ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG THUÝ HẰNG
TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH
TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT
NAM 1930-1945
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2006
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẶNG THUÝ HẰNG
TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH
TRONG DÒNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VIỆT
NAM 1930-1945
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 5 04 33
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ
HÀ NỘI - 2006
2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
3
I.
Lý do chọn đề tài
3
II.
Lịch sử vấn đề
6
III.
Nhiệm vụ nghiên cứu
11
IV.
Phạm vi nghiên cứu
11
V.
Phƣơng pháp nghiên cứu
12
VI.
Đóng góp của luận văn
12
VII.
Cấu trúc của luận văn
12
NỘI DUNG
14
14
Chƣơng 1 Từ nhận thức về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đến việc tìm hiểu con đường sáng tác của Thanh Tịnh
I.
Quan niệm về truyện ngắn và truyện ngắn trữ tình
14
II.
17
Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại
III.
22
Những gƣơng mặt tiêu biểu tạo nên dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945
IV.
33
Dòng truyện ngắn trữ tình với các dòng truyện ngắn khác thuộc giai đoạn 1930-1945
V.
Con đƣờng sáng tác của nhà văn Thanh Tịnh
37
40
Chƣơng 2 Thân phận con người và những giá trị nhân bản cao quý trong truyện ngắn của Thanh Tịnh
I.
40
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới nhân vật của Thanh Tịnh
II.
48
Tiếng nói khẳng định những giá trị nhân văn trong đời sống con ngƣời
3
Lòng nhân ái xót thƣơng và thái độ trân trọng con ngƣời
48
1.
Trân trọng vẻ đẹp cuộc sống
51
2.
Nhìn về quá khứ với nỗi niềm nhớ tiếc sâu nặng
54
3.
56
III.
Đi vào khám phá đời sống tinh thần của con ngƣời trong mọi mặt của cuộc sống, thể hiện chất nhân văn tinh tế và cao cả
62
Chƣơng 3 Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh qua một số phương
diện nghệ thuật
62
I.
Chất thơ nhƣ một đặc điểm bao trùm truyện ngắn Thanh Tịnh
Cách lựa chọn đề tài, xây dựng cốt truyện
67
II.
Thời gian và không gian nghệ thuật
69
III.
Ngôn ngữ trong truyện ngắn Thanh Tịnh
73
IV.
Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc
73
1.
Ngôn ngữ tinh tế, giản dị, gần gũi với đời thƣờng
75
2.
KẾT LUẬN
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
84
4
MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 phát triển một cách mạnh
mẽ và đạt đƣợc những thành tựu to lớn ở hầu hết mọi lĩnh vực mà cho đến
nay, ngày càng đƣợc khẳng định. Những thành tựu đó đã làm thay đổi hẳn
diện mạo của văn học dân tộc, mang tới cho nó bộ mặt mới: hiện đại. Cùng
với sự phát triển nhanh chóng của thơ ca (đặc biệt là phong trào Thơ mới)
là sự phát triển cũng mạnh mẽ không kém cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng
của các thể loại văn xuôi nghệ thuật nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng
sự, tuỳ bút, nghiên cứu phê bình,… Do sự phức tạp của diện mạo văn học
giai đoạn này cùng những yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới, hiện đại hoá
văn học, nhiều tác giả có thể sáng tác rất nhiều thể loại khác nhau, mà ở
mỗi thể loại lại đều có những thành công nhất định. Điều đó nói lên sự
phát triển mạnh của văn học giai đoạn này không chỉ về số lƣợng, chất
lƣợng tác phẩm mà còn cả về số lƣợng và chất lƣợng tác giả. Nhắc đến Vũ
Trọng Phụng, ngƣời ta không chỉ nhắc đến tiểu thuyết mà còn là những bài
phóng sự khiến ông đƣợc mệnh danh là ông vua phóng sự đất Bắc. Xuân
Diệu, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới lại có những truyện ngắn
trữ tình rất hay. Nhà phê bình nổi tiếng Vũ Ngọc Phan ngoài những bài
nghiên cứu, những tập bút kí, ông còn giúp công chúng Việt Nam tiếp cận
với các tiểu thuyết phƣơng Tây qua bản dịch tiếng Việt của mình. Nhà thơ
Thế Lữ có những truyện đƣờng rừng đầy bí hiểm, hấp dẫn,… Báo chí, nhà
5
in, nhà xuất bản cũng góp phần làm sôi động thêm văn học giai đoạn này
bằng cách đăng tải hàng trăm tiểu thuyết, hàng ngàn truyện ngắn, phóng sự
tuỳ bút, thơ, truyện ký đủ loại,…
2. Trong sự phát triển bùng nổ của văn học, truyện ngắn đã trƣởng
thành vƣợt bậc và sớm trở thành một thể loại mạnh với những đại diện tiêu
biểu nhƣ: Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Thạch
Lam, Thanh Tịnh, Kim Lân... Mỗi tác giả là một quan điểm, một phong
cách riêng, nhƣng đều có những đóng góp vào thành công của thể loại này
trong nền văn học chung. Các tác phẩm truyện ngắn giai đoạn này đã phản
ánh một cách toàn vẹn, sâu sắc đời sống xã hội đƣơng thời. Bên cạnh
những tác phẩm phê phán, phản ánh, tố cáo mặt trái của hiện thực xã hội
với tất cả những thối nát, lỗi thời, bất công, lừa lọc, áp bức của giai cấp
thống trị đối với ngƣời dân lao động; bi kịch tinh thần của ngƣời trí thức
tiểu tƣ sản nhƣ trong các truyện của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,
Nam Cao, Bùi Hiển,... là những tác phẩm đi sâu vào khám phá thế giới
tâm hồn sâu kín, phát hiện vẻ đẹp đời sống nội tâm của con ngƣời với
ngôn ngữ tinh tế, gợi cảm, giàu hình ảnh trong truyện của các nhà văn
Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao,... Nếu nhƣ
trƣớc đây, giới phê bình nghiên cứu văn học thƣờng đi sâu vào tìm hiểu
các tác phẩm mang tính chất hiện thực phê phán xã hội rõ rệt thì đến nay,
ngƣời ta lại nhận thấy những tác phẩm trữ tình cũng có sức hấp dẫn riêng
biệt của nó mà ẩn giấu dƣới những lời văn nhẹ nhàng, trong trẻo chính là
hiện thực của nội tâm con ngƣời thật phong phú và sâu sắc. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu, đánh giá một cách trân trọng các tác phẩm của
6
Thạch Lam, Xuân Diệu, Hồ Dzếnh,... nhƣng cũng còn có nhiều tác giả
chƣa đƣợc tìm hiểu một cách hệ thống dù đóng góp của họ trong dòng văn
học trữ tình là không nhỏ nhƣ Thanh Tịnh, Thanh Châu, Ngọc Giao,...
Cũng nhƣ vậy, cho đến nay, trong khi các tập truyện ngắn của Thạch Lam,
Hồ Dzếnh liên tục đƣợc xuất bản thành tập riêng và tái bản nhiều lần thì
truyện ngắn của các nhà văn Thanh Châu, Ngọc Giao,… chỉ đƣợc chọn in
cùng các nhà văn khác trong các tuyển tập. Truyện ngắn của Thanh Tịnh
ngoài tập Quê mẹ đƣợc in lại các năm 1957, 1983, thì mới chỉ đƣợc chọn
in trong cuốn Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc do Nhà xuất bản Hội nhà văn
xuất bản từ năm 1998 và cho đến nay chƣa thấy tái bản lại. Nhằm tiếp tục
việc tìm tòi sự đóng góp của các tác giả, tác phẩm văn học trữ tình, ở luận
văn này chúng tôi đi vào nghiên cứu, tìm hiểu về truyện ngắn Thanh Tịnh
trước năm 1945 - những truyện ngắn mang một phong vị riêng, đầy chất
thơ và tràn đầy một tình yêu quê hƣơng tha thiết.
3. Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự gần gũi nhau về phong cách,
quan niệm thẩm mỹ trong các truyện ngắn của các tác giả Thạch Lam,
Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Thanh Châu,… Điều đó đƣợc thể hiện
trong cách lựa chọn cốt truyện tâm lý, nhìn nhận khám phá hiện thực, chọn
lọc các chi tiết của đời sống, cách xây dựng nhân vật truyện, cách tổ chức
các tình huống truyện… Trong khi nghiên cứu về truyện ngắn Thanh Tịnh,
chúng tôi cũng cố gắng phân tích sự ảnh hƣởng của các tác giả văn xuôi
trữ tình khác đối với ông cũng nhƣ sự ảnh hƣởng của ông đối với các tác
giả khác, đồng thời từ đó tìm hiểu xem sự phát triển của dòng văn xuôi trữ
tình đã có tác động, ảnh hƣởng tới các dòng văn học khác nói riêng và văn
học nói chung giai đoạn 1930-1945 nhƣ thế nào, và nếu có thể, nó có ảnh
7
hƣởng gì tới văn học giai đoạn sau nữa hay không? Truyện ngắn Việt Nam
đƣơng đại giai đoạn này (cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI) cũng đang phát
triển rất rầm rộ về số lƣợng tác giả, tác phẩm. Nhƣng liệu nó có chịu ảnh
hƣởng của văn học giai đoạn 1930-1945 trƣớc kia không, theo chiều
hƣớng tích cực hay tiêu cực? Điều đó không dễ dàng gì khi nhận xét, đánh
giá, nhƣng để tìm đƣợc mạch ngầm sự vận động liên tục trong dòng chảy
truyện ngắn của văn học sử nƣớc nhà là điều mong muốn của bất cứ ngƣời
nghiên cứu văn học nào. Chính vì vậy, chúng tôi lựa chọn đặt tên cho đề
tài nghiên cứu của mình là: Truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
ngắn trữ tình Việt Nam 1930-1945.
Bên cạnh hai nhà văn đƣợc coi là gần gũi nhất về phong cách, Thanh
Tịnh ít đƣợc nghiên cứu toàn diện, kỹ càng hơn. So với Thạch Lam và Hồ
Dzếnh, số lƣợng các bài nghiên cứu về Thanh Tịnh không nhiều lắm.
Chƣa có công trình nào nghiên cứu, khảo luận về Thanh Tịnh một cách
riêng biệt, độc lập. Từ trƣớc tới nay mới chỉ có luận án Phó Tiến sỹ của
Phạm Thị Thu Hƣơng (năm 1995) là đặt vấn đề nghiên cứu những đặc
trƣng về phong cách truyện ngắn của ba tác giả Thạch Lam-Thanh Tịnh-
Hồ Dzếnh và sự nghiên cứu về Thanh Tịnh nằm trong tƣơng quan chung
với hai tác giả kia. Trong luận án của mình, Phạm Thị Thu Hƣơng đã tìm
ra một số nét đặc sắc trong truyện ngắn của Thanh Tịnh, đi sâu vào phân
tích không gian làng Mỹ Lý, đặt làng giữa không gian sóng đối, coi các
hình tƣợng dòng sông, con thuyền, câu hò, nhà ga, con tàu, tiếng còi là các
8
biểu trƣng. Có thể nói đây là những phân tích sắc sảo và sâu sắc. Bên cạnh
đó, luận án còn đề cập đến nghệ thuật truyện ngắn của Thanh Tịnh nhƣ tìm
hiểu chất thơ trong văn xuôi, giọng điệu trần thuật xen trào phúng nhẹ
nhàng. Mặc dù vậy, do yêu cầu cũng nhƣ mục đích đặt ra của đề tài nên
luận án dừng lại ở việc tìm hiểu, đặt phong cách của Thanh Tịnh trong
dòng phong cách chung của cả ba nhà văn Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ
Dzếnh.
Những ngƣời đã từng viết hoặc nhắc đến Thanh Tịnh trong các bài
viết nghiên cứu của mình là : Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung, Huy
Cận, Vƣơng Trí Nhàn, Vũ Ngọc Phan, Ngô Văn Phú, Thạch Lam, Thế
Phong, Tầm Dƣơng, Nguyễn Mạnh Trinh, Nguyễn Thị Thu Trang, Bùi
Việt Thắng, Hoài Anh, Phan Quốc Lữ, Ngô Vĩnh Bình, Trần Hữu Tá, Lƣu
Khánh Thơ, Phạm Thị Thu Hƣơng,… Trong số các bài viết đó thì có tới
năm, sáu bài đƣợc viết theo thể loại chân dung tác giả, trong đó có lƣợc
qua toàn bộ sự nghiệp của Thanh Tịnh bao gồm cả truyện ngắn, truyện
dài, thơ, độc tấu, kịch,… Nói chung, các ý kiến đánh giá về truyện ngắn
Thanh Tịnh trƣớc 1945 là khá thống nhất, đều cho rằng “mỗi truyện ngắn
của Thanh Tịnh nhƣ một bài thơ vịnh gọn và có dƣ vị trữ tình lắng sâu”
(Trần Hữu Tá), “tấm lòng nghệ sĩ biết rung cảm một cách thiết tha trƣớc
cuộc sống chân chất, nguyên sơ, thuần phác đã mang đến cho truyện ngắn
của ông không chỉ có chân, có tình mà còn rất có duyên” (Phan Quốc Lữ),
“cái mơ hồ bàng bạc” (Nguyễn Nam Trân), “nhiều truyện của Thanh Tịnh
có khuynh hƣớng lãng mạn rõ rệt”, và “một số truyện khác lại có khuynh
9
hƣớng hiện thực. Một chủ nghĩa hiện thực trữ tình”…
Có thể nói ngƣời đầu tiên nhận ra tài năng văn xuôi của Thanh Tịnh
chính là Thạch Lam khi ông viết lời tựa cho tập truyện ngắn đầu tiên Quê
mẹ của Thanh Tịnh xuất bản năm 1946. Thạch Lam đã dùng những câu
chữ đẹp nhất để ca ngợi nó. Ông đã hiểu và nhận thấy sự chi phối mạnh
mẽ của con ngƣời thi sĩ ở Thanh Tịnh đối với cách nhìn nhận cuộc sống:
“Có lẽ linh hồn ngƣời ở đấy còn nhiều màu sắc khác nhau, trong cuộc sống
còn nhiều bi kịch khác, nhƣng mà tác giả chỉ tả có cái vẻ êm ả và nên thơ.
Tâm hồn ƣa thích cái gì vừa đẹp đẽ, vừa nhè nhẹ, tác giả không lách đi
sâu, nhƣng dừng lại ở một làn gió, ở một cái thoảng hƣơng thơm của hoa
cỏ bốn mùa”. Ông nhận thấy ở Thanh Tịnh một tình yêu quê hƣơng xứ sở
đằm thắm, thiết tha. Thạch Lam đã có những nhận xét tinh tế về Thanh
Tịnh: “Thanh Tịnh đã muốn làm ngƣời mục đồng ngồi dƣới bóng tre thổi
sáo để ca hát những đám mây và làn gió lƣớt bay trên cánh đồng ca hát
những vẻ đẹp của đời thôn quê” [57,350].
Là ngƣời thứ hai đánh giá về Thanh Tịnh, Vũ Ngọc Phan đã xếp
Thanh Tịnh vào cùng dòng “tiểu thuyết tình cảm” với Thạch Lam, ông cho
rằng : “Thứ tình cảm ở tiểu thuyết Thanh Tịnh là thứ tình êm dịu, nhẹ
nhàng, thứ tình của những ngƣời dân quê hồn hậu Trung kì, diễn ra trong
những khung cảnh sông nƣớc, đồng ruộng… Cái tình quê trong hầu hết
các truyện ở tập Quê mẹ bao giờ cũng rung rinh, lai láng trong những đêm
trăng sáng, trên những mặt sông im hay trong những buổi chiều tà, gió hiu
hắt thổi. Tình, trăng, nƣớc, đó là tất cả những cái làm tài liệu cho Thanh
10
Tịnh để xây dựng nên những truyện trong tập Quê mẹ” [26,193]. Theo
ông, “hầu hết những truyện ngắn của Thanh Tịnh lại chỉ rặt những cái đầy
thơ mộng, đầy huyền ảo”, một số ít còn lại nhƣ Ngậm ngải tìm trầm, Am
cu ly xe là có “cốt truyện hay, xây dựng vững chắc, phải cái văn viết cẩu
thả” [26,197].
Hà Minh Đức đã so sánh sự gần gũi về chất trữ tình, chất thơ trong
sáng tác của Thanh Tịnh và một số nhà văn khác với nhà văn Nga
Pauxtôpxki : “…kết hợp giữa phản ánh và bộc lộ cảm xúc cá nhân đậm
chất trữ tình, chất thơ nhƣ sáng tác của Pauxtôpxki, Thạch Lam,
Xuân Diệu, Thanh Tịnh …” [42,33], “Có thể nói mạch truyện của Thạch
Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh đã nói lên vẻ đẹp nội cảm của tâm hồn trƣớc
cuộc sống…” [42,37].
Nhà thơ Huy Cận phát hiện ra cái “mùi vị quê rất đậm” trong truyện
ngắn của Thanh Tịnh : “Tôi muốn nói thêm một điều: bao áng văn đẹp ấy
gợi đậm lòng yêu quê hƣơng đất nƣớc, yêu những gì là văn minh, văn hoá
nƣớc nhà, lại có những tác phẩm mà “mùi vị đất quê” rất đậm (nhƣ các
truyện ngắn của Thanh Tịnh) thật là đáng trân trọng…” [46,1369].
Trong khi hầu hết các nhà nghiên cứu khác thƣờng chỉ đặt Thanh
Tịnh trong mạch liên tƣởng tới các tác giả, tác phẩm gần gũi cùng giai
đoạn thì Nguyễn Hoành Khung, trong một số bài tiểu luận của mình đã
dành nhiều sự chú ý tới Thanh Tịnh : “Và cả Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, nếu
nhƣ đƣợc gọi là những cây bút hiện thực – một thứ hiện thực trữ tình – thì
đâu phải là không có căn cứ” [44,10], “ Cây bút xứ Huế ấy có một hồn thơ
11
lai láng, ngọt ngào, man mác, trữ tình…” [44,40], “Đúng nhƣ có ngƣời
nhận xét, mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh là một bài thơ. Với một tâm
hồn quê hƣơng đằm thắm, Thanh Tịnh không những dựng nên những bức
tranh thiên nhiên thi vị mà còn đi vào những cuộc đời hiền lành, lầm lụi
mà đáng quý, đáng thƣơng của ngƣời dân quê, đặc biệt là ngƣời phụ
nữ…”[44,40], “Mỗi truyện ngắn của Thanh Tịnh là một bài thơ, mang chất
thơ của cảnh vật và tâm hồn con ngƣời Việt Nam bình dị xiết bao thƣơng
mến. Song ngòi bút rất thi sĩ ấy không chỉ khai thác những gì thi vị, ngọt
ngào, mà còn viết nên những trang nhức nhối, đầy ám ảnh về số phận thê
thảm của ngƣời nghèo khổ trong cuộc sống vật lộn dữ dội với đời sống”
[45,14].
Hoài Anh khi viết chân dung Thanh Tịnh đã nhận xét: “Hầu hết
truyện ngắn Thanh Tịnh là truyện kể (récit)”[59,1148], “Thanh Tịnh để
tâm hồn tràn ngập ánh trăng, dòng sông và câu hát, sống giữa những con
ngƣời quê chất phác, giản dị nhƣ chị Sƣơng trong Tình thư, cô Hƣơng
trong Quê bạn” [59,1150].
Vƣơng Trí Nhàn thì cho rằng: “Chỗ khác của Thanh Tịnh so với một
số tác giả thời tiền chiến, là khi diễn tả những nỗi bất hạnh của con ngƣời
ông không làm cho nó chói lên quá đáng, nhân vật trong truyện cũng nhƣ
tác giả không kêu to sau các trang sách, song sự bất hạnh vì thế lại hiện ra
không ai có thể cƣỡng lại nổi, nó nhƣ không khí bao quanh ngƣời ta, và
sống lâu với nó, ta quen đi lúc nào không biết” [64,230].
Nguyễn Mạnh Trinh viết về Thanh Tịnh : “Quê hƣơng của ông là nơi
12
chốn của thơ mộng huyền ảo, của những lãng mạn thăng hoa thành ngôn
ngữ. Đọc lại, những câu văn mang âm hƣởng thi ca với văn phong tuỳ bút
sang cả làm cho trí tƣởng tƣợng nhƣ bị kích thích và đi xa hơn những
phong cảnh thƣờng nhật”… “Thơ Thanh Tịnh bình dị, truyện ngắn Thanh
Tịnh sâu sắc, và hình nhƣ trong tất cả văn mạch của ông phảng phất những
nỗi buồn” [58].
Điểm lại tất cả những bài viết mà chúng tôi tìm đọc đƣợc, có thể thấy
một điều nhƣ sau: mặc dù các công trình nghiên cứu về Thanh Tịnh chƣa
thật nhiều nhƣ một số tác giả khác nhƣng hầu hết các ý kiến đánh giá đều
thừa nhận sự đóng góp của Thanh Tịnh trong nền văn học nƣớc nhà nói
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
chung và trong thể loại truyện ngắn nói riêng.
Trong luận văn này, chúng tôi thực hiện nhiệm vụ cơ bản :
- Khảo sát, tìm hiểu và phân tích truyện ngắn Thanh Tịnh qua các
bình diện: tìm hiểu con đƣờng sáng tác của Thanh Tịnh; thân phận
con ngƣời và những giá trị nhân bản cao quý trong truyện ngắn
Thanh Tịnh; một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn
Thanh Tịnh.
- Tìm ra những nét đặc sắc riêng của truyện ngắn Thanh Tịnh trong
dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, ảnh hƣởng hai chiều của
truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện này và ảnh hƣởng của cả
13
dòng truyện tới văn học giai đoạn 1930-1945 và các giai đoạn sau.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong tổng thể sáng tác của Thanh Tịnh, chúng tôi chọn toàn bộ
truyện ngắn sáng tác trƣớc năm 1945 làm đối tƣợng nghiên cứu. Đó là các
tập truyện ngắn:
- Quê mẹ (1941)
- Chị và em (1942)
- Ngậm ngải tìm trầm (1943)
Các thể loại khác nhƣ thơ, truyện dài, các tập truyện ngắn viết sau
năm 1945 đều không thuộc đối tƣợng nghiên cứu của luận văn, chúng sẽ
V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
chỉ đƣợc sử dụng để liên hệ, so sánh khi cần thiết.
Để thực hiện công trình này, chúng tôi tiến hành các thao tác:
- Phƣơng pháp phân tích và tổng hợp.
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu.
- Phƣơng pháp lịch sử.
VI. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Phƣơng pháp thống kê.
1. Bằng việc tìm ra những nét đặc sắc riêng trong truyện ngắn Thanh
Tịnh sáng tác trƣớc năm 1945, luận văn sẽ góp thêm một tiếng nói trong
14
việc khẳng định vị trí của ông trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại,
góp phần vào việc giảng dạy và nghiên cứu về tác phẩm của ông trong nhà
trƣờng nói riêng và trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam nói chung.
2. Ngoài ra luận văn còn muốn đề cập đến ảnh hƣởng hai chiều của
truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945, ảnh
hƣởng của dòng truyện ngắn này trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-
VII. CẤU TRÖC CỦA LUẬN VĂN
1945 và các giai đoạn sau.
Luận văn đƣợc bố cục theo các phần sau:
1. Mở đầu
Phần này bao gồm các mục: Lý do chọn đề tài; lịch sử vấn đề; nhiệm
vụ nghiên cứu; phạm vi nghiên cứu; phƣơng pháp nghiên cứu; đóng góp
của luận văn; cấu trúc của luận văn.
2. Nội dung
Đƣợc chia thành ba chƣơng:
Chƣơng 1: Từ nhận thức về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945
đến việc tìm hiểu con đƣờng sáng tác của Thanh Tịnh.
Chƣơng 2: Thân phận con ngƣời và những giá trị nhân bản cao quý
trong truyện ngắn của Thanh Tịnh.
Chƣơng 3: Đặc điểm truyện ngắn Thanh Tịnh qua một số phƣơng
diện nghệ thuật.
3. Kết luận
15
4. Tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỪ NHẬN THỨC VỀ DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930- 1945 ĐẾN VIỆC TÌM HIỂU CON ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA THANH TỊNH
I. QUAN NIỆM VỀ TRUYỆN NGẮN VÀ TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH
Ruby V. Redinger trong Bách khoa toàn thư Mỹ (Encyclopedya
American) xác định: “Truyện ngắn là một hình thức văn học, bản chất của
nó bao hàm trong những từ làm thành phần tạo nên tên gọi của nó. Với tƣ
cách là một câu chuyện, nó kể lại một chuỗi sự kiện hoặc một biến cố liên
16
quan đến con ngƣời trong hoạt động thể chất hoặc tinh thần. Vì thế, giống
mọi hình thức văn xuôi hƣ cấu khác, nó mô tả bằng ngôn từ; và thành công
của nó phụ thuộc vào sự tiếp xúc trực tiếp đạt đƣợc giữa ngƣời đọc và đối
tƣợng miêu tả. Với tƣ cách là truyện ngắn, dĩ nhiên, nó không thể thực
hiện mối tiếp xúc trực tiếp này bởi các phƣơng tiện phổ biến đối với tiểu
thuyết, nhƣ là xây dựng nhân vật chậm rãi, miêu tả thật chi tiết và lặp lại.
Đặc biệt là nó phải miêu tả với độ nhanh nhạy và trọn vẹn giống nhƣ một
tấm gƣơng” (dẫn theo Lê Huy Bắc) [14,19].
Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Trần Đình Sử, Lê Bá Hán,
Nguyễn Khắc Phi viết : “… truyện ngắn thƣờng hƣớng tới việc khắc hoạ
một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay
đời sống của tâm hồn con ngƣời… Cốt truyện của truyện ngắn thƣờng diễn
ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là
nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình ngƣời… Yếu tố quan
trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lƣợng lớn
và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chƣa
nói hết.” [6,371]
Từ điển tiếng Việt do GS Hoàng Phê (chủ biên) ghi : truyện ngắn là
“truyện bằng văn xuôi, có dung lƣợng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía
cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật” [8,1034] ; trữ tình :
“có nội dung phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý nghĩ, xúc
cảm, tâm trạng riêng của con ngƣời, kể cả bản thân ngƣời nghệ sĩ, trƣớc
cuộc sống” [8,1035].
Về thuật ngữ “trữ tình”, trong Từ điển thuật ngữ văn học viết : “Nếu
tự sự thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm của tác giả bằng con đƣờng tái hiện lại
17
một cách khách quan các hiện tƣợng đời sống, thì trữ tình lại phản ánh đời
sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con ngƣời, nghĩa là con ngƣời
tự cảm thấy mình qua những ấn tƣợng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình
đối với thế giới và nhân sinh. Phƣơng thức trữ tình cũng tái hiện các hiện
tƣợng của đời sống, nhƣ trực tiếp miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc
thuật lại ít nhiều sự kiện tƣơng đối liên tục, … nhƣng sự tái hiện này
không mang mục đích tự thân, mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ những
cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tƣởng của mình. Tác phẩm trữ tình thể hiện
tâm trạng. Do đó, nó thƣờng không có cốt truyện, hiểu theo nghĩa chặt chẽ
của từ này và dung lƣợng của nó thƣờng ngắn (vì một trạng thái tâm trạng
không thể kéo dài) … [6,373]
Bùi Việt Thắng gọi truyện ngắn trữ tình là kiểu truyện ngắn tâm tình:
“Truyện-tâm tình còn đƣợc gọi là truyện ngắn gần với thơ vì trong đó có
sự phối hợp giữa việc diễn tả cảm xúc trữ tình với kể chuyện. Truyện ngắn
trong bản chất của nó là một thể loại tự sự - trữ tình cô đúc, ý ngoài chữ,
tạo ấn tƣợng và liên tƣởng [15,138] … “Trong kiểu truyện ngắn-tâm tình,
sự cảm thụ thiên nhiên trong toàn bộ các giác quan là một đặc điểm trong
cách miêu tả của nhà văn” [15,140]
Nguyễn Minh Châu lý giải về bản chất của loại truyện này: “Có
những ngƣời viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến bên ngoài,
hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên trong, vào cái mà
nhân vật thu nhận đƣợc ở bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại,
bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện
ngắn mà ta thƣờng gọi là truyện không có cốt truyện. Chẳng qua chỉ là một
thủ đoạn văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp
18
tiếp xúc với ngƣời đọc” (dẫn theo Bùi Việt Thắng) [15,138].
Trong luận án của mình, Phạm Thị Thu Hƣơng viết: “Trong tác
phẩm trữ tình, yếu tố chủ quan của nhà văn bao giờ cũng rất đậm nét, và
nó đƣợc thể hiện ở tất cả các phƣơng diện nghệ thuật: Dù tả cảnh, tả ngoại
hình nhân vật hay nội tâm nhân vật,… Truyện ngắn trữ tình thƣờng không
có cốt truyện. Nó có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình. Truyện ngắn
trữ tình thƣờng đi sâu miêu tả một cách tinh tế những phản ứng của tâm
thức đối với “kinh nghiệm sống” (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Ý nghĩa
của truyện thƣờng gắn với không khí bàng bạc, tâm trạng… bàng bạc
trong tác phẩm” [80].
Có thể thấy, truyện ngắn trữ tình chƣa có một khái niệm chính thức
nào. Là một dạng trong thể loại truyện ngắn, có ngƣời quan niệm nó là
“kiểu truyện-tâm tình”, có ngƣời cho là “truyện ngắn trữ tình”, có ngƣời
gọi là “truyện không có cốt truyện”, hoặc “văn xuôi trữ tình” … Trong
luận văn này, chúng tôi xin đƣợc mƣợn những phân tích đặc trƣng về
“phong cách truyện ngắn trữ tình” của các nhà phê bình văn học đi trƣớc
để làm cơ sở phân tích truyện ngắn của Thanh Tịnh trƣớc năm 1945 (tính
phi cốt truyện, cấu trúc tác phẩm lỏng lẻo, sự bộc lộ chủ thể ở mức độ
cao, hƣớng tới thiên nhiên, tình huống truyện, nhân vật truyện, ngôn ngữ
II. DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945 TRONG TIẾN TRÌNH
VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
truyện, …).
Sự phân kỳ các giai đoạn văn học trong tiến trình văn học sử luôn là
điều khó, gây nhiều tranh cãi, và câu hỏi văn học Việt Nam hiện đại hình
19
thành từ bao giờ, cho đến nay vẫn chƣa có câu trả lời thống nhất. Nền văn
học hiện đại hình thành trên cơ sở những tiền đề về lịch sử, xã hội và văn
học nhất định. Có ngƣời lấy năm 1900 làm một cái mốc của văn học hiện
đại, có ngƣời cho rằng văn học hiện đại gắn với thời kỳ 1930-1945, có
ngƣời xếp văn học thế kỷ XX vào văn học hiện đại, … Do giới hạn phạm
vi nghiên cứu của đề tài, ở đây chúng tôi chỉ đặt vấn đề xem xét, nghiên
cứu về dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 trong tiến trình văn học Việt
Nam hiện đại thế kỷ XX, cụ thể hơn là trong quá trình phát triển của
truyện ngắn Việt Nam hiện đại thế kỷ XX.
Đầu thế kỷ XX, truyện ngắn dân tộc viết bằng Quốc ngữ đƣợc đánh
dấu bởi sáng tác của nhiều tác giả nhƣ: Phan Kế Bính, Tản Đà, Nguyễn
Phƣơng Chánh, Tam Lang, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Ái
Quốc, Trần Quang Nghiệp, Huỳnh Minh Phụng, … Những truyện ngắn
trong thời kỳ này thƣờng đƣợc viết với lối viết biến nhân vật thành ngƣời
phát ngôn tƣ tƣởng chủ quan của nhà văn, đối thoại dài dòng, ngôn ngữ
ƣớc lệ, khuôn sáo, biền ngẫu, kết thúc có hậu…
Bƣớc sang thập kỷ 30, truyện ngắn khởi sắc và nhanh chóng trở thành
một thể loại mạnh, thực sự chiếm lĩnh văn đàn. Trong vòng mƣời lăm năm
từ 1930 đến 1945, số truyện ngắn đăng rải rác trên các báo chí và xuất bản
thành tập riêng chắc phải hàng ngàn. Riêng nhà văn Nguyễn Công Hoan
đã có khoảng 250 truyện ngắn. Công chúng trở nên quen thuộc với tên tuổi
của hàng loạt nhà văn nhƣ Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Tô Hoài,
Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân, … Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận
xét truyện ngắn thời kỳ này thật sự phong phú, đặc sắc, đa dạng, đa dạng
về khuynh hƣớng thẩm mỹ, về phong cách, về bút pháp, về đề tài, màu sắc
20
địa phƣơng… Văn đàn dần hình thành nên những dòng truyện ngắn khác
nhau, tuỳ thuộc vào sự nhận thức về hiện thực cuộc sống, quan niệm thẩm
mỹ, phong cách sáng tác của tác giả. Có những truyện ngắn nghiêng về
phản ánh, phê phán hiện thực cuộc sống đầy áp bức bất công,… nhƣ các
tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngô Tất
Tố,…; có những truyện ngắn nghiêng về phân tích đời sống tâm hồn con
ngƣời nhƣ các tác phẩm của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Bùi Hiển, Đỗ
Tốn,… Dòng truyện ngắn trữ tình đƣợc hình thành từ các tác phẩm đƣợc
viết theo phong cách trữ tình, nghiêng về phân tích đời sống tâm hồn con
ngƣời của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Xuân Diệu,… Sự thành công của
truyện ngắn đã khẳng định ƣu thế vƣợt trội của thể loại này trong nền văn
học nƣớc nhà.
Sau 1945, truyện ngắn Việt Nam bƣớc sang một kỷ nguyên mới do sự
ảnh hƣởng của những biến động về chính trị, xã hội. Cách mạng tháng
Tám thành công mở ra một thời đại mới với nhịp sống khẩn trƣơng, nhân
dân đƣợc giải phóng và vƣơn lên làm chủ số phận mình. Hàng loạt truyện
ngắn ra đời là những thiên truyện đầy ắp hơi thở cuộc sống và không khí
thời đại, phản ánh cuộc kháng chiến gian khổ nhƣng hào hùng của nhân
dân. Bên cạnh các nhà văn đã thành danh từ trƣớc cách mạng, xuất hiện
một lớp nhà văn mới, trẻ tuổi, trƣởng thành trong cuộc kháng chiến nhƣ
Trần Đăng, Hồ Phƣơng, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Khải,… Truyện
ngắn thời kỳ này đƣợc đánh giá là mang tính chất “phong trào”.
Sang giai đoạn 1955-1975, truyện ngắn đã có thêm tác giả và một số
phong cách tiêu biểu nhƣ Nguyễn Thành Long, Nguyễn Khải,
Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Vũ Thị Thƣờng, Lê Minh Khuê,…
21
Bên cạnh những truyện ngắn hay viết về những khoảnh khắc tiêu biểu của
cuộc sống trong chiến tranh là những truyện ngắn đi theo một khuynh
hƣớng mới, truyện ngắn-thơ của Nguyễn Thành Long với Lặng lẽ Sapa,
Nguyên Ngọc với Rẻo cao, Đỗ Chu với Hương cỏ mật, Ma Văn Kháng với
Khúc hát Mèo… Ma Văn Kháng nói: “Truyện ngắn phải có cái gì bay bay
một tí, không nên mơ màng quá, mà trần trụi quá cũng không ổn” (dẫn
theo Bùi Việt Thắng) [15,197]. Những truyện ngắn-thơ giai đoạn này đƣợc
viết nên từ chất liệu do cuộc sống kháng chiến cung cấp về cái đẹp, cái nên
thơ, cái anh hùng và cái phi thƣờng, với một ngôn ngữ trong sáng và thấm
đẫm chất thơ. Không khí nghệ thuật bao trùm trong Lặng lẽ Sa Pa là một
không khí lặng lẽ, mơ màng và sâu lắng. Sa Pa đẹp đến nao lòng ngƣời:
“Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ƣớt sƣơng,
rơi xuống đƣờng cái, luồn cả vào gầm xe”.
Truyện ngắn sau 1975 đến 1985 đi vào phân tích hiện trạng tinh thần
xã hội sau chiến tranh. Đời sống tinh thần của con ngƣời sau chiến tranh
với những nỗi cô đơn, sự đau khổ về thể xác và tinh thần, sự hoài nghi
giữa trung thành và phản bội, những cảnh ngộ và số phận con ngƣời đƣợc
chú ý khai thác nhiều bởi các nhà văn Nguyễn Minh Châu (Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành), Nguyễn Quang Thân (Người không đi cùng
chuyến tàu), Lê Hoàng (Lời cuối trong kịch bản)…
Truyện ngắn cuối thế kỷ XX xuất hiện một loạt tên tuổi mới với
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng
Anh, Y Ban, Võ Thị Hảo, Phạm Ngọc Tiến, Lƣu Sơn Minh… Đề tài, nội
dung phản ánh, cách viết, hình thức truyện phong phú, đa dạng, có nhiều
22
tìm tòi, phát hiện mới. Mỗi tác giả đều tạo đƣợc cho mình một ấn tƣợng
khá riêng biệt với độc giả. Cuộc sống hiện thực hằng ngày, những ẩn ức
trong đời sống tinh thần con ngƣời (đặc biệt là phụ nữ), những ám ảnh sau
chiến tranh, sự vật lộn trong cuộc sống mới theo cơ chế thị trƣờng, sự trăn
trở kiếm tìm những giá trị sống mới… tất cả đều đƣợc đƣa vào các trang
viết. Nổi lên nhƣ một hiện tƣợng đặc biệt của văn học Việt Nam cuối thế
kỷ XX, bên cạnh những truyện ngắn gây xôn xao văn đàn vì khả năng
phản ánh thực trạng tha hoá của con ngƣời trong một xã hội có nhiều phức
tạp nhƣ Tướng về hưu, Không có vua, Những người thợ xẻ,… Nguyễn
Huy Thiệp còn có một mạch văn quan trọng khác đầy chất lãng mạn và trữ
tình với Con gái thuỷ thần, Chảy đi sông ơi, Thương nhớ đồng quê, Hạc
vừa bay vừa kêu thảng thốt,… Cùng một mạch văn theo phong cách trữ
tình thời kỳ này là các truyện ngắn của Đỗ Chu (Hoạ mi đang hót),
Nguyễn Bản (Ánh trăng), Linh Vang (Mưa trên nỗi buồn, Và mưa vẫn rơi,
Một nhành lan),… Truyện ngắn của Linh Vang thƣờng có một nỗi buồn
lan toả khắp mỗi câu mỗi chữ, nỗi buồn của tình yêu không thành, không
tới hoặc có tới cũng ngậm ngùi, đƣợc viết với một phong cách trữ tình đằm
thắm. Truyện của chị giàu chất đời, nhƣng không chỉ đơn thuần là những
truyện tả chân, ở đây, tác giả đã bứt lên đƣợc trên cái có thực đến tận cùng
để tìm ra một cái gì đó cao hơn của con ngƣời, đó là đời sống tâm hồn vốn
rất không rõ ràng rành mạch, vốn bí ẩn khó giải thích rạch ròi bằng lý trí.
“Tôi dừng xe ở một khu ƣơm bán cây kiểng, bông hoa, tản một vòng, lựa
mua một chậu lan. Chỉ là một nhánh lan mỏng manh bé nhỏ chƣa ra hoa.
Tôi muốn chăm sóc lan cho tới ngày nhìn thấy lan nở hoa, thấy đƣợc màu
23
tím của hoa” (Một nhành lan)…
Nhìn qua những nét phác thảo về sự phát triển của truyện ngắn thế
kỷ XX, có thể thấy vẫn tồn tại một mạch truyện ngắn theo phong cách trữ
tình. Mạch truyện ngắn này khởi nguồn từ giai đoạn 1930-1945, chững lại
và gần nhƣ không phát triển ở giai đoạn 1945-1955 (giai đoạn này truyện
ngắn theo phong cách sử thi, truyện ký phát triển mạnh), bắt đầu lại ở một
số tác phẩm nghiêng nhiều về truyện ngắn-thơ hơn ở giai đoạn 1955-1975-
1985, và lại phát triển mạnh ở cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ
XXI này với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Chu, Nguyễn
Bản, Nguyễn Ngọc Tƣ, Linh Vang, Mai Ninh, … Sở dĩ chúng tôi cho rằng
mạch truyện này vẫn tồn tại và có xu hƣớng phát triển mạnh vào những
năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI là bởi nó đáp ứng đƣợc những tiêu
chí đặc trƣng của dòng truyện ngắn trữ tình: tính phi cốt truyện, sự bộc lộ
chủ thể ở mức độ cao, cấu trúc tác phẩm lỏng lẻo, hƣớng tới thiên nhiên,
… Một trong những nhà văn trẻ viết truyện ngắn theo phong cách trữ tình
đang đƣợc dƣ luận đặc biệt chú ý trong những năm gần đây là Nguyễn
Ngọc Tƣ. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ dịu dàng, đằm thắm, không
ồn ào lên gân mà đi sâu vào phân tích tâm lý con ngƣời một cách nhẹ
nhàng, sắc sảo, tinh tế. Nhân vật của chị là những con ngƣời bình dị, chân
chất trong cuộc sống, với những mối tình đẹp, buồn và dƣờng nhƣ không
có thật của cuộc đời này. Đó là những mối tình mộc mạc, chân thành và
dung dị nhƣ chính ngƣời dân vùng đồng bằng Nam bộ. Truyện của chị trăn
trở trong những nỗi nhớ quê hƣơng: Dòng nhớ, Qua cầu nhớ người, Nhớ
sông, Nước chảy mây trôi, … và những mối tình đẹp: Hiu hiu gió bấc,
24
Thương quá rau răm, Chiều vắng, Huệ lấy chồng, Mối tình năm cũ,…
Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ đem đến cho ngƣời đọc một cảm giác thƣ
thái, an bình, bị cuốn hút bởi mạch truyện và văn phong êm dịu, nhẹ nhàng
nhƣng không hề nhàm chán. Mỗi câu văn nhƣ một lời thủ thỉ, tâm tình đầy
III. NHỮNG GƢƠNG MẶT TIÊU BIỂU TẠO NÊN DÕNG
TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH 1930-1945
quyến rũ nhƣ những câu thơ đƣợc viết bằng văn xuôi.
Với sự ảnh hƣởng đặc biệt về phong cách viết của mình đối với một
số nhà văn khác cùng giai đoạn, có thể nói Thạch Lam (sinh năm 1910,
mất năm 1942, tên thật là Nguyễn Tƣờng Vinh, sau đổi thành Nguyễn
Tƣờng Lân) là ngƣời khởi xƣớng một cách không chính thức, đồng thời
cũng là đại diện tiêu biểu của dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945.
Truyện của Thạch Lam đem đến cho văn xuôi đƣơng thời một cách cảm
thụ tinh vi, bình dị, mới mẻ, đầy khám phá đối với thế giới nội tâm của con
ngƣời. Ông đặc biệt tinh tế khi phát hiện, phân tích những biến thái nhỏ
nhất của tâm hồn. Thạch Lam thƣờng khai thác chất thơ trong đời sống
hằng ngày. Ông quan tâm, phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú
của nhân vật hơn là những biến cố, sự kiện bề ngoài hay những xung đột
giàu kịch tính. Truyện của ông thƣờng mang yếu tố phi cốt truyện, loại
truyện không có truyện. Hai đứa trẻ không hề có hành động phát triển
xung đột, mà chỉ toát lên một tâm trạng, một không khí. Nó chỉ là câu
chuyện kể lại cái cảnh hai chị em ngồi trông một ngôi hàng tạp hoá nghèo
nàn trong một buổi tối nhƣ bao buổi tối khác. Bóng tối - bầu trời và những
ngọn đèn, đó là những điểm tựa khơi dậy trong cô bé Liên một chuỗi
25
những liên tƣởng, những kỉ niệm. Ở đây, ngƣời đọc không chỉ cảm nhận
đƣợc tâm hồn đầy lãng mạn với những ƣớc mơ đẹp đẽ của hai đứa bé
nghèo ở một cái ga xép nhỏ mà còn cảm thấy hồn của quê hƣơng, đất nƣớc
toả ra từ cái không gian thanh bình thấm đẫm chất thơ của những buổi
chiều “êm nhƣ ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo
gió nhẹ đƣa vào”, những buổi tối có “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh
nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là trên mặt đất
hay len vào những cành cây”, và những “đêm mùa hạ êm ả nhƣ nhung và
thoảng qua gió mát”… Sở trƣờng của Thạch Lam trong truyện ngắn là đƣa
ra một biến thái về tâm hồn, một chuyển hƣớng tâm lý. Từ buồn ra vui, từ
giận ra thƣơng, từ lãnh đạm ra tha thiết, từ yêu ra ghét, hay ngƣợc lại. Một
anh chàng ăn chơi trác táng về nhà khuya mệt mỏi chán chƣờng, sáng dậy
bỗng thấy vui vẻ nhẹ nhàng trƣớc cảnh ngày trời mai tƣơi mát và hình ảnh
bà mẹ già trìu mến phúc hậu (Buổi sớm, Nắng trong vườn). Những biến
đổi tình cảm nhƣ trên làm phần then chốt ở rất nhiều truyện của Thạch
Lam nhƣ : Gió đầu mùa, Những ngày vui, Một cơn giận, Sợi tóc, Tình xưa,
Bên kia sông,… Nhà phê bình Phong Lê nhận xét “Ở thế giới nghệ thuật
truyện ngắn Thạch Lam, tất cả đều hiu hiu, đạm đạm, không có sự chói
gắt, không có những vang động mạnh, nhƣng lại gợi bao ám ảnh về số
phận con ngƣời. Những truyện hay của Thạch Lam, thƣờng có nhiều bóng
tối: không phải cái “tối nhƣ mực”, mà cái tối của hoàng hôn, của ánh ngày
tàn” [73,92]. Thời gian nghệ thuật của ông là hiện thực đƣợc kéo lùi về
quá khứ (Dưới bóng hoàng lan, Hai đứa trẻ). Không gian nghệ thuật của
ông thƣờng là các phố huyện, chợ huyện, phố ga (Cô hàng xén, Tối ba
mươi, Nhà mẹ Lê). Nhân vật của ông phần nhiều không rõ tính cách, chỉ
bộc lộ những tâm trạng, những nét tâm lý. Đó là những con ngƣời nội tâm,
26
có tâm hồn tinh tế, thƣờng tự cảm về mình, giàu xúc cảm và ít hoạt động.
Truyện của ông giống nhƣ những bài thơ trữ tình, mà ở đó thiên nhiên
đƣợc miêu tả không chỉ qua thị giác, thính giác mà còn ở cảm giác: “…
trên con đƣờng gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm
cây xuống nhẩy múa theo chiều gió. Một mùi lá tƣơi non phảng phất trong
không khí…Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ ở trong căn vƣờn, tựa
nhƣ bao nhiêu sự ồn ào ở ngoài kia đều ngừng lại trên bực cửa… bóng tối
dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ chàng đem ở ngoài trời
vào ” (Dưới bóng hoàng lan); “Ở ngoài trăng rằm vằng vặc, tƣờng vôi
sáng trắng lên chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bóng xuống mặt sân, và các lá
lan đen sẫm lấp lánh ánh trăng cong” (Tình xưa)…, và những trạng thái
thay đổi thật tinh tế trong tâm hồn con ngƣời: “Có cái gì dịu ngọt chăng tơ
ở đâu đây, khiến chàng vƣơng phải” (Dưới bóng hoàng lan); “đôi mắt chị
bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm
hồn ngây thơ của cô; Liên không hiểu sao, nhƣng chị thấy lòng buồn man
mác trƣớc cái giờ khắc của ngày tàn” (Hai đứa trẻ); “Tôi thấy lòng nao
nao vừa bực vừa buồn, nhƣ thấy một sự gì êm đẹp đang mất đi mà không
còn can đảm giữ lại đƣợc nữa” (Tình xưa)…, với một giọng văn rất riêng:
thủ thỉ, nhẹ nhàng, đôi khi gần nhƣ thì thầm: “chúng tôi nghe ngóng cái
yên lặng của buổi trƣa, hình nhƣ theo dòng nƣớc trôi ánh nắng đi xa”
(Nắng trong vườn); “Gió thơm nhẹ và thoang thoảng tới bông hồng nhung
thẫm tan vào đêm tối… cánh hồng nhung đen thẫm… đẫm một mùi hƣơng
nồng và ân ái” (Đêm sáng trăng)… Với những truyện ngắn mang một
phong cách độc đáo, riêng biệt, Thạch Lam quả đã có đóng góp rất lớn cho
sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam, và đặc biệt là ông đã để lại những
ảnh hƣởng rất rõ rệt cho những nhà văn khác nhƣ Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,
27
Đỗ Tốn, Ngọc Giao, Thanh Châu…
Rất gần gũi và bị ảnh hƣởng về phong cách viết từ Thạch Lam là nhà
văn mang trong mình hai dòng máu Việt - Hoa, nhà văn Hồ Dzếnh. Hồ
Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh, sinh năm 1916, mất năm 1991. Truyện
ngắn của Hồ Dzếnh là nỗi đau và niềm cảm thƣơng, cả hai đều vô hạn, ẩn
chứa, tiềm tàng nhƣ hai con suối đƣợc khơi lên với một tiết tấu khi dạt
dào, lúc thấm thía, ngân nga và không lúc nào ngừng nghỉ. Hai con suối ấy
đều là hoài niệm, từ cái nhìn ngƣợc lại phía sau, phía quá vãng của chủ thể
sáng tạo - mà ở đây cũng là chủ thể trữ tình, vì vậy bao giờ cũng bâng
khuâng man mác. Tuy viết không nhiều nhƣng với tập truyện ngắn Chân
trời cũ, Hồ Dzếnh đã để lại nhiều dƣ vị đặc biệt trong lòng độc giả bởi tấm
lòng nhân hậu, giàu thƣơng cảm, ở sự gắn bó với quê hƣơng, và ở ngòi bút
trữ tình thấm đƣợm, chan chứa chất thơ. Mỗi truyện ngắn ở đây là một
cảnh đời, của ngƣời thân trong gia đình hoặc ngƣời trong làng xóm của tác
giả lúc tuổi thơ, cũng là một mảnh tâm hồn của nhà văn cất giữ trong đó.
Tác phẩm có chất thơ của hoài niệm buồn thƣơng, cũng là chất thơ toát lên
từ những cuộc đời vất vả đau thƣơng của con ngƣời Việt Nam, quê ngoại
mà tác giả gắn bó bằng cả máu thịt và tâm hồn mình. Ở Hồ Dzếnh, tình
cảm gắn bó tha thiết đối với đất nƣớc Việt Nam, “dải đất súc tích những
tinh hoa của văn chƣơng, những công trạng lịch sử” (Chị Yên), hoà với
lòng yêu thƣơng, quý trọng vô hạn đối với ngƣời mẹ, ngƣời chị nuôi,
“những đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nƣớc này, ngƣời đàn bà chỉ biết
có chịu khó vì chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận,
mà cái ƣớc mong sung sƣớng nhất là cứ đƣợc hi sinh mãi”(Thạch Lam -
Tựa Chân trời cũ). Văn Hồ Dzếnh thƣờng đƣợm buồn, song không phải
thứ buồn thi vị ngọt ngào mà là nỗi buồn của chính những “số phận bắt
28
buộc phải buồn rầu”, “ngƣời nào cũng mang một tâm hồn đau khổ”. Kể về
cuộc đời đau khổ của những ngƣời thân yêu đó, Hồ Dzếnh thƣờng day dứt,
xót xa. Văn Hồ Dzếnh giàu cảm xúc, ý vị, tuy mực thƣớc, trau chuốt, mà
đầy lắng đọng. Đó là chất giọng tâm tình cứ nhẩn nha mà khắc hoạ, mà lƣu
giữ trong tâm trí ngƣời đọc bao cung bậc thiết tha, buồn vui, yêu ghét,…
Văn ông âm vang một nhạc luật, một tiết tấu khi tha thiết, khi hùng hồn,
cuốn ngƣời đọc cùng đi bằng một thứ ma lực vô hình khó lòng cƣỡng nổi:
“ Chỉ sau mƣơi phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại
trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lƣơng thực ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo
lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cƣờng
luân lƣu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ” (Ngày
gặp gỡ). Thiên nhiên trong truyện ngắn Hồ Dzếnh thật đa dạng trong sự
liên tƣởng đầy chất thơ: “Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím.
Hoàng hôn ở đây không nhƣ hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng
hôn ở đây ƣu hoài nhƣ một chinh phụ nhớ chồng” (Ngày gặp gỡ); “Bầu
trời sáng và rộng, luôn luôn thấy những buổi hiền hoà, cây xanh gió mát
nhịp nhàng với nhau nhƣ trong một bài thơ cổ” (Trong bóng rừng). Hồ
Dzếnh có một khả năng diễn tả tâm trạng mơ hồ rất tốt, nhiều đoạn viết
của ông đầy sự lung linh, huyền bí, xa xôi, lơ lửng: “Fin đắm chìm trong
công việc, trong lòng trẻ nhỏ thốt nổi dậy một thứ rung động thầm kín, cái
cảm giác đẹp đẽ mà tôi không tìm thấy đƣợc nữa trên đƣờng đời… Nhiều
lúc Fin nghiêng đầu, lắng tai vào không khí, tựa hồ nhƣ nghe ngóng một
tiếng gì huyền bí, trong cái dáng điệu lơ đãng rất đáng yêu” (Trong bóng
rừng). Đây là đoạn tả cảm giác của tác giả trƣớc cái đẹp của Fin, một bông
hoa rừng thật đẹp nhƣng xa lạ, một thứ hƣơng thơm mà kẻ nhìn ngắm nó
không thể cầm nắm đƣợc trong tay. Văn xuôi của Hồ Dzếnh đã thật sự mở
29
rộng khả năng của truyện ngắn trữ tình. Phá bỏ cái khung chật hẹp của thể
loại, đƣa vào đó cái kích thƣớc tối ƣu của sự tự biểu hiện, ông đã tạo nên
sự giao thoa, nối tiếp giữa truyện và thơ, không cần cốt truyện hấp dẫn,
không cần nhân vật có tính cách độc đáo. Truyện ngắn Hồ Dzếnh thƣờng
ôm trùm dung lƣợng của cả một đời ngƣời, một kiếp ngƣời. Ông không kể
và tả tỉ mỉ các biến cố bất hạnh đẩy nhân vật đến tình trạng trôi dạt, bi đát
mà thƣờng dùng bút pháp tự sự khái quát. Cái quan trọng chính là thái độ
riêng tƣ, niềm thƣơng cảm xót xa của ông trƣớc những cảnh ngộ, biến cố
ấy. Vì vậy dấu ấn của tình cảm, cảm xúc và trạng thái tinh thần của ngƣời
trần thuật thƣờng lấn lƣớt hơn, đƣợc tô đậm hơn so với biến cố và sự kiện
bên ngoài. Cốt truyện trong Chị Yên đƣợc kiến tạo bởi sự liên kết các trạng
thái tâm lý gồm sự ân hận vì hành vi bất công, thô bạo đối với Yên trong
quá khứ; nỗi căm phẫn nghẹn ngào trƣớc ngƣời cậu khốn nạn đã làm tan
nát cả đời chị; lòng đau xót cho cái chết bi thảm của chị và của chồng con
chị. So với Thạch Lam, Hồ Dzếnh bộc lộ mình qua những dòng độc thoại
rộng rãi, chủ quan và thống thiết hơn. Do vậy, truyện ngắn của ông giống
nhƣ tuỳ bút-thơ hơn.
Là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu (1916-
1985) cũng đồng thời là một cây bút viết truyện ngắn đặc sắc. Hai tập
Phấn thông vàng và Trường ca đã góp cho văn đàn Việt Nam những
truyện ngắn mang hƣơng sắc riêng, những truyện không có truyện mà chan
chứa chất thơ. Nhà thơ tù nhân của chữ Tình (Chu Sơn), có trái tim cháy
bỏng, luôn thèm khát sự sống tới cuồng nhiệt đó tỏ ra rất ghê sợ lối sống
nhàm tẻ, tù đọng trong “cái Ao Đời bằng phẳng” giết chết con ngƣời trong
lúc sống. Toả nhị kiều là hình ảnh giàu sức gợi về những cuộc đời nhạt
30
nhẽo, vô vị. Ở đây, ngƣời viết tách ra khỏi nhân vật, xem nhân vật là đối
tƣợng quan sát, còn tâm tình, cảm nghĩ của ngƣời viết là khúc xạ, là kết
quả những âm vang toát ra từ hai cuộc đời lỡ nhịp, tẻ nhạt “không ánh
nắng, chẳng hƣơng ngƣời” của hai cô gái Hà Thành: “ngồi trong một buổi
chiều rất đỗi ngẩn ngơ, một buổi chiều triền miên của sự vật và của linh
hồn, một buổi chiều trong nhà và trong tâm lý. Tôi nhƣ cảm nghe sự mờ
nhạt của cuộc đời, khi trông thấy hai cô”. Suốt đời, Xuân Diệu căm ghét sự
sống mòn “không tối đen mà xam xám nhờ nhờ” đó, nó giết chết con
ngƣời ngay trong lúc sống, mà những tâm hồn khát sống phải vùng vẫy
tung ra. Có những lúc, nhà thơ của xuân và tình đó chan chứa niềm thƣơng
cảm đối với những cuộc đời nghèo khổ bị hắt hủi. Hình ảnh bà lão nghèo
lủi thủi, nhƣ cái bóng chìm mất trong bóng tối trên con đƣờng chiều đã
gieo vào lòng Xuân Diệu nỗi “thắc mắc, lẫn kinh dị trong vô hạn xót
thƣơng”: “Bà già hay là hiện hình của sự đau khổ?… Bà lão về đâu? Một ổ
rơm nếp bên đƣờng, hay một cái chòi lạc giữa bụi cây?” (Thương vay).
Ngay từ tuổi thơ, Xuân Diệu đã sớm có dịp thấm thía những cảnh đời
ngang trái, bất công. Cái hoả lò, Đứa ăn mày, … là những cảnh đời
thƣờng tủi nhục nhƣ thế: “Một cậu nhỏ mƣời sáu tuổi, một thằng bé mƣời
hai tuổi, hai đứa đâu phải là ngƣời lớn để sửa lại một cảnh đời! Chỉ có
nƣớc mắt, và những cơn quặn lòng, ruột gan xoáy lại”. Đó cũng chính là
những kỉ niệm xót xa trong tuổi thơ của tác giả vốn giàu lòng thƣơng cảm
đối với những cuộc đời đau khổ, bị ruồng rẫy, hắt hủi. Xuân Diệu viết văn
nhƣ làm thơ. Cốt truyện chỉ nhƣ cái cớ khơi gợi và mở ra những hƣớng
liên hệ, suy tƣởng. Truyện ngắn của ông luôn có một dòng cảm nghĩ trôi
chảy nhƣ con suối nhỏ róc rách đem đến sự trong trẻo tƣơi mát cho tác
phẩm. Điều ông quan tâm là sự tự bộc lộ và giãi bầy tâm trạng. Những
31
trạng thái tâm hồn thay thế cho các sự kiện, biến cố ly kỳ của truyện tự sự
thông thƣờng. Điều này đã làm biến đổi chủ thể sáng tạo để biến ngƣời
viết văn xuôi trở thành một thi sỹ trong khả năng cảm nhận và tự biểu hiện
mình. Những liên tƣởng, so sánh tạt ngang với những liên tƣởng bất ngờ,
đa chiều ở những đoạn trữ tình ngoại đề luôn đƣợc mở rộng trong truyện
ngắn Xuân Diệu tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ: “tôi thƣơng hai cô nhƣ hai con
vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh khi chiều giăng lƣới qua muôn gốc cây”,
“nhiều lần theo một liên tƣởng nhanh chóng, tôi nghĩ đến những cụ già còn
đôi chút sức lực ngày ngày quanh quất giữa bàn ghế trong nhà”, “tôi lại
nhớ những khi xế trƣa, khi nắng ngã vào bếp nhà tôi. Nắng vàng phai lặng,
chán ngán làm sao! Lúc ấy mọi ngƣời đều cảm thấy mơ hồ nỗi nhạt nhẽo
của ngày này tiếp ngày nọ” (Toả nhị kiều). Truyện ngắn Thu của ông có lẽ
gần với đoản văn hoặc tuỳ bút hơn. Đó là một giọng văn đầy lãng mạn,
đầy thơ với những cảm nhận bay bổng, chơi vơi, mơ màng. Ông viết
những cảm nhận của mình về mùa, về yêu: “Thu không phải là mùa sầu.
Ấy chính là mùa yêu, mùa yêu nhau bằng linh hồn, mùa những linh hồn
yêu mến nhau. […] Xuân, ngƣời ta vì ấm mà cần tình. Thu, ngƣời ta vì
lạnh sắp đến mà cũng rất cần đôi. Cho nên không gian đầy những lời nhớ
nhung, những linh hồn cô đơn thả ra những tiếng thở dài để gọi nhau, và
lòng tôi nghe tất cả du dƣơng của thứ vô tuyến điện ấy”. Truyện ngắn
Phấn thông vàng là truyện của một chàng hoạ sỹ. Hoạ sỹ là ngƣời có tâm
hồn lãng mạn, nhạy cảm. Đã vậy, trên bƣớc đƣờng lang thang của mình,
chàng hoạ sỹ lại bất chợt gặp đƣợc một cảnh rừng thông với sắc vàng
“không rực rỡ nhƣng nguy nga” đẹp đến mê hồn. Chàng hoạ sỹ là ngƣời
đã từng yêu, mà yêu không phải ít, tới ba lần, nhƣng rồi kết cục lần nào
cũng gặp đau khổ. Là hoạ sỹ, mà trong hồn chàng lại trú ngụ sẵn một hồn
32
thơ nữa. Vì thế, cái tâm hồn nhạy cảm, yếu đuối ấy đã sầu đau biết bao khi
gặp thất bại trên tình trƣờng. Và buổi chiều hôm ấy, may mắn thay, chàng
đã gặp đƣợc một “rừng thông đang yêu”. Chàng đã mở lòng mình để nhận
lấy “bài học ngụ trong bài thơ của phấn thông vàng”. Bởi “tình yêu có bao
giờ mất”. Xuân Diệu đã tả rất đẹp cảnh này: “Không gian đã thành một
điệu vàng mênh mông: nắng vàng nhuộm vàng những cây, và phấn thông
vàng lẫn vàng trong nắng”. Bút pháp trữ tình lãng mạn của ông có lẽ đã
quá thành công trong truyện ngắn này.
Thanh Châu, Ngọc Giao là những cây bút mà tên tuổi gắn liền với tờ
Tiểu thuyết thứ bảy trong suốt thời gian dài. Thanh Châu tên thật là Ngô
Hoan, sinh năm 1912, quê tại huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ngòi bút Thanh
Châu trƣớc năm 1945 nhẹ nhõm, trong trẻo, trong những chuyện tình
thoáng qua, chỉ còn lại nhƣ một kỷ niệm đẹp không phai mờ. Chất lãng
mạn ở Thanh Châu không phải là thứ lãng mạn phóng đãng “vui vẻ, trẻ
trung”, mà thƣờng là những rung cảm nghệ sỹ trƣớc cái đẹp, cái thiện, ít
nhiều mang màu sắc lý tƣởng. Nhân vật trong truyện ngắn Thanh Châu
thƣờng xuất hiện nhiều giới công chức sang trọng, nghệ sỹ, dân trung lƣu
thị xã, thị trấn, dân nghèo cƣ ngụ ven thành phố. Cốt truyện của Thanh
Châu đơn giản, tình huống nhẹ nhàng, tình tứ mơ màng buồn thƣơng nhƣ
Hoa ti gôn, Tà áo lụa, … Truyện của ông thƣờng chứa đựng những yếu tố
tinh thần: tâm trạng xót xa trƣớc kiếp ngƣời bất hạnh; thái độ tán thành
đức hy sinh, lòng chung thuỷ; sự trân trọng đối với những tình cảm trong
sáng: “Cả đêm, Bình mơ thấy một tà áo mỏng nhƣ sƣơng bay trong ánh
trăng thanh” (Tà áo lụa). Truyện của Thanh Châu có khả năng giúp con
ngƣời hƣớng thiện, có khi làm thức dậy trong con ngƣời những cảm nhận
nhẹ nhàng nhƣng nhuốm ý vị triết lí hƣớng thƣợng: “Vô ích cả, vô ích cả.
33
Lại bên bờ ta đây mà nghe ngóng một vài điều huyền bí về cõi đời này và
cõi bên kia. Nhƣ thế còn hơn…” (Ở Tây Hồ, một chiều sang xuân). Thanh
Châu chuyên đi vào những trạng thái tâm hồn nhân vật, ông đi tìm và thể
hiện những vẻ đẹp tâm hồn, lắng nghe, rƣợt đuổi, cố nắm bắt và thể hiện
cho bằng đƣợc những cung bậc tinh tế của tâm hồn. Các sự việc, tình tiết
thuộc đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân vật chỉ còn là nguyên cớ để
bộc lộ thế giới nội tâm. Lời văn của Thanh Châu rất đẹp, thanh lịch và
sang trọng: “Trong thƣ, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra. Những nụ hoa
chúm chím hình nhƣ quả tim vỡ làm mấy mảnh, đỏ hồng nhƣ nhuộm máu
đào” (Hoa ti gôn), “Ban đêm, đó mới là lúc các loài thảo mộc đua nhau
sống. Một trận gió nhẹ thổi qua làm run rẩy và rời rụng những cánh hoa
trên đám lá đen. Tôi chợt hiểu tại sao đến cây cỏ cũng sống vội vàng,
mãnh liệt” (Vườn chanh).
Ngọc Giao (1911-1997), cũng nhƣ Thanh Châu, đƣợc coi là nhà văn
“chuyên về tình cảm” (lời Phùng Tất Đắc), thƣờng đi vào những cảnh ngộ
ngang trái, đƣợm buồn. Trƣớc 1945, truyện ngắn của Ngọc Giao thƣờng
nghiêng về đề tài đời sống tình cảm, đó là thứ tình cảm bi thƣơng sầu uất.
Ngọc Giao đã tái hiện trong tác phẩm những cảnh đời ngang trái: thân
phận thảm thƣơng đặc biệt của những ngƣời làm nghề “xƣớng ca” (Yên
hoa, Đời tư Lã Bố), những ông già bà già bất hạnh vì con cái bất hiếu (Đời
nó thế, Thời gian),… Giữa những vùng nhân thế tối tăm, Ngọc Giao nhận
thấy không ít con ngƣời vẫn giữ đƣợc trái tim trong sáng, lòng nhân ái,
đức hy sinh… Một số truyện ngắn của ông còn bày tỏ dấu ấn tình cảm gắn
bó với quê hƣơng đất nƣớc, gắn bó với nơi “chôn nhau cắt rốn”, với phong
tục tập quán cổ truyền, danh lam thắng cảnh, tinh thần thƣợng võ và nghĩa
34
hiệp (Bến đò Rừng, Cô gái làng Sơn Hạ,…).
Đỗ Tốn sinh năm 1920, mất khoảng năm 1972-1973. Truyện ngắn
của ông thƣờng là những truyện không có truyện, trong đó tác giả sử dụng
bút pháp gợi nhiều hơn tả, viết bằng cảm giác nhiều hơn bằng ý nghĩ. Tâm
hồn nhạy cảm đã giúp nhà văn cảm nhận thật tinh tế những màu sắc, mùi
vị của đồng quê cùng những biến đổi mơ hồ, khó nắm bắt trong thế giới
nội tâm của con ngƣời. Tình quê hương, Duyên số, Hoa vông vang kể về
những tình yêu trong sáng, ngập ngừng cùng những rung động mong manh
đầu tiên trong đời của con ngƣời, một thứ tình yêu vừa dại khờ, vừa ngây
ngất mà bất cứ ai cũng từng có. Tâm lý nhân vật trong Định mệnh đƣợc
khắc hoạ khá tỉ mỉ và sâu sắc: biết là trái đạo lý nhƣng Phong không thể
trốn chạy tình yêu, chàng yêu chính em họ của mình, và Lan – em họ
chàng – thoạt đầu chỉ nhận lời yêu anh vì thƣơng hại, nhƣng rồi cũng bị
cuốn theo cơn lốc ái tình đó, đến khi nhận ra mối nguy hiểm đang chờ đợi
ở phía trƣớc, Lan đã chủ động rời xa Phong và đẩy chàng đến kết cục bi
thảm. Với cái già dặn của một ngƣời đã sống nhiều, trải nhiều, ông đã viết
về những cảnh đời, kiếp ngƣời mòn mỏi, tàn lụi đi theo thời gian (Chú tôi,
Một kiếp người). Ông gửi gắm những chiêm nghiệm độc đáo về cuộc đời,
tình yêu qua những chi tiết ngỡ nhƣ không có gì, nhƣ hình ảnh “cây na bên
vại nƣớc trƣớc căn bếp mà khói đang nặng nề chui ra mái rạ” (Một kiếp
sống), hay hình ảnh loài hoa vông vang “đƣơng kín đáo cúp lại trong gió
chiều êm đềm… để sớm mai trở lại” (Hoa vông vang).
Một nhà văn tiêu biểu không thể không nhắc đến của dòng truyện
ngắn trữ tình này là Thanh Tịnh - đồng thời cũng là đối tƣợng nghiên cứu
35
chính của luận văn - do đó chúng tôi sẽ không đề cập ở phần này nữa.
IV. DÕNG TRUYỆN NGẮN TRỮ TÌNH VỚI CÁC DÕNG
TRUYỆN NGẮN KHÁC THUỘC GIAI ĐOẠN 1930-1945
Văn học Việt Nam 1930-1945 bị chi phối bởi hệ tƣ tƣởng thống trị,
tức là hệ tƣ tƣởng tƣ sản (bao gồm cả tƣ tƣởng thực dân) và hệ tƣ tƣởng
phong kiến. Mặt khác, nó cũng chịu ảnh hƣởng bởi những phong trào cách
mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Tác động của văn học nƣớc ngoài đến
các khuynh hƣớng văn học thời kỳ này cũng rất đa dạng và phức tạp. Thế
giới quan của các nhà văn tiểu tƣ sản trí thức lại đầy mâu thuẫn và quá
trình sáng tác của họ không phải lúc nào cũng thuần nhất. Chính những
điều kiện nói trên đã làm xuất hiện trên văn đàn nhiều khuynh hƣớng,
nhiều phong cách đa dạng, phức tạp và luôn luôn dao động, chuyển hoá. Ở
lĩnh vực truyện ngắn, ngƣời ta thƣờng chia ra các khuynh hƣớng nổi bật là:
hiện thực phê phán, lãng mạn, trữ tình. Các nhà văn lãng mạn Khái Hƣng,
Nhất Linh, Thế Lữ, Lan Khai,… từng làm say mê độc giả đƣơng thời, nhất
là thanh niên ở thành thị và thanh niên có học ở nông thôn vì sự lên án, đả
phá đại gia đình phong kiến, kêu gọi hƣởng ứng cuộc đấu tranh mới - cũ,
đòi giải phóng cái “tôi”, đòi một cuộc sống hiện đại mà trong đó cá nhân
mỗi con ngƣời đƣợc tự khẳng định mạnh mẽ trƣớc xã hội. Cùng một
hƣớng khai thác và sáng tạo dựa vào sự kết hợp giữa sự việc của đời sống
khách quan và những cảm xúc chủ quan, mạch truyện của các nhà văn
Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,… đã đi vào khám phá đời
sống tinh thần, nói lên vẻ đẹp nội cảm của tâm hồn con ngƣời trƣớc cuộc
sống với một ngôn ngữ nhiều chất thơ, trữ tình. Với các tác giả nhƣ
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, … thì truyện
36
ngắn lại đƣợc sáng tác theo phong cách những nhà văn hiện thực.
Nguyễn Công Hoan là ngƣời đầu tiên khẳng định phƣơng pháp hiện
thực phê phán trên lĩnh vực truyện ngắn. Ông rất nhạy cảm với tình trạng
bất công sừng sững trong xã hội có áp bức bóc lột, tình trạng đổ nát đạo
đức, phá hoại những giá trị tinh thần truyền thống. Ông có xu hƣớng “lật
mặt trái” để phơi trần cái tàn ác, đê tiện, xấu xa của “bọn giàu”, từ địa chủ
cƣờng hào ở thôn quê đến những ông chủ, bà chủ, những tiểu thƣ gái mới
đua đòi, hƣ hỏng ở thành thị. Đằng sau tiếng cƣời giòn giã, sảng khoái của
nhà văn thƣờng chất chứa niềm phẫn uất, thái độ căm ghét, ý thức vạch
mặt sự hoành hành của cái ác, cái xấu, cái đểu, cùng nỗi đau xót trƣớc số
phận khốn khổ của ngƣời dân lành trong cái trật tự không có chút công lý
nào đó. Nguyên Hồng bƣớc vào nghề văn từ rất trẻ, và ông đã tự vạch ra
con đƣờng riêng cho mình: trở thành nhà văn của những người lao động
cùng khổ. Mỗi truyện của Nguyên Hồng là một cảnh đau thƣơng, lắm khi
thật rùng rợn, của những phu phen bến tàu bến xe, những ngƣời đàn bà
buôn thúng bán bƣng, những kẻ ăn mày, gái điếm, lƣu manh,… Nguyên
Hồng chẳng những thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ không cùng của ngƣời nghèo
mà ông còn có một niềm tin mãnh liệt vào bản chất tốt đẹp của họ. Trong
văn học hợp pháp đƣơng thời, hiếm có nhà văn có đƣợc cái nhìn tri âm,
thái độ trân trọng thật sự đối với ngƣời nghèo đến thế. Điều này thể hiện
đậm nét nhất ở hình tƣợng ngƣời phụ nữ lao động, nhân vật chính của hầu
hết truyện ngắn Nguyên Hồng (Hàng cơm đêm, Người con gái, Cô gái
quê, Đây bóng tối, Người mẹ không con, Bố con lão Đen,…). Nguyên
Hồng đã đem đến dòng truyện ngắn hiện thực phê phán một phong cách
mới mà nét nổi bật là giọng trữ tình thiết tha, sôi nổi tràn đầy tin yêu.
37
Đƣơng thời, không mấy ai biết đến cây bút đầy tài năng Nam Cao, nhƣng
từ sau khi ông mất, tác phẩm của ông càng ngày càng có sức hấp dẫn đặc
biệt với công chúng. Sức hấp dẫn đó trƣớc hết là ở tính chân thực, chân
thực đến kinh ngạc. Dƣờng nhƣ những gì ông viết toàn là điều có thật.
Nam Cao vận dụng rất hiệu quả nghệ thuật phân tích tâm lý trong truyện
ngắn. Trong khuôn khổ của những cấu trúc tự sự nhỏ, ông đã để cho
những mạch tâm lý vận động để bộc lộ tính cách. Do sống sâu sắc cuộc
sống, do tƣ duy phân tích sắc sảo lạ thƣờng, luôn trăn trở tìm tòi, khám phá
cái sự thật sâu xa chứa đựng trong cái bề ngoài tầm thƣờng, nên từ những
chuyện tƣởng nhƣ rất đời thƣờng, vặt vãnh, Nam Cao đã đặt ra đƣợc
những vấn đề xã hội, triết học có ý nghĩa rộng lớn, sâu sắc, đầy tính nhân
đạo, nhân văn. Tô Hoài lại thành công qua những khám phá về phong tục
tập quán ở làng quê vùng ven thành. Không đi thẳng vào những xung đột
xã hội căng thẳng mà theo thời gian tìm hiểu cuộc đời qua những trầm tích
về văn hoá trong hội hè, nếp sống lâu đời của làng quê. Những truyện ngắn
của Tô Hoài mang một phong vị riêng vừa vui tƣơi dí dỏm, vừa thầm lắng
xót xa. Theo xu hƣớng khám phá những phong tục tập quán này còn có các
nhà văn Vũ Bằng, Thanh Châu, Bùi Hiển, Kim Lân,… Truyện ngắn của
Vũ Bằng, Thanh Châu mang phong vị Hà Nội. Bùi Hiển miêu tả đƣợc chất
riêng của ngƣời dân xứ Nghệ. Nhà văn Nguyễn Tuân lại tìm cảm hứng cho
truyện ngắn từ đề tài lịch sử với tinh thần suy tôn những giá trị văn hoá
tinh thần đậm màu sắc dân tộc. Những truyện đƣờng rừng của Lan Khai là
những truyện tình lãng mạn, trong không gian rừng núi “man rợ bí mật”,
38
với một màu sắc lịch sử huyền ảo.
Trong quá trình phát triển của văn học, trong thực tiễn sáng tác văn
học, văn học lãng mạn, trữ tình và văn học hiện thực phê phán tuy có
những chỗ khác nhau về chất, có khi chống đối nhau gay gắt, song vẫn có
những cơ sở thống nhất chung, nên thƣờng có mối quan hệ qua lại, chịu
ảnh hƣởng của nhau, thâm nhập lẫn nhau tới mức khó phân biệt ranh giới
giữa chúng. Các nhà văn Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Thạch Lam, … đều
đã có những tác phẩm vƣợt ra khỏi ranh giới của dòng lãng mạn để nhập
vào văn học hiện thực phê phán, hƣớng ngòi bút về phía đời sống hoặc lên
tiếng phê phán hiện thực trên một lập trƣờng nhân đạo tiến bộ. Khi văn
học càng phát triển, trƣởng thành thì càng nảy nở những phong cách sáng
tác khác nhau và không phải phong cách nào cũng nổi rõ nhất nét điển
hình của phƣơng pháp sáng tác, khiến cho việc phân ranh giới giữa các
dòng văn học càng khó khăn. Vì vậy, việc sắp xếp các nhà văn vào dòng
này, dòng kia thƣờng chỉ có một ý nghĩa tƣơng đối và ít nhiều có tính chất
quy ƣớc. Nhà văn phong tục Trần Tiêu với bút pháp “tả chân” khách quan
không mấy “lãng mạn”, chuyên viết về sinh hoạt nông thôn, cũng đã có
những sáng tác miêu tả khá chân thực, cảm động về đời sống tình cảm của
ngƣời nông dân đƣơng thời. Thạch Lam, đại diện tiêu biểu của dòng
truyện ngắn trữ tình có cả một loạt sáng tác viết về số phận hẩm hiu của
ngƣời nghèo, ngƣời phụ nữ, có thể coi là hiện thực chủ nghĩa. Người con
gái của Nguyên Hồng là một truyện ngắn hiện thực nhƣng đƣợc viết với
39
một bút pháp trữ tình thơ mộng.
Trong sự thành công rực rỡ của truyện ngắn 1930-1945, dòng truyện
ngắn trữ tình tuy số lƣợng tác phẩm không đồ sộ, số lƣợng tác giả không
đông đảo, nhƣng bản thân sự tồn tại phong cách của mỗi tác giả nhƣ một
tất yếu đã có giá trị khẳng định rõ ràng. Và nó có cùng một điểm chung
với toàn bộ mảng sáng tác truyện ngắn rất bề bộn, gồm nhiều xu hƣớng,
phong cách khác nhau trên văn đàn là: ít nhiều làm hiện lên hình ảnh quê
hƣơng đất nƣớc Việt Nam với cảnh sắc, hƣơng vị riêng, bình dị và thân
thuộc vô cùng, hình ảnh và con ngƣời Việt Nam trong một thời kỳ nhiều
gian nan thử thách mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần độc đáo, nhuần nhuỵ yêu
V. CON ĐƢỜNG SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN THANH TỊNH
thƣơng và bền bỉ, gan góc, đầy sức sống.
Thanh Tịnh sinh năm 1911, mất năm 1988. Ông tên thật là Trần Văn
Ninh, đến năm lên sáu tuổi mới đổi là Trần Thanh Tịnh. Ông sinh ra trong
một gia đình nhà Nho tại xóm Gia Lạc, ven sông Hƣơng, ngoại ô Huế.
Thanh Tịnh đƣợc học chữ Nho đến năm 11 tuổi, rồi tiếp tục học tiểu học,
trung học ở Huế. Ngay từ khi đi học ông đã ham thích văn chƣơng. Hai
nhà văn Pháp Daudet và Maupassant có ảnh hƣởng không nhỏ đến văn
phong của ông sau này. Nguồn văn nghệ dân gian phong phú của Huế,
những giọng hò câu hát trên sông nƣớc quê hƣơng là chất liệu cho các tác
phẩm của ông. Năm 1933, ông đi làm ở các sở tƣ rồi sau đó làm nghề dạy
học. Thời gian này ông bắt đầu viết văn làm thơ và cộng tác với các báo
40
Phong Hoá, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị,…
sáng tác đầu tay Cha làm trâu, con làm ngựa đăng ở Thần kinh tạp chí
năm 1934.
Ông không thành công trong lĩnh vực truyện dài (Xuân và Sinh, 1944)
nhƣng đƣợc bạn đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Tập thơ Hận chiến
trường (1937) và nhiều bài khác đăng trên các báo ở Huế và Hà Nội mang
phong cách lãng mạn đậm nét. Thơ ông thƣờng mƣợt mà, tinh tế, hàm súc
nhƣng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống
văn hoá, tinh thần xứ Huế. Thành công hơn cả trong chặng đƣờng sáng tác
này là các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em (1942), Ngậm ngải
tìm trầm (1943) trong đó có nhiều truyện đẹp, trong sáng, gợi cảm.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Tổng thƣ ký Hội Văn hoá cứu
quốc Trung bộ. Gia nhập bộ đội năm 1948, tham gia phụ trách Đoàn kịch
Chiến thắng của Bộ Tổng tƣ lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong
kháng chiến ông khai sinh ra hình thức độc tấu. Đó thƣờng là một bài văn,
có tính chất tự sự, không dài lắm, để biểu diễn trong khoảng mƣơi phút.
Ngôn ngữ của tấu thƣờng đại chúng, cách diễn đạt giản dị pha chút dí
dỏm, hài hƣớc. Khi diễn thƣờng nói là chủ yếu, hát, ngâm chỉ là phụ. Nó
không cần nhạc cụ gì hoạ theo để làm nền, và có thể hoạt động ở bất kỳ
đâu không cần sân khấu quy mô.
Từ năm 1954, Thanh Tịnh tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp
chí Văn nghệ quân đội. Ông viết nhiều thơ trữ tình, thơ đả kích, ca dao,…
đăng trên các báo Nhân dân, Phụ nữ, Quân đội nhân dân, Tiền phong,…
41
Tác phẩm chính của ông sau cách mạng là: Sức mồ hôi (thơ, 1954), Những
giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1956), Đi từ giữa một mùa sen (truyện
thơ, 1973), Thơ ca (tuyển tập, 1980)… Thơ của ông giai đoạn này có sự
chuyển biến rõ rệt. Truyện thơ Đi từ giữa một mùa sen gồm tám đoạn, dài
gần hai ngàn câu, kể về thời niên thiếu của Hồ Chí Minh từ lúc chào đời
đến năm 15 tuổi. Đây là một công trình nghệ thuật công phu của Thanh
Tịnh. Ông sƣu tầm tài liệu và viết trong nhiều năm. Tác phẩm viết dƣới
hình thức kể chuyện, mang đậm phong cách dân gian và hợp với giọng
điệu tâm tình của thơ ông. Tập truyện ngắn Những giọt nước biển phần lớn
gồm những bài ông viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Mỗi truyện
nhƣ một bài thơ nhỏ, ghi lại hình ảnh những ngƣời nông dân bình thƣờng
miền xuôi cũng nhƣ miền núi, gan dạ một cách hồn nhiên, dũng cảm một
cách lặng lẽ, hoạt động phục vụ sự nghiệp chiến đấu chống ngoại xâm.
Trong toàn bộ sự nghiệp văn học của Thanh Tịnh, những sáng tác
trƣớc 1945 của ông có giá trị hơn và chiếm vị trí chủ chốt. Ở Thanh Tịnh
có sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hoà của nhiều nền văn hoá khác nhau mà
ông đã thụ hƣởng trong quá trình học tập của mình: văn hoá dân gian Việt
Nam (ông thuộc khá nhiều vở tuồng, bài ca vè của Huế - Thừa Thiên), văn
hoá phƣơng Đông (ông học chữ Nho đến năm 11 tuổi, sau này có thời kỳ
làm hƣớng dẫn du lịch ở Huế), văn hoá Pháp (ông học tiểu học, trung học
ở trƣờng Pelerin, sau đó học tú tài ở trƣờng Thiên Hựu, và Institut de la
Providence, mà những nhà văn ảnh hƣởng lớn đến ông là Daudet,
Maupassant).
Thanh Tịnh là một tên tuổi không thể thiếu của văn học Việt Nam
42
bên cạnh những tên tuổi khác, tuy không chói lọi rực rỡ nhƣng lại góp
phần tạo nên một dòng văn học có giá trị: Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn,
Xuân Diệu,…
CHƯƠNG 2
THÂN PHẬN CON NGƢỜI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN BẢN CAO QUÝ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA THANH TỊNH
I. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI VÀ THẾ GIỚI NHÂN
VẬT CỦA THANH TỊNH
1. Cũng giống nhƣ Thạch Lam, trong sáng tác của mình, Thanh Tịnh
chủ yếu quan tâm đến thế giới tinh thần - thế giới nội tâm của con ngƣời.
Trong khi các nhà văn hiện thực quan tâm chủ yếu đến tình trạng xã hội
thì Thanh Tịnh đi sâu vào thể hiện thế giới tinh thần của con ngƣời, coi đó
là một đối tƣợng để miêu tả con ngƣời. Thông qua những chi tiết sinh hoạt,
những cảnh ngộ cụ thể, Thanh Tịnh đã len lách ngòi bút vào phân giải
những tình cảm, những suy tƣ và đời sống tinh thần của nhân vật. Không
để ý nhiều tới cốt truyện, ông tập trung chủ yếu vào việc làm nổi bật các
chi tiết của cảm xúc, tâm trạng con ngƣời, cốt tạo một ấn tƣợng giàu dƣ ba,
ngân vang.
Con so về nhà mẹ, Quê mẹ, Quê bạn là những truyện sinh hoạt mà sức
43
hấp dẫn của nó nằm sâu ở mạch ngầm tự sự, ở sự thụ cảm tinh tế đối với
cuộc sống, ở cái tình ngƣời, tình quê dung dị, mộc mạc và nhất là chiều
sâu, sức gợi của những chi tiết, tâm trạng nhân vật: “Cô Hoa phần nhớ
chồng, phần thƣơng con liền đƣa vạt áo lên chấm nƣớc mắt”, “rồi chiều
chiều gặp những lúc nhàn rỗi, cô lại ra đứng cửa sau vơ vẩn nhìn về làng
Quận Lão. Nhƣng làng Quận Lão ẩn sau đám tre xanh đã kéo một vạch
đen dài trên ven đồi xa thẳm”.
Nhân vật trong truyện ngắn của Thanh Tịnh thƣờng đƣợc tác giả nhìn
ở chiều sâu của tâm linh với các trạng thái tâm lý, cảm xúc, cảm giác. Sự
tồn tại của nhân vật không dựa vào diện mạo, hành động mà nhờ vào chiều
sâu của đời sống tinh thần và ở đây, miêu tả tâm trạng cũng là nhằm khám
phá đời sống tinh thần bí ẩn của con ngƣời. Thanh Tịnh đã đi vào những
cuộc đời hiền lành, lầm lụi mà đáng quý, đáng thƣơng của ngƣời dân quê,
đặc biệt là ngƣời phụ nữ. Đó là những cô gái quê xinh đẹp, dịu hiền, tuy e
dè kín đáo mà kỳ thực đằm thắm thiết tha. Ông không chỉ kể về những mối
tình éo le tuyệt vọng của một cô gái quê, cô lái đò với một khách qua
đƣờng gặp gỡ thoáng qua mà đã đi sâu vào những mảnh đời lam lũ, nhọc
nhằn của ngƣời dân quê với một thái độ cảm thông, trân trọng. Thanh Tịnh
đã có những khám phá tinh tế về vẻ đẹp bình dị của tâm hồn ngƣời phụ nữ
quê hƣơng. Các nhân vật phụ nữ trong truyện của ông thƣờng có một số
phận đáng buồn. Ngƣời nào cũng có một cảnh ngộ, một duyên phận đáng
thƣơng (nhƣ Phƣơng trong Bến Nứa, Duyên trong Bên con đường sắt,
Thìn trong Hội chợ Huế, Hƣơng trong Quê bạn,…) nhƣng cái phần thiên
lương, cái bản tính nhân chi sơ vẫn luôn vƣơn lên một cách ngạo nghễ, đắc
44
thắng bên trên những thăng trầm của số phận.
Cái phần thiên lương trong con ngƣời đƣợc Thanh Tịnh đặc biệt coi
trọng. Trong truyện ngắn của ông, con ngƣời đối xử với nhau thật nhân
hậu. Cái tình người thấm đẫm trong từng trang văn của ông (điều mà
không phải nhà văn, tác phẩm nào trong cùng giai đoạn này cũng có
đƣợc). Cái tình người đó đƣợc thể hiện trong bất cứ hoàn cảnh, trong bất
cứ nhân vật, trong bất cứ quan hệ đối xử nào giữa con ngƣời với nhau.
Ông quan niệm “Tuy là ngƣời khố rách áo ôm, họ cũng vẫn để điều nhân
nghĩa lên trên tất cả” (Con so về nhà mẹ). Quan niệm đó phải chăng đã
đƣợc bắt nguồn sâu xa từ những câu ca dao về lòng nhân nghĩa của ngƣời
dân miền Trung quê ông: “Tôi đến đây mót lƣợng từ bi! Mót điều nhân
chứ mót chi nghĩa
lúa ngài” ?
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Thanh Tịnh còn gắn chặt với
lòng yêu làng xóm, quê hương. Hầu hết các nhân vật của Thanh Tịnh là
những ngƣời dân quê có cuộc sống vật chất và tinh thần gắn bó chặt chẽ
với cộng đồng làng xóm. Và tình quê hương đƣợc nhắc đi nhắc lại một
cách tha thiết trong những truyện ngắn của ông. Đó là một tình yêu hồn
nhiên, có sẵn trong tấm lòng của mỗi con ngƣời nhƣ máu thịt trong cơ thể,
và ngƣời ta biểu lộ tình cảm ấy cũng hồn nhiên nhƣ sự sống hàng ngày.
Quê hƣơng, đó là làng - nơi có ông bà tổ tiên cùng những ngày giỗ tết để
cô Thảo (Quê mẹ) mỗi năm đƣợc về làng vài ba lần; nơi mà mình có thể
nƣơng tựa những lúc khó khăn nhất (Con so về nhà mẹ); nơi tập hợp
những gia đình sum họp đầm ấm vào lúc năm hết tết đến; nơi có những
con đƣờng làng, những miếu thánh, những đống rơm cao chót vót sau luỹ
45
tre già, những câu hò, câu ca ngân dài trên sông nƣớc,…
2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Thanh Tịnh thật giản dị và
quen thuộc. Họ là những ngƣời dân của làng Mỹ Lý, sinh ra tại làng Mỹ
Lý và sống trong không gian làng Mỹ Lý. Họ có thể là những ngƣời con
của làng Mỹ Lý đi sinh sống làm ăn nơi xa nhƣng lúc nào cũng đau đáu
nỗi nhớ quê hƣơng mình. Họ cũng có thể là những cô cậu học trò trọ học
nơi thành thị, nghịch ngợm, thông minh, lãng mạn và đáng yêu nhƣ rất rất
nhiều cô cậu học trò ta thƣờng gặp hằng ngày… Một điều thật đặc biệt, ta
sẽ không thể tìm thấy trong thế giới nhân vật của ông một nhân vật nào
xấu cả. Bởi lẽ, nhƣ trên đã nói, ông rất coi trọng cái phần thiên lương trong
mỗi con ngƣời nói riêng và trong thế giới loài ngƣời nói chung.
a. Dƣới ngòi bút trữ tình của Thanh Tịnh, hình tƣợng nhân vật người
phụ nữ dƣờng nhƣ là tập trung tất cả những gì đẹp đẽ, chân thực nhất của
mỗi con ngƣời, và của cả cộng đồng làng xóm. Với cái nhìn của ngƣời
nghệ sỹ đi tìm cái đẹp, Thanh Tịnh luôn tìm thấy ở họ những đức tính tốt,
những tâm hồn trong sạch. Dù cuộc sống có nghèo khổ, cơ cực, nhƣng bao
giờ tâm hồn họ cũng sáng lên những vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong. Đó là
những cô Phƣơng (Bến Nứa), Thảo (Quê mẹ), Duyên (Bên con đường
sắt), Hoa (Con so về nhà mẹ), Sƣơng (Tình thư), Thìn (Hội chợ Huế),
Hƣơng (Quê bạn), Nhung (Hội ghét đàn bà) …, những chân dung ngời
sáng và đầy sức sống. Ở họ có những nét tính cách chung của những nhân
vật nhƣ mẹ Tuyên (Cuộc sống), Lệ Hà (Người con gái) của Nguyên Hồng,
mẹ thằng Dần (Sống nhờ) của Mạnh Phú Tƣ, cô Khuyên (Ngoại ô) của
Nguyễn Đình Lạp, chị Yên của Hồ Dzếnh, mẹ Lê của Thạch Lam,… Các
46
nhà văn nhƣ không hẹn mà cùng gặp gỡ nhau ở “hình tƣợng ngƣời phụ nữ
Việt Nam, ở cách xây dựng những mẫu ngƣời tốt đẹp gắn với truyền
thống”.
Hình tƣợng người phụ nữ trong truyện ngắn của Thanh Tịnh gây ấn
tƣợng trƣớc tiên là những người thiếu phụ. Đó là những ngƣời phụ nữ thôn
quê có tâm hồn thật bình dị, chất phác. Họ vất vả tảo tần trong năm tháng
để lo cuộc sống cho gia đình, cho con cái, “Nhƣng đời các cô ấy cũng nhƣ
cô, nghĩa là cũng có chồng, có con và quãng đời làm dâu cũng vất vả, cũng
phẳng lặng nhƣ nhau hết” (Quê mẹ). Dù cuộc sống nghèo khổ “cả nhà chỉ
trông vào một mẫu ruộng tranh và hai mẫu ruộng làng để sống năm này
tháng khác”, dù chỉ là những “ngƣời … ít hay chữ”, gọi “tiết trung thu” là
“rằm tháng tám”, nhƣng họ, những cô con dâu nhƣ Thảo vẫn rất biết gìn
giữ lễ giáo gia đình, một hai thƣa gửi khi nói chuyện với mẹ chồng, với
chồng. Tấm lòng ngƣời phụ nữ ấy mới thơm thảo làm sao khi cô là “cô gái
có chồng về nhà mẹ”, ở giữa những đứa em thơ “nụ cƣời trên môi cô
không khi nào tắt”, cô “cho mỗi đứa năm xu”, và chỉ trong nháy mắt cô
“đã phân phát tất cả số tiền cô đã dành dụm trong một năm”. Để rồi sau đó
“về nhà chồng cô Thảo lại làm việc từ mai đến chiều, tối tăm cả mày mặt.
Lúc nào cô cũng nhớ đến mẹ nghèo, đến em thơ, nhƣng nhớ thì lòng cô lại
bùi ngùi, trí cô lại bận rộn”. Những ngƣời phụ nữ đó hàng ngày chèo đò
đƣa thuyền cho khách qua sông, một mình nuôi con thơ khôn lớn (Bến
Nứa). Những ngƣời phụ nữ đó vì thƣơng con, đã không ngại bụng mang dạ
chửa, dù mệt nhọc, sắp đến ngày sinh nở vẫn phải đi mót lúa cho “đỡ cảnh
nghèo ngặt”, vì “cơm ăn bữa đói bữa no, cô nhịn thì đƣợc chứ thấy đàn
con nhịn, lòng cô không nỡ” (Con so về nhà mẹ). Cũng giống nhƣ cô
47
Thảo, cô Phƣơng, ngƣời thiếu phụ tên Hoa trong Con so về nhà mẹ sống
an phận trong cảnh nghèo mà không một lời kêu than oán trách “Chồng cô
cũng nghèo nên cô an phận làm ăn không dám than trách gì”. Đó phải
chăng là những phẩm chất truyền thống của ngƣời phụ nữ Việt Nam đƣợc
truyền lại từ đời này qua đời khác: tảo tần, chịu thƣơng chịu khó, yêu
chồng, thƣơng con, hy sinh cả cuộc đời vì gia đình, chồng con. Con so về
nhà mẹ đẹp nhƣ một bài ca về tình nghĩa vợ chồng. Ở đó, hình ảnh ngƣời
phụ nữ ngời lên nhƣ một tâm điểm của lòng nhân hậu, nghĩa vợ chồng.
Hình ảnh kết thúc truyện thật lắng đọng, gợi trong tâm tƣởng ngƣời đọc
nhiều ý vị, dƣ ba: “Cô Hoa phần nhớ chồng, phần thƣơng con liền đƣa vạt
áo nâu lên chặm nƣớc mắt”.
Nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn của Thanh Tịnh còn là
những cô gái có duyên phận hẩm hiu, lỡ dở trong không gian làng Mỹ Lý
giai đoạn giao thời với những đổi thay mới. Những chuyến tàu đi qua làng
đã phá vỡ không gian vốn bình yên xƣa nay của làng, phá vỡ những tâm
hồn thiếu nữ vốn vẫn yên bình từ thuở cha sinh mẹ đẻ : “… từ ngày nhà
nƣớc bắt con đƣờng sắt đi qua làng mình, trai trong làng ế vợ là thƣờng
chứ con gái thì toàn đi lấy chồng thầy thông thầy ký ở các tỉnh lớn” (Tình
thư). Những con tàu từ phƣơng xa đó đã mang đến cho Sƣơng (Tình thư),
Duyên (Bên con đường sắt) những mối tình lãng mạn với các thầy xếp ga
Xuân, Trƣu. Nhƣng những mối tình đó không vƣợt qua đƣợc sự khắc
nghiệt của không gian, thời gian, hoàn cảnh mà họ đang sống. Những con
tàu đến rồi đi, để lại trong tâm hồn ngƣời con gái nỗi thất vọng mơ hồ về
một sự lỡ làng, dang dở. Tiếng còi tàu hú dƣờng nhƣ xé toang sự yên lặng
tƣởng chừng vĩnh hằng của màn đêm làng Mỹ Lý, chặn đứng niềm hy
48
vọng vừa mới nhen nhúm của ngƣời trinh nữ. Hƣơng trong Quê bạn, Thìn
trong Hội chợ Huế, Rosée trong Rosée lại dang dở theo kiểu khác. Đó là
sự dang dở của những tình cảm mong manh đầu đời. Tình vừa chớm nở đã
phải chia xa. Họ chƣa kịp thề non hẹn biển, mới chỉ là trao nhau những
ánh mắt, nụ cƣời, lời đƣa, ý đón của đôi trai gái mới lớn. Lời văn của
Thanh Tịnh tƣởng nhƣ không thể tinh tế hơn đƣợc nữa: “Trƣa hôm ấy
Tuyên thẫn thờ qua hàng Thìn … Thấy Tuyên qua Thìn ngẩng đầu lên
nhƣng nghẹn ngào không nói đƣợc câu gì”, “… Hôm nay nhớ đến Rosée,
Xuân vẫn thấy lòng buồn man mác”, “… Và từ đó dòng sông Viên phẳng
lặng, đồng làng Mỹ Lý vắng teo, trai bạn đi, lòng Hƣơng bơ phờ nhƣ cảnh
vƣờn hoang chờ gió lạ”. Cái cảm giác mơ hồ, bàng bạc cứ lẩn khuất đâu
đây, dƣờng nhƣ thất vọng, dƣờng nhƣ không.
b. Những người con xa quê là kiểu nhân vật tạo dấu ấn quê hƣơng đặc
biệt trong truyện ngắn Thanh Tịnh. Dù làm ăn sinh sống ở nơi xa nhƣ
Tâm, Thuyên, Đồng hay thoát tục, nƣơng mình nơi cửa Phật nhƣ sƣ ông,
nỗi nhớ quê hƣơng vẫn luôn khắc khoải trong tim họ. Những hành khách
trên chuyến tàu cuối năm cùng một cảnh ngộ “Suốt năm họ ăn cơm quán
ngủ nhà thuê rồi gần Tết họ lại tìm về quê hƣơng của họ”, họ quây quần
trên toa tàu đón Tết, coi đó nhƣ ngôi nhà thân yêu của mình “Vâng, cứ tự
nhiên, nhà chúng tôi cũng nhƣ nhà cô”, “một gia đình gồm những ngƣời
không gia đình đang vui vẻ ăn Tết và đang quay bánh lăn dài trên con
đƣờng sắt”(Chuyến xe cuối năm). Những tiếng “tình quê hƣơng” đƣợc
nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong truyện ngắn của Thanh Tịnh. Bất cứ một
cái gì có gợi lại bóng dáng của quê hƣơng đều khiến lòng những kẻ tha
phƣơng rƣng rƣng: một con đƣờng ven Sài Gòn, một cái miếu thánh, một
49
giọng nói “Đáng lẽ tôi phải cảm ơn hai thầy mới phải. Vì hai thầy đã cho
tôi nghe giọng nói của mẹ tôi xƣa…” (Tình quê hương), hay một cảnh
rừng đào trổ hoa trắng, thuyền ngƣ phủ trở lái về quê đã gợi dậy trong tâm
hồn ngƣời thoát tục bao nỗi buồn nhớ và những hồi ức xa xăm “Dứt đƣợc
cuộc đời phong nhã, không ngờ lòng sƣ phụ còn giây quyến luyến với quê
hƣơng” (Một đêm xuân). Cả những ngƣời dân làm nghề chài lƣới quen
“cắm thuyền bất kỳ đâu” mà “động ai nhắc đến tên làng là lòng họ đã nao
nao” (Làng).
c. Nhà Nho hết thời là những trí thức cuối cùng của nền học vấn cũ,
những ông đồ, ông cử tài hoa nhƣng thất thế, ngơ ngác hoặc ƣơng gàn, cố
chấp trƣớc phong hội mới của thời cuộc. Dƣới giọng văn nhẹ nhàng, dí
dỏm của Thanh Tịnh, họ hiện lên hiền lành, sống trong niềm “hoài cựu”,
ngẩn ngơ nuối tiếc một dĩ vãng chƣa quá xa xôi. Ông chú (Chú tôi) - nhà
Nho lỡ vận tôn thờ chữ Hán đến mức “đi rửa mặt, mặc áo đen dài trƣớc
khi đọc đến chữ Hán. Hay mỗi lần vô ý làm rơi quyển sổ chữ Hán xuống
đất, chú tôi lại lật đật cúi lƣợm lên, rồi kính cẩn đội lên trên đầu gần vài
phút”. Cũng giống nhƣ Thạch Lam gợi lại “những nhà Nho thất thế, lạc
lõng, không vui với thời cuộc… không dám quyết bất cứ một điều gì, suốt
ngày ngồi bên cái ống điếu, ra dáng nghĩ ngợi nhƣng thật ra là không nghĩ
ngợi gì” [73,16], nhân vật nhà Nho của Thanh Tịnh bị ràng buộc khốn khổ
vào cái nếp “giấy rách giữ lấy lề”, ƣơng gàn “ngồi uống rƣợu trƣớc giàn
hoa lý hay chép vần thơ trên một ngọn lá đào” giữa lúc cảnh nhà tiêu điều
sa sút (Con ông Hoàng).
d. “Nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò”. Nhân vật sinh viên, học trò trong
truyện ngắn Thanh Tịnh rất thông minh, nghịch ngợm, lãng mạn và đáng
50
yêu. Các truyện Hội ghét đàn bà, Lầm, Đùa đem đến cho ngƣời đọc cảm
xúc trẻ trung, thoải mái với những trò đùa nghịch của cô cậu học trò trọ
học nơi thành thị. Vì ghét đàn bà mà nhóm “ngũ quỷ” cứ “Nhà hàng nào
có ngƣời đàn bà ngồi bán thì bọn họ nhất định không chịu vào mua một
thứ gì bao giờ”, thậm chí “Trƣớc sân, bọn họ không chịu để cho một thứ
hoa nào mọc dầu là hoa cỏ, vì bọn họ cho tên hoa nào cũng có trùng tên
với những ngƣời con gái” (Hội ghét đàn bà).
e. Thế giới trẻ thơ là sự thành công đặc biệt của truyện ngắn Thanh
Tịnh. Hành trình tìm về với ký ức tuổi thơ của tác giả luôn đƣợc nhìn qua
lăng kính của những đứa trẻ. Đó là một ký ức trong trẻo, hồn nhiên, đầy
ánh trăng và tiếng cƣời: “Tôi còn nhớ rõ ràng, tối hôm ấy là một đêm trăng
về cuối hạ, chúng tôi đang ngồi học trong nhà, … em tôi … nói xong liền
kề má lên trên quyển sách cƣời ngặt nghẽo” (Chú tôi); hoặc: “Đêm ấy
trăng sáng lắm. Mẹ tôi bảo chúng tôi đem ghế ra sân, để học cho mát…”
(Tình thư). Đó là một thế giới có những em bé không may cha mất sớm từ
khi còn bé dại, vẫn hay đòi cha để đƣợc quà bánh (Bến Nứa); lại có bé Li
mới hai tuổi may mắn đƣợc sống trong sự yêu thƣơng đầm ấm của cha mẹ
(Người cha); có những cậu học trò học lớp nhất trƣờng làng lần đầu đƣợc
“ra làng”, đƣợc cái “vinh hạnh đƣợc ngồi trên dân” với đầy đủ những cảm
xúc từ hồi hộp chờ đợi ban đầu đến ngƣợng nghịu, chán ghét (Ra làng); có
những em nhỏ láu lỉnh ghét học chữ Hán, chữ Nho, biết viết hộ thƣ tình
cho chị để lấy tiền công mua lồng chim (Chú tôi, Tình thư); có những đứa
trẻ dù ít tuổi đã sớm khôn, biết giúp ông kéo xe kiếm tiền (Am cu ly xe),
sớm biết thƣơng cảnh nghèo nhà bạn (Con ông Hoàng); có tình cảm chị
em thắm thiết, hồn nhiên nhƣ hai chị em Ba và Tiên (Chị và em); có cảm
51
xúc của cậu học trò thơ dại lần đầu tiên đến trƣờng trong một “buổi mai
đầy sƣơng thu và gió lạnh” với tâm hồn trong veo không một thoáng gợn
(Tôi
II. TIẾNG NÓI KHẲNG ĐỊNH NHỮNG GIÁ TRỊ NHÂN VĂN TRONG
ĐỜI SỐNG CON NGƢỜI
đi học)…
1. Lòng nhân ái xót thương và thái độ trân trọng con người
Đọc truyện ngắn của Thanh Tịnh ngƣời ta dễ dàng nhận thấy sự yêu
thƣơng, trân trọng mà tác giả dành cho những thân phận nghèo khổ, bất
hạnh. Khác với các nhà văn hiện thực che giấu tình cảm thật của mình
dƣới lớp ngôn từ lạnh lùng, tỉnh táo nhƣ Nam Cao, Vũ Trọng Phụng; cũng
không giống với các nhà văn cùng phong cách nhƣ Thạch Lam trải tình
thƣơng từ góc nhìn của một con ngƣời biết mình ở tầng lớp khác (dù là ý
thức hay vô thức), Hồ Dzếnh thì lại là cái tình dồn nén đầy mặc cảm tự ti;
Thanh Tịnh dƣờng nhƣ chất phác, hồn nhiên, trong sáng hơn và do đó
cũng gần gũi hơn với những con ngƣời có số phận không may mắn. Đó có
lẽ cũng là do cái bản chất chân thật, hồn hậu, “Tôi đến đây mót lƣợng từ
bi! Mót điều nhân nghĩa chứ mót chi lúa ngài” của những ngƣời dân
miền Trung, hay ngƣời dân xứ Huế vốn nhiều những câu hò, điệu ca ngân
dài theo tiếng vọng của các dòng sông. Xƣa nay văn chƣơng vẫn đem thân
phận con ngƣời làm cớ để gửi gắm nỗi lòng, bởi văn chƣơng đích thực
không thể ra ngoài vòng tục lụy nhân sinh. Nhà phê bình Hàn Thuỷ khi
bàn về tác phẩm của nhà văn Mai Ninh, đã viết : “…đôi khi ngƣời ta tự
hỏi: có phải văn chƣơng là để chuyên chở nỗi đau về thân phận con ngƣời,
52
hay chính thân phận con ngƣời là cái cớ để làm văn chƣơng? Chỉ biết, văn
chƣơng nhƣ thế có khả năng vừa khơi mở vừa xoa dịu nỗi đau thân phận”
[86]. Không quá chú trọng vào miêu tả những tình tiết, biến cố nghiệt ngã
của cuộc đời con ngƣời nhƣng truyện ngắn của Thanh Tịnh vẫn có khả
năng vừa khơi mở vừa xoa dịu nỗi đau thân phận. Đó là số phận của hai
ông cháu làm nghề kéo xe bên ga Văn Xá trong Am cu ly xe. Dù chăm chỉ,
dù vất vả, nhƣng hai ông cháu vẫn không dễ kiếm đƣợc miếng ăn. Bởi
“Bƣớc chân lên xe ngƣời già mù, thì ngƣời khổ chƣa hẳn là ngƣời phải kéo
mà thật ra là ngƣời đƣợc ngồi. Huống chi ở đây lại phải chịu một cái tội
trông một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui, theo bƣớc chân của
một ông già yếu đuối. Nên nhiều ngƣời thƣơng hại không muốn đi xe.
Nhƣng lòng nhân đạo càng ban truyền ra, ngƣời kéo xe mù lại càng túng
thiếu”. Thật trớ trêu khi tình thƣơng mà con ngƣời trao tặng cho nhau
trong cuộc sống đôi khi lại không mang tới đƣợc lợi ích đích thực. Nỗi đau
dƣờng nhƣ lên đến tột đỉnh khi Thanh Tịnh đẩy cái tình nhân đạo của con
ngƣời vào một hoàn cảnh trớ trêu khác “Có gì đâu, không thấy khách và
muốn ông nó vui lòng, thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe và
dìu ông nó chạy… Nhƣng ông nó vẫn chạy, vì mù quáng, vì đói rách nên
lòng vẫn hy vọng những chuyện không bao giờ có đƣợc. Và biết ra thì
thêm khổ”. Thằng bé non nớt muốn đem hy vọng đến cho ông, ông già mù
thì hy vọng vào điều kỳ diệu, để rồi thật bất hạnh, ông đã chết giữa đêm
lạnh, khi mà “Con đò đã cắt đƣờng qua từ lâu, không đem đƣợc lòng từ
thiện của bến kia qua bao trùm nỗi thảm thƣơng của bờ nọ”. Đó còn là số
phận bi đát do cảnh nghèo của hai vợ chồng bác Diệm trong Ngậm ngải
tìm trầm. Vì muốn cho vợ con đỡ khổ, bác Diệm trai đã ngậm ngải vào
rừng tìm trầm và không may hoá thành nửa ngƣời nửa thú. Nhƣng dù đã
53
hoá thú thì lòng bác vẫn là lòng ngƣời. Bác vẫn nhớ vợ con. Bác vẫn muốn
đƣợc trở về với mái ấm gia đình, bên ngƣời vợ và hai đứa con thơ. Tiếng
rú của con ngƣời hoá thú này chính là tiếng kêu tuyệt vọng, uất hận biết
mình đã vĩnh viễn bị loại ra khỏi cộng đồng loài ngƣời. Còn ngƣời vợ
đáng thƣơng vẫn “âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú […] Bác ôm mặt khóc
rất thê thảm. Con hổ cũng rú lên một hơi dài nhƣ để đáp lại tiếng lòng của
vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn”. Và cuối cùng thì “Dãy núi Truồi từ đó đã
nhƣ một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí của
sơn lâm”. Câu chuyện mang sự bí ẩn của rừng thƣợng ngàn, buồn và thấm
đậm
tình ngƣời.
Hình ảnh ngƣời phụ nữ khát khao hạnh phúc là đề tài đƣợc Thanh
Tịnh quan tâm nhiều. Nhƣ bao nhà văn khác, ông hiểu và thƣơng cảm với
ngƣời phụ nữ Việt Nam bao đời nay vất vả, tảo tần, nhẫn nhịn, hy sinh tất
cả vì chồng, vì con. Họ là những cô Hoa bụng mang dạ chửa sắp đến ngày
sinh nở vẫn đi mót lúa cho đàn con có thêm miếng cơm; những cô Phƣơng
ngày ngày chở đò một mình kiếm tiền nuôi con, mơ ƣớc một hạnh phúc
lứa đôi không thể đến đƣợc nữa; những cô gái nhƣ Duyên, Sƣơng, Hƣơng
với những khát khao tình yêu tuổi trẻ; những bác Diệm gái ngày đêm
ngóng chồng,… Thanh Tịnh đã dành rất nhiều tình cảm trân trọng của
mình cho những ngƣời phụ nữ đáng thƣơng, đáng quý này.
Những tình cảm gia đình nhƣ tình phụ tử, tình chị em ruột thịt, tình vợ
chồng,… thƣờng đƣợc nhắc đến một cách trân trọng trong truyện ngắn
Thanh Tịnh. Hai chị em Ba và Tiên trong Chị và em cũng tinh nghịch nhƣ
54
bao trẻ khác nhƣng rất thƣơng yêu nhau. Tuổi thơ của hai chị em trôi qua
êm đềm với “những buổi gần gụi nũng nịu ở cạnh chị thân yêu, đƣợc cƣời
cợt nhau, trìu mến nhau hay giận dỗi nhau để lại yêu dấu nhau đậm đà hơn
trƣớc”. Nhà của đôi vợ chồng trẻ trong Người cha là “Một thế gian chan
chứa sự thân yêu, nũng nịu và ngây thơ”. Ở đó có bé Li hai tuổi sống trong
sự yêu thƣơng nồng nàn của cha mẹ. Ngƣời cha trẻ hạnh phúc với tình cảm
phụ tử do đứa trẻ mang lại.
Cuộc sống nghèo khổ vất vả đi kiếm ăn phƣơng xa không làm cho
con ngƣời mất nhân tính, trái lại, kéo họ gần nhau hơn, thƣơng nhau hơn.
Đó là cái tình đồng loại của những trai làng nghèo khổ đi làm ăn xa. “Họ
là ngƣời của bốn phƣơng, nhƣng họ gặp và hiểu nhau trong một cảnh ngộ
[…] Vì thế mỗi lần hẹn sang năm gặp nhau thì lòng họ đã đón trƣớc những
nỗi buồn vĩnh biệt” (Quê bạn). Họ là những ngƣời đồng cảnh ngộ, biết
giúp đỡ, biết quý trọng nhau.
2. Trân trọng vẻ đẹp cuộc sống
Truyện ngắn Thanh Tịnh phần nhiều là những chuyện “làng” mang
tên Mỹ Lý. Ở đó có dòng sông, có những bến đò, có bờ sông xanh ngắt cỏ
cây. Có những con ngƣời bình dị với hoài vọng âm thầm, những tình cảm
ngập ngừng, những điệu hò mái đẩy đìu hiu. Quê hƣơng của ông là nơi
chốn của thơ mộng huyền ảo, của những lãng mạn thăng hoa thành ngôn
ngữ. Có mấy ai, không nghĩ về những phƣơng trời cũ, về ngõ lối xƣa khi
tiếp nhận những hình ảnh ấy, tầm thƣờng quen thuộc nhƣng lại gợi biết
bao nỗi niềm. Truyện của Thanh Tịnh thƣờng bắt đầu từ những câu ca
quen thuộc, nhƣng bao giờ cũng là những câu ca dao buồn, gợi nỗi niềm
ly biệt :
55
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
(Bến Nứa)
Rồi mùa toóc rạ rơm khô
Bạn về quê bạn biết mô mà tìm
Thuyền về Đại Lƣợc
(Quê bạn)
Duyên ngược Kim Long
Đến đây là chỗ rẽ của lòng,
Gặp nhau còn biết trên sông bến nào
(Tình trong câu hát)
Có lẽ Thanh Tịnh đã mƣợn cái không gian cổ điển của văn hoá dân
gian với dòng sông, con thuyền, đêm trăng, mùa gặt, mảnh sân nhà, câu hò
điệu hát… để đẩy đến không gian hiện đại bằng cảm hứng lãng mạn. Bên
cạnh những câu ca dao đó là những câu hò mái nhì mái đẩy vừa tình tứ lại
vừa đau đớn. Lòng yêu thƣơng tha thiết, cùng với tố chất của một nghệ sỹ
tài hoa, đã giúp Thanh Tịnh trở thành ngƣời “thẩm âm” xuất sắc khi nghe
những câu hò trao qua đáp lại trên sông. Đây là vẻ đẹp của một giọng hò :
“Vì cũng một giọng hò trong trẻo và hơi dai, câu dứt gọn và đƣa xinh nhƣ
sƣơng toả” (Tình trong câu hát). Những câu hát, điệu hò của ngƣời đi
thuyền trên sông bao gồm rất nhiều câu chuyện đời thƣờng, nhƣng hay
nhất vẫn là những câu chuyện tình. Những câu chuyện đó “thu gọn trong
câu hò mái đẩy, văng vẳng kéo dài nhƣ tiếng chuông ngân quyến gió bay rỉ
rền nhƣ tiếng nức nở của vọng phu”. Trong một cuộc nói chuyện với nhà
văn Nguyễn Minh Châu, Thanh Tịnh đã nói về những câu hò quê ông :
“Mối dây liên lạc từ bến nƣớc đến tâm tình – là con đò chắp nối hai bờ, là
56
con thuyền đi về trăm bến. Từ đó có giọng hò cho đêm đỡ vắng, phá đỡ
rộng, sông đỡ dài. Đúng nhƣ anh nói, phần lớn thơ văn của tôi đều bắt
nguồn từ trong giọng hò, câu hát trên sông quê. Vì giọng hò này nhẹ
nhàng, man mác, tả nỗi nhớ nhung bồi hồi, xao xuyến nhƣng cũng rất lƣu
luyến, sôi nổi, lại đƣợm nỗi buồn xa xăm. Vì sự thật tiếng hò ấy, khúc tâm
tƣ ấy không chỉ nói với ngƣời lƣớt trên sông, với ngƣời ở rải rác hai bên
bờ mà chính là nói với mình. Cho nên “hờ…ơ” có khi dài nhƣ giải lụa
điều, nhƣ tà áo nối, nhƣ tiếng chuông chùa hay nhƣ tiếng thở dài […] Anh
thấy không, trong điệu hò ở Huế có nét nổi bật là tƣởng nhƣ dừng lại tiếp,
tƣởng nhƣ hết lại nối, nói lên sự mong chờ, khắc khoải, rắc rối, bơ vơ chƣa
có dấu hiệu gì ổn định cả” [61].
Truyện ngắn Thanh Tịnh tràn ngập ánh trăng. Với ông, không gian
đêm trăng là là không gian lý tƣởng cho những bày tỏ kín đáo nhất, e ấp
nhất, chân thực mà mãnh liệt nhất của con ngƣời. Dƣới ánh trăng mênh
mông trải trên cánh đồng, dòng sông, sân nhà, lối ngõ, ngƣời dân quê có
dịp phơi bày cuộc sống nội tâm của mình, những lúc ấy họ vừa sôi nổi,
vừa dịu dàng, khắc hẳn thƣờng ngày. Dƣới ánh trăng, làng có một vẻ rất
bình yên, với những con ngƣời nhỏ nhẹ, dịu dàng. Dƣờng nhƣ làng chƣa
hề phải chứng kiến và trải qua một khủng hoảng nào đáng kể, chỉ có
những nỗi éo le không tránh khỏi của từng số phận con ngƣời. Truyện của
Thanh Tịnh thƣờng mở đầu bằng những câu: “Đêm ấy trăng sáng lắm”
(Tình thư); “Ở vùng quê một đêm trăng” (Quê bạn); “Tôi còn nhớ rõ hôm
ấy là một đêm trăng về cuối hạ” (Chú tôi);… hoặc mở đầu cho sự giãi bày
tâm sự, cởi mở cõi lòng bao giờ cũng là cảnh: “đám mây đen dày đặc đã
nứt nở ra dần, để lọt một thứ ánh sáng xanh rờn của mảng trăng cuối thu”
57
(Bến Nứa); “Đêm hôm ấy trăng sáng vằng vặc” (Con so về nhà mẹ);
“Trăng đã lên cao sau đồi cát trắng” (Tình trong câu hát); “Mảnh trăng
trong lúc ấy đã bắt đầu chiếu ánh sáng dịu dàng qua hàng tre trƣớc cổng”
(Quê mẹ);… Dƣới ánh trăng bao dung và vô tƣ, ngƣời ta nói đƣợc với
nhau những điều không thể nói vào lúc khác: cô Hoa bàn với chồng việc
mình sẽ sinh con ở đâu (Con so về nhà mẹ); cô Sƣơng giãi bày mối tình
thầm kín của mình (Tình thư); cô Thảo xin phép chồng về ăn giỗ (Quê
mẹ); …
3. Nhìn về quá khứ với nỗi niềm nhớ tiếc sâu nặng
Có lẽ, Thanh Tịnh đã có một tuổi thơ bình yên, trong sáng, do đó
truyện của ông dƣờng nhƣ đƣợc cất lên từ ký ức, từ những hồi tƣởng miên
man về dĩ vãng. Đó là một ký ức tràn ngập ánh trăng thanh bình: “Đêm ấy
trăng sáng lắm. Mẹ tôi bảo chúng tôi đem ghế ra sân, để học cho mát…”
(Tình thư). Ông thƣờng bắt đầu sự hồi tƣởng bằng lối kể chuyện đủng
đỉnh, dân giã của những ngƣời gặp lúc thanh nhàn ngồi “ôn cố tri tân”:
năm ấy, hồi ấy, đêm ấy, ngày ba mươi tết năm ấy… Dĩ vãng thật đẹp và đã
qua, dƣờng nhƣ không bao giờ trở lại nữa, bởi Thanh Tịnh luôn nhìn về nó
với một sự nuối tiếc: “Đến nay, quãng đời xƣa không còn nữa, mất đi nhƣ
cảnh sáng đẹp trong giấc nằm mơ. Ngày xanh tƣơi của tuổi thơ chỉ để lại
trong lòng ngƣời một sự tiếc thƣơng, ngậm ngùi và êm ái” (Chị và em).
Hình ảnh ông đồ của thơ Vũ Đình Liên hình nhƣ cũng thấp thoáng
trong ngôn ngữ và hình tƣợng văn chƣơng của Thanh Tịnh. Những ông đồ
Nho của một thời thất thế. Nhƣ hình ảnh ông Hậu con ông Hoàng chủ
nhân của một dinh cơ nguy nga một thời lừng lẫy phải viết câu đối Tết ở
phiên chợ cuối năm để sinh nhai, dù “chữ ông ta viết đẹp lắm” nhƣng chỉ
58
là hình ảnh gợi trí tò mò của những lũ trẻ con xúm nhau vây quanh nhìn
ông ta viết một cách lơ đãng không hứng thú. Hay nhƣ nhân vật trong Chú
tôi, một thầy đồ của thời cũ sót lại, với những câu văn hoa buồn cƣời và lối
sống hủ lậu đang dần dần tàn tạ. Trong buổi giao thời, mọi giá trị bị thay
đổi. Nhƣng trong lòng những tâm hồn hoài cổ chắc không tránh khỏi nỗi
ngậm ngùi. Tấm lòng hoài cổ phát xuất từ niềm yêu thƣơng quê hƣơng tha
thiết đã tạo thành nỗi rung động cho ngƣời đọc.
Thời gian qua đi, dù thời thế xoay vần lƣu chuyển, với bao nhiêu
ngƣời, vẫn còn âm vang vẳng lại những câu tập đọc của bài Tôi đi học, vỡ
lời văn trong sáng và quá cảm động, dù nội dung chỉ là lời tự sự của một
cậu bộ nhà quờ, ghi lại cảm giỏc của mỡnh trong buổi học đầu đời ở
trƣờng làng. Hồi ức của Thanh Tịnh nhƣ cũn nguyờn nếp, khụng hề sờn
phai vỡ ụng viết khi rời trƣờng mẹ để bƣớc vào đời. Buổi mai ấy, một buổi
mai đầy sƣơng thu và gió lạnh…
Thanh Tịnh có những trang viết về tuổi học trò vẽ lại đƣợc một thời
kỳ đã qua với nhiều sinh động. Đó là ngôi làng Mỹ Lý trong thời gian
mới cũ giao thời. Chữ Nho cổ xƣa dần dần đƣợc chữ Pháp và Quốc ngữ
thay thế. Phong tục trong làng cũng theo thời mà thay đổi. Những trƣờng
học mái ngói đỏ au dần dần đã thay đổi những lớp ê a câu Tam Tự Kinh,
những thầy giáo, những ông đốc mang ánh sáng văn minh đến tuổi học trò
đã thay thế những cụ đồ già của thời cổ xƣa ngồi trên phản ôm xe điếu với
những câu chi hồ giả dã. Những đứa trẻ lớn lên, say sƣa với những biểu
tƣợng của thời đại mới, thích thú với những cầu thủ của Đội ban quê, nhìn
những chuyến tàu đi qua làng với cái háo hức tìm kiếm từ phƣơng xa
mang lại. Lúc ấy, đã xa lắm những lề tục hủ lậu, và đời sống đã có những
59
cựa mình thay đổi. Những màn cúng tế, những buổi họp làng họp tổng
không còn là nỗi chú tâm của tuổi thơ. Háo hức với sự thay đổi nhƣ thế,
tâm lý con ngƣời nhƣ bị những lực đối kháng. Một mặt, chê bỏ những điều
cũ kỹ, nhƣng một mặt vẫn thấy bâng khuâng ngậm ngùi trƣớc những vần
III. ĐI VÀO KHÁM PHÁ ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA CON NGƢỜI
TRONG MỌI MẶT CỦA CUỘC SỐNG, THỂ HIỆN CHẤT NHÂN VĂN
TINH TẾ VÀ CAO CẢ
xoay thay đổi.
Cũng giống những nhà văn cùng phong cách khác, Thanh Tịnh quan
tâm nhiều tới việc phơi bày đời sống nội tâm tinh tế, phong phú của nhân
vật. Những biến cố, sự kiện bề ngoài của cuộc sống chỉ là cái cớ cho sự
bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Ông viết về những việc thông
thƣờng, nhỏ nhặt, cỏn con trong tập tục, sinh hoạt của chốn hƣơng thôn
miền Trung với chất liệu dung dị, tƣởng nhƣ không có gì đáng nói, đó
không phải là những tình huống cô đặc, chói sáng để tạo nên những bùng
nổ giàu kịch tính mà đơn giản chỉ là những lát cắt, những khoảnh khắc của
cảm xúc và tâm trạng. Đằng sau những hiện tƣợng tƣởng nhƣ bình thƣờng,
nhỏ bé bao giờ cũng nhƣ ẩn chứa cả một thế giới bao la, âm ỉ những cảm
xúc, những khát vọng, những nỗi vui buồn, những suy tƣ, chiêm nghiệm.
Điểm làm nên sự riêng biệt trong truyện ngắn của Thanh Tịnh so với
các nhà văn trữ tình nói riêng và các nhà văn thuộc phong cách khác nói
chung, đó là ông chú ý đến việc miêu tả đời sống nội tâm của người dân
thôn quê. Thông thƣờng ngƣời ta cho rằng ở những con ngƣời có đời sống
hiện thực đơn giản, chất phác nhƣ những ngƣời dân quê thì đời sống tâm
60
hồn của họ cũng đơn giản, mộc mạc. Họ sẽ khó mà có đƣợc một cuộc sống
nội tâm phức tạp, tinh tế, nhiều ngóc ngách, lắm bí hiểm nhƣ của những
ngƣời dân thành thị đƣợc tiếp xúc nhiều với xã hội văn minh, càng không
thể bằng đƣợc những ngƣời có học, hay các nhà trí thức lắm kiến thức sách
vở. Họ chỉ cần lo sao cho cuộc sống đủ cơm ăn áo mặc chứ ít khi quan tâm
đến đời sống tinh thần của mình, với họ dƣờng nhƣ không có cả cái khái
niệm về đời sống tinh thần đó. Cái phức tạp trong tâm hồn con ngƣời đƣợc
Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Châu, Khái Hƣng, Nhất Linh… miêu tả
thƣờng là ở những nhân vật trí thức, những con ngƣời của đời sống thành
thị, những học trò, nhà văn,… - tức là những con ngƣời ít nhiều có học
thức. Với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, ngƣời nông dân chỉ đơn giản
là những anh Pha, chị Dậu - những ngƣời nông dân nghèo khổ bị áp bức
bóc lột bởi các thế lực cầm quyền trong một xã hội đen tối. Hiếm có đƣợc
những hình ảnh ngƣời nông dân đƣợc nhà văn quan tâm tới đời sống tâm
hồn nhƣ Chí Phèo, Tƣ Cách Mõ, Lang Rận,… trong thế giới của Nam Cao.
Nhƣng nhà văn Nam Cao cũng chủ yếu quan tâm tới việc phân tích, lý giải
sự tác động của xã hội, của môi trƣờng bên ngoài góp phần tạo nên, hoặc
biến đổi nhân cách, phẩm giá của một con ngƣời, thậm chí có thể quyết
định sự sống chết của con ngƣời đó nhiều hơn là đi vào phân tích đời sống
nội tâm của họ. Về bản chất, nhân vật nông dân của Nam Cao là những
ngƣời hiền lành, lƣơng thiện, nhƣng hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh cuộc
sống, các thiết chế của xã hội, áp lực của cuộc sống đã biến họ thành
những con ngƣời có nhân cách khác. Và Nam Cao chọn những sự kiện,
những điểm nút trong diễn biến truyện làm cao trào để diễn tả, lý giải sự
thay đổi đó. Ở Chí Phèo, đó là sự biến đổi sau cuộc rƣợu buổi chiều của
anh ta với kẻ tri kỉ cuồng - Tự Lãng, sau cuộc gặp buổi đêm với kẻ tri âm
61
của đời anh ta - Thị Nở, và sáng hôm sau Chí tỉnh, tỉnh khỏi cơn say mênh
mông suốt đời, tỉnh khỏi kiếp sống sinh vật, kiếp sống không phải của con
ngƣời. Ngƣời nông dân của Thanh Tịnh thì khác. Dù họ không có học, dù
cuộc sống hiện thực của họ rất đơn giản, dù những hiểu biết về xã hội của
họ cũng ít ỏi nhƣ bao ngƣời nông dân Việt Nam khác nhƣng họ vẫn có một
đời sống nội tâm phong phú và tinh tế. Những cô Duyên (Bên con đường
sắt) vẫn tinh tế đến thế này khi biết ngƣời dân làng coi thƣờng mình: “Vì
cô chán biết không ai muốn tin tấm lòng nhi nữ lại có thể ẩn đƣợc thanh
bạch trong tấm lều tranh mục nát. Nhƣng lúc cô vừa đặt mình xuống
giƣờng thì tự nhiên hai mắt cô lại chan hoà nƣớc mắt.”; cô Thảo (Quê mẹ)
biết nhắc chồng một cách bóng gió, xa xôi, tế nhị: “Cô tự nghĩ nhắc chồng
ngày giỗ ở nhà mình là một việc chƣớng lắm. Thật tự nhiên để cho chồng
nhớ thì lại hơn”; cô Hoa (Con so về nhà mẹ) khi biết chiều lòng chồng:
“Và thấy chồng nói chuyện may rủi với giọng say sƣa, cô cũng không
muốn đến gieo sự buồn nản”…
Một đêm xuân kể về tâm trạng ngƣời tu hành trong những khoảnh
khắc giao thời giữa năm mới với năm cũ ở một cái am nhỏ trên núi cao:
“Giữa một trái núi bốn mùa mây phủ, một mái am tranh nƣơng nhẹ mình
trên một toà đá cheo leo. Chung quanh là đất thẳm trời xa mờ mịt vây tròn
trong cảnh mông mênh của gió lộng”. Cảnh “thuyền ngƣ phủ đã trở lái về
quê hƣơng” và cảnh “rừng mai sau triền núi Thệ hôm nay cũng trổ hoa
trắng cả trời” đã gợi dậy trong tâm hồn trầm lặng của nhà sƣ già bao nỗi
buồn nhớ tƣởng chừng đã ngủ yên sau những năm tháng tu hành “Dứt
đƣợc một cuộc đời nhọc nhằn, đen tối, không ngờ lòng sƣ phụ còn giây
quyến luyến với quê hƣơng”. Con ngƣời đã rời xa cuộc sống trần tục,
62
nƣơng náu nơi cửa Phật lâu nay, bao đêm gõ mõ tụng kinh trong am nhỏ
trên triền núi vắng ngƣời, tâm hồn tĩnh tại trƣớc thời cuộc, chỉ biết làm bạn
với quyển kinh, tràng hạt, với cỏ cây, mây núi, chim chóc, mà giờ đây
“lòng sƣ cụ tự nhiên thấm đƣợm một nỗi buồn man mác. Bao nhiêu kỷ
niệm xa xăm về Tết đều sống lại vơi đầy trong lòng sƣ cụ. Sƣ cụ muốn
quên, cố quên thì những ý nghĩ ấy lại nảy nở dồi dào và rõ ràng hơn nữa.
Sƣ cụ buồn. Một thứ buồn lạ lùng trên gƣơng mặt chỉ biết bình tĩnh và
trầm ngâm”. Cái triết lý sắc sắc không không nhà Phật dƣờng nhƣ cũng lui
bƣớc trƣớc khoảnh khắc này, khi mà trái tim ngƣời tu hành cũng giống
“Muôn ngôi sao đang run rẩy trên tầng không”, khi mà lòng ngƣời với
cảnh vật nhƣ hoà quyện vào một, “Trƣớc mái am tranh cây sơn trà ngập
ngừng thả rơi từng chiếc lá một”. Vậy là quê hƣơng, gia đình, “những vụn
đời xa cách” đã trở về trong tâm trí nhà sƣ trong thời điểm giao thời, khi
đất trời đang chuyển mình đón một cuộc sống mới. Tâm hồn con ngƣời
quả nhiên không dễ hiểu. Trong một giây phút, một khoảnh khắc, hiện tại
quen thuộc lại dƣờng nhƣ trở nên xa lạ, nhƣờng chỗ cho những hồi ức xa
xăm, nỗi khát khao mong chờ những khuôn mặt thân quen trong quá vãng.
Ngƣời tu hành tƣởng nhƣ đã quen làm bạn với nỗi cô đơn, đã tự lựa chọn
cuộc sống cô đơn cho bản thân mình bỗng nhiên thấy mình cô đơn hơn bao
giờ hết “ Xa xa trên đồi liễu có vài ngọn lửa hồng đang tƣng bừng bùng
cháy. Nhƣng vài ngọn lửa ngàn không sƣởi nổi cả một trời sƣơng”.
Tình trong câu hát “là lối giới thiệu ngầm của hai tâm hồn xa lạ, hay
mẩu chuyện đời góp nhặt kể cho nhau nghe” để tìm “tình đời giữa dòng
sông”. Truyện chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của một lần gặp gỡ trên sông
giữa Đạt - một ngƣời goá vợ - với một con thuyền lạ. Đi với nhau một
quãng sông, thổ lộ cảnh ngộ, tâm tình bằng những câu hát, đến ngã ba
63
sông đôi thuyền đôi ngả “lẳng lặng cách ra xa dần nhƣ rẽ quạt”. Giữa cái
khung cảnh đã cũ của cuộc đời sông nƣớc, đã “làm chứng cho việc tình
xƣa”, bất chợt tâm hồn Đạt bỗng bàng hoàng, thao thức trƣớc giọng hò
Vĩnh Trị mà chàng đã nghe quen - giọng hò của ngƣời cùng làng với vợ
chàng xƣa. Đạt đã cất tiếng hò, không phải vì thói quen thƣờng ngày mà vì
lòng chàng thấy rung động. Những câu hò trao đổi qua lại đã không còn vẻ
bình thƣờng vô tƣ, và ngƣời hò không còn hồn nhiên diễn tả “nỗi cô đơn
của lòng họ” nữa. Khi mới bắt gặp chiếc thuyền ai đang “rẽ nƣớc giống hệt
với thuyền Liên”, lòng Đạt đã “bồi hồi một cách lạ”, Đạt “kéo thêm một
buồm nữa để đuổi theo và chính Đạt cũng không biết để làm gì” - một
hành động dƣờng nhƣ vô thức. Đến trƣớc ngã ba sông, khi con thuyền kia
quay mũi phía Kim Long, Đạt đã lƣỡng lự một chút, nhƣng rồi lại “đƣa tay
đẩy mạnh đòn bánh lái cho thuyền xuôi về Đại Lƣợc”. Hành động này vừa
nhƣ vô thức, vừa nhƣ có ý thức. Duyên mà câu hò trên sông đƣa lại cũng
đến lúc phải chia biệt. Cảnh giã biệt nơi ngã ba sông đã không chỉ là cảnh
từ biệt của những con thuyền xa lạ nữa mà nó là “Đến đây là chỗ rẽ của
lòng / Gặp nhau còn biết trên sông bến nào”, câu hò quen thuộc đã khiến
cho Đạt “tự nhiên thấy nghẹn ngào trƣớc cảnh biệt ly. Nhớ đến Liên, nhớ
đến ngƣời bạn mới trong đêm, Đạt gục đầu ôm mặt khóc rƣng rức”.
Đọc xong Bến Nứa, gấp trang sách lại, ngƣời ta nhƣ vẫn nghe văng
vẳng bên tai câu gọi đò của Phƣơng “Ai về Viễn Trình thì xuống mà về”.
Câu gọi đò tƣởng chừng bâng quơ mà dồn nén, chứa đựng biết bao đợi chờ
khắc khoải, bao hy vọng mỏng manh và đau đớn không cùng trong lòng
ngƣời thiếu phụ. Cuộc gặp gỡ tình cờ với ngƣời khách trẻ đi đò một đêm
mƣa cuối thu đã khiến lòng Phƣơng không còn hoang vắng nhƣ xƣa, từ khi
ngƣời chồng phận yểu đã không may bỏ cô lại một mình với đứa con thơ.
Cảnh trời đất vắng vẻ, mƣa gió hôm đó khiến lòng cô lái đò tự nhiên “lạnh
64
lẽo và buồn man mác”. Ngƣời khách đi đò bạo dạn, trẻ trung nhƣ đến từ
một thế giới khác đã mang chút lửa sƣởi ấm cho Phƣơng, “Phƣơng cũng
không hiểu tại sao, tối hôm nay lòng Phƣơng lại rạo rực tê mê nhƣ đống
tro tàn men hơi lửa”. Những câu nói vô tình của đứa trẻ thơ đã khiến hai
ngƣời xích lại gần nhau hơn, khiến tình đời, tình ngƣời hoà quyện vào với
nhau, “Dƣới ánh trăng, gƣơng mặt của Phƣơng trông hồng hồng tƣơi xinh
nhƣ bằng sáp. Lòng Thảo hồi hộp sẽ nhƣ cánh bƣớm”. Tình chợt đến, chợt
đi. Tất cả cũng chỉ gói gọn trong một chuyến đò mà thôi. Lòng ngƣời thiếu
phụ trở lại buồn vắng nhƣ trƣớc. Nhƣng dƣờng nhƣ cũng đã có sự thay đổi
trong cái buồn vắng của ngƣời thiếu phụ. Thời gian trôi qua, đứa con thơ
giờ đã khôn lớn, nhƣng đêm nào chèo thuyền qua bến Nứa, Phƣơng cũng
lại cất tiếng gọi: “Ai về Viễn Trình thì xuống mà về”, dù đáp lại lời cô “chỉ
có tiếng chuông chùa Đồng Tâm ngân dài trên mặt nƣớc”. Không gian
vẫn nhƣ xƣa : khúc sông dài từ “chợ lá làng Thiên” đến làng Viễn Trình -
một lịch trình bất biến của con thuyền chở khách, tiếng chuông chùa Đồng
Tâm, câu gọi mời khách đi đò…, nhƣng đồng thời cũng có cảm giác
dƣờng nhƣ tất cả đã không còn nhƣ xƣa nữa, bởi thời gian đã thay đổi, và
lòng ngƣời cũng đã thay đổi. Sự thay đổi đó diễn ra rất âm thầm, lặng lẽ,
day dứt. Cái ƣớc mơ, mong ngóng, hy vọng trong câu gọi mời khách của
ngƣời thiếu phụ ngày một ít dần đi, nhƣờng chỗ cho nỗi khắc khoải vô
65
vọng, đau đớn ngày một lớn dần lên.
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH QUA MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
I. CHẤT THƠ NHƢ MỘT ĐẶC ĐIỂM BAO TRÙM TRUYỆN NGẮN
THANH TỊNH
Những truyện ngắn của Thanh Tịnh tràn ngập ý thơ, với một tâm hồn
vừa lãng mạn vừa sâu sắc. Một thế giới đƣợc tạo dựng lại với sự rung cảm
tột độ khi diễn tả. Đúng nhƣ Thạch Lam nhận xét, mỗi truyện ngắn của
Thanh Tịnh là một bài thơ. Thanh Tịnh có một hồn thơ lai láng, ngọt ngào,
man mác trữ tình, “thứ tình êm dịu, nhẹ nhàng, thứ tình của những ngƣời
dân quê đôn hậu Trung kỳ, diễn ra trong những khung cảnh sông nƣớc,
đồng ruộng” (Vũ Ngọc Phan). Truyện của ông trở đi trở lại cái làng Mỹ
Lý, nơi có con sông hiền lành lặng lẽ chảy quanh, nơi có những cánh đồng
thơm mát và những tiếng hò của bạn gặt, bạn chài vẳng trên sông nƣớc.
Bức tranh thiên nhiên trong truyện của ông thật thi vị, thật thơ mộng.
Thạch Lam đã thật tinh tế khi viết về ông bằng một hình ảnh: “ Thanh
Tịnh đã muốn làm ngƣời mục đồng dƣới bóng tre thổi sáo để ca hát những
đám mây và những làn gió lƣớt bay trên cánh đồng, ca hát những vẻ đẹp
của đời thôn quê”.
1. Làng quê xứ Trung kỳ Việt Nam hiện lên trong truyện ngắn của
Thanh Tịnh thật đẹp và yên bình: “Gió thổi trên đồng lúa chín, dạt dào nhẹ
và khô. Bên kia đồng tiếng hò đạp nƣớc còn văng vẳng ran lên giữa bóng
66
chiều sắp tắt. Tiếng hò rời rạc và buồn buồn nghe nhƣ đàn ve xám thả
giọng ngân rền cuối hạ” (Con so về nhà mẹ), “Đƣờng đi khúc khuỷu chạy
dọc một mé sông An Cựu và vƣơn qua nhiều đám ruộng sắn xinh tƣơi. Gió
thổi đều đều trong ngọn cây và rung nhẹ những tia nắng nhạt” (Lầm),
“Một buổi chiều vàng rộng mênh mông” (Tình trong câu hát),… Ta có thể
cảm đƣợc cái thanh bình, cái yên ả của làng quê Việt Nam với những cánh
đồng lúa mênh mông, với những luỹ tre xanh ken dày, với những dòng
sông yên ả và tiếng hò mái nhì, mái đẩy của bạn chài ngân dài vọng về.
Bức tranh cảnh làng quê này càng thêm thi vị vào những đêm có trăng, khi
bầu trời đêm chỉ còn trăng ngự trị, khi mà trăng rộng lƣợng ban phát cái
ánh sáng dịu dàng, thanh thơi khiến cho cảnh vật thêm thơ mộng và tâm
hồn con ngƣời thêm nhẹ nhõm, khoáng đạt, xoá nhoà đi những ƣu lo,
phiền muộn, vất vả lúc ban ngày: “Phía trƣớc cổng, cách hàng rào tre thƣa
lá là cánh đồng mênh mông chạy dài đến chân trời xa thẳm. Phía ấy trăng
tuôn xuống thảnh thơi và tràn ngập cả con sông đào đang uốn mình vƣơn
qua đồng lúa rộng” (Con so về nhà mẹ), “Ánh trăng êm dịu xuyên qua mấy
tàu lá chuối rồi nhẹ toả trên chiếc bàn chúng tôi mấy bóng đen lớn luôn
luôn xao động. Mùi hƣơng bên giàn hoa lý bay ra thơm ngào ngạt” (Tình
thư), “Mảnh trăng trong lúc ấy đã bắt đầu chiếu ánh sáng dịu dàng qua
hàng tre trƣớc cổng” (Quê mẹ), “Ở vùng quê một đêm trăng. Gió thổi đều
đều qua ngọn cây và lay nhẹ những tàu lá xám. Trăng sáng, và trời không
mây”, “Trời càng khuya trăng càng tỏ. Tiếng nói qua lại dịu dần cho đến
lúc câu chuyện thành nhạt nhẽo vô duyên thì ai nấy đều im tiếng. Cảnh vật
của trời đêm lặng lẽ bao vây giấc ngủ say sƣa của mọi ngƣời” (Quê
67
bạn),… Truyện của Thanh Tịnh tràn ngập ánh trăng, nhƣng tài tình là ở
chỗ trăng đã đƣợc ông thổi hồn ngƣời nên nó không chỉ còn là ánh sáng tự
nhiên của thiên nhiên nữa. Nó đã mang tâm trạng con ngƣời. Trăng trong
Ngậm ngải tìm trầm đã không còn vẻ thanh bình, nó mờ ảo, ma quái bao
trùm cảnh vật, nó khiến cho lòng ngƣời thêm hoang mang, lo sợ trƣớc sự
huyền bí, kỳ lạ của núi rừng thƣợng ngàn mà trí tuệ con ngƣời còn chƣa
hiểu hết đƣợc: “giữa một đêm trăng mờ cuối thu, bác Diệm gái bỗng nghe
tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não”, “ánh trăng thu giây bụi
vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con ngƣời kỳ dị lại làm bác gái
giật mình”, “trong bầu ánh sáng nhạt, nhuộm sƣơng khuya”, “con vật quay
mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh
nhạt”… Và trăng của tình yêu nam nữ cũng lãng mạn, cũng bâng khuâng,
hồi hộp nhƣ ngƣời trong cuộc : “Mặt phà rộng mênh mông lấp loáng ánh
trăng vàng, trăng rất đẹp. […] Trong đám sƣơng mờ óng ả ánh trăng, hai
chiếc thuyền lẳng lặng cách xa dần nhƣ rẽ quạt” (Tình trong câu hát),
“Đêm hôm ấy trăng sáng vằng vặc và trên trời không hề bợn một chút
mây” (Rosée)…
2. Thanh Tịnh đã đƣa rất nhiều những câu hò, câu ca dao dân gian
vào trong truyện ngắn của mình. Ta có thể bắt gặp những câu ca chứa đầy
nhạc điệu đó ở đầu, ở giữa hoặc thậm chí ở cuối truyện: “Đi đâu cho thiếp
đi cùng / Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam” (Bến Nứa); “Chiều chiều
ra đứng cửa sau / Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Quê mẹ); “Tôi
đứng đầu giƣờng / Tôi trƣơng mắt ếch / Tôi đây sợ sệt / Tôi đây sợ sệt / Sợ
họ gặt hết lúa đồng đi! / Tôi đến đây mót lƣợng từ bi! / Mót điều nhân
68
nghĩa, chứ mót chi lúa ngài” (Con so về nhà mẹ); “Thuyền ai trôi trƣớc /
Cho tôi lƣớt đến cùng / Chiều đã về trời đất mung lung / Phải duyên thì
xích lại cho đỡ não nùng tiếng sƣơng - Trời một vùng đêm dài không bạn /
Mƣợn gió chiều hỏi bạn ngàn sông / Thân em là gái chƣa chồng / Tơ
duyên có chắc nhƣ dòng nƣớc không? - Tình về Đại Lƣợc / Duyên ngƣợc
Kim Long / Đến đây là chỗ rẽ của lòng / Gặp nhau còn biết trên sông bến
nào” (Tình trong câu hát); “Rồi mùa toóc rạ rơm khô / Bạn về quê bạn biết
mô mà tìm” (Quê bạn);… Bản thân mỗi câu ca đó đã là một câu thơ chứa
đựng những tâm tình của lòng ngƣời muốn giãi bày, chia sẻ. Ở những chỗ,
thời điểm mà ngôn ngữ trực tiếp khó diễn tả đƣợc hết tâm trạng con ngƣời
thì Thanh Tịnh đã dùng những câu ca để thay thế, để nói hộ.
3. Truyện của Thanh Tịnh là những truyện thiên về tình cảm. Ông sử
dụng nhiều đoạn văn trữ tình để tả tâm trạng nhân vật. Lúc là cái bối rối,
rạo rực của lòng ngƣời thiếu phụ cô đơn trƣớc tình mới: “Phƣơng chống
cằm vơ vẩn nhìn mấy thửa ruộng chạy dài hai bên bờ sông, lòng hơi thổn
thức. Phƣơng cũng không hiểu tại sao, tối hôm nay lòng Phƣơng lại rạo
rực tê mê nhƣ đống tro tàn men hơi lửa” (Bến Nứa); lúc là cái nao nao
buồn của ngƣời tu hành trƣớc thời khắc giao thoa của đất trời: “Đoạn sƣ cụ
quỳ trên chiếu cỏ cố thành tâm tụng niệm để quên những chuyện xa xƣa.
Một sự thầm tiếc thoáng qua lòng, sƣ cụ đã vội vàng đánh mõ khua
chuông để che lấp […] Nhƣng một luồng gió lạnh lọt qua khe cửa và
thoáng chạy lồng trong chiếc áo rộng tay. Sƣ cụ miên man nghĩ đến những
vụn đời xa cách […] Một luồng máu lạnh nhƣ đến tràn ngập trong lòng và
bắt sƣ cụ tê mê một lúc. Sƣ cụ lo lắng quay vào trong am” (Một đêm
69
xuân); lúc lại là cái xao xuyến, bâng khuâng của ngƣời thiếu nữ trƣớc tình
yêu đầu đời: “Hơn ba hôm nay giọng hò của Mẫn đã quyến luyến Hƣơng
và làm lòng Hƣơng xao xuyến. Hƣơng tự nhiên thấy buồn buồn khó tả.
Mỗi lần giọng hò của Mẫn ngân lên không, nhƣ tiếng chuông rền, hay tản
mát ra xa nhƣ dòng Hƣơng cuộn, Hƣơng lại thổn thức và có cái cảm giác
hơi lạ: là chừng đã sống với Mẫn đâu từ kiếp xa xƣa” (Quê bạn)… Đặc
biệt là cách ông mô tả tâm trạng một cậu bé lần đầu đƣợc đến trƣờng với
những câu văn mƣợt mà cảm xúc, đọc một lần thấy nhớ mãi: “Hằng năm
cứ vào cuối thu lá ngoài đƣờng rụng nhiều và trên không có những đám
mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức kỷ niệm mơn man của buổi tựu trƣờng.
Tôi quên thế nào đƣợc những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi
nhƣ mấy cánh hoa tƣơi mỉm cƣời giữa bầu trời quang đãng […] Buổi mai
hôm ấy, một buổi mai đầy sƣơng thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm
tay tôi dẫn đi trên con đƣờng làng dài và hẹp” (Tôi đi học).
4. Bên cạnh những đoạn văn trữ tình miêu tả trực tiếp tâm trạng nhân
vật, Thanh Tịnh cũng hay dùng cảnh để tả tình ngƣời. Truyện của ông
thƣờng mang một nỗi buồn mênh mang, bâng khuâng. Trong những câu
chuyện đó, nhất là trong các truyện tình buồn, Thanh Tịnh thƣờng lấy mƣa
gió, giá lạnh, ánh trăng cuối thu, mùa đông… để làm cảnh tả tình ngƣời:
“mƣa luôn ngày đêm/ dòng mƣa đêm lạnh ngắt/ bản nhạc mùa đông/ lạnh
nhƣ cắt thịt/ giữa đêm lạnh/ giữa đêm mƣa tầm tã/ giữa đêm mƣa lạnh
cóng” (Am cu ly xe); “mƣa tầm tã/ tiếng mƣa rì rào/ những dòng mƣa chi
chít/ nƣớc mƣa xối mạnh/ dòng mƣa chảy tràn trên mặt/ mùa đông năm
sau/ ánh sáng xanh rờn của mảnh trăng cuối thu/ mảnh tăng hạ tuần/ mặt
70
trăng lúc ấy đã lẩn hình trong đám mây đen” (Bến Nứa);… Cái đêm cô
Duyên gặp lại thầy sếp ga Trƣu trong Bên con đường sắt là một đêm mƣa
gió dầm dề giữa mùa đông lạnh, và sau cái đêm vừa gặp gỡ lại vừa ly biệt
đó lại tiếp tục là “những đêm mƣa gió dầm dề, lạnh lùng và mãnh liệt”.
Nếu không gian trong truyện của Thạch Lam thƣờng là không gian chiều
chạng vạng thì không gian trong truyện của Thanh Tịnh thƣờng là không
gian đêm trăng và đêm mưa. Và điều làm nên sự riêng biệt cho truyện
ngắn của Thanh Tịnh là không gian tâm tƣởng của nhân vật thƣờng là
không gian của sự hồi tƣởng, hồi nhớ quá khứ. Nhân vật hoặc ngƣời kể
chuyện dƣờng nhƣ đứng ở hiện tại mà nhớ về quá vãng với những hồi ức
II. CÁCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI, XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN
xa xăm tốt đẹp dƣờng nhƣ không bao giờ còn trở lại nữa.
Nằm trong mạch truyện ngắn trữ tình nên truyện của Thanh Tịnh
cũng xoay quanh những đề tài quen thuộc của các nhà văn cùng phong
cách. Ông viết nhiều về các đề tài sinh hoạt, phong tục chốn làng xóm,
hƣơng thôn miền Trung - nơi ông đã sinh thành - những ký ức luôn đeo
đuổi ông trong suốt cuộc đời. Ở đó, ông để cho ngòi bút của mình đƣợc
thoải mái tung hoành kể và tả về thiên nhiên, về tập tục, về sinh hoạt đời
thƣờng của làng và ngƣời dân làng. Khảo sát chỉ qua một số truyện đã thấy
ông dùng rất nhiều những từ, cụm từ riêng biệt, đặc trƣng của chốn nông
thôn này. Từ tên truyện: Quê mẹ, Quê bạn, Ra làng, Làng, Một làng chết,
Bến Nứa, Con so về nhà mẹ, Am cu ly xe,… đến nội dung thì đầy rẫy các
71
từ, cụm từ chỉ địa danh hoặc các phƣơng ngữ: xóm chợ lá làng Thiên,
thuyền, bến, cô lái đò, làng Viễn Trình, chợ Thiên, làng Mỹ Lý, làng
Duyên Hải, chân đồng làng, làng Đồng Yên, chùa Đồng Tâm, mợ, cậu,
ngày kỵ, khới, ra làng, xã thuyền, hương thơ, đình, am, miếu, ôn mệ, mõ,
chị xâu, nằm nơi, lót ổ, nằm bếp, cúng khẫm tháng, rinh, nghiễn chuyện,
sông An Cựu, lạch, ôn, mắc việc,… Khoảng 60 năm sau thời của Thanh
Tịnh - Thạch Lam, tức là vào những năm đầu thế kỷ XXI này, văn đàn
Việt Nam cũng xuất hiện một nữ nhà văn trẻ đi theo phong cách trữ tình
với những truyện ngắn viết về các đề tài nông thôn miền quê Nam bộ -
những hồi tƣởng về quá khứ đƣợc nghe kể lại hay đó chính là những ký ức
mà tuổi thơ chị đã trải qua. Đó là Nguyễn Ngọc Tƣ với Dòng nhớ, Chợ nổi
Cà Mau, Qua cầu nhớ người, Nước chảy mây trôi, Lý con sáo sang sông,
Đất Mũi phù sa, Tháng chạp ở rạch Bộ Tời,… Nếu Thanh Tịnh là nhà văn
của làng Mỹ Lý, của chốn hƣơng thôn miền Trung thì cũng có thể gọi
Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn của miệt vƣờn Nam bộ. Nhƣ vậy là văn mạch
của dòng truyện ngắn trữ tình thời 1930-1945 vẫn tiếp tục chảy và ảnh
hƣởng tới các nhà văn trẻ ngày nay.
Không bị lệ thuộc bởi những sự kiện, biến cố bên ngoài giàu xung
đột, giàu kịch tính, những điểm “gút” đột ngột làm đảo ngƣợc, thay đổi
tình thế nhƣ các nhà văn hiện thực, Thanh Tịnh - giống nhƣ các nhà văn
trữ tình khác, chọn cốt truyện tâm lý (Phan Quốc Lữ) - loại cốt truyện chỉ
chú ý tới những cơn thăng trầm trong cảm xúc của nhân vật, tức là những
sự cố, những trạng thái tâm lý nhân vật. Vì thế, trong truyện của ông, cái
72
gây ấn tƣợng nhiều cho ngƣời đọc chính là những trạng thái cảm xúc của
nhân vật. Con so về nhà mẹ khiến ngƣời đọc xúc động không phải vì cuộc
đời vợ chồng cô Hoa quá cơ hàn, không chỉ vì cái tình của vợ chồng cô,
của cô đối với đàn con, mà phần nhiều vì Thanh Tịnh đã mô tả quá tài tình
những thay đổi trong cảm xúc của cô với những câu nhƣ: “Và thấy chồng
nói chuyện may rủi với giọng say sƣa, cô cũng không muốn đến gieo sự
buồn nản”, “Cô Hoa phần nhớ chồng, phần thƣơng con liền đƣa vạt áo nâu
lên chặm nƣớc mắt”. Hoặc nhƣ nỗi buồn mênh mang của lòng ngƣời đã xa
lánh nơi tục thế khi xuân về: “Một luồng máu lạnh nhƣ đến tràn ngập trong
lòng và bắt sƣ cụ tê mê một lúc”, “Sƣ cụ muốn thở dài cho lòng đỡ nặng
nhƣng ngập ngừng chỉ dám dứt hơi ra từng đoạn ngắn” (Một đêm xuân).
Truyện của Thanh Tịnh có những cốt truyện tự sự rất đơn giản, chỉ cốt để
kể lại, hoặc chỉ giống nhƣ một tuỳ bút (Tình trong câu hát, Tôi đi học),
III. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
không có cốt truyện.
Do xây dựng cốt truyện tâm lý nên thời gian và không gian trong
truyện ngắn Thanh Tịnh cũng bị ảnh hƣởng theo.
Ở nhiều truyện của ông, thời gian thƣờng thay đổi, xen cài theo chu
kỳ: hiện tại - quá khứ - hiện tại (tƣơng lai gần). Trong Bến Nứa, Thanh
Tịnh dùng tới 32 từ và cụm từ chỉ thời gian nhƣ: buổi chiều, hôm ấy, một
giờ, chiều mai, hơn một năm, chiều, sáng mai, tám giờ, một năm, hồi đi
học, mùa đông năm sau, lúc ấy, hơn hai tuổi, qua ngày tháng, xẩm tối, như
mọi ngày, đến lúc này, lúc ấy, hôm ấy, về khuya, trăng hạ tuần, hôm nay,
73
mấy ngày nghỉ, mỗi ngày mỗi khác, trước kia, lâu nay, tối hôm nay, như
trước, năm qua, ngày tháng qua, giữa đêm khuya, đêm nào cũng như đêm
nào. Bến Nứa đƣợc mở đầu bằng một buổi chiều tàn buồn bã của cô lái đò
đang làm công việc của mình - thời gian trong hiện tại. Tiếp đó, tác giả
cho thời gian quay ngƣợc lại trở lại cách đó một năm để kể lại gia cảnh cô
lái đò và ngƣời chồng không may đã quá cố. Sau những hồi ức đƣợc ngƣời
kể chuyện kể lại, thời gian tiếp tục trở về với hiện tại. Kết thúc truyện là
khoảng thời gian hiện tại bị ngắt quãng, đứt đoạn với những từ năm qua,
ngày tháng qua, để đẩy thời gian từ hiện tại đến tƣơng lai, gợi cho độc giả
nhận thấy đây là một chu kỳ đƣợc lặp đi lặp lại. Con so về nhà mẹ, Bên
con đường sắt, Tình trong câu hát, Quê bạn, Một làng chết, Ngậm ngải tìm
trầm… là những truyện đi theo chu kỳ thời gian nhƣ thế.
Phù hợp với những truyện hồi tƣởng về dĩ vãng, thời gian trong một
số truyện khác của Thanh Tịnh lại là thời gian trong quá khứ - thời gian
đƣợc kể lại từ điểm nhìn hiện tại. Ông thƣờng bắt đầu sự hồi tƣởng bằng
lối kể chuyện dân giã với những cụm từ chỉ thời gian trong quá khứ xa xƣa
nhƣ: tối hôm ấy (Chú tôi), đêm ấy (Tình thư), năm vừa qua (Hội chợ Huế),
hôm ấy (Rosée), buổi mai hôm ấy (Tôi đi học), năm ấy (Ra làng),… Đây
đã không còn là thời gian vật lý khách quan nữa mà chính là thời gian
trong tâm tƣởng tác giả, trong tâm tƣởng ngƣời kể chuyện. Không có hiện
tại, không có tƣơng lai, chỉ có quá khứ hiện về với các kỷ niệm và đƣợc kể
lại. Và chính vì là thời gian tâm tƣởng, thời gian của hồi ức nên bên cạnh
những diễn biến của các tình tiết truyện, tác giả đã tự cho mình xen lẫn
những câu, đoạn bình luận theo suy nghĩ, điểm nhìn của ngƣời kể chuyện
trong thời điểm hiện tại - thời gian hiện tại trần thuật. Xét theo lôgic thông
74
thƣờng, với những từ đƣợc gạch chân trong câu: “Theo trí non nớt nhƣng
sớm khôn của tôi hồi ấy thì tình duyên bằng thƣ của thầy ký ga với cô gái
quê càng ngày càng đằm thắm, mặn mà” trong Tình thư, hay câu: “Thì có
khó khăn gì đâu, cái đình làng làm đƣợc bao nhiêu năm thì bản âm nhạc kỳ
quái ấy lại có bấy nhiêu tuổi” trong Ra làng chính là những câu bình luận
ngoại đề của tác giả.
Không gian nghệ thuật trong truyện của Thanh Tịnh dƣờng nhƣ đƣợc
tác giả chú ý dụng tâm xây dựng nhiều hơn so với thời gian nghệ thuật.
Đó là không gian làng - không gian vật thể cụ thể, một cái làng giống
nhƣ bao làng quê khác của Việt Nam, nhƣng lại rất riêng, rất lạ, rất đặc
trƣng của chốn hƣơng thôn miền Trung. Cái làng này có một cái tên rất
đẹp và thơ: làng Mỹ Lý. Theo Thạch Lam, cái làng đó có thể không có thật
trong bản đồ, nhƣng nó có thật trong tâm cảm của Thanh Tịnh. Ở cái
không gian làng Mỹ Lý này cũng có dòng sông, con đò, bến nƣớc, luỹ tre
xanh, tiếng hò vọng trên sông, … nhƣ bao làng quê khác của miền Trung.
Có khác chăng là nó có thêm con đƣờng sắt, con tàu, cái ga xe lửa, trƣờng
học dạy chữ quốc ngữ, dạy chữ Pháp,… biểu tƣợng của văn minh hiện đại
so với những con đò, con thuyền truyền thống của làng quê xƣa cũ. Và sự
xuất hiện của những biểu tƣợng văn minh hiện đại đã làm xáo động cái
không gian thanh bình, yên tĩnh cổ truyền vốn đã tồn tại hàng nghìn năm
của làng quê. Con ngƣời sống trong không gian đó dƣờng nhƣ cũng bị biến
đổi theo. Họ vừa vẫn sống đời sống thanh thản nhƣ từ bao đời, vừa nhƣ bị
cuốn theo ma lực của cuộc sống hiện đại mới. Bên cạnh việc lƣu giữ
những câu hò vang vọng trên sông, họ háo hức tìm hiểu, đi theo cái mới,
háo hức trƣớc con tàu hoả văn minh, tiện lợi, trƣớc tiếng còi tàu xé tan
75
màn đêm yên tĩnh, trƣớc cái nhà ga mới dựng dù chỉ là ga tạm. Các thiếu
nữ thôn quê đã mong ƣớc nhiều hơn đến một cuộc tình lãng mạn với các
thầy sếp ga chứ không phải với trai làng, trẻ nhỏ háo hức với chữ quốc
ngữ, chữ Pháp cho dù cha ông chúng nhiều khi muốn cố giữ chữ Thánh
hiền để truyền dạy… Và đi kèm theo những sự thay đổi mới mẻ đó, con
ngƣời của làng quê hiền hoà này có khi cũng phải hứng chịu cả những bi
kịch xót xa.
Kết cấu truyện của Thanh Tịnh thƣờng là kết cấu vòng tròn với các
chi tiết đƣợc lặp lại: dòng sông, con thuyền chở khách, cô lái đò, đứa con
khóc đòi cha, câu gọi đò, tiếng chuông chùa (Bến Nứa)…; với các không
gian địa lý khép kín: bến làng Thiên - dòng sông - con đò chở khách trên
dòng sông - chùa Đồng Tâm - bến làng Viễn Trình (Bến Nứa); dải phà
Tam Giang: bến Bao Vinh - bến Đá - bến Nứa - làng Vĩnh Trị - làng Thế
Chi - làng Kế Môn - làng Kim Long - làng Đại Lƣợc (Tình trong câu
hát);… Khác với không gian vật thể cụ thể, khép kín, lặp đi lặp lại là
không gian tâm tƣởng - không gian mở của ngƣời kể chuyện và nhân vật
trong truyện. Trong không gian tâm tƣởng của ngƣời kể chuyện (tác giả),
gắn với cái không gian làng Mỹ Lý yên ả và thanh bình là những không
gian đêm sáng trăng tuyệt đẹp. Dƣờng nhƣ chỉ dƣới ánh trăng, làng Mỹ Lý
mới thật sự đúng nhƣ cái tên gọi của nó và tồn tại nhờ ánh sáng của nó.
Trong không gian đêm trăng, làng Mỹ Lý trở nên êm ả và nên thơ cùng với
vẻ đẹp trữ tình của những mối quan hệ xã hội giữa những ngƣời dân trong
làng. Ánh trăng tạo nên một không gian trữ tình để con ngƣời có thể sống
thực với những tình cảm chân thật của mình, phô bày đời sống nội tâm
phong phú, tinh tế của mình. Ở một số truyện ngắn nhƣ Bến Nứa, Am cu ly
76
xe, Bên con đường sắt, Làng, Một làng chết, Một đêm xuân,… của Thanh
Tịnh còn xuất hiện không gian mưa và không gian sương. Đó là những
không gian đầy ám ảnh bởi sự hoà quyện, lẫn lộn, đan xen giữa không gian
vật thể thực và không gian tâm tƣởng của nhân vật. Tình ngƣời, cảnh vật
dƣờng nhƣ không còn tách bạch nữa, tâm trạng con ngƣời hoà quyện với
đất trời. Trời mƣa, trời sƣơng mù dày đặc khiến lòng ngƣời buồn tê tái hay
IV. NGÔN NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THANH TỊNH
chính là vì lòng ngƣời buồn khiến trời cũng phải tuôn mƣa?
1. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc
Nhƣ Nguyễn Mạnh Trinh đã nhận xét: “Những câu văn mang âm
hƣởng thi ca với văn phong tuỳ bút sang cả làm cho trí tƣởng tƣợng nhƣ bị
kích thích và đi xa hơn những phong cảnh thƣờng nhật” [58], ngôn ngữ
của Thanh Tịnh rất giàu hình ảnh, giàu cảm xúc.
Truyện ngắn của Thanh Tịnh có nhiều câu văn đọc lên nghe nhƣ thơ
vì nó giàu hình ảnh và nhịp điệu. Một đêm xuân là một minh chứng rõ ràng
cho điều này. Truyện giống nhƣ một tuỳ bút, không nhiều sự kiện đáng
chú ý, chỉ có tâm trạng con ngƣời trƣớc cảnh vật. Hầu nhƣ trong mỗi câu
văn ngắn, dài của truyện đều đƣợc Thanh Tịnh sử dụng các hình ảnh đẹp
và thơ mộng. Thử phân tích đoạn văn mở đầu truyện: “Giữa một trái núi
bốn mùa mây phủ, một mái am tranh nƣơng nhẹ mình trên một toà đá cheo
leo. Chung quanh là đất thẳm trời xa mờ mịt vây tròn trong cảnh mông
mênh của gió lộng. Ở đây trời màu biếc, đất màu lam và mùi sơn dã thơm
ngạt ngào nhƣ hƣơng bửu toạ”. Chỉ có ba câu văn ngắn mà đủ cả. Cảnh
đƣợc tả từ gần tới xa, từ cận cảnh (trái núi) đến viễn cảnh (đất thẳm trời
77
xa); từ nhỏ bé, cụ thể (mái am tranh, toà đá, trái núi) đến rộng lớn, xa vời
(đất thẳm trời xa, cảnh mông mênh); từ thời gian (bốn mùa) đến không
gian (cảnh mông mênh); từ ít (một) đến nhiều (bốn); từ màu (biếc, lam –
cảm nhận qua thị giác) đến mùi (thơm, hương bửu toạ – cảm nhận qua
khứu giác); từ cảm giác (nương nhẹ mình, vây tròn, mông mênh) đến trực
giác (cheo leo, thơm ngạt ngào). Ở đây, chúng tôi cho rằng các từ nương
nhẹ mình, vây tròn, mông mênh đƣợc nhận thức qua cảm giác của tác giả
chứ không thể qua ý thức, lý tính, cũng nhƣ các từ cheo leo, thơm ngào
ngạt chỉ có thể đƣợc nhận thức bằng trực giác, trực quan. Câu đầu tiên, tác
giả dùng tới bốn từ chỉ số lƣợng: ba từ một (một trái núi, một mái am
tranh, một toà đá) và một từ bốn (bốn mùa). Một là một, là duy nhất, đã
thế, nó lại đƣợc lặp lại tới ba lần, càng nhƣ khẳng định sự duy nhất đó. Chỉ
riêng sự đối lập giữa hai từ loại số ít và số nhiều trong cùng một câu văn
đã gợi cho ngƣời ta cái cảm giác cô đơn, cô độc, riêng rẽ, lẻ bầy của mái
am nhỏ. Tại sao ta biết là mái am tranh này nhỏ ? Bởi hai lẽ: thứ nhất -
trong thực tế khó có mái am tranh nào lại to lớn cả, thứ vật liệu (là tranh)
tạo nên nó bản chất đã mỏng manh, yếu ớt, không kiên cố bằng các loại
vật liệu khác nhƣ gỗ, đá, gạch…; thứ hai - dựa vào từ nương nhẹ, nếu đã to
lớn, mái am tranh này không thể nào lại nương nhẹ trên một toà đá đƣợc.
Nếu so sánh về cảm giác đƣợc gợi tả bởi từng từ, ngữ, có thể nhận thấy ở
câu văn này còn một sự đối lập nữa. Đó là sự đối lập về cảm giác to lớn,
nặng nề, vững chắc với cảm giác nhỏ nhoi, yếu ớt, mỏng manh. Trái núi là
nặng nề, toà đá là nặng nề, bốn mùa mây phủ cũng gợi cảm giác nặng nề;
ngƣợc lại, mái am tranh là nhỏ nhoi, nương nhẹ gợi cảm giác mỏng manh,
yếu ớt. Thêm một sự đối lập nữa giữa câu văn đầu tiên với câu văn thứ hai.
Câu thứ nhất là cận cảnh, câu thứ hai là viễn cảnh. Vẫn chƣa hết, ta còn có
78
thể tìm thấy trong đoạn văn này những cặp từ đối nhau nữa: một đối với
bốn, nương nhẹ đối với cheo leo, đất thẳm đối với trời xa, trời màu biếc
đối với đất màu lam, mùi sơn dã đối với hương bửu toạ. Về nhịp điệu, có
thể thấy ở đoạn văn này tác giả sử dụng triệt để, khai thác tối đa hiệu quả
của thanh bằng. Trong 58 tiếng của ba câu văn, có 23 tiếng có thanh trắc
và trong số đó chỉ có 9 tiếng có dấu sắc (trái, núi, bốn, mái, đá, đất, gió,
biếc, đất). Cách dùng nhiều thanh bằng trong câu, đoạn văn khiến cho nó
trở nên mềm mại, dàn trải, không quá sắc xói, trúc trắc… Tất cả các hình
thức nghệ thuật tác giả sử dụng trong đoạn văn cũng nhƣ trong toàn truyện
đều dẫn dắt để đi tới cái mục đích cuối cùng mà tác giả muốn biểu đạt
trong truyện ngắn này: sự cô đơn đến tột cùng của con người trước đất
trời. Cho dù đó là con ngƣời đã xa rời cuộc sống trần tục, đã nƣơng mình
nơi cửa Phật.
Trong truyện ngắn của Thanh Tịnh còn có những câu đẹp nhƣ một
bức tranh: “Mảnh trăng hạ tuần rây bụi vàng trên quãng đồng lúa rộng”
(Bến Nứa), “Một buổi chiều vàng rộng mênh mông” (Tình trong câu hát),
“Phía ấy trăng tuôn xuống thảnh thơi và tràn ngập cả con sông đào đang
uốn mình vƣơn qua đồng ruộng” (Con so về nhà mẹ),…
2. Ngôn ngữ tinh tế, giản dị, gần gũi với đời thường
Thanh Tịnh đƣa chúng ta đến với một thế giới thân thuộc với việc sử
dụng ngôn ngữ đời thƣờng giản dị, gần gũi. Ở đây, các nhân vật từ con
ngƣời tới lời ăn tiếng nói đều toát ra một vẻ gần gụi, thân quen, dƣờng nhƣ
từ bao đời nay vẫn thế, với những câu chuyện chỉ xoay quanh chuyện gia
79
đình, làng xóm, làm ăn, đời tƣ. Ngôn ngữ mà các nhân vật sử dụng thƣờng
là thứ ngôn ngữ thuần phác dân gian, vừa mộc mạc, đơn giản, lại vừa rất
phong phú. Mỗi một kiểu nhân vật lại gắn với một dạng ngôn ngữ hội
thoại riêng, không thể lẫn đƣợc. Nếu là ông thầy đồ Nho thì phải là nho
nhã nhƣng cũng ƣơng ngạnh, gàn bƣớng và cố chấp:
“- Dạy sao thì học vậy, con nít mà đòi ngang tài với Thánh hiền chẳng
những không phải đạo với “ngƣời trên đầu trên cổ” lại còn không nên nữa
cháu ạ.”
“- Không đƣợc kêu tên của ngài, chỉ nói Đức Thánh là đủ rồi. Mà đã
Thánh thì phải dùng chữ “dạy” mới nghe đƣợc chứ.”
(Chú tôi)
“- Chiều đi học về con nhớ ghé lại nhà ông huyện Phong mời ông ta
đến đánh cờ với chú nhé.”
(Con ông Hoàng)
Là sinh viên thì phải tinh nghịch thế này:
“- … Riêng tôi thì tôi không bao giờ dùng những chữ Pháp giống cái.
Nếu chẳng may tránh không đƣợc thì tôi sẽ đổi chữ giống cái ra giống đực.
Ví dụ: mon maison, mon tête… và tiện đây xin anh đƣa nhanh mon robe
và mon chemise cho.”
“- Tôi xin tán thành cả hai tay.
- Còn tôi, thêm cả hai chân.”
“- Xin anh Mão và anh Thuyên cho biết bát nào là cá nƣớc và bát nào
là cá canh. Vì hai bát xem cũng đầy nƣớc nhƣ nhau và cũng mặn chát nhƣ
nhau nên khó phân biệt quá.”
80
(Hội ghét đàn bà)
Là cậu bé lần đầu tiên đến trƣờng đi học thì phải tỏ ra vẻ ngƣời lớn
thế này:
“- Mẹ đƣa bút thƣớc cho con cầm.”
(Tôi đi học)
Các chị em phụ nữ khi gặp nhau thì tất phải chuyện trò rôm rả về
chuyện chồng con, sinh nở, chuyện cơm ăn áo mặc hằng ngày. Vợ chồng
nói chuyện với nhau thì phải tình cảm, dịu dàng. Mẹ chồng con dâu thì rõ
ra thứ bậc, nề nếp gia phong, con dâu phải thƣa gửi với mẹ đàng hoàng:
“- Thƣa mẹ giỗ ông con.”
Và mẹ chồng khi cho phép con dâu về thăm quê thì phải:
“- Thôi cho mợ một hào để đi đò. Và nhớ chớ để em ngồi nhìn xuống
mặt nƣớc.”
(Quê mẹ)
Trong ngôn ngữ của vị sƣ già và chú tiểu thì phải dùng nhiều những
từ ƣớc lệ, cổ điển, họ nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ đẹp nhƣ
thơ:
“- Con đã hái hoa bên rừng thu về đấy phải không?”
“- Bạch sƣ cụ, sáng nay nhân qua suối Nguyện hái hoa con lại thấy
trên dải sông Tƣơng thuyền của đám ngƣ phủ đang đua nhau chèo xuôi về
cuối núi.”
“- Bạch sƣ cụ và rừng mai sau triền núi Thệ hôm nay cũng trổ hoa
trắng cả trời.”
81
“- Con vào đóng cửa lại chẳng mây trời sắp bay lạc vào am.”
(Một đêm xuân)
Trong truyện ngắn của mình, Thanh Tịnh cũng thƣờng sử dụng rất
thành công ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ độc thoại nội tâm hay phân tích,
diễn tả nội tâm con ngƣời. Không chỉ đối với Phƣơng, Duyên là những cô
gái gặp duyên phận dở dang mới có những đoạn độc thoại nội tâm thành
công mà ngay cả với những nhân vật có cuộc sống vợ chồng hạnh phúc,
tuy không giàu có gì nhƣ cô Thảo, cô Hoa, ông cùng sử dụng nhiều thủ
pháp nghệ thuật này: “Cô Hoa thở dài yên lặng. Cô biết mẹ cô nghèo, làm
lụng luôn tay và không đủ nuôi đàn em dại. Và theo tục lệ thì chỉ đẻ con so
là về nhà mẹ thôi. Chứ cô sinh đẻ đã mấy lần cô cũng qua nhờ mẹ cả. Nói
nhờ là nhờ công thôi, chứ tiền bạc về cơm nƣớc cô phải tự liệu lấy” (Con
so về nhà mẹ). Hay nhƣ vị sƣ già trong Một đêm xuân : “Sƣ cụ nghĩ ngay
đến muôn gia đình đang ăn Tết và ánh sáng đèn dội rực toả lên mây. Sƣ cụ
còn nghe trong tƣởng tƣợng những tiếng pháo xa xa nổ dòn nhƣ những
chuỗi cƣời đêm Tết”.
Thanh Tịnh miêu tả rất tốt những rung động nho nhỏ của con ngƣời
trƣớc tình yêu, trƣớc cảnh vật, trƣớc tình cảm mẹ con, vợ chồng, quê
hƣơng, làng xóm. Không ngƣời đọc nào lại không thấy xúc động trƣớc
những câu văn nhƣ thế này: “Cô Hoa phần nhớ chồng, phần thƣơng con
liền đƣa vạt áo nâu lên chặm nƣớc mắt” (Con so về nhà mẹ), “… Và từ đó
dòng sông Viên phẳng lặng, đồng làng Mỹ Lý vắng teo, trai bạn đi, lòng
Hƣơng bơ phờ nhƣ cảnh vƣờn hoang chờ gió lạ” (Quê bạn), “Nói xong
thầy Trƣu quay lƣng đi ra cửa thật nhanh để giấu hai hàng lệ đã tràn trề
82
trên má, trong lúc cô Duyên đứng chơi vơi nhìn theo với cặp mắt đẫm lệ
và với tấm lòng tan nát” (Bên con đường sắt),… Hoặc diễn tả cái cảm giác
tinh khôi, nguyên sơ của một cậu bé bắt đầu cắp sách tới trƣờng dự buổi
học đầu tiên của cuộc đời: “Hằng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đƣờng rụng
nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức
những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trƣờng” (Tôi đi học).
Sử dụng ngôn ngữ hài hƣớc, trào phúng nhẹ nhàng cũng là một thế
mạnh của Thanh Tịnh. Đây là một điểm riêng của phong cách trữ tình
Thanh Tịnh. Nếu văn Thạch Lam nhẹ nhàng trầm lắng, hƣớng ngƣời đọc
tới những rung động tinh tế của tâm hồn con ngƣời; văn Hồ Dzếnh buồn
hiu hắt, mang nhiều âm hƣởng lịch sử, quá khứ; văn Thanh Châu sang
trọng, tài hoa; văn Xuân Diệu lãng mạn, tình tứ thì văn Thanh Tịnh trữ
tình, dí dỏm. Cái cảnh ông tả diễn ra ở đình làng trong ngày lễ rƣớc thần
trong truyện ngắn Ra làng dễ khiến ngƣời đọc mỉm một nụ cƣời thú vị :
“Họ khề khà nói rất sẽ và rất ít, vì họ chỉ sợ mất thì giờ ngồi nói chuyện
gẫu, và sợ nhất là mất những thức ngon nóng hổi sắp trên bàn… Bao nhiêu
tâm lực họ đều thâu vào đôi mắt để tìm thức ăn và để biết gắp đồ ăn ngon
trƣớc mọi ngƣời… Những cái thìa gặp nhau trong bát canh, những đôi đũa
chạm nhau trên đĩa thịt bò tái, những cái húp ừng ực, những cái nghiến dẻo
dang hợp lại làm thành một điệu âm nhạc không tên nhƣng lại có tuổi”,
hoặc là khi nghe một em bé học thuộc bài theo kiểu học vẹt: “Rắn là một
loài bò… ê… a… Rắn là một loài bò… Sát không chân… ê sát không
83
chân” (Tình thư).
KẾT LUẬN
1. Mặc dù có số lƣợng truyện ngắn không nhiều, và chủ yếu chỉ trong
giai đoạn 1930-1945, nhƣng Thanh Tịnh đã để lại dấu ấn khá đặc biệt
trong lòng ngƣời đọc. Ảnh hƣởng nhiều bởi Thạch Lam, có phong cách
gần gũi với Hồ Dzếnh, Thanh Châu, Ngọc Giao… nhƣng truyện ngắn của
Thanh Tịnh vẫn có những nét đặc sắc riêng, có ảnh hƣởng riêng trên văn
đàn thời kỳ đó và cả các giai đoạn sau này. Đó không phải là điều mà bất
cứ nhà văn nào cũng làm đƣợc, cho dù số lƣợng tác phẩm của họ có thể
nhiều hơn rất nhiều. Có những nhà văn, tác phẩm của họ có thể rất có tiếng
vang, đƣợc bạn đọc đón nhận hồ hởi ngay khi vừa xuất bản, nhƣng nó lại
chỉ có ý nghĩa vào thời điểm đó, giai đoạn đó. Sức ảnh hƣởng của tác
phẩm, của tác giả không tới đƣợc với những thế hệ sau. Ngƣời ta chỉ đánh
giá nó với những giá trị trong một thời điểm lịch sử nhất định. May mắn
thay, hay chính bởi sức sống ngầm mà tự thân các tác phẩm đã khẳng định
vị trí, giá trị của truyện ngắn trữ tình giai đoạn 1930-1945 nói chung và
truyện ngắn của Thanh Tịnh nói riêng. Truyện ngắn trữ tình 1930-1945 đã
không bị quên lãng sau hơn nửa thế kỷ, văn mạch của nó vẫn tiếp tục chảy
qua dòng thời gian và ảnh hƣởng tới truyện ngắn đƣơng đại đầu thế kỷ
84
XXI này, thậm chí là ảnh hƣởng mạnh mẽ. Sự xuất hiện thành công của
các nhà văn có phong cách trữ tình nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ, Mai Ninh, Linh
Vang… những năm vừa qua đã chứng minh điều đó. Đó là mới chỉ kể đến
những nhà văn có số lƣợng truyện ngắn theo phong cách này xuất bản
nhiều và giành đƣợc thành công, còn những nhà văn có một hoặc một vài
truyện ngắn theo bút pháp trữ tình đã xuất bản lẻ tẻ, chƣa thành bộ, thành
tập nhƣng cũng ít nhiều gây đƣợc sự chú ý nhƣ Phạm Thị Ngọc Liên, Trần
Thuỳ Mai… chúng tôi chƣa có điều kiện đề cập đến. Phải chăng, nói nhƣ
nhà nghiên cứu văn học Bùi Việt Thắng: có lẽ xã hội đƣơng đại với đầy
những phức tạp, những xu hƣớng phát triển nhiều chiều, đã khiến con
ngƣời tìm tới những mảnh đất riêng tƣ hơn, đi vào cuộc sống nội tâm
nhiều hơn ? Điều đó có lẽ đã khiến cho những tác phẩm văn học đi vào
khám phá đời sống tâm hồn bí ẩn của con ngƣời đƣợc đón nhận và quan
tâm ngày một nhiều hơn.
2. Dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 với các đại biểu của mình là
Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Ngọc Giao, Thanh
Châu… đã tạo nên những thành công riêng đƣợc ghi nhận trên văn đàn
giai đoạn cùng thời và cả các giai đoạn sau này. Cùng với truyện ngắn hiện
thực, truyện ngắn lãng mạn, truyện ngắn trữ tình đã góp phần tạo nên sự
thành công rực rỡ của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Cho
đến bây giờ, nhiều ngƣời vẫn cho rằng giai đoạn 1930-1945 là giai đoạn
hoàng kim của văn học Việt Nam hiện đại. Trải qua các biến cố thăng trầm
của lịch sử xã hội, văn mạch của dòng truyện ngắn trữ tình vẫn tiếp tục
phát triển cho tới ngày nay, dù trong quá trình phát triển của nó, do ảnh
hƣởng của lịch sử, của xã hội, đã có lúc nó gần nhƣ chững lại, hoặc có lúc
85
nó chỉ phát triển một cách yếu ớt với số nhà văn, tác phẩm ít, mỏng. Ảnh
hƣởng của nó dù là vô thức hay ý thức cũng đã tạo cho nền văn học đƣơng
đại Việt Nam những tác phẩm gây đƣợc nhiều chú ý, đƣợc độc giả đón
nhận và quan tâm. Sự thành công của một số nhà văn trẻ hiện nay đang đi
theo phong cách này đã chứng tỏ điều đó. Cùng với thời gian, các nhà văn
theo phong cách trữ tình đã đóng góp nhiều tác phẩm giúp cho nền văn
học Việt Nam ngày một thêm phong phú, đa dạng.
3. Với bút pháp nghệ thuật trữ tình tinh tế, cùng với sự hài hƣớc, dí
dỏm riêng biệt, Thanh Tịnh đã tạo cho mình một dấu ấn riêng biệt trong
dòng truyện ngắn trữ tình 1930-1945 và đã có ảnh hƣởng không nhỏ tới
các nhà văn trẻ thế hệ sau.
Ông đã thành công trong việc phân tích, miêu tả đời sống tâm hồn của
con ngƣời, đặc biệt là người nông dân, một việc mà không nhiều các nhà
văn Việt Nam quan tâm tới. Ông không đứng từ trên nhìn xuống để miêu
tả, không đứng từ ngoài nhìn vào để quan sát, bình luận, mà ông nhƣ hoà
nhập vào với người nông dân để phân tích, để khám phá đời sống nội tâm
bí ẩn của họ. Với một đất nƣớc sống chủ yếu bằng nông nghiệp nhƣ Việt
Nam, hình ảnh ngƣời nông dân đã đƣợc văn học nói tới nhiều với rất nhiều
phẩm chất tốt đẹp, đáng quý nhƣ: cần cù, chịu khó, trung thực, yêu
nƣớc,… nhƣng đời sống tâm hồn của ngƣời nông dân thì vẫn là một mảnh
đất riêng, bí ẩn mà văn học còn chƣa khai thác đƣợc nhiều. Thanh Tịnh đã
viết về những ngƣời dân làng quê hồn hậu mà tinh tế với một sự hiểu biết
và thông cảm sâu sắc. Đó cũng chính là điều đã khiến truyện ngắn của ông
tuy không phản ánh nhiều về hiện trạng xã hội đầy rối ren nhƣ nhiều tác
86
phẩm hiện thực khác cùng thời nhƣng vẫn đầy tính nhân văn, nhân bản.
Tác phẩm của Thanh Tịnh cũng đã đƣợc đƣa vào giảng dạy ở trƣờng
phổ thông từ lâu nay, đó là truyện ngắn Tôi đi học. Và với nhiều ngƣời, cái
cảm giác lần đầu tiên đi học cũng luôn trở lại khi họ đọc truyện ngắn đầy
cảm xúc hồn nhiên, trong sáng này. Đây có lẽ là một phần thƣởng xứng
đáng và là niềm hạnh phúc lớn đối với nhà văn.
Cùng với sự hiện diện của không gian làng Mỹ Lý, Thanh Tịnh đã
mang đến cho nông thôn Việt Nam một không gian yên bình, đẹp đẽ và
thơ mộng với những con ngƣời hiền lành, chất phác, bình dị mà vẫn đầy
lòng nhân ái, đầy lãng mạn. Đọc truyện ngắn Thanh Tịnh, ngƣời ta có thể
liên tƣởng tới không gian xứ Provence qua tập truyện ngắn Thư viết ở cối
xay gió của nhà văn Pháp Alphonse Daudet. Những “bức thƣ” của Daudet
đã gợi lại những truyền thuyết, những chuyện có thật hay hoang đƣờng,
với cảm xúc nồng nhiệt và chất phác. Ngƣời ta tìm thấy lại ở đó mùi của
hƣơng thảo, tiếng hát của ve sầu, tiếng sáo trúc… Qua làng Mỹ Lý hay xứ
Provence, ngƣời đọc dƣờng nhƣ cảm thấy thêm yêu quê hƣơng xứ sở
mình. Đó cũng chính là điều mà các nhà văn, Daudet cũng nhƣ Thanh
87
Tịnh muốn hƣớng ngƣời đọc tới thông qua tác phẩm của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Antônốp, Viết truyện ngắn, NXB Văn nghệ, H, 1956.
2. M.Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trƣờng viết văn Nguyễn
Du, H, 1992.
3. M.B.Khrapchencô, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học, NXB Tác phẩm mới, H, 1979.
4. N.A.Gulaiep, Lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, H. 1987.
5. Compton’s 99 - Encyclopedya American, CD Rom, TLC
Multimedia Inc, Electric Library (đĩa CD Từ điển Bách khoa toàn
thƣ Mỹ)
6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo dục, H, 1992.
7. Nhiều tác giả, Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, 2004.
8. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, H,
88
1992.
9. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (chủ biên), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam, NXB Văn học, 2001.
10. Phƣơng Lựu, Lý luận văn học (tập 3), NXB Giáo dục, H, 1988.
11. Trần Đình Sử, Phƣơng Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học
(3 tập), NXB Giáo dục, H, 1987.
12. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB
Khoa học xã hội, H, 2004.
13. Nguyễn Văn Dân, Lý luận văn học so sánh, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội, H, 2003.
14. Lê Huy Bắc, Truyện ngắn lý luận tác gia và tác phẩm, NXB Giáo
dục, 2004.
15. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn
thể loại, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H, 2000.
16. Hồng Chƣơng, Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật,
NXB Sự thật, H, 1962.
17. Hoàng Ngọc Hiến, Xác định phương pháp sáng tác từ những cấp
độ khác nhau, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật, số 1-1979.
18. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học học văn, NXB Trẻ, H, 1970.
19. Hoàng Ngọc Hiến, Năm bài giảng về thể loại, Trƣờng viết văn
Nguyễn Du, H, 1992.
20. Đỗ Lai Thuý, Phong cách học và phê bình văn học,
www.evan.com.vn
89
21. Đỗ Lai Thuý, Con mắt thơ, NXB Giáo dục, 1997.
22. Thiếu Sơn, Phê bình và cảo luận, NXB Nam Ký, 1938.
23. Nghiêm Toản, Việt Nam văn học sử yếu, tập 2, NXB Vĩnh Bảo,
SG, 1949.
24. Nguyễn Văn Trung, Lược khảo văn học, tập 3, NXB Nam Sơn,
SG, 1970.
25. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (4 tập), NXB Thăng Long, SG,
1960.
26. Vũ Ngọc Phan, Tác phẩm - Nhà văn hiện đại (quyển tƣ, tập
thƣợng), NXB Hội nhà văn, 2000.
27. Đặng Thai Mai, Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, NXB
Tác phẩm mới, H, 1973.
28. Thanh Lãng, Phê bình văn học thế hệ 1932, NXB Phong trào văn
hoá, SG, 1973.
29. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Tác
phẩm mới, H, 1979.
30. Nguyễn Đăng Mạnh, Khải luận tổng tập văn học Việt Nam,
tập 30A, NXB Khoa học xã hội, H, 1983.
31. Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên An, Tác giả văn
học Việt Nam, tập 2, NXB Giáo dục, 1992.
32. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, NXB Giáo dục, 2002.
33. Nguyễn Đăng Mạnh, Lời giới thiệu Hợp tuyển văn học Việt Nam
90
1920-1945, tập 5, quyển 1, NXB Văn học, H, 1987.
34. Nguyễn Đình Chú, Lê Trí Viễn, Lịch sử văn học Việt Nam,
tập IV, NXB Giáo dục, H, 1978.
35. Nguyễn Đình Chú, Cần nhận thức đúng thời kỳ văn học 1930-
1945, NXB văn học, H, 1987.
36. Dƣơng Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, NXB Hà Nội, 1943.
37. Trần Đình Hƣợu, Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời 1900-1930, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H,
1988.
38. Phan Cự Đệ, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, 2004.
39. Phan Cự Đệ, Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương, NXB
văn học, H, 1971.
40. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nhà văn Việt Nam 1945-1975, NXB
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1987.
41. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945, NXB Văn
học, H, 2002.
42. Hà Minh Đức, Tuyển tập (tập 3), NXB Giáo dục, 2004.
43. Trƣơng Chính, Tự lực văn đoàn, Báo Giáo viên nhân dân, số đặc
biêt, tháng 7-1989.
44. Nguyễn Hoành Khung, Lời giới thiệu Văn xuôi lãng mạn Việt
Nam, tập 1, NXB Khoa học xã hội, H, 1989.
45. Nguyễn Hoành Khung, Lời giới thiệu Truyện ngắn Việt Nam 1930-
91
1945, NXB Giáo dục, 2004.
46. Huy Cận, Lời bạt trong Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tập 2, NXB
Khoa học xã hội, H, 1998.
47. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn, Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam
1930-1945, NXB Văn học, 1964.
48. Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam – Nhà văn tiền chiến
1930-1945, NXB Vàng Son, SG, 1974.
49. Nhiều tác giả - Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập 5,
phần II, NXB Giáo dục, H, 1978.
50. Thạch Lam, Tựa Quê mẹ của Thanh Tịnh, NXB Đời nay, H, 1941.
51. Thạch Lam, Tựa Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, NXB Văn học, H,
1988.
52. Thanh Tịnh, Quê mẹ, NXB Đời nay, H, 1941.
53. Thanh Tịnh, Chị và em, NXB Đời nay, H, 1942.
54. Thanh Tịnh, Xuân và Sinh, NXB Nam Mỹ, H, 1954.
55. Thanh Tịnh, Ngậm ngải tìm trầm, NXB Xuân Thu, H, 1943.
56. Thanh Tịnh, Hận chiến trường (thơ), NXB Huế, 1937.
57. Thanh Tịnh, Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, H,
1998.
58. Nguyễn Mạnh Trinh, Thanh Tịnh và ngôi làng Mỹ Lý, Tạp ghi văn
nghệ, 13-3-2004, www.nguoiviet.com.
59. Hoài Anh, Thanh Tịnh, chàng thi sĩ hát rong trong Chân dung văn
92
học, NXB Hội nhà văn, H, 2001.
60. Nguyễn Khải, Anh Thanh Tịnh trong Chuyện nghề, NXB Hội nhà
văn, H, 1999.
61. Nguyễn Minh Châu, Phỏng vấn nhà thơ Thanh Tịnh trong Trang
giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội, H, 1994.
62. Ngô Văn Phú (chủ biên), Thanh Tịnh nhà văn xứ Huế, NXB Hội
nhà văn, H, 1996.
63. Lƣu Khánh Thơ (ghi lại), Hành trình theo kháng chiến trong
Thanh Tịnh tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, H, 1998.
64. Vƣơng Trí Nhàn, Ngậm ngải tìm trầm trong Nghiệp văn, NXB Văn
hoá - Thông tin, H, 2001.
65. Vƣơng Trí Nhàn (sƣu tầm, biên soạn, dịch), Sổ tay truyện ngắn,
NXB Tác phẩm mới, H, 1980.
66. Vƣơng Trí Nhàn, Tìm vào nội tâm tìm vào cảm giác, Tạp chí văn
học, số 6-1992.
67. Hội nhà văn Việt Nam, Nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB Hội nhà
văn, H, 1997.
68. Đặng Thị Hạnh, Văn học lãng mạn và văn học hiện thực phương
Tây thế kỷ XIX, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1985.
69. Phan Ngọc, Ảnh hưởng của văn học Pháp tới văn học Việt Nam
trong giai đoạn 1932-1940, Tạp chí Sông Hƣơng, số 2-1992.
70. Nhiều tác giả, Lịch sử văn học Nga, NXB Giáo dục, 2003.
93
71. Nhiều tác giả, Văn học phương Tây, NXB Giáo dục, 1998.
72. Lê Thị Đức Hạnh, Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, Tạp chí văn
học, số 4-1969.
73. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (tuyển chọn và giới thiệu), Thạch Lam
về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001.
74. Nguyễn Đăng Điệp, Văn Giá, Lê Quang Hƣng, Nguyễn Phƣợng,
Chu Văn Sơn, Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, (tập 1),
NXB Giáo dục, 2005.
75. Hoàng Nhƣ Mai, Chân dung và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2001.
76. Vũ Bằng, Mười chín chân dung nhà văn cùng thời, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, H, 2002.
77. Tạp chí Tri tân 1941-1945, Phê bình văn học, NXB Hội nhà văn,
1999.
78. Phạm Thị Thu Hƣơng, Quan niệm về con người trong truyện ngắn
Thạch Lam, Tạp chí văn học, số 3-1993.
79. Phạm Thị Thu Hƣơng, Hồ Dzếnh và niềm khắc khoải giữa hai bờ
xứ sở, Tạp chí văn học, số 4-1995.
80. Phạm Thị Thu Hƣơng, Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong
văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa
học Ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 1995.
81. Phan Quốc Lữ, Tính chất phi cốt truyện trong văn xuôi Thạch
Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Tạp chí văn học, số 6-
2003.
94
82. Nguyễn Ngọc Tƣ, Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, 2005.
83. Nguyễn Ngọc Tƣ, Nước chảy mây trôi, NXB Văn nghệ, 2005.
84. Mai Ninh, Ảo đăng, NXB Hội nhà văn, 2003.
85. Mai Ninh, Cá voi trầm sát, NXB Trẻ, 2004.
86. Hàn Thuỷ, Nỗi chết và tình yêu (đọc Cá voi trầm sát của Mai
95
Ninh), Diễn đàn, số 144, 10/2004 (theo www.amvc.free.fr).