ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----  ----

PHẠM THỊ QUYÊN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2013

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----  ----

PHẠM THỊ QUYÊN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Văn học Việt Nam

Mã số

: 60.22.01.21

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÝ HOÀI THU

HÀ NỘI, 2013

2

MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 2 3

2

2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Thạch Lam Nói chung 2.2. Những bài viết nghiên cứu về ngƣời phụ nữ trong văn Xuôi Thạch Lam 4 7 7 9

3. Đối tƣợng, phạm vị, mục đích nghiên cứu 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5. Cấu trúc luận văn

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1 : Nhân vật ngƣời phụ nữ và truyện ngắn Thạch Lam trong bối cảnh văn xuôi 1930 - 1945 10

10 21 21

1.1 Nhân vật ngƣời phụ nữ trong văn xuôi giai đoạn 1930 – 1945 1.2 Hành trình sáng tác của Thạch Lam 1.2.1 Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác 1.2.2 Nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam 30

39 39 39 42 42 46

3

Chƣơng 2. Đời sống và thân phận ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam 2.1 Ngƣời phụ nữ trong quan hệ với đời sống xã hội 2.1.1 Bức tranh chung về đời sống xã hội đƣơng thời 2.1.2 Ngƣời phụ nữ trƣớc những biến đổi của xã hội 2.1.2.1 Bất biến trong sự biến đổi của xã hội 2.1.2.2 Nạn nhân của xã hội 2.2 Ngƣời phụ nữ trong quan hệ với gia đình, với tình cảm Và khao khát riêng tƣ 53

54 54

tƣ 2.3 Vấn đề giới, thiên tính nữ 2.3.1 Ý thức sâu sắc về vẻ đẹp nữ giới 2.3.2 Thiên chức làm vợ, làm mẹ

3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật 3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật

3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật 3.1.1 Ngoại hình 3.1.2 Tâm lý 3.2 Ngôn ngữ nghệ thuật 3.3 Không – Thời gian nghệ thuật 3.3.1 Không gian nghệ thuật 3.3.2 Thời gian nghệ thuật 3.3.1.1 Không gian làng quê 3.3.1.2 Không gian phố thị 3.3.2.1 Thời gian quá khứ 3.3.2.2 Thời gian hiện tại

116 119

4

2.2.1 Ngƣời phụ nữ trong đời sống gia đình 2.2.1.1 Những thân phận cơ cực, kém may mắn 2.2.1.1 Những con ngƣời mang vẻ đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ Việt Nam 2.2.2 Ngƣời phụ nữ với tình cảm và khao khát riêng 68 73 74 77 83 Chƣơng 3. Nhân vật ngƣời phụ nữ nhìn từ phƣơng thức biểu hiện 83 83 85 90 91 95 98 99 99 106 109 111 113 PHẦN KẾT LUẬN DANH MỰC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Thạch Lam là một nhà văn có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam

giai đoạn 1932 – 1945 và đƣợc coi là một cây bút truyện ngắn đặc sắc. Với ba

tập truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, một tập bút kí, một tập bình luận văn

chƣơng, ông đã để lại dấu dấn đậm nét. Tên tuổi Thạch Lam gắn với Tự Lực

văn đoàn. Tác phẩm của Thạch Lam giàu chất nhân văn và đậm đà tính dân

tộc. Với thời gian, những trang văn của Thạch Lam vẫn là ngƣời bạn tinh thần

của nhiều thế hệ ngƣời đọc, vẫn giữ đƣợc vẻ đẹp và ý nghĩa riêng.

Nhiều thiên truyện ngắn của Thạch Lam cho đến nay và có lẽ mãi mãi

về sau vẫn làm ta xúc động, khi mà trên đời này vẫn còn những xót xa,

thƣơng cảm cho số phận con ngƣời. Giống nhƣ nhiều tác phẩm của các thế hệ

đi trƣớc, hình ảnh ngƣời phụ nữ Việt Nam trong những trang văn Thạch Lam

nhƣ đi sâu vào tâm khảm độc giả, nhƣ nhắc nhở ta luôn nhớ đến hình ảnh của

một thời, một kiếp ngƣời từng tồn tại.

Trong văn học Nhà trƣờng, Thạch Lam và tác phẩm của ông có một vị

trí quan trọng. Tác phẩm của ông đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình giảng dạy

trung học phổ thông. Từ lớp 8, học sinh đƣợc làm quen với tâm hồn ngây thơ

và hành động tốt bụng, đáng yêu của hai chị em Lan và Sơn trong Gió lạnh

đầu mùa. Lên lớp 11, khi đã hiểu nhiều về cuộc đời, học sinh đƣợc học về

tiểu sử Thạch Lam và Hai đứa trẻ. Bên cạnh đó, độc giả nhận ra và cảm nhận

về kiếp sống buồn man mác của con ngƣời qua Thanh và câu chuyện lãng

mạn với Nga - Dưới bóng Hoàng lan. Ba tác phẩm với ba câu chuyện khác

nhau, nhƣng ngƣời đọc đủ nhận ra văn phong tác giả. “Mỗi truyện của Thạch

Lam nhƣ một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhƣng chứa đựng biết bao

5

tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trƣớc những biến

thái của cảnh vật và lòng ngƣời. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm

trầm, sâu sắc.” (24, 94)

Thêm vào đó, trong những năm gần đây, hƣớng nghiên cứu, tìm hiểu

nhân vật ngƣời phụ nữ trong các tác phẩm dƣới góc nhìn về lý thuyết giới,

thiên tính nữ đã đƣợc mở ra. Vận dụng cái nhìn này hứa hẹn sẽ mang đến một

số nhận thức mới về ngƣời phụ nữ trong xã hội.

Để góp cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về nhân vật ngƣời phụ nữ trong

trang văn Thạch Lam, đồng thời góp một tiếng nói vào việc khẳng định một

tài năng, nhân cách nhà văn đã từng hiến dâng cho đời nhiều áng văn chƣơng

có sức cuốn hút lòng ngƣời, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Người phụ nữ

trong truyện ngắn của Thạch Lam”. Đề tài vừa đáp ứng đƣợc niềm say mê

cá nhân, vừa thiết thực cho công việc giảng dạy trong Nhà trƣờng.

2. Lịch sử vấn đề:

Trong giai đoạn Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, sự xuất hiện của

Thạch Lam gắn liền với chặng đƣờng mới trong văn xuôi nghệ thuật nói

chung và địa hạt truyện ngắn nói riêng. Hơn nửa thế kỉ trôi qua kể từ ngày văn

phẩm đầu tay của Thạch Lam chào đời, đã có nhiều công trình nghiên cứu có

giá trị về thân thế, sự nghiệp, tác gia và tác phẩm của nhà văn. Một cách tổng

quát, có thể thấy các tài liệu nghiên cứu về Thạch Lam xoay quanh hai nội

dung lớn.

2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Thạch Lam nói chung:

Trƣớc hết là những tài liệu nghiên cứu về thành tựu của Văn học Việt

Nam thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong

những tài liệu này, các chuyên gia nghiên cứu về Văn học Việt Nam hiện đại

đã đƣa ra những nhận định về giá trị văn chƣơng Thạch Lam và khẳng định

đóng góp của ông vào thành tựu chung của công cuộc hiện đại hóa Văn học

6

nƣớc nhà. Nhằm mục đích làm rõ những đánh giá khái quát về thời kì Văn

học, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại năm 1942 đã khảo

sát Thạch Lam với tƣ cách một nhà văn cùng thế hệ, đó là lần đầu tiên sự

nghiệp văn chƣơng của Thạch Lam đƣợc đánh giá một cách tổng thể nhất.

Tuy nhiên, nhiều nhận xét của ông đƣa ra không còn phù hợp với quan điểm

của đánh giá hiện nay về Thạch Lam.

Tiếp theo là các công trình nghiên cứu khác nhƣ Thạch Lam của

Nguyễn Tuân, Thạch Lam của Phạm Thế Ngũ, Văn học lãng mạn Việt Nam

(1932-1945) của Phan Cự Đệ, Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn của Phong

Lê, Một khuynh hướng truyện ngắn của Nguyễn Hoành Khung, Thạch Lam

(1910-1942) của Hà Văn Đức ...

Việc xuất hiện Tuyển tập Thạch Lam năm 1988 của Nhà xuất bản Văn

học với lời giới thiệu kỹ lƣỡng và trang trọng của giáo sƣ Phong Lê và lời bạt

của nhà văn tài năng Nguyễn Tuân cho ta thấy những trang viết đầy tính nhân

bản truyền thống của Thạch Lam càng cần thiết trong cuộc sống hôm nay với

bao biến động của cái chân giá trị.

Hội thảo khoa học kỷ niệm năm mƣơi năm ngày mất của Thạch Lam

tại Viện Văn học do Viện Văn học phối hợp với Hội Văn học nghệ thuật

Hải Phòng, Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng và Hội Văn

học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức không chỉ có ý nghĩa tƣởng nhớ đến một

tài năng văn học đã ra đi tròn nửa thế kỷ mà còn xuất phát từ ý thức muốn

khám phá sâu hơn, rộng hơn các giá trị của văn học quá khứ trƣớc yêu cầu

đổi mới của văn học. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau của tƣ duy

nghiên cứu hiện đại, trên một tinh thần dân chủ và sáng tạo, từ điểm nhìn

khách quan và khoa học, nhiều bản tham luận tại hội thảo đã đi sâu nghiên

cứu những đóng góp quan trọng của văn chƣơng Thạch Lam trên nhiều

phƣơng diện: quan niệm nghệ thuật, thi pháp truyện ngắn và những giá trị

7

nhân bản của tác phẩm.

Việc đi sâu khám phá những giá trị văn chƣơng của Thạch Lam dƣờng

nhƣ chƣa kết thúc. Nhiều bài nghiên cứu về Thạch Lam sau hội thảo vẫn tiếp

tục. Nhiều luận án cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ gần đây đã tìm tòi và phát hiện

thêm những phẩm chất thẩm mỹ mới của văn chƣơng Thạch Lam.

2.2. Những bài viết nghiên cứu về người phụ nữ trong văn xuôi Thạch Lam.

Hà Văn Đức trong Thế giới nhân vật của Thạch Lam có viết “Trong tác

phẩm của mình, Thạch Lam thƣờng viết về ngƣời dân nghèo với một niềm

thƣơng cảm chân thành, man mác. Niềm thƣơng cảm đó trở nên đặc biệt sâu

sắc khi ông nói đến thân phận của những ngƣời mẹ, ngƣời vợ Việt Nam đảm

đang, tần tảo, giàu đức hy sinh” (6, 591). “Thái độ trân trọng ngƣời phụ nữ,

cảm thông chia sẻ với số phận của họ đƣợc Thạch lam thể hiện qua nhiều tác

phẩm” (6, 593). Trong Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch

Lam, ông viết “Cái đẹp lớn nhất mà Thạch Lam đem đến cho mọi ngƣời là

tình yêu vô hạn của những ngƣời phụ nữ hết lòng vì gia đình”.

Lê Dục Tú trong Thạch Lam – người đi tìm cái đẹp trong cuộc đời và

trong văn chương nhận xét “Nói đến truyện ngắn của Thạch Lam, trƣớc hết

ngƣời ta thƣờng nói đến một thế giới nhân vật trong truyện của ông. Nhân vật

trong truyện ngắn của Thạch Lam là nhân vật của cuộc sống: có những thân

phận dƣới đáy của xã hội (Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ); có những kiếp ngƣời phụ

nữ bất hạnh (Cô hàng xén, Hai lần chết, Một đời người, Tối ba mươi)” (2,

24) . Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê, Trong bóng tối buổi chiều là vẻ đẹp muôn đời

của ngƣời phụ nữ Việt Nam: tần tảo, chịu thƣơng chịu khó và luôn biết hy

sinh bản thân mình vì ngƣời khác.

Vũ Ngọc Phan có nhận xét riêng về Cô hàng xén: “Truyện Cô hàng xén

còn cho chúng ta thấy cái cảnh nghèo nàn và cuộc đời vất vả của ngƣời gái

quê nữa. Hết nuôi em, đến nuôi chồng, và đến khi đã có chồng thì không còn

8

tƣởng gì đến sự trang điểm nữa...Cô hàng xén của Thạch Lam tức là ngƣời

tiêu biểu cho hạng đàn bà thôn quê hy sinh cho nhà mình và nhà chồng, suốt

cuộc đời ở trong cảnh tối tăm và cùng khổ, không biết có ngày vui. Hãy đọc

đoạn kết, đoạn mà Tâm (cô hàng xén) sau khi trao cho em mƣời đồng bạc là

tiền lấy họ cho chồng rồi trở về...” (2, 51). Cũng nói về Cô hàng xén, Hà Văn

Đức cho rằng “Cô hàng xén của Thạch Lam là hình ảnh khá tiêu biểu của

ngƣời phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, tần tảo, giàu đức hy sinh.

Bên trong cái vẻ âm thầm chịu đựng và có phần nhẫn nhục ấy, tác giả đã có ít

nhiều thấy đƣợc vẻ đẹp bình dị và cao quý của họ”. (6, 592)

Nguyễn Công Thắng ở Thạch Lam trong Gió lạnh đầu mùa viết “qua lăng

kính nhân bản của Thạch Lam, những mẹ Lê, cô Tâm, Lan, Nga,… hiện ra trong

dáng vẻ buồn rầu, lặng lẽ nhƣng dịu dàng, tha thiết đến kỳ lạ.” (2, 338)

Bùi Việt Thắng trong Người chắt chiu cái đẹp khẳng định: “Nhân vật nữ

trong truyện ngắn của Thạch Lam thƣờng mang vẻ đẹp của sự kín đáo, tế nhị.

Có vẻ họ hơi cũ một tí nhƣng thật ra đó là nữ tính đậm đà của phụ nữ Việt

Nam. Cô gái đẹp trong Cuốn sách bỏ quên trƣớc anh mắt quá chăm chú của

ngƣời đàn ông không quen đã “đƣa mắt nhìn Thanh, một tay để trên va-ly,

một tay vén lại tà áo cho gọn ghẽ”. Quan tâm và hy sinh vì ngƣời khác là một

nét đẹp của ngƣời Việt Nam”. (2, 172)

Góp tiếng nói vào vấn đề này, Bùi Tuấn Ninh trong Vài nét về hình

tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam nhận xét: “ Thạch Lam là

một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn

ông giàu chất hiện thực và thể hiện một tấm lòng nhân ái, một sự cảm thông

sâu sắc đối với những cuộc đời bất hạnh, bị đè nén, áp bức, nhất là số phận

ngƣời phụ nữ. Điều đáng ghi nhận ở Thạch Lam là ông không chỉ khám phá,

thể hiện một cách chân thực cuộc đời nhục nhã, cơ cực của những ngƣời phụ

nữ suốt đời tần tảo vì gia đình, chồng con với bao khổ đau mà còn phát hiện

9

ra ở những số phận bất hạnh ấy những vẻ đẹp tâm hồn thật thánh thiện, cao

quý”. “Với trái tim nhân hậu và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Thạch Lam mong

muốn mỗi cá nhân phải sống sao cho xứng đáng với hai chữ Con ngƣời - nhất

là với những nhân vật phụ nữ - một đối tƣợng ông đã dành biết bao sự trân

trọng, yêu thƣơng.” (32)

Luận án của Phạm Thị Thu Hƣơng khi đánh giá về ba phong cách

truyện ngắn trữ tình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 THẠCH LAM –

THANH TỊNH – HỒ DZẾNH cũng đã viết “ông thầm lặng thán phục sự nhẫn

nại, âm thầm của những mẹ Lê, cô hàng xén, Liên (Một đời người), Mai

(Đói),...bởi không hề kêu ca, oán trách số phận. Những con ngƣời ấy đã lặng

lẽ cất gánh nặng gia đình trên vai, quên cả mình đi, cầu mong cho những

ngƣời thân đƣợc no ấm, yên ổn. Trong sự hy sinh thầm lặng ấy, Thạch Lam

tìm thấy những nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam “từ tuổi nhỏ đến

tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ ngày kia nhƣ tấm vải thô sơ” (Cô

hàng xén), những ngƣời “đã phải đau khổ từ lúc lọt lòng), với những “bổn phận

hàng ngày, tầm thƣờng và nhỏ mọn” (Chân trời cũ – Hồ Dzếnh)” (15, 50)

Lê Minh Truyên trong luận án Thạch Lam với Tự lực văn đoàn cũng

chỉ ra “Về ngƣời phụ nữ, bằng bút pháp nghiên về hiện thực, trong nhiều truyện

ngắn, Thạch lam còn tiếp tục phát hiện, phản ánh những nét đặc sắc của bức

tranh cuộc sống nhiều màu, nhiều vẻ, nhiều góc độ với một cái nhìn tinh tế, trân

trọng, hƣớng vào nét đẹp truyền thống trong tâm hồn con ngƣời” (43, 88)

Rõ ràng, vấn đề ngƣời phụ nữ trong văn Thạch Lam đã đƣợc quan tâm,

tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, nói về ngƣời phụ nữ, vẫn còn nhiều vấn đề

còn cần đƣợc tiếp tục khai thác (đáng chú ý là góc nhìn của lý thuyết giới).

Chính vì vậy, luận văn sẽ khai thác những khoảng trống về ngƣời phụ nữ

trong truyện ngắn Thạch Lam để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề.

Trên cơ sở kế thừa, tổng hợp những thành quả của các công trình

10

nghiên cứu trƣớc đó, chúng tôi hy vọng đề tài này mang đến cho ngƣời đọc

một cái nhìn khoa học, khách quan và toàn diện hơn về “Người phụ nữ trong

truyện ngắn của Thạch Lam”.

3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu:

Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi quan tâm đến đối tƣợng

ngƣời phụ nữ trong mới quan hệ với đời sống gia đình, xã hội trong truyện

ngắn Thạch Lam.

3.2 Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn sẽ khái quát về ngƣời phụ nữ trong một số truyện ngắn của

Thạch Lam nhƣ Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Đứa con đầu lòng, Trở về, Cuốn

sách bỏ quên, Dưới bóng Hoàng Lan, Cô hàng xén, Gió lạnh đầu mùa, người

Đầm, Đứa con, Tình xưa...in trong Thạch Lam truyện ngắn, Nhà xuất bản Hội

nhà văn, 2006.

3.3 Mục đích nghiên cứu:

Thông qua việc tiếp cận hình ảnh ngƣời phụ nữ trong các truyện ngắn

kể trên, chúng tôi hƣớng tới một số sự khái quát về đặc điểm thi pháp thể loại

và khái quát đặc trƣng phong cách truyện ngắn độc đáo của Thạch Lam.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện đề tài, Luận văn chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu chính sau đây:

Phương pháp loại hình: Loại hình là “tập hợp sự vật, hiện tƣợng có

cùng chung những đặc trƣng cơ bản nào đó”. Còn loại hình học là “khoa học

nghiên cứu về các loại hình nhằm giúp cho việc phân tích và phân loại một

thực tại phức tạp”. Trong luận văn, chúng tôi hƣớng đến sự tổng hợp những

truyện ngắn trong Thạch Lam truyện ngắn (chọn lọc), tìm ra điểm chung giữa

những ngƣời phụ nữ trong thế giới nhân vật truyện ngắn Thạch Lam, từ đó đi

11

đến kết luận khái quát.

Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp là tổ hợp những đặc tính

thẩm mỹ - nghệ thuật và phong cách của một hiện tƣợng văn học, là cấu trúc

bên trong của nó, là hệ thống đặc trƣng của các thành tố nghệ thuật và mối

quan hệ giữa chúng. Nghiên cứu thi pháp văn học là nhấn mạnh bản chất nghệ

thuật của tác phẩm, là xem xét tác phẩm văn học nhƣ là một chỉnh thể thống

nhất giữa các thành tố, các cấp độ nghệ thuật. Mục đích của nghiên cứu thi

pháp là chỉ ra bản chất nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra cái lý do tồn tại của

hình thức nghệ thuật.

Phương pháp tiểu sử: Trong khi phƣơng pháp xã hội học sáng tác

nghiên cứu nhà văn chỉ từ góc độ xã hội và trên bình diện xã hội, chẳng hạn

tập trung chú ý đến thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi sinh, môi trƣờng sống

và làm việc của nhà văn thì phƣơng pháp tiểu sử lại quan tâm đến cuộc sống

và những mối quan hệ riêng tƣ của nhà văn. Nguyên tắc của phƣơng pháp này là

dùng các yếu tố tiểu sử của nhà văn để lý giải tác phẩm văn học của nhà văn.

Phương pháp so sánh: So sánh để xác định sự vặt về mặt định tính,

định lƣợng hoặc ngôi thứ. Trong nghiên cứu văn học, ta có thể so sánh một

hiện tƣợng văn học với các hiện tƣợng văn học cùng loại, nhƣng cũng có thể

so sánh với các hiện tƣợng văn học đối lập để làm nổi bật bản chất của hiện

tƣợng đƣợc đem ra so sánh. Việc so sánh còn giúp ta xác định đƣợc vị trí của

hiện tƣợng trong một hệ thống và đánh giá đƣợc ý nghĩa của nó trong hệ

thống đó.

Phương pháp nghiên cứu nhân vật văn học: Nhân vật là phƣơng tiện

đắc dụng để nhà văn khái quát cuộc sống một cách hình tƣợng đồng thời thể

hiện sinh động những ý đồ tƣ tƣởng – nghệ thuật của mình. Phƣơng pháp

nghiên cứu nhân vật phải chú ý tới cả quan hệ nội tại và quan hệ ngoại sinh

của nó. Ta cần nghiên cứu nhân vật ở góc độ nhận thức nội dung đời sống, đặt

nhân vật trong một chỉnh thể thống nhất và nghiên cứu nó trên quan điểm lịch

12

sử phát sinh.

5. Cấu trúc luận văn:

Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, thƣ mực tài liệu tham khảo,

luận văn chúng tôi gồm có ba chƣơng với các nội dung chính sau:

CHƢƠNG 1: NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN XUÔI

1930 – 1945 VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THẠCH LAM

CHƢƠNG 2: ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN NGƢỜI PHỤ NỮ

TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM

CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG

THỨC BIỂU HIỆN

13

Và cuối cùng là phần mục lục.

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: Nhân vật người phụ nữ và truyện ngắn Thạch Lam

trong bối cảnh văn xuôi 1930 – 1945

1. 1. Nhân vật người phụ nữ trong văn xuôi giai đoạn 1930 – 1945:

Ngƣời phụ nữ luôn là đối tƣợng đƣợc quan tâm hơn cả trong sáng tác

của các tác giả tự cổ chí kim. Trong văn học dân gian, ngƣời phụ nữ luôn là

tâm điểm của sự sáng tạo, với tiếng nói đồng cảm, ngợi ca. Trong văn học

viết, đặc biệt với Đoạn trường tân thanh – Truyện Kiều của Nguyễn Du,

ngƣời phụ nữ đã đƣợc ca ngợi, khẳng định. Ngƣời phụ nữ dù tài sắc vẹn toàn

nhƣng số phận vẫn long đong lận đận, gặp nhiều bất hạnh, éo le trong cuộc

đời. Tiếp nối và phát huy truyền thống trong văn học dân gian và văn học

Trung đại, văn học giai đoạn 1930 – 1945, mà cụ thể là văn xuôi 1930 – 1945

tiếp tục dành cho ngƣời phụ nữ những ƣu ái qua từng trang viết.

Trong văn đàn 1930 – 1945, nổi lên hai trào lƣu: văn chƣơng lãng mạn

(Văn chƣơng Tự lực văn đoàn) và văn chƣơng hiện thực phê phán.

Tự Lực văn đoàn là nhóm viết đƣợc thành lập vào năm 1933, gồm mấy

anh em dòng họ Nguyễn Tƣờng nhƣ Nguyễn Tƣờng Tam (Nhất Linh),

Nguyễn Tƣờng Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tƣờng Lân (Thạch Lam), Trần

Khánh Giƣ (Khái Hƣng, Nhị Linh) và một số văn nghệ sĩ khác nhƣ Hồ Trọng

Hiếu (Tú Mỡ), Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lữ), Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu). Cơ

quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong hóa và từ 1936 là

tuần báo Ngày nay (khi Phong hóa bị đóng cửa). Phong hóa và Ngày nay đã

trở thành những trung tâm tập hợp phong trào văn nghệ lãng mạn, là nơi

tuyên truyền cho một cuộc cách tân trong văn học, cho “phong trào Âu hóa”

chống lại lễ giáo phong kiến và quan trƣờng phong kiến, là nơi đề xƣớng

14

những hoạt động cải lƣơng tƣ sản (hội Ánh sáng). Phong hóa, Số 101 (8 – 6 –

1934) đăng tôn chỉ Tự Lực văn đoàn gồm 9 điểm, trong đó có 5 điểm quan

trọng: Dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách

An Nam; Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nƣớc mà có tính cách bình dân,

khiến cho ngƣời khác đem lòng yêu nƣớc một cách bình dân. Không có tính

cách trƣởng giả quý phái; Trọng tự do cá nhân; Làm cho ngƣời ta biết rằng

đạo Khổng không hợp thời nữa; Đem phƣơng pháp khoa học Thái tây ứng

dụng vào văn chƣơng An Nam.

Tự Lực văn đoàn ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỷ. Vì vậy khi đánh

giá hiện tƣợng văn học này chúng ta phải có quan điểm lịch sử. Mặt khác, tuy

là một văn đoàn có tôn chỉ, mục đich, xuất hiện chỉ trên dƣới mƣời năm

những nó vẫn không kém phần phức tạp do bao gồm những khuynh hƣớng,

sắc thái khác nhau, phát triển trong những thời kì lịch sử khác nhau. Trong

khuôn khổ luận văn, chúng tôi không có mục đích đánh giá, nhìn nhận về Tự

Lực văn đoàn và các tác giả trong nhóm dƣới cái nhìn lịch sử, chính trị, chúng

tôi chỉ nhìn nhận Tự Lực văn đoàn trên phƣơng diện văn chƣơng. Con đƣờng

suy thoái chính trị của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hƣng thì đã quá rõ, cho

nên, sự nghiệp văn chƣơng của nhóm Tự Lực văn đoàn phải tính từ những

năm 40 trở về trƣớc. Những ngƣời tham gia Tự Lực văn đoàn cùng chung tôn

chỉ, mục đích nhƣng cũng cần phân biệt giữa những ngƣời đầu soái (Nhất

Linh, Khái Hƣng, Hoàng Đạo) với những thành viên của nhóm nhƣ Thế Lữ,

Xuân Diệu, Tú Mỡ, Thạch Lam,... và các cộng tác viên nhƣ Huy Cận, Thanh

Tịnh, Vũ Đình Liên,...Thạch Lam và Trần Tiêu xuất hiện trong thời kì mặt

trận dân chủ nên tác phẩm cũng có những màu sắc khác với Nhất Linh, Khái

Hƣng, tuy họ là những cặp anh em ruột trong nhóm Tự Lực văn đoàn.

Nhất Linh, Khái Hƣng là hai tác giả tiêu biểu trong nhóm có những

điểm tƣơng đồng trong sáng tác mà chúng tôi muốn đề cập đến ở mảng truyện

15

ngắn, và cụ thể là những truyện ngắn về ngƣời phụ nữ.

Nhất Linh (1906 – 1963) tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam, quê quán

Quảng Nam, nhƣng sinh ở Cẩm Giàng, Hải Dƣơng. Năm 1932, cùng Khái

Hƣng ra báo Phong Hóa, làm giám đốc và viết bài cho đến 1935. Năm 1933,

cùng một số nhà văn khác thành lập Tự lực văn đoàn. Sau khi Phong Hóa bị

đóng cửa, ông ra tiếp báo Ngày Nay. Sau 1951, thành lập Nhà xuất bản

Phƣợng Giang, ra tạp chí Văn Hóa ngày nay ở Sài Gòn. Năm 1963, ông đã tự

tử trong cuộc dấu tranh chống chế độ ông Ngô Đình Diệm.

Nhất Linh viết khá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng truyện ngắn,

đã in Người quay tơ (Đời nay, 1927), Anh phải sống (Đời nay, 1934), Hai vẻ

đẹp (Đời nay, 1934), Hai buổi chiều vàng (Đời nay, 1937), Mối tình câm (Sài

Gòn,1961), Thương chồng (Sài Gòn, 1961).

Khái Hƣng (1896 – 1947) tên thật là Trần Khánh Giƣ, sinh ra ở làng Cổ

Am, Vĩnh Bảo, Hải Dƣơng. Lúc nhỏ, Khái Hƣng theo học chữ Hán nhƣng

ông không thích làm quan, thích cuộc sống tự lập, vì vậy vừa đi dạy vừa viết

báo để tạo dựng cuộc sống.

Từ tác phẩm Hồn bướm mơ tiên đến Khúc tiêu ai oán, Khái Hƣng đóng

góp trong kho tàng Văn học Việt Nam khoảng hai mƣơi lăm tác phẩm (truyện

dài, truyện ngắn, kịch...) qua 15 năm sáng tác. Về truyện ngắn, Khái Hƣng

sáng tác rất phong phú, xuất hiện thƣờng xuyên trên báo Phong hóa và Ngày

nay; Anh phải sống (1934), Gánh hàng hoa (1934), Đời mưa gió (1936).

Khái Hƣng và Nhất Linh có điểm tƣơng đồng trong sáng tác viết về

ngƣời phụ nữ. Ngƣời phụ nữ trong những hình ảnh chân thực về tình yêu,

hạnh phúc đích thực trong cuộc sống trong gia đình. Khái Hƣng, Nhất Linh đã

phác họa bức tranh sống và thực trong giai đoạn thực dân và phong kiến nhằm

phơi bầy cái xấu xa, lạc hậu, lên án đầu óc ích kỷ, vụ lợi, cậy quyền cậy thế...

đã hãm hại chà đạp tình yêu, nhân phẩm, cuộc sống của tha nhân và ngay

16

chính ngƣời thân thuộc. Ca ngợi tinh thần tự chủ, tự lập, đề cao phẩm cách

của ngƣời phụ nữ trong sinh hoạt gia đình và xã hội; tôn trọng đời sống riêng

tƣ, tình cảm cá nhân, lòng vị tha và nhân ái.

Quan tâm hơn cả đền ngƣời phụ nữ, hai tác giả trên đã từng đƣa ra vấn

nạn, hình ảnh “ngƣời con gái đẹp” trong thảm cảnh “gia đình”. Làm sao dung

hòa, giải thoát cuộc sống, tình yêu... cho thích nghi, phải đạo, có tình có lý.

Sự thận trọng, cân nhắc, đắn đo, suy ngẫm đó cho thấy tinh thần trách nhiệm

và ý thức sáng tạo của ngƣời cầm bút. Tuy nhiên, những ngƣời phụ nữ mà

Nhất Linh, Khái Hƣng đề cập đến thƣờng là những phụ nữ trong xã hội tƣ sản

thành thị. Họ không bị ám ảnh bởi nỗi lo cơm áo gạo tiền nhƣ những ngƣời

phụ nữ nông dân trong văn học hiện thực phê phán. Ngƣời phụ nữ trong văn

học lãng mạn của hai tác giá trên có điểm chung là những ngƣời đẹp, sống

trong thời điểm khi mà những quan điểm tƣ tƣởng phong kiến kìm nén ngƣời

phụ nữ đã trở thành lỗi thời, lạc hậu. Ngƣời phụ nữ bắt đầu vƣơn lên với khái

niệm “tự do”, “bình đẳng”, “công bằng”. Họ đấu tranh trong tình yêu, cố gắng

sống cuộc sống của riêng mình. Viết theo xu hƣớng lãng mạn, những ngƣời

phụ nữ ấy dù là gái quê hay gái thành thị đều rất đẹp. Họ sẵn sàng hy sinh, từ

bỏ tất cả để chọn lấy tình yêu. Họ coi tình yêu là cái đích hƣớng tới. Do đó,

kết thúc mỗi câu chuyện thƣờng là cái chết cho sự giải thoát, hoặc là cái kết

thúc có hậu (nhƣng lại không có thực).

Nói nhƣ Hồ Sĩ Hiệp trong Khái Hưng và Thạch Lam “Nhất Linh chủ trƣơng

giải phóng ngƣời phụ nữ khỏi chế độ đại gia đình, tránh cho phụ nữ nỗi tình

duyên ép buộc, cảnh mẹ chồng nàng dâu” (11, 88) “Nhất Linh giải phóng cho

ngƣời phụ nữ góa bụa khỏi cảnh đạo đức giả của chế độ phong kiến”. (11, 89)

Song song với trào lƣu lãng mạn Tự Lực văn đoàn là trào lƣu văn học

hiện thực phê phán.

Những tiền đề xã hội giai đoạn 1930 – 1945 đã làm xuất hiện trên đàn

17

văn học công khai một dòng văn học hiện thực phê phán, nhằm đáp ứng một

phần những yêu cầu cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc

lúc bấy giờ. Các nhà văn tiến bộ, bạn đƣờng của giai cấp công nhân, nhƣ

Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao và cả

Nhƣ Phong, Học Phi, Lê Văn Hiến,...đã sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê

phán nhƣ vũ khí chiến đấu. Văn học hiện thực phê phán không chỉ đáp ứng

những yêu cầu của cuộc đấu tranh xã hội trong một thời kỳ lịch sử sôi động

mà còn phản ảnh quá trình vận động của các hệ tƣ tƣởng, sự tác động qua của

các hình thái ý thức kiến trúc thƣợng tầng. Văn học hiện thực phê phán vừa kế

thừa và phát triển truyền thống văn học hiện thực chủ nghĩa trong các thế kỷ

trƣớc, đặc biệt là thời kỳ cận đại, vừa khắc phục những nhƣợc điểm còn tồn tại

trong thế giới quan và phƣơng pháp biểu hiện của các nhà văn trong quá khứ.

Những năm 30 của thế kỷ 20 là thời kì hình thành và phát triển mạnh

mẽ của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nhìn chung có thể tạm chia

nhỏ thành ba thời kì nhỏ: 1930 – 1935, 1936 – 1939, 1940 – 1945.

Thời kì đầu, khủng hoảng khinh tế và phong trào cách mạng tạm lắng

xuống, khuynh hƣớng lãng mạn tiêu cực xuất hiện và chiếm ƣu thế trên đàn

văn học công khai. Tuy nhiên, tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,

Vũ Trọng Phụng, Tam Lang vẫn lần lƣợt ra đời khẳng định vị trí của văn học

hiện thực phê phán. Tuy nhiên, văn học hiện thực phê phán thời kì này, trong

một số trƣờng hợp, chỉ phản ánh những nét cục bộ, những hện tƣợng nổi lên

trên bề mặt của xã hội mà chƣa nêu lên đƣợc những vấn đề cơ bản, những vấn

đề có tầm khái quát của thời đại, chƣa tập trung vào những vấn đề có tầm khái

quát của thời đại.

Bƣớc sang thời kì mặt trận dân chủ, văn học hiện thực phê phán phát

triển rực rỡ hơn bao giờ hết. Lực lƣợng sáng tác đông đảo hơn bao giờ hết.

Ngoài các tác giả đã sáng tác từ trƣớc đó, còn có thêm Nguyên Hồng, Nguyễn

18

Đình Lạp, Bùi Huy Phồn, Mạnh Phú Tƣ,...Một số nhà văn Cách mạng cũng

sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê phán nhƣ một vũ khí trên đàn văn học công

khai. Thời kì mặt trận dân chủ, các cây bút hiện thực có điều kiện tung hoành

thoải mái hơn trƣớc và dƣờng nhƣ các tài năng đều gặp mùa nở rộ.

Nếu Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố là những nhà văn tiêu biểu cho

văn xuôi hiện thực phê phán 1930 – 1939 thì Nam cao lại là lá cờ đầu của văn

xuôi đầu những năm 40. Văn học hiện thực phê phán 1940 – 1945 đã có sự

phân hóa. Trƣớc sự khủng bố của địch, đã có những tác giả đi chệch hƣớng

( Nguyễn Công Hoan với Thanh đạm, Danh tiết) nhƣng một số nhà văn hiện

thực lại tiếp thu đƣợc ảnh hƣởng của Đảng qua nhóm Văn hóa cứu quốc bí

mật, đặc biệt là ảnh hƣởng của Đề cương văn hóa 1943. Tuy không trực tiếp

bóc trần những mâu thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội và ca ngợi tinh thần

đấu tranh của quần chúng nhƣng tác tác phẩm của Nguyên Hồng, Nam Cao,

Tô Hoài,...cũng duy trì đƣợc một thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, thấy

đƣợc cái không khí oi bức, dông bão của một xã hội đang ngột thở, đang quằn

quại lột xác để chuyển mình, để đổi thay.

Trong khuôn hình chung đó, những sáng tác của các tác giả hiện thực

phê phán viết về ngƣời phụ nữ đã đóng góp một vị trí không nhỏ trên văn đàn.

Nguyên Hồng (1918 – 1982), nhà văn có tuổi thơ đói khổ, lam lũ, bị hắt

hủi, bị đày đọa trong xã hội cũ mà bƣớc vào làng văn. Ông vƣơn lên mạnh mẽ

nhƣ một mầm cây căng nhựa sống, cứ xuyên qua lớp lớp bùn nâu sẫm, xòe

ngọn lá tƣơi xanh đón ánh sáng mặt trời rực rỡ. Những dấu ấn về cuộc đời đã

in đậm trong trang văn Nguyên Hồng. Đặc biệt, những sáng tác về ngƣời phụ

nữ trong tác phẩm của Nguyên Hồng mang một cái nhìn nhân đạo sâu sắc.

Nguồn suối tình cảm yêu thƣơng của Nguyên Hồng bắt nguồn từ cuộc đời

thực của ông và của những ngƣời đàn bà nghèo khổ ở các ngõ hẻm, ngoại ô

thành phố. Truyện ngắn đầu tay của ông (Linh hồn) đăng trên Tiểu thuyết thứ

19

Bảy năm 1936 kể chuyện ngƣời vợ trẻ đi tù thay chồng vì tội làm muối lậu,

gọi là tù án muối. Chị bị lão cai tù khốn nạn hiếp sẩy thai... Hình ảnh đau

thƣơng của ngƣời đàn bà trẻ bị ném vào giữa cái chuồng súc vật, cuộc đời oan

khổ của chị cứ ám ảnh mãi ngòi bút Nguyên Hồng từ tác phẩm này qua tác

phẩm khác. Có thể nói tác phẩm của Nguyên Hồng (Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu,

Quán Nải, Vực thẳm, Người con gái, Tết của tù đàn bà,...) đã ghi lại đƣợc

những nỗi khổ điển hình của ngƣời đàn bà Việt Nam trong những năm dài

tăm tối trƣớc Cách mạng tháng Tám. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng

ngày càng mài sắc tính chiến đấu. Ông phản đối thái dộ quỳ mọp trƣớc tôn

giáo để cầu xin sự thƣởng phạt công bằng của chúa trong Cái tết của người

đàn bà. Nguyên Hồng ca ngợi ngƣời mẹ Việt Nam, ngƣời đàn bà chịu thƣơng

chịu khó, tần tảo, đảm đang, giàu đức hy sinh, nhƣng ông không lý tƣởng hóa

“đức tính” cam phận, nhẫn nhục, không ca ngợi sự phục tùng nhƣ một số nhà

văn lãng mạn; ông chủ trƣơng đánh thức ở họ tinh thần đấu tranh tự giải

phóng thoát ra khỏi những áp chế (Hai mẹ con). Tiếng nói của họ phải là

“những tiếng kêu lên sự thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay

đổi cho cuộc đời đƣợc ấm no, yên vui, rất xứng đáng phần cho những ngƣời

mẹ hiền từ, chịu khó” (Vực thẳm). Hành động phản kháng của họ phải là “một

sự chùm dậy, hất tung và san bằng những cái đè nén và ràng buộc cái đời

ngƣời đàn bà nhà quê cằn cỗi” (Cô gái quê), một sự “phá bỏ rồi thay đổi hẳn

lại thì mới đƣợc thở một bầu không khí trong lành, một nguồn ánh sáng rực rõ

bên một cuộc đời mới, không đói rét, không đầu tắt mặt tối” (Hàng cơm đêm).

Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong văn Nguyên Hồng bắt đầu từ ngƣời phụ nữ đáng

thƣơng tội nghiệp chấp nhận số phận (Mợ Du) đến những ngƣời phụ nữ dám

vùng lên, hất tung tất cả (Cô gái quê) mong thoát khỏi chuỗi ngày đầu tắt mặt

tối, không lối thoát (Hàng cơm đêm). Đó là những tiếng nói kêu gọi ngƣời

20

phụ nữ của tác giả.

Bên cạnh Nguyên Hồng, Nam cao cũng dành nhiều thời gian và bút lục

khi viết về ngƣời phụ nữ.

Nam Cao (Nguyễn Hữu Tri, 1917 – 1951) sinh ra trong một gia đình

nghèo, cuộc sống khá chật vật. Đói nghèo và bệnh tật đeo đuổi nhà văn từ nhỏ.

Thời kỳ Cách mạng tháng Tám, ông tham gia cƣớp chính quyền, đƣợc bầu

làm chủ tịch xã Lý Nhân – Hà Nam. Ít lâu sau, Nam Cao lên Hà Nội công tác

ở hội Văn hóa cứu quốc. Ông hy sinh khi đang đi công tác tại vùng địch hậu

khi mới 34 tuổi đời. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhƣng những gì Nam Cao để lại

đáng để cho hậu thế ngƣỡng mộ. Giống Nguyên Hồng, những tác phẩm đầu

tay của Nam Cao chịu ảnh hƣởng rõ rệt của văn học lãng mạn. Tâm hồn mơ

mộng trẻ trung cùng những tác động của văn chƣơng lãng mạn đƣơng thời đã

khiến ông hƣớng tới xu hƣớng “nghệ thuật vị nghệ thuật”, thoát ly thực tế.

Nhƣng Nam Cao không dừng lại lâu trong thế giới mơ mộng, ảo tƣởng, mà

nhanh chóng quay trở về với hiện thực. “Nghệ thuật không thể là ánh trăng

lừa dối”. Song hành trên chặng đƣờng sáng tạo của Nam Cao là hình ảnh trí

thức tiểu tƣ sản và ngƣời nông dân. Nổi lên trong đề tài ngƣời trí thức tiểu tƣ

sản là những sáng tác thể hiện nỗi băn khoăn, đấu tranh trong tƣ tƣởng nghệ

thuật của ngƣời nghệ sĩ. Trong truyện ngắn Trăng sáng, nhận vật chính Điền,

nhà văn có xu hƣớng đi theo con đƣờng lãng mạn. Mặc dù phải sống trong

hoàn cảnh túng thiếu, chạy ăn từng bữa nhƣng anh vẫn thèm muốn vƣơn lên

cuộc sống giàu sang, sung sƣớng. Điền thích ngắm trăng đẹp, mơ tƣởng “một

mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay vuốt ve”. Anh thoáng có ý

tƣởng ruồng rẫy vợ, vì chị ta chỉ là ngƣời tầm thƣờng, thô thiển, không hiểu

đƣợc những ý tƣởng cao xa của chồng. Nhƣng điều mà chúng tôi muốn nhắc

đến ở đây không phải là ngƣời nghệ sĩ Điển đã đấu tranh trong tƣ tƣởng nhƣ

thế nào, mà chỉ muốn nhắc đến một khía cạnh rất nhỏ nhƣ bị chìm sau bề nổi

ấy. Nhân vật ngƣời vợ xấu xí thô kệch mà Điền từng có ý nghĩ muốn từ bỏ là

21

ngƣời phụ nữ nhƣ nào?

Ánh trăng với Điền là bao cảm xúc thì với vợ Điền là chỉ là sự tính toán

nhỏ nhen tầm thƣờng, vì nó có nghĩa là nhà đỡ tốn hai đồng xu tiền dầu mỗi

tối. Vợ Điền hay gắt gỏng nhƣng lại rất thƣơng chồng. Đấy, đằng sau những

ngƣời đàn ông mơ mộng xa vời, toan tính những điều lớn lao là những ngƣời

phụ nữ tầm thƣờng nhƣ thế. Họ chấp nhận số phận, và cố gắng hài lòng với

những gì họ đang có. Họ chắt chiu cho cái gia đình nhỏ của mình. Vợ Điền

trong Trăng sáng hay vợ Hộ trong Đời thừa đều có chung tính cách ấy.

Bên cạnh đề tài viết là ngƣời trí thức là đề tài viết về ngƣời nông dân.

Dấu ấn để lại về hình ảnh ngƣời phụ nữ nông dân trong tác phẩm của Nam

Cao có lẽ cũng không tƣơi sáng hơn mảng để tài trƣớc đó. Vẫn nằm trong chủ

đề quen thuộc, ngƣời nông dân phải chịu bao nhiêu áp bức. Nỗi no sƣu cao

thuế nặng, nạn đói khiến con ngƣời phải vật lộn từng giờ, từng phút với

những sức nặng vô hình kìm hãm sự phát triển của con ngƣời. Nông thôn tiêu

điều xơ xác, con ngƣời xấu xí và rách rƣới. Ngƣời phụ nữ ẩn trong cuộc sống

cơ cực ấy không thể thoát khỏi số phận chung. Họ bị tƣớc đoạt hết ruộng đất.

Nhiều ngƣời phải bỏ quê hƣơng đi tha hƣơng cầu thực: xiêu dạt ra thành phố

tìm những căn nhà ẩm thấp trú ngụ nhƣ mẹ con Hiền trong Truyện người

hàng xóm. Tiêu biểu nhất cho thân thận trôi dạt của ngƣời phụ nữ trong truyện

ngắn Nam Cao có lẽ chính là Dần trong Một đám cưới. Dần lớn lên nghèo đói,

đi ở thuê cho nhà địa chủ. Rồi ông bố thu xếp cho con một đám cƣới, một

đám cƣới đón rƣớc dâu trong đêm chỉ có 6 ngƣời cả gia đình nội ngoại. “Cả

bọn đi lủi thủi trong sƣơng lạnh và bóng tối nhƣ một gia định xẩm lẳng lặng

dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ”. Thậm chí không ít ngƣời đã bị xô đẩy đến cái

chết đớn đau, xót xa nhƣ nhân vật bà cái Tý trong Một bữa no.

Thì ra, những ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Nam Cao đều co một

điểm chung nhƣ thế. Không phải là những ngƣời đẹp, khao khát tình yêu,

22

hạnh phúc, tự do cá nhân nhƣ trong văn lãng mạn, ngƣời phụ nữ trong văn

Nam Cao là những con ngƣời xấu xí, nghèo khổ, đói rách. Điều họ mong

muốn dù chỉ là cơm áo gạo tiền, nhƣng đó là những ƣớc muốn quá xa vời.

Tìm trong truyện ngắn Nguyên Hồng, Nam Cao, ta mới tìm thấy đƣợc

cuộc đời những ngƣời phụ nữ trong xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng

Tám: những số kiếp mòn mỏi trong nỗi lo đói rét, trong nghĩa vụ, trách nhiệm

với gia đình, nhƣng, trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, ta đã thấy đƣợc một

điểm sáng.

Ngô Tất Tố (1892 – 1954) đƣợc coi là nhà văn hàng đầu của trào lƣu

hiện thực phê phán ở Việt Nam trƣớc 1945. Tuy xuất phát điểm là một nhà

nho nghèo yêu nƣớc nhƣng ông đã nhanh chóng phấn đấu trở thành bạn

đƣờng của giai cấp công nhân, và sau đó trở thành đảng viên Đảng cộng sản.

Mảng đề tài ngƣời phụ nữ đƣợc Ngô Tất Tố coi trọng. Nhà văn Vũ Trọng

Phụng (1912-1939) từng khen ngợi Tắt đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã

hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai

chƣa từng thấy". Phong Lê, trên Tạp chí Sông Hương tháng 12 năm 2003, gọi

những tác phẩm viết về nông thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn

diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về cảnh ngộ và số phận ngƣời nông

dân Việt Nam" đạt đến "sự xúc động sâu xa và bền vững" (21). Ấn tƣợng bao

trùm về Tắt đèn là một bức tranh đời sống sắc sảo, góc cạnh và chi tiết trên tất

cả mọi chân dung và đối thoại, không trừ ai, trong số mấy chục nhân vật có

tên hoặc không tên, xoay quanh một hình tƣợng trung tâm là chị Dậu. Nhịp điệu của Tắt đèn là một hơi văn mạnh mẽ và rắn rỏi từ đầu đến cuối.

Trong “Tắt đèn”, nhân vật trung tâm chị Dậu có thể coi là nhân vật điển

hình cho những ngƣời phụ nữ trong nông thôn Việt Nam trƣớc Cách mạng

tháng Tám - một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sƣu cao thuế nặng

mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm Tắt đèn không chỉ

23

phản ánh đƣợc sự hống hách, bất nhân, tàn nhẫn của bộ máy quan lại đƣơng

thời, mà còn cho thấy những phẩm chất cao quý của ngƣời nông dân, đƣợc

coi là những kẻ ở dƣới đáy xã hội qua hình ảnh chị Dậu. Dù họ có bị tầng lớp

thống trị lấn át, và dù cuộc sống của họ có tăm tối, cùng quẫn đến mức nào

cũng không thể khiến họ đánh mất những đức tính cao đẹp vốn có, nhƣng

đồng thời cũng thể hiện sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ của những ngƣời

nông dân nghèo. Ngƣời phụ nữ nông dân từ bao đời vẫn cam phận áp bức,

nhƣng giờ đây, họ đã vùng lên – dù hành động của chị Dậu chỉ là hành động

bột phát. Khi câu chuyện kết thúc, chị Dậu vẫn không thoát khỏi cuộc đời tăm

tối của mình, nhƣng qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã nêu lên một

quy luật tự nhiên rằng: ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, và có lẽ đoạn trích

trên chính là dấu hiệu báo trƣớc cho cuộc cách mạng năm 1945. Nói nhƣ nhà

văn Nguyễn Tuân thì : "Ngô Tất Tố đã xui ngƣời nông dân nổi loạn".

Nhƣ vậy, trong cái nhìn tổng thể cũng nhƣ qua những sáng tác của các

nhà văn tiêu biểu của mỗi trào lƣu, ta nhận thấy ngƣời phụ nữ trong văn

chƣơng Tự Lực văn đoàn là những ngƣời phụ nữ đẹp, khao khát và sống hết

mình cho tình yêu. Điều mà các nhà văn lãng mạn quan tâm về ngƣời phụ nữ

chủ yếu là về vấn đề tình yêu, làm thế nào để có đƣợc tình yêu. Do đó, cái kết

chuyện thƣờng đi theo hai hƣớng: hoặc là cái chết để giữ trọn lời thể, hoặc là

chấp nhận số phận đã an bài. Còn ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn hiện thực

phê phán là những ngƣời phụ nữ nghèo khổ, đảm đang trong cuộc sống vật

lộn với cái đói, cái nghèo, với miếng cơm manh áo hàng ngày. Ở đó, ta đã tìm

thấy một sự vùng lên của họ thoát khỏi những gọng kìm xã hội, dù đó mới chỉ

là hành động tự phát, nhƣng nó đã báo hiệu một tƣơng lai tƣơi sáng mới cho

số phận ngƣời phụ nữ sau này.

Tuy Thạch Lam có chân, và cũng là một trong những cây bút chủ chốt

trong Tự Lực văn đoàn, nhƣng cho đến nay, vẫn khó xác định đƣợc văn của

24

ông là hiện thực hay lãng mạn. Có thể hình dung Thạch Lam nhƣ một thuyền

đậu giữa đôi bờ dòng nƣớc. Do đó, những ngƣời phụ nữ trong văn Thạch Lam

vừa mang vẻ lãng mạn thơ mộng, lại vừa rất hiện thực.

1. 2. Hành trình sáng tác của Thạch Lam

1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam:

1.2.1.1. Cuộc đời:

Thạch Lam (1910-1942) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng thuộc

nhóm Tự Lực văn đoàn. Ông cũng là em ruột của 2 nhà văn khác nổi tiếng

trong nhóm Tự Lực văn đoàn là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Ngoài bút danh

Thạch Lam, ông còn có các bút danh là Việt Sinh, Thiện Sỹ.

Thạch Lam sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, nhƣng nguyên

quán ở làng Cẩm Phô, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thị xã Hội An, tỉnh Quảng

Nam). Cha ông là Nguyễn Tƣờng Nhu (1881-1918), thông thạo chữ Hán và

chữ Pháp, làm Thông phán Tòa sứ nên thƣờng đƣợc gọi là Thông Nhu hay

Phán Nhu. Mẹ là bà Lê Thị Sâm, con gái cả ông Lê Quang Thuật (tục gọi

Quản Thuật), ngƣời gốc Huế đã ba đời ra Bắc, làm quan võ ở Cẩm Giàng

cùng thời với Huyện Giám (ông nội Thạch Lam).

Thạch Lam là ngƣời con thứ 6 trong gia đình 7 ngƣời con (6 trai, 1 gái):

Tƣờng Thụy, Tƣờng Cẩm, Tƣờng Tam, Tƣờng Long, Thị Thế, Tƣờng Vinh

và Tƣờng Bách. Trừ ngƣời anh cả Nguyễn Tƣờng Thụy làm công chức,

những ngƣời còn lại đều đã ít nhiều vào sự nghiệp văn chƣơng, trong số đó,

nổi bật là Tƣờng Tam (Nhất Linh), Tƣờng Long (Hoàng Đạo) và Tƣờng Vinh

(Thạch Lam).

Nguyên tên ban đầu của ông do cha mẹ đặt là Nguyễn Tƣờng Sáu, vì

ông là con thứ sáu trong nhà. Khi bắt đầu đi học ở trƣờng huyện Cẩm Giàng

(Hải Dƣơng), bố mẹ ông làm lại khai sinh cho con là Nguyễn Tƣờng Vinh.

Đến năm Thạch Lam 15 tuổi, thấy mình học chậm, cần tăng thêm tuổi để học

25

"nhảy" 4 năm, ông làm lại khai sinh lần nữa, thành Nguyễn Tƣờng Lân.

Ông Phán Nhu mất sớm, bà Phán Nhu phải một mình mua bán tảo tần

nuôi một mẹ chồng và bảy ngƣời con. Ở Cẩm Giàng, Thạch Lam học tại

trƣờng Nam (tiểu học Hải Dƣơng, nay là trƣờng tiểu học Tô Hiệu). Đến khi

ngƣời anh cả là Nguyễn Tƣờng Thụy ra trƣờng dạy học ở Tân Đệ (Thái Bình),

mẹ ông đã đƣa cả nhà đi theo ngƣời con cả, nên Thạch Lam đến học ở Tân Đệ.

Nhƣng ở đây đƣợc một năm, làm vẫn không đủ cho các miệng ăn, mẹ ông dẫn

các con (trừ Nguyễn Tƣờng Thụy) về Hà Nội ở nhà thuê, rồi cứ thế lúc thì ở

Hà Nội, lúc thì ở Cẩm Giàng. Muốn sớm đỡ đần cho mẹ, Thạch Lam đã nhờ

mẹ nói khéo với ông Lý trƣởng cho đổi tên và khai tăng tuổi để học ban thành

chung. Tiếp theo, ông thi đỗ vào Cao đẳng Canh Nông ở Hà Nội, nhƣng chỉ

học một thời gian, rồi vào trƣờng Trung học Albert Sarraut để học thi Tú tài.

Khi đã đỗ Tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học để làm báo với hai

anh. Buổi đầu, ông gia nhập Tự Lực văn đoàn do anh là Nguyễn Tƣờng Tam

sáng lập, rồi đƣợc phân công lo việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày

nay của bút nhóm này. Đến tháng 2 năm 1935, thì ông đƣợc giao làm Chủ bút

tờ Ngày nay.

Khoảng năm 1935, Thạch Lam lấy vợ và đƣợc ngƣời chị (Nguyễn Thị

Thế) nhƣờng lại căn nhà nhỏ tại đầu làng Yên Phụ, ven Hồ Tây (Hà Nội) cho

vợ chồng ông ở. Tuy chỉ là một mái tranh vách đất, thế nhƣng “nhà cây

liễu”là nơi thƣờng lui tới của các văn nghệ sĩ. Ngoài các thành viên trong Tự

Lực văn đoàn, còn có: Thế Lữ, Vũ Hoàng Chƣơng, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân

Sanh, Nguyễn Tuân, Huyền Kiêu, Nguyễn Xuân Khoát...

Một tuổi thơ nhọc nhằn cộng với cuộc sống lao lực vì miếng cơm manh

áo đã làm Thạch Lam sớm mắc căn bệnh lao phổi, một căn bệnh nan y thời

bấy giờ. Ông mất tại “nhà cây liễu” vào ngày 27 tháng 6 năm 1942, lúc mới

32 tuổi, khi đang còn trong độ tuổi rực rỡ trên văn đàn.

Thạch Lam có ba ngƣời con, hai trai một gái: Nguyễn Tƣờng Nhung

26

(sau này là vợ của trung tƣớng Ngô Quang Trƣởng trong quân đội Việt Nam

Cộng hòa trƣớc đây), Nguyễn Tƣờng Đằng, và trƣớc vài ngày khi ông mất, vợ

ông sinh thêm con trai mà sau này là nhà văn Nguyễn Tƣờng Giang. Ông ra đi

để lại ngƣời vợ trẻ cùng với ba đứa con thơ trong cảnh nghèo. Gia đình đã an

táng ông nơi nghĩa trang Hợp Thiện, nay thuộc quận Hai Bà Trƣng, Thành

phố Hà Nội. Theo nhà văn Băng Sơn thì sau khi Thạch Lam mất, vợ và các

con ông có về sống ở Cẩm Giàng với bà Phán Nhu một thời gian rồi vào Nam.

1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác:

Văn nghiệp Thạch Lam có thể tính từ 1931, khi ông bắt đầu viết báo,

viết truyện. Nhƣng sự nghiệp của Nguyễn Tƣờng Lân chính thức xác lập từ

1933 với tƣ cách là thành viên quan trọng cùng hai anh trai Nhất Linh, Hoàng

Đạo và một số văn sĩ khác sáng lập Tự lực văn đoàn. Rồi đƣợc phân công lo

việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày nay của bút nhóm này. Truyện

ngắn đầu tay Cái hoa chanh in trên báo Phong hóa ký bút danh là Việt Sinh.

Bút danh Thạch Lam sẽ gắn bó suốt đời văn Thạch Lam và đi vào lịch sử văn

học Việt Nem hiện đại nhƣ một niềm tự hào từ truyện ngắn Cô Thúy. Sau đó

là một loạt truyện: năm 1934, Thạch Lam đăng bài: Sóng lam, Cung Hằng

lạnh lẽo trên Phong Hóa. Năm 1935, ông tiếp tục đăng Bó hoa xuân, Hy vọng.

Năm 1936, báo Phong Hóa bị giải tán, báo Ngày nay ra đời và Thạch

Lam đƣợc giao làm chủ bút. Ông đã đăng liên tục các bài Những ngày mới,

Duyên số, Một đời người, Đứa con đầu lòng, Một cơn giận.

Năm 1937, trên Ngày nay đã đăng những bài Nhà mẹ Lê, Người lính cũ,

Tiếng chim kêu, Một thoáng nhà thương, Cái chân què, Gió lạnh đầu mùa,

Hai lần chết, Người bạn trẻ, Bà Đầm, Truyện bốn người (truyện dài viết cùng

Khái Hƣng, Hoàng Đạo, Thế Lữ), Nắng trong vườn, Ngày mới (tiểu thuyết

nhiều kì).

Năm 1938, ông đăng Đứa con, Bông hoa rừng, Bóng người xưa, Bên kia

sông, Cuốn sách bỏ quên, Một bức thư, Hai đứa trẻ, Buổi sớm, Cô hàng xén,

27

Tiếng sáo, Tình xưa và tiếp sau đó xuất bản tập truyện ngắn Nắng trong vườn.

Năm 1939, Ngày nay tiếp tục đăng truyện ngắn Tối ba mươi, Dưới

bóng hoàng lan và xuất bản tiểu thuyết Ngày mới.

Năm 1940, đăng Sợi tóc, Hoa đầu mùa…Hoa sen. In Quyển sách, Hạt ngọc.

Nhƣ vậy, hầu hết sáng tác của Thạch Lam đƣợc đăng báo trƣớc khi in

thành sách. Từ năm 1933 đến 1940, trong vòng 7- 8 năm trên hai tờ báo nổi

tiếng Phong hóa và Ngày nay Thạch Lam đã viết và in ít nhất hơn 50 truyện

ngắn trong đó tác giả đã tuyển và NXB Đời Nay đã xuất bản các tác phẩm

gồm có: Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, 1937); Nắng trong vườn (tập truyện

ngắn, 1938); Ngày mới (truyện dài, Nxb, 1939); Theo giòng (bình luận văn học,

1941); Sợi tóc (tập truyện ngắn, , 1941); Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký,

1943). Và hai quyển truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách, Hạt ngọc (1940).

Năm 1957 ở Hà Nội, NXB Minh Đức cho tái bản tập Gió đầu mùa gồm

16 truyện ( thêm hai truyện so với lần đầu là Duyên số và Người lính cũ).

Từ năm 1988 đến nay, lần lƣợt các nhà làm sách dã làm tuyển tập,

tuyển chọn, chọn lọc, phần tác phẩm truyện ngắn Thạch Lam chỉ đƣa vào từ

21 đến 27 truyện (đa số là 23 truyện nhƣ Giáo sƣ Phong Lê đã chọn trong

Tuyển tập Thạch Lam). Trong tình hình lƣu trữ mấy chục năm qua đã gặp rất

nhiều khó khăn, việc tìm lại đầy đủ số truyện ngắn Thạch Lam đã viết quả là

không dễ dàng (không chỉ truyện ngắn mà cả tiểu thuyết của Thạch Lam,

cuốn Thủy Mai cũng chƣa tìm thấy). Mặc dù vậy, với số truyện ngắn hiện có

cũng đã đem lại cho Thạch Lam một vị thế xứng đáng, làm rạng rỡ gƣơng mặt

truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Đây không chỉ là thành quả của Thạch Lam

mà còn có sự góp công của cả văn đoàn Tự lực – nơi hội tụ các anh tài văn

học nhất là các tài năng về truyện ngắn.

1.2.1.3. Thạch Lam qua lời kể của một số tác giả

Nhà văn Thế Uyên (con trai bà Nguyễn Thị Thế, cháu gọi Thạch Lam

28

là cậu), trong bài Tìm kiếm Thạch Lam, có đoạn: “Mẹ tôi bảo chú Thạch Lam

mơ mộng, tế nhị, đa cảm, thì thủa nhỏ đã thế... Và chính ở đây (trại Cẩm

Giàng) những ngƣời đàn ông ngồi uống trà, hút thuốc, nói chuyện tâm đắc...

Có khi bàn chuyện văn chƣơng, báo chí, có thể là chuyện cải cách dân tộc.

Thƣờng trong lúc ấy, Thạch Lam ngồi trong đám bạn văn thơ, bởi tính cách

Thạch Lam chỉ có thế...”

Nhà văn Vũ Bằng kể lại: “Thạch Lam yêu sự sống hơn bất kỳ ai. Anh

quý từ cốc nƣớc chè tƣơi nóng, trang trọng đƣa lên miệng uống một cách gần

nhƣ thành kính... nhƣ thể cảm ơn trời đất đã cho mình sống để thƣởng thức

ngon lành nhƣ vậy. Anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ

lời...khiến ngƣời ta tủi thân mà buồn. Thạch Lam đi đứng nhẹ nhàng… Anh là

một ngƣời độc đáo có tài lại khiêm nhƣờng, ngƣời nhỏ mà nhân cách lớn...Có

lần Thạch Lam nói: Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Ngƣời khổ cách này,

ngƣời cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ. Vì chỉ sống thôi

cũng đã quý lắm rồi. Ngƣời ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi

thƣờng sự sống. Một lần, Thạch Lam cho tiền một đứa trẻ bán lạc rang bị

cƣớp mất tiền, tôi nhắc khéo là có thể bị đứa trẻ đánh lừa, Thạch Lam trả lời:

Bị lừa hay không, cái đó không quan hệ lắm. Mình cần làm một việc xét ra phải làm, theo ý mình...”(2, 375)

Tháng 2 năm 1935, Thạch Lam đƣợc giao quản trị báo Ngày nay. Một

nhà thơ, vì cảnh nhà túng quẫn, cứ đến gặp ông xin tạm ứng tiền nhuận bút.

Nhƣng bạn vay 10 mà trả bài có 3. Có ngƣời nhắc ông sao không chặn lại,

ông vẫn cho tạm ứng và bảo rằng: “Chẳng ai muốn làm một việc nhƣ thế,

ngƣời ta không còn con đƣờng nào khác mới phải làm nhƣ vậy. Nếu không giúp đỡ, họ sống ra sao ?”

Và mặc dù là ngƣời nghèo nhất trong gia đình (nhà tranh vách đất,

thậm chí cái mền không có tiền mua), Thạch Lam vẫn thƣờng mời bạn văn

29

đến chơi nhà và thiết đãi tận tình. Khúc Hà Linh cho biết: “Thạch Lam nghèo

một phần vì sách của ông bán ế, nhƣng không vì thế mà ngƣời vợ hiền thục

kém mặn mà với khách của chồng. Những bữa rƣợu cứ tiếp diễn, và bao giờ

Thạch Lam cũng mời mọc thịnh tình cho đến khi thực khách say mềm. Trong

lúc chè chén, có khi sinh sự ồn ào, những lúc ấy Thạch Lam vẫn chỉ điềm

nhiên nâng chén, không nói lớn, mà chỉ cƣời...” (23)

Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, nhƣng khác với Nhất Linh, Hoàng

Đạo, Khái Hƣng... ngòi bút của Thạch Lam có khuynh hƣớng đi gần với cuộc

sống của những ngƣời dân nghèo khổ.

Trên văn đàn văn học Việt Nam trƣớc cách mạng tháng tám, Thạch

Lam chƣa đƣợc xếp ở vị trí số một nhƣng cũng là một tên tuổi rất đáng coi

trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhƣng sở trƣờng của

ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng nghệ thuật đƣợc bộc lộ một cách trọn

vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam ngƣời ta vẫn nhớ đến

truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở

nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “Mỗi truyện là một bài thơ

trữ tình đầy xót thƣơng” (45, 323). Truyện của Thạch Lam không có cốt

truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: Mỗi truyện ngắn

của Thạch Lam có cấu tứ và giọng điệu nhƣ một bài thơ trữ tình, gợi sự

thƣơng xót trƣớc số phận của những con ngƣời nhỏ bé bất hạnh. Một giọng

văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và

thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc

điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt

chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vƣơng phải.

Trong Lời nhà xuất bản Văn học (khi in lại tác phẩm Gió đầu mùa năm

1982) cũng có đoạn viết nhƣ sau: “Giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa

xuất bản trƣớc Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam viết: "Đối với tôi văn

30

chƣơng không phải là một cách đem đến cho ngƣời đọc sự thoát ly hay sự

quên, trái lại văn chƣơng là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta

có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng

ngƣời đƣợc thêm trong sạch và phong phú hơn".

Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên nhƣ là "Tuyên ngôn văn học" của

Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch Lam, hầu

nhƣ không một trang viết nào lại không thắm đƣợm tinh thần đó. Là thành

viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, song trƣớc sau văn phong Thạch Lam vẫn

chảy riêng một giòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những

cảnh sống đƣợc thi vị hóa, những mơ ƣớc thoát ly mang mầu sắc cải lƣơng, là

những phản kháng yếu ớt trƣớc sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra

trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hƣớng ngòi bút về phía

lớp ngƣời lao động bần cùng trong xã hội đƣơng thời. Khung cảnh thƣờng

thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nƣớc đọng,

những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mƣa phùn gió

bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng ... Trong khung cảnh ấy,

các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than

- Đó là mẹ Lê, ngƣời đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn

Thôn, là bác Dƣ phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây

hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đƣờng

quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn...Tất cả những cảnh, những ngƣời ấy

đều đƣợc mô tả bằng một số đƣờng nét đơn sơ, thƣa thoáng nhƣng vẫn hết

sức chân thực...

Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật

không dữ dội nhƣ Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa nhƣ chị

Dậu của Ngô Tất Tố...Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính

là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông.

31

Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái

chất nhân ái Việt Nam...Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con

ngƣời, quý trọng con ngƣời hơn. Và cũng từ đó ta thƣơng cảm, nâng niu, chắt

gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con ngƣời.

Nhà văn Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (tập 2), tr. 1060, Nxb

KHXH in lại năm 1989 viết: “Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa),

ngƣời ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một phái riêng...Ông có một ngòi bút

lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất

đẹp... Phải là ngƣời giàu tình cảm lắm mới viết đƣợc nhƣ vậy…”

GS. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên

(quyển 3), tr. 490, Quốc học tùng thƣ xuất bản, 1965 cho rằng: “Thạch Lam là

một nhà văn có khuynh hƣớng xã hội...Đối với ông, nhân vật thƣờng là những

ngƣời tầm thƣờng trong xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cô hàng xén ở phố

huyện, cậu học trò đi ở trọ, hai cô gái giang hồ trơ trọi…Và ông thƣờng để ý

vạch vẽ cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến

việc tuyên truyền tƣ tƣởng cách mạng xã hội nhƣ trong các tác phẩm của Nhất

Linh hay Hoàng Đạo…Ta thấy Thạch Lam, luôn hòa đồng trong cái xã hội

nhỏ bé mà ông thƣơng xót với tất cả tâm hồn đa cảm của ông…”

GS. Phong Lê trong Thạch Lam với Hà Nội đăng trên Phong Điệp.net

viết: “Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chƣơng: "Đối

với tôi, văn chƣơng không phải một cách đem đến cho ngƣời đọc sự thoát ly

hay sự quên, trái lại, văn chƣơng là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà

chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa

làm cho lòng ngƣời đọc thêm trong sạch và phong phú hơn".

Có lẽ cả hai phƣơng diện, vừa tố cáo, vừa xây dựng, đều đƣợc Thạch

Lam chú ý; và trong phần thành công của nó, các dấu ấn hiện thực và lãng

mạn trong văn Thạch Lam đều tìm đƣợc sự gắn nối ở chính quan niệm này.

Ở tƣ cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của

32

ngƣời nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chƣa đủ cho nghệ thuật. Có thể,

nhƣng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá

trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhƣng một nghệ sĩ

không thành thực chỉ là một ngƣời thợ khéo tay thôi".

Còn theo PGS. Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển Văn học (bộ mới),

tr. 1621, Nxb Thế giới, 2004 nhận định: “Tình cảm của Thạch Lam chân

thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thƣơng cảm đối với số phận ngƣời

nghèo qua những câu chuyện mang một dƣ vị ngậm ngùi, tội nghiệp.

Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng

điệu riêng: trữ tình hƣớng nội trong truyện ngắn. Ngòi bút của ông thƣờng

khơi sâu vào thế giới bên trong của cái “tôi”, với sự phân tích cảm giác tinh tế.

Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ông, đời sống bên trong

có phong phú hơn, tế nhị hơn; chúng “đem đến cho ngƣời đọc một cái gì nhẹ

nhõm, thơm tho và mát dịu” (Nguyễn Tuân).

Ông là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông

dƣờng nhƣ không có cốt truyện, song vẫn có sức lôi cuốn riêng. Truyện dài

"Ngày mới" của ông không có gì đặc sắc về tƣ tƣởng và nghệ thuật”.

Nhƣ lời nhà văn Nguyễn Tuân trong Nguyễn Tuân, bài viết về Thạch

Lam, in ở cuối sách Tuyển tập Thạch Lam, tr. 323 có viết: “Lời văn Thạch

Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và

sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một

tâm hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh

tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch lam thƣờng bắt nguồn và nảy

nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê.

Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trƣớc cuộc sống của

mọi ngƣời chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ các dƣ

vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”

Khúc Hà Linh (Hiệu trƣởng Trƣờng Văn hóa nghệ thuật Hải Dƣơng)

trong cuốn Anh em Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh: Ánh sáng và bóng tối.

33

Nxb Thanh Niên, 2008, viết: “Thạch Lam có những tháng năm sống nơi thôn

dã, nên trong tác phẩm ông chất chứa nhiều hình bóng con ngƣời và đời sống

làng quê...Ông tả nội tâm nhân vật tài tình, nhuần nhị, tinh tế. Văn ông hài hòa

giữa lãng mạn và chân thực, mà vẫn nồng nàn tình quê, nặng lòng với dân tộc.

Thạch Lam không chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ông còn thành công

trong thể loại bút ký. Hà Nội băm mươi sáu phố phường gồm nhiều mẩu văn

ngắn mà sinh động, thể hiện vốn sống phong phú và tài hoa của ông...”.

Năm 1996, ở Cẩm Giàng có một con đƣờng mang tên Thạch Lam. Đây

là một việc làm mạnh dạn, là cách trân trọng văn chƣơng hiếm thấy tại thời

điểm lịch sử lúc bấy giờ. Nó cho thấy sự đóng góp không nhỏ của Thạch Lam

trong dòng văn học hiện đại.

1. 2. 2. Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam:

Nhận xét khái quát về sự nghiệp văn chƣơng Thạch Lam, Từ điển bách

khoa toàn thƣ Việt Nam có đoạn viết: “Thạch Lam là một cây bút thiên về

tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trƣớc số phận hẩm hiu của những

ngƣời nghèo, nhất là những ngƣời phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm

lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh (Cô hàng xén). Có truyện miêu tả với lòng

cảm thông sâu sắc một gia đình đông con, sống cơ cực trong xóm chợ (Nhà

mẹ Lê). Có truyện phân tích tỉ mỉ tâm lí phức tạp của con ngƣời (Sợi tóc).

Ngày mới đi sâu vào nội tâm của một cặp vợ chồng trí thức nghèo. Chƣa có

truyện nào có ý nghĩa xã hội rõ nét nhƣ các tác phẩm của các nhà văn hiện

thực phê phán. Theo giòng là một thiên tiểu luận viết kiểu tuỳ bút, ghi lại suy

nghĩ của ông về nghệ thuật tiểu thuyết, có những ý kiến hay, nhƣng chƣa đi sâu

vào khía cạnh nào. Cuốn Hà Nội băm sáu phố phường có phong vị đậm đà của

quê hƣơng xứ sở, lại rất gợi cảm. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, giàu chất thơ, sâu sắc, thâm trầm, thƣờng để lại một ấn tƣợng ngậm ngùi, thƣơng xót.” (49).

Khi đi khảo sát các truyện ngắn của Thạch Lam trong “Thạch Lam

truyện ngắn” (chọn lọc), nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006 chúng tôi đã nhận

34

thấy tần suất xuất hiện của các nhân vật ngƣời phụ nữ với tỉ lệ sau:

STT TÁC PHẨM

TỔNG SỐ

SỐ NHÂN

CHIẾM

NHÂN VẬT

VẬT NỮ

TỈ LỆ %

1

Ngƣời bạn trẻ

5 ( Bình, Bào, bà chủ nhà

1

20%

trọ, hai cậu bé em Bào)

2

Ngƣời bạn cũ

4 (“Tôi”, Khanh, bà vú,

3

75%

Lệ Minh)

3

Một đời ngƣời

6 (Liên,

Sinh, Tâm,

3

50%

chồng Liên, mẹ chồng,

đứa con nhỏ)

4

Một cơn giận

7 ( Thanh, “tôi”, ngƣời

2

28,6%

phu xe kéo Dƣ, đội xếp

Tây, bà cụ nhà trọ, vợ Dƣ

và con)

5

Đói

3 (Sinh, Mai, bà Hiếu )

2

66,6%

6

Cái Chân què

3 (“Tôi”, Minh, thầy khán

0

0%

hộ)

7

Ngƣời lính cũ

4 ( “Tôi”, “Ngƣời bạn”,

1

25%

ngƣời lính già, bà cụ bán

nƣớc)

8

Tiếng chim kêu

3 ( ba anh chị em trong

1

33%

gia đình)

9

Trở về

4 (Tâm, vợ Tâm, mẹ Tâm,

3

75%

Trinh)

10

Hai lần chết

6 (Dung, cha Dung, mẹ

4

66,6%

Dung, u già, chồng Dung,

mẹ chồng Dung)

11

NHà mẹ Lê

5 (mẹ Lê, con Tý, con

2

40%

Phún,

thằng Hy, cậu

Phúc,)

35

12

Đứa

con

đầu

5 (Tân, bà đỡ, vú em, vợ

3

60%

Tân, đứa con)

lòng

13

Gió

lạnh đầu

13 (Sơn, Lan, Duyên, Mẹ

7

54%

Lan và Sơn, Vú già, Cúc,

mùa

Xuân, Tý, Túc Hiên, Sinh,

mẹ Hiên)

14

Cuốn

sách bỏ

3 (Thành, Xuân, thiếu nữ) 1

33,3%

quên

15

Hai đứa trẻ

6 (Liên, An, mẹ con chị

4

66,6%

Tý, cụ Thi, bác phở Siêu,

gia đình bác Sẩm,

16

Ngƣời Đầm

4 (“Tôi”, bà đầm, đứa

1

25%

con, đứa bé bán kẹo)

17

Đứa con

5 (Sen, bà Cả, ông Cả,

3

60%

thầy u chị Sen)

18

Trong bóng tối

3 (Diên, Mai, “bà mối”)

1

33,3%

buổi chiều

19

Tình Xƣa

10 (ông Cả Vinh, Hòe,

4

20%

Bình, Lan, Huệ, bà Cả,

Bích, Ngạc, Chi, Hoạt)

20

Sợi tóc

5

(Thành, Bân, “tôi”,

2

20%

Lan, cô nhân tình của

Bân)

21

Dƣới dóng hoàng

3 (Thanh, bà Thanh, Nga) 2

66,6%

lan

22

Cô hàng xén

8 (Tâm, Ái, Lân, bà Tú,

3

37,5%

ông Tú, Liên, Bài)

23

Tối ba mƣơi

2 (Liên, Huệ)

2

100%

36

Nhìn từ kết quả thống kê chúng tôi rút ra kết luận: ngƣời phụ nữ là một

đối tƣợng đƣợc Thạch Lam khá quan tâm. Tuy sự xuất hiện của họ trong các

tác phẩm đồng đều, có lúc toàn bộ câu chuyện chỉ kể về cuộc đời số phận

những ngƣời phụ nữ bất hạnh, đôi khi họ chỉ là nhân vật phụ ẩn sau nhân vật

chính là nam giới, nhƣng dù là nhân vật chính hay nhân vật phụ, ta vẫn tìm

thấy một nét tƣơng đồng trong số họ. Họ sống cuộc đời mờ nhạt, ít có cá tính

riêng, có ƣớc mơ, có khát vọng nhƣng chƣa dám phá bỏ lề lối để đi theo tiếng

STT TÁC

NHÂN VẬT VAI TRÒ

NÉT KHÁI QUÁT VỀ

PHẨM

TRONG TÁC

CUỘC ĐỜI, TÍNH CÁCH

PHẨM

1

Ngƣời

Bà chủ nhà

- Nhân vật phụ

- Sợ lien lụy, phiền hà.

bạn trẻ

trọ

2

Ngƣời

- Khanh

- Nhân vật chính

- Ngƣời vợ có chút gen

tuông.

bạn cũ

- Lệ Minh

- Nhân vật chính

- Ngƣời phụ nữ bất hạnh,

đáng thƣơng.

- Bà vú

- Nhân vật phụ

- Không có nét tính cách

3

Một đời

- Liên

- Nhân vật chính

- Ngƣời phụ nữ đáng

ngƣời

thƣơng, cam chịu chấp nhận

số phận.

- Mẹ chồng

- Nhân vật phụ

- Mẹ chồng cay nghiệt - tính

cách chung của hầu hết các

bà mẹ chồng đối với con

dâu.

4

Một cơn

- Bà cụ nhà

- Nhân vật phụ

- Cụ già lƣơng thiện tốt

bụng.

giận

trọ

- vợ Dƣ

- Nhân vật phụ

- Ngƣời vợ đáng thƣơng và

37

gọi trái tim mình. Cụ thể hơn, trong từng tác phẩm cụ thể, ta có thể thấy:

bất lực khi chồng phải trốn,

con ốm không tiền thuốc

thang

5

Đói

- Mai

- Nhân vật chính

- Ngƣời phụ nữ yêu chồng.

Khi rơi vào cái đói, nàng đã

hy sinh cả danh dự phẩm giá

vì chồng.

6

Cái Chân

Không Xuất hiện

què

7

Ngƣời

- Bà cụ bán

- Nhân vật phụ

- Cuộc sống lặp lại, cuộc đời

lính cũ

nƣớc

nhỏ bé, trầm lặng.

8

Tiếng

- Chị cả

- Nhân vật phụ

- Chƣa hình thành một nét

chim kêu

tính cách.

9

Trở về

- Vợ Tâm

- Nhân vật phụ

- Ngƣời phụ nữ có số phận

may mắn, xuất thân từ gia

đình giàu, đƣợc chồng chiều

chuộng, tƣởng rằng có một

ngƣời chồng tuyệt vời nhƣng

- Mẹ Tâm

- Nhân vật chính

nàng đã nhầm.

- Ngƣời đàn bà bất hạnh, yêu

con vô cùng và hy sinh rất

- Trinh

- Nhân vật phụ

nhiều vì con nhƣng không

may mắn cho bà khi đứa con

bất hiếu.

- Cô gái thôn quê mang đầy

đủ phẩm chất của ngƣời phụ

nữ Việt Nam nhƣng lại đặt

tình cảm nhầm chỗ.

10 Hai lần

- Dung

- Nhân vật chính

- Cô gái hiền lành, thật thà,

38

chết

chất phác, đáng thƣơng, dù

không cam chịu số phận

nhƣng cuối cùng vẫn không

- Mẹ Dung

- Nhân vật phụ

thể thoát khỏi định mệnh.

- Ngƣời mẹ có chút vô tâm

với con gái, chịu ảnh hƣởng

- U già

- Nhân vật phụ

của quan niệm cổ hủ, có

phần tham giàu.

- Ngƣời nghèo về vật chất

- Mẹ chồng

- Nhân vật phụ

nhƣng có tình thƣơng yêu,

Dung)

sự quan tâm nhƣ một ngƣời

mẹ thực sự.

- Giống nhƣ những bà mẹ

chồng khác: giàu nhƣng keo

kiệt, hành hạ con dâu nhƣ

ngƣời ở.

11 NHà mẹ

- Mẹ Lê

- Nhân vật chính

- Ngƣời đàn bà nghèo khổ,

yêu thƣơng con vô cùng

nhƣng không thể thoát ra

khỏi cảnh nghèo khổ, bà đau

đớn bất lực trƣớc hoàn cảnh.

12 Đứa con

- Bà đỡ, vú

- Nhân vật phụ

- Không có tính cách rõ rệt

đầu lòng

em

- Ngƣời vợ ngoan hiền, khéo

- vợ Tân

léo đã biết cách nối sợi dây

tình cảm giữa chồng với

con.

13 Gió lạnh

- Lan

- Nhân vật chính

- Cô bé có tấm lòng tốt

đầu mùa

- Mẹ Lan

- Nhân vật phụ

bụng, giàu tình thƣơng.

39

- Ngƣời mẹ tâm lý, ngƣời

phụ nữ có tấm lòng.

- Hiên

- Nhân vật phụ

- Đứa trẻ con nhà nghèo

- Mẹ Hiên

- Nhân vật phụ

ngoan ngoãn đáng thƣơng.

- Ngƣời mẹ nghèo yêu

thƣơng con, giàu lòng tự

trọng, hiểu chuyện.

14

Cuốn

- Thiếu nữ

- Nhân vật phụ

- Cô gái yêu văn thơ.

sách bỏ

quên

15 Hai đứa

- Liên

- Nhân vật chính

- Cô gái có tốt bụng, nhạy

trẻ

cảm, ngoan ngoãn, có ƣớc

mơ hi vọng vào tƣơng lai

tƣơi sáng hơn cuộc sống

hiện tại buồn tẻ nơi phố

- Chị Tý

- Nhân vật phụ

huyện.

- Ngƣời phụ nữ chăm chỉ,

giống nhƣ những ngƣời dân

phố huyện khác, sống cuộc

- Cụ Thi

- Nhân vật phụ

đời lầm lũi, luẩn quẩn nhƣng

vẫn luôn hi vọng vào một cái

gì đó tƣơi sáng hơn.

- Bà cụ già hơi điên với

tiếng cƣời khanh khách gây

một nỗi ám ảnh về một kiếp

ngƣời tội nghiệp cô độc.

16 Ngƣời

- Bà đầm

- Nhân vật chính

- Ngƣời phụ nữ nƣớc ngoài

giản dị, yêu con, tốt bụng,

Đầm

nhân hậu.

40

17 Đứa con

- Sen

- Nhận vật chính

- Cô gái nghèo khổ, ngoan

ngoãn, chăm chỉ. Cô có may

mắn khi có đƣợc một gia

đình và đứa con của riêng

mình. Số phận của cô cũng

giống nhƣ nhiều ngƣời phụ

- Bà Cả

- Nhân vật chính

nữ khác: an phận với một

gia đình bé nhỏ.

- Ngƣời đàn bà giàu có, keo

- U chị Sen

- Nhân vật phụ

kiệt nhƣng bất hạnh vì luôn

them khát một mụn con mà

không thể.

- Ngƣời mẹ nghèo buộc phải

cho con đi ở trả nợ, nhƣng

rất thƣơng con.

18

Trong

- Mai

- Nhân vật chính

- Cô gái hiền lành đã bị

những cám dỗ vật chất

bóng tối

quyến rũ.

buổi

chiều

19

Tình

- Lan, Huệ,

- Nhân vật phụ

- Nhƣng cô gái ngoan hiền,

luôn giữ đúng mực phép tắc,

Xƣa

Bích

có trái tim đa cảm.

- Bà Cả

- Nhân vật phụ

- Ngƣời phụ nữ cam chịu

đúng với chuẩn mực phong

kiến.

20

Sợi tóc

- Lan, cô

- Nhân vật phụ

- Những cô gái đẹp nhƣng số

phận đa đoan.

nhân tình của

Bân

21 Dƣới

- Nga

- Nhân vật phụ

- Thiếu nữ đẹp duyên dáng,

41

chuẩn mực, giàu tình cảm.

dóng

hoàng

lan

22

Cô hàng

- Tâm

- Nhân vật chính

- Cô gái hiền lành, cần cù,

xén

chăm chỉ, chịu thƣơng chịu

- Bà Tú

- Nhân vật phụ

khó, đảm đang và cam chịu.

- Ngƣời mẹ chuẩn mực.

23

Tối ba

- Liên, Huệ

- Nhân vật chính

- Hai cô gái với kiếp sống

mƣơi

lay lắt đáng thƣơng. Họ ý

thức rõ nét về cuộc đời, số

phận của mình; họ mong

muốn thoát ra nhƣng bất lực.

Bên cạnh truyện ngắn, trong tiểu thuyết và bút kí, ngƣời phụ nữ cũng là

đối tƣợng đƣợc Thạch Lam quan tâm, ƣu ái giánh nhiều trang viết. Khảo sát

trong tiểu thuyết Ngày mới, có 11 trong số 18 nhân vật là nữ (61,1%). Trong

Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam cũng giành nhiều trang văn miêu tả

ngƣời phụ nữ: những thiếu nữ mang nét đẹp cổ xƣa, truyền thống của Hà Nội,

những cô hàng bún, cô hàng vải, cô hàng cau…

Nhƣ vậy, qua tác phẩm của Thạch Lam nói chung và truyện ngắn nói

riêng, dù là nhân vật chính hay nhân vật phụ, dù đƣợc định hình nét tính cách

hay mờ nhạt, ngƣời đọc vẫn nhận ra bóng dáng những những phụ nữ tảo tần,

chịu thƣơng chịu khó với những phẩm chất đạo đức đáng quý của ngƣời phụ

nữ Việt Nam. Ta còn có thể nhận ra ở họ có một tâm hồn nhạy cảm gắn với

42

một ƣớc mơ, một hi vọng, một sự chờ đợi.

Chương 2: Đời sống và thân phận người phụ nữ

trong truyện ngắn Thạch Lam

2. 1. Người phụ nữ trong quan hệ với đời sống xã hội:

2.1.1 Bức tranh chung về đời sống xã hội đương thời:

Thế kỉ XIX kết thúc đồng nghĩa với việc khép lại một thời kỳ trong lịch

sử dân tộc – giai đoạn trung đại, và mở ra một thời kỳ mới; thời kỳ hiện đại.

Đây là một sự chuyển biến mang tính tất yếu của thời đại bởi Thực dân Pháp

đã tiến hành và hoàn thành hai cuộc khai thác thuộc địa (Lần 1: 1897 – 1914,

Lần 2 : 1919 – 1929).

“… Råi mét ngµy kia, bän x©m l¨ng th¾ng trËn ®· lËp ®­îc trËt tù cña

chóng trªn ®Êt n íc. DÇn dÇn, sau lòy tre xanh, trèng mâ CÇn V ¬ng ®· im

tiÕng. Ngän cê phÊt nghÜa ®· v¾ng bãng trªn c¸c ®­êng quan lé, trªn “®ån ¶i

cña quan qu©n”. C©u chuyÖn b×nh T©y phôc quèc chØ lµ mét mí ký øc tª t¸i

mµ t¹m thêi mäi ng êi ®µnh ph¶i nÐn l¹i, vïi s©u xuèng tËn ®¸y cña buång

tim, trÝ nhí. TrËt tù x· héi cò ®· tr¶i qua mét phen ®iªn ®¶o: “Th»ng hãa ra

«ng, «ng hãa ra th»ng”. Uy quyÒn cña l·o Toµn quyÒn Ph¸p ë §«ng D ¬ng

trïm lªn mò m·ng c©n ®ai cña vua quan b¶n xø. ý chÝ cña c¸c thñ hiÕn thùc

d©n lµ linh hån cña bän quan l¹i An Nam trong triÒu, ngoµi tØnh. Mét tèp

quyÒn quý míi võa nh« lªn d íi bµn tay che chë cña bän giÆc. C¶ mét triÒu

®×nh móa may nh¶y nhãt, dµy d¹n rÆt nh÷ng mÆt t«i ®ßi, lò tiÓu tèt t©ng c«ng,

nÊp d íi bãng quan thÇy da tr¾ng cña chóng, ®· gÆp thêi ®Ó mµ ¨n to nãi lín.

Cã nh÷ng tªn båi T©y lµm nªn Tæng ®èc, Th­îng th­. NhiÒu “c« T©y” ®­êng

hoµng lªn mÆt bµ lín. Trong mét n íc thuéc ®Þa ®ang ®×nh trÖ trªn giai ®o¹n

chñ nghÜa phong kiÕn, chÕ ®é quan liªu cña Nam triÒu lµ mét c¸i “®×nh chî”

®Ó mµ ®æi tr¾ng thay ®en, mua quan b¸n t íc. NÞnh hãt, xu phô thµnh mét c¸i

43

“mèt” . (Đặng Thai Mai)

Nhƣ vậy, cơ cấu xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc : thành phố

công nghiệp, đô thị ra đời ; những giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện; ý thức hệ

và những văn hóa mới khiến diện mạo xã hội cũng có sự biến đổi rõ rệt.

Nh ng ®êi sèng vÉn tiÕp tôc, lÆng lÏ, uÊt øc. Ng êi d©n ®en trë l¹i víi tóp

nhµ gianh, ®Ó cµy cuèc, n¹p thuÕ vµ ®i phu. C¸c cËu ®å víi nghÒ cò s¸ch ®Ìn.

TrËt tù x· héi míi ®· ® îc cñng cè. Nh©n d©n sèng trong c¶nh löa báng

n íc s«i, víi s u cao thuÕ nÆng vµ bao nhiªu t¹p dÞch, phu, phen. Nh ng ai

lµ ng êi nghÜ ®Õn nh©n d©n? Trong bÇu kh«ng khÝ chÝnh trÞ håi nµy, mét nçi

ch¸n ch êng buån tñi miªn man ®· rñ v¸ng vµo t©m hån cña con ng êi trÝ

thøc. C¶ mét chÕ ®é cò võa ®æ sôp. Bao nhiªu tÝn ®iÒu thiªng liªng cña kinh

viÖn häc ph ¬ng §«ng còng lung lay tµn t¹ theo. C¸i mµ hµng ngµn n¨m nay

c¸c nhµ nho vÉn gäi lµ “thiªn kinh, ®Þa nghÜa, th¸ng ®¹o, nho phong”, nh×n

qua bao nhiªu biÕn cè võa råi, sao mµ hoang ® êng, mØa mai ®Õn thÕ! Qua

cuéc thö th¸ch võa råi, râ rµng lµ nã kh«ng cßn h¬i søc ®Ó ®èi phã víi t×nh

h×nh míi. H×nh ¶nh cña mét thêi th¸i cæ thÞnh trÞ, th¸i b×nh kh«ng ph¶i lµ mét

chç dùa yªn æn n÷a. ý thøc hÖ phong kiÕn víi tÊt c¶ gi¸ trÞ tinh thÇn cña nã,

nµo c ¬ng th êng, ®¹o lý, nµo häc thuËt, cã vÎ chØ lµ nh÷ng c©u chuyÖn nãi

l¸o tÇy ®×nh kh«ng thÓ lµm ®¹o bïa hé mÖnh cho ai hÕt!

… Gi÷a lóc t©m hån hä ®ang ch¸n n¶n víi lèi häc cö tö vµ ®ang m¬ t­ëng

mét ®êi sèng cho cã chót ý nghÜa t ¬i trÎ vµ xøng ®¸ng h¬n, th× mét luång giã

míi ®· tõ ngoµi kh¬i thæi vµo. C¶ n íc Trung Hoa sïng sôc s«i trong vËn

®éng c¶i c¸ch. Mét sè “t©n th­” v­ît qua hµng rµo thÐp cña bän thùc d©n ®Ó

chuyÓn ®Õn tËn tay ®éc gi¶ thanh niªn ViÖt Nam. TrÝ thøc cña thêi ®¹i b¾t ®Çu

nghe nãi ®Õn lèi häc míi, lèi v¨n míi. Hä võa nh×n thÊy c¶ mét thÕ giíi míi

mÎ, thªnh thang. Hä biÕt lµ ®êi sèng tinh thÇn ngoµi kia cßn cã mét vò trô míi

cña khoa häc, cña kÜ x¶o, huyÒn diÖu, tinh vi: to¸n häc, lý häc, hãa häc, triÕt

häc, ®Þa c­, lÞch sö, chÝnh trÞ, kinh tÕ… vµ bao nhiªu lµ thø “häc” kh¸c n÷a,

“mçi ngµy mét míi, mçi th¸ng mét l¹!”. Mét c¶m gi¸c ®ét ngét: th× ra, l©u

44

nµy c¸c cô ®å nhµ ta chØ lµ lò “Õch ngåi ®¸y giÕng, thÊy bao nhiªu giêi?”…

Sự biến động lớn về chính trị đã kéo theo những biến động lớn về văn

hóa xã hội Việt Nam nói chung và những năm 1930 – 1945 nói riêng. Viết về

sự biến động lớn, sâu sắc trong đời sống xã hội ấy, “ông vua phóng sự đất

Bắc” Vũ Trọng Phụng đã rất thành công khi ghi lại đƣợc một “tấn trò đời” với

đầy đủ những mảnh vỡ của cuộc sống ở xã hội tƣ sản thành thị thời bấy giờ

(với Lục xì, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy tây, Số đỏ,...)

Nhƣng, Nếu nhìn vào những gì Vũ Trọng Phụng ghi lại, ta chỉ hiểu

đƣợc một phần xã hội. Đúng là xã hội “chó đểu”, xã hội của những kẻ giả tạo,

những giá trị đức bị lu mờ. Nhƣng trong xã hội ấy, vẫn còn những ngƣời luôn

cố gắng giữ lại những nét truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc. Qua

những trang văn, Thạch Lam không ném thẳng vào xã hội những câu chua

chát nhƣ Vũ Trọng Phụng. Cũng quan tâm đến con ngƣời trong xã hội ở cả

tầng lớp thƣợng lƣu và bình dân, cả trí thức và nông dân, Thạch Lam mang

đến cho ngƣời đọc một góc nhìn nhẹ nhàng hơn, nhƣng cũng rất “thực”, đan

xen vào đó là nét lãng mạn thuộc về phong cách tác giả.

Đặt trong hoàn cảnh xã hội đầy biến động, ngƣời phụ nữ không thoát

khỏi sự ảnh hƣởng. Nhìn vào cuộc đời ngƣời phụ nữ trong những truyện ngắn

Thạch Lam, ta có thể nhận ra hình ảnh những ngƣời phụ nữ truyền thống, họ

không bị ảnh hƣởng bởi sự biến động của xã hội, họ vẫn giữ truyền thống

“tam tòng tứ đức” trong gia đình, cam chịu trƣớc những định kiến, quan niệm

xã hội truyền thống. Nhƣng, qua chính đời sống ngƣời phụ nữ, cũng có thể

thấy, họ chính là những nạn nhân của xã hội. Qua cuộc đời họ, dù không rõ

nét, Thạch Lam nhƣ góp tiếng nói góp phần tố cáo xã hội, và chỉ cho ngƣời

phụ nữ một con đƣờng thoát khỏi thực cảnh đó. Đây là những đặc điểm ta đã

thấy từ trƣớc đó trong văn học khi nói về ngƣời phụ nữ. Đặng Thai Mai từng

nhận định “Có một điểm lƣu ý: hầu nhƣ tất cả các cây bút của văn học 1930 –

45

1945 thuộc tất cả các khuynh hƣớng, trào lƣu...đều “không hẹn mà cùng gặp

gỡ nhau ở hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt Nam, ở cách xây dựng những mẫu

ngƣời tốt đẹp gần với truyền thống, ở quan niệm” phụ nữ là ngƣời có tính dân

tộc hơn ai hết, và cái đẹp đẽ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, trƣớc hết là của

ngƣời phụ nữ Việt Nam” (25, 64). Tuy nhiên, trong văn Thạch Lam, chúng tôi

nhận thấy sự kết hợp giữa truyền thống và những ám ảnh thời đại – một phần

tất yếu của xã hội Việt Nam 1930 – 1945. Dấu ấn xã hội khiến ta dễ dàng

nhận ra và khu biệt hình ảnh ngƣời phụ nữ trong giai đoạn này với những giai

đoạn trƣớc đó.

2.1.2 Người phụ nữ trước những biến đổi của xã hội

Có thể nói những năm 30 của thế kỷ XX, tƣ tƣởng xã hội Việt nam

đƣợc coi nhƣ là “một đường quành lịch sử” ( Lê Thanh), đƣờng quành đó ảnh

hƣởng và soi chiếu đến mọi vấn đề xã hội. Văn hóa dân tộc đến đây cũng rẽ

sang một đƣờng mới, sáng tác văn học thời kỳ này bớt “khủng hoảng” hơn so

với thời kỳ trƣớc. Các văn nghệ sĩ đã tìm đƣợc cho mình mảnh đất tốt để gieo

mầm, họ đi sâu vào đời sống nơi thôn dã hay những góc khuất của con phố,

miêu tả số phận của những con ngƣời dƣới đáy, để rồi yêu thƣơng họ, nói lên

tiếng nói của họ.

Trong thế giới phụ nữ ở truyện ngắn Thạch Lam, ngƣời đọc dễ dàng

nhận ra dƣờng nhƣ ngƣời phụ nữ ít chịu ảnh hƣởng bởi sự biến động của xã

hội, họ vẫn giữ vững truyền thống xƣa. Bao nhiêu phong trào Âu hóa, đổi mới

không làm lay chuyển họ. Họ vẫn giữ vững vai trò trong gia đình truyền

thống: Họ đứng sau những ngƣời đàn ông theo quan niệm đạo đức phong kiến

Tam tòng tứ đức. Không ai khác, phụ nữ vẫn là ngƣời giữ lửa trong gia đình,

kế tục những gì thuộc về quá khứ. Nhƣng chính họ cũng là những nạn nhân

của xã hội.

2.1.2.1 Bất biến trong sự biến đổi xã hội

Tam tòng tứ đức theo quan niệm phong kiến nhƣ một xiềng xích nặng

46

nề với ngƣời phụ nữ Việt Nam từ bao đời. Và cho đến thời điểm này, dù xã

hội đã chuyển biến rõ ràng, quan niệm xã hội cũng đã có nhiều thay đổi.

Những phong trào Âu hóa, Văn minh du nhập vào Việt Nam và đƣợc nhiều

ngƣời hƣởng ứng, nhƣng dƣờng nhƣ, với những ngƣời phụ nữ trong truyện

ngắn Thạch Lam, những tƣ tƣởng ấy không ảnh hƣởng nhiều đến họ.

Tình xưa kể về mối tình giữa cậu học trò Bình với Lan - con gái ông

Cả Vinh – một mối tình đẹp với đầy đủ những trạng thái tâm lý của một cậu

bé mới lớn, từ khi bắt đầu chớm nở tình yêu cho đến lúc chiếm trọn trái tim

nàng và rồi lạnh lùng rời xa. Nhƣng điều mà chúng tôi muốn nói đến không

phải ở mối tình ấy. Ngay đầu những trang viết, ngƣời đọc nếu tinh ý sẽ nhận

ra một hiện thực – rất thƣờng tình của xã hội cũ – mà đôi khi vẫn còn nhìn

thấy ở xã hội hiện đại.

“Ông Cả ở một lớp nhà cổ, một cái nhà ngói năm gian chạy dài mặt phố

và một căn nhà lá rộng,…Đằng sau nhà có một miếng đất trồng cây cối, ngăn

với bãi cỏ hoang của tỉnh bằng một hàng rào râm bụt thấp. Ngay trƣớc nhà

gạch trông ra, có một cái sân vuông và hẹp, có bể nƣớc lớn. Cái sân đó là

giang sơn riêng của ông Cả: một cái núi non bộ nhỏ trong cái bể con bằng xi

măng và hai dẫy chậu trồng đủ các thứ lan. Cũng nhƣ nhiều ngƣời rỗi khác,

ông Cả có cái ham mê những công việc tỉ mỉ. Sớm chiều lúc nào tôi cũng thấy

ông lom khom ở ngoài sân, cúi mình tỉa xén các chậu lan hay sửa sang non bộ.

Thật là một dịp trọng vọng nếu chậu lan có chúm một dò hoa. Phải nhìn vẻ

vui sƣớng trên mặt ông lúc bấy giờ mới hiểu. Ông gọi chúng tôi ra xem hoa,

với cái tự kiêu của một chủ nhân ông khéo léo; rồi hàng giờ ông đứng lặng

ngắm chậu lan, dƣờng nhƣ để đợi chờ bông hoa nở” (18, 150)

Cuộc sống của ông Cả Vinh khiến ta có thể tƣởng nhầm ông có một gia

đình giàu có sung túc, có nhiều thời gian với những thú chơi tao nhã bình sinh.

Thời gian ông giành hết cho các thú vui. Vậy, vợ ông, con ông thì sao? “ Nhà

47

ông Cả nghèo lại đông con, và số tiền tháng của ba chúng tôi cũng đủ giúp

cho bà Vinh một cái vốn nhỏ để buôn bán. Ông Cả ở một lớp nhà cổ, một cái

nhà ngói năm gian chạy dài mặt phố và một căn nhà lá rộng, đầy những hàng

hóa của bà Cả, rồi đến nhà dƣới và bếp”

Hóa ra, đằng sau ngƣời chồng nhàn rỗi với những thú bình sinh tao nhã ấy, là

bà Cả - ngƣời vợ tảo tần, vất vả một tay cáng đáng công việc gia đình. Gia

đình ấy khiến ngƣời đọc nhớ đến hình ảnh Tú Xƣơng trong Thương vợ – bà

Tú tảo tần mƣa nắng nuôi chồng đủ ăn, đủ mặc, đủ chơi. Ít nhất, Tú Xƣơng

còn biết thƣơng vợ, biết quý trọng vợ, biết nỗi vất vả gian truân của vợ, biết

ơn vợ. Còn ông Cả Vinh, và bao ngƣời đàn ông khác, có thấu hiểu, cảm thông

và biết ơn ngƣời phụ nữ trong gia đình mình hay không?

“Bữa cơm họp đông đủ cả nhà: chúng tôi, anh Hòe và ông Cả ngồi ăn

cơm nhà trên, còn bà Cả với hai cô con gái và đứa em nhỏ ăn riêng dƣới bếp.

Hai mâm cơm khác nhau: bữa cơm chúng tôi ăn ngày nào cũng có thịt cá, còn

bữa cơm ở dƣới nhà chỉ toàn rau muống và đậu phụ. Không bao giờ chúng tôi

thấy có món ăn khác, và có lúc chúng tôi thầm phàn nàn cho sự kham khổ của

bà Cả và hai cô con gái. Vẻ xanh xao của Lan và Huệ không làm chúng tôi

ngạc nhiên. Đó là hai thiếu nữ lặng lẽ và kín tiếng, không lúc nào cƣời nói to.

Bởi vậy tuy hai cô cũng trạc tuổi với chúng tôi, tôi cũng không để ý đến. Ở

trong buồng học trông ra, thỉnh thoảng tôi thấy bóng Lan đi qua sân xuống

nhà dƣới hay với tay múc nƣớc trong bể. Nhƣng cách đi đứng khép nép và

cách phục sức nhã nhặn của cô không gợi ý chúng tôi bao giờ. …” (18, 151)

Cái quan niệm xã hội trọng nam khinh nữ đã có từ ngàn đời, nhƣng đến

thời kì cải cách, đổi mới, âu hóa này mà vẫn còn rõ nét thế thì quả thực những

ngƣời phụ nữ trong gia đình ấy chuẩn mực quá, cam chịu quá, và có lẽ, chính

họ cũng không coi đó là sự cam chịu. Bởi lẽ, họ từ nhỏ đã đƣợc giáo dục theo

48

đạo đức phong kiến, họ coi đó là việc đƣơng nhiên trong gia đình.

Cô hàng xén là một truyện ngắn nổi tiếng của Thạch Lam đã đƣợc

nhiều ngƣời hâm mộ. Cô hàng xén buôn bán tần tảo để nuôi mẹ và các em. Là

ngƣời con gái xinh đẹp nổi tiếng cả một vùng, thời gia đình còn sung túc, cô

đã đƣợc cắp sách đi học, nhƣng nay rời bỏ quyển sách để bƣớc chân vào cuộc

đời tần tảo hy sinh, không bao giờ nghĩ đến cuộc đời riêng của mình. Nghe lời

mẹ, Tâm lấy chồng – cậu Giáo Bài cô đã thầm nhớ. Lấy chồng, nghĩa là phải

gánh thêm cả trách nhiệm nhà chồng. Về nhà chồng mấy hôm nàng lại sốc

vác gánh hàng ra chợ. Hai năm sau Tâm đẻ con trai, nàng đã già đi nhiều,

không còn đẹp nhƣ xƣa. Tâm về nhà thăm cụ Tú, các em. Lân xin một chục

bạc, Tâm hốt hoảng vì chồng đã thôi dạy, nàng phải lo gánh vác bên nhà

chồng. Lân giận dỗi, nàng đành phải lấy tiền đƣa cho em rồi lo âu không biết

lấy gì bù vào chỗ ấy. Cuộc đời nàng u buồn, khó nhọc nhƣ không bao giờ dứt.

Khác với Khái Hƣng, Nhất Linh thƣờng phơi bầy những sai lầm của

nền luân lý cổ, ở đây Thạch Lam có khuynh hƣớng ca ngợi gia đình nền nếp

nho phong, những cái hay cái đẹp còn rơi rớt lại của một nền văn minh tinh

thần đã vang bóng một thời. Hình ảnh cô Tâm gánh hàng xén ra chợ nuôi mẹ,

nuôi các em ăn học để sau này đỗ đạt đi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ già, không

nghĩ đến cuộc đời riêng của mình tiêu biểu cho những cái đẹp tuyệt vời của

nền nếp xã hội thời ấy. “Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quí của

mình. Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà”

Nhìn vào cuộc đời Tâm, độc giả thấy đƣợc cuộc đời chung của những

ngƣời phụ nữ trong xã hội cũ. Dù không viết thêm, nhƣng ngƣời đọc vẫn có

thể hình dung ra cảnh Tâm trở về nhà trong sự đay nghiến chì chiết của mẹ

chồng ra sao. Và cuộc đời vẫn tiếp tục, Tâm vẫn phải è lƣng chống đỡ hai

giang sơn: nhà mẹ đẻ và nhà chồng. Không một lời kêu than, cô coi đó là

trách nhiệm, là nghĩa vụ, là việc đƣơng nhiên của một ngƣời phụ nữ đối với

49

gia đình mình và gia đình chồng, bởi “tại gia tòng phụ, xuất giá tong phu”.

Trong Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là nhà văn chủ trƣơng giải phóng

phụ nữ góa bụa khỏi sự ngăn cấm của cái đạo đức phong kiến giả dối. Nhƣng

trong Lạnh lùng, ta lại thấy ngƣời đàn bà góa trẻ, vì giữ tiếng thơm cho nhà

chồng mà phải hy sinh tình yêu, sống cô đơn lạnh lẽo “Một cơn gió lạnh lọt

vào phòng. Bỗng Nhung đột nhiên thấy trong lòng buồn man mác. Nhìn vẻ

mặt tƣơi đẹp của mình, Nhung nghĩ rằng không bao lâu nữa ngắm lại dung

nhan, nàng sẽ thấy mái tóc nàng điểm sƣơng, mắt nàng mờ; và nhƣ gò má

hồng, tình yê của Nghĩa có ngày kia cũng phai lạt. Tháng đi, năm đi, mùa

xuân của nàng đi qua, không bai giờ trở lại nữ, Nhung thấy hiện ra rõ rang

trƣớc mắt bốn chữ vàng Tiết hạnh khả phong.” “Cùng với hai hàng răng long,

mái tóc bạc, cái phần thƣởng quý hóa ấy sẽ đến kết liểu đời nàng, đời một

ngƣời đàn bà góa trẻ ở vậy thờ chồng, giữ đƣợc vẹn tròn tiếng thơm (Lạnh

lùng)”. Cuộc sống của những ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến xƣa là thế

đấy. Phục vụ chồng, phục vụ con, chồng chết cũng vì bốn chữ “tiết hạnh khả

phong‟ mà ở vậy, chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ còn phơi phới của mình.

Trong sự biến đổi của xã hội, nhiều ngƣời đã thoát ra, tìm hạnh phúc

cho riêng mình, nhƣng Nhung, bà Cả, Tâm và nhiều ngƣời phụ nữ khác trong

truyện ngắn Thạch Lam thì ngoại lệ, họ bất biến trƣớc cái vạn biến của xã hội,

họ vẫn giữ những nét truyền thống của ngƣời phụ nữ trong sự tƣơng quan với

gia đình, xã hội.

2.1.2.2 Nạn nhân của xã hội

Thạch Lam khác với những ngƣời cùng thời, kể cả các anh. Trong khi mọi

ngƣời thi nhau viết tiểu thuyết luận đề, hoặc hiện thực xã hội, với những chủ

đích: lên án xã hội hoặc cổ vũ quần chúng theo con đƣờng mới. Thạch Lam

cũng muốn "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác" đấy, nhƣ

ông viết trong "Lời nói đầu" tập Gió đầu mùa (16,1), nhƣng Thạch Lam

50

không cải thiện, giáo huấn mà ông nhờ thiên nhiên, nhờ tình cờ nói hộ, để

gián tiếp "gơị ý" cho ta biết chỉ một "sự" cỏn con nhƣ vậy cũng có thể thay

đổi định mệnh con ngƣời; ta có thể sống cao hơn, nhân ái hơn, tại sao không

nghĩ ra ?

Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, Thạch Lam không nằm ngoài tôn

chỉ chung của văn đoàn là soạn những cuốn sách có tƣ tƣởng xã hội để làm

cho con ngƣời và xã hội ngày một hay hơn lên, đa số các đề tài trong truyện

ngắn, truyện dài của ông thuộc về khuynh hƣớng xã hội. Nhƣng khác với

Khái Hƣng, Nhất Linh, Hoàng Ðạo chủ trƣơng cách mạng triệt để theo mới,

đả phá đến tận gốc rễ nền tảng văn hoá phong tục cổ hủ, Thạch Lam với lối

trình bầy thầm lặng tế nhị hơn khiến ngƣời ta có cảm tƣởng nhƣ ông chỉ nhìn

xã hội bằng cặp mắt khách quan không liên hệ gì với cuộc cách mạng xã hội

mà những bậc đàn anh của ông đã đề xƣớng lên.

Trong tác phẩm của mình, Thạch Lam hay mô tả kỹ lƣỡng tâm lý và

hoàn cảnh của những ngƣời nghèo, địa vị thấp kém thậm chí mạt hạng trong

xã hội hoặc những ngƣời cùng khổ, diễn tả những thảm cảnh của một giai cấp

là đã gián tiếp cho ngƣời đọc chú ý đến thực trạng hoàn cảnh của họ cũng nhƣ

để mong có một lối thoát nào đƣa họ ra khỏi hoàn cảnh đó.

Trong một số truyện ngắn, ta cũng thấy phảng phất cái không khí xã hội,

mà ở đó, ngƣời phụ nữ luôn là nạn nhân đầu tiên. Mặc dù không mạnh dạn

nói ra nhƣng trong Một đời người, ta thấy hậu quả tai hại của hôn nhân gả ép,

hoặc trong Hai lần chết thấy sự gả bán con gái.

Một đời người kể về Liên, một cô gái không lấy đƣợc ngƣời yêu

(Tâm), vâng lời cha mẹ theo đúng cái hủ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy để

lấy một ngƣời mà nàng không yêu (Tích) để rồi phải cắn răng cam chịu sống

trong một địa ngục, ngƣời chồng vũ phu đánh đập nàng tơi tả, mẹ chồng cay

nghiệt chửi rủa hành hạ nàng đủ điều. Bẩy năm sau gặp lại ngƣời yêu, chàng

51

đổi vào Sài Gòn và rủ nàng trốn theo. Bị chồng đánh đập tàn nhẫn, nàng nhất

quyết theo ngƣời yêu ra đi tìm tự do để rồi hôm sau lại đổi ý, nàng ẵm con ra

sân ga tiễn ngƣời yêu lên xe hỏa vào Nam đem theo cái hy vọng cuối cùng

của đời nàng, Liên nhìn hạnh phúc chạy ngang qua trƣớc mắt mình trên

chuyến xe lửa. Ðạo đức luân lý đã không cho phép nàng bỏ chồng „„theo

trai‟‟, nó chẳng khác nào nhƣ một sợi dây xiềng định mệnh buộc chặt lấy

nàng để tiếp tục sống cuộc đời nô lệ. Dù cảm nhận đƣợc nỗi tủi cực đắng cay,

nhƣng Liên vẫn cắn răng chấp nhận, có lẽ vì quan niệm Xuất giá tòng phu đã

ăn sâu trong tâm thức ngƣời phụ nữ Việt. Họ nhƣ bị trói buộc bằng sợi dây vô

hình không lối thoát.

Dung trong Hai lần chết là truyện về một ngƣời con gái không đƣợc

cha mẹ yêu thƣơng, gia đình trƣớc thuộc gốc quan lại nay nghèo nàn sa sút.

Dung không đƣợc đi học, gầy gò ăn mặc lôi thôi đi đánh đáo với bọn trẻ nhà

nghèo. Bà cụ buôn bán, Tết nhất anh chị có áo đẹp, Dung chỉ mặc quần áo cũ,

lên mƣời sáu bà mẹ gả bán Dung cho một bà nhà giầu, tiền thách cƣới rất lớn.

Nhà chồng giầu có nhƣng keo kiệt, bắt con dâu phải làm việc đồng áng, nhổ

cỏ tát nƣớc, đầu tắt mặt tối, chồng Dung loắt choắt cả ngày chỉ đi thả

diều . .. Dung trốn về quê với mẹ nhƣng bà mẹ chồng đến tận nơi bắt nàng

phải trở về, Dung nhẩy xuống sông cho rảnh nợ đời, đƣợc cứu sống cô lại

theo mẹ chồng về nhà tiếp tục cuộc đời lam lũ, lần này mới đích thực là chết,

chết không ai cứu gỡ đƣợc . . cũng nhƣ trong Một đời người, tác giả cũng cho

ta thấy cái xấu xa tàn nhẫn của tục gả bán và thân phận cay đắng của ngƣời

phụ nữ dƣới chế độ phong kiến mẹ chồng nàng dâu, thật chẳng khác nào nhƣ

truyện Ðoạn tuyệt thu gọn lại.

Trong các truyện ngắn, cũng nhƣ Nhất Linh, Thạch Lam hay đề cập

đến thân phận ngƣời phụ nữ, có khác chăng nhân vật của Nhất Linh là những

ngƣời trong các gia đình trƣởng giả nhƣ bà thông, bà phán. . Ở Thạch Lam là

52

những ngƣời bình dân, hoặc nghèo khổ khốn cùng nhƣ nhà mẹ Lê, chị Sen.

Trong Nhà mẹ lê, Ðứa con ta thấy tác giả đƣa ra cái biên giới phân chia giai

cấp: bọn cƣờng hào và những ngƣời cùng khổ bị áp bức bóc lột. Bất công xã

hội dƣới ngòi bút Thạch Lam đƣợc diễn tả linh động tự nhiên nhƣng cũng

mang tính xây dựng nhƣ ở Nhất Linh, Hoàng Ðạo: trong Nhà mẹ lê ta thấy sự

tàn bạo của bọn cƣờng hào, và trong Ðứa con, là tội ác bóc lột xƣơng tủy

ngƣời nghèo của bọn bất nhân nhƣ ông đã nói trong phần Lời Nói Ðầu của

truyện Gió Ðầu Mùa: “ Văn chƣơng là một thứ khí giới thanh cao và và đắc

lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác,

vừa làm cho lòng ngƣời đƣợc thêm trong sạch và phong phú hơn” (16, 1)

Nhìn vào cuộc đời những ngƣời phụ nữ ấy trong mối liên hệ với xã hội,

dƣờng nhƣ có một sợi xích vô hình trói buộc họ. Họ không thể thoát, không

dám thoát ra khỏi hoàn ảnh thực tại. Xã hội nhƣ tấm hộp vô hình nhốt họ lại.

Nhƣng nhƣ Khái Hƣng nhận định trong phần đề tựa Gió Ðầu Mùa “ Rồi ta sẽ

thấy trong những tác phẩm của Thạch Lam, rất nhiều nhân vật có cặp má

phính và cái bụng xệ. Thạch Lam sẽ trút lên đầu họ hết cả sự căm tức, oán

trách một xã hội trƣởng giả, bất công, tàn ác đối với những ngƣời khốn khó

đáng thƣơng, mà Thạch Lam tha thiết bênh vực và an ủi” (16, 3). Đó chính là

cái bức bối xã hội mà Thạch Lam đã nhận ra, ghi lại và chỉ cho những nhân

vật của mình nói chung và những ngƣời phụ nữ nói riêng.

Trào lƣu Âu hóa du nhập vào Việt Nam đã làm biến đổi hoàn toàn từ

diện mạo đến bản chất con ngƣời thì tất cả những gì là phong tục, lễ nghi,

phép tắc đã bị biến mất. Thay vào đó là sự học đòi lối sống mới nửa mùa,

kệch cỡm, giả dối. Ở xã hội đó có một Xuân tóc đỏ (tiểu thuyết Số đỏ) - một

ngƣời xuất thân từ nông thôn ra thành phố để kiếm sống với những tham vọng

sinh tồn và đổi đời đã tự biến mình thành kẻ lƣu manh, láu cá, thủ đoạn để

từng bƣớc nhảy lên tầng lớp thƣợng lƣu, nhƣng rồi lại chìm sâu trong sự tha

53

hóa tột cùng không lối thoát; có những kẻ học đòi theo lối sống phƣơng Tây

nhƣ vợ chồng Văn Minh, Phó Đoan, Tuyết. Đau đớn hơn, ta nhìn thấy cả bộ

mặt của xã hội trong một đám tang “to tát và đông đúc‟ “đi đến đâu làm

huyên náo đến đấy” của gia đình tƣ sản giàu có nhƣng thiếu vắng hoàn toàn

hai chữ gọi là “tình ngƣời”. Bên cạnh đó, hình ảnh những con sen, thằng ở và

mối quan hệ chủ - tớ đƣợc phản ánh trong tác phẩm Cơm thầy cơm cô của Vũ

Trọng Phụng cũng là một câu chuyện bi hài của một xã hội suy đồi về đạo

đức và nhân phẩm. Nhân vật Đũi điển hình cho số phận những con sen ra

thành phố kiếm sống với số phận long đong. Khi sống trong một xã hội mà

đồng tiền làm lu mờ đi giá trị đạo đức con ngƣời thì mối quan hệ không còn

đơn thuần là chủ - tớ mà diễn ra hết sức phức tạp, trở thành những câu chuyện

bi hài, nhƣ ô sin làm ngƣời tình của ông chủ hay những kẻ cơ hội, coi việc lấy

Tây là một “kỹ nghệ” để ăn chơi… Đứng giữa một xã hội hỗn loạn: Cái cũ

còn tồn đọng, cái mới đƣợc du nhập vào một cách tràn lan không có chọn lọc,

mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời chỉ quanh quẩn bon chen, dối trá là một sự

mất mát quá lớn đối với nền văn hóa truyền thống.

Giống Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam cũng nói về sự tác động của xã hội

vào nhân cách con ngƣời, cụ thể là ngƣời phụ nữ, ta có thể nói đến Trong

bóng tối chiều. Truyện là minh chứng cho sự tác động rõ nét ấy. Mai vốn là

một cô gái nông thôn “ tinh nghịch và lanh lợi, hay cƣời nói luôn miệng ”,

hồn nhiên. Mai yêu Diên là một chàng trai “ ít nói, nhút nhát ”. “ Hai ngƣời

mến nhau từ thuở nhỏ với một tình yêu mộc mạc và đằm thắm của những

ngƣời nhà quê ” (18, 145). Sự biến động của hai gia đình, đã đƣa Diên và Mai

cùng ra tỉnh làm việc. Không khí cuộc sống thành thị, cho dù là nơi nhà máy

đầy bụi bặm, lao động cật lực, con ngƣời vẫn dễ bị lôi kéo bởi những cám dỗ

vật chất, dễ bị sa vào cạm bẫy cũng những kẻ chuyên đi giăng mắc để phục vụ

ý thích của các ông chủ. Mai đã từng bƣớc sa ngã : từ chỗ “ tỏ ý ghét ” những

54

ngƣời con gái “ hay làm đỏm ” đến chỗ thích chơi, rồi thân thiết, đàn đúm

nhập bọn với họ để có “ nhẫn ở ngón tay và hoa tai lấp lánh dƣới mái tóc,

sang trọng nhƣ các bà giàu có ” (18, 147). Mai đã bị kéo vào guồng quay của

một lối sống thực dụng. Diên đã phải chứng kiến Mai – ngƣời bạn gái quê yêu

quý của mình từng bƣớc đi tới một kết cục không mấy sáng sủa “ và Mai đánh

phấn ! Đôi môi có vết son của cô gái trƣớc kia quê mùa mộc mạc làm chàng

rùng mình nghĩ đến những bộ mặt trát phấn, những đôi môi đẫm son nhƣ

thấm máu mà chàng thƣờng thấy trƣớc cửa những chố ăn chơi” (18, 148) .

Nhƣ vậy, Mai cũng là một nạn nhân không y thức đƣợc, còn Diên – “ Diên

bàng hoàng và lạnh lẽo cả ngƣời; chàng hình nhƣ thấy một cái sức mạnh vô

cùng đến chia rẽ Mai và chàng”. Đó là nét hiện thực cuộc sống. Cuộc sống tác

động làm biến đổi tính cách con ngƣời. Thạch Lam đã nắm bắt và phản ánh

khá sâu sắc.

Viết về nhóm ngƣời đã bị xã hội làm cho tha hóa, Thạch Lam vẫn dành

những trang văn ƣu ái.

Tối Ba Mươi là một truyện ngắn đặc sắc, cảm động đầy nƣớc mắt về

thân phận của những ngƣời cùng mạt tận đáy xã hội. Liên và Huệ, hai chị em

họ, bỏ nhà đã bẩy tám năm nay sống đời giang hồ trụy lạc. Liên mua đồ cúng

giao thừa về khi Huệ còn đang ngủ. Họ dở các gói thức ăn ra, nào lạp xƣởng,

bánh Trƣng, giò lụa. Huệ rớm nƣớc mắt nhớ tới thời thơ ấu, nàng mặc áo mới

ngày mồng một tết . . nghĩ đến đấy tâm hồn nàng bỗng u ám nặng trĩu. Họ bầy

đồ cúng lên bàn: đĩa cam quít, bánh chƣng, lạp xƣởng rồi cắm hƣơng lên

tƣờng cúng. Ngƣời bồi nhà chứa chào các cô về ăn tết, chỉ còn lại hai chị em

trong căn nhà hoang vắng. Mùi hƣơng tỏa ra khiến họ nhớ đến những ngày

cúng giỗ ở nhà xa xƣa. Liên đứng trƣớc bàn thờ một lúc rồi khóc nấc lên. Hai

chị em tủi thân ôm nhau khóc trong tiếng pháo giao thừa nổ vang.

Ðây là tấn bi kịch cuộc đời tội lỗi đáng thƣơng của hai cô gái nhƣ đã bị

55

xã hội bỏ quên trong khi mọi ngƣời đang tƣng bừng đón giao thừa, đón những

ngày thiêng liêng, vui tuơi nhất của một năm. Hai chị em họ xa nhà từ bao

lâu nay; một ngƣời mẹ chết, cha lấy vợ khác không biết ở đâu, ngƣời kia còn

cha mẹ nhƣng không dám về, họ cô đơn trơ trọi đón xuân trong căn phòng

lạnh lẽo này và chạnh lòng nghĩ đến thân phận hẩm hiu của mình.

Ở Thạch Lam, ta thấy một hiện thực chua chát và tàn nhẫn, thật

không còn gì cay đắng hơn. “- Có gạo đây. Nhƣng đổ vào cái gì bây giờ? Hai

chị em nhìn quanh gian buồng nghĩ ngợi, Liên bỗng reo lên: “Ðổ vào cái cốc

này. Phải đấy, rất là . . .” Nàng im bặt dừng lại. Hình ảnh ô uế vừa đến trí

nàng. Cái cốc bẩn ở góc tƣờng, mà cả đến khách làng chơi cũng không thèm

dùng đến, nàng định dùng làm bát hƣơng cúng tổ tiên” (18, 205). Sống trong

một vũng bùn nhơ bẩn, họ tiếc thƣơng quãng đời trong sạch đã mất đi mà

không sao lấy lại đƣợc, tâm lý chung những kẻ đã mất quá khứ tƣơi đẹp của

mình. Hai con chim lạc loài trơ trọi, lạc lõng giữa đêm giao thừa tƣng bừng

rộn rã khiến ta tƣởng nhƣ họ là nạn nhân của cuộc đời, của xã hội và thấy xót

xa cho cái thân phận cô đơn lạnh lẽo ấy đã bị đời khinh thị rẻ rúng. “Nàng

bỗng nấc lên rung động cả hai vai, rồi gục xuống ghế, tay ấp mặt. Những giọt

nƣớc mắt nóng chảy tràn mí mắt nàng không giữ đƣợc; Liên cảm thấy một nỗi

tủi cực mênh mông tràn ngập cả ngƣời, một nỗi thƣơng tiếc vô hạn; tất cả

thân thế nàng lƣớt qua trƣớc mắt với những ƣớc mong tuổi trẻ, những thất

vọng chán chƣờng” (18, 206) . Tấn bi kịch đầy nƣớc mắt cuộc đời hai ngƣời

con gái đáng thƣơng lỡ sa chân xuống hố sâu tội lỗi, ngụp lặn trong bể khổ

mênh mông, một tác phẩm tuy ngắn ngủi nhƣng cũng chan chứa tình thƣơng

yêu đồng loại.

Cùng thời với Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan - một nhà văn hiện thực

nổi tiếng, cũng đề cập đến cuộc sống của những cô gái giang hồ nhƣng ngƣời

đọc nhận thấy sự đối lập gay gắt trong cách nhìn, thái độ của mỗi nhà văn về

56

loại nhân vật đặc biệt này. Cô gái làng chơi trong Ngựa người - người ngựa

và một số tác phẩm khác của Nguyễn Công Hoan đều đƣợc miêu tả là những

kẻ trơ trẽn, hƣ hỏng. Trong khi đó, hai cô gái trong Tối ba mươi của Thạch

Lam lại rất đáng thƣơng. Những cô gái hành nghề ở “nhà săm”, sống xa gia

đình, ngày tất niên nhƣng vẫn không quên nghi lễ truyền thống - cúng giao

thừa. Giây phút thiêng liêng ấy khiến hai cô gái đáng thƣơng kia phải tự nức

nở thƣơng hại cho chính mình. Họ đã xót xa, đau đớn, nhục nhã và ngập tràn

trong nƣớc mắt là nỗi buồn, nỗi ân hận của những ngƣời vốn lƣơng thiện

nhƣng lại bị dòng đời xô đẩy mà lỡ vận, sa cơ. Với lòng nhân hậu sâu sắc,

Thạch Lam nhìn thấy trong sâu thẳm tâm hồn họ cái đốm sáng thiên lƣơng

vẫn âm ỉ cháy nên nhà văn vừa cảm thông vừa trân trọng. Tƣ tƣởng tiến bộ

này khác hẳn với cái nhìn có phần khe khắt của Nguyễn Công Hoan và cũng

không giống với quan niệm hiện đại đến mức phóng túng của Nhất Linh, Khái

Hƣng khi xây dựng nhân vật Tuyết dù có những cơ hội để thoát khỏi “đời

mưa gió” nhƣng lại tự cho rằng đó chính là số phận của mình nên tiếp tục dấn

thân vào cuộc đời ô nhục mà không chút phân vân, do dự.

Có thể nói, khi xây dựng chân dung những nhân vật phụ nữ, Thạch lam

đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc đời sống nội tâm của nhân vật, qua đó nhà văn

hƣớng ngƣời đọc đến một cái nhìn đa diện, nhiều chiều về con ngƣời. Vì thế,

mỗi nhân vật của Thạch Lam nhƣ gần gũi, sống động, nhân ái và tốt đẹp hơn.

2. 2. Người phụ nữ trong quan hệ gia đình, với tình cảm và khao khát

riêng tư:

Mỗi ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam nói riêng và trong văn

học giai đoạn 1930 – 1945 nói chung có một hoàn cảnh khác nhau nhƣng họ

gặp nhau tại một điểm chung . Nói nhƣ Lê Minh Truyên thì „„hoàn cảnh mỗi

nhân vật có khác nhau ít nhiều, nhũng nỗi éo le bất hạnh của họ cũng không

giống nhau, nhƣng tính cách, tâm hồn, nhân cách của họ thì giống nhau đến

57

mức gần nhƣ trở thành khuôn mẫu‟‟ (43 , 89)

2.2.1 Người phụ nữ trong đời sống gia đình

Trong gia đình, ngƣời phụ nữ có vai trò là ngƣời giữ lửa, giữ gìn nếp

nhà. Những ngƣời mẹ, ngƣời vợ bao đời thầm lặng hy sinh cho chồng, con.

Mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, nhƣng họ thƣờng phải chịu cuộc

sống cơ cực, bất hạnh. Cuộc sống có quá nhiều khó khăn cùng với những

quan niệm cổ hủ lạc hậu từ bao đời vẫn đè nặng đôi vai những ngƣời phụ nữ.

Nhƣng không vì thế mà ngƣời phụ nữ cam chịu, họ vẫn luôn có những ƣớc

mơ, khao khát mãnh liệt trong tình yêu, trong cuộc sống, trong hôn nhân.

2.2.1.1 Những thân phận cơ cực, kém may mắn:

Điều đáng ghi nhận ở Thạch Lam là ông không chỉ khám phá, thể hiện

một cách chân thực cuộc đời cơ cực của những ngƣời phụ nữ suốt đời tần tảo

vì gia đình, chồng con với bao khổ đau mà còn phát hiện ra ở những số phận

bất hạnh ấy những vẻ đẹp tâm hồn thật thánh thiện, cao quý.

Những ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam phần nhiều là

những ngƣời con gái, ngƣời vợ, ngƣời mẹ bất hạnh.

Nhân vật Dung trong Hai lần chết gặp phải sự thờ ơ, lãnh đạm từ phía

cha mẹ ngay từ lúc chào đời. Lớn lên, cha mẹ gả cô cho gia đình giàu có.

Cuộc sống tƣởng từ đây hạnh phúc, nào ngờ gặp phải ngƣời chồng nhu nhƣợc

“vừa lẩn thẩn, vừa ngu đần”, bà mẹ chồng thì ác nghiệt và luôn tìm cách đay

nghiến con dâu, còn hai cô em chồng “ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị

mắng thêm” khiến Dung khổ sở vô cùng. Trong khi đó, ngƣời mẹ mang nặng

đẻ đau ra cô thì rũ bỏ trách nhiệm với con bằng thái độ thật vô cảm, tàn nhẫn

“chỉ biết không phải là con tôi nữa thôi”. Cuộc sống nhƣ địa ngục ấy khiến

Dung “ƣớc ao chết nhƣ một cách thoát nợ” mà không đƣợc. Khổ đau chồng

chất khổ đau, bất hạnh càng thêm bất hạnh. Dung “không bấu víu vào đâu

58

đƣợc nữa: và cũng “không ai cứu vớt nàng nữa”. (18, 76, 78)

Nếu nhƣ chồng Dung là kẻ nhu nhƣợc, thì Tích - chồng Liên (Một đời

người) - lại là kẻ vũ phu ghê gớm. Anh ta sẵn sàng hành hạ vợ bất cứ lúc nào

và vì bất cứ lí do gì. “ Nàng nghẹn ngào, buông đũa đứng dậy toan bƣớc

xuống dƣới nhà. Nhƣng có tiếng xô ghế, rồi một bàn tay nắm chặt lấy cổ

nàng : - Mày bảo mẹ tao ác à ? Không ác để cho mày tự tiện đi theo trai phải

không ? Bàn tay nhƣ sắt bóp chặt xoay nàng lại. Liên thấy giáp mặt mình, cái

mặt ghê sợ của Tích, hai mắt đỏ ngầu. Cái giận dữ làm tiếng hắn run lên : -

con đĩ ! Liên thoáng nghĩ đến nét mặt thanh tao của Tâm ban sáng. Nàng

khinh bỉ nhìn chồng : - Buông tôi ra ! Rồi nàng gục xuống dƣới những cái

đấm, đá nặng nề. Lòng ghen ghét làm Tích khỏe hẳn lên. Hắn nghiến răng lại

đánh túi bụi ” (18, 25). Cả chồng và mẹ chồng đều tàn bạo, vô tình nên Liên

chỉ còn biết trông vào đứa con lên 6 làm chỗ dựa về tinh thần nhƣng đau đớn,

bất hạnh thay khi nó cũng “xấc láo nhƣ bố”. Tất cả những đau đớn về thể xác

và tinh thần của Liên chỉ đƣợc “quên đi trong chốc lát” mỗi khi hết giờ làm

việc để đƣợc cùng các chị em rảo bƣớc trên vỉa hè và trò chuyện. Nhƣng liền

ngay sau đó, “nàng không còn vui vẻ gì nữa vì sắp về đến nhà” bởi ngôi nhà

ấy với cô chỉ là “một cái địa ngục” không hơn không kém. Đến mức nhân vật

phải băn khoăn không hiểu do đâu mà “chồng nàng và mẹ chồng lại ác nghiệt

với nàng đến thế”. Câu hỏi ở cuối tác phẩm lại càng khẳng định, nhấn mạnh

thêm nỗi bất hạnh của “một đời ngƣời” mà ngƣời đàn bà bất hạnh này phải

gánh chịu. Đọc những trang truyện này, ngƣời đọc nhƣ cảm nhận đƣợc một

tâm sự sâu kín, một lời trách móc âm thầm mà thống thiết của nhà văn qua

những số phận bất hạnh. Đó là sự phản đối chế độ gia đình phong kiến cổ hủ -

một chế độ vô nhân đạo với những ngƣời phụ nữ ở ngay trong gia đình và do

chính những ngƣời thân của họ.

Ở truyện Trở về, nhà văn tập trung miêu tả nỗi khổ đau của bà mẹ già

59

nơi thôn quê nghèo khó vì đứa con bất hiếu. Ngƣời mẹ đã tần tảo sớm hôm

nuôi Tâm ăn học nên ngƣời nhƣng khi đƣợc ra thành phố, cuộc sống bon chen

danh lợi đã khiến anh ta quên hẳn ngƣời mẹ ở quê nhà. Trong sáu năm biền

biệt, Tâm không một lời hỏi thăm và cũng không để ý đến những bức thƣ của

mẹ gửi từ quê ra với bao tình cảm ân cần, đằm thắm. Đốn mạt hơn nữa, vì sợ

bị phát hiện là mình có ngƣời mẹ nghèo khổ ở quê nên khi lấy vợ Tâm đã

không báo tin cho mẹ biết. Bất đắc dĩ phải về thăm mẹ, anh ta đáp lại tình

cảm của mẹ bằng một thái độ kiêu căng, khó chịu. Và lúc “ra khỏi nhà Tâm

nhẹ hẳn ngƣời” rồi lái xe chạy làm bùn bắn lên hai ngƣời phụ nữ bên đƣờng

mà anh ta thừa biết đó là mẹ và cô hàng xóm tốt bụng. Lúc này, “không còn

một cái gì ràng buộc Tâm với cuộc sống thôn quê nữa” (18, 69) nên anh ta

chẳng mảy may động lòng thƣơng hay hối hận. Ở đây, nhà văn không chỉ

khiến ngƣời đọc phải phẫn nộ vì sự vô ơn của đứa con mà còn đau xót cho số

phận bất hạnh của ngƣời mẹ.

Trong Một cơn giận, nhân vật “tôi” kể lại câu chuyện một cơn giận vô

tình ám ảnh anh. Trong một buổi chiều đông, lòng buồn bực chán nản, thấy

khó chịu và gắt gỏng, không muốn làm việc gì. Bực tức với anh phu xe tay,

nhân vật “tôi” mặc kệ sự cầu xin và ánh mắt khẩn khoản của anh ta, “tôi” trả

lời viên đội xếp về địa điểm mình lên xe khiến anh phu xe bị bắt về bóp. Khổ

sở những ngày sau vì hối hận, nhƣ có một cái gì nặng nề đè nén trên ngực làm

mình khó thở, “tôi” tìm đến nơi ở ngƣời phu xe. Hỏi ra mới biết, ngƣời phu xe

tên Dƣ. Vì không có tiền nộp phạt chuộc xe về, Dƣ bị đánh thừa sống thiếu

chết, về tới nhà trọ còn không lê nổi, vậy mà vẫn bị bắt hôm sau trả tiền. Có lẽ

vì sợ tên cai xe không dám về, mà về cũng không có tiền cũng chết. Chồng bị

đánh thừa sống thiếu chết, lại phải trốn biệt không biết tăm hơi đâu, không

biết anh phu xu Dƣ có sống nổi qua ngày. Nhƣng rõ ràng, ngƣời vợ và đứa

con ốm yếu của anh đã thấy rõ số phận. “Tội nghiệp cho vợ con chú đây, ốm

60

đã mấy ngày nay không có thuốc. Đứa cháu không biết nó có qua khỏi đƣợc

không”. Và ngay sau đó ngƣời đọc có câu trả lời “Qua ngƣỡng cửa, tôi va

phải một ngƣời đàn ông ốm yếu tay cắp một cái áo quan con bằng gỗ mới.

Đến bên đƣờng, tôi nghe thấy trong căn nhà lụp xụp đƣa ra tiếng khóc của hai

ngƣời đàn bà. Đứa bé con đã chết” (18, 31). Chồng bị đánh thừa sống thiếu

chết mà phải trốn biệt, đứa con cũng không qua khỏi cơn bệnh, ngƣời vợ,

ngƣời mẹ còn lại sẽ ra sao ? Dù ngƣời vợ của Dƣ không phải là nhân vật

chính của Một cơn giận, nhƣng trong câu chuyện “tôi” kể, ta vẫn nhìn đƣợc số

phận cơ cực, bất hạnh của chị. Chị cơ cực vì đói nghèo, và chị bất hạnh vì chỉ

trong chốc lát đã mất cả chồng và con. Còn nỗi bất hạnh nào hơn nỗi bất hạnh

của ngƣời mẹ nhìn đứa con ốm yếu gầy gò, từng phút, từng giây chết dần chết

mòn trong sự bất lực.

Trong sáng tác của Thạch Lam, ta còn gặp không ít những ngƣời phụ

nữ có số phận bất hạnh do cuộc sống thất cơ lỡ vận. Đó là bà mẹ Lê (Nhà mẹ

Lê) góa chồng để phải nhọc nhằn, tần tảo nuôi đàn con thơ 11 đứa. Tình thế

cùng quẫn, bà phải nhẫn nhục mang rá vay gạo nhà giàu. Nhƣng hai lần đi,

hai lần mang rá về không. Thậm chí lại còn bị chúng xua chó cắn chết. Chỉ

trong ít trang truyện ngắn ngủi nhƣng nhà văn đã phản ánh một cách chân

thực cuộc sống và số phận bất hạnh của ngƣời lao động trong xã hội cũ. Vì

miếng cơm manh áo hàng ngày mà biết bao gia đình phải ly tán, phiêu bạt,

thậm chí phải chết một cách thật oan ức. Ở đây ta thấy có sự gặp gỡ ở một

mức độ nào đó giữa Thạch Lam và Nguyên Hồng. Nhà văn Nguyên Hồng đã

làm cho ngƣời đọc xúc động khi gợi lại cái chết thảm thƣơng của cô Mũn

(Đây bóng tối). Cô Mũn chết đi để lại ngƣời chồng mù lòa và bốn đứa con thơ

dại. Còn mẹ Lê liệu có nhắm mắt đƣợc dƣới suối vàng khi mà trên dƣơng thế

11 đứa con thơ dại chẳng biết sẽ ra sao trƣớc cuộc đời đầy giông tố? Rõ ràng,

61

tuy không cùng số phận với nhân vật nhƣng Thạch Lam đâu phải chỉ là một

ngƣời khách qua đƣờng bởi trái tim vốn đầy lòng trắc ẩn của nhà văn nhƣ run

lên khi viết về thân phận những con ngƣời bất hạnh.

Cuộc đời Liên, Huệ - hai cô gái giang hồ trong Tối ba mươi cũng

không ngoại lệ – cuộc đời của những con số không tròn trĩnh : không gia

đình, không quê hƣơng, không chốn nƣơng tựa dù trong tâm tƣởng, không

còn lại gì sạch sẽ kể cả vật dùng để cắm hƣơng. Lời khấn bái tối giao thừa

nghẹn lại vì không biết khấn gì ? khấn ai ? Ngay lời chúc của ngƣời bồi cũng

không nỡ nói hết vì biết chúc gì ? Mọi nẻo đƣờng đều đã bị chắn lối, hƣớng

về nhà thì Huệ „„còn nhà đâu nữa mà về ? Mẹ chết rồi, cha đi lấy vợ khác

không biết ở đâu. Đã bảy tám năm nay nàng không còn về đến làng (...) Liên

còn cha mẹ nhƣng Liên không dám về‟‟. Một ngƣời không có nhà để về, một

ngƣời có nhà mà không dám về. „„Hôm nay, ngày cuối năm sum họp hai

ngƣời ở căn buồng này, trong một cảnh ăn tết lạnh lẽo‟‟. Họ ở lại trong căn

phòng bẩn thỉu với „„cái giƣờng Hồng Công cũ, đồng han và gỉ sạm, cái bàn

gỗ ẩm ƣớt ở góc tƣờng, hai cái ghế long chân‟‟ (18, 210). Cuộc sống qua ngày

của Liên và Huệ dƣới ngòi bút của Thạch Lam đáng thƣơng hơn đáng giận.

Số phận của họ cũng không nằm ngoài số phận chung của ngƣời phụ nữ trong

xã hội truyện ngắn Thạch Lam.

Ngƣời phụ nữ trong thế giới truyện ngắn Thạch Lam dƣờng nhƣ không

ai giống ai : Mỗi ngƣời có một cuộc đời, một hoàn cảnh, một số phận riêng.

Đó là ngƣời đàn bà bị chồng và mẹ chồng hành hạ nhƣ Liên trong Một đời

người, là ngƣời con dâu bị bóc lột đay nghiến nhƣ Dung trong Hai lần chết, là

ngƣời mẹ bất hạnh khi có đứa con bất hiếu nhƣ Tâm trong Trở về, là ngƣời vợ

của phu xe Dƣ nghèo nàn, ốm yếu bệnh tật, mất cả chồng, con, là mẹ Lê đau

đớn không phải vì cái chết mà vì bất lực khi phải để lại đàn con nheo nhóc mồ

côi trên cõi đời...Bằng ngòi bút của mình, Thạch Lam đã cho ngƣời đọc hình

62

dung về cuộc đời chung của những ngƣời phụ nữ trong xã hội những năm

1930 – 1945. Ở đó, ngƣời phụ nữ luôn là ngƣời chịu nhiều cơ cực, bất hạnh.

Chính nét vẽ này khiến văn Thạch Lam mang chất hiện thực và thấm đẫm

tinh thần nhân đạo.

Cũng cần nhận định thêm rằng, không phải nhân vật phụ nữ nào trong

trang văn Thạch Lam cũng cơ cực, bất hạnh về đời sống vật chất, tinh thần.

Cũng có những ngƣời phụ nữ đƣợc sống một cuộc đời sung túc hơn, không

phải lo kinh tế gia đình.

Khanh - ngƣời vợ trong Người bạn cũ không phải nhân vật chính. Cuộc

đời Khanh so với Liên (Một đời người), Dung (Hai lần chết), ngƣời vợ của

phu xe Dƣ (Một cơn giận), mẹ Lê (Nhà mẹ Lê),..may mắn hơn rất nhiều. Cô

là ngƣời phụ nữ có chồng là một viên chức ở tỉnh nhỏ, „„ sống cái đời yên

lặng, trƣởng giả, một đời ăn no mặc ấm, không phải lo lắng gì‟‟. Khanh có

chồng yêu thƣơng, con ngoan ngoãn. Gia đình có cả vú già giúp việc. Nếu

không có sự xáo trộn gì, có lẽ cuộc đời Khanh sẽ không có gì đáng nói.

Nhƣng, thử đặt một giả thuyết, nếu chồng Khanh cũng giống nhƣ thầy của

Liên trong Hai đứa trẻ, cũng giống Sinh trong Cái đói ? Thầy của Liên từng

làm công sở, và gia đình Liên từng sống những ngày sung sƣớng ở thủ đô, khi

mà Liên đƣợc đi dạo trên bờ hồ, đƣợc ăn những thứ kem đầy màu sắc. Nhƣng

khi thầy mất việc, Liên và gia đình phải chuyển về phố huyện sống. Và Hà

Nội xa hoa chỉ còn trong kí ức, trong mơ ƣớc của Liên mà thôi. Trong Cái đói,

Sinh cũng từng „„ là một ngƣời có việc làm, còn là một ngƣời lắm tiền‟‟ (18,

39), nhƣng „„chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả

quyết và lạnh lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản thất vọng của mấy

ngƣời anh em cùng một cảnh ngộ với chàng...Từ lúc đó, bắt đầu những sự

thiếu thốn khổ sở, cho đến giờ,... ‟‟ (18, 37). Nếu Sinh không mất việc, chàng

và Mai vẫn sống tiếp những ngày „„sung sƣớng, ái ân, những ngày còn để lại

63

trong trí chàng một cái kỷ niệm êm đềm, mà mỗi khi nghĩ tới, chàng không

khỏi bồi hồi‟‟ (18, 39). Cuộc đời là thế, đôi khi có những việc xảy ra ngoài

dự tính, họ không thể biết trƣớc ngày mai của mình ra sao. Ai dám chắc rằng,

cả đời Khanh sẽ đƣợc sống thanh bình bên ngƣời chồng „„trƣởng giả, một đời

ăn no mặc ấm, không phải lo lắng gì‟‟ cả đời. Nếu chồng Khanh cũng bị mất

việc, bị sa thải ? Lúc đó, cuộc đời cô sẽ rẽ theo ngã nào ? giống mẹ Liên hay

giống Mai ?

Ngƣời vợ của Tâm trong Trở về đƣợc nhắc đến là „„con một nhà giàu

có‟‟, ngƣời chồng „„có một địa vị trong xã hội‟‟. Nàng nũng nịu chồng „„Cậu

ích kỷ lắm, chỉ biết nghĩ đến công việc của cậu mà không biết nghĩ gì đến tôi

cả‟‟ và đƣợc chồng chiều chuộng. Nàng không biết gì về chồng mình. Chồng

trong mắt nàng là ngƣời đàn ông tài giỏi, có địa vị xã hội, yêu thƣơng, chiều

chuộng vợ hết lòng. Nhƣng nàng có phải ngƣời vợ thực sự hạnh phúc ? khi

chồng nàng là ngƣời con bất hiếu, là kẻ bị mờ mắt vì sang giàu, trốn chạy quá

khứ, không dám cho vợ biết về ngƣời mẹ nghèo khổ đã hy sinh vất vả nuôi

chàng. Tâm sợ những ngƣời họ hàng ở làng vì sợ sự nhờ vả. Tâm tin rằng „„đã

làm tròn bổn phận khi mỗi tháng gửi về giúp bà cụ một số tiền. Chàng lại

càng tin nhƣ vậy lắm, khi nghĩ đến những cái khó khắn chàng phải vƣợt qua

để có số tiền ấy. Bao nhiêu sự dối trá chàng phải cần đến để giấu không cho

vợ biết‟‟ (18, 68). Liệu sống với ngƣời chồng bất hiếu với chính mẹ ruột mình,

chạy trốn quá khứ mình nhƣ Tâm, vợ chàng có thực sự là ngƣời hạnh phúc

hay chỉ là một ngƣời phụ nữ bất hạnh mà không biết mình đang bất hạnh.

Liệu một ngày nào đó, Tâm cũng đối xử với nàng tệ bạc khi nàng không còn

giàu sang, khi Tâm gặp một ngƣời phụ nữ sang giàu quyền thế hơn nàng ?

Vậy là, ẩn sau hạnh phúc êm đềm của những ngƣời phụ nữ trong xã hội

ấy vẫn có sự bấp bênh. Không ai biết họ có đƣợc hạnh phúc mãi, hay sẽ có

64

một sự kiện làm thay đổi hẳn số phận, cuộc đời. Ai dám chắc Khanh, vợ Tâm

sẽ không nhƣ số phận của Mai (Đói) khi chồng mất việc, sẽ không giống nhƣ

số phận bà cả Tú (Tình xưa) khi gia đình vào cảnh sa sút.

2.2.1.2 Những con người mang vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam

Nhân vật của Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong

tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam, đặc biệt là hình tƣợng ngƣời phụ nữ.

Cuộc sống nghèo nàn, cùng cực, xã hội xô đẩy đến tận cùng, bế tắc nhƣng họ

luôn ánh lên vẻ đẹp rạng ngời của phẩm giá, xác lập chỗ đứng tốt đẹp cho

mình trong cuộc sống đầy bùn nhơ của xã hội cũ.

Vả chăng, trong Thạch Lam cũng nhƣ trong các nhân vật của ông, sự buồn

chán không hề dẫn tới thái độ buông xuôi, hoặc lối sống lƣu manh tuỳ tiện.

Dù là một bà mẹ khá giả, một ngƣời nông dân, một cô hàng xén, một cô gái

trông hàng cho mẹ, song các nhân vật của Thạch Lam có chỗ giống nhau: họ

đều là những ngƣời tận tuỵ với nghĩa vụ, bổn phận của mình. Ở họ, có sự

lƣơng thiện, sự trong sạch, dấu hiệu của một đời sống nội tâm ổn định. Trong

khi có vẻ nhƣ là chịu đựng, thậm chí nhƣ là đầu hàng, ngƣời ta lại thấy toát

lên ở các nhân vật ấy một khí phách cứng cỏi: họ vẫn là mình; không hoàn

cảnh nào xô đẩy nổi họ.

2.2.1.2.1. Trách nhiệm, tấm lòng hy sinh cao cả

Nhìn chung, các nhân vật nữ của Thạch Lam thƣờng gặp phải số phận

bi kịch. Tuy nhiên, vƣợt lên bao nỗi khổ đau, bất hạnh, những ngƣời phụ nữ

trong sáng tác của nhà văn vẫn luôn cố gắng gìn giữ những phẩm chất cao

quý của tâm hồn. Họ phần lớn là những ngƣời có cuộc sống gia đình không

hạnh phúc, thậm chí là bất hạnh nhƣng cái đáng quý là họ vẫn yêu chồng,

thƣơng con, tần tảo khuya sớm vì gia đình.

Hình ảnh cô Tâm gánh hàng xén ra chợ nuôi mẹ, nuôi các em ăn học,

không nghĩ đến cuộc đời riêng của mình tiêu biểu cho những cái đẹp tuyệt vời

65

của nền nếp xã hội thời ấy. Đó là ngƣời phụ nữ mang đặc điểm chung của tính

cách ngƣời phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, nhẫn nại, chịu đựng.

Nàng cũng là thể hiện của sự chịu khó nhọc nhằn của những ngƣời phụ nữ

Việt Nam đảm đang. “Sáng sớm hôm sau, trong gió bấc lạnh, Tâm đã mở

cổng gánh hàng lên chợ. Sƣơng trắng còn đầy ở các ngõ trong làng . . .tất cả

cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức, nhƣ tấm vải thô dệt đều nhau.

Có phải đâu chỉ một mình cô. Trong lũy tre xanh kia, bao nhiêu ngƣời cũng

nhƣ cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con,

nuôi các em” Tâm chỉ nghĩ đến sự hy sinh cho cha mẹ, cho các em không nỡ

bỏ nhà đi lấy chồng, bà Tú thƣơng con buộc nàng phải xuất giá. Về nhà chồng

đƣợc mấy ngày nàng phải quẩy gánh hàng đi bán ngay. “Bây giờ gánh hàng

đã trở nên quá nặng trên đôi vai nhỏ bé. Chiếc đòn càng cong xuống và rền rĩ.

Ngoài giang sơn nhà chồng nàng phải gánh vác, Tâm lại lo sao kiếm đƣợc đủ

tiền để gửi thêm cho các em ăn học. Trong sƣơng muối sớm, xót và giá lạnh,

nàng đã phải bƣớc ra ngõ và đi chợ rồi . . . Ðời nàng lại đi nhƣ trƣớc, chẳng

khác gì. Những ngày khó nhọc và cố sức lại kế tiếp nhau” (18, 195). Đó là sự

hi sinh lặng thầm nhƣng rất đỗi thiêng liêng của nhân vật. Dƣờng nhƣ với

Tâm, hi sinh cho gia đình trở thành nghĩa vụ, trách nhiệm cao cả mà nàng tự

nguyện làm theo và cũng bắt buộc phải làm theo.

“Một đời người” mở đầu bằng niềm vui, sự vô tƣ thoải mái bên bạn bè

của Liên một cô gái đầy những mặc cảm tủi phận khi lấy phải ngƣời chồng vũ

phu, ngƣời mẹ chồng ác nghiệt. Liên vẫn mơ ƣớc một cuộc đời khác với Tâm

nhƣng trách nhiệm của một ngƣời mẹ, ngƣời vợ không cho phép nàng làm

điều đó. Kết thúc câu chuyện, sau khi bị một trận đòn thập tử nhất sinh của

chồng, hôm sau Liên vẫn tiễn Tâm ra ga đi Sài Gòn “để Tâm một mình bƣớc

lên xe hỏa, mang theo đi cái hy vọng cuối cùng của đời nàng. Khi đoàn xe đã

khuất, Liên thấy bao nhiêu nỗi đau khổ trỗi dậy ngập lòng. Nàng gục đầu vào

66

chiếc cột sắt khóc. Ngày nọ nối tiếp ngày kia, Liên vẫn chịu cái đời khổ sở,

đau đớn mọi ngày.” (18, 23) Cái kết này không có một sự thay đổi nào cho

cuộc đời nhân vật, cho số phận bất hạnh của nhân vật, nó nhƣ làm rõ thêm,

nặng nề thêm cái cuộc đời địa ngục của con ngƣời khốn khổ kia. Hy vọng chỉ

lóe lên một lần trong đời, cơ hội chỉ đến một lần nhƣng trách nhiệm với gia đình

đã không cho phép Liên lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Để rồi cái cuộc đời

tối tăm ấy chỉ biết nhìn lại cái cơ hội vụt mất trong nuối tiếc và đau khổ

Cùng kiểu nhân vật nhƣ Tâm, Liên là hình ảnh mẹ Lê (Nhà mẹ Lê) tần

tảo, nhọc nhằn làm thuê lo miếng ăn cho đàn con; là mẹ cô bé Hiên (Gió lạnh

đầu mùa) và chị Tý (Hai đứa trẻ) vất vả sớm hôm mò cua bắt tép nuôi chồng

con; là chị Sen (Đứa con) cũng vì thƣơng cha mẹ mắc nợ ông bà Cả mà phải

cam chịu đi ở, chịu sự hành hạ tàn nhẫn của chủ. “Chị Sen là con một ngƣời

làng có nợ ông bà Cả. Nghe đâu thầy chị vì chạy cái Nhiêu, phải lên lạy van

bà Cả vay ba chục. Ngày mùa đã trả đƣợc một nửa và ít lãi, còn một nửa chƣa

trả đƣợc, phải đem chị Sen gán làm đứa ở không công. Nhƣng mẹ chị Sen nói

mãi, bà Cả rộng lƣợng hẹn một năm cho hai áo cánh, một cái áo nâu dài và

hai cái quần sồi. Mẹ chị Sen cám ơn lòng tử tế cao cả của ngƣời chủ nợ. Bà

dặn con ở lại hầu hạ ông bà Cả chu đáo, rồi về” (18, 137). Hiếu thảo, chị Sen

ở lại làm kẻ hầu ngƣời hạ không công. Quán xuyến hết công việc trong nhà từ

gánh nƣớc bổ củi, làm cơm, đầu tắt mặt tối suốt cả ngày mà vẫn bị mắng chửi.

Ở với gia đình nổi tiếng keo kiệt, ác nghiệt, những lần “thâm tím cả mình

mẩy, một vết roi qua môi làm rƣớm máu” là chuyện cơm bữa với chị Sen.

“Chị vừa xoa bóp vừa than thở: - Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu

khổ thế này”. Chị Sen cam chịu không dám cãi lại nửa lời bởi thầy u chị mắc

nợ bà Cả. Phận làm con, chị sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình. Cũng may, một

năm sau, chị đã thoát đƣợc gánh nặng ấy.

Trách nhiệm trong gia đình khiến ngƣời phụ nữ phải hy sinh nhiều quá.

67

Có những lúc, nhân vật của Thạch Lam còn phải hy sinh cả danh dự, phẩm

giá của mình vì chồng mà không một lời thanh minh, giải thích. Mai trong

Đói vì thƣơng chồng, muốn đƣa gia đình thoát khỏi cơn nghèo đói, cùng quẫn

mà phải bán mình trong nỗi đau ê chề, tủi nhục.

Từ ngày bị sa thải, Sinh phải tạm biệt cái đời phong lƣu và sống cảnh

thiếu thốn, khổ sở. Chàng dần quen với cái mệt lả ngƣời đi vì đói. Và vợ

chàng, Mai với cái thân hình mảnh dẻ, gầy gò trong chiếc áo the mỏng manh

làm chàng xót thƣơng. Nhƣng chàng bất lực. Đã hai ngày rồi cái đói ám ảnh

gia đình bé nhỏ của Sinh. Và Mai, đang phải chạy vạy để vay tiền mua gạo.

Nhƣng “Ai cho chúng mình vay bây giờ, Bà ấy còn nhớ đâu đến khi trƣớc vẫn

nhờ vả mình”, “Thói đời vẫn thế, trách làm gì. Nhƣng bây giờ làm thế nào”.

“Làm thế nào ?” (18, 38), câu hỏi đó Sinh không trả lời đƣợc. Và Mai, ngƣời

phụ nữ yêu thƣơng chồng hết mực đã chọn con đƣờng tủi nhục vì chồng.

Nàng mang về bao đồ ăn ngon với lời giải thích một bà Hiếu nào đó hảo tâm

giúp đỡ, còn giúp vốn làm ăn. Nhƣng khi Mai thò tay vào trong túi áo, rút ra

tập giấy bạc, thì một mảnh giấy rơi ra. Sinh đã hiểu sự thật. Chàng đau đớn

tƣởng nhƣ có thể chết ngay lúc ấy, chàng mắng nhiếc vợ, khẽ dằn lên từng

tiếng “Đồ khốn nạn”, nhƣng cuối cùng, khi vợ đi khỏi, Sinh cúi xuống “vớ

miếng thịt hồng hào, ăn vội vàng, không kịp nhai, nuốt”. Cái đói khiến con

ngƣời trở thành nhƣ vậy sao? Cái đói khiến Sinh thành ngƣời chồng vô dụng,

có khiến Mai trở thành kẻ “khốn nạn” trong mắt chồng. Nhƣng cái đói ấy

cũng khiến ngƣời đọc nhận ra sự hy sinh thầm lặng của Mai – của ngƣời phụ

nữ đối với chồng con.

Điều đáng quý ở các nhân vật phụ nữ của Thạch Lam là trong sự vất vả,

khổ đau họ lại luôn quan tâm, hi sinh vì ngƣời khác mà không bao giờ nghĩ

mình cũng phải nhận đƣợc điều tƣơng tự từ mọi ngƣời nhƣ Tâm (Cô hàng

xén) “không bao giờ Tâm có ý nghĩ cho riêng mình, cho cuộc đời riêng của

68

cô”. Lúc nào họ cũng cô đơn, lẻ loi một mình một bóng lo toan gánh vác công

việc gia đình. Và đáng ra phải nhận đƣợc sự cảm thông, chia sẻ thì họ chỉ

nhận đƣợc sự đòi hỏi mà thôi, nhiều khi còn là sự nhiếc móc, hành hạ. Nhân

vật Mai (Đói) biết việc mình làm là tội lỗi nên đã cố ý tránh để chồng khỏi bị

nhục vì miếng ăn “nhỏ bé” hàng ngày chứ nàng không phải là kẻ lừa dối, xấu

xa nhƣ chồng nghĩ. Nhƣng chồng cô không hiểu mà mắng mỏ, đuổi vợ đi.

Vẫn là sự hi sinh thầm lặng, Mai không cãi mà cũng chẳng thanh minh, biện

bạch. Nỗi đau khổ, bất hạnh nhƣ đƣợc nhân lên gấp nhiều lần. Có lẽ nào sự hi

sinh của Mai là vô nghĩa, là không thể cảm thông?

Sẵn sàng hy sinh, gánh vác trách nhiệm của gia đình, không một lời kêu

than oán trách, đó là phẩm chất chung của ngƣời phụ nữ. Thạch Lam nhận ra

điều đó, ông đã dùng những câu văn trân trọng nhất ca ngợi sự hy sinh thầm

lặng ấy.

2.2.1.2.2. Cảm thông chia sẻ, yêu thương nhân ái và hướng thiện

Mác nói “con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, trong những

sợi dây liên hệ với cuộc sống quanh mình, con ngƣời bộc lộ bản chất và phát

huy những phẩm chất. Đôi khi, vì dòng đời xô đẩy, có những ngƣời đã bị

cuốn vào vòng xoáy tội lỗi, nhẫn tâm, độc ác, ích kỉ,...Nhƣng, nhƣ Bác đã viết

“ Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện ”. Ẩn sâu trong tiềm thức mỗi con ngƣời

luôn có hai chữ lƣơng tri.

Trong thế giới nhân vật của mình, đặc biệt là trong thế giới phụ nữ, Thạch

Lam luôn tìm kiếm, khẳng định và ca ngợi hai chữ lƣơng tri ấy. Dù ngƣời phụ

nữ xuất thân trong hoàn cảnh nào, từng sa ngã ra sao, từng độc ác cay nghiệt

đến đâu, nhƣng trong họ vẫn tồn tại sự cảm thông, chia sẻ, lòng yêu thƣơng,

nhân ái và sẵn sàng hƣớng thiện.

Trong Tối ba mươi ,mặc dù đã phải đằm mình trong cái nghề ô nhục

nhƣng cả Liên và Huệ vẫn giữ lại những khoảng sáng tâm hồn mình. Trƣớc

69

giờ phút thiêng liêng của năm mới, hai cô vẫn biết bày cúng tổ tiên, hồi tƣởng

lại những ngày thơ ấu khi hai chị em còn là những cô gái trong sạch và ngây

thơ, thật đúng là cái khổ có thể đầy đọa, vùi dập họ, song không thể chiến

thắng họ. Tuy cả Tâm, Liên, Huệ đều rơi vào những hoàn cảnh khác nhau của

cái khổ, dẫn đến chi phối nếp nghĩ và tâm lý dằng xé trong mỗi nhân vật cũng

khác nhau. Nhƣng chung lại, họ đều là “những sợi tơ sầu bay trong muôn

chiều gió thổi của cái khổ ấy”. Tối ba mươi tuy ngắn ngủi nhƣng cũng chan

chứa tình thƣơng yêu đồng loại. Thạch Lam đã khẳng định bản chất tốt đẹp

của con ngƣời, nâng đỡ những số phận hẩm hiu và mong muốn sự cảm thông,

chia sẻ, yêu thƣơng của ngƣời đời đối với những mảnh đời bất hạnh.

Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam chính là ở lòng nhân ái,

và vẻ đẹp tâm hồn bao trùm lên mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam,

bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt

Nam. Mẹ Lê nghèo khổ đến cùng cực nhƣng vẫn nguyên vẹn là một bà mẹ

cần cù, chăm chỉ, chịu thƣơng chịu khó, hết lòng vì đàn con. Liên và Huệ hai

cô gái điếm, hai con ngƣời tƣởng nhƣ bỏ đi ấy, trong đêm giao thừa ngồi khóc

vì nỗi trơ trọi, thiếu quê hƣơng và chán chƣờng cho cảnh bèo bọt của thân

phận mình.

Trong truyện ngắn Thạch Lam, có những câu chuyện rất nhẹ nhàng,

mang đến cho ngƣời đọc những cảm giác miên man khó tả. “Dưới Bóng

Hoàng Lan” đƣợc coi là đoản thiên thanh tao và trang nhã nhất của “Tự lực

Văn Ðoàn”, của nền văn chƣơng Việt Nam. Dƣới không gian vô cùng thi vị

thanh tao đầy những hƣơng thơm của hoa hoàng lan, thiên lý, nổi bật lên là

hình ảnh hai ngƣơi phụ nữ: một già, một trẻ với tình yêu thƣơng vô bờ bến

với ngƣời đi xa. Một tình cảm thật đơn sơ nhƣng đậm đà, một tình cảm khác

lạ, tình bà cháu dịu dàng trìu mến. “Thanh bƣớc xuống dƣới giàn thiên lý. Có

tiếng ngƣời đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc ở ngoài vƣờn

70

vào. Thanh cảm động và mừng rỡ chạy lại gần. Bà cụ thôi nhai trầu, đôi mắt

hiền từ dƣới làn tóc trắng đƣa lên nhìn cháu, âu yếm và mến thƣơng. Thanh đi

bên bà, ngƣời thẳng, mạnh, cạnh bà cụ chống gậy còng. Tuy vậy chàng cảm

thấy chính bà che chở cho chàng, cũng nhƣ những ngày chàng còn nhỏ” (18,

145). Thanh vắng nhà gần hai năm nay, chàng làm việc trên tỉnh và mong đến

ngày nghỉ để tìm lại tình thƣơng trìu mến của bà già mái tóc bạc phơ. Chàng

về quê cũng nhƣ để tìm lại tình cảm ngây thơ, trong trắng với cô em hàng

xóm mà chàng đôi lúc tƣởng nhƣ em ruột mình. Khác với không khí lãng mạn

trong các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hƣng. Tình yêu của Thạch Lam ở

đây thanh cao, chân thực và thơm tho nhƣ mùi hoa hoàng lan thoang thoảng

đâu đây, nó vừa là tình yêu, tình hàng xóm, tình anh em và tình ngƣời. “Dưới

bóng hoàng lan” đã để lại trong ta cái dƣ vị ngọt ngào của miền quê dân dã.

Trên cái vẻ yên bình ấy hiện lên một ngƣời bà hiền từ, một cô thiếu nữ hàng

xóm dịu dàng, e lệ. Cái khổ cực, cái trần trụi của đời thƣờng, của cơm áo gạo

tiền không đề cập đến, chỉ có tình thƣơng quyện chặt mùi hoàng lan, tỏa mãi

trong không gian ấm áp tình ngƣời.

Trong thế giới nhân vật phụ nữ của Thạch Lam, ta còn gặp kiểu nhân vật

dù có lúc tỏ ra tàn nhẫn hoặc mắc phải lỗi lầm nhƣng vẫn cố gắng vƣợt lên chính

mình để hƣớng tới những nét đẹp giản dị, thanh tao của tình cảm con ngƣời.

Hai năm trƣớc, bà Cả (Đứa con) đối xử với chị Sen thật tàn nhẫn thì

nay gặp lại đã là một con ngƣời khác hẳn. Khao khát làm mẹ của bà trỗi dậy

mãnh liệt khi bế đứa bé - con chị - khiến bà vòng tay ghì chặt nó vào lòng,

vào cái sƣờn cằn cỗi của mình. Rồi bà “ngẩn ngơ” ngƣời, “mắt đờ ra nhƣ

đang theo đuổi một ƣớc vọng xa xôi” khi trả đứa bé về tay mẹ nó. Điều bình

thƣờng, giản đơn với ngƣời phụ nữ đã trở thành khát vọng lớn lao mà xa vời

đối với bà Cả khiến bà ƣớc ao “giá đánh đổi đƣợc tất cả để lấy đứa con”. Giờ

đây, bà không còn hà tiện tiếc chị Sen bộ quần áo hay mấy đồng bạc nhƣ

71

trƣớc đây nữa. Bà không nhận lễ của bố mẹ Sen mà còn cho tiền may áo cho

đứa bé. Biết hƣớng tới điều nhân bản cao quý qua sự thay đổi theo chiều

hƣớng tích cực trong suy nghĩ, hành động nên đã làm cho chúng ta thấy nhân

vật bà Cả nhƣ trở nên gần gũi và đáng thƣơng hơn là đáng trách.

Ở truyện Trong bóng tối buổi chiều, sau khi nghe Diên nhắc lại “những

ngày đầm ấm ở thôn quê, đến cái tình thân thiết của đôi bên” thì Mai thấy

thực sự ăn năn về cách ứng xử của mình nên cô “hai tay úp mặt xuống khóc...

hai vai nàng nức lên”. Mai khóc nghĩa là lƣơng tri vẫn còn. Thạch Lam tin

vào nƣớc mắt con ngƣời. Bởi với ông, nƣớc mắt biểu hiện tính ngƣời, “là một

miếng kính biến hình vũ trụ” (lời nhà thơ Pháp Francois Coppée). Sống trong

môi trƣờng xã hội đầy rẫy những cám dỗ tầm thƣờng, tƣởng chừng nhƣ Mai

đã đánh mất con ngƣời mình, đánh mất những kỷ niệm thiêng liêng của tình

yêu đẹp đẽ nhƣng lòng trắc ẩn, sự ân hận đã làm thức tỉnh bản tính mộc mạc,

tình cảm chân quê ở cô.

2.2.2 Người phụ nữ với tình cảm và khao khát riêng tư

Bên cạnh những nét đẹp trong tâm hồn, ngƣời phụ nữ còn có những

tình cảm riêng, khao khát riêng tƣ. Điểm chung giữa những ngƣời phụ nữ

trong Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Đứa con đầu lòng, Dưới bóng Hoàng Lan, Cô

hàng xén, Gió lạnh đầu mùa, người Đầm, Đứa con, Tình xưa không phải là

những ngƣời quá nghèo khổ, quá bất hạnh, không phản kháng trƣớc hiện thực

giống những ngƣời phụ nữ trong tác phẩm hiện thực phê phán. Họ cũng

không phải những ngƣời phụ nữ nổi loạn, coi hạnh phúc riêng tƣ trên hết nhƣ

những ngƣời phụ nữ trong Tự Lực văn đoàn. Ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn

Thạch Lam chấp nhận với cuộc sống đang có của mình nhƣng vẫn có một ƣớc

mơ riêng. Ƣớc mơ của những cô hàng xén, của chị em Liên, của mẹ con chị

Tí,…tuy bình dị nhƣng rất khó thực hiện.

Những ngƣời phụ nữ trong các truyện ngắn Thạch Lam là những ngƣời

72

chịu nhiều khổ đau, bất hạnh nhƣng họ vẫn hƣớng tới cái đẹp, vẫn giữ cho

mình những nét đẹp trong tâm hồn. Cho dù nhìn bề ngoài, đôi khi có những

nhân vật ta thấy thiếu thiện cảm với họ, nhƣng Thạch Lam hoàn toàn khác,

ông đã mẫn cảm và tìm thấy ở đáy sâu tâm hồn họ những khoảng sáng thanh

cao. Liên và Huệ trong Tối ba mươi là những ngƣời làm cái nghề dƣới đáy

cùng của xã hội. Nhƣng ngày Lễ – Tết hai cô vẫn nhớ tới quê hƣơng làng xóm

với một mái nhà yên ấm, nhớ tới ông bà tổ tiên cùng tuổi thơ trong sáng của

mình. Cao hơn nữa là một niềm tiếc hận, khổ đau cho thân phận và cuộc sống

của mình. Hai cô vẫn đau đáu ngày trở về trong sự hoàn lƣơng: “… những

giọt nƣớc mắt chảy tràn mi, nàng không giữ đƣợc; Liên cảm thấy một nỗi tủi

cực mênh mang tràn khắp ngƣời, một nỗi thƣơng tiếc vô hạn; tất cả thân thể

nàng lƣớt hiện qua trƣớc mắt với những ƣớc mong tuổi trẻ, những thất vọng

chán chƣờng” (Tối ba mươi) (18, 208)

Trong Hai đứa trẻ, ƣớc mơ nhỏ bé bình dị của những ngƣời dân phố

huyện nói chung và những ngƣời phụ nữ nói riêng dƣờng nhƣ đồng nhất.

Cuộc sống nghèo đói, cơ cực trong vòng luẩn quẩn ở ga xếp nghèo nơi phố

huyện Cẩm Giàng quê hƣơng đƣợc Thạch Lam đƣa vào trang văn chân thực

quá. Ở vùng quê đó, cuộc đời con ngƣời dƣờng nhƣ không lối thoát. Ngày qua

ngày, họ chật vật với miếng cơm manh áo đời thƣờng. Sáng dọn hàng, cả

ngày chờ đợi hy vọng, và đêm đến mong chờ đoàn tàu đi qua rồi mới kết thúc

một ngày dài. Với Liên, An hàng ngày dọn hàng bán mấy thứ đồ bé nhỏ, ít ỏi

theo lời mẹ dặn. Sự khó khăn về kinh tế xã hội khiến bao ngƣời bị sa thải khỏi

công việc. Từ ngày thầy Liên bị mất việc, gia đình cô chuyển về quê. Liên và

em giúp mẹ bán hàng. Hàng ngày, Liên chứng kiến bao nhiêu mảnh đời, số

phận bé nhỏ đáng thƣơng. Những đứa trẻ con nhà nghèo nhặt nhạnh những

thanh nứa, thanh tre còn sót lại sau phiên chợ quê nghèo làm cô cảm thấy nao

long, nhƣng cô cũng không thể giúp gì cho chúng. Một bà cụ Thi điên vẫn tối

tối đến mua rƣợu với tiếng cƣời khanh khách chìm dần trong bóng tối. Một

73

chị Tý sang mò mẫm bắt cua bắt ốc kiếm kế sinh nhai, và tối đến cố gắng

thêm chút hàng chè nƣớc cho mấy ngƣời phu gạo hay phu xe, mấy chú lính lệ

trong huyện thỉnh thoảng đi qua, hay ngƣời nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm,

cao hứng ghé vào hàng chị uống bát nƣớc chè tƣơi và hút điếu thuốc lào. Chả

kiếm đƣợc bao nhiêu, nhƣng ngày nào chị Tý cũng dọn hàng từ chập tối đến

lúc nửa đêm. Trong bóng tối dần bao trùm lên phố huyện, nhũng thứ ánh sáng

nhỏ nhoi, le lói từ ngọn đèn hoa kì yếu ớt, từ gánh hàng của bác phở siêu, từ

ngọn đèn dầu của mẹ con chị Tý không đủ thắp sáng những khuôn mặt ngƣời

trong phố huyện. Bao nhiêu con ngƣời ngày nào cũng xuất hiện, và cũng dần

chìm trong bong tối, chỉ để chờ đợi một hoạt động cuối cùng của ngày:

chuyến tàu từ Hà Nội về qua. Liên nhận ra đoàn tàu từ xa, với dấu hiện ngƣời

gác ghi mang đèn báo hiệu, và khi đoàn tàu đến gần, cô thấy đoàn tàu kém

sáng hơn nhiều, bởi nhiều toa vắng bong ngƣời. Đoàn tàu thƣa thớt dừng lại,

và vụt đi rất nhanh, nhƣng đó là hy vọng của những ngƣời dân phố huyện.

Bao nhiêu cuộc đời, bao nhiêu kiếp sống mong chờ vào hoạt động cuối ngày

ấy. Đoàn tàu chính là hy vọng của mẹ con chị Tý, của bác phở Siêu, của vợ

chồng bác Sẩm. Còn với Liên, cô gái tinh tế nhạy cảm và giàu tình thƣơng ấy,

đoàn tàu gợi cho cô về kỉ niệm quá khứ xa xôi khi gia đình còn sung túc;

mang đến cho cô hy vọng về miếng cơm manh áo; và quan trọng hơn, đoàn

tàu giúp Liên nhận ra cảnh sống tù túng quẩn quanh hiện tại. Cô đã ƣớc mơ,

khao khát về một tƣơng lai tốt đẹp hơn.

Các nhân vật của Thạch lam, dù mỗi ngƣời có một hoàn cảnh sống khác nhau, một cuộc đời khác nhau, nhƣng trong họ chƣa bao giờ tắt khao khát ƣớc mơ về một cuộc sống khác, về một thế giới khác. Họ luôn mang trong mình hy vọng về tƣơng lai.

Không chỉ khao khát về một cuộc sống tƣơi đẹp hơn, ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam còn có những khao khát, ƣớc vọng về một cuộc sống bên ngƣời họ yêu thƣơng – khát vọng về tình yêu.

Tình yêu là điều mà con ngƣời luôn khao khát có đƣợc. Nhƣng, trong

74

xã hội cũ, tình yêu là điều cấm kị. “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “thuyền

theo lái, gái theo chồng”, ngƣời phụ nữ bị bao rào cản phong kiến ngăn cản họ

đến với tình yêu.

Liên trong Một đời người dù yêu Tâm, đã có lúc muốn trốn đi cùng

Tâm để thoát khỏi cuộc đời đen tối, nhƣng cuối cùng Liên không làm đƣợc

điều đó. Có một sợi dây vô hình giữ cô lại, trói cô lại với cái gia đình địa ngục

mà cô đang phải sống. Ngƣời chồng vũ phu, bà mẹ chồng độc ác cay nghiệt,

và đến chính đứa con cũng có phần giống bố. Trong gia đình ấy, Liên không

đƣợc coi trọng, cô không cảm nhận đƣợc chút hạnh phúc hay tình yêu thƣơng

nào. Liên đã không ở bên ngƣời cô yêu thƣơng, nhƣng điều đó không có

nghĩa là cô từ bỏ tình yêu trong trái tim mình. Đau đớn về thể xác càng khiến

tình yêu trong lòng cô giành cho Tâm mãnh liệt. Tình yêu ấy sẽ nhƣ ngọn lửa

cháy âm ỉ trong lòng ngƣời phụ nữ ấy dù có thể cô sẽ không bao giờ đến đƣợc

với ngƣời mình yêu.

Trinh trong Trở về - cô gái quê ăn mặc giản dị, nhƣng sạch sẽ. Trinh

vẫn hàng ngày chăm sóc mẹ Tâm vì nàng vẫn giữ mối tình thuở nhỏ với

chàng. “Thƣa, có ạ, ai chứ cậu Tậm thì quên thế nào đƣợc”. Hình nhƣ lỡ lời,

cô thiếu nữ cúi mặt, hơi e lệ. Nhƣng cái cử chỉ ấy không làm Tâm cảm động

mà còn khiến chàng hơi ghét. Trinh không thay đổi, tình cảm nàng giành cho

Tâm vẫn vẹn nguyên. Dù bao năm Tâm không về nhà, cũng không thèm trả

lời thƣ mẹ, Trinh vẫn chờ đợi chàng. Kết thúc truyện, khi chiếc xe cùng ngƣời

vợ sang giàu của Tâm chạy bắn vọt bùn lên quần áo “bà cụ già khom lƣng

dựa vào một cô con gái” bên đƣờng, trong một giây, Tâm thấy cặp mắt đen

láy của cô gái quê mở to mắt ngạc nhiên nhìn mình. Liệu Trinh có nhận ra sự

thật và từ bỏ tình yêu từ tấm bé của mình, hay vẫn ôm ấp mối tình với một

ngƣời mà nàng không còn biết gì về ngƣời ta nữa? Trở về không phải truyện

ngắn ca ngợi tình yêu, nhƣng đọc trở về, ngƣời đọc nhận ra sự chung thủy và

75

khát khao đƣợc ở bên ngƣời mình yêu thƣơng của ngƣời phụ nữ.

Ðặng Thai Mai đã nhận định về văn học lãng mạn: "Phần đông các nhà

văn vẫn sung sƣớng ẩn nấp sau cái biểu ngữ "không làm chính trị" để lao đầu

vào con đƣờng "tự do chủ nghĩa" và ca ngợi tự do ái tình, tự do cá nhân và

chủ nghĩa anh hùng viển vông. Tất cả cống hiến của văn chƣơng thời này là

những tìm tòi về kỹ thuật biểu hiện và những cố gắng để phân tích tâm lý của

con ngƣời tiểu tƣ sản".

Nói về tự do tình ái, về khát khao trong tình yêu của ngƣời phụ nữ giai

đoạn 1930 – 1945, không thể không nhắc đến những nhân vật nữ trong tiểu

thuyết Tự lực văn đoàn. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đòi quyền tự do yêu

đƣơng cho thanh niên. Các nhà văn đã tự đƣa ra một quan niệm mới mẻ về

hạnh phúc cá nhân, về tình yêu, xem đó là lẽ sống duy nhất của con ngƣời.

Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là muôn hình vạn trạng. Với

Hồn bướm mơ tiên Khái Hƣng khẳng tình yêu "bất vong bất diệt". Ngọc là

sinh viên Trƣờng Cao đẳng Canh nông, đọc tiểu thuyết Pháp và biết hội họa.

Lan là một cô gái có học, không "quê mùa" chút nào, bỏ nhà đi tu vì chẳng

muốn lấy một ngƣời chồng bị ép buộc. Ngọc gặp chú Tiểu Lan dƣới chùa

Long Giáng, kiều diễm dƣới bộ áo tu hành. Ngọc ngờ Lan là gái, để tâm theo

dõi. Càng thấy mình đoán trúng, Ngọc càng đem lòng yêu. Lan không khỏi

bồi hồi: ái tình nảy nở trong tâm hồn cô gái đi tu ! Lan đấu tranh để khỏi sa

ngã. Thái độ muốn dứt khoát, nhƣng lòng vẫn cứ yêu. Ngọc cũng chẳng gạt

bỏ đƣợc mối tình. Kết cục hai ngƣời xa nhau mà "yêu nhau trong linh hồn

trong lý tƣởng"... và vẫn có thể gặp nhau. Câu chuyện chỉ có thế : một chuyện

tình "dƣới bóng từ bi Phật tổ". Viết Hồn bướm mơ tiên, Khái Hƣng đã đề cao

ái tình trong trắng, cao thƣợng, chung thủy.

Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có lúc "bất vong bất diệt",

cũng có khi lúc tình "trong giây phút mà thành thiên thu" (Loan và Dũng

76

trong Ðoạn tuyệt). Viết Ðoạn tuyệt Nhất Linh đề cao tình yêu lứa đôi, đó là

tình cảm tự giác, tự nguyện đến với nhau dù chỉ là giây phút ngắn ngủi nhƣng

trong trắng và thủy chung.

Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn còn có tình yêu mộc mạc

thuỷ chung của Liên trong Gánh hàng hoa của Nhất Linh và Khái Hƣng. Liên

là một cô gái thùy mị, nết na, chăm chỉ làm lụng, giàu lòng vị tha và đức hy

sinh. Liên đã kéo ngƣời chồng tội lỗi ra khỏi vòng trụy lạc, sa đọa trở về với

tình yêu chân chính. Liên biết trân trọng và gìn giữ hạnh phúc lứa đôi của

mình.

Nhƣ vậy, khi viết về tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, các

nhà văn đã đề cao tình cảm trong sáng thủy chung của những chàng trai cô gái.

Tình yêu của họ phải vƣợt qua bao nhiêu những ràng buộc, khắt khe nhƣng họ

luôn đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình. Ðó chính là điểm tiến bộ của tiểu

thuyết Tự lực văn đoàn.

Là nhà văn trong nhóm bút ấy, Thạch Lam cũng đã góp tiếng nói khẳng

định khao khát mãnh liệt trong tình yêu của các nhân vật nói chung và ngƣời

phụ nữ nói riêng. Tuy chƣa mãnh liệt, chƣa dám phá bỏ mọi lề lối phong kiến

để đến với tình yêu nhƣ trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hƣng, nhƣng,

ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam vẫn âm ỉ cháy trong lòng khao

khát về tình yêu.

2. 3. Vấn đề giới, thiên tính nữ:

Trong những năm gần đây, trên cơ sở những hƣớng nghiên cứu văn học,

nhân vật ngƣời phụ nữ đƣợc mở ra từ góc nhìn lý thuyết giới, thiên tính nữ.

Đây là góc nhìn còn mới mẻ. Với tƣ cách nữ giới, ngƣời phụ nữ luôn ý thức

về nhan sắc, vẻ đẹp của chính mình. Họ tự ý thức gánh vác trách nhiệm, nghĩa

vụ trong gia đình. Đặc biệt họ luôn có những khao khát làm vợ, làm mẹ, có

những khao khát trong tình yêu, hạnh phúc cá nhân. Những vấn đề này bàng

77

bạc trong sáng tác Thạch Lam.

2.3.1 Ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của nữ giới

La Bruyere từng nói “không có ngƣời phụ nữ xấu, chỉ có ngƣời phụ nữ

không biết cách làm đẹp”. Nhan sắc ngƣời phụ nữ là một thứ quý giá, ngƣời

phụ nữ ý thức đƣợc điều đó. Nhƣng không ngƣời phụ nữ nào vì có nhan sắc

mà chấp nhận cuộc sống phiêu lƣu. Nhan sắc chỉ là yếu tố đảm bảo hơn cho

cuộc sống sinh tồn, cho hy vọng về cuộc sống sáng sủa hơn mà thôi.

Trong những trang văn Thạch Lam, ngƣời phụ nữ dù ở trong bất kì

hoàn cảnh nào, địa vị xã hội nào, họ vẫn luôn ý thức về nét đẹp của mình.

Tâm là cô hàng xén nết na xinh đẹp, nổi tiếng cả một vùng. Khi còn

chƣa lấy chồng, Tâm đã có ý thức về nét đẹp của mình cũng nhƣ nhận ra điểm

chung của những ngƣời phụ nữ: khao khát cái đẹp và muốn làm đẹp. “Tâm đã

thêm vào vài thức hàng mới, bắt đầu bán đƣợc ở chợ: phấn xoa mặt, dầu bôi

tóc, và son thoa môi. Cô ngắm nghía trên tay cái ống sáp con bằng đồng – hào

rƣỡi một cái – đựng một chất bỏ thơm làm thắm tƣơi môi các thiếu nữ ở trên

tỉnh. Đôi khi trong buổi chợ Tâm đã thấy vài cô gái tỉnh về quê, da trắng, môi

đỏ, lịch sự và sang trọng. Có lần, một đêm khuya, Tâm đã lấy sáp bôi lên môi

mình và ngắm trộm bóng trong chiếc gƣơng trong nhỏ Cô Ba. Cô hơi thẹn

thấy bóng mình trong đó, với đôi môi đỏ nhƣ xẫm máu” (18, 188). Cô hàng

xén ý thức đƣợc vẻ đẹp thanh xuân, trong sáng của mình. Và, dƣờng nhƣ, tình

yêu làm con ngƣời ta đẹp hơn nữa. “Nàng cúi mặt xuống hàng, thấy cái nhìn

âu yếm của ngƣời con trai ấy đè nặng trên ngƣời. Má Tâm phơn phớt đỏ”.

Tình yêu của Tâm giành cho cậu giáo Bài nảy nở từ đó. “Bốn con mắt nhìn

nhau: Tâm má đỏ bừng. tay không biết làm gì”. Tình yêu làm con ngƣời ta trẻ

trung, yêu đời hơn, tình yêu cũng làm con ngƣời, đặc biệt là ngƣời con gái

xinh đẹp hơn. Má Tâm hồng lên mỗi khi nhìn cậu giáo, nghĩ đến cậu “Tâm

cúi mặt thẹn đỏ hai gò má”. Đi lấy chồng, cô hàng xén dƣờng nhƣ xinh đẹp

78

hơn xƣa nhƣng nàng kém vui vì những khó khăn, lo toan hàng ngày. Vừa

cáng đáng gia đình nhà chồng, Tâm vừa phải lo cả nhà mình. “Ngày phiên

chợ đối với nàng cũng kém vui. Má nàng hồng hơn, môi nàng thắm thêm.

Ngƣời ta bảo nàng bây giờ đẹp ra hơn trƣớc” (18, 196). Nhƣng với nàng, cái

thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết rồi. Ngƣời con gái đẹp nổi tiếng

một vùng bây giờ còn xinh đẹp hơn xƣa, nhƣng gánh nặng gia đình khiến

nàng dần quên mất ý thức về nhan sắc của mình. Nàng đâu còn thời gian lo

cho bản thân mình nữa. “Nàng chỉ còn là một ngƣời đàn bà tần tảo hôm sớm

để nuôi chồng”.

Hai năm sau, Nàng đã già đi, nhan sắc phai tàn, đâu còn là cô hàng xén

xinh đẹp trƣớc kia nữa. Tre già măng mọc, nàng nay đã hết thời, đã có những

cô gái khác mới lớn tƣơi tắn và rƣc rỡ. “Tâm lại nghĩ đến ngày trƣớc kia, hình

nhƣ đã lâu lắm, nàng còn là cô hàng xén má hồng, môi đỏ e lệ cúi mặt dƣới

cái nhìn âu yếm của cậu giáo Bài nho nhã và đứng đắn trong tấm áo lƣơng.

Thời ấy bây giờ đâu? Chị Liên may mắn đã lấy đƣợc chồng giầu, lên buôn

bán trên tỉnh. Chị ấy vẫn trẻ đẹp nhƣ xƣa. Tâm khẽ thở dài: bây giờ các chị

em bạn cũ không còn ai ở lại để cùng chia sẻ những nỗi khó nhọc với nàng”

(18,197)

Rõ ràng, Tâm - cô hàng xén đã ý thức sâu sắc về sắc đẹp của mình. Khi

là một ngƣời con gái, khi mới lấy chồng và khi đã có con, dù cuộc sống hàng

ngày với bao nhiêu nỗi lo toan, bao nhiêu trách nhiệm, Tâm vẫn không quên

mình là một ngƣời phụ nữ đẹp, nàng vẫn buồn vì sự tàn phai nhan sắc của

mình. Đó là nỗi buồn chung của nhƣng ngƣời phụ nữ biết quý trọng nhan sắc

– cái đẹp trời cho của phái nữ.

Nếu Tâm là cô gái đã ý thức rõ về nét đẹp nữ giới ngay từ đầu thì Dung

– cô gái bất hạnh trong Hai lần chết lại chƣa tự nhận ra điều đó. Tuy nhiên,

Dung vẫn có niềm say mê với cái đẹp – những trang phục có thể khiến ngƣời

79

con gái đẹp hơn. Ngày thƣờng mẹ cho gì mặc nấy. Tết đến, các anh chị có

quần áo mới, chỉ mình Dung vẫn bộ áo cũ nâu sờn. Không phải vì Dung

không thích quần áo đẹp, mà vì nàng “an phận và nhẫn nại lạ lùng”. Khi thấy

nhà có bà khách lạ đến chơi, và khi se sẽ cầm gói giấy mở ra, Dung thấy hoa

mắt “nào là nhiễu trắng, bom bay hồng, áo lụa màu hoa lý. Lại còn mấy chiếc

quần cạp đỏ, mấy cái áo cánh vải phin, mấy cái cổ yếm máy và mấy chục

thƣớc vải. Dung cất tiếng run run hỏi: - Của những ai đấy, mợ? – Không,

riêng của con đấy thôi. Dung sung sƣớng mân mê các cúc áo”. (18, 79). Hành

động này của Dung có thể vì Dung ngạc nhiên vì lần đầu đƣợc cho riêng

nhiều thứ thế, nhƣng cũng có thể vì Dung cũng giống bao nhiều con gái khác

vẫn say mê với những bộ đồ có thể làm cô đẹp hơn.

Trong tác phẩm Thạch Lam, vẻ đẹp nữ tính của nhân vật không chỉ thể

hiện qua sự tự ý thức của chính nhân vật, mà còn thể hiện qua cảm nhận, cái

nhìn của nam giới về ngƣời phụ nữ.

Cuốn sách bở quên là câu chuyện dòng suy nghĩ của chàng trai tên

Thành. Khi xe lửa đỗ bên một sân ga nhỏ, Thành thấy một thiếu nữ bƣớc lên

xe. “Khuôn mặt trái xoan, một vẻ đẹp bình thƣờng”. Nhƣng khi chăm chú

nhìn cô gái đọc cuốn sách của mình, Thành nhận ra dần vẻ đẹp “Thiếu nữ

bỗng trở nên có duyên lạ, môi đỏ thắm, đôi mắt dƣới làn mi cong và dài, theo

từng dòng chữ, êm nhẹ nhƣ nhung, nhƣ vuốt ve trên lòng chàng” (18, 115).

Nhƣ biết có ngƣời đang nhìn ngắm mình hồi lâu, thiếu nữ đƣa mắt nhìn

Thành, một tay để trên vali, một tay vén lại tào áo cho gọn ghẽ”. Cô gái ấy

xinh đẹp trong con mắt ngƣời nhìn ngắm, và cô gái ấy cũng có ý thức giữ gìn

hình ảnh kín đáo, nhu mì của mình. Khi thiếu nữ khệ nệ xách vali đi qua trƣớc

mặt, Thành nép ngƣời vào bên. Mái tóc ngƣời thiếu nữ khẽ phớt qua ngực

chàng, mái tóc đen che vành tai hồng và cái cổ tròn xinh. (…) Chàng còn

nhận thấy đôi vai mảnh và thon của thiếu nữ trong đám hành khách cho đến

80

khi thiếu nữ khuất vào ga”. (18, 116).

Nga, cô gái hàng xóm trong Trở về thấy Thanh về, sang chơi, bà chàng

mời cô ăn cơm. Cơm nƣớc xong Thanh dắt nàng đi thăm vƣờn, chàng thấy tóc

nàng thơm nhƣ hoa hoàng lan. „„Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga

thoang thoảng hƣơng thơm nhƣ có giắt hoàng lan‟‟. Nga biết làm đẹp cho

mình bằng mùi hƣơng thơm trên tóc làm Thanh lƣu luyến. Một truyện tình

cảm thật đơn sơ nhƣng đậm đà, một tình cảm khác lạ, tình bà cháu dịu dàng

trìu mến, tình cảm ngây thơ, trong trắng với cô em hàng xóm.“Thỉnh thoảng

chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng và nụ cƣời tƣơi nở, nàng lại

nhìn Thanh, một chút thôi, nhƣng biết bao âu yếm. Ngoài vƣờn, trời vẫn nắng.

Giàn thiên lý pha xanh một bên tá áo trắng của Nga. Những búp hoa lý non và

thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh

nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga ngày nào đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ,

lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về.

Vẻ đẹp của ngƣời con gái trong Cuốn sách bỏ quên và Trở về nhƣ nhắc

ta nhớ đến một câu nói của Kant „„Beauty is not the eyes of the beholder‟‟

(Vẻ đẹp không phải ở đôi má hồng của ngƣời thiếu nữ mà nằm ở con mắt của

kẻ si tình).

Dù Thạch Lam để ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn của mình trực tiếp

thể hiện và khẳng định ý thức về nhan sắc cá nhân hay để họ tự bộc lộ qua

cảm nhận của ngƣời khác phái, ngƣời đọc vẫn nhận thấy nét đặc trƣng nữ

tính: Ngƣời con gái luôn gắn với vẻ đẹp về tâm hồn, về ngoại hình, về tính

cách. Đó là một phần biểu hiện của thiên tính nữ trong nhân vật ngƣời phụ nữ

của Thạch Lam.

2.3.2 Thiên chức làm vợ, làm mẹ

Bên cạnh sự ý thức về nhan sắc, nét đẹp của bản thân, ngƣời phụ nữ

còn mang trong mình thiên chức của ngƣời vợ, ngƣời mẹ. Dù trong bất kì

hoàn cảnh nào, họ vẫn khao khát có đƣợc đứa con, và luôn muốn chăm sóc tốt

cho chồng con, hoàn thành nghĩa vụ của một ngƣời vợ, ngƣời mẹ trong gia đình.

81

Thiên chức muôn đời của ngƣời phụ nữ là làm vợ, làm mẹ.

Để sinh ra đƣợc đứa con khỏe mạnh, ngƣời mẹ đã phải chịu bao đau

đớn. Trong Đứa con đầu lòng, qua cảm nhận của Tân, ta hiểu vợ chàng đã

phải trải qua cơn vƣợt cạn ra sao. „„ Tân nghe thấy mấy tiếng kêu thét

trong phòng bên đƣa sang, tiếp đến là tiếng trẻ con khóc. (...) Vợ chàng

nằm ngả đầu trên gối trắng, nét mặt xanh cao và mệt nhọc. Nhƣng hai con

mắt sáng lên nhƣ vui mừng khi nhận thấy chàng‟‟ . Dù đau đớn, nhƣng

ngay khi nhìn thấy chồng, nhìn thấy đứa con bé bỏng mới lọt lòng, ngƣời

phụ nữ nhƣ quên hết mọi đau đớn vừa trải qua. Nàng „„ giơ tay ra đón lấy

đứa con một cách âu yếm và nâng niu‟‟. Một tuần lễ sau, vợ Tân và vú em

bận rộn, ríu rít nhƣ mỗi khi nhà sắp đến ngày giỗ. Hai ngƣời suốt cả buổi

chỉ ngồi cắt và khâu những cái áo con con đan những đôi tất xinh xinh và

sửa soạn cái nôi mây. Ngƣời phụ nữ ấy dƣờng nhƣ giành tất cả thời gian

mình có cho con mình. Cô chăm chú, quan tâm đến con từng phút, từng

giây. Giống nhƣ bao ngƣời mẹ khác, vợ Tân tƣởng nhƣ thấy con mình lớn

lên từng ngày. „„ Vợ chàng sung sƣớng hỏi : - Có phải nó nhớn hơn hôm nọ

nhiều không ? Nàng giơ ngón tay cho đứa bé nắm rồi tiếp : - Này cậu xem

nó nắm chặt chƣa này !‟‟ Và ngƣời mẹ nào cũng sẽ không vui khi có ai đó

chê bai con mình dù đó có là cha đứa bé : „„Tân cũng cầm lấy tay đứa bé

đáp: - Ừ, nhƣng sao cái đầu nó dài thế nhỉ. Tôi trông nó thế nào ấy. – Nó

còn bé thì nó thế chứ sao. – Mà hình nhƣ một mắt to, một mắt nhỏ. Vợ Tân

ra ý không bằng lòng, cãi lại : - Không, hai mắt nó bằng nhau đấy chứ. Cậu

cứ hay chê nó thôi. Rồi nàng bế đứa con lên lòng, âu yếm cho nó bú.‟‟ Biết

chồng chƣa giành tình yêu cho con, vợ Tân đã cố gắng, dần dần tạo mối

liên hệ gắn bó giữa chồng với con. Và nàng đã làm đƣợc. Đứa con trở

thành „„sợi dây hòa hợp hai vợ chồng. Tân và vợ chàng không cãi nhau nữa.

Mà nếu có xảy ra cuộc hờn giận, hai ngƣời chỉ cùng trông đứa trẻ mũm

82

mĩm là lại hòa hảo nhƣ cũ‟‟. (18, 97)

Vậy là ngƣời phụ nữ đã hoàn thành suất sắc cả thiên chức làm vợ, làm

mẹ của mình. Nhƣng không phải ngƣời phụ nữ nào cũng may mắn đƣợc nhƣ

vợ Tân.

Đứa con là một truyện ngắn hay với cảnh mở đầu là hình ảnh chị Sen

gánh nƣớc cho bà Cả và sự độc ác cay nghiệt của vợ chồng bà Cả giàu có

nhƣng keo kiệt mà vẫn chƣa có con. Tƣởng rằng mối quan hệ chủ tớ muôn

đời không thay đổi ấy sẽ mãi mãi nhƣ vậy, ấy thế mà khi chị Sen về quê lấy

chồng đẻ con, tết năm đó cùng thầy mẹ ẵm đứa con lên tết ông bà chủ, sự thay

đổi bất ngờ đã xảy ra. Bà Cả không lấy lễ mọn của chị Sen mà còn cho thêm

tiền để mang về may áo cho con. Kết thúc câu chuyện bằng hành động cho

tiền của bà Cả. Hóa ra, vì bà Cả khắc nghiệt, keo kiệt quá nên ở vào tuổi đấy

rồi mà vẫn chƣa có con. Đứa con của chị Sen đã làm bà cảm động “Mắt bà đờ

ra nhƣ đang theo đuổi một ƣớc vọng xa xôi; bà đang nghĩ rằng không bao giờ

bà đƣợc biết những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà đƣợc bồng đứa con

trên tay, đƣợc nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao

giờ...Giá bà đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa con!”. Cái khao khát mãnh liệt

của một ngƣời đàn bà trỗi dậy. Chính đứa con của chị Sen,cái niềm ao ƣớc mà

bà Cả hằng mong có đƣợc đã khiến một ngƣời vốn độc ác, keo kiệt thay đổi

hẳn, thay đổi trong mối quan hệ với kẻ dƣới, thay đổi trong phần Ngƣời. Nếu

nhƣ phần mở đầu câu chuyện khiến cho ngƣời đọc khinh ghét bà Cả thì đến

khi kết thúc truyện ta không khỏi bất ngờ, cảm động và thƣơng cảm cho số

phận của một ngƣời phụ nữ giàu có nhƣng không có nổi một mụn con. Chính

đứa trẻ khiến cho ngƣời đàn bà ấy thay đổi. Cái kết ấy làm cho ngƣời đọc

thấy thƣơng hơn là giận.

Đã là phụ nữ, dù là ngƣời phụ nữ Việt Nam hay phụ nữ nƣớc ngoài đều

có chung một đặc điểm: tình yêu con sâu sắc – bởi họ mang thiên chức làm

83

mẹ. Ngƣời đàn bà Pháp trong Người đầm mà nhân vật “tôi‟ gặp trong rạp

chiếu phim là một minh chứng cho điều đó. Ngƣời đàn bà Pháp “cố thu hình

cho nhỏ bé lại, và luôn luôn cúi mặt xuống tờ chƣơng trình để trên lòng. Cô

bé (con gái bà) quỳ ở trên ghế bên cạnh, quay lƣng lại màn ảnh, chơi đùa với

cái mũ da của mẹ. Cô thỉnh thoảng cất tiếng cƣời và huýt sáo miệng; lúc ấy bà

mẹ vội vàng đƣa mắt nhìn quanh, rồi ra hiệu bảo con im”. “Một vẻ buồn lặng

lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt ngƣời đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm

lấy con ghì chặt vào lòng nhƣ se lại trƣớc cái ác cảm bà đoán thấy ở chung

quanh. Hai mẹ con thủ thỉ với nhau những câu tôi không nghe rõ, nhƣng tôi

chắc là những câu đầy yêu đƣơng đằm thắm” (18, 132). Ngƣời phụ nữ muôn

đời vẫn vậy, và ở đâu cũng thế: Tình thƣơng con luôn là vô hạn. Tác giả có

một cái nhìn nhân ái với ngƣời phụ nữ nƣớc ngoài. Đó là một bà mẹ nhân hậu,

tốt bụng, và quan trọng nhất, bà ta có tình thƣơng con vô bờ bến. Khi con gái

đòi mua kẹo, bà mẹ không ngại ngần chọn mấy cái trong hộp cho con. Không

những thƣơng yêu con, bà còn nhân ái với những đứa trẻ xa lạ “Mày không

lạnh ƣ, con?”.

Nhƣ vậy, thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam luôn mang

một vẻ đẹp nữ tính, với thiên chức ngàn đời của ngƣời phụ nữ. Họ ý thức về

vẻ đẹp của bản thân, và luôn muốn làm tròn bổn phận, trách nhiệm làm vợ,

làm mẹ mà tạo hóa đã ban cho.

Nói về thiên chức làm vợ, làm mẹ của ngƣời phụ nữ, đã có rất nhiều tác

giả thành công. Chân dung ngƣời mẹ trong tự truyện Cỏ dại của Tô Hoài đủ

làm ngƣời đọc hiểu đƣợc ngƣời phụ nữ đã hy sinh vì gia đình nhƣ thế nào.

“Cái bóng đen đủi, hòa lẫn với bóng tối, vẽ nên khuôn mặt…Cái bóng mơ hồ

yêu dấu ấy đứng bên cạnh lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi đói khỏ,

những năm này, năm khác qua đi trong cơn thấp thỏm đợi chờ dài dặc mang

ngấn nƣớc mắt và tiếng thở dài…Mạ âm thầm sống. Mẹ là cái bóng đi bên

cạnh tháng ngày của con…”. Còn trong trang văn Hồ Dzếnh, ngƣời phụ nữ -

84

ngƣời mẹ luôn làm trọn thiên chức cao cả đƣợc giao.

Buổi tan chợ về, ngƣời mẹ nghèo khổ đến trƣờng đƣa bánh cho con

“Dƣới ánh nắng vàng vọt của buổi chiều hè, tôi nhận thấy mẹ tôi vui mừng

một cách đau khổ. Một tay ngƣời giữ nón, còn tay kia thì run run. Ngƣời lách

mình cho khỏi bị gai ở hàng rào vƣớng. Quần áo ngƣời tiều tụy nhuộm ánh

nắng xé chiều” (Lòng mẹ). Bà mẹ ấy yêu con bằng một thứ tình thƣơng dồn

dập, “bất chấp cả lời kháng nghị của trời đất, bất chấp cả những thói cấu của

thằng con” (Hai anh em). Bà có thể chịu nhục nhã, chịu mang tiếng xấu, hy

sinh tất cả để cho con mình đƣợc học hành nên ngƣời. Nhận ra đƣợc tình yêu

và sự hy sinh cao cả đó, Hồ Dzếnh tâm sự “ngƣời mẹ Việt Nam đáng giá gấp

bao nhiêu lần số châu ngọc của thế giới họp lại” (Thiên truyện cuối cùng).

Đồng thời, ông cũng nhận ra rằng đó là ngƣời duy nhất có thể cho mình

một sự che chở, đến mực khi đã trƣởng thành, đã là một nhà văn có tên tuổi,

ông vẫn ao ƣớc “nhỏ nhƣ xƣa mà nũng nịu”. Mẹ cũng là ngƣời duy nhất có

thể cho ông một xứ sở, một quê hƣơng, cái “cuống nhau” nối Hồ Dzếnh

vào mảnh đất “quê ngoại” này. Bên trong vóc dáng nhỏ bé yếu đuối của

ngƣời mẹ tiềm tàng một sức mạnh và một tình yêu lớn lao bất diệt. Hồ

Dzếnh gần nhƣ là ngƣời đầu tiên đƣa chân dung mẹ cụ thể, mẹ tôi, lên

thành biểu tƣợng của quê hƣơng, đất nƣớc. Mẹ không chỉ là mẹ, mà là một

tập hợp tất cả những ngƣời đàn bà Việt Nam “cúi mình trên đau khổ”, suốt

đời chỉ biết có chịu đựng và hy sinh. Trong mẹ có cả những mảnh đời thím

Củ, chị Yên, chị dâu Trung Quốc, em Dìu, em Thi,… và cả những mảnh

đời lam lũ không tên tuổi khác. Dựng lại thế giới tuổi thơ với bóng dáng

những ngƣời đàn bà đã từng bị quên lãng sau lũy tre xanh, với “những

tiếng thở dài mất tăm trong bóng tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống

bổn phận hàng ngày…” ấy, Hồ Dzếnh muốn đƣợc “đền ơn trả nghĩa những

con ngƣời âm thầm, cần mẫn làm nên đất nƣớc này, và đã bồi đắp nên tâm

85

hồn biết yêu thƣơng của mình”. (15, 101)

Hình ảnh ngƣời mẹ trong tình yêu thƣơng vô hạn của Hồ Dzếnh đã gián

tiếp cho ta cái nhìn về ngƣời phụ nữ trong thiên chức ngàn đời của họ. Những

ngƣời phụ nữ đã luôn có gắng hết mình vì chồng, đặc biệt là vì con. Họ có thể

hy sinh tất cả để chồng, con có thể cảm thấy hạnh phúc. Và chắc rằng, ngƣời

mẹ của Hồ Dzếnh đã làm tròn thiên chức ngƣời phụ nữ của mình.

Vậy là, dù các tác giả dành ít hay nhiều trang văn viết về ngƣời mẹ,

ngƣời phụ nữ Việt Nam, nhƣng ta vẫn luôn thấy ánh lên những phẩm chất cao

đẹp của ngƣời phụ nữ ngàn đời: những ngƣời sinh ra đã mang sẵn thiên chức

86

làm mẹ và luôn cố gắng làm tròn thiên chức đó.

Chương 3: Nhân vật người phụ nữ nhìn từ phương thức biểu hiện

3. 1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

Có thể nói, thế giới nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch

Lam thƣờng có tên cụ thể, chân dung đƣợc khắc họa từ ngoại hình đến tâm lý.

Tuy nhiên, yếu tố tâm lý đƣợc tác giả chú trọng hơn cả. Có một số nhân vật ít

đƣợc chú ý đến ngoại hình, nhƣng ngƣời đọc luôn hình dung ra thế giới nội

tâm phong phú, đa dạng của họ.

3.1.1 Ngoại hình

Với ngƣời phụ nữ, ngoại hình là một yếu tố quan trọng. Tuy thế giới

nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam không đƣợc chú trọng xây nhiều nhiều

ở yếu tố ngoại hình. Nhƣng với riêng ngƣời phụ nữ, ông vẫn ƣu ái dành nhiều

trang văn, mang đến cho ngƣời đọc hình dung về ngoại hình, diện mạo của

nhân vật. Nét chung mà ngƣời đọc nhận ra ở những ngƣời phụ nữ là vẻ đẹp

thiếu nữ với nét thanh xuân phơi phới, với đôi má hồng hây hây, với trang

phục gọn gàng.

Khác với Khái Hƣng trong Nửa chừng xuân, việc miêu tả nhân vật Mai

từ khuôn mặt, cử chỉ đến trang phục tỉ mỉ giúp ngƣời đọc hình dung rõ về cô

“đứng vơ vẩn bên hàng giậu giăng, một cô thiếu nữ vào trạc mƣời bảy mƣời

tám, chít khăn ngang vận áo trắng số gấu, chân đi guốc ngơ ngác nhìn sân

trƣờng, nhƣ muốn vào, nhƣng dùng dằng lo sợ. Nƣớc da cô trắng xanh, quầng

mắt đen sâu hoắm càng làm tăng vẻ rực rỡ long lanh của hai con ngƣơi sáng

dịu. Trong cái mặt trái Xoan, má hơi hóp, môi khô khan, chỉ có hai con mắt là

có vẻ hoạt động khác nào nhƣ hai ngôi sao lấp lánh sau làn mây mỏng

(…)Hai chị em đi bên cạnh nhau trên con đƣờng Quan Thánh, nét mặt rầu rầu.

Nƣớc da trắng xanh phản chiếu màu lá xanh của rặng sấu bên đƣờng lại càng

xanh, lại càng lộ vẻ gầy yếu của đôi khổ mặt xƣơng”. Nhƣ vậy, Khái Hƣng đã

miêu tả nhân vật bằng cả diện mạo, khuôn mặt, trang phục. Thạch Lam ít có

nhân vật nào có đầy đủ các phác họa ấy.

Trong truyện ngắn Thạch Lam, trong số những nhân vật phụ nữ mà

87

luận văn khảo sát, chỉ có ít nhân vật đƣợc tác giả tô vẽ bằng nét mặt, trang

phục. Tâm (Cô hàng xén)là nhân vật hiếm hoi đƣợc tác giả phác thảo về nhan

sắc bằng đôi má hây hây hồng, ánh mắt ngại ngùng nhìn cậu giáo Bài, và

dáng điệu nhanh nhẹn trong mỗi phiên chợ. Khi đã trở thành ngƣời mẹ, ngƣời

vợ, phải cáng đáng gánh nặng hai gia đình, chính yếu tố về đôi mắt, gò má,

dáng điệu khiến ngƣời đọc nhận ra sự tiều tụy, đổi khác của cô. Gò má Tâm

không còn đƣợc hồng hào nhƣ trƣớc, ánh mắt xa xăm lo nghĩ, dáng vẻ nhọc

nhằn vất vả. Chị Sen trong Đứa con đƣợc Thạch Lam vẽ bằng dáng vẻ “cúi

mình dƣới gánh nƣớc nặng trĩu, lách cửa bƣớc vào những bƣớc khó nhọc và

chậm chạp. Cái đòn gánh con xƣớng và rên rỉ trên vai, nƣớc trong thùng sánh

tóe ra mỗi bƣớc đi (…) ngƣời chị nhỏ da sạm nắng, chân tay đã bị những

công việc nặng nhọc làm thành xấu xí và cằn cỗi”: dáng vẻ của con ngƣời vất

vả cực nhọc. Dung trong Hai lần chết khi còn nhỏ là cô bé gầy gò, “quần áo

lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm bùn (…) ngày tết, các chị em có quần áo

mới vui chơi, còn nàng vẫn phải áo cũ làm lụng dƣới bếp (…) tính nàng nhƣ

đứa trẻ con”. Vậy là, Dung đƣợc miêu tả bằng dáng vẻ và trang phục. Bên

cạnh đó, Dung là nhân vật hiếm hoi đƣợc Thạch Lam gọi tên tính cách “nhƣ

đứa trẻ con” – nàng hồn nhiên, vô tƣ, không bao giờ kêu ca điều gì. Sự cam

chịu đã trở thành tính cách ngấm vào máu Dung. Nhƣng cũng có lúc Dung

không chịu nổi số phận, không chịu nổi sự áp bức, bóc lột, mắng nhiếc của

mẹ chồng và các em chồng, nàng đã trốn về nhà mẹ đẻ. Và sau khi muốn chết

mà không đƣợc, trở lại nhà chồng, Dung trở thành ngƣời chết thực. Cuộc đời

của nàng từ đó sẽ chỉ còn cam chịu và cam chịu mà thôi. Mai trong Trong

bóng tối chiều “hai tay úp mặt xuống khóc. Diên thấy hai vai nàng nức lên

(…) Diên vừa mới nhận cách ăn mặc và trang điểm của Mai, nhẫn ở ngón tay

và hoa tai lấp lánh dƣới mái tóc, sang trọng nhƣ các bà giàu có. Và Mai đánh

phấn! Đôi môi có vết son của cô gái trƣớc kia quê mùa mộc mạc làm chàng

rùng mình nghĩ đến những bộ mặt trát phấn, những đôi môi đẫm son nhƣ

thấm máu mà chàng thƣờng trông trƣớc cửa những chỗ ăn chơi” Cách miêu tả

của Thạch Lam khiến ta nhận ra sự sa ngã của Mai - cô gái thôn quê đã bị

88

những cám dỗ chốn thị thành làm cho tha hóa.

Trong truyện ngắn Thạch Lam, có những ngƣời phụ nữ đƣợc gọi tên rõ

ràng, và cũng có những ngƣời chỉ đƣợc gọi cái tên chung chung. Thiếu nữ

trong Cuốn sách bỏ quên là một ví dụ. Không biết cô gái ấy là ai, nhƣng

ngƣời đọc hình dung ra một cô gái đẹp với khuôn mặt trái xoan, đôi môi đỏ

thắm, đôi mắt dƣới làn mi cong dài, quần áo nửa tỉnh nửa quê, đôi bàn tay

xinh xẻo cùng với hành động nhẹ nhàng lật từng trang sách và vén lại tà áo

cho gọn gàng. Đó là một thiếu nữ kín đáo, ý nhị. Ngƣời vợ của phu xe Dƣ

trong Một cơn giận đƣợc nhắc đến rất ít, nhƣng ngƣời đọc có thể hình dung ra

một con ngƣời gò, ốm yếu với hành động ôm đứa trẻ ốm thu lu trong một xó

nhà tối tăm, thỉnh thoảng lấy lông gà phết lên lƣỡi đứa bé, và sau đó là tiếng

khóc vọng từ căn nhà khi “tôi” đi khỏi.

Nhƣ vậy, nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam không

nhất thiết phải có tên rõ ràng, không nhất thiết phải có khuôn mặt, dàng ngƣời,

trang phục, hành động riêng nhƣng ngƣời đọc vẫn nhận ra những nét thân

quen và đặc trƣng của từng nhân vật. Hình ảnh mẹ Lê gợi ta nhớ hình ảnh chị

Dậu. Mẹ Lê là hình ảnh ngƣời mẹ nghèo điển hình của ngƣời nông dân nghèo

vùng đất Hải Dƣơng và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ trƣớc Cách mạng. Cô hàng

xén Tâm mang bóng dáng của nhiều cô hàng xén chợ quê đảm đang tháo vát,

sống vì cha mẹ và các em, có tâm hồn và tình yêu đẹp. “Về lại phố Cảm

Giàng, những cô hàng xén vẫn còn, nhƣng đã khác xƣa xa. Hình ảnh cô hàng

xén của Thạch Lam vẫn sống trong tâm trí chúng ta và có thể còn sống lâu

hơn nữa, vì nó đạt tới nhân vật điển hình” (Thạch lam với quê hương sáng tác

– Đinh Quang Tốn). (41)

3.1.2 Tâm lý

Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng cái

hiện thực và Thạch Lam quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng.

Con ngƣời đƣợc miêu tả trong tác phẩm Thạch Lam không phải là „„con

ngƣời tính cách mà là con ngƣời tâm hồn‟‟. Bởi chính Thạch Lam từng cho

rằng “Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính

89

tình và cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn của mọi ngƣời qua tâm

hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết‟‟ (Theo giòng). Ở

những năm ba mƣơi của thế kỷ 20, trong khi các nhà văn hiện thực quan tâm

đến tình trạng xã hội của con ngƣời thì các nhà văn lãng mạn lại quan tâm

nhiều đến thế giới tinh thần, thế giới nội tâm. Việc đi sâu thể hiện thế giới tinh

thần, thế giới nội tâm của con ngƣời và coi đó là đối tƣợng để miêu tả con

ngƣời là chỗ mạnh và cũng là chỗ yếu của các nhà văn lãng mạn nói chung và

của ngòi bút Thạch Lam nói riêng. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan

nhận xét “ Những cảm giác con con, Thạch Lam tả rất khéo…làm cho ngƣời

đọc cũng dự vào một phần suy nghĩ. Nhƣng trong tập Gió đầu mùa, những

cảnh nghèo, những cảnh đồng ruộng, ông còn tả bằng những nét bút ngƣợng

ngập, tỏ ra nhà văn chuyên tả tình nhƣng chƣa quen lối tả cảnh”. Sinh thời,

Thạch Lam luôn nghĩ đến “những ngƣời nghèo khổ đang lầm than trong cảnh

đói rét cả một đời” nhƣng ngòi bút thiên về cảm giác của ông (đôi khi rơi vào

duy cảm) cho ta thấy những trang viết của nhà văn còn chƣa nhiều những bức

tranh hiện thực sắc nét về những kiếp ngƣời nghèo khổ. Nói nhƣ Lại Nguyên

Ân: Thạch Lam “tả ngƣời nghèo mà không muốn cho độc giả thấy những

mảnh rách, những mụn vá trên quần áo họ”. Lê Dục Tú trong Thạch Lam –

người đi tìm cái đẹp trong cuộc đời và trong văn chương có nhận xét “nhiều

truyện không có cốt truyện, không có cả chân dung và tính cách mà chỉ là để

diễn tả một tâm trạng hay một trạng thái tinh thần nào đó‟‟.(2, 75)

Theo Thạch Lam, “nhà văn có biệt tài là nhà văn đã diễn tả đúng và thấu

đáo cái tâm lý uyển chuyển của ngƣời” (20, 1). Để làm đƣợc điều đó, ông

thấy cần phải có một sự quan sát bề trong, khiến nghệ sĩ có thể hiểu đƣợc cái

ý nghĩa giấu kín của sự việc, cái trạng thái tâm lý của một cử chỉ hay một lời

nói. Thạch Lam phê phán phái tả chân muốn đạt nghệ thuật bằng cách chỉ

diễn tả cái gì trông thấy, và với cách ấy họ đã “tạo nên những tác phẩm khôi

hài chứ không cảm động” trong khi đó nhà nghệ sĩ lại cần có con mắt của tâm

hồn để soi thấy đƣợc bộ mặt của tâm lý. Ông đánh giá cao những ngƣời viết

có khả năng “tìm đến đƣợc cái bí mật không tả đƣợc ở trong mỗi con ngƣời”

90

và chán ghét thứ văn chƣơng chỉ chú trọng đến những mối quan hệ bên ngoài.

Theo quan niệm của Thạch Lam, chú trọng vào đời sống tâm linh, xem cái

đời sống cần là đời sống bên trong, đời sống tâm hồn, từ đó lấy việc diễn tả

đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của con ngƣời làm công việc hàng

đầu. Nghĩa là ông không hoàn toàn loại bỏ yếu tố cốt truyện, loại bỏ cốt

truyện, loại bỏ cuộc sống cùng với các mối quan hệ bên ngoài của nhân vật

khỏi nội dung tiểu thuyết (theo nghĩa văn xuôi nghệ thuật nói chung) nhƣng

ông cho rằng tác phẩm muốn đƣợc đƣợc vững bền mãi mãi “nhất thiết phải

soi thấu đƣợc cái tâm lý bên trong”. Điều thú vị là các quan niệm, những trăn

trở của Thạch Lam về nghệ thuật thƣờng không bị khô héo trong hình thức lý

luận xám ngắt mà đƣợc ấp ủ trong những thực tế sinh động – các truyện ngắn

mẫu mực. Nhƣng, nhà văn không chỉ quan tâm đến bản thân các trạng thái –

trạng thái tâm lý – “cảm tình” “cảm giác”, ông còn hứng thú trong việc tìm

kiếm những cách thức biểu đạt thích hợp cho từng tình huống tinh thần của

nhân vật, nhờ đó có thể đẩy cái tinh tế lên đến độ sâu sắc. Năm 1989, nhà

nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung giới thiệu về Thạch Lam trong Văn xuôi

lãng mạn 1930-1945 nhận xét: Thạch Lam có sở trƣờng diễn tả thế giới nội

tâm, “đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc cảm giác. Ông đặc biệt

tinh tế khi diễn tả những rung động bên trong, những cảm giác mong manh

thoáng qua, những biến thái tế nhị của tâm hồn trƣớc ngoại cảnh” (7). Nhà

nghiên cứu Bích Thu bổ sung nhận xét về việc phản ánh thế giới nội tâm của

con ngƣời trong truyện ngắn Thạch Lam: “Dễ nhận thấy nhân vật của Thạch

Lam ít đƣợc nhấn mạnh về điệu bộ, cử chỉ, dáng vẻ bên ngoài mà là những

nhân vật “hƣớng nội”, có đời sống bên trong, ẩn chứa những bí mật của “cõi

ngƣời” mà nhà văn đặt mục đích khám phá và phát hiện”. Đây chính là nét

độc đáo trong sáng tác của Thạch Lam.

Những chân dung tâm lý đƣợc Thạch Lam miêu tả rất tài tình. Đôi khi

chỉ là một dòng suy nghĩ, một chút hồi tƣởng, nhƣng chân dung nhân vật đã

hiện ra. Những hành động, suy nghĩ của Liên trong Hai đứa trẻ cho thấy Liên

là cô gái tốt bụng, nhạy cảm với thiên nhiên và cuộc sống con ngƣời. “Liên

91

không hiểu sao, nhƣng chị thấy lòng buồn man mác trƣớc cái giờ khắc của

ngày tàn (…)Liên trông thấy động lòng thƣơng nhƣng chính chị cũng không

có tiền để mà cho chúng nó (…)Rồi Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu

lên tay nhắm mắt lại. Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và

hình ảnh của thế giới quanh mình mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống

giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết nhƣ chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu

sáng một vùng đất nhỏ. Nhƣng Liên không nghĩ đƣợc lâu; mắt chị nặng dần,

rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh nhƣ đêm ở trong phố,

tịch mịch và đầy bóng tối.” Với những suy nghĩ ấy, ta hiểu rằng Liên là cô gái

không chỉ nhạy cảm và còn có nhiều ƣớc mơ, hy vọng thoát khỏi cuộc sống tù

túng hiện tại.

Cô hàng xén Tâm là một trong số ít nhân vật đƣợc Thạch Lam miêu tả

về cả ngoại hình và tâm lý. Bên cạnh hình dung về một cô gái xinh đẹp, đảm

đang, Tâm còn đƣợc biết đến là cô gái đa cảm, giàu trách nhiệm. “Tâm cúi

mặt thẹn đỏ hai gò má; nàng tƣởng đến cậu giáo, con ngƣời xinh trai và nhã

nhặn, mà mới buổi gặp lần đầu, nàng đã mến yêu ngay. Nhƣng bỏ nhà đi lấy

chồng? Thằng Lân và thằng Ái lấy tiền đâu mà mua sách vở học? Nghĩ đến

mẹ già phải làm lụng vất vả lòng Tâm lại không nỡ(…) Nhƣng nàng cần gì

những cái đó nữa. Bọn trai làng không còn chòng ghẹo nàng, và trong lòng

nàng cũng không còn cái thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết rồi.

Nàng chỉ còn là một ngƣời đàn bà tảo tần hôm sớm để nuôi chồng” (8, 185,

186) . Vậy là, tâm trạng Tâm chủ yếu đƣợc tác giả biểu đạt qua dòng suy

tƣởng khép kín của chính nhân vật đó. Những ngẫm nghĩ, suy tính, lo toan

diễn ra trong lòng Tâm kéo dài suốt con đƣờng từ chợ về nhà, từ nhà cô đến

nhà chồng, lại từ nhà chồng đến chợ. Dòng suy tƣởng này rải trên từng bƣớc

chân và đi qua suốt cả cuộc đời nhân vật. Nó tạo nên một tầng sống khuất kín

của riêng Tâm, bí mật với hết cả mọi ngƣời, ngay cả với ngƣời mẹ thân yêu

và gần gũi. Các cảm xúc, tâm tình đƣợc liên kết lại làm nổi bật tâm trạng cô

92

đơn, bế tắc, không lối thoát của nhân vật.

Có thể nói, cảm giác dƣờng nhƣ là chất liệu trọng yếu để Thạch Lam

khám phá thế giới nội tâm con ngƣời. Trƣớc hành động không đúng, nhân vật

cảm giác mình có lỗi. Trƣớc một nghịch cảnh, nhân vật cảm giác mình khó có

thể vƣợt qua. Trƣớc sự đấu tranh giành quyền hạnh phúc, nhân vật cảm giác

mình không đủ can đảm… Cảm giác là cái ngƣỡng không cho nhân vật vƣợt

qua ranh giới mong manh của cái thiện để ngã mình sang cái ác, cái xấu xa tội

lỗi. Thạch Lam cũng đã để cho nhân vật tự đấu tranh để chọn ra một lối đi

thích hợp. Và bao giờ cái thiện, cái đẹp cũng chiến thắng. Con ngƣời lại trở

về với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Nhân vật của Thạch Lam không

tha hoá, không tội lỗi là vì vậy. Nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam còn

có cảm giác về mùi hƣơng cùng tình yêu ở buổi đầu hò hẹn. Ai rồi cũng trải

qua mối tình đầu đầy ngọt ngào và thơ mộng. Ai rồi cũng có sự hồi hộp của

buổi hò hẹn đầu tiên. Đọc Thạch Lam tất cả những cảm giác về tạo vật, cuộc

sống và tình yêu bỗng bừng dậy. Nó thức tỉnh tâm hồn con ngƣời, giúp ta yêu

hơn, trân trọng hơn những xúc cảm ngọt ngào, những phút giây hạnh phúc đã

có và đang có trong cuộc đời.

Để diễn tả những xúc cảm mơ hồ ấy của nhân vật, Thạch Lam rất hay sử

dụng cụm từ cảm giác: “nhớ lại cảm giác vui mừng khi thấy bông lúa se sắt

vào da thịt” (Nhà mẹ Lê); “Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo”

(Hai lần chết).

Thạch Lam thƣờng xây dựng nhân vật bằng cách diễn tả những biến

hóa trong tâm lý, nhƣng cũng có khi ông dùng hành động để diễn tả những

biến hóa bên trong của nhân vật nhƣ Tâm trong Đứa con đầu lòng, cơn mê

sảng của mẹ Lê trƣớc khi chết (Nhà mẹ Lê) hay hai tầng hoài niệm trong Hai

đứa trẻ,…

Có thể nói, thế giới nhân vật nói chung và nhân vật ngƣời phụ nữ trong

93

truyện ngắn nói riêng đƣợc Thạch Lam quan tâm đến từng chi tiết nhỏ nhất.

Đó có thể là ngoại hình, cử chỉ, hành động hoặc những biến đổi tâm lý. Qua

đó, chân dung ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam đã đƣợc định hình

và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.

3. 2. Ngôn ngữ nghệ thuật:

Đánh giá về Ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam, tác giả Hà Văn Đức

trong bài Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam cho rằng:

chất thơ trong tác phẩm Thạch Lam đƣợc thể hiện ở ngôn ngữ, giọng văn thủ

thỉ nhẹ nhàng “Bằng giọng văn nhẹ nhàng, thủ thỉ, Thạch Lam đã đánh thức

miền ký ức của mỗi ngƣời, đánh thức những xúc cảm thầm kín nhất, sâu xa

nhất về những kỷ niệm yêu dấu đã qua trong tâm hồn mỗi ngƣời”. Có một

điều khiến cho Thạch Lam khác với các nhà văn khác là ông để cho nhân vật

của mình thức tỉnh một cách rất hồn nhiên. Hầu nhƣ chẳng phải chịu một thứ

luân lý cao siêu nào, cũng nhƣ không hề thông qua một cuộc đấu tranh tƣ

tƣởng nào. Truyện ngắn Thạch Lam giàu chất thơ, vì vậy chỉ thủ thỉ nhẹ

nhàng mà không gân guốc, triết lý xa xôi. Lê Dục Tú cũng nhấn mạnh nhiều

đoạn văn của Thạch Lam “cho đến hôm nay vẫn có thể coi là những đoạn văn

mẫu mực cả về cú pháp lẫn hình ảnh”. Tác giả đã dẫn ra rất nhiều câu văn,

đoạn văn “hoàn hảo” trong truyện ngắn của Thạch Lam. Lê Thị Đức Hạnh

cũng nhất trí với ý kiến đó khi nhận ra sự “giản dị, tinh tế, nhẹ nhàng, uyển

chuyển, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, nhiều khi đậm chất thơ” của ngôn ngữ

trong truyện ngắn Thạch Lam. Năm 2006, trong luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ

nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam, Nguyễn Thị Mai Hƣơng đã dành một

phần nghiên cứu về lời văn trần thuật và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn

Thạch Lam.

Trong luận văn, chúng tôi chỉ khám phá và khẳng định lại ngôn ngữ

trong truyện ngắn Thạch Lam gắn với thế giới nhân vật ngƣời phụ nữ. Luận

văn chia ngôn ngữ truyện thành hai yếu tố: Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và

94

ngôn ngữ nhân vật.

Cần lƣu ý rằng, ngôn ngữ nhân vật của Thạch Lam đƣợc viết lên bởi

chính ngòi bút của một tâm hồn nhạy cảm và nhân hậu, ông đã đi sâu hơn vào

thế giới bên trong của con ngƣời để đồng cảm với nhân vật và nhƣ vậy, ngôn

ngữ của nhân vật đã hòa cũng ngôn ngữ của tác giả trong tác phẩm. Văn

Thạch Lam mang trong mình vẻ giản dị, trong sáng, mƣợt mà nhƣng sâu lắng,

đằm thắm và thấm đƣợm tình ngƣời, không gân guốc nhƣng sức gợi mở lớn

và có khả năng khơi sâu tìm vào cảm giác. Những câu văn có hình ảnh quen

thuộc của làng quê Việt, đậm chất Việt với mùi của những lá thị, bã mía mà

cũng làm nên “mùi của riêng mảnh đất này” (Gió lạnh đầu mùa).

3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật

Ngôn ngữ trần thuật (ngôn ngữ ngƣời kể chuyện) đƣợc thể hiện qua điểm

nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật. Ngƣời kể chuyện có khi tham gia vào

câu chuyện, hóa thân vào nhân vật xƣng “tôi” (9/24 truyện), có lúc chỉ là

ngƣời đứng ngoài miêu tả (15/24 truyện).

Trong truyện ngắn, Thạch Lam thƣờng lựa chọn điểm nhìn với số lƣợng

khá lớn ở ngôi thứ ba. Đây là cách lựa chọn tạo nên ngôn ngữ trần thuật khá

sắc sảo, giản dị mà sâu sắc bởi nhà văn có thể thâm nhập vào nhân vật, lấy

điểm tựa là nhân vật nhƣng lại kể lại với thái độ khách quan của một ngƣời

ngoài nhìn vào. Hai đứa trẻ là câu chuyện kể về chuyện chị em Liên ngồi đợi

một chuyến tàu đêm đi qua. Tác phẩm đƣợc kể dựa vào điểm nhìn của cô bé

Liên - một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, trong sáng, nên cảnh phố

huyện qua đôi mắt của Liên dẫu buồn mà vẫn đẹp. Bằng thứ ngôn ngữ giản dị

của một tâm hồn trẻ thơ, con ngƣời dẫu chìm, dẫu lặng vẫn âm thầm quan tâm

yêu thƣơng tới nhau… Và cảnh chuyến tàu đêm đi qua mới sáng rực, vui vẻ

và huyên náo, mới khơi dậy biết bao nhiêu mộng tƣởng của một tâm hồn trẻ

thơ khao khát một cuộc sống náo nhiệt, phồn hoa thay thế cuộc sống tẻ nhạt

95

và ảm đạm. Với điểm nhìn ở ngôi thứ nhất cũng có một tác dụng khác tạo nên

một ngôn ngữ văn xuôi đầy sâu sắc với những diễn biến nội tâm đƣợc bộc lộ

từ chính bên trong nhân vật. Cho dù lựa chọn điểm nhìn trần thuật ở ngôi nào,

Thạch Lam cũng đã phát huy tối đa sự phong phú của tiếng Việt và ngôn ngữ

của ông luôn hƣớng tới cái đẹp của sự bình dị khác hẳn với sự chau chuốt,

bóng bẩy và tƣợng trƣng của giai đoạn văn học trung đại.

Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam nhƣ một bài thơ về những cuộc đời,

những thân phận nhỏ bé, côi cút và bất hạnh, gợi sự thƣơng cảm, xót xa sâu

sắc của tình ngƣời. Dù đứng ngoài miêu tả hay hóa thân vào nhân vật, Thạch

Lam luôn đi sâu vào khám phá đời sống tâm linh của con ngƣời bằng một

ngòi bút rất tinh tế, rất hiểu sự đời - đó là những vẻ đẹp lẩn khuất bên trong

tâm hồn: tình thƣơng, sự cảm thông, lòng vị tha giữa ngƣời với ngƣời, giữa

ngƣời với vật. “Bà Cả hình nhƣ không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra nhƣ

đang theo đuổi một ƣớc vọng xa xôi, bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà biết

đƣợc những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà đƣợc bồng đứa con trên tay,

nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ… giá bà đánh đổi

tất cả của cải để lấy đứa con…” (Đứa con) (18, 138). “Hình nhƣ có những

cái lẽ tối tăm làm cho nàng sợ hãi, không dám nhận lời. Liên lờ mờ thấy rằng

nàng không đủ can dảm làm một việc nhƣ thế, không đủ quả quyết với mình

để chống lại những cái cay nghiệt gây nên xung quanh nàng. Không phải vì

nàng quyến luyến đứa con lên sáu: nàng không yêu nó vì nó xấc láo nhƣ bố.

Nhƣng bỏ chồng bỏ con để lấy Tâm, để đƣợc sung sƣớng riêng lấy mình

nàng, Liên cho nhƣ là một sự việc không bao giờ có thể làm đƣợc.” (Một đời

người) (18, 24)

Giọng văn Thạch Lam có sức sôi cuốn kỳ lạ. Chất giọng ấy đã diễn tả

một cách tinh tế những cung bậc tình cảm của con ngƣời. Đó là một nỗi buồn

khe khẽ, vơ vẩn, mơ hồ của một cô bé trong cảnh chiều tàn nơi phố huyện.

96

“Chiều. Chiều rồi. Một chiều êm ả nhƣ ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ngoài

đồng ruộng theo gió nhẹ đƣa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo

ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen: đôi mắt chị bóng tối ngập

đầy dần vào cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của

chị; Liên không hiểu sao, nhƣng chị thấy lòng buồn man mác trƣớc cái giờ

khắc của ngày tàn.” (Hai đứa trẻ).(18, 119)

Ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam luôn hƣớng tới vẻ đẹp của đời sống

hàng ngày, tránh xa sự chau chuốt và bác học của ngôn ngữ văn chƣơng trung

đại. Ông tìm đến với lối văn giản dị, gọi đúng tên những sự vật, hiện tƣợng,

không tránh né với những lời ăn tiếng nói của đời sống hàng ngày đƣợc đi vào

trong trang văn Thạch Lam một cách tự nhiên “Khốn nạn cho Dung, từ bé đến

nay không phải làm công việc nặng nhọc, bây giờ tát nƣớc, nhổ cỏ, làm lụng

đầu tắt mặt tối suốt ngày” (Hai lần chết). (18,77)

Với ngòi bút hiện thực giàu tính nhân đạo, hình ảnh những ngƣời dân

nghèo từ thành thị đến nông thôn, từ những ngƣời trí thức đến những cô gái

bán thân đều đƣợc Thạch Lam miêu tả hết sức chân thật. Kết thúc câu chuyện

là tƣơng lai đen tối mờ mịt của những thân phận nghèo khó nhọc nhằn. Và

giọng điệu buồn trầm gợi niềm xót xa thƣơng cảm về số phận bấp bênh của

con ngƣời dƣới xã hội cũ là nét đặc trƣng của phong cách truyện ngắn Thạch

Lam. Một nỗi buồn man mác nhè nhẹ phủ lên và thấm vào đời sống của các

nhân vật, nỗi buồn xa xôi, nỗi buồn mơ hồ. Một cô hàng xén, một cô Liên,

một cô Dung.. sống buồn bã trong gia đình và cả ở xã hội. Một đứa trẻ cố

thức đêm chỉ để nhìn ánh sáng đèn của chuyến tàu đêm với hy vọng đƣợc

nhìn thấy cảnh náo nhiệt ở sân ga. Thạch Lam gieo vào lòng ngƣời đọc sự

thƣơng cảm cho những kiếp ngƣời nhọc nhằn. Hình ảnh ngƣời bán bánh giầy

giò trong đêm khuya vắng lặng, qua việc miêu tả tiếng rao buồn thảm, yếu ớt

và uể oải nhƣ mang một nỗi thất vọng cùng lời kết thúc bùi ngùi: “cái đời tối

tăm ấy, những đƣờng phố xa, hẻo lánh nhƣ không còn mong mỏi chút gì” (Cô

97

hàng xén) (18, 186). Trong bất cứ thể loại nào, ngòi bút của ông cũng nghiêng

về phía những con ngƣời nhỏ bé bằng một giọng văn đầy lòng trắc ẩn, cho

thấy đƣợc những cuộc sống tù đọng, bế tắc của cả đời ngƣời. Ngay cả những

ngƣời lầm lỡ trong chốn bùn lầy của xã hội ông cũng miêu tả họ bằng giọng

văn xót xa, buồn chứ không chì chiết, khinh rẻ. Ông còn tìm sâu trong tâm

can họ những nét đẹp còn tiềm ẩn trong bản chất của họ. “Tâm thấy ngày nay

cũng nhƣ mọi ngày, ngày kia cũng thế nữa, tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng

chịu khó và hết sức nhƣ tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ mình cô;

trong những luỹ tre xanh kia, bao nhiêu ngƣời cũng nhƣ cô, cũng phải chịu

khó và nhọc nhằn để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em.” (Cô hàng

xén) (18,117). Thật khó có thể phân biệt đâu là ngôn ngữ tác giả đâu là ngôn

ngữ nhân vật . Nhà văn đã thực sự đặt mình vào địa vị nhân vật để nói lên suy

nghĩ về số phận và cuộc đời những cô hàng xén nghèo khó sớm tối phải tần tảo

vất vả vì gia đình.

Thạch Lam luôn yêu thƣơng và trân trọng đối với con ngƣời, giọng văn

của ông cũng vì thế mà mang một hơi thở ấm áp, có sự đồng cảm sâu sắc giữa

ngƣời với ngƣời, giữa nhà văn với nhân vật. Thạch Lam xƣng hô với nhân vật

rất nhẹ nhàng và thân mật, bằng cách gọi tên: Liên, Tâm, Sinh… hoặc bằng

cách gọi trìu mến Mẹ, mẹ Lê, chàng, nàng…. Thạch Lam đã rất đồng cảm

với ngƣời lao động và dƣờng nhƣ cao hơn còn là sự hoà nhập vào dòng

ngƣời khốn khổ ấy. Nhân vật Thạch Lam luôn có một cái tên rất nhẹ, vần

không hoặc vần bằng nhƣ chính con ngƣời và tình cảm trong suốt, dịu dàng,

mỏng manh của họ vậy.

Cùng viết về nỗi khổ, cảnh ngộ của con ngƣời trong xã hội: sự bƣơn chải

nhọc nhằn, sự nghèo túng hay những kẻ phải làm cái nghề bán thân mạt hạng

nhất trong xã hội nhƣng khác với cách kể của Nam Cao lạnh lùng khách quan,

hay không trào phúng nhƣ Vũ Trọng Phụng… ngôn ngữ Thạch Lam sử dụng

có tác dụng xoa dịu nỗi đau, không có ranh giới của đẳng cấp, tầng lớp xã hội.

Nói nhƣ nhà văn Nguyễn Tuân khi nhận xét về ngôn ngữ văn chƣơng

98

Thạch Lam thì “Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi thêm,

mềm mại và tƣơi tắn hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta. Và theo

tôi nghĩ, đứng bên cái tiêu chuẩn thái độ tƣ tƣởng nó là tiêu chuẩn chung cho

các thể, các ngành văn nghệ thì đây là cái chuẩn trong những tiêu chuẩn quan

trọng nếu không là duy nhất”. Thạch Lam đã mang tới những đóng góp

không nhỏ trong quá trình hiện đại hóa văn học trên phƣơng diện ngôn ngữ và

mang dấu ấn rất riêng của cây bút lãng mạn, giàu xúc cảm và tài hoa.

3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật

Về ngôn ngữ nhân vật, khác với những tác phẩm trong giai đoạn trƣớc

đó, đặc biệt trong thơ ca trung đại, nhân vật trữ tình thƣờng ẩn đi ngôn ngữ

của mình thay vào đó là ngôn ngữ của cảnh vật với lối “tả cảnh ngụ tình”. Tới

những sáng tác của các nhà văn đầu thế kỉ XX, chúng ta bắt đầu ghi nhận

ngôn ngữ nhân vật nhƣ một phần không thể thiếu trong các tác phẩm tự sự.

Ngôn ngữ nhân vật đƣợc thể hiện chủ yếu trƣớc đó thông qua đối thoại. Và

tới Thạch Lam, nó lại mang xu hƣớng ít đối thoại mà thiên về độc thoại nội

tâm. Đây là một đóng góp khá độc đáo của ông về ngôn ngữ nhân vật.

3.2.2.1 Ngôn ngữ đối thoại

Trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, Thạch Lam sử dụng những câu

đối thoại rất ngắn và hầu hết những lời đối thoại không phải miêu tả kịch tính

hay diễn biến của cốt truyện mà thiên về miêu tả cảm xúc của nhân vật.

Lời đối thoại của Liên trong Một đời người: “Các chị bây giờ về nhà

chắc chồng con vui vẻ lắm, chỉ có em là khổ thôi” mang cảm giác buồn khó tả,

có cảm giác nhƣ Liên đang tự thƣơng cho bản thân mình. Và có lẽ đây là lần

duy nhất Liên nói ra sự khổ của mình. Những trận đòn ghen của Tích, nhƣng

mắng nhiếc xỉ vả của mẹ chồng sau đó, nàng đều cắn răng chịu đựng.

Hai lần chết kể về cuộc đời Dung – cô gái đã hiểu số phận mình chết

thực sự, “mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu đƣợc, chết không

99

còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa” sau khi theo mẹ chồng về nhà lần hai.

Trong cả truyện ngắn, ngôn ngữ nhân vật rất ít, chủ yếu là ngôn ngữ tác giả.

Nhƣng những dòng đối thoại ngắn của Dung cho ngƣời đọc hình dung rõ về

tâm lý, tính cách của cô. Từ một cô bé còn ngây thơ, run run cất tiếng hỏi

“của những ai đấy, mợ”, Dung đã dần có sự thay đổi. “Tôi làm sao thế

nhỉ…Bà Cả đâu u? Bà ấy về chƣa” – câu hỏi thể hiện sự băn khoăn và cũng là

chút hy vọng cuối cùng của cô. Lời cuối cùng “Con xin về”: ba chữ ngắn gọn

nhƣng lại chứa đựng bao bi kịch: bi kịch của đứa con không đƣợc yêu thƣơng, của

ngƣời vợ bất hạnh, của con ngƣời đã mất đi hoàn toàn hy vọng trong cuộc đời.

“Giờ muộn thế này mà họ chƣa ra nhỉ” câu nói vu vơ không đợi câu trả

lời của chị Tý bán nƣớc trong Hai đứa trẻ cũng không ngoại lệ. Chị Tý chờ

đợi, hy vọng kiếm thêm chút tiền nuôi gia đình nhỏ của mình.

Ngôn ngữ đối thoại của Thanh trong Một cơn giận thể hiện một sự

chiêm nghiệm khá triết lí và giàu cảm xúc “Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm

những việc nhỏ nhen không ai ngờ. Tôi biết hơn ai hết, vì chính tôi đã trải qua

sự đó. Tôi sẽ kể các anh nghe một câu chuyện mà cái kỷ niệm còn in sâu

trong trí nhớ tôi”…(18, 27)

Vậy là, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong truyện Thạch Lam mang

dáng dấp hiện đại, phá bỏ lối mòn cũ và nó mang trong mình vai trò truyền tải

cả cảm xúc và tâm lí.

3.2.2.2. Ngôn ngữ độc thoại

Thạch Lam đã thành công khi dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để

khám phá chiều sâu bên trong của nhân vật. Ông thiên về độc thoại nội tâm

không có lời dẫn của tác giả. Trong Một cơn giận đó là lời độc thoại nội tâm

của nhân vật “tôi” trong sự hối hận về những điều mình đã làm với ngƣời phu

xe: “Tôi rùng mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng bạc phạt!

Anh ta phải vay cai xe để nộp phạt; nhƣng ba đồng bạc nợ ấy, bao giờ anh ta

100

trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ, đánh đập vì thù hằn?”;

trong Cuốn sách bỏ quên, là lời độc thoại của nhân vật Thành lúc là băn

khoăn, lúc lại tự an ủi chính mình về cuốn sách của mình; Trong Bà đầm, đó

là dòng suy nghĩ miên man của nhân vật “tôi” về một ngƣời phụ nữ phƣơng

Tây xa lạ: sửng sốt, ngạc nhiên, sự than phục, đồng cảm, băn khoăn.

Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đây không quá khó hiểu, không quá cao

trào. Nó nhƣ một sự giằng xé, thể hiện sự mâu thuẫn giữa những khát vọng

lớn lao với những cái tầm thƣờng mà thực tại chàng đang phải chứng kiến.

Cái bi kịch này qua độc thọai nội tâm cũng đã đƣợc kế thừa trong các sáng tác

sau này của rất nhiều nhà văn nhƣ Nguyễn Minh Châu (Bức tranh), hay qua

dòng ý thức nhƣ trong các sáng tác của Nam Cao nhƣ Trăng sáng, Chí phèo,

Đời thừa…

Đau đớn nhất của mẹ Lê (Nhà mẹ Lê) là phải bỏ lại những đứa con bơ

vơ nheo nhóc trên cuộc đời; nỗi buồn của ngƣời vợ là chồng mình hờ hững,

chƣa có chút tình cảm nào với đứa con thơ (Đứa con đầu lòng); sự băn khoăn

của Mạnh trong người bạn cũ là câu hỏi về chính cuộc đời chàng, về cuộc

sống hiện tại của chàng “trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh ngƣời thiếu niên

hăng hái và hình ảnh ngƣời trƣởng già an nhàn, cái hình ảnh nào thật là của

tôi” (18,19); nỗi xót xa của Sinh là nuối tiếc quá khứ, đau đớn thực tại và mờ

mịt tƣơng lai. “Chàng ƣỡn ngƣời ra đằng sau, khoan khoái thở dài. Nhƣng

chàng nhớ lại bức thƣ, cuốn giấy bạc, nhớ lại tiếng khóc thổn thức của Mai

nép bên tƣờng, nhớ lại những lời khinh bỉ, mỉa mai chua xót. Chàng nhớ lại

nỗi uất ức, đau đớn của mình”. Cái đói khiến Sinh nhƣ đánh mất bản thân

mình “cái chán nản mênh mông tràn ngập cả ngƣời. Sinh lấy hai tay ôm mặt,

cúi đầu khóc nức nở” (18, 47)

Nhìn với con mắt ngƣời ngoài cuộc, nhiều truyện ngắn Thạch Lam chỉ

là những câu chuyện, những mảnh ghép rất nhỏ của cuộc đời. Và đúng nhƣ

101

một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: truyện của Thạch Lam không có cốt

truyện, nó đôi khi chỉ là những dòng suy tƣởng của nhân vật mà thôi. Cuộc

gặp gỡ của Thành và cô gái lạ trên tàu hỏa (Cuốn sách bỏ quên) nhìn với con

mắt ngƣời thứ ba chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn với một vài chi

tiết: thiếu nữ lên tàu, chàng trai nhìn cô gái lạ. Cô gái đọc sách, biết chàng trai

nhìn mình, vén lại tà áo cho ngay ngắn. Đến nơi, cô gái xuống tàu, chàng trai

tiếp tục cuộc hành trình. Sự việc chỉ có thế, nhƣng đọc những trang truyện, ta

nhận ra đó là cả một thế giới với bao biến đổi, thế giới của những suy tƣởng,

của tâm trạng nhân vật nhà văn Văn Sơn.

3. 3. Không - Thời gian nghệ thuật:

Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là hai khái niệm của Thi

pháp học hiện đại. Không gian trong văn học là một hiện tƣợng nghệ thuật, là

hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, vì không có hình tƣợng nghệ thuật nào

không có không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh của nó.

Không gian nghệ thuật là hình tƣợng không gian có tính chủ quan và

tƣợng trƣng, là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con ngƣời và thể

hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Nó biểu hiện mô hình thế giới của

con ngƣời, là quan niệm về trật tự thế giới và sự lựa chọn của con ngƣời.

Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật, là thời gian có thể thể

nghiệm đƣợc trong tác phẩm với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm,

với chiều thời gian là hiện tại, quá khứ, tƣơng lai. Thời gian nghệ thuật cũng

là một hình tƣợng nghệ thuật - sản phẩm sáng tạo của nhà văn. Đây là một

trong những phạm trù quan trọng nhất của thi pháp học bởi lẽ nó thể hiện thực

chất sáng tạo nghệ thuật làm nên phong cách nhà văn.

Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi không bàn nhiều đến khái

niệm rất phong phú của cặp phạm trù không - Thời gian nghệ thuật mà sễ

đi trực tiếp vào sự biểu hiện của các phạm trù trong tác phẩm truyện ngắn

102

Thạch Lam.

3.3.1 Không gian nghệ thuật:

Có rất nhiều cách phân chia khác nhau, nhƣng để bám sát vào nội dung

đề tài, chúng tôi đã chọn cách chia không gian nghệ thuật của truyện ngắn

Thạch Lam làm hai loại chính: không gian nông thôn và không gian phố thị

(cũng có thể chia nhỏ hơn là không gian phiên chợ, không gian ngôi nhà,

không gian khu vƣờn, không gian chuyến tàu đêm…) Nhƣ lời nhà văn

Nguyễn Tuân trong Nguyễn Tuân, bài viết về Thạch Lam (45, 232) có viết:

“Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của

Thạch lam thƣờng bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng

lớp dân nghèo thành thị và thôn quê.”

Khúc Hà Linh trong truyện ngắn Thạch Lam đặc điểm không gian nghệ

thuật cũng nhân định “Nhƣ bất kỳ nhà văn hiện thực nào khác, Thạch Lam

quan tâm hàng đầu đến không gian hiện thực hàng ngày. Ông ít tô vẽ và cách

điệu nó, bởi vì, nhƣ ông nói “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang

cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thƣờng. Công việc của nhà văn là

phát biểu cái đẹp ở chính chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che

lấp của sự vật”. Chính vì thế, không gian hiện thực hàng ngày trong tác phẩm

của Thạch Lam là một xóm chợ, một ngõ hẻm, một ga xép, một phố huyện

nghèo nàn hay một con đƣờng làng ở một vùng nông thôn heo hút nào đó”

3.3.1.1 Không gian làng quê:

Trong Anh em Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh: Ánh sáng và bóng tối,

Nxb Thanh Niên, 2008, Khúc Hà Linh viết: “Thạch Lam có những tháng năm

sống nơi thôn dã, nên trong tác phẩm ông chất chứa nhiều hình bóng con

ngƣời và đời sống làng quê” (23). Trong những truyện ngắn Thạch lam, ngƣời

đọc nhận ra hình ảnh làng quê nông thôn Việt Nam đói nghèo trƣớc Cách

mạng tháng Tám. Trong phông nền ấy, chân dung ngƣời phụ nữ Việt Nam

103

đƣợc khắc họa đậm nét, mang đầy đủ những phẩm chất truyền thống quý báu.

Điểm nổi bật của loại không gian này là dễ gợi cho lòng ngƣời cảm giác trống

vắng. Cái vắng lặng nơi làng quê có thể giết chết con ngƣời trong những suy

tƣ, buồn tủi của cái nghèo. Hòa vào sự tĩnh mịch của đêm quê là những tiếng

côn trùng hay những âm thanh kẽo kẹt nơi bờ tre, dễ gợi cảm giác rùng mình.

Và con ngƣời nhƣ lạc lõng, rơi vào hố đen đêm tối của chính mình. Nếu nhƣ

không gian thành thị bó thít con ngƣời, dồn nén họ trong cái ngột ngạt, trong

những bi kịch đau đớn thì không gian nông thôn lại nhấn chìm con ngƣời

trong sự đơn điệu, lãng quên (Cô hàng xén, Gió đầu mùa, Nhà mẹ Lê). Con

ngƣời trong không gian ấy hòa nhịp đan quyện với những thanh âm buồn bã

của đời sống, tạo thành một khúc nhạc đồng quê tấu lên nhƣ một tiếng khóc

hờ để tự ru lấy đời mình.

Làng quê trong truyện ngắn Thạch Lam để lại ấn tƣợng đầu tiên với

khung cảnh thiên nhiên thơ mộng “Tiếng trống thu không trên cái chòi của

huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phƣơng tây đỏ rực nhƣ

lửa cháy và những đám mây ánh hồng nhƣ hòn than sắp tàn. Dãy tre làng

trƣớc mặt đẹn lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” (Hai đứa trẻ). Phiên chợ quê

có “tiếng cƣời nói vang lên với tiếng đòn gánh kĩu kịt”, có tâm sự thầm kín

của cô gái quê mới lớn lần đầu ngập ngừng e lệ nghĩ đến tình yêu với một anh

giáo trƣờng làng: “Hình ảnh một ngƣời con trai lanh lợi, miệng tƣơi nhƣ hoa,

ăn nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm thƣờng thấy

ngƣời ấy ra hàng tìm mua kim chỉ. Nàng cúi mặt xuống hàng, thấy cái nhìn

của ngƣời con trai ấy đè năng trên má” (Cô hàng xén). Đến cái mùi vị, âm

thanh cũng là những cái rất riêng của đồng đất nông thôn Việt Nam “mùi rơm

rác và cỏ ƣớt thoang thoảng bốc lên” “tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu

ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đƣa vào” (Hai đứa trẻ). Dƣờng nhƣ, mùi

ẩm ƣớt đó đã trở thành ấn tƣợng đặc biệt về làng quê của Thạch Lam, Trong

104

Trở về, ông cũng viết “chợ đã vãn: nhƣng ngƣời đàn bà gồng gánh sắp ra về,

trên mặt đất đầy những rác bẩn, những vỏ dƣa, những lá gói. Một cái mùi âm

ấm bốc lên, cái mùi đặc biệt, hình nhƣ lần mùi đất, mùi ẩm, và mùi rác đốt”

(18, 73). Trong không gian làng quê thơ mộng quen thuộc ấy, các cô gái nổi

bật với vẻ đẹp đậm chất Á Đông “Thân hình mềm mại…trên vành khăn

nhung trong mái tóc đen có giắt mấy bông hoa sói” và một tâm hồn giàu đức

hy sinh, lòng nhẫn nại, không một chút toan tính cho hạnh phúc của riêng

mình “Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng trên vai nhỏ bé theo nhịp điệu

của bƣớc đi. Chịu khó, chịu khó từng tý một, hết bƣớc nọ sang bƣớc kia, cứ

thế mà đi không nghĩ ngợi… chịu khó và nhọc nhằn để kiếm tiền nuôi chồng,

nuôi con, nuôi các em” (Cô hàng xén). Những ngƣời phụ nữ trong làng quê

yên ả thanh bình cũng giống cô hàng xén Tâm, sống cuộc sống hàng ngày với

“cái vòng đen của rặng tre làng Bằng vụt hiện lên trƣớc mặt, tối tăm và dầy

đặc”, cuộc đời họ tuy không quá đói nghèo, quá cùng cực nhƣng cũng “đằng

đẵng, triền miên của cảnh khổ” . Ở đó, ngƣời phụ nữ “buồn rầu nhìn thấu cả

cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và

lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia nhƣ tấm vải thô sơ” của cái nghiệp mà cuộc đời

dựng lên là để dành cho cô.

Và đây là làng quê êm đềm, yên ả trong Dưới bóng hoàng lan: “Thanh

lách cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bƣớc vào. Chàng thấy mát hẳn cả ngƣời, trên

con đƣờng gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây

xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tƣơi non phảng phất trong không

khí… Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vƣờn… Thanh bƣớc

xuống giàn thiên lý. Có tiếng ngƣời đi, rồi bà chàng mái tóc bạc phơ, chống

gậy trúc, ở ngoài vƣờn vào… Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng, lá

cây rung động dƣới làn gió nhẹ. Một thân cây bút cao lên trƣớc mặt. Cùng

một lúc, chàng lẩm bẩm: cây hoàng lan!, mùi hƣơng thơm thoang thoảng đƣa

105

vào. Thanh nhắm mắt ngửi mùi hƣơng thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng

thƣờng hay chơi dƣới gốc nhặt hoa…” Đó là một thế giới hoàn toàn yên bình,

tĩnh lặng và đẹp nhƣ cổ tích. Con đƣờng gạch, giàn cây, bóng mát và đặc biệt

là hƣơng hoa đã xoa dịu tâm hồn con ngƣời sau một quãng đƣờng dài đầy bụi

bặm. Trở về với quê hƣơng chính là trở về với dân tộc, trở về với những nét

đẹp truyền thống đƣợc lƣu giữ từ thuở xa xƣa. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn

con ngƣời trở nên trong sáng hơn, thuần khiết hơn, đẹp đẽ hơn. Và cũng trong

khung cảnh ấy, những ngƣời phụ nữ hiện lên không phải với dáng vẻ tiều tụy,

vất vả. Đọc Trở về, ta thấy đƣợc hình ảnh một ngƣời bà hiền từ, nhân hậu,

một thiếu nữ duyên dáng, tế nhị, đáng yêu. Những con ngƣời ấy đã góp phần

tạo ấn tƣợng cổ tích thiên thần trong bức tranh làng quê.

Song hành với làng quê êm đềm thơ mộng, ngƣời đọc có thể lại nhìn

thấy một làng quê tiêu điều, xơ xác trong truyện ngắn Thạch Lam. Mở đầu

Hai đứa trẻ, Thạch Lam viết “Chiều chiều rồi” nhƣ một lời thảng thốt, bàng

hoàng, nhƣ một tiếng thở dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là

buồn. Ấn tƣợng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam chọn một phiên chợ

tàn để nói lên đƣợc tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức

sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Ngƣời ở

nông thôn thƣờng trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam

đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù

không tả buổi chợ phiên nhƣng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi

chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của vùng quê. Tả những

con ngƣời cuối cùng trao đổi với nhau rồi bƣớc vào các ngõ tối. Tiếng trống

thu không rời rạc, chậm, lẻ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhƣng âm thanh nhỏ nhất

nhƣ tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngƣng đọng. Nó rơi tỏm vào trong

không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ

nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn ngƣời của phố huyện lúc chiều tối. Trên

106

cái nền ấy, những cảnh đời, những con ngƣời, đúng hơn là những phiến cảnh

về cuộc đời, về con ngƣời bé mọn, hoàn toàn không có ƣớc vọng, khát

khao đƣợc khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhƣng dƣờng nhƣ

chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhƣng chỉ thấy họ vừa

lòng thoả mãn với cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong

hơn một ngấn rƣợu trong chiếc cút bé nhỏ Chị Tí là điển hình cho ngƣời

dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tối

chị mới mở cái hàng bán nƣớc. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không đƣợc gì

“sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống

thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự với cuộc sống, giao tranh, tranh

giành với cái đói,cái chết trông chờ vào những ngƣời trên tàu là qua bấp

bênh có khác gì trông chờ vào những ngƣời khách ấy để sống. Cách chị Tí

trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm: để

chõng xuống đất, bày biện các bát uống nƣớc mãi rồi mới chép miệng trả

lời : “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống

chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật, mà điển hình là số phận của những ngƣời

phụ nữ nơi đây.

Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhƣng nhƣng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ

mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác

Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào

của một đồng xu. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp ngƣời,

nhƣ một cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp ngƣời héo hắt. Bà cụ là một con

ngƣời bị tàn lụi, héo úa và cho ta cảm giác rợn ngƣời, kinh hoàng ở chi tiết

vừa đi vào bóng tối vừa cƣời khanh khách. Cách xƣng hô với Liên “chị” đã

kéo xa khoảng cách tình cảm giữa con ngƣời với con ngƣời nhƣng đã ám ảnh

ngƣời đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành. Cụ Thi xuất hiện chỉ

trong mấy dòng truyện ít ỏi nhƣng cũng đủ để ta hình dung ra một kiếp ngƣời,

107

một kiếp đời hẩm hiu.

Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay

động bóng hai chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái “cửa hàng

tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những ngƣời khốn khổ có khi không đủ

tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rƣợu nhỏ “uống một

hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp ngƣời lay lắt nhƣng cuộc sống của

Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi

khổ vật chất của những ngƣời khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà

không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm

và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Dù những ngày chợ búa có bừng lên

rực rỡ và nhiều màu sắc đến đâu, chúng cũng chỉ là một quãng thời gian ngắn

ngủi. Bởi phần chính trong cuộc đời ấy là một cái gì nhạt nhoà, âm điệu

chính của cuộc đời ấy là một cái gì mòn mỏi. Mà đó không phải là trƣờng hợp

riêng của Tâm trong Cô hàng xén, của mẹ Lê, của chị Tí, của Liên, của Huệ…

Nếu không gian làng quê ban ngày gợi cho ngƣời đọc cảm giác thân

quen, thơ mộng, lãng mạn thì làng quê về đêm cũng giống nhƣ hình ảnh cuộc

sống và con ngƣời cứ chìm dần, khuất hẳn trong bóng tối. Nó gợi sự xót xa và

thƣơng cảm của ngƣời đọc dành cho những con ngƣời, những cuộc đời,

những không gian nhƣ thế. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con ngƣời

càng thê lƣơng theo cấp số cộng của cảnh đó thì lòng nhân đạo của nhà văn

nhìn từ cảnh và ngƣời ấy cũng theo cấp số nhân mà phát triển lên. Cũng đôi

lúc, trong bong tối, dƣới ánh trăng sáng, cuộc sống con ngƣời có đôi chút

niềm vui, nhƣng trong niềm vui ấy vốn đã có nỗi buồn của sự nghèo nạn,

khổ cực. “Những đêm trăng sáng mùa hạ, cả phố bắc chõng ngoài đƣờng,

vì trong nhà nào cũng nóng nhƣ một cái lò và hang vạn con muỗi vo ve.

Dƣới bóng trăng, những đá rải đƣờng trông đen và lấp lánh sáng. Đất hãy

còn giữ cái nóng buổi trƣa và mùi cát. Mọi ngƣời họp nhua nói chuyện, trẻ

108

con nghịch chạy quanh các bà mẹ. Hình nhƣ quên cái cảnh khổ sở hèn mọn,

ai ai cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cƣời to và dài của ngƣời lớn xen lẫn với

tiếng khúc khịch của các cô gái chum chụm sát nhau trong bóng tối”. (Nhà

mẹ Lê) (18, 88).

Đọc những trang văn Thạch Lam, ngƣời đọc nhận ra dấu ấn rõ nét của

làng quê Cẩm Giàng. Điều này khiến ta liên tƣởng đến không gian làng quê

trong các tác phẩm của Thanh Tịnh. Nếu nhƣ không gian Cẩm Giàng in đậm

trong văn Thạch Lam, thì không gian làng Mỹ Lý hiện rõ trong tranh văn

Thanh Tịnh. Nhƣ chính Thạch Lam từng nhận xét “Thanh Tịnh đã muốn làm

ngƣời mục đồng ngồi dƣới bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và làn

gió lƣớt bay trên cánh đồng, ca hát những vẻ đẹp của đời thôn quê”. Không

gian ấy đƣợc ngụ vào trong một địa danh cụ thể - một địa danh có thể không

có thật trên bản đồ nhƣng rất sống động trong văn chƣơng Thanh Tịnh đến trở

thành một không gian nghệ thuật đầy ám ảnh: làng Mỹ Lý. 10 trong số 13

truyện ngắn của tập Quê mẹ Thanh Tịnh viết về Mỹ Lý. Đó là một làng quê

nhƣ bao làng quê Việt Nam khác, bề ngoài, vẫn giữ đƣợc dáng vẻ êm đềm có

phần cổ kính, nên thơ (chứ không ngột ngạt, căng thẳng nhƣ làng Đông Xá

vào kỳ sƣu thuế trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay làng Vũ Đại bức bối,

“quần ngƣ tranh thực” của Nam Cao và của bao làng quê khác trong văn học

hiện thực). Nhƣng thực chất bên trong cái làng Mỹ Lý ấy đang âm thầm diễn

ra một cuộc đổi thay các nền nếp, giá trị về cả chất và lƣợng. (15, 89)

Thực ra, không gian trong truyện ngắn Thạch Lam nghiêng nhiều về

phía “phố” hơn là “làng”. Bởi chính Cảm Giàng – làng quê vùng đồng bằng

Bắc Bộ cũng đã in dấu ấn của “phố”. Một vùng quê – phố có ga xép tàu lửa đi

qua in dấu vào trang văn gợi cảm giác thân quen. Nó vừa mang nét truyện

thống của làng quê Bắc Bộ, vừa mang dấu ấn của sự xâm nhập không gian

phố về không gian làng. Tuy nhiên, sự “xâm nhập‟ ấy chƣa rõ nét, bởi con

109

ngƣời ở đó vẫn cố giữ nét đẹp truyền thống.

3.3.1.2. Không gian phố thị

Lê Văn Truyên đã rất đúng khi nhận xét rằng “truyện của Thạch Lam

nghiêng về phía phố, truyện Thanh Tịnh nghiêng về phía làng, truyện Hồ

Dzếnh, Đỗ Tốn đặt trong thế tƣơng quan tranh chấp giữ làng và phố” (15, 88)

Đọc tác phẩm Thạch Lam nói chung và truyện ngắn Thạch Lam nói

riêng, ta thấy rõ sự hiện diện của không gian „„phố‟‟ trong đời sống con ngƣời.

Hai đứa trẻ là truyện ngắn đầy chất thơ đƣợc xây dựng trên phông nền làng

quê Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám. Ở đó, ta thấy nét đẹp thanh bình

yên ả của làng quê, thấy những cảnh sắc đặc trƣng, con ngƣời với tính cách

đặc trƣng. Nhƣng ở đó, ta cũng thấy diện mạo có phần „„pha trộn‟‟ của

„„làng‟‟ và „„phố‟‟. Phố huyện về đêm có nét vẽ đặc trƣng về „„phố‟‟ : không

gian chật chội, cuộc sống mƣu sinh chật vật, cuộc đời con ngƣời lay lắt. Ở

phố, ngƣời phụ nữ hiện ra nhƣ những đốm sao băng, nhƣ Liên và Huệ trong

Đêm ba mươi, chìm nghỉm với cuộc sống mƣu sinh trong cuộc đời giang

hồ; nhƣ mẹ Lê, liều chết tìm gạo cho con lần cuối (Nhà mẹ Lê); nhƣ mẹ

Hiên, vì nghèo không mua nổi áo ấm cho con nhƣng lại dạy con bài học

làm ngƣời – không tham của (Gió lạnh đầu mùa), nhƣ bà của Thanh, hiện

lên vẻ đẹp nhân từ, phúc hậu, với tình thƣơng cháu vô bờ bến (Dưới bóng

hoàng lan)… Họ là những số phận bị xã hội lãng quên trong những góc

phố huyện ẩm thấp, đầy rác rƣởi, trong những mảnh vƣờn cô quạnh chỉ

mình ta đối thoại với ta về cái khổ.

Trong không gian phố, dƣờng nhƣ có hai phạm trù phố khác nhau.

Không gian trong Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ cũng là phố, nhƣng phố nhỏ, phố

huyện vẫn mang đậm chất quê, đặc trƣng quê, và không gian phố ở thủ đô, ở

thành phố lớn lung linh ánh đèn, đối lập hoàn toàn với những thứ ánh sáng

nhỏ bé, yếu ớt, lay lắt nói phố huyện. Do đó, khi nói „phố‟, luận văn đề cập

110

đến các thành phố lớn, những đô thị trung tâm của xã hội lúc bấy giờ.

Phố hiện lên trong hồi tƣởng của cô bé Liên trong Hai đứa trẻ dƣờng

nhƣ đối lập nhiều lắm với không gian làng quê phố huyện nghèo mà cô đang

sống. „„Liên hồi tƣởng lại những ngày còn nhỏ ở Hà Nội với bao kỉ niệm dồn

dập hiện về mơ mơ thực thực, để rồi chỉ còn lại ấn tƣợng về một thành phố có

nhiều đèn với những vùng sáng rực và lấp lánh‟‟ „„Kỷ niệm còn nhớ lại không

gì rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và laaos lánh, Hà Nội nhiều đèn quá‟‟.

Không chỉ trong Hai đứa trẻ, không ít lần Thạch Lam nhấn mạnh vào sự đối

lập phố - làng. Trong Người bạn cũ, nhân vật „tôi‟ trong một đêm tối đã cảm

nhận „„cảnh tịch mịch một đêm khuya ở tỉnh nhỏ thật buồn bã, khiến tôi lại

nhớ đến những đêm náo nhiệt, đầy ánh sáng ở Hà Nội‟‟ (18, 14).

Rõ ràng, „phố‟ gắn nhiều với Hà Nội. Nhƣng Hà Nội sáng rực với mặt

hồ Gƣơm phẳng lặng không chỉ có những buổi tối trong rạp chiếu phim nhƣ

Bà Đầm, những buổi chiều „‟ở Hà Nội chị đƣợc hƣởng những thức quà ngon,

lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền – đƣợc đi chơi bờ hồ uống những cốc nƣớc

lạnh xanh đỏ‟‟. Trong ánh sáng rực rỡ ấy, có phải cuộc sống con ngƣời

cũng sáng rực niềm vui ? Đọc truyện ngắn Thạch Lam, ta thấy hình nhƣ

không phải thế.

Dù những ngƣời giàu, ngƣời nghèo, dù sống ở làng, hay phố, ta vẫn

thấy những kiếp ngƣời nhỏ bé, lay lắt.

Trong không gian phố lung linh sắc điện, rực rỡ ánh sáng, ngƣời phụ

nữ có cuộc đời không mấy tƣơi sáng, cũng giống nhƣ cuộc đời chung của

ngƣời dân Việt Nam trƣớc Cách mạng.

Ở một góc phố nào đó, Trong bóng tối chiều, „„Diên đứng nép mình

vào cửa hàng nƣớc, nhìn sang bên kia phố : một đám thợ nữ chen nhau trong

cổng nhà máy đi ra, ngƣời nào cũng có dáng mệt mỏi; cái ánh sáng buổi trƣa

mùa đông tuy mờ sạm cũng đủ làm họ nhấp nháy mắt và đƣa tay lên che, nhƣ

111

những ngƣời vừa bƣớc trong bóng tối ra‟ (18, 144). Ở một góc phố khác,

„„con đƣờng phố vắng ngƣời, một cái xe tay đằng xa đi lại, anh phu xe co ro

vì rét, hai tay giấu dƣới manh áo tơi tàn...Qua ô Yên Phụ, nhìn thấy những thợ

tuyền tấp nập làm việc dƣới ánh đèn trong những căn nhà lá lụp xụp...Đến

hàng Bột, hỏi dò những ngƣời chung quanh xƣởng xe, tôi biết đƣợc anh phu

xe bị phạt đêm ấy là Dƣ, ở trong một dẫy nhà quá ngã tƣ Khâm Thiên...một

dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên một cái đầm mà nƣớc đen và hôi

hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thủi ấy, sống một

đời khốn nạn của những ngƣời gầy gò, rách rƣới nhƣ những ngƣời một một

cơn mê‟‟(18, 31, 32) (Một cơn giận). „„Mƣa bụi vẫn bay tơi tả, hình nhƣ ở

bóng tối khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp này. Trên hè ƣớt át và nhớp nháp

bùn, không một bóng ngƣời qua lại. Cái vắng lạnh nhƣ mênh mông ra tận đâu

đâu ở khắp cả các phố Hà Nội đêm nay‟‟ (18, 203) (Tối ba mươi).

Vậy là, trong hồi tƣởng của những ngƣời đã xa phố, xa chốn phồn hoa

của thủ đô về làng quê, thì phố đẹp lung linh với những ánh đèn rực rỡ, còn

phố trong mắt những ngƣời ở lại, những kiếp sống lay lắt cùng cực thì ngƣợc

lại. Cũng giống nhƣ ở làng quê, cuộc sống con ngƣời nơi phố thị nghèo đói,

chật vật trong miếng cơm manh áo.

Trong không gian phố thị ta nhận ra những bi kịch đau đớn: Ngƣời vợ

đáng thƣơng của anh phu xe Dƣ nghèo đói, bất lực vì chồng phải trốn, con

chết trong vòng tay mình (Một cơn giận); Hai chị em Huệ và Liên lay lắt qua

ngày, sống cuộc đời tủi nhục của những cô gái làng chơi (Tối ba mươi); Mai

bị sa ngã, bị dụ dỗ, dần đánh mất phẩm chất quý báu của mình (Trong bóng

tối chiều). Những ngƣời phụ nữ không thoát khỏi sự ám ảnh của cái nghèo dù

họ ở nông thôn hay thành thị.

Nói về không gian phố thị, trong Hà Nội Băm sáu phố phường, phố

đƣợc Thạch Lam miêu tả dƣới một góc nhìn khác. Thiên tùy bút này phần lớn

112

dánh cho văn hóa ẩm thực của ngƣời Hà Nội. Các „„ thức quà‟‟ của Hà Nội

dƣới ngòi bút của Thạch Lam không chỉ đơn thuần là một miếng ăn thuần túy

mà sâu hơn là những giá trị tinh thần, là những nét đẹp văn hóa, không chỉ

cho hiện tại mà con lƣu giữ đến muôn đời sau. Ngắm nhìn Hà Nội với tƣ cách

ngƣời trong cuộc, Thạch Lam ngỡ ngàng nhận ra „„Hà Nội đã thay đổi nhiều

lắm. Những phố cũ, hẹp và khuất khúc, với những nhà thò ra thụt vào, những

mái tƣờng đi xuống từng bậc nhƣ cầu thang, những cửa sổ gác nhỏ và kín đáo,

đã nhƣờng chỗ cho những phố gạch thẳng và rộng rãi, với những dãy nhà

giống nhƣ đứng xếp hàng. Thẳng và đứng hàng, đó là biểu hiện của văn

minh‟‟ (Người ta viết chữ Tây). Không gian ấy cũng gắn nhiều với những cô

hàng bún, những thiếu nữ „„thƣớt tha khuê các‟‟. Nhƣng đó là Hà Nội trong

nét văn hóa truyền thống – Hà Nội với băm sáu phố phƣờng mà đến nay ta

vẫn còn tìm lại đƣợc gần nhƣ nguyện vẹn trên phố Cổ. Nhƣng, bƣớc ra khỏi

khu phố Cổ, những dấu ấn của cuộc sống thành thị đã khiến diện mạo thành

phố thay đổi. Cuộc sống mƣu sinh chật vật của những con ngƣời nghèo khổ,

đói rét nhƣ trong Một cơn giận, Trong bóng tối chiều,...khiến Hà Nội không

đƣợc cảm nhận bởi nét đẹp truyền thống ấy nữa. Khác hoàn toàn với tùy bút

Hà Nội băm sáu phố phường, phố thị trong truyện ngắn Thạch Lam là không

gian của những kiếp sống đói nghèo, chật vật trong miếng cơm manh áo.

3.3.2 Thời gian nghệ thuật

Thời gian cũng là yếu tố quan trọng của nghệ thuật, góp phần định hình

phong cách nhà văn. Các tác giả truyện ngắn trữ tình thƣờng sử dụng yếu tố

này nhƣng mỗi ngƣời có một sở trƣờng riêng. Trong truyện ngắn Thạch Lam,

ở phạm trù thời gian, chúng tôi chọn cách phân chia làm thời gian quá khứ và

thời gian hiện tại. Thông thƣờng, các tác phẩm truyện ngắn thƣờng đƣợc sắp

xếp theo thời gian tuyến tính và thời gian phi tuyến tính, và tần suất thời gian

phi tuyến tính xuất hiện nhiều hơn. Trong thời gian phi tuyến tính, ta nhận

113

thấy thông thƣờng, nhân vật thƣờng đƣợc kể ở hiện tại, nhƣng lại đan xen

những câu chuyện, những hình ảnh của quá khứ. Cách sử dụng thời gian phi

tuyến tính giúp nhà văn dễ dàng diễn tả tâm lý nhân vật kết hợp chất thơ trong

những sáng tác của mình. Cùng với nó là cách đối đáp nhẹ nhàng, tinh tế giữa

các nhân vật.

Thời mà Thạch Lam sống là thời của những bàn giao miễn cƣỡng và tất

yếu của lịch sử, của những giá trị. Đó là thời của những rạn vỡ và mất đi,

không gì cƣỡng chống của những giá trị cũ (nói chung) và cái mới đang từng

bƣớc thay thế cái cũ. Trên con đƣờng hành hƣơng về quá vãng, Thạch Lam

gặp Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh. Nhƣng nếu Nguyễn Tuân tiếc nuối

một thời và muốn làm sống lại cả một thời xƣa cũ bằng cách gợi lại „„vẻ đẹp

và những cao quý riêng‟‟, từ cái thú thả thơ, đánh thơ đầy uyên thâm, đến

một vị trà quý phái, từ cái thú nhấp nháp hương cuội một ngày đầu xuân, đến

một tóc chị Hoài... để tìm lại vang bóng một thời đã đi không bao giờ trở lại ;

và nếu Hô Dzếnh, Thanh Tịnh tìm về với ký ức tuổi thơ, nhìn bằng con mắt

trẻ thơ một chân trời cũ buồn bã hay một quê mẹ xa vời, thì với Thạch Lam,

dĩ vãng luôn trở về, đan xen vào hiện tại một cách chắc chắn, thƣờng xuyên

và tác giả Gió đầu mùa bao giờ cũng đứng ở vị trí của một ngƣời đã trƣởng

thành, đã trải nghiệm để „„nhớ lại‟‟, „„mơ hồ cảm thấy‟‟, „„mang máng nhớ

lại‟‟...một dĩ vãng có thể rất xa : những ngày còn trẻ nhƣng cũng có lúc thật

gần ; ngày hôm qua, một khoảng khắc trƣớc đó...Giống nhƣ Hồ Dzếnh,

Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Lƣu Trọng Lƣ, Thế Lữ, Thạch Lam mãi là „„đứa

trẻ‟‟ đi tìm cái đẹp đã mất của thế giới „„đã sập đổ‟‟. Dù muốn hay không, với

Thạch Lam và những nhà văn ấy, quá khứ đã qua là qua hẳn. Mang theo

những gì đẹp đẽ tinh hoa của cả một thời. Nhƣng với Thạch Lam, thời gian

trong truyện ngắn của ông không chảy theo dòng lịch sử mà chảy trôi theo

114

dòng cảm giác của nhân vật.

3.3.2.1 Thời gian quá khứ

Thời gian quá khứ hiện diện trong truyện ngắn Thạch Lam đƣợc đánh

dấu bằng những cụm từ „„nhớ lại‟‟, „„tƣởng tƣợng ra‟‟, „„lờ mờ thấy‟‟ ,

„„thoáng qua‟‟, „„thoáng hiện‟‟, „„hình nhƣ‟‟, „„tựa nhƣ thấy‟‟,...xuất hiện

thƣờng xuyên, liền với dòng suy tƣởng của các nhân vật. Dĩ vãng trong

truyện ngắn Thạch Lam không phải là một thời đại đã qua đi và sụp đổ, không

phải là một xã hội đang tan rã dần cùng những giá trị mà nó tạo nên, mà là

con ngƣời đang đánh mất quá khứ của mình, đánh mất một cách vô tình và

hoang tàn đến mức hồn nhiên. Trong cái quá khứ bị đánh mất có hƣơng hoa

sắc lá dịu mát trong lành, có một khoảng đời trong trẻo, có một mối tình trinh

bạch, có tiếng cƣời của một cô bạn gái thuở ấu thời, và một khoảng sân dất

mát rƣợi bóng hoàng lan,... Quá khứ ấy có thể đã xa xôi lắm rồi, nhƣng có khi

mới chỉ là buổi chiều hôm qua. Dù xa hay gần, thì quá khứ bao giờ cũng đẹp,

và cái đẹp ấy đang mất đi, không gì cƣỡng nổi.

Quá khứ hiện ra ở không gian nửa phố nửa huyện của làng quê trong

hầu hết các sáng tác Thạch Lam, nhƣng một phần hình thành qua chính những

cảm giác và những cảnh ngộ của nhân vật. Đó là sự tan vỡ vừa đau xót vừa tất

yếu của những mối tình đầu, của những cặp uyên ƣơng vừa yêu nhau đã nhìn

thấy trƣớc sự chia ly, những Bình và Lan (Tình xưa), Diên và Mai (Trong

bóng tối chiều), Bính và Hậu (Nắng trong vườn), Tuấn và Mai (Đêm trăng

sáng), Trinh và Tâm (Trở về)... Ở đấy, những ngƣời đang yêu lo sợ nhất là

khi phải đối mặt với hai kẻ tình địch : thời gian và thành thị. Thời gian đồng

nghĩa với những linh cảm chẳng lành về một sự biệt ly mãi mãi. Thị thành

đồng nghĩa với những đổi thay, quyến rũ, quên lãng.

Trong quá khứ, tình yêu của những cô gái, chàng trai lãng mạn, đẹp

làm sao. Diên và Mai Trong bóng tối chiều từng „„len lỏi đùa nghịch trong

115

những vƣờn sắn sƣờn đồi. Mai là một cô gái tinh nghịch và lanh lời, hay cƣời

nói luôn miệng. Còn Diên là một anh trai ít nói và nhút nhát. Hai ngƣời yêu

mến nhau từ thuở nhỏ với mối tình yêu mộc mạc và đằm thắm của những

ngƣời nhà quê‟‟. Lan và Bình trong Tình xưa đã có những phút giây „„tôi để

tay lên tay nàng. Lan rung động cả ngƣời, toàn thân nàng mềm mại. Nàng ngả

ngƣời trên vai tôi...tôi biết rằng từ đây Lan sẽ là một vật của tôi, và tôi muốn

làm gì nàng cũng đƣợc‟‟. Sinh và Mai trong Đói từng vƣợt qua sự ngăn trở để

đến với nhau. „„Đôi vợ chồng đã cùng nhau sống những ngày sung sƣớng, ái

ân, những ngày còn để lại trong trí chàng một cái kỷ niệm êm đềm, mà mỗi

khi nghĩ tới, chàng không khỏi bồi hồi‟‟. Tâm và Trinh trong Trở về cũng

từng có những phút giây ở „„cái đời thôn quê giản dị và sung sƣớng. Chàng

mơ màng yêu một cô thôn nữ, và ƣớc mong cùng nhau sống trong cảnh thanh

bình dƣới một túp lều tranh‟‟. Tâm và cậu giáo Bài trong Cô hàng xén thì

„„bốn mắt nhìn nhau : Tâm má đỏ bừng, tay không biết làm gì. Cậu Giáo

ngƣợng nghịu, nửa muốn ngồi xuống bên nàng, nửa không dám‟‟. Với Liên

trong Một đời ngƣời là mối tình với Tâm – ngƣời nàng quý mến từ thủa nhỏ.

Những tình cảm đẹp trong quá khứ ấy có lúc rất xa xôi, và dƣờng nhƣ đôi lúc

vẫn còn vƣơng vấn ở thực tại, nhƣng cũng có khi đã biến mất hoàn toàn.

Trong tình yêu của những chàng trai cô gái, quá khứ là cái gì đó đẹp, lãng

mạn, thơ mộng vô cùng.

Dĩ vãng ùa về trong tâm trí, tâm tƣởng của các nhân vật truyện ngắn

Thạch Lam không chỉ là quá khứ đẹp về tình yêu, mà còn là quá khứ thanh

bình, yên ả, cuộc sống sung túc.

Đó là quá khứ của Liên và An trong Hai đứa trẻ gắn với những ánh đèn

sáng rực, lấp lánh, những buổi đi chơi ăn kem ở bờ Hồ, khi „„mẹ Liên còn có

nhiều tiền‟‟, khi thầy Liên còn chƣa mất việc. Quá khứ của Sinh và Mai

những ngày hạnh phúc khi Sinh „„còn là một ngƣời lắm tiền‟‟. Dung trong

116

Hai lần chết cũng từng có cuộc sống bình yên. Dù là đứa trẻ không nhận đƣợc

tình yêu thƣơng của cha mẹ, nhƣng Dung vẫn đƣợc vui chơi thoải mái, đƣợc u

già chăm sóc, bế ẵm, chăm chút, quý nhƣ con đẻ. Đó còn là quá khứ của Liên

và Huệ trong Tối ba mươi. Hai cô gái ấy từng có gia đình : Khi mẹ Liên chƣa

chết, cha Liên chƣa đi lấy vợ; khi Huệ chƣa bỏ gia đình mà đi. Nhìn cuộc đời

những nhân vật ấy, ta nhận ra quá khứ đối lập hoàn toàn với hiện tại. Nếu quá

khứ sung túc, lắm tiền nhiều của, thì hiện tại nghèo đói, chật vật với cuộc

sống mƣu sinh. Nếu quá khứ êm đềm, thì hiện tại đầy bão táp. Nếu quá khứ

có một gia đình êm ấm, hạnh phúc, thì hiện tại cô đơn, trơ trọi, phải đối diện

với cuộc đời đầy éo le, bất hạnh.

Riêng với những ngƣời phụ nữ, quá khứ của họ không chỉ gắn với tình

yêu đẹp, gắn với cuộc sống bình yên sung túc, mà đó còn là quá khứ với nhan

sắc, với nét đẹp hồn nhiên, tinh khôi thiếu nữ. Giống nhƣ Lệ Minh trong

Người bạn cũ là cô gái „„óng ả biết bao trong chiếc áo vải rồng, đi đâu cũng

cổ động dùng nội hóa mà chính cô hiến cái gƣơng diễm lệ‟‟ „„đôi mắt tinh

nhanh...gò má hây hây‟‟. Hay Tâm trong Cô hàng xén „„đôi môi đỏ nhƣ xẫm

máu”. “ Má Tâm phơn phớt đỏ”. „„Má nàng hồng hơn, môi nàng thắm thêm”

3.3.2.2. Thời gian hiện tại

Nếu quá khứ trong truyện ngắn Thạch Lam là sự mơ hồ của những kí

ức đẹp, dĩ vãng một thời về cuộc sống sung túc, kỉ niệm vui vẻ, cuộc sống

nghĩa tình, tình yêu trong sáng, thì hiện tại dƣờng nhƣ đảo ngƣợc.

Thời gian khiến những chuyện tình đẹp chỉ còn là hoài niệm. Trong dĩ

vãng, họ yêu nhau, họ hạnh phúc bên nhau. Nhƣng quá khứ đã không còn bởi

trong hiện thực, cuộc tình của Bình và Lan nhanh chóng tan vỡ nhƣ bong

bóng trời mƣa, Bình lên Hà Nội và quên ngay ngƣời yêu cũ. Tuấn ra đi không

một lời hẹn ƣớc trở về và Mai phải chết vì tuyệt vọng. Diên bất lực trƣớc sự

cám dỗ bạc tiền đành chịu mất ngƣời yêu...Những nỗi đau, niềm ai oán của

117

những kẻ ở lại sau đƣờng xe lửa, chờ đợi vô vọng bóng dáng ngƣời yêu cứ

hun hút,...để lại cho ngƣời đọc nỗi niềm thƣơng xót, bàng hoàng nhƣ chính

mình đang trong cảnh ngộ. Những cuộc chia tay nhƣ thế của Thạch Lam, vì

thế vừa thấm đẫm nỗi buồn thân phận, lại vừa thể hiện cái nhìn hiện thực ở

tầm sâu của nhà văn. Thạch Lam đã nhìn thấy sự vận động và mất đi tất yếu

của những cái thuở xƣa, của cái đẹp và tình yêu.

Trong cuộc sống hiện thực, những ngƣời phụ nữ, thiếu nữ xƣa ý thức

về cái đẹp của mình, nhan sắc của mình bao nhiêu, thì hiện tại, họ tiêu điều xơ

xác bấy nhiêu. Nhìn cô hàng xén Tâm, cô bạn cũ Lệ Minh, ta sẽ thấy rõ sự đối

lập quá khứ - hiện tại.

Quá khứ Tâm đẹp bao nhiêu, thì giờ, sau khi phải gánh trách nhiệm

của cả nhà chồng và nhà mình, khi em Lân lên tỉnh học, khi nàng có con,

khi cậu giáo Bài chồng nàng mất việc, nhan sắc của nàng tàn phai bấy

nhiêu. Trở thành trụ cột hai gia đình, nghĩa là gánh hàng trên vai Cô hàng

xén nặng hơn gấp bội. Còn đâu „„Những cô hàng xén răng đen, cƣời nhƣ

mùa thu tỏa nắng‟‟ nữa, „„cái thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết

rồi. Nàng chỉ còn lại là một ngƣời đàn bà tần tảo hôm sớm để nuôi

chồng‟‟. „„Nàng đã già đi nhiều lắm. Đã lâu lắm nàng không còn chú ý

đến sắc đẹp của mình và cũng không biết nó tàn lúc nào. Sắc đẹp cũng vô

ích cho nàng khi nàng đã có chồng rồi. Tâm thấy mình già và yên tâm

trong sự đúng tuổi‟‟. Lệ Minh, cô bạn đƣợc nhắc đến trong người bạn cũ

cũng không ngoại lệ. Cái nghèo khổ làm nhan sắc cô tàn phai. „„áo sa

trùm ngoài áo cánh trắng càng làm rõ cảnh nghèo khổ ẩn ở trong ; hai túi

nhét đầy những thứ lạ, há hốc miệng nhƣ kêu đói ; một giải lƣng lụa đã

ám màu xơ xác thoáng qua sợi sa thƣa‟‟ ; „„đôi mắt tinh nhanh buổi trƣớc

bây giờ lờ đờ nhƣ bị ám sau cái màn lo nghĩ, đôi má hây hây nay không

biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má kia đã thành ra hóp lại, hai gò

118

má nổi cao, phải chăng để tiêu biểu cho kẻ số phận vất vả long đong‟‟.

Nếu trong quá khứ, cuộc sống nhân vật truyện ngắn Thạch Lam có

phần sung túc, hạnh phúc hơn thì trong hiện tại, cuộc sống là sự ám ảnh về cái

nghèo, đói. Thời gian đƣợc kéo dài ra, đẩy đến tận cùng, nhƣ là sự bùng nổ

của mọi cái bất hạnh, mọi giới hạn. Cho tới một ngày, mẹ Lê phải liều mình

và đã chết giữa lúc đàn con đói lả (Nhà mẹ Lê). Ngƣời lính già chui trong xó

tối của một quán nƣớc trống toang không manh áo che thân (Người lính cũ).

Mai và Sinh đánh mất nhân cách vì miếng ăn (Đói) (Mai quay lại con đƣờng

cũ vì không muốn nhìn cảnh chồng đói lả ngƣời, còn Sinh dù sỉ vả vợ không

tiếc lời, nhƣng cơn đói là chàng vồ lấy miếng đồ ăn nhai ngấu nghiến). Liên

và Huệ sống những ngày tủi nhục trong một xó phòng bẩn thỉu, chật hẹp,

nhớp nháp nhìn ngày tháng trôi (Tối ba mươi). Dung (Hai lần chết) chịu đựng

những ngày còn lại của cuộc đời với bà mẹ chồng giàu và keo kiệt, „„còn hai

em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau cho nàng bị mắng thêm‟‟ „„công

việc nặng nhọc : tát nƣớc, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt cả ngày‟‟ „„lần

này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu

đƣợc, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng nữa rồi‟‟. Liên trong Một đời

người thì phải sống với ngƣời chồng vũ phu không có tình yêu, với những

trận đòn không có điểm dừng, bà mẹ chồng ác nghiệt, đứa con cũng xấc láo

nhƣ bố... Trong cơn khốn cùng, những con ngƣời tội nghiệp đó vẫn chƣa hết

bàng hoàng, lo âu ngơ ngác trƣớc những chuỗi ngày xám ngắt đang nặng nề

lăn về phía trƣớc, bỏ qua mọi gắng gƣợng, cố sức, nhẫn nại của họ và dƣờng

119

nhƣ không để lại một hy vọng nào.

PHẦN KẾT LUẬN

Từ nhân vật ngƣời phụ nữ, luận văn hƣớng tới sự khái quát về vai trò

ngƣời phụ nữ trong thế giới nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam nói riêng

cũng nhƣ thế giới nhân vật của Thạch Lam nói chung :

Từ xƣa đến nay, ngƣời phụ nữ vẫn luôn là đối tƣợng nhận đƣợc nhiều

sự quan tâm của các nhà thơ, nhà văn. Đã có rất nhiều tác phẩm hay đề cập

đến cuộc đời và số phận của ngƣời phụ nữ.

Khảo sát nhân vật ngƣời phụ nữ trong sáng tác Thạch Lam nói chung,

truyện ngắn Thạch Lam nói riêng, chúng tôi nhận thấy, ngƣời phụ nữ là nhân

vật đƣợc nhà văn quan tâm. Ông đã giành nhiều trang văn viết về cuộc sống

và thân phân của họ trong mối tƣơng quan với cuộc sống xã hội và cuộc sống

gia đình.

Cục diện chính trị biến động, trong khi những tƣ tƣởng phong kiến cũ

vẫn còn, những tƣ tƣởng canh tân du nhập từ phƣơng Tây đã mang đến cho xã

hội Việt Nam những làn gió mới. Vậy là, xã hội lúc bất giờ có sự „„pha tạp‟‟ :

những giá trị đạo đức truyền thống cũ vẫn tồn tại song hành cùng những tƣ

tƣởng văn hóa mới

Sống trong xã hội biến động và nhiều luồng tƣ tƣởng ấy, ngƣời phụ nữ

vừa chịu ảnh hƣởng, vừa không bị ảnh hƣởng. Họ bất biến trong sự biến đổi,

nhƣng cũng không ít ngƣời trở thành nạn nhân của xã hội.

Dù đến thời điểm có nhiều tƣ tƣởng tiến bộ, nhƣng tam tòng tứ đức

dƣờng nhƣ đã ăn sâu trong tâm trí ngƣời phụ nữ, trở thành bản năng của mỗi

ngƣời mẹ, ngƣời vợ, ngƣời con gái. Do đó, xã hội không làm ảnh hƣởng đến

cuộc sống vốn có của ngƣời phụ nữ. Họ vẫn cam chịu, không kêu than, tình

120

nguyện thực hiện đúng trách nhiệm và nghĩa vụ của mình

Nhiều trƣờng hợp, ngƣời phụ nữ trở thành nạn nhân của xã hội: sự gả

bán con gái, cuộc hôn nhân gƣợng ép, sự phân chia giai cấp. Và không ít

ngƣời trong số đó đã trở lên tha hóa, sống cuộc đời giang hồ trụy lạc. Tuy

nhiên, khi viết về họ, Thạch Lam đã giành những trang văn ƣu ái.

Trong mối quan hệ với gia đình, nhân vật của Thạch Lam thƣờng là

những ngƣời phụ nữ có cuộc sống cơ cực, kém may mắn. Sự bất hạnh của họ

có thể vì ngƣời chồng vũ phu, bà mẹ chồng ác nghiệt, cũng có thể là do sự hờ

hững của ngƣời thân, hoặc do những đứa con bất hiếu.

Mỗi ngƣời phụ nữ có một cuộc đời, một số phận riêng, nhƣng, Thạch

Lam luôn nhìn thấy điểm chung ở họ : những con ngƣời mang phẩm chất cao

đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Dù bất kì hoàn cảnh nào, ta cũng thấy ánh

lên ở họ tâm hồn Việt Nam với trác nhiệm, tấm lòng hy sinh cao cả, sự cảm

thông chia sẻ, yêu thƣơng và hƣớng thiện.

Bên cạnh trách nhiệm với gia đình, ngƣời phụ nữ luôn có những tình

cảm và khao khát riêng tƣ : Ƣớc mơ thay đổi cuộc đời, ƣớc mơ thoát khỏi cái

nghèo đói, ƣớc mơ có đƣợc tình yêu cho riêng mình.

Nhƣ vậy, ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam mang đầy đủ

những đặc điểm đặc trƣng của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Nhìn từ góc nhìn lý

thuyết giới, ta còn nhận ra họ ánh lên những đặc điểm của nữ giới nói chung.

Đó là sự ý thức sâu sắc về vẻ đẹp nữ giới cùng với thiên chức làm vợ, làm mẹ

bản năng của mỗi ngƣời.

Nhìn từ phƣơng thức biểu hiện, chúng tôi nhận thấy nhân vật phụ nữ

đƣợc Thạch Lam xây dựng từ ngoại hình đến tâm lý. Tuy sự xuất hiện của hai

yếu tố trên không phải lúc nào cũng đồng thời, cân bằng, nhƣng, ngƣời đọc

vẫn có thể hình dung, vẫn cảm thấy thân quen, nhƣ một ngƣời phụ nữ thân

121

thuộc nào đó trong cuộc sống hàng ngày bƣớc vào trong trang văn.

Để xây dựng hình tƣợng nhân vật, nhà văn đã dùng ngôn ngữ trữ tình

với nhiều góc độ khác nhau. Khi dùng ngôn ngữ trần thuật, giọng văn Thạch

Lam nhẹ nhàng, giàu tình yêu thƣơng. Khi hóa thân vào tác phẩm, trong ngôn

ngữ nhân vật, dù đối thoại hay độc thoại, ta vẫn nhận ra sự nhẹ nhàng, tinh tế

trong ngôn ngữ.

Cuối cùng, ta nhận ra các nhân vật phụ nữ của Thạch Lam thƣờng xuất

hiện trong hai phông nền chính : làng quê với những phố huyện nhỏ buồn tẻ,

hiu hắt và phố thị rực rỡ ánh đèn nhƣng vẫn có những kiếp ngƣời lay lắt. Và

thời gian tác phẩm có thể kéo dài một ngày, vài ngày, vài năm, thậm chí là cả

một đời ngƣời. Khi nói về thời gian, ta nhận thấy nhân vật thƣờng xuất hiện ở

hiện tại, nhƣng thƣờng có dấu ấn của quá khứ.

Qua sự nghiên cứu (vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ) của luận văn, chúng

tôi đi đến kết luận: Thạch Lam là tác giả giữ vị trí quan trọng trong văn đàn

30 – 45. Ông là gạch nối của hai trào lƣu: văn học hiện thực phê phán và văn

122

học lãng mạn với văn phong nhẹ nhàng và tinh tế.

1. Lê Kim Anh, Thạch Lam, Tạp chí văn học, số 3, 1990.

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú, Thạch Lam về tác gia và tác phẩm,

Nxb Giáo Dục 2007.

3. Lại Nguyên Ân, Giải pháp điều hòa xã hội trong văn Thạch Lam, Sách

Thạch Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.

4. Trần Ngọc Dung, Phong cách truyện ngắn Thạch Lam, Thạch

Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.

5. Phan Cự Đệ, Tự lực văn đoàn – con người và văn chương, Nxb

Văn học, 1990.

6. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hựu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành

Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức, Văn học Việt Nam 1900 – 1945,

Nxb Giáo dục 2008.

7. Hà Văn Đức, Thạch Lam, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tập 27, Nxb Khoa

học xã hội, 1996.

8. Hà Văn Đức, Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học,

NXB ĐHQGHN, HN, 2006, tr. 341-357

9. Vu Gia, Thế Lữ, Vũ Ngọc Phan, Thạch Lam của cái đẹp, Nxb

Văn hóa – thông tin, 2000.

10. Hồ Thế Hà, Truyện ngắn Thạch Lam – đặc điểm không gian nghệ thuật,

Thạch Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.

11. Hồ Sĩ Hiệp, Khái Hưng Nhất Linh và Thạch Lam, Nxb Văn nghệ, Hồ Chí

Minh, 1996

12. Đinh Hùng, Tìm hiểu Thạch lam thêm một vài khía cạnh, tạp chí Văn, Sài

gòn, 1965.

123

13. Khái Hƣng, Một quan niệm về văn chƣơng, báo “Ngày nay”, số 89, 1937.

14. Phạm Thị Thu Hƣơng, Quan niệm nghệ thuật về con người trong

truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí Văn học số 3, 1993.

15. Phạm Thị Thu Hƣơng, Luận án PTSKH Ba phong cách truyện

ngắn trữ tình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 THẠCH LAM

– THANH TỊNH – HỒ DZẾNH , Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 1995.

16. Thạch Lam, Gió đầu mùa, Nxb Đời nay, 1937

17. (23,178) Thạch Lam, Tựa Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, NXB Văn

học, Hà Nội, 1988. 25.

18. Thạch Lam, Thạch Lam truyện ngắn (chọn lọc), Nxb Hội nhà văn, 2006

19. Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường, Nxb Hội nhà văn, 2006.

20. Phong Lê, Tuyển tập Thạch Lam. Nxb Văn học, 1988.

21. Phong Lê, Ngô Tất Tố - Người cùng thời với chúng ta – Tạp chí

Sông Hƣơng, 12/2003.

22. Phong Lê, Thạch Lam với Hà Nội, Phong Điệp.net

23. Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh: Ánh sáng và bóng

tối. Nxb Thanh Niên, 2008.

24. Phan Trọng Luận (chủ biên), Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo dục, 2008

25. Đặng Thai Mai, Văn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX, NXB Tác

phẩm mới, Hà Nội, 1979.

26. (11,64) Nguyễn Đăng Mạnh, Khái luận tổng hợp văn học Việt Nam, tập

30A, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983.

27. (12, 71) Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên Ân, Tác giả

văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992.

28. Dƣơng Nghiễm Mậu, Thời của Thạch Lam, Tạp chí Giao điểm Sài Gòn,

số 36, 1965.

29. Dƣơng Nghiễm Mậu, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Văn

124

học hiện đại 1862 -1945, Nxb Đồng Tháp, 1988.

30. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (quyển 3).

Quốc học tùng thƣ xuất bản, 1965.

31. Vƣơng Trí Nhàn, Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, Tạp chí Văn học, số

6, 1992.

32. Bùi Tuấn Ninh, Vài nét về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn

Thạch Lam, http : tapchinhavan.vn, 2013.

33. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (tập 2). Nxb KHXH in lại năm 1989.

34. Bùi Việt Thắng, Người chắt chịu cái đẹp, Thạch Lam – văn chương và cái

đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.

35. Nguyễn Thị Thế, Người em thứ sáu, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36, 1965.

36. Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, Nxb Sóng,

Sài Gòn, 1974.

37. Nguyễn Đình Thi, Thực tại và nghệ thuật, Công việc của người

viết tiểu thuyết, Nxb Văn học, 1969.

38. Bích Thu, Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam, Khoa học và

phụ nữ, số 3, 1992.

39. Bích Thu, Sự thức tỉnh của con người trong sáng tác Thạch Lam, tạp chí

Khoa học Tổ quốc, Số 11, 1992.

40. Bích Thu, Thạch Lam và kiểu nhân vật „„tự thức tỉnh‟‟, Thạch Lam – văn

chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.

41. Đinh Quang Tốn, Thạch lam và quê hương sáng tác, Tạp chí Văn học, số

6, 1992.

42. Đinh Quang Tốn, Thạch Lam – văn chương và cái đẹp, Nxb Hội Nhà văn,

1994.

43. Lê Minh Truyên, luận án TS Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, Hà

125

Nội, 2004.

44. Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 2, Nxb Văn học,

1982.

45. Thế Uyên, Tìm kiếm Thạch Lam, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36, 1995.

46. Nhiều tác giả, Thạch Lam – truyện ngắn và tiểu luận, Nxb Hội nhà văn,

1957.

47. Nhiều tác giả, Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy

văn học, NXB ĐHQGHN, Hà Nội , 2006, tr. 341-357

48. Nhiều ngƣời soạn, Từ điển Văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.

49. http: vi.wikipedia.org/wiki

126

50. http: vannghequandoi.com.vn

127