ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---- ----
PHẠM THỊ QUYÊN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
HÀ NỘI, 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---- ----
PHẠM THỊ QUYÊN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số
: 60.22.01.21
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÝ HOÀI THU
HÀ NỘI, 2013
2
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 2 3
2
2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Thạch Lam Nói chung 2.2. Những bài viết nghiên cứu về ngƣời phụ nữ trong văn Xuôi Thạch Lam 4 7 7 9
3. Đối tƣợng, phạm vị, mục đích nghiên cứu 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 5. Cấu trúc luận văn
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1 : Nhân vật ngƣời phụ nữ và truyện ngắn Thạch Lam trong bối cảnh văn xuôi 1930 - 1945 10
10 21 21
1.1 Nhân vật ngƣời phụ nữ trong văn xuôi giai đoạn 1930 – 1945 1.2 Hành trình sáng tác của Thạch Lam 1.2.1 Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác 1.2.2 Nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam 30
39 39 39 42 42 46
3
Chƣơng 2. Đời sống và thân phận ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam 2.1 Ngƣời phụ nữ trong quan hệ với đời sống xã hội 2.1.1 Bức tranh chung về đời sống xã hội đƣơng thời 2.1.2 Ngƣời phụ nữ trƣớc những biến đổi của xã hội 2.1.2.1 Bất biến trong sự biến đổi của xã hội 2.1.2.2 Nạn nhân của xã hội 2.2 Ngƣời phụ nữ trong quan hệ với gia đình, với tình cảm Và khao khát riêng tƣ 53
54 54
tƣ 2.3 Vấn đề giới, thiên tính nữ 2.3.1 Ý thức sâu sắc về vẻ đẹp nữ giới 2.3.2 Thiên chức làm vợ, làm mẹ
3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật 3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật
3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật 3.1.1 Ngoại hình 3.1.2 Tâm lý 3.2 Ngôn ngữ nghệ thuật 3.3 Không – Thời gian nghệ thuật 3.3.1 Không gian nghệ thuật 3.3.2 Thời gian nghệ thuật 3.3.1.1 Không gian làng quê 3.3.1.2 Không gian phố thị 3.3.2.1 Thời gian quá khứ 3.3.2.2 Thời gian hiện tại
116 119
4
2.2.1 Ngƣời phụ nữ trong đời sống gia đình 2.2.1.1 Những thân phận cơ cực, kém may mắn 2.2.1.1 Những con ngƣời mang vẻ đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ Việt Nam 2.2.2 Ngƣời phụ nữ với tình cảm và khao khát riêng 68 73 74 77 83 Chƣơng 3. Nhân vật ngƣời phụ nữ nhìn từ phƣơng thức biểu hiện 83 83 85 90 91 95 98 99 99 106 109 111 113 PHẦN KẾT LUẬN DANH MỰC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thạch Lam là một nhà văn có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam
giai đoạn 1932 – 1945 và đƣợc coi là một cây bút truyện ngắn đặc sắc. Với ba
tập truyện ngắn, một cuốn tiểu thuyết, một tập bút kí, một tập bình luận văn
chƣơng, ông đã để lại dấu dấn đậm nét. Tên tuổi Thạch Lam gắn với Tự Lực
văn đoàn. Tác phẩm của Thạch Lam giàu chất nhân văn và đậm đà tính dân
tộc. Với thời gian, những trang văn của Thạch Lam vẫn là ngƣời bạn tinh thần
của nhiều thế hệ ngƣời đọc, vẫn giữ đƣợc vẻ đẹp và ý nghĩa riêng.
Nhiều thiên truyện ngắn của Thạch Lam cho đến nay và có lẽ mãi mãi
về sau vẫn làm ta xúc động, khi mà trên đời này vẫn còn những xót xa,
thƣơng cảm cho số phận con ngƣời. Giống nhƣ nhiều tác phẩm của các thế hệ
đi trƣớc, hình ảnh ngƣời phụ nữ Việt Nam trong những trang văn Thạch Lam
nhƣ đi sâu vào tâm khảm độc giả, nhƣ nhắc nhở ta luôn nhớ đến hình ảnh của
một thời, một kiếp ngƣời từng tồn tại.
Trong văn học Nhà trƣờng, Thạch Lam và tác phẩm của ông có một vị
trí quan trọng. Tác phẩm của ông đƣợc đƣa vào trong chƣơng trình giảng dạy
trung học phổ thông. Từ lớp 8, học sinh đƣợc làm quen với tâm hồn ngây thơ
và hành động tốt bụng, đáng yêu của hai chị em Lan và Sơn trong Gió lạnh
đầu mùa. Lên lớp 11, khi đã hiểu nhiều về cuộc đời, học sinh đƣợc học về
tiểu sử Thạch Lam và Hai đứa trẻ. Bên cạnh đó, độc giả nhận ra và cảm nhận
về kiếp sống buồn man mác của con ngƣời qua Thanh và câu chuyện lãng
mạn với Nga - Dưới bóng Hoàng lan. Ba tác phẩm với ba câu chuyện khác
nhau, nhƣng ngƣời đọc đủ nhận ra văn phong tác giả. “Mỗi truyện của Thạch
Lam nhƣ một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhƣng chứa đựng biết bao
5
tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trƣớc những biến
thái của cảnh vật và lòng ngƣời. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm
trầm, sâu sắc.” (24, 94)
Thêm vào đó, trong những năm gần đây, hƣớng nghiên cứu, tìm hiểu
nhân vật ngƣời phụ nữ trong các tác phẩm dƣới góc nhìn về lý thuyết giới,
thiên tính nữ đã đƣợc mở ra. Vận dụng cái nhìn này hứa hẹn sẽ mang đến một
số nhận thức mới về ngƣời phụ nữ trong xã hội.
Để góp cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về nhân vật ngƣời phụ nữ trong
trang văn Thạch Lam, đồng thời góp một tiếng nói vào việc khẳng định một
tài năng, nhân cách nhà văn đã từng hiến dâng cho đời nhiều áng văn chƣơng
có sức cuốn hút lòng ngƣời, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Người phụ nữ
trong truyện ngắn của Thạch Lam”. Đề tài vừa đáp ứng đƣợc niềm say mê
cá nhân, vừa thiết thực cho công việc giảng dạy trong Nhà trƣờng.
2. Lịch sử vấn đề:
Trong giai đoạn Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, sự xuất hiện của
Thạch Lam gắn liền với chặng đƣờng mới trong văn xuôi nghệ thuật nói
chung và địa hạt truyện ngắn nói riêng. Hơn nửa thế kỉ trôi qua kể từ ngày văn
phẩm đầu tay của Thạch Lam chào đời, đã có nhiều công trình nghiên cứu có
giá trị về thân thế, sự nghiệp, tác gia và tác phẩm của nhà văn. Một cách tổng
quát, có thể thấy các tài liệu nghiên cứu về Thạch Lam xoay quanh hai nội
dung lớn.
2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Thạch Lam nói chung:
Trƣớc hết là những tài liệu nghiên cứu về thành tựu của Văn học Việt
Nam thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong
những tài liệu này, các chuyên gia nghiên cứu về Văn học Việt Nam hiện đại
đã đƣa ra những nhận định về giá trị văn chƣơng Thạch Lam và khẳng định
đóng góp của ông vào thành tựu chung của công cuộc hiện đại hóa Văn học
6
nƣớc nhà. Nhằm mục đích làm rõ những đánh giá khái quát về thời kì Văn
học, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại năm 1942 đã khảo
sát Thạch Lam với tƣ cách một nhà văn cùng thế hệ, đó là lần đầu tiên sự
nghiệp văn chƣơng của Thạch Lam đƣợc đánh giá một cách tổng thể nhất.
Tuy nhiên, nhiều nhận xét của ông đƣa ra không còn phù hợp với quan điểm
của đánh giá hiện nay về Thạch Lam.
Tiếp theo là các công trình nghiên cứu khác nhƣ Thạch Lam của
Nguyễn Tuân, Thạch Lam của Phạm Thế Ngũ, Văn học lãng mạn Việt Nam
(1932-1945) của Phan Cự Đệ, Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn của Phong
Lê, Một khuynh hướng truyện ngắn của Nguyễn Hoành Khung, Thạch Lam
(1910-1942) của Hà Văn Đức ...
Việc xuất hiện Tuyển tập Thạch Lam năm 1988 của Nhà xuất bản Văn
học với lời giới thiệu kỹ lƣỡng và trang trọng của giáo sƣ Phong Lê và lời bạt
của nhà văn tài năng Nguyễn Tuân cho ta thấy những trang viết đầy tính nhân
bản truyền thống của Thạch Lam càng cần thiết trong cuộc sống hôm nay với
bao biến động của cái chân giá trị.
Hội thảo khoa học kỷ niệm năm mƣơi năm ngày mất của Thạch Lam
tại Viện Văn học do Viện Văn học phối hợp với Hội Văn học nghệ thuật
Hải Phòng, Hội Văn học nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng và Hội Văn
học Nghệ thuật Hà Nội tổ chức không chỉ có ý nghĩa tƣởng nhớ đến một
tài năng văn học đã ra đi tròn nửa thế kỷ mà còn xuất phát từ ý thức muốn
khám phá sâu hơn, rộng hơn các giá trị của văn học quá khứ trƣớc yêu cầu
đổi mới của văn học. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau của tƣ duy
nghiên cứu hiện đại, trên một tinh thần dân chủ và sáng tạo, từ điểm nhìn
khách quan và khoa học, nhiều bản tham luận tại hội thảo đã đi sâu nghiên
cứu những đóng góp quan trọng của văn chƣơng Thạch Lam trên nhiều
phƣơng diện: quan niệm nghệ thuật, thi pháp truyện ngắn và những giá trị
7
nhân bản của tác phẩm.
Việc đi sâu khám phá những giá trị văn chƣơng của Thạch Lam dƣờng
nhƣ chƣa kết thúc. Nhiều bài nghiên cứu về Thạch Lam sau hội thảo vẫn tiếp
tục. Nhiều luận án cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ gần đây đã tìm tòi và phát hiện
thêm những phẩm chất thẩm mỹ mới của văn chƣơng Thạch Lam.
2.2. Những bài viết nghiên cứu về người phụ nữ trong văn xuôi Thạch Lam.
Hà Văn Đức trong Thế giới nhân vật của Thạch Lam có viết “Trong tác
phẩm của mình, Thạch Lam thƣờng viết về ngƣời dân nghèo với một niềm
thƣơng cảm chân thành, man mác. Niềm thƣơng cảm đó trở nên đặc biệt sâu
sắc khi ông nói đến thân phận của những ngƣời mẹ, ngƣời vợ Việt Nam đảm
đang, tần tảo, giàu đức hy sinh” (6, 591). “Thái độ trân trọng ngƣời phụ nữ,
cảm thông chia sẻ với số phận của họ đƣợc Thạch lam thể hiện qua nhiều tác
phẩm” (6, 593). Trong Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch
Lam, ông viết “Cái đẹp lớn nhất mà Thạch Lam đem đến cho mọi ngƣời là
tình yêu vô hạn của những ngƣời phụ nữ hết lòng vì gia đình”.
Lê Dục Tú trong Thạch Lam – người đi tìm cái đẹp trong cuộc đời và
trong văn chương nhận xét “Nói đến truyện ngắn của Thạch Lam, trƣớc hết
ngƣời ta thƣờng nói đến một thế giới nhân vật trong truyện của ông. Nhân vật
trong truyện ngắn của Thạch Lam là nhân vật của cuộc sống: có những thân
phận dƣới đáy của xã hội (Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ); có những kiếp ngƣời phụ
nữ bất hạnh (Cô hàng xén, Hai lần chết, Một đời người, Tối ba mươi)” (2,
24) . Cô hàng xén, Nhà mẹ Lê, Trong bóng tối buổi chiều là vẻ đẹp muôn đời
của ngƣời phụ nữ Việt Nam: tần tảo, chịu thƣơng chịu khó và luôn biết hy
sinh bản thân mình vì ngƣời khác.
Vũ Ngọc Phan có nhận xét riêng về Cô hàng xén: “Truyện Cô hàng xén
còn cho chúng ta thấy cái cảnh nghèo nàn và cuộc đời vất vả của ngƣời gái
quê nữa. Hết nuôi em, đến nuôi chồng, và đến khi đã có chồng thì không còn
8
tƣởng gì đến sự trang điểm nữa...Cô hàng xén của Thạch Lam tức là ngƣời
tiêu biểu cho hạng đàn bà thôn quê hy sinh cho nhà mình và nhà chồng, suốt
cuộc đời ở trong cảnh tối tăm và cùng khổ, không biết có ngày vui. Hãy đọc
đoạn kết, đoạn mà Tâm (cô hàng xén) sau khi trao cho em mƣời đồng bạc là
tiền lấy họ cho chồng rồi trở về...” (2, 51). Cũng nói về Cô hàng xén, Hà Văn
Đức cho rằng “Cô hàng xén của Thạch Lam là hình ảnh khá tiêu biểu của
ngƣời phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, tần tảo, giàu đức hy sinh.
Bên trong cái vẻ âm thầm chịu đựng và có phần nhẫn nhục ấy, tác giả đã có ít
nhiều thấy đƣợc vẻ đẹp bình dị và cao quý của họ”. (6, 592)
Nguyễn Công Thắng ở Thạch Lam trong Gió lạnh đầu mùa viết “qua lăng
kính nhân bản của Thạch Lam, những mẹ Lê, cô Tâm, Lan, Nga,… hiện ra trong
dáng vẻ buồn rầu, lặng lẽ nhƣng dịu dàng, tha thiết đến kỳ lạ.” (2, 338)
Bùi Việt Thắng trong Người chắt chiu cái đẹp khẳng định: “Nhân vật nữ
trong truyện ngắn của Thạch Lam thƣờng mang vẻ đẹp của sự kín đáo, tế nhị.
Có vẻ họ hơi cũ một tí nhƣng thật ra đó là nữ tính đậm đà của phụ nữ Việt
Nam. Cô gái đẹp trong Cuốn sách bỏ quên trƣớc anh mắt quá chăm chú của
ngƣời đàn ông không quen đã “đƣa mắt nhìn Thanh, một tay để trên va-ly,
một tay vén lại tà áo cho gọn ghẽ”. Quan tâm và hy sinh vì ngƣời khác là một
nét đẹp của ngƣời Việt Nam”. (2, 172)
Góp tiếng nói vào vấn đề này, Bùi Tuấn Ninh trong Vài nét về hình
tượng người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam nhận xét: “ Thạch Lam là
một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Văn
ông giàu chất hiện thực và thể hiện một tấm lòng nhân ái, một sự cảm thông
sâu sắc đối với những cuộc đời bất hạnh, bị đè nén, áp bức, nhất là số phận
ngƣời phụ nữ. Điều đáng ghi nhận ở Thạch Lam là ông không chỉ khám phá,
thể hiện một cách chân thực cuộc đời nhục nhã, cơ cực của những ngƣời phụ
nữ suốt đời tần tảo vì gia đình, chồng con với bao khổ đau mà còn phát hiện
9
ra ở những số phận bất hạnh ấy những vẻ đẹp tâm hồn thật thánh thiện, cao
quý”. “Với trái tim nhân hậu và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, Thạch Lam mong
muốn mỗi cá nhân phải sống sao cho xứng đáng với hai chữ Con ngƣời - nhất
là với những nhân vật phụ nữ - một đối tƣợng ông đã dành biết bao sự trân
trọng, yêu thƣơng.” (32)
Luận án của Phạm Thị Thu Hƣơng khi đánh giá về ba phong cách
truyện ngắn trữ tình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 THẠCH LAM –
THANH TỊNH – HỒ DZẾNH cũng đã viết “ông thầm lặng thán phục sự nhẫn
nại, âm thầm của những mẹ Lê, cô hàng xén, Liên (Một đời người), Mai
(Đói),...bởi không hề kêu ca, oán trách số phận. Những con ngƣời ấy đã lặng
lẽ cất gánh nặng gia đình trên vai, quên cả mình đi, cầu mong cho những
ngƣời thân đƣợc no ấm, yên ổn. Trong sự hy sinh thầm lặng ấy, Thạch Lam
tìm thấy những nét đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam “từ tuổi nhỏ đến
tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ ngày kia nhƣ tấm vải thô sơ” (Cô
hàng xén), những ngƣời “đã phải đau khổ từ lúc lọt lòng), với những “bổn phận
hàng ngày, tầm thƣờng và nhỏ mọn” (Chân trời cũ – Hồ Dzếnh)” (15, 50)
Lê Minh Truyên trong luận án Thạch Lam với Tự lực văn đoàn cũng
chỉ ra “Về ngƣời phụ nữ, bằng bút pháp nghiên về hiện thực, trong nhiều truyện
ngắn, Thạch lam còn tiếp tục phát hiện, phản ánh những nét đặc sắc của bức
tranh cuộc sống nhiều màu, nhiều vẻ, nhiều góc độ với một cái nhìn tinh tế, trân
trọng, hƣớng vào nét đẹp truyền thống trong tâm hồn con ngƣời” (43, 88)
Rõ ràng, vấn đề ngƣời phụ nữ trong văn Thạch Lam đã đƣợc quan tâm,
tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, nói về ngƣời phụ nữ, vẫn còn nhiều vấn đề
còn cần đƣợc tiếp tục khai thác (đáng chú ý là góc nhìn của lý thuyết giới).
Chính vì vậy, luận văn sẽ khai thác những khoảng trống về ngƣời phụ nữ
trong truyện ngắn Thạch Lam để có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề.
Trên cơ sở kế thừa, tổng hợp những thành quả của các công trình
10
nghiên cứu trƣớc đó, chúng tôi hy vọng đề tài này mang đến cho ngƣời đọc
một cái nhìn khoa học, khách quan và toàn diện hơn về “Người phụ nữ trong
truyện ngắn của Thạch Lam”.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi quan tâm đến đối tƣợng
ngƣời phụ nữ trong mới quan hệ với đời sống gia đình, xã hội trong truyện
ngắn Thạch Lam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn sẽ khái quát về ngƣời phụ nữ trong một số truyện ngắn của
Thạch Lam nhƣ Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Đứa con đầu lòng, Trở về, Cuốn
sách bỏ quên, Dưới bóng Hoàng Lan, Cô hàng xén, Gió lạnh đầu mùa, người
Đầm, Đứa con, Tình xưa...in trong Thạch Lam truyện ngắn, Nhà xuất bản Hội
nhà văn, 2006.
3.3 Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc tiếp cận hình ảnh ngƣời phụ nữ trong các truyện ngắn
kể trên, chúng tôi hƣớng tới một số sự khái quát về đặc điểm thi pháp thể loại
và khái quát đặc trƣng phong cách truyện ngắn độc đáo của Thạch Lam.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, Luận văn chúng tôi đã sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu chính sau đây:
Phương pháp loại hình: Loại hình là “tập hợp sự vật, hiện tƣợng có
cùng chung những đặc trƣng cơ bản nào đó”. Còn loại hình học là “khoa học
nghiên cứu về các loại hình nhằm giúp cho việc phân tích và phân loại một
thực tại phức tạp”. Trong luận văn, chúng tôi hƣớng đến sự tổng hợp những
truyện ngắn trong Thạch Lam truyện ngắn (chọn lọc), tìm ra điểm chung giữa
những ngƣời phụ nữ trong thế giới nhân vật truyện ngắn Thạch Lam, từ đó đi
11
đến kết luận khái quát.
Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Thi pháp là tổ hợp những đặc tính
thẩm mỹ - nghệ thuật và phong cách của một hiện tƣợng văn học, là cấu trúc
bên trong của nó, là hệ thống đặc trƣng của các thành tố nghệ thuật và mối
quan hệ giữa chúng. Nghiên cứu thi pháp văn học là nhấn mạnh bản chất nghệ
thuật của tác phẩm, là xem xét tác phẩm văn học nhƣ là một chỉnh thể thống
nhất giữa các thành tố, các cấp độ nghệ thuật. Mục đích của nghiên cứu thi
pháp là chỉ ra bản chất nghệ thuật của tác phẩm, chỉ ra cái lý do tồn tại của
hình thức nghệ thuật.
Phương pháp tiểu sử: Trong khi phƣơng pháp xã hội học sáng tác
nghiên cứu nhà văn chỉ từ góc độ xã hội và trên bình diện xã hội, chẳng hạn
tập trung chú ý đến thành phần xã hội, nghề nghiệp, nơi sinh, môi trƣờng sống
và làm việc của nhà văn thì phƣơng pháp tiểu sử lại quan tâm đến cuộc sống
và những mối quan hệ riêng tƣ của nhà văn. Nguyên tắc của phƣơng pháp này là
dùng các yếu tố tiểu sử của nhà văn để lý giải tác phẩm văn học của nhà văn.
Phương pháp so sánh: So sánh để xác định sự vặt về mặt định tính,
định lƣợng hoặc ngôi thứ. Trong nghiên cứu văn học, ta có thể so sánh một
hiện tƣợng văn học với các hiện tƣợng văn học cùng loại, nhƣng cũng có thể
so sánh với các hiện tƣợng văn học đối lập để làm nổi bật bản chất của hiện
tƣợng đƣợc đem ra so sánh. Việc so sánh còn giúp ta xác định đƣợc vị trí của
hiện tƣợng trong một hệ thống và đánh giá đƣợc ý nghĩa của nó trong hệ
thống đó.
Phương pháp nghiên cứu nhân vật văn học: Nhân vật là phƣơng tiện
đắc dụng để nhà văn khái quát cuộc sống một cách hình tƣợng đồng thời thể
hiện sinh động những ý đồ tƣ tƣởng – nghệ thuật của mình. Phƣơng pháp
nghiên cứu nhân vật phải chú ý tới cả quan hệ nội tại và quan hệ ngoại sinh
của nó. Ta cần nghiên cứu nhân vật ở góc độ nhận thức nội dung đời sống, đặt
nhân vật trong một chỉnh thể thống nhất và nghiên cứu nó trên quan điểm lịch
12
sử phát sinh.
5. Cấu trúc luận văn:
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, thƣ mực tài liệu tham khảo,
luận văn chúng tôi gồm có ba chƣơng với các nội dung chính sau:
CHƢƠNG 1: NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG VĂN XUÔI
1930 – 1945 VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THẠCH LAM
CHƢƠNG 2: ĐỜI SỐNG VÀ THÂN PHẬN NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
CHƢƠNG 3: NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ NHÌN TỪ PHƢƠNG
THỨC BIỂU HIỆN
13
Và cuối cùng là phần mục lục.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Nhân vật người phụ nữ và truyện ngắn Thạch Lam
trong bối cảnh văn xuôi 1930 – 1945
1. 1. Nhân vật người phụ nữ trong văn xuôi giai đoạn 1930 – 1945:
Ngƣời phụ nữ luôn là đối tƣợng đƣợc quan tâm hơn cả trong sáng tác
của các tác giả tự cổ chí kim. Trong văn học dân gian, ngƣời phụ nữ luôn là
tâm điểm của sự sáng tạo, với tiếng nói đồng cảm, ngợi ca. Trong văn học
viết, đặc biệt với Đoạn trường tân thanh – Truyện Kiều của Nguyễn Du,
ngƣời phụ nữ đã đƣợc ca ngợi, khẳng định. Ngƣời phụ nữ dù tài sắc vẹn toàn
nhƣng số phận vẫn long đong lận đận, gặp nhiều bất hạnh, éo le trong cuộc
đời. Tiếp nối và phát huy truyền thống trong văn học dân gian và văn học
Trung đại, văn học giai đoạn 1930 – 1945, mà cụ thể là văn xuôi 1930 – 1945
tiếp tục dành cho ngƣời phụ nữ những ƣu ái qua từng trang viết.
Trong văn đàn 1930 – 1945, nổi lên hai trào lƣu: văn chƣơng lãng mạn
(Văn chƣơng Tự lực văn đoàn) và văn chƣơng hiện thực phê phán.
Tự Lực văn đoàn là nhóm viết đƣợc thành lập vào năm 1933, gồm mấy
anh em dòng họ Nguyễn Tƣờng nhƣ Nguyễn Tƣờng Tam (Nhất Linh),
Nguyễn Tƣờng Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tƣờng Lân (Thạch Lam), Trần
Khánh Giƣ (Khái Hƣng, Nhị Linh) và một số văn nghệ sĩ khác nhƣ Hồ Trọng
Hiếu (Tú Mỡ), Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lữ), Ngô Xuân Diệu (Xuân Diệu). Cơ
quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong hóa và từ 1936 là
tuần báo Ngày nay (khi Phong hóa bị đóng cửa). Phong hóa và Ngày nay đã
trở thành những trung tâm tập hợp phong trào văn nghệ lãng mạn, là nơi
tuyên truyền cho một cuộc cách tân trong văn học, cho “phong trào Âu hóa”
chống lại lễ giáo phong kiến và quan trƣờng phong kiến, là nơi đề xƣớng
14
những hoạt động cải lƣơng tƣ sản (hội Ánh sáng). Phong hóa, Số 101 (8 – 6 –
1934) đăng tôn chỉ Tự Lực văn đoàn gồm 9 điểm, trong đó có 5 điểm quan
trọng: Dùng lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách
An Nam; Ca tụng những nét hay, vẻ đẹp của nƣớc mà có tính cách bình dân,
khiến cho ngƣời khác đem lòng yêu nƣớc một cách bình dân. Không có tính
cách trƣởng giả quý phái; Trọng tự do cá nhân; Làm cho ngƣời ta biết rằng
đạo Khổng không hợp thời nữa; Đem phƣơng pháp khoa học Thái tây ứng
dụng vào văn chƣơng An Nam.
Tự Lực văn đoàn ra đời cách đây đã hơn nửa thế kỷ. Vì vậy khi đánh
giá hiện tƣợng văn học này chúng ta phải có quan điểm lịch sử. Mặt khác, tuy
là một văn đoàn có tôn chỉ, mục đich, xuất hiện chỉ trên dƣới mƣời năm
những nó vẫn không kém phần phức tạp do bao gồm những khuynh hƣớng,
sắc thái khác nhau, phát triển trong những thời kì lịch sử khác nhau. Trong
khuôn khổ luận văn, chúng tôi không có mục đích đánh giá, nhìn nhận về Tự
Lực văn đoàn và các tác giả trong nhóm dƣới cái nhìn lịch sử, chính trị, chúng
tôi chỉ nhìn nhận Tự Lực văn đoàn trên phƣơng diện văn chƣơng. Con đƣờng
suy thoái chính trị của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hƣng thì đã quá rõ, cho
nên, sự nghiệp văn chƣơng của nhóm Tự Lực văn đoàn phải tính từ những
năm 40 trở về trƣớc. Những ngƣời tham gia Tự Lực văn đoàn cùng chung tôn
chỉ, mục đích nhƣng cũng cần phân biệt giữa những ngƣời đầu soái (Nhất
Linh, Khái Hƣng, Hoàng Đạo) với những thành viên của nhóm nhƣ Thế Lữ,
Xuân Diệu, Tú Mỡ, Thạch Lam,... và các cộng tác viên nhƣ Huy Cận, Thanh
Tịnh, Vũ Đình Liên,...Thạch Lam và Trần Tiêu xuất hiện trong thời kì mặt
trận dân chủ nên tác phẩm cũng có những màu sắc khác với Nhất Linh, Khái
Hƣng, tuy họ là những cặp anh em ruột trong nhóm Tự Lực văn đoàn.
Nhất Linh, Khái Hƣng là hai tác giả tiêu biểu trong nhóm có những
điểm tƣơng đồng trong sáng tác mà chúng tôi muốn đề cập đến ở mảng truyện
15
ngắn, và cụ thể là những truyện ngắn về ngƣời phụ nữ.
Nhất Linh (1906 – 1963) tên thật là Nguyễn Tƣờng Tam, quê quán
Quảng Nam, nhƣng sinh ở Cẩm Giàng, Hải Dƣơng. Năm 1932, cùng Khái
Hƣng ra báo Phong Hóa, làm giám đốc và viết bài cho đến 1935. Năm 1933,
cùng một số nhà văn khác thành lập Tự lực văn đoàn. Sau khi Phong Hóa bị
đóng cửa, ông ra tiếp báo Ngày Nay. Sau 1951, thành lập Nhà xuất bản
Phƣợng Giang, ra tạp chí Văn Hóa ngày nay ở Sài Gòn. Năm 1963, ông đã tự
tử trong cuộc dấu tranh chống chế độ ông Ngô Đình Diệm.
Nhất Linh viết khá nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Riêng truyện ngắn,
đã in Người quay tơ (Đời nay, 1927), Anh phải sống (Đời nay, 1934), Hai vẻ
đẹp (Đời nay, 1934), Hai buổi chiều vàng (Đời nay, 1937), Mối tình câm (Sài
Gòn,1961), Thương chồng (Sài Gòn, 1961).
Khái Hƣng (1896 – 1947) tên thật là Trần Khánh Giƣ, sinh ra ở làng Cổ
Am, Vĩnh Bảo, Hải Dƣơng. Lúc nhỏ, Khái Hƣng theo học chữ Hán nhƣng
ông không thích làm quan, thích cuộc sống tự lập, vì vậy vừa đi dạy vừa viết
báo để tạo dựng cuộc sống.
Từ tác phẩm Hồn bướm mơ tiên đến Khúc tiêu ai oán, Khái Hƣng đóng
góp trong kho tàng Văn học Việt Nam khoảng hai mƣơi lăm tác phẩm (truyện
dài, truyện ngắn, kịch...) qua 15 năm sáng tác. Về truyện ngắn, Khái Hƣng
sáng tác rất phong phú, xuất hiện thƣờng xuyên trên báo Phong hóa và Ngày
nay; Anh phải sống (1934), Gánh hàng hoa (1934), Đời mưa gió (1936).
Khái Hƣng và Nhất Linh có điểm tƣơng đồng trong sáng tác viết về
ngƣời phụ nữ. Ngƣời phụ nữ trong những hình ảnh chân thực về tình yêu,
hạnh phúc đích thực trong cuộc sống trong gia đình. Khái Hƣng, Nhất Linh đã
phác họa bức tranh sống và thực trong giai đoạn thực dân và phong kiến nhằm
phơi bầy cái xấu xa, lạc hậu, lên án đầu óc ích kỷ, vụ lợi, cậy quyền cậy thế...
đã hãm hại chà đạp tình yêu, nhân phẩm, cuộc sống của tha nhân và ngay
16
chính ngƣời thân thuộc. Ca ngợi tinh thần tự chủ, tự lập, đề cao phẩm cách
của ngƣời phụ nữ trong sinh hoạt gia đình và xã hội; tôn trọng đời sống riêng
tƣ, tình cảm cá nhân, lòng vị tha và nhân ái.
Quan tâm hơn cả đền ngƣời phụ nữ, hai tác giả trên đã từng đƣa ra vấn
nạn, hình ảnh “ngƣời con gái đẹp” trong thảm cảnh “gia đình”. Làm sao dung
hòa, giải thoát cuộc sống, tình yêu... cho thích nghi, phải đạo, có tình có lý.
Sự thận trọng, cân nhắc, đắn đo, suy ngẫm đó cho thấy tinh thần trách nhiệm
và ý thức sáng tạo của ngƣời cầm bút. Tuy nhiên, những ngƣời phụ nữ mà
Nhất Linh, Khái Hƣng đề cập đến thƣờng là những phụ nữ trong xã hội tƣ sản
thành thị. Họ không bị ám ảnh bởi nỗi lo cơm áo gạo tiền nhƣ những ngƣời
phụ nữ nông dân trong văn học hiện thực phê phán. Ngƣời phụ nữ trong văn
học lãng mạn của hai tác giá trên có điểm chung là những ngƣời đẹp, sống
trong thời điểm khi mà những quan điểm tƣ tƣởng phong kiến kìm nén ngƣời
phụ nữ đã trở thành lỗi thời, lạc hậu. Ngƣời phụ nữ bắt đầu vƣơn lên với khái
niệm “tự do”, “bình đẳng”, “công bằng”. Họ đấu tranh trong tình yêu, cố gắng
sống cuộc sống của riêng mình. Viết theo xu hƣớng lãng mạn, những ngƣời
phụ nữ ấy dù là gái quê hay gái thành thị đều rất đẹp. Họ sẵn sàng hy sinh, từ
bỏ tất cả để chọn lấy tình yêu. Họ coi tình yêu là cái đích hƣớng tới. Do đó,
kết thúc mỗi câu chuyện thƣờng là cái chết cho sự giải thoát, hoặc là cái kết
thúc có hậu (nhƣng lại không có thực).
Nói nhƣ Hồ Sĩ Hiệp trong Khái Hưng và Thạch Lam “Nhất Linh chủ trƣơng
giải phóng ngƣời phụ nữ khỏi chế độ đại gia đình, tránh cho phụ nữ nỗi tình
duyên ép buộc, cảnh mẹ chồng nàng dâu” (11, 88) “Nhất Linh giải phóng cho
ngƣời phụ nữ góa bụa khỏi cảnh đạo đức giả của chế độ phong kiến”. (11, 89)
Song song với trào lƣu lãng mạn Tự Lực văn đoàn là trào lƣu văn học
hiện thực phê phán.
Những tiền đề xã hội giai đoạn 1930 – 1945 đã làm xuất hiện trên đàn
17
văn học công khai một dòng văn học hiện thực phê phán, nhằm đáp ứng một
phần những yêu cầu cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc
lúc bấy giờ. Các nhà văn tiến bộ, bạn đƣờng của giai cấp công nhân, nhƣ
Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao và cả
Nhƣ Phong, Học Phi, Lê Văn Hiến,...đã sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê
phán nhƣ vũ khí chiến đấu. Văn học hiện thực phê phán không chỉ đáp ứng
những yêu cầu của cuộc đấu tranh xã hội trong một thời kỳ lịch sử sôi động
mà còn phản ảnh quá trình vận động của các hệ tƣ tƣởng, sự tác động qua của
các hình thái ý thức kiến trúc thƣợng tầng. Văn học hiện thực phê phán vừa kế
thừa và phát triển truyền thống văn học hiện thực chủ nghĩa trong các thế kỷ
trƣớc, đặc biệt là thời kỳ cận đại, vừa khắc phục những nhƣợc điểm còn tồn tại
trong thế giới quan và phƣơng pháp biểu hiện của các nhà văn trong quá khứ.
Những năm 30 của thế kỷ 20 là thời kì hình thành và phát triển mạnh
mẽ của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Nhìn chung có thể tạm chia
nhỏ thành ba thời kì nhỏ: 1930 – 1935, 1936 – 1939, 1940 – 1945.
Thời kì đầu, khủng hoảng khinh tế và phong trào cách mạng tạm lắng
xuống, khuynh hƣớng lãng mạn tiêu cực xuất hiện và chiếm ƣu thế trên đàn
văn học công khai. Tuy nhiên, tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,
Vũ Trọng Phụng, Tam Lang vẫn lần lƣợt ra đời khẳng định vị trí của văn học
hiện thực phê phán. Tuy nhiên, văn học hiện thực phê phán thời kì này, trong
một số trƣờng hợp, chỉ phản ánh những nét cục bộ, những hện tƣợng nổi lên
trên bề mặt của xã hội mà chƣa nêu lên đƣợc những vấn đề cơ bản, những vấn
đề có tầm khái quát của thời đại, chƣa tập trung vào những vấn đề có tầm khái
quát của thời đại.
Bƣớc sang thời kì mặt trận dân chủ, văn học hiện thực phê phán phát
triển rực rỡ hơn bao giờ hết. Lực lƣợng sáng tác đông đảo hơn bao giờ hết.
Ngoài các tác giả đã sáng tác từ trƣớc đó, còn có thêm Nguyên Hồng, Nguyễn
18
Đình Lạp, Bùi Huy Phồn, Mạnh Phú Tƣ,...Một số nhà văn Cách mạng cũng
sử dụng chủ nghĩa hiện thực phê phán nhƣ một vũ khí trên đàn văn học công
khai. Thời kì mặt trận dân chủ, các cây bút hiện thực có điều kiện tung hoành
thoải mái hơn trƣớc và dƣờng nhƣ các tài năng đều gặp mùa nở rộ.
Nếu Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố là những nhà văn tiêu biểu cho
văn xuôi hiện thực phê phán 1930 – 1939 thì Nam cao lại là lá cờ đầu của văn
xuôi đầu những năm 40. Văn học hiện thực phê phán 1940 – 1945 đã có sự
phân hóa. Trƣớc sự khủng bố của địch, đã có những tác giả đi chệch hƣớng
( Nguyễn Công Hoan với Thanh đạm, Danh tiết) nhƣng một số nhà văn hiện
thực lại tiếp thu đƣợc ảnh hƣởng của Đảng qua nhóm Văn hóa cứu quốc bí
mật, đặc biệt là ảnh hƣởng của Đề cương văn hóa 1943. Tuy không trực tiếp
bóc trần những mâu thuẫn giai cấp đối kháng trong xã hội và ca ngợi tinh thần
đấu tranh của quần chúng nhƣng tác tác phẩm của Nguyên Hồng, Nam Cao,
Tô Hoài,...cũng duy trì đƣợc một thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, thấy
đƣợc cái không khí oi bức, dông bão của một xã hội đang ngột thở, đang quằn
quại lột xác để chuyển mình, để đổi thay.
Trong khuôn hình chung đó, những sáng tác của các tác giả hiện thực
phê phán viết về ngƣời phụ nữ đã đóng góp một vị trí không nhỏ trên văn đàn.
Nguyên Hồng (1918 – 1982), nhà văn có tuổi thơ đói khổ, lam lũ, bị hắt
hủi, bị đày đọa trong xã hội cũ mà bƣớc vào làng văn. Ông vƣơn lên mạnh mẽ
nhƣ một mầm cây căng nhựa sống, cứ xuyên qua lớp lớp bùn nâu sẫm, xòe
ngọn lá tƣơi xanh đón ánh sáng mặt trời rực rỡ. Những dấu ấn về cuộc đời đã
in đậm trong trang văn Nguyên Hồng. Đặc biệt, những sáng tác về ngƣời phụ
nữ trong tác phẩm của Nguyên Hồng mang một cái nhìn nhân đạo sâu sắc.
Nguồn suối tình cảm yêu thƣơng của Nguyên Hồng bắt nguồn từ cuộc đời
thực của ông và của những ngƣời đàn bà nghèo khổ ở các ngõ hẻm, ngoại ô
thành phố. Truyện ngắn đầu tay của ông (Linh hồn) đăng trên Tiểu thuyết thứ
19
Bảy năm 1936 kể chuyện ngƣời vợ trẻ đi tù thay chồng vì tội làm muối lậu,
gọi là tù án muối. Chị bị lão cai tù khốn nạn hiếp sẩy thai... Hình ảnh đau
thƣơng của ngƣời đàn bà trẻ bị ném vào giữa cái chuồng súc vật, cuộc đời oan
khổ của chị cứ ám ảnh mãi ngòi bút Nguyên Hồng từ tác phẩm này qua tác
phẩm khác. Có thể nói tác phẩm của Nguyên Hồng (Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu,
Quán Nải, Vực thẳm, Người con gái, Tết của tù đàn bà,...) đã ghi lại đƣợc
những nỗi khổ điển hình của ngƣời đàn bà Việt Nam trong những năm dài
tăm tối trƣớc Cách mạng tháng Tám. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyên Hồng
ngày càng mài sắc tính chiến đấu. Ông phản đối thái dộ quỳ mọp trƣớc tôn
giáo để cầu xin sự thƣởng phạt công bằng của chúa trong Cái tết của người
đàn bà. Nguyên Hồng ca ngợi ngƣời mẹ Việt Nam, ngƣời đàn bà chịu thƣơng
chịu khó, tần tảo, đảm đang, giàu đức hy sinh, nhƣng ông không lý tƣởng hóa
“đức tính” cam phận, nhẫn nhục, không ca ngợi sự phục tùng nhƣ một số nhà
văn lãng mạn; ông chủ trƣơng đánh thức ở họ tinh thần đấu tranh tự giải
phóng thoát ra khỏi những áp chế (Hai mẹ con). Tiếng nói của họ phải là
“những tiếng kêu lên sự thống thiết của sự đau đớn chua xót, đòi gọi sự thay
đổi cho cuộc đời đƣợc ấm no, yên vui, rất xứng đáng phần cho những ngƣời
mẹ hiền từ, chịu khó” (Vực thẳm). Hành động phản kháng của họ phải là “một
sự chùm dậy, hất tung và san bằng những cái đè nén và ràng buộc cái đời
ngƣời đàn bà nhà quê cằn cỗi” (Cô gái quê), một sự “phá bỏ rồi thay đổi hẳn
lại thì mới đƣợc thở một bầu không khí trong lành, một nguồn ánh sáng rực rõ
bên một cuộc đời mới, không đói rét, không đầu tắt mặt tối” (Hàng cơm đêm).
Hình ảnh ngƣời phụ nữ trong văn Nguyên Hồng bắt đầu từ ngƣời phụ nữ đáng
thƣơng tội nghiệp chấp nhận số phận (Mợ Du) đến những ngƣời phụ nữ dám
vùng lên, hất tung tất cả (Cô gái quê) mong thoát khỏi chuỗi ngày đầu tắt mặt
tối, không lối thoát (Hàng cơm đêm). Đó là những tiếng nói kêu gọi ngƣời
20
phụ nữ của tác giả.
Bên cạnh Nguyên Hồng, Nam cao cũng dành nhiều thời gian và bút lục
khi viết về ngƣời phụ nữ.
Nam Cao (Nguyễn Hữu Tri, 1917 – 1951) sinh ra trong một gia đình
nghèo, cuộc sống khá chật vật. Đói nghèo và bệnh tật đeo đuổi nhà văn từ nhỏ.
Thời kỳ Cách mạng tháng Tám, ông tham gia cƣớp chính quyền, đƣợc bầu
làm chủ tịch xã Lý Nhân – Hà Nam. Ít lâu sau, Nam Cao lên Hà Nội công tác
ở hội Văn hóa cứu quốc. Ông hy sinh khi đang đi công tác tại vùng địch hậu
khi mới 34 tuổi đời. Tuy cuộc đời ngắn ngủi, nhƣng những gì Nam Cao để lại
đáng để cho hậu thế ngƣỡng mộ. Giống Nguyên Hồng, những tác phẩm đầu
tay của Nam Cao chịu ảnh hƣởng rõ rệt của văn học lãng mạn. Tâm hồn mơ
mộng trẻ trung cùng những tác động của văn chƣơng lãng mạn đƣơng thời đã
khiến ông hƣớng tới xu hƣớng “nghệ thuật vị nghệ thuật”, thoát ly thực tế.
Nhƣng Nam Cao không dừng lại lâu trong thế giới mơ mộng, ảo tƣởng, mà
nhanh chóng quay trở về với hiện thực. “Nghệ thuật không thể là ánh trăng
lừa dối”. Song hành trên chặng đƣờng sáng tạo của Nam Cao là hình ảnh trí
thức tiểu tƣ sản và ngƣời nông dân. Nổi lên trong đề tài ngƣời trí thức tiểu tƣ
sản là những sáng tác thể hiện nỗi băn khoăn, đấu tranh trong tƣ tƣởng nghệ
thuật của ngƣời nghệ sĩ. Trong truyện ngắn Trăng sáng, nhận vật chính Điền,
nhà văn có xu hƣớng đi theo con đƣờng lãng mạn. Mặc dù phải sống trong
hoàn cảnh túng thiếu, chạy ăn từng bữa nhƣng anh vẫn thèm muốn vƣơn lên
cuộc sống giàu sang, sung sƣớng. Điền thích ngắm trăng đẹp, mơ tƣởng “một
mái tóc thơm tho, một làn da mát mịn, một bàn tay vuốt ve”. Anh thoáng có ý
tƣởng ruồng rẫy vợ, vì chị ta chỉ là ngƣời tầm thƣờng, thô thiển, không hiểu
đƣợc những ý tƣởng cao xa của chồng. Nhƣng điều mà chúng tôi muốn nhắc
đến ở đây không phải là ngƣời nghệ sĩ Điển đã đấu tranh trong tƣ tƣởng nhƣ
thế nào, mà chỉ muốn nhắc đến một khía cạnh rất nhỏ nhƣ bị chìm sau bề nổi
ấy. Nhân vật ngƣời vợ xấu xí thô kệch mà Điền từng có ý nghĩ muốn từ bỏ là
21
ngƣời phụ nữ nhƣ nào?
Ánh trăng với Điền là bao cảm xúc thì với vợ Điền là chỉ là sự tính toán
nhỏ nhen tầm thƣờng, vì nó có nghĩa là nhà đỡ tốn hai đồng xu tiền dầu mỗi
tối. Vợ Điền hay gắt gỏng nhƣng lại rất thƣơng chồng. Đấy, đằng sau những
ngƣời đàn ông mơ mộng xa vời, toan tính những điều lớn lao là những ngƣời
phụ nữ tầm thƣờng nhƣ thế. Họ chấp nhận số phận, và cố gắng hài lòng với
những gì họ đang có. Họ chắt chiu cho cái gia đình nhỏ của mình. Vợ Điền
trong Trăng sáng hay vợ Hộ trong Đời thừa đều có chung tính cách ấy.
Bên cạnh đề tài viết là ngƣời trí thức là đề tài viết về ngƣời nông dân.
Dấu ấn để lại về hình ảnh ngƣời phụ nữ nông dân trong tác phẩm của Nam
Cao có lẽ cũng không tƣơi sáng hơn mảng để tài trƣớc đó. Vẫn nằm trong chủ
đề quen thuộc, ngƣời nông dân phải chịu bao nhiêu áp bức. Nỗi no sƣu cao
thuế nặng, nạn đói khiến con ngƣời phải vật lộn từng giờ, từng phút với
những sức nặng vô hình kìm hãm sự phát triển của con ngƣời. Nông thôn tiêu
điều xơ xác, con ngƣời xấu xí và rách rƣới. Ngƣời phụ nữ ẩn trong cuộc sống
cơ cực ấy không thể thoát khỏi số phận chung. Họ bị tƣớc đoạt hết ruộng đất.
Nhiều ngƣời phải bỏ quê hƣơng đi tha hƣơng cầu thực: xiêu dạt ra thành phố
tìm những căn nhà ẩm thấp trú ngụ nhƣ mẹ con Hiền trong Truyện người
hàng xóm. Tiêu biểu nhất cho thân thận trôi dạt của ngƣời phụ nữ trong truyện
ngắn Nam Cao có lẽ chính là Dần trong Một đám cưới. Dần lớn lên nghèo đói,
đi ở thuê cho nhà địa chủ. Rồi ông bố thu xếp cho con một đám cƣới, một
đám cƣới đón rƣớc dâu trong đêm chỉ có 6 ngƣời cả gia đình nội ngoại. “Cả
bọn đi lủi thủi trong sƣơng lạnh và bóng tối nhƣ một gia định xẩm lẳng lặng
dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ”. Thậm chí không ít ngƣời đã bị xô đẩy đến cái
chết đớn đau, xót xa nhƣ nhân vật bà cái Tý trong Một bữa no.
Thì ra, những ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Nam Cao đều co một
điểm chung nhƣ thế. Không phải là những ngƣời đẹp, khao khát tình yêu,
22
hạnh phúc, tự do cá nhân nhƣ trong văn lãng mạn, ngƣời phụ nữ trong văn
Nam Cao là những con ngƣời xấu xí, nghèo khổ, đói rách. Điều họ mong
muốn dù chỉ là cơm áo gạo tiền, nhƣng đó là những ƣớc muốn quá xa vời.
Tìm trong truyện ngắn Nguyên Hồng, Nam Cao, ta mới tìm thấy đƣợc
cuộc đời những ngƣời phụ nữ trong xã hội Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng
Tám: những số kiếp mòn mỏi trong nỗi lo đói rét, trong nghĩa vụ, trách nhiệm
với gia đình, nhƣng, trong tác phẩm của Ngô Tất Tố, ta đã thấy đƣợc một
điểm sáng.
Ngô Tất Tố (1892 – 1954) đƣợc coi là nhà văn hàng đầu của trào lƣu
hiện thực phê phán ở Việt Nam trƣớc 1945. Tuy xuất phát điểm là một nhà
nho nghèo yêu nƣớc nhƣng ông đã nhanh chóng phấn đấu trở thành bạn
đƣờng của giai cấp công nhân, và sau đó trở thành đảng viên Đảng cộng sản.
Mảng đề tài ngƣời phụ nữ đƣợc Ngô Tất Tố coi trọng. Nhà văn Vũ Trọng
Phụng (1912-1939) từng khen ngợi Tắt đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã
hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai
chƣa từng thấy". Phong Lê, trên Tạp chí Sông Hương tháng 12 năm 2003, gọi
những tác phẩm viết về nông thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn
diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về cảnh ngộ và số phận ngƣời nông
dân Việt Nam" đạt đến "sự xúc động sâu xa và bền vững" (21). Ấn tƣợng bao
trùm về Tắt đèn là một bức tranh đời sống sắc sảo, góc cạnh và chi tiết trên tất
cả mọi chân dung và đối thoại, không trừ ai, trong số mấy chục nhân vật có
tên hoặc không tên, xoay quanh một hình tƣợng trung tâm là chị Dậu. Nhịp điệu của Tắt đèn là một hơi văn mạnh mẽ và rắn rỏi từ đầu đến cuối.
Trong “Tắt đèn”, nhân vật trung tâm chị Dậu có thể coi là nhân vật điển
hình cho những ngƣời phụ nữ trong nông thôn Việt Nam trƣớc Cách mạng
tháng Tám - một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sƣu cao thuế nặng
mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm Tắt đèn không chỉ
23
phản ánh đƣợc sự hống hách, bất nhân, tàn nhẫn của bộ máy quan lại đƣơng
thời, mà còn cho thấy những phẩm chất cao quý của ngƣời nông dân, đƣợc
coi là những kẻ ở dƣới đáy xã hội qua hình ảnh chị Dậu. Dù họ có bị tầng lớp
thống trị lấn át, và dù cuộc sống của họ có tăm tối, cùng quẫn đến mức nào
cũng không thể khiến họ đánh mất những đức tính cao đẹp vốn có, nhƣng
đồng thời cũng thể hiện sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ của những ngƣời
nông dân nghèo. Ngƣời phụ nữ nông dân từ bao đời vẫn cam phận áp bức,
nhƣng giờ đây, họ đã vùng lên – dù hành động của chị Dậu chỉ là hành động
bột phát. Khi câu chuyện kết thúc, chị Dậu vẫn không thoát khỏi cuộc đời tăm
tối của mình, nhƣng qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã nêu lên một
quy luật tự nhiên rằng: ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, và có lẽ đoạn trích
trên chính là dấu hiệu báo trƣớc cho cuộc cách mạng năm 1945. Nói nhƣ nhà
văn Nguyễn Tuân thì : "Ngô Tất Tố đã xui ngƣời nông dân nổi loạn".
Nhƣ vậy, trong cái nhìn tổng thể cũng nhƣ qua những sáng tác của các
nhà văn tiêu biểu của mỗi trào lƣu, ta nhận thấy ngƣời phụ nữ trong văn
chƣơng Tự Lực văn đoàn là những ngƣời phụ nữ đẹp, khao khát và sống hết
mình cho tình yêu. Điều mà các nhà văn lãng mạn quan tâm về ngƣời phụ nữ
chủ yếu là về vấn đề tình yêu, làm thế nào để có đƣợc tình yêu. Do đó, cái kết
chuyện thƣờng đi theo hai hƣớng: hoặc là cái chết để giữ trọn lời thể, hoặc là
chấp nhận số phận đã an bài. Còn ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn hiện thực
phê phán là những ngƣời phụ nữ nghèo khổ, đảm đang trong cuộc sống vật
lộn với cái đói, cái nghèo, với miếng cơm manh áo hàng ngày. Ở đó, ta đã tìm
thấy một sự vùng lên của họ thoát khỏi những gọng kìm xã hội, dù đó mới chỉ
là hành động tự phát, nhƣng nó đã báo hiệu một tƣơng lai tƣơi sáng mới cho
số phận ngƣời phụ nữ sau này.
Tuy Thạch Lam có chân, và cũng là một trong những cây bút chủ chốt
trong Tự Lực văn đoàn, nhƣng cho đến nay, vẫn khó xác định đƣợc văn của
24
ông là hiện thực hay lãng mạn. Có thể hình dung Thạch Lam nhƣ một thuyền
đậu giữa đôi bờ dòng nƣớc. Do đó, những ngƣời phụ nữ trong văn Thạch Lam
vừa mang vẻ lãng mạn thơ mộng, lại vừa rất hiện thực.
1. 2. Hành trình sáng tác của Thạch Lam
1.2.1. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Thạch Lam:
1.2.1.1. Cuộc đời:
Thạch Lam (1910-1942) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng thuộc
nhóm Tự Lực văn đoàn. Ông cũng là em ruột của 2 nhà văn khác nổi tiếng
trong nhóm Tự Lực văn đoàn là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Ngoài bút danh
Thạch Lam, ông còn có các bút danh là Việt Sinh, Thiện Sỹ.
Thạch Lam sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, nhƣng nguyên
quán ở làng Cẩm Phô, tỉnh Quảng Nam (nay thuộc thị xã Hội An, tỉnh Quảng
Nam). Cha ông là Nguyễn Tƣờng Nhu (1881-1918), thông thạo chữ Hán và
chữ Pháp, làm Thông phán Tòa sứ nên thƣờng đƣợc gọi là Thông Nhu hay
Phán Nhu. Mẹ là bà Lê Thị Sâm, con gái cả ông Lê Quang Thuật (tục gọi
Quản Thuật), ngƣời gốc Huế đã ba đời ra Bắc, làm quan võ ở Cẩm Giàng
cùng thời với Huyện Giám (ông nội Thạch Lam).
Thạch Lam là ngƣời con thứ 6 trong gia đình 7 ngƣời con (6 trai, 1 gái):
Tƣờng Thụy, Tƣờng Cẩm, Tƣờng Tam, Tƣờng Long, Thị Thế, Tƣờng Vinh
và Tƣờng Bách. Trừ ngƣời anh cả Nguyễn Tƣờng Thụy làm công chức,
những ngƣời còn lại đều đã ít nhiều vào sự nghiệp văn chƣơng, trong số đó,
nổi bật là Tƣờng Tam (Nhất Linh), Tƣờng Long (Hoàng Đạo) và Tƣờng Vinh
(Thạch Lam).
Nguyên tên ban đầu của ông do cha mẹ đặt là Nguyễn Tƣờng Sáu, vì
ông là con thứ sáu trong nhà. Khi bắt đầu đi học ở trƣờng huyện Cẩm Giàng
(Hải Dƣơng), bố mẹ ông làm lại khai sinh cho con là Nguyễn Tƣờng Vinh.
Đến năm Thạch Lam 15 tuổi, thấy mình học chậm, cần tăng thêm tuổi để học
25
"nhảy" 4 năm, ông làm lại khai sinh lần nữa, thành Nguyễn Tƣờng Lân.
Ông Phán Nhu mất sớm, bà Phán Nhu phải một mình mua bán tảo tần
nuôi một mẹ chồng và bảy ngƣời con. Ở Cẩm Giàng, Thạch Lam học tại
trƣờng Nam (tiểu học Hải Dƣơng, nay là trƣờng tiểu học Tô Hiệu). Đến khi
ngƣời anh cả là Nguyễn Tƣờng Thụy ra trƣờng dạy học ở Tân Đệ (Thái Bình),
mẹ ông đã đƣa cả nhà đi theo ngƣời con cả, nên Thạch Lam đến học ở Tân Đệ.
Nhƣng ở đây đƣợc một năm, làm vẫn không đủ cho các miệng ăn, mẹ ông dẫn
các con (trừ Nguyễn Tƣờng Thụy) về Hà Nội ở nhà thuê, rồi cứ thế lúc thì ở
Hà Nội, lúc thì ở Cẩm Giàng. Muốn sớm đỡ đần cho mẹ, Thạch Lam đã nhờ
mẹ nói khéo với ông Lý trƣởng cho đổi tên và khai tăng tuổi để học ban thành
chung. Tiếp theo, ông thi đỗ vào Cao đẳng Canh Nông ở Hà Nội, nhƣng chỉ
học một thời gian, rồi vào trƣờng Trung học Albert Sarraut để học thi Tú tài.
Khi đã đỗ Tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học để làm báo với hai
anh. Buổi đầu, ông gia nhập Tự Lực văn đoàn do anh là Nguyễn Tƣờng Tam
sáng lập, rồi đƣợc phân công lo việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày
nay của bút nhóm này. Đến tháng 2 năm 1935, thì ông đƣợc giao làm Chủ bút
tờ Ngày nay.
Khoảng năm 1935, Thạch Lam lấy vợ và đƣợc ngƣời chị (Nguyễn Thị
Thế) nhƣờng lại căn nhà nhỏ tại đầu làng Yên Phụ, ven Hồ Tây (Hà Nội) cho
vợ chồng ông ở. Tuy chỉ là một mái tranh vách đất, thế nhƣng “nhà cây
liễu”là nơi thƣờng lui tới của các văn nghệ sĩ. Ngoài các thành viên trong Tự
Lực văn đoàn, còn có: Thế Lữ, Vũ Hoàng Chƣơng, Đinh Hùng, Nguyễn Xuân
Sanh, Nguyễn Tuân, Huyền Kiêu, Nguyễn Xuân Khoát...
Một tuổi thơ nhọc nhằn cộng với cuộc sống lao lực vì miếng cơm manh
áo đã làm Thạch Lam sớm mắc căn bệnh lao phổi, một căn bệnh nan y thời
bấy giờ. Ông mất tại “nhà cây liễu” vào ngày 27 tháng 6 năm 1942, lúc mới
32 tuổi, khi đang còn trong độ tuổi rực rỡ trên văn đàn.
Thạch Lam có ba ngƣời con, hai trai một gái: Nguyễn Tƣờng Nhung
26
(sau này là vợ của trung tƣớng Ngô Quang Trƣởng trong quân đội Việt Nam
Cộng hòa trƣớc đây), Nguyễn Tƣờng Đằng, và trƣớc vài ngày khi ông mất, vợ
ông sinh thêm con trai mà sau này là nhà văn Nguyễn Tƣờng Giang. Ông ra đi
để lại ngƣời vợ trẻ cùng với ba đứa con thơ trong cảnh nghèo. Gia đình đã an
táng ông nơi nghĩa trang Hợp Thiện, nay thuộc quận Hai Bà Trƣng, Thành
phố Hà Nội. Theo nhà văn Băng Sơn thì sau khi Thạch Lam mất, vợ và các
con ông có về sống ở Cẩm Giàng với bà Phán Nhu một thời gian rồi vào Nam.
1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác:
Văn nghiệp Thạch Lam có thể tính từ 1931, khi ông bắt đầu viết báo,
viết truyện. Nhƣng sự nghiệp của Nguyễn Tƣờng Lân chính thức xác lập từ
1933 với tƣ cách là thành viên quan trọng cùng hai anh trai Nhất Linh, Hoàng
Đạo và một số văn sĩ khác sáng lập Tự lực văn đoàn. Rồi đƣợc phân công lo
việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày nay của bút nhóm này. Truyện
ngắn đầu tay Cái hoa chanh in trên báo Phong hóa ký bút danh là Việt Sinh.
Bút danh Thạch Lam sẽ gắn bó suốt đời văn Thạch Lam và đi vào lịch sử văn
học Việt Nem hiện đại nhƣ một niềm tự hào từ truyện ngắn Cô Thúy. Sau đó
là một loạt truyện: năm 1934, Thạch Lam đăng bài: Sóng lam, Cung Hằng
lạnh lẽo trên Phong Hóa. Năm 1935, ông tiếp tục đăng Bó hoa xuân, Hy vọng.
Năm 1936, báo Phong Hóa bị giải tán, báo Ngày nay ra đời và Thạch
Lam đƣợc giao làm chủ bút. Ông đã đăng liên tục các bài Những ngày mới,
Duyên số, Một đời người, Đứa con đầu lòng, Một cơn giận.
Năm 1937, trên Ngày nay đã đăng những bài Nhà mẹ Lê, Người lính cũ,
Tiếng chim kêu, Một thoáng nhà thương, Cái chân què, Gió lạnh đầu mùa,
Hai lần chết, Người bạn trẻ, Bà Đầm, Truyện bốn người (truyện dài viết cùng
Khái Hƣng, Hoàng Đạo, Thế Lữ), Nắng trong vườn, Ngày mới (tiểu thuyết
nhiều kì).
Năm 1938, ông đăng Đứa con, Bông hoa rừng, Bóng người xưa, Bên kia
sông, Cuốn sách bỏ quên, Một bức thư, Hai đứa trẻ, Buổi sớm, Cô hàng xén,
27
Tiếng sáo, Tình xưa và tiếp sau đó xuất bản tập truyện ngắn Nắng trong vườn.
Năm 1939, Ngày nay tiếp tục đăng truyện ngắn Tối ba mươi, Dưới
bóng hoàng lan và xuất bản tiểu thuyết Ngày mới.
Năm 1940, đăng Sợi tóc, Hoa đầu mùa…Hoa sen. In Quyển sách, Hạt ngọc.
Nhƣ vậy, hầu hết sáng tác của Thạch Lam đƣợc đăng báo trƣớc khi in
thành sách. Từ năm 1933 đến 1940, trong vòng 7- 8 năm trên hai tờ báo nổi
tiếng Phong hóa và Ngày nay Thạch Lam đã viết và in ít nhất hơn 50 truyện
ngắn trong đó tác giả đã tuyển và NXB Đời Nay đã xuất bản các tác phẩm
gồm có: Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, 1937); Nắng trong vườn (tập truyện
ngắn, 1938); Ngày mới (truyện dài, Nxb, 1939); Theo giòng (bình luận văn học,
1941); Sợi tóc (tập truyện ngắn, , 1941); Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký,
1943). Và hai quyển truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách, Hạt ngọc (1940).
Năm 1957 ở Hà Nội, NXB Minh Đức cho tái bản tập Gió đầu mùa gồm
16 truyện ( thêm hai truyện so với lần đầu là Duyên số và Người lính cũ).
Từ năm 1988 đến nay, lần lƣợt các nhà làm sách dã làm tuyển tập,
tuyển chọn, chọn lọc, phần tác phẩm truyện ngắn Thạch Lam chỉ đƣa vào từ
21 đến 27 truyện (đa số là 23 truyện nhƣ Giáo sƣ Phong Lê đã chọn trong
Tuyển tập Thạch Lam). Trong tình hình lƣu trữ mấy chục năm qua đã gặp rất
nhiều khó khăn, việc tìm lại đầy đủ số truyện ngắn Thạch Lam đã viết quả là
không dễ dàng (không chỉ truyện ngắn mà cả tiểu thuyết của Thạch Lam,
cuốn Thủy Mai cũng chƣa tìm thấy). Mặc dù vậy, với số truyện ngắn hiện có
cũng đã đem lại cho Thạch Lam một vị thế xứng đáng, làm rạng rỡ gƣơng mặt
truyện ngắn hiện đại Việt Nam. Đây không chỉ là thành quả của Thạch Lam
mà còn có sự góp công của cả văn đoàn Tự lực – nơi hội tụ các anh tài văn
học nhất là các tài năng về truyện ngắn.
1.2.1.3. Thạch Lam qua lời kể của một số tác giả
Nhà văn Thế Uyên (con trai bà Nguyễn Thị Thế, cháu gọi Thạch Lam
28
là cậu), trong bài Tìm kiếm Thạch Lam, có đoạn: “Mẹ tôi bảo chú Thạch Lam
mơ mộng, tế nhị, đa cảm, thì thủa nhỏ đã thế... Và chính ở đây (trại Cẩm
Giàng) những ngƣời đàn ông ngồi uống trà, hút thuốc, nói chuyện tâm đắc...
Có khi bàn chuyện văn chƣơng, báo chí, có thể là chuyện cải cách dân tộc.
Thƣờng trong lúc ấy, Thạch Lam ngồi trong đám bạn văn thơ, bởi tính cách
Thạch Lam chỉ có thế...”
Nhà văn Vũ Bằng kể lại: “Thạch Lam yêu sự sống hơn bất kỳ ai. Anh
quý từ cốc nƣớc chè tƣơi nóng, trang trọng đƣa lên miệng uống một cách gần
nhƣ thành kính... nhƣ thể cảm ơn trời đất đã cho mình sống để thƣởng thức
ngon lành nhƣ vậy. Anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ
lời...khiến ngƣời ta tủi thân mà buồn. Thạch Lam đi đứng nhẹ nhàng… Anh là
một ngƣời độc đáo có tài lại khiêm nhƣờng, ngƣời nhỏ mà nhân cách lớn...Có
lần Thạch Lam nói: Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Ngƣời khổ cách này,
ngƣời cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ. Vì chỉ sống thôi
cũng đã quý lắm rồi. Ngƣời ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi
thƣờng sự sống. Một lần, Thạch Lam cho tiền một đứa trẻ bán lạc rang bị
cƣớp mất tiền, tôi nhắc khéo là có thể bị đứa trẻ đánh lừa, Thạch Lam trả lời:
Bị lừa hay không, cái đó không quan hệ lắm. Mình cần làm một việc xét ra phải làm, theo ý mình...”(2, 375)
Tháng 2 năm 1935, Thạch Lam đƣợc giao quản trị báo Ngày nay. Một
nhà thơ, vì cảnh nhà túng quẫn, cứ đến gặp ông xin tạm ứng tiền nhuận bút.
Nhƣng bạn vay 10 mà trả bài có 3. Có ngƣời nhắc ông sao không chặn lại,
ông vẫn cho tạm ứng và bảo rằng: “Chẳng ai muốn làm một việc nhƣ thế,
ngƣời ta không còn con đƣờng nào khác mới phải làm nhƣ vậy. Nếu không giúp đỡ, họ sống ra sao ?”
Và mặc dù là ngƣời nghèo nhất trong gia đình (nhà tranh vách đất,
thậm chí cái mền không có tiền mua), Thạch Lam vẫn thƣờng mời bạn văn
29
đến chơi nhà và thiết đãi tận tình. Khúc Hà Linh cho biết: “Thạch Lam nghèo
một phần vì sách của ông bán ế, nhƣng không vì thế mà ngƣời vợ hiền thục
kém mặn mà với khách của chồng. Những bữa rƣợu cứ tiếp diễn, và bao giờ
Thạch Lam cũng mời mọc thịnh tình cho đến khi thực khách say mềm. Trong
lúc chè chén, có khi sinh sự ồn ào, những lúc ấy Thạch Lam vẫn chỉ điềm
nhiên nâng chén, không nói lớn, mà chỉ cƣời...” (23)
Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, nhƣng khác với Nhất Linh, Hoàng
Đạo, Khái Hƣng... ngòi bút của Thạch Lam có khuynh hƣớng đi gần với cuộc
sống của những ngƣời dân nghèo khổ.
Trên văn đàn văn học Việt Nam trƣớc cách mạng tháng tám, Thạch
Lam chƣa đƣợc xếp ở vị trí số một nhƣng cũng là một tên tuổi rất đáng coi
trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhƣng sở trƣờng của
ông là truyện ngắn, bởi ở đó tài năng nghệ thuật đƣợc bộc lộ một cách trọn
vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam ngƣời ta vẫn nhớ đến
truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở
nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “Mỗi truyện là một bài thơ
trữ tình đầy xót thƣơng” (45, 323). Truyện của Thạch Lam không có cốt
truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: Mỗi truyện ngắn
của Thạch Lam có cấu tứ và giọng điệu nhƣ một bài thơ trữ tình, gợi sự
thƣơng xót trƣớc số phận của những con ngƣời nhỏ bé bất hạnh. Một giọng
văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và
thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc
điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt
chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vƣơng phải.
Trong Lời nhà xuất bản Văn học (khi in lại tác phẩm Gió đầu mùa năm
1982) cũng có đoạn viết nhƣ sau: “Giới thiệu tập truyện ngắn Gió đầu mùa
xuất bản trƣớc Cách mạng tháng Tám, Thạch Lam viết: "Đối với tôi văn
30
chƣơng không phải là một cách đem đến cho ngƣời đọc sự thoát ly hay sự
quên, trái lại văn chƣơng là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta
có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, làm cho lòng
ngƣời đƣợc thêm trong sạch và phong phú hơn".
Có thể coi đoạn văn ngắn nói trên nhƣ là "Tuyên ngôn văn học" của
Thạch Lam. Và quả thật, trong toàn bộ gia tài sáng tạo của Thạch Lam, hầu
nhƣ không một trang viết nào lại không thắm đƣợm tinh thần đó. Là thành
viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, song trƣớc sau văn phong Thạch Lam vẫn
chảy riêng một giòng. Đề tài quen thuộc của nhóm Tự Lực văn đoàn là những
cảnh sống đƣợc thi vị hóa, những mơ ƣớc thoát ly mang mầu sắc cải lƣơng, là
những phản kháng yếu ớt trƣớc sự trói buộc của đạo đức phong kiến diễn ra
trong các gia đình quyền quý. Thạch Lam, trái lại, đã hƣớng ngòi bút về phía
lớp ngƣời lao động bần cùng trong xã hội đƣơng thời. Khung cảnh thƣờng
thấy trong truyện ngắn Thạch Lam là những làng quê bùn lầy nƣớc đọng,
những phố chợ tồi tàn với một bầu trời ảm đạm của tiết đông mƣa phùn gió
bấc, những khu phố ngoại ô nghèo khổ, buồn, vắng ... Trong khung cảnh ấy,
các nhân vật cũng hiện lên với cái vẻ heo hút, thảm đạm của số kiếp lầm than
- Đó là mẹ Lê, ngƣời đàn bà nghèo khổ, đông con, góa bụa ở phố chợ Đoàn
Thôn, là bác Dƣ phu xe ở phố Hàng Bột, là Thanh, Nga với bà nội và cây
hoàng lan trong một làng quê vùng ngoại ô, là cô Tâm hàng xén với lối đƣờng
quê quen thuộc trong buổi hoàng hôn...Tất cả những cảnh, những ngƣời ấy
đều đƣợc mô tả bằng một số đƣờng nét đơn sơ, thƣa thoáng nhƣng vẫn hết
sức chân thực...
Tác phẩm của Thạch Lam vì thế có nhiều yếu tố hiện thực tuy nhân vật
không dữ dội nhƣ Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao, hay bị đày đọa nhƣ chị
Dậu của Ngô Tất Tố...Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam, chính
là ở lòng nhân ái, và vẻ đẹp tâm hồn quán xuyến trong mọi tác phẩm của ông.
31
Nhân vật Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái
chất nhân ái Việt Nam...Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy yêu con
ngƣời, quý trọng con ngƣời hơn. Và cũng từ đó ta thƣơng cảm, nâng niu, chắt
gạn từng chút tốt đẹp trong mỗi một con ngƣời.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (tập 2), tr. 1060, Nxb
KHXH in lại năm 1989 viết: “Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa),
ngƣời ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một phái riêng...Ông có một ngòi bút
lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất
đẹp... Phải là ngƣời giàu tình cảm lắm mới viết đƣợc nhƣ vậy…”
GS. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên
(quyển 3), tr. 490, Quốc học tùng thƣ xuất bản, 1965 cho rằng: “Thạch Lam là
một nhà văn có khuynh hƣớng xã hội...Đối với ông, nhân vật thƣờng là những
ngƣời tầm thƣờng trong xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cô hàng xén ở phố
huyện, cậu học trò đi ở trọ, hai cô gái giang hồ trơ trọi…Và ông thƣờng để ý
vạch vẽ cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến
việc tuyên truyền tƣ tƣởng cách mạng xã hội nhƣ trong các tác phẩm của Nhất
Linh hay Hoàng Đạo…Ta thấy Thạch Lam, luôn hòa đồng trong cái xã hội
nhỏ bé mà ông thƣơng xót với tất cả tâm hồn đa cảm của ông…”
GS. Phong Lê trong Thạch Lam với Hà Nội đăng trên Phong Điệp.net
viết: “Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chƣơng: "Đối
với tôi, văn chƣơng không phải một cách đem đến cho ngƣời đọc sự thoát ly
hay sự quên, trái lại, văn chƣơng là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa
làm cho lòng ngƣời đọc thêm trong sạch và phong phú hơn".
Có lẽ cả hai phƣơng diện, vừa tố cáo, vừa xây dựng, đều đƣợc Thạch
Lam chú ý; và trong phần thành công của nó, các dấu ấn hiện thực và lãng
mạn trong văn Thạch Lam đều tìm đƣợc sự gắn nối ở chính quan niệm này.
Ở tƣ cách nhà văn, Thạch Lam đòi hỏi rất cao phẩm chất trung thực của
32
ngƣời nghệ sĩ. Ông viết: "Sự thành thực chƣa đủ cho nghệ thuật. Có thể,
nhƣng một nhà văn không thành thực không bao giờ trở nên một nhà văn giá
trị. Không phải cứ thành thực là trở nên một nghệ sĩ. Nhƣng một nghệ sĩ
không thành thực chỉ là một ngƣời thợ khéo tay thôi".
Còn theo PGS. Nguyễn Hoành Khung trong Từ điển Văn học (bộ mới),
tr. 1621, Nxb Thế giới, 2004 nhận định: “Tình cảm của Thạch Lam chân
thành, tuy nhiên, ông chỉ mới băn khoăn, thƣơng cảm đối với số phận ngƣời
nghèo qua những câu chuyện mang một dƣ vị ngậm ngùi, tội nghiệp.
Về bút pháp, có thể nói Thạch Lam là nhà văn mở đầu cho một giọng
điệu riêng: trữ tình hƣớng nội trong truyện ngắn. Ngòi bút của ông thƣờng
khơi sâu vào thế giới bên trong của cái “tôi”, với sự phân tích cảm giác tinh tế.
Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ông, đời sống bên trong
có phong phú hơn, tế nhị hơn; chúng “đem đến cho ngƣời đọc một cái gì nhẹ
nhõm, thơm tho và mát dịu” (Nguyễn Tuân).
Ông là cây bút có biệt tài về truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông
dƣờng nhƣ không có cốt truyện, song vẫn có sức lôi cuốn riêng. Truyện dài
"Ngày mới" của ông không có gì đặc sắc về tƣ tƣởng và nghệ thuật”.
Nhƣ lời nhà văn Nguyễn Tuân trong Nguyễn Tuân, bài viết về Thạch
Lam, in ở cuối sách Tuyển tập Thạch Lam, tr. 323 có viết: “Lời văn Thạch
Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và
sâu sắc…Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một
tâm hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh
tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch lam thƣờng bắt nguồn và nảy
nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê.
Thạch Lam là nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trƣớc cuộc sống của
mọi ngƣời chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ các dƣ
vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”
Khúc Hà Linh (Hiệu trƣởng Trƣờng Văn hóa nghệ thuật Hải Dƣơng)
trong cuốn Anh em Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh: Ánh sáng và bóng tối.
33
Nxb Thanh Niên, 2008, viết: “Thạch Lam có những tháng năm sống nơi thôn
dã, nên trong tác phẩm ông chất chứa nhiều hình bóng con ngƣời và đời sống
làng quê...Ông tả nội tâm nhân vật tài tình, nhuần nhị, tinh tế. Văn ông hài hòa
giữa lãng mạn và chân thực, mà vẫn nồng nàn tình quê, nặng lòng với dân tộc.
Thạch Lam không chỉ nổi tiếng về truyện ngắn, ông còn thành công
trong thể loại bút ký. Hà Nội băm mươi sáu phố phường gồm nhiều mẩu văn
ngắn mà sinh động, thể hiện vốn sống phong phú và tài hoa của ông...”.
Năm 1996, ở Cẩm Giàng có một con đƣờng mang tên Thạch Lam. Đây
là một việc làm mạnh dạn, là cách trân trọng văn chƣơng hiếm thấy tại thời
điểm lịch sử lúc bấy giờ. Nó cho thấy sự đóng góp không nhỏ của Thạch Lam
trong dòng văn học hiện đại.
1. 2. 2. Nhân vật người phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam:
Nhận xét khái quát về sự nghiệp văn chƣơng Thạch Lam, Từ điển bách
khoa toàn thƣ Việt Nam có đoạn viết: “Thạch Lam là một cây bút thiên về
tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trƣớc số phận hẩm hiu của những
ngƣời nghèo, nhất là những ngƣời phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm
lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh (Cô hàng xén). Có truyện miêu tả với lòng
cảm thông sâu sắc một gia đình đông con, sống cơ cực trong xóm chợ (Nhà
mẹ Lê). Có truyện phân tích tỉ mỉ tâm lí phức tạp của con ngƣời (Sợi tóc).
Ngày mới đi sâu vào nội tâm của một cặp vợ chồng trí thức nghèo. Chƣa có
truyện nào có ý nghĩa xã hội rõ nét nhƣ các tác phẩm của các nhà văn hiện
thực phê phán. Theo giòng là một thiên tiểu luận viết kiểu tuỳ bút, ghi lại suy
nghĩ của ông về nghệ thuật tiểu thuyết, có những ý kiến hay, nhƣng chƣa đi sâu
vào khía cạnh nào. Cuốn Hà Nội băm sáu phố phường có phong vị đậm đà của
quê hƣơng xứ sở, lại rất gợi cảm. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, giàu chất thơ, sâu sắc, thâm trầm, thƣờng để lại một ấn tƣợng ngậm ngùi, thƣơng xót.” (49).
Khi đi khảo sát các truyện ngắn của Thạch Lam trong “Thạch Lam
truyện ngắn” (chọn lọc), nhà xuất bản Hội nhà văn, 2006 chúng tôi đã nhận
34
thấy tần suất xuất hiện của các nhân vật ngƣời phụ nữ với tỉ lệ sau:
STT TÁC PHẨM
TỔNG SỐ
SỐ NHÂN
CHIẾM
NHÂN VẬT
VẬT NỮ
TỈ LỆ %
1
Ngƣời bạn trẻ
5 ( Bình, Bào, bà chủ nhà
1
20%
trọ, hai cậu bé em Bào)
2
Ngƣời bạn cũ
4 (“Tôi”, Khanh, bà vú,
3
75%
Lệ Minh)
3
Một đời ngƣời
6 (Liên,
Sinh, Tâm,
3
50%
chồng Liên, mẹ chồng,
đứa con nhỏ)
4
Một cơn giận
7 ( Thanh, “tôi”, ngƣời
2
28,6%
phu xe kéo Dƣ, đội xếp
Tây, bà cụ nhà trọ, vợ Dƣ
và con)
5
Đói
3 (Sinh, Mai, bà Hiếu )
2
66,6%
6
Cái Chân què
3 (“Tôi”, Minh, thầy khán
0
0%
hộ)
7
Ngƣời lính cũ
4 ( “Tôi”, “Ngƣời bạn”,
1
25%
ngƣời lính già, bà cụ bán
nƣớc)
8
Tiếng chim kêu
3 ( ba anh chị em trong
1
33%
gia đình)
9
Trở về
4 (Tâm, vợ Tâm, mẹ Tâm,
3
75%
Trinh)
10
Hai lần chết
6 (Dung, cha Dung, mẹ
4
66,6%
Dung, u già, chồng Dung,
mẹ chồng Dung)
11
NHà mẹ Lê
5 (mẹ Lê, con Tý, con
2
40%
Phún,
thằng Hy, cậu
Phúc,)
35
12
Đứa
con
đầu
5 (Tân, bà đỡ, vú em, vợ
3
60%
Tân, đứa con)
lòng
13
Gió
lạnh đầu
13 (Sơn, Lan, Duyên, Mẹ
7
54%
Lan và Sơn, Vú già, Cúc,
mùa
Xuân, Tý, Túc Hiên, Sinh,
mẹ Hiên)
14
Cuốn
sách bỏ
3 (Thành, Xuân, thiếu nữ) 1
33,3%
quên
15
Hai đứa trẻ
6 (Liên, An, mẹ con chị
4
66,6%
Tý, cụ Thi, bác phở Siêu,
gia đình bác Sẩm,
16
Ngƣời Đầm
4 (“Tôi”, bà đầm, đứa
1
25%
con, đứa bé bán kẹo)
17
Đứa con
5 (Sen, bà Cả, ông Cả,
3
60%
thầy u chị Sen)
18
Trong bóng tối
3 (Diên, Mai, “bà mối”)
1
33,3%
buổi chiều
19
Tình Xƣa
10 (ông Cả Vinh, Hòe,
4
20%
Bình, Lan, Huệ, bà Cả,
Bích, Ngạc, Chi, Hoạt)
20
Sợi tóc
5
(Thành, Bân, “tôi”,
2
20%
Lan, cô nhân tình của
Bân)
21
Dƣới dóng hoàng
3 (Thanh, bà Thanh, Nga) 2
66,6%
lan
22
Cô hàng xén
8 (Tâm, Ái, Lân, bà Tú,
3
37,5%
ông Tú, Liên, Bài)
23
Tối ba mƣơi
2 (Liên, Huệ)
2
100%
36
Nhìn từ kết quả thống kê chúng tôi rút ra kết luận: ngƣời phụ nữ là một
đối tƣợng đƣợc Thạch Lam khá quan tâm. Tuy sự xuất hiện của họ trong các
tác phẩm đồng đều, có lúc toàn bộ câu chuyện chỉ kể về cuộc đời số phận
những ngƣời phụ nữ bất hạnh, đôi khi họ chỉ là nhân vật phụ ẩn sau nhân vật
chính là nam giới, nhƣng dù là nhân vật chính hay nhân vật phụ, ta vẫn tìm
thấy một nét tƣơng đồng trong số họ. Họ sống cuộc đời mờ nhạt, ít có cá tính
riêng, có ƣớc mơ, có khát vọng nhƣng chƣa dám phá bỏ lề lối để đi theo tiếng
STT TÁC
NHÂN VẬT VAI TRÒ
NÉT KHÁI QUÁT VỀ
PHẨM
TRONG TÁC
CUỘC ĐỜI, TÍNH CÁCH
PHẨM
1
Ngƣời
Bà chủ nhà
- Nhân vật phụ
- Sợ lien lụy, phiền hà.
bạn trẻ
trọ
2
Ngƣời
- Khanh
- Nhân vật chính
- Ngƣời vợ có chút gen
tuông.
bạn cũ
- Lệ Minh
- Nhân vật chính
- Ngƣời phụ nữ bất hạnh,
đáng thƣơng.
- Bà vú
- Nhân vật phụ
- Không có nét tính cách
3
Một đời
- Liên
- Nhân vật chính
- Ngƣời phụ nữ đáng
ngƣời
thƣơng, cam chịu chấp nhận
số phận.
- Mẹ chồng
- Nhân vật phụ
- Mẹ chồng cay nghiệt - tính
cách chung của hầu hết các
bà mẹ chồng đối với con
dâu.
4
Một cơn
- Bà cụ nhà
- Nhân vật phụ
- Cụ già lƣơng thiện tốt
bụng.
giận
trọ
- vợ Dƣ
- Nhân vật phụ
- Ngƣời vợ đáng thƣơng và
37
gọi trái tim mình. Cụ thể hơn, trong từng tác phẩm cụ thể, ta có thể thấy:
bất lực khi chồng phải trốn,
con ốm không tiền thuốc
thang
5
Đói
- Mai
- Nhân vật chính
- Ngƣời phụ nữ yêu chồng.
Khi rơi vào cái đói, nàng đã
hy sinh cả danh dự phẩm giá
vì chồng.
6
Cái Chân
Không Xuất hiện
què
7
Ngƣời
- Bà cụ bán
- Nhân vật phụ
- Cuộc sống lặp lại, cuộc đời
lính cũ
nƣớc
nhỏ bé, trầm lặng.
8
Tiếng
- Chị cả
- Nhân vật phụ
- Chƣa hình thành một nét
chim kêu
tính cách.
9
Trở về
- Vợ Tâm
- Nhân vật phụ
- Ngƣời phụ nữ có số phận
may mắn, xuất thân từ gia
đình giàu, đƣợc chồng chiều
chuộng, tƣởng rằng có một
ngƣời chồng tuyệt vời nhƣng
- Mẹ Tâm
- Nhân vật chính
nàng đã nhầm.
- Ngƣời đàn bà bất hạnh, yêu
con vô cùng và hy sinh rất
- Trinh
- Nhân vật phụ
nhiều vì con nhƣng không
may mắn cho bà khi đứa con
bất hiếu.
- Cô gái thôn quê mang đầy
đủ phẩm chất của ngƣời phụ
nữ Việt Nam nhƣng lại đặt
tình cảm nhầm chỗ.
10 Hai lần
- Dung
- Nhân vật chính
- Cô gái hiền lành, thật thà,
38
chết
chất phác, đáng thƣơng, dù
không cam chịu số phận
nhƣng cuối cùng vẫn không
- Mẹ Dung
- Nhân vật phụ
thể thoát khỏi định mệnh.
- Ngƣời mẹ có chút vô tâm
với con gái, chịu ảnh hƣởng
- U già
- Nhân vật phụ
của quan niệm cổ hủ, có
phần tham giàu.
- Ngƣời nghèo về vật chất
- Mẹ chồng
- Nhân vật phụ
nhƣng có tình thƣơng yêu,
Dung)
sự quan tâm nhƣ một ngƣời
mẹ thực sự.
- Giống nhƣ những bà mẹ
chồng khác: giàu nhƣng keo
kiệt, hành hạ con dâu nhƣ
ngƣời ở.
11 NHà mẹ
- Mẹ Lê
- Nhân vật chính
- Ngƣời đàn bà nghèo khổ,
Lê
yêu thƣơng con vô cùng
nhƣng không thể thoát ra
khỏi cảnh nghèo khổ, bà đau
đớn bất lực trƣớc hoàn cảnh.
12 Đứa con
- Bà đỡ, vú
- Nhân vật phụ
- Không có tính cách rõ rệt
đầu lòng
em
- Ngƣời vợ ngoan hiền, khéo
- vợ Tân
léo đã biết cách nối sợi dây
tình cảm giữa chồng với
con.
13 Gió lạnh
- Lan
- Nhân vật chính
- Cô bé có tấm lòng tốt
đầu mùa
- Mẹ Lan
- Nhân vật phụ
bụng, giàu tình thƣơng.
39
- Ngƣời mẹ tâm lý, ngƣời
phụ nữ có tấm lòng.
- Hiên
- Nhân vật phụ
- Đứa trẻ con nhà nghèo
- Mẹ Hiên
- Nhân vật phụ
ngoan ngoãn đáng thƣơng.
- Ngƣời mẹ nghèo yêu
thƣơng con, giàu lòng tự
trọng, hiểu chuyện.
14
Cuốn
- Thiếu nữ
- Nhân vật phụ
- Cô gái yêu văn thơ.
sách bỏ
quên
15 Hai đứa
- Liên
- Nhân vật chính
- Cô gái có tốt bụng, nhạy
trẻ
cảm, ngoan ngoãn, có ƣớc
mơ hi vọng vào tƣơng lai
tƣơi sáng hơn cuộc sống
hiện tại buồn tẻ nơi phố
- Chị Tý
- Nhân vật phụ
huyện.
- Ngƣời phụ nữ chăm chỉ,
giống nhƣ những ngƣời dân
phố huyện khác, sống cuộc
- Cụ Thi
- Nhân vật phụ
đời lầm lũi, luẩn quẩn nhƣng
vẫn luôn hi vọng vào một cái
gì đó tƣơi sáng hơn.
- Bà cụ già hơi điên với
tiếng cƣời khanh khách gây
một nỗi ám ảnh về một kiếp
ngƣời tội nghiệp cô độc.
16 Ngƣời
- Bà đầm
- Nhân vật chính
- Ngƣời phụ nữ nƣớc ngoài
giản dị, yêu con, tốt bụng,
Đầm
nhân hậu.
40
17 Đứa con
- Sen
- Nhận vật chính
- Cô gái nghèo khổ, ngoan
ngoãn, chăm chỉ. Cô có may
mắn khi có đƣợc một gia
đình và đứa con của riêng
mình. Số phận của cô cũng
giống nhƣ nhiều ngƣời phụ
- Bà Cả
- Nhân vật chính
nữ khác: an phận với một
gia đình bé nhỏ.
- Ngƣời đàn bà giàu có, keo
- U chị Sen
- Nhân vật phụ
kiệt nhƣng bất hạnh vì luôn
them khát một mụn con mà
không thể.
- Ngƣời mẹ nghèo buộc phải
cho con đi ở trả nợ, nhƣng
rất thƣơng con.
18
Trong
- Mai
- Nhân vật chính
- Cô gái hiền lành đã bị
những cám dỗ vật chất
bóng tối
quyến rũ.
buổi
chiều
19
Tình
- Lan, Huệ,
- Nhân vật phụ
- Nhƣng cô gái ngoan hiền,
luôn giữ đúng mực phép tắc,
Xƣa
Bích
có trái tim đa cảm.
- Bà Cả
- Nhân vật phụ
- Ngƣời phụ nữ cam chịu
đúng với chuẩn mực phong
kiến.
20
Sợi tóc
- Lan, cô
- Nhân vật phụ
- Những cô gái đẹp nhƣng số
phận đa đoan.
nhân tình của
Bân
21 Dƣới
- Nga
- Nhân vật phụ
- Thiếu nữ đẹp duyên dáng,
41
chuẩn mực, giàu tình cảm.
dóng
hoàng
lan
22
Cô hàng
- Tâm
- Nhân vật chính
- Cô gái hiền lành, cần cù,
xén
chăm chỉ, chịu thƣơng chịu
- Bà Tú
- Nhân vật phụ
khó, đảm đang và cam chịu.
- Ngƣời mẹ chuẩn mực.
23
Tối ba
- Liên, Huệ
- Nhân vật chính
- Hai cô gái với kiếp sống
mƣơi
lay lắt đáng thƣơng. Họ ý
thức rõ nét về cuộc đời, số
phận của mình; họ mong
muốn thoát ra nhƣng bất lực.
Bên cạnh truyện ngắn, trong tiểu thuyết và bút kí, ngƣời phụ nữ cũng là
đối tƣợng đƣợc Thạch Lam quan tâm, ƣu ái giánh nhiều trang viết. Khảo sát
trong tiểu thuyết Ngày mới, có 11 trong số 18 nhân vật là nữ (61,1%). Trong
Hà Nội băm sáu phố phường, Thạch Lam cũng giành nhiều trang văn miêu tả
ngƣời phụ nữ: những thiếu nữ mang nét đẹp cổ xƣa, truyền thống của Hà Nội,
những cô hàng bún, cô hàng vải, cô hàng cau…
Nhƣ vậy, qua tác phẩm của Thạch Lam nói chung và truyện ngắn nói
riêng, dù là nhân vật chính hay nhân vật phụ, dù đƣợc định hình nét tính cách
hay mờ nhạt, ngƣời đọc vẫn nhận ra bóng dáng những những phụ nữ tảo tần,
chịu thƣơng chịu khó với những phẩm chất đạo đức đáng quý của ngƣời phụ
nữ Việt Nam. Ta còn có thể nhận ra ở họ có một tâm hồn nhạy cảm gắn với
42
một ƣớc mơ, một hi vọng, một sự chờ đợi.
Chương 2: Đời sống và thân phận người phụ nữ
trong truyện ngắn Thạch Lam
2. 1. Người phụ nữ trong quan hệ với đời sống xã hội:
2.1.1 Bức tranh chung về đời sống xã hội đương thời:
Thế kỉ XIX kết thúc đồng nghĩa với việc khép lại một thời kỳ trong lịch
sử dân tộc – giai đoạn trung đại, và mở ra một thời kỳ mới; thời kỳ hiện đại.
Đây là một sự chuyển biến mang tính tất yếu của thời đại bởi Thực dân Pháp
đã tiến hành và hoàn thành hai cuộc khai thác thuộc địa (Lần 1: 1897 – 1914,
Lần 2 : 1919 – 1929).
“… Råi mét ngµy kia, bän x©m l¨ng th¾ng trËn ®· lËp ®îc trËt tù cña
chóng trªn ®Êt n íc. DÇn dÇn, sau lòy tre xanh, trèng mâ CÇn V ¬ng ®· im
tiÕng. Ngän cê phÊt nghÜa ®· v¾ng bãng trªn c¸c ®êng quan lé, trªn “®ån ¶i
cña quan qu©n”. C©u chuyÖn b×nh T©y phôc quèc chØ lµ mét mí ký øc tª t¸i
mµ t¹m thêi mäi ng êi ®µnh ph¶i nÐn l¹i, vïi s©u xuèng tËn ®¸y cña buång
tim, trÝ nhí. TrËt tù x· héi cò ®· tr¶i qua mét phen ®iªn ®¶o: “Th»ng hãa ra
«ng, «ng hãa ra th»ng”. Uy quyÒn cña l·o Toµn quyÒn Ph¸p ë §«ng D ¬ng
trïm lªn mò m·ng c©n ®ai cña vua quan b¶n xø. ý chÝ cña c¸c thñ hiÕn thùc
d©n lµ linh hån cña bän quan l¹i An Nam trong triÒu, ngoµi tØnh. Mét tèp
quyÒn quý míi võa nh« lªn d íi bµn tay che chë cña bän giÆc. C¶ mét triÒu
®×nh móa may nh¶y nhãt, dµy d¹n rÆt nh÷ng mÆt t«i ®ßi, lò tiÓu tèt t©ng c«ng,
nÊp d íi bãng quan thÇy da tr¾ng cña chóng, ®· gÆp thêi ®Ó mµ ¨n to nãi lín.
Cã nh÷ng tªn båi T©y lµm nªn Tæng ®èc, Thîng th. NhiÒu “c« T©y” ®êng
hoµng lªn mÆt bµ lín. Trong mét n íc thuéc ®Þa ®ang ®×nh trÖ trªn giai ®o¹n
chñ nghÜa phong kiÕn, chÕ ®é quan liªu cña Nam triÒu lµ mét c¸i “®×nh chî”
®Ó mµ ®æi tr¾ng thay ®en, mua quan b¸n t íc. NÞnh hãt, xu phô thµnh mét c¸i
43
“mèt” . (Đặng Thai Mai)
Nhƣ vậy, cơ cấu xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc : thành phố
công nghiệp, đô thị ra đời ; những giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện; ý thức hệ
và những văn hóa mới khiến diện mạo xã hội cũng có sự biến đổi rõ rệt.
Nh ng ®êi sèng vÉn tiÕp tôc, lÆng lÏ, uÊt øc. Ng êi d©n ®en trë l¹i víi tóp
nhµ gianh, ®Ó cµy cuèc, n¹p thuÕ vµ ®i phu. C¸c cËu ®å víi nghÒ cò s¸ch ®Ìn.
TrËt tù x· héi míi ®· ® îc cñng cè. Nh©n d©n sèng trong c¶nh löa báng
n íc s«i, víi s u cao thuÕ nÆng vµ bao nhiªu t¹p dÞch, phu, phen. Nh ng ai
lµ ng êi nghÜ ®Õn nh©n d©n? Trong bÇu kh«ng khÝ chÝnh trÞ håi nµy, mét nçi
ch¸n ch êng buån tñi miªn man ®· rñ v¸ng vµo t©m hån cña con ng êi trÝ
thøc. C¶ mét chÕ ®é cò võa ®æ sôp. Bao nhiªu tÝn ®iÒu thiªng liªng cña kinh
viÖn häc ph ¬ng §«ng còng lung lay tµn t¹ theo. C¸i mµ hµng ngµn n¨m nay
c¸c nhµ nho vÉn gäi lµ “thiªn kinh, ®Þa nghÜa, th¸ng ®¹o, nho phong”, nh×n
qua bao nhiªu biÕn cè võa råi, sao mµ hoang ® êng, mØa mai ®Õn thÕ! Qua
cuéc thö th¸ch võa råi, râ rµng lµ nã kh«ng cßn h¬i søc ®Ó ®èi phã víi t×nh
h×nh míi. H×nh ¶nh cña mét thêi th¸i cæ thÞnh trÞ, th¸i b×nh kh«ng ph¶i lµ mét
chç dùa yªn æn n÷a. ý thøc hÖ phong kiÕn víi tÊt c¶ gi¸ trÞ tinh thÇn cña nã,
nµo c ¬ng th êng, ®¹o lý, nµo häc thuËt, cã vÎ chØ lµ nh÷ng c©u chuyÖn nãi
l¸o tÇy ®×nh kh«ng thÓ lµm ®¹o bïa hé mÖnh cho ai hÕt!
… Gi÷a lóc t©m hån hä ®ang ch¸n n¶n víi lèi häc cö tö vµ ®ang m¬ tëng
mét ®êi sèng cho cã chót ý nghÜa t ¬i trÎ vµ xøng ®¸ng h¬n, th× mét luång giã
míi ®· tõ ngoµi kh¬i thæi vµo. C¶ n íc Trung Hoa sïng sôc s«i trong vËn
®éng c¶i c¸ch. Mét sè “t©n th” vît qua hµng rµo thÐp cña bän thùc d©n ®Ó
chuyÓn ®Õn tËn tay ®éc gi¶ thanh niªn ViÖt Nam. TrÝ thøc cña thêi ®¹i b¾t ®Çu
nghe nãi ®Õn lèi häc míi, lèi v¨n míi. Hä võa nh×n thÊy c¶ mét thÕ giíi míi
mÎ, thªnh thang. Hä biÕt lµ ®êi sèng tinh thÇn ngoµi kia cßn cã mét vò trô míi
cña khoa häc, cña kÜ x¶o, huyÒn diÖu, tinh vi: to¸n häc, lý häc, hãa häc, triÕt
häc, ®Þa c, lÞch sö, chÝnh trÞ, kinh tÕ… vµ bao nhiªu lµ thø “häc” kh¸c n÷a,
“mçi ngµy mét míi, mçi th¸ng mét l¹!”. Mét c¶m gi¸c ®ét ngét: th× ra, l©u
44
nµy c¸c cô ®å nhµ ta chØ lµ lò “Õch ngåi ®¸y giÕng, thÊy bao nhiªu giêi?”…
Sự biến động lớn về chính trị đã kéo theo những biến động lớn về văn
hóa xã hội Việt Nam nói chung và những năm 1930 – 1945 nói riêng. Viết về
sự biến động lớn, sâu sắc trong đời sống xã hội ấy, “ông vua phóng sự đất
Bắc” Vũ Trọng Phụng đã rất thành công khi ghi lại đƣợc một “tấn trò đời” với
đầy đủ những mảnh vỡ của cuộc sống ở xã hội tƣ sản thành thị thời bấy giờ
(với Lục xì, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy tây, Số đỏ,...)
Nhƣng, Nếu nhìn vào những gì Vũ Trọng Phụng ghi lại, ta chỉ hiểu
đƣợc một phần xã hội. Đúng là xã hội “chó đểu”, xã hội của những kẻ giả tạo,
những giá trị đức bị lu mờ. Nhƣng trong xã hội ấy, vẫn còn những ngƣời luôn
cố gắng giữ lại những nét truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc. Qua
những trang văn, Thạch Lam không ném thẳng vào xã hội những câu chua
chát nhƣ Vũ Trọng Phụng. Cũng quan tâm đến con ngƣời trong xã hội ở cả
tầng lớp thƣợng lƣu và bình dân, cả trí thức và nông dân, Thạch Lam mang
đến cho ngƣời đọc một góc nhìn nhẹ nhàng hơn, nhƣng cũng rất “thực”, đan
xen vào đó là nét lãng mạn thuộc về phong cách tác giả.
Đặt trong hoàn cảnh xã hội đầy biến động, ngƣời phụ nữ không thoát
khỏi sự ảnh hƣởng. Nhìn vào cuộc đời ngƣời phụ nữ trong những truyện ngắn
Thạch Lam, ta có thể nhận ra hình ảnh những ngƣời phụ nữ truyền thống, họ
không bị ảnh hƣởng bởi sự biến động của xã hội, họ vẫn giữ truyền thống
“tam tòng tứ đức” trong gia đình, cam chịu trƣớc những định kiến, quan niệm
xã hội truyền thống. Nhƣng, qua chính đời sống ngƣời phụ nữ, cũng có thể
thấy, họ chính là những nạn nhân của xã hội. Qua cuộc đời họ, dù không rõ
nét, Thạch Lam nhƣ góp tiếng nói góp phần tố cáo xã hội, và chỉ cho ngƣời
phụ nữ một con đƣờng thoát khỏi thực cảnh đó. Đây là những đặc điểm ta đã
thấy từ trƣớc đó trong văn học khi nói về ngƣời phụ nữ. Đặng Thai Mai từng
nhận định “Có một điểm lƣu ý: hầu nhƣ tất cả các cây bút của văn học 1930 –
45
1945 thuộc tất cả các khuynh hƣớng, trào lƣu...đều “không hẹn mà cùng gặp
gỡ nhau ở hình tƣợng ngƣời phụ nữ Việt Nam, ở cách xây dựng những mẫu
ngƣời tốt đẹp gần với truyền thống, ở quan niệm” phụ nữ là ngƣời có tính dân
tộc hơn ai hết, và cái đẹp đẽ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, trƣớc hết là của
ngƣời phụ nữ Việt Nam” (25, 64). Tuy nhiên, trong văn Thạch Lam, chúng tôi
nhận thấy sự kết hợp giữa truyền thống và những ám ảnh thời đại – một phần
tất yếu của xã hội Việt Nam 1930 – 1945. Dấu ấn xã hội khiến ta dễ dàng
nhận ra và khu biệt hình ảnh ngƣời phụ nữ trong giai đoạn này với những giai
đoạn trƣớc đó.
2.1.2 Người phụ nữ trước những biến đổi của xã hội
Có thể nói những năm 30 của thế kỷ XX, tƣ tƣởng xã hội Việt nam
đƣợc coi nhƣ là “một đường quành lịch sử” ( Lê Thanh), đƣờng quành đó ảnh
hƣởng và soi chiếu đến mọi vấn đề xã hội. Văn hóa dân tộc đến đây cũng rẽ
sang một đƣờng mới, sáng tác văn học thời kỳ này bớt “khủng hoảng” hơn so
với thời kỳ trƣớc. Các văn nghệ sĩ đã tìm đƣợc cho mình mảnh đất tốt để gieo
mầm, họ đi sâu vào đời sống nơi thôn dã hay những góc khuất của con phố,
miêu tả số phận của những con ngƣời dƣới đáy, để rồi yêu thƣơng họ, nói lên
tiếng nói của họ.
Trong thế giới phụ nữ ở truyện ngắn Thạch Lam, ngƣời đọc dễ dàng
nhận ra dƣờng nhƣ ngƣời phụ nữ ít chịu ảnh hƣởng bởi sự biến động của xã
hội, họ vẫn giữ vững truyền thống xƣa. Bao nhiêu phong trào Âu hóa, đổi mới
không làm lay chuyển họ. Họ vẫn giữ vững vai trò trong gia đình truyền
thống: Họ đứng sau những ngƣời đàn ông theo quan niệm đạo đức phong kiến
Tam tòng tứ đức. Không ai khác, phụ nữ vẫn là ngƣời giữ lửa trong gia đình,
kế tục những gì thuộc về quá khứ. Nhƣng chính họ cũng là những nạn nhân
của xã hội.
2.1.2.1 Bất biến trong sự biến đổi xã hội
Tam tòng tứ đức theo quan niệm phong kiến nhƣ một xiềng xích nặng
46
nề với ngƣời phụ nữ Việt Nam từ bao đời. Và cho đến thời điểm này, dù xã
hội đã chuyển biến rõ ràng, quan niệm xã hội cũng đã có nhiều thay đổi.
Những phong trào Âu hóa, Văn minh du nhập vào Việt Nam và đƣợc nhiều
ngƣời hƣởng ứng, nhƣng dƣờng nhƣ, với những ngƣời phụ nữ trong truyện
ngắn Thạch Lam, những tƣ tƣởng ấy không ảnh hƣởng nhiều đến họ.
Tình xưa kể về mối tình giữa cậu học trò Bình với Lan - con gái ông
Cả Vinh – một mối tình đẹp với đầy đủ những trạng thái tâm lý của một cậu
bé mới lớn, từ khi bắt đầu chớm nở tình yêu cho đến lúc chiếm trọn trái tim
nàng và rồi lạnh lùng rời xa. Nhƣng điều mà chúng tôi muốn nói đến không
phải ở mối tình ấy. Ngay đầu những trang viết, ngƣời đọc nếu tinh ý sẽ nhận
ra một hiện thực – rất thƣờng tình của xã hội cũ – mà đôi khi vẫn còn nhìn
thấy ở xã hội hiện đại.
“Ông Cả ở một lớp nhà cổ, một cái nhà ngói năm gian chạy dài mặt phố
và một căn nhà lá rộng,…Đằng sau nhà có một miếng đất trồng cây cối, ngăn
với bãi cỏ hoang của tỉnh bằng một hàng rào râm bụt thấp. Ngay trƣớc nhà
gạch trông ra, có một cái sân vuông và hẹp, có bể nƣớc lớn. Cái sân đó là
giang sơn riêng của ông Cả: một cái núi non bộ nhỏ trong cái bể con bằng xi
măng và hai dẫy chậu trồng đủ các thứ lan. Cũng nhƣ nhiều ngƣời rỗi khác,
ông Cả có cái ham mê những công việc tỉ mỉ. Sớm chiều lúc nào tôi cũng thấy
ông lom khom ở ngoài sân, cúi mình tỉa xén các chậu lan hay sửa sang non bộ.
Thật là một dịp trọng vọng nếu chậu lan có chúm một dò hoa. Phải nhìn vẻ
vui sƣớng trên mặt ông lúc bấy giờ mới hiểu. Ông gọi chúng tôi ra xem hoa,
với cái tự kiêu của một chủ nhân ông khéo léo; rồi hàng giờ ông đứng lặng
ngắm chậu lan, dƣờng nhƣ để đợi chờ bông hoa nở” (18, 150)
Cuộc sống của ông Cả Vinh khiến ta có thể tƣởng nhầm ông có một gia
đình giàu có sung túc, có nhiều thời gian với những thú chơi tao nhã bình sinh.
Thời gian ông giành hết cho các thú vui. Vậy, vợ ông, con ông thì sao? “ Nhà
47
ông Cả nghèo lại đông con, và số tiền tháng của ba chúng tôi cũng đủ giúp
cho bà Vinh một cái vốn nhỏ để buôn bán. Ông Cả ở một lớp nhà cổ, một cái
nhà ngói năm gian chạy dài mặt phố và một căn nhà lá rộng, đầy những hàng
hóa của bà Cả, rồi đến nhà dƣới và bếp”
Hóa ra, đằng sau ngƣời chồng nhàn rỗi với những thú bình sinh tao nhã ấy, là
bà Cả - ngƣời vợ tảo tần, vất vả một tay cáng đáng công việc gia đình. Gia
đình ấy khiến ngƣời đọc nhớ đến hình ảnh Tú Xƣơng trong Thương vợ – bà
Tú tảo tần mƣa nắng nuôi chồng đủ ăn, đủ mặc, đủ chơi. Ít nhất, Tú Xƣơng
còn biết thƣơng vợ, biết quý trọng vợ, biết nỗi vất vả gian truân của vợ, biết
ơn vợ. Còn ông Cả Vinh, và bao ngƣời đàn ông khác, có thấu hiểu, cảm thông
và biết ơn ngƣời phụ nữ trong gia đình mình hay không?
“Bữa cơm họp đông đủ cả nhà: chúng tôi, anh Hòe và ông Cả ngồi ăn
cơm nhà trên, còn bà Cả với hai cô con gái và đứa em nhỏ ăn riêng dƣới bếp.
Hai mâm cơm khác nhau: bữa cơm chúng tôi ăn ngày nào cũng có thịt cá, còn
bữa cơm ở dƣới nhà chỉ toàn rau muống và đậu phụ. Không bao giờ chúng tôi
thấy có món ăn khác, và có lúc chúng tôi thầm phàn nàn cho sự kham khổ của
bà Cả và hai cô con gái. Vẻ xanh xao của Lan và Huệ không làm chúng tôi
ngạc nhiên. Đó là hai thiếu nữ lặng lẽ và kín tiếng, không lúc nào cƣời nói to.
Bởi vậy tuy hai cô cũng trạc tuổi với chúng tôi, tôi cũng không để ý đến. Ở
trong buồng học trông ra, thỉnh thoảng tôi thấy bóng Lan đi qua sân xuống
nhà dƣới hay với tay múc nƣớc trong bể. Nhƣng cách đi đứng khép nép và
cách phục sức nhã nhặn của cô không gợi ý chúng tôi bao giờ. …” (18, 151)
Cái quan niệm xã hội trọng nam khinh nữ đã có từ ngàn đời, nhƣng đến
thời kì cải cách, đổi mới, âu hóa này mà vẫn còn rõ nét thế thì quả thực những
ngƣời phụ nữ trong gia đình ấy chuẩn mực quá, cam chịu quá, và có lẽ, chính
họ cũng không coi đó là sự cam chịu. Bởi lẽ, họ từ nhỏ đã đƣợc giáo dục theo
48
đạo đức phong kiến, họ coi đó là việc đƣơng nhiên trong gia đình.
Cô hàng xén là một truyện ngắn nổi tiếng của Thạch Lam đã đƣợc
nhiều ngƣời hâm mộ. Cô hàng xén buôn bán tần tảo để nuôi mẹ và các em. Là
ngƣời con gái xinh đẹp nổi tiếng cả một vùng, thời gia đình còn sung túc, cô
đã đƣợc cắp sách đi học, nhƣng nay rời bỏ quyển sách để bƣớc chân vào cuộc
đời tần tảo hy sinh, không bao giờ nghĩ đến cuộc đời riêng của mình. Nghe lời
mẹ, Tâm lấy chồng – cậu Giáo Bài cô đã thầm nhớ. Lấy chồng, nghĩa là phải
gánh thêm cả trách nhiệm nhà chồng. Về nhà chồng mấy hôm nàng lại sốc
vác gánh hàng ra chợ. Hai năm sau Tâm đẻ con trai, nàng đã già đi nhiều,
không còn đẹp nhƣ xƣa. Tâm về nhà thăm cụ Tú, các em. Lân xin một chục
bạc, Tâm hốt hoảng vì chồng đã thôi dạy, nàng phải lo gánh vác bên nhà
chồng. Lân giận dỗi, nàng đành phải lấy tiền đƣa cho em rồi lo âu không biết
lấy gì bù vào chỗ ấy. Cuộc đời nàng u buồn, khó nhọc nhƣ không bao giờ dứt.
Khác với Khái Hƣng, Nhất Linh thƣờng phơi bầy những sai lầm của
nền luân lý cổ, ở đây Thạch Lam có khuynh hƣớng ca ngợi gia đình nền nếp
nho phong, những cái hay cái đẹp còn rơi rớt lại của một nền văn minh tinh
thần đã vang bóng một thời. Hình ảnh cô Tâm gánh hàng xén ra chợ nuôi mẹ,
nuôi các em ăn học để sau này đỗ đạt đi làm trên tỉnh giúp thầy mẹ già, không
nghĩ đến cuộc đời riêng của mình tiêu biểu cho những cái đẹp tuyệt vời của
nền nếp xã hội thời ấy. “Tâm thấy vững vàng ở giá trị và lòng cao quí của
mình. Nàng đã đảm đang nuôi cả một nhà”
Nhìn vào cuộc đời Tâm, độc giả thấy đƣợc cuộc đời chung của những
ngƣời phụ nữ trong xã hội cũ. Dù không viết thêm, nhƣng ngƣời đọc vẫn có
thể hình dung ra cảnh Tâm trở về nhà trong sự đay nghiến chì chiết của mẹ
chồng ra sao. Và cuộc đời vẫn tiếp tục, Tâm vẫn phải è lƣng chống đỡ hai
giang sơn: nhà mẹ đẻ và nhà chồng. Không một lời kêu than, cô coi đó là
trách nhiệm, là nghĩa vụ, là việc đƣơng nhiên của một ngƣời phụ nữ đối với
49
gia đình mình và gia đình chồng, bởi “tại gia tòng phụ, xuất giá tong phu”.
Trong Tự lực văn đoàn, Nhất Linh là nhà văn chủ trƣơng giải phóng
phụ nữ góa bụa khỏi sự ngăn cấm của cái đạo đức phong kiến giả dối. Nhƣng
trong Lạnh lùng, ta lại thấy ngƣời đàn bà góa trẻ, vì giữ tiếng thơm cho nhà
chồng mà phải hy sinh tình yêu, sống cô đơn lạnh lẽo “Một cơn gió lạnh lọt
vào phòng. Bỗng Nhung đột nhiên thấy trong lòng buồn man mác. Nhìn vẻ
mặt tƣơi đẹp của mình, Nhung nghĩ rằng không bao lâu nữa ngắm lại dung
nhan, nàng sẽ thấy mái tóc nàng điểm sƣơng, mắt nàng mờ; và nhƣ gò má
hồng, tình yê của Nghĩa có ngày kia cũng phai lạt. Tháng đi, năm đi, mùa
xuân của nàng đi qua, không bai giờ trở lại nữ, Nhung thấy hiện ra rõ rang
trƣớc mắt bốn chữ vàng Tiết hạnh khả phong.” “Cùng với hai hàng răng long,
mái tóc bạc, cái phần thƣởng quý hóa ấy sẽ đến kết liểu đời nàng, đời một
ngƣời đàn bà góa trẻ ở vậy thờ chồng, giữ đƣợc vẹn tròn tiếng thơm (Lạnh
lùng)”. Cuộc sống của những ngƣời phụ nữ trong xã hội phong kiến xƣa là thế
đấy. Phục vụ chồng, phục vụ con, chồng chết cũng vì bốn chữ “tiết hạnh khả
phong‟ mà ở vậy, chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ còn phơi phới của mình.
Trong sự biến đổi của xã hội, nhiều ngƣời đã thoát ra, tìm hạnh phúc
cho riêng mình, nhƣng Nhung, bà Cả, Tâm và nhiều ngƣời phụ nữ khác trong
truyện ngắn Thạch Lam thì ngoại lệ, họ bất biến trƣớc cái vạn biến của xã hội,
họ vẫn giữ những nét truyền thống của ngƣời phụ nữ trong sự tƣơng quan với
gia đình, xã hội.
2.1.2.2 Nạn nhân của xã hội
Thạch Lam khác với những ngƣời cùng thời, kể cả các anh. Trong khi mọi
ngƣời thi nhau viết tiểu thuyết luận đề, hoặc hiện thực xã hội, với những chủ
đích: lên án xã hội hoặc cổ vũ quần chúng theo con đƣờng mới. Thạch Lam
cũng muốn "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác" đấy, nhƣ
ông viết trong "Lời nói đầu" tập Gió đầu mùa (16,1), nhƣng Thạch Lam
50
không cải thiện, giáo huấn mà ông nhờ thiên nhiên, nhờ tình cờ nói hộ, để
gián tiếp "gơị ý" cho ta biết chỉ một "sự" cỏn con nhƣ vậy cũng có thể thay
đổi định mệnh con ngƣời; ta có thể sống cao hơn, nhân ái hơn, tại sao không
nghĩ ra ?
Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, Thạch Lam không nằm ngoài tôn
chỉ chung của văn đoàn là soạn những cuốn sách có tƣ tƣởng xã hội để làm
cho con ngƣời và xã hội ngày một hay hơn lên, đa số các đề tài trong truyện
ngắn, truyện dài của ông thuộc về khuynh hƣớng xã hội. Nhƣng khác với
Khái Hƣng, Nhất Linh, Hoàng Ðạo chủ trƣơng cách mạng triệt để theo mới,
đả phá đến tận gốc rễ nền tảng văn hoá phong tục cổ hủ, Thạch Lam với lối
trình bầy thầm lặng tế nhị hơn khiến ngƣời ta có cảm tƣởng nhƣ ông chỉ nhìn
xã hội bằng cặp mắt khách quan không liên hệ gì với cuộc cách mạng xã hội
mà những bậc đàn anh của ông đã đề xƣớng lên.
Trong tác phẩm của mình, Thạch Lam hay mô tả kỹ lƣỡng tâm lý và
hoàn cảnh của những ngƣời nghèo, địa vị thấp kém thậm chí mạt hạng trong
xã hội hoặc những ngƣời cùng khổ, diễn tả những thảm cảnh của một giai cấp
là đã gián tiếp cho ngƣời đọc chú ý đến thực trạng hoàn cảnh của họ cũng nhƣ
để mong có một lối thoát nào đƣa họ ra khỏi hoàn cảnh đó.
Trong một số truyện ngắn, ta cũng thấy phảng phất cái không khí xã hội,
mà ở đó, ngƣời phụ nữ luôn là nạn nhân đầu tiên. Mặc dù không mạnh dạn
nói ra nhƣng trong Một đời người, ta thấy hậu quả tai hại của hôn nhân gả ép,
hoặc trong Hai lần chết thấy sự gả bán con gái.
Một đời người kể về Liên, một cô gái không lấy đƣợc ngƣời yêu
(Tâm), vâng lời cha mẹ theo đúng cái hủ tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy để
lấy một ngƣời mà nàng không yêu (Tích) để rồi phải cắn răng cam chịu sống
trong một địa ngục, ngƣời chồng vũ phu đánh đập nàng tơi tả, mẹ chồng cay
nghiệt chửi rủa hành hạ nàng đủ điều. Bẩy năm sau gặp lại ngƣời yêu, chàng
51
đổi vào Sài Gòn và rủ nàng trốn theo. Bị chồng đánh đập tàn nhẫn, nàng nhất
quyết theo ngƣời yêu ra đi tìm tự do để rồi hôm sau lại đổi ý, nàng ẵm con ra
sân ga tiễn ngƣời yêu lên xe hỏa vào Nam đem theo cái hy vọng cuối cùng
của đời nàng, Liên nhìn hạnh phúc chạy ngang qua trƣớc mắt mình trên
chuyến xe lửa. Ðạo đức luân lý đã không cho phép nàng bỏ chồng „„theo
trai‟‟, nó chẳng khác nào nhƣ một sợi dây xiềng định mệnh buộc chặt lấy
nàng để tiếp tục sống cuộc đời nô lệ. Dù cảm nhận đƣợc nỗi tủi cực đắng cay,
nhƣng Liên vẫn cắn răng chấp nhận, có lẽ vì quan niệm Xuất giá tòng phu đã
ăn sâu trong tâm thức ngƣời phụ nữ Việt. Họ nhƣ bị trói buộc bằng sợi dây vô
hình không lối thoát.
Dung trong Hai lần chết là truyện về một ngƣời con gái không đƣợc
cha mẹ yêu thƣơng, gia đình trƣớc thuộc gốc quan lại nay nghèo nàn sa sút.
Dung không đƣợc đi học, gầy gò ăn mặc lôi thôi đi đánh đáo với bọn trẻ nhà
nghèo. Bà cụ buôn bán, Tết nhất anh chị có áo đẹp, Dung chỉ mặc quần áo cũ,
lên mƣời sáu bà mẹ gả bán Dung cho một bà nhà giầu, tiền thách cƣới rất lớn.
Nhà chồng giầu có nhƣng keo kiệt, bắt con dâu phải làm việc đồng áng, nhổ
cỏ tát nƣớc, đầu tắt mặt tối, chồng Dung loắt choắt cả ngày chỉ đi thả
diều . .. Dung trốn về quê với mẹ nhƣng bà mẹ chồng đến tận nơi bắt nàng
phải trở về, Dung nhẩy xuống sông cho rảnh nợ đời, đƣợc cứu sống cô lại
theo mẹ chồng về nhà tiếp tục cuộc đời lam lũ, lần này mới đích thực là chết,
chết không ai cứu gỡ đƣợc . . cũng nhƣ trong Một đời người, tác giả cũng cho
ta thấy cái xấu xa tàn nhẫn của tục gả bán và thân phận cay đắng của ngƣời
phụ nữ dƣới chế độ phong kiến mẹ chồng nàng dâu, thật chẳng khác nào nhƣ
truyện Ðoạn tuyệt thu gọn lại.
Trong các truyện ngắn, cũng nhƣ Nhất Linh, Thạch Lam hay đề cập
đến thân phận ngƣời phụ nữ, có khác chăng nhân vật của Nhất Linh là những
ngƣời trong các gia đình trƣởng giả nhƣ bà thông, bà phán. . Ở Thạch Lam là
52
những ngƣời bình dân, hoặc nghèo khổ khốn cùng nhƣ nhà mẹ Lê, chị Sen.
Trong Nhà mẹ lê, Ðứa con ta thấy tác giả đƣa ra cái biên giới phân chia giai
cấp: bọn cƣờng hào và những ngƣời cùng khổ bị áp bức bóc lột. Bất công xã
hội dƣới ngòi bút Thạch Lam đƣợc diễn tả linh động tự nhiên nhƣng cũng
mang tính xây dựng nhƣ ở Nhất Linh, Hoàng Ðạo: trong Nhà mẹ lê ta thấy sự
tàn bạo của bọn cƣờng hào, và trong Ðứa con, là tội ác bóc lột xƣơng tủy
ngƣời nghèo của bọn bất nhân nhƣ ông đã nói trong phần Lời Nói Ðầu của
truyện Gió Ðầu Mùa: “ Văn chƣơng là một thứ khí giới thanh cao và và đắc
lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác,
vừa làm cho lòng ngƣời đƣợc thêm trong sạch và phong phú hơn” (16, 1)
Nhìn vào cuộc đời những ngƣời phụ nữ ấy trong mối liên hệ với xã hội,
dƣờng nhƣ có một sợi xích vô hình trói buộc họ. Họ không thể thoát, không
dám thoát ra khỏi hoàn ảnh thực tại. Xã hội nhƣ tấm hộp vô hình nhốt họ lại.
Nhƣng nhƣ Khái Hƣng nhận định trong phần đề tựa Gió Ðầu Mùa “ Rồi ta sẽ
thấy trong những tác phẩm của Thạch Lam, rất nhiều nhân vật có cặp má
phính và cái bụng xệ. Thạch Lam sẽ trút lên đầu họ hết cả sự căm tức, oán
trách một xã hội trƣởng giả, bất công, tàn ác đối với những ngƣời khốn khó
đáng thƣơng, mà Thạch Lam tha thiết bênh vực và an ủi” (16, 3). Đó chính là
cái bức bối xã hội mà Thạch Lam đã nhận ra, ghi lại và chỉ cho những nhân
vật của mình nói chung và những ngƣời phụ nữ nói riêng.
Trào lƣu Âu hóa du nhập vào Việt Nam đã làm biến đổi hoàn toàn từ
diện mạo đến bản chất con ngƣời thì tất cả những gì là phong tục, lễ nghi,
phép tắc đã bị biến mất. Thay vào đó là sự học đòi lối sống mới nửa mùa,
kệch cỡm, giả dối. Ở xã hội đó có một Xuân tóc đỏ (tiểu thuyết Số đỏ) - một
ngƣời xuất thân từ nông thôn ra thành phố để kiếm sống với những tham vọng
sinh tồn và đổi đời đã tự biến mình thành kẻ lƣu manh, láu cá, thủ đoạn để
từng bƣớc nhảy lên tầng lớp thƣợng lƣu, nhƣng rồi lại chìm sâu trong sự tha
53
hóa tột cùng không lối thoát; có những kẻ học đòi theo lối sống phƣơng Tây
nhƣ vợ chồng Văn Minh, Phó Đoan, Tuyết. Đau đớn hơn, ta nhìn thấy cả bộ
mặt của xã hội trong một đám tang “to tát và đông đúc‟ “đi đến đâu làm
huyên náo đến đấy” của gia đình tƣ sản giàu có nhƣng thiếu vắng hoàn toàn
hai chữ gọi là “tình ngƣời”. Bên cạnh đó, hình ảnh những con sen, thằng ở và
mối quan hệ chủ - tớ đƣợc phản ánh trong tác phẩm Cơm thầy cơm cô của Vũ
Trọng Phụng cũng là một câu chuyện bi hài của một xã hội suy đồi về đạo
đức và nhân phẩm. Nhân vật Đũi điển hình cho số phận những con sen ra
thành phố kiếm sống với số phận long đong. Khi sống trong một xã hội mà
đồng tiền làm lu mờ đi giá trị đạo đức con ngƣời thì mối quan hệ không còn
đơn thuần là chủ - tớ mà diễn ra hết sức phức tạp, trở thành những câu chuyện
bi hài, nhƣ ô sin làm ngƣời tình của ông chủ hay những kẻ cơ hội, coi việc lấy
Tây là một “kỹ nghệ” để ăn chơi… Đứng giữa một xã hội hỗn loạn: Cái cũ
còn tồn đọng, cái mới đƣợc du nhập vào một cách tràn lan không có chọn lọc,
mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời chỉ quanh quẩn bon chen, dối trá là một sự
mất mát quá lớn đối với nền văn hóa truyền thống.
Giống Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam cũng nói về sự tác động của xã hội
vào nhân cách con ngƣời, cụ thể là ngƣời phụ nữ, ta có thể nói đến Trong
bóng tối chiều. Truyện là minh chứng cho sự tác động rõ nét ấy. Mai vốn là
một cô gái nông thôn “ tinh nghịch và lanh lợi, hay cƣời nói luôn miệng ”,
hồn nhiên. Mai yêu Diên là một chàng trai “ ít nói, nhút nhát ”. “ Hai ngƣời
mến nhau từ thuở nhỏ với một tình yêu mộc mạc và đằm thắm của những
ngƣời nhà quê ” (18, 145). Sự biến động của hai gia đình, đã đƣa Diên và Mai
cùng ra tỉnh làm việc. Không khí cuộc sống thành thị, cho dù là nơi nhà máy
đầy bụi bặm, lao động cật lực, con ngƣời vẫn dễ bị lôi kéo bởi những cám dỗ
vật chất, dễ bị sa vào cạm bẫy cũng những kẻ chuyên đi giăng mắc để phục vụ
ý thích của các ông chủ. Mai đã từng bƣớc sa ngã : từ chỗ “ tỏ ý ghét ” những
54
ngƣời con gái “ hay làm đỏm ” đến chỗ thích chơi, rồi thân thiết, đàn đúm
nhập bọn với họ để có “ nhẫn ở ngón tay và hoa tai lấp lánh dƣới mái tóc,
sang trọng nhƣ các bà giàu có ” (18, 147). Mai đã bị kéo vào guồng quay của
một lối sống thực dụng. Diên đã phải chứng kiến Mai – ngƣời bạn gái quê yêu
quý của mình từng bƣớc đi tới một kết cục không mấy sáng sủa “ và Mai đánh
phấn ! Đôi môi có vết son của cô gái trƣớc kia quê mùa mộc mạc làm chàng
rùng mình nghĩ đến những bộ mặt trát phấn, những đôi môi đẫm son nhƣ
thấm máu mà chàng thƣờng thấy trƣớc cửa những chố ăn chơi” (18, 148) .
Nhƣ vậy, Mai cũng là một nạn nhân không y thức đƣợc, còn Diên – “ Diên
bàng hoàng và lạnh lẽo cả ngƣời; chàng hình nhƣ thấy một cái sức mạnh vô
cùng đến chia rẽ Mai và chàng”. Đó là nét hiện thực cuộc sống. Cuộc sống tác
động làm biến đổi tính cách con ngƣời. Thạch Lam đã nắm bắt và phản ánh
khá sâu sắc.
Viết về nhóm ngƣời đã bị xã hội làm cho tha hóa, Thạch Lam vẫn dành
những trang văn ƣu ái.
Tối Ba Mươi là một truyện ngắn đặc sắc, cảm động đầy nƣớc mắt về
thân phận của những ngƣời cùng mạt tận đáy xã hội. Liên và Huệ, hai chị em
họ, bỏ nhà đã bẩy tám năm nay sống đời giang hồ trụy lạc. Liên mua đồ cúng
giao thừa về khi Huệ còn đang ngủ. Họ dở các gói thức ăn ra, nào lạp xƣởng,
bánh Trƣng, giò lụa. Huệ rớm nƣớc mắt nhớ tới thời thơ ấu, nàng mặc áo mới
ngày mồng một tết . . nghĩ đến đấy tâm hồn nàng bỗng u ám nặng trĩu. Họ bầy
đồ cúng lên bàn: đĩa cam quít, bánh chƣng, lạp xƣởng rồi cắm hƣơng lên
tƣờng cúng. Ngƣời bồi nhà chứa chào các cô về ăn tết, chỉ còn lại hai chị em
trong căn nhà hoang vắng. Mùi hƣơng tỏa ra khiến họ nhớ đến những ngày
cúng giỗ ở nhà xa xƣa. Liên đứng trƣớc bàn thờ một lúc rồi khóc nấc lên. Hai
chị em tủi thân ôm nhau khóc trong tiếng pháo giao thừa nổ vang.
Ðây là tấn bi kịch cuộc đời tội lỗi đáng thƣơng của hai cô gái nhƣ đã bị
55
xã hội bỏ quên trong khi mọi ngƣời đang tƣng bừng đón giao thừa, đón những
ngày thiêng liêng, vui tuơi nhất của một năm. Hai chị em họ xa nhà từ bao
lâu nay; một ngƣời mẹ chết, cha lấy vợ khác không biết ở đâu, ngƣời kia còn
cha mẹ nhƣng không dám về, họ cô đơn trơ trọi đón xuân trong căn phòng
lạnh lẽo này và chạnh lòng nghĩ đến thân phận hẩm hiu của mình.
Ở Thạch Lam, ta thấy một hiện thực chua chát và tàn nhẫn, thật
không còn gì cay đắng hơn. “- Có gạo đây. Nhƣng đổ vào cái gì bây giờ? Hai
chị em nhìn quanh gian buồng nghĩ ngợi, Liên bỗng reo lên: “Ðổ vào cái cốc
này. Phải đấy, rất là . . .” Nàng im bặt dừng lại. Hình ảnh ô uế vừa đến trí
nàng. Cái cốc bẩn ở góc tƣờng, mà cả đến khách làng chơi cũng không thèm
dùng đến, nàng định dùng làm bát hƣơng cúng tổ tiên” (18, 205). Sống trong
một vũng bùn nhơ bẩn, họ tiếc thƣơng quãng đời trong sạch đã mất đi mà
không sao lấy lại đƣợc, tâm lý chung những kẻ đã mất quá khứ tƣơi đẹp của
mình. Hai con chim lạc loài trơ trọi, lạc lõng giữa đêm giao thừa tƣng bừng
rộn rã khiến ta tƣởng nhƣ họ là nạn nhân của cuộc đời, của xã hội và thấy xót
xa cho cái thân phận cô đơn lạnh lẽo ấy đã bị đời khinh thị rẻ rúng. “Nàng
bỗng nấc lên rung động cả hai vai, rồi gục xuống ghế, tay ấp mặt. Những giọt
nƣớc mắt nóng chảy tràn mí mắt nàng không giữ đƣợc; Liên cảm thấy một nỗi
tủi cực mênh mông tràn ngập cả ngƣời, một nỗi thƣơng tiếc vô hạn; tất cả
thân thế nàng lƣớt qua trƣớc mắt với những ƣớc mong tuổi trẻ, những thất
vọng chán chƣờng” (18, 206) . Tấn bi kịch đầy nƣớc mắt cuộc đời hai ngƣời
con gái đáng thƣơng lỡ sa chân xuống hố sâu tội lỗi, ngụp lặn trong bể khổ
mênh mông, một tác phẩm tuy ngắn ngủi nhƣng cũng chan chứa tình thƣơng
yêu đồng loại.
Cùng thời với Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan - một nhà văn hiện thực
nổi tiếng, cũng đề cập đến cuộc sống của những cô gái giang hồ nhƣng ngƣời
đọc nhận thấy sự đối lập gay gắt trong cách nhìn, thái độ của mỗi nhà văn về
56
loại nhân vật đặc biệt này. Cô gái làng chơi trong Ngựa người - người ngựa
và một số tác phẩm khác của Nguyễn Công Hoan đều đƣợc miêu tả là những
kẻ trơ trẽn, hƣ hỏng. Trong khi đó, hai cô gái trong Tối ba mươi của Thạch
Lam lại rất đáng thƣơng. Những cô gái hành nghề ở “nhà săm”, sống xa gia
đình, ngày tất niên nhƣng vẫn không quên nghi lễ truyền thống - cúng giao
thừa. Giây phút thiêng liêng ấy khiến hai cô gái đáng thƣơng kia phải tự nức
nở thƣơng hại cho chính mình. Họ đã xót xa, đau đớn, nhục nhã và ngập tràn
trong nƣớc mắt là nỗi buồn, nỗi ân hận của những ngƣời vốn lƣơng thiện
nhƣng lại bị dòng đời xô đẩy mà lỡ vận, sa cơ. Với lòng nhân hậu sâu sắc,
Thạch Lam nhìn thấy trong sâu thẳm tâm hồn họ cái đốm sáng thiên lƣơng
vẫn âm ỉ cháy nên nhà văn vừa cảm thông vừa trân trọng. Tƣ tƣởng tiến bộ
này khác hẳn với cái nhìn có phần khe khắt của Nguyễn Công Hoan và cũng
không giống với quan niệm hiện đại đến mức phóng túng của Nhất Linh, Khái
Hƣng khi xây dựng nhân vật Tuyết dù có những cơ hội để thoát khỏi “đời
mưa gió” nhƣng lại tự cho rằng đó chính là số phận của mình nên tiếp tục dấn
thân vào cuộc đời ô nhục mà không chút phân vân, do dự.
Có thể nói, khi xây dựng chân dung những nhân vật phụ nữ, Thạch lam
đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc đời sống nội tâm của nhân vật, qua đó nhà văn
hƣớng ngƣời đọc đến một cái nhìn đa diện, nhiều chiều về con ngƣời. Vì thế,
mỗi nhân vật của Thạch Lam nhƣ gần gũi, sống động, nhân ái và tốt đẹp hơn.
2. 2. Người phụ nữ trong quan hệ gia đình, với tình cảm và khao khát
riêng tư:
Mỗi ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam nói riêng và trong văn
học giai đoạn 1930 – 1945 nói chung có một hoàn cảnh khác nhau nhƣng họ
gặp nhau tại một điểm chung . Nói nhƣ Lê Minh Truyên thì „„hoàn cảnh mỗi
nhân vật có khác nhau ít nhiều, nhũng nỗi éo le bất hạnh của họ cũng không
giống nhau, nhƣng tính cách, tâm hồn, nhân cách của họ thì giống nhau đến
57
mức gần nhƣ trở thành khuôn mẫu‟‟ (43 , 89)
2.2.1 Người phụ nữ trong đời sống gia đình
Trong gia đình, ngƣời phụ nữ có vai trò là ngƣời giữ lửa, giữ gìn nếp
nhà. Những ngƣời mẹ, ngƣời vợ bao đời thầm lặng hy sinh cho chồng, con.
Mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp, nhƣng họ thƣờng phải chịu cuộc
sống cơ cực, bất hạnh. Cuộc sống có quá nhiều khó khăn cùng với những
quan niệm cổ hủ lạc hậu từ bao đời vẫn đè nặng đôi vai những ngƣời phụ nữ.
Nhƣng không vì thế mà ngƣời phụ nữ cam chịu, họ vẫn luôn có những ƣớc
mơ, khao khát mãnh liệt trong tình yêu, trong cuộc sống, trong hôn nhân.
2.2.1.1 Những thân phận cơ cực, kém may mắn:
Điều đáng ghi nhận ở Thạch Lam là ông không chỉ khám phá, thể hiện
một cách chân thực cuộc đời cơ cực của những ngƣời phụ nữ suốt đời tần tảo
vì gia đình, chồng con với bao khổ đau mà còn phát hiện ra ở những số phận
bất hạnh ấy những vẻ đẹp tâm hồn thật thánh thiện, cao quý.
Những ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam phần nhiều là
những ngƣời con gái, ngƣời vợ, ngƣời mẹ bất hạnh.
Nhân vật Dung trong Hai lần chết gặp phải sự thờ ơ, lãnh đạm từ phía
cha mẹ ngay từ lúc chào đời. Lớn lên, cha mẹ gả cô cho gia đình giàu có.
Cuộc sống tƣởng từ đây hạnh phúc, nào ngờ gặp phải ngƣời chồng nhu nhƣợc
“vừa lẩn thẩn, vừa ngu đần”, bà mẹ chồng thì ác nghiệt và luôn tìm cách đay
nghiến con dâu, còn hai cô em chồng “ghê gớm lắm, thi nhau làm cho nàng bị
mắng thêm” khiến Dung khổ sở vô cùng. Trong khi đó, ngƣời mẹ mang nặng
đẻ đau ra cô thì rũ bỏ trách nhiệm với con bằng thái độ thật vô cảm, tàn nhẫn
“chỉ biết không phải là con tôi nữa thôi”. Cuộc sống nhƣ địa ngục ấy khiến
Dung “ƣớc ao chết nhƣ một cách thoát nợ” mà không đƣợc. Khổ đau chồng
chất khổ đau, bất hạnh càng thêm bất hạnh. Dung “không bấu víu vào đâu
58
đƣợc nữa: và cũng “không ai cứu vớt nàng nữa”. (18, 76, 78)
Nếu nhƣ chồng Dung là kẻ nhu nhƣợc, thì Tích - chồng Liên (Một đời
người) - lại là kẻ vũ phu ghê gớm. Anh ta sẵn sàng hành hạ vợ bất cứ lúc nào
và vì bất cứ lí do gì. “ Nàng nghẹn ngào, buông đũa đứng dậy toan bƣớc
xuống dƣới nhà. Nhƣng có tiếng xô ghế, rồi một bàn tay nắm chặt lấy cổ
nàng : - Mày bảo mẹ tao ác à ? Không ác để cho mày tự tiện đi theo trai phải
không ? Bàn tay nhƣ sắt bóp chặt xoay nàng lại. Liên thấy giáp mặt mình, cái
mặt ghê sợ của Tích, hai mắt đỏ ngầu. Cái giận dữ làm tiếng hắn run lên : -
con đĩ ! Liên thoáng nghĩ đến nét mặt thanh tao của Tâm ban sáng. Nàng
khinh bỉ nhìn chồng : - Buông tôi ra ! Rồi nàng gục xuống dƣới những cái
đấm, đá nặng nề. Lòng ghen ghét làm Tích khỏe hẳn lên. Hắn nghiến răng lại
đánh túi bụi ” (18, 25). Cả chồng và mẹ chồng đều tàn bạo, vô tình nên Liên
chỉ còn biết trông vào đứa con lên 6 làm chỗ dựa về tinh thần nhƣng đau đớn,
bất hạnh thay khi nó cũng “xấc láo nhƣ bố”. Tất cả những đau đớn về thể xác
và tinh thần của Liên chỉ đƣợc “quên đi trong chốc lát” mỗi khi hết giờ làm
việc để đƣợc cùng các chị em rảo bƣớc trên vỉa hè và trò chuyện. Nhƣng liền
ngay sau đó, “nàng không còn vui vẻ gì nữa vì sắp về đến nhà” bởi ngôi nhà
ấy với cô chỉ là “một cái địa ngục” không hơn không kém. Đến mức nhân vật
phải băn khoăn không hiểu do đâu mà “chồng nàng và mẹ chồng lại ác nghiệt
với nàng đến thế”. Câu hỏi ở cuối tác phẩm lại càng khẳng định, nhấn mạnh
thêm nỗi bất hạnh của “một đời ngƣời” mà ngƣời đàn bà bất hạnh này phải
gánh chịu. Đọc những trang truyện này, ngƣời đọc nhƣ cảm nhận đƣợc một
tâm sự sâu kín, một lời trách móc âm thầm mà thống thiết của nhà văn qua
những số phận bất hạnh. Đó là sự phản đối chế độ gia đình phong kiến cổ hủ -
một chế độ vô nhân đạo với những ngƣời phụ nữ ở ngay trong gia đình và do
chính những ngƣời thân của họ.
Ở truyện Trở về, nhà văn tập trung miêu tả nỗi khổ đau của bà mẹ già
59
nơi thôn quê nghèo khó vì đứa con bất hiếu. Ngƣời mẹ đã tần tảo sớm hôm
nuôi Tâm ăn học nên ngƣời nhƣng khi đƣợc ra thành phố, cuộc sống bon chen
danh lợi đã khiến anh ta quên hẳn ngƣời mẹ ở quê nhà. Trong sáu năm biền
biệt, Tâm không một lời hỏi thăm và cũng không để ý đến những bức thƣ của
mẹ gửi từ quê ra với bao tình cảm ân cần, đằm thắm. Đốn mạt hơn nữa, vì sợ
bị phát hiện là mình có ngƣời mẹ nghèo khổ ở quê nên khi lấy vợ Tâm đã
không báo tin cho mẹ biết. Bất đắc dĩ phải về thăm mẹ, anh ta đáp lại tình
cảm của mẹ bằng một thái độ kiêu căng, khó chịu. Và lúc “ra khỏi nhà Tâm
nhẹ hẳn ngƣời” rồi lái xe chạy làm bùn bắn lên hai ngƣời phụ nữ bên đƣờng
mà anh ta thừa biết đó là mẹ và cô hàng xóm tốt bụng. Lúc này, “không còn
một cái gì ràng buộc Tâm với cuộc sống thôn quê nữa” (18, 69) nên anh ta
chẳng mảy may động lòng thƣơng hay hối hận. Ở đây, nhà văn không chỉ
khiến ngƣời đọc phải phẫn nộ vì sự vô ơn của đứa con mà còn đau xót cho số
phận bất hạnh của ngƣời mẹ.
Trong Một cơn giận, nhân vật “tôi” kể lại câu chuyện một cơn giận vô
tình ám ảnh anh. Trong một buổi chiều đông, lòng buồn bực chán nản, thấy
khó chịu và gắt gỏng, không muốn làm việc gì. Bực tức với anh phu xe tay,
nhân vật “tôi” mặc kệ sự cầu xin và ánh mắt khẩn khoản của anh ta, “tôi” trả
lời viên đội xếp về địa điểm mình lên xe khiến anh phu xe bị bắt về bóp. Khổ
sở những ngày sau vì hối hận, nhƣ có một cái gì nặng nề đè nén trên ngực làm
mình khó thở, “tôi” tìm đến nơi ở ngƣời phu xe. Hỏi ra mới biết, ngƣời phu xe
tên Dƣ. Vì không có tiền nộp phạt chuộc xe về, Dƣ bị đánh thừa sống thiếu
chết, về tới nhà trọ còn không lê nổi, vậy mà vẫn bị bắt hôm sau trả tiền. Có lẽ
vì sợ tên cai xe không dám về, mà về cũng không có tiền cũng chết. Chồng bị
đánh thừa sống thiếu chết, lại phải trốn biệt không biết tăm hơi đâu, không
biết anh phu xu Dƣ có sống nổi qua ngày. Nhƣng rõ ràng, ngƣời vợ và đứa
con ốm yếu của anh đã thấy rõ số phận. “Tội nghiệp cho vợ con chú đây, ốm
60
đã mấy ngày nay không có thuốc. Đứa cháu không biết nó có qua khỏi đƣợc
không”. Và ngay sau đó ngƣời đọc có câu trả lời “Qua ngƣỡng cửa, tôi va
phải một ngƣời đàn ông ốm yếu tay cắp một cái áo quan con bằng gỗ mới.
Đến bên đƣờng, tôi nghe thấy trong căn nhà lụp xụp đƣa ra tiếng khóc của hai
ngƣời đàn bà. Đứa bé con đã chết” (18, 31). Chồng bị đánh thừa sống thiếu
chết mà phải trốn biệt, đứa con cũng không qua khỏi cơn bệnh, ngƣời vợ,
ngƣời mẹ còn lại sẽ ra sao ? Dù ngƣời vợ của Dƣ không phải là nhân vật
chính của Một cơn giận, nhƣng trong câu chuyện “tôi” kể, ta vẫn nhìn đƣợc số
phận cơ cực, bất hạnh của chị. Chị cơ cực vì đói nghèo, và chị bất hạnh vì chỉ
trong chốc lát đã mất cả chồng và con. Còn nỗi bất hạnh nào hơn nỗi bất hạnh
của ngƣời mẹ nhìn đứa con ốm yếu gầy gò, từng phút, từng giây chết dần chết
mòn trong sự bất lực.
Trong sáng tác của Thạch Lam, ta còn gặp không ít những ngƣời phụ
nữ có số phận bất hạnh do cuộc sống thất cơ lỡ vận. Đó là bà mẹ Lê (Nhà mẹ
Lê) góa chồng để phải nhọc nhằn, tần tảo nuôi đàn con thơ 11 đứa. Tình thế
cùng quẫn, bà phải nhẫn nhục mang rá vay gạo nhà giàu. Nhƣng hai lần đi,
hai lần mang rá về không. Thậm chí lại còn bị chúng xua chó cắn chết. Chỉ
trong ít trang truyện ngắn ngủi nhƣng nhà văn đã phản ánh một cách chân
thực cuộc sống và số phận bất hạnh của ngƣời lao động trong xã hội cũ. Vì
miếng cơm manh áo hàng ngày mà biết bao gia đình phải ly tán, phiêu bạt,
thậm chí phải chết một cách thật oan ức. Ở đây ta thấy có sự gặp gỡ ở một
mức độ nào đó giữa Thạch Lam và Nguyên Hồng. Nhà văn Nguyên Hồng đã
làm cho ngƣời đọc xúc động khi gợi lại cái chết thảm thƣơng của cô Mũn
(Đây bóng tối). Cô Mũn chết đi để lại ngƣời chồng mù lòa và bốn đứa con thơ
dại. Còn mẹ Lê liệu có nhắm mắt đƣợc dƣới suối vàng khi mà trên dƣơng thế
11 đứa con thơ dại chẳng biết sẽ ra sao trƣớc cuộc đời đầy giông tố? Rõ ràng,
61
tuy không cùng số phận với nhân vật nhƣng Thạch Lam đâu phải chỉ là một
ngƣời khách qua đƣờng bởi trái tim vốn đầy lòng trắc ẩn của nhà văn nhƣ run
lên khi viết về thân phận những con ngƣời bất hạnh.
Cuộc đời Liên, Huệ - hai cô gái giang hồ trong Tối ba mươi cũng
không ngoại lệ – cuộc đời của những con số không tròn trĩnh : không gia
đình, không quê hƣơng, không chốn nƣơng tựa dù trong tâm tƣởng, không
còn lại gì sạch sẽ kể cả vật dùng để cắm hƣơng. Lời khấn bái tối giao thừa
nghẹn lại vì không biết khấn gì ? khấn ai ? Ngay lời chúc của ngƣời bồi cũng
không nỡ nói hết vì biết chúc gì ? Mọi nẻo đƣờng đều đã bị chắn lối, hƣớng
về nhà thì Huệ „„còn nhà đâu nữa mà về ? Mẹ chết rồi, cha đi lấy vợ khác
không biết ở đâu. Đã bảy tám năm nay nàng không còn về đến làng (...) Liên
còn cha mẹ nhƣng Liên không dám về‟‟. Một ngƣời không có nhà để về, một
ngƣời có nhà mà không dám về. „„Hôm nay, ngày cuối năm sum họp hai
ngƣời ở căn buồng này, trong một cảnh ăn tết lạnh lẽo‟‟. Họ ở lại trong căn
phòng bẩn thỉu với „„cái giƣờng Hồng Công cũ, đồng han và gỉ sạm, cái bàn
gỗ ẩm ƣớt ở góc tƣờng, hai cái ghế long chân‟‟ (18, 210). Cuộc sống qua ngày
của Liên và Huệ dƣới ngòi bút của Thạch Lam đáng thƣơng hơn đáng giận.
Số phận của họ cũng không nằm ngoài số phận chung của ngƣời phụ nữ trong
xã hội truyện ngắn Thạch Lam.
Ngƣời phụ nữ trong thế giới truyện ngắn Thạch Lam dƣờng nhƣ không
ai giống ai : Mỗi ngƣời có một cuộc đời, một hoàn cảnh, một số phận riêng.
Đó là ngƣời đàn bà bị chồng và mẹ chồng hành hạ nhƣ Liên trong Một đời
người, là ngƣời con dâu bị bóc lột đay nghiến nhƣ Dung trong Hai lần chết, là
ngƣời mẹ bất hạnh khi có đứa con bất hiếu nhƣ Tâm trong Trở về, là ngƣời vợ
của phu xe Dƣ nghèo nàn, ốm yếu bệnh tật, mất cả chồng, con, là mẹ Lê đau
đớn không phải vì cái chết mà vì bất lực khi phải để lại đàn con nheo nhóc mồ
côi trên cõi đời...Bằng ngòi bút của mình, Thạch Lam đã cho ngƣời đọc hình
62
dung về cuộc đời chung của những ngƣời phụ nữ trong xã hội những năm
1930 – 1945. Ở đó, ngƣời phụ nữ luôn là ngƣời chịu nhiều cơ cực, bất hạnh.
Chính nét vẽ này khiến văn Thạch Lam mang chất hiện thực và thấm đẫm
tinh thần nhân đạo.
Cũng cần nhận định thêm rằng, không phải nhân vật phụ nữ nào trong
trang văn Thạch Lam cũng cơ cực, bất hạnh về đời sống vật chất, tinh thần.
Cũng có những ngƣời phụ nữ đƣợc sống một cuộc đời sung túc hơn, không
phải lo kinh tế gia đình.
Khanh - ngƣời vợ trong Người bạn cũ không phải nhân vật chính. Cuộc
đời Khanh so với Liên (Một đời người), Dung (Hai lần chết), ngƣời vợ của
phu xe Dƣ (Một cơn giận), mẹ Lê (Nhà mẹ Lê),..may mắn hơn rất nhiều. Cô
là ngƣời phụ nữ có chồng là một viên chức ở tỉnh nhỏ, „„ sống cái đời yên
lặng, trƣởng giả, một đời ăn no mặc ấm, không phải lo lắng gì‟‟. Khanh có
chồng yêu thƣơng, con ngoan ngoãn. Gia đình có cả vú già giúp việc. Nếu
không có sự xáo trộn gì, có lẽ cuộc đời Khanh sẽ không có gì đáng nói.
Nhƣng, thử đặt một giả thuyết, nếu chồng Khanh cũng giống nhƣ thầy của
Liên trong Hai đứa trẻ, cũng giống Sinh trong Cái đói ? Thầy của Liên từng
làm công sở, và gia đình Liên từng sống những ngày sung sƣớng ở thủ đô, khi
mà Liên đƣợc đi dạo trên bờ hồ, đƣợc ăn những thứ kem đầy màu sắc. Nhƣng
khi thầy mất việc, Liên và gia đình phải chuyển về phố huyện sống. Và Hà
Nội xa hoa chỉ còn trong kí ức, trong mơ ƣớc của Liên mà thôi. Trong Cái đói,
Sinh cũng từng „„ là một ngƣời có việc làm, còn là một ngƣời lắm tiền‟‟ (18,
39), nhƣng „„chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả
quyết và lạnh lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản thất vọng của mấy
ngƣời anh em cùng một cảnh ngộ với chàng...Từ lúc đó, bắt đầu những sự
thiếu thốn khổ sở, cho đến giờ,... ‟‟ (18, 37). Nếu Sinh không mất việc, chàng
và Mai vẫn sống tiếp những ngày „„sung sƣớng, ái ân, những ngày còn để lại
63
trong trí chàng một cái kỷ niệm êm đềm, mà mỗi khi nghĩ tới, chàng không
khỏi bồi hồi‟‟ (18, 39). Cuộc đời là thế, đôi khi có những việc xảy ra ngoài
dự tính, họ không thể biết trƣớc ngày mai của mình ra sao. Ai dám chắc rằng,
cả đời Khanh sẽ đƣợc sống thanh bình bên ngƣời chồng „„trƣởng giả, một đời
ăn no mặc ấm, không phải lo lắng gì‟‟ cả đời. Nếu chồng Khanh cũng bị mất
việc, bị sa thải ? Lúc đó, cuộc đời cô sẽ rẽ theo ngã nào ? giống mẹ Liên hay
giống Mai ?
Ngƣời vợ của Tâm trong Trở về đƣợc nhắc đến là „„con một nhà giàu
có‟‟, ngƣời chồng „„có một địa vị trong xã hội‟‟. Nàng nũng nịu chồng „„Cậu
ích kỷ lắm, chỉ biết nghĩ đến công việc của cậu mà không biết nghĩ gì đến tôi
cả‟‟ và đƣợc chồng chiều chuộng. Nàng không biết gì về chồng mình. Chồng
trong mắt nàng là ngƣời đàn ông tài giỏi, có địa vị xã hội, yêu thƣơng, chiều
chuộng vợ hết lòng. Nhƣng nàng có phải ngƣời vợ thực sự hạnh phúc ? khi
chồng nàng là ngƣời con bất hiếu, là kẻ bị mờ mắt vì sang giàu, trốn chạy quá
khứ, không dám cho vợ biết về ngƣời mẹ nghèo khổ đã hy sinh vất vả nuôi
chàng. Tâm sợ những ngƣời họ hàng ở làng vì sợ sự nhờ vả. Tâm tin rằng „„đã
làm tròn bổn phận khi mỗi tháng gửi về giúp bà cụ một số tiền. Chàng lại
càng tin nhƣ vậy lắm, khi nghĩ đến những cái khó khắn chàng phải vƣợt qua
để có số tiền ấy. Bao nhiêu sự dối trá chàng phải cần đến để giấu không cho
vợ biết‟‟ (18, 68). Liệu sống với ngƣời chồng bất hiếu với chính mẹ ruột mình,
chạy trốn quá khứ mình nhƣ Tâm, vợ chàng có thực sự là ngƣời hạnh phúc
hay chỉ là một ngƣời phụ nữ bất hạnh mà không biết mình đang bất hạnh.
Liệu một ngày nào đó, Tâm cũng đối xử với nàng tệ bạc khi nàng không còn
giàu sang, khi Tâm gặp một ngƣời phụ nữ sang giàu quyền thế hơn nàng ?
Vậy là, ẩn sau hạnh phúc êm đềm của những ngƣời phụ nữ trong xã hội
ấy vẫn có sự bấp bênh. Không ai biết họ có đƣợc hạnh phúc mãi, hay sẽ có
64
một sự kiện làm thay đổi hẳn số phận, cuộc đời. Ai dám chắc Khanh, vợ Tâm
sẽ không nhƣ số phận của Mai (Đói) khi chồng mất việc, sẽ không giống nhƣ
số phận bà cả Tú (Tình xưa) khi gia đình vào cảnh sa sút.
2.2.1.2 Những con người mang vẻ đẹp truyền thống của phụ nữ Việt Nam
Nhân vật của Thạch Lam, bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong
tâm hồn cái chất nhân ái Việt Nam, đặc biệt là hình tƣợng ngƣời phụ nữ.
Cuộc sống nghèo nàn, cùng cực, xã hội xô đẩy đến tận cùng, bế tắc nhƣng họ
luôn ánh lên vẻ đẹp rạng ngời của phẩm giá, xác lập chỗ đứng tốt đẹp cho
mình trong cuộc sống đầy bùn nhơ của xã hội cũ.
Vả chăng, trong Thạch Lam cũng nhƣ trong các nhân vật của ông, sự buồn
chán không hề dẫn tới thái độ buông xuôi, hoặc lối sống lƣu manh tuỳ tiện.
Dù là một bà mẹ khá giả, một ngƣời nông dân, một cô hàng xén, một cô gái
trông hàng cho mẹ, song các nhân vật của Thạch Lam có chỗ giống nhau: họ
đều là những ngƣời tận tuỵ với nghĩa vụ, bổn phận của mình. Ở họ, có sự
lƣơng thiện, sự trong sạch, dấu hiệu của một đời sống nội tâm ổn định. Trong
khi có vẻ nhƣ là chịu đựng, thậm chí nhƣ là đầu hàng, ngƣời ta lại thấy toát
lên ở các nhân vật ấy một khí phách cứng cỏi: họ vẫn là mình; không hoàn
cảnh nào xô đẩy nổi họ.
2.2.1.2.1. Trách nhiệm, tấm lòng hy sinh cao cả
Nhìn chung, các nhân vật nữ của Thạch Lam thƣờng gặp phải số phận
bi kịch. Tuy nhiên, vƣợt lên bao nỗi khổ đau, bất hạnh, những ngƣời phụ nữ
trong sáng tác của nhà văn vẫn luôn cố gắng gìn giữ những phẩm chất cao
quý của tâm hồn. Họ phần lớn là những ngƣời có cuộc sống gia đình không
hạnh phúc, thậm chí là bất hạnh nhƣng cái đáng quý là họ vẫn yêu chồng,
thƣơng con, tần tảo khuya sớm vì gia đình.
Hình ảnh cô Tâm gánh hàng xén ra chợ nuôi mẹ, nuôi các em ăn học,
không nghĩ đến cuộc đời riêng của mình tiêu biểu cho những cái đẹp tuyệt vời
65
của nền nếp xã hội thời ấy. Đó là ngƣời phụ nữ mang đặc điểm chung của tính
cách ngƣời phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, nhẫn nại, chịu đựng.
Nàng cũng là thể hiện của sự chịu khó nhọc nhằn của những ngƣời phụ nữ
Việt Nam đảm đang. “Sáng sớm hôm sau, trong gió bấc lạnh, Tâm đã mở
cổng gánh hàng lên chợ. Sƣơng trắng còn đầy ở các ngõ trong làng . . .tất cả
cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức, nhƣ tấm vải thô dệt đều nhau.
Có phải đâu chỉ một mình cô. Trong lũy tre xanh kia, bao nhiêu ngƣời cũng
nhƣ cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn, để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con,
nuôi các em” Tâm chỉ nghĩ đến sự hy sinh cho cha mẹ, cho các em không nỡ
bỏ nhà đi lấy chồng, bà Tú thƣơng con buộc nàng phải xuất giá. Về nhà chồng
đƣợc mấy ngày nàng phải quẩy gánh hàng đi bán ngay. “Bây giờ gánh hàng
đã trở nên quá nặng trên đôi vai nhỏ bé. Chiếc đòn càng cong xuống và rền rĩ.
Ngoài giang sơn nhà chồng nàng phải gánh vác, Tâm lại lo sao kiếm đƣợc đủ
tiền để gửi thêm cho các em ăn học. Trong sƣơng muối sớm, xót và giá lạnh,
nàng đã phải bƣớc ra ngõ và đi chợ rồi . . . Ðời nàng lại đi nhƣ trƣớc, chẳng
khác gì. Những ngày khó nhọc và cố sức lại kế tiếp nhau” (18, 195). Đó là sự
hi sinh lặng thầm nhƣng rất đỗi thiêng liêng của nhân vật. Dƣờng nhƣ với
Tâm, hi sinh cho gia đình trở thành nghĩa vụ, trách nhiệm cao cả mà nàng tự
nguyện làm theo và cũng bắt buộc phải làm theo.
“Một đời người” mở đầu bằng niềm vui, sự vô tƣ thoải mái bên bạn bè
của Liên một cô gái đầy những mặc cảm tủi phận khi lấy phải ngƣời chồng vũ
phu, ngƣời mẹ chồng ác nghiệt. Liên vẫn mơ ƣớc một cuộc đời khác với Tâm
nhƣng trách nhiệm của một ngƣời mẹ, ngƣời vợ không cho phép nàng làm
điều đó. Kết thúc câu chuyện, sau khi bị một trận đòn thập tử nhất sinh của
chồng, hôm sau Liên vẫn tiễn Tâm ra ga đi Sài Gòn “để Tâm một mình bƣớc
lên xe hỏa, mang theo đi cái hy vọng cuối cùng của đời nàng. Khi đoàn xe đã
khuất, Liên thấy bao nhiêu nỗi đau khổ trỗi dậy ngập lòng. Nàng gục đầu vào
66
chiếc cột sắt khóc. Ngày nọ nối tiếp ngày kia, Liên vẫn chịu cái đời khổ sở,
đau đớn mọi ngày.” (18, 23) Cái kết này không có một sự thay đổi nào cho
cuộc đời nhân vật, cho số phận bất hạnh của nhân vật, nó nhƣ làm rõ thêm,
nặng nề thêm cái cuộc đời địa ngục của con ngƣời khốn khổ kia. Hy vọng chỉ
lóe lên một lần trong đời, cơ hội chỉ đến một lần nhƣng trách nhiệm với gia đình
đã không cho phép Liên lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Để rồi cái cuộc đời
tối tăm ấy chỉ biết nhìn lại cái cơ hội vụt mất trong nuối tiếc và đau khổ
Cùng kiểu nhân vật nhƣ Tâm, Liên là hình ảnh mẹ Lê (Nhà mẹ Lê) tần
tảo, nhọc nhằn làm thuê lo miếng ăn cho đàn con; là mẹ cô bé Hiên (Gió lạnh
đầu mùa) và chị Tý (Hai đứa trẻ) vất vả sớm hôm mò cua bắt tép nuôi chồng
con; là chị Sen (Đứa con) cũng vì thƣơng cha mẹ mắc nợ ông bà Cả mà phải
cam chịu đi ở, chịu sự hành hạ tàn nhẫn của chủ. “Chị Sen là con một ngƣời
làng có nợ ông bà Cả. Nghe đâu thầy chị vì chạy cái Nhiêu, phải lên lạy van
bà Cả vay ba chục. Ngày mùa đã trả đƣợc một nửa và ít lãi, còn một nửa chƣa
trả đƣợc, phải đem chị Sen gán làm đứa ở không công. Nhƣng mẹ chị Sen nói
mãi, bà Cả rộng lƣợng hẹn một năm cho hai áo cánh, một cái áo nâu dài và
hai cái quần sồi. Mẹ chị Sen cám ơn lòng tử tế cao cả của ngƣời chủ nợ. Bà
dặn con ở lại hầu hạ ông bà Cả chu đáo, rồi về” (18, 137). Hiếu thảo, chị Sen
ở lại làm kẻ hầu ngƣời hạ không công. Quán xuyến hết công việc trong nhà từ
gánh nƣớc bổ củi, làm cơm, đầu tắt mặt tối suốt cả ngày mà vẫn bị mắng chửi.
Ở với gia đình nổi tiếng keo kiệt, ác nghiệt, những lần “thâm tím cả mình
mẩy, một vết roi qua môi làm rƣớm máu” là chuyện cơm bữa với chị Sen.
“Chị vừa xoa bóp vừa than thở: - Bởi thầy u tôi mắc nợ nên tôi mới phải chịu
khổ thế này”. Chị Sen cam chịu không dám cãi lại nửa lời bởi thầy u chị mắc
nợ bà Cả. Phận làm con, chị sẵn sàng hy sinh cuộc đời mình. Cũng may, một
năm sau, chị đã thoát đƣợc gánh nặng ấy.
Trách nhiệm trong gia đình khiến ngƣời phụ nữ phải hy sinh nhiều quá.
67
Có những lúc, nhân vật của Thạch Lam còn phải hy sinh cả danh dự, phẩm
giá của mình vì chồng mà không một lời thanh minh, giải thích. Mai trong
Đói vì thƣơng chồng, muốn đƣa gia đình thoát khỏi cơn nghèo đói, cùng quẫn
mà phải bán mình trong nỗi đau ê chề, tủi nhục.
Từ ngày bị sa thải, Sinh phải tạm biệt cái đời phong lƣu và sống cảnh
thiếu thốn, khổ sở. Chàng dần quen với cái mệt lả ngƣời đi vì đói. Và vợ
chàng, Mai với cái thân hình mảnh dẻ, gầy gò trong chiếc áo the mỏng manh
làm chàng xót thƣơng. Nhƣng chàng bất lực. Đã hai ngày rồi cái đói ám ảnh
gia đình bé nhỏ của Sinh. Và Mai, đang phải chạy vạy để vay tiền mua gạo.
Nhƣng “Ai cho chúng mình vay bây giờ, Bà ấy còn nhớ đâu đến khi trƣớc vẫn
nhờ vả mình”, “Thói đời vẫn thế, trách làm gì. Nhƣng bây giờ làm thế nào”.
“Làm thế nào ?” (18, 38), câu hỏi đó Sinh không trả lời đƣợc. Và Mai, ngƣời
phụ nữ yêu thƣơng chồng hết mực đã chọn con đƣờng tủi nhục vì chồng.
Nàng mang về bao đồ ăn ngon với lời giải thích một bà Hiếu nào đó hảo tâm
giúp đỡ, còn giúp vốn làm ăn. Nhƣng khi Mai thò tay vào trong túi áo, rút ra
tập giấy bạc, thì một mảnh giấy rơi ra. Sinh đã hiểu sự thật. Chàng đau đớn
tƣởng nhƣ có thể chết ngay lúc ấy, chàng mắng nhiếc vợ, khẽ dằn lên từng
tiếng “Đồ khốn nạn”, nhƣng cuối cùng, khi vợ đi khỏi, Sinh cúi xuống “vớ
miếng thịt hồng hào, ăn vội vàng, không kịp nhai, nuốt”. Cái đói khiến con
ngƣời trở thành nhƣ vậy sao? Cái đói khiến Sinh thành ngƣời chồng vô dụng,
có khiến Mai trở thành kẻ “khốn nạn” trong mắt chồng. Nhƣng cái đói ấy
cũng khiến ngƣời đọc nhận ra sự hy sinh thầm lặng của Mai – của ngƣời phụ
nữ đối với chồng con.
Điều đáng quý ở các nhân vật phụ nữ của Thạch Lam là trong sự vất vả,
khổ đau họ lại luôn quan tâm, hi sinh vì ngƣời khác mà không bao giờ nghĩ
mình cũng phải nhận đƣợc điều tƣơng tự từ mọi ngƣời nhƣ Tâm (Cô hàng
xén) “không bao giờ Tâm có ý nghĩ cho riêng mình, cho cuộc đời riêng của
68
cô”. Lúc nào họ cũng cô đơn, lẻ loi một mình một bóng lo toan gánh vác công
việc gia đình. Và đáng ra phải nhận đƣợc sự cảm thông, chia sẻ thì họ chỉ
nhận đƣợc sự đòi hỏi mà thôi, nhiều khi còn là sự nhiếc móc, hành hạ. Nhân
vật Mai (Đói) biết việc mình làm là tội lỗi nên đã cố ý tránh để chồng khỏi bị
nhục vì miếng ăn “nhỏ bé” hàng ngày chứ nàng không phải là kẻ lừa dối, xấu
xa nhƣ chồng nghĩ. Nhƣng chồng cô không hiểu mà mắng mỏ, đuổi vợ đi.
Vẫn là sự hi sinh thầm lặng, Mai không cãi mà cũng chẳng thanh minh, biện
bạch. Nỗi đau khổ, bất hạnh nhƣ đƣợc nhân lên gấp nhiều lần. Có lẽ nào sự hi
sinh của Mai là vô nghĩa, là không thể cảm thông?
Sẵn sàng hy sinh, gánh vác trách nhiệm của gia đình, không một lời kêu
than oán trách, đó là phẩm chất chung của ngƣời phụ nữ. Thạch Lam nhận ra
điều đó, ông đã dùng những câu văn trân trọng nhất ca ngợi sự hy sinh thầm
lặng ấy.
2.2.1.2.2. Cảm thông chia sẻ, yêu thương nhân ái và hướng thiện
Mác nói “con ngƣời là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, trong những
sợi dây liên hệ với cuộc sống quanh mình, con ngƣời bộc lộ bản chất và phát
huy những phẩm chất. Đôi khi, vì dòng đời xô đẩy, có những ngƣời đã bị
cuốn vào vòng xoáy tội lỗi, nhẫn tâm, độc ác, ích kỉ,...Nhƣng, nhƣ Bác đã viết
“ Ngủ thì ai cũng nhƣ lƣơng thiện ”. Ẩn sâu trong tiềm thức mỗi con ngƣời
luôn có hai chữ lƣơng tri.
Trong thế giới nhân vật của mình, đặc biệt là trong thế giới phụ nữ, Thạch
Lam luôn tìm kiếm, khẳng định và ca ngợi hai chữ lƣơng tri ấy. Dù ngƣời phụ
nữ xuất thân trong hoàn cảnh nào, từng sa ngã ra sao, từng độc ác cay nghiệt
đến đâu, nhƣng trong họ vẫn tồn tại sự cảm thông, chia sẻ, lòng yêu thƣơng,
nhân ái và sẵn sàng hƣớng thiện.
Trong Tối ba mươi ,mặc dù đã phải đằm mình trong cái nghề ô nhục
nhƣng cả Liên và Huệ vẫn giữ lại những khoảng sáng tâm hồn mình. Trƣớc
69
giờ phút thiêng liêng của năm mới, hai cô vẫn biết bày cúng tổ tiên, hồi tƣởng
lại những ngày thơ ấu khi hai chị em còn là những cô gái trong sạch và ngây
thơ, thật đúng là cái khổ có thể đầy đọa, vùi dập họ, song không thể chiến
thắng họ. Tuy cả Tâm, Liên, Huệ đều rơi vào những hoàn cảnh khác nhau của
cái khổ, dẫn đến chi phối nếp nghĩ và tâm lý dằng xé trong mỗi nhân vật cũng
khác nhau. Nhƣng chung lại, họ đều là “những sợi tơ sầu bay trong muôn
chiều gió thổi của cái khổ ấy”. Tối ba mươi tuy ngắn ngủi nhƣng cũng chan
chứa tình thƣơng yêu đồng loại. Thạch Lam đã khẳng định bản chất tốt đẹp
của con ngƣời, nâng đỡ những số phận hẩm hiu và mong muốn sự cảm thông,
chia sẻ, yêu thƣơng của ngƣời đời đối với những mảnh đời bất hạnh.
Cái riêng, cái độc đáo, cái mạnh của Thạch Lam chính là ở lòng nhân ái,
và vẻ đẹp tâm hồn bao trùm lên mọi tác phẩm của ông. Nhân vật Thạch Lam,
bất luận ở hoàn cảnh nào, vẫn ánh lên trong tâm hồn cái chất nhân ái Việt
Nam. Mẹ Lê nghèo khổ đến cùng cực nhƣng vẫn nguyên vẹn là một bà mẹ
cần cù, chăm chỉ, chịu thƣơng chịu khó, hết lòng vì đàn con. Liên và Huệ hai
cô gái điếm, hai con ngƣời tƣởng nhƣ bỏ đi ấy, trong đêm giao thừa ngồi khóc
vì nỗi trơ trọi, thiếu quê hƣơng và chán chƣờng cho cảnh bèo bọt của thân
phận mình.
Trong truyện ngắn Thạch Lam, có những câu chuyện rất nhẹ nhàng,
mang đến cho ngƣời đọc những cảm giác miên man khó tả. “Dưới Bóng
Hoàng Lan” đƣợc coi là đoản thiên thanh tao và trang nhã nhất của “Tự lực
Văn Ðoàn”, của nền văn chƣơng Việt Nam. Dƣới không gian vô cùng thi vị
thanh tao đầy những hƣơng thơm của hoa hoàng lan, thiên lý, nổi bật lên là
hình ảnh hai ngƣơi phụ nữ: một già, một trẻ với tình yêu thƣơng vô bờ bến
với ngƣời đi xa. Một tình cảm thật đơn sơ nhƣng đậm đà, một tình cảm khác
lạ, tình bà cháu dịu dàng trìu mến. “Thanh bƣớc xuống dƣới giàn thiên lý. Có
tiếng ngƣời đi, rồi bà chàng, mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc ở ngoài vƣờn
70
vào. Thanh cảm động và mừng rỡ chạy lại gần. Bà cụ thôi nhai trầu, đôi mắt
hiền từ dƣới làn tóc trắng đƣa lên nhìn cháu, âu yếm và mến thƣơng. Thanh đi
bên bà, ngƣời thẳng, mạnh, cạnh bà cụ chống gậy còng. Tuy vậy chàng cảm
thấy chính bà che chở cho chàng, cũng nhƣ những ngày chàng còn nhỏ” (18,
145). Thanh vắng nhà gần hai năm nay, chàng làm việc trên tỉnh và mong đến
ngày nghỉ để tìm lại tình thƣơng trìu mến của bà già mái tóc bạc phơ. Chàng
về quê cũng nhƣ để tìm lại tình cảm ngây thơ, trong trắng với cô em hàng
xóm mà chàng đôi lúc tƣởng nhƣ em ruột mình. Khác với không khí lãng mạn
trong các tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hƣng. Tình yêu của Thạch Lam ở
đây thanh cao, chân thực và thơm tho nhƣ mùi hoa hoàng lan thoang thoảng
đâu đây, nó vừa là tình yêu, tình hàng xóm, tình anh em và tình ngƣời. “Dưới
bóng hoàng lan” đã để lại trong ta cái dƣ vị ngọt ngào của miền quê dân dã.
Trên cái vẻ yên bình ấy hiện lên một ngƣời bà hiền từ, một cô thiếu nữ hàng
xóm dịu dàng, e lệ. Cái khổ cực, cái trần trụi của đời thƣờng, của cơm áo gạo
tiền không đề cập đến, chỉ có tình thƣơng quyện chặt mùi hoàng lan, tỏa mãi
trong không gian ấm áp tình ngƣời.
Trong thế giới nhân vật phụ nữ của Thạch Lam, ta còn gặp kiểu nhân vật
dù có lúc tỏ ra tàn nhẫn hoặc mắc phải lỗi lầm nhƣng vẫn cố gắng vƣợt lên chính
mình để hƣớng tới những nét đẹp giản dị, thanh tao của tình cảm con ngƣời.
Hai năm trƣớc, bà Cả (Đứa con) đối xử với chị Sen thật tàn nhẫn thì
nay gặp lại đã là một con ngƣời khác hẳn. Khao khát làm mẹ của bà trỗi dậy
mãnh liệt khi bế đứa bé - con chị - khiến bà vòng tay ghì chặt nó vào lòng,
vào cái sƣờn cằn cỗi của mình. Rồi bà “ngẩn ngơ” ngƣời, “mắt đờ ra nhƣ
đang theo đuổi một ƣớc vọng xa xôi” khi trả đứa bé về tay mẹ nó. Điều bình
thƣờng, giản đơn với ngƣời phụ nữ đã trở thành khát vọng lớn lao mà xa vời
đối với bà Cả khiến bà ƣớc ao “giá đánh đổi đƣợc tất cả để lấy đứa con”. Giờ
đây, bà không còn hà tiện tiếc chị Sen bộ quần áo hay mấy đồng bạc nhƣ
71
trƣớc đây nữa. Bà không nhận lễ của bố mẹ Sen mà còn cho tiền may áo cho
đứa bé. Biết hƣớng tới điều nhân bản cao quý qua sự thay đổi theo chiều
hƣớng tích cực trong suy nghĩ, hành động nên đã làm cho chúng ta thấy nhân
vật bà Cả nhƣ trở nên gần gũi và đáng thƣơng hơn là đáng trách.
Ở truyện Trong bóng tối buổi chiều, sau khi nghe Diên nhắc lại “những
ngày đầm ấm ở thôn quê, đến cái tình thân thiết của đôi bên” thì Mai thấy
thực sự ăn năn về cách ứng xử của mình nên cô “hai tay úp mặt xuống khóc...
hai vai nàng nức lên”. Mai khóc nghĩa là lƣơng tri vẫn còn. Thạch Lam tin
vào nƣớc mắt con ngƣời. Bởi với ông, nƣớc mắt biểu hiện tính ngƣời, “là một
miếng kính biến hình vũ trụ” (lời nhà thơ Pháp Francois Coppée). Sống trong
môi trƣờng xã hội đầy rẫy những cám dỗ tầm thƣờng, tƣởng chừng nhƣ Mai
đã đánh mất con ngƣời mình, đánh mất những kỷ niệm thiêng liêng của tình
yêu đẹp đẽ nhƣng lòng trắc ẩn, sự ân hận đã làm thức tỉnh bản tính mộc mạc,
tình cảm chân quê ở cô.
2.2.2 Người phụ nữ với tình cảm và khao khát riêng tư
Bên cạnh những nét đẹp trong tâm hồn, ngƣời phụ nữ còn có những
tình cảm riêng, khao khát riêng tƣ. Điểm chung giữa những ngƣời phụ nữ
trong Hai đứa trẻ, Nhà mẹ Lê, Đứa con đầu lòng, Dưới bóng Hoàng Lan, Cô
hàng xén, Gió lạnh đầu mùa, người Đầm, Đứa con, Tình xưa không phải là
những ngƣời quá nghèo khổ, quá bất hạnh, không phản kháng trƣớc hiện thực
giống những ngƣời phụ nữ trong tác phẩm hiện thực phê phán. Họ cũng
không phải những ngƣời phụ nữ nổi loạn, coi hạnh phúc riêng tƣ trên hết nhƣ
những ngƣời phụ nữ trong Tự Lực văn đoàn. Ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn
Thạch Lam chấp nhận với cuộc sống đang có của mình nhƣng vẫn có một ƣớc
mơ riêng. Ƣớc mơ của những cô hàng xén, của chị em Liên, của mẹ con chị
Tí,…tuy bình dị nhƣng rất khó thực hiện.
Những ngƣời phụ nữ trong các truyện ngắn Thạch Lam là những ngƣời
72
chịu nhiều khổ đau, bất hạnh nhƣng họ vẫn hƣớng tới cái đẹp, vẫn giữ cho
mình những nét đẹp trong tâm hồn. Cho dù nhìn bề ngoài, đôi khi có những
nhân vật ta thấy thiếu thiện cảm với họ, nhƣng Thạch Lam hoàn toàn khác,
ông đã mẫn cảm và tìm thấy ở đáy sâu tâm hồn họ những khoảng sáng thanh
cao. Liên và Huệ trong Tối ba mươi là những ngƣời làm cái nghề dƣới đáy
cùng của xã hội. Nhƣng ngày Lễ – Tết hai cô vẫn nhớ tới quê hƣơng làng xóm
với một mái nhà yên ấm, nhớ tới ông bà tổ tiên cùng tuổi thơ trong sáng của
mình. Cao hơn nữa là một niềm tiếc hận, khổ đau cho thân phận và cuộc sống
của mình. Hai cô vẫn đau đáu ngày trở về trong sự hoàn lƣơng: “… những
giọt nƣớc mắt chảy tràn mi, nàng không giữ đƣợc; Liên cảm thấy một nỗi tủi
cực mênh mang tràn khắp ngƣời, một nỗi thƣơng tiếc vô hạn; tất cả thân thể
nàng lƣớt hiện qua trƣớc mắt với những ƣớc mong tuổi trẻ, những thất vọng
chán chƣờng” (Tối ba mươi) (18, 208)
Trong Hai đứa trẻ, ƣớc mơ nhỏ bé bình dị của những ngƣời dân phố
huyện nói chung và những ngƣời phụ nữ nói riêng dƣờng nhƣ đồng nhất.
Cuộc sống nghèo đói, cơ cực trong vòng luẩn quẩn ở ga xếp nghèo nơi phố
huyện Cẩm Giàng quê hƣơng đƣợc Thạch Lam đƣa vào trang văn chân thực
quá. Ở vùng quê đó, cuộc đời con ngƣời dƣờng nhƣ không lối thoát. Ngày qua
ngày, họ chật vật với miếng cơm manh áo đời thƣờng. Sáng dọn hàng, cả
ngày chờ đợi hy vọng, và đêm đến mong chờ đoàn tàu đi qua rồi mới kết thúc
một ngày dài. Với Liên, An hàng ngày dọn hàng bán mấy thứ đồ bé nhỏ, ít ỏi
theo lời mẹ dặn. Sự khó khăn về kinh tế xã hội khiến bao ngƣời bị sa thải khỏi
công việc. Từ ngày thầy Liên bị mất việc, gia đình cô chuyển về quê. Liên và
em giúp mẹ bán hàng. Hàng ngày, Liên chứng kiến bao nhiêu mảnh đời, số
phận bé nhỏ đáng thƣơng. Những đứa trẻ con nhà nghèo nhặt nhạnh những
thanh nứa, thanh tre còn sót lại sau phiên chợ quê nghèo làm cô cảm thấy nao
long, nhƣng cô cũng không thể giúp gì cho chúng. Một bà cụ Thi điên vẫn tối
tối đến mua rƣợu với tiếng cƣời khanh khách chìm dần trong bóng tối. Một
73
chị Tý sang mò mẫm bắt cua bắt ốc kiếm kế sinh nhai, và tối đến cố gắng
thêm chút hàng chè nƣớc cho mấy ngƣời phu gạo hay phu xe, mấy chú lính lệ
trong huyện thỉnh thoảng đi qua, hay ngƣời nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm,
cao hứng ghé vào hàng chị uống bát nƣớc chè tƣơi và hút điếu thuốc lào. Chả
kiếm đƣợc bao nhiêu, nhƣng ngày nào chị Tý cũng dọn hàng từ chập tối đến
lúc nửa đêm. Trong bóng tối dần bao trùm lên phố huyện, nhũng thứ ánh sáng
nhỏ nhoi, le lói từ ngọn đèn hoa kì yếu ớt, từ gánh hàng của bác phở siêu, từ
ngọn đèn dầu của mẹ con chị Tý không đủ thắp sáng những khuôn mặt ngƣời
trong phố huyện. Bao nhiêu con ngƣời ngày nào cũng xuất hiện, và cũng dần
chìm trong bong tối, chỉ để chờ đợi một hoạt động cuối cùng của ngày:
chuyến tàu từ Hà Nội về qua. Liên nhận ra đoàn tàu từ xa, với dấu hiện ngƣời
gác ghi mang đèn báo hiệu, và khi đoàn tàu đến gần, cô thấy đoàn tàu kém
sáng hơn nhiều, bởi nhiều toa vắng bong ngƣời. Đoàn tàu thƣa thớt dừng lại,
và vụt đi rất nhanh, nhƣng đó là hy vọng của những ngƣời dân phố huyện.
Bao nhiêu cuộc đời, bao nhiêu kiếp sống mong chờ vào hoạt động cuối ngày
ấy. Đoàn tàu chính là hy vọng của mẹ con chị Tý, của bác phở Siêu, của vợ
chồng bác Sẩm. Còn với Liên, cô gái tinh tế nhạy cảm và giàu tình thƣơng ấy,
đoàn tàu gợi cho cô về kỉ niệm quá khứ xa xôi khi gia đình còn sung túc;
mang đến cho cô hy vọng về miếng cơm manh áo; và quan trọng hơn, đoàn
tàu giúp Liên nhận ra cảnh sống tù túng quẩn quanh hiện tại. Cô đã ƣớc mơ,
khao khát về một tƣơng lai tốt đẹp hơn.
Các nhân vật của Thạch lam, dù mỗi ngƣời có một hoàn cảnh sống khác nhau, một cuộc đời khác nhau, nhƣng trong họ chƣa bao giờ tắt khao khát ƣớc mơ về một cuộc sống khác, về một thế giới khác. Họ luôn mang trong mình hy vọng về tƣơng lai.
Không chỉ khao khát về một cuộc sống tƣơi đẹp hơn, ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam còn có những khao khát, ƣớc vọng về một cuộc sống bên ngƣời họ yêu thƣơng – khát vọng về tình yêu.
Tình yêu là điều mà con ngƣời luôn khao khát có đƣợc. Nhƣng, trong
74
xã hội cũ, tình yêu là điều cấm kị. “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “thuyền
theo lái, gái theo chồng”, ngƣời phụ nữ bị bao rào cản phong kiến ngăn cản họ
đến với tình yêu.
Liên trong Một đời người dù yêu Tâm, đã có lúc muốn trốn đi cùng
Tâm để thoát khỏi cuộc đời đen tối, nhƣng cuối cùng Liên không làm đƣợc
điều đó. Có một sợi dây vô hình giữ cô lại, trói cô lại với cái gia đình địa ngục
mà cô đang phải sống. Ngƣời chồng vũ phu, bà mẹ chồng độc ác cay nghiệt,
và đến chính đứa con cũng có phần giống bố. Trong gia đình ấy, Liên không
đƣợc coi trọng, cô không cảm nhận đƣợc chút hạnh phúc hay tình yêu thƣơng
nào. Liên đã không ở bên ngƣời cô yêu thƣơng, nhƣng điều đó không có
nghĩa là cô từ bỏ tình yêu trong trái tim mình. Đau đớn về thể xác càng khiến
tình yêu trong lòng cô giành cho Tâm mãnh liệt. Tình yêu ấy sẽ nhƣ ngọn lửa
cháy âm ỉ trong lòng ngƣời phụ nữ ấy dù có thể cô sẽ không bao giờ đến đƣợc
với ngƣời mình yêu.
Trinh trong Trở về - cô gái quê ăn mặc giản dị, nhƣng sạch sẽ. Trinh
vẫn hàng ngày chăm sóc mẹ Tâm vì nàng vẫn giữ mối tình thuở nhỏ với
chàng. “Thƣa, có ạ, ai chứ cậu Tậm thì quên thế nào đƣợc”. Hình nhƣ lỡ lời,
cô thiếu nữ cúi mặt, hơi e lệ. Nhƣng cái cử chỉ ấy không làm Tâm cảm động
mà còn khiến chàng hơi ghét. Trinh không thay đổi, tình cảm nàng giành cho
Tâm vẫn vẹn nguyên. Dù bao năm Tâm không về nhà, cũng không thèm trả
lời thƣ mẹ, Trinh vẫn chờ đợi chàng. Kết thúc truyện, khi chiếc xe cùng ngƣời
vợ sang giàu của Tâm chạy bắn vọt bùn lên quần áo “bà cụ già khom lƣng
dựa vào một cô con gái” bên đƣờng, trong một giây, Tâm thấy cặp mắt đen
láy của cô gái quê mở to mắt ngạc nhiên nhìn mình. Liệu Trinh có nhận ra sự
thật và từ bỏ tình yêu từ tấm bé của mình, hay vẫn ôm ấp mối tình với một
ngƣời mà nàng không còn biết gì về ngƣời ta nữa? Trở về không phải truyện
ngắn ca ngợi tình yêu, nhƣng đọc trở về, ngƣời đọc nhận ra sự chung thủy và
75
khát khao đƣợc ở bên ngƣời mình yêu thƣơng của ngƣời phụ nữ.
Ðặng Thai Mai đã nhận định về văn học lãng mạn: "Phần đông các nhà
văn vẫn sung sƣớng ẩn nấp sau cái biểu ngữ "không làm chính trị" để lao đầu
vào con đƣờng "tự do chủ nghĩa" và ca ngợi tự do ái tình, tự do cá nhân và
chủ nghĩa anh hùng viển vông. Tất cả cống hiến của văn chƣơng thời này là
những tìm tòi về kỹ thuật biểu hiện và những cố gắng để phân tích tâm lý của
con ngƣời tiểu tƣ sản".
Nói về tự do tình ái, về khát khao trong tình yêu của ngƣời phụ nữ giai
đoạn 1930 – 1945, không thể không nhắc đến những nhân vật nữ trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đòi quyền tự do yêu
đƣơng cho thanh niên. Các nhà văn đã tự đƣa ra một quan niệm mới mẻ về
hạnh phúc cá nhân, về tình yêu, xem đó là lẽ sống duy nhất của con ngƣời.
Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là muôn hình vạn trạng. Với
Hồn bướm mơ tiên Khái Hƣng khẳng tình yêu "bất vong bất diệt". Ngọc là
sinh viên Trƣờng Cao đẳng Canh nông, đọc tiểu thuyết Pháp và biết hội họa.
Lan là một cô gái có học, không "quê mùa" chút nào, bỏ nhà đi tu vì chẳng
muốn lấy một ngƣời chồng bị ép buộc. Ngọc gặp chú Tiểu Lan dƣới chùa
Long Giáng, kiều diễm dƣới bộ áo tu hành. Ngọc ngờ Lan là gái, để tâm theo
dõi. Càng thấy mình đoán trúng, Ngọc càng đem lòng yêu. Lan không khỏi
bồi hồi: ái tình nảy nở trong tâm hồn cô gái đi tu ! Lan đấu tranh để khỏi sa
ngã. Thái độ muốn dứt khoát, nhƣng lòng vẫn cứ yêu. Ngọc cũng chẳng gạt
bỏ đƣợc mối tình. Kết cục hai ngƣời xa nhau mà "yêu nhau trong linh hồn
trong lý tƣởng"... và vẫn có thể gặp nhau. Câu chuyện chỉ có thế : một chuyện
tình "dƣới bóng từ bi Phật tổ". Viết Hồn bướm mơ tiên, Khái Hƣng đã đề cao
ái tình trong trắng, cao thƣợng, chung thủy.
Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có lúc "bất vong bất diệt",
cũng có khi lúc tình "trong giây phút mà thành thiên thu" (Loan và Dũng
76
trong Ðoạn tuyệt). Viết Ðoạn tuyệt Nhất Linh đề cao tình yêu lứa đôi, đó là
tình cảm tự giác, tự nguyện đến với nhau dù chỉ là giây phút ngắn ngủi nhƣng
trong trắng và thủy chung.
Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn còn có tình yêu mộc mạc
thuỷ chung của Liên trong Gánh hàng hoa của Nhất Linh và Khái Hƣng. Liên
là một cô gái thùy mị, nết na, chăm chỉ làm lụng, giàu lòng vị tha và đức hy
sinh. Liên đã kéo ngƣời chồng tội lỗi ra khỏi vòng trụy lạc, sa đọa trở về với
tình yêu chân chính. Liên biết trân trọng và gìn giữ hạnh phúc lứa đôi của
mình.
Nhƣ vậy, khi viết về tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, các
nhà văn đã đề cao tình cảm trong sáng thủy chung của những chàng trai cô gái.
Tình yêu của họ phải vƣợt qua bao nhiêu những ràng buộc, khắt khe nhƣng họ
luôn đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình. Ðó chính là điểm tiến bộ của tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn.
Là nhà văn trong nhóm bút ấy, Thạch Lam cũng đã góp tiếng nói khẳng
định khao khát mãnh liệt trong tình yêu của các nhân vật nói chung và ngƣời
phụ nữ nói riêng. Tuy chƣa mãnh liệt, chƣa dám phá bỏ mọi lề lối phong kiến
để đến với tình yêu nhƣ trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hƣng, nhƣng,
ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam vẫn âm ỉ cháy trong lòng khao
khát về tình yêu.
2. 3. Vấn đề giới, thiên tính nữ:
Trong những năm gần đây, trên cơ sở những hƣớng nghiên cứu văn học,
nhân vật ngƣời phụ nữ đƣợc mở ra từ góc nhìn lý thuyết giới, thiên tính nữ.
Đây là góc nhìn còn mới mẻ. Với tƣ cách nữ giới, ngƣời phụ nữ luôn ý thức
về nhan sắc, vẻ đẹp của chính mình. Họ tự ý thức gánh vác trách nhiệm, nghĩa
vụ trong gia đình. Đặc biệt họ luôn có những khao khát làm vợ, làm mẹ, có
những khao khát trong tình yêu, hạnh phúc cá nhân. Những vấn đề này bàng
77
bạc trong sáng tác Thạch Lam.
2.3.1 Ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của nữ giới
La Bruyere từng nói “không có ngƣời phụ nữ xấu, chỉ có ngƣời phụ nữ
không biết cách làm đẹp”. Nhan sắc ngƣời phụ nữ là một thứ quý giá, ngƣời
phụ nữ ý thức đƣợc điều đó. Nhƣng không ngƣời phụ nữ nào vì có nhan sắc
mà chấp nhận cuộc sống phiêu lƣu. Nhan sắc chỉ là yếu tố đảm bảo hơn cho
cuộc sống sinh tồn, cho hy vọng về cuộc sống sáng sủa hơn mà thôi.
Trong những trang văn Thạch Lam, ngƣời phụ nữ dù ở trong bất kì
hoàn cảnh nào, địa vị xã hội nào, họ vẫn luôn ý thức về nét đẹp của mình.
Tâm là cô hàng xén nết na xinh đẹp, nổi tiếng cả một vùng. Khi còn
chƣa lấy chồng, Tâm đã có ý thức về nét đẹp của mình cũng nhƣ nhận ra điểm
chung của những ngƣời phụ nữ: khao khát cái đẹp và muốn làm đẹp. “Tâm đã
thêm vào vài thức hàng mới, bắt đầu bán đƣợc ở chợ: phấn xoa mặt, dầu bôi
tóc, và son thoa môi. Cô ngắm nghía trên tay cái ống sáp con bằng đồng – hào
rƣỡi một cái – đựng một chất bỏ thơm làm thắm tƣơi môi các thiếu nữ ở trên
tỉnh. Đôi khi trong buổi chợ Tâm đã thấy vài cô gái tỉnh về quê, da trắng, môi
đỏ, lịch sự và sang trọng. Có lần, một đêm khuya, Tâm đã lấy sáp bôi lên môi
mình và ngắm trộm bóng trong chiếc gƣơng trong nhỏ Cô Ba. Cô hơi thẹn
thấy bóng mình trong đó, với đôi môi đỏ nhƣ xẫm máu” (18, 188). Cô hàng
xén ý thức đƣợc vẻ đẹp thanh xuân, trong sáng của mình. Và, dƣờng nhƣ, tình
yêu làm con ngƣời ta đẹp hơn nữa. “Nàng cúi mặt xuống hàng, thấy cái nhìn
âu yếm của ngƣời con trai ấy đè nặng trên ngƣời. Má Tâm phơn phớt đỏ”.
Tình yêu của Tâm giành cho cậu giáo Bài nảy nở từ đó. “Bốn con mắt nhìn
nhau: Tâm má đỏ bừng. tay không biết làm gì”. Tình yêu làm con ngƣời ta trẻ
trung, yêu đời hơn, tình yêu cũng làm con ngƣời, đặc biệt là ngƣời con gái
xinh đẹp hơn. Má Tâm hồng lên mỗi khi nhìn cậu giáo, nghĩ đến cậu “Tâm
cúi mặt thẹn đỏ hai gò má”. Đi lấy chồng, cô hàng xén dƣờng nhƣ xinh đẹp
78
hơn xƣa nhƣng nàng kém vui vì những khó khăn, lo toan hàng ngày. Vừa
cáng đáng gia đình nhà chồng, Tâm vừa phải lo cả nhà mình. “Ngày phiên
chợ đối với nàng cũng kém vui. Má nàng hồng hơn, môi nàng thắm thêm.
Ngƣời ta bảo nàng bây giờ đẹp ra hơn trƣớc” (18, 196). Nhƣng với nàng, cái
thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết rồi. Ngƣời con gái đẹp nổi tiếng
một vùng bây giờ còn xinh đẹp hơn xƣa, nhƣng gánh nặng gia đình khiến
nàng dần quên mất ý thức về nhan sắc của mình. Nàng đâu còn thời gian lo
cho bản thân mình nữa. “Nàng chỉ còn là một ngƣời đàn bà tần tảo hôm sớm
để nuôi chồng”.
Hai năm sau, Nàng đã già đi, nhan sắc phai tàn, đâu còn là cô hàng xén
xinh đẹp trƣớc kia nữa. Tre già măng mọc, nàng nay đã hết thời, đã có những
cô gái khác mới lớn tƣơi tắn và rƣc rỡ. “Tâm lại nghĩ đến ngày trƣớc kia, hình
nhƣ đã lâu lắm, nàng còn là cô hàng xén má hồng, môi đỏ e lệ cúi mặt dƣới
cái nhìn âu yếm của cậu giáo Bài nho nhã và đứng đắn trong tấm áo lƣơng.
Thời ấy bây giờ đâu? Chị Liên may mắn đã lấy đƣợc chồng giầu, lên buôn
bán trên tỉnh. Chị ấy vẫn trẻ đẹp nhƣ xƣa. Tâm khẽ thở dài: bây giờ các chị
em bạn cũ không còn ai ở lại để cùng chia sẻ những nỗi khó nhọc với nàng”
(18,197)
Rõ ràng, Tâm - cô hàng xén đã ý thức sâu sắc về sắc đẹp của mình. Khi
là một ngƣời con gái, khi mới lấy chồng và khi đã có con, dù cuộc sống hàng
ngày với bao nhiêu nỗi lo toan, bao nhiêu trách nhiệm, Tâm vẫn không quên
mình là một ngƣời phụ nữ đẹp, nàng vẫn buồn vì sự tàn phai nhan sắc của
mình. Đó là nỗi buồn chung của nhƣng ngƣời phụ nữ biết quý trọng nhan sắc
– cái đẹp trời cho của phái nữ.
Nếu Tâm là cô gái đã ý thức rõ về nét đẹp nữ giới ngay từ đầu thì Dung
– cô gái bất hạnh trong Hai lần chết lại chƣa tự nhận ra điều đó. Tuy nhiên,
Dung vẫn có niềm say mê với cái đẹp – những trang phục có thể khiến ngƣời
79
con gái đẹp hơn. Ngày thƣờng mẹ cho gì mặc nấy. Tết đến, các anh chị có
quần áo mới, chỉ mình Dung vẫn bộ áo cũ nâu sờn. Không phải vì Dung
không thích quần áo đẹp, mà vì nàng “an phận và nhẫn nại lạ lùng”. Khi thấy
nhà có bà khách lạ đến chơi, và khi se sẽ cầm gói giấy mở ra, Dung thấy hoa
mắt “nào là nhiễu trắng, bom bay hồng, áo lụa màu hoa lý. Lại còn mấy chiếc
quần cạp đỏ, mấy cái áo cánh vải phin, mấy cái cổ yếm máy và mấy chục
thƣớc vải. Dung cất tiếng run run hỏi: - Của những ai đấy, mợ? – Không,
riêng của con đấy thôi. Dung sung sƣớng mân mê các cúc áo”. (18, 79). Hành
động này của Dung có thể vì Dung ngạc nhiên vì lần đầu đƣợc cho riêng
nhiều thứ thế, nhƣng cũng có thể vì Dung cũng giống bao nhiều con gái khác
vẫn say mê với những bộ đồ có thể làm cô đẹp hơn.
Trong tác phẩm Thạch Lam, vẻ đẹp nữ tính của nhân vật không chỉ thể
hiện qua sự tự ý thức của chính nhân vật, mà còn thể hiện qua cảm nhận, cái
nhìn của nam giới về ngƣời phụ nữ.
Cuốn sách bở quên là câu chuyện dòng suy nghĩ của chàng trai tên
Thành. Khi xe lửa đỗ bên một sân ga nhỏ, Thành thấy một thiếu nữ bƣớc lên
xe. “Khuôn mặt trái xoan, một vẻ đẹp bình thƣờng”. Nhƣng khi chăm chú
nhìn cô gái đọc cuốn sách của mình, Thành nhận ra dần vẻ đẹp “Thiếu nữ
bỗng trở nên có duyên lạ, môi đỏ thắm, đôi mắt dƣới làn mi cong và dài, theo
từng dòng chữ, êm nhẹ nhƣ nhung, nhƣ vuốt ve trên lòng chàng” (18, 115).
Nhƣ biết có ngƣời đang nhìn ngắm mình hồi lâu, thiếu nữ đƣa mắt nhìn
Thành, một tay để trên vali, một tay vén lại tào áo cho gọn ghẽ”. Cô gái ấy
xinh đẹp trong con mắt ngƣời nhìn ngắm, và cô gái ấy cũng có ý thức giữ gìn
hình ảnh kín đáo, nhu mì của mình. Khi thiếu nữ khệ nệ xách vali đi qua trƣớc
mặt, Thành nép ngƣời vào bên. Mái tóc ngƣời thiếu nữ khẽ phớt qua ngực
chàng, mái tóc đen che vành tai hồng và cái cổ tròn xinh. (…) Chàng còn
nhận thấy đôi vai mảnh và thon của thiếu nữ trong đám hành khách cho đến
80
khi thiếu nữ khuất vào ga”. (18, 116).
Nga, cô gái hàng xóm trong Trở về thấy Thanh về, sang chơi, bà chàng
mời cô ăn cơm. Cơm nƣớc xong Thanh dắt nàng đi thăm vƣờn, chàng thấy tóc
nàng thơm nhƣ hoa hoàng lan. „„Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga
thoang thoảng hƣơng thơm nhƣ có giắt hoàng lan‟‟. Nga biết làm đẹp cho
mình bằng mùi hƣơng thơm trên tóc làm Thanh lƣu luyến. Một truyện tình
cảm thật đơn sơ nhƣng đậm đà, một tình cảm khác lạ, tình bà cháu dịu dàng
trìu mến, tình cảm ngây thơ, trong trắng với cô em hàng xóm.“Thỉnh thoảng
chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng và nụ cƣời tƣơi nở, nàng lại
nhìn Thanh, một chút thôi, nhƣng biết bao âu yếm. Ngoài vƣờn, trời vẫn nắng.
Giàn thiên lý pha xanh một bên tá áo trắng của Nga. Những búp hoa lý non và
thơm rủ liền trong giàn, lẫn vào đám lá. Gạch mát và phủ rêu khiến Thanh
nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga ngày nào đi trên đó. Hai bàn chân nhỏ,
lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về.
Vẻ đẹp của ngƣời con gái trong Cuốn sách bỏ quên và Trở về nhƣ nhắc
ta nhớ đến một câu nói của Kant „„Beauty is not the eyes of the beholder‟‟
(Vẻ đẹp không phải ở đôi má hồng của ngƣời thiếu nữ mà nằm ở con mắt của
kẻ si tình).
Dù Thạch Lam để ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn của mình trực tiếp
thể hiện và khẳng định ý thức về nhan sắc cá nhân hay để họ tự bộc lộ qua
cảm nhận của ngƣời khác phái, ngƣời đọc vẫn nhận thấy nét đặc trƣng nữ
tính: Ngƣời con gái luôn gắn với vẻ đẹp về tâm hồn, về ngoại hình, về tính
cách. Đó là một phần biểu hiện của thiên tính nữ trong nhân vật ngƣời phụ nữ
của Thạch Lam.
2.3.2 Thiên chức làm vợ, làm mẹ
Bên cạnh sự ý thức về nhan sắc, nét đẹp của bản thân, ngƣời phụ nữ
còn mang trong mình thiên chức của ngƣời vợ, ngƣời mẹ. Dù trong bất kì
hoàn cảnh nào, họ vẫn khao khát có đƣợc đứa con, và luôn muốn chăm sóc tốt
cho chồng con, hoàn thành nghĩa vụ của một ngƣời vợ, ngƣời mẹ trong gia đình.
81
Thiên chức muôn đời của ngƣời phụ nữ là làm vợ, làm mẹ.
Để sinh ra đƣợc đứa con khỏe mạnh, ngƣời mẹ đã phải chịu bao đau
đớn. Trong Đứa con đầu lòng, qua cảm nhận của Tân, ta hiểu vợ chàng đã
phải trải qua cơn vƣợt cạn ra sao. „„ Tân nghe thấy mấy tiếng kêu thét
trong phòng bên đƣa sang, tiếp đến là tiếng trẻ con khóc. (...) Vợ chàng
nằm ngả đầu trên gối trắng, nét mặt xanh cao và mệt nhọc. Nhƣng hai con
mắt sáng lên nhƣ vui mừng khi nhận thấy chàng‟‟ . Dù đau đớn, nhƣng
ngay khi nhìn thấy chồng, nhìn thấy đứa con bé bỏng mới lọt lòng, ngƣời
phụ nữ nhƣ quên hết mọi đau đớn vừa trải qua. Nàng „„ giơ tay ra đón lấy
đứa con một cách âu yếm và nâng niu‟‟. Một tuần lễ sau, vợ Tân và vú em
bận rộn, ríu rít nhƣ mỗi khi nhà sắp đến ngày giỗ. Hai ngƣời suốt cả buổi
chỉ ngồi cắt và khâu những cái áo con con đan những đôi tất xinh xinh và
sửa soạn cái nôi mây. Ngƣời phụ nữ ấy dƣờng nhƣ giành tất cả thời gian
mình có cho con mình. Cô chăm chú, quan tâm đến con từng phút, từng
giây. Giống nhƣ bao ngƣời mẹ khác, vợ Tân tƣởng nhƣ thấy con mình lớn
lên từng ngày. „„ Vợ chàng sung sƣớng hỏi : - Có phải nó nhớn hơn hôm nọ
nhiều không ? Nàng giơ ngón tay cho đứa bé nắm rồi tiếp : - Này cậu xem
nó nắm chặt chƣa này !‟‟ Và ngƣời mẹ nào cũng sẽ không vui khi có ai đó
chê bai con mình dù đó có là cha đứa bé : „„Tân cũng cầm lấy tay đứa bé
đáp: - Ừ, nhƣng sao cái đầu nó dài thế nhỉ. Tôi trông nó thế nào ấy. – Nó
còn bé thì nó thế chứ sao. – Mà hình nhƣ một mắt to, một mắt nhỏ. Vợ Tân
ra ý không bằng lòng, cãi lại : - Không, hai mắt nó bằng nhau đấy chứ. Cậu
cứ hay chê nó thôi. Rồi nàng bế đứa con lên lòng, âu yếm cho nó bú.‟‟ Biết
chồng chƣa giành tình yêu cho con, vợ Tân đã cố gắng, dần dần tạo mối
liên hệ gắn bó giữa chồng với con. Và nàng đã làm đƣợc. Đứa con trở
thành „„sợi dây hòa hợp hai vợ chồng. Tân và vợ chàng không cãi nhau nữa.
Mà nếu có xảy ra cuộc hờn giận, hai ngƣời chỉ cùng trông đứa trẻ mũm
82
mĩm là lại hòa hảo nhƣ cũ‟‟. (18, 97)
Vậy là ngƣời phụ nữ đã hoàn thành suất sắc cả thiên chức làm vợ, làm
mẹ của mình. Nhƣng không phải ngƣời phụ nữ nào cũng may mắn đƣợc nhƣ
vợ Tân.
Đứa con là một truyện ngắn hay với cảnh mở đầu là hình ảnh chị Sen
gánh nƣớc cho bà Cả và sự độc ác cay nghiệt của vợ chồng bà Cả giàu có
nhƣng keo kiệt mà vẫn chƣa có con. Tƣởng rằng mối quan hệ chủ tớ muôn
đời không thay đổi ấy sẽ mãi mãi nhƣ vậy, ấy thế mà khi chị Sen về quê lấy
chồng đẻ con, tết năm đó cùng thầy mẹ ẵm đứa con lên tết ông bà chủ, sự thay
đổi bất ngờ đã xảy ra. Bà Cả không lấy lễ mọn của chị Sen mà còn cho thêm
tiền để mang về may áo cho con. Kết thúc câu chuyện bằng hành động cho
tiền của bà Cả. Hóa ra, vì bà Cả khắc nghiệt, keo kiệt quá nên ở vào tuổi đấy
rồi mà vẫn chƣa có con. Đứa con của chị Sen đã làm bà cảm động “Mắt bà đờ
ra nhƣ đang theo đuổi một ƣớc vọng xa xôi; bà đang nghĩ rằng không bao giờ
bà đƣợc biết những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà đƣợc bồng đứa con
trên tay, đƣợc nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao
giờ...Giá bà đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa con!”. Cái khao khát mãnh liệt
của một ngƣời đàn bà trỗi dậy. Chính đứa con của chị Sen,cái niềm ao ƣớc mà
bà Cả hằng mong có đƣợc đã khiến một ngƣời vốn độc ác, keo kiệt thay đổi
hẳn, thay đổi trong mối quan hệ với kẻ dƣới, thay đổi trong phần Ngƣời. Nếu
nhƣ phần mở đầu câu chuyện khiến cho ngƣời đọc khinh ghét bà Cả thì đến
khi kết thúc truyện ta không khỏi bất ngờ, cảm động và thƣơng cảm cho số
phận của một ngƣời phụ nữ giàu có nhƣng không có nổi một mụn con. Chính
đứa trẻ khiến cho ngƣời đàn bà ấy thay đổi. Cái kết ấy làm cho ngƣời đọc
thấy thƣơng hơn là giận.
Đã là phụ nữ, dù là ngƣời phụ nữ Việt Nam hay phụ nữ nƣớc ngoài đều
có chung một đặc điểm: tình yêu con sâu sắc – bởi họ mang thiên chức làm
83
mẹ. Ngƣời đàn bà Pháp trong Người đầm mà nhân vật “tôi‟ gặp trong rạp
chiếu phim là một minh chứng cho điều đó. Ngƣời đàn bà Pháp “cố thu hình
cho nhỏ bé lại, và luôn luôn cúi mặt xuống tờ chƣơng trình để trên lòng. Cô
bé (con gái bà) quỳ ở trên ghế bên cạnh, quay lƣng lại màn ảnh, chơi đùa với
cái mũ da của mẹ. Cô thỉnh thoảng cất tiếng cƣời và huýt sáo miệng; lúc ấy bà
mẹ vội vàng đƣa mắt nhìn quanh, rồi ra hiệu bảo con im”. “Một vẻ buồn lặng
lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt ngƣời đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm
lấy con ghì chặt vào lòng nhƣ se lại trƣớc cái ác cảm bà đoán thấy ở chung
quanh. Hai mẹ con thủ thỉ với nhau những câu tôi không nghe rõ, nhƣng tôi
chắc là những câu đầy yêu đƣơng đằm thắm” (18, 132). Ngƣời phụ nữ muôn
đời vẫn vậy, và ở đâu cũng thế: Tình thƣơng con luôn là vô hạn. Tác giả có
một cái nhìn nhân ái với ngƣời phụ nữ nƣớc ngoài. Đó là một bà mẹ nhân hậu,
tốt bụng, và quan trọng nhất, bà ta có tình thƣơng con vô bờ bến. Khi con gái
đòi mua kẹo, bà mẹ không ngại ngần chọn mấy cái trong hộp cho con. Không
những thƣơng yêu con, bà còn nhân ái với những đứa trẻ xa lạ “Mày không
lạnh ƣ, con?”.
Nhƣ vậy, thế giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Thạch Lam luôn mang
một vẻ đẹp nữ tính, với thiên chức ngàn đời của ngƣời phụ nữ. Họ ý thức về
vẻ đẹp của bản thân, và luôn muốn làm tròn bổn phận, trách nhiệm làm vợ,
làm mẹ mà tạo hóa đã ban cho.
Nói về thiên chức làm vợ, làm mẹ của ngƣời phụ nữ, đã có rất nhiều tác
giả thành công. Chân dung ngƣời mẹ trong tự truyện Cỏ dại của Tô Hoài đủ
làm ngƣời đọc hiểu đƣợc ngƣời phụ nữ đã hy sinh vì gia đình nhƣ thế nào.
“Cái bóng đen đủi, hòa lẫn với bóng tối, vẽ nên khuôn mặt…Cái bóng mơ hồ
yêu dấu ấy đứng bên cạnh lớp lớp những ngày tháng ngậm ngùi đói khỏ,
những năm này, năm khác qua đi trong cơn thấp thỏm đợi chờ dài dặc mang
ngấn nƣớc mắt và tiếng thở dài…Mạ âm thầm sống. Mẹ là cái bóng đi bên
cạnh tháng ngày của con…”. Còn trong trang văn Hồ Dzếnh, ngƣời phụ nữ -
84
ngƣời mẹ luôn làm trọn thiên chức cao cả đƣợc giao.
Buổi tan chợ về, ngƣời mẹ nghèo khổ đến trƣờng đƣa bánh cho con
“Dƣới ánh nắng vàng vọt của buổi chiều hè, tôi nhận thấy mẹ tôi vui mừng
một cách đau khổ. Một tay ngƣời giữ nón, còn tay kia thì run run. Ngƣời lách
mình cho khỏi bị gai ở hàng rào vƣớng. Quần áo ngƣời tiều tụy nhuộm ánh
nắng xé chiều” (Lòng mẹ). Bà mẹ ấy yêu con bằng một thứ tình thƣơng dồn
dập, “bất chấp cả lời kháng nghị của trời đất, bất chấp cả những thói cấu của
thằng con” (Hai anh em). Bà có thể chịu nhục nhã, chịu mang tiếng xấu, hy
sinh tất cả để cho con mình đƣợc học hành nên ngƣời. Nhận ra đƣợc tình yêu
và sự hy sinh cao cả đó, Hồ Dzếnh tâm sự “ngƣời mẹ Việt Nam đáng giá gấp
bao nhiêu lần số châu ngọc của thế giới họp lại” (Thiên truyện cuối cùng).
Đồng thời, ông cũng nhận ra rằng đó là ngƣời duy nhất có thể cho mình
một sự che chở, đến mực khi đã trƣởng thành, đã là một nhà văn có tên tuổi,
ông vẫn ao ƣớc “nhỏ nhƣ xƣa mà nũng nịu”. Mẹ cũng là ngƣời duy nhất có
thể cho ông một xứ sở, một quê hƣơng, cái “cuống nhau” nối Hồ Dzếnh
vào mảnh đất “quê ngoại” này. Bên trong vóc dáng nhỏ bé yếu đuối của
ngƣời mẹ tiềm tàng một sức mạnh và một tình yêu lớn lao bất diệt. Hồ
Dzếnh gần nhƣ là ngƣời đầu tiên đƣa chân dung mẹ cụ thể, mẹ tôi, lên
thành biểu tƣợng của quê hƣơng, đất nƣớc. Mẹ không chỉ là mẹ, mà là một
tập hợp tất cả những ngƣời đàn bà Việt Nam “cúi mình trên đau khổ”, suốt
đời chỉ biết có chịu đựng và hy sinh. Trong mẹ có cả những mảnh đời thím
Củ, chị Yên, chị dâu Trung Quốc, em Dìu, em Thi,… và cả những mảnh
đời lam lũ không tên tuổi khác. Dựng lại thế giới tuổi thơ với bóng dáng
những ngƣời đàn bà đã từng bị quên lãng sau lũy tre xanh, với “những
tiếng thở dài mất tăm trong bóng tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống
bổn phận hàng ngày…” ấy, Hồ Dzếnh muốn đƣợc “đền ơn trả nghĩa những
con ngƣời âm thầm, cần mẫn làm nên đất nƣớc này, và đã bồi đắp nên tâm
85
hồn biết yêu thƣơng của mình”. (15, 101)
Hình ảnh ngƣời mẹ trong tình yêu thƣơng vô hạn của Hồ Dzếnh đã gián
tiếp cho ta cái nhìn về ngƣời phụ nữ trong thiên chức ngàn đời của họ. Những
ngƣời phụ nữ đã luôn có gắng hết mình vì chồng, đặc biệt là vì con. Họ có thể
hy sinh tất cả để chồng, con có thể cảm thấy hạnh phúc. Và chắc rằng, ngƣời
mẹ của Hồ Dzếnh đã làm tròn thiên chức ngƣời phụ nữ của mình.
Vậy là, dù các tác giả dành ít hay nhiều trang văn viết về ngƣời mẹ,
ngƣời phụ nữ Việt Nam, nhƣng ta vẫn luôn thấy ánh lên những phẩm chất cao
đẹp của ngƣời phụ nữ ngàn đời: những ngƣời sinh ra đã mang sẵn thiên chức
86
làm mẹ và luôn cố gắng làm tròn thiên chức đó.
Chương 3: Nhân vật người phụ nữ nhìn từ phương thức biểu hiện
3. 1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Có thể nói, thế giới nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch
Lam thƣờng có tên cụ thể, chân dung đƣợc khắc họa từ ngoại hình đến tâm lý.
Tuy nhiên, yếu tố tâm lý đƣợc tác giả chú trọng hơn cả. Có một số nhân vật ít
đƣợc chú ý đến ngoại hình, nhƣng ngƣời đọc luôn hình dung ra thế giới nội
tâm phong phú, đa dạng của họ.
3.1.1 Ngoại hình
Với ngƣời phụ nữ, ngoại hình là một yếu tố quan trọng. Tuy thế giới
nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam không đƣợc chú trọng xây nhiều nhiều
ở yếu tố ngoại hình. Nhƣng với riêng ngƣời phụ nữ, ông vẫn ƣu ái dành nhiều
trang văn, mang đến cho ngƣời đọc hình dung về ngoại hình, diện mạo của
nhân vật. Nét chung mà ngƣời đọc nhận ra ở những ngƣời phụ nữ là vẻ đẹp
thiếu nữ với nét thanh xuân phơi phới, với đôi má hồng hây hây, với trang
phục gọn gàng.
Khác với Khái Hƣng trong Nửa chừng xuân, việc miêu tả nhân vật Mai
từ khuôn mặt, cử chỉ đến trang phục tỉ mỉ giúp ngƣời đọc hình dung rõ về cô
“đứng vơ vẩn bên hàng giậu giăng, một cô thiếu nữ vào trạc mƣời bảy mƣời
tám, chít khăn ngang vận áo trắng số gấu, chân đi guốc ngơ ngác nhìn sân
trƣờng, nhƣ muốn vào, nhƣng dùng dằng lo sợ. Nƣớc da cô trắng xanh, quầng
mắt đen sâu hoắm càng làm tăng vẻ rực rỡ long lanh của hai con ngƣơi sáng
dịu. Trong cái mặt trái Xoan, má hơi hóp, môi khô khan, chỉ có hai con mắt là
có vẻ hoạt động khác nào nhƣ hai ngôi sao lấp lánh sau làn mây mỏng
(…)Hai chị em đi bên cạnh nhau trên con đƣờng Quan Thánh, nét mặt rầu rầu.
Nƣớc da trắng xanh phản chiếu màu lá xanh của rặng sấu bên đƣờng lại càng
xanh, lại càng lộ vẻ gầy yếu của đôi khổ mặt xƣơng”. Nhƣ vậy, Khái Hƣng đã
miêu tả nhân vật bằng cả diện mạo, khuôn mặt, trang phục. Thạch Lam ít có
nhân vật nào có đầy đủ các phác họa ấy.
Trong truyện ngắn Thạch Lam, trong số những nhân vật phụ nữ mà
87
luận văn khảo sát, chỉ có ít nhân vật đƣợc tác giả tô vẽ bằng nét mặt, trang
phục. Tâm (Cô hàng xén)là nhân vật hiếm hoi đƣợc tác giả phác thảo về nhan
sắc bằng đôi má hây hây hồng, ánh mắt ngại ngùng nhìn cậu giáo Bài, và
dáng điệu nhanh nhẹn trong mỗi phiên chợ. Khi đã trở thành ngƣời mẹ, ngƣời
vợ, phải cáng đáng gánh nặng hai gia đình, chính yếu tố về đôi mắt, gò má,
dáng điệu khiến ngƣời đọc nhận ra sự tiều tụy, đổi khác của cô. Gò má Tâm
không còn đƣợc hồng hào nhƣ trƣớc, ánh mắt xa xăm lo nghĩ, dáng vẻ nhọc
nhằn vất vả. Chị Sen trong Đứa con đƣợc Thạch Lam vẽ bằng dáng vẻ “cúi
mình dƣới gánh nƣớc nặng trĩu, lách cửa bƣớc vào những bƣớc khó nhọc và
chậm chạp. Cái đòn gánh con xƣớng và rên rỉ trên vai, nƣớc trong thùng sánh
tóe ra mỗi bƣớc đi (…) ngƣời chị nhỏ da sạm nắng, chân tay đã bị những
công việc nặng nhọc làm thành xấu xí và cằn cỗi”: dáng vẻ của con ngƣời vất
vả cực nhọc. Dung trong Hai lần chết khi còn nhỏ là cô bé gầy gò, “quần áo
lôi thôi lếch thếch và chân tay lấm bùn (…) ngày tết, các chị em có quần áo
mới vui chơi, còn nàng vẫn phải áo cũ làm lụng dƣới bếp (…) tính nàng nhƣ
đứa trẻ con”. Vậy là, Dung đƣợc miêu tả bằng dáng vẻ và trang phục. Bên
cạnh đó, Dung là nhân vật hiếm hoi đƣợc Thạch Lam gọi tên tính cách “nhƣ
đứa trẻ con” – nàng hồn nhiên, vô tƣ, không bao giờ kêu ca điều gì. Sự cam
chịu đã trở thành tính cách ngấm vào máu Dung. Nhƣng cũng có lúc Dung
không chịu nổi số phận, không chịu nổi sự áp bức, bóc lột, mắng nhiếc của
mẹ chồng và các em chồng, nàng đã trốn về nhà mẹ đẻ. Và sau khi muốn chết
mà không đƣợc, trở lại nhà chồng, Dung trở thành ngƣời chết thực. Cuộc đời
của nàng từ đó sẽ chỉ còn cam chịu và cam chịu mà thôi. Mai trong Trong
bóng tối chiều “hai tay úp mặt xuống khóc. Diên thấy hai vai nàng nức lên
(…) Diên vừa mới nhận cách ăn mặc và trang điểm của Mai, nhẫn ở ngón tay
và hoa tai lấp lánh dƣới mái tóc, sang trọng nhƣ các bà giàu có. Và Mai đánh
phấn! Đôi môi có vết son của cô gái trƣớc kia quê mùa mộc mạc làm chàng
rùng mình nghĩ đến những bộ mặt trát phấn, những đôi môi đẫm son nhƣ
thấm máu mà chàng thƣờng trông trƣớc cửa những chỗ ăn chơi” Cách miêu tả
của Thạch Lam khiến ta nhận ra sự sa ngã của Mai - cô gái thôn quê đã bị
88
những cám dỗ chốn thị thành làm cho tha hóa.
Trong truyện ngắn Thạch Lam, có những ngƣời phụ nữ đƣợc gọi tên rõ
ràng, và cũng có những ngƣời chỉ đƣợc gọi cái tên chung chung. Thiếu nữ
trong Cuốn sách bỏ quên là một ví dụ. Không biết cô gái ấy là ai, nhƣng
ngƣời đọc hình dung ra một cô gái đẹp với khuôn mặt trái xoan, đôi môi đỏ
thắm, đôi mắt dƣới làn mi cong dài, quần áo nửa tỉnh nửa quê, đôi bàn tay
xinh xẻo cùng với hành động nhẹ nhàng lật từng trang sách và vén lại tà áo
cho gọn gàng. Đó là một thiếu nữ kín đáo, ý nhị. Ngƣời vợ của phu xe Dƣ
trong Một cơn giận đƣợc nhắc đến rất ít, nhƣng ngƣời đọc có thể hình dung ra
một con ngƣời gò, ốm yếu với hành động ôm đứa trẻ ốm thu lu trong một xó
nhà tối tăm, thỉnh thoảng lấy lông gà phết lên lƣỡi đứa bé, và sau đó là tiếng
khóc vọng từ căn nhà khi “tôi” đi khỏi.
Nhƣ vậy, nhân vật ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam không
nhất thiết phải có tên rõ ràng, không nhất thiết phải có khuôn mặt, dàng ngƣời,
trang phục, hành động riêng nhƣng ngƣời đọc vẫn nhận ra những nét thân
quen và đặc trƣng của từng nhân vật. Hình ảnh mẹ Lê gợi ta nhớ hình ảnh chị
Dậu. Mẹ Lê là hình ảnh ngƣời mẹ nghèo điển hình của ngƣời nông dân nghèo
vùng đất Hải Dƣơng và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ trƣớc Cách mạng. Cô hàng
xén Tâm mang bóng dáng của nhiều cô hàng xén chợ quê đảm đang tháo vát,
sống vì cha mẹ và các em, có tâm hồn và tình yêu đẹp. “Về lại phố Cảm
Giàng, những cô hàng xén vẫn còn, nhƣng đã khác xƣa xa. Hình ảnh cô hàng
xén của Thạch Lam vẫn sống trong tâm trí chúng ta và có thể còn sống lâu
hơn nữa, vì nó đạt tới nhân vật điển hình” (Thạch lam với quê hương sáng tác
– Đinh Quang Tốn). (41)
3.1.2 Tâm lý
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng cái
hiện thực và Thạch Lam quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng.
Con ngƣời đƣợc miêu tả trong tác phẩm Thạch Lam không phải là „„con
ngƣời tính cách mà là con ngƣời tâm hồn‟‟. Bởi chính Thạch Lam từng cho
rằng “Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính
89
tình và cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn của mọi ngƣời qua tâm
hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết‟‟ (Theo giòng). Ở
những năm ba mƣơi của thế kỷ 20, trong khi các nhà văn hiện thực quan tâm
đến tình trạng xã hội của con ngƣời thì các nhà văn lãng mạn lại quan tâm
nhiều đến thế giới tinh thần, thế giới nội tâm. Việc đi sâu thể hiện thế giới tinh
thần, thế giới nội tâm của con ngƣời và coi đó là đối tƣợng để miêu tả con
ngƣời là chỗ mạnh và cũng là chỗ yếu của các nhà văn lãng mạn nói chung và
của ngòi bút Thạch Lam nói riêng. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan
nhận xét “ Những cảm giác con con, Thạch Lam tả rất khéo…làm cho ngƣời
đọc cũng dự vào một phần suy nghĩ. Nhƣng trong tập Gió đầu mùa, những
cảnh nghèo, những cảnh đồng ruộng, ông còn tả bằng những nét bút ngƣợng
ngập, tỏ ra nhà văn chuyên tả tình nhƣng chƣa quen lối tả cảnh”. Sinh thời,
Thạch Lam luôn nghĩ đến “những ngƣời nghèo khổ đang lầm than trong cảnh
đói rét cả một đời” nhƣng ngòi bút thiên về cảm giác của ông (đôi khi rơi vào
duy cảm) cho ta thấy những trang viết của nhà văn còn chƣa nhiều những bức
tranh hiện thực sắc nét về những kiếp ngƣời nghèo khổ. Nói nhƣ Lại Nguyên
Ân: Thạch Lam “tả ngƣời nghèo mà không muốn cho độc giả thấy những
mảnh rách, những mụn vá trên quần áo họ”. Lê Dục Tú trong Thạch Lam –
người đi tìm cái đẹp trong cuộc đời và trong văn chương có nhận xét “nhiều
truyện không có cốt truyện, không có cả chân dung và tính cách mà chỉ là để
diễn tả một tâm trạng hay một trạng thái tinh thần nào đó‟‟.(2, 75)
Theo Thạch Lam, “nhà văn có biệt tài là nhà văn đã diễn tả đúng và thấu
đáo cái tâm lý uyển chuyển của ngƣời” (20, 1). Để làm đƣợc điều đó, ông
thấy cần phải có một sự quan sát bề trong, khiến nghệ sĩ có thể hiểu đƣợc cái
ý nghĩa giấu kín của sự việc, cái trạng thái tâm lý của một cử chỉ hay một lời
nói. Thạch Lam phê phán phái tả chân muốn đạt nghệ thuật bằng cách chỉ
diễn tả cái gì trông thấy, và với cách ấy họ đã “tạo nên những tác phẩm khôi
hài chứ không cảm động” trong khi đó nhà nghệ sĩ lại cần có con mắt của tâm
hồn để soi thấy đƣợc bộ mặt của tâm lý. Ông đánh giá cao những ngƣời viết
có khả năng “tìm đến đƣợc cái bí mật không tả đƣợc ở trong mỗi con ngƣời”
90
và chán ghét thứ văn chƣơng chỉ chú trọng đến những mối quan hệ bên ngoài.
Theo quan niệm của Thạch Lam, chú trọng vào đời sống tâm linh, xem cái
đời sống cần là đời sống bên trong, đời sống tâm hồn, từ đó lấy việc diễn tả
đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của con ngƣời làm công việc hàng
đầu. Nghĩa là ông không hoàn toàn loại bỏ yếu tố cốt truyện, loại bỏ cốt
truyện, loại bỏ cuộc sống cùng với các mối quan hệ bên ngoài của nhân vật
khỏi nội dung tiểu thuyết (theo nghĩa văn xuôi nghệ thuật nói chung) nhƣng
ông cho rằng tác phẩm muốn đƣợc đƣợc vững bền mãi mãi “nhất thiết phải
soi thấu đƣợc cái tâm lý bên trong”. Điều thú vị là các quan niệm, những trăn
trở của Thạch Lam về nghệ thuật thƣờng không bị khô héo trong hình thức lý
luận xám ngắt mà đƣợc ấp ủ trong những thực tế sinh động – các truyện ngắn
mẫu mực. Nhƣng, nhà văn không chỉ quan tâm đến bản thân các trạng thái –
trạng thái tâm lý – “cảm tình” “cảm giác”, ông còn hứng thú trong việc tìm
kiếm những cách thức biểu đạt thích hợp cho từng tình huống tinh thần của
nhân vật, nhờ đó có thể đẩy cái tinh tế lên đến độ sâu sắc. Năm 1989, nhà
nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung giới thiệu về Thạch Lam trong Văn xuôi
lãng mạn 1930-1945 nhận xét: Thạch Lam có sở trƣờng diễn tả thế giới nội
tâm, “đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc cảm giác. Ông đặc biệt
tinh tế khi diễn tả những rung động bên trong, những cảm giác mong manh
thoáng qua, những biến thái tế nhị của tâm hồn trƣớc ngoại cảnh” (7). Nhà
nghiên cứu Bích Thu bổ sung nhận xét về việc phản ánh thế giới nội tâm của
con ngƣời trong truyện ngắn Thạch Lam: “Dễ nhận thấy nhân vật của Thạch
Lam ít đƣợc nhấn mạnh về điệu bộ, cử chỉ, dáng vẻ bên ngoài mà là những
nhân vật “hƣớng nội”, có đời sống bên trong, ẩn chứa những bí mật của “cõi
ngƣời” mà nhà văn đặt mục đích khám phá và phát hiện”. Đây chính là nét
độc đáo trong sáng tác của Thạch Lam.
Những chân dung tâm lý đƣợc Thạch Lam miêu tả rất tài tình. Đôi khi
chỉ là một dòng suy nghĩ, một chút hồi tƣởng, nhƣng chân dung nhân vật đã
hiện ra. Những hành động, suy nghĩ của Liên trong Hai đứa trẻ cho thấy Liên
là cô gái tốt bụng, nhạy cảm với thiên nhiên và cuộc sống con ngƣời. “Liên
91
không hiểu sao, nhƣng chị thấy lòng buồn man mác trƣớc cái giờ khắc của
ngày tàn (…)Liên trông thấy động lòng thƣơng nhƣng chính chị cũng không
có tiền để mà cho chúng nó (…)Rồi Liên đến bên em nằm xuống. Chị gối đầu
lên tay nhắm mắt lại. Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và
hình ảnh của thế giới quanh mình mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống
giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết nhƣ chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu
sáng một vùng đất nhỏ. Nhƣng Liên không nghĩ đƣợc lâu; mắt chị nặng dần,
rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh nhƣ đêm ở trong phố,
tịch mịch và đầy bóng tối.” Với những suy nghĩ ấy, ta hiểu rằng Liên là cô gái
không chỉ nhạy cảm và còn có nhiều ƣớc mơ, hy vọng thoát khỏi cuộc sống tù
túng hiện tại.
Cô hàng xén Tâm là một trong số ít nhân vật đƣợc Thạch Lam miêu tả
về cả ngoại hình và tâm lý. Bên cạnh hình dung về một cô gái xinh đẹp, đảm
đang, Tâm còn đƣợc biết đến là cô gái đa cảm, giàu trách nhiệm. “Tâm cúi
mặt thẹn đỏ hai gò má; nàng tƣởng đến cậu giáo, con ngƣời xinh trai và nhã
nhặn, mà mới buổi gặp lần đầu, nàng đã mến yêu ngay. Nhƣng bỏ nhà đi lấy
chồng? Thằng Lân và thằng Ái lấy tiền đâu mà mua sách vở học? Nghĩ đến
mẹ già phải làm lụng vất vả lòng Tâm lại không nỡ(…) Nhƣng nàng cần gì
những cái đó nữa. Bọn trai làng không còn chòng ghẹo nàng, và trong lòng
nàng cũng không còn cái thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết rồi.
Nàng chỉ còn là một ngƣời đàn bà tảo tần hôm sớm để nuôi chồng” (8, 185,
186) . Vậy là, tâm trạng Tâm chủ yếu đƣợc tác giả biểu đạt qua dòng suy
tƣởng khép kín của chính nhân vật đó. Những ngẫm nghĩ, suy tính, lo toan
diễn ra trong lòng Tâm kéo dài suốt con đƣờng từ chợ về nhà, từ nhà cô đến
nhà chồng, lại từ nhà chồng đến chợ. Dòng suy tƣởng này rải trên từng bƣớc
chân và đi qua suốt cả cuộc đời nhân vật. Nó tạo nên một tầng sống khuất kín
của riêng Tâm, bí mật với hết cả mọi ngƣời, ngay cả với ngƣời mẹ thân yêu
và gần gũi. Các cảm xúc, tâm tình đƣợc liên kết lại làm nổi bật tâm trạng cô
92
đơn, bế tắc, không lối thoát của nhân vật.
Có thể nói, cảm giác dƣờng nhƣ là chất liệu trọng yếu để Thạch Lam
khám phá thế giới nội tâm con ngƣời. Trƣớc hành động không đúng, nhân vật
cảm giác mình có lỗi. Trƣớc một nghịch cảnh, nhân vật cảm giác mình khó có
thể vƣợt qua. Trƣớc sự đấu tranh giành quyền hạnh phúc, nhân vật cảm giác
mình không đủ can đảm… Cảm giác là cái ngƣỡng không cho nhân vật vƣợt
qua ranh giới mong manh của cái thiện để ngã mình sang cái ác, cái xấu xa tội
lỗi. Thạch Lam cũng đã để cho nhân vật tự đấu tranh để chọn ra một lối đi
thích hợp. Và bao giờ cái thiện, cái đẹp cũng chiến thắng. Con ngƣời lại trở
về với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Nhân vật của Thạch Lam không
tha hoá, không tội lỗi là vì vậy. Nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam còn
có cảm giác về mùi hƣơng cùng tình yêu ở buổi đầu hò hẹn. Ai rồi cũng trải
qua mối tình đầu đầy ngọt ngào và thơ mộng. Ai rồi cũng có sự hồi hộp của
buổi hò hẹn đầu tiên. Đọc Thạch Lam tất cả những cảm giác về tạo vật, cuộc
sống và tình yêu bỗng bừng dậy. Nó thức tỉnh tâm hồn con ngƣời, giúp ta yêu
hơn, trân trọng hơn những xúc cảm ngọt ngào, những phút giây hạnh phúc đã
có và đang có trong cuộc đời.
Để diễn tả những xúc cảm mơ hồ ấy của nhân vật, Thạch Lam rất hay sử
dụng cụm từ cảm giác: “nhớ lại cảm giác vui mừng khi thấy bông lúa se sắt
vào da thịt” (Nhà mẹ Lê); “Dung thấy một cảm giác chán nản và lạnh lẽo”
(Hai lần chết).
Thạch Lam thƣờng xây dựng nhân vật bằng cách diễn tả những biến
hóa trong tâm lý, nhƣng cũng có khi ông dùng hành động để diễn tả những
biến hóa bên trong của nhân vật nhƣ Tâm trong Đứa con đầu lòng, cơn mê
sảng của mẹ Lê trƣớc khi chết (Nhà mẹ Lê) hay hai tầng hoài niệm trong Hai
đứa trẻ,…
Có thể nói, thế giới nhân vật nói chung và nhân vật ngƣời phụ nữ trong
93
truyện ngắn nói riêng đƣợc Thạch Lam quan tâm đến từng chi tiết nhỏ nhất.
Đó có thể là ngoại hình, cử chỉ, hành động hoặc những biến đổi tâm lý. Qua
đó, chân dung ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam đã đƣợc định hình
và để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.
3. 2. Ngôn ngữ nghệ thuật:
Đánh giá về Ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam, tác giả Hà Văn Đức
trong bài Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam cho rằng:
chất thơ trong tác phẩm Thạch Lam đƣợc thể hiện ở ngôn ngữ, giọng văn thủ
thỉ nhẹ nhàng “Bằng giọng văn nhẹ nhàng, thủ thỉ, Thạch Lam đã đánh thức
miền ký ức của mỗi ngƣời, đánh thức những xúc cảm thầm kín nhất, sâu xa
nhất về những kỷ niệm yêu dấu đã qua trong tâm hồn mỗi ngƣời”. Có một
điều khiến cho Thạch Lam khác với các nhà văn khác là ông để cho nhân vật
của mình thức tỉnh một cách rất hồn nhiên. Hầu nhƣ chẳng phải chịu một thứ
luân lý cao siêu nào, cũng nhƣ không hề thông qua một cuộc đấu tranh tƣ
tƣởng nào. Truyện ngắn Thạch Lam giàu chất thơ, vì vậy chỉ thủ thỉ nhẹ
nhàng mà không gân guốc, triết lý xa xôi. Lê Dục Tú cũng nhấn mạnh nhiều
đoạn văn của Thạch Lam “cho đến hôm nay vẫn có thể coi là những đoạn văn
mẫu mực cả về cú pháp lẫn hình ảnh”. Tác giả đã dẫn ra rất nhiều câu văn,
đoạn văn “hoàn hảo” trong truyện ngắn của Thạch Lam. Lê Thị Đức Hạnh
cũng nhất trí với ý kiến đó khi nhận ra sự “giản dị, tinh tế, nhẹ nhàng, uyển
chuyển, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, nhiều khi đậm chất thơ” của ngôn ngữ
trong truyện ngắn Thạch Lam. Năm 2006, trong luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ
nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam, Nguyễn Thị Mai Hƣơng đã dành một
phần nghiên cứu về lời văn trần thuật và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn
Thạch Lam.
Trong luận văn, chúng tôi chỉ khám phá và khẳng định lại ngôn ngữ
trong truyện ngắn Thạch Lam gắn với thế giới nhân vật ngƣời phụ nữ. Luận
văn chia ngôn ngữ truyện thành hai yếu tố: Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện và
94
ngôn ngữ nhân vật.
Cần lƣu ý rằng, ngôn ngữ nhân vật của Thạch Lam đƣợc viết lên bởi
chính ngòi bút của một tâm hồn nhạy cảm và nhân hậu, ông đã đi sâu hơn vào
thế giới bên trong của con ngƣời để đồng cảm với nhân vật và nhƣ vậy, ngôn
ngữ của nhân vật đã hòa cũng ngôn ngữ của tác giả trong tác phẩm. Văn
Thạch Lam mang trong mình vẻ giản dị, trong sáng, mƣợt mà nhƣng sâu lắng,
đằm thắm và thấm đƣợm tình ngƣời, không gân guốc nhƣng sức gợi mở lớn
và có khả năng khơi sâu tìm vào cảm giác. Những câu văn có hình ảnh quen
thuộc của làng quê Việt, đậm chất Việt với mùi của những lá thị, bã mía mà
cũng làm nên “mùi của riêng mảnh đất này” (Gió lạnh đầu mùa).
3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ trần thuật (ngôn ngữ ngƣời kể chuyện) đƣợc thể hiện qua điểm
nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật. Ngƣời kể chuyện có khi tham gia vào
câu chuyện, hóa thân vào nhân vật xƣng “tôi” (9/24 truyện), có lúc chỉ là
ngƣời đứng ngoài miêu tả (15/24 truyện).
Trong truyện ngắn, Thạch Lam thƣờng lựa chọn điểm nhìn với số lƣợng
khá lớn ở ngôi thứ ba. Đây là cách lựa chọn tạo nên ngôn ngữ trần thuật khá
sắc sảo, giản dị mà sâu sắc bởi nhà văn có thể thâm nhập vào nhân vật, lấy
điểm tựa là nhân vật nhƣng lại kể lại với thái độ khách quan của một ngƣời
ngoài nhìn vào. Hai đứa trẻ là câu chuyện kể về chuyện chị em Liên ngồi đợi
một chuyến tàu đêm đi qua. Tác phẩm đƣợc kể dựa vào điểm nhìn của cô bé
Liên - một cô bé có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, trong sáng, nên cảnh phố
huyện qua đôi mắt của Liên dẫu buồn mà vẫn đẹp. Bằng thứ ngôn ngữ giản dị
của một tâm hồn trẻ thơ, con ngƣời dẫu chìm, dẫu lặng vẫn âm thầm quan tâm
yêu thƣơng tới nhau… Và cảnh chuyến tàu đêm đi qua mới sáng rực, vui vẻ
và huyên náo, mới khơi dậy biết bao nhiêu mộng tƣởng của một tâm hồn trẻ
thơ khao khát một cuộc sống náo nhiệt, phồn hoa thay thế cuộc sống tẻ nhạt
95
và ảm đạm. Với điểm nhìn ở ngôi thứ nhất cũng có một tác dụng khác tạo nên
một ngôn ngữ văn xuôi đầy sâu sắc với những diễn biến nội tâm đƣợc bộc lộ
từ chính bên trong nhân vật. Cho dù lựa chọn điểm nhìn trần thuật ở ngôi nào,
Thạch Lam cũng đã phát huy tối đa sự phong phú của tiếng Việt và ngôn ngữ
của ông luôn hƣớng tới cái đẹp của sự bình dị khác hẳn với sự chau chuốt,
bóng bẩy và tƣợng trƣng của giai đoạn văn học trung đại.
Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam nhƣ một bài thơ về những cuộc đời,
những thân phận nhỏ bé, côi cút và bất hạnh, gợi sự thƣơng cảm, xót xa sâu
sắc của tình ngƣời. Dù đứng ngoài miêu tả hay hóa thân vào nhân vật, Thạch
Lam luôn đi sâu vào khám phá đời sống tâm linh của con ngƣời bằng một
ngòi bút rất tinh tế, rất hiểu sự đời - đó là những vẻ đẹp lẩn khuất bên trong
tâm hồn: tình thƣơng, sự cảm thông, lòng vị tha giữa ngƣời với ngƣời, giữa
ngƣời với vật. “Bà Cả hình nhƣ không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra nhƣ
đang theo đuổi một ƣớc vọng xa xôi, bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà biết
đƣợc những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà đƣợc bồng đứa con trên tay,
nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ… giá bà đánh đổi
tất cả của cải để lấy đứa con…” (Đứa con) (18, 138). “Hình nhƣ có những
cái lẽ tối tăm làm cho nàng sợ hãi, không dám nhận lời. Liên lờ mờ thấy rằng
nàng không đủ can dảm làm một việc nhƣ thế, không đủ quả quyết với mình
để chống lại những cái cay nghiệt gây nên xung quanh nàng. Không phải vì
nàng quyến luyến đứa con lên sáu: nàng không yêu nó vì nó xấc láo nhƣ bố.
Nhƣng bỏ chồng bỏ con để lấy Tâm, để đƣợc sung sƣớng riêng lấy mình
nàng, Liên cho nhƣ là một sự việc không bao giờ có thể làm đƣợc.” (Một đời
người) (18, 24)
Giọng văn Thạch Lam có sức sôi cuốn kỳ lạ. Chất giọng ấy đã diễn tả
một cách tinh tế những cung bậc tình cảm của con ngƣời. Đó là một nỗi buồn
khe khẽ, vơ vẩn, mơ hồ của một cô bé trong cảnh chiều tàn nơi phố huyện.
96
“Chiều. Chiều rồi. Một chiều êm ả nhƣ ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ngoài
đồng ruộng theo gió nhẹ đƣa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo
ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen: đôi mắt chị bóng tối ngập
đầy dần vào cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của
chị; Liên không hiểu sao, nhƣng chị thấy lòng buồn man mác trƣớc cái giờ
khắc của ngày tàn.” (Hai đứa trẻ).(18, 119)
Ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam luôn hƣớng tới vẻ đẹp của đời sống
hàng ngày, tránh xa sự chau chuốt và bác học của ngôn ngữ văn chƣơng trung
đại. Ông tìm đến với lối văn giản dị, gọi đúng tên những sự vật, hiện tƣợng,
không tránh né với những lời ăn tiếng nói của đời sống hàng ngày đƣợc đi vào
trong trang văn Thạch Lam một cách tự nhiên “Khốn nạn cho Dung, từ bé đến
nay không phải làm công việc nặng nhọc, bây giờ tát nƣớc, nhổ cỏ, làm lụng
đầu tắt mặt tối suốt ngày” (Hai lần chết). (18,77)
Với ngòi bút hiện thực giàu tính nhân đạo, hình ảnh những ngƣời dân
nghèo từ thành thị đến nông thôn, từ những ngƣời trí thức đến những cô gái
bán thân đều đƣợc Thạch Lam miêu tả hết sức chân thật. Kết thúc câu chuyện
là tƣơng lai đen tối mờ mịt của những thân phận nghèo khó nhọc nhằn. Và
giọng điệu buồn trầm gợi niềm xót xa thƣơng cảm về số phận bấp bênh của
con ngƣời dƣới xã hội cũ là nét đặc trƣng của phong cách truyện ngắn Thạch
Lam. Một nỗi buồn man mác nhè nhẹ phủ lên và thấm vào đời sống của các
nhân vật, nỗi buồn xa xôi, nỗi buồn mơ hồ. Một cô hàng xén, một cô Liên,
một cô Dung.. sống buồn bã trong gia đình và cả ở xã hội. Một đứa trẻ cố
thức đêm chỉ để nhìn ánh sáng đèn của chuyến tàu đêm với hy vọng đƣợc
nhìn thấy cảnh náo nhiệt ở sân ga. Thạch Lam gieo vào lòng ngƣời đọc sự
thƣơng cảm cho những kiếp ngƣời nhọc nhằn. Hình ảnh ngƣời bán bánh giầy
giò trong đêm khuya vắng lặng, qua việc miêu tả tiếng rao buồn thảm, yếu ớt
và uể oải nhƣ mang một nỗi thất vọng cùng lời kết thúc bùi ngùi: “cái đời tối
tăm ấy, những đƣờng phố xa, hẻo lánh nhƣ không còn mong mỏi chút gì” (Cô
97
hàng xén) (18, 186). Trong bất cứ thể loại nào, ngòi bút của ông cũng nghiêng
về phía những con ngƣời nhỏ bé bằng một giọng văn đầy lòng trắc ẩn, cho
thấy đƣợc những cuộc sống tù đọng, bế tắc của cả đời ngƣời. Ngay cả những
ngƣời lầm lỡ trong chốn bùn lầy của xã hội ông cũng miêu tả họ bằng giọng
văn xót xa, buồn chứ không chì chiết, khinh rẻ. Ông còn tìm sâu trong tâm
can họ những nét đẹp còn tiềm ẩn trong bản chất của họ. “Tâm thấy ngày nay
cũng nhƣ mọi ngày, ngày kia cũng thế nữa, tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng
chịu khó và hết sức nhƣ tấm vải thô dệt đều nhau. Có phải đâu chỉ mình cô;
trong những luỹ tre xanh kia, bao nhiêu ngƣời cũng nhƣ cô, cũng phải chịu
khó và nhọc nhằn để kiếm tiền nuôi chồng, nuôi con, nuôi các em.” (Cô hàng
xén) (18,117). Thật khó có thể phân biệt đâu là ngôn ngữ tác giả đâu là ngôn
ngữ nhân vật . Nhà văn đã thực sự đặt mình vào địa vị nhân vật để nói lên suy
nghĩ về số phận và cuộc đời những cô hàng xén nghèo khó sớm tối phải tần tảo
vất vả vì gia đình.
Thạch Lam luôn yêu thƣơng và trân trọng đối với con ngƣời, giọng văn
của ông cũng vì thế mà mang một hơi thở ấm áp, có sự đồng cảm sâu sắc giữa
ngƣời với ngƣời, giữa nhà văn với nhân vật. Thạch Lam xƣng hô với nhân vật
rất nhẹ nhàng và thân mật, bằng cách gọi tên: Liên, Tâm, Sinh… hoặc bằng
cách gọi trìu mến Mẹ, mẹ Lê, chàng, nàng…. Thạch Lam đã rất đồng cảm
với ngƣời lao động và dƣờng nhƣ cao hơn còn là sự hoà nhập vào dòng
ngƣời khốn khổ ấy. Nhân vật Thạch Lam luôn có một cái tên rất nhẹ, vần
không hoặc vần bằng nhƣ chính con ngƣời và tình cảm trong suốt, dịu dàng,
mỏng manh của họ vậy.
Cùng viết về nỗi khổ, cảnh ngộ của con ngƣời trong xã hội: sự bƣơn chải
nhọc nhằn, sự nghèo túng hay những kẻ phải làm cái nghề bán thân mạt hạng
nhất trong xã hội nhƣng khác với cách kể của Nam Cao lạnh lùng khách quan,
hay không trào phúng nhƣ Vũ Trọng Phụng… ngôn ngữ Thạch Lam sử dụng
có tác dụng xoa dịu nỗi đau, không có ranh giới của đẳng cấp, tầng lớp xã hội.
Nói nhƣ nhà văn Nguyễn Tuân khi nhận xét về ngôn ngữ văn chƣơng
98
Thạch Lam thì “Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi thêm,
mềm mại và tƣơi tắn hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta. Và theo
tôi nghĩ, đứng bên cái tiêu chuẩn thái độ tƣ tƣởng nó là tiêu chuẩn chung cho
các thể, các ngành văn nghệ thì đây là cái chuẩn trong những tiêu chuẩn quan
trọng nếu không là duy nhất”. Thạch Lam đã mang tới những đóng góp
không nhỏ trong quá trình hiện đại hóa văn học trên phƣơng diện ngôn ngữ và
mang dấu ấn rất riêng của cây bút lãng mạn, giàu xúc cảm và tài hoa.
3.2.2 Ngôn ngữ nhân vật
Về ngôn ngữ nhân vật, khác với những tác phẩm trong giai đoạn trƣớc
đó, đặc biệt trong thơ ca trung đại, nhân vật trữ tình thƣờng ẩn đi ngôn ngữ
của mình thay vào đó là ngôn ngữ của cảnh vật với lối “tả cảnh ngụ tình”. Tới
những sáng tác của các nhà văn đầu thế kỉ XX, chúng ta bắt đầu ghi nhận
ngôn ngữ nhân vật nhƣ một phần không thể thiếu trong các tác phẩm tự sự.
Ngôn ngữ nhân vật đƣợc thể hiện chủ yếu trƣớc đó thông qua đối thoại. Và
tới Thạch Lam, nó lại mang xu hƣớng ít đối thoại mà thiên về độc thoại nội
tâm. Đây là một đóng góp khá độc đáo của ông về ngôn ngữ nhân vật.
3.2.2.1 Ngôn ngữ đối thoại
Trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, Thạch Lam sử dụng những câu
đối thoại rất ngắn và hầu hết những lời đối thoại không phải miêu tả kịch tính
hay diễn biến của cốt truyện mà thiên về miêu tả cảm xúc của nhân vật.
Lời đối thoại của Liên trong Một đời người: “Các chị bây giờ về nhà
chắc chồng con vui vẻ lắm, chỉ có em là khổ thôi” mang cảm giác buồn khó tả,
có cảm giác nhƣ Liên đang tự thƣơng cho bản thân mình. Và có lẽ đây là lần
duy nhất Liên nói ra sự khổ của mình. Những trận đòn ghen của Tích, nhƣng
mắng nhiếc xỉ vả của mẹ chồng sau đó, nàng đều cắn răng chịu đựng.
Hai lần chết kể về cuộc đời Dung – cô gái đã hiểu số phận mình chết
thực sự, “mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu đƣợc, chết không
99
còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa” sau khi theo mẹ chồng về nhà lần hai.
Trong cả truyện ngắn, ngôn ngữ nhân vật rất ít, chủ yếu là ngôn ngữ tác giả.
Nhƣng những dòng đối thoại ngắn của Dung cho ngƣời đọc hình dung rõ về
tâm lý, tính cách của cô. Từ một cô bé còn ngây thơ, run run cất tiếng hỏi
“của những ai đấy, mợ”, Dung đã dần có sự thay đổi. “Tôi làm sao thế
nhỉ…Bà Cả đâu u? Bà ấy về chƣa” – câu hỏi thể hiện sự băn khoăn và cũng là
chút hy vọng cuối cùng của cô. Lời cuối cùng “Con xin về”: ba chữ ngắn gọn
nhƣng lại chứa đựng bao bi kịch: bi kịch của đứa con không đƣợc yêu thƣơng, của
ngƣời vợ bất hạnh, của con ngƣời đã mất đi hoàn toàn hy vọng trong cuộc đời.
“Giờ muộn thế này mà họ chƣa ra nhỉ” câu nói vu vơ không đợi câu trả
lời của chị Tý bán nƣớc trong Hai đứa trẻ cũng không ngoại lệ. Chị Tý chờ
đợi, hy vọng kiếm thêm chút tiền nuôi gia đình nhỏ của mình.
Ngôn ngữ đối thoại của Thanh trong Một cơn giận thể hiện một sự
chiêm nghiệm khá triết lí và giàu cảm xúc “Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm
những việc nhỏ nhen không ai ngờ. Tôi biết hơn ai hết, vì chính tôi đã trải qua
sự đó. Tôi sẽ kể các anh nghe một câu chuyện mà cái kỷ niệm còn in sâu
trong trí nhớ tôi”…(18, 27)
Vậy là, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật trong truyện Thạch Lam mang
dáng dấp hiện đại, phá bỏ lối mòn cũ và nó mang trong mình vai trò truyền tải
cả cảm xúc và tâm lí.
3.2.2.2. Ngôn ngữ độc thoại
Thạch Lam đã thành công khi dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để
khám phá chiều sâu bên trong của nhân vật. Ông thiên về độc thoại nội tâm
không có lời dẫn của tác giả. Trong Một cơn giận đó là lời độc thoại nội tâm
của nhân vật “tôi” trong sự hối hận về những điều mình đã làm với ngƣời phu
xe: “Tôi rùng mình nghĩ đến số phận của anh xe khốn nạn. Ba đồng bạc phạt!
Anh ta phải vay cai xe để nộp phạt; nhƣng ba đồng bạc nợ ấy, bao giờ anh ta
100
trả xong, sau những ngày nhịn đói, bị cai xe hành hạ, đánh đập vì thù hằn?”;
trong Cuốn sách bỏ quên, là lời độc thoại của nhân vật Thành lúc là băn
khoăn, lúc lại tự an ủi chính mình về cuốn sách của mình; Trong Bà đầm, đó
là dòng suy nghĩ miên man của nhân vật “tôi” về một ngƣời phụ nữ phƣơng
Tây xa lạ: sửng sốt, ngạc nhiên, sự than phục, đồng cảm, băn khoăn.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đây không quá khó hiểu, không quá cao
trào. Nó nhƣ một sự giằng xé, thể hiện sự mâu thuẫn giữa những khát vọng
lớn lao với những cái tầm thƣờng mà thực tại chàng đang phải chứng kiến.
Cái bi kịch này qua độc thọai nội tâm cũng đã đƣợc kế thừa trong các sáng tác
sau này của rất nhiều nhà văn nhƣ Nguyễn Minh Châu (Bức tranh), hay qua
dòng ý thức nhƣ trong các sáng tác của Nam Cao nhƣ Trăng sáng, Chí phèo,
Đời thừa…
Đau đớn nhất của mẹ Lê (Nhà mẹ Lê) là phải bỏ lại những đứa con bơ
vơ nheo nhóc trên cuộc đời; nỗi buồn của ngƣời vợ là chồng mình hờ hững,
chƣa có chút tình cảm nào với đứa con thơ (Đứa con đầu lòng); sự băn khoăn
của Mạnh trong người bạn cũ là câu hỏi về chính cuộc đời chàng, về cuộc
sống hiện tại của chàng “trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh ngƣời thiếu niên
hăng hái và hình ảnh ngƣời trƣởng già an nhàn, cái hình ảnh nào thật là của
tôi” (18,19); nỗi xót xa của Sinh là nuối tiếc quá khứ, đau đớn thực tại và mờ
mịt tƣơng lai. “Chàng ƣỡn ngƣời ra đằng sau, khoan khoái thở dài. Nhƣng
chàng nhớ lại bức thƣ, cuốn giấy bạc, nhớ lại tiếng khóc thổn thức của Mai
nép bên tƣờng, nhớ lại những lời khinh bỉ, mỉa mai chua xót. Chàng nhớ lại
nỗi uất ức, đau đớn của mình”. Cái đói khiến Sinh nhƣ đánh mất bản thân
mình “cái chán nản mênh mông tràn ngập cả ngƣời. Sinh lấy hai tay ôm mặt,
cúi đầu khóc nức nở” (18, 47)
Nhìn với con mắt ngƣời ngoài cuộc, nhiều truyện ngắn Thạch Lam chỉ
là những câu chuyện, những mảnh ghép rất nhỏ của cuộc đời. Và đúng nhƣ
101
một số nhà nghiên cứu đã nhận xét: truyện của Thạch Lam không có cốt
truyện, nó đôi khi chỉ là những dòng suy tƣởng của nhân vật mà thôi. Cuộc
gặp gỡ của Thành và cô gái lạ trên tàu hỏa (Cuốn sách bỏ quên) nhìn với con
mắt ngƣời thứ ba chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn với một vài chi
tiết: thiếu nữ lên tàu, chàng trai nhìn cô gái lạ. Cô gái đọc sách, biết chàng trai
nhìn mình, vén lại tà áo cho ngay ngắn. Đến nơi, cô gái xuống tàu, chàng trai
tiếp tục cuộc hành trình. Sự việc chỉ có thế, nhƣng đọc những trang truyện, ta
nhận ra đó là cả một thế giới với bao biến đổi, thế giới của những suy tƣởng,
của tâm trạng nhân vật nhà văn Văn Sơn.
3. 3. Không - Thời gian nghệ thuật:
Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là hai khái niệm của Thi
pháp học hiện đại. Không gian trong văn học là một hiện tƣợng nghệ thuật, là
hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, vì không có hình tƣợng nghệ thuật nào
không có không gian, không có nhân vật nào không có một nền cảnh của nó.
Không gian nghệ thuật là hình tƣợng không gian có tính chủ quan và
tƣợng trƣng, là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con ngƣời và thể
hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống. Nó biểu hiện mô hình thế giới của
con ngƣời, là quan niệm về trật tự thế giới và sự lựa chọn của con ngƣời.
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật, là thời gian có thể thể
nghiệm đƣợc trong tác phẩm với độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm,
với chiều thời gian là hiện tại, quá khứ, tƣơng lai. Thời gian nghệ thuật cũng
là một hình tƣợng nghệ thuật - sản phẩm sáng tạo của nhà văn. Đây là một
trong những phạm trù quan trọng nhất của thi pháp học bởi lẽ nó thể hiện thực
chất sáng tạo nghệ thuật làm nên phong cách nhà văn.
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi không bàn nhiều đến khái
niệm rất phong phú của cặp phạm trù không - Thời gian nghệ thuật mà sễ
đi trực tiếp vào sự biểu hiện của các phạm trù trong tác phẩm truyện ngắn
102
Thạch Lam.
3.3.1 Không gian nghệ thuật:
Có rất nhiều cách phân chia khác nhau, nhƣng để bám sát vào nội dung
đề tài, chúng tôi đã chọn cách chia không gian nghệ thuật của truyện ngắn
Thạch Lam làm hai loại chính: không gian nông thôn và không gian phố thị
(cũng có thể chia nhỏ hơn là không gian phiên chợ, không gian ngôi nhà,
không gian khu vƣờn, không gian chuyến tàu đêm…) Nhƣ lời nhà văn
Nguyễn Tuân trong Nguyễn Tuân, bài viết về Thạch Lam (45, 232) có viết:
“Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của
Thạch lam thƣờng bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng
lớp dân nghèo thành thị và thôn quê.”
Khúc Hà Linh trong truyện ngắn Thạch Lam đặc điểm không gian nghệ
thuật cũng nhân định “Nhƣ bất kỳ nhà văn hiện thực nào khác, Thạch Lam
quan tâm hàng đầu đến không gian hiện thực hàng ngày. Ông ít tô vẽ và cách
điệu nó, bởi vì, nhƣ ông nói “Cái đẹp man mác trong vũ trụ, len lỏi khắp hang
cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thƣờng. Công việc của nhà văn là
phát biểu cái đẹp ở chính chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che
lấp của sự vật”. Chính vì thế, không gian hiện thực hàng ngày trong tác phẩm
của Thạch Lam là một xóm chợ, một ngõ hẻm, một ga xép, một phố huyện
nghèo nàn hay một con đƣờng làng ở một vùng nông thôn heo hút nào đó”
3.3.1.1 Không gian làng quê:
Trong Anh em Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh: Ánh sáng và bóng tối,
Nxb Thanh Niên, 2008, Khúc Hà Linh viết: “Thạch Lam có những tháng năm
sống nơi thôn dã, nên trong tác phẩm ông chất chứa nhiều hình bóng con
ngƣời và đời sống làng quê” (23). Trong những truyện ngắn Thạch lam, ngƣời
đọc nhận ra hình ảnh làng quê nông thôn Việt Nam đói nghèo trƣớc Cách
mạng tháng Tám. Trong phông nền ấy, chân dung ngƣời phụ nữ Việt Nam
103
đƣợc khắc họa đậm nét, mang đầy đủ những phẩm chất truyền thống quý báu.
Điểm nổi bật của loại không gian này là dễ gợi cho lòng ngƣời cảm giác trống
vắng. Cái vắng lặng nơi làng quê có thể giết chết con ngƣời trong những suy
tƣ, buồn tủi của cái nghèo. Hòa vào sự tĩnh mịch của đêm quê là những tiếng
côn trùng hay những âm thanh kẽo kẹt nơi bờ tre, dễ gợi cảm giác rùng mình.
Và con ngƣời nhƣ lạc lõng, rơi vào hố đen đêm tối của chính mình. Nếu nhƣ
không gian thành thị bó thít con ngƣời, dồn nén họ trong cái ngột ngạt, trong
những bi kịch đau đớn thì không gian nông thôn lại nhấn chìm con ngƣời
trong sự đơn điệu, lãng quên (Cô hàng xén, Gió đầu mùa, Nhà mẹ Lê). Con
ngƣời trong không gian ấy hòa nhịp đan quyện với những thanh âm buồn bã
của đời sống, tạo thành một khúc nhạc đồng quê tấu lên nhƣ một tiếng khóc
hờ để tự ru lấy đời mình.
Làng quê trong truyện ngắn Thạch Lam để lại ấn tƣợng đầu tiên với
khung cảnh thiên nhiên thơ mộng “Tiếng trống thu không trên cái chòi của
huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phƣơng tây đỏ rực nhƣ
lửa cháy và những đám mây ánh hồng nhƣ hòn than sắp tàn. Dãy tre làng
trƣớc mặt đẹn lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời” (Hai đứa trẻ). Phiên chợ quê
có “tiếng cƣời nói vang lên với tiếng đòn gánh kĩu kịt”, có tâm sự thầm kín
của cô gái quê mới lớn lần đầu ngập ngừng e lệ nghĩ đến tình yêu với một anh
giáo trƣờng làng: “Hình ảnh một ngƣời con trai lanh lợi, miệng tƣơi nhƣ hoa,
ăn nói mềm mỏng dễ nghe. Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm thƣờng thấy
ngƣời ấy ra hàng tìm mua kim chỉ. Nàng cúi mặt xuống hàng, thấy cái nhìn
của ngƣời con trai ấy đè năng trên má” (Cô hàng xén). Đến cái mùi vị, âm
thanh cũng là những cái rất riêng của đồng đất nông thôn Việt Nam “mùi rơm
rác và cỏ ƣớt thoang thoảng bốc lên” “tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu
ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đƣa vào” (Hai đứa trẻ). Dƣờng nhƣ, mùi
ẩm ƣớt đó đã trở thành ấn tƣợng đặc biệt về làng quê của Thạch Lam, Trong
104
Trở về, ông cũng viết “chợ đã vãn: nhƣng ngƣời đàn bà gồng gánh sắp ra về,
trên mặt đất đầy những rác bẩn, những vỏ dƣa, những lá gói. Một cái mùi âm
ấm bốc lên, cái mùi đặc biệt, hình nhƣ lần mùi đất, mùi ẩm, và mùi rác đốt”
(18, 73). Trong không gian làng quê thơ mộng quen thuộc ấy, các cô gái nổi
bật với vẻ đẹp đậm chất Á Đông “Thân hình mềm mại…trên vành khăn
nhung trong mái tóc đen có giắt mấy bông hoa sói” và một tâm hồn giàu đức
hy sinh, lòng nhẫn nại, không một chút toan tính cho hạnh phúc của riêng
mình “Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng trên vai nhỏ bé theo nhịp điệu
của bƣớc đi. Chịu khó, chịu khó từng tý một, hết bƣớc nọ sang bƣớc kia, cứ
thế mà đi không nghĩ ngợi… chịu khó và nhọc nhằn để kiếm tiền nuôi chồng,
nuôi con, nuôi các em” (Cô hàng xén). Những ngƣời phụ nữ trong làng quê
yên ả thanh bình cũng giống cô hàng xén Tâm, sống cuộc sống hàng ngày với
“cái vòng đen của rặng tre làng Bằng vụt hiện lên trƣớc mặt, tối tăm và dầy
đặc”, cuộc đời họ tuy không quá đói nghèo, quá cùng cực nhƣng cũng “đằng
đẵng, triền miên của cảnh khổ” . Ở đó, ngƣời phụ nữ “buồn rầu nhìn thấu cả
cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và
lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia nhƣ tấm vải thô sơ” của cái nghiệp mà cuộc đời
dựng lên là để dành cho cô.
Và đây là làng quê êm đềm, yên ả trong Dưới bóng hoàng lan: “Thanh
lách cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bƣớc vào. Chàng thấy mát hẳn cả ngƣời, trên
con đƣờng gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây
xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tƣơi non phảng phất trong không
khí… Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vƣờn… Thanh bƣớc
xuống giàn thiên lý. Có tiếng ngƣời đi, rồi bà chàng mái tóc bạc phơ, chống
gậy trúc, ở ngoài vƣờn vào… Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng, lá
cây rung động dƣới làn gió nhẹ. Một thân cây bút cao lên trƣớc mặt. Cùng
một lúc, chàng lẩm bẩm: cây hoàng lan!, mùi hƣơng thơm thoang thoảng đƣa
105
vào. Thanh nhắm mắt ngửi mùi hƣơng thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng
thƣờng hay chơi dƣới gốc nhặt hoa…” Đó là một thế giới hoàn toàn yên bình,
tĩnh lặng và đẹp nhƣ cổ tích. Con đƣờng gạch, giàn cây, bóng mát và đặc biệt
là hƣơng hoa đã xoa dịu tâm hồn con ngƣời sau một quãng đƣờng dài đầy bụi
bặm. Trở về với quê hƣơng chính là trở về với dân tộc, trở về với những nét
đẹp truyền thống đƣợc lƣu giữ từ thuở xa xƣa. Trong khung cảnh ấy, tâm hồn
con ngƣời trở nên trong sáng hơn, thuần khiết hơn, đẹp đẽ hơn. Và cũng trong
khung cảnh ấy, những ngƣời phụ nữ hiện lên không phải với dáng vẻ tiều tụy,
vất vả. Đọc Trở về, ta thấy đƣợc hình ảnh một ngƣời bà hiền từ, nhân hậu,
một thiếu nữ duyên dáng, tế nhị, đáng yêu. Những con ngƣời ấy đã góp phần
tạo ấn tƣợng cổ tích thiên thần trong bức tranh làng quê.
Song hành với làng quê êm đềm thơ mộng, ngƣời đọc có thể lại nhìn
thấy một làng quê tiêu điều, xơ xác trong truyện ngắn Thạch Lam. Mở đầu
Hai đứa trẻ, Thạch Lam viết “Chiều chiều rồi” nhƣ một lời thảng thốt, bàng
hoàng, nhƣ một tiếng thở dài. Thế là một buổi chiều nữa lại đến, chiều là
buồn. Ấn tƣợng về buổi chiều khá sâu đậm. Thạch Lam chọn một phiên chợ
tàn để nói lên đƣợc tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức
sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. Ngƣời ở
nông thôn thƣờng trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam
đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù
không tả buổi chợ phiên nhƣng ông đã tả những phế phẩm còn lại của buổi
chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của vùng quê. Tả những
con ngƣời cuối cùng trao đổi với nhau rồi bƣớc vào các ngõ tối. Tiếng trống
thu không rời rạc, chậm, lẻ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhƣng âm thanh nhỏ nhất
nhƣ tiếng muỗi vo ve gợi cảm giác về sự ngƣng đọng. Nó rơi tỏm vào trong
không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồi âm, nó chỉ
nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn ngƣời của phố huyện lúc chiều tối. Trên
106
cái nền ấy, những cảnh đời, những con ngƣời, đúng hơn là những phiến cảnh
về cuộc đời, về con ngƣời bé mọn, hoàn toàn không có ƣớc vọng, khát
khao đƣợc khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện với nhau nhƣng dƣờng nhƣ
chẳng có nội dung. Họ có đi lại, ăn nói với nhau nhƣng chỉ thấy họ vừa
lòng thoả mãn với cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong
hơn một ngấn rƣợu trong chiếc cút bé nhỏ Chị Tí là điển hình cho ngƣời
dân phố huyện với nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tối
chị mới mở cái hàng bán nƣớc. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không đƣợc gì
“sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phải là sự sống
thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự với cuộc sống, giao tranh, tranh
giành với cái đói,cái chết trông chờ vào những ngƣời trên tàu là qua bấp
bênh có khác gì trông chờ vào những ngƣời khách ấy để sống. Cách chị Tí
trả lời câu hỏi của Liên: không trực tiếp trả lời ngay mà còn làm thêm: để
chõng xuống đất, bày biện các bát uống nƣớc mãi rồi mới chép miệng trả
lời : “Ối chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống
chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật, mà điển hình là số phận của những ngƣời
phụ nữ nơi đây.
Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhƣng nhƣng nguy cơ lại lớn hơn vì thứ
mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác
Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tối, mà không hề có tiếng động nào
của một đồng xu. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp ngƣời,
nhƣ một cái cây đã tàn lụi quá nhiều - kiếp ngƣời héo hắt. Bà cụ là một con
ngƣời bị tàn lụi, héo úa và cho ta cảm giác rợn ngƣời, kinh hoàng ở chi tiết
vừa đi vào bóng tối vừa cƣời khanh khách. Cách xƣng hô với Liên “chị” đã
kéo xa khoảng cách tình cảm giữa con ngƣời với con ngƣời nhƣng đã ám ảnh
ngƣời đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành. Cụ Thi xuất hiện chỉ
trong mấy dòng truyện ít ỏi nhƣng cũng đủ để ta hình dung ra một kiếp ngƣời,
107
một kiếp đời hẩm hiu.
Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay
động bóng hai chị em nhỏ tuổi cũng âm thầm không kém với cái “cửa hàng
tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những ngƣời khốn khổ có khi không đủ
tiền mua nổi nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rƣợu nhỏ “uống một
hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp ngƣời lay lắt nhƣng cuộc sống của
Liên cũng cầm chừng không kém. Nỗi khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗi
khổ vật chất của những ngƣời khác, đó là bi kịch tinh thần bởi họ khổ mà
không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm
và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Dù những ngày chợ búa có bừng lên
rực rỡ và nhiều màu sắc đến đâu, chúng cũng chỉ là một quãng thời gian ngắn
ngủi. Bởi phần chính trong cuộc đời ấy là một cái gì nhạt nhoà, âm điệu
chính của cuộc đời ấy là một cái gì mòn mỏi. Mà đó không phải là trƣờng hợp
riêng của Tâm trong Cô hàng xén, của mẹ Lê, của chị Tí, của Liên, của Huệ…
Nếu không gian làng quê ban ngày gợi cho ngƣời đọc cảm giác thân
quen, thơ mộng, lãng mạn thì làng quê về đêm cũng giống nhƣ hình ảnh cuộc
sống và con ngƣời cứ chìm dần, khuất hẳn trong bóng tối. Nó gợi sự xót xa và
thƣơng cảm của ngƣời đọc dành cho những con ngƣời, những cuộc đời,
những không gian nhƣ thế. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con ngƣời
càng thê lƣơng theo cấp số cộng của cảnh đó thì lòng nhân đạo của nhà văn
nhìn từ cảnh và ngƣời ấy cũng theo cấp số nhân mà phát triển lên. Cũng đôi
lúc, trong bong tối, dƣới ánh trăng sáng, cuộc sống con ngƣời có đôi chút
niềm vui, nhƣng trong niềm vui ấy vốn đã có nỗi buồn của sự nghèo nạn,
khổ cực. “Những đêm trăng sáng mùa hạ, cả phố bắc chõng ngoài đƣờng,
vì trong nhà nào cũng nóng nhƣ một cái lò và hang vạn con muỗi vo ve.
Dƣới bóng trăng, những đá rải đƣờng trông đen và lấp lánh sáng. Đất hãy
còn giữ cái nóng buổi trƣa và mùi cát. Mọi ngƣời họp nhua nói chuyện, trẻ
108
con nghịch chạy quanh các bà mẹ. Hình nhƣ quên cái cảnh khổ sở hèn mọn,
ai ai cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cƣời to và dài của ngƣời lớn xen lẫn với
tiếng khúc khịch của các cô gái chum chụm sát nhau trong bóng tối”. (Nhà
mẹ Lê) (18, 88).
Đọc những trang văn Thạch Lam, ngƣời đọc nhận ra dấu ấn rõ nét của
làng quê Cẩm Giàng. Điều này khiến ta liên tƣởng đến không gian làng quê
trong các tác phẩm của Thanh Tịnh. Nếu nhƣ không gian Cẩm Giàng in đậm
trong văn Thạch Lam, thì không gian làng Mỹ Lý hiện rõ trong tranh văn
Thanh Tịnh. Nhƣ chính Thạch Lam từng nhận xét “Thanh Tịnh đã muốn làm
ngƣời mục đồng ngồi dƣới bóng tre thổi sáo để ca hát những đám mây và làn
gió lƣớt bay trên cánh đồng, ca hát những vẻ đẹp của đời thôn quê”. Không
gian ấy đƣợc ngụ vào trong một địa danh cụ thể - một địa danh có thể không
có thật trên bản đồ nhƣng rất sống động trong văn chƣơng Thanh Tịnh đến trở
thành một không gian nghệ thuật đầy ám ảnh: làng Mỹ Lý. 10 trong số 13
truyện ngắn của tập Quê mẹ Thanh Tịnh viết về Mỹ Lý. Đó là một làng quê
nhƣ bao làng quê Việt Nam khác, bề ngoài, vẫn giữ đƣợc dáng vẻ êm đềm có
phần cổ kính, nên thơ (chứ không ngột ngạt, căng thẳng nhƣ làng Đông Xá
vào kỳ sƣu thuế trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay làng Vũ Đại bức bối,
“quần ngƣ tranh thực” của Nam Cao và của bao làng quê khác trong văn học
hiện thực). Nhƣng thực chất bên trong cái làng Mỹ Lý ấy đang âm thầm diễn
ra một cuộc đổi thay các nền nếp, giá trị về cả chất và lƣợng. (15, 89)
Thực ra, không gian trong truyện ngắn Thạch Lam nghiêng nhiều về
phía “phố” hơn là “làng”. Bởi chính Cảm Giàng – làng quê vùng đồng bằng
Bắc Bộ cũng đã in dấu ấn của “phố”. Một vùng quê – phố có ga xép tàu lửa đi
qua in dấu vào trang văn gợi cảm giác thân quen. Nó vừa mang nét truyện
thống của làng quê Bắc Bộ, vừa mang dấu ấn của sự xâm nhập không gian
phố về không gian làng. Tuy nhiên, sự “xâm nhập‟ ấy chƣa rõ nét, bởi con
109
ngƣời ở đó vẫn cố giữ nét đẹp truyền thống.
3.3.1.2. Không gian phố thị
Lê Văn Truyên đã rất đúng khi nhận xét rằng “truyện của Thạch Lam
nghiêng về phía phố, truyện Thanh Tịnh nghiêng về phía làng, truyện Hồ
Dzếnh, Đỗ Tốn đặt trong thế tƣơng quan tranh chấp giữ làng và phố” (15, 88)
Đọc tác phẩm Thạch Lam nói chung và truyện ngắn Thạch Lam nói
riêng, ta thấy rõ sự hiện diện của không gian „„phố‟‟ trong đời sống con ngƣời.
Hai đứa trẻ là truyện ngắn đầy chất thơ đƣợc xây dựng trên phông nền làng
quê Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng Tám. Ở đó, ta thấy nét đẹp thanh bình
yên ả của làng quê, thấy những cảnh sắc đặc trƣng, con ngƣời với tính cách
đặc trƣng. Nhƣng ở đó, ta cũng thấy diện mạo có phần „„pha trộn‟‟ của
„„làng‟‟ và „„phố‟‟. Phố huyện về đêm có nét vẽ đặc trƣng về „„phố‟‟ : không
gian chật chội, cuộc sống mƣu sinh chật vật, cuộc đời con ngƣời lay lắt. Ở
phố, ngƣời phụ nữ hiện ra nhƣ những đốm sao băng, nhƣ Liên và Huệ trong
Đêm ba mươi, chìm nghỉm với cuộc sống mƣu sinh trong cuộc đời giang
hồ; nhƣ mẹ Lê, liều chết tìm gạo cho con lần cuối (Nhà mẹ Lê); nhƣ mẹ
Hiên, vì nghèo không mua nổi áo ấm cho con nhƣng lại dạy con bài học
làm ngƣời – không tham của (Gió lạnh đầu mùa), nhƣ bà của Thanh, hiện
lên vẻ đẹp nhân từ, phúc hậu, với tình thƣơng cháu vô bờ bến (Dưới bóng
hoàng lan)… Họ là những số phận bị xã hội lãng quên trong những góc
phố huyện ẩm thấp, đầy rác rƣởi, trong những mảnh vƣờn cô quạnh chỉ
mình ta đối thoại với ta về cái khổ.
Trong không gian phố, dƣờng nhƣ có hai phạm trù phố khác nhau.
Không gian trong Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ cũng là phố, nhƣng phố nhỏ, phố
huyện vẫn mang đậm chất quê, đặc trƣng quê, và không gian phố ở thủ đô, ở
thành phố lớn lung linh ánh đèn, đối lập hoàn toàn với những thứ ánh sáng
nhỏ bé, yếu ớt, lay lắt nói phố huyện. Do đó, khi nói „phố‟, luận văn đề cập
110
đến các thành phố lớn, những đô thị trung tâm của xã hội lúc bấy giờ.
Phố hiện lên trong hồi tƣởng của cô bé Liên trong Hai đứa trẻ dƣờng
nhƣ đối lập nhiều lắm với không gian làng quê phố huyện nghèo mà cô đang
sống. „„Liên hồi tƣởng lại những ngày còn nhỏ ở Hà Nội với bao kỉ niệm dồn
dập hiện về mơ mơ thực thực, để rồi chỉ còn lại ấn tƣợng về một thành phố có
nhiều đèn với những vùng sáng rực và lấp lánh‟‟ „„Kỷ niệm còn nhớ lại không
gì rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và laaos lánh, Hà Nội nhiều đèn quá‟‟.
Không chỉ trong Hai đứa trẻ, không ít lần Thạch Lam nhấn mạnh vào sự đối
lập phố - làng. Trong Người bạn cũ, nhân vật „tôi‟ trong một đêm tối đã cảm
nhận „„cảnh tịch mịch một đêm khuya ở tỉnh nhỏ thật buồn bã, khiến tôi lại
nhớ đến những đêm náo nhiệt, đầy ánh sáng ở Hà Nội‟‟ (18, 14).
Rõ ràng, „phố‟ gắn nhiều với Hà Nội. Nhƣng Hà Nội sáng rực với mặt
hồ Gƣơm phẳng lặng không chỉ có những buổi tối trong rạp chiếu phim nhƣ
Bà Đầm, những buổi chiều „‟ở Hà Nội chị đƣợc hƣởng những thức quà ngon,
lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền – đƣợc đi chơi bờ hồ uống những cốc nƣớc
lạnh xanh đỏ‟‟. Trong ánh sáng rực rỡ ấy, có phải cuộc sống con ngƣời
cũng sáng rực niềm vui ? Đọc truyện ngắn Thạch Lam, ta thấy hình nhƣ
không phải thế.
Dù những ngƣời giàu, ngƣời nghèo, dù sống ở làng, hay phố, ta vẫn
thấy những kiếp ngƣời nhỏ bé, lay lắt.
Trong không gian phố lung linh sắc điện, rực rỡ ánh sáng, ngƣời phụ
nữ có cuộc đời không mấy tƣơi sáng, cũng giống nhƣ cuộc đời chung của
ngƣời dân Việt Nam trƣớc Cách mạng.
Ở một góc phố nào đó, Trong bóng tối chiều, „„Diên đứng nép mình
vào cửa hàng nƣớc, nhìn sang bên kia phố : một đám thợ nữ chen nhau trong
cổng nhà máy đi ra, ngƣời nào cũng có dáng mệt mỏi; cái ánh sáng buổi trƣa
mùa đông tuy mờ sạm cũng đủ làm họ nhấp nháy mắt và đƣa tay lên che, nhƣ
111
những ngƣời vừa bƣớc trong bóng tối ra‟ (18, 144). Ở một góc phố khác,
„„con đƣờng phố vắng ngƣời, một cái xe tay đằng xa đi lại, anh phu xe co ro
vì rét, hai tay giấu dƣới manh áo tơi tàn...Qua ô Yên Phụ, nhìn thấy những thợ
tuyền tấp nập làm việc dƣới ánh đèn trong những căn nhà lá lụp xụp...Đến
hàng Bột, hỏi dò những ngƣời chung quanh xƣởng xe, tôi biết đƣợc anh phu
xe bị phạt đêm ấy là Dƣ, ở trong một dẫy nhà quá ngã tƣ Khâm Thiên...một
dãy nhà lụp xụp và thấp lè tè, xiêu vẹo trên một cái đầm mà nƣớc đen và hôi
hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thủi ấy, sống một
đời khốn nạn của những ngƣời gầy gò, rách rƣới nhƣ những ngƣời một một
cơn mê‟‟(18, 31, 32) (Một cơn giận). „„Mƣa bụi vẫn bay tơi tả, hình nhƣ ở
bóng tối khắp nơi dồn lại quãng phố hẹp này. Trên hè ƣớt át và nhớp nháp
bùn, không một bóng ngƣời qua lại. Cái vắng lạnh nhƣ mênh mông ra tận đâu
đâu ở khắp cả các phố Hà Nội đêm nay‟‟ (18, 203) (Tối ba mươi).
Vậy là, trong hồi tƣởng của những ngƣời đã xa phố, xa chốn phồn hoa
của thủ đô về làng quê, thì phố đẹp lung linh với những ánh đèn rực rỡ, còn
phố trong mắt những ngƣời ở lại, những kiếp sống lay lắt cùng cực thì ngƣợc
lại. Cũng giống nhƣ ở làng quê, cuộc sống con ngƣời nơi phố thị nghèo đói,
chật vật trong miếng cơm manh áo.
Trong không gian phố thị ta nhận ra những bi kịch đau đớn: Ngƣời vợ
đáng thƣơng của anh phu xe Dƣ nghèo đói, bất lực vì chồng phải trốn, con
chết trong vòng tay mình (Một cơn giận); Hai chị em Huệ và Liên lay lắt qua
ngày, sống cuộc đời tủi nhục của những cô gái làng chơi (Tối ba mươi); Mai
bị sa ngã, bị dụ dỗ, dần đánh mất phẩm chất quý báu của mình (Trong bóng
tối chiều). Những ngƣời phụ nữ không thoát khỏi sự ám ảnh của cái nghèo dù
họ ở nông thôn hay thành thị.
Nói về không gian phố thị, trong Hà Nội Băm sáu phố phường, phố
đƣợc Thạch Lam miêu tả dƣới một góc nhìn khác. Thiên tùy bút này phần lớn
112
dánh cho văn hóa ẩm thực của ngƣời Hà Nội. Các „„ thức quà‟‟ của Hà Nội
dƣới ngòi bút của Thạch Lam không chỉ đơn thuần là một miếng ăn thuần túy
mà sâu hơn là những giá trị tinh thần, là những nét đẹp văn hóa, không chỉ
cho hiện tại mà con lƣu giữ đến muôn đời sau. Ngắm nhìn Hà Nội với tƣ cách
ngƣời trong cuộc, Thạch Lam ngỡ ngàng nhận ra „„Hà Nội đã thay đổi nhiều
lắm. Những phố cũ, hẹp và khuất khúc, với những nhà thò ra thụt vào, những
mái tƣờng đi xuống từng bậc nhƣ cầu thang, những cửa sổ gác nhỏ và kín đáo,
đã nhƣờng chỗ cho những phố gạch thẳng và rộng rãi, với những dãy nhà
giống nhƣ đứng xếp hàng. Thẳng và đứng hàng, đó là biểu hiện của văn
minh‟‟ (Người ta viết chữ Tây). Không gian ấy cũng gắn nhiều với những cô
hàng bún, những thiếu nữ „„thƣớt tha khuê các‟‟. Nhƣng đó là Hà Nội trong
nét văn hóa truyền thống – Hà Nội với băm sáu phố phƣờng mà đến nay ta
vẫn còn tìm lại đƣợc gần nhƣ nguyện vẹn trên phố Cổ. Nhƣng, bƣớc ra khỏi
khu phố Cổ, những dấu ấn của cuộc sống thành thị đã khiến diện mạo thành
phố thay đổi. Cuộc sống mƣu sinh chật vật của những con ngƣời nghèo khổ,
đói rét nhƣ trong Một cơn giận, Trong bóng tối chiều,...khiến Hà Nội không
đƣợc cảm nhận bởi nét đẹp truyền thống ấy nữa. Khác hoàn toàn với tùy bút
Hà Nội băm sáu phố phường, phố thị trong truyện ngắn Thạch Lam là không
gian của những kiếp sống đói nghèo, chật vật trong miếng cơm manh áo.
3.3.2 Thời gian nghệ thuật
Thời gian cũng là yếu tố quan trọng của nghệ thuật, góp phần định hình
phong cách nhà văn. Các tác giả truyện ngắn trữ tình thƣờng sử dụng yếu tố
này nhƣng mỗi ngƣời có một sở trƣờng riêng. Trong truyện ngắn Thạch Lam,
ở phạm trù thời gian, chúng tôi chọn cách phân chia làm thời gian quá khứ và
thời gian hiện tại. Thông thƣờng, các tác phẩm truyện ngắn thƣờng đƣợc sắp
xếp theo thời gian tuyến tính và thời gian phi tuyến tính, và tần suất thời gian
phi tuyến tính xuất hiện nhiều hơn. Trong thời gian phi tuyến tính, ta nhận
113
thấy thông thƣờng, nhân vật thƣờng đƣợc kể ở hiện tại, nhƣng lại đan xen
những câu chuyện, những hình ảnh của quá khứ. Cách sử dụng thời gian phi
tuyến tính giúp nhà văn dễ dàng diễn tả tâm lý nhân vật kết hợp chất thơ trong
những sáng tác của mình. Cùng với nó là cách đối đáp nhẹ nhàng, tinh tế giữa
các nhân vật.
Thời mà Thạch Lam sống là thời của những bàn giao miễn cƣỡng và tất
yếu của lịch sử, của những giá trị. Đó là thời của những rạn vỡ và mất đi,
không gì cƣỡng chống của những giá trị cũ (nói chung) và cái mới đang từng
bƣớc thay thế cái cũ. Trên con đƣờng hành hƣơng về quá vãng, Thạch Lam
gặp Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh. Nhƣng nếu Nguyễn Tuân tiếc nuối
một thời và muốn làm sống lại cả một thời xƣa cũ bằng cách gợi lại „„vẻ đẹp
và những cao quý riêng‟‟, từ cái thú thả thơ, đánh thơ đầy uyên thâm, đến
một vị trà quý phái, từ cái thú nhấp nháp hương cuội một ngày đầu xuân, đến
một tóc chị Hoài... để tìm lại vang bóng một thời đã đi không bao giờ trở lại ;
và nếu Hô Dzếnh, Thanh Tịnh tìm về với ký ức tuổi thơ, nhìn bằng con mắt
trẻ thơ một chân trời cũ buồn bã hay một quê mẹ xa vời, thì với Thạch Lam,
dĩ vãng luôn trở về, đan xen vào hiện tại một cách chắc chắn, thƣờng xuyên
và tác giả Gió đầu mùa bao giờ cũng đứng ở vị trí của một ngƣời đã trƣởng
thành, đã trải nghiệm để „„nhớ lại‟‟, „„mơ hồ cảm thấy‟‟, „„mang máng nhớ
lại‟‟...một dĩ vãng có thể rất xa : những ngày còn trẻ nhƣng cũng có lúc thật
gần ; ngày hôm qua, một khoảng khắc trƣớc đó...Giống nhƣ Hồ Dzếnh,
Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Lƣu Trọng Lƣ, Thế Lữ, Thạch Lam mãi là „„đứa
trẻ‟‟ đi tìm cái đẹp đã mất của thế giới „„đã sập đổ‟‟. Dù muốn hay không, với
Thạch Lam và những nhà văn ấy, quá khứ đã qua là qua hẳn. Mang theo
những gì đẹp đẽ tinh hoa của cả một thời. Nhƣng với Thạch Lam, thời gian
trong truyện ngắn của ông không chảy theo dòng lịch sử mà chảy trôi theo
114
dòng cảm giác của nhân vật.
3.3.2.1 Thời gian quá khứ
Thời gian quá khứ hiện diện trong truyện ngắn Thạch Lam đƣợc đánh
dấu bằng những cụm từ „„nhớ lại‟‟, „„tƣởng tƣợng ra‟‟, „„lờ mờ thấy‟‟ ,
„„thoáng qua‟‟, „„thoáng hiện‟‟, „„hình nhƣ‟‟, „„tựa nhƣ thấy‟‟,...xuất hiện
thƣờng xuyên, liền với dòng suy tƣởng của các nhân vật. Dĩ vãng trong
truyện ngắn Thạch Lam không phải là một thời đại đã qua đi và sụp đổ, không
phải là một xã hội đang tan rã dần cùng những giá trị mà nó tạo nên, mà là
con ngƣời đang đánh mất quá khứ của mình, đánh mất một cách vô tình và
hoang tàn đến mức hồn nhiên. Trong cái quá khứ bị đánh mất có hƣơng hoa
sắc lá dịu mát trong lành, có một khoảng đời trong trẻo, có một mối tình trinh
bạch, có tiếng cƣời của một cô bạn gái thuở ấu thời, và một khoảng sân dất
mát rƣợi bóng hoàng lan,... Quá khứ ấy có thể đã xa xôi lắm rồi, nhƣng có khi
mới chỉ là buổi chiều hôm qua. Dù xa hay gần, thì quá khứ bao giờ cũng đẹp,
và cái đẹp ấy đang mất đi, không gì cƣỡng nổi.
Quá khứ hiện ra ở không gian nửa phố nửa huyện của làng quê trong
hầu hết các sáng tác Thạch Lam, nhƣng một phần hình thành qua chính những
cảm giác và những cảnh ngộ của nhân vật. Đó là sự tan vỡ vừa đau xót vừa tất
yếu của những mối tình đầu, của những cặp uyên ƣơng vừa yêu nhau đã nhìn
thấy trƣớc sự chia ly, những Bình và Lan (Tình xưa), Diên và Mai (Trong
bóng tối chiều), Bính và Hậu (Nắng trong vườn), Tuấn và Mai (Đêm trăng
sáng), Trinh và Tâm (Trở về)... Ở đấy, những ngƣời đang yêu lo sợ nhất là
khi phải đối mặt với hai kẻ tình địch : thời gian và thành thị. Thời gian đồng
nghĩa với những linh cảm chẳng lành về một sự biệt ly mãi mãi. Thị thành
đồng nghĩa với những đổi thay, quyến rũ, quên lãng.
Trong quá khứ, tình yêu của những cô gái, chàng trai lãng mạn, đẹp
làm sao. Diên và Mai Trong bóng tối chiều từng „„len lỏi đùa nghịch trong
115
những vƣờn sắn sƣờn đồi. Mai là một cô gái tinh nghịch và lanh lời, hay cƣời
nói luôn miệng. Còn Diên là một anh trai ít nói và nhút nhát. Hai ngƣời yêu
mến nhau từ thuở nhỏ với mối tình yêu mộc mạc và đằm thắm của những
ngƣời nhà quê‟‟. Lan và Bình trong Tình xưa đã có những phút giây „„tôi để
tay lên tay nàng. Lan rung động cả ngƣời, toàn thân nàng mềm mại. Nàng ngả
ngƣời trên vai tôi...tôi biết rằng từ đây Lan sẽ là một vật của tôi, và tôi muốn
làm gì nàng cũng đƣợc‟‟. Sinh và Mai trong Đói từng vƣợt qua sự ngăn trở để
đến với nhau. „„Đôi vợ chồng đã cùng nhau sống những ngày sung sƣớng, ái
ân, những ngày còn để lại trong trí chàng một cái kỷ niệm êm đềm, mà mỗi
khi nghĩ tới, chàng không khỏi bồi hồi‟‟. Tâm và Trinh trong Trở về cũng
từng có những phút giây ở „„cái đời thôn quê giản dị và sung sƣớng. Chàng
mơ màng yêu một cô thôn nữ, và ƣớc mong cùng nhau sống trong cảnh thanh
bình dƣới một túp lều tranh‟‟. Tâm và cậu giáo Bài trong Cô hàng xén thì
„„bốn mắt nhìn nhau : Tâm má đỏ bừng, tay không biết làm gì. Cậu Giáo
ngƣợng nghịu, nửa muốn ngồi xuống bên nàng, nửa không dám‟‟. Với Liên
trong Một đời ngƣời là mối tình với Tâm – ngƣời nàng quý mến từ thủa nhỏ.
Những tình cảm đẹp trong quá khứ ấy có lúc rất xa xôi, và dƣờng nhƣ đôi lúc
vẫn còn vƣơng vấn ở thực tại, nhƣng cũng có khi đã biến mất hoàn toàn.
Trong tình yêu của những chàng trai cô gái, quá khứ là cái gì đó đẹp, lãng
mạn, thơ mộng vô cùng.
Dĩ vãng ùa về trong tâm trí, tâm tƣởng của các nhân vật truyện ngắn
Thạch Lam không chỉ là quá khứ đẹp về tình yêu, mà còn là quá khứ thanh
bình, yên ả, cuộc sống sung túc.
Đó là quá khứ của Liên và An trong Hai đứa trẻ gắn với những ánh đèn
sáng rực, lấp lánh, những buổi đi chơi ăn kem ở bờ Hồ, khi „„mẹ Liên còn có
nhiều tiền‟‟, khi thầy Liên còn chƣa mất việc. Quá khứ của Sinh và Mai
những ngày hạnh phúc khi Sinh „„còn là một ngƣời lắm tiền‟‟. Dung trong
116
Hai lần chết cũng từng có cuộc sống bình yên. Dù là đứa trẻ không nhận đƣợc
tình yêu thƣơng của cha mẹ, nhƣng Dung vẫn đƣợc vui chơi thoải mái, đƣợc u
già chăm sóc, bế ẵm, chăm chút, quý nhƣ con đẻ. Đó còn là quá khứ của Liên
và Huệ trong Tối ba mươi. Hai cô gái ấy từng có gia đình : Khi mẹ Liên chƣa
chết, cha Liên chƣa đi lấy vợ; khi Huệ chƣa bỏ gia đình mà đi. Nhìn cuộc đời
những nhân vật ấy, ta nhận ra quá khứ đối lập hoàn toàn với hiện tại. Nếu quá
khứ sung túc, lắm tiền nhiều của, thì hiện tại nghèo đói, chật vật với cuộc
sống mƣu sinh. Nếu quá khứ êm đềm, thì hiện tại đầy bão táp. Nếu quá khứ
có một gia đình êm ấm, hạnh phúc, thì hiện tại cô đơn, trơ trọi, phải đối diện
với cuộc đời đầy éo le, bất hạnh.
Riêng với những ngƣời phụ nữ, quá khứ của họ không chỉ gắn với tình
yêu đẹp, gắn với cuộc sống bình yên sung túc, mà đó còn là quá khứ với nhan
sắc, với nét đẹp hồn nhiên, tinh khôi thiếu nữ. Giống nhƣ Lệ Minh trong
Người bạn cũ là cô gái „„óng ả biết bao trong chiếc áo vải rồng, đi đâu cũng
cổ động dùng nội hóa mà chính cô hiến cái gƣơng diễm lệ‟‟ „„đôi mắt tinh
nhanh...gò má hây hây‟‟. Hay Tâm trong Cô hàng xén „„đôi môi đỏ nhƣ xẫm
máu”. “ Má Tâm phơn phớt đỏ”. „„Má nàng hồng hơn, môi nàng thắm thêm”
3.3.2.2. Thời gian hiện tại
Nếu quá khứ trong truyện ngắn Thạch Lam là sự mơ hồ của những kí
ức đẹp, dĩ vãng một thời về cuộc sống sung túc, kỉ niệm vui vẻ, cuộc sống
nghĩa tình, tình yêu trong sáng, thì hiện tại dƣờng nhƣ đảo ngƣợc.
Thời gian khiến những chuyện tình đẹp chỉ còn là hoài niệm. Trong dĩ
vãng, họ yêu nhau, họ hạnh phúc bên nhau. Nhƣng quá khứ đã không còn bởi
trong hiện thực, cuộc tình của Bình và Lan nhanh chóng tan vỡ nhƣ bong
bóng trời mƣa, Bình lên Hà Nội và quên ngay ngƣời yêu cũ. Tuấn ra đi không
một lời hẹn ƣớc trở về và Mai phải chết vì tuyệt vọng. Diên bất lực trƣớc sự
cám dỗ bạc tiền đành chịu mất ngƣời yêu...Những nỗi đau, niềm ai oán của
117
những kẻ ở lại sau đƣờng xe lửa, chờ đợi vô vọng bóng dáng ngƣời yêu cứ
hun hút,...để lại cho ngƣời đọc nỗi niềm thƣơng xót, bàng hoàng nhƣ chính
mình đang trong cảnh ngộ. Những cuộc chia tay nhƣ thế của Thạch Lam, vì
thế vừa thấm đẫm nỗi buồn thân phận, lại vừa thể hiện cái nhìn hiện thực ở
tầm sâu của nhà văn. Thạch Lam đã nhìn thấy sự vận động và mất đi tất yếu
của những cái thuở xƣa, của cái đẹp và tình yêu.
Trong cuộc sống hiện thực, những ngƣời phụ nữ, thiếu nữ xƣa ý thức
về cái đẹp của mình, nhan sắc của mình bao nhiêu, thì hiện tại, họ tiêu điều xơ
xác bấy nhiêu. Nhìn cô hàng xén Tâm, cô bạn cũ Lệ Minh, ta sẽ thấy rõ sự đối
lập quá khứ - hiện tại.
Quá khứ Tâm đẹp bao nhiêu, thì giờ, sau khi phải gánh trách nhiệm
của cả nhà chồng và nhà mình, khi em Lân lên tỉnh học, khi nàng có con,
khi cậu giáo Bài chồng nàng mất việc, nhan sắc của nàng tàn phai bấy
nhiêu. Trở thành trụ cột hai gia đình, nghĩa là gánh hàng trên vai Cô hàng
xén nặng hơn gấp bội. Còn đâu „„Những cô hàng xén răng đen, cƣời nhƣ
mùa thu tỏa nắng‟‟ nữa, „„cái thời con gái duyên thắm và chờ mong đã hết
rồi. Nàng chỉ còn lại là một ngƣời đàn bà tần tảo hôm sớm để nuôi
chồng‟‟. „„Nàng đã già đi nhiều lắm. Đã lâu lắm nàng không còn chú ý
đến sắc đẹp của mình và cũng không biết nó tàn lúc nào. Sắc đẹp cũng vô
ích cho nàng khi nàng đã có chồng rồi. Tâm thấy mình già và yên tâm
trong sự đúng tuổi‟‟. Lệ Minh, cô bạn đƣợc nhắc đến trong người bạn cũ
cũng không ngoại lệ. Cái nghèo khổ làm nhan sắc cô tàn phai. „„áo sa
trùm ngoài áo cánh trắng càng làm rõ cảnh nghèo khổ ẩn ở trong ; hai túi
nhét đầy những thứ lạ, há hốc miệng nhƣ kêu đói ; một giải lƣng lụa đã
ám màu xơ xác thoáng qua sợi sa thƣa‟‟ ; „„đôi mắt tinh nhanh buổi trƣớc
bây giờ lờ đờ nhƣ bị ám sau cái màn lo nghĩ, đôi má hây hây nay không
biết vì tuổi hay vì phiền não ở đời, đôi má kia đã thành ra hóp lại, hai gò
118
má nổi cao, phải chăng để tiêu biểu cho kẻ số phận vất vả long đong‟‟.
Nếu trong quá khứ, cuộc sống nhân vật truyện ngắn Thạch Lam có
phần sung túc, hạnh phúc hơn thì trong hiện tại, cuộc sống là sự ám ảnh về cái
nghèo, đói. Thời gian đƣợc kéo dài ra, đẩy đến tận cùng, nhƣ là sự bùng nổ
của mọi cái bất hạnh, mọi giới hạn. Cho tới một ngày, mẹ Lê phải liều mình
và đã chết giữa lúc đàn con đói lả (Nhà mẹ Lê). Ngƣời lính già chui trong xó
tối của một quán nƣớc trống toang không manh áo che thân (Người lính cũ).
Mai và Sinh đánh mất nhân cách vì miếng ăn (Đói) (Mai quay lại con đƣờng
cũ vì không muốn nhìn cảnh chồng đói lả ngƣời, còn Sinh dù sỉ vả vợ không
tiếc lời, nhƣng cơn đói là chàng vồ lấy miếng đồ ăn nhai ngấu nghiến). Liên
và Huệ sống những ngày tủi nhục trong một xó phòng bẩn thỉu, chật hẹp,
nhớp nháp nhìn ngày tháng trôi (Tối ba mươi). Dung (Hai lần chết) chịu đựng
những ngày còn lại của cuộc đời với bà mẹ chồng giàu và keo kiệt, „„còn hai
em chồng nàng thì ghê gớm lắm, thi nhau cho nàng bị mắng thêm‟‟ „„công
việc nặng nhọc : tát nƣớc, nhổ cỏ, làm lụng đầu tắt mặt tối suốt cả ngày‟‟ „„lần
này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu vào đâu
đƣợc, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng nữa rồi‟‟. Liên trong Một đời
người thì phải sống với ngƣời chồng vũ phu không có tình yêu, với những
trận đòn không có điểm dừng, bà mẹ chồng ác nghiệt, đứa con cũng xấc láo
nhƣ bố... Trong cơn khốn cùng, những con ngƣời tội nghiệp đó vẫn chƣa hết
bàng hoàng, lo âu ngơ ngác trƣớc những chuỗi ngày xám ngắt đang nặng nề
lăn về phía trƣớc, bỏ qua mọi gắng gƣợng, cố sức, nhẫn nại của họ và dƣờng
119
nhƣ không để lại một hy vọng nào.
PHẦN KẾT LUẬN
Từ nhân vật ngƣời phụ nữ, luận văn hƣớng tới sự khái quát về vai trò
ngƣời phụ nữ trong thế giới nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam nói riêng
cũng nhƣ thế giới nhân vật của Thạch Lam nói chung :
Từ xƣa đến nay, ngƣời phụ nữ vẫn luôn là đối tƣợng nhận đƣợc nhiều
sự quan tâm của các nhà thơ, nhà văn. Đã có rất nhiều tác phẩm hay đề cập
đến cuộc đời và số phận của ngƣời phụ nữ.
Khảo sát nhân vật ngƣời phụ nữ trong sáng tác Thạch Lam nói chung,
truyện ngắn Thạch Lam nói riêng, chúng tôi nhận thấy, ngƣời phụ nữ là nhân
vật đƣợc nhà văn quan tâm. Ông đã giành nhiều trang văn viết về cuộc sống
và thân phân của họ trong mối tƣơng quan với cuộc sống xã hội và cuộc sống
gia đình.
Cục diện chính trị biến động, trong khi những tƣ tƣởng phong kiến cũ
vẫn còn, những tƣ tƣởng canh tân du nhập từ phƣơng Tây đã mang đến cho xã
hội Việt Nam những làn gió mới. Vậy là, xã hội lúc bất giờ có sự „„pha tạp‟‟ :
những giá trị đạo đức truyền thống cũ vẫn tồn tại song hành cùng những tƣ
tƣởng văn hóa mới
Sống trong xã hội biến động và nhiều luồng tƣ tƣởng ấy, ngƣời phụ nữ
vừa chịu ảnh hƣởng, vừa không bị ảnh hƣởng. Họ bất biến trong sự biến đổi,
nhƣng cũng không ít ngƣời trở thành nạn nhân của xã hội.
Dù đến thời điểm có nhiều tƣ tƣởng tiến bộ, nhƣng tam tòng tứ đức
dƣờng nhƣ đã ăn sâu trong tâm trí ngƣời phụ nữ, trở thành bản năng của mỗi
ngƣời mẹ, ngƣời vợ, ngƣời con gái. Do đó, xã hội không làm ảnh hƣởng đến
cuộc sống vốn có của ngƣời phụ nữ. Họ vẫn cam chịu, không kêu than, tình
120
nguyện thực hiện đúng trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
Nhiều trƣờng hợp, ngƣời phụ nữ trở thành nạn nhân của xã hội: sự gả
bán con gái, cuộc hôn nhân gƣợng ép, sự phân chia giai cấp. Và không ít
ngƣời trong số đó đã trở lên tha hóa, sống cuộc đời giang hồ trụy lạc. Tuy
nhiên, khi viết về họ, Thạch Lam đã giành những trang văn ƣu ái.
Trong mối quan hệ với gia đình, nhân vật của Thạch Lam thƣờng là
những ngƣời phụ nữ có cuộc sống cơ cực, kém may mắn. Sự bất hạnh của họ
có thể vì ngƣời chồng vũ phu, bà mẹ chồng ác nghiệt, cũng có thể là do sự hờ
hững của ngƣời thân, hoặc do những đứa con bất hiếu.
Mỗi ngƣời phụ nữ có một cuộc đời, một số phận riêng, nhƣng, Thạch
Lam luôn nhìn thấy điểm chung ở họ : những con ngƣời mang phẩm chất cao
đẹp của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Dù bất kì hoàn cảnh nào, ta cũng thấy ánh
lên ở họ tâm hồn Việt Nam với trác nhiệm, tấm lòng hy sinh cao cả, sự cảm
thông chia sẻ, yêu thƣơng và hƣớng thiện.
Bên cạnh trách nhiệm với gia đình, ngƣời phụ nữ luôn có những tình
cảm và khao khát riêng tƣ : Ƣớc mơ thay đổi cuộc đời, ƣớc mơ thoát khỏi cái
nghèo đói, ƣớc mơ có đƣợc tình yêu cho riêng mình.
Nhƣ vậy, ngƣời phụ nữ trong truyện ngắn Thạch Lam mang đầy đủ
những đặc điểm đặc trƣng của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Nhìn từ góc nhìn lý
thuyết giới, ta còn nhận ra họ ánh lên những đặc điểm của nữ giới nói chung.
Đó là sự ý thức sâu sắc về vẻ đẹp nữ giới cùng với thiên chức làm vợ, làm mẹ
bản năng của mỗi ngƣời.
Nhìn từ phƣơng thức biểu hiện, chúng tôi nhận thấy nhân vật phụ nữ
đƣợc Thạch Lam xây dựng từ ngoại hình đến tâm lý. Tuy sự xuất hiện của hai
yếu tố trên không phải lúc nào cũng đồng thời, cân bằng, nhƣng, ngƣời đọc
vẫn có thể hình dung, vẫn cảm thấy thân quen, nhƣ một ngƣời phụ nữ thân
121
thuộc nào đó trong cuộc sống hàng ngày bƣớc vào trong trang văn.
Để xây dựng hình tƣợng nhân vật, nhà văn đã dùng ngôn ngữ trữ tình
với nhiều góc độ khác nhau. Khi dùng ngôn ngữ trần thuật, giọng văn Thạch
Lam nhẹ nhàng, giàu tình yêu thƣơng. Khi hóa thân vào tác phẩm, trong ngôn
ngữ nhân vật, dù đối thoại hay độc thoại, ta vẫn nhận ra sự nhẹ nhàng, tinh tế
trong ngôn ngữ.
Cuối cùng, ta nhận ra các nhân vật phụ nữ của Thạch Lam thƣờng xuất
hiện trong hai phông nền chính : làng quê với những phố huyện nhỏ buồn tẻ,
hiu hắt và phố thị rực rỡ ánh đèn nhƣng vẫn có những kiếp ngƣời lay lắt. Và
thời gian tác phẩm có thể kéo dài một ngày, vài ngày, vài năm, thậm chí là cả
một đời ngƣời. Khi nói về thời gian, ta nhận thấy nhân vật thƣờng xuất hiện ở
hiện tại, nhƣng thƣờng có dấu ấn của quá khứ.
Qua sự nghiên cứu (vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ) của luận văn, chúng
tôi đi đến kết luận: Thạch Lam là tác giả giữ vị trí quan trọng trong văn đàn
30 – 45. Ông là gạch nối của hai trào lƣu: văn học hiện thực phê phán và văn
122
học lãng mạn với văn phong nhẹ nhàng và tinh tế.
1. Lê Kim Anh, Thạch Lam, Tạp chí văn học, số 3, 1990.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú, Thạch Lam về tác gia và tác phẩm,
Nxb Giáo Dục 2007.
3. Lại Nguyên Ân, Giải pháp điều hòa xã hội trong văn Thạch Lam, Sách
Thạch Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.
4. Trần Ngọc Dung, Phong cách truyện ngắn Thạch Lam, Thạch
Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.
5. Phan Cự Đệ, Tự lực văn đoàn – con người và văn chương, Nxb
Văn học, 1990.
6. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hựu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành
Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức, Văn học Việt Nam 1900 – 1945,
Nxb Giáo dục 2008.
7. Hà Văn Đức, Thạch Lam, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, tập 27, Nxb Khoa
học xã hội, 1996.
8. Hà Văn Đức, Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học,
NXB ĐHQGHN, HN, 2006, tr. 341-357
9. Vu Gia, Thế Lữ, Vũ Ngọc Phan, Thạch Lam của cái đẹp, Nxb
Văn hóa – thông tin, 2000.
10. Hồ Thế Hà, Truyện ngắn Thạch Lam – đặc điểm không gian nghệ thuật,
Thạch Lam - văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.
11. Hồ Sĩ Hiệp, Khái Hưng Nhất Linh và Thạch Lam, Nxb Văn nghệ, Hồ Chí
Minh, 1996
12. Đinh Hùng, Tìm hiểu Thạch lam thêm một vài khía cạnh, tạp chí Văn, Sài
gòn, 1965.
123
13. Khái Hƣng, Một quan niệm về văn chƣơng, báo “Ngày nay”, số 89, 1937.
14. Phạm Thị Thu Hƣơng, Quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí Văn học số 3, 1993.
15. Phạm Thị Thu Hƣơng, Luận án PTSKH Ba phong cách truyện
ngắn trữ tình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 THẠCH LAM
– THANH TỊNH – HỒ DZẾNH , Đại học Sƣ phạm Hà Nội, 1995.
16. Thạch Lam, Gió đầu mùa, Nxb Đời nay, 1937
17. (23,178) Thạch Lam, Tựa Chân trời cũ của Hồ Dzếnh, NXB Văn
học, Hà Nội, 1988. 25.
18. Thạch Lam, Thạch Lam truyện ngắn (chọn lọc), Nxb Hội nhà văn, 2006
19. Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường, Nxb Hội nhà văn, 2006.
20. Phong Lê, Tuyển tập Thạch Lam. Nxb Văn học, 1988.
21. Phong Lê, Ngô Tất Tố - Người cùng thời với chúng ta – Tạp chí
Sông Hƣơng, 12/2003.
22. Phong Lê, Thạch Lam với Hà Nội, Phong Điệp.net
23. Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam-Nhất Linh: Ánh sáng và bóng
tối. Nxb Thanh Niên, 2008.
24. Phan Trọng Luận (chủ biên), Ngữ văn 11, tập 1, Nxb Giáo dục, 2008
25. Đặng Thai Mai, Văn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX, NXB Tác
phẩm mới, Hà Nội, 1979.
26. (11,64) Nguyễn Đăng Mạnh, Khái luận tổng hợp văn học Việt Nam, tập
30A, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983.
27. (12, 71) Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Đình Chú, Nguyên Ân, Tác giả
văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992.
28. Dƣơng Nghiễm Mậu, Thời của Thạch Lam, Tạp chí Giao điểm Sài Gòn,
số 36, 1965.
29. Dƣơng Nghiễm Mậu, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Văn
124
học hiện đại 1862 -1945, Nxb Đồng Tháp, 1988.
30. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (quyển 3).
Quốc học tùng thƣ xuất bản, 1965.
31. Vƣơng Trí Nhàn, Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, Tạp chí Văn học, số
6, 1992.
32. Bùi Tuấn Ninh, Vài nét về hình tượng người phụ nữ trong truyện ngắn
Thạch Lam, http : tapchinhavan.vn, 2013.
33. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại (tập 2). Nxb KHXH in lại năm 1989.
34. Bùi Việt Thắng, Người chắt chịu cái đẹp, Thạch Lam – văn chương và cái
đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.
35. Nguyễn Thị Thế, Người em thứ sáu, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36, 1965.
36. Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, Nxb Sóng,
Sài Gòn, 1974.
37. Nguyễn Đình Thi, Thực tại và nghệ thuật, Công việc của người
viết tiểu thuyết, Nxb Văn học, 1969.
38. Bích Thu, Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam, Khoa học và
phụ nữ, số 3, 1992.
39. Bích Thu, Sự thức tỉnh của con người trong sáng tác Thạch Lam, tạp chí
Khoa học Tổ quốc, Số 11, 1992.
40. Bích Thu, Thạch Lam và kiểu nhân vật „„tự thức tỉnh‟‟, Thạch Lam – văn
chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1994.
41. Đinh Quang Tốn, Thạch lam và quê hương sáng tác, Tạp chí Văn học, số
6, 1992.
42. Đinh Quang Tốn, Thạch Lam – văn chương và cái đẹp, Nxb Hội Nhà văn,
1994.
43. Lê Minh Truyên, luận án TS Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, Hà
125
Nội, 2004.
44. Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 2, Nxb Văn học,
1982.
45. Thế Uyên, Tìm kiếm Thạch Lam, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36, 1995.
46. Nhiều tác giả, Thạch Lam – truyện ngắn và tiểu luận, Nxb Hội nhà văn,
1957.
47. Nhiều tác giả, Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy
văn học, NXB ĐHQGHN, Hà Nội , 2006, tr. 341-357
48. Nhiều ngƣời soạn, Từ điển Văn học (bộ mới). Nxb Thế giới, 2004.
49. http: vi.wikipedia.org/wiki
126
50. http: vannghequandoi.com.vn
127