ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------- NGUYỄN THANH HỒNG TÌM HIỂU MỘT SỐ CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 ( NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƯ, ĐỖ BÍCH THÚY)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI – 10/2009

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ:

60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------- NGUYỄN THANH HỒNG TÌM HIỂU MỘT SỐ CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KỲ 1986-2006 ( NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƯ, ĐỖ BÍCH THÚY)

HÀ NỘI – 10/2009

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

MỤC LỤC MỤC LỤC ............................................................................................................................ 1 PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 2 1. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ........................................................................ 2 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ....................................................................................................... 3 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ......................................................... 12 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................................................................. 13 5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN .......................................................................................... 14 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................. 15 CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU ..................... 15 1.1.Cốt truyện và sự mở rộng dung lượng hiện thực .............................................. 15 1.1.1. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ....................................................... 19 1.1.2. Cốt truyện giàu chi tiết sự kiện: ................................................................... 23 1.1.3. Cốt truyện có cấu trúc lỏng: ......................................................................... 27 1.2. Những đổi mới trong kết cấu truyện ngắn ....................................................... 30 1.2.1. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện.......................................................... 33 1.2.2. Kết cấu tâm lí: ............................................................................................... 41 1.2.3. Kết cấu mở (Kiểu kết thúc để ngỏ) ............................................................... 45

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ................................................................................................................................. 48 2.1. Sự phong phú của thế giới nhân vật: ................................................................ 51 2.1.1.Nhân vật lý tưởng .......................................................................................... 51 2.1.2.Nhân vật tha hóa ............................................................................................ 56 2.1.3. Nhân vật bi kịch ............................................................................................ 58 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ........................................................................... 63 2.2.1.Không gian nghệ thuật trong việc khắc họa tính cách nhân vật................. 63 2.2.2. Đối thoại và độc thoại nội tâm ..................................................................... 67 2.2.3.Nghệ thuật miêu tả tâm lý ............................................................................. 72

CHƯƠNG 3: NHỮNG CÁCH TÂN TRÊN PHƯƠNG DIỆN GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ ................................................................................................................... 77 3.1. Giọng điệu: .......................................................................................................... 77 3.1.1.Giọng hài hước, châm biếm, mỉa mai: ......................................................... 78 3.1.2.Giọng trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm ........................................................... 80 3.2.Ngôn ngữ: ............................................................................................................. 82 3.2.1.Những đặc trưng nghệ thuật trong ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư: ........ 82 3.2.1.1.Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ: .................................................................. 82 3.2.1.2.Tính nhip điệu trong văn Nguyễn Ngọc Tư .............................................. 84

3.2.2.Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Thị Thu Huệ ............................................................................................................ 87 3.2.2.1.Ngôn ngữ đời thường ............................................................................... 87 3.2.2.2. Ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ ....................................................... 88

3.2.3.Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Đỗ Bích Thúy ......................................................................................................................... 91 3.2.3.1.Ngôn ngữ mang đậm bản sắc của người dân tộc .................................... 91 3.2.3.2.Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ ................................................... 94 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

PHẦN MỞ ĐẦU 1. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Sau năm 1986, văn học Việt Nam đã có những khởi sắc đặc biệt. Không giống như ở thời kỳ trước, văn học thời kỳ này đã phản ánh hiện thực theo cách mới, quan niệm mới. Không chỉ mở rộng đề tài theo hướng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa, quan điểm của các nhà văn về một số vấn đề của lịch sử Việt Nam cũng mang những sắc thái thẩm mỹ mới. Cảm hứng sử thi của giai đoạn trước được thay thế bằng cảm hứng đời tư, thế sự. Xu hướng ngợi ca được thay thế bằng cái nhìn phê phán hiện thực. Thói quen nhìn cuộc sống ở khía cạnh lạc quan, tươi đẹp được thay bằng sự khai thác trực diện những tồn đọng của xã hội, những khát vọng của đời sống cá nhân con người. Văn học giai đoạn này vì thế đa giọng điệu, đa sắc màu và gây nhiều tranh cãi hơn.

Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp rất nhanh với những vấn đề của đời sống. Truyện ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngõ ngách của xã hội, phản chiếu mọi tâm điểm nóng bỏng của hiện thực. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhận xét: “Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam, tiếp theo “vụ được mùa truyện ngắn” những năm 1960 và một vụ mùa khác, trong chiến tranh”. Tuy nhiên, truyện ngắn lần này có những nét khác biệt rõ rệt. “Những năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp như thơ, trong veo, trữ tình. Truyện ngắn thời chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi bật lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái dung lượng của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn chỉ mươi, mười lăm trang thôi mà sức nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trường thiên”. [Tr7, 71]

Vì vậy, khi tiến hành thực hiện đề tài: “Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 -2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy) chúng tôi muốn bước đầu nhận diện một số cách tân của thể loại truyện ngắn, qua đó có những nhìn nhận chung về tiến trình đổi mới của văn học nước nhà.

2

1.2. Lâu nay, văn học Việt Nam đa số là văn học của nam giới. Người phụ nữ cũng xuất hiện trong lực lượng sáng tác nhưng nó còn rất mờ nhạt và chưa tạo được dấu ấn riêng. Bước vào thời kỳ đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, các cây bút nữ ngày càng thể hiện rõ thế mạnh của mình trong lĩnh vực văn chương. Bên cạnh các cây bút sáng tác từ trước 1975, các gương mặt nữ như Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy đã xuất hiện….Nhiều tác phẩm của họ vừa ra đời đã gây được sự chú ý của dư luận, tạo được dấu ấn trong đời sống

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

văn học như Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban), Kịch câm, Hoa muộn (Phan Thị Vàng Anh), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)…Nhiều tác giả đoạt giải cao trong các cuộc thi truyện ngắn như báo Văn nghệ, tạp chí Văn nghệ quân đội, cùng với đó là hàng loạt những tuyển tập bước đầu định hình những phong cách khiến độc giả không thể không ghi nhận và hi vọng về tương lai văn học của những cây bút này. Ở góc độ của người phụ nữ sáng tác văn học, từ quan niệm về nghề, quan niệm về thiên chức của người cầm bút các nhà văn nữ thời kỳ này đã đem đến cho văn chương những cảm hứng và giọng điệu mới. Trong các sáng tác của các nhà văn nữ, ta luôn tìm thấy những âm hưởng của thời đại chúng ta đang sống. Họ tỏ ra áp sát hiện thực đời sống một cách trực diện và thẳng thắn khi nhìn nhận mặt trái của hiện thực. Có thể nhận thấy sự sắc sảo và sâu sắc khi khái quát và tiếp nhận đề tài thế sự đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết “dịu dàng, bén ngọt, riết róng và đồng cảm chia sẻ với những thân phận, những người sống quanh mình”. Tìm hiểu những cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ, chúng tôi muốn khẳng định giá trị của dòng văn học “tính nữ” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng) trong sự phát triển của văn học Việt Nam đương đại.

1.3. Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy chưa hẳn đã là những đại diện tiêu biểu nhất. Nhưng họ là những phong cách riêng rất độc đáo không thể trộn lẫn. Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ với chất giọng trầm tiêu biểu cho sự đổi mới của văn xuôi miền Bắc, Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn trẻ của mảnh đất phương Nam xa xôi và Đỗ Bích Thúy là đứa con của đại ngàn Tây bắc. Mỗi nhà văn đã đóng góp cho văn học Việt Nam một tiếng nói riêng. Chính vì thế, lựa chọn đề tài: Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 – 2006 (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy), chúng tôi muốn bước đầu khám phá những thể nghiệm nghệ thuật của một số tác giả nữ để từ đó, bước đầu định hình được chỗ đứng của văn học Việt Nam trên tiến trình vận động để hội nhập với văn chương và rộng lớn hơn là văn hóa tiến bộ của thế giới. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1.Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học và truyện ngắn Việt Nam thời kỳ 1986 – 2006. * Tình hình nghiên cứu văn học

3

Sự đổi mới quan niệm và ý thức nghệ thuật của văn học sau 1986 được đánh giá là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng chi phối mọi thể loại, trong đó có truyện ngắn. Các tác giả nghiên cứu về văn học thời kỳ này đã khẳng định, văn học đương đại phát triển theo hướng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung,

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

hoàn thiện những quan niệm hiện thực về con người cho văn học giai đoạn trước. Trong chuyên luận Văn học Việt Nam hiện đại – Nhận thức và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn Anh viết: “Nếu như cách nhìn sử thi là thích hợp cho việc thể hiện tầm rộng lớn của những vấn đề lịch sử xã hội và cộng đồng thì cách nhìn tiểu thuyết là cái nhìn tập trung, xoáy sâu vào những vấn đề của con người cá nhân cũng như mối quan hệ cá nhân – xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định giá trị nhân văn [tr54,4]. Nhà nghiên cứư Nguyễn Thị Bình cũng cùng chung nhận định: “Văn xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh đất nước chuyển đổi kinh tế, giao lưu văn hóa nhiều chiều. Ý thức cá nhân được sự cổ vũ của cơ chế thị trường trỗi dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm hiện thực, nhu cầu công bố tư tưởng riêng trong thái độ nhập cuộc của nhà văn.

Trong bài viết Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới tại cuộc hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, nhà lí luận Lê Ngọc Trà nêu ra 3 đặc điểm của văn học sau 1986. Đặc điểm nổi bật theo ông là tính chất phê phán. Đặc điểm thứ hai là tinh thần phân tích xã hội và sự chiêm nghiệm lại lịch sử. Đặc điểm thứ ba là sự trở lại với đời thường, với những số phận riêng.

Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã có sự thống nhất khá cao về những đặc

điểm nội dung của giai đoạn văn học 1986 – 2006.

Về đổi mới thi pháp. Tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách sâu rộng các vấn đề thi pháp của văn xuôi sau 1986, song các bài nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh vào một số hình thức biểu đạt của tác phẩm như: Sự suy giảm vai trò cốt truyện, sự đa dạng trong hình thức kết cấu tác phẩm, tính chất đa thanh trong nghệ thuật trần thuật, những khám phá về hệ thống nhân vật…Từ đó các nhà nghiên cứu bước đầu đi đến kết luận về khả năng mở rộng, gia tăng tính đối thoại của tự sự đương đại trước các vấn đề hiện thực và lịch sử. * Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 – 2006

4

Không được coi là thể loại chủ đạo trong đời sống văn học như tiểu thuyết, nhưng khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn giai đoạn 2006 không hề thua kém phương thức tự sự cỡ lớn này. Trước sự chín muồi của đội ngũ các cây bút đã có thành tựu và sự nở rộ của lớp các nhà văn mới 1986 – 2006 được coi là một trong những giai đoạn hoàng kim của lịch sử truyện ngắn Việt Nam. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng khẳng định: “Nhìn tổng thể, truyện ngắn 1975 – 2000 vượt trội so với thơ và kịch vì nhiều lí do, trong đó phải kể đến sự ưu ái của đời sống là mảnh đất màu mỡ cho các thể của văn xuôi phát triển. Nếu có so sánh thì truyện ngắn Việt Nam trong thế kỷ 20 có hai thời hoàng kim của nó: 1930 – 1945 và 1986 – 2000 [tr113, 34]. Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên trong bài Truyện ngắn và

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

cuộc sống hôm nay đánh giá: “Truyện ngắn hôm nay tiếp xúc, xới lật các mảng hiện thực ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại để mong đóng góp một tiếng nói định vị cho người đọc, một thái độ nhìn nhận đánh giá những việc, những người của bây giờ, nơi đây [Tr 10, 67]. Chỉ rõ sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng của thể loại này, nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu viết: “Cùng với sự gia tăng của những tên tuổi mới và số lượng tác phẩm, truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều tìm tòi cả trong tiếp nhận về sự cô đơn của thân phận con người, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực, giữa chất thơ và văn xuôi [tr182, 36]. Còn trong bài viết “Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện ngắn chiến tranh”, tác giả Tôn Phương Lan lý giải chi tiết hơn: “Những truyện ngắn đã khai thác yếu tố tâm linh và tạo ra những chi tiết, cảnh huống, li kì, hấp dẫn, đem lại cho các truyện này một vóc dáng hiện thực mới khiến người đọc không chỉ cảm mà còn thấy”.

Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫ đén sự thay đổi về hình thức thể loại truyện ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Về khía cạnh thi pháp, truyện ngắn 1986 – 2006 đã trở nên phong phú về hình thức, phong cách và bút pháp. Đã có thể tách bạch ra những dòng phong cách chủ yếu sau: phong cách cổ điển (ứng với lớp nhà văn như Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Hồng Nhu…), phong cách trữ tình (ứng với Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ…). Về hình thức, truyện ngắn giai đoạn này khá đa dạng, có thể nói đến một kiểu truyền kỳ hiện đại (Bến trần gian của Lưu Sơn Minh, Hai người đàn bà xóm trại của Nguyễn Quang Thiều), kiểu truyện giả cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp), truyện ngắn kịch (Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh), truyện rất ngắn (Vùng lặng của Phạm Sông Hồng), truyện ngắn triết luận (Tâm tưởng của Bùi Hiển, Sống mãi với cây xanh của Nguyễn Minh Châu…). Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học nói chung và thể loại truyện ngắn nói riêng, truyện ngắn nữ cũng có những thành tựu đáng ghi nhận[34].

2. 2.Truyện ngắn nữ Việt Nam sau 1986 Văn học Việt Nam thời kỳ phong kiến, dường như ít thấy xuất hiện bóng dáng của các cây bút nữ. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do điều kiện lịch sử, dưới chế độ phong kiến hà khắc, người phụ nữ bị bó buộc bới luật tam tòng tứ đức, bị phụ thuộc vào gia đình. Vì vậy, người phụ nữ chủ yếu quẩn quanh với các công việc của gia đình mà không có cơ hội được tiếp xúc và tham gia các hoạt động xã hội. Điều đó đã hạn chế sáng tác của nữ giới và khiến họ vắng bóng trên văn đàn dân tộc.

5

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Bước sang thế kỷ XX, người phụ nữ bắt đầu có tiếng nói trên các diễn đàn và báo chí như Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm…tuy nhiên sáng tác của các chị còn rất thưa thớt, chủ yếu là ở lĩnh vực thơ ca.

Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một thời kỳ mới. Từ đây bắt đầu xuất hiện các cây bút nữ: Thanh Hương, Lê Minh, Nguyễn Thị Như Trang, Minh …Đội ngũ các nhà văn nữ tiếp tục phát triển qua thời kỳ kháng chiến chống Mỹ: Vũ Thị Thường, Nguyễn Ngọc Tú, Lê Minh Khuê, …Tuy nhiên, dường như tiếng nói của họ chưa thực sự lớn mạnh.

Những năm sau chiến tranh, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, văn học Việt Nam khởi sắc với sự xuất hiện của hàng loạt cây bút nữ. Ngày càng nhiều những gương mặt nữ xuất hiện và chiếm ưu thế đã tạo nên sự mới mẻ, hấp dẫn. Các giải thưởng truyện ngắn liên tiếp được trao cho các cây bút bữ là bằng chứng rõ nét nhất về điều đó. Y Ban với Bức thư gửi mẹ Âu Cơ và Chuyện một người đàn bà giành giải nhất cuộc thi năm 1990. Kết thúc cuộc thi năm 1992-1994 của tạp chí Văn nghệ Quân đội, Nguyễn Thị Thu Huệ đã giành giải nhất với Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Liên tiếp trong những năm 1996, 1999, 2000,2002 các tác gải nữ đã nhận được danh hiệu cao quý nhất: Trần Thanh Hà, Đỗ Bích Thúy, Thùy Linh…

Sau 1986, trong nền văn học đương đại Việt Nam đã xuất hiện cụm từ “nữ khuynh”( Chữ dùng của các tác giả trong bài Chúng tôi phỏng vấn bốn cây bút nữ- Tạp chí Văn nghệ quân đội 3/1993) trong văn học. Có thể nói, sự xuất hiện ồ ạt của các cây bút nữ cũng như số lượng khổng lồ các tác phẩm của họ trình làng (Lê Minh Khuê hiện nay đã có 7 tập truyện ngắn in riêng, Nguyễn Thị Thu Huệ 6 tập, Võ Thị Hảo 4 tập…) và hơn hết là chất lượng các sản phẩm mà họ tạo ra có thể khẳng định, đây là thời đại mà văn chương của phái nữ đang chiếm ưu thế. Đã hết rồi cái thời mà văn học gần như là sáng tác độc tôn của giới mày râu. Đến bây giờ, có nhà nghiên cứu văn học đã phải thốt lên rằng: “Đã hình thành một tỷ lệ giữa phái yếu và phái mạnh là 2/3- một tỉ lệ đáng gờm bởi nhìn vào đó sẽ thấy truyện ngắn trẻ hôm nay (và văn chương nói chung) mang gương mặt nữ” [34].

6

Các cây bút nữ thực sự khẳng định được tài năng và bản lĩnh nghệ thuật của mình. Với sự tinh tế nhạy cảm vốn có, “Dường như phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới. Họ luôn gần gũi với cái lỉnh kỉnh, dở dang của đời sống.”[68]. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã chỉ ra đặc điểm riêng, những đóng góp riêng của các nhà văn nữ vào nền văn học đương đại của nước nhà: “Phụ nữ thường mạnh ở chỗ họ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách, hoặc nói như Tây, họ tự ăn mình”. Vì thế mà “Các cây bút nữ hôm nay mở cuộc tìm tòi trên một cái diện rất rộng và họ đạt đến hiệu quả ngay” (Ngô Thế Oanh).

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Sáng tác của các cây bút nữ thường đi sâu vào bi kịch, những nỗi đau với sự trải nghiệm sâu sắc. Các chị đã đem đến cho văn chương một diện mạo mới “đằm thắm, tinh tế và khoan dung hơn”. Hiện thực cuộc sống với sự tha hóa đạo đức, những xói mòn về nhân cách được thể hiện khá rõ nét. Nội tâm nhân vật được được đào sâu khai thác với cái nhìn đa chiều, sấu sắc: Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y ban)…

Không chỉ có những khám phá mới về nội dung mà các cây bút nữ còn có những cố gắng trong tìm tòi nghệ thuật nhằm xây dựng cho mình một phong cách riêng: Y Ban với chất giọng nữ trầm trong văn chương, Võ Thị Hảo có lối viết pha màu sắc huyền thoại, Nguyễn Ngọc Tư với lối viết văn đậm màu sắc Nam Bộ, Đỗ Bích Thúy với những tác phẩm văn chương đậm tính chất vùng miền…Tất cả đã tạo nên diện mạo của truyện ngắn đương đại với những tác phẩm rất tiêu biểu của nữ giới. 2.3 .Tình hình nghiên cứu về các tác giả

Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ 1986-2006, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy là những cây bút có tên tuổi. Số lượng các bài viết, những công trình nghiên cứu về các tác giả này rất nhiều. Những công trình đó đã đánh giá được tài năng cũng như những đóng góp của họ trong nền văn học dân tộc. 2.3.1. Nguyễn Thị Thu Huệ

Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12/8/1966. Quê quán: Xã Thạch Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Trú quán: Hà Nội. Tốt nghiệp đại học tổng hợp Hà Nội, khoa ngữ văn. Chị là một trong số những tác giả nữ gặt hái được rất nhiều thành công khi tuổi đời còn khá trẻ:

- Giải thưởng truyện ngắn Hội văn học nghệ thuật Hà Nội 1986 - Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền Phong 1993 - Giải nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí văn nghệ quân đội 1994 - Tặng thưởng Hội nhà văn 1994 Tác phẩm: Đến nay, Nguyễn Thị Thu Huệ đã ra mắt bạn đọc bốn tập truyện

ngắn: Cát đợi, Hậu thiên đường,Phù thủy, Nào ta cùng lãng quên.

Xuất hiện không lâu, Nguyễn Thị Thu Huệ đã gây một tiếng vang lớn khi giành giải nhất cuộc thi truyện ngắn lần thứ 5 (1992-1994) do Tạp chí văn nghệ quân đội tổ chức với hai truyện ngắn Hậu thiên đường và Mùa đông ấm áp. Không dừng lại ở các giải thưởng, chị tiếp tục khẳng định mình bằng một loạt các sáng tác có giá trị khác.

7

Nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, đặc biệt là khám phá những cách tân, đổi mới trong các tác phẩm của chị, nhà nghiên cứu Bùi

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

8

Việt Thắng đã phát hiện trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ “một sự vật vã khắc khoải canh cánh trong mỗi nhân vật, đặc biệt là nhân vật nữ[33]. Ông chỉ rõ: “Cây bút này tỏ rõ sự chia sẻ, cảm thông với phụ nữ vì anh cũng mang khuôn mặt con gái”. Sau gần một thập kỷ, khi phác thảo chân dung Thu Huệ trong lời giới thiệu về bốn cây bút nữ vào năm 2003, Bùi Việt Thắng lại một lần nữa khẳng định đối tượng mà Thu Huệ quan tâm hướng ngòi bút tới là “những thiên đường và hậu thiên đường của đời sống con người đặc biệt là người phụ nữ[34].Không chỉ có sự cách tân, mới lạ ở điểm nhìn nghệ thuật, Nguyễn Thị Thu Huệ còn có những cách tân trong quá trình xây dựng tác phẩm. Phạm Hoa trong bài giới thiệu tập Cát đợi đã chỉ rõ hai kiểu xây dựng nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Một là truyện truyền thống (Có chuyện), hai là truyện không có chuyện (cốt truyện theo dòng tâm trạng) (Phạm Hoa).Nguyễn Thị Thu Huệ là người rất nghiêm túc trong lao động sáng tạo nghệ thuật. Chị đã từng tâm sự rằng, truyện của chị giống như một thùng nước sôi, nó sôi lên ùng ục đến khi hết sôi là hết. Vì thế, trong sáng tác, chị đã cố gắng sử dụng những phương tiện nghệ thuật để diễn tả cho hết, cho sâu những tâm tư trong lòng mình. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ [33] và Tứ tử trình làng ( Lời giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn bốn cây bút nữ), ông đã chỉ rõ cả bề rộng lẫn bề sâu trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc trước hết là vì giàu chất đời” và “Những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người viết bứt lên được trên cái có thực đến tận cùng, để tìm cái gì đó cao hơn của con người, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ ràng, mạch lạc, vốn bí ẩn, khó giải thích rạch ròi bằng lí trí”. Tác giả còn chỉ rõ những phương diện nghệ thuật khác trong truyện ngắn Thu Huệ, đó là tình huống “ tuy hẹp nhưng đặc sắc, ngôn ngữ có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, cấu trúc đơn giản, thông tin cao, hoạt động trong giọng điệu….Đồng thời, ông cũng nhận thấy hạn chế trong văn Thu Huệ: Cây bút này hơi tham, chưa dám gạt bỏ, còn muốn nói nhiều, nói hết trong truyện”.Ngoài ra, các tác giả khác cũng có những bài nghiên cứu sâu sắc đến hiện tượng văn học này như: Những truyện ngắn hay (Lý Hoài Thu- Tạp chí văn nghệ quân đội 12/1993), Một nửa nhân loại qua truyện ngắn dự thi của một cây bút nữ (Dương Quỳnh Trang- tạp chí văn nghệ quân đội,6/1994), Đọc hồi ức binh nhì và Bến trần gian (Kim Dung- Tạp chí Văn nghệ quân đội, 11/1994), Những ngôi sao nước mắt (Đoàn Thị Đặng Hương- Văn nghệ trẻ, 25/3/1996), Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (Hồ Sỹ Vịnh-Báo Văn nghệ, 8/2002)…Nhìn chung, qua các bài viết, Nguyễn Thị Thu Huệ được đánh giá là một cây bút có tài năng trong việc khám phá và nắm bắt hiện thực một cách nhạy bén, có giọng văn linh hoạt, uyển chuyển.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

2.3.2.Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau trong một gia đình nghèo. Nguyễn Ngọc Tư bắt đầu nghiệp viết văn khá sớm tại làng quê và gặt hái nhiều thành công trong nghề viết của mình. Chị đã lập gia đình với một thợ kim hoàn. Hiện, cùng chồng con cư ngụ tại thành phố Cà Mau, làm phóng viên cho tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau và Hội văn học nghệ thuật Cà Mau.

Trong đời thường, Nguyễn Ngọc Tư có vẻ ngoan hiền, thích cuộc sống đơn giản, nhưng lại có một cuộc sống nội tâm khá phong phú và bí ẩn. Trong văn chương, Nguyễn Ngọc Tư thường ví truyện của mình như trái sầu riêng, nhiều người thích nhưng cũng có nhiều người lại dị ứng.

Tác phẩm chính đã xuất bản: - Ngọn đèn không tắt (Tập truyện. NXB Trẻ-2000) - Ông ngoại (Tập truyện thiếu nhi. NXB Trẻ. 2001) - Giao thừa (Tập truyện trẻ.2003) - Biển người mênh mông (Tập Truyện. NXB Kim Đồng.2003) - Nước chảy mây trôi (Tập truyện và kí. NXB Văn nghệ. TPHCM) - Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Tập truyện và ký. NXB Văn hóa Sài

Gòn.2005)

- Cánh đồng bất tận (NXB Trẻ. 2005) Giải thưởng: - Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học lần thứ 20, tác phẩm Ngọn đèn

không tắt năm 2000

- Giải B hội nhà văn Việt Nam, tập truyện Ngọn đèn không tắt,năm 2000 - Giải B hội nhà văn Việt Nam, tập truyện Ngọn đèn không tắt, năm 2001 - Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ, Ủy ban toàn quốc liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Một trong mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003 do T.W đoàn trao tặng.

Cho đến nay, mặc dù đã xuất hiện trên văn đàn khá lâu, Nguyễn Ngọc Tư vẫn được coi là hiện tượng. Hàng loạt những công trình nghiên cứu, những bài báo, bài viết, những lời nhận xét khen có, chê có đã khiến Nguyễn Ngọc Tư trở thành nhà văn nữ đựợc tìm kiếm nhiều nhất trên mạng Internet và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Lí do cô được tìm kiếm nhiều bởi người đọc nhận thấy ở tác phẩm của cô có những phát hiện mới lạ và rất độc đáo.

9

Trên diễn đàn tháng 2/2004 có bài Nguyễn Ngọc Tư- Đặc sản miền nam của giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng, một Việt kiều tại Mỹ. Bài viết đã đánh giá một cách tổng hợp về nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư từ những điều giản dị của ngôn ngữ, giai điệu đến nhân vật, cấu trúc câu. Đặc biệt, Trần Hữu

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Dũng đã chỉ ra điểm khác biệt của Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn khác: “Cái mới trong văn Nguyễn Ngọc Tư chính là cái cũ, cái lạ ở cô là tài khui mở những sinh hoạt thân thuộc trước mắt. Nguyễn Ngọc Tư không “vén màn” cho người đọc thấy cái hay từng có, cô không dẫn ta khám phá những ngóc ngách của nội tâm mà ta chưa từng biết. Cô đưa ra một tấm gương rất trong, thật sáng. Và qua đó, lạ thay, như một tiếng đàn cộng hưởng, ta khám phá cái phong phú của chính đời ta [54].

Báo Tiền phong, ra ngày 31/1/2006 có bài đánh giá về văn Nguyễn Ngọc Tư: Văn phong giản dị, ngôn ngữ truyện cứ như được kê vào từ đời thường, nhưng chính những nỗi đau của những kiếp người, những số phận nhỏ bé ở một vùng quê nghèo và triểt lý nhân quả của cuộc đời làm nên sức ám ảnh lớn cho truyện (Phan Lâm).

Báo tuổi trẻ, số ra ngày 30/1/2005với bài viết Im lặng thế đấy, tác giả Đỗ Hồng Ngọc đã nhận xét: Người đọc bất ngờ trước những kiếp người, phận người hôm nay, tại đây như trong truyện kể, và bất ngờ trước một văn bút khác lạ của người viết truyện. Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu chạm vào những vỉa tầng cuộc sống của những vùng đất cô sống và viết văn. Dữ dội và nhân tình, văn Tư bắt đầu là như thế.

Trong bài Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư, điềm đạm mà thấu đáo, nhà văn Dạ Ngân đã không tiếc lời khen ngợi khả năng vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư: “Cái cách tu từ của Tư là tuyệt vời. Tôi thấy phương ngữ mà Ngọc Tư đưa vào truyện bao giờ cũng có sự cân nhắc cho sự đóng góp vào vốn liếng chung của ngôn ngữ quốc gia. Những người bẩm sinh có tài năng lớn thì họ mới làm được cái đó chứ! Nó tự nhiên như không thôi! Thả cái chữ ra thì đúng là cái chữ đó thôi không phải cái chữ nào khác”. Như vậy, theo đánh giá của nhà văn Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ biết trân trọng, vận dụng những giá trị văn hóa đặc trưng đã có của vùng miền, của dân tộc, chị còn chủ động sáng tạo và đóng góp một cách có ý thức những giá trị văn hóa mới, những cách dùng ngôn ngữ mới, làm giàu thêm cho nền văn hóa dân tộc.

10

Ở góc độ ngôn ngữ, tác giả Văn Công Hùng phần nào cũng chung cảm nhận với nhà văn Dạ Ngân khi viết: “Các câu thoại cũng thế. Đầy bất ngờ và lí thú, đậm đặc bản sắc Nam Bộ. Đậm đặc tới mức dẫu chưa một lần tới Nam Bộ cũng thấy rõ nó hiện ra mồn một khi đọc văn Nguyễn Ngọc Tư. Chất Nam Bộ ấy ẩn chứa trong tâm hồn những con người sống ở nơi tận cùng của Tổ quốc, phóng khoáng và nhân hậu, thẳng thắn, trung thực hết mình trong đời sống…Số phận cột họ vào mảnh đất này và sống chết với nó một cách dung dị, cương trực”[tr15, 62]

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

2.3.3. Đỗ Bích Thúy

Nhà văn Đỗ Bích Thuý sinh ngày 13.4.1975 tại Hà Giang. Lớn lên chị học tập, lập gia đình và sinh sống tại Hà Nội. Đỗ Bích Thuý đã tốt nghiệp Phân viện Báo chí – tuyên truyền Hà Nội và hiện là Phó tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Cô gái trẻ này từng đạt giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1998-1999. Nhiều truyện ngắn của chị đã được chuyển thể thành phim. Những tác phẩm của chị thường có đề tài về cuộc sống người dân miền núi: tập truyện ngắn Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, tiểu thuyết Dưới bóng cây sồi, kịch bản Cô gái xinh đẹp. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá là truyện ngắn đã được đạo diễn Ngô Quang Hải chuyển thể thành kịch bản phim Chuyện của Pao. Bộ phim này vừa qua đã đoạt giải Cánh diều vàng 2005 cho phim truyện nhựa xuất sắc nhất. Giống như Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ đầu, Đỗ Bích Thúy đã buộc người ta phải nhớ tới chị qua một văn phong riêng đậm chất miền núi, tác giả Điệp Anh đã cảm nhận: “Thế mạnh của Đỗ Bích Thúy là đời sống người Tây Bắc với những không gian vừa quen vừa lạ, với những phong tục tập quán đặc thù, khiến người đọc luôn thấy tò mò và bị cuốn hút. Trong truyện của Đỗ Bích Thúy, không gian Tây Bắc hiện lên đậm nét, để lại dư vị khó quên trong lòng độc giả, dù người đọc vẫn chưa thể hết quyến luyến với những áng văn thơ dặt dìu tiếng sáo, tiếng khèn, la đà với rượu nồng bếp lửa của núi rừng Tây Bắc trong các sáng tác của các bậc tiền bối như Tô Hoài, Chế Lan Viên, Tố Hữu…” [Tr3, 49].

Cảm nhận đó còn thuyết phục hơn khi Trung Trung Đỉnh, một nhà văn chuyên viết về đề tài miền núi đã viết: “Đỗ Bích Thúy có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền thống của người miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không kể về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội, phong tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù tác giả không hề cố ý đưa vào chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị chinh phục bở những chi tiết rất đặc sắc chỉ người miền cao mới có.[tr8,58]

11

Cái lạ mà Trung Trung Đỉnh cảm nhận thấy cũng rất gần gũi với cảm giác về cái lạ mà nhà văn Chu Lai khi đọc văn Đỗ Bích Thúy. Trong bài Cái duyên và sức gợi của hai giọng văn trẻ, nhà nghiên cứu Chu Lai viết: “Đọc Thúy, người ta có cảm giác như được ăn một món ăn lạ, được sống trong một mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian của hương vị núi rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh, của mây trời đặc sánh “như một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi ngải đắng, mần tang, của những nét ăn, nét ở, phong tục tập quán còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau”, của

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

những trái tim con gái vật vã, cháy bùng theo tiếng khèn gọi tình dưới thung xa, của bếp lửa nhà sàn và tiếng mõ trâu gõ vào khuya khoắt, của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm bịp say thuốc, say rượu ngủ khì bên chân chủ…” [Tr102,65]

Nhà phê bình Nguyễn Hoàng Linh Giang khi nghiên cứu tìm hiểu tiểu thuyết Bóng của cây sồi đã nhận thấy những nét đặc sắc trong văn phong của Đỗ Bích Thúy: Tính xã hội, tính nhân văn, lòng trắc ẩn và khao khát của nhà văn đã được gửi gắm vào từng trang viết. Nó đã được nói qua nhân vật, qua giọng kể không mới lạ nhưng đằm lắng và nhiều cảm xúc của Đỗ Bích Thúy. Hiện tại, quá khứ, chuyện mới, chuyện cũ đan xen, cài quấn nhau như dòng chảy của cuộc sống muôn đời nay tiếp nối, tiếp nối không dứt. Lối dẫn chuyện tự nhiên và không gò bó, cách miêu tả thiên nhiên và đời sống của miền đất cực bắc đất nước khá sinh động là ưu điểm nổi trội của tiểu thuyết này.

Trong văn chương, Đỗ Bích Thúy cũng không quá ồn ào, những câu văn của

chị như những dòng chảy ký ức, mãnh liệt và bản năng

*Tóm lại: Chúng tôi nhận thấy có nhiều ý kiến phê bình, nghiên cứu về những đổi mới, những cách tân nghệ thuật trong tác phẩm truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy. Những công trình nghiên cứu về các tác giả trên một mặt có nhiều quan điểm khác nhau, mặt khác đều chưa hoặc chỉ phần nào chạm tới những đổi mới nghệ thuật. Người viết chưa thấy công trình nào quan tâm nghiên cứu từng bước tìm tòi sáng tạo nghệ thuật truyện ngắn của các tác giả trên một cách đầy đủ và có hệ thống tính đến thời điểm hiện tại. Trên cơ sở những ý kiến đã có, chúng tôi muốn phân tích, bổ sung thêm một số vấn đề.

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1.Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật của một số cây bút nữ thời kỳ đổi mới có thể đem lại cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc trước sự vận động, chuyển biến của một tư duy văn học mới về con người thời kỳ đổi mới.

12

Với một số lượng nhà văn nữ đông đảo như hiện nay thì việc tìm hiểu những phong cách nghệ thuật của từng nhà văn để đi đến cái nhìn chung thống nhất về diện mạo của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới là một vấn đề khá phức tạp. Vì thế, trong phạm vi đề tài luận văn chúng tôi chỉ dừng lại tìm hiểu một số nhà văn nữ tiêu biểu đã tạo dấu ấn riêng trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới cũng như đã giành được sự đón nhận nhiệt tình của công chúng độc giả, đặc biệt là nữ giới, đó là: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành khảo sát để có cái nhìn hệ thống hơn về quá trình sáng tác của các tác giả nữ trên xét trên phương diện thể loại vào đời sống văn học nước ta thời kỳ 1986-2006 qua đó sẽ chỉ ra được một số dấu hiệu cơ bản trong sự vận động của thể loại truyện ngắn. Chúng tôi cũng cố gắng thử kiến giải một số vấn đề về xu hướng vận động của thể loại truyện ngắn từ phương diện quan niệm nghệ thuật đến góc độ thi pháp thể loại.

Chúng tôi không bỏ qua những truyện ngắn về người phụ nữ của các tác giả nam để có sự so sánh đánh giá toàn diện nhất về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới.

Chúng tôi cũng quan tâm nhiều đến các bài nghiên cứu của các tác giả trong lĩnh vực lí luận văn học: lý luận về truyện ngắn, lý luận về hình tượng như Phan Cự Đệ, Phương Lựu, Bùi Việt Thắng…góp phần tạo dựng cơ sở khoa học cho vấn đề này. 3.2. Chọn đề tài Tìm hiểu một số cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 1986-2006 ( Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý), chúng tôi tìm hiểu ở ba phương diện:

- Những cách tân nghệ thuật trên phương diện kết cấu và tính huống truyện - Sự đổi mới trong cách xây dựng nhân vật - Sự đổi mới về nghệ thuật trần thuật ( Ngôn ngữ và giọng điệu) 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã phối hợp vận dụng các phương

pháp sau:

4.1. Phương pháp hệ thống: Những cách tân nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thuý trên các phương diện: quan niệm nghệ thuật, cốt truyện, kết cấu, nhân vật, trần thuật…cần được nhìn nhận một cách hệ thống. Mỗi phương diện là một tiểu hệ thống riêng nằm trong hệ thống lớn là toàn bộ sáng tác của các tác giả nữ trên. Đồng thời, phải đặt sáng tác của các tác giả nữ ấy trong hệ thống chung của văn học Việt Nam để thấy vị trí và đóng góp riêng của các tác giả trong tiến trình đổi mới, hiện đại hoá văn học nước nhà.

13

4.2. Phương pháp so sánh: Chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu để thấy được sự đổi mới nghệ thuật qua từng chặng đường truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý. Đồng thời, chúng tôi tiến hành so sanh tác phẩm của các tác giả nữ đó với nhau và với các nhà văn khác trong cùng thời kỳ để ghi nhận đóng góp của họ cho sự phát triển của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

4.3. Phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát Phân tích tổng hợp là phương pháp quan trọng.Thông qua đó, ta thấy được sự cảm nhận riêng của từng nhà văn về con người và cuộc sống. Bên cạnh đó, mọi biểu hiện sinh động trong sáng tác cần được soi chiếu bằng nhiều góc nhìn dưới con mắt phân tích. Từ đó chúng tôi tổng hợp khái quát các kết quả phân tích để đi đến kết luận minh chứng cho những luận điểm mà luận văn đưa ra.

5. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu và phần kết luận và phần thư mục tham khảo, nội dung

chính của luận văn gồm ba chương như sau:

14

Chương 1: Những đổi mới về cốt truyện và kết cấu Chương 2: Những đổi mới trên phương diện nhân vật Chương 3:Những cách tân trên phương diện ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG ĐỔI MỚI VỀ CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU

1.1.Cốt truyện và sự mở rộng dung lượng hiện thực

Nếu tác phẩm trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ quan về nó, thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời con người”[Tr385,13]. Phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó hay về một cái gì đó. Cho nên, tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Điểm khác biệt cơ bản giữa tác phẩm tự sự và tác phẩm trữ tình chính là yếu tố cốt truyện. Vì vậy, ta có thể khẳng định cốt truyện trong tác phẩm tự sự chiếm một vị trí vô cùng quan trọng góp phần hình thành nên đặc trưng của thể lọai.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “cốt truyện là hệ thống các sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch [13].

Có thể tìm thấy qua một cốt truyện hai phương diện gắn bó hữu cơ. Một mặt, cốt truyện là một phương diện bộc lộ nhân vật, nhờ cốt truyện, nhà văn thể hiện sự tác động qua lại giữa các tính cách nhân vật, mặt khác, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội. Cốt truyện vừa góp phần bộc lộ có hiệu quả đặc điểm mỗi tính cách, tổ chức tốt hệ thống tính cách, lại vừa trình bày một hệ thống sự kiện phản ánh chân thực xung đột xã hội, có sức mạnh hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.

Cốt truyện là một hiện tượng phức tạp. Trong thực tế văn học, cốt truyện các tác phẩm hết sức đa dạng, kết tinh truyền thống dân tộc, phản ánh những thành tựu văn học của mỗi thời kỳ lịch sử, thể hiện phong cách, tài năng nghệ thuật của nhà văn [Tr100. 13].

15

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân lại đưa ra quan niệm khác về cốt truyện: “Cốt truyện là một phương diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó chỉ lớp biến cố của hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm. Cốt truyện là một phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng loại. Trong các thể loại văn học, các cốt truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch, nhưng thường không có mặt trong các tác phẩm trữ tình” [Tr 114, 5]

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Dẫn luận nghiên cứu văn học do G.N. Pôpêlốp chủ biên nêu khái quát về cốt truyện: “Các tác phẩm tự sự và kịch, miêu tả các sự kiện, hành động trong đời sống nhân vật diễn ra trong không gian và thời gian. Phương diện này của sáng tác nghệ thuật được gọi bằng thuật ngữ cốt truyện.[Tr 229,25]

Vậy ta có thể đi đến kết luận về cốt truyện: Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện, biến cố phản ánh những diễn biến của cuộc sống một cách nghệ thuật làm cho tính cách của nhân vật hình thành và phát triển. Đồng thời, cốt truyện còn là phương tiện để nhà văn tái hiện các xung đột xã hội nhằm làm sáng tỏ chủ đề - tư tưởng của tác phẩm, qua đó thể hiện phong cách tài năng nghệ thuật của nhà văn.

Cốt truyện là thành phần quan trọng thiết yếu của tự sự và kịch. Nó thường trải qua một tiến trình có vận động, hình thành, phát triển và kết thúc. Tuy vậy, ở những cốt truyện cụ thể không phải bao giờ cũng có đầy đủ các thành phần đã nêu. Và để một cốt truyện hay, hấp dẫn phụ thuộc rất nhiều vào hiện thực cuộc sống với những quy luật phát triển tất yếu của nó và phụ thuộc vào năng lực, phẩm chất sáng tạo, đặc biệt là ý đồ tư tưởng của tác giả. Bởi vậy, mỗi nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật đều phải nỗ lực tìm tòi những cốt truyện phù hợp để biểu hiện tư tưởng một cách sâu sắc. Tìm hiểu về cốt truyện chính là một góc độ để nắm bắt chủ đề tư tưởng, cũng như giá trị thẩm mỹ của tác phẩm, đồng thời cho ta thấy được tài năng và sự sáng tạo không ngừng nghỉ của người nghệ sỹ.

Tác phẩm tự sự phản ánh đời sống qua việc lựa chọn, trình bày hệ thống những sự kiện, chi tiết, tình tiết khác nhau. Nghĩ về truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu hình dung “Truyện ngắn như mặt cắt giữa một thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đường vân trên cái khoanh gỗ tròn tròn kia, dù sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc [Tr332, 9]. Hay nói một cách cụ thể hơn: “Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, trong đời sống tâm hồn con người”[Tr31, 18]. Do vậy, hướng tiếp cận và cách thức lựa chọn, xây dựng cốt truyện của truyện ngắn cũng có những đặc trưng riêng. Được quan niệm “là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng của tác phẩm[33], cốt truyện truyện ngắn có nhiều biểu hiện đa dạng và phong phú thể hiện những chức năng, giá trị khác nhau trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của thể loại.

16

Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh vai trò của cốt truyện: “Trong những truyện ngắn hay, bao giờ người viết cũng biết lợi dụng cốt truyện để tạo độ căng” [Tr 230, 34]. Nhà văn Ma Văn Kháng khi viết truyện ngắn có nhận xét: “Với tôi,

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

theo một thói quen đã trở thành thông lệ, trước hết hiển nhiên là phải có được một cốt truyện”.. Gớt cũng đã đề cao vai trò của cốt truyện trong sáng tạo truyện ngắn: “Đúng vậy, còn gì quan trọng hơn cốt truyện và nếu thiếu nó cả nền lí luận nghệ thuật sẽ còn ra gì nữa? Nếu cốt truyện không dùng được thì tài năng cũng sẽ lãng phí vô ích. Và chính vì nghệ sỹ hiện nay không có những cốt truyện xứng đáng nên tình hình nghệ thuật hiện đại mới bi đát như thế.

Để tạo nên sức sống bền lâu cho thể loại, nhà văn phải luôn có ý thức cách tân và sáng tạo trong lao động nghệ thuật, công việc đó, “xét đến cùng là sự cải tạo các phương thức tổ chức nghệ thuật của tác phẩm, phản ánh những thay đổi trong phạm vi và tính chất của mối quan hệ con người – thực tại[6]. Hơn nữa, trong văn học thời kỳ đổi mới, cả nhà văn và độc giả đều có nhu cầu cao hơn trong sáng tạo và cảm thụ nghệ thuật, muốn nhận thức, khám phá cuộc sống “ở bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa (Chế Lan Viên). Cho nên, với vai trò là “Phương tiện bộc lộ tính cách” đa dạng và “Phương tiện để nhà văn thể hiện các xung đột xã hội” ngày càng trở nên phức tạp và biến hóa hơn, truyện ngắn giai đoạn này thực sự lên ngôi khi tạo ra nhiều cốt truyện hay, độc đáo và có khả năng chuyển tải nhiều nội dung xã hội sâu sắc. Vì thế, giá trị chủ yếu của cốt truyện không đơn thuần ở chỗ có hay không có cốt truyện mà ở chiều sâu nội dung tư tưởng mà nó dung chứa được. Cốt truyện do vậy không chỉ là tổng hợp giản đơn các chi tiết, biến cố mà được tổ chức một cách hệ thống những sự kiện, tình huống đa dạng, hàm chứa sự dồn nén tích tụ nhiều trạng thái của đời sống. Cốt truyện theo xu hướng hiện nay không chỉ thực hiện chức năng phản ánh, tái hiện đời sống, xây dựng tính cách nhân vật mà còn là sự khám phá, lí giải sâu sắc hiện thực xã hội và những số phận cá nhân. Điều đó cho thấy “ Truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều hướng tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi pháp thể loại” [Tr57, 36].

17

Thực chất của việc tạo nên nhiều cốt truyện hay, có chiều sâu là cách thức tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao trong một hình thức nhỏ, là “Khả năng ôm trùm bao quát hiện thực, là sức chứa chất liệu đời sống” hay khả năng của nội dung phản ánh hiện thực[34]. Vấn đề của một số truyện ngắn hiện nay là vấn đề dung lượng hiện thực và khả năng phản ánh cuộc sống. Xu hướng “Tiểu thuyết hóa” thể loại truyện ngắn được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá xác đáng “Dung lượng truyện ngắn ngày nay rất lớn, trong độ ba trang mấy nghìn chữ mà rõ một cuộc đời, một kiếp người, một thời đại. Các truyện ngắn bây giờ rất nặng. Dung lượng của nó là dung lượng của cả cuốn tiểu thuyết [34].Cho nên, “Hầu hết mỗi truyện ngắn là cả một cuộc đời, một số phận thậm chí một thời đại’ [34]. Sự thâm nhập mạnh mẽ của tư duy tiểu thuyết tạo cho truyện ngắn giai đoạn này “Một sức chứa lớn hơn nhiều so với bản thân chúng và mở rộng khả năng thể loại đến độ ngạc nhiên [Tr4,4].

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Trước năm 1975, cốt truyện ít nhiều chịu “áp lực của sử thi”. Truyện ngắn chú ý tạo dựng những cốt truyện chặt chẽ với tình huống gay cấn, căng thẳng. Âm hưởng chủ đạo là ngợi ca, khẳng định. Truyện ngắn giai đoạn này cũng đã hướng tới cốt truyện tâm lý, phản ánh vẻ đẹp nội tâm của con người nhưng chưa có nhiều trang thể hiện sâu sắc diễn biến tâm lý và cái tôi nội cảm của nhân vật. Sau 1975, nhất là trong những năm gần đây, thực tiễn văn học đã chứng minh cái tạo nên sức hấp dẫ lôi cuốn của truyện ngắn không chỉ là “những cốt truyện rạch ròi, những sự kiện trọng đại, những tình huống căng thẳng, những xung đột bên ngoài, mà còn là những cảnh ngộ đời thường, những tính cách nhân vật giàu tâm trạng và nhận thức cá nhân với cuộc đời và những người sống bên mình”[73]. Cốt truyện đã vận động đổi thay trong sự phát triển của thể loại. Xuất hiện những cốt truyện đầy kịch tính, những cốt truyện giàu tâm trạng, cốt truyện có đầu có cuối, cốt truyện “vô hậu”, phi kết cấu, có cốt truyện phản ánh hiện thực đương đại, có cốt truyện ảo, cổ tích. Với khả năng biến hóa linh hoạt trong cách xây dựng cốt truyện, truyện ngắn là thể loại thuận lợi để biểu đạt một cách tự nhiên, cụ thể những nỗi niềm, những tâm sự thầm kín, đầy bí ẩn của con người.

Truyện ngắn phát triển đa dạng cùng với sự nổi trội hình thức như truyện ngắn kỳ ảo, giả lịch sử, nhại cổ tích, truyện ngắn dòng ý thức. Truyện ngắn kỳ ảo là đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm bắt của con người để từ đó thấu hiểu con người ở phần nhân tính mơ hồ huyền diệu ấy. Truyện ngắn giả lịch sử là dùng chất liệu lịch sử làm cái vỏ nghệ thuật để truyền những thông điệp về hiện tại. Truyện ngắn dòng ý thức (tâm trạng) với đặc điểm phi cốt truyện: Truyện ngắn không kể lại được bởi không có cốt truyện tiêu biểu, nếu có là cốt truyện bên trong, cốt truyện tâm lý phản ánh trạng thái tâm lý điển hình của nhân vật.

18

Bằng cách diễn đạt khác với những phương thức thể hiện đa dạng vừa truyền thống vừa hiện đại, truyện ngắn trong một thời gian không dài đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm. Truyện ngắn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Tiểu thuyết là cái nhìn tập trung xoáy sâu vào những vấn đề của con người cá nhân cũng như mối quan hệ của cá nhân và xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định những giá trị nhân bản, nhà văn chú ý vào số phận, tính cách của nhân vật mà soi chiếu lại lịch sử xã hội để khơi gợi những vấn đề triết lý nhân sinh. Trái lại, trong truyện ngắn, nhà văn chú trọng vào việc xây dựng tình huống truyện: “Quan trọng nhất của truyện ngắn là tạo ra một tình huống nào đó từ tình huống nổi bật của tính cách nhân vật” (Nguyễn Đăng Mạnh). Nhà văn Nguyễn Kiên tâm đắc: “Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn cho được cái

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

tình thế, nó bộc lộ nét chủ yếu của tính cách số phận, nó đặc trưng cho một hiện tượng xã hội [69].

Trong bài Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, tác giả Bích Thu đánh gía tổng quát như sau: “Trong những năm gần đây, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở đa dạng hơn trong cách diễn đạt. Cốt truyện vận động đổi thay trong sự phát triển của thể loại, có những cốt truyện vô hậu, phi kết cấu, có cốt truyện phản ánh hiện thực đương đại, cốt truyện ảo, cổ tích…Truyện ngắn hôm nay ngày càng tăng cường cốt truyện bên trong, biểu lộ trạng thái tâm tưởng của nhân vật chính, giảm bớt cốt truyện hành động bên ngoài. Cốt truyện với đầy đủ chi tiết sự kiện không còn chiếm giữ vai trò cơ bản mà lùi xuống hàng thứ yếu sau tính cách”. Đặc biệt, tác giả chỉ rõ ra rằng: “Một số cây bút nữ đã góp phần làm nên sự đa dạng của từ ngữ sau 1975 bằng năng lực biểu cảm cuộc sống qua thế giới tâm hồn theo dòng tâm trạng của nhân vật”.

Truyện ngắn của các nhà văn nữ đã mở ra một luồng sinh khí mới cho văn học thời kỳ đổi mới. Lối viết trẻ trung đầy sáng tạo, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh độc đáo của họ đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều độc giả đương đại. Nói như nhà văn Bùi Hiển “Nét sinh sắc là ở chỗ cây bút trẻ không hề hồn nhiên một cách dễ dãi, trái lại văn phong mang vẻ trầm ngâm, để suy ngẫm về cuộc sống, về những thân phận khác nhau” [59].

19

1.1.1. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện Cốt truyện là những đường dây sự kiện, “hệ thống sự kiện cụ thể”, [Tr99,14] là sự xâu chuỗi, liên kết, tổ chức các chi tiết, tình huống “theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định [Tr99,14] . Khi xây dựng cốt truyện, nhà văn có thể tạo ra một hoặc nhiều đường dây sự kiện đan xen và bổ sung cho nhau nhằm làm nổi bật nội dung tư tưởng của tác phẩm. Do vậy, mạch truyện có thể được hiểu là những đường dây chi tiết, sự kiện nhất định trong từng cốt truyện, được tạo nên theo những khả năng kết hợp khác nhau, một câu chuyện có thể có một hoặc nhiều mạch chuyện. Suy cho cùng, việc sáng tạo mạch chuyện phụ thuộc chủ yếu vào ý đồ sáng tác và quan niệm về giá trị cốt truyện của tác giả. Sự phức tạp và đầy biến động của đời sống xã hội sau đổi mới đã làm nảy sinh rất nhiều phương diện và phạm vi hiện thực mới mẻ cần được khám phá, lí giải. Xu hướng phản ánh cuộc sống đa chiều đã xuất hiện trong nhiều truyện ngắn thời kỳ sau này. Sự chuyển đổi từ loại cốt truyện một mạch thẳng sang cốt truyện đan xen nhiều mạch chuyện là một biểu hiện rõ nét của sự đổi mới nghệ thuật trong truyện ngắn hiện đại nói chung và của các cây bút nữ thời kỳ này nói riêng. Do đó, cốt truyện được tổ chức linh hoạt và tinh tế hơn với nhiều ngả rẽ, nhiều mạch chuyện.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy nhà văn đã tạo ra sự đan xen của nhiều mạch truyện, mạch quá khứ và mạch hiện tại, hay sự song song tồn tại của cái thực và cái ảo…Nhà văn thường xây dựng kiểu cốt truyện có sự xáo trộn về mặt thời gian nghệ thuật, đan xen những sự kiện quá khứ và hiện tại để đối chiếu và soi tỏ nhằm khắc họa sâu sắc hình tượng nhân vật và bộc lộ tối đa tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Trong truyện ngắn của chị, cốt truyện thường được bắt đầu ở hiện tại sau đó trở về quá khứ rồi lại quay về hiện tại. Ở một số truyện ngắn khác lại có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, tạo điều kiện cho nhân vật bộc lộ tình cảm, suy nghĩ, hành động của mình trong các giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa quá khứ và hiện tại trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư không chỉ dựa trên diễn biến nội tâm của các nhân vật mà chúng ta còn thấy được qua chính lối tổ chức các sự kiện của nhà văn. Chính sự hợp lý, lô gíc của các sự kiện khiến cho chính các sự kiện trong quá khứ cũng hiện lên một cách rõ nét và gần gũi như trong hiện tại. Mô hình cốt truyện này được khái quát như sau:

(1) (2) (3) Thời điểm hiện tại: Nhân vật xuất hiện Thời điểm quá khứ: Những hồi tưởng của nhân vật Trở lại thời điểm hiện tại: Kết thúc truyện, những so sánh chiêm

nghiệm của nhân vật

20

Rất nhiều truyện ngắn của chị được xây dựng với mô hình cốt truyện trên, trong đó triển khai các chi tiết, sự kiện tạo thành các mạch hiện tại – quá khứ - hiện tại khá linh hoạt. Sự đảo lộn trật tự thời gian là một trong những cách kéo gần thời gian quá khứ về với thời gian hiện tại, làm cho tất cả các sự kiện, sự việc đồng hiện cùng một lúc, làm nên những mảng màu đa dạng của cuộc sống. Từ đó giúp người đọc có thể soi chiếu vấn đề đặt ra trong tác phẩm dưới nhiều góc độ khác nhau,nhất là nó có khả năng hình thành nhiều liên tưởng bất ngờ, phức tạp cho độc giả. Có những khi người đọc phải sắp xếp lại trật tự thời gian của cốt truyện thì mới có thể hiểu được những bước diễn tiến của truyện. Chính sự nhập nhằng, đôi khi khó phân định ranh giới giữa hiện tại và quá khứ ấy khiến người đọc trong quá trình sắp xếp lại các sự việc theo thời gian, buộc phải có những suy nghĩ sáng tạo và liên tục đặt ra những câu hỏi mang tính dự cảm, đoán định. Sầu trên đỉnh Puvan của Nguyễn Ngọc Tư là một kiểu đan xen các mạch truyện khá phức tạp. Trong cốt truyện mỗi nhân vật tạo nên một mạch truyện tồn tại độc lập. Sự sắp xếp nhiều mạch truyện trong tác phẩm tạo nên cảm giác về một không khí ngột ngạt, sự đan xen của nhiều số phân các nhân vật tạo nên cảm giác vừa cay đắng vừa xót xa. Câu chuyện thứ nhất là chuyện về số phận nhân vật Dịu. Hai vợ chồng giả vờ li dị để cô đi xuất khẩu lao động Đài Loan. Nhưng cô bị ông chủ Đài Loan hãm hiếp và có con với ông ta. Bà chủ đẩy cô ra đường, cô trở về nước với hai

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

bàn tay trắng và một cõi lòng cay đắng tê tái. Không chấp nhận nổi sự tha thứ của chồng, mà cô nghĩ đó là lòng thương hại, cô bỏ đi kiếm tiền bằng nghề làm gái trên thành phố. Tại đây, cô gặp Vĩnh, chàng họa sỹ có tình yêu mãnh liệt với vẻ đẹp của những cây sầu. Câu chuyện thứ hai là chuyện về người tu sỹ Colègan đã chết khi tận mắt chứng kiến vẻ đẹp của hoa sầu nở. Thứ ba là chuyện về cuộc đời của Vĩnh, nhà bị cháy rụi trong bom đạn, người yêu đầu đời chết đuối, quá khứ mờ mịt và tương lai vô vọng....Cuối cùng là câu chuyện của chú bé chăn dê với người mẹ nghèo…Mỗi số phận có một nỗi niềm riêng. Và tác giả đã khéo léo lồng ghép chúng trong câu chuyện chung đó là hành trình tìm đến cái đẹp của ba con người: một chú bé chăn dê, một cô gái điếm và một nghệ sỹ. Cách ứng xử của ba người trước cái đẹp hoàn toàn khác nhau. Chú bé căm ghét cây sầu nở hoa vì năm nào sầu nở làng cũng đói và dê chết nên bỏ về trước. Người nghệ sỹ chết vì cái đẹp còn cô gái điếm đi xuống núi một mình và không tin vào lời nguyền. Đằng sau những câu chuyện về từng số phận, từng cuộc đời đó là cái dư âm còn khắc khoải trong những trang viết của Nguyễn Ngọc Tư.

21

Một nhân vật có thể tạo nên không chỉ một mạch truyện mà có thể đan xen nhiều mạch bằng những đoạn hiện tại, quá khứ, suy tưởng, ước mơ…Trong “ Tiếng đàn môi sau bờ rào đá” của Đỗ Bích Thúy, số phận của một người phụ nữ vùng cao được thể hiện thông qua một hệ thống các chi tiết sự kiện. Truyện được bắt đầu bằng hình ảnh của thời hiện tại cảm nghĩ của ông Chúng về gia đình khi nhìn thấy những đứa con của mình, và cả bà Chúng nữa. Mới đọc truyện, người đọc cứ ngỡ như đang tiếp xúc với một gia đình hạnh phúc, cha mẹ đã đến tuổi xế bóng về già mãn nguyện nhìn con cái trưởng thành. Nhưng hóa ra không phải vậy. Đằng sau vẻ bình thản của từng con chữ là bao nhiêu nỗi nhọc nhằn của đời người xuất hiện. Từ đó, truyện phân chia thành những khúc đoạn kể về những thăng trầm của một gia đình, trong đó mỗi cá nhân là một cảnh đời, một số phận chớ trêu rất đáng thương. Mỗi khúc đoạn có thể tồn tại độc lập như một câu chuyện, trở thành những mạch phụ trong sự liên hệ chung nhằm lí giải chủ đề. Mạch diễn tiến của truyện có thể sơ đồ hóa như sau:

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

MẠCH THỨ 2

Thời gian quá khứ: Kía lấy Chúng mà không có con

MẠCH THỨ 1

Thời gian hiện tại: Chuyện của May

MẠCH THỨ 3

22

Thời gian hiện tại: Chuyện gia đình ông Chúng Thời gian quá khứ: Trước tết một tháng Thời gian quá khứ: mẹ Hoa về Thời gian hiện tại: Chuyện tình của mẹ già Câu chuyện xoay về thời gian của quá khứ gần “trước tết một tháng…”, hình ảnh của mẹ Hoa xuất hiện. Từ đó, người đọc ngạc nhiên trước sự xuất hiện của một nhân vật mới trong mạch truyện. Mẹ Hoa là người đàn bà được cha của May đem về sau những năm tháng đằng đãng sống với mẹ già mà không có con. Từ đó, mối tình tay ba của họ bắt đầu. Truyện lại quay trở lại mạch quá khứ với những dòng hồi cố về cuộc sống của một gia đình vùng cao, về cảnh làm dâu và làm mẹ hai đứa con chồng của mẹ già. Xen kẽ trong mạch truyện lúc ở thì hiện tại, lúc lại dội về quá khứ nhức nhối của mẹ già là câu chuyện tiếng kèn môi dặt dìu của May. Tiếng khèn môi ấy làm trái tim thiếu nữ xao xuyến. Nhưng tiếng khèn môi ấy còn gợi lại những kỉ niệm không thể nào quên của mẹ già về một thời trẻ đã qua…Có thể nói, thông qua cốt truyện về số những số phận khác nhau của cuộc sống con người nơi vùng cao, Đỗ Bích Thúy muốn gửi gắm sự đồng cảm, thấu hiểu và chia sẻ tận đáy sâu tâm hồn mình với số phận của những người phụ nữ. Có thể thấy, với người phụ nữ vùng cao, những chuỗi ngày được coi là hạnh phúc nhất của đời họ thường qua

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

ngắn ngủi. Hẳn đó chỉ là những tháng ngày mới bước vào tuổi cập kê, biết ửng hồng đôi má khi bắt gặp một ánh nhìn như thiêu như đốt trong buổi chợ, biết cất cao giọng hát đáp lời một tiếng hát nồng nàn, tình tứ phía đám trai bên kia. Còn khi đã lấy chồng, họ sẽ phải chấp nhận muôn vàn nỗi khổ cực do hủ tục lạc hậu, do cái đói, nghèo, do tối tăm lạc hậu và hơn hết là do những định kiến xã hội gây ra. Phải chăng, bởi đúng như Đỗ Bích Thúy đã viết: “Bởi cuộc đời thì dài, âu lo thì lớn, khát vọng thì xa nên cái khoảnh khắc ấy mới quý giá và ý nghĩa biết nhường nào”.

Ta còn có thể bắt gặp rất nhiều truyện khác có cùng kiểu cốt truyện như thế này: Hậu thiên đường, Cát đợi, Đêm dịu dàng…(Nguyễn Thị Thu Huệ), Gió không ngừng thổi, Ngải đắng ở trên núi…(Đỗ Bích Thúy), Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư). Chức năng lớn nhất của loại cốt truyện này là khả năng bao trùm hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn, phức tạp; không chỉ phản ánh mà còn nhằm lí giải hiện thực. Nằm trong mạch vận động chung của văn học thời hiện đại , truyện ngắn ngày nay với xu hướng “tiểu thuyết hóa” đã tìm đến một lượng chi tiết, sự kiện đa dạng với những giá trị biểu hiện mới, đã tố chức hệ thống chi tiết sự kiện một cách linh hoạt và sinh động hơn.

1.1.2. Cốt truyện giàu chi tiết sự kiện: Cốt truyện là một hệ thống các chi tiết, sự kiện, biến cố được kết nối với nhau một cách đa dạng, linh hoạt. Đối với truyện ngắn, chi tiết trở thành vấn đề sống còn: “Truyện ngắn sống bằng các chi tiết…không khí, cảnh trí, tình huống, nhân vật, tính cách, hành động, tâm tư, diễn biến…đều phải được tạo ra, dựng nên từ các chi tiết[3], bởi “truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết[Tr85,3]. Với đặc điểm là “ngắn”, truyện ngắn không có chỗ cho những chi tiết rườm rà, không có giá trị cho sự phát triển cốt truyện, xây dựng tính cách nhân vật và bộc lộ chủ đề tư tưởng tác phẩm. Mọi chi tiết sự kiện tham gia vào cốt truyện phải được chọn lọc kỹ càng và có tác dụng nhất định trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật của tác giả. Bên cạnh chi tiết, sự kiện là những việc có ảnh hưởng và tác động đáng kể đến tính cách và số phận nhân vật, là chất liệu cơ bản tạo thành một cốt truyện. Khẳng định vai trò của chi tiết sự kiện trong truyện ngắn đồng thời cần thấy rằng tính chất chức năng và sự tổ chức của các loại chi tiết, sự kiện sẽ có những biến đổi nhất định phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển của thể loại. Khảo sát truyện ngắn của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy có rất nhiều tác phẩm xuất hiện nhiều chi tiết, sự kiện .

23

Trước hết, đó là chi tiết có tính điển hình cao. Những chi tiết này có tác dụng cá thể hóa một đặc điểm tính cách của một loại nhân vật trong tác phẩm. Ví dụ, để diễn tả đặc điểm phong tục cưới hỏi của người dân tộc vùng cao, Đỗ Bích

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Thúy đã lựa chọn các hình ảnh “Ngày em về làm dâu, nhà tôi có bao nhiêu trai bản uống rượu say không về được. Người Tả Choóng bảo nhờ em Dân có cái chữ hơn người nên ông Dìn mới chịu gả con gái cho mà chỉ lấy ba mươi, chứ người như thế phải lấy cả trăm mới xứng. Trăm đồng bạc trắng, trăm cân gà, trăm cân lợn, trăm lít rượu ngô, không phải nhà giàu mấy đời thì chịu thôi, làm đến chết cũng không trả hết nợ” (Ngải đắng ở trên núi). Diễn tả tình yêu của đôi trai gái vùng cao, tác giả lựa chọn hình ảnh của tiếng đàn môi sau bờ rào đá, tiếng đàn cứ vang lên, như giục giã, như cuống quýt, lưu luyến bước chân của con người (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá). Để nhằm khắc họa hình ảnh của một thế giới khi con người đã trải qua những đau khổ, cay đắng của cuộc đời, Nguyễn Thị Thu Huệ dùng hình ảnh “hậu thiên đường”, hay những chi tiết về “cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư để mô tả về cuộc sống bấp bênh, không chốn neo đậu rõ ràng của con người…Những chi tiết điển hình đó góp phần đắc lực trong việc chuyển tải nội dung tác phẩm và ý đồ nghệ thuật của người nghệ sỹ.

24

Quan sát hiện thực dưới góc nhìn thế sự - đời tư, các tác giả còn lựa chọn những chi tiết đời thường, bình dị hàng ngày, những chi tiết, sự kiện có vẻ đơn giản, nhỏ bé, thậm chí tản mạn nhưng lại có khả năng chuyển tải những vấn đề lớn lao của cuộc sống. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có nhiều khả năng dồn nén và dung chứa một lượng lớn chi tiết, sự kiện. Sự kiện nọ nối tiếp sự kiện kia tái hiện cả cuộc đời số phận nhân vật. Với sự trình bày hệ thống chi tiết sự kiện liên tiếp, người đọc sẽ có cái nhìn bao quát diễn biến cuộc đời nhân vật, những biến động thăng trầm trong số phận con người, thậm chí những góc khuất nhỏ trong tâm trạng con người cũng được tỏ bày rõ ràng. Đọc truyện ngắn Giai nhân, người đọc có cảm giác như quay vòng trong mớ hỗn độn của những giằng xé nội tâm của nhân vật Sao. Người đàn bà đầy kiêu hãnh đã bị đẩy đến nỗi cô đơn cùng cực. Trong căn phòng câm lặng, Sao phải đối mặt với chính mình, đối diện với cái điện thoại “không tiếng vang”, với cánh cửa “không một tiếng gõ”, với “mùi thơm ngàn ngạt” của bún chả, với tiếng chửi rủa của nhà hàng xóm. Tất cả đều khiến Sao phải tuyệt vọng thốt lên: “Ai đến với tôi bây giờ”. Không dừng lại ở đấy, Thu Huệ đã để cho nhân vật của mình phải “rùng mình ớn lạnh” thực sự khi nhận ra vòng quay của số phận qua chi tiết cuối của tác phẩm. Sao cùng những người hàng xóm đi phúng viếng người phụ nữ chết trẻ. Giữa tiếng khóc “rộ lên ảo não”, Sao cúi nhìn “khuôn mặt người đàn bà chỉ còn lại là một khung xương, hai bên tóc đen nhánh xõa mềm. Và tất cả cả là những cái hốc. Hốc mắt thì xanh, hốc miệng thì đỏ”. Gương mặt người đàn bà ghê rợn giúp cô nhận ra rằng: “Cuộc sống là vô giá”. Tác giả đã rất sắc sảo và tinh tế khi lựa chọn chi tiết đời thường nhưng cũng rất đắt giá để khắc họa tâm trạng của người phụ nữ.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Chúng ta có thể gặp rất nhiều các chi tiết đời thường trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, đó là hình ảnh ông già Chín với dáng người “gầy nhom, nhỏ thó nhưng tốt bụng lởi xởi” (Cuối mùa nhan sắc), là hình ảnh em bé gái “chắt nước cơm tời sau bếp than” hồn nhiên sống động (Ngọn đèn không tắt), là hình ảnh chàng trai miệt vườn sông nước Nam Bộ “xoay trần với mười tám công kì hồ” (Lý con sáo sang sông), là hình ảnh người phụ nữ chất phác khi yêu không biết làm gì, muốn nhìn thấy người mình yêu cho nên khi đi bán hàng: “Chị lấy cớ bán thật rề rà và để nhìn anh lâu hơn nữa…Nhìn vậy thôi chứ không nói gì hết “con trâu không nói sao cái cọc nói được”…Trong văn chương Đỗ Bích Thúy, đó là hình ảnh “Ai cũng biết mang rượu đi chợ hai bảy để người bán người mua uống cùng với nhau”, là hình ảnh của “con ma rừng muốn bắt ai thì đi vào mồm người ấy mới xuống bụng lôi ruột đi được…”

25

Truyện của Nguyễn Ngọc Tư có khả năng dồn nén chi tiết cao độ, đặc biệt nhà văn sử dụng các chi tiết rất sắc sảo tạo nên dụng ý nghệ thuật riêng cho từng tác phẩm. Trong “Cánh đồng bất tận”, ta thấy tài năng của tác giả trong việc dồn nén dung lượng các chi tiết. Đọc xong một truyện ngắn, người đọc có cảm giác như vừa trải qua một cuốn tiểu thuyết với hệ thống chi tiết, sự kiện điển hình giàu sức ám gợi và có tính điển hình cao. Câu chuyện của ba cha con người chăn vịt đã cho chúng ta nhiều bài học quý giá về lẽ nhân sinh ở đời. Nguyễn Ngọc tư đã khéo léo đưa vào truyện nhiều chi tiết hay, cảm động, lay thức tình cảm trong mỗi chúng ta. Đọc truyện của chị, nhiều khi ta cắn môi để khỏi bật khóc bởi những chi tiết mà chị lựa chọn, tìm tòi được nó tuy giản đơn thôi mà đúng quá, thật quá, cay đắng quá. Nó thật đời mà cũng thật là buồn. Khi người mẹ đã bỏ nhà ra đi, nhân vật Sương, cô con gái thấy rằng “Cha cười cay đắng, khi thấy quần áo má còn treo trong nhà, còn cả cái khăn tắm và đôi dép Lào cũ, như thể má đang chơi bên xóm, chỉ cần thằng Điền kêu má sẽ xấp xãi chạy về, mừng húm hỏi "Đi chuyến này nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?". Coi kỹ thì má không đem theo gì. Chi tiết đó làm đau lòng người ở lại, nó cho thấy người đi đã chẳng suy nghĩ, đắn đo, đã không một chút trù trừ, chỉ rũ mình cái rột, sạch trơn, vậy thôi”. Khi bị làm hại trên cánh đồng lúa, ngỡ rằng nhà văn sẽ đi vào khai thác sự cuồng nộ của người cha, sự đau đớn của đứa con gái, nhưng không, tất cả chỉ là một dòng tâm trạng miên man, thổn thức. Chi tiết được chọn lựa làm cho ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm cất cao: “Cảm giác một cái gì, nhỏ xíu nhưng lanh lợi như con loăng quăng đang vui sướng, ngụp lặn trong nó. Đứa con gái thoáng nghĩ, có thể mình sẽ sinh con. Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ hay Dịu, Xuyến, Hường... Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Đọc truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, nhất là những truyện miêu tả cuộc sống còn nhiều vất vả, khó khăn của người dân tộc miền núi cao Tây Bắc của Tổ quốc, ta thấy nhiều truyện có độ căng của các chi tiết, sự kiện. Dường như cuộc sống của các tộc người thiểu số của nước ta không bình lặng như cái vẻ ngoài vốn có của nó. Đọc Con dê bốn mắt, ta không khỏi ngạc nhiên về sự dồn nén, căng thẳng, sự xuất hiện liên tục của các chi tiết bất ngờ thì lại đến ngỡ ngàng vì kết thúc của truyện. Truyện được bắt đầu bằng chi tiết nhà Thèn Kháy ở Chín Chải cưới vợ cho con trai, từ đám cưới ấy, người ta bắt đầu biết rõ thế nào là sự phân biệt giàu nghèo. Người nghèo là người đi ít tiền, người giàu là người dám đi hẳn “hai trăm” và mặt thì nghênh nghênh như thằng Thèn Văn Dí. Đỗ Bích Thúy đã rất tài tình trong việc lựa chọn một hệ thống các chi tiết nhằm làm nổi bật đặc điểm tính cách nhân vật. Hình ảnh Dấn đi mua xe máy cho con trai: “Dấn lững thững cưỡi ngựa đến thẳng hàng xe máy, chỉ vào một chiếc màu đỏ. Ái dà, đúng là nhà giàu đi mua dê, cái xe giá sáu triệu đồng, Dấn trả luôn, không nói một câu” cho thấy cách thể hiện chân thực, sinh động và có phần khá hài hước của nhà văn về cuộc sống của đồng bào các dân tộc ít người. Cao trào của truyện bắt đầu xuất hiện khi nhà Dấn đi hỏi vợ cho con trai. Nhà gái đặt ra một món thách cưới lạ lùng: Phải có bằng được con dê bốn mắt thì mới đồng ý. Bắt đầu từ đây, toàn bộ diễn tiến của truyện xoay quanh hình ảnh của con dê bốn mắt. Con dê bốn mắt là cái đích của cuộc chạy đua giữa hai chàng trai Thèn Văn Dí (con nhà giàu nhưng không có dê) và Chảo A Chay (Mồ côi nhà nghèo nhưng có con dê bốn mắt). Và cũng bắt đầu từ đây, hàng loạt sự kiện dở khóc dở cười đã diễn ra. Đỗ Bích Thúy đã rất khéo léo trong việc lựa chọn chi tiết sự kiện miêu tả cuộc thương lượng giữa hai chàng trai: “ Uống rượu ngà ngà say, Chay xích lại gần Dí:

- Đã tìm được dê chưa? - Hỏi làm gì. Dí xẵng giọng. Chay cười hề hề: - Không tìm được đâu, đi hết dãy Hoàng Liên cũng không có con thứ hai đâu.

Hỏi vợ khác đi thôi.

- Còn lâu nhé, cứ chờ đấy - Mình nói thật mà, không lấy được nó đâu. Nhường cho mình là hay nhất Dí chồm dậy, định tát Chay, nhưng Chay tóm được, vặn cho một cái, Dí kêu

oai oái.

Trên đường về, Dí đi trước, đứng đợi Chay ở dưới gốc một cây dẻ, chìa ra

trước mặt Chay một cục tiền dày cộp:

26

- Bán cho tao. Chay thủng thẳng: - Bán gì?

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

- Con dê, con dê bốn mắt của mày. - Không bán đâu - Chê ít à? - Không chê, cũng không bán. Phải để hỏi vợ chứ. - Nhưng nó không thích mày. - Lâu lâu khắc thích. Chờ mày lâu quá nó khắc phải thích tao Chay nghênh ngang bỏ đi, mặc Dí đứng nghệt dưới gốc cây dẻ. Cuộc thương lượng này đã đẩy cốt truyện đến phần kịch tính, cao trào nhất. Nhà văn đã lựa chọn một loạt các chi tiết, sự kiện tiêu biểu để góp phần làm gia tăng tính hấp dẫn cho câu chuyện và khơi gợi trí tò mò nơi người đọc. Nhưng cuối cùng, đến lúc kết thúc truyện, nhà văn lại khiến người đọc vỡ òa vì ngạc nhiên và thích thú khi đưa đến một kết thúc bất ngờ: cả Chay và Dí đều thua trong cuộc chạy việt dã đi đến cái đích cuối cùng là lấy được vợ: “Không biết người ấy có mang đến con dê bốn mắt nào không, nhưng tận mắt Dí đã thấy Kía mặt đỏ dừ, mắt cười tít với người ta. Có con dê hay không có con dê này cũng thế thôi. Nhưng Chay thì không biết nên vẫn ngồi khóc trên mép vực”. Hóa ra, thủ phạm chính không tại bởi ở con dê mà tại ở sự thay lòng đổi dạ của con người. Truyện kết thúc nhưng dư âm của nó còn vang vọng mãi. Nó cho ta những bài học quý giá về con người và cuộc sống. Như vậy, hiệu quả lớn nhất của kiểu cốt truyện dồn nén chi tiết sự kiện là khả năng tác động mạnh mẽ, ghi dấu ấn sâu đậm trong nhận thức và tình cảm của độc giả. Kiểu cốt truyện này thể hiện ý thức khám phá đời sống trong quá trình vận động, có chức năng phản ánh khá trọn vẹn và toàn diện về số phận cá nhân, về con người cũng như tính phức tạp, đa diện của xã hội; trở thành xu hướng chủ đạo đáp ứng nhu cầu khám phá, nhận thức đời sống của thể loại truyện ngắn thời kì đổi mới.

27

1.1.3. Cốt truyện có cấu trúc lỏng: Sự trình bày, gắn kết các chi tiết, sự kiện trong cốt truyện có vai trò quan trọng trong ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Ở nhiều truyện ngắn, sự gắn kết tuân thủ theo một lô gíc nhất định song ở nhiều truyện ngắn khác, cốt truyện dường như được nới lỏng tối đa, thậm chí không còn cốt truyện. Truyện ngắn Việt Nam sau 1986, ta thấy dường như cốt truyện không còn là yếu tố quan trọng hàng đầu của truyện ngắn. Sự tan vỡ và phân rã cốt truyện trong truyện ngắn đương đại gắn liền với quá trình yếu dần đi vai trò cốt truyện truyền thống. Vấn đề không còn là tìm và thể hiện một cốt truyện điển hình, những tình huống căng thẳng, li kỳ gây chú ý. Điều đáng quan tâm hơn là cốt truyện có khả năng tái hiện và lí giải sâu bao nhiêu về hiện thực cuộc sống và số phận cá nhân. Cốt truyện được xây dựng không nhằm

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

hướng người đọc đến một hiện thực đã hoàn kết hay một chân lý đã được khẳng định, các chi tiết, tình huống như chỉ được đưa ra và hiện thực đã được trình bày với sự đa diện, ngổn ngang, phức tạp như nó vốn có. Những phán xét và kết luận cuối cùng thuộc về độc giả. Với chức năng mới, cốt truyện được triển khai linh hoạt, biến hóa hơn với nhiều biểu hiện: cốt truyện có cấu trúc lỏng, sự liên kết không trực tiếp, không rành mạch, truyện không có cốt truyện, được xây dựng theo dòng tâm trạng.

Truyện ngắn được tổ chức theo kiểu cốt truyện có cấu trúc lỏng xuất hiện khá nhiều trong truyện ngắn của các tác giả nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, có thể kể đến: Hậu thiên đường, Xin hãy tin em, Với tay là đến, Tân cảng, Giai nhân, Mùa thu vàng rực rõ, Mùa đông ấm áp, Một trăm linh tám cây bằng thoại, Cầu lăng, Một nửa cuộc đời, Cõi mê, Mại, Huyền thang….(Nguyễn Thị Thu Huệ), Ngọn đèn không tắt, Ngày mai của những ngày mai, Biển người mênh mông, Nước chảy mây trôi, Giao thừa… (Nguyễn Ngọc Tư), Gió không ngừng thổi, Ngải đắng ở trên núi…(Đỗ Bích Thúy).

Kiểu cốt truyện có cấu trúc lỏng không coi trọng sự gắn kết các chi tiết, sự kiện một cách mạch lạc. Truyện Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ giống như những ghi chép, góp nhặt các chi tiết của đời sống bằng cái nhìn tỉnh táo đến sắc lạnh.

Truyện ngắn đôi khi không có kết thúc. Trong truyện Cầu thang (Nguyễn Thị Thu Huệ), sự gắn kết các chi tiết, sự kiện và nhân vật hết sức mờ nhạt, tất cả giống như những mảnh , đoạn lấy từ bên ngoài cuộc sống đặt vào câu chuyện. Truyện có nhân vật chính là “tôi” – người kể chuyện, suy nghĩ của “tôi” về những chiếc cầu thang, về những người đàn ông liên quan đến những chiếc cầu thang đó chứ hầu như không có chi tiết nào đáng chú ý, gây kịch tính.

28

Truyện “Nước chảy mây trôi” (Nguyễn Ngọc Tư) là suy nghĩ, tình cảm của Diệp với mẹ và đặc biệt là cha dượng, cũng là thầy giáo của mình. Mẹ của Diệp đã bỏ chồng, một bác sỹ danh tiếng để đi theo một thầy giáo dạy văn nghèo kiết xác, vì mối tình với người phụ nữ hơn tám tuổi này mà bị đuổi ra khỏi ngành. Nhà văn có thể tận dụng tình huống này để khai thác triệt để sự tức giận của người đàn ông bị phản bội hay phản ứng gay gắt của đứa con gái nhỏ. Nhưng không, các nhân vật đã thể hiện những đức tính rất cao thượng: “Ba Diệp thì không thể tha thứ. Chẳng thèm chửi bới, đánh đấm nhau, là người trí thức, ông bác sỹ xử sự rất mềm mỏng. Ông đến trường, níu bất cứ đứa học trò nào ông nhìn thấy, phẫn trí van vỉ (như một người yêu vợ hết lòng), "Cháu làm ơn nói với thầy Nhiên trả vợ lại cho chú, làm ơn, cháu ơi !". Còn Diệp: “Mẹ chỉ biết nói lời xin lỗi Diệp. Nó khó khăn lắm mới bảo, không sao, nếu con là mẹ, con cũng yêu thầy, thầy dễ thương quá trời đất mà”.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Nhà văn không có ý định xây dựng tình huống kịch tính hay đẩy xung đột đến cao trào. Thậm chí, sau này, khi Diệp có cảm xúc với thầy, thứ cảm xúc không phải tình cha con, Nguyễn Ngọc Tư cũng nhẹ nhàng biến nó thành thứ tình cảm trong sáng, lành mạnh, và đẹp đến ngạc nhiên. Sự lỏng lẻo trong cốt truyện ở đây đưa đến một nhận thức sâu sắc về tình cảm cao thượng đẹp đẽ giữa con người với con người. Đó là ý nghĩa nhân văn cao đẹp của truyện, cũng là chất nhân văn cao đẹp trong cuộc sống mà mỗi con người chúng ta cần nỗ lực hướng tới.

Rất nhiều truyện ngắn kết thúc ở những tình huống dở dang, chưa được giải quyết, thậm chí không thể giải quyết được. Trong truyện ngắn Dòng nhớ, Nguyễn Ngọc Tư mô tả mối tình sâu sắc, thủy chung của người bố với người đàn bà đã cùng ông trải qua biết bao cay đắng của cuộc đời: “Rồi ông lần ra bến, đứng dưới hàng nấm già ngày xưa ông trồng để giữ đất cho khỏi lở, để mặc cho mấy cái hoa nắng vàng xơ rơ đậu xuống cái đầu húi cua, bạc trắng của mình. Ông già tha thiết nhìn ra sông” bởi ông hi vọng nơi dòng sông ấy ông có thể gặp lại con thuyền xưa và cả bóng hình của người mình yêu. Kết thúc truyện, vợ của ông đi tìm lại người cũ khi ông đã nằm sâu dưới ba thước đất, nhưng biết tìm đâu một bóng hình trong muôn vàn cảnh ngộ giống nhau ở xứ sở sông nước này. Câu chuyện kết thúc và một hành trình mới lại bắt đầu…Hay ở truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy kết thúc bằng hình ảnh của người phụ nữ vùng cao: “Mẹ già quay lưng lại phía May, đầu cúi xuống, tấm khăn tuột trên vai, tay mẹ già đang nắm chặt thanh gỗ gài hai cánh cổng…”. Tác giả không muốn kéo dài thêm dung lượng câu chuyện của mình, không muốn đẩy nhân vật của mình vào những sự lựa chọn khác nhau, hoặc là tiếp tục sống cuộc đời hi sinh thầm lặng cho những đứa con riêng của chồng, vun vén cho gia đình nhà chồng, hoặc là bỏ đi theo tiếng gọi của trái tim. Bởi đâu đó trong tận đáy sâu tâm hồn, chị hiểu cũng như chính nhân vật của chị hiểu rằng: “Làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cục đá kê chân cột nhà chồng thôi, ở hai mươi, ba mươi năm, ở đến lúc chết cũng chỉ là cục đá kê cột, thế thôi…”.

29

Sự liên kết các chi tiết, sự kiện có khi còn nới lỏng đến không còn có truyện. Đó là những truyện ngắn tâm tình, cốt truyện phát triển theo dòng tâm của nhân vật, lấy quá trình tâm lí bên trong của nhân vật để làm cơ sở tổ chức tác phẩm. Vì vậy, các sự kiện, tình huống trong truyện thường dàn trải, không có đột biến bất ngờ, truyện là sự trình bày thế giới nội tâm phong phú và đầy biến động của con người. Đây là kiểu cốt truyện tâm trạng. Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn có nhiều tác phẩm viết theo cốt truyện tâm trạng và khắc họa tâm lý nhân vật một cách đặc sắc. Trong truyện ngắn Người xưa, tác giả mô tả tâm trạng của một người đàn bà sau mười một năm xa cách gặp lại người yêu cũ. Những đối thoại, cảm xúc của người đàn bà cứ lặn ngụp trong sự buồn vui lẫn lộn. Đơn giản vẫn cứ là câu chuyện tình,

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

buồn đến xót xa cho kiếp người cứ phải sống hai mặt, một là tình yêu cho cá nhân và một là con người xã hội. Vẫn là cái tâm lý hồi hộp chờ đợi sau bao năm gặp lại được ngồi bên nhau trong khoảnh khắc rồi cảm nhận tình yêu không thể là của hơn mười năm trước mà giờ đây “họ vô tư nói chuyện con cái, gia đình, tiền bạc, vẫn ngồi bên nhau xem một bộ phim tình yêu”. Cảm xúc vỡ òa sau bao nhiêu năm ấp ủ khi họ vẫn lặng lẽ theo dõi, để ý nhau xem người xưa sống ra sao, nhưng sự gặp lại không còn thiêng liêng nữa. Đó chỉ là khái niệm đẹp nếu con người ta biết lưu giữ nơi đáy sâu tâm hồn. Người đàn bà cảm nhận được người đàn ông trước đây và bây giờ khác xa nhau quá “với một khuôn mặt đàn ông chính hiệu pha sự no đủ vật chất”, một kẻ ăn chơi đàng điếm và trải đời. Đây không phải là chàng trai thơ mộng và nghèo khổ năm nào. Người đàn bà hiểu ra một điều đơn giản nhưng thực sự quý giá với mình lúc này: “Ai đó giống tôi. Đã từng có một mảnh tình chảy qua đời, hãy để nó vào chỗ của nó. Đừng lôi nó ra mà soi ngắm làm gì, mọi thứ trên đời đã an bài. Đời người bạc bẽo…”

Cốt truyện theo dòng ý thức chính là sự biến đổi tâm lý nhân vật trước mỗi hành động diễn ra. Dòng cảm xúc bộc lộ theo tiến trình của sự hồi tưởng lại quá khứ và so sánh với hiện tại để lý giải cho những tâm trạng khắc khoải, trăn trở trước thực tại.

Những sự kiện bao giờ cũng tác động tới tâm lý nhân vật hay nói cách khác, tâm lý nhân vật phát triển được là hệ quả sự vận động của cuộc sống. Kiểu cốt truyện sự kiện – tâm lý có khả năng làm cho chủ đề tư tưởng của tác phẩm đi sâu vào lòng người đọc, bởi vì con đường tiếp thu văn chương ở đây đã diễn ra dưới hình thức tiếp thu bằng cảm xúc sâu đậm chứ không nguyên tắc như con đường tiếp thu lí trí. Mặc dù tác phẩm văn học nào cũng bộc lộ cảm xúc nhân vật nhưng với kiểu cốt truyện này, tác giả có thể đẩy cốt truyện của mình diễn ra trên cái sườn của những diễn biến tâm lý mà những kiểu cốt truyện khác không thể làm được. Có thể nói, cốt truyện tâm lí không phải là hình thức mới của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986 – 2006. Loại truyện này đã đạt đến đỉnh cao ở thời kỳ hoàng kim của truyện ngắn với những sáng tác của Thạch Lam. Nhưng với xu hướng đi sâu vào việc miêu tả, phân tích thế giới nội tâm con người, những cốt truyện tâm lý sẽ làm tiền đề cho lối viết “dòng tâm trạng”, “dòng ý thức” của văn học đương đại.

1.2. Những đổi mới trong kết cấu truyện ngắn

30

Kết cấu là phạm trù nằm ở trung tâm những nghiên cứu có tính nội quan về tác phẩm văn học (thi pháp học, ký hiệu học, tự sự học…). Coi tác phẩm văn học trước hết là một văn bản, một phức thể cấu thành nên từ những cấp độ vật liệu khác

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

nhau, những nghiên cứu này cho phép tháo dỡ toàn bộ cấu trúc tác phẩm, nhận diện những lớp thành tố cấu thành đó.

Trong văn học, kết cấu là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật, đảm nhận vai trò tổ chức các thành tố: quan niệm, không – thời gian, điểm nhìn trần thuật, lời văn…. Nó không chỉ chi phối các yếu tố bên trong mà còn chi phối các yếu tố bên ngoài tác phẩm. Chính vì thế, khái niệm kết cấu luôn được đề cập trong hầu hết các công trình nghiên cứu văn học gần đây.

Một nhiệm vụ khó khăn của nghệ thuật là thước đo năng lực, tổ chức, xây dựng tác phẩm của nhà văn. Vì vậy, nhà văn Nguyễn Quang Sáng cho rằng: “Viết truyện ngắn tức là chơi bố cục (chữ bố cục ở đây có thể hiểu là kết cấu). Đối với loại hình tự sự cỡ nhỏ “yêu cầu tìm tòi sáng tạo kết cấu lại càng trở nên quan trọng”( Bùi Việt Thắng…), “giống như một thứ kỹ thuật tinh xảo: kĩ thuật viết truyện ngắn”. Kết cấu là toàn bộ tổ chứ phức tạp và sinh động của tác phẩm, bao gồm sự liên kết bề mặt và kiến trúc nội dung bên trong, đồng thời “kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật”, đảm nhận những chức năng nghệ thuật rất đa dạng: “Cốt truyện được xây dựng bằng nhiều biện pháp kết cấu khác nhau. Trình tự thông báo với người đọc về các sự kiện diễn ra, việc nhấn mạnh những liên hệ bên trong mang ý nghĩa và cảm xúc giữa các sự kiện là phạm vi kết cấu cốt truyện[5]. Như vậy, cốt truyện được kết cấu theo nhiều hình thức khác nhau. Bản chất của kết cấu là vô hạn. Cùng một câu chuyện nhưng cách sắp xếp các chi tiết, sự kiện khác nhau sẽ tạo nên những hiệu quả thẩm mỹ riêng. Suy cho cùng, tài năng và ý đồ nghệ thuật của nhà văn thể hiện ở cách xây dựng kết cấu tác phẩm. Vấn đề tìm ra những cách thức tổ chức gọn ghẽ, ngày càng có khả năng chuyển tải hiệu quả phạm vi hiện thực lớn và chiều sâu tư tưởng…trở thành yêu cầu quan trọng trong sáng tác truyện ngắn

31

Kết cấu góp phần truyền tải nội dung tư tưởng của nhà văn muốn gửi gắm tới bạn đọc, tạo cho tác phẩm một bố cục chặt chẽ, rõ ràng, đồng thời, kết cấu cũng thể hiện bản lĩnh sáng tạo của mỗi tác giả. Một truyện ngắn hay thường là một truyện ngắn có sự mới lạ và hợp lý của kết cấu: “Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, kết cấu thể hiện nội dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ thể hiện ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, đoạn, chương mà còn bao hàm liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Kết cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật, kết cấu phải đảm bảo chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm, triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên tính toàn vẹn củ tác phẩm như là một chiến lược thẩm mỹ” [Tr356,21].

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Truyện ngắn là một lát cắt, một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống, là một khoảnh khắc lóe sáng nhất mà nhà văn chớp lấy để truyền đến bạn đọc, trong đó, nội dung thông tin mà nó dung chứa có sức nén cực kỳ lớn (có người còn gọi truyện ngắn là tiểu thuyết thu nhỏ). Vì thế, hơn bất cứ một thể loại nào khác, truyện ngắn cần một kết cấu chặt chẽ, hiệu quả để truyền tải đến người đọc nhiều nhất nội dung của tác phẩm. Nhà văn Ma Văn Kháng cho rằng: “Vấn đề là anh tổ chức sao cho truyện của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn thường nói, toàn truyện là một vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào. Tùy ý đồ tư tưởng, mỗi nhà văn”. Nam Cao khai thác kết cấu tâm lí nhằm mô tả bi kịch bần cùng hóa của những con người dưới đáy xã hội. Nguyễn Tuân thường sử dụng cấu trúc liên hoàn nhằm tạo ra những hiệu quả nghệ thuật đặc biệt.

“Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung tác phẩm trên cơ sở khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định[10]. Là yếu tố thuộc phạm vi hình thức cho nên kết cấu thường có tác động đến các yếu tố thuộc lĩnh vực nội dung như chủ đề, tư tưởng, tính cách, cốt truyện…Đối với chủ đề tư tưởng, kết cấu có nhiệm vụ quan trọng nhất là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và thấm sâu vào từng bộ phận của tác phẩm kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Để thể hiện cuộc sống quẩn quanh bế tắc nơi phố huyện nghèo, Thạch Lam đã miêu tả kết cấu tâm lý qua việc miêu tả tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên. Cảm nhận của Liên khi đoàn tàu chạy qua với đồng và kền sáng lấp lánh cùng với cuộc sống đô thị thu nhỏ nhộn nhịp khiến Liên mơ màng đến một cuộc sống khác hơn, đẹp đẽ hơn những gì của hiện tại. Đó là khát khao hết sức nhân bản của con người, muốn thoát khỏi cảnh sống tù túng, tối tăm để vươn tới những gì tốt đẹp hơn.

Người ta đã vận dụng nhiều phương pháp như phương pháp lắp ghép trong kỹ thuật xây dựng để tạo nên lối kết cấu lắp ghép cho tác phẩm. Nhà văn gắn kết câu chuyện theo từng nhân vật và khung cảnh tạo thành bức tranh chung. Cách này, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn gọi là “cách mắc nối tiếp như trong kỹ thuật điện”.

32

Suy cho cùng, tài năng và ý đồ nghệ thuật của nhà văn thể hiện ở cách thức xây dựng kết cấu tác phẩm. Vấn đề tìm ra những cách thức tổ chức gọn ghẽ, ngày càng có khả năng chuyển tải hiệu quả phạm vi hiện thực rộng lớn và chiều sâu tư tưởng…trở thành yêu cầu quan trọng trong sáng tác truyện ngắn.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Trong mối quan hệ chặt chẽ với những đổi mới ở phương diện xây dựng cốt truyện, nghệ thuật kết cấu truyện ngắn của các tác giả nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư cũng có những khám phá đáng ghi nhận.

1.2.1. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện Một trong những hình thức mới mẻ mà truyện ngắn Việt Nam thời kỳ sau 1986 đem lại và đạt được nhiều thành tựu trên phương diện kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của sự kiện – tức là nghệ thuật trần thuật không theo trình tự diễn tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính (đi từ nhân tới quả). Đây là kết cấu trong đó cách tổ chức sắp xếp các chi tiết, sự kiện hoàn toàn không theo trật tự thời gian tuyến tính. Tức là, thời gian lịch sử và thời gian trần thuật không trùng khít. Việc tạo ra sự xáo trộn về thời gian của hệ thống sự kiện xảy ra trong truyện thực là do sự sắp xếp của nhà văn nhằm phục vụ ý đồ sáng tác. Một truyện ngắn thường bắt đầu từ sự xuất hiện của các nhân vật, phát triển thông qua các mối quan hệ, nảy sinh mâu thuẫn, đưa đến cao trào và kết thúc. Không theo trình tự ấy, kiểu kết cấu hồi cố đưa kết luận lên đầu tác phẩm, sau đó là quá trình tìm hiểu nguyên nhân. Hay nói khác là truyện ngắn có sự đan xen thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai. Truyện bắt đầu từ thời điểm hiện tại, trở về quá khứ rồi quay trở về thực tại…Như vậy, những vấn đề đưa ra không thuận chiều, buộc người đọc phải suy ngẫm, trăn trở và truyện như vậy mang đậm tư duy phân tích, khám phá. Với kiểu kết cấu này, người đọc có cơ hội thâm nhập sâu hơn vào thế giới tác phẩm, tự mình tìm hiểu chân lý cuộc sống, nhà văn tránh được lối kể chủ quan, áp đặt, định sẵn. Các truyện này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt truyện tự nhiên. Sự tái tạo trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là một đặc trưng của tư duy truyện ngắn hiện đại.

33

Đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều truyện có kiểu kết cấu này như: Tái sinh của Phan Bội Châu, Trên lầm, dưới lỗi của Trần Quảng Nghiệp…Đặc biệt kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian xuất hiện nhiều ở các tác phẩm đăng trên Nam phong tạp chí như Nước đời lắm nỗi của Phạm Duy Tốn, Có gan làm giàu của Nguyễn Bá Học… Nguyễn Bá Học là nhà văn thường được đánh giá là có cách viết truyện cũ kỹ, với nhiều tác phẩm có kết cấu theo thi pháp trung đại. Nhưng ngay trong sáng tác của nhà văn này cũng đã có vài truyện có dấu hiệu hiện đại mà Có gan làm giàu là một tác phẩm có sự cách tân trong kết cấu. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Bá Học mô tả cuộc sống cần kiệm, hạnh phúc của một đôi vợ chồng nghèo. Cho đến một hôm chồng ốm, vợ mới biết bí mật của chồng. Người chồng thuật lại quá khứ và khát vọng vươn lên làm giàu của mình. Rõ ràng đây là kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian. Kết cấu như thế, tác giả muốn chuyển sự chú ý của người đọc từ sự kiện xảy ra bên ngoài sang nội tình bên trong, nhấn mạnh ý chí mãnh liệt của nhân vật...Sự

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện có ý nghĩa không nhỏ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm.

Sang các giai đoạn sau này, kết cấu phá vỡ, đảo lộn thời gian và trật tự tuyến tính của truyện ngắn trở nên rất phổ biến trong sáng tác. Khi xây dựng hình tượng Chì Phèo, điển hình cho người nông dân Việt Nam trong xã hội thực dân nửa phong kiến, Nam Cao đã lựa chọn một lối kết cấu riêng khác với truyền thồng, đó là sự đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính. Truyện được bắt đầu bằng hiện tại (Chí Phèo say rượu và chửi bới), rồi lặn ngược về quá khứ bằng mốc thời gian xa xưa “Một anh đi thả ống lươn…” (Sự sinh thành của Chí Phèo) rồi lại quay trở lại với hiện thực (chi tiết bát cháo hành của Thị Nở). Xen trong mạch truyện lớn về cuộc đời của Chí Phèo lại là những mạch truyện nhỏ bị xáo trộn (suy nghĩ của Bá Kiến về những “hiện tượng” Chí Phèo của làng). Như vậy, cùng viết về người nông dân như Ngô Tất Tố, nhưng nếu nhà văn của lều chõng sử dụng kết cấu tuyến tính, đưa liên tiếp những sự kiện, chi tiết lên trang giấy “dồn dập như tiếng trống giục sưu, thúc thuế” để nhằm mô tả một không khí bức bối đến ngột ngạt của thời đại đang bóp nghẹt số phận con người thì Nam Cao lại sử dụng kết cấu đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính nhằm làm rõ hơn hoàn cảnh bi đát của số phận con người. Đọc tác phẩm của Ngô Tất Tố, ta thấy người nông dân bị dồn ép đến đường cùng, có nguy cơ chết đói thì đọc tác phẩm của Nam Cao, ta thấy cái nguy cơ chết về mặt thể xác không đáng báo động bằng sự hủy diệt về mặt tâm hồn. Việc nhảy cóc từ lớp kịch này sang lớp kịch khác không theo trật tự trong tác phẩm của Nam Cao mà không có sự chuẩn bị trước về mặt tâm lý nhằm một dụng ý nghệ thuật rõ ràng để cảnh báo về tình trạng tha hóa của người nông dân. Một xã hội như thế thì những người nông dân hiền lành chân chất như Chí Phèo rồi một ngày không xa sẽ biến thành con quỷ dữ là điều không thể tránh khỏi. Nguy hiểm hơn, hiện tượng ấy sẽ trở thành một quy luật có tính chất nhân quả phổ biến.

Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều cây bút có tên tuổi với những cách tân táo bạo đặc biệt là trên lĩnh vực kết cấu truyện ngắn. Việc đảo lộn trật tự thời gian tuyến tính của tác phẩm được sử dụng rộng rãi nhằm tạo ra những giá trị nghệ thuật riêng biệt cho tác phẩm.

34

Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ đã tận dụng triệt để khả năng này để sáng tạo nên những tác phẩm có sức ám ảnh lớn trong lòng độc giả. Nguyễn Thị Thu Huệ đã có rất nhiều cố gắng trong việc lựa chọn một kết cấu phù hợp nhằm thể hiện tốt nhất nội dung tư tưởng của tác phẩm. Đại đa số truyện ngắn của chị là kết cấu đơn tuyến với nhân vật chính đóng vai trò trung tâm đứng ra kể lại cuộc đời mình hay những sự kiện, hiện tượng của đời sống. Nhưng trong nhiều tác phẩm, Nguyễn Thị Thu Huệ sử dụng kết cấu đảo lộn trật tự tuyến tính để làm tăng dụng ý nghệ thuật.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Những truyện ngắn của chị thường có rất nhiều đoạn hồi tưởng, có sự xáo trộn về mặt thời gian. Điều này chứng tỏ, tác giả đã có ý thức đổi mới trong ý đồ nghệ thuật tạo nên sự đa dạng cho truyện ngắn của mình.

Bảy ngày trong đời là câu chuyện điển hình với mạch kết cấu được xáo trộn không theo trật tự tuyến tính. Truyện kể về tình yêu của Lụa – một cô thôn nữ ngây thơ, dịu dàng có một tình yêu trắng trong, tuyệt đối với Sáng, một người lính. Truyện bắt đầu bằng mối tình của họ bên bờ biển, những dư vị ngọt ngào hòa lẫn với dự cảm không hay về tương lai xa xôi về tình yêu của một người lính. Xen trong những lời hứa hẹn yêu đương về cuộc sống vợ chồng của Sáng, ta thấy cả quá khứ chiến tranh dội về với những bom rơi đạn lạc, với những lần bị thương, trầy xước. Rồi Lụa mang thai và sinh con sau lần chia tay với Sáng mà không biết anh đi đâu về đâu. Trong kí ức về tình yêu đầu đời đẹp đẽ là không ít lần Lụa phải hứng chịu sự dằn vặt, đau khổ của cha mẹ, của hàng xóm láng giềng, nhưng hơn hết vẫn là nỗi khổ tâm về tình yêu lính tráng. Đã rất nhiều lần cô muốn tìm đến căn nhà của anh chiến sỹ mù, bạn của Sáng, để tìm cho ra sự thật, để đứa con gái bé nhỏ của mình có cha. Nhưng danh dự đã ghìm bước chân cô lại ngay trước ngưỡng cửa, bởi cô biết: “Đàn ông, cái sự quên nhớ của họ đều có ý thức. Họ đã không muốn cái gì thì đừng có cố mà giữ, đâu phải cứ có ba đầu sáu tay phồng mang trợn mép lên là giữ được? Anh không đến, có nghĩa là anh không muốn. Vậy Lụa tìm đến để làm gì?”. Rồi cuối cùng, Lụa và con gái cũng gặp được Sáng để nhận ra một sự thật là Sáng không bỏ mẹ con cô để đi tìm hạnh phúc riêng cho mình, anh đang phải chống chọi kiên cường với bệnh tật, di chứng ác liệt của thời chiến tranh. Tình yêu chân thành và cao thượng của người lính đã cho chúng ta nhiều bài học nhân sinh sâu sắc về con người và cuộc sống.

Ta có thể logic hóa mạch kể của truyện theo sơ đồ sau: *Mạch truyện theo trật tự thời gian tuyến tính: Sự kiện 1: Sánh bị thương hồi chiến tranh (1) Sựu kiện 2: Tình cảnh của Sánh hồi chiến tranh: trở thành người vô sản (2) Sự kiện 3: Sánh rời quân ngũ trở về quê, mất nhà (3) Sự kiện 4: Sánh gặp và yêu Lụa, hai người có sáu ngày bên nhau, Sánh quyết

định giấu Lụa về sự ra đi của mình. (4)

Sự kiện 5: Sánh và Lụa hẹn hò (trước hôm Sánh đi một ngày) (5) Sự kiện 6: Lụa có thai, Sánh đi từ hôm hẹn chưa về. Bố mẹ Lụa nói chuyện về

cái thai của Lụa (6)

Sự kiện 7 Sánh và Lụa nói chuyện về việc sinh con(7) Sự kiện 8: Lụa nhớ lại những câu chuyện hai người hay nói với nhau, Sánh

35

hứa cưới Lụa làm vợ. (8)

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Sự kiện 9: Bố mẹ Lụa tra hỏi Lụa(9) Sự kiện 10: Cái thai trong bụng Lụa lớn dần nhưng Lụa vẫn quyết định không

Sự kiện3

Sự kiện 8

Sự kiện 1

Sự kiện 4

Sự kiện 10

Sự kiện 5

Sự kiện 7

Sự kiện 6

Sự kiện 12

Sự kiện 13

đi tìm Sánh mặc cho bố mẹ mắng chửi (10)

Sự kiện 11: Lụa sinh con gái, đặt tên là Khánh (11) Sự kiện 12: Lụa tìm gặp bạn Sánh. (12) Sự kiện 13: Bạn Sánh đưa mẹ con Lụa đi gặp Sánh (13) *Mạch kết cấu của truyện: Sự kiện 2 Sự kiện 9 ` Sự kiện 11 Như vậy, theo kết cấu của truyện, ta thấy rõ ràng các chi tiết, sự kiện đã bị đảo

lộn trật tự theo sơ đồ sau:

(2) (3) (4) (8) (1) (5) (10) (6) (7) (9) (11) (12) (13). Trong mạch kết cấu của truyện, xen lẫn vào sự gặp gỡ, chia tay rồi gặp gỡ của các nhân vật là những dòng hồi ức, những sắc thái tâm lí, những sự kiện cuộc đời được tác giả khéo léo đưa vào nhằm dụng ý giải thích và hợp lý hóa kết thúc truyện. Ví dụ, trong cuộc hẹn hò với Lụa, không phải vô cớ khi Sánh nhớ lại những chi tiết về cuộc chiến tranh trong quá khứ, về sự hi sinh của đồng đội: “Hình như anh đã nghe thấy bài hát này ở một cánh rừng trụi lá, bên một con suối nhỏ, trong vắt. Tiếng chim tu hú xa xa. Thằng bé cùng đơn vị vừa huýt sáo vừa bắt kịp mìn. Rồi nó thổi lửa. Anh chợt thấy người rã ra. Anh biết là mình cũng đuối sức rồi. Mặt trời chói gắt trên cao. Anh nằm trong võng, chiếc chăn trùm qua mặt. Anh ngắm nghía những giọt nắng nhí nhách rơi qua lỗ thủng của tăng. Bỗng tiếng mìn nổ. Anh cảm thấy đấy là tiếng mìn nổ trên cạn chứ không “bục” một cái như ở dưới nước trong những lần anh đi đánh cá. Tiếng nổ đanh, khô khốc. Anh vùng dậy, tụt ra khỏi võng và chạy về phía ấy. Thằng bé đang quằn quại dưới đất, hai bàn tay nát máu. Rồi đêm xuống.,”. Chi tiết này nhằm giải thích cho hình ảnh của Sánh ở phần cuối truyện “Sánh của cô đang đến gần. Hai chân lệt sệt như không muốn nhấc lên khỏi mặt đường. Anh nhìn Lụa. Vô hồn. Hình như anh không nhận ra cô.

36

Chi tiết Sánh nhớ lại hoàn cảnh của mình sau chiến tranh: “Anh chợt nhớ ra tình cảnh của mình. Lá thư của cô út theo đuổi anh suốt chặng đường hành quân. Hôm qua, thằng Thản cùng quê đã nằm lại trên khoảnh đất cao cao góc rừng. Một mảnh đạn bay qua và ở lại trong thái dương đã mang đi cuộc sống của nó. Bố anh

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

mất được hai năm thì bây giờ đến mẹ. Cô em theo chồng về quê sinh sống. Căn nhà ngói cũ kỹ bán rồi vì anh đi chưa hẹn ngày về. Đại khái bỗng nhiên bây giờ anh trở thành người vô sản.” giải thích cho sự ra đi không lời giải thích của anh đối với Lụa.

Sử dụng một hệ thống kết cấu đảo lộn về mặt thời gian, không theo trật tự tuyến tính, nhà văn muốn dồn sức nặng vào phần kết của câu chuyện. Sự ra đi của Sánh mang theo bao hồ nghi, để lại một người đàn bà đau khổ và một đứa con thơ dại không biết mặt cha. Toàn bộ câu chuyện là những câu hỏi, những nỗi niềm thắc mắc lớn: Cha của đứa trẻ là ai? (Thắc mắc của cha mẹ Lụa), Sánh đi đâu? Tại sao Sánh lại ra đi mà không có lí do? (Thắc mắc của Lụa), Sánh là người tốt hay người xấu? và Người bạn mù của Sánh xuất hiện trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào? (Thắc mắc của độc giả). Nguyễn Thị Thu Huệ muốn dành tặng cho người đọc sự hồi hộp để theo dõi diễn tiến của câu chuyện từ đầu tới cuối. Để rồi, khi mọi lời giải đáp được vỡ òa ra ở cuối truyện, người đọc mới nhận ra biết bao điều về tình nghĩa thủy chung của tình yêu đôi lứa, tình cảm giữa những người đồng chí, đồng đội, và hơn hết là tình đồng loại bao la giữa con người với con người. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, ta mới nhận ra rằng: hạnh phúc không ở đâu xa, hạnh phúc ở ngay trong mỗi con người chúng ta, chỉ có điều, ta phải biết giữ gìn, phải có lòng tin, thì hạnh phúc ấy sẽ đến với ta thật trọn vẹn. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện, xáo trộn trật tự chi tiết nhằm lí giải sâu sắc hiện thực chứ không chỉ dừng lại tái hiện cuộc sống.

Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư cũng đựoc kết cấu theo cách đảo lộn thời gian của sự kiện. Truyện ngắn này được coi là một hiện tượng của năm 2005. Tác phẩm mang khuôn khổ truyện ngắn nhưng có tầm vóc của một tiểu thuyết ở sự chồng chéo những vấn đề nhức nhối của hiện thực, những chiêm nghiệm về tình yêu và lòng thù hận, cái đói nghèo và phẩm giá của con người. Truyện mênh mang tình yêu con người giữa một cuộc sống còn quá đỗi khắc nghiệt, chua xót và cay đắng. Chính vì đan cài nhiều mạch truyện trong một tác phẩm nên cốt truyện Cánh đồng bất tận được tổ chức theo cấu trúc lỏng. Hệ thống sự kiện bị phân rã, chắp nối theo chuỗi ký ức đứt đoạn của nhân vật “Tôi”.

37

Xem xét kết cấu của Cánh đồng bất tận, chúng ta có thể so sánh với lối kết cấu của Trăm năm cô đơn, cuốn tiểu thuyết của Gabriel García Márquez. Như người đọc cảm nhận được ngay từ trang thứ nhất, bắt đầu với một đội hành quyết, rồi một chuyến hành trình hồi khứ rất dài, thời gian trong thế giới quan hiện thực thần kỳ không phải bao giờ cũng trôi về phía trước. Quá khứ xa xăm thì có mặt ngay trong từng khoảnh khắc hiện tại, và tương lai thì đã xảy ra rồi. Những sự thay

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

đổi lớn lao trong trình tự thời gian của dòng tự sự phản ánh một thực tại hầu như nằm bên ngoài thời gian. Điều này giải thích sự hiện hữu của những hồn ma, những điều linh thị, và cái cảm giác rằng thời gian là một sự tái điệp vĩ đại chứ chẳng phải là một tiến trình đi tới. Trong tiểu thuyết của García Márquez, một số sự kiện nào đó cứ tiếp tục quay trở lại với tiêu điểm của hiện tại, ngay cả cho dù thời gian cứ dần dà trôi xuyên qua ba thế hệ.

Trước hết, Cánh đồng bất tận được kết cấu theo trật tự tái điệp thời gian: Tái điệp thời gian là sự trở đi trở lại của thời gian, các tổ hợp chập đôi của thời gian hiện tại - quá khứ, quá khứ - hiện tại, quá khứ - quá khứ của quá khứ/quá khứ hoàn thành cứ dằng díu vào nhau. Thủ pháp đó tạo nên cảm nhận (thực chất là ảo giác) về sự bất tận của thời gian.

Theo cấu trúc của tác giả, tác phẩm gồm 8 phần, có thể lấy đó làm 8 lớp

truyện kể:

A. Phần 1 (4 trang), ba cha con dừng lại ở một con kinh nhỏ nằm vắt ngang cánh đồng, biến cố bất ngờ xảy ra, hai chị em (tôi - là chị - tên là Nương, được nhắc đến tên 1 lần duy nhất trong tác phẩm qua lời người cha, Điền - là em) cứu thoát một người đàn bà bị đánh bầm dập và đưa lên thuyền.

B. Phần 2 (8 trang), người đàn bà sống cùng họ trong cuộc đời du mục, nhiều lần hai chị em thấy ông bố trả tiền cho người đàn bà đó sau mỗi tối ngủ cùng. Dòng thời gian lan sang hồi tưởng về cuộc đời đã qua của người đàn bà, và những biến đổi tâm - sinh lý của Điền.

C. Phần 3 (7 trang), ký ức về người mẹ bỏ nhà.

D. Phần 4 (4,5 trang), sau sự bỏ đi của người mẹ, ông bố thờ ơ với 2 đứa con, quay lưng lại với cuộc sống trên đất liền, để sống cuộc đời du mục trên các con sông. Hai chị em buộc phải tự học cách sống, một cuộc sống bất thường, cay đắng, tù u.

E. Phần 5 (8 trang), trong hành trình du mục, người cha đùa cợt với tình cảm

của người đàn bà nhẹ dạ, mời họ lên thuyền rồi bỏ họ lại bên bờ những con kinh.

38

F. Phần 6 (11,5 trang), nối tiếp dòng hồi ức, người cha tiếp tục lừa gạt những người đàn bà khác, tâm lý không - bình - thường của hai chị em khi bước vào tuổi

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

trưởng thành trong một cuộc sống không có giáo dục, ít giao tiếp với con - người, khoảng cách giữa hai chị em với người cha càng lớn.

G. Phần 7 (9 trang): tiếp nối mạch thời gian khi người đàn bà được hai chị em

cứu thoát. Một thời gian sau, dịch cúm gia cầm ào tới, các cán bộ địa phương thản nhiên thi hành lệnh trung ương, thiêu huỷ gà vịt, người đàn bà đi ngủ với những người cán bộ thừa hành mệnh lệnh để cứu vịt cho nhà hai chị em. Điền bỏ đi tìm người đàn bà ấy và không trở lại. Người cha trở nên chú ý đến con gái hơn.

H. Phần 8 (5 trang), nhân vật tôi (người con gái) bị mấy tên chuyên cướp vịt

cưỡng hiếp ngay trước mặt người cha. Tác phẩm khép lại ở những dòng có tính chất hoá giải, "xí xoá" nỗi đau và lòng hận thù, để yêu thương vút bay lên như một lời ca gọi ngây thơ và hồn nhiên.

 B6 là đón trước của G7

 Từ C1 - F4 là hồi ức, là ngoái lại, là quãng ngưng của mạch kể về thời gian

Dưới đây là niên biểu của truyện: C1 - D2 - E3 - F4 - A5 - B6 - G7 - H8 Trong đó, các mốc thời gian rõ ràng hơn là: C1: quá khứ xa nhất của mạch truyện chính, người mẹ bỏ nhà đi khi Điền 9 tuổi, "tôi" 10 tuổi E3: năm "tôi" 13 tuổi F4: năm Điền 16 tuổi Như vậy, thời gian truyện diễn ra trong vòng 7 năm. Mạch kể đi theo trình tự: A5 - B6 - C1 - D2 - E3 - F4 - G7 - H8 Nhận xét:

 Như vậy, nhìn bao quát, “Cánh đồng bất tận” là hai mảnh chuyện được kể lồng vào nhau, câu chuyện trước và sau khi gặp người đàn bà bị đánh (ở phần 1). Quá khứ là hồi ức đan xen với hiện tại, mô hình thời gian theo cấu trúc toàn bộ truyện ngắn là hiện tại - quá khứ - hiện tại.

 Từ C1 đến F4 là dòng hồi tưởng có trật tự, cũng tương tự những phân mảnh nhỏ như từ A5 đến B6, từ G7 đến H8 là hiện tại tiếp diễn tuần tự theo niên biểu. Nhưng như thế, rõ ràng là có sự tái điệp thời gian. Vì về cơ bản, câu chuyện vẫn tịnh tiến theo chiều thời gian nhưng điểm đầu và điểm cuối tác phẩm trùng vào

39

hiện tại

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

 Sự sai trật niên biểu đồng thời với sự tái điệp thời gian càng rõ và dày đặc hơn trong từng phần nhỏ của tác phẩm (ví dụ, ở C1). Cứ ở mỗi thời điểm hiện tại, nhân vật lại có ký ức hiện về. Sự vật hay cảnh huống hiện tại đều chứa đựng đầy ắp cả quá khứ. Sự trộn lẫn thời gian đó khiến cho ta có cảm giác như con người đang trôi trong một không gian - thời gian vô tận, mờ ảo.

nhau, năm "tôi" 17 tuổi (điều này không hề dễ phát hiện, vì con số tuổi chỉ thời gian bị chìm lấp trong vô số những cụm từ thời gian không xác định khác). Kết cấu thời gian theo mạch vòng.

Bên cạnh đó, truyện còn được kết cấu theo kiểu: Xảy lặp - sự trộn lẫn của

thời gian.

Xảy lặp trong tác phẩm làm trừu tượng hoá thời gian, kiếp người. Những sự giống nhau về hành động, về cảnh huống từ quá khứ đến hiện tại, từ người trước đến người sau sẽ tự nhiên tạo ra sự trà trộn về thời gian, làm cho thời gian trở nên mờ ảo, như không có ranh giới phân định, như không có cột mốc. Bên cạnh đó, sự lặp lại về từ ngữ hé lộ bề sâu của đề tài, của vấn đề trong tác phẩm. Sự lặp lại nhiều lần làm cho tính hiện thực của câu chuyện trở nên mờ nhạt dần, câu chuyện được kể nhiều lần luôn làm cho người ta đón nhận như một huyền thoại, người ta không bắt buộc phải tin vào tính hiện thực của nó (giống như câu chuyện ngụ ngôn về một người kêu cứu).

40

Ở Cánh đồng bất tận, về hành động, có sự xảy lặp của mô-típ mà chính tác phẩm tự tạo ra: mô-típ đón nhận và rũ bỏ, tình thương và thù hận. Người đàn ông (nhân vật người cha) đón nhận người đàn bà (nhân vật người mẹ "tôi"), sau đó người mẹ bỏ đi, thì ông ta bắt đầu có sự thù hận. Sau này, người cha đón nhận thêm nhiều người phụ nữ khác - như một cách chơi bời/giải toả và trả thù - và lại rũ bỏ họ một cách không thương tiếc, nhưng thực ra, với nhiều người, ông từ bỏ họ vì muốn trả họ về đúng vị trí, thiên chức của mình (như người đàn bà ở Bàu Sen), rũ bỏ vì ông không thể đem lại điều gì tốt cho họ nữa (như đối với "chị"). Người đàn bà bị đánh có cuộc đời và số phận giống như những người đàn bà trên đê, những người đàn bà làm điếm. Chị có khác, hay được tập trung miêu tả sâu hơn họ ở tình thương, khát vọng tình thương. Nhưng cuối cùng chị cũng phải ra đi. Người mẹ bỏ đi và cho đến sau này, khi "tôi" rơi vào cảnh tương tự của người mẹ thì vỡ lẽ rằng, mẹ cũng bị cưỡng hiếp như mình. Ở mỗi chỗ xảy lặp ấy lại là chỗ tác giả gài vào những chi tiết xoáy sâu hơn vào tâm lý nhân vật. Về từ ngữ, hay lặp cụm từ "con người", "đồng loại", "người - bình - thường", "người". Những xảy lặp này thấm đẫm ý vị triết lý. Ở đây, hai chị em, trong cuộc sống du mục rất xa loài người của mình đã vọng về những phẩm chất người. Thèm

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

muốn cuộc sống con người bình thường, ấy là một cách nói, nhưng thực tình không đơn giản chỉ là vậy, cuộc sống con người bình thường trong tâm niệm của nhà văn là cuộc sống tràn ngập tình thương yêu và sự giáo dục/ánh sáng của văn hoá. Cõi vọng của nhân vật được đặt trong thời gian có vẻ dằng dặc và không gian cánh đồng bất tận như vậy là rất xác đáng.

Trong tác phẩm còn hay trở về cụm từ "nỗi nhớ", trở về hình ảnh dòng sông, đặc biệt là cánh đồng. Tác phẩm mở ra ở hình ảnh cánh đồng và kết thúc ở hình ảnh cánh đồng. Men theo cánh đồng với lộ trình lật ngược trở lại, từ hiện tại lần về quá khứ, từ trang cuối lên những trang đầu tác phẩm, chúng ta sẽ nhận ra một triết lý cuộc sống đã được huyền thoại hoá

1.2.2. Kết cấu tâm lí: Khi bộ môn tâm lí học ra đời thì ảnh hưởng của nó lan sâu vào các bộ môn nghệ thuật, trong đó văn học chịu ảnh hưởng rõ rệt. Ở Việt Nam, Hồ Biểu Chánh là tác giả sớm nhất đưa tâm lí học vào tiểu thuyết của mình và đã có thành công nhất định. Ở lĩnh vực truyện ngắn đầu thế kỷ XX, ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo là Nam Cao. Trong truyện ngắn hôm nay, kết cấu tâm lí đã được sử dụng khá nhuần nhuyễn. Hẳn nhiên, mạch truyện được triển khai theo tâm lí nhân vật nhưng vẫn phải neo vào các sự kiện, dựa vào sự kiện. Do vậy, để có một truyện hay, người viết không chỉ miêu tả tâm lý mà là phân tích tâm lý, phân tích gắn với sự kiện, bởi vì chỉ có sự kiện ấy thì tâm lý nhân vật mới có biểu hiện như vậy. Chẳng hạn, chỉ đến sự kiện bát cháo hành thì tâm lý Chí Phèo mới trở về đích thực là tâm lý con người. Kết cấu tâm lý có tác dụng đẩy diễn tiến truyện theo mạch tâm trạng của nhân vật. Đồng thời ở đó, tính chủ quan của truyện cũng được đề cao hơn.

Đọc truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, ngoài việc sử dụng kết cấu đơn truyến, kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện, tác giả còn đi sâu khai thác kết cấu tâm lý. Nguyễn Thị Thu Huệ thường kết cấu truyện theo dòng diễn biến tâm trạng của nhân vật: Hậu thiên đường, nước mắt đàn ông, Cát đợi, Giai nhân, Biển ấm, Phù thủy…

41

Trong Phù thủy, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sử dụng kết cấu tâm lý để mô tả những suy nghĩ, những diễn biến tâm lý, những câu hỏi không có lời giải đáp của một cô bé con về cuộc sống gia đình cũng như xã hội. Cô bé ấy mới 12 tuổi và chưa hề được dạy dỗ những kiến thức về tình yêu cũng như cuộc sống, chỉ mập mờ mọi chuyện thông qua hành động của người lớn nhất là của bố nó. Trước sự đổ vỡ của gia đình, nó đã biết rất nhiều chuyện kể cả việc hiểu được “ngày và đêm là hai thế giới khác nhau, và con người cần phải thích nghi với hoàn cảnh”. Ban ngày, nó cảm tưởng những cuộc cãi vã của bố mẹ chỉ thiếu chút nữa là đi đến ẩu đả theo kiểu “cạn tàu ráo máng”, nhưng ban đêm họ lại có thể êm đềm ngủ bên nhau “hình như

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

người lớn có quyền thích làm tất cả mọi thứ mà không cần giải thích”. Đứa trẻ luôn thắc mắc và cho rằng người lớn là phù thủy bởi “Họ chửi nhau bất cứ lúc nào giáp mặt. Vậy mà tại sao đêm đến mẹ lại có thể sang phòng của bố và ngủ ngon lành thế”. Nếu không gian của cô gái trong Vườn yêu là khu vườn với những con người khác nhau đang thổ lộ tình yêu thì không gian của cô bé trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ là đêm tối trong chính căn nhà của mình bên cạnh người thân cũng đang thổ lộ tình yêu. Nó tự đưa ra những kết luận và thu được những kinh nghiệm từ những gì mình chứng kiến. Cuối cùng, nó chìm đi trong những băn khoăn không lời giải đáp về một thế giới “phù thủy” mà nó không thể hiểu nổi. Tâm trạng của nhân vật được khắc họa theo từng bước diễn biến của sự logic. Từ sự băn khoăn, thắc mắc đến khi sợ hãi và cuối cùng là sự bế tắc

*Băn khoăn: Sau những mệt mỏi vì phải chứng kiến những lời cãi vã của bố mẹ vào ban ngày, nó bất ngờ phát hiện ra mẹ trốn sang phòng bố và họ ôm nhau ngủ. Nó nghĩ mình nằm mơ và họ là phù thủy.

*Thắc mắc: Nó quyết định tìm hiểu việc làm đó của bố mẹ nhưng không được. Nó nằm và suy nghĩ như một người hiểu hết mọi lẽ đời: Sau này yêu và lấy chồng mình có sống như bố mẹ không?

*Sợ hãi: Nó ám ảnh trước lời khen của chú hàng xóm làm cho nó có những cơn mơ kinh dị. Nó mất ngủ và phát hiện ra bố mẹ lại ngủ với nhau và bàn tính xem ai sẽ là người phải nuôi nó. Nó ao ước muốn làm người lớn bởi tha hồ làm mọi chuyện mà không cần phải giải thích.

* Bế tắc: Nó tìm ra nguyên do của sự phức tạp. Cuộc sống không chỉ có tình yêu mà còn có vô số những điều phức tạp mà con người không thể lí giải hết. Nó sẽ làm cho người lớn phải hiểu những điều trẻ con mong muốn. Và sau một tiếng nổ chập điện vang lên, nó đã thành phù thủy được rồi.

Mạch truyện như trầm xuống theo sự phát triển dần dần của cô bé. Những ảo tưởng, những giấc mơ vô thức, những suy đoán phù hợp với tâm lý lứa tuổi của nhân vật đã tạo nên không khí riêng cho câu chuyện. Sự khám phá của cô bé lúc này không đơn giản là giải tỏa trí tò mò mà nó trở thành vấn đề liên quan đến sự thiếu sót của người lớn khi không trang bị cho trẻ con những kiến thức về đời sống. Văn Thu Huệ sắc lạnh và chứa đầy sự nhức nhối. Nó khía vào trái tim người đọc như sự nhắc nhở về những vô tình lãng quên trách nhiệm giữa con người với con người. Cuộc hành trình tìm kiếm và khám phá những bí ẩn cuộc đời con người vẫn chưa có hồi kết.

42

Truyện Ngày mai của những ngày mai trong trang viết của Nguyễn Ngọc Tư lại có nét hấp dẫn riêng đối với người đọc không phải bởi khả năng xây dựng những xung đột mạnh mẽ, cũng không phải có khả năng tạo dựng được những nhân vật có

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

tính cách lớn lao, kì vĩ. Truyện cứ nhè nhẹ trôi vào lòng người đọc như một bản tình ca của tâm trạng. Rõ ràng, kiểu kết cấu tâm lý ở đây đã phát huy được vai trò của nó trong việc thể hiện nội tâm của một cô gái với người thầy đặc biệt của mình, người thầy già tám mươi tư tuổi. Hình ảnh người thầy như một cái cây “cái cội cây già ấy sâu thẳm tự đáy lòng muốn trao trái cho đám trẻ như tôi. Cái cây vẫn còn quá nhiều trái trên cành mà thân đã dần cạn nhựa, cây không muốn trái cũng chết khô giữa trời. Trái kia, phải được hái khẽ khàng, để một hôm nào đó, sau mưa, hạt lại ươm mầm trên những mảnh đất mới và đầy sức sống”. Người thầy ấy đã để lại những ấn tượng sâu đậm không thể phai mờ trong lòng một cô thiếu nữ trẻ tuổi và cả những sự day dứt khôn nguôi về ngày mai: “Lưng bỗng đau khi day lại phía ông già. Chân bước đi cũng đau. Gáy tôi nhìn thấy cái tuổi tám mươi tư của ông già đứng im sững bên chái nhà, nơi đặt bộ bàn tiếp khách. Gáy tôi lạnh. Trời ơi, sao ở cái tuổi ấy người vẫn còn có thể thanh thản hẹn với một ngày mai?”

Đặc biệt, cảm giác tội lỗi giày vò cô gái khi cô không giữ được lời hứa với người cũ. Tình cảm của cô gái hướng về ông già, người thầy cuộc đời tuyệt vời của mình là tình yêu thương, xen lẫn trong đó là mặc cảm tội lỗi. Cho nên, chỉ một lời hứa “mai mốt mình gặp nói chuyện nghề chơi” không thực hiện được cũng khiến cô day dứt mãi không thôi. Câu chuyện “không có cốt truyện” này chỉ tập trung xoay xung quanh các trạng thái cảm xúc ấy của cô gái.

Có lúc, đó là cảm giác nghẹn ngào: “Tôi không trả lời được, tôi thoáng nghẹn đi, vì cái cảm giác tiếc nuối do chia tay vội buốt ở đầu mắt, thì cuối mắt ông nhấp nhánh ánh lên sự hy vọng hồn nhiên. Mai mốt gặp”

Đôi khi, xen lẫn cả sự đau đớn: “Hơn ai hết, ông biết đôi chân mình đã mỏi, lời đã mỏi, nụ cười đã mỏi, chỉ ánh nhìn là vẫn lấp lánh sự tinh quái, làm tôi thót tim lại, hôm đầu gặp ông”

Có khi, cô thấy choáng ngợp trước những gì mình bắt gặp ở con người cũ kỹ mà giàu kiến thức ấy: “Đối mặt nhau qua cái bàn trà cũ kỹ, nhưng mỗi lần nghe ông già dùng trí nhớ mẫn tiệp của mình dẫn lại mấy câu văn dài ngoằng của Lỗ Tấn, một đoạn truyện cũng dài thườn thượt của Ernest Hemingway, tôi lại cảm giác ông già ở trên cao, và mình trong cái thế phải ngước lên, ông thầy giỏi mà kẻ học thì lơ ngơ, như vói hái trái ở một cành cây quá đầu, mỏi chân, mỏi cổ quá trời”.

Xen lẫn trong những trạng thái cảm xúc ấy là sự sợ hãi: “Bất trắc nhanh đến nỗi khiến người ở lại phải hoang mang giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa có nghĩa và vô nghĩa, bởi rõ ràng thân xác đã nguội rồi, rồi, nhưng cảm giác về người cũng còn nguyên vẹn. Trong veo. Rực rỡ. Tôi sợ…”

43

Nhưng lớn lao hơn tất cả đó là sự ăn năn, hối hận khôn nguôi khi mình không thực hiện được lời hứa: “Nhưng ông già đã hẹn tôi. Ông không thấy cái tuổi

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

tám mươi tư của mình, bởi vì ông không có tuổi, chẳng bất trắc nào đánh gục được ông, ông sống hàng trăm tuổi ấy, với những gì ông để lại. Một nhân cách hơi kỳ lạ, cô đơn sâu nhói, đeo đuổi sự tự trọng đến cuối đời. Những trang văn đau, sâu sắc, tinh tế, mà sang trọng, lịch lãm. Ông “đi chỗ khác chơi”, không “bẹo hình bẹo dạng” nữa, nhưng nhiều người vẫn gặp ông khi qua căn gác cũ, con đường cũ, quán cũ, trang sách cũ… Bao giờ còn những khoảnh khắc mà các hạt bụi như tôi bỗng nhớ đến non - ông, nhớ cái cây cổ thụ già ấy thì ông vẫn còn nguyên trân đó, dù cái áo xưa đã xếp lại, hết chỗ cho nó phất phơ rồi”.

Câu chuyện trải ra bàng bạc trong cõi cảm xúc của con người từ khi là một cô bé đến khi trưởng thành. Lời hẹn với người bạn vong niên nhiều người cho rằng nói giỡn, nói chơi thì với cô bé, nó giống như lời hứa, cao hơn là lời thề danh dự. Đọc văn của Nguyễn Ngọc Tư, nhiều khi chỉ nhẹ nhàng, đơn giản vậy thôi mà chúng ta cũng thấm thía biết bao điều.

44

Trong bài Người đàn bà miền núi, Đỗ Bích Thúy tâm sự: “Trong những tháng ngày tôi đã sống và viết về vùng đất xa tít tắp của mình, điều làm tôi day dứt nhất, ám ảnh nhất là thân phận của người đàn bà. Người đàn bà miền núi dậy trước gà gáy, ngủ sau trăng sao, cõng trên lưng sự tồn vong của cả một gia đình, với một đàn con lít nhít, đứa lớn hơn đứa bé cái chỏm tóc. Tôi rất nhớ hình ảnh những người đàn bà gùi trên lưng một cái gùi rất nặng, nặng ngô, lúa, mật ong, lợn con, rượu, củi…xuống chợ, lại gùi một cái gùi nặng mắm, muối, vật dụng trở về khi chiều tàn, chợ tan, nhưng nhớ là phía trước, ngay dưới những khuôn mặt cúi gằm vì mải nhìn đường, vì thói quen, vì giữ ý…là những chiếc bướu rất nặng nề, xấu xí”. Dường như, từ sự cảm thông trân trọng sâu sắc với số phận của những người đàn bà ấy, Đỗ Bích Thúy trở thành một trong không nhiều nhà văn có thể miêu tả thành công những trạng thái, những biểu hiện cảm xúc đằng sau khuôn mặt khắc khổ, chai sạn vì sương gió của họ. Khi khắc họa trạng thái cảm xúc của một người phụ nữ bị cưỡng đoạt, thấm thía biết bao sự đau khổ tủi cực, Đỗ Bích Thúy đã để cho nhân vật của mình day dứt: “ Nếu không có Sèn ở bên cạnh đêm ấy thì có lẽ Kía đã không về nhà, đã ra bờ vực và nhảy xuống. Chỉ có một nơi nào đó sâu thẳm, tối đen mới có thể xoa dịu nỗi tủi nhục mỗi lúc một dâng lên trong lòng Kía. Nhưng con Sèn còn bé quá, không thể nào để nó lại được” (Gió không ngừng thổi). Đỗ Bích Thúy cũng rất am hiểu tâm lý của những người vợ, người mẹ cả một đời sống với núi rừng: “ Hơn sáu mươi năm nay tao như con suối chảy xuôi. Sắp ra đến sông lớn rồi” (Ngải đắng ở trên núi). Khắc họa thành công tâm trạng, những diễn biến tâm lí của nhân vật, nhà văn nhằm thể hiện những khúc biến tấu tâm trạng rất riêng trong cuộc đời của người phụ nữ vùng cao để từ đó ta thấu hiểu, thương yêu và biết trân trong họ hơn.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

1.2.3. Kết cấu mở (Kiểu kết thúc để ngỏ) Truyện ngắn thông thường, đặc biệt là truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh thường được kết cấu theo hai phần rõ rệt: phản ánh hiện thực bằng những chất liệu sống động và một đoạn kết theo định hướng của tác giả; thông thường đó là cái hiện thực được biết trước. Theo dõi tiến trình câu chuyện, độc giả hoàn toàn đoán biết được nó sẽ diễn biến theo chiều hướng nào. Mục đích cao nhất của truyện là khơi gợi niềm tin vào lí tưởng, kết cấu có khả năng tổ chức, sắp xếp các chi tiết, sự kiện theo một mô típ đã định sẵn.

“Hình thức kết cấu của truyện ngắn hôm nay phần lớn vượt ra khỏi kết cấu của truyện ngắn truyền thống…có kết cấu tự do hơn…Kết thúc truyện ngắn hôm nay là kiểu kết thúc để ngỏ” [63]. Truyện ngắn nào cũng có một kết thúc, chỉ có điều ở mỗi truyện nó lại xuất hiện dưới những dáng vẻ khác nhau: “Thật ra, kết thúc tác phẩm là chỗ bộc lộ rất rõ mâu thuẫn giữa yêu cầu thể loại (tác phẩm nào cũng phải kết thúc) và thực tế đời sống mà tác phẩm lấy làm chất liệu (đời sống vốn liên tục không bao giờ kết thúc”[6]. Kết cấu mở là hướng tìm tòi để kết hợp hài hòa hơn những mặt mâu thuẫn ấy, phù hợp với quan niệm: nơi tác phẩm kết thúc là nơi cuộc sống chưa dừng lại, vẫn còn tiếp diễn thậm chí chỉ mới thực sự bắt đầu. Được coi là một nốt nhấn của truyện ngắn đương đại, với độ mở rất lớn, kết cấu mở tạo ra khả năng đồng sáng tạo cho độc giả.

45

Kết cấu mở là cách thức tổ chức chi tiết, sự kiện trong thế phát triển “chưa hoàn thành” của hiện thực; tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn những dư âm và khoảng để ngỏ trong lòng người đọc. Truyện ngắn có thể không có kết thúc hoặc kết thúc chưa đưa ra một kết luận thỏa đáng sau cùng. Ở những truyện ngắn theo kết cấu mở, nhà văn có vai trò đặt vấn đề, gợi mở những cách tiếp cận, đánh giá…độc giả trở thành người đồng sáng tạo với tác giả, mỗi câu chuyện sẽ đi trọn hành trình của nó trong nhận thức, tư tưởng của bạn đọc. Để tạo nên những khoảng trống cho tác phẩm, nhà văn thường tạo ra những chi tiết bất ngờ vào cuối truyện mà không đưa ra lời giải thích thỏa đáng. Tất nhiên, đó không phải là sự gợi mở tùy tiện trong ý thức của độc giả, kết cấu mở phải tạo ra được những định hướng tích cực, bởi: “Sau mỗi kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”[Tr98,34]. Truyện ngắn đôi khi không có kết thúc, đặc biệt là những truyện ngắn có cấu trúc lỏng, truyện theo dòng tâm trạng. Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ kết thúc đầy nghiệt ngã: một người mẹ hết lòng yêu thương con bị tai nạn chết, còn cô con gái mười sáu tuổi đang say mê bên một người đàn ông đã có vợ. Tác giả không nói gì nhiều, không bình luận gì thêm, chỉ ngắn gọn trong vài

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

dòng chữ: “Cô gái vội đặt tách cà phê xuống, nhưng người đàn ông cũng vừa tợp xong tách cà phê của mình và choàng tay ôm lấy cô gái. Cô nhắm nghiền mắt, say lịm đi, không kịp nhìn lên màn hình. Phải chăng đó là điều may mắn cuối cùng của cô trước khi bước vào... hậu thiên đường?”. Đây là một kết thúc đầy cay đắng với số phận con người đồng thời nó còn là một sự bắt đầu đầy khủng khiếp. Những con chữ như dửng dưng vô tình mà cứa vào lòng người đọc biết bao xót xa khôn nguôi. “Hậu thiên đường” ấy là gì? Phải chăng sẽ là nỗi đau của người con gái khi biết tin mẹ đã mất khi đi tìm mình? Phải chăng sẽ là tiếp tục những tháng ngày u mê bên người đàn ông mặc chiếc áo màu gạch, nhếch nhác, bẩn thỉu, hôi hám, hai đứa con nhỏ và lấy cả tiền của cô bé khờ khạo chỉ để …mua bánh xà phòng?. Tác giả không nói thêm nữa, để cho độc giả tự suy nghĩ, chiêm nghiệm.

Đọc những truyện ngắn có kết thúc mở, ta nhận thấy tác giả chủ tâm không muốn mình là người biết trước, là người dẫn dắt truyện mà muốn đồng sáng tạo với độc giả. Nói khác đi, tự bản thân mỗi độc giả đã là một nghệ sỹ. Trong Cầu thang, tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ đã thả lỏng kết thúc để người đọc tự nhận thức và khám phá. Truyện xoanh quanh cái nhìn của nhân vật Trân, một cán bộ nữ trẻ về thế giới đàn ông nói riêng và cuộc sống nói chung. Những người đàn ông ấy gắn liền với những bậc thang, một không gian chật chội mà Trân thường đi qua. Người đàn ông thứ nhất là Anh. Đường đi lên nhà anh Trân phải trải qua 68 bậc thang gỗ với cầu thang hẹp: “Để đếm được 68 bậc cầu thang. Trân phải đi qua một ngõ dài hun hút. Đầu ngõ là một hàng phợ Họ bán chui bán lủi phải giấu mỗi nơi một thứ. Bánh phở thì treo lủng lẳng ở giữa ngõ, cuối ngõ thì có hai chậu bát lình xình nước và những chiếc bát nổi cùng hành, ớt và váng mỡ. Và đặc biệt, chỗ tin tưởng nhất dù đông người qua lại, có một con chó Nhật đen vì bẩn, một con mèo mắt long sòng sọc hay ngồi thì họ để gạ. Những con gà công nghiệp béo căng nứt toác cả da, dòng nước mỡ ứa ra, chảy rỉ rỉ xuống bậu cửa nối sang bậc cầu thang thứ sáu. Bao giờ đến anh, Trân cũng gặp những con gà béo căng phao câu chổng lên trời với những cái cổ rụt. Hai cánh nó sải ngang ra vẻ thách đố. Cạnh đấy là chú mèo ngồi ngay ngắn, liêm khiết vô cùng”. Hình ảnh của 68 bậc thang mà ngày nào Trân cùng phải leo đó để lại cho cô một nỗi băn khoăn lớn “cái gì chờ cô ở cuối những bậc thang đó”.

46

Người đàn ông thứ hai là anh chàng cùng phòng Trân. Anh chàng này gắn liền với bảy tầng cầu thang mà cô phải đi lên hàng ngày. Người đàn ông ấy cho cô những khám phá riêng về cuộc đời. Tiếp xúc với anh ta, Trân nhận ra được mình có những cảm xúc rất riêng của đàn bà. Và trong lần phạm tội ấy, Trân lại nghĩ đến những chiếc cầu thang: “Cô nhìn ra xa. Và nghe tiếng chân xuống cầu thang nhỏ dần.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Lại những bậc cầu thang. Chỉ lên hay xuống quanh quẩn trong một ngày, rồi một tháng, một năm và một đời người. Leo lên thì khó. Càng cao càng khó. Mà xuống thì nhanh quá.

Người đàn ông thứ ba là anh chàng lao vào người Trân lúc cô đang đi từ cầu thang xuống: “Không, tôi có một tập phong bì. Trong đó có năm mươi nghìn. Cứ tối nào tôi đi em út, tôi phải thả một cái để đem về còn đưa cho mụ béo, bảo là đi họp được tiền".

Truyện kết thúc vẫn bằng dư âm lạnh lùng, khô khốc của những chiếc bậc

thang:

47

Sáu sáu Sáu bảy Và sáu mươi tám Sáu mươi tám là hết một hành trình leo đến bậc thang cuối cùng của nhà anh nhưng truyện rõ ràng không kết thúc ở đấy. Tác giả vẫn để ngỏ, và người đọc hiểu rằng, cuộc đời này giống như một bài toán không bao giờ có đáp số cuối cùng…

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT

M.Gorki cho rằng: “Ngôn ngữ là cái áo của mọi tư tưởng. Nhân vật là hình thù con người mặc cái áo ấy”. Nhân vật đóng vai trò trung tâm, không thể thiếu đối với bất cứ một tác phẩm văn học nào bởi đó là linh hồn, sức sống của tác phẩm, là nơi nhà văn gửi gắm tư tưởng, chủ đề của mình: “Truyện ngắn sống bằng nhân vật, những chi tiết có ý nghĩa khi góp phần tạo nên nhân vật”.

Khi viết một tác phẩm, yếu tố hàng đầu luôn được nhà văn quan tâm đó là thế giới nhân vật. Nó trở thành một trong những yếu tố thuộc về nội dung cũng như hình thức của tác phẩm. Bởi lẽ, để thể hiện nội dung hay gửi gắm một triết lí, tư tưởng thì không thể thiếu phương tiện truyền tải, trong đó có nhân vật. Nhân vật là cái loa phát ngôn cho mọi tư tưởng của thời đại. Trong lịch sử văn học thế giới,một nhà văn thành công cũng như một tác phẩm có giá trị, sức sống thường là khi khắc họa được một chân dung văn học ấn tượng và mang đậm dấu ấn cá tính: AQ (AQ chính truyện – Lỗ Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo - Nam Cao), ….Có những trường hợp, chỉ cần nhắc đến tên nhân vật, độc giả đã hình dung ngay diện mạo của nhà văn cũng như tác phẩm của họ. Điều đó là minh chứng cho ta thấy vai trò vô cùng quan trọng của nhân vật trong tác phẩm văn học.

Truyện ngắn với những đặc điểm riêng của thể loại thường đi sâu khai thác một khía cạnh của nhân vật, một trạng thái, một tình huống mà ở đó làm nổi sắc nhất vấn đề mà nhà văn muốn truyền tải. Còn tiểu thuyết với dung lượng lớn hơn, dài hơi hơn nên cho phép theo dõi, tìm hiểu và mô tả tỉ mỉ những bước thăng trầm của số phận nhiều nhân vật, mảnh đời khác nhau. Đó là một trong những phương diện khác nhau cơ bản nhất của nhân vật truyện ngắn và nhân vật của tiểu thuyết. Thử hình dung, nếu coi tiểu thuyết là bức tranh mô tả về cả cuộc đời thì truyện ngắn như là một lớp cắt ngang, chớp lấy khoảnh khắc sáng nhất để tập trung mô tả. Chỉ cần vài chi tiết tiêu biểu, những tình huống đặc sắc nhưng diện mạo của nhân vật hiện lên vô cùng sắc nét. Nếu như trong tiểu thuyết Số đỏ, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa tỉ mỉ cuộc đời và chân dung của nhân vật chính qua đó làm nổi bật lên tính cách của nhân vật này, đó là sự xảo trá, vô học, vô đạo đức thì tính cách của Chí Phèo cũng được khắc họa đầy đủ, rõ nét chỉ trong dung lượng của một truyện ngắn cô đọng và hàm súc.

48

Tuy nhiên, truyện ngắn cũng có những trường hợp khác. Đó là những truyện ngắn mang hơi hướng tiểu thuyết. Những nhân vật cũng được khắc họa khá rõ nét và đầy đủ: AQ trong AQ chính truyện của Lỗ Tấn, nhân vật Thuấn trong Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp….Đây là đặc điểm tạo cho truyện ngắn có tầm cao hơn

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

về tư tưởng nội dung. Nó không còn là một thể loại nhỏ nữa mà có sức nặng ngang hàng tiểu thuyết.

“Văn học không thể thiếu một nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một vấn đề nào đó của hiện thực[10]. Điều đó khẳng định vai trò không thể thiếu được của nhân vật. Nhân vật là một công cụ hữu hiệu dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của mỗi câu chuyện, tạo nên nét hấp dẫn đối với độc giả.

Nhân vật văn học là con đẻ tinh thần của người nghệ sỹ, mặt khác, nó là sản phẩm tinh thần của thời đại. Xây dựng nhân vật trong một tác phẩm văn học chính là việc miêu tả con người của nhà văn. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhân vật dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch sử nhất định. B.Bréch nhân xét rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của con người sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý dồ tác giả” [25]. Đó là phương diện quyết định phần lớn cốt truyện vừa lựa chọn chi tiết, vừa phương diện ngôn ngữ và thậm chí cả kết cấu nữa. Từ năm 1975 đến nay, văn xuôi khởi sắc và có những “tín hiệu mới” (Bích Thu) và đặc biệt thành công ở thể loại truyện ngắn: “Tư duy trừu tượng thâm nhập vào những thể loại nhỏ và vừa này tạo cho chúng một sức chứa lớn hơn nhiều so với bản thân chúng và mở rộng khả năng thể loại đến độ đáng ngạc nhiên…truyện ngắn lên ngôi trở thành mũi nhọn của văn xuôi hiện nay. Sự hàm xúc cô đọng, sự khai thác theo chiều sâu số phận và nội tâm con người, tính tập trung và chủ đề và triết lý, những gợi mở, đối thoại tạo cho truyện ngắn một chất liệu mới vượt ra ngoài cái khung chật hẹp của thể loại [4].

Cùng với sự phát triển của văn học là sự thay đổi về diện mạo cũng như tính cách của nhân vật. Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, xuất hiện trong các tác phẩm hầu hết đều là những người nông dân đau khổ dưới đáy xã hội, bị chế độ thực dân nửa phong kiến bóp nghẹt cả quyền sống và quyền làm người như anh Pha (Bước đường cùng – Nguyễn Công Hoan), Chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao)…Các nhà văn đi sâu mô tả thân phận, cảnh ngộ, cuộc đời đầy đắng cay, tủi cực của những con người nhỏ bé nhằm tố cáo hiện thực đã chà đạp lên nhân cách, lòng tự trọng của họ. Những mảnh đời, con người hiện lên chân thực, ẩn đằng sau là nỗi lòng đau xót, là niềm cảm thông sâu sắc của các tác giả.

49

Đến văn học kháng chiến, nhân vật trung tâm là người lính. Điều này do hoàn cảnh lịch sử quy định. Văn học kháng chiến với tư duy sử thi, tập trung ca ngợi

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

cuộc kháng chiến hào hùng mà vĩ đại của dân tộc nên nhân vật trung tâm là những con người trực tiếp cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương. Khi lòng yêu nước trở thành hệ quy chiếu để nhìn nhận, đánh giá phẩm chất con người thì nhân vật trong tác phẩm cũng được tác giả thể hiện chủ yếu trên phương diện ấy. Người lính hội tụ trong mình đầy đủ những phẩm chất cao cả, anh hùng, phù hợp với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học thời kỳ này: từ những người lính trong Một lần tới thủ đô của Trần Đăng, đến Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, hay Rừng Xà nu của Nguyên Ngọc…..Tất cả đều có chung hình tượng nhân vật trung tâm là anh bộ đội cụ Hồ

Chiến tranh kết thúc, đất nước hòa bình, văn học thời kì này thường đi sâu vào từng thân phận cá nhân, những cuộc đời riêng của mỗi con người. Chủ đề thế sự - đời tư ngày càng được nhiều nhà văn quan tâm khai thác. Nếu như trước kia, trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, tình yêu riêng tư cá nhân, những nỗi đau khổ phải giấu kín, tất cả phải dồn nén tâm lực cho cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thì ngày nay, tất cả được nhà văn đi sâu khám phá và được thể hiện trên trang viết: Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Bước qua lời nguyền ( Tạ Duy Anh), Người còn sót lại của rừng cười (Võ Thị Hảo)…Các nhà văn trẻ, trong đó có các cây bút nữ luôn áp sát hiện thực cuộc sống, thể hiện những số phận, tâm trạng của con người đời thường giữa cuộc sống hiện tại. Nhân vật thời kỳ này đa dạng, phong phú, bao gồm tất cả các mảng của cuộc sống hiện thực mà nhà văn quan tâm và muốn khám phá. Không bị giới hạn bởi những khuôn mẫu chật hẹp, các nhà văn có cơ hội được bứt phá, sáng tạo và vươn lên. Con người đời thường trở thành trung tâm của đời sống văn học. Số phận, bi kịch cá nhân được đẩy sâu đến tận cùng và nỗi cô đơn, niềm day dứt của con người trước cuộc sống xô bồ, những giá trị đạo đức đang dần bị băng hoại….Tất cả đều được tập trung thể hiện trong truyện ngắn đương đại.

50

Bước vào giai đoạn 1986 – 2006, quan niệm về con người trong văn chương đã thực sự thay đổi: “Đặc điểm nổi bật nhất là con người đang được nhìn nhận, xem xét, lí giải theo nhiều hướng, nhiều chiều [Tr65,27]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long cũng nhận xét một cách tổng quát xu hướng dân chủ của văn học gần đây trong cách nhìn và khám phá con người: “Con người trong văn học hôm nay được nhìn ở nhiều vị thế, trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính mình…Con người cũng được văn học khám phá, soi chiếu ở nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát. [Tr54,20].

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Khi hiện thực đựoc xem là mục đích phản ánh của nghệ thuật thì nó sẽ chi phối toàn bộ kỹ thuật tự sự. Tuy nhiên, văn học phản ánh đời sống không chỉ ở nội dung hiện thực mà còn ở các hình thức biểu đạt nội dung đó. Các nhà văn thời kỳ đổi mới đã có nhiều cuộc thể nghiệm, bứt phá. Bên cạnh bút pháp tả thực đã xuất hiện bút pháp kỳ ảo, lạ hóa, bút pháp phi hiện thực…Truyện ngắn phát triển đa dạng cùng với sự nổi trội hình thức như truyện ngắn kỳ ảo, giả lịch sử, nhại cổ tích, truyện ngắn dòng ý thức.

Sự xuất hiện đông đảo của các cây bút nữ thời kỳ đổi mới đã chứng tỏ khả năng và niềm đam mê sáng tạo nghệ thuật của họ. Phải chăng môi trường sáng tác thuận lợi và thể loại truyện ngắn phù hợp với sức rướn của người phụ nữ nên các cây bút nữ có cơ hội phát huy sức sáng tạo của mình. Thế giới nhân vật của họ hiện lên đa dạng, nhiều màu sắc. Bên cạnh nhân vật “ý thức” còn có “nhân vật vô thức”, bên cạnh “nhân vật con người tự nhiên” còn có nhân vật “con người tâm linh”. Nhiều tác phẩm của họ đã thành công khi đi sâu vào khám phá những “vấn đề tự nó” có nghĩa là đề cập đến thế giới tâm hồn của nhân vật: Bản ngã, tiềm thức, vô thức, đời sống tâm linh, tình dục. Nổi bật trong các truyện ngắn của các nhà văn thời kỳ này là: Nhân vật nhận thức, nhân vật tâm linh, nhân vật ảo…được biểu đạt qua hệ thống ngôn ngữ và giọng điệu riêng.

2.1. Sự phong phú của thế giới nhân vật: Truyện ngắn là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, hướng tới thể hiện bản chất hiện thực và tâm hồn con người qua những lát cắt, những khoảnh khắc của quan hệ nhân sinh. Để đạt được mục đích đó, nhà văn phải gửi gắm qua nhân vật. Truyện ngắn sống được về cơ bản là nhờ ở sự xuất hiện của nhân vật – nơi biểu hiện giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm và cá tính sáng tạo của nhà văn. Cũng như bất cứ giai đoạn văn học nào khác, văn học 1986 -2006 phát hiện ra vô số dạng thức nhân vật. Sẽ là bất khả thi để liệt kê hết các kiểu nhân vật của thời kỳ này. Dưới đây chúng tôi sẽ tập trung vào một số kiểu nhân vật phổ biến của giai đoạn này với những đặc trưng khác biệt với các giai đoạn văn học trước. 2.1.1.Nhân vật lý tưởng

51

Trong sáng tác của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy xuất hiện khá nhiều hình ảnh của những nhân vật lý tưởng. Nhân vật lý tưởng là những nhân vật mang đặc điểm phẩm chất cao đẹp, đại diện cho một lớp người, một bộ phận người tốt trong xã hội. Nhân vật lý tưởng đã xuất hiện trong văn học các thời kỳ trước đó. Từ thưở xa xưa của văn học nhân loại, hệ thống nhân vật lý tưởng đã xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết và thần thoại. Đến thời kỳ sau này, văn học Việt Nam trong chiến tranh tiếp thu truyền thống của dân

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

tộc xây dựng nên những hình tượng lý tưởng về anh bộ đội cụ Hồ đẹp đẽ, đại diện tiêu biểu cho sức mạnh và trí tuệ của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ bấy giờ.

Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới cũng chú ý xây dựng nên hình ảnh những con người lý tưởng nhưng con người thời nay không còn là những anh bộ đội, những cô giao liên của một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” nữa, họ là những con người trong cuộc sống đời thường, mang những phẩm chất tốt đẹp giữa cuộc sống hiện tại.

Trong tác phẩm Nước chảy mây trôi, Nguyễn Ngọc Tư đã để cho nhân vật của mình thể hiện những phẩm chất lý tưởng hết sức tốt đẹp. Thông qua lời kể của nhân vật Diệp, chúng ta hiểu hơn về những nét đẹp cao cả, sự hi sinh thầm lặng và vị tha của mỗi con người sẽ làm cho thế giới này này càng thân ái hơn.

Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ hay nói về những bất hạnh người phụ nữ. Nói về sự đau khổ, mất mát của họ, các nhà văn nữ không nhằm mục đích thể hiện sự bi quan, bế tắc của họ trước cuộc sống hiện đại đầy rẫy những phức tạp mà nhấn mạnh sức chịu đựng bền bỉ, lòng bao dung độ lượng, sự hi sinh không đền đáp của người phụ nữ. Lòng bao dung ấy được thể hiện ở hình ảnh người đàn bà đã âm thầm hi sinh, nuôi nấng, chăm nom người đàn bà và đứa con riêng của chồng: “mẹ biết làm thế nào khác được khi bố con lúc sắp mất đã nhờ…phải nói là cầu xin mẹ làm như thế. Ba năm ở Sa Thầy đã làm cho một ni cô phá giới và có một đứa con….đó là một người đàn bà bất hạnh, yếu đuối và xấu xí. Mẹ nghĩ rằng bà ta đi tu chỉ vì không hi vọng tìm được chút hạnh phúc trần thế, và bố con…sự xa vợ của ông là dịp may duy nhất trong đời người đàn bà ấy…”

Tình yêu có muôn hình vạn trạng, muôn màu muôn vẻ, nhà văn Thu Huệ đã bộc lộ tình yêu ở trạng thái trọn vẹn dâng hiến mà không cần đáp đền. Đó là sự cao thượng của tình yêu chân chính. Những cô gái trong tác phẩm của chị đã tìm cho mình một tình yêu chân chính, dù có mãi cách xa, họ cũng vẫn đặt tình yêu ở vị trí thiêng liêng, thờ phụng bởi tình yêu đó giúp họ vững tin khi bước trên đường đời: “người đàn ông đã có vợ thường tìm trong tình yêu mới là tinh thần chứ không phải là sự cuồng si của thể xác. Tôi sống và hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi gặp lại người đàn ông thay thế được anh trong tâm linh…” (Biển ấm), “Giờ này, anh đang ở nhà với mọi sự cố định mà tôi không bắt anh phải day dứt bởi tôi là người đến chậm, đêm nay, tôi sẽ sửa lại ban thờ, một ban thờ không có bản liên khúc đánh số, thờ anh…(Cát đợi).

52

Giống như Nguyễn Thị Thu Huệ, nhân vật lý tưởng trong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy luôn gắn liền với hình ảnh của những người mẹ, người chị, những người phụ nữ nơi vùng cao. Dường như cây bút này luôn dành những gì ưu ái nhất, trân trọng nhất cho những người phụ nữ như thế, bởi đối với chị họ luôn là biểu tượng

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

của cái đẹp thuần hậu, nhuần nhụy và chất phác bao dung. Lúc nào người phụ nữ vùng cao cũng hiện lên rất cao cả dù họ có bị đẩy vào bất kỳ hoàn cảnh, tình huống nghiệt ngã nào. Họ là những người mẹ âm thầm nén chịu đau thương cả một đời để dồn tình thương cho những đứa con bé bỏng. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá là câu chuyện xúc động về tình mẫu tử thiêng liêng đó. Mẹ già là người phụ nữ có số phận bất hạnh. Lấy chồng, không có con, mẹ chấp nhận cho người vợ hai của chồng ở trong nhà mình, dù phải chịu biết bao cay đắng, xót xa. Đã nhiều đêm, mẹ dồn nén tủi hờn, ghen tuông, bất lực để chăm chút cho hai đứa con riêng của chồng bằng tình thương của một người phụ nữ chưa từng một lần làm mẹ. Chi tiết hết con May đến thằng Trài thay nhau nhai đến bật máu đôi vú teo tóp không một giọt sữa nào của mẹ già đã nói lên tất cả tình yêu của bà dành cho chúng. Rõ ràng, đức bao dung, vị tha và lòng nhân hậu của mẹ già đã vượt qua được những day dứt ghen tuông thường nhật để nhân vật tỏa sáng trên trang viết.

Trong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, hình ảnh những người phụ nữ hiện lên với đức hi sinh và chan chứa lòng bao dung, vị tha. Trong Gió không ngừng thổi, Đỗ Bích Thúy đã tôn vinh ca ngợi hình ảnh người phụ nữ vùng cao thuần hậu thông qua hình ảnh bà Kía. Bị rơi vào một tình cảnh oái oăm, bà bị em họ chồng hãm hiếp và sinh ra đứa con trai không mong muốn. Bà âm thầm chịu đựng nỗi nhục đó một mình vì quá thương chồng và lo sợ chồng không chịu đựng được nỗi nhục đó. Cho đến lúc chết, ánh mắt của bà vẫn là cái nhìn khắc khoải khôn nguôi, chứa đựng trong đó biết bao dằn vặt, xót xa. Trang văn của Đỗ Bích Thúy như dừng lại, lắng sâu bên những người đàn bà đôn hậu, thủy chung này: Một cô Mai chấp nhận cuộc sống vợ chồng không như mong muốn mà trong lòng không hề nảy sinh những hờn giận, trách móc hay suy nghĩ ăn ở hai lòng, chỉ biết một lòng chăm chút cho cuộc sống gia đình (Bóng của cây sồi). Một cô Nhi sẵn sàng vì người mình yêu mà dám vượt qua tất cả những khó khăn trong cuộc sống, một mình nuôi con không hề oán thán và chỉ nói ra sự thật khi đứa con đó chẳng may chết đuối vì lũ (Hẻm núi),…Có cảm tưởng như những người phụ nữ trong tác phẩm Đỗ Bích Thúy sống bằng niềm tin rất lớn. Trong niềm tin ấy có đức hi sinh, có lòng bao dung, nhân hậu và thủy chung bền bỉ. Có niềm tin họ mới vượt qua được cuộc sống còn nhiều khó khăn, mòn mỏi để hướng đến những điều tốt đẹp. Họ là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam giàu lòng vị tha và đức hi sinh, đó là những phẩm chất tốt đẹp, lí tưởng của con người.

53

Tuy nhiên, nhân vật lý tưởng trong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy không hẳn chỉ là người phụ nữ. Những phẩm chất tốt đẹp còn có ở những người đàn ông vùng cao chân chính. Thào Mí Sùng trong Gió không ngừng thổi là một ví dụ điển hình. Vợ bị cưỡng bức, ông sống trong một trạng thái day dứt đến khổ sở vì danh dự bị xúc

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

phạm, lương tâm bị dày vó, nhưng hơn hết, người đọc khâm phục sức chịu đựng và tình yêu thương vợ đến bao la của ông. Đọc phần đầu của truyện, người đọc ngỡ sẽ bắt gặp một bi kịch của người phụ nữ vùng cao trong thời kỳ còn tăm tối, lạc hậu, nơi mà số phận của họ sẽ bị cái đói, cái ác, cái tăm tối, ngu dốt đày đọa cho đến chết. Nhưng không. Cách ứng xử giữa các nhân vật khiến cho câu chuyện vút lên ý nghĩa nhân văn cao đẹp: Người vợ vì thương chồng mà sẵn sàng hi sinh, chấp nhận chịu nhục âm thầm suốt những năm tháng còn lại của cả cuộc đời mình mà không dám nói ra sự thật. Người chồng cũng vì quá thương vợ mà cũng âm thầm chịu đựng không muốn vợ bị tổn thương, đợi khi vợ khuất núi mới mang đứa con của mình đi gặp cha đẻ của nó. Cách sống cao đẹp của các nhân vật đã tạo nên sức hấp dẫn và vẻ đẹp riêng cho tác phẩm.

Trong con mắt của Nguyễn Ngọc Tư, con người đẹp, có nhân cách cao cả phải là những người chí tình, chí nghĩa. Ta thường bắt gặp hình ảnh những con người “đẹp như chàng Lục vân Tiên”. Phải chăng, đây là mẫu vẻ đẹp chung của người dân xứ nam bộ, một vẻ đẹp chất phác, thuần hậu. Điểm gây ấn tượng nhất trong văn Nguyễn Ngọc Tư là lối hành xử đầy tình nghĩa giũa các nhân vật đó. Điều này được thể hiện trước hết ở tấm lòng bao dung của con người, ở sự sẵn sàng chấp nhận tha thứ lỗi lầm cho nhau, nâng đỡ nhau sau những bầm dập, va vấp. Nhân vật Trọng trong Một mối tình , mười năm sau ngày vợ bỏ đi vẫn “giữ nguyên cái khăn choàng tắm treo đầu sào, chiếc nón lá quai nhung đã ngả màu thâm sì, cũ mèm, giữ cây lược sừng đã gãy mất mấy cái răng với cái kiếng soi để ở đầu giường, giữ lại tất cả nguyên như cũ chỉ để mong một ngày kia người xưa nhớ lối quay về”. Nỗi ngóng chờ đó của con người vừa là tình yêu, lại vừa là sự bao dung độ lượng đầy cao thượng.

54

Có một điểm đặc biệt là nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư có khả năng vị tha rất lớn, họ sẵn sàng tha thứ cho cả những người đã làm họ tổn thương, đã khiến trái tim họ tan nát. Trong Sầu trên đỉnh Puvan, Nguyễn Ngọc Tư khắc họa hình ảnh người chồng của Dịu, một người chồng đau khổ rất nhiều mà vẫn độ lượng, bao dung vị tha biết bao nhiêu. Anh và Dịu li dị nhau với một toan tính rất thực dụng: “Đây là li dị giả đò thôi, chỉ để làm thủ tục cho Dịu đi lao động ở Đài Loan, thương nhau rồi có li dị một chục lần cũng sẽ nối lại tình xưa, dễ ẹt. Lúc Dịu về sẽ cưới thêm lần nữa, không chừng còn rình rang hơn lần đầu”. Nhưng cuộc đời có mấy ai học được chữ ngờ. “Lúc Dịu về, cô lặng lẽ cất cái chòi nhỏ ở góc vườn nhà má ruột, bẻ xoài sống nhai rau ráu mà nước mắt giàn giụa, cô có con với một ông chủ Đài Loan vô lại và bà chủ còn vô lại hơn khi đẩy cô trắng tay ra đường”. Đứng trước tình huống trớ trêu của số phận đó, người đàn ông chân chất mộc mạc thôn dã này chỉ biết ngạc nhiên thốt lên: “Sao kỳ vậy, em hứa với tui là mình chỉ giả

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

đò li dị thôi mà, sao kỳ vậy, kỳ quá?”. Nhưng cũng chỉ có tức giận đến chừng ấy thôi. Nguyễn Ngọc Tư để cho nhân vật của mình trăn trở, dằn vặt khôn nguôi, dường như, trong trái tim người đàn ông ấy, tình thương vẫn dâng đầy. Tình thương ấy được người phụ nữ cảm nhận trọn vẹn và thấu hiểu hơn bao giờ hết: “Ọc ạch đi làm cỏ rẫy kiếm ít tiền sinh con, Dịu hay bắt gặp chồng (đã cũ) của mình mon men bên kia sông, ngó theo. Tóc anh ta dài ra, người ốm o còm cõi, chắc là nhiều đêm không ngủ được. Một bữa mở cửa ra, thấy anh ta say rượu nằm trước nhà. Cũng bữa đó, Dịu sinh, cô cắn môi bước qua giấc ngủ của chồng, một mình đến trạm y tế. Tối sau, anh ta lọ mọ tới thăm, lúc đầu chỉ đứng đằng xa ngó day diết, một hồi mới lại gần, nói như hụt hơi: “Chắc thằng nhỏ này biết kêu ba bằng tiếng Việt – ngó thấy Dịu sắp phản ứng, anh ta nói luôn – tui thương nó như con tui, thiệt mà…”. Cách ứng xử rất nhân văn, cao đẹp của con người, những con người bình thường trong cuộc sống đã khiến cho người đọc cảm động trào nước mắt.

Tha thứ cho những người thân thuộc trong gia đình đã là một sự khó khăn, tha thứ cho kẻ thù là hành trình con người chạm được vào cõi “vô vi” của đạo Phật. Trong Cánh đồng bất tận, cô bé tên Nương đã có được sự tha thứ ấy: “ Đứa bé đó, nhất định nó sẽ đặt tên là Thương, là Nhớ, hay Dịu, Xuyến, Hường…Đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường, sẽ tươi tỉnh và vui vẻ sống đến hết đời, vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn”.

Cái kết này, thực ra là ý hướng đạt đến đạo của người viết trẻ tuổi Nguyễn Ngọc Tư. Như chị tâm sự: "Tôi hiểu biết về Phật giáo không nhiều, vớ được quyển sách nào thì đọc cái ấy. Cũng có điều hiểu được, học được, làm được, nhưng nhiều điều buộc phải "bó tay". Ví dụ như mấy lời này: "Khi nào bạn bực tức, giận dữ, hãy bất động! Ngay tại đó! Đừng cử động! Đừng làm gì cả! Đừng nói gì - dù chỉ một lời. Hãy yên lặng và bất động hoàn toàn. Tuyệt đối không biết gì đến kẻ hoặc sự việc làm cho mình giận dữ" (Hạn chế sân hận, trải rộng tình thương - Tỳ kheo VISUDDHÀCÀRAZ). Trời ơi, mình giận muốn chết, muốn gào thét, muốn cào cấu, muốn đập phá mà không cho mình nhúc nhích, sao có thể hả hê? Đạt được đạo mới khó làm sao...". Nên, đó là một mong ước, ngây thơ, thành thực, và đẹp đẽ của người viết văn.

55

Trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, chất nhân văn đậm nét còn được thể hiện ở lối sống trọng tình cảm, nghĩa khí của con người. Họ là những con người từng một thời là bạn bè, từng vào sinh ra tử với nhau nên họ quyết tìm cho ra căn nguyên sai trái của bạn để không hiểu lầm và nghĩ xấu cho nhau như trong Nỗi buồn rất lạ. Đó có thể là câu chuyện của bé Hai trong Cỏ xanh cũng khiến người đọc rưng rưng khi thằng bé cứ mải mê nghĩ về những điều tốt đẹp của con người vốn đang là phạm nhân bị quản lý trước mặt. Nghĩ tốt đẹp cho người khác, yêu

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

thương và đồng cảm với nỗi đau của đồng loại, phải chăng là một cách nhân vật của Nguyễn Ngọc tư tự làm cho mình đẹp hơn lên. Ta cũng không thể không nhớ tới câu chuyện Đẻ mướn và hai người mẹ trong truyện Làm mẹ của Nguyễn Ngọc tư. Người có tiền không lấy tiền ra tạo uy thế cho mình, người có công không mang công của mình ra để giành đoạt niềm vui sống của người khác, câu chuyện Đẻ mướn đã được Nguyễn Ngọc Tư khái quát lên thành câu chuyện về lẽ ứng xử ở đời. Sống ở trên đời, chỉ có tình nghĩa mới là gốc rễ tạo nên hạnh phúc bền lâu. Lối hành xử đầy tình nghĩa, rất văn hóa của hai người đàn bà trong truyện đã cho ta nhiều bài học quý giá về cách đối nhân xử thế giữa con người với con người trong xã hội.

2.1.2.Nhân vật tha hóa Kiểu nhân vật tha hóa đã xuất hiện từ lâu trong văn học thế giới, tồn tại với tư cách là kiểu nhân vật trung tâm của trào lưu hiện thực. Ở Việt Nam, nhân vật tha hóa xuất hiện nhiều trong các sáng tác văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945. Do những điều kiện lịch sử đặc biệt, văn học 1945 – 1975 không chú trọng xây dựng kiểu nhân vật này. Bằng tư duy nghệ thuật mới về con người, văn học sau 1975 nói chung và truyện ngắn của các tác giả nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy nói riêng ghi nhận sự xuất hiện trở lại của kiểu nhân vật tha hóa. Nhìn con người trong nhiều mặt tốt – xấu, thiện – ác…các tác giả đã xây dựng nhân vật bằng một thái độ khách quan, tỉnh táo để đánh giá sâu sắc hơn về hiện thực và con người.

Tha hóa là khái niệm chỉ hiện tượng “con người biến chất thành xấu đi. Con người tha hóa là con người biến đổi thành khác đi, xấu đi, không giữ được gốc thiện, thiên lương của mình. Nhân vật tha hóa là nhân vật có tính cách và đời sống khá sinh động, có sự phát triển thiếu cân bằng trong bản tính, biểu hiện ở sự thái quá của mặt tính cách xấu, thậm chí phi nhân tính.

56

Trong sáng tác của các nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy có một hệ thống các nhân vật tha hóa. Trước hết, đó là những nhân vật tha hóa có khả năng thức tỉnh. Đây là loại nhân vật chớm bước vào con đường tha hóa nhưng chưa lún sâu, nhiều người rơi vào tình trạng tự đánh mất mình mà không ý thức được. Nhân vật cô bé trong truyện ngắn Ngày mai của những ngày mai (Nguyễn Ngọc Tư) luôn thầm ngưỡng mộ và ao ước có một ngày được gặp lại người thầy giáo già tám mươi tư tuổi của mình, người thầy đã truyền thụ cho cô rất nhiều kiến thức, người dù đã ở cái tuổi xế bóng về chiều rồi vẫn cho cô những lời hẹn và hi vọng về một ngày mai. Nhưng lời hẹn ấy cứ bị những lí do nhỏ nhoi, vặt vãnh cuốn đi: “Bởi những cuộc hẹn sẽ có ít nhiều đổ vỡ, bất trắc. Trên con đường đi đến đó, có khi tôi đau bụng nên quay lại, có khi tôi gặp bạn bè và say mèm ở dọc đường, có khi chiếc xe trở chứng xịch lụi chết máy. Tôi đến nơi thì người cũng vừa

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

đi khuất. Mà bất trắc thì quá nhiều nhân dạng. Vượt qua khoảng cách địa lý, vượt qua những rào cản lặt vặt như… cái gối ôm để thực hiện cuộc gặp, nhiều khi lãng trân. Tôi không là tôi cũ, người không còn là người cũ, gặp nhau cũng như không. Ông già thì vững trân một nếp, nhưng tôi ? Chưa chắc… Tôi đã có lần gặp bạn mừng chưa hết, thì nói câu gì đó đau lòng rồi cuộc hẹn tan mau”. Như vậy, thói vô tâm dần biến thành sự nông cạn, nó biến một ý định tốt đẹp có nguy cơ trở thành tội ác. Bởi cô gái biết, nếu cô không đi gặp ông lão, biết lần sau có còn thấy lại nhau được

57

Nhân vật cũng có lúc ý thức được phần tha hóa của mình, song không hề làm gì để cưỡng lại sự tha hóa; chịu sự tác động sâu sắc của hoàn cảnh và phải chấp nhận hoàn cảnh. Hoa trong Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, hay như Sương trong Cái ngưỡng cửa cao của Đỗ Bích Thúy, một người bỏ chồng để đi theo người khác, một người bỏ gia đình nhà chồng xuống núi thì chung quy cũng vì những nguyên nhân khách quan như cái nghèo, cái lạc hậu của đời sống. Vì vậy, những người phụ nữ ấy đáng thương hơn đáng trách. Dương trong Với tay là đến (Nguyễn Thị Thu Huệ) là niềm hi vong lớn lao của cha mẹ anh ở cái xóm biển nghèo nàn. Đối với gia đình, Dương từng là cậu con trai chững chạc, đường hoàng và học hành giỏi giang. Tiền đồ trước mắt Dương rộng mở. Anh sẽ là niềm tự hào của cả dòng họ.Cả đời cha mẹ Dương đã chắt chiu nuôi anh khôn lớn, ngỡ con mình sẽ là chàng kỹ sư tài giỏi trong tương lai. Và đúng như mong ước của họ, Dương trở về làng với cái mác là sinh viên đang du học ở nước ngoài với xe ô tô và một kiểu dáng chải chuốt, bóng lộn. Nhưng có ai ngờ đâu, chiếc xe và cái mác du học sinh kia chỉ là hình thức ngụy trang, chỉ là lớp áo bọc hào nhoáng bên ngoài che đậy một sự thật cay đắng bên trong: Dương bị nghiện và đang đi tập trung cai ở một trại gần đấy. Đối diện với hoàn cảnh như thế, nhân vật cũng ý thức được sự trượt dốc, cũng muốn vật lộn để vươn lên song bế tắc. Trong cơn vật thuốc, Dương có trông thấy hình ảnh: “Dương nhìn thấy bố đang dong thuyền về buổi chiều nhuộm nắng. Thấy mẹ cắp chiếc thúng nhỏ chạy ra đựng mực tươi về luộc chấm mắm tôm tươi. Dương thấy hết. Tất cả thật gần. Như thể chỉ cần với tay là đến. Với tay là có. Bố. Mẹ. Tuổi thơ đẹp đẽ, đơn giản trong ngần. Học bổng đi du học. Nhà máy đông lạnh... Chỉ cần. Với tay là đến...”. Nhưng có vẻ như, tất cả đã muộn quá rồi. Thông qua số phận nhân vật, nhà văn muốn gióng lên một hồi chuông cảnh báo thống thiết về tình trạng tha hóa, xuống cấp về đạo đức của một bộ phận giới trẻ hiện nay. Hơn nữa, tác phẩm có giá trị phê phán cao lối sống vật chất, chạy theo hình thức. Chính lối sống ấy đã vô tình khiến con người sống vì sĩ diện, vì cái mác mà không đúng với bản chất con người mình. Loại nhân vật tha hóa này suy cho cùng vẫn là những con người mà bản tính xấu chưa hoàn toàn lấn lướt, họ vẫn giữ được nhân tính và lòng tự trọng. Xây dựng

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

những nhân vật tha hóa có khả năng thức tỉnh, các tác giả đưa đến một bức thông điệp đầy tâm huyết, mong muốn con người được sống trong một môi trường trong sáng, lành mạnh, tiến bộ, có cơ hội được học tập, cống hiến cho xã hội bằng tài năng và tâm huyết của mình.

Bên cạnh đó, xuất hiện hàng loạt nhân vật tha hóa song không có khả năng thức tỉnh, tha hóa đến không còn nhân tính, mù quáng trước những dục vọng thấp hèn. Nhân vật hầu hết không ý thức được sự tha hóa của mình, không có khả năng phân biệt thiện – ác, bị sai khiến bởi bản năng và thú tính. Hình ảnh người cha trong Cánh đồng bất tận gợi cho người đọc những suy nghĩ, ám ảnh khôn nguôi về số phận, về sự tha hóa và bi kịch của con người. Đã từng là một người đàn ông hết lòng vì gia đình, vợ con, nhưng cuộc đời đã dạy cho ông những bài học quá đắt cho sự hi sinh vô ích. Đứa con gái tên Nương (vai người kể chuyện) hiểu rất rõ những hi sinh thầm lặng của cha mình. Ông đã cho một cô gái quá giang một khúc sông, rồi đưa về nhà cưới làm vợ. Ông chăm sóc cho gia đình rất chu đáo: “Quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra bến là những cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai, cha tôi đã hì hục lót để suốt một mùa mưa, chân má tôi không bị dính sình bùn”. Khi phát hiện ra vợ mình bỏ đi, ông thấy cay đắng không kể xiết. Và để trả thù người đàn bà bạc bẽo, ông đã đem nỗi đau của mình trút hết lên những người đàn bà khác nhẹ dạ, cả tin. Ông lừa họ bỏ tất cả, gia đình, người thân, chồng và những đứa con để rồi lại bỏ rơi họ tay trắng không nơi nương tựa. Thậm chí, ánh mắt của ông dành cho chính những đứa con mình rứt ruột đẻ ra cũng trở nên xa lạ, vô hồn. Nhiều khi ông đánh chúng bởi vì chúng giống mẹ chúng hoặc làm một hành động nào đó như mẹ chúng. Bằng một giọng văn sắc sảo, dửng dưng, Nguyễn Ngọc Tư đã khái quát lên số phận và bi kịch của con người khi khát vọng tình yêu và hạnh phúc bị chà đạp.

58

2.1.3. Nhân vật bi kịch Cảm hứng bi kịch nhân văn được coi là “một trong những dấu hiệu của sự chuyển đổi”. Nó cho thấy khả năng tiếp cận hiện thực ở cả những miền khuất lấp, những cảnh ngộ đáng thương của con người. Có thể nói, trong văn học giai đoạn hiện nay, số phận cá nhân – thân phận con người trở thành mối quan tâm hàng đầu: “Hành trình văn học ta mấy năm qua từ cố gắng dứt ra khỏi đề tài số phận (hay gọi là lợi ích cũng được) chung của cả khối cộng đồng nhất đi đến thực tại xã hội ngổn ngang với nhiều tính chất tả thực vội vã, rồi tiếp tục đi sâu vào thế giới bên trong từng con người, cuộc hành hương vô tận, cuộc tìm kiếm khó nhọc bên trong thế giới riêng của con người…”. Trong văn học trước 1975, vấn đề cá nhân chỉ là những “âm thầm, nốt lặng” (Lã Nguyên), những ngang trái éo le, hoàn cảnh của cá nhân

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

(nếu có) đóng vai trò làm phương tiện để tô đậm phẩm chất con người cộng đồng. Truyện ngắn thời kỳ đổi mới đi thẳng vào những vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống con người ở đời và sâu sắc hơn, coi con người là đối tượng để khám phá, lí giải những bí ẩn trong đời sống xã hội.

Nhân vật bi kịch là loại nhân vật trong tư tưởng luôn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột, kết cục dẫn đến đau thương, bế tắc, tuyệt vọng. Mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ, ai cũng có những ước mơ, khát vọng, song thực tế cho thấy không phải bao giờ ước mơ cũng trở thành hiện thực, những khát vọng chân chính thường va chạm với hoàn cảnh sống, với cái xấu, cái ác. Trong sáng tác của các nhà văn nữ thời kỳ đổi mới như Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, hình ảnh của những nhân vật bi kịch trở đi trở lại rất nhiều lần. Dường như, dù ở bất kỳ thời đại nào, những nỗi đau khổ của con người cũng là những nỗi nhức nhối trên trang viết và mỗi nhà văn, muốn đứng trên tầm cao tư tưởng thì phải biết trăn trở với những nỗi đau, những bi kịch của kiếp người dù là rất nhỏ bé.

Các nhà văn nữ thường hay khắc họa những bi kịch của con người trên phương diện tâm lý và tình cảm. Trong trang viết của các cây bút nữ, nỗi đau khổ của con người hiện lên với nhiều hình nhiều vẻ rất xúc động. Trước hết, đó là bi kịch của con người trong tình yêu và hôn nhân. Có lẽ, chưa giai đoạn văn học nào lĩnh vực tình yêu và hôn nhân lại được đề cập đến nhiều và phong phú như giai đoạn đổi mới này. Bên cạnh sự nối dài các đề tài truyền thống, đề tài tình yêu và hôn nhân cũng được thể hiện phong phú và phức tạp như chính đề tài truyền thống vậy. Ám ảnh trên từng trang viết không ai khác chính là những nhân vật nữ với nhiều thiệt thòi, bất hạnh, cam chịu và đau khổ do thiếu sự chia sẻ, đồng cảm. Song, cho dù thế nào đi nữa, họ luôn tiềm ẩn tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống.

59

Trong Cát đợi, Nguyễn Thị Thu Huệ xây dựng hình tượng nhân vật có tình yêu thiêng liêng và đẹp đẽ. Cô khác người ở chỗ “không xếp xó tình yêu…không bị mạng nhện chăng bởi tôi đem nó đặt lên bàn thờ và siêng năng thờ cúng”. Thế nhưng, tình yêu ấy đã bị kẻ khác chà đạp một cách tàn nhẫn. Những tưởng sau mối tình đầu với “người ấy”, cô thờ một tình yêu đã quá cố dù ngày nào cô cũng phải giáp mặt với “người ấy”, với bộ ba vợ và con. Có lúc cô tự hỏi mình đang thờ ai, “cái kẻ đi chung áo mưa với vợ con kia có xứng đáng để được mình thờ hay không. Cô thực sự vô vọng nhưng vẫn cần mẫn vun vén cho một tình yêu đã chết. Đọc những trang văn của Thu Huệ, người ta có cảm tưởng chị đang rứt ruột mình ra để viết, bởi chị đã hiến dâng cho nhân vật một phần kinh nghiệm sống từ chính những thử thách trải nghiệm của cuộc đời mình. Vì thế, trên từng trang viết của chị “chan

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

chứa một nỗi lo lắng mơ hồ về cuộc đời vốn mênh mông, vừa là thiên đường, vừa là địa ngục”. Trong Đêm dịu dàng, Nguyễn Thị Thu Huệ để cho nhân vật của mình âm thầm chịu đựng và lặng lẽ chuẩn bị cho mình một sự giải thoát để “không còn nỗi cô đơn cố hữu, không còn nỗi khắc khoải chờ mong…không còn những ước mơ con con…nói chung chẳng còn gì trong những buổi chiều teo tóp vì đau khổ”. Cô bị lừa dối và cảm thấy tuyệt vọng sau chuyện bị lão thủ trưởng già quấy rối trong phòng làm việc đúng lúc anh đẩy cửa vào. Và cũng đúng vào cái lúc cô phát rồ đi tìm anh để giải thích mọi chuyện thì bắt gặp anh đang xum xoe bên lão thủ trưởng già ấy cười hô hố về chuyện vừa xảy ra của cô. Thì ra cô cứ tưởng cái gì cũng biết nhưng có một cái không hề biết là người ta có nhiều kiểu thay lòng đổi dạ, nhiều kiểu bỏ người tình ngon lành lắm. Liệu có nỗi đau nào hơn sự chung thuỷ, niềm tin tưởng bị xúc phạm một cách dễ dàng đến như vậy. Chẳng có gì níu kéo cô lại với đời, người dành trọn niềm tin về một tình yêu chân chính đã phản bội lừa dối lại cô. Chỉ còn cách chấm dứt mọi đau khổ đang bủa vây con người cô, đó là cái chết. Nhưng cô không làm được bởi “Con vật còn biết yêu cuộc sống…phải cho nó được sống”, đó là lời giải thích của ông lão câu cá khi ném những con cá xuống hồ. Nhà văn Thu Huệ luôn đau đáu cùng nhân vật trong cuộc hành trình di tìm hạnh phúc trong cuộc đời. Hạnh phúc thì khó nắm giữ trước bao nhiêu ràng buộc đang bủa vây con người. Một sự vật vã khắc khoải canh cánh trong tâm hồn người phụ nữ khi không đạt được ước mơ trong tình yêu, họ lâm vào thế lẻ loi, cô đơn, tuyệt vọng. Phải chăng, khi đặt nhân vật nữ vào trạng thái cô đơn là cách Thu Huệ thể hiện “mặt trái của tình yêu thương” (Macket).

Khác với Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư lại thể hiện nỗi đau, vết thương trong tâm hồn của những người phụ nữ khá dung dị nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Trong chiến tranh người phụ nữ luôn động viên chồng con lên đường làm nhiệm vụ và lại chính những người phụ nữ ấy nén nỗi đau thương lại cả đời khi chồng và con trai mình nằm lại dưới đất sâu. Trong tác phẩm Bà cô, Nguyễn Ngọc Tư viết về những mất mát của người mẹ Việt Nam một cách giản dị nhưng sâu sắc: “Bà có ba con, cả ba đều hi sinh, từng khúc ruột bà cắt lìa, đau biết mấy, thế mà thỉnh thoảng bà vẫn cười: “Tổ cha, phải còn đứa nào tao cũng cho đi cách mạng luôn”. Sự hi sinh tự nguyện tự giác ấy thật đáng trân trọng biết bao. Những đứa con máu mủ bà sinh ra đã ra đi mãi mãi khi tuổi đời còn rất trẻ sao mà không đau, không xót. Sự che giấu tình cảm của người mẹ một cách rất nhân bản, kín đáo ấy đã khiến cho ta thực sự xúc động.

60

Chủ tâm đi sâu vào những mảnh đời, những cảnh huống khác nhau của số phận con người, Nguyễn Ngọc Tư có cơ hội khám phá những phần khuất lấp trong tâm hồn con người để chia sẻ với những bất hạnh, éo le trong cuộc đời của những

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

người phụ nữ. Xuyến trong Duyên phận éo le là một cô gái tiếp viên ở một nhà nghỉ heo hút. Cô tìm đến với nơi này vì đã hết đường về nhà, để trốn chạy cuộc sống với một vết thương lòng không thể nguôi yên. Cái nghề của cô bị nhiều người khinh rẻ. Xuyến chua chát nhận ra rằng: “Có ai yêu mình, tin mình, chịu cưới mình khi suốt ngày mình đưa mặt cho người ta hôn hít”. Ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư không né tránh đi sâu vào khai thác phần cuộc đời gai góc, bất hạnh của những cô gái trẻ. Xuyến có những phẩm chất đáng trân trọng khi cô tình nguyện ở lại vùng đất heo hút, sống trong tình thương của mọi người. Cùng với sự lựa chọn này, cô phải chịu đựng sự mất mát trong tình yêu khi Khởi đi xa. Hai lần tổn thương làm chai sạn con người cô, khiến cô đóng cửa trái tim mình. Cô ao ước mọt gia đình, cô thích trẻ con nhưng lại không dám đến với anh Năm già – người thực sự thấu hiểu và thương cảm cho cảnh ngộ của cô. Nỗi đau của người con gái trẻ thầm lặng mà xót xa: “Một bữa thấy Xuyến vào phòng Khởi, thụp xuống vùi mặt vào chiếc áo anh bỏ lại. Một bữa nhìn trời mây nước mênh mông mà đôi mắt ráo hoảnh, trống trơ, nhìn mà không thấy gì hết. Một bữa thấy Xuyến tết tóc cho bé Bi, Xuyến rơi nước mắt”. Không có quá nhiều chi tiết, Nguyễn Ngọc Tư cũng đủ để người đọc thấu hiểu và chia sẻ với những cô gái trẻ bất hạnh trong tình yêu mà dở dang trong duyên phận.

61

Trong Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng được tác phẩm với một hệ thống các nhân vật bi kịch. Có thể nói, các nhân vật trong truyện đều mang chứa đầy tính thiện, thế nhưng cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, dốt nát, lam lũ, và điều kiện sống tù túng, ngột ngạt dần xô đẩy người này trở thành nạn nhân của người kia. Người vợ nhẹ dạ nông nổi là nạn nhân của chiếc ghe đầy vải vóc. Người chồng bị phụ bạc trả thù bằng cách quyến rũ vợ người khác rồi vứt bỏ họ giữa đường. Con cái là nạn nhân của cha mẹ ấy phải sống vạ vật với đầy tàn tích trong tâm hồn. Sự báo ứng rơi vào hai đứa trẻ trong trắng, đáng thương: Điền tự hủy hoại bản năng đàn ông của mình, vô vọng chạy theo người đàn bà bị sỉ nhục. Nương bị đám trai làng hãm hiếp ngay trước mặt người cha tội lỗi đang bị đè nghiến xuống bùn. Không lên gân bạo liệt, không tăm tối bi quan, những đoạn văn đầy tình tiết trắc ẩn như thủ thỉ dịu dàng mà đẩy số phận tới tận cùng bi thảm. Đồng khô, lúa cháy, đàn vịt là nguồn sống cuối cùng cũng bị chôn sống. Đại diện hiếm hoi cho phía chính quyền trong suốt câu chuyện là hai ông cán bộ ấp và xã, không chỉ vô cảm với nỗi khổ dân quê mà còn sẵn sàng vét nốt của họ cả mảnh tình rách nát. Bản lĩnh tác giả đã níu người đọc kịp dừng lại bên bờ tuyệt vọng khi mầm thiện trong trái tim nhân vật xưng Tôi ngập trong máu và nước mắt vẫn kịp bừng xanh niềm hi vọng sâu sắc thiêng liêng: nếu như Nương “bị có con” sau cuộc bạo hành thì “”đứa bé không cha nhưng chắc chắn được đến trường”, sẽ sống hạnh phúc vì được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ cho lỗi lầm của người lớn”.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Viết rất nhiều về người phụ nữ song dường như với Đỗ Bích Thúy như vậy vẫn là chưa đủ. Đã có lần chị tâm sự, chị cảm thấy còn nợ một điều gì đó rất lớn với những người phụ nữ vùng cao chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ. Có lẽ là bởi cho tới bây giờ, cuộc sống của người phụ nữ dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc vẫn còn nhiều vất vả. Người phụ nữ vẫn là những người cần được chia sẻ, cảm thông hơn cả. Trong Cột đá treo người, Đỗ Bích Thúy đã khắc họa số phận nhân vật Chía với nhiều đau khổ, bi kịch. Trong những ngày còn chế độ quan lang, thổ ty trên vùng đất Tây Bắc, những thân phận phụ nữ chịu nhiều áp bức bất công như Chía có lẽ không phải hiếm. Cha mẹ Chía vìa vay nợ lý trưởng không giả nổi, tiền vay cứ lãi mẹ đẻ lãi con nhân lên, cho tới lúc lý trưởng bảo cho Chía tới làm người ở để xóa nợ thì Chía chính thức trở thành thân phận tôi đòi. Còn với Mai thì nỗi khổ lại khác, chồng cô bỏ đi theo người phụ nữ khác, con vì đói và thiếu muối mà chết, cuộc đời của Mai tưởng như đã đi vào ngõ cụt nếu không gặp được Sinh. Nhưng rồi cuộc chiến với giặc đã cướp đi sinh mạng của Mai khi chưa kịp một lần được hưởng niềm hạnh phúc hồi sinh của Cách mạng.

Người phụ nữ khổ vì những bất công xã hội đã đành, nhưng đôi khi chính những phong tục tập quán, những thành kiến xóm làng lại là những nhân tố cướp đi niềm hạnh phúc đáng có của họ. Vi xinh đẹp, ngoan ngoãn nhưng không thể lấy được chồng vì nhà quá nghèo, mà ở vùng quê của Vi, chẳng ai muốn lấy một cô gái quá nghèo về làm vợ cả. Vậy là muốn con gái lấy được chồng, cha mẹ Vi đã phải bán nhà cửa, đất đai và dọn sâu vào bên trong núi sống. Hẳn là sự thật này sẽ trôi vào dĩ vãng nếu không có một ngày Vi về thăm nhà và được em gái nói cho sự thật (Giống như cái cối nước).

Cũng giống Vi ở cảnh nhà nghèo khó, nhưng Kim, mặc dù rất xinh đẹp cũng bị dân làng xa lánh chỉ vì mẹ Kim là một đứa con sinh ra sau vụ cưỡng bức của đám thổ phỉ. Một điều tưởng như đã thuộc về quá khứ nhưng trong tâm trí của người dân thì dòng máu đang chảy trong người cô là dòng máu đen, dòng máu của loài quỷ dữ (Bóng của cây sồi). Chính những định kiến xa lánh của dân làng đã khiến cho Phù không dám bước qua cái bóng của bố, không dám vượt qua dư luận để đến với tình yêu của mình. Chính vì thế, cuộc đời Kim rẽ sang một hướng khác vô vọng và đau khổ. Cũng chính những định kiến của làng đã trói chân Nhẻo suốt mấy năm ở nhà chồng sau khi chồng mất mà không dám tìm tới một tình yêu khác với Di (Như một con chim nhỏ).

62

Có thể nói, nguyên nhân tạo ra những bi kịch cuộc đời cho người phụ nữ vùng cao chính là do hoàn cảnh sống đem lại. Trong nếp nghĩ của gia đình người dân tộc thiểu số vẫn rất nặng nề tư tưởng nam quyền. Chính vì thế, người phụ nữ trở thành:

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

“Cái cột kê chân cho gia đình nhà chồng”. Nó là điểm khởi đầu cho rất nhiều những cay đắng, bất hạnh của họ trong chính gia đình của mình.

2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật, những biến đổi trong thế giới nhân vật được cụ thể hóa bằng nhiều thủ pháp xây dựng nhân vật. Mỗi kiểu nhân vật đòi hỏi những cách thức riêng trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật. M.Bakhtin đã nhận thấy: “:Mỗi kiểu nhân vật có tính quy luật riêng của mình, có lô gíc của mình nằm trong khuôn khổ ý chí yác giả nhưng tác giả không thể vi phạm một cách tùy tiện. Một khi đã lựa chọn nhân vật và lựa chọn trung tâm miêu tả nhân vật, tác giả bị ràng buộc bởi lôgíc nội tại của cái được lựa chọn, cái lôgíc mà tác giả phải khám phá trong quá trình miêu tả. Lôgíc của tự ý thức chấp nhận những phương thức nghệ thuật nhất định để khám phá và miêu tả nó [tr304,27].

2.2.1.Không gian nghệ thuật trong việc khắc họa tính cách nhân vật “Trong văn học nghệ thuật, không gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại chủ quan của hình tượng [tr209,29]. Muốn đánh giá đúng đắn chính xác về nhân vật không thể không tìm hiểu không gian tồn tại của nó bởi “Không gian nghệ thuật là mô hình nghệ thuật về cái thế giới mà con người đnag sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của con người ở trong đó. Không gian nghệ thuật gắn liền với quan niệm về con người và góp phần biểu hiện cho quan niệm ấy[tr143,28]. Trong sáng tác văn học, không gian nghệ thuật trở thành một thủ pháp nghệ thuật quan trọng khắc họa hình tượng nhân vật: “Không gian nghệ thuật như một quan niệm về thế giới và con người, như một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình ảnh thực thể hiện cảm xúc và quan sát về thế giớivà con người, tư tưởng thẩm mỹ, để từ đó lí giải khả năng phản ánh hiện thực của một hệ thống tác phẩm nhất định[30]. Bên cạnh đó, không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn diễn ra trong trường nhất định. Qua đó, thế giới nhân vật cảm tính được bộc lộ. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian tâm tưởng

Như vậy, không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti trật tự…Ngôn ngữ trong không gian nghệ thuật rất đa dạng và phong phú. Các phạm trù cao - thấp, xa - gần, rộng - hẹp, cong - thẳng đều được dùng để biểu hiện các phạm vi giá trị phẩm chất của đời sống xã hội. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật.

63

Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là không gian song hành. Là một nhà văn của miền sông nước, Nguyễn Ngọc Tư thấu hiểu không gian sông nước, cũng chính là không gian của cuộc đời thực. Nó vừa thu hẹp lại vừa

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

mở ra theo chièu dài, chiều sâu và chiều rộng. Khảo sát các tập truyện ngắn của Nguyễn Ngọc tư, ta thấy có 3 cặp không gian song hành trong sáng tác của chị đó là: Không gian sông nước - đất liền, không gian gia đình - xã hội và không gian sân khấu – không gian thực của cuộc sống.

Không gian sông nước – đất liền trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư được xây dựng nên để làm nền cho bức tranh cuộc đời, trong đó, sông nước và đất liền là hai hình ảnh gắn liền với sự chia lìa. Đó là hình ảnh của những cặp đôi yêu nhau mà luôn gặp trắc trở trong tình yêu như cảnh người bờ này, kẻ bờ kia: “Cái lý em ở cái lý chàng đi” (Lý con sáo sang sông) hay “Ừ, tại tao thương con chốt, qua sông là không mong ngày về” ( Hiu hiu gió bấc). Hay cảnh kẻ dưới sông, người trên đất liền, nói sao cho thấu biết bao nỗi niềm: “Lương ăn trên sông, ngủ trên sông nên không biết ở dưới bờ, người ta đưa đẩy cuộc đời Bông như thế nào” (Bến đò xóm Miếu)

Trong truyện Dòng nhớ, sự gắn bó máu thịt với dòng sông, với con đò ngược xuôi con nước đã thành nỗi ám ảnh theo suốt cả cuộc đời của nhân vật. Để đến khi cuối đời, dòng nước ấy vẫn biến thành dòng đau, nỗi nhớ, vẫn là khối tình câm lặng mà sâu sắc vô cùng trong trái tim người đàn ông trên bờ và người đàn bà dưới dòng nước. Tình yêu ấy cái chết cũng không thể chia lìa. Trong truyện ngắn của mình, Nguyễn Ngọc Tư luôn đặt không gian sông nước bên cạnh không gian đất liền: Dòng nhớ, Nhớ sông, Qua cầu nhớ người…Những con người trong truyện đem cuộc đời mình gắn chặt với dòng sông, nhưng vì một lí do nào đó họ phải xa sông tìm bến đậu nơi đất liền, nhưng linh hồn họ vẫn đăm đắm, da diết hướng về sông với nỗi khắc khoải khôn nguôi: “ Con nuôi con Giang như nuôi con sáo. Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy - chèo đã đời rồi nó buông chèo cho thỏa nỗi nhớ sông”. Lênh đênh giữa sông nước và đất liền nhưng những con người cô đơn bất hạnh ấy vẫn không tìm được cho mình đâu là bến đậu đích thực của cuộc đời.

64

Bên cạnh không gian sông nước, Nguyễn Ngọc Tư còn đặt nhân vật của mình vào không gian gia đình – xã hội. Gia đình là bến đậu bình yên, là niềm yêu thương và khát khao hạnh phúc được che chở. Xã hội là không gian của bộn bề những lo toan, những khát vọng, là nơi có sự đua chen tiền tài, công danh địa vị. Trong không gian gia đình xã hội, nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư có lúc mải mê kiếm tìm hư ảo mà quên mất không gian đích thực của bản thân: Ngổn ngang, Người dưng làm má…để rồi khi họ đang dần nhận ra mình đang dần đánh mất tất cả họ quay lại mái nhà của mình, song mọi thứ gần như quá xa lạ với họ. Như vậy, Nguyễn Ngọc Tư đã đối lập hai chốn không gian gia đình và xã hội để từ đó khắc họa và làm nổi bật những bi kịch, những mâu thuẫn giằng xé trong tâm hồn con người. Gia đình còn là mối quan hệ cha con, vợ chồng, anh em, và những mối quan hệ huyết thống thân thuộc khác. Miêu tả không gian gia đình, tác giả muốn giúp ta hiểu hơn những

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

giá trị đạo đức và lòng yêu thương giữa con người với con người. Với không gian xã hội, Nguyễn Ngọc Tư nhấn mạnh đến sự lạnh lùng, thờ ơ trong các mối quan hệ: “Làm sao diễn tả được nỗi đau của người cha hôm trước còn bắt con kiến vàng bu lên tóc con gái, hôm sau đã phải nghẹn ngào đứng từ xa ngó nó, ngó nó đau khổ”…(Đau gì như thế). Các nhân vật nhiều lúc như muốn bấu víu không gian gia đình tìm sự đồng tình, tìm nơi nương tựa nơi không gian xã hội nhưng đổi lại họ lại bị thờ ơ, lãng quên, thậm chí còn làm nhân lên nỗi đau vốn đã nhức nhối (Lỡ mùa, Đau gì như thế, Cánh đồng bất tận…).

Nhưng tiêu biểu hơn cả trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư là không gian sân khấu, cuộc đời. Đây là mảng không gian có sức ám ảnh lớn nhất đối với người đọc. Trong một số truyện ngắn của mình, Nguyễn Ngọc Tư xây dựng hai không gian song hành vừa đối lập lại vừa bổ trợ cho nhau. Khi không gian sân khấu không còn thì nhường chỗ cho cuộc đời thực. Truyện của chị thường nhắc nhiều, kể nhiều về những đoàn hát như: Mưa mù thu, Bông tràm, mưa bình minh. Nhân vật trong truyện lỡ mê cái nghiệp cầm ca, nên số phận của họ cũng trôi nổi như các vai diễn. Họ nhập thân, họ đóng đạt quá trên các sân khấu đến nỗi khi ánh đèn tắt đi họ không thể cởi bỏ hóa trang để trở về với cuộc đời thực. Những vở diễn chính là cuộc đời họ, nước mắt, niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ đều phải trải qua trong các vai diễn. Vậy phần nào để cho cuộc đời đây?: “Tôi thèm hạnh phúc nhưng không cho phép mình hạnh phúc. Một tâm hồn đầy đủ sẽ không diễn tả được một tâm tư giằng xé. Vì nghệ thuật, tôi hi sinh cả cuộc đời mình (Phương - Ngày đùa). Ngày đùa là truyện ngắn thể hiện bi kịch lớn nhất giữa cuộc đời và sân khấu. Bi kịch của số phận con người được khắc họa rõ nét trong hình ảnh của nhân vật San: “San sống rất mệt mỏi vì không phân biệt được đâu là sân khấu, đâu là cuộc đời” với một tâm hồn gần như chai sạn: “Không tâm huyết kì vọng vào cái gì, không mơ mộng xã vời, không rút ruột, không tin ai, yêu ai. San thấy mình không vịn vào ai để sống, không sống vì ai. Từ những bi kịch tình yêu dưới ánh đèn sân khấu, San đã từng bước tự đưa mình vào bi kịch cuộc đời. San đã mất Phương vĩnh viễn chỉ bởi đem sân khấu ra giữa cuộc đời - mà đó đâu phải là trò đùa.

65

Khác với cây bút trẻ của vùng đồng bằng sông nước Nam Bộ Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ khi xuất hiện, Nguyễn Thị Thu Huệ đã tạo cho mình một dấu ấn phong cách riêng và tạo dựng được không gian nghệ thuật riêng góp phần đắc lực trong việc khắc họa hình tượng nhân vật. Trong truyện ngắn của chị, nhân vật thường được đặt vào một không gian hẹp, thời gian có thể chỉ là một khoảnh khắc diễn ra trong cuộc đời. Đó là không gian và thời gian của nỗi niềm riêng tư cá nhân chứ không phải khung cảnh rộng lớn của cộng đồng dân tộc trong thời chiến tranh. Không gian trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Thu Huệ là hình ảnh cuộc sống

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

gia đình, cá nhân tách biệt với xung quanh; không gian của những căn phòng tù túng mà ở đó con người phải đối mặt trước bao bộn bề của cuộc sống: Phù thủy, Giai nhân, Sơ ri đắng…Từ không gian hẹp đó, nhà văn để cho nhân vật của mình cảm nhận bao nỗi khắc khoải. Người đàn bà 38 tuổi xinh đẹp chưa chồng trong Giai nhân: “Bỗng chợt thấy chật chội, bức bối trong căn phòng ba mươi mét vuông…”, trong một khoảnh khắc, cô nhận ra: “Khốn nạn, sao người mỗi ngày một đông như kiến mà tôi thì thấy cô đơn thế này…bên ngoài cánh cửa kia có thể là thiên thần có khi là quỷ dữ. Cái thời mình được lựa chọn đã qua rồi ư?” . Với bối cảnh không gian là căn phòng và tâm trạng căng thẳng của sự chờ đợi, tác giả đã để cho nhân vật bi kịch bị kìm nén, nhốt lại nhằm tạo ra độ căng của tác phẩm. Chính độ căng này khiến cho độc giả cảm nhận được nỗi niềm đau xót của người phụ nữ cô đơn trước cuộc đời.

66

Nếu không đặt nhân vật của mình trong không gian chật chội, nhỏ hẹp của những căn phòng tù túng thì Nguyễn Thị Thu Huệ sẽ đưa nhân vật vào một không gian rộng lớn hơn như: bên giếng nước, rạp chiếu phim, cơ quan làm việc, khu vườn dành cho những người yêu nhau, dãy phố có 108 cây bằng lăng…Nhưng trong thế giới ấy, các nhân vật của chị cũng không thể nào hòa nhập được với xã hội và cuộc đời. Nhân vật trong Cầu thang là một ví dụ tiêu biểu. Trân sống ngơ ngác trước sự hối hả của mọi người trong sơ quan. Cái không gian tầng 7 làm việc của cơ quan khiến cô thấy lạc lõng: “Các cuộc họp, các khuôn mặt tưởng như thân với mình lắm nhưng chỉ để nói những câu chuyện vô thưởng vô phạt nhất…Họp xong, mọi người hối hả thu dọn những gì là của mình…lao vút xuống bảy tầng cầu thang, lên những chiếc xe máy và tóe ra các ngả…”. Trân cảm thấy mọi cái đều là vô nghĩa, kể cả tình yêu của cô cũng chỉ “ràng buộc mỏng manh vô cùng…có nghĩa là chỉ nên yêu ai đó bằng tinh thần thôi, chứ vì thể xác, chóng chán lắm…Trong truyện ngắn của Thu Huệ, nhân vật của chị không mấy khi được thả vào trong bối cảnh rộng lớn phức tạp mà được nhét vào “những tình huống tuy hẹp nhưng đặc sắc”. Tác giả đối xử với nhân vật bằng cách “thu gom mọi thứ vào một bao tải to tưởng buộc chặt lại, giãy giụa để tung ra khỏi cái bao tải đó nhưng rất khó”[tr324.34]. Không gian gia đình được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sáng tác của Thu Huệ nói riêng và của thế giới những nhà văn nữ nói chung. Ở đó, người phụ nữ âm thầm chịu đựng hi sinh cho chồng, cho con. Nhưng không phải không có những lúc, sự đều đều trong cuộc sống gia đình đã khiến họ có những suy nghĩ vượt ra ngoài thiên chức của mình như: Người xưa, Tân cảng, Một nửa cuộc đời…Song điều đáng quý ở người phụ nữ là sự quay trở về với bổn phận làm vợ, làm mẹ bởi khung cảnh gia đình không thể vắng bóng hình của họ.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Trong trang viết của Đỗ Bích Thúy, để nhằm làm nổi bật tính cách cũng như số phận của nhân vật, tác giả hay đặt nhân vật của mình trong không gian sống, không gian sinh hoạt thường nhật của họ. Người dân tộc thiểu số có tính cách chân thực, ngay thẳng, có lối tư duy bằng hình ảnh, biểu tượng cụ thể, vì thế, họ thường lấy những sự vật, hiện tượng xung quanh mình để so sánh, ví von. Nhằm khắc họa cuộc sống và tính cách con người ở vùng Tây Bắc địa đầu của Tổ quốc, nhà văn đã để cho họ tự lên tiếng. Chẳng hạn, viết về cái bếp của người dân tộc, chị chọn cách để người mẹ chồng giảng giải với cô con dâu về những điều cấm kị liên quan tới cái bếp của người Mông: “Ngày đầu tiên về nhà chồng, mẹ chồng dẫn Kía xuống bếp. Ở bếp có con ma bếp, ma bếp cai quản việc sinh đẻ của đàn bà và phù hộ cho việc nuôi gia súc. Vì thế không được giẫm chân lên bếp lò, không được gõ vào thành bếp, lúc nào muốn nhấc chảo cám lợn ra phải cho một hòn đá vào giữa” (Gió không ngừng thổi). Đỗ Bích Thúy luôn đặt các nhân vật của mình trong môi trường họ sống và lao động, họ luôn gắn liền với cái bếp, con dao, với cái ang nước, với nương rẫy, với cuộc sống lam lũ, vất vả, cực khổ. Đó là không gian của căn nhà có hai ngăn phải, trái là biểu tượng của mối tình tay ba trong truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, là không gian sinh tồn của cây ngải đắng cứu sống con người (Ngải đắng ở trên núi), ….Nhiều khi, đó là không gian núi rừng đầy những hiểm họa, những cạm bẫy rình rập đe dọa đến con người: “ Trời tối đen, nương ngô rất rậm và cao, tiếng gào thét của Kía bị át đi bởi tiếng gió từ trong thung lũng đang phả ra ào ạt…” (Gió không ngừng thổi). Nhưng đó cũng là không gian nên thơ, không gian hò hẹn của biết bao nhiêu chàng trai cô gái đang yêu (Con dê bốn mắt). Có thể nói, không gian trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy là không gian sinh tồn. Không gian có tính đặc thù ấy góp phần đắc địa trong việc thể hiện tính cách, nội tâm của nhân vật.

2.2.2. Đối thoại và độc thoại nội tâm Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy,là sự thể hiện sinh động và chính xác những suy nghĩ, tính cách và đời sống tâm lí của con người. Ngôn ngữ trong tác phẩm lấy chất liệu từ ngôn ngữ đời sống, thông qua sự chọn lọc, sắp xếp của nhà văn trở thành phương tiện khám phá cuộc sống của con người. Do vậy, kỹ thuật xử lý ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng tring quá trình xây dựng nhân vật. Trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy ta thấy các tác giả rất tài tình trong việc lựa chọn và xử lí ngôn ngữ đặc biệt là trong việc xây dựng đối thoại và độc thoại nội tâm cho nhân vật.

67

Đối thoại được hiểu là “sự giao tiếp qua lại (thường là giữa hai phía) trong đó, sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia [tr129,5]. Đối thoại thực chất là quá trình tương tác bằng ngôn ngữ giữa hai chủ

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

thể, quá trình đó cho phép nhà văn phát hiện, khám phá các nhân cách và quan hệ của nó. Thông qua đối thoại, thế giới nhân vật được khắc họa chân thực và sinh động, các nét tâm lý, tính cách nhân vật qua từng trang sách hiện lên tự nhiên như chính cuộc đời.

Trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, nghệ thuật sử dụng đối thoại đã thực sự phát huy được hiệu quả. Nhà văn thường xây dựng những cuộc đối thoại “không đầu không cuối”, có nghĩa là trong câu hỏi, người trả lời dường như không muốn trả lời. Nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư thường hay lảng tránh các cuộc đối thoại trực tiếp bằng những câu nói hay những chủ đề không ăn nhập:

“Má tôi châng hẩng: - Vậy? - Ừ, người đó quen sao tìm coi bộ cực dữ - Quen, chà hồng biết nói sao đây, dài dòng lắm, vợ chồng tôi…” (Dòng nhớ) Chỉ nói được đến vậy là nhân vật quay vào dòng tâm trạng của mình. Các cuộc đấu tranh trong nhiều truyện ngắn chỉ là cái cớ, chỉ là một cách để nhân vật soi lại cuộc đời mình, mở ra thế giới tâm trạng đầy những nỗi niềm.

Đôi khi, trong sáng tác của chị có những cuộc đối thoại không có lời đáp: Ông già dụi cái mặt già nua vào tóc anh, biểu: - Chú em, tóc dài rồi, sao không chịu đi cắt đi, thanh niên để vậy coi bầy hầy

lắm.

Phi không nói gì hết, lòng anh lặng đi, nghe nhói ran cả ngực mà không biết niềm nhớ nó đang cựa quậy chỗ nào. Lâu lắm rồi mới có người nhắc anh chuyện tóc tai.

Đối thoại có vai trò rất quan trọng trong việc khắc họa tính cách nhân vật. Thông qua đối thoại, nhân vật bộc lộ tính cách của mình. Ở đoạn đối thoại trên, tác giả nhằm thể hiện tính cách trầm, không thích đối thoại nhiều nhưng lại rất giàu tình cảm của Phi. Điều đó lí giải vì sao, chỉ một lời nhắc nhở về chuyện tóc dài không cắt của ông Sáu Đèo lại làm Phi nhớ đến thế, suốt cả cuộc đời không thể quên được.

68

Trong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy, đối thoại đã phát huy tác dụng của nó trong việc khắc họa tính cách nhân vật. Nhà văn đã tận dụng tối đa hiệu quả của những đoạn đối thoại, thông qua đó, nhà văn muốn nhân vật tự nói về mình, tự bộc lộ về mình. Người dân tộc thiểu số thường hay kiệm lời, trước mọi vấn đề, họ thường không dài dòng bộc trực thể hiện suy nghĩ của mình. Nếu một cô gái miền ngược không ưng chàng trai mà bố mẹ chọn lựa cho mình, cô ấy sẽ trả lời:

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

“ – Bố mẹ mà cho thằng ấy vào nhà là con đâm dao vào bụng, chết luôn.

Mẹ Kía run bần bật, bố Kía thì quát:

- Mày đâm tao trước rồi muốn làm gì thì làm.

Nói rồi, xô cửa xông vào. Nhưng Kía đang vén áo lên, chĩa mũi dao thẳng vào

bụng:

- Bố vào là con đâm ngay.”

(Con dê bốn mắt)

Có thể nói, trước mọi vấn đề, đặc biệt là trong tình yêu, người dân tộc luôn bộc trực, thẳng thắn thể hiện những cảm xúc, suy nghĩ của mình. Thậm chí, nhiều khi họ rất quyết liệt. Điều ấy thể hiện rất rõ phần tính cách của họ.

Trong ngôn ngữ đối thoại, Đỗ Bích Thúy đã để cho người dân tộc vùng cao bộc lộ rõ nét tính cách, lối tư duy và thậm chí cả ngôn ngữ hàng ngày của mỗi tộc người. Đây là lời thoại của dân làng thi nghe tin về thằng Thào Mí Chà ở Lũng Pục bỏ nhà đi mới về:

“- Tìm thấy nó ở đâu thế? Người già nhao nhao, mắt vằn lên vì tức giận

- Ây dà, nó uống rượu ở nhà một đứa gái góa bên Cao Mã Pờ

- Cái gì? Uống rượu ở nhà một đứa gái góa à? Trời đất ơi, gầu Mông ơi là

gầu Mông sao lại chui vào váy một đứa gái góa thế hở?”

69

Không chỉ tài tình trong việc xây dựng đối thoại, các nhà văn nữ còn khéo léo trong việc thể hiện nội tâm nhân vật thông qua những lời độc thoại. Vậy độc thoại là gì? “Độc thoại là lời của nhân vật, lời trực tiếp, lời có thể nói với mình hay người khác nhưng nó độc lập với các lời đối đáp” [14]. Nhân vật có thể đối thoại với chính bản thân (độc thoại nội tâm) hay độc thoại với người khác trong tâm tưởng. Độc thoại nội tâm là “Một biện pháp bộc lộ những suy nghĩ thầm kín bởi vì trong ý nghĩ của con người tỏ ra tự do hơn trong lời nói” [31]. Sử dụng độc thoại để đi sâu khám phá thế giới nội tâm của nhân vật là cách dùng khá phổ biến trong văn học. Có thể nói, độc thoại nội tâm không phải là một thủ pháp nghệ thuật mới. Có nguồn gốc từ kịch, độc thoại đã đi vào tiểu thuyết một cách tự nhiên và được phát triển thành độc thoại nội tâm nhằm miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật. Với ưu thế thể

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

hiện trực tiếp, chính xác, tâm tư, suy nghĩ của con người, độc thoại nội tâm thường xuất hiện khi nhân vật trải qua những mâu thuẫn, những bi kịch giằng xé và bế tắc. Truyện của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu được viết theo mạch chảy của tâm trạng nên độc thoại đóng một vai trò quan trọng. Qua đó, ta có thể biết được ước mơ, hạnh phúc thầm kín của các nhân vật: “Điệp tính sau này không còn diễn được Đào con, Điệp về nhà lấy chồng nằm võng hát ru con ngủ” (Chuyện của Điệp), hay ước mơ nhỏ bé của Huệ: “Nói vậy nhưng lòng Huệ ấm ran,nó mơ tới một mái nhà sớm chiều khói tỏa” (Huệ lấy chồng), hay là cả những nỗi niềm không thành tiếng: “Tôi không nói gì hết vì sợ rớt nước mắt trên đỉnh đầu trống huơ của má (Ngổn ngang). Ở một tầm cao hơn, các nhà văn đã khéo léo đẩy độc thoại nội tâm vào lời kể chuyện. Vì thế, xuất hiện sự mờ nhòe giữa độc thoại của nhân vật và giọng điệu trần thuật. Sự kết hợp này khiến cho lời kể chuyện trở nên hấp dẫn, giọng điệu, tính cách nhân vật được biểu hiện một cách tự nhiên hơn. Ở những dạng thức tự sự cổ điển, với sự thống trị của người trần thuật thì ngôn từ người kể chuyện mang chức năng phân biệt với ngôn từ nhân vật. Tuy nhiên, trong tự sự hiện đại, sự phân biệt này không phải bao giờ cũng rành rọt, đặc biệt khi có nhiều tiếng nói, nhiều ý thức xen vào những giọng kể có bề ngoài thuộc về tác giả nhưng nội dung lại thuộc về nhân vật. Giới nghiên cứu phương Tây đã nhân ra hiện tượng pha trộn này trong nền văn học của họ.Theo nhà nghiên cứuTamara Motuliola, độc thoại nội tâm bao gồm “Lời nói không phát ra thành lời của nhân vật, lời nửa trực tiếp nơi tác giả nhân danh mình nhưng lại nắm bắt từ ngữ và ngữ điệu của nhân vật, là lời độc thoại nội tâm – trong đó tiếng nói nhân vật dường như không được tách ra thành hai tiếng nói tranh cãi nhau, và hàng loạt những lời suy luận chặt chẽ, có ý nghĩa mù mờ, hỗn loạn”. Như vậy, độc thoại nội tâm bao gồm những lời nửa trực tiếp, những câu văn mà ta không phân biệt được đấy là lời của nhân vật hay của tác giả. Trong truyện của Nguyễn Ngọc Tư, các nhân vật đều tự tạo cho mình một thế giới như vậy.Ở đó, họ tự vật lộn với những suy nghĩ miên man. Có hai cách mà họ thường lựa chọn: Đó là tự độc thoại, tự nói chuyện với mình hoặc là lảng tránh những cuộc đối thoại trực tiếp bằng những câu nói bâng quơ hay những chủ đề không ăn nhập với tâm trạng: “Không ai biết mù cũng biết thương nhớ, biết ngóng chờ (trong nỗi tuyệt vọng) rằng cái mùa mưa này liệu có mỏi chân mà quay trở lại hay không? “ (Nửa mùa).

“Nhưng mà chờ tới từng nào lận.

Ai mà biết

70

Mùa này gió bấc hiu hiu lại về” (Hiu hiu gió bấc)

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Nguyễn Ngọc Tư hay khép lại truyện bằng những câu hỏi, không phải của nhà

văn, cũng không phải của nhân vật:

“Nhưng nói để làm gì ta?” (Huệ lấy chồng)

“Biển người mênh mông vậy” (Biển người mênh mông)

“Tuyệt không đáng gì à?” (Thương quá rau răm)

Ngòi bút phân tích tâm lý nhẹ nhàng của Nguyễn Ngọc Tư nhẹ nhàng không muốn lách sâu vào tận cùng để khiến nhân vật phải giật mình. Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa xung đột nội tâm nhân vật chỉ bằng một cái cười nhạt, một ánh mắt và những giọt nước mắt là đủ để cảm thấy cả cõi lòng đang giằng xé đầy mâu thuẫn không thể giải quyết, cũng không thể nói nên lời: “Thi cười gượng gạo rồi cắn môi quay đi”.

Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư không chỉ nói chuyện với mình mà còn nói chuyện với đói tượng khác nhưng chỉ có một mình mình nghe thấy (hiện tượng đối thoại gián tiếp): “Má kêu ngủ. Rồi má làm như ngủ. Điệp biết ngủ là xoải chân như thả, má thức mà trân mình khổ vậy làm chi má (Chuyện của Điệp). Cũng có lúc nhân vật không kìm nén, muốn nói hết những suy nghĩ của mình, nhưng vì một lí do nào đấy, họ không thể cất lên: “Tốt sao? Người ta bỏ chị để cưới tôi mà tốt à? Má tôi ngồi lặng im tự hỏi” (Dòng nhớ) hay “Nó muốn chạy vô nhà Thi, gặp anh mà nói cho anh hay, rằng nó đã hết thương Thi rồi, rằng nó quên anh, quên thiệt (Huệ lấy chồng), có lúc nhân vật phải trả lời chính những câu hỏi mà họ đặt ra “Rồi dì tự hỏi, nếu mình là anh ấy mình có giận không? Giận. Bởi hết thảy đều làm cho người đàn bà đó nhớ một mái ấm đã bị tước đoạt của mình” (Chiều vắng). Thông qua độc thoại nội tâm, Nguyễn Ngọc Tư đã đi sâu khám phá mọi ngõ ngách trong thế giới nội tâm của các nhân vật để thực sự thấu hiểu và cảm thông.

71

Trong dạng truyện kể ngôi thứ nhất, ngôn ngữ là độc thoại nội tâm đóng vai trò quan trọng trong cách thức diễn đạt giúp độc giả khám phá mạch ngầm của văn bản. Độc thoại nội tâm góp phần cơi nới khuôn khổ truyện ngắn, đi sâu vào bản thể người với những hồi cố tự bạch, dòng ý thức, giúp con người bộc lộ chính mình ở khía cạnh con người vô thức, con người tâm linh. Sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm là cách nhà văn nữ thể hiện sự cảm nhận tinh tế, sâu sắc của mình về những nỗi đau, bất hạnh trong tình yêu, cuộc sống. Nếu như kể chuyện ngôi thứ nhất, người kể chuyện hiện diện trong tác phẩm với tư cách là một nhân vật thì dạng kể chuyện

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

ngôi thứ ba, người kể chuyện vắng mặt trong câu chuyện. Người kể chuyện – tác giả ở vị trí ngoài để chứng kiến và biết mọi thứ về thế giới và nhân vật của câu chuyện. Cô gái trong Giai nhân của Nguyễn Thị Thu Huệ được miêu tả theo quá trình của diễn biến tâm trạng. Nhân vật nữ trong tác phẩm tự đối diện với chính mình và cảm nhận được những nghịch lý đang diễn ra, tự lý giải những mâu thuẫn đang giằng xé trong tâm hồn mình. Mặc dù là sự kể lại của người khác về các nhân vật này song người đọc vẫn thấy được dòng ý thức và sự độc thoại của chính các nhân vật với bản thân họ.

2.2.3.Nghệ thuật miêu tả tâm lý L.Tônxtôi bàn về việc miêu tả nhân vật như sau: “Hãy sống cuộc sống của các nhân vật được mô tả và tự các nhân vật sẽ làm những gì mà họ cần phải làm do tính cách của họ”[tr134.24]. Mỗi kiểu nhân vật đòi hỏi những cách thức riêng trong nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật. M. Bakhtin cho rằng: “Mỗi kiểu nhân vật có tính quy luật của mình, có lôgic của mình nằm trong khuôn khổ ý chí tác giả nhưng tác giả không thể vi phạm một cách tùy tiện. Một khi đã lựa chọn nhân vật và lựa chọn trung tâm miêu tả nhân vật, tác giả bị ràng buộc bởi lôgíc nội tại của cái được lựa chọn, cái lôgic mà tác giả phải khám phá trong quá trình miêu tả. Lôgíc của tự ý thức chấp nhận những phương thức nghệ thuật nhất định để khám phá và miêu tả nó. Miêu tả tâm lý là thủ pháp nghệ thuật quan trọng, không thể thiếu trong quá trình xây dựng tính cách nhân vật. Tìm hiểu về con người phải chú trọng đúng mức cả hai mặt tự nhiên và xã hội, ở phương diện hành động và góc độ tâm lý, tư tưởng. Theo nghĩa rộng nhất, tâm lý gần như đồng nghĩa với thế giới tâm thần của con người, cái làm cho con người khác con vật, cái giúp con người tạo dựng nên nền văn hóa, văn minh…tâm lý con người vẫn còn là điều bí ẩn chưa dò hết được.

72

Truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá thế giới bí ẩn của tâm hồn của con người đặc biệt về mặt tâm lý. Nhà văn bên cạnh việc miêu tả hành động còn đi sâu tái hiện những trạng thái và quá trình tâm lý vốn rất đa dạng, phức tạp trong thế giới nội tâm nhân vật. Tâm lý nhân vật không chỉ là phương tiện để nhà văn trình bày, khái quát một vấn đề, một nội dung xã hội nào đo mà thực sự trở thành đối tượng, mục đích của sáng tác văn học. Do vậy, một yêu cầu thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật là “phải chú ý nhiều đến tâm lý nhân vật, cố len lỏi vào thế giới bên trong của nhân vật ấy, xem nó nói năng, nghĩ ngợi, hành động, cử chỉ thế nào cho đúng (Bùi Hiển).Nhân vật trung tâm trong truyện ngắn trước 1975 là con người cộng đồng mang lí tưởng cách mạng. Phương diện cơ bản tạo nên hình tượng con người thời đại là hành động anh hùng; nhân vật chịu sự chi phối của lôgíc bên ngoài, những tình huống thử thách mang tính xã hội chứ không phải theo lôgíc nội

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

tại, theo quy luật tâm lý cá nhân. Do vậy, nhân vật trước 1975 là những con người có cùng kiểu tâm lý, nhân vật là những cá nhân khác nhau của cùng một “tinh thần thời đại”. Có thể thấy ở nhân vật này, nhân vật kia những biểu hiện riêng về tâm lý, tính cách, song về cơ bản, nhân vật được xây dựng bằng những hành động, tâm lý có tính cộng đồng. Vì thế, có thể khái quát được công thức tâm lý từ nhiều nhân vật thời kỳ này, đó là tâm lý tự hào, tâmlý say mê lý tưởng, tâm lý lạc quan hướng tới tương lai…Do chú trọng mặt hành động bên ngoài nên đời sống tâm lý bên trong chỉ được gọi tên chứ không được miêu tả hoặc chỉ được ghi nhận trên một số nét chính chứ không được tái hiện, khám phá ở những quá trình và diễn biến tâm lý.

Thời kỳ văn học sau đổi mới xuất hiện kiểu truyện ngắn dòng tâm trạng. Truyện ngắn dòng tâm trạng là kiểu truyện ngắn khá phổ biến trong văn học giai đoạn đổi mới. Các nhà văn nữ đã sử dụng đắc lực hình thức này trong đó việc phân tích tâm lý nhân vật trở thành phương tiện chủ yếu để xây dựng cốt truyện và cuộc sống, được biểu đạt qua thế giới tâm hồn, tâm trạng của nhân vật. Một loạt các truyện ngắn được viết theo hình thức này như: Cầu thang, biển ấm, Một nửa cuộc đời, Mùa đông ấm áp…của Nguyễn Thị Thu Huệ, Dòng nhớ, Cánh đồng bất tận, Nước chảy mây trôi, Ngày mai của những ngày mai…của Nguyễn Ngọc Tư, Ngải đắng ở trên núi, Gió cuốn vào bắp chân, …của Đỗ Bích thúy. Trong truyện ngắn dòng tâm trạng, các tác giả chú tâm vào cái bên trong, vào “cái mà nhân vật thu nhận được ở bên trong tâm hồn họ, bàng những câu đối thoại, những phản ứng hết sức tinh tế [tr231,34] Các nhà văn nữ đã thành công những quá trình tâmlý với những chấn động tinh thần, số phận cá nhân với nỗi khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đặc biệt là phái nữ. Đó là những diễn biến, trạng thái tâm lý vốn rất mong manh, tinh tế, nhạy cảm trong tâm hồn người phụ nữ. Sao trong Giai nhân của Nguyễn Thị Thu Huệ với bản tính hiếu thắng, tự phụ trong tình yêu giờ đây đang bị nỗi cô đơn bủa vây. Những đau đớn dằn vặt, xót xa chỉ còn lại những hối tiếc muộn màng, nhưng người đàn bà vẫn cảm nhận được những cái mình có trong tay đó là “ít ra, với người kia mình còn hơn cô ta một cái, đó là cuộc sống. Cuộc sống đó là vô giá”. Các nhà văn nữ đồng cảm với những trăn trở ước mơ khát vọng của nhân vật, đó cũng là biểu hiện thái độ trân trọng và niềm tin sâu sắc vào những giá trị tốt đẹp của con người. Bằng sự phong phú trong việc sử dụng những hình thức và thủ pháp nghệ thuật, các nhà văn nữ đã thành công trong viêc khắc họa tâm lý nhân vật. Viết về người phụ nữ với đời sống nội tâm phức tạp, giàu cảm xúc, đặc biệt là việc đi sâu vào phân tích tâm lý nhân vật đã làm cho văn chương của các nhà văn nữ thời kỳ đổi mới có những đóng góp riêng nhất định trong nền văn học dân tộc.

73

Miêu tả tâm lý với những diễn biến quanh co phức tạp trong tâm hồn con người dường như đã trở thành thế mạnh trong văn chương của Nguyễn Ngọc Tư.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

74

Truyện của Nguyễn Ngọc Tư không nhiều sự kiện dòng chảy mà chủ yếu là dòng chảy tâm trạng. Nội tâm nhân vật đã trở thành đối tượng chính để khám phá đời sống, truyện ngắn xây dựng nhân vật mang trong mình tất cả những biểu hiện trái ngược, những đột biến tinh thần, những khát vọng nhân bản, những bí mật riêng tư…đó là những con người “không bao giờ trùng khít với bản thân mình” (M.Bakhtin). Xây dựng nhân vật không như một công thức đồng nhất, có những điểm vượt ra khỏi cái hiện hữu bên ngoài, Nguyễn Ngọc Tư đã đem đến cho người đọc những nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn về cuộc sống và con người. Truyện ngắn Trò chơi quên nhớ miêu tả những diễn biến tâm lý hết sức nhạy cảm và phức tạp trong tâm hồn của một cô gái. Giả vờ quên hết moị việc khi ngày cưới sắp đến gần, dường như Lam được sống thật với con người của mình. Cuối cùng, cô nhận ra, thì ra cô đã diễn kịch suốt bao nhiêu năm nay, và con người của Lam hôm nay mới là con người thực. Chỉ khi đóng vai một người quên sạch quá khứ, Lam mới kinh ngạc nhận ra, tình yêu của mình chỉ là sự giả tạo. Thái (người yêu Lam) muốn cô tìm lại được trí nhớ đã nhắc Lam về những kỉ niệm “khi hai đứa quen nhau trong bữa tiệc sinh nhật nhỏ bạn”, kỉ niệm về “quán cà phê Thiên Đường, khi hai đứa còn hò hẹn” hay “lần Thái dắt Lam về ra mắt cha mẹ, Lam đã làm đổ chén nước chè lên áo”, hoặc gần đây nhất “Noel, hai đứa bị kẹt xe gần hết đêm…”. Và đến bây giờ, Lam mới thấy: “Lòng Lam quặn lại, khi nhận ra những thứ mà Thái gọi là kỷ niệm, chúng ráo hoảnh, tươm tất kỳ cục. Những chi tiết đơn điệu đã làm nên một mối tình đơn điệu, giá mà có thể chỉnh sửa để kỷ niệm sâu sắc hơn, thí dụ như cùng nhau đi tung tăng dưới trời mưa, trên con đường chiều vắng ngắt, ướt ngoi ngóp, tối đó còn kèm thêm một trận sốt nhớ đời. Hay còng lưng chạy xe đạp chở nhau ra ngoại ô, chỉ để đứng trên cầu ngắm mặt trăng biếc ngần mắc vào lưới vó dưới dòng kinh...”. Ngay cả với mẹ ruột của mình, Lam cũng thấy tình cảm trở nên xa lạ biết bao: “Thảm họa là mẹ Lam cũng chẳng có kỷ niệm nào hằn sâu thành vết để cùng Lam ôn lại, khơi gợi. Những chuyện Lam nhớ ghê gớm thì mẹ Lam không nhắc. Có thể nhắc làm mẹ đau. Có thể mẹ Lam không biết, hay đã quên mất rồi. Ví như bữa mẹ ném Lam lại cho ngoại, rồi đi, mẹ xuống đò không ngoái lại làm sao biết con - Lam - năm - tuổi đứng trên bến giãy khóc đến tím người. Hôm Lam nhận giấy báo vào Đại học, mẹ bận đi công vụ ở Nhật làm sao biết Lam cuồng lên vì vui. Lam nghe đau như tim có một vết dằm”. Cuối cùng, không ngờ tới, người khơi lại cho Lam nhiều kỉ niệm nhất, khiến cô có tình cảm gắn bó thân thiết sâu nặng nhất lại là một người đàn ông không quen biết, tự nhận là cha của lam. Trái ngược lại những kỉ niệm quen thuộc đến thành lạt lẽo, Lam chợt nhận ra cả một miền kí ức của mình bị vùi lấp nay hiện về rạng rỡ và nguyên vẹn. Lam thổn thức theo từng lời kể của người đàn ông tự xưng là ba: “Lam bất giác đưa tay lên sờ chỗ bị trầy hôm trước.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Bỗng thấy thắt ruột, một tuổi thơ Lam chưa hề biết mở ra từng trang, từng trang, từng trang. Hôm ấy nắng nhiều, ba bắt Lam tập lội. Lúc hai ba con nhảy từ cầu ao xuống, đụng phải cọc ngầm, trán Lam loang máu. Sợ với vết sẹo làm con lớn lên xấu xí, ba đi đào củ nghệ, giã ra, rồi đắp lên. Lần khác, ba dẫn Lam đi công viên xem voi”. Và lần đầu tiên, Lam thấy một cảm giác khác lạ với những gì mà mẹ và Thái mang lại: “Như thể mình đã trải qua rồi, cảm giác ấy làm mũi Lam nóng ấm hệt máu cam đang rịn xuống. Như thể Lam chưa từng cun cút đi qua thời thơ ấu, chơi trong nhà củi, nhà xuồng của ngoại, bạn bè chỉ những con ong bầu bay tới bay lui”. Câu chuyện đã cho ta nhiều bài học sâu sắc, rằng tình yêu thương, chỉ có tình yêu thương thực sự mới có sức mạnh lay động và làm thức tỉnh trái tim con người. Nhờ có tình yêu thương ấy, con người sẽ trở nên gần nhau hơn. Nguyễn Ngọc Tư đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật bằng ngòi bút phân tích tâm lý nhẹ nhàng mà hiệu quả. Chị không mổ xẻ xung đột nội tâm nhân vật một cách căng thẳng và gay gắt như nhiều nhà văn vẫn làm. Ngòi bút của chị âm thầm đi vào cõi lòng của nhân vật và soi cho chúng ta thấy những nỗi dày vò, nỗi đau được kìm nén đến tận độ không thể giãi bày mà từ đó ta có thể cảm nhận nỗi cô đơn trong lòng họ. Khám phá tâm lí nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư không phải của một chủ thể khách quan đứng ở phía ngoài mà là của người trong cuộc, cảm nhiều hơn tả. Do vậy, mọi cung bậc tâm trạng gợi lên không dữ dội nhưng có sức ám ảnh lâu dài trong lòng người đọc.

75

Trong trang viết của Đỗ Bích Thúy, tâm trạng của nhân vật được chị thể hiện khá tài tình thông qua các sự kiện, biến cố và hành động. Để diễn tả tâm trạng đau đớn của một người vợ khi chồng mình đưa người đàn bà khác về nhà, Đỗ Bích Thúy đã thể hiện thông qua một hệ thống các hành động: “ Mao lặng lẽ chuyển đồ đạc của mình sang căn buồng của mẹ chồng trước kia. Căn buồng thường xuyên được Mao quét dọn, nhưng thiếu người ở nên cứ như cái nhà hoang. Lúc Mao mang cái hòm riêng từ ngày về nhà chồng ra thì Chúng đứng ở cửa buồng, đưa tay ra như muốn giữ Mao lại. Mao nhìn thẳng vào mắt Chúng, nhìn thẳng. Chúng không chịu được ánh mắt Mao phải quay mặt để Mao bước ra” (Gió không ngừng thổi). Nhưng tâm trạng con người còn được thể hiện thông qua các bước diễn biến tâm lý. Đỗ Bích Thúy đã khắc họa thành công tâm lý, trạng thái con người ở những lứa tuổi khác nhau. Trong truyện ngắn Ngải đắng ở trên núi, nhà văn tỏ ra am hiểu tâm trạng của người già khi tiếp xúc với lối sống mới, tư tưởng mới còn nhiều bỡ ngỡ, bất cập. Nhà văn cũng thể hiện rất hay tâm trạng của một người con xa quê sau bao nhiêu năm mới trở lại, cảnh đấy, người đây nhưng sao cứ đụng vào thứ gì cũng muốn trào nước mắt: “Giờ thì tôi khóc nức lên. Lâu rồi không được khóc như thế. Tôi biết nói gì với mẹ khi tôi đã ra đi vì khát vọng của mình, đã giãy giụa ra khỏi những mịt mùng heo hút, đã sợ bị “định giá” như mẹ, như em dâu…thì còn có thể

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

76

thanh minh, giãi bày gì cho vừa lòng mẹ”. Lời nhân vật như chính lời tự trái tim tác giả đang tuôn trào. Có thể nói, miêu tả tâm lý là một trong những thủ pháp đắc địa của nghệ thuật văn chương đương đại để góp phần “đưa nhân vật gần lại hơn với độc giả”.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

CHƯƠNG 3: NHỮNG CÁCH TÂN TRÊN PHƯƠNG DIỆN GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ

3.1. Giọng điệu: Giọng điệu được hiểu là “thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm…[tr134,14]. Là một trong những yếu tố thuộc phạm vi hình thức của tác phẩm, giọng điệu là một phương diện quan trọng của nghệ thuật trần thuật bởi nó “không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu hiệnquan trọng của tác phẩm văn học, mà còn là yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vài một chỉnh thể” [Tr355,27]. Đây là yếu tố có vai trò nối kết những biểu hiện đa dạng của một lời văn thành một mạch. Các yếu tố tư tưởng hay hình tượng trong tác phẩm chỉ được cảm nhận đầy đủ trong phạm vi một giọng điệu nào đó. Người đọc có thể nhận ra giọng điệu thông qua sắc thái biểu cảm của ngôn từ và tinh thần chung của toàn bộ lời văn. Giọng điệu là yếu tố thể hiện rõ ràng nhất cái nhìn nghệ thuật của nhà văn đối với hiện thực, do vậy những chuyển đổi trong giọng điệu là dấu hiệu cách tân nghệ thuật quan trọng của mỗi nhà văn qua từng chặng đường sáng tác.

Tùy theo từng nội dung cụ thể cũng như ý đồ nghệ thuật, mỗi tác giả sẽ lựa chọn cho mình một giọng điệu phù hợp nhất. Đôi khi, tác phẩm bao gồm một giọng điệu chủ đạo nhưng cũng có tác phẩm lại đa giọng điệu. Mỗi nhà văn trong quá trình tìm tòi sáng tạo của mình luôn tìm những hình thức nghệ thuật biểu hiện sao cho thể hiện rõ nét nhất cá tính của mình. Giọng điệu là một trong những yếu tố góp phần tạo nên điều đó: “Người ta vẫn hay nói đến sự thay đổi trong giọng điệu như là dấu hiệu rõ nhất và trước tiên trong sự tìm tòi, đổi mới hình thức nghệ thuật [33]. Giọng điệu trong văn chương được coi là “một phạm trù thẩm mỹ…có vai trò

rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn”.

77

Văn học kháng chiến với tư duy sử thi và cảm hứng lãng mạn đã chi phối rõ nét giọng điệu của tác phẩm. Thời kì này, ta thấy giọng điệu trang trọng, ngợi ca trở thành chủ đạo trong các sáng tác văn học. Cuộc đấu tranh hào hùng mà anh dũng đã tiếp thêm sức mạnh cảm hứng ngợi ca bất tận cho các tác giả. Sau chiến tranh, để phản ánh phạm vi hiện thực đời sống bộn bề, phức tạp, đa chiều, các tác giả đã có nhiều tìm tòi trong việc sử dụng giọng điệu. Giọng điệu sau 1975 trong văn xuôi chủ yếu là diễn đạt con người đời tư, quan tâm đến cá nhân, cá thể, cá tính. Truyện ngắn đương đại xuất hiện khá nhiều cây bút nữ: Võ Thị Hảo có chất giọng trữ tình buồn, Phan Thị Vàng Anh có lối kể chuyện chơi chơi của trẻ con nhưng truyện của

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

chị chứa đựng nhiều thông tin và triết lý sâu sắc, Y Ban tạo nên giọng nữ trầm trong văn chương. Hòa vào dòng chảu chung của văn học thời kỳ này, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy cũng đã tìm cho mình một giọng điệu riêng không thể trộn lẫn. Các cây bút nữ đã làm phong phú, đa dạng đời sống văn học bằng chất giọng đầy nữ tính, thể hiện một sinh khí mới rất cần thiết để khắc họa bề sâu cuộc sống của con người hôm nay: “cảm xúc sáng tạo truyện ngắn có chung tần số với cảm xúc nữ tính: sự lóe sáng, sự bất thường, tính thời khắc, sự dẫn dắt tuyệt diệu của mẫn cảm bản năng[67].. Trên các trang viết của họ, nỗi buồn, nỗi đau nhân thế luôn được nhìn ở khía cạnh tinh tế rất phụ nữ., có lúc bùng nổ gắt gao, có lúc lại đằm sâu dịu dàng.

3.1.1.Giọng hài hước, châm biếm, mỉa mai: Nhìn chung, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 tương đối nhất quán về giọng điệu và nó chính là sự đơn điệu. Giọng điệu khẳng định, ngợi ca, lạc quan bao trùm lên tất cả, che lấp mất đâu đó có vài ba giọng hoài nghi, buồn thương, đau xót. Nhưng sau 1986, văn học trở nên đa điệu hơn, các nhà văn được tự do viết bằng chất giọng của mình.

Đối lập với chất giọng ngợi ca, khằng định của giai đoạn trước là chất giọng mỉa mai, giễu nhại của truyện ngắn 1986 – 2006. Các nhà văn sử dụng tiếng cười vào những phạm vi hiện thực lố lăng, đáng phê phán. Cảm hứng trào lộng gắn liền với sự phát hiện ra cái xấu và nhu cầu thể hiện cái xấu. Do đó, chất giọng hài hước, mỉa mai trở thành phương tiện để thể hiện tính tích cực xã hội của văn học. Đó là khả năng phơi bày các mặt trái, các trạng thái phản tiến bộ, những chân dung lố bịch.

Những biến động của đời sống xã hội trong thời hiện tại đã chi phối sâu sắc đến cảm hứng và tư duy nghệ thuật của nhà văn. Với quan niệm về một hiện thực ngổn ngang, bề bộn, về cái đương đại chưa hoàn thành, trần thuật trong truyện ngắn của các tác giả nữ có sự đan xen, pha trộn nhiều giọng điệu. Tiếp cận hiện thực với tâm thế của người nói thẳng và nhìn thẳng vào hiện thực, các tác giả nữ đã tạo nên giọng điệu hài hước, mỉa mai, châm biếm sâu sắc trong tác phẩm của mình. Phải thấy rằng, giọng điệu mỉa mai lúc nhẹ nhàng, lúc gay gắt, quyết liệt đã biểu hiện thái độ đầy lo lắng, trăn trở của nhà văn trước những cái lố lăng, kệch cỡm, sự tha hóa và sự biến dạng của nhân tính con người đã, đang hàng ngày hàng giờ diễn ra trong cuộc sống.

78

Nguyễn Thị Thu Huệ rất hay để cho nhân vật của mình có lối điễn đạt hài hước, hóm hỉnh. Trước mỗi vấn đề của cuộc sống, dù là chuyện vui hay chuyện buồn, nhân vật của chị cũng vẫn có một lối nói riêng rất hóm hỉnh. Trong “Minu xinh đẹp”, để miêu tả hình ảnh một gia đình nghèo nuôi chó Nhật ở thời buổi kinh tế

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

thị trường, Thu Huệ đã tập trung vào những hình ảnh khiến người đọc không khỏi bật cười vì sự đối lập lố bịch: “Từ ngày có “hai cây” về ở, nêp sống gia đình tôi thay đổi hẳn. Cửa lúc nào cũng đóng im ỉm sợ “hai cây” chạy mất”. Con chó giờ đây là cả gia tài, vì thế bao nhiêu sức lực, tâm huyết, gia đình đều dồn vào đó: “Tôi hồi hộp nhìn Minu lặc lè nặng nhọc đi lại trong nhà còn hơn vợ tôi ngày xưa mang bầu thằng cả”. Đây là một sự kiện rất lớn bởi nó quyết định đến số phận gia đình nhân vật Tôi. Chú chó được cưng chiều nhiều nhất, được ăn no, ngủ ấm bởi nó không phải là con vật bình thường. Nó là hai cây vàng bốn số chín – số tiền mà nhân vật tôi có nằm mơ cũng không nghĩ được một phần đôi như thế. Giọng hài hước châm biếm giúp cho câu chuyện thật sinh động và hấp dẫn. Nó khiến cho người đọc phải bật cười trước những tình huống bi hài, những cảnh dở khóc dở cười xung quanh chuyện nuôi chó. Và từ đó, bức tranh hiện thực xã hội hiện lên thật rõ nét. Tuần lấy giống cho Minu được mô tả dưới giọng văn đầy hài hước pha lẫn châm biếm: “Cả gia đình tôi coi trọng sự kiện đó còn hơn sự kiện vùng vịnh hay tổng thống của một nước nào đó mất chức. Và hài hước thay, chỉ vì một tuần lấy giống của con chó đã biến gia đình trở nên nghiêm trang, biến một thiếu tá quân đội về hưu sống nguyên tắc và kỷ luật thì giờ đây bỗng trở nên phờ phạc và vay nợ đầm đìa. Vợ chồng con cái mâu thuẫn với nhau cũng chỉ xoay quanh chuyện con chó. Gia đình rạn nứt cũng chỉ vì con chó. Đọc truyện ngắn, người đọc có những giây phút thật thoải mái bởi cách miêu tả tinh tế và giọng điệu rất linh hoạt của Nguyễn Thị Thu Huệ. Nhưng đằng sau những câu nói rất hóm hỉnh, những chi tiết rất nực cười ấy, người đọc lại tự chiêm nghiệm cho mình những bài học sâu sắc. Thông qua hình ảnh con chó Minu, Nguyễn Thị Thu Huệ muốn phản ánh cái lố lăng, kệch cỡm làm đảo lộn các giá trị trong xã hội. Một con chó được quan tâm, coi trọng có khi còn hơn cả con người. Giọng điệu mỉa mai, giễu cợt trở thành vũ khí đắc lực khi tác giả miêu tả và phê phán những thói rởm, sự kệch cỡm trong xã hội.

Nguyễn Thị Thu Huệ rất có tài năng trong việc mô tả những tình huống gây cười. Dường như, chị rất có năng khiếu khiến cho người đọc bật cười với những chuyện tưởng chừng như không đâu trong tác phẩm của mình: “ Hai cái mùi: Thịt nướng và trầm hương đang quật nhau túi bụi để giành phần thắng. Cuối cùng, mùi thịt nướng đã thắng vì nó được sự hỗ trợ của người đàn bà sáu mươi tám cân thịt đang ra sức dùng hai cánh tay quạt túi bụi, cộng với mỡ thịt gặp phải lửa thì bén lắm” (Giai nhân).

79

Đỗ Bích Thúy lại khai thác chât u - mua trong những tình huống dở khóc dở cười của nhân vật: “Trời đất ơi, gầu Mông ơi là gầu Mông, sao lại chui vào váy một đúa gái góa thế hở?”, hay “Mẹ nó như một tấm váy ướt nằm trong buồng”. Có lúc, chị đã dùng chất giọng hài hước để miêu tả về cuộc sống thời mở cửa: “ Hát vậy có

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

tốn tiền không anh? Hát thì không tốn mấy, khoảng mấy chục ngàn một tiếng thôi”… “Trời ạ, những mấy chục ngàn?” “Em thật là…mấy chục ngàn có là gì, tốn cho thứ khác cả trăm, cả triệu bạc ấy chứ”. “Làm gì mà cả triệu?”. “Thì đó, mấy cô mặc áo hở rốn đi ra đi vào”. “Ra thế”

Với thái độ dân chủ trong văn học, giọng điệu mỉa mai đã góp phần lên án cái xấu, cái sai lầm, ấu trĩ trong xã hội. Ở phương diện này, nhiều truyện ngắn tuy hạn chế về dung lượng nhưng có sức phản ánh không kém gì tiểu thuyết.

3.1.2.Giọng trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm Bên cạnh một chất giọng hài hước, mỉa mai, có lúc, giọng văn của Nguyễn Thị Thu Huệ lại rất trữ tình, đằm thắm: “Tôi bỗng thấy mình bé tí tẹo, lơ lửng giữa một khoảng không thăm thẳm cao và mịt mùng sóng” (Biển ấm) hay “Đêm nay. Trăng mười sáu. Tròn trĩnh và trinh nguyên, vàng rực chiếu ánh sáng xuống mặt nước như thể lần đầu tiên hiển hiện trên trời” (Cát đợi). ta thường thấy giọng điệu này trong những đoạn văn tả phong cảnh: “ Nắng tràn lan thừa thãi xối xuống các hàng cây. Mặt hồ sóng sánh nước màu ráng nắng” (Tình yêu ơi, ở đâu?).

80

Tuy nhiên, ta thấy nổi bật trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ là giọng điệu triết lý. Chị thường triết lý về con người, tình yêu, cuộc đời. Đó là những triết lý giản dị mà sâu sắc. Dễ nhận thấy trong văn chương, Thu Huệ hay triết lý về tình yêu. Đề tài tình yêu trở đi trở lại trong sáng tác của chị, và thường là nỗi trăn trở của rất nhiều nhân vật nữ. Không đứng trên góc độ sai đúng, có rất nhiều quan niệm về tình yêu đã được Thu Huệ đưa ra: “Đàn bà khi yêu không bao giờ có tuổi” (Minu xinh đẹp) hay “Lấy người yêu mình chứ đừng lấy người mình yêu” (Thiếu phụ chưa chồng). Có những lúc, quan niệm về tình yêu được đưa ra rất đơn giản, hài hước nhưng khá thấm thía: “Trong tình yêu có những lúc phải giành lấy cái để gọi như chơi bạc ấy, được thì phất, hỏng thì thôi nhưng cứ phải cướp cái” (Cát đợi). Còn đây là lời khuyên của người mẹ với cô con gái của mình trong Tình yêu ơi, ở đâu: “Ta phải chọn cái ít xấu nhất trong mọi cái xấu là được , con ạ. Người ta ai cũng chịu đựng nhau cả, có điều không phải lúc nào cũng nói ra”. Nguyễn Thị Thu Huệ thường suy tôn giá trị tinh thần. Và tình yêu của chị cũng mang sắc thái đó: “Người đàn ông đã có vợ thường tìm thấy trong tình yêu mới là tinh thần chứ không phải sự cuồng si của thể xác” (Biển ấm) hay: “Chỉ cố yêu ai đó bằng tinh thần thôi chứ đừng vì thể xác, chóng chán lắm em bé ạ” (Cầu thang). Có những bài học được nhân vật rút ra qua những trải nghiệm của bản thân: “Thiên đường, hình như ai trong đời cũng từng đặt chân tới đó. Chỉ khác nhau là thiên đường của họ là cái gì và đem lại cho họ hạnh phúc ra sao” (Hậu thiên đường). Có nhiều khi, Thu Huệ đưa vào trang văn của mình những trải nghiệm khá thú vị: “Đàn bà yêu bằng mùi, đàn ông yêu bằng mắt” (Mùa thu vàng rực rỡ). Tác giả hay để cho nhân vật của mình nói lên những

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

suy tư, trăn trở trong tác phẩm: “Hỡi con người. Ai đó. Giống tôi. Đã từng có một mảnh tình chạy qua trong đời, hãy để nó vào chỗ của nó. Đừng lôi nó ra mà soi, mà ngắm làm gì” (Người xưa). Những đúc kết, suy tư trong tác phẩm của Thu Huệ khiến cho chị tạo được một phong cách, một giọng điệu riêng không thể trộn lẫn, khẳng định dấu ấn phong cách riêng của nhà văn.

Nguyễn Thị Thu Huệ còn có rất nhiều tác phẩm xuất hiện những câu triết lý về cuộc đời, về kiếp nhân sinh. Những nhân vật cao tuổi thường được nhà văn khắc họa với những lời dặn dò dành cho hậu thế khá sâu sắc: “Có vay, có trả, đừng ác độc, trời thương, cháu ạ” (Người đi tìm những giấc mơ). Đó là quy luật nhân quả rất phổ biến trong đạo Phật, được diễn đạt trong cuộc sống hàng ngày rất gần gũi, dễ hiểu mà thực sự thấm thía. Xã hội hiện đại phát triển, kéo theo đó là biết bao đổi thay. Con người chạy theo sự bon chen của xã hội, vì đồng tiền mà đánh mất đi giá trị bản thân và nhiều khi phải sống trong sự cô đơn, đến khi giật mình tỉnh lại thì đã quá muộn màng, bởi vì hình như đã đánh mất một cái gì đó vô giá: “Cậu thò hai tay để mọi người thấy cậu đi vào cõi chết bằng hai bàn tay trắng. Cậu không mang theo người lấy một xu bởi lúc ấy tất cả thành vô nghĩa”. (Nước mắt đàn ông). Hãy yêu và trân trọng cuộc sống bởi: “Cuộc sống là vô giá” (Giai nhân). Sống luôn phải có lòng vị tha và nhân hậu: “Tội ác không được trả thù bằng tội ác” (Ám ảnh). Nhân vật trong tác phẩm của Thu Huệ luôn thích triết lý về cuộc đời: “Nhiều khi cuộc sống trôi đi nhờ cảm xúc và cảm giác” (Rượu cúc). Thời gian trôi đi, thời gian không trở lại. Sống phải suy nghĩ chín chắn và trách nhiệm bởi “ Có những sai lầm phải xin lỗi bằng sự chết” (Một trăm linh tám cây bằng lăng).

Khác với nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, trong văn chương của Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy xuất hiện những câu triết lý không quá cao siêu, mà là những kinh nghiệm được đúc rút từ chính cuộc sống của nhân vật. Có khi, nó là những cái rất đỗi bình thường, thân thuộc mà trong một phút vô tình, ta lại lãng quên. Nhân vật người kể chuyện trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư không đơn thuần là người trần thuật ở ngôi thứ ba. Nhiều khi, người kể chuyện tham gia cùng với lời của nhân vật. Vì thế, đan xen trong mạch trần thuật của chị nhiều khi có những câu triết lý, kiểu như: “Sự bao dung đôi khi gây đau như mũi dao” (Sầu trên đỉnh Puvan), “Tuổi không phải là biểu tượng của đời đâu” (Ngày mai của những ngày mai), “Biển người thì mênh mông vậy”…(Biển người mênh mông).

81

Với Đỗ Bích Thúy, nhân vật của chị luôn có những lời chiêm nghiệm tận đáy lòng khi đã đi hết cuộc đời, đã thấu hết mọi lẽ sống, để từ đó, rút ra những bài học sâu sắc cho mình: “Làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cục đá kê chân cột nhà chồng thôi” (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá), “ Cây cao khắc có người khỏe trèo” (Ngải đẳng ở trên núi). Nó gợi cho con người những suy nghĩ, trăn trở về lẽ sống của

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

con người trên cõi đời này bởi nhưng triết lý của các chị tràn đầy tính nhân sinh và có tư tưởng giáo dục đạo đức rất sâu sắc. Nó là những bài học vô cùng quý giá đối với mỗi chúng ta.

3.2.Ngôn ngữ: Văn học là nghệ thuật của ngôn từ bởi ngôn ngữ chính là chất liệu, phương tiện biểu hiện đặc trưng của văn học. Không có ngôn ngữ thì tác phẩm văn học cũng không tồn tại. Độc giả tiếp xúc với con chữ trước tiên, sau đó mới đến nhân vật, sự kiện, tình huống….và cũng qua ngôn ngữ, nội dung tư tưởng được nhà văn truyền tải sâu sắc đến người đọc. Một nhà văn đích thực phải có ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử của anh ta [tr35,31], là phương tiện bắt buộc để anh ta giao tiếp với bạn đọc. Đối với văn chương, ngôn ngữ không chỉ là “cái vỏ của tư duy” mà còn là tài năng, cá tính và quan điểm của nhà văn, do đó giọng điệu của tác phẩm trước hết là giọng điệu ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong mỗi thể loại mang nhiều yếu tố biểu cảm khác nhau.

Mỗi loại hình nghệ thuật đều mang một đặc trưng riêng: hình ảnh là yếu tố cần thiết của hội họa, điện ảnh, ca từ và giai điệu là cái quyết định trong âm nhạc còn ngôn ngữ đóng vai trò trung tâm của tác phẩm văn học. Vì thế, M.Gorki cho rằng: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học [tr14833].

Ở giai đoạn trước ngôn ngữ truyện ngắn là ngôn ngữ đơn thanh một giọng. Cái nhìn đậm tính sử thi ở giai đoạn trước đã tìm đến một ngôn ngữ giàu chất thơ. Sau 1975, ngôn ngữ truyện là ngôn ngữ đối thoại nhiều giọng có sự tác động, hòa trộn giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật.

Ngôn ngữ truyện ngắn hôm nay là ngôn ngữ đời thường, nó bớt đi sự óng mượt, chau chuốt mà trần trụi, thậm chí thô nhám, xô bồ, suồng sã. Chưa bao giờ, ngôn ngữ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt, thế sự đến như thế. Con người trong văn chương sống thực như con người ngoài đời sống, không còn hình ảnh nhân vật “sạch sẽ đến vô trùng” như trước đây nữa. “Ngôn ngữ trở thành đối tượng miêu tả góp phần vào sự chân thật đó. Không còn lối văn đạo mạo của người rao giảng đạo đức, ngôn ngữ hiện nay quan tâm đến sự chính xác, đến nhu cầu gọi đúng tên nhân vật [tr356,30]. Có thể nói, ngôn ngữ thực sự là cuộc trình diễn của người nghệ sỹ.

3.2.1.Những đặc trưng nghệ thuật trong ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư: 3.2.1.1.Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ:

82

So với các nhà văn thuộc thế hệ đàn anh như Lý Văn Sâm, Đoàn Giỏi, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam thì Nguyễn Ngọc Tư là người mạnh dạn đưa lời ăn tiếng nói

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

của người dân Nam Bộ vào văn chương nhiều nhất. Trong văn chương của các tác giả đàn anh đi trước, ta thấy vẫn xuất hiện một số lượng lớn những đoạn văn có cách diễn đạt, lối nói theo kiểu “phổ thông”, tức là gần giống với văn chương miền bắc. Thế nhưng, khi đọc văn Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy ngạc nhiên bởi một hệ thống các phương ngữ vùng miền được cô đưa vào trang văn hồn nhiên như hơi thở, như cơm ăn, nước uống hàng ngày vậy. Có thể nói, Nguyễn Ngọc Tư đã làm người đọc choáng váng (một cách thích thú) với nồng độ phương ngữ miền nam dày đặc trong truyện. Từ vựng của Nguyễn Ngọc Tư không quý phái, nhưng đổi lại, nó là một hệ thống từ vựng dân dã, lấy thẳng từ cuộc sống xung quanh. Sự phong phú trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư là tích tụ của một thính giác tinh nhạy và trọn vẹn: “ Nhiều người nghĩ rằng,nói chung văn chương miền nam (dù gì cũng là vùng đất mới) không thể so được với sự chỉn chu truyền thống của văn chương miền trung, miền bắc. Nguyễn Ngọc Tư sẽ làm những người đó phải nghĩ lại. Đọc truyện của Nguyễn Ngọc Tư, họ sẽ khám phá rằng nếu dùng đúng chỗ, trong tay một tác giả cẩn trọng, phương ngữ mộc mạc miền nam, giọng điệu dân dã miền nam hoàn toàn có khả năng cấu tạo một nhánh văn chương đặc biệt, không giống, nhưng chuẩn mực không kém những miền khác. Mỗi truyện viết của Nguyễn Ngọc Tư là một bữa ăn văn chương thịnh soạn, dọn bày chu đáo, gồm toàn đặc sản miệt vườn, với những vật liệu hảo hạng, tươi sống” [54]. Trong cách lựa chọn chi tiết, Nguyễn Ngọc Tư cũng rất trung thành với cái “tình tự” nam bộ quê hương cô. Sự cá biệt của phương ngữ, khi được sử dụng để diễn đạt những tính tự phổ quát của con người, có khả năng vạch ra cái chung và cái riêng.

Hiếm có trang văn nào của Nguyễn Ngọc Tư mất đi cái chất Nam Bộ. Cô rất mạnh dạn dùng khẩu ngữ, kiểu như: “ Biết chết liền” (Cánh đồng bất tận), “Gần thí mồ” (Ngọn đèn không tắt), hay “Giữa hai bài hát có mục nhắn tìm con, buồn ác chiến (Cải ơi).

83

Không muốn đánh mất tính tự nhiên trong tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc tư luôn trung thành với hệ thống phương ngữ. Chị cũng không ngại dùng những tiếng địa phương vốn không thật phổ biến như bú thép, xửng vửng, tệ hệ, mằn nắn…trong truyện ngắn của mình. Vì thế, cái bất lợi của phương ngữ miền nam là khó được những người không quen với phương ngữ ấy cảm nhận hoàn toàn ( Và tất nhiên còn là thử thách khó hơn cho người muốn chuyển nó sang một ngôn ngữ khác). Do đó, chị vừa sử dụng phương ngữ một cách có ý thức nhưng đồng thời lại không quên tạo dựng một bối cánh cho người đọc hiểu được những từ ngữ ấy. Chẳng hạn, nếu bình thường, hẳn rất khó để hiểu được những từ ngữ như: “tệ hệ” nếu không được Ngọc Tư lý giải bằng bối cảnh ngôn ngữ: “Mày nói làm sao chớ,

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

thằng Tư Đờ đâu có tệ hệ vậy, tao biết nó mấy chục năm trời…” thì ta hiểu tệ hệ cũng có nghĩa là tệ.

3.2.1.2.Tính nhip điệu trong văn Nguyễn Ngọc Tư

Nguyễn Ngọc Tư rất có tài năng trong việc tạo ra tính nhịp điệp trong tác phẩm của mình. Có nhiều người đã cùng chung ý kiến cho rằng, rất nhiều đoạn văn của chị đọc lên nghe nhịp nhàng như một bài thơ. Hơn nữa văn của Ngọc Tư nghe như nhạc. Nhiều câu trong trẻo và buồn (nhưng không nghẹn ngào) như một bản vọng cổ hoài lang. Như cô viết, tự dưng nghe buồn, nghe thất vọng quá trời đất (Một mái nhà), nhưng hình như cô không muốn người khác buồn theo cô. Giọng buồn của Nguyễn Ngọc Tư không là tiếng than vãn thì thầm của một người lớn tuổi, nhưng là một lời thốt, lửng lơ, đứt ngang nhưng rất đủ, của một người trẻ bỗng nhiên phát giác những bất hạnh của cuộc đời mà vẫn hi vọng. Văn Nguyễn Ngọc Tư là văn của lời nói. Cách ngắt câu của cô là cách ngắt câu của âm điệu. Cái tài của cô là đem những cảnh rất bình thường, khoanh lại, biến nó thành châu báu. Tạo nên tính nhạc uyển chuyển bởi sự đăng đối hài hòa về mặt thanh điệu của chữ, đặc biệt trong những đoạn tả cảnh hay tâm trạng. Tạo được hiệu ứng âm nhạc, tính nhạc trong tác phẩm của mình là do Nguyễn Ngọc Tư đã khéo léo sử dụng những yếu tố sau:

Sử dụng các cấu trúc lặp:

a. Cấu trúc lặp có tác dụng đắc địa trong việc giúp người viết diễn tả một mạch cảm xúc miên man, dàn trải nhưng dồn dập, ý nọ tiếp nối ý kia do đó tạo cảm xúc trôi chảy mượt mà. Lặp như thế nhằm nhấn mạnh đến một ý hay một hệ thống ý liên tiếp trong tác phẩm, xoáy sâu và bắt người đọc phải tập trung cao độ vào chi tiết hay từ ngữ nhấn mạnh đó:

“Cánh đồng không có tên. Nhưng tôi và thằng Điền, chẳng có nơi nào là vô danh., chúng tôi nhắc, chúng tôi gọi tên bằng những kỷ niệm mà chúng tôi có trên mỗi cánh đồng. Chỗ chị em tôi trồng cây, chỗ Điền bị rắn cắn, chỗ tôi có kỳ kinh nguyệt đầu tiên…Và mai này khi trôi dạt đến một nơi nào khác, nhắc đến cánh đồng này với cái tên của chị, chắc chúng tôi sẽ xốn xang”. (Cánh đồng bất tận).

84

Ở đoạn văn trên, tác giả đã sử dụng một hệ thống các từ ngữ được nhắc đi nhắc lại nhằm nhấn mạnh vào hành trình mà các nhân vật đã đi qua. Có cảm giác như, nhân vật đứng ttrên thuyền và háo hức say sưa chỉ cho nhau những nơi đã tới, những kỉ niệm thân thương đã có mà không kịp kể thành lời. Nhờ sử dụng thành công cấu trúc lặp trong đoạn, Nguyễn Ngọc Tư đã khắc họa rõ nét và thành công những trạng thái tình cảm dồn dập trong lòng nhân vật. Nó như dòng hồi ức của quá khứ dội về, liên thông với liện tại, hết sự kiện nó lại nối tiếp sự kiện kia không bai giờ dứt.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Cấu trúc lặp cũng là cách Nguyễn Ngọc Tư hay sử dụng để kể về một sự việc gì đó với nhiều chi tiết khác nhau cần được miêu tả ngay cùng một lúc. Ở kiểu lặp này, chị hay dùng đại từ nhân xưng:

Đi liền với nó là thủ pháp liệt kê. Liệt kê có tác dụng làm rõ hơn, nổi bật hơn

việc, sự kiện, hiện tượng mà tác giả nhằm nói tới.

Một phụ nữ trạc ba mươi, chín năm trời dắt hoa trên đỉnh đầu thi hoa hậu, rớt ngay phần ứng xử: “Trước hết em xin cảm tạ cha mẹ đã đẻ ra em…”. Một anh chàng làm thơ không hiểu nổi, nhiều lúc giảng thơ cho hoa hậu nghe, tự mình ngất ngư cười: “Câu này tui hổng biết viết về cái gì”. Một ông đẹp người, hiền hậu lên cơn thương nhớ vợ mới xé áo quần…”

- “Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vường ăn ổi chua, ổi chát…” (Thương quá rau răm)

- Cái xóm nhỏ ngoại ô xiết bao thương nhớ, những bờ rào râm bụt xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để con khóc ngoe ngóe trên giường. (Hiu hiu gió bấc).

Không chỉ sử dụng những câu văn lặp từ, cụm từ, Nguyễn Ngọc Tư còn chú trọng đến những đoạn văn có sự lặp đi lặp lại một cấu trúc ngữ pháp nào đó. Điều này gây ấn tượng mạnh mẽ vào thính giác người đọc:

- “Họ thương nhau từ lúc hai người mới 22, 24 tuổi. Thời đó, tuổi đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta yêu không ngại ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông.(Hiu hiu gió bấc). - “Nhưng bây giờ Phương mất rồi, mất thật rồi. Sẽ không còn được thấy Phương phong trần, mệt mỏi, không nhìn thấy Phương cười, nghe Phương nói…Sẽ không được ôm Phương trong vòng tay dù chỉ là vai diễn”.(Ngày đùa) b. Dùng các cấu trúc đăng đối về mặt ý nghĩa, thanh điệu: Đây cũng là một thủ pháp quen thuộc trong văn chương của Nguyễn Ngọc Tư. Thủ pháp này được dùng đan xen trong các câu, các đoạn, góp phần tạo sự trôi chảy về mặt ý nghĩa và cảm xúc trong câu văn. Nguyễn Ngọc Tư đã làm người đọc nhiều lúc phải giật mình ngạc nhiên về khả năng ứng biến từ ngữ rất linh hoạt của mình, tạo thành một thứ “hiệu ứng” đặc biệt về mặt ngữ âm trong tác phẩm:

85

Trước hết, chị hay sử dụng hiệu quả của những từ trái nghĩa:

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

- “Cả xóm tưng bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó, cũng có người buồn, ghe vải chắc chẳng quay lại xóm này…”

- Dì Diệu tính từng ngày từng bữa. Chị Lành tính từng ngày từng bữa. Người

trông cho mau, người trông đừng bao giờ đến.

c. Nhịp điệu được tạo nên từ mạch cảm xúc bên trong của nhân vật: Thơ ca là một thứ nhịp điệu của tâm hồn. Đọc văn Nguyễn Ngọc Tư, ta cũng bắt gặp thứ nhịp điệu tâm hồn đó. Chất nhạc trong mỗi trang văn của chị luôn làm tâm hồn người thưởng thức phải bồi hồi xúc động. Chất nhạc ấy không phải được tạo nên từ những nốt nhấn trên bề nổi câu chữ mà được hình thành từ chính vẻ đẹp nội tâm của nhân vật. Rõ ràng, có một thứ nhịp điệu riêng đang chảy trôi theo dòng cảm xúc của nhân vật. Trong Mối tình năm cũ, Nguyễn Ngọc Tư đã viết: “Trong một tích tắc, thằng Thảo lặng đi, nó nhìn không ra, không hiểu được người mẹ hồn hậu, mủ mỉ hay cười của nó mới đây bỗng biến đâu mất rồi chỉ còn lại một người đang quay quắt đau thương, vắt kiệt mình như cọng rạ cuối nắng”.

Cảm xúc luôn gắn liền với tâm trạng. Đó có thể là nỗi nhớ nhưng đến xao xuyến cả cõi lòng, có thể là tình yêu dạt dào như sóng vỗ, nhưng cũng có thể là nỗi buồn chao chát khó diễn tả thành lời: “Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, nhưng có một vai dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa cũ kỹ. Buổi sáng chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn mang về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông súng vô nhà…Và để được nghe con trai mình nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi. Ừ, dì chỉ ước có vai bình thường vậy”.

86

Đôi khi, nó là những cảm xúc nhè nhẹ lan tỏa trong lòng: “Căn nhà tự nhiên lặng lẽ đến kì lạ, nghe tiếng thằng Bầu thở ngỡ ngàng, nghe cả tiếng ơ cá kho sôi tăm tăm trên bếp, tôi ngửi thấy đâu đây mùi bông súng Đà Lạt thơm dịu, ngọt thanh pha cái mùi tanh tanh của bùn dưới đáy ao. Không lẽ im re hoài, tôi nói với Trọng, rằng anh có nhớ chị Hai cũng vậy thôi, người vẫn chưa về, thử thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu cơm, vá áo, giúp anh lau ống khói, châm dầu cái đèn chong nhỏ, giữ cho ngọn lửa suốt nhày le lói đỏ như giữ vạn truyền thống nhà mình đã trăm năm nay. Sau này, chị Hai có về, tôi sẽ trao anh lại, như ngày xưa vậy, tôi làm cũng được lắm mà, gọn bân chớ gì”.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

3.2.2.Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Thị Thu Huệ

3.2.2.1.Ngôn ngữ đời thường Cùng với sự biến đổi của thể loại, của khả năng phản ánh hiện thực, truyện ngắn sau 1986 đã có những biến đổi lớn về mặt ngôn ngữ. Nếu như ngôn ngữ nhân vật được gia tăng tính khẩu ngữ thì ngôn ngữ của người kể chuyện cũng được vận động theo hướng ngày càng hiện thực, đời thường hóa. Dấu ấn của lối viết trữ tình, thơ mộng vẫn xuất hiện đây đó nhưng nhìn chung, các tác giả diễn đạt lời dẫn truyện một cách “thân mật, suồng sã”, giúp người đọc tiếp cận gần nhất với hiện thực được nói tới. Người kể chuyện trong văn học giai đoạn này ít dùng mỹ từ mang cảm hứng sử thi mà dung nạp cả khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói bình dân vào lời kể. Cách lựa chọn này khiến người đọc không có cảm giác bị hướng dẫn mà như đang được ngồi tụm năm, tụm bảy hay tụ tập cà phê để nghe chuyện. Một trật tự ngang bằng giữa người kể và người nghe được xuất hiện.

87

Đọc văn Nguyễn Thị Thu Huệ, ta thấy xuất hiện một hệ thống ngôn ngữ rất gần gũi với đời sống đời thường, đặc biệt là với đời sống của con người hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã nhận thấy nét khác biệt rất độc đáo của cây bút nữ này: “Chao chát và dịu dàng, ngây thơ và từng trải, đớn đau và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực của ngòi bút nữ có duyên trong lĩnh vực truyện ngắn”. Có thể nói, Thu Huệ hấp dẫn bạn đọc bằng một giọng kể chân phương với một hệ thống ngôn ngữ có phần “xô bồ”, nhưng lại rất giàu chất đời: “Mặt như sườn mậu dịch thời bao cấp, chàng cười, khuôn mặt méo xệch, vẹo vọ như cái oản bẹp (Tình yêu ơi, ở đâu). Truyện của chị có độ căng của nhịp điệu, câu thường ngắn, ít ẩn dụ, điển tích, cấu trúc đơn giản. Vì vậy mà khiến người đọc bắt mạch vào truyện rất nhanh, như kiểu: “Mà con người là cái quái gì nhỉ? Sinh ra trên đời hạnh phúc và khổ đau. Ăn và ngủ. Kiếm tiền và tiêu tiền. Tất cả để làm gì?”. Thu Huệ rất có khả năng trong việc miêu tả con người bằng những chi tiết trong cuộc sống. Cách miêu tả chàng thi sỹ nghèo với những cơn say của chị được Bùi Việt Thắng đánh giá là “chính xác một cách đáng sợ”. Và cái cách miêu tả này dường như rất đặc trưng ở Nguyễn Thị Thu Huệ: “Biết mình vẫn còn đẹp nhưng đã bắt đầu nhàu nhò rồi” (Hậu thiên đường). Là cây bút luôn nhạy bén với thời cuộc, cách miêu tả của chị mang đúng hơi thở của thời buổi kinh tế thị trường: “Thời buổi này có ai sống bằng lương đâu. Anh có lấy lương của em cho nó thì cũng lõm hai băng nữa. Em còn ngon hơn”. Nhiều khi, trong tác phẩm, chị có những so sánh thật bất ngờ, thú vị: “Năm bà con dâu như năm bà hoàng, năm ông con trai như năm ông giám đốc văn phòng đại diện của các hãng kinh doanh nước ngoài tại Việt Nam”. (Giai nhân) hay: “Ông ta ăn như bị chết đói hàng thế

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

kỷ”. Nó mang những đặc trưng riêng của chất giọng Nguyễn Thị Thu Huệ, rất trẻ trung mà không kém phần sắc sảo, táo bạo: “Mẹ cháu đầu ba đuôi vô tư. Bây giờ nhoắt cái thành đầu bốn đuôi bất tận”. (Rượu cúc). Qua ngôn ngữ của tác giả, hiện thực cuộc sống được phơi bày, rõ nét, đa dạng và nhiều chiều. Người đọc qua đó cảm nhận được những đổi thay sâu sắc trong lòng xã hội hiện đại ngày hôm nay.

Ngoài việc gia tăng khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói đời thường, truyện ngắn thời kỳ 1986 – 2006 đã xuất hiện thường xuyên hơn những đại từ nhân xưng suồng sã như y, thị, hắn…Trong giai đoạn 1932 -1945, các tác giả như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố thường dùng lớp đại từ này để chỉ những con người nhỏ bé hoặc những nhân vật phản diện. Tuy nhiên, trong văn học sau 1986, với xu thế dân chủ hóa, mọi lớp người, kể cả những công dân khả kính nhất đều có thể gọi là y, thị, hắn…tùy theo ý định mỉa mai hay giễu nhại. Có thể nói, chưa bao giờ, ngôn ngữ văn chương lại gần gũi với ngôn ngữ sinh hoạt đến thế. Xóa bỏ quan niệm thường thấy về những vùng ngôn ngữ chỉ dùng cho văn chương, truyện ngắn 1986 – 2006 đã cho thấy, không loại ngôn ngữ nào đáng bị coi là vùng cấm của văn học, vấn đề là sử dụng chúng một cách đắc địa, sao cho có hiệu quả cao nhất. Xu hướng kéo ngôn ngữ trần thuật về với hiện thực đời thường đã làm ngắn lại khoảng cách giữa nhà văn và người đọc. Những câu chuyện do đó được kể một cách tự nhiên hơn, đời hơn và vì thế dễ tin hơn.

88

3.2.2.2. Ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ Đọc văn Nguyễn Thị Thu Huệ, nhiều người có cùng cảm giác như nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng: “Thu Huệ có lối văn táo tợn – cái táo tợn nhiều khi gây cảm giác ít tính nữ”. Quả thật, trong văn chương, Thu Huệ ưa dùng lối văn dửng dưng, lạnh lùng ít gặp trong lối văn giàu tính nữ của các nhà văn khác đương thời. Sử dụng hệ thống ngôn ngữ ấy, Nguyễn Thị Thu Huệ muốn cá thể hóa cao độ hình tượng nhân vật. Ta thấy có nhiều khi Thu Huệ giống Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn nam cùng thời. Những câu văn dường như sắc lạnh, dửng dưng vô cảm xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm. Trong Giai nhân, người đọc khá quen thuộc với cách nói kiểu: “A lô…chúc em bé của anh ngủ ngon”. “Em là của anh hồi nào vậy”. Nhiều khi, nhân vật đề cập đến những chuyện rất khủng khiếp bằng chất giọng tưng tửng, lạt lẽo như không có chuyện gì xảy ra: “Em có con rồi, vừa đi thử ếch về”. “Con ư, con là cái gì? Nó đem lại cho đời tôi cái gì ngoài sự sồ sề, nhếch nhác và ngu si? Con à, con để làm gì khi trước mắt tôi là bao nhiêu con đường. Lấy anh, rồi cứ một năm tôi sản xuất cho anh mọt đứa vì dòng họ anh vắng người, lại đẻ như gà ấy à?”. Chị có cách nhìn đàn ông nhiều khi thật táo tợn: “Chị bảo đàn ông đi qua đời chị giống như các món ăn. Nạc ra nạc đến thành bã. Mỡ thì chảy thành nước đến buồn nôn. Mặn chát mồm mà nhạt đến tanh (Hoàng hôn màu cỏ úa). Khi chị muốn đẩy

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

ngôn ngữ của mình đến tận cùng, chị khiến người đọc cảm thấy quá mạnh mẽ, và nhiều khi sốc: “Khánh đến với em như người khát, thấy dòng suối trong mát giữa rừng, vồ lấy uống. Xong xuôi là đái (Sơ ri đắng). Người đọc thực sự có ấn tượng và cảm xúc mạnh khi chứng kiến những bi kịch và hiện thực xã hội phũ phàng: “Ông ta, khi lôi em ra khỏi anh vần em như vần quả thị. Đến lúc em nũn ra, hắn vứt toẹt em ra ngời đường” (Người đàn bà ám khói). Đôi lúc, chị cố tình biến văn mình thành một gáo nước lạnh dội thẳng vào cảm giác của người đọc nhằm gây sự ngạc nhiên đến bàng hoàng, sửng sốt: “Gớm, ở thành phố biết ruộng vườn mồm ngang mũi dọc thế nào. Cứ nói thẳng một mẹ già bằng ba con ở cho xong”. (Của để dành). Thông qua hệ thống ngôn ngữ táo tợn, có phần sắc lạnh nhiều lúc như muốn đâm thẳng vào hiện thực của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ muốn phê phán, lên án mặt trái của xã hội với sự tha hóa của đạo đức, đồng tiền thống trị và lên ngôi đã ảnh hưởng không nhỏ đến những mối quan hệ đạo đức rường cột trong gia đình và ngoài xã hội như quan hệ cha con, anh em, thầy trò, bạn bè…Những đúc rút của nhà văn là tiếng chuông cảnh báo rất hữu ích cho độc giả, nhất là những con người trong thời đại kinh tế thị trường, thời mở cửa hôm nay.

89

Trong văn chương, Thu Huệ không thích nói dài dòng. Vì thế, chị ưa lối nói ngắn gọn, súc tích. Chị hay dùng một hệ thống các câu văn tỉnh lược hoặc câu văn đặc biệt để nhằm tạo ra những hiệu quả riêng về mặt diễn đạt: “Bốn tháng sau. Lại một cuộc tình khác. Sao lao vào với quyết tâm: Trả thù chàng trai đầu tiên cho biết mặt. Yêu đương, hồi hộp, dạo chơi, mút kem và nhấm ô mai. Cãi nhau. Làm lành. Cãi nhau. Bỏ nhau”. (Giai nhân). Câu văn của chị thường có cấu trúc đơn giản nhưng chứa đựng lượng thông tin cao: “Mà con người là cái quái gì nhỉ. Sinh ra trên đời. Hạnh phúc và khổ đau. Ăn và ngủ. Kiếm tiền và tiêu tiền. Tất cả để làm gì nhỉ? (Minu xinh đẹp). Nhiều khi, chị ngắt những câu có kết cấu đầy đủ thành những vế, những đoạn khác nhau bàng một hệ thống dấu chấm và dấu phẩy. Cách ngắt đoạn dường như cố tình làm sai trật tự cú pháp đó nhằm diễn đạt những mạch cảm xúc trào dâng không thể kìm nén được trong tâm hồn người đàn bà: “Đêm nay. Dù biết chỉ là một mình. Sẽ cô đơn và tràn mi nước mắt. Nhưng tôi vẫn ra biển. Cả một ngày tôi lang thang kiếm tìm trên bãi vắng dấu vết hôm qua. Tuyệt nhiên không có. Biển về đêm. Cát mềm và ấm, nồng nàn vị quyến luyến.Biển hùng vĩ bao la đến vô cùng. Chẳng còn lạ gì. Cát vẫn là cát. Gió thổi bay vô tư, hào phóng. Một triền cát ráp sạo vàng trắng sáng dưới chân trời, xanh như hóa thạch. Bây giờ anh ở đâu? Bước chân thập thỏm lún chìm dưới cát. Phía xa. Trên sự vô cùng vô tận thẫm đen đó, nhay nháy sáng từ những chiếc thuyền đánh cá. Mọi vật như ngưng đọng” (Cát đợi).

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Tuy nhiên, không phải văn của Thu Huệ lúc nào cũng đem đến cho ta cái cảm giác tưng tửng như trêu ngươi, như thách đố với một hệ thống ngôn ngữ sắc sảo nhiều khi sắc lạnh đến thành táo tợn, mà có lúc lại đằm sâu dịu dàng đầy nữ tính: “Tôi bỗng thấy mình bé tí tẹo, lơ lửng giữa một khoảng không thăm thẳm cao và mịt mùng sóng” (Biển ấm). Con người của Thu Huệ khi yêu thương cũng trào dâng bao cảm xúc và nhân vật của Thu Huệ cũng vậy: “Cuộc sống thật vô giá. Tôi có thể sống vĩnh cửu ngay cả khi chết vì có tình yêu của ông dành cho tôi”. (Mùa thu vàng rực rỡ). Trong văn của chị, nhiều lúc người đọc ngỡ ngàng trước những bức tranh thiên nhiên đẹp đến ngỡ ngàng: “ Cát vẫn là cát. Gió thổi bay vô tư, hào phóng. Một triền cát rát sạo vàng trắng sáng dưới chân trời, xanh như hóa thạch”. Đối với nhà văn, dù cuộc đời nhân vật có phải nếm trải những cảm xúc tận cùng đau khổ đến như thế nào nữa nhưng khi đọc xong truyện, chúng ta vẫn không bị cảm giác nặng nề, ngột ngạt bao bọc, mà nhiều khi thấy nhẹ nhàng, thanh thản như được giải thoát, đó cúng chính là tư tưởng nhân văn mà Thu Huệ muốn gửi gắm đến người đọc thông qua trang viết của mình. Sao trong Giai nhân là một cô gái như thế. Sao là một cô gái cô độc. Cô chạy theo hết cuộc tình này đến cuộc tình khác với hi vọng vào cuộc tình sau sẽ tốt đẹp hơn nhưng đều gặp thất bại, Cô nghĩ rằng những người đàn ông sẽ đến với cô, vì cô mà có khi họ chịu đau khổ cả đời, nhưng không phải. Đến khi có tuổi, cô vẫn bơ vơ trên cõi đời này và những người đàn ông của cô đều đã có gia đình riêng hạnh phúc mà không mảy may đến sự tồn tại của cô nữa. Vào một đêm cùng cực của sự thất vọng, Sao thấy cần có bờ vai chia sẻ biết bao thì bỗng có tiếng gõ cửa. Cô nguyện sẽ yêu và lấy người đàn ông này cho dù ông ta có thế nào đi chăng nữa. Chớ trêu thay, đó lại là ông thợ móc cống đến đòi tiền. Thất vọng và não nề. Toàn bộ câu chuyện là những suy nghĩ vẩn vơ không đầu không cuối của Sao. Đọc xong, người đọc có cảm giác rồi cuối cùng cô sẽ bi quan, chán nản. Nhưng không, dù ở đáy sâu của nỗi buồn và cô đơn, phải thốt lên: “Giai nhân. Ôi giai nhân”, nhưng vẫn kịp nhận ra chân giá trị của cuộc sống: “Nhưng dẫu sao cuộc sống vẫn là vô giá”. Thì ra, cuộc đời này vẫn còn ý nghĩa, vẫn rất đẹp, điều cốt yếu là ta phải biết gìn giữ, trân trọng để nâng niu những giá trị tốt đẹp ấy.

90

Ngôn ngữ dịu dàng, đằm thắm dường như lại phát huy vai trò mạnh mẽ trong việc miêu tả những cảm nhận rất tinh tế của người đàn bà: “Người ta thường nói đàn bà yêu bằng mùi, đàn ông yêu bằng mắt. Và chị yêu anh bởi chính cái mùi đàn ông – nó cứ phảng phất quanh chị, khiến chị xao xuyến, bâng khuâng. Chất nữ tính cũng được thể hiện thật tinh tế khi Nguyễn Thị Thu Huệ miêu tả cảm nhận của người mẹ về đứa con: “Mùi thơm của da thịt Thúy nồng nàn ùa vào tôi” (Hình bóng cuộc đời). Đôi lúc, văn chị trầm lắng, ta cảm nhận rất rõ đó là những tâm tư, tình cảm của một người đàn bà bé nhỏ, yếu ớt, cái yếu đuối thường tình của người đàn

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

bà. Người đàn bà ấy cần một bờ vai vững chãi để nương tựa biết bao nhiêu, nó khác hẳn với lối viết tưng tửng, lạnh lùng thường thấy nơi chị: “Chị cần anh là anh. Là những điều tốt đẹp như một khoảng trời nhỏ. Một bức tường có mái che đằng sau lưng. Mỗi lần đuối sức hay thất bại trên đường đời. Chị có chỗ lùi lại. Tựa lưng thở. Rồi đi tiếp”. (Một trăm linh tám cây bằng lăng). Người con gái khi trở về với bến phà kỷ niệm, trong lòng chợt trào dâng bao cảm xúc: “Anh ở đâu? Sao tôi nhớ anh thế này? Bao nhiêu năm. Tôi sống và hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi gặp được người đàn ông thay thế được anh trong tâm linh (Biển ấm).

Văn của Thu Huệ thường có lối ví von với ngôn ngữ rất giàu hình ảnh: “Chân người ấy lại teo nhỏ, trắng nõn như hai củ sắn đã bóc vỏ và ngâm nước”. Phải có sự quan sát tinh tế và vốn sống thực tế thì Thu Huệ mới diễn tả được một cách chính xác và ấn tượng đến như vậy. Những hình ảnh so sánh của Thu Huệ rất độc đáo và gợi liên tưởng sâu sắc trong lòng người đọc: “ Vợ con anh ấy là một cái lô cốt chắc chắn mà hàng ngày, hàng giờ anh ta nhặt nhạnh tí vôi, tí xi măng xây xây trát trát. Và cái lô cốt của anh ấy ngày càng to béo, vững chắc. Thi thoảng, để xả hơi và nạp nhiên liệu cho công việc xây dựng của mình, anh đi nhảy đầm. Rất gallant với phụ nữ và lúc nào cũng mang một vẻ mặt thành kính, tác phong giống như thể anh đang gù gù, hệt như con chim câu, tha những cọng rơm đi dệt tổ ấm, chỉ thếu con chim cái thôi” (Hậu thiên đường). Lối so sánh với hệ thống ngôn ngữ luôn biến đổi, giàu hình ảnh trong văn chương của chị luôn khiến người đọc phải bất ngờ: “Mối tình trẻ con như một kho lương khô cho cuộc sống” hay: “Anh ấy tròn trịa như một viên bi ve”. Trong so sánh, chị luôn đặt những sự vật, hiện tượng dường như không có một sợi dây liện quan, một mối liên hệ ràng buộc nào bên cạnh nhau để làm nổi bật lên rất nhiều điều thú vị: “ Người đàn ông trông nhàu nhò hơn, giống như nắm giẻ lau và người đàn bà thì lúc nào cũng nhăn nhúm như quả táo tàu” (Hậu thiên đường), hay khi miêu tả về cảm nhận của người đàn bà về đứa con trai của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ viết: “Bé bỏng thơm như một cái bánh ga tô mới ra lò”. Chính ngôn ngữ giàu hình ảnh và biến đổi linh hoạt đã diễn tả thật tinh tế, chính xác sự cảm nhận lý thú của con người.

3.2.3.Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ của Đỗ

Bích Thúy

3.2.3.1.Ngôn ngữ mang đậm bản sắc của người dân tộc

91

Nét tinh tế trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy được thể hiện khá rõ qua hệ thống ngôn ngữ mang đậm bản sắc văn hóa của người dân tộc. Chị không những có khả năng phát hiện mà còn tỏ ra rất thành thạo lời ăn tiếng nói hàng ngày của các tộc người vùng núi cao miền bắc nước ta, biến ngôn ngữ trong đời sống thành ngôn

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

ngữ văn học trong tác phẩm của chị. Ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số tuy khác nhau nhưng gặp gỡ nhau ở một điểm, đó là: Ngôn ngữ phản ánh những nét văn hóa, tập tục của dân tộc, ngôn ngữ là biểu hiện của kiểu tư duy mang tính hình tượng, hình ảnh cụ thể và có lối ví von độc đáo. Không biết tự bao giờ, cách cảm, nếp nghĩ của người miền núi đã thấm vào tâm hồn nhà văn. Chính nhờ thế, ngôn ngữ Đỗ Bích Thúy viết ra không phải thứ ngôn ngữ gò ép, cứng nhắc mà nó được chắt lọc từ chính sự hiểu biết và gắn bó sâu nặng của nhà văn như một người con với mảnh đất này.

Nét đặc sắc nổi bật trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ địa phương tong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy thể hiện ở ngôn ngữ trần thuật và miêu tả. Đọc Ngải đắng ở trên núi, Con dê bốn mắt, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Gió không ngừng thổi…người đọc như được đặt chân lên mảnh đất xa xôi của Tổ quốc gợi lên từ tên những địa danh: Xà Tùng Chứ, Chín Chải, Tây Côn Lĩnh, Cao Bành, Thượng Sơn, Lũng Pục, Cao Mã Pờ, Pải Lủng….những cái tên gợi đến những vùng đất còn hoang sơ, xa xôi, bí ẩn, đã tạo nên một không gian nghệ thuật rộng lớn gắn với nó là vô số các biến cố, các sự kiện của cuộc sống con người: “Trong truyện Đỗ Bích Thúy, không gian Tây Bắc hiện lên đậm nét, để lại dư vị khó quên trong lòng độc giả dù người đọc chưa thể hết lưu luyến với những áng văn thơ dặt dìu tiếng sáo, tiếng khèn,la đà với rượu nồng bếp lửa của núi rừng Tây Bắc trong các sáng tác của các bậc tiền bối như Tô Hoài, Chế Lan Viên, Tố Hữu…”[34].

92

Ngôn ngữ trong tác phẩm Đỗ Bích Thúy phản ánh những nét đẹp trong phong tực tập quán của người dân vùng núi cao phía bắc Tổ quốc ta. Chẳng hạn, để thể hiện tình yêu của những đôi nam nữ, nếu như Nguyễn Thị Thu Huệ miêu tả đấy là tình yêu “sặc mùi kinh tế thị trường”, Nguyễn Ngọc Tư luôn cảm thấy hứng thú với những mối tình nhẹ nhàng, lãng mạn của những chàng trai, cô gái của mảnh đất Nam Bộ thì Đỗ Bích Thúy lại lựa chọn con đường đi cho riêng mình. Cô gắn tình yêu trong trang viết của mình vào những sự vật rất gần gũi của miền rẻo cao sơn cước: “Đêm nay, May đi ngủ muộn, phần vì nhà đã vắng càng vắng – thằng Trài mang ngựa đi lấy giống, mẹ già đi xem bệnh cho trẻ con nhà Chứ - phần vì ngoài kia, sau bờ rào đá, có tiếng đàn môi tự dưng cất lên, gọi mãi, gọi mãi. Tiếng đàn ấy, May gặp ở mấy phiên chợ rồi, lần nào cũng đuổi theo ở sau lưng, May đi nhanh thì theo nhanh, May đi chậm thì theo chậm, bây giờ thì dám theo về tận nhà người ta nữa. Đã mấy lần May đứng dậy, ngập ngừng định đi ra cửa mà chân cứ run lên lại ngồi xuống. Chiếc khăn thêu được vài đường đã nhầm, kim lại đâm vào ngón tay mấy lần. Sau rồi, May cũng giữ được chân mình mặc kệ tiếng đàn môi ấy, dội lửa vào gộc củi rồi vào buồng. Tiếng đàn còn quanh quẩn bên ngoài mãi mới chịu đi. Tiếng bước chân ngựa cũng ngập ngừng”(Tiếng đàn môi sau bờ rào đá).

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Ngôn ngữ của nhân vật trong tác phẩm Đỗ Bích Thúy là biểu hiện rõ rệt của kiểu tư duy mang tính hình tượng, lối nói đầy hình ảnh. Trong cuộc sống hàng ngày của người dân, hình ảnh của những sự vật, hiện tượng thân thuộc đã đi vào trong tiềm thức của họ một cách hồn nhiên, tự nhiên và lời ăn tiếng nói hàng ngày, họ đem những sự vật ấy ra để so sánh cho dễ hiểu. Trong truyện ngắn Ngải đắng ở trên núi, người mẹ già không muốn xuống xã ở với con đã so sánh sự già nua, mỏi mệt của mình bằng một hình ảnh rất đơn giản nhưng giàu ý nghĩa: “ Hơn sáu mươi năm nay, tao như con suối chảy xuôi. Sắp ra đến sông lớn rồi, sắp theo cha chúng mày rồi, giờ nó bắt rẽ ngang, bắt chảy ngược…”. Đỗ Bích Thúy đã sử dụng một hệ thống các hình ảnh so sánh ví von của người dân tộc để diễn tả đắc địa sự xung đột từ trong nhận thức của cái mới và cái cũ: “Bao nhiêu năm nay, người ở trên sàn nhà, trâu, ngựa, ngan, ngỗng ở dưới gầm sàn, tự dưng em mày đòi mang trâu ra ngoài vườn, con trâu mẹ ốm lên ốm xuống, cho uống bao nhiêu muối không khỏi. Ngỗng đang ở yên thế lại lùa ra, sáng nào cũng phải đi tìm, con ngủ chỗ này, con ngủ chỗ khác…”. (Ngải đắng ở trên núi).

Nguyễn Bích Thúy luôn có ý thức so sánh trong tác phẩm của mình, luôn biết lựa chọn những đối tượng so sánh phù hợp để làm cho câu văn, hình ảnh trở nên sinh động:

- Con gái à, làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê chân nhà chồng

thôi

- Mẹ già định trả chị em May cho mẹ Hoa như người ta mượn ngựa rồi trả

ngựa hay sao

(Tiếng đàn môi sau bờ rào đá) - Chiều đang duềnh lên, nhanh như nồi cơm sôi không kịp mở vung (Cái ngưỡng cửa cao) - Mười sáu tuổi mà chỉ bằng đứa mười ba, chân tay mặt mũi trắng như cỏ mọc

trong nhà

(Con dê bốn mắt) Nét đặc sắc là nhà văn đã giữ được độ cần thiết vừa phải đồng thời vận dụng đúng lúc, đúng chỗ ngôn ngữ dân tộc thể hiện chân thục không gian đậm chất núi rừng và cách cảm, cách nghĩ và cách nói giàu hình tượng của người miền núi.

Người dân tộc thiểu số, nhất là người ở vùng cao, thường dùng lối nói hình ảnh để diễn đạt về vấn đề mà mình quan tâm. Chẳng hạn, trong truyện ngắn Con dê bốn mắt, khi bà mối do vợ chồng Dấn nhờ đến nhà Thào Chá Cáy để hỏi cưới con gái của hai vợ chồng này cho con trai họ. Đỗ Bích Thúy viết:

“Bà mối đến nhà Thào Chá Cáy. Thấy bà mối vào, lẳng lặng đứng dậy, không

93

nói không rằng. Bà mối ậm ừ lấy giọng:

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

- Ông Cáy, bà Cáy à, nhà ông Dấn túng bấn quá không biết nhờ vả đâu, nay

nhờ tôi đến nói với ông chia cho ít thóc giống

Ông Cáy: - Thóc thì có đấy nhưng không được tốt lắm, gieo nó xuống thì còn phải mất

công chăm bón nhiều, không dám chia cho nhà ấy đâu

Bà mối: - Hạt giống chưa tốt nhưng có mảnh đất tốt, có tấm lòng rộng rãi thì không sợ

gì mất mùa ông ạ Bà Cáy: - Không dám đâu, không dám đâu. Nhờ bà mối về nói hộ, núi ấy cao quá, nhà

này không trèo được.

Bà mối cầm chén nước uống ực: - Thế là ông bà chê rồi, tôi về vậy. Nhưng tại sao chứ, chê thằng Dí bé quá,

hay là…”

Rõ ràng, nếu nhà văn không đặt đoạn văn trên vào một bối cảnh ngôn ngữ chung đã được dẫn dắt từ trước là việc hỏi vợ thì người đọc sẽ lầm tưởng đây là một cuộc thương lượng vay mượn thật. Nhưng chính vì thế, người đọc càng hiểu sâu sắc hơn hệ thống ngôn ngữ, những phong tục tập quán riêng biệt của người dân tộc thiểu số trên đất nước ta. Trong các câu chuyện, đặc biệt là trong những dịp lễ nghi quan trọng, họ không hay nói thẳng, trực diện vào vấn đề mà chỉ bóng gió đề cập, song, cả hai vẫn hiểu rõ ý của nhau.

Để xây dựng thành công hình tượng nhân vật, Đỗ Bích Thúy chú ý về hệ thống ngôn ngữ nhưng không phải về số lượng. Các nhân vật nữ của chị thường không nói nhiều, và khi nói, họ cũng nói rất ngắn, rất cô đọng, nội dung chuyển tải trong ngôn ngữ vì thế mà cũng trở nên cô đọng, súc tích hơn. Người đọc nhận thấy một ngôn ngữ rất tự nhiên, mộc mạc như chính bản chất của người miền núi. Có thể thấy, ẩn sau những trang văn mang đậm dấu ấn ngôn ngữ địa phương là gương mặt của một miền đất giàu bản sắc văn hóa với vẻ đẹp tâm hồn và tính cách con người vùng cao thuần phác, chân thành và tình nghĩa.

94

3.2.3.2.Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ Một trong những nét làm nên sức hấp dẫn cho văn xuôi Đỗ Bích Thúy là chất thơ lan tỏa khắp trang viết. Qua ngòi bút Đỗ Bích Thúy, cuộc sống con người và thiên nhiên vùng núi của Tổ quốc ta hiện lên không hề xa lạ, bí hiểm mà rất gần gũi, thơ mộng. Cảm nhận đó được tạo nên từ hệ thống ngôn ngữ giàu chất thơ, với những so sánh liên tưởng giàu sức gợi. Giữa cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả, Đỗ Bích Thúy vẫn phát hiện ra vẻ bình dị của thiên nhiên đất trời theo quy luật tuần hoàn của nó.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

Một năm bắt đầu bằng mùa xuân, ta đã từng được hòa vào không khí mùa xuân sôi nổi, rạo rực với những tiếng sáo, tiếng khèn khơi dậy những khát khao yêu đương và sức sống tiềm tàng trong con người Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, mùa xuân với sự thay đổi diệu kỳ của cảnh vật trong tác phẩm Ma Văn Kháng, mùa xuân trên rẻo cao của Nguyên Ngọc, giờ đây, ta lại bắt gặp một mùa xuân tràn sức sống trong tác phẩm của Đỗ Bích Thúy:

“Cho đến khi ngựa đập móng lộp cộp đầu hồi, hoa lê bật bông trắng như tuyết thì xuân sang. Các ông bố đeo bao da ra khỏi nhà tìm trong bản, ngoài bản, ai có lợn to thì chung mổ ăn tết. Xuân sang đấy nhưng trời còn rét mãi tháng ba, tháng tư, trẻ con đuổi bò xuống thung lũng vẫn còn chưa chịu bỏ bùi nhùi rơm ở nhà, mặt đứa nào cũng nứt toác cả ra. Chỉ có đất bắt đầu tơi mềm, bò dê được ăn cỏ tươi và nước thì bắt đầu chảy đầy máng và vầu trở lại. sau tết nguyên đán, có khi hội bản này nối sang bản kia cả tháng trời. Chợ nào cũng đông nghịt toàn con trai, con gái mặc đẹp, đeo đầy vòng bạc, mua sắm thì ít mà ngắm nhau thì nhiều”.

Mùa hạ vùng cao điển hình với cái nắng chói chang: “Mặt trời lên, đỏ như một quầng lứa. Báo hiệu một ngày rất nắng. Cứ nắng thế thì chỉ ba ngày là thóc nếp khô, yên tâm xếp lên gác bếp. Năm nào cũng vậy, sau mùa thu hoạch bao giờ trên cái gác chạy từ đầu nhà đến cuối nhà cũng đầy chật lúa ngô. Ngô túm thành từng chùm treo lủng lẳng, lúa xếp bên trên. Được mùa, có khi lúa năm ngoái chưa ăn hết thì lúa năm nay đã về, cứ thế xếp lên”.

Mùa đông vùng núi cao lại rét như cắt da cắt thịt: “Ở vùng núi bao giờ mùa đông cũng đến sớm. Khi những chiếc lá đào, lá mận đầu tiên rụng xuống thì dòng suối bắt đầu cạn, nước chảy dưới phần ngâm của lớp đá cuội trắng trơ. Gió từ trong khe núi ùa ra, mang theo hơi lạnh đến ghê người của đá và lá cây lúa.Thân ngải đắng bắt đầu khô lại, rễ bám chặt lấy lớp đất chai cứng và ngả sang màu nâu đen vì sương muối. Nhiều ngày, nhiều tuần, có khi cả tháng giời không có nắng, giữa tuần trăng đêm cùng chỉ lờ mờ. Đây là quãng thời gian ít việc nhất trong năm. Đám con gái chỉ quanh quẩn ở nhà xe lanh, đôi gò má bắt lửa đỏ au. Ngoài nương chỉ còn trồng tam giác mạch. Hạt tam giác mạch ăn không ngon như hạt ngô, hạt lúa nhưng hoa tam giác mạch thì đẹp. Trời càng rét thì sắc biếc hồng càng rực rỡ. Cả dải núi, nương nhà này nối với nương nhà kia cứ bừng lên như một màu tam giác ngập trời”.

95

Bằng khả năng quan sát tinh tế, Đỗ Bích Thúy đã nắm bắt được chất thơ của cuộc sống từ những cảnh vật rất đỗi bình dị và quen thuộc của vùng biên giới rẻo cao. Đó là dòng sông êm ả, thơ mộng, là ánh trăng huyền ảo, tình tứ: “Đọc Thúy, người ta có cảm giác như được ăn một món ăn lạ, được sống trong một mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian của hương vị núi

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh, của mây trời đặc sánh “như một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi ngải đắng, mần tang, của những nét ăn nét ở, phong tục tập quán còn giũ nguyên vẻ hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng cửa trước ra cửa sau”, của những trái timk con gái vật vã, cháy bùng theo tiếng khèn gọi tình dưới thung xa, của bếo lửa nhà sàn và tiếng mõ trâu vào khuya khoắt, của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm bịp say thuốc, say rượu ngủ khì bên chân chủ…” [tr102,65]. Bên cạnh đó, Đỗ Bích Thúy đã sử dụng nhiều từ ngữ gợi màu sắc tươi tắn đặc biệt như vàng tươi, tím biếc, xanh lam, màu đỏ để miêu tả về cảnh sắc thiên nhiên và cuộc sống con người: “Sau dãy núi hình răng cưa mặt trời đỏ bầm đã chìm xuống non nửa. Những mảng khói còn lại của nương đồi mới đốt quẩn vào nhau, bốc ngược lên chậm chạp, nhuộm cho ánh hoàng hôn ngả tím, phủ đầy xuống thung lũng. Mặt trời lặn càng sâu thì gió càng thổi mạnh, cuốn tàn tro mằn mặn bay tứ tung. Những con cánh cam dúi đầu xuống đám lá dẻ khô. Thời tiết ở rừng thay đổi nhanh chóng, vừa mới chang chang nắng đốt cháy cả cây cỏ da thịt đã lạnh rùng mình ngay được. Thậm chí Liêu còn cảm thấy sương đang bủa xuống ướt vai mình. Tả Gia ngay trước mặt đây rồi, bóng chiều đang dềnh lên, tưởng chỉ dượm bước là đã đặt chân ngay xuống thung lũng”. (Mần tang mọc trong thung lũng).

96

Không gian đầy chất thơ không chỉ hiện ra qua đường nét, màu sắc mà còn qua hương vị thảo mộc đậm đà, thanh khiết, qua âm thanh gần gũi, thân thương của loài vật: “Bất chợt, tiếng tắc kè bật lên khắc khoải…Chỉ cần thả vài con tắc kè non lên mái nhà hôm trời mưa là nó ở lại luôn, thôi không đi nữa. Có lúc đàn tắc kè sinh sôi đến gần chục con, dạn người, lơ láo bò qua bò lại trên bậu cửa. Hôm nào chúng kêu tiếng lẻ là trời nắng, tiếng chẵn là trời mưa”. Tất cả hòa quyện với nhau tạo nên hương vị quê hương rất đặc sắc, riêng biệt níu giữ bước chân bao người đã từng đặt chân lên mảnh đất này. Chất thơ trong tác phẩm của chị còn được thể hiện ở những đoạn thơ, những câu hát của đồng bào dân tộc, đặc biệt là những câu hát trao duyên của các đôi trai gái, khiến lòng người lâng lâng biết bao lưu luyến: Mây trắng bảo anh đi, mây mưa bảo anh về Em đưa anh đến con đường rẽ, con đường rẽ thụt sâu Mây nắng bảo anh đi, mây mưa bảo em quay lại Anh buông tay em, tay như rụng Như lá tre, lá gỗ lả tả rụng Anh bỏ tay em, tay như rơi Như lá tre, lá gỗ lả tả rơi (Con dê bốn mắt)

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

97

Có thể nói, những trang văn thấm đẫm chất thơ là một trong những đóng góp đáng kể của Đỗ Bích Thúy với đề tài miền núi. Ngòi bút tài năng của Đỗ Bích Thúy đã làm sống dậy cả một vùng thiên nhiên vùng cao với vẻ đẹp thơ mộng, tươi sáng, nguyên sơ nhưng không xa lạ mà gần gũi, nồng ấm với cuộc sống của con người.

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

PHẦN KẾT LUẬN

Sức sống của tác phẩm, sức bền của ngòi bút chính là thử thách cao nhất đối với người nghệ sỹ. Có thể nói, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý đã vượt qua được những thử thách đó để khẳng định tài năng của mình trong lòng độc giả. Họ đã gặt hái được khá nhiều thành công, đồng thời luôn có nỗ lực tìm tòi, sáng tạo vượt lên chính mình trong lao động nghệ thuật. Với khả năng quan sát và nắm bắt tinh nhạy sự vận động và phát triển của xã hội, các nhà văn nữ đã tạo ra trong thế giới nghệ thuật của mình một quan niệm mới về hiện thực và xã hội con người. Bên cạnh đó, họ đã có những nỗ lực tromg việc tìm tòi và thể nghiệm những phương thức nghệ thuật truyện ngắn mới. Đó là những cách tân sáng tạo trong các yếu tố như: Cốt truyện và kết cấu, nhân vật, trần thuật.

Các tác giả nữ ngày càng có nhiều tìm tòi trong sáng tạo những kiểu cốt truyện và kết cấu mới mẻ, hiện đại hơn. Cốt truyện có khả năng dung chứa một lượng thông tin lớn về cuộc sống và con người, được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng: từ cốt truyện một mạch đến nhiều mạch truyện, từ cốt truyện sử dụng kiểu chi tiết có tính điển hình cao đến cốt truyện xây dựng bằng những cho tiết đời thường, giản dị nhưng giàu sức khái quát, từ cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ đến cốt truyện có cấu trúc lỏng, cốt truyện dòng tâm trạng. |Kết cấu truyện cũng trở nên hết sức linh hoạt, đó là kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện, kết cấu tâm lý, kết cấu mở…Nhiều truyện ngắn thực sự là những tác phẩm đa thanh, giàu tính đối thoại. Những kiến tạo tác phẩm mới mẻ, nhiều tầng bậc đã đem lại cho truyện ngắn khả năng biểu đạt hiện thực cuộc sống, con người đa diện và sâu sắc hơn.

98

Thế giới nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý ngày càng phong phú và đa dạng. Bằng tư duy nghệ thuật mới, các nhà văn nữ đã khám phá, lí giải những hành động tâm lý bên trong của con người cá nhân, cá thể. Nhân vật trong tác phẩm của họ hiện lên không phải là những công thức khô cứng mà được soi chiếu bằng những ánh sáng, được quan sát dưới nhiều góc độ khác nhau. Do vậy, thế giới nhân vật trở nên đa dạng và sinh động hơn, trong đó, con người tự ý thức về cuộc sống. Con người có thể tha hoá đến không còn nhân tính hoặc rơi vào bi kịch không lối thoát. Trong quá trình xây dựng nhân vật, các tác giả các tác giả đã thể hiện những cách tân nghệ thuật khá đăck sắc. Không gian nghệ thuật không chỉ là phương tiện phản ánh mà trở thành đối tượng được dụng công miêu tả, nó chứng tỏ một quan niệm đầu đủ, khách quan hơn về mối quan hệ giữa con người và hiện thực. Các tác giả luôn có ý thức để cho nhân vật tự lên tiéng, vì thế, đối thoại và độc thoại nội tâm trở thành thủ pháp đắc lực trong việc khắc hoạ hình tượng nhân vật. Nhân vật đã được khám phá trong sự phức

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

tạp và biến động của thế giới nội tâm bên trong con người. Những quan sát và miêu tả tâm lí nhân vật ngày càng tỏ ra tinh nhạy và sắc sảo hơn, nhà văn đã nắm bắt được những nỗi niềm sâu thẳm nhất trong tâm hồn con người, cả đời sống bản năng, tâm linh, vô thức.

Nghệ thuật trần thuật là một phương diện cách tân quan trọng. Không còn đứng trên quan điểm trần thuật sử thi với điểm nhìn hướng ngoại như ở giai đoạn trước nữa, các nhà văn đã có quan điểm thế sự - đời tư với cái nhìn hướng nội. Đồng thời, với việc vận dụng linh hoạt các hình thức trần thuật, các nhà văn nữ còn phối hợp luân phiên nhiều điểm nhìn: điểm nhìn tác giả với nhân vật, nhân vật với nhân vật, điểm nhìn bên ngooài và điểm nhìn bên trong. Chính điều này đưa đến khả năng tiếp cận hiện thực khách quan hơn và tạo ra tâm lý tiếp nhận thoải mái, bình đẳng cho độc giả. Giọng điệu trần thuật trở nên phong phú, linh hoạt hơn. Nhà văn không chỉ có chất giọng hài hước, châm biếm sâu cay mà còn có chất giọng trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm. Dù ở hình thức nào, thì với đặc thù là văn chương của các nhà văn nữ, sáng tác của họ vẫn là những áng văn với chất giọng sâu đằm, dù có những lúc tỉnh táo đến sắc lạnh nhưng vẫn nồng ấm, nhân hậu và thiết tha với cuộc sống.

99

Với thành quả của mình, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy đã chứng tỏ là những nhà văn có bản lĩnh, có ý thức tìm tòi, thể nghiệm và vươn lên chính mình. Họ đã có những đóng góp nhất định trong sự vận động của thể loại truyện ngắn nói riêng và văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung. Hi vọng rằng, với sự đam mê sáng tạo và một bản lĩnh nghệ thuật vững vàng, họ có thể đi xa hơn nữa trong truyện ngắn, một thể loại đầy duyên nợ của mình

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

TÀI LIỆU THAM KHẢO SÁCH

I. 1. Bakhtinne, Nghệ thuật như là thủ pháp. NXB KHXH, H.1990 2. “ Alain Gheerbrant, Jean Chevavlier, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng – Trường Viết văn Nguyễn Du, H.2000. 3. Tạ Duy Anh chủ biên, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí. NXB thanh niên. 2000. 4. Vũ Tuấn Anh, Văn học Việt Nam hiện đại – Nhận định và thẩm định – NXB Khoa học Xã hội, 2001.

5. Lại Nguyên Ân. 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐHQG Hà Nội. 2004. 6. Lại Nguyên Ân- Văn học và phê bình NXB tác phẩm mới 1994. 7. Nguyễn Duy Bắc, Cảm nhận văn hóa và văn học trong hành trình đổi mới, NXB văn hóa dân tộc – Hội VHNT Lạng Sơn, H.2006 8. Vũ Bằng, Vũ Bằng – Thương nhớ mười hai, mê chữ, Món ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam, NXB Văn học, H.2003 9. Nguyễn Minh Châu- Trang giấy trước đèn phê bình, tiểu luận. NXB khoa học xã hội 2002.

10. Hà Minh Đức Lí luận Văn học NXB GD.2003 11. Đoàn Giỏi, Đoàn Giỏi tuyển tập, NXB Văn hóa Thông tin, H2005. 12. Đinh Hài, Văn học – văn hóa Tây Nguyên qua sáng tác của Nguyên Ngọc, NXB GD, H.2006

13. Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học. NXB GD, H. 2006. 14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên. Từ điển thuật ngữ văn học. NXB giáo dục, 2004,

15. Tô Hoài, Truyện Tây Bắc, NXB Trẻ, H. 2002 16. Bùi Quang Huy (sưu tầm, giới thiệu), Tuyển bập Bình Nguyên Lộc, Tập 2, NXB Văn học, H2001. 17. Nguyễn Văn Huy, Văn hóa và nếp sống các dân tộc nhóm Hà Nhì – Lô Lô, NXB Văn hóa, H. 1985. 18. M.B Khrapchenco. Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học. NXB tác phẩm mới. 1978.

19. Thạch Lam, Hà Nội ba sáu phố phường, NXB Văn nghệ TP.HCM, Sài Gòn.2000.

20. Nguyễn Văn Long. Văn học Việt Nam trong thời đại mới. NXB Giáo dục, 2003

100

21. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, NXB Giáo Dục, H. 2002. 22. Sơn Nam, Cá tính miền Nam, NXB Trẻ, TP.HCM.1997. 23. Vương Trí Nhàn, Sổ tay truyện ngắn. NXB tác phẩm mới 1980) 24. Nhiều tác giả, Mười thế kỷ bàn về Văn chương, NXB Giáo Dục, H.2007. 25. G.N.Pôxpêlốp. Dẫn luận nghiên cứu văn học. NXB GD.1998 26. Phan Quang, Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Văn hóa, H.1981. 27. Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki. NXB Giáo dục.1998. 28. Trần Đình Sử, Thi pháp truyện Kiều. NXB giáo dục. 2003

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

29. Trần Đình Sử, Thi pháp Tố Hữu.NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 2001. 30. Trần Đình Sử - Tự sự học. Một số vấn đề lí luận và lịch sử. NXB ĐH sư phạm Hà Nội.2004.

31. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học NXB Giáo dục H.2004. 32. Vân Thanh, Tô Hoài – Về tác giả, tác phẩm, NXB Giáo Dục H.2007. 33. Bùi Việt Thắng- Truyện ngắn bốn cây bút nữ. NXB văn học.2000 34. Bùi Việt Thắng - Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại. NXB ĐHQG, 2000 35. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB Giáo Dục, H.2003.

36. Lý Hoài Thu. Đồng cảm và sáng tạo. NXB văn học 2006. 37. Đỗ Bích Thúy, Bóng của cây sồi, NXB Thanh niên, H.2005. 38. Đỗ Bích Thúy, Tiếng đàn môi sau bờ rào đa, NXB Công an nhân dân, H.2005.

39. Đỗ Lai Thúy, Từ cái nhìn văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc, H.1999. 40. Nguyễn Ngọc Tư, Giao thừa, NXB Trẻ, TP.HCM.2003. 41. Nguyễn Ngọc Tư, Ngày mai của những ngày mai, NXB Phụ nữ, H.2007. 42. Nguyễn Ngọc Tư, Ngọn đèn không tắt, NXB trẻ TP.HCM. 2000. 43. Nguyễn Ngọc Tư, Nước chảy mây trôi, NXB Văn nghệ TP.HCM.2000. 44. Nguyễn Ngọc Tư (In chung với Lê Thiếu Nhơn), Sống chậm thời @, NXB trẻ 2007, TP.HCM. 2007. 45. Nguyễn Ngọc Tư, Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Văn hóa Sài Gòn, Tp. HCM 2005.

46. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Người ham chơi, NXB Thuận Hóa, 1998. 47. Trần Quốc Vượng ( chủ biên ), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục, H. 2007. 48. Viện ngôn ngữ học- Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng và trung tâm từ điển học, Hà Nội, Đà Nẵng, 2000. BÁO , TẠP CHÍ. II. 49. Điệp Anh, Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ, VNT số 10 tra ngày 11/3/2001, trang 3.

50. Kim Anh, Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư – Điềm đạm mà thấu đáo, VNT số 15 ra ngày 11/4/2004, trang 3.

101

51. Phan Quý Bích, Là trẻ con…. VNT số 17 ra ngày 23/4/2006, Trang 6,7,11. 52. Phan Quý Bích, Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc Tư, VNT số 46 ra ngày 12/11/2006, trang 10. 53. Trần Phỏng Diều, Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư, VNQĐ số 467 năm 2006, trang 94. 54. Trần Hữu Dũng – Nguyễn Ngọc Tư - Đặc sản miền nam Văn nghệ, số 39, ngày 29.4.2005 55. Đoàn Ánh Dương, CĐBT, nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ trần thuật TCNCVH số tháng 2/2007. 56. Phạm Thuỳ Dương, Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Ngọc Tư, VNQĐ số 661, tháng 1/2007 . trang 101

Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thanh Hồng

57. Đặng Anh Đào , Sự sống bất tận, VN số 17-18, ra ngày 29/4 và 6/5/2006. trang 34. 58. Trung Trung Đỉnh, Đọc truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, VN số 5, ngày 3/2/2007, trang 8. 59. Hà Minh Đức – Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Tạp chí VH số 12/2000. 60. Đào Duy Hiệp, Chất thơ trong CĐBT, VN, số 32, ra ngày 12/8/2006, trang10. 61. Phạm Hoa- Đọc sách Cát đợi của Nguyễn Thị Thu Huệ, Văn nghệ quân đội, 5/1993 62. Văn Công Hùng, bất tận với Nguyễn Ngọc Tư, VNT số 25, ra ngày 24/6/2007, trang 15. 63. Lê Thị Hường – Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay Tạp chí Văn học số 4.1995 64. Trần Thiện Khanh, Bàn lại với tác giả Bùi Việt Thắng, TCVH số tháng 8/2006. 65. Chu Lai, Cái duyên và sức gợi của hai giọng văn trẻ, VNQĐ, số tháng 7/2001. 66. Lê Thanh Nghị, Từ truyện ngắn của một người viết trẻ, VNT số 31(31/7/2005). 67. Phạm Xuân Nguyên, Tiểu luận Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay. Tạp chí văn học số 2, 1994

68. Vương Trí Nhàn- phụ nữ và sáng tác văn chương, tạp chí văn học số 6/1996 69. Nhiều tác giả - Truyện ngắn hôm nay, báo Văn nghệ 30/11/1991 70. Nguyễn Hữu Quý, Đọc tiểu thuyết đầu tay BCCS của Đỗ Bích Thúy, VNQĐ số 623, tháng 6/2005, trang 111. 71. Trần Văn Sỹ, Bức tranh quê Buồn tím ngắt, VN số 15, ra ngày 15/4/2006, trang 2

72. Bùi Việt Thắng, Bài học văn chương từ CĐBT, TC NCVH số 7 năm 2006. 73. Bích Thu - Những thành tựu truyện ngắn sau 1975- Tạp chí văn học số 9/1996

74. Đỗ Bích Thúy, Người đàn bà miền núi, VNQĐ số Xuân Mậu Tý, trang 93. 75. Khuất Quang Thùy, Đôi điều tâm đắc về cuộc thi truyện ngắng VNQĐ 1998-

102

1999, VNQĐ số tháng 3/2000, trang 98. 76. Kiệt Tấn, Sông nước Hậu Giang và Nguyễn Ngọc Tư, WWW.Vietstudies.org. 77. Nguyễn Ngọc Tư, Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB trẻ - Thời báo Kinh tế Sài Gòn, TP.HCM.2005. 78. Nguyễn Tý, Nhân vật người nông dân và nghệ sỹ trong Giao thừa của Nguyễn Ngọc Tư, VN số 21, ra ngày 24/5/2003, trang 7. 79. Lê Xuân, Nhịp sống cải lương Nam Bộ, VN số tết Mậu Tý 2008, trang 47.