh (2006), Thơ Trữ tình Việt Nam (1975-1990), NXB ĐHQG,

Hà Nội.

59. Vũ Quần Phương (1993), Vài ý nghĩ về thơ hiện nay, Tác phẩm mới, số 3.

60. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ , NXB Giáo dục.

61. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lí luận phê bình đời sống văn chƣơng, NXB

Hội nhà văn.

62. Hà Công Tài (1997), Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ, Tạp chí Văn học số 5.

63. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chƣơng cảm và luận, NXB Văn hóa-

Thông tin.

64. Chung Thị Thúy (2010), Cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ Trần Nhuận

Minh, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Vinh.

65. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, NXB Lao động.

66. Nguyễn Nghĩa Trọng (1984), Tìm hiểu ngôn ngữ thơ, TCVH số 6.

67. Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại,

NXB ĐHQG, Hà Nội.

68. Trần Thị Việt Trung (Chủ biên) (2008), Hình tƣợng nhân vật phụ nữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB ĐH Thái Nguyên.

127

69. Lê Dục Tú (1992), Về một số đặc điểm thơ hiện nay, TCVH, số 3.

70. Bùi Thanh Tùng (2006), Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng, Luận văn

thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.

71. Lê Trí Viễn (2001), Đến với thơ hay, NXBGD, Hà Nội.

72. Trần Đăng Xuyền (2003), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

NXB văn học.