ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THẾ LƢỢNG

TRƢỜNG CA NGUYỄN TRỌNG TẠO

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THẾ LƢỢNG

TRƢỜNG CA NGUYỄN TRỌNG TẠO

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM

Mã số: 60220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lưu Khánh Thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

THÁI NGUYÊN - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các

nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chƣa đƣợc công bố

trong bất cứ một công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thế Lượng

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài: “Trường ca Nguyễn Trọng

Tạo”, chúng tôi đã nhận đƣợc sự hƣớng dẫn tận tình, sự giúp đỡ quý báu của

PGS. TS Lƣu Khánh Thơ, các thầy cô giáo khoa Ngữ văn trƣờng ĐHSP- ĐH

Thái Nguyên, Viện Văn học, Ban giám hiệu, Tổ Ngữ văn - GDCD trƣờng

THPT Hạ Hòa- Phú Thọ.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lƣu Khánh Thơ, ngƣời đã

trực tiếp hƣớng dẫn để em hoàn thiện luận văn này.

Em xin cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn trƣờng

ĐHSP- ĐH Thái Nguyên, Viện Văn học đã góp ý và tạo điều kiện giúp đỡ về

tƣ liệu để luận văn của em đƣợc hoàn thành.

Tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, động viên và tạo mọi điều kiện

của Ban giám hiệu, Tổ Ngữ văn- GDCD cùng các bạn đồng nghiệp trƣờng

THPT Hạ Hòa- Phú Thọ trong quá trình tôi học tập và hoàn thành luận văn.

Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè cùng gia đình và

những ngƣời thân đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp

tôi hoàn thành tốt khoá học và công trình này.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013

Tác giả luận văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Thế Lƣợng

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cảm ơn ........................................................................................................... i

Lời cam đoan ....................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

Chƣơng 1: ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI TRƢỜNG CA VÀ CHẶNG

ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TRỌNG TẠO .................................. 9

1.1. Cơ sở lý luận về thể loại trường ca ............................................................ 9

1.1.1. Khái niệm trường ca ............................................................................9

1.1.2. Một số ý kiến về trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ......... 11

1.1.3. Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại ........ 13

1.1.3.1. Trước 1945- những tiền đề và sự hình thành thể loại ............... 13

1.1.3.2. Sau 1945- thời kì phát triển và khẳng định của trường ca. ....... 15

1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại ............................................................. 17

1.2. Chặng đường sáng tác của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo .......................... 20

1.2.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác ........................................... 20

1.2.2. Quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo về thơ ....................................... 23

1.2.3. Quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo về Trường ca ............................ 25

Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG THẨM MỸ TRONG TRƢỜNG CA

NGUYỄN TRỌNG TẠO ................................................................................ 28

2.1. Hình tượng người chiến sĩ ....................................................................... 28

2.1.1. Người chiến sĩ trước cuộc chiến tranh vệ quốc ................................ 28

2.1.2. Người chiến sĩ trong trận chiến ....................................................... 31

2.1.3. Lý tưởng và hành trình đi tới chiến thắng ........................................ 33

2.1.4. Khát vọng hạnh phúc ........................................................................ 47

2.2. Hình tượng người mẹ ............................................................................... 52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.3. Hình tượng Nhân dân .............................................................................. 55

2.4. Hình tượng Đất nước ............................................................................... 59

Chƣơng 3: ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRƢỜNG CA

NGUYỄN TRỌNG TẠO ................................................................................ 64

3.1. Cốt truyện và nhân vật ............................................................................. 64

3.1.1. Cốt truyện ......................................................................................... 64

3.1.2. Nhân vật ............................................................................................ 67

3.2. Hình thức tổ chức văn bản ....................................................................... 69

3.2.1. Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ ................................................ 69

3.2.2. Ngôn ngữ .......................................................................................... 71

3.2.2.1. Ngôn ngữ đời sống .................................................................... 71

3.2.2.2. Ngôn ngữ mang sắc thái dân gian ............................................. 72

3.2.2.3. Sự “lạ hóa” ngôn ngữ ................................................................ 75

3.2.3. Thể thơ .............................................................................................. 76

3.2.3.1. Thơ tự do ................................................................................... 76

3.2.3.2. Tạo gián cách và khoảng lặng trong trường ca ......................... 79

3.2.3.3. Thể thơ lục bát ........................................................................... 81

3.2.3.4. Vĩ thanh ..................................................................................... 83

3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 84

3.3.1. Giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi....................................... 85

3.3.2. Giọng điệu bi thương ........................................................................ 87

3.3.3. Giọng điệu trữ tình, triết lý ............................................................... 89

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 98

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Dân tộc Việt Nam anh dũng và kiên cường đã trải qua biết bao cuộc

đấu tranh, cuộc kháng chiến bền bỉ và oanh liệt. Để hôm nay, trong những

trang sử dân tộc, chúng ta không khỏi tự hào về một thời cha anh đã xả thân

bảo vệ non sông đất nước. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những dư âm của nó

vẫn còn nguyên vẹn trong những trang viết của những nhà thơ, nhà văn- chiến

sĩ. Với sự nhạy cảm, trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến nơi tuyến đầu của

người cầm bút, mỗi tác phẩm ra đời trong dòng chảy liên tục của văn học Việt

Nam hiện đại là những chiêm nghiệm, phản ánh và những suy tư của nhà văn

về cuộc chiến tranh.

Ghi lại một cách chân thực diện mạo của cuộc kháng chiến chống đế

quốc Mỹ, văn học Việt Nam hiện đại đã ghi nhận sự đóng góp tích cực của

nhiều thể loại. Với dung lượng khá đồ sộ cùng sự đa dạng về cấu trúc, trường

ca hiện đại có khả năng thâu tóm và phản ánh những nội dung khá hoành

tráng và cảm hứng mãnh liệt mà đậm chất trữ tình, giàu triết lý.

Nếu như trong chiến tranh, độc giả từng biết đến những cây bút trường

ca nổi tiếng, để lại dấu ấn sâu đậm trong thời bom đạn như Tố Hữu, Lê Anh

Xuân, Nguyễn Khoa Điềm…thì trong nền văn học Việt Nam sau năm 1975,

trong sự phát triển liên tục của nó, người đọc được đón nhận một thế hệ các

cây bút trường ca trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ và tiếp tục là

những người tiếp nối sự phát triển của trường ca thời hậu chiến. Cụ thể như

Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Thu Bồn, Nguyễn Đức Mậu, Trần Mạnh Hảo…

1.2. Nhắc đến những nhà thơ viết trường ca thời hậu chiến, chúng ta không

thể không nhắc tới Nguyễn Trọng Tạo, một gương mặt thơ, trường ca tiêu

biểu. Là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Trọng

Tạo trong hành trình thơ bền bỉ và bám sát hiện thực cuộc kháng chiến đã tạo

cho mình một phong cách riêng dễ nhận thấy và một thế giới thẩm mỹ giàu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chất hiện thực.

1.3. Với sự bền bỉ và sức sáng tạo không ngừng, đã giúp cho Nguyễn

Trọng Tạo sớm khẳng định tên tuổi và phong cách qua những giải thưởng văn

học. Đó là những giải thưởng như: Giải thƣởng thơ Văn học nghệ thuật Nghệ

An (1969); giải thƣởng thơ hay báo Văn nghệ Quân đội, Nhân dân (1978); 2

lần giải thƣởng Văn học nghệ thuật Cố đô Huế; giải thƣởng văn học nghệ

thuật Hồ Xuân Hƣơng…Và gần đây nhất là giải thƣởng Nhà nƣớc về văn học

nghệ thuật (2012).

1.4. Nguyễn Trọng Tạo là một trong số không nhiều nhà thơ thời hậu

chiến viết trường ca và đã gặt hái được những thành công nhất định. Có thể kể

đến những tập trường ca tiêu biểu của ông như Con đƣờng của những vì sao

(Trƣờng ca Đồng Lộc) (1981), Tình ca ngƣời lính (1984). Trường ca của

Nguyễn Trọng Tạo có dung lượng lớn, kết cấu chặt chẽ, giàu chất trữ tình và

tính sử thi. Cho đến nay, những tập trường ca của Nguyễn Trọng Tạo luôn là

lời mời gọi độc giả và những người nghiên cứu đi sâu tìm hiểu.

1.5. Hiện nay, trong chương trình đào tạo tại khoa Ngữ văn ở các trường

Đại học, nhiều tập trường ca đã được đưa vào để giảng viên, sinh viên và học

sinh nghiên cứu, giảng dạy, học tập. Tìm hiểu và nghiên cứu trường ca

Nguyễn Trọng Tạo sẽ góp phần đưa một cái nhìn tổng quát về thế giới nghệ

thuật trường ca Nguyễn Trọng Tạo, giúp ích một phần nhỏ cho công tác

nghiên cứu, giảng dạy và học tập trường ca trong các trường Đại học và

chuyên nghiệp hiện nay.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Trƣờng ca Nguyễn

Trọng Tạo trên cơ sở tiếp thu những đóng góp của các nhà nghiên cứu từ

những công trình trước đó về thơ Nguyễn Trọng Tạo. Từ đó có một cái nhìn

toàn vẹn hơn về trường ca của một cây bút mà tên tuổi đã được khẳng định.

2. Lịch sử vấn đề

Vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, thơ Nguyễn Trọng Tạo được xem

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

như một trong ba giọng điệu đáng chú ý: Nguyễn Trọng Tạo, Ý Nhi, Dư Thị

Hoàn. Trong đó, Nguyễn Trọng Tạo là cây bút “luôn mải miết kiếm tìm” [46,

tr. 9] và hướng thơ về gần với đời thường, với con người. Khi khảo sát những

bài viết, công trình nghiên cứu về Nguyễn Trọng Tạo, chúng tôi nhận thấy có ba

lĩnh vực: Thơ, lý luận phê bình, trường ca.

2.1. Nghiên cứu về thơ Nguyễn Trọng Tạo

Đi vào khám phá thế giới thơ Nguyễn Trọng Tạo, đã có nhiều công

trình khảo cứu trên các phạm vi và phương thức khác nhau:

Hoàng Cầm với Đọc lại Đồng dao cho ngƣời lớn (Tập thơ của một

ngƣời bạn quên tuổi) là sự đồng cảm của hai tâm hồn nghệ sĩ. Nhà thơ khẳng

định: “Rõ ràng thơ Trọng Tạo đi thẳng ngay vào cái đang thực để rồi phiêu

diêu, tản mạn trong hƣ vô…” [7].

PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp trong lời tựa tuyển tập Nguyễn Trọng Tạo

thơ và trƣờng ca, đã tiếp cận Nguyễn Trọng Tạo, cái chớp mắt với nghìn năm,

nhìn từ phương diện cá tính sáng tạo, đưa lại mỹ cảm mới trong cách tiếp

nhận: “ Trên nền ổn định của thể loại, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cách xoay

trở. Anh chơi vần, tạo ấn tƣợng thị giác bằng cách biến đổi cấu trúc dòng thơ,

xây dựng những hình thức nhịp điệu, tiết điệu mới…”[46, tr. 5-6].

Nguyễn Thụy Kha trong bài Ngƣời tận lực cho thơ cảm nhận về sự bền

bỉ và sáng tạo không ngừng của cây bút thơ Nguyễn Trọng Tạo: “ Về thơ,

cũng ngay từ dạo ấy, Tạo đã có những đột phá mang khát vọng cách tân nhƣ

không nhiều nhà thơ khác thời đầu thanh bình…” [46, tr. 532-533].

Trong bài viết Thơ Nguyễn Trọng Tạo một tầm nhìn tƣơi mới về văn

hóa Việt Nam, tác giả, nhà thơ Mỹ Mary E.Coroy sau khi cảm nhận tập thơ

song ngữ Ký ức mắt đen đã đi đến nhận định: “ Thơ Nguyễn Trọng Tạo không

sợ hãi đặt ra những câu hỏi: những câu hỏi cho ngƣời đọc, cho nhà thơ, và

cho cả vũ trụ”. [46, tr. 541-542].

Hoàng Phủ Ngọc Tường với lời tựa ngắn cho tập Đồng dao cho ngƣời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lớn, đã tiếp cận phong cách thơ Nguyễn Trọng Tạo (chủ yếu là tập Đồng dao)

từ góc nhìn Ngƣời Ham Chơi: “ ĐỒNG DAO CHO NGƢỜI LỚN, theo cảm

nhận của tôi, là tiếng hát ngu ngơ của Ngƣời Ham Chơi…”[43, tr. 5-8].

Tất cả những bài viết trên, các tác giả chủ yếu tiếp cận theo hướng đi

vào tìm hiểu hành trình sáng tạo nghệ thuật, từ đó, đưa ra những nhận định

chung về đặc điểm phong cách thơ Nguyễn Trọng Tạo qua các thời kỳ.

2.2. Nghiên cứu về lý luận phê bình Nguyễn Trọng Tạo

GS. Hoàng Ngọc Hiến trong Lời bạt cho cuốn Văn chƣơng cảm & luận

của Nguyễn Trọng Tạo có nhận định: “ …Nguyễn Trọng Tạo cảm và luận bằng

“trí tuệ của trái tim”. Luận của anh ở ngay trong sự cảm của anh”. [44, tr. 335-

336].

Nhà thơ Thanh Thảo trong cuốn phê bình và tiểu luận Mãi mãi là bí

mật đã có nhận định khá sâu sắc về lĩnh vực lý luận phê bình Nguyễn Trọng

Tạo: “ Những cảm nhận của Tạo nhiều khi còn bất ngờ và sâu sắc hơn là

những nhận định hay là những nhận xét thông minh của một nhà phê bình

chuyên nghiệp” [49, tr. 281].

PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Nguyễn Trọng Tạo cảm và

luận văn chƣơng (Nhân đọc Văn chƣơng – cảm và luận của Nguyễn Trọng

Tạo – NXB Văn hóa Thông tin 1998) đã có những nhận định khá sâu sắc và

tinh tế về phê bình Nguyễn Trọng Tạo: “Trong “cảm” và “luận” vừa có sự

sắc sảo của ngƣời yêu nghề vừa có tâm hồn và nhân cách của ngƣời cầm bút:

quyết liệt và chân thành” [10].

2.3. Nghiên cứu về trường ca Nguyễn Trọng Tạo

Trong bài viết: Ứa nghẹn những bức bách đời thƣờng, tác giả Dương

Kỳ Anh có nhận định về những chặng đường thơ của Nguyễn Trọng Tạo và

khẳng định đề tài quê hương đã xuất hiện trong trường ca của anh: “Nguyễ n

Trọng Tạo đã có hơn chục tập thơ và trƣờng ca , viế t về nhiề u đề tà i, nhiề u sƣ̣

kiệ n …” [1].

Đi sâu nghiên cứu về sự xuất hiện của thể loại trường ca, trong bài viết

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trƣờng ca với tƣ cách là một thể loại mới, tác giả Nguyễn Văn Dân có nhấn

mạnh tính sử thi của trường ca qua một số trường ca nổi tiếng của một số tác

giả. Trong đó, có trường ca Con đƣờng của những vì sao của Nguyễn Trọng

Tạo: “Thậm chí, trong những năm đầu của giai đoạn sau 1975, chất sử thi

vẫn còn để lại dấu ấn quan trọng trong một số trƣờng ca: … Con đƣờng của

những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo (1981),...” [8, Tr. 15-16].

Tìm hiểu hành trình thơ và con đường thơ mà Nguyễn Trọng Tạo đã

chọn, ở bài viết Nguyễn Trọng Tạo ngƣời chọn thơ làm nghiệp, Tạp chí Nhà

văn, số tết năm 2012, tác giả Cao Xuân Phát có nhận định về hai tập trường ca

của Nguyễn Trọng Tạo: “…Cả 2 trƣờng ca này đều mang tính sử thi nhƣng là

"sử thi lãng mạn". Và tôi cảm nhận đƣợc từ đó, cuộc kháng chiến thật hào

hùng nhƣng cũng rất trữ tình…” [34, tr. 15].

Cùng nằm trong hướng nghiên cứu về thể loại trường ca, tác giả Diêu

Lan Phương qua bài viết: Yếu tố tự sự trong trƣờng ca trữ tình hiện đại có

nhắc tới tập trường ca “Con đƣờng của những vì sao” của Nguyễn Trọng Tạo:

“Trƣờng ca "Con đƣờng của những vì sao" (Nguyễn Trọng Tạo) lại tồn tại song

song hai loại nhân vật: trữ tình và trần thuật gần nhƣ độc lập...” [36, tr. 22-25].

Khi nghiên cứu về chất văn xuôi trong thơ Việt Nam hiện đại qua bài

viết: Thơ văn xuôi trong sự vận động của thể loại thơ sau 1975, sau khi khẳng

định về cách tổ chức câu thơ văn xuôi gần với câu văn xuôi, PGS. TS. Lưu

Khánh Thơ đã dẫn chứng bằng bài thơ Đêm cộng cảm của Nguyễn Trọng Tạo

và khẳng định: “ …một bài thơ hội tụ đƣợc khá nhiều phẩm chất của thơ văn

xuôi” [24, tr. 393].

Cũng trong hướng nghiên cứu về thơ văn xuôi 1945-1975, tác giả Vũ

Duy Thông trong tuyển tập Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945-

1975, sau khi khẳng định thơ văn xuôi là một hiện tượng đặc biệt của sự đổi

mới thể loại văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, tác giả đã minh chứng

bằng trọn vẹn bài Bạn lính của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.

Trong tiểu luận: Trƣờng ca Việt, một cách nhìn, tác giả Yến Nhi có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhắc đến tập trường ca Con đƣờng của những vì sao để minh chứng cho yếu

tố tự sự trong trường ca Việt những năm gần đây: “Có thể kể tên một số tác

phẩ m tiêu biể u Bài ca chim chơ rao - Thu Bồ n,Theo chân Bá c -Tố Hƣ̃ u , Con

đƣờ ng củ a nhƣ̃ ng vì sao- Nguyễ n Trọ ng Tạ o... thuộ c loạ i thƣ́ nhấ t. Các trƣờng ca

này đều có nhân vật, có cái sƣờn tự sự, thậ m chí cả kị ch tí nh. …” [32].

Như vậy, các bài nghiên cứu đã khảo sát ở trên đã đề cập ít nhiều đến

hai phương diện nội dung và nghệ thuật trường ca Nguyễn Trọng Tạo. Tuy

nhiên, các những vấn đề liên quan đến Nguyễn Trọng Tạo mới chỉ dừng lại ở

việc làm sáng tỏ cho những đặc điểm của thơ văn xuôi, cho thể loại trường ca

nói chung chứ chưa có một công trình nghiên cứu nào riêng biệt đi sâu vào

nội dung và nghệ thuật của trường ca Nguyễn Trọng Tạo. Mà hai bản trường

ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo

còn ẩn chứa nhiều điều cần tìm tòi và khám phá. Lựa chọn và nghiên cứu đề

tài Trƣờng ca Nguyễn Trọng Tạo là việc làm cần thiết mong muốn góp phần

mang lại một cái nhìn toàn diện và khu biệt về những sáng tác trường ca của

một cây bút đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của thể loại trường ca nói

riêng và sự tiếp nối dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

3. Mục đích nghiên cứu

Lựa chọn nghiên cứu đề tài Trƣờng ca Nguyễn Trọng Tạo, mục đích

của chúng tôi ở đề tài này là nhằm khái quát những đặc điểm nổi bật của

trường ca Nguyễn Trọng Tạo cả về phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua

đó, thấy được những đóng góp riêng và những thách thức không nhỏ của nhà

thơ ở thể loại này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Với mục đích khoa học đã đặt ra, luận văn về đề tài Trƣờng ca Nguyễn

Trọng Tạo tập trung xem xét và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến đề

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tài. Cụ thể là cảm hứng sáng tác, các hình tượng thẩm mỹ, những đặc sắc về

nghệ thuật của trường ca Nguyễn Trọng Tạo. Từ đó thấy được những đóng

góp riêng của nhà thơ về thể loại trường ca.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Căn cứ vào mục đích khoa học và đối tượng nghiên cứu của đề tài, ở đề

tài Trƣờng ca Nguyễn Trọng Tạo, chúng tôi không hy vọng sẽ đi khai thác tất

cả các tập thơ và trường ca của Nguyễn Trọng Tạo mà chỉ tập trung đi sâu

vào hai tập trường ca tiêu biểu của nhà thơ sáng tác đầu những năm 1980. Cụ

thể là:

Trƣờng ca Con đƣờng của những vì sao (1981);

Trƣờng ca Tình ca ngƣời lính (1984).

Hai tập trường ca này được in chung trong tuyển tập Nguyễn Trọng Tạo

thơ và trƣờng ca, NXB Hội Nhà văn, H, 2011.

Bên cạnh đó luận văn còn tìm hiểu sáng tác ở các thể loại khác của

Nguyễn Trọng Tạo để hiểu rõ hơn hành trình sáng tạo của tác giả.

Ngoài ra, chúng tôi còn mở rộng phạm vi khảo sát và tham khảo các

tập thơ, trường ca của thế hệ các nhà thơ chống Mĩ để đối sánh, tìm ra những

nét tương đồng và khác biệt trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Với đề tài này, chúng tôi có những hướng tiếp cận tư liệu để triển khai

như sau:

Trƣớc hết, tìm đọc tất cả các trường ca của Nguyễn Trọng Tạo cho đến nay.

Thứ hai, tìm các bài viết, các công trình nghiên cứu bàn về thể loại

trường ca nói chung và trường ca Nguyễn Trọng Tạo nói riêng, các bài viết

của chính tác giả về trường ca.

Thứ ba, khảo sát từng trường ca để khái quát những đặc điểm tiêu biểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của trường ca Nguyễn Trọng Tạo.

Thứ năm, so sánh với một số tác giả cùng thể loại, cùng thời.

Phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các

phương pháp sau: Phương pháp loại hình; phương pháp so sánh; phương pháp

lịch sử; phương pháp thống kê.

6. Đóng góp của luận văn

Tìm hiểu, nghiên cứu trường ca Nguyễn Trọng Tạo, luận văn chỉ ra

những đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong Trường ca của ông.

Qua đó nhằm khẳng định những đóng góp nổi bật về mặt thể loại trường ca

cho thơ ca Việt Nam hiện đại của tác giả. Trên cơ sở những kết quả nghiên

cứu đạt được, luận văn còn là tài liệu tham khảo hữu ích cho những độc giả

quan tâm, yêu thích thơ Nguyễn Trọng Tạo nói riêng và cho việc giảng dạy

thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường nói chung.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận

văn được cấu tạo thành ba chương:

Chƣơng 1: Đặc trưng thể loại trường ca và chặng đường sáng tác của

Nguyễn Trọng Tạo.

Chƣơng 2: Đối tượng thẩm mỹ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Chƣơng 3: Đặc sắc nghệ thuật trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo.

Chƣơng 1

ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI TRƢỜNG CA

VÀ CHẶNG ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TRỌNG TẠO

1.1. Cơ sở lý luận về thể loại trƣờng ca

1.1.1. Khái niệm trƣờng ca

Là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, văn học luôn luôn vận động và

phát triển. Bắt đầu từ những năm 60, văn học Việt Nam xuất hiện một thể loại

mới với tên gọi: Trường ca, “một thể loại văn học làm nên gƣơng mặt riêng

của thơ ca hiện đại Việt Nam” [6, tr. 22].

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Trƣờng ca là tác phẩm dài, bằng thơ,

có nội dung ý nghĩa xã hội rộng lớn” [56, tr. 1057].

Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Trƣờng ca là tác phẩm

thơ có dung lƣợng lớn, thƣờng có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trƣờng ca

cũng đƣợc dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết danh

hoặc có tác giả” [12, tr. 376].

Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng “Trƣờng ca có

dung lƣợng lớn, thƣờng có cốt truyện tự sự hoặc sƣờn truyện trữ tình. Chúng

đƣợc soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và truyện kể hoặc bằng nới

rộng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách cải biên các

cốt truyện cổ xƣa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian. Trƣờng ca

với tƣ cách một thể loại tổng hợp, trữ tình – tự sự, hoành tráng cho phép kết

hợp những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan niệm về

lịch sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới” [5, tr. 363-364].

Khái niệm trường ca có nguồn góc từ văn học phương Tây đã bắt đầu

xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 50 của thế kỉ XX, dùng để gọi tên những

sáng tác dân gian có tính chất sử thi và có độ dài như Đam San, Xinh Nhã...Theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách gọi này thì trường ca đồng nhất với sử thi, anh hùng ca (Iliats, Ôđixê,

Ramyana, Mahabharata...) hoặc các khan của Tây Nguyên. Tuy nhiên trường

ca hiện đại không thể là sự vân động tự nhiên của các trường ca trong lịch sử

như sử thi, anh hùng ca. Mặc dù có những điểm giao thoa song trường ca với

tư cách là một thể loại văn học độc lập luôn có những đặc trưng khu biệt với

sử thi, truyện thơ và thơ dài. Điều dễ nhận thấy là trường ca và sử thi đều là

những tác phẩm có tầm vóc lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung, có sức ôm

chứa những vấn đề trọng đại của dân tộc và thời đại.

Trường ca hiện đại Việt Nam ra đời và phát triển trên nền hiện thực sôi

động của các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và công cuộc xây dựng đất

nước sau chiến tranh: “Chính những ngƣời đã chết, chính lịch sử bi tráng đã

“đặt hàng” cho nhà thơ viết anh hùng ca hay trƣờng ca” [49, tr. 83]. Có thể

thấy rõ rằng, sự nghiệp cách mạng Việt Nam phát triển theo xu hướng ngày

càng dữ dội, quyết liệt (trong chống giặc ngoại xâm) và ngày càng đổi mới

(trong cuộc đấu tranh chống cái lạc hậu, cũ kĩ để xây dựng đất nước theo xu

hướng hiện đại, tiếp cận các nước trong khu vực và trên thế giới). Đây là tiền

đề xã hội thúc đẩy sự phát triển của văn học nói chung và cả trường ca nói

riêng. Đó là là thời đại của các bản trường ca. Thực tiễn cách mạng trên đất

nước ta là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho ai muốn viết trường ca,

mảnh đất phong phú cho sự ra đời của thể loại này.

Trong các kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi nhận thấy

quan niệm về trường ca của tác giả Đào Thị Bình (Thể trƣờng ca trong văn

học Việt Nam từ 1945 đến cuối thế kỉ XX” – LATS, 2008) là khá thuyết phục:

“Trƣờng ca thƣờng là các tác phẩm trữ tình có dung lƣợng lớn hoặc

vừa, có khả năng tổng hợp và phát huy những ƣu thế nổi trội của cả ba loại

hình: trữ tình, tự sự và kịch. Với kiểu kết cấu và phát triển theo hƣớng đan

xen nhiều kiểu kết cấu hoặc kết cấu phức hợp, trƣờng ca có thể bao quát và

miêu tả những mảng hiện thực lớn ở cả bề rộng lẫn chiều sâu. Ngôn ngữ,

giọng điệu phong phú, đa dạng, giàu chất trí tuệ, vừa mang âm hƣởng hào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hùng của sử thi vừa thấm đẫm hơi thở của cuộc sống” [6, tr. 25].

1.1.2. Một số ý kiến về trƣờng ca trong văn học Việt Nam hiện đại

Như một quy luật trong đời sống văn học, trên con đường vận động và

phát triển của văn học Việt Nam, từ sự manh nha cho đến việc hình thành thể

loại trường ca đã đánh dấu sự đổi mới quan trọng trong hệ thống thể loại.

Trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ra đời bắt nguồn từ nhu cầu tổng

kết, nhận diện lịch sử dân tộc một cách sâu sắc. Đồng thời, đó cũng là minh

chứng cho ý thức, trách nhiệm và tình cảm được thôi thúc từ trong trái tim

của người nghệ sỹ: “Còn tôi viết trƣờng, cũng nhƣ nhiều nhà thơ khác viết

trƣờng vì trong một thời kỳ nào đó, trƣớc những đề tài nào đó, và nghe đƣợc

thôi thúc nào đó từ bên trong khiến ngƣời làm thơ nổi hứng viết...trƣờng ca”

[49, tr. 250]. Nhà thơ Hữu Thỉnh trong bài viết Sự chuẩn bị của ngƣời viết trẻ

đã thổ lộ: “ Phản ánh cuộc chiến tranh đó vừa là trách nhiệm, vừa là niềm

say mê của mỗi chúng tôi, cũng là nơi thử sức lâu dài của mỗi ngƣời” [51, tr.

4]. Với những sự thôi thúc đó, giai đoạn sau năm 1975, các bản trường ca chủ

yếu viết về đề tài chiến tranh và lịch sử. Chính vì vậy, rất nhiều trường ca viết

về cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam đã thu hút sự chú ý và

quan tâm của bạn đọc, các nhà nghiên cứu. Vào đầu những năm 80, đã diễn ra

một cách sôi nổi nhiều cuộc hội thảo về trường ca.

Về vấn đề định nghĩa trường ca có rất nhiều ý kiến khác nhau. Có thể

lược qua những bài viết tiêu biểu như: Nhiều tác giả nêu ra vấn đề tên gọi

trường ca nhưng cuối cùng đều thừa nhận như một thực tế và xem mỗi tác

phẩm là một cách định nghĩa của tác giả về chính thể loại đó. Tác giả Từ Sơn

lại cho rằng các tác phẩm dài hơi nên gọi là truyện thơ. Về khái niệm Trường

ca Lại Nguyên Ân lại cho rằng trường ca là một hiện tượng giao thoa giữa tự

sự và trữ tình khi bàn góp về trường ca. Tác giả Đỗ Văn Khang khi so sánh từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta lại khẳng

định trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy đủ

khi có tên gọi là trường ca sử thi hiện đại.

Các ý kiến trên đã phần nào làm sáng rõ hơn về định nghĩa trường ca

nói chung và trường ca hiện đại nói riêng. Trong các ý kiến về định nghĩa

trường ca, chúng tôi tâm đắc với ý kiến của Đỗ Văn Khang khi ông cho rằng

“trƣờng ca trong văn học Việt Nam hiện đại chỉ có ý nghĩa mỹ học đầy đủ khi

có tên gọi là trƣờng ca sử thi hiện đại” [17, tr. 22-25].. Đây là ý kiến xác

đáng về trường ca hiện đại.

Về đặc trưng thể loại, có nhiều bài viết đã nghiên cứu một cách khá

công phu. Các tác giả thường dựa vào sự so sánh giữa trường ca với thơ dài,

trường ca với truyện thơ...để nói lên đặc trưng của thể loại như: Trần Ngọc

Vương, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc, Mai Bá Ấn... Trong các bài viết này

đáng chú ý nhất là ý kiến của tác giả Mai Bá Ấn. Theo tác giả giữa trường ca

và thơ dài cũng cần có sự khu biệt để nhận thức đầy đủ đặc trưng của từng thể

loại. Xu hướng trường ca hóa các tác phẩm thơ dài sẽ hạ thấp vai trò của trường

ca, xóa nhòa những yếu tố đặc trưng phân biệt nó với các thể loại khác.

Ngoài các bài viết được đăng tải trên báo chí, trong một số công trình

nghiên cứu cũng xuất hiện một số bài viết về trường ca. Sớm nhất, có lẽ là bài

viết của Lại Nguyên Ân, đầu tiên được đăng trên báo, sau đó được tập hợp

trong cuốn Văn học và phê bình. Trong đó, bài viết Mấy suy nghĩ về trƣờng

ca được viết trước 30 tháng 4 năm 1975 là bài viết công phu; ngoài việc ghi

nhận những thử nghiệm về trường ca, tác giả đã phân biệt rõ trường ca với

các thể tài khác, nêu lên những đặc trưng cốt yếu của trường ca, các hình thức

trường ca được viết trong thời gian đó. Có thể nói rằng, với cuốn Văn học và

phê bình, Lại Nguyên Ân đã dành mối quan tâm lớn nhất cho thể loại trường

ca. Những nhận xét đưa ra tuy vẫn dè dặt nhưng lại vô cùng quan trọng đối

với phê bình và sáng tác văn học thời điểm ấy.

Sau này, khi PGS.TS Vũ Văn Sỹ đề cập đến trường ca, ông đặc biệt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chú ý đến vai trò của thể loại trong hệ thống thơ Việt Nam hiện đại. Trong bài

Trƣờng ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại tác giả đã luận giải

một cách hợp lí về sự phát triển của thể loại này. Đặc biệt, năm 1999 Hoàng

Ngọc Hiến đã xuất bản giáo trình Năm bài giảng về thể loại và một trong số

những vấn đề được ông đưa ra là Mấy vấn đề đặc trƣng thể loại và thi pháp

của trƣờng ca. Đây là lần đầu tiên thể loại trường ca mới ở Việt Nam được

đưa vào giáo trình. Có thể nói Hoàng Ngọc Hiến là người dành nhiều tâm sức

cho việc nghiên cứu trường ca. Từ các bản dịch, các bài giới thiệu về trường

ca của Maicôpxki, các lí thuyết về thể loại của Nga, ông đã khái quát nên

những đặc điểm cơ bản của trường ca hiện đại như: nội dung lớn, cảm hứng

lớn, mối tƣơng quan giữa tự sự và trữ tình... Về những nghiên cứu mang tính

trường qui, chúng tôi thấy trường ca ít nhiều đã được quan tâm, tuy số lượng

các công trình vẫn còn ít và chủ yếu là đề cập đến một vài khía cạnh, một vài

tác giả viết trường ca. Từ luận văn thạc sĩ trở lên, có thể kể đến một số công

trình như: Chất sử thi trong trƣờng ca hiện đại 1954 – 1985 của Lê Thị Hồng

Liên (Luận văn thạc sĩ Đại học sư phạm Huế - 2001); Thể trƣờng ca trong

văn học Việt Nam từ 1945 đến đầu thế kỉ XXI của Đào Thị Bình (Luận án tiến

sĩ, 2008); Đặc điểm trƣờng ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo

của Mai Bá Ấn (Luận án tiến sĩ, 2008).

1.1.3. Các chặng đƣờng phát triển của trƣờng ca Việt Nam hiện đại

1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề và sự hình thành thể loại

Có thể nói, trước 1945, dạng trường ca hiện đại hầu như chưa có. Tuy

nhiên những tiền đề để hình thành nó thì đã tiềm tàng từ xa xưa, trong sâu

thẳm hoài vọng của dân tộc. Có thể do hạn chế về thời đại, đặc biệt về mặt tư

duy, mà tầm vóc vĩ đại của trường ca chưa được khẳng định, chưa được khởi

sắc. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có hai tiền đề

chính cho sự hình thành của trường ca hiện đại.

Trạng thái chống chiến tranh liên miên – tiền đề đầu tiên cho sự ra đời

của trường ca. Việt Nam là mảnh đất đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lúa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nước. Cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng hay nhiều thiết chế văn hóa sau

này dĩ nhiên đều không thể tách rời yếu tố gốc rễ ấy. Có lẽ, cũng từ cội nguồn

này mà trạng thái xã hội truyền thống Việt Nam đa phần là bình lặng. Nhịp độ

sống trong truyền thống của người Việt là chậm rãi, là đủng đỉnh, ngại ngùng

trước những đổi thay. Những đổi thay trong xã hội đa phần làm người ta sợ

hãi, vì những bất thường trong xã hội ấy đều gắn liền với chiến tranh, mà có

lẽ ba điều người ta sợ nhất là ốm đau, đói nghèo và chiến tranh; trong đó

chiến tranh vẫn khủng khiếp hơn cả vì nó là bất thường nhất, và nó là tai họa

của toàn xã hội, toàn dân tộc chứ không riêng một gia đình nào. Đương nhiên,

một trạng thái xã hội bình lặng thì khó sinh ra trường ca.

Có thể nói chiến tranh chính là lúc ý thức cộng đồng của người Việt

được thức tỉnh mạnh mẽ nhất, và trạng thái chống chiến tranh liên miên cũng

tạo cho người ta tâm thế hướng đến bảo vệ đời sống cộng đồng, bảo vệ lãnh

thổ dân tộc. Chỉ tính sơ bộ, từ cuộc kháng chiến chống Tần (Thế kỉ III Tr.CN)

đến cuộc chiến tranh chống xâm lược từ hai đầu biên giới (1979). Dân tộc ta

đã trải qua 20 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cùng với hàng trăm cuộc khởi

nghĩa và chiến tranh giải phóng. Có thể nói hơn 20 thế kỉ vừa qua, hầu như

thế kỉ nào người Việt cũng phải chống giặc ngoại xâm. Chính ý nghĩa của

cuộc chiến tranh mới làm nên giá trị của nó. Điều này, ngoài ý nghĩa chính trị

và xã hội, nó sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống văn hóa, tới tâm thức cộng

đồng, tới lòng tự hào dân tộc. Với dạng trường ca mang tính chất sử thi nói riêng

điều đó có ý nghĩa vô cùng quyết định, bởi không có tâm thức cộng đồng, không

có lòng tự hào dân tộc thì mọi tiềm năng của thể loại đều bị xóa bỏ.

Trong các cuộc chiến ở Việt Nam, đặc biệt là những cuộc chiến chống

lại giặc ngoại xâm, dù dưới chế độ nào, đều có sự tham gia tích cực của nhân

dân. Trước Nguyễn Trãi, hình ảnh nhân dân và vai trò của nhân dân ít được

nhắc đến trong văn học, trong quan niệm phong kiến họ vẫn là dân đen, con

đỏ, nhưng với lòng yêu nước, trong các cuộc kháng chiến, họ đều tự nguyện

dốc hết sức mình. Không thể có chiến thắng nếu vắng bóng dáng họ. Nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dân là lực lượng đại diện cho sức mạnh cộng đồng, vì thế cũng mang đậm tâm

thức, ý thức cộng đồng. Các thể loại văn học mang tính chất sử thi luôn lấy đó

làm tiền đề, làm cơ sở.

Với một lịch sử như thế, đương nhiên, chủ nghĩa yêu nước là truyền

thống lớn nhất trong văn học Việt Nam. Và âm hưởng anh hùng ca trong sử

thi có dấu ấn trong toàn bộ nền văn học chống chiến tranh ở Việt Nam, từ văn

học trung đại đến hiện đại. Quả thật cha ông ta từ xưa đã không ngừng xây

lên những Đại tự sự. Từ các truyền thuyết như Thánh Gióng, Nỏ thần...đến

hào khí Đông A, văn thơ thế kỉ XIX, văn thơ cách mạng hiện đại...tất cả đều

xoay quanh sự sống còn của dân tộc. Trường ca hiện đại đã nối tiếp mạch tự

sự ấy và lấy đó như là linh hồn của mình. Như vậy, trạng thái chống chiến

tranh liên miên vừa là tiền đề xã hội, vừa là tiền đề nội dung của trường ca.

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, một thể loại không thể khai sinh

trên mảnh đất trống. Sự liên thông và diễn giải lẫn nhau luôn là đặc điểm của

một nền văn học có truyền thống. Các thể loại văn học nêu trên có thể không

giống với trường ca hiện đại nhưng nó có liên quan và góp phần diễn giải –

đặc biệt về mặt hình thức của trường ca. Chính tính sử thi, tính anh hùng ca

tồn tại trong các thể loại văn học quá khứ đã ảnh hưởng trực tiếp đến nội dung

lớn – hay tư duy thể loại của trường ca.

1.1.3.2. Sau 1945- thời kì phát triển và khẳng định của trường ca.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nền văn học bắt đầu phát triển

theo những yêu cầu, những định hướng tiêu chí mới. Văn học được định

hướng theo sự lãnh đạo duy nhất của Đảng và là một bộ phận, một vũ khí

trong sự nghiệp cách mạng. Đó là nền văn học cách mạng hướng về đại

chúng, phục vụ công nông binh. Năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng

khẳng định trên mặt trận văn hóa văn nghệ, các văn nghệ sĩ là chiến sĩ. Tinh

thần chiến sĩ và danh hiệu nhà văn – chiến sĩ được đề cao như phẩm chất chủ

yếu của nghệ sĩ.

Định hướng này càng về sau, đặc biệt bước sang cuộc chiến tranh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chống Mỹ, lại càng được quán triệt một cách triệt để. Như vậy, văn học từ

mục đích là hướng tới số phận con người đã chuyển sang hướng tới số phận

dân tộc, số phận lịch sử. Thể loại trường ca “không nằm ngoài qui luật chung

nhất của văn học Việt Nam, đó là định hƣớng tự giác của các thể loại vào thể

tài lịch sử cách mạng”[29, tr. 705]. Nếu trạng thái của đời sống xã hội Việt

Nam suốt mấy chục năm là những cuộc chiến tranh và cách mạng nhằm thay

đổi vận mệnh lịch sử dân tộc, thì có thể nói, văn học Việt Nam đương thời đã

thể hiện được trạng thái đó. Nó đã đạt đến trạng thái sử thi, không chỉ bó hẹp

trong một số tác phẩm mà gần như là hơi thở xuyên suốt nền văn học này.

Với tư cách là những người nghệ sĩ- chiến sĩ, trong hoàn cảnh đất nước

lâm nguy, người cầm bút không nên nói nhiều về những đau thương mất mát,

những khát vọng riêng tư của cuộc sống đời thường. Bởi vì, cuộc chiến tranh

của chúng ta là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện nên mọi lực lượng đều vì

vận mệnh dân tộc, của Tổ quốc mà chiến đấu hi sinh. Chức năng chính của

văn học giai đoạn này là phục vụ chính trị, phục vụ kháng chiến, vì vậy mọi

đề tài đều hướng đến ca ngợi lý tưởng và những con người cao cả của cách

mạng. Trường ca không thể không nằm ngoài qui luật đó. Chính Hữu Thỉnh,

một nhà thơ với những bản trường ca nổi tiếng đã khẳng định:“Hiện thực

chiến tranh, cuộc sống của ngƣời lính dội vào tôi mạng đến mức vƣợt ra khỏi

một thời đoạn, một đề tài. Nó thành một tâm thế. Nhƣng tại sao lại trƣờng ca,

mà không phải là cái gì khác? ...Và còn cái lẽ nữa là cuộc sống lớn lao, bi

tráng quá, đòi hỏi phải mở rộng các kích cỡ” [50, tr. 7].

Do nhiều yếu tố, thời gian sáng tác cũng như những đặc điểm thi pháp

của thể loại, Trường ca trong văn học sau 1945 có ý nghĩa tổng kết một chặng

đường vừa đau thương vừa hào hùng của dân tộc. Nguồn cảm hứng của một

dân tộc và thời đại anh hùng, cùng với vốn sống thực tế ở chiến trường

đã tạo tiền đề cho thể loại trường ca phát triển. Những trường ca đầu tiên

được ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Từ đêm mƣời chín

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Khương Hữu Dụng), Những thanh gƣơm báu (Nguyễn Bính), Trƣờng ca

sông Gianh (Xuân Hoàng)... Nhưng đến kháng chiến chống Mỹ, trường

ca phát triển hơn hẳn về số lượng và nâng cao về chất lượng: Hàng loạt

tác phẩm ra đời như: Nƣớc non ngàn dặm (Tố Hữu), Mặt đƣờng khát vọng

(Nguyễn Khoa Điềm); Bài ca chim Chơ Rao, Ba dan khát, ..(Thu Bồn);

Những ngƣời đi tới biển, Trẻ con ở Sơn Mỹ, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng

nổ mùa xuân, Đêm trên cát, Khối vuông Rubic (Thanh Thảo); Con đƣờng của

những vì sao, Tình ca ngƣời lính (Nguyễn Trọng Tạo); Đƣờng tới thành phố,

Sức bền của đất, Trƣờng ca biển (Hữu Thỉnh); Ngày hội của rạng đông,

Hành khúc mùa xuân (Võ Văn Trực).

Trường ca giai đoạn này chủ yếu nói đến cả một cuộc hành trình, cuộc

hành trình của một cá nhân – một người lính, cũng như cuộc hành trình của

một dân tộc. Có thể nói, giai đoạn chống Mỹ và hậu chống Mỹ là giai đoạn

phát triển rực rỡ nhất của trường ca.

1.1.4. Nội dung trƣờng ca hiện đại

Một điều đặc biệt trong nội dung trường ca hiện đại là bản thân các chủ

thể sáng tác đều là những người trực tiếp tham gia chiến tranh. Điều đó đồng

nghĩa với việc nội dung của trường ca được nhìn với con mắt của người trong

cuộc, thường là cái nhìn ở phía chính diện, cái nhìn về những người cùng chí

hướng. Chúng ta có thể nhận thấy trường ca hiện đại Việt Nam xoay quanh

hai nội dung, đề tài lớn:

Thứ nhất là chiến tranh và ngƣời lính

Lịch sử chiến tranh liên miên đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong

tâm thức cộng đồng người Việt. Văn học với tư cách là một hình thái ý thức

xã hội, là nơi tái diễn một cách chân thực nhất tâm thức ấy. Trường ca nói

chung và trường ca hiện đại Việt Nam nói riêng, chiến tranh luôn là đề tài

chính, là mấu chốt cho những trải nghiệm được tự sự. Không ai khác chính

người lính là người trực tiếp, là nhân chứng sống cho những cuộc chiến ấy,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

“Nếm trải tột cùng những gian khổ hy sinh, cảm nhận hiện thực cuộc chiến

đấu trên từng tế bào và trong mỗi phút sống, thế hệ ấy là thế hệ tự ý thức về

trách nhiệm lịch sử không thể thoái thác trƣớc Tổ quốc và Nhân dân” [2, tr.

427-428].

Thứ hai là đất nƣớc và số phận con ngƣời

Trong lịch sử văn học, cảm hứng về đất nước vẫn luôn là một trong

những cảm hứng lớn nhất của mỗi giai đoạn. Và trường ca hiện đại cũng đã

thể hiện rất rõ nội dung ấy. Đất nước trong đời thường và đất nước trong văn

học được kết tinh từ tất cả những mảnh ghép cuộc sống.

Các tác giả trường ca giai đoạn kháng chiến chống Mỹ từ sự thôi thúc

của trái tim mình đều dồn mọi tâm lực cho sự miêu tả, ngợi ca và dựng nên

hình tượng đất nước:

“Dân tộc tôi khi đứng dậy làm ngƣời

Mồ hôi vã một trời sao trên đất”

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Truyền thống dân tộc đã tạo nên những anh hùng, tạo nên sức mạnh

tiềm tàng mà quật cường để dân tộc có thể chiến thắng giặc ngoại xâm. Đó là

đất nước của những người con gái, con trai chưa bao giờ biết sống lùi bước:

“Đất nƣớc của những ngƣời con gái, con trai

Đẹp nhƣ hoa hồng cứng hơn sắt thép

Xa nhau không hề rơi nƣớc mắt

Nƣớc mắt để giành cho ngày gặp mặt”

(Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi- Nam Hà)

Với Nguyễn Đức Mậu, đất nước còn hiện hữu trong tình đồng chí,

trong tinh thần đoàn kết để tạo nên sức mạnh của cả dân tộc:

“Một sƣ đoàn có những dòng sông

Con sóng vỗ hai bờ truyền thuyết

Thế hệ mai sau tìm đến soi mình

Tôi sung sƣớng đƣợc uống chung nguồn nƣớc”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Trường ca sư đoàn- Nguyễn Đức Mậu)

Trong cảm nhận của các tác giả trường ca, đất nước còn được tạo nên

bởi những cuộc đời bình dị mà cao đẹp. Họ là những người còn sống và cả

những người đã mất. Tất cả đều là những anh hùng của nhân dân. Đặc biệt,

trong hầu hết các bản trường ca, hình ảnh người mẹ được các tác giả tập trung

khắc họa một cách đậm nét. Mẹ chính là ngọn nguồn của tất cả, mẹ sinh ra

những anh hùng và truyền thuyết từ xa xưa:

“Chính mẹ đẻ ra anh hùng và truyền thuyết

Từ túp lều lợp lá lợp tranh”

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Gắn với đất nước là số phận con người. Có thể nói trường ca hiện đại

thường xoáy sâu vào số phận con người, đặt con người vào mối tương quan

với hoàn cảnh, thời gian và không gian tồn tại. Trường ca trước 1975 chủ yếu

đề cập đến những con người mang tính tập thể, sống bằng lí tưởng mà ít đời

sống nội tâm. Song một điểm nhấn trong trường ca hiện đại sau 1975 là đã đề

cập đến những số phận riêng mà những số phận ấy phải chịu ảnh hưởng sâu

sắc của chiến tranh. Các số phận con người đời tư nhiều đau khổ, trái ngang

đã được các trường ca sau 1975 đề cập đến như một minh chứng hùng hồn về

tội ác của giặc Mỹ.

Biết bao người đã không tìm được hạnh phúc vì chiến tranh, để sự nuối

tiếc khổ đau cho cả cuộc đời:

“Chết-hy sinh cho tổ quốc- Hùng ơi

Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất

Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc

Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng”

(Nấm mộ và cây trầm - Nguyễn Đức Mậu)

Và nỗi lòng se sắt một người mẹ trong trường ca Đất nƣớc hình tia chớp

của Trần Mạnh Hảo:

“Mỗi bận chiến trƣờng tin báo tử

Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Đất nước hình tia chớp- Trần Mạnh Hảo)

Con người đã chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhưng đồng thời

trong chiến tranh con người cũng đã thể hiện sức mạnh kì diệu. Họ không chỉ

vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt đau thương của đất nước mà còn chiến thắng

chính bản thân mình, chiến thắng số phận nhiều lúc không tránh khỏi hẩm

hiu. Song, dù phải chịu những mất mát lớn lao, con người vẫn chịu đựng vì sự

vĩnh hằng của Tổ quốc.

1.2. Chặng đƣờng sáng tác của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo

1.2.1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác

Tiểu sử

Nguyễn Trọng Tạo là nhà thơ, nhạc sỹ, họa sỹ. Thuộc lớp nhà văn

trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và trong số nhiều nhà thơ với

nỗ lực đổi mới cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Nguyễn Trọng Tạo được

đánh giá là một trong ba cây bút, ba giọng điệu mới (cách tân) đáng chú ý là

Nguyễn Trọng Tạo, Ý Nhi, Dư Thị Hoàn. Trong lĩnh vực âm nhạc, Nguyễn

Trọng Tạo được xem như một trong “ngũ hổ văn của làng nhạc” [49, tr. 425]

của âm nhạc Việt Nam: Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Trọng Tạo, Diệp

Minh Tuyền, Nguyễn Thụy Kha.

Nguyễn Trọng Tạo tên thật là Nguyễn Trọng Tạo với các bút danh như

Cẩm Ly, Nguyễn Vũ Trọng Thi, Bảo Chi. Sinh ngày 25 tháng 8 năm 1947

trong một gia đình Nho học ở làng Trường Khê, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ

An. Yếu tố gia đình và quê hương là nền tảng đặc biệt quan trọng trong việc

hun đúc, hình thành và nuôi dưỡng hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo. Đồng thời,

chính làng Tràng Khê đã trở thành “những ám ảnh tƣơi đẹp” [44, tr. 329] mà

nhà thơ sống suốt tuổi thơ ở đó.

Năm 1969 tham gia quân đội, thuộc Đoàn 22, Quân khu 4, rồi làm đội

trưởng Đội tuyên truyền văn hóa Đoàn 22B, Trưởng đoàn văn công xung kích

Sư đoàn 341B. Năm 1976 được Tổng cục Chính trị điều về Hà Nội tham gia

Trại viết văn quân đội rồi vào học Đại học viết văn Nguyễn Du khóa I. Từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đây, Nguyễn Trọng Tạo gắn bó và hoạt động bền bỉ trong lĩnh vực văn học

nghệ thuật. Năm 1982 làm trưởng ban biên tập Nhà Văn hóa Quân khu IV.

Năm 1988 nhà thơ chuyển về làm công tác biên tập xuất bản tại Hội Văn học

Nghệ thuật Bình Trị Thiên. Năm 1990 cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc

Tường và nhà văn Nguyễn Quang Lập sáng lập tạp chí Cửa Việt, làm biên tập

và phụ trách mỹ thuật tạp chí này bộ đầu tiên gồm 17 số. Năm 1997, Nguyễn

Trọng Tạo làm Thư ký Tòa soạn tạp chí Âm nhạc thuộc Hội Nhạc sĩ Việt

Nam. Nguyễn Trọng Tạo còn là họa sĩ minh họa và trình bày mỹ thuật tạp chí

Cửa Việt, tạp chí Âm Nhạc, báo Thơ, tác giả măng-sét tạp chí Sông Hương,

Sông Lam, Hồng Lĩnh, báo Thơ…Năm 2000-2005, Nguyễn Trọng Tạo là Ủy

viên Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Viêt Nam, kiêm Trưởng ban biên tập báo

Thơ thuộc báo Văn Nghệ (2003-2004).

Nguyễn Trọng Tạo là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội

Nhạc sĩ Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.

Sự nghiệp sáng tác

Nguyễn Trọng Tạo bộc lộ tài năng thơ ca và sáng tác từ rất sớm. Ông

sáng tác bài thơ đầu tiên năm 14 tuổi, sáng tác bài hát đầu tiên năm 20 tuổi.

Xuất bản tập thơ đầu tiên (Tình yêu sáng sớm, in chung cùng Nguyễn Quốc

Anh) năm 1974. Đến năm 2008 đã xuất bản gần 20 đầu sách gồm thơ, văn,

nhạc, phê bình tiểu luận. Thơ trước năm 1975 và thơ viết về chiến tranh của

Nguyễn Trọng Tạo có sự tìm tòi, phát hiện những điểm sáng của cảm xúc.

Sau năm 1975, đặc biệt là những năm đất nước đầy biến động khi đứng trước

công cuộc đổi mới, Nguyễn Trọng Tạo nhanh chóng nhập cuộc. Thơ anh đã

có một bước chuyển quan trọng từ tính chất sử thi sang trữ tình, đó là bước

chuyển từ các trường ca Con đƣờng của những vì sao và Tình ca ngƣời

lính sang các tập thơ Sóng thuỷ tinh và Gửi ngƣời không quen mà bản lề

những nhà thơ không hiểu chính mình đang viết gì, Tạo không viết

những câu thơ bí hiểm, không viết những câu thơ tự đánh đố mình và

đánh đố bạn đọc để làm ra vẻ mình là một nhà thơ có tƣ duy cao. Thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

là Tản mạn thời tôi sống. Nhà văn Nguyễn Đình Thi cho rằng: "Khác hẳn

Tạo thể hiện tƣ duy của chính Tạo, không phải tƣ duy vay mƣợn của

ngƣời khác"[34, tr. 15]. Và ông khẳng định: "Trên bảng ghi công những

văn nghệ sĩ đổi mới thực sự và đổi mới hiệu quả, có tên Nguyễn Trọng

Tạo"[34, tr. 17]. Bước vận động trong tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng

Tạo nằm trong sự chuyển mình chung của văn học sau 1975, khẳng định tên

tuổi Nguyễn Trọng Tạo, bên cạnh Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Mạnh

Hảo, Hữu Thỉnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Võ Văn Trực,… làm thành đội hình mới

với những giọng điệu bất ngờ, mới mẻ, đôi khi táo bạo.

Với sự cống hiến không mệt mỏi trong lĩnh vực văn học nghệ thuật và

với cây bút không ngừng sáng tạo, Nguyễn Trọng Tạo đã đoạt nhiều giải

thưởng văn học nghệ thuật:

Giải thƣởng thơ Nghệ An 1969; Giải thƣởng thơ hay báo Văn nghệ (do

độc giả bình chọn) năm 1978; Giải thƣởng thơ hay báo Nhân dân 1978; Giải

thƣởng thơ hay tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1978; Giải thƣởng đặc biệt

của UBND tỉnh Hà Bắc năm 1981 cho ca khúc Làng Quan Họ quê tôi; Giải

thƣởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (1989-1994) cho tập truyện Miền quê thơ

ấu; Giải thƣởng Văn học Nghệ thuật Cố đô (1995-2000) cho tập thơ Đồng

dao cho ngƣời lớn; Giải thƣởng Văn học Nghệ thuật Hồ Xuân Hƣơng (1997-

2002) cho ca khúc Đôi mắt đò ngang; Giải thƣởng Văn học Nghệ thuật 1997

của Ủy Ban Toàn quốc các Hội VHNTVN cho ca khúc Đôi mắt đò ngang.

5 Giải thƣởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam cho các ca khúc: Mặt trời trong

thành phố, 1983; Đƣờng về Thạch Nham, 1984; Con dế buồn, 1997; Đồng

Lộc Thông ru, 1998; Khúc hát sông quê, 2005; 2 Giải thƣởng của Bộ Văn

hóa và Thông tin cho bìa sách đẹp: Những con chim kêu đêm, Khát; Giải

thƣởng của Hội Nông dân Việt Nam năm 2001 cho ca khúc Cánh đồng ở giữa

hai làng…; Giải thƣởng (cup) Những ca khúc hay về Nông Nghiệp và Nông

thôn Việt Nam (1945-2010) của Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho 2 ca khúc “Làng Quan Họ quê tôi” và “Khúc hát sông quê”; Giải

thƣởng Nhà Nƣớc về VHNT 2012 cho tập thơ Đồng dao cho ngƣời lớn và

trƣờng ca Con đƣờng của những vì sao (Trƣờng ca Đồng Lộc).

Tác phẩm

Thơ

Tình yêu sáng sớm (in chung với Nguyễn Quốc Anh- 1974); Gƣơng

mặt tôi yêu (in chung với Trần Nhương, Khuất Quang Thụy -1980); Sóng nhà

đêm biếc tôi yêu (in chung với Nguyễn Hoa, Nguyễn Thụy Kha- 1984); Sóng

thủy tinh (1988); Gửi ngƣời không quen (1989); Đồng dao cho ngƣời lớn

(1994-1999); Thƣ trên máy chữ và Tản mạn thời tôi sống (1995); Nƣơng thân

(1999); Thơ trữ tình (2001); 36 bài thơ (2006); Thế giới không còn trăng

(2006); Em đàn bà (2008); Ký ức mắt đen – song ngữ Việt-Anh (2010);

Nguyễn Trọng Tạo – Thơ và Trƣờng ca (2011).

Trường ca

Con đƣờng của những vì sao (Trường ca Đồng Lộc), (1981, 2008)

Tình ca ngƣời lính (1984)

Văn xuôi

Miền quê thơ ấu (19880, tái bản với tên Mảnh hồn làng (1997, 2002,

2005); Ca sĩ mùa hè (1991, 1998, 2003…); Khoảnh khắc thời bình, (1987);

Chuyện ít biết về văn nghệ sĩ (2001).

Tiểu luận, phê bình

Văn chƣơng cảm và luận (1998)

Nhạc

Ca khúc Nguyễn Trọng Tạo (1996); Tình khúc bốn mùa (1996); Khúc

hát sông quê (2006).

1.2.2. Quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo về thơ

Nguyễn Trọng Tạo đến với thơ bằng niềm say mê và sự tôn thờ, ông

chọn thơ làm nghiệp, “cho dù Nguyễn Trọng Tạo có nhiều bài hát nổi tiếng

nhƣng ông vẫn gắn bó sống chết với thơ và chỉ nhận thơ làm nghiệp”[34, tr.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

15-18]. Hòa nhịp với cuộc sống bộn bề trước và sau năm 1975, hồn thơ

Nguyễn Trọng Tạo đã nhận ra những biến thái, những đổi thay hết sức tinh tế

của cuộc sống và lòng người. Nhà thơ gửi gắm bao nỗi niềm, bao tâm sự bằng

những quan niệm hết sức cá tính và nghiêm túc về sáng tạo thơ ca và người

cầm bút.

Khi phát biểu về nguồn gốc của thơ, Nguyễn Trọng Tạo không minh

chứng bằng những điều xa vời và to tát, ông lấy ngay chính tâm hồn con

người là yếu tố chiết suất ra thơ. Nguyễn Trọng Tạo khẳng định: thơ là những

ám ảnh tâm hồn, thơ là một chớp sáng, “thơ đƣợc làm bằng máu, thơ gần với

nƣớc mắt hơn là tiếng cƣời” [7]. Theo Nguyễn Trọng Tạo, thơ không phải cứ

hẹn trước mà có, không phải làm theo một sự đặt hàng nào đó, mà thơ có

được là nhờ vào “một chớp sáng” lóe lên bất chợt từ những ám ảnh kia trong

tâm hồn con người. Giữa mênh mông của văn học Việt Nam đương đại thì

"những cái chớp mắt" của Nguyễn Trọng Tạo tuy rất khiêm nhường nhưng

cũng đem đến những điều thú vị bất ngờ: “mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn

cỏ/mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió”(Đồng dao cho ngƣời lớn).

Bởi vậy, không phải được cấu tạo bởi những gì cao xa mà thơ được

chưng cất không chỉ bằng tiếng cười, bằng niềm vui mà bằng cả máu và nước

mắt của con người. Theo nhà thơ, thơ gần nƣớc mắt hơn là tiếng cƣời, điều

đó đã làm rõ rằng thơ viết ra không phải để giải trí thông thường mà nó là

điểm tựa, là “vị chúa” cứu rỗi tâm hồn con người trong những lúc khổ đau

của cuộc đời. Chính vì thế, như một lời tâm sự qua cách bộc bạch chân thành,

Nguyễn Trọng Tạo coi thơ là “chốn nương thân” vững chắc: “Tôi nƣơng thân

vào chính thơ tôi. Thơ lại nƣơng nấu trong từng con chữ và điệu nhạc vang

lên từ cõi tâm linh nào xa thẳm. Thơ là cái bóng của tôi hay tôi là cái bóng

của thơ, tôi nào có biết” [46, tr. 517].

Từ muôn đời nay, thơ ca luôn là yếu tố nâng cánh tâm hồn con người,

làm cho con người ta nhận ra cái đẹp của cuộc sống cũng như làm cho người

gần người hơn. Đây cũng là điều tâm huyết được Nguyễn Trọng Tạo phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biểu bằng quan niệm thơ hết sức chân thành mà có sự đồng cảm lớn. Theo

Nguyễn Trọng Tạo: “Thơ làm cho ta buồn vui lúc nào không hay. Thơ làm

cho ta thoát ngoài tục luỵ phiêu diêu cùng trời đất, hoà nhập với thiên nhiên,

hoặc đồng cảm cùng đồng loại” [46, tr. 526]. Nhà thơ từng viết: “Ta khao

khát một điều gì xa lắm/xa hơn cả tƣơng lai/xa hơn quá khứ Ngƣời” (Chiều

thứ tƣ của không gian).

Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, thơ phải đối diện với sự thật trong cuộc

sống, phản ánh một cách chân thực những biến thái, những xung đột xã hội.

Trong Lời tựa ra mắt tập thơ Thế giới không còn trăng, nhà thơ đã đưa ra

quan niệm: “Thơ là sự đối diện với sự thật đƣợc chƣng cất… Làm thơ là hoá

giải thời đại vào ngôn từ…” [32].

Với Nguyễn Trọng Tạo, thơ phải nói lên được niềm tin, khát vọng và

ước mơ của con người trong cuộc sống. Người ta tìm thấy ở thơ sự nâng đỡ,

sự cứu rỗi, sự dịu dàng trước những chống chếnh, hụt hẫng của cuộc đời.

1.2.3. Quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo về Trƣờng ca

Là người có nhiều trải nghiệm trong lĩnh vực sáng tác trường ca với hai

bản trường ca tiêu biểu là Con đƣờng của những vì sao (1981); Tình ca ngƣời

lính(1984), Nguyễn Trọng Tạo từ những suy nghĩ riêng đã đưa ra những quan

niệm về trường ca.

Theo Nguyễn Trọng Tạo, việc đưa ra một định nghĩa chuẩn xác về

trường ca quả là rất khó, bởi “Trƣờng ca với nghĩa đen là bài hát dài, có lẽ đã

đƣợc bắt đầu nhƣ vậy” [44, tr. 259]. Qua nhiều thời đại, loại bài hát dài bằng

thơ kể chuyện phát triển, và mở ra nhiều hướng khác nhau, và người ta căn cứ

vào những đặc điểm có tính riêng biệt của nội dung và hình thức của chúng

mà chia ra những thể loại: truyện thơ, trường ca, thơ dài… như hiện nay.

Khi xét về nội dung của trường ca dù là trường ca cổ điển hay hiện đại,

Nguyễn Trọng Tạo có đưa ra hai loại: Trường ca có cốt truyện và không có

cốt truyện. Theo nhà thơ, “trƣờng ca có cốt truyện thƣờng chọn những ngƣời

quan trọng làm nhân vật, ngƣời đó có những dây liên lạc, những mối quan hệ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và có sự tiếp xúc với nhiều ngƣời khác, với nhiều hiện tƣợng và biến cố; xung

quanh con ngƣời đó là cả một thời đại và cả thời kỳ mà ngƣời đó

sống. Trƣờng ca không cốt truyện thƣờng miêu tả những mảng sự kiện đời

sống thông qua cái tôi trữ tình của nhà thơ và chúng kết đƣợc lại với nhau

nhờ cái tôi trữ tình đó, có tính chất nhất quán nhƣ một sợi dây vô hình xuyên

suốt từ bên trong” [44, tr. 260-261]. Vì vậy, với Nguyễn Trọng Tạo, ông thích

trường ca có cốt truyện. Bởi, theo nhà thơ, với dung lượng câu chữ dài, kết

cấu chặt chẽ của mỗi bản trường ca, cốt truyện hoặc bóng dáng nhân vật với

số phận và dòng đời riêng tạo cho tác phẩm sự hấp dẫn riêng.

Ra đời và phát triển trong sự hòa nhịp cùng cuộc kháng chiến chống

Mỹ trường kỳ và oanh liệt, trường ca phản ánh diện mạo cuộc kháng chiến

với đầy đủ những yếu tố như con người, đau thương, đất nước và vận mệnh tổ

quốc. Vì vậy, như một sự khẳng định mang tính quy định trong mỗi bản

trường ca, Nguyễn Trọng Tạo cho rằng, dù có cốt truyện hay không có cốt

truyện thì “trƣờng ca phải phản ánh đƣợc những sự kiện lịch sử có ý nghĩa

rộng lớn và soi sáng đƣợc cuộc sống của nhân dân trong toàn bộ tính đa

dạng của nó” [44, tr. 262]. Đây cũng là câu trả lời một cách nghiêm túc rằng

vì sao, các nhà thơ khi cầm bút lại không viết những bài thơ ngắn mà lại căng

hết cường độ về dung lượng câu chữ trong mỗi bản trường ca.

Từ đây, việc viết trường ca không đơn thuần là sự tập hợp số lượng câu

chữ nhiều, hỗn độn nhiều nhân vật, nhiều sự kiện mà Nguyễn Trọng Tạo cho

rằng, không phải cứ viết được thơ trữ tình là sẽ thành công ở thể loại trường

ca mà khi viết trường ca, “việc viết trƣờng ca giống nhƣ thực hiện cả một chiến

dịch lớn làm thay đổi cục diện chiến trƣờng…” [44, tr. 263]. Vì vậy, muốn đạt

được thành công khi viết trường ca, đòi hỏi người cầm bút phải có vốn sống,

có sự trải nghiệm nhất định được tích lũy lâu dài về đề tài mình viết.

Sự tập hợp số lượng câu chữ khá dài trong mỗi bản trường ca không

phải là sự chắp ghép ngẫu nhiên, tự do mà cần có một bố cục chặt chẽ theo

đúng mạch của tác phẩm. Điều này được thể hiện qua quan niệm của Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trọng Tạo: “Khi bố cục trƣờng ca là khi lên phƣơng án tác chiến… Khi bắt

tay viết câu thơ đầu tiên tức là khi chiến dịch mở màn. Và khi chuyển chƣơng

đoạn là khi chiến dịch chuyển sang giai đoạn mới. Trong quân sự, sai lầm

của ngƣời chỉ huy trong một trận đánh có khi dẫn đến sự thất bại cho toàn bộ

chiến dịch. Sai lầm của nhà thơ khi thực hiện một chƣơng của trƣờng ca cũng

có thể dẫn đến sự thất bại của toàn bộ trƣờng ca” [44, tr. 263-264]. Vì vậy,

dù ở bất kỳ bản trường ca nào, theo Nguyễn Trọng Tạo cũng đòi hỏi sự chặt

chẽ về bố cục, khả năng và bút lực của người viết.

Bởi dung lượng của mỗi bản trường ca là khá lớn do vậy, Nguyễn

Trọng Tạo quan niệm, nếu như thơ trữ tình là cảm xúc một chiều của nhà thơ

thì ở trường ca, cần có: “sự đa dạng của tâm hồn, và tác giả của nó, phải giữ

đƣợc cảm xúc trên suốt chặng đƣờng dài để hoàn thành tác phẩm” [44, tr.

264]. Nhờ có điều đó, các tác giả trường ca sẽ tạo ra trong không gian bản

trường ca của mình những mạch cảm xúc phong phú và đa dạng. Khi cảm xúc

được dồn nén một cách âm thầm, khi lại được trào dâng mãnh liệt thành

những đỉnh điểm trong tâm hồn con người cũng như trong toàn tác phẩm. Có

như vậy, sức hút và ấn tượng sẽ để lại dấu ấn trong lòng độc giả.

Trong khi nhiều bản trường ca viết về đề tài chiến tranh đã có những

thành công nhất định, Nguyễn Trọng Tạo vẫn lưu ý: “điều đáng quan tâm

nhất ở trƣờng ca không phải là viết về cái gì, mà là phản ánh tinh thần của

cái đó nhƣ thế nào” [44, tr. 266]. Do vậy, khi đặt bút viết trường ca, người

cầm bút không nên băn khoăn về phạm vi của đề tài rộng hay hẹp mà cần đi

sâu vào cách viết và nội dung phản ánh trong tác phẩm.

Như vậy, trên cơ sở những đặc trưng chung về thể loại trường ca, bằng

những kiến giải riêng, Nguyễn Trọng Tạo đã đưa ra những ý kiến mang tính

quan niệm về một thể loại đã và đang nở rộ trên hành trình vận động của văn

học Việt Nam hiện đại. Những vấn đề liên quan đến nội dung và hình thức

cũng như tài năng của người cầm bút được Nguyễn Trọng Tạo khái quát và lý

giải một cách xác đáng, trở thành những vấn đề lý luận quan trọng đối với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những người sáng tác và nghiên cứu trường ca.

Chƣơng 2

ĐỐI TƢỢNG THẨM MỸ TRONG TRƢỜNG CA

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Trong niềm cảm hứng sâu đậm về nhân dân, đất nước và những chiêm

nghiệm về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Trọng Tạo đã

dựng lên trong hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những

vì sao, những hình tượng mang tính biểu tượng cho hiện thực chiến tranh, số

phận của dân tộc và niềm tin chiến thắng của đất nước. Dành nhiều tâm huyết

cho mỗi hình tượng bởi theo nhà thơ: “trƣờng ca phải phản ánh đƣợc những

sự kiện lịch sử có ý nghĩa rộng lớn và soi sáng đƣợc cuộc sống của nhân dân

trong toàn bộ tính đa dạng của nó” [44, tr.262].

2.1. Hình tƣợng ngƣời chiến sĩ

Người chiến sĩ là hình tượng xuyên suốt trong văn học Việt Nam thời

kỳ kháng chiến. Trong nguồn cảm hứng chung ấy, Nguyễn Trọng Tạo đã xây

dựng trong hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những vì

sao hình tượng người chiến sĩ bằng da bằng thịt, xuất thân từ những quê

nghèo, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho chặng

đường trường chinh của đất nước.

2.1.1. Ngƣời chiến sĩ trƣớc cuộc chiến tranh vệ quốc

Chiến tranh đồng nghĩa với đau thương, hy sinh và mất mát, điều mà

trước đây, văn học rất ít khi viết về nó. Song, khi chiến tranh đã lùi xa, sự thật

ấy, nỗi đau ấy về cuộc chiến vẫn hiện lên qua nỗi ám ảnh, qua trí nhớ và sự

nhận thức lại diện mạo của cuộc chiến mà những người đã từng trải qua

không thể không nhớ, không thể không bàng hoàng và xót đau. Cùng chung

với cảm hứng ấy, trong Trƣờng ca sƣ đoàn Nguyễn Đức Mậu viết:“Xin đừng

ai chối từ sự thật/Chúng ta nhìn trong suốt cuộc đời nhau” (Trường ca sư

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đoàn- Nguyễn Đức Mậu).

Nguyễn Trọng Tạo sáng tác hai bản trường ca vào đầu những năm 80 của

thế kỷ nhưng hình ảnh người chiến sĩ khi bước vào trận chiến với những đau

thương và lòng quả cảm luôn sống dậy trong mỗi trang của trường ca.

Khi đất nước có chiến tranh, người chiến sĩ đã xác định được sứ mệnh

của cuộc đời mình. Bước vào trận chiến là dấn thân vào nơi ác liệt của cái

chết, thời gian của cuộc chiến dài vô tận:“Anh đánh giặc ba năm/Bảy

năm/Mƣời năm lẻ”(Tình ca người lính- số 1).

Chiến tranh ba năm, bảy năm hay mười năm và lâu hơn nữa. Đó là hiện

thực mà người chiến sĩ phải trải qua, phải xác định để quyết tâm và chiến

thắng. Có thể trở về khi trận chiến kết thúc, song kẻ thù vẫn chưa vắng bóng

nên người chiến sĩ lại khoác ba lô lên đường:

“Anh lại đi với khẩu súng trong tay

Anh lại đi

Đôi dép đúc thay quai

Con tàu lính ồn ào lời tiễn biệt”

(Tình ca người lính- số 3)

Đối diện với chiến tranh là giáp mặt với đau thương, hy sinh và hủy

diệt vì mũi súng của kẻ thù vẫn ngày đêm dòm ngó nơi biên cương:

“Bom nổ chậm vãi đen trời Đồng Lộc

chui xuống đất sâu mang cái chết nằm rình”

(Con đường của những vì sao)

Trên mỗi chặng đường hành quân, người chiến sĩ phải biết chấp nhận

những thiếu thốn về vật chất:

“Với ngày hai thỏi lƣơng khô

Với cơn sốt rét mùa mƣa tái rừng”

(Tình ca người lính- số 2)

Nếu Thu Bồn miêu tả những khó khăn gian khổ của người chiến sĩ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong cuộc kháng chiến chống Mỹ với bao thiếu thốn: “Trận mùa khô đánh

Mỹ/ Quân ta thiếu cơm, thiếu súng, thiếu cả ngƣời”(Bazan khát- Thu Bồn),

Hữu Thỉnh khắc họa hình ảnh người chiến sĩ trong trận sốt rét rừng: “Trận rét

rừng xoắn tím cả làn môi” (Đường tới thành phố- Hữu Thỉnh), thì hình ảnh

người chiến sĩ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo hiện lên chân thực với bao

vất vả, thiếu thốn và sự hoành hành của bệnh tật nơi rừng thiêng nước độc:

“bao chiến sĩ tựa vào cây khi lên cơn sốt

cánh rừng rung lên nhận cơn sốt về rừng”

(Con đường của những vì sao)

Trường ca viết về chiến tranh nói chung và trường ca của Nguyễn

Trọng Tạo nói riêng không hề né tránh những hy sinh. Đặc biệt, khi viết về

hình tượng người chiến sĩ với biết bao gian khổ khi bước vào cuộc chiến thì

sự hy sinh xương máu là điều mà các anh đều xác định được trước, cái chết

không có gì là bất ngờ đối với họ:

“Ngƣời lính về có thể là anh

Cũng có thể là một ngƣời lính khác

Biết bao nhiêu có thể trong chiến tranh

Anh có thể hy sinh

Có thể anh vẫn sống...”

(Tình ca người lính- số 2)

Trên chiến trường cam go và quyết liệt, người chiến sĩ cận kề với cái

chết, cái chết đối với họ “nhẹ tựa lông hồng”:

“Nhƣng em ơi, biết bao đồng đội

Nằm lại với non sông nhƣ đá tảng cây rừng

Khi nằm xuống, họ tin ngày thắng lợi

Tin ngƣời mình yêu sẽ lấy chồng!...”

(Tình ca người lính- số 1)

Họ nằm lại chiến trường cùng đồng chí, đồng đội của mình, nằm lại với

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

non sông đất nước, hóa thân vào dáng hình xứ sở. Khi nằm xuống, họ vững

tin một ngày mai thắng lợi, đất nước được giải phóng. Và có lẽ, trong sâu

thẳm tâm hồn, những người chiến sĩ nhớ về người mình yêu, những người

đang chờ đợi mình nơi hậu phương.

Chiến tranh như đúng nghĩa của nó với những gian khổ, với đau thương

và cả những mất mát không sao lường hết được mà người chiến sĩ phải đương

đầu, phải xác định như một điều hết sức nhẹ nhàng và thanh thản.

2.1.2. Ngƣời chiến sĩ trong trận chiến

Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược như một nỗi ám ảnh lớn

đối với bất kỳ người dân Việt Nam nào. Hơn ai hết, người chiến sĩ, những

chàng trai cô gái đang tuổi thanh xuân không thể khoanh tay đứng nhìn đất

nước chìm trong đau thương, hy sinh và mất mát. Thu Bồn đã từng khắc họa

tâm thế ấy của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống đế

quốc Mỹ:

“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ

Bay đừng hòng khuất phục đời ta

Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy

Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa” (Bài ca chim Chơrao- Thu Bồn)

Là người trong cuộc, người đã trực tiếp cầm súng dấn thân vào cuộc

kháng chiến của dân tộc, đi sâu vào dòng tâm tư với những suy nghĩ rất đời

thường, mộc mạc mà mạnh mẽ, các bản trường ca của Nguyễn Trọng Tạo đã

có sức gợi rất lớn khi để người chiến sĩ đứng trước chiến tranh, đối diện với

chiến tranh và vận mệnh của dân tộc. Đó là những cảm xúc rất thực của người

chiến sĩ dường như không kiềm chế nổi:

“Ôi ! Tổ quốc ta muôn đời muốn khóc

Sau cơn bão chiến tranh quyết liệt

Tóc biển xanh ôm vai đất mỡ màu”

(Con đƣờng của những vì sao)

Từ trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sĩ, hình ảnh Tổ quốc luôn thôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thúc và trở thành niềm tin để họ ý thức về vai trò của cá nhân mình, về nền

độc lập của nhân dân.

Trong trường ca Tình ca ngƣời lính, Nguyễn Trọng Tạo đã cảm nhận

về một đất nước mà chiến tranh dường như không bao giờ chấm dứt, như

ngưng đọng vĩnh viễn, như là điểm chết của mọi con người, mọi làng quê,

mọi nơi, mọi chốn:

“Nhƣng chiến tranh, chiến tranh không thể nào ngừng

Chiến tranh không thể nào ngừng

Những trạm giao liên không đủ cây để mà mắc võng

……..

Những ngả đƣờng chỉ gặp ngƣời và súng

……..

Chiến tranh nhƣ không thể nào ngừng

Nhƣ mùa mƣa dầm dề không biết ngày ráo tạnh”

(Tình ca ngƣời lính số 1)

Sự trở đi trở lại điệp khúc: “Nhƣng chiến tranh, chiến tranh không thể

nào ngừng” như một ám ảnh xót đau của người chiến sĩ về đất nước. Những

hình ảnh chiến tranh hiện lên rõ rệt như thước đo sự tận cùng của cuộc chiến

tranh phi nghĩa: Trạm giao liên, võng hai tầng, võng ba tầng…như một hiện

thực, như những số đếm mức độ và sự vĩnh viễn của cuộc chiến tranh. Biết

bao giờ cơn mưa dầm tạnh ráo, biết bao giờ người chiến sĩ không phải ngủ

đứng, biết bao giờ B.52 không càn quét trên bầu trời dân tộc. Đó là những

cảm nhận, những suy ngẫm cất lên thành lời của người chiến sĩ.

Tình ca ngƣời lính được Nguyễn Trọng Tạo viết năm 1983, đó là

khoảng thời gian mà cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã lùi xa gần 10

năm nhưng cảm giác chua xót, đớn đau và ớn lạnh từ trong sâu thẳm tâm hồn

người chiến sĩ vẫn còn nguyên vẹn:

“Chiến tranh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Ngỡ đôi lần ớn lạnh

...Ôi chiến tranh! Chiến tranh

Anh muốn kêu lên

Bao lá thƣ tình chiến tranh đốt cháy

...Anh xa thế

Chiến tranh thì dài thế…”

(Tình ca người lính- số 1)

Con đường chiến tranh của đất nước liên miên dường như không điểm

dừng. Biết bao lá thư tình bị đốt cháy giữa trận tuyến, biết bao lần người

chiến sĩ thấy tâm hồn mình ớn lạnh và cảm quan về “con đƣờng dài lắm” đã

trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong cả tình yêu lứa đôi, trong bao lời ước

hẹn và trong mỗi bước đi trên những chặng đường gian truân khốc liệt.

Từng tấc đất, từng vạt rừng, từng giọt máu và từng bước chân như dậy

lên nỗi ám ảnh đau thương về cuộc chiến tranh. Người chiến sĩ như bị lạc vào

một khu rừng tưởng như không có lối ra, không ngày và không đêm:

“Anh nhƣ gọi giữa mênh mông biển tối

Chiến tranh ào ã tiếng bom rơi”

( Tình ca người lính- số 1)

Cảm giác lạc vào giữa đêm tối mênh mông của biển trời chiến tranh, của

tiếng bom đạn gào thét đã làm cho người chiến sĩ tự hỏi chính lòng mình:

Chiến tranh bao giờ chấm dứt ? Cuộc hành quân mấy chục năm lẽ nào không

tới đích ? Những câu hỏi ấy xoáy sâu vào trong tâm can họ, trong mỗi bước đi

và để lại một nỗi ám ảnh xót xa.

2.1.3. Lý tƣởng và hành trình đi tới chiến thắng

Đất nước đau thương, người chiến sĩ sẵn sàng đi vào nơi nguy hiểm để

bảo vệ từng tấc đất, từng ngọn cỏ quê hương. Một câu hỏi đặt ra là, chiến

tranh với biết bao gian khổ và hy sinh như thế thì sức mạnh nào đã trở thành

điểm tựa thôi thúc người chiến sĩ tiến lên phía trước để tiêu diệt kẻ thù ? Phải

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chăng đó là điều mà nhà thơ Trần Mạnh Hảo muốn nói trong trường ca Thời

chúng ta yêu nhau:

“Ở giữa anh và em là cái gì cao hơn sự chết

Hơn cả sự sống hai ta là sự sống giống nòi”

(Thời chúng ta yêu nhau- Trần Mạnh Hảo)

Nguyễn Trọng Tạo khi viết hai bản trường ca không đi vào kể lể sự

kiện hay chiến công mà nhà thơ đi sâu lý giải những điều rất đỗi thiêng liêng

được hình thành trong tâm hồn người chiến sĩ. Đó là lý tưởng cách mạng, là

vẻ đẹp của lòng quả cảm “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong mỗi bản

trường ca, sức mạnh và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã được

nhà thơ khai thác như một yếu tố không thể thiếu khi nói tới diện mạo của cuộc

chiến tranh và vẻ đẹp hình tượng người chiến sĩ trên chặng đường hành quân đầy

gian khổ, vẻ đẹp của“Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” (Lê Anh Xuân).

Đứng trước hoàn cảnh đất nước bị giặc giày xéo, khắp ba miền ầm

vang tiếng súng:

“chiến tranh nhƣ gió dữ phừng phừng

tràn qua vĩ tuyến

máu miền Bắc đã nhuộm bầm đất Bắc”

(Con đường của những vì sao)

Là những chàng trai, cô gái căng tràn sức trẻ, những người chiến sĩ

không thể khoanh tay đứng nhìn đất nước chìn trong lửa đạn:

“ Ngày tháng anh mang theo

Cả thân thể căng tràn sức lực…”

(Tình ca người lính- số 1)

Nếu như trong Tình ca ngƣời lính, những cô gái là người vợ hiền nơi

hậu phương thì trong Con đƣờng của những vì sao, họ đã trở thành những cô

thanh niên xung phong ngày đêm phá bom, mở đường cho xe ra tiền tuyến:

“Cô gái áo nâu vai tròn gió thổi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngực căng đầy hồi hộp ánh trăng

tóc chàng trai dính chút bùn non

sau buổi cày bừa đồng chiêm vội vã”

(Con đường của những vì sao)

Vẫn còn trên mình chiếc áo nâu bọc tuổi trăng tròn, bàn chân vẫn còn

dính bùn sau khi cày xong thửa ruộng, những chàng trai, cô gái vội vã ghi tên

tòng quân mà không một chút do dự. Họ mang vào cuộc chiến tuổi thanh

xuân với mái tóc xõa ngang lưng, với nụ cười tươi trẻ và trái tim nồng cháy

đang hướng về Tổ quốc:

“tuổi hai mƣơi mái tóc xoả lƣng ong

….

giữ nụ cƣời con gái tuổi hai mƣơi...”

(Con đường của những vì sao)

Họ tự nguyện bước vào trận chiến, sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân

của mình khi đất nước lâm nguy:

“ngày mai chàng trai thành ngƣời lính

đƣờng ngƣời lính - đƣờng ra mặt trận

bàn tay ngƣời lính - bàn tay cầm súng

trái tim ngƣời lính - chọi cùng đạn bom”

(Con đường của những vì sao)

Ngày mai, mọi cái đã đổi thay, chàng trai nơi quê nghèo trở thành

người chiến sĩ, con đường trước mặt họ là con đường chinh chiến dài lâu và

gian khổ. Họ sẵn sàng ra đi trong tư thế bàn tay cầm súng. Gia tài lớn nhất để

họ tiến về phía trước đó chính là trái tim. Trái tim của tinh thần yêu nước, trái

tim của lòng dũng cảm và sự tự nguyện hiến dâng cho Tổ quốc. Càng đi, trái

tim càng mài sắc và thức nhọn lòng căm thù giặc, thức nhọn lòng quả cảm để

đấu chọi với bom đạn của kẻ thù.

Người chiến sĩ ra đi để lại sau lưng mình mẹ già, em thơ, cả làng quê

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

yêu dấu và tình yêu trong ngày cưới dang dở:

“ Nào riêng hai ngƣời yêu nhau hoãn cƣới

Bao cô dâu đêm tân hôn tất bật

Khoác ba lô tiễn chú rể lên đƣờng

Để tới đêm tân hôn có thật

Có cái gì hơn cả máu xƣơng…!”

(Con đường của những vì sao)

Người chiến sĩ đã cảm nhận được sự éo le của hoàn cảnh riêng và hòa

nhịp với hoàn cảnh của cả thế hệ để có thêm quyết tâm. Vẫn biết đi là khó

được trở về, vẫn biết sẽ chẳng có đêm tân hôn lần thứ hai nhưng họ đã gác lại

mọi chuyện riêng để hòa mình vào nhiệm vụ chung của cả dân tộc. Tâm trạng

ấy của người chiến sĩ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo đã có sự gặp gỡ nỗi

niềm của người chiến sĩ trong trường ca Trần Mạnh Hảo. Khi người chiến sĩ

chiến đấu hy sinh, ngã vào lòng đất vẫn trinh nguyên tuổi trẻ:

“Chƣa kịp yêu một ngƣời con gái

Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai”

(Đất nước hình tia chớp - Trần Mạnh Hảo)

Họ tình nguyện ra đi và nằm xuống khi tuổi đời còn xanh:

“Họ trẻ lắm những ngƣời nằm dƣới đó

áo binh nhì xanh suốt tuổi đôi mƣơi”

(Sông Mê Công- Anh Ngọc)

Ngay cả khi biết trước ngày mai đất nước được giải phóng, chiến

tranh sẽ chấm dứt, họ vẫn nguyện xả thân. Bởi những người chiến sĩ đã nhận

thức được: “Nếu cửa tử này đoàn quân không qua đƣợc

...Có thể bùng cháy mái nhà tranh”

(Tình ca người lính- số 1)

Họ đã nhận thức được cái chết chờ đợi ngay trước mặt, nếu yếu lòng sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chẳng thể vượt qua. Song, nếu lùi lại phía sau thì cả dân tộc mình sẽ bị vùi

trong biển lửa, trong đau thương.

Bi kịch về cái chết của người chiến sĩ thật xót xa khi họ nhận thức được

rằng ngày mai rồi sẽ hòa bình, đất nước sẽ sạch bóng quân thù nhưng hôm

nay, trong cửa tử đầy nguy hiểm, họ phải nằm xuống, phải chết trước bình

minh của hòa bình:

“Em ơi em, có thể anh ngã xuống

Trƣớc bình minh chiến thắng”

(Tình ca người lính- số 1)

Người chiến sĩ biết rằng, những người thân yêu đang chờ mình phía

trước, anh chết sẽ có bao người mất anh. Nhưng nếu ai cũng cố sống đến ngày

mai thì trong giờ phút quyết định ấy, cuộc chiến sẽ ra sao, lá cờ tự do phía

trước có còn tung bay, đất nước sẽ ra sao. Hơn bao giờ hết, người chiến sĩ gác

lại mọi riêng tư vì ngày mai độc lập. Trong những giây phút quyết định nhất

đối với vận mệnh của đất nước, người chiến sĩ xin được quên niềm riêng để

hướng con tim mình về Tổ quốc thiêng liêng:

“Nhƣng em ơi, chính giây phút này đây

Cho anh đƣợc quên niềm riêng nồng cháy

...Cho anh đƣợc quên để nhớ về Đất Nƣớc!”

(Tình ca người lính- số 1)

Khi đất nước có chiến tranh, tự bản thân mỗi người yêu nước đều biết

lấy nhân danh cộng đồng để suy nghĩ và hành động. Tổ quốc còn hay mất,

độc lập tự do hay nô lệ ? Câu hỏi ấy khiến mỗi người Việt Nam chân chính tự

nguyện dẹp bỏ mọi lợi ích cá nhân, hi sinh tất cả cho công cuộc giải phóng

đất nước. Những người chiến sĩ khi ấy chỉ có một con đường duy nhất là tiến

thẳng về phía trước, nơi đó có kẻ thù, nơi đó là cái đích cần đến cho nền hòa

bình của dân tộc. Nói như nhà thơ Nguyễn Đức Mậu: “Ai hèn nhát sẽ chết

trong hèn nhát/ Chỉ một con đƣờng tiến thẳng mà thôi”. Nguyễn Trọng Tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã trả lời trong trường ca của mình câu hỏi: Người cầm súng là ai ? Họ làm gì

nơi chiến trường ác liệt ?

“- ngƣời cầm súng là ai? Bạn hỏi

- ngƣời cầm súng trùng tên sông tên núi

ở khắp nơi trên đất nƣớc này

là gái là trai

là già là trẻ..."

(Con đường của những vì sao)

Nếu người chiến sĩ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo gác tình riêng

để hòa vào tình đất nước thì người chiến sĩ trong trường ca Thanh Thảo, các anh

gửi lại tuổi trẻ học đường, gửi lại kỳ hè, gửi lại những cuốn sách đang đọc dở:

“Con gửi lại sau lƣng

Những ƣớc mơ nhà văn, bác học

Để nhận lấy cánh rừng

Để nhận lấy dãy Trƣờng Sơn dựng dốc”.

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Bởi người chiến sĩ tuy trẻ tuổi nhưng họ đã nhận ra một chân lý thật cao

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

đẹp trước Tổ quốc:

(Nhƣng tuổi hai mƣơi làm sao không tiếc)

Nhƣng ai cũng tiếc tuổi hai mƣơi thì còn chi Tổ quốc ?”

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Lý tưởng cao đẹp trong trái tim người chiến sĩ đã thôi thúc bước chân

của họ trên chiến trường. Dường như từ trong sâu thẳm tâm can, người chiến

sĩ vững tin vào một ngày mai chiến thắng nên bước chân của họ đầy quyết

tâm và vững chãi:

“Đi

Đi

Và đi...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Đi giải phóng đất đai

Chƣa dừng lại khi đất đai Tổ quốc mình chƣa hoàn toàn

giải phóng

Đi

Đi

Và đi...

Cái chặng đƣờng anh sắp vƣợt lên

Để tới đích cắm lá cờ chiến thắng…”

(Tình ca người lính- số 1)

Điệp khúc “Đi Đi và đi…” trở đi trở lại trong trường ca Tình ca ngƣời

lính vang lên như một khúc ca hào sảng về tư thế lên đường chiến đấu đầy

quyết tâm và rắn rỏi. “Đƣờng ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật),

biết rằng, mỗi bước đi là mỗi bước gian lao, là mỗi bước kẻ thù đang ngày

đêm oanh tạc. Họ tiến thẳng về phía trước, nơi đó họ sẽ tiêu diệt kẻ thù, nơi

đó họ sẽ cắm lá cờ chiến thắng. Bởi “Cuộc chiến đấu ấy là cuộc chiến đấu

chấp nhận hy sinh cho thắng lợi cuối cùng” [46, tr.523].

Thơ và nhất là trường ca của thế hệ chống Mỹ cứu nước là tiếng nói tự

tin của những người trong cuộc. Chính nhà thơ chiến sĩ là người khắc họa

chân dung đồng đội mình rõ nét nhất, thực nhất, tình cảm nhất. Tuy được viết

vào đầu thập niên 80, khi chiến tranh đã lùi xa, đất nước được hòa bình song

trong từng dòng, từng chữ của trường ca Tình ca ngƣời lính, những chi tiết,

những hình ảnh về tư thế và hành động của người chiến sĩ được Nguyễn

Trọng Tạo nhớ lại, ghi lại một cách chân thực. Trong phút giây quyết định,

khi mà số phận của họ cận kề với cái chết, khi mà đất nước sẽ một còn một

mất cũng là lúc mà tâm thế của người họ đẹp hơn bao giờ hết:

“Những ngƣời lính vững vàng nhƣ cột mốc

Những ngƣời lính

Đứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Làm cột mốc

Những cột mốc thiêng liêng

Biết thƣơng nhớ

Biết làm nên sấm sét

Khi quân thù xâm lấn núi sông ta!...”

(Tình ca người lính- số 3)

Họ không chỉ được ví như những cột mốc trên con đường chinh chiến,

bom đạn dội đến mấy cũng vững vàng mà họ còn được coi như những “cột

mốc” thiêng liêng, có tâm hồn, có sức mạnh. Chính họ, những “cột mốc” ấy sẽ

làm nên chiến thắng, sẽ quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi.

Sức mạnh của lý tưởng và lòng quả cảm hướng về phía trước, người

chiến sĩ trong đêm công đồn đã quên mình để giáp lá cà với kẻ thù. Sức nóng

của con tim, sức căng của chân lý độc lập đã thôi thúc bước chân của họ:

“Anh lao lên

Và xe pháo

Và ngƣời

Cánh cửa thép Hòa Bình tung mở

Hòa Bình ơi!

Hòa Bình ơi!

Tiếng hò reo cuộn sóng mọi ngả đƣờng”

(Tình ca người lính- số 1)

Bình minh của hòa bình đã mở ra sau những phút giây quyết định và

những hành động dứt khoát của người chiến sĩ. Tiếng reo vang “Hòa bình !

Hòa bình !” như cất lên từ sâu thẳm con tim những người còn sống và cả

những người đã nằm xuống trước cánh cửa tự do. Lòng dũng cảm của người

chiến sĩ ở mặt trận được đo đếm bằng những hành động cụ thể chứ không

phải chỉ bằng những khái niệm chung chung. Họ luôn sẵn sàng đối mặt với

mọi khắc nghiệt của chiến tranh. Bằng lòng dũng cảm, bằng nghị lực, ý chí

của mình, người chiến sĩ lần lượt vượt lên những khó khăn để đi đến thắng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lợi. Đó là sự chưng cất và đỉnh cao của lý tưởng cao đẹp mà mỗi người chiến

sĩ khi bước vào trận chiến đều mang theo.

Nếu trong trường ca Tình ca ngƣời lính, người chiến sĩ trong tư thế

hiên ngang tiến lên phía trước để cắm cờ độc lập thì trong trường ca Con

đƣờng của những vì sao, người chiến sĩ được nhà thơ ghi lại trong những tình

thế hết sức cam go và hiểm nghèo. Hình ảnh những cô thanh niên xung phong

mà cụ thể là hình tượng 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc đã đi vào những dòng

thơ tràn đầy niềm xúc động và cảm phục của Nguyễn Trọng Tạo. Không hề

ngần ngại khi nhà thơ đặt tên cho nhân vật trong trường ca của mình với

những cái tên như La, Cúc, Tần, Xuân, Hà, Rạng…Ở chương thứ 8- Đỉnh

cao, nhà thơ dựng lên bức tượng đài bi tráng về hình tượng 10 chiến sĩ thanh

"- Đồng chí Tần ơi!... A lô... Đồng chí Tần..."

niên xung phong nơi Đồng Lộc ác liệt:

tiếng La gọi nghẹn ngào trong khói đắng

tiếng La gọi xiên qua tầng đất nặng

xiên qua bom đạn rú gầm

chỉ có gió ầm ầm”

(Con đường của những vì sao)

Thời gian và không gian Đồng Lộc lúc này như đặc quánh bởi tràn

ngập khói đắng và lửa đạn. Trong khoảnh khắc, đạn bom, đất đá, tín hiệu và

giọng nữ thất thanh như bị hòa trộn vào nhau tạo nên một tình thế hết sức cam

go. Trong hoàn cảnh ấy, người chiến sĩ- những cô thanh niên xung phong là

những người sẽ phải xông pha để thông những tuyến đường. Song, sức công

phá của dã tâm hủy diệt không chỉ băm vằm những tuyến đường mà còn vùi

lấp những mái tóc tuổi hai mươi nơi Đồng Lộc:

"La lại quẫy mình...

không làm sao gƣợng dậy

nắng nửa chiều tung hoa cải hoa cà

trên bụi khói

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bỗng lành lạnh bờ vai

nhƣ máu chảy lại nhƣ là nƣớc chảy

và dòng sông xanh cứ dâng đầy lên mãi

dọc cơn mê - dịu ngọt một dòng sông... ”

(Con đường của những vì sao)

Điệp khúc "La lại quẫy mình.../không làm sao gƣợng dậy” trở đi trở lại

như khắc họa một tình thế của người chiến sĩ, một sự vùng vẫy để vượt lên

phía trước. Và đó cũng là một hiện thực vô cùng xót đau khi những người

chiến sĩ bị bom đạn vùi lấp trong đất đá. Lúc này, sự sống và cái chết gần như

gang tấc song lòng quả cảm vẫn cố vùng lên để đối chọi với sự hủy diệt của

đạn bom. Trong tình thế một còn một mất ấy, trong tâm hồn của những người

chiến sĩ có sự chênh chao giữa cái ác liệt và sự bình yên. Nhà thơ Nguyễn

Trọng Tạo đã tạo ra hàng loạt những cặp hình ảnh đối lập trong những dòng

thơ: Hoa cải hoa cà/bụi khói; máu chảy/ dòng sông xanh; cơn mê/dịu

ngọt…Và trong những đoạn sau, mỗi dòng miêu tả người chiến sĩ trong đau

thương vùng vẫy để vượt lên bom đạn thì lại đan cài một dòng hiện lên những

hình ảnh thật đẹp như cụm lan rừng, dòng sông quê, người mẹ, người yêu,

mái tóc xanh…Phải chăng, Nguyễn Trọng Tạo đã buông vào những câu thơ

đầy tính lãng mạn ấy để mong làm át đi, giảm đi sự thật đau thương đó là sự

hy sinh của 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc:

“mái tóc bay trong đất - tóc hai mƣơi

tóc trong đất, gió thời gian thổi mãi...”

(Con đường của những vì sao)

Những người chiến sĩ- những cô thanh niên xung phong đã hy sinh anh

dũng. Họ không thể gượng lên trước sự công phá của những vũ khí tối tân.

Mái tóc xanh của tuổi hai mươi hòa vào lòng đất, bay trong lòng đất. Để

rồi, tiếng gọi đồng đội thiết tha, trìu mến vẫn vang lên trên mặt đất nham

nhở hố bom:

"- Mƣời đồng đội yêu thƣơng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mƣời đồng đội yêu thƣơng nằm lại với con đƣờng!

- La không khóc mà đầm đìa nƣớc mắt

ơi Hợi, ơi Nho, ơi Hà, Xanh, Cúc...”

(Con đường của những vì sao)

Nguyễn Trọng Tạo thật sự xúc động và tâm huyết khi viết về hình tượng

10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc. Nhà thơ về thăm Đồng Lộc và viết trường ca

Con đƣờng của những vì sao khi chiến tranh đã lùi xa, Đồng Lộc còn đó bức

tượng đài của 10 cô gái- 10 chiến sĩ xung phong ngày ấy. Sự hóa thân kỳ diệu

của những người chiến sĩ vào lòng đất Mẹ và sự bất tử những con người với

non sông đã được nhà thơ trân trọng trong từng dòng, từng chữ. Hình tượng

những cô thanh niên xung phong trong trường ca Con đƣờng của những vì

sao mang vẻ đẹp bi tráng, hòa vào vẻ đẹp của những chiến sĩ trên dòng sông

Thạch Hãn năm nào:

“Đò lên Thạch Hãn ơi… chèo nhẹ

Đáy sông còn đó bạn tôi nằm

Có tuổi hai mƣơi thành sóng nƣớc

Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”

(Lời người bên sông- Lê Bá Dương)

Hình tƣợng máu

Hành trình đi đến chiến thắng của dân tộc không phải là con đường trải

đầy hoa hồng và gấm lụa. Đó là chặng đường đầy chông gai mà mỗi tấc đất,

mỗi gốc cây đều thấm máu anh hùng. Không né tránh hiện thực gian khổ và

hy sinh, trường ca trong kháng chiến chống Mỹ đã thiêng liêng hình tượng

máu của người chiến sĩ trên những chặng đường hành quân. Máu biểu tượng

cho sự ngã xuống của người chiến sĩ với âm hưởng mang đầy chất bi tráng

của sử thi. Lê Anh Xuân đã từng viết:

“ Và anh chết khi đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Dáng đứng Việt Nam)

Máu đổ xuống đồng nghĩa với việc người chiến sĩ hy sinh vì Tổ quốc,

cho hạnh phúc:

“ Chết-hy sinh cho Tổ quốc- Hùng ơi

Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất”

(Nấm mộ và cây trầm- Nguyễn Đức Mậu)

Mạnh bạo hơn trong thơ mình khi nói về máu, Nguyễn Trọng Tạo đã có

những lời thơ thẳng thắn và đầy xúc động:

“ Trong chiến tranh tôi có ngƣời đồng đội

Vƣợt đạn bom đi hái lá tàu bay

Máu anh thấm lá rau này

Tôi chan bát canh: gặp muối”

(Những gì tôi có thật)

“Tôi chan bát canh: gặp muối”, câu thơ thật cảm động bởi nó không né

tránh một sự thật đau lòng, muối ở đây là vị mặn của nước mắt, của máu

người đồng đội đã hy sinh hòa vào lá rau tàu bay. Đó là sự thật trong chiến

tranh, sự thật không hề giấu giếm và không thi vị hóa.

Trong cảm hứng chung ấy, trong hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính

và Con đƣờng của những vì sao, hình tượng máu luôn trở đi trở lại như một

ám ảnh về sự hy sinh của người chiến sĩ trước hiện thực chiến tranh. Riêng

trong trường ca Con đƣờng của những vì sao, Nguyễn Trọng Tạo đã dành

riêng chương thứ 6 để nói về Độc thoại của máu. Với Nguyễn Trọng Tạo,

máu không đơn thuần mang ý nghĩa sinh học mà trong trường ca của ông,

máu đã trở thành một nhân vật có linh hồn, có sự chuyển hóa. Mở đầu chương

Độc thoại của máu, Nguyễn Trọng Tạo đã tìm về ngọn nguồn của dòng máu

Việt, dòng máu đỏ tươi của con Lạc cháu Hồng tuôn chảy trong huyết mạch

thế hệ trẻ tự bao giờ:

“Tự bao giờ máu đỏ tƣơi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cho hồng gƣơng mặt, nụ cƣời ngàn năm

...Tự bao giờ máu đỏ tƣơi

(Con đường của những vì sao)

cái màu đỏ dựng nên ngƣời hôm nay”

Dòng máu từ bao đời đã nuôi dưỡng gương mặt, hình hài con người để

trong mỗi dáng hình, mỗi nghĩ suy đều mang linh hồn của máu: máu âm

thầm; máu hăng say; máu son; máu huy hoàng. Những cung bậc của máu đã

hun đúc trái tim con người biết sống thủy chung son sắt, biết đoàn kết để

đứng lên, biết kiêu hãnh giống nòi:

“qua bao bão táp phong ba

máu Dân tộc để bây giờ cháu con...”

(Con đường của những vì sao)

Khi đất nước có chiến tranh, những người chiến sĩ mang trong mình

dòng máu Tiên Rồng được hun đúc bởi truyền thống từ ngàn đời để sẵn sàng

ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Hơn bao giờ hết, họ thấu hiểu

được xứ mệnh của mình với non sông bờ cõi, trên mỗi bước hành quân, họ

nghe thấy máu dân tộc cuộn chảy trong lồng ngực, trong trái tim. Và như một

quy luật thiêng liêng của những đứa con với đất Mẹ, những người chiến sĩ

quả cảm và anh hùng đã hiến dâng máu của mình cho dân tộc. Máu của các

anh, các chị thấm vào từng tấc đất quê hương khi vận mệnh chỉ còn trong

gang tấc:

“máu tim anh phun qua ô kính vỡ

nhập vào từng tấc đất quê hƣơng

nơi cao điểm Tình Yêu - Tuổi Trẻ

những tháng năm cuộc chiến đấu mất còn”

(Con đường của những vì sao)

Biết rằng đó là đớn đau, đó là cái chết khi còn thanh xuân nhưng đối

với những người chiến sĩ, đó là điều không hề bất ngờ, nó như một lẽ thường

tình của những con người nhận ra ý thức dân tộc còn cao hơn mọi điều trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lúc này:

“Máu anh đổ xuống bây giờ

ngày bom rơi, chẳng bất ngờ đâu em”

(Con đường của những vì sao)

Sẵn sàng nằm xuống cho đồng đội mình tiến lên phía trước, cho nhân

dân mình được hòa bình, cho dân tộc mình được tự do bởi trong dòng máu

đang trào dâng sôi sục trong cơ thể người chiến sĩ, có sự hun đúc và điểm tựa

của truyền thống dân tộc:

“máu ta không chịu đeo xiềng

máu ta không chịu chia niềm đau thƣơng

máu đi về phía chiến trƣờng

chặn nòng súng giặc mở đƣờng tấn công”

(Con đường của những vì sao)

Con đường ra trận là con đường nối Máu và Hoa, có hy sinh, có đổ máu

sẽ có ngày chiến thắng. Đó là con đường chúng ta phải trải qua để đến ngày

hòa bình:

“con đƣờng nối Máu và Hoa

cho đêm đen tới chan hoà bình minh”

(Con đường của những vì sao)

Nguyễn Trọng Tạo đã xen giữa những lời thơ tự do bằng nhiều đoạn

lục bát khiến cho hình tượng máu vừa gần gũi tự nhiên vừa thiêng liêng cao

cả. Nhà thơ đã đặt hình tượng máu vào đúng thời điểm cam go nhất của dân

tộc để mỗi con người Việt Nam thêm yêu, thêm tự hào dòng chảy trong huyết

quản của mình và được tiếp thêm sức mạnh để tiến về phía trước. Hình tượng

hóa máu, Nguyễn Trọng Tạo đã nhấn mạnh và ngợi ca sự hy sinh cao cả của

thế hệ trẻ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Lý tưởng cách mạng và hành trình đi tới chiến thắng chính là mục đích,

là quyết tâm của người chiến sĩ khi bước vào trận chiến khi đất nước đứng

bên bờ sóng. Điều đó có thể trả lời cho câu hỏi lớn là vì sao đứng trước kẻ thù

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lớn với những vũ khí tối tân và dã tâm xâm lược, cuộc kháng chiến trường kỳ

rất cam go và quyết liệt, dân tộc ta Việt Nam lại đi đến ngày chiến thắng. Đó

là cuộc chiến giữa tình yêu thương chống lại sự độc ác, giữa khát vọng tự do

hạnh phúc với dã tâm hủy diệt của kẻ thù, giữa chính nghĩa và phi nghĩa.

Nhà thơ đã góp một tiếng nói riêng vào dòng chung của vẻ đẹp chủ

nghĩa anh hùng cách mạng mà các nhà thơ tiêu biểu cùng thời như Thanh

Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã dày công ghi lại. Hình tượng người

chiến sĩ đã được nhà thơ xây dựng trong trường ca vừa thực lại vừa giàu chất

thơ nên lung linh, sống động, vừa rất đỗi bình dị mà cũng rất đỗi anh hùng.

2.1.4. Khát vọng hạnh phúc

Khát vọng hạnh phúc tuy không được nói đến nhiều qua các bản trường

ca song đó vẫn là điểm nhấn trong tâm hồn con người, đặc biệt là người chiến

sĩ đang ngày đêm xả thân cho từng tấc đất, từng vạt rừng. Nếu không có khát

vọng hạnh phúc có lẽ, mọi lý tưởng dù có cao đẹp đến đâu, mọi hành động dù

có dũng cảm thế nào thì tất cả chỉ là vô nghĩa. Cùng bước chân đi trong mưa

bom bão đạn, người chiến sĩ trong trường ca của Hữu Thỉnh đã mang trong

mình khát vọng ấy:

“Để có một đồng bằng trƣớc mặt

Chúng ta lên đƣờng mƣời tám đôi mƣơi”

(Đường tới thành phố- Hữu Thỉnh)

Người chiến sĩ trong trường ca của Anh Ngọc trên hành trình chinh

chiến ở nước bạn Capuchia đã khát khao được trở về thời thơ bé để được sống

trong bình yên:

“anh xin đƣợc trở về thời bé bỏng

thả con thuyền trôi dọc tiếng ru”

(Sông Mê Công- Anh Ngọc)

Sống giữa hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, khát vọng hạnh phúc của

những người chiến sĩ trong trường ca của Nguyễn Trọng Tạo không phải là

những điều cao xa, ảo tưởng mà trong mỗi người, những người cầm súng đi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiến trường bảo vệ đất nước đều mang trong mình một khát vọng hạnh phúc

bình thường, giản dị:

“ Hạnh phúc bình thƣờng nhƣ hạnh phúc

Không khắc khoải lo âu không phấp phỏng đợi chờ”

(Tình ca người lính- số 1)

Đối với họ, hạnh phúc là được bồng bế đứa con thơ trên tay trong cảnh

hòa bình:

“Ru con

Bên võng anh ngồi

Tiếng đƣa kẽo kẹt một thời trẻ thơ

Có gì nhƣ quá đơn sơ

Mà cao rộng tựa ƣớc mơ đời ngƣời”

(Tình ca người lính- số 2)

Biết bao người đã không tìm được hạnh phúc vì chiến tranh, để sự nuối

tiếc khổ đau cho cả cuộc đời:

“Những mảnh vỡ mối tình đầu nhƣ thủy tinh nhọn sắc

Bao đợi chờ ứa máu đến xa sau”

(Tình ca người lính- số 1)

Những cô thanh niên xung phong- những chiến sĩ đang ngày đêm túc

trực những tuyến đường có những ước mơ giản dị mà quặn đau lòng người:

“- ƣớc gì chúng mình cƣới nhau hôm qua

ƣớc gì chúng mình cƣới nhau bữa trƣớc

để trong đêm ly biệt

nói chuyện tƣơng lai

em ƣớc con trai

anh mong con gái...”

(Con đường của những vì sao)

Họ ước mong giá như niềm hạnh phúc riêng tư kia không muộn màng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không vội vã thì có lẽ trong cuộc chiến ác liệt này, những ước mơ về tương

lai, về hạnh phúc gia đình sẽ tiếp thêm sức mạnh cho họ. Thật đau xót khi

khát vọng hạnh phúc của những chiến sĩ “chơi vơi giữa sự sống và cái chết,

của tình yêu và biệt ly” [46, tr.522].

Người chiến sĩ quan niệm về hạnh phúc hết sức nghiêm túc và cao đẹp.

Với họ, hạnh phúc không phải là cái gì người ta cho nhau mà hạnh phúc có

được sau bao nỗi gian lao, bao nhọc nhằn. Sau những hy sinh, vất vả, hạnh

phúc đẹp và quý giá vô cùng:

“Hạnh phúc sau gian lao

Hạnh phúc thêm giàu...”

(Tình ca người lính- số 2)

Chính những mong muốn rất người ấy không làm cho người chiến sĩ bi

lụy, nhụt ý chí, ngược lại, càng thúc đẩy họ chiến đấu. Bởi vì, khát vọng hạnh

phúc của họ dù có nhỏ bé hay lớn lao cũng luôn gắn liền với hạnh phúc của

Tổ quốc, quê hương, gắn với tất cả những con người Việt Nam ở mọi lứa tuổi,

mọi giai đoạn:

“ôi hạnh phúc nhƣ cƣời nhƣ khóc

chỉ còn nhau trong mắt ƣớt lung linh!...”

(Con đường của những vì sao)

Khi đến ngày hòa bình, nụ cười chen lẫn nước mắt. Đó là niềm vui,

niềm hạnh phúc trào dâng không chỉ của người chiến sĩ mà còn là của người

dân Việt Nam sau những hy sinh, gian lao trên những chặng đường chiến đấu.

Khi hòa bình trở về cũng là khi khát vọng hạnh phúc vỡ òa trong niềm vui rất

đỗi bình dị mà lớn lao:

“ Hòa bình nhƣ đứa con lƣu lạc

Chạy chân trần về gặp lại quê hƣơng !...”

(Tình ca người lính- số 1)

Hình tƣợng trăng

Khát vọng hạnh phúc đời thường bình dị mà rất đỗi lớn lao của người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiến sĩ trong chiến tranh được nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo khắc họa qua biểu

tượng ánh trăng. Trong trường ca thời chống Mỹ nói chung, dòng sông, con

đường, ánh trăng là những biểu tượng thiêng liêng cho khát vọng hạnh phúc

của người chiến sĩ trên mỗi chặng đường hành quân. Vầng trăng là hiện thực

tươi đẹp, là mảng màu sáng làm cân bằng khoảng trời bom đạn. Chúng ta đã

từng gặp hình ảnh đẹp “đầu súng trăng treo” trong Đồng chí của Chính Hữu,

vầng trăng trong trường ca của Nguyễn Đức Mậu vừa da diết, bùi ngùi, vừa

xa xăm:

“ Tổ quốc xa nhƣ vầng trăng tôi ngóng đêm rừng

Sao tôi nghĩ trăng mọc từ đất Bắc”

(Trường ca sư đoàn- Nguyễn Đức Mậu)

Trong trường ca của Nguyễn Trọng Tạo, nhất là trường ca Con đƣờng

của những vì sao, biểu tượng ánh trăng xuất hiện với mật độ khá lớn, soi sáng

cho chặng đường hành quân và ước mơ hòa bình của người chiến sĩ. Trăng là

người bạn trò chuyện với họ trong đêm lạnh ở rừng già. Nhờ trăng, người

chiến sĩ nhớ về đứa con thơ, trò chuyện với đứa con để mong một ngày đoàn

tụ:

“Đêm nay trăng

Chín vàng trên điểm tựa

Vàng nhƣ quả dƣa bở

Giờ này con ngủ chƣa

Hay chơi trăng sân nhà ?”

(Tình ca người lính- số 3)

Đặc biệt, trong trường ca Con đƣờng của những vì sao, vầng trăng trải

dài trên con đường hành quân của người chiến sĩ và những cô thanh niên xung

phong. Vầng trăng là nhân chứng cho tình yêu, chứng kiến những lời thề

nguyền khi người họ bước vào trận chiến:

“vầng trăng là nhân chứng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vầng trăng là mầm sống

vầng trăng là lòng ta gửi gắm

vƣợt lên nghìn cái chết tỏa sáng trong...”

( Con đường của những vì sao)

Vầng trăng là chứng nhân cho tình yêu đôi lứa mà chàng trai và cô gái

đã thề nguyền trước trận chiến. Thông qua hình ảnh vầng trăng, khát vọng về

một tương lai sống, một ngày mai hạnh phúc và vượt lên biết bao những đau

đớn của số phận đã được người chiến sĩ gửi gắm. Vầng trăng là điểm tựa để

người chiến sĩ giàu tinh thần lạc quan vượt qua bao hiểm nguy, bao cái chết

trên trận địa. Trong 10 chương của bản trường ca Con đƣờng của những vì

sao, hình ảnh vầng trăng hiện lên ở nhiều cung bậc, nhiều góc độ và nhiều

dáng vẻ khác nhau. Nguyễn Trọng Tạo đã xây dựng hình ảnh vầng trăng

không chỉ là vầng trăng tự nhiên đơn thuần mà trăng còn mang ý nghĩa biểu

tượng sâu sắc. Ông để cho trăng hành trình cùng với hành trình tình yêu giữa

Mùa và La, hành trình trên con đường đạn bom nham nhở. Khi chứng kiến

tình yêu, trăng như cô gái 16 thẹn thùng với nhiều dáng vẻ trước mối tình đẹp

của đôi trai gái: Trăng 16 lặng lẽ nhìn theo; ngực cô gái hồi hộp ánh trăng;

trăng bƣớc chậm; trăng rùng mình; trăng thẹn thùng; trăng lơ đãng; trăng

trải lụa vàng. Khi đi vào chiến trường, trên con đường đầy khắc nghiệt đạn

bom, trăng đồng cảm với người lính chiến và hòa vào màu lá ngụy trang:

Trăng gầy; vầng trăng chung thủy; mặt lá ngây ngất vầng trăng;... Màu bàng

bạc của ánh trăng hòa lẫn màu xanh trong đêm của lá ngụy trang, chở che cho

người chiến sĩ:

“cái màu lá ngụy trang

qua vĩ tuyến vẫn màu trăng kỳ lạ

cái màu trăng ngụy trang !...”

(Con đường của những vì sao)

Khi bom đạn kẻ thù dội xuống khu rừng già làm ứa máu cơ thể người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiến sĩ thì khi ấy, trăng như mang trên mình thương tích, trăng đau nỗi đau

của họ:

“bom đã ném xuống bên kia màu trăng ấy

ngƣời chảy máu và trăng chảy máu”

(Con đường của những vì sao)

Trăng đồng hành với người chiến sĩ trong mỗi bước đi, trăng trò

chuyện, tâm tình và là bạn để người chiến sĩ dốc bầu tâm sự, quên đi những

mệt nhọc, những vất vả và đau thương. Vầng trăng là nơi người chiến sĩ gửi

gắm ước mơ hòa bình, nơi sẽ cho anh men say, dòng sữa ngọt:

“ Trăng ! Trăng ơi, anh nhận ánh trăng này

nhƣ nhận men say

nhận dòng sữa ngọt

trên sa mạc của tình yêu cháy khát”

(Con đường của những vì sao)

Chiến tranh càng khốc liệt bao nhiêu thì khát vọng hạnh đời thường lại

trở nên da diết bấy nhiêu trong tâm hồn người chiến sĩ. Trường ca kháng

chiến chống Mỹ nói chung và trường ca Nguyễn Trọng Tạo nói riêng qua

những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng đã đi sâu vào bản thể của con người

để tìm thấy ở đó khát vọng và niềm mong mỏi lớn lao được sống trong hòa

bình, trong hạnh phúc. Chính điều đó đã làm nên vẻ đẹp lãng mạn của hình

tượng trong trường ca bên cạnh hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh.

2.2. Hình tƣợng ngƣời mẹ

Bên cạnh những dòng thơ mang đầy hơi thở của cuộc chiến tranh với

đạn bom, hy sinh và đau thương, Nguyễn Trọng Tạo trong trường ca của

mình đã dành những dòng đầy trang trọng để viết về người mẹ - một biểu

tượng thiêng liêng trong văn học và trong trường ca viết về thời kỳ kháng

chiến chống đế quốc Mỹ. Mẹ hiện lên là một người phụ nữ bình dị, tảo tần và

giàu lòng yêu thương những đứa con. Tình cảm của mẹ giản dị mà lớn lao,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình cảm ấy hòa vào tình yêu đất nước. Vì vậy, từ người mẹ riêng của các

chiến sĩ đã hòa nhập làm một và trở thành người mẹ chung: người mẹ Nhân

dân, người mẹ Đất nước. Trong trường ca thời kỳ chống Mỹ, hình tượng

người mẹ hiện lên thật đẹp:

“Chúng tôi biết ơn bà mẹ nghèo làng Gióng

Đã nuôi con lam lũ nhọc nhằn”

(Trường ca sư đoàn- Nguyễn Đức Mậu)

Người mẹ tảo tần vất vả đã trở thành hình ảnh soi đường cho người

chiến sĩ trong trường ca của Hữu Thỉnh:

“Mẹ đang đi gánh rạ giữa đồng

Rạ chẳng nặng mà nặng nhiều vì gió”

(Đường tới thành phố- Hữu Thỉnh)

Khi viết trường ca, Nguyễn Trọng Tạo không đi ngay vào hình ảnh người

mẹ trong lửa đạn chiến tranh mà trở về với hình ảnh người mẹ quê tần tảo:

“ Mẹ tôi dòng dõi nhà quê

trầu cau từ thuở chƣa về làm dâu

áo sồi nâu, mấn bùn nâu

trắng trong dải yếm bắc cầu nên duyên”

(Con đường của những vì sao)

Hình ảnh người mẹ hiện lên hết sức chân thực. Những chi tiết như trầu

cau, áo nâu sồi, bùn nâu, dải yếm đã khắc họa chân dung người mẹ mang vẻ

đẹp nữ tính, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu ca, lời ru

ngọt ngào mà êm đềm cất lên từ làn môi mẹ, những đứa con lớn lên từ đó. Để

rồi, khi đất nước có chiến tranh, mẹ không tiếc những “khúc ruột mềm”, sẵn

sàng động viên những đứa con đi ra tiền tuyến đánh giặc:

“ chồng con duyên phận phải chiều

ca dao ru lúa câu Kiều ru con

gái trai mấy đứa vuông tròn

chiến tranh mình mẹ ngóng con, thờ chồng”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Con đường của những vì sao)

Khi những đứa con đi chiến trường, ngồi ở nhà, mẹ ngóng trông từng

bước đi, từng tin thắng trận với tấm lòng rộng lớn và tình thương bao la:

“ mẹ chờ con – lòng mẹ rộng bao la

…mẹ hằng dõi theo ta qua tháng ngày lửa đạn”

(Con đường của những vì sao)

Những cô thanh niên xung phong nơi Đồng Lộc ác liệt, khi đi chiến

trường vẫn không quên lời mẹ dặn:

“ mẹ ơi,

hôm mẹ tiễn con đi đến vùng bom đạn

mẹ chỉ dặn

sống sao cho xứng với chị em, bầu bạn”

(Con đường của những vì sao)

Trên chặng đường mà người chiến sĩ hành quân, hình ảnh người mẹ bao

giờ cũng là hình ảnh sáng nhất:

“ – Anh đi đi, đƣờng dài đội ngũ

đất quê mình gió nóng tạt xiên vai

mẹ vẫn chờ anh trƣớc ô kính cửa xe này

mẹ phía trƣớc mỗi chặng đƣờng kháng chiến

nơi anh đến, hậu phƣơng hay tiền tuyến

mẹ cánh đồng, mẹ nhà máy, mẹ dòng sông

mẹ đất đai dàn trận địa mênh mông

ngày có giặc, lòng mẹ nhƣ ngọn súng

trái tim mẹ trải mọi vùng bom đạn

anh đi đi, phía trƣớc, mẹ đang chờ”

(Con đường của những vì sao)

Lời thơ trong trường ca của Nguyễn Trọng Tạo khi viết về người mẹ đã

có sức lan tỏa cao khi nhà thơ có sự chuyển hóa kì diệu từ hình ảnh một người

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mẹ cụ thể bằng xương, bằng thịt thành người mẹ của quê hương xứ sở. Nơi

mà những đứa con hành quân, mỗi tấc đất, mỗi căn nhà, mỗi nhà máy, mỗi

cánh đồng đều có sự hiện thân dáng hình của mẹ. Lúc này, tình yêu thương

của người mẹ đã hòa vào tình dân tộc, tình quê hương. Mẹ đã trở thành người

mẹ Đất nước, người mẹ Dân tộc che chở và đùm bọc cho những đứa con đang

ngày đêm đối diện với giặc thù. Phía sau lưng, nơi quê nhà yêu dấu, mẹ là hậu

phương vững chắc nâng bước chân cho người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao.

Đặc biệt, khi hai miền bị chia cắt, hình ảnh mẹ miền Bắc- người mẹ

hậu phương lớn gửi tấm lòng yêu thương vô hạn tới miền Nam, điều đó đã tạo

nên sức mạnh cho cả dân tộc này đi đến ngày chiến thắng:

“ anh hãy mang vào tiền phƣơng, anh ơi

tấm lòng Mẹ-hậu-phƣơng-miền-Bắc

dẫu chum sập không còn nhiều gạo thóc

với con xa lòng mẹ gửi phần nhiều”

(Con đường của những vì sao)

Người chiến sĩ trong những lúc gian nguy nhất, đau đớn nhất lại tìm

được điểm tựa vững chắc về tinh thần. Họ như quên đi những thương tích trên

cơ thể khi nhớ về mẹ, nhớ về ngôi nhà xưa của mẹ, về dáng hình người mẹ

già đang ngày đêm ngồi dõi theo mỗi bước đi của những đứa con.

Những đứa con đang hành quân nơi tiền tuyến xa xôi luôn giữ trong tim

dáng hình của mẹ. Người mẹ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo mang phẩm

chất của người phụ nữ Việt Nam trung hậu, bao dung và giàu tình yêu thương.

2.3. Hình tƣợng Nhân dân

Thơ ca nói chung và trường ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nói riêng

luôn xây dựng hình tượng nhân dân như một sự hội tụ cho sức mạnh cộng

đồng trước vận mệnh của đất nước. “Nhận thức về đất nƣớc luôn gắn liền với

nhận thức về nhân dân, đó cũng là nét nổi bật trong chủ nghĩa yêu nƣớc ở thơ

thời kỳ này…” [15, tr. 82]. Cho dù mỗi bản trường ca của các tác giả có những

điểm nhìn về nhân dân khác nhau song tựu chung lại, nhân dân chính là những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

con người đang ngày đêm căng sức mình để dựng xây và bảo vệ đất nước thân

yêu, là những người sẵn sàng hy sinh máu của mình cho từng tấc đất quê hương.

Chúng ta từng gặp hình ảnh nhân dân trong trường ca Thanh Thảo:

“ Mãi mãi sống còn hỡi nhân dân tôi

Ngƣời mãnh liệt hơn cả ngàn truyền thuyết”

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Hình ảnh “suối” tượng trưng cho sự âm thầm, nhẫn nại, cần mẫn của

nhân dân góp phần tạo dựng Tổ quốc trong trường ca của Hữu Thỉnh:

“ Suối cứ thế âm thầm nuôi biển lớn

Cứ âm thầm chảy xiết với thời gian”

(Đường tới thành phố- Hữu Thỉnh)

Trong mạch cảm hứng chung hướng về nhân dân vừa gần gũi vừa

thiêng liêng khi dân tộc bị đế quốc xâm lược, trường ca của Nguyễn Trọng

Tạo, đặc biệt là trường ca Con đƣờng của những vì sao với lời thơ hào hùng

và bi tráng đã tập trung xây dựng hình tượng nhân dân trong hoàn cảnh nguy

nan để tìm thấy ở nhân dân sức mạnh phi thường và lẽ sống dân tộc. Đặt trong

bối cảnh ngã ba Đồng Lộc trong những tháng ngày ác liệt, sự cảm nhận qua

hình ảnh những nữ thanh niên xung phong như La, Tần, Cúc…nhân dân hiện

lên là những con người cụ thể vừa gần gũi vừa bình dị:

“ Nhân Dân sống Nhân dân làm lụng

áo vá vai lòng thơm thảo lành nguyên”

(Con đường của những vì sao)

Hình ảnh “áo vá vai” đã nói lên sự chất phác, giản dị đến lương thiện

của nhân dân. Tuy nghèo khó song cả cuộc đời của họ cần mẫn lao động để tự

nuôi sống mình. Tấm lòng thơm thảo của họ luôn tỏa sáng ở bất kỳ hoàn cảnh

nào của cuộc sống. Tấm lòng nhân dân bừng lên khi đất nước có chiến tranh:

“ Nhân Dân căm hờn nhƣ núi dựng chông

Nhân Dân yêu thƣơng đồng dâng gạo trắng

Nhân Dân từ ruột đất trồi lên !...”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Con đường của những vì sao)

Sống trong hoàn cảnh đất nước bị kẻ thù xâm lược, là mỗi người dân

Việt Nam ai cũng nung nấu trong trái tim mình ý chí và phẩm chất cao đẹp.

Đó là lòng căm thù giặc lúc nào cũng trào dâng, cũng thức nhọn, đó là tấm

lòng yêu nước, yêu thương đồng chí đồng bào, sẵn sàng sẻ chia những gian

khổ, những khó khăn cho cộng đồng. Ý chí ấy kết lại thành sức mạnh cộng

đồng cuốn phăng đi những bóng đen quân thù. Nhân dân là người đã xẻ núi

đắp sông để làm ra những con đường cho đất nước. Tình cảm nồng ấm và sự

chở che đùm bọc người lính của nhân dân không sao kể hết, nó thấm sâu và

trải dài vào từng cung đường chiến trận:

“sức nhân dân xẻ núi lấp sông

mồ hôi mặn nhòe bàn tay máu ứa

con đƣờng mở qua lòng dân rộng mở

đƣờng vƣơn dài, dân trải tấm lòng che…”

(Con đường của những vì sao)

Trong những phút giây chiến trường ác liệt, sự xuất hiện của nhân dân

như truyền thêm sức mạnh của cộng đồng dân tộc cho những cô thanh niên

xung phong:

“ La đón từ nhân dân những cột những kèo

những cây gỗ cụ trồng cho ông bà, ông bà trồng cho cha mẹ”

(Con đường của những vì sao)

Những cột, những kèo, những cây gỗ từ bàn tay nhân dân sẽ góp sức

làm lấp những hố bom sâu, san những tuyến đường cho xe ra trận. Phải

chăng, đó là sức mạnh tuy bình dị nhưng nó như mạch ngầm dân tộc từ truyền

thống đoàn kết từ bao đời nay của nhân dân ta. Và trong những khoảnh khắc

của bơm rơi đạn nổ, những người chiến sĩ chợt nhận ra tấm lòng rộng lớn và

lòng nhân hậu của nhân dân. Dường như Nguyễn Trọng Tạo đã để cho nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vật trữ tình của mình được soi mình vào nhân dân để nhận ra điều vĩ đại đó:

“La nhìn Nhân Dân, cô muốn khóc

không thể nào ra lệnh đƣợc Nhân Dân

khi chƣa hiểu hết lòng dân rộng lớn”

(Con đường của những vì sao)

Chính tấm lòng rộng lớn của nhân dân đã làm cho cuộc kháng chiến của

chúng ta trở thành một bản trường ca về cuộc chiến tranh Nhân dân vĩ đại:

“ La nghe đêm lời gió hát thì thầm

về cuộc chiến tranh nhân dân- bản trƣờng ca hùng vĩ

nhân dân sống cho ngày mai một nửa

một nửa kia cũng sống bởi ngày mai”

(Con đường của những vì sao)

Lẽ sống của nhân dân không còn là lẽ sống cho riêng mình mà nó kết

lại thành lẽ sống lớn của dân tộc. Nhân dân sống cho ngày mai và sẵn sàng hy

sinh xương máu của mình cho tương lai tươi sáng của đất nước. Để một chân

lý ngàn đời sáng mãi về Tổ quốc của chúng ta. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

đã từng nhấn mạnh chân lý này:

“ Để đất nƣớc này là đất nƣớc của nhân dân

Đất nƣớc của Nhân dân, Đất nƣớc của ca dao thần thoại”

(Mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)

Chân lý về Nhân dân như người mẹ lặng lẽ cả cuộc đời nhưng sáng

ngời và vĩ đại trong trường ca Thanh Thảo:

“Và cứ thế nhân dân thƣờng ít nói

Nhƣ mẹ tôi lặng lẽ suốt đời

Và cứ thế nhân dân cao vời vợi

Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Trong thơ ca chống Mỹ, hình tượng nhân dân thường được xây dựng

qua những hình ảnh cụ thể như người mẹ, người cha, anh bộ đội…Nhưng đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những trường ca sau năm 1975 nói chung và trường ca của Nguyễn Trọng

Tạo nói riêng, nhân dân không chỉ dừng lại ở những hình tượng cụ thể, riêng

lẻ mà còn được xây dựng bằng những hình tượng tập thể mang tầm khái quát

cao. Nguyễn Trọng Tạo đã có cách cảm nhận hình tượng nhân dân mang vẻ

đẹp sử thi kỳ vĩ. Đó là những con người vừa lặng lẽ âm thầm, vừa mãnh liệt

anh hùng.

2.4. Hình tƣợng Đất nƣớc

Đất nước là một hình tượng trung tâm của những sáng tác thơ ca ở bất

kỳ giai đoạn nào, nhất là khi đất nước có chiến tranh. Miêu tả vẻ đẹp của

những con người cụ thể, của nhân dân, chung quy lại chính là hun đúc cho vẻ

đẹp thiêng liêng của đất nước mà thôi. Đất nước, tổ quốc là nơi con người yêu

thương, gắn bó máu thịt:

“Ôi Tổ quốc ta yêu nhƣ máu thịt

Nhƣ mẹ cha ta nhƣ vợ, nhƣ chồng

Ôi Tổ quốc nếu cần, ta chết

Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”

(Chế Lan Viên)

Khi đất nước có chiến tranh, những người con sẵn sàng ra đi để giành lại

chủ quyền:

“Đất nƣớc đẹp mênh mông

Đất nƣớc thấm sâu đến tận cùng xƣơng thịt

Chỉ riêng cho ngƣời chúng tôi dám chết”

(Những người đi tới biển- Thanh Thảo)

Với Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh đất nước được kết tinh từ những

điều bình dị nhất:

“Đất nƣớc bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nƣớc lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc...

Đất là nơi anh đến trƣờng

Nƣớc là nơi em tắm”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Mặt đường khát vọng - Nguyễn Khoa Điềm)

Nguyễn Trọng Tạo có những cảm nhận về đất nước ở nhiều phương

diện, ở những hoàn cảnh khác nhau. Ở mỗi hoàn cảnh, nhà thơ dành cho đất

nước những tình cảm sâu nặng. Không bắt đầu từ hình ảnh một đất nước đau

thương trong lửa đạn, Nguyễn Trọng Tạo đã trở về với đất nước từ trong

truyền thuyết, trong sự tích như tìm về ngọn nguồn dân tộc:

“Ơi quê hƣơng, trong tầm mắt ta nhìn

Chín mƣơi chín ngọn núi cao đứng cạnh trời phƣơng bắc

Chín mƣơi chín đại bàng sải cánh trong truyền thuyết”

(Con đường của những vì sao)

Trong cái nhìn của nhân vật trữ tình về đất nước đã xuất hiện hình ảnh

những ngọn núi, những cánh chim đại bàng. Đó là sự hiện hữu của truyền

thuyết xa xưa, biểu tượng cho sự hóa thân lớn lao của nhân dân trong hành

trình làm nên đất nước. Nguyễn Trọng Tạo muốn trở về ngọn nguồn đất nước,

về những điều làm nên quê hương mình để một lần nữa chiêm nghiệm, nhận

thức những giá trị văn hóa trường tồn của đất nước hôm nay.

Tuy kỳ vĩ lớn lao nhưng đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Trọng

Tạo lại gần gũi, thân thuộc với mỗi người trong cuộc sống đời thường:

“ thƣơng đất, thƣơng mình, gọi tên núi Mồ Côi

Phải chăng nên đất với ngƣời

Gắn bó nặng duyên, nặng nghĩa

Dòng sông con đƣờng, hẹn hò gặp gỡ

Bao nhiêu ngã ba sông bao nhiêu ngã ba đƣờng

Bao nhiêu nhịp cầu cởi nón trao khăn”

(Con đường của những vì sao)

Đất nước hiện hữu trong nghĩa tình, trong tình yêu thương con người từ

bao đời. Đất nước gần gũi với dòng sông, con đường, nơi đôi lứa hò hẹn. Và

cả trong những mối tình nơi thôn quê gợi đầy ý vị. Tất cả làm nên dáng hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một đất nước trong thanh bình yên ả. Đất nước mà những cô thanh niên xung

phong nơi đạn bom ác liệt từng mơ về, nơi bờ ao giếng nước, nơi con người

tìm được sự chở che:

“Ôi đất nƣớc ta yêu

Ngọn núi dòng sông

Lối ngõ bờ tre thành phố cánh đồng

Câu ví đò xuôi

Trống chèo đêm hội

Con trâu kéo cày ngẩng nhìn ống khói

Sắc mật tiếng ve, cong vút tiếng gà”

(Tình ca người lính- số 1)

Đất nước còn có sự hóa thân kỳ diệu giữa những nét đẹp bình dị nơi

thôn quê với tình yêu của những con người sinh ra và lớn lên trong lòng đất nước:

“Đất nƣớc ta yêu bờ ao giếng nƣớc

Dây gàu đứt nối em cƣời nhìn anh

Nụ tầm xuân xanh

Sen hồng sen trắng

Bông gạo đỏ cờ mồng tơi tím thẫm

Anh yêu hoa cải vàng - hoa cải vƣờn em... ”

(Tình ca người lính-số 1)

Những hình ảnh hiện lên thật chân thực: Bờ ao nƣớc giếng, dây gàu,

nụ tầm xuân, sen hồng...Tất cả hội tụ làm nên tính cách và tâm hồn con người

vừa chân quê, hồn hậu và chân thành. Đó là những con người sống sâu tình

nặng nghĩa, những con người làm nên đất nước này, họ dám hy sinh và sống

ân tình. Phải chăng, chính quê hương đất nước đã làm nên phẩm chất vừa ân

tình vừa mạnh mẽ để trong những thời điểm cam go nhất của cuộc chiến, họ

sẵn sàng hy sinh bản thân mình cho đất nước được hòa bình“Đạp quân thù

xuống đất đen/Súng gƣơm vứt bỏ lại hiền nhƣ xƣa” (Việt Nam thân yêu-

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Đình Thi).

Thế nhưng đất nước đâu có được hòa bình khi dã tâm của kẻ thù hòng

xâm chiếm. Những loạt bom đen đã dải khắp bầu trời Việt Nam từ đồng quê

đến thành thị, đâu đâu cũng tang thương chết chóc. Hình ảnh một đất nước

đau thương hiện lên chân thực trên từng dòng thơ của trường ca Nguyễn

Trọng Tạo:

“máu miền Bắc đã nhuộm bầm đất Bắc

...cả dân tộc mặc áo cỏ xanh

...dải đất hẹp miền Trung

...bom kẻ thù vung vãi nơi đây”

(Con đường của những vì sao)

Đất nước chìm vào khói lửa, tổ quốc mang trên mình nham nhở những

hố bom, những thương tích. Bầu trời, dòng sông rung lên bởi những loạt bom

của kẻ thù. Từ trong mạch ngầm của dân tộc, lời hiệu triệu lại vang lên mang

âm hưởng của Thánh Gióng, của trận Bạch Đằng lịch sử, của Điện Biên chấn

động địa cầu như thúc giục con người Việt Nam đứng lên chiến đấu để giành

lại đất nước:

“ Đất nƣớc rung lên cơn giận dữ thiêng liêng

Những ngọn núi dòng sông nhƣ chớp rạch

Đâu tre làng Gióng

Đâu cọc Bạch Đằng

Đâu tiếng trống năm ba mƣơi (1930) đâu Điện Biên sấm sét”

(Tình ca người lính- số 1)

Nếu Nguyễn Khoa Điềm khái quát hình ảnh đất nước vơi 4000 năm lịch

sử với sự thống nhất ở chiều dài lịch sử, ở chiều rộng không gian địa lý và

chiều sâu văn hóa thì Nguyễn Trọng Tạo lại khắc họa hình tượng đất nước

trong đau thương. Đó là hình ảnh một đất nước luôn phải đương đầu với

giặc ngoại xâm, nhưng luôn chiến thắng bởi lòng dũng cảm, kiên cường và

chính nghĩa.

Khi đất nước giành được chiến thắng, sự cảm nhận của nhà thơ về đất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nước trong một niềm vui khôn tả:

“Mừng cho Hòa Bình

Những nhà máy khai sinh

Những cánh đồng thêm ngƣời cấy gặt

Những đứa trẻ lần đầu tiên biết hát”

(Tình ca người lính- số 2)

Nền hòa bình đã về với nhân dân, khắp nơi rộn rã niềm vui và những

tín hiệu của sự sống. Nhà máy, cánh đồng, người dân và cả những đứa trẻ đều

ca lên bài ca của tự do và niềm tin vào hiện tại và tương lai đất nước.

Niềm vui, niềm hạnh phúc khi đất nước được tự do chan hòa với lòng biết ơn

đến những con người đã hóa thân vào dáng hình, xứ sở của quê hương:

“Mãi còn

Những ngƣời hy sinh vì Tổ quốc”

(Tình ca người lính- số 3)

Sự hóa thân kỳ diệu của nhân dân đã hiện hữu thành mùa xuân, thành

cánh đồng, thành nhà máy, rừng xanh và tiếng hát của sự tự do. Phải chăng,

đây là sự lý giải qua sự chiêm nghiệm một cách sâu sắc của nhà thơ về câu

hỏi vì sao đất nước của chúng ta trường tồn mãi mãi với thời gian. Tất cả kết

thành “Những buổi ngày xƣa vọng nói về”(Nguyễn Đình Thi) để tiếp sức

mạnh cho hôm nay và mai sau.

Trong cảm hứng hướng về đất nước, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã làm

một hành trình trở về với hình ảnh đất nước từ nguồn cội đến sự đau thương

và chiến thắng. Những hình ảnh về đất nước vừa gần gũi thiêng liêng, vừa kì

vĩ lớn lao. Viết về những năm tháng đau thương của chiến tranh, không gì có

thể thay thế được khi các nhà thơ nói chung và Nguyễn Trọng Tạo nói riêng

tìm về đất nước như một điểm tựa thiêng liêng để lý giải cho những con người

luôn xông pha nơi tuyến đầu với một niềm tin vô bờ về hình ảnh một đất nước

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngày mai tươi sáng.

Chƣơng 3

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRƢỜNG CA

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Ở chương 3, tác giả luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu những thành công về

nghệ thuật trong hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của

những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo. Qua những yếu tố nghệ thuật góp phần

chuyển tải những đối tượng thẩm mỹ trong hai bản trường ca, độc giả sẽ thấy

được những nét chung trong mạch nguồn trường ca những năm sau 1975,

đồng thời, nhận thấy những sáng tạo và nét đặc sắc trong kết cấu cũng như

hình thức thể hiện trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo.

3.1. Cốt truyện và nhân vật

3.1.1. Cốt truyện

Khi xem xét thể loại trường ca, dựa trên hệ thống sự kiện và biến cố,

các nhà nghiên cứu đã chia trường ca làm hai loại là trường ca tự sự và trường

ca trữ tình. Dù ở loại trường ca tự sự hay trữ tình thì trường ca đều có cốt

truyện (Có thể hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh). Bởi “Cốt truyện trong

trƣờng ca là một trong những hình thức cụ thể triển khai tuyến sự kiện” [41,

Tr. 146]. Do vậy, khi tìm hiểu hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con

đƣờng của những vì sao, chúng tôi xem xét cốt truyện như một yếu tố quan

trọng làm nên “xương sống” của tác phẩm.

Hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những vì sao

của Nguyễn Trọng Tạo thuộc loại trường ca trữ tình, tuy vậy, khi triển khai

nội dung của mỗi bản trường ca, tác giả không nghiêng hoàn toàn về yếu tố

trữ tình mà nhà thơ đã khéo léo kết hợp yếu tố trữ tình đan xen yếu tố tự sự.

Điều này làm cho mỗi bản trường ca có kết cấu đa chiều và được nhìn nhận

bởi nhiều góc nhìn, nhiều phương diện khác nhau. Khi tiếp xúc mỗi bản

trường ca, người đọc nhận thấy, tác giả không đi vào mạch kể câu chuyện một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cách rạch ròi mà mở đầu mỗi bản trường ca là không gian mang tính trữ tình.

Từ đó, người đọc đi sâu vào tác phẩm trong sự xâu chuỗi các sự kiện, nhân

vật, tình huống…

Trường ca Tình ca ngƣời lính được kết cấu thành ba bài: Tình ca số 1,

Tình ca số 2 và Tình ca số 3. Khi đọc ba bài Tình ca, người đọc cứ ngỡ đây là

ba mảnh ghép rời rạc nhưng thực chất, ở ba bài có một mạch liên kết khá chặt

chẽ nhờ vào yếu tố truyện trong mỗi bài. Do vậy, khi xem xét tổng thể nội dung

bản trường ca Tình ca ngƣời lính, chúng tôi dựng thành sơ đồ như sau:

A (Tình ca ngƣời lính)= A1 (Tình ca số 1) + A2 (Tình ca số 2) + A3

(Tình ca số 3).

Người kể chuyện là người đứng ngoài kể về cuộc chiến tranh dưới góc

nhìn của hai nhân vật là chàng trai và cô gái (họ là chứng nhân cũng như là

người trực tiếp tham gia cuộc chiến). Ở bài Tình ca số 1, chủ yếu tác giả kể về

hoàn cảnh mà trọng tâm là mối tình dang dở của chàng trai và cô gái khi đất

nước có chiến tranh. Họ phải gác lại chuyện riêng tư để hòa mình vào cuộc

trường chinh của đất nước. Ở bài Tình ca số 2, tác giả kể về chiến tranh kết

thúc, hòa bình và niềm vui chiến thắng tràn khắp mọi nẻo, người chiến sĩ trở

về mang nặng tâm trạng với đồng đội mình đang nằm lại chiến trường. Gặp

lại người yêu, cô gái vẫn chờ đợi anh, rồi họ kết hôn và sinh con đẻ cái.

Nhưng rồi cuộc chiến tranh lại tái diễn, người chiến sỹ một lần nữa lại khoác

ba lô và cây súng lên đường ra trận với ý chí quyết tâm và niềm tin vào ngày

mai chiến thắng. Ở Tình ca số 3, yếu tố truyện dường như mờ nhạt hơn hoặc

bị ẩn sau những đoạn trữ tình. Tâm trạng người chiến sĩ có sự chênh chao

giữa bom đạn, tội ác, hủy diệt và hình ảnh đứa con đang mong cha ở quê nhà.

Có đoạn dài, người chiến sĩ tưởng tượng như nhờ vầng trăng để trò chuyện,

tâm tình cùng đứa con.

Vì vậy, Tình ca ngƣời lính có sự thống nhất chặt chẽ về chủ đề, nhân

vật và sự kiện nhờ yếu tố truyện được tác giả triển khai trong sự đan xen hài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hòa giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình.

Trường ca Con đƣờng của những vì sao, yếu tố chuyện rõ nét hơn nhờ

hệ thống nhân vật có thật (10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc). Trong một số

trường ca trữ tình hiện đại Việt Nam, khi xem xét yếu tố truyện, người ta đã

mô hình hóa yếu tố truyện ở hai chiều là chiều dọc và chiều ngang. Ở trường

ca Con đƣờng của những vì sao, tác giả kết cấu thành 10 chương và một đoạn

đề từ Khúc hát tặng. Mô hình hóa yếu tố chuyện của trường ca được thể hiện

ở cả hai chiều như sau:

- Theo chiều dọc:

Khói lửa chiến tranh nơi ngã ba Đồng Lộc- Chuyện của La và Mùa

chia tay nhau để vào chiến trƣờng- Hai ngƣời yêu trở thành ngƣời chiến sỹ,

họ gặp nhau nơi bom đạn ác liệt- Điệp khúc: Đàn bê và trẻ nhỏ; Độc thoại

của máu biểu tƣợng cho sự đau thƣơng và ý chí quyết hy sinh để bảo vệ nền

độc lập- Đỉnh cao: Giờ phút quyết định và đau thƣơng nhất- Vĩ thanh thay

cho lời “điếu văn” những ngƣời đã nằm xuống nơi chiến trƣờng.

- Theo chiều ngang:

Câu chuyện của đất nƣớc [Chuyện tình yêu lứa đôi, sự ác liệt nơi ngã

ba Đồng Lộc, hai ngƣời yêu gặp lại nhau, tháng 3 năm 1968, máu, ống nhòm,

con đƣờng, trăng và khói lửa]. Câu chuyện của những nữ thanh niên xung

phong nơi ngã ba Đồng Lộc [Họ trẻ tuổi, nhớ về quê hƣơng, nhớ về mẹ, đào

đƣờng, lấp hố bom, học bài, gội đầu, hòa mình trong đất…].

Dù mô hình theo chiều dọc hay chiều ngang thì khi tìm hiểu kết cấu và

cốt truyện của trường ca Con đƣờng của những vì sao, độc giả nhận thấy rõ

nét câu chuyện về Mùa, La và 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc ác liệt. Trong

các chương của trường ca nhiều mảng tự sự diễn tả bối cảnh chiến trường và

tinh thần chiến đấu của những chiến sỹ thanh niên xung phong, đan xen bên

cạnh đó là những suy cảm trữ tình của tác giả bằng những điệp khúc, vĩ thanh.

Nguyễn Trọng Tạo cho rằng: “Tôi đã kết cấu trƣờng ca đan xen tự sự và trữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình.[...] Những cô gái trong trƣờng ca này là thanh niên xung phong tham

gia chiến đấu ngay dƣới mƣa bom bão đạn quân thù,và chàng trai là ngƣời

lính lái xe chở đạn vào chiến trƣờng, qua hai nhân vật này tôi muốn làm hiện

lên thân phận và tâm trạng của ngƣời công dân trong cuộc chiến tranh vệ

quốc” [46, Tr. 520-521].

Như vậy, ở cả hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của

những vì sao, sự kết hợp và đan xen yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình đã góp

phần tạo dựng cốt truyện (dù có đoạn mờ nhạt) của mỗi bản trường ca. Chính

yếu tố cốt truyện đã tạo cơ sở cho chất sử thi và làm rõ chủ đề của tác phẩm.

3.1.2. Nhân vật

Cùng với cốt truyện thì hệ thống nhân vật trong trường ca nói chung và

trong trường ca trữ tình nói riêng đóng vai trò quan trọng, “không những chỉ

là hình thức tự biểu hiện mà còn là một phƣơng tiện để chủ thể sáng tạo tham

gia vào việc lý giải đời sống bằng nghệ thuật thông qua các mối quan hệ của

nó trong kết cấu” [41, Tr. 149]. Nhân vật trong các bản trường ca thường xuất

hiện dưới các dạng như nhân vật xuất hiện trong từng phiến đoạn, nhân vật

xuyên suốt tác phẩm, nhân vật trữ tình và nhân vật trần thuật.

Trong trường ca Tình ca ngƣời lính, Nguyễn Trọng Tạo xây dựng

những nhân vật trữ tình không mang tên cụ thể, họ được gọi chung chung

như: cô gái ấy, chàng trai, ngƣời lính, ngƣời vợ. Theo mạch truyện dù cốt

truyện có mờ nhạt thì những nhân vật này tuy xuất hiện trong từng phiến đoạn

nhưng thực chất lại xuyên suốt tác phẩm và là đối tượng tạo sự liên kết chặt

chẽ cả về hình thức, nội dung và cảm xúc trữ tình của cả ba bài Tình ca. Bên

cạnh những nhân vật này, Tình ca ngƣời lính còn có những nhân vật phụ trợ như

đứa con nhỏ, vầng trăng qua nỗi nhớ và sự tưởng tượng của người chiến sỹ.

Ở trường ca Con đƣờng của những vì sao, hệ thống nhân vật được xây

dựng và xuất hiện khá rõ nét. Trong cả 10 chương của trường ca, dù là câu

chuyện của đất nước hay câu chuyện của những thanh niên xung phong thì

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tình tiết, sự kiện đều gắn với hệ thống nhân vật. Nhà thơ xây dựng hai nhân

vật chính là La và Mùa cùng 10 cô gái thanh niên xung phong nơi ngã ba

Đồng Lộc ác liệt với những cái tên cụ thể như Tần, Cúc, Xanh, Hợi, Hường,

Nho, Hà, Rạng, Xuân:

“Những cô gái mở đƣờng, rất trẻ

Với La, là đồng chí,

Với La, là em, là chị

Là Tần, là Cúc, là Xanh...

Những cái tên hiền lành"

(Con đường của những vì sao)

Những nhân vật này đóng vai trò chủ đạo trong kết cấu thời gian tuyến

tính cho câu chuyện. Họ là những nhân vật có thật, những hình tượng lịch sử

chứng minh cho tinh thần bất khuất kiên cường của dân tộc ta. La, Mùa và 10

cô thanh niên xung phong đều đóng vai trò minh chứng cho sự thật lịch sử.

Họ đều tham gia vào dòng tự sự về đất nước, vào cảm hứng lớn của tác giả.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã bộc lộ: “Tôi chọn tên cô gái là La nhƣ biểu

tƣợng sông La của Hà Tĩnh (mà trong đó cô gái họ La - La Thị Tám - luôn

ám ảnh tôi khi nhớ về Đồng Lộc), tên chàng trai là Mùa, một cái tên điển

hình của ngƣời lính xuất thân từ nông thôn. Thông qua hai nhân vật này, tôi

muốn làm hiện lên thân phận và tâm trạng của ngƣời công dân trong cuộc

chiến tranh vệ quốc"[46, tr. 521].

Điều đặc biệt, trong trường ca Con đƣờng của những vì sao lại tồn tại

song song hai loại nhân vật: trữ tình và trần thuật. Hai loại nhân vật này gần

như tồn tại một cách độc lập. Nhân vật trần thuật ngôi thứ ba giấu mặt xuất

hiện để kể lại mối tình của hai nhân vật Mùa và La, còn nhân vật trữ tình

thường xuất hiện ở dạng nhập vai vào Nắng, vào Gió, vào Máu, vào Cây ... để

ca ngợi tình yêu và sự hi sinh bất khuất của họ. Có lẽ ở trường ca này tác giả

muốn bày tỏ tình cảm một cách khách quan, hướng đến tinh thần chung mà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không muốn bày tỏ cái Tôi của mình. Mặt khác, đây là trường ca viết chủ yếu

để ca ngợi các cô gái ngã ba Đồng Lộc- những nhân vật có thật vì thế tác giả

là người đứng ngoài, không tham gia vào các sự kiện.

Trong trường ca này còn có những nhân vật số đông như những đứa trẻ

tìm bê, Nhân Dân, mười cây bạch đàn, vầng trăng v.v... nhằm chống lại

những thế lực đen tối đứng đầu là tổng thống Giôn-xơn và những quả bom.

3.2. Hình thức tổ chức văn bản

3.2.1. Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ

Với đặc trưng là một thể loại có dung lượng câu chữ tương đối lớn so

với thơ và một số thể loại khác, do vậy, khi tìm hiểu về hình thức tổ chức văn

bản trường ca nói chung, người ta thường chú ý tới cách thức tổ chức đoạn

thơ, câu thơ, coi đây là yếu tố quan trọng góp phần chuyển tải nội dung và

chủ đề của mỗi bản trường ca. Khi xem xét vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã

chia ra hai cách tổ chức câu thơ, đoạn thơ trong trường ca. Đó là tổ chức theo

sự kiện và tổ chức theo chủ đề. Trên cơ sở sự phân chia như vậy, soi sáng vào

hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những vì sao của

Nguyễn Trọng Tạo có thể thấy ở mỗi bản trường ca, tác giả có sự tổ chức

khác nhau dựa trên dòng cảm xúc và hệ thống nhân vật cũng như sự kiện

được nói tới.

Ở Tình ca ngƣời lính, tác giả tổ chức thành ba bài Tình ca và đánh số

thứ tự cho từng bài. Tuy có yếu tố cốt truyện và nhân vật song ở bản trường

ca này, Nguyễn Trọng Tạo chủ yếu tổ chức câu, đoạn thơ và cả tác phẩm theo

chủ đề. Vẻ đẹp hình tượng người chiến sỹ trước và trong cuộc chiến tranh vệ

quốc của dân tộc đã được tác giả thể hiện qua mạch cảm xúc trữ tình mang

đậm chất sử thi. Tuy có xen yếu tố sự kiện vào mỗi bài Tình ca song sự vận

động của câu thơ và đoạn thơ trong toàn bài vẫn hướng tới một chủ đề chung.

Trong trường ca Con đƣờng của những vì sao có điểm khác so với Tình

ca ngƣời lính. Tác giả tổ chức trường ca này chủ yếu dựa trên yếu tố sự kiện. Cụ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể, Nguyễn Trọng Tạo đã chia bản trường ca thành 10 chương rõ rệt:

Chương một: HAI NGƯỜI YÊU CHIA TAY

Chương hai: NGÃ BA

Chương ba: QUANH THÁNG BA 1968

Chương bốn: HAI NGƯỜI YÊU GẶP LẠI

Chương năm: ĐÀN BÊ VÀ TRẺ NHỎ

Chương sáu: ĐỘC THOẠI CỦA MÁU

Chương bảy: ỐNG NHÒM VÀ ĐÔI MẮT

Chương tám: ĐỈNH CAO

Chương chín: KHÚC HÁT MƯỜI CÂY XANH

Chương mười: THAY CHO VĨ THANH

Tất cả 10 chương nói trên đều được tổ chức theo dòng sự kiện. Đó là

những sự kiện liên quan đến cái riêng và cái chung. Mạch liên kết giữa hàng

loạt các sự kiện không hề rời rạc mà hoàn toàn chặt chẽ. Sự đan xen giữa sự

kiện và cảm xúc trữ tình đã làm cho câu chuyện về đất nước nơi tuyến lửa ác

liệt trở nên thu hút sự chú ý của độc giả.

Tuy được tổ chức theo dòng sự kiện song ở trường ca Con đƣờng của

những vì sao, tác giả đã khéo léo kết hợp cả hai cách tổ chức là tổ chức theo

sự kiện và tổ chức theo chủ đề. Từ hàng loạt các sự kiện được xây dựng trong

toàn bộ tác phẩm, tác giả hướng tới một chủ đề chung cho bản trường ca.

Điều đó, được thể hiện rõ ngoài các chương tổ chức theo sự kiện thì những

chương xen kẽ như Đàn bê và trẻ nhỏ; Ống nhòm và đôi mắt; Độc thoại của

máu là những chương mang điểm nhấn của cảm xúc, mang tính trữ tình ngoại

đề. Đó là những chương được tổ chức theo chủ đề, theo cảm hứng trong mạch

cảm xúc của toàn bài. Tác giả xây dựng chương Độc thoại của máu để viết về

sự hy sinh vĩ đại của những con người chiến đấu cho Tổ quốc. Họ sẵn sàng hy

sinh đến giọt máu cuối cùng cho đất nước này được độc lập. Xây dựng

chương Đàn bê và trẻ nhỏ như một điểm nhấn quan trọng trong sự chống lại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những thế lực đen tối với tội ác hủy diệt của kẻ thù. Với cách tổ chức đoạn

thơ, câu thơ, “Trƣờng ca Đồng Lộc với hai nghìn rƣởi câu thơ chia làm 10

chƣơng và một "Khúc hát tặng" thay lời ngỏ của tác giả đã dựng lên một "bức

tƣợng đài bằng thơ" về cuộc chiến đấu ở Ngã ba Đồng Lộc lịch sử. Điều đó

chứng tỏ cả tài năng lẫn đam mê của ông với một đề tài lớn” [34, tr. 15-18].

3.2.2. Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là yếu tố hàng đầu của tác phẩm văn học. Mỗi nhà văn có sự

“tinh luyện” ngôn ngữ để chọn lọc cho tác phẩm của mình hệ thống ngôn ngữ

phù hợp với đặc trưng thể loại cũng như nội dung chuyển tải trong tác phẩm.

Với hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những vì sao,

nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã có sự chọn lọc hệ thống ngôn từ để mỗi bản

trường ca chuyển tải đầy đủ chủ đề tư tưởng và được nhìn nhận ở nhiều góc

độ khác nhau. Từ lớp ngôn từ thông dụng, đời thường, nhà thơ đã vận dụng và

kết hợp nhuần nhuyễn lớp ngôn ngữ phù hợp với đối tượng được miêu tả và

thể hiện rõ sắc thái ngôn ngữ trường ca.

3.2.2.1. Ngôn ngữ đời sống

Tuy viết về một thời kháng chiến oanh liệt với biết bao sự hy sinh, đau

thương và tội ác nhưng khi lựa chọn ngôn ngữ trong mỗi bản trường ca, tác

giả Nguyễn Trọng Tạo không đơn thuần khoanh vùng lớp ngôn ngữ chiến

tranh mà nhà thơ đã sử dụng đan xen lớp ngôn ngữ toàn dân hay nói cách

khác, đó là lớp ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Trong những đoạn thơ, dòng thơ mang đậm cảm xúc trữ tình, Nguyễn

Trọng Tạo đã tạo dựng những hình ảnh qua lớp ngôn từ mang đậm chất liệu

ngôn ngữ đời thường: đất trần trụi; bỏng rộp; vung vãi; nhòe bàn tay máu

ứa; leng keng; lảm nhảm; Ai vục nƣớc rửa chân, ai ngụp tắm giữa trƣa nắng

gắt; cha cày đồng cạn đồng sâu; cầm dao cầm cán nghe con; con đã về, sức

còn dài, vai rộng; hẳn mẹ cƣời cau dẻo thắm trầu cay; a ha ha; mồ hôi lép

nửa mùa gặt hái; Nhân dân từ ruột đất trồi lên; sinh con tóc mẹ rụng rơi…

Sự đan xen vốn ngôn ngữ đời thường đã làm cho hình ảnh thơ trong

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trường ca trở nên gần gũi bình dị, ngôn ngữ của mỗi bản trường ca xóa nhòa

đi sự trang nhã, ước lệ và trừu tượng. Từ đó, hiện thực cuộc chiến tranh khốc

liệt được miêu tả như nó vốn có và hình ảnh con người, quê hương trở nên

thân thuộc, tươi đẹp.

3.2.2.2. Ngôn ngữ mang sắc thái dân gian

Xen giữa những lớp ngôn ngữ mang đậm sắc thái trường ca với hàng

loạt đoạn thơ, dòng thơ nói về chiến tranh, người lính và đạn bom là những

dòng thơ mang đậm màu sắc dân gian. Nguyễn Trọng Tạo đã vận dụng nhuần

nhuyễn yếu tố dân gian khi nhắc tới hình ảnh làng quê, người mẹ, khi tâm

tình, trò chuyện với các nhân vật trong trường ca của ông. Điều đó đã góp

phần làm nên sự đa sắc màu trong ngôn ngữ trường ca Nguyễn Trọng Tạo,

làm cho hình tượng trong mỗi bản trường ca vừa đẹp, vừa bi hùng nhưng lại

rất gần gũi.

Sự xuất hiện hình ảnh núi Vọng Phu trong Tình ca ngƣời lính như một

lời tâm sự và sẻ chia với người con gái đang mòn mỏi chờ đợi người yêu nơi

quê nhà:

“ Anh xa em đi qua núi Vọng Phu

Núi vẫn núi ngàn xƣa

Bây giờ anh mới gặp”

(Tình ca người lính- số 3)

Nhà thơ nhắc tới câu chuyện cổ dân gian về núi Vọng Phu để liên tưởng

tới hoàn cảnh xa cách giữa đôi trai gái trong khi đất nước có chiến tranh. Hình

ảnh núi Vọng Phu trở thành nỗi ám ảnh lớn trong tâm trạng của họ.

Nhà thơ đã khéo léo vận dụng và dẫn vào trường ca những chất liệu

gần gũi với ca dao để vừa hình tượng hóa và làm cho hình ảnh đất nước, quê

hương trở nên gần gũi: Những hình ảnh câu ví đò xuôi; trống chèo đêm hội;

bờ ao nƣớc giếng; dây gầu đứt; nụ tầm xuân…Chỉ cần đọc những dòng thơ

này và cảm nhận, người đọc chắc hẳn sẽ liên tưởng tới những bài ca dao quen

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thuộc trong ca dao trữ tình Việt Nam như Trèo lên cây bƣởi hái hoa; Tát

nƣớc đầu đình; Em tƣởng giếng sâu nối sợi dây dài…Có lẽ, khi viết về quê

hương đất nước trong khói bom lửa đạn, không gì phù hợp hơn là “nhuộm

màu” cho những câu thơ màu sắc của ca dao, dân ca. Điều đó, càng làm cho

hình ảnh đất nước vừa thiêng liêng vừa gần gũi, làm cho mỗi người càng

thêm yêu đất nước tươi đẹp.

Đó là không gian của sự thề hẹn, sự trao gửi những tâm tư và nỗi niềm

của những chàng trai, cô gái chia tay nhau để ngày mai trở thành người chiến

sỹ ra trận. Bỏ qua không gian đạn bom ác liệt, nhà thơ đã trở về với không

gian mang đậm sắc thái ca dao:

“Bao nhiêu nhịp cầu cởi nón trao khăn

Bao nhiêu đạn bom kẻ thù trút xuống”

(Con đường của những vì sao)

Cả giây phút chia ly của đôi trai gái để đi chiến trường, Nguyễn Trọng

Tạo đã để cho nhân vật của mình được sống trong miền ca dao tình yêu để

khắc sâu hơn mối tình và sự quyết tâm lên đường:

“ Yêu nhau cởi áo trao nhau

Ngƣời đi để dạ nhịp cầu nhớ thƣơng”

(Con đường của những vì sao)

Khi nói về ý chí và phẩm chất của con người, nhà thơ đã lồng ghép câu

từ và triết lý sống của tục ngữ vào trong dòng thơ:

“ đói trong sạch, rách thơm tho

hạt cây rơi biết gọi mùa ngọt thơm”

(Con đường của những vì sao)

Âm hưởng và tứ ca dao, tục ngữ được Nguyễn Trọng Tạo vận dụng khá

thành công trong trường ca:

“ nhƣờng áo xẻ cơm chia lửa

Chẳng thấy giá gƣơng, ít gặp nhiễu điều

Vẫn nhớ câu ca răn điều ăn ở…”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Con đường của những vì sao)

Không chỉ có những dòng, những câu thơ mang cảm hứng từ tục ngữ,

ca dao, dân ca, có những đoạn điệp khúc trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo

còn mang âm hưởng của những khúc đồng dao:

“ Một ông sao sáng

Hai ông sao ngời

Bốn

Năm

Sáu

Bảy

Sao trời”

(Con đường của những vì sao)

Đoạn thơ viết về hình ảnh những cô thanh niên xung phong nơi ngã ba

Đồng Lộc với hình ảnh trời sao. Với câu từ gần gũi với khúc đồng dao, những

cô gái đếm sao trên đường đi phá bom như được trở về với những kỷ niệm

thời thơ bé ngửa mặt lên trời đếm những vì sao sáng và cùng hát khúc đồng dao.

Đoạn thơ giàu nhạc điệu như để cân bằng hiện thực khốc liệt nơi chiến trường.

Khi khảo sát trường ca Con đƣờng của những vì sao, chúng tôi còn

nhận thấy âm hưởng lời ru hiện diện trong một số chương, đoạn của trường

ca. Đặc biệt là ở chương thứ 5 Đàn bê và trẻ nhỏ, như một điệp khúc, một

tiếng gọi, một lời ru vỗ về trở đi trở lại trong đầu và cuối mỗi đoạn thơ. Nhà

thơ xây dựng hình ảnh đàn bê nhỏ bị lạc mẹ bởi đạn bom của kẻ thù dội

xuống khi chúng đang gặm cỏ trên đồi bạch đàn. Sự nháo nhác và tiếng kêu

thất thanh của chúng đã làm cho tác giả bật lên ở mỗi đầu đoạn thơ điệp khúc:

Bê à bê ạ. Điệp khúc này được nhắc tới 10 lần trong cả chương:

- “ Bê à bê ạ

bê đi tìm mẹ qua mấy sƣờn đồi”

- “Bê à bê ạ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ai để ta nằm giữa dải đồi hoang”

- “Bê à bê ạ

bê con không nhiều nƣớc mắt”

(Con đường của những vì sao)

Cảm thương đàn bê bị lạc mẹ, nhà thơ cất lên những âm điệu của lời ru

như vỗ về, nựng nịu và an ủi đầy xót đau.

Tìm hiểu yếu tố dân gian trong ngôn ngữ trường ca Nguyễn Trọng Tạo

để khẳng định Nguyễn Trọng Tạo là nhà thơ vừa có tâm, vừa có tài. Cái tâm

được thể hiện ở chỗ nhà thơ yêu quý đến trân trọng vốn ngôn từ dân gian, đó

là lời ăn tiếng nói của nhân dân được đúc kết từ bao đời nay. Cái tài là nhà thơ

đã khéo léo kết hợp, hòa điệu ngôn ngữ dân gian với ngôn ngữ hiện đại, làm

cho ngôn ngữ trong mỗi bản trường ca thêm phong phú. Từ đó, hình tượng

trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo vừa cao đẹp thiêng liêng, vừa gần gũi

bình dị.

3.2.2.3. Sự “lạ hóa” ngôn ngữ

Biên giới của ngôn ngữ trong sáng tác của mỗi nhà văn là khó xác định.

Bởi, mỗi tác giả khi sáng tác đều có sự khu biệt và phát triển vốn ngôn ngữ

vừa mang đặc trưng thể loại vừa thể hiện phong cách riêng của mình. Nguyễn

Trọng Tạo với hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những

vì sao cũng như vậy. Trên nền ngôn ngữ dân gian, ngôn ngữ đời sống và

mảng ngôn ngữ chiến tranh, nhà thơ đã phát triển vốn ngôn ngữ trường ca qua

sự lạ hóa hình ảnh và ngôn từ ở một số đoạn thơ.

Trong trường ca của Nguyễn Trọng Tạo, người đọc bắt gặp những cách

nói lạ:

“ Họ đi hái sao

Hay đi trẩy mặt trời”

(Con đường của những vì sao)

Tuy là cách nói lạ nhưng là để nhấn mạnh hình ảnh 10 cô gái nơi ngã

ba Đồng Lộc với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, ngày đêm, đôi mắt của

họ dõi theo máy bay của kẻ thù và dõi theo những cung đường nham nhở hố

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bom để thông đường cho xe ra trận.

Nỗi đau khi quê hương bị tàn phá: “ Nhƣ quê hƣơng vai áo nhiều mảnh

vá”(Con đường của những vì sao).

Lòng dũng cảm của nhân dân và những người chiến sỹ:

“ Giọt thủy ngân nhiệt kế lòng dũng cảm”

(Con đường của những vì sao)

Bằng cách lạ hóa ngôn ngữ, Nguyễn Trọng Tạo đã thổi hồn tươi mới

cho ngôn ngữ trường ca viết về chiến tranh. Những hình ảnh, hình tượng trong

mỗi bản trường ca nhờ vậy mà được cảm nhận sâu sắc bằng nhiều giác quan,

trở nên “sắc nhọn” trong giá trị biểu đạt. Hàng loạt những hình ảnh trong

cách nói mới của tác giả: ngã ba ngƣời; cuộc quang hợp màu xanh; đêm bị

xắn ra bằng lƣỡi xẻng; ngƣời chảy máu và trăng chảy máu; những chiếc

“F”chiếc “A”chảy máu; cái vùng bùn chính trị, cái vùng bùn quân sự; xin

giữ làm nhiệt kế chiến tranh; mô đen 1, mô đen 2; giọt thủy ngân nhiệt kế

chiến tranh; bầy bom từ trƣờng xòe đuôi rơi xuống; từng đàn quạ đói chiến

tranh; con ma, thần sấm; con đƣờng A- phẩy, con đƣờng A; tóc trong đất, gió

thời gian thổi mãi; bạch đàn xỏa tóc màu xanh; La nhìn đất- đỏ lời máu gọi;

tiếng đêm gọi bình minh; mắt xanh nhập vào dòng sông trẻ; tát cạn mồ hôi

cho lúa trổ đòng; khi hoang vu lớn dậy những công trƣờng; ngực lộng gió

bao cánh đồng màu mỡ…

Giá trị biểu đạt của cách nói trên là khá lớn. Biên độ ngôn ngữ được mở

rộng, hình ảnh trở nên sống động và mang đậm không khí của thời đại chiến

tranh. Sự tác động mạnh mẽ vào giác quan của độc giả khi cảm nhận hình ảnh

đã khái quát sâu sắc sự ác liệt với tội ác đen tối của kẻ thù và nỗi đau của đất

và người trong những năm tháng chiến tranh.

3.2.3. Thể thơ

3.2.3.1. Thơ tự do

Thơ tự do là một thể loại mà trong đó hình thức cơ bản của bài thơ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

không hề bị ràng buộc bởi những qui tắc nhất định về câu chữ, niêm, đối. Thể

thơ này có sự co giãn linh hoạt, câu thơ có thể mở rộng, kéo dài hàng chục chữ,

nhiều dòng in, có thể xếp thành bậc thang, để tô đậm nhịp điệu ở câu thơ, có

thể xen kẽ câu dài ngắn. Chính nhờ những đặc điểm này mà thơ tự do chiếm

được ưu thế trong sáng tác thơ hiện đại, đặc biệt là trong thơ ca kháng chiến.

Nguyễn Trọng Tạo đã vận dụng khá thành công thể thơ tự do trong hai

bản trường ca của mình. Với những đặc trưng vốn có, thơ tự do đã phát huy

tác dụng trong khi nhà văn miêu tả cuộc kháng chiến với nhiều biến thái,

nhiều cung bậc. Nhà thơ đã đẩy hình ảnh thơ thành tầng bậc, từng bậc một.

Khi miêu tả không khí chiến trường ác liệt nơi ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ

cũng tạo thế tăng tiến cho hình ảnh thơ:

“Qua một chuyến xe

Qua hai chuyến xe

Con đƣờng thở dốc ...

Qua ba chuyến xe

Qua bốn chuyến xe

tim ngƣời hồi hộp...

năm

sáu

bảy

tám...

chuyến xe”

(Con đường của những vì sao)

Sự chia nhỏ dòng thơ theo hình thức tự do, mỗi dòng gần như chỉ có một

từ theo hình thức số đếm đã tạo nên sức gợi và sức ngân vang của hình ảnh thơ.

Câu thơ tưởng như rời rạc nhưng thực chất lại thể hiện khá đậm nét không khí

chiến trường với những hình ảnh đoàn xe nối đuôi nhau ra tiền tuyến.

Biên độ của dòng thơ được tự do co giãn, từng hình ảnh thơ kết lại tạo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thành một bức tranh tuyệt đẹp về con người và cuộc kháng chiến nhân dân:

“ Mãi còn

Những ngƣời hy sinh vì Tổ quốc

Hy sinh

Thành phù sa

Thành cỏ mùa xuân

Thành lúa trên đồng

Thành tiếng hát

Rừng xanh

Nhà máy”

(Tình ca người lính, Điệp khúc)

Mỗi dòng thơ là một hình ảnh, tất cả được sắp xếp như một dây chuyền

mang tính quy luật. Từ hình ảnh những con người hy sinh vì Tổ quốc- Phù sa-

Cỏ mùa xuân- Lúa trên đồng- Tiếng hát- Rừng xanh- Nhà máy đã tạo nên

nhịp đập cho trái tim của Tổ quốc, cho hành trình đi từ “thung lũng đau

thƣơng đến cánh đồng vui” (Chế Lan Viên).

Sự sắp xếp khổ thơ theo hình thức “bẻ dòng” cộng với điệp từ trong

trường ca đã tạo nên sự nhấn mạnh cảm xúc:

“ Hãy đến bên anh

Vợ anh mới sinh con

Con,

hạnh phúc trên tay bồng bế đƣợc

Con,

bông hoa biết nói cƣời, biết khóc

Con,

nhịp cầu nối những bờ vui

Con,

có thể tới những gì cha mẹ không tới đƣợc

Con,

niềm hy vọng, niềm tin !”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Tình ca người lính- số 2)

Trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo, sự bố trí xen kẽ giữa câu thơ ngắn

với câu thơ dài là khá phổ biến. Câu trên chỉ có một, hai hay ba từ thì câu

dưới buông dài lên tới 10 từ:

“ Ấy là năm

Không chỉ máu miền Nam đổ xuống đất miền Nam”

(Con đường của những vì sao)

Chính điều đó vừa tạo nhịp điệu cho cảm xúc, vừa tránh được sự đơn

điệu, tẻ nhạt trong cách diễn đạt của trường ca.

Phát huy lợi thế của thể thơ tự do, có khổ thơ, Nguyễn Trọng Tạo đã bố

trí duy nhất một câu thơ đứng riêng rẽ. Đó là sự dồn nén cảm xúc cũng như

điểm nhấn của hoàn cảnh, của hình tượng thơ:“Đồng Lộc lại bắt đầu một

bình minh chiến đấu !”( Con đường của những vì sao).

3.2.3.2. Tạo gián cách và khoảng lặng trong trường ca

Bên cạnh thể thơ tự do, Nguyễn Trọng Tạo đã vượt qua biên giới ngôn

ngữ để tạo yếu tố phi ngôn ngữ trong quá trình xây dựng lâu đài ngôn ngữ

trường ca. Đó là sự gián cách khổ thơ được nhà thơ vận dụng triệt để trong cả

hai bản trường ca. Qua khảo sát hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con

đƣờng của những vì sao, chúng tôi đã thống kê được 16 lượt nhà thơ tạo sự

gián cách khổ thơ. Điều đó cho thấy mức độ sử dụng gián cách để tạo khoảng

lặng trong trường ca của Nguyễn Trọng Tạo là khá lớn.

Đó là khoảng lặng trong tình yêu đôi lứa trước mưa bom bão đạn:

“Cô gái ấy

Bao nhiêu đồng đội

Chƣa gặp một lần, đã quen tên

Thƣ anh viết nhiều thƣ không gửi

Thƣ anh gửi không nhiều- không phải không tem

(………..)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Em ơi em, biết em có đợi chờ

Anh xa thế

Con đƣờng dài lắm thế…”

(Tình ca người lính- số 1)

Ý chí quyết tâm ra đi để bảo vệ đất nước của người chiến sĩ được gợi

lên bằng sự gián cách đầy sự suy ngẫm:

“ Anh nhƣ gọi giữa mênh mông biển tối

Chiến tranh ồn ã tiếng bom rơi

(……..)

Đi

Đi

Và đi…”

(Tình ca người lính- số 1)

Những suy ngẫm về cuộc chiến và sự ra đi của người chiến sĩ khi cuộc

chiến tranh tái diễn tạo nên một mảng khuất lấp tâm trạng trong tâm tư của

người vợ:

“ Anh lại đi

Đôi dép đúc thay quai

Con tàu lính ồn ào tiễn biệt

(……)

Cái vẫy tay của vợ và con theo tới mọi chân trời

(……)

Lại những trận đánh lấp ngày

Những trận đánh nhớ con, thƣơng vợ”

(Tình ca người lính- số 2)

Tạo gián cách giữa hai khổ thơ, Nguyễn Trọng Tạo đã tạo nên cảm xúc

ngậm ngùi, bi thương về hình ảnh những cô gái nơi ngã ba máu lửa:

“ Hôm qua còn đuổi nhau quanh ngã ba xóm nhỏ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nụ cƣời tuổi trẻ

Rung rinh mấy cánh bèo vƣơng

………

Rồi một sớm- bình minh

La cùng Tần, Xanh, Cúc…”

(Con đường của những vì sao)

Không chỉ tạo ra sự gián cách giữa các khổ thơ, trong mỗi bản trường

ca, Nguyễn Trọng Tạo còn tạo ra những khoảng lặng sau mỗi câu thơ. Những

khoảng lặng đó đã tạo nên những khoảng trống thẩm mỹ trong cảm nhận hình

tượng và bề sâu ngôn từ. Có thể thấy ở cả hai bản trường ca, Nguyễn Trọng

Tạo đã tạo khoảng lặng với tần số cao. Dụng ý nghệ thuật này đã gieo vào

lòng người đọc sự suy ngẫm, những tư tưởng không nói bằng lời.

Trong mỗi tình huống, mỗi hoàn cảnh của nhân vật trường ca, hàng loạt

những khoảng lặng đã có sức gợi lớn: “ Nhƣ chiến tranh không hề có/ Nhƣ

con ngƣời trên trái đất yêu nhau…” (Tình ca người lính- số 1); “ Bùng cháy

đất nƣớc mình/Bùng cháy…” (Tình ca người lính- số 1); “ Nếu anh về/Em sẽ

chạy đến anh !...” (Tình ca người lính- số 3); “ vẫn âm thầm dành dụm/vẫn

âm thầm dồn máu xuống phƣơng Nam…” (Con đường của những vì sao); “ để

tới đêm tân hôn có thật/ có cái gì hơn cả máu xƣơng !...” (Con đường của

những vì sao); “ qua cửa hầm, mắt những ngƣời lái xe gặp/bao nụ cƣời lấp

lánh dƣới đất sâu…” (Con đường của những vì sao)…

Sau mỗi khoảng lặng của từng câu thơ, có lẽ ý thơ và sự ngân vang lan

tỏa của nó đã vượt ra khỏi biên giới của ngôn từ. Tác giả không sa vào kể lể

và giãi bày mọi tâm tư, nỗi niềm, bằng những khoảng trống thẩm mỹ ở mỗi

dòng thơ, ý vị trường ca và sức căng trong cảm nhận của độc giả đã làm tăng

giá trị thẩm mỹ cho hai bản trường ca của Nguyễn Trọng Tạo.

3.2.3.3. Thể thơ lục bát

Lục bát là một thể thơ mang giọng điệu êm đềm, mượt mà, sâu lắng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thiên về bộc lộ tình cảm của tâm hồn con người. Trong hai bản trường ca,

không phải đoạn nào, Nguyễn Trọng Tạo cũng sử dụng thể thơ lục bát mà

những đoạn lục bát được nhà thơ xen vào thể thơ tự do với dụng ý nghệ thuật

nhất định. Trong trường ca Con đƣờng của những vì sao, có hai chương nhà

thơ sử dụng thể thơ lục bát là chương thứ 6 Độc thoại của máu và chương thứ

9 Khúc hát mƣời cây xanh.

Khi mở đầu chương Độc thoại của máu, nhà thơ viết: “ Cho tôi đƣợc

viết vần lục bát/ để nói lời của máu dọc đƣờng” (Con đường của những vì

sao) để hình tượng hóa máu trong trường ca. Nhà thơ sử dụng thể thơ lục bát

để nói về máu, một biểu tượng gần gũi và thiêng liêng của con người:

“ Tự bao giờ máu đỏ tƣơi

Cho hồng gƣơng mặt, nụ cƣời ngàn năm”

(Con đường của những vì sao)

Ý chí và sự hiến dâng giọt máu của con người Việt Nam được thể hiện

đậm nét qua vần thơ lục bát:

“ Máu xin luyện với đất bền

Cho anh đƣợc dựng móng nền nơi đây”

(Con đường của những vì sao)

Ngợi ca sức sống lâu bền của dòng máu Việt qua đó ca ngợi sự hy sinh

của con người cho đất nước, cho Tổ quốc được hồi sinh là cảm xúc dâng trào

trong chương viết về máu. Do vậy, sự ngợi ca đáng trân trọng ấy không gì phù

hợp hơn khi được thể dưới những vần thơ lục bát làm lay động lòng người.

Ở chương thứ 9 Khúc hát mƣời cây xanh, nhà thơ sử dụng 100 câu lục

bát để nói về 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc. Lúc này cảm hứng ngợi ca

còn hòa điệu cùng tình cảm buồn đau trước sự hy sinh của những cô gái

quả cảm:

“Một ngày bom đạn ê chề

Vắng mƣời cô gái không về cùng tôi”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Con đường của những vì sao)

10 cô gái đã vĩnh viễn nằm lại nơi ngã ba ác liệt:

“Dáng mƣời cô gái trong đêm

Chói lên nhƣ thể sao trên bầu trời”

(Con đường của những vì sao)

Những câu thơ lục bát trở nên da diết, sâu lắng khi tác giả thể hiện sự

đau thương trước sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc:

“ Tôi ca tụng những Anh hùng

Những cuộc đời trọn hiếu trung với đời”

(Con đường của những vì sao)

Cảm hứng ngợi ca, đau thương và cảm phục choán ngợp cả chương và

cả bản trường ca. Những vần thơ lục bát nhẹ nhàng, êm đềm như lời ru đất

nước cho những con người đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình.

Như vậy, từ một thể loại hiện đại, trường ca Nguyễn Trọng Tạo vẫn tạo

được những nhịp điệu mang dáng dấp truyền thống. Những vần thơ lục bát đã

phát huy tác dụng cao độ khi nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn trong việc khắc

sâu cảm xúc và cảm hứng ngợi ca.

3.2.3.4. Vĩ thanh

Vĩ thanh là yếu tố thường có trong nhạc giao hưởng, xuất hiện nhiều

trong các trường ca hiện đại. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, vĩ thanh là “

phần bổ sung vào tác phẩm văn học, bao gồm những kết luận, những điều mà

tác giả cho là cần thiết nhằm làm rõ thêm những gì đã đƣợc viết ra trong văn bản” [12, tr 355].

Khảo sát trường ca của Nguyễn Trọng Tạo, chúng tôi nhận thấy tác giả

đã tạo chương Vĩ thanh riêng trong trường ca Con đƣờng của những vì sao. Ở

chương 10 Thay cho vĩ thanh, nhà thơ đã tập trung tổng kết lại hiện thực đã

được tái hiện ở các chương trước, đồng thời bày tỏ lòng kính phục ngợi ca

hình ảnh 10 cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc và hình ảnh đất nước hào hùng. Đoạn

vĩ thanh là khoảng lặng xuống của đau thương, là sự ngợi ca tri ân đối với các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nữ anh hùng nơi Đồng Lộc ác liệt:

“ Em đã về, vẫn em của anh đây

Em yêu anh nhƣ yêu đất nƣớc”

(Con đường của những vì sao)

Đồng thời, đoạn vĩ thanh còn là bản tổng kết một chặng đường của đất

nước gian lao:

“ Ôi Tổ quốc ! Ta muôn đời muốn khóc

Sau cơn bão chiến tranh quyết liệt

Tóc biển xanh ôm vai đất mỡ màu”

(Con đường của những vì sao)

Lòng biết ơn và sự bất tử hóa hình tượng 10 cô gái nơi ngã ba Đồng

Lộc được tác giả gửi gắm trong những dòng vĩ thanh cuối bản trường ca:

“Xin đừng quên thuở Đồng Lộc trụi trần

Đất nhận máu bao ngƣời con ngã xuống”

(Con đường của những vì sao)

Tuy là một phần độc lập về mặt cấu trúc, nhưng vĩ thanh trong trường

ca Nguyễn Trọng Tạo đã góp phần không nhỏ trong việc mở rộng sức ngân

vang nội dung tác phẩm. Đoạn vĩ thanh mang đậm tính trữ tình tạo sự kết thúc

hoàn hảo của tác phẩm trong sự lắng đọng da diết của cảm xúc.

3.3. Giọng điệu

Giọng điệu là yếu tố đặc biệt quan trọng trong tác phẩm văn học,

“giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà

văn, là phƣơng tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn là

yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một

chỉnh thể” [21, tr. 48]. Giọng điệu chính là hình thức mang tính nội dung, là

yếu tố nội tại của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Khi khảo sát hai bản trường ca

Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những vì sao, chúng tôi nhận thấy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trường ca của Nguyễn Trọng Tạo xuất hiện những giọng điệu chính như sau:

3.3.1. Giọng điệu ngợi ca mang âm hƣởng sử thi

Mặc dù viết sau khi chiến tranh đã lùi xa nhưng hai bản trường ca của

Nguyễn Trọng Tạo đã làm sống lại một thời khói lửa ác liệt và hình tượng

nhân dân, đất nước gồng mình trong cuộc trường chinh của dân tộc. Do vậy,

giọng điệu và cảm hứng chủ đạo trong mỗi bản trường ca là ngợi ca, mang

đậm âm hưởng sử thi.

Đó là hình tượng đất nước trong đau thương mà anh hùng:

“ Đất nƣớc rung lên cơn giận dữ thiêng liêng

Những ngọn núi dòng sông nhƣ cơn chớp rạch”

(Tình ca người lính- số 1)

Sự ngợi ca trân trọng những con người đã hy sinh máu xương của mình

cho Tổ quốc thân yêu:

“ Mãi còn

Những ngƣời lính chết anh hùng dũng cảm

Những bia đá có tên và không tên

Ghi công họ”

(Tình ca người lính- Điệp khúc)

Hình tượng nhân dân- bức thành đồng vững chắc làm nên chiến thắng

đã trở thành cảm hứng ngợi ca đầy thiêng liêng trong hai bản trường ca. Đó là

những con người cần cù lam lũ và giàu lòng yêu nước:

“ nƣớc mắt Nhân dân

Nhƣ những vì sao chậm chạp rụng xuống

Đất nhận mùa sao sáng”

(Con đường của những vì sao)

Hình tượng hóa máu trở thành nhân vật có linh hồn, có hành động, có

nghĩ suy để tác giả dành trọn vẹn chương thứ 6 Độc thoại của máu trong

trường ca Con đƣờng của những vì sao nhằm ca ngợi sự hy sinh thầm lặng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của những người con không tiếc máu xương cho Tổ quốc:

“ Máu anh đổ xuống bây giờ

Nơi cao điểm, chẳng bất ngờ đâu em”

(Con đường của những vì sao)

Đó còn là hình tượng những chiến sỹ ngày đêm bám trụ mảnh đất bị

bom đạn cày xới nơi chiến trường ác liệt. Họ ở bên nhau, cùng chung ý chí,

cùng hướng về kẻ thù chung. Bức tượng đài ấy hiện lên thật đẹp:

“ Đồng đội tựa vào nhau dáng một tƣợng đài

Ôi, dáng đứng của những ngƣời bám trụ

Những cặp mắt tuổi hai mƣơi không ngủ

Những khoảng trời- khói đạn chẳng thể che !”

(Con đường của những vì sao)

Hình ảnh người mẹ trong mỗi bước đường chiến đấu như là điểm tựa

thôi thúc bước chân của những người chiến sỹ:

“Trái tim mẹ trải mọi vùng bom đạn

Anh đi đi, phía trƣớc, mẹ đang chờ”

(Con đường của những vì sao)

Hòa mình vào không khí ác liệt nơi ngã ba Đồng Lộc, hình ảnh dũng

cảm tiến lên phía trước của những cô thanh niên xung phong đã trở thành tiêu

điểm ngợi ca:

“ Không nhầm lẫn. Dáng La lao tới

Cắm cờ tiêu báo tử mỗi đầu thù”

(Con đường của những vì sao)

Trái tim sáng ngời của những con người trẻ tuổi đã chuyển hóa thành

hoa thơm quả ngọt cho đất nước tự do:

“ Trái tim

Làm nở tung những bông hoa

Làm quả ngọt

Mƣa nhuần

Trăng sáng”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Tình ca người lính- Điệp khúc)

Không khí chiến thắng nơi chiến trường và niềm vui sướng khi cánh

cửa hòa bình được mở ra đã trở thành một khúc ca ngân vang về một đất nước

tự do:

“Cánh cửa thép hòa bình tung mở

Hòa bình ơi !

Hòa bình ơi !

Tiếng reo hò cuộn sóng mọi ngả đƣờng”

(Tình ca người lính- số 1)

Bằng giọng điệu ngợi ca, cùng không khí hào hùng mang đậm chất sử

thi, hai bản trường ca của Nguyễn Trọng Tạo thực sự làm sống lại một thời

bom đạn ác liệt và cuộc hành quân trường chinh lớn lao của cả dân tộc. Mỗi

lời thơ như một khúc ca hào sảng về tinh thần vệ quốc và sự hy sinh cao đẹp

của những con người dấn thân vào nơi bom thù ác liệt.

3.3.2. Giọng điệu bi thƣơng

“Chính chiến tranh đã đẻ ra anh hùng ca, trƣờng ca, bi ca…”[49, tr.

251], vì vậy, khi viết về chiến tranh, hai bản trường ca của Nguyễn Trọng Tạo

không né tránh những đau thương, mất mát và hy sinh. Bên cạnh những dòng

thơ tràn đầy cảm hứng ngợi ca thì những dòng thơ mang giọng điệu bi thương

đã làm tăng sự biểu hiện sự thật về cuộc chiến.

Nỗi đau thương khi cuộc chiến tranh xảy ra trên đất nước mình, dự cảm

về sự hy sinh của người chiến sỹ trong ngày mai đã tạo thành giọng điệu đầy

bi thương:

“ Em ơi em, có thể anh ngã xuống

…Em tìm anh, không thể nào gặp đƣợc

Máu anh bay lên trên những lá cờ”

(Tình ca người lính- số 1)

Chiến tranh tràn qua vĩ tuyến, cả ba miền nhuốm đỏ máu tươi. Khi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiến tranh xảy ra, người dân vô tội là những người khổ nhất. Tiếng kêu khóc

của họ xoáy vào lòng người nỗi đau thương mất nước, mất người thân. Những

người mẹ, người vợ, những đứa trẻ trở nên bơ vơ:

“ Từng đàn quạ chiến tranh đói máu lại bay đi

Những F những A những B những H

Mặc bao mẹ già tiếng kêu gào khản đặc

Mặc bao ngƣời vợ trẻ gọi chồng thao thiết khắp năm châu…”

(Con đường của những vì sao)

Tội ác hủy diệt của kẻ thù còn được hiện hữu qua đàn bê nhỏ nơi sườn

đồi. Giữa khói lửa đạn bom, tiếng kêu thất thanh của lũ bê con đã tạo thành

giọng điệu xót thương:

“ Bom nổ ngay nhằm đàn bê ném xuống

Cỏ cháy rồi không ăn đƣợc, bê ơi

Bê bị thƣơng chạy về phía sƣờn đồi

Tiếng bê gọi nghẹn ngào nhƣ tiếng khóc”

(Con đường của những vì sao)

Hình ảnh 10 cô thanh niên xung phong ngã xuống nơi ngã ba Đồng Lộc

ác liệt đã gieo vào lòng tác giả nỗi ám ảnh khôn nguôi. Mái tóc tuổi 20 hòa

vào mùi khét lẹt của đạn bom, vào sâu trong đất. Giọng điệu thơ không sao

tránh khỏi sự bi thương, đau xót khi miêu tả hiện thực này:

“ Mƣời chị em đâu rồi

Để cho nƣớc mắt khôn nguôi tìm ngƣời

Con đƣờng xe hãy còn lên

Và mai và cuốc vẫn tìm, ngƣời ơi

Cách nhau một lớp đất thôi

Mà xa xôi thế- không lời…lặng im…”

(Con đường của những vì sao)

Như những thước phim ghi lại hiện thực chiến tranh khốc liệt với đầy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đủ diện mạo của nó, trường ca Nguyễn Trọng Tạo bên cạnh giọng điệu ngợi

ca hào hùng nói chung của trường ca thì giọng điệu riêng mang màu sắc bi

thương, đau xót thấm đẫm trong những dòng thơ, đoạn thơ.

3.3.3. Giọng điệu trữ tình, triết lý

Với đặc thù là một thể loại có khả năng nhận thức và bao chứa phạm vi

cuộc sống và hiện thực rộng lớn, trường ca xuất hiện giọng điệu trữ tình, triết

lý. Viết về chiến tranh với biết bao tình tiết để nhìn nhận và khái quát,

Nguyễn Trọng Tạo cùng với việc tạo ra những khoảng trống thẩm mỹ đã xen

lẫn giọng điệu trữ tình, triết lý để phản ánh rõ nét hiện thực và thời đại.

Là trường ca viết về chiến tranh, hai bản trường ca của Nguyễn Trọng

Tạo không vì thế mà khô cứng, gân guốc về ngôn từ cũng như giọng điệu. Sự

đa sắc màu trong giọng điệu đã tạo nhịp điệu vừa hào hùng sử thi vừa trữ tình

trong mỗi bản trường ca. Đó là sự cảm nhận vừa ngọt ngào vừa thơ mộng:

“Cô gái ấy, xa rồi anh nhớ

Con đƣờng làng phơ phất cỏ may

Cô gái ấy, xa rồi anh kể

Không biết ngƣời nghe đã ngủ say”

(Tình ca người lính- số 1)

Hình ảnh người chiến sỹ trở về sau trận đánh ác liệt với vẻ yêu đời, tràn

đầy niềm tin vào cuộc sống:

“ Anh trở về với một ba lô, một búp bê, một khung xe

mua lại ở Sài Gòn

Vài ba vết thƣơng chƣa kín sẹo

Huân chƣơng cất đáy ba lô

Vừa đi vừa huýt sáo

Đƣờng đất cỏ may dẫn anh về”

(Tình ca người lính- số 2)

Tình yêu đôi lứa nồng ấm giữa cuộc chiến tranh được thể hiện qua

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giọng điệu thấm đượm chất trữ tình:

“ Hai ngƣời yêu nhau dừng lại tự lúc nào

Trên thảm cỏ những chú bê thƣờng đến

Hai cặp mắt nhìn nhau trìu mến

Hai cặp mắt quyện hòa ánh sáng”

(Con đường của những vì sao)

Bên cạnh giọng điệu trữ tình làm cho mỗi bản trường ca của Nguyễn

Trọng Tạo thêm thắm đượm cảm xúc, dung dị và ngọt ngào là giọng điệu triết

lý qua mỗi sự chiêm nghiệm từ hiện thực cuộc sống, chiến tranh.

Đó là niềm tin vào con người, vào tình yêu trong hoàn cảnh bom đạn.

Chỉ có tình yêu và sự chờ đợi mới giúp con người vượt qua mọi thử thách của

không gian và thời gian:

“ Ôi đá ngàn năm

Thì đá vẫn đá mà thôi

Bao truyền thuyết đá chẳng nghe thấy đƣợc

Chỉ em đợi anh là điều thật nhất”

(Tình ca người lính- số 3)

Hành trình vượt qua bao đau đớn, bao tủi cực để có được thành quả, có

được hạnh phúc đã được nhà thơ chiêm nghiệm qua lớp ngôn từ giàu hình ảnh:

“ Không đùa đâu, thơ tôi nói thật lòng

Trƣớc niềm đau, trƣớc niềm vui có lẽ nào dối trá

(Thật kinh tởm sau cơn trở dạ

Lại sinh ra một búp bê vàng)”

(Con đường của những vì sao)

Trong chiến đấu và hy sinh, con người nếu đầu hàng số phận, nếu lùi

bước trước gian nguy thì có lẽ cánh cửa bình minh sẽ chẳng bao giờ hé mở:

“ sẽ chẳng thành ngƣời lính bao giờ

Nếu từ nan cái chết

Đất nƣớc những ngƣời sợ chết

Chẳng bao giờ đất nƣớc sống bình an !”

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(Con đường của những vì sao)

Sau mỗi hiện thực được miêu tả về cuộc chiến, sự đối lập khốc liệt giữa

tội ác hủy diệt và lòng yêu nước, giữa sự sống và cái chết, nhà thơ đã có

những cái nhìn chiêm nghiệm khái quát:

“ đất và đá

yếu mềm và cứng rắn

cán xẻng với tay ngƣời

đòn gánh với vai ngƣời

con đƣờng và trái núi

phá và xây ngày tháng đỡ đần nhau…”

(Con đường của những vì sao)

Sự hội tụ thành triết lý sống, triết lý muôn đời mà mỗi con người đi ra

từ đêm tối, từ gian nan đều vươn tới:“ Tôi ca tụng những yêu tin/Sống không

quỳ lụy, van xin, hẹp hòi”(Con đường của những vì sao).

Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, con người ta luôn chiêm

nghiệm về hạnh phúc. Không phải là cái gì cao sang, to lớn, hạnh phúc là

những gì đời thường nhất, giản dị nhất như nó vốn có: “Hạnh phúc bình

thƣờng nhƣ hạnh phúc” (Tình ca người lính- số 1). Và trong cả những mong

ước giản đơn, những khát khao đời thường, có thể nói ra là lời yêu thương

nhưng trong những lúc gắt gao của số phận, đó lại là nỗi sợ hãi của con

người: “Ôi, có những điều mong ƣớc giản đơn/nói ra thành yêu thƣơng/nói ra

thành sợ hãi” (Con đường của những vì sao). Nhà thơ đã nghiệm ra điều đó từ

trong chiến tranh đau thương, khi số phận con người mong manh và khát

vọng hạnh phúc trở nên cháy bỏng.

Chiến tranh đi liền với sự hủy diệt. Những gì con người ta xây dựng nên

đều trở thành cát bụi dưới tội ác của kẻ thù. Nhưng nếu con người biết sống

với niềm tin, có ý chí để tạo dựng cuộc sống sau bão táp thì tất cả sẽ trở về, kể

cả tình yêu thương của mẹ:

“ Thật là đơn giản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Bom đạn giặc bay tung đất đá

Bay tung con đƣờng

Rồi đất đá lại trở về đất đá

Rồi con đƣờng vẫn là con đƣờng ấy

Với ngã ba vẫn ngã ba này

Bởi con vẫn là con của mẹ”

(Con đường của những vì sao)

Lẽ sống và những điều quý giá nhất trong mỗi con người được nhà thơ

khái quát thành những chiêm nghiệm, những điều răn đạo lý. Ở bất kỳ lúc

nào, con người với trái tim, với dòng máu và sự thủy chung quý giá hơn bất

kỳ điều gì trên đời:

“Cầm dao, cầm cán nghe con…

Với trái tim máu quý hơn vàng mƣời

Thủy chung ngƣời với con ngƣời

Cũng là giọt máu bao đời nuôi nhau”

(Con đường của những vì sao)

Mối quan hệ giữa con người với con người trong cuộc sống được nhà

thơ khái quát bằng những câu thơ đậm chất dân gian. Đó là lẽ sống mà con

người ta dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần gìn giữ:

“ Thƣơng nhau không nịnh tâng nhau

Nhƣờng áo xẻ cơm chia lửa

Chẳng thấy giá gƣơng, ít gặp nhiễu điều

Vẫn nhớ câu ca răn điều ăn ở…”

(Con đường của những vì sao)

Thành quả có được là do con người đánh đổi bằng những giọt máu và

sự hy sinh. Nhưng lại có những kẻ hèn nhát, không chịu đổ máu, không dám

đương đầu với cái chết nhưng lại mơ về thành quả: “ Trách ai nay hững mai

hờ/tránh nhìn máu đổ lại mơ cờ hồng” (Con đường của những vì sao).

Sau những giông bão của cuộc chiến, con người như choàng dậy đón

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hòa bình. Như một quy luật trong cuộc đời con người, sau những đau thương,

sau những bão táp, con người sẽ được làm lại cuộc đời, đất lại nở hoa và thêu

dệt nên hạnh phúc:

“ Sau cơn mƣa muốn mặc áo màu gì

Đất lại dệt chuyên cần màu cây ấy”

(Con đường của những vì sao)

Là người từng trải trong chiến tranh, khi viết trường ca trong sự chiêm

nghiệm, nhận diện lại cuộc chiến và con người, Nguyễn Trọng Tạo đã trăn

trở, nghĩ suy và thể nghiệm thành những triết lý sống mang giá trị nhân văn

cao đẹp. Giữa mưa bom bão đạn, tình yêu vẫn nảy nở, niềm tin chiến thắng và

hành trình đi từ đêm đen đến bình minh hòa bình của dân tộc Việt Nam kiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cường đã được nhà thơ đúc rút thành những chân lý.

KẾT LUẬN

1. Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống

Mỹ, Nguyễn Trọng Tạo ngày càng có nhiều đóng góp vào hành trình thơ ca

kháng chiến. Là người sống trọn vẹn cho thơ ca, tôn thờ thơ ca, luôn coi thơ

như một sự ám ảnh tâm hồn và luôn có ý thức đưa thơ ca gần với đời sống,

Nguyễn Trọng Tạo với các tập thơ như Đồng dao cho ngƣời lớn, Thƣ trên

máy chữ, Tản mạn thời tôi sống, Nƣơng thân, Thế giới không còn trăng đã thể

hiện một hồn thơ đa cảm, giàu chất trữ tình. Hàng loạt những giải thưởng văn

chương cao quý đã góp phần khẳng định tài năng và tên tuổi của Nguyễn

Trọng Tạo. Với hai bản trường ca ra đời thời hậu chiến là Tình ca ngƣời lính

và Con đƣờng của những vì sao, Nguyễn Trọng Tạo đã góp một tiếng nói

riêng giữa nguồn chung của thời kỳ “nở rộ” thể loại trường ca. Hai tác phẩm

là cái nhìn và sự chiêm nghiệm nghiêm túc, khá đầy đủ về cuộc kháng chiến

của dân tộc.

2. Đi sâu tìm hiểu hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng

của những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo trên cơ sở soi sáng của lý thuyết về

thể loại trường ca, tác giả luận văn đã khai thác thế giới hình tượng trong mỗi

bản trường ca. Đây được xem như linh hồn, là đối tượng thẩm mỹ tạo nên hồn

cốt và điểm nhấn cảm xúc của mỗi tác phẩm. Viết về chiến tranh với những

biến thái phức tạp, trường ca Nguyễn Trọng Tạo đã có sức bao chứa rộng lớn

hiện thực cuộc chiến. Ông chú ý từ những sự kiện lớn cho đến những góc

khuất nhỏ trong cuộc sống cũng như số phận con người thời chiến.

Hình tượng người chiến sĩ hiện lên trong hai bản trường ca của Nguyễn

Trọng Tạo đẹp hơn bao giờ hết. Nhà thơ đã xây dựng hình tượng người chiến

sĩ trong hành trình đến với cuộc chiến. Trước cuộc chiến họ mang tâm trạng

của những con người giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của mình cho Tổ quốc thân yêu. Trong trận chiến, lòng dũng cảm và ý chí

quyết thắng đã thôi thúc bước chân họ vượt lên phía trước. Trong tim họ, lý

tưởng và khát vọng chiến thắng hòa làm một để tạo nên sức mạnh chiến đấu.

Đặc biệt, miêu tả chân thực hình ảnh 10 cô thanh niên xung phong nơi ngã ba

Đồng Lộc ác liệt, Nguyễn Trọng Tạo đã ngợi ca sự hy sinh anh dũng của họ

cho những cung đường, cho đất nước.

Hình tượng người mẹ trở thành một biểu tượng thiêng liêng trong niềm

động viên, khích lệ và là niềm tin để những đứa con ngày đêm chiến đấu

chống giặc thù. Trong gian lao, hình ảnh Nhân dân và Đất nước trở nên khó

phai mờ trong mỗi bản trường ca của Nguyễn Trọng Tạo. Nhân dân lam lũ mà

giàu lòng yêu nước, Nhân dân căm hờn dựng thành chông thành lũy thành để

bảo vệ đồng chí. Đất nước tươi đẹp với bờ tre ruộng lúa câu hò và bừng lên

trong mưa bom bão đạn.

Đó là sự hình tượng hóa Máu, đàn bê nhỏ và vầng trăng trong cả hai

bản trường ca. Đó là những đối tượng thẩm mỹ khi nhà thơ ca ngợi sự thiêng

liêng và sức sống bền bỉ của dòng máu Lạc Hồng, khắc họa sự đau thương

của những con người nhỏ bé dưới tội ác hủy diệt của kẻ thù và khát vọng

hạnh phúc, tự do luôn gửi gắm vào mỗi vầng trăng.

Sự hội tụ nhiều hình tượng trong hai bản trường ca đã khẳng định cái

nhìn hiện thực và cảm xúc mang đậm chất trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo.

Nhà thơ nhìn nhận cuộc kháng chiến với đầy đủ diện mạo của nó. Tác giả đã

lấy tâm điểm là con người để lý giải, để khẳng định và ngợi ca.

3. Bên cạnh việc khai thác thế giới hình tượng trong hai bản trường ca

Tình ca ngƣời lính và Con đƣờng của những vì sao, chúng tôi tìm hiểu những

thành công và nét đặc sắc về nghệ thuật của Nguyễn Trọng Tạo trong mỗi bản

trường ca. Với sức chứa khá lớn phạm vi hiện thực, Nguyễn Trọng Tạo đã tạo

cho trường ca của mình những lối đi riêng về cốt truyện, hệ thống nhân vật,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngôn ngữ, thể thơ và giọng điệu.

Với việc kết cấu trường ca trong sự đan xen giữa yếu tố tự sự và trữ

tình, Nguyễn Trọng Tạo đã xây dựng yếu tố cốt truyện trong cả hai bản

trường ca. Tuy có những đoạn, cốt truyện bị ẩn đi bởi cảm xúc trữ tình song

mạch truyện luôn xuyên suốt và trở thành dây sống trong tác phẩm. Lấy chất

liệu từ hiện thực, hệ thống nhân vật trong hai bản trường ca của Nguyễn

Trọng Tạo hiện lên khá đậm nét và sinh động.

Chú trọng lựa chọn ngôn từ trong sự chuyển tải thế giới hình tượng,

ngôn ngữ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo vừa giàu màu sắc dân gian, vừa

đậm chất ngôn ngữ đời sống và được phát triển theo hình thức lạ hóa ngôn từ.

Chính đặc điểm này đã làm cho ngôn ngữ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo

vừa gần gũi, vừa mang mầu sắc hiện đại.

Với dung lượng câu chữ khá lớn, Nguyễn Trọng Tạo đã vận dụng khéo

léo và thành công đan xen thể thơ tự do, thơ lục bát và sự gián cách khổ thơ,

sự tạo khoảng trống thẩm mỹ và vĩ thanh trong tác phẩm. Nhờ vậy, nhịp điệu

và điểm nhấn cảm xúc cũng như những chiêm nghiệm suy ngẫm được bộc lộ

rõ nét trong mỗi bản trường ca. Viết về đề tài chiến tranh với quan điểm

không né tránh hiện thực với những đau thương, hy sinh nên bên cạnh giọng

điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi, trường ca của Nguyễn Trọng Tạo còn thể

hiện giọng điệu bi thương xen lẫn giọng điệu trữ tình, triết lý sâu sắc.

4. Với những nỗ lực và sự sáng tạo không mệt mỏi, trong suốt những

năm cầm bút, Nguyễn Trọng Tạo đã góp phần quan trọng vào sự phát triển

thơ ca hiện đại Việt Nam. Hai bản trường ca Tình ca ngƣời lính và Con

đƣờng của những vì sao của Nguyễn Trọng Tạo là minh chứng cho sự bền bỉ

bám sát hiện thực cuộc chiến tranh và cái nhìn đầy chiêm nghiệm, cái nhìn

thẳng vào hiện thực để thấy được diện mạo đầy đủ của nó. Với những thành

công nhất định cả về nội dung và hình thức ở mỗi bản trường ca, Nguyễn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trọng Tạo đã đóng góp tiếng nói riêng đầy mới mẻ cho sáng tác trường ca

thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nói riêng và sự phát triển của thơ ca Việt Nam

nói chung, “trở thành một gƣơng mặt sáng giá trong đội ngũ những nhà thơ

mấy thập niên qua” [46, Tr. 18].

Luận văn về đề tài Trƣờng ca Nguyễn Trọng Tạo chắc chắn sẽ còn

nhiều thiếu sót, song với tấm lòng yêu mến trường ca Nguyễn Trọng Tạo và

sự nghiệp thơ ca của ông, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần nhỏ vào việc đánh

giá, khẳng định một gương mặt thơ, trường ca đã có những thành công nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

định và chắc chắn sẽ còn nhiều gặt hái trong sự nghiệp sáng tác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Kỳ Anh (2011). Ứa nghẹn những bức bách đời thường,

http://tamnhin.net/VanhoaThethao, ngày 19/6/2011.

2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm định,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1984), “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca”, Tạp chí văn

học, (4), tr. 27-29.

4. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới.

5. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Đào Thị Bình (2008), Thể trƣờng ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến

cuối thế kỉ XX – LATS, ĐHSP Hà Nội.

7. Hoàng Cầm (1996). Đọc lại Đồng dao cho người lớn,

http://nguyentrongtao.vnweblogs.com, ngày 9/7/2011.

8. Nguyễn Văn Dân (2008), “Trường ca với tư cách là một thể loại mới”, Tạp

chí Sông Hƣơng, (230), tr 15-16.

9. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học,

Hà Nội.

10. Nguyễn Đăng Điệp (1999). Nguyễn Trọng Tạo cảm và luận văn chương,

http://nguyentrongtao.vnweblogs.com, ngày 27/5/2011.

11. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nƣớc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, (Đồng chủ biên, 2006), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

13. Mai Hương (1980), “Đọc Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn học, (3), tr.

15-19.

14. Mai Hương (2001), “Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng”, Tạp chí Văn học, (6), tr. 10-11.

15. Nguyễn Thị Thu Hương (2002), Một số trƣờng ca tiêu biểu về cuộc kháng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chiến chống Mỹ cứu nƣớc, LVTHS, ĐHSP Hà Nội.

16. Phùng Ngọc Kiếm (2000), Con ngƣời trong truyện ngắn Việt Nam 1945 –

1975, NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

17. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến

trường ca hiện đại của ta”, Tạp chí Văn học (6), tr. 22-25.

18. Lê Văn Khoa (1982), “Những ý kiến về anh hùng ca Đam San”, Tạp chí

Văn học, (6), tr. 13-15.

19. Mã Giang Lân (1988), “Thử phân định ranh giới giữa trường ca và thơ

dài”, Tạp chí Văn học, (5, 6), tr. 21-22.

20. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

21. Mã Giang Lân (1982), “Trường ca, vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn học (6),

tr. 48.

22. Phong Lê (2009), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội.

23. Phong Lê (1991), “Nhận dạng văn học Việt Nam sau 1945”, Tạp chí Văn

học, (4), tr. 23-25.

24. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam

hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.

25. Vũ Quỳnh Loan (2010), Đặc điểm thơ văn xuôi từ 1975 đến nay, LVTHS,

ĐHSP Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

27. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên, 2006), Văn học Việt Nam

sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội.

28. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình (1978), Lí luận

văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Thiếu Mai (1980), “Hữu Thỉnh trên Đường tới thành phố”, Tạp chí Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nghệ Quân đội, (3), tr. 12-14.

30. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo, thơ và trường ca”, Tạp chí văn nghệ

Quân đội, (3), tr. 18-20.

31. Yến Nhi (2010). Trƣờng ca Việt, một cách nhìn,

http://www.vanchuongviet.org, ngày 15/6/2011.

32. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (Đồng chủ biên 2006), Thơ ca Việt Nam –

hình thức và thể loại, Nxb ĐHQGHN.

33. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 –1990,Nxb, ĐHQGHN.

34. Cao Xuân Phát (2012), “Nguyễn Trọng Tạo người chọn thơ làm nghiệp”

Tạp chí Nhà văn, (1), Tr 15-18.

35. Vũ Đức Phúc (1982), “Chung quanh vấn đề trường ca”, Tạp chí văn học, (6),

tr. 25-28.

36. Diêu Lan Phương (2009), “Yếu tố tự sự trong trường ca trữ tình hiện đại”,

Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (4), tr 22-25.

37. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

38. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Vũ Văn Sỹ (2005), “Chung quanh vấn đề về trường ca”, Tạp chí Văn học

(6), tr. 19-22 .

41. Vũ Văn Sỹ (2005), Mạch thơ trong nguồn thế kỷ, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

42. Vũ Văn Sỹ (1999), Về một đặc trƣng thi pháp thơ Việt Nam 1945-1975,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

43. Nguyễn Trọng Tạo (1994), Đồng dao cho ngƣời lớn, thơ, NXB Văn học,

Hà Nội.

44. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chƣơng cảm & luận, NXB Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

45. Nguyễn Trọng Tạo (2007), 36 bài thơ, NXB Lao động, Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

46. Nguyễn Trọng Tạo (2011), Thơ và trƣờng ca, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

47. Nguyễn Trọng Tạo (1980), “Trường ca –cảm hứng, bản lĩnh, sức vóc của

người viết”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, (11), tr 14-16.

48. Nguyễn Bá Thành (1995), Tƣ duy thơ và tƣ duy thơ hiện đại Việt Nam,

Nxb Văn học.

49. Thanh Thảo (2004), Mãi mãi là bí mật, Nxb Lao động, Hà Nội.

50. Hữu Thỉnh (1981), “Sự chuẩn bị của người viết trẻ”, Báo Văn nghệ (50), tr 4.

51. Hữu Thỉnh (2004), Trƣờng ca Biển, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

52. Vũ Duy Thông (2001), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945-

1975, NXB Giáo dục, Hà Nội.

53. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gƣơng mặt thơ Việt Nam hiện đại,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu, Trần Đăng Khoa (1995), Tuyển tập nửa

thế kỷ thơ về ngƣời lính, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.

55. Lưu Quang Vũ- Bằng Việt (2004), Hƣơng cây Bếp lửa, Nxb Văn học, Hà Nội.

56. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng- Trung tâm

từ điển học, Hà Nội.

57. Bùi Thị Hoàng Yến (2009), Trƣờng ca Thanh Thảo cấu trúc và ngôn ngữ,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

LVTHS, ĐHSP Hà Nội.