BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Ngô Thị Tuyết Nhung
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỂN XUÂN KHÁNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Ngô Thị Tuyết Nhung TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHÙNG QUÝ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phùng Quý Nhâm, người đã tận tình
hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn nhà văn Nguyễn Xuân Khánh, cô Phạm Thị Hòa, những
người đã giúp đỡ tôi trong việc tim tài liệu luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy
giáo, cô giáo, phòng sau đại học của trường Đại học sư phạm thành phố HCM đã dạy giỗ và
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn tất cả người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm,
động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2011
Ngô Thị Tuyết Nhung
MỤC LỤC
0TLỜI CẢM ƠN0T ........................................................................................................... 3
0TMỤC LỤC0T ................................................................................................................ 4
0TMỞ ĐẦU0T ................................................................................................................... 6
0T1. Lý do chọn đề tài0T ........................................................................................................ 6
0T2. Lịch sử vấn đề0T ............................................................................................................. 7
0T3. Phạm vi nghiên cứu0T .................................................................................................. 17
0T4. Phương pháp nghiên cứu0T ......................................................................................... 18
0T5. Đóng góp của luận văn0T ............................................................................................. 18
0T6. Cấu trúc của luận văn0T .............................................................................................. 19
0TCHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH. 0T ................................................................................................................. 20
0T1.1. Bàn về tiểu thuyết lịch sử0T ...................................................................................... 20
0T1.2. Giới thiệu diện mạo chung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau 1975 đến nay. 0T ....................................................................................................................................... 24
0T1.3. Giới thiệu tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh0T ........................ 32
0TCHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH0T .................................................................................... 36
0T2.1. Bão táp lịch sử và sự lựa chọn con đường đi của mỗi nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh0T ................................................................................. 36
0T2.1.1. Bão táp lịch sử và con đường đi của nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly 0T ...... 36
0T2.1.2. Làng Cổ Đình và hành trình trở về đạo Mẫu trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn 0T ................................................................................................................................... 50
0T2.2. Mạch nguồn văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh0T .. 62
0T2.3. Vấn đề tình yêu trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh0T ................... 71
0TCHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH0T ........................................................................... 81
0T3.1. Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh0T ................................................................................. 81
0T3.2. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh0T ......... 84
0T3.2.1. Điểm nhìn trần thuật0T ......................................................................................... 84
0T3.2.2. Giọng điệu trần thuật0T ........................................................................................ 87
0T3.2.3. Kết cấu0T ............................................................................................................. 93
0T3.3. Thời gian – Không gian trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh0T ...... 98
0T3.3.1. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh 0T ................. 98
0T3.3.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh 0T ............ 101
0TKẾT LUẬN0T ........................................................................................................... 106
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T ................................................................................... 109
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc ta là lịch sử đấu tranh dựng và giữ nước. Biết bao chiến công chói lọi
của ông cha ta đã đi vào sử sách muôn đời. Thế nhưng, thế hệ trẻ ngày nay lại hờ hững, kém
hiểu biết về lịch sử dân tộc. Trong nhà trường, học sinh không “mặn mà” với môn lịch sử.
Ngoài cuộc sống, nhiều người thông thạo sử Tàu, sử Tây mà không biết lịch sử Việt. Rất
nhiều bài thi Đại học điểm “0” môn lịch sử, thậm chí nhiều học sinh còn xuyên tạc lịch sử
một cách trắng trợn. Thực tế đau lòng đó buộc chúng ta phải suy nghĩ về cách dạy lịch sử
trong nhà trường cũng như cách “quảng bá” lịch sử qua văn chương nghệ thuật hiện nay.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã từng băn khoăn: “Dân tộc ta có một quá khứ dựng nước và
giữ nước đầy nhọc nhằn và kiêu dũng không thua kém một dân tộc nào, nhưng sao thế giới
biết đến ta quá ít. Cũng bởi bộ môn tiểu thuyết lịch sử của chúng ta chậm phát triển. Đến
nổi thanh thiếu niên của nước ta rất thông thạo sử Tàu, sử Ấn, sử Hy – La, sử Anh,
Pháp…”. Dường như sáng tác về đề tài lịch sử không phải chỉ là niềm say mê của người
nghệ sĩ mà còn là một yêu cầu bức thiết trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, sáng tác về đề
tài này không phải dễ. Nhà văn không chỉ có tài năng mà còn có vốn kiến thức uyên thâm về
nhiều lĩnh vực như: lịch sử, địa lý, văn hóa… Phải là những nhà văn dày dặn trong nghề
mới làm được. Để đáp lại “cơn khát” lịch sử hiện nay, những năm đầu thế kỷ XXI đã xuất
hiện một loạt tiểu thuyết lịch sử dày dặn, công phu, có nhiều đổi mới trong nghệ thuật như:
hai bộ tiểu thuyết lịch sử về nhà Trần, nhà Lý của Hoàng Quốc Hải (Bão táp triều Trần,
Tám đời vua Lý); Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân
Khánh; Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Hội thề của Nguyễn Quang Thân… Tiểu thuyết lịch sử
đã gặt hái được những thành công rất to lớn và có ý nghĩa. Thực tế sáng tác đòi hỏi yêu cầu
lý luận, nghiên cứu phê bình phải đi cùng với nó. Thế nhưng, những công trình nghiên cứu
tiểu thuyết lịch sử ở nước ta còn ít, chưa bao quát cũng như đi sâu vào mảng này, đặc biệt là
tiểu thuyết lịch sử giai đoạn từ sau 1975 đến nay.
Nguyễn Xuân Khánh là một trong những nhà tiểu thuyết lịch sử lớn của nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Ông sáng tác từ những năm kháng chiến chống Mỹ nhưng thực sự
gây tiếng văn trên văn đàn phải kể đến Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa.
Đây là những tác phẩm gây xôn xao dư luận, nhận được nhiều ý kiến đánh giá của giới phê
bình và đông đảo bạn đọc. Tuy nhiên, phần lớn các bài viết đánh giá, nhận định tác phẩm là
những bài báo, bài phỏng vấn viết khi nhà văn nhận được giải thưởng, chưa có nhiều những
công trình nghiên cứu chuyên sâu. Đây chính là mảnh đất trống thôi thúc người viết thực
hiện đề tài, nhằm đi sâu tìm hiểu những giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm,
góp một tiếng nói khẳng định sự thành công của các cuốn tiểu thuyết này.
2. Lịch sử vấn đề
Sau 1975, Miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, văn học bước sang thời
kỳ mới: thời kỳ sáng tác văn học trong điều kiện đất nước hòa bình. Công tác lí luận phê
bình cũng được quan tâm hơn, trong đó có nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử.
Hà Ân trong bài Vài ý kiến về sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết
lịch sử phục vụ các em (Tạp chí Văn học số 3/1979) đã đặt ra câu hỏi: “Gia giảm, chế biến
thêm nếu cần, cách đó có nên có trong hư cấu nghệ thuật chăng?”. Tác giả cũng khẳng
định: “Mặt hư cấu về một nhân vật là cuộc sống đời thường của nhân vật đó. Xưa nay sử
chép về một nhân vật qua các sự kiện lịch sử chính yếu. Nhưng trong một sáng tác văn học,
một nhà văn phải gần gũi người đời hơn. Có ăn uống, chơi bời, khôi hài, buồn bã, có vợ
con, có sở thích, cá tính, có tật, có tài… Càng xây dựng nhân vật văn học cách xa “siêu
nhân” bao nhiêu càng có sức thuyết phục người đọc bấy nhiêu.”
Nguyễn Huệ Chi – Vũ Thanh với bài viết Những đóng góp của Nguyễn Tử Siêu cho
loại hình tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỷ đăng trên TCVH số 5/1996 đã khẳng định
thành công về nhiều mặt của Nguyễn Tử Siêu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử những năm
đầu TK XX. Đóng góp từ kết cấu, văn phong đến việc phát huy năng lực tưởng tượng trong
tiểu thuyết lịch sử. Nguyễn Tử Siêu cũng hướng tới đời sống nội tâm nhân vật, miêu tả sự
bộn bề, phức tạp của cuộc sống…
Trương Đăng Dung trong cuốn sách Từ văn bản đến tác phẩm văn học (NXBKHXH,
1998) có bài Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của G.Lukacs. Bài viết đã trình bày
một cách khúc chiết, sáng rõ các luận điểm của Lukacs khi nghiên cứu về tiểu thuyết lịch
sử. Lukacs cho rằng: tiểu thuyết lịch sử như một thể loại văn học đích thực mới chỉ ra đời
vào TK XX mà đại diện lớn nhất là Walter Scott. Các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử phải
sinh động hơn các nhân vật lịch sử vì các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử được trao cho sự
sống còn các nhân vật lịch sử thì đã sống.
Trong TCVH số 9/1999, Bùi Văn Lợi có bài viết Mối quan hệ giữa tính chân thực
lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu TK XX. Tác giả bài
viết cho rằng: “Việc nghiên cứu lịch sử là rất cần thiết đối với người nghệ sĩ vì anh ta có
nhiệm vụ phải phản ánh trung thành một hiện thực lịch sử và làm sống lại những nhân vật
lịch sử vừa sinh động vừa có tác dụng lôi cuốn người đọc. Thế nhưng, sự nghiên cứu ấy
không thay thế sự tưởng tượng, hư cấu và sáng tạo của các nhà văn. Bởi vì “có khi nhà
nghệ sĩ chỉ cần vài khoảng khắc trong đời sống của nhân vật lịch sử, có khi nghệ sĩ đưa vào
tác phẩm những điều phi lịch sử không quan trọng, thậm chí trong một chừng mực nào đó,
có quyền vi phạm sự đúng đắn về mặt sự kiện lịch sử bởi vì tác giả chỉ cần đúng đắn lí
tưởng mà thôi”. Bùi Văn Lợi đánh giá: Hư cấu, tưởng tượng chính là một yêu cầu không thể
thiếu đối với sáng tác tiểu thuyết lịch sử. Nhà văn có thể hư cấu từ những sự kiện lịch sử và
nhân vật lịch sử, thậm chí có những nhân vật và sự kiện hoàn toàn do trí tưởng tượng của
nhà văn tạo nên.
Cùng có chung mối quan tâm giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật, Phan
Trọng Thưởng có bài Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi và một số vấn đề lí luận sáng tác về
đề tài lịch sử (TCVH số 11/1999). Tác giả khẳng định: “Trở lại vấn đề thực chất của sáng
tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử, theo tôi, không phải là minh họa lại lịch sử, không phải là
truyền đạt lại tri thức lịch sử, cũng không phải là bài học luân lí đạo đức cũ (vì những cái
đó, môn lịch sử và môn giáo dục công dân đã làm rồi, nghệ thuật không đặt cho mình nhiệm
vụ minh họa lại). Thực chất của sáng tạo nghệ thuật về đề tài lịch sử là khai thác lịch sử
theo một cách thức tiếp cận mới, một cảm hứng lịch sử - công dân mới trên nguyên tắc vừa
tôn trọng sự thật lịch sử vừa tôn trọng sự thật nghệ thuật”. Phan Trọng Thưởng cũng đề cao
sự sáng tạo trong sáng tác về đề tài lịch sử nhưng đặt ra nguyên tắc là sáng tạo nhưng không
được làm sai lệch, méo mó, biến dạng lịch sử. Sáng tạo phải có chừng mực, tôn trọng sự
thật lịch sử.
Trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử của Hella S.Haasse (TCVH số 3/2002), Phan Cự
Đệ đã đánh giá những thành công trong các tiểu thuyết lịch sử của bà Hella S.Haasse đồng
thời cũng nêu những quan niệm của nhà văn về cách xử lí chất liệu lịch sử trong tiểu thuyết
lịch sử. Bà Hella S.Haasse luôn cố gắng trung thành với lịch sử nhưng bà luôn nhắc nhở với
bạn đọc rằng: “Sự chân thực tuyệt đối là không thể có được vì những nhân vật lịch sử TK
XIV và XV mà bà đang sáng tạo ra ít nhiều đều là những sản phẩm của sự hiểu biết và trí
tưởng tượng mang màu sắc cá nhân và chủ quan của một con người sống giữa TKXX”.
Trong Tạp chí Nhà văn tháng 1/2003, Phan Cự Đệ đã có một bài viết chuyên sâu về
tiểu thuyết lịch sử với tựa đề Tiểu thuyết lịch sử. Tác giả đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa
mấu chốt đối với những nhà tiểu thuyết lịch sử: “Sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử ở Việt
Nam và ở Châu Âu đã đặt ra nhiều vấn đề lí luận: sự khác nhau trong nhiệm vụ của nhà sử
học và nhà viết tiểu thuyết lịch sử, mối quan hệ giữa sự kiện lịch sử và vai trò của hư cấu
nghệ thuật, tiểu thuyết lịch sử và nhiệm vụ soi sáng những vấn đề của cuộc sống hiện tại, sự
đồng cảm của nhà văn với các nhân vật lịch sử và thời đại lịch sử, các kiểu tiểu thuyết lịch
sử trong kinh nghiệm sáng tác của nhà văn, đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử hiện đại…”.
Phan Cự Đệ khẳng định: tiểu thuyết lịch sử cần có sự hư cấu, sáng tạo của nhà văn, lịch sử
chỉ là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử phải sinh
động hơn các nhân vật lịch sử vì họ hiện lên trong nhiều mối quan hệ, được miêu tả đời
sống nội tâm, quan hệ riêng tư. Trong tiểu thuyết lịch sử, sự kiện lịch sử, sự kiện hư cấu,
nhân vật có thật, nhân vật hư cấu trộn lẫn vào nhau. Tiểu thuyết lịch sử sẽ không có một sự
thật lịch sử tuyệt đối. Các nhà tiểu thuyết lịch sử sử dụng quá khứ như một khí cụ để vẽ lên
một điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại do đó làm sáng rõ hiện tại. Đây cũng chính là
cách xử lí chất liệu lịch sử của các nhà tiểu thuyết lịch sử hiện nay.
Trong cuốn Tiểu thuyết hiện đại của Dorothy Brewster và John Burrell, dịch giả
Dương Thanh Bình, xuất bản năm 2003, tác giả đã dành một chương viết về tiểu thuyết lịch
sử. Hai tác giả này đồng tình với quan điểm: nhà tiểu thuyết lịch sử sử dụng quá khứ như
một khí cụ để vẽ lên những điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại, từ đó soi sáng hiện
tại. Cách làm này được đông đảo các nhà tiểu thuyết lịch sử lựa chọn.
Nguyễn Tý trên báo Văn nghệ số 39/2003 có bài phỏng vấn nhà văn Thái Vũ: Nhà
văn Thái Vũ – Người trung thành viết tiểu thuyết lịch sử. Thái Vũ đã nói rõ quan điểm của
mình khi viết tiểu thuyết lịch sử: “Tôi không viết tiểu thuyết mà tôi viết lịch sử. Mà đã viết
lịch sử là phải trung thực, tôn trọng sự thật không bịa. Tôi viết là tuyệt đối không bịa, dù là
một sự kiện lịch sử hay một nhân vật lịch sử. Hư cấu nhưng không bịa. Tôi viết tiểu thuyết
lịch sử nhưng tôi không viết tiểu thuyết mà qua cách hư cấu của tôi: tôn trọng tính chân xác
của lịch sử cho nên tôi tôn trọng lịch sử là chính, chứ tôi không hư cấu theo kiểu tiểu thuyết
như “miếng giẻ rách vào tấm áo lịch sử””.
Tác giả Đỗ Hải Ninh trong luận văn thạc sĩ Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong sự vận động
của tiểu thuyết lịch sử nửa sau TKXX (năm 2003) đã có những nhận xét, đánh giá khá sắc
sảo về những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử của nước nhà trước Hồ Quý Ly và những đóng
góp của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh trong sự vận động tiểu thuyết lịch sử của nước nhà.
Đỗ Hải Ninh viết: “Đại thể, tiểu thuyết lịch sử chặng đường này có khả năng bao quát hiện
thực khá tốt kết hợp với khả năng hư cấu linh hoạt hơn nhưng chưa thực sự có sức hấp dẫn
rộng rãi đối với công chúng. Cách viết còn thiếu mới mẻ, đa dạng. Các cuốn tiểu thuyết lịch
sử thường vẫn nặng về sự kiện, tính cách nhân vật bị chi tiết che lấp và chủ yếu vẫn trông
vào sự hấp dẫn của cốt truyện” và “Cuốn sách khép lại tiểu thuyết lịch sử thế kỷ XX là tiểu
thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh. Tác phẩm này ra đời khi công cuộc đổi mới văn
học của nước ta đi qua thời kỳ sôi nổi, ồn ào ban đầu (thậm chí có người còn cho là chững
lại) đã đạt được những thành tựu đáng kể và vẫn đang tiếp tục tìm tòi nhưng trầm tĩnh hơn.
Một điểm đáng ghi nhận là kinh nghiệm đọc những tác phẩm văn học viết về đề tài lịch sử
ngày càng đa dạng, dân chủ hơn. Từ lúc ra đời cho đến lúc nhận giải thưởng của Hội Nhà
văn, Hồ Quý Ly đã gây được chú ý rỗng rãi trong dư luận”.
Bài viết Nguyễn Huy Tưởng – nhà chép sử bằng văn chương (TCVH số 9/2007), tác
giả Bích Thu đánh giá những tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng là tiểu thuyết hóa
lịch sử: “Ông không nệ không kể lại lịch sử, không “lịch sử hóa” tiểu thuyết mà đã hư cấu,
tưởng tượng, “tiểu thuyết hóa” lịch sử, phát huy khả năng sáng tạo của mình, phục lại một
thời đại đã lùi sâu trong kí ức dân tộc. Tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng vừa tạo sự sát
gần lại vừa tạo khoảng cách với lịch sử”.
Trong cuộc phỏng vấn nhà văn Hà Ân do Hoài Hương thực hiện (Nhà văn Hà Ân, đề
tài lịch sử không bao giờ xưa. Báo Văn nghệ Trẻ số 44 ra ngày 26/10/2008), nhà văn đã tâm
sự: “Tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi người viết phải có kiến thức sâu, rộng, chính xác của sử gia
và trí tưởng tượng sáng tạo vô cùng phong phú của nhà tiểu thuyết”. Tác phẩm sẽ thành
công nếu kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố đó. Nhà văn Hà Ân cũng nêu lên giới hạn của sự
sáng tạo tưởng tượng và những yếu tố không thể sai lệch sự thật lịch sử: “Nhà văn có thể
cho họ những suy nghĩ, những hành vi, cử chỉ, cách nói năng giao tiếp sinh hoạt… theo trí
tưởng tượng của mình. Nhưng tưởng tượng gì thì cũng phải tuân thủ theo nguyên tắc như
không thể đổi tên, tước vị, nhân thân và thời gian tồn tại của nhân vật lịch sử”.
Hoài Nam có bài Bàn về tiểu thuyết lịch sử đăng trên báo văn nghệ số 45 ra ngày
8/11/2008 đã chỉ ra những hạn chế của tiểu thuyết lịch sử nước ta trong suốt thời gian qua,
đó là: Các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử chủ yếu phản ánh cuộc đấu tranh chống ngoại xâm
bảo vệ tồn tại của vương triều và nền độc lập của quốc gia vì vậy đã bỏ qua một mảng lịch
sử rất lớn: cuộc sống nhân quần đã diễn ra trong quá khứ; cảm hứng chủ đạo của các nhà
tiểu thuyết lịch sử là ca ngợi, tôn vinh, kính cẩn đã tạo ra “khoảng cách sử thi” không thể
san lấp. Khi ấy tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trở nên đậm chất truyện kể mà lại nhạt đi rất
nhiều chất tiểu thuyết.
Nguyễn Thị Tuyết Minh có bài Khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử Việt Nam sau
1975 (Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 4/2009) đã chia tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau
1975 thành hai khuynh hướng: khuynh hướng lịch sử hóa tiểu thuyết và khuynh hướng tiểu
thuyết hóa lịch sử. Trong đó, khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử là khuynh hướng chủ
đạo trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975, đặc biệt là những năm đầu TK XXI.
Nhà phê bình Nguyễn Văn Dân có bài Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam đương đại (Báo Văn nghệ số 11 ra ngày 12/03/2011) đã khẳng định: “Tiểu
thuyết lịch sử đang lên ngôi”, ông chứng minh điều đó bằng những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ
sộ, có chất lượng ra đời liên tiếp trong những năm gần đây và đạt được những giải thưởng
danh giá dành cho thể loại tiểu thuyết. Theo đó, ông chia tiểu thuyết lịch sử Việt Nam
đương đại thành ba loại: 1) Tiểu thuyết chương hồi khách quan (tiêu biểu là Ngô Văn Phú,
Ngô Đình Danh…); 2) Tiểu thuyết lịch sử giáo huấn (Hoàng Quốc Hải); 3) Tiểu thuyết lịch
sử luận giải (Nguyễn Xuân Khánh).
Gần đây, sau một loạt bài viết của các tác giả phê phán tác phẩm Hội thề và không
đồng ý với việc Hội Nhà văn Việt Nam trao giải A trong cuộc thi tiểu thuyết năm 2008 -
2010, nhà văn Nguyễn Quang Thân đã có bài viết Tiểu thuyết lịch sử nơi luôn có những
nhìn nhận trái chiều đăng trên báo Văn nghệ tháng 5/2011. Nhà văn Nguyễn Quang Thân
thổ lộ: “Viết tiểu thuyết lịch sử, nhà văn phải đối mặt và vượt qua bao nguy hiểm khi muốn
thay đổi dù một chút những cái nhìn, những đánh giá tưởng như là muôn năm, bất di bất
dịch” và “nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là sáng tạo, nhào nặn và tái hiện một bức tranh
3D trên nền chính sử với tham vọng muốn nó phong phú, đa dạng hơn đã đành mà còn
mang được cái nhìn riêng của mình đối với bức tường chính sử treo trong miếu thờ ngàn
năm. Nó hướng tới độc giả thời nay, nó lôi đọc giả thời nay vào cùng suy nghĩ, hành động
với nhân vật lịch sử được nhà văn sáng tạo ra”.
Như vậy, từ sau 1975 đến nay, tiểu thuyết lịch sử đã nhận được nhiều sự quan tâm,
tìm hiểu của các nghiên cứu, nhà lí luận. Đặc biệt, trong những năm đầu TK XXI, với
những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử ra đời đã tạo ra những tranh luận sôi nổi trên văn đàn.
Ngoài những bài viết đăng trên các báo, tạp chí còn có nhiều ý kiến tranh luận, trao đổi,
phóng vấn trên các báo điện tử, các trang web cá nhân. Đây chính là một thuận lợi để người
viết thực hiện chương 1 của luận văn.
Những ý kiến xung quanh tác phẩm Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân
Khánh
* Hồ Quý Ly
Ngay từ khi ra đời, Hồ Quý Ly đã gây được một tiếng vang lớn trên văn đàn. Tác
phẩm đã giành được số phiếu bình chọn tuyệt đối của Hội đồng ban giám khảo cuộc thi viết
tiểu thuyết năm 1998 – 2000 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Sau đó, tác phẩm còn nhận
được giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội. Tác
phẩm có ảnh hưởng lớn trong tiến trình vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam.
Trên Tạp chí Sách (số 11/2000), Hoàng Cát có bài Tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” –
thưởng thức và cảm nhận. Hoàng Cát đánh giá đây là một tác phẩm văn học “bề thế, sâu
sắc, hấp dẫn”. Nó hấp dẫn, lôi cuốn người đọc bởi rất nhiều yếu tố: “hấp dẫn bởi lời văn
trang nhã, đẹp, sâu sắc”, “tính hữu ích lắng đọng mà nó hàm chứa, với một tính khái quát
tương đối cao, nghiêm túc”. Ở Hồ Quý Ly “giữa sự thật lịch sử và sự sáng tạo, hư cấu của
nhà văn tương đồng, tương hỗ và logic đến mức nhuần nhị, hấp dẫn như thể câu chuyện
đang xảy ra ngay trước mắt chúng ta”.
Trong hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly (Trên báo Văn nghệ số 41 tháng
10/2000) đã có rất nhiều ý kiến của các chuyên gia văn học. Tác phẩm được nhìn nhận dưới
nhiều góc cạnh, nhiều phương diện. Nhà văn Hoàng Quốc Hải nhận xét: “Đây là cuốn tiểu
thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử. Văn chương mượt mà, có sức lôi cuốn,
đọc hết hơn 800 trang sách, vẫn muốn đọc lại”. Nhà văn Hoàng Tiến quan tâm đến vấn đề
kẻ sĩ: “Với tôi, góc độ tiếp xúc là ở đề tài: thân phận kẻ sĩ: Hồ Nguyên Trừng , Nguyễn Cẩn,
Sử Văn Hoa, Phạm Sinh, cụ lang Phạm Công, sư Vô Trụ, cụ Lang Điền, đạo sĩ Thanh Hư,
đạo sĩ Bạch Hạc, cụ Sư Hiền, Đoàn Xuân Lôi (Trợ lí quốc tử giám)…”. Trần Thị Thường
lại chú ý đến hình tượng Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly: “Tôi nhớ được
mười bốn người phụ nữ trong cuốn sách này, mười bốn số phận, mười bốn tính cách và
mười bốn lối ứng xử. Có lẽ Nguyễn Xuân Khánh đã dành một phần đáng kể tri thức và tình
cảm của mình cho những trang viết về người phụ nữ”. Còn nhà văn Hồ Anh Thái nhận xét:
“Cuốn sách đã làm tốt cả hai yếu tố thể loại: Tiểu thuyết và lịch sử”.
Vũ Bão trên báo Tiền phong cuối tháng (năm 2000) có bài Đọc Hồ Quý Ly – Tiểu
thuyết lịch sử: Mười năm “mài kiếm dưới trăng”. Nguyễn Xuân Khánh âm thầm, lặng lẽ
làm việc rồi cuối cùng “nhả kén” cho đời bằng tác phẩm Hồ Quý Ly. Tác giả bài báo viết:
“Ông không đi cùng luồng với các nhà tiểu thuyết lịch sử khác dong con thuyền trôi theo
dòng sông đục ngầu phù sa thời xa xưa, ông chỉ chèo chống con đò ngang của mình gối
sóng xuyên chếch đôi bờ”. Hồ Quý Ly là một bước ngoặt trong tiến trình tiểu thuyết lịch sử
nước nhà.
Phạm Toàn viết bài Đọc tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh đăng trên
Tạp chí Xưa và nay số 10/2000. Phạm Toàn đã nhận xét: “Nguyễn Xuân Khánh không vì
viết truyện lịch sử mà lệ thuộc vào sự việc, không rơi vào việc dùng “tiểu thuyết” chỉ để viết
lại thông sử nước nhà theo một cách khác. Đây là một cuốn tiểu thuyết đích thực”.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên có bài Đọc “Hồ Quý Ly” đăng trên Tạp chí Tia
sáng số 1/2001. Phạm Xuân Nguyên đã chứng minh chất tiểu thuyết ưu trội của tác phẩm,
khác với những tiểu thuyết lịch sử trước đó, bởi những tác phẩm trước “phần sử nặng hơn,
át hơn phần tiểu thuyết”. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh rất tôn trọng sự thật lịch sử nhưng
với tư cách là một nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh đi sâu vào đời sống bên trong nhân vật để
phân tích, lí giải: “Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh không dám vi phạm gì lịch sử, ông theo
đúng biên niên sử quan các đời đã biên chép, nhưng là nhà tiểu thuyết ông nhìn vào bên
trong con người, cố hình dung và diễn tả những vận động tinh thần của những nhân vật lịch
sử có thật mấy trăm năm trước. Ông đã làm được điều này; nhân vật lịch sử của ông là
những cá nhân mâu thuẫn giằng xé, một bên là thúc bách (tất yếu) lịch sử, một bên là đòi
hỏi (tất yếu) con người, trước thử thách vận mạng của đất nước, chúng dân”.
Trung Trung Đỉnh coi Hồ Quý Ly là “giải pháp mới” cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà
(Tiểu thuyết Hồ Quý Ly và “giải pháp mới” cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà, Văn nghệ
quân đội số 10/2001). Tác giả Hồ Quý Ly đã: “tự lựa chọn được cho mình một thế đứng
vững chắc và một thế đứng với tư thế của một nhà tiểu thuyết trước những vấn đề hôm qua
và hôm nay”.
Trong luận văn thạc sĩ Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong sự vận động của tiểu thuyết lịch
sử nửa sau TK XX (Trường ĐHSP HN 2003), Đỗ Hải Ninh đã đặt tác phẩm Hồ Quý Ly
trong quá trình vận động của tiểu thuyết lịch sử nửa sau TK XX để thấy được những đóng
góp của nó cho thể loại tiểu thuyết lịch sử. Qua đó, tác giả luận văn cũng đi vào phân tích
các phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Ngoài ra còn khá nhiều các bài viết, bài phỏng vấn xoay quanh các vấn đề của tác
phẩm. Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất khẳng định sự thành công của cuốn tiểu thuyết
này trên nhiều phương diện.
* Mẫu Thượng Ngàn
Ngay từ khi ra đời, Mẫu Thượng Ngàn đã nhận được sự quan tâm của giới nghiên
cứu và đông đảo bạn đọc. Một loạt những bài viết trên các báo đã xoay quanh nhiều vấn đề
trong tác phẩm.
Linh Lê đã ghi lại cuộc trao đổi của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên và nhà văn
Châu Diên (Báo Thể thao và văn hóa ra ngày 14/7/2006) trong bài Văn hóa tại Mẫu. Trong
cuộc trao đổi này, cả Phạm Xuân Nguyên và Châu Diên đều công nhận sự thành công của
Mẫu Thượng Ngàn từ việc tác giả chọn thời gian, địa điểm, nhân vật, biểu tượng… để làm
rõ vấn đề bao trùm tác phẩm là: văn hóa Việt trong cuộc đụng độ với văn hóa phương Tây.
Họ cũng nhận ra một chút “sạn” trong tác phẩm: “chất tiểu thuyết đã hơi bị ông giảm nhẹ
liều lượng để tô đậm chất văn hóa” nhưng đó chỉ là “chuyện nhỏ trong cái công trình đồ sộ
và chắc chắn này của nhà tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh”.
Nhà văn Châu Diên tiếp tục có bài: Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và cuộc giành lại
bản sắc đăng trên báo Tuổi trẻ chủ nhật ra ngày 16/7/2006. Mẫu Thượng Ngàn lấy ý tưởng
từ cuốn Làng nghèo được nhà văn viết trong thời kỳ chiến tranh nhưng không được xuất
bản. Nhà văn Châu Diên khẳng định: “Nếu Nguyễn Xuân Khánh in bản Làng nghèo, anh sẽ
có một cuốn tiểu thuyết bậc trung, hiện thực tàm tạm. Đẩy lên thành Mẫu Thượng Ngàn,
anh có một cuốn tiểu thuyết mang tầm khái quát văn hóa, nhân vật không còn là những thân
phận riêng lẻ mà là cả một cộng đồng”.
Nhà văn Nguyên Ngọc rất tâm đắc với tác phẩm này, ông đã bày tỏ điều đó qua bài
Một cuốn tiểu thuyết thật hay về văn hóa Việt (Tuoitre online ngày 12/07/2006). Nguyên
Ngọc viết: “Và ta bỗng hiểu ra: một nhân dân tiềm chứa trong mình sức sống ẩn sâu trong
một thứ tín ngưỡng tuyệt diệu như vậy thì không bao giờ có thể chết, có thể cạn. Vĩnh cửu
như Đất, như Rừng, như Mẹ, như người Đàn bà. Bằng cuốn tiểu thuyết này, bằng khám phá
này – tôi muốn nói vậy – Nguyễn Xuân Khánh một lần nữa khiến ta kinh ngạc vì bút lực còn
dồi dào và đến tràn trề và đắm say của anh. Tác giả đã ngót 75 tuổi. Gừng già thật cay!”.
Hoài Nam trong bài Sức hấp dẫn của cái được viết (Báo Văn nghệ số 29 ra ngày
22/7/2006) đã lí giải nguyên lí văn hóa Việt được nhà văn lí giải trong Mẫu Thượng Ngàn là
“nguyên lí tính nữ” “được tượng hình qua người đàn bà và những phẩm chất riêng có của
người đàn bà: khả năng sinh sản, sự mềm dẻo uyển chuyển, sự nhẫn nhịn và năng lực hóa
giải những mâu thuẫn căng thẳng…”. Những người đàn bà trong Mẫu Thượng Ngàn đều
đẹp và đều truân chuyên.
Nhà báo Thu Huyền đã có cuộc phỏng vấn với nhà văn Nguyễn Xuân Khánh qua bài:
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Với nhà văn trải nghiệm không có gì là phí (Báo Văn nghệ
trẻ số 30 ra ngày 23/7/2006). Nhà văn đã tâm sự chuyện đời, chuyện nghề cùng bạn đọc.
Đồng thời bày tỏ quan niệm của mình về tiểu thuyết lịch sử: “Theo tôi, tiểu thuyết lịch sử có
hai loại. Một là viết về những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử. Và người viết không được
phép bịa đặt một cách trắng trợn chỉ có thể hư cấu về tâm lí hoặc thêm những nhân vật hư
cấu để soi sáng nhân vật có thực. Còn một loại khác là nhà văn xây dựng không khí xưa
nhưng nhân vật là nhân vật hư cấu. Có một vài nhân vật nhưng chỉ làm bối cảnh cho nhân
vật hư cấu. Và lịch sử chỉ là cái đinh treo. Tôi quan niệm rằng tiểu thuyết lịch sử không
phải là kể lại lịch sử, minh họa lịch sử, mà là phản ánh những vấn đề của con người hiện tại
vì chúng ta đang viết cho những người đang sống đọc vì vậy cần phải đề cập những điều mà
họ quan tâm”.
Bài phỏng vấn: Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Đề cập đến nhục cảm không có gì là
xấu do Chu Minh Vũ thực hiện, đăng trên báo Thanh niên số 203 ra ngày 22/7/2006, nhà
văn Nguyễn Xuân Khánh đã bày tỏ: “Trong tiểu thuyết này, sự phồn thực được đề cập đến
để thể hiện cuộc đấu tranh văn hóa giữa người Việt và người Pháp, thậm chí ngay cả trên
giường ngủ. Đề cập đến nhục cảm không có gì là xấu, sự giao hòa đàn ông và đàn bà là đẹp
nhất và người nhất, không thể lảng tránh. Nó thể hiện sức sống Việt và làm nên sức mạnh
Việt Nam cứu rỗi dân tộc và nhân bản”. Nhà văn cũng thể hiện quan điểm của mình khi viết
tiểu thuyết lịch sử: “Tiểu thuyết lịch sử là một mảng lớn vì lịch sử hàm chứa cái vô thức tập
thể của dân tộc. Tiểu thuyết lịch sử có nhiệm vụ phát hiện những cội nghiệp chung để cho
người đọc cùng suy nghĩ”.
Nguyễn Sĩ Đại trên báo Nhân dân có bài Mẫu Thượng Ngàn và những câu chuyện
tình yêu (số 31 ra ngày 30/7/2006). Tình yêu ở đây được Nguyễn Sĩ Đại nhìn nhận ở nhiều
mặt, không chỉ là tình yêu trai gái mà còn là tình yêu đối với quê hương đất nước, con
người…: “Đó là những cặp vú giỏ ấm tích, những đêm trăng ngà ngọc dâng hiến, những
chờ đợi câm lặng cả một đời người, những trái tim rạo rực đập về cuộc sống như Nhụ, như
Hoa, như bà Váy, cô Ngơ, chị ba Pháo… Không chỉ tình yêu nam nữ, tình yêu đối với đất
đai, mùa màng, với những ngày hội… Tất cả đều nói lên sức sống bất diệt của dân tộc, bất
chấp chiến tranh, thù oán.
Trên báo Sức khỏe và Đời sống (số thứ 5, từ ngày 1 – 3/8/2006), tác giả Đỗ Ngọc
Yên có bài Có một nền văn hóa – Mẫu như thế. Tác giả bài báo đã bày tỏ những thích thú và
tâm đắc của mình đối với tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn. Đặc biệt là kiểu kết cấu của tác
phẩm và hình tượng những nhân vật nữ. Đỗ Ngọc Yên viết: “Với một tiểu thuyết có cốt
truyện và nhân vật trung tâm ẩn như Mẫu Thượng Ngàn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã
tạo lập được một kiểu kết cấu mới, chặt chẽ và hoàn chỉnh xoay quanh việc miêu tả sự đối
thoại và quá trình tiếp biến giữa các nền văn hóa để tìm ra đâu là mã (hay còn gọi là bản
sắc) văn hóa Việt”. Về hình tượng các nhân vật nữ, tác giả bài báo nhận thấy: “Người nào
cũng đáng yêu, đáng mến. Tác giả miêu tả tình cảm, dục vọng tự nhiên của con người một
cách thật tài tình. Ông đã mô tả những cái bình thường trong đời sống và sinh hoạt của
những người phụ nữ Việt Nam, ngay cả những sinh hoạt phòng the, chăn gối hay những
cuộc tình vụng trộm trên quan điểm của cái Đẹp nên người đọc không hề cảm thấy thô tục
như trong một số truyện ngắn và tiểu thuyết của các bạn trẻ hiện nay, trái lại người đọc
càng cảm thấy người phụ nữ Việt Nam trong tác phẩm của ông thật sự thánh thiện, rất đáng
yêu và đáng trân trọng”.
Quỳnh Châu có bài viết Nguyễn Xuân Khánh: Tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới trên
báo Văn nghệ công an số 37 (137) ra ngày 7/8/2006. Tác giả bài báo khẳng định việc “xây
dựng tâm lí Việt, cách sống và phong tục Việt trong xã hội con người qua từng thời kỳ, điều
đó đem lại không ít sự thú vị cho những người đọc ở một giai tầng nhất định”. Quỳnh Châu
cũng giới thiệu vài nét về cuộc đời, sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
Báo Phụ nữ Việt Nam ra ngày 13/8/2006 có bài Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Tính
nữ trong Mẫu Thượng Ngàn rất mạnh do Thụy Thảo thực hiện. Nhà văn đã bày tỏ ý định
của mình khi viết về những người phụ nữ: “Nhiều người nói với tôi: Tính nữ trong cuốn
sách này quá mạnh, nó sẽ làm cho nhiều người đàn ông cảm thấy… mệt. Tôi chủ đích làm
chuyện đó. Từ bà tổ cô quý tộc, bà ba Váy đa tình, cô Mùi bí ẩn, cô bé Nhụ tinh khiết… đều
toát lên sự phì nhiêu, sinh sôi, nảy nở. Và khi viết về người phụ nữ, bắt buộc phải động
chạm đến chuyện trai gái. Khi viết những đoạn miêu tả tình dục, tôi phải suy nghĩ rất nhiều.
Mỗi hành vi tình dục, theo tôi, nó phải nói lên được cá tính nhân vật, hoặc mang tính chất
xã hội. Có yêu thương ở đấy, có hy sinh ở đấy, có thù hận ở đấy, thậm chí có cả sự xả thân
ở đấy””.
Trên báo Người Hà Nội số 37 ra ngày 15/9/2006, Thanh Tâm đã có cuộc phỏng vấn
với nhà văn Nguyễn Xuân Khánh và được ông tiết lộ: Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Tiểu
thuyết Mẫu Thượng Ngàn có thể được viết lại lần thứ 3! Mặc dù tác phẩm đã được ông
nghiềm ngẫm rất lâu, viết đi viết lại nhiều lần, khi ra đời đã được đông đảo bạn đọc đón
nhận nhưng nhà văn vẫn chưa thật hài lòng. Theo nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: “nên cắt
gọt đi 150 trang rồi nối khấc lại…”.
Trong bài Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn
trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 6/2007, tác giả Trần Thị An có những cách lí giải thú
vị về văn hóa dân gian, tín ngưỡng dân gian trong tác phẩm. Tác giả bài viết khai triển các
nội dung sau: 1) Tín ngưỡng dân gian với tư cách là một nội lực cố kết cộng đồng; 2) tín
ngưỡng dân gian với tư cách là phản lực tự vệ của một dân tộc; 3) Tín ngưỡng dân gian với
tư cách là vô thức cộng đồng cần khai phóng.
Tuy có khá nhiều bài viết về Mẫu Thượng Ngàn nhưng phần lớn là những bài cảm
nhận chung hay các cuộc phóng vấn tác giả ngay khi tác phẩm vừa ra đời. Vẫn chưa có
những công trình lớn, chuyên sâu tìm hiểu một cách toàn diện về tác phẩm.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chủ yếu nằm trong hai cuốn tiểu thuyết lịch sử của nhà
văn Nguyễn Xuân Khánh: Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn. Cuốn tiểu thuyết Đội gạo lên
chùa của nhà văn vừa mới được xuất bản (tháng 7/2011) nên chúng tôi chưa có điều kiện
đưa vào luận văn này.
Ngoài ra, chúng tôi khảo sát thêm một số tiểu thuyết lịch sử trong giai đoạn từ sau
1975 đến nay nhằm khái quát một cách sơ lược bức tranh vận động, phát triển của tiểu
thuyết lịch sử nước nhà, đồng thời thấy được đóng góp của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
cho sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Cụ thể, chúng tôi khảo sát những tác
phẩm sau:
1) Thủ độ - Ngôi vua và những cuộc tình (1988); Gươm thần Vạn Kiếp (Trần Quốc Tuấn)
(1998); Cái ngai vàng (2003) của Ngô Văn Phú
2) Ức Trai – Tâm thượng quang khuê tảo (2002) của Bùi Anh Tấn
3) Sông Côn mùa lũ (1981) của Nguyễn Mộng Giác
4) Vạn Xuân (xuất bản lần đầu tiên ở Pháp năm 1989) của Yveline Feray
5) Hồ Quý Ly (2000); Mẫu Thượng Ngàn (2006) của Nguyễn Xuân Khánh
6) Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý (2010) của Hoàng Quốc Hải
7) Giàn thiêu (2004) của Võ Thị Hảo
8) Hội thề (2010) của Nguyễn Quang Thân
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp lịch sử
Viết về đề tài lịch sử, chúng tôi chú ý tìm hiểu lịch sử để nắm vững bối cảnh lịch sử
của từng giai đoạn, đồng thời thấy được tính chân thực lịch sử và sự sáng tạo, hư cấu trong
các tiểu thuyết lịch sử.
4.2. Phương pháp so sánh
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi so sánh tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn
Xuân Khánh với một số tiểu thuyết lịch sử của các nhà văn khác cùng thời và khác thời để
làm nổi bật những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân
Khánh.
4.3. Phương pháp phân tích
Với phương pháp này, chúng tôi tiến hành phân tích, cắt nghĩa những nét đặc sắc
trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh nhằm giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc
và toàn diện hơn về các tác phẩm này.
4.4. Phương pháp hệ thống, chỉnh thể
Chúng tôi đặt các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh trong hệ thống tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam từ sau 1975 đến nay để thấy được quá trình vận động của tiểu
thuyết lịch sử nước nhà và làm nổi bật những cách tân trong nghệ thuật viết tiểu thuyết lịch
sử của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách kĩ lưỡng, hệ thống tất cả những điểm nổi bật về nội
dung, nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh. Giúp người đọc có một
cái nhìn toàn diện về tiểu thuyết lịch sử của ông.
Luận văn còn so sánh đối chiếu giữa tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh và
những nhà viết tiểu thuyết lịch sử khác để thấy được sự đóng góp của tác giả trong tiến trình
phát triển của tiểu thuyết lịch sử, qua đó phác thảo một vài nét sơ lược về tiến trình phát
triển của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn từ sau 1975 đến nay.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau 1975 đến nay và tiểu thuyết lịch
sử của Nguyễn Xuân Khánh
Chương 2: Nội dung cơ bản trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ SAU 1975 ĐẾN NAY VÀ TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ CỦA
NGUYỄN XUÂN KHÁNH.
1.1. Bàn về tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử từ khi ra đời đến nay vẫn là một dòng chảy dào dạt trong nền văn
học dân tộc. Theo cách hiểu thông thường nhất: tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm tiểu
thuyết viết về đề tài lịch sử. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là lịch sử trong tiểu thuyết lịch
sử được được nhà văn xử lí như thế nào, mức độ ra sao? Đã có rất nhiều quan niệm xoay
quanh vấn đề này, tựu trung lại có thể chia thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhất coi việc tái hiện chính xác sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là chính.
Nhà văn trở thành người văn chương hóa lịch sử, nghĩa là thể hiện lịch sử một cách sinh
động, hấp dẫn, lấp đầy chỗ trống trong các trang chính sử ngắn gọn, khô khan. Cái nhìn của
nhà văn đối với lịch sử là cái nhìn kính cẩn, coi những điều được chép trong chính sử là sự
thật hiển nhiên, không cần bàn cãi. Những cuốn tiểu thuyết như thế không có nhiều ý nghĩa
văn chương và chưa phải là những cuốn tiểu thuyết đích thực. Tiểu thuyết lịch sử thì trước
hết nó phải là tiểu thuyết và phải mang đầy đủ đặc điểm của thể loại. M.Bakhtin đã nói:
“tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình”, tiểu
thuyết đưa người đọc vào một cuộc đối thoại lớn mà ở đó mỗi quan điểm đều độc lập và có
tiếng nói ngang bằng nhau. Tiểu thuyết luôn có thái độ hoài nghi, lật đi lật lại vấn đề, không
chấp nhận cách giải quyết một hướng, hoàn tất, xong xuôi [4, 21]. Trong Nghệ thuật tiểu
thuyết, M.Kundera cũng khẳng định: “tiểu thuyết vốn là sự hiền minh của “lưỡng lự”, là
thời gian của cái ở thì hiện tại tiếp diễn, cái dang dở, cái không hoàn tất. Tiểu thuyết mang
sứ mệnh nghi ngờ cái tưởng như đã ổn định, tra vấn đến cùng những chân lí có sẵn”.
Tiêu biểu cho quan điểm này là các nhà văn: Thái Vũ, Chu Thiên, Nguyễn Tử Siêu,
Ngô Văn Phú…Tuy nhiên cách xử lí của các nhà văn cũng có sự khác nhau. Theo Thái Vũ:
“Tôi không viết tiểu thuyết mà tôi viết lịch sử. Mà đã viết lịch sử thì phải trung thực, tôn
trọng sự thật không bịa. Tôi viết là tuyệt đối không bịa, dù là một sự kiện lịch sử hay một
nhân vật lịch sử” [71, 5]. Nhà văn đặt sự trung thành lịch sử lên trên hết và dùng văn để
chép sử. Quan tâm đến văn chương nhiều hơn, Ngô Văn Phú cho rằng: “Ở đây tôi muốn nói
chất tiểu thuyết phải được thổi vào hồn của lịch sử”. Nguyễn Tử Siêu đã không hoàn toàn
lệ thuộc vào chính sử, phát huy khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ, “bên cạnh các bậc
anh hùng xuất chúng, Nguyễn Tử Siêu còn đặc biệt chú ý các nhân vật lịch sử ít tên tuổi
khác và cả những nhân vật do ông hư cấu, nhiều khi họ chỉ là những người bình thường
không tên tuổi” [19, 20].
Với cách quan niệm và cách viết tiểu thuyết như vậy, trong một thời gian dài tiểu
thuyết lịch sử nước ta chưa có những đổi mới, cách tân. Dẫn đến những điều đáng tiếc: a)
Khi chỉ tập trung vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sẽ bỏ
qua rất nhiều phương diện đa dạng của đời sống nhân quần mà chắc chắn đã diễn ra trong
thời đại quá khứ; b) Khi thái độ và cảm hứng của nhà tiểu thuyết trước lịch sử chỉ là kính
cẩn và ca ngợi, rõ ràng vẫn tồn tại cái “khoảng cách sử thi” không thể san lấp. Khi ấy tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam trở nên đậm chất truyện kể mà lại nhạt đi rất nhiều chất tiểu thuyết
[47, 3]
Đóng góp của những nhà tiểu thuyết lịch sử theo quan niệm này là làm cho người
đọc hiểu biết về lịch sử, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc. Điều này đặc biệt có ý
nghĩa trong thời kỳ chiến tranh, khi đó nó trở thành một vũ khí chiến đấu chống lại kẻ thù
xâm lược vô cùng hiệu quả.
Nhóm thứ hai quan niệm rằng: lịch sử là chất liệu, thậm chí là phương tiện để viết
tiểu thuyết, thông qua lịch sử đặt ra những vấn đề cấp thiết cho hiện tại và tương lai. Quan
niệm này tương đồng với quan niệm của các nhà viết tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng trên thế
giới: A.Dumas, Hella S.Haasse, Lion Feuchtwanger… A.Dumas, tác giả của những cuốn
tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như: Ba chàng lính ngự lâm, Hai mươi năm sau, Bá tước Monte
Cristo… đã nói rằng: “Lịch sử đối với tôi là gì? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo bức họa
của tôi thôi”. Bà Hella S.Haasse trong lời nói đầu cuốn Cánh rừng mong đợi đã tâm sự:
“Mặc dù những cuốn tiểu thuyết của tôi có thể là tiểu thuyết lịch sử (bởi vì nó dựa trên
những sự kiện và biến cố lịch sử hoặc có liên quan đến những con người có thật)… chủ định
của tôi không bao giờ lấy việc tái hiện quá khứ làm nhiệm vụ hàng đầu. Trong văn học, đề
tài lịch sử là một phương tiện chứ không phải một cứu cánh” [17, 61]. Lion Feuchtwanger
cũng quan niệm: “Tôi không quan tâm đến lịch sử vì lịch sử… khi tôi cần tả một cái ghế của
thế kỉ XVIII hay một bộ y phục của thế kỉ II, tôi cố gắng tả cho thật chính xác. Nhưng những
đồ trang hoàng của thời xưa đó, tôi chỉ ngẫu nhiên đem chúng vào tác phẩm thôi. Còn bản
ý của tôi là chỉ dùng những khía cạnh nào đó của lịch sử có ý nghĩa với chúng ta ngày nay,
tới nay vẫn còn đầy sinh khí và có thể giúp chúng ta hiểu việc ngày nay… Xem xét sự thăng
trầm của một thời đại rất có ích, vì hoặc nó giống hệt sự thăng trầm của ngày nay, hoặc
không giống thì nó cũng giúp ta nhận định rõ sự biến chuyển của công việc ngày nay. Do đó
mà tôi viết tiểu thuyết lịch sử” [6, 133]. Dùng lịch sử để phản ánh những vấn đề hiện tại là
xu hướng viết tiểu thuyết lịch sử hiện đại trên toàn thế giới. Lukacs gọi nó là “tính thích
dụng” và “tính thích dụng là một trong những nét cơ bản của tiểu thuyết lịch sử ngày nay,
nó báo hiệu sự khởi đầu của bước ngoặt mới trong lịch sử của tiểu thuyết lịch sử” [12,
189].
Quay trở lại với các nhà viết tiểu thuyết lịch sử theo quan niệm này ở nước ta, tiêu
biểu là Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Mộng Giác, Võ Thị Hảo, Nguyễn
Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân… Càng trở về những năm gần đây thì các nhà tiểu
thuyết lịch sử càng có nhiều những đổi mới trong nghệ thuật viết. Nguyễn Huy Tưởng coi:
“Lịch sử chỉ là cái cớ để nhà văn triển khai những băn khoăn, trăn trở không thôi day dứt
tâm thế của người cầm bút về thân phận con người, ý thức công dân và sứ mệnh nghệ
thuật” [65, 71]. Hoàng Quốc Hải, người đóng góp vào nền văn học nước nhà với hai cuốn
tiểu thuyết lịch sử đồ sộ: Tám triều vua Lý, Bão táp triều Trần, khẳng định rằng: “Viết tiểu
thuyết lịch sử không nên phụ thuộc vào chính sử”. Chính sử cũng chỉ là một nguồn tư liệu
trong vô số tư liệu mà nhà văn tập hợp. Vây nên, Hoàng Quốc Hải đã có những chuyến đi
thực tế dài ngày, tìm hiểu những dã sử, truyền thuyết, gia phả, câu đối… được lưu truyền
trong dân gian. Ông cũng quan niệm viết tiểu thuyết lịch sử để cho người hôm nay đọc nên
đã chọn cách viết dung dị, dễ đọc, phục vụ đông đảo quần chúng. Nguyễn Quang Thân, tác
giả vừa đạt giải A cuộc thi viết tiểu thuyết giai đoạn 2006 – 2010 do hội Nhà văn tổ chức,
cho rằng: “Điều quan trọng là tiểu thuyết lịch sử phải làm những gì chìm lấp dưới lớp bụi
thời gian thành ánh sáng trong cuộc sống hiện đại chứ không giúp độc giả nhâm nhi mãi
quá khứ để tự ru mình” [63, 12]. Cùng quan niệm: dùng lịch sử để soi sáng những vấn đề ở
hiện tại nhưng nhà văn Nguyễn Xuân Khánh có quan niệm về tiểu thuyết lịch sử cởi mở
hơn. Theo ông: tiểu thuyết lịch sử có hai loại: “Một là viết về những nhân vật nổi tiếng
trong lịch sử. Và người viết không được phép bịa đặt một cách trắng trợn, chỉ được phép hư
cấu về tâm lí hoặc thêm những nhân vật hư cấu để soi sáng nhân vật có thực. Còn một loại
khác là nhà văn xây dựng không khí xưa nhưng nhân vật là nhân vật hư cấu. Có một vài
nhân vật nhưng chỉ làm bối cảnh cho nhân vật hư cấu. Và lịch sử chỉ là cái đinh treo” [33,
3]. Quan niệm này chính là tiêu chí để nhà văn sáng tác những cuốn tiểu thuyết lịch sử của
mình: Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn. Nếu Hồ Quý Ly là tác phẩm tiêu biểu cho loại thứ
nhất thì Mẫu Thượng Ngàn tiêu biểu cho loại thứ hai.
Có thể nói rằng quan niệm về tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã
bác bỏ ý kiến của nhà phê bình Hoài Nam, khi ông này cho rằng: Mẫu Thượng Ngàn không
phải là tiểu thuyết lịch sử mà là tiểu thuyết phong tục. Hoài Nam viết:
“Sự thâm nhập văn bản Mẫu Thượng Ngàn cho phép ta khẳng định ban đầu, rằng
đây không phải là một tiểu thuyết lịch sử. (Thực ra, “lịch sử” là khái niệm được dùng khá
tùy tiện! Người ta dễ dàng đồng ý với nhau ở cái đẳng thức không hẳn đã chính xác: lịch sử
= quá khứ. Nhưng không phải quá khứ nào cũng được coi là lịch sử, điều này đặc biệt rõ
trong văn học. Viết về phong trào Cần Vương cuối thế kỉ XIX, cuốn Cờ nghĩa Ba Đình
đương nhiên được coi là tiểu thuyết lịch sử. Nhưng những cuốn viết về các giai đoạn quá
khứ gần hiện tại hơn – kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ chẳng hạn – có ai bạo gan coi
là tiểu thuyết lịch sử?). Có hai lí do cho sự khẳng định này: Thứ nhất, đại đa số nhân vật
trong tác phẩm là nhân vật hư cấu, một vài nhân vật có thật trong lịch sử lạc vào đây (giám
mục Puginier, thiếu tá Heri Riviere) thì chỉ được nói đến loa qua, và vì thế, không tạo được
cho người đọc niềm tin vào tính xác thực “như được lưu trong sử sách” của những gì tác
giả kể lại. Thứ hai, mặc dù một vài sự kiện xảy ra trong lịch sử Việt Nam nửa cuối TK XIX
có được đưa vào (như việc đàn áp người công giáo của triều đình nhà Nguyễn, cuộc đánh
thành Hà Nội lần thứ hai, cái chết của Heri Riviere trong cuộc chiến với quân Cờ Đen…),
nhưng những sự kiện chủ yếu nằm ở mạch vận động của cốt truyện thì lại rất ít liên quan tới
các sự kiện lịch sử ấy. Người đọc ngầm hiểu với tác giả - hay tác giả ngầm giao kèo với
người đọc – rằng câu chuyện về người dân làng Cổ Đình này diễn ra trước năm 1930, trong
bối cảnh người Pháp đang từng bước áp đặt sức mạnh bảo hộ của mình đến từng làng quê
Bắc Bộ. Mà chung chung như vậy thì thật khó có thể nói đến tính “lịch sử” trong cảm hứng
đề tài của tác phẩm!” [46, 6].
Nếu chúng ta cứ quan niệm tiểu thuyết lịch sử phải đề cập đến nhân vật lịch sử, sự
kiện lịch sử có thật trong quá khứ và nó phải đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng tác
phẩm thì sẽ không còn phù hợp với thực tiễn sáng tác tiểu thuyết lịch sử trong những năm
gần đây, đặc biệt là những năm đầu của thế kỉ XXI, khi mà có một số tiểu thuyết lịch sử ra
đời không dựa trên tiêu chí đó: Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn
Xuân Khánh… Đã đến lúc chúng ta cần có cách hiểu mềm dẻo và linh hoạt hơn về tiểu
thuyết lịch sử. Dorothy Brewster và John Burrell trong Tiểu thuyết hiện đại đã nói: “Có lẽ
điểm quan trọng là tìm ra một định nghĩa mềm dẻo”. Ở đây, chúng tôi không có tham vọng
sẽ đưa ra một định nghĩa thật toàn diện, đúng đắn mà chỉ đưa ra cách hiểu về tiểu thuyết lịch
sử phù hợp hơn với thực tiễn sáng tác hiện nay. Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm văn
học mang đầy đủ đặc trưng của tiểu thuyết, đề cập đến những vấn đề lịch sử. Lịch sử ở
đây có thể là nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử có thật hoặc chỉ là không khí lịch sử làm
bối cảnh cho nhân vật hư cấu hoạt động.
Như vậy, cách hiểu này đề cao chất tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử và mở rộng
phạm vi cho các nhà tiểu thuyết lịch sử khai thác đề tài lịch sử. Nói đến nhà văn viết tiểu
thuyết, dù anh viết tiểu thuyết gì đi nữa trước hết vẫn phải đậm đà chất tiểu thuyết, mang
đầy đủ đặc trưng của thể loại. Có như vậy tác phẩm mới có sức lôi cuốn, hấp dẫn bạn đọc
trong thế giới văn chương thực sự. Tiếp theo, khi cách xử lí về chất liệu lịch sử cởi mở,
phóng khoáng hơn thì lịch sử không chỉ gói gọn là lịch sử trong chính sử mà mở rộng ra là
lịch sử sinh hoạt, cuộc sống của nhân dân trong thời kì đó. Tiểu thuyết lịch sử sẽ gần gũi,
sinh động với cuộc đời thực hơn và có nhiều khoảng trống để nhà văn tưởng tượng, sáng
tạo.
1.2. Giới thiệu diện mạo chung của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau 1975 đến nay.
Sau 1975, đất nước ta đã hoàn toàn hòa bình, thống nhất, Bắc Nam chung một nhà.
Đất nước bước sang một giai đoạn mới: giai đoạn xây dựng và phát triển. Nền văn học của
chúng ta cũng có nhiệm vụ mới: phản ánh muôn màu cuộc sống con người sau chiến tranh.
Đây chính là thời gian để văn học nhìn lại sâu sắc, toàn diện hơn về hai cuộc chiến tranh
vừa qua, đồng thời có những định hướng văn học trong thời kì mới. Tiểu thuyết lịch sử vẫn
như một dòng sông chảy mãi trong nền văn học dân tộc, có những lúc lặng lẽ, âm thầm lại
có những lúc ào ạt, dữ dội song không bao giờ mất đi. Tiểu thuyết lịch sử từ sau 1975 đến
nay đã có những bước tiến dài, với những đổi mới cả về nội dung lẫn nghệ thuật biểu hiện.
Và đến những năm đầu thế kỉ XXI, tiểu thuyết lịch sử đã thực sự nở rộ và gặt hái được
những thành công lớn. Nhà phê bình Nguyễn Văn Dân đã nhận định rằng: “tiểu thuyết lịch
sử đang lên ngôi”.
Nói như vậy là hoàn toàn có cơ sở. Thứ nhất, trong giai đoạn gần đây nhiều giải
thưởng cao quý của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà văn Hà Nội, giải thưởng Bùi Xuân
Phái… đã được trao cho những tác phẩm là tiểu thuyết lịch sử: Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh đã nhận được ba giải thưởng (Giải thưởng cuộc thi viết tiểu thuyết của Hội nhà
văn Việt Nam năm 1998 – 2000; Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2001; Giải
thưởng Thăng Long của UBND thành phố Hà Nội năm 2002). Giàn thiêu của Võ Thị Hảo
đã nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2004. Mẫu Thượng Ngàn của
Nguyễn Xuân Khánh nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006. Hoàng
Quốc Hải với hai bộ tiểu thuyết đồ sộ: Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý đã nhận được
giải thưởng Bùi Xuân Phái vì tình yêu Hà Nội. Gần đây nhất Hội thề của Nguyễn Quang
Thân đạt giải A cuộc thi viết tiểu thuyết năm 2006 – 2010 của Hội Nhà văn Việt Nam.
Những giải thưởng liên tiếp của các tổ chức văn học có uy tín dành cho tiểu thuyết lịch sử
đã cho thấy những thành công rất đáng ghi nhận của tiểu thuyết lịch sử giai đoạn gần đây.
Thứ hai, những cuộc tranh luận trên báo chí diễn ra những năm gần đây đều xoay quanh các
tác phẩm tiểu thuyết lịch sử. Hồ Quý Ly ra đời gây xôn xao dư luận và tốn không ít bút mực
của các nhà phê bình, nhà báo, bạn đọc. Sau năm năm, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh lại làm
mọi người ngạc nhiên với cuốn tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn. Hiện tượng gần đây nhất là
cuốn Hội thề của Nguyễn Quang Thân đã gây nhiều tranh cãi trong dư luận, những tranh cãi
nhiều khi hoàn toàn trái ngược nhau. Sau khi nhận giải thưởng, rất nhiều tờ báo đã có những
cuộc phỏng vấn với nhà văn Nguyễn Quang Thân và đưa ra những lời khen ngợi dành cho
tác phẩm. Nhưng tiếp đó, một loạt các bài viết của các tác giả: Trần Mạnh Hảo, Phạm Viết
Đào, Trần Chân Nhân… đã viết bài công kích, phê phán tác phẩm. Cuộc tranh luận rất gay
gắt, quyết liệt và vẫn chưa có hồi kết. Điều đó chứng tỏ tiểu thuyết lịch sử đã có một vị trí
đặc biệt trong lòng độc giả và gây sự quan tâm, chú ý của nhiều đối tượng. Cuối cùng, có
thể nhận thấy rằng hiện nay những ấn phẩm của tiểu thuyết lịch sử được bạn đọc rất yêu
thích và số lượng tái bản liên tục.
Khảo sát của chúng tôi là những tác phẩm tiểu thuyết lịch sử từ sau 1975 đến nay.
Trong giai đoạn này có khá nhiều các tác phẩm ra đời, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số tác
phẩm tiêu biểu và có sự đóng góp cho sự vận động của tiểu thuyết lịch sử nước nhà:
1) Thủ độ - Ngôi vua và những cuộc tình (1988); Gươm thần Vạn Kiếp (Trần Quốc Tuấn)
(1998); Cái ngai vàng (2003) của Ngô Văn Phú
2) Ức Trai – Tâm thượng quang khuê tảo (2002) của Bùi Anh Tấn
3) Sông Côn mùa lũ (1981) của Nguyễn Mộng Giác
4) Vạn Xuân (xuất bản lần đầu tiên ở Pháp năm 1989) của Yveline Feray
5) Hồ Quý Ly (2000); Mẫu Thượng Ngàn (2006) của Nguyễn Xuân Khánh
6) Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý (2010) của Hoàng Quốc Hải
7) Giàn thiêu (2004) của Võ Thị Hảo
8) Hội thề (2010) của Nguyễn Quang Thân
Trong số những cuốn tiểu thuyết lịch sử mà chúng tôi khảo sát có một tác phẩm của
nữ sĩ người Pháp đó là: Vạn Xuân của Yveline Feray. Đây thực sự là một bất ngờ đồng thời
cũng là món quà cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà. Mặc dù đây là tác phẩm của nữ sĩ Pháp
nhưng chúng tôi vẫn xếp vào các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử của Việt Nam bởi nó viết về
lịch sử Việt, con người Việt, tâm hồn Việt một cách thật nhuần nhị và tinh tế. Nó đã mang
lại cho bức tranh tiểu thuyết lịch sử nước ta giai đoạn này thêm phong phú, đa dạng. Vạn
Xuân dày gần 1000 trang sách khổ lớn viết về toàn bộ cuộc đời của người anh hùng dân tộc,
nhà chính trị, ngoại giao lỗi lạc, nhà thơ nhà văn lớn: Nguyễn Trãi.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau 1975 đến nay đã có những tiến bộ đáng kể, đặc
biệt là giai đoạn những năm đầu thế kỉ XXI. Tuy vậy, những năm từ sau 1975 đến 1980, tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam cơ bản vẫn chưa có gì thay đổi so với tiểu thuyết lịch sử giai đoạn
trước. Các nhà văn tập trung xoay quanh những nhân vật lịch sử nổi tiếng và những sự kiện
tiêu biểu của nước nhà. Nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử chủ yếu để ca ngợi, tôn vinh những
công lao của các anh hùng dân tộc và những chiến công hiển hách. Nhân vật lịch sử được
xây dựng với cảm hứng sử thi, trở thành những vĩ nhân sáng chói. Về nghệ thuật trần thuật,
nhà văn trần thuật theo ngôi thứ ba, người trần thuật khách quan. Tác giả như nhà sử học kể
lại cho con cháu đời sau. Vì vậy, nhà văn chưa đi sâu vào khai thác nội tâm nhân vật. Tuyến
nhân vật thường phiến diện, một chiều: thiện – ác, tốt – xấu. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc
cổ điển, trang trọng, chưa phải là ngôn ngữ đời thường, gần gũi với bạn đọc ngày hôm nay.
Tiêu biểu cho giai đoạn này là các tác phẩm của Ngô Văn Phú.
Trong tác phẩm “Trần Thủ Độ - Ngôi vua và những chuyện tình”, Ngô Văn Phú trần
thuật theo trật tự thời gian tuyến tính, bắt đầu từ cuối đời nhà Lý đến đầu triều đại nhà Trần
để làm nổi bật vai trò của Trần Thủ Độ. Cách trần thuật vẫn theo lối truyền thống của các
tác phẩm trước: trần thuật khách quan, theo ngôi thứ ba. Tác phẩm chưa có nhiều đổi mới về
nghệ thuật thể hiện so với các tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước, chỉ đơn thuần là dùng văn
để kể sử.
Bước sang giai đoạn những năm từ 1980 đến những năm cuối TK XX, tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam đã có những đổi mới, hướng đến cách viết hiện đại hơn. Những tác phẩm
giai đoạn này đã chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự - hiện tại. Nhà văn không
chỉ viết về nhân vật lịch sử nổi tiếng, sự kiện lịch sử trọng đại mà hướng dần đến sự kết hợp
giữa lịch sử và thế sự. Giữa tuyến nhân vật lịch sử với tuyến nhân vật đời thường được hư
cấu. Lịch sử không còn là ngôi đình thiêng mà nhà văn kính cẩn, ca ngợi, lịch sử thật gần
gũi, bình dị như cuộc sống đời thường. Lịch sử cũng không còn là những bức tượng đài
sáng chói mà được khai thác ở góc độ đời tư, đầy tinh thần tiểu thuyết. Nhân vật được xây
dựng trong nhiều mối quan hệ, được soi sáng từ nhiều nhân vật khác nhau và đặc biệt là nhà
văn đã thâm nhập vào thế giới nội tâm nhân vật để phơi bày những suy nghĩ, những dằn vặt,
những mâu thuẫn đầy phức tạp và tinh tế.
Nghệ thuật trần thuật cũng có nhiều đổi mới, không còn là lối trần thuật khách quan
bên ngoài một chiều mà điểm nhìn trần thuật đa dạng, linh hoạt hơn. Khi là điểm nhìn của
nhà văn, có khi lại chuyển cho nhiều nhân vật khác nhau. Nhờ cách trần thuật như vậy mà
tác giả dễ dàng xâm nhập vào thế giới nội tâm nhân vật để bóc tách, mổ xẻ. Ngôn ngữ trong
các tiểu thuyết giai đoạn này cũng có những đổi mới đáng kể. Với cách nhìn hướng vào thế
sự - hiện tại, chú trọng đến nhân vật đời thường và cuộc sống thường nhật. Ngôn ngữ tiểu
thuyết trở nên dung dị, gần gũi với bạn đọc. Những tác phẩm tiêu biểu giai đoạn này: Vạn
Xuân của Yveline Feray, Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác…
Trong Vạn Xuân, Yveline Feray sử dụng điểm nhìn trần thuật đa dạng, linh hoạt. Có
khi là điểm nhìn của nhà văn, có khi nhà văn trao điểm nhìn cho các nhân vật. Đặc biệt nhà
văn rất tinh tế trong việc phân tích diễn biến tâm lí nhân vật, nhất là tâm lí những người phụ
nữ. Tâm trạng của nàng Trần Thị Thái khi gặp chàng nho sinh Nguyễn Phi Khanh; tâm
trạng của Nhụy Lài khi thấy Nguyễn Thị Lộ được Nguyễn Trãi yêu thương; tâm trạng của
Nguyễn Thị Lộ khi từ giã Nguyễn Trãi… ta đều bắt gặp cách cắt nghĩa, phân tích sắc bén,
biến hóa tài tình của nữ sĩ Yveline Feray.
Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác đã mở ra một thời kì viết tiểu thuyết theo
hướng mới: tiểu thuyết hóa lịch sử, nghĩa là chú trọng chất tiểu thuyết, coi lịch sử chỉ là
phương tiện, là cái cớ để nhà văn xây dựng tác phẩm của mình. Nguyễn Mộng Giác bắt đầu
viết Sông Côn mùa lũ từ ngày 24/05/1978 và hoàn thành vào ngày 01/03/1981. Ở đầu tác
phẩm nhà văn đã trân trọng dành tặng vợ và các con: “Tặng nhà tôi Nguyễn Khoa Diệu Chi
và các con Đào Tiên, Thụy Vũ, Mai Tiên”. Có thể thấy ngay từ ý định sáng tác, nhà văn đã
chú trọng tính chất đời thường hơn là tính lịch sử. Tác phẩm lấy bối cảnh lịch sử từ năm
1765 đến 1792, mở đầu bằng cuộc chạy loạn của gia đình ông giáo Hiến từ Phú Xuân vào
An Thái để tránh loạn chuyên quyền của Trương Phúc Loan và kết thúc với sự kiện vua
Quang Trung băng hà. Toàn bộ câu chuyện được triển khai theo hai mạch truyện: mạch
truyện theo những chiến công hiển hách của vua Quang Trung và mạch truyện về thân phận
chìm nổi của cô gái tên là An. Hai mạch truyện không phải là hai mạch song song mà có sự
đan kết chặt chẽ: những biến chuyển của phong trào Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Lữ,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đã tác động đến cuộc sống của những thân phận người dân bé
nhỏ như An; ngược lại, cuộc sống gia đình An cũng có nhiều thay đổi trước những biến
động của lịch sử. Nhà văn dường như lướt qua mạch truyện thứ nhất, chỉ dành những trang
văn ít ỏi, chú yếu thông qua những ghi chép của Lãng. Nhưng lại dành nhiều tâm huyết và
bút lực cho mạch truyện thứ hai: thân phận của An. Cuộc sống của An đã trải qua biết bao
thăng trầm, chìm nổi, đầy long đong và bất hạnh trước những trận cuồng phong của lịch sử.
Thân phận An tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ trong thời tao loạn.
Sông Côn mùa lũ mang đậm chất tiểu thuyết đúng như nhận xét của nhà phê bình
Phan Cự Đệ, ông coi thành công của Sông Côn mùa lũ nằm ở chỗ tác giả Nguyễn Mộng
Giác: “nghiêng về tiểu thuyết hơn là lịch sử. Ông không quan niệm lịch sử chỉ là câu chuyện
của các ông hoàng bà chúa, của các tướng lĩnh, là sự biên niên của các trận đánh. Tiểu
thuyết lịch sử trước hết phải là tiểu thuyết, là thế sự, là chất văn xuôi, là cuộc sống muôn
màu muôn vẻ của con người và thiên nhiên” [17, 78]. Những thành công của Sông Côn mùa
lũ có ý nghĩa rất lớn trong sự phát triển của tiểu thuyết lịch sử ở nước ta. Đây là bước trung
gian để tiểu thuyết lịch sử đoạt tuyệt hẳn với phương pháp truyền thống để bước sang địa
hạt của những đổi mới, cách tân mạnh mẽ ở giai đoạn sau.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công vượt bậc trong giai
đoạn những năm đầu của thế kỉ XXI. Chỉ trong khoảng mười năm đầu của thế kỉ, tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam đã cho ra đời nhiều tác phẩm tầm cỡ, xuất sắc, có nhiều cách tân trong
nghệ thuật. Hơn bao giờ hết tiểu thuyết lịch sử đang nhận được sự quan tâm của các nhà
văn, đáp lại “cơn khát” lịch sử của nước nhà giai đoạn hiện nay.
Nếu như tiểu thuyết lịch sử giai đoạn trước thường chú trọng vào nhân vật lịch sử, sự
kiện lịch sử thì tiểu thuyết giai đoạn này đã mở rộng chủ đề, phản ánh muôn mặt của cuộc
sống và hướng đến những vấn đề của hiện tại. Với Hồ Quý Ly, nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh đã đặt ra vấn đề: đổi mới và bảo thủ. Ông tâm sự: “Trong Hồ Quý Ly, vấn đề của tôi
là giữa đổi mới và bảo thủ chứ không phải là kể lại lịch sử”. Tác phẩm viết về giai đoạn
cuối đời Trần, khi triều đình đã mục ruỗng, vua nhu nhược, quan lại tham nhũng, nhân dân
đói khổ, giặc cướp tung hoành khắp nơi… đất nước cần một sự thay đổi, cần phải lột xác.
Hồ Quý Ly là người biết rõ điều đó nhất và đề ra rất nhiều nhiều chính sách nhằm thay đổi
đất nước. Ông ban hành nhiều cải cách: hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, làm sổ hộ
khẩu, bắt sư sãi còn trẻ xung vào quân đội… nhằm chấn hưng lại đất nước. Thế nhưng, con
đường cải cách của ông bị sự chống đối của rất nhiều thế lực: tôn thất nhà Trần, sư sãi tăng
lữ, kẻ sĩ và cả nhân dân. Không còn cách nào khác, Hồ Quý Ly phải tìm mọi cách để nắm
lấy quyền lực, cưỡng chế bằng những biện pháp bạo lực. Đối lập với phe đổi mới là phe bảo
thủ, họ là những tôn thất nhà Trần, đứng đầu là: thượng tướng Trần Khát Chân, quan thái
bảo Trần Nguyên Hàng. Vì lợi ích của dòng họ, họ nhất quyết chống đối và tìm mọi cách
tiêu diệt Hồ Quý Ly. Chính sách tiền giấy thì bị cho là cướp tiền, hạn điền thì cướp ruộng,
hạn nô thì bẻ hết nanh vuốt của người quân tử… có thể họ ý thức được nhà Trần đã đến
buổi suy vi, mục nát nhưng họ cũng không thể chấp nhận một kẻ “loạn thần tặc tử”, thoán
nghịch, tiếm ngôi. Kết thúc tác phẩm, phe bảo thủ bị giết chết, bị bêu xác ngoài cửa thành
và sự thắng thế của phe cách tân. Như vậy, có thể thấy luận đề mà tác giả nêu ra ở đây: đổi
mới là tất yếu của lịch sử mặc dù ban đầu bao giờ cũng gây nhiều xáo trộn, đau thương.
Ở Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đặt ra vấn đề văn hóa Việt trong cuộc
đụng độ với nền văn hóa phương Tây khi thực dân Pháp xâm lược. Cuối TK XIX đầu TK
XX, khi Phật giáo, Nho giáo đã suy yếu, Thiên chúa giáo đang ngày càng lớn mạnh, nhưng
đấy là thứ tôn giáo hoàn toàn xa lạ với người dân Việt Nam. Người dân đã tìm về cội nguồn
tôn giáo Việt: đạo Mẫu. Mẫu là mẹ, là Đất, là nơi an lành để những đứa con khốn khó tìm
về những lúc đau khổ, tuyệt vọng. Tác phẩm đặt ra cho chúng ta nhiều suy ngẫm trong hoàn
cảnh hiện tại: vấn đề tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Giàn thiêu của Võ Thị Hảo thể hiện khát vọng về tự do, con người trăn trở truy tìm
bản thể, bi kịch của lòng hận thù, sức mạnh bất diệt của tự nhiên. Đó đều là những vấn đề
của con người từ xưa đến nay.
Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn đầu thế kỉ XXI cũng chứng kiến nhiều phong cách khác
nhau của các nhà văn làm nên một bản hòa âm đủ mọi thanh sắc, cung bậc. Lịch sử được soi
chiếu ở nhiều góc độ, khía cạnh. Ta bắt gặp cách bao quát lịch sử rộng lớn, toàn diện của
Hoàng Quốc Hải trong hai bộ tiểu thuyết đồ sộ: Tám Bão táp triều Trần, triều vua Lý. Với
kiến thức uyên thâm, rộng rãi về nhiều mặt, tác giả đã cho chúng ta khám phá từng bước
thăng trầm của lịch sử dân tộc qua các triều đại Lý, Trần – những triều đại vĩ đại trong lịch
sử dân tộc, làm nên văn hiến của Đại Việt. Qua hai bộ tiểu thuyết, tác giả đã truyền cho
người đọc lòng tự hào dân tộc, ý thức tự chủ, ý thức bảo vệ từng mảnh đất thiêng liêng của
núi sông mà cha ông đã ra sức gìn giữ. Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân lại có
cách tiếp cận lịch sử khác, nhà văn cắt ngang lịch sử, xoáy sâu vào một giai đoạn lịch sử,
thời kì lịch sử có “vấn đề”, nhiều biến cố. Nguyễn Quang Thân chọn thời điểm khi cuộc
kháng chiến chống giặc Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã vào giai đoạn cuối. Sau
khi tiêu diệt quân chi viện của nhà Minh do Liễu Thăng, Mộc Thạch cầm đầu ở Lạng Giang,
Xương Giang, giặc co cụm ở thành Đông Quan, chỉ một trận đánh nữa thôi là chúng ta có
thể tiêu diệt toàn bộ quân địch, rửa mối nhục cho Đại Việt suốt hai mươi năm qua. Nhưng
chính thời điểm đó, tư tưởng nhân nghĩa, yêu chuộng hòa bình của nhân dân tỏa sáng thể
hiện qua quyết định của người đứng đầu nghĩa quân. Lê Lợi cho Vương Thông cầu hòa, mở
hội thề Đông Quan, cấp thuyền ngựa cho quân giặc trở về nước, kết thúc chiến tranh, mở ra
kỉ nguyên độc lập cho dân tộc. Để có được quyết định đó, Lê Lợi quả là một chủ tướng có
tầm nhìn xa trông rộng, có tấm lòng yêu thương nhân dân, nghĩ cho đại cục, không muốn
máu của nghĩa sĩ, nhân dân chảy một cách không cần thiết và tránh xảy ra mối thù truyền
kiếp giữa hai dân tộc. Ông đã ghìm lại cơn khát trả thù của những võ tướng dưới quyền.
Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh lấy bối cảnh thời gian là tám năm cuối cùng của
triều đại nhà Trần giữa hai hội thề: hội thề Đồng Cổ mở đầu tác phẩm và hội thề Đốn Sơn
khép lại tác phẩm. Một thời điểm đầy căng thẳng, bạo liệt, biết bao sự kiện đan chéo, chồng
chất. Để bao quát toàn bộ sự kiện, nhân vật nhà văn đã đan cài giữa thời gian hiện tại và thời
gian quá khứ, sử dụng nhiều “tình huống hồi cố”.
Có những tác phẩm viết về nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử được ghi chép trong
chính sử nhưng cũng có những tác phẩm viết về lịch sử của nhân dân, lấy bối cảnh lịch sử
làm phông nền để nhân vật hư cấu hoạt động như: Mẫu Thượng Ngàn, Giàn thiêu. Ở Mẫu
Thượng Ngàn, nhà văn xây dựng một hệ thống nhân vật hư cấu, đầy sinh động. Với Giàn
thiêu, Võ Thị Hảo đã phủ lên lịch sử một lớp sương huyền thoại, lịch sử chỉ là đường viền
bao quanh câu chuyện hư cấu, tưởng tượng của nhà văn.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu TK XXI có nhiều cách tân về nghệ thuật
viết tiểu thuyết. Đây là những cuốn tiểu thuyết thực sự, mang đúng tinh thần tiểu thuyết.
Các tác giả đã có cái nhìn đa dạng, nhiều chiều đối với lịch sử, soi chiếu lịch sử ở nhiều
mặt, đưa người đọc vào một cuộc đối thoại lớn mà ở đó chưa có một quan niệm, đánh giá
nào là quyết định cuối cùng, mỗi người sẽ tự đưa ra những phán xét cho riêng mình. Trong
Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh đã xây dựng nhân vật này trong nhiều mối quan hệ, soi
chiếu nhân vật từ các nhân vật khác và đi sâu vào cuộc sống đời tư, nội tâm nhân vật. Người
say mê công cuộc cải cách của thái sư họ Hồ như Hồ Hán Thương, Nguyễn Cẩn… thì coi
ông là một minh chủ, một người sắc sảo, cương nghị, có tài mưu lược. Phe đối lập thì coi
Hồ Quý Ly là một kẻ gian hùng, đa sát, thâm độc, thoán nghịch, gây nhiều phiền hà. Người
công bằng hơn thì thấy đây vừa là một con người quyết đoán, có gan làm việc lớn, có suy
nghĩ độc lập lại vừa là kẻ lạnh lùng, nhẫn tâm, tính toán, mưu mô… Nhà văn lại đi sâu vào
nội tâm nhân vật để soi tỏ chính nhân vật. Hồ Quý Ly là một người đầy mâu thuẫn, ông
nhận thấy rằng đất nước cần đổi mới, cần khơi lại cái mạch nguồn trong một cái giếng đầy
ao tù, cặn bẩn. Muốn làm được điều đó cần nhanh chóng nắm được quyền lực tối cao nhưng
ông lại trù trừ, không nỡ vì Trần Nghệ Tông đối với ông rất ân nghĩa, lại là một người tri kỉ.
Hồ Quý Ly nắm trong tay quyền lực ngất trời, có thể làm mưa làm gió, có quyền sinh quyền
sát nhưng lại là một con người cực kỳ yếu đuối và cô đơn. Nhiều lần ông đã khóc trước bức
tượng bằng đá của người vợ quá cố, xin bà tha thứ. Nhiều khi ông quay cuồng với những
toan tính đến mất ngủ, bà là người dùng bàn tay trắng muốt xoa dịu và đưa ông vào giấc
ngủ. Hồ Quý Ly tìm đủ mọi cách để tiêu diệt tôn thất nhà Trần và những kẻ chống đối
nhưng cũng ra sức dụ dỗ, lôi kéo họ về phía mình.
Với cách nhìn đa diện về nhân vật, điểm nhìn trần thuật cũng có nhiều thay đổi so với
trước đây. Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này vô cùng linh hoạt, đa
dạng, di động từ nhân vật này sang nhân vật khác. Không còn là lối trần thuật khách quan
một chiều mà có sự kết hợp nhiều điểm nhìn. Trong “Ức Trai – Tâm thượng quang khuê
tảo”, Bùi Anh Tấn đã để cho Nguyễn Trãi tự kể lại cuộc đời mình trong những ngày cuối
cùng của cuộc đời ông. Cách soi chiếu nhân vật từ bên trong như vậy sẽ làm sáng tỏ tâm
hồn, nhân cách Nguyễn Trãi. Câu chuyện có điểm nhìn bên trong hiện lên thật chân thực,
cảm động. Ở Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh đều kết hợp người kể
chuyện ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, đồng thời tác giả trao quyền trần thuật cho mỗi nhân
vật để đi sâu vào nội tâm nhân vật. Với cách làm này, Nguyễn Xuân Khánh đã tạo ra nhiều
điểm nhìn, nhân vật hiện lên thật toàn vẹn, nhiều chiều.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam giai đoạn này cũng chứng kiến nhiều đổi mới trong
việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật. Tùy vào mục đích nghệ thuật của mình mà nhà văn sử
dụng các thủ pháp nghệ thuật thích hợp. Để làm sáng rõ cái gốc văn hóa Việt, Nguyễn Xuân
Khánh tìm về với văn hóa làng, văn hóa dân gian. Đó chính là cội rễ của văn hóa Việt. Tác
giả trong một bài phỏng vấn đã trả lời: chúng ta là những người nhà quê, những cái xấu và
cái tốt, những kì tích và hạn chế cũng sinh ra từ đấy. Nhà văn đã làm sống lại văn hóa của
dân tộc bằng cách sử dụng nhiều chất liệu dân gian: tiếu lâm, đố tục giảng thanh, huyền
thoại, dân ca, cái nghịch dị, suồng sã, phồn thực… Võ Thị Hảo có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa chính sử và dã sử, vừa hiện thực vừa huyền thoại. Đặc biệt chất huyền thoại đậm đặc,
bao trùm tác phẩm đã thể hiện sự trăn trở của con người đi tìm bản thể theo triết lí nhà Phật.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này rất sinh động, đa dạng phù hợp với
từng đối tượng, từng nhân vật, từng hoàn cảnh. Các nhà văn đã chú ý viết bằng thứ ngôn
ngữ thuần Việt, gần gũi, dễ hiểu với muôn màu sắc của đời thường, thứ ngôn ngữ tràn đầy
sức sống dân gian. Bởi xét cho cùng, nhà văn viết về thời quá khứ nhưng là để cho bạn đọc
hôm nay, một khối bê tông cổ, cũ kĩ, không phù hợp sẽ không thể hấp dẫn người đọc.
Lukacs đã nói rằng: “tiểu thuyết lịch sử kể lại những sự kiện của quá khứ, về mặt ngôn ngữ
của nó tạo ra mối liên hệ với hiện tại, bởi vì người kể chuyện của hôm nay nói cho người
nghe của hôm nay” [12, 140]. Chúng ta bắt gặp cách nói rất chuẩn mực, uy nghi của các vị
vua sáng như: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông,
Trần Nhân Tông… Ngôn ngữ mang đậm triết lí nhà Phật của các bậc thiền sư đạo cao đức
trọng như: Sư Vạn Hạnh, sư Không Lộ, Mãn Giác, Huệ Sinh… Ngôn ngữ dân dã của tầng
lớp bình dân như: bà mẹ kế của Nguyên phi Ỷ Lan, bà cụ bán hàng nước… (Tám triều vua
Lý, Bão táp triều Trần của Hoàng Quốc Hải). Trong Mẫu Thượng Ngàn thì hầu như đó là
lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, cách nghĩ, cách diễn đạt đầy chất “nhà quê”, dân
gian. Tóm lại đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ nghệ thuật cổ kính và ngôn ngữ
mang nhãn quan thế sự, tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt cho tiểu thuyết lịch sử những năm đầu
TK XXI.
1.3. Giới thiệu tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại quê ngoại – phố Huế Hà Nội. Quê
nội của ông ở làng Cổ Nhuế, nơi có nghề may nổi tiếng thuộc ngoại ô thành phố. Lên sáu
tuổi, ông đã chứng kiến một thảm họa của làng, đó là bệnh dịch tả. Trong nạn dịch đó rất
nhiều người đã mắc bệnh rồi chết, ông cũng chịu nỗi đau mất người thân: bố, chị, thím đều
chết. Nguyễn Xuân Khánh sống gắn bó với làng quê, với những người nông dân hiền lành,
chất phác, hay lam hay làm. Hồi nhỏ, ông thường theo mẹ đi dự các cuộc hầu bóng, nhiều
khi mẹ ông chính là bà đồng. Tất cả những kỉ niệm đó đã để lại ấn tượng sâu đậm và là chất
liệu để nhà văn viết những tác phẩm của mình.
Nguyễn Xuân Khánh từng là sinh viên Đại học Y khoa, cũng là một người say mê
âm nhạc và là cây văn nghệ tiếng tăm của trường. Sau thời gian quân ngũ, ông về làm việc
tạp chí Văn nghệ quân đội và bắt đầu viết truyện. Có thời gian nhà văn tham gia trại sáng
tác cùng các nhà văn Phù Thăng, Xuân Sách, Hoàng Văn Bổn… Trong thời gian này, ông
đã viết cuốn Làng nghèo (sau này phát triển lên thành Mẫu Thượng Ngàn) nhưng không
được in vì “bị quy là ảnh hưởng chủ nghĩa xét lại của Liên Xô, làm thô thiển chiến tranh,
sau đó bị cấm bút”. Không chịu bỏ cuộc, ông vẫn viết văn với bút danh khác: Đào Nguyễn
và cho ra mắt tập truyện ngắn Rừng sâu nhưng bị kỉ luật và chuyển về làm phóng viên cho
báo Thiếu niên tiền phong. Một tai nạn nghề nghiệp buộc ông phải về hưu sớm. Thời gian
này ông đã cùng vợ làm nghề may, nuôi lợn, có khi còn xếp hàng bán máu ở bệnh viện.
Cuộc sống nhiều vất vả, khó khăn nhưng không làm nhà văn từ bỏ đam mê văn chương.
Mỗi ngày ông vẫn dành thời gian để đọc sách, viết văn, dịch sách. Tiểu thuyết Trư cuồng,
Suối đen và nhiều tác phẩm dịch được ông làm trong thời gian này.
Tuy nhiên, phải đến Hồ Quý Ly (2000) rồi sau đó là Mẫu Thượng Ngàn (2006) bạn
đọc gần xa mới biết nhiều đến Nguyễn Xuân Khánh. Hai tác phẩm thuộc loại “để đời” của
nhà văn và có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà. Hiện nay, mặc dù đã xấp xỉ tuổi
tám mươi, nhà văn vẫn còn dồi dào bút lực và tiếp tục cho ra đời tác phẩm Đội gạo lên chùa
(2011).
Các tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh khá đa dạng, gồm nhiều thể loại: tiểu thuyết,
truyện ngắn, chân dung văn học, sách dịch. Các tác phẩm dịch: Những quả vàng của
Nathalie Saraute; Lời nguyền cho kẻ vắng mặt của Tahar Ben Jelloun; Nhân dạng nam của
Elizabeth Badinter, Người đàn bà ở đảo Saint Dominique của Bona Dominique… Truyện
ngắn gồm có: Một đêm (đạt giải nhì Báo Văn nghệ quân đội năm 1963); tập truyện ngắn
Rừng sâu (1963); Hai đứa trẻ và con Mèo xóm núi; Mưa quê (tập truyện ngắn thiếu nhi
2003)… Chân dung văn học: George Sand – Nhà văn của tình yêu (1993). Tiểu thuyết:
Miền hoang tưởng (1990); Trư cuồng (2005); Hồ Quý Ly (2000); Mẫu Thượng Ngàn
(2006); Đội gạo lên chùa (2011).
Ở đây, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu hai tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết lịch sử là
Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn. Hồ Quý Ly là “giấc mơ” của đời văn Nguyễn Xuân
Khánh. Tác phẩm được viết đi viết lại trong vòng hai mươi năm. Ban đầu nó là truyện kịch
dày khoảng 150 trang có tên là Minh Đạo (1978). Được bạn bè góp ý, khích lệ ông đã phát
triển thành tiểu thuyết. Năm 1995: ông viết lại sâu hơn, có độ dày khoảng 300 trang. Từ
năm 1997 - 1999: nhà văn viết lại lần thứ ba với một sự tập trung và say mê đặc biệt. Tác
phẩm đã hoàn chỉnh vào năm 1999. Ngay sau đó, Hồ Quý Ly đã nhận được giải thưởng cuộc
thi viết tiểu thuyết 1998 – 2000 của Hội Nhà văn Việt Nam, sau đó là giải thưởng của Hội
Nhà văn Hà Nội (2001) và giải thưởng Thăng Long của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
(2002). Đặc biệt hơn, tác phẩm đã gây xôn xao dư luận, khấy động văn đàn, đưa đến nhiều
cách tân cho nghệ thuật viết tiểu thuyết lịch sử. Nhà văn Trung Trung Đỉnh đã gọi Hồ Quý
Ly là: một “giải pháp mới” cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà [18, 14].
Mẫu Thượng Ngàn ra đời sau đó sáu năm (2006) nhưng đã được tác giả thai nghén từ
lâu. Năm 1959, khi tham gia trại sáng tác quân đội, nhà văn đã viết Làng nghèo. Truyện viết
về một làng quê chiến đấu chống thực dân Pháp. Trong cuốn đó, nhà văn viết rất thương
tâm và có rất nhiều nhân vật chết, có lẽ vì vậy mà cuốn sách không được xuất bản, nhà văn
bị “cấm bút”. Thế nhưng, ý tưởng viết về làng quê, văn hóa làng vẫn âm ỉ trong lòng tác giả.
Năm 2001, sau khi hoàn thành Hồ Quý Ly, lật lại bản thảo cũ, những ý tưởng ấy lại bùng
lên. Trải qua bao năm tháng, giờ đây nhà văn đã già, đã qua nhiều trải nghiệm, thăng trầm
của cuộc sống, suy nghĩ cũng khác đi nhiều. Ông mở rộng vấn đề thành văn hóa làng, văn
hóa Việt. Nhà văn tâm sự: “Tôi mở rộng thành cuốn tiểu thuyết mới và đẩy lùi lịch sử trở về
thời Pháp bắt đầu xâm chiếm đất nước ta giai đoạn giao lưu văn hóa Đông – Tây cưỡng
chế bằng bạo lực. Chính giai đoạn này bộc lộ chất Việt Nam rõ hơn” [76, 15]. Nhiều nhân
vật, sự kiện trong tác phẩm được lấy từ những con người, sự kiện của chính quê hương ông:
“Bà tổ Cô bí ẩn trong truyện chính là cụ tôi, bà Ba Váy chính là chị họ tôi, vợ một ông
chánh tổng. Bà Mõ khốn khổ chính là hàng xóm gia đình tôi…”; trận dịch tả cũng là kí ức
không thể nào quên mà nhà văn đã trải qua: “Năm 1938, một câu chuyện bi thương đã xảy
ra trong làng tôi, đó là dịch tả. Thầy tôi, chị tôi rồi thím tôi lần lượt chết cả. Lúc đó tôi mới
sáu, bảy tuổi ngồi trông con mèo cho nó không nhảy qua xác chị tôi để chị không bị quỷ
nhập tràng…”. Tất cả những trải nghiệm, sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa Việt cộng với tài
năng của một nghệ sĩ đã “thăng hoa” thành Mẫu Thượng Ngàn. Tác phẩm đã đạt giải
thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006.
Từ Hồ Quý Ly đến Mẫu Thượng Ngàn là những suy nghĩ, tìm tòi không ngừng của
Nguyễn Xuân Khánh, tác giả luôn làm mới mình và đưa đến những bất ngờ cho người đọc.
Tác phẩm thể hiện tinh hoa, bút lực của một nhà văn đã đến độ chín. Đối với tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam thì hai tác phẩm này thực sự là một đóng góp quan trọng trong tiến trình đổi
mới nghệ thuật viết tiểu thuyết lịch sử nước nhà. Hồ Quý Ly đánh dấu mốc quan trọng, đưa
tiểu thuyết lịch sử thực sự là tiểu thuyết, khắc phục những hạn chế của các tác phẩm trước
đó, mở đầu cho giai đoạn viết tiểu thuyết lịch sử theo hướng đổi mới. Mẫu Thượng Ngàn lại
mở rộng cách hiểu, cách quan niệm, cách xử lí chất liệu lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử.
Lịch sử không chỉ là nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử được ghi chép trong chính sử mà còn
UTóm lại:U thực tiễn sáng tác trong thời gian gần đây cho chúng ta cái nhìn mới về
là lịch sử của nhân dân, của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
quan niệm tiểu thuyết lịch sử. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử ngày nay có ý nghĩa rộng, bao
chứa cả những tác phẩm vốn được coi là tiểu thuyết dã sử, tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết
phong tục… Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ sau 1975 đến nay đã có những thành công rất
đáng ghi nhận từ nghệ thuật biểu hiện đến nội dung, tư tưởng. Đặc biệt, nó nở rộ vào những
năm đầu của thế kỉ XXI, với những tác phẩm công phu, độc đáo, đặc sắc, có nhiều cách tân:
Hồ Quý Ly, Giàn thiêu, Mẫu Thượng Ngàn… Nguyễn Xuân Khánh với hai tiểu thuyết lịch
sử của mình đã góp một tiếng nói quan trọng cho những thành tựu của tiểu thuyết giai đoạn
này và hứa hẹn sẽ mở ra nhiều triển vọng trong tương lai.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH
SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
2.1. Bão táp lịch sử và sự lựa chọn con đường đi của mỗi nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
2.1.1. Bão táp lịch sử và con đường đi của nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly
Nhà Trần trong những triều đại đầu đã làm nên những chiến công đầy oanh liệt trong
lịch sử dân tộc: ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông. Nhưng sau những chiến công
đó, vua quan đã bắt đầu có tư tưởng hưởng thụ, không chăm lo cho nhân dân. Vua Trần
Thánh Tông thỏa thuê vì: “Bốn bể đã yên, nhơ đã sạch. Năm nay chơi thú quá năm xưa”
[56, 175]. Vị tướng Trần Khánh Dư khẳng định: “Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy
vịt mà nuôi chim ưng thì có gì là lạ” [56, 175]. Càng về sau tình hình đất nước càng rối ren,
khủng hoảng. Quan lại tham nhũng, lo vơ vét đầy túi, không quan tâm đến cuộc sống của
nhân dân. Mất mùa, lũ lụt xảy ra thường xuyên đẩy nhân dân vào cảnh bần cùng, khốn khổ.
Sử cũ đã chép rằng: “nông dân nghèo khổ bán ruộng đất, bán con cái làm nô tì cho các thế
gia với giá một quan một người (đương thời ba thăng gạo cũng giá một quan tiền, nghĩa là
bán một đứa con làm nô tì, người nông dân chỉ mua được ba thăng gạo)” [56, 175]. Lời
giáo huấn của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: “khoan thư sức dân để làm kế sâu
gốc bền rễ, đó là thượng sách giữ nước” [41, 502] đã bị đi vào quên lãng. Đại Việt đang rơi
vào một cuộc khủng hoảng cực kì sâu sắc đòi hỏi phải có những thay đổi để chấn hưng lại
đất nước.
Cuộc sống cùng cực đã đẩy người nông dân nghèo vào con đường “làm loạn”, nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra, tiêu biểu là tám phong trào lớn:
1) Khởi nghĩa do Ngô Bệ lãnh đạo ở vùng Hải Dương ngày nay (1344 – 1360)
2) Cuộc khởi nghĩa do Tề phát động (không rõ họ) ở vùng Lạng Sơn ngày nay (1354)
3) Cuộc nổi dậy do Nguyễn Bồ chỉ huy ở vùng Bắc Giang ngày nay (1378)
4) Cuộc nổi dậy của Hồ Vệ ở vùng Nghệ An ngày nay (1381)
5) Cuộc nổi dậy của Nguyễn Thanh ở vùng Thanh Hóa ngày nay (1389)
6) Cuộc nổi dậy do Nguyễn Kỵ lãnh đạo cũng nổ ra ở vùng Thanh Hóa ngày nay (1389)
7) Cuộc nổi dậy do Phạm Sư Ôn phát động ở vùng Hà Tây ngày nay (1389)
8) Cuộc nổi dậy do Nguyễn Nhữ Cái tổ chức ở vùng Hòa Bình ngày nay (1389)
Trong đó, cuộc nổi dậy do Thiên Nhiên tăng Phạm Sư Ôn cầm đầu đã thu hút được
nhiều nông nô, nô tì, nông dân nghèo tham gia. Nghĩa quân đã làm chủ lộ Quốc Oai, tiến
vào Thăng Long chiếm đóng trong ba ngày. Vua quan nhà Trần phải bỏ chạy sang Bắc
Giang.
Bên ngoài, phía Nam giặc Chiêm Thành do Chế Bồng Nga cầm đầu thường xuyên
cướp phá, cướp người đòi đất. Trong vòng hai mươi năm, từ 1370 đến 1390, quân Chiêm đã
xâm nhập, đốt phá Thăng Long bốn lần. Giặc Chiêm vào Thăng Long như chốn không
người, vua quan nhà Trần chỉ còn cách bỏ chạy, cất giấu vàng bạc của cải trong núi đá. Nhà
Trần cũng đã tám lần xuất quân đánh Chiêm nhưng phần nhiều đều thất bại. Cuộc chiến
tranh với quân Chiêm đã làm hao người, tốn của, đẩy đất nước vào tình trạng kiệt quệ. Phía
Bắc, nhà Minh đang lớn mạnh và chuẩn bị cho cuộc xâm lược Đại Việt. Phương Bắc là cái
họa muôn đời, còn phương Nam đang là nỗi lo trước mắt. Trong tình trạng đất nước rối ren,
ngổn ngang trăm mối cần có một người lãnh đạo tài giỏi để vực dậy đất nước. Tiếc thay nhà
Trần khi đó không có nổi một “nhân tài tầm cỡ”. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của Hồ
Quý Ly với những chính sách táo bạo, mới mẻ là một tất yếu của lịch sử.
Nguyễn Xuân Khánh chọn bối cảnh lịch sử là những năm cuối của triều đại nhà Trần
để viết về Hồ Quý Ly, một nhân vật khá phức tạp trong lịch sử. Xưa nay, viết về những anh
hùng nổi tiếng tài năng, đức độ như: Trần Hưng Đạo, Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Huệ… được khá nhiều nhà văn quan tâm thể hiện nhưng có lẽ viết về Hồ Quý Ly
thì Nguyễn Xuân Khánh là người đầu tiên. Các nhà sử học phong kiến đã gay gắt lên án Hồ
Quý Ly và triều đại nhà Hồ, quy trách nhiệm cho ông về việc mất nước vào tay giặc Minh.
Ngày nay, lịch sử đã nhìn nhận công bằng hơn, đánh giá khách quan, toàn diện về công
cuộc cải cách do ông đề xướng. Với tư cách là một nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh không
làm nhiệm vụ phê phán, lên án hay ca ngợi nhân vật mà soi chiếu nhân vật từ nhiều góc độ,
đi sâu vào nội tâm nhân vật, khám phá những uẩn khuất bên trong, phân tích những động
lực thúc đẩy hành động của nhân vật. Người đọc có quyền đưa ra những nhìn nhận, đánh giá
riêng của mình về nhân vật. Thông qua Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh muốn nêu lên vấn
đề: đổi mới và bảo thủ, số phận của cá nhân trong cơn bão táp của lịch sử và đặt ra những
vấn đề cho cuộc sống hôm nay.
Trong cơn bão của lịch sử cuối TK XIV, thời mà Sư Hiền cho là “thời thiên túy”
(trời đất cũng quay cuồng trong cơn say), trắng – đen khó phân biệt. Nó đặt ra cho mỗi nhân
vật câu hỏi: vẫn tiếp tục trung thành với triều đại nhà Trần đã mục ruỗng hay phải đi tìm
một “phương thuốc mới”. Sự lựa chọn của mỗi cá nhân đã đẩy họ vào những tuyến đối lập
nhau: một bên trung thành với nhà Trần, cố níu giữ triều đại chỉ còn thoi thóp – một bên đi
theo con đường cải cách, đổi mới, củng cố lại đất nước.
Phe bảo thủ gồm có tôn thất nhà Trần, những người được hưởng đặc quyền, đặc lợi
của triều đình, những kẻ sĩ theo quan niệm trung quân một cách cứng nhắc… Đứng đầu phe
này là: thượng tướng Trần Khát Chân, quan Thái bảo Trần Nguyên Hàng; dưới đó là Trần
Nguyên Uyên, Trần Nguyên Dận, Phạm Ngưu Tất, Phạm Tổ Thu… và thấp thoáng bóng
dáng của hai vị vua áp đời Trần: Trần Nghệ Tông, Trần Thuận Tông.
Cùng chống lại Hồ Quý Ly, mỗi người lại có cách làm khác nhau, có kẻ lộ liễu, có
người cơ mưu. Nguyên Uyên, Nguyên Dận là những người chống lại Hồ Quý Ly một cách
công khai. Hàng đêm, họ vẫn kết đèn, thả thuyền trôi sông nhưng bên trong là tìm cách tiêu
diệt kẻ thù. Họ không ngại oang oang: “Thượng hoàng chết là lúc thái sư sẽ lộng hành
nhất” và “Thượng hoàng chết là lúc thái sư sẽ cướp ngôi” [35, 176]. Mặc cho những lời
khuyên răn của người cha (cụ Trần Sư Hiền), Nguyên Dận vẫn cứ gạt đi, nhăm nhăm thực
hiện ý đồ của mình. Họ còn tìm cách liên hệ với giặc Minh để tiêu diệt Hồ Quý Ly, bất chất
những hậu họa sau đó. Tất nhiên, những người như Nguyên Uyên, Nguyên Dận không thể
là mối lo cho Hồ Quý Ly, họ làm việc bất cẩn lại ngông nghênh. Cuối cùng đã bị Hồ Quý
Ly giết bằng nhục hình, hình phạt cho những kẻ bán nước.
Quan thái bảo Trần Nguyên Hàng nổi tiếng là một người khẳng khái, trung thực. Bất
cứ chính sách nào của Hồ Quý Ly, ông đều phản đối. Dùng tiền giấy thay tiền đồng ư?
“Không phải mới mẻ. Đời nhà Đường, ở phương Bắc người ta đã làm, nhưng lại phải bỏ.
Vì sao? Giấy là một vật vô giá trị đem đổi lấy tài vật có giá trị, khác nào ăn cướp của người
ta?” [35, 59]. Đối với chính sách hạn điền, hạn nô? “Không thể tùy tiện thay đổi chính sách
của các bậc tiên đế. Chính sách lập điền trang, thu góp kẻ lưu tán đã làm cho nước Đại Việt
hùng mạnh, ba lần đánh tan giặc Nguyên tàn bạo” [35, 60]. Ông không đồng ý với những
việc làm gây phiền hà của Hồ Quý Ly, muốn những nguyên tắc, quy định của tổ tiên vẫn
được giữ nguyên. Việc quan Thái bảo chấp nhận cho Quỳnh Hoa, con gái ông, làm dâu thái
sư là nhằm mục đích chính trị. Ông muốn Quỳnh Hoa sẽ là một nội gián trong hàng ngũ kẻ
thù. Vậy nên, sau mỗi lần Quỳnh Hoa về thăm bố mẹ, Nguyên Trừng lại thấy nàng u sầu
hơn, dần dần nàng không về thăm nhà nữa. Sau những cái chết của những người cùng phe,
Trần Nguyên Hàng hiểu rằng cần phải khéo léo và kín đáo bởi quyền lực của Thái sư đã rất
lớn, ngay Thượng hoàng Trần Nghệ Tông cũng phải kiêng dè. Ông cùng Trần Khát Chân đã
bí mật bàn kế hoạch hành động: bên ngoài ủng hộ, giúp đỡ những việc làm của Hồ Quý Ly
nhưng đang ngấm ngầm thực hiện một việc lớn, có sự sắp xếp kĩ lưỡng. Ông tuyên bố: “Kẻ
phản nghịch là loài cáo, thì chúng ta phải như loài rắn độc” [35, 154]. Từ đấy, họ ít liên lạc
trực tiếp với nhau mà thông qua những người dưới quyền: Phạm Tổ Thu, Phạm Ngưu Tất…
Tổ Thu và Ngưu Tất là hai thuộc hạ của phái bảo thủ, họ sẵn sàng xả thân vì nhà
Trần, cùng căm ghét Hồ Quý Ly đến xương tủy, đã cắt máu ăn thề, nguyện xả thân vì đại
nghiệp, trả thù cho sư huynh Nguyễn Đa Phương (người đã bị Quý Ly giết). Ngưu Tất vạch
tội Hồ Quý Ly: “Quý Ly chẳng khác loài chó lợn. Đối với vua thì lăm le tiếm ngôi, đó là tội
bất trung. Đối với thầy, cụ sư Tề chẳng khác gì cha thế mà cũng tìm cách săn đuổi, đó là tội
bất hiếu. Đối với Đa Phương đã nhận làm em mà cũng đang tâm giết chết, đó là tội bất
nghĩa. Tàn tặc nào bằng! Trời đất cũng phải nghiến răng căm thù” [35, 582]. Họ cố gắng
truyền lòng căm thù đó vào Phạm Sinh, lôi kéo Sinh về phe cánh của mình. Tổ Thu và Ngưu
Tất cũng chính là hai người thiết khách trong kế hoạch ám sát Hồ Quý Ly ở hội thề Đốn
Sơn.
Thượng tướng Trần Khát Chân, người anh hùng dân tộc đã có công đánh dẹp quân
Chiêm, mang lại bình yên cho đất nước, kết thúc nỗi lo sợ giặc Phương Nam của quân dân
Đại Việt. Sau chiến thắng, Nghệ Hoàng rất vui mừng, đón đoàn quân chiến thắng trở về
trong tiếng nhạc, đèn hoa rực rỡ. Sau chiến công đó, Trần Khát Chân được cấp đất ở phía
nam kinh thành, lập nên thái ấp là Trại Mai. Hàng năm, thượng tướng vẫn mở tiệc “Đại
Mai” để mời mọi người tới dự. Hồ Quý Ly là người có công tiến cử Trần Khát Chân, khi đó
mới chỉ là một viên tướng nhỏ lại rất trẻ tuổi. Sau chiến thắng, Hồ Quý Ly ra sức lôi kéo
Trần Khát Chân về phe mình, trong khi đó phe đối lập cũng lôi kéo ông không kém. Trong
một thời gian dài, người ta thấy thượng tướng ít xuất hiện trong triều đình, sau đó trở lại với
vẻ trầm tư, ít nói. Có lẽ, Trần Khát Chân đã phải suy nghĩ rất nhiều, không biết nên theo phe
nào. Theo Hồ Quý Ly, ông sẽ phản bội lại dòng tộc và phạm vào điều “bất trung”; theo phe
bảo thủ để cố duy trì một triều đại đã không còn sinh khí là đẩy đất nước vào hỗn loạn,
nghèo đói. Thực tình, ban đầu ông cũng có nhiều thiện cảm với Hồ Quý Ly, biết Quý Ly là
một người “mưu lược, quyết đoán” và công cuộc cải cách là cần thiết đối với đất nước. Trần
Khát Chân cũng hiểu rõ nhà Trần đã hèn yếu lắm rồi, nhiều kẻ tôn thất lại phản bội, chạy
sang cầu cứu quân giặc để giày xéo đất nước. Tuy nhiên, ông mang trong mình dòng máu
nhà Trần, chịu ơn lộc vua, ông phải sống chết cho cơ nghiệp nhà Trần, không còn con
đường nào khác. Là con người cơ mưu, Trần Khát Chân đã có kế hoạch lâu dài cho việc lớn.
Ông ra sức giúp Quý Ly xây dựng Tây Đô, trong một thời gian dài triều đình yên bình,
không có một sự chống đối nào xảy ra. Cuối cùng, kế hoạch bị bại lộ, Trần Khát Chân cùng
370 người có liên quan đã chết dưới tay thái sư họ Hồ. Trước khi chết, Trần Khát Chân vẫn
điềm tĩnh, tự tin nói: “Biết làm sao được! Tôi không bao giờ thay đổi được. Hai người
chúng ta hoàn toàn khác nhau” [35, 788]. Ông lường trước kết cục bi thảm sẽ xảy ra nhưng
tất yếu ông “phải chết cho cơ nghiệp nhà Trần”.
Kết thúc tác phẩm, phe bảo thủ bị tiêu diệt và sự thắng thế của phe cách tân. Lịch sử
như một bánh xe quay mãi, chuyển vần từ triều đại này đến triều đại khác. Trong vòng quay
ấy, người nào đi ngược lại với lịch sử sẽ bị bánh xe nghiền nát. Trần Khát Chân, Trần
Nguyên Hàng… là những con người khẳng khái, trung thành, có tài nhưng họ lại đi ngược
với xu thế tất yếu của lịch sử nên bị tiêu diệt. Mặc dù, Hồ Quý Ly là người tiêu diệt họ
nhưng ông vẫn trọng, vẫn tiếc những con người như vậy.
Chống lại Hồ Quý Ly không chỉ có tôn thất nhà Trần mà hầu hết các tầng lớp xã hội:
tăng ni phật tử, kẻ sĩ, nhân dân. Bởi lẽ những chính sách của Hồ Quý Ly ảnh hưởng đến
toàn bộ tầng lớp trong xã hội. Một trong những tầng lớp có ảnh hưởng lớn trong thời đại bấy
giờ là: tăng ni phật tử. Ở nước ta, Phật giáo rất được coi trọng trong thời nhà Lí, nhà Trần.
Phật giáo được coi là quốc giáo, rất nhiều chùa chiền, thiền viện được xây dựng, số lượng
sư sãi rất đông, ruộng đất nhà chùa cũng không phải ít. Các thiền sư đạo cao đức trọng có
tiếng nói lớn trong triều đình: thiền sư Vạn Hạnh, Không Lộ thiền sư… Đến thời Trần Nhân
Tông, Phật giáo phát triển cực thịnh. Trần Nhân Tông vừa là một bậc minh quân, một nhà
quân sự lỗi lạc, lại là một triết gia nổi tiếng, người đã lập nên Thiền phái Trúc Lâm. Các vua
Trần sau đó đều rất mộ Phật, dành cho nhà chùa những ưu ái đặc biệt. Tuy nhiên, khi quyền
lực rơi vào tay thái sư họ Hồ, giới tăng lữ bị mất nhiều quyền lợi. Hồ Quý Ly không coi
trọng Phật giáo, ghét những kẻ lười biếng, cạo đầu đi tu nên đã ra lệnh bắt tất cả những nhà
sư còn trẻ phải hoàn tục và sung vào quân đội. Nhà chùa chỉ được hưởng một số lượng
ruộng đất theo quy định tùy vào xếp hạng là đại danh lam, trung danh lam hay tiểu danh
lam. Tất nhiên, giới tăng ni phật tử sẽ chống đối, gây cản trở cho công cuộc cải cách. Sự
chống đối của họ không phải bằng con đường chính trị mà tác động đến lòng những người
dân quê. Từ trước đến nay, Phật giáo đã thấm sâu vào tâm linh, tín ngưỡng của người Việt.
Ngôi chùa làng là nơi cư ngụ, an ủi và xoa dịu nỗi đau của nhân dân. Trong hoàn cảnh loạn
lạc, nhân dân đói khổ, cơ cực, họ lại rất cần sự che chở của Phật tổ.
Nhân dân chỉ muốn ăn no, ngủ yên nhưng hôm nay cải cách này, ngày mai cải cách
khác, cuộc sống của họ bị xáo trộn. Thêm vào đó, Hồ Quý Ly lại dùng những biện pháp bạo
lực, cưỡng chế nên hoàn toàn không được lòng dân. Khi Thiên Nhiên tăng Phạm Sư Ôn nổi
dậy, nhân dân đặc biệt là nông nô, nô tì, dân nghèo đã hưởng ứng rất đông. Lực lượng của
quân nổi dậy ngày càng lớn mạnh. Họ tiến vào làm chủ Thăng Long một cách dễ dàng.
Phạm Sư Ôn lại xuất thân từ cửa chùa, lấy tấm lòng nhân từ để đối đãi với nhân dân, chỉ đốt
phá cung vàng điện ngọc của vua quan mà không động đến một sợi tóc của người dân nên
được mọi người yêu quý. Nhân dân phản đối công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly nhưng họ
có ủng hộ nhà Trần. Chắc chắn là không, bởi nhà Trần đã quá mục ruỗng, thối nát không thể
đem đến cho họ cuộc sống ấm no, đầy đủ. Chỉ khi nào quyền lợi của vương triều thống nhất
với quyền lợi của dân chúng thì mới được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cũng không được lòng kẻ sĩ. Tô Đông Pha đã nói rằng:
“Từ thời cổ đại, sĩ phu là người nhiều ưu tư nhất”. Tiếng nói của họ có sức ảnh hưởng lớn
trong nhân dân. Từ xưa đến nay, triều đại nào cường thịnh chính là lúc tập hợp được những
kẻ sĩ ưu tú nhất của thời đại; triều đại nào thiếu vắng người tài chính là dấu hiệu của sự suy
vong. Hồ Quý Ly ý thức rất rõ điều đó, ông hết lòng mua chuộc kẻ sĩ, kéo họ về phía mình
nhưng họ cứ rời xa ông. Ông băn khoăn tự hỏi: “Tại sao ông đã cố gắng hết sức chiều
chuộng họ mà họ cứ mãi rời xa ông. Tại sao Hán Cao Tổ đã đái vào mũ của kẻ sĩ mà cuối
cùng kẻ sĩ vẫn mãi theo ông? Tại sao Trần Thủ Độ đã tuyệt diệt hoàng tộc nhà Lý, hành
động tàn ác hơn cả loài cầm thú, mà cuối cùng nhà Trần cũng được trăm họ đồng lòng ủng
hộ, ba lần phá tan được giặc hung ác? Đó là câu hỏi lớn mà ông phải tìm cho ra” 35, 476].
Vấn đề kẻ sĩ cứ luôn ám ảnh ông, đến cả trong mơ họ cũng hiện về. Ông mơ thấy một kẻ
mặc áo không có màu đứng trên cao chắp tay sau đít, quay lưng về phía ông. Ông tức giận
thét lên: “Ta sẽ chặt đầu ngươi” thì hắn quay đầu lại, “bộ mặt quét vôi trắng xóa, với đôi
môi đỏ chót, trông thật khiếp hãi! Bộ mặt bôi vôi ấy nhe răng để dọa. Trông hắn như một
loài yêu ma” [35, 525]. Xưa nay, người ta vẫn gọi kẻ sĩ là “bạch diện thư sinh” “kẻ mặt
trắng”, họ quay lưng có nghĩa là họ bất mãn với ông. Vì sao kẻ sĩ lại quay mặt lại với Hồ
Quý Ly? Bởi lẽ, họ là những người được đào tạo từ “Cửa Khổng sân Trình”, tôn đức Khổng
Tử làm thầy nên rất coi trọng thuyết chính danh. Hồ Nguyên Trừng đã chỉ rõ cho cha mình
điều đó: “Đức phu tử muốn trong một nước, người nào lo việc người ấy. Dân lo việc của
dân, quan lo việc của quan, vua lo việc của vua. Không được lạm bàn việc người trên. Nay,
cha làm quan lại bàn việc của vua, thậm chí lại dám khen chê cả lời của Phu Tử. Vì muốn
nhanh nên chẳng theo vết người xưa. Cha đã phạm vào chính danh. Chính vì vậy kẻ sĩ trong
nước nhao nhao phản đối” [35, 467]. Không chỉ phạm vào chính danh – làm quan mà át
quyền vua – Hồ Quý Ly còn là người đầu tiên trong lịch sử dám xem xét, đánh giá lại cả
Đức Khổng Tử. Thái sư viết “Minh Đạo” (Cái đạo sáng, con đường sáng) xem xét lại sách
Thánh hiền của người xưa: “Phê phán Khổng Tử đã đến yết kiến nàng Nhan Tử, vợ vua Vệ
Linh Công, một người đàn bà tà dâm. Ông chê sự kém minh mẫn của ngài, khi Công Sơn
Phất Nhiễu, Công Sơn Phất Hất đều là những kẻ tầm thường, kém tư cách, thế mà Khổng
Tử có lúc đã muốn thờ làm chúa. Rồi thái sư lại phê phán cả Chu, Trình hai bậc đại Nho
nhà Tống, hai người dựng nên lí học. Họ là những con người viễn vông, không nghĩ đến
việc đời. Có thể học giỏi đấy, học rộng đấy nhưng chẳng có lợi gì cho dân Đại Việt chúng
ta cả…” [35, 490]. Sau khi Minh Đạo được ban ra, kẻ sĩ khắp nơi đều nhao nhao phản đối,
đặc biệt là trợ giáo Quốc Tử Giám Đoàn Xuân Lôi. Xuân Lôi đã viết một lá thư dài dâng
vua, vạch rõ những điều ngông cuồng của Hồ Quý Ly, xin nhà vua xử tội để làm gương cho
kẻ khác. Đoàn Xuân Lôi là người “kiên trì đạo Khổng hiếm thấy. Từ trẻ đi học đã nổi tiếng
liêm chính, ngay thẳng, đói sạch rách thơm. Mọi thứ đối với ông đều phải hài hòa, nghiêm
chỉnh. Nhà ở thì cửa phải chính giữa không được sai một phân. Cửa sổ phải cân đối đều
dặn cả hai bên. Nhà lệch lạc không ở. Bát không sạch không ăn, áo bẩn không mặc. Nét mặt
ông bao giờ cũng nghiêm trang, ăn nói từ tốn, chọn từng chữ để nói” [35, 469]. Một con
người tôn sùng đạo Nho, coi nó là chuẩn mực của người quân tử, làm sao chấp nhận những
suy nghĩ mới mẻ, độc lập trong Minh Đạo của thái sư họ Hồ. Đến khi, Hồ Quý Ly dời kinh
đô về Thanh Hóa, gọi là Tây Đô thì sự phản đối lại càng dữ dội. Sử Văn Hoa, một người
không ưa Quý Ly nhưng cũng không đứng về phe bảo thủ, không đồng ý việc đó. Ông dâng
một bức thư chỉ rõ những điều không nên của việc dời đô, cuối thư có câu “cốt ở đức,
không cốt ở nơi hiểm trở” [35, 483]. Rồi một buổi sáng, người ta thấy khắp kinh thành đều
dán chữ: “Thâm tai Lê sư” (Thâm độc thay Lê thái sư!). Đây là những kẻ sĩ theo chữ
“trung” một cách mù quáng, họ “trung” với vua, với một triều đại không còn khả năng gánh
vác trọng trách lịch sử, như vậy là “ngu trung”. Quý Ly vừa muốn lôi kéo họ nhưng cũng
vừa căm giận họ vì tầm nhìn họ sao mà hạn hẹp, chỉ biết ra rả sách thánh hiền mà không
biết áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Ông hy vọng có khoảng hai mươi năm nữa sẽ đào tạo
được một thế hệ nho sĩ mới có tư tưởng tiến bộ.
Vua Trần Nghệ Tông và Trần Thuận Tông không thuộc phe bảo thủ nhưng họ là
những vị vua nhà Trần, tình cảm của họ hướng về nhà Trần, mong cho cơ nghiệp dòng họ
được tồn tại mãi mãi. Tuy nhiên, họ bất lực. Họ chính là hình ảnh của một triều đại tàn tạ,
đang đi vào suy vong.
Trần Nghệ Tông chỉ làm vua ba năm, sau đó làm Thái thượng hoàng nhưng thực chất
mọi quyền lực đều nằm trong tay ông. Nghệ Hoàng là con người đầy mâu thuẫn: lí trí mách
bảo ông làm theo những cải cách của Hồ Quý Ly nhằm phục hưng lại đất nước nhưng tình
cảm của ông lại hướng về nhà Trần, không muốn thay đổi những nề nếp, quy định của tổ
tông. Ông là người nâng đỡ, cân nhắc Quý Ly lên chức vị ngày càng cao, ủng hộ và thực thi
những cải cách của Quý Ly nhưng ông lại muốn Quý Ly mãi mãi là tôi trung nhà Trần, phò
trợ vua các vua Trần như “tứ phụ” ngày xưa. Ông giúp Quý Ly tiêu diệt những kẻ đối địch,
ngay cả khi những kẻ đó là con cháu ông, dọn đường để con đường Quý Ly đi ngày càng
thênh thang nhưng cũng muốn dùng sợi dây hôn nhân ràng buộc Quý Ly với nhà Trần: gả
công chúa Huy Ninh cho Hồ Quý Ly; đứng ra lo liệu cuộc hôn nhân giữa Trần Thuận Tông
và Thánh Ngẫu (con gái Hồ Quý Ly và công chúa Huy Ninh). Trần Nghệ Tông đã biến đất
nước, quốc gia thành tài sản riêng, triều đình là gia đình, sử dụng nó một cách tùy ý, theo
cảm tính. Vậy nên, trong thời gian trị vì, đất nước rơi vào suy yếu, hỗn loạn. Đến khi gần về
với tổ tiên, ông mới đau đớn nhận ra rằng: “chính bản thân ông là người đỡ đầu cả hai phe
phái cách tân và bảo thủ hiện nay trong triều đình” [35, 162]. Giờ đây, khi nhận ra điều đó
thì đã quá muộn, cơ nghiệp nhà Trần như ngọn đèn lay lắt, Hồ Quý Ly đã xây dựng một hệ
thống chân tay từ trung ương đến địa phương một cách hệ thống, vững chắc. Nghệ Hoàng
chỉ còn một hi vọng mong manh là kêu gọi sự trung thành ở Quý Ly: “nay thế nước suy
yếu… sau khi ta chết rồi, quan gia (chỉ vua Trần) đáng giúp thì giúp nếu là người hèn kém,
ngu dốt thì ngươi tự lấy lấy nước”. Quý Ly đã khóc, lạy trước Nghệ Hoàng và xin hứa sẽ
một lòng trung thành phò giúp nhà Trần. Ông vua già đâu biết rằng đó chỉ là lời hứa làm
đẹp lòng người sắp chết. Tình thế lịch sử buộc Hồ Quý Ly không thế làm khác: đoạt ngôi
nhà Trần, nắm lấy quyền lực tối cao. Nếu không, công cuộc cải cách không thể thành công
và ông sẽ bị tiêu diệt như chính ông đã làm với kẻ thù của mình.
Trần Thuận Tông lên ngôi vua khi tất cả quyền lực đã nằm trong tay Quý Ly. Với thể
trạng yếu đuối, tinh thần nhu nhược, Thuận Tông phó mặc mọi việc cho Quý Ly. Vốn ham
thích Đạo giáo, Thuận Tông bỏ đời theo Đạo, truyền ngôi cho thái tử An, làm am cỏ sống
thanh bạch, đạm bạc. Song, sự tồn tại của Thuận Tông là cái gai trong mắt cả phe cách tân
và phe bảo thủ. Hồ Quý Ly biết ngày nào Thuận Tông còn sống, dù là vô hại, vẫn là một vật
cản trên con đường của ông. Thuận Tông còn đấy, nhà Trần còn đấy, nhân dân vẫn hướng
về nhà Trần. Còn phe bảo thủ muốn dùng cái chết của Thuận Tông để có cớ tụ hợp lòng
dân, phất cờ đại nghĩa trừ kẻ đại nghịch vô đạo. Cả hai phe đều nhắm một mục tiêu. Ông
phải chết không còn cách nào khác. Ai bảo ông sinh ra là một vua hiền, mềm yếu; hiền,
mềm yếu không thể gắn với ngôi vua: “Cái ác gắn liền với vua quan. Cái ác làm món ăn
của vua quan. Cái ác là đôi cánh của vua quan. Thiếu cái ác một ngày, ngai vàng buồn rầu.
Thiếu cái ác vài tuần trăng, ngai vàng rung rinh. Thiếu cái ác một năm, ngai vàng sụp đổ.
Cái ác là nguồn sống của vua quan. Điều đó đã ghi rành rành trong sử sách” [35, 694].
Thuốc độc không giết được ông, Thuận Tông tự đi vào cõi chết. Cái chết của Thuận Tông
đánh dấu sự kết thúc cơ nghiệp nhà Trần trong lịch sử nước nhà. Dẫu rằng, nhà Trần đã
mang lại bao nhiêu chiến tích kì vĩ cho dân tộc, từng xây dựng được một triều đại thịnh trị
nhưng cũng không thể trường tồn mãi được. Lịch sử như một chiếc xe quay mãi, chuyển
vần từ triều đại này sang triều đại khác và bao giờ trước khi khai sinh triều đại mới, nó cũng
phải trải qua những cơn “đau đẻ” quằn quại.
Đối lập với phe bảo thủ là phe cách tân, do Hồ Quý Ly đứng đầu. Viết về Hồ Quý
Ly, Nguyễn Xuân Khánh không theo cách của các nhà sử học luận công tội, những đóng
góp, sai lầm đối với lịch sử dân tộc mà với tư cách là một nhà tiểu thuyết. Nghĩa là nhân vật
hiện lên với đời sống nội tâm phong phú, đan xen chằng chịt nhiều mối quan hệ: gia đình –
xã hội, quốc gia – dòng tộc… Ở mỗi quyết định, việc làm của nhân vật, nhà văn đều xem
xét những động cơ xuất phát bên trong. Hồ Quý Ly hiện lên là một khối mâu thuẫn lớn và là
một tấn bi kịch của thời đại.
Là một con người có cái nhìn nhạy bén, hiểu thời cuộc, hết lòng vì đất nước, hơn ai
hết Hồ Quý Ly biết rằng đất nước đang trì trệ, hỗn loạn, cần có những thay đổi. Ông háo
hức đi tìm một phương thuốc lớn. Ông ra sức tiến hành công cuộc cải cách trên nhiều mặt:
phát hành tiền giấy để cứu quốc khố đang trống rỗng; chính sách hạn điền hạn nô để dân
nghèo có ruộng cày cấy; làm sổ hộ khẩu để kiểm soát được từng người dân, tránh dân lang
thang, lưu tán; khuyến khích việc dùng chữ Nôm thay chữ Hán… Thế nhưng, những chính
sách ấy đều bị phản đối. Người ta cho rằng ông là một người nhiễu sự, gây lắm chuyện
phiền hà. Ngay đến Nghệ Tông, người ủng hộ và thực thi những cải cách ấy, cũng nhu
nhược, không quyết đoán, thực hiện nửa vời. Càng nôn nóng thực hiện những cải cách bao
nhiêu, Quý Ly càng bị sự chống đối mạnh mẽ bấy nhiêu. Ông nhận ra rằng: muốn làm triệt
để phải nắm được quyền lực tối thượng, phải thực hiện một cách nhanh chóng, quyết liệt,
gạt bỏ tất cả những vật cản: “Đất nước quá ư hỗn loạn, cần có một thay đổi, cần có một sự
đảo lộn. Lẽ dĩ nhiên, tàn nhẫn đấy, đau thương đấy, nhưng ta sẽ cố gắng cho bớt đầu rơi
máu chảy” [35, 468]. Bao nhiêu người đã chết, cảnh đầu rơi máu chảy liên tiếp xảy ra.
Người ta gọi Quý Ly là một kẻ thâm độc, đa sát, thoán nghịch, tiếm ngôi… Ông gạt bỏ
ngoài tai những điều đó, cốt yếu là phải thực hiện được mục đích “đất nước cần lột xác”.
Nếu thành công “oán sẽ thành ân”, máu sẽ được gột rửa sạch. Từng bước một, Hồ Quý Ly
đã dẹp bỏ những vật cản đi tới đỉnh cao quyền lực. Những kẻ chống đối phải chịu kết cục bi
thảm, những người không thực hiện sẽ bị cưỡng chế bằng con đường bạo lực. Cuối cùng,
phe cách tân đã thắng, tôn thất nhà Trần và những người liên quan bị giết, bị bêu đầu ngoài
thành ngay tại Hội thề Đốn Sơn. Không khí căng thẳng, tang tóc bao trùm khắp nơi, mọi
người đều oán giận. Đó chính là số phận của những con người bảo thủ một cách mù quáng
hoặc cách tân một cách quá bạo liệt. Dù ở phe nào họ cũng đều là những bi kịch của thời
đại.
Khi ông vua già Nghệ Tông còn sống, ông chính là người nâng đỡ, ủng hộ và thực thi
những cải cách của Hồ Quý Ly. Nghệ Tông nhận thấy đây là một con người mưu lược, dám
nghĩ dám làm nhưng cũng là một con người đầy thủ đoạn, mưu mô. Ông hào hứng với
những thay đổi của Quý Ly nhưng cũng run sợ vì cơ nghiệp nhà Trần sẽ bị lung lay. Nghệ
Hoàng đã dùng mọi cách để kìm hãm một con người đầy khát vọng này: tặng bức tranh tứ
phụ, dùng các cuộc hôn nhân để ràng buộc Quý Ly có quan hệ mật thiết với nhà Trần. Nghệ
Tông vui mừng khi Thuận Tông và Thánh Ngẫu sinh được hoàng nam vì nó là cháu ông
cũng là cháu của Quý Ly. Ông vua già cũng là một người tri kỉ, nhiều lần làm Quý Ly cảm
động. Khi cuốn Minh Đạo, tâm huyết cả một đời của ông, bị kẻ sĩ nhao nhao phản đối thì
Nghệ Hoàng đã ban chiếu khen ngợi, ủng hộ những tư tưởng mới mẻ ấy. Nhưng ông vua già
lại là người nhu nhược, không hiểu thời thế. Trên con đường đi đến quyền lực không thể
chấp nhận những tình cảm ủy mị, cá nhân, tất cả phải vì đại nghiệp. Quý Ly không thể giữ
lời hứa với ông vua già. Chính vì vậy trong lòng ông luôn canh cánh một sự hối hận. Ông
vua già vẫn hiện về trong giấc mơ của Quý Ly để trách cứ, trừng trị. Ông đã phải dùng mọi
lí lẽ để giải thích cho những hành động của bản thân mình: “Nhưng khi mà cơ đồ đã rệu rã;
khi mà quan lại chỉ là một lũ sâu mọt; khi mà nhà Trần không có nổi một nhân tài tầm cỡ,
khi mà tất cả phải cày xới lên để gieo giống mới, thì dù nhà Trần có công với Đại Việt cũng
phải trải qua một kiếp nạn, muôn dân cũng phải trải qua một cuộc đổi đời… Đau thương
đấy! Tàn nhẫn đấy! Nhưng đệ biết làm sao được… Đành phải sai lời thề với huynh” [35,
456]. Người ta thường nói: ngày làm sao, đêm nghĩ vậy, giấc mơ phản ánh những ẩn ức
thầm kín trong lòng mỗi người, nó có thể không có thực ở hiện tại nhưng có thực trong tâm
hồn. Giấc mơ đó thể hiện sâu sắc nội tâm Hồ Quý Ly: sự giày vò, giằng xé giữa khát vọng
quyền lực và tình cảm với người tri kỉ.
Ông còn là một con người cứng rắn, quyết đoán, tính toán. Ông biến tất cả cuộc hôn
nhân của con cái thành chiêu bài chính trị trong tay mình: cuộc hôn nhân giữa Hồ Nguyên
Trừng với quận chúa Quỳnh Hoa; giữa Thánh Ngẫu với Trần Thuận Tông. Ông cũng giết cả
con rể, tước đoạt ngai vàng của cháu ngoại nhưng sâu thẳm trong lòng, ông vẫn đau đớn
không nguôi vì những việc làm đó. Nhìn ánh mắt vô hồn, sầu thảm của đứa con gái, ông xót
xa vô cùng. Chính ông đã đẩy đứa con gái bẻ bỏng, tội nghiệp vào cảnh góa bụa, khổ đau
khi còn xuân sắc. Ông cũng biến đứa cháu ngoại chưa đầy ba tuổi mất đi tuổi thơ hồn nhiên,
vô tư. Chính bản thân ông cũng mất mát những tình cảm yêu thương giữa cha – con, ông –
cháu mà ông thèm muốn có được. Ông thèm lắm tiếng bi bô của đứa cháu ngoại, thèm “hơi
ấm da thịt”, “đôi cánh tay mũm mĩm mà chú bé vẫn quàng vào cổ ông mỗi khi ông đến”
[35, 510]. Để có được quyền lực tối cao, ông phải hi sinh ngay cả những tình cảm bình
thường. Ông làm khổ con, khổ cháu, khổ cả chính bản thân mình. Có lẽ nào “số phận của
các bậc vua chúa là thế ư?”. Biết làm sao được, từ khi tham gia vào chính trường, ông đã là
người “bị lịch sử chọn”, ông phải hi sinh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử.
Một con người luôn bị cho là lạnh lùng, sắt đá, độc đoán, có ai biết được những nỗi
cô đơn khủng khiếp của một con người dấn thân vào đại nghiệp. Nhiều khi ông nghĩ rằng:
sự cô đơn chính là bạn đồng hành của mình, có cô đơn ông mới làm được việc lớn. Chỉ có
Hồ Nguyên Trừng nhiều lần chứng kiến sự cô đơn tột cùng và những giây phút mềm yếu
của cha mình. Nguyên Trừng nhận thấy: “ánh mắt cha nhìn tôi như một sự cầu khẩn… và
tôi chợt nhận ra nỗi cô đơn khủng khiếp của người… bảo là nỗi cô đơn của kẻ thoán nghịch
cũng được… bảo là nỗi cô đơn của kẻ làm việc lớn cũng được…” [35, 98] và “tiếng cười
sao mà cô độc” [35, 32]. Hằng đêm, Quý Ly vẫn đến quỳ trước bức tượng của người vợ quá
cố: công chúa Huy Ninh, để sám hối, để tìm sự an lành trong tâm hồn. Ông đã vĩnh viễn mất
đi người bạn đời yêu quý, người vợ thánh thiện luôn lặng lẽ bên ông, xoa dịu nỗi đau và
những khát vọng điên cuồng của ông: “Bà là điều ông thiếu, là cái khát khao mà ông không
có. Bà là cái màu trắng mát mẻ luôn tràn vào tâm hồn ông để hòa dịu cái màu đỏ luôn đêm
ngày rừng rực trong ông” [35, 549]. Mất bà là sự mất mát lớn nhất trong cuộc đời ông, giờ
đây nỗi cô đơn với ông càng thấm thía.
Lukacs đã nói rằng: “Các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử phải sinh động hơn các
nhân vật lịch sử, vì các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử được trao cho sự sống, còn các
nhân vật lịch sử thì đã sống” [12, 131). Nhân vật Hồ Quý Ly chính là như vậy. Bằng cách
thể hiện nhân vật trong cái nhìn đa chiều, nhiều góc độ, ta thấy được những góc khuất,
những trăn trở, mâu thuẫn của nhân vật. Nguyễn Xuân Khánh đã có cái nhìn đầy cảm thông
đối với nhân vật, một con người chứa đựng trong mình những khối mâu thuẫn và những bi
kịch của thời đại. Bi kịch của con người đi tiên phong trong công cuộc cải cách.
Cùng phe với Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương và Nguyễn Cẩn. Hồ Hán Thương là con
trai của Hồ Quý Ly và công chúa Huy Ninh. Một người sùng kính cha mình và hăm hở với
công việc cải cách: “Con khâm phục cha! Con sùng kính cha! Cha thân mật mà tài giỏi!
Cha kiêu ngạo và giản dị! Cha cứng rắn mà dịu dàng” [35, 89]. Mỗi cải cách của cha đều
được Hán Thương đón nhận nồng nhiệt, hưởng ứng nhiệt tình. Quý Ly rất yên tâm về đứa
con trai này bởi nó rất giống ông. Khi đọc Minh Đạo của cha, Hán Thương say sưa như gặp
được chân lí: “Đường sáng! Đạo sáng! Ôi! Em cảm thấy cứ mỗi bước đi là chạm phải
những mảnh sao sa nóng bỏng. Ý tưởng của cha như những viên ngọc lấp lánh trước mắt.
Em đi suốt đêm trong phòng dát đầy ánh sao, vừa đi vừa đọc to những lời tâm huyết của
cha. Đọc liên tục, đọc mải miết đến nỗi trời sáng lúc nào chẳng rõ. Minh Đạo vạn tuế! Cảm
ơn người cha kì diệu đã cho em cuộc sống, lại còn cho nhìn rõ những ánh sáng trên con
đường mà em đang bước…” [35, 464]. Hán Thương chính là trợ thủ đắc lực của Quý Ly
trong cuộc cải cách.
Nguyễn Cẩn hiện lên thật toàn vẹn đặc sắc. Xuất thân từ dòng dõi trâu Canh – người
đã chữa khỏi bệnh cho vua Dụ Tôn - Cẩn nức tiếng là một công tử phong lưu, giao lưu rộng
rãi, dung mạo đẹp đẽ. Trong đầu Nguyễn Cẩn luôn vang lên tiếng nói của đấng siêu nhân là
minh chứng cho một tư tưởng nồng nhiệt thái quá. Để chiếm được lòng tin tuyệt đối của
“minh chủ”, Cẩn đã tự “tịnh thân” để phục vụ Hồ Quý Ly. Điều này đã để lại một nỗi buồn
u ám trên khuôn mặt người vợ. Cẩn kề vai, sát cánh trong mọi công việc của minh chủ, là
tay chân thân tín của Quý Ly. Cũng như Hán Thương, Cẩn tìm thấy con đường đi của minh
chủ trong Minh Đạo: “Minh Đạo là gì? Đó là đường đi của minh chủ. Tôi đã được sống
gần minh chủ. Tôi hiểu tâm huyết của người…” [35, 464]. Cẩn sôi nổi nói về công cuộc đổi
mới của một con người đặt vào đó niềm tin trọn vẹn: “Cần phải lột xác. Non sông gấm vóc
cần được hồi xuân, dù phải qua máu lửa, chết chóc, tàn phá, lụi tàn…” [35, 683], “Sự tàn
khốc thổi ngọn cuồng phong trải khắp sông núi. Chỗ nào cũng đầu rơi máu chảy. Tiếng
than khóc lên tận chín tấng mây. Nhưng sự thay da đổi thịt ấy là cần thiết, nó cũng có cái
hay” [35, 686], “Qua thời lột xác, non sông sẽ bừng tỉnh dậy… Thế đấy! Bi thương lắm!
Trong cuộc đổi đời, biết bao con người bị cơn bão cuốn phăng, bị ném vào lửa không
thương xót… Cũng chính vì vậy, nên lúc này, ta cần có một minh quân, một ông vua đại trí
…” [35, 684]. Những tư tưởng của Quý Ly đều được Nguyễn Cẩn tiếp nhận và thực hiện
với một niềm tin tuyệt đối, say mê đến cuồng nhiệt. Đến vua Thuận Tông cũng nhận xét
Cẩn là “nhiệt huyết đến mức mê cuồng” [35, 684]. Những con người như Cẩn cần thiết cho
công việc cải cách thực hiện một cách quyết liệt và triệt để. Chính vì vậy Hồ Quý Ly luôn
coi Cẩn là người thân tín, giao cho Cẩn những công việc tối hệ trọng: đi giết vua Thuận
Tông, theo dõi mọi cử động của phe đối lập, bảo vệ an ninh trong hội thề Đốn Sơn…
Cuộc chiến giữa hai phe: bảo thủ và canh tân diễn ra rất quyết liệt, dữ dội, có khi là
những đợt sóng ào ạt, có lúc lại là những con sóng ngầm. Cuộc chiến lên đến cao trào sau
cái chết của ông vua già Nghệ Tông. Cả hai đều thận trọng, ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng.
Người ta hiểu rằng sau sự im lặng đó báo hiệu một cơn giông sẽ nổi lên. Cơn giông đó đã nỗ
ra ở hội thề Đốn Sơn. Âm mưu giết Quý Ly của phe bảo thủ bị thất bại, họ đã chết cùng với
sự sụp đổ của vương triều nhà Trần.
Sử Văn Hoa, nhà viết sử được Nghệ Hoàng ban cho họ Sử, đã đánh giá những người
theo phe bảo thủ và cách tân là những con người “cuồng”, không thoát ra khỏi chữ “cuồng”,
chỉ nhăm nhăm vào một cái đích mà bất chấp tất cả. Trong cơn bão táp của lịch sử vẫn có
những con người bình tĩnh suy xét, lắng nghe hồn sông núi. Họ không theo phe bảo thủ
hoặc cách tân mà lựa chọn cho mình những con đường đi riêng.
Hồ Nguyên Trừng là nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm. Một con người đa cảm,
tinh tế, sâu sắc và tài hoa. Với một tâm hồn nhạy cảm, hơn ai hết, chàng thấy sự cô đơn của
cha mình, sự cô đơn của con người làm việc lớn, thấy nỗi sợ sệt, nỗi khắc khoải thường trực
của công chúa Huy Ninh (mẹ kế chàng), thấy nỗi u sầu ngày càng tăng của người vợ bé nhỏ
Quỳnh Hoa… Hồ Nguyên Trừng cũng là người có mối quan hệ thâm sâu với cả hai phe:
chàng là con trai trưởng của Hồ Quý Ly (phe cách tân), là con rể của quan Thái bảo Trần
Nguyên Hàng và bạn thâm giao của Thượng tướng Trần Khát Chân (phe bảo thủ).
Cuộc hôn nhân của Nguyên Trừng và Quỳnh Hoa là một mưu đồ chính trị của cả hai
phe. Ngay đêm hợp cẩn, chàng đã thầm thì với vợ: “Nàng ơi! Ta với nàng, chúng mình cùng
nhau họp làm một phái nhé” [35, 63] và ngày Quỳnh Hoa chết, chàng đã thề với người vợ
xấu số của mình như vậy. Hồ Nguyên Trừng với Trần Khát Chân là những người bạn vong
niên, những con người tài hoa cùng yêu quý cái đẹp. Họ quý trọng, mến mộ nhau, thường
cùng nhau uống rượu thưởng trăng. Nhưng những mục đích chính trị đã làm tình bạn của họ
ngày một gượng gạo, khó nói. Đối với cha mình, Nguyên Trừng thấy cả những khát vọng,
hoài bão của một con người đầy ý chí nhưng cũng phải ghê sợ trước những thủ đoạn tàn bạo
của cha. Khác với Hán Thương, Nguyên Cẩn luôn nồng nhiệt với công cuộc cải cách của
Quý Ly, thì Nguyên Trừng lại luôn băn khoăn, suy nghĩ, cật vấn đến cùng. Khi biết cha
mình muốn lật đổ nhà Trần để nắm lấy quyền lực tối cao, Nguyên Trừng băn khoăn: “Cha
muốn làm một cuộc “đổi đời”, “một cuộc đảo lộn trời long đất lở ở xứ sở này”, liệu “ơn
sâu nhà Trần với muôn dân thì cha có lật đổ được không?” [35, 100]. Khi đọc Minh Đạo
của cha, lòng chàng cảm thấy rối bời: “Đường sáng ư? Đạo sáng ư? Sao mắt ta chỉ thấy
một màu xám xịt. Đường ở đâu? Đường ở đâu?” [35, 462]. Hồ Nguyên Trừng là một nhân
vật tư tưởng, chuyển tải nhiều quan niệm của nhà văn. Mỗi việc làm chàng đều xuất phát từ
lợi ích của dân, vận mệnh của đất nước. Không đồng ý với cách làm của cha nhưng Nguyên
Trừng vẫn lặng lẽ bên cạnh, giúp đỡ cha hoàn thành đại nghiệp. Bởi chàng hiểu rằng: con
thuyền gia tộc chàng và con thuyền đất nước là một, dòng họ chàng đang chèo lái con
thuyền dân tộc đi về phía trước.
Sử Văn Hoa là một nhà viết sử đầy tâm huyết, một người giải mộng thiên tài. Một
con người trung thực, ngay thẳng, không sợ cường quyền, bạo lực. Sử luôn nghĩ đến hồn
sông hồn núi: “Hồn của núi sông tức là hồn của Đại Việt. Hồn của núi sông tức là quyền tự
chủ của nước non. Tức là sự an vui, no ấm của người. Tức là rạng rỡ văn hiến. Tức là đem
ánh sáng đến tận từng nhà, đem tự chủ đến từng người. Tất cả những điều đó bàng bạc, ẩn
ngầm ở khắp mọi nơi, nên mới gọi là hồn sông, hồn núi” [35, 519]. Trong loạn Dương Nhật
Lễ, Sử Văn Hoa chính là người đã cõng bồ sử trên lưng đi tìm chân mệnh thiên tử. Ông ý
thức rất rõ trách nhiệm, sứ mệnh của nhà viết sử dân tộc. Ông luôn mong ước cho sử nước
nhà được liền mạch không dứt, bởi mỗi cuốn sử ra đời, văn hiến được định hình, hồn nước
sẽ mãi trường tồn.
Ông là một kẻ sĩ chân chính, không gì có thể mua chuộc được. Công việc giải mộng
cho các bậc vua chúa là công việc đầy nguy hiểm, có thể chết bất cứ lúc nào, nhưng không
vì thế mà ông làm trái lương tâm mình. Ông bị Hồ Quý Ly hành hạ nhiều nhưng không vì
thế mà căm ghét Quý Ly, bởi ông hiểu rằng: “Đất nước mình đang cần lột xác. Quý Ly là
một người đầy táo bạo. Một kẻ cướp phải có gan: trên đầu không biết có ai” [35, 636]. Ông
cũng không viết cuốn sách mà Khát Chân giao. Ông bình tĩnh theo dõi bước đi của lịch sử,
chỉ có thời gian mới là người thầy sáng suốt đánh giá thành bại của con người: “Đánh giá
thành ư? Bại ư? Có khi bại mà mấy trăm năm sau lại thành. Có khi người đời chỉ vì mê
muội mà kéo ánh sáng trở về với bóng tối. Sự mơ màng, lòe loẹt làm chậm bước chân của
hồn núi, hồn sông?” [35, 635]. Trong cuộc chiến khốc liệt giữa hai phe, ông không theo phe
nào, chống đối phe nào, chỉ làm những việc của một kẻ sĩ có tài, có tâm trong sáng, cứng
cỏi nhưng ông cũng trở thành mục tiêu săn đuổi của hai phe. Cái chết của ông mãi mãi vẫn
là một bí mật. Không biết kẻ nào lại có thể ra tay độc ác với một con người đáng kính như
vậy!
Trong tác phẩm, ta bắt gặp những con người trải qua nhiều thăng trầm của cuộc sống,
chứng kiến nhiều cuộc thịnh suy, họ hiểu lẽ tuần hoàn của vạn vật. Nay tuổi cao, sức kiệt,
họ chọn cho mình con đường ở ẩn, vui thú điền viên, làm bạn với suối, rừng, khuây khỏa
tuổi già, đứng ngoài những cuộc tranh giành quyền lực như Trần Nguyên Đán, Trần Sư Tề,
Sư Hiền, cụ lang họ Phạm, sư Vô Trụ… nhưng vẫn lặng lẽ làm công việc có ích cho người,
cho đời, cứu nhân độ thế.
2.1.2. Làng Cổ Đình và hành trình trở về đạo Mẫu trong tiểu thuyết Mẫu Thượng
Ngàn
Vào thế kỉ XIX, các nước tư bản phương Tây đã phát triển rất mạnh mẽ, nền kinh tế
với trình độ chuyên môn hóa ngày càng cao, sản phẩm ngày càng nhiều đòi hỏi thị trường
rộng lớn để tiêu thụ. Các nước tư bản ra sức tiến hành các cuộc xâm lược thuộc địa nhằm vơ
vét nguồn tài nguyên giàu có và nhân công lao động dồi dào, rẻ mạt. Đông Dương là mảnh
đất màu mở được người Pháp “để ý” từ lâu, chúng đã thực hiện từng bước kế hoạch xâm
lược. Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn vẫn duy trì và củng cố chế độ phong kiến chuyên
chế, chế độ lỗi thời lúc bấy giờ. Bên ngoài thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, không
cho tàu bè phương Tây vào làm ăn buôn bán, không giao thiệp với các nước phương Tây.
Bên trong, nhà Nguyễn thực hiện nhiều chính sách hà khắc, sưu cao thuế nặng nên đời sống
của người dân vô cùng cực khổ. Công nghiệp, thương nghiệp ít được khuyến khích phát
triển, quy mô nhỏ lẻ. Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam lúc này vẫn là nền kinh tế nông
nghiệp theo phương thức cổ truyền với các nông cụ thô sơ, sức kéo đơn giản lại thiếu thốn.
Cuộc sống của nông dân và các tầng lớp lao động khác vẫn nghèo đói, khốn khó. Triều đình
lại ra sức cấm đoán Thiên chúa giáo, tàn sát giáo dân một cách dã man làm chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy, nhiều nông dân và lao động nghèo đã nổi lên chống lại nhà
nước phong kiến chuyên chế và giai cấp bóc lột. Theo số liệu của các nhà sử học trong nửa
đầu thế kỉ XIX đã có tới trên ba trăm cuộc nổi dậy của các tầng lớp nhân dân, tiêu biểu là
các phong trào đấu tranh của Lê Hữu Tạo (1819 – 1821), Phan Bá Vành (1833 – 1834), Lê
Duy Lương (1833 – 1834)… Có thể nói, nhà Nguyễn đã thi hành những chính sách chuyên
chế, lạc hậu, cực đoan, kìm hãm sự phát triển của đất nước và đẩy nhân dân vào tình thế
phải “đối đầu” với triều đình.
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược, triều đình chống cự một cách yếu ớt rồi từng
bước cắt đất cho giặc. Đến ngày 25/8/1883, triều đình nhà Nguyễn đã kí hiệp ước Hácmăng,
gồm 27 khoản, thừa nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, phần còn lại Trung Kỳ, Bắc Kỳ
đặt dưới chế độ “bảo hộ”. Đất nước ta hoàn toàn rơi vào tay giặc Pháp. Việc kí kết hiệp định
này đã gây ra nhiều bất bình trong đông đảo quần chúng nhân dân và một bộ phận sĩ phu
yêu nước. Vì vậy, mặc dù triều đình đã ra lệnh ngừng chiến nhưng phong trào chống giặc
Pháp cứu nước vẫn sôi sục khắp nơi. Tiêu biểu cho các phong trào của các sĩ phu yêu nước
hưởng ứng theo chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi là các cuộc khởi nghĩa: khởi nghĩa Ba
Đình do Đinh Công Tráng và Phạm Bành lãnh đạo (1886 – 1887), Bãi Sậy do Nguyễn
Thiện Thuật lãnh đạo (1885 – 1892), Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 –
1896)… Cùng thời gian này, ở nhiều nơi, nhân dân vừa sản xuất vừa chống giặc Pháp, bảo
vệ những người yêu nước, trừng trị những kẻ làm tay sai. “Theo tài liệu của Pháp, riêng ở
vùng châu thổ Bắc Kỳ, đã có 250 nhóm nghĩa quân hoạt động” [51, 355]. Cuộc khởi nghĩa
lớn nhất, bền bỉ nhất, tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của người nông dân là khởi nghĩa
Yên Thế do Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) lãnh đạo. Tuy chiến đấu vô cùng anh dũng, kiên
cường nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại, bị thực dân Pháp dìm trong bể
máu. Sau khi đàn áp được phong trào yêu nước của nhân dân, thực dân Pháp bắt đầu tiến
hành các cuộc khai thác thuộc địa.
Bước sang giai đoạn đầu những năm đầu thế kỉ XX (trước năm 1930), những điều
kiện mới đã làm bộc phát phong trào mới: phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ
tư sản. Tầng lớp có vai trò tích cực nhất trong cuộc cách mạng đầu TK XX là lớp trí thức
Nho học mới: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can… “Dưới tác động của
luồng tư tưởng dân chủ tư sản, những trí thức Nho học trẻ tiến bộ Việt Nam tin rằng: có thể
thực hiện được ước mơ giải phóng đất nước bằng con đường Trung Hoa và Nhật Bản. Họ
cho rằng hai nước đó vì là đồng văn, đồng chủng với người Việt Nam nên có thể trực tiếp
giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp. Họ cùng chủ trương phải xây dựng ở Việt Nam một chính thể
mới, ít ra cũng là quân chủ lập hiến hay tư sản đại nghị” [51, 318]. Phan Bội Châu chủ
trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản để đánh Pháp giành độc lập dân
tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến như Nhật. Ông lập ra hội Duy
Tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906 – 1908)… Phan Chu Trinh chủ trương dùng
những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát triển kinh tế theo hướng tư
bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu nước mạnh, buộc thực dân Pháp
phải trao trả quyền độc lập cho nước Việt Nam.
Do hạn chế về lịch sử, về giai cấp nên Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng như các
sĩ phu cấp tiến của phong trào yêu nước đầu TK XX đã không thể tìm ra con đường giải
phóng dân tộc. Sau một thời gian hoạt động, các phong trào lần lượt bị thực dân Pháp dập
tắt. Sau này, Bác Hồ đã nhận định: con đường của cụ Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi
hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn cách làm của cụ Phan Chu Trinh chẳng khác gì xin
giặc rủ lòng thương. Các phong trào yêu nước này không thể đi đến thành công nhưng nó
dấy lên một loạt các phong trào yêu nước nổ ra khắp nơi.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam mặc dù còn hạn chế
về số lượng và thế lực kinh tế, chính trị nhưng đã bắt đầu vươn lên vũ đài đấu tranh với thực
dân Pháp. Các hoạt động của họ diễn ra sôi nổi, nhiều hình thức khác nhau, lôi cuốn được
đông đảo quần chúng tham gia: cuộc vận động chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa, chống
độc quyền thương cảng Sài Gòn, đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu, lễ truy điệu để tang cụ
Phan Chu Trinh, đấu tranh đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh…
Cuối cùng, những phong trào yêu nước những năm đầu thế kỉ XX đầu bị đàn áp. Đất
nước rơi vào một thời kì đen tối, lầm than. Sự thất bại của các phong trào này chứng tỏ sự
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến và khuynh hướng dân chủ tư sản trong nhiệm vụ giải
phóng đất nước. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một bước ngoặt vô
cùng quan trọng, đưa nhân dân Việt Nam sang con đường cứu nước mới: cứu nước theo con
đường vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự ra đời của Đảng đã chấm dứt tình trạng khủng
hoảng về đường lối của các phong trào yêu nước trước đó, lái con thuyền cách mạng đi từ
thắng lợi này sang thắng lợi khác.
Mẫu Thượng Ngàn lấy bối cảnh lịch sử những năm cuối TK XIX, đầu TK XX (trước
năm 1930), lúc các phong trào yêu nước đã đi vào giai đoạn thoái trào, một thời kì đau
thương của dân tộc. Thực dân Pháp từng bước đặt ách thống trị lên đất nước ta, tiến hành
các cuộc khai thác thuộc địa. Cùng với việc khai thác các tiềm lực kinh tế, chúng thực hiện
chính sách nô dịch về văn hóa. Văn hóa phương Tây đang ngày càng ảnh hưởng sâu rộng, đi
cùng với nó là Thiên chúa giáo. Lúc này, đạo Phật tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta đã suy
vi, đạo Nho cũng rơi vào bất lực trước những thay đổi mạnh mẽ của thời cuộc, Thiên chúa
giáo ngày càng lan rộng. Nguyễn Xuân Khánh đã chọn thời điểm lịch sử cực kì khó khăn
của dân tộc, đặt vận mệnh đất nước trước một thử thách lớn: sự tồn vong. Nhà văn đã kiến
giải sự tồn vong đó trên khía cạnh văn hóa. Bởi lẽ, văn hóa chính là diện mạo của một dân
tộc, làm nên nét riêng của một đất nước. Đánh mất văn hóa, dân tộc đó sẽ không thể tồn tại,
giữ nguyên được những tinh hoa văn hóa qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, dân tộc
đó vẫn trường tồn. Đất nước ta xưa kia đã bị Trung Quốc đô hộ một nghìn năm, chúng đã
thực hiện những chính sách vô cùng thâm độc nhằm đồng hóa dân tộc. Thế nhưng, trải qua
bao đau thương, văn hóa Việt Nam vẫn tồn tại, biến đổi và trường tồn để vươn lên làm chủ
lại đất nước. Văn hóa Việt như một mạch nguồn chảy mãi không bao giờ dứt. Giờ đây, một
lần nữa, dân tộc ta lại rơi vào một thử thách, thử thách căm go hơn bởi đây là một nền văn
hóa hoàn toàn khác, một nền văn hóa trái ngược, xa lạ với văn hóa phương Đông. Cuộc
đụng độ về văn hóa lần này không chỉ ở phương diện hai quốc gia mà còn là hai nền văn
hóa: văn hóa phương Đông – văn hóa phương Tây.
Trong tình thế đó, văn hóa Việt lại trỗi dậy mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, nhân dân
quay trở lại với văn hóa dân gian, tín ngưỡng thuần Việt, nguyên sơ tồn tại bao đời nay: Đạo
Mẫu. Đạo Mẫu là một tín ngưỡng bản địa, một tín ngưỡng lớn và phổ cập. Tín ngưỡng đó
lấy việc tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, duy trì, che chở cho
con người: “Ở nước ta, đạo Mẫu thờ tứ phủ, tức là bốn Mẹ: Mẹ Trời, Mẹ Đất, Mẹ Nước và
Mẹ Người. Mẹ Trời là Mẫu Thượng Thiên, Mẹ Người là Mẫu Liễu. Mẹ Nước là Mẫu Thoải.
Mẹ Đất rừng là Mẫu Thượng Ngàn” [35, 421]. Thờ Mẹ là tôn thờ những gì cao quý và đẹp
đẽ nhất. Ai sinh ra trong cuộc đời mà lại không có mẹ, mẹ là người yêu thương, che chở và
nơi trở về bình an của tất cả mọi đứa con. Trở về với tín ngưỡng nguyên sơ của dân tộc là
minh chứng bản sắc văn hóa Việt sẽ không bao giờ mất đi, sẽ sinh sôi, trường tồn dù phải
đối đầu với những phong ba của lịch sử.
Để thể hiện một cách đậm nét văn hóa dân tộc, không nơi nào thích hợp hơn là tìm về
không gian làng quê, nơi thể hiện rõ nét sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của văn hóa Việt. Cái
gốc rễ của văn hóa dân tộc chính là văn hóa làng, “chúng ta là những người nhà quê”, nhà
văn đã từng nói như vậy. Làng Cổ Đình trong Mẫu Thượng Ngàn tiêu biểu cho làng quê của
Việt Nam. Ở đó chứa đựng những phong tục tập quán tốt đẹp lẫn những hạn chế trong cách
sống, nếp nghĩ của người dân. Cổ Đình là một làng quê bán sơn địa, nơi đây có đồng ruộng
mênh mông, hồ Huyền, sông Son, núi ông Đùng bà Đà đậm chất huyền thoại, đền Mẫu linh
thiêng nằm trên đỉnh núi. Cũng như bao làng quê khác, ngôi chùa, đình làng, gốc đa cổ
thụ… là những biểu tượng thiêng liêng và niềm kiêu hãnh của cả làng. Người Kẻ Đình vẫn
thường ngâm nga câu ca:
Đầu làng có một cây đa
Cuối làng cây gạo, ngã ba cây đề.
Ngay đầu làng là cây đa “một cây đa cổ thụ trứ danh, gốc to chục người ôm không
xuể”, “cây đa vừa hùng vĩ vừa đẹp, người trong làng ai cũng biết. Người ta dùng nó làm
điểm xác định vị trí. Ví dụ: “Làng tôi là làng Già, cách cây đa Cổ Đình hai cây số về phía
đông”” [36, 220]; “Người ta bảo chắc cây đa phải đến trên ba trăm tuổi. Tán của nó che
kín mẫu đất. Cây đa to sừng sững, đứng ở tít xa đã trông thấy ngọn của nó vươn lên khỏi
lũy tre làng”; “Bốn cái rễ phụ ở bốn phía đâm xuống đất lâu ngày dần lớn lên thành bốn
thân cây nhỏ khác, tuy nhỏ nhưng cũng phải bằng cột nhà. Các cụ bảo đó là quân hầu, tứ
trụ triều đình phò tá thần cây… Trên những chùm rễ phụ, người ta buộc những ông bình
vôi, trong bụng đã đặc kịt” [36, 220]. Cây đa cổ thụ linh thiêng bởi nó đã trải qua bao biến
động của lịch sử. Cây đa đã chứng kiến những vụ thảm sát những người yêu nước, những tai
họa của dân làng… Người ta gọi nó là “Thần cây”, thờ cúng như một vị thần để mong ngài
che chở, bảo vệ. Dưới gốc đa có một ngôi chùa nhưng ngôi chùa đã đổ, chỉ có ông Hộ Hiếu
vẫn ở đó nhưng người ta sợ không dám đến. Vào thời Phật giáo lụi tàn, ngôi chùa không còn
là nơi an ủi, xoa dịu nỗi khổ của những người dân quê.
“Nói đến cây đa phải nói đến ông Thần Cẩu, tức con chó đá thờ” [36, 223]. Ông
Thần Cẩu được làm bằng đá xanh nhẵn bóng, được trấn yếm để giúp dân làng tránh được tà
khí từ nghĩa địa chiếu vào cổng làng. Thần Cẩu rất linh thiêng, là thần bảo hộ của cả làng.
Ai đụng đến thần sẽ bị trừng trị. Chính vì vậy mà khi Cửu Nhậm trộm vật thiêng ném ra
giữa hồ thì con trai lão suýt chết, “đi xem bói thầy bảo ăn cắp vật linh của thánh thần,
không mang trả ngay thì mất mạng như chơi” [36, 225].
Khác với ngôi chùa đổ nát, đình làng thật to lớn, bề thế, đẹp lộng lẫy: “Ngôi đình là
niềm kiêu hãnh của người dân Kẻ Đình, thậm chí là niềm kiêu hãnh của cả một vùng đất
chung quanh hồ Huyền. Ngôi đình thật đẹp. Nó nằm ở thôn Trung, chỗ ngã ba giữa những
con đường dẫn đến thôn Thượng, thôn Hạ và thôn Viên (xóm Vườn)” [36, 677]. Ngôi đình
do một bà quý phi, vợ vua, lúc về già đem tiền xây dựng. Nó được làm rất công phu tinh
xảo. Những chạm khác trong ngôi chùa được làm rất tỉ mỉ, công phu, hóm hỉnh thể hiện
những ước ao thầm kín của những người dân quê: những hình ảnh sinh động đời thường,
những hình ảnh tình tứ, huyền thoại về ông Đùng bà Đà… Ngôi đình chính là nơi hội họp
của Hội đồng kì mục làng, là nơi bắt đầu của hội Kẻ Đình.
Không gian làng Cổ Đình đậm chất dân gian, huyền thoại. Nơi đây mỗi địa danh,
mỗi con sông, núi rừng đều gắn với bao sự tích. Nó sẽ là nơi nuôi dưỡng cho những tâm hồn
Việt, là nguồn chảy văn hóa sẽ không bao giờ vơi cạn.
Làng Cổ Đình có hai dòng họ chính: họ Vũ, họ Đinh. “Mả họ Vũ Xuân phát về
đường hào lí: Chánh tổng, tiên chỉ, lí trưởng làng này đều nằm hết trong tay họ Vũ. Họ
Đinh Công thì nổi tiếng về đường đỗ đạt và cá tính ương hướng” [36, 115]. Xưa nay, hai họ
vẫn ganh đua nhau, hiềm tị lẫn nhau. Khi thực dân Pháp đô hộ, Pháp dùng chức sắc làng để
bóc lột nhân dân thì họ Vũ ngày càng giàu có và quyền thế, trong khi họ Đinh theo ông Đốc,
ông Đề nên nằm trong “tầm ngắm” của bọn thực dân. Ông đồ Tiết đi tù năm năm, hai con
ông là Chất, Phác phải biệt tích. Cả dòng họ chỉ được cụ Lễ làm quan to nhưng cũng không
được trọng dụng. Ở chốn thôn quê “Cái bệnh thèm làm quan, thèm danh, thích phân chia
ngôi thứ ấy là căn bệnh cố hữu của người Nam từ nhiều đời” [36, 132]. Người xưa đã nói
rằng: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, giàu có mà không vai vế, ra đình
không được ngồi mâm trên thì cũng bị khinh thường. Chẳng vậy mà khi xưa ông Vũ Xuân
Cảo (bố của lí Cỏn) phải cắn răng bán một mẫu rưỡi ruộng để mua cái hư danh là chánh
Cảo, để không bị gọi là “bố cu, mẹ đĩ”, có danh mà chẳng lợi lộc, quyền hành gì. Trong
làng Cổ Đình, ngôi thứ được phân chia rất rõ ràng, đứng đầu là Hội đồng kì mục gồm các
bậc trên của làng: cụ Chánh Thi, cụ tiên chỉ Nhậm, ông lí Cỏn, ông hương Ất… dưới là dân
đinh, cuối cùng là mõ. Mõ là hạng cùng nhất trong số những dân cùng, bị mọi người khinh
rẻ, miệt thị. Chẳng biết từ bao giờ, mõ luôn gắn với từ “tham”: “tham như mõ”. Trong làng,
dòng tộc cũng là điều tối hệ trọng. Người ta đấu đá nhau, dìm nhau xuống bùn vì quyền lợi
của dòng họ. Người ta có sức mạnh, được mọi người vị nể cũng là do mang dòng họ có
nhiều quyền thế. Một khi tách khỏi dòng họ, người đó sẽ như thú lạc đàn, mất hết sức mạnh.
Nhà văn đã đặt làng Cổ Đình cạnh một đồn điền Tây: đồn điền Messmer nhằm khắc
họa rõ nét sự ảnh hưởng và tiếp biến với nền văn hóa phương Tây. Khi sang các nước thuộc
địa, việc đầu tiên của người Pháp là xâm chiếm đất đai. Bởi lẽ, đầu tư vào nông nghiệp cần
ít vốn, lại sử dụng được nhân công tại chỗ đông đúc và rẻ mạt. Bóc lột nhân công, chiếm đất
đai là phương thức thu lợi nhanh nhất để làm giàu cho chính quốc. Ông chủ đồn điền là:
Philippe Messmer, Pierre và Julien Messmer. Trong đó, Philippe và Julien là những nhà
thuộc địa trứ danh, họ sang đây với tư thế của những conquistador (nhà chinh phục). Họ
mang ánh sáng văn minh đi khai hóa dân tộc dã man, lạc hậu. Họ coi mình là những kẻ
mạnh, văn hóa Pháp là nền văn hóa ưu việt. Julien khẳng định quan điểm của mình: “Thực
chất, ta đến Đông Dương để khai hóa văn minh cho dân bản xứ, chẳng qua chúng ta chỉ
muốn chứng minh nền văn hóa Pháp của chúng ta là ưu việt nhất. Chúng ta muốn biến xứ
sở này thành một nước Pháp nhỏ bé, và người dân ở đây thành những thần dân, thành
những bóng hình của người dân chính quốc” [36, 514]. Julien không tin vào sự ảnh hưởng
của các nền văn hóa, đối với hắn văn hóa cũng như sức mạnh chỉ có kẻ mạnh – người yếu,
kẻ thống trị - người bị trị, chỉ có sự tác động một chiều của kẻ mạnh lên kẻ yếu: “Sở dĩ tôi
bảo chúng ta không cần Đông phương hóa, bởi vì tất cả những lời nói mĩ tự chỉ là những
ngôn từ che đậy. Về thực chất, lịch sử chỉ là cuộc vật lộn khốc liệt giữa dân tộc mạnh và
yếu. Có những dân tộc sinh ra chỉ để chịu sự nô lệ. Có những dân tộc sinh ra để mà thống
trị” [36, 511]. Với tư tưởng đó, anh ta xem thường những người dân bản địa, những con
người luôn khúm núm, sợ sệt; xem thường văn hóa bản địa, tín ngưỡng thờ Mẫu: “Tôi nghĩ
lên đồng của người An Nam là một thứ dị đoan, phù thủy, một thứ khoa học rừng rú”. Tư
tưởng thống trị theo hắn cả trên giường ngủ, ở đó cũng chỉ có ông chủ và nô lệ, sự ban phát
và chịu ơn, không hề có cái gọi là tình yêu. Philippe và Julien là những con người tiêu biểu
cho kẻ đi chinh phục thuộc địa, những con người của chủ nghĩa thực dân. Họ đâu hiểu rằng,
một khi đã đặt chân đến xứ sở này, ăn thức ăn nơi đây, uống nguồn nước nơi đây, ngủ với
những người đàn bà thuộc địa thì một phần họ đã thuộc về nơi đây, một ngày nào đó “hồn
đất” sẽ trả thù những kẻ đã giày xéo mảnh đất này.
Không có sự thống trị về văn hóa mà chỉ có sự hòa trộn, ảnh hưởng giữa các nền văn
hóa như nhà dân tộc học René đã nói theo lời của một nhà văn Đức: “chẳng ai đi dưới bóng
hàng cọ mà lại không hề hấn gì” [36, 806]. Quả thật, sự tiếp xúc với một nền văn hóa hoàn
toàn mới mẻ, khác lạ của những kẻ đi chinh phục đã gây ra bao nhiêu đau thương cho dân
tộc Việt Nam nói chung và những người dân làng Cổ Đình nói riêng. Bao người dân yêu
nước đã ngã xuống trong thất bại, bao người phụ nữ, cô gái đã bị cưỡng đoạt, đất đai bị xâm
chiếm, nhân dân bị bóc lột, cuộc sống cơ cực, lầm than… Nhưng nền văn hóa ấy cũng mang
lại cho đất nước ta những thay đổi, đưa dân tộc ta thoát khỏi sự ảnh hưởng sâu đậm của văn
hóa Trung Hoa từ bao đời nay, đặt đất nước trước những vận hội mới. Điều quan trọng là
trong sự tiếp xúc đó, chúng ta vẫn giữ được những nét văn hóa của dân tộc. Nhà văn đã đặt
niềm tin mạnh mẽ vào văn hóa làng, tín ngưỡng thờ Mẫu với sức sống tràn trề của những
người đàn bà Việt.
Không phải ngẫu nhiên mà tính nữ trong tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn lại rất mạnh,
những người đàn bà hừng hực sức sống, đầm đìa tính phồn thực. Đây là chủ ý của nhà văn.
Đàn bà tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở, sự chịu thương chịu khó, giàu tình yêu thương,
đức hi sinh và sức sống mạnh mẽ. Những người phụ nữ trong tác phẩm của Nguyễn Xuân
Khánh đều rất đẹp, giàu nữ tính dù phải trải qua bao đau đớn, cay đắng của cuộc đời. Họ có
một niềm tin vào Mẫu, đức Mẹ của thế gian, người ban phát và cứu vớt những số phận chịu
nhiều bất hạnh. Tìm về với Mẫu là tìm về với Mẹ, tìm về chốn bình yên. Con người được
gột rửa, siêu thoát, cảm thấy vơi nhẹ, thanh thản hơn. Trong lúc, đất nước sống trong đêm
đen nô lệ, họ đã tìm thấy điểm tựa tinh thần từ tín ngưỡng thuần Việt, nguyên sơ. Hành trình
trở về đạo Mẫu của cả dân làng Cổ Đình, đặc biệt là cuộc hành trình của những người phụ
nữ tiêu biểu cho cuộc hành trình của cả dân tộc tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc.
Những nhà Nho theo học sách thánh hiền, được đào tạo từ “cửa Khổng sân Trình”
xưa nay vẫn coi đạo Mẫu, đồng cốt là thứ mê muội, quàng xiên nhưng những nhà Nho ở đây
lại rất tôn kính. Khi xưa, cụ Vũ Huy Tân đã từng mắng học trò khi anh ta dám báng bổ đạo
Mẫu: “Anh chẳng nên nói những lời nặng nề, khinh bạc như vậy. Ngồi đồng là gì? Là làm
cho lòng ta đạt tới chỗ tâm hư, để hòa đồng cùng với thế gian. Thần thánh cũng ở trong ta.
Phàm tục cũng ở trong ta… Vả lại, khắp nước ta, nơi nào chẳng có người ngồi đồng thờ
Mẫu. Mẫu sinh thành ra thế gian này” [36, 695]. Cụ đồ Tiết thương người con gái long
đong, truân chuyên nên không cản khi cô Mùi xin lên sống trên điện Mẫu, ông nói với Nhụ:
“Mẫu cho ta tất cả” [36, 421].
Những người trẻ tuổi theo Tây học như Huy, Tuấn hướng về Mẫu theo cách riêng.
Tuấn là một họa sĩ, anh khao khát một sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa phương Đông và
Tây trong hội họa. Anh đã vẽ bức tranh lên đồng bằng chất liệu sơn mài của phương Tây:
“Bức tranh tên là “Đội lửa”. Một người đàn bà miền sơn cước váy đen, áo xanh lam có
hàng khuy bạc là lũ bướm đậu trước ngực. Cô ta đang múa. Trên đầu cô đội một cái mâm
cắm đầy nến cháy rừng rực. Cô gái múa mâm lửa trong giá đồng cô Bé sơn trang. Những
cây nến lung linh đang cuộn theo vòng xoáy của điệu múa” [36, 717].
Tiêu biểu cho hành trình trở về đạo Mẫu của những người dân quê là những người
đàn bà. Có lẽ họ tìm thấy sự đồng cảm giữa thân phận đạo Mẫu và thân phận cuộc đời mình:
“Cái tôn giáo dân gian ấy đã an ủi bao tâm hồn cay cực của nông dân. Nhưng nó vẫn bị
ghẻ lạnh hắt hủi. Thân phận đạo Mẫu chẳng khác gì số kiếp của những người đàn bà của
quê hương chúng ta” [36, 421]. Từ khi ngôi chùa đổ, thầy chùa bỏ đi, quản Boong cải đạo.
Ngôi chùa từng an ủi tinh thần những người dân quê bao đời nay giờ không còn nữa, họ tìm
về với Mẹ, cầu xin Mẹ chở che. Từ khi bà tổ cô và cô đồng Mùi về đây, đền Mẫu đã hết
cảnh khói lạnh hương tàn, người dân đến ngày một đông. Đặc biệt, đền Mẫu càng linh
thiêng sau việc “ngựa ngài” đuổi ông chủ đồn Tây Julien chạy bán sống bán chết. Qua biết
bao thăng trầm, loạn lạc, người dân quê tìm thấy sự an lành bên Mẹ.
Tiêu biểu cho cuộc đời của người phụ nữ thời tao loạn nay trở về nương nhờ dưới
bóng Mẫu là bà tổ cô (bà Vũ Thị Ngát). Bà ở bậc cao nhất trong dòng họ Vũ Xuân nên được
cả họ tôn là bà tổ cô, “Vả lại, đứng về tuổi tác, bà gần chín mươi, già nhất làng, nên không
những họ Vũ Xuân, mà cả làng cũng tôn là tổ cô” [36, 267]. “Thuở con gái bà đẹp lắm, thắt
đáy lưng ong, khuôn mặt trái xoan, mi thanh mục tú. Chẳng cần trang điểm cũng đẹp nõn
nà. Dân làng bảo giá không phải thời loạn mà ở thời bình, chắc dân làng phải đem bà tiến
vua, nếu không làm hoàng hậu, chắc cũng là quý phi. Đặc biệt cái dáng của bà, nó sang
trọng làm sao, cao quý làm sao. Cả chân tay cũng đẹp, những ngón tay dài búp măng, lấp
ló dưới chiếc váy sồi đen nhánh là hai bàn chân xinh xinh gót lúc nào cũng đỏ như son. Tất
cả con người như một đóa hoa tươi” [36, 267]. Người con gái đẹp trong thời loạn thật khó
lấy chồng “biết gả cô cho ai? Lo nếu gặp anh chồng vũ phu chẳng ra gì, hoặc anh chồng
đức hạnh nhưng nghèo túng thì đời cô sẽ khổ” [36, 268]. Sau đó, cô làm vợ ông phủ Khiêm,
cả làng đều thở phào nhẹ nhõm. Thời kỳ cô lấy chồng cũng là thời kì đau thương nhất của
dân tộc. Thực dân Pháp tiến hành các cuộc chiến tranh vũ trang xâm lược nước ta. Triều
đình nhà Nguyễn ra chỉ dụ cấm đạo Thiên chúa giáo vô cùng gay gắt, chỉ dụ “Phân sáp giáo
dân”. Nhiều cuộc hành hình giáo dân đã diễn ra dã man, khốc liệt, dân chúng hoang mang,
thù hận, chia rẻ. Ông phủ Khiêm làm quan nên thường xuyên phải chứng kiến những cuộc
thanh trừng giáo dân. Để thử lòng trung của quan lại, triều đình còn bắt vợ con, gia đình
chứng kiến những cảnh chém giết như thế. Bà không chịu được nên đã “nôn tống nôn tháo”
rồi ngất đi, ốm suốt tháng trời. Vợ chồng ông bà còn cưu mang một đứa bé bên đạo nên bị
triều đình nghi ngờ. Dù không có tội nhưng ông phủ Khiêm cũng bị giáng chức. Khi thế lực
của Thiên chúa giáo lớn mạnh, chúng lại bắt giam ông. Ông đã dùng đồng tiền mài mỏng
vạch tấm lòng son của mình.
Nếu không có đứa con, có lẽ bà đã đi theo ông. Nhưng bà phải sống để nuôi giọt máu
duy nhất của nhà chồng. Khi đó thực dân Pháp đã bình định được đất nước, chúng ra sức
tiêu diệt những mầm móng phản loạn, những người đã tàn sát giáo dân năm nào. Nếu hồi
trước bà thương xót cho những người theo đạo Thiên Chúa bao nhiêu thì bây giờ bà cũng
phải run sợ vì sự hung hăng, tàn bạo của họ. Họ xem việc giết những kẻ khác làm niềm vui
cho mình. Bà Ngát cũng nằm trong số những người bị truy đuổi, bị bắt. Số phận thật trớ
trêu, bà một lòng yêu thương, giữ tiết với chồng lại phải lấy chồng để cứu tính mệnh mình
và đứa con trai; bà đã phải bước qua cây thánh giá để chứng tỏ không theo đạo Thiên chúa
bây giờ lại lấy một người theo đạo gốc (ông trưởng Cam). Cuộc đời ngang trái đã làm bà trở
nên u trầm hơn, lặng lẽ hơn. Mà càng lạ, càng lặng lẽ, u trầm, bà càng đẹp. Khi ông trưởng
Cam qua đời, bà một lần nữa cải đạo, trở về với đạo Mẫu. Trở về nơi bình yên của cuộc đời
đầy loạn lạc.
Trải qua cuộc đời đầy sóng gió, bà càng thấu hiểu và đồng cảm nỗi đau của con
người. Bà sửa sang lại điện thờ Mẫu trên núi ông Đùng để các con nhang đệ tử có nơi
nương náu tinh thần, có sự chở che, ban phát của Mẫu. Bà cảm thương cho số phận của mõ
Hoa xinh đẹp mà khốn khổ, vẫn thường nhờ mẹ con Hoa chăm sóc ruộng của điện, giã gạo
và cho Hoa đồng tiền để sắm sửa tấm áo cho lành lặn, tử tế. Nhìn cô Mùi, bà biết cô là
người có căn mạng bắc ghế hầu Mẫu, là người có thể thay bà trông nom điện thờ sau này,
nên bà truyền dạy những điều tâm huyết của mình cho cô: “Đạo nào thì cũng thế cả thôi.
Đạo Giê-su cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều chỉ là khuyến thiện. Người theo đạo Gia-tô chăm
chú sửa mình sao cho ngày càng gần Chúa hơn. Còn chúng ta thì làm sao cho mình hòa vào
với Mẫu. Trong cốt, ngoài đồng. Con nhớ lấy: cốt là cái linh thiêng của Mẫu, còn đồng là
cái bên ngoài, là ta, là cái ghế để cho thánh ngự. Ta càng sạch sẽ bao nhiêu, ta càng thánh
thiện bao nhiêu, ta càng rủ bỏ tục lụy bao nhiêu, thì Mẫu càng gần ta bấy nhiêu và các con
nhang đệ tử càng nhích lại gần bấy nhiêu” [36, 696]. Bà tổ cô như là hiện thân của Mẫu để
sưởi ấm, ban phát tình thương cho những số phận chịu nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Vậy
nên, điện Mẫu từ khi có bà về rất linh thiêng và ngày càng nhiều người con hướng về với
Mẹ.
Cô Mùi lại tiêu biểu cho những người phụ nữ có số phận truân chuyên. Lấy chồng ba
lần, ba người chồng đều chết. Lần thứ nhất là Vũ Xuân Tẻo (em lí Cỏn). Anh chàng nhỏ bé
chỉ bằng nửa cô. Lấy nhau chỉ được vài tháng, người chồng chết vì quá yêu cô. Người
chồng thứ hai là một chàng trai lực điền, tên là Tân. Tân chết vì căn bệnh sốt rét sau khi đi
mua trâu về. Người đời vốn ác miệng, người ta bảo cô có số sát phu, lấy ai là người đó phải
chết. Cô đau đớn vô cùng, thế nhưng số mệnh còn bắt cô lấy chồng lần nữa. Người chồng
thứ ba, Philippe, gây cho cô biết bao tủi nhục. Lấy Philippe, cụ đồ Tiết không nhận con, dân
làng xa lánh. Cuộc hôn nhân này như một định mệnh. Cô phải trả hết nợ trần gian trước khi
trở về bên Mẫu. Sau khi Philippe chết, cô bỏ đồn điền, bỏ làng, lên điện Mẫu sống cùng bà
tổ cô, trở thành một cô đồng uy phong, lẫm liệt.
Cô Mùi là người tươi tắn, nhân hậu, có sức cảm hóa, lan truyền tình thương của
Mẫu đến các con nhang đệ tử. Khi vẫn là vợ Philippe, một năm hai lần cô vẫn bơi thuyền
ngược sông Son lên đền Mẫu ngồi đồng. “Lúc ấy cô là một con người khác hẳn với con
người mà hắn biết. Khi ấy, cô vui hẳn lên, sinh động hẳn lên. Một con người thứ hai trong
cô chăng?... Từ một cô Mùi nhu mì hầu như cam chịu, cô biến thành một cô đồng lẫm liệt
đầy uy quyền, dù là thứ uy quyền ảo” [36, 373]. Cô là người có căn mạng hầu Mẫu, bà tổ cô
đã nhận ra khả năng kì diệu đó của cô: “Ta nhận ra ngay căn cốt của con. Con có mặt ở đâu
là ở đó tươi tỉnh hẳn lên. Ai buồn gặp con, tức khắc thấy lòng nhẹ nhõm. Ai đau ốm gặp
con, tức khắc dường như chỉ nhìn thấy căn bệnh đã lui. Hình như Mẫu luôn ngự trị nơi con
để ban tài phát lộc cho con nhang, đệ tử. Người chân tu càng ở bên Mẫu, căn cốt càng dày.
Kẻ bạc tu mỗi ngày thêm xa Mẫu, căn cốt càng lúc càng mỏng” [36, 697]. Từ khi cô bỏ hết
mọi tục lụy trần gian, làm nữ điện chủ “thì ngôi đền Cổ Đình cũng trở nên đông vui, phồn
thịnh. Khách thập phương đến lễ càng ngày càng đông” [36, 693]. Cô ban phát tình thương
của Mẫu đến tất cả mọi người, cô an ủi, xoa dịu nỗi đau của họ bằng cách cầm tay. Cô chữa
bệnh cho họ bằng những lá cây rừng. Tất cả những điều đó Mẫu đã hiện về chỉ dẫn cho cô.
Rồi không biết do cầm tay hay uống thuốc lá rừng mà bệnh tật người bệnh đều lui. Đến khi
cô hầu giá đồng thì thực sự sức mạnh của Mẫu đã truyền đến tất cả những người tham dự,
trở thành một cuộc lên đồng tập thể: “Cô Mùi lâng lâng, siêu thoát, các cô hầu dâng thì
đắm say, những con nhang đệ tử ngây ngất”, “con người được giải tỏa, gột rửa. Con người
tốt đẹp hơn, thánh thiện hơn. Con người được nạp năng lượng mới để tiếp tục sống” [36,
712].
Nhụ có cuộc đời tiêu biểu cho kiếp “tài hoa bạc mệnh”. Cuộc đời cô gắn với Mẫu
như một tiền định. Sinh ra trong một gia đình nổi tiếng về đàn hát. Ông ngoại là một nghệ
nhân chầu văn nức danh khắp vùng Sơn Nam thượng, hạ; bà ngoại cũng là một nữ nghệ
nhân; mẹ cô có giọng hát ngọt ngào, đắm say. Từ nhỏ, Nhụ đã lớn lên trong tiếng đàn, điệu
hát. Những bài hát ca ngợi Mẫu đã thấm vào cô tự bao giờ, không ai dạy song Nhụ vẫn
thuộc nhiều bài hát về Mẫu, hát rất hay những bài ca ngợi các cô, các cậu, các tôn ông cạnh
Mẫu. Cô có giọng hát “lảnh lót, ríu rít như tiếng con chim họa mi của ông nội” [36, 65].
Chưa một lần được đi lễ nhưng Mẫu luôn ngự trị trong cô: “Cứ mỗi lần nghĩ về Mẫu, lòng
em lại thấy rưng rưng. Cứ như thể Mẫu đối với em rất thân thiết, gần gũi, mặc dù em chưa
bao giờ giáp mặt…” [36, 422]. Cuộc đời Nhụ gặp nhiều bất hạnh. Cô sinh ra do một cuộc
cưỡng hiếp, ông ngoại, bà ngoại, mẹ đều qua đời khi cô còn nhỏ. Cô sống với người cha
dượng là Trịnh Huyền. Song, tâm hồn cô luôn trong sáng, thánh thiện, giàu lòng yêu
thương, luôn hướng về Mẫu.
Theo bước chân người cha trở về làng Cổ Đình, lần đầu tiên Trịnh Huyền quan sát kĩ
đứa con riêng của người vợ mà ông yêu thương như con ruột. Ông sung sướng vì nó đã “lớn
bồng lên” nhưng chợt lo lắng, bàng hoàng: “Trời ơi! Sao con bé, khi chạy, lại giống mẹ nó
đến thế”. Ông thấp thỏm cho số phận của đứa con gái. Liệu nó có số phận “hồng nhan bạc
mệnh” như mẹ nó không? Từ ngày còn bé, mẹ Nhụ đã không dạy cô hát, không muốn con
gái theo nghiệp của gia đình. “Mẹ bảo: Con đừng học hát. Đừng bao giờ học hát như mẹ…
Và em cũng chẳng học, nhưng không hiểu sao em vẫn cứ biết hát. Có lần em hát nghêu
ngao ngoài vườn, ông ngoại và mẹ ngồi ở đầu hè nghe em hát cứ ngồi thừ ra. Ông ngoại
bảo: Con bé có giọng hát lạ quá. Còn mẹ thì thở dài.” [36, 66]. Nỗi buồn của người mẹ như
kết tụ trong mắt người con gái trong trắng, ngây thơ mà ngay lần gặp đầu tiên cụ đồ Tiết đã
phải ngạc nhiên: “Nhưng con bé mới mười hai, mười ba tuổi, nó đã từng trải gì đâu mà đôi
mắt buồn đến vậy” [36, 33]. Khi Nhụ và Điều đến thăm ông hộ Hiếu, nhìn Nhụ ông chợt
thở dài. Dường như ông đã nhìn thấy tương lai của đứa cháu gái nhưng “Thiên cơ bất khả
lậu… Vả chăng cơ trời rất huyền vi” [36, 239]. Cô càng băn khoăn: hôm cha con cô đến
điện Mẫu để ra mắt làng, cô hát chầu văn hầu cô đồng Mùi nhập vào giá Chầu Mười, Chầu
Mười đã nói với cô: “Con là đứa con ngoan của Mẫu. Người cho con xinh xắn. Cho con đôi
bàn tay dệt gấm thêu hoa. Cho cả giọng hát chẳng ai bì kịp. Dặn con điều này, gắng mà
nhớ lấy: “Khi nào mưa to gió lớn, con cũng đừng sợ. Hãy cầu xin Mẫu đến che chở cho
con”” [36, 425 – 426]. Lời nói như một lời tiên tri báo trước cuộc đời đầy long đong, cơ
cực của Nhụ cũng như cơ duyên của cô với Mẫu. Quả vậy, sau này, trong đêm hội, cô đã bị
Julien cưỡng hiếp. Cô chống đỡ nhưng không thoát khỏi tay gã đàn ông to lớn, đầy sức
mạnh ấy, cô đã ngắt lịm đi. Kết quả là Nhụ đã có mang. Cô mang đứa con có dòng máu
thực dân, kẻ đi chinh phục. Đau đớn hơn, cả cha, chồng đều bị bọn thực dân săn lùng, tìm
cách tiêu diệt. Chồng cô, Điều, phải trốn vào Sài Gòn. Cha cô, Trịnh Huyền, bị bọn thực
dân chém đầu, treo ở gốc cây đa. Đau khổ, bơ vơ đến tột cùng, cô trở về làng trong một đêm
mưa, quỳ lạy cha trước gốc đa và nghĩ đến chuyện quên sinh. Đúng lúc đó, Mẫu đã đến bên
cô, dẫn đường cho cô, đưa cô lên điện Mẫu: “Mẫu đã thương xót đưa dắt con về đây, tức là
người sẽ che chở cho con. Sống với Mẫu, con sẽ thấy thanh thản, vơi nhẹ” [36, 798]. Cô đã
tìm được bến đỗ bình yên sau những cay cực của cuộc đời.
Đứa con Nhụ sinh ra, một lần nữa lại là kết quả của sự cưỡng hiếp, con bé mới mấy
tuổi đầu mà đã có đôi mắt rất buồn: “Đúng! Đôi mắt bé Nhị rất buồn. Rất hiếm khi ta bắt
gặp mắt trẻ con buồn. Trẻ con có thể khóc nhưng không buồn. Và con bé đã buồn ra đôi
mắt thì, chao ôi! Thật nao lòng” [36, 804]. Bé Nhị lại bập bẹ những lời ca về Mẫu như Nhụ
ngày xưa. Phải chăng cuộc đời của con bé rồi cũng lận đận như mẹ nó? Phải chăng đấy
chính là cuộc đời của những người đàn bà chịu kiếp sống nô lệ? Nhưng dù cuộc đời có đau
đớn, tủi cực thế nào đi chăng nữa, họ cũng sẽ vượt qua. Bởi bên họ luôn có sự chở che, yêu
thương của Mẫu, họ là những đứa con của Mẫu: “Đã là người ta, con ơi, ai chẳng là con
của Mẫu” [36, 807].
Cuộc hành trình của dân làng Cổ Đình trở về đạo Mẫu chính là cuộc hành trình của
cả một dân tộc tìm về với tín ngưỡng nguyên sơ, thuần Việt, tìm về sự che chở của Mẫu
trước cuộc đời lắm khổ đau, cay đắng. Mẫu lặng lẽ ban phát tình thương cho tất cả mọi
người, an ủi, xoa dịu nỗi đau của thế gian. Trở về với Mẫu là trở về với Mẹ , trở về với cái
thiêng liêng mà gần gũi nhất. Qua đó, nhà văn muốn chứng minh sức sống bền bỉ, trường
tồn của văn hóa Việt, dân tộc Việt trong cuộc đụng độ văn hóa lớn nhất trong lịch sử dân
tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc còn, đất nước còn.
2.2. Mạch nguồn văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác nhau, liên
quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trên thế giới có rất nhiều
định nghĩa về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục
và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì:
“Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và NXB Văn
hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa – vô sở bất tại: Văn hóa -
không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền
của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa.
Tựu trung lại, văn hóa có thể hiểu là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng
tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa có hai loại: văn hóa tinh thần và văn hóa vật
chất. Văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hóa phi vật chất là những ý niệm, tín ngưỡng,
phong tục tập quán, giá trị, chuẩn mực… tạo nên một hệ thống. Văn hóa vật chất bao gồm
những sáng tạo hữu hình của con người trong xã hội như: các công trình kiến trúc, phương
tiện giao thông, máy móc thiết bị… Văn hóa làm nên bản sắc riêng cho mỗi dân tộc. Người
ta nhận ra diện mạo của dân tộc dựa trên những bản sắc văn hóa riêng. Văn hóa có thể biến
đổi theo thời gian để phù hợp với con người mỗi thời đại nhưng những tinh hoa văn hóa thì
cần được giữ gìn, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi lẽ mất đi cốt lõi văn hóa
riêng, dân tộc đó sẽ không tồn tại. Trong thời đại ngày nay, khi đất nước hội nhập với tất cả
các nước trên thế giới, chúng ta càng cần phải có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa của dân
tộc: chúng ta hòa nhập chứ không phải hòa tan.
Nguyễn Xuân Khánh là nhà văn hóa lớn, điều đó thể hiện rất rõ trong các tác phẩm
của ông. Nhà văn rất am tường về văn hóa dân tộc. Chúng ta có thể tìm thấy cả một kho tư
liệu văn hóa dân tộc trong các cuốn tiểu thuyết lịch sử của ông, từ phong tục tập quán, lễ hội
đến tín ngưỡng tôn giáo… Ở đâu cũng thấy chất văn hóa bàng bạc. Tác giả có cái nhìn về
con người, sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hóa rất sâu sắc, tinh tế.
Trong Mẫu Thượng Ngàn, chúng ta được thưởng thức một bữa tiệc về văn hóa hết
sức phong phú, đa dạng, đấy hấp dẫn. Ở đó, mạch nguồn văn hóa Việt thể hiện trước tiên ở
tín ngưỡng thờ Mẫu. Đạo Mẫu là một tín ngưỡng thuần Việt, ra đời từ rất lâu và vẫn lưu
truyền trong dân gian. Ở khắp nơi trên đất nước đều có điện thờ Mẫu. “Bất cứ điện thờ Mẫu
nào ta cũng thấy bài trí một hậu cung sâu thăm thẳm như một chiếc hang, chiếc động. Bên
ngoài vẽ hoặc chạm khắc những cây đại thụ, rễ chùm, rễ phụ bao quanh lấy cửa động. Lại
nữa, đôi bạch xà (rắn trắng) uốn khúc ngoằn ngoèo từ cửa động và tới hậu cung”, “Điện
thờ này dựng theo hình tượng sinh nở của người Mẹ. Và con rắn trắng từ hang sâu ra
ngoài, tựa như cuống nhau nối với tử cung, nuôi dưỡng thai phôi vậy. Điều này còn cắt
nghĩa, tục thờ này bắt nguồn từ thời Mẫu hệ” [22, 265] Tín đồ của đạo Mẫu khá đông, phần
lớn là những người đàn bà thôn quê. Đạo Mẫu tuy không được giai cấp thống trị quan tâm
phát triển nhưng nó đã trở thành một tín ngưỡng dân gian lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu có tục hầu bóng, lên đồng. Những cô đồng bà cốt là
những người có căn mạng bắc ghế hầu Mẫu. Một người có thể đóng nhiều giá đồng khác
nhau với những trang phục, dụng cụ, lời nói, điệu múa… khác nhau. Trong cuộc hầu đồng
luôn có những người cung văn đàn hát gọi là hát chầu văn. Trong khói hương tỏa ngát, tiếng
đàn, tiếng hát, điệu múa của các giá đồng và các con nhang đệ tử thành kính hướng về Mẫu
đã tạo ra một không gian vừa thực vừa mơ đầy linh thiêng. Khi đó, con người thoát khỏi
mọi tục lụy của trần gian, được gột rửa, siêu thoát, thăng hoa. Là một tín ngưỡng nguyên sơ
thoát thai từ lòng dân tộc, mang yếu tố bản địa nên đạo Mẫu luôn là nơi trú ngụ của những
tâm hồn đau khổ, chịu nhiều cay cực trong cuộc đời. Trong tác phẩm, chúng ta thấy nhà văn
rất am tường về đạo Mẫu, về tâm lí của những người dân quê. Đạo Mẫu đã trở thành nơi
nương tựa cho những người dân trong hoàn cảnh đen tối của dân tộc. Qua những thăng
trầm, loạn li con người trở về với Mẫu, trở về với Mẹ để tìm sự ấm áp, yên bình. Mẫu luôn
ngự trị trong mỗi người, bởi lẽ: “Mẫu là hồn của đất. Mẫu là cơm gạo ta ăn, cho hoa trái
bốn mùa tươi tốt” [36, 421] Dùng tín ngưỡng dân tộc để thể hiện sức sống trường tồn của
văn hóa dân tộc, Nguyễn Xuân Khánh quả là một nhà văn hóa lớn. Tín ngưỡng thờ Mẫu đã
tạo nên bản sắc văn hóa riêng cho người Việt, là mạch nguồn chảy mãi trong đời sống nhân
dân.
Những phong tục, tập quán, sinh hoạt dân gian đã tạo nên diện mạo riêng cho văn hóa dân
tộc. Mỗi đất nước đều có những phong tục, tập quán, sinh hoạt dân gian riêng bắt nguồn từ
cuộc sống của người dân. Trong tiểu thuyết lịch sử của mình, Nguyễn Xuân Khánh đã cho
chúng ta thưởng thức một bữa tiệc văn hóa đa dạng, phong phú. Tang ma, cưới xin là những
phong tục phổ biến, quan trọng đối với người Việt. Tang ma là lúc con người trở về với tổ
tiên, chấm dứt cuộc sống chốn dân gian, là lúc con cháu thể hiện lòng hiếu thuận, tiếc
thương đối với người đã mất. Trong Mẫu Thượng Ngàn, chúng ta chứng kiến rất nhiều đám
tang với những cách thức khác nhau tùy vào mỗi vùng, mỗi thời điểm… Đám tang của vợ
cụ trưởng Kiên không thể thiếu tiếng kèn đưa tiễn bởi họ là những nghệ nhân hát chầu văn
nổi tiếng, suốt đời gắn với cây đàn, điệu hát. Đám tang của người đồng chiêm cũng khác
người đồng cạn. Ở đây nước mênh mông bốn mặt, người chết không chỉ vùi dưới đất mà
còn vùi dưới nước: “Đám ma của người đồng chiêm sao mà thảm thiết. người đồng cạn
chết đi thân vùi sâu ba thước đất. Còn người đồng chiêm chết đi, thân đã vùi dưới đất, lại
còn vùi thêm dưới nước. Trên đồng cạn người ta nhìn thấy còn lô xô những nấm mồ hoang
lạnh. Còn ở đồng chiêm, nhìn ra cánh đồng mùa lũ, chỉ thấy nước trắng phẳng lì” [36, 19].
Đám ma của người chết trùng tang còn phức tạp hơn nhiều. Vợ cả của lí Cỏn chết trùng tang
với đứa con trai: hai mẹ con cùng tuổi, sinh cùng giờ, chết cùng giờ. Trong quan niệm dân
gian, trùng tang là một tai họa bởi đã đụng đến ông “Thần trùng”. Ông ta có thể bắt tiếp
những người khác trong gia đình. Vậy nên, để đánh lừa ông Thần trùng quỷ quyệt, người ta
phải tiến hành theo những nghi thức riêng. Biết là đám trùng tang nhưng không ai được hé
môi nhắc đến, cứ phải thản nhiên như là đám tang thường; bỏ vào miệng người chết một
nắm kim nhọn hoắt, khâu hai môi người chết lại để tránh thần trùng dùng mọi hình thức tra
tấn làm người chết phải khai ra họ tên, ngày sinh tháng đẻ của những người nhà, người chết
cũng không thế nói được; đường đi đưa đám phải ngoắt ngoéo, phức tạp, mở những đường
riêng để người chết không nhớ lối dẫn ông Thần trùng về nhà; khi chôn cất người chết, phải
chôn bán âm bán dương… Các bước tiến hành một đám trùng tang đã được nhà văn miêu tả
rất lỹ lưỡng, chi tiết thể hiện sự am hiểu sâu sắc. Với cái nhìn của nhà dân tộc học Nguyễn
Xuân Khánh, ngay đến tiếng kèn đám ma cũng được nâng lên thành nghệ thuật. Tiếng kèn
xuất hiện nhiều lần, gắn liền với phong tục tang ma. Có thể nói đám tang của người Việt
không thể thiếu tiếng kèn. Tiếng kèn giúp cho người chết được siêu thoát, thanh thản về nơi
chín suối; tiếng kèn làm thổn thức trong lòng người đưa tiễn biết bao tình cảm đối với người
đã mất, làm người ta có thể than khóc, nỉ non cùng người chết. Tiếng kèn là sự giao hòa hai
thế giới âm – dương cách biệt.
Nếu tang ma là việc đau buồn thì cưới xin lại là việc đại hỉ. Người Việt ở chốn thôn
quê rất coi trọng lễ nghĩa, đám cưới là dịp để thể hiện lễ tiết. Phong tục cưới xin xưa rất
nhiều nghi lễ, tốn kém. Vậy nên, có những chàng trai nghèo không lấy được vợ hoặc vay
tiền cưới vợ rồi suốt đời phải làm trả nợ. Để khắc họa rõ nét tục lệ cưới xin của người Việt,
tác giả đã kể tỉ mỉ đám cưới của một chàng trai Pháp lấy cô gái người Việt, chàng bác sĩ
Alexandre lấy cô Nguyệt, con gái cụ tú Cao. Đây là đám cưới to, mẫu mực, theo đúng nghi
lễ của người Việt. Đầu tiên phải đem lễ ra đình kính cáo với thành hoàng làng, sau đó có lời
với các vị kì mục và bô lão. Tiếp theo, đến nhà thờ đại tôn của họ Vũ Xuân để kính cáo tổ
tiên, đến nhà trưởng họ để lễ gia tiên. Làm đại tiệc đãi cả làng. Nộp gạch để xây đường
làng.
Trong sinh hoạt văn hóa, lễ hội là điều không thể thiếu. Người dân có thể thiếu ăn
nhưng không thể thiếu hội. Hội không chỉ là dịp vui mà còn là lúc giải tỏa những khao khát
thầm kín của con người. Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, tác giả rất công
phu, kĩ lưỡng khi viết về ngày hội. Đó là những Hội thề mang nghi thức quốc gia như Hội
thề Đồng Cổ, Hội thề Đốn Sơn, lại có những ngày hội của từng địa phương như Hội ông
Đùng bà Đà của người dân làng Cổ Đình.
Mở đầu tác phẩm Hồ Quý Ly là hội thề Đồng Cổ, “Hội thề Đồng Cổ là ngày lễ lớn
của Thăng Long. Nó được cử hành vào ngày mồng bốn tháng tư hàng năm. Đó là một lễ hội
thuần Việt rất được dân kinh đô xem trọng ở thời Lý Trần, tiếc rằng đã bị các triều vua sau
này nho hóa bỏ mất” [35, 11]. Hội thề Đồng Cổ nhằm tưởng nhớ thần Đồng Cổ, vị thần đã
nhiều lần báo mộng giúp vua Lý Thái Tông đánh thắng giặc xâm lược và dẹp yên sự nổi
loạn của các vương. Năm đó, hội thề được vua Trần Nghệ Tông tổ chức rất lớn, cho đem
rước linh khí Đại Hồng Chung và Đại Hồng Cổ, những vật thiêng chỉ được rước những năm
đặc biệt như năm thắng giặc hay vua mới lên. Hội thề diễn ra trong giai đoạn suy vong của
nhà Trần, triều đình chia thành nhiều phe cánh, đất nước rối ren, loạn lạc. Vua Nghệ Tông
muốn dùng hội thề này để kêu gọi lòng trung trinh của bá quan trong triều, kêu gọi nhân dân
hướng về nhà Trần. nghệ Hoàng đã hô to lời thề: “Kẻ làm tôi bất trung thì thần minh tru
diệt” [35, 21]. Đây là hội thề mở đầu tác phẩm nhưng khép lại một vương triều. Ngược lại,
hội thề Đốn Sơn ở Thanh Hóa kết thúc tác phẩm nhưng mở ra một triều đại khác. Hội thề
Đốn Sơn đã diễn ra một cuộc thanh trừng khốc liệt. Trong hội thề, phe bảo thủ đã bị tiêu
diệt và sự lên ngôi của phe cách tân. Nếu như lễ hội của cung đình mang màu sắc chính trị
thì lễ hội trong dân gian lại rất hồn nhiên, mang đậm tính phồn thực. Hội làng Cổ Đình là
một ngày hội lớn. Lễ hội diễn ra trong ba ngày, từ ngày mười một tháng ba đến ngày mười
ba tháng ba. Thông thường một lễ hội gồm có hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ là các
nghi thức thiêng liêng diễn ra ở đình làng do các bô lão và các vị kì mục làng thực hiện,
phần hội là lúc vui chơi, phần này thu hút nhiều người đến hội. Hội rước ông Đùng bà Đà
không diễn ra hàng năm, khoảng mười năm mới có một lần, mỗi lần tổ chức đều rất linh
đình. Chính vì vậy mà trong làng ai ai cũng háo hức, mong chờ. Thích nhất là lễ rước ông
Đùng bà Đà và tục “trải ổ” sau đó. Ông Đùng bà Đà đã trở thành những nhân vật huyền
thoại, một huyền thoại mang đậm nét phồn thực. Sau lễ rước ông bà là tục “trải ổ”. “Tục lệ
cho phép trai gái yêu nhau, dù chưa cưới xin, được phép tạo một chiếc giường tình, được
phép tạo một cái ổ thơm tho, êm ái cho cuộc yêu đương của mình, trong một hang đá hoặc
dưới một vòm cây nào đó ở trong rừng cạnh núi Đùng… Điều ấy được dân làng cho phép
trong tháng ba, tháng tư. Cô gái nào có mang trong lúc trải ổ trong thời kỳ ấy, được coi là
rất may mắn. Cô ta sẽ sinh quý tử” [36, 725]. Đây là một tục lệ có từ xa xưa và cũng là điều
gây hứng thú cho tất cả những người đi xem hội. Những cặp trai gái yêu nhau, hẹn hò nhau
từ trước, sau đám rước họ dắt tay nhau vào rừng, đến những chiếc ổ thơm tho đã làm sẵn.
Hội là lúc giải tỏa những ẩn ức, khao khát thầm kín của con người, người ta được sống tự do
những phút giây ít ỏi. Có lẽ, tục “trải ổ” chính là khao khát tự do yêu đương, tự do hôn nhân
của con người trong xã hội phong kiến nhiều phép tắc, luật lệ.
Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, ta còn bắt gặp những cách sinh
hoạt hàng ngày nhưng tinh tế, trở thành một nét văn hóa thanh tao. Việc hứng nước mưa sao
cho nước thơm mùi hoa cau cũng là một nghệ thuật. Cây cau phải luôn sạch sẽ không cho
chim làm tổ. Bởi nếu chim làm tổ, nước sẽ bị bẩn không còn thanh khiết. Nước mưa rơi
xuống theo tán cau chảy vào bể, nước sẽ thơm mùi hoa cau. Còn nước mưa ở mái ngói cũ có
nhiều rêu mốc, nước sẽ ngai ngái. Cụ đồ Tiết là một nhà nho uyên thâm lại là người tinh tế
nên bể nước nhà cụ khi nào cũng thơm mùi hoa cau, đem pha trà rất ngon. Bắt chim cu
cườm cũng phải có nghệ thuật, đó là nghệ thuật bắt cu cườm. Chim cu cườm có tiếng hót rất
hay nhưng lại là một giống chim tinh khôn nên không phải ai cũng bắt được. Muốn bắt được
chúng phải hiểu tính nết, cách sinh hoạt của chúng lại phải kiên nhẫn, không thể vội, nếu
vội sẽ hỏng. Cụ đồ Tiết muốn bắt con chim cu cườm ở làng Già để làm lễ vật dâng Mẫu
ngày trình làng của hai cha con Trịnh Huyền. Gia đình của cụ có nghề bẫy chim cu cườm,
đó là nghề mà cụ cố truyền lại. Đáng lẽ ra chính tay cụ sẽ đi bẫy chim nhưng mấy hôm nay
cụ không được khỏe nên sai con trai đi. Trịnh Huyền cũng là một người bẫy chim rất giỏi
nên ngay lần bẫy đầu tiên đã bắt gọn con chim tinh khôn.
Thượng tướng Trần Khát Chân là một võ tướng nhưng có một thú chơi rất tao nhã:
chơi hoa mai. Hàng năm thượng tướng đều mở tiệc “Đại Mai” để mời mọi người tới thưởng
thức. Thái ấp của thượng tướng nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long, nơi có cây mơ đặc
sản, người ta vẫn gọi dân vùng đó là dân Kẻ Mơ. Từ khi về đây, Trần Khát Chân đã biến
vùng đất của mình thành Trại Mai. Trại Mai nổi tiếng khắp kinh thành bởi những giống mai
quý, đẹp và rất hiếm: “Cây mai đẹp vì dáng, vì hoa, vì quả, còn vì lá của nó. Có giống mai
lùn, xòe ra như cái nơm, trẻ con lởm chởm với tay bứt được quả. Có giống mai cao thanh
mảnh. Mùa đông, cành khô gầy trụi lá, mà hoa lại tíu tít ken dày. Cây mai lúc đó trông như
một cành khô với ngàn vạn con bướm trắng xinh xinh nối đuôi bám vào nhau. Hoa mai nói
là trắng nhưng thực ra nhiều màu. Có thứ phau như tuyết, có thứ phớt hồng, có thứ màu
hoàng yến, có thứ màu đốm vàng hoặc điểm tia hồng, có thứ màu ngà vương giả…” [35,
204]. Tiệc “Đại Mai” của thái ấp thượng tướng mở hàng năm vào mùa xuân. Trong ngày
tiệc, quan khách sẽ được ngắm vẻ đẹp của các giống mai quý hiếm được mang về từ khắp
nơi, uống rượu mai và thức nhắm là quả mai: “Quả mai vàng Hương Tích thoáng ngọt,
thoáng chua, quả mai xanh thứ Lạng nhận nhận đắng nhưng hương lại nồng nàn; có thứ
quả nửa mai nửa đào, lấy giống từ núi cao giáp giới vùng Vân Quý phương Bắc; cắn vào
miệng, nước ứa ra thơm lừng, cuối cùng là thứ tiểu mai, chín rồi mà quả vẫn xanh rờn nhỏ
xíu ăn vào lúc đầu thấy đắng, nhai kỹ sau thành vị ngọt…” [35, 205 - 206).
Là một người am hiểu nền văn hóa dân tộc, Nguyễn Xuân Khánh luôn nhìn sự vật,
con người dưới góc độ văn hóa. Những con người kết tụ nhiều nét đẹp của văn hóa dân tộc.
Sử Văn Hoa là một nhà viết sử có nhiều tâm huyết đối với đất nước. Khi đất nước loạn lạc,
ông cõng bồ sử trên lưng để bảo vệ những cuốn sử của dân tộc. Ông ý thức rất rõ mỗi cuốn
sử ra đời là sự cống hiến thầm lặng của người viết sử. Cuốn sử đó được bảo vệ, trường tồn
nền văn hiến của dân tộc sẽ liền mạch không dứt. Suốt đời, ông luôn suy nghĩ đến hồn nước,
hồn sông. Tâm nguyện của ông là hoàn thành cuốn sử Trần. Trong những ngày bị Quý Ly
bắt giữ trong ngục, ông đã dồn tâm lực vào cuốn sử Trần. Ông làm việc say sưa như thể
ngày mai là ngày cuối cùng của cuộc đời. Ông rút ruột viết ra những điều nghiền ngẫm, tích
lũy cả một đời người. Sử Văn Hoa là một hình tượng đẹp, một con người mang đậm chất
văn hóa. Hồ Nguyên Trừng là quan hành khiển, được cha giao cho nhiều công việc quan
trọng nhưng nhà văn xây dựng nhân vật không phải dưới góc độ một vị quan mà là một con
người nhạy cảm, tài hoa, tài tử. Nguyên Trừng là một người rất nhạy cảm, luôn suy tư, trăn
trở về con người, cuộc đời. Chàng nhìn thấu vào sâu tâm hồn người khác. Chàng cảm nhận
được một cách sâu sắc nỗi u buồn của những người đàn bà cung đình bị ném vào cơn cuồng
phong của lịch sử: Công chúa Huy Ninh, Quỳnh Hoa, Thánh Ngẫu. Chàng thấy nỗi cô độc
của người cha đầy mạnh mẽ, lạnh lùng, quyền lực. Cái nhìn của chàng đối với mọi người là
cái nhìn cảm thông, chia sẻ. Chàng còn mang số phận của kiếp tài hoa tài tử. Lần đầu tiên
gặp Thanh Mai, nghe tiếng hát của nàng. Nguyên Trừng nhận ra ngay đây chính là người
đàn bà của cuộc đời mình. Những kẻ tài hoa vẫn tìm thấy người tri âm trong điệu hát, tiếng
đàn. Bản thân Nguyên Trừng cũng là một người say mê cái đẹp, sành sỏi nghệ thuật. Chàng
đánh đàn hay, am tường hội họa, thơ ca, yêu thiên nhiên, biết thưởng thức những thú vui tao
nhã…
Phạm Sinh lại thực sự là một tài năng nghệ thuật, một con người tinh tế, có con mắt
tinh đời. Những bức vẽ của Sinh đều là sự thăng hoa của nghệ thuật, những bức vẽ có một
không hai. Phạm Sinh tạo ấn tượng với tất cả bậc vua quan bằng bức tranh tứ phụ, vẽ cho
Nghệ Hoàng tặng Quý Ly. Bức tranh được chàng vẽ đi vẽ lại nhiều lần. Có những bức đã rất
đẹp nhưng chàng vẫn chưa ưng ý vì nó chưa thể hiện được cái “thần”. Phạm Sinh quan niệm
làm bất cứ việc gì cũng phải gửi được cái “Thần” vào trong đó: “Mọi vật không có thần sẽ
biến dạng. Người không có thần là kẻ thất phu. Kẻ viết chữ không có thần chỉ là con mọt
sách. Việc làm không có thần chỉ là việc làm của kẻ ngu muội. Ngay đến cả sông kia, núi
kia tất thảy đều mang một chữ thần, nên mới làm cho bậc tao nhân mặc khách phải ưu tư,
làm cho kẻ sĩ trong thiên hạ phải đau đáu tấm lòng” [35, 596]. Nhìn bức tranh tứ phụ, một
họa sĩ tài năng như Hồ Nguyên Trừng cũng phải ngỡ ngàng thán phục: “Nét vẽ thật già dặn.
Bốn khuôn mặt thông minh và hiền hậu. Sự kiên quyết, cương trực của bốn gương mặt biểu
hiện ở bốn đôi mắt thảy đều sắc sảo” [35, 85]. Phạm Sinh cũng có con mắt nhìn người rất
sắc sảo. Có thể thấy được cái thần thái của mỗi người. Ngày còn bán chữ ở chùa Báo Thiên,
chàng nhìn thấy công chúa Huy Ninh thường đi lễ Phật ở đó, chàng đã nhận ra ngay đây là
một con người từ bi, người nhà Phật. Chính vì vậy, khi vợ mất, Quý Ly rất tin tưởng giao
cho chàng làm bức tượng để thờ. Phạm Sinh còn có tài vẽ hoa trên gốm, một kiểu vẽ rất
khó. Ngay đến Nguyên Trừng cũng phải khâm phục: “Trừng tôi hiểu kiểu vẽ này rất khó.
Người nghệ sĩ phải phóng bút trên xương chậu lúc còn chưa nung. Chỉ vẽ một lần, không vẽ
lại, vẽ hỏng là hỏng, vẽ đẹp là đẹp. Lúc vẽ, nét mờ mờ nhợt nhạt, nhưng sau khi nhúng men
cho vào lò, nét mờ kia mới hiện lên. Có thể nói người nghệ sĩ cứ nhắm mắt lại mà vẽ, thế mà
đã tạo ra được những nét vẽ lung linh thật thần diệu” [35, 304]. Ngày thượng tướng Trần
Khát Chân đánh thắng quân Chiêm trở về, Phạm Sinh đã vẽ ba chậu gốm: một chậu vẽ hoa
mai, một chậu hoa sen và chậu hoa cúc. Sau khi đắn đo suy nghĩ, chàng chọn chậu hoa cúc
tặng thượng tướng và đập bể hai chậu còn lại. Tài năng nghệ thuật đã giúp Phạm Sinh dễ
dàng tiếp cận với những kẻ thù của cha mình. Nhưng với cái nhìn của nhà văn, một Phạm
Sinh lên kinh thành với mục đích trả thù đã trở thành một Phạm Sinh nghệ sĩ tài hoa.
Mọi sự vật cũng đều được nhà văn nhìn dưới góc độ văn hóa. Nguyễn Xuân Khánh
đã tái hiện thành công không gian của kinh thành Thăng Long vào thế kỉ XIV với những di
tích, danh lam nổi tiếng trong Hồ Quý Ly. Mỗi địa điểm, di tích đều được tác giả tái hiện
sinh động và thổi vào đó cái hồn lịch sử. Với vốn kiến thức uyên thâm, nhà văn đã cho
người đọc hiểu thêm về những địa danh nổi tiếng của đất nước nay chỉ còn trong sử sách:
Chùa Báo Thiên, Núi Yên Tử, Núi Đạm Thủy, Côn Sơn… Chùa Báo Thiên là một đại danh
lam nổi tiếng khắp kinh thành, một vùng đất thiêng. Nhà văn đã làm sống lại nó với những
trang văn hết sức sinh động, chân thực như chính tác giả được chứng kiến cảnh chùa: “Chùa
Báo Thiên là danh thắng kinh đô. Ngôi chùa nằm giữa một vườn cây rộng chừng chục mẫu.
Những cây đại thụ, lá xum xuê, có chỗ che kín không để lọt ánh sáng mặt trời. Lại có những
vạt đất trồng hoa thơm cỏ lạ như chào đón làm say lòng khách thập phương. Đặc biệt nhất
là ngọn tháp cổ Đại thắng tư thiên, mà nhân dân vẫn gọi tháp Báo Thiên, xây ngay phía
trước chùa. Ngôi tháp cao ngút trời, niềm tự hào của dân Thăng Long, được đánh giá là
một trong An Nam tứ đại khí, một trong bốn vật quý của Đại Việt. Tháp xây bằng đá, xen
lẫn gạch nung có in hoa, trên một gò đất. Đứng ở tầng cuối cùng của tháp, có thể nhìn
quang cảnh khắp Thăng Long. Tháp mười hai tầng; tầng dưới cùng to rộng bằng một ngôi
chùa quê. Tháp hình tứ giác, bốn mặt có bốn cửa ra vào. Cửa chính đông nhìn ra hồ Lục
Thủy và xa xa nhìn thấy cả bãi dâu tít tắp trải đến tận bờ sông Cái. Hai cửa bắc, nam là hai
cửa phụ, cửa tây là cửa giả. Chung quanh khu tháp có tường bao bằng đá chạm trổ tinh
xảo, dưới chân tường đặt những chậu hoa quý. Điều đập mạnh vào mắt khách thập phương
là tám pho tượng đá bát bộ kim cương kích thước cao gấp rưỡi người thường. Mỗi cửa có
hai pho đứng gác. Cửa chính đông, một pho thanh trái cầm ngược thanh kiếm giơ lên, tay
phải như đang đi xuống; một pho tay phải cầm thanh long đao, tay trái để ngang lồng ngực.
Những pho tượng dáng vẻ nghiêm khắc đến độ hung dữ như nhắc nhở con người phải
nghiêm trang giữ cái tâm của mình khi vào cửa Phật” [35, 570 - 571). Núi Yên Tử là ngọn
núi thiêng, đất tổ Phật giáo của Đại Việt: “Núi cao trên ba ngàn thước (thước ta), ngọn núi
chót vót cao nhất vùng Đông Bắc, sừng sững nằm nhìn ra vịnh Bái Tử Long, quanh năm
mây phủ nên cũng gọi là Núi Mây Trắng (Bạch Vân Sơn). Người Việt tin rằng, ở những
ngọn núi thiêng, khí âm trong lòng đất chóp núi cao, nên đổ dồn về tụ hợp tại đó, và khí
dương trên trời thấy khí dương tụ hội, cũng nương theo những đám mây trắng bay tới, để
giao hòa. Sự thái hòa nhờ đó mà được xác lập tốt lành” [35, 712]. Trong Mẫu Thượng
Ngàn, làng Cổ Đình là một không gian thấm đẫm truyền thuyết, huyền thoại, những vật
thiêng. Núi ông Đùng bà Đà gắn liền với huyền thoại về hai anh em ruột lấy nhau, về hai
con người khổng lồ. Đền Mẫu linh thiêng với rắn thần hiển linh, cây đa làng chứng kiến bao
thịnh suy của cuộc đời, ông thần Cẩu trừ yếm cho cả làng… Ở đây, mỗi tất đất, mỗi địa
danh đều có hồn, đều thiêng liêng được con người tôn thờ.
Đọc những cuốn tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, ta hiểu thêm về văn
hóa Việt, văn hóa dân tộc. Những nét văn hóa đó đã hình thành từ rất lâu và vẫn còn hiện
diện trong đời sống ngày hôm nay. Nó đã trở thành một mạch nguồn văn hóa vô tận chảy
mãi. Điều đó giải thích vì sao dân tộc ta đã trải qua bao chiến tranh, loạn lạc, nhiều lần bị
các cường quốc đô hộ song bản sắc văn hóa dân tộc không bị mất đi. Nó vẫn sống mãi cùng
non sông, đất nước.
2.3. Vấn đề tình yêu trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
Tình yêu hiểu theo nghĩa rộng bao hàm tất cả mọi tình cảm tốt đẹp của con người:
tình yêu gia đình, tình yêu thương giữa con người với con người, tình yêu thiên nhiên…
Nhưng hiểu theo nghĩa hẹp, tình yêu là tình cảm yêu thương giữa người con trai và người
con gái (đàn ông – đàn bà). Trong nội dung này, chúng tôi đề cập đến tình yêu trong hàm
nghĩa hẹp: tình yêu trai gái. Có người đã định nghĩa rằng: Tiểu thuyết là những câu chuyện
tình yêu. Định nghĩa này tất nhiên không thể bao quát hết phạm vi rộng lớn, muôn mặt của
tiểu thuyết nhưng nó đã phản ánh được một phương rất cơ bản của tiểu thuyết: đó là tình
yêu. Không có cuốn tiểu thuyết nào lại không có những câu chuyện tình yêu, kể cả vấn đề
trung tâm của nó không phải là tình yêu. Những câu chuyện tình làm cho tiểu thuyết mang
đậm màu sắc đời thường, làm độc giả say mê.
Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, tình yêu được thể hiện rất phong
phú, đa dạng mà vô cùng tinh tế, sâu sắc. Tình yêu có nhiều cung bậc sắc thái: đó là mối
tình ngắn ngủi thời tuổi trẻ nhưng cả cuộc đời không bao giờ quên; tình yêu từ thuở “thanh
mai trúc mã” đến “bạc đầu giang long”; tình yêu của các bậc vua chúa chốn cung đình cao
sang đến những tình yêu mộc mạc chân chất của những người dân quê… Tình yêu nào cũng
đều đẹp, lung linh, đáng trân trọng dưới ngòi bút của tác giả.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã có lần tâm sự: “Người làm văn chương phải có tài,
nhạy cảm, biết rung động, biết nói lên phần vô thức của dân tộc, chạm vào đúng sợi tơ đàn
ẩn ngầm của từng số phận con người và của dân tộc mình” [33, 3]. Suốt một đời nghiền
ngẫm, trải lòng mình với cuộc đời, con người. Ông đã tìm ra cái hằng số chung trong tình
yêu của con người Việt, dân tộc Việt, đó là tình yêu luôn gắn liền với tình nghĩa. Tình yêu
có tính nhân loại nhưng cũng có tính dân tộc. Tình yêu của người Việt không chỉ là sự rung
động giữa hai con tim, hòa hợp hai tâm hồn mà còn là tình cảm của con người với con
người. Chính điều đó đã tạo nên lối sống ân tình của người Việt: “Một ngày nên nghĩa”,
“Muối ba năm muối đang còn mặn / Gừng chín tháng gừng hãy còn cay / Đôi ta nghĩa nặng
tình dày / Có xa nhau đi chăng nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”… Tình yêu của
thím Pháo dành cho ông hộ Hiếu, bà tổ cô và ông trưởng Cam, Sử Văn Hoa dành cho người
vợ bán rượu, cô gái cắt cỏ dành cho Phạm Sư Ôn… chính là những tình yêu như thế. Thím
Pháo là mõ của làng Cổ Đình, một địa vị thấp kém nhất trong làng. Thế nhưng, thím lại rất
có duyên, dễ nhìn: “Đầu tiên, phải nói thím pháo là người có duyên. Mụ chẳng đẹp nhưng
có duyên. Người làng cứ ngẫm nghĩ: có duyên là cái gì? Trước hết là cái bề ngoài. Cái đẹp
chẳng cần song phải dễ ưa. Không phải cái bộ mặt muốn đuổi người ta đi mà phải kéo
người ta lại. Mụ ở đâu là ở đó tươi tắn hẳn lên, sinh động hẳn lên. Nhìn gương mặt ấy
người ta chẳng muốn thù hằn mà chỉ thấy tin cậy. Sau mới là cái bên trong. Nó biểu hiện ra
đôi con mắt. Chúng đen lay láy và hiền hậu như ẩn chứa một sự thông minh, một tấm lòng
đôn hậu. Ít nói nhưng có thể hiểu được những điều người ta không nói. Biết cười khi người
khác cười. Biết im lặng khi người ta cần sự cộng cảm. Nói nhiều bằng vẻ mặt, ánh mắt thậm
chí bằng một khóe môi; nói ít bằng lời, nếu im lặng mà đủ hiểu thì không cần nói. Sẵn sàng
chia sẻ cùng với mọi người”, “Và cũng như mọi người đàn bà khác của Cổ Đình, mụ ba
Pháo cũng thắt đáy lưng ong, cũng xắn váy quai cồng, cũng lam làm không nghỉ, cũng phốp
phát hừng hực sức sống của trời, của đất” [36, 233]. Làm mõ nhưng thím sống rất tử tế
không tham lam của ai bao giờ. Thím còn có cách rao rất dễ nhớ, dễ thuộc. Những quy định
của làng, nước thím biến thành những câu ca có vần có vè. Ví dụ như lệnh không cho dân
làng chôn người chết vào ban đêm và không được tụ họp nhiều người, thím biến thành câu
ca:
Cấm làng đốt đuốc chôn đêm
Cấm dân tụ họp quá trên hai người.
Cuộc đời của thím đã trải qua nhiều bất hạnh. Chồng và hai đứa con trai chết trong
một lần ăn cỗ nhân lễ nhận chức tiên chỉ làng của cửu Nhậm. Còn lại bơ vơ, tuyệt vọng,
thím hóa điên, chạy hát khắp làng: “Chị ba Pháo đầu tóc bù xù, vú vê thỗn thện đang múa
máy ở ngoài sân đình, ai dỗ thế nào cũng không nghe” [36, 234]. Chỉ có một mình ông hộ
Hiếu dỗ là thím nghe. Bởi lẽ, thím đã chịu nhiều ân tình của ông. Khi chồng con thím ốm,
chỉ một mình ông lui vào túp lều săn sóc, thuốc men. Lúc chồng con chết, chỉ có mình ông
cùng thím đi chôn cất. Khi thím bị điên, tâm thần hoảng loạn, ông đã không bỏ mặc thím,
đưa thím về ngôi chùa đổ của ông, thuốc thang. Một lần nữa ông đã cứu vớt đời thím. Ân
tình ấy làm sao thím trả hết được. Sự dâng hiến thím dành cho ông đâu phải chỉ là trả ơn, trả
nghĩa mà nó còn là hai thân phận côi cút tìm đến nhau, sưởi ấm cho nhau. Họ đã trao cho
nhau tất cả, nhận của nhau tất cả, cùng tan chảy trong dòng nước mắt biết ơn và hạnh phúc.
Suốt cả cuộc đời của thím và ông sẽ chẳng thể nào quên được giây phút thăng hoa, kì diệu
đó. Đối với ông, đây là lần đầu tiên cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, ông biết thế nào là
sự đằm thắm, ngọt ngào của người đàn bà: “Đêm nay, trăng giàn giụa trong ngôi chùa đổ.
Ánh trăng đêm nay làm cho đôi mắt xếch của pho Hộ pháp hình như cũng dịu bớt đi. Ánh
trăng làm cho mắt chị ba Pháo long lanh. Ánh trăng làm thân hình chị như biến thành ngọc,
thành ngà. Đôi vú trắng hơn. Chị ba Pháo cầm tay ông, dẫn dắt ông đi vào cõi mê hồn mà
hình như ông chẳng bao giờ biết lối. Ông nâng niu bộ ngực ngọc ngà mà ông đã từng nhìn
thấy khi chị điên rồ; nhưng khi ấy, đối với ông, nó vô hồn. Còn lúc này, ánh trăng và đôi
mắt của chị đã đem lại cái hồn sống động cho chúng. Ôi! Sao mà mĩ miều!” [36, 235].
Thím cũng chưa bao giờ có những phúc giây hạnh phúc đến như vậy: “Chị cũng không hiểu
tấm thân tàn tạ của ông sao còn đủ sức mạnh để đem lại hạnh phúc cho chị nhiều đến thế.
Thứ hạnh phúc giao hoan, mà chồng chị khi xưa, một kẻ đương trai, lại chưa bao giờ đem
lại được cho chị như vậy” [36, 235]. Hai người chỉ ăn ở với nhau một lần, một lần duy nhất
đó thôi mà đã đơm hoa kết trái. Thím ba Pháo sinh ra được một cô con gái xinh đẹp, tươi
tắn lạ thường, tên là Hoa. Sau đó, họ không về sống với nhau nhưng tình cảm của họ rất sâu
nặng. Hai người đều có chung một sự quan tâm, lo lắng: tương lai của Hoa.
Tình yêu giữa Thiên Nhiên tăng Phạm Sư Ôn và cô gái cắt cỏ có giọng hát véo von
đến thật tình cờ như một định mệnh. Phạm Sư Ôn là đứa con hoang của một người nô tì trót
dại. Cô gái đã bỏ đứa con còn đỏ hỏn ở trước cửa chùa. Sư Vô Trụ đã nuôi nấng, dạy dỗ cậu
bé. Lớn lên, cậu như một cây dại với sức trỗi dậy mạnh mẽ, sức khỏe phi phàm, cường
tráng, sinh lực thừa ứ. Sư Vô Trụ dường như nhìn thấy trước tương lai của người đệ tử nhỏ
bất kham nên đã dùng mọi cách để cưỡng chế bớt. Sư cho Phạm Sư Ôn học kinh kệ, giáo lí
nhà Phật, cho cày ruộng quần quật, học võ nhưng cũng không thể kìm giữ chàng trai ở chốn
cửa Phật. Một đêm, anh đã nghe theo tiếng gọi của cô gái cắt cỏ nên trèo tường, trốn chùa ra
đồng. “Anh như bị mê hoặc, anh trông thấy dưới ánh trăng mơ hồ, một bàn tay trắng ngà
vẫy gọi, anh đi theo tiếng véo von và đến bên hồ thiên nhiên, cạnh một căn lều vịt. Cô nô tì
rách rưới nhưng trắng ngút ngàn đã đứng sẵn ở đấy như để chờ anh” [35, 231]. Đêm hôm
đó, anh đã hiểu thế nào là hai chữ Thiên Nhiên: “Trong lều cỏ, một tòa thiên nhiên ngọc
ngà đã cho phép chân anh lạc bước. Anh đã ân ái với cô thâu đêm. Con ngựa hoang đã gặp
lại được đồng cỏ và nó đã sổng cương chẳng chịu quay về chuồng xưa. Suốt một tháng ròng
đêm nào Thiên Nhiên tăng cũng trốn chùa, xăm xăm bước tới bờ đầm thiên nhiên. Suốt một
tháng ròng, đôi trai gái đã quên hết trời đất” [35, 233]. Cô gái cắt cỏ chính là cô Sáo ngày
xưa, ngày còn là cô bé mục đồng tí xíu, đã khóc cả buổi vì lũ quạ, vì những đứa trẻ khác bắt
nạt. Pham Sư Ôn đã bênh vực cô. Chỉ có một chút ân tình ngày xửa ngày xưa mà cô Sáo
chẳng bao giờ quên, cô đã ấp ủ tình yêu với Thiên Nhiên tăng, trao cho anh cái quý giá nhất
của người con gái. Kết tinh tình yêu ấy là cậu bé kháu khỉnh, tài hoa: Phạm Sinh. Tuy nhiên,
cuộc đời đã chia họ thành hai ngã rẽ khác nhau, chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa: Cô nô tì đã
bỏ trốn để tránh sự cưỡng bức của ông chủ; thầy chùa Phạm Sư Ôn tập hợp quân nổi loạn,
chống lại triều đình và bị xử tử. Tình yêu tuy ngắn ngủi nhưng suốt cả cuộc đời họ chẳng
thể nào quên được.
Tình nghĩa đã gắn kết hai vợ chồng Sử Văn Hoa. Sử Văn Hoa xưa kia là một chàng
học trò nghèo khó, lên kinh đô để dự thi. Không có tiền thuê trọ, chàng trai ở ngôi chùa đổ.
Cảm mến chàng học trò nghèo, thông minh, chịu khó, cô gái bán rượu đã đem lòng thương
yêu. Hằng ngày vẫn đến giúp đỡ chàng trai. Sau khi đỗ đạt, nhiều nhà quyền thế có ý gả con
cho Văn Hoa nhưng chàng trai từ chối, tìm lại cô bán rượu mơ xinh đẹp, tốt bụng. Tình cảm
của họ nảy nở từ những ngày gian khó, đến khi vinh hoa phú quý cũng chẳng phụ nhau.
Tình yêu ấy thật đáng trân trọng!
Khi tình yêu và tình nghĩa trở thành một, con người sống với nhau cao đẹp và bền
chặt vô cùng. Nó là chất keo kết dính tình yêu và tình người. Nhân vật trong tác phẩm của
Nguyễn Xuân Khánh bao giờ cũng là những con người đầy cao cả, bao dung, cao thượng,
đầy vị tha trong tình yêu. Đặc biệt là những người phụ nữ. Những người phụ nữ có xuất
thân, hoàn cảnh, địa vị, tính cách khác nhau nhưng nhân vật nào cũng đẹp, một vẻ đẹp hài
hòa giữa thể chất và tâm hồn.
Công chúa Huy Ninh (trong Hồ Quý Ly) là một công chúa nhà Trần, có vẻ đẹp mảnh
mai, cao sang, quý phái: “Cô mảnh mai yếu đuối như một bông hoa, đẹp như một chiếc bình
ngọc quý mong manh, trong vắt, tưởng như bất cứ một thứ gì thô kệch nặng nề đều có thể
xâm hại” [35, 544]. Đặc biệt, Huy Ninh có một vẻ đẹp thánh thiện, mang đến cho người
khác sự an lành, ấm áp: “Dưới ánh mắt của bà, người thiện cũng như người ác đều được ân
huệ, ví như một bóng mát bao la giữa mênh mông nắng. Người tốt thấy mình tốt hơn. Người
xấu không thấy xấu hổ và chợt lóe nhìn thấy ánh sáng vơi nhẹ. Nghĩa là cảm thấy an lành”
[35, 600]. Bà đã lặng lẽ bên cạnh chồng, sám hối cho những tội ác của chồng, cầu mong
người chồng sớm hoàn thành đại nghiệp: “Bà chưa hề bao giờ trách móc ông nửa lời, dù
ông làm những việc mà bản thân ông cũng thấy ghê gớm. Bà khiêm nhường, lặng lẽ, dịu
dàng…” [35, 547]; “Ông càng lao vào chính trường bao nhiêu, ông càng kính trọng sự
thánh thiện, an lành trên gương mặt bà bấy nhiêu” (549). Bà như một vị Bồ Tát ban phát
tình yêu thương và có sức mạnh cảm hóa lòng người.
Bà ba Váy (trong Mẫu Thượng Ngàn) có một vẻ đẹp mơn mởn, tràn đầy sức sống:
“Người được gọi là bà Ba là một người đàn bà có sắc đẹp lồ lộ ai trông cũng thấy ngay.
Một vẻ đẹp của sức sống. Một cái đẹp của da thịt mỡ màng. Người đàn bà ấy trắng lắm. Có
vẻ làm việc đồng áng giỏi mà da thịt vẫn trắng bóc. Con mắt đen lay láy. Đôi lông mày nằm
ngang như hai nét mực tàu vẽ trên khuôn mặt tròn vành vạnh. Mớ tóc vấn khăn trên đầu
cũng đen mượt. Ở bà ta, ở chỗ nào da thịt hở ra cũng thấy ngồn ngột, ngọt ngào” [36, 57].
Vẻ đẹp ấy mang lại cho người đàn ông nhiều lạc thú. Bà lại mang đầy đủ phẩm chất của một
người tình, người vợ, người mẹ. Những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ từ bao đời nay:
Giàu tình yêu thương, đức hi sinh, chịu thương chịu khó, bao dung, giàu lòng vị tha. “Bà ba
Váy là một người hồn nhiên. Thuở con gái, bà hồn nhiên dâng hiến cho người mình yêu. Khi
bị bán làm nàng hầu cho ông Lý, bà hồn nhiên đẻ một bầy con cho chồng. Lúc gặp lại
người xưa, bà hồn nhiên quay trở lại tìm những rung động thật sự mà trong cuộc sống vợ
chồng bà không tìm thấy. Đến khi ông Lý mắc bệnh, bà lại hồn nhiên quay trở về bổn phận
làm vợ, chẳng nghĩ đến sự sống chết, tận tụy chăm sóc cho chồng, thậm chí dùng cả bầu
sữa của mình để gọi chồng trở về cõi nhân gian” [36, 739].
Như vậy, tình yêu gắn với tình nghĩa là một nét đẹp riêng của tình yêu người Việt,
đặc biệt là những người đàn bà Việt. Tình yêu ấy phù hợp với cách sống, cách cư xử của
người Việt Nam. Đọc những câu chuyện tình trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh cho chúng ta thêm yêu, thêm tin tưởng vào tình yêu, vào cuộc đời.
Tình yêu trong mỗi môi trường khác nhau, hoàn cảnh khác nhau lại có cách thể hiện
riêng của nó. Nguyễn Xuân Khánh am hiểu cả tình yêu trong chốn cung đình lầu son gác tía
lẫn những tình yêu mộc mạc, chân chất ở chốn làng quê. Dù xuất phát từ những mục đích
khác nhau, song tình yêu luôn cao đẹp, tỏa sáng, vượt lên tất cả. Trong Hồ Quý Ly, tác giả
thể hiện tình yêu ở chốn cung đình. Các cuộc hôn nhân của họ đều gắn với các mưu cầu về
chính trị. Hồ Quý Ly và công chúa Huy Ninh là đôi “thanh mai trúc mã”, Quý Ly yêu quý
người em họ từ ngày còn bé. Cuộc tình của họ đã trở thành giai thoại trong dân gian gắn với
câu đối:
Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế
Quảng Hàn cung lí nhất chi mai.
Công chúa Huy Ninh chính là nàng Nhất Chi Mai. Nhưng nhà Trần đã có quy định là con
cái nhà Trần chỉ được lấy người trong dòng họ. Vua Minh Tông đã gả Huy Ninh cho tôn
thất Trần Nhân Vinh. Quý Ly đành ngậm ngùi lấy một cô gái hiền dịu khác. Mối tình chỉ
được tác thành khi tôn thất Trần Nhân Vinh chết trong loạn Dương Nhật Lễ và Quý Ly ngày
càng có địa vị cao trong triều. Vua Trần Nghệ Tông muốn dùng cuộc hôn nhân này để ràng
buộc Quý Ly với họ Trần.
Cuộc hôn nhân giữa vua Trần Thuận Tông và Thánh Ngẫu cũng không ngoài mục
đích đó. Thuận Tông là con trai út của Nghệ Hoàng. Thánh Ngẫu là con gái của Hồ Quý Ly
và công chúa Huy Ninh. Nghệ Tông đứng ra tác thành cuộc hôn nhân này với nhiều mục
đích. Một trong những mục đích quan trọng nhất là ràng buộc Quý Ly với nhà Trần ngày
một sâu sắc hơn. Đứa cháu sinh ra vừa là cháu của Nghệ Hoàng vừa là cháu của Quý Ly.
Ông sẽ không còn lo Hồ Quý Ly sẽ cướp đoạt ngôi báu nhà Trần. Còn với Quý Ly, ông
muốn dùng cuộc hôn nhân này để thực hiện mưu đồ chính trị của mình. Ông vua già đã tính
sai, đối với Quý Ly đại sự mới là mục đích cuối cùng. Vì đại sự, vì công cuộc cải cách, ông
sẵn sàng dùng những cuộc hôn nhân của con cái làm con bài trong ván cớ chính trị mà ông
sắp đặt.
Hồ Quý Ly cũng tính toán cuộc hôn nhân của con trai trưởng Hồ Nguyên Trừng. Ông
sắp xếp cho Nguyên Trừng lấy Quỳnh Hoa, con gái quan Thái bảo Trần Nguyên Hàng, là
tôn thất nhà Trần, ở phe bảo thủ. Xưa nay, trong triều đình Nguyên Hàng vẫn là người
chống đối ông ra mặt. Ông muốn dùng cuộc hôn nhân này để xoa dịu mối quan hệ giữa hai
người cũng như hai phe. Cuộc hôn nhân cũng nhằm đánh lừa thiên hạ. Bởi lẽ, những người
đứng đầu quan lại trong triều đình như ông, trăm quan nhìn vào. Một khi ông và người
chống đối trở thành thông gia, mọi người sẽ không còn xì xào, bàn tán. Về phía Trần
Nguyên Hàng, ông đồng ý cho con gái làm dâu Quý Ly cũng vì mục đích chính trị. Ông
muốn dùng con gái làm nội gián trong hàng ngũ địch, khai thác thông tin. Cuộc hôn nhân
giữa Nguyên Trừng – Quỳnh Hoa xuất phát từ mưu đồ chính trị song họ không tham gia vào
cuộc chiến này. Họ đứng thành một phe riêng. Họ yêu nhau bằng sự chân thành, đằm thắm,
vượt lên những tính toán của hai bên. Quỳnh Hoa có vẻ đẹp mong manh, thanh thoát, u sầu:
“Ở đất kinh kỳ, người ta vẫn bảo Quỳnh Hoa là người ngọc. Nàng đẹp một cái đẹp mong
manh. Nàng trắng muốt, thon thả như một nhành hoa. Đôi mắt lóng lánh, cái mũi xinh xinh,
đôi môi đỏ chót, cổ cao và trắng; nhưng đẹp nhất vẫn là mớ tóc vừa đen, vừa mượt, vừa dài
của nàng, đó là sức sống của nàng, là hồn của nàng, cái hồn dịu dàng tỏa ra từ mớ tóc mà
ai mới nhìn cũng nhận thấy ngay. Quỳnh Hoa dịu dàng, một sự dịu dàng quá đỗi, đến mức
nó chuyển thành thói u sầu” [35, 68 – 69]. Người đàn bà đó đã mang lại cho Nguyên Trừng
biết bao hạnh phúc của sự giao hoan: “Người đàn bà mong manh ấy bỗng có một sức mạnh
hoan lạc mà tôi không bao giờ ngờ tới. Đêm đêm nàng run rẩy trong tay tôi, để rồi đến một
hôm nàng tràn trề hạnh phúc thổ lộ: “Chàng ơi! Thiếp đã có mang”” [35, 72].
Tình yêu chân thành luôn có tiếng nói riêng, vượt ra ngoài những tính toán, mưu đồ
chính trị. Thanh Mai, một cô gái tài sắc, một kĩ nữ nổi tiếng khắp kinh thành. Nàng đã trải
qua một cuộc đời đầy long đong, sóng gió. Được Thượng tướng Trần Khát Chân cứu đưa về
trong cuộc chiến với quân Chiêm. Nàng chịu ơn sâu của Thượng tướng và trở thành con
nuôi của Khát Chân. Để tiêu diệt đối thủ, Khát Chân đã dùng Thanh Mai tiếp cận Nguyên
Trừng. Nhưng, cô gái đành tạ lỗi với cha nuôi vì cô không thể lừa dối Nguyên Trừng. Cô đã
yêu Nguyên Trừng. Tình yêu chân thành của một cô gái xuất thân thôn dã đã mang đến cho
Nguyên Trừng biết bao điều mới lạ: “Chắc vì đã quen với nét đẹp ỏe oai của loài hoa chậu,
nên khi bắt gặp cái đẹp chất phác của Thanh Mai, tôi nhận thấy ngay sức sống mạnh mẽ
của nó và tôi đâm ra mê mẩn. Cô kỹ nữ có một tạng nghiệp khác hẳn. Trông thấy cô gái
lưng ong ấy ta thấy bừng ngay lên sự sống. Trông thấy cô là trông thấy màu hồng của da
thịt, thấy sự no tròn viên mãn, thấy ngay cả sự mặn nồng” [35, 327]. Tuy nhiên, quyền lực
chính trị chẳng buông tha họ. Giữa Hồ Nguyên Trừng và Thanh Mai là một khoảng cách
quá lớn không thể vượt qua. Nguyên Trừng là một “đức ông” cao quý, con trai của thái sư
đương triều; Thanh Mai chỉ là một kĩ nữ, địa vị thấp hèn lại là con nuôi của Trần Khát
Chân. Cuối cùng, dù rất yêu thương người con gái tài hoa, xinh đẹp, Nguyên Trừng cũng
phải chia tay với nàng để cùng gánh vác đại nghiệp.
Khác với tình yêu chốn cung đình, tình yêu chốn thôn dã thật hồn nhiên, thuần phát.
Những chàng trai, cô gái sinh ra, lớn lên cùng một làng quê. Tình yêu đến với họ thật tự
nhiên, trong sáng mà cũng đầy bao dung, vị tha. Hai Phác và cô Váy có một tình yêu thật
đẹp, họ là một cặp “trai tài gái sắc”. Từ nhỏ, họ đã quấn quít bên nhau, bạn từ thời chăn trâu
cắt cỏ. Lớn lên yêu thương nhau và tính chuyện vợ chồng. Vào mùa xuân năm ấy, mùa của
hội hè, của sự sinh sôi, mùa “trải ổ”, họ đã trao nhau mối tình ngọt ngào, cuồng dại: “Mùa
trăng, mùa “trải ổ” năm ấy, trong cái ổ rơm thơm phức, Phác lần đầu tiên trông thấy đôi
mắt đẫm trăng vừa long lanh, vừa háo hức của Váy. Cô gái mũm mĩm ấy có được ai dạy
bảo gì đâu. Sao mà cô đằm thắm đến thế, sao mà cô đàn bà đến thế, sao mà cô ngọt ngào
đến thế. Trăng khuya, sương khuya xóa nhòa mọi ranh giới. Trăng mùa “trải ổ” trùm tấm
áo khoác hoan lạc lên trên người họ, dạy cho họ vũ điệu tình yêu. Rồ dại và cuồng điên, họ
tan biến trong nhau, để đến khi an bình trở lại, Huyền mới biết tai mình đã chảy máu. Thần
hoan lạc hay chính cô Váy, đã cắn rách tai Huyền mà đến lúc này họ mới biết” [36, 60].
Rồi, hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh đã chia cắt họ. Hai Phác đi theo ông Đề đánh Tây rồi
biệt tích; Cô Váy nhà nghèo phải làm vợ lẽ của lý Cỏn để trừ nợ. Sau bao nhiêu năm họ gặp
lại nhau nhưng hoàn cảnh thật trớ trêu: hai Phác nay là Trịnh Huyền, một kẻ chạy trốn trên
chính quê hương của mình; cô Váy ngày xưa nay đã là bà ba Váy, vợ lý Cỏn. Tình yêu
mãnh liệt khiến họ bất chấp tất cả, lao vào cuộc tình vụng trộm một cách điên cuồng không
cưỡng lại được. Bao nhiêu năm làm vợ lý Cỏn, sinh cho ông lý cả một bầy con nhưng chưa
bao giờ bà ba cảm thấy được yêu thương, thỏa mãn. Ông lý không thể nào sánh bằng người
đàn ông của cuộc đời bà. Mối tình thời con gái vẫn luôn trỗi dậy khôn nguôi. Gặp lại người
xưa, bà ba như cánh đồng khô hạn gặp trận mưa rào. Họ lại trở về những ngày “trải ổ” năm
nào: “Trên cái ổ lá rừng thật êm ấy, hai người bạn tình gần hai chục năm trời xa cách đã
gặp lại nhau. Họ trao cho nhau cả mấy chục năm nhớ thương, mấy chục năm buồn tủi, chờ
đợi mà họ tưởng như tuyệt vọng, chẳng khi nào tìm lại được những bóng dáng ngày xưa.
Thế mà, lúc này, ngỡ như một giấc mơ kì diệu, họ đang quấn quít lấy nhau. Người đàn bà
mới ba mươi lăm tuổi, cái tuổi đẹp đẽ nhất của một đời người, cái tuổi của thứ quả chín đến
độ, nó ngọt ngào lạ thường. Thứ quả chín mọng, hoặc cũng có thể nói, thứ hoa thơm ngát
mãn khai; chỉ có thứ quả ấy, hoa ấy mới có thể biết sẵn sàng dâng hiến và đón nhận” [36,
410]. Đến khi Trịnh Huyền bị cắt đầu treo ở cây đa đầu làng cũng là lúc bà ba Váy lâm
trọng bệnh. Con người mỡ màng, phây phây, tràn đầy sức sống ấy đã khô héo, gầy sọp vì
người tình tri kỉ đã chết. Suốt cả cuộc đời bà, sống, dâng hiến và chết cho một người đàn
ông duy nhất, người đàn ông của cuộc đời mình.
Nhụ và Điều có một tình yêu trong sáng, đẹp đẽ mà đầy oan nghiệt. Nhụ là con gái
riêng của vợ Trịnh Huyền. Nhụ theo cha về làng Cổ Đình sống trong gia đình cụ đồ Tiết.
Điều là con trai cả Chất (anh trai Trịnh Huyền), sống với ông nội từ nhỏ. Đôi bạn trẻ sống
gắn bó, yêu thương nhau. Nhụ xinh đẹp, thanh tú, có giọng hát hay lại khéo léo, tinh tế nên
được cả nhà yêu quý. Điều mới lớn, khỏe mạnh, vạm vỡ, tinh nghịch. Nhụ và Điều lấy nhau
do sự sắp xếp của cụ đồ Tiết để tránh sự nhòm ngó của bọn hào lí, bọn Tây. Nhưng từ lâu,
tình cảm đã nảy nở trong họ. Lần đầu tiên gặp Nhụ, quan sát Nhụ, Điều thấy “tai mình nóng
ran”. Điều luôn bảo vệ Nhụ trước lũ trẻ chăn trâu, bực bội khi Nhụ nói chuyện với Cò, giận
dữ khi mắt Julien lau láu nhìn Nhụ. Còn Nhụ, cô chăm sóc, quan tâm Điều bằng những việc
làm tinh tế, mỗi lần hai đứa đi chăn bò, cô đều mang nước theo, lấy nước từ bể hứng từ lá
cau, lại hái thêm vài bông hoa nhài bỏ vào. Cô buồn, nghĩ ngợi không ngủ được khi Điều
giận mình. Cảm thấy ấm áp khi có sự che chở của Điều. Nhà văn đã tỏ ra am hiểu sâu sắc
nội tâm, diễn biến tâm lí nhân vật. Khác với tình yêu của những người đàn ông – đàn bà dày
dặn, tình yêu của Nhụ và Điều là những rung động đầu đời của những chàng trai, cô gái mới
lớn. Đối với họ, cái gì cũng là lần đầu, còn bao lạ lẫm, ngượng ngùng. Đêm động phòng, cả
hai đều run. Điều thấy “khắp người nóng ran”, Nhụ cũng vậy: “Toàn thân cô chợt nóng
ran khi bàn tay Điều mân mê đôi ngọc nhũ của nàng. Cố vùng ra nhưng bàn tay tham lam
ấy chẳng chịu rời. Lúc này cô bé run lên không tài nào cưỡng nổi” [36, 447]. Đêm đầu tiên
ấy, họ không đi đến tận cùng của tình yêu, họ để dành đến ngày hội, đến mùa “trải ổ”, mùa
quả chín. Đôi trẻ tin rằng vào mùa xuân, mùa giao hoan, họ sẽ sinh được quý tử. Họ để
dành, chờ đợi đến giây phút thiêng liêng của vợ chồng nhưng thật oan nghiệt. Ngay đêm hội
đó, Nhụ đã bị Julien cưỡng hiếp. Chồng cô vì chém Julien nên phải bỏ trốn biệt tích, cô đau
đớn trở về bên Mẫu.
Tình yêu của anh Mường Rồ và cô Ngơ bắt nguồn từ sự đồng cảm giữa hai thân phận
côi cút, đáng thương, hai con người cùng cảnh ngộ. Anh Mường là một võ sĩ giỏi, làm
người giữ ngựa, kiêm chân vệ sĩ cho cụ Tiết trong những ngày cụ theo ông Đốc chống Pháp.
“Trong một trận giáp là cà, anh Mường bị thương vào đầu, từ đó anh ngơ ngơ ngẩn ngẩn”
[36, 159]. Tuy ngơ ngẩn nhưng võ nghệ thì anh vẫn rất giỏi và lòng trung thành với cụ Tiết
thì vẫn không hề thay đổi. Sau khi cụ đồ Tiết đi tù về, anh đến ở cùng, chăm sóc cụ. Anh
Mường là người khỏe mạnh, vạm vỡ, hiền lành. Điều đó đã làm cô Ngơ say mê: “Suốt
ngày, anh Mường mặc chiếc quần lửng, mình cởi trần, phô bày một thân hình vạm vỡ, nâu
bóng. Cái thân hình khổng lồ, thâm thấp, chắc nịch ấy lại lọt vào cặp mắt xanh của cô
Ngơ” [36, 159]. Cô Ngơ là con bà cụ Móm cuối làng, gần gốc cây gạo. Nhà nghèo, hai mẹ
con không có ruộng, phải đi làm thuê, mò cua bắt ốc sống lần hồi. “Cô Ngơ chính thực tên
là Ngó (ngó sen, ngó cần) bởi vì cô trắng nõn nà. Thân hình cô tròn trĩnh, mặt bụ bẫm
phúng phính, thứ gương mặt của trẻ thơ hay mặt Phật. Lúc nào môi cô Ngó cũng điểm nụ
cười” [36, 159]. Nhưng vì cô ngây ngô nên cả làng gọi cô là Ngơ. Từ khi mẹ chết, cô sống
lay lắt một mình. Cô có chiếc vú giỏ ấm rất to, đẹp nên trai làng rất “thèm” cô nhưng chẳng
anh nào chịu lấy bởi cô nghèo lại dở hơi. Cô tuy ngớ ngẩn nhưng cũng biết giữ gìn, không
một chàng nào dám “bờm xơm” với cô, bên mình cô luôn dắt một con dao. Trước khi mẹ
Ngơ chết đã dặn con gái rằng: “Đừng để bọn con trai nó đè lên người rồi bóp vú mình. Nó
mà đè lên được là có chửa đấy. Khổ lắm con ơi! Con ngơ ngẩn thế này, lại đẻ con thì biết
lấy gì mà ăn. Chết đói đấy con ạ!” [36, 160]. Nhưng gặp anh Mường là cô mê mẩn ngay.
Họ chẳng nói với nhau một lời, chỉ nhìn nhau và cười, thế mà họ hiểu nhau. Có lẽ, hai trái
tim cô đơn, côi cút, đáng thương đã tìm thấy nhau. Từ đó, cô Ngơ cứ theo anh Mường Rồ.
“Rồi một đêm, người ta bắt gặp anh Mường đến lều cô Ngơ. Anh ngồi trên hòn đá mồ côi
trước cửa lều. Cô gái ngồi trên đùi anh, không mặc yếm. Còn anh Mường thì đùa nghịch
với đôi vú giỏ ấm. Anh ngửa lòng bàn tay hứng dưới cái vú, rồi nâng nó lên. Cái vú vừa to,
vừa dài, giống quả mít không có gai. Quả mít trắng, núng nính, nhún nhảy trên bàn tay.
Mới đầu chỉ nâng một vú, rồi sau, hai bàn tay nâng niu hai vú. Mỗi lần đôi vú nảy lên, cô
Ngơ lại cười khúc khích” [36, 161], “Rồi tới đoạn đôi trai gái vào trong lều, ôm xoắn xuýt
lấy nhau, hết ở trên giường lại lăn xuống đất. Họ yêu nhau hổn hển, có lúc oai oái” [36,
162]. Nhưng tục lệ làng chẳng để cho đôi trai gái yên, đó là một gương xấu cho trai gái
trong làng nên họ trị tội anh Mường, cô Ngơ. Đôi trai gái phải chạy trốn vào sống trong núi
ông Đùng bà Đà.
Tình yêu trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh hiện lên thật sự sinh
động, hấp dẫn và ấn tượng. Đó là những trang viết đẹp, thấm đẫm chất trữ tình và tính nhân
văn. Kết thúc những câu chuyện tình thường buồn, bi thương nhưng tạo nên những tình cảm
đẹp trong lòng độc giả. Người đọc được trải lòng mình với mọi cung bậc, cảm xúc của tình
yêu. Nguyễn Xuân Khánh không chỉ là nhà tiểu thuyết có tài mà còn là nhà văn của tình
UTóm lại:U Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã lựa chọn và thể hiện những nội dung
yêu.
không chỉ có ý nghĩa trong lịch sử thời quá khứ mà đó cũng chính là những vấn đề bức thiết
đặt ra trong cuộc sống ngày hôm nay. Trong thời kỳ giao lưu, hội nhập với tất cả các nước
trên thế giới như hiện nay, đổi mới đất nước trên tất cả các mặt là một tất yếu, có ý nghĩa
sống còn của đất nước. Nhưng đổi mới như thế nào, cách làm ra sao, vấn đề giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu văn hóa toàn cầu đặt ra những thách thức không
nhỏ. Văn hóa làm nên diện mạo của một dân tộc, chừng nào dân tộc vẫn giữ được bản sắc
văn hóa chừng đó đất nước còn tồn tại, phát triển. Vấn đề tình yêu cũng là một vấn đề muôn
thuở và không bao giờ xưa cũ của con người. Nguyễn Xuân Khánh đã tìm ra nét riêng trong
tình yêu của con người Việt, những người phụ nữ Việt, đó chính là tình yêu luôn gắn với
tình nghĩa. Điều này tạo nên lối sống giàu yêu thương, ân tình của người Việt Nam, làm nên
tính nhân văn đậm nét trong truyền thống của dân tộc.
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN XUÂN KHÁNH
3.1. Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
Khi viết về đề tài lịch sử, một vấn đề đặt ra cho các nhà văn là xử lý mối quan hệ
giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật. Đối với các nhà văn viết về đề tài lịch sử
giai đoạn trước, họ rất chú trọng tới tính chân thực lịch sử, coi đó là mục đích của sự sáng
tạo. Nhà văn Thái Vũ đã nói rằng: “Tôi không viết tiểu thuyết mà tôi viết lịch sử. Mà đã viết
lịch sử là phải trung thực, tôn trọng sự thật không bịa”. Hư cấu nghệ thuật ở đây chỉ là bồi
đắp chỗ trống trong các trang chính sử. Đối với Nguyễn Xuân Khánh, ông cũng rất tôn trọng
tính chân thực của lịch sử. Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã khẳng định rằng: Hồ Quý Ly là
“cuốn tiểu thuyết lịch sử viết rất nghiêm túc, bám sát chính sử, tôn trọng các sự kiện chính
của lịch sử”. Nhà phê bình Lại Nguyên Ân cũng đồng quan điểm: “Nếu đặt Hồ Quý Ly bên
cạnh bộ Đại Việt sử kí toàn thư thì sẽ thấy từng chi tiết sử liệu còn lại đều được tác giả
nghiền ngẫm để chuyển hóa vào tiểu thuyết”. Nhưng nhà văn không lấy việc tái hiện sự
chân thực lịch sử làm mục đích sáng tác, lịch sử chỉ là phương tiện chuyển tải ý đồ nghệ
thuật. Nguyễn Xuân Khánh coi lịch sử là “cái đinh treo”. Nhà văn coi trọng phần hư cấu,
tưởng tượng nghệ thuật bởi điều đó sẽ làm nên giá trị văn chương cho tác phẩm. Trong các
tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, lịch sử hiện lên vừa chân thực vừa sinh động
làm nền cho sự sáng tạo nghệ thuật cho nhà văn.
Nguyễn Xuân Khánh có cách xử lí lịch sử rất đa dạng. Lịch sử không chỉ được tái
hiện sinh động mà còn được nhào nặn bởi bàn tay tài hoa, tinh tế của một nghệ sĩ tài năng.
Những yếu tố mà nhà văn đảm bảo tính chính xác là các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử,
bối cảnh lịch sử đến cách ăn nói, trang phục, ngôn ngữ… của từng thời kì nhất định. Nhà
văn không thể tùy tiện gán trang phục của người hôm nay cho những người ở thế kỉ trước,
cũng không thể có các từ ngữ quá hiện đại cho con người ở quá khứ. Nguyễn Xuân Khánh
đã rất kĩ lưỡng trong việc thể hiện tính chân xác lịch sử. Trong Hồ Quý Ly, các nhân vật như
Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương, Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng, Trần
Nghệ Tông, Trần Thuận Tông… đều là những nhân vật có thật trong chính sử. Các sự kiện:
Hội thề Đồng Cổ, Trần Khát Chân đánh thắng quân Chiêm, Hồ Quý Ly giết Trần Khát
Chân và tôn thất nhà Trần trong hội thề Đốn Sơn đều là những sự kiện đã xảy ra trong lịch
sử… Ở Mẫu Thượng Ngàn, chúng ta bắt gặp hình ảnh những cô gái thôn quê với trang phục
ở TK XIX: yếm, váy, vấn tóc mỏ quạ, nhuộm răng đen… Các sự kiện trong lịch sử dân tộc:
Pháp đánh thành Hà Nội lần hai, việc xây dựng nhà thờ lớn, cuộc chiến giữa người Pháp với
quân Cờ Đen… Việc đảm bảo tính chân xác của lịch sử tạo nên độ tin cậy cao trong các tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh.
Tuy nhiên, các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử cũng được nhà văn hư cấu, sáng tạo
một cách hợp lí, thần tình. Hồ Quý Ly hiện lên còn “chân thực” hơn cả Hồ Quý Ly trong
chính sử. Bởi Hồ Quý Ly trong lịch sử là đối tượng để các nhà sử học luận công - tội, đóng
góp – hạn chế cho sự vận động của lịch sử dân tộc còn Hồ Quý Ly trong tiểu thuyết lịch sử
của Nguyễn Xuân Khánh là một con người đời thường, một con người đang sống, đang cựa
quậy. Nhà văn xây dựng Hồ Quý Ly trong nhiều mối quan hệ, soi chiếu từ các nhân vật
khác nhau để nhân vật hiện lên đa dạng, nhiều chiều, đầy phức tạp. Bên cạnh một nhà cải
cách táo bạo, quyết liệt là hình ảnh một người chồng, người cha, người ông đầy tình yêu
thương. Bên ngoài là một con người đầy nhẫn tâm tàn bạo, giết người không ghê tay, bên
trong lại là một con người biết trọng người tài, hết lòng vì đất nước. Xưa nay, người đọc
biết đến Trần Khát Chân với tư cách là một vị anh hùng, người đã đánh tan quân Chiêm,
đọc tác phẩm Hồ Quý Ly ta còn thấy đây là một có tâm hồn nhạy cảm, biết yêu quý cái đẹp,
cảm thông với những con người khốn khổ, bất hạnh. Đồng thời cũng có thể sử dụng mọi thủ
đoạn để tiêu diệt kẻ thù: kế nội gián, mĩ nhân kế, sai Sử Văn Hoa viết cuốn sách bôi nhọ Hồ
Quý Ly… Nhân vật công chúa Huy Ninh được nhà văn hư cấu, tưởng tượng trở thành một
nhân vật toàn vẹn, sinh động. Trong chính sử, Huy Ninh chỉ được nhắc đến trong hai câu
đối nổi tiếng gắn với nhân vật Hồ Quý Ly. Trong tác phẩm, bà hiện lên là một người phụ nữ
xinh đẹp có tâm hồn thánh thiện, phát phát sự an lành, tình yêu cho tất cả mọi người.
Hư cấu, tưởng tượng để các nhân vật lịch sử hiện lên toàn diện, sinh động đã được
nhiều nhà tiểu thuyết lịch sử sử dụng trong các sáng tác của mình. Nhân vật Trần Thủ Độ
(Trần Thủ Độ - Ngôi vua và những chuyện tình của Ngô Văn Phú) hiện lên vừa là một võ
tướng tài giỏi vừa là một người đa tình. Những đoạn văn miêu tả sự tương tư, thất tình làm
cho nhân vật gần gũi, đời thường hơn. Nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử bao giờ cũng sinh
động hơn nhân vật lịch sử bởi lẽ các nhà văn đã thổi vào đó sự sống cho nhân vật. Nhân vật
lịch sử bao giờ cũng được hư cấu, tưởng tượng thêm nhưng mức độ và cách hư cấu có sự
khác nhau giữa các nhà văn. Ngô Văn Phú chỉ hư cấu thêm một số chi tiết, mức độ hư cấu
còn ít, căn bản vẫn không làm thay đổi hình tượng nhân vật trong nhận thức người đọc từ
trước đến nay. Tác phẩm đó vẫn dùng văn để kể sử. Còn với Nguyễn Xuân Khánh thì khác
hẳn, nhân vật của ông hiện lên thực sự là nhân vật tiểu thuyết.
Nguyễn Xuân Khánh còn có cách xử lí lịch sử đầy phóng khoáng. Có những nhân vật
hoàn toàn do sự hư cấu, tưởng tượng của nhà văn và có khi lịch sử chỉ là bối cảnh, là phong
nền cho nhân vật hư cấu hoạt động. Trong các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh,
số lượng các nhân vật hư cấu khá nhiều, nhân vật nào cũng đặc sắc, ấn tượng. Trong Mẫu
Thượng Ngàn hoàn toàn là nhân vật do nhà văn hư cấu. Điều này khác so với các tiểu thuyết
lịch sử trước đây. Trong các tác phẩm trước đây, bao giờ nhà văn cũng chú tâm xây dựng
nhân vật lịch sử thành những nhân vật chính. Các nhân vật hư cấu chỉ bổ sung làm nổi bật
nhân vật chính hoặc đóng vai trò quan trọng song song với nhân vật lịch sử. Trong Vạn
Xuân của nữ sĩ Yveline Feray, để khắc họa hình ảnh một Nguyễn Trãi tài hoa nho nhã được
nhiều người phụ nữ mến mộ, yêu thương. Ngoài những người phụ nữ đã ghi trong sử sách,
nhà văn còn sáng tạo ra hình ảnh hai người phụ nữ rất đặc sắc: Tiểu Mai, Nhụy Lài. Tiểu
Mai là một kĩ nữ tài hoa, xinh đẹp nổi tiếng khắp kinh thành. Ngay lần đầu tiên gặp Nguyễn
Trãi, khi đó là một nho sinh, nàng đã nhận ra đây là một con người lỗi lạc khác thường, có
tâm hồn nhạy cảm nên đem lòng yêu thương. Trong những ngày Nguyễn Trãi bị giam lỏng
ở Đông Quan, Tiểu Mai vẫn tìm mọi cách để giúp đỡ chàng. Còn Nhụy Lài là một người
hầu nhưng yêu thầm nhớ trộm ông chủ. Nàng ghen với những người phụ nữ xinh đẹp, tài
năng được Nguyễn Trãi yêu nên đã tìm mọi cách làm hại họ. Nhà văn tỏ ra rất am tường
tâm trạng, diễn biến tâm lý của những người phụ nữ Việt. Trong Sông Côn mùa lũ của
Nguyễn Mộng Giác, tuyến nhân vật hư cấu đóng vai trò chính song song với tuyến nhân vật
lịch sử. Tuyến truyện về cuộc đời nhân vật An và gia đình ông giáo Hiến là mạch truyện
chính song song cùng mạch truyện về người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, Quang Trung.
Những nhân vật hoàn toàn hư cấu được Nguyễn Xuân Khánh xây dựng công phu
thành những hình tượng nghệ thuật đặc sắc. Sử Văn Hoa, Phạm Sinh, Thanh Mai, Sư Vô
Trụ… trong Hồ Quý Ly còn Mẫu Thượng Ngàn là cả tập thể dân làng Cổ Đình: Trịnh
Huyền, Nhụ, Điều, bà tổ cô, cô Mùi, bà ba Váy… Những nhân vật hư cấu thể hiện rõ tư
tưởng nghệ thuật của nhà văn. Sử Văn Hoa thể hiện quan niệm của tác giả về một nhà trí
thức chân chính trong cơn cuồng phong của lịch sử. Một kẻ sĩ ngay thẳng, cứng cỏi, luôn
nghĩ đến hồn sông núi. Thanh Mai tiểu biểu cho số phận những người phụ nữ tài sắc lênh
đênh, chìm nổi trong cuộc đời đầy xáo trộn, loạn li. Sư Vô Trụ là biểu hiện của tấm lòng
Phật, cứu nhân độ thế, hướng con người vào con đường từ bi, trút bỏ mọi hận thù trong cuộc
đời. Mẫu Thượng Ngàn là một tập thể nhân vật hư cấu mang số phận của cả dân tộc trong
thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ, trong cuộc đụng độ với văn hóa phương Tây đồng thời thể
hiện sức sống trường tồn của văn hóa dân tộc.
Nguyễn Xuân Khánh luôn coi trọng chất tiểu thuyết trong tiểu thuyết lịch sử. Tiểu
thuyết lịch sử trước hết phải là tiểu thuyết, mang đầy đủ đặc trưng thể loại. Vì vậy một mặt
nhà văn tôn trọng sự chân thực lịch sử mặt khác coi trọng sự hư cấu, sáng tạo. Lịch sử chỉ là
phương tiện để nhà văn biểu đạt những vấn đề của cuộc sống hôm nay. Vì vậy, nhà phê bình
Nguyễn Văn Dân đã coi tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh là “tiểu thuyết lịch sử
luận giải”.
3.2. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
3.2.1. Điểm nhìn trần thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi
chủ biên, điểm nhìn trần thuật là “vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật
trong tác phẩm” [30, 113]. Bất cứ tác phẩm nào cũng có điểm nhìn trần thuật. Đó có thể là
điểm nhìn của nhà văn, có thể là điểm nhìn của nhân vật hay sự hòa trộn giữa các điểm nhìn.
Điểm nhìn của nhà văn là điểm nhìn bên ngoài mang tính khách quan. Điểm nhìn của nhân
vật là điểm nhìn bên trong mang tính chủ quan. Các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử thời kỳ
trước thường chỉ có một điểm nhìn, đó là điểm nhìn khách quan. Nhà văn đóng vai trò là
người kể chuyện, biết hết mọi chuyện và kể lại cho người đọc với một niềm tin tuyệt đối về
những gì được ghi chép trong chính sử. Điểm nhìn này tạo nên “khoảng cách sử thi” giữa
người đọc và nhân vật, sự kiện được kể. Những tiểu thuyết lịch sử từ năm 1975 đến nay, đặc
biệt là những năm đầu thế kỉ XXI đã có sự thay đổi về điểm nhìn, có sự hòa trộn, kết hợp
giữa nhiều điểm nhìn làm cho tác phẩm là một bản hòa âm với nhiều cách nhìn nhận, đánh
giá khác nhau. Điểm nhìn trần thuật biểu hiện qua các phương tiện nghệ thuật, ngôi kể, cách
xưng hô… Sự đổi thay của nghệ thuật bắt nguồn từ sự thay đổi điểm nhìn. Với điểm nhìn
bên trong, kết hợp nhiều điểm nhìn đã mang đến nhiều cách tân cho những tiểu thuyết lịch
sử những năm đầu TK XXI. Nhân vật lịch sử trở thành nhân vật đời thường với những suy
tư, dằn vặt, những động cơ thúc đẩy hành động và những tình cảm hết sức con người. Tiểu
thuyết lịch sử bước sang giai đoạn hiện đại hóa với nhiều cách tân nghệ thuật. Tiểu thuyết
lịch sử thực sự là những tác phẩm tiểu thuyết. Điểm nhìn trần thuật là một phương tiện thể
hiện tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của nhà văn. “Sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật của
nhà văn quyết định một phần lớn giọng điệu, sắc thái thẩm mĩ, giá trị nghệ thuật của tác
phẩm” [74, 127].
Điểm nhìn trần thuật trong các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh rất đa
dạng, linh hoạt, có sự kết hợp của nhiều điểm nhìn. Có khi là điểm nhìn của nhà văn đóng
vai trò dẫn dắt câu chuyện, bình luận các sự kiện, nhân vật; có khi là điểm nhìn của chính
nhân vật trong tác phẩm. Sự đa dạng về điểm nhìn tạo nên cái nhìn đa chiều. Mỗi sự kiện,
nhân vật đều được soi sáng từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Trong Hồ Quý Ly, điểm nhìn
không ngừng di chuyển. Nhà văn đóng vai trò là người dẫn dắt câu chuyện, đưa ra những
đoạn bình luận ngoại đề. Khi nói về mối tương quan lịch sử giữa hai dân tộc Trung Quốc –
Việt Nam, nhà văn viết: “Nhà Minh, thời kỳ ấy, đang cực thịnh. Chu Nguyên Chương, tức
Minh Thái Tổ, đã đánh tan được nhà Nguyên, giành lại được quyền độc lập cho người Hán,
Chu Nguyên Chương xuất thân nghèo khổ lập nên sự nghiệp, là một ông vua giỏi, có chí
lớn, nhiều tham vọng, là nhà quân sự có chí khí sắt đá, tàn bạo. Không những ông muốn
thống nhất đất nước Trung Hoa mà còn muốn mở mang bờ cõi cả lên phía Bắc cũng như
xuống phương Nam. Cái hùng tâm mở mang bờ cõi ấy ông chưa làm được; phải đến đời
con ông là Minh Thành Tổ, một ông vua kiệt hiệt thứ hai của nhà Minh mới thực hiện được.
Chính Minh Thành Tổ đã tiêu diệt nhà Hồ và đô hộ đất nước Đại Việt, nhưng đó là chuyện
về sau. Một ngẫu nhiên trùng hợp lạ kỳ là sự song hành giữa lịch sử Trung Hoa và Đại Việt.
Khi nhà Nguyên tiêu diệt nhà Tống, thì nhà Trần cũng cướp ngôi nhà Lý. Khi nhà Minh tiêu
diệt nhà Nguyên, thì nhà Hồ cũng cướp ngôi nhà Trần. Sự rối loạn lịch sử ở hai nước hầu
như diễn ra gần cùng một thời điểm. Chỉ có điểm khác biệt là sự cướp ngôi của Đại Việt
Trần thay Lý sớm hơn Nguyên thay Tống, còn Hồ thay Trần lại muộn hơn Minh thay
Nguyên. Do đó, khi Nguyên xâm lấn Đại Việt nhà Trần đã ổn định, lòng dân đã quên nhà
Lý; còn khi Minh xâm lấn ta, nhà Hồ còn đang thời kỳ bước đầu, lòng dân vẫn nhớ tới nhà
Trần. Nhưng đó là chuyện về sau” [35, 179 – 180]. Tác giả đưa ra lời bình luận khi viết về
Trần Khát Chân: “Người anh hùng Trần Khát Chân đã vụt lên như một ngôi sao rực rỡ trên
chính trường Đại Việt. Ông xuất hiện trong hoàn cảnh vừa vinh quang vừa gay go. Ông
xuất hiện trong hoàn cảnh đụng đầu lịch sử giữa hai phái tôn thất thủ cựu và canh tân đang
quyết liệt nhất. Lịch sử như cái guồng quay. Nó cứ quay mãi, quay mãi và bắt buộc con
người cũng phải quay theo” [35, 288]. Trong các tác phẩm luôn có một nhân vật xưng “tôi”
kể chuyện. Ở Hồ Quý Ly là Hồ Nguyên Trừng, Mẫu Thượng Ngàn là bà ba Váy. Có thể nói
rằng Hồ Nguyên Trừng là người đầu tiên xưng “tôi” kể chuyện trong các tiểu thuyết lịch sử
của nước ta. Các nhân vật xưng “tôi”, tham gia kể lại câu chuyện tạo nên cái nhìn bên trong,
đưa đến cái nhìn chủ quan, sâu sắc. Các nhân vật khác không đóng vai trò người kể chuyện
xưng “tôi” nhưng luôn được trao cho quyền kể chuyện để họ nói lên suy nghĩ, đánh giá của
mình. Trong Hồ Quý Ly, tâm điểm chính là thái sư họ Hồ, xung quanh nhân vật này có rất
nhiều cách nhìn khác nhau. Những người theo phe bảo thủ coi Quý Ly là người đa mưu, đa
sát, thâm độc, tàn ác, gây lắm sự phiền hà. Hồ Hán Thương, Nguyên Cẩn thì coi đây là bậc
“minh chủ” tài giỏi, sáng suốt. Hồ Nguyên Trừng coi cha mình là người “lạnh lùng, tính
toán. Đối với ông sự nghiệp là điều trên hết, tất cả phải phục vụ sự nghiệp”. Phạm Sinh vừa
thấy căm ghét vừa bị hấp dẫn bởi con người này: “Phạm Sinh thấy bàng hoàng, và hình như
anh thấy căm ghét ông ta, đồng thời cũng bị hấp lực bởi sự táo bạo của ông ta cuốn hút”
[35, 585]. Mỗi nhân vật đều có những cách nhìn riêng, đánh giá riêng và nhiều khi những ý
kiến đó hoàn toàn trái ngược nhau.
Câu chuyện về anh Mường Rồ và cô Ngơ (Mẫu Thượng Ngàn) lại được kể hoàn toàn
khác tùy thuộc vào địa vị, tuổi tác của mỗi người: “Chuyện anh Mường, dưới mắt các cụ kỳ
mục là câu chuyện về lệ làng, đạo đức. Dưới mắt các ông tuần đinh, đó là chuyện võ nghệ
siêu cường. Còn dưới con mắt bọn thanh niên, đó lại là chuyện si mê kỳ lạ. Cuối cùng dưới
con mắt lũ trẻ chăn trâu, đó lại là chuyện hề vui nghịch ngợm” [36, 151]. Chuyện cô Mùi
lấy ông Tây Philippe cũng có khá nhiều lời đồn đại:
“Có lời đồn sở dĩ cô Mùi, một cô gái thuộc gia đình nề nếp, đã trái lời cha lấy người ngoại
tộc, bởi vì cô là người con có hiếu. Philippe ghê gớm lắm. Để bắt buộc Mùi phải lấy mình,
ông cho người gặp riêng cô, dọa rằng nếu cô không chịu lấy, sẽ cho bắt ông đồ Tiết một lần
nữa. Thương cha già, đã bị tù tội trở về, nay nếu bị tù lần nữa vào lúc tuổi đã cao, thì ông
cụ chịu làm sao nổi. Vì vậy, cô đành nhắm mắt đưa chân. Chả biết lời đồn ấy có đúng
không, hay chỉ là cách bào chữa cho cô?
Lại có lời đồn: Cô Mùi có tướng sát phu. Cô tin ở cái sức mạnh đàn bà huyền bí của
mình. Chính kẻ thù của cô ham mê cái sức mạnh huyền bí ấy, nhờ đó cô trả được thù” [36,
387 – 388].
Với điểm nhìn trần thuật linh hoạt như vậy, nhà văn vừa có thể dẫn dắt câu chuyện
theo ý đồ sáng tạo của mình, đồng thời để nhân vật tự bộc lộ ý nghĩ chủ quan của bản thân,
tránh cái nhìn phiến diện, một chiều.
Mỗi điểm nhìn đều có sự bình đẳng, độc lập, không có điểm nhìn bao trùm, chi phối
các điểm nhìn khác. Nhà văn đưa người đọc vào một cuộc đối thoại lớn. trong đó, mỗi
người tùy thuộc vào vị thế, tuổi tác, kinh nghiệm sống của mình lại có cách nhìn khác nhau.
Mẫu Thượng Ngàn là một cuộc đối thoại lớn, cuộc đối thoại trên nhiều phương diện: quốc
gia, giai cấp, văn hóa… Trên phương diện quốc gia đó là cuộc đối thoại giữa kẻ đi xâm lược
và những người bị xâm lược: thực dân Pháp – dân tộc Việt; trên phương diện giai cấp, là
cuộc đối thoại giữa tầng lớp sĩ phu yêu nước đã mất hết vai trò lịch sử với tầng lớp trí thức
trẻ đang tìm đường… Các cuộc đối thoại này xung quanh vấn đề văn hóa Việt, dân tộc Việt.
Những kẻ đi xâm lược muốn biến nước này thành một tiểu vương quốc Pháp, coi nền văn
hóa Pháp là nền văn hóa ưu việt, dân tộc Pháp là dân tộc văn minh còn văn hóa bản địa là
thứ văn hóa rừng rú, quàng xiên, mê muội, dân tộc bản địa là những người ngu muội, dã
man, hèn nhát. Người Pháp tin rằng họ sẽ chiếm được xứ sở này bằng sức mạnh. Trong khi
đó, người dân Cổ Đình vẫn lặng lẽ chứng tỏ sức sống Việt, văn hóa Việt vẫn trường tồn
bằng việc trở về với tín ngưỡng nguyên sơ, thuần Việt. những sĩ phu yêu nước thuộc tầng
lớp Nho học như cụ đồ Tiết, cụ tú Cao, cụ Lễ… giờ chỉ biết thở dài im lặng trước thời cuộc.
Họ bế tắc trong việc tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Tầng lớp trí thức trẻ: Huy, Tuấn,
Quế… lại hăm hở đi tìm một con đường cứu nước mới. Những nhà thuộc địa trứ danh
(Philippe, Julien) sang đây với tâm thế của kẻ chinh phục, còn nhà văn hóa (René) muốn tìm
hiều nền văn hóa phương Đông…
Điểm nhìn trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh đa dạng, linh hoạt. Mỗi
điểm nhìn lại có tiếng nói riêng, bình đẳng lẫn nhau. Tác phẩm trở thành một bản hòa âm đa
thanh, phức điệu. Với việc hiện đại hóa điểm nhìn trần thuật, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
đã đi tiên phong trong việc hiện đại hóa cách viết tiểu thuyết lịch sử.
3.2.2. Giọng điệu trần thuật
“Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học”. Giọng điệu thể hiện
“thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu
tả thể hiện trong lời văn quyết định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách
cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…” [30, 134].
Giọng điệu của nhà văn thể hiện lập trường xã hội, thái độ tình cảm của tác giả, tạo nên
phong cách riêng cho mỗi người. Ta bắt gặp giọng điệu thâm trầm, sâu sắc của nhà nho
Nguyễn Khuyến, giọng điệu châm biếm đã kích của Tú Xương, giọng khách quan lạnh lùng
mà ẩn chứa bao tình cảm của nhà văn Nam Cao…
3.2.2.1. Giọng điệu trang trọng, khoan thai
Trong tác phẩm Hồ Quý Ly, Nguyễn Xuân Khánh sử dụng giọng kể trang trọng,
khoan thai. Giọng điệu này phù hợp với một tác phẩm viết về không khí cổ xưa và những
nhân vật lịch sử tầm cỡ như Hồ Quý Ly, Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hàng, Trần Nghệ
Tông…
Giọng điệu trang trọng thể hiện rất rõ ở cách nói năng, xưng hô giữa các nhân vật.
Cách nói năng, xưng hô phải tuân theo một chuẩn mực nghiêm ngặt của chốn cung đình,
phải thể hiện được thứ bậc chức danh, địa vị của từng người, không thể xưng hô một cách
tùy tiện, suồng sả. Trong chốn cung đình, lễ nghĩa là điều tối quan trọng, có những cách nói
năng, xưng hô không đúng mực sẽ mang trọng tội, đặc biệt là trong mối quan hệ quân -
thần. Nhà vua tượng trưng cho sức mạnh, quyền lực tối cao trong một nước, được gọi là
thiên tử (tức con trời). Cách xưng hô với nhà vua phải vô cùng cung kính, trang nghiêm.
Khi nói chuyện với nhà vua phải quỳ lạy, tâu, bẩm… Chu Văn An là một thầy giáo “đạo cao
đức trọng”, tuổi tác đã cao lại từng là thầy dạy của Nghệ Hoàng nhưng trước nhà vua (học
trò cũ) vẫn phải giữ phép quân - thần. Khi Nghệ hoàng tỏ ý muốn mời ông ra giúp việc
nước. Chu Văn An đã cung kính thưa: “Tâu bệ hạ, thần nay đã quá già, lại ốm yếu luôn e
không đương nổi công việc. Bệ hạ là người sáng suốt nhân từ, đó là điều đại phúc cho dân.
Bệ hạ lại trải qua nhiều năm làm quan đầu triều, hiện nay, lại xuất hiện nhiều nhân tài…
Thần chỉ mong bệ hạ coi dân như con, cùng chia sẻ vui buồn với dân… lấy vương đạo làm
con đường hướng thượng” [35, 118].
Hồ Quý Ly vừa có quan hệ họ hàng với Trần Nghệ Tông, là bạn từ nhỏ của nhà vua
và cùng kết nghĩa thông gia nhưng vẫn xưng hô với nhà vua trong quan hệ quân – thần:
“Một hôm Nghệ Tông gọi Quý Ly vào cung và hỏi:
- Phu nhân của khanh khuất núi đã được mấy năm rồi?
- Tâu bệ hạ đã tròn 5 năm. Cháu Nguyên Trừng năm nay tám tuổi, cháu được ba tuổi khi mẹ
cháu qua đời.
- Khanh có còn nhớ công chúa Huy Ninh, cô công chúa Nhất Chi Mai ấy – Nghệ Tông mỉm
cười.” [35, 117].
Trong xã hội phong kiến, tất cả mối quan hệ đều đặt dưới quan hệ quân – thần. Đứng
trước nhà vua mọi người đều phải cung kính, trang nghiêm kể cả những người thân ruột thịt.
Điều này thể hiện quyền lực tối thượng của người đứng đầu đất nước.
Đối với các quan thì xưng hô theo chức danh, thứ bậc. Trần Nguyên Hàng là quan
thái bảo, Trần Khát Chân là thượng tướng nên khi nói chuyện với nhau sẽ gọi theo chức
quan:
“Câu chuyện chợt sững lại, Nguyên Hàng trầm ngâm rất lâu rồi thì thầm:
- Thượng tướng nhớ truyện Trần Nguyên Diệu chứ? Chính tay ông đã chặt đầu Nguyên
Diệu
- Diệu đầu hàng Chế Bồng Nga…
- Không hẳn là đầu hàng. Diệu căm giận Quý Ly, cầu viện họ Chế, định nhờ tay Chế để giết
Quý Ly.
- Tôi hiểu ý thái bảo rồi!
- Phải tự tay chúng ta thôi…
- Thái bảo đúng.” [35, 155]
Ngay trong quan hệ gia đình: vợ - chồng, cha – con cũng vừa gần gũi vừa trang
trọng. Đối với Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương vừa là cha vừa là thái sư đương triều,
nắm nhiều quyền lực. Hồ Hán Thương coi cha mình là vị “minh chủ”, vì vậy rất tôn kính,
sùng bái cha: “Con khâm phục cha! Con sùng kính cha! Cha thân mật mà tài giỏi! Cha kiêu
ngạo mà giản dị, cha cứng rắn mà dịu dàng” [35, 89].
Giọng điệu khoan thai thể hiện rất rõ ở cách trần thuật của nhà văn. Nguyễn Xuân
Khánh có vốn hiểu biết rộng, kiến thức uyên thâm và vận dụng linh hoạt những điều đó vào
trong tác phẩm. Ở mỗi sự việc, nhân vật, tác giả đều từ tốn dẫn dắt người đọc tìm hiểu cặn
kẽ. Mở đầu Hồ Quý Ly là Hội thề Đồng Cổ, tác giả giới thiệu cho người đọc về nguồn gốc,
việc chuẩn bị, nghi thức diễn ra hội thề… và giới thiệu kỹ hai đồ tế khí là Đại Hồng Chung
và Đại Đồng Cổ. Đại Hồng Chung là chiếc chuông chùa Yên Tử. Khi vua Trần Thái Tông
bỏ lên núi Yên Tử định cắt tóc đi tu, Trần Thủ Độ kéo cả triều đình lên cầu xin nhà vua trở
về. Khi vua chia tay, Phù Vân quốc sư đã tặng nhà vua để kỉ niệm cái duyên kỳ ngộ ấy. Còn
Đại Đồng Cổ là chiếc trống đồng do nhân dân vùng An Định, Thanh Hóa đào được năm
Mậu Ngọ (1258) khi vua Trần Thái Tông đại thắng quân Nguyên lần thứ nhất. Nhân dân đã
rước chiếc Đại Đồng Cổ lên Thăng Long tiến vua để đưa vào thờ ở miếu thần hộ quốc. Khi
viết về vườn ngự uyển, nhà văn giới thiệu về diện tích, địa điểm, hình dáng, quá trình “thịnh
suy” và cả những giai thoại gắn liền với nó:
“Vườn ngự uyển nằm ở phía Bắc hoàng thành, trên một diện tích hàng trăm mẫu ruộng.
Dựa trên địa thế tự nhiên, nó được ngăn cách với bên ngoài bằng một cái hồ dải ở phía
đông, hai phía tây, bắc là những cánh rừng giới hạn bởi hào và lũy tre, phía nam liền với
hoàng thành. Bên kia hồ là những dinh thự, đình các của các vương hầu soi bóng vàng son
nguy nga xuống mặt nước. Bên này hồ là những công trình nhằm phục vụ việc vui chơi giải
trí, việc nghỉ ngơi hóng mát của hoàng gia…” [35, 419]
Mỗi nhân vật, nhà văn đều giới thiệu đầy đủ nguồn gốc, hoàn cảnh xuất thân, phát
triển của nhân vật, kể cả những nhân vật phụ. Thanh Mai là một kỹ nữ xinh đẹp, tài hoa, nổi
tiếng khắp kinh thành. Nàng được nhiều người mến mộ, nhiều người muốn lấy nàng làm vợ
nhưng nàng đều từ chối. Một người con gái đẹp, trẻ trung lại cự tuyệt mọi tình cảm khiến
nhiều người thắc mắc. Ít ai biết được rằng, nàng đã trải qua một cuộc đời đầy loạn lạc, tủi
cực, phải chịu nhiều đau đớn, giày vò. Xuất thân trong một gia đình làm nghề chài lưới,
sống ven biển, cha mẹ đều là những người hát hay, đàn giỏi. Thanh Mai thừa hưởng tất cả
những điều đó từ song thân. Năm lên mười ba tuổi, mẹ nàng và nàng bị quân Chiêm bắt
sang Chiêm Thành, cha nàng bị giết chết. Nàng trở thành vũ nữ của vua Chiêm và được Chế
Bồng Nga để ý. Ông vua kiệt hiệt của nước Chiêm có một thú vui là giày vò những người
con gái Đại Việt. Họ càng đau đớn, ông càng vui thích. Chính vì nàng biết đau đớn mỗi lần
bị ông giày vò nên thoát chết. Nhưng cũng từ đó, nàng ghê sợ đàn ông. Khi Trần Khát Chân
giết được Chế Bồng Nga, đánh tan quân Chiêm. Nàng được thượng tướng cứu thoát, đưa về
và trở thành con nuôi của Trần Khát Chân. Thượng tướng đã dùng nàng khi thực hiện mỹ
nhân kế nhằm chống lại Hồ Quý Ly nhưng nàng đã thú nhận với cha nuôi rằng nàng không
thể làm được điều đó vì nàng đã yêu Hồ Nguyên Trừng. Đêm trước khi lên Yên Tử, Thanh
Mai đã kể cho Nguyên Trừng nghe tất cả về cuộc đòi mình.
Một nhân vật phụ ít người đọc để ý nhưng cũng được nhà văn giới thiệu khá đầy đủ
và có những phẩm chất thật đáng quý, đó là ông già Lặc, lão bô bộc của cụ lang Phạm, ông
ngoại Hồ Nguyên Trừng. Ông già Lặc vốn người Chiêm, được cụ lang Phạm đưa về trong
đoàn quân Chiêm bị Đại Việt bắt. Cụ Phạm đối xử với ông như người thân nên ông già Lặc
vô cùng tận tụy và trung thành. Khi cụ lang Phạm lên núi Yên Tử, người nô bộc già vẫn
phục vụ Hồ Nguyên Trừng và chăm nom vườn thuốc. Thương người nô bộc già cả, cô đơn
nên Hồ Nguyên Trừng đã cho ông lên núi Yên Tử sống cùng với ông ngoại mình.
Với giọng kể chậm rãi, khoan thai, nhà văn đã cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ và
sâu sắc về mỗi sự việc và nhân vật trong tác phẩm. Giọng điệu này phù hợp với chất tiểu
thuyết, một thể loại tự sự cỡ lớn, có khả năng bao quát nhiều phương diện về cuộc sống, con
người. Đồng thời, giọng điệu này cũng phù hợp với một nhà văn từng trải, có nhiều kinh
nghiệm, kiến thức như Nguyễn Xuân Khánh.
3.2.2.2. Giọng điệu hài hước, dí dỏm, suồng sả.
Mẫu Thượng Ngàn lại là một giọng điệu hoàn toàn khác. Nhà văn viết về văn hóa
Việt, tìm cội rễ ở văn hóa làng, văn hóa dân gian. Vậy nên, tác giả sử dụng giọng điệu hài
hước, dí dỏm, suồng sả. Khi đọc Mẫu Thượng Ngàn, nhiều lần người đọc phải phá lên cười
bởi giọng điệu hài hước, dí dỏm của nhà văn. Trong cuộc họp của các vị kỳ mục làng,
không khí trang trọng bị phá vỡ khi Lý Cỏn nhắc đến tích “lên tiên”. Tích “lên tiên” có
nguồn gốc như sau:
“Ở cuối làng có quán bà đĩ Ong, dưới gốc cây gạo. Chồng bà đĩ Ong mắc ho lao, nhưng vợ
lại đẻ được thằng cu xinh đẹp đáo để. Ông Lý ra quán, bế thằng bé lên, hỏi tên nó là gì. Bà
đĩ Ong bảo:
- Ông ấy là Ong, tôi định đặt tên cho nó là Bướm.
- Bướm hả? Con trai sao lại đặt là Bướm. Nghe nó tức cười. hay thế này, tôi đặt tên hộ cho.
Gọi nó là Điệp thì hay hơn. Nguyễn Văn Điệp. Đúng! Chữ nho điệp cũng có nghĩa là Bướm.
Bà đĩ Ong cảm cái ơn ấy nên để ông Hương nhận Điệp là con nuôi. Ông hương không có
con trai, chỉ độc mụn con gái, nên cũng khoái. Tiếng là nhận con nuôi, nhưng ông hương có
nuôi Điệp ngày nào đâu. Thằng Điệp được cái học hành sáng láng. Bà đĩ Ong nuôi nó đỗ
được bằng Sép phi ca. Ông hương đi đến đâu cũng khoe nhắng lên: Thằng Điệp nhà tôi đỗ
bằng Sép phi ca, ngang như các cụ ngày xưa đỗ tú tài. Người làng vẫn ngờ cái vụ con nuôi
này lắm. Đến mấy năm sau, ông chồng bà Ong ốm nặng, suốt ngày đêm trùm cái chăn chiên
đỏ nằm trên giường. Rồi một đêm, ông hộc ra một đống máu mà chết. Các bà chép miệng:
- Khổ! Vợ thì cứ phây phây. Chồng lại ho lao thổ huyết. Chết là phải.
Cánh trai tuần đinh cười hì và kể:
- Có phải thổ máu vì ham mê vợ đâu. Còn sức đâu mà làm.
- Ông ấy không làm thì đã có ông tiên làm hộ. Một đêm ông tiên mò vào nhà lão Ong, lên
giường với mụ đĩ Ong. Lão Ong nằm ở giường bên cạnh đã ngủ thiếp rồi. Lão tiên cùng mụ
Ong ôm nhau ở giường sát bên, lấy cái chăn rách trùm lên người. Lão Ong đang ngủ cứ
thấy bên giường vợ cục kịch. Lão bỏ chăn trùm đầu ra. Ánh ngọn đèn dầu lạc tuy mù mờ
nhưng cũng đủ để lão trông thấy cái chăn rách cứ nhô lên hụp xuống liên tục. Lão hổn hển,
định ngồi dậy bắt quả tang, thì lại nghe tiếng vợ lão rên lên ầm ầm:
- Sao thế này? Tôi lên tiên, ới ông tiên ơi! Lên tiên!
Lão Ong tức quá, hét to, thế là hộc máu ra ồng ộc, ngã vật xuống chết tươi.” [36,
126 – 127]
Ông Đùng bà Đà đã trở thành những nhân vật huyền thoại đối với người dân làng Cổ
Đình. Hội rước ông bà luôn được mọi người háo hức chờ đợi. năm ấy, làng Cổ Đình làm hội
rất to, cụ phó cối đã làm hai hình nhân ông bà đầy tinh quái:
“Lúc này, tất cả mọi người đều đổ dồn nhìn vào hai người hình nhân. Bảo là hai người hình
nhân khổng lồ cũng được, mà bảo là hai con rối khổng lồ cũng được. Ông Đùng cao to gấp
ba, bốn người thường, cao to tới mức có đủ chỗ cho hai người lớn chui vào bên trong để
khiêng và điều khiển những máy gỗ kiểu như ta điều khiển con rối. Họ có thể làm cho cái
đầu lắc lư và đôi mắt đảo đi đảo lại để biểu lộ sự hoan hỉ tinh quái. Họ cũng có thể làm cho
đôi tay người khổng lồ giơ lên, hạ xuống, ôm choàng thân mật. Bà Đà là một hình nhân bé
hơn ông Đùng chút ít. Cũng như ông Đùng, bà cũng có thể lắc lắc đầu và giơ tay lên xuống.
Chỉ có một điều khác: người ta có thể điều khiển cho ông bà há miệng tròn to, kiểu há
miệng thơ ngây khi con người vui thích.
Ông Đùng mặc áo đỏ, quần đỏ. Mặt hồng, có râu, có ria. Thực ra, người ta không
làm máy điều khiển râu, ria nhưng cụ phó Cối là người hóm hỉnh, cho nên cụ để cho hai
chòm ria có thể tự chuyển động. Khi cái đầu ngoẹo sang một bên, lập tức bộ ria cũng biết
cử động theo. Nhờ đôi mắt biết đảo đi đảo lại, đôi ria biết ngọ nguậy, nên trông bộ mặt ông
Đùng thật ngộ nghĩnh và sinh động.
Bà Đà mặc áo xanh, quần xanh. Mặt trắng, lông mày đen nhánh. Trông bà thật đẹp
và đa tình. Ông cụ phó cối này đã già rồi mà vẫn còn tếu. Ông làm cho bà Đà một đôi vú
hẳn hoi, mà lại là loại vú ấm giỏ mới nghịch chứ. Đan đôi vú bằng nan tre, phất giấy hồng.
Bà Đà mặc yếm trắng. Đôi vú cũng lại biết cử động. Khi rước, đôi lúc gió núi đánh tốc cái
yếm lên, để lộ ra đôi vú hồng thây lẩy, núng nính. Đám con gái lại được dịp ồ lên ngắm
nghía đôi vú to đúng bằng hai quả mít đại” [36, 727 – 728].
Nhiều đoạn văn miêu tả cơ thể người phụ nữ cũng như hoạt động giao phối giữa
người đàn ông và người đàn bà. Người phụ nữ trong Mẫu Thượng Ngàn, người nào cũng
đẹp,cũng hừng hực sức sống, một vẻ đẹp gợi sự mặn nồng và hứa hẹn sự sinh sôi, nảy nở.
Cô Ngơ mặc dù ngớ ngẩn lại nghèo nhưng thân hình cô đầy gợi cảm: “Tuy không đứa nào
chịu lấy Ngơ, nhưng đám con trai trông thấy cô đứa nào cũng thèm. Thèm vì cô không xấu
lại trắng trẻo bụ bẫm. Thèm vì cô đặc biệt có đôi vú ấm giỏ rõ to. Cái yếm đào rách, lại bé,
không đủ rộng che đôi vú ấy. Đôi vú quá cỡ làm chiếc yếm luôn luôn hếch ra, làm đôi vú
thường ở tình trạng nửa kín nửa hở, làm đám con trai trong làng trông thấy cô, như rồ hết
lên cả lũ. Mùa nóng nực, buộc chặt hai chiếc dải yếm ra phía sau lưng thì bức bối khó chịu,
nên khi về túp lều nhà mình, cô Ngơ thường cởi yếm ra, để mặc đôi vú ấm giỏ được tự do
thỗn thện. Đám con trai tinh nghịch, vào đêm trăng sáng, thường mò đến túp lều, chọc
thủng vách đất để nhìn trộm đôi vú trắng và nhễ nhạt ấy. Nhìn trộm thoải mái, sau đó cười
khúc khích với nhau. Nghe tiếng rúc rích, cô Ngơ liền vác cây gậy tre, chẳng thẹn thùng gì,
cứ để đôi vú trần nhún nhẩy để vừa xua đuổi lũ quỷ sứ, vừa chửi rủa ầm ĩ” [36, 159 - 160).
Trông thấy bà ba Váy là trông thấy sự ngọt ngào của da thịt: “Ở bà ta, chỗ nào da thịt hở
ra cũng thấy ngồn ngộn ngọt ngào” [36, 57]. Vẻ đẹp của cô Mùi là vẻ đẹp của người đàn bà
gợi nhiều lạc thú: “So với người Việt ta, cô Mùi là một người đàn bà cao lớn. Cô cao bằng
người đàn ông loại quá trung bình nhưng không gầy. Tuy cao nhưng dáng người cân đối.
Đôi vú nở nang. Eo thon nhỏ. Đôi mông nảy đều chắc nịch hứa hẹn sự đông đàn dài lũ”
[36, 244]. Có thể nói tính nữ trong Mẫu Thượng Ngàn rất mạnh, có người gọi nó là “nguyên
lí tính nữ”. Vẻ đẹp đầy nữ tính, đậm tính phồn thực mang lại bao lạc thú cho người đàn ông
lúc ái ân. Nhà văn viết về những cuộc tình với sự say sưa, rạo rực. Đó là cuộc tình đầy mãnh
liệt, cuồng dại giữa hai Phác và cô Váy trong “mùa trải ổ”. Cuộc tình giữa ông hộ Hiếu –
thím ba Pháo thiêng liêng mà cảm động. Tình yêu hồn nhiên, mộc mạc của anh Mường Rồ -
Cô Ngơ. Tình yêu trong sáng đầu đời của Điều – Nhụ…
Sử dụng giọng điệu hài hước, dí dỏm, suồng sả, tác giả đã chạm vào cái bề sâu của
văn hóa làng, văn hóa dân gian. Đồng thời thể hiện một niềm tin mãnh liệt vào sự trường
tồn của văn hóa dân tộc. Nhân dân luôn luôn lạc quan, sống chan hòa, tình nghĩa. Vì vậy, nó
sẽ chiến thắng tất cả sự tàn bạo, hung ác của kẻ thù.
3.2.3. Kết cấu
Kết cấu tác phẩm là “toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và
nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ
tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm” [44, 295]. Một nhà văn có tài bao
giờ cũng xây dựng một kết cấu hợp lí, hấp dẫn, giàu ý nghĩa. Trong các tiểu thuyết lịch sử
giai đoạn trước thường kết cấu một cách đơn giản, truyền thống. Kết cấu theo trật tự thời
gian tuyến tính và kết cấu theo hai tuyến nhân vật: chính diện – phản diện. Trong những
năm đầu TK XXI, cùng với việc hiện đại hóa nghệ thuật biểu hiện, kết cấu tác phẩm cũng
thay đổi theo hướng hiện đại hơn. Kết cấu trong “Ức Trai – Tâm thượng quang khuê tảo”
của Bùi Anh Tấn là dạng kết cấu theo thời gian hồi tưởng. Kết cấu trong giàn thiêu của Võ
Thị Hảo có sự đan xen, hòa trộn thời gian. Thời gian quá khứ – hiện tại đan xen làm nên
nhiều tầng ý nghĩa.
3.2.3.1. Kết cấu tương phản, đối lập
Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh chủ yếu kết cấu theo kiểu tương phản,
đối lập. Hồ Quý Ly là sự đấu tranh quyết liệt giữa hai phe: phe bảo thủ và canh tân. Phe bảo
thủ gồm các tôn thất nhà Trần muốn duy trì, bảo vệ vương triều nhà Trần, duy trì những luật
lệ đã có từ trước. Phe canh tân muốn thực hiện những chính sách cải cách, thay đổi đất
nước. Mỗi phe đều nhăm nhăm thực hiện mục đích của mình, họ không cùng đi một con
đường nên tìm mọi cách để tiêu diệt nhau. Kết thúc tác phẩm là sự thắng thế của phe canh
tân. Trong Mẫu Thượng Ngàn là sự đối lập giữa hai nền văn hóa: văn hóa phương Đông và
văn hóa phương Tây. Để cụ thể sự đấu tranh giữa hai nên hai nền văn hóa, tác giả đã xây
dựng hình ảnh biểu tượng: làng Cổ Đình và đồn điền Messmer. Làng Cổ Đình tiêu biểu cho
dân tộc Việt, văn hóa Việt. Ở đó vẫn giữ nguyên những nét văn hóa nguyên sơ, bản địa: tín
ngưỡng thờ Mẫu, lễ hội dân gian, phong tục tập quán có từ lâu đời… Đồn điền Messmer
tiêu biểu cho những kẻ đi xâm lược, những nhà thực dân. Chúng chiếm đất, lập đồn điền,
bóc lột lao động rẻ mạt, đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân… Trong đồn điền
còn có ngôi nhà thờ khang trang, bề thế là biểu tượng của văn hóa phương Tây. Hình ảnh
“đình làng” và “ngôi nhà thờ” là hình ảnh tiêu biểu cho hai nền văn hóa hoàn toàn khác
nhau: “Cái đình thì bám chặt mảnh đất tổ tiên, còn ngôi nhà thờ lại đưa họ bay vút lên tận
trời xanh” [36, 327]. Nền văn hóa phương Đông thiên về cái âm tính, chậm chạp, lối sống
ân tình, đặt nặng tình nghĩa hơn lí lẽ. Còn văn hóa phương Tây lại thiên về dương tính, tốc
độ, lối sống kỉ luật. Vì vậy, tác giả đã xây dựng hình ảnh những người phụ nữ là biểu tượng
cho văn hóa phương Đông, còn những người đàn ông Pháp là biểu tượng của văn hóa
phương Tây (Những người Pháp đến đây đều là đàn ông: Pilippe, Pierre, Julien, nhà dân tộc
học René, cha Colombert… chỉ có một người phụ nữ Pháp là Hélène (vợ Philippe) nhưng
cô không thể sống được nơi đây và trở về Pháp, không bao giờ trở lại). Đây là một cuộc
đụng độ giữa hai nền văn hóa hoàn toàn khác nhau về bản chất. Ban đầu, cái sức mạnh
cương cường bao giờ cũng chiến thắng cái âm tính mềm mại. Những người phụ nữ làng Cổ
Đình trở thành nô lệ, phục vụ người đàn ông phương Tây. Có người phát triển điều này
thành lí thuyết: “Sự đi chinh phục xứ lạ chẳng qua là những con đực mạnh đến chiếm đoạt
những con cái của xứ sở bị đánh chiếm” [36, 347]. Tiêu biểu cho điều này là cô Mùi bị
Philippe chiếm đoạt, tìm mọi cách lấy làm vợ; Nhụ bị Julien cưỡng hiếp trước khi thành
thân với chồng. Thế nhưng, sau đó cái âm tính mềm dẻo, uyển chuyển có sức sống lâu bền,
dẻo dai sẽ tấn công lại và làm cho cái dương tính mất đi sức mạnh và bị tê liệt. Cuộc chiến
trên giường ngủ của cô Mùi và Philippe không chỉ có ý nghĩa là sự vật lộn giữa người đàn
bà – người đàn ông mà còn là cuộc vật lộn giữa hai nền văn hóa. Ban đầu, cô Mùi thụ động,
chịu đựng nhưng sau đó cô chủ động đòi hỏi và làm cùng kiệt sức lực của Philippe. Cũng
như vậy, văn hóa phương Tây sang Việt Nam ồ ạt, có tính chất cưỡng chế bằng sức mạnh
nhưng nó cũng không thể tiêu diệt, làm mất đi nền văn hóa phương Đông. Nền văn hóa dân
tộc vẫn trường tồn dù qua bao thăng trầm, biến đổi.
Sự đối lập tương phản còn diễn ra ở cấp độ nhỏ hơn. Trong Hồ Quý Ly, sự đối lập
còn thể hiện ở từng nhân vật. Công chúa Huy Ninh là một nhân vật nội tâm, mang nhiều
tâm sự, mâu thuẫn. Bà thuộc dòng dõi nhà Trần, tất nhiên bà luôn mong muốn cho cơ
nghiệp ông cha trường tồn, bền vững nhưng bà lại là vợ của Hồ Quý Ly, một người đang
nắm trong tay nhiều quyền hành và từng bước lật đổ nhà Trần. Bà đau lòng khi nhìn thấy
cảnh đầu rơi, máu chảy, nhiều tôn thất nhà Trần bị giết hại bởi tay chồng mình nhưng bà
cũng luôn lặng lẽ, tận tụy ở cạnh chồng, sám hối cho chồng, mong ông hoàn thành cơ
nghiệp. Bà không bao giờ trách móc, can thiệp vào công việc của chồng. Có lẽ vì vậy mà bà
luôn chất chứa một nỗi buồn, một sự u sầu hiện rõ trên gương mặt, trong ánh mắt. Trần
Khát Chân cũng là một nhân vật có nhiều mâu thuẫn, ông hiểu rất rõ vận nhà Trần đã đến
lúc suy tàn, ông cũng thấy được sự mưu lược, quyết đoán của Hồ Quý Ly. Ông rất phân vân
không biết nên theo phe nào, theo phe bảo thủ chống lại Hồ Quý Ly, ông sẽ đi ngược lại
bánh xe lịch sử nhưng theo Hồ Quý Ly chống lại phe bảo thủ, ông sẽ chống lại chính dòng
họ mình. Sau nhiều trăn trở, dằn vặt, ông đã chọn con đường sống chết cho cơ nghiệp nhà
Trần. Trong Mẫu Thượng Ngàn có sự đối lập trong tư tưởng, cách tiếp cận nền văn hóa bản
địa của các nhà thuộc địa; sự đối lập giữa các thế hệ trong nội bộ những người dân mất
nước. Cùng là ông chủ của đồn điền Messmer, lại là anh em ruột nhưng Pierre hoàn toàn
khác với Philippe và Julien. Philippe và Julien là những nhà thuộc địa trứ danh còn Pierre là
một họa sĩ, có tâm hồn nhạy cảm, biết rung động trước cái đẹp. Pierre đến xứ sở này chủ
yếu là do tò mò, bị hấp dẫn bởi thiên nhiên xứ sở này qua những bức thư anh trai gửi. Khi
đến đây, anh đã bị thu hút bởi bức tranh đầy màu sắc của thiên nhiên và vẻ đẹp đằm thắm
của người dân xứ thuộc địa. Nếu như Philippe và Julien coi nền văn hóa bản địa là nền văn
hóa rừng rú, phù thủy thì Pierre lại tôn trọng văn hóa bản địa, có ý thức tìm hiểu và mong
muốn sự “hòa trộn” về văn hóa. Sự đối lập diễn ra giữa các tầng lớp của những người dân
mất nước: những bậc sĩ phu đạo cao đức trọng như cụ phủ Khiêm, cụ đồ Tiết, cụ Tú Cao…
tiêu biểu cho thế hệ oanh liệt, chói lọi nhưng đã qua. Họ thuộc về quá khứ còn hiện tại họ
không còn sứ mệnh trong sự nghiệp đánh giặc cứu nước. Ngược lại, những thế hệ thanh
niên như Huy, Tuấn, Quế, Điều... là những con người mới, thế hệ sẽ đảm đương sứ mệnh
lịch sử của dân tộc. Tuy con đường họ đi còn lắm chông gai mò mẫm, vấp ngã nhưng tất
yếu họ sẽ tìm được đường đi.
Kết cấu tương phản, đối lập được sử dụng ở nhiều mặt, nhiều cấp độ, làm nổi bật,
sáng rõ từng đối tượng. Sự vật, hiện tượng không nằm trong thế đơn phân mà ở thế lưỡng
phân, nó được nhìn nhận đa chiều, trong nhiều mối quan hệ.
3.2.3.2. Kết cấu đan kết, hòa trộn các dạng thời gian nghệ thuật
Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh kết cấu không theo thời gian tuyến tính
mà thời gian luôn bị xáo trộn, quá khứ - hiện tại đan xen, soi chiếu lẫn nhau. Nhà văn không
đi theo một đường thẳng diễn biến các sự kiện mà khai thác thời gian đa chiều. Nhà phê
bình Nguyễn Văn Dân đã nhận xét: “Bằng cách đó, vấn đề cần luận giải được nhìn nhận từ
nhiều góc độ và cung bậc khác nhau. Từ đó, tác phẩm của nhà văn diễn ra không giống như
một bộ phim như tiểu thuyết Hoàng Quốc Hải mà nó mở ra như một bản giao hưởng với
một chủ đề quán xuyến lặp đi lặp lại” [11, 13].
Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, mọi nhân vật đều được tác giả
trình bày không theo một trật tự thời gian tuyến tính mà cắt ngang cuộc đời nhân vật sau đó
dùng những yếu tố hồi tưởng, làm nhân vật hiện lên đầy đủ, toàn vẹn. Hiện thực, quá khứ
luôn đan xen, soi sáng nhau. Ở mỗi chương truyện, nhiều câu chuyện ở hiện tại, quá khứ
luôn đan xen, lồng kết nhau. Giới thiệu về Trần Khát Chân, nhà văn bắt đầu giới thiệu Trại
Mai, trang ấp của thượng tướng, với bữa tiệc “Đại Mai” đầu xuân, tình bạn thâm giao với
Hồ Nguyên Trừng. Sau đó mới nói về cuộc chiến chống quân Chiêm và chiến công của
thượng tướng khi giết được Chế Bồng Nga, xóa bỏ được nỗi sợ quân Chiêm của cả nước.
Ở Mẫu Thượng Ngàn, kết cấu xáo trộn, đan cài thời gian quá khứ, hiện tại cũng được
sử dụng hiệu quả. Nhà văn không giới thiệu nhân vật hai Phác theo trình tự: lúc sinh ra lớn
lên, lưu lạc trở về quê hương với tên Trịnh Huyền, cuối cùng bị treo cổ ở cây đa đầu làng.
Nguyễn Xuân Khánh cắt ngang cuộc đời nhân vật khi anh trở lại quê hương. Nhân vật bà ba
Váy xuất hiện một cách tình cờ khi đi hái nấm ở núi ông Đùng gặp Trịnh Huyền. Khi đó bà
ba đã là vợ của Lý Cỏn. Dần dần ở các chương sau, nhân vật mới hiện lên đầy đủ và toàn
vẹn. Xâu chuỗi tất cả các sự kiện trong tác phẩm ta mới biết đầy đủ về nhân vật. Cô Váy là
bạn thời chăn trâu cắt cỏ với Trịnh Huyền, được Trịnh Huyền (hai Phác) bảo vệ trước sự bắt
nạt của lũ trẻ mục đồng. Suốt ngày cô đi theo Phác và lớn lên hai người phải lòng nhau. Bố
cô Váy là một người đi rừng rất giỏi, được gọi là “Thần Rừng”. Ông cũng rất yêu quý anh
Phác và truyền cho anh nghề bẫy chim. Họ đã tính đến chuyện lấy nhau. Mùa hội năm đó,
mùa “trải ổ”, họ đã trao cho nhau mối tình đầu đầy hoan lạc, cuồng dại. Rồi hai Phác đi theo
ông Đề đánh Tây, sau đó bỏ đi biệt tích, cha cô mất, mấy mẹ con nheo nhóc, nghèo đói. Cô
Váy phải về làm nàng hầu cho Lí Cỏn để trừ nợ. Cô lấy ông Lí khi đã có mang với hai Phác
sinh ra thằng Cò (Vũ Xuân), sau đó cô sinh cho chồng một đàn con. Sau hai mươi năm biệt
tích, hai Phác giờ đây là Trịnh Huyền trở về làng với bộ dạng khác hẳn: “bộ mặt nửa thực
nửa hư, nửa hiền nửa ác, nửa đẹp nửa đáng ghê sợ” [36, 547], mang theo một đứa con gái,
có tài đánh đàn rất hay. Ông đồ Tiết bảo với cả làng là đứa cháu họ dưới nam lên. Nhưng cô
Váy đã nhận ra người yêu năm nào ngay từ lần gặp đầu tiên. Họ lao vào cuộc tình vụng
trộm đầy nguy hiểm nhưng không cưỡng lại được. Làng có dịch bệnh, Lí Cỏn bị bệnh, cô
săn sóc chồng rất tận tụy, dùng bầu sữa của mình để cứu chồng về từ tay thần chết. Trong
hội ông Đùng bà Đà, cô Váy và anh Trịnh Huyền gặp lại nhau trong mỏ nấm sau mấy tháng
xa cách nhưng không ngờ bị đứa con cả phát hiện. Cò tưởng đó là tình nhân của mẹ nên đã
bắn Trịnh Huyền, may là mũi tên chỉ trúng vai. Biết được sự thật là con trai đẻ của Trịnh
Huyền, Cò đau đớn đi lang thang, tránh gặp mặt mẹ. Bà ba Váy suy sụp ngã bệnh. Bệnh cô
càng nặng hơn khi Trịnh Huyền bị giết, bị treo đầu ở cây đa.
Các nhân vật, sự kiện không theo một trình tự nhất định mà nó xuất hiện ở những
thời điểm khác nhau. Người đọc luôn bị lôi cuốn vào tác phẩm bởi những nghi vấn, khó
hiểu. Càng đọc, từng nút thắt mới dần dần được tháo gỡ. Với cách kết cấu này, nhà văn làm
người đọc luôn bị cuốn hút vào tác phẩm, chăm chú đọc từ đầu đến cuối.
3.3. Thời gian – Không gian trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh
Thời gian nghệ thuật - Không gian nghệ thuật là phạm trù thuộc về thi pháp tác
phẩm. Thời gian nghệ thuật - Không gian nghệ thuật không chỉ là hình thức hiện hữu mà
quan trọng hơn nó trở thành một ký hiệu nghệ thuật thuộc về thế giới sáng tạo của người
nghệ sỹ, nó bộc lộ cái nhìn của nhà văn đối với con người và cuộc đời. Thông qua Thời gian
nghệ thuật - Không gian nghệ thuật, nhà văn thê hiện quan điểm, tư tưởng của mình đối với
con người và cuộc sống. Trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, Thời gian nghệ
thuật - Không gian nghệ thuật là phương tiện nghệ thuật đặc sắc, góp phần quan trọng cho
nhà văn thể hiện ý đồ sáng tạo, quan điểm, tư tưởng của mình.
3.3.1. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh
Đầu tiên, chúng ta tìm hiểu Thời gian trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân
Khánh. Thời gian nghệ thuật ở đây được thể hiện sự đa dạng, giàu ý nghĩa. Tác giả thường
chọn những mốc thời gian đầy biến động, phức tạp trong lịch sử, thời gian chứa đầy sự
kiện. Trong Hồ Quý Ly là khoảng thời gian những năm cuối nhà Trần với chồng chất các sự
kiện: Hội thề Đồng Cổ, quân Chiêm nhiều lần đánh chiếm Đại Việt, Thiên Nhiên tăng Phạm
Sư Ôn nổi dậy ở lộ Quốc Oai đánh chiếm Thăng Long trong ba ngày, Trần Khát Chân đánh
thắng quân Chiêm, giết Chế Bồng Nga, Ông vua già Trần Nghệ Tông băng hà, Hồ Quý Ly
dời kinh đô về Thanh Hóa, Hội thề Đốn Sơn… Trong giai đoạn lịch sử này, nhà Trần đang
mục rủa, suy vong, thế lực nhà Hồ đang lớn mạnh. Cuộc chiến khốc liệt giữa phe bảo thủ và
phe canh tân. Ở Mẫu Thượng Ngàn là thời kỳ tăm tối của dân tộc khi thực dân Pháp từng
bước đặt ách đô hộ lên nước ta, đạo Thiên Chúa giáo lan rộng, các phong trào yêu nước đã ở
thời kỳ thoái trào. Thời điểm gay go đối với vận mệnh dân tộc, đặt đất nước trước một thử
thách sống còn: sự tồn vong.
Những thời điểm lịch sử cũng đầy tính phức tạp, ở đó cái đúng – cái sai, chân lí – sai
lầm khó có thể phân định rạch ròi. Thời điểm lịch sử trong Hồ Quý Ly được cụ sư Hiền gọi
là “thời thiên túy”, trời đất đảo lộn, cuồng say, con người cũng đảo điên vì quyền lực, địa
vị. Phe bảo thủ đúng hay phe canh tân đúng? Điều đó không thể có đáp án cuối cùng. Mỗi
phe đều có những lí lẽ riêng, con đường riêng. Chỉ biết rằng phe nào vượt lên được quy luật
đào thải, sự chuyển vần của lịch sử thì sẽ tồn tại, nếu không phải chịu sự thất bại. Đặt nhân
vật vào thời điểm sóng gió, phức tạp, nhân vật trở thành những nhân vật phức tạp, không
đơn giản, một chiều. Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử gây nhiều tranh cãi xưa nay. Các
nhà sử học phong kiến lên án gay gắt Quý Ly bởi họ theo quan điểm “trung quân”. Ngày
nay, các nhà sử học có cái nhìn khách quan, toàn diện hơn về Hồ Quý Ly, những thành công
và cả những hạn chế của ông trong công cuộc cải cách và cuộc chiến chống quân Minh xâm
lược.
Trong Mẫu Thượng Ngàn, những hành động yêu nước, chống lại kẻ thù xâm lược là
chính nghĩa, nhưng sống trong thời kỳ bị thực dân đô hộ, những hành động đó bị xem là
hành động “nổi loạn”. Những kẻ đi xâm lược trở thành những kẻ nắm mọi quyền lực, nắm
chân lý. Những người nghĩa khí như cụ phủ Khiêm, cụ đồ Tiết… bị bắt giam, bị theo dõi.
Những thanh niên yêu nước như Huy bị xem là “giặc”, bị truy đuổi. Ở đây chỉ còn lại một
chân lý duy nhất: “Được làm vua, thua làm giặc”.
Chọn những thời điểm lịch sử đầy biến động, sự kiện nhưng nhà văn thể hiện chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn (Hồ Quý Ly: khoảng tám năm cuối nhà Trần; Mẫu Thượng
Ngàn: khoảng vài năm từ khi Nhụ đến Cổ Đình đến khi sinh bé Nhị). Vì vậy, tác giả hay sử
dụng thủ pháp “dồn nén thời gian”. Thời gian đầy ắp sự kiện, biến cố. Các sự kiện, biến cố
chồng lên nhau, soi tỏ lẫn nhau. Tác giả đan cài thời gian hiện thực và thời gian quá khứ
một cách hài hòa. Viết về Phạm Sư Ôn, tác giả không trình bày quá trình sinh ra, lớn lên,
nổi dậy đến lúc bị xử tử mà bắt đầu khi Phạm Sư Ôn nổi dậy đánh chiếm Thăng Long trong
ba ngày. Sau đó mới trình bày đoạn đời trước đó của nhân vật. Tác giả quay trở lại thời gian
hiện tại khi Phạm Sư Ôn bị bắt, bị giết. Thời gian hiện tại – quá khứ - hiện tại đan cài, lồng
chiếu vào nhau làm sáng rõ dần cuộc đời nhân vật và toàn bộ câu chuyện.
Một nét đặc sắc có thể thấy trong việc sử dụng thời gian của nhà văn là tác giả
thường viết về thời gian ban đêm, thời gian của ái ân, của tình yêu. Nếu như ban ngày, con
người bận rộn với những lo toan, bộn bề của cuộc sống thì ban đêm chính là thời gian con
người được thư giãn, được hưởng những niềm hạnh phúc riêng tư. Màn đêm yên tĩnh, thơ
mộng như một tấm màn lớn bao phủ để những cuộc yêu đương thêm thi vị, nồng cháy. Hồ
Nguyên Trừng (Hồ Quý Ly) không ngờ thân hình mảnh dẻ, yều điệu của Quỳnh Hoa lại
mang đến cho chàng nhiều lạc thú đến như vậy. Đặc biệt, sức quyết rũ từ mái tóc dài, thơm
tho mang lại cho chàng những giây phút ngây ngất: “Những câu chuyện ghê rợn, những
quyến rũ lòng người, đã đọng lại trong mớ tóc đen láy mượt mà và thơm ngai ngái, để rồi
mỗi đêm nó lại xõa kín đôi vai tôi, che kín lên mình tôi, để những sợi tóc đã gắn kết tình tôi
lại với nàng” [35, 68]. Hồ Nguyên Trừng gặp Thanh Mai lần đầu tiên cũng vào ban đêm.
Hôm đó, chàng ở Tây Đô về ghé thăm thượng tướng. Hai người uống rượu mai, ngắm mai
giữa hồ Tị Huyên đình (đình tránh sự ồn ào). Khi Thanh Mai xuất hiên, sự khỏe khoắn, tươi
tắn của nàng đã làm Nguyên Trừng thực sự sững sờ. Thanh Mai có tiếng hát “trong veo”
làm mê hoặc người. Đêm hôm đó, họ đã đàn hát rất tâm đầu ý hợp. Thiên Nhiên tăng Phạm
Sư Ôn (Hồ Quý Ly) bị tiếng hát của cô gái cắt cỏ mê hoặc trong một đêm trăng tuyệt đẹp.
Nếu là ban ngày, chắc hẳn chàng nhà sư không đủ can đảm vượt qua những giới nghiêm nơi
cửa Phật để đi theo tiếng hát. Nhưng đây lại là ban đêm, một đêm trăng. Ánh trăng tưới ánh
sáng huyền ảo, mê hoặc lên mọi vật. Màn đêm che phủ tất cả, tiếp sức cho Thiên Nhiên tăng
vượt rào đến chỗ cô gái. Trong đêm trăng, cô gái cắt cỏ nghèo khổ, rách rưới trở nên xinh
đẹp, tươi mát, trắng ngút ngàn làm chàng trai trẻ thừa mứa sinh lực không thể kìm lòng.
Chàng trai trẻ đã lạc lối, lần đầu tiên chàng hiểu thế nào là nghĩa hai tiếng “Thiên Nhiên”.
Đêm trăng lung linh, mờ ảo đã tiếp sức cho đôi bạn trẻ. Để rồi một tháng ròng, đêm nào
Phạm Sư Ôn cũng vượt rào đến lều cỏ, một tháng trời “đôi trai gái đã quên hết đất trời”
[36, 233].
Đặc biệt, trong Mẫu Thượng Ngàn, thời gian ban đêm càng được tác giả sử dụng
nhiều hơn. Thời gian ban đêm gắn với tình yêu của những người đàn bà Việt. Đây là một
dụng ý của nhà văn. Nguyễn Xuân Khánh đã nói rằng: “Đề cập đến nhục cảm không có gì
là xấu, sự giao hòa đàn ông và đàn bà là đẹp nhất và người nhất, không thể lảng tránh. Nó
thể hiện sức sống Việt, phồn thực Việt và làm nên sức mạnh Việt Nam cứu rỗi dân tộc và
nhân bản” [76, 15]. Đêm trăng mùa “trải ổ” đã đem lại niềm hạnh phúc say mê, mãnh liệt
cho đôi trai gái trẻ: hai Phác – cô Váy. Đêm trăng đó suốt đời họ không thể nào quên được
để rồi hai mươi năm sau, cũng đêm trăng ngày hội đã dẫn bước chân của bà ba Váy đến
chiếc ổ ngày xưa. Đêm trăng mà thím ba Pháo dâng hiến cho ông hộ Hiếu ở ngôi chùa đổ đã
kết tinh thành một đứa trẻ xinh tươi lạ thường. Đêm trăng đã biến thím Pháo “thành ngọc
thành ngà”, đã cho ông Hiếu biết thế nào là sự ngọt ngào, đằm thắm của người đàn bà. Đêm
trăng đã đưa đến cho họ những giây phúc tràn đầy hạnh phúc và cảm động biết bao! Đêm
trăng trên hồ Huyền làm Nhụ vừa thích vừa sợ. Nhụ và Điều đã làm lễ cưới nhưng hai đứa
vẫn “để dành”, “để dành” chờ “mùa quả chín”. Thế nhưng, đêm trăng đó, hai đứa đã thực
sự cuồng si. Đêm trăng đã làm Nhụ đẹp hơn, quyến rũ hơn, làm Điều hoàn toàn mất trí:
“Đêm ấy sáng trăng, Sáng vằng vặc. Ánh sáng huyền ảo, nhễ nhại làm cho mọi vật trở nên
lung linh hơn, đẹp đẽ hơn. Nhất là các cô con gái dậy thì. Gặp ánh trăng, có thể nói các cô
đẹp thêm lên gấp mấy lần. Ánh trăng tưới vào, tóc sẽ đen hơn mượt mà hơn, đôi mắt sẽ lúng
liếng hơn. Hợp với ánh trăng nhất hạng là làn da. Cứ tưởng như nó được tắm bằng sữa. Nó
óng ả trắng nõn như ngó cần, nó hồng hào mũm mĩm như da em bé…” [36, 638], “Điều chỉ
mới nhìn thấy tấm lưng trần trắng muốt, hãy còn những giọt nước dư đọng sáng long lanh
trong ánh trăng, thì đã chẳng thể cầm lòng. Hắn ôm lấy cô, và bế cô lên mặc cho cô vùng
vẫy. Rồi hắn đặt cô nằm trên thuyền, lật chiếc yếm hồng để cho ánh trăng tràn rụa trên
khắp người cô. Và lần này thì hắn cuồng dại hơn. Hắn sấn sổ hôn vào đôi nhũ hoa” [36,
639]. Các câu chuyện tình yêu trong Mẫu Thượng Ngàn luôn gắn với màn đêm và ánh trăng.
Trăng chính là chất men để đêm đẹp hơn, lãng mạn hơn, đắm say hơn. Ánh trăng biến
những cuộc ái ân trở nên huyền ảo, thăng hoa. Như vậy, thời gian đêm trăng gắn với tình
yêu lứa đôi, gắn với những giây phút hạnh phúc của con người.
3.3.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh
Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh biểu hiện
đa dạng, phong phú, giàu ý nghĩa, có tầm bao quát rộng lớn. Từ không gian nơi kinh thành
tráng lệ đến không gian miền quê mộc mạc; từ không gian thực đến không gian linh thiêng
gắn với những huyền thoại, truyền thuyết. Nhìn chung, chúng ta có thể xếp chúng vào hai
không gian chính: không gian hẹp và không gian rộng. Không gian hẹp gắn liền với những
quy tắc, luật lệ khắt khe, nơi đó con người sống bon chen, tranh quyền đoạt lợi. Ngược lại,
không gian rộng gắn với thiên nhiên bao la, khoáng đạt, nơi chỉ còn tự do và tình yêu.
Không gian hẹp trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh thể hiện ở: không
gian kinh thành Thăng Long (Hồ Quý Ly); không gian làng Cổ Đình, đồn điền Messmer
(Mẫu Thượng Ngàn). Kinh thành Thăng Long là nơi phồn hoa đô hội, nơi tập trung quyền
lực và sự giàu có. Vua quan đều sống tại nơi đây. Chính nơi này đã diễn ra những tranh
giành khốc liệt, những thủ đoạn tàn bạo nhất. Cuộc chiến không khoan nhượng giữa phe bảo
thủ và canh tân dẫn đến những cuộc tàn sát đẫm máu. Biết bao người đã chết, cảnh đầu rơi
máu chảy diễn ra liên miên trong cuộc chiến giành quyền lực. Cuối cùng phần thắng đã
nghiêng về phe canh tân với việc Hồ Quý Ly giết ba trăm bảy mươi người tôn thất nhà Trần
tại Hội thề Đốn Sơn. Một không khí tang tóc, căng thẳng bao trùm kinh đô mới. Người ta
làm tất cả những điều đó vì địa vị, quyền lực của bản thân và dòng họ. Trần Khát Chân và
phe bảo thủ muốn duy trì vương triều nhà Trần cũng là duy trì, bảo vệ những đặc quyền đặc
lợi của dòng họ mình. Hồ Quý Ly muốn giành lấy quyền lực tối cao để thực hiện những cải
cách, những tham vọng của bản thân. Trong không gian chật hẹp, cuộc sống thật ngột ngạt,
bức bối. Ở đây không có chỗ cho tự do và những tình cảm chân thật, trong sáng. Mỗi việc
làm, mỗi hành động đều có sự tính toán kỹ lưỡng, chu đáo. Trần Nguyên Hàng gả con gái
cho con trai của Hồ Quý Ly vì muốn con làm “nội gián” trong hàng ngũ địch; Trần Khát
Chân nhiệt tình, tận tụy giúp Quý Ly xây dựng Tây Đô để đối thủ chủ quan, chờ đợi một cơ
hội tốt để tiêu diệt… Con người sống toan tính, thủ đoạn nên nhiều khi đã đánh mất những
tình cảm thiêng liêng, gần gũi hoặc vì quyền lực mà người ta sẵn sàng đánh đổi những điều
đó. Hồ Quý Ly, một con người tàn bạo, quyền lực, cũng chính là một con người đầy cô độc.
Ông không bao giờ được nghe tiếng nói bi bô, ngây thơ và những cái ôm ấp áp, thân thương
của đứa cháu ngoại; ông cũng không thể xóa đi sự đau buồn, sầu muộn của đứa con gái. Bởi
chính ông, vì tham vọng quyền lực, đã biến tất cả cuộc hôn nhân của con cái thành con bài
chính trị. Chính ông đã gây ra những chia lìa của chính con cháu ông.
Làng Cổ Đình bên ngoài có vẻ thanh bình, yên ổn nhưng bên trong chứa đựng biết
bao con sóng ngầm. Đó là những cuộc tranh giành địa vị, ngôi thứ trong làng, xung đột
dòng họ, dịch bệnh… Trong làng Cổ Đình, ngôi thứ được phân chia rõ ràng, đứng đầu là
chánh tổng, tiên chỉ rồi đến lí trưởng… cuối cùng là mõ. Người ta tìm mọi cách để có được
vai về trong làng. Vậy nên, ngày trước bố lí Cỏn mất một mẫu rưỡi ruộng để mua một chức
danh hờ. Lí Cỏn mất hai mẫu rưỡi để mua chức lí trưởng. Quyền lực, địa vị phải mua bằng
tiền (ruộng) nên khi nắm trong tay chức quyền người ta lại ra sức bóc lột, chèn ép dân đinh
để lấy lại những gì đã mất.
Đồn điền Messmer là không gian tượng trưng cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp
tại làng Cổ Đình. Ở đây có những nhà thực dân trứ danh: chiếm đất lập đồn điền, bóc lột sức
lao động của người dân bản địa, đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Mọi động tĩnh
của làng Cổ Đình đều được ông chủ đồn điền chú ý. Julien đã từng tuyên bố: ở mảnh đất
hắn cai trị phải thực sự “sạch” những tên phản loạn. Khi biết tin nhà cụ đồ Tiết có hai người
lạ đến, hắn liền điều tra kỹ càng. Khi làng lập hội Tương tế, lớp học chữ quốc ngữ, hắn biết
đây là mầm móng phản loạn nên không cho hoạt động… Julien muốn biến mảnh đất này là
một tiểu vương quốc Pháp, người dân ở đây là những con chiên của chúa. Đó chính là tư
tưởng của những kẻ thực dân, những kẻ đi chinh phục. Mục đích của chúng là vơ vét của
cải, bóc lột sức lao động và đồng hóa dân tộc.
Như vậy, không gian hẹp là không gian tù túng, đầy rẫy những bon chen, tính toán,
âm mưu. Cuộc sống trong không gian này đầy ngột ngạt, bức bối. Con người luôn phải đối
phó lẫn nhau. Nhưng đây lại là không gian chính trong tác phẩm.
Không gian rộng hoàn toàn đối lập với không gian hẹp, đó là không gian của núi
rừng bao la, khoáng đạt, không gian thiêng liêng, siêu thoát, nơi con người thoát ra mọi hệ
lụy của trần gian. Ta thấy rằng, mỗi khi con người không sống được trong không gian hẹp,
họ đều tìm đến không gian rộng. Không gian rộng giúp con người sống thanh thản, tự do,
sống đúng với bản thân mình. Trần Nguyên Đán (Hồ Quý Ly) suốt một đời vì dân vì nước,
đến khi tuổi già sức yếu biết không thể gánh vác được trọng trách nặng nề đã xin về ở ẩn tại
Côn Sơn, vui thú điền viên, làm bạn với núi rừng. Nơi đây, quan tư đồ cảm thấy thanh thản,
nhẹ nhõm. Vẻ đẹp của thiên nhiên làm con người thư thái: “Côn Sơn có nhiều hoa mọc
hoang. Mùa xuân những cây hoa mọc trắng khắp vùng. Mùa hè, mùa thu, hoa mẫu đơn đỏ,
hoa sim, mua tím, hoa cúc dại vàng, hoa bướm trắng, chen lẫn đá lẫn màu xanh của lá”
[35, 699]. Côn Sơn chính là một trong bảy mươi hai phúc địa của Đại Việt. Cụ lang họ
Phạm (ông ngoại Nguyên Trừng – Hồ Quý Ly) suốt một đời làm thuốc, chữa bệnh cho dân
nghèo. Khu vườn của cụ trở thành vườn thuốc, với nhiều loại thuốc quý. Sống trong kinh
thành cụ vẫn làm bạn với thiên nhiên, đến khi tuổi già cụ lên núi Yên Tử sống cùng những
người bạn già sống giữa thiên nhiên bao la, rộng lớn. Vua Trần Thuận Tông (Hồ Quý Ly)
biết mình nhu nhược, không thể vực dậy được cơ đồ của ông cha nên đã giao hết mọi quyền
lực cho Hồ Quý Ly, lên núi Đạm Thủy tu tiên. Sống giữa núi rừng hiền hòa, hàng ngày nghe
tiếng suối chảy, chim kêu, nhà vua cảm thấy dễ chịu vô cùng. Trần Thuận Tông đã hoàn
toàn trút bỏ được những nặng nề quyền lực, tham vọng nơi triều chính. Trở về với thiên
nhiên, làm bạn với núi rừng, sống trong không gian thoáng đạt, tự do chính là lúc con người
trở về với bản thể của chính mình.
Trong không gian rộng có không gian linh thiêng, không gian nhuốm màu huyền
thoại như núi ông Đùng bà Đà, đền Mẫu… Núi ông Đùng gắn liền với huyền thoại về ông
Đùng bà Đà. Huyền thoại được những người trong làng truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Câu chuyện xảy ra đã từ rất lâu. Có hai vợ chồng nọ sinh được hai anh em: một trai,
một gái. Họ rất to cao, có thể gọi là những người khổng lồ. Hai anh em làm việc rất chăm
chỉ nên được nhiều người trong làng thuê. Những nhà có con gái thường thuê ông Đùng,
những nhà có con trai thường thuê bà Đà. Sau những lần làm việc, chung đụng với ông bà,
những trai gái làng đều ngẩn ngơ, như mất hết hồn vía nhưng lại vô cùng thích thú. Các cụ
trong làng thấy không thể để chuyện này tiếp diễn nên quyết định gả vợ gả chồng cho ông
bà. Cách làm như sau: hai ông bà quay lưng lại với nhau và đi theo hai con đường khác
nhau, trên đường đi, họ gặp người nào đầu tiên sẽ kết duyên cùng người đó. Hai ông bà đi
mãi, đi mãi rất lâu không gặp ai và họ gặp lại nhau. Như vậy, số phận đã bắt họ phải lấy
nhau. Những cuộc ái ân của ông bà làm rung chuyển cả làng xóm, không ai có thể ngủ
được. Họ bị đuổi ra khỏi làng và lên núi sống. Nhưng cũng vẫn không được yên, cuối cùng
họ bị thiêu chết. Từ đó, núi làng Cổ Đình có tên là ông Đùng bà Đà. Ngọn núi này đã trở
thành nơi che chở cho những số phận cùng cực, che chở cả những phút giây hạnh phúc của
con người. Anh Mường Rồ và cô Ngơ cũng có số phận như hai ông bà. Họ bị làng đuổi phải
chạy vào nơi đây, họ được sống bên nhau dưới sự che chở của ông bà. Tục “trải ổ” cũng gắn
liền với huyền thoại về ông bà. Trong ngày hội, các chàng trai, cô gái yêu nhau có thể tạo
cho mình một chiếc ổ thơm tho, một chiếc giường tình trong những hang hốc, dưới tán cây
rộng lớn để ân ái với nhau. Núi ông Đùng bà Đà đã trở thành không gian linh thiêng, không
gian phồn thực, không gian của tình yêu.
Đền Mẫu nằm trên núi ông Đùng bà Đà là không gian của sự thăng hoa, siêu thoát,
cứu rỗi cuộc đời bất hạnh của người dân quê. Người dân quê tìm thấy sự an ủi, che chở từ
Mẫu, để tạm thời quên đi những cay cực trong cuộc đời trần tục. Mỗi cuộc hầu đồng chính
là sự thăng hoa siêu thoát của một tập thể. Cô đồng Mùi lâng lâng, các hầu dâng, con nhang
đệ tử đều ngây ngất đắm say. Trong hoàn cảnh mất nước, những tín ngưỡng chính thống đã
suy tàn, người dân quê tìm thấy sự nương tựa tinh thần ở tín ngưỡng thờ Mẫu.
Một không gian nghệ thuật có ý nghĩa là vạch nối giữa không gian hẹp và không gian
rộng đó chính là không gian lễ hội. Lễ hội được những con người ở không gian hẹp tổ chức
nhưng hướng đến không gian rộng. Lễ hội là lúc giải tỏa những khát khao, ẩn ức dấu kín
của mỗi người. Trong lễ hội không có quyền lực thống trị, không có những luật lệ, quy định
khắt khe, ở đó chỉ có niềm vui, sự tự do, hạnh phúc. Trong Hội Kẻ Đình (Mẫu Thượng
Ngàn), mọi người được thi thố tài năng: đua thuyền, đấu vật, thi thổi cơm, dâng hương đền
Mẫu… đặc biệt là lễ rước ông Đùng bà Đà và tục “trải ổ”. Tục “trải ổ” là một điều hấp dẫn
của hội, khi đó con người được tự do yêu đương, tự do dâng hiến mà không phải chịu sự áp
đặt của bất cứ luật lệ nào. Trong lễ hội, con người được sống trong sự tự do ít ỏi nơi không
gian hẹp.
Thời gian nghệ thuật – Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn
Xuân Khánh không chỉ là thời gian – không gian cho nhân vật sống, hoạt động mà đã trở
thành một kí hiệu nghệ thuật thể hiện quan niệm, tư tưởng của nhà văn. Thời gian nghệ
thuật là thời gian dồn nén, phức tạp đặt mỗi nhân vật vào sự thử thách, đồng thời đó là thời
gian của tình yêu, hạnh phúc. Không gian nghệ thuật là sự đối lập, tương phản giữa không
gian hẹp và không gian rộng. Đó chinh là sự đối lập giữa thực tại con người sống và ước
mơ, khát khao vượt lên thực tại. Thời gian – không gian nghệ thuật là một thành tố tạo nên
UTóm lại:U Trong tiểu thuyết lịch sử của mình, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh có sự tìm
sự thành công của tác phẩm.
tòi, khám phá về mặt nghệ thuật. Sự tìm tòi, khám phá nghệ thuật đó thể hiện ở nhiều mặt,
nhiều phương thức biểu hiện khác nhau. Những đổi mới đó có rất nhiều ý nghĩa trong tiến
trình phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam. Nhà văn không chỉ có sự kết hợp hài hòa
giữa tính chân thực lịch sử và sự hư cấu, tưởng tượng mà còn đặt sự hư cấu, sáng tạo là tiêu
chí quan trọng cho người nghệ sĩ khi sáng tác. Theo đó, tiểu thuyết lịch sử không còn là sự
minh họa lịch sử mà trở thành tiểu thuyết thực sự. Sự đổi mới mạnh mẽ thể hiện ở nghệ
thuật trần thuật. Từ điểm nhìn trần thuật đến giọng điệu, kết cấu đều mang đến sự bất ngờ,
hấp dẫn, thể hiện tài năng của nhà văn. Thời gian – Không gian nghệ thuật góp phần tô đậm
thêm cuộc đời, số phận của nhân vật. Những đóng góp về mặt nghệ thuật của Nguyễn Xuân
Khánh thực sự là những đóng góp quan trọng cho tiểu thuyết lịch sử nước nhà. Đưa tiểu
thuyết lịch sử bước sang giai đoạn mới.
KẾT LUẬN
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã đi được một chặng đường dài
cùng với những thăng trầm của lịch sử dân tộc. Tiểu thuyết lịch sử giai đoạn từ 1975 đến
nay đã có những thành tựu đáng ghi nhận, đặc biệt là những năm đầu của TK XXI. Các nhà
tiểu thuyết lịch sử đã dần dần xóa bỏ “khoảng cách sử thi” đưa lịch sử trở nên gần gũi với
cuộc sống ngày hôm nay. Lịch sử không chỉ là nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử đã được ghi
chép trong chính sử mà còn là lịch sử của nhân dân, của cuộc sống đời thường được các nhà
văn hư cấu, tưởng tượng. Đồng thời, các nhà văn đã chú ý đến tính chất văn chương, chất
tiểu thuyết. Tác phẩm không còn là cái nhìn đơn giản, một chiều mà có cái nhìn đa chiều,
được soi sáng từ nhiều góc độ. Tác phẩm là một bản hòa âm đa thanh, phức điệu. Chính vì
vậy, chúng ta cần có một quan niệm mới về tiểu thuyết lịch sử.
Trong giai đoạn từ sau 1975 đến nay, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh với những cuốn
tiểu thuyết đồ sộ, công phu, có nhiều đổi mới đã trở thành một hiện tượng trong nền văn học
Việt Nam. Nguyễn Xuân Khánh sáng tác từ những năm kháng chiến chống Mỹ nhưng do sự
cố nghề nghiệp nhà văn bị “treo bút”. Không nản lòng, ông vẫn sáng tác với bút danh khác
(Đào Nguyễn) và lặng lẽ tìm tòi, suy ngẫm để rồi cho ra đời những tác phẩm có chất lượng.
Năm 2000, nhà văn cho ra đời tác phẩm Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly ra đời đã gây xôn xao dư
luận và đạt được nhiều giải thưởng cao quý. Sáu năm sau, nhà văn tiếp tục gây ngạc nhiên
bạn đọc với tác phẩm Mẫu Thượng Ngàn. Mẫu Thượng Ngàn là kết tinh những suy tư,
nghiền ngẫm của một nhà văn luôn nghĩ về văn hóa Việt, dân tộc Việt. Năm 2011, ở tuổi đã
ngót nghét tám mươi nhưng bút lực vẫn còn dồi dào, ông tiếp tục dâng tặng đời tác phẩm
Đội gạo lên chùa. Đây thực sự là những tác phẩm tạo nên dấu ấn lớn trong nền văn học dân
tộc. Nếu bình chọn cho nhà tiểu thuyết tiêu biểu nhất những năm đầu TK XXI, tôi sẽ bỏ một
phiếu cho nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ khảo sát hai
cuốn tiểu thuyết lịch sử của ông là: Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng Ngàn. Đội gạo lên chùa mới
ra đời tháng 7/2011 nên chúng tôi chưa có điều kiện nghiên cứu. Chúng tôi hy vọng sẽ tìm
hiểu sâu hơn, kỹ hơn, toàn diện hơn những sáng tác của Nguyễn Xuân Khánh trong một
công trình khác.
Về mặt nội dung, những cuốn tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh đề cập đến
những vấn đề thiết thực, có nhiều ý nghĩa trong cuộc sống ngày hôm nay. Nhà văn viết về
lịch sử thời quá khứ nhưng là để soi chiếu hiện tại và tương lai. Những vấn đề mà ông cha ta
đã đối mặt, đã giải quyết cũng là những vấn đề mà thế hệ ngày nay và mai sau tiếp tục làm.
Trong Hồ Quý Ly là vấn đề giữa đổi mới và bảo thủ. Đổi mới là một tất yếu của lịch sử, có
đổi mới mới có tiến bộ và đạt được những thành tựu to lớn hơn. Nhưng vấn đề đặt ra là đổi
mới những gì và cách thực hiện ra sao thì đó vẫn là một câu hỏi lớn. Bất chấp tất cả để đổi
mới, đổi mới không phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, không được dân tin và
làm theo thì chắc chắn sẽ thất bại. Bi kịch của nhà cải cách Hồ Quý Ly vẫn luôn là bài học
cho chúng ta ngày hôm nay. Vấn đề trong Mẫu Thượng Ngàn chính là vấn đề văn hóa Việt
trong cuộc đụng độ với văn hóa phương Tây. Có thể nói rằng đây là cuộc đụng độ văn hóa
lớn nhất trong lịch sử dân tộc ta. Từ hàng nghìn năm qua, nước ta chủ yếu tiếp xúc với văn
hóa Trung Hoa, một nền văn hóa có nhiều nét gần gũi với văn hóa Việt. Cả văn hóa Trung
Hoa lẫn Việt Nam đều là văn hóa phương Đông. Còn nền văn hóa phương Tây là một nền
văn hóa hoàn toàn khác lạ. Cuộc đụng độ này đã gây ra cho đất nước ta biết bao đau thương,
mất mát nhưng cũng là một cơ hội để chúng ta mở rộng tầm nhìn, hội nhập với thế giới.
Điều này càng có ý nghĩa hơn trong giai đoạn hiện nay, khi thế giới đang trong xu thế hội
nhập, hợp tác. Chúng ta có điều kiện để tiếp xúc với tất cả các nền văn hóa của các dân tộc
trên thế giới. Những luồng văn hóa tốt đẹp, tích cực lẫn những luồng văn hóa “đen” “độc
hại” xa lạ với nền văn hóa dân tộc đều tràn vào. Làm thế nào để vừa hội nhập, tiếp thu tinh
hoa văn hóa thế giới vừa giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một điều không hề đơn giản.
Thực tế hiện nay có rất nhiều bạn trẻ tiếp thu những luồng văn hóa xấu, làm băng hoại
những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc như: lối sống thực dụng, thích hưởng thụ, ăn mặc
hở hang, lố lăng… Từ ngàn xưa, ông cha ta đã đấu tranh kiên cường để giữ gìn bản sắc, tinh
hoa văn hóa dân tộc. Văn hóa Việt sẽ như thế nào trong tương lai phụ thuộc vào cách làm,
cách ứng xử của con người ngày hôm nay.
Về nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã có nhiều đổi mới, cách tân. Tác giả
quan niệm tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết. Vậy nên, nhà văn ưu tiên sự hư cấu,
tưởng tượng trong tiểu thuyết lịch sử của mình. Tôn trọng tính chân thực lịch sử nhưng
không lấy đó làm mục tiêu sáng tác nghệ thuật. Nhà văn xem lịch sử chỉ là cái phông nền,
bối cảnh cho sự sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật trần thuật có nhiều mới mẻ, hiện đại. Lần
đầu tiên trong tiểu thuyết lịch sử nước nhà có một nhân vật lịch sử xưng “tôi”, đó là Hồ
Nguyên Trừng (Hồ Quý Ly). Tạo nên điểm nhìn bên trong, kết hợp linh hoạt nhiều điểm
nhìn, các tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh đã thể hiện được sự bộn bề, phức tạp,
đa chiều của tiểu thuyết. Tác giả có một giọng điệu phù hợp với từng đối tượng nhân vật,
từng tác phẩm. Hồ Quý Ly có một giọng điệu vừa trang trọng vừa gần gũi phù hợp với thái
độ cảm thông của nhà văn khi viết về một nhà cải cách lớn của dân tộc, một con người đến
quá sớm trong xã hội còn trì trệ, cổ hủ. Mẫu Thượng Ngàn lại có giọng điệu hóm hỉnh, hài
hước, suồng sả, thân mật khi viết về văn hóa dân gian, văn hóa làng. Văn hóa làng chính là
cội rễ của văn hóa dân tộc và cũng chính là nơi gìn giữ nền văn hóa dân tộc. Kết cấu đa
dạng, linh hoạt, không theo khuôn mẫu có sẵn đã làm cho tiểu thuyết của Nguyễn Xuân
Khánh luôn lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. Thời gian – Không gian nghệ thuật trở thành một
kí hiệu nghệ thuật thể hiện quan niệm, tư tưởng của nhà văn. Với những tìm tòi, cách tân
trong nghệ thuật biểu hiện, Nguyễn Xuân Khánh đã trở thành nhà tiểu thuyết lịch sử tiên
phong, mở đường cho những đổi mới của các tác phẩm về sau. Trong những năm đầu TK
XXI, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đã thực sự lên ngôi trở thành dòng chủ đạo trong nền văn
học dân tộc.
Với luận văn này, chúng tôi hy vọng mang đến một cách nhìn sâu rộng về tiểu thuyết
lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh. Tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh và tiểu
thuyết lịch sử những năm đầu TK XXI vẫn là một đề tài thú vị, hấp dẫn đầy hứa hẹn để các
nhà nghiên cứu tiếp tục khai phá, tìm tòi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thị An (2007), “Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu
Thượng Ngàn”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (6), tr. 27 – 47.
[2] Hà Ân (1979), “Vài ý kiến về sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong truyện lịch sử
phục vụ các em”, Tạp chí văn học, (3), tr. 97.
[3] Xuân Ba (2010), “Tiểu thuyết lịch sử - duyên nợ một nhà văn”, Văn nghệ, (9), tr. 13.
[4] M. Bakhitin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà
Nội.
[5] Nguyễn Thị Bình (2011), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi
mới đến nay, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội.
[6] Dorothy Brewster và John Burrell (Dương Thanh Bình dịch) (2003), Tiểu thuyết hiện
đại, NXB Lao động, Hà Nội.
[7] Hoàng Cát (2000), “Tiểu thuyết “Hồ Quý Ly” – thưởng thức và cảm nhận”, Tạp chí
Sách, (11), tr. 25 – 26.
[8] Quỳnh Châu (2006), “Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Tuổi 74 và cuốn tiểu thuyết mới”,
Văn nghệ công an, (37), tr. 7.
[9] Nguyễn Huệ Chi, Vũ Thanh (1996), “Những đóng góp của Nguyễn Tử Siêu cho loại
hình tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đầu thế kỉ “, Tạp chí văn học, (5), tr. 17 – 20.
[10] Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa – Thông
tin, Hà Nội.
[11] Nguyễn Văn Dân, “Mấy xu hướng chủ yếu trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương
đại”, Văn nghệ, (11), tr. 13.
[12] Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nhà xuất bản khoa học
xã hội, Hà Nội.
[13] Nguyễn Sĩ Đại (2006), “Mẫu Thượng Ngàn và những câu chuyện tình yêu”, Nhân Dân
cuối tuần, (31), tr. 13.
[14] Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật phương Tây hiện đại, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
[15] Phan Cự Đệ (1974), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập 2), NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
[16] Phan Cự Đệ (2002), “Tiểu thuyết lịch sử của Hella S.Haasse”, Tạp chí văn học, (3), tr.
12 – 19.
[17] Phan Cự Đệ (2003), “Tiểu thuyết lịch sử”, Tạp chí Nhà văn, (1), tr. 55 – 79.
[18] Trung Trung Đỉnh (2001), “Tiểu thuyết Hồ Quý Ly và “giải pháp mới” cho tiểu thuyết
lịch sử nước nhà”, Văn nghệ quân đội, (10), tr. 14.
[19] Cao Văn Định (2010), “Người anh hùng Hồ Quý Ly trong thơ Nguyễn Trãi”, Văn
nghệ, (9), tr. 11.
[20] Yveline Feray (2002), Vạn Xuân, NXB Văn học và Sudestasie, Hà Nội.
[21] Nguyễn Mộng Giác (2004), Sông Côn mùa lũ, NXB Văn học và Trung tâm nghiên cứu
quốc học, Huế.
[22] Hoàng Quốc Hải (2005), Văn hóa phong tục, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[23] Hoàng Quốc Hải ( 2006), Bão táp cung đình, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[24] Hoàng Quốc Hải (2006), Thăng Long nổi giận, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[25] Hoàng Quốc Hải (2006), Huyền Trân công chúa, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[26] Hoàng Quốc Hải (2006), Vương triều sụp đổ, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[27] Hoàng Quốc Hải (2010), Thiền sư dựng nước, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[28] Hoàng Quốc Hải (2010), Con ngựa nhà Phật, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[29] Hoàng Quốc Hải (2010), Con đường định mệnh, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[30] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[31] Võ Thị Hảo (2003), Giàn thiêu, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[32] Trương Thị Hòa (1997), Thể chế chính trị, hành chính và pháp quyền trong cải cách
Hồ Quý Ly, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[33] Thu Huyền (2006), “Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Với nhà văn trải nghiệm không có
gì là khó”, Văn nghệ trẻ, (30), tr. 3.
[34] Hoài Hương (2008), “Nhà văn Hà Ân, Đề tài lịch sử không bao giờ xưa”, Văn nghệ trẻ,
(44), tr. 9.
[35] Nguyễn Xuân Khánh (2007), Hồ Quý Ly, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[36] Nguyễn Xuân Khánh (2007), Mẫu Thượng Ngàn, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[37] Nguyễn Xuân Khánh (2011), Đội gạo lên chùa, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[38] Milan Kundera (Nguyên Ngọc dịch), Nghệ thuật tiểu thuyết, NXB Văn hóa thông tin
và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
[39] Linh Lê (2006), “Văn hóa tại Mẫu”, Thể thao và Văn hóa, (84), tr. 43.
[40] Mai Quốc Liên (2003), “Sông Côn mùa lũ – Con sông của những số phận đời thường
và những số phận lịch sử”, Tạp chí Nhà văn, (4), tr. 17.
[41] Ngô Sĩ Liên (2006), Đại Việt sử kí toàn thư, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
[42] Bùi Văn Lợi (1999), Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ XX đến
1945, Luận án tiến sĩ, Trường ĐHSP, Hà Nội.
[43] Bùi Văn Lợi (1999), “Mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật
trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam nửa đầu TK XX”, Tạp chí Văn học, (9), tr. 83 – 90.
[44] Phương Lựu (2004), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[45] Nguyễn Thị Tuyết Minh (2009), “Khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử trong tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr. 25.
[46] Hoài Nam (2006), “Sức hấp dẫn của cái được viết”, Văn nghệ, (29), tr. 6.
[47] Hoài Nam (2008), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Văn nghệ, (45), tr. 3.
[48] Phạm Xuân Nguyên (2001), “Đọc Hồ Quý Ly”, Tạp chí Tia sáng, (1), tr. 12.
[49] Nhiều tác giả (2000), “Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly”, Văn nghệ, (10), tr. 7.
[50] Đỗ Hải Ninh (2003), Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong sự vận động của tiểu thuyết lịch sử
nửa sau TK XX, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP, Hà Nội.
[51] Lương Ninh (2000), Lịch sử Việt Nam giản yếu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[52] Nguyễn Khắc Phê (2000), “Sông Côn mùa lũ – một bộ tiểu thuyết công phu”, Tạp chí
Nhà văn, (4), tr. 16.
[53] Ngô Văn Phú (1988), Trần Thủ Độ - Ngôi vua và những chuyện tình, NXB Hội nhà
văn, Hà Nội.
[54] Ngô Văn Phú (1998), Gươm thần Vạn Kiếp, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
[55] Ngô Văn Phú (2003), Chiếc ngai vàng, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
[56] Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam TK XI – XVIII (tập 1), NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
[57] Thanh Tâm (2006), “Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Tiểu thuyết Mẫu Thượng Ngàn có
thể được viết lại lần thứ 3!”, Người Hà Nội, (37), tr. 7.
[58] Bùi Anh Tấn (2002), Ức Trai – Tâm thượng quang khuê tảo, NXB Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
[59] Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (2005), Phong tục làng xóm Việt Nam, NXB Phương
Đông, Hà Nội.
[60] Phan Thuận Thảo (2005), Tục lệ cưới gả, tang ma của người Việt xưa, NXB Tổng hợp
TP HCM, Hồ Chí Minh.
[61] Thụy Thảo (2006), “Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Tính nữ trong “Mẫu Thượng
Ngàn” rất mạnh”, Phụ nữ Việt Nam, (37), tr. 12.
[62] Nguyễn Quang Thân (2011), Hội thề, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
[63] Nguyễn Quang Thân (2011), “Tiểu thuyết lịch sử nơi luôn có những nhìn nhận trái
chiều”, Văn nghệ, (5), tr. 12.
[64] Nguyễn Thị Phương Thoa (2007), Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy
Tưởng, Luận văn thạc sĩ văn học, Trường Đại học sư phạm HCM, HCM.
[65] Bích Thu (2007), “Nguyễn Huy Tưởng – nhà chép sử bằng văn chương”, Tạp chí văn
học, (6), tr. 71 – 84.
[66] Phạm Hồ Thu (2006], “Mẫu Thượng Ngàn bài ca buồn của vẻ đẹp Việt”, Người Hà
Nội, (30), tr. 10.
[67] Phan Trọng Thưởng (1999), “Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi và một số vấn đề lí luận
sáng tác về đề tài lịch sử”, Tạp chí Văn học, (11), tr. 17 – 25.
[68] Hoàng Tiến (1999), Đọc tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải, Văn nghệ, (2), tr. 7.
[69] Phạm Toàn (2000), “Đọc tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí
xưa và nay, (10), tr. 8.
[70] Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam (1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
[71] Nguyễn Tý (2003), “Nhà văn Thái Vũ – người trung thành viết tiểu thuyết lịch sử”,
Văn nghệ, (39), tr. 5.
[72] Nguyễn Hoàng Sơn (2000), “Đọc Hồ Quý Ly”, Phụ san Văn nghệ quân đội, (57), tr. 3.
[73] Nguyễn Thẩm Văn (2010), “Nhà văn không có tuổi”, Văn nghệ, (15), tr.11.
[74] Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90,
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, TP HCM.
[75] Thái Vũ (2001), “Tiểu thuyết lịch sử trong dòng văn hóa dân tộc”, Tạp chí Sông
Hương, (6), tr. 6
[76] Chu Minh Vũ (2006), “Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: “Đề cập đến nhục cảm có gì là
xấu””, Thanh niên, (203), tr.15.
[77] Đỗ Ngọc Yên (2006), “Có một nền văn hóa - Mẫu như thế”, Sức khỏe và đời sống, (5),
tr. 12.