ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THUÝ HẰNG

TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH

TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT

NAM 1930-1945

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2006

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẶNG THUÝ HẰNG

TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH

TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT

NAM 1930-1945

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ : 5 04 33

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ

HÀ NỘI - 2006

2

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

3

I.

Lý do chọn đề tài

3

II.

Lịch sử vấn đề

6

III.

Nhiệm vụ nghiên cứu

11

IV.

Phạm vi nghiên cứu

11

V.

Phƣơng pháp nghiên cứu

12

VI.

Đóng góp của luận văn

12

VII.

Cấu trúc của luận văn

12

NỘI DUNG

14

14

Chƣơng 1 Từ nhận thức về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đến việc tìm hiểu con đường sáng tác của Thanh Tịnh

I.

Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn trữ tình

14

II.

17

Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại

III.

22

Những gƣơng mặt tiêu biểu tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945

IV.

33

Dòng truyện ngắn trữ tình với các dòng truyện ngắn khác thuộc giai đoạn 1930-1945

V.

Con đƣờng sáng tác của nhà văn Thanh Tịnh

37

40

Chƣơng 2 Thân phận con người và những giá trị nhân bản cao quý trong truyện ngắn của Thanh Tịnh

I.

40

Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới nhân vật của Thanh Tịnh

II.

48

Tiếng nói khẳng định những giá trị nhân văn trong đời sống con ngƣời

3

Lòng nhân ái xót thƣơng và thái độ trân trọng con ngƣời

48

1.

Trân trọng vẻ đẹp cuộc sống

51

2.

Nhìn về quá khứ với nỗi niềm nhớ tiếc sâu nặng

54

3.

56

III.

Đi vào khám phá đời sống tinh thần của con ngƣời trong mọi mặt của cuộc sống, thể hiện chất nhân văn tinh tế và cao cả

62

Chƣơng 3 Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh qua một số phương

diện nghệ thuật

62

I.

Chất thơ nhƣ một đặc điểm bao trùm truyện ngắn Thanh Tịnh

Cách lựa chọn đề tài, xây dựng cốt truyện

67

II.

Thời gian và không gian nghệ thuật

69

III.

Ngôn ngữ trong truyện ngắn Thanh Tịnh

73

IV.

Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc

73

1.

Ngôn ngữ tinh tế, giản dị, gần gũi với đời thƣờng

75

2.

KẾT LUẬN

80

TÀI LIỆU THAM KHẢO

84

4

MỞ ĐẦU

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 phát triển một cách mạnh

mẽ và đạt đƣợc những thành tựu to lớn ở hầu hết mọi lĩnh vực mà cho đến

nay, ngày càng đƣợc khẳng định. Những thành tựu đó đã làm thay đổi hẳn

diện mạo của văn học dân tộc, mang tới cho nó bộ mặt mới: hiện đại. Cùng

với sự phát triển nhanh chóng của thơ ca (đặc biệt là phong trào Thơ mới)

là sự phát triển cũng mạnh mẽ không kém cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng

của các thể loại văn xuôi nghệ thuật nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng

sự, tuỳ bút, nghiên cứu phê bình,… Do sự phức tạp của diện mạo văn học

giai đoạn này cùng những yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới, hiện đại hoá

văn học, nhiều tác giả có thể sáng tác rất nhiều thể loại khác nhau, mà ở

mỗi thể loại lại đều có những thành công nhất định. Điều đó nói lên sự

phát triển mạnh của văn học giai đoạn này không chỉ về số lƣợng, chất

lƣợng tác phẩm mà còn cả về số lƣợng và chất lƣợng tác giả. Nhắc đến Vũ

Trọng Phụng, ngƣời ta không chỉ nhắc đến tiểu thuyết mà còn là những bài

phóng sự khiến ông đƣợc mệnh danh là ông vua phóng sự đất Bắc. Xuân

Diệu, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới lại có những truyện ngắn

trữ tình rất hay. Nhà phê bình nổi tiếng Vũ Ngọc Phan ngoài những bài

nghiên cứu, những tập bút kí, ông còn giúp công chúng Việt Nam tiếp cận

với các tiểu thuyết phƣơng Tây qua bản dịch tiếng Việt của mình. Nhà thơ

Thế Lữ có những truyện đƣờng rừng đầy bí hiểm, hấp dẫn,… Báo chí, nhà

5

in, nhà xuất bản cũng góp phần làm sôi động thêm văn học giai đoạn này

bằng cách đăng tải hàng trăm tiểu thuyết, hàng ngàn truyện ngắn, phóng sự

tuỳ bút, thơ, truyện ký đủ loại,…

2. Trong sự phát triển bùng nổ của văn học, truyện ngắn đã trƣởng

thành vƣợt bậc và sớm trở thành một thể loại mạnh với những đại diện tiêu

biểu nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Thạch

Lam, Thanh Tịnh, Kim Lân... Mỗi tác giả là một quan điểm, một phong

cách riêng, nhƣng đều có những đóng góp vào thành công của thể loại này

trong nền văn học chung. Các tác phẩm truyện ngắn giai đoạn này đã phản

ánh một cách toàn vẹn, sâu sắc đời sống xã hội đƣơng thời. Bên cạnh

những tác phẩm phê phán, phản ánh, tố cáo mặt trái của hiện thực xã hội

với tất cả những thối nát, lỗi thời, bất công, lừa lọc, áp bức của giai cấp

thống trị đối với ngƣời dân lao động; bi kịch tinh thần của ngƣời trí thức

tiểu tƣ sản nhƣ trong các truyện của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,

Nam Cao, Bùi Hiển,... là những tác phẩm đi sâu vào khám phá thế giới

tâm hồn sâu kín, phát hiện vẻ đẹp đời sống nội tâm của con ngƣời với

ngôn ngữ tinh tế, gợi cảm, giàu hình ảnh trong truyện của các nhà văn

Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao,... Nếu nhƣ

trƣớc đây, giới phê bình nghiên cứu văn học thƣờng đi sâu vào tìm hiểu

các tác phẩm mang tính chất hiện thực phê phán xã hội rõ rệt thì đến nay,

ngƣời ta lại nhận thấy những tác phẩm trữ tình cũng có sức hấp dẫn riêng

biệt của nó mà ẩn giấu dƣới những lời văn nhẹ nhàng, trong trẻo chính là

hiện thực của nội tâm con ngƣời thật phong phú và sâu sắc. Đã có nhiều

công trình nghiên cứu, đánh giá một cách trân trọng các tác phẩm của

6

Thạch Lam, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh,... nhƣng cũng còn có nhiều tác giả

chƣa đƣợc tìm hiểu một cách hệ thống dù đóng góp của họ trong dòng văn

học trữ tình là không nhỏ nhƣ Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao,...

Cũng nhƣ vậy, cho đến nay, trong khi các tập truyện ngắn của Thạch Lam,

Hồ Dzếnh liên tục đƣợc xuất bản thành tập riêng và tái bản nhiều lần thì

truyện ngắn của các nhà văn Thanh Châu, Ngọc Giao,… chỉ đƣợc chọn in

cùng các nhà văn khác trong các tuyển tập. Truyện ngắn của Thanh Tịnh

ngoài tập Quê mẹ đƣợc in lại các năm 1957, 1983, thì mới chỉ đƣợc chọn

in trong cuốn Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc do Nhà xuất bản Hội nhà văn

xuất bản từ năm 1998 và cho đến nay chƣa thấy tái bản lại. Nhằm tiếp tục

việc tìm tòi sự đóng góp của các tác giả, tác phẩm văn học trữ tình, ở luận

văn này chúng tôi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu về truyện ngắn Thanh Tịnh

trước năm 1945 - những truyện ngắn mang một phong vị riêng, đầy chất

thơ và tràn đầy một tình yêu quê hƣơng tha thiết.

3. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự gần gũi nhau về phong cách,

quan niệm thẩm mỹ trong các truyện ngắn của các tác giả Thạch Lam,

Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Thanh Châu,… Điều đó đƣợc thể hiện

trong cách lựa chọn cốt truyện tâm lý, nhìn nhận khám phá hiện thực, chọn

lọc các chi tiết của đời sống, cách xây dựng nhân vật truyện, cách tổ chức

các tình huống truyện… Trong khi nghiên cứu về truyện ngắn Thanh Tịnh,

chúng tôi cũng cố gắng phân tích sự ảnh hƣởng của các tác giả văn xuôi

trữ tình khác đối với ông cũng nhƣ sự ảnh hƣởng của ông đối với các tác

giả khác, đồng thời từ đó tìm hiểu xem sự phát triển của dòng văn xuôi trữ

tình đã có tác động, ảnh hƣởng tới các dòng văn học khác nói riêng và văn

học nói chung giai đoạn 1930-1945 nhƣ thế nào, và nếu có thể, nó có ảnh

7

hƣởng gì tới văn học giai đoạn sau nữa hay không? Truyện ngắn Việt Nam

đƣơng đại giai đoạn này (cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI) cũng đang phát

triển rất rầm rộ về số lƣợng tác giả, tác phẩm. Nhƣng liệu nó có chịu ảnh

hƣởng của văn học giai đoạn 1930-1945 trƣớc kia không, theo chiều

hƣớng tích cực hay tiêu cực? Điều đó không dễ dàng gì khi nhận xét, đánh

giá, nhƣng để tìm đƣợc mạch ngầm sự vận động liên tục trong dòng chảy

truyện ngắn của văn học sử nƣớc nhà là điều mong muốn của bất cứ ngƣời

nghiên cứu văn học nào. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đặt tên cho đề

tài nghiên cứu của mình là: Truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện

II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945.

Bên cạnh hai nhà văn đƣợc coi là gần gũi nhất về phong cách, Thanh

Tịnh ít đƣợc nghiên cứu toàn diện, kỹ càng hơn. So với Thạch Lam và Hồ

Dzếnh, số lƣợng các bài nghiên cứu về Thanh Tịnh không nhiều lắm.

Chƣa có công trình nào nghiên cứu, khảo luận về Thanh Tịnh một cách

riêng biệt, độc lập. Từ trƣớc tới nay mới chỉ có luận án Phó Tiến sỹ của

Phạm Thị Thu Hƣơng (năm 1995) là đặt vấn đề nghiên cứu những đặc

trƣng về phong cách truyện ngắn của ba tác giả Thạch Lam-Thanh Tịnh-

Hồ Dzếnh và sự nghiên cứu về Thanh Tịnh nằm trong tƣơng quan chung

với hai tác giả kia. Trong luận án của mình, Phạm Thị Thu Hƣơng đã tìm

ra một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của Thanh Tịnh, đi sâu vào phân

tích không gian làng Mỹ Lý, đặt làng giữa không gian sóng đối, coi các

hình tƣợng dòng sông, con thuyền, câu hò, nhà ga, con tàu, tiếng còi là các

8

biểu trƣng. Có thể nói đây là những phân tích sắc sảo và sâu sắc. Bên cạnh

đó, luận án còn đề cập đến nghệ thuật truyện ngắn của Thanh Tịnh nhƣ tìm

hiểu chất thơ trong văn xuôi, giọng điệu trần thuật xen trào phúng nhẹ

nhàng. Mặc dù vậy, do yêu cầu cũng nhƣ mục đích đặt ra của đề tài nên

luận án dừng lại ở việc tìm hiểu, đặt phong cách của Thanh Tịnh trong

dòng phong cách chung của cả ba nhà văn Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ

Dzếnh.

Những ngƣời đã từng viết hoặc nhắc đến Thanh Tịnh trong các bài

viết nghiên cứu của mình là : Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung, Huy

Cận, Vƣơng Trí Nhàn, Vũ Ngọc Phan, Ngô Văn Phú, Thạch Lam, Thế

Phong, Tầm Dƣơng, Nguyễn Mạnh Trinh, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi

Việt Thắng, Hoài Anh, Phan Quốc Lữ, Ngô Vĩnh Bình, Trần Hữu Tá, Lƣu

Khánh Thơ, Phạm Thị Thu Hƣơng,… Trong số các bài viết đó thì có tới

năm, sáu bài đƣợc viết theo thể loại chân dung tác giả, trong đó có lƣợc

qua toàn bộ sự nghiệp của Thanh Tịnh bao gồm cả truyện ngắn, truyện

dài, thơ, độc tấu, kịch,… Nói chung, các ý kiến đánh giá về truyện ngắn

Thanh Tịnh trƣớc 1945 là khá thống nhất, đều cho rằng “mỗi truyện ngắn

của Thanh Tịnh nhƣ một bài thơ vịnh gọn và có dƣ vị trữ tình lắng sâu”

(Trần Hữu Tá), “tấm lòng nghệ sĩ biết rung cảm một cách thiết tha trƣớc

cuộc sống chân chất, nguyên sơ, thuần phác đã mang đến cho truyện ngắn

của ông không chỉ có chân, có tình mà còn rất có duyên” (Phan Quốc Lữ),

“cái mơ hồ bàng bạc” (Nguyễn Nam Trân), “nhiều truyện của Thanh Tịnh

có khuynh hƣớng lãng mạn rõ rệt”, và “một số truyện khác lại có khuynh

9

hƣớng hiện thực. Một chủ nghĩa hiện thực trữ tình”…

Có thể nói ngƣời đầu tiên nhận ra tài năng văn xuôi của Thanh Tịnh

chính là Thạch Lam khi ông viết lời tựa cho tập truyện ngắn đầu tiên Quê

mẹ của Thanh Tịnh xuất bản năm 1946. Thạch Lam đã dùng những câu

chữ đẹp nhất để ca ngợi nó. Ông đã hiểu và nhận thấy sự chi phối mạnh

mẽ của con ngƣời thi sĩ ở Thanh Tịnh đối với cách nhìn nhận cuộc sống:

“Có lẽ linh hồn ngƣời ở đấy còn nhiều màu sắc khác nhau, trong cuộc sống

còn nhiều bi kịch khác, nhƣng mà tác giả chỉ tả có cái vẻ êm ả và nên thơ.

Tâm hồn ƣa thích cái gì vừa đẹp đẽ, vừa nhè nhẹ, tác giả không lách đi

sâu, nhƣng dừng lại ở một làn gió, ở một cái thoảng hƣơng thơm của hoa

cỏ bốn mùa”. Ông nhận thấy ở Thanh Tịnh một tình yêu quê hƣơng xứ sở

đằm thắm, thiết tha. Thạch Lam đã có những nhận xét tinh tế về Thanh

Tịnh: “Thanh Tịnh đã muốn làm ngƣời mục đồng ngồi dƣới bóng tre thổi

sáo để ca hát những đám mây và làn gió lƣớt bay trên cánh đồng ca hát

những vẻ đẹp của đời thôn quê” [57,350].

Là ngƣời thứ hai đánh giá về Thanh Tịnh, Vũ Ngọc Phan đã xếp

Thanh Tịnh vào cùng dòng “tiểu thuyết tình cảm” với Thạch Lam, ông cho

rằng : “Thứ tình cảm ở tiểu thuyết Thanh Tịnh là thứ tình êm dịu, nhẹ

nhàng, thứ tình của những ngƣời dân quê hồn hậu Trung kì, diễn ra trong

những khung cảnh sông nƣớc, đồng ruộng… Cái tình quê trong hầu hết

các truyện ở tập Quê mẹ bao giờ cũng rung rinh, lai láng trong những đêm

trăng sáng, trên những mặt sông im hay trong những buổi chiều tà, gió hiu

hắt thổi. Tình, trăng, nƣớc, đó là tất cả những cái làm tài liệu cho Thanh

10

Tịnh để xây dựng nên những truyện trong tập Quê mẹ” [26,193]. Theo

ông, “hầu hết những truyện ngắn của Thanh Tịnh lại chỉ rặt những cái đầy

thơ mộng, đầy huyền ảo”, một số ít còn lại nhƣ Ngậm ngải tìm trầm, Am

cu ly xe là có “cốt truyện hay, xây dựng vững chắc, phải cái văn viết cẩu

thả” [26,197].

Hà Minh Đức đã so sánh sự gần gũi về chất trữ tình, chất thơ trong

sáng tác của Thanh Tịnh và một số nhà văn khác với nhà văn Nga

Pauxtôpxki : “…kết hợp giữa phản ánh và bộc lộ cảm xúc cá nhân đậm

chất trữ tình, chất thơ nhƣ sáng tác của Pauxtôpxki, Thạch Lam,

Xuân Diệu, Thanh Tịnh …” [42,33], “Có thể nói mạch truyện của Thạch

Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh đã nói lên vẻ đẹp nội cảm của tâm hồn trƣớc

cuộc sống…” [42,37].

Nhà thơ Huy Cận phát hiện ra cái “mùi vị quê rất đậm” trong truyện

ngắn của Thanh Tịnh : “Tôi muốn nói thêm một điều: bao áng văn đẹp ấy

gợi đậm lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc, yêu những gì là văn minh, văn hoá

nƣớc nhà, lại có những tác phẩm mà “mùi vị đất quê” rất đậm (nhƣ các

truyện ngắn của Thanh Tịnh) thật là đáng trân trọng…” [46,1369].

Trong khi hầu hết các nhà nghiên cứu khác thƣờng chỉ đặt Thanh

Tịnh trong mạch liên tƣởng tới các tác giả, tác phẩm gần gũi cùng giai

đoạn thì Nguyễn Hoành Khung, trong một số bài tiểu luận của mình đã

dành nhiều sự chú ý tới Thanh Tịnh : “Và cả Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, nếu

nhƣ đƣợc gọi là những cây bút hiện thực – một thứ hiện thực trữ tình – thì

đâu phải là không có căn cứ” [44,10], “ Cây bút xứ Huế ấy có một hồn thơ

11

lai láng, ngọt ngào, man mác, trữ tình…” [44,40], “Đúng nhƣ có ngƣời

nhận xét, mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh là một bài thơ. Với một tâm

hồn quê hƣơng đằm thắm, Thanh Tịnh không những dựng nên những bức

tranh thiên nhiên thi vị mà còn đi vào những cuộc đời hiền lành, lầm lụi

mà đáng quý, đáng thƣơng của ngƣời dân quê, đặc biệt là ngƣời phụ

nữ…”[44,40], “Mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh là một bài thơ, mang chất

thơ của cảnh vật và tâm hồn con ngƣời Việt Nam bình dị xiết bao thƣơng

mến. Song ngòi bút rất thi sĩ ấy không chỉ khai thác những gì thi vị, ngọt

ngào, mà còn viết nên những trang nhức nhối, đầy ám ảnh về số phận thê

thảm của ngƣời nghèo khổ trong cuộc sống vật lộn dữ dội với đời sống”

[45,14].

Hoài Anh khi viết chân dung Thanh Tịnh đã nhận xét: “Hầu hết

truyện ngắn Thanh Tịnh là truyện kể (récit)”[59,1148], “Thanh Tịnh để

tâm hồn tràn ngập ánh trăng, dòng sông và câu hát, sống giữa những con

ngƣời quê chất phác, giản dị nhƣ chị Sƣơng trong Tình thư, cô Hƣơng

trong Quê bạn” [59,1150].

Vƣơng Trí Nhàn thì cho rằng: “Chỗ khác của Thanh Tịnh so với một

số tác giả thời tiền chiến, là khi diễn tả những nỗi bất hạnh của con ngƣời

ông không làm cho nó chói lên quá đáng, nhân vật trong truyện cũng nhƣ

tác giả không kêu to sau các trang sách, song sự bất hạnh vì thế lại hiện ra

không ai có thể cƣỡng lại nổi, nó nhƣ không khí bao quanh ngƣời ta, và

sống lâu với nó, ta quen đi lúc nào không biết” [64,230].

Nguyễn Mạnh Trinh viết về Thanh Tịnh : “Quê hƣơng của ông là nơi

12

chốn của thơ mộng huyền ảo, của những lãng mạn thăng hoa thành ngôn

ngữ. Đọc lại, những câu văn mang âm hƣởng thi ca với văn phong tuỳ bút

sang cả làm cho trí tƣởng tƣợng nhƣ bị kích thích và đi xa hơn những

phong cảnh thƣờng nhật”… “Thơ Thanh Tịnh bình dị, truyện ngắn Thanh

Tịnh sâu sắc, và hình nhƣ trong tất cả văn mạch của ông phảng phất những

nỗi buồn” [58].

Điểm lại tất cả những bài viết mà chúng tôi tìm đọc đƣợc, có thể thấy

một điều nhƣ sau: mặc dù các công trình nghiên cứu về Thanh Tịnh chƣa

thật nhiều nhƣ một số tác giả khác nhƣng hầu hết các ý kiến đánh giá đều

thừa nhận sự đóng góp của Thanh Tịnh trong nền văn học nƣớc nhà nói

III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

chung và trong thể loại truyện ngắn nói riêng.

Trong luận văn này, chúng tôi thực hiện nhiệm vụ cơ bản :

- Khảo sát, tìm hiểu và phân tích truyện ngắn Thanh Tịnh qua các

bình diện: tìm hiểu con đƣờng sáng tác của Thanh Tịnh; thân phận

con ngƣời và những giá trị nhân bản cao quý trong truyện ngắn

Thanh Tịnh; một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn

Thanh Tịnh.

- Tìm ra những nét đặc sắc riêng của truyện ngắn Thanh Tịnh trong

dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, ảnh hƣởng hai chiều của

truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện này và ảnh hƣởng của cả

13

dòng truyện tới văn học giai đoạn 1930-1945 và các giai đoạn sau.

IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong tổng thể sáng tác của Thanh Tịnh, chúng tôi chọn toàn bộ

truyện ngắn sáng tác trƣớc năm 1945 làm đối tƣợng nghiên cứu. Đó là các

tập truyện ngắn:

- Quê mẹ (1941)

- Chị và em (1942)

- Ngậm ngải tìm trầm (1943)

Các thể loại khác nhƣ thơ, truyện dài, các tập truyện ngắn viết sau

năm 1945 đều không thuộc đối tƣợng nghiên cứu của luận văn, chúng sẽ

V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

chỉ đƣợc sử dụng để liên hệ, so sánh khi cần thiết.

Để thực hiện công trình này, chúng tôi tiến hành các thao tác:

- Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp.

- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu.

- Phƣơng pháp lịch sử.

VI. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Phƣơng pháp thống kê.

1. Bằng việc tìm ra những nét đặc sắc riêng trong truyện ngắn Thanh

Tịnh sáng tác trƣớc năm 1945, luận văn sẽ góp thêm một tiếng nói trong

14

việc khẳng định vị trí của ông trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại,

góp phần vào việc giảng dạy và nghiên cứu về tác phẩm của ông trong nhà

trƣờng nói riêng và trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam nói chung.

2. Ngoài ra luận văn còn muốn đề cập đến ảnh hƣởng hai chiều của

truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, ảnh

hƣởng của dòng truyện ngắn này trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-

VII. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN

1945 và các giai đoạn sau.

Luận văn đƣợc bố cục theo các phần sau:

1. Mở đầu

Phần này bao gồm các mục: Lý do chọn đề tài; lịch sử vấn đề; nhiệm

vụ nghiên cứu; phạm vi nghiên cứu; phƣơng pháp nghiên cứu; đóng góp

của luận văn; cấu trúc của luận văn.

2. Nội dung

Đƣợc chia thành ba chƣơng:

Chƣơng 1: Từ nhận thức về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945

đến việc tìm hiểu con đƣờng sáng tác của Thanh Tịnh.

Chƣơng 2: Thân phận con ngƣời và những giá trị nhân bản cao quý

trong truyện ngắn của Thanh Tịnh.

Chƣơng 3: Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh qua một số phƣơng

diện nghệ thuật.

3. Kết luận

15

4. Tài liệu tham khảo

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

TỪ NHẬN THỨC VỀ DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930- 1945 ĐẾN VIỆC TÌM HIỂU CON ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA THANH TỊNH

I. QUAN NIỆM VỀ TRUYỆN NGẮN VÀ TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH

Ruby V. Redinger trong Bách khoa toàn thư Mỹ (Encyclopedya

American) xác định: “Truyện ngắn là một hình thức văn học, bản chất của

nó bao hàm trong những từ làm thành phần tạo nên tên gọi của nó. Với tƣ

cách là một câu chuyện, nó kể lại một chuỗi sự kiện hoặc một biến cố liên

16

quan đến con ngƣời trong hoạt động thể chất hoặc tinh thần. Vì thế, giống

mọi hình thức văn xuôi hƣ cấu khác, nó mô tả bằng ngôn từ; và thành công

của nó phụ thuộc vào sự tiếp xúc trực tiếp đạt đƣợc giữa ngƣời đọc và đối

tƣợng miêu tả. Với tƣ cách là truyện ngắn, dĩ nhiên, nó không thể thực

hiện mối tiếp xúc trực tiếp này bởi các phƣơng tiện phổ biến đối với tiểu

thuyết, nhƣ là xây dựng nhân vật chậm rãi, miêu tả thật chi tiết và lặp lại.

Đặc biệt là nó phải miêu tả với độ nhanh nhạy và trọn vẹn giống nhƣ một

tấm gƣơng” (dẫn theo Lê Huy Bắc) [14,19].

Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Trần Đình Sử, Lê Bá Hán,

Nguyễn Khắc Phi viết : “… truyện ngắn thƣờng hƣớng tới việc khắc hoạ

một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay

đời sống của tâm hồn con ngƣời… Cốt truyện của truyện ngắn thƣờng diễn

ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là

nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình ngƣời… Yếu tố quan

trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lƣợng lớn

và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chƣa

nói hết.” [6,371]

Từ điển tiếng Việt do GS Hoàng Phê (chủ biên) ghi : truyện ngắn là

“truyện bằng văn xuôi, có dung lƣợng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía

cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật” [8,1034] ; trữ tình :

“có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý nghĩ, xúc

cảm, tâm trạng riêng của con ngƣời, kể cả bản thân ngƣời nghệ sĩ, trƣớc

cuộc sống” [8,1035].

Về thuật ngữ “trữ tình”, trong Từ điển thuật ngữ văn học viết : “Nếu

tự sự thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm của tác giả bằng con đƣờng tái hiện lại

17

một cách khách quan các hiện tƣợng đời sống, thì trữ tình lại phản ánh đời

sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con ngƣời, nghĩa là con ngƣời

tự cảm thấy mình qua những ấn tƣợng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình

đối với thế giới và nhân sinh. Phƣơng thức trữ tình cũng tái hiện các hiện

tƣợng của đời sống, nhƣ trực tiếp miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc

thuật lại ít nhiều sự kiện tƣơng đối liên tục, … nhƣng sự tái hiện này

không mang mục đích tự thân, mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những

cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tƣởng của mình. Tác phẩm trữ tình thể hiện

tâm trạng. Do đó, nó thƣờng không có cốt truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ

của từ này và dung lƣợng của nó thƣờng ngắn (vì một trạng thái tâm trạng

không thể kéo dài) … [6,373]

Bùi Việt Thắng gọi truyện ngắn trữ tình là kiểu truyện ngắn tâm tình:

“Truyện-tâm tình còn đƣợc gọi là truyện ngắn gần với thơ vì trong đó có

sự phối hợp giữa việc diễn tả cảm xúc trữ tình với kể chuyện. Truyện ngắn

trong bản chất của nó là một thể loại tự sự - trữ tình cô đúc, ý ngoài chữ,

tạo ấn tƣợng và liên tƣởng [15,138] … “Trong kiểu truyện ngắn-tâm tình,

sự cảm thụ thiên nhiên trong toàn bộ các giác quan là một đặc điểm trong

cách miêu tả của nhà văn” [15,140]

Nguyễn Minh Châu lý giải về bản chất của loại truyện này: “Có

những ngƣời viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến bên ngoài,

hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên trong, vào cái mà

nhân vật thu nhận đƣợc ở bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại,

bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện

ngắn mà ta thƣờng gọi là truyện không có cốt truyện. Chẳng qua chỉ là một

thủ đoạn văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp

18

tiếp xúc với ngƣời đọc” (dẫn theo Bùi Việt Thắng) [15,138].

Trong luận án của mình, Phạm Thị Thu Hƣơng viết: “Trong tác

phẩm trữ tình, yếu tố chủ quan của nhà văn bao giờ cũng rất đậm nét, và

nó đƣợc thể hiện ở tất cả các phƣơng diện nghệ thuật: Dù tả cảnh, tả ngoại

hình nhân vật hay nội tâm nhân vật,… Truyện ngắn trữ tình thƣờng không

có cốt truyện. Nó có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình. Truyện ngắn

trữ tình thƣờng đi sâu miêu tả một cách tinh tế những phản ứng của tâm

thức đối với “kinh nghiệm sống” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ý nghĩa

của truyện thƣờng gắn với không khí bàng bạc, tâm trạng… bàng bạc

trong tác phẩm” [80].

Có thể thấy, truyện ngắn trữ tình chƣa có một khái niệm chính thức

nào. Là một dạng trong thể loại truyện ngắn, có ngƣời quan niệm nó là

“kiểu truyện-tâm tình”, có ngƣời cho là “truyện ngắn trữ tình”, có ngƣời

gọi là “truyện không có cốt truyện”, hoặc “văn xuôi trữ tình” … Trong

luận văn này, chúng tôi xin đƣợc mƣợn những phân tích đặc trƣng về

“phong cách truyện ngắn trữ tình” của các nhà phê bình văn học đi trƣớc

để làm cơ sở phân tích truyện ngắn của Thanh Tịnh trƣớc năm 1945 (tính

phi cốt truyện, cấu trúc tác phẩm lỏng lẻo, sự bộc lộ chủ thể ở mức độ

cao, hƣớng tới thiên nhiên, tình huống truyện, nhân vật truyện, ngôn ngữ

II. DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945 TRONG TIẾN TRÌNH

VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

truyện, …).

Sự phân kỳ các giai đoạn văn học trong tiến trình văn học sử luôn là

điều khó, gây nhiều tranh cãi, và câu hỏi văn học Việt Nam hiện đại hình

19

thành từ bao giờ, cho đến nay vẫn chƣa có câu trả lời thống nhất. Nền văn

học hiện đại hình thành trên cơ sở những tiền đề về lịch sử, xã hội và văn

học nhất định. Có ngƣời lấy năm 1900 làm một cái mốc của văn học hiện

đại, có ngƣời cho rằng văn học hiện đại gắn với thời kỳ 1930-1945, có

ngƣời xếp văn học thế kỷ XX vào văn học hiện đại, … Do giới hạn phạm

vi nghiên cứu của đề tài, ở đây chúng tôi chỉ đặt vấn đề xem xét, nghiên

cứu về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt

Nam hiện đại thế kỷ XX, cụ thể hơn là trong quá trình phát triển của

truyện ngắn Việt Nam hiện đại thế kỷ XX.

Đầu thế kỷ XX, truyện ngắn dân tộc viết bằng Quốc ngữ đƣợc đánh

dấu bởi sáng tác của nhiều tác giả nhƣ: Phan Kế Bính, Tản Đà, Nguyễn

Phƣơng Chánh, Tam Lang, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Ái

Quốc, Trần Quang Nghiệp, Huỳnh Minh Phụng, … Những truyện ngắn

trong thời kỳ này thƣờng đƣợc viết với lối viết biến nhân vật thành ngƣời

phát ngôn tƣ tƣởng chủ quan của nhà văn, đối thoại dài dòng, ngôn ngữ

ƣớc lệ, khuôn sáo, biền ngẫu, kết thúc có hậu…

Bƣớc sang thập kỷ 30, truyện ngắn khởi sắc và nhanh chóng trở thành

một thể loại mạnh, thực sự chiếm lĩnh văn đàn. Trong vòng mƣời lăm năm

từ 1930 đến 1945, số truyện ngắn đăng rải rác trên các báo chí và xuất bản

thành tập riêng chắc phải hàng ngàn. Riêng nhà văn Nguyễn Công Hoan

đã có khoảng 250 truyện ngắn. Công chúng trở nên quen thuộc với tên tuổi

của hàng loạt nhà văn nhƣ Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Tô Hoài,

Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân, … Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận

xét truyện ngắn thời kỳ này thật sự phong phú, đặc sắc, đa dạng, đa dạng

về khuynh hƣớng thẩm mỹ, về phong cách, về bút pháp, về đề tài, màu sắc

20

địa phƣơng… Văn đàn dần hình thành nên những dòng truyện ngắn khác

nhau, tuỳ thuộc vào sự nhận thức về hiện thực cuộc sống, quan niệm thẩm

mỹ, phong cách sáng tác của tác giả. Có những truyện ngắn nghiêng về

phản ánh, phê phán hiện thực cuộc sống đầy áp bức bất công,… nhƣ các

tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất

Tố,…; có những truyện ngắn nghiêng về phân tích đời sống tâm hồn con

ngƣời nhƣ các tác phẩm của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Bùi Hiển, Đỗ

Tốn,… Dòng truyện ngắn trữ tình đƣợc hình thành từ các tác phẩm đƣợc

viết theo phong cách trữ tình, nghiêng về phân tích đời sống tâm hồn con

ngƣời của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Xuân Diệu,… Sự thành công của

truyện ngắn đã khẳng định ƣu thế vƣợt trội của thể loại này trong nền văn

học nƣớc nhà.

Sau 1945, truyện ngắn Việt Nam bƣớc sang một kỷ nguyên mới do sự

ảnh hƣởng của những biến động về chính trị, xã hội. Cách mạng tháng

Tám thành công mở ra một thời đại mới với nhịp sống khẩn trƣơng, nhân

dân đƣợc giải phóng và vƣơn lên làm chủ số phận mình. Hàng loạt truyện

ngắn ra đời là những thiên truyện đầy ắp hơi thở cuộc sống và không khí

thời đại, phản ánh cuộc kháng chiến gian khổ nhƣng hào hùng của nhân

dân. Bên cạnh các nhà văn đã thành danh từ trƣớc cách mạng, xuất hiện

một lớp nhà văn mới, trẻ tuổi, trƣởng thành trong cuộc kháng chiến nhƣ

Trần Đăng, Hồ Phƣơng, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Khải,… Truyện

ngắn thời kỳ này đƣợc đánh giá là mang tính chất “phong trào”.

Sang giai đoạn 1955-1975, truyện ngắn đã có thêm tác giả và một số

phong cách tiêu biểu nhƣ Nguyễn Thành Long, Nguyễn Khải,

Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Vũ Thị Thƣờng, Lê Minh Khuê,…

21

Bên cạnh những truyện ngắn hay viết về những khoảnh khắc tiêu biểu của

cuộc sống trong chiến tranh là những truyện ngắn đi theo một khuynh

hƣớng mới, truyện ngắn-thơ của Nguyễn Thành Long với Lặng lẽ Sapa,

Nguyên Ngọc với Rẻo cao, Đỗ Chu với Hương cỏ mật, Ma Văn Kháng với

Khúc hát Mèo… Ma Văn Kháng nói: “Truyện ngắn phải có cái gì bay bay

một tí, không nên mơ màng quá, mà trần trụi quá cũng không ổn” (dẫn

theo Bùi Việt Thắng) [15,197]. Những truyện ngắn-thơ giai đoạn này đƣợc

viết nên từ chất liệu do cuộc sống kháng chiến cung cấp về cái đẹp, cái nên

thơ, cái anh hùng và cái phi thƣờng, với một ngôn ngữ trong sáng và thấm

đẫm chất thơ. Không khí nghệ thuật bao trùm trong Lặng lẽ Sa Pa là một

không khí lặng lẽ, mơ màng và sâu lắng. Sa Pa đẹp đến nao lòng ngƣời:

“Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ƣớt sƣơng,

rơi xuống đƣờng cái, luồn cả vào gầm xe”.

Truyện ngắn sau 1975 đến 1985 đi vào phân tích hiện trạng tinh thần

xã hội sau chiến tranh. Đời sống tinh thần của con ngƣời sau chiến tranh

với những nỗi cô đơn, sự đau khổ về thể xác và tinh thần, sự hoài nghi

giữa trung thành và phản bội, những cảnh ngộ và số phận con ngƣời đƣợc

chú ý khai thác nhiều bởi các nhà văn Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà

trên chuyến tàu tốc hành), Nguyễn Quang Thân (Người không đi cùng

chuyến tàu), Lê Hoàng (Lời cuối trong kịch bản)…

Truyện ngắn cuối thế kỷ XX xuất hiện một loạt tên tuổi mới với

Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng

Anh, Y Ban, Võ Thị Hảo, Phạm Ngọc Tiến, Lƣu Sơn Minh… Đề tài, nội

dung phản ánh, cách viết, hình thức truyện phong phú, đa dạng, có nhiều

22

tìm tòi, phát hiện mới. Mỗi tác giả đều tạo đƣợc cho mình một ấn tƣợng

khá riêng biệt với độc giả. Cuộc sống hiện thực hằng ngày, những ẩn ức

trong đời sống tinh thần con ngƣời (đặc biệt là phụ nữ), những ám ảnh sau

chiến tranh, sự vật lộn trong cuộc sống mới theo cơ chế thị trƣờng, sự trăn

trở kiếm tìm những giá trị sống mới… tất cả đều đƣợc đƣa vào các trang

viết. Nổi lên nhƣ một hiện tƣợng đặc biệt của văn học Việt Nam cuối thế

kỷ XX, bên cạnh những truyện ngắn gây xôn xao văn đàn vì khả năng

phản ánh thực trạng tha hoá của con ngƣời trong một xã hội có nhiều phức

tạp nhƣ Tướng về hưu, Không có vua, Những người thợ xẻ,… Nguyễn

Huy Thiệp còn có một mạch văn quan trọng khác đầy chất lãng mạn và trữ

tình với Con gái thuỷ thần, Chảy đi sông ơi, Thương nhớ đồng quê, Hạc

vừa bay vừa kêu thảng thốt,… Cùng một mạch văn theo phong cách trữ

tình thời kỳ này là các truyện ngắn của Đỗ Chu (Hoạ mi đang hót),

Nguyễn Bản (Ánh trăng), Linh Vang (Mưa trên nỗi buồn, Và mưa vẫn rơi,

Một nhành lan),… Truyện ngắn của Linh Vang thƣờng có một nỗi buồn

lan toả khắp mỗi câu mỗi chữ, nỗi buồn của tình yêu không thành, không

tới hoặc có tới cũng ngậm ngùi, đƣợc viết với một phong cách trữ tình đằm

thắm. Truyện của chị giàu chất đời, nhƣng không chỉ đơn thuần là những

truyện tả chân, ở đây, tác giả đã bứt lên đƣợc trên cái có thực đến tận cùng

để tìm ra một cái gì đó cao hơn của con ngƣời, đó là đời sống tâm hồn vốn

rất không rõ ràng rành mạch, vốn bí ẩn khó giải thích rạch ròi bằng lý trí.

“Tôi dừng xe ở một khu ƣơm bán cây kiểng, bông hoa, tản một vòng, lựa

mua một chậu lan. Chỉ là một nhánh lan mỏng manh bé nhỏ chƣa ra hoa.

Tôi muốn chăm sóc lan cho tới ngày nhìn thấy lan nở hoa, thấy đƣợc màu

23

tím của hoa” (Một nhành lan)…

Nhìn qua những nét phác thảo về sự phát triển của truyện ngắn thế

kỷ XX, có thể thấy vẫn tồn tại một mạch truyện ngắn theo phong cách trữ

tình. Mạch truyện ngắn này khởi nguồn từ giai đoạn 1930-1945, chững lại

và gần nhƣ không phát triển ở giai đoạn 1945-1955 (giai đoạn này truyện

ngắn theo phong cách sử thi, truyện ký phát triển mạnh), bắt đầu lại ở một

số tác phẩm nghiêng nhiều về truyện ngắn-thơ hơn ở giai đoạn 1955-1975-

1985, và lại phát triển mạnh ở cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ

XXI này với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Chu, Nguyễn

Bản, Nguyễn Ngọc Tƣ, Linh Vang, Mai Ninh, … Sở dĩ chúng tôi cho rằng

mạch truyện này vẫn tồn tại và có xu hƣớng phát triển mạnh vào những

năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là bởi nó đáp ứng đƣợc những tiêu

chí đặc trƣng của dòng truyện ngắn trữ tình: tính phi cốt truyện, sự bộc lộ

chủ thể ở mức độ cao, cấu trúc tác phẩm lỏng lẻo, hƣớng tới thiên nhiên,

… Một trong những nhà văn trẻ viết truyện ngắn theo phong cách trữ tình

đang đƣợc dƣ luận đặc biệt chú ý trong những năm gần đây là Nguyễn

Ngọc Tƣ. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ dịu dàng, đằm thắm, không

ồn ào lên gân mà đi sâu vào phân tích tâm lý con ngƣời một cách nhẹ

nhàng, sắc sảo, tinh tế. Nhân vật của chị là những con ngƣời bình dị, chân

chất trong cuộc sống, với những mối tình đẹp, buồn và dƣờng nhƣ không

có thật của cuộc đời này. Đó là những mối tình mộc mạc, chân thành và

dung dị nhƣ chính ngƣời dân vùng đồng bằng Nam bộ. Truyện của chị trăn

trở trong những nỗi nhớ quê hƣơng: Dòng nhớ, Qua cầu nhớ người, Nhớ

sông, Nước chảy mây trôi, … và những mối tình đẹp: Hiu hiu gió bấc,

24

Thương quá rau răm, Chiều vắng, Huệ lấy chồng, Mối tình năm cũ,…

Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đem đến cho ngƣời đọc một cảm giác thƣ

thái, an bình, bị cuốn hút bởi mạch truyện và văn phong êm dịu, nhẹ nhàng

nhƣng không hề nhàm chán. Mỗi câu văn nhƣ một lời thủ thỉ, tâm tình đầy

III. NHỮNG GƢƠNG MẶT TIÊU BIỂU TẠO NÊN DÕNG

TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945

quyến rũ nhƣ những câu thơ đƣợc viết bằng văn xuôi.

Với sự ảnh hƣởng đặc biệt về phong cách viết của mình đối với một

số nhà văn khác cùng giai đoạn, có thể nói Thạch Lam (sinh năm 1910,

mất năm 1942, tên thật là Nguyễn Tƣờng Vinh, sau đổi thành Nguyễn

Tƣờng Lân) là ngƣời khởi xƣớng một cách không chính thức, đồng thời

cũng là đại diện tiêu biểu của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945.

Truyện của Thạch Lam đem đến cho văn xuôi đƣơng thời một cách cảm

thụ tinh vi, bình dị, mới mẻ, đầy khám phá đối với thế giới nội tâm của con

ngƣời. Ông đặc biệt tinh tế khi phát hiện, phân tích những biến thái nhỏ

nhất của tâm hồn. Thạch Lam thƣờng khai thác chất thơ trong đời sống

hằng ngày. Ông quan tâm, phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú

của nhân vật hơn là những biến cố, sự kiện bề ngoài hay những xung đột

giàu kịch tính. Truyện của ông thƣờng mang yếu tố phi cốt truyện, loại

truyện không có truyện. Hai đứa trẻ không hề có hành động phát triển

xung đột, mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí. Nó chỉ là câu

chuyện kể lại cái cảnh hai chị em ngồi trông một ngôi hàng tạp hoá nghèo

nàn trong một buổi tối nhƣ bao buổi tối khác. Bóng tối - bầu trời và những

ngọn đèn, đó là những điểm tựa khơi dậy trong cô bé Liên một chuỗi

25

những liên tƣởng, những kỉ niệm. Ở đây, ngƣời đọc không chỉ cảm nhận

đƣợc tâm hồn đầy lãng mạn với những ƣớc mơ đẹp đẽ của hai đứa bé

nghèo ở một cái ga xép nhỏ mà còn cảm thấy hồn của quê hƣơng, đất nƣớc

toả ra từ cái không gian thanh bình thấm đẫm chất thơ của những buổi

chiều “êm nhƣ ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo

gió nhẹ đƣa vào”, những buổi tối có “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh

nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất

hay len vào những cành cây”, và những “đêm mùa hạ êm ả nhƣ nhung và

thoảng qua gió mát”… Sở trƣờng của Thạch Lam trong truyện ngắn là đƣa

ra một biến thái về tâm hồn, một chuyển hƣớng tâm lý. Từ buồn ra vui, từ

giận ra thƣơng, từ lãnh đạm ra tha thiết, từ yêu ra ghét, hay ngƣợc lại. Một

anh chàng ăn chơi trác táng về nhà khuya mệt mỏi chán chƣờng, sáng dậy

bỗng thấy vui vẻ nhẹ nhàng trƣớc cảnh ngày trời mai tƣơi mát và hình ảnh

bà mẹ già trìu mến phúc hậu (Buổi sớm, Nắng trong vườn). Những biến

đổi tình cảm nhƣ trên làm phần then chốt ở rất nhiều truyện của Thạch

Lam nhƣ : Gió đầu mùa, Những ngày vui, Một cơn giận, Sợi tóc, Tình xưa,

Bên kia sông,… Nhà phê bình Phong Lê nhận xét “Ở thế giới nghệ thuật

truyện ngắn Thạch Lam, tất cả đều hiu hiu, đạm đạm, không có sự chói

gắt, không có những vang động mạnh, nhƣng lại gợi bao ám ảnh về số

phận con ngƣời. Những truyện hay của Thạch Lam, thƣờng có nhiều bóng

tối: không phải cái “tối nhƣ mực”, mà cái tối của hoàng hôn, của ánh ngày

tàn” [73,92]. Thời gian nghệ thuật của ông là hiện thực đƣợc kéo lùi về

quá khứ (Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ). Không gian nghệ thuật của

ông thƣờng là các phố huyện, chợ huyện, phố ga (Cô hàng xén, Tối ba

mươi, Nhà mẹ Lê). Nhân vật của ông phần nhiều không rõ tính cách, chỉ

bộc lộ những tâm trạng, những nét tâm lý. Đó là những con ngƣời nội tâm,

26

có tâm hồn tinh tế, thƣờng tự cảm về mình, giàu xúc cảm và ít hoạt động.

Truyện của ông giống nhƣ những bài thơ trữ tình, mà ở đó thiên nhiên

đƣợc miêu tả không chỉ qua thị giác, thính giác mà còn ở cảm giác: “…

trên con đƣờng gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm

cây xuống nhẩy múa theo chiều gió. Một mùi lá tƣơi non phảng phất trong

không khí…Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ ở trong căn vƣờn, tựa

nhƣ bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bực cửa… bóng tối

dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời

vào ” (Dưới bóng hoàng lan); “Ở ngoài trăng rằm vằng vặc, tƣờng vôi

sáng trắng lên chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bóng xuống mặt sân, và các lá

lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong” (Tình xưa)…, và những trạng thái

thay đổi thật tinh tế trong tâm hồn con ngƣời: “Có cái gì dịu ngọt chăng tơ

ở đâu đây, khiến chàng vƣơng phải” (Dưới bóng hoàng lan); “đôi mắt chị

bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm

hồn ngây thơ của cô; Liên không hiểu sao, nhƣng chị thấy lòng buồn man

mác trƣớc cái giờ khắc của ngày tàn” (Hai đứa trẻ); “Tôi thấy lòng nao

nao vừa bực vừa buồn, nhƣ thấy một sự gì êm đẹp đang mất đi mà không

còn can đảm giữ lại đƣợc nữa” (Tình xưa)…, với một giọng văn rất riêng:

thủ thỉ, nhẹ nhàng, đôi khi gần nhƣ thì thầm: “chúng tôi nghe ngóng cái

yên lặng của buổi trƣa, hình nhƣ theo dòng nƣớc trôi ánh nắng đi xa”

(Nắng trong vườn); “Gió thơm nhẹ và thoang thoảng tới bông hồng nhung

thẫm tan vào đêm tối… cánh hồng nhung đen thẫm… đẫm một mùi hƣơng

nồng và ân ái” (Đêm sáng trăng)… Với những truyện ngắn mang một

phong cách độc đáo, riêng biệt, Thạch Lam quả đã có đóng góp rất lớn cho

sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam, và đặc biệt là ông đã để lại những

ảnh hƣởng rất rõ rệt cho những nhà văn khác nhƣ Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,

27

Đỗ Tốn, Ngọc Giao, Thanh Châu…

Rất gần gũi và bị ảnh hƣởng về phong cách viết từ Thạch Lam là nhà

văn mang trong mình hai dòng máu Việt - Hoa, nhà văn Hồ Dzếnh. Hồ

Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916, mất năm 1991. Truyện

ngắn của Hồ Dzếnh là nỗi đau và niềm cảm thƣơng, cả hai đều vô hạn, ẩn

chứa, tiềm tàng nhƣ hai con suối đƣợc khơi lên với một tiết tấu khi dạt

dào, lúc thấm thía, ngân nga và không lúc nào ngừng nghỉ. Hai con suối ấy

đều là hoài niệm, từ cái nhìn ngƣợc lại phía sau, phía quá vãng của chủ thể

sáng tạo - mà ở đây cũng là chủ thể trữ tình, vì vậy bao giờ cũng bâng

khuâng man mác. Tuy viết không nhiều nhƣng với tập truyện ngắn Chân

trời cũ, Hồ Dzếnh đã để lại nhiều dƣ vị đặc biệt trong lòng độc giả bởi tấm

lòng nhân hậu, giàu thƣơng cảm, ở sự gắn bó với quê hƣơng, và ở ngòi bút

trữ tình thấm đƣợm, chan chứa chất thơ. Mỗi truyện ngắn ở đây là một

cảnh đời, của ngƣời thân trong gia đình hoặc ngƣời trong làng xóm của tác

giả lúc tuổi thơ, cũng là một mảnh tâm hồn của nhà văn cất giữ trong đó.

Tác phẩm có chất thơ của hoài niệm buồn thƣơng, cũng là chất thơ toát lên

từ những cuộc đời vất vả đau thƣơng của con ngƣời Việt Nam, quê ngoại

mà tác giả gắn bó bằng cả máu thịt và tâm hồn mình. Ở Hồ Dzếnh, tình

cảm gắn bó tha thiết đối với đất nƣớc Việt Nam, “dải đất súc tích những

tinh hoa của văn chƣơng, những công trạng lịch sử” (Chị Yên), hoà với

lòng yêu thƣơng, quý trọng vô hạn đối với ngƣời mẹ, ngƣời chị nuôi,

“những đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nƣớc này, ngƣời đàn bà chỉ biết

có chịu khó vì chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận,

mà cái ƣớc mong sung sƣớng nhất là cứ đƣợc hi sinh mãi”(Thạch Lam -

Tựa Chân trời cũ). Văn Hồ Dzếnh thƣờng đƣợm buồn, song không phải

thứ buồn thi vị ngọt ngào mà là nỗi buồn của chính những “số phận bắt

28

buộc phải buồn rầu”, “ngƣời nào cũng mang một tâm hồn đau khổ”. Kể về

cuộc đời đau khổ của những ngƣời thân yêu đó, Hồ Dzếnh thƣờng day dứt,

xót xa. Văn Hồ Dzếnh giàu cảm xúc, ý vị, tuy mực thƣớc, trau chuốt, mà

đầy lắng đọng. Đó là chất giọng tâm tình cứ nhẩn nha mà khắc hoạ, mà lƣu

giữ trong tâm trí ngƣời đọc bao cung bậc thiết tha, buồn vui, yêu ghét,…

Văn ông âm vang một nhạc luật, một tiết tấu khi tha thiết, khi hùng hồn,

cuốn ngƣời đọc cùng đi bằng một thứ ma lực vô hình khó lòng cƣỡng nổi:

“ Chỉ sau mƣơi phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại

trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lƣơng thực ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo

lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cƣờng

luân lƣu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ” (Ngày

gặp gỡ). Thiên nhiên trong truyện ngắn Hồ Dzếnh thật đa dạng trong sự

liên tƣởng đầy chất thơ: “Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím.

Hoàng hôn ở đây không nhƣ hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng

hôn ở đây ƣu hoài nhƣ một chinh phụ nhớ chồng” (Ngày gặp gỡ); “Bầu

trời sáng và rộng, luôn luôn thấy những buổi hiền hoà, cây xanh gió mát

nhịp nhàng với nhau nhƣ trong một bài thơ cổ” (Trong bóng rừng). Hồ

Dzếnh có một khả năng diễn tả tâm trạng mơ hồ rất tốt, nhiều đoạn viết

của ông đầy sự lung linh, huyền bí, xa xôi, lơ lửng: “Fin đắm chìm trong

công việc, trong lòng trẻ nhỏ thốt nổi dậy một thứ rung động thầm kín, cái

cảm giác đẹp đẽ mà tôi không tìm thấy đƣợc nữa trên đƣờng đời… Nhiều

lúc Fin nghiêng đầu, lắng tai vào không khí, tựa hồ nhƣ nghe ngóng một

tiếng gì huyền bí, trong cái dáng điệu lơ đãng rất đáng yêu” (Trong bóng

rừng). Đây là đoạn tả cảm giác của tác giả trƣớc cái đẹp của Fin, một bông

hoa rừng thật đẹp nhƣng xa lạ, một thứ hƣơng thơm mà kẻ nhìn ngắm nó

không thể cầm nắm đƣợc trong tay. Văn xuôi của Hồ Dzếnh đã thật sự mở

29

rộng khả năng của truyện ngắn trữ tình. Phá bỏ cái khung chật hẹp của thể

loại, đƣa vào đó cái kích thƣớc tối ƣu của sự tự biểu hiện, ông đã tạo nên

sự giao thoa, nối tiếp giữa truyện và thơ, không cần cốt truyện hấp dẫn,

không cần nhân vật có tính cách độc đáo. Truyện ngắn Hồ Dzếnh thƣờng

ôm trùm dung lƣợng của cả một đời ngƣời, một kiếp ngƣời. Ông không kể

và tả tỉ mỉ các biến cố bất hạnh đẩy nhân vật đến tình trạng trôi dạt, bi đát

mà thƣờng dùng bút pháp tự sự khái quát. Cái quan trọng chính là thái độ

riêng tƣ, niềm thƣơng cảm xót xa của ông trƣớc những cảnh ngộ, biến cố

ấy. Vì vậy dấu ấn của tình cảm, cảm xúc và trạng thái tinh thần của ngƣời

trần thuật thƣờng lấn lƣớt hơn, đƣợc tô đậm hơn so với biến cố và sự kiện

bên ngoài. Cốt truyện trong Chị Yên đƣợc kiến tạo bởi sự liên kết các trạng

thái tâm lý gồm sự ân hận vì hành vi bất công, thô bạo đối với Yên trong

quá khứ; nỗi căm phẫn nghẹn ngào trƣớc ngƣời cậu khốn nạn đã làm tan

nát cả đời chị; lòng đau xót cho cái chết bi thảm của chị và của chồng con

chị. So với Thạch Lam, Hồ Dzếnh bộc lộ mình qua những dòng độc thoại

rộng rãi, chủ quan và thống thiết hơn. Do vậy, truyện ngắn của ông giống

nhƣ tuỳ bút-thơ hơn.

Là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu (1916-

1985) cũng đồng thời là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc. Hai tập

Phấn thông vàng và Trường ca đã góp cho văn đàn Việt Nam những

truyện ngắn mang hƣơng sắc riêng, những truyện không có truyện mà chan

chứa chất thơ. Nhà thơ tù nhân của chữ Tình (Chu Sơn), có trái tim cháy

bỏng, luôn thèm khát sự sống tới cuồng nhiệt đó tỏ ra rất ghê sợ lối sống

nhàm tẻ, tù đọng trong “cái Ao Đời bằng phẳng” giết chết con ngƣời trong

lúc sống. Toả nhị kiều là hình ảnh giàu sức gợi về những cuộc đời nhạt

30

nhẽo, vô vị. Ở đây, ngƣời viết tách ra khỏi nhân vật, xem nhân vật là đối

tƣợng quan sát, còn tâm tình, cảm nghĩ của ngƣời viết là khúc xạ, là kết

quả những âm vang toát ra từ hai cuộc đời lỡ nhịp, tẻ nhạt “không ánh

nắng, chẳng hƣơng ngƣời” của hai cô gái Hà Thành: “ngồi trong một buổi

chiều rất đỗi ngẩn ngơ, một buổi chiều triền miên của sự vật và của linh

hồn, một buổi chiều trong nhà và trong tâm lý. Tôi nhƣ cảm nghe sự mờ

nhạt của cuộc đời, khi trông thấy hai cô”. Suốt đời, Xuân Diệu căm ghét sự

sống mòn “không tối đen mà xam xám nhờ nhờ” đó, nó giết chết con

ngƣời ngay trong lúc sống, mà những tâm hồn khát sống phải vùng vẫy

tung ra. Có những lúc, nhà thơ của xuân và tình đó chan chứa niềm thƣơng

cảm đối với những cuộc đời nghèo khổ bị hắt hủi. Hình ảnh bà lão nghèo

lủi thủi, nhƣ cái bóng chìm mất trong bóng tối trên con đƣờng chiều đã

gieo vào lòng Xuân Diệu nỗi “thắc mắc, lẫn kinh dị trong vô hạn xót

thƣơng”: “Bà già hay là hiện hình của sự đau khổ?… Bà lão về đâu? Một ổ

rơm nếp bên đƣờng, hay một cái chòi lạc giữa bụi cây?” (Thương vay).

Ngay từ tuổi thơ, Xuân Diệu đã sớm có dịp thấm thía những cảnh đời

ngang trái, bất công. Cái hoả lò, Đứa ăn mày, … là những cảnh đời

thƣờng tủi nhục nhƣ thế: “Một cậu nhỏ mƣời sáu tuổi, một thằng bé mƣời

hai tuổi, hai đứa đâu phải là ngƣời lớn để sửa lại một cảnh đời! Chỉ có

nƣớc mắt, và những cơn quặn lòng, ruột gan xoáy lại”. Đó cũng chính là

những kỉ niệm xót xa trong tuổi thơ của tác giả vốn giàu lòng thƣơng cảm

đối với những cuộc đời đau khổ, bị ruồng rẫy, hắt hủi. Xuân Diệu viết văn

nhƣ làm thơ. Cốt truyện chỉ nhƣ cái cớ khơi gợi và mở ra những hƣớng

liên hệ, suy tƣởng. Truyện ngắn của ông luôn có một dòng cảm nghĩ trôi

chảy nhƣ con suối nhỏ róc rách đem đến sự trong trẻo tƣơi mát cho tác

phẩm. Điều ông quan tâm là sự tự bộc lộ và giãi bầy tâm trạng. Những

31

trạng thái tâm hồn thay thế cho các sự kiện, biến cố ly kỳ của truyện tự sự

thông thƣờng. Điều này đã làm biến đổi chủ thể sáng tạo để biến ngƣời

viết văn xuôi trở thành một thi sỹ trong khả năng cảm nhận và tự biểu hiện

mình. Những liên tƣởng, so sánh tạt ngang với những liên tƣởng bất ngờ,

đa chiều ở những đoạn trữ tình ngoại đề luôn đƣợc mở rộng trong truyện

ngắn Xuân Diệu tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ: “tôi thƣơng hai cô nhƣ hai con

vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh khi chiều giăng lƣới qua muôn gốc cây”,

“nhiều lần theo một liên tƣởng nhanh chóng, tôi nghĩ đến những cụ già còn

đôi chút sức lực ngày ngày quanh quất giữa bàn ghế trong nhà”, “tôi lại

nhớ những khi xế trƣa, khi nắng ngã vào bếp nhà tôi. Nắng vàng phai lặng,

chán ngán làm sao! Lúc ấy mọi ngƣời đều cảm thấy mơ hồ nỗi nhạt nhẽo

của ngày này tiếp ngày nọ” (Toả nhị kiều). Truyện ngắn Thu của ông có lẽ

gần với đoản văn hoặc tuỳ bút hơn. Đó là một giọng văn đầy lãng mạn,

đầy thơ với những cảm nhận bay bổng, chơi vơi, mơ màng. Ông viết

những cảm nhận của mình về mùa, về yêu: “Thu không phải là mùa sầu.

Ấy chính là mùa yêu, mùa yêu nhau bằng linh hồn, mùa những linh hồn

yêu mến nhau. […] Xuân, ngƣời ta vì ấm mà cần tình. Thu, ngƣời ta vì

lạnh sắp đến mà cũng rất cần đôi. Cho nên không gian đầy những lời nhớ

nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau, và

lòng tôi nghe tất cả du dƣơng của thứ vô tuyến điện ấy”. Truyện ngắn

Phấn thông vàng là truyện của một chàng hoạ sỹ. Hoạ sỹ là ngƣời có tâm

hồn lãng mạn, nhạy cảm. Đã vậy, trên bƣớc đƣờng lang thang của mình,

chàng hoạ sỹ lại bất chợt gặp đƣợc một cảnh rừng thông với sắc vàng

“không rực rỡ nhƣng nguy nga” đẹp đến mê hồn. Chàng hoạ sỹ là ngƣời

đã từng yêu, mà yêu không phải ít, tới ba lần, nhƣng rồi kết cục lần nào

cũng gặp đau khổ. Là hoạ sỹ, mà trong hồn chàng lại trú ngụ sẵn một hồn

32

thơ nữa. Vì thế, cái tâm hồn nhạy cảm, yếu đuối ấy đã sầu đau biết bao khi

gặp thất bại trên tình trƣờng. Và buổi chiều hôm ấy, may mắn thay, chàng

đã gặp đƣợc một “rừng thông đang yêu”. Chàng đã mở lòng mình để nhận

lấy “bài học ngụ trong bài thơ của phấn thông vàng”. Bởi “tình yêu có bao

giờ mất”. Xuân Diệu đã tả rất đẹp cảnh này: “Không gian đã thành một

điệu vàng mênh mông: nắng vàng nhuộm vàng những cây, và phấn thông

vàng lẫn vàng trong nắng”. Bút pháp trữ tình lãng mạn của ông có lẽ đã

quá thành công trong truyện ngắn này.

Thanh Châu, Ngọc Giao là những cây bút mà tên tuổi gắn liền với tờ

Tiểu thuyết thứ bảy trong suốt thời gian dài. Thanh Châu tên thật là Ngô

Hoan, sinh năm 1912, quê tại huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ngòi bút Thanh

Châu trƣớc năm 1945 nhẹ nhõm, trong trẻo, trong những chuyện tình

thoáng qua, chỉ còn lại nhƣ một kỷ niệm đẹp không phai mờ. Chất lãng

mạn ở Thanh Châu không phải là thứ lãng mạn phóng đãng “vui vẻ, trẻ

trung”, mà thƣờng là những rung cảm nghệ sỹ trƣớc cái đẹp, cái thiện, ít

nhiều mang màu sắc lý tƣởng. Nhân vật trong truyện ngắn Thanh Châu

thƣờng xuất hiện nhiều giới công chức sang trọng, nghệ sỹ, dân trung lƣu

thị xã, thị trấn, dân nghèo cƣ ngụ ven thành phố. Cốt truyện của Thanh

Châu đơn giản, tình huống nhẹ nhàng, tình tứ mơ màng buồn thƣơng nhƣ

Hoa ti gôn, Tà áo lụa, … Truyện của ông thƣờng chứa đựng những yếu tố

tinh thần: tâm trạng xót xa trƣớc kiếp ngƣời bất hạnh; thái độ tán thành

đức hy sinh, lòng chung thuỷ; sự trân trọng đối với những tình cảm trong

sáng: “Cả đêm, Bình mơ thấy một tà áo mỏng nhƣ sƣơng bay trong ánh

trăng thanh” (Tà áo lụa). Truyện của Thanh Châu có khả năng giúp con

ngƣời hƣớng thiện, có khi làm thức dậy trong con ngƣời những cảm nhận

nhẹ nhàng nhƣng nhuốm ý vị triết lí hƣớng thƣợng: “Vô ích cả, vô ích cả.

33

Lại bên bờ ta đây mà nghe ngóng một vài điều huyền bí về cõi đời này và

cõi bên kia. Nhƣ thế còn hơn…” (Ở Tây Hồ, một chiều sang xuân). Thanh

Châu chuyên đi vào những trạng thái tâm hồn nhân vật, ông đi tìm và thể

hiện những vẻ đẹp tâm hồn, lắng nghe, rƣợt đuổi, cố nắm bắt và thể hiện

cho bằng đƣợc những cung bậc tinh tế của tâm hồn. Các sự việc, tình tiết

thuộc đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân vật chỉ còn là nguyên cớ để

bộc lộ thế giới nội tâm. Lời văn của Thanh Châu rất đẹp, thanh lịch và

sang trọng: “Trong thƣ, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra. Những nụ hoa

chúm chím hình nhƣ quả tim vỡ làm mấy mảnh, đỏ hồng nhƣ nhuộm máu

đào” (Hoa ti gôn), “Ban đêm, đó mới là lúc các loài thảo mộc đua nhau

sống. Một trận gió nhẹ thổi qua làm run rẩy và rời rụng những cánh hoa

trên đám lá đen. Tôi chợt hiểu tại sao đến cây cỏ cũng sống vội vàng,

mãnh liệt” (Vườn chanh).

Ngọc Giao (1911-1997), cũng nhƣ Thanh Châu, đƣợc coi là nhà văn

“chuyên về tình cảm” (lời Phùng Tất Đắc), thƣờng đi vào những cảnh ngộ

ngang trái, đƣợm buồn. Trƣớc 1945, truyện ngắn của Ngọc Giao thƣờng

nghiêng về đề tài đời sống tình cảm, đó là thứ tình cảm bi thƣơng sầu uất.

Ngọc Giao đã tái hiện trong tác phẩm những cảnh đời ngang trái: thân

phận thảm thƣơng đặc biệt của những ngƣời làm nghề “xƣớng ca” (Yên

hoa, Đời tư Lã Bố), những ông già bà già bất hạnh vì con cái bất hiếu (Đời

nó thế, Thời gian),… Giữa những vùng nhân thế tối tăm, Ngọc Giao nhận

thấy không ít con ngƣời vẫn giữ đƣợc trái tim trong sáng, lòng nhân ái,

đức hy sinh… Một số truyện ngắn của ông còn bày tỏ dấu ấn tình cảm gắn

bó với quê hƣơng đất nƣớc, gắn bó với nơi “chôn nhau cắt rốn”, với phong

tục tập quán cổ truyền, danh lam thắng cảnh, tinh thần thƣợng võ và nghĩa

34

hiệp (Bến đò Rừng, Cô gái làng Sơn Hạ,…).

Đỗ Tốn sinh năm 1920, mất khoảng năm 1972-1973. Truyện ngắn

của ông thƣờng là những truyện không có truyện, trong đó tác giả sử dụng

bút pháp gợi nhiều hơn tả, viết bằng cảm giác nhiều hơn bằng ý nghĩ. Tâm

hồn nhạy cảm đã giúp nhà văn cảm nhận thật tinh tế những màu sắc, mùi

vị của đồng quê cùng những biến đổi mơ hồ, khó nắm bắt trong thế giới

nội tâm của con ngƣời. Tình quê hương, Duyên số, Hoa vông vang kể về

những tình yêu trong sáng, ngập ngừng cùng những rung động mong manh

đầu tiên trong đời của con ngƣời, một thứ tình yêu vừa dại khờ, vừa ngây

ngất mà bất cứ ai cũng từng có. Tâm lý nhân vật trong Định mệnh đƣợc

khắc hoạ khá tỉ mỉ và sâu sắc: biết là trái đạo lý nhƣng Phong không thể

trốn chạy tình yêu, chàng yêu chính em họ của mình, và Lan – em họ

chàng – thoạt đầu chỉ nhận lời yêu anh vì thƣơng hại, nhƣng rồi cũng bị

cuốn theo cơn lốc ái tình đó, đến khi nhận ra mối nguy hiểm đang chờ đợi

ở phía trƣớc, Lan đã chủ động rời xa Phong và đẩy chàng đến kết cục bi

thảm. Với cái già dặn của một ngƣời đã sống nhiều, trải nhiều, ông đã viết

về những cảnh đời, kiếp ngƣời mòn mỏi, tàn lụi đi theo thời gian (Chú tôi,

Một kiếp người). Ông gửi gắm những chiêm nghiệm độc đáo về cuộc đời,

tình yêu qua những chi tiết ngỡ nhƣ không có gì, nhƣ hình ảnh “cây na bên

vại nƣớc trƣớc căn bếp mà khói đang nặng nề chui ra mái rạ” (Một kiếp

sống), hay hình ảnh loài hoa vông vang “đƣơng kín đáo cúp lại trong gió

chiều êm đềm… để sớm mai trở lại” (Hoa vông vang).

Một nhà văn tiêu biểu không thể không nhắc đến của dòng truyện

ngắn trữ tình này là Thanh Tịnh - đồng thời cũng là đối tƣợng nghiên cứu

35

chính của luận văn - do đó chúng tôi sẽ không đề cập ở phần này nữa.

IV. DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VỚI CÁC DÕNG

TRUYỆN NGẮN KHÁC THUỘC GIAI ĐOẠN 1930-1945

Văn học Việt Nam 1930-1945 bị chi phối bởi hệ tƣ tƣởng thống trị,

tức là hệ tƣ tƣởng tƣ sản (bao gồm cả tƣ tƣởng thực dân) và hệ tƣ tƣởng

phong kiến. Mặt khác, nó cũng chịu ảnh hƣởng bởi những phong trào cách

mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tác động của văn học nƣớc ngoài đến

các khuynh hƣớng văn học thời kỳ này cũng rất đa dạng và phức tạp. Thế

giới quan của các nhà văn tiểu tƣ sản trí thức lại đầy mâu thuẫn và quá

trình sáng tác của họ không phải lúc nào cũng thuần nhất. Chính những

điều kiện nói trên đã làm xuất hiện trên văn đàn nhiều khuynh hƣớng,

nhiều phong cách đa dạng, phức tạp và luôn luôn dao động, chuyển hoá. Ở

lĩnh vực truyện ngắn, ngƣời ta thƣờng chia ra các khuynh hƣớng nổi bật là:

hiện thực phê phán, lãng mạn, trữ tình. Các nhà văn lãng mạn Khái Hƣng,

Nhất Linh, Thế Lữ, Lan Khai,… từng làm say mê độc giả đƣơng thời, nhất

là thanh niên ở thành thị và thanh niên có học ở nông thôn vì sự lên án, đả

phá đại gia đình phong kiến, kêu gọi hƣởng ứng cuộc đấu tranh mới - cũ,

đòi giải phóng cái “tôi”, đòi một cuộc sống hiện đại mà trong đó cá nhân

mỗi con ngƣời đƣợc tự khẳng định mạnh mẽ trƣớc xã hội. Cùng một

hƣớng khai thác và sáng tạo dựa vào sự kết hợp giữa sự việc của đời sống

khách quan và những cảm xúc chủ quan, mạch truyện của các nhà văn

Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,… đã đi vào khám phá đời

sống tinh thần, nói lên vẻ đẹp nội cảm của tâm hồn con ngƣời trƣớc cuộc

sống với một ngôn ngữ nhiều chất thơ, trữ tình. Với các tác giả nhƣ

Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, … thì truyện

36

ngắn lại đƣợc sáng tác theo phong cách những nhà văn hiện thực.

Nguyễn Công Hoan là ngƣời đầu tiên khẳng định phƣơng pháp hiện

thực phê phán trên lĩnh vực truyện ngắn. Ông rất nhạy cảm với tình trạng

bất công sừng sững trong xã hội có áp bức bóc lột, tình trạng đổ nát đạo

đức, phá hoại những giá trị tinh thần truyền thống. Ông có xu hƣớng “lật

mặt trái” để phơi trần cái tàn ác, đê tiện, xấu xa của “bọn giàu”, từ địa chủ

cƣờng hào ở thôn quê đến những ông chủ, bà chủ, những tiểu thƣ gái mới

đua đòi, hƣ hỏng ở thành thị. Đằng sau tiếng cƣời giòn giã, sảng khoái của

nhà văn thƣờng chất chứa niềm phẫn uất, thái độ căm ghét, ý thức vạch

mặt sự hoành hành của cái ác, cái xấu, cái đểu, cùng nỗi đau xót trƣớc số

phận khốn khổ của ngƣời dân lành trong cái trật tự không có chút công lý

nào đó. Nguyên Hồng bƣớc vào nghề văn từ rất trẻ, và ông đã tự vạch ra

con đƣờng riêng cho mình: trở thành nhà văn của những người lao động

cùng khổ. Mỗi truyện của Nguyên Hồng là một cảnh đau thƣơng, lắm khi

thật rùng rợn, của những phu phen bến tàu bến xe, những ngƣời đàn bà

buôn thúng bán bƣng, những kẻ ăn mày, gái điếm, lƣu manh,… Nguyên

Hồng chẳng những thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ không cùng của ngƣời nghèo

mà ông còn có một niềm tin mãnh liệt vào bản chất tốt đẹp của họ. Trong

văn học hợp pháp đƣơng thời, hiếm có nhà văn có đƣợc cái nhìn tri âm,

thái độ trân trọng thật sự đối với ngƣời nghèo đến thế. Điều này thể hiện

đậm nét nhất ở hình tƣợng ngƣời phụ nữ lao động, nhân vật chính của hầu

hết truyện ngắn Nguyên Hồng (Hàng cơm đêm, Người con gái, Cô gái

quê, Đây bóng tối, Người mẹ không con, Bố con lão Đen,…). Nguyên

Hồng đã đem đến dòng truyện ngắn hiện thực phê phán một phong cách

mới mà nét nổi bật là giọng trữ tình thiết tha, sôi nổi tràn đầy tin yêu.

37

Đƣơng thời, không mấy ai biết đến cây bút đầy tài năng Nam Cao, nhƣng

từ sau khi ông mất, tác phẩm của ông càng ngày càng có sức hấp dẫn đặc

biệt với công chúng. Sức hấp dẫn đó trƣớc hết là ở tính chân thực, chân

thực đến kinh ngạc. Dƣờng nhƣ những gì ông viết toàn là điều có thật.

Nam Cao vận dụng rất hiệu quả nghệ thuật phân tích tâm lý trong truyện

ngắn. Trong khuôn khổ của những cấu trúc tự sự nhỏ, ông đã để cho

những mạch tâm lý vận động để bộc lộ tính cách. Do sống sâu sắc cuộc

sống, do tƣ duy phân tích sắc sảo lạ thƣờng, luôn trăn trở tìm tòi, khám phá

cái sự thật sâu xa chứa đựng trong cái bề ngoài tầm thƣờng, nên từ những

chuyện tƣởng nhƣ rất đời thƣờng, vặt vãnh, Nam Cao đã đặt ra đƣợc

những vấn đề xã hội, triết học có ý nghĩa rộng lớn, sâu sắc, đầy tính nhân

đạo, nhân văn. Tô Hoài lại thành công qua những khám phá về phong tục

tập quán ở làng quê vùng ven thành. Không đi thẳng vào những xung đột

xã hội căng thẳng mà theo thời gian tìm hiểu cuộc đời qua những trầm tích

về văn hoá trong hội hè, nếp sống lâu đời của làng quê. Những truyện ngắn

của Tô Hoài mang một phong vị riêng vừa vui tƣơi dí dỏm, vừa thầm lắng

xót xa. Theo xu hƣớng khám phá những phong tục tập quán này còn có các

nhà văn Vũ Bằng, Thanh Châu, Bùi Hiển, Kim Lân,… Truyện ngắn của

Vũ Bằng, Thanh Châu mang phong vị Hà Nội. Bùi Hiển miêu tả đƣợc chất

riêng của ngƣời dân xứ Nghệ. Nhà văn Nguyễn Tuân lại tìm cảm hứng cho

truyện ngắn từ đề tài lịch sử với tinh thần suy tôn những giá trị văn hoá

tinh thần đậm màu sắc dân tộc. Những truyện đƣờng rừng của Lan Khai là

những truyện tình lãng mạn, trong không gian rừng núi “man rợ bí mật”,

38

với một màu sắc lịch sử huyền ảo.

Trong quá trình phát triển của văn học, trong thực tiễn sáng tác văn

học, văn học lãng mạn, trữ tình và văn học hiện thực phê phán tuy có

những chỗ khác nhau về chất, có khi chống đối nhau gay gắt, song vẫn có

những cơ sở thống nhất chung, nên thƣờng có mối quan hệ qua lại, chịu

ảnh hƣởng của nhau, thâm nhập lẫn nhau tới mức khó phân biệt ranh giới

giữa chúng. Các nhà văn Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Thạch Lam, … đều

đã có những tác phẩm vƣợt ra khỏi ranh giới của dòng lãng mạn để nhập

vào văn học hiện thực phê phán, hƣớng ngòi bút về phía đời sống hoặc lên

tiếng phê phán hiện thực trên một lập trƣờng nhân đạo tiến bộ. Khi văn

học càng phát triển, trƣởng thành thì càng nảy nở những phong cách sáng

tác khác nhau và không phải phong cách nào cũng nổi rõ nhất nét điển

hình của phƣơng pháp sáng tác, khiến cho việc phân ranh giới giữa các

dòng văn học càng khó khăn. Vì vậy, việc sắp xếp các nhà văn vào dòng

này, dòng kia thƣờng chỉ có một ý nghĩa tƣơng đối và ít nhiều có tính chất

quy ƣớc. Nhà văn phong tục Trần Tiêu với bút pháp “tả chân” khách quan

không mấy “lãng mạn”, chuyên viết về sinh hoạt nông thôn, cũng đã có

những sáng tác miêu tả khá chân thực, cảm động về đời sống tình cảm của

ngƣời nông dân đƣơng thời. Thạch Lam, đại diện tiêu biểu của dòng

truyện ngắn trữ tình có cả một loạt sáng tác viết về số phận hẩm hiu của

ngƣời nghèo, ngƣời phụ nữ, có thể coi là hiện thực chủ nghĩa. Người con

gái của Nguyên Hồng là một truyện ngắn hiện thực nhƣng đƣợc viết với

39

một bút pháp trữ tình thơ mộng.

Trong sự thành công rực rỡ của truyện ngắn 1930-1945, dòng truyện

ngắn trữ tình tuy số lƣợng tác phẩm không đồ sộ, số lƣợng tác giả không

đông đảo, nhƣng bản thân sự tồn tại phong cách của mỗi tác giả nhƣ một

tất yếu đã có giá trị khẳng định rõ ràng. Và nó có cùng một điểm chung

với toàn bộ mảng sáng tác truyện ngắn rất bề bộn, gồm nhiều xu hƣớng,

phong cách khác nhau trên văn đàn là: ít nhiều làm hiện lên hình ảnh quê

hƣơng đất nƣớc Việt Nam với cảnh sắc, hƣơng vị riêng, bình dị và thân

thuộc vô cùng, hình ảnh và con ngƣời Việt Nam trong một thời kỳ nhiều

gian nan thử thách mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần độc đáo, nhuần nhuỵ yêu

V. CON ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN THANH TỊNH

thƣơng và bền bỉ, gan góc, đầy sức sống.

Thanh Tịnh sinh năm 1911, mất năm 1988. Ông tên thật là Trần Văn

Ninh, đến năm lên sáu tuổi mới đổi là Trần Thanh Tịnh. Ông sinh ra trong

một gia đình nhà Nho tại xóm Gia Lạc, ven sông Hƣơng, ngoại ô Huế.

Thanh Tịnh đƣợc học chữ Nho đến năm 11 tuổi, rồi tiếp tục học tiểu học,

trung học ở Huế. Ngay từ khi đi học ông đã ham thích văn chƣơng. Hai

nhà văn Pháp Daudet và Maupassant có ảnh hƣởng không nhỏ đến văn

phong của ông sau này. Nguồn văn nghệ dân gian phong phú của Huế,

những giọng hò câu hát trên sông nƣớc quê hƣơng là chất liệu cho các tác

phẩm của ông. Năm 1933, ông đi làm ở các sở tƣ rồi sau đó làm nghề dạy

học. Thời gian này ông bắt đầu viết văn làm thơ và cộng tác với các báo

40

Phong Hoá, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị,…

sáng tác đầu tay Cha làm trâu, con làm ngựa đăng ở Thần kinh tạp chí

năm 1934.

Ông không thành công trong lĩnh vực truyện dài (Xuân và Sinh, 1944)

nhƣng đƣợc bạn đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Tập thơ Hận chiến

trường (1937) và nhiều bài khác đăng trên các báo ở Huế và Hà Nội mang

phong cách lãng mạn đậm nét. Thơ ông thƣờng mƣợt mà, tinh tế, hàm súc

nhƣng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống

văn hoá, tinh thần xứ Huế. Thành công hơn cả trong chặng đƣờng sáng tác

này là các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải

tìm trầm (1943) trong đó có nhiều truyện đẹp, trong sáng, gợi cảm.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Tổng thƣ ký Hội Văn hoá cứu

quốc Trung bộ. Gia nhập bộ đội năm 1948, tham gia phụ trách Đoàn kịch

Chiến thắng của Bộ Tổng tƣ lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong

kháng chiến ông khai sinh ra hình thức độc tấu. Đó thƣờng là một bài văn,

có tính chất tự sự, không dài lắm, để biểu diễn trong khoảng mƣơi phút.

Ngôn ngữ của tấu thƣờng đại chúng, cách diễn đạt giản dị pha chút dí

dỏm, hài hƣớc. Khi diễn thƣờng nói là chủ yếu, hát, ngâm chỉ là phụ. Nó

không cần nhạc cụ gì hoạ theo để làm nền, và có thể hoạt động ở bất kỳ

đâu không cần sân khấu quy mô.

Từ năm 1954, Thanh Tịnh tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp

chí Văn nghệ quân đội. Ông viết nhiều thơ trữ tình, thơ đả kích, ca dao,…

đăng trên các báo Nhân dân, Phụ nữ, Quân đội nhân dân, Tiền phong,…

41

Tác phẩm chính của ông sau cách mạng là: Sức mồ hôi (thơ, 1954), Những

giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1956), Đi từ giữa một mùa sen (truyện

thơ, 1973), Thơ ca (tuyển tập, 1980)… Thơ của ông giai đoạn này có sự

chuyển biến rõ rệt. Truyện thơ Đi từ giữa một mùa sen gồm tám đoạn, dài

gần hai ngàn câu, kể về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh từ lúc chào đời

đến năm 15 tuổi. Đây là một công trình nghệ thuật công phu của Thanh

Tịnh. Ông sƣu tầm tài liệu và viết trong nhiều năm. Tác phẩm viết dƣới

hình thức kể chuyện, mang đậm phong cách dân gian và hợp với giọng

điệu tâm tình của thơ ông. Tập truyện ngắn Những giọt nước biển phần lớn

gồm những bài ông viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Mỗi truyện

nhƣ một bài thơ nhỏ, ghi lại hình ảnh những ngƣời nông dân bình thƣờng

miền xuôi cũng nhƣ miền núi, gan dạ một cách hồn nhiên, dũng cảm một

cách lặng lẽ, hoạt động phục vụ sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm.

Trong toàn bộ sự nghiệp văn học của Thanh Tịnh, những sáng tác

trƣớc 1945 của ông có giá trị hơn và chiếm vị trí chủ chốt. Ở Thanh Tịnh

có sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hoà của nhiều nền văn hoá khác nhau mà

ông đã thụ hƣởng trong quá trình học tập của mình: văn hoá dân gian Việt

Nam (ông thuộc khá nhiều vở tuồng, bài ca vè của Huế - Thừa Thiên), văn

hoá phƣơng Đông (ông học chữ Nho đến năm 11 tuổi, sau này có thời kỳ

làm hƣớng dẫn du lịch ở Huế), văn hoá Pháp (ông học tiểu học, trung học

ở trƣờng Pelerin, sau đó học tú tài ở trƣờng Thiên Hựu, và Institut de la

Providence, mà những nhà văn ảnh hƣởng lớn đến ông là Daudet,

Maupassant).

Thanh Tịnh là một tên tuổi không thể thiếu của văn học Việt Nam

42

bên cạnh những tên tuổi khác, tuy không chói lọi rực rỡ nhƣng lại góp

phần tạo nên một dòng văn học có giá trị: Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn,

Xuân Diệu,…

CHƯƠNG 2

THÂN PHẬN CON NGƢỜI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CAO QUÝ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THANH TỊNH

I. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI VÀ THẾ GIỚI NHÂN

VẬT CỦA THANH TỊNH

1. Cũng giống nhƣ Thạch Lam, trong sáng tác của mình, Thanh Tịnh

chủ yếu quan tâm đến thế giới tinh thần - thế giới nội tâm của con ngƣời.

Trong khi các nhà văn hiện thực quan tâm chủ yếu đến tình trạng xã hội

thì Thanh Tịnh đi sâu vào thể hiện thế giới tinh thần của con ngƣời, coi đó

là một đối tƣợng để miêu tả con ngƣời. Thông qua những chi tiết sinh hoạt,

những cảnh ngộ cụ thể, Thanh Tịnh đã len lách ngòi bút vào phân giải

những tình cảm, những suy tƣ và đời sống tinh thần của nhân vật. Không

để ý nhiều tới cốt truyện, ông tập trung chủ yếu vào việc làm nổi bật các

chi tiết của cảm xúc, tâm trạng con ngƣời, cốt tạo một ấn tƣợng giàu dƣ ba,

ngân vang.

Con so về nhà mẹ, Quê mẹ, Quê bạn là những truyện sinh hoạt mà sức

43

hấp dẫn của nó nằm sâu ở mạch ngầm tự sự, ở sự thụ cảm tinh tế đối với

cuộc sống, ở cái tình ngƣời, tình quê dung dị, mộc mạc và nhất là chiều

sâu, sức gợi của những chi tiết, tâm trạng nhân vật: “Cô Hoa phần nhớ

chồng, phần thƣơng con liền đƣa vạt áo lên chấm nƣớc mắt”, “rồi chiều

chiều gặp những lúc nhàn rỗi, cô lại ra đứng cửa sau vơ vẩn nhìn về làng

Quận Lão. Nhƣng làng Quận Lão ẩn sau đám tre xanh đã kéo một vạch

đen dài trên ven đồi xa thẳm”.

Nhân vật trong truyện ngắn của Thanh Tịnh thƣờng đƣợc tác giả nhìn

ở chiều sâu của tâm linh với các trạng thái tâm lý, cảm xúc, cảm giác. Sự

tồn tại của nhân vật không dựa vào diện mạo, hành động mà nhờ vào chiều

sâu của đời sống tinh thần và ở đây, miêu tả tâm trạng cũng là nhằm khám

phá đời sống tinh thần bí ẩn của con ngƣời. Thanh Tịnh đã đi vào những

cuộc đời hiền lành, lầm lụi mà đáng quý, đáng thƣơng của ngƣời dân quê,

đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Đó là những cô gái quê xinh đẹp, dịu hiền, tuy e

dè kín đáo mà kỳ thực đằm thắm thiết tha. Ông không chỉ kể về những mối

tình éo le tuyệt vọng của một cô gái quê, cô lái đò với một khách qua

đƣờng gặp gỡ thoáng qua mà đã đi sâu vào những mảnh đời lam lũ, nhọc

nhằn của ngƣời dân quê với một thái độ cảm thông, trân trọng. Thanh Tịnh

đã có những khám phá tinh tế về vẻ đẹp bình dị của tâm hồn ngƣời phụ nữ

quê hƣơng. Các nhân vật phụ nữ trong truyện của ông thƣờng có một số

phận đáng buồn. Ngƣời nào cũng có một cảnh ngộ, một duyên phận đáng

thƣơng (nhƣ Phƣơng trong Bến Nứa, Duyên trong Bên con đường sắt,

Thìn trong Hội chợ Huế, Hƣơng trong Quê bạn,…) nhƣng cái phần thiên

lương, cái bản tính nhân chi sơ vẫn luôn vƣơn lên một cách ngạo nghễ, đắc

44

thắng bên trên những thăng trầm của số phận.

Cái phần thiên lương trong con ngƣời đƣợc Thanh Tịnh đặc biệt coi

trọng. Trong truyện ngắn của ông, con ngƣời đối xử với nhau thật nhân

hậu. Cái tình người thấm đẫm trong từng trang văn của ông (điều mà

không phải nhà văn, tác phẩm nào trong cùng giai đoạn này cũng có

đƣợc). Cái tình người đó đƣợc thể hiện trong bất cứ hoàn cảnh, trong bất

cứ nhân vật, trong bất cứ quan hệ đối xử nào giữa con ngƣời với nhau.

Ông quan niệm “Tuy là ngƣời khố rách áo ôm, họ cũng vẫn để điều nhân

nghĩa lên trên tất cả” (Con so về nhà mẹ). Quan niệm đó phải chăng đã

đƣợc bắt nguồn sâu xa từ những câu ca dao về lòng nhân nghĩa của ngƣời

dân miền Trung quê ông: “Tôi đến đây mót lƣợng từ bi! Mót điều nhân

chứ mót chi nghĩa

lúa ngài” ?

Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Thanh Tịnh còn gắn chặt với

lòng yêu làng xóm, quê hương. Hầu hết các nhân vật của Thanh Tịnh là

những ngƣời dân quê có cuộc sống vật chất và tinh thần gắn bó chặt chẽ

với cộng đồng làng xóm. Và tình quê hương đƣợc nhắc đi nhắc lại một

cách tha thiết trong những truyện ngắn của ông. Đó là một tình yêu hồn

nhiên, có sẵn trong tấm lòng của mỗi con ngƣời nhƣ máu thịt trong cơ thể,

và ngƣời ta biểu lộ tình cảm ấy cũng hồn nhiên nhƣ sự sống hàng ngày.

Quê hƣơng, đó là làng - nơi có ông bà tổ tiên cùng những ngày giỗ tết để

cô Thảo (Quê mẹ) mỗi năm đƣợc về làng vài ba lần; nơi mà mình có thể

nƣơng tựa những lúc khó khăn nhất (Con so về nhà mẹ); nơi tập hợp

những gia đình sum họp đầm ấm vào lúc năm hết tết đến; nơi có những

con đƣờng làng, những miếu thánh, những đống rơm cao chót vót sau luỹ

45

tre già, những câu hò, câu ca ngân dài trên sông nƣớc,…

2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Thanh Tịnh thật giản dị và

quen thuộc. Họ là những ngƣời dân của làng Mỹ Lý, sinh ra tại làng Mỹ

Lý và sống trong không gian làng Mỹ Lý. Họ có thể là những ngƣời con

của làng Mỹ Lý đi sinh sống làm ăn nơi xa nhƣng lúc nào cũng đau đáu

nỗi nhớ quê hƣơng mình. Họ cũng có thể là những cô cậu học trò trọ học

nơi thành thị, nghịch ngợm, thông minh, lãng mạn và đáng yêu nhƣ rất rất

nhiều cô cậu học trò ta thƣờng gặp hằng ngày… Một điều thật đặc biệt, ta

sẽ không thể tìm thấy trong thế giới nhân vật của ông một nhân vật nào

xấu cả. Bởi lẽ, nhƣ trên đã nói, ông rất coi trọng cái phần thiên lương trong

mỗi con ngƣời nói riêng và trong thế giới loài ngƣời nói chung.

a. Dƣới ngòi bút trữ tình của Thanh Tịnh, hình tƣợng nhân vật người

phụ nữ dƣờng nhƣ là tập trung tất cả những gì đẹp đẽ, chân thực nhất của

mỗi con ngƣời, và của cả cộng đồng làng xóm. Với cái nhìn của ngƣời

nghệ sỹ đi tìm cái đẹp, Thanh Tịnh luôn tìm thấy ở họ những đức tính tốt,

những tâm hồn trong sạch. Dù cuộc sống có nghèo khổ, cơ cực, nhƣng bao

giờ tâm hồn họ cũng sáng lên những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong. Đó là

những cô Phƣơng (Bến Nứa), Thảo (Quê mẹ), Duyên (Bên con đường

sắt), Hoa (Con so về nhà mẹ), Sƣơng (Tình thư), Thìn (Hội chợ Huế),

Hƣơng (Quê bạn), Nhung (Hội ghét đàn bà) …, những chân dung ngời

sáng và đầy sức sống. Ở họ có những nét tính cách chung của những nhân

vật nhƣ mẹ Tuyên (Cuộc sống), Lệ Hà (Người con gái) của Nguyên Hồng,

mẹ thằng Dần (Sống nhờ) của Mạnh Phú Tƣ, cô Khuyên (Ngoại ô) của

Nguyễn Đình Lạp, chị Yên của Hồ Dzếnh, mẹ Lê của Thạch Lam,… Các

46

nhà văn nhƣ không hẹn mà cùng gặp gỡ nhau ở “hình tƣợng ngƣời phụ nữ

Việt Nam, ở cách xây dựng những mẫu ngƣời tốt đẹp gắn với truyền

thống”.

Hình tƣợng người phụ nữ trong truyện ngắn của Thanh Tịnh gây ấn

tƣợng trƣớc tiên là những người thiếu phụ. Đó là những ngƣời phụ nữ thôn

quê có tâm hồn thật bình dị, chất phác. Họ vất vả tảo tần trong năm tháng

để lo cuộc sống cho gia đình, cho con cái, “Nhƣng đời các cô ấy cũng nhƣ

cô, nghĩa là cũng có chồng, có con và quãng đời làm dâu cũng vất vả, cũng

phẳng lặng nhƣ nhau hết” (Quê mẹ). Dù cuộc sống nghèo khổ “cả nhà chỉ

trông vào một mẫu ruộng tranh và hai mẫu ruộng làng để sống năm này

tháng khác”, dù chỉ là những “ngƣời … ít hay chữ”, gọi “tiết trung thu” là

“rằm tháng tám”, nhƣng họ, những cô con dâu nhƣ Thảo vẫn rất biết gìn

giữ lễ giáo gia đình, một hai thƣa gửi khi nói chuyện với mẹ chồng, với

chồng. Tấm lòng ngƣời phụ nữ ấy mới thơm thảo làm sao khi cô là “cô gái

có chồng về nhà mẹ”, ở giữa những đứa em thơ “nụ cƣời trên môi cô

không khi nào tắt”, cô “cho mỗi đứa năm xu”, và chỉ trong nháy mắt cô

“đã phân phát tất cả số tiền cô đã dành dụm trong một năm”. Để rồi sau đó

“về nhà chồng cô Thảo lại làm việc từ mai đến chiều, tối tăm cả mày mặt.

Lúc nào cô cũng nhớ đến mẹ nghèo, đến em thơ, nhƣng nhớ thì lòng cô lại

bùi ngùi, trí cô lại bận rộn”. Những ngƣời phụ nữ đó hàng ngày chèo đò

đƣa thuyền cho khách qua sông, một mình nuôi con thơ khôn lớn (Bến

Nứa). Những ngƣời phụ nữ đó vì thƣơng con, đã không ngại bụng mang dạ

chửa, dù mệt nhọc, sắp đến ngày sinh nở vẫn phải đi mót lúa cho “đỡ cảnh

nghèo ngặt”, vì “cơm ăn bữa đói bữa no, cô nhịn thì đƣợc chứ thấy đàn

con nhịn, lòng cô không nỡ” (Con so về nhà mẹ). Cũng giống nhƣ cô

47

Thảo, cô Phƣơng, ngƣời thiếu phụ tên Hoa trong Con so về nhà mẹ sống

an phận trong cảnh nghèo mà không một lời kêu than oán trách “Chồng cô

cũng nghèo nên cô an phận làm ăn không dám than trách gì”. Đó phải

chăng là những phẩm chất truyền thống của ngƣời phụ nữ Việt Nam đƣợc

truyền lại từ đời này qua đời khác: tảo tần, chịu thƣơng chịu khó, yêu

chồng, thƣơng con, hy sinh cả cuộc đời vì gia đình, chồng con. Con so về

nhà mẹ đẹp nhƣ một bài ca về tình nghĩa vợ chồng. Ở đó, hình ảnh ngƣời

phụ nữ ngời lên nhƣ một tâm điểm của lòng nhân hậu, nghĩa vợ chồng.

Hình ảnh kết thúc truyện thật lắng đọng, gợi trong tâm tƣởng ngƣời đọc

nhiều ý vị, dƣ ba: “Cô Hoa phần nhớ chồng, phần thƣơng con liền đƣa vạt

áo nâu lên chặm nƣớc mắt”.

Nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn của Thanh Tịnh còn là

những cô gái có duyên phận hẩm hiu, lỡ dở trong không gian làng Mỹ Lý

giai đoạn giao thời với những đổi thay mới. Những chuyến tàu đi qua làng

đã phá vỡ không gian vốn bình yên xƣa nay của làng, phá vỡ những tâm

hồn thiếu nữ vốn vẫn yên bình từ thuở cha sinh mẹ đẻ : “… từ ngày nhà

nƣớc bắt con đƣờng sắt đi qua làng mình, trai trong làng ế vợ là thƣờng

chứ con gái thì toàn đi lấy chồng thầy thông thầy ký ở các tỉnh lớn” (Tình

thư). Những con tàu từ phƣơng xa đó đã mang đến cho Sƣơng (Tình thư),

Duyên (Bên con đường sắt) những mối tình lãng mạn với các thầy xếp ga

Xuân, Trƣu. Nhƣng những mối tình đó không vƣợt qua đƣợc sự khắc

nghiệt của không gian, thời gian, hoàn cảnh mà họ đang sống. Những con

tàu đến rồi đi, để lại trong tâm hồn ngƣời con gái nỗi thất vọng mơ hồ về

một sự lỡ làng, dang dở. Tiếng còi tàu hú dƣờng nhƣ xé toang sự yên lặng

tƣởng chừng vĩnh hằng của màn đêm làng Mỹ Lý, chặn đứng niềm hy

48

vọng vừa mới nhen nhúm của ngƣời trinh nữ. Hƣơng trong Quê bạn, Thìn

trong Hội chợ Huế, Rosée trong Rosée lại dang dở theo kiểu khác. Đó là

sự dang dở của những tình cảm mong manh đầu đời. Tình vừa chớm nở đã

phải chia xa. Họ chƣa kịp thề non hẹn biển, mới chỉ là trao nhau những

ánh mắt, nụ cƣời, lời đƣa, ý đón của đôi trai gái mới lớn. Lời văn của

Thanh Tịnh tƣởng nhƣ không thể tinh tế hơn đƣợc nữa: “Trƣa hôm ấy

Tuyên thẫn thờ qua hàng Thìn … Thấy Tuyên qua Thìn ngẩng đầu lên

nhƣng nghẹn ngào không nói đƣợc câu gì”, “… Hôm nay nhớ đến Rosée,

Xuân vẫn thấy lòng buồn man mác”, “… Và từ đó dòng sông Viên phẳng

lặng, đồng làng Mỹ Lý vắng teo, trai bạn đi, lòng Hƣơng bơ phờ nhƣ cảnh

vƣờn hoang chờ gió lạ”. Cái cảm giác mơ hồ, bàng bạc cứ lẩn khuất đâu

đây, dƣờng nhƣ thất vọng, dƣờng nhƣ không.

b. Những người con xa quê là kiểu nhân vật tạo dấu ấn quê hƣơng đặc

biệt trong truyện ngắn Thanh Tịnh. Dù làm ăn sinh sống ở nơi xa nhƣ

Tâm, Thuyên, Đồng hay thoát tục, nƣơng mình nơi cửa Phật nhƣ sƣ ông,

nỗi nhớ quê hƣơng vẫn luôn khắc khoải trong tim họ. Những hành khách

trên chuyến tàu cuối năm cùng một cảnh ngộ “Suốt năm họ ăn cơm quán

ngủ nhà thuê rồi gần Tết họ lại tìm về quê hƣơng của họ”, họ quây quần

trên toa tàu đón Tết, coi đó nhƣ ngôi nhà thân yêu của mình “Vâng, cứ tự

nhiên, nhà chúng tôi cũng nhƣ nhà cô”, “một gia đình gồm những ngƣời

không gia đình đang vui vẻ ăn Tết và đang quay bánh lăn dài trên con

đƣờng sắt”(Chuyến xe cuối năm). Những tiếng “tình quê hƣơng” đƣợc

nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong truyện ngắn của Thanh Tịnh. Bất cứ một

cái gì có gợi lại bóng dáng của quê hƣơng đều khiến lòng những kẻ tha

phƣơng rƣng rƣng: một con đƣờng ven Sài Gòn, một cái miếu thánh, một

49

giọng nói “Đáng lẽ tôi phải cảm ơn hai thầy mới phải. Vì hai thầy đã cho

tôi nghe giọng nói của mẹ tôi xƣa…” (Tình quê hương), hay một cảnh

rừng đào trổ hoa trắng, thuyền ngƣ phủ trở lái về quê đã gợi dậy trong tâm

hồn ngƣời thoát tục bao nỗi buồn nhớ và những hồi ức xa xăm “Dứt đƣợc

cuộc đời phong nhã, không ngờ lòng sƣ phụ còn giây quyến luyến với quê

hƣơng” (Một đêm xuân). Cả những ngƣời dân làm nghề chài lƣới quen

“cắm thuyền bất kỳ đâu” mà “động ai nhắc đến tên làng là lòng họ đã nao

nao” (Làng).

c. Nhà Nho hết thời là những trí thức cuối cùng của nền học vấn cũ,

những ông đồ, ông cử tài hoa nhƣng thất thế, ngơ ngác hoặc ƣơng gàn, cố

chấp trƣớc phong hội mới của thời cuộc. Dƣới giọng văn nhẹ nhàng, dí

dỏm của Thanh Tịnh, họ hiện lên hiền lành, sống trong niềm “hoài cựu”,

ngẩn ngơ nuối tiếc một dĩ vãng chƣa quá xa xôi. Ông chú (Chú tôi) - nhà

Nho lỡ vận tôn thờ chữ Hán đến mức “đi rửa mặt, mặc áo đen dài trƣớc

khi đọc đến chữ Hán. Hay mỗi lần vô ý làm rơi quyển sổ chữ Hán xuống

đất, chú tôi lại lật đật cúi lƣợm lên, rồi kính cẩn đội lên trên đầu gần vài

phút”. Cũng giống nhƣ Thạch Lam gợi lại “những nhà Nho thất thế, lạc

lõng, không vui với thời cuộc… không dám quyết bất cứ một điều gì, suốt

ngày ngồi bên cái ống điếu, ra dáng nghĩ ngợi nhƣng thật ra là không nghĩ

ngợi gì” [73,16], nhân vật nhà Nho của Thanh Tịnh bị ràng buộc khốn khổ

vào cái nếp “giấy rách giữ lấy lề”, ƣơng gàn “ngồi uống rƣợu trƣớc giàn

hoa lý hay chép vần thơ trên một ngọn lá đào” giữa lúc cảnh nhà tiêu điều

sa sút (Con ông Hoàng).

d. “Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”. Nhân vật sinh viên, học trò trong

truyện ngắn Thanh Tịnh rất thông minh, nghịch ngợm, lãng mạn và đáng

50

yêu. Các truyện Hội ghét đàn bà, Lầm, Đùa đem đến cho ngƣời đọc cảm

xúc trẻ trung, thoải mái với những trò đùa nghịch của cô cậu học trò trọ

học nơi thành thị. Vì ghét đàn bà mà nhóm “ngũ quỷ” cứ “Nhà hàng nào

có ngƣời đàn bà ngồi bán thì bọn họ nhất định không chịu vào mua một

thứ gì bao giờ”, thậm chí “Trƣớc sân, bọn họ không chịu để cho một thứ

hoa nào mọc dầu là hoa cỏ, vì bọn họ cho tên hoa nào cũng có trùng tên

với những ngƣời con gái” (Hội ghét đàn bà).

e. Thế giới trẻ thơ là sự thành công đặc biệt của truyện ngắn Thanh

Tịnh. Hành trình tìm về với ký ức tuổi thơ của tác giả luôn đƣợc nhìn qua

lăng kính của những đứa trẻ. Đó là một ký ức trong trẻo, hồn nhiên, đầy

ánh trăng và tiếng cƣời: “Tôi còn nhớ rõ ràng, tối hôm ấy là một đêm trăng

về cuối hạ, chúng tôi đang ngồi học trong nhà, … em tôi … nói xong liền

kề má lên trên quyển sách cƣời ngặt nghẽo” (Chú tôi); hoặc: “Đêm ấy

trăng sáng lắm. Mẹ tôi bảo chúng tôi đem ghế ra sân, để học cho mát…”

(Tình thư). Đó là một thế giới có những em bé không may cha mất sớm từ

khi còn bé dại, vẫn hay đòi cha để đƣợc quà bánh (Bến Nứa); lại có bé Li

mới hai tuổi may mắn đƣợc sống trong sự yêu thƣơng đầm ấm của cha mẹ

(Người cha); có những cậu học trò học lớp nhất trƣờng làng lần đầu đƣợc

“ra làng”, đƣợc cái “vinh hạnh đƣợc ngồi trên dân” với đầy đủ những cảm

xúc từ hồi hộp chờ đợi ban đầu đến ngƣợng nghịu, chán ghét (Ra làng); có

những em nhỏ láu lỉnh ghét học chữ Hán, chữ Nho, biết viết hộ thƣ tình

cho chị để lấy tiền công mua lồng chim (Chú tôi, Tình thư); có những đứa

trẻ dù ít tuổi đã sớm khôn, biết giúp ông kéo xe kiếm tiền (Am cu ly xe),

sớm biết thƣơng cảnh nghèo nhà bạn (Con ông Hoàng); có tình cảm chị

em thắm thiết, hồn nhiên nhƣ hai chị em Ba và Tiên (Chị và em); có cảm

51

xúc của cậu học trò thơ dại lần đầu tiên đến trƣờng trong một “buổi mai

đầy sƣơng thu và gió lạnh” với tâm hồn trong veo không một thoáng gợn

(Tôi

II. TIẾNG NÓI KHẲNG ĐỊNH NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG

ĐỜI SỐNG CON NGƢỜI

đi học)…

1. Lòng nhân ái xót thương và thái độ trân trọng con người

Đọc truyện ngắn của Thanh Tịnh ngƣời ta dễ dàng nhận thấy sự yêu

thƣơng, trân trọng mà tác giả dành cho những thân phận nghèo khổ, bất

hạnh. Khác với các nhà văn hiện thực che giấu tình cảm thật của mình

dƣới lớp ngôn từ lạnh lùng, tỉnh táo nhƣ Nam Cao, Vũ Trọng Phụng; cũng

không giống với các nhà văn cùng phong cách nhƣ Thạch Lam trải tình

thƣơng từ góc nhìn của một con ngƣời biết mình ở tầng lớp khác (dù là ý

thức hay vô thức), Hồ Dzếnh thì lại là cái tình dồn nén đầy mặc cảm tự ti;

Thanh Tịnh dƣờng nhƣ chất phác, hồn nhiên, trong sáng hơn và do đó

cũng gần gũi hơn với những con ngƣời có số phận không may mắn. Đó có

lẽ cũng là do cái bản chất chân thật, hồn hậu, “Tôi đến đây mót lƣợng từ

bi! Mót điều nhân nghĩa chứ mót chi lúa ngài” của những ngƣời dân

miền Trung, hay ngƣời dân xứ Huế vốn nhiều những câu hò, điệu ca ngân

dài theo tiếng vọng của các dòng sông. Xƣa nay văn chƣơng vẫn đem thân

phận con ngƣời làm cớ để gửi gắm nỗi lòng, bởi văn chƣơng đích thực

không thể ra ngoài vòng tục lụy nhân sinh. Nhà phê bình Hàn Thuỷ khi

bàn về tác phẩm của nhà văn Mai Ninh, đã viết : “…đôi khi ngƣời ta tự

hỏi: có phải văn chƣơng là để chuyên chở nỗi đau về thân phận con ngƣời,

52

hay chính thân phận con ngƣời là cái cớ để làm văn chƣơng? Chỉ biết, văn

chƣơng nhƣ thế có khả năng vừa khơi mở vừa xoa dịu nỗi đau thân phận”

[86]. Không quá chú trọng vào miêu tả những tình tiết, biến cố nghiệt ngã

của cuộc đời con ngƣời nhƣng truyện ngắn của Thanh Tịnh vẫn có khả

năng vừa khơi mở vừa xoa dịu nỗi đau thân phận. Đó là số phận của hai

ông cháu làm nghề kéo xe bên ga Văn Xá trong Am cu ly xe. Dù chăm chỉ,

dù vất vả, nhƣng hai ông cháu vẫn không dễ kiếm đƣợc miếng ăn. Bởi

“Bƣớc chân lên xe ngƣời già mù, thì ngƣời khổ chƣa hẳn là ngƣời phải kéo

mà thật ra là ngƣời đƣợc ngồi. Huống chi ở đây lại phải chịu một cái tội

trông một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui, theo bƣớc chân của

một ông già yếu đuối. Nên nhiều ngƣời thƣơng hại không muốn đi xe.

Nhƣng lòng nhân đạo càng ban truyền ra, ngƣời kéo xe mù lại càng túng

thiếu”. Thật trớ trêu khi tình thƣơng mà con ngƣời trao tặng cho nhau

trong cuộc sống đôi khi lại không mang tới đƣợc lợi ích đích thực. Nỗi đau

dƣờng nhƣ lên đến tột đỉnh khi Thanh Tịnh đẩy cái tình nhân đạo của con

ngƣời vào một hoàn cảnh trớ trêu khác “Có gì đâu, không thấy khách và

muốn ông nó vui lòng, thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe và

dìu ông nó chạy… Nhƣng ông nó vẫn chạy, vì mù quáng, vì đói rách nên

lòng vẫn hy vọng những chuyện không bao giờ có đƣợc. Và biết ra thì

thêm khổ”. Thằng bé non nớt muốn đem hy vọng đến cho ông, ông già mù

thì hy vọng vào điều kỳ diệu, để rồi thật bất hạnh, ông đã chết giữa đêm

lạnh, khi mà “Con đò đã cắt đƣờng qua từ lâu, không đem đƣợc lòng từ

thiện của bến kia qua bao trùm nỗi thảm thƣơng của bờ nọ”. Đó còn là số

phận bi đát do cảnh nghèo của hai vợ chồng bác Diệm trong Ngậm ngải

tìm trầm. Vì muốn cho vợ con đỡ khổ, bác Diệm trai đã ngậm ngải vào

rừng tìm trầm và không may hoá thành nửa ngƣời nửa thú. Nhƣng dù đã

53

hoá thú thì lòng bác vẫn là lòng ngƣời. Bác vẫn nhớ vợ con. Bác vẫn muốn

đƣợc trở về với mái ấm gia đình, bên ngƣời vợ và hai đứa con thơ. Tiếng

rú của con ngƣời hoá thú này chính là tiếng kêu tuyệt vọng, uất hận biết

mình đã vĩnh viễn bị loại ra khỏi cộng đồng loài ngƣời. Còn ngƣời vợ

đáng thƣơng vẫn “âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú […] Bác ôm mặt khóc

rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài nhƣ để đáp lại tiếng lòng của

vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn”. Và cuối cùng thì “Dãy núi Truồi từ đó đã

nhƣ một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của

sơn lâm”. Câu chuyện mang sự bí ẩn của rừng thƣợng ngàn, buồn và thấm

đậm

tình ngƣời.

Hình ảnh ngƣời phụ nữ khát khao hạnh phúc là đề tài đƣợc Thanh

Tịnh quan tâm nhiều. Nhƣ bao nhà văn khác, ông hiểu và thƣơng cảm với

ngƣời phụ nữ Việt Nam bao đời nay vất vả, tảo tần, nhẫn nhịn, hy sinh tất

cả vì chồng, vì con. Họ là những cô Hoa bụng mang dạ chửa sắp đến ngày

sinh nở vẫn đi mót lúa cho đàn con có thêm miếng cơm; những cô Phƣơng

ngày ngày chở đò một mình kiếm tiền nuôi con, mơ ƣớc một hạnh phúc

lứa đôi không thể đến đƣợc nữa; những cô gái nhƣ Duyên, Sƣơng, Hƣơng

với những khát khao tình yêu tuổi trẻ; những bác Diệm gái ngày đêm

ngóng chồng,… Thanh Tịnh đã dành rất nhiều tình cảm trân trọng của

mình cho những ngƣời phụ nữ đáng thƣơng, đáng quý này.

Những tình cảm gia đình nhƣ tình phụ tử, tình chị em ruột thịt, tình vợ

chồng,… thƣờng đƣợc nhắc đến một cách trân trọng trong truyện ngắn

Thanh Tịnh. Hai chị em Ba và Tiên trong Chị và em cũng tinh nghịch nhƣ

54

bao trẻ khác nhƣng rất thƣơng yêu nhau. Tuổi thơ của hai chị em trôi qua

êm đềm với “những buổi gần gụi nũng nịu ở cạnh chị thân yêu, đƣợc cƣời

cợt nhau, trìu mến nhau hay giận dỗi nhau để lại yêu dấu nhau đậm đà hơn

trƣớc”. Nhà của đôi vợ chồng trẻ trong Người cha là “Một thế gian chan

chứa sự thân yêu, nũng nịu và ngây thơ”. Ở đó có bé Li hai tuổi sống trong

sự yêu thƣơng nồng nàn của cha mẹ. Ngƣời cha trẻ hạnh phúc với tình cảm

phụ tử do đứa trẻ mang lại.

Cuộc sống nghèo khổ vất vả đi kiếm ăn phƣơng xa không làm cho

con ngƣời mất nhân tính, trái lại, kéo họ gần nhau hơn, thƣơng nhau hơn.

Đó là cái tình đồng loại của những trai làng nghèo khổ đi làm ăn xa. “Họ

là ngƣời của bốn phƣơng, nhƣng họ gặp và hiểu nhau trong một cảnh ngộ

[…] Vì thế mỗi lần hẹn sang năm gặp nhau thì lòng họ đã đón trƣớc những

nỗi buồn vĩnh biệt” (Quê bạn). Họ là những ngƣời đồng cảnh ngộ, biết

giúp đỡ, biết quý trọng nhau.

2. Trân trọng vẻ đẹp cuộc sống

Truyện ngắn Thanh Tịnh phần nhiều là những chuyện “làng” mang

tên Mỹ Lý. Ở đó có dòng sông, có những bến đò, có bờ sông xanh ngắt cỏ

cây. Có những con ngƣời bình dị với hoài vọng âm thầm, những tình cảm

ngập ngừng, những điệu hò mái đẩy đìu hiu. Quê hƣơng của ông là nơi

chốn của thơ mộng huyền ảo, của những lãng mạn thăng hoa thành ngôn

ngữ. Có mấy ai, không nghĩ về những phƣơng trời cũ, về ngõ lối xƣa khi

tiếp nhận những hình ảnh ấy, tầm thƣờng quen thuộc nhƣng lại gợi biết

bao nỗi niềm. Truyện của Thanh Tịnh thƣờng bắt đầu từ những câu ca

quen thuộc, nhƣng bao giờ cũng là những câu ca dao buồn, gợi nỗi niềm

ly biệt :

55

Đi đâu cho thiếp theo cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

(Bến Nứa)

Rồi mùa toóc rạ rơm khô

Bạn về quê bạn biết mô mà tìm

Thuyền về Đại Lƣợc

(Quê bạn)

Duyên ngược Kim Long

Đến đây là chỗ rẽ của lòng,

Gặp nhau còn biết trên sông bến nào

(Tình trong câu hát)

Có lẽ Thanh Tịnh đã mƣợn cái không gian cổ điển của văn hoá dân

gian với dòng sông, con thuyền, đêm trăng, mùa gặt, mảnh sân nhà, câu hò

điệu hát… để đẩy đến không gian hiện đại bằng cảm hứng lãng mạn. Bên

cạnh những câu ca dao đó là những câu hò mái nhì mái đẩy vừa tình tứ lại

vừa đau đớn. Lòng yêu thƣơng tha thiết, cùng với tố chất của một nghệ sỹ

tài hoa, đã giúp Thanh Tịnh trở thành ngƣời “thẩm âm” xuất sắc khi nghe

những câu hò trao qua đáp lại trên sông. Đây là vẻ đẹp của một giọng hò :

“Vì cũng một giọng hò trong trẻo và hơi dai, câu dứt gọn và đƣa xinh nhƣ

sƣơng toả” (Tình trong câu hát). Những câu hát, điệu hò của ngƣời đi

thuyền trên sông bao gồm rất nhiều câu chuyện đời thƣờng, nhƣng hay

nhất vẫn là những câu chuyện tình. Những câu chuyện đó “thu gọn trong

câu hò mái đẩy, văng vẳng kéo dài nhƣ tiếng chuông ngân quyến gió bay rỉ

rền nhƣ tiếng nức nở của vọng phu”. Trong một cuộc nói chuyện với nhà

văn Nguyễn Minh Châu, Thanh Tịnh đã nói về những câu hò quê ông :

“Mối dây liên lạc từ bến nƣớc đến tâm tình – là con đò chắp nối hai bờ, là

56

con thuyền đi về trăm bến. Từ đó có giọng hò cho đêm đỡ vắng, phá đỡ

rộng, sông đỡ dài. Đúng nhƣ anh nói, phần lớn thơ văn của tôi đều bắt

nguồn từ trong giọng hò, câu hát trên sông quê. Vì giọng hò này nhẹ

nhàng, man mác, tả nỗi nhớ nhung bồi hồi, xao xuyến nhƣng cũng rất lƣu

luyến, sôi nổi, lại đƣợm nỗi buồn xa xăm. Vì sự thật tiếng hò ấy, khúc tâm

tƣ ấy không chỉ nói với ngƣời lƣớt trên sông, với ngƣời ở rải rác hai bên

bờ mà chính là nói với mình. Cho nên “hờ…ơ” có khi dài nhƣ giải lụa

điều, nhƣ tà áo nối, nhƣ tiếng chuông chùa hay nhƣ tiếng thở dài […] Anh

thấy không, trong điệu hò ở Huế có nét nổi bật là tƣởng nhƣ dừng lại tiếp,

tƣởng nhƣ hết lại nối, nói lên sự mong chờ, khắc khoải, rắc rối, bơ vơ chƣa

có dấu hiệu gì ổn định cả” [61].

Truyện ngắn Thanh Tịnh tràn ngập ánh trăng. Với ông, không gian

đêm trăng là là không gian lý tƣởng cho những bày tỏ kín đáo nhất, e ấp

nhất, chân thực mà mãnh liệt nhất của con ngƣời. Dƣới ánh trăng mênh

mông trải trên cánh đồng, dòng sông, sân nhà, lối ngõ, ngƣời dân quê có

dịp phơi bày cuộc sống nội tâm của mình, những lúc ấy họ vừa sôi nổi,

vừa dịu dàng, khắc hẳn thƣờng ngày. Dƣới ánh trăng, làng có một vẻ rất

bình yên, với những con ngƣời nhỏ nhẹ, dịu dàng. Dƣờng nhƣ làng chƣa

hề phải chứng kiến và trải qua một khủng hoảng nào đáng kể, chỉ có

những nỗi éo le không tránh khỏi của từng số phận con ngƣời. Truyện của

Thanh Tịnh thƣờng mở đầu bằng những câu: “Đêm ấy trăng sáng lắm”

(Tình thư); “Ở vùng quê một đêm trăng” (Quê bạn); “Tôi còn nhớ rõ hôm

ấy là một đêm trăng về cuối hạ” (Chú tôi);… hoặc mở đầu cho sự giãi bày

tâm sự, cởi mở cõi lòng bao giờ cũng là cảnh: “đám mây đen dày đặc đã

nứt nở ra dần, để lọt một thứ ánh sáng xanh rờn của mảng trăng cuối thu”

57

(Bến Nứa); “Đêm hôm ấy trăng sáng vằng vặc” (Con so về nhà mẹ);

“Trăng đã lên cao sau đồi cát trắng” (Tình trong câu hát); “Mảnh trăng

trong lúc ấy đã bắt đầu chiếu ánh sáng dịu dàng qua hàng tre trƣớc cổng”

(Quê mẹ);… Dƣới ánh trăng bao dung và vô tƣ, ngƣời ta nói đƣợc với

nhau những điều không thể nói vào lúc khác: cô Hoa bàn với chồng việc

mình sẽ sinh con ở đâu (Con so về nhà mẹ); cô Sƣơng giãi bày mối tình

thầm kín của mình (Tình thư); cô Thảo xin phép chồng về ăn giỗ (Quê

mẹ); …

3. Nhìn về quá khứ với nỗi niềm nhớ tiếc sâu nặng

Có lẽ, Thanh Tịnh đã có một tuổi thơ bình yên, trong sáng, do đó

truyện của ông dƣờng nhƣ đƣợc cất lên từ ký ức, từ những hồi tƣởng miên

man về dĩ vãng. Đó là một ký ức tràn ngập ánh trăng thanh bình: “Đêm ấy

trăng sáng lắm. Mẹ tôi bảo chúng tôi đem ghế ra sân, để học cho mát…”

(Tình thư). Ông thƣờng bắt đầu sự hồi tƣởng bằng lối kể chuyện đủng

đỉnh, dân giã của những ngƣời gặp lúc thanh nhàn ngồi “ôn cố tri tân”:

năm ấy, hồi ấy, đêm ấy, ngày ba mươi tết năm ấy… Dĩ vãng thật đẹp và đã

qua, dƣờng nhƣ không bao giờ trở lại nữa, bởi Thanh Tịnh luôn nhìn về nó

với một sự nuối tiếc: “Đến nay, quãng đời xƣa không còn nữa, mất đi nhƣ

cảnh sáng đẹp trong giấc nằm mơ. Ngày xanh tƣơi của tuổi thơ chỉ để lại

trong lòng ngƣời một sự tiếc thƣơng, ngậm ngùi và êm ái” (Chị và em).

Hình ảnh ông đồ của thơ Vũ Đình Liên hình nhƣ cũng thấp thoáng

trong ngôn ngữ và hình tƣợng văn chƣơng của Thanh Tịnh. Những ông đồ

Nho của một thời thất thế. Nhƣ hình ảnh ông Hậu con ông Hoàng chủ

nhân của một dinh cơ nguy nga một thời lừng lẫy phải viết câu đối Tết ở

phiên chợ cuối năm để sinh nhai, dù “chữ ông ta viết đẹp lắm” nhƣng chỉ

58

là hình ảnh gợi trí tò mò của những lũ trẻ con xúm nhau vây quanh nhìn

ông ta viết một cách lơ đãng không hứng thú. Hay nhƣ nhân vật trong Chú

tôi, một thầy đồ của thời cũ sót lại, với những câu văn hoa buồn cƣời và lối

sống hủ lậu đang dần dần tàn tạ. Trong buổi giao thời, mọi giá trị bị thay

đổi. Nhƣng trong lòng những tâm hồn hoài cổ chắc không tránh khỏi nỗi

ngậm ngùi. Tấm lòng hoài cổ phát xuất từ niềm yêu thƣơng quê hƣơng tha

thiết đã tạo thành nỗi rung động cho ngƣời đọc.

Thời gian qua đi, dù thời thế xoay vần lƣu chuyển, với bao nhiêu

ngƣời, vẫn còn âm vang vẳng lại những câu tập đọc của bài Tôi đi học, vỡ

lời văn trong sáng và quá cảm động, dù nội dung chỉ là lời tự sự của một

cậu bộ nhà quờ, ghi lại cảm giỏc của mỡnh trong buổi học đầu đời ở

trƣờng làng. Hồi ức của Thanh Tịnh nhƣ cũn nguyờn nếp, khụng hề sờn

phai vỡ ụng viết khi rời trƣờng mẹ để bƣớc vào đời. Buổi mai ấy, một buổi

mai đầy sƣơng thu và gió lạnh…

Thanh Tịnh có những trang viết về tuổi học trò vẽ lại đƣợc một thời

kỳ đã qua với nhiều sinh động. Đó là ngôi làng Mỹ Lý trong thời gian

mới cũ giao thời. Chữ Nho cổ xƣa dần dần đƣợc chữ Pháp và Quốc ngữ

thay thế. Phong tục trong làng cũng theo thời mà thay đổi. Những trƣờng

học mái ngói đỏ au dần dần đã thay đổi những lớp ê a câu Tam Tự Kinh,

những thầy giáo, những ông đốc mang ánh sáng văn minh đến tuổi học trò

đã thay thế những cụ đồ già của thời cổ xƣa ngồi trên phản ôm xe điếu với

những câu chi hồ giả dã. Những đứa trẻ lớn lên, say sƣa với những biểu

tƣợng của thời đại mới, thích thú với những cầu thủ của Đội ban quê, nhìn

những chuyến tàu đi qua làng với cái háo hức tìm kiếm từ phƣơng xa

mang lại. Lúc ấy, đã xa lắm những lề tục hủ lậu, và đời sống đã có những

59

cựa mình thay đổi. Những màn cúng tế, những buổi họp làng họp tổng

không còn là nỗi chú tâm của tuổi thơ. Háo hức với sự thay đổi nhƣ thế,

tâm lý con ngƣời nhƣ bị những lực đối kháng. Một mặt, chê bỏ những điều

cũ kỹ, nhƣng một mặt vẫn thấy bâng khuâng ngậm ngùi trƣớc những vần

III. ĐI VÀO KHÁM PHÁ ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA CON NGƢỜI

TRONG MỌI MẶT CỦA CUỘC SỐNG, THỂ HIỆN CHẤT NHÂN VĂN

TINH TẾ VÀ CAO CẢ

xoay thay đổi.

Cũng giống những nhà văn cùng phong cách khác, Thanh Tịnh quan

tâm nhiều tới việc phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú của nhân

vật. Những biến cố, sự kiện bề ngoài của cuộc sống chỉ là cái cớ cho sự

bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Ông viết về những việc thông

thƣờng, nhỏ nhặt, cỏn con trong tập tục, sinh hoạt của chốn hƣơng thôn

miền Trung với chất liệu dung dị, tƣởng nhƣ không có gì đáng nói, đó

không phải là những tình huống cô đặc, chói sáng để tạo nên những bùng

nổ giàu kịch tính mà đơn giản chỉ là những lát cắt, những khoảnh khắc của

cảm xúc và tâm trạng. Đằng sau những hiện tƣợng tƣởng nhƣ bình thƣờng,

nhỏ bé bao giờ cũng nhƣ ẩn chứa cả một thế giới bao la, âm ỉ những cảm

xúc, những khát vọng, những nỗi vui buồn, những suy tƣ, chiêm nghiệm.

Điểm làm nên sự riêng biệt trong truyện ngắn của Thanh Tịnh so với

các nhà văn trữ tình nói riêng và các nhà văn thuộc phong cách khác nói

chung, đó là ông chú ý đến việc miêu tả đời sống nội tâm của người dân

thôn quê. Thông thƣờng ngƣời ta cho rằng ở những con ngƣời có đời sống

hiện thực đơn giản, chất phác nhƣ những ngƣời dân quê thì đời sống tâm

60

hồn của họ cũng đơn giản, mộc mạc. Họ sẽ khó mà có đƣợc một cuộc sống

nội tâm phức tạp, tinh tế, nhiều ngóc ngách, lắm bí hiểm nhƣ của những

ngƣời dân thành thị đƣợc tiếp xúc nhiều với xã hội văn minh, càng không

thể bằng đƣợc những ngƣời có học, hay các nhà trí thức lắm kiến thức sách

vở. Họ chỉ cần lo sao cho cuộc sống đủ cơm ăn áo mặc chứ ít khi quan tâm

đến đời sống tinh thần của mình, với họ dƣờng nhƣ không có cả cái khái

niệm về đời sống tinh thần đó. Cái phức tạp trong tâm hồn con ngƣời đƣợc

Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Châu, Khái Hƣng, Nhất Linh… miêu tả

thƣờng là ở những nhân vật trí thức, những con ngƣời của đời sống thành

thị, những học trò, nhà văn,… - tức là những con ngƣời ít nhiều có học

thức. Với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, ngƣời nông dân chỉ đơn giản

là những anh Pha, chị Dậu - những ngƣời nông dân nghèo khổ bị áp bức

bóc lột bởi các thế lực cầm quyền trong một xã hội đen tối. Hiếm có đƣợc

những hình ảnh ngƣời nông dân đƣợc nhà văn quan tâm tới đời sống tâm

hồn nhƣ Chí Phèo, Tƣ Cách Mõ, Lang Rận,… trong thế giới của Nam Cao.

Nhƣng nhà văn Nam Cao cũng chủ yếu quan tâm tới việc phân tích, lý giải

sự tác động của xã hội, của môi trƣờng bên ngoài góp phần tạo nên, hoặc

biến đổi nhân cách, phẩm giá của một con ngƣời, thậm chí có thể quyết

định sự sống chết của con ngƣời đó nhiều hơn là đi vào phân tích đời sống

nội tâm của họ. Về bản chất, nhân vật nông dân của Nam Cao là những

ngƣời hiền lành, lƣơng thiện, nhƣng hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh cuộc

sống, các thiết chế của xã hội, áp lực của cuộc sống đã biến họ thành

những con ngƣời có nhân cách khác. Và Nam Cao chọn những sự kiện,

những điểm nút trong diễn biến truyện làm cao trào để diễn tả, lý giải sự

thay đổi đó. Ở Chí Phèo, đó là sự biến đổi sau cuộc rƣợu buổi chiều của

anh ta với kẻ tri kỉ cuồng - Tự Lãng, sau cuộc gặp buổi đêm với kẻ tri âm

61

của đời anh ta - Thị Nở, và sáng hôm sau Chí tỉnh, tỉnh khỏi cơn say mênh

mông suốt đời, tỉnh khỏi kiếp sống sinh vật, kiếp sống không phải của con

ngƣời. Ngƣời nông dân của Thanh Tịnh thì khác. Dù họ không có học, dù

cuộc sống hiện thực của họ rất đơn giản, dù những hiểu biết về xã hội của

họ cũng ít ỏi nhƣ bao ngƣời nông dân Việt Nam khác nhƣng họ vẫn có một

đời sống nội tâm phong phú và tinh tế. Những cô Duyên (Bên con đường

sắt) vẫn tinh tế đến thế này khi biết ngƣời dân làng coi thƣờng mình: “Vì

cô chán biết không ai muốn tin tấm lòng nhi nữ lại có thể ẩn đƣợc thanh

bạch trong tấm lều tranh mục nát. Nhƣng lúc cô vừa đặt mình xuống

giƣờng thì tự nhiên hai mắt cô lại chan hoà nƣớc mắt.”; cô Thảo (Quê mẹ)

biết nhắc chồng một cách bóng gió, xa xôi, tế nhị: “Cô tự nghĩ nhắc chồng

ngày giỗ ở nhà mình là một việc chƣớng lắm. Thật tự nhiên để cho chồng

nhớ thì lại hơn”; cô Hoa (Con so về nhà mẹ) khi biết chiều lòng chồng:

“Và thấy chồng nói chuyện may rủi với giọng say sƣa, cô cũng không

muốn đến gieo sự buồn nản”…

Một đêm xuân kể về tâm trạng ngƣời tu hành trong những khoảnh

khắc giao thời giữa năm mới với năm cũ ở một cái am nhỏ trên núi cao:

“Giữa một trái núi bốn mùa mây phủ, một mái am tranh nƣơng nhẹ mình

trên một toà đá cheo leo. Chung quanh là đất thẳm trời xa mờ mịt vây tròn

trong cảnh mông mênh của gió lộng”. Cảnh “thuyền ngƣ phủ đã trở lái về

quê hƣơng” và cảnh “rừng mai sau triền núi Thệ hôm nay cũng trổ hoa

trắng cả trời” đã gợi dậy trong tâm hồn trầm lặng của nhà sƣ già bao nỗi

buồn nhớ tƣởng chừng đã ngủ yên sau những năm tháng tu hành “Dứt

đƣợc một cuộc đời nhọc nhằn, đen tối, không ngờ lòng sƣ phụ còn giây

quyến luyến với quê hƣơng”. Con ngƣời đã rời xa cuộc sống trần tục,

62

nƣơng náu nơi cửa Phật lâu nay, bao đêm gõ mõ tụng kinh trong am nhỏ

trên triền núi vắng ngƣời, tâm hồn tĩnh tại trƣớc thời cuộc, chỉ biết làm bạn

với quyển kinh, tràng hạt, với cỏ cây, mây núi, chim chóc, mà giờ đây

“lòng sƣ cụ tự nhiên thấm đƣợm một nỗi buồn man mác. Bao nhiêu kỷ

niệm xa xăm về Tết đều sống lại vơi đầy trong lòng sƣ cụ. Sƣ cụ muốn

quên, cố quên thì những ý nghĩ ấy lại nảy nở dồi dào và rõ ràng hơn nữa.

Sƣ cụ buồn. Một thứ buồn lạ lùng trên gƣơng mặt chỉ biết bình tĩnh và

trầm ngâm”. Cái triết lý sắc sắc không không nhà Phật dƣờng nhƣ cũng lui

bƣớc trƣớc khoảnh khắc này, khi mà trái tim ngƣời tu hành cũng giống

“Muôn ngôi sao đang run rẩy trên tầng không”, khi mà lòng ngƣời với

cảnh vật nhƣ hoà quyện vào một, “Trƣớc mái am tranh cây sơn trà ngập

ngừng thả rơi từng chiếc lá một”. Vậy là quê hƣơng, gia đình, “những vụn

đời xa cách” đã trở về trong tâm trí nhà sƣ trong thời điểm giao thời, khi

đất trời đang chuyển mình đón một cuộc sống mới. Tâm hồn con ngƣời

quả nhiên không dễ hiểu. Trong một giây phút, một khoảnh khắc, hiện tại

quen thuộc lại dƣờng nhƣ trở nên xa lạ, nhƣờng chỗ cho những hồi ức xa

xăm, nỗi khát khao mong chờ những khuôn mặt thân quen trong quá vãng.

Ngƣời tu hành tƣởng nhƣ đã quen làm bạn với nỗi cô đơn, đã tự lựa chọn

cuộc sống cô đơn cho bản thân mình bỗng nhiên thấy mình cô đơn hơn bao

giờ hết “ Xa xa trên đồi liễu có vài ngọn lửa hồng đang tƣng bừng bùng

cháy. Nhƣng vài ngọn lửa ngàn không sƣởi nổi cả một trời sƣơng”.

Tình trong câu hát “là lối giới thiệu ngầm của hai tâm hồn xa lạ, hay

mẩu chuyện đời góp nhặt kể cho nhau nghe” để tìm “tình đời giữa dòng

sông”. Truyện chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của một lần gặp gỡ trên sông

giữa Đạt - một ngƣời goá vợ - với một con thuyền lạ. Đi với nhau một

quãng sông, thổ lộ cảnh ngộ, tâm tình bằng những câu hát, đến ngã ba

63

sông đôi thuyền đôi ngả “lẳng lặng cách ra xa dần nhƣ rẽ quạt”. Giữa cái

khung cảnh đã cũ của cuộc đời sông nƣớc, đã “làm chứng cho việc tình

xƣa”, bất chợt tâm hồn Đạt bỗng bàng hoàng, thao thức trƣớc giọng hò

Vĩnh Trị mà chàng đã nghe quen - giọng hò của ngƣời cùng làng với vợ

chàng xƣa. Đạt đã cất tiếng hò, không phải vì thói quen thƣờng ngày mà vì

lòng chàng thấy rung động. Những câu hò trao đổi qua lại đã không còn vẻ

bình thƣờng vô tƣ, và ngƣời hò không còn hồn nhiên diễn tả “nỗi cô đơn

của lòng họ” nữa. Khi mới bắt gặp chiếc thuyền ai đang “rẽ nƣớc giống hệt

với thuyền Liên”, lòng Đạt đã “bồi hồi một cách lạ”, Đạt “kéo thêm một

buồm nữa để đuổi theo và chính Đạt cũng không biết để làm gì” - một

hành động dƣờng nhƣ vô thức. Đến trƣớc ngã ba sông, khi con thuyền kia

quay mũi phía Kim Long, Đạt đã lƣỡng lự một chút, nhƣng rồi lại “đƣa tay

đẩy mạnh đòn bánh lái cho thuyền xuôi về Đại Lƣợc”. Hành động này vừa

nhƣ vô thức, vừa nhƣ có ý thức. Duyên mà câu hò trên sông đƣa lại cũng

đến lúc phải chia biệt. Cảnh giã biệt nơi ngã ba sông đã không chỉ là cảnh

từ biệt của những con thuyền xa lạ nữa mà nó là “Đến đây là chỗ rẽ của

lòng / Gặp nhau còn biết trên sông bến nào”, câu hò quen thuộc đã khiến

cho Đạt “tự nhiên thấy nghẹn ngào trƣớc cảnh biệt ly. Nhớ đến Liên, nhớ

đến ngƣời bạn mới trong đêm, Đạt gục đầu ôm mặt khóc rƣng rức”.

Đọc xong Bến Nứa, gấp trang sách lại, ngƣời ta nhƣ vẫn nghe văng

vẳng bên tai câu gọi đò của Phƣơng “Ai về Viễn Trình thì xuống mà về”.

Câu gọi đò tƣởng chừng bâng quơ mà dồn nén, chứa đựng biết bao đợi chờ

khắc khoải, bao hy vọng mỏng manh và đau đớn không cùng trong lòng

ngƣời thiếu phụ. Cuộc gặp gỡ tình cờ với ngƣời khách trẻ đi đò một đêm

mƣa cuối thu đã khiến lòng Phƣơng không còn hoang vắng nhƣ xƣa, từ khi

ngƣời chồng phận yểu đã không may bỏ cô lại một mình với đứa con thơ.

Cảnh trời đất vắng vẻ, mƣa gió hôm đó khiến lòng cô lái đò tự nhiên “lạnh

64

lẽo và buồn man mác”. Ngƣời khách đi đò bạo dạn, trẻ trung nhƣ đến từ

một thế giới khác đã mang chút lửa sƣởi ấm cho Phƣơng, “Phƣơng cũng

không hiểu tại sao, tối hôm nay lòng Phƣơng lại rạo rực tê mê nhƣ đống

tro tàn men hơi lửa”. Những câu nói vô tình của đứa trẻ thơ đã khiến hai

ngƣời xích lại gần nhau hơn, khiến tình đời, tình ngƣời hoà quyện vào với

nhau, “Dƣới ánh trăng, gƣơng mặt của Phƣơng trông hồng hồng tƣơi xinh

nhƣ bằng sáp. Lòng Thảo hồi hộp sẽ nhƣ cánh bƣớm”. Tình chợt đến, chợt

đi. Tất cả cũng chỉ gói gọn trong một chuyến đò mà thôi. Lòng ngƣời thiếu

phụ trở lại buồn vắng nhƣ trƣớc. Nhƣng dƣờng nhƣ cũng đã có sự thay đổi

trong cái buồn vắng của ngƣời thiếu phụ. Thời gian trôi qua, đứa con thơ

giờ đã khôn lớn, nhƣng đêm nào chèo thuyền qua bến Nứa, Phƣơng cũng

lại cất tiếng gọi: “Ai về Viễn Trình thì xuống mà về”, dù đáp lại lời cô “chỉ

có tiếng chuông chùa Đồng Tâm ngân dài trên mặt nƣớc”. Không gian

vẫn nhƣ xƣa : khúc sông dài từ “chợ lá làng Thiên” đến làng Viễn Trình -

một lịch trình bất biến của con thuyền chở khách, tiếng chuông chùa Đồng

Tâm, câu gọi mời khách đi đò…, nhƣng đồng thời cũng có cảm giác

dƣờng nhƣ tất cả đã không còn nhƣ xƣa nữa, bởi thời gian đã thay đổi, và

lòng ngƣời cũng đã thay đổi. Sự thay đổi đó diễn ra rất âm thầm, lặng lẽ,

day dứt. Cái ƣớc mơ, mong ngóng, hy vọng trong câu gọi mời khách của

ngƣời thiếu phụ ngày một ít dần đi, nhƣờng chỗ cho nỗi khắc khoải vô

65

vọng, đau đớn ngày một lớn dần lên.

CHƯƠNG 3

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH QUA MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

I. CHẤT THƠ NHƢ MỘT ĐẶC ĐIỂM BAO TRÙM TRUYỆN NGẮN

THANH TỊNH

Những truyện ngắn của Thanh Tịnh tràn ngập ý thơ, với một tâm hồn

vừa lãng mạn vừa sâu sắc. Một thế giới đƣợc tạo dựng lại với sự rung cảm

tột độ khi diễn tả. Đúng nhƣ Thạch Lam nhận xét, mỗi truyện ngắn của

Thanh Tịnh là một bài thơ. Thanh Tịnh có một hồn thơ lai láng, ngọt ngào,

man mác trữ tình, “thứ tình êm dịu, nhẹ nhàng, thứ tình của những ngƣời

dân quê đôn hậu Trung kỳ, diễn ra trong những khung cảnh sông nƣớc,

đồng ruộng” (Vũ Ngọc Phan). Truyện của ông trở đi trở lại cái làng Mỹ

Lý, nơi có con sông hiền lành lặng lẽ chảy quanh, nơi có những cánh đồng

thơm mát và những tiếng hò của bạn gặt, bạn chài vẳng trên sông nƣớc.

Bức tranh thiên nhiên trong truyện của ông thật thi vị, thật thơ mộng.

Thạch Lam đã thật tinh tế khi viết về ông bằng một hình ảnh: “ Thanh

Tịnh đã muốn làm ngƣời mục đồng dƣới bóng tre thổi sáo để ca hát những

đám mây và những làn gió lƣớt bay trên cánh đồng, ca hát những vẻ đẹp

của đời thôn quê”.

1. Làng quê xứ Trung kỳ Việt Nam hiện lên trong truyện ngắn của

Thanh Tịnh thật đẹp và yên bình: “Gió thổi trên đồng lúa chín, dạt dào nhẹ

và khô. Bên kia đồng tiếng hò đạp nƣớc còn văng vẳng ran lên giữa bóng

66

chiều sắp tắt. Tiếng hò rời rạc và buồn buồn nghe nhƣ đàn ve xám thả

giọng ngân rền cuối hạ” (Con so về nhà mẹ), “Đƣờng đi khúc khuỷu chạy

dọc một mé sông An Cựu và vƣơn qua nhiều đám ruộng sắn xinh tƣơi. Gió

thổi đều đều trong ngọn cây và rung nhẹ những tia nắng nhạt” (Lầm),

“Một buổi chiều vàng rộng mênh mông” (Tình trong câu hát),… Ta có thể

cảm đƣợc cái thanh bình, cái yên ả của làng quê Việt Nam với những cánh

đồng lúa mênh mông, với những luỹ tre xanh ken dày, với những dòng

sông yên ả và tiếng hò mái nhì, mái đẩy của bạn chài ngân dài vọng về.

Bức tranh cảnh làng quê này càng thêm thi vị vào những đêm có trăng, khi

bầu trời đêm chỉ còn trăng ngự trị, khi mà trăng rộng lƣợng ban phát cái

ánh sáng dịu dàng, thanh thơi khiến cho cảnh vật thêm thơ mộng và tâm

hồn con ngƣời thêm nhẹ nhõm, khoáng đạt, xoá nhoà đi những ƣu lo,

phiền muộn, vất vả lúc ban ngày: “Phía trƣớc cổng, cách hàng rào tre thƣa

lá là cánh đồng mênh mông chạy dài đến chân trời xa thẳm. Phía ấy trăng

tuôn xuống thảnh thơi và tràn ngập cả con sông đào đang uốn mình vƣơn

qua đồng lúa rộng” (Con so về nhà mẹ), “Ánh trăng êm dịu xuyên qua mấy

tàu lá chuối rồi nhẹ toả trên chiếc bàn chúng tôi mấy bóng đen lớn luôn

luôn xao động. Mùi hƣơng bên giàn hoa lý bay ra thơm ngào ngạt” (Tình

thư), “Mảnh trăng trong lúc ấy đã bắt đầu chiếu ánh sáng dịu dàng qua

hàng tre trƣớc cổng” (Quê mẹ), “Ở vùng quê một đêm trăng. Gió thổi đều

đều qua ngọn cây và lay nhẹ những tàu lá xám. Trăng sáng, và trời không

mây”, “Trời càng khuya trăng càng tỏ. Tiếng nói qua lại dịu dần cho đến

lúc câu chuyện thành nhạt nhẽo vô duyên thì ai nấy đều im tiếng. Cảnh vật

của trời đêm lặng lẽ bao vây giấc ngủ say sƣa của mọi ngƣời” (Quê

67

bạn),… Truyện của Thanh Tịnh tràn ngập ánh trăng, nhƣng tài tình là ở

chỗ trăng đã đƣợc ông thổi hồn ngƣời nên nó không chỉ còn là ánh sáng tự

nhiên của thiên nhiên nữa. Nó đã mang tâm trạng con ngƣời. Trăng trong

Ngậm ngải tìm trầm đã không còn vẻ thanh bình, nó mờ ảo, ma quái bao

trùm cảnh vật, nó khiến cho lòng ngƣời thêm hoang mang, lo sợ trƣớc sự

huyền bí, kỳ lạ của núi rừng thƣợng ngàn mà trí tuệ con ngƣời còn chƣa

hiểu hết đƣợc: “giữa một đêm trăng mờ cuối thu, bác Diệm gái bỗng nghe

tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não”, “ánh trăng thu giây bụi

vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con ngƣời kỳ dị lại làm bác gái

giật mình”, “trong bầu ánh sáng nhạt, nhuộm sƣơng khuya”, “con vật quay

mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh

nhạt”… Và trăng của tình yêu nam nữ cũng lãng mạn, cũng bâng khuâng,

hồi hộp nhƣ ngƣời trong cuộc : “Mặt phà rộng mênh mông lấp loáng ánh

trăng vàng, trăng rất đẹp. […] Trong đám sƣơng mờ óng ả ánh trăng, hai

chiếc thuyền lẳng lặng cách xa dần nhƣ rẽ quạt” (Tình trong câu hát),

“Đêm hôm ấy trăng sáng vằng vặc và trên trời không hề bợn một chút

mây” (Rosée)…

2. Thanh Tịnh đã đƣa rất nhiều những câu hò, câu ca dao dân gian

vào trong truyện ngắn của mình. Ta có thể bắt gặp những câu ca chứa đầy

nhạc điệu đó ở đầu, ở giữa hoặc thậm chí ở cuối truyện: “Đi đâu cho thiếp

đi cùng / Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam” (Bến Nứa); “Chiều chiều

ra đứng cửa sau / Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Quê mẹ); “Tôi

đứng đầu giƣờng / Tôi trƣơng mắt ếch / Tôi đây sợ sệt / Tôi đây sợ sệt / Sợ

họ gặt hết lúa đồng đi! / Tôi đến đây mót lƣợng từ bi! / Mót điều nhân

68

nghĩa, chứ mót chi lúa ngài” (Con so về nhà mẹ); “Thuyền ai trôi trƣớc /

Cho tôi lƣớt đến cùng / Chiều đã về trời đất mung lung / Phải duyên thì

xích lại cho đỡ não nùng tiếng sƣơng - Trời một vùng đêm dài không bạn /

Mƣợn gió chiều hỏi bạn ngàn sông / Thân em là gái chƣa chồng / Tơ

duyên có chắc nhƣ dòng nƣớc không? - Tình về Đại Lƣợc / Duyên ngƣợc

Kim Long / Đến đây là chỗ rẽ của lòng / Gặp nhau còn biết trên sông bến

nào” (Tình trong câu hát); “Rồi mùa toóc rạ rơm khô / Bạn về quê bạn biết

mô mà tìm” (Quê bạn);… Bản thân mỗi câu ca đó đã là một câu thơ chứa

đựng những tâm tình của lòng ngƣời muốn giãi bày, chia sẻ. Ở những chỗ,

thời điểm mà ngôn ngữ trực tiếp khó diễn tả đƣợc hết tâm trạng con ngƣời

thì Thanh Tịnh đã dùng những câu ca để thay thế, để nói hộ.

3. Truyện của Thanh Tịnh là những truyện thiên về tình cảm. Ông sử

dụng nhiều đoạn văn trữ tình để tả tâm trạng nhân vật. Lúc là cái bối rối,

rạo rực của lòng ngƣời thiếu phụ cô đơn trƣớc tình mới: “Phƣơng chống

cằm vơ vẩn nhìn mấy thửa ruộng chạy dài hai bên bờ sông, lòng hơi thổn

thức. Phƣơng cũng không hiểu tại sao, tối hôm nay lòng Phƣơng lại rạo

rực tê mê nhƣ đống tro tàn men hơi lửa” (Bến Nứa); lúc là cái nao nao

buồn của ngƣời tu hành trƣớc thời khắc giao thoa của đất trời: “Đoạn sƣ cụ

quỳ trên chiếu cỏ cố thành tâm tụng niệm để quên những chuyện xa xƣa.

Một sự thầm tiếc thoáng qua lòng, sƣ cụ đã vội vàng đánh mõ khua

chuông để che lấp […] Nhƣng một luồng gió lạnh lọt qua khe cửa và

thoáng chạy lồng trong chiếc áo rộng tay. Sƣ cụ miên man nghĩ đến những

vụn đời xa cách […] Một luồng máu lạnh nhƣ đến tràn ngập trong lòng và

bắt sƣ cụ tê mê một lúc. Sƣ cụ lo lắng quay vào trong am” (Một đêm

69

xuân); lúc lại là cái xao xuyến, bâng khuâng của ngƣời thiếu nữ trƣớc tình

yêu đầu đời: “Hơn ba hôm nay giọng hò của Mẫn đã quyến luyến Hƣơng

và làm lòng Hƣơng xao xuyến. Hƣơng tự nhiên thấy buồn buồn khó tả.

Mỗi lần giọng hò của Mẫn ngân lên không, nhƣ tiếng chuông rền, hay tản

mát ra xa nhƣ dòng Hƣơng cuộn, Hƣơng lại thổn thức và có cái cảm giác

hơi lạ: là chừng đã sống với Mẫn đâu từ kiếp xa xƣa” (Quê bạn)… Đặc

biệt là cách ông mô tả tâm trạng một cậu bé lần đầu đƣợc đến trƣờng với

những câu văn mƣợt mà cảm xúc, đọc một lần thấy nhớ mãi: “Hằng năm

cứ vào cuối thu lá ngoài đƣờng rụng nhiều và trên không có những đám

mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức kỷ niệm mơn man của buổi tựu trƣờng.

Tôi quên thế nào đƣợc những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi

nhƣ mấy cánh hoa tƣơi mỉm cƣời giữa bầu trời quang đãng […] Buổi mai

hôm ấy, một buổi mai đầy sƣơng thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm

tay tôi dẫn đi trên con đƣờng làng dài và hẹp” (Tôi đi học).

4. Bên cạnh những đoạn văn trữ tình miêu tả trực tiếp tâm trạng nhân

vật, Thanh Tịnh cũng hay dùng cảnh để tả tình ngƣời. Truyện của ông

thƣờng mang một nỗi buồn mênh mang, bâng khuâng. Trong những câu

chuyện đó, nhất là trong các truyện tình buồn, Thanh Tịnh thƣờng lấy mƣa

gió, giá lạnh, ánh trăng cuối thu, mùa đông… để làm cảnh tả tình ngƣời:

“mƣa luôn ngày đêm/ dòng mƣa đêm lạnh ngắt/ bản nhạc mùa đông/ lạnh

nhƣ cắt thịt/ giữa đêm lạnh/ giữa đêm mƣa tầm tã/ giữa đêm mƣa lạnh

cóng” (Am cu ly xe); “mƣa tầm tã/ tiếng mƣa rì rào/ những dòng mƣa chi

chít/ nƣớc mƣa xối mạnh/ dòng mƣa chảy tràn trên mặt/ mùa đông năm

sau/ ánh sáng xanh rờn của mảnh trăng cuối thu/ mảnh tăng hạ tuần/ mặt

70

trăng lúc ấy đã lẩn hình trong đám mây đen” (Bến Nứa);… Cái đêm cô

Duyên gặp lại thầy sếp ga Trƣu trong Bên con đường sắt là một đêm mƣa

gió dầm dề giữa mùa đông lạnh, và sau cái đêm vừa gặp gỡ lại vừa ly biệt

đó lại tiếp tục là “những đêm mƣa gió dầm dề, lạnh lùng và mãnh liệt”.

Nếu không gian trong truyện của Thạch Lam thƣờng là không gian chiều

chạng vạng thì không gian trong truyện của Thanh Tịnh thƣờng là không

gian đêm trăng và đêm mưa. Và điều làm nên sự riêng biệt cho truyện

ngắn của Thanh Tịnh là không gian tâm tƣởng của nhân vật thƣờng là

không gian của sự hồi tƣởng, hồi nhớ quá khứ. Nhân vật hoặc ngƣời kể

chuyện dƣờng nhƣ đứng ở hiện tại mà nhớ về quá vãng với những hồi ức

II. CÁCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI, XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN

xa xăm tốt đẹp dƣờng nhƣ không bao giờ còn trở lại nữa.

Nằm trong mạch truyện ngắn trữ tình nên truyện của Thanh Tịnh

cũng xoay quanh những đề tài quen thuộc của các nhà văn cùng phong

cách. Ông viết nhiều về các đề tài sinh hoạt, phong tục chốn làng xóm,

hƣơng thôn miền Trung - nơi ông đã sinh thành - những ký ức luôn đeo

đuổi ông trong suốt cuộc đời. Ở đó, ông để cho ngòi bút của mình đƣợc

thoải mái tung hoành kể và tả về thiên nhiên, về tập tục, về sinh hoạt đời

thƣờng của làng và ngƣời dân làng. Khảo sát chỉ qua một số truyện đã thấy

ông dùng rất nhiều những từ, cụm từ riêng biệt, đặc trƣng của chốn nông

thôn này. Từ tên truyện: Quê mẹ, Quê bạn, Ra làng, Làng, Một làng chết,

Bến Nứa, Con so về nhà mẹ, Am cu ly xe,… đến nội dung thì đầy rẫy các

71

từ, cụm từ chỉ địa danh hoặc các phƣơng ngữ: xóm chợ lá làng Thiên,

thuyền, bến, cô lái đò, làng Viễn Trình, chợ Thiên, làng Mỹ Lý, làng

Duyên Hải, chân đồng làng, làng Đồng Yên, chùa Đồng Tâm, mợ, cậu,

ngày kỵ, khới, ra làng, xã thuyền, hương thơ, đình, am, miếu, ôn mệ, mõ,

chị xâu, nằm nơi, lót ổ, nằm bếp, cúng khẫm tháng, rinh, nghiễn chuyện,

sông An Cựu, lạch, ôn, mắc việc,… Khoảng 60 năm sau thời của Thanh

Tịnh - Thạch Lam, tức là vào những năm đầu thế kỷ XXI này, văn đàn

Việt Nam cũng xuất hiện một nữ nhà văn trẻ đi theo phong cách trữ tình

với những truyện ngắn viết về các đề tài nông thôn miền quê Nam bộ -

những hồi tƣởng về quá khứ đƣợc nghe kể lại hay đó chính là những ký ức

mà tuổi thơ chị đã trải qua. Đó là Nguyễn Ngọc Tƣ với Dòng nhớ, Chợ nổi

Cà Mau, Qua cầu nhớ người, Nước chảy mây trôi, Lý con sáo sang sông,

Đất Mũi phù sa, Tháng chạp ở rạch Bộ Tời,… Nếu Thanh Tịnh là nhà văn

của làng Mỹ Lý, của chốn hƣơng thôn miền Trung thì cũng có thể gọi

Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn của miệt vƣờn Nam bộ. Nhƣ vậy là văn mạch

của dòng truyện ngắn trữ tình thời 1930-1945 vẫn tiếp tục chảy và ảnh

hƣởng tới các nhà văn trẻ ngày nay.

Không bị lệ thuộc bởi những sự kiện, biến cố bên ngoài giàu xung

đột, giàu kịch tính, những điểm “gút” đột ngột làm đảo ngƣợc, thay đổi

tình thế nhƣ các nhà văn hiện thực, Thanh Tịnh - giống nhƣ các nhà văn

trữ tình khác, chọn cốt truyện tâm lý (Phan Quốc Lữ) - loại cốt truyện chỉ

chú ý tới những cơn thăng trầm trong cảm xúc của nhân vật, tức là những

sự cố, những trạng thái tâm lý nhân vật. Vì thế, trong truyện của ông, cái

72

gây ấn tƣợng nhiều cho ngƣời đọc chính là những trạng thái cảm xúc của

nhân vật. Con so về nhà mẹ khiến ngƣời đọc xúc động không phải vì cuộc

đời vợ chồng cô Hoa quá cơ hàn, không chỉ vì cái tình của vợ chồng cô,

của cô đối với đàn con, mà phần nhiều vì Thanh Tịnh đã mô tả quá tài tình

những thay đổi trong cảm xúc của cô với những câu nhƣ: “Và thấy chồng

nói chuyện may rủi với giọng say sƣa, cô cũng không muốn đến gieo sự

buồn nản”, “Cô Hoa phần nhớ chồng, phần thƣơng con liền đƣa vạt áo nâu

lên chặm nƣớc mắt”. Hoặc nhƣ nỗi buồn mênh mang của lòng ngƣời đã xa

lánh nơi tục thế khi xuân về: “Một luồng máu lạnh nhƣ đến tràn ngập trong

lòng và bắt sƣ cụ tê mê một lúc”, “Sƣ cụ muốn thở dài cho lòng đỡ nặng

nhƣng ngập ngừng chỉ dám dứt hơi ra từng đoạn ngắn” (Một đêm xuân).

Truyện của Thanh Tịnh có những cốt truyện tự sự rất đơn giản, chỉ cốt để

kể lại, hoặc chỉ giống nhƣ một tuỳ bút (Tình trong câu hát, Tôi đi học),

III. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

không có cốt truyện.

Do xây dựng cốt truyện tâm lý nên thời gian và không gian trong

truyện ngắn Thanh Tịnh cũng bị ảnh hƣởng theo.

Ở nhiều truyện của ông, thời gian thƣờng thay đổi, xen cài theo chu

kỳ: hiện tại - quá khứ - hiện tại (tƣơng lai gần). Trong Bến Nứa, Thanh

Tịnh dùng tới 32 từ và cụm từ chỉ thời gian nhƣ: buổi chiều, hôm ấy, một

giờ, chiều mai, hơn một năm, chiều, sáng mai, tám giờ, một năm, hồi đi

học, mùa đông năm sau, lúc ấy, hơn hai tuổi, qua ngày tháng, xẩm tối, như

mọi ngày, đến lúc này, lúc ấy, hôm ấy, về khuya, trăng hạ tuần, hôm nay,

73

mấy ngày nghỉ, mỗi ngày mỗi khác, trước kia, lâu nay, tối hôm nay, như

trước, năm qua, ngày tháng qua, giữa đêm khuya, đêm nào cũng như đêm

nào. Bến Nứa đƣợc mở đầu bằng một buổi chiều tàn buồn bã của cô lái đò

đang làm công việc của mình - thời gian trong hiện tại. Tiếp đó, tác giả

cho thời gian quay ngƣợc lại trở lại cách đó một năm để kể lại gia cảnh cô

lái đò và ngƣời chồng không may đã quá cố. Sau những hồi ức đƣợc ngƣời

kể chuyện kể lại, thời gian tiếp tục trở về với hiện tại. Kết thúc truyện là

khoảng thời gian hiện tại bị ngắt quãng, đứt đoạn với những từ năm qua,

ngày tháng qua, để đẩy thời gian từ hiện tại đến tƣơng lai, gợi cho độc giả

nhận thấy đây là một chu kỳ đƣợc lặp đi lặp lại. Con so về nhà mẹ, Bên

con đường sắt, Tình trong câu hát, Quê bạn, Một làng chết, Ngậm ngải tìm

trầm… là những truyện đi theo chu kỳ thời gian nhƣ thế.

Phù hợp với những truyện hồi tƣởng về dĩ vãng, thời gian trong một

số truyện khác của Thanh Tịnh lại là thời gian trong quá khứ - thời gian

đƣợc kể lại từ điểm nhìn hiện tại. Ông thƣờng bắt đầu sự hồi tƣởng bằng

lối kể chuyện dân giã với những cụm từ chỉ thời gian trong quá khứ xa xƣa

nhƣ: tối hôm ấy (Chú tôi), đêm ấy (Tình thư), năm vừa qua (Hội chợ Huế),

hôm ấy (Rosée), buổi mai hôm ấy (Tôi đi học), năm ấy (Ra làng),… Đây

đã không còn là thời gian vật lý khách quan nữa mà chính là thời gian

trong tâm tƣởng tác giả, trong tâm tƣởng ngƣời kể chuyện. Không có hiện

tại, không có tƣơng lai, chỉ có quá khứ hiện về với các kỷ niệm và đƣợc kể

lại. Và chính vì là thời gian tâm tƣởng, thời gian của hồi ức nên bên cạnh

những diễn biến của các tình tiết truyện, tác giả đã tự cho mình xen lẫn

những câu, đoạn bình luận theo suy nghĩ, điểm nhìn của ngƣời kể chuyện

trong thời điểm hiện tại - thời gian hiện tại trần thuật. Xét theo lôgic thông

74

thƣờng, với những từ đƣợc gạch chân trong câu: “Theo trí non nớt nhƣng

sớm khôn của tôi hồi ấy thì tình duyên bằng thƣ của thầy ký ga với cô gái

quê càng ngày càng đằm thắm, mặn mà” trong Tình thư, hay câu: “Thì có

khó khăn gì đâu, cái đình làng làm đƣợc bao nhiêu năm thì bản âm nhạc kỳ

quái ấy lại có bấy nhiêu tuổi” trong Ra làng chính là những câu bình luận

ngoại đề của tác giả.

Không gian nghệ thuật trong truyện của Thanh Tịnh dƣờng nhƣ đƣợc

tác giả chú ý dụng tâm xây dựng nhiều hơn so với thời gian nghệ thuật.

Đó là không gian làng - không gian vật thể cụ thể, một cái làng giống

nhƣ bao làng quê khác của Việt Nam, nhƣng lại rất riêng, rất lạ, rất đặc

trƣng của chốn hƣơng thôn miền Trung. Cái làng này có một cái tên rất

đẹp và thơ: làng Mỹ Lý. Theo Thạch Lam, cái làng đó có thể không có thật

trong bản đồ, nhƣng nó có thật trong tâm cảm của Thanh Tịnh. Ở cái

không gian làng Mỹ Lý này cũng có dòng sông, con đò, bến nƣớc, luỹ tre

xanh, tiếng hò vọng trên sông, … nhƣ bao làng quê khác của miền Trung.

Có khác chăng là nó có thêm con đƣờng sắt, con tàu, cái ga xe lửa, trƣờng

học dạy chữ quốc ngữ, dạy chữ Pháp,… biểu tƣợng của văn minh hiện đại

so với những con đò, con thuyền truyền thống của làng quê xƣa cũ. Và sự

xuất hiện của những biểu tƣợng văn minh hiện đại đã làm xáo động cái

không gian thanh bình, yên tĩnh cổ truyền vốn đã tồn tại hàng nghìn năm

của làng quê. Con ngƣời sống trong không gian đó dƣờng nhƣ cũng bị biến

đổi theo. Họ vừa vẫn sống đời sống thanh thản nhƣ từ bao đời, vừa nhƣ bị

cuốn theo ma lực của cuộc sống hiện đại mới. Bên cạnh việc lƣu giữ

những câu hò vang vọng trên sông, họ háo hức tìm hiểu, đi theo cái mới,

háo hức trƣớc con tàu hoả văn minh, tiện lợi, trƣớc tiếng còi tàu xé tan

75

màn đêm yên tĩnh, trƣớc cái nhà ga mới dựng dù chỉ là ga tạm. Các thiếu

nữ thôn quê đã mong ƣớc nhiều hơn đến một cuộc tình lãng mạn với các

thầy sếp ga chứ không phải với trai làng, trẻ nhỏ háo hức với chữ quốc

ngữ, chữ Pháp cho dù cha ông chúng nhiều khi muốn cố giữ chữ Thánh

hiền để truyền dạy… Và đi kèm theo những sự thay đổi mới mẻ đó, con

ngƣời của làng quê hiền hoà này có khi cũng phải hứng chịu cả những bi

kịch xót xa.

Kết cấu truyện của Thanh Tịnh thƣờng là kết cấu vòng tròn với các

chi tiết đƣợc lặp lại: dòng sông, con thuyền chở khách, cô lái đò, đứa con

khóc đòi cha, câu gọi đò, tiếng chuông chùa (Bến Nứa)…; với các không

gian địa lý khép kín: bến làng Thiên - dòng sông - con đò chở khách trên

dòng sông - chùa Đồng Tâm - bến làng Viễn Trình (Bến Nứa); dải phà

Tam Giang: bến Bao Vinh - bến Đá - bến Nứa - làng Vĩnh Trị - làng Thế

Chi - làng Kế Môn - làng Kim Long - làng Đại Lƣợc (Tình trong câu

hát);… Khác với không gian vật thể cụ thể, khép kín, lặp đi lặp lại là

không gian tâm tƣởng - không gian mở của ngƣời kể chuyện và nhân vật

trong truyện. Trong không gian tâm tƣởng của ngƣời kể chuyện (tác giả),

gắn với cái không gian làng Mỹ Lý yên ả và thanh bình là những không

gian đêm sáng trăng tuyệt đẹp. Dƣờng nhƣ chỉ dƣới ánh trăng, làng Mỹ Lý

mới thật sự đúng nhƣ cái tên gọi của nó và tồn tại nhờ ánh sáng của nó.

Trong không gian đêm trăng, làng Mỹ Lý trở nên êm ả và nên thơ cùng với

vẻ đẹp trữ tình của những mối quan hệ xã hội giữa những ngƣời dân trong

làng. Ánh trăng tạo nên một không gian trữ tình để con ngƣời có thể sống

thực với những tình cảm chân thật của mình, phô bày đời sống nội tâm

phong phú, tinh tế của mình. Ở một số truyện ngắn nhƣ Bến Nứa, Am cu ly

76

xe, Bên con đường sắt, Làng, Một làng chết, Một đêm xuân,… của Thanh

Tịnh còn xuất hiện không gian mưa và không gian sương. Đó là những

không gian đầy ám ảnh bởi sự hoà quyện, lẫn lộn, đan xen giữa không gian

vật thể thực và không gian tâm tƣởng của nhân vật. Tình ngƣời, cảnh vật

dƣờng nhƣ không còn tách bạch nữa, tâm trạng con ngƣời hoà quyện với

đất trời. Trời mƣa, trời sƣơng mù dày đặc khiến lòng ngƣời buồn tê tái hay

IV. NGÔN NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH

chính là vì lòng ngƣời buồn khiến trời cũng phải tuôn mƣa?

1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc

Nhƣ Nguyễn Mạnh Trinh đã nhận xét: “Những câu văn mang âm

hƣởng thi ca với văn phong tuỳ bút sang cả làm cho trí tƣởng tƣợng nhƣ bị

kích thích và đi xa hơn những phong cảnh thƣờng nhật” [58], ngôn ngữ

của Thanh Tịnh rất giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.

Truyện ngắn của Thanh Tịnh có nhiều câu văn đọc lên nghe nhƣ thơ

vì nó giàu hình ảnh và nhịp điệu. Một đêm xuân là một minh chứng rõ ràng

cho điều này. Truyện giống nhƣ một tuỳ bút, không nhiều sự kiện đáng

chú ý, chỉ có tâm trạng con ngƣời trƣớc cảnh vật. Hầu nhƣ trong mỗi câu

văn ngắn, dài của truyện đều đƣợc Thanh Tịnh sử dụng các hình ảnh đẹp

và thơ mộng. Thử phân tích đoạn văn mở đầu truyện: “Giữa một trái núi

bốn mùa mây phủ, một mái am tranh nƣơng nhẹ mình trên một toà đá cheo

leo. Chung quanh là đất thẳm trời xa mờ mịt vây tròn trong cảnh mông

mênh của gió lộng. Ở đây trời màu biếc, đất màu lam và mùi sơn dã thơm

ngạt ngào nhƣ hƣơng bửu toạ”. Chỉ có ba câu văn ngắn mà đủ cả. Cảnh

đƣợc tả từ gần tới xa, từ cận cảnh (trái núi) đến viễn cảnh (đất thẳm trời

77

xa); từ nhỏ bé, cụ thể (mái am tranh, toà đá, trái núi) đến rộng lớn, xa vời

(đất thẳm trời xa, cảnh mông mênh); từ thời gian (bốn mùa) đến không

gian (cảnh mông mênh); từ ít (một) đến nhiều (bốn); từ màu (biếc, lam –

cảm nhận qua thị giác) đến mùi (thơm, hương bửu toạ – cảm nhận qua

khứu giác); từ cảm giác (nương nhẹ mình, vây tròn, mông mênh) đến trực

giác (cheo leo, thơm ngạt ngào). Ở đây, chúng tôi cho rằng các từ nương

nhẹ mình, vây tròn, mông mênh đƣợc nhận thức qua cảm giác của tác giả

chứ không thể qua ý thức, lý tính, cũng nhƣ các từ cheo leo, thơm ngào

ngạt chỉ có thể đƣợc nhận thức bằng trực giác, trực quan. Câu đầu tiên, tác

giả dùng tới bốn từ chỉ số lƣợng: ba từ một (một trái núi, một mái am

tranh, một toà đá) và một từ bốn (bốn mùa). Một là một, là duy nhất, đã

thế, nó lại đƣợc lặp lại tới ba lần, càng nhƣ khẳng định sự duy nhất đó. Chỉ

riêng sự đối lập giữa hai từ loại số ít và số nhiều trong cùng một câu văn

đã gợi cho ngƣời ta cái cảm giác cô đơn, cô độc, riêng rẽ, lẻ bầy của mái

am nhỏ. Tại sao ta biết là mái am tranh này nhỏ ? Bởi hai lẽ: thứ nhất -

trong thực tế khó có mái am tranh nào lại to lớn cả, thứ vật liệu (là tranh)

tạo nên nó bản chất đã mỏng manh, yếu ớt, không kiên cố bằng các loại

vật liệu khác nhƣ gỗ, đá, gạch…; thứ hai - dựa vào từ nương nhẹ, nếu đã to

lớn, mái am tranh này không thể nào lại nương nhẹ trên một toà đá đƣợc.

Nếu so sánh về cảm giác đƣợc gợi tả bởi từng từ, ngữ, có thể nhận thấy ở

câu văn này còn một sự đối lập nữa. Đó là sự đối lập về cảm giác to lớn,

nặng nề, vững chắc với cảm giác nhỏ nhoi, yếu ớt, mỏng manh. Trái núi là

nặng nề, toà đá là nặng nề, bốn mùa mây phủ cũng gợi cảm giác nặng nề;

ngƣợc lại, mái am tranh là nhỏ nhoi, nương nhẹ gợi cảm giác mỏng manh,

yếu ớt. Thêm một sự đối lập nữa giữa câu văn đầu tiên với câu văn thứ hai.

Câu thứ nhất là cận cảnh, câu thứ hai là viễn cảnh. Vẫn chƣa hết, ta còn có

78

thể tìm thấy trong đoạn văn này những cặp từ đối nhau nữa: một đối với

bốn, nương nhẹ đối với cheo leo, đất thẳm đối với trời xa, trời màu biếc

đối với đất màu lam, mùi sơn dã đối với hương bửu toạ. Về nhịp điệu, có

thể thấy ở đoạn văn này tác giả sử dụng triệt để, khai thác tối đa hiệu quả

của thanh bằng. Trong 58 tiếng của ba câu văn, có 23 tiếng có thanh trắc

và trong số đó chỉ có 9 tiếng có dấu sắc (trái, núi, bốn, mái, đá, đất, gió,

biếc, đất). Cách dùng nhiều thanh bằng trong câu, đoạn văn khiến cho nó

trở nên mềm mại, dàn trải, không quá sắc xói, trúc trắc… Tất cả các hình

thức nghệ thuật tác giả sử dụng trong đoạn văn cũng nhƣ trong toàn truyện

đều dẫn dắt để đi tới cái mục đích cuối cùng mà tác giả muốn biểu đạt

trong truyện ngắn này: sự cô đơn đến tột cùng của con người trước đất

trời. Cho dù đó là con ngƣời đã xa rời cuộc sống trần tục, đã nƣơng mình

nơi cửa Phật.

Trong truyện ngắn của Thanh Tịnh còn có những câu đẹp nhƣ một

bức tranh: “Mảnh trăng hạ tuần rây bụi vàng trên quãng đồng lúa rộng”

(Bến Nứa), “Một buổi chiều vàng rộng mênh mông” (Tình trong câu hát),

“Phía ấy trăng tuôn xuống thảnh thơi và tràn ngập cả con sông đào đang

uốn mình vƣơn qua đồng ruộng” (Con so về nhà mẹ),…

2. Ngôn ngữ tinh tế, giản dị, gần gũi với đời thường

Thanh Tịnh đƣa chúng ta đến với một thế giới thân thuộc với việc sử

dụng ngôn ngữ đời thƣờng giản dị, gần gũi. Ở đây, các nhân vật từ con

ngƣời tới lời ăn tiếng nói đều toát ra một vẻ gần gụi, thân quen, dƣờng nhƣ

từ bao đời nay vẫn thế, với những câu chuyện chỉ xoay quanh chuyện gia

79

đình, làng xóm, làm ăn, đời tƣ. Ngôn ngữ mà các nhân vật sử dụng thƣờng

là thứ ngôn ngữ thuần phác dân gian, vừa mộc mạc, đơn giản, lại vừa rất

phong phú. Mỗi một kiểu nhân vật lại gắn với một dạng ngôn ngữ hội

thoại riêng, không thể lẫn đƣợc. Nếu là ông thầy đồ Nho thì phải là nho

nhã nhƣng cũng ƣơng ngạnh, gàn bƣớng và cố chấp:

“- Dạy sao thì học vậy, con nít mà đòi ngang tài với Thánh hiền chẳng

những không phải đạo với “ngƣời trên đầu trên cổ” lại còn không nên nữa

cháu ạ.”

“- Không đƣợc kêu tên của ngài, chỉ nói Đức Thánh là đủ rồi. Mà đã

Thánh thì phải dùng chữ “dạy” mới nghe đƣợc chứ.”

(Chú tôi)

“- Chiều đi học về con nhớ ghé lại nhà ông huyện Phong mời ông ta

đến đánh cờ với chú nhé.”

(Con ông Hoàng)

Là sinh viên thì phải tinh nghịch thế này:

“- … Riêng tôi thì tôi không bao giờ dùng những chữ Pháp giống cái.

Nếu chẳng may tránh không đƣợc thì tôi sẽ đổi chữ giống cái ra giống đực.

Ví dụ: mon maison, mon tête… và tiện đây xin anh đƣa nhanh mon robe

và mon chemise cho.”

“- Tôi xin tán thành cả hai tay.

- Còn tôi, thêm cả hai chân.”

“- Xin anh Mão và anh Thuyên cho biết bát nào là cá nƣớc và bát nào

là cá canh. Vì hai bát xem cũng đầy nƣớc nhƣ nhau và cũng mặn chát nhƣ

nhau nên khó phân biệt quá.”

80

(Hội ghét đàn bà)

Là cậu bé lần đầu tiên đến trƣờng đi học thì phải tỏ ra vẻ ngƣời lớn

thế này:

“- Mẹ đƣa bút thƣớc cho con cầm.”

(Tôi đi học)

Các chị em phụ nữ khi gặp nhau thì tất phải chuyện trò rôm rả về

chuyện chồng con, sinh nở, chuyện cơm ăn áo mặc hằng ngày. Vợ chồng

nói chuyện với nhau thì phải tình cảm, dịu dàng. Mẹ chồng con dâu thì rõ

ra thứ bậc, nề nếp gia phong, con dâu phải thƣa gửi với mẹ đàng hoàng:

“- Thƣa mẹ giỗ ông con.”

Và mẹ chồng khi cho phép con dâu về thăm quê thì phải:

“- Thôi cho mợ một hào để đi đò. Và nhớ chớ để em ngồi nhìn xuống

mặt nƣớc.”

(Quê mẹ)

Trong ngôn ngữ của vị sƣ già và chú tiểu thì phải dùng nhiều những

từ ƣớc lệ, cổ điển, họ nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ đẹp nhƣ

thơ:

“- Con đã hái hoa bên rừng thu về đấy phải không?”

“- Bạch sƣ cụ, sáng nay nhân qua suối Nguyện hái hoa con lại thấy

trên dải sông Tƣơng thuyền của đám ngƣ phủ đang đua nhau chèo xuôi về

cuối núi.”

“- Bạch sƣ cụ và rừng mai sau triền núi Thệ hôm nay cũng trổ hoa

trắng cả trời.”

81

“- Con vào đóng cửa lại chẳng mây trời sắp bay lạc vào am.”

(Một đêm xuân)

Trong truyện ngắn của mình, Thanh Tịnh cũng thƣờng sử dụng rất

thành công ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ độc thoại nội tâm hay phân tích,

diễn tả nội tâm con ngƣời. Không chỉ đối với Phƣơng, Duyên là những cô

gái gặp duyên phận dở dang mới có những đoạn độc thoại nội tâm thành

công mà ngay cả với những nhân vật có cuộc sống vợ chồng hạnh phúc,

tuy không giàu có gì nhƣ cô Thảo, cô Hoa, ông cùng sử dụng nhiều thủ

pháp nghệ thuật này: “Cô Hoa thở dài yên lặng. Cô biết mẹ cô nghèo, làm

lụng luôn tay và không đủ nuôi đàn em dại. Và theo tục lệ thì chỉ đẻ con so

là về nhà mẹ thôi. Chứ cô sinh đẻ đã mấy lần cô cũng qua nhờ mẹ cả. Nói

nhờ là nhờ công thôi, chứ tiền bạc về cơm nƣớc cô phải tự liệu lấy” (Con

so về nhà mẹ). Hay nhƣ vị sƣ già trong Một đêm xuân : “Sƣ cụ nghĩ ngay

đến muôn gia đình đang ăn Tết và ánh sáng đèn dội rực toả lên mây. Sƣ cụ

còn nghe trong tƣởng tƣợng những tiếng pháo xa xa nổ dòn nhƣ những

chuỗi cƣời đêm Tết”.

Thanh Tịnh miêu tả rất tốt những rung động nho nhỏ của con ngƣời

trƣớc tình yêu, trƣớc cảnh vật, trƣớc tình cảm mẹ con, vợ chồng, quê

hƣơng, làng xóm. Không ngƣời đọc nào lại không thấy xúc động trƣớc

những câu văn nhƣ thế này: “Cô Hoa phần nhớ chồng, phần thƣơng con

liền đƣa vạt áo nâu lên chặm nƣớc mắt” (Con so về nhà mẹ), “… Và từ đó

dòng sông Viên phẳng lặng, đồng làng Mỹ Lý vắng teo, trai bạn đi, lòng

Hƣơng bơ phờ nhƣ cảnh vƣờn hoang chờ gió lạ” (Quê bạn), “Nói xong

thầy Trƣu quay lƣng đi ra cửa thật nhanh để giấu hai hàng lệ đã tràn trề

82

trên má, trong lúc cô Duyên đứng chơi vơi nhìn theo với cặp mắt đẫm lệ

và với tấm lòng tan nát” (Bên con đường sắt),… Hoặc diễn tả cái cảm giác

tinh khôi, nguyên sơ của một cậu bé bắt đầu cắp sách tới trƣờng dự buổi

học đầu tiên của cuộc đời: “Hằng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đƣờng rụng

nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức

những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trƣờng” (Tôi đi học).

Sử dụng ngôn ngữ hài hƣớc, trào phúng nhẹ nhàng cũng là một thế

mạnh của Thanh Tịnh. Đây là một điểm riêng của phong cách trữ tình

Thanh Tịnh. Nếu văn Thạch Lam nhẹ nhàng trầm lắng, hƣớng ngƣời đọc

tới những rung động tinh tế của tâm hồn con ngƣời; văn Hồ Dzếnh buồn

hiu hắt, mang nhiều âm hƣởng lịch sử, quá khứ; văn Thanh Châu sang

trọng, tài hoa; văn Xuân Diệu lãng mạn, tình tứ thì văn Thanh Tịnh trữ

tình, dí dỏm. Cái cảnh ông tả diễn ra ở đình làng trong ngày lễ rƣớc thần

trong truyện ngắn Ra làng dễ khiến ngƣời đọc mỉm một nụ cƣời thú vị :

“Họ khề khà nói rất sẽ và rất ít, vì họ chỉ sợ mất thì giờ ngồi nói chuyện

gẫu, và sợ nhất là mất những thức ngon nóng hổi sắp trên bàn… Bao nhiêu

tâm lực họ đều thâu vào đôi mắt để tìm thức ăn và để biết gắp đồ ăn ngon

trƣớc mọi ngƣời… Những cái thìa gặp nhau trong bát canh, những đôi đũa

chạm nhau trên đĩa thịt bò tái, những cái húp ừng ực, những cái nghiến dẻo

dang hợp lại làm thành một điệu âm nhạc không tên nhƣng lại có tuổi”,

hoặc là khi nghe một em bé học thuộc bài theo kiểu học vẹt: “Rắn là một

loài bò… ê… a… Rắn là một loài bò… Sát không chân… ê sát không

83

chân” (Tình thư).

KẾT LUẬN

1. Mặc dù có số lƣợng truyện ngắn không nhiều, và chủ yếu chỉ trong

giai đoạn 1930-1945, nhƣng Thanh Tịnh đã để lại dấu ấn khá đặc biệt

trong lòng ngƣời đọc. Ảnh hƣởng nhiều bởi Thạch Lam, có phong cách

gần gũi với Hồ Dzếnh, Thanh Châu, Ngọc Giao… nhƣng truyện ngắn của

Thanh Tịnh vẫn có những nét đặc sắc riêng, có ảnh hƣởng riêng trên văn

đàn thời kỳ đó và cả các giai đoạn sau này. Đó không phải là điều mà bất

cứ nhà văn nào cũng làm đƣợc, cho dù số lƣợng tác phẩm của họ có thể

nhiều hơn rất nhiều. Có những nhà văn, tác phẩm của họ có thể rất có tiếng

vang, đƣợc bạn đọc đón nhận hồ hởi ngay khi vừa xuất bản, nhƣng nó lại

chỉ có ý nghĩa vào thời điểm đó, giai đoạn đó. Sức ảnh hƣởng của tác

phẩm, của tác giả không tới đƣợc với những thế hệ sau. Ngƣời ta chỉ đánh

giá nó với những giá trị trong một thời điểm lịch sử nhất định. May mắn

thay, hay chính bởi sức sống ngầm mà tự thân các tác phẩm đã khẳng định

vị trí, giá trị của truyện ngắn trữ tình giai đoạn 1930-1945 nói chung và

truyện ngắn của Thanh Tịnh nói riêng. Truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đã

không bị quên lãng sau hơn nửa thế kỷ, văn mạch của nó vẫn tiếp tục chảy

qua dòng thời gian và ảnh hƣởng tới truyện ngắn đƣơng đại đầu thế kỷ

84

XXI này, thậm chí là ảnh hƣởng mạnh mẽ. Sự xuất hiện thành công của

các nhà văn có phong cách trữ tình nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ, Mai Ninh, Linh

Vang… những năm vừa qua đã chứng minh điều đó. Đó là mới chỉ kể đến

những nhà văn có số lƣợng truyện ngắn theo phong cách này xuất bản

nhiều và giành đƣợc thành công, còn những nhà văn có một hoặc một vài

truyện ngắn theo bút pháp trữ tình đã xuất bản lẻ tẻ, chƣa thành bộ, thành

tập nhƣng cũng ít nhiều gây đƣợc sự chú ý nhƣ Phạm Thị Ngọc Liên, Trần

Thuỳ Mai… chúng tôi chƣa có điều kiện đề cập đến. Phải chăng, nói nhƣ

nhà nghiên cứu văn học Bùi Việt Thắng: có lẽ xã hội đƣơng đại với đầy

những phức tạp, những xu hƣớng phát triển nhiều chiều, đã khiến con

ngƣời tìm tới những mảnh đất riêng tƣ hơn, đi vào cuộc sống nội tâm

nhiều hơn ? Điều đó có lẽ đã khiến cho những tác phẩm văn học đi vào

khám phá đời sống tâm hồn bí ẩn của con ngƣời đƣợc đón nhận và quan

tâm ngày một nhiều hơn.

2. Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 với các đại biểu của mình là

Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Ngọc Giao, Thanh

Châu… đã tạo nên những thành công riêng đƣợc ghi nhận trên văn đàn

giai đoạn cùng thời và cả các giai đoạn sau này. Cùng với truyện ngắn hiện

thực, truyện ngắn lãng mạn, truyện ngắn trữ tình đã góp phần tạo nên sự

thành công rực rỡ của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Cho

đến bây giờ, nhiều ngƣời vẫn cho rằng giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn

hoàng kim của văn học Việt Nam hiện đại. Trải qua các biến cố thăng trầm

của lịch sử xã hội, văn mạch của dòng truyện ngắn trữ tình vẫn tiếp tục

phát triển cho tới ngày nay, dù trong quá trình phát triển của nó, do ảnh

hƣởng của lịch sử, của xã hội, đã có lúc nó gần nhƣ chững lại, hoặc có lúc

85

nó chỉ phát triển một cách yếu ớt với số nhà văn, tác phẩm ít, mỏng. Ảnh

hƣởng của nó dù là vô thức hay ý thức cũng đã tạo cho nền văn học đƣơng

đại Việt Nam những tác phẩm gây đƣợc nhiều chú ý, đƣợc độc giả đón

nhận và quan tâm. Sự thành công của một số nhà văn trẻ hiện nay đang đi

theo phong cách này đã chứng tỏ điều đó. Cùng với thời gian, các nhà văn

theo phong cách trữ tình đã đóng góp nhiều tác phẩm giúp cho nền văn

học Việt Nam ngày một thêm phong phú, đa dạng.

3. Với bút pháp nghệ thuật trữ tình tinh tế, cùng với sự hài hƣớc, dí

dỏm riêng biệt, Thanh Tịnh đã tạo cho mình một dấu ấn riêng biệt trong

dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 và đã có ảnh hƣởng không nhỏ tới

các nhà văn trẻ thế hệ sau.

Ông đã thành công trong việc phân tích, miêu tả đời sống tâm hồn của

con ngƣời, đặc biệt là người nông dân, một việc mà không nhiều các nhà

văn Việt Nam quan tâm tới. Ông không đứng từ trên nhìn xuống để miêu

tả, không đứng từ ngoài nhìn vào để quan sát, bình luận, mà ông nhƣ hoà

nhập vào với người nông dân để phân tích, để khám phá đời sống nội tâm

bí ẩn của họ. Với một đất nƣớc sống chủ yếu bằng nông nghiệp nhƣ Việt

Nam, hình ảnh ngƣời nông dân đã đƣợc văn học nói tới nhiều với rất nhiều

phẩm chất tốt đẹp, đáng quý nhƣ: cần cù, chịu khó, trung thực, yêu

nƣớc,… nhƣng đời sống tâm hồn của ngƣời nông dân thì vẫn là một mảnh

đất riêng, bí ẩn mà văn học còn chƣa khai thác đƣợc nhiều. Thanh Tịnh đã

viết về những ngƣời dân làng quê hồn hậu mà tinh tế với một sự hiểu biết

và thông cảm sâu sắc. Đó cũng chính là điều đã khiến truyện ngắn của ông

tuy không phản ánh nhiều về hiện trạng xã hội đầy rối ren nhƣ nhiều tác

86

phẩm hiện thực khác cùng thời nhƣng vẫn đầy tính nhân văn, nhân bản.

Tác phẩm của Thanh Tịnh cũng đã đƣợc đƣa vào giảng dạy ở trƣờng

phổ thông từ lâu nay, đó là truyện ngắn Tôi đi học. Và với nhiều ngƣời, cái

cảm giác lần đầu tiên đi học cũng luôn trở lại khi họ đọc truyện ngắn đầy

cảm xúc hồn nhiên, trong sáng này. Đây có lẽ là một phần thƣởng xứng

đáng và là niềm hạnh phúc lớn đối với nhà văn.

Cùng với sự hiện diện của không gian làng Mỹ Lý, Thanh Tịnh đã

mang đến cho nông thôn Việt Nam một không gian yên bình, đẹp đẽ và

thơ mộng với những con ngƣời hiền lành, chất phác, bình dị mà vẫn đầy

lòng nhân ái, đầy lãng mạn. Đọc truyện ngắn Thanh Tịnh, ngƣời ta có thể

liên tƣởng tới không gian xứ Provence qua tập truyện ngắn Thư viết ở cối

xay gió của nhà văn Pháp Alphonse Daudet. Những “bức thƣ” của Daudet

đã gợi lại những truyền thuyết, những chuyện có thật hay hoang đƣờng,

với cảm xúc nồng nhiệt và chất phác. Ngƣời ta tìm thấy lại ở đó mùi của

hƣơng thảo, tiếng hát của ve sầu, tiếng sáo trúc… Qua làng Mỹ Lý hay xứ

Provence, ngƣời đọc dƣờng nhƣ cảm thấy thêm yêu quê hƣơng xứ sở

mình. Đó cũng chính là điều mà các nhà văn, Daudet cũng nhƣ Thanh

87

Tịnh muốn hƣớng ngƣời đọc tới thông qua tác phẩm của mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Antônốp, Viết truyện ngắn, NXB Văn nghệ, H, 1956.

2. M.Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng viết văn Nguyễn

Du, H, 1992.

3. M.B.Khrapchencô, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển

văn học, NXB Tác phẩm mới, H, 1979.

4. N.A.Gulaiep, Lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, H. 1987.

5. Compton’s 99 - Encyclopedya American, CD Rom, TLC

Multimedia Inc, Electric Library (đĩa CD Từ điển Bách khoa toàn

thƣ Mỹ)

6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Giáo dục, H, 1992.

7. Nhiều tác giả, Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004.

8. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, H,

88

1992.

9. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt

Nam, NXB Văn học, 2001.

10. Phƣơng Lựu, Lý luận văn học (tập 3), NXB Giáo dục, H, 1988.

11. Trần Đình Sử, Phƣơng Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học

(3 tập), NXB Giáo dục, H, 1987.

12. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB

Khoa học xã hội, H, 2004.

13. Nguyễn Văn Dân, Lý luận văn học so sánh, NXB Đại học quốc gia

Hà Nội, H, 2003.

14. Lê Huy Bắc, Truyện ngắn lý luận tác gia và tác phẩm, NXB Giáo

dục, 2004.

15. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn

thể loại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H, 2000.

16. Hồng Chƣơng, Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật,

NXB Sự thật, H, 1962.

17. Hoàng Ngọc Hiến, Xác định phương pháp sáng tác từ những cấp

độ khác nhau, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật, số 1-1979.

18. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học học văn, NXB Trẻ, H, 1970.

19. Hoàng Ngọc Hiến, Năm bài giảng về thể loại, Trƣờng viết văn

Nguyễn Du, H, 1992.

20. Đỗ Lai Thuý, Phong cách học và phê bình văn học,

www.evan.com.vn

89

21. Đỗ Lai Thuý, Con mắt thơ, NXB Giáo dục, 1997.

22. Thiếu Sơn, Phê bình và cảo luận, NXB Nam Ký, 1938.

23. Nghiêm Toản, Việt Nam văn học sử yếu, tập 2, NXB Vĩnh Bảo,

SG, 1949.

24. Nguyễn Văn Trung, Lược khảo văn học, tập 3, NXB Nam Sơn,

SG, 1970.

25. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (4 tập), NXB Thăng Long, SG,

1960.

26. Vũ Ngọc Phan, Tác phẩm - Nhà văn hiện đại (quyển tƣ, tập

thƣợng), NXB Hội nhà văn, 2000.

27. Đặng Thai Mai, Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, NXB

Tác phẩm mới, H, 1973.

28. Thanh Lãng, Phê bình văn học thế hệ 1932, NXB Phong trào văn

hoá, SG, 1973.

29. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Tác

phẩm mới, H, 1979.

30. Nguyễn Đăng Mạnh, Khải luận tổng tập văn học Việt Nam,

tập 30A, NXB Khoa học xã hội, H, 1983.

31. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An, Tác giả văn

học Việt Nam, tập 2, NXB Giáo dục, 1992.

32. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, NXB Giáo dục, 2002.

33. Nguyễn Đăng Mạnh, Lời giới thiệu Hợp tuyển văn học Việt Nam

90

1920-1945, tập 5, quyển 1, NXB Văn học, H, 1987.

34. Nguyễn Đình Chú, Lê Trí Viễn, Lịch sử văn học Việt Nam,

tập IV, NXB Giáo dục, H, 1978.

35. Nguyễn Đình Chú, Cần nhận thức đúng thời kỳ văn học 1930-

1945, NXB văn học, H, 1987.

36. Dƣơng Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, NXB Hà Nội, 1943.

37. Trần Đình Hƣợu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao

thời 1900-1930, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H,

1988.

38. Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, 2004.

39. Phan Cự Đệ, Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương, NXB

văn học, H, 1971.

40. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nhà văn Việt Nam 1945-1975, NXB

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1987.

41. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945, NXB Văn

học, H, 2002.

42. Hà Minh Đức, Tuyển tập (tập 3), NXB Giáo dục, 2004.

43. Trƣơng Chính, Tự lực văn đoàn, Báo Giáo viên nhân dân, số đặc

biêt, tháng 7-1989.

44. Nguyễn Hoành Khung, Lời giới thiệu Văn xuôi lãng mạn Việt

Nam, tập 1, NXB Khoa học xã hội, H, 1989.

45. Nguyễn Hoành Khung, Lời giới thiệu Truyện ngắn Việt Nam 1930-

91

1945, NXB Giáo dục, 2004.

46. Huy Cận, Lời bạt trong Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tập 2, NXB

Khoa học xã hội, H, 1998.

47. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn, Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam

1930-1945, NXB Văn học, 1964.

48. Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam – Nhà văn tiền chiến

1930-1945, NXB Vàng Son, SG, 1974.

49. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập 5,

phần II, NXB Giáo dục, H, 1978.

50. Thạch Lam, Tựa Quê mẹ của Thanh Tịnh, NXB Đời nay, H, 1941.

51. Thạch Lam, Tựa Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, NXB Văn học, H,

1988.

52. Thanh Tịnh, Quê mẹ, NXB Đời nay, H, 1941.

53. Thanh Tịnh, Chị và em, NXB Đời nay, H, 1942.

54. Thanh Tịnh, Xuân và Sinh, NXB Nam Mỹ, H, 1954.

55. Thanh Tịnh, Ngậm ngải tìm trầm, NXB Xuân Thu, H, 1943.

56. Thanh Tịnh, Hận chiến trường (thơ), NXB Huế, 1937.

57. Thanh Tịnh, Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, H,

1998.

58. Nguyễn Mạnh Trinh, Thanh Tịnh và ngôi làng Mỹ Lý, Tạp ghi văn

nghệ, 13-3-2004, www.nguoiviet.com.

59. Hoài Anh, Thanh Tịnh, chàng thi sĩ hát rong trong Chân dung văn

92

học, NXB Hội nhà văn, H, 2001.

60. Nguyễn Khải, Anh Thanh Tịnh trong Chuyện nghề, NXB Hội nhà

văn, H, 1999.

61. Nguyễn Minh Châu, Phỏng vấn nhà thơ Thanh Tịnh trong Trang

giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội, H, 1994.

62. Ngô Văn Phú (chủ biên), Thanh Tịnh nhà văn xứ Huế, NXB Hội

nhà văn, H, 1996.

63. Lƣu Khánh Thơ (ghi lại), Hành trình theo kháng chiến trong

Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, H, 1998.

64. Vƣơng Trí Nhàn, Ngậm ngải tìm trầm trong Nghiệp văn, NXB Văn

hoá - Thông tin, H, 2001.

65. Vƣơng Trí Nhàn (sƣu tầm, biên soạn, dịch), Sổ tay truyện ngắn,

NXB Tác phẩm mới, H, 1980.

66. Vƣơng Trí Nhàn, Tìm vào nội tâm tìm vào cảm giác, Tạp chí văn

học, số 6-1992.

67. Hội nhà văn Việt Nam, Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Hội nhà

văn, H, 1997.

68. Đặng Thị Hạnh, Văn học lãng mạn và văn học hiện thực phương

Tây thế kỷ XIX, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1985.

69. Phan Ngọc, Ảnh hưởng của văn học Pháp tới văn học Việt Nam

trong giai đoạn 1932-1940, Tạp chí Sông Hƣơng, số 2-1992.

70. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Nga, NXB Giáo dục, 2003.

93

71. Nhiều tác giả, Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, 1998.

72. Lê Thị Đức Hạnh, Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, Tạp chí văn

học, số 4-1969.

73. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn và giới thiệu), Thạch Lam

về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001.

74. Nguyễn Đăng Điệp, Văn Giá, Lê Quang Hƣng, Nguyễn Phƣợng,

Chu Văn Sơn, Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, (tập 1),

NXB Giáo dục, 2005.

75. Hoàng Nhƣ Mai, Chân dung và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001.

76. Vũ Bằng, Mười chín chân dung nhà văn cùng thời, NXB Đại học

quốc gia Hà Nội, H, 2002.

77. Tạp chí Tri tân 1941-1945, Phê bình văn học, NXB Hội nhà văn,

1999.

78. Phạm Thị Thu Hƣơng, Quan niệm về con người trong truyện ngắn

Thạch Lam, Tạp chí văn học, số 3-1993.

79. Phạm Thị Thu Hƣơng, Hồ Dzếnh và niềm khắc khoải giữa hai bờ

xứ sở, Tạp chí văn học, số 4-1995.

80. Phạm Thị Thu Hƣơng, Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong

văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa

học Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 1995.

81. Phan Quốc Lữ, Tính chất phi cốt truyện trong văn xuôi Thạch

Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Tạp chí văn học, số 6-

2003.

94

82. Nguyễn Ngọc Tƣ, Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005.

83. Nguyễn Ngọc Tƣ, Nước chảy mây trôi, NXB Văn nghệ, 2005.

84. Mai Ninh, Ảo đăng, NXB Hội nhà văn, 2003.

85. Mai Ninh, Cá voi trầm sát, NXB Trẻ, 2004.

86. Hàn Thuỷ, Nỗi chết và tình yêu (đọc Cá voi trầm sát của Mai

95

Ninh), Diễn đàn, số 144, 10/2004 (theo www.amvc.free.fr).