ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------
NNGGUUYYỄỄNN VVĂĂNN HHƯƯNNGG
THƠ TRẦN NHUẬN MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên, năm 2011
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------------------
NNGGUUYYỄỄNN VVĂĂNN HHƯƯNNGG
THƠ TRẦN NHUẬN MINH CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thái Nguyên, năm 2011
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX và tiếp nối
sang đầu thế kỉ XXI, Trần Nhuận Minh là nhà thơ có một khối lượng sáng tác
hết sức phong phú và đa dạng. Nếu chỉ dừng lại ở một vài tập thơ trong từng
thời điểm thì thật khó có thể vẽ lên bức chân dung văn học của ông. 25 năm
trước thời kì đổi mới, người ta biết đến ông trên thi đàn, với những bài thơ hiền
lành, giản dị nhưng cũng không kém phần sâu sắc, hóm hỉnh; cho đến 25 năm
sau đổi mới, tính đến nay, bước đi của Trần Nhuận Minh đột ngột và dồn dập,
biến ảo và sâu sắc, như cuộc sống đa chiều đang diễn ra hàng ngày.
Sáng tác thơ đối với Trần Nhuận Minh là cả một quá trình đầy hạnh phúc
nhưng cũng đầy lo âu và dằn vặt. Làm thơ rất sớm, năm 1960, ông đã có thơ
đăng báo. Tập thơ đầu tiên: Đấy là tình yêu ra đời năm 1971, sau đó ông lần
lượt cho ra đời các tập thơ: Âm điệu một vùng đất (1980), Thành phố bên này
sông (1982), Hoa cỏ (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Nhà thơ và hoa cỏ (1993),
Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và
Miền dân gian mây trắng (2008).
Quá trình sáng tác là một quá trình vận động trong nhận thức của Trần
Nhuận Minh. Từ chỗ làm thơ như theo “một công thức có sẵn, là thứ thơ mang
tính chất minh họa”, ông đã cương quyết “bỏ lại đọc đƣờng” những đứa con tinh
thần “khô cứng” của mình để đi tới con đường nghệ thuật đích thực, đó là: “Hãy
áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Trong số nhà thơ thế hệ chống Mĩ,
có lẽ, chỉ có Trần Nhuận Minh là dứt khoát từ bỏ 25 năm “thơ bao cấp của
mình”. Đây không phải là đoạn tuyệt với quá khứ mà là đoạn tuyệt với một kiểu
tư duy bao cấp của ông trong quá khứ. Và cũng chính từ đây, trang thơ ông thật
sự “lật cánh”.
Không quan sát một cách duy cảm, mà bằng những va chạm trực tiếp với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đời sống hiện thực, thơ ông thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về những nỗi đau có
2
thực của những kiếp người, về những trạng thái xã hội đầy những khiếm khuyết,
đầy những nhức nhối, xót xa qua bức chân dung số phận con người đa dạng và
phức tạp.
Đặc điểm nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh là sự đan kết thực – hư
trong việc xây dựng thế giới hình tượng đã mở ra khả năng chiếm lĩnh, nắm bắt
và giải thích hiện thực, đồng thời diễn tả thế giới tâm linh vốn nhiều bí ẩn và
những dấu hiệu mong manh mơ hồ, khó nắm bắt. Người đọc vì thế khi tiếp cận
thơ ông phải tiếp cận trong tính chất đa chiều, khái quát và phong phú. Thơ ông,
quả là một thứ thơ có màu sắc riêng, có phong cách riêng và có một vị trí riêng
trong đời sống thơ ca hiện đại.
Để đánh giá một cách xác đáng về thơ Trần Nhuận Minh, nếu chúng ta
chỉ dừng lại ở một vài bài nghiên cứu thì không thể có cái nhìn khái quát về thơ
ông. Phải xâu chuỗi cả đời thơ nửa thế kỉ qua, dưới nhiều góc cạnh mới thấy hết
được sự sáng tạo đáng trân trọng của Trần Nhuận Minh. Có như vậy, chúng ta
mới nhận diện được thơ Trần Nhuận Minh và khẳng định những cống hiến của
ông trong văn học nghệ thuật suốt 50 năm qua. Mới hiểu vì sao ông được tặng
giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho hai tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ
và Bản Xô nát hoang dã, về hàng chục Huân chương, Huy chương, Kỉ niệm
chương và nhiều giải thưởng văn học cao quý khác...
1.2. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo, công bằng về
những đóng góp cũng như sáng tạo độc đáo của nhà thơ Trần Nhuận Minh cho
tới nay vẫn còn ở dạng rất “khiêm tốn”. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi,
thì hiện tại mới có hai luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số phương diện nghệ
thuật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác thơ của Trần Nhuận Minh, đó là: Lê Thị
Hải Hà với đề tài: Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh, và Chung Thị
Thúy với đề tài: Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh.
Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu, phê bình về tác giả, tác phẩm của Trần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nhuận Minh của các nhà nghiên cứu có uy tín như: GS. Phong Lê, GS. Mai
3
Quốc Liên, nhà phê bình Vũ Quần Phương…trong một số công trình nghiên cứu
chung về thơ văn thời kì hiện đại; hoặc ở dạng bài nghiên cứu lẻ. Chính vì vậy,
chúng tôi đã lựa chọn đề tài Thơ Trần Nhuận Minh chủ yếu nghiên cứu sâu về
thế giới hình tượng nghệ thuật của ông, mà cụ thể là hình tượng con người – một
hình tượng trung tâm, nổi bật, đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của Trần Nhuận
Minh, nhằm có một cái nhìn khá hệ thống và toàn diện ở cả hai phương diện: nội
dung và hình thức trong sáng tác của nhà thơ này. Với hi vọng sẽ góp phần nào
vào việc tìm hiểu và đánh giá những nét đặc sắc, những thành công nổi bật và sự
đóng góp quan trọng của nhà thơ này đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại (đặc
biệt sau những năm 1986 trở lại đây).
1.3. Với một lí do nữa cũng rất có ý nghĩa với người thực hiện đề tài, đó là:
nếu luận văn được thực hiện thành công, thì đây sẽ là một công trình nghiên
cứu, một tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho các thày cô giáo tỉnh Hải
Dương (quê hương của tác giả Trần Nhuận Minh và tác giả luận văn) giảng dạy
tốt hơn về một tác giả thơ nổi tiếng của vùng đất xứ Đông thời kì hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Trần Nhuận Minh là một trong các nhà thơ đã để lại “một vệt riêng” cho
thơ trữ tình Việt Nam cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, nên thơ ông đã thu hút
được sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học trong thời gian qua. Đã
có một số những công trình, bài viết, phê bình, giới thiệu, nghiên cứu về thơ
ông. Chúng tôi xin điểm lại tình hình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của ông
như sau:
Sáng tác trong những năm tháng “khủng hoảng vật vã” chuyển mình từ
cái cũ sang cái mới, những năm tháng chất chứa “những giọt nƣớc mắt đời
không thấy”, Trần Nhuận Minh nhận thức rõ vai trò, chức năng của văn học khi
nhà thơ đưa ra quan niệm “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Nhà
nghiên cứu Phong Lê trong bài viết “Trần Nhuận Minh ba lần định vị cho thơ”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đã thấu suốt quan niệm sáng tác này của nhà thơ. Theo ông, Trần Nhuận Minh
4
đã “bám chặt và áp mặt vào đời để gợi thức và đánh động lƣơng tâm” [13.17].
Cũng theo GS. Phong Lê, thơ Trần Nhuận Minh có ba lần định vị, lần thứ nhất
là “Đi tìm hoa và cỏ hoa cỏ” [5.17], lần thứ hai là “Hành trình về với bản
thân”[16.25], lần thứ ba là “Bâng khuâng tự vấn về sự tồn tại con ngƣời trong
cõi ngƣời, cõi đời”[20.30]. Ba lần định vị đã “ghim” một dấu mốc cho những
bước chuyển mình của thơ Trần Nhuận Minh qua các giai đoạn sáng tác.
Còn GS. Mai Quốc Liên khi “Đọc thơ Trần Nhuận Minh” đã phát hiện
thấy ẩn chứa đằng sau mỗi vần thơ là “một tâm hồn thành thực, chân quê, nhƣng
lại tích hợp bao tầng văn hóa xƣa nay đã nhạy cảm làm sao trƣớc dƣ chấn của
thời đại mình đang sống”[11.39]. Đó chính là lí do khiến thơ ông đi đến được
cái chân thực, cái đích thực và dò ra cái “rốn bể” của thơ là nỗi niềm chính
mình. Tác giả còn khẳng định: “Thi pháp cuối cùng và cao nhất của thơ, là chỗ
nó chở cuộc đời nhẹ nhƣ không thơ, không cần đến câu chữ nữa”[25.44].
Lê Thị Hải Hà trong đề tài Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận
Minh (Luận văn thạc sĩ khoa học ĐHHSP Hà Nội, năm 2008 ) đã nhận xét thơ
Trần Nhuận Minh như sau: “Có thể thấy thơ ông thƣờng tập trung chú ý nhiều
hơn tới hiện thực số phận con ngƣời cụ thể với những vấn đề triết lí đạo đức
nhân sinh, vừa thể hiện ý thức cá nhân của chủ thể trữ tình. Trần Nhuận Minh
thuộc kiểu nhà thơ trữ tình thế sự đời tƣ”[21.39].
Chung Thị Thúy – tác giả luận văn thạc sĩ khoa học (Đại học Vinh), năm
2009 với đề tài Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh đã
viết: “Nhƣng khi lịch sử bƣớc sang một trang mới, cuộc sống với tất cả sự nhức
nhối, bức thiết của nó, thơ ca không phải mãi say sƣa ngợi ca mà phải hƣớng
tới phản ánh toàn diện hiện thực của con ngƣời. Cảm hứng thế sự, đời tƣ trong
thơ Trần Nhuận Minh là cảm hứng hƣớng đến những vấn đề của đời thƣờng,
thấm thía hơn nỗi buồn sau chiến tranh”[21.38]. Trần Nhuận Minh cũng như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bao nhà thơ khác ý thức sâu sắc vai trò trách nhiệm xã hội của mình.Với khát
5
vọng dân chủ, ý thức tôn trọng sự thật, thơ Trần Nhuận Minh đã chạm đến cốt
lõi của cuộc sống hiện thực hôm nay.
Trần Nhật Thu trong bài Câu thơ như mảnh hồn người, đã viết: “Thơ
Trần Nhuận Minh có những bài, những câu, đẹp đến nao lòng, nhƣng lại có
những bài, những câu, đau đến xé lòng. Có lẽ anh không thể viết khác đƣợc, khi
mà anh muốn “áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”…[9.230].
Nguyễn Xuân Đức khi viết bài Thơ Trần Nhuận Minh, đã đánh giá cao
giá trị cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh. Ông nhận định, Trần
Nhuận Minh “không đứng ngoài quan sát một cách duy lí mà tự hòa đồng để
cảm nhận số phận của mỗi kiếp ngƣời. Có thể nói anh không chỉ sống có một
kiếp ngƣời”[6.130]. Với bài viết này, Nguyễn Xuân Đức đã chỉ cho ta thấy thơ
Trần Nhuận Minh viết về những con người với số phận thực bằng một tình cảm
sâu sắc, chân thành.
Tác giả Tô Thùy Anh sau khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ đã cảm nhận “bỗng
thấy trƣớc mắt mình sống lại những cảnh đời, bao số phận con ngƣời. Cũng có
lúc thơ anh động đến nỗi đau đời của cả một dân tộc. Cái chất dung dị hồn
nhiên quyện thêm chất suy tƣ trăn trở, dằn vặt”[8.219] kết hợp cùng một “giọng
thơ nồng đƣợm, hàm súc, lay động hồn ngƣời” đã giúp Trần Nhuận Minh “vƣơn
tới triết lí Đông phƣơng cổ điển”[13.219]. Điều đó càng khẳng định vững chắc
thơ Trần Nhuận Minh luôn bắt nguồn từ “truyền thống đạo đức Việt Nam ngàn
đời”[14.219].
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã gọi Trần Nhuận Minh là “ngƣời bay bằng
chân” bởi lẽ “ khi sống hết lòng với cái chân thực của cõi ngƣời, Trần Nhuận
Minh đƣợc cả cái hƣ ảo của trời đất”[23.73].
Khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ, tác giả Đào Tiến Thi đã nhận thấy cái Tôi
Trữ tình “luôn da diết nỗi niềm nhân thế nhƣng da diết nhất là những bài có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hình tƣợng nhân vật”[11.265]. Hình tượng nhân vật vừa ở góc độ cá thể hóa vừa
6
ở góc độ khái quát hóa, và “ám ảnh tìm về’’ với vẻ đẹp nguyên khối của con
người xưa.
Nhà thơ Hữu Thỉnh trên Tạp chí Tác phẩm Mới số 5/1989 nhận định thế
giới nghệ thuật trong trong tập thơ Nhà thỏ và hoa cỏ đã “mở rộng không gian
cảm nhận, xử lí đề tài”. Và cái mới trong tập thơ là “nhà thơ tiếp cận thế giới
tâm hồn của ngƣời lao động với thƣớc đo của văn hóa”. Những bài thơ thành
công của Trần Nhuận Minh là sự cộng hưởng chất sống và kinh nghiệm sống,
những thảng thốt bất chợt, đan xen vẻ đẹp bình dị thường ngày.
Tập thơ Bản Xô nát hoang dã là bước chuyển mình của cái Tôi Trữ
tình. Tác giả Đặng Văn Sinh viết bài Khát vọng về một tình yêu thần thánh đã
chỉ ra rằng “Hình tƣợng quán xuyến trong toàn bộ tác phẩm là cái tôi trữ tình
biến động, lúc hữu hình, lúc vô ảnh, lúc là hiện thực khách quan, lúc chỉ là giả
tƣởng”[14.66]. Bên cạnh đó, tác giả bài viết còn nhận thấy trong Bản Xô nát
hoang dã “thế giới hình tƣợng ở đây, là thế giới lƣỡng phân, hai mảng sáng tối
thƣờng phân tầng và luôn đƣợc xem xét trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
của triết học cổ phƣơng Đông”[9.168].
Nghiên cứu “Bản Xô nát hoang dã từ góc độ thiền học”, tác giả Nguyễn
Văn Sơn cho rằng tác phẩm đã “phản ánh năng lực tƣ duy nghệ thuật hết sức
nhạy cảm trong việc khéo léo lựa chọn hình thức thể hiện hình tƣợng nghệ thuật
và chất liệu ngôn ngữ thi ca”[19.178]. Tất cả để nhằm thể hiện tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt là tư tưởng giác ngộ, nhận biết về vũ trụ nhân sinh.
Nhận định về tập thơ 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh trong bài viết
“Khúc đàn bầu thân phận”, nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng: “Tác giả đã làm
một cuộc viễn du, tạm đứng ra ngoài đời mà nhìn lại chính mình…suy tƣởng
khái quát nhƣ ôm vào thân phận nhân gian của mọi thời, nhƣng xuất phát từ thế
sự cụ thể hôm nay, từ tâm trạng bây giờ”[3.189]. Giọng tự sự, miêu tả, tưởng
như quen bút của Trần Nhuận Minh, đã thành giọng trữ tình chiêm nghiệm. Một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cuộc đối thoại với hư không, về chính nỗi lòng mình. Trần Nhuận Minh mượn
7
tiếng đàn bầu dân gian, dân tộc, nghĩ ngợi cái đời mình, cái kiếp mình, cũng là
một cách tìm chân dung thời mình đang sống.
Tác giả Vũ Ngọc Thảo với bài viết “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,
đánh thức những miền tiềm thức lạ” nhận ra rằng: “Những khúc thức đƣợc xây
dựng theo những cảm hứng của nhà thơ…Dòng chảy thi ca trải dài theo dòng
thời gian, không gian, từ làng quê ra phố phƣờng, từ góc tối của kẻ sĩ đến sự
hèn của chính khách”[19.209].
Trong bài viết “Thi pháp ca dao trong Miền dân gian mây trắng”, tác giả
Hữu Tuân đã phát hiện: “Các đề tài là bức tranh sinh hoạt đời thƣờng diễn ra
hàng ngày quanh ta”[11.346]. Điểm mạnh của Trần Nhuận Minh ở góc này là
trào phúng kết hợp với trữ tình. “Nói tập thơ nghiêng về đề tài thƣờng nhật, giản
dị nhƣng không vì thế mà đơn điệu. Trái lại, rất đa dạng, nhiều bài đạt tới độ
sâu triết lí nhân sinh”[4.346]. Trần Nhuận Minh đã đến được cái đích là chủ
nghĩa nhân văn và truyền thống văn hóa, đạo lí dân tộc.
Như vậy, xung quanh việc nghiên cứu, phê bình thơ Trần Nhuận Minh nói
chung và các tập thơ cụ thể của ông nói riêng đã có nhiều ý kiến khác nhau,
nhiều mức độ lí giải khác nhau. Hầu hết các tác giả đều tập chung nghiên cứu
các vấn đề sau:
- Cuộc đời và con đường thơ Trần Nhuận Minh: nghiên cứu, giới thiệu các
tập thơ và khuynh hướng vận động thơ Trần Nhuận Minh.
- Giới thiệu, nghiên cứu, đánh giá về các tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ, Bản Xô
nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây trắng.
- Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh: những bài viết
này chủ yếu khai thác, khám phá điểm độc đáo, cá tính sáng tạo của nhà thơ ở
những phương diện nội dung, hình thức, tư tưởng nghệ thuật…trong các tác
phẩm đặc sắc. Tuy nhiên, những vấn đề này cũng mới chỉ được nghiên cứu ở
dạng điểm qua hoặc đưa ra các nhận xét, nhận định, chứ chưa có các công trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nghiên cứu quy mô thấu đáo.
8
Như vậy, chúng ta thấy: việc nghiên cứu về thơ Trần Nhuận Minh cũng đã
được nhiều người quan tâm, nhưng cho tới nay chưa có một tác giả nào trực tiếp
nghiên cứu về vấn đề về hình tượng con người - một hình tượng trung tâm trong
thơ Trần Nhuận Minh (bao gồm đầy đủ các tầng lớp con người trong xã hội )
trước và sau thời kì đổi mới, để thấy được cả một quá trình sáng tác thơ của ông
luôn xoáy sâu vào số phận của mọi con người (thuộc mọi đối tượng khác nhau)
trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có
tính mới, chuyên sâu về thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ thế giới hình tượng, để
từ đó, có một cái nhìn hệ thống và khá toàn diện về đặc điểm nổi bật thơ Trần
Nhuận Minh - thơ viết về “chân dung”, “thơ của những số phận con ngƣời”.
Qua đó sẽ góp thêm một tiếng nói khẳng định những thành tựu, nét đặc sắc và
những đóng góp quan trọng của thơ ông đối với sự vận động, phát triển của nền
thơ ca hiện đại Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về Thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người,
do đó, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là tất cả các tập thơ của ông:
- Đấy là tình yêu (1971)
- Âm điệu một vùng đất (1980)
- Thành phố bên này sông (1982)
- Nhà thơ áp tải (1989)
- Hoa cỏ (1982)
- Nhà thơ và hoa cỏ (1993)
- Bản Xô nát hoang dã (2003)
- 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh ((2007)
- Miền dân gian mây trắng ( 2008))
Tuy nhiên, chúng tôi sẽ đi sâu vào khảo sát, phân tích một số tập thơ tiêu
biểu, mang tính chất dấu mốc như: Âm điệu một vùng đất, Nhà thơ và hoa cỏ,
Bản Xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trắng.
9
Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm thơ khác
cùng thời với Trần Nhuận Minh (để so sánh, đối chiếu) và tham khảo một số
sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở lí luận cho công trình nghiên cứu của
mình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê - phân loại 4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu 4.3. Phương pháp phân tích ( tác giả, tác phẩm ) 4.4. Một số phương pháp khác ( phương pháp tổng hợp, nghiên cứu liên ngành) 5. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người (trên cả
phương diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện), luận văn nhằm mục
đích:
Chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thế giới hình tượng con người trong thơ
Trần Nhuận Minh. Qua đó khẳng định những nét sáng tạo, độc đáo, mang tính
đặc trưng của nhà thơ trong quá trình thể hiện hình tượng nghệ thuật trung tâm
này.
Chỉ ra những đóng góp quan trọng của nhà thơ Trần Nhuận Minh đối với
sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt giai đoạn sau
Đổi mới (1986 tới nay).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương chính:
Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh – sự vận động không ngừng trong quá
trình phát triển
Chƣơng 2: Hình tƣợng con ngƣời – một hình tƣợng trung tâm trong thơ
Trần Nhuận Minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Trần Nhuận Minh
10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
THƠ TRẦN NHUẬN MINH – SỰ VẬN ĐỘNG KHÔNG NGỪNG
TRONG QUA TRÌNH PHÁT TRIỂN
1.1. Trần Nhuận Minh – con ngƣời và sự nghiệp thơ ca
Trần Nhuận Minh sinh ngày 20 tháng 8 năm 1944 trong một gia đình có
truyền thống nho học, tại làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Khi còn là
học sinh cấp 2 trường huyện, ông đã được đọc tờ báo Nhân dân có đăng bài
Hoan hô chiến sĩ Điên Biên của Tố Hữu, đó là bài thơ đầu tiên ông được “đọc
bằng mắt” (trước đây ông chỉ được nghe qua người khác). Từ đó, Trần Nhuận
Minh đã có sự ảnh hưởng của thơ Tố Hữu, ông bắt đầu làm thơ (chủ yếu là thơ
cổ động cho huyện Nam Sách – quê hương ông). Trong suốt những năm từ 1962
– 1969, ông vừa dạy học ở khu mỏ Hồng Quảng, Quảng Ninh vừa miệt mài sáng
tác thơ ca. Năm 1969, ông công tác tại Ban Vận động Thành lập Hội văn học
Nghệ thuật Quảng Ninh, là Ủy viên Chấp hành, Thường vụ, Thư kí, Phó Chủ
tịch, rồi Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ninh (2
khóa), Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuât Việt
Nam, Phó Ban công tác Nhà văn các tỉnh phía Bắc của Hội nhà văn Việt Nam.
Cho tới nay, Trần Nhuận Minh đã xuất bản 15 tập thơ và 3 tập văn xuôi.
Đó là các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980),
Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Hoa cỏ (1982), Nhà
thơ và hoa cỏ (1993 - tái bản lần thứ 19, 2009), Giọt phù sa vạn dặm (2000),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bản Xô nát hoang dã (2003-tái bản lần thứ 8, 2009), Trần Nhuận Minh - Thơ
11
với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đường ( 2005 - tái bản lần thứ 4, 2009), Trần
Nhuận Minh, Tuyển tập thơ (2005), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007–
tái bản lần thứ 2, 2009), Miền dân gian mây trắng (2008 – tái bản lần 1, 2009),
Bốn mùa – Four seasons (2008), Bốn mùa (2009 – Tuyển tập).
Và các tập văn xuôi: Trước mùa mưa bão (1980 – in lần thứ 5, 2010), Hòn
đảo phía chân trời ( 2000 – in lần thứ 5, 2010), Truyện chọn lọc cho thiếu nhi
(2002).
Trong suốt 50 năm miệt mài sáng tác, Trần Nhuận Minh đã khẳng định
được những bước đi vững chắc và đôi khi là đột phá của mình trong lĩnh vực
văn học nghệ thuật. Chính sự cống hiến hết mình cho thơ ca nói riêng, văn học
nghệ thuật nói chung, nhà thơ Trần Nhuận Minh “định vị” được tên tuổi của
mình trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ bắt đầu đổi
mới tới nay.
1.2. Quá trình vận động của thơ Trần Nhuận Minh
Trong sự nghiệp 50 năm cầm bút, Trần Nhuận Minh sáng tác một số
lượng tác phẩm thơ đáng nể. Ông đã từng phát biểu rằng, ông rất cám ơn công
cuộc Đổi mới, chính công cuộc Đổi mới đã “sinh ra tôi lần thứ hai”. Và sau này
khi làm tuyển tập, ông chỉ chọn 28 bài tiêu biểu nhất sáng tác trong vòng 25
năm, kể từ trước năm 1986 đưa vào phần phụ lục với tiêu đề Bỏ lại dọc đường
để độc giả có dịp tham khảo.
Thế nhưng khách quan mà nói, khi nhìn lại chặng đường sáng tác 25 năm
trước thời kì Đổi mới, thơ Trần Nhuận Minh có một quá trình vận động cùng với
xu hướng phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông được coi là
“nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ về đề tài công nghiệp, ông đƣợc lĩnh
vinh dự, và có trách nhiệm phát ngôn và tôn vinh cho nó suốt hai thập niên 60
và 70…”[26.16,17]. Do đó, khi nghiên cứu chặng đường thơ của Trần Nhuận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Minh, chúng ta không thể bỏ qua thời kì sáng tác của ông trước năm 1986.
12
Vì vậy, nghiên cứu quá trình vận động thơ của Trần Nhuận Minh chúng
tôi vẫn chia ra làm hai thời kì, đánh dấu hai chặng đường thơ của nhà thơ họ
Trần quê hương Hải Dương nhưng lại thành danh ở vùng đất mỏ Quảng Ninh
này.
1.2.1. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1960 – 1985 Bắt đầu sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX, Trần Nhuận Minh đã
in hai tập thơ chung: Sức mới (1967) và Ca bình minh (1972) với đề tài công
nghiệp. Bằng sự lao động nghiêm túc, miệt mài trong lĩnh vực nghệ thuật khi
gắn bó với vùng đất vàng đen của Tổ quốc, Trần Nhuận Minh đã cho ra đời tập
thơ in riêng đầu tiên: Đấy là tình yêu (1971).
Trong bài thơ Trình bày viết năm 1970, Trần Nhuận Minh đã tự giới
thiệu về con đường lập nghiệp của mình:
Bạn ơi, tôi có hai lá phổi
Một làng Điền Trì mùa thu nƣớc nổi
Một nửa phố mỏ Hòn Gai
Quanh năm rừng rực nắng trời.
Giữa hai lá phổi lành, đây, trái tim tôi
Hai miền quê: một là vùng đồng chiêm nước trũng nhưng chứa đựng bề
dày bao tầng văn hóa; một là vùng “phố mỏ” tấp nập, đông vui “quanh năm
rừng rực nắng trời” đã gắn bó với nhà thơ và không thể tách rời. Rõ ràng “phố
mỏ Hòn Gai”- vùng công nghiệp vàng đen của tổ quốc với Trần Nhuận Minh
vốn không phải là nơi chôn rau cắt rốn, nhưng ông đã gắn bó máu thịt và đã
cống hiến suốt cả một thời tuổi trẻ, suốt cả quá trình hoạt động sáng tác và đã
thành danh ở nơi này; còn với Nam Sách – Hải Dương – nơi đã sinh ra ông luôn
là quê hương yêu dấu, chốn đi về của tâm hồn và trái tim ông. Cả hai vùng quê
với hai dạng văn hóa khác nhau đã hun đúc tài năng, đã cung cấp cho Trần
Nhuận Minh những chất liệu, những “tài nguyên” quý giá, phong phú để ông có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thể viết lên những vần thơ, trang thơ thấm đẫm chất dân gian mềm mại, dịu dàng
13
bên cạnh chất liệu hiện thực đầy gai góc, khốc liệt, phong phú và phức tạp thời
kì hiện đại.
Từ chỗ là một anh nông dân trở thành giáo viên và gắn bó với giai cấp
công nhân, đã tạo nên một bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời và trong
sáng tác của Trần Nhuận Minh và đã làm nên “cuộc định vị lần thứ nhất” cho
thơ ông, như sự khẳng định của nhà nghiên cứu Phong Lê.
Ở buổi đầu những năm 60, với đóng góp của đội ngũ thơ chủ lực của nền
cách mạng, đó là cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của sự nghiệp giải phóng một nửa đất
nước, và đồng thời là cái nhìn từ những ước mơ bao đời nay đang hiện dần lên
sự thật. Trần Nhuận Minh cũng đã khẳng định mình là nhà thơ chân chính, là
người con mang tình yêu lớn với quê hương và có chung khát vọng dân tộc.
Trong sự hấp dẫn của lí tưởng, có bao hàm những khát vọng riêng tư của
tuổi trẻ. Nhưng thực ra, sự hấp dẫn của vùng mỏ đối với Trần Nhuận Minh còn
có cái gì đó, mộng nhiều hơn thơ…Và đây là một trong những bài thơ ông viết
về vùng mỏ:
Nơi đây là mỏ Mạo Khê
Một vùng cung núi, bốn bề than đen
Nơi đây anh đã gặp em
Một đêm mở vỉa sao đêm đầy trời.
(Mạo Khê)
Trần Nhuận Minh đến với thơ như vậy, háo hức và hăm hở. Tuy vậy,
nhiệt tình ấy chưa phải là điều kiện đủ cho thơ ông có sự thành công. Có thể dẫn
bài Anh thợ lò – bạn tôi:
Bƣớc ra khỏi lò
Anh nhƣ đi trên sóng
Khoảng đất bằng và rộng
Anh đi không thật chân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chính anh cũng lạ cho mình
14
Không có cái nhìn của người đồng bằng về mỏ, Trần Nhuận Minh khó
có thể đưa vào thơ những trực giác sinh động ấy, mà những người lâu năm ở đây
chưa dễ đã nói được. Đây cũng chính là nét riêng, là “duyên” thơ của ông, còn
mãi đến bây giờ, góp phần giúp ta nhận ra ông trong hàng loạt những cây bút
vùng mỏ như Yên Đức, Phạm Doanh, Đào Ngọc Vĩnh…
Dễ hiểu vì sao những bài thơ được người đọc ưa thích hơn trong Đấy là
tình yêu vẫn là những bài ghi lại cảm xúc suy nghĩ từ những gì ông thân quen,
từ chiếc cổng làng:
Nơi niềm vui theo năm tháng sinh sôi
Mùi nếp thoảng bay nhịp chày khua gấp
Tiếng súng dội về bao đêm trở giấc
Trâu cọ cổng tre lấp lánh lƣỡi cày…
(Cổng làng)
Rồi những gì chung hơn, vẫn là cái làng – cái làng mới “cách mỏ ba cây
số”, nơi “có con tầu chạy ngang đồng lúa lấn vào chân mỏ” mà đôi mắt và tấm
lòng người ở đây cứ nửa quen, nửa lạ:
Sáng sáng nhìn lên mỏ
Đôi mắt thăm thẳm đen
Cầy ruộng bật than lên
Lòng bồi hồi xúc động
(Làng ven mỏ)
Nói đúng hơn, thành công bước đầu ở thơ Trần Nhuận Minh chưa phải là
những bài thơ viết về người thợ, mà chủ yếu là những đổi thay dễ nhận ở môi
trường mới mà ông sống. Khi nhìn chặng đường đầu, Trần Nhuận Minh thấy
“thơ mình vẫn đi ven ven ngoài mỏ”. Trong cách nói, nhìn có phần làm duyên,
ông bắt đầu có ý thức một cách rõ rệt và cụ thể hướng đi của thơ mình. Miền đất
và con người vùng mỏ rất thơ và rất mộng. Nhưng sự thơ mộng này khác hẳn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những gì trước đây mà ông tưởng tượng. Rằng đến với vùng mỏ, không phải đến
15
với những vinh quang giành cho tuổi hai mươi chấp nhận. Chứng kiến cảnh lao
động hết sức gian khổ của người thợ, ông tự nói với mình sự gian khổ của người
thợ là có thật, và sự có thật của thơ mình là giả. Ý nghĩ chân thành và nghiêm
khắc ấy đã hướng thơ ông đi những bước chắc chắn vào Âm điệu một vùng đất
(1980) và Thành phố bên này sông (1982).
Nếu Đấy là tình yêu mới chỉ là nhận thức cảm tính về vùng mỏ mới đứng
ở bên ngoài quan sát, và viết về những người thợ mỏ, thì Âm điệu một vùng đất
và Thành phố bên này sông, Trần Nhuận Minh đã hình thành một quan niệm
thơ với ý thức trách nhiệm của một nhà thơ công nhân đứng trong đội ngũ công
nhân, viết theo cách nghĩ, cách cảm của những người công nhân mỏ.
Cuộc sống phát triển, giàu có thêm chất liệu mới do bàn tay và sức nghĩ,
sức sáng tạo của con người. Rồi từ những đổi mới này mà hình thành dần một
cảm xúc mới – cảm xúc trước đời sống công nghiệp của Trần Nhuận Minh. Với
bài thơ Đá cháy gồm 7 đoạn thơ, 224 câu, viết năm 1985, Trần Nhuận Minh đã
làm một “cuộc định vị lần thứ hai” cho thơ mình. Lửa, Than và Tỏa sáng là ba
“nhân vật” chính trong quá trình diễn ra “Đá cháy”. Bài Đá cháy được xem như
là tuyên ngôn nghệ thuật của Trần Nhuận Minh. Với vị trí, tư cách của một nhà
thơ công nhân khao khát có thể làm nên những điều có ý nghĩa hơn trong cuộc
sống hối hả, vất vả và đang vận động tích cực này:
Tôi sẽ đầu thai làm ngọn lửa
Cháy điên khùng trong đất tối âm u
“Tỏa sáng” là cách tồn tại của quá trình diễn ra đá cháy và “không tỏa
sáng thì không tồn tại”. Đó cũng là cách nhà thơ khẳng định quan điểm sống và
sáng tác của mình, đúng như nhận định của nhà nghiên cứu Phong Lê: “Một
khẳng định đến từ sứ mệnh của giai cấp công nhân, mà nhà thơ muốn (hoặc đã)
là ngƣời đại diện, khi từ là Tảng đất sét bên sông Kinh Thầy, anh đã trƣởng
thành tảng đá đen nguyên khối xù xì của một vùng than mênh mông – miền vàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đen trong lòng đất Đông Bắc của Tổ quốc[16.28].
16
Đây cũng chính là sự định vị lần thứ hai của nhà thơ đất mỏ này. Ông đã
quyết định trở thành nhà thơ của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong của
cách mạng Việt Nam. Và nói như nhà ngiên cứu, phê bình Phong Lê thì về
“khách quan nó ghi nhận đƣợc gƣơng mặt đất nƣớc và gƣơng mặt thơ một thời
trong và sau chiến tranh còn chƣa phai nhạt âm hƣởng hào hùng của đất nƣớc
chống ngoại xâm, và trong buổi đầu sự nghiệp xây dựng chống đói nghèo còn
rất giàu tự tin đến thành lãng mạn”[5.30].
Và quả thật, Trần Nhuận Minh đã thực hiện được niềm khao khát đó.
Ông đã trở thành một nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ của vùng mỏ
Quảng Ninh với những tập thơ đã trở thành niềm tự hào của bao người công
nhân mỏ thời kì lịch sử ấy. Đấy là tình yêu, Âm điệu một vùng đất và Thành
phố bên này sông, Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều gương mặt thơ
gắn bó tâm huyết với đề tài công nghiệp, với những người thợ mỏ của đất Quảng
Ninh đầy than, bụi và mầu áo thợ.
1.2.2. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1986 đến nay Đại hội VI của Đảng năm 1986 là một cái mốc, một sự kiện lớn của
dân tộc. Và Nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn hóa, văn nghệ quả là một sự
“cởi trói” theo đúng nghĩa của nó cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong quá trình
sáng tạo nghệ thuật của mình. Phương châm của Đảng ta lúc đó là “lấy dân làm
gốc” và mọi hành động cần phải “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”. Nằm trong xu hướng chung đó, thơ Trần Nhuận Minh có những
sự vận động và đổi mới quan trọng. Với bài thơ Nhà thơ áp tải (1989), thể hiện
một quan niệm nhân sinh quan tích cực phù hợp với thực tiễn và nhu cầu về một
nền văn học mới – áp tải sự thật. Vì vậy, có thể xem: Trần Nhuận Minh như là
một trong những đại diện tiêu biểu của một khuynh hướng sáng tác mới –
khuynh hướng phản ánh sự thật với tất cả những mặt phải – trái, trắng – đen,
những sự phức tạp, sự chói gắt, sự tốt đẹp cũng như sự phũ phàng của nó một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cách trung thực nhất:
17
Hãy áp tải sự thât
Đến những bến cuối cùng
( Nhà thơ áp tải)
Chính công cuộc Đổi mới đã sinh ra một nhà thơ Trần Nhuận Minh thứ
hai. Nhận thức được trước mặt là chân trời nghệ thuật mới vô cùng khoáng đạt,
văn học mới đã chuyển lên “đƣờng ray”, có nghĩa là cuộc hành trình mới của
Trần Nhuận Minh được khởi động. Nó được khởi động từ một cảm hứng mới về
sự thật, từ một đòi hỏi cao hơn, toàn diện hơn về nhận thức sự thật; và từ một ý
thức mới, quan niệm mới đang hình thành và được khẳng định thiên về chức của
nhà thơ trong thời kì mới của đất nước.
Tiếp nối sự đổi mới ở giai đoạn trước, trong Hoa cỏ đã đưa Trần Nhuận
Minh sang một thế giới khác, thế giới của cảnh đời và tình người. Rồi từ Hoa
cỏ, ông đã in tiếp tập thơ thứ sáu có tên Nhà thơ và hoa cỏ. Ở tập thơ này, Trần
Nhuận Minh đã đi sâu vào việc viết về số phận nhân dân, “viết về nỗi đau con
ngƣời”, viết về thế sự, nhân sinh với tất cả bộn bề chói gắt của nó. Tập thơ đã
khắc họa tập trung đầy đủ nhất và cũng đậm nét nhất về số phận người lao động
trong xã hội:
Câu thơ nhƣ gan ruột
Phơi ra giữa trời mây
Mỗi ngƣời một số phận
Ngang qua thế kỉ này
(Lời đề tựa trong tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ)
Đã có một thời do hoàn cảnh chiến tranh, văn học cần phải thực hiện một
cách hiệu quả nhất chức năng giáo dục; và do yêu cầu của chức năng giáo dục,
chính trị, tư tưởng mà văn học cần phải tập trung vào việc phản ánh cái tích cực,
cái tốt đẹp như là bản chất của xã hội, thì giờ đây, văn học thực sự muốn đạt
được chức năng giáo dục lại phải làm sáng tỏ sự thật một cách toàn diện, không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
che đậy cả những mặt khuất tối, những tiêu cực tồn tại trong xã hội, và Trần
18
Nhuận Minh đã thực hiện được điều đó. Trên bức tranh hiện thực trong thơ Trần
Nhuận Minh, cái cũ, cái xấu, cái ác không còn ở vị trí mờ nhạt, chỉ có nhiệm vụ
làm nổi bật cái mới, cái tốt đẹp, cái tích cực của xã hội mà bản thân cái cũ, cái
xấu, cái ác cũng đã chứa một vị trí tương xứng để đạt một giá trị nhận thức và
hiệu quả của văn học nghệ thuật là: cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn trong xã
hội, cảnh tỉnh về nhân cách, đạo đức cho con người thời kì hiện đại.
Như vậy, trong mười lăm năm đầu, kể từ Đại hội VI (1986) trở lại đây,
với chủ trương “áp tải sự thật” thơ Trần Nhuận Minh đã tập trung vào việc phản
ánh về số phận nhân dân ở mọi góc cạnh của đời sống. Ngòi bút hiện thực của
ông đã đi sâu vào từng số phận con người để mô tả, phản ánh những nỗi niềm,
những tâm sự, những đớn đau, bất hạnh bên cạnh những hạnh phúc. Đồng thời,
ông đã khẳng định được khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình để tạo nên một
gương mặt thơ riêng, nổi lên trong dàn đồng ca chung, trong gương mặt chung
của đồng đội mà không lẫn nhòa. Ông tự tiến hành được cả một cuộc đi cho
mình, một cuộc đối thoại, trò chuyện với bạn đọc hôm nay mà không sợ nghèo,
không sợ nhạt, không sợ trùng lặp, không sợ vô bổ - đó mới là vấn đề đặt ra cho
thơ ca hôm nay, càng là vấn đề đặt ra cho thơ viết về số phận nhân dân mà Trần
Nhuận Minh giành cả tâm huyết, trí tuệ, tình cảm của mình vào trong đó.
Nếu như tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ được Trần Nhuận Minh hoàn thành
trong 15 năm cuối thế kỉ XX (1986 – 2001) thì sang đầu thế kỉ XXI, ông đã liên
tiếp cho ra đời 3 ba tập thơ: Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của
kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008). Mỗi tập nhà thơ viết liền
một mạch, rõ ràng và liên tục với một cảm hứng riêng, say mê và nhất quán, lần
lượt được xuất bản trong mấy năm đầu của thế kỉ XXI. Các tập thơ của Trần
Nhuận Minh giai đoạn này đã tập trung viết về “đời sống thứ hai của con
ngƣời”. Ở đây khái niệm “Nhân Dân” được thay thế bằng khái niệm“Con
Ngƣời”. Cuộc đời với những chiêm nghiệm suy tưởng, đúc kết,…đã trở thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hồn vía của hiện thực. Hiện thực ở đây không chỉ được nhìn nhận, thẩm thấu
19
bằng mắt, bằng tai…mà còn được thẩm thấu bằng cả tâm hồn, bằng cả đáy tâm
linh sâu thẳm, hư ảo, huyễn hoặc…Thật đúng như tác giả của “Ba lần định vị
cho thơ” đã viết: Cảm rõ vị đời, anh đã có một chỗ đứng cho câu hỏi: Ta vì ai?
Ta thuộc về ai? Rồi sẽ đến với anh câu hỏi: Ta là ai?...sẽ đến với những bức
tranh nhân thế, không còn là tả thực mà hòa trộn với tâm linh, là sự cộng cảm
giữa cảnh đời và cảm nhận về đời, để đem lại cho thơ anh một sắc diện mới với
rất nhiều bâng khuâng”[6.32].
Cuộc sống hiện đại với bao sục sôi, cuộn chảy tới chóng mặt, nên nhiều
khi đã lướt qua cả những mảnh đời, những số phận nhỏ bé đầy thua thiệt của con
người. Trần Nhuận Minh thở dài khi nhận ra những vấn đề phức tạp, đầy sự đối
lập, đầy mâu thuẫn luôn tồn tại bên nhau, luôn lấn át nhau…trong cuộc sống
hôm nay:
Khi hai bờ xa nối đƣợc với nhau bằng một cây cầu
Thì hồn vía con sông hoàn toàn đổi khác
Tiếng giận hờn bên này
Sự lạnh lùng bên kia
Đều lấn sang nhau
Con sông mất giới tính
Chảy miên man về phía cuối chân trời…
(Bản Xô nát hoang dã)
Nhưng ông vẫn thành tâm:
Ta giáng sinh vào tâm hồn của Cây
Cho mùa thu hiu hiu buồn trong lá
Ta giáng sinh vào trí tuệ của Đất
Để đêm xuân râm ran tiếng côn trùng.
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Với một trái tim nhạy cảm, đặc biệt là trước những nỗi buồn, bất hạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của con người, thơ Trần Nhuận Minh vẫn ánh lên niềm tin vào những điều tốt
20
đẹp và cất lên lời tâm sự mang tính khuyên răn nhân thế, hãy biết yêu thương,
giúp đỡ, trân trọng con người:
Tiền giúp ngƣời nghèo là tiền Ông Trời vay
Ông sẽ trả con ta gấp đôi, cháu ta gấp ba khi ta nằm dƣới mộ
(Miền dân gian mây trắng)
Và ngƣời trồng cây phúc
Thì quả phúc đầy vƣờn
(Bản Xô nát hoang dã)
Đó là một điều đáng quý, đáng trân trọng ở nhà thơ “dân gian” mà “bác
học” này.
Từ Trình bày rồi Đá cháy, đến Bừng thức, Vô thức, Tự thuật, Trần
Nhuận Minh đã ba lần định vị cho thơ – hay nói cách khác đi là 3 lần tự nhận
thức về vai trò, chức năng của thơ, của nhà thơ trong cuộc sống thời kì hiện đại.
Có thể thấy rằng ở mỗi chặng đường sáng tác, Trần Nhuận Minh đều rất
có ý thức tự đổi mới mình, tự đổi mới sự nhận thức của mình về thơ, về nhà thơ,
với khát vọng là: góp thêm tiếng nói của mình vào công cuộc đổi mới văn
chương, góp thêm một tiếng thơ để phản ánh hiện thực cuộc sống với tính chất
phức tạp, đa chiều của nó, với sự vận động không ngừng của nó ở cả hai phía:
tích cực và tiêu cực, tươi sáng và ẩn khuất.
Như vậy trong nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Trần Nhuận Minh đã tạo
dựng cho mình cả một hành trình thơ, trong đó có những tập thơ bề thế, nhiều
tầng, nhiều vỉa trên cả phương diên nội dung và nghệ thuật. Mỗi một giai đoạn
sáng tác, là một lần Trần Nhuận Minh tự đổi mới tư duy nghệ thuật của mình.
Một đời thơ ba lần định vị và mỗi lần đều có những sáng tạo đáng được
trân trọng, được ghi nhận trong cuộc sống thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong đời
sống văn học Quảng Ninh. Trần Nhuận Minh xứng đáng là cánh chim đầu đàn
trong lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật, trở thành nhà thơ tiêu biểu của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
vùng công nghiệp mỏ than Đông Bắc của Tổ Quốc. Có thể lấy lời đánh giá của
21
nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi ( Tuyển tập thơ Việt Nam thế kỉ XX, NXBGD, 2005) về
tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ để khẳng định vị trí của Trần Nhuận Minh trong nền
thi ca hiện đại Việt Nam như sau: “Trần Nhuận Minh không hề né tránh một sự
thật nào, dù là đau đớn kinh hoàng đến đâu. Tập thơ đã đƣợc tái bản (…) lần
đƣa Trần Nhuận Minh lên vị trí hàng đầu trong số những nhà thơ thời chống Mĩ
cứu nƣớc”.
1.3. Quan niệm về nghệ thuật của nhà thơ Trần Nhuận Minh
1.3.1. Quan niệm của Trần Nhuận Minh về sứ mệnh của thi ca với hiện thực cuộc sống Trong 50 năm cầm bút, thơ Trần Nhuận Minh luôn đồng hành cùng dân
tộc trên những chặng đường đầy cam go và thử thách. Ông luôn “áp mặt vào đời
để gợi thức và đánh động lƣơng tâm” nhằm phản ánh một cách trung thực hiện
thực cuộc sống. Theo ông, “Văn học có chức năng phản ánh hiện thực, điều ấy
không có gì phải bàn. Cái có điều để bàn là hiện thực là gì, hiện thực đó đƣợc
nhìn bằng con mắt mở hay con mắt khép, thậm chí không nhìn bằng mắt. Rồi
hiện thực đó đƣợc phản ánh qua thể loại nào, ở đây hiện thực của thơ không
giống với hiện thực của tiểu thuyết, không phải ở dung lƣợng mà ở bản chất của
nó, dù cùng một tác giả viết cùng một phƣơng pháp sáng tác”[2.2]. Đối với Trần
Nhuận Minh, hiện thực cuộc sống cần phải được nhìn nhận bằng con mắt đa
chiều, cho nên những va đập của cuộc đời, những đổi thay theo guồng xoáy của
thời cuộc đều được ông nắm bắt bằng cảm quan hiện thực nhạy bén. Sự thật với
khuôn mặt đích thực của nó, đang là mục tiêu kiếm tìm của văn học và không
thể đổ lỗi cho sự thật nếu cuộc sống đang ẩn chứa và hiện hữu những sự thực đó.
Chỉ có thể đổ lỗi cho văn học nếu sự thật trong tác phẩm là nhạt nhẽo, gầy guộc,
hoặc chỉ là sự vờn quanh, là nửa vời, hoặc không đầy đủ. Nếu như trước đây,
người viết còn phải đắn đo trước việc phản ánh hiện thực với những sự thật chưa
đầy đủ, chưa đa chiều vì một lí do khách quan hoặc chủ quan nào đó, thì bây giờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự đắn đo, tránh né hiện thực với những sự thật đa chiều phong phú, phức tạp
22
của nó lại là một sự thiếu bản lĩnh hoặc vô trách nhiệm của nhà văn. Và, Trần
Nhuận Minh đã không đắn đo, ngại ngần khi đưa ra một tuyên ngôn trong sáng
tác của mình là: “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng” (Nhà thơ áp
tải). Đây chính là một thái độ dứt khoát đầy trách nhiệm của nhà thơ đất mỏ này
đối với hiện thực xã hội.
Ở từng thời kì sáng tác, Trần Nhuận Minh luôn có ý thức cố gắng làm
mới mình trong nghệ thuật để khỏi bị trùng lặp với người khác hay khỏi trùng
lặp với chính mình. Ông luôn đặt ra cho mình một nguyên tắc đó là lấy hiện
thực cuộc sống làm trung tâm để làm đối tượng phản ánh trong thơ. Tuy nhiên
đó là hiện thực gì? Phản ánh như thế nào – nhằm mục đích gì? Thì lại luôn là
vấn đề mà ông luôn trăn trở, kiếm tìm câu trả lời thích đáng.
Như đã biết, mục đích quan trọng nhất của văn học nghệ thuật là phản ánh
nhận thức, khám phá hiện thực đời sống con người theo quy luật vận hành của
xã hội để có thể phản ánh được những điều cơ bản nhất của thời đại. Muốn vậy,
thơ ca phải bám sát vào hiện thực phản ánh được những vấn đề thuộc về bản
chất của hiện thực, của thời đại. Thơ Trần Nhuận Minh đã minh chứng cho loại
thơ ca bám sát vào từng chặng đường lịch sử của đất nước, cho nên thơ ông
“không bao giờ né tránh một sự thật nào, cho dù sự thật đó có đau đớn đến kinh
hoàng” [25.218]. Tuy nhiên, trong cả một thời gian dài trước Đổi mới (1986)
với cơ chế bao cấp (trong đó có cả bao cấp trong tư tưởng, trong đời sống văn
học nghệ thuật) - thơ Trần Nhuận Minh cũng như thơ của các tác giả khác đã
chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự “bao cấp” trong sáng tạo nghệ thuật. Ông cũng
bám rất chắc vào hiện thực cuộc sống, cũng đã phản ánh một cách chân thực
cuộc sống – nhưng đó mới chỉ là một mặt của hiện thực chứ chưa phải là tất cả
các mặt của nó, nhất là các góc khuất tối sau lưng nó. Vì vậy sau năm 1986, với
sự đổi mới tư duy trong sáng tạo nghệ thuật, Trần Nhuận Minh đã mau chóng
phát hiện ra điều đó ở mình trong các sáng tác thuộc thời gian trước đây. Ông đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhận ra và dũng cảm quyết tự đổi mới mình, đã vượt qua chính mình để tiếp tục
23
sáng tạo nghệ thuật dưới một cách nhìn nhận, cách phản ánh mới đa chiều,
phong phú hơn, và vì thế mà chiều sâu hiện thực cũng được phản ánh sinh động,
cụ thể hơn. Ông đã từng tâm sự: “Hiện thực đất nƣớc hôm nay là những biểu
hiện của một xã hội đang vận hành trong cơ chế thị trƣờng, từng bƣớc hội nhập
với thế giới, với tất cả những mảng sáng, tối của nó. Nói thật gọn, tôi rất quan
tâm tới mảng hiện thực này. Vì nó đang tác động rất ráo riết đến đời sống của
cả xã hội và của tất cả mọi ngƣời”[34.2]. Xét trong cả quá trình, hiện thực trong
sáng tác của Trần Nhuận Minh được phản ánh như sau:
Thời kì trước 1986: đó là hiện thực cuộc sống của nhân dân, đặc biệt là
của công nhân (vùng mỏ) trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đấu tranh giải
phóng miền Nam. Thế giới nhân vật của ông là những chàng trai, cô gái trẻ
trung, phới phới, yêu đời, hăng say lao động, hi sinh tất cả vì vùng mỏ thân yêu,
vì tương lai đất nước; cuộc sống thường ngày của họ tuy còn vất vả, thiếu thốn
nhưng tràn đầy niềm vui, đầy sự yêu thương, xẻ chia của cộng đồng. Trần
Nhuận Minh đã từng phát biểu về hiện thực cuộc sống mà tác giả phản ánh trong
giai đoạn này cụ thể: “Giai đoạn này, tôi viết để phục vụ nhiệm vụ chính trị
trƣớc mắt. Nghĩa là viết về cái mà cuộc sống cần mình. Chủ đề tƣ tƣởng là cái
nhiệm vụ chính trị cần phải đạt đến. Nội dung hiện thực là thực tế nó cần phải
xẩy ra, còn nó có xẩy ra thật hay không, điều đó không quan trọng. Tôi nghĩ cả
một nền thơ của một giai đoạn lịch sử đã đƣợc viết trong quan điểm đó, rất
trong sáng và chân thành. Chính vì thế mà “Toàn đất nƣớc có chung tâm hồn,
có chung gƣơng mặt”(Chế Lan Viên)[4.18]. Nhưng đó là hiện thực của những
năm trước 1975. Sau chiến thắng năm 1975, trong niềm vui lướn lao của dân
tộc, Trần Nhuận Minh cùng một số các nhà thơ, nhà văn khác đã có một sự linh
cảm về những khó khăn, gian lao mới, cam go và ác liệt mới…mà nhân dân sẽ
phải gánh chịu, bởi sau sự tàn phá của chiến tranh với bao hậu quả ghê gớm của
nó để lại cho dân tộc; bởi sự thay đổi cơ chế quản lí, từ cách quản lí xã hội trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thời chiến, sang quản lí xã hội thời bình với bao sự mới mẻ, lạ lẫm, đầy khó
24
khăn, thử thách! Do đó, hiện thực được phản ánh trong thơ ông không chỉ còn là
một chiều (trong sáng, ngợi ca), mà là một hiện thực đa chiều hơn, nhiều mảng
hiện thực trong vùng khuất tối đã được phản ánh; nhiều số phận bất hạnh, nhiều
tình huống trớ trêu của kiếp người đã được mô tả với nỗi niềm xót xa, đau dớn
của nhà thơ. Đến thời kì 15 năm cuối của thế kỉ XX (1986 – 2000) – giai đoạn
đầu của thời kì đổi mới, hiện thực trong sáng tác của ông là một hiện thực đa
chiều, trong đó có số phận của nhiều tầng lớp nhân dân với những va đập của
cuộc sống thời kì mở cửa với bao sự phức tạp, bao sự mâu thuẫn (ở cả trong
nước và nước ngoài). Trong thơ Trần Nhuận Minh ở thời kì này có đủ các loại
người trong xã hội: “từ nhà lãnh đạo đầu tỉnh (nhƣ nhà khoán hộ Kim Ngọc)
đến một tên tƣớng cƣớp ở sân bay nƣớc Nga, nếu có thiếu thì, có lẽ chỉ thiếu
một loại ngƣời nhiễm HIV”[20.3]. Hiện thực đó được phản ánh một cách sinh
động trong hai tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ (1993) và Giọt phù sa vạn dặm
(2000). Ông đã nêu rõ quan điểm khi cầm bút của mình giai đoạn này là:“Giai
đoạn hai, từ năm 1986, tôi viết về cái mà mình cần phải có ở tác phẩm của
mình, nỗi ám ảnh của cá nhân mình trƣớc mọi cái mắt thấy tai nghe, cùng với
những tổng kết, trải nghiệm của cuộc sống mà mình tích tụ đƣợc đến lúc đó, qua
lăng kính của chủ nghĩa nhân văn. Không viết đƣợc nhƣ thế mình mình không
sống đƣợc bình thƣờng nhƣ mọi ngƣời”[15.18]. Rồi tiếp theo 10 năm đầu thế kỉ
XXI, hiện thực trong sáng tác của Trần Nhuận Minh là: hiện thực về “cõi
Ngƣời” nói chung, với mọi nỗi niềm của CON NGƯỜI, kể cả nỗi niềm của
CON NGƯỜI trước cõi “Vô Cùng” của vũ trụ, trước sự huyền bí của tâm linh
đã được phản ánh sâu sắc, thâm trầm trong ba tập thơ: Bản xô nát hoang dã
(2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và Miền dân gian mây trắng
(2008).
Nhà thơ Trần Nhuận Minh đã suy nghĩ rất nhiều về cái gọi là hiện thực
và sự thật trong thơ. Ông cho rằng: Bây giờ là lúc toàn bộ sự thật phải được nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhận lại, cố nhiên trên lập trường và lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Sự thật
25
và trách nhiệm phải nói thật, cùng với quyền được nói thật như chính Đảng yêu
cầu. Không được giả dối, che đậy, xuyên tạc; không nên “uốn cong ngòi bút” và
“viết theo kiểu tùy thời” mà sự thật phải được phản ánh như chính nó đang tồn
tại. Hầu hết các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh đều cho
rằng: thơ Trần Nhuận Minh là thơ thế sự. Nghĩa là thơ hiện thực chủ nghĩa. Cảm
hứng của nó thường là những vấn đề thuộc về những mặt trái của xã hội, những
biểu hiện tiêu cực của xã hội với mục đích là phê phán. Vì thế giọng điệu thơ ở
đây thường nhuốm vị đắng cay, chua chát, xót xa.. Trần Nhuận Minh cũng đã
từng nói về thơ thế sự của mình như sau: “Tôi xin nói thêm, viết về mặt trái của
đời sống và cơ chế xã hội, nhƣng tôi viết với sự chia sẻ từ trong gan ruột là nỗi
đau của chính mình”[8.213]. Nhà thơ Bằng Việt trong lời giới thiệu thơ Trần
Nhuận Minh đăng trên Tạp chí Hội nhà văn, có nhận xét rất đúng rằng: “Anh chỉ
đau niềm đau duy nhất “đau đời”. Nỗi đau nhân sinh đó, trong anh, vừa ở góc
độ cá thể hóa, vừa ở tầm phổ quát”. Đó là một điều đáng quý ở nhà thơ hiền
lành nhưng sâu sắc này. Ông không như một vài cây bút khác: viết về những
điều tiêu cực với giọng hằn học để thỏa mãn sự bức xúc cá nhân của chính mình.
Ông viết về mặt trái của xã hội như sự kiếm tìm những non yếu, thiếu sót để đấu
tranh, để loại bỏ, hoặc ít nhất là để cảnh báo cho tất cả mọi người! Bởi nói theo
cách nói của nhà nghiên cứu, phê bình nổi tiếng Biêlinski thì: “Một dân tộc
càng mạnh, càng vƣơn cao về mặt đạo đức bao nhiêu, thì nó càng dũng cảm
nhìn vào mặt non yếu và những thiếu sót của mình bấy nhiêu. Một dân tộc yếu
hèn hoặc già cỗi, tàn tạ đến mức không thể tiến lên đƣợc nữa thì chỉ thích ca
tụng mình…Một dân tộc vĩ đại, đầy sức sống không nhƣ vậy đƣợc” (dẫn theo Lê
Sơn: Tiếng cười của một trái tim nổi giận; Tạp chí văn học số 3/1976). Trong
tương quan với hiện thực, và đối chiếu với sự thật, nhà thơ Trần Nhuận Minh có
một sứ mệnh rất lớn: “sứ mệnh tìm kiếm. Một sự tìm kiếm không dễ dàng, có lúc
đầy vất vả, gian truân. Không hiếm những dằn vặt, khổ đau, những hi sinh trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sự truy tìm hoặc kiên trì một chân lí”. Cái cụ thể và xác định trong thơ Trần
26
Nhuận Minh không có gì khác mà chính đó là cái cụ thể và xác định của những
chất liệu trực tiếp trong đời sống hiện thực, từ: một cảnh ngộ, một tâm trạng,
một hình ảnh, một con người cụ thể,v.v…tất cả đều từ trong hiện thực cuộc sống
mà ra. Và Trần Nhuận Minh đã tự khái quát về bút pháp hiện thực trong sáng tác
của mình: “Nhƣ vậy là tôi đã đi bằng đôi chân hiện thực để đi từ sông ra biển,
từ công nhân đến với nhân dân và từ nhân dân đến với con ngƣời”[30.3].
Theo Trần Nhuận Minh, sứ mệnh của thi ca còn phải thực hiện chức năng
nhân đạo hóa con người, thanh lọc tâm hồn con người để ngày càng hoàn thiện
hơn, để có thể vươn tới những tình cảm lớn lao hơn. Nhưng cách giáo dục của
thơ là phải thông qua những rung cảm nghệ thuật để nâng cao những năng lực
thẩm mĩ cho độc giả. Thơ ca không phản ánh cuộc sống một cách lạnh lùng, mà
trải qua sự trăn trở, đau đớn, hi vọng với những xúc cảm thật mãnh liệt. Trong
tác phẩm văn học đằng sau bức tranh hiện thực đời sống bao giờ cũng chứa
đựng những khát vọng thiết tha muốn thể hiện một tư tưởng, một quan niệm
riêng của người sáng tác về chân lí đời sống, về cái thiện, về cái ác, về cái tốt
đẹp cũng như cái xấu xa trong quan hệ giữa con người với con người. Ngòi bút
của ông lúc nào cũng bám sát vào cuộc sống con người và đi tới tận cùng với
từng số phận riêng của họ. Ông đã từng phát biểu: “Tôi viết về nỗi đau của con
ngƣời”, nên khi đọc thơ Trần Nhuận Minh, ta thấy hiện lên những con người có
tên cụ thể, bên cạnh những con người vô danh như: Mợ Hữu, thím Hai Vui, Bá
Kim, cháu Thủy, ông Hủi, gã đánh giậm, con đĩ… ,“tên tất cả các nhân vật của
thơ tôi đều không phải là tên thật ở ngoài đời, dù bài thơ nào cũng xuất phát từ
một ngƣời có thật, hoặc đƣợc gợi ý từ một việc có thật. Tôi đã sử dụng phƣơng
pháp “xây dựng nhân vật điển hình” của chủ nghĩa hiện thực, để tạo dựng các
chân dung thơ của mình để ngƣời đó vừa là “ngƣời đó”, với tƣ cách là một cá
thể riêng lẻ, nhƣ tôi đã gặp hoặc sống cùng với họ, nhƣng đồng thời còn là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
“loại ngƣời đó” với tƣ cách là một khái quát nghệ thuật mang tính cộng
27
đồng”[22.217]. Tất cả đều thể hiện sự phản ánh về “số phận nhân dân có những
bi kịch lạ lùng”.
Là người tham gia vào lịch sử và có một phần trách nhiệm trước lịch sử,
Trần Nhuận Minh có niềm tin vào chính mình, niềm tin vào nhân dân mình, cho
dù có phải trải qua đắng cay trong cuộc đời dâu bể thì nhà thơ vẫn tỉnh táo nhận
ra rằng: “Anh hãy cạn đến tận cùng cái chén cay đắng của cuộc đời, ở đáy cốc
nhất định sẽ có vị ngọt, nhƣng vấn đề là anh có uống cạn cái cốc đời ấy không?
Và anh có khả năng nhận ra cái vị ngọt ấy không? Sau những rủi ro, vận may
thế nào cũng rụt rè gõ cửa, cái chính là tai ta phải tinh tế nhận ra tiếng gõ cửa
nhẹ nhàng đó. Cũng nhƣ sau bão, thƣờng có mƣa đền cây. “Không phải là niềm
vui mà chính là nỗi khổ/Đã dạy tôi thành ngƣời…”[31.325]. Cho nên Trần
Nhuận Minh viết về nỗi đau con người như một niềm hạnh phúc: “Tôi muốn
ngƣời đọc nhận ra nụ cƣời sau những giọt nƣớc mắt và theo tôi, chỉ có những ai
thẩm thấu đƣợc vị mặn chát của những giọt nƣớc mắt mới hiểu đƣợc hạnh phúc
thực sự là thế nào. Đấy cũng là một cách để tiếp cận hạnh phúc”[38.2].
Có thể thấy, Trần Nhuận Minh có khả năng đổi mới tư duy và thích ứng
với hoàn cảnh mới một cách nhanh chóng. Đối mặt với hiện thực bề bộn, đầy
khó khăn và thách thức của cuộc sống thời kì sau chiến tranh, nhà thơ không
ngơ ngác, không hốt hoảng! Thật bình tĩnh, ông tự cho mình một sự thoải mái
cần thiết để nhập cuộc. Khéo léo, năng động và bén nhạy, ông bám sát vào từng
bước đi của đời sống, tìm kiếm, khám phá, lí giải các vấn đề của đời sống từ
chính cái hôm nay ngổn ngang bề bộn ấy! Bước sang thời kì đổi mới, ông lặng
lẽ và mải mốt kiếm tìm một cách nhìn nhận và phản ánh hiện thực mới: phong
phú, phức tạp, đa chiều và đầy sự ngang trái, trớ trêu, cũng như biểu hiện của sự
tiêu cực; Đặt chân sang thế kỉ XXI, ông tỏ ra bình tĩnh hơn, bình tâm hơn để suy
tư, chiêm nghiệm để vươn tới một tầmvóc mới: vấn đề CON NGƯỜI trong thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
kì hiện đại. Có thể khẳng định: Hiện thực nhiều mặt chất chứa nhiều mâu thuẫn
28
và phức tạp ấy đã trở thành “mảnh đất phì nhiêu” cho ngòi bút ưa kiếm tìm mâu
thuẫn và xung đột của Trần Nhuận Minh thả sức tung hoành.
Thông qua những sáng tác cụ thể, thông qua những lời tâm sự, những ý
kiến trực tiếp của nhà thơ về sứ mệnh của thi ca với hiện thực cuộc sống, chúng
ta càng thêm hiểu, thêm kính trọng và yêu mến nhà thơ – cùng với quan niệm
hết sức rõ ràng, triệt để của ông là: Thi ca phải bám sát cuộc sống, phải phản ánh
thật trung thực bộ mặt và bản chất cuộc sống. Nếu có phê phán hiện thực cuộc
sống, thì sự phê phán ấy cũng chỉ là để tự gột rửa, tự thức tỉnh, là để tự vươn lên
cái Thiện, cái Mỹ mà thôi – chứ không phải là sự hằn học, phá phách và mất
lòng tin vào những điều tốt đẹp!
1.3.2. Quan niệm của Trần Nhuận Minh về nhà thơ Trong lần trả lời phỏng vấn Tạp chí Phố Hiến, nhà thơ Trần Nhuận Minh
đã thể hiện rõ quan điểm của mình trong sáng tác: “Thơ chỉ cần hay. Nhƣng
trong ý nghĩ của tôi, cái hay không tách rời cái mới. Không phải cái mới nào
cũng hay, song bất cứ cái hay nào cũng có cái mới…Vì thế, đổi mới cũng là sự
sống còn của thơ…”. Trần Nhuận Minh nhấn mạnh vào cá tính sáng tạo của nhà
thơ. Lao động của nhà thơ là lao động sáng tạo, nghề văn là nghề sáng tạo.
Không sáng tạo thì không phải là nghệ sĩ đích thực. Nhà thơ đích thực không
chấp nhận cách viết dễ dãi, rập khuôn, không có sự sáng tạo, không có dấu ấn
riêng. Trần Nhuận Minh luôn nghiêm túc, tỉnh táo nhìn lại mình và đi sâu vào
những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình sáng tạo của mình. Ông đã truy
tìm nguyên nhân dẫn đến hậu quả của lối thơ viết không sáng tạo đó là do kiểu
viết theo một công thức đã định sẵn. Kiểu thi sĩ như thế sẽ tạo ra một lối văn
chương minh họa, ít có sự sáng tạo. Sau khi đã truy tìm được nguyên nhân của
sự “dậm chân tại chỗ” trong sáng tác, Trần Nhuận Minh đặt ra vấn đề là phải
thay đổi cách nghĩ, cách viết để tìm hướng đi mới cho mình không xa rời tính
dân tộc, xa rời cái căn cốt của văn học dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đảng đưa ra chủ trương: “phải nhì thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, thì ông
29
cũng như bao nhà văn, nhà thơ khác đã ào lên như những “chiến sĩ – nghệ sĩ”
thực hiện chủ trương đúng đắn, kịp thời một cách tích cực, hết mình.
Đại hội VI của Đảng (1986) như một luồng sinh khí mới dẫn lưu cho
dòng chảy của thơ ông từ “sông ra biển lớn”. Thơ ông đã chuyển hẳn sang
khuynh hướng thơ thế sự, đời tư. Trong khi đó, nhiều nhà thơ vẫn còn dừng lại ở
cảm hứng ngợi ca, hoặc là còn rụt rè hay né tránh để khỏi chạm đến những vấn
đề nhạy cảm nhất của xã hội. Nhận thức được vận hội mới, Trần Nhuận Minh đã
tìm được lối rẽ riêng, dám nhấn vào những nghịch cảnh trái ngang, những
nghịch lí nhức nhối của đất nước, những bi kịch về số phận con người trong các
sáng tác của mình. Đặc biệt nhà thơ chuyên chú vào việc nhìn nhận con người ở
phương diện đời thường để phát hiện và tỏa sáng tình thương, tạo nên một chiều
sâu văn chương thế sự, đời tư trong thời kì hiện đại.
Bài thơ Nhà thơ áp tải là mốc đầu tiên của lần “lột xác” này. Với tập
Nhà thơ và hoa cỏ, Trần Nhuận Minh đã làm nên “vệt thơ chân dung” mà
Nguyễn Bùi Vợi cho rằng thơ ông đã đổi mới, đã thật sự “lật cánh để bay ở một
tầm bay mới”. Thơ chân dung đã đưa Trần Nhuận Minh trở thành nhà thơ thế sự
có một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả. Và, ông đã bộc lộ quan điểm khi hướng
ngòi bút của mình sang dòng thơ thế sự: “thực ra, tôi nghĩ viết về trời đất bao
la, viết về con ngƣời, cũng tức là viết về mình đấy. Và nhƣ thế, mình có mặt ở
khắp mọi nơi, tự tan ra trong nỗi vui buồn của rất nhiều ngƣời. Vậy thì cái đƣợc
lại càng nhân lên, còn gì sung sƣớng hơn nữa. Viết về ngƣời, vẫn cần hoa mĩ,
trữ tình, nếu bài thơ yêu cầu cần phải nhƣ thế để bộc lộ một vấn đề, một cốt
cách hay một nhân cách. Thông thƣờng thơ thế sự cần mộc hơn, nhƣng cũng
phải tinh hơn, không mộc thì mất cái chân xác, không tinh thì mất cái hàm súc,
dƣ ba…thơ sẽ không sống đƣợc”[21.254].
Thế nhưng không chỉ cứ mãi dừng lại ở “vệt thơ chân dung” này, “Tôi
nghĩ là mình phải bật lên một kênh khác thì mới nên viết tiếp”[11.373]. Một lần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nữa nhà thơ lại rơi vào “cảm giác trống vắng” vì không biết viết như thế nào để
30
làm mới mình. Trong một đêm dự biểu diễn văn nghệ, trước thể Xô nát du
dương, trầm bổng vừa như còn mơ hồ vừa như đã định hình, ông “vô cùng xúc
động”, tâm hồn nhà thơ như được tràn đầy thi hứng, với quyết tâm làm mới
mình - Bản Xô nát hoang dã ra đời. Có ý kiến cho rằng, sau Bản Xô nát hoang
dã, Trần Nhuận Minh sẽ kiệt sức. Đáp lại ý kiến đó, ông trả lời: “Không chỉ có
trong sáng tác mà cả ngay trong công việc,… bao giờ tôi cũng hết lòng,…làm
việc hay viết, đều cố gắng đi đến tận cùng cái có thể trong cái không thể. Và trở
lại, nhƣ phù sa của một dòng sông, cái kiệt cùng đó sẽ bồi đắp lại cho mình, để
sẽ có một mùa thu hoạch sau”[15.374].
Người xưa nói “bất bình tắc minh”, không có tâm sự khốc liệt thì không
bật ra thành tiếng kêu, không thành văn chương được. Hoàn cảnh cá nhân nhà
thơ, hoàn cảnh xã hội (qua các thời kì khác nhau của đất nước), hoàn cảnh của
bao thân phận, bao số kiếp của con người trong vòng xoáy của cuộc đời đã là
chất liệu, là cảm hứng nghệ thuật để Trần Nhuận Minh sáng tạo nên những bài
thơ, tập thơ đầy tâm huyết, chất chứa gan ruột của mình! Ông đã làm nên một
“vệt thơ” riêng cho mình – hay nói cách khác: ông đã dày công lao động và sáng
tạo làm nên những tác phẩm nghệ thuật có “nhan sắc” riêng biệt! Nhấn vào bản
chất sáng tạo của nhà thơ, Trần Nhuận Minh cũng đề cập đến một yêu cầu có
liên quan trách nhiệm của người cầm bút. Nhà thơ là người hướng dẫn độc giả
về nhân sinh quan, về đạo đức và có khả năng chinh phục công chúng bằng nghệ
thuật ngôn từ. Vì thế mà thơ ông làm xúc động người đọc ngay cả khi ông đưa
ra những triết lí (có vẻ căng cứng) về sự vô trách nhiệm của thái độ “im lặng”,
thái độ thờ ơ, lạnh lùng…của bao kẻ đối với sự bất công luôn gắn chặt với số
phận của bao người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội:
Mọi đặc quyền đều xúc phạm nhân dân
Và bất công nhƣ quả bóng lăn tròn
Từ chân ngƣời này sang chân ngƣời khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Im lặnh là vàng ƣ?
31
Im lặng là tội ác
(Bản Xô nát hoang dã)
Bởi đằng sau những câu thơ này, người ta nhận thấy thái độ bất bình,
lòng xót xa vô hạn của nhà thơ trước hiện thực phũ phàng. Chính vì thế, với tư
cách, trách nhiệm của một nhà thơ chân chính, ông nguyện đem theo cây bút
suốt đời bên mình để phụng sự nhân dân, phụng sự cuộc sống:
Bạn ơi!
Ta yêu Nhân Dân
Yêu Cuộc Đời này
Và chính bạn
Ngay cả sau khi Ta chết
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Với ông, cây bút, câu thơ cũng là một thứ vũ khí – như thanh kiếm của vị
anh hùng, vì chúng cùng một mục đích: đấu tranh vì sự công bằng và hạnh phúc
của con người, mặc dù đây là một cuộc đấu tranh rất lâu dài, đầy khó khăn:
Vị anh hùng ơi!
Đi đêm
Nhớ mang theo thanh kiếm
Còn Ta
Ta mang theo câu thơ
Và:
Viết đƣợc một câu thơ trung thực với Nhân Dân
Tôi đã đi qua bốn mƣơi năm bão táp
Cả xã hội diệt trừ cái ác
Cái ác vẫn ngang nhiên cƣời nói giữa đời
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Ý thức trách nhiệm của một nhà thơ có trái tim tràn đầy nhiệt huyết, với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm hứng thế sự, đời tư đầy tâm trạng đã đem đến cho sự nghiệp thơ Trần
32
Nhuận Minh những giá trị nhân văn sâu sắc: “góp thêm một tiếng nói có hiệu
lực vào thức tỉnh lƣơng tri của con ngƣời, mong muốn con ngƣời lƣơng thiện
hơn, yêu thƣơng và trân trọng nhau hơn…Không ít câu thơ của tôi thấm đẫm
nƣớc mắt…Tôi yêu cuộc đời này, sống, chết cho nó, viết vì nó, và không bao giờ
mất niềm tin vào nó, khi chính nó đã tự thay đổi nhiều bậc thang giá trị”[8.271].
Lời phát biểu trên của Trần Nhuận Minh cùng với những tập thơ mang
đậm chất hiện thực và tính nhân văn của ông đã là một bằng chứng cho những
quan niệm hết sức đúng đắn của tác giả về vai trò, trách nhiệm của nhà thơ đối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
với cuộc đời, với xã hội, với dân tộc.
33
Chƣơng 2
HÌNH TƢỢNG CON NGƢỜI – MỘT HÌNH TƢỢNG TRUNG TÂM
TRONG THƠ TRẦN NHUẬN MINH
2.1. Hình tƣợng ngƣời lao động – một hình tƣợng nổi bật, đặc sắc trong thơ
Trần Nhuận Minh
Đọc toàn bộ các tập thơ của Trần Nhuận Minh, người ta nhận ra rất rõ
một điều: hầu như tất cả thế giới hình tượng con người trong thơ ông đều là
những người lao động. Họ là những người công nhân vùng mỏ than, họ là những
người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, họ là những người lao động trí óc, là
những nhà thơ, nhà văn lao động cật lực trên trang giấy, trong trường học…
Trong từng thời kì lịch sử của đất nước, họ luôn là những hình tượng trung
tâm trong thơ của Trần Nhuận Minh. Chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ thấy nhà
thơ Trần Nhuận Minh đã gắn bó, đã hòa đồng với họ, đã giành hết tình cảm của:
yêu thương, kính trọng, xót xa, đắng đót…trước những số phận, những cảnh ngộ
của những người lao động.
Khi viết về hình tượng người lao động trong các tác phẩm của mình ở hai
giai đoạn lịch sử: trước và sau Đổi mới, Trần Nhuận Minh có cách nhìn nhận và
thể hiện khác nhau (tuy nhiên không đối lập nhau, chỉ là sự mở rộng và bổ sung
cho nhau). Nếu như trước 1986, chủ yếu là hình tượng người lao động được
phản ánh dưới góc nhìn của cộng đồng, họ hiện lên trong tư thế của cái Ta nhiều
hơn tư thế của cái Tôi. Tuy nhiên, ngay sau 1975 thì chân dung cái Tôi đã bắt
đầu hiện rõ hơn, cụ thể hơn. Còn sau 1986 đến nay thì chân dung người lao động
trong thơ ông đã hoàn toàn mang tư cách cái Tôi, đầy tính cá thể: mỗi con người
một số phận, mỗi mảnh đời một màu sắc, cụ thể và sinh động trong sự phong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phú, phức tạp của xã hội thời kì hiện đại với cơ chế thị trường đầy biến ảo và
34
đầy hiểm họa, bên cạnh bao điều tốt đẹp đã được khẳng định sau hơn 20 năm
đổi mới của xã hội Việt Nam.
2.1.1. Hình tượng người công nhân vùng “mỏ vàng đen” của tổ quốc Từ một anh thanh niên vùng quê nông thôn ra thành phố và gắn bó với
vùng vàng đen Đông Bắc từ những năm 60 của thế kỉ trước, thơ Trần Nhuận
Minh mang nặng một tình yêu đất mỏ, cái lấp lánh của than đen, của giọt mồ hôi
thợ mỏ đã làm nên chất thơ, và phần nào tạo nên vẻ riêng cho thơ Trần Nhuận
Minh. Những tảng than đen “nguyên khối xù xì” đã trở thành tiêu chí của
nguyên tắc sáng tác mà Trần Nhuận Minh kí thác và đó như một thông điệp:
Mỗi câu thơ anh viết
Nhƣ tảng kíp lê đen
Không hoa lá cầu kì
Không yếu hèn dôi trá
(4.000.000 – Âm điệu một vùng đất)
Cuộc sống của Trần Nhuận Minh trong những ngày đó là sự cộng hưởng
giữa vị ngọt êm dịu của khúc hát ru nơi đồng quê với vùng sinh quyển ồn ào,
náo nhiệt của miền đất “vàng đen”:
Nơi khúc dân ca nuôi chúng tôi tuổi thơ
Là nóng bỏng tiếng xe gào ủi đất
Núm ruột chúng tôi mẹ vùi sâu trong than
Day dứt chúng tôi là tình yêu đất than.
(Lên tầng)
Những bài thơ viết về đất mỏ của Trần Nhuận Minh luôn được viết với
một tình yêu như thế. Như người thợ mỏ mở lò, khai vỉa, khơi những suối than,
Trần Nhuận Minh cũng cố gắng khai thác chất liệu thơ đặc thù của vùng đất
công nghiệp, trong sinh hoạt lao động của người thợ mỏ. Khả năng quan sát,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nắm bắt chi tiết, sống trực tiếp với lao động sản xuất, đã làm cho thơ ông giầu
35
có về chất liệu đủ sức xây dựng lên hình tượng người công nhân trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 60 của thế kỉ XX.
Có thể thấy, Trần Nhuận Minh viết về hình tượng người công nhân thợ
mỏ bằng một niềm rung cảm được gạn chắt từ mồ hôi, than bụi. Điều đáng quý
là ngòi bút của ông không tìm chỗ dựa ở sự thi vị hóa hoặc những lời ca ngợi từ
sự nhìn ngắm bên ngoài. Ngòi bút của Trần Nhuận Minh chắt chiu những vẻ đẹp
ngay trong lao động nặng nhọc, lam lũ, trong đời sống thường ngày của người
thợ còn nghèo nàn, vất vả.
Người công nhân thợ mỏ ở vùng đất đầy nắng vàng, gió biển và bụi bặm
của than mang trong mình một “tình yêu kì lạ”. Không phải là tình yêu sâu nặng
với nơi chôn rau, cắt rốn, cũng không phải là tình yêu tha thiết đầu đời dành cho
một người thiếu nữ, mà là tình yêu ấm nóng của người thợ gói trọn vào than,
một tình cảm máu thịt của sức trẻ đã thấm đẫm vào than:
Thế đấy, anh thợ lò bạn tôi
Anh chỉ sống hết mình với tình yêu kì lạ
Là khi anh vào than
Nhất là khi vào than.
(Anh thợ lò – bạn tôi)
Tình yêu hòa trộn vào than là thế. Ở vùng đất này, bao niềm vui, nỗi buồn
của người thợ đều như “vết than lặn vào da thịt”. Và cũng chính nơi đây “mái
nhà còn lợp dầu, bữa ăn ca đêm còn thiếu cá, thiếu rau” nhưng vẫn thắp lên
trong trái tim người thợ một niềm tin mãnh liệt từ bàn tay lao động của mình.
Thành công của Trần Nhuận Minh ở chỗ ông đã nhập thân được vào
cuộc đời người thợ, khám phá được chiều sâu tâm lí cùng những tâm tình của
họ. Trần Nhuận Minh đã lựa chọn và sử dụng các chi tiết giàu chất thơ, giàu tính
khái quát để phản ánh hiện thực. Trong trường ca Đá cháy, hình tượng người
công nhân được phác họa một cách khá sinh động và chân thực. Đó là cả một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tập thể công nhân, tuy công việc khác nhau, có vị trí công tác khác nhau, nhưng
36
họ lại có chung một niềm say mê trong lao động, có chung một niềm tin vào
tương lai của đất nước.
Có biết bao gương mặt những người công nhân, gương mặt người lao động
đã được Trần Nhuận Minh khắc họa trong tác phẩm của mình. Một cô công
nhân “quét giác hót phân”; một anh công nhân “đi lò đá nhanh” trong tư thế
“chân xoạc tay giƣơng bình khí ép”, vật lộn với “vòm đá oang oang” trong
những âm thanh ầm ĩ, inh tai, nhức óc của “tiếng máy rú khê nồng”, tất cả trí tuệ
và sức mạnh thân thể của anh dồn vào công việc: “Mắt phồng căng và ngực
cuộn rung”; một anh “chống xén” ngày đêm sống trong “bụi hoang dại hai lá
phổi/Mỗi ca đào một thìu lò…”; một chú “gõ ghét va gông” “tới tấp vung
búa/Mắt bời bời nhòe nắng hoa bay”; một cháu gái lao động hợp đồng trong
hoàn cảnh “không gạo, chậm lƣơng” với một công việc nặng nhọc “gánh nƣớc
ngày ngày leo từng bậc núi”, nhưng luôn có tinh thần kỉ luật cao, có trách nhiệm
vì công việc: “cháu thì khát mà nƣớc dành để dội/Xuống lỗ khoan sâu chảy khét
đất gan gà…”; một anh kĩ sư trắc địa, người đã “hốc hác mệt phờ” mà vẫn kiên
trì dõi “mắt nheo nheo tìm mạch vỉa than qua ống ngắm”... Ngay cả những
người lãnh đạo ở vùng than này kể cả là ông Tổng giám đốc Công ty tuy đã lớn
tuổi nhưng vẫn rất trẻ trung, rất hăng say công tác: “Tuổi sáu mƣơi áo thun quần
soóc” và cũng rất gần gũi, ân tình với cấp dưới: “Tặng bác thợ tiện về hƣu/Chiếc
đồng hồ nhỏ mạ vàng”. Rồi một cô thợ sơn như một vũ nữ tài hoa: “tập múa
quay tròn” với dáng điệu uyển chuyển, mềm mại, “chân co lên nhƣ cái com pa
êm dịu” (Đá cháy).
Đọc thơ Trần Nhuận Minh, chúng ta được tiếp xúc với những con người
cụ thể: Cô thợ mài “dƣới vòng tay tung tóe vòng hoa lửa”(Gặp cô thợ mài là
người quên cũ); cô thợ hàn “cầm que có dây điện đài, hễ bấm nhẹ lửa tung ra
bẩy sắc”(Thưa mẹ); anh thợ hầm lò hát ru con “gõ vào chân cột nhƣ khi anh
đánh thìu”(Anh thợ lò – bạn tôi); rồi “ngƣời nổ mìn ở mỏ lộ thiên” với những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
dây chuyền tiếng nổ “làm chúng tan những cái phải tan”; anh lái ben la, bánh xe
37
cao hơn đầu ngƣời, đổ ra đất đá phi nhƣ ngựa cổ tích, sau tràng vỗ tay của trẻ
con, biến vào trong mây đặc quánh bầu trời của vùng mỏ (Trên tầng cao 380);
rồi anh thợ gõ nồi hơi, thợ chống lò, thợ làm đường, mở vỉa…
Có những người thợ có tên, có tuổi như Anh hùng Vũ Xuân Thủy:
Năm năm liền không nghỉ một ngày công
Anh vẫn khỏe nhƣ một chiếc máy xúc
Từ ngƣời thợ, anh trở thành quản đốc
Gót chân anh in khắp nẻo công trƣờng
Hay anh công nhân Nguyễn Văn Vỡi có chiếc chìa khóa mầu nhiệm luôn
luôn “gài vào hốc cột trƣớc hiên nhà” như cánh tay nhô ra đón mọi người đến
chơi, đến ở:
Ở tổ lao động xã hội chủ nghĩa của anh
Ngƣời ta thấy có nhiều ngƣời trƣớc đây hƣ hỏng.
Có ngƣời, mấy lần bị thi hành kỉ luật
Nặng hơn, có ngƣời mỏ định tống đi
Anh nhận về tổ anh
Và sau một thời kì
Họ thành thợ giỏi
(Chiếc chìa khóa của anh Vóc)
Từ anh hùng lao động Vũ Xuân Thủy đến anh công nhân Nguyễn Văn
Vóc, hai con người, hai danh vị khác nhau, nhưng ở họ lại lấp lánh vẻ đẹp của
tình người, tình đời, tình giai cấp mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Có người thợ trọn cuộc đời dấn thân trong hầm lò. Những thành quả hôm
nay, từ sản lượng đạt 4.000.000 tấn đến những vỉa than óng ánh đang được phát
lộ đã in hằn dấu ấn trên đôi bàn tay chai sạn, chằng chịt những vết sẹo của người
thợ già trước phút lâm chung:
Bàn tay ngƣời mở ra nhƣ cái lắc lê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hằn vết sẹo từ thời nƣớc mất
38
Ngón tay ngƣời run run
Dần chụm lại nhƣ một bông hoa héo
(Phút lâm chung của người thợ già)
Và đồng đội của ông, thế hệ lớp thợ trẻ tiếp nối đã có lời hứa chắc nịch
với di nguyện của người đi trước bằng cả tấm lòng thành thực và một niềm tin
vĩnh cửu:
Xin ngƣời cứ yên tâm vĩnh biệt đời
Chúng tôi biết mình có bàn tay tƣơi trẻ
Mang sức lớn của tâm hồn trí tuệ
Của giai cấp công nhân in lên mỗi công trình
(Phút lâm chung của người thợ già)
Và biết bao người thợ khác đang ngày đêm hăng say lao động để tạo
thành một chuỗi mắt xích dây chuyền vận hành suôn sẻ cho những mẻ than ra lò
như: người trực máng ga, người lái cần cẩu tháp, người tán đinh đồng, người
chữa xe ben lát, người lái máy xúc, người bơm xăng, người chặt gỗ trụ lò, người
xạc đèn ác quy, người kéo cáp điện…Tất cả những con người ấy không ai được
định danh, họ được gọi tên theo nghề nghiệp, chức vụ, nhưng điều đáng quý ở
họ là: từ lãnh đạo đến công nhân, từ kĩ sư hay lao động phổ thông, “cƣờng tráng
hay ho hen, hiền lành hay ngang bƣớng, có sáng kiến hay không sáng kiến, đang
làm hay sắp nghỉ hƣu, những ngƣời giản dị và rắc rối, hăng hái và chán
nản…”, nhưng đều “không bao giờ nghi ngờ về tƣơng lai”.
Cứ như thế, ngòi bút của Trần Nhuận Minh đi sâu vào phản ánh hình
tượng người công nhân vùng đất mỏ này. Nhà thơ tỏ ra rất am hiểu về mọi niềm
vui, nỗi buồn của họ. Trong đời người thợ, không có niềm vui sướng nào hơn
khi họ chứng kiến những vỉa than “nục nạc” nằm sâu trong lòng đất đang lộ dần
ra trước mắt. Có một sự liên tưởng thú vị của anh chàng lái xe khi “những cơn
mƣa khô” không phải do thiên nhiên ban phát, mà nó được xuất hiện từ chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mồ hôi, nước mắt và những đôi bàn tay săn chắc của người thợ dội xuống, để
39
bóc đi một lớp áo đất đá đày đặc bao phủ hàng triệu năm, làm phát lộ một màu
vàng đen óng ánh phơi giữa nắng trời. Trước thành quả lao động, người thợ trào
dâng một cảm xúc vừa nghẹn ngào, vừa tự hào, lâng lâng:
Cơn mƣa này mở rộng niềm vui
Than hiện trên những tầng vỉa dày nục nạc
Nhìn vỉa than mừng rơi nƣớc mắt
Tổ quốc mình giàu có thế này ƣ?
(Trên tầng cao 380)
Cảm xúc đó xuất phát từ tình yêu lao động và tâm huyết của người công
nhân thợ mỏ trước tiếng gọi làm giầu cho tổ quốc:
Tổ quốc mình bát ngát cánh đồng xƣa
Đang nuôi lớn những vùng công nghiệp
Làm thật nhiều than, đấy là điều tâm huyết
Đang gọi trong tim tôi hôm nay
(Trên tầng cao 380)
Trang thơ Trần Nhuận Minh luôn có sự kết hợp, đan xen giữa chất hiện
thực với chất lãng mạn. Từ hiện thực cuộc sống của người thợ, Trần Nhuận
Minh đã tìm thấy, đã phát hiện ra những vẻ đẹp đầy chất lãng mạn. Trên cái nền
của công trường bụi bặm đầy nắng gió, ở độ cao của khung nhà cao tầng, hình
ảnh người nữ công nhân được ví “nhƣ chiếc lá xanh”, mỏng mảnh “nẩy trên cây
sắt thép” và đang rực rỡ phát tỏa trước “muôn ngàn sao sa” bởi “từ tay em
những tia lửa bay ra”:
Em đứng trên khung nhà cao tầng
Nhƣ chiếc lá xanh, nẩy trên cây sắt thép
Từ tay em những tia lửa bay ra
Em thành trung tâm muôn ngàn sao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Cô thợ hàn trên khung nhà cao tầng)
40
Hay vẻ đẹp lãng mạn của người thợ lái xe được lồng trong công việc ở
trên độ cao của lưng đèo, của đỉnh núi mà tưởng như đang chạm tới mây trời:
Chính anh nào phải ai nào
Lái xe giữa một tầng cao chín tầng
Nhìn qua óng ánh mây trời
Vùng than điện sáng cũng dầy nhƣ sao
(Thư cho em gái)
Trước yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong đà xây dựng và tiến lên chủ
nghĩa xã hội, người thợ đã nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình là đem
sức lực, lòng hăng say và trí tuệ để đánh thức những “mỏ vàng đen” còn đang
nằm ngủ trong lòng đất. Người thợ mỏ trăn trở, lo toan với những con số tưởng
như trần trụi và khô khan – con số sản lượng pháp lệnh than của mỏ: 4.000.000
tấn nhưng chứa đựng bao tình cảm lãng mạn bay bổng của trái tim và tấm lòng
người thợ:
Hôm nay anh đi
Suốt vùng than
Trong tiếng ồn ào con số
Trong mỗi lo toan đời thợ
…Em ơi
Có vƣợt qua những ngày gian khổ
Mới hiểu đƣợc vì sao
Vì sao con số
Trần trụi
Khô khan
Con số
Lại vỗ vào đời anh nhƣ sóng vỗ
Lại đập vào ngực anh nhƣ trận gió rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(4.000.000 – Âm điệu một vùng đất)
41
Nhưng sau những bộn bề lo toan và trải qua bao nỗi vất vả, nhọc nhằn
trong lao động, người thợ lại có một khoảng bình yên để cởi lòng mình trong nỗi
rung động tình yêu, và trải hồn mình vào không gian lãng mạn đầy chất thơ giữa
màu nước xanh trong, của biển, của gió trời để tận hưởng cái cảm giác mát mẻ,
thanh tân:
Anh muốn ngồi bên em trên bờ Hạ Long
Tâm hồn ta nhƣ hòa vào xanh trong
Hƣơng biển mát đến tận cùng tim phổi.
(Âm điệu một vùng đất)
Tình yêu của người thợ sẽ được lên hƣơng, dậy sắc trên mảnh đất lành.
Họ đến với nhau từ những cảm xúc đầy lãng mạn của tâm hồn tuổi trẻ, và từ
chính tình yêu về vùng đất đang cần sức trẻ gieo mầm sự sống này. Cuộc hành
trình kiến tạo vùng đất mỏ cũng chính là cuộc hành trình đi từ tình yêu “lặng
thầm và cháy bỏng” đến cái đích của niềm tin và hạnh phúc:
Và rồi em sẽ quen anh
Tay gạt núi, mở chân trời thơ mộng
Anh yêu em lặng thầm và cháy bỏng
Đến tận cùng năm tháng cuộc đời anh…
(Em về vùng mỏ)
Và rồi hạnh phúc tươi hồng cũng đã đến với người thợ. Đó là hạnh phúc
của anh “lái bò” có tiếng còi rất điệu, cất giọng nam cao ngang tàng trong ngày
cưới của mình với cô vẫy đầu đường hàng ngày để cho xe anh đổ đá:
Anh lái bò cất giọng nam cao
Giọng rắn khỏe vút từ lồng ngực
Tay quen lái những cung đƣờng gấp khúc
Lời ca quen những âm điệu ngang tàng.
“có bỏ chúng anh không ơi hỡi cô nàng…”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Đám cưới cô vẫy đầu đường và anh chàng lái xe bò tót)
42
“Có bỏ chúng anh” tức là “có bỏ nghề không” cũng có nghĩa là “có lấy
anh không”. Đứng vẫy đầu đường ở mỏ lộ thiên, nghề đơn giản mà nắng sương
vất vả nên đã có bao nhiêu cô gái, hễ lấy chồng là phải chuyển nghề.
Chính mảnh đất “phố mỏ Hòn Gai quanh năm rừng rực nắng trời” này đã
xe duyên, kết mối cho bao đôi lứa người thợ khi họ gặp nhau trên một công
trường. Đây là lời anh thợ gõ nồi hơi đưa “cô bạn” thợ hàn về quê ra mắt mẹ:
Bạn con đấy, rất hiền mẹ ạ
Biết têm trầu và biết khâu vá
Biết nấu canh cua đồng với rau mồng tơi
(Thưa mẹ)
Cứ như thế, thật dí dỏm, vui tươi, nồng thắm tình người, hình tượng người
thợ mỏ trong thơ Trần Nhuận Minh ngày càng rõ nét, như là kết quả của sự khảo
sát, tìm hiểu, thâm nhập vào các mảnh đời, kết quả của tình cảm được thử thách
của tác giả sau bao nhiêu năm ông sống với vùng mỏ, với những người công
nhân mỏ nơi này.
Nhưng khi viết về người công nhân, Trần Nhuận Minh không chỉ mãi
dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà nhà thơ còn hướng ngòi bút sang cảm hứng thế
sự, để bám sát hiện tượng, sự vật, sự việc đang ngày đêm diễn ra ở cái vùng mỏ
đầy ắp than và cũng đầy ắp mồ hôi nước mắt này – nhất là khi lịch sử dân tộc
đang bước sang một hoàn cảnh mới: sau chiến tranh, tái thiết cuộc sống trong
muôn vàn gian khó, thiếu thốn, vất vả. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào
mảng hiện thực khuất lấp phía sau để phản ánh hình ảnh người công nhân trong
những ngày cực kì khó khăn của đất nước, với cái nhìn đầy sự xẻ chia, thông
cảm, đầy xót xa, đắng đót:
Anh thợ lò mang tín phiếu ra chợ
Tôi có ba mƣơi ngàn, ai trả bao nhiêu?
Gạo nhà nƣớc, bốn tháng liền nợ sổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lũ trẻ trƣa nay lại phải treo niêu…
43
(Bên đường)
Lời rao bán tín phiếu của “anh thợ lò” cứ găm vào lòng người đọc một
nỗi thương cảm đến quặn thắt. Hình ảnh người công nhân đứng giữa chợ đông
kẻ qua, người lại, với “cơn ớn lạnh, chạy qua tim” và sự“rùng mình” khi nghĩ
đến những đứa con còn chưa “no lòng” và đành hạ giá: “hãy trả tôi dƣới mƣời
ngàn cũng đƣợc”, nhưng rồi lại thất vọng khi “họ mỉm cƣời, và càng bƣớc thêm
nhanh” khiến cho người đọc không khỏi nao lòng.
Bên cạnh hình ảnh người thợ đứng ngơ ngác ở “bên đƣờng” mỏi mắt chờ
mong bán tín phiếu (được trả thay lương) để lấy tiền mua gạo nuôi con là một
hình ảnh, một cảnh ngộ khác, khiến ta càng xót xa hơn, đó là cảnh ngộ: một
người bạn có vợ được chọn đi làm Ô sin ở Đài Loan chớp lấy cơ hội gia đình
mình thuộc diện chính sách, anh công nhân nọ đã động viên vợ đi làm thuê ở xứ
người, tạm thời xa chồng con và gia đình với hy vọng sẽ chèo lái con thuyền
cuộc sống vượt qua “cái tao đoạn” của cuộc khủng hoảng kinh tế trong ngành
than:
Ƣu tiên gia đình liệt sĩ
Mình mới đƣợc làm Ô sin
Ngành than hiện đang giãn thợ
Biết đâu có việc mà tìm
Anh động viên vợ bằng lời lẽ vừa chân tình, vừa chua xót, vừa dí dỏm
mà đớn đau dưới dáng vẻ rất vô tư:
Thôi vui mà đi, mình nhé
Dùng dằng ngƣời khác sẽ thay
Lƣơng tám trăm đô, mỗi tháng
Ơn giời còn một cơ may…
Nhưng ẩn bên trong những lời lẽ tưởng như vô tư và lạc quan đó là một
tâm trạng buồn đến trĩu lòng, bởi đằng sau nụ “cƣời ngơ ngác” là “giọt lệ” của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nỗi niềm đắng chát, tái tê:
44
Bạn nói rồi cƣời ngơ ngác
Bâng khuâng gƣơng mặt hao gày
Giọt lệ của ngƣời đứng tuổi
Biết rơi vào cõi nào đây…
Có thể thấy, ngay từ trước thời kì Đổi mới, trong thơ Trần Nhuận Minh
đã có một sự chuyển đổi nhận thức và phương pháp phản ánh hiện thực. Từ chỗ
trong thơ ông chỉ một mầu tươi sáng, lạc quan khi viết về hình tượng người công
nhân vùng mỏ, đến chỗ thơ ông đã khắc họa những bức tranh hiện thực có một
màu sắc trầm và buồn cùng nỗi xót xa, lo lắng về số phận của những người công
nhân quen sống trong cơ chế bao cấp, nay phải đối diện với cơ chế thị trường.
Đó là một cách phản ánh hiện thực đa chiều hơn, phức tạp hơn. Chính vì vậy,
ông đã từng đúc kết về hình tượng người công nhân trong thơ của mình một
cách chân thực và đầy tính nhân văn như sau:
Họ lặn vào thơ tôi…thành câu
Với những hi sinh
Bền bỉ lặng thầm
Để vít đầu xuống
những cơn bão đang sinh thành
bùng phát cuối chân trời
Để đất nƣớc này rạng rỡ tên tuổi
Để đất nƣớc này, vƣợt lên…trong bình yên
(Đá cháy)
Quan niệm viết về người thợ là viết về cái xu thế phát triển của giai cấp
công nhân, Trần Nhuận Minh không nề hà tách ngòi bút thơ vào tất cả những
mẫu người vùng mỏ. Ông đã miêu tả những tình cảm, suy nghĩ khát vọng của
người công nhân trong mối quan hệ với đất nước, với dân tộc. Những suy nghĩ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tình cảm, khát vọng đó không phải là những khái niệm chung chung. Nó có màu
45
sắc cụ thể. Nó được cắm rễ lâu bền từ trên mảnh đất cụ thể mà người thợ đã
sống, đã làm việc với ý thức của giai cấp mình.
Thơ Trần Nhuận Minh viết về người công nhân phong phú chất liệu hiện
thực, có khi dồn ép đến quá tải những bộn bề thực tế sản xuất vào thơ. Khi ông
chú ý khai thác cái phần sâu tâm tình người thợ, hồn thơ ông tỏ ra nhạy cảm với
những khía cạnh tinh tế của cuộc đời. Chỗ mạnh của Trần Nhuận Minh khi viết
về thực tế sản xuất chính là sự phong phú tươi mới của đời sống, của chất liệu
hiện thực cùng với trí tưởng tượng và sự tài hoa của nhà thơ. Tuy nhiên thơ Trần
Nhuận Minh cũng không ít những nhược điểm dễ nhận. Một mặt mô phạm trong
cấu tứ, song mặt khác, lại thường lạm dụng ngôn ngữ lời nói của người thợ trong
diễn đạt. Đã thấy thấp thoáng ở thơ ông đôi ý, đôi câu mòn sáo. Phải chăng Trần
Nhuận Minh cần mở thêm những mũi khoan thăm dò trên chính vùng đề tài
quen thuộc để phát hiện những vỉa mới, những mẫu quặng còn đang tiềm ẩn và
để tìm thêm cách khai thác và xử lí mới những chất liệu ấy.
Gắn bó và viết trên đất mỏ, Trần Nhuận Minh đã góp cho thơ Việt Nam
những câu thơ hay, những bài thơ hay, đặc sắc về người thợ. Nhiều bài thơ giúp
cho người đọc thêm yêu vùng mỏ, yêu những người thợ mỏ trong bất cứ thử
thách gian khổ nào.
2.1.2. Hình tượng người nông dân – những mảnh đời phức hợp Thơ chân dung là một mảng thơ rất độc đáo của Trần Nhuận Minh,
trong đó, chân dung người nông dân được phác họa rất rõ nét. Họ là những con
người cụ thể, đơn lẻ nhưng lại có chung những nét đặc trưng.
Trần Nhuận Minh viết về nông thôn, về đồng quê với một thứ tình cảm
hết sức chân thật, gan ruột. Ông đã đề cập tới những sự thật không thể coi
thường hay chối bỏ ở chốn này. Thơ ông như đã phát huy tối đa những thế mạnh
của chủ nghĩa hiện thực trữ tình trong ca dao, dân ca đồng bằng Bắc Bộ. Đáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mừng thay, sau Nguyễn Bính, hồn quê Việt Nam như được tái sinh thăm thẳm
46
tình người, bâng khuâng, thao thức, cồn cào, trong các bài thơ của Trần Nhuận
Minh khi viết về nông thôn và những chủ nhân của nó ngày hôm nay.
Ngòi bút của Trần Nhuận Minh đã điểm xuyết tới tất cả những gương mặt
người nông dân lao động với những phát hiện hết sức tinh vi, sâu sắc cả bằng
trực quan và cả bằng trực cảm của mình. Họ xuất hiện với những cái tên cụ thể:
thím Hai Vui, bá Kim, ông Vọng, Dì Nga, …ngay cái tên đã báo hiệu một định
mệnh trái ngược với nó. Họ là một tập hợp cảnh ngộ éo le, không ai giống ai,
song họ đều phải gánh chịu những khó khăn, vất vả của cuộc sống thời hậu
chiến và chới với, lo lắng, bất hạnh trước ngưỡng cửa của thời buổi kinh tế thị
trường.
Trong thơ Trần Nhuận Minh, hình như mỗi người phụ nữ nông thôn đều
có một số phận như những con nước trong mùa hạn hán. Mỗi con nước có một
nguồn riêng, nhưng phần lớn đều là cạn kiệt trước khi hòa mình vào dòng lớn.
Hình ảnh một thím Hai Vui hết sức chăm chỉ, đảm đang, nay phải đón
nhận một nghịch cảnh đau xót trong cuộc đời với những bất hạnh không thể nào
biết trước. Trước đây, khi đất nước xẩy ra chiến tranh, thím là hậu phương vững
chắc: “Nuôi hai con ăn học/Cày cấy đến quắt ngƣời” để chồng yên tâm xông
pha nơi tiền tuyến. Lúc ấy thím lại cảm thấy rất vui vẻ và hạnh phúc: “Thím bảo
những năm ấy/Là những năm hòa bình”. Nhưng đến khi đất nước hòa bình, thím
tưởng sẽ được tận hưởng niềm vui, niềm hạnh phúc trọn vẹn trong khúc khải
hoàn ca chung của dân tộc như bao người vợ khác khi có chồng chiến thắng trở
về, nhưng nào ngờ bi kịch gia đình bây giờ mới thực sự ập xuống đầu thím như
một cuộc chiến tranh mới vậy: “Chỉ thƣơng thím Hai Vui/Mặt mũi luôn thâm
tím/Đến bây giờ chiến tranh/Mới đến thật với thím”. Cả cuộc đời có hai lần thím
cười, cả hai lần hòa cùng nước mắt. Đó là lúc thím gặp lại chồng: “Thím cƣời
mà nhƣ mếu”, và lúc thím li hôn chồng: “Miệng mếu lại thành cƣời”, trong nụ
cười ấy tồn tại những đối cực cảm xúc đầy mâu thuẫn. Từ một người phụ nữ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gia đình, thím lại bị đẩy vào tình cảnh không gia đình: “Nghe đâu thím lên
47
tỉnh/Rửa bát cho ngƣời ta”, bao nhiêu nỗi gian truân, vất vả, thím có đủ bản lĩnh
vượt qua, nhưng vết thương tinh thần đã làm thím quỵ ngã, thím mặc cảm trước
sự thương hại của người đời: “Thấy ai quen cũng lánh/Những mặt phấn quần
hoa…”. Trần Nhuận Minh đã thấu hiểu một nghịch cảnh thật nghiệt ngã. Trong
chiến tranh tuy xa cách thiếu thốn vất vả nhưng con người vẫn thấy bình an hạnh
phúc bởi có sự hòa hợp, thấu hiểu và yêu thương sẻ chia. Nhưng nay trước cơn
bão của kinh tế thị trường, lối sống thực dụng xâm nhập và sự ích kỉ các nhân
lên ngôi, con người bỗng thấy trơ trọi và không đủ sức chống đỡ. Đối với người
phụ nữ, chiến tranh đã đem lại bao hi sinh, gian khổ, nhưng hậu chiến tranh, với
những mất mát trong cuộc sống gia đình mới chính là nỗi bất hạnh lớn nhất
không thể vượt qua.
Khác với hoàn cảnh của thím Hai Vui, người phụ nữ ở làng biển tuy có
một gia đình hạnh phúc, nhưng trong lòng chị lúc nào cũng phấp phỏng, lo âu
một tai họa của thiên nhiên có thể giáng xuống. Hạnh phúc của chị cũng rất
mong manh khi người chồng thường xuyên phải đối mặt với những cơn thịch lộ
của biển. Mặc dù cơn bão biển đang tan nhưng cơn bão lòng trong chị vẫn đang
tồn tại:
Không phải sáng nào cũng đứng cân tôm
Chẳng phải chiều nào cũng ngồi vá lƣới
Có điều gì chị còn chƣa kịp nói
Khi anh bồng bềnh đi về phía bão đang tan
Có vẻ gì phấp phỏng lo toan
Trong vời vợi gian nhà ngƣời đánh cá
(Ở nhà người đánh cá biển)
Để có một hạnh phúc bền lâu, có một gia đình yên ấm, không bất trắc,
đối với người phụ nữ vùng biển này thật khó lắm thay! Đó là một sự thật không
thể nào khác được, cho dù ở bất cứ thời kì xã hội nào cũng vậy – vì thiên nhiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cũng khắc nghiệt chẳng kém gì lòng người!
48
Ngòi bút của Trần Nhuận Minh còn đụng đến cả những số phận của
những người phụ nữ nông thôn có những hoàn cảnh ngang trái, trớ trêu và họ có
những sự “nổi loạn” một cách mạnh mẽ trong việc tìm đến hạnh phúc đích thực
của mình. Hình ảnh cuộc đời của dì Nga là một cảnh đời như vậy. Với dì Nga,
nửa đời mình an phận trước sự sắp đặt để vừa lòng cha mẹ: “Lấy chồng theo ý
mẹ/Dạy con vâng lời cha”. Dì có một cuộc sống sung túc: “Chuỗi bạc trong
ngực áo/Vòng vàng ngoài cổ tay”, tưởng là dì hạnh phúc, nhưng cuộc sống vật
chất chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy trái tim băng giá của dì hằng đêm chưa
tìm được nhịp đập đồng điệu. Không chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình
yêu và nhận thức được giá trị của hạnh phúc, dì Nga trút bỏ tất cả để đến với
chốn neo đậu đích thực cho mình:
Dì theo một anh chàng
Chuyên nghề câu cá vƣợc
Bên nhau trong khoang thuyền
Giữa bốn bề mây nƣớc
(Dì Nga)
Hạnh phúc phải chăng luôn là một ẩn số trong bài toán cuộc đời mà con
người phải nhọc công tìm kiếm. Và dì Nga phải mất gần nửa cuộc đời còn lại
mới tìm ra đáp số.
Dưới ngòi bút của mình, Trần Nhuận Minh đã đặt ra những vấn đề bức
xúc, nhức nhối trong tình yêu và hôn nhân trước cuộc sống đầy biến động hôm
nay. Đó là vấn đề bạo hành trong gia đình, là sự đồng cảm trong quan hệ vợ
chồng, là sự chạy chốn trong tình yêu hay cố gắng để có được tình yêu…, dù là
vấn đề nào thì nạn nhân cũng là người phụ nữ. Họ vừa là nạn nhân của người
khác, vừa là nạn nhân của chính mình. Trong số họ, có người đã may mắn tìm
cho mình một lối thoát nhưng vết thương lòng thì không thể nào hàn gắn được.
Cảnh đời của những người phụ nữ không chỉ mang nặng vết thương do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
tổn thất về tình cảm gia đình, mà họ còn là nạn nhân bị đẩy tới phân cực giàu
49
nghèo bởi những cú va đập của nền kinh tế thị trường, thậm chí còn chịu nhiều
thua thiệt trong mối quan hệ bất bình đẳng của xã hội. Lúc nào con người nhỏ bé
cũng bị rẻ rúng, bị đối xử tàn nhẫn. Cô gái nông dân trên sân bay quốc tế
Seremechevô là một thực cảnh đau lòng:
Mấy ai thƣơng đến kẻ nghèo
Tấm thân đầy đọa đến điều…chƣa xong.
Người phụ nữ ấy vốn xuất thân nơi đồng chua nước mặn, mong muốn một
cuộc đổi đời để thoát khỏi kiếp cơ hàn cứ vây bủa: “Tƣởng rằng hết kiếp ngựa
trâu/Nào ngờ lại thấy trên đầu dùi cui”. Số phận con người nhỏ bé dường như
đã được an bài, càng muốn bứt phá, để chiếm lĩnh cuộc sống thì càng bị vòng
đời đen tối xiết chặt, quây hãm, không cho họ một lối thoát:
Đỏ xanh cũng môt chân trời
Đến đâu cũng một cuộc đời làm thuê
Đau xót hơn, khi lũy tre làng không còn là nơi bình yên để níu giữ bước
chân của những người phụ nữ vốn có tâm hồn thuần phác, có bản tính quê mùa.
Họ đã dấn thân vào con đường đầy gian truân, bươn trải ngược xuôi, và phải đối
mặt với những nghiệt ngã phũ phàng:
Quanh co trò chuyện đôi hồi
Thì ra em đã là ngƣời lƣu vong
Chôn con, bỏ việc, không chồng
Dây đời ai cởi trong vong ấy ra
(Tình cờ gặp người quen trên tầu tốc hành)
Viết về số phận của người phụ nữ nông thôn, giọng thơ của Trần Nhuận
Minh luôn tràn đầy yêu thương, thông cảm, đầy lo lắng, suy nghĩ, nhất là với
những người phụ nữ bất hạnh.
Hình tượng người nông dân cứ trở đi trở lại trong thơ Trần Nhuận Minh
như một sự ám ảnh, day dứt. Nhà thơ đặc biệt quan tâm tới những trẻ em có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những cảnh đời bất hạnh. Hơn bao giờ hết, Trần Nhuận Minh đã phản ánh cuộc
50
sống của trẻ em trước thực trạng của đất nước đang trong cơ chế thị trường đầy
biến động. Đằng sau bức tranh xã hội năng động thời mở cửa trong xu hướng
hội nhập quốc tế, thì còn nhiều bức tranh đời đẫm nước mắt vẫn hiện ra. Hình
ảnh một cháu gái đi giúp việc gia đình ở nước ngoài là một điển hình:
Tập hầu cơm ông trẻ
Đƣa tăm cháu phải quỳ
Tập ăn thừa dƣới bếp
Tập khóc chẳng ai hay
(Cụ Chiến tiễn cháu gái đi giúp việc gia đình ở nước ngoài)
Cháu gái cụ Chiến là một trong nhiều mảnh đời phải li hương vì miếng
cơm, manh áo với bao nỗi buồn tủi đang đợi nơi xứ người. Cuộc đời cụ Chiến
từng là chứng nhân những năm tháng đau thương, tủi nhục của dân tộc trong
vòng nô lệ. Giờ đây, cụ lại xót xa trước nỗi niềm đứa cháu gái tội nghiệp sắp
bươn trải trên đất nước người: “Bài học thời mất nƣớc/Ai ngờ dùng hôm nay”.
Trong thời cuộc mới, với sự vận động mau lẹ tới chóng mặt của nền kinh
tế thị trường với những quy luật khắt khe của nó. Khoảng cách giàu nghèo,
khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ngày càng rõ rệt, mặc dù nhà nước đã
có những chính sách để giảm bớt đói nghèo, thu hẹp khoảng cách. Do đó trong
vùng nông thôn bao quanh thành phố đã xuất hiện bao cảnh trẻ em (bên cạnh
người lớn) đã phải bỏ làng, bỏ nhà cửa, xa dời tuổi thơ bình dị để phiêu bạt ra
thành phố kiếm sống. Nhà thơ đau xót khi chứng kiến cảnh ngộ những em bé
lang thang, không một chốn nương thân trong đêm giao thừa:
Những em bé lang thang làm nghề bới rác
Bị xua ra khỏi nơi trú cuối cùng
(Giao thừa)
Và một đứa trẻ phải ăn cắp chiếc bánh mì để giữ lấy sự sống cũng bị
người đời đánh đập tàn nhẫn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Mặt nó sƣng vêu tím nhƣ ốc nhồi
51
Răng nó lung lay, mép dòng máu đỏ
Có thể nó không còn mẹ còn bố…
(Bài thơ không định viết)
Trước cảnh tượng đó, Trần Nhuận Minh không thể dửng dưng, vô tình,
ông đã kịp thời lưu vào trong “hồ sơ xã hội” của mình một trong những mảnh
đời thương tâm vẫn còn tồn hiện trong xã hội thời mở cửa, và đang có nguy cơ
bị xói mòn về môi trường đạo đức:
Không ai vô can khi một em bé
Đến ngày nay vẫn còn đói bánh mì
(Bài thơ không định viết)
Cảnh đời của em bé có phần nào giống cảnh đời của Giăng Văn Giăng
trong số “những ngƣời khốn khổ”. Có chăng khác nhau ở chỗ, Giăng Văn Giăng
phải cướp miếng bánh mì cho đứa cháu khỏi chết đói mà bị tù khổ sai, còn em
bé kia, dù sao sống giữa dòng đời đầy sự vô tâm, vô tình nhưng vẫn có “một tấm
lòng trong thiên hạ” cúi xuống xẻ chia và xót xa trước nỗi khổ của đời em.
Rồi còn bao nỗi bất hạnh khác từ “trên trời rơi xuống” đến với những
người nông dân nghèo khổ. Đó là bệnh tật hiểm nghèo, đó là tai nạn thương
tâm...ập xuống bất ngờ: Số phận cháu Thủy là một minh chứng, sự bất công nằm
ngay trong phán quyết của tạo hóa:
Ngƣời tốt mà mắc bệnh
Thƣờng khó qua hiểm nghèo
…Cháu một mình chịu đựng
Những giày vò nhân gian
(Cháu Thủy)
Cháu Thủy quẫy đạp trước bất hạnh của số phận, cố vượt lên nhưng bất
lực. Ở đây con người chỉ là trò chơi của tạo hóa. Câu hỏi cuối của bài thơ đọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
lại một nỗi niềm day dứt: “Sao ngắn đến thế này?/Cuộc đời một ngƣời tốt”.Cái
52
đớn đau của tác giả là: sao những người tốt lại phải chịu đoản mệnh còn bao kẻ
ác lại cứ nhởn nhơ sống?
Còn cuộc đời em Mừng bị đẩy vào một bi kịch đau lòng. Đó là bi kịch của
một con người “đã qua cái thời đói rách/làm sao còn khổ thế này”. Gánh nặng
gia đình đặt trên đôi vai, bắt em phải “đi đào than thổ phỉ/lấy tiền nuôi mẹ nuôi
em”, nhưng tạo hóa lạnh lùng, định mệnh cay nghiệt đã đánh đổi cuộc đời của
một đứa con hiếu thảo bằng một kết cục thương tâm: “Sập lò, cột đè gãy nát/Xác
buộc túm trong vải bạt…/Nƣớc than ngâm cháu đen sì/Rửa đến bao giờ cho
sạch”(Cháu đi đào than thổ phỉ).
Viết về những “tuổi thơ dữ dội”, Trần Nhuận Minh như muốn gửi tới
toàn thể xã hội một thông điệp khẩn thiết: đất nước đang trên đà hội nhập, phát
triển nhưng vẫn còn rất nhiều cuộc đời bất hạnh, vẫn còn đói nghèo ở quanh ta!
Tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm để xóa đi, để giảm thiểu sự đói nghèo
cho cuộc sống giữa con người gần khoảng cách hơn.
Thơ Trần Nhuận Minh còn tập hợp rất nhiều cảnh ngộ người nông dân
nghèo khổ khác. Họ phải bươn trải, vật lộn với cuộc sống thường ngày để mưu
sinh. “Đôi mắt xanh” biết yêu thương, trân trọng những người lao động nghèo
khổ của một nhà thơ đã khiến ông luôn đến bên họ để yêu thương, để cảm
thông, để biết ơn họ:
Bà tôi có chiếc đòn gánh cong
Nửa đời gánh mƣớn kiếp long đong
Đƣờng lầy gánh nặng vai cháy bỏng
Mỗi bƣớc chân đi nƣớc mắt ròng
(Chiếc đòn gánh cong)
Hình ảnh người bà cơ cực “thắt lƣng bó que” gánh trên đôi vai gầy bao
nỗi nhọc nhằn, cay đắng, bước thấp bước cao trên con đường thụt lầy, trơn trượt,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
gợi lên một mối thương cảm da diết đến như vậy.
53
Cảm nhận về nỗi bất hạnh của những kiếp người, những thân phận bé
nhỏ giữa cõi nhân gian, bài thơ ông Hủi đặt ra vấn đề về sự tồn tại của con
người trước những biến thiên dữ dội của cuộc đời:
Đồn rằng ông Hủi ngày xƣa
Qua đây trong một đêm mƣa lìa đời
Mối xông thành áo niệm ngƣời
Mong manh nƣớc trắng. Bời bời cỏ xanh
Khi còn sống, ông Hủi phải chịu cảnh “một đời đói khổ lao đao/ mịt mù
nào biết lối nào mà ra”, đến ngay cả danh tính và nguồn gốc xuất thân của ông
cũng không được rõ: “Không tên tuổi, chẳng quê hƣơng/Một mình quặn một
niềm thƣơng một mình”. Ông mang một nỗi đau thân xác trà xát với nỗi đau tinh
thần để gánh cả cuộc đời đầy đớn đau, khắc khoải, và lúc chết đi cũng chưa hết
nỗi buồn nhân thế, không thể giãi bày với đồng loại: “Bốn bề cây cỏ lặng
thinh/Trời xanh một sắc oan tình đó sao?”.
Giá trị nhân văn trong thơ Trần Nhuận Minh hầu như đều được bắt
nguồn từ những sự thật không né tránh, kiêng kị, từ những mất mát, đau thương,
những bất hạnh và những bi kịch của số phận con người. Do vậy đã hàm ẩn
trong nó tình yêu thương, sự đồng cảm thực sự với con người lao động của nhà
thơ. Trần Nhuận Minh là một nghệ sĩ tinh tế, cực nhạy cảm với những nỗi đau,
sự bất hạnh của con người, vì thế đọc thơ ông - người đọc luôn bị xúc động,
luôn bị cảm giác tức ngực, đầy sự lo lắng, xót xa và mong muốn được xẻ chia
cùng các số phận không may đó.
Những bức chân dung về người nông dân lao động của Trần Nhuận
Minh đã để lại trong lòng độc giả một nỗi ám ảnh, đôi khi thật da diết về một
kiếp người, về những con người trong làng quê Việt Nam thời kì hiện đại. Đó
cũng là một mặt của hiện thực xã hội ngày nay. Nhưng bên cạnh những mảnh
đời bất hạnh, những bi kịch thương tâm, những cuộc sống ảm đạm, vẫn lấp lánh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
những trang đời tươi sáng. Một Bá Kim, một Ông Vọng… dù còn phải rất vất vả
54
trong công việc làm ăn nhưng trong họ vẫn đầy ắp những tình cảm cao quý về
một nhân cách sống đáng trân trọng.
Bá Kim đã nguyện hiến dâng hai núm ruột của mình cho Tổ quốc, hai
người con trai hi sinh trên chiến trường để lại bá đơn độc trong túp lều tranh
“sau vƣờn mía”, với “niêu đất nấu cơm- chõng tre giải ổ”. Mặc dù là gia đình
liệt sĩ, có đồng tiền trợ cấp nhưng bá vẫn sống cuộc đời lam lũ: “Trƣớc móc cua
bây giờ cũng móc cua/Mu bàn tay chéo chằng vết xƣớc”. Bá an nhiên với cuộc
sống giản dị, không đòi hỏi bất cứ điều gì, vẫn trải tấm lòng nhân hậu, bao dung
ra với mọi người: “Bá bán cua khắp Huyện chợ Đình/Còn tiền lẻ, bá mua bỏng
bẹ/Tha hồ cho các cháu học sinh”.
Rồi một ngày kia bá Kim thanh thản ra đi vào cõi vĩnh hằng, không một
chút khổ lụy. Vì đó chính là cuộc ra đi cuối cùng của người mẹ anh hùng về
đoàn tụ với các con nơi bên kia thế giới:
Rồi một sớm ngọn đèn vẫn sáng
Cái hũ nằm bên…Bá đã đi rồi
Gƣơng mặt bá dịu hiền thanh thản
Không hề vƣơng những buồn khổ cõi đời
(Bá Kim)
Nếu cuộc đời bá Kim vừa bình dị vừa kì vĩ để “hồn thơm thảo đã lẫn
vào trời đất”, thì ông Vọng cũng là một dạng tính cách nhân hậu, chất phác, thật
thà. Sống bằng nghề đánh dậm nhưng ông vẫn hy vọng một cuộc sống tốt đẹp
hơn cho mình và đồng loại. Ông chắt chiu những nỗi cơ cực của mình để vắt
thành những giọt tình thương ấm áp phân phát cho những con người có cuộc
sống bi đát hơn mình:
Ông thƣờng bán tôm cá rẻ
Cho ai còn khổ hơn mình
Và sống ung dung, thanh thản một cuộc đời đạm bạc:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Có tiền ông mua cút rƣợu
55
Nhắm với hành tƣơi chuối xanh
Hình ảnh ông Vọng có gì giống với hình ảnh Lão Hạc trong tác phẩm
cùng tên của Nam Cao. Họ đều chan chứa tình thương, sáng ngời nhân cách, sẵn
sàng hi sinh tư lợi cá nhân cho người khác. Nhưng ở đây, có lẽ ông Vọng sung
sướng hơn Lão Hạc, ông không hề vướng bận riêng tư, không bị đẩy vào bi
kịch, mà luôn cháy bỏng trong mình ước mong tốt lành về một tương lai phía
trước:
Có đêm ông vừa thiếp ngủ
Cá tôm chạy chốn phƣơng nào
Ông bỗng thấy mình rực sáng
Vục lên cả một trời sao
(Ông Vọng)
Cuộc đời của bá Kim và ông Vọng dù sao cũng là nốt nhạc vui hiếm hoi
trong dàn đồng ca trầm buồn của bản hợp xướng về cuộc đời người nông dân
trong thơ Trần Nhuận Minh.
Đọc thơ Trần Nhuận Minh, qua bức chân dung về số phận người nông
dân lao động, chúng ta rơi lệ vì tâm niệm sâu thẳm của nhà thơ: “Tôi viết về nỗi
đau của con ngƣời”. Hình tượng những con người bé nhỏ như “Hoa cỏ” giữa
thảo nguyên mênh mông được nhà thơ trân trọng, cung kính: “Tôi chắp tay
trƣớc màu xanh muôn thuở…”. Cái chắp tay ấy là bản lĩnh và niềm vui vĩnh cửu
của Trần Nhuận Minh và người yêu thơ.
Cách xây dựng hình tượng nhân vật cho ta thấy quan niệm nghệ thuật về
con người của nhà thơ. Việc khai thác số phận người nông dân lao động ở nhiều
chiều, nhiều hướng, nhiều góc cạnh đã cho thấy cái nhìn cuộc sống và con người
trong thơ Trần Nhuận Minh đạt đến độ sâu sắc, đầy chiêm nghiệm đúc kết của
một nhà thơ từng trải. Có trách nhiệm với ngòi bút, sống và viết hết mình, thật
mình, luôn trăn trở, băn khoăn cho số phận người lao động (người công nhân và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người nông dân). Dường như chưa bao giờ nhà thơ lo âu, suy nghĩ nhiều cho
56
kiếp người như lúc này, nhưng chưa bao giờ Trần Nhuận Minh mất đi niềm tin
và không thôi khát vọng về con người với bao điều tốt đẹp.
Với dung lượng câu chữ ngắn gọn trong thơ, Trần Nhuận Minh đã dựng
lên được những bức chân dung sinh động về con người lao động, đó là kết quả
của sự trải đời, hiểu người, yêu người và thương người biết bao của “nhà thơ và
hoa cỏ” này. Thế giới hình tượng nhân vật của Trần Nhuận Minh - thế giới của
những mảnh đời phức hợp.
2.1.3. Hình tượng người lao động nghệ thuật Là người lao động trong lĩnh vực nghệ thuật, nên Trần Nhuận Minh có
một sự hiểu biết và đồng cảm đặc biệt tới hoàn cảnh, số phận của các nhà văn,
nhà thơ tự cổ chí kim.
Cuộc đời con người là một “lát cắt” trong quy luật vận hành của tự nhiên.
Số phận của văn nghệ sĩ thời phong kiến trong thơ Trần Nhuận Minh thường
gặp nhiều bất hạnh vì định mệnh, bất hạnh vì dòng xoáy thế cuộc xô đẩy, và vì
chính sự tài hoa nhất bậc của mình. Bởi lẽ, xã hội phong kiến mà họ sống và
phụng sự ấy vốn không trân trọng, không muốn dung nạp những người tài trí,
tâm sáng như sao Khuê đó; vì ánh sáng của trí tuệ, ánh sáng của lòng nhân ái
của họ có thể còn làm lu mờ cả thứ ánh sáng nơi điện vàng cung ngọc.
Danh nhân Nguyễn Trãi lúc sinh thời từng được suy tôn “vi thần”, có tài
thao lược “kinh bang tế thế”, “viết thƣ thảo hịch có sức mạnh nhƣ mƣời vạn
hùng binh”, góp phần quan trọng vào việc đánh thắng giặc Minh, khôi phục
giang sơn; một con người luôn có tư tưởng tiến bộ, thân dân, cận dân, lấy dân
làm gốc: “Lật thuyền mới biết dân nhƣ nƣớc”, một anh hùng văn võ toàn tài:
“Bóng Ức trai đi, động gió bốn phƣơng trời” thế mà lại bị rơi vào nỗi oan khiên
thảm khốc, phải rơi đầu trong vụ án Lệ Chi Viên:
Cụ Nguyễn Trãi ôm chăn ngồi trƣớc mũi thuyền
Gió buốt thổi sau lƣng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sông Kinh Thầy cuồn cuộn đỏ chảy về Đông
57
Cửa Bạch Đằng nƣớc triều dâng tới sáng
Cùng với mặt trời lên
Câu thơ phải rơi đầu.
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Không phải chịu một kết cục bi thảm như danh nhân Nguyễn Trãi, thi hào
Nguyễn Du cũng phải đối mặt với một xã hội phi nhân tính và sống trong thời
đại thấy “toàn nƣớc mắt” và nghe được những “tiếng kêu đứt ruột” của con
người , nên ông suốt đời trân trọng, cảm thương cho những vẻ đẹp của thế gian
và luôn cúi xuống nỗi đau của nhân loại, nhưng lại bất lực trước xã hội đầy bất
công. Trang thơ nào của ông đọc lên cũng có thể khiến ta rơi lệ bởi những kiếp
người bị vùi dập tàn nhẫn. Số phận Nguyễn Du cũng không tránh khỏi cái án
của “thiên mệnh” như bao con người tài hoa bạc phận khác: “Cõi đời đâu cũng
long đong/Văn chƣơng bạc phận, má hồng vô duyên”(Nguyễn Du). Ớn lạnh
trước “chính trƣờng sấp mặt, đồng tiền xoay ngang”, Nguyễn Du đã chủ động
đoạn tuyệt cuộc sống để được hòa mình vào với thập loại chúng sinh:
Cụ Nguyễn Du không chịu uống thuốc
Sờ xem ta chết đến đâu rồi
Ừ. Đƣợc
Cụ nói thế và đi
Lẫn trong thập loại chúng sinh
( 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Viết về hai nhà thơ lỗi lạc, hai đại diện tiêu biểu cho những người lao
động nghệ thuật của dân tộc có cuộc đời nhiều tai ương, bất trắc, và đầy bi kịch,
Trần Nhuận Minh thể hiện rõ sự ngưỡng mộ, trân trọng, và đầy thương tiếc, đớn
đau cho số phận của những bậc thiên tài.
Trong thơ, ông còn nhắc tới Lão Xá – một nhà thơ Trung Quốc tài hoa
nhưng lại phải đón nhận một bi kịch đau đớn, kinh hoàng bởi cuộc Cách mạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Văn hóa đã quy kết và xử lí ông một cách tàn nhẫn: “Lũ trẻ con từng rút lƣng da
58
có móc sắt quất chéo vào mặt Ông/Hả hê lôi xác Ông lên phơi nắng”. Nhưng rồi
cuối cùng ông cũng đã được nhân dân chiêu tuyết,và mãi bất tử cùng với kiệt tác
của mình:
Văn chƣơng lỗi lạc một thời
Bể dâu đến thế thì thôi còn gì
Chúng đốt Tường Lạc Đà của ông
Nhƣng nó mãi mãi vẫn là một trang kiệt tác
Nhân dân Trung Hoa nhờ những kiệt tác ấy mà bất tử.
(Lão Xá)
Cũng rơi vào bi kịch đau lòng không kém, Khuất Nguyên, một nhà thơ
lớn của Trung Quốc cổ đại, đã nhẩy xuống sông Mịch La tự vẫn, để trốn chạy
cuộc đời đầy bất công và lòng người đầy hiểm ác, nhưng cái chết lại đưa nhà thơ
vào thế giới không khác gì thế giới mà ông đang sống. Ở đây,Trần Nhuận Minh
đã có cái nhìn “giải cổ tích” về cuộc đời, về số phận của nhà thơ Khuất Nguyên
qua chuỗi “bi kịch liên hoàn” nhằm lí giải một hiện thực đen tối của triều đại
phong kiến Trung Quốc mà Khuất Nguyên đã sống:
Khuất Nguyên
Chê cuộc đời quá đục
Chọn chỗ nƣớc trong để trẫm mình
Tiếc thay!
Con cá lớn nuốt Ông
Trong bụng cá
Thức ăn đã thối rữa…
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Còn với hình tượng nhà thơ Êxênin – niềm tự hào của nước Nga một thuở,
cái chết đầy bi kịch của ông mãi vẫn là nỗi niềm day dứt cho những nhà thơ như
Trần Nhuận Minh:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Môi dập máu những câu thơ trong trẻo
59
Đến bây giờ, còn day dứt lòng nhau
(Đến làng Kôn xtan tinôvô quê hương thi hào Nga Xergây Êxênin)
Và đây là hình tượng nhà văn nước Nga Lep-Tônxtôi hiện lên giữa đối
cực của hai bờ hư – thực. “Bộ óc khổng lồ” sản sinh ra những kiệt tác bất hủ,
mà trong đó kết tụ hình ảnh một trái tim vĩ đại đập cùng nhịp đập với nhân dân
Nga. Đến lúc vĩnh biệt cõi đời, thân xác cũng lại trở về với cát bụi, nấm mộ ông
cô đơn bên cạnh hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm của mình:
Những tác phẩm thiên tài
Vƣợt ra ngoài
Các giới hạn
Đấng Tạo Hóa nằm đây
Nhỏ bé cô đơn
Bên gốc một cây sồi
(Trước mộ Đại văn hào Lep-Tônxtôi)
Cuộc đời con người luôn hữu hạn trước cái vô hạn của dòng chảy thời
gian. Chỉ có thơ ca là tài sản tinh thần có sức lan tỏa, tồn tại vĩnh cửu. Lầu
Hoàng Hạc sẽ chẳng còn gạch nối của một thời vàng son nếu không có bàn tay
Thôi Hiệu đề thơ trên đó. “Người thơ” giờ đã đi xa, nhưng di tích thì còn đó, và
đang bị biến dạng bởi sự can thiệp của bàn tay con người thời hiện đại, và bị
thương mại hóa, đã khiến cho Trần Nhuận Minh cũng cảm thấy se xót, thương
cảm, bàng hoàng:
Sau một ngàn hai trăm bốn mƣơi nhăm năm,
Thôi Hiệu làm sao hình dung đƣợc
Có một nhà thơ từ tận phƣơng Nam,
đến ngắm làn mây bay qua thơ Ông
mà thƣơng cảm bàng hoàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Mây trắng)
60
Tất cả các văn nghệ sĩ trong thơ Trần Nhuận Minh ở những thời đại
trước, ở mỗi dân tộc đều là những thiên tài. Họ sống trên cõi đời phải đối mặt
với hiện thực tàn nhẫn, những ngổn ngang, oan trái của thế thái nhân tình, thậm
chí có người phải gánh chịu một bi kịch thảm khốc, một nỗi oan khôn nguôi của
thời đại, khiến cho lịch sử không bao giờ lãng quên. Nhưng họ đã trở thành bất
tử khi những kiệt tác của mình vượt thời gian để tồn tại vĩnh hằng. Họ được
phục sinh trong nỗi ám ảnh, sự ngưỡng mộ của hậu thế như một niềm tri ân
thành kính, nhưng cũng để lại bao nhức nhối, bao xót xa trong trái tim của
những người lao động nghệ thuật đích thực này.
Không chỉ thấu hiểu và cảm kích trước các bậc tiền nhân, Trần Nhuận
Minh còn thấu hiểu, còn giành cả tình cảm yêu thương, quý trọng và sự đánh giá
đúng vai trò của người lao động nghệ thuật ngày nay.
Những người lao động nghệ thuật (trong đó có những nhà văn, nhà thơ)
đều là những người đang phải đối mặt với bao vất vả, khó khăn chồng chất. Họ
vừa phải lao động kiếm sống như bao người khác, lại vừa phải ra sức sáng tạo
những tác phẩm văn chương có giá trị đích thực! Vì vậy, họ phải hai lần vất vả,
hai lần đổ mồ hôi, công sức, trí tuệ, tình cảm để hoàn thành nhiệm vụ cao cả của
mình.
Với nhà văn Võ Huy Tâm, anh lấy đời người thợ để tìm cảm hứng sáng
tác cho đời mình. Anh chấp nhận dấn thân vào con đường lao động cật lực mong
có thể vượt ra ngoài khả năng bẩm sinh sáng tác, nhằm đưa những tác phẩm
nghệ thuật của mình đến đỉnh cao hơn, có nhiều sáng tạo hơn:
Không vào rừng thì đói
Nhà văn lại cƣời xòa
Mà văn chƣơng lại phải
Vƣơn lên những tầm xa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Tinh chất)
61
Còn nhà thơ Thanh Tùng, trước khi đến với thơ, anh là một người thợ.
Cho nên, ở anh - một con người đảm nhiệm hai thiên chức, vừa lao động chân
tay: “Bạn làm nghề áp tải/Đƣờng bộ và đƣờng sông”, vừa sáng tạo nghệ thuật:
“Thơ trong đầu nổi loạn/Mà chẳng nên bài nào”. Hai lĩnh vực khác nhau nhưng
lại gắn bó hữu cơ trong một con người để hình thành nên bức chân dung đầy ý
nghĩa: Nhà thơ áp tải:
Đất nƣớc có một thời
Kẻ gian nhiều nhƣ nấm
Không ngờ một nhà thơ
Lại sống bằng… nấm đấm.
(Nhà thơ áp tải)
Những người lao động nghệ thuật luôn có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp
của chính mình. Họ muốn để lại cho đời những những tác phẩm nghệ thuật có ý
nghĩa, nên cho dù vất vả, cho dù hiểm nguy, họ vẫn vượt qua hoàn cảnh, vượt
qua chính mình để có thể hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng của một nhà thơ
quyết: “áp tải sự thật/đến những bến cuối cùng”
Viết về văn nghệ sĩ cùng thời, Trần Nhuận Minh đã dựng lên bức chân
dung đời thường của họ rất chân thực và vô cùng xúc động. Mặc dù hiện tại,
“cơm áo không đùa với khách thơ”, đất nước còn gặp nhiều khó khăn, thách
thức, xã hội vẫn tồn tại những khiếm khuyết, những bất cập nhất định, nhưng họ
vẫn miệt mài lao động trên lĩnh vực văn học nghệ thuật bằng cái tâm, cái tài,
bằng niềm tin vào cuộc sống, niềm tin vào tương lai tốt đẹp.
2.1.4. Hình tượng người trí thức trước vòng xoáy của cơ chế thị trường Sau năm 1985, xã hội có nhiều thay đổi mạnh mẽ, không ít người trở
nên hoang mang hoài nghi trước sự phức tạp của đời sống, sự đảo lộn của một
số giá trị và chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Điều đó tác động mạnh mẽ đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quan niệm thẩm mĩ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ.
62
Tìm hiểu thơ Trần Nhuận Minh, người đọc sẽ thấy xuất hiện hình tượng
người trí thức được phản ánh ở nhiều chiều kích khác nhau. Nhà thơ đã quy tụ
những gương mặt ở mọi góc độ, mọi hoàn cảnh để dựng lên bức chân dung đời
thường, sống động. Họ là tầng lớp trí thức, tầng lớp cấp tiến trong xã hội, nhưng
chính xã hội của nền kinh tế thị trường như một guồng xoáy đã xô đẩy họ vào
mọi ngả của lối rẽ. Là chứng nhân của thời kì mở cửa, bên cạnh những biến
động tích cực của đất nước, thì vẫn còn những bất ổn, những tiêu cực tồn tại và
nẩy sinh, cho nên, Trần Nhuận Minh luôn nhạy cảm, xót xa, đau đớn trước sự
băng hoại môi trường và nhân cách con người nhất là những người trí thức –
những người có học, có văn hóa nhất trong xã hội.
Hình ảnh một cô Bổng đã từng đứng trên bục giảng, mang dấu ấn một
thời được xã hội vinh danh, được đồng nghiệp tín nhiệm: “Bầu cô đi dự đại hội
trên”, còn khi: “Về hƣu cô dƣợc dân cử/Thắp nhang và quét sân đền”. Cũng vì ý
nghĩa của cuộc sống mà nửa cuộc đời lúc trước, khi còn thời bao cấp, kinh tế
khó khăn, cô Bổng vẫn gắn bó say mê với nghề dạy học. Nay được tự do tín
ngưỡng, cô lao vào “kinh doanh” nghề mê tín dị đoan để thu nhập cá nhân nơi
cửa đền. Trước đây, cũng chiếc cặp này vẫn đựng những trang giáo án, còn “bây
giờ thấy thẻ với bùa”. Đồng hành với nền kinh tế xã hội đi lên là bước thụt lùi
của nét thuần phong mĩ tục. Con người đang có nguy cơ biến dạng lối sống bởi
ngoại cảnh.
Người trí thức nhiều khi cũng không cưỡng nổi trước sức lôi kéo mãnh
liệt của đồng tiền. Đồng tiền trong nền kinh tế thị trường có một ma lực đáng sợ,
nó thúc đẩy con người phải sống, phải làm việc tận lực, nó cũng đem đến bi kịch
cho con người đang ngùn ngụt khát vọng đổi đời bằng mọi giá và cũng phải trả
giá quá đắt:
Sự đời bác đến thế thì
Đã làm ông giáo còn đi buôn nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Sớm mai bác phải ra tòa
63
(Bạn chơi từ thuở quàng khăn đỏ)
Khi cảnh báo về sự xuống cấp đạo đức của xã hội, Trần Nhuận Minh
đặc biệt quan tâm và lo lắng cho những người trí thức vốn có bản chất lương
thiện nhưng do hoàn cảnh mà bị tha hóa. Bằng sự từng trải và bằng tất cả khả
năng của mình, ông muốn cảnh báo người trí thức, muốn giữ họ lại bên bờ vực
của sự tha hóa, muốn tránh cho họ những sai lầm đáng tiếc bởi hậu quả khôn
lường của cám dỗ đồng tiền.
Xã hội thời mở cửa có nhiều đảo lộn về chuẩn mực và các thang bậc giá
trị, thì xuất hiện những con người thích nghi nhanh chóng với lối sống mới cũng
là chuyện đương nhiên…Khôn ngoan, thức thời, tìm và tạo cơ hội làm giàu cho
mình không phải hoàn toàn là việc xấu, không hoàn toàn là người xấu - nếu như
đó không phải là lối sống có tác động tiêu cực đến cộng đồng. Một ông chủ tịch
huyện mới lên nắm địa vị, có chức quyền trong tay đã tự vẽ ra cho mình viễn
cảnh trong một buổi tiệc khao chức vụ :
Có gì nhƣ vẻ thơ ngây
Khi anh vẽ những ƣớc mơ xa vời
Ai ai mặt cũng ngời ngời
Hết lòng kính phục hết lời cậy trông
Nhưng họ đâu biết rằng, sông có khúc, người có lúc, cuộc sống cũng như
dòng sông không bao giờ chảy thẳng, cạm bẫy danh vọng luôn dăng mắc mọi
lúc, mọi nơi:
Đây là một khúc con sông
Rồi sau khúc đục khúc trong thế nào.
(Tiệc đêm)
Cơ chế thị trường là luồng sinh khí mới nhưng nó cũng mang theo
không ít độc hại, có thể phá hủy nhân cách con người, biến con người thành nô
lệ của dục vọng. Hình ảnh một ông giám đốc đang trượt dần xuống dốc của lối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
sống tha hóa, lúc nào cũng có nhân tình đi theo – thật trớ trêu:
64
Đứa thì làm giám đốc ngành
Đi đâu cũng có nhân tình đi theo
(Bạn chơi từ thuở quàng khăn đỏ)
Nhưng có lẽ đối với Trần Nhuận Minh, điều mà nhà thơ quan tâm và đau
đáu hơn cả không phải chỉ là sự thay đổi lối sống buông thả của người trí thức
mà hơn hết là sự thay đổi nhân cách của họ trước sự tác động của môi trường
sống mới. Lối sống thực dụng hiện đại phát triển, những khoảng tối, góc khuất
trong tâm hồn người trí thức có cơ hội lộ diện. Hình ảnh một người bạn xưa
thành đạt, nhưng từng bước đã trở thành lố bịch, đáng trách: “Từng làm chủ tịch
huyện/Từng làm giám đốc ngành” thế mà: “Về già chơi chống bỏi/Tom chát đủ
tam khoanh” (Thăm bạn); hình ảnh Bác Vương Liên – một thời từng là anh bộ
đội cụ Hồ, vào sinh ra tử nơi chiến trường máu lửa; đã từng sống một cuộc sống
cơ cực, nhưng nay khi đã trở lên giầu có thì lại sa ngã, sa đọa:
Nghe đâu bác bây giờ
Đóng tiền vào bao tải
Thuê những hai hầu gái
Giặt quần và đấm lƣng
(Gửi bác Vương Liên)
Cái khúc sông cuộc đời của bác Vương Liên phất lên về hậu vận, nhưng
khúc sông lòng thì lại bắt đầu vẩn đục. Trong thời buổi kinh tế thị trường, mọi
bậc thang giá trị đã thay đổi, bác Vương Liên đã có một cách suy nghĩ khác để
biện minh cho lối sống thực dụng:
Trƣớc cần lí lịch tốt
Giờ cần có lắm tiền
“Phải chăng bác nói đúng” - khi đồng tiền đã từng làm mưa, làm gió trong
Truyện Kiều, thì nay nó lại trở về vị trí thống soái cho mọi hành động tiêu cực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của con người trong thời hiện đại. Tác giả xót xa viết câu thơ đó.
65
Hình ảnh Tú Lão – một cán bộ lãnh đạo, một Đảng viên, vậy mà trước cơ
chế thị trường đã không xác định được hướng đi, đó là một tấm gương xấu cho
thế hệ sau, khi lão:
Lão bảo Lão vừa xin ra khỏi Đảng
Kệ xác sự đời những biến thiên
Hằng ngày uống rƣợu và cƣời khẩy
Lão chỉ quan tâm mỗi chuyện tiền
(Tú Lão)
Lão thờ ơ với sự đời, dửng dưng trước dư luận xã hội, lãnh đạm với vợ
con, sòng phẳng trong chuyện tình cảm với bồ nhí để hưởng lạc dục vọng mới:
Lão bảo cƣới nhí về làm thiếp
Tính Lão chẳng ƣa việc lòng thòng
Thuê hẳn hai hàng bình bịch
Vừa đi vừa bắn pháo bông
(Tú Lão)
Mặt trái của nền kinh tế thị trường và tác động mạnh mẽ của nó đến đời
sống xã hội ngày càng góp phần đẩy xã hội tới phân cực gay gắt giữa các mặt
đối lập, giữa nhân cách và phi nhân cách, đạo đức và phi đạo đức…, và cũng
đẩy xa hơn rất nhiều khoảng cách giữa người giầu và người nghèo, giữa kẻ có
chức quyền với người lao động:
Lúc họp trung ƣơng họp tỉnh
Hỏi thầy tìm thuốc chán rồi
Chả làm sao mà gầy đƣợc
Em nhƣ xấu quá chị ơi
Nhiều khi những hành động của họ đã tạo lên hình ảnh mặt trái của tấm
huân chương:
Chỉ sợ nhà em bồ bịch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Nào ai biết đƣợc thế nào
66
Chị ơi đừng tin các lão
À thôi…em thử ra sao…
(Nghe trộm hai bà trò chuyện)
Những lo lắng đầy trách nhiệm trước sự rạn nứt những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của dân tộc, những xót xa trắc ẩn trước những cảnh đời éo le
ngang trái, khiến Trần Nhuận Minh đặc biệt quan tâm đến những người trí thức
bị tha hóa bởi hoàn cảnh. Người cháu đi nghiên cứu sinh tại Liên Xô, thay vì
đèn sách, dùi mài kinh sử thì anh ta lại đánh mất lương tâm, đã tự thiêu rụi
tương lai sáng lạn của mình để đi vào con đường trộm cướp xứ người:
Cháu đã lƣu vong làm tƣớng cƣớp
Đoạt của, đánh ngƣời chẳng ghê tay
Cháu là nỗi kinh hoàng trên các sân bay…
(Chú sang Liên Xô có gặp cháu)
Đọc thơ Trần Nhuận Minh, người đọc không thể không khắc khoải suy
nghĩ, lo âu cho những con người cá nhân khi họ đang trượt dài trên con đường
kiếm tìm đồng tiền để làm giàu nhanh nhất, kể cả những việc làm ghê tởm: giết
người, cướp của. Không ai có thể phủ nhận những tác động tích cực của cơ chế
thị trường vì đã giúp thay đổi bộ mặt kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của
số đông con người. Nhưng cơ chế thị trường cũng có mặt trái của nó. Trong cơ
chế ấy, con người dễ quen với lối sống hưởng thụ, với quan hệ mua bán lạnh
lùng mà nếu không đủ bản lĩnh để chế ngự dục vọng thấp hèn thì con người dễ
tha hóa, và sẽ đánh mất chính mình.
Khắc họa hình tượng người trí thức trong đời thường, Trần Nhuận Minh
chủ yếu đi vào phê phán những người trí thức bị tha hóa, biến chất bởi cơ chế thị
trường. Ông đã “không ngại né tránh một sự thật nào, cho dù sự thật đó có đau
đớn kinh hoàng đến đâu”. Thái độ và phương thức chiếm lĩnh hiện thực của
Trần Nhuận Minh luôn đề cao sự thật, nhà thơ dũng cảm “áp tải” nó tới bến bờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
của chân lí. Giữa đời sống kinh tế thị trường điên đảo với những tệ nạn và tham
67
vọng, những vần thơ của Trần Nhuận Minh như một hồi chuông cảnh tỉnh mọi
người hãy dừng lại giữa dòng đời hối hả để nhìn lại chính mình và lên tiếng
trước thực trạng xã hội đang làm suy đồi về đạo đức, và băng hoại nhân cách
con người.
2.2. Hình tƣợng ngƣời lính trong thời chiến và thời bình
2.2.1. Người lính trong chiến tranh lấp lánh vẻ đẹp anh hùng Trong một thời gian dài, cuộc đấu tranh trường kì vĩ đại của dân tộc ta đã
trở thành mối quan tâm hầu hết của các văn nghệ sĩ. Đây là lẽ tự nhiên, bởi
không có một nghệ sĩ chân chính nào có thể đứng ngoài những sự kiện gắn liền
với vận mệnh của tổ quốc. Nói như nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng người Nga
Biêlinski: “Nhà thơ trƣớc hết là con ngƣời, sau đấy là công dân của đất nƣớc
mình, là con đẻ của thời đại mình. Tinh thần của nhân dân và của thời đại tác
động vào nhà văn không thể ít hơn ngƣời khác” (Báo Văn nghệ ngày
25/3/1969).
Thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ, sống trong bầu không khí hào hùng của những năm tháng cả dân tộc
hành quan ra trận, nên khi viết về người lính trong chiến tranh, giọng thơ Trần
Nhuận Minh mang âm hưởng ngợi ca, đậm chất sử thi của thời đại. Cảm hứng
trong các tác phẩm của ông bắt nguồn từ sự tự hào và ngợi ca sức mạnh tinh
thần của người lính.
Người lính trong thơ Trần Nhuận Minh vốn xuất thân nơi gốc rạ, bờ tre,
con người hiền hậu, chất phác như củ khoai, bông lúa. Truyền thống bất khuất,
anh hùng đã nặn sâu vào từng đường gân, từng mạch huyết quản của biết bao
thế hệ. Họ lên đường ra trận trong “những năm xao xác bờ tre từng hồi trống
giục”. Một hình ảnh rất đẹp và cảm động:
Chi chít những dấu chân trai làng ra trận
Dấu chân con in lên dấu chân cha.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Cổng làng)
68
Những dấu chân của nhiều thế hệ là một cuộc tiếp sức vĩ đại trong cuộc
kháng chiến trường kì của dân tộc, thắp lên ngọn lửa truyền thống của lòng yêu
nước bền bỉ, cháy mãi và tỏa sáng cho đến khi quê hương sạch bóng quân thù.
Những người lính trong thơ Trần Nhuận Minh là những con người say
mê lí tưởng, dám sống và chiến đấu theo lí tưởng mà mình đã lựa chọn, dám
hiến dâng tất cả đời mình cho Tổ quốc, để tên tuổi của họ tấu lên thành giai điệu
“có một bài ca không bao giờ quên”:
Bạn thấy chăng
Hàng triệu triệu ngƣời
Lần lƣợt lao vào lửa đạn
Cho Tổ Quốc sáng bừng tên tuổi
(Bản Xô nát hoang dã)
Chiến tranh đã gieo rắc bao đau thương cho quê hương, xứ sở: “những
làng xóm thân yêu tím bầm trong vết đạn”. Đất nước đang phải quằn quại, chảy
máu dưới bom đạn kẻ thù. Vì Tổ quốc thân yêu, vì khát vọng hòa bình, người
lính đã xả thân, xông pha nơi hòn tên mũi đạn, lập lên những chiến công vang
dội:
Mảnh máy bay rơi trắng đƣờng Cò Tuất
Tân Hiệp, Giồng Riềng, xác giặc ngổn ngang phơi…
Và lời tuyên thề của người lính sang sảng như tiếng vàng, tiếng thép, như
đinh đóng cột, như rựa chém đá được đáp lại bằng những kì tích phi thường
mang tính sử thi:
Đất nƣớc này quyết không dung giặc Mĩ
Hàng loạt đồn nát vụn dƣới chân anh.
(Gửi Rạch Giá)
Thế nhưng “đánh cho Mĩ cút , đánh cho Ngụy nhào” chưa được bao lâu,
vết thương chiến tranh chưa kịp hàn gắn, chiến tranh biên giới lại nổ ra. Những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
người lính chiến trận năm nào, nay lại gánh vác sứ mệnh cao cả, chuẩn bị lao
69
vào cuộc chiến đấu mới để giữ trọn vẹn thành quả mà nhân dân ta phải đổ biết
bao xương máu mới giành lại được:
Những chiến sĩ ngày đêm giữ chốt
Xẻ dọc chiến hào
Lại thấy hàng cột mốc
Của ông cha
Dƣới hàng cọc biên thùy…
(Thành phố bên này sông)
Nhưng chiến tranh đâu chỉ có những bản anh hùng ca thắng trận, ngay cả
trong ánh hào quang chiến thắng, còn có nhiều mất mát, hy sinh. Những người
lính còn trẻ tuổi, đương độ căng trào sức sống, nhưng vì non sông chìm trong bể
máu, cho nên các anh ngã xuống mà “chẳng tiếc đời xanh”:
Nấm mồ ngƣời lính trẻ
Hiện ra bên chiến hào
(Hoành Mô mấy trắng)
Người đọc nhận ra sau mỗi dấu chấm kết thúc của mỗi câu thơ ấy là sự
cảm thương của tác giả giành cho những người lính phải từ giã cuộc đời khi còn
quá trẻ. Nhưng đối với người lính:“Chết vì tổ quốc/Chết ấy vinh quang/Lòng ta
sung sƣớng/Trí ta nhẹ nhàng” (Nguyễn Thái Học).
Đất nước được hồi sinh, bất tử, vĩnh hằng, nhưng lại phải đánh đổi bằng
cuộc sinh li tử biệt giữa người lính với người thân và gia đình. Các anh hy sinh
trong những trận đánh mang tính quyết định cho sự sống còn của dân tộc ở
những thời điểm lịch sử cam go và quyết liệt nhất. Có người đã ngã xuống ở tiền
tiêu khi hành trình đến ngày đại thắng chỉ còn tính bằng giây phút đồng hồ:
Con cả mất khi chiếm hầm Đờ Cát
Con thứ hi sinh lúc giành lại Sài Gòn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Bá Kim)
70
Người lính ngã xuống, đất nước ru họ trong giấc ngủ bình yên, quê
hương xứ sở đã ôm ấp hình hài của họ vào lòng:
Thời gian đắp cho anh tấm chăn màu hoa cỏ
Anh ngủ giữa trời sao đâu có cạnh đƣờng mòn
(Tiễn vợ một người lính)
Sự hi sinh của người lính không còn là sự mất mát hay tan biến vào cõi
hư vô mà được hóa thân, thăng hoa thành những biểu tượng cho sự sống tinh
thần bất diệt, cho khát vọng tự do hòa bình:
Sẽ bay lên nhƣ cánh chim
Sẽ bay lên…
bay lên…
bay lên…
nhƣ cánh chim
Nhƣ – cánh – chim…
(100 bước cuối cùng)
Họ đời thường “sống cùng dân”, “mặc quần đùi khiêng pháo lội qua
sông” (Thanh Thảo) mà lại rất đỗi anh hùng, trước cái chết họ thấy mình “tinh
khôi vừa đƣợc sinh ra”, hóa thân mình trong hình ảnh mùa xuân đất nước:
Trên mộ anh, gió lúc nào cũng mát
Xanh biếc bốn mùa đều là cỏ Mùa Xuân
(Trên mộ người cộng sản)
Những nấm mồ vô danh
Tạc lên hình đất nƣớc
(Bạn thơ mời rượu bên sông Tiền)
Những câu thơ viết về người lính trong chiến tranh của Trần Nhuận
Minh đã làm thổn thức lòng người đọc bởi những suy ngẫm sống sao cho xứng
đáng với thế hệ cha anh, với Tổ quốc, và càng thêm yêu quý non sông đất nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
này. Viết về số phận người lính trong chiến tranh không phải là đề tài mới,
71
nhưng Trần Nhuận Minh viết với thái độ và cách nhìn mới có sự hòa trộn giữa
hai điểm nhìn lí tưởng hóa và hiện thực. Trần Nhuận Minh trong tư cách là
người nhập cuộc, người tham gia vào lịch sử cất lên khúc sử thi hào hùng của
một thế hệ dám sống, dám chiến đấu và hi sinh cho lí tưởng, cho mùa xuân bất
diệt của đất nước.
2.2.2. Người lính trong thời bình đối mặt với những thách thức đầy bất ổn Sau năm 1975, Đất nước sạch bóng quân thù. Những người lính anh hùng
bước ra từ cuộc chiến để trở về với cuộc sống đời thường. Trước mắt là cả một
quãng đường dài không ít những khó khăn, trở ngại mà họ cần phải vượt qua để
tồn tại. Nhưng cuộc sống thời bình không hoàn toàn làm cho người lính ung
dung, thanh thản. Xây dựng hình tượng người lính trong đời thường, Trần
Nhuận Minh đã đạt tới chiều sâu trong việc khám phá tâm lí nhân vật. Nhà thơ
đi vào từng cảnh ngộ cụ thể của người lính để nắm bắt lấy những biểu hiện,
phản ứng tâm lí của họ trước một hoàn cảnh xã hội đầy sự biến động và phát
triển.
Hình ảnh một Đại tá quân đội về hưu với đồng lương ít ỏi phải làm nghề
bơm xe đạp; một người bạn từng có mặt trong khắp các trận đánh cho đến ngày
đất nước thống nhất vẹn tròn, khi giải ngũ về quê, vẫn khoác trên mình bộ quân
phục giản dị, bắt đầu bước vào cuộc sống của một lão nông tri điền:
Đứa thì đánh giặc liên miên
Về quê vẫn chú lính quèn vậy thôi
(Bạn chơi từ thời quàng khăn đỏ)
Còn rất nhiều người lính bước ra từ cuộc sống binh nghiệp đầy gian khó.
Họ phải đối mặt với một cuộc sống mới mà mọi giá trị đang biến đổi từng ngày.
Họ khó hòa nhập với cuộc sống thị trường đầy bon chen, với những quan hệ xô
bồ, và vì thế, cứ ngơ ngác giữa dòng đời và người thân. Một người lính già lúc
trẻ lập nhiều chiến công hiển hách, huân chương treo đầy trên tường, bây giờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
bỗng thấy mình lạc lõng giữa cuộc sống đang đổi thay một cách nhanh chóng,
72
nên chỉ còn biết sống với hoài niệm của một thời chiến tranh ác liệt nhưng hào
hùng:
Chẳng ai cƣời ngƣời già lão
Ơn Giời, Giời để tuổi cho
Chiến công còn ghi sử sách
Huân chƣơng để trên bàn thờ
Mai ngày về cùng các cụ
Nhớ thuê hai đội kèn đồng
Thổi toàn bài ca chiến trận
Đã từng vang dội núi sông.
(Quê ta)
Con người là nguyên khối nhưng cũng là con người của phân thân và
đối lập, người lính luôn mang trong mình một nỗi lo lớn cho sự tồn tại của cuộc
đời, vốn bao giờ cũng là sự song hành giữa hai bờ buồn – vui, được – mất, bi
quan – lạc quan, thất vọng và hy vọng. Số phận người lính luôn được Trần
Nhuận Minh đặt trong một sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa thời chiến
và đời thường. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc, hình tượng người lính hiện lên
dũng cảm, mưu chí và phi thường:
Thân qua trăm tầm đạn
Không hề có vết thƣơng
Chiến tranh lùi xa vào kí ức, người chiến binh trở về đã và đang phải đối
diện với cuộc sống ngổn ngang thách thức của thời bình. Cuộc sống hiện đại với
trăm ngàn biến ảo thì có trăm ngàn lí do đẩy người lính vào trạng thái cô đơn
khiến họ như rơi vào thảm cảnh hoang vắng, trống trải trong tâm hồn và luôn
cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời. Họ phải đối mặt với những bi kịch,
những cảnh ngộ buồn đau: “vợ bỏ”, “con vƣợt biên”, “nhà bán”, “thơ đếch ai
in”. Lúc phải đối mặt với chiến tranh ác liệt, người lính đã dũng cảm vượt qua
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
để có thể tự hào, ngẩng cao đầu trong tư thế của người chiến thắng, nhưng trong
73
cuộc sống đời thường, đầy sự biến động, vận động không ngừng, khiến họ ngơ
ngác, không theo kịp, không thích ứng kịp, nên nhiều khi lại muốn được quay lại
nơi chiến trường máu lửa để được hi sinh anh dũng qua những trận đánh:
Tớ muốn làm liệt sĩ
Đất nƣớc không chiến trƣờng
Hi sinh đâu phải dễ
(Bạn cũ)
Chiến tranh đã đem lại bao đau thương, mất mát cho con người, và chiến
tranh cũng làm cho người lính tỏa sáng hào quang bởi những chiến công vang
dội. Thời thế tạo nên những người lính anh hùng, nhưng chính thời thế cũng làm
nẩy sinh thói công thần trong người lính. Rất nhiều người lính sống sót trở về
sau chiến tranh để trở thành người chồng thủy chung, người cha mẫu mực và
người công dân tốt, nhưng trong bài thơ Thím Hai Vui, có những người lính
từng bạo lực với kẻ thù trong chiến tranh chuyển sang bạo lực trong gia đình
thời bình. Bản tính đó như một hội chứng hậu chiến trút lên đầu thím Hai Vui:
Thế rồi…biết vì đâu
Yên lành không chịu đƣợc
Vợ con chú đánh trƣớc
Xóm giềng chú đánh sau
Chớ dại mà can chú
Chú nhất cả huyện rồi
Người lính đó từng góp công để kết thúc cuộc chiến tranh vệ quốc, nhưng
lại đem đến cuộc chiến tranh cho gia đình: “Chú đòi phải li dị/Mỗi con về một
nơi”. Người lính đã tự đánh mất đi hạnh phúc của mình, gây nên tình cảm li tán,
và đã tạo nên một vết thương lòng vĩnh viễn không thể hàn gắn trong sự đổ nát
tình cảm vợ chồng, dẫn đến bi kịch gia đình người lính là những mảnh vỡ không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoàn nguyên.
74
Hình tượng người lính trong thơ Trần Nhuận Minh được phác họa trong sự
đối lập. Trong chiến tranh, người lính lấp lánh phẩm chất anh hùng, với bản lĩnh
dũng cảm, yêu nước, thương dân. Sự hi sinh của họ không thể nào đo đếm được,
không thể gọi tên. Nhưng trong đời thường, nhà thơ lại phát hiện ra một thực tế
xót xa trước số phận của người lính, đầy bất trắc, và thương cảm. Vì thế số phận
người lính, như một minh chứng cho những nghịch lí đau buồn trước cuộc sống
đầy biến động và phát triển. Sự mãnh liệt của cảm xúc ngợi ca song hành với
một lí trí tỉnh táo trong cảm hứng thế sự, giúp Trần Nhuận Minh tái hiện sinh
động và chân thực về hiện thực ở góc nhìn số phận người lính cả trong thời
chiến và trong thời bình.
2.3. Hình tƣợng Mẹ - vẻ đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam truyền thống
Trong thơ ca, số bài thơ viết về tình mẫu tử chiếm một lượng không
nhỏ. Số lượng thi phẩm này có sức thuyết phục lòng người, kể cả những độc giả
khó tính nhất. Bởi nó vượt qua những tiêu chí về nghệ thuật mà để lại cái tình
trong thơ, khiến người đọc xúc động và không thể quên.
Trần Nuận Minh viết về mẹ bằng tất cả tình yêu thương, sự thành kính và
lòng biết ơn vô hạn. Người mẹ trong thơ ông là người phụ nữ nông thôn hiền từ,
chất phác, sống ở nơi đồng quê bên kia con sông Kinh Thầy giáp với vùng đất
mỏ. Cũng như biết bao hình tượng người phụ nữ khác, hình tượng người mẹ ở
đây mang một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, tháo
vát, nhân hậu, bao dung, giàu đức vị tha, hết lòng yêu chồng thương con. Trong
kháng chiến, mẹ từng nuôi dấu cán bộ cách mạng và tiếp tế cho bộ đội, khi hòa
bình lập lại, mẹ là trụ cột của gia đình, phải gồng mình trong lao động: “mẹ tôi
vào phƣờng cấy thuê” và ngược xôi “trên chuyến đò đầy” để nuôi dưỡng những
tài thơ lớn lên từ mái nhà tranh vách nứa.
Hình tượng người mẹ trong thơ Trần Nhuận Minh được khắc họa bởi một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cảm xúc chân thành, sâu sắc. Mẹ đã phải trải qua bao nỗi nhọc nhằn, cay đắng.
75
“Chiếc đòn gánh cong” ngày nào đè nặng trên đôi vai của bà, giờ đây lại vít trĩu
lên đôi vai của mẹ:
Mẹ tôi lại gánh chiếc đòn cong
Lại đi gánh mƣớn lại long đong
Cuộc đời vít trĩu đôi đầu gánh
Lƣng mẹ già nua còng lại còng
(Chiếc đòn gánh cong)
Bởi lẽ đối với Trần Nhuận Minh, chỉ có một người mẹ vất vả, cơ hàn mới
được khắc sâu trong tâm khảm của thi nhân bởi một nét “long đong” và một
hình ảnh “già nua còng lại còng”. Cái dáng còng của mẹ ở chốn làng quê nghèo
lại hiện lên trong tâm thức của người con:
Dáng mẹ hao gầy
Còng lƣng sách nƣớc
Cái cầu ao
Gióng tre ngà thân thuộc
(100 bước cuối cùng)
Hình bóng mẹ có ý nghĩa biểu tượng cho những con người lao động lam
lũ, cần cù, chịu biết bao lao khổ dưới gánh nặng cuộc đời:
Bóng tối nặng trùm lên vai mẹ
Mẹ còn gánh cát chạy đƣờng đê.
(Chiếc đong gánh cong)
Trong sự sống bộn bề, náo nhiệt của đời thường, người con đã gợi lại kí
ức ở những giây phút tĩnh lặng, thảng thốt, xót xa trước hình ảnh mẹ:
Mƣời mấy năm rồi tôi vẫn nhớ
Có lần mẹ gánh gãy xƣơng lƣng
Mẹ dúi cho tôi vài củ lạc
Nhìn tôi mà nƣớc mắt rƣng rƣng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Chiếc đòn gánh cong)
76
Người đọc cảm nhận ra giọt “nƣớc mắt rƣng rƣng”, mặn mòi của mẹ rơi
xuống để tưới mát sự khôn lớn cho đời con.
Hành trình của mẹ đi từ đói nghèo, cơ cực rồi cũng có ngày đến được
chân trời của cuộc sống mới. Ta nhận ra nét cười rạng rỡ mà dịu hiền bên giọt
nước mắt tràn ngập niềm vui, làm sáng cả không gian, làm đẹp cảnh vật thuở ấu
thơ thời xa vắng:
Mẹ cƣời, lệ bỗng lăn trên má
Hợp tác đời vui mái ngói hồng
(Chiếc đòn gánh cong)
Bằng suy luận, Trần Nhuận Minh đã nhận ra một sự đối lập. Đó là sự
đối lập giữa cuộc sống bên ngoài với lời kể của mẹ trong những câu chuyện cổ
tích, giữa hiện thực đắng chát và cảm xúc ân tình mẹ dành cho con:
Con dần hiểu vì sao mẹ cực khổ thế
Mà chuyện kể, lời ru chỉ có ngọt ngào
(Mẹ)
Lời ru của mẹ đã sinh ra từ trái tim ăm ắp tình yêu thương và vòng tay
êm ấm. Lời mẹ chở đầy hương vị cuộc đời. Cuộc đời được chắt ra từ những giọt
buồn, niềm vui, sự ngọt ngào và cả cay đắng.
Lời ru năm nào của mẹ ru con, giờ đây lại dành để ru cho cháu mà sao
cứ thấy xót xa, nghẹn ngào:
Nghe mẹ lại đang ngọt ngào ru cháu
Chỉ có vậy thôi
Mà sao con thấy nghẹn
Cứ tự nhiên ứa nƣớc mắt ra
(Mẹ)
Lời ru đấy không chỉ ngọt ngào, êm ái trong chiếc nôi đưa, mà còn có
sức tỏa nhiệt trên đầu lưỡi kiếm của những anh hùng ra trận:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lƣỡi kiếm ra trận của ngƣời anh hùng
77
Đã tôi trong lời ru của mẹ
(Đá cháy)
Cũng trong sự đối lập, Trần Nhuận Minh nhận ra một thực tế: cuộc đời
mẹ phải đối mặt với hiện thực đắng cay, nhưng mẹ lại gieo vào tâm hồn con trẻ
một tuổi thơ trong sáng, giầu mơ ước giúp con đi trọn cuộc hành trình vững
bước niềm tin:
Con dần hiểu
Nếu mẹ chỉ dạy con những sự thực cay đắng
Thì chắc con cũng không thành con hôm nay
(Mẹ)
Và Trần Nhuận Minh rất có lí khi chiêm nghiệm rằng:
Ông trời sinh ra Ngƣời Mẹ
Để thay mặt cho mình
Đi hết đời vẫn không hết nỗi lo toan của Mẹ
Và ngẩng lên lúc nào cũng thấy bóng mây xanh
(Đá cháy)
“Nỗi lo toan của Mẹ” rất vô hình nhưng cũng thật vô giá, nó được đặt
trong trong thế đối xứng với cái hữu hình: “đám mây xanh” để nâng hình tượng
người mẹ thêm kì vĩ.
Nhưng hạnh phúc lớn lao nhất của người mẹ vĩ đại là đã sinh ra những
đứa con cứng chắc như “Tảng Đá”, ý chí hừng hực như “Ngọn Lửa”, đặc biệt
hơn là xứng đáng với danh hiệu “Ngƣời”:
Mẹ đã sinh ra con nhƣ một Tảng Đá
…Mẹ đã sinh ra con nhƣ một Ngọn Lửa
…Nhƣng trƣớc hết mẹ đã sinh ra con là Ngƣời.
(Đá cháy)
Tình cảm của người mẹ được ví von với cái vô cùng của thiên nhiên, lấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thiên nhiên làm chuẩn mực để so sánh như trong câu hát: “Lòng mẹ bao la nhƣ
78
biển Thái Bình hiền hòa/Lòng mẹ tha thiết nhƣ vầng trăng tròn mùa thu” hay
trong câu ca dao: “Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra”, nhưng ở trong thơ
Trần Nhuận Minh có sự ngược lại, tấm lòng người mẹ trở thành nét đẹp chuẩn
mực để so sánh cho bất cứ một đối tượng, sự vật nào trên đời:
Những cổng làng nhƣ lòng mẹ thƣơng con
(Cổng làng)
Và chính tấm lòng đó đã trở thành con đường vô hình nối cuộc sống của
con gói trọn trong vòng tỏa ấm của tình mẹ:
Nơi ở chúng tôi có những con đƣờng vô hình
Dẫn đến tấm lòng ngƣời mẹ
(Nơi ở của chúng tôi)
Viết về hình tượng người mẹ, Trần Nhuận Minh dồn hết cảm xúc yêu
thương vào bút lực để hướng về vùng đất bên kia con sông Kinh Thầy, nơi có
người mẹ già nua vẫn sống gắn bó với hương vị đồng quê, với bề dầy của trầm
tích văn hóa. Trong trường ca Đá cháy, hình tượng mẹ xuất hiện suốt chiều dài
bài thơ.
Có một khoảng không gian sắc màu được pha trộn bởi bước luân chuyển
thời gian, đã nhuộm dáng hình mẹ đang chen chúc trên chuyến đò đầy nguy
hiểm lúc trời chiều trở gió:
Sông Kinh Thầy mùa xuân nƣớc xanh
Sông Kinh Thầy mùa thu nƣớc đỏ
Cánh buồm trắng mong manh chiều trở gió
Mẹ tôi đi chuyến đò đầy
Trần Nhuận Minh có lúc phải thảng thốt, giật mình khi nhận ra “màu
mây” trên mái tóc “Ngƣời” ở cái lúc “chợ chiều bóng xế”, mà cảm thấy trong
lòng rưng rưng:
Mẹ tôi tóc đã bạc trắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Bạc hơn bất cứ mầu mây nào
79
Mỗi lần bƣớc lên thềm nhà
Hai tay ngƣời phải chống vào đầu gối
Phải có những “cuộc cháy” của nhận thức, của lòng mình, con người
mới cảm nhận ra mình đã sống vì ai, và sẽ sống cho ai trong cuộc đời dâu bể.
Và, lúc đó con người bật lên một cảm xúc vỡ òa trước thâm tình của mẹ:
Con sung sƣớng vì trên đời này có mẹ
Mẹ cũng chẳng bao giờ tủi hổ vì con
Hình tượng người mẹ trong thơ Trần Nhuận Minh được viết bằng tất cả
những cảm xúc chân thành, thôi thúc, bằng tình cảm máu thịt sâu sắc bật lên từ
trong sâu thẳm của trái tim nhà thơ. Hình tượng mẹ có ý nghĩa như một biểu
tượng thiêng liêng, cao quý và bất diệt trong cuộc đời mỗi con người: bởi công
dưỡng sinh, dưỡng dục, bởi tình yêu cách mạng, tình yêu tổ quốc mà mẹ sẵn
sàng góp một phần công sức của mình làm nên hậu phương vững chắc cho tiền
tuyến. Chính vì thế, hình tượng mẹ là kết tinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt
Nam truyền thống.
2.4. Hình tƣợng Em – nỗi ám ảnh trong tình yêu
Mỗi người nghệ sĩ đều có hình tượng người tình lí tưởng trong tâm hồn
mình. Đó là mẫu hình lí tưởng theo quan niệm và khát vọng thẩm mĩ riêng của
người nghệ sĩ ấy, là hiện thân của cái đẹp mà họ tìm kiếm và tôn thờ trong suốt
cuộc đời mình. Với Trần Nhuận Minh, đó là nhân vật “Em” - bình dị và mộc
mạc nhưng cũng thật nên thơ và huyền ảo.
Ông từng nói rằng: phần lớn các nhà thơ khi viết thơ tình, nhân vật
“em”, “nàng”, trong bài thơ tình đó, chưa chắc đã là nhân vật có thật, hiện hữu
và ám ảnh, theo suốt cuộc đời dài dằng dặc của họ. Chưa chắc người tình trong
những bài thơ tình đó có thật, hay là một người duy nhất, mà đó chỉ có thể là
những hình ảnh, những ảo ảnh, hoặc rất nhiều người tình được tồn tại trong nhân
vật “em” ấy. Với nhà thơ Trần Nhuận Minh, không thế. Ông tự phong cho mình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
là người viết những bài thơ tình đích thực. Tại sao gọi là đích thực? Bởi nhân
80
vật trong những bài thơ tình, có những bài nổi tiếng của ông như: Thơ tình ngày
không em, Vào phút ấy thì em nên đến nhé…,thì hình ảnh người con gái, nhân
vật người tình trong các bài thơ tình của ông, là hoàn toàn có thực. Không
những có thực, mà trong cả cuộc đời thơ của ông, người con gái đó, lúc xuất
hiện mơ hồ, bảng lảng như chút “nợ nần khói sƣơng”, lúc thì hiện lên rõ rệt, đau
đớn và cồn cào trong tâm hồn nhiều dằn vặt của thi sĩ, lúc sừng sững như một
ngọn núi đá, mà nhà thơ Trần Nhuận Minh: “muốn làm cũng chẳng đƣợc làm
ngƣời dƣng”, “có đi trăm nẻo, đến trăm nơi, gặp gỡ trăm ngƣời con gái khác,
cũng không thể xóa nhòa đi, hình ảnh đã đóng đinh vào cuộc đời ông”[69.331].
Trần Nhuận Minh sáng tác thơ tình không nhiều, thống kê trong tập Nhà
thơ và hoa cỏ có 12 bài, tập Bản Xô nát hoang dã có 5 khúc, tập 45 khúc đàn
bầu của kẻ vô danh có 5 khúc. Mỗi bài thơ là sự hoài niệm về tình yêu đã qua,
thứ tình yêu mà Orabengon từng nhắc nhở “Tránh đừng động vào cây mùa lá
rụng – Nhắc suốt đời cũng dường bấy nhiêu thôi”. Theo thói thông thường, cái
gì đã qua, không có được thì con người luôn tiếc nuối, đam mê trong tâm tưởng
và nghĩ về nó đầy lí tưởng, mĩ hóa.
Trong thơ tình của Trần Nhuận Minh, hình tượng “Em” xuất hiện trong
tâm tưởng của nhà thơ vừa hư, vừa thực, vừa cụ thể, vừa ảo mộng của một thời
dấu xưa:
Đêm ấy rừng thu thơm lạ lùng, thơm lạ lùng
Tà áo em đầy gió
Vòm ngực em đầy gió
Đôi môi em đầy trăng
Đôi mắt em đầy trăng
(Đêm cuối rừng thu)
Không gian đêm rừng thu có gió, trăng đan kết lại thành một không gian tơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
duyên. Cảnh vật thiên nhiên huyền ảo, diễm lệ, tràn trề ánh trăng dát bạc, làn gió
81
đưa hương thoang thoảng giăng mắc cả một vùng. Sự tồn tại của cảnh vật đều
được tâm trạng hóa để diễn tả tình cảm nhớ thương nồng nàn. Hình ảnh “em”
nổi bật giữa thế giới nên họa, nên thơ.
Bức chân dung của nhân vật “em” luôn là tâm điểm trong ý thức của
anh, là nơi hội tụ của ánh mắt anh ngắm nhìn, rất nhẹ nhàng mà cũng rất mơ hồ,
mong manh:
Em đi nhƣ dáng chiều
Đu đƣa nhƣ trên ngọn cây phù du
(Bản Xô nát hoang dã)
Em được tạo nên từ những gì tinh túy nhất của trời đất: “đầu em là đõ
ong rừng”, “mật ứa đôi môi”, “vòm ngực em là hũ rƣợu thơm”, “bụng em là
quả đồi xanh tƣơi”…Tác giả sử dụng những hình ảnh so sánh độc đáo, tạo nên
những liên tưởng thú vị cho người đọc, bức chân dung của em hay là bức chân
dung của nữ thần đầy uy lực, mà không kém sự ngọt ngào, quyến rũ.
Thậm chí trong cái nhìn si tình, tác giả còn thấy em hóa thân trong giai
điệu tiếng đàn bầu dân tộc
Ta tìm em
Trong tiếng đàn bầu
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Ở em toát lên vẻ đẹp lí tưởng hóa cả về thể xác và tinh thần, khiến anh
ngập ngừng, rụt rè, không giám bày tỏ tình yêu của mình:
Anh muốn nắm tay em mà không dám nắm tay em
Anh cũng muốn nói điều đó nhƣng anh im lặng
Trong thế giới nhỏ bé của anh, em có sức mạnh phi thường: “Chỉ một giọt
nƣớc mắt/Cũng làm dấy lên trong tôi/ Bao nỗi xót xa ân hận”, thậm chí chi phối
mọi quy luật tồn tại của thế giới ấy, “Ta đứng chờ em bạc cả sắc thu xanh”.
Mối tình của anh và em là mối tình đậm sắc hương cổ tích, tồn tại trong day dứt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
cõi lòng:
82
Em tìm ai áo tía đến nao lòng
Môi ta chạm mầu nắng mòn nhạt thếch
Mối tình hoang xanh rờn hƣơng cổ tích
Mơ hồ giăng trong sắc đắng hoa mua
(Đà Lạt)
Thời gian nghệ thuật là “biểu tượng, một tượng trưng thể hiện một quan
niệm của nhà văn về cuộc đời con người” [57.84].. Trong tình yêu, nhịp đập trái
tim chính là nhịp đo thời gian, thời gian không tồn tại khách quan, mà là thời
gian tâm lí tồn tại trong hồi tưởng, thương nhớ, mong mỏi, nuối tiếc, khao khát.
Nhân vật trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh hầu như chỉ sống trong một buổi
chiều, thời khắc ấy rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng buồn, suy tư, nhớ
thương, hoài niệm:
- Có một chiều xanh thẳm ở trong nhau
- Có một chiều xa vắng ở bên nhau
- Có một chiều yên ấm ở xa nhau
(Chiều xanh)
Dấu ấn tình yêu không chỉ hiện hữu theo dòng thời gian mà còn hiện hữu
trên nền không gian. Một góc vườn xưa từng có hình bóng em, ăm ắp kỉ niệm
hiện về:
Và góc vƣờn khuya
Nơi đầu tiên tôi đứng hôn em
Vang vang nở
Một nụ tầm xuân
Biêng biếc tím
Nhỏ và run nhƣ
Cúc áo
Em
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Rơi…
83
(Bản Xô nát hoang dã)
Hình ảnh nụ tầm xuân xuất hiện gợi cho người đọc nhớ tới nụ tầm xuân
trong ca dao “Bƣớc xuống vƣờn cà hái nụ tầm xuân/Nụ Tầm xuân nở ra xanh
biếc/Em có chồng anh tiếc lắm thay”. Không gian của thực tại, nhưng thời gian
và hình ảnh là sự hòa nhập, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, tất cả chỉ là niềm
tiếc nuối.
Khi muốn quên, người ta thường né tránh nhắc đến. Tình yêu đã qua thì
chôn chặt trong lòng, nhưng đôi lúc gặp lại cảnh cũ, nó ùa về xâm lấn tâm hồn.
Tình yêu của nhân vật trữ tình gắn chặt với “gian gác nhỏ, bậc thềm già”, “con
đƣờng dốc” thân quen, bình dị:
Gian gác nhỏ mƣa lan mờ bến bãi
Gió non thổi bậc thềm già nắng trái
Con đƣờng dốc em đi không trở lại
(Chiều xanh)
Đó đều là những gian nhỏ hẹp đủ để chứa những cảm xúc riêng tư đôi
lứa. Đọc thơ tình Trần Nhuận Minh có cảm giác như gặp chính mình ở đó.
Tình yêu trong tâm tưởng rất khác với tình yêu hiện tại, thế giới của
chàng trai là thế giới của những gam màu thương nhớ. Hình ảnh “em” luôn tươi
trẻ, hồn nhiên như như hương sắc bốn mùa, lúc nào cũng mới lạ, cũng hấp dẫn
trong mắt anh:
Có một chiều xanh thẳm ở trong nhau
Gian gác nhỏ mƣa lan mờ bến bãi
Áo em ngắn hết một thời con gái
Nỗi yêu anh còn biết dấu vào đâu
(Chiều xanh)
Em hắt lên anh màu thu biếc ngƣời
Em nhƣ vầng trăng sang bên kia trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Màu xưa)
84
Hình tượng “em” hiện lên trong thơ Trần Nhuận Minh đầy thơ mộng và
lãng mạn. Đấy là cách để ông trút xả tâm sự, tình cảm của mình về mối tình đầu,
về thời đã qua với những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ. Và khi đó là những rung
động bất chợt về một nửa thế giới trong cuộc sống. Hình tượng “em” này xuất
phát trong cảm hứng trữ tình cá nhân, đời tư của tác giả. Nó cho thấy phong phú
hồn thơ Trần Nhuận Minh, và đồng thời như là sự “tự cân bằng” của chính ông
bên những vần thơ thế sự nóng bỏng mang đậm tinh thần, trách nhiệm xã hội và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhiệt tình công dân
85
Chƣơng 3
NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU THƠ TRẦN NHUẬN MINH
3.1. Ngôn ngữ
Văn học nói chung và thơ ca nói riêng là loại hình nghệ thuật sử dụng
chất liệu ngôn từ, lấy ngôn từ làm phương tiện, chất liệu tái hiện đời sống, biểu
lộ tư tưởng tình cảm, xây dựng thế giới nghệ thuật. Về bản chất ngôn từ mang
tính kí hiệu, có khả năng gợi lên những hình tượng nghệ thuật, đưa ta thâm nhập
vào thế giới của chủ thể trữ tình với những cảm xúc, ấn tượng, suy
tưởng…Muốn vậy ngôn từ phải được tổ chức, kết cấu theo dụng ý nghệ thuật
của tác giả để tạo ra các giá trị biểu cảm mong muốn. Theo Phương Lựu, ngôn
từ văn học “là ngôn từ của tác phẩm văn học, của thế giới nghệ thuật, kết quả
sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn từ giàu tính hình tượng và giàu sức biểu hiện
nhất, được tổ chức một cách đặc biệt để phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng,
tình cảm và tác động thẩm mĩ tới người đọc”[143.185].
Như vậy ngôn ngữ trong văn chương là một hiện tượng nghệ thuật có
chức năng sáng tạo ra khách thể thẩm mĩ, sáng tạo ra bản thân các hình tượng
ngôn từ, hình thức lời thơ, lời văn nghệ thuật…đặc biệt nó thể hiện rõ nhất hình
tượng nghệ thuật.
3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh – một thứ ngôn ngữ dung dị, đời thường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.1.1.1. Ngôn ngữ mang tính dân gian
86
Trong thơ Trần Nhuận Minh, đặc biệt là thơ lục bát, ta thấy ngôn từ thơ
ông được lấy từ chất liệu ngôn ngữ đời sống. Đó là lời ăn tiếng nói giản dị, mộc
mạc, dân dã của nhân dân trong hiện thực cuộc sống đời thường. Do đó, thơ của
ông đượm tính dân tộc, với thứ ngôn ngữ dân gian và với thứ ngôn ngữ ca dao
truyền thống. Có thể khẳng định điều đó ngay qua cách đặt tên cho bài thơ của
ông.
Ca dao vốn không định danh từng bài. Người đời sau thường dựa vào
câu thơ đầu để đặt tên như: Tát nước đầu đình, Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Người thợ mộc Thanh Hoa…,Trần Nhuận Minh cũng vậy. Hơn bốn mươi bài
thơ lục bát trong Miền dân gian mây trắng đều được đặt tên như thế cả. Nào là
Con chim nó đậu…, Ngày này tháng nọ…, Ta qua bến lú…, nào là Sáng qua
anh đến…, Gió đưa khói bếp…, Hỏi chàng quân tử…, Châu chấu sang
hỏi…nghe vừa hóm hỉnh, vừa dân dã mà ẩn ý sâu xa. Đặt tên bài thơ kiểu này
dễ gây hứng thú cho người đọc.
Thơ Trần Nhuận Minh là thơ thế sự đời tư, phản ánh chân thực “muôn mặt
của đời thƣờng”, trong mối quan hệ đa chiều, có mảng sáng, góc tối của cuộc
sống, có niềm vui và nỗi khổ, có hy vọng và bi kịch của con người. Để truyển tải
thấu đáo đầy hàm ý về vấn đề nhân sinh thế sự, Trần Nhuận Minh đã vận dụng
thành ngữ dân gian vào trong thơ mình một cách sáng tạo, độc đáo.
Thành ngữ dân gian có khi được sử dụng ở tình huống trêu trọc trong
cuộc đối thoại giữa cô gái với chàng trai đã tạo tính hài hước, hóm hỉnh pha chút
hờn dỗi, trách móc của nhân vật trữ tình:
Ối giời ơi! Đến nỗi này
Ăn gì mà bụng mỗi ngày một to…
- Ứ hừ…Ai khiến anh lo
Lo trâu đen cổ, lo bò trắng răng…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Ngày nào em đẹp…)
87
Biểu đạt thái độ của con người khi muốn bứt phá, tìm tới một chân trời
mới để cải thiện môi trường cuộc sống vốn ngột ngạt, o ép. Dù con đường đi đến
đích còn muôn vàn gian khổ, nhưng sự quyết tâm như một thúc hối giục bước
chân đi, nhà thơ đã vận dụng thành ngữ dạng tỉnh lược:
Một đi ba bẩy cũng đi
Sáng thì núi Bắc, chiều thì biển Nam
(Một đi…)
Có khi là một lời khuyên phải biết ăn ở có trước, có sau cho trọn nghĩa
vẹn tình:
Qua cầu chớ rút ván cầu
Giếng làng giữ sạch lần sau còn dùng
(Gió đưa khói bếp…)
Chủ thể trữ tình khẳng định ý thức sống tự do, tự tại, hồn nhiên, trong
sáng, không chi phối ai và cũng không bị ai chi phối, không chấp nhận làm công
cụ sai khiến của kẻ khác:
Ta sống dung dị và tự nhiên nhƣ Cây nhƣ Đá
Không là công cụ trong tay ai để đánh chó dọa người
(Ta sống dung dị)
Thơ Trần Nhuận Minh có khi sử dụng ngôn ngữ diễn đạt lặp lại ca dao,
nhưng được cách tân nhằm đạt hiệu quả cao trong sáng tạo nghệ thuật:
Sáng qua anh đến thăm em
Thấy cha đứng ở bên thềm tƣới hoa
Thấy em soạn sách trong nhà
(Sáng qua anh đến…)
Làm ta nhớ đến bài ca dao:
Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thấy nàng mải miết quay tơ
88
Cũng trong dòng chảy thế sự, ngòi bút Trần Nhuận Minh phê phán những
biểu hiện mặt trái của đạo lí và cung cách hành xử của con người bằng ngôn ngữ
mang âm ca dao, vừa nhẹ nhàng, vừa hóm hỉnh nhưng sâu sắc:
Đêm qua gió lạnh sân chùa
Có hai bà vãi bỏ bùa cho sƣ…
(Châu chấu sang hỏi…)
Có lẽ nhà thơ lấy cái tứ từ bài ca dao xưa:
Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sƣ
Cũng có khi nhà thơ dẫn nguyên câu ca dao vào trong bài thơ để diễn tả
tâm trạng của nhân vật trữ tình xót xa, nuối tiếc trước lẽ đời dâu bể, trước
những biến thiên của lòng người do các cuộc vật đổi sao rời:
Ta về ta tắm ao ta
Nghe câu hát cũ mà da sƣng phồng
(Trăng sưa)
Khi triết lí về cuộc đời, về sự thay bậc đổi ngôi trong xã hội, Trần
Nhuận Minh cũng hấp dẫn người đọc bằng cách vận dụng tực ngữ, ca dao:
Kẻ khôn sẽ dại bất ngờ
Trƣớc chê trời thấp bây giờ đi khom
Gỗ vuông đẽo chẳng nên tròn
Mèo già trông thấy chuột con cúi chào…
(Bên dòng tục ngữ)
Và cũng như ca dao, để làm phong phú về thế giới nhân vật, Trần Nhuận
Minh đã nhân hóa cây cối, động vật, đồ vật…khi là cây chanh, con cá, con châu
chấu hoặc con cào cào:
Châu chấu sang hỏi cào cào
Nƣớc trong cá sống thế nào hở anh?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Con gà đến hỏi cây chanh
89
Chặt lau, làm cái cột đình, đƣợc chƣa?
(Châu chấu sang hỏi…)
Bộc lộ cảm xúc da diết về kiếp người lao động lam lũ, cực nhọc, tác giả
cũng sử dụng các biện pháp tu từ thơ ca dân gian như phép ẩn dụ;
Anh nhìn gió động bờ tre
Thƣơng con cò trắng bay về, bơ vơ
(Sáng qua anh đến…)
Cũng có khi dùng cách nói phiếm chỉ thời gian, tạo cảm giác nửa thực,
nửa mơ hồ, chuyện xẩy ra thời nào cũng được, mà ca dao, truyện cổ tích hay
dùng:
Ngày này, tháng nọ, năm kia
Tình cờ vào một quán bia, gặp nàng
(Ngày này tháng nọ…)
Sử dụng thành ngữ, trích dẫn ca dao, tục ngữ, Trần Nhuận Minh rất linh
hoạt và khéo léo. Từ những thành ngữ có trong tiếng phổ thông đến việc vận
dụng ca dao, tục ngữ đều súc tích, dễ hiểu, tạo màu sắc bình dị, gần gũi trên
từng trang sách của nhà thơ. Chính những yếu tố đó đã tạo nên ngôn ngữ mang
tính dân gian trong thơ Trần Nhuận Minh.
3.1.1.2. Sử dụng ngôn ngữ đời thƣờng Thông thường, người ta hay thấy lớp ngôn từ này trong truyện ngắn,
trong tiểu thuyết và rất ít khi thấy đề cập nó trong thơ. Nhưng Trần Nhuận Minh
có điểm khác, nhà thơ chú ý đến những góc cạnh rất đời thường của cuộc sống
hiện tại, lớp ngôn từ nhà thơ sử dụng không đơn giản chỉ ra thực tại ngoài nó mà
tái hiện thực tại ấy vào trong nó. Có thể nói một phần thành công ở mảng thơ thế
sự đời tư là do nhà thơ biết chắt lọc ngôn từ đời thường giản dị, thời sự để đưa
vào thơ.
Có thể kể đến các từ ngữ “đường phố” trong Nhà thơ áp tải:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Đã từng cho một “chƣởng”
90
Những thằng đến “mổ” hàng
(…)Thả phanh nhai thịt gà
(…)Bạn “choảng liền một mạch”
Với cách dùng từ như thế, Trần Nhuận Minh khắc họa bức chân dung
người bạn thơ rất đời thường của mình, đằng sau đó thấp thoáng nụ cười hóm
hỉnh của nhà thơ. Hay trong Thoáng là hình ảnh những con người tha hóa đạo
đức, lối sống:
Đàn bà khoác bị cói, đeo kính cơn, mặc quần soóc ra phố
Gã chốn tù, tội đánh ngƣời và khoét gạch
Vào quán ghểnh chân làm choác bia hơi
Các từ ngữ này có khả năng đặc tả chân dung, tính cách nhân vật, thường
đi với lối “hành thơ kể chuyện” đặc biệt xuất hiện trong các bài thơ chân dung:
Mợ Hữu, Thím Hai Vui, Phúc, Tú Lão…
Hay sử dụng ngôn ngữ nói tạo tính đối thoại trực tiếp cho lời thơ
Ta giơ hai nắm tay hoan hô ông Giời
Đùa một tí mà thành muôn vẻ đẹp
(Chơi thuyền trên vịnh Hạ Long)
Em đứng lặng úp mặt vào bóng tối
Khổ thân em có nói đƣợc gì đâu
(Thơ tình ngày không em)
Mặt trời trắng và lành nhƣ một đồng xu nhỏ
Ta chẳng thèm tiêu
(Trong sương mù Cao Bằng)
Có khi là ngôn ngữ suồng sã, mang đậm phong cách khẩu ngữ sinh hoạt
được sử dụng trong lời đối thoại trực tiếp của một câu chuyện:
Hỏi vợ: “Vợ bỏ tớ”
Hỏi con: “Nó vƣợt biên”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Hỏi nhà: “Nhà tớ bán”
91
Hỏi thơ: “Đếch ai in…”
(Bạn cũ)
Bỗng hôm nay
Nhìn ảnh hắn đăng trên báo
Họ mỉm cƣời và bảo
- Cái thằng đến là trẻ lâu!
(Anvơret)
Tuy nhiên có nhiều độc giả cho rằng cách sử dụng từ ngữ như vậy sẽ
làm mất đi chất thơ của thơ. Cần thấy rằng chất thơ không có nghĩa là sự mượt
mà bay bổng của từ ngữ, hình ảnh, hiện thực gai góc cũng tạo nên chất thơ vì
khi tái hiện hiện thực, chất thơ toát lên từ những gì gần gũi đời thường, sinh
động. Nói cách khác việc đưa những từ ngữ này vào trong thơ Trần Nhuận Minh
đã bổ khuyết cho “chất thơ đang thiếu”.
3.1.2. Ngôn ngữ mang tính triết lí sâu sắc Đọc thơ Trần Nhuận Minh, ta thấy ngôn ngữ thơ ông không chỉ dung dị,
thể hiện đậm nét ở tính dân gian và tính đời thường, mà ngôn ngữ thơ ông còn
mang tính triết lí sâu sắc. Triết lí lặn sâu vào trong ngôn từ, có ở trong câu chữ,
mỗi đoạn thơ, mỗi bài thơ. Trong tất cả các tập thơ, từ “những điều trông thấy”,
Trần Nhuận Minh đã trải lòng mình ra để chiêm nghiệm, để thâu về những ngôn
ngữ đắc dụng, thâm trầm, ẩn chứa tính triết lí về cõi đời, cõi người trong cái hữu
hạn và trước cái vô cùng.
3.1.2.1. Sử dụng lập luận mang tính triết lí Lập luận là đưa ra lí lẽ hoặc dẫn chứng để dẫn dắt người đọc, người
nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đó.
Trần Nhuận Minh thường sử dụng những từ ngữ tạo lên hình ảnh tương
phản nhưng có thực của đời thường để lập luận cho chân lí cuộc đời. Để khẳng
định quy luật sinh tồn cho tất cả mọi người, nhà thơ dùng cặp từ đối lập để làm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
luận cứ:
92
Sống úp mặt xuống đất
Chết ngửa mặt lên trời
Giàu nghèo hay vinh nhục
Và kết luận bằng kết cục giống nhau: “Cũng trong vòng ấy thôi”.
Có khi dựa vào quy luật nhân - quả để lập luận cho hành động có mục
đích hay vô tình của con người qua những cặp quan hệ từ: “và – thì”, “nếu –
thì”:
Và ngƣời trồng Cây Phúc
Thì Quả Phúc đầy vƣờn
Nếu vô tình xéo vào lƣng con rắn độc
Thì con rắn độc sẽ biến thành sợi dây…
(Bản Xô nát hoang dã)
Sức nặng thơ Trần Nhuận Minh chính là ở chỗ, niềm ưu ái với cuộc sống,
đối với con người, chất đời thường được lồng trong triết lí nhân sinh. Chuyện
thời sự mà mang theo nỗi niềm thế sự. Nhà thơ đã vận dụng quy luật lịch sử để
lập luận cho lẽ thịnh suy của các triều đại vua chúa:
Khi Vƣơng triều không còn hợp lòng dân
Thì thành đá cũng chỉ là bùn nhão
Ngai vàng không đổ không mùa mƣa bão
Mặt xâm lăng lố nhố khắp kinh thành
(Đứng trên thành nhà Hồ ở Thanh Hóa…)
Nhìn vào sự suy vong thảm hại của nhà Tần ở Trung Quốc thời phong
kiến, nhà thơ đúc kết một triết lí cho mọi thời đại bằng ngôn ngữ khẳng định:
Bức trƣờng thành bền vững nhất của
mọi quốc gia chính là lòng Dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Vạn Lí Trường Thành ca)
93
Cũng với cách sử dụng ngôn ngữ khẳng định, chúng ta có thể nhận ra một
chân lí đơn giản, thế mà nhiều dân tộc đã phải trả giá quá đắt trong từng giai
đoạn lịch sử:
Có lắm anh hùng, đất nƣớc bình yên là một điều vĩ đại
Không cần có lắm anh hùng,
Đất nƣớc vẫn bình yên, còn vĩ đại hơn nhiều
(Năm khúc hát bên bờ Trường Giang)
Trần Nhuận Minh cũng đi vào giải thích những hiện tượng có vẻ trái
chiều, phi lí trong xã hội, nhưng thực chất vấn đề đó lại rất hợp lí trong từng
hoàn cảnh. Nhà thơ vận dụng các liên từ “thế - mà” để diễn đạt:
Ông chủ và kẻ mƣớn
Có bao giờ ngang nhau
Lẽ đời đơn giản thế
Mà nhầm đến bạc đầu
(Họp phố)
Những lập luận có căn cứ nhờ sử dụng những cặp từ tương phản, đối lập
đã tạo được hiệu quả cao trong cách diễn đạt ngôn ngữ mang tính triết lí sâu
sắc.
3.1.2.2. Dùng ngôn ngữ hàm ẩn để triết lí Chủ thể trữ tình ham triết luận đã huy động tối đa thứ ngôn ngữ hàm ẩn
mang tính triết lí trong toàn bộ sáng tác của mình. Bằng sự trải nghiệm dày dặn
kết hợp với cảm quan hiện thực và lối tư duy biện chứng, nhà thơ đã đứng cạnh
số phận nhân dân mà quằn quại trút vào ngôn từ hàm ẩn những triết lí nhân sinh
ngậm ngùi:
Con ngƣời lớn lên từ các cuộc tranh giành
Và cái ác thấm dần vào trong máu
Những hận thù hôn nhân, điền thổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Vẫn ngắm ngầm sau bao lũy tre xanh
94
Có cơn mƣa chết cả lúa đồng
Lời ngon ngọt mà thêm ngƣời đổ gãy
Để đưa ra một nhận thức về sức mạnh của trí tuệ mạnh hơn sức mạnh vật
lí, nhà thơ đã cũng sử dụng ngôn ngữ hàm ẩn::
Kẻ giỏi hạ cây đâu cần đến sức rìu
Và biểu đạt sự đối lập giữa ý nghĩ bên trong và hành động bên ngoài trong
một con người trước cuộc sống, Trần Nhuận Minh đưa ra triết lí theo lối nói
hàm ẩn. Nhờ hoàn cảnh và ngôn từ được dùng, người đọc có thể suy ra hàm ý
mà nhà thơ truyển tải:
Kẻ khôn ngoan thƣờng dấu điều mình biết
Ý nghĩ ở đằng đông. Miệng nói ở đằng tây
Chân trong ngõ quê. Tay đã ra ngoài phố
Giấu mƣu toan dƣới những cốc rƣợu đầy
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Trần Nhuận Minh rút ra một nhận định ẩn dụ, hàm ý phê phán mang tính
triết lí sâu sắc:
Khi anh đứng quay lƣng về phía mặt trời
Bóng tối của chính anh sẽ ngả dài trƣớc mặt…
(Khi anh đứng…)
Cảm hứng thế sự được nẩy sinh từ những đúc kết, chiêm nghiện về hiện
thực cuộc sống đa tầng ở mọi góc độ, trên mọi bình diện xã hội. Để hàm ý về sự
thăng – giáng trong cuộc đời con người, tác giả sử dụng các từ ngữ nghi vấn:
“thế nào, làm sao, là bao”:
Đây là khúc một con sông
Rồi sau khúc đục khúc trong thế nào
Sự đời biết tính làm sao
Nắm tay nhau đƣợc là bao…sẽ rời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Tiệc đêm)
95
Với việc sử dụng ngôn ngữ hàm ẩn đắc dụng, giúp người đọc rút ra chân
lí từ cách mô tả các hiện tượng mà nhà thơ đúc kết. Điều đó còn tạo ra sự tự
nhiên, dung dị cho các câu thơ triết luận.
Ngôn ngữ thơ Trần Nhuận Minh đậm chất triết lí, nhưng đấy không phải
là thứ ngôn ngữ biểu đạt tư tưởng đầy màu xám, mà thông qua nghệ thuật ngôn
từ, tác phẩm của ông đã trở thành “cây đời mãi mãi xanh tƣơi” trong nền thơ ca
dân tộc. Qua thứ ngôn ngữ mang tính triết lí, cuộc sống con người đã được khúc
xạ bởi tâm hồn yêu đời đến khổ lụy của Trần Nhuận Minh, nên thơ ông mới máu
thịt và mặn mòi vị nước mắt của đời.
3.1.3. Sử dụng các cặp từ trái nghĩa Trần Nhuận Minh là nhà thơ ham triết luận, các triết luận được đưa ra
thường là kết quả của cách nhìn đa chiều về hiện thực. Một trong những phương
thức được sử dụng nhiều là luận giải vấn đề bằng hệ thống các cặp từ trái nghĩa.
Trong Bản Xô nát hoang dã, để hiểu về “tự do”, tác giả cắt nghĩa về từ
“cầm tù”:
Đức vua rất khổ
Vì bị cầm tù trên ngai vàng
Kẻ Hành Khất rất khổ
Vì đƣợc tự do đói rét
Để hiểu về “sống” đặt trong tương quan với “chết”:
Tôi Thứ nhất đã chết
Nằm duỗi thẳng trong quan tài
Tôi Thứ Hai vẫn sống
Là linh hồn
Mà chẳng phải linh hồn…
(Bản Xô nát hoang dã)
Để hiểu về “cái ác” tác giả đặt song hành với “cái thiện”: “Kẻ ác đôi khi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
làm việc thiện/Đánh thuốc độc cả tiếng cƣời” (45 khúc đàn bầu của kẻ vô
96
danh), sự “sinh thành” trong sự “hủy diệt” (Bản Xônat hoang dã); để hiểu về
“chiến tranh”, tác giả đặt nó bên cạnh “hòa bình” (Thím Hai Vui); để hiểu về
“tốt” thì lí giải về “xấu”: “Cuộc đời toàn ngƣời tốt cả/Không ai xấu với ai đâu”
(Với chị Hồng Tâm)…
Bên cạnh đó, Trần Nhuận Minh đặt quan hệ trái ngược cho các từ vốn
không có ý nghĩa trái ngược:
Trời ơi! Vàng đến thế này
Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian
(Trong đồng cỏ hoa vàng)
Cái giả dối, hào hoa của Ánh Trăng
Đâu có bị cái thuần phác
của Mặt Đất
Xua đuổi
Và
Cái Màn Đêm phản trắc đầy cạm bẫy
Đâu có bị cái Ánh Ngày chính trực anh minh ruồng bỏ…
(Bản Xônát hoang dã)
Các từ “Ánh Trăng”, “Mặt Đất”, “Màn Đêm”, “Ánh Ngày” được sử
dụng như danh từ riêng, đặt trong thế đối lập. Cuộc sống bao giờ cũng có hai
mặt của nó. Có cái giả dối song hành với cái thuần phác. Cái phản trắc đi cùng
cái chính trực anh minh…như “Đêm” và “Ngày”, như “Ánh Trăng” và “Mặt
Đất”…Nhận thức này, bắt nguồn từ cách nhìn vấn đề mang tính biện chứng cao.
Hay trong trường hợp khác:
Không gian đằm thắm
Huyền ảo mong manh
Là lúc sinh ra
Thiên Thần và Quỷ Sứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Là lúc Nhà Thơ và Kẻ Trộm
97
Cùng hào hứng bƣớc ra ngoài
(Bản Xô nát hoang dã)
Những từ “Thiên Thần” và “Quỷ Sứ”; “Nhà Thơ” và “Kẻ Trộm” là
những căp từ biểu hiện những mặt của xã hội được tác giả đặt trong mối quan hệ
đối lập, trong sự thống nhất lịch sử.
Thơ Trần Nhuận Minh sử dụng rất nhiều các cặp từ trái nghĩa làm tăng
khả năng diễn đạt, đem lại hiệu quả nhận thức mang tính đa chiều.
3.1.4. Sử dụng các kết từ lạ, độc đáo Bất cứ thế giới nghệ thuật của một nhà thơ nào cũng đều được tạo
dựng nhờ hệ thống hình ảnh riêng, độc đáo, là kết quả của cách kết hợp từ độc
đáo, mới lạ.
Bằng cách kết hợp sau danh từ là một tính từ chỉ màu sắc, nhà thơ đã
hữu hình hóa sự vật vốn vô hình, trừu tượng:
- Nhớ xƣa gió biếc chân trời mong manh
- Ta ở đâu giữa mùa xưa xanh ngát
- Lá non tỏa màu em biêng biếc sáng
- Em hắt lên anh màu thu biếc ngƣời
- Những bí ẩn xanh rờn/Dào dạt tuôn chảy từ trời cao
Hoặc hư ảo hóa những sự vật cụ thể:
- Giọt mưa xuân xanh quá/Bay ngang trời Hạ Long
- Gió đã xanh thổi lên từ Hoa Cỏ
- Chiều nghiêng một sắc vô tình
- Ngoài làn mây trắng bay ở ngang trời và trái tim xanh
đập trong lồng ngực/Anh chẳng còn gì hết
- Đồng xa, xanh mảnh trăng gầy treo nghiêng
Với cách kết hợp từ này, thế giới hình ảnh trong thơ ông vừa thực vừa hư
ảo, nó không đơn giản là thế giới khách quan mà trở thành thế giới tâm tưởng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hoài niệm. Vạn vật được nhuộm bởi sắc xanh đến nao lòng: “A ha! Trời xanh,
98
nƣớc xanh, núi xanh, ta xanh”. Màu xanh trở thành màu chủ đạo trong thế giới
nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh, mang ý nghĩa biểu tượng.
Nhà thơ phá vỡ tư duy hình ảnh, ấn tượng quen thuộc bằng cách thay đổi
trật tự từ của lôgíc ngôn ngữ thông thường. Nói cách khác nhà thơ có một
phương pháp chế tác ngôn ngữ rất độc đáo. Chúng ta rất hay bắt gặp cách diễn
đạt đưa thành phần định ngữ lên trước danh từ, hoặc thành phần bổ ngữ lên
trước động từ. Nhà thơ miêu tả hình ảnh khu vườn xưa:
- Buồn xƣa - vàng vạt nắng rơi
Nhớ xƣa - gió biếc chân trời mong manh
- Đồng cỏ xanh non
Run rẩy vài ba hoa lê trắng
Bến Tầm Dƣơng canh khuya
Vàng lá ngô đồng rụng
- Vĩnh biệt nhé, ráng chiều côi cút gió
Ta một mình với Đắng Mê Tơi
Nơi ấy, gió, nắng, hoa, lá…của hiện tại nhưng ẩn chứa một nỗi niềm quá
khứ. Con mắt nhìn nhà thơ không hướng đến sự vật trong thời gian khách quan
mà cảm nhận ở thời gian hồi tưởng, kí ức nhờ kết cấu đảo ngữ. Từ đó có cái
được đặc tả ở đây không phải hình ảnh mà là dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Cách kết cấu câu như vậy tạo nên những phản tiền đề có tính lôgíc cao
khiến người đọc phải suy ngẫm, phải nhận thức lại.
3.1.5. Sử dụng các biện pháp tu từ * Biện pháp nhân hóa:“Nhân hóa còn gọi là nhân cách hóa, là biện
pháp tu từ trong đó người ta lấy từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu con người
để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải của con người nhằm
làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu, đồng thời làm cho chủ thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
phát ngôn có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình”[35.63].
99
Bằng sự liên tưởng và tưởng tượng phong phú, Trần Nhuận Minh đã
đem đến cho thế giới sự vật thơ ông sức sống nội tại qua những biện pháp nhân
hóa tài tình. Cảm nhận về không gian thật độc đáo:
Giữa khoảng ngập ngừng của vũ trụ
Từ láy “ngập ngừng” là từ láy tượng hình gợi cảm xúc, tái hiện được
một cách sinh động, độc đáo khoảng không gian nơi giao hòa của hai thế giới,
nửa vươn tới cõi tiên giới, nửa vương bụi trần. Đây là một động từ trạng thái
được sử dụng như một tính từ theo phương thức chuyển loại từ làm tăng giá trị
biểu đạt, sức khơi mở của hình ảnh thơ.
Trong không gian giăng mắc những sợi tơ tình, vạn vật như đã phải lòng
nhau:
Hàng cây lơ mơ thức ngủ
Trong tấm áo choàng cô dâu
Đến nỗi những ngôi nhà cổ
Đêm nào cũng phải lòng nhau
(Đêm trắng)
Nhân hóa đem đến sự lạ hóa cho hình ảnh thơ quen thuộc. Không còn là
trăng soi dưới dòng sông mà là “Đánh đắm cả trời sao” bằng sự im lặng không
tiếng của mình. Dường như sông và trăng là một “cặp tình nhân” của đêm vắng.
Cảnh mang chứa tình bởi mọi cảnh vật đều đón nhận bằng con người
tinh thần của nhà thơ. Ta bắt gặp ở thế giới ấy một “vầng trăng gầy, ngẫm ngĩ
khuyết đêm khuya”, một “áng mây trinh nữ”, “chập chờn thức ngủ giữa rừng
thông”, “ngơ ngác” giữa cơn mưa…, một “giọt mƣa buồn gõ xám mái nhà
Vua”, âm thanh tiếng “ngẹn ngào của những ngôi sao”, âm thanh “tiếng hạc
thảng thốt” vọng về…Con người tinh thần đã thổi linh hồn vào cho vạn vật
trong thế giới mà nó chiếm lĩnh. Ngay cả thời gian cũng được hữu hình hóa nhờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nhân hóa: “một nửa mùa thu nghiêng bóng xuống khoang thuyền”.
100
Biện pháp nhân hóa là tu từ tất yếu nhà thơ phải sử dụng. Hình tượng
nghệ thuật trong thơ ông phong phú, con ve với lí lẽ thời gian mùa hè, con chim
từ bỏ tự do vì nếp quen, một con chó trung thành đến hơi thở cuối cùng…Khi
vươn tới tầm cao triết luận, các hình ảnh thơ của ông có ý nghĩa biểu tượng sâu
sắc, ví như các tác giả miêu tả “cỏ” bằng các tính từ chỉ định tính con người
“bao dung”, “dịu dàng”, “long đong”, “dầu dãi”…Có thể nói nhân hóa tạo sự
sống cho thế giới thơ Trần Nhuận Minh, là một phương thức hiệu quả thể hiện
hình tượng nghệ thuật.
* Biện pháp so sánh: So sánh là biện pháp tu từ quen thuộc trong văn học
Việt Nam, đặc biệt là xuất hiện nhiều trong ca dao, dân ca dân gian, là biểu hiện
của lối tư duy hình tượng. Trên cơ sở đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực
tế khách quan không hoàn toàn đồng nhất mà chỉ chung nhau một nét nghĩa nào
đó để diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng. So sánh cũng
là một nghệ thuật tu từ quen thuộc trong thơ Trần Nhuận Minh.
Mô hình phép so sánh trong thơ ông rất đa dạng. Nhà thơ lấy cái cụ thể
đối chiếu cái cụ thể tạo sự gần gũi cho hình ảnh:
- Núi sông nhƣ chiếc quạt xòe trong tay
- Những câu thơ mỏng tựa cánh chuồn
Ngàn năm bay ngƣợc bão
Hoặc lấy cái cụ thể làm rõ cái trừu tượng:
- Giao thừa đi nhƣ cô gái chƣa chồng
Đẹp nức nở những muộn màng đắng chát
- Cái lạnh nhƣ lƣỡi cƣa
Xẻ chéo tầng đá xám
Để mờ hóa cảm xúc của chủ thể trữ tình về thế giới, Trần Nhuận Minh
còn lấy cái trừu tượng để soi chiếu cái cụ thể:
- Tiếng chuông nhƣ hồn ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cô đơn và thăm thẳm
101
Có khi nhà thơ lấy cái trừu tượng so sánh với cái trừu tượng, nhưng lại
có khă năng tạo hình khối cho cảm xúc:
Nỗi gì khắc khoải không yên
Đập nhƣ giọt đắng trong tim thế này
Thậm chí trong một câu thơ, nhà thơ có thể sử dụng chuỗi so sánh tạo
chuỗi hình ảnh liên tưởng:
- Đất đã tự quên dấu tích oai hùng để tiếng chim nhƣ chuỗi bạc
long lanh, rập rờn sông núi
- Núi nhƣ ngƣời đàn bà đang yêu
Và sông bằng nhƣ một mảnh thƣ tình bị bóc trộm
Nhờ so sánh hình ảnh mà trong thơ Trần Nhuận Minh có sự kết nối độc
đáo, mới lạ:
- Mặt trời trắng và lành nhƣ một đồng xu nhỏ
Sáng thinh không, chiếc lá nhƣ giọt lửa
Nhờ có so sánh, Trần Nhuận Minh nắm bắt được hồn cảnh và hồn người
trong sự giao hòa làm một trong không gian tâm linh vùng đất Yên Tử:
Chợt ngân một tiếng chuông
Sắc cỏ bỗng hoe vàng
Nhƣ có ai lững thững
Trong bóng chiều lang thang
(Chiều Yên Tử)
* Biện pháp Ẩn dụ: Ẩn dụ là sự định danh thứ hai cho sự vật, mang ý
nghĩa hình tượng dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa các khách thể.
Biện pháp ẩn dụ được Trần Nhuận Minh sử dụng như một công cụ nghệ thuật
đắc lực trong xây dựng các hình ảnh biểu tượng như hoa cỏ, gió heo may, mây,
Đấng Mê Tơi, Đấng Âm U…
Ngoài ra ẩn dụ còn được ông sử dụng như một công cụ quan trọng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quá trình làm lạ hóa hình ảnh cũ. Nói cách khác, nhờ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác,
102
sự vật vốn cảm nhận bằng giác quan này được chuyển sang cảm nhận bằng giác
quan khác. Thời gian nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh được cảm nhận có
đường nét: “Năm tháng cuộn trên sừng bò khắc khoải”, có màu sắc: “Ta ở đâu
giữa mùa xƣa xanh ngát”. Sự vật vô hình được hình khối hóa thành từng giọt:
“Giọt trăng cũ tan trong hồn cúc dại”, “Lá phong buồn ven sông/Khẽ rơi một
giọt vàng”, “Tiếng chim rơi ngƣợc bóng núi sông Đà”, “tiếng sếu rơi vào vạt
áo khuya”…Trần Nhuận Minh đã “cởi trói giác quan” để đón nhận sự tác động
của hiện thực. Trong cơn gió nồm thấy được mùi vị mặn nồng của biển: “Biển
ập vào cơn gió nồng mặn chát”, trong mái phố thấy nỗi buồn của mùa đông còn
sót lại: “Mái phố sẵm nỗi buồn mùa đông rớt/Chân ta vấp bóng chiều ẩm ƣớt”,
lắng nghe âm thanh tiếng thở dài của núi trong cái trong cái ướt lạnh của buổi
sương chiều: “Tiếng thở dài của núi Tản viên/Làm ƣớt đẫm sƣơng chiều”…Như
vậy, từ sự kết hợp và chuyển đổi các yếu tố cảm giác khác nhau: màu sắc trở nên
có đường nét, hình khối; âm thanh thành màu sắc; cái vô hình thành vật thể hữu
hình…,Trần Nhuận Minh đã đem đến những hình ảnh thơ độc đáo, tạo khả năng
liên tưởng phong phú, là sự thể hiện cho những khám phá thế giới bằng cộng
hưởng nhiều giác quan của nhà thơ.
3.2. Một tiếng thơ đa giọng điệu
Theo từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ tình cảm, lập
trƣờng tƣ tƣởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tƣợng đƣợc miêu tả thể hiện
trong lời văn quy định cách xƣng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách
cảm thụ, xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm”[48.112].
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố
hàng đầu tạo nên phong cách riêng của mỗi nhà văn, tạo nên sự khác nhau giữa
các nhà văn và sức hấp dẫn cho tác phẩm. Giọng điệu là yếu tố đặc trưng của
hình tượng tác giả. Giọng điệu của của tác phẩm ở mức độ nào đó phụ thuộc vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
đặc điểm miêu tả cũng như cách cảm nhận về chúng. Chỉ có những nhà văn thực
103
sự có tài năng mới có giọng điệu riêng. “Đó chính là đặc điểm chủ yếu của một
tài năng sống độc đáo” (M.B.Khrapchencô).
Nhà văn tài năng phải có giọng điệu riêng và được thể hiện trong toàn bộ
sự nghiệp sáng tác. Nhưng giọng điệu biểu hiện như thế nào? Căn cứ vào đâu để
có thể nhận diện được chính xác giọng điệu của một tác phẩm, một tác
giả?...Vấn đề này không đơn giản bởi trong tác phẩm, giọng điệu không phải là
phép cộng của câu chữ mà nó được tạo thành do sự cộng hưởng, kết hợp hài hòa
của nhiều yếu tố ngôn ngữ cùng sự thăng hoa cảm xúc của chủ thể.
Là một nhà thơ trưởng thành từ những năm kháng chiến chống Mĩ và
sáng tác đến tận bây giờ, cho nên Trần Nhuận Minh đã tạo cho mình một tiếng
thơ đa giọng điệu: có giọng ngợi ca, khẳng định; có giọng day dứt, hoài nghi; có
giọng xót xa, thương cảm; có giọng hài hước, mỉa mai, châm biếm. Tất nhiên,
trong từng giai đoạn lịch sử, từng tác phẩm cụ thể, nó có những biểu hiện khác
nhau, gắn với những cung bậc cụ thể của tình cảm, những tình điệu thẩm mĩ
khác nhau. Người đọc có thể nhận ra chất giọng chủ yếu qua từng cấp độ khác
nhau của văn bản nghệ thuật ngôn từ. Có khi nó thấm sâu vào từng câu chữ và
lan tỏa khắp bài thơ, có lúc lại ngân vang qua những lời đề từ, cũng có khi nó lại
toát lên từ âm hưởng chung của những cuộc đời, những số phận cụ thể được
phản ánh trong tác phẩm. Những biểu hiện sinh động của chất giọng ấy có thể
tìm thấy trong hầu hết các tập thơ của Trần Nhuận Minh.
3.2.1. Giọng ngợi ca, khẳng định Trong những năm của thập kỉ sáu mươi, bẩy mươi, cả miền Bắc vừa
chiến đấu vừa bước vào thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội với tất cả vẻ
đẹp quyến rũ, với những hy vọng tràn trề về một tương lai rực rỡ, sán lạn. Phần
lớn các tác phẩm ra đời thời kì này đều miêu tả những bức tranh hiện thực đẹp
đẽ và tươi tắn với chỉ một sắc hồng. Tinh thần quyết tâm đánh giặc, không khí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hồ hởi của con người và cuộc sống tạo nên giọng điệu ngợi ca, khẳng định. Và
104
giọng điệu thơ Trần Nhuận Minh cũng nằm trong âm hưởng chung của dàn đồng
ca đó.
Chất giọng ngợi ca, khẳng định được vận dụng, sử dụng phổ biến như
một phương tiện chủ đạo nhằm tôn vinh đất nước, nhân dân anh hùng, ngợi ca
những con người lao động mới, cuộc sống mới:
Tôi sống trong thành phố của tôi
Thành phố một ngàn năm gan góc
Kiên trì giữ gìn những tinh hoa dân tộc
Đây là Việt Nam
Việt Nam đến tận cùng
(Thành phố bên này sông)
Trong Mùa xuân thứ nhất, mùa xuân đầu tiên của đất nước thống nhất
vẹn tròn, Trần Nhuận Minh đã ghi lại được suy nghĩ của một người cha trên
đường đánh giặc nói với con bằng một giọng lạc quan tin tưởng:
Con ơi, cha đâu phải là ngƣời thơ mộng
Lòng vẫn rƣng rƣng khi nghĩ đến mai sau
Của con, dải than đen dài rộng dƣới đất sâu
Của con chín khúc sông Hồng phù sa cuộn đỏ
Của con, ba ngàn cây số biển khơi trắng trời sóng gió…
Giọng ngợi ca thấm đẫm tinh thần nhân đạo cộng sản quả có sức cổ vũ,
động viên con người vươn lên chủ động giành lấy thành quả bằng chính bàn tay
lao động sáng tạo của mình:
Tổ quốc mình bát ngát cánh đồng xƣa
Đang nuôi lớn những vùng công nghiệp
Làm thật nhiều than, đấy là điều tâm huyết
Đang gọi trong tim tôi hôm nay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Trên tầng cao 380)
105
Đậm đà và sâu sắc trong chất giọng ngợi ca, đằm thắm, ân tình vẫn là
những bài thơ viết về vùng đất bên bờ Vịnh Hạ Long:
Đất sẽ lên dần vị ngọt
Và một phần Hạ Long sẽ hóa thành đồng
Màu đẹp nhất vẫn là màu lúa chín
Có đảo xa sắc chiều buông tím
Có cánh buồm hồng mặt trời lên
(Làm thủy lợi ở giáp khẩu)
Hát nữa em, giữa bốn bề tiếng sóng
Cánh buồm ra khơi, mái chèo vào lộng
Đêm nay em có buông lƣới chi đâu
Anh ngồi nghe nhƣ con cá mắc câu
(Nghe hát dân trài trên biển đảo Quan Lạn)
Cũng là giọng ngợi ca, khẳng định về con người mới, cuộc sống mới,
nhưng Trần Nhuận Minh không chạy theo các sự việc, không lấy các biến cố,
các sự kiện cách mạng làm mục đích phản ánh. Hiện thực cuộc sống lao động,
xây dựng trong thế đi lên với không khí sôi nổi, khẩn trương, với sự đổi mới
từng ngày, từng giờ trên gương mặt đất nước, quả có chất men say là ngòi bút
của Trần Nhuận Minh rung động một niềm say mê tha thiết với cảnh vật và
con người lao động:
Những buổi tối ở đây
Nhà sáng xanh đèn mỏ
Ngƣời chồng lo cho vợ
Chọn giống, bón đòng đòng
Ngƣời vợ lo cho chồng
Bữa ngon ngày mở vỉa
Niềm vui và gian khổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Chia đều cho hai nơi
106
(Làng ven mỏ)
Có khi cần khẳng định, giọng độc thoại cũng được cất lên một cách vững
vàng, mạnh mẽ. Nhà thơ độc thoại mà như đối thoại với tất cả những người thợ.
Lời nói với mình song cũng là lời nói với đời:
Tôi sống ở đây sẽ chết ở đây nhƣ một Ngƣời Thợ
Ngày đêm trút linh hồn vào chữ…
Từng giọt mồ hôi đều dâng hiến cho Đời
Từng chữ trong câu đều vang động hồn Ngƣời
(Đá cháy)
Thơ Trần Nhuận Minh còn có cả chất giọng đanh thép, hào sảng, sắc
mạnh, làm cho tiếng thơ như có sức mạnh hơn trước sức mạnh của kẻ thù:
Đêm nay anh đánh đâu những ngƣời dũng sĩ
Diệt viện An Viên hay phá bốt Châu Thành
Đất nƣớc này quyết không dung giặc Mĩ
Hàng loạt đồn nát vụn dƣới chân anh
(Gửi Rạch Giá)
Có lúc tự nhủ mình, giọng độc thoại lại trở về những lời thủ thỉ, tâm
tình:
Có hạnh phúc nào bằng về cùng đồng đội
Đêm chờ thù, nghe gió thổi bờ tre…
(Gửi Rạch Giá)
Nhìn chung, giọng điệu ngợi ca, khẳng định trong thơ Trần Nhuận Minh
mang âm hưởng sử thi, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống đang trên đà canh tân đất
nước, ca ngợi những con người lao động ngày đêm cống hiến sức lực cho đời và
khẳng định một niềm tin bất diệt vào sự trường tồn của dân tộc. Có thể nói, đấy
là giọng điệu chủ đạo của thơ ông trước năm 1975
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.2.2. Giọng day dứt, hoài nghi
107
Sau năm 1975, đời sống thế sự thời hậu chiến và những biến động to
lớn của đời sống kinh tế chính trị trong nước và trên thế giới đã có những tác
động trực tiếp đến thơ Trần Nhuận Minh. Đối mặt với hiện thực mới, thơ Trần
Nhuận Minh có nhiều thay đổi. Hình ảnh về đời sống, con người trong các mối
quan hệ xã hội được nhìn nhận thực tế hơn, thô ráp và trần trụi như chính sự tồn
tại của nó. Sự đảo lộn, lung lay của những giá trị tinh thần cũng được nhà thơ đề
cập…Hợp với nội dung này là giọng điệu trăn trở, suy tư, day dứt, hoài nghi…
Nhà thơ luôn trăn trở, lo lắng khi quan sát thấy sự bất bình đẳng phân
hóa giàu nghèo vẫn còn tồn tại trong xã hội hiện đại, và suy ngẫm về tiền đồ
tương lai của đất nước bằng giọng day dứt, hoài nghi:
Lí do nào, để giận
Nỗi niềm gì để thƣơng
Một mai nƣớc có giặc
Biết ai ra chiến trƣờng…
(Họp phố)
Và có một cái nhìn chân thật, từng trải về sự bất bình thường, ẩn chứa
mâu thuẫn có ngay trong những cảnh huống đời thường, thực trạng xã hội không
lí tưởng, đầy khiếm khuyết:
Trời ơi! vàng đến thế này
Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian…
(Trong đồng cỏ hoa vàng)
Nhà thơ lo âu thấy “cái tập thể đẻ non biến thành cái cá nhân còi cọc”.
“Trai làng phóng @ nhƣ điên, đầu cạo trọc” không thể là biểu hiện của sự giàu
sang, thịnh vượng. Cái hiện thực hôm nay, nhiều điều phấn chấn, nhưng đôi khi
sao lại có tiếng khóc ở bên trong:
Tổ tiên đã chết ở đây
Những gò đống cỏ xanh, nay đã ủi đi rồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
San sát vũ trƣờng, sân gôn, quán nhậu
108
Còn sót lại một cách cò trắng mong manh
Thấp thoáng bay
Trong ráng đỏ chiều hôm, không tìm ra chỗ đậu…
Song hành với nhận thức về sự mong manh, hư ảo của thế giới lí tưởng,
nhà thơ cảm thấy mất chỗ đứng, mất niềm tin, thậm chí luôn lo âu, bất ổn trước
dự cảm về tương lai:
Sự đời bao rắc rối
Phải trái tính sau đây
Lòng mình thì nhàu nát
Kinh sách thì thơ ngây
(Gửi bác Vương Liên)
Cuộc sống đời thường luôn chứa đựng những tình huống có vấn đề mà
mọi biểu hiện bề ngoài chỉ là hình thức, là lớp vỏ bọc che đậy bên trong:
Bạn nói rồi cƣời ngơ ngác
Bâng khuâng gƣơng mặt hao gầy
Giọt lệ của ngƣời đứng tuổi
Biết rơi vào cõi nào đây…
(Lời một người bạn có cợ được chọn đi làm ô sin)
Chủ thể trữ tình cũng mong muốn đạt tới chân lí theo tinh thần hướng đạo
tích cực để cải thiện bản thân và cải thiện thế giới nhân sinh nhưng lại có cảm
giác bất lực:
Ta bàng hoàng trƣớc Cái Không Thể Biết
Đang nhào nặn ta trong cõi vô cùng
Chả nhẽ mỗi chấm ngƣời mong manh trên trái đất
Lại là biểu hiện mơ hồ huyền bí của không trung…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Vô thức)
109
Con người luôn vận động thuận chiều với sự vận động của xã hội và
dòng chảy của thời gian theo hướng tuyến tính, nhưng có lúc con người hãy tìm
lại, nhận thức lại chính mình, và vẫn còn cảm thấy hoài nghi:
Hƣ ảo hỡi! Giữa vô cùng còn mất
Ta là ai? Thăm thẳm có Ta không?
Thông qua việc miêu tả trực tiếp các hiện tượng xã hội, số phận con
người cụ thể, nhà thơ khái quát lên một phạm vi hiện thực cuộc sống đa chiều,
thuận nghịch về hạnh phúc của những người phụ nữ bằng giọng điệu day dứt,
hoài nghi.
Với Mợ Hữu:
Mợ đáng thƣơng hay là đáng trách
Trời ơi tách bạch làm chi
Dòng sông muôn đời vẫn thế
Đục trong thì cứ trôi đi
Còn Dì Nga:
Chả biết dì sung sƣớng
Hay là dì khổ đau
Nửa đời…Ừ sao nhỉ
Họ không tìm thấy nhau…
Giọng điệu day dứt hoài nghi đã được lồng vào trong cảm xúc của chủ
thể trữ tình để có cơ giãi bày nỗi niềm thế sự về bức tranh hiện thực cuộc sống:
Chợt thấy muôn trùng cây cỏ
Bảng lảng nhuốm màu chiêm bao
Sự thế buồn vui lẫn lộn
Nào ai hiểu đƣợc vì sao…
(Cô Bổng)
Và lắm lúc cũng phải thảng thốt, rùng mình trước sự xoay vần của thời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
thế:
110
Lòng băn khoăn không không dứt
Bỗng thèm một chén trà
Cuối trời tia nắng quái
Cháy kinh hoàng sau ta
(Thăm bạn)
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh, người đọc sẽ thấy
xuất hiện cái tôi nhạy cảm luôn day dứt, hoài nghi trước môi trường và nhân
cách con người, trước những tồn tại còn đầy khiếm khuyết của xã hội hiện tại.
Sự hình thành môi trường sống mà ở đó mọi điều kiện có thể xẩy ra, họa phúc
khôn lường, người tốt chưa chắc đã gặp lành, kẻ quyền chức đâu bởi tài năng,
người cống hiến cả đời tay trắng trở về, mọi lời hứa chỉ là cơn gió thoảng, con
người lạnh lùng, vô cảm với nỗi đau của những mảnh đời bất hạnh xung quanh
trở thành nỗi nhức nhối khôn tả. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề làm nên giọng
điệu day dứt, hoài nghi trong sáng tác của Trần Nhuận Minh.
3.2.3. Giọng xót xa, thương cảm Nhà văn T. Sê-Khốp đã khẳng định: “Một nhà văn chân chính phải là nhà
nhân đạo trong cốt tủy”. Trái tim chân thành, thương mến của nhà văn được bộc
lộ qua giọng điệu xót xa, thương cảm. Trần Nhuận Minh không phải là một
ngoại lệ.
Giọng điệu chủ đạo trong thơ Trần Nhuận Minh (đặc biệt là giai đoạn
sau năm 1986) là giọng xót xa, thương cảm. Chất giọng này gắn với cảm hứng
nhân văn trong sáng tác của nhà thơ. Nó gắn với âm hưởng chủ đạo là nói về nỗi
đau và những ưu tư của người viết trước những bể dâu của số phận và nhân tình.
Đi vào thân phận những con người bất hạnh, nhà thơ không nén nổi tiếng thở dài
sâu tận bên trong như thế, ông đau với nỗi đau nhân tình thế thái, ông buồn
trước những cảnh đời cơ cực, éo le…Vì thế, giọng điệu xót xa, thương cảm lắng
đọng trong từng câu, từng chữ, ẩn trong nỗi thống khổ của những kiếp người bất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
hạnh. Giọng xót xa, thương cảm là một dụng công trong ý đồ nghệ thuật để Trần
111
Nhuận Minh viết về thơ chân dung. Nó góp một phần lớn tạo lên tiếng nói đa
thanh trên nhiều cung bậc.
Một trong những mối quan tâm lớn nhất của Trần Nhuận Minh là thân
phận con người. Nhà thơ rất nhạy cảm với những cảnh ngộ, những éo le ngang
trái mà con người gặp phải trong cuộc sống, đặc biệt là nỗi niềm trăn trở, xót xa
về con người vô danh có bi kịch đau lòng.
Trước cuộc đời một ông Hủi bị đày đọa tàn nhẫn bởi tình người băng lạnh
và căn bệnh quái gở trên trên cõi nhân gian hành hạ cho đến lúc chết, giọng thơ
Trần Nhuận Minh dóng lên những âm điệu thật bi thiết, cứa rát tâm hồn người
đọc:
Hỡi ông nằm dƣới đất này
Buồn đau muôn kiếp đọa đày một thân
(Ông Hủi)
Hay khi tiễn vợ một người lính từ giã cõi đời, giọng xót xa, thương cảm
như tiếng kèn ai oán não lòng tấu lên khúc bi ai về số phận người “Chinh phụ”
đã từng chịu đựng cảnh cô đơn, góa bụa đầy tủi hờn và oan trái:
Chinh phụ nàng ơi! Đƣờng âm, quanh co và u tối
Hãy vịn cành dƣơng mà về với cõi Ngƣời!
…Chinh phụ nàng ơi! Trần gian lắm tủi hờn và oan nghiệt
Thì đi đi, họ mạc đã đủ rồi
…Chinh phụ nàng ơi! Cành dƣơng úa, lú đƣờng quay trở lại
Thì đi đi! đừng để anh mong
Hỡi quỷ thần! Trong cõi đen nhƣ đêm
Đừng để nàng một lần nữa mất chồng…
(Tiễn vợ một người bạn lính)
Thơ Trần Nhuận Minh viết về nỗi đau của con người, mỗi cảnh đời là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
một bi kịch thương tâm, không ai giống ai. Nhà thơ đã sẻ chia sâu sắc với niềm
112
đau của con người, xót xa cho sự mong manh của cuộc sống. Trước cái chết bi
thảm của cháu Mừng, giọng thơ rung lên nức nở:
Cháu nằm túm trong vải bạt
Mặt mũi than đè giập nát
Xe than đổi một mạng ngƣời
Chú biết kêu cùng ai đựợc
Mừng ơi!
(Cháu đi đào than thổ phỉ)
Khi sang thăm Trung Quốc, ông khóc cho Lão Xá – một nhà thơ Trung
Quốc bằng giọng mang âm hưởng thơ của Nguyễn Du:
Văn chƣơng lỗi lạc một thời
Bể dâu đến thế thì thôi còn gì
(Lão Xá)
Cũng giọng xót xa, thương cảm ấy, khi chứng kiến cảnh Cháu Thủy bị
mắc bệnh hiểm nghèo, tâm trạng nhà thơ bàng hoàng, thổn thức trong giọng
điệu:
Chú đứng nhìn cháu thở
Tƣởng rách cả ruột gan
Cháu một mình chịu đựng
Những dày vò nhân gian
(Cháu Thủy)
Thơ Trần Nhuận Minh thường hướng đến những kiếp người nhỏ bé,
mong manh, những kiếp người chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ để xót xa, ngậm
ngùi:
Biết tìm đâu tấm lòng huyền thoại
Mở cửa từ bi đón các em vào
Mặt mũi nhọ nhem, áo quần mùi xó xỉnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cũng là ngƣời mà đến nỗi này sao?
113
(Giao thừa)
Và càng bức xúc trước dòng đời đen bạc, càng thương xót cho các trẻ
em nghèo khổ:
Giành một miếmg ăn mà bị xử đến mức này
Với trẻ con sao các ngƣời ác thế?
Không ai vô can khi một em bé
Đến ngày hôm nay vẫn còn đói bánh mì…
(Bài thơ không định viết)
Có tiếng rơi thầm của những giọt nước mắt lặng lẽ trong những câu thơ
xúc động ấy. Tình cảm đó xuất phát từ tấm lòng đầy cảm thương của một trái
tim nhân hậu. Điều này chứng tỏ Trần Nhuận Minh giành sự quan tâm đến nhiều
số phận, nhất là những con người bất hạnh, không gặp may mắn trong cuộc sống.
Khi chia sẻ với những người đồng nghiệp có tâm hồn chất phác, có ngòi
bút trung thực, có cuộc sống cần lao, Trần Nhuận Minh không khỏi nghẹn ngào,
nhòe lệ:
Cả một vùng tụ lại
Dƣới đáy chiếc bao này
Nhìn anh cƣời hiền hậu
Tôi bỗng nhòe mắt cay…
(Tinh chất)
Trước cảnh đời của cô gái đi làm ăn ở bên Nga, khi đến sân bay để về
nước thì bị cướp mất hàng, nhà thơ rộng lòng chia sẻ:
Tƣởng rằng hết kiếp ngựa trâu
Nào ngờ lại thấy trên đầu… dùi cui
Đỏ xanh cũng một chân trời
Đến đâu cũng một cuộc đời làm thuê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Trên sân bay quốc tế Semerechecô)
114
Ngưỡng vọng thiên tài Nguyễn Du mà cảm thương cho cuộc đời Thúy
Kiều chìm nổi trong kiếp đoạn trường, giọng thơ Trần Nhuận Minh chất chứa
nỗi niềm xót xa của một hồn thơ với một hồn thơ:
Tiền đƣờng sầm sập đêm mƣa
Nƣớc âm u chảy nhƣ chƣa vớt Kiều
(Nguyễn Du)
Không chỉ kêu gọi lòng thương cảm, chia sẻ của mọi tiếng lòng trong xã
hội, mà ở vị trí một người cha trong gia đình, ông cũng luôn dạy con mình biết
hướng thiện, phải có lòng nhân từ để chia sẻ, cảm thông với những người cùng
khổ:
Chẳng ai muốn làm hành khất
Tội trời đày ở nhân gian
Con không đƣợc cƣời giễu họ
Dù họ hôi hám úa tàn
(Dặn con)
Không có sự rung động đến thổn thức cõi lòng thì không có giọng điệu
cảm thương, đau xót đến thế. Nhưng giọng điệu đó đâu chỉ có dừng lại ở những
số phận con người, mà còn dành cho cả hết thảy mọi sinh linh trên cõi đời. Cụ
thể như bài thơ: Con chó của bạn tôi:
Vậy mà vẫn bị ai đánh bả
Lê tấm thân tê dại về nhà
Nó cố kìm cơn đau xé ruột
Ngƣớc chào ông, hai giọt lệ sa…
(Con chó của bạn tôi)
Đọc thơ Trần Nhuận Minh, người đọc cảm nhận tình yêu thương là
“chất nhựa thơm” của cuộc sống và dễ dàng đồng cảm với tiếng lòng chân thành
của một tâm hồn nghệ sĩ giàu lòng trắc ẩn trước cuộc đời và con người. Có thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
nói với cái nhìn đa chiều, đa diện, Trần nhuận Minh đã phản ánh cuộc sống một
115
cách xúc động và chân thực, những cảnh đời ngang trái, những kiếp người khổ
đau. Với giọng xót xa, thương cảm, Trần Nhuận Minh đã thể hiện tình yêu mến
chân thành, sự sẻ chia sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ, đồng thời với
những vần thơ ngổn ngang thế sự ấy, ông mong muốn khơi dậy được nhiều tâm
hồn đồng cảm, thức tỉnh người đọc khát vọng tạo dựng một cuộc sống hiền
lương, trong trẻo tình yêu thương của cộng đồng, của gia đình, người thân.
3.2.4. Giọng hài hước, mỉa mai, châm biếm Giọng hài hước cũng là nét nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh. Đây là
chất giọng tạo nên ấn tượng khó phai cho những câu thơ của tác giả. Chất giọng
này chủ yếu gắn với cảm hứng phê phán, được biểu hiện ở những cung bậc khác
nhau góp phần làm phong phú và sâu sắc cho chất giọng của tác giả. Hơn 40 bài
thơ có giọng điệu hài hước, châm biếm nhẹ nhàng mà không kém phần sâu cay.
Có khi nhà thơ phê phán hiện thực bằng giọng “cực nghiêm”, nhưng có khi lại
hài hước, dí dỏm như bỡn cợt, tiếng cười bỡn cợt, đáng mỉa mai, phê phán trong
cuộc sống.
Qua hình ảnh Làng tôi, Trần Nhuận Minh phê phán xã hội nông thôn
trước sự tác động của kinh tế thị trường. Làng tôi bình yên chỉ còn là chuyện
quá khứ. Sự đô thị hóa nông thôn đã tạo nhịp sống mới, cơ hội mới, tư duy mới,
nhưng lại dường như không còn giữ lại được những nét thuần phong mĩ tục của
làng văn hóa xưa kia:
Làng tôi thành quán hết rồi
Bún gà, lòng lợn…cứ xơi suốt ngày
Hàng Tầu cho đến hàng Tây
Hàng nào cũng có…phơi ngay ra đƣờng
Chẳng ai bàn chuyện ruộng nƣơng
Chỉ bàn xem ở trung ƣơng thế nào?
Lu bù hội họp, xƣớng ca
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Cháu con nhẩy múa nhƣ là choi choi…
116
(Làng tôi thành quán…)
Với cái nhìn sắc sảo như thấu gan, thấu ruột thiên hạ bởi những tình cảnh
khiến người ta cười ra nước mắt, Trần Nhuận Minh đã phơi bày những mặt tiêu
cực của xã hội thời kì hiện đại với những vấn đề nóng bỏng như: vấn đề trái với
đạo lí thuần phong mĩ tục, lòng tham, lối sống hưởng thụ…Nhà thơ luôn tạo ra
những tình huống khác lạ, những tình huống như những điểm nhấn để từ đó bức
tranh xã hội, con người hiện ra với tất cả đường nét và dáng vẻ xiêu xó tức cười.
Trong quan hệ nam nữ, nó cũng mang màu sắc của thời buổi kinh tế thị trường,
nhà thơ đã nhìn nó và biểu hiện bằng những từ ngữ “cặp bồ”, “xoắn xít”,
“hững hờ”, “váy ngắn”, “thân gầy” làm nên một chất giọng hài hước:
Trời cho nhan sắc hơn ngƣời
Chị tôi cùng thủ trƣởng tôi cặp bồ
Khi xoắn xít, lúc hững hờ
Ngƣời nhàu váy ngắn, kẻ trơ thân gầy…
(Trời cho nhan sắc…)
Trần Nhuận Minh cười cái lố lăng đồi bại đang diễn ra hàng ngày, không
những thế, nhà thơ không còn ngần ngại phanh phui, mổ xẻ các hiện tượng để
phê phán. Nó làm nên màu sắc trào lộng cho giọng điệu độc đáo của nhà thơ:
Nghe đâu, nàng – mụ Tú Bà
Buôn hàng tƣơi mát chuyển ra biên thùy
Ngày này, tháng nọ, năm sau
Thấy nàng giảng lớp làm dâu xứ ngƣời
Mừng nàng làm cán bộ rồi
Có hai con gửi hai nơi xa nhà
Một con thì giống Chánh tòa
Một con…nhƣ là…Cục trƣởng Hải quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
(Ngày này, tháng nọ…)
117
Có lúc giọng điệu hài hước lại hướng vào những cô gái mới lớn đã bán
rẻ giá trị nhân phẩm của tuổi xuân để lấy những ham muốn nhục dục:
Hỏi nàng thục nữ chƣa chồng
Rằng – Dăm bẩy chục đàn ông chẳng từ
(Hỏi chàng quân tử…)
Khi nhìn vào hiện thực, mổ xẻ, phân tích bản chất của hiện tượng, nhà
thơ thủng thẳng ném cái nhìn sâu sắc vào cuộc đời, thì ẩn sau tiếng cười hài
hước, mỉa mai ấy là nỗi đau trước hiện thực. Có khi Trần Nhuận Minh nói bằng
ngôn ngữ gây cười, nhưng tiếng cười không cất lên được, bởi đằng sau đó là sự
xót xa, là nỗi đau ẩn chứa dư vị đắng cay chua chát:
Một trai duy nhất, con ông
Làm quan đầu tỉnh cũng không kém đời…
Áo sô một bộ mà thôi
Sao giờ lắm thế toàn ngƣời không quen?
Cũng chống gậy cũng đứng bên
Cũng sụt sùi khóc…Ông nhìn ngẩn ngơ…
Oan tôi! Xin chớ nghi ngờ
Tôi không con bịch con bồ ở đâu
(Ông già nằm trong quan tài)
Đối tượng mà Trần Nhuận Minh mỉa mai, châm biếm là những cán bộ
thái hóa biến chất, vi phạm đạo đức con người, làm ăn bất chính chạy theo lối
hưởng thụ, sa đọa. Khi bị ra tòa, họ sẵn sàng bỏ tiền, đô la đút lót để chạy án:
Con gà nó đứng giữa sân
Chào rằng, chị ở nơi gần hay xa
Ngày mai chồng chị ra Tòa
Muốn tha thì phải vào nhà mà kêu…
Vàng, đô…phải có nhiều nhiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Thôi về bán quán, bán lều…mà lo…
118
(Con chim nó đậu…)
Như vậy có thể thấy, giọng điệu hài hước là một điểm nhấn độc đáo
trong thơ Trần Nhuận Minh. Ông đã thâu tóm chất trào lộng vào trong thơ nụ
cười châm biếm hóm hỉnh của dân gian. Nhà thơ cũng đã đánh thức rất thông
minh, khéo léo những câu hát phản kháng trong ca dao dân ca, âm hưởng trào
phúng của Hồ Xuân Hương, cách giễu cợt thâm trầm của Nguyễn Khuyến và
tiếp tục nụ cười phê phán của Tú Xương…Tiếp thu tinh hoa của các thế hệ đi
trước, Trần Nhuận Minh đã tạo cho mình một tiếng thơ riêng: mượn lối nói thâm
thúy trào lộng, mỉa mai, châm biếm để hướng tới con người hiện tại, để nói lên
những vấn đề của cuộc sống đương thời.
Trên hành trình năm mươi năm sáng tạo nghệ thuật, viết về đề tài gì, đối
tượng thẩm mĩ nào, Trần Nhuận Minh cũng giành hết tâm huyết và huy động hết
khả năng sáng tạo của mình. Giọng điệu nghệ thuật đa dạng của Trần Nhuận
Minh góp phần quan trọng vào việc truyển tải các vấn đề phức tạp của đời sống
và con người đương thời. Tuy nhiên dù nhà thơ viết với giọng điệu nào thì người
đọc vẫn bắt gặp trong thơ ông một hình tượng tác giả với những niềm suy tư,
trăn trở trước cuộc đời, một trái tim đầy tình yêu thương và lòng trắc ẩn với con
người. Những tác phẩm sáng tác sau năm 1986 của Trần Nhuận Minh không chỉ
khẳng định thành tựu của tác giả mà nó còn góp phần không nhỏ làm nên diện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
mạo thơ ca Việt Nam trong thời kì mới của đất nước, của dân tộc.
119
KẾT LUẬN
1.Trần Nhuận Minh là một trong số ít các nhà thơ tạo dựng được “một vệt
riêng” cho thơ trữ tình cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI. Là nhà thơ có mặt ở hai
giai đoạn trước và sau thời kì đổi mới 1986, với sức lao động dẻo dai, bền bỉ,
Trần Nhuận Minh có một “gia tài” tác phẩm thơ với số lượng khá lớn. Thơ ông
có sự biến chuyển rõi rệt qua từng thời kì lịch sử của đất nước, từ cảm hứng
ngợi ca theo xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa sang cảm hứng thế sự đời tư.
Đặc biệt ở giai đoạn sau năm 1975, cảm hứng thế sự đã trở thành cảm hứng chủ
đạo, và đã khẳng định một phong cách sáng tạo riêng của Trần Nhuận Minh.
Nếu xét trong dòng chảy liên tục của nền văn học Việt Nam nói chung, thơ Trần
Nhuận Minh có một giá trị xác định riêng biệt, như bất kì một sự nghiệp văn học
đích thực nào khác. Sở dĩ có điều này là bởi: Trần Nhuận Minh có tấm lòng
thành thực, trong sáng, có cảm quan hiện thực, nhìn cuộc đời bằng con mắt
khách quan, và quan sát hiện tượng bằng con mắt đa chiều. Là người nghệ sĩ
luôn nhiệt huyết với đời, với con người, trong quá trình lao động nghệ thuật,
Trần Nhuận Minh luôn có ý thức rất cao về vai trò sứ mệnh của thơ ca, của nhà
thơ, là phải dõi theo, bám sát vào hiện thực của đất nước. Từ sau Đại hội Đảng
VI (1986), với quan điểm đổi mới tư duy, “nhìn thẳng vào sự thật”, “nói rõ sự
thật”, Trần Nhuận Minh còn phát huy được cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ,
ngòi bút của ông ngày một chiếm lĩnh sâu sắc hơn về hiện thực đời sống trong
quá trình vận động và đi lên của nó. Đó là sự sáng tạo đúng hướng với lịch sử
phát triển của thi ca. Vì thế, Trần Nhuận Minh có một chỗ đứng vững chắc trong
nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
2. Đi sâu vào tìm hiểu hình tượng con người, một hình tượng trung tâm
trong thơ Trần Nhuận Minh, ta thấy những biểu hiện đa dạng, phong phú, sự vận
động mau chóng, phức tạp và mạnh mẽ của con người trước sự tác động của
hiện thực khách quan. Hình tượng người công nhân lao động đi vào thơ Trần
Nhuận Minh ở mọi khía cạnh, từ nghề nghiệp chung đến cuộc sống riêng, từ nỗi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
120
chung đến niềm riêng. Cuộc sống của họ không chỉ nẩy nở trên cái khía hồng
hào, tươi tắn mà còn hiện hữu trên cả những mặt còn lam lũ, vất vả trong đời
thường. Viết về hình tượng người nông dân, Trần Nhuận Minh xoáy sâu vào
những cảnh đời bất hạnh, những nỗi đau khổ của kiếp người nhỏ bé, những phận
“thảo dân” để sẻ chia, thương cảm. Viết về hình tượng người lính, Trần Nhuận
Minh thiên về cảm hứng ngợi ca những người lính anh hùng trong trong chiến
tranh, đồng thời hướng cảm hứng thế sự vào người lính trong thời bình khi họ
phải đối mặt với hiện thực nghiệt ngã và đầy thử thách của cuộc sống. Viết về
những người lao động nghệ thuật, nhà thơ cho người đọc thấy được những số
phận, bi kịch của các bậc tiền nhân thiên cổ trước mọi biến thiên của cuộc đời
dâu bể, và bùi ngùi thương cảm cho những người đồng nghiệp cùng thời khi
phải đối mặt với cuộc sống đầy phồn tạp, với hiện thực: “Cơm áo không đùa với
khách thơ”. Viết về hình tượng người mẹ, vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
truyền thống bằng tình cảm về tình mẫu tử thiêng liêng, mãi mãi tồn tại trong kí
ức con người, và đúng với truyền thống đạo lí ngàn đời của nhân dân Việt Nam.
Viết về hình tượng Em, Trần Nhuận Minh luôn ám ảnh bởi mối tình trong sáng,
lãng mạn, đã trở thành hoài niệm, đôi khi bất chợt ùa về trong tâm thức của
mình.
Tuy nhiên, những biểu hiện cụ thể trong việc xây dựng chân dung con
người, đặc biệt là chân dung con người lao động, Trần Nhuận Minh đôi khi phát
triển theo khuynh hướng tiêu cực, quá nhạy cảm với thực trạng khiếm khuyết,
hoặc nhìn vào cuộc sống toàn thấy màu ảm đạm, mà không cảm nhận thấy bên
cạnh đó còn rất nhiều phương diện đời sống tốt đẹp, và số phận con người thực
sự cũng đã được đổi đời cùng với xu hướng phát triển chung của đất nước. Đó
chính là những hạn chế trong thơ Trần Nhuận Minh khi phản ánh hiện thực
thông qua góc nhìn về số phận nhân dân trong thời kì đổi mới.
3. Đặc trưng ngôn ngữ thơ Trần Nhuận Minh vừa dung dị, vừa đậm chất
triết lí. Ngôn ngữ dung dị được thể hiện trong việc vận dụng linh hoạt các thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
121
ngữ, tục ngữ, ca dao kết hợp với lớp ngôn ngữ đời thường bằng những từ ngữ
“đường phố”, “tiếng lóng”, nhằm tạo được hiệu quả cao trong lối diễn đạt cho
dòng thơ thế sự. Ngôn ngữ thơ Trần Nhuận Minh còn mang tính triết lí sâu sắc.
Triết lí lặn sâu vào trong ngôn từ, có ở trong câu chữ, để chiêm nghiệm về cõi
người, cõi đời. Bên cạnh đó, ngôn ngữ thơ của ông còn thể hiện cách phối hợp
sóng đôi các cặp từ trái nghĩa làm tăng sức mở, và sử dụng các kết hợp từ lạ, độc
đáo đi liền với phương thức tổ chức so sánh, nhân hóa, ẩn dụ làm lạ hóa hình
ảnh trong thơ.
Giọng điệu, yếu tố then chốt khẳng định sự tồn tại của một cá tính sáng
tạo, một bản lĩnh nghệ thuật, và là phương thức thể hiện rõ nhất của nhà thơ.
Thơ Trần Nhuận Minh có sự đa dạng về giọng điệu, trong đó chủ đạo là giọng
ngợi ca, khẳng định; giọng điệu day dứt, hoài nghi; giọng điệu xót xa, thương
cảm; giọng điệu hài hước, mỉa mai, châm biếm. Người đọc nhận ra chất giọng
chủ đạo qua từng cấp độ khác nhau của từng tập thơ. Có khi nó thấm sâu vào
từng câu chữ, lan tỏa khắp bài thơ, có lúc lại ngân vang qua những lời đề từ,
cũng có khi lại toát lên từ những âm hưởng chung của những cuộc đời, những số
phận cụ thể được phản ánh trong tác phẩm của Trần Nhuận Minh.
4. Nhìn lại chặng đường sáng tạo thơ của Trần Nhuận Minh, ta thấy sự cố
gắng lỗ lực vượt thoát chính mình bằng những tìm tòi và thể nghiệm độc đáo,
thú vị, rất đáng trân trọng trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua
khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp một số phương diện đắc sắc trong thơ
Trần Nhuận Minh, chúng tôi thấy Trần Nhuận Minh luôn khẳng định cá tính
sáng tạo trong sáng tác nghệ thuật của mình. Cá tính sáng tạo đó được xuất hiện
ổn định trong nhiều giai đoạn, trên nhiều thể loại và hiện diện qua nhiều phương
diện: từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đến triết lí về cõi đời, cõi người;
hình tượng nhân vật đa dạng, được biểu hiện ở mọi góc độ, mọi khía cạnh, trong
“muôn mặt của đời thường”; một tiếng thơ đa giọng điệu, đến ngôn ngữ bình
dân, đậm chất triêt lí. Thơ Trần Nhuận Minh đã làm lên một hương sắc riêng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
122
độc đáo, không thể lẫn nhòa. Qua đó, có thể khẳng định Trần Nhuận Minh là
một trong số những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Với
đề tài này, chúng tôi mong muốn cung cấp cho độc giả có thêm một cái nhìn
toàn diện, sâu sắc hơn, hệ thống hơn về thơ Trần Nhuận Minh. Tuy nhiên việc
nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh vẫn còn là đề tài mở để cho những người yêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
quý và quan tâm đến tài năng và cái duyên của “Nhà thơ và Hoa cỏ” này.
123
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1985, NXB KHXH,
Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định,
NXB KHXH, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG, Hà Nội.
5. Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch,
trường Viết văn Nguyễn Du.
6. Nguyễn Phan Cảnh (1984), Ngôn ngữ thơ, NXBĐH và GDCN.
7. Mai Ngọc Chừ (2005), Vần thơ Việt Nam dƣới ánh sáng ngôn ngữ học,
NXB Văn hóa - Thông tin.
8. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học lí luận và ứng dụng,
NXBGD, Hà Nội.
9. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, NXBGD, Hà Nội.
10. Hữu Đạt (1999), Nhà văn sự sáng tạo nghệ thuật, NXB Hội nhà văn.
11. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học.
12. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (2010), Thi pháp học ở Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (1993) (Chủ biên), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
14. Hà Minh Đức (1994), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục.
15. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể lọai, NXB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
KHXH.
124
17. Trinh Đường (Chủ biên) (1999), Thơ Việt thế kỉ XX chọn lọc và lời bình,
NXB Thanh niên.
18. Heghen- Mĩ học, (tập 2) (1999), Phan Ngọc dịch, (TL Viện văn học).
19. Trần Minh Hà, Trần Nhuận Vinh ( Biên soạn) (2009), Trần Nhuận Minh
và ba lần định vị cho thơ, NXB Văn học.
20. Lê Thị Hải Hà (2008), Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh, Luận
văn thạc sĩ Ngữ vănm, ĐHSP Hà Nội.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004)- Từ
điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học vấn đề
và suy nghĩ, NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Văn học gần và xa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
24. Thái Doãn Hiểu (2008), Thơ phải lay động mọi ngƣời về số phận nhân
dân, Tạp chí văn nghệ Quân đội- tháng 3.
25. Bùi Công Hùng (1983), Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, NXB
KHXH.
26. Bùi Công Hùng (1985), Những đặc trƣng cơ bản của thơ Việt Nam hiện
đại 1945 – 1975, Tạp chí Văn học số 1.
27. Bùi Công Hùng (2000), Quá trình sáng tạo thơ ca, NXB Văn hóa –
Thông tin.
28. Hoàng Hưng (1995) , Thơ Mới và thơ hiện nay, Tạp chí VH số 2.
29. Lê Đình Kị (1969), Đƣờng vào thơ, NXB Văn học.
30. Đinh Trọng Lạc (1998), 99 phƣơng tiện và biện pháp tu từ Tiếng Việt,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
31. Mã Giang Lân (1987), Tìm hiểu thơ, NXB Văn hóa- Thông tin.
32. Phong Lê (Chủ biên) (tập 1) (1985), Văn học về đề tài công nhân, NXB
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
Lao động.
125
33. Phong Lê (Chủ biên) (tập 2) (1985), Văn học về đề tài công nhân, NXB
Lao động.
34. Phong Lê (Chủ biên) (1990), Văn học và hiện thực, NXB KHXH.
35. Phong Lê, Vũ Văn Sĩ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2000), Thơ Việt Nam
hiện đại, NXB Lao động.
36. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, NXB Hội
nhà văn.
37. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp, NXB ĐHQG
Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
39. Nguyễn văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.
40. Phương Lựu (Chủ biên) (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
41. Phương Lựu (Chủ biên) (2002), Văn học, nhà văn, bạn đọc, NXB ĐHSP
Hà Nội.
42. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Con đƣờng đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
43. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tƣ tƣởng và phong cách, NXB
ĐHQG, Hà Nội.
44. Trần Nhuận Minh (2004), Nhà thơ và hoa cỏ, NXB Văn học và TT
Nghiên cứu Quốc học.
45. Trần Nhuận Minh (2007), Tuyển tập 1960-2003, NXB Văn học.
46. Trần Nhuận Minh (2008), Bốn lăm khúc đàn bầu của kẻ vô danh, NXB
Văn học.
47. Trần Nhuận Minh (2009), Bốn mùa (Tuyển 1960 – 2008), NXB Văn học.
48. Trần Nhuận Minh (2011), Thơ đến từ đâu, NXB Văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
49. Nam Mộc (1978), Luyện thêm chất thép cho ngòi bút, NXB Văn học.
126
50. Nguyễn Xuân Nam (1985), Thơ, tìm hiểu và thƣởng thức, NXB Tác phẩm
mới.
51. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2003), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể
loại, NXB ĐHQG, Hà Nội.
52. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng
Tám, NXB ĐHQG, Hà Nội.
53. Nhiều tác giả (1997), Việt Nam nửa thế kỉ văn học, NXB Hội nhà văn.
54. Nhiều tác giả (2002), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Văn hóa dân tộc.
55. Nhiều tác giả (2002), Thơ Việt Nam hiện đại, NXB Lao động.
56. Nhiều tác giả (2002), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
57. Nhiều tác giả (2006), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
58. Lê Lưu Oanh (2006), Thơ Trữ tình Việt Nam (1975-1990), NXB ĐHQG,
Hà Nội.
59. Vũ Quần Phương (1993), Vài ý nghĩ về thơ hiện nay, Tác phẩm mới, số 3.
60. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ , NXB Giáo dục.
61. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lí luận phê bình đời sống văn chƣơng, NXB
Hội nhà văn.
62. Hà Công Tài (1997), Cấu trúc ẩn dụ hóa trong thơ, Tạp chí Văn học số 5.
63. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chƣơng cảm và luận, NXB Văn hóa-
Thông tin.
64. Chung Thị Thúy (2010), Cảm hứng thế sự đời tƣ trong thơ Trần Nhuận
Minh, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Vinh.
65. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, NXB Lao động.
66. Nguyễn Nghĩa Trọng (1984), Tìm hiểu ngôn ngữ thơ, TCVH số 6.
67. Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam hiện đại,
NXB ĐHQG, Hà Nội.
68. Trần Thị Việt Trung (Chủ biên) (2008), Hình tƣợng nhân vật phụ nữ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, NXB ĐH Thái Nguyên.
127
69. Lê Dục Tú (1992), Về một số đặc điểm thơ hiện nay, TCVH, số 3.
70. Bùi Thanh Tùng (2006), Thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng, Luận văn
thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội.
71. Lê Trí Viễn (2001), Đến với thơ hay, NXBGD, Hà Nội.
72. Trần Đăng Xuyền (2003), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
NXB văn học.