ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN HUY GIẢNG
TÌM HIỂU MỘT SỐ TRUYỆN
TRONG “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” (NGUYỄN DỮ) CÓ CÙNG MÔ TÍP VỚI “TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” (CÙ HỰU)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN HUY GIẢNG
TÌM HIỂU MỘT SỐ TRUYỆN TRONG “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” (NGUYỄN DỮ) CÓ CÙNG MÔ TÍP VỚI “TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” (CÙ HỰU)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thanh
Thái Nguyên – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận
văn đều trung thực và chƣa từng đƣợc công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Huy Giảng
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học
Trƣờng Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã
trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hƣớng dẫn PGS. TS. Vũ Thanh đã luôn tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, ngƣời thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Huy Giảng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn
đăng tân thoại” .............................................................................................. 2
2.1.1. Giai đoạn trƣớc thế kỷ XX ............................................................... 3
2.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XX đến nay ....................................................... 4
2.2. Nghiên cứu truyện truyền kì dưới góc độ mô típ và việc tìm hiểu những
truyện có chung mô típ trong “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn đăng tân thoại” 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10
4.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................... 10
4.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 10
4.2.1. Phạm vi tƣ liệu ............................................................................... 10
4.2.2. Phạm vi nội dung ............................................................................ 11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 11
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 12
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 12
NỘI DUNG ..................................................................................................... 13
CHƢƠNG 1: “TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI”, “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” VÀ
VIỆC NGHIÊN CỨU TRUYỆN TRUYỀN KÌ TỪ MÔ TÍP TRUYỆN ....... 13
1.1. “Tiễn đăng tân thoại” và thể loại truyền kì Trung Quốc ..................... 13
1.1.1. Thể loại truyền kì trong văn xuôi trung đại Trung Quốc ............... 13
1.1.1.1. Khái niệm truyền kì ................................................................. 13
1.1.1.2. Thể loại truyền kì trong văn xuôi trung đại Trung Quốc ........ 14
1.1.2. “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu ................................................ 16
1.1.2.1. Tác giả Cù Hựu ........................................................................ 16
1.1.2.2. Tác phẩm “Tiễn đăng tân thoại” .............................................. 17
1.2. “Truyền kì mạn lục” và thể loại truyền kì Việt Nam ............................ 18
1.2.1. Thể loại truyền kì trong văn xuôi trung đại Việt Nam ................... 18
1.2.2. “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ ............................................ 20
1.2.2.1. Tác giả Nguyễn Dữ .................................................................. 20
1.2.2.2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục” ............................................... 22
1.3. Khái niệm mô típ, các yếu tố hình thành mô típ trong thể loại truyền kì . 23
1.3.1. Khái niệm mô típ ............................................................................ 23
1.3.2. Các yếu tố hình thành mô típ trong thể loại truyền kì ở Việt Nam ...... 25
1.4. Mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” và
việc nghiên cứu truyện truyền kì từ mô típ truyện ....................................... 27
1.4.1. Mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” 27
1.4.2. Nghiên cứu truyện truyền kì từ mô típ truyện................................ 28
Tiểu kết Chương 1 ....................................................................................... 29
CHƢƠNG 2: MÔ TÍP “TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN KÌ DỊ” TRONG “TIỄN
ĐĂNG TÂN THOẠI” VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” .................................... 31
2.1. Khảo sát mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong hai tác phẩm ..... 31
2.2. Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Tiễn đăng tân thoại” ..... 34
2.3. Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn lục” ....... 40
2.4. Đối sánh mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong hai tập truyện ... 46
2.5. Vai trò của mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn
lục” .............................................................................................................. 50
2.5.1. Trong việc xây dựng đề tài, chủ đề, tạo dựng tính dân tộc ............ 50
2.5.2. Trong việc xây dựng cốt truyện, tình tiết nghệ thuật ..................... 57
2.5.3. Trong việc xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật ................. 59
2.5.4. Trong việc xây dựng nhân vật ....................................................... 62
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................ 64
CHƢƠNG 3: MÔ TÍP “NGƯỜI LẠC VÀO THẾ GIỚI KHÁC” TRONG
“TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” ....................... 66
3.1. Khảo sát mô típ “Người lạc vào thế giới khác” trong hai tác phẩm ... 66
3.2. Mô típ “Người lạc vào thế giới khác” trong “Tiễn đăng tân thoại” ... 70
3.2.1. Ngƣời lên thiên đình ....................................................................... 70
3.2.2. Ngƣời lên cõi tiên. .......................................................................... 71
3.2.3. Ngƣời xuống thủy phủ ................................................................... 72
3.2.4. Ngƣời xuống âm phủ ...................................................................... 73
3.3. Mô típ “Người lạc vào thế giới khác” trong “Truyền kì mạn lục” ..... 76
3.3.1. Ngƣời lên thiên đình ....................................................................... 76
3.3.2. Ngƣời lên cõi tiên. .......................................................................... 78
3.3.3. Ngƣời xuống thủy phủ ................................................................... 79
3.3.4. Ngƣời xuống âm phủ ...................................................................... 82
3.4. Đối sánh mô típ “Người lạc vào thế giới khác" trong hai tập truyện . 85
3.5. Vai trò của mô típ “Người lạc vào thế giới khác” trong “Truyền kì mạn lục” 89
3.5.1. Trong việc xây dựng đề tài, chủ đề, tạo dựng tính dân tộc ............ 89
3.5.2. Trong việc xây dựng cốt truyện, tình tiết nghệ thuật ..................... 92
3.5.3. Trong việc xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật ................. 95
3.5.4. Trong việc xây dựng nhân vật ....................................................... 96
3.6. Sự kết hợp giữa các mô típ: “Người lạc vào thế giới khác” với “Tình yêu
và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn lục” .............................................. 99
Tiểu kết Chương 3 ..................................................................................... 100
KẾT LUẬN ................................................................................................... 102
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Mỗi quốc gia trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù có lịch sử mấy ngàn năm
hay mới chỉ hình thành một vài chục năm đều có nền văn học của riêng mình. Tuy
nhiên nó không tồn tại biệt lập mà hình thành và phát triển trong sự tƣơng tác với
các loại hình nghệ thuật, tƣ duy, các nền văn học khác trên thế giới. Giữa chúng
luôn có sự tiếp xúc, giao thoa, ảnh hƣởng, thậm chí xung đột lẫn nhau… Nghiên
cứu và giải thích những mối quanh hệ đó chính là nhiệm vụ của văn học so sánh.
Daniel-Henri Pageaux đã nêu định nghĩa về văn học so sánh theo quan điểm của
mình: “Văn học so sánh là chuyên ngành nghiên cứu những mối quan hệ tương
đồng, quan hệ họ hàng hay ảnh hưởng giữa văn học với các lĩnh vực nghệ thuật
hay các lĩnh vực tư duy khác, giữa các sự kiện hay văn bản văn học, những mối
quan hệ này có thể gần hay xa, trong không gian hay trong thời gian, miễn là
chúng thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau, hoặc nhiều văn hoá khác nhau, cho dù có
chung một truyền thống” [32, 12].
Ở các nƣớc có nền văn học phát triển nhƣ Pháp, Đức… văn học so sánh
đã sớm tham gia vào đời sống văn học cả về lí thuyết và thực nghiệm. Ở Việt
Nam, lí thuyết về văn học so sánh còn rất mới mẻ cho đến những năm gần
đây. Các nhà nghiên cứu nhờ đó đã có cái nhìn tổng thể hơn, những đánh giá
chính xác hơn, những lí giải thuyết phục hơn về nền văn học nƣớc nhà.
1.2. Về mối liên hệ giữa “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ và “Tiễn
đăng tân thoại” của Cù Hựu, có rất nhiều ý kiến trái chiều. Có ý kiến cho
rằng Nguyễn Dữ đã “mô phỏng”, “bắt chƣớc” Cù Hựu, tiêu biểu là Hà Thiện
Hán. Trong Tựa ”Truyền kì mạn lục” (viết năm 1547), Hà Thiện Hán khẳng
định: “Xem văn từ của sách thấy không ra ngoài phên dậu của Cù Tông Cát”
(Quan kì văn từ bất xuất Tông Cát phiên li chi ngoại cảm). Lại có nhiều ý
kiến đề cao tài năng của Nguyễn Dữ, gọi ông là “bậc trứ danh trong lĩnh vực
xây dựng tiểu thuyết”. Trần Ích Nguyên, nhà nghiên cứu Đài Loan đánh
2
giá: “Tân thoại kế thừa cơ sở chí quái truyền kì đời trƣớc, chọn lấy những tƣ
liệu có sẵn trong thơ văn bút ký, Mạn lục ngoài việc mô phỏng phần dinh
dƣỡng mà Tân thoại hấp thụ, còn viết lại thần thoại chí quái của đất nƣớc Việt
Nam” [30]. Nhƣ vậy, phải đánh giá nhƣ thế nào mới là công bằng với Nguyễn
Dữ và “Truyền kì mạn lục” ?
1.3. Thể loại truyền kì Việt Nam, tác giả Nguyễn Dữ, tập “Truyền kì mạn
lục” đều là những đơn vị kiến thức quan trọng đƣợc dạy học và nghiên cứu ở
cấp phổ thông và nhiều trƣờng đại học. Để hiểu đầy đủ và sâu sắc các đơn vị
kiến thức này, với cả ngƣời học và ngƣời dạy, cho đến nay vẫn còn là một vấn
đề khó khăn.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Tìm hiểu một số truyện trong
“Truyền kì mạn lục” (Nguyễn Dữ) có cùng mô típ với “Tiễn đăng tân thoại”
(Cù Hựu), hy vọng có thể góp phần nhỏ bé của mình vào việc lí giải về mối
liên hệ giữa hai tác phẩm, đánh giá những tiếp thụ và đổi mới của Nguyễn Dữ
trong “Truyền kì mạn lục”, tháo gỡ phần nào những khó khăn đối với bạn đọc.
2. Lịch sử vấn đề
Tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là một trong những
đỉnh cao của văn học Việt Nam trung đại, ngày càng chiếm đƣợc nhiều tình
cảm của bạn đọc. Từ khi ra đời đến nay, nó đã từng làm hao tổn tâm trí và
giấy mực của nhiều thế hệ. Từ các bậc túc Nho thời xƣa cho đến các nhà
nghiên cứu văn học thời hiện đại đều đánh giá cao và coi tác phẩm là một
biểu hiện vinh dự cho nền văn học nƣớc nhà.
2.1. Lịch sử nghiên cứu mối quan hệ giữa “Truyền kì mạn lục” và
“Tiễn đăng tân thoại”
Không thể phủ nhận viết “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Dữ không chịu
sự ảnh hƣởng từ tác giả Cù Hựu, nhƣng trong mỗi câu chuyện của mình
Nguyễn Dữ đều có sự sáng tạo riêng. Dù vậy, do đặc điểm tƣơng đồng của hai
3
tác phẩm, khi nghiên cứu “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ, các nhà
nghiên cứu luôn đặt trong mối quan hệ so sánh với “Tiễn đăng tân thoại” của
Cù Hựu. Trong phần này, chúng tôi chỉ xin dẫn ra một số công trình nghiên
cứu và những bài viết mang tính định hƣớng chung cho việc nghiên cứu tìm
hiểu liên quan đến đề tài.
2.1.1. Giai đoạn trƣớc thế kỷ XX
Hà Thiện Hán thế kỷ XVI là ngƣời có những đánh giá sớm nhất về tác
phẩm “Truyền kì mạn lục”. Trong lời đề tựa viết năm Vĩnh Định sơ niên
1547, Hà Thiện Hán không chỉ nhận định tập truyện là trứ tác của Nguyễn Dữ
mà còn khẳng định văn từ của Nguyễn Dữ không vƣợt ra ngoài “phên giậu”
của Tông Cát (Cù Hựu).
Các học giả thế kỉ XVIII-XIX: Vũ Khâm Lân (1802-?) đánh giá
“Truyền kì mạn lục” là “thiên cổ kì bút” (Bạch Vân am cư sĩ phả kí). Lê Quý
Đôn (1726-1784) trong Kiến văn tiểu lục khi xem xét tổng thể tác phẩm cũng
đã có những nhận định tác phẩm chủ yếu mô phỏng theo “Tiễn đăng tân thoại”
của Cù Hựu nhƣng cũng đã nhấn mạnh đến văn phong ngôn từ thanh tao tốt
đẹp của tác phẩm. Phan Huy Chú (1782-1840) xem “Truyền kì mạn lục” “là
áng văn hay của bậc đại gia”. Trong “Văn tịch chí”, sách Lịch triều hiến
chương loại chí của mình, ông cũng khẳng định “Truyền kì mạn lục” do dật
sĩ Nguyễn Dữ soạn, gồm bốn quyển về cơ bản có bắt chƣớc theo “Tiễn đăng
tân thoại” của nhà nho đời Nguyên.
Nhƣ vậy, các tác giả trên một mặt khẳng định Nguyễn Dữ “mô phỏng”,
“bắt chƣớc” “Tiễn đăng tân thoại” nhƣng đồng thời mặt khác cũng đã chú ý,
khẳng định thành công của Nguyễn Dữ về mặt nghệ thuật nhƣ: văn phong,
ngôn từ, tuy nhiên lại chƣa chú ý đến giá trị đích thực của tác phẩm ở phƣơng
diện nội dung.
Với việc nhìn nhận, đánh giá Nguyễn Dữ “mô phỏng”, “bắt chƣớc”
“Tiễn đăng tân thoại” của các học giả trên, chúng tôi thiết nghĩ cần phải có
4
một cái nhìn khách quan, khoa học ở một số khía cạnh sau: Thứ nhất, xem xét
các giai đoạn lịch sử với sự phát triển tƣơng đồng giữa các quốc gia thời
phong kiến. Về lịch sử xã hội và kinh tế ở Trung Quốc thời Đƣờng và Việt
Nam thế kỉ XV-XVI có nhiều nét tƣơng đồng nhau. Nền kinh tế phát triển kéo
theo nhu cầu thƣởng thức văn hoá và lối sống thị dân với các tầng lớp tiêu
biểu. Thứ hai, là tính “đồng loại hình” của các nền văn học trên thế giới. Thứ
ba, truyện truyền kì về cơ bản đƣợc xây dựng trên cơ sở những cốt truyện,
motip, nhân vật... dân gian (còn gọi là quá trình văn học hoá truyện dân gian)
cho nên truyện truyền kì các nƣớc có trƣờng hợp giống nhau hoặc na ná giống
nhau là lẽ thƣờng. Thứ tƣ, sự chi phối của phƣơng thức sáng tác thời trung đại
trong việc lấy tiền nhân làm chuẩn mẫu. Chính những đặc điểm tƣơng đồng
trên khiến các tác phẩm có sự gặp gỡ về nhu cầu phản ánh những hiện tƣợng
tƣơng đồng vào những thời điểm khác nhau.
Không thể phủ nhận vai trò của “Tiễn đăng tân thoại” đối với quá trình
phát triển truyện ngắn truyền kì khu vực đồng văn nói chung và “Truyền kì
mạn lục” của Nguyễn Dữ nói riêng. Tuy nhiên, việc nhìn nhận, đánh giá tác
phẩm cần đảm bảo tính khách quan và tôn trọng hiện thực, tránh cái nhìn
thiên lệch đối với tác giả và tác phẩm đƣợc so sánh.
2.1.2. Giai đoạn từ thế kỷ XX đến nay
Với giá trị sâu sắc ở cả hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật,
“Truyền kì mạn lục” tiếp tục trở thành đề tài tạo cảm hứng cho các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Từ năm 1987 các nhà nghiên cứu bắt tay vào
việc đánh giá mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”
với những kiến giải riêng qua một số công trình cụ thể:
Ở trong nƣớc, Phạm Tú Châu (1987) trong bài viết về Mối quan hệ
giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” trên Tạp chí Văn học số
3 đã đƣa ra một số những ý kiến đánh giá về “Truyền kì mạn lục” “ ... Trong
điều kiện có một ngôn ngữ văn học chung cho cả vùng Viễn Đông hướng đến
5
nền văn học của các nước láng giềng là quy luật hoàn toàn tự nhiên..., không
nên nghĩ rằng 20 truyện của Nguyễn Dữ là biến thể số truyện tương đồng của
Cù Hựu, trái lại trong số đó có truyện hoàn toàn độc lập, có truyện lại mượn
tình tiết phonklore dân tộc hoặc motip phonklore thế giới...” [3,75]. Đồng thời
nhà nghiên cứu cũng khẳng định “nhận định quan kì văn từ bất xuất Tông
Cát phiên li chi ngoại cảm là hàm hồ, chính xác khiến người đọc có thể hiểu
lầm rằng phần sáng tạo nghệ thuật của “Truyền kì mạn lục” là không đáng
kể” [3,77]. Nhƣ vậy, sự ảnh hƣởng của các nền văn học đƣợc xem nhƣ một sự
tất yếu. Nguyễn Dữ tuy có sự tiếp nhận từ truyền kì của Trung Hoa nhƣng nếu
coi tác phẩm của Nguyễn Dữ là sự mô phỏng lại những sáng tác của Cù Hựu
thì quả là phiến diện, thiếu chính xác. Cùng quan điểm nghiên cứu trên, Đinh
Phan Cẩm Vân (2005) trong bài Góp thêm vài suy nghĩ về mối quan hệ giữa
Chuyện cây gạo và truyện Chiếc đèn mẫu đơn, tạp chí Nghiên cứu Văn học số
6, đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai tác phẩm từ những tình tiết, cảm hứng về
tình và sắc. Đánh giá của tác giả đã cho thấy sự khác biệt giữa đặc thù văn
hoá và cảm hứng sáng tác của hai nhà văn. Nguyễn Đăng Na (2005) cũng có
bài viết “Truyền kì mạn lục” dưới góc độ so sánh văn học, Tạp chí Hán Nôm,
số 6. Tác giả cũng dành một phần khảo cứu so sánh “Truyền kì mạn lục” của
Nguyễn Dữ với “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu từ hình thức, nhan đề tác
phẩm cho đến nội dung. Đồng thời tác giả cũng mở rộng phạm vi so sánh với
các tác phẩm khác có cùng thể loại ở trong nƣớc, từ đó đi đến khẳng định giá
trị của tác phẩm và tài năng của tác giả Nguyễn Dữ. Năm 2007, Đinh Thị
Khang trong bài viết “So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma trong “Tiễn
đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”, tạp chí Nghiên cứu Văn học, tháng 4,
đã đi vào tìm hiểu lý giải nguyên nhân của sự tƣơng đồng nhƣng không trùng
khít giữa “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn đăng tân thoại”...
Ở nƣớc ngoài, “Truyền kì mạn lục” cũng nhận đƣợc sự quan tâm đặc
biệt của các học giả nƣớc ngoài khi xem xét tác phẩm dƣới góc độ so sánh với
các tác phẩm cùng thể loại trong khu vực. Đầu tiên phải kể đến nhà nghiên
6
cứu Đài Loan Trần Ích Nguyên (1990) trong công trình Nghiên cứu so sánh
“Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”, NXB Học sinh thƣ cục Đài
Loan cho rằng “Cù Hựu và Nguyễn Dữ kì thực là bậc trứ danh trong việc xây
dựng tiểu thuyết. Tân thoại thì kế thừa Truyền kì, Chí quái ở các triều đại
trước, lấy thơ văn, bút kí các loại làm tư liệu. Mạn lục thì thể hiện ở việc bắt
chước Tân thoại, hấp thụ nguồn dinh dưỡng dồi dào và viết lại thần thoại, chí
quái Việt Nam... mỗi người đều có phương pháp và con đường riêng của mình,
nhưng cả hai loại cùng thu nạp truyền thuyết dân gian địa phương thông qua
sự tưởng tượng phong phú và cách tổ chức chặt chẽ, thông qua tài năng cá
nhân mà biến hoá vật mục nát thành thần kì...” [30, 283]. Rõ ràng, trong công
trình của mình, Trần Ích Nguyên một mặt thừa nhận sự tiếp biến “Tiễn đăng
tân thoại” trong “Truyền kì mạn lục”, mặt khác đi đến khẳng định tài năng
của tác giả Nguyễn Dữ. Nhƣng công trình này mới chỉ dừng lại ở việc nêu đặc
trƣng cá biệt của hai tác phẩm và so sánh đối chiếu một cách song song. Tiếp
đến là công trình của nhà nghiên cứu Nhật Bản Kawamoto Kurive (1996)
Những vấn đề khác nhau có liên quan đến “Truyền kì mạn lục”, Tạp chí Văn
học số 6 cũng đã nhấn mạnh đến sự sáng tạo của Nguyễn Dữ “... tuy vẫn tôn
trọng thế giới văn học của nguyên bản, nhưng gần như ở đâu cũng tìm, rút ra
những đề tài và motip đáng chú ý để tạo ra một thế giới đặc biệt khác lạ dù
phải đưa vào yếu tố của bản gốc” [19, 61]. Điều đó cho thấy từ những đặc
trƣng của văn học và tâm lí dân tộc, Nguyễn Dữ đã đem đến cho truyện
truyền kì khu vực những màu sắc nghệ thuật mới mẻ. Nhà nghiên cứu Hàn
Quốc Toàn Huệ Khanh (2004) trong So sánh tiểu thuyết truyền kì Hàn Quốc,
Trung Quốc, Việt Nam thông qua “Kim Ngao tân thoại”, “Tiễn đăng tân
thoại” và “Truyền kì mạn lục”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội đã tìm hiểu
mối quan hệ giữa các tập truyền kì Đông Á trong cách nhìn nhận công bằng,
chính xác, khoa học. Không chỉ về văn phong, ngôn ngữ, nội dung, hình thức
mà còn xét về động cơ sáng tác, văn hoá đặc trƣng của mỗi nƣớc cũng đƣợc
tác giả xem xét một cách tỉ mỉ, kĩ lƣỡng nhƣng chƣa đi sâu vào tìm hiểu
7
những chi tiết nghệ thuật. Trong bài Thử so sánh “Tiễn đăng tân thoại” của
Cù Hựu (Trung Quốc) với “Kim Ngao tân thoại” của Kim Thời Tập (Triều
Tiên), “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và “Cà tỳ tử” của
Asai Rei (Nhật Bản), nhà nghiên cứu ngƣời Nga B. Riptin (2006), Tạp chí
Văn học số 12 cũng nhận định sự ảnh hƣởng truyền kì của Cù Hựu đối với
Nguyễn Dữ song quan trọng hơn tác giả đã ghi nhận sự sáng tạo của Nguyễn
Dữ một cách khách quan. Tại Hội thảo Quốc tế “Văn học Việt Nam trong bối
cảnh giao lƣu văn hóa khu vực và quốc tế” do Viện Văn học Việt Nam và
Viện Harvard-Yengchin Hoa Kỳ tổ chức năm 2006 tại Hà Nội, nhà nghiên
cứu Vũ Thanh trong bài viết Đóng góp của Nguyễn Dữ đối với truyện truyền
kì Đông Á đã khẳng định: “Nguyễn Dữ đã đúc kết được trong bản thân mình
những tinh hoa không những của văn học dân tộc mà của cả vùng Đông Á.
Những đóng góp về mặt nghệ thuật của ông có tầm cỡ khu vực, ngang hàng
với các nhà văn lớn viết truyện truyền kì Đông Á”, “Tác phẩm không chỉ là
đỉnh cao của truyện truyền kì dân tộc mà còn là sự tiếp tục một cách xuất sắc
truyền thống truyền kì Đông Á” [46, 19].
2.2. Nghiên cứu truyện truyền kì dưới góc độ mô típ và việc tìm hiểu
những truyện có cùng mô típ trong “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn đăng tân
thoại”
Việc nghiên cứu truyện truyền kì dƣới góc độ mô típ, đặc biệt nghiên
cứu mô típ trong ““Truyền kì mạn lục”” cũng đƣợc nhiều học giả quan tâm.
Năm 1987, trong Sự phát triển văn xuôi Hán Việt từ thế kỉ X đến cuối
thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX qua một số tác phẩm tiêu biểu (Luận án Phó Tiến
sĩ, ĐHSP Hà Nội,1987), Nguyễn Đăng Na cho rằng “các tác giả đã dựa vào
mô típ dân gian để sáng tác văn học là bước phát triển mới của truyện văn
xuôi thế kỉ XV – XVIII” [23].
Các công trình nhƣ Ảnh hưởng của văn học dân gian trong “Truyền kì
mạn lục” của Nguyễn Dữ (Nguyễn Xuân Hòa, Luận án Thạc sĩ, ĐHSP Hà
8
Nội, 1997), Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì Việt Nam qua
“Truyền kì mạn lục” (Trần Thị Hải Ninh, Luận án Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội,
1999) đều khẳng định các truyện trong “Truyền kì mạn lục” ảnh hƣởng từ mô
típ truyện dân gian, dựa vào cốt truyện dân gian để xây dựng thành thiên
truyện mới. Đến bài viết Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam (Trần Nho
Thìn, Nghiên cứu văn học số 9&10, 2006), tác giả đã so sánh phân tích những
mô típ phổ biến trong truyện ngắn trung đại Việt Nam mà cụ thể là mô típ
“sắc dục” trong “Truyền kì mạn lục”, đó đƣợc xem là một đóng góp có màu
sắc khá nổi bật của ngƣời viết.
Trong Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam (NXB Giáo dục, Hà
Nội, 2006), Nguyễn Đăng Na đánh giá giá trị của “Truyền kì mạn lục” ở nhiều
mặt và bàn đến sự sáng tạo của tác phẩm trên cơ sở từ những mô típ quen thuộc
dân gian. Nguyễn Dữ đã dựa vào các mô típ dân gian mà tạo ra những câu chuyện
mới mang ý nghĩa xã hội, “đấy là quá trình văn học hóa truyện dân gian, quá
trình lột xác chuyển từ sáng tác dân gian sang văn học viết” [26].
Về việc tìm hiểu những truyện có chung mô típ trong ““Truyền kì mạn
lục”” và “Tiễn đăng tân thoại”, cũng có một số công trình nghiên cứu sau:
So sánh chuyện tình giữa Người và Hồn ma trong “Tiễn đăng tân thoại”
và “Truyền kì mạn lục” (Tạp chí Nghiên cứu văn học, tháng 4, 2007) của tác
giả Đinh Thị Khang, tác giả so sánh một số truyện có cùng mô típ ngƣời trần
dan díu với hồn ma ngƣời chết (tác giả gọi là “tình Ngƣời duyên Ma”) trong
hai tập truyện. Trong quá trình phân tích, tác giả lấy Mộc miên thụ truyện
trong ”Truyền kì mạn lục” và Mẫu đơn đăng ký trong ”Tiễn đăng tân thoại”
làm ví dụ điển hình. So về cốt truyện thì dƣờng nhƣ truyện của Nguyễn Dữ
“là sự tái hiện nguyên bản” (Trần Ích Nguyên) truyện của Cù Hựu. Nhƣng
phân tích cụ thể sẽ thấy những thay đổi thể hiện sự tinh tế của nhà văn họ
Nguyễn. Tác giả đƣa ra kết luận: “Trong ”Truyền kì mạn lục”, Nguyễn
Dữ có thể đã tiếp thu truyền thống truyện truyền kì Trung Hoa từ Đường,
9
Tống, Nguyên, Minh… Nhưng sáng tác dân gian, văn học nhiều thế kỷ của
dân tộc cũng là suối nguồn cung cấp cho Nguyễn Dữ rất phong phú những
cốt truyện, mô típ, chi tiết ly kì (lấy vợ kì dị, hồn ma hiện hình, người bị ma
làm, loài vật thành tinh, thần cây đa ma cây gạo. sự trừng phạt của Diêm
vương...” [18].
Một số Luận văn có liên quan đến đề tài:
+ Luận văn Thạc sĩ của học viên Ngô Thị Phƣợng (ĐHSP Hà Nội, 2005)
với đề tài: Nghiên cứu so sánh “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu với “Truyền kì
mạn lục” của Nguyễn Dữ (do PGS. TS Nguyễn Đăng Na hƣớng dẫn).
+ Luận văn Thạc sĩ của học viên Nguyễn Thị Thƣơng (ĐHSP Hà Nội,
2014) với đề tài: So sánh 5 truyện truyền kì Hàn Quốc, Việt Nam, Nhật Bản
ảnh hưởng từ “Tiễn đăng tân thoại” của Trung Hoa (do PGS. TS Nguyễn
Đăng Na hƣớng dẫn).
Kế thừa và phát huy các nghiên cứu đã có về hai tác phẩm, chúng tôi
chọn vấn đề: Tìm hiểu một số truyện trong “Truyền kì mạn lục” (Nguyễn
Dữ) có cùng mô típ với “Tiễn đăng tân thoại” (Cù Hựu) nhằm góp thêm
một phần công sức của mình vào việc nghiên cứu mối quan hệ, sự tƣơng đồng
và dị biệt của hai tác phẩm. Đề tài cũng sẽ chỉ ra sự tiếp nhận, kế thừa có chọn
lọc và sự sáng tạo độc đáo của nhà văn Nguyễn Dữ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài Tìm hiểu một số truyện trong “Truyền kì mạn lục”
(Nguyễn Dữ) có cùng mô típ với “Tiễn đăng tân thoại” (Cù Hựu), luận văn
nhằm hƣớng đến những mục đích sau:
- Thông qua việc tìm hiểu một số truyện trong “Truyền kì mạn lục”
(Nguyễn Dữ) có cùng mô típ với “Tiễn đăng tân thoại” (Cù Hựu), xác lập sự
giao thoa của hai tác phẩm xét về phƣơng diện mô típ .
10
- Khẳng định “Truyền kì mạn lục” chịu ảnh hƣởng từ “Tiễn đăng tân
thoại” ở một số mô típ truyện song vẫn có những sáng tạo, cải biến để phù
hợp với đời sống xã hội và tâm hồn của con ngƣời Việt Nam. Đó chính là yếu
tố tạo nên giá trị to lớn không thể thay thế của “Truyền kì mạn lục” trong nền
văn học dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải các vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài nhƣ:
khái niệm, sự phát triển thể loại truyện truyền kì ở Việt Nam nói riêng, Trung
Quốc và các nƣớc Đông Á nói chung; sơ lƣợc về tác giả, tác phẩm; khái niệm
mô típ, việc nghiên cứu truyện truyền kì từ mô típ truyện.
- Thống kê, phân loại các truyện trong “Tiễn đăng tân thoại”, “Truyền
kì mạn lục” có cùng mô típ, đặc biệt tập trung vào 2 mô típ phổ biến “Ngƣời
lạc vào thế giới khác” và “Tình yêu và hôn nhân kì dị”.
- Phân tích, so sánh để chỉ ra sự giống nhau và khác nhau của hai tập
truyện xét từ phƣơng diện mô típ, từ đó khẳng định cá tính sáng tạo, màu sắc
dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Dữ.
- Phân tích làm rõ vai trò của các mô típ truyện trong việc xây dựng đề
tài, chủ đề, tạo dựng tính dân tộc; trong việc xây dựng cốt truyện; xây dựng
không gian thời gian nghệ thuật và xây dựng nhân vật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tập truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ đƣợc xem là đối
tƣợng nghiên cứu chính, đƣợc đặt trong mối tƣơng quan với “Tiễn đăng tân
thoại” của Cù Hựu. Hai tập truyện này đƣợc tìm hiểu trên phƣơng diện mô típ
dƣới các góc độ: sự vay mƣợn, ảnh hƣởng và sự sáng tạo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi tƣ liệu
11
Hiện nay có nhiều bản dịch “Tiễn đăng tân thoại” (Cù Hựu) và
“Truyền kì mạn lục” (Nguyễn Dữ), chúng tôi sử dụng bản dịch Cù Hựu –
“Tiễn đăng tân thoại” (Phạm Tú Châu giới thiệu và dịch); Nguyễn Dữ -
“Truyền kì mạn lục” (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch – Trần Thị Băng Thanh
giới thiệu và chỉnh lí – NXB Văn học, Hà Nội 1999).
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các bài báo khoa học, các công trình,
giáo trình nghiên cứu về hai tác phẩm này của các nhà khoa học trong nƣớc
và nƣớc ngoài.
4.2.2. Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung làm sáng tỏ hai kiểu mô típ cơ bản, phổ biến hơn cả
trong “Truyền kì mạn lục” và “Tiễn đăng tân thoại”, so sánh để tìm ra điểm
giống nhau và khác nhau của hai tập truyện, điểm kế thừa và sáng tạo của
Nguyễn Dữ.
Đề tài đồng thời làm rõ những ảnh hƣởng của mô típ đến các yếu tố cả
về nội dung và nghệ thuật của truyện: việc xây dựng đề tài, chủ đề, xây dựng
tình huống, chi tiết, xây dựng không gian và thời gian của truyện.
Giải quyết những nội dung trên chính là cơ sở để khẳng định tài năng
của Nguyễn Dữ qua áng văn đƣợc mệnh danh là “thiên cổ kì bút”.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp so sánh loại hình: Đây đƣợc xem là phƣơng pháp
quan trọng và đƣợc sử dụng chủ yếu nhằm chỉ ra những nét giống nhau và
khác biệt trong nội dung và nghệ thuật của các thiên truyện có chung mô típ
trong hai tác phẩm.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích giá trị nội dung và
nghệ thuật các mô típ của các truyện để tổng hợp đƣa tới những kết luận khoa
học chính xác.
12
5.3. Phương pháp liên ngành: chúng tôi vận dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu văn học dƣới góc độ văn hóa, các phƣơng pháp nghiên cứu văn
học dân gian (típ và mô típ), phƣơng pháp lịch sử… nhằm tìm hiểu quá trình
phát triển thể loại truyền kì trong mối quan hệ với văn hóa trung đại Trung
Quốc và Việt Nam.
Ngoài ra luận văn còn vận dụng kết hợp các thao tác nghiên cứu khác
nhƣ thống kê, phân loại: Sử dụng bảng biểu nhằm thống kê, phân loại đƣợc
những truyện có chung mô típ trong hai tập truyện.
6. Đóng góp của luận văn
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu mô típ ở hai tập truyện “Truyền kì mạn
lục” và “Tiễn đăng tân thoại”, chúng tôi hy vọng đề tài sẽ góp phần đem đến
cho độc giả cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về sự giao lƣu văn hóa giữa các
nƣớc trong khu vực, đồng thời thấy đƣợc sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn
Dữ trong ““Truyền kì mạn lục””, đỉnh cao của thể loại truyền kì ở Việt nam
thời kì trung đại. Hy vọng đề tài cũng sẽ gợi mở một hƣớng khai thác mới đối
với những ai yêu thích thể loại truyền kì – Hƣớng khai thác từ mô típ truyện.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn đƣợc triển khai thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: “Tiễn đăng tân thoại”, “Truyền kì mạn lục” và việc nghiên
cứu truyện truyền kì từ mô típ truyện.
Chƣơng 2: Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Tiễn đăng tân
thoại” và “Truyền kì mạn lục”.
Chƣơng 3: Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Tiễn đăng tân
thoại” và “Truyền kì mạn lục” .
13
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: “TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI”, “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC” VÀ
VIỆC NGHIÊN CỨU TRUYỆN TRUYỀN KÌ TỪ MÔ TÍP TRUYỆN
1.1. “Tiễn đăng tân thoại” và thể loại truyền kì Trung Quốc
1.1.1. Thể loại truyền kì trong văn xuôi trung đại Trung Quốc
1.1.1.1. Khái niệm truyền kì
Truyện truyền kì có nguồn gốc từ truyện kể dân gian Trung Quốc, sau
đó đƣợc các tác giả ghi chép lại, nâng cao thành một thể loại văn học. Từ điển
thuật ngữ văn học định nghĩa truyền kì là “thể loại tự sự ngắn cổ điển của
văn học Trung Quốc thịnh hành ở thời Đường (…) Kì có nghĩa là không có
thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu” [10, 286]. Các tác giả Từ điển văn học (bộ
mới) giới thuyết về khái niệm này đầy đủ, chi tiết hơn: “Một hình thức văn
xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau các nhà văn
nâng lên thành văn chương bác học, sử dụng các mô típ kì quái, hoang đường
lồng vào trong cốt truyện có ý nghĩa trần thế (…). Tuy nhiên trong truyện bao
giờ cũng có nhân vật là người thật và chính nhân vật mang hình thức phi
nhân thì cũng chỉ là sự cách điệu, phóng đại của tâm lí, tính cách một loại
người nào đấy, và vì thế truyện truyền kì mang đậm yếu tố nhân bản, có giá
trị nhân bản sâu sắc” [11, 447]. Nhƣ vậy, định nghĩa về thể loại này khá
thống nhất. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng truyền
kì là một thể loại văn xuôi tự sự thời trung đại đƣợc đặc trƣng bởi tính chất hƣ
cấu, kì lạ trong nhân vật, cốt truyện, nhằm phản ánh hiện thực.
Đặc trƣng quan trọng nhất của truyền kì là sự kết hợp yếu tố kì và thực.
Cái kì là một phạm trù mĩ học, đặc trƣng tƣ duy của ngƣời phƣơng Đông và là
thế giới quan thời kì cổ trung đại. Không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm
nổi tiếng, tiêu biểu của phƣơng Đông đều chứa đựng nhiều cái kì (“vô kì bất
truyền”). Cái kì trong truyện truyền kì đã phát triển từ thụ động đến tự ý thức:
14
từ ảnh hƣởng của văn học dân gian, sử kí, tôn giáo đến việc đƣợc nhà văn sử
dụng nhƣ một thủ pháp nghệ thuật, một hạt nhân tự sự quan trọng trong kết
cấu tác phẩm. Kết hợp chặt chẽ với cái kì trong hạt nhân của thể loại là cái
thực và xu thế phát triển tất yếu của truyền kì là gia tăng yếu tố thực. Tuy
nhiên, cái kì không mất đi mà hòa quyện chặt chẽ với cái thực trong một kết
cấu thống nhất làm nên đặc trƣng của thể loại. Nếu thiếu cái kì, truyện dễ trở
thành truyện kí; thiếu cái thực, truyện truyền kì không thể vƣợt thoát khỏi giới
hạn của chí quái. Vai trò của yếu tố kì và thực trong hạt nhân cơ bản của
truyện sẽ biến đổi và có những đặc điểm riêng qua từng giai đoạn phát triển
của thể loại.
Đặc trƣng thứ hai của truyền kì, với tƣ cách một thể loại văn học nghệ
thuật là sự kết hợp nhiều thể loại văn chƣơng. Trong tác phẩm bên cạnh các thể
văn xuôi còn bao gồm văn vần, thơ, từ, phú, lục… tạo nên một chỉnh thể thẩm
mĩ “hàng hàng châu ngọc, lời lời gấm thêu”. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử khái
quát: “Truyện truyền kì dùng văn xuôi để kể, đến chỗ tả cảnh, tả tình thì dùng
văn biền ngẫu, khi nhân vật bộc lộ cảm xúc thì thường làm thơ” [42, 294].
Một truyện truyền kì thƣờng có dung lƣợng không lớn (Vì vậy, PGS.TS
Nguyễn Đăng Na xếp truyền kì vào thể loại truyện ngắn). Bố cục mỗi truyện
thƣờng chia thành ba phần: mở đầu giới thiệu danh tính, nguồn gốc nhân vật,
giữa truyện kể lại hành trạng, cuộc đời nhân vật và phần kết khẳng định tính
chân thực của câu chuyện. Phần lời bình nằm cuối mỗi truyện cũng đƣợc xem
là một bộ phận hữu cơ trong kết cấu chỉnh thể của thể loại
1.1.1.2. Thể loại truyền kì trong văn xuôi trung đại Trung Quốc
Trong văn xuôi trung đại Trung Quốc, từ đời Đƣờng trở về trƣớc, tiểu
thuyết Trung Quốc về cơ bản mới chỉ là mầm mống, tuy ở thời Hán Ngụy,
Lục triều có chút ít phát triển, nhƣng nhìn từ mức độ khắc họa nhân vật hay
miêu tả tình tiết vẫn còn đơn giản, chƣa đạt đến mức độ thành thục. Đồng thời,
khái niệm tiểu thuyết cũng còn rất hỗn loạn, thông thƣờng trở thành tên gọi
15
chung cho các loại ghi chép truyện lạ hoặc truyện vặt lịch sử. Phải đợi đến đời
Đƣờng, tiểu thuyết Trung Quốc mới dần dần trƣởng thành, mới có đƣợc hình
thức nghệ thuật tƣơng đối hoàn hảo cũng nhƣ nội dung đời sống xã hội tƣơng
đối rộng rãi và giành đƣợc vị trí không thể xem thƣờng trong lịch sử văn học
Trung Quốc.
Vào đời Đƣờng, ngƣời ta vẫn chƣa bỏ đƣợc cách nhìn lệch lạc truyền
thống đối với tiểu thuyết, nói chung vẫn gạt nó ra ngoài văn học chính thống.
Bởi cách “cấu tứ chuộng sự li kì”, cho nên nó đƣợc gọi là “truyền kì”. Có điều
những ngƣời sáng tác tiểu thuyết ngày một đông hơn, điều ấy cho thấy con
đƣờng sáng tác tiểu thuyết vốn bị coi là “tiểu đạo” đã ngày một hấp dẫn mọi
ngƣời, hơn thế, đã bắt đầu trở thành hoạt động nghệ thuật có ý thức. Một
ngƣời đời Minh là Hồ Ứng Luân đã nhận xét về điều đó: “Những chuyện biến
hóa kì lạ lại rất thịnh vào đời Lục triều, có điều phần lớn là ghi chép lại
những điều bịa đặt chứ đâu phải truyện biến hóa, đến người đời Đường mới
có sự cấu tứ li kì, mượn tiểu thuyết để gửi gắm ngọn bút.” [40, 659].
Chúng ta thấy, về đại thể, truyền kì đời Đƣờng có nội dung đa dạng,
phong phú xoay quanh chủ đề tình yêu nam nữ trong đời sống trần tục thƣờng
ngày và mang đậm khuynh hƣớng nhân văn chủ nghĩa. Vì thế nó có vai trò
lớn trong việc đƣa văn học viết hƣớng tới truyền thống văn hóa dân gian, đời
sống hiện thực của quần chúng nhân dân. Đồng thời, với thủ pháp nghệ thuật
độc đáo là lấy kì ảo làm phƣơng tiện nghệ thuật để truyền tải nội dung về đời
sống con ngƣời, truyền kì đời Đƣờng góp phần không nhỏ khẳng định giá trị
hƣ cấu và tƣởng tƣợng trong việc phản ánh và lí giải hiện thực cuộc sống của
tác phẩm văn học. Loại hình truyền kì tiếp tục phát triển ở đời Tống, Nguyên
(1279-1368). Cuối Nguyên, đầu Minh (thế kỉ XIV), có “Tiễn đăng tân thoại”
của Cù Hựu (1341-1427) là tác phẩm truyền kì nổi tiếng, tiêu biểu cho thể
loại truyền kì của Trung Quốc và có ảnh hƣởng lớn đến thể loại truyền kì các
nƣớc trong khu vực nhƣ: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam… Sang đời nhà
16
Thanh (1644-1911), Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640-1715) đã làm
rạng danh cho truyền kì Trung Quốc… Nhƣ vậy, trải qua quá trình hình thành
và phát triển cùng với sự phát triển của nền văn hóa Trung Quốc, truyền kì đã
trở thành một thể loại truyện ngắn chiếm vị thế đặc biệt trong văn học Trung
Quốc nói riêng, truyện ngắn phƣơng Đông thời trung đại nói chung.
1.1.2. “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu
1.1.2.1. Tác giả Cù Hựu
Cù Hựu sinh ngày 14 tháng 7 năm Chí Chính 7 ( 20/8/1347), mất năm
thứ 8 niên hiệu Tuyên Đức thời Minh (1433) thọ 87 tuổi. Tự là Tông Cát, hiệu
Tồn Trai (Ngâm Đƣờng, Lạc Toàn Tẩu), ngƣời Tiền Đƣờng tỉnh Triết Giang
sống vào thời kì cuối Nguyên đầu Minh.
Từ nhỏ Cù Hựu đã nổi tiếng là ngƣời giỏi văn chƣơng, tài hoa hết mực,
14 tuổi đã đƣợc mệnh danh “Thiên lý câu” (tức thiên lý mã, ngựa câu nghìn
dặm) sánh ngang hàng với nhà văn nổi tiếng đời Đƣờng Dƣơng Duy Trinh,
lớn lên gặp buổi loạn ly binh lửa, từng lƣu lạc ở nhiều nơi. Năm niên hiệu
Hồng Vũ đời Minh Thái Tổ, Cù Hựu làm giáo thụ trƣờng Quốc học. Đến đầu
đời vua Thành Tông ông làm đến chức Hữu trƣởng sử, làm quan đƣợc 6 năm
thì vì thơ mà mắc hoạ bị bắt sung vào Cẩm y vệ rồi bị đƣa đi đồn thú ở Bảo
An tỉnh Thiểm Tây 18 năm. Năm 1425, Hồng Hy nguyên niên đời Minh Nhân
Tông, Thái sƣ Anh Quốc công Trƣơng Phụ tâu xin thả cho ông về với và phục
nguyên chức Nội các Biện sự. Cuối đời, ông cáo lão về quê, trở lại với nghề
dạy học. Năm thứ 8 (1433), ông ốm rồi mất, mộ đƣợc cải táng tại Cam Khê –
Tiền Đƣờng.
Có thể thấy, cuộc đời của Cù Hựu là bi kịch của một con ngƣời có tài
mà không đƣợc trọng dụng . Vì vậy, tƣ tƣởng có nhiều điều bất đắc chí, lại là
nhân chứng của một thời đại đầy biến động điều này đã để lại dấu ấn đậm nét
trong các tác phẩm đặc biệt là giá trị hiện thực đƣợc phản ánh qua “Tiễn đăng
tân thoại”.
17
Về sự nghiệp sáng tác: Theo các nhà nghiên cứu thì tác phẩm của Cù
Hựu ngoài “Tiễn đăng tân thoại”, còn có thơ, văn xuôi, nghiên cứu kinh điển
và nghiên cứu lịch sử. Với số lƣợng tác phẩm và các thể loại hiện có chắc
chắn chƣa thể đầy đủ do có một thời gian bị lƣu đầy nên các sáng tác của Cù
Hựu bị mất mát nhiều nhƣng qua đó cũng đã phần nào tái hiện chân dung của
một tài năng, một nhân cách.
- Thơ ca gồm: Cổ suý tục âm, Phong mộc di âm, Nhạc phủ nghĩ đề, Bình
Sơn giai thú, Hương đài tập, Thái cần cảo.
- Văn xuôi gồm: Danh hiền văn tuý, Tồn trai loại biên, Dư nghệ lục,
Tiễn đăng lục, Đại tạng sưu kì, Học hải dư châu.
- Nghiên cứu kinh điển: Xuân Thu quán châu, Xuân Thu tiệp âm, Chính
ba xuyết anh …
- Nghiên cứu lịch sử: Quản kiến trích biên, Tập lãm thuyền ngộ… tƣơng
truyền ông còn một số sáng tác khác nhƣ: Tồn trai di cảo, Vịnh vật thi, Quy
Điền thi thoại …
Tác phẩm của Cù Hựu đƣợc lƣu truyền rộng rãi và có ảnh hƣởng to lớn
không chỉ đối với văn học trong nƣớc mà tầm ảnh hƣởng còn vƣơn xa đến các
nƣớc trong khu vực.
1.1.2.2. Tác phẩm “Tiễn đăng tân thoại”
“Tiễn đăng tân thoại” ( Câu chuyện mới viết dƣới ánh đèn cắt bấc nhiều
lần) gồm 4 quyển, 20 truyện có phụ lục thêm Thu Hương đình ký, tổng cộng là
21 truyện. Có tài liệu cho rằng, tác phẩm còn có thêm Mai ký là 22 truyện. “Tiễn
đăng tân thoại” đƣợc viết xong năm thứ mƣời một niên hiệu Hồng Vũ đời Minh
Thái Tổ (1378) nhƣng phải đến ba năm sau (1381) mới đƣợc in ra. Nói về động
cơ sáng tác, chính Cù Hựu đã thể hiện chính kiến của mình trong bài tựa ( ngày 1
tháng 6 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Hồng Vũ thứ hai): “ Tôi đã biên tập những
truyện kì quái xưa nay thành sách Tiễn đăng lục…khuyến thiện trừng ác, thương
kẻ cùng quẫn, xót người oan khuất” [13, 3].
18
Về nội dung, tập truyện phần lớn là những câu chuyện tình và chuyện
quái dị quỷ thần, qua đó phản ánh ở mức độ nhất định chế độ hôn nhân bất
hợp lý thời phong kiến và hiện thực xã hội đen tối cuối thời Nguyên, thể hiện
một số nguyện vọng bức xúc của kẻ sĩ và ngƣời dân.
Về nghệ thuật, tập truyện có ý noi theo thể truyền kì đời Đƣờng, lời đẹp, kể
chuyện và miêu tả uyển chuyển xen lẫn với nhiều bài thơ. Tập truyện có ảnh hƣởng
sâu sắc đối với các sáng tác tiểu thuyết văn ngôn đời Minh và đời Thanh.
Nhƣ một tất yếu lịch sử, Cù Hựu đã tiếp nhận văn học từ đời Đƣờng và
chính những sáng tác đó đã trở thành một mắt xích quan trọng trong tiến trình
phát triển không chỉ của văn học Trung Quốc mà còn vƣơn tầm ảnh hƣởng
của mình đối với văn học trong khu vực. Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong
thể loại truyền kì ở Trung Quốc, tác phẩm ”Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu
có sức lan tỏa mạnh nhất, rõ rệt nhất. Nó thúc đẩy sự ra đời các tập truyện
truyền kì ở ba nƣớc Đông Á còn lại nhƣ “Kim Ngao tân thoại” của Kim Thời
Tập (1435 - 1493, Triều Tiên), ”Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ (đầu thế
kỉ XVI, Việt Nam), “Già tỳ tử” của Asai Ryohi (1612 - 1691, Nhật
Bản). “Kim Ngao tân thoại”, hoàn thành vào khoảng giữa thế kỉ XV, là tiểu
thuyết Hán văn đầu tiên của Hàn Quốc, có giá trị cao trong văn học cổ điển
nƣớc này. “Già tỳ tử” cũng có một vị trí quan trọng trong văn học Nhật Bản,
dù không phải là truyện thần quái đầu tiên, nhƣng là tác phẩm điển hình theo
kiểu truyện truyền kì của Nhật. Ở Việt Nam, Nguyễn Dữ đã tiếp nhận Cù Hựu
trên tinh thần sáng tạo sao cho phù hợp với cơ sở xã hội và con ngƣời Việt.
Đây chính là quy luật của quá trình tiếp nhận, thẩm thấu, phát triển của văn
học nói riêng và các giá trị văn hóa nói chung.
1.2. “Truyền kì mạn lục” và thể loại truyền kì Việt Nam
1.2.1. Thể loại truyền kì trong văn xuôi trung đại Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ “truyền kì” lần đầu tiên đƣợc xuất hiện trong
đầu đề tập truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Sau đó là “Truyền kì
19
tân phả” của Đoàn Thị Điểm, “Tân truyền kì lục” của Phạm Quý Thích. Tuy
nhiên, loại truyện kì ảo đã ra đời từ trƣớc đó khá lâu và đạt đƣợc những thành
tựu vô cùng rực rỡ.
Nhìn lại nền văn học Việt Nam trung đại, bắt đầu từ “Việt điện u linh”
của Lý Tế Xuyên ( đầu thế kỷ XIV), chúng ta thấy, ở tác phẩm này đã chứa
đựng những yếu tố kì ảo. Nhà văn đã xây dựng hình tƣợng nhân vật của mình
bằng bút pháp kì vĩ và trên thực tế, tập truyện là một cuốn thần phả về những
linh hồn bất tử của nƣớc Đại Việt. Nhân vật trong truyện hầu hết là những
thần linh vốn là những anh hùng dân tộc đã hiển thánh. Vì vậy, trong truyện
đã thấp thoáng yếu tố của bút pháp truyền kì và có thể đây là mầm mống cho
sự phát triển của truyền kì sau này. Sau “Việt điện u linh tập” của Lý Tế
Xuyên là sự xuất hiện “Lĩnh nam chích quái lục” của Trần Thế Pháp ( cuối
thế kỉ XIV – đầu thế kỉ XV). Đây là tập truyện chép lại truyện dân gian nhƣng
đã có sáng tạo, Trần Thế Pháp đã tập trung chép lại những truyện giàu yếu tố
kì nhƣ Đổng thiên vương, truyện Rùa vàng…
“Việt điện u linh tập” và “Lĩnh nam trích quái lục” là những tiền đề văn
học cho sự phát triển của thể loại truyền kì và Lý Tế Xuyên, Trần Thế Pháp là
những nhà văn đặt nền móng cho thể loại truyền kì ở Việt Nam. Cuối thế kỷ
XV, “Thánh Tông di thảo”, tƣơng truyền của Lê Thánh Tông, đã là một bƣớc
tiến xa hơn nữa cho thể loại truyền kì. Tập truyện là một sáng tạo độc đáo và
đặc sắc, mang đầy đủ tính chất bút pháp truyền kì với những truyện tiêu biểu
nhƣ Lấy chồng dê, Tinh chuột, Duyên lạ xứ hoa…
Nhƣng chỉ đến “Truyền kì mạn lục” thì thể loại truyện ngắn truyền kì Việt
Nam mới thực sự đƣợc khẳng định. Sự ra đời của “Truyền kì mạn lục” đã đƣa
thể loại truyền kì Việt Nam tới đỉnh cao và chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong
văn xuôi tự sự Việt Nam. Trong “Truyền kì mạn lục”, tác giả dựa vào một số
cốt truyện dân gian, sắp xếp, hƣ cấu thêm và diễn tả bằng lời văn giàu chất
nghệ thuật khiến cho tác phẩm không phải là sự ghi chép đơn thuần mà thực
20
sự là một tác phẩm văn học có tính nghệ thuật cao. Việc sƣu tầm, chỉnh lý,
sửa chữa và khai thác đề tài của dân gian là một quá trình kế thừa và nâng cao
liên tục. Ngƣời đi sau tiếp bƣớc ngƣời đi trƣớc, rút lấy những gì là tinh hoa
của ngƣời đi trƣớc để thực hiện một bƣớc xa hơn. Từ Thức lấy vợ tiên và
Người con gái Nam Xương là hai truyện mà Nguyễn Dữ đã tiếp thu trọn vẹn
từ truyện cổ dân gian. Nguyễn Dữ còn mƣợn mô típ từ văn học dân gian nhƣ
mô típ lấy hồn hoa, môtíp ngƣời chết sống lại, môtíp đồ vật cũ biến thành tinh
rồi hoá thành ngƣời, mô típ lạc vào thế giới kì lạ… “Truyền kì mạn lục” là
sản phẩm của một giai đoạn mới trong quá trình ảnh hƣởng văn học dân gian
từ cốt truyện kết cấu, ngôn ngữ đến tƣ duy sáng tác. Đó là sự ảnh hƣởng có ý
thức. Nguyễn Dữ đã khéo khai thác đề tài dân tộc, đặc biệt là trong các truyền
thuyết dân gian, đã vƣợt lên sự ghi chép thông thƣờng nhƣ trong “Lĩnh nam
chích quái lục” bằng cách hƣ cấu qua hình tƣợng nghệ thuật.
Từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, truyện truyền kì tiếp tục phát triển với
các tác phẩm tiêu biểu nhƣ: “Truyền kì tân phả” của Đoàn Thị Điểm, “Tục
truyền kì” của Đặng Trần Côn, “Lan trì kiến văn lục” của Vũ Trinh… Các tác
giả trên đã nỗ lực đổi mới cách viết nhằm đƣa nội dung phản ánh của truyện
truyền kì tới gần với đời sống hiện thực. Tuy nhiên, xét cả về nội dung phản
ánh và phƣơng diện thể loại thì có thể khẳng định “Truyền kì mạn lục” của
Nguyễn Dữ đã đạt đến đỉnh cao ở thể loại truyền kì, trƣớc và sau nó, không
có tác phẩm nào có thể vƣợt qua.
1.2.2. “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ
1.2.2.1. Tác giả Nguyễn Dữ
Nguyễn Dữ (?-?) ngƣời xã Đƣờng Lâm,huyện Gia Phúc, Hồng Châu,
nay là xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dƣơng. Ông là con trai cả
của tiến sĩ Nguyễn Tƣờng Phiêu, niên hiệu Hồng Đức thứ 7 (1546) đời vua Lê
Thánh Tông. Trong Hoàng Việt thi tập, Bùi Huy Ích xếp Nguyễn Dữ vào
hàng ngũ các tác giả thời Mạc, sau Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo Công dư tiệp
21
kí của Vũ Phƣơng Đề thì Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585), bạn với Phùng Khắc Khoan(1528- 1631 ). Nhƣ vậy, Nguyễn Dữ
có thể sống vào những năm đầu và giữa của thế kỉ XVI.
Để hình dung cuộc đời và con ngƣời Nguyễn Dữ, chúng tôi trích dẫn
một số những ý kiến nhận xét, đánh giá của các học giả để tái hiện lại chân
dung của tác giả. Trong bài tựa của Hà Thiện Hán cho tập “Truyền kì mạn
lục” (1547) có viết Nguyễn Dữ là ngƣời Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con
trƣởng vị tiến sĩ triều trƣớc Nguyễn Tƣờng Phiêu, lúc nhỏ rất chăm lối học cử
nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chƣơng truyền nghiệp nhà.
Sau khi thi đậu Hƣơng tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng tam trƣờng, từng đƣợc
bổ làm quan Tri huyện Thanh Tuyền. Mới đƣợc một năm, ông từ quan về
nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế
rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý. Theo Vũ Khâm Lân, ngƣời biên soạn
Bạch Vân Am cư sĩ phả kí và Ân Quan hầu, ngƣời biên soạn thơ văn chữ Hán
của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Nguyễn Dữ không ra làm quan, ẩn cƣ ở núi rừng
Thanh Hóa và làm ra sách Mạn lục. Sách ấy đƣợc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ
chính trở thành “thiên cổ kì bút”.
Nhƣ vậỵ, điểm nổi bật ở con ngƣời Nguyễn Dữ là ý chí quyết tâm gắng
sức học hành và thi cử. Ông từng ôm ấp lý tƣởng lấy văn chƣơng để phò vua
giúp nƣớc, nhƣng thời thế hỗn loạn, nhân tình điên đảo nên cáo quan về quê
với lí do phụng dƣỡng mẹ già để sống một cuộc đời ẩn sĩ.
Về sự nghiệp văn học, theo tƣ liệu đƣợc biết cho đến nay “Truyền kì mạn
lục” là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ, đƣợc hoàn thành ngay từ những năm
đầu giữa hai thập kỉ 20-30 của thế kỉ XVI. “Truyền kì mạn lục” thực sự là một
tác phẩm văn học nhƣng Nguyễn Dữ chỉ coi nó là những ghi chép theo cảm
hứng của ngòi bút “mạn lục”, không coi đó là một sáng tác thực thụ. Điều này
giúp chúng ta hiểu thêm một phẩm chất đáng trọng của ngƣời cầm bút đó là: thái
độ khiêm tốn, không ngừng học hỏi trong sáng tạo nghệ thuật và tác phẩm
“Truyền kì mạn lục” là một minh chứng cho tài năng và nhân cách ấy.
22
1.2.2.2. Tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
Ngay từ khi mới ra đời tác phẩm đã đƣợc đón nhận với những lời đánh
giá rất cao và ngày càng khẳng định đƣợc giá trị. “Truyền kì mạn lục” không
chỉ là niềm tự hào của ngƣời Việt Nam mà còn đƣợc giới nghiên cứu của
nhiều nƣớc trên thế giới quan tâm. Tác phẩm thực sự trở thành một áng “thiên
cổ kì bút” , “thiên cổ kì thƣ” (Vũ Khâm Lâm), “áng văn hay của bậc đại gia”,
“ lời lẽ thanh tao tốt đẹp, ngƣời bấy giờ lấy làm ngợi khen” (Phan Huy Chú).
“Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện đƣợc chia thành 4 tập, mỗi tập 5 truyện.
Về mặt nội dung hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-
Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ trên địa bàn Nghệ An trở ra Bắc. Cốt truyện chủ
yếu lấy từ những câu chuyện trong dân gian, nhiều trƣờng hợp xuất phát từ
những truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn. Thông qua các
nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ… tác phẩm muốn gửi gắm ý
tƣởng phê phán nền chính trị rối loạn. Không còn kỉ cƣơng trật tự, vua chúa
hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian thần nịnh hót, bọn quan cao chức trọng
thả sức vơ vét của cải, nhiễu sách dân lành, thậm chí chiếm đoạt vợ ngƣời,
bức hại chồng ngƣời. Xã hội rối ren, tệ nạn nảy sinh đến thần cũng trở thành
yêu quái, sƣ sãi cũng đắm chìm trong sắc dục. Trong xã hội đó Nguyễn Dữ
đặc biệt chú trọng hƣớng ngòi bút của mình đến hai loại nhân vật: ngƣời phụ
nữ và trí thức (nho sĩ). Khi phản ánh ngƣời phụ nữ với số phận bé nhỏ, chịu
nhiều đau khổ, những trang viết của ông thấm đẫm tinh thần nhân văn sâu sắc.
Khi viết về ngƣời trí thức, ông trân trọng, ngợi ca nhân cách thanh cao, cứng
cỏi, đề cao đạo đức phong kiến xuất phát từ khuynh hƣớng “ẩn dật” do không
tìm đƣợc lối thoát trên con đƣờng hành đạo, song về cơ bản vẫn là sự gắn bó
chặt chẽ với cuộc đời.
Về nghệ thuật, tác phẩm thuộc thể loại truyền kì đƣợc viết bằng văn xuôi
Hán có xen những bài thơ, ca từ, biền văn. Cuối truyện (trừ truyện 19 Cuộc nói
chuyện thơ ở Kim Hoa) đều có lời bình thể hiện thái độ, chính kiến và tình cảm
của nhà văn đối với những sự việc và nhân vật trong tác phẩm.
23
Sở dĩ “Truyền kì mạn lục” đƣợc đánh giá cao, đƣợc quan tâm nhƣ vậy
là vì: mặc dù viết theo thể loại truyền kì, một loại hình văn học dùng hình
thức kì ảo làm phƣơng tiện nghệ thuật nhƣng tác phẩm đã mô tả khá phong
phú về hiện thực cuộc sống một giai đoạn lịch sử mang màu sắc bi kịch của
dân tộc Việt Nam thế kỷ XVI. Sau cái vỏ hình thức kì ảo là những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn đƣợc thông qua số phận các nhân vật trong truyện.
Tóm lại, Cù Hựu và Nguyễn Dữ tuy sống ở hai không gian địa lí khác
nhau và cách nhau hàng thế kỉ nhƣng khi so sánh thời đại, cuộc đời và tác
phẩm ta nhận thấy ở họ đều có nhiều điểm chung, cả hai ông đều sống vào
thời kì trung đại, là tác giả của thể truyền kì. Ngay từ nhỏ cả hai đã thể hiện trí
thông minh, tài giỏi, đều ra làm quan, cuộc đời không phẳng lặng đầy sóng
gió. Họ là nhân chứng của thời loạn, nếu Cù Hựu sống trong quốc gia bị ngoại
bang xâm lƣợc thì Nguyễn Dữ lại chịu nhiều nỗi bất hạnh của một đất nƣớc
nội chiến triền miên. Hai tác giả là những nhà nho không gặp thời, bất đắc chí,
chỉ còn biết thể hiện ý chí của mình trên từng trang sách.
“Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” đều đƣợc sáng tạo theo
thể truyền kì. Hai tác phẩm có nguồn gốc từ các sáng tác dân gian địa phƣơng
và chịu ảnh hƣởng từ văn hóa Hán. Qua mƣời thế kỉ Bắc thuộc, cùng với quá
trình Việt hóa các yếu tố lâu dài nên chắc chắn du nhập các giá trị của văn hóa
dân gian Trung Hoa cổ, vì thế, có thể khẳng định sự giao thoa văn hóa giữa
hai dân tộc là điều dễ hiểu. Trong sự tiếp nhận ấy sẽ dẫn đến những điểm
tƣơng đồng về đề tài, cốt truyện, nhân vật,… Đồng thời bằng chính tài năng
và tinh thần dân tộc của ngƣời nghệ sĩ, Nguyễn Dữ không đơn thuần chỉ là sự
tiếp nhận và mô phỏng lại. “Truyền kì mạn lục””còn là một sự sáng tạo đặc
biệt trên cơ sở của cái đã có nhằm tạo ra một tác phẩm mang hơi thở thời đại
và thấm đẫm tinh thần dân tộc.
1.3. Khái niệm mô típ, các yếu tố hình thành mô típ trong thể loại truyền kì
1.3.1. Khái niệm mô típ
Từ những năm 30 thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học Nga nhƣ
Voloshinov và Bakhtin từng nhận định rằng văn bản văn chƣơng bao giờ
24
cũng đa nghĩa, nó không phải là một sản phẩm bất biến mà là một quá trình
tƣơng tác giữa tác giả và độc giả thông qua ngôn ngữ trong một bối cảnh cụ
thể. Nhà nghiên cứu Julia Kristeva, ngƣời sáng tạo ra thuật ngữ “liên văn bản”
(intertextuality) cũng viết “bất cứ văn bản nào cũng đều được xây dựng một
bức tranh ghép từ những đoạn trích dẫn; bất cứ văn bản nào cũng đều là sự
hấp thụ và chuyển hoá những văn bản khác” [21, 37].
Ở nƣớc ta, từ những năm 90 thế kỷ trƣớc, các nhà nghiên cứu văn học
đã bắt đầu đề cập đến hiện tƣợng nhân vật và tác phẩm sản sinh ra tác phẩm
mới, nhân vật mới. Trong bài viết “Khả năng tái sinh của Chí Phèo”, Đặng
Anh Đào viết “Điều mà Thị Nở lo lắng ở cuối tác phẩm Nam Cao nay đã
thành hiện thực. Đứa con hoang của Chí Phèo đã ra đời và không chỉ có một
Chí Phèo không tuyệt tự mà rất mắn đẻ” và “lịch sử văn học đã từng có
những nhân vật không tuyệt tự hoặc được tái sinh; thông thường dễ thấy nhất
là từ nguồn văn học dân gian” [9, 125-126]. Ở một bài viết khác, nhà nghiên
cứu Đặng Anh Đào cho rằng: “Một điều khiến chúng tôi phải suy nghĩ là vì
sao một số huyền thoại hoặc mô típ, đề tài, cốt truyện… của các hình thức kể
chuyện dân gian cổ xưa cho đến nay vẫn không ngừng được phát hiện nhiều
tầng lớp ý nghĩa và nuôi dưỡng biết bao cảm hứng như một nguồn sữa không
bao giờ cạn”[8].
Mô típ là một công thức có tính ƣớc lệ, biểu trƣng nghệ thuật của một cốt truyện và thƣờng đƣợc lặp đi, lặp lại (James H. Grayson) ghi nhận những
ấn tƣợng về thực tại đặc biệt mạnh mẽ, quan trọng và lặp lại nhiều lần. Nó là
một đơn vị trần thuật đơn giản nhất, bằng hình tƣợng và cũng là những mẫu
khái quát sơ khởi có đặc điểm là tính đồng nhất và giống nhau. Thuật ngữ mô
típ thƣờng có quan hệ với đề tài và cốt truyện. Mô típ có thể là hạt nhân của
cốt truyện. Trải qua một quá trình gia tăng, nối dài, phát triển, nó sẽ trở thành
cốt truyện. Thứ hai, đề tài - cốt truyện có thể đƣợc coi là sự kết hợp của
những mô típ. Cốt truyện với tính chất là một sơ đồ phức tạp đƣợc hình thành
25
từ một loạt mô típ, nó có thể đƣợc lồng ghép trong cốt truyện và các thành
phần của cốt truyện.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, mô típ là những yếu tố, những bộ
phận lớn hay nhỏ đã đƣợc hình thành ổn định bền vững và đƣợc sử dụng
nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật
dân gian [10]. Trong truyện truyền kì, cách hiểu mô típ nhƣ trên cũng không
ngoại lệ.
1.3.2. Các yếu tố hình thành mô típ trong thể loại truyền kì ở Việt Nam
Nhìn nhận truyện truyền kì trung đại Việt Nam trong các mối quan hệ,
ngƣời nghiên cứu thƣờng tập trung vào hai vấn đề: tác phẩm truyền kì với văn
hóa, văn học dân gian của dân tộc; tác phẩm truyền kì với văn hóa, văn học
nƣớc ngoài. Con đƣờng tìm về cội nguồn và tiếp biến những giá trị tinh hoa
của nhân loại ở truyện truyền kì đã cho thấy rất rõ các yếu tố hình thành mô
típ ở thể loại này.
Thứ nhất: Truyện truyền kì Việt Nam có một quá trình hình thành và
phát triển nội sinh gắn liền với nền văn hóa và văn học dân tộc, đặc biệt là với
văn học dân gian và văn xuôi lịch sử. Văn hóa dân tộc nhƣ cái nôi nuôi dƣỡng
truyện truyền kì Việt Nam trong suốt quá trình hình thành, phát triển và cũng
chính nền văn hóa dân tộc, đặc biệt là văn học dân gian đã giúp cho thể loại
truyện này ở Việt Nam khác với truyện truyền kì các nƣớc đồng văn trong
khu vực.
Vì thế, nhiều mô típ của văn học dân gian đã in dấu rất đậm nét trong
văn học viết, đặc biệt là ở thể loại truyền kì (những câu chuyện kì ảo đƣợc lƣu
truyền trong dân gian): mô típ tình ngƣời duyên ma, mô típ ngƣời xuống thủy
phủ, lên thiên đình, mô típ ngƣời lạc vào cõi tiên… Chẳng hạn nhƣ chuyện Từ
Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ đã không chỉ vay mƣợn mô típ ngƣời lạc vào
cõi Tiên mà còn vay mƣợn cả cốt truyện dân gian Sự tích động Từ Thức, song
ông không lấy nguyên vẹn truyện cổ tích mà đã xây dựng nhân vật theo kiểu
26
nhân vật của xã hội mình. Tức là Từ Thức mang trong mình tƣ tƣởng của
thời đại Nho giáo, chàng ý thức đƣợc cái xã hội đang thối nát và xuống dốc
nên đã phản ứng bằng cách trả ấn tín, cáo quan mà về: “Ta không thể vì số
lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo
về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy”.
Truyền thống văn hóa, văn học dân tộc là một trong những nguồn gốc
quan trọng nhất của truyền kì Việt Nam. Từ chỗ sao chép, các tác giả viết
truyền kì mà đặc biệt là Nguyễn Dữ đã tạo ra đƣợc những tác phẩm thực sự
mang dấu ấn cá nhân và tinh thần dân tộc. Những sáng tác của họ có khả năng
phản ánh nhiều vấn đề quan trọng của đời sống hiện thực và có ảnh hƣởng
không nhỏ đến sự phát triển của văn học dân tộc.
Thứ hai: Truyện truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ thể loại
truyện kì ảo Trung Quốc cổ trung đại. Việt Nam và Trung Quốc có mối quan
hệ tƣơng đối đặc biệt. Không chỉ là hai nƣớc láng giềng, trƣớc thế kỷ X, nƣớc
ta còn phải chịu ngót ngàn năm đô hộ của phong kiến Trung Hoa, điều đó đã
dẫn đến lẽ tất yếu của ảnh hƣởng qua lại giữa văn học hai nƣớc. Nhiều bài
viết và các công trình nghiên cứu đã cho chúng ta thấy rõ sự ảnh hƣởng khá
sâu đậm của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam từ chữ viết đến
thi liệu, nhất là về thể loại. Theo đó, một số cốt truyện, mô típ của truyền kì,
chí quái Trung Hoa cũng có những ảnh hƣởng nhất định tới sự phát triển của
thể loại truyền kì ở Việt Nam: ngƣời đội lốt vật, hồn ma hiện hình, ngƣời bị
ma làm, loài vật thành tinh, thần cây đa ma cây gạo, sự trừng phạt của Diêm
vƣơng… Hãy cứ mang so sánh Chuyện cây gạo trong “Truyền kì mạn lục” và
Cây đèn mẫu đơn trong “Tiễn đăng tân thoại” thì thấy mô típ ngƣời lấy ma
đã đi từ Trung Quốc sang Việt Nam một cách không hề dè dặt.
Thứ ba: Một trong các yếu tố không thể không kể đến trong việc hình
thành các mô típ trong truyện truyền kì Việt Nam là chính khả năng sáng tạo
của các tác giả ngƣời Việt: Nguyễn Dữ, Đoàn Thị Điểm, Phạm Quý Thích…,
27
họ đều là những bậc trí thức học giả uyên bác, những con ngƣời có khả năng
sáng tạo phi thƣờng. Ví nhƣ trong chuyện Người con gái Nam Xương, so với
truyện dân gian Vợ chàng Trương, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần sau của
truyện, phần nói về Vũ Nƣơng sau khi chết, sống dƣới thủy cung (mô típ
ngƣời xuống thủy cung) và đƣợc tái hợp với chồng lần cuối, vừa để minh oan
cho Vũ Nƣơng, thể hiện đƣợc ƣớc nguyện của nhân dân “ở hiền gặp lành”,
vừa để tạo màu sắc li kì, hấp dẫn cho câu chuyện.
Nhƣ vậy, truyện truyền kì Việt Nam là sự tổng hợp giữa những ảnh
hƣởng từ truyện truyền kì Trung Quốc và các truyện dân gian thần linh chí
quái của Việt Nam. Ở mỗi mô típ truyện đều có sự vay mƣợn, sự ảnh hƣởng
nhƣng nó lại càng trở nên lung linh hơn nhờ sức sáng tạo tuyệt vời của các tác
giả ngƣời Việt.
1.4. Mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” và
việc nghiên cứu truyện truyền kì từ mô típ truyện
1.4.1. Mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”
Đọc ”Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu (1347-1433), nhà văn Trung
Quốc và “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ, nhà văn Việt Nam thế kỷ XVI,
chúng ta dễ nhìn thấy sự gần gũi giữa chúng. Sắp xếp hai trƣớc tác này theo
trình tự thời gian, có thể thấy ngay đƣợc là Nguyễn Dữ đã tiếp thụ khá nhiều
ở nhà văn phƣơng Bắc.
Về mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”,
trong tình hình tƣ liệu hiện nay có thể khẳng định đƣợc Hà Thiện Hán là
ngƣời đầu tiên viết về mối liên hệ này. Trong Tựa ”Truyền kì mạn lục” (viết
năm 1547), họ Hà khẳng định: “Xem văn từ của sách thấy không ra ngoài
phên dậu của Cù Tông Cát” [14, 7]. Hậu thế trân trọng sự tiên phong của Hà
Thiện Hán đồng thời cũng thấy rằng sự định tính này quả có tạo nên đƣờng
hƣớng bất lợi cho việc thụ cảm và định giá tác phẩm của Nguyễn Dữ. Cho
đến nay, dù với động cơ gì, cô lập hóa quan hệ của hai tác phẩm này đều
28
không hợp lý. Viết nhƣ Trần Ích Nguyên nhà nghiên cứu Đài Loan thỏa đáng
hơn: “Cù Hựu và Nguyễn Dữ thực ra đều là những nhà sáng tác tiểu thuyết
giỏi cắt xén. Tân thoại kế thừa cơ sở chí quái truyền kì đời trƣớc, chọn lấy
những tƣ liệu có sẵn trong thơ văn bút ký, Mạn lục ngoài việc mô phỏng phần
dinh dƣỡng mà Tân thoại hấp thụ, còn viết lại thần thoại chí quái của đất nƣớc
Việt Nam”[30]. Mà thực ra còn phải nhìn nhận trƣờng hợp này nằm trong
thông lệ của văn học trung đại thế giới mà nhà nghiên cứu B.A. Gripxốp nhận
thấy: “Nhà văn trung cổ không sáng tạo ra những cốt truyện mà dƣờng nhƣ
chỉ kể lại và kết hợp lại những mô típ xa xƣa, khi thì bằng văn xuôi, khi thì
bằng thơ” [36, 115].
Đây là hai tác phẩm của hai quốc gia nhƣng đồng loại hình văn học
trung đại, cùng thể loại truyện truyền kì và đều viết bằng chữ Hán. Sau nhiều
năm nghiên cứu, PGS.TS Vũ Thanh đã khẳng định Nguyễn Dữ chịu ảnh
hƣởng truyện của Cù Hựu chủ yếu là ở bút pháp thể loại. Đó là quá trình “ ăn
lá nhả tơ”, một sự học tập để sáng tạo.
Cho đến nay, đã có một số công trình của các tác giả trong nƣớc và
ngoài nƣớc nghiên cứu hai tác phẩm này trong sự đối sánh ở những phƣơng
diện và cấp độ khác nhau, tuy nhiên về mối liên hệ giữa hai tác phẩm vẫn còn
nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
1.4.2. Nghiên cứu truyện truyền kì từ mô típ truyện
Việc nghiên cứu văn học qua mô típ truyện có lẽ đã có một lịch sử lâu
dài nhƣng chỉ đƣợc nêu thành lí luận và vạch ra quy luật tồn tại của các mô típ
truyện từ công trình khoa học nổi tiểng: Hình thái học truyện cổ tích (V.I.
Propp, Tuyển tập V.I. Propp, nhiều ngƣời dịch, nhà xuất bản văn hóa dân tộc,
Hà Nội 2003) của nhà bác học ngƣời Nga V.I. Propp (1895 – 1970).
Propp trong công trình nghiên cứu của mình (1928) cho rằng: Khi một
nhóm đối tƣợng tƣơng đồng với nhau, có những đặc tính ổn định, không phụ
thuộc vào không gian địa lí và thời gian lịch sử thì chúng sẽ có những hình
29
thức tồn tại giống nhau nhƣ những hằng số bất biến. Qua sự khảo sát, Propp
nhận ra: “Nhân vật truyện cổ tích dù cho có đa dạng đến đâu đi chăng nữa
cũng thƣờng làm nhƣ nhau”. Các dân tộc dù không có hoặc ít có sự liên quan
đối với nhau, trong kho tàng văn học dân gian của họ vẫn tồn tại những mô
típ truyện gần giống nhau. Đây là tính thống nhất đa dạng trong việc nghiên
cứu truyện cổ tích từ mô típ truyện. Các mô típ truyện của Lọ Lem (Phƣơng
Tây) và Tấm Cám (Việt Nam, Đông Á và Đông Nam Á) là một minh chứng.
Tiếp theo Propp, các tác giả E.M. Melentinski, V.I. Eremine, C. Levi
Strauss… đã tiếp bƣớc ông. Các nhà nghiên cứu văn học trung đại cũng đã áp
dụng các lí thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu từ mô típ truyện vào việc
nghiên cứu văn xuôi và cụ thể là truyện truyền kì và đã có đƣợc nhiều kết quả
khả quan.
Sự lặp lại của các truyện có cùng mô típ là một đặc điểm dễ nhận thấy
và rất đặc trƣng của thể loại truyện truyền kì ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
Việc nghiên cứu truyện truyền kì trên phƣơng diện mô típ có thể giúp chúng
ta khám phá đƣợc mối dây liên hệ trong những tác phẩm thuộc cùng một kiểu
truyện và ý nghĩa của nó. Nghiên cứu mô típ truyện truyền kì cũng là một
trong những bƣớc cơ bản trong việc nghiên cứu những gốc rễ, lịch sử của thể
loại này.
Mô típ là khái niệm nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc
nhỏ đã đƣợc hình thành ổn định bền vững và đƣợc sử dụng nhiều lần trong
sáng tác văn học nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dân gian. Truyền kì có sự kế
thừa và phát triển của văn học dân gian, vì thế việc hình thành, vận dụng các
mô típ trong quá trình sáng tác là điều dễ hiểu. Trong “Tiễn đăng tân thoại” và
“Truyền kì mạn lục”, ngƣời đọc dễ dàng nhận ra sự hiện diện của rất nhiều mô
típ quen thuộc của truyền kì: sự ra đời thần kì (Trà Đồng), sự đầu thai tái sinh,
vật thành tinh (Đào, Liễu), hồn ma ngƣời chết hiện về dƣơng thế, mô típ trừ
yêu diệt quái, mô típ trƣờng sinh bất lão…; trong đó có thể nói, mô típ quan
30
trọng nhất, biểu hiện phong phú nhất, tạo thành mạch chính để xâu chuỗi nhiều
mô típ khác là mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” và mô típ “Ngƣời lạc vào
thế giới khác”.
Tiểu kết Chƣơng 1
Trong Chƣơng 1, chúng tôi đã tập trung vào việc trình bày cơ sở lí luận
và những vấn đề chung của đề tài luận văn. Việc tìm hiểu khái niệm, nguồn
gốc, quá trình phát triển, đặc trƣng thể loại của truyện truyền kì trong văn
xuôi trung đại Trung Quốc và văn xuôi trung đại Việt Nam nhằm đem lại cái
nhìn toàn cảnh không gian văn hóa, làm nền tảng cho việc nghiên cứu những
vấn đề cụ thể của đề tài trong hai tập truyện: “Tiễn đăng tân thoại” và
“Truyền kì mạn lục”.
Chúng tôi cũng đã tìm hiểu một cách khái quát những vấn đề về Cù
Hựu và Nguyễn Dữ cũng nhƣ hai tác phẩm “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền
kì mạn lục”. Hai tác giả tuy sống ở hai không gian địa lí khác nhau, thời đại
khác nhau nhƣng có nhiều điểm chung. “Tiễn đăng tân thoại” đƣợc đánh giá
là một tác phẩm truyền kì có ảnh hƣởng và sức lan tỏa mạnh mẽ nhất đến sự
phát triển của thể loại này ở các nƣớc trong khu vực. “Truyền kì mạn lục” lại
đƣợc đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của thể loại truyền kì ở Việt Nam,
mang hơi thở thời đại và thấm đẫm tinh thần dân tộc.
Chúng tôi cũng sơ lƣợc tìm hiểu về mô típ, các yếu tố hình thành mô
típ và mối quan hệ giữa hai tác phẩm nhìn từ phƣơng diện mô típ.
Đây sẽ là những vấn đề cơ bản đƣa chúng tôi tiệm cận gần hơn với đối
tƣợng nghiên cứu, làm cơ sở để triển khai các vấn đề cụ thể của luận văn ở
các chƣơng sau.
31
CHƢƠNG 2: MÔ TÍP “TÌNH YÊU VÀ HÔN NHÂN KÌ DỊ” TRONG
“TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC”
2.1. Khảo sát mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong hai tác phẩm
Theo Toàn Huệ Khanh trong cuốn Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết
truyền kì Hàn Quốc – Trung Quốc – Việt Nam, truyền kì có loại truyện diễm
tình. Đó là những câu chuyện viết về tình yêu và hôn nhân, sự ly – hợp của
các đôi nam nữ. Tuy nhiên, màu sắc trong tình yêu và hôn nhân ở mỗi câu
chuyện này lại khác nhau, mức độ đậm nhạt cũng không giống nhau. Có
truyện hai chị em cùng lấy chung một chồng (Lầu Liên Phương – “Tiễn đăng
tân thoại”), có truyện là sự hứa hẹn ở kiếp sau vì ở kiếp này chồng con đã
định (Truyện đình Thu Hương – “Tiễn đăng tân thoại”), có truyện chồng nghi
ngờ ghen tuông vô lối khiến vợ phải tự vẫn (Người con gái Nam Xương –
“Truyền kì mạn lục”), Có khi cả hai cùng lấy cái chết để đền đáp tình nhau
khi vợ bị ép lấy kẻ khác (Nàng Thúy Thúy – “Truyền kì mạn lục”)…
Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến những truyện mà tình yêu và hôn nhân
có yếu tố kì dị, tạm hiểu là có yếu tố kì ảo và dị thƣờng (khác thƣờng). Với
cách hiểu nhƣ trên, có thể thấy dạng mô típ chủ yếu sẽ là: tình duyên giữa
ngƣời và hồn ma. Ngoài ra còn có tình duyên giữa ngƣời và thần tiên, ngƣời
và thủy quái. Tình yêu nam nữ là chuyện bình thƣờng của ngƣời đời. Nhƣng
tình yêu của nam/nữ nhân với hồn ma, với thần tiên… là chuyện không bình
thƣờng, chuyện quái đản.
Trong “Tiễn đăng tân thoại” ta có thể tìm thấy 5/20 truyện viết về tình
duyên giữa ngƣời và ma: Chiếc thoa vàng hình chim phượng, Đằng Mục rượu
say chơi vườn Tụ Cảnh , Nàng Ái Khanh, Cô gái áo xanh, Chiếc đèn mẫu đơn
Trong “Truyền kì mạn lục” cũng có 3 truyện sử dụng mô típ trên:
Chuyện kì ngộ ở trại Tây, Chuyện cây gạo, Chuyện yêu quái ở Xương Giang.
Ngoài ra, trong “Truyền kì mạn lục” còn có thêm 3 truyện với những mô típ
khác nhau, khá phong phú: Ngƣời lấy vợ tiên trong Chuyện Từ Thức lấy vợ
tiên, ngƣời lấy chồng là thần tiên giáng sinh trong Chuyện gã Trà Đồng giáng
32
sinh và ngƣời lấy chồng là thủy quái (thần thuồng luồng) trong Chuyện đối
tụng ở Long cung
Từ việc tìm hiểu về mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong hai tập
truyện, chúng tôi có bảng thống kê sau:
Bảng 1: Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Tiễn đăng tân thoại”.
Tình tiết kì dị trong tình yêu và Nhân vật Nhân vật STT Tên truyện hôn nhân nam nữ
Kim phƣợng thoa ký
1 Ngƣời
Hƣng Nƣơng đã chết, hồn của nàng mƣợn thân thể em gái mình để trốn đi cùng Hƣng Ca, thỏa ƣớc nguyện cũ trong suốt gần một năm.
Hồn ma vợ chƣa cƣới (Chiếc thoa hình chim phượng)
Đằng Mục túy du Tụ Cảnh Viên ký 2 Ngƣời Hồn ma
Đằng Mục biết rõ Phƣơng Hoa là ma nhƣng vẫn cùng nàng ái ân, lại dắt về quê hƣơng. Ba năm sau , khi trần duyên đã hết, cô gái theo chàng đến tỉnh Chiết Giang thi Hƣơng, hai ngƣời trở lại vƣờn Tụ Cảnh rồi mới chia tay.
(Đằng Mục rượu say chơi vườn Tụ Cảnh)
Kiều sinh dan díu qua lại với một cô gái, sau mới biết đó là Lệ Khanh, hồn ma của một thi hài vô thừa nhận trong ngôi chùa ở giữa hồ. Kiều sinh bị ma bức bách, chết trong quan tài, thành ma tác quái khắp nơi, cuối cùng bị Thiết Quang đạo nhân hàng phục.
Mẫu đơn đăng ký 3 Ngƣời (Chiếc đèn mẫu đơn) Hồn ma vô thừa nhận
Hồn ma Ái Khanh, vợ của ngƣời họ Triệu từng hiện về dƣơng thế cùng chồng nối lại niềm hoan ái cũ, sau nàng đầu thai làm con trai nhà họ Tống.
Ái Khanh truyện 4 Ngƣời (Nàng Ái Khanh) Hồn ma ngƣời vợ đã chết
Triệu Nguyên gặp một cô gái ma mặc áo xanh. Cứ nhƣ lời nàng nói thì kiếp trƣớc hai ngƣời vốn có nhân duyên kiếp trƣớc. Ba năm sau tinh khí
5 Lục y nhân truyện (Cô gái áo xanh) Ngƣời
Hồn ma ngƣời yêu từ kiếp
33
tan hết, cô mới thực sự vĩnh biệt cõi đời. Triệu Nguyên thƣơng xót, xuất gia tu hành, không lấy vợ khác nữa.
trƣớc
Bảng 2: Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn lục”
Tình tiết kì dị trong tình yêu và Nhân vật Nhân vật STT Tên truyện hôn nhân nam nữ
1 Mộc miên thụ truyện (Chuyện cây gạo)
Anh chàng đi buôn Trình Trung Ngộ gặp cô gái đẹp Nhị Khanh, bị quyến rũ, đêm đêm tìm cuộc vui. Sau mới biết là hồn ma thì cuống cuồng bỏ chạy. Nhƣng chàng không chống lại nổi sự mê hoặc của u hồn, cuối cùng ôm áo quan mà chết, rồi cùng Nhị Khanh biến thành yêu quái nƣơng tựa vào cây gạo cổ thụ. Sau bị đạo sĩ thu phục.
Ngƣời (thƣơng nhân) Hồn ma lang thang
Trà Đồng giáng đản lục 2 Ngƣời
Dƣơng Đức Công đƣợc thiên đình cho một đứa con trai kì lạ là Thiên Tích, vốn là ngƣời hầu trà bên cạnh Thƣợng đế. Sau khi giáng sinh xuống trần, Thiên Tích đƣợc tập ấm của Đức Công, có một cuộc hôn nhân ly kì tốt đẹp, lại đƣợc làm quan cao. Sau Thiên tích giác ngộ thiện ác, nhân quả bèn vào núi đắc đạo.
(Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh) Thần tiên giáng sinh
3
Chàng học trò Hà Nhân đi qua một ngôi nhà cũ của vị Thái sƣ triều Trần, gặp hai cô gái đẹp, Liễu Nhu Nƣơng và Đào Hồng Nƣơng. Chàng cũng đã đƣợc hƣởng cái phúc của thú vui chăn gối. Sau một đêm mƣa giá, các nàng chỉ còn là những cành đào liễu tả tơi. Nguyên các nàng đều là hoa yêu cây quái biến hóa mà ra cả.
Tây viên kì ngộ ký (Chuyện kì ngộ ở trại Tây) Hồn hoa Ngƣời (nho sinh)
Một vị huyện lệnh họ Trịnh có vợ họ Dƣơng bị thủy quái ở
4 Long Đình đối tụng
34
lục
Thủy quái Ngƣời
miếu thần thuồng luồng đất Hồng Châu cƣớp đi. Trịnh tới Long đình thƣa kiện. Long Vƣơng phán thần thuồng luồng có tội bị đầy lên phía Bắc, vợ chồng huyện lệnh gƣơng vỡ lại lành.
(Chuyện đối tụng ở Long Cung)
Từ Thức làm Tri huyện Tiên Du, ngƣời đời khen chàng là bậc hiền nhân. Nhƣng Từ Thức tính vốn thích ngao du sơn thủy nên treo mũ từ quan. Trong lúc du ngoạn chàng đƣợc Ngụy phu nhân mời đến sơn động Phù Lai, đƣợc gả con gái là Giáng Hƣơng cho. Một năm sau Từ Thức nhớ nhà muốn về, cảnh vật nhƣ cũ nhƣng ngƣời đời và việc đời đã hoàn toàn thay đổi, hạ giới đã trải qua hơn tám chục năm.
5 Ngƣời Từ Thị tiên hôn lục (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên) Tiên (quan lại)
Xƣơng Giang yêu quái lục 6
Ngƣời Hồn ma
Vong hồn cô gái họ Hồ hƣng yêu tác quái, lại lừa đƣợc viên quan họ Hoàng thu nhặt hài cốt nàng trùng táng rồi lấy hồn ma nàng làm vợ. Sau bị thần y phát hiện, bị Diêm Vƣơng đày ở ngục Lê Thiệt. Hoàng cũng bị phán quyết giảm tuổi thọ một kỷ rồi cho về.
(Chuyện yêu quái ở Xương Giang)
2.2. Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Tiễn đăng tân thoại”
Khảo sát nội dung 5 truyện của ”Tiễn đăng tân thoại”, chúng tôi nhận
thấy có thể phân chia thành hai nhóm sau đây:
- Nhóm 1, gồm bốn truyện: Chiếc thoa hình chim phượng, Đằng Mục
rượu say chơi vườn Tụ Cảnh, Nàng Ái Khanh, Cô gái áo xanh. Nội dung các
truyện có thể khái quát nhƣ sau: Một chàng trai gặp mỹ nhân. Anh ta biết đấy
là ngƣời đã chết nhƣng vẫn cùng hồn ma yêu đƣơng ân ái. Cả hai thoả mãn
ƣớc nguyện hạnh phúc. Đến kì hạn, âm dƣơng ly biệt, (chỉ trừ Chiếc thoa
35
hình chim phượng, chàng Hƣng Ca lấy em gái Hƣng Nƣơng theo ƣớc nguyện
của nàng) các chàng trai không lấy vợ nữa để giữ tình chung thuỷ.
- Nhóm 2, chỉ có Chiếc đèn mẫu đơn, viết chuyện chàng trai gặp mỹ
nhân, mời nàng về nhà ngủ. Từ đó, nàng tối đến sáng đi. Có ngƣời biết
chuyện cảnh báo, chàng đi tìm tung tích ngƣời tình, phát hiện mình dan díu
với hồn ngƣời chết. Chàng sợ hãi chạy trốn nhƣng vẫn bị ma quyến rũ rồi bị
chết theo, cũng biến thành ma lang thang. Các hồn ma quấy phá nhân gian đã
bị đạo sĩ yểm bùa, tiễu trừ. Phải chăng đây không phải là cảm hứng chính của
Cù Hựu?
Sự khác nhau cơ bản của hai nhóm truyện này là: Ở nhóm 1, chàng trai
biết là ma nhƣng vẫn cùng hồn ma yêu đƣơng ân ái. Đƣơng nhiên, trong tâm
thế chủ động thì cuộc tình này không gây ảnh hƣởng đến ai và cũng không để
lại hậu quả nghiêm trọng gì. Chàng trai ở truyện thuộc nhóm 2 thì ngƣợc lại,
không biết đó là ma, thụ động, để rồi bị ma bắt chết, tác oai tác quái gây hại
cho mọi ngƣời.
Đến với nhóm 1, trong Chiếc thoa hình chim phượng, Thôi Hƣng Ca và
Ngô Hƣng Nƣơng vốn đã có đính hôn từ nhỏ. Sau hai nhà xa cách, Hƣng
Nƣơng ốm tƣơng tƣ rồi chết, ngƣời nhà chôn theo nàng cả vật làm tin là chiếc
thoa hình chim phƣợng. Không bao lâu Hƣng Ca trở về, có ý giữ trọn lời ƣớc
hẹn của cha mẹ. Rõ ràng, tƣ tƣởng cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đã ăn sâu vào
nếp nghĩ của mỗi ngƣời. Tác giả ngợi ca chữ tín và tấm lòng chứ không hề có
ý chê trách. Lại thêm chuyện Hƣng Nƣơng mƣợn thân xác của em gái để thỏa
ƣớc nguyện cũ, dối ngƣời yêu, dối cha mẹ trốn đi với Hƣng Ca có tới gần một
năm trời thì ý nguyện sau cùng của nàng vẫn đƣợc mọi ngƣời chấp nhận.
Hƣng Ca lấy Khánh Nƣơng nhƣng vẫn không quên ngƣời cũ khiến Hƣng
Nƣơng rất cảm động: “Thôi sinh đem thoa ra chợ bán được hai chục đĩnh bạc,
dùng mua hết nhang nến tiền vàng đưa đến quán Quỳnh Hoa nhờ đạo sĩ lập
36
đàn cúng ba ngày ba đêm để tạ ơn”. Tác giả , với những sự việc xảy ra nhƣ
trên cũng chỉ buông một câu “Than ôi, lạ lắm thay!”
Trong Đằng Mục rượu say chơi vườn Tụ Cảnh, Chàng văn sĩ Đằng
Mục ngƣời ở Vĩnh Gia, một hôm say rƣợu lạc chơi vƣờn Tụ Cảnh ở Hàng
Châu, gặp cung nữ thời Tống Lý Tông là Vệ Phƣơng Hoa và thị nữ là Kiều
Kiều. Phƣơng Hoa không ngần ngại nói cho chàng biết mình “bỏ nhân gian đã
lâu”. Đằng Mục cũng biết rõ Phƣơng Hoa là ma nhƣng vẫn cùng nàng ái ân,
lại dắt về quê hƣơng giới thiệu họ hàng. Ba năm sau trần duyên đã hết, cô gái
theo chàng đến tỉnh Chiết Giang thi Hƣơng, hai ngƣời trở lại vƣờn Tụ Cảnh
rồi chia tay, Đằng Mục rất đau thƣơng, làm văn tế nàng, từ đó mới dứt hẳn.
Đằng Mục lạnh lòng với việc thi cử, ngậm ngùi quay về, chàng không lấy ai
nữa, vào núi hái thuốc rồi mất.
Ngƣời đọc không khỏi băn khoăn. Đằng Mục phải chăng là một kẻ liều
lĩnh, ham nữ sắc đến việc ngủ với ma cũng không sợ? Phƣơng Hoa phải
chăng là một hồn ma chuyên dối gạt để thỏa chuyện gối chăn? Không, đọc
Đằng Mục rượu say chơi vườn Tụ Cảnh, ta thấy một Đằng Mục si tình đến
mức hiếm có ở đời. Nàng đi, chàng “khóc rống lên mà về. Ngày hôm sau
chàng sắm lễ vật đốt tiền vàng trước mộ nàng và làm bài văn tế…”. Ta cũng
thấy một Vệ Phƣơng Hoa “người đã tạ thế, trở thành cát bụi từ lâu, nếu lại
được nâng khăn sử túi thì dù chết cũng không nát”. Là ma mà tình đời còn
mặn nhƣ thế hỏi ngƣời mấy ai bì kịp?
Trong truyện Nàng Ái Khanh, Ái Khanh là ngƣời con gái nhan sắc tài
mạo một thời không ai sánh kịp. Từ sau khi đƣợc gả cho chàng họ Triệu cùng
làng, chuyện phấn son đƣợc giũ bỏ, nàng trông coi việc nhà rất có phép tắc,
lại cũng hiếu thuận với mẹ chồng. Không bao lâu chồng đi làm quan xa, mẹ
chồng cũng qua đời, Ái Khanh côi cút đau khổ. Có một viên Vạn hộ họ Lƣu
ham mê nhan sắc nàng ép nàng lấy hắn. Ái Khanh giữ lòng trinh lấy khăn là
thắt cổ tự tử. Nhƣ vậy, hai chữ “tòng phu’’ đă ăn sâu vào máu thịt khiến Ái
37
Khanh đến mạng sống cũng không cần đến. Niềm khát khao hạnh phúc gia
đình là rất chính đáng nhƣng nó không phải đƣợc đặt trên nền tảng của sự
giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng. Với Ái Khanh, nền tảng của hạnh
phúc chính là ở phẩm giá của ngƣời phụ nữ, ở sự trung trinh tiết liệt. Chàng
Triệu về nghe hết mọi chuyện mà đau xót không cùng. Không đau sao đƣợc
khi ngƣời vợ một lòng một dạ với mình lại phải hồn lìa khỏi xác, đá nát châu
chìm. Từng làm nghề ca xƣớng, nào ai nghĩ rằng Ái Khanh lại có thể làm một
việc khiến cho trời đất cũng phải nghiêng mình đến vậy.
Ở đoạn sau của truyện, Ái Khanh từng hiện về dƣơng thế cùng chồng
ôn lại chuyện cũ, lại “vào phòng vui thú chẳng khác gì lúc còn sống” lại đƣợc
đầu thai vào nhà họ Tống làm con trai. Nhƣ vậy, sự trở lại của Ái Khanh đƣợc
xem nhƣ một phần thƣởng cho một đời tiết hạnh. Chuyện tình giữa ngƣời và
hồn ma nhƣng hầu nhƣ tác giả không hề có ý đem ra phê phán. Ta cũng cảm
nhƣ những điều tốt đẹp thiêng liêng không chỉ tồn tại ở thế giới này – thế giới
thực của con ngƣời.
Đến Cô gái áo xanh, hồn ma không phải là của ngƣời yêu từng đính
ƣớc hồi nhỏ nhƣ trong Chiếc thoa hình chim phượng, cũng không phải là của
vợ nhƣ trong Nàng Ái Khanh, hồn ma ở đây là của ngƣời yêu ở kiếp trƣớc.
Truyện kể rằng, Triệu Nguyên ngụ cƣ ở Cát Lĩnh, trong ngôi nhà cũ của Giả
Thu Hác, Tể tƣớng triều Tống, gặp một cô gái ma mặc áo xanh. Cứ nhƣ lời
nàng nói thì kiếp trƣớc hai ngƣời vốn cùng làm việc trong phủ họ Giả, cô gái
là thị nữ, Nguyên hầu trà; hai ngƣời có ý quyến luyến nhau, chuyện bị phát
giác, cả hai đều bị xử tội chết dƣới cây cầu gãy, ngày nay tái hợp chính là nối
lại nhân duyên kiếp trƣớc. Mỗi khi cùng ở với nhau, cô gái áo xanh thƣờng kể
lại những hành động bạo ngƣợc của Thu Hác ngày xƣa. Ba năm sau tinh khí
tan hết mới vĩnh biệt cõi đời. Triệu Nguyên thƣơng xót, xuất gia tu hành,
không lấy vợ khác nữa.
38
Triệu Nguyên cũng giống nhƣ Đằng Mục, Triệu sinh biết rõ ngƣời kia
là ma mà vẫn đầu mày cuối mắt, gối tựa vai kề, hoa nguyệt trùng phùng phải
chăng là ngƣời ham mê sắc dục đến nỗi không còn biết phân biệt phải trái,
trắng đen. Hay là si tình đến mức kẻ sống ngƣời chết, kiếp trƣớc kiếp sau vẫn
không nỡ buông rời. Với các nhân vật ma nữ, nếu để độc giả phán xét, có lẽ
họ sợ ma nhƣng vẫn trọng cái tình của những con ma ngƣời ấy.
Nhƣ vậy, chuyện yêu đƣơng, chuyện vợ chồng ở những câu chuyện
trên kì dị ở chỗ hai nhân vật, một ngƣời, một hồn ma. Cả hai đến với nhau
bằng tình yêu thực sự, gắn bó với nhau bằng sự giao cảm của hai tâm hồn.
Lúc đầu họ chỉ gặp nhau vào ban đêm. Một thời gian, tình yêu tuổi trẻ, quan
hệ ân ái đã truyền sức sống, đem dƣơng khí cho ngƣời đã chết. Hồn ma có
cuộc sống trên thế gian, sớm tối gắn bó chung hƣởng hạnh phúc với ngƣời,
cũng “vui thú nhƣ khi còn sống”. Ở đây, ranh giới thực ảo trở nên mờ nhòe.
Sự hiện hình của hồn ma là để tiếp tục tình duyên, kiếp sống dang dở. Hồn ma
Hƣng Nƣơng vì mối trần duyên chƣa dứt, nhập vào thân xác em gái là Khánh
Nƣơng, trở lại sống với chồng chƣa cƣới một năm. Hồn ma Phƣơng Hoa, hồn
ma cô gái áo xanh hiện thành ngƣời sống với ngƣời yêu ba năm… Cho dù
thời gian ở nơi dƣơng thế không giống nhau, cũng không quá nhiều ngày
tháng, nhƣng đó là thời gian của một cuộc hôn nhân, thời gian của số mệnh
con ngƣời. Khi duyên số hết, tình vợ chồng hết, họ lại phải ly biệt.
Nhƣng nhân vật người – chàng trai trong truyện, đã thật sự thoả mãn với
hạnh phúc, đã quên mọi khát vọng, mọi vấn đề khác trong cuộc đời. Vì vậy,
sau phút chia ly, các chàng trai đều tự nguyện sống chung thuỷ, ƣớc hẹn tái
ngộ. Triệu sinh (Nàng Ái Khanh) tìm đến nhà ngƣời họ Tống xin đƣợc coi
nhƣ chỗ họ hàng để đƣợc gặp mặt, thăm hỏi ngƣời vợ đã đầu thai kiếp khác.
Đằng Mục (Đằng Mục rượu say chơi vườn Tụ Cảnh) “suốt đời không lấy ai,
vào núi Nhạn Đãng hái thuốc rồi không về nữa”. Triệu Nguyên (Cô gái áo
xanh) không lấy vợ nữa mà tới chùa Linh Ẩn xin xuất gia làm sƣ đến trọn đời.
39
Tóm lại, các nhân vật nam trong các tác phẩm trên, trƣớc khi đến với
cuộc kì ngộ là ngƣời có nỗi đau khổ hoặc dở dang tình yêu, hạnh phúc nên
khát vọng ái ân còn chƣa thoả. Gặp lại ngƣời có duyên tiền định với mình, tất
cả đều thoả nguyện. Tình yêu của họ không phụ thuộc tiền bạc, địa vị xã hội.
Hạnh phúc của họ vƣợt trên bất hạnh của số phận, của cái chết; vƣợt qua tai
hoạ bởi thế lực thống trị bạo tàn. Các truyện viết về các mối tình ngƣời và hồn
ma đã đƣa ngƣời cõi âm xâm nhập thế giới thực tại, đã hiện thực hoá thế giới
kì ảo nhằm thỏa mãn khát vọng hạnh phúc, cũng là cách để đấu tranh chống
lại các thế lực ngăn trở hạnh phúc của con ngƣời.
Trong nhóm 2, Chiếc đèn mẫu đơn mang một kiểu cốt truyện có nhiều
điểm khác với nhóm 1. Truyện kể rằng, trong đêm Nguyên tiêu năm Chí
Chính (1360), có chàng họ Kiều góa vợ nhà ở dƣới núi Trấn Minh thấy một
cô gái đẹp tuổi độ mƣời bảy, mƣời tám, đi trƣớc là một a hoàn tay cầm chiếc
đèn mẫu đơn dẫn đƣờng đi trong đêm. Chàng đón trƣớc theo sau rồi bèn rủ
nàng vào cùng ngủ. Ông lão hàng xóm chọc vách nhìn sang phát hiện Nhị
Khanh (cô gái đẹp) là hồn ma liền cảnh báo với Kiều sinh. Sau quả nhiên
Kiều sinh phát hiện ra trong ngôi chùa ở giữa hồ có quàn thi hài Lệ Khanh,
trƣớc cữu treo một chiếc đèn, đứng dƣới đèn là đứa hầu gái bằng hàng mã,
sau lƣng viết hai chữ Kim Liên. Chàng họ Kiều vội đến pháp sƣ họ Ngụy cầu
cứu. Từ đó Lệ Khanh không đến nữa. Một lần, không may quên mất lời dặn
lại đi qua ngôi chùa giữa hồ, Kiều sinh liền bị ma bức bách, chết trong quan
tài. Sau đó chàng thành ma cùng Lệ Khanh và Kim Liên tác quái khắp nơi,
cuối cùng bị Thiết Quang đạo nhân hàng phục.
Kiều sinh và hồn ma vốn trƣớc không hề quen biết, không phải là vợ
chồng, ngƣời yêu, cũng chẳng có duyên tiền định. Chỉ là tình cờ gặp nhau lần
đầu mà chàng đã “hồn phách bay bổng, không sao kiềm chế nổi bèn bước
theo nàng, lúc đón trước, lúc theo sau” phải chăng là tuồng ham mê nữ sắc.
Nếu chỉ là chuyện tƣ tình nam nữ khi trời trong mây sáng thì cũng không có
40
gì phải nói nhiều, đằng này Sinh lại là ngƣời mới góa vợ. Ngƣời cũ vừa chết,
tử biệt sinh li, cỏ hãy chƣa xanh mà Kiều sinh đã vội vàng có mới nới cũ thì
hẳn là ngƣời cũng chẳng ra gì, đâu sánh đƣợc với ai.
Ma nữ (Lệ Khanh) giấu chàng gốc tích để thỏa chuyện gối chăn vốn đã
không thể chấp nhận, tà khí lại nhiều, tự tay giết chết Kiều sinh, tác oai tác
quái. Nếu mang so với Ái Khanh (Nàng Ái Khanh), khi sống thủ tiết thờ
chồng khiến ai cũng cảm động, khi chết thành ma vẫn thẳng thắn chân thật thì
cái kết đạo nhân xét tội và trừng phạt Lệ Khanh cùng đồng bọn cũng chẳng có
gì là lạ.
2.3. Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn lục”
Cả ba truyện ở ”Truyền kì mạn lục” (Chuyện kì ngộ ở trại Tây, Chuyện
cây gạo, Yêu quái ở Xương Giang) đều có nội dung thuộc nhóm 2, cốt truyện
giống với Cây đèn mẫu đơn. Trƣớc hết hãy xem xét sự kì dị trong tình yêu và
hôn nhân ở mỗi truyện.
Trong Chuyện kì ngộ ở trại Tây, cái kì dị ở đây, tình nhân của Hà Nhân
không phải là ngƣời mà là tinh vật. Nàng Đào, nàng Liễu biến thành những cô
gái đẹp, có vóc dáng mềm mại nhƣ cây đào, cây liễu. Sự chung sống giữa
ngƣời với cỏ cây, loài vật hóa thân diễn ra rất hạnh phúc, tốt đẹp. Nàng Đào,
nàng Liễu là những giai nhân thích hợp với chàng thƣ sinh tài tử nhƣ Hà
Nhân. Ở đây không có sự ngăn cách, phân biệt về giống loài, ngay cả khi
chàng trai biết rằng chung sống với mình không phải là ngƣời. Truyện kết
thúc bằng hành động “trọn nghĩa vẹn tình”, Hà Nhân bán chiếc áo lấy tiền
sắm mâm cỗ cúng hai nàng và làm thơ tế lễ. Nhƣ vậy , dẫu chƣa mạnh mẽ
bằng Trình Trung Ngộ (Chuyện cây gạo) nhƣng Hà Sinh cũng là ngƣời đàn
ông biết yêu, biết khát vọng ái ân nam nữ, và đặc biệt hơn chàng biết trân
trọng tình yêu của mình. Phải chăng đó là nét đẹp nhân văn của con ngƣời
trong tình yêu mà Nguyễn Dữ muốn khêu gợi và cổ súy.
41
Việc sử dụng mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong Chuyện kì ngộ
ở Trại Tây, Nguyễn Dữ đã đƣa vào đó nhiều vấn đề của hiện thực, với những
con ngƣời đậm chất đời thƣờng. Ông tập trung phê phán sự suy thoái trầm
trọng của đạo đức thời đó. Kẻ nho sĩ, nếu không “hợm mình tài giỏi (…) chí
khí ngông ngáo, tính tình tráo trở, gặp thầy nghèo thì lảng tránh, thấy bạn
nghèo thì làm ngơ” (Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào) thì giờ đây họ
cũng vùi mình trong cơn tình ái khiến “bút nghiên chí nản”, dối lừa cha mẹ.
Mặt khác lại chính Nguyễn Dữ đang chủ trƣơng đƣa ngƣời đàn ông vào vòng
bi kịch tình yêu hạnh phúc để lật tẩy sự hà khắc kìm kẹp của nhiều luồng
tƣởng xã hội (lễ giáo phong kiến và tƣ tƣởng thần quyền thống trị). Mặc dù
thử nghiệm phƣơng thức kiếm tìm hạnh phúc cho ngƣời đàn ông của Nguyễn
Dữ thất bại nhƣng bằng lối văn thoải mái, tự nhiên, những vần thơ dạt dào
tình tứ, chính Nguyễn Dữ mới đang cổ vũ cho thứ tình yêu tự do phóng túng.
Rõ ràng mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” đã đƣợc Nguyễn Dữ cách tân và sử dụng trong quá trình sáng tác truyện của mình.
Sự kì dị ở Chuyện cây gạo và Chuyện yêu quái ở Xương Giang là đều
nói về những cuộc tình của ngƣời với ma. Những cuộc tình của ngƣời với ma
thuộc mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” đƣợc sử dụng khá phổ biến ở thể
loại truyện truyền kì. Thời trung đại ngƣời ta quan niệm rằng phụ nữ đẹp
giống nhƣ thứ hồ li tinh, yêu quái … khi sống gần ngƣời đàn ông có thể cản
trở hoặc gây tác hại cho ngƣời đàn ông cả về sức khỏe lẫn công danh, nên họ
cũng đáng sợ không khác gì ma quỷ vậy. Bởi vậy việc đƣa ngƣời đàn ông vào
cuộc hôn phối với yêu ma, các tác giả cũng nhằm lên án ngăn cản sự tự do,
phóng túng trong quan hệ tình dục của con ngƣời. Do xuất phát từ quan niệm
ma bao giờ cũng là một thế lực xấu, ám hại ngƣời nên mỗi tác phẩm văn học
nói về tình yêu giữa ngƣời và ma, kiếp phận những thân ma thƣờng bị tiêu
diệt.
42
Thời trung đại, trong ý thức hệ tƣởng Nho giáo và Phật giáo, việc ca
ngợi tình yêu tự do phóng túng, đề cao tình cảm xác thịt là một điều cấm kị,
rất đáng bị lên án. Con ngƣời cần phải khƣớc từ những nhu cầu tình cảm riêng
tƣ để sống và thực hiện lí tƣởng, bổn phận đạo đức chung. Là một nhà nho,
Nguyễn Dữ quá hiểu những chế ƣớc tinh thần con ngƣời vốn rất độc đoán và
hà khắc này, thế nên ông đã mƣợn yếu tố kì ảo, hoang đƣờng làm “vỏ bọc, rồi
đưa con người vào các cuộc tình yêu với ma (sau này là cả với tinh vật, tiên,
thần,…) giống như một sự “đối phó với điều cấm kị” [48, 79] trong xã hội.
Nhờ đó, ở những mức độ nhất định ông vừa ca ngợi tình yêu và bày tỏ khát
vọng giải phóng tình dục của con ngƣời dƣới hình thức “ngụy trang” hƣ hƣ,
thực thực, vừa phần nào khách quan chỉ ra những mặt còn bảo thủ của tƣ
tƣởng thống trị đƣơng thời trƣớc về vấn đề tình yêu và hạnh phúc con ngƣời.
Chuyện yêu quái ở Xương Giang kể rằng hồn ma cô gái họ Hà chết trẻ
thƣờng tác oai tác quái , làm hại dân lành. Dân làng phải đào hài cốt của cô
lên mà ném xuống sông. Viên quan họ Hoàng đi qua khúc sông này thấy “có
một người con gái tuổi 17,18, mặc một cái áo lụa đỏ đương ngồi trên đệm
cỏ…” và rồi bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc tình “kì dị” với yêu ma. Cũng từ
đó viên quan họ Hoàng bị “bệnh điên cuồng hốt hoảng, mê lịm đi không còn
biết gì cả. Chàng, thuốc không chịu uống, mạch không cho ai xem”. Sau nhờ
có đạo sĩ phát hiện, dùng bùa đạo để trừ tà. Hồn ma biến thành đống xƣơng
trắng tìm xuống địa phủ kiện họ Hoàng. Họ Hoàng dâng sớ kể tội của ma nữ.
Diêm Vƣơng rõ sự việc bèn sai áp giải ma nữ vào ngục Lê Thiệt, viên quan
họ Hoàng đƣợc minh oan và sống trở lại. Có thể nói, hình tƣợng nhân vật
Hoàng trong truyện là tấm gƣơng phản chiếu trung thực bản chất tầng lớp
quan lại phong kiến trƣớc tình yêu và hạnh phúc cá nhân. Với trách nhiệm của
một nhà nho, một vị quan, anh ta buộc phải chấp nhận từ bỏ tình yêu mà quy
về bổn phận. Điều đó cũng cho thấy quan điểm đạo đức Nho gia đã chiến
thắng tình yêu tự do cá nhân trong truyện này. Nó cũng chứng tỏ Nguyễn Dữ
vẫn chƣa thoát khỏi sự phong tỏa của tƣ tƣởng Nho gia khi giải quyết vấn đề
43
tình yêu và hạnh phúc con ngƣời. Ngƣời đọc lại thấy đau đáu phảng phất lên
một tấn bi kịch thảm thƣơng cho kiếp phận phụ nữ điên cuồng trong tình ái.
Sang đến Chuyện cây gạo, hồn ma Nhị Khanh không an phận và cam
chịu uổng phí thanh xuân. Cũng nhƣ cô gái họ Hà kia, Nhị Khanh từng nói:
“Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống
ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của
suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”.
Phải chăng sự nổi loạn đó là căn nguyên của một cuộc tình đầy bi ai. Trong
truyện nhân vật Trình Trung Ngộ cũng say đắm với hồn ma Nhị Khanh bất
chấp những lời khuyên can của bạn bè. Cuối cùng Trình Trung Ngộ sẵn sàng
tìm đến cái chết để sống cùng ngƣời yêu ở thế giới bên kia. Phải chăng đó lại
là sự chung thủy tột cùng của ngƣời đàn ông trong tình yêu. Nhƣng cuối cùng
hồn ma của Trình Trung Ngộ và Nhị khanh cũng bị đạo sĩ thu phục. Nhƣ vậy
có thể thấy trên con đƣờng đi tìm hạnh phúc cho chính mình, ngƣời đàn ông
vẫn không vƣợt qua vòng cƣơng tỏa của thế lực thần quyền và quan niệm đạo
đức dân gian. Nhân vật muốn phá vỡ, lật tung, muốn thay đổi tất thảy nhƣng
rồi cuối cùng lại đi đến kết quả là sự hủy diệt.
“Truyền kì mạn lục” còn có những kiểu truyện khác nhau, khá phong
phú mà trong “Tiễn đăng tân thoại” không có: Ngƣời lấy vợ tiên trong Từ
Thức lấy vợ tiên, ngƣời lấy chồng là thần tiên giáng sinh trong Gã Trà Đồng
giáng sinh và ngƣời lấy chồng là thủy quái trong Chuyện đối tụng ở Long
cung.
Trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên, chàng Từ Thức ở Hóa Châu, làm tri
huyện Tiên Du, vì không chịu khuôn thƣớc trong chốn quan trƣờng nên cởi
bỏ mũ áo đi ngao du sơn thủy. Trong lúc du ngoạn danh thắng, chàng lạc vào
động tiên và đƣợc Ngụy phu nhân là tiên ở núi mời đến sơn động Lai Phù để
gả con gái Giáng Hƣơng cho. Thì ra nàng Giáng Hƣơng chính là ngƣời con
gái làm gãy hoa trong hội hoa năm trƣớc mà Từ Thức đã cởi áo đền giúp. Một
44
năm sau, Từ Thức nhớ nhà muốn về, Từ Thức chia tay Giáng Hƣơng trở về
thì thấy mọi vật đã thay đổi, hạ giới đã trải qua hơn 80 năm, không ai nhận ra
chàng nữa. Buồn chán, sau chàng bỏ vào núi Hoành Sơn và không biết đi đâu
nữa. Sự cô đơn, lạc lõng ngay trên mảnh đất quê hƣơng của Từ Thức là bài
học thấm thía cho ƣớc vọng lấy vợ tiên và chủ trƣơng hƣớng tới thế giới của
Đạo giáo. Do vậy, khái niệm hạnh phúc nơi tiên giới, con ngƣời trƣờng sinh
bất lão cũng chỉ là hƣ ảo.
Truyện Từ Thức lấy vợ tiên là câu chuyện tình yêu đẹp giữa Từ Thức
với một nàng tiên. Đây là câu chuyện đa chủ đề, phản ánh quan niệm về hạnh
phúc con ngƣời trần tục nhƣng cũng đề cập đến hạnh phúc của tiên nữ Giáng
Hƣơng với nỗi buồn thƣơng, ngậm ngùi khi phải giã từ chồng, giã từ hạnh
phúc. Tình yêu của nàng không khác gì tình yêu, hạnh phúc của ngƣời trần
thế. Khoảnh khắc hạnh phúc khi sống cùng Từ Thức khiến nàng thay đổi, trở
nên hồng hào, tƣơi tắn. Khi khoảnh khắc ấy qua đi, nàng còn lại nỗi buồn đau,
nhớ thƣơng vô vọng về một con ngƣời, một niềm hạnh phúc đã qua đi. Nàng
có khác chi con ngƣời trần thế, cũng có nỗi buồn đau của con ngƣời, trái tim
của nàng cũng mang những khát khao của ngƣời phụ nữ trần thế. Vậy thì
Giáng Hƣơng đâu phải chỉ là nàng tiên trên thƣợng giới. Giáng Hƣơng là
nhân vật biểu tƣợng cho tâm hồn, cho mơ ƣớc, cho số phận của ngƣời phụ nữ.
Thông qua mô típ vay mƣợn từ truyện dân gian này, Nguyễn Dữ còn đề
cập đến một chủ đề mang tính thời đại khác: đó là vấn đề thân phận của ngƣời
trí thức trong một xã hội chuyên chế, ở đó họ không có chỗ dung thân và ở đó
họ cũng không thực hiện đƣợc lý tƣởng của mình.
Trong “Truyền kì mạn lục”, kiểu “Ngƣời lấy thần tiên giáng sinh”
đƣợc sử dụng ở truyện Gã Trà Đồng giáng sinh. Trong truyện này sự khác
thƣờng trong cuộc hôn nhân chỉ đóng vai trò tình tiết – sự kiện. Song dƣới
ngòi bút tài hoa của Nguyễn Dữ, nhiều giá trị nhân sinh từ đó đƣợc đƣa vào.
Mặc dù, ngƣời đàn ông trong truyện Gã Trà Đồng giáng sinh không hề có
45
hình dáng cổ quái, kì dị nhƣ nhân vật thần thuồng luồng (Chuyện đối tụng ở
Long cung) nhƣng xuất phát từ sự ra đời thần kì của anh ta nên có thể coi
cuộc hôn nhân sau này anh ta có đƣợc thuộc kiểu hôn nhân kì lạ.
Dƣơng Thiên Tích là nhân vật chính trong truyện. Khi cha qua đời, gia
cảnh rơi vào túng bấn. Để đƣợc theo học, Dƣơng nhiều lần đi tìm nhà có con
gái để gửi rể nhƣng không thành. Vào một đêm chàng mơ thấy có ngƣời đến
đa tạ, báo mộng rằng chàng sẽ lấy con gái của ông ta làm vợ và nhờ hồng
phúc của cha mẹ mà chàng làm đến quan lớn. Cuối cùng chàng cũng đƣợc
một nhà giàu đón về làm rể.
Trong truyện Gã Trà Đồng giáng sinh, cuộc hôn phối giữa Hán Anh và
Thiên Tích thực chất bắt nguồn từ sự trả ơn. Ông quan đại phu họ Thạch chịu
ơn cha của Dƣơng Thiên Tích đã cứu mạng đứa con gái mình, vì không biết
lấy gì đền ơn nên ông để cho con gái của mình tên là Hán Anh “ hầu hạ chăn
gối” cho Dƣơng Thiên Tích. Và nhƣ vậy, Hán Anh vô tình trở thành vật trả
ơn. Sự việc thật oái oăm với ngƣời phụ nữ nhƣng lại đƣợc trùm phủ bởi quan
niệm đạo đức phong kiến: hôn sự do cha mẹ sắp đặt và đạo lí chịu ơn phải trả
ơn. Đúng là giáo lí nghiệt ngã của Nho gia và quan niệm đạo đức dân gian đã
phong tỏa, chế ngự mọi mặt trong tình yêu và hạnh phúc con ngƣời.
Có thể thấy mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn
lục” duy nhất có Hán Anh có hôn nhân trọn lí vẹn tình: cha mẹ sắp đặt, đôi
lứa ƣng thuận và cƣới hỏi đoàng hoàng. Vậy mà nàng cũng không thể sống
trọn đời với chồng bởi Thiên Tích đã chấp nhận từ bỏ mái ấm gia đình để trở
về với thân phận kiếp trƣớc - một vị thần. Với kiểu “ hôn nhân kì dị”, rõ ràng
truyện kết thúc không có hậu, hạnh phúc gia đình bị phá vỡ dƣới sự chi phối
của tƣ tƣởng Đạo giáo và học thuyết luân hồi của Phật giáo.
Trong truyện Chuyện đối tụng ở Long cung, nàng Dƣơng thị là ngƣời
phụ nữ có duyên sắc, cái duyên sắc ấy ắt phải tƣơi tắn lắm mới đƣợc làm vợ
quan thái thú họ Trịnh, mới làm thần thuồng luồng mê đắm mà tìm cách cƣớp
46
lấy. Lấy thần thuồng luồng, một thế lực siêu nhiên dƣới Long cung cũng là
một chi tiết làm nên yếu tố li kì trong cuộc hôn nhân này.
Dƣơng thị dẫu cho thần thuồng luồng có biệt đãi, nàng “đƣợc phong là
Xƣơng ấp phu nhân, ở trong một cái điện bằng ngọc lƣu li, chung quanh có ao
sen bao bọc, gối chăn yêu dấu hơn hết các phòng” nhƣng tấm lòng chung thuỷ
của nàng với chồng vẫn không thay đổi. Nàng khẳng khái trƣớc Long vƣơng:
“Ngƣời áo xanh kia là chồng thiếp, còn ngƣời áo đỏ là kẻ thù”, một lần nữa
khẳng định lòng chung thuỷ của nàng. Nguyễn Dữ không viết thật cụ thể về
xuất thân của Dƣơng thị, về tứ đức của nàng nhƣng cái tinh thần “ xuất giá”
chỉ biết “ tòng phu”, dù có uy quyền và phú quý vẫn không thay lòng đổi dạ
đã trở thành sự bất di bất dịch trong ý thức của nàng.
Dƣơng thị đƣợc về với chồng thì đành mất đứa con. Chẳng lẽ nàng lại
không có tình mẫu tử với đứa con đứt ruột đẻ ra hay sao? Chắc rằng không thể
không có dẫu đó là đứa con của thuỷ quái. Đƣợc trở về với chồng thì lại phải
xa đứa con vĩnh viễn, vậy thì nỗi đau “tử biệt sinh li” của nàng sẽ không bao
giờ dứt.
Việc đƣa nhân vật Dƣơng thị vào cuộc hôn phối với thần thuồng luồng
không nhằm đi tìm cho nàng một hạnh phúc viên mãn, mà điều ông muốn
quan tâm trƣớc hết là phơi bày hiện thực bất công ngang trái, những thế lực
tàn bạo đã cƣớp đi hạnh phúc chính đáng của con ngƣời. Mục đích ấy thể hiện
khá rõ tƣ tƣởng nhân văn sâu sắc của truyện.
2.4. Đối sánh mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong hai tập truyện
Trƣớc hết, bàn về những truyện mà nội dung chính nói về cuộc tình
khác thƣờng giữa ngƣời và hồn ma.
Điểm giống nhau thứ nhất, miêu tả tình yêu và hôn nhân giữa ngƣời và
hồn ma, cả Cù Hựu và Nguyễn Dữ đều đặc biệt chú ý đến những chi tiết về
cuộc hoan lạc ái ân của nhân vật. Dƣờng nhƣ những chi tiết đó đã làm nên sức
47
hấp dẫn không nhỏ cho kiểu truyện này. Có những sự hoan lạc ái ân hoàn toàn
xuất phát từ lòng tham dục. Thần thuồng luồng (Chuyện đối tụng ở Long
cung) cƣớp vợ Trịnh để thỏa tính háo sắc, tà dâm. Nhƣng cũng có những cuộc
hoan lạc ái ân giữa nhân vật ma và ngƣời mà “trước còn trăng gió sau ra đá
vàng”, trƣớc là tìm vui thú sau lại là tình yêu, gắn bó khăng khít. Tìm đến
cuộc hoan lạc ái ân là mục đích duy nhất của những hồn ma nhƣ Nhị Khanh,
Đào, Liễu trong Chuyện cây gạo và Chuyện kì ngộ ở trại Tây: “đời sống của
thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa” (lời Nhị Khanh), “chúng em
muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang”
(lời Đào, Liễu). Những hồn hoa mỏng manh “thân như cái én có chịu nổi rét
mướt đâu” thế mà dù mƣa dầm gió bấc vẫn y hẹn đến nhà Hà Nhân, không bỏ
phí một giây phút xuân quang nào.
Có thể nói, đi tìm vui thú vui say, hạnh phúc lứa đôi là biểu hiện của
khát vọng tình yêu, khát vọng hạnh phúc mãnh liệt. Cả Cù Hựu và Nguyễn
Dữ đều rất quan tâm đến vấn đề giải phóng tình yêu, giải phóng nữ quyền ở
mô típ này.
Điểm giống nhau thứ hai, tuy rằng tình chàng ý thiếp, lá thắm liền cành
nhƣng tình duyên, hạnh phúc ấy lại rất ngắn ngủi, mong manh. Họ hoặc đến
kì âm dƣơng li biệt, hoặc tung tác bị diệt trừ, vì thế mà chỉ thỏa nguyện gió
trăng ít thì một đêm, một tháng, nhiều thì một năm, ba năm rồi lại ai đi đƣờng
nấy. Những cuộc chia tay thƣờng thấm đầy nƣớc mắt. Đau đớn hơn, Trình
Trung Ngộ đã phải đánh đổi cả mạng sống của mình để đổi lấy thời gian ở
bên Nhị Khanh. Kiều sinh đến với Lệ Khanh bị âm dƣơng cản lối, phải chết đi
mới đƣợc thỏa nguyện. Nhƣng phải hóa thành ma để đƣợc tự do yêu thƣơng,
liệu rằng đấy có phải là hạnh phúc thực sự? Những giây phút ngắn ngủi ấy so
với cuộc đời thƣờng dài mấy trăm mấy nghìn năm của ma quái thì càng ít ỏi
lắm thay! Giá trị phản ánh hiện thực của “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì
mạn lục” nằm ở chính những chi tiết này. Con ngƣời bị xã hội ngăn trở, vùi
48
dập, họ không thể có đƣợc tình yêu và hạnh phúc ở cuộc sống thực tại. Khi
thành ma, hạnh phúc ấy vẫn thật mong manh.
Xem nhƣ nàng Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, đang ở độ tuổi trẻ
trung, tràn đầy sức sống mà phải chịu làm một cái xác quàn ở ngoài đồng cô
quạnh, gặp đƣợc Trung Ngộ thì lại bị bọn bạn buôn ngăn trở. Chỉ đến khi
Trung Ngộ chết, hai hồn ma mới đƣợc tự do yêu đƣơng cƣời đùa, nô giỡn. Bi
kịch trong thời đại ấy chính là ở chỗ không cho con ngƣời đƣợc tự do yêu
đƣơng, nên cả khi đôi tình nhân này đã hoá ma thì họ cũng bị truy cùng diệt
tận, “đào mả phá quan tài”, một nắm xƣơng khô cũng phải chịu số phận bất
hạnh. Linh hồn họ nhập vào cây gạo thì bị đạo nhân tiêu diệt. Trong lúc yêu
quái bị tiêu diệt ngƣời ta thƣờng nghe thấy tiếng kêu khóc. Tiếng khóc ấy
chẳng phải là tiếng khóc cho cuộc đời dở dang, cho duyên phận mong manh?
Xem nhƣ hai nàng Đào, Liễu (Chuyện kì ngộ ở trại Tây), không bị dân
chúng oán thán, không chết dƣới thanh kiếm trừ tà, không bị đạo nhân trừ
yểm nhƣng cái kì ở dƣơng gian hai nàng có đƣợc là bao lâu? Vẻn vẹn chỉ có
một năm. Mà với đôi lứa trong tình yêu thì cái kì hạn một năm ấy chỉ nhƣ một
chớp mắt “Ngày nào mới buổi xuân dương, thoắt đã trời đông tuyết lạnh”.
Mối tình với chàng nho sinh thật ngắn ngủi, nhƣ một kiếp hoa sớm nở tối tàn.
Cuộc chia tay đầy ai oán đã phản ánh một cách nhức nhối bi kịch của nhân
vật: khao khát hạnh phúc lứa đôi nhƣng hạnh phúc ấy không bao giờ có thật,
không bao giờ đạt đƣợc, hạnh phúc chỉ là mộng tƣởng.
Xem nhƣ nàng Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang), trở thành
vợ của con ngƣời nhƣng chỉ đƣợc một tháng, Hoàng ngã bệnh còn Thị Nghi
trúng bùa lại trở về là một đống xƣơng trắng. Và đáng thƣơng thay, trong tờ
cung dƣới âm phủ chính chồng nàng đã kết tội nàng: “Đem môi son má phấn
làm tôi say mê / Rút nguyên khí chân tinh làm tôi hao tổn”.
Ở kiểu truyện này, giữa “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu và “Truyền
kì mạn lục” của nguyễn Dữ cũng có nhiều điểm khác nhau.
49
Thứ nhất, trong “Tiễn đăng tân thoại”, tình duyên thƣờng diễn ra giữa
ngƣời sống với hồn ma của ngƣời đã từng quen biết. Ví nhƣ trong Kim
phượng thoa ký, Thôi Hƣng Ca trốn đi cùng với hồn ma của ngƣời vợ chƣa
cƣới; trong Ái Khanh truyện, Triệu sinh đƣợc may mắn gặp lại hồn ma của
ngƣời vợ cũ, họ cùng nhau chuyện trò, hoan lạc; trong Cô gái áo xanh, lại là
chuyện tình của Triệu Nguyên và hồn ma của ngƣời thị nữ trong phủ họ Giả,
ngƣời yêu từ kiếp trƣớc. Tuy nhiên, ở “Truyền kì mạn lục”, tình duyên lại
diễn ra giữa hồn ma nữ với những chàng trai không quen biết, đa số đều là
những ngƣời vùng khác đi ngang qua địa phận của ma: Nhị Khanh (Chuyện
cây gạo), Liễu, Đào (Chuyện kì ngộ ở trại Tây), Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở
Xương Giang).
Theo tín niệm phổ biến trong dân gian của ngƣời Việt, những vong hồn
cô độc (linh hồn những ngƣời chết đƣờng chết chợ, ngƣời chết oan, chết bất
đắc kì tử, thậm chí cả những ngƣời phạm tội nhƣ ăn trộm, ăn cƣớp, dâm dục,
loạn luân) do không có ngƣời tế tự bị đói khát, lạnh lẽo nên thƣờng lang thang
vơ vẩn trên trần thế, gieo rắc tai họa. Những hồn ma đó trở thành nỗi sợ hãi,
khiếp đảm của con ngƣời. Tuy nhiên dù đáng sợ thế nào chúng cũng không
bao giờ gây họa, làm khó cho ngƣời thân. Phải chăng vì thế mà tình duyên
giữa ngƣời và hồn ma trong “Truyền kì mạn lục” thƣờng là giữa họ trƣớc đó
không có quan hệ gì.
Thứ hai, Nguyễn Dữ đã mƣợn cốt truyện ngƣời lạc vào cõi tiên trong
văn học dân gian (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên) và thổi vào đó một nội dung
mới mang hơi thở của thời đại, mang tính triết lí về bi kịch của kẻ sĩ, hành
trình tìm kiếm sự an lạc và hạnh phúc của con ngƣời trong xã hội phong kiến.
Chính điều đó đã đem lại giá trị nhân văn cao đẹp và sức hấp dẫn không thể
phủ nhận của Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên nói riêng, “Truyền kì mạn lục” nói
chung. Ở “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu, không có truyện viết về ngƣời
trần lạc vào cõi tiên và kết hôn cùng tiên nữ. Mô típ ngƣời lấy chồng là thần
50
tiên giáng sinh, ngƣời lấy chồng là thủy quái cũng chỉ có ở “Truyền kì mạn
lục”. Các nhân vật trong truyện của Nguyễn Dữ gắn với môi trƣờng nƣớc
nhiều hơn (thế giới nƣớc, đảo hoang giữa biển nƣớc…). Đây là môi trƣờng
hết sức gần gũi với các cƣ dân trồng lúa nƣớc.
Nhƣ vậy, xét riêng ở mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị”, không thể
phủ nhận sự ảnh hƣởng, vay mƣợn của Nguyễn Dữ từ “Tiễn đăng tân thoại”
của Cù Hựu. Xem xét tính đồng loại hình giữa các nền văn học trên thế giới,
đặc biệt hai nƣớc lại có sự tƣơng cận về không gian, lịch đại, phong tục tập
quán, chữ viết…thì sự giao thoa, vay mƣợn của “Truyền kì mạn lục” là hoàn
toàn dễ hiểu. Tuy nhiên, Nguyễn Dữ ngoài những tiếp nhận trực tiếp từ “Tiễn
đăng tân thoại” của Cù Hựu còn tiếp thu những yếu tố của văn học dân gian
và văn hóa bản địa trong sáng tác của mình. Bằng tài năng và trái tim của một
ngƣời nghệ sĩ lớn, Nguyễn Dữ đã hƣớng tới những chủ đề phù hợp với tâm lí
của ngƣời Việt trong việc kết hợp yếu tố mang tính đặc trƣng của thể loại với
những hiện tƣợng lịch sử cụ thể. Không gian của câu chuyện, tâm lí tính cách
của nhân vật đều mang đậm nét dấu ấn của ngƣời Việt. Tác phẩm vì thế là
một sáng tác nghệ thuật chứ không phải là sự “mô phỏng”, “bắt chƣớc” hay
“sao chép nguyên dạng” nhƣ một số ý kiến đánh giá.
2.5. Vai trò của mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền
kì mạn lục”
2.5.1. Trong việc xây dựng đề tài, chủ đề, tạo dựng tính dân tộc
Việc sử dụng mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì
mạn lục” góp phần quan trọng trong việc thể hiện đề tài, chủ đề, tạo dựng tính
dân tộc trong mỗi truyện.
Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả, thể hiện,
tạo thành chất liệu của thế giới hình tƣợng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở
để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Có thể nói, đề tài là
khái niệm trung gian giữa thế giới hiện thực đƣợc thẩm mĩ hóa trong tác phẩm
51
và bản thân đời sống. Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm, là phƣơng diện chính
yếu của đề tài. Nói cách khác, chủ đề là những vấn đề đƣợc nhà văn tập trung soi
rọi, tô đậm, nêu lên trong tác phẩm mà nhà văn cho là quan trọng nhất.
“Truyền kì mạn lục” có rất nhiều chủ đề nhƣ: Bi kịch tình yêu, khát
vọng tình yêu đôi lứa, giá trị của ngƣời phụ nữ, những bài học giáo huấn về các
vấn đề xã hội… Việc sử dụng mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong
“Truyền kì mạn lục” trở thành vỏ bọc để phản ánh hiện thực xã hội đƣơng thời.
Ngay cả khi miêu tả các nhân vật nữ là hồn ma hay là những tinh vật,
ngòi bút của các tác giả truyền kì, dù có khi phê bình chuyện tình cảm đồi
phong bại tục, nhƣng cũng có không ít những đoạn ca ngợi tài, sắc, thậm chí
là ca ngợi những phẩm chất đáng quý khác của họ. Nàng Nhị Khanh (Chuyện
cây gạo) là “giai nhân tuyệt sắc”, văn tài không kém gì Dị An, nàng Thị Nghi
(Chuyện yêu quái ở Xương Giang) thì “khá có tƣ sắc”, khi là hồn ma và thành
vợ chồng với Hoàng sinh thì “cử động rất hợp lẽ, nói năng biết lựa lời, họ
hàng bạn bè ai cũng đều khen ngợi”. Liễu Nhu Nƣơng, Đào Hồng Nƣơng
(Chuyện kì ngộ ở Trại Tây) là những cây liễu, cây đào biến thành. Các tinh
vật ấy khi hóa thành ngƣời phụ nữ thì “vẻ kiều diễm quả là tột bậc”, còn thơ
do hai nàng sáng tác thì “thật là tuyệt diệu, lời hoa ý gấm khó lòng theo kịp
hai nàng”. Trong xã hội nam quyền, tài sắc, phẩm hạnh của ngƣời phụ nữ
thƣờng bị coi nhẹ mà Nguyễn Dữ lại dành nhiều ƣu ái cho các nhân vật nữ
của mình với những lời miêu tả mang tính chất ngợi ca nhan sắc, tài năng,
phẩm hạnh của họ. Đây là một biểu hiện của giá trị nhân đạo trong các sáng
tác truyền kì thời trung đại.
Họ không chỉ là những ngƣời phụ nữ xinh đẹp, tài năng mà họ còn là
những con ngƣời sống mạnh mẽ, táo bạo, khao khát tận hƣởng hạnh phúc trần
thế. Những lời tỏ bày của hồn ma Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) hẳn sẽ bị các
nhà nho xƣa xem là loạn ngôn, yêu ngôn: “Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa
chí, chứ văn chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng một nắm đất vàng là
52
hết chuyện. Đời trước những người như Ban Cơ, Sái Nữ nay còn gì nữa đâu.
Sao bằng ngay trước mắt tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi
tốt.”. Rõ ràng đây là lời lẽ hết sức táo bạo của một ngƣời phụ nữ cảm nhận rõ
ràng giá trị của hạnh phúc hiện tại, của tuổi xuân đang có. Hạnh phúc đó mới
là thực, không xa xôi, mơ hồ. Lời nói của nàng nhƣ lời khuyến khích con
ngƣời cần nắm bắt, tận hƣởng ngay hạnh phúc thật sự trƣớc mắt ấy. Và nàng
chính là minh chứng cho điều ấy: chết rồi mà vẫn khao khát níu giữ tình yêu
của cõi trần. Nàng Liễu, nàng Đào trong Chuyện kì ngộ ở Trại Tây là những
“u hồn trệ phách” nhập vào cuộc sống của dƣơng gian để tìm ngƣời tri âm,
tìm hạnh phúc tuổi xuân. Lời hai nàng dẫu dùng những hình ảnh ẩn dụ bóng
gió nhƣng vẫn không che giấu khát vọng tận hƣởng lạc thú trần thế: “Nay gặp
tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương để khỏi
hoài phí mất xuân quang.”.
Với Nguyễn Dữ khi viết về những mối tình trái với đạo đức, phép tắc
Nho gia, ông đã mƣợn mô típ dân gian để viết một cách “bay bƣớm”, “hả hê”,
“uyển chuyển”, để nhân vật bộc lộ tình cảm một cách say sƣa. Vì ông là con
ngƣời của Nho giáo nên không thể ca ngợi, chấp nhận hoặc cho phép tình yêu
lãng mạn, tình dục phóng túng, luyến ái phóng khoáng tồn tại nhƣ là vốn có
trong thực tế. Nhà văn phải cho nó tồn tại ở một thế giới khác và đó là thế
giới của những yêu ma không có thực. Đó cũng là nguyên nhân những nhân
vật sống không theo nguyên tắc lễ giáo phong kiến thì chỉ có thể là ngƣời đã
chết biến thành ma hay tinh cây. Qua những câu chuyện tình yêu giữa ngƣời
với yêu ma đó, tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc: phản ánh số phận
con ngƣời qua số phận ngƣời phụ nữ cho dù đó là yêu, ma, hồn. Đề cao
những khát vọng chân chính của ngƣời phụ nữ - khát vọng sống, khát vọng
tình yêu đôi lứa, Nguyễn Dữ cũng đồng cảm với những khát vọng ân ái của
con ngƣời. “Truyền kì mạn lục” có nhiều trang văn say sƣa miêu tả những
khoái lạc trần thế của con ngƣời. Từ Thức treo ấn từ quan say đắm trong mối
tình với tiên nữ. Nho sinh Hà Nhân và hai nàng Đào, Liễu đắm chìm trong
53
hoan lạc:“Tựa ngọc kề vàng, gối vừa xô đã khoát sóng hoa đào nghiêng ngả”.
Trong “Truyền kì mạn lục”, những khát vọng giải phóng bản năng phần nhiều
do ngƣời phụ nữ chủ động khêu gợi. Trong Chuyện kì ngộ ở trại Tây, các
nàng Đào, Liễu đã nói với Hà Nhân: “Nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em
muốn làm những bông hoa hướng dương để khỏi hoài phí mất xuân quang”.
Còn Nhị Khanh trong Chuyện Cây gạo bày tỏ ƣớc vọng với Trình Trung Ngộ:
“Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống
ngày nào, nên tìm lấy những thú vui, kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của
suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”.
Những ngƣời phụ nữ này chọn cách kiếm tìm và tận hƣởng tình yêu, hạnh
phúc trần gian, kiếm tìm hạnh phúc với ngƣời trần thế sau khi mình đã thuộc
về cõi khác. Họ là ma, là tiên, nhập vào đời sống trần gian để tìm bạn tình,
tìm ngƣời tri âm, hƣởng hạnh phúc, khoái lạc. Nhƣng rồi tình yêu và hạnh
phúc với họ cũng thật ngắn ngủi, niềm khát khao rất "ngƣời " của họ sớm bị
dập tắt, và họ đều phải nhận những kết cục bi thảm: Nhị Khanh cùng Trình
Ngộ bị đạo sĩ làm phép, lính đầu trâu trói gông đƣa về âm phủ; Hai nàng Đào,
Liễu bị cơn giông bão dập nát không còn hiện hồn đƣợc nữa; Từ Thức và
Giáng Hƣơng chia cách không còn đƣợc gặp nhau; Thị Nghi bị Diêm Vƣơng
tống giam, nhục hình đao kéo.
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ đã viết nên “những cuộc tình đã
làm xôn xao cả cõi trần thế, cả chốn thủy cung và nơi tiên giới”. Tình yêu
trong sáng tác của Nguyễn Dữ là tình yêu giữa ngƣời với tiên, ngƣời với ma,
giữa ngƣời với các tinh vật, giữa ngƣời với ngƣời. Viết nên những mối tình
nhƣ vậy, Nguyễn Dữ muốn gửi đến ngƣời đọc một thông điệp: Tình yêu luôn
luôn hiện diện, luôn luôn có trong mỗi con ngƣời, dù là ma thì tình yêu cũng
khiến cho họ có những xúc cảm nhƣ con ngƣời. Cái khao khát yêu, muốn yêu
và đƣợc yêu luôn luôn trỗi dậy, để rồi những con ngƣời, những thần tiên, ma
quái vƣợt qua mọi lễ giáo, vƣợt qua mọi rào cản nhằm thỏa mãn nhu cầu yêu
đƣơng của chính mình.
54
Tình yêu trong “Truyền kì mạn lục” không những là tình yêu đôi lứa
mà còn là tình cảm vợ chồng sâu sắc trong hoàn cảnh khó khăn và đầy biến
động của xã hội phong kiến. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên miêu tả một mối tình
thơ mộng giữa một nàng tiên mang nặng tình ngƣời với một kẻ sĩ đã treo ấn
từ quan, ở nơi bồng lại tiên cảnh. Ở Chuyện cây gạo, Chuyện kì ngộ ở Trại
Tây… thì lại miêu tả những mối tình trái với đạo lí Nho gia. Tình yêu mà
Nguyễn Dữ phản ánh trong “Truyền kì mạn lục” có tính chất phức tạp. Bên
cạnh một số mối tình lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình
cảm của các lớp bình dân, nhiều truyện khác lại phản ánh quan niệm sống đồi
bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ có phần thông cảm với
khát vọng hạnh phúc chính đáng khi miêu tả những cặp trai gái công nhiên
yêu nhau, đi lại, giao thiệp, hẹn hò, thề thốt với nhau; khi thể hiện nỗi buồn
thƣơng mong nhớ của cặp tình nhân phải xa cách nhau.
Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi thể hiện quan hệ yêu
đƣơng không lành mạnh giữa Trình Trung Ngộ và Nhị Khanh trong Chuyện
cây gạo; giữa Hà Nhân và hai nàng Đào, Liễu trong Chuyện kì ngộ ở Trại Tây,
… Trong Chuyện kì ngộ ở Trại Tây có đoạn: “Sinh rủ rê hai ả đến chơi chỗ
trọ của mình, chuyện trò đằm thắm. Chàng lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thùng
nói rằng: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉ e mưa
gió nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm yếu”. Sinh
khuyên lơn dịu ngọt rồi cùng tắt đèn đi nằm. Lửa đặm hương nồng, ân ái
mười phần thỏa nguyện”. Quả thật những chuyện nhƣ vậy thật xa lạ với quan
niệm lành mạnh về cuộc sống, về tình yêu nam nữ trong truyện Nôm bình dân,
trong văn nghệ dân gian. Đối với những truyện này, Nguyễn Dữ phải chăng
có ý phê phán những quan niệm đồi trụy và khẳng định lại những giáo điều về
đức hạnh, tiết nghĩa. Sự phê phán và khẳng định đó xuất phát từ thái độ bảo
thủ của Nho giáo, nhƣng xét về mặt khách quan thì cũng phù hợp với cuộc
đấu tranh để giữ gìn phẩm giá của con ngƣời.
55
Tuy đồng cảm với khát khao yêu đƣơng của con ngƣời, nhƣng quan
điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo. Điều đó phản ánh thái độ
đầy mâu thuẫn trong tƣ tƣởng và tình cảm Nguyễn Dữ.
Việc sử dụng mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị”, Nguyễn Dữ đƣợc
đƣợc thả sức vẽ lên những câu chuyện tình yêu đầy li kì, hấp dẫn qua đó để
gửi gắm tƣ tƣởng, tình cảm của mình.
Trong “Truyền kì mạn lục”, đội ngũ những kẻ theo học sách thánh hiền
đa phần là kẻ biến chất, suy đồi phẩm hạnh một cách vô độ. Anh chàng Hà
Nhân trong Chuyện kì ngộ ở trại Tây, bỏ bê việc học hành, đắm đuối trong
tình yêu với nàng Đào, nàng Liễu và ngay cả chàng Từ Thức (trong Từ Thức
lấy vợ tiên) khi đã có một địa vị ở chốn quan trƣờng nhƣng chàng vẫn từ bỏ
mũ áo đi ngao du sơn thủy. Phải chăng vấn đề thân phận của ngƣời trí thức
trong một xã hội chuyên chế đang đƣợc đặt ra? Ở đó họ không có chỗ dung
thân và ở đó họ cũng không thực hiện đƣợc lý tƣởng của mình nên họ phải
đắm mình vào những thú vui khác.
Mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn lục” không
chỉ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng đề tài, chủ đề cho mỗi truyện
mà nó còn có một vai trò quan trọng trong việc tạo dựng tính dân tộc.
Truyện truyền kì Việt Nam chịu ảnh hƣởng sâu sắc về mọi phƣơng diện
của thể loại truyền kì Trung Quốc nhƣng lại mang những nét riêng đậm đà
bản sắc dân tộc của văn học trung đại Việt Nam. Tính dân tộc đƣợc thể hiện
rõ nét ở nội dung tƣ tƣởng, ở khuynh hƣớng cảm hứng sáng tác của nhà văn.
Truyền kì Việt Nam đã lấy con ngƣời với cuộc sống đời thƣờng của họ làm
đối tƣợng chủ yếu để phản ánh. Nội dung cơ bản của truyền kì Việt Nam là
viết về tình yêu tự do của nam nữ, về kiếp sống khổ đau của những con ngƣời
bất hạnh, về xã hội bất công tàn bạo…
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm truyền kì có giá trị của Việt Nam
do tác giả Việt Nam sáng tác và mang tính dân tộc rất đậm nét. Việc ảnh
56
hƣởng văn học Trung Quốc chỉ là một phần, còn văn học dân gian truyền
thống và thành tựu của văn xuôi tự sự Việt Nam mới là nguồn gốc có ảnh
hƣởng trực tiếp nhất. Trƣớc đó, các nhà văn chỉ ghi chép lại các truyện dân
gian, các thần phả trong các đền miếu, hoặc dựa nhiều vào truyền thuyết
dân gian và ít nhiều thêm chi tiết cho câu truyện đƣợc hoàn chỉnh nhƣ “Lĩnh
Nam chích quái lục” của Trần Thế Pháp, “Thiên Nam vân lục” của Nguyễn
Hàng. Nhƣng “Truyền kì mạn lục” thì khác. Tác giả chỉ dựa vào một số cốt
truyện dân gian mà sắp xếp, hƣ cấu thêm và diễn tả bằng lời văn giàu chất
nghệ thuật khiến cho tác phẩm không phải là sự ghi chép đơn thuần mà thực
sự là một tác phẩm văn học có tính nghệ thuật cao. Việc sƣu tầm, chỉnh lí,
sửa chữa và khai thác đề tài của dân gian là một quá trình kế thừa và nâng
cao liên tục. Ngƣời đi sau tiếp bƣớc ngƣời đi trƣớc rút lấy những gì là tinh
hoa của ngƣời đi trƣớc để thực hiện một bƣớc xa hơn. Chuyện Từ Thức lấy vợ
tiên và Chuyện người con gái Nam Xương là hai truyện mà Nguyễn Dữ đã tiếp
thu trọn vẹn từ truyện cổ dân gian. Nguyễn Dữ còn mƣợn mô típ từ văn học
dân gian nhƣ mô típ lấy hồn hoa, mô típ ngƣời chết sống lại, mô típ đồ vật cũ
biến thành tinh rồi hoá thành ngƣời, mô típ lạc vào thế giới kì lạ… “Truyền kì
mạn lục” là sản phẩm của một giai đoạn mới trong quá trình ảnh hƣởng văn
học dân gian từ cốt truyện kết cấu, ngôn ngữ đến tƣ duy sáng tác. Đó là sự
ảnh hƣởng có ý thức. Nguyễn Dữ đã khéo khai thác đề tài dân tộc, đặc biệt
là trong các truyền thuyết dân gian, đã vƣợt lên trên sự ghi chép thông
thƣờng nhƣ trong “Lĩnh Nam chích quái lục” bằng cách hƣ cấu qua hình tƣợng
nghệ thuật. Trong “Lĩnh Nam chích quái lục” thì sự ảnh hƣởng của văn học
dân gian là rõ rệt, tác giả viết lại truyện dân gian một cách thứ tự có sắp
xếp. Truyện Hà Ô Lôi là đỉnh cao của “Lĩnh Nam chích quái lục”. Nhiều nhà
nghiên cứu coi đó là tác phẩm mở đầu cho thể loại truyền kì bởi nó có đầy
đủ các yếu tố của thể loại truyền kì. Với nhiều thế hệ, từ tác giả của “Thánh
Tông di thảo” đến tác giả của “Truyền kì mạn lục”, các nhà văn trung đại vẫn
tiếp tục con đƣờng của Lý Tế Xuyên, Trần Thế Pháp nhƣng không nhằm
57
phản ánh một thế giới trong truyện cổ tích, thần thoại hay truyện dã sử nữa
mà đã trực tiếp chuyển sang phản ánh những vấn đề xã hội. Những câu
chuyện lịch sử đƣợc Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ mô phỏng viết lại theo ý
của mình phù hợp với xu hƣớng đó. Cái thực đã có phần lấn át cái kì, cái
kì không còn là mục đích chính, đôi lúc nó chỉ còn là phƣơng tiện chuyển
tải nội dung hoặc để gây sức hấp dẫn cho tác phẩm. Đề tài về tình yêu đƣợc
viết nhiều hơn cả, các tác giả thƣờng viết về truyện tình yêu, về mối quan
hệ giữa con ngƣời và ma quỷ. Viết về tình yêu nhƣng cũng chính là nhằm
mục đích tố cáo những quan niệm lạc hậu, cổ hủ của xã hội đã ngăn trở tình
yêu, thể hiện khát vọng hạnh phúc mãnh liệt của ngƣời phụ nữ.
2.5.2. Trong việc xây dựng cốt truyện, tình tiết nghệ thuật
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động
trong tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong
một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tƣ tƣởng của tác phẩm.
Cốt truyện đƣợc hiểu là hình thức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện nào,
dù quy mô lớn hay nhỏ, cốt truyện nói chung đều bao gồm các thành phần
chính: mở đầu (thắt nút) - phát triển - cao trào - kết thúc (mở nút). Trong bài
viết “Về mối quan hệ giữa mô típ và cốt truyện”, đăng trên Tạp chí văn học số
2, năm 1987, Nguyễn Ngọc Thƣờng đã chỉ ra “Mô típ xuất hiện như là những
phần tử đầu tiên tạo thành một thể thế giới hình tượng, trên cơ sở đó, qua
thời đại khác nhau tạo thành những thể loại nghệ thuật khác nhau. Con người
tiếp cận các sản phẩm đó và chế biến chúng theo xu thế xã hội. Và đây chính
là nguyên nhân tạo điều kiện cho mô típ có khả năng phát triển và biến đổi
thành phần cốt truyện phù hợp với trình độ tư duy và khả năng nhận thức của
con người” [50]. Ông khẳng định: “mô típ được xem như là yếu tố, hạt nhân,
sau đó phát triển thành cốt truyện, nghĩa là mô típ là yếu tố ban đầu và cốt
truyện là giai đoạn tiếp theo” [50].
58
Tìm hiểu “Truyền kì mạn lục”, ta thấy việc sử dụng mô típ “Tình yêu
và hôn nhân kì dị” có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng cốt truyện.
Trong Chuyện kì ngộ ở Trại Tây, cách mở đầu giới thiệu nhân vật là
chàng Hà Nhân, “người học trò nghèo quê ở Thiên Trường, khoảng năm
Thiệu Bình ngụ ở kinh sư để tòng học cụ Ức Trai”. Tiếp theo tác giả tập
trung vào việc mô tả cuộc gặp gỡ giữa chàng và hai ả Đào và Liễu. Rồi họ
sớm tối ngày ngày gặp gỡ ân ái, hƣởng lạc khiến chàng Hà Nhân quên cả
việc học hành. Truyện kết thúc bằng cuộc chia tay đầy nuối tiếc giữa Hà
Nhân và hai nàng.
Trong Chuyện cây gạo, mở đầu bằng cách giới thiệu nguồn gốc, xuất
xứ nhân vật nhƣ bao truyện khác. Sau đó tác giả tập trung miêu tả cuộc gặp
gỡ giữa Trình Trung Ngộ và hồn ma Nhị Khanh. Trên con đƣờng làm ăn,
buôn bán, Trình Trung Ngộ gặp Nhị Khanh – một cô gái xinh đẹp. Truyện kể
rằng vào một đêm khuya, Trung Ngộ gặp Nhị Khanh trên cầu Liễu Khê. Họ
đƣa nhau xuống thuyền rồi cùng nhau ân ái. Đƣợc hơn một tháng , khi nghe
mọi ngƣời khuyên răn, Trung Ngộ mới dần tỉnh ngộ. Từ đó chàng mới biết cô
gái mình gặp gỡ chính là một hồn ma. Hoảng sợ vô cùng, chàng sinh ra ốm
nặng rồi chết bên quan tài Nhị Khanh. Kết thúc thiên truyện là hình ảnh hồn
ma Trung Ngộ và Nhị Khanh vào những đêm tối trời vừa đi vừa hát, vừa khóc
có khi tác quái làm hại con ngƣời nhƣng cuối cùng bị một đạo sĩ tiêu diệt.
Nếu nhƣ kết thúc truyện Chuyện kì ngộ ở Trại Tây, Hà Nhân sực tỉnh chia tay
với mộng đẹp trở về với cuộc sống đời thƣờng, anh lại tiếp tục dùi mài kinh
sử những mong lập sự nghiệp, lƣu danh muôn thuở thì ở Chuyện cây gạo
cánh cửa tƣơng lai đã khép lại đối với nhân vật. Trình Trung Ngộ phải chết
biến thành hồn ma lang thang. Những linh hồn không đƣợc siêu thoát thật
đáng thƣơng và đáng trách. Ở đây nhân vật đã bỏ mạng vì yêu. Cách kết thúc
đó đã thể hiện tài năng sáng tạo của Nguyễn Dữ. Chính vì vậy, có ngƣời cho
rằng Chuyện cây gạo và truyện Chuyện kì ngộ ở Trại Tây là những truyện
ngắn truyền kì nhƣng rất gần với truyện ngắn hiện đại.
59
Việc sử dụng các mô típ truyện có nguồn gốc dân gian có vai trò làm
đầy đặn thêm cốt truyện, làm phong phú hệ thống chi tiết khiến mỗi câu
chuyện trở nên li kì, hấp dẫn, thổi vào những cốt truyện đó một sức sống mới
với những vấn đề của cuộc sống sinh động. Nếu nhƣ cốt truyện đơn giản và
sơ lƣợc là đặc điểm cơ bản của truyện kể dân gian, đặc điểm này do phƣơng
thức sáng tác và lƣu truyền bằng miệng quy định thì cốt truyện của các truyện
trong “Truyền kì mạn lục” đƣợc tác giả xây dựng phức tạp hơn nhiều. Có thể
dẫn ra trƣờng hợp Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên và truyện cổ tích Sự tích động
Từ Thức là cốt truyện có nhiều nét gần gũi nhau. Ta thấy cũng là câu chuyện
kể về chuyện chàng Từ Thức tình cờ đã lấy đƣợc vợ tiên, nhƣng ở truyện cổ
tích Sự tích động Từ Thức, nói về nỗi nhớ quê của chàng Từ Thức sau một
thời gian sống ở cõi tiên, các tác giả dân gian chỉ nói chung chung là “nhớ”,
“buồn”, còn ở trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên nỗi nhớ quê của Từ Thức
đƣợc Nguyễn Dữ miêu tả rất sinh động, kỹ lƣỡng những diễn biến tâm lý bên
trong tâm trạng của chàng: “Từ khi bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm,
ao sen đã đổi thay màu biếc. Những đêm gió thổi, những sáng sương sa, bóng
trăng sáng dòm qua cửa sổ, tiếng thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh
chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng quấy nhiễu không sao ngủ được”. Từ
nói vợ rằng “Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng
cỏ héo hon”. Rõ ràng trong “Truyền kì mạn lục”, tình tiết cụ thể hơn, nó biểu
hiện những sự việc mang tính cá nhân rõ nét.
Nhƣ vậy, cách xây dựng cốt truyện ở mỗi thiên truyện sẽ phụ thuộc vào
khả năng biến hóa, sáng tạo mô típ ở mỗi tác giả để tạo ra những thiên truyện
có những cốt truyện mới mẻ, hấp dẫn, lôi cuốn.
2.5.3. Trong việc xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật
GS. Trần Đình Sử có viết trong Những thế giới nghệ thuật thơ: “Không
gian nghệ thuật là những mô hình nghệ thuật về thế giới nghệ thuật mà con
người đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình trong đó. Không
60
gian nghệ thuật gắn liền với quan niệm con người và góp phần biểu hiện
quan niệm ấy” [41, 373]. Từ định nghĩa đó, ta có thể hiểu không gian nghệ
thuật là hình tƣợng không gian trong tác phẩm, là môi trƣờng hoạt động của
nhân vật đƣợc thể hiện dƣới sự lựa chọn, sắp xếp, tổ chức sáng tạo và biểu
hiện quan niệm của nhà văn.
Còn thời gian nghệ thuật là “thời gian được cảm nhận bằng tâm lí qua
chuỗi các tình tiết liên tục biến đổi có ý nghĩa thẩm mĩ xảy ra trong thế giới
nghệ thuật” [40, 63] hay “thời gian nghệ thuật là một hình tượng nghệ thuật
được sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật. Nó được được dùng làm
phương tiện nghệ thuật phản ánh đời sống” [15, 25]. Nhƣ vậy, thời gian nghệ
thuật chính là hình tƣợng nghệ thuật đƣợc dùng làm phƣơng tiện phản ánh đời
sống, cảm xúc, tƣ tƣởng của nhà văn. Thời gian này, có tính chất tự do so với
thời gian khách quan, đƣợc cảm nhận bằng tâm lí, ý nghĩa thẩm mĩ nhằm sáng
tạo ra thế giới nghệ thuật có thể trƣờng tồn với thời gian.
Có thể nói, mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn lục”
đã góp phần quan trọng trong việc mở rộng không gian, thời gian nghệ thuật
truyện truyền kì mà không phải thể loại nào cũng có đƣợc vị thế hấp dẫn này.
Không gian của truyện không còn bị bó hẹp trong phạm vi không gian
trần thế chật hẹp mà đƣợc mở rộng ra nhiều không gian khác nhƣ: Thiên giới,
Âm phủ, Thủy phủ, không gian hải đảo, biển, rừng… Các không gian đó
thƣờng đƣợc đo bằng một kiểu thời gian khác: một ngày bằng nhiều năm ở
cõi trần. Từ Thức trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên khi trở về quê hƣơng, mọi
ngƣời đã không còn nhận ra ông, thấm thoắt đã 80 năm trôi qua.
Ở truyện Chuyện đối tụng ở Long cung, ta bắt gặp không gian tâm linh
mà thần Thuồng luồng tồn tại là ngôi đền thờ thần thủy tộc ở men sông.
Khung cảnh thật hoang vắng, ngoại trừ bến nƣớc, con thuyền chỉ có “bãi cát
phẳng lặng không có nhà cửa gì, duy lèo tèo mấy khóm lau sậy đứng rung
mình trên mặt nước”.
61
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, từ thực tế nơi đền chùa đến sự gặp gỡ giữa
Giáng Hƣơng và Từ Thức ở thế giới hƣ ảo nơi tiên cảnh là cả quá trình sáng
tạo của ngƣời nghệ sĩ Nguyễn Dữ. Từ điểm nhìn về không gian núi non hùng
vĩ và ý thích đƣợc khám phá những khung cảnh đẹp của đất nƣớc mà Từ Thức
đã đến với thế giới khác lạ so với trần gian. Nguyễn Dữ đã khéo léo vận dụng
sự việc hƣ ảo, không gian tiên cảnh rất hợp với nhân duyên Từ Thức và Giáng
Hƣơng để xây dựng câu chuyện thử thách nhân vật của mình trong một thế
giới khác, một không gian nghệ thuật khác. Bằng chứng là thời gian Từ Thức
sống trên tiên giới rất ngắn ngủi so với thời gian hiện thực. Cho thấy, không
gian này là nơi lí tƣởng cho mọi ngƣời sống. Chính vì sống ở nơi đầy thi vị
này mà mọi ngƣời không còn nhớ đến thế giới hiện thực nữa. Điều này hoàn
toàn khác với thiên đƣờng hay địa ngục. Bởi nơi này không giống với bất cứ
nơi đâu trong cuộc sống. Thế giới này chỉ có trong ý niệm, ƣớc vọng của nhà
văn. Ở nơi này thần và ngƣời cùng chu du, cùng có những hỉ, nộ, ái, ố lẫn lộn.
Con ngƣời ta có quyền làm và sống theo ý nguyện của lòng mình, khác hơn
với thiên đƣờng hay địa ngục đều có những quy luật và những ràng buộc mà
mọi ngƣời phải tuân theo. Ở nơi tiên cảnh, Từ Thức và Giáng Hƣơng đều có
thể yêu nhau, chung sống cùng nhau, hƣởng thụ cuộc sống mà trần gian
không thể tìm thấy đƣợc. Từ đó cho thấy nhà văn đã có sự bứt phá trong tƣ
tƣởng Nho gia của mình. Ông đã chịu ảnh hƣởng của Lão giáo và Đạo giáo:
con ngƣời luôn khao khát tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình. Bên cạnh
những tƣ tƣởng tiến bộ, lành mạnh đó, nhà văn cũng góp phần làm nên triết lí
nhân sinh của cuộc đời. Việc Từ Thức sống trong thế giới tiên cảnh vẫn
không nguôi nhớ quê hƣơng cho thấy không gian tiên cảnh chỉ có trong mộng
mị, trong khát vọng mà thôi. Bởi cuộc sống có đẹp, có thanh thản, có thoát tục
đến đâu thì cũng chỉ là cảnh xa vời. Con ngƣời vẫn không quên đƣợc hiện tại
cuộc sống nơi mình ngự trị. Dẫu cuộc sống ấy có cực khổ với những buồn vui
thì đó vẫn là thực tại. Việc Từ Thức sống trong cõi tiên chỉ là chút lòng mơ
62
ƣớc, là một cuộc phiêu du mà dẫu hấp dẫn ra sao thì con ngƣời rồi cũng phải
quay về.
Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh, cũng có đoạn miêu tả không gian
cung Tử Vi, nơi mà quần tiên thƣợng đế tụ họp. Nơi đó ta thấy từng vật thể
của thiên đình đều mang màu sắc tinh khiết, trong sáng vằng vặc, để có thể
thích ứng với tâm hồn những con ngƣời sống trong không gian ấy. Nguyễn
Dữ đã ý thức về sự hữu hạn của con ngƣời sống trong không gian nên ông đã
tìm sự vô hạn trong thời gian vĩnh cửu trong nhân sinh, thanh bình. Nhƣng
khi đã thực sự sống trong thế giới ấy nhân vật của ông nhận thấy thế giới ấy
chỉ là ảo mộng của đời ngƣời.
2.5.4. Trong việc xây dựng nhân vật
Sự mở rộng không gian và thời gian đó đã góp phần quan trọng trong
việc xây dựng hành động và tính cách nhân vật, tạo ra những khoảng không
bao la cho sự sáng tạo nghệ thuật. Diện mạo, tính cách, tâm tƣ tình cảm cũng
nhƣ ƣớc nguyện của con ngƣời trong cuộc sống, thậm chí là thần tiên, là ma,
là tinh vật… đã đƣợc Nguyễn Dữ thể hiện một cách chân thực, sinh động.
Mỗi nhân vật đề có một hoàn cảnh riêng, tính cách riêng, tâm sự riêng (dẫu
tâm lí nhân vật chƣa đƣợc khắc họa sắt nét nhƣ các tác phẩm tự sự hiện đại
sau này) nhƣng nhân vật đã để lại dấu ấn đậm nét nhƣ chính con ngƣời ngoài
đời thực. Ẩn bên trong thế giới nghệ thuật ấy là cả một tấm chân tình rất thắm
thiết của tác giả.
Ta bắt gặp trong “Truyền kì mạn lục” một thế giới nhân vật đa dạng: từ
con ngƣời trần thế với đủ giai cấp, thành phần nhƣ quan lại, nho sinh, lái buôn,
ca nữ …đến nhân vật trong thế giới siêu nhiên nhƣ ma, quỷ, tinh vật, thần
tiên… Mỗi nhân vật đều có tính cách, số phận riêng đƣợc xây dựng một cách
khéo léo, sinh động, phản ánh đƣợc hiện thực nhiều mặt của xã hội với đầy đủ
tốt, xấu; thiện, ác… Có ngƣời là quan thanh liêm, thƣơng dân nhƣ Dƣơng
Đức Công (Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh) Có ngƣời là nho sinh nhƣng
63
không lo học hành, mải mê yêu đƣơng (nhƣ Hà Nhân trong Chuyện kì ngộ ở
Trại Tây)... Có kẻ là hồn ma của ngƣời chết nhƣ hồn ma Nhị Khanh trong
Chuyện cây gạo, hồn ma Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang), có kẻ
lại là các tinh vật nhƣ Liễu Nhu Nƣơng và Đào Hồng Nƣơng (Chuyện kì ngộ
ở Trại Tây), Có khi nhân vật lại là thần Thuồng luồng dƣới thủy cung
(Chuyện đối tụng ở Long cung), là tiên cõi trời nhƣ Giáng Hƣơng (Chuyện Từ
Thức lấy vợ tiên)….
Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang không nói nhiều,
không táo bạo và thẳng thắn đề cập đến vấn đề hoan lạc ái ân nhƣ Nhị Khanh
hay Hồng Nƣơng, Nhu Nƣơng nhƣng những câu nói của nàng mang nhiều nét
trí trá, ranh mãnh của một hồn ma, khiến ngƣời nghe dù có sắt đá cũng phải ỉu
mềm. Lời nói của nàng luôn mang giọng điệu ngọt nhạt tinh quái: “Thiếp vốn
người ở Phong Châu, cha mẹ làm nghề buôn hàng tấm. Không may bị quân
cường đạo giết người cướp của, cha mẹ thiếp đều hồn chôn bụng cá, xương
gửi lòng sông. Còn lại tấm thân yếu ớt trơ trọi này thoát khỏi miệng hùm lần
lên bờ sông, tìm vào nhà dân ở đậu. Hôm qua nhân ra bờ sông hái dâu cho bà
chủ, chợt đi qua chỗ gặp nạn cũ, bất giác đau xót mà ngồi đây khóc lóc đến
giờ”, “Chiếc thân trôi nổi, nào có đáng tiếc gì đâu, chỉ hận một điều là hài
cốt cha mẹ, chưa vớt lên được để đem về mai táng… Nếu vậy thật là lòng trời.
Ngài quả giúp cho được như thế, thật là cái ơn cốt nhục sinh tử. Thiếp dù có
nát thân báo đền cũng đều không dám quản…”. Có khi lời nói của nàng lại
mang nét đanh đá, quyết liệt không giống với sự chuẩn mực, điềm đạm, nhu
thuận của ngƣời phụ nữ đạo đức lý tƣởng: “Anh chàng huyễn thuật này ở đâu
ly gián vợ chồng ta, chia rẽ nhà của ta”. Hành động và lời nói của Thị Nghi
luôn đƣợc miêu tả gắn với những cử chỉ nhƣ “khép nép lau ráo nước mắt rồi
nói”, “lại khóc nói”, “mừng rỡ nói”, “cả giận, lấy gậy đập vỡ cái chai rồi
mắng”… Điều đó khiến cho nhân vật trở nên sinh động, dẫu là ma nhƣng vẫn
có đời sống, tính cách và tâm lí nhƣ một con ngƣời.
64
Nàng Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo nhiều khi quyết liệt, ranh mãnh
khiến Trình Trung Ngộ và độc giả không khỏi ghê rợn. Lời nói của nàng vừa ai
oán, lại nhƣ một lời đòi hỏi đầy quả quyết và táo tợn. Khi Trung Ngộ đến Đông
thôn và định bỏ chạy: “Chàng đã từ xa lại đây, quyết không có lý nào còn trở về
nữa. Phương chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết mà hẹn hò
nhau! Xin sớm theo nhau đi cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò võ một
mình như vậy, lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về” . Câu nói phản ánh sự chủ
động táo bạo của Nhị Khanh, tô đậm tính chất ma quái của nàng và đồng thời thể
hiện thái độ quyết liệt trong hành động giữ gìn hạnh phúc cá nhân của nàng.
Nguyễn Dữ thành công hơn cả so với các tác giả truyền kì chính bởi
khả năng xây dựng nên những nhân vật mang diện mạo tính cách riêng, có
cuộc sống riêng và có những nhân vật đƣợc khắc họa rất ấn tƣợng, trở thành
nhân vật điển hình của văn học trung đại. Các tác giả truyền kì đa số nặng về
ghi chép nên thƣờng ít chú ý đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật.
Truyện truyền kì của Nguyễn Dữ đã khắc phục đƣợc điều này và bƣớc đầu đã
quan tâm đến việc miêu tả nội tâm nhân vật. Thành công này một phần nhờ
vào việc sử dụng mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” một cách đầy sáng tạo
của tác giả Nguyễn Dữ.
Tiểu kết Chƣơng 2
Mƣợn mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị”, Cù Hựu và Nguyễn Dữ đã
đƣa con ngƣời vào những cuộc tình với thần tiên, ma, tinh loài vật… để từ đó
gián tiếp đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa thời đại, những vấn đề liên quan
trực tiếp đến đời sống tình cảm cá nhân của mỗi con ngƣời. Đó là khát vọng
tình yêu và hạnh phúc trần thế, dù nhiều lúc phóng túng, sa đọa. Đặc biệt với
Nguyễn Dữ, ông còn trực tiếp tố cáo tầng lớp thống trị và thể chế đƣơng thời,
vạch trần những tƣ tƣởng thần quyền, hà khắc trói buộc tình cảm cá nhân, dồn
đuổi con ngƣời vào chỗ không lối thoát.
65
Từ việc khảo sát nội dung của mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị”
trong “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” chúng tôi đi tìm hiểu
nét độc đáo riêng của hai tập truyện cũng nhƣ sự chuyển dịch của hai mô típ
qua từng tập truyện. Qua đó thấy đƣợc năng lực vận dụng những giá trị truyền
thống, kế thừa tinh hoa của văn học nƣớc ngoài ở Nguyễn Dữ, giải mã những
vấn đề nội dung, tƣ tƣởng đƣợc các tác giả gửi gắm trong mỗi tác phẩm của
mình. Vai trò của mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong nghệ thuật xây
dựng truyện của “Truyền kì mạn lục” cũng đƣợc khai thác một cách chi tiết
và cụ thể.
Sự sáng tạo của Nguyễn Dữ sẽ tiếp tục đƣợc khảo sát ở mô típ “Ngƣời
lạc vào thế giới khác” trong chƣơng tiếp theo.
66
CHƢƠNG 3: MÔ TÍP “NGƢỜI LẠC VÀO THẾ GIỚI KHÁC” TRONG
“TIỄN ĐĂNG TÂN THOẠI” VÀ “TRUYỀN KÌ MẠN LỤC”
3.1. Khảo sát mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong hai tác phẩm
Trong thể loại truyền kì, có một mô típ khá phổ biến với số lƣợng lớn
đƣợc các nhà nghiên cứu để tâm: mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác”. Xem
cách gọi tên, ta thấy điểm khác biệt nổi bật của mô típ này so với các mô típ
khác chính là ở bối cảnh không gian của truyện. Ngoài không gian ở thế giới
thực, trong mô típ này còn có không gian khác, không gian của tâm linh, của
tƣởng tƣợng. Đó là thế giới của thủy cung, địa phủ, thế giới thần tiên hay
thiên giới.
Cũng theo Toàn Huệ Khanh trong cuốn Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết
truyền kì Hàn Quốc – Trung Quốc – Việt Nam, các nhân vật chính khi đến thế
giới khác sẽ với hai mục đích: giao du, gặp gỡ hay diệt trừ. Ranh giới của hai
kiểu truyện này cũng chỉ là tƣơng đối.
Về số lƣợng, trong “Tiễn đăng tân thoại” ta có thể tìm thấy 13/20
truyện có sử dụng mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác”. Trong “Truyền kì
mạn lục” có 16/20 truyện sử dụng mô típ trên.
Trong “Tiễn đăng tân thoại”, với chủ đề giao du có 9 truyện, chủ đề
diệt trừ chỉ có 4 truyện.
Trong “Truyền kì mạn lục”, với chủ đề giao du, chỉ có 7 truyện trong
khi chủ đề diệt trừ có tới 9 truyện. Nguyễn Dữ viết nhiều về chủ đề diệt trừ
phải chăng có ý đồ. Khát vọng đấu tranh để thay đổi xã hội, đem lại những
điều công bằng và tốt đẹp cho con ngƣời ở Nguyễn Dữ mạnh mẽ hơn.
Từ việc tìm hiểu về mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong các
truyện của “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”, chúng tôi có bảng
thống kê sau:
67
Bảng 3: Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Tiễn đăng tân thoại”
Truyện Tên truyện Nhân vật Nơi đến Mục đích
Thủy Cung khánh hội lục Dƣ Thiện Văn Thủy phủ Giao du 1 (Tiệc mừng dưới Thủy Cung)
Tam Sơn phúc địa chí Nguyên Tự Thực Tiên giới Giao du 2 (Miền phúc địa ở Tam Sơn)
Hoa Đinh phùng cố nhân ký Thạch Nhƣợc Hƣ Âm phủ Giao du 3 (Gặp người cũ ở Hoa Đình)
Lệnh Hồ Sinh minh mộng
4 lục (Chàng Lệnh Hồ nằm Lệnh Hồ Sinh Âm phủ Giao du
mơ xuống âm phủ)
Thiên Thai phỏng ẩn lục
5 (Thăm người ở ẩn chốn Từ Dật Tiên giới Giao du
Thiên Thai)
Mẫu đơn đăng ký 6 Kiều Sinh Âm phủ Diệt trừ (Chuyện chiếc đèn mẫu đơn)
Phú quý phát tích tƣ chí
7 Hà Hữu Nhân Âm phủ Giao du (Ty cai quản việc phát giàu
sang)
Vĩnh Châu dã miếu ký
8 Tất Ứng Tƣờng Âm phủ Diệt trừ (Ngôi miếu hoang ở Vĩnh
Châu)
Ngoại lệ Thân Dƣơng động ký 9 Lý Đức Phùng Diệt trừ (Động yêu (Chuyện động Thân Dương) khỉ)
68
Long Đƣờng linh hội lục
10 Văn Tử Thuật Thủy phủ Giao du (Cuộc hội ngộ linh diệu ở
miếu Long Vương)
Thái Hƣ Tƣ pháp truyện
11 (Chức Tư pháp ở điện Thái Phùng Đại Dị Âm phủ Diệt trừ
Hư)
12 Hạ Nhan Âm phủ Giao du Tu văn Xá nhân truyện (Chức Xá nhân tu văn)
Giám Hồ dạ phiếm ký
13 Thiên giới Giao du Thành Lệnh Ngôn (Đêm chơi thuyền trên Giám Hồ)
Nhƣ vậy, Mẫu đơn đăng ký là truyện có cả hai mô típ “tình yêu và hôn
nhân kì dị” và “Ngƣời lạc vào thế giới khác” .
Bảng 4: Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Truyền kì mạn lục”.
Truyện Tên truyện Nhân vật Nơi đến Mục đích
Hạng Vƣơng từ ký
Hồ Tông Thốc Âm phủ Giao du 1 (Câu chuyện ở đền Hạng
Vương)
Mộc miên thụ truyện Trình Trung Ngộ Âm phủ Diệt trừ 2 (Chuyện cây gạo)
Trà Đồng giáng đản lục
3 (Chuyện gã Trà Đồng giáng Dƣơng Đức Công Thiên giới Giao du
sinh)
Long Đình đối tụng lục
4 (Chuyện đối tụng ở Long Thái thú họ Trịnh Thủy phủ Diệt trừ
Cung)
69
Đào Thị nghiệp oan ký
5 (Chuyện nghiệp oan của Hàn Than, Vô Kỷ Âm phủ Diệt trừ
Đào thị)
Tản Viên từ Phán sự lục
6 (Chuyện chức Phán sự đền Ngô Tử Văn Âm phủ Diệt trừ
Tản Viên)
Từ Thức tiên hôn lục 7 Từ Thức Tiên giới Giao du (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên)
Phạm Tử Hƣ du Thiên Tào
8 lục (Chuyện Phạm Tử Hư Phạm Tử Hƣ Thiên giới Giao du
dạo chơi Thiên tào)
Xƣơng Giang yêu quái lục
9 (Chuyện yêu quái ở Xương Thị Nghi Âm phủ Diệt trừ
Giang)
Na Sơn tiều đối lục
10 Trƣơng Công Tiên giới Diệt trừ (Chuyện đối đáp của người
tiều phu ở núi Na)
Đông Triều phế tự truyện Huyện trƣởng 11 (Chuyện cái chùa hoang ở Âm phủ Diệt trừ
Văn Tƣ Sĩ Đông Triều)
Đà Giang dạ ẩm ký Tú tài họ Viên, 12 Tiên giới Diệt trừ (Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà xử sĩ họ Hồ
Giang)
Nam Xƣơng nữ tử lục
13 (Chuyện người con gái Nam Vũ Nƣơng Thủy Phủ Giao du
Xương)
70
Lý tƣớng quân truyện Lý Thúc Khoản Âm phủ Giao du 14 (Chuyện Lý tướng quân)
Kim Hoa thi thoại ký
15 Mao Tử Biên Âm phủ Giao du (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim
Hoa)
Dạ Soa Bộ soái lục 16 Văn Dĩ Thành Âm phủ Diệt trừ
(Chuyện tướng Dạ Soa)
Có nhiều truyện cùng lúc có cả hai mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị”
và “Ngƣời lạc vào thế giới khác”, đó là: Chuyện cây gạo, Chuyện gã Trà
Đồng giáng sinh, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Chuyện yêu quái ở Xương
Giang.
3.2. Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Tiễn đăng tân thoại”
3.2.1. Người lên thiên đình
Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Tiễn đăng tân thoại” có 1
truyện viết về ngƣời lên thiên giới (thiên đình): Giám Hồ dạ phiếm ký (Đêm
chơi thuyền trên Giám Hồ).
Xử sĩ Thành Lệnh Ngôn không cầu danh tiếng thành đạt, tính vốn thích
sơn thủy. Một đêm đầu thu từng thả thuyền đọc thơ trên hồ Giám. Trong lúc
mơ màng chàng đƣợc Chức Nữ triệu vời, cả thuyền và ngƣời đều bay lên
sông Ngân. Chức Nữ nghiêm trang khẳng định không có chuyện ngoa truyền
“hẹn kì đêm thu”, “Ngƣu Lang Chức Nữ gặp nhau” và tỏ vẻ bất bình với
những “lời tà lẽ thô” của văn nhân hạ giới đùa cợt khinh nhờn thần linh.
Nhƣng vì nàng ở tận cảnh tiên, xa xôi dẫu trăm miệng cũng không biện bạch
đƣợc, nhân thế nhờ chàng khi về hạ giới giúp nàng tẩy rửa tiếng oan đó.
71
Trong truyện, Thành Lệnh Ngôn đƣợc ca ngợi hết mực ở cả cõi trần lẫn
cõi tiên. Ở cõi trần, chàng là ngƣời coi thƣờng danh lợi, tâm hồn phóng
khoáng, yêu thiên nhiên cảnh vật, thích làm bạn với muôn loài. Ở cõi tiên
chàng đƣợc Chức Nữ đánh giá là ngƣời “nghĩa cao, đức lớn, sau này cũng sẽ
thành thực” mà thành tâm gửi gắm việc “coi thƣờng thần, xúc phạm trời” của
giới văn sĩ dƣới trần, ngu dân thích chuyện hoang đƣờng bịa đặt. Sau câu
chuyện với tiên nữ, Thành Lệnh Ngôn nhận thấy cuộc đời còn nhiều uẩn khúc,
ngƣời đời phần nhiều là sai ngoa. Vậy gặp tiên cũng là để chiêm nghiệm, suy
ngẫm về đời, ý “khuyến thiện trừ ác” của Cù Hựu chẳng phải từ đấy mà ra
hay sao?
3.2.2. Người lên cõi tiên.
Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Tiễn đăng tân thoại” có 2
truyện viết về ngƣời lạc vào tiên giới: Thiên Thai phỏng ẩn lục (Thăm người
ở ẩn chốn Thiên Thai), Tam Sơn phúc địa chí (Miền phúc địa ở Tam Sơn).
Trong Thăm người ở ẩn chốn Thiên Thai, văn sĩ Từ Dật nhân tiết Đoan
Ngọ vào núi Thiên Thái hái thuốc, lạc đƣờng đến một xóm của những ngƣời
tránh nạn, cách biệt hẳn cõi đời. Ở đây, chàng gặp một vị lão trƣợng tự xƣng
là quan Thái học Đƣờng Thƣơng Xá. Lão trƣợng bảo với chàng: “Ta ở đây từ
đời Tống, chỉ biết có nhà Tống mà không biết có nhà Nguyên, càng không thể
nói gì về nhà Đại Minh”. Hai ngƣời cùng nhau bàn về các sự việc đời nhà
Tống, các bề tôi đƣơng thời.
Nhƣ vậy, sự lạc bƣớc đã cho Từ Dật cơ duyên để hiểu rõ về số phận và
phẩm chất của một danh sĩ đời Tống. Thái học Đào Thƣợng Xá đƣợc biết đến là
là một con ngƣời bản tính hiền hòa, đôn hậu, một ngƣời học rộng tài cao, có khát
vọng “lập thân lƣu danh”. Trƣớc cảnh nhiễu nhƣơng của thời loạn, tạo hóa xoay
vần khiến ông phải lang bạt đến nơi rừng sâu, non cao để tá túc. Cuộc sống giản
dị, ung dung tự tại “nhƣ kẻ lánh đời, ngƣời tị nạn”, xa lánh bụi trần mà lòng vẫn
nặng mối u hoài về thân phận của một kẻ sĩ đối với đất nƣớc, kể lại chuyện xƣa
72
mà thao thao bất tuyệt, bất giác rơi lệ. Số phận kẻ sĩ khiến ngƣời đọc không khỏi
trăn trở về hiện thực xã hội đƣơng thời (đời Tống).
Trong Miền phúc địa ở Tam Sơn, Nguyên Tự Thực may mắn xuống
đƣợc đất phúc Tam Sơn. Đến đấy ông mới hiểu ra cảnh nghèo khổ phiêu bạt
của mình kiếp này nguyên nhân là ở sự tự cao tự đại từ kiếp trƣớc. Chàng
đƣợc đạo sĩ chỉ cho con đƣờng thoát khỏi bến mê, về sau quả nhiên tai qua
nạn khỏi, trở nên giàu có; còn Liêu Quân, kẻ lừa lọc vô ơn, khó dễ với Tự
Thực cuối cùng không tránh khỏi sự báo ứng. Lạc vào cõi tiên chính là hành
trình để nhân vật thấm thía luật nhân quả, cũng là để mọi ngƣời trông đó mà
điều chỉnh hành vi thiện ác ở đời.
3.2.3. Người xuống thủy phủ
Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Tiễn đăng tân thoại” có 2
truyện viết về ngƣời lạc đến Long cung, đó là Thủy Cung khánh hội lục (Tiệc
mừng dưới Thủy Cung) và Long Đƣờng linh hội lục (Cuộc hội ngộ linh diệu ở
miếu Long Vương).
Trong Thủy Cung khánh hội lục (Tiệc mừng dưới Thủy Cung), ngay
nhan đề của truyện cũng thấy đây là một chuyện vui, và quả thật đó là một
cuộc dự “tiệc mừng”, một chuyến đi “hội” cuả con ngƣời trần thế diễn ra nơi
Long đình tráng lệ. Sĩ nhân Dƣ Thiện Văn ngƣời Triều Châu, với tài năng văn
chƣơng hiếm có của một hàn sĩ nơi trần gian mà tiếng tăm đã vang đến tận
thủy cung, đƣợc Quảng Lợi Vƣơng đích thân mời và ngỏ ý muốn đƣợc Dƣ
Thiện Văn làm bài thơ cất nóc cho điện Linh Đức. Theo lời mời của Quảng
Lợi Vƣơng, Thiện Văn xuống Nam Hải đọc bài Văn cất nóc trong bữa tiệc
khánh thành ngôi điện mới ở Long cung. Quảng Lợi Vƣơng còn cho mời ba
vị hải thần các biển Đông, Tây, Bắc cùng đến dự tiệc. Trong tiệc có mỹ nữ, ca
đồng đàn múa giúp vui, Thiện Văn lại dâng bài thơ Tiệc mừng dưới Thủy
cung để ghi lại một việc tốt đẹp, khen ngợi việc cất nóc điện. Cách hôm sau,
Quảng Lợi Vƣơng tặng chàng rất hậu hĩ rồi sai sứ giả đƣa chàng về. Thiện
73
Văn trở nên giàu có nhƣng chàng không để tâm đến công danh, rồi bỏ nhà đi
tu tiên.
Ở Cuộc hội ngộ linh diệu ở miếu Long Vương, Văn Tử Thuật khi đi qua
đền Long Vƣơng ở Ngô Giang bèn đề một bài thơ cổ phong, đƣợc Long
Vƣơng ngợi khen yêu mến gọi là “nhà thơ”, mời xuống chơi Thủy phủ. Cùng
họp mặt còn có ba vị cao sĩ ở đất Ngô và Ngũ đại phu. Điều này cho thấy tài
năng của Văn Tử Thuật có thể sánh ngang với các bậc kì tài. Long Vƣơng
mời khách trong tiệc làm thơ ca múa để góp vui, tiệc xong tặng Tử Thuật
nhiều châu báu rồi sai sứ giả đƣa chàng về.
Nho sĩ trong cả hai truyện đều có tài hơn ngƣời “vung bút thành bài
không cần phải soát” (Dƣ Thiện Văn), đƣợc Long Vƣơng mời xuống Thủy
phủ, có dịp thể hiện tài năng của mình, gặp gỡ và giao lƣu với tiền nhân, thần
thánh. Từ các vị hải thần các biển Đông, Tây, Bắc đến các vị cao sĩ ở đất Ngô,
họ đều nhất mực ngợi khen, thán phục. Khi trở về cả Sĩ nhân Dƣ Thiện Văn
và Văn Tử Thuật đều đƣợc ban thƣởng hậu hĩnh, tuy nhiên vinh hoa với họ
chỉ là phù du. Dƣ Thiện Văn không còn chuyên tâm vào công danh, bỏ đi tu
đạo rồi biến mất không rõ tung tích. Văn tử Thuật khi trở về dƣơng thế chỉ
biết đứng giữa dòng, trẩy thuyền mà không biết đi đâu.
Nhƣ vậy, xuống thủy cung, không gian mơ ƣớc, kẻ sĩ mới đƣợc sống
thật là họ, đƣợc thi triển tài năng và thấy mình có ích với đời. khi trở về với
cuộc sống thực tại, họ hoàn toàn bế tắc, mất phƣớng hƣớng. Đó cũng là nỗi
niềm, là cảnh ngộ của Cù Hựu ấy chăng?
3.2.4. Người xuống âm phủ
Âm phủ là nơi cƣ ngụ của hồn ma ngƣời chết, nơi Diêm Vƣơng phán
xét công và tội lần cuối cùng để ban thƣởng hay trừng phạt khi con ngƣời bị
đƣa xuống đây. Không gian âm phủ có quan lại, quỷ thần, có ngục Cửu U, có
đau đớn và gào thét khi bị trừng phạt…
74
Hầu hết các truyện trong “Tiễn đăng tân thoại” đều có hồn ma ngƣời
chết, có sự gặp gỡ giữa ngƣời trần và ngƣời cõi âm. Tuy nhiên, nếu lấy không
gian âm phủ (truyện có sự thay đổi từ không gian hiện thực đến không gian
của cõi âm) làm tiêu chí xác định truyện thuộc mô típ “ngƣời xuống âm phủ”
thì trong tập truyện có 7 truyện thuộc mô típ này. Trong đó 4 truyện nhân vật
chính giao du địa giới là: Lệnh Hồ Sinh minh mộng lục (Chàng Lệnh Hồ nằm
mơ xuống âm phủ), Phú quý phát tích tƣ chí (Ty cai quản việc phái giàu sang),
Hoa Đinh phùng cố nhân ký (Gặp người cũ ở Hoa Đình), Tu văn Xá nhân
truyện (Chức Xá nhân tu văn). Có 3 truyện mang chủ đề diệt trừ là Thái Hƣ
Tƣ pháp truyện (Chức Tư pháp ở điện Thái Hư), Vĩnh Châu dã miếu ký (Ngôi
miếu hoang ở Vĩnh Châu), Mẫu đơn đăng ký (Chuyện chiếc đèn mẫu đơn).
Ngoài ra, trong Tiễn đăng tân thoại có một trƣờng hợp ngoại lệ, không
nằm trong 4 nhóm trên nhƣng vẫn thuộc mô típ ngƣời lạc đến thế giới khác
(động yêu khỉ), đó là truyện Thân Dƣơng động ký (Chuyện động Thân
Dương). Dƣới đây, ngƣời viết chỉ xin dẫn ra 3 truyện với những chủ đề khác
nhau nhƣng đều rất tiêu biểu cho kiểu truyện có ngƣời xuống âm phủ.
Truyện Chàng Lệnh Hồ nằm mơ xuống âm phủ là cuộc đấu tranh của
con ngƣời trần gian với thế giới âm ty đầy quyền lực, cai quản việc sống chết
của con ngƣời với mong muốn công lí đƣợc thực hiện, sao cho “ngƣời làm
điều thiện đƣợc khen mà càng chăm, kẻ gieo điều ác bị phạt mà biết cạch”.
Đó là Lệnh Hồ Soạn, gia đình vốn ba đời hàn sĩ, tính cách ngay thẳng chính
trực. Bất bình trƣớc việc lão già họ Ô giàu có, tham lam, hung ác đã dùng tiền
mua lại sự sống, chàng đã lên tiếng tố cáo âm phủ. Hóa ra, đến âm phủ cũng
tham của hối lộ, làm điều khuất tất, mà đến sự sống của con ngƣời còn mua
đƣợc thì còn điều gì là không thể làm. Tại âm phủ, một lần nữa bằng chính sự
ngay thẳng quả cảm của mình, Lệnh Hồ Soạn đã khuất phục đƣợc Diêm
Vƣơng. Các hình ngục dƣới âm phủ mà chàng tận mắt chứng kiến trên đƣờng
trở về dƣơng gian: thầy thuốc gian tà, tăng ni phạm giới, kẻ làm hại quốc
75
gia… phải chịu đủ mọi cực hình thảm khốc là minh chứng cho luật nhân quả
đối với con ngƣời.
Trong truyện, hiện thực ở hai cõi đƣợc tái hiện một cách chân thực qua
lời của Lệnh Hồ Soạn. Đó là xã hội đồng tiền, xã hội của những tên tham
quan nhan nhản khắp nơi, vì tiền bạc mà bẻ cong pháp luật. Ngƣời ta có thể
dùng tiền để mua sự sống thì cũng có thể dùng tiền để đẩy ai đó vào cõi chết.
Tích đức hành thiện trở thành một khái niệm xa lạ. Khi đồng tiền chi phối thì
xã hội đâu còn kỉ cƣơng vƣơng pháp, trên trí trá với quân vƣơng, dƣới chèn
ép ngƣời vô tội, tham vàng phụ ngãi, hám lợi quên ơn, dƣơng thế hay địa phủ
cũng đều thế cả.
Gặp người cũ ở Hoa Đình là chuyến du ngoạn của Thạch Nhƣợc Hƣ
vào cõi chết. Thạch Nhƣợc Hƣ, ngƣời Hoa Đình, chợt lại gặp Toàn và Giả ở
vùng ngoại ô, bèn ngồi nghe hai ngƣời bàn về nỗi bi ai của kẻ sĩ trong thời
loạn lạc, lại ngâm thơ cảm khái về tai nạn trong những năm chiến tranh liên
miên. Sau hai ngƣời cáo biệt và chỉ một thoáng đã đi đâu mất. Bấy giờ Nhƣợc
Hƣ mới nhớ ra Toàn và Giả chết đã lâu.
Trong truyện, hai chàng họ Toàn và họ Giả ở Tùng Giang đều có tài
văn thơ, lại hào phóng tự đắc, thƣờng buông thả chơi bời, tự coi mình là hiệp
sĩ ngao du đầy chí khí. Họ không chấp nhận cuộc sống tẻ nhạt, thất bại trong
việc binh nên nhảy xuống sông tự tử, chấp nhận kết cục bi thƣơng. Họ Toàn
dẫu chỉ còn là một nắm xƣơng khô nhƣ Đồ Vũ hàm oan mà vẫn rơi lệ máu, cả
đời nhớ nƣớc không nguôi. Còn họ Giả gửi thân nơi chốn cỏ hoang, xƣơng
trắng vùi dƣới cát mà tráng chí nam nhi vẫn mang mối hận chƣa làm đƣợc
việc lớn. Nhƣ vậy, với tài năng và khí chất của kẻ làm trai, họ vẫn thể hiện
đƣợc hùng tâm, tráng chí thây phơi đồng nội. Mà khi xã hội loạn lạc, đó đâu
phải là số phận riêng của Toàn, Giả?
Truyện Ngôi miếu hoang ở Vĩnh Châu lại là cuộc đấu tranh của chàng
thƣ sinh Tất Ứng Tƣờng với Thần miếu ngoài cánh đồng Vĩnh Châu vốn là
76
một con rắn trắng tu luyện thành tinh tranh chiếm miếu đền, giả thần thánh tác
oai tác quái. Cuộc chiến diễn ra hai lần, cũng là hai lần Tất Ứng Tƣờng phải
xuống âm phủ. Lần thứ nhất, do không có lễ vật dâng thần nhƣ lẽ thƣờng nên
Tất Ứng Tƣờng bị bắt đến đền Nam Nhạc để xử kiện nhƣ sớ chàng đã kêu.
Việc chàng đối chất với thần miếu hoang Vĩnh Châu đã làm rõ tội trạng, kết
quả con yêu mãng xà bị tiêu diệt, chàng đƣợc trở về. Lần thứ hai Tất Ứng
Tƣờng bị yêu rắn kiện nên bị bắt xuống địa phủ, phải viện đến Ty thành
hoàng Vĩnh Châu để chứng thực. Trƣớc những chứng cứ không thể chối cãi,
con yêu mãng xà bị giải đến ngục Phong Đô, chịu hình phạt quả báo. Nhƣ vậy,
dù cái ác có nhiều bộ mặt khác nhau, biến hóa khôn lƣờng với mọi thủ đoạn,
nếu con ngƣời kiên cƣờng vững vàng đấu tranh thì cuối cùng cái ác cũng sẽ bị
trừng trị, công lí sẽ đƣợc thực hiện.
Nhƣ vậy, âm phủ cũng là một không gian đắc địa, mảnh đất phù hợp để
Cù Hựu khai thác đƣợc rất nhiều vấn đề nhức nhối của xã hội và con ngƣời.
Đó cũng là công cụ chủ yếu và hiệu quả để nhà văn thi triển tài năng của mình
trong thể loại truyền kì.
3.3. Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Truyền kì mạn lục”
Trong “Truyền kì mạn lục” tác giả đã để cho nhân vật của mình lạc vào
nhiều kiểu thế giới khác nhau nhƣ không gian thiên đình, thủy phủ, âm phủ,
cõi tiên. Tất cả những không gian đó có ý nghĩa mở rộng phạm vi phản ánh,
từ việc khẳng định con ngƣời, thể hiện khát vọng tình yêu tự do đến việc phát
biểu những quan niệm chính trị xã hội của tác giả. Với những chức năng có ý
nghĩa cố định từ văn học dân gian, dƣới ngòi bút đầy sáng tạo của tác giả,
kiểu không gian thiên đình, cõi tiên thủy phủ, âm phủ đã trở thành không gian
lí tƣởng để Nguyễn Dữ gửi gắm ý đồ nghệ thuật của mình.
3.3.1. Người lên thiên đình
Trƣớc hết, không gian thiên đình theo quan niệm trong dân gian là thế
giới tối cao, có chức năng cai quản mọi hoạt động của thế giới khác. Không
77
gian này là của Ngọc Hoàng, ngƣời có quyền năng lớn nhất, có thể ban phát
mọi ân lộc, cũng có thể trừng phạt mọi sinh linh trong tất cả các thế giới. Việc
xây dựng không gian chốn thiên đình nhằm tạo ra không gian truyện độc đáo
cho nhân vật chính xuất hiện, ý đồ đề cao, khẳng định con ngƣời nhờ đó đạt
đƣợc kết quả cao.
Mô típ “Ngƣời lên thiên đình” trong “Truyền kì mạn lục” đƣợc Nguyễn
Dữ sử dụng một cách sáng tạo trong Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào.
Truyện đƣợc xây dựng bắt nguồn từ cốt truyện có dạng: con ngƣời nhờ phép
thần lên chơi Thiên tào sau đó trở về hạ giới. Nhƣ đã nói con ngƣời trong văn
học kì ảo trung đại thƣờng đi lại dễ dàng qua các cõi. Tất nhiên, ở mỗi cõi con
ngƣời đặt chân đến đều đƣợc quy định chặt chẽ bởi quan niệm đạo đức dân
gian. Thƣờng thì đƣợc lên Thiên tào phải hội tụ những phẩm chất đạo đức cao
quý. Phạm Tử Hƣ vốn là một nho sinh tính vốn “kiêu căng” nhƣng sau nhờ
thầy Dƣơng Trạm dạy bảo trở thành “người có đức tính tốt”. Khi thầy mất,
các học trò bỏ về hết, riêng Tử Hƣ ở lại trông nom mộ thầy đến khi đoạn tang
mới về. Nếu nhƣ anh chàng nho sinh họ Hà trong Chuyện kì ngộ ở Trại Tây
suốt ngày “bút nghiên chí nản, son phấn tình nồng”, anh ta nhổ toẹt vào sách
thánh hiền suốt ngày cuồng say ân ái với yêu hoa thì Tử Hƣ lại là kiểu nho
sinh quen gặp, nho sinh trong lễ giáo, chàng đã “bỏ đục theo trong” là một sự
đổi thay đáng quý ở thế gian này. Bởi vậy phần thƣởng cho chàng là đƣợc lên
chơi Thiên tào. Mục đích để Phạm Tử Hƣ lên Thiên tào trƣớc là muốn biết
những “thú vui… hơn cõi trần nhiều lắm”, sau là “cố gắng sửa mình chuốt
nết” để thành danh. Khi lên chơi Thiên tào, một thế giới thiên đình vừa hoang
tƣởng song cũng rất giống hiện thực trần gian. Đây là “ Cửa Thuận hạnh”
dành cho những vị tiên vốn ngƣời trần “sống hiếu thuận, hoặc giữa lúc lưu ly
mà bao bọc lấy nhau”; và đây là “Cửa Nho thần” vốn dành cho những trung
thần lẫm liệt nhƣ Tô Hiến Thành, Chu Văn An đặt ngang tầm với các danh
thần đời Hán, Đƣờng… Truyện xoay quanh những đoạn đối thoại mang nặng
tính thuyết minh, giáo huấn đạo đức và không đƣa nhân vật đứng trƣớc bất kì
78
một mâu thuẫn xung đột gay gắt nào. Kết thúc truyện, Tử Hƣ trở về hạ giới,
năm sau chàng đỗ tiến sĩ. Đó là một kết thúc có hậu, nó minh chứng cho quan
niệm ở hiền gặp lành trong dân gian. Có điều sự “đền bù” đƣợc hiện thực hóa
bằng việc chàng đỗ tiến sĩ là phù hợp với kẻ nho sinh quyết chí theo học sách
thánh hiền; sự đền bù ở đây không phải là hóa tiên hay đắc đạo một cách thần
kì hoang đƣờng nữa, mà là thành danh trong hiện thực, góp tài đức phụng sự
cho triều đình. Cách kết thúc nhƣ vậy đƣa câu chuyện đến gần hiện thực hơn.
Thông qua kiểu “Ngƣời lên thiên tào” Nguyễn Dữ khéo léo đƣa vào vấn đề
nóng bỏng mang tính thời sự - xã hội. Đó là sự sa sút của đạo đức trong đội
ngũ những kẻ theo học thánh hiền, sự biến chất suy đồi phẩm hạnh một cách
vô độ trong những kẻ có chữ nghĩa.
3.3.2. Người lên cõi tiên.
Tiên giới là thế giới của những ngƣời đã tu luyện thành tiên. Ở đó, theo ý
niệm của ngƣời xƣa, cảnh vật đẹp đẽ nên thơ mà cõi trần không có, vì thế mà có
câu “bồng lai tiên cảnh”, “chốn đào nguyên”, “cõi trời”, “cõi Phật”…
Kiểu “Ngƣời lên cõi tiên” đƣợc sử dụng rất phổ biến trong văn học thế
giới. Việc dân gian quen mƣợn mô típ này để sáng tác đã bao hàm khát vọng
hƣớng tới những điều kì diệu nhất nhƣ thƣởng ngọan cảnh tiên, yêu tiên và
trƣờng sinh bất lão.
Trong “Truyền kì mạn lục” mô típ này đƣợc sử dụng ở Chuyện Từ
Thức lấy vợ tiên. Có thể thấy Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên là sự tổng hòa tuyệt
đẹp của hai mô típ quen thuộc tạo nên câu chuyện tình hoàn hảo. Phải có
“Ngƣời lên cõi tiên” rồi mới có cảnh “Ngƣời lấy vợ tiên”. Từ Thức trong một
lần du xuân trẩy hội đã bán áo để lấy tiền giúp đỡ một cô gái xinh đẹp đang bị
bắt phạt vì vô tình làm gãy cành hoa ở hội xem hoa. Sau buổi gặp gỡ đó với
tính khí thích dao du đây đó, Từ Thức đã treo ấn từ quan lênh đênh ngắm
cảnh non nƣớc hữu tình đã lạc vào động tiên thứ sáu trong ba sáu động tiên ở
79
núi Phù Lai. Nhƣ vậy, Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật của mình lạc vào cõi
tiên một cách tự nhiên. Không gian tiên cảnh đƣợc mở ra với “chung quanh
toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ, bám ở lan can, cỏ lạ, hoa
kì, nở đầy trước cửa, … những tòa nhà cung điện bằng bạc đứng sững, có
những tấm biển đề : “Điện Quỳnh Hư”, “Gác Dao Quang”. Trên gác có bà
tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất bảo bên cạnh đặt một chiếc
giường nhỏ bằng gỗ đàn hương”. Cũng tại cõi tiên này, Từ Thức đã gặp lại
Giáng Hƣơng ngƣời con gái mình đã từng giúp đỡ trong hội hoa xuân khi xƣa
và biết đó là tiên nữ Giáng Hƣơng. Hai ngƣời kết duyên với nhau sống cuộc
sống bồng lai tiên cảnh. Việc đƣa ngƣời đến cõi tiên để thâm nhập vào cõi
tiên, chuyện tƣởng nhƣ hoang đƣờng hƣ ảo nhƣng khi nghe Nguyễn Dữ tâm
sự về thế giới tiên, ngƣời tiên thì thấy cõi tiên giờ đây cũng giống nhƣ trần ai
vậy. Ngƣời tiên cũng biết thổn thức vì yêu, cũng khao khát đƣợc yêu, tấm
lòng tiên cũng “bảy tình chưa sạch, trăm cảm dễ sinh, hình ở phủ tía những
lụy vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục; chàng nên
nhân một mình thiếp mà cho tất cả quần tiên đều thế”. Nếu không có tình yêu,
dù là tiên thể xác cũng khô gầy, héo hon tàn tạ. Từ Thức trên con đƣờng lên
cõi tiên để tự tìm cho mình một hạnh phúc trọn vẹn, nhƣng cuối cùng chàng
cũng lâm vào bi kịch. Chàng trở về hạ giới nhƣng kéo theo cả một quãng đời
cô đơn trên đất mẹ khiến chàng phải “mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào
núi Hoành Sơn, rồi không biết đi đâu mất”. Đó là một kết thúc không có hậu
nhƣ ở thế giới cổ tích nữa. Và mô típ “Ngƣời lên cõi tiên” đƣợc sử dụng trong
truyện nhƣ lên án chính cái xã hội vô nghĩa lí đã đẩy ngƣời ta vào chỗ không
điểm tựa bấu víu trên trần gian nên đành gửi hồn mình vào giấc mộng hạnh
phúc hƣ vô nơi tiên giới.
3.3.3. Người xuống thủy phủ
Kiểu “Ngƣời xuống thủy phủ” đƣợc sử dụng khá phổ biến trong văn
học khu vực Á Đông. Với các truyện kể dân gian, nguyên nhân dẫn con ngƣời
80
xuống Thủy phủ thông thƣờng bắt nguồn từ “bị lạc xuống”, “đƣợc mời
xuống”, “đƣợc ban thƣởng mà xuống”… Cũng do quan niệm Thủy phủ là một
vƣơng quốc thâm nghiêm, hoa lệ, là nơi có “lâu đài lộng lẫy”, “điện bằng
ngọc lưu ly, chung quanh ao sen bao bọc” nên mục đích con ngƣời xuống
không gian này thƣờng mang ý nghĩa tích cực.
Cùng với ý nghĩa thông thƣờng trong tƣ duy dân gian, không gian thủy
phủ thƣờng mang ý nghĩa là nơi thƣởng phạt phân minh, kẻ ác bị xét xử,
ngƣời hiền đƣợc ban thƣởng. Trong “Truyền kì mạn lục” mô típ “Ngƣời
xuống thủy phủ” đƣợc Nguyễn Dữ sử dụng để sáng tác trong Chuyện người
con gái Nam Xương và Chuyện đối tụng ở Long cung.
Trong Chuyện người con gái Nam Xương, chàng Trƣơng, anh lính nông
dân không điều khiển nổi trái tim ghen tuông của mình đã gây nên bi kịch đau
xót. Ngƣời con gái Nam Xƣơng không có cách nào minh oan cho mình đƣợc,
chỉ còn cách duy nhất là gieo mình xuống Hoàng Giang tự vẫn, quyết định lấy
cái chết để khẳng định trinh tiết của mình: “… Đoạn rồi nàng tắm gội chay
sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than rằng: - Kẻ bạc mệnh
này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu
nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ
tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm
cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm
mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp
mọi người phỉ nhổ. Nói xong gieo mình xuống sông mà chết”. Chiến tranh đã
cƣớp đi của nàng hạnh phúc của tuổi trẻ và đổ lên vai nàng gánh nặng gia
đình, và giờ đây lại chính cái gia đình đó đã đẩy nàng đến bi kịch. Cũng giống
nhƣ Nhị Khanh, Vũ Nƣơng vƣợt qua đƣợc cái bi kịch do xã hội mang tới
nhƣng không thoát đƣợc bi kịch từ phía gia đình.
May thay, thủy phủ lại là nơi thần tiên giúp đỡ con ngƣời. Vũ Nƣơng vì
thế trẫm mình xuống sông mà không chết, đƣợc ở lại dƣới Thủy cung, sau này
81
khi Trƣơng Sinh lập đàn giải oan bên sông thì nàng cƣỡi kiệu hoa hiện về
trong giây lát, nói lời tạm biệt với chồng rồi biến mất. Đây là chi tiết làm hoàn
thiện nét đẹp tâm hồn của Vũ Nƣơng: nàng vẫn luôn khao khát đƣợc phục hồi
danh dự, vẫn mong muốn đƣợc chăm lo cho chồng con, nhà cửa. Đây cũng là
một kết thúc có hậu, thể hiện ƣớc mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công
bằng trong cuộc đời. Ngƣời tốt, dù có bị nghi oan rồi cũng sẽ đƣợc đền trả
xứng đáng, và cái thiện luôn chiến thắng cái ác.
Trong một truyện khác, Chuyện đối tụng ở Long cung, nàng Dƣơng thị
là ngƣời phụ nữ có nhan sắc, nàng bị Thuồng luồng cƣớp đi, đƣợc biệt đãi,
“phong là Xương ấp phu nhân, ở trong một cái điện bằng ngọc lưu li, chung
quanh có ao sen bao bọc, gối chăn yêu dấu hơn hết các phòng” nhƣng tấm
lòng chung thuỷ của nàng với chồng vẫn không thay đổi. Lời dặn của Dƣơng
thị qua ngƣời thân tín của Bạch Long hầu:“Chị về nói với Trịnh lang cho ta:
người vợ xấu số ở bến nước xa xăm, lúc nào cũng vẫn thương nhớ đến chàng;
chàng nên cố xoay xở cách nào để cho được phượng lại trong mây, ngựa về
bên ải, đừng khiến tôi phải già đời ở chốn cung nước làng mây này.” Nhƣ vậy,
cuộc sống giàu sang đủ đầy của Dƣơng thị ở thủy phủ phải chăng là một thử
thách đối với lòng thủy chung của nàng.
Nàng khẳng khái trƣớc Long Vƣơng: “Người áo xanh kia là chồng thiếp,
còn người áo đỏ là kẻ thù”, điều đó khẳng định lòng chung thuỷ của nàng đã
chiến thắng. Nguyễn Dữ không viết thật cụ thể về xuất thân của Dƣơng thị, về
tứ đức của nàng nhƣng cái tinh thần “ xuất giá” chỉ biết “ tòng phu”, dù có uy
quyền và phú quý vẫn không thay lòng đổi dạ đã trở thành sự bất di bất dịch
trong ý thức của nàng.
Đọc tác phẩm, ta nhƣ bị nghệ thuật sử dụng cái kì ảo của Nguyễn Dữ
cuốn hút, ngƣời đọc dƣờng nhƣ đã thoả mãn về sự xét xử ở Long cung
“ Dương thị kia nết tuy đáng trò, tình cũng đáng thương, thân nên về với tiền
phu, con đẻ trả cho hậu phu”. Vợ chồng Dƣơng thị đoàn tụ còn thần Thuồng
82
luồng do cƣớp vợ của huyện lệnh Trịnh bị đày lên phía bắc. Việc đƣa con
ngƣời xuống thủy cung không chỉ mang ý nghĩa thuần túy trong dân gian mà
nó trở thành một cuộc chiến giữa ngƣời và thần xung quanh vấn đề hạnh phúc
cá nhân; nó khơi dậy sức mạnh trần thế của con ngƣời trƣớc tiếng gọi da diết
từ tình yêu và hạnh phúc, nó cũng ngầm mở ra một bộ mặt xã hội với vô vàn
bất công ngang trái.
3.3.4. Người xuống âm phủ
Âm phủ (địa phủ, địa giới , địa ngục) là một địa danh siêu nhiên đƣợc
nhắc đến trong nhiều nền văn minh và tôn giáo, cả trong tâm thức của con
ngƣời. Theo đó, đây là nơi đến của các linh hồn sau khi chết. Phần lớn chúng
ta đều cho rằng địa ngục là nơi giam giữ và trừng phạt các linh hồn tội lỗi,
ngƣợc với Thiên đàng. Ngƣời ta tin rằng khi lìa đời, chỉ có thể xác bị hủy hoại,
linh hồn sẽ đƣợc lên thiên đàng hay xuống địa ngục, hoặc đầu thai sang kiếp
khác (làm súc vật hoặc làm ngƣời) tùy theo việc lúc còn sống ở thiện hay ở ác.
Ngƣời trung đại quan niệm rằng âm phủ cùng với vị quan tòa nghiêm
minh (Diêm Vƣơng) là nơi xử án hết sức công minh. Ngƣời có công đƣợc đƣa
lên trời còn kẻ có tội bị đầy xuống âm phủ. Nếu nhƣ thiên đƣờng là thế giới
của hạnh phúc, sung sƣớng, an lạc đời đời thì đối trọng với nó là âm phủ -
một không gian gắn với những khổ nạn, những hình phạt mà kẻ ác, kẻ xấu
phải gánh chịu. Do vậy việc đƣa con ngƣời xuống âm phủ thƣờng mang ý
nghĩa giống nhƣ sự thanh lọc cuối cùng để phân ra ngƣời tốt kẻ xấu.
Trong “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Dữ muốn dùng không gian âm
phủ để cảm hóa con ngƣời, giúp ngƣời đọc nhận ra tội lỗi của mình để chuộc
lại những gì mà họ đã gây ra ở dƣơng thế. Mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới
khác” trong “Truyền kì mạn lục” có 9 truyện viết về ngƣời xuống âm phủ,
trong đó 3 truyện nhân vật chính giao du địa giới là: Hạng Vƣơng từ ký (Câu
chuyện ở đền Hạng Vương), Lý tƣớng quân truyện (Chuyện Lý tướng quân),
Kim Hoa thi thoại ký (Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa). Có tới 6 truyện
83
mang chủ đề diệt trừ là Mộc miên thụ truyện (Chuyện cây gạo), Đào Thị
nghiệp oan ký (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị), Tản Viên từ Phán sự lục
(Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên), Xƣơng Giang yêu quái lục (Chuyện
yêu quái ở Xương Giang), Đông Triều phế tự truyện (Chuyện cái chùa hoang
ở Đông Triều), Dạ Soa bộ soái lục (Chuyện tướng Dạ Soa).
Những câu chuyện này mƣợn mô típ ngƣời trần xuống âm phủ để đƣợc
đƣa ngƣời đọc đến với một thế giới kì bí vốn chỉ xuất hiện trong trí tƣởng
tƣợng và nỗi sợ hãi. Trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên âm phủ đƣợc
hình dung là “một tòa dinh lớn, xung quanh có thành sắt cao vợi. Đằng phía
bắc, tức là một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hơn nghìn
bước, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên tả hữu cầu, có đến
mấy vạn quỷ Dạ Xoa”. Tòa cung điện trong Chuyện yêu quái ở Xương
Giang duy chỉ có mái hành lang bên tả bị xiêu đổ, sau Hoàng mới thấy ngƣời
con gái ở với mình ngày trƣớc (hồn ma Thị Nghi) từ phía hành lang bên tả ấy
đi ra. Không gian âm phủ là thế giới của Dạ Xoa hình thù kì dị “mắt xanh tóc
đỏ hình dáng nanh ác” (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên). Trong Chuyện
tướng Dạ Xoa, thế giới Dạ Xoa cũng chia ra làm các bộ (có 4 bộ Dạ Xoa),
cũng chia ra làm quân áo đen, áo trắng. Đứng đầu thế giới âm phủ là Diêm
Vƣơng – ngƣời cai quản cõi âm, xét xử linh hồn ngƣời chết, thƣởng phạt theo
đúng tội trạng hay công đức của ngƣời ấy trên dƣơng gian. Giúp việc Diêm
Vƣơng là các phán quan, các tƣớng Dạ Xoa, cũng có tổ chức, luật pháp
nghiêm ngặt.
Đến với mỗi loại hình không gian hƣ ảo, nhà văn đều dùng những hình
thức chuyển hóa khác nhau. Nếu nhƣ không gian hƣ ảo nơi trần thế, nhân vật
đến với thế giới hƣ ảo qua giấc ngủ, không gian tiên cảnh “rẽ nƣớc”, không
gian thiên đƣờng “cƣỡi gió, lƣớt mây” thì trong sự chuyển hóa từ thực tế đến
âm phủ, Nguyễn Dữ đã có nhiều sáng tạo cho từng câu chuyện. Nói chung,
những sự lạc bƣớc này đều có nguyên cớ và đƣa nhân vật tới một miền không
84
gian xa lạ với cõi trần. Tử Văn (Chuyện chức phán sự đền Tản Viên), Hoàng
(Chuyện yêu quái ở Xương Giang) bị hồn ma kiện dƣới âm phủ nên bị bắt
xuống âm phủ để xét xử, Lý Thúc Khoản (Chuyện Lý tướng quân) đƣợc một
ngƣời bạn là phán quan đƣa xuống âm phủ xem cảnh xét xử cha mình. Theo
bƣớc chân của những nhân vật này thế giới dƣới mặt đất dần dần hiện lên
trƣớc mắt ngƣời đọc. Những tác phẩm này cũng có lối kết thúc tƣơng đồng
với kiểu truyện dân gian “thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà”, “ác giả
ác báo”.
Để mô típ này hoàn thiện ắt phải có chuyện người chết sống lại. Khi đi
xuống âm phủ linh hồn những nhân vật này tạm thời rời khỏi thể xác, sau
chuyến “chu du”, chúng lại trở về. Những cuộc du ngoạn này thƣờng kéo dài
một vài ngày. Ngô Tử Văn, sau cuộc đấu tranh ở Minh ti, về đến nhà mới “té
ra mình đã chết được hai ngày rồi”. Lý Thúc Khoản xem xong cảnh cha mình
bị xét xử, giật mình tỉnh dậy thì “thấy người nhà đương ngồi chung quanh mà
khóc, nói mình đã chết hai ngày rồi”.
Cụ thể, trong Chuyện Lý tướng quân, Nguyễn Dữ để cho tên quan bạo
ngƣợc biết đƣợc nghiệp chƣớng của mình ở kiếp sau. Ông thầy tƣớng số đã
dùng “chùm hạt châu” để đƣa hắn vào không gian địa ngục, cho hắn thấy
đƣợc tội nghiệp mà hắn phải gánh: “Lý trông xem thấy trong đó có lò lửa vạt
sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm hoặc cầm thừng chão hoặc
cầm dao của mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm núm bên vạt dầu lấm lét
sợ hãi”. Lý tƣớng quân không tin mà còn làm nhiều điều bạo ngƣợc hơn. Con
trai ông là Thúc Khoản ra sức khuyên cha nhƣng ông không nghe. Năm 40
tuổi Lý tƣớng quân chết, Thúc Quản đƣợc một ngƣời bạn dẫn xuống xem địa
phủ. Thúc Khoản tận mắt thấy cha bị chịu mọi hình phạt thì rất sợ hãi bèn về
nhà chia hết tài sản cho mọi ngƣời rồi vào núi đi tu.
Còn trong Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên, nhân vật Ngô Tử Văn
vì không chịu nổi sự hƣng yêu của hồn ma tên tƣớng giặc họ Thôi đang trú ẩn
85
ở ngôi đền Tản Viên mà chàng quyết tâm ra tay đốt cháy nó. Chính hành động
này của chàng là nguyên nhân trực tiếp khiến chàng xuất hiện ở âm phủ.
Không gian âm phủ hiện lên với tên quỷ Dạ Xoa, với Diêm Vƣơng nhƣng
chàng vẫn kiên quyết đòi lại công bằng cho thổ thần. Cũng nhƣ ở Chuyện gã
Trà Đồng giáng sinh, Dƣơng Đức Công cũng vì là quan thanh liêm, cứu nhân
độ thế nên nhà văn đã để cho nhân vật xuống âm phủ với tính chất để nhân
vật tham quan “ốm rồi chợt tỉnh”. Nhƣng qua cuộc viếng thăm đó ông đã
đƣợc chứng kiến đầy đủ thế giới địa ngục. Hình thức này giúp cho nội dung
câu chuyện cũng nhƣ tƣ tƣởng nghệ thuật của ngƣời nghệ sĩ đƣợc thành công
hơn. Bởi qua giấc mộng ấy có thể cảnh tỉnh mọi ngƣời hay ít ra Dƣơng Đức
Công có thể dạy cho con cháu mình sống lƣơng thiện, tu nhân tích đức để
không rơi vào không gian địa ngục ở kiếp sau.
Nhƣ vậy, Nguyễn Dữ đã đạt đƣợc sự tinh thông trong nghệ thuật viết
truyền kì. Nhà văn chỉ mƣợn những hình tƣợng có thực trong nhân gian để tái
hiện chúng ở những dạng thức khác nhau trong không gian tƣởng tƣợng. Ở đó
mọi cảm giác đều đƣợc thăng hoa bởi bàn tay của ngƣời sáng tạo ra chúng.
3.4. Đối sánh mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong hai tập truyện
Bảng 5: Thống kê chủ đề ở các mô típ trong 2 tác phẩm (về mặt số
lƣợng) :
“Tiễn đăng tân thoại” “Truyền kì mạn lục”
Danh mục thống kê Giao du Diệt trừ Giao du Diệt trừ
1 2 Người lên Thiên đình
2 1 2 Người lên cõi tiên
2 1 1 Người xuống thủy phủ
4 3 3 6 Người xuống âm phủ
86
Trong “Truyền kì mạn lục”, số truyện có nội dung ngƣời xuống âm phủ
nhiều hơn, đặc biệt, chủ đề diệt trừ chiếm tới 6/9 truyện.
Nhƣ trên đã nói, âm phủ (địa phủ, địa giới , địa ngục) là nơi xử án hết
sức công minh, nơi giam giữ và trừng phạt các linh hồn tội lỗi. Phải chăng xã
hội và thời đại của Nguyễn Dữ đen tối, mục nát đến mức ấy. Có kẻ chiếm
đoạt vợ ngƣời, bức hại chồng ngƣời, có kẻ cờ bạc, trộm cƣớp, nhiều khi tật
dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái,
sƣ sãi, học trò, thƣơng nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục… Đến cả loại
nhân vật là phụ nữ nhƣ nàng Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào Thị),
nàng Nhị Khanh (Chuyện cây gạo), các hồn hoa (Chuyện kì ngộ ở trại Tây) và
"yêu quái ở Xƣơng Giang" cũng đều vì số phận đƣa đẩy, vì "nghiệp oan" mà
đến nỗi trở thành ma quỷ. Dƣờng nhƣ Nguyễn Dữ không tìm đƣợc lối thoát
trên con đƣờng hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ
màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cuộc đời. Ông trân trọng và ca
ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, ông đấu tranh không khoan
nhƣợng để chống lại cái xấu, cái ác.
Nói nhƣ thế phải chăng trong xã hội Trung Quốc thời đại Cù Hựu
không có nhiễu nhƣơng, thối nát. Cuộc đời của ông nhiều thăng trầm giữa
một xã hội đầy biến động. Cù Hựu cũng là một nhà nho bất đắc chí nhƣ
Nguyễn Dữ, nhƣng ý đồ sáng tác hai tác phẩm của hai tác giả là không giống
nhau." Nay sách của tôi đối với thế giáo nhân luân có thể không mấy bổ ích,
nhưng xét về mặt khuyến khích việc thiện, răn đe việc ác, thương người cùng
khổ, xót kẻ mắc oan thì âu cũng là người nói vô tội, người nghe lấy đó sửa
mình" [13, 3]. Nguyễn Dữ ngoài việc mƣợn văn chƣơng để giáo huấn, răn dạy
đạo lí làm ngƣời, biểu dƣơng cái thiện, phê phán cái ác trong xã hội, ông còn
thể hiện niềm bi phẫn của mình đối với hiện thực chính trị đƣơng thời. Tính
chất hƣ hƣ thực thực của các câu chuyện chẳng qua là cái lá chắn giúp cho cả
87
hai nhà văn chống đỡ mọi đả kích có thể có mà trƣớc hết là của giai cấp thống
trị và lễ giáo phong kiến đối với họ.
Con số thống kê chứng thực một điều, Nguyễn Dữ dù ở ẩn vẫn đấu
tranh không khoan nhƣợng vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, mục nát,
đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục của xã hội
vì hạnh phúc của con ngƣời. Về điểm này, Cù Hựu không bằng nhà nho đất
Việt.
Xét ở một số cặp truyện có nhiều chi tiết giống nhau:
Truyện Chức phán sự đền Tản Viên trong ”Truyền kì mạn lục” đƣợc
coi là có vay mƣợn một vài chi tiết từ “Vĩnh Châu dã miếu ký” (Ngôi miếu
hoang ở Vĩnh Châu) trong tập truyện của Cù Hựu, song tinh thần truyện của
Nguyễn Dữ đã đƣợc triển khai theo một hƣớng khác hẳn và gắn với chủ
đề yêu nước và tự hào dân tộc. Câu chuyện ca ngợi khí phách và lòng yêu
nƣớc của chàng nho sinh Ngô Tử Văn trong việc truy nã vong hồn tên tƣớng
giặc Minh. Y bị quân ta giết chết nhƣng vong hồn vẫn lƣu lại trên đất Việt, tác
yêu tác quái, đánh đuổi vị thần thổ địa để trấn giữ phần hƣơng lửa ở một ngôi
đền nọ. Tử Văn đã dũng cảm đốt đền để xua đuổi tên ma xâm lƣợc. Khi bị
Diêm Vƣơng đem ra xử, nhờ sự can thiệp của thần thổ địa - vốn là ngƣời có
công với nƣớc, kẻ chiếm đền đã bị vạch trần tội lỗi, đem giam vào ngục tối.
Câu chuyện đậm chất kì ảo và thể hiện tinh thần yêu nƣớc và khí phách quật
cƣờng của kẻ sĩ Việt Nam trƣớc kẻ thù xâm lƣợc và trƣớc cả quỷ thần.
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên của Nguyễn Dữ đặt trong quan
hệ với ”Tiễn đăng tân thoại” có thể tìm thấy một vài dấu vết tiếp thụ qua Cù
Hựu, nhƣ chi tiết điệu múa lăng ba, lời ca lăng ba lấy từ truyện Tiệc mừng
dưới thuỷ cung hoặc nhƣ cảnh Từ Thức vào động tiên giống cảnh Từ Dật vào
Thiên Thai của Cù Hựu.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên là một
sáng tác mới mang nội dung lịch sử sâu sắc. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng
88
siêu thoát, nhƣng chỉ là siêu thoát chính sự, không phải siêu thoát cuộc đời. Lí
do cởi áo mũ từ quan của Từ Thức : “Ta không thể vì số lương năm đấu gạo
đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh !”. Chàng không chạy theo cảnh sống
trƣờng sinh bất tử. Chàng lấy vợ tiên nhƣ một sự ngẫu nhiên, chứ không do tu
hành. Cả chàng và Giáng Hƣơng lòng trần rất nặng, “hình ở phủ tía nhưng
luỵ vướng duyên trần, thân ở đền quỳnh mà lòng theo cõi dục” (Giáng
Hƣơng) .
Câu chuyện của Từ Thức còn là một bi kịch của kẻ sĩ cô độc không
chốn nƣơng thân. Chàng lên tiên thì nhớ mong quê cũ, chàng về quê cũ thì
thiên hạ đổi dời. Chàng thui thủi mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn vào núi
Hoành Sơn rồi biến mất, chỉ để lại hoài niệm về một cái chí thanh cao và một
tấm lòng trần rất nặng.
Nhƣ vậy, Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên chịu ảnh hƣởng của Cù Hựu chỉ
một phần nhỏ, phần lớn chịu ảnh hƣởng của tiên thoại Trung Quốc và truyện
dân gian Việt Nam.
Về phƣơng diện hình thức, ở mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” nói
riêng, toàn bộ các truyện trong “Truyền kì mạn lục” nói chung đều tuân thủ
đặc trƣng của thể loại truyền kì. Tuy có tiếp nhận, thậm chí tiếp nhận một
cách tích cực nhƣng Nguyễn Dữ cũng là ngƣời tiên phong trong việc phá bỏ
những ràng buộc của thể loại truyện cũ, sáng tạo nó theo một kiểu mới, tự do
và phóng túng hơn. Không giống với Cù Hựu, Nguyễn Dữ đƣa lời bình vào
cuối mỗi truyện trong “Truyền kì mạn lục” là cách để ngƣời đọc dễ dàng
nhận ra con ngƣời tác giả. Một nhà nho chính thống với khuynh hƣớng
khuyến thiện trừ ác, đề cao công đức, lên án vật dục tình dục… Chính lời bình
đã tạo ra sự linh hoạt cho câu chuyện bằng cách dùng nhiều con đƣờng để tác
động đến nhận thức của ngƣời tiếp nhận. Nó cũng cho phép chúng ta bóc đi
cái vỏ kì ảo hoang đƣờng để tiếp nhận hiện thực của đời sống một cách chân
thực và sâu sắc hơn.
89
3.5. Vai trò của mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong “Truyền
kì mạn lục”
3.5.1. Trong việc xây dựng đề tài, chủ đề, tạo dựng tính dân tộc
Mô típ góp phần quan trọng trong việc hình thành đề tài, chủ đề của
truyện. Với mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác”, nhân vật chính hoặc là thỏa
mãn nhu cầu tình duyên, thể hiện khát vọng chính đáng của con ngƣời, hoặc
giao du và gặp cổ nhân, thánh nhân và tranh luận thế sự, đúng sai, hoặc đấu
tranh trực diện nhằm diệt trừ cái xấu, cái ác…Đề tài, chủ đề của truyện cũng
vì thế mà hình thành.
Viết về con ngƣời, đặc biệt là ngƣời phụ nữ, Nguyễn Dữ đều hƣớng tới
ca ngợi tài năng, phẩm chất của họ. Những ngƣời phụ nữ dù xuất thân bình
dân hay cao quý, dù là ngƣời trần hay ngƣời tiên đều có tài năng hoặc
phẩm chất tốt đẹp, hay đủ cả tài năng và phẩm chất.
Nhƣ nhân vật Vũ Nƣơng trong Chuyện người con gái Nam Xương đƣợc
giới thiệu là ngƣời “tính thùy mị nết na” và trong suốt thiên truyện, nàng đã
thể hiện mình là ngƣời phụ nữ có đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp theo chuẩn
mực lí tƣởng của xã hội phong kiến xƣa. Đối với mẹ chồng, nàng hết sức hiếu
thảo, giữ đạo dâu con. Khi mẹ chồng bị bệnh thì hết sức thuốc thang lễ bái
thần Phật, khi mẹ chồng mất thì lo ma chay tế lễ chu đáo nhƣ đối với cha mẹ
đẻ; đối với chồng, nàng một lòng chung thủy, giữ đúng cƣơng thƣờng. Ngày
tiễn chồng ra trận, lời lẽ nàng cho thấy nàng yêu chồng bằng một tình yêu
thƣơng thât sự: “không mong chàng được đeo ấn phong hầu, chỉ xin ngày về
hai chữ bình yên”, những ngày chồng xa nhà “nỗi buồn nơi góc bể chân trời
không tài nào vơi được”…, khi bị chồng nghi ngờ, nàng quyết định nhảy
xuống sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch, không lƣỡng lự, đắn
đo. Là nhà văn nhân đạo, Nguyễn Dữ không muốn những ngƣời đức hạnh, nết
na nhƣ Vũ Nƣơng bị chết. Để minh oan và bù đắp cho lòng ngay thẳng, hiếu
thảo, thủy chung của nàng, tác giả đã tƣởng tƣợng ra sự hồi sinh cho Vũ Thị
90
Thiết: thƣơng nàng bị oan khuất, bà Linh Phi là phu nhân của Long Vƣơng ở
Nam Hải đã đƣa nàng xuống ở dƣới thủy cung. Tại đây, Vũ Thị Thiết gặp lại
một ngƣời cùng làng là chàng họ Phan. Nhờ đó, nàng gửi cho chồng kỷ vật là
chiếc trâm vàng, nhắn chồng giải oan và hẹn hội ngộ. Vũ Thị Thiết hiển linh
gặp lại Trƣơng Sinh rồi sau đó âm dƣơng cách biệt. Tác giả đã thêm phần hậu
thân cho những ngƣời phụ nữ oan khuất nhƣ là một cách giải oan cho họ.
Trình Trung Ngộ khi xuống âm phủ, lạc vào thế giới của yêu ma vẫn
thấy một Nhị Khanh mạnh mẽ, táo bạo, khao khát tận hƣởng hạnh phúc.
Những lời tỏ bày của hồn ma Nhị Khanh (Chuyện cây gạo) hẳn sẽ bị các nhà
nho xƣa xem là loạn ngôn, yêu ngôn: “Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa chí,
chứ văn chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng một nắm đất vàng là hết
chuyện. Đời trước những người như Ban Cơ, Sái Nữ nay còn gì nữa đâu. Sao
bằng ngay trước mắt tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt.”.
Rõ ràng đây là lời lẽ hết sức táo bạo của một ngƣời phụ nữ cảm nhận rõ ràng
giá trị của hạnh phúc hiện tại, của tuổi xuân đang có. Hạnh phúc đó mới là
thực, không xa xôi, mơ hồ. Lời nói của nàng nhƣ lời khuyến khích con ngƣời
cần nắm bắt, tận hƣởng ngay hạnh phúc thật sự trƣớc mắt ấy. Và nàng chính
là minh chứng cho điều ấy: chết rồi mà vẫn khao khát níu giữ tình yêu của cõi
trần. Truyện cũng gián tiếp phê phán xã hội phong kiến với những quy định
khắt khe, những quan niệm cổ hủ lạc hậu về tình yêu và hôn nhân đã giết chết
hạnh phúc không biết bao nhiêu cô gái.
Đề tài về nho sĩ thời phong kiến cũng đƣợc Nguyễn Dữ quan tâm.
Trong xã hội phong kiến, thi cử là con đƣờng đƣợc nhiều nho sinh lựa chọn
và theo đuổi. Tuy nhiên họ có chuyên tâm hay không, cố gắng đến mức nào lại
là chuyện khác. Cũng vì thế, chân dung kẻ sĩ trong ”Truyền kì mạn lục” đƣợc
chia làm hai loại: Thứ nhất, là những chàng nho sinh không coi trọng sự học,
cũng không màng danh lợi, thích cuộc sống tự do phóng khoáng. Thứ hai là
những nhân vật kẻ sĩ theo đúng chuẩn mực của Nho giáo, là hình mẫu của
91
những ngƣời trung hiếu, tiết nghĩa, nuôi chí lớn về công danh sự nghiệp, mong
đỗ đạt để làm tròn đạo hiếu với cha mẹ, làm tròn danh phận với đời.
Trong “Truyền kì mạn lục”, đội ngũ những kẻ theo học sách thánh hiền
đa phần là kẻ biến chất, suy đồi phẩm hạnh một cách vô độ. Theo lời thầy
Dƣơng Trạm trong truyện “Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào”: “Bọn kẻ sĩ trần
gian quá ư tệ mạt, chúng đổi họ để đi học, thay tên để đi thi, hễ trượt thì đổ
lỗi mờ quáng cho quan chấm trường; hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi
hơn cả bậc tiền bối, chí khí ngông ngáo, tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo thì
lảng tránh, gặp bạn nghèo thì làm ngơ”… Thế nên, khi thầy Dƣơng Trạm
chết, chúng lảng tránh hết. Dạy hàng nghìn học trò mà khi thầy mất, ngay đứa
“đai vàng mũ bạc, ngôi cả quan cao” vậy mà không có đứa nào đến “thăm
viếng mồ”, “tưới lên một vài chén rượư”. Trong con mắt, tâm can Nguyễn
Dữ, quả thật đạo học nay hƣ hỏng rồi. Đó cũng là điều nhức nhối mà Nguyễn
Dữ phản ánh trong tác phẩm của mình. Xã hội này không chỉ có một anh
chàng Hà Nhân (Chuyện kì ngộ ở Trại Tây) bỏ bê việc học hành, đắm đuối
trong tình yêu với nàng Đào, nàng Liễu. Không chỉ có một chàng Từ Thức
(Từ Thức lấy vợ tiên) khi đã có một địa vị ở chốn quan trƣờng nhƣng chàng
vẫn từ bỏ mũ áo đi ngao du sơn thủy. Phải chăng vấn đề thân phận của ngƣời
trí thức trong một xã hội chuyên chế đang đƣợc đặt ra? Ở đó họ không có chỗ
dung thân, lý tƣởng bế tắc đành phải tự tìm cho mình một cuộc sống khác.
“Truyền kì mạn lục” tuy có vẻ là những "truyện kì lạ", “không gian ảo”
xảy ra hàng nghìn năm về trƣớc nhƣng thực chất lại phản ánh đƣợc những
phần sâu sắc của hiện thực đƣơng thời. Rõ ràng tác giả đã quan tâm đến vấn
đề phẩm chất dân tộc qua nội dung hiện thực mà tác phẩm phản ánh. Bên
cạnh đó một số truyện lại lấy mô típ, cốt truyện từ chính những câu truyện
dân gian của ngƣời Việt (Từ Thức lấy vợ tiên – Sự tích động Từ Thức; Người
con gái Nam Xương – Vợ chàng Trương). Nhƣ vậy, dù viết bằng chữ Hán,
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ vẫn là tác phẩm có tính dân tộc sâu sắc.
92
Viết về số phận hay khát vọng của con ngƣời, mỗi trang viết của ông đều
thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả của ngƣời Việt.
3.5.2. Trong việc xây dựng cốt truyện, tình tiết nghệ thuật
Cũng nhƣ mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị”, mô típ “Ngƣời lạc vào
thế giới khác” trong “Truyền kì mạn lục” có vai trò rất lớn trong việc xây
dựng cốt truyện và tình tiết nghệ thuật.
Nhƣ đã nói ở trên, cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện,
biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các
tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tƣ tƣởng
của tác phẩm.
Với mô típ ngƣời xuống thủy phủ, Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên có cốt truyện rất giàu kịch tính, cốt truyện đƣợc tổ chức theo ba đoạn,
giống nhƣ một vở kịch : sự xuất hiện mâu thuẫn, xung đột – mâu thuẫn, xung
đột phát triển, đẩy tới cao trào (thắt nút) – mâu thuẫn, xung đột đƣợc giải
quyểt (mở nút).
– Mở đầu câu chuyện là sự xuất hiện những mâu thuẫn, xung đột : Hồn
ma tên tƣớng xâm lƣợc bại trận Bách hộ họ Thôi làm yêu làm quái trong dân
gian, chiếm ngôi đền thiêng. Tử Văn rất tức giận, “châm lửa đốt đền. Mọi
ngƣời đều lắc đầu lè lƣỡi, lo sợ thay cho Tử Văn”.
– Mâu thuẫn, xung đột tiếp tục phát triển, đẩy tới cao trào ( thắt nút ) :
+ Sau khi đốt đền, Ngô Tử Văn nổi cơn sốt rét, ngƣời khó chịu, đầu lảo
đảo, bụng run run: Giữa lúc đó hồn ma tên tƣớng giặc xuất hiện, trách mắng,
đe doạ, đòi Ngô Tử Văn phải dựng trả ngôi đền nhƣ cũ. Tử Văn mặc kệ, “vẫn
cứ ngồi ngất ngƣởng tự nhiên”.
+ Qua lời Thổ công, Tử Văn đƣợc biết hồn ma tên tƣớng giặc là kẻ
“quen dùng chƣớc dối lừa, thích làm trò thảm ngƣợc’’, là kẻ “giảo hoạt”
nhƣng “những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó”.
93
Hồn ma tên tƣớng giặc quyết chống chọi với Tử Văn và đã kiện Tử Văn ở
Minh ti. Trong khi đó Tử Văn bệnh càng nặng, lại bị hai tên quỷ sứ đến bắt đi,
dẫn tới chỗ “Tội sâu ác nặng, không đƣợc dự vào hàng khoan giảm”.
+ Mâu thuẫn lên tới cao trào, đỉnh điểm khi Tử Văn và hồn ma tên
tƣớng giặc đối chất trƣớc Diêm Vƣơng. Do bị bƣng bít sự thật, ngay khi mới
giáp mặt, Diêm Vƣong đã quát mắng Tử Văn là kẻ hàn sĩ hỗn láo và đe doạ :
“tội ác tự mình làm ra, còn trốn đi đằng nào?”. Diêm Vƣơng còn bênh vực
hồn ma tên tƣớng giặc là “ngƣời cƣ sĩ, trung thuần lẫm liệt, có công với tiên
triều” nên đƣợc “đền công khó nhọc”. Tên tƣớng giặc thì tìm cách chối bỏ tội
ác, đổ lỗi cho Ngô Tử Văn. Trong hoàn cảnh ấy, Tử Văn vẫn bình tĩnh kể lại
đầu đuôi câu chuyện với lời lẽ cứng cỏi, thái độ kiên quyết không chút nhún
nhƣờng.
– Mâu thuẫn, xung đột được giải quyết ( mở nút ) : Trƣớc những chứng
cứ rõ ràng, sự thực đƣợc phơi bày, hồn ma tên tƣớng giặc bị trừng trị “lấy
lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng”, bỏ vào ngục Cửu u. Tử Văn
đƣợc làm chức phán sự đền Tản Viên. Công lí đã đƣợc thực hiện : ngƣời tốt
đƣợc đền bù, kẻ ác phải đền tội.
Nhân vật Ngô Tử Văn và hồn ma tên tƣớng giặc bại trận đƣợc đặt trong
sự đối lập, tƣơng phản, kết cấu truyện với những mâu thuẫn, xung đột giàu
kịch tính đã tạo nên nét đặc sắc của Chuyên chức phán sự đền Tản Viên.
Chuyện đối đáp của người tiều phu ở núi Na lại có cốt truyện ngắn gọn,
đơn giản. Khởi đầu là một đoạn văn ngắn giới thiệu sơ lƣợc cảnh núi Na cùng
một lão tiều đang ẩn cƣ ở nơi đó. Kế tiếp là bài ca (21 câu dài ngắn khác
nhau) mà Hồ Hán Thƣơng nghe đƣợc từ miệng lão tiều, khi nhà vua cùng
đoàn tùy tùng đi săn trên núi Na. Ngay sau đó, viên quan hầu Trƣơng Công
đƣợc lệnh đi theo mời gặp, nhƣng đi một hồi thì lạc vào một cái động sâu,
phía trong có một cái am cỏ bên những khóm cây xanh tốt. Trong am, là một
chiếc giƣờng mây, trên giƣờng để đàn sáo và chiếc gối dựa. Còn hai bên vách
94
có đề hai bài ca, một bài là Thích ngủ (25 câu), một bài là Thích cờ (23 câu).
Đến lúc ấy, viên quan mới bắt gặp lão tiều phu đang ngồi ngoài hiên đá, dạy
con chim yểng học nói, bên cạnh có mấy đứa nhỏ ngồi đánh cờ... Tiếp theo là
cuộc đối đáp của lão tiều với viên quan hầu, đây là câu chuyện thể hiện quan
niệm sống "lánh đục về trong" của kẻ sĩ lúc bấy giờ, trong số đó có tác giả. Ba
bài ca có trong truyện đều thuộc về loại văn chƣơng lãng mạn của Đạo học,
giàu tâm lý và nghệ thuật. Ba bài ca thể hiện “lý tƣởng thẩm mỹ” của tác giả:
vừa muốn thoát tục lại không thể dứt bỏ “duyên nợ” cõi trần, đó là mâu thuẫn
muôn đời của Nho sĩ thời xƣa.
Cuộc đối đáp giữa lão Tiều phu với quan hầu Trƣơng Công đã thể hiện rõ tƣ
tƣởng và thái độ của Nguyễn Dữ, đối với nhà Hồ... Tuy nhiên, những gì tác giả để
cho miệng lão Tiều phát ra cùng lời tiên đoán cảnh diệt vong của triều đình ấy, đã
cho thấy Nguyễn Dữ không hẳn là ngƣời lánh đời, mà chỉ vì ông không tìm đƣợc
lối thoát trên con đƣờng hành đạo, đành trốn vào cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn
mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời...
Đến với cuộc xử kiện trong Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều . Quan
huyện Văn Tƣ Lập đã tìm đủ mọi cách để xét ra kẻ gian, từ canh phòng cẩn
mật đến mời thầy phù thủy xin bùa yểm trấn mà sự quấy nhiễu càng tệ hơn
trƣớc. Cuối cùng, vô tình ngƣời thợ săn phát hiện ra đƣợc bọn trộm cƣớp là ba
pho tƣợng Hộ pháp trong chùa hoang và miếu Thủy thần. Những truyện đƣợc
xây dựng dựa trên mô típ này cốt truyện thƣờng rất li kì, hấp dẫn, kịch tính,
có phần mở đầu, phát triển đến cao trào và phần mở nút (sự thật đƣợc làm rõ,
vụ kiện đƣợc xét xử). Đây một thành công lớn về mặt xây dựng cốt truyện của
“Truyền kì mạn lục”, đƣa văn xuôi tự sự Việt Nam dần thoát khỏi ảnh hƣởng
của văn học dân gian, văn học sử, mang hình dáng của một tác phẩm văn xuôi
nghệ thuật.
Để xây dựng truyện theo mô típ xuống âm phủ, lạc cõi tiên… xung đột có
thể có hoặc không tùy thuộc ý đồ của tác giả nhƣng cốt truyện nhất nhất phải
95
đảm bảo có nguyên nhân, diễn tiến và kết thúc. Chỉ nhƣ vậy ngƣời đọc mới
hình dung đƣợc hành trình đến thế giới khác của nhân vật. Ta cũng hiểu vì
sao cốt truyện lại đƣợc coi là sự phát triển của mô típ.
3.5.3. Trong việc xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật
Không gian, thời gian chính là mảnh đất để nhân vật có thể tồn tại, bộc
lộ tính cách. Đến với mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác” ở “Truyền kì mạn
lục”, ngƣời đọc sẽ cùng các nhân vật của truyện phiêu diêu, chìm đắm trong
thế giới huyền ảo ở nhiều chiều không gian khác nhau và hành trình trong thời
gian phi tuyến tính với độ đàn hồi, co giãn rất tự do theo ý định chủ quan của
tác giả. Sự va chạm giữa hai thế giới vô hình và hữu hình, là bản lề đóng khép
giữa cõi thực và cõi ảo, hòa phối không gian thực và mộng, gắn kết các nhân
vật là con ngƣời thuộc thế giới thực với những nhân vật thuộc thế giới ảo nhƣ:
tiên, hồn ma, cây cỏ, tinh vật… tạo nên sự hấp dẫn cho loại truyện này.
Không gian trong “Truyền kì mạn lục” đƣợc mở rộng theo trí tƣợng
của nhà văn, đi từ không gian thực của cuộc sống trần thế đến không gian ảo:
Là không gian tâm linh, ngôi đền thờ thần thủy tộc ở men sông mà thần
Thuồng luồng trú ngụ (Chuyện đối tụng ở Long cung), là không gian sông
nƣớc để nàng Vũ Thị Thiết gửi gắm tấm lòng kiên trinh của mình (Chuyện
người con gái Nam Xương), là thế giới hƣ ảo nơi tiên cảnh , không gian núi
non hùng vĩ mà Từ Thức đã lạc đến (Từ Thức lấy vợ tiên), là không gian cung
Tử Vi lộng lẫy, nơi mà quần tiên thƣợng đế tụ họp (Chuyện gã Trà Đồng
giáng sinh)…Không gian ấy càng trở nên hấp dẫn với con ngƣời hơn khi
đƣợc đặt trong mối quan hệ với thời gian. Vì là không gian ảo nên nó chỉ đến
và đi nhƣ một giấc mơ. Tuy vậy chính nó lại đánh thức niềm khát khao mãnh
liệt và vĩnh cửu của con ngƣời trong thế giới nhân sinh.
Nhà văn mang tâm thế ấy mà gửi gắm trong những câu chuyện đầy nỗi
bi ai. Hãy xem không gian địa ngục trong Chuyện Lý tướng quân: “lò lửa, vạc
sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm, hoặc cầm thừng chão, hoặc
96
cầm dao cưa, mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm núm ở bên vạc dầu, lấm
lét sợ toát mồ hôi”, hỏi không sợ hãi sao đƣợc.
Cũng trong Chuyện Lý tướng quân, hãy xem thời gian ảo - thời gian
thực”: “Thúc Khoản giật mình tỉnh dậy, thấy người nhà đương ngồi chung
quanh mà khóc, nói mình chết đã hai ngày rồi”. Từ thời gian của hiện tại, tác
giả hƣớng ngƣời đọc đến với thời gian của tƣơng lai, thời gian của lí tƣởng
sống nhân văn cao đẹp, thời gian của sự vĩnh hằng “Thúc Khoản bèn ruồng
bỏ vợ con, đem của cải tán cấp cho mọi người và đốt hết những văn tự nợ,
vào rừng hái thuốc tu luyện”.
Chính không gian, thời gian rộng mở nhiều chiều đã làm cho ý nghĩa
câu chuyện trở nên sâu sắc. Hãy xem lời bình ở cuối truyện: “Than ôi! đạo
trời chí công mà vô tư, lưới trời tuy thưa mà chẳng lọt, cho nên hoặc có
người lúc sống khỏi vạ mà lúc chết bị hình. Song, chịu họa ở lúc sống, người
đã không hiểu, phải tội ở lúc chết, người lại không hay; vì thế mà đời thường
có lắm loạn thần tặc tử. Ví thử họ hiểu, họ hay thì dù bảo làm ác cũng không
dám làm…”. Nhƣ vậy, mỗi mô típ đều có vai trò quan trọng trong việc định
hình không gian, thời gian nghệ thuật để câu chuyện phát triển và đạt đƣợc
tầm giá trị nhƣ tác giả mong muốn.
3.5.4. Trong việc xây dựng nhân vật
Ở mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác”, Nguyễn Dữ trong “Truyền kì
mạn lục” đã xây dựng thành công các kiểu nhân vật: vua, quan lại, nho sĩ,
ngƣời phụ nữ và nhân vật thần linh, ma quái. Các kiểu nhân vật có những
điểm tƣơng đồng về vẻ đẹp hình thức, tài năng văn thơ, táo bạo và chủ động
trong tình yêu, có khí phách. Qua các chi tiết mang đậm yếu tố hoang đƣờng :
ngƣời quan hệ và chung sống với hồn ma, tiên nữ; ngƣời di chuyển đến các
không gian khác nhau: hạ giới, thiên giới, địa ngục cũng rất dễ dàng… tâm lí,
tính cách nhân vật đƣợc khắc họa rõ nét.
97
Diễn biến truyện trong các truyện thuộc mô típ này thƣờng giàu kịch
tính, kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân
vật, giữa tự sự và trữ tình, giữa văn xuôi và văn biền ngẫu; nhân vật có tính
cách, có số phận riêng, ám ảnh.
Hình tƣợng nhân vật nho sĩ đã trở nên quá quen thuộc và phổ biến
trong các tác phẩm văn chƣơng Việt Nam qua các giai đoạn, đặc biệt là văn
học trung đại. Mỗi tác giả có những đóng góp riêng cho nhân vật này tạo nên
sự khác biệt trong các tác phẩm cùng thời. Nguyễn Dữ cũng không ngoại lệ.
Trong “Truyền kì mạn lục”, khi xây dựng hình tƣợng này, ông cũng có kế
thừa những đặc điểm nho sĩ của các sáng tác trƣớc đó. Tuy nhiên, bằng tất cả
tấm lòng, tài năng và sáng tạo của bản thân, Nguyễn Dữ đã cho ngƣời đọc
thấy đƣợc những đổi mới trong việc xây dựng hình tƣợng nhân vật nho sĩ
trong tác phẩm của mình – ngƣời nho sĩ trong thời kì suy thoái của chế độ
phong kiến Việt Nam ở thế kỉ XVI.
Nhân vật Phạm Tử Hƣ và Dƣơng Trạm trong “Chuyện Phạm Tử Hư
lên chơi Thiên tào” mang niềm tự hào theo kiểu Nho giáo. Phẩm chất Phạm
Tử Hƣ “là người tuấn sảng hào mại, không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ
Dương Trạm, Trạm thường răn Tử Hư về tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng
cố sức sửa đổi trở nên con người có đức tính tốt”. Tử Hƣ là ngƣời học trò
trung hậu, mang trong mình phẩm chất “tôn sư trọng đạo” luôn là học trò
tình nghĩa, không quên ân tình, tôn trọng những điều răn dạy của ngƣời thầy
đã tận tình dạy dỗ mình thành ngƣời tốt. Đức tính cao cả, trung hậu của Phạm
Tử Hƣ đƣợc thể hiện ở chỗ sau khi thầy Dƣơng Trạm mất thì các học trò khác
tản đi hết còn Phạm Tử Hƣ thì “làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi
mới trở về”. Đó là ngƣời học trò có đức, luôn biết ơn ngƣời dạy dỗ, giữ đạo lý
làm ngƣời, không nản chỉ quyết tâm đèn sách, kế nghiệp thầy. Vì tấm lòng
trung hậu, tình nghĩa, một lòng thờ thầy nên cuối cùng chàng đƣợc đền đáp
xứng đáng lên chơi Thiên tào và thi đỗ ra làm quan giúp dân, “rồi phàm
98
những việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy báo cho biết”.
Qua nhân vật Phạm Tử Hƣ, tác giả khuyên con ngƣời sống giữ đạo lý làm
ngƣời nhƣ lời khuyên cuối truyện:“Nay như việc Phạm Tử Hư lên chơi trời
để dùng khuyên những người trung hiếu với thầy lại có thể răn những kẻ bất
hiếu với thầy”. Sống phải có nhân nghĩa trƣớc sau nhƣ một, không quên
ngƣời đã dạy dỗ mình. Còn Dƣơng Trạm là ngƣời thầy tốt, phúc hậu, luôn dạy
con ngƣời những điều hay lẽ phải, sống biết giữ đều tín nghĩa với thầy
bạn “quý trọng những tờ giấy có chữ hễ thấy rơi vãi liền nhặt mà đốt đi”.
Chính vì tấm lòng biết quý trọng cái nghĩa, cái đạo đó mà khi mất đƣợc lên
Thiên tào giữ chức quan hiển hách trông coi việc văn chƣơng thi cử.
Văn Dĩ Thành trong “Chuyện tướng Dạ Xoa” là ông quan vì dân lo cho
số phận nhân dân, luôn làm việc đại nghĩa và còn là ngƣời thủy chung trong
tình bạn. Khi Lê Ngộ gặp cảnh gia đình bị bệnh dịch rất nặng, Dĩ Thành đã ra
tay giúp đỡ đƣa lại hạnh phúc cho gia đình bạn. Lời bình của tác giả đã thể
hiện lý tƣởng đẹp đẽ: “Khi đã coi ai làm người bạn chân chính thì sống chết
không đổi thay, hoạn nạn cùng cứu gỡ”. Qua câu chuyện với nhân vật chính
diện của Văn Dĩ Thành, Nguyễn Dữ muốn gửi gắm hoài bão lớn về quan
niệm sống giữa con ngƣời với con ngƣời phải lấy cái tình nghĩa làm đầu. Đấy
là vấn đề mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc đặt ra với xã hội phong kiến đang
trên đƣờng rạn nứt, suy thoái.
Phụ nữ Việt Nam thời phong kiến đƣợc giáo dục cách sống chỉ biết
phục tùng, an phận, ít có ngƣời phụ nữ nào có ý định vƣơn lên giành quyền
lực của mình trong cái xã hội trọng nam khinh nữ đƣơng thời. Tuy vậy,
“Truyền kì mạn lục” lại có một số nhân vật nữ với những ƣớc vọng sống
mạnh mẽ. Đó là khát vọng tình yêu lứa đôi, khát vọng về một gia đình hạnh
phúc, và khát vọng muốn đƣợc giải phóng tình cảm bản năng. Tuy nhiên, xã
hội đƣơng thời không cho phép ngƣời phụ nữ có những hành động vƣợt quá
lễ giáo phong kiến, thực hiện ƣớc vọng của mình.
99
Điển hình là Đào thị Hàn Than (Nghiệp oan của Đào thị) bị vợ quan
Hành Khiển đánh ghen một cách tàn nhẫn, uất hận nàng nuôi ý định báo thù
nhƣng không thành. Khi chết đi nàng vẫn không nguôi ý định báo thù. Việc
mất đi tình yêu, nỗi đau đớn về tinh thần lẫn thể xác, cùng với việc nàng chết
trên giƣờng cữ khi đứa con chƣa ra đời đã làm tăng nỗi uất ức trong nàng lên
đến tột độ. Nàng quyết trở lại nhà quan Hành Khiển để báo oán, khiến cho
dinh cơ nhà Hành Khiển xuống vực sâu của thần Thuồng Luồng. Bên cạnh đó
còn thấy ở Thị Nghi (Chuyện yêu quái ở Xương Giang), Nhị Khanh (Chuyện
cây gạo). Bằng những hành động trả thù đời đã cho ta thấy đƣợc khát vọng
sống của những con ngƣời này. Thị Nghi vì hận thù đời mà khiến cho một
vùng phải khiếp sợ. Nhị Khanh ngang nhiên tung hê cả một trật tự xã hội
bằng hành động để thân thể lõa lồ ngang nhiên nơi cửa Phật.
Qua việc phản ánh số phận của ngƣời phụ nữ, Nguyễn Dữ đã làm nổi
bật lên khát vọng đòi quyền sống, quyền làm ngƣời và mong muốn có một
tình yêu, một gia đình hạnh phúc.Tuy nhiên, xã hội phong kiến với nhiều lễ
giáo rất khắc khe khiến cho mọi quyền lợi của ngƣời phụ nữ đều bị tƣớc đoạt,
đặc biệt họ không có quyền lựa chọn cho mình một cuộc sống nhƣ mong
muốn. Vấn đề đƣợc tự do yêu đƣơng, thoả nguyện ái ân chăn gối… đối với họ
trong xã hội này là không thể. Thông qua việc miêu tả các nhân vật có khát
vọng sống mạnh mẽ, có ý chí vƣơn lên giành lấy hạnh phúc của mình nhƣng
lại bị lễ giáo phong kiến không chấp nhận tác giả muốn phê phán sự mục nát
của cái xã hội đang lúc suy tàn với những luật lệ khắt khe chà đạp lên cuộc
sống của con ngƣời.
3.6. Sự kết hợp giữa các mô típ: “Người lạc vào thế giới khác” với
“Tình yêu và hôn nhân kì dị” trong “Truyền kì mạn lục”
Thuật ngữ mô típ thƣờng có quan hệ với đề tài và cốt truyện. Mô típ có
thể là hạt nhân của cốt truyện. Trải qua một quá trình gia tăng, nối dài, phát
triển, nó sẽ trở thành cốt truyện. Mặt khác, đề tài - cốt truyện có thể đƣợc coi
100
là sự kết hợp của những mô típ. Nhiều mô típ có thể đƣợc lồng ghép trong
một cốt truyện và các thành phần của cốt truyện.
“Truyền kì mạn lục” nói riêng, truyện truyền kì Việt Nam nói chung là
sự tổng hợp những ảnh hƣởng từ truyện truyền kì Trung Quốc và các truyện
dân gian thần linh chí quái của Việt Nam. Hai mô típ: “Ngƣời lạc vào thế giới
khác” với “Tình yêu và hôn nhân kì dị” không chỉ chiếm số lƣợng lớn, là
những mô típ đƣợc sử dụng chủ yếu trong “Truyền kì mạn lục” mà giữa
chúng còn có mối liên hệ qua lại, sự kết hợp chặt chẽ trong việc thể hiện tƣ
tƣởng của tác phẩm. Trong mỗi mô típ, bên cạnh những yếu tố vay mƣợn, ảnh
hƣởng còn là tài hoa, sức sáng tạo tuyệt vời của các tác giả ngƣời Việt.
“Truyền kì mạn lục” vì thế trở nên lung linh và đầy sức hấp dẫn.
Trong một truyện của “Truyền kì mạn lục” có thể là sự kết hợp của
nhiều mô típ, nhƣ trong truyện Từ Thức lấy vợ tiên, cả mô típ “Tình yêu và
hôn nhân kì dị” và “Người lạc vào thế giới khác” cùng đƣợc sử dụng. Từ
Thức chán công danh quyền chức, yêu chuộng sơn thuỷ nên du tiên, kết hôn
với tiên nữ Giáng Hƣơng, chẳng bao lâu nhớ mong quê cũ, trở về thì thiên hạ
đổi dời. Mỗi mô típ đều đem đến một màu sắc riêng cho câu chuyện mà không
thể thay thế hay vứt bỏ.
Nguyễn Dữ đã dựa vào các yếu tố kì ảo để xây dựng mô típ. Nói chuyện
ma quái cũng là để nói chuyện đời, nói chuyện mộng mơ ảo tƣởng con ngƣời
lạc bƣớc đến cõi tiên, âm phủ, thủy cung … cũng là để nói chuyện đời.
Chuyện thiện ác nhân quả, chuyện hạnh phúc lứa đôi, chuyện nhân cách nhà
nho, chuyện số phận ngƣời phụ nữ… Sự ƣu thế, cũng nhƣ sự kết hợp nhuần
nhuyễn hai mô típ trên trong “Truyền kì mạn lục” làm cho các vấn đề xã hội
đƣợc Nguyễn Dữ giải quyết một cách toàn vẹn, triệt để.
Tiểu kết Chƣơng 3
Mƣợn mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác”, Cù Hựu và Nguyễn Dữ đã
đƣa con ngƣời vào thế giới vốn không có thật, thế giới chỉ có trong tƣởng
101
tƣợng (cõi tiên, âm phủ, thủy cung, thiên giới). Theo đó, nhân vật chính hoặc
có một cuộc du ngoạn, gặp gỡ cổ nhân, thánh thần để bàn luận thế sự (Chuyện
đối đáp của người tiều phu ở núi Na), hoặc đến với một mối nhân duyên đẹp
nhƣng cũng nhiều suy tƣ trăn trở (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên) hoặc là một
cuộc đấu tranh không khoan nhƣợng vì lẽ phải và công bằng (Chuyện chức
Phán sự đến Tản Viên)… Những vấn đề nhức nhối của xã hội nhƣ tốt xấu,
thiện ác, nhân quả, báo ứng, chiến tranh phong kiến, nhân cách, phẩm hạnh
của các giai cấp tầng lớp nhƣ nhà nho, sƣ sãi, vấn đề số phận của ngƣời phụ
nữ… cũng đƣợc tác giả đặt ra. Đó chính là tình cảm nhân văn, là tinh thần dân
tộc, là những sáng tạo mới mẻ trong cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Dữ.
Từ việc khảo sát nội dung của mô típ “Ngƣời lạc vào thế giới khác”
trong “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục” chúng tôi thấy đƣợc
những ảnh hƣởng, tác động không nhỏ của văn hóa, văn học Trung Quốc đến
những sáng tạo của văn học nƣớc nhà. Chúng tôi cũng thấy đƣợc năng lực vận
dụng những giá trị truyền thống, sự kế thừa tinh hoa của văn học nƣớc ngoài
của Nguyễn Dữ trong sáng tác “Truyền kì mạn lục”. Vai trò của mô típ
“Ngƣời lạc vào thế giới khác” trong nghệ thuật xây dựng truyện của “Truyền
kì mạn lục” cũng đƣợc khai thác một cách chi tiết và cụ thể.
102
KẾT LUẬN
Tiểu thuyết truyền kì đầu đời Minh đƣợc kế thừa từ thời Đƣờng, Tống
song ý cảnh và công phu thì không gì sánh nổi. Tác phẩm gây ảnh hƣởng lớn
đến đƣơng thời và đời sau phải kể đến “Tiễn đăng tân thoại” của Cù Hựu,
ngƣời đƣợc đánh giá là có công mở đầu cho sự hƣng thịnh trở lại của thể
truyền kì Trung Quốc, là cầu nối cho thể loại truyền kì đời Đƣờng với các giai
đoạn sau. Đây cũng là tác phẩn truyền kì có sức ảnh hƣởng và lan tỏa rộng
nhất đối với các nƣớc trong khu vực nhƣ Hàn Quốc, Nhật Bản, đặc biệt là
Việt Nam.
Truyện truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ thể loại truyện kì ảo
Trung Quốc. Sự tƣơng tác, giao lƣu văn hóa giữa các nƣớc trong khu vực
cùng với quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn liền với nền văn hóa
và văn học dân tộc đã đƣa thể loại truyền kì ở Việt Nam đạt đến tầm cao mà
tiêu biểu nhất là “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ.
“Truyền kì mạn lục” đƣợc coi là tác phẩm tiêu biểu nhất cho thể loại
truyền kì của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm đƣợc nhà nghiên cứu Vũ
Khâm Lân đánh giá là “thiên cổ kì bút”, đỉnh cao của nghệ thuật truyền kì.
Đây không chỉ là một quyển sách ghi chép đơn thuần mà thật sự là một sáng
tác của Nguyễn Dữ với sự gia công, hƣ cấu, sáng tạo đặc sắc của nhà văn khi
viết tác phẩm này dựa trên những truyện đƣợc lƣu truyền trong nhân dân.
“Truyền kì mạn lục” vì vậy không chỉ giàu giá trị hiện thực mà còn có giá trị
nhân đạo, nhân văn sâu sắc.
Ở mô típ “Tình yêu và hôn nhân kì dị”, Cù Hựu và Nguyễn Dữ đã đƣa
con ngƣời vào những cuộc tình với thần tiên, ma, tinh loài vật… để từ đó
gián tiếp đặt ra những vấn đề mang ý nghĩa thời đại, những vấn đề liên quan
trực tiếp đến đời sống tình cảm cá nhân của mỗi con ngƣời. Đó là khát vọng
tình yêu và hạnh phúc trần thế, dù nhiều lúc phóng túng, sa đọa. Đặc biệt với
Nguyễn Dữ, ông còn trực tiếp tố cáo tầng lớp thống trị và thể chế đƣơng thời,
103
vạch trần những tƣ tƣởng thần quyền, hà khắc trói buộc tình cảm cá nhân, dồn
đuổi con ngƣời vào chỗ không lối thoát.
Ở mô típ “Ngƣời đến thế giới khác”, Cù Hựu và Nguyễn Dữ đã đƣa
con ngƣời vào thế giới vốn không có thật, thế giới chỉ có trong tƣởng tƣợng
(cõi tiên, âm phủ, thủy cung, thiên giới). Từ đó tác các giả đặt ra những vấn
đề nhức nhối của xã hội nhƣ tốt xấu, thiện ác, nhân quả, báo ứng, chiến tranh
phong kiến, nhân cách, phẩm hạnh của các giai cấp tầng lớp nhƣ nhà nho, sƣ
sãi, quan lại, vấn đề số phận của ngƣời phụ nữ, vấn đề hôn nhân, luyến ái …
Đó chính là tình cảm nhân văn, là tinh thần dân tộc, là những sáng tạo mới mẻ
trong cảm quan nghệ thuật của Nguyễn Dữ.
Cũng qua việc tìm hiểu một số truyện trong “Truyền kì mạn lục” có cùng
mô típ với “Tiễn đăng tân thoại”, chúng tôi đi đến một số kết luận nhƣ sau:
Hai tác phẩm có những điểm tƣơng đồng nhất định, chủ yếu là về thể
loại, đề tài, chủ đề, cốt truyện, bố cục, nhân vật, mô típ, ngôn từ, một số tình
tiết trùng hợp… Đó là sự gặp gỡ tất yếu của hai nền văn học nằm trong khu
vực văn hóa đồng văn, cùng kế thừa những thành tựu có sẵn của văn học dân
gian vẫn lƣu truyền trong đời sống bình dân. Đó cũng là sự tiếp nhận, kế thừa
tất yếu của ngƣời đi sau với ngƣời đi trƣớc khi những yếu tố kế thừa là tích
cực. Nếu Cù Hựu đã kế thừa những thành tựu từ thể truyền kì đời Đƣờng,
Tống để tạo ra tác phẩm có thể làm sáng chói văn học đời Minh thì đến lƣợt
Nguyễn Dữ, ông đã học tập ở tiên thoại chí quái Trung Hoa, đặc biệt “Tiễn
đăng tân thoại” của Cù Hựu, kết hợp với những tinh hoa văn hóa, văn học
dân tộc để sáng tác “Truyền kì mạn lục”, một kiệt tác nghệ thuật ở thể loại
truyền kì.
Bên cạnh những kế thừa tích cực, bằng tài năng và trái tim của một
ngƣời nghệ sĩ lớn, Nguyễn Dữ đã hƣớng tác phẩm của mình đến những vấn
đề phù hợp với hiện thực cuộc sống cũng nhƣ đời sống vật chất tinh thần
ngƣời Việt trong việc kết hợp yếu tố mang tính đặc trƣng của thể loại với
104
những hiện tƣợng lịch sử cụ thể. Không gian của câu chuyện, số phận, tâm lí
tính cách của nhân vật đều mang đậm nét dấu ấn của dân tộc. Tác phẩm vì thế
là một sáng tác nghệ thuật, một sự sáng tạo đặc biệt trên cơ sở của cái đã có
nhằm tạo ra một tác phẩm mang hơi thở thời đại và thấm đẫm tinh thần dân
tộc chứ không phải là sự “mô phỏng”, “bắt chƣớc” hay “sao chép nguyên
dạng” nhƣ một số ý kiến đánh giá.
Với những kết quả thu đƣợc trong quá trình nghiên cứu đề tài nhƣ trên,
chúng tôi hy vọng đề tài sẽ góp phần đem đến cho độc giả cái nhìn toàn diện
và sâu sắc hơn về sự giao lƣu văn hóa giữa các nƣớc trong khu vực, đồng thời
thấy đƣợc sự kế thừa và sáng tạo của Nguyễn Dữ trong “Truyền kì mạn lục”,
đỉnh cao của thể loại truyền kì ở Việt nam thời kì trung đại. Hy vọng đề tài
cũng sẽ gợi mở một hƣớng khai thác mới đối với những ai yêu thích thể loại
truyền kì – Hƣớng khai thác từ mô típ truyện. Chắc chắn trong quá trình thực
hiện đề tài, do năng lực nghiên cứu và trình độ còn hạn chế, ngƣời viết không
thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận đƣợc sự quan tâm đóng góp và
chỉ bảo từ thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà
Nội.
2. Lại Nguyên Ân (chủ biên) (2001), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc
đến hết thế kỉ XIX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Tú Châu (1987), Mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì
mạn lục, Tạp chí Văn học số 3.
4. Nguyễn Đổng Chi (1958), Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam quyển II, Nxb
Văn - Sử - Địa.
5. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NxbViện văn
học, Hà Nội.
6. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên, 1999), Truyện truyền kì Việt Nam (tập 2 và 3),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Mấy đặc trưng loại biệt của văn học Việt Nam
từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX”, Tạp chí Văn học, số 5.
8. Đặng Anh Đào (1990),Từ nguyên tắc đa âm tới một số hiện tượng văn
học Việt Nam – Tạp chí Văn học số 6, Hà Nội.
9. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Hội Nhà
Văn, Hà Nội.
10. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá. (2005), Từ
điển văn học (bộ mới) , Nxb Thế giới, Hà Nội.
12. Nguyễn Xuân Hòa(1997), Ảnh hưởng của văn học dân gian trong Truyền
kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Luận án Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
106
13. Cù Hựu, Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại - Truyền kì mạn lục, bản
dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Nguyễn Thế Hữu (1996), Thi pháp học, Đại học Huế, Nxb Thừa Thiên
Huế.
15. Toàn Huệ Khanh (2004), So sánh tiểu thuyết truyền kì Hàn Quốc, Trung
Quốc, Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kì mạn lục, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
16. Vũ Ngọc Khánh (1963), Khảo đính và giới thiệu truyện Từ Thức, Nxb Văn
học.
17. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng (1979), Văn học Việt
Nam (thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Đinh Thị Khang (2007), So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma trong
Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, tạp chí Nghiên cứu Văn học, số
4.
19. Kawamoto Kurive (1996), Những vấn đề khác nhau có liên quan đến
Truyền kì mạn lục, Tạp chí Văn học, số 6.
20. Lê Kinh Khiên (1982), Một số vấn đề lý thuyết chung về mối quan hệ văn
học dân gian – văn học viết, Tạp chí Văn học, số 1.
21. Ngô Tự Lập (2008), Văn chương như là quá trình dụng điển, Nxb Tri
Thức, Hà Nội.
22. Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Nhƣ Ý (đồng Chủ biên)
(2004), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam, Nxb Đại học Sƣ
phạm.
23. Nguyễn Đăng Na (1987), Sự phát triển văn xuôi Hán - Việt từ thế kỉ X đến
cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX qua một số tác phẩm tiêu biểu, Luận án
Phó Tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội.
24. Nguyễn Đăng Na, (chủ biên, 1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung
đại. Tập 1 - Truyện ngắn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
107
25. Nguyễn Đăng Na (2005), Truyền kì mạn lụcdưới góc độ so sánh văn học,
Tạp chí Hán Nôm, số 6.
26. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn họctrung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục,Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Na (chủ biên, 2007), Văn xuôi tự sự Việt Nam trung đại –
3 tập,Nxb Giáo dục.
28. Bùi Văn Nguyên, Bàn về yếu tố văn học dân gian trong Truyền kì mạn lục
của Nguyễn Dữ, Tạp chí Văn họcsố 11-1968.
29. Bùi Văn Nguyên (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục.
30. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại &
Truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn học & Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông
Tây.
31. Trần Thị Hải Ninh(1999), Bước tiến của thể loại truyện ngắn truyền kì
Việt Nam qua Truyền kì mạn lục, Luận án Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
32. Daniel-Henry Pageaux (1994), La littérature générale et comparée,
Armand Colin, Paris. (Nguồn Tạp chí tia sáng, văn học so sánh).
33. Hoàng Phê (chủ biên, 2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung
tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng .
34. Nguyễn Khắc Phi (2004), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học
Trung Quốc - Qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục.
35. Ngô Thị Phƣợng (2005), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù
Hựu với Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Luận văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà
Nội.
36. V.I. Propp (2003), Tuyển tập V.I. Propp, nhiều ngƣời dịch, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
37. B.L. Riptin (1974), Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ
của phương Đông theo phương pháp loại hình, Tạp chí Văn học số 4.
108
38. B. Riptin (2006), Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung
Quốc) với Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (Triều Tiên), Truyền kì
mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Cà tỳ tử của Asai Rei (Nhật Bản),
Tạp chí Văn học số 12
39. Phùng Quý Sơn (biên soạn, 1995), Đường đại truyền kì, Nxb Đồng Nai.
40. Sở Nghiên cứu văn học thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc (2000),
Lịch sử văn học Trung Quốc, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục.
42. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà nội.
43. Trần Đình Sử (chủ biên, 2008), Lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại học Sƣ
phạm, Hà Nội.
44. Trần Thị Băng Thanh (chủ biên, 1985), Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập
4, Nxb Khoa học xã hội.
45. Vũ Thanh (2001), Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt
Nam hiện đại, trong cuốn Những vấn đề lí luận và lịch sử vănhọc, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Vũ Thanh (2006), Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại truyền kì Đông Á,
Trang điện tử của Viện Văn học.
47. Vũ Thanh (2007), Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại - Quá
trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh điểm trong cuốn Văn họcViệt Nam
thế kỷ X - XIX - Những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Trần Nho Thìn (2006), Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam, Nghiên
cứu văn học số 9&10.
49. Nguyễn Thị Thƣơng (2014), So sánh 5 truyện truyền kì Hàn Quốc, Việt
Nam, Nhật Bản ảnh hưởng từ Tiễn đăng tân thoại của Trung Hoa, Luận
văn Thạc sĩ, ĐHSP Hà Nội.
50. Nguyễn Ngọc Thƣờng (1987), Về mối quan hệ giữa mô típ và cốt truyện,
Tạp chí Văn học số 2.
109
51. Đinh Phan Cẩm Vân (2000), Cái kì trong tiểu thuyết truyền kì, Tạp chí
Văn học, số 10.
52. Đinh Phan Cẩm Vân (2005), Góp thêm vài suy nghĩ về mối quan hệ giữa
Chuyện cây gạo và truyện Chiếc đèn mẫu đơn, tạp chí Nghiên cứu Văn học
số 6.
53. Trần Ngọc Vƣơng (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn
chung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
54. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên, 2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X - XIX -
Những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Lê Thu Yến (tập hợp, giới thiệu, 2002), Văn học Việt Nam trung đại -
Những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.