ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

Bùi Hoàng Yến

KHẢO SÁT SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC PHÁP TRÊN

NAM PHONG TẠP CHÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam

Hà Nội-2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

*******

Bùi Hoàng Yến

KHẢO SÁT SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC PHÁP TRÊN

NAM PHONG TẠP CHÍ

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn Học Việt Nam

Mã số: 60 22 30

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Trần Ngọc Vƣơng

Hà Nội-2015

Lời Tri ân

Luận văn này là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu suốt ba năm

trong chương trình đào tạo Thạc sĩ, dưới tay truyền dạy, hướng dẫn nhiệt

tình, nghiêm túc và khoa học của tập thể thầy cô là các Giáo sư, Phó giáo

sư, Tiến sỹ đáng kính của trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn Hà

Nội. Vì thế, trước tiên tôi xin kính gửi đến quý thầy cô lời tri ân sâu sắc về

những tri thức và tình cảm mà các thầy cô đã dành cho tôi trong thời gian

qua!

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến người thầy - Giáo sư –

Tiến sỹ Trần Ngọc Vương, một nhà giáo mẫu mực trong nhân cách, tận

tâm trong giảng dạy và nghiêm túc, khách quan trong khoa học, người đã

tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này!

Nhân đây, tôi cũng xin gửi đến gia đình, bạn bè và những đồng

nghiệp thân thiết của tôi – những người đã động viên, giúp đỡ, tạo mọi

điều kiện tốt nhất cho tôi, trong thời gian học tập và thực hiện công trình

khoa học đầu tiên của mình – lời cảm ơn chân thành, thắm thiết!

Hà Nội ngày 09 tháng 02 năm 2015

Bùi Hoàng Yến

MỤC LỤC

A - MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

1. Lý do chọ đề tài. ................................................................................... 1

2. Mục đích nghiên cứu – Ý nghĩa thực tiễn của luận văn. .................. 4

2.1. Mục đích nghiên cứu: ....................................................................... 4

2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn. ....................................................... 5

3. Lịch sử vấn đề. ...................................................................................... 6

3.1. Trƣớc cách mạng tháng tám. ........................................................... 6

3.2. Sau cách mạng tháng Tám. .............................................................. 7

3.3. Từ năm 1975 đến nay. ...................................................................... 9

4. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu. ........................................ 10

B. NỘI DUNG ............................................................................................ 12

1. Chương 1. Nam Phong tạp chí với những bƣớc thăng trầm của lịch

sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. ............................................................. 12

1.1. Thực dân Pháp – Sự chuyển đổi chính sách xâm lƣợc. ............... 12

1.2. Sự thay đổi của đội ngũ trí thức Việt Nam khi thực dân Pháp

xâm lƣợc. ................................................................................................. 13

1.3. Công cuộc đổi thay chuyển mình của nền văn học. ..................... 15

Chƣơng II. NAM PHONG TẠP CHÍ CÙNG VỚI SỰ TIẾP NHẬN

VĂN HỌC PHƢƠNG TÂY ...................................................................... 26

2.1. Nam Phong ra đời và tiến triển. ..................................................... 26

2.1.1. Bối cảnh báo chí Việt Nam trƣớc khi Nam Phong tạp chí ra đời. ... 26

2.1.2. Nam Phong tạp chí. ...................................................................... 32

2.2. Quá trình phát triển của Văn học Việt Nam qua sự tiếp nhận văn

học Pháp. ................................................................................................. 35

2.2.1. Sự đóng góp các tác phẩm, công trình dịch thuật của các diễn

giả tiêu biểu trên Nam Phong. .............................................................. 35

2.2.2. Văn học có những thay đổi mới. ................................................. 41

CHƢƠNG 3. CÁC TÁC GIẢ ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC TRUYỀN BÁ

VĂN HÓA, VĂN HỌC PHÁP – CHÂU ÂU TRÊN NAM PHONG. ... 68

3.1. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Phạm Quỳnh (1892 - 1945). ................ 68

3.2. Các tác giả đóng góp trên Nam Phong. ......................................... 74

3.2.1. Nguyễn Bá Trác (1881 – 1845) – Lối văn „ám chỉ” và “hàm

súc”. ......................................................................................................... 75

3.2.2. Nguyễn Hữu Tiến (1875 – 1941) – Nhà biên khảo, dịch thuật tài

năng. ........................................................................................................ 77

3.2.3. Nguyễn Trọng Thuật (1993 – 1940). ........................................... 81

3.2.4. Nguyễn Bá Học (1858 – 1921). ..................................................... 82

KẾT LUẬN ................................................................................................ 86

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 90

A - MỞ ĐẦU

1. Lý do chọ đề tài.

Văn hóa Việt Nam nói chung và Văn học học Việt Nam nói riêng,

trong tiến trình lịch sử của mình đã có những cuộc tiếp xúc, ảnh hưởng lớn,

hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với văn hóa, văn học nước ngoài. Trong quá

trình tiếp xúc ấy, văn hóa - văn học Việt Nam đã tiếp nhận, chắt lọc tinh

hoa của nhân loại để tự làm phong phú bản sắc văn hóa riêng của dân tộc.

Để diễn tả những cuộc gặp gỡ kỳ lạ mà cũng hứng thú giữa các nền

văn hóa khác nhau, ở nhiều nước trên thế giới, các học giả thường sử dụng

khái niệm acculturation. Trong tiếng Việt, có người dịch thuật ngữ đó là

thụ ứng, hấp thụ, gần đây hơn thấy một số khái niệm hỗn dung, tiếp biến,

đan xen, giao thoa..v.v…Tuy nhiên thì trong Bách khoa toàn thư Mỹ định

nghĩa acculturation “là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn

hóa khác nhau, gây nên sự biến đổi trong dạng thức hóa ban đầu của một

hay cả hai bên” (Dẫn theo Hà Văn Tấn, tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật 4 -

1981). Đối chiếu với một định nghĩa nghiêm chỉnh như thế, người ta thấy

cuộc tiếp xúc giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa phương Tây, trước tiên

là văn hóa Pháp trong một vài thế kỷ gần đây, nhất là cuối thế kỷ XIX đầu

thế kỷ XX, đáng được coi là một hành động acculturation điển hình. Trong

phạm vi luận văn này, sở dĩ không dùng những giao thoa, đan xen, mà chỉ

dùng một chữ khá phổ biến là chữ tiếp nhận. Bởi lẽ, rõ ràng là trong quá

trình tiếp xúc mà chúng ta đang quan sát, sự biến đổi chủ yếu xảy ra ở một

bên (phía Việt Nam), hơn là cả hai bên (cả phía Pháp). Hơn thế nữa, phải

nhìn nhận đó là một sự biến đổi quá lớn, biến đổi hẳn trong dạng thức. Sau

khi tiếp xúc, văn hóa Việt Nam như nhào nặn lại, làm lại hoàn toàn, điều

đó là đương nhiên, theo các nhà lịch sử văn hóa thì hòa nhập vừa là đặc

trưng, là tính nội tại, vừa là điều kiện sống còn của văn hóa. Lịch sử của

mỗi nền văn hóa không chỉ là sự phát triển tự thân của nó, mà còn là lịch

1

sử của mối quan hệ giữa nó với các nền văn hóa khác. Riêng ở Việt Nam

lịch sử đã hai lần biết tới một sự cấy ghép văn hóa ngoại lai như vậy,

nhưng cả hai lần văn hóa Việt Nam đều không mất đi, không bị đồng hóa,

trong khi cải biến vẫn giữ được sắc thái riêng của mình.

Từ cuộc tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, chúng ta vẫn có những thời

kỳ phát triển độc đáo, như văn hóa Lý – Trần, văn hóa cuối Lê đầu

Nguyễn, bằng chứng cho thấy sau khi làm một cuộc thay máu hoàn toàn

dưới ảnh hưởng của văn hóa, văn học Pháp, nền văn chương Việt Nam nửa

đầu thế kỷ có được những đứa con bụ bẫm như nền tiểu thuyết hiện đại,

phong trào thơ mới.v.v..Quả thật là những bước đầu Âu hóa đã xảy ra với

muôn vàn lúng túng, và những điều ấy cũng đúng với công cuộc biến đổi

trong văn hóa tinh thần, sự biến đổi xảy ra gián tiếp chậm chạp, có khi

người này cấy trồng, người kia gặt hái.

Nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, chúng tôi nhận ra

một điều, bất kỳ cuốn sách nào, bài viết nào khi đề cập đến văn học giai

đoạn này đều nói đến Nam Phong tạp chí, có những bài nghiên cứu đã

khẳng định vai trò của Nam Phong trong quá trình phát triển của nền văn

học mới. Và cũng theo sự tìm hiểu của chúng tôi, Phạm Quỳnh và một số

tác giả tân tiến khác được coi là những nhân vật tiêu biểu của quá trình tiếp

nhận văn hóa vừa nói ở trên, ít ra là ở giai đoạn đầu của sự tiếp nhận ấy.

Người ta chỉ nghĩ đến Phạm Quỳnh như một trong những người có cơ sở

Tây học vững chắc, song sự thực trong cái môi trường văn hóa Hán Việt

rộng lớn lúc ấy. Hán học đã thấm vào ông, cả hai nền văn hoa Đông – Tây

kết hợp ở ông khá nhuần nhị. Tiếp nối sự nghiệp của những Trương Vĩnh

Ký, Huỳnh Tịnh Của, những thành tựu của giai đoạn văn hóa tiền chiến, là

khá rực rỡ, được gợi mở từ nhiều năm trước khi những người như Nguyễn

Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Tản Đà...đều xây nền đắp móng cho nền văn học

mới. Tuy có nhiều ý kiến không tích cực đối với Phạm Quỳnh, nhưng khi

2

lần giở lại Nam Phong, chúng tôi yên tâm khi tìm hiểu những đóng góp

của Phạm Quỳnh trong sự tiếp nhận văn hóa phương Tây và góp phần hình

thành nền văn hóa, văn học mới của dân tộc trong thời hiện đại.

Chúng tôi chọn Nam Phong tạp chí nhưng không phải bàn mọi điều

về Nam Phong mà chỉ chọn một đối tượng nghiên cứu chuyên ngành hẹp,

là khảo sự tiếp nhận của văn học Pháp trên tạp chí. Xét trong lịch sử báo

chí thì Nam Phong không phải là tờ tạp chí ra đời đầu tiên, nhưng nó lại có

vai trò nhiều mặt trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam trong vài

chục năm đầu thế kỷ XX. Xét về qui mô, dung lượng, mức độ sâu rộng

của kiến thức phản ánh thì không có tạp chí nào đầu thế kỷ XX có thể so

sánh với nó. Tuy lượng thông tin và qui mô rộng vậy nhưng Nam Phong

vẫn dành phần trang trọng nhất, lưu ý nhất cho văn học như : Du kí, du

hành, tiểu thuyết, tản văn, truyện ngắn, thơ ca, lý luận phê bình.v.v.Với

lịch sử văn học Việt Nam giao thời, dù muốn dù không Nam Phong đã để

lại những dấu ấn đáng kể . Trong Nam Phong số 1, năm 1917, Phạm

Quỳnh đã nói đến chủ trương văn hóa của ông “Cái mục đích của bản báo

là muốn gây lấy một nền văn học mới để thay vào cái nho học cũ, cùng đề

xướng lên một cái tư trào mới hợp với thời thế cùng trình độ dân ta. Cái

tính cách của sự học vấn mới cùng cái trào mới ấy là tổ thuật cái học vấn

tư tưởng của Thái Tây, nhất là của nước đại Pháp, mà không quên cái

quốc túy trong nước”. Trong bài viết “Bới tìm kho tư liệu của báo Nam

Phong” của Nhân Nghĩa viết năm 1941 đã từng thừa nhận “Trong suốt 18

năm trời, từ 1917 đến 1934, với 210 tập báo dày dặn đã chứng minh điều

Thiếu Sơn đã nói về báo Nam Phong “Có nhiều người không biết đọc văn

Tây, văn Tàu, chỉ nhờ Nam Phong vun đúc cũng có được cái tri thức phổ

thông tạm đủ sinh hoạt ở đời”. Trong hơn 17 năm, Nam Phong đã giới

thiệu 49 truyện và chùm truyện ngắn dịch từ nước ngoài, trong đó có 25

truyện và chùm truyện ngắn Trung Hoa và 24 truyện ngắn phương Tây,

trong đó có 22 truyện ngắn của Pháp. Truyện ngắn nước ngoài trên tạp chí

3

Nam Phong, có đóng góp nhất định trong việc giới thiệu văn học phương

Tây, văn học Trung Quốc và rèn luyện câu văn Quốc ngữ ở buổi đầu hình

thành nền văn học mới. Nam Phong thực sự trở thành vườn ươm cho quá

trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Ý thức được vai trò to lớn của

Nam Phong, càng thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài “ Khảo sát sự tiếp

nhận văn học Pháp trên Nam Phong tạp chí” làm đối tượng nghiên cứu

khoa học để thực hiện luận văn.

2. Mục đích nghiên cứu – Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.

2.1. Mục đích nghiên cứu:

Năm 1975, sau cuộc đại thắng mùa Xuân, dân tộc Việt Nam, cách

mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam

lần thứ VI – 1986 nêu vấn đề đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước

nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới. Trong không khí ấy, các

nhà nghiên cứu được khích lệ nhìn vào sự thật để đánh giá đúng chân giá

trị của các vấn đề thực tiễn phức tạp, tư duy và hành động theo quy luật

của khách quan. Trên tinh thần đổi mới ấy, văn học Việt Nam đầu thế kỷ

XX đã được nghiên cứu, nhìn nhận và đánh giá một cách thỏa đáng. Và

cũng xuất phát từ tinh thần ấy mà Nam Phong tạp chí cũng được các nhà

nghiên cứu quan tâm mặc dù xưa nay tạp chí này được coi là công cụ của

thực dân Pháp nhằm tuyên truyền phục vụ cho cuộc xâm lăng của chúng,

Phạm Quỳnh chủ nhiệm tờ báo được gọi là “bồi bút tay sai” và Nam Phong

tạp chí là tờ báo “nô dịch”.

Mặc dù vậy khi tìm hiểu chúng tôi vẫn nhận thấy trong việc đánh giá

về Nam Phong tạp chí cả trước và sau Cách mạng tháng Tám, các nhà

nghiên cứu vẫn có những điểm gặp gỡ nhau: “Trong lịch sử văn học hiện

đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong. Vì nếu ai

đọc toàn bộ tạp chí này cũng phải thừa nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho

người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư

bằng quốc văn”[31-119]. Sau này Lại Văn Hùng trong cuốn Truyện ngắn

4

Nam Phong (tuyển) có nhận xét: “Nam Phong tạp chí là một tờ báo tuy do

Pháp chủ trương nhưng về khách quan vẫn có những đóng góp đáng ghi

nhận vào sự chuyển hướng của văn hóa, văn học Việt Nam trong ba mươi

năm đầu thế kỷ”. Và hiện nay, các nhận định của các nhà nghiên cứu đều

nhất trí với nhận xét trên.

Viết luận văn này, mục đích của chúng tôi là muốn khảo một cách

khách quan về vai trò của trí thức Việt Nam trong quá trình tiếp nhận văn

hóa phương Tây đầu thế kỷ XX. Cụ thể là các tác phẩm, học giả đăng tải

trên Nam Phong tạp chí trong 17 năm tồn tại. Tạp chí đã xây dựng được

một đội ngũ sáng tác văn học mới cho thế hệ 1913 – 1932 và cả thế hệ sau,

mở ra một giai đoạn mới cho văn học, tạo đà cho văn học thời kỳ sau đổi

mới phát triển đạt nhiều thành tựu giá trị.

2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.

Xem xét và đánh giá Nam Phong tạp chí trong tiến trình phát triển,

đổi mới văn học đầu thế kỷ XX, cần phải đặt nó trong tiến trình phát triển

báo chí giai đoạn này chúng ta mới thấy được sự đóng góp của Nam Phong

cho văn học Việt Nam.

Các tài liệu nghiên cứu cho thấy, Nam Phong so với các tạp chí mang

tính văn học cùng thời thì có “văn hoạt động học” nổi bật hơn cả, chính vì

vậy tạp chí đã trở thành tư liệu không thể thiếu khi tìm hiểu và nghiên cứu

văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.

Mặc dù chỉ quan tâm đến phương diện học thuật và văn học trên Nam

Phong tạp chí, song chúng tôi cũng cố gắng ý thức một cách thật rành

mạch về tính chất hai mặt của tạp chí. Mục đích chính của Nam Phong tạp

chí là phục vụ cho âm ưu xâm lược bằng văn hóa, văn học của thực dân

Pháp, muốn “Pháp hóa” tinh thần người Việt Nam để dễ bề cai trị trong

tình trạng cuộc “chiến tranh võ trang” đã hoàn thành. Thực tế cho thấy rất

nhiều nhà nghiên cứu ở các thời điểm khác nhau đã chỉ ra, Nam Phong

thực tế có tác động hai mặt. Chính sách xâm lược văn hóa không thể như

5

súng đạn, bắn là trúng đích, hoặc đạn nổ là mục tiêu gục ngã, bởi vậy mặt

thứ hai như C.Marx nói “Công cụ lịch sử không tự giác” của Nam Phong

biến nó thành tạp chí vừa phục vụ cho chủ nghĩa thực dân vừa muốn

“tranh thủ”, “lèo lái” ngòi bút hướng tới một thứ “chủ nghĩa yêu nước xấu

hổ” và “vụng trộm”. Chính chức năng thứ hai này đã tạo ra những sản

phẩm giá trị cho giai đoạn văn học đầu thế kỷ. Tuy vậy đóng góp này chỉ

được xem xét trên tinh thần “phát sinh” của “công cụ lịch sử” chứ không

hoàn toàn thuộc về chủ đích của Nam Phong tạp chí.

3. Lịch sử vấn đề.

3.1. Trƣớc cách mạng tháng tám.

Trong cuốn “Phê bình và cảo luận” ra đời năm 1933, Thiếu Sơn nhận

xét: “Có nhiều người, không được biết văn Tây, văn Tàu nhờ Nam Phong

mà cũng có được các tri thức phổ thông tạm đủ cho sinh hoạt ở đời, có

nhiều ông đồ Nho chỉ coi Nam Phong mà cũng biết được đại khái văn

chương học thuật của Tây phương, có nhiều ông đồ Tây coi Nam Phong

mà cũng hiểu đôi cái tinh thần văn hóa Á Đông”. Trong cuốn “Việt Nam

văn hóa sử cương” (1938) đánh giá về Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh viết:

“Về phương diện văn học thì Nam Phong tạp chí theo một tôn chỉ với Đông

Dương tạp chí, dùng Việt ngữ để truyền đạt học thuật cổ kim và du nhập tư

tưởng Đông Tây, chứng rằng Việt ngữ không những chỉ thích dụng về các

lối văn chương suông mà có thể dùng viết văn về sử học, triết học và khoa

học nữa”. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân

(1942) trong phần mở đầu Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh viết:

“Những tư tưởng phương Tây đầy rẫy trên Đông Dương tạp chí, trên Nam

Phong tạp chí, và từ hai cơ quan ấy thấm dần vào các hạng người có

học…Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn

với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng

Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ

6

cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng…Chưa

bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam

Phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”[4-52].

Trong các nghiên cứu viết về Nam Phong thời kỳ này, có lẽ cuốn Nhà

văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan giành nhiều tâm lực và thời gian

nhất. Trong hai tập sách với tổng số 1179 trang giới thiệu 79 nhà văn tiêu

biểu tham gia sáng tác từ cuối thế kỷ XIX đến đầu những năm 1940 của

thế kỷ XX bằng chữ quốc ngữ có 7 tác giả của Nam Phong tạp chí : Phạm

Quỳnh (Thượng Chi); Nguyễn Bá Học; Nguyễn Hữu Tiến (Đông Châu);

Nguyễn Trọng Thuật (Đồ Nam Tử); Lâm Tấn Phác (Đông Hồ); Tương Phố

(Đỗ Thị Đàm); Phạm Duy Tốn với 101 trang sách. Vũ Ngọc Phan coi tạp

chí Nam Phong là “bách khoa toàn thư” và các nhà văn trên tạp chí thuộc

“các nhà văn lớp đầu” thời kỳ mới có chữ quốc ngữ.

Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm cũng đã có

cảm nhận khá sắc sảo về các bước chuyển biến của văn học Việt Nam từ

trung đại chuyển sang hiện đại cũng như vai trò của Nam Phong, ông đã

giới thiệu các phần mà tạp chí trình bày và đánh giá “Đã có công dịch

thuật các học thuyết của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể đạt được

các ý tưởng mới”

3.2. Sau cách mạng tháng Tám.

Năm 1949, trong cuốn Việt Nam văn học sử (trích yếu), tác giả

Nghiêm Toản đã đánh giá cao công lao của Nam Phong tạp chí và Đông

Dương tạp chí trong việc chuẩn hóa chữ quốc ngữ, đưa việc sử dụng chữ

quốc ngữ vào các lĩnh vực khoa học, văn học, triết học.v.v.v.

… “Ảnh hưởng của Nam Phong rất lớn, không những gâp dựng cho

tiếng ta cho đủ chữ phô bày hết mọi tính tình, ý niệm lại phổ thông hóa

những điểu đại cương thiết yếu trong các học thuật Đông, Tây, mới, cũ và

những điểm chính trong văn hóa cổ học như nghi lễ, phong tục, văn

7

chương…” [35-247].

Tử khoảng 1954 – 1975 các học giả, nhà nghiên cứu văn học, cả hai

miền Nam Bắc đều có những công trình nghiên cứu về Nam Phong tạp chí:

Ở miền Nam có Thanh Lãng với cuốn: Biểu nhất lãm văn học cận đại

(1682 – 1945) tập I (1958); Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1976). Ở cả

hai cuốn sách này, Thanh Lãng đã đánh giá khá cao Nam Phong tạp chí

trong tiến tình văn học Việt Nam. Nếu ở cuốn thứ nhất ông đánh giá chung

về Phạm Quỳnh “là một tập sự của thế hệ văn học 1862 – 1913 để biến

thành một tay chỉ đạo trong thế hệ văn học 1913 – 1930 rồi biến ra một

bóng bù nhìn trong thế hệ văn học 1930 – 1945” thì ở cuốn thứ hai ông đã

giới thiệu khá tỉ mỉ đến từng tiểu loại văn học cùng một số bỉnh bút của tạp

chí.

Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ (1961)

đã nêu vấn đề bước đầu của văn quốc ngữ. Ông đánh giá Nam Phong tạp

chí và Đông Dương tạp chí mặc dù còn vướng nhiều về quá khứ song cũng

đã có cố gắng trong việc dung hòa Âu Á.

Nguyễn Văn Trung trong một chuyên luận giành riêng cho đề tài này

là cuốn Chủ đích Nam Phong (1975) đã nêu vấn đề Nam Phong tạp chí cả

về văn học và chính trị, ông đã tố cáo tính chất lừa bịp và mê hoặc của các

chính sách thực dân qua Nam Phong – một công sụ tuyên truyền của thực

dân; Về văn học ông cũng khách quan đánh giá một số đóng góp của tạp

chí này. Ngoài ra còn một số cuốn như: Mục lục phân tích Nam Phong

1917 – 1934 của Nguyễn Khắc Xuyên (1986) đã cung cấp danh mục các

bài viết trên Nam Phong trong suốt 17 năm, chia hai phần mục lục chuyên

ngành và mục lục tên tác giả. Cuốn Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy

đến 1945 của Huỳnh Văn Tòng (tái bản 1992) giành khá nhiều trang giới

thiệu Nam Phong tạp chí nêu các vấn đề về chính trị và văn học, cả phê

phán Nam Phong và nêu những đóng góp của tạp chí.

Ở miền Bắc giai đoạn 1945 – 1975 có một số công trình nghiên cứu

8

có đề cập trực tiếp tới Nam Phong tạp chí tiêu biểu như: Đại cương về văn

học sử Việt Nam của Nguyễn Khánh Toàn (1954); Sơ thảo lịch sử văn học

của nhóm Văn sử địa (gồm các tác giả Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng chi,

Hồng Phong, Văn Tân), Nhà xuất bản Văn – Sử - Địa, 1957; Lược thảo

lịch sử văn học của nhóm Lê Quý Đôn biên soạn, Nhà xuất bản xây dựng

1957; Giáo trình văn học Việt Nam của trường Đại học sư phạm Hà Nội

(1963). Nhìn chung các công trình nghiên cứu này đều có chung quan

điểm: “Phạm Quỳnh là tên tay sai đắc lực của đế quốc Pháp trên lãnh vực

văn học, một tên Việt gian lợi hại chống cách mạng” [41 – 137]; “Đông

Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí tuyệt nhiên không có công lao gì đối

với văn học dân tộc cả” [49 – 109].

3.3. Từ năm 1975 đến nay.

Các công trình nghiên cứu về Nam Phong tạp chí có hai xu hướng:

Xu hướng thứ nhất thể hiện qua các cuốn giáo trình văn học Việt Nam

được in lại hoặc mới in trong đó các tác giả vẫn giữ quan điểm đánh giá

Nam Phong tạp chí về phương diện chính trị là tạp chí “tay sai bồi bút liêm

sỉ…” hoặc coi việc “xây đắp nền quốc văn” như là thực hiện “chủ nghĩa ái

quốc bằng quốc ngữ”.

Xu hướng thứ hai đó là một số đánh giá có xu hướng đổi mới như tác

giả Nguyễn Lộc cho rằng “Phạm Quỳnh là người đã kiên trì đề ra việc sử

dụng chữ quốc ngữ và làm phong phú nó…Ông cũng là người kiên trì góp

phần xây dựng nền văn học dân tộc, thúc đẩy nó phát triển theo chiều

hướng hiện đại của thế giới” [46 – 193].

Giáo sư Nguyễn Đình Chú trong công trình: “Tác giả Việt Nam” tập I,

Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1990 cũng có những đánh giá khách quan

hơn về Nam Phong tạp chí: “…Nói cho công bằng thì “văn nghiệp” của

Phạm Quỳnh, ngoài phần độc tố gây hại ra, không phải không có những

điều có tác dụng khách quan đáng kể, góp phần vào công cuộc hiện đại

9

hóa văn hóa, văn học Việt Nam trong thời cận đại này” [5-173].

Tìm hiểu về Nam Phong tạp chí có nghiên cứu của con gái Thượng

chi Phạm Quỳnh là bà Phạm Thị Ngoạn (1993), Nguyên tác Pháp văn đã

đăng trong tập kỷ yếu đệ nhị và đệ tam cá nguyệt 1973 của Hội nghiên cứu

các vấn đề Đông Dương. Công trình này nhằm giới thiệu bảng mục lịch

phân tích của tạp chí Nam Phong và mô tả một vài nét chính diện mạo của

những nhân vật đã từng tích cực góp phần vào nếp sống của tạp chí, xét về

mọi phương diện xã hội , chính trị hay văn chương. Đồng thời xác định vai

trò của Nam Phong từ năm 1917 đến 1934, và giải thích tại sao Nam

Phong có thể coi như biểu hiện cho một thời đại trong lịch sử Việt Nam.

Qua sơ lược trình bày các công trình nghiên cứu văn học bàn về Nam

Phong tạp chí, chúng tôi nhận thấy, các vấn đề nêu trong các công trình tuy

ở mức độ nông, sâu, rộng hẹp khác nhau, tinh thần khen ngợi hoặc phê

phán hoặc chống Nam Phong tạp chí thì vẫn có một thực tế không thể phủ

nhận đó là:

Người ta không thể nghi ngờ rằng Nam Phong đã đánh dấu một thời

đại, cũng như nó đã hoàn tất một sứ mệnh thuần túy đối với lịch sử ngôn

ngữ của dân tộc. Trong những lĩnh vực khác, Nam Phong đã lưu lại những

nét chính yếu về nếp sinh hoạt phức tạp, nếp sống dồi dào về văn chương

thời kỳ đó.

4. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu.

Vận dụng quy luật khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng và

chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhìn nhận đánh giá sự vật, sự việc con người

theo quá trình phát triển và phủ định đồng thời kết hợp với quan điểm lịch

sử đó là các nguyên tắc mà chúng tôi thực hiện khi tìm hiểu và khảo sát

Nam phong tạp chí, một tờ báo xưa nay được coi là phức tạp.

Quan điểm của chúng tôi là: Khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp

trên Nam Phong tạp chí, nhằm chỉ ra cụ thể đóng góp quan trọng của nó

10

đối với tiến trình phát triển văn học mới. Tìm hiểu thêm về quan hệ giao

lưu Đông - Tây, về vai trò của tri thức Việt Nam trong quá trình tiếp nhận

văn hóa, văn học phương Tây đầu thế kỷ XX.

Khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp trên Nam Phong, chúng tôi xác

định tính chất của luận văn là nghiên cứu văn học sử. Vì là vấn đề nghiên

cứu văn học sử nên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi buộc phải tìm

hiểu các yếu tố liên quan đến tạp chí như: Bối cảnh lịch sử xã hội, văn hóa,

tinh thần, tư tưởng, ảnh hưởng của lịch sử, chính trị đến quá trình phát

triển của văn học nước nhà trên Nam Phong tạp chí.

Để làm tốt công việc trên chúng tôi sử dụng các phương pháp: So

sánh, phân tích tổng hợp, phương pháp liên ngành. Đây là những phương

pháp tích cực giúp chúng tôi khảo sát và đánh giá toàn bộ sự tiếp nhận văn

học phương Tây cụ thể là văn học Pháp đối với văn học nước nhà và làm

11

nổi bật cũng như thành tựu bước đầu đổi mới của nó.

B. NỘI DUNG

1. Chương 1

Nam Phong tạp chí với những bƣớc thăng trầm của lịch sử Việt

Nam nửa đầu thế kỷ XX.

1.1. Thực dân Pháp – Sự chuyển đổi chính sách xâm lƣợc.

Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp trong cuộc xâm lược

Việt Nam đã biến đất nước Việt Nam từ một dân tộc thuộc vùng Đông

Nam Á trở thành một bộ phận của thế giới trong tình thế hoàn toàn mất

quyền tự chủ. Bằng kinh nghiệm đi xâm lược các nước thuộc địa ở châu

Phi, thực dân Pháp đem kinh nghiệm ấy để đồng hóa dân tộc Việt Nam

(bằng mọi hình thức) nhằm cắt đứt mọi quan hệ của người Việt Nam với

truyền thống quá khứ, để họ quên đi nỗi nhục vong quốc nô, an phận với

cuộc sống hiện tại. Chính sách “đồng hóa” về văn hóa của Pháp ở Việt

Nam đã không thực hiện được như đối với nhiều nước thuộc địa ở châu

Phi.

Đầu thế kỷ XX, bạo lực quân sự của thực dân Pháp ở Việt Nam đã

hoàn thành nhiệm vụ, người Việt Nam đã bị đánh bại. Nhưng tuy bị đánh

bại song Việt Nam là một dân tộc không cam chịu. Có vô số biểu hiện bức

xúc trong đời sống tinh thần. Vũ khí theo nghĩa đen đã bị tước bỏ, kể cả

việc thực dân Pháp cho sục sạo để thu nhặt hết các đồ dùng bằng sắt có khả

năng giúp vào việc tái tạo vũ khí. Nhưng còn phải tiến hành một cuộc

chinh phục tinh thần: phải thống trị về văn hóa. Ở cấp độ này thực dân

Pháp đã tỏ ra không thành công dễ như quân sự. Sự đổ vỡ của tư tưởng

trực trị, đồng hóa buộc Pháp phải hướng tới “chính sách hợp tác”. Nhưng

“hợp tác” có nghĩa là làm sao vẫn phải bảo đảm sự “hướng dẫn”, phục vụ

ý đồ của chủ nghĩa thực dân. Nam Phong tạp chí thay cho Đông Dương tạp

chí đã „lỗi thời”. Với tư cách là công cụ văn hóa thực hiện sách lược “lỗ

thoát hơi cần thiết” của Pháp ở Việt Nam đã trở thành nơi tập hợp các nho

12

sĩ, văn sĩ Việt Nam để ở đó họ hoạt động văn hóa, văn học tùy theo mục

đích, khả năng riêng của từng người. Ngoài chức năng “công cụ xâm lược,

khai hóa” của thực dân Pháp, Nam Phong cũng có chức năng “công cụ

không tự giác” mà chính nó không làm sao kiểm soát được. Từ chức năng

này làm thay đổi bộ mặt văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tạo

một không khí sáng tác văn học theo quan điểm thẩm mỹ và lý luận hiện

đại, phong trào nghiên cứu, khảo cứu, dịch thuật đưa nền văn học dân tộc

từ qui mô vùng hội nhập với văn học thế giới theo xu thế hiện đại, mở ra

“một thời đại mới” cho thi ca, văn học.

1.2. Sự thay đổi của đội ngũ trí thức Việt Nam khi thực dân Pháp

xâm lƣợc.

Chuyển chính sách xâm lược từ “đồng hóa” sang “hợp tác” là cả một

bài toán mà thực dân Pháp đã tính rất chu đáo. “Hợp tác” nhưng làm sao

vẫn phải bảo đảm sự “hướng dẫn” của chính phủ bảo hộ, Đông Dương tạp

chí lúc này đã “lỗi mốt” bởi cách phát ngôn của ông chủ tờ báo quá “hỗn

xược” và Nam Phong tạp chí thay thế cho nó để thực hiện vai trò “hướng

dẫn” tiếp tục. Trước sự thay đổi về chính sách xâm lược của thực dân

Pháp, giới trí thức Việt Nam, sau thất bại của phong trào Cần Vương rồi

của phong trào Duy Tân, phân hóa rất mạnh mẽ và có tâm lí rất phức tạp.

Ngoài số ít các nhà yêu nước giám đối mặt với kẻ thù như Phan Bội Châu,

Phan Châu Trinh còn lại đa phần là giới trí thức không giám “trực diện”

đấu tranh với kẻ thù. Họ chỉ muốn „yêu nước an toàn” bằng hình thức hoạt

động văn hóa để bóng gió gửi gắm tâm sự hoặc gìn giữ những tài sản tinh

thần mà ông cha để lại. Đấu tranh bạo lực là điểu mà phần lớn trí thức đều

không muốn, họ do dự, một mặt muốn giữ gìn sao cho cuộc sống được

bình yên, mặt khác cũng đau đớn trước tình trạng vong quốc nô của dân

tộc, tóm lại họ muốn “yêu nước ôn hòa”. Trong tình trạng chưa xuất hiện

khả năng đấu tranh vũ trang, chưa có lực lượng chính trị mới về chất (phải

sau 1925), nên mọi “ngọn cờ” đều chỉ nhân danh dân tộc nói chung và mức

13

độ phải là “ôn hòa”, “mềm dẻo” (lực lượng của giai cấp tư sản lẫn giai cấp

vô sản đều chưa có sức mạnh đáng kể). Trong tình hình này Nam Phong

tạp chí ra đời thật đúng lúc, nó lại đánh đúng vào tâm trạng phức tạp của

đa số giới trí thức Việt Nam.

Khi các nhà văn sĩ tài danh như Nguyễn Bá Học, Nguyễn Văn Tố,

Phạm Duy Tốn, Nguyễn Tường Tam, Trần Trọng Kim, Tương Phố, Đỗ

Thị Đàm, Đông Hồ Lâm Tấn Phác…đã tập hợp đông đủ nơi Nam Phong

tạp chí cũng là lúc lối sống, lối làm việc, nghiên cứu, học tập của phương

Tây đã du nhập vào Việt Nam làm thay đổi hẳn cách làm việc, cách tư duy,

cách sinh hoạt ở các đô thị lớn. Lối làm việc, nghiên cứu và tư duy Tây Âu

thể hiện rõ nét làm thay đổi hẳn tư duy do dự, ngại triết lý, tránh xa lý luận

của người Việt Nam trước đây. Đặc biệt sự đổi thay tư duy của lớp trí thức

tân học lẫn cựu học được thể hiện rất rõ.

Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đội ngũ trí thức là lớp nhà

Nho nguyên hợp, đồng nhất hóa tư tưởng từ trên xuống dưới theo một

khuôn mẫu gần như công thức của “nhà Nho hành đạo”, họ chỉ chăm lo rèn

“Tâm, Chí, Đạo”, không có ai có hứng thú đi vào những vấn đề tư tưởng

triết học, thậm chí họ “không có hứng thú tìm hiểu, tiếp nhận”. Trong tình

trạng tư duy lý luận không phát triển, những vấn đề nhận thức, loogic,

phương pháp không được bàn bạc, đội ngũ nhà Nho đa phần hướng thượng

gắn bó với cung đình, số ít gắn bó với làng xã thường bị động, họ không có

sự liên kết mà cô độc, không có sức mạnh xã hội. Từ đặc điểm ý thức hệ trì

trệ ấy làm cho xã hội Việt Nam thời phong kiến không có trí thức chuyên

ngành, không có đội ngũ trí thức về triết học, khoa học, kỹ thuật để cách

tân đổi mới đất nước. Tóm lại lớp trí thức nhà Nho dưới chế độ xã hội

phong kiến bảo thủ đa phần là thụ động, họ không có nhu cầu “tư duy lô

gic”, “tư duy khoa học” khám phá và sáng tạo. Đặc tính này dẫn đến tình

trạng trì trệ, kém phát triển về mọi mặt trong xã hội.

Thực dân Pháp đến xâm lược Việt Nam đã làm thay đổi nếp sinh hoạt

14

nếp suy nghĩ của người Việt Nam theo chiều hướng cả tích cực lẫn tiêu

cực. Việc “hiện đại hóa”, “chuyên nghiệp hóa” đội ngũ trí thức Việt Nam,

sự phân công lao động nội tại của tầng lớp trí thức đã xảy ra, xuất hiện loại

trí thức mà trước đây chưa từng có, như ký giả, văn sĩ chuyên nghiệp, các

nhà khoa học, nhà kỹ thuật, doanh nhân trí thức như Bạch Thái Bưởi,

những nhà tư tưởng cách mạng chuyên nghiệp như Phan Bội Châu, Phan

Châu Trinh, thậm chí ngay trong nội bộ giới văn nghệ sĩ cũng có sự phân

công khác trước như: nhà văn, nhà thơ, diễn viên, họa sĩ, nhạc sỹ, trước

đây các yếu tố này thường tồn tại trong một người: nhà nho tri thức. Sự

thay đổi này làm cho văn đàn Việt Nam thật phong phú và đa dạng về đội

ngũ sáng tác, phong cách sáng tác nghiên cứu, dịch thuật, khảo cứu. Lúc

này các văn sĩ nói riêng, giới trí thức nói chung đã tích cực chủ động và có

nhu cầu học hỏi, tìm hiểu kể cả những vấn đề về học thuật tư tưởng, những

vấn đề mang tính lý thuyết. Họ không chỉ quan tâm đến văn học, mà còn

tập trung nghiên cứu triết học, mỹ học, kinh tế học, sử học. Nghĩa là

nghiên cứu theo chuyên ngành và định hướng chuyên nghiệp hóa theo

chiều sâu và đặc biệt quan tâm đến lý luận sáng tác cảm thụ văn học hiện

đại. “phong cách trí thức mới này” cộng với “tâm lý phức tạp” trên kia đều

được Nam Phong tạp chí đáp ứng ở mức độ tương đối nhất, họ có thể

“bằng lòng” với Nam Phong tạp chí trong giai đoạn hiện tại này. Sẽ có lúc

cả lực lượng tư sản, cả lực lượng vô sản đều “không bằng lòng” với Nam

Phong tạp chí, nhưng đó là điều xảy ra chủ yếu sau 1930. Trong khoảng

“tranh tối tranh sáng này” Nam Phong tạp chí là nơi các trí thức tạm thời

vừa lòng để “hoạt động văn hóa, văn học” đồng thời cũng là nơi mà những

người sáng lập ra nó tạm thời “tập hợp” đội ngũ trí thức để thực hiện mục

đích “khai thác văn hóa” của mình. Một lớp trí thức như vậy đã tập trung

đông đảo trên Nam Phong tạp chí.

1.3. Công cuộc đổi thay chuyển mình của nền văn học.

Trước khi bị người Pháp xâm lược và đô hộ thì Việt Nam đã là một

15

quốc gia có nền văn học phát triển với bản sắc độc đáo gắn với bề dày

hàng ngàn năm văn hiến của lịch sử dân tộc.

Văn học viết Việt Nam chính thức ra đời từ thế kỷ X cùng với nền

độc lập, tự chủ của dân tộc và từ đó trở thành một bộ phận quan trọng,

không thể thiếu của nền văn hóa dân tộc. Trong tiến trình ngót mười thế

kỷ xây dựng và phát triển, văn học viết Việt Nam, một mặt chủ động

tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố ngoại lai, mặt khác kế thừa

những thành quả của văn hóa, văn học dân gian dân tộc, đã đạt được nhiều

thành tựu rực rỡ, kết tinh trong sáng tác của những tên tuổi lớn như

Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu,

Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương,…

Tuy đã đạt được những thành tựu lớn về nhiều phương diện, nhưng

cho đến cuối thế kỷ XIX, nhìn chung văn học viết Việt Nam vẫn như một

dòng sông nhỏ hiền hòa, êm trôi giữa đôi bờ của vùng đất văn hóa Trung

đại phương đông, phong kiến, cổ truyền, chở nặng trong mình những hạt

phù sa của tư tưởng văn hóa ấy và vẫn còn quẩn quanh trong vùng châu

thổ già cỗi này mà chưa vươn mình ra biển lớn của văn học thế giới; nó

vẫn nằm trong quĩ đạo của văn hóa – văn học khu vực Đông Á, mà Trung

Hoa là nền văn hóa – văn học hạt nhân. Nói một cách cụ thể, đó vẫn là

một nền văn học chịu ảnh hưởng và sự chi phối sâu sắc của văn học và

văn hóa phương Đông, mà chủ yếu là của Trung Hoa, về nhiều phương

diện:

Tư tưởng học thuật, quan niệm văn học, hệ thống thi pháp, thể loại,

ngôn ngữ, chữ viết,…Chính sự chi phối và ảnh hưởng ấy mà trên đại thể,

văn học Việt Nam thời Trung đại có những đặc điểm nổi bật sau đây:

Về phương diện nội dung tư tưởng, văn học Trung đại Việt Nam

chịu ảnh hưởng sâu sắc các hệ tư tưởng Phật giáo, Lão giáo, và đặc biệt là

Nho giáo.

Yêu nước trong văn học Trung đại Việt Nam luôn gắn liền với tư

16

tưởng trung quân, ở những thời đoạn giai cấp phong kiến có vai trò tích

cực xứng đáng đại diện cho bản lĩnh và quyền lợi dân tộc đã đành, đến khi

chế độ phong kiến suy thoái, giai cấp phong kiến đã trắng trợn bộc lộ sự

phản động, quay lưng lại với dân tộc, thì trong sáng tác của các nhà nho,

tư tưởng ấy vẫn ngự trị, dù cho các tác giả có giả tưởng chuyển hướng

lý tưởng vào một vị minh quân nào đi chăng nữa. Thế kỷ XV, Nguyễn

Trãi khăng khăng giữ tấm lòng “Trung lẫn hiếu, mài chẳng khuyết

nhuộm chẳng đen”. Đến cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu vẫn viết

Lục Vân Tiên với tuyên ngôn:

“Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”

(Lục Vân Tiên)

Ngay cả khi triều đình Tự Đức quay lưng lại với dân chúng, nhẫn tâm

bán rẻ Nam Kỳ cho thực dân Pháp thì trong sáng tác của nhà thơ được

xem là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống thực dân Pháp vào

cuối thế kỷ XIX vẫn thấy xuất hiện những dòng thơ, những câu văn cảm

động đến tuyệt vọng về tư tưởng trung quân:

“Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một

chữ ấm đủ đền công đó”(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc).

Hay:

“Bao giờ thánh đế ân soi thấu

Một trận mưa nhuần rửa núi sông”(Xúc cảnh).

Nhân đạo cũng là một nội dung lớn của văn học Trung đại Việt

Nam. Đó là tình cảm tự nhiên, thiết tha trân trọng những giá trị nhân sinh,

chân thành xúc cảm trước sự vui buồn của con người, căm phẫn những

thế lực gian tà chà đạp quyền lợi nhân dân và tổ quốc. Những tình

cảm đó tùy hoàn cảnh lịch sử – xã hội và tùy vào từng tác giả mà có

sắc thái khác nhau ở mỗi tác phẩm nhưng, hoặc nhạt hoặc đậm, có chịu

ảnh hưởng tư tưởng từ bi bác ái của Phật giáo hoặc là tư tưởng nhân nghĩa

17

của Nho giáo.

Về phương diện hình thức, văn học viết Trung đại Việt Nam là một

nền văn học song ngữ, một bộ phận viết bằng chữ Hán và một bộ phận

viết bằng chữ Nôm. Buổi đầu xây dựng nền văn học viết nước nhà, do

chưa có văn tự riêng nên cha ông ta lâm thời buộc phải vay mượn chữ

Hán để sáng tác. Bộ phận văn học chữ Hán vì vậy ra đời trước. Đã vay

mượn chữ Hán thì buộc phải vay mượn luôn cả hệ thống kinh nghiệm

văn học do các thế hệ thi văn nhân Trung Hoa đúc rút qua thực tiễn

hàng ngàn năm sáng tác, bao gồm từ quan niệm văn học, loại thể, cho

đến thủ pháp nghệ thuật và nguồn thi văn liệu,… Tuy vay mượn văn tự và

thi pháp Trung Hoa nhưng suốt trong quá trình sáng tác, mỗi một tác giả

đều luôn có ý thức Việt hóa sáng tác của mình để tác phẩm là của dân

tộc. Đến thế kỷ XIII, chữ Nôm bắt đầu được sử dụng để sáng tác và

dưới thời Trần căn bản chỉ mới ở mức độ ứng dụng kinh nghiệm đúc

rút được từ sáng tác văn thơ chữ Hán vào sáng tác thơ văn chữ Nôm. Sau

nhiều thế kỷ bền bỉ nỗ lực, đến thế kỷ XVIII, XIX các tác giả mới có điều

kiện vận dụng một cách trực tiếp và rộng rãi kinh nghiệm văn học dân

gian dân tộc vào sáng tác văn học chữ Nôm, đưa văn học tiếng Việt phát

triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.

Một đặc điểm quan trọng nữa về mặt hình thức của văn học Việt

Nam Trung đại đó là tính quy phạm khá rõ rệt. Tính quy phạm thể hiện

trước hết ở quan điểm nghệ thuật coi trọng mục đích giáo huấn của văn

chương, xem văn chương là công cụ chuyển tải đạo lý, là phương

tiện phục vụ cho việc “sửa sang việc đời”. Quan niệm “Văn dĩ tải đạo”

(Văn để chở đạo) và “Thi ngôn chí” (Thơ nói chí) có địa vị thống soái,

chi phối quá trình văn học từ sáng tác đến tiếp nhận. Chúng ta dễ dàng

nhận thấy quan niệm ấy được phát biểu công khai qua sáng tác của nhiều

tác giả:

“Đao bút phải dùng tài đã vẹn,

18

Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,

Điện Bắc đà đà yên phận tiên.”

(Nguyễn Trãi) “Học theo ngòi bút chí công,

Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu.”

(Nguyễn Đình Chiểu) “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”

(Nguyễn Đình Chiểu)

Cái gốc của văn chương là đạo lý:

“Văn và đạo tuy có tên khác nhau nhưng nội dung của nó thì bắt

nguồn từ đạo” (Nguyễn Văn Siêu).

“Văn của thánh nhân là để chở đạo, văn của văn nhân là để luận

đạo. Cho nên bàn về văn của thánh nhân – như sự trong sáng, tinh tế

của Chu dịch, sự thông thoát chí lý của Thượng thư, sự uyển chuyển

trung hậu của Kinh thi, sự cung kính trang nghiêm của Kinh lễ, sự khen

chê có cân nhắc của sách Xuân Thu – văn đến năm kinh là tột đỉnh…”

(Nguyễn Tư Giản).

Về quy mô và phạm vi kết tinh, văn học trung đại có phạm vi kết tinh

ở văn vần hơn là văn xuôi; quy mô kết tinh vừa và nhỏ. Quy mô nghệ

thuật này sẽ thiên về bút pháp chấm phá, điểm nhãn, gợi hơn là tả. Các

tác giả văn học thời kỳ này thường hướng về cái đẹp trong quá khứ, thiên

về cái đẹp xinh xắn, thanh cao, tao nhã . Do vậy, trong sáng tác của mình,

họ luôn thể hiện kiểu tư duy nghệ thuật giàu khả năng nắm bắt cái bản

chất, cái tinh túy, cái thần của sự vật, của tâm trạng con người hơn cái vẻ

bề ngoài của sự vật.

Văn học Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX mới thực sự bước vào thời

kỳ hiện đại hóa để hình thành nên một nền văn học mới. Đó là một nền

văn học phát triển trong xu hướng tiếp cận cùng văn học thế giới với

những nét đặc thù. Nói như Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn học sử

19

giản ước tân biên, đó là “hầu như tân tạo trong một giai đoạn lịch sử

mới”, khác hẳn với văn học trung đại cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức

thể loại.

Ở phương diện nội dung, nếu như văn học trung đại chịu ảnh hưởng

và chi phối chủ yếu bởi tư tưởng, học thuật Trung Hoa; luân lý, đạo đức

Khổng Mạnh, thì sang thế thế kỷ XX, văn học hiện đại chủ yếu chịu ảnh

hưởng của tư tưởng, học thuật phương Tây với những lý thuyết về dân chủ,

về ý thức cá nhân,… Do vậy, tuy vẫn tiếp thu và kế thừa những truyền

thống lớn của văn học dân tộc đó là yêu nước và nhân đạo, nhưng văn

học hiện đại đã phát huy lên một bước mới: tinh thần dân chủ.

Về nội dung yêu nước, văn học hiện đại không còn bị ràng buộc bởi

cái vòng kim cô của tư tưởng trung quân như trong văn học trung đại

nữa mà đã thực sự giải phóng với sự biểu hiện phong phú trên tinh thần

dân chủ. Các tác giả là những nhà cách mạng theo xu hướng tư sản,

chẳng hạn như Phan Bội Châu, ngay từ đầu thế kỷ đã quan niệm: “Dân là

dân nước, nước là nước dân”. Các tác giả thuộc bộ phận văn học cách

mạng vô sản thì gắn chủ nghĩa yêu nước với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Với bộ phận văn học hợp pháp, do nhiều lý do khách quan, tinh thần yêu

nước được thể hiện một cách kín đáo hơn nhưng cũng không kém sâu sắc

và cảm động qua tình yêu đối với những đường nét, dáng vẻ đáng yêu của

con người và cảnh vật của đất nước; cái đẹp của văn hóa dân tộc và đặc

biệt là đối với ngôn ngữ dân tộc. Ở khía cạnh này, Nguyễn Văn Vĩnh,

Phạm Quỳnh là những là những gương mặt tiêu biểu.

Tinh thần dân chủ cũng đem đến cho nội dung nhân đạo của văn học

hiện đại những biểu hiện mới mẻ. Đối tượng chủ yếu của văn học hiện

đại là những con người bình thường trong xã hội. Chủ nghĩa nhân đạo

trong văn học hiện đại còn gắn liền với sự thức tỉnh về ý thức cá nhân

của người cầm bút. Do vậy mà trong nhiều tác phẩm văn học thời kỳ

này, ta thấy sự thể hiện khá sâu sắc khát vọng sống, sự đề cao tài

20

năng, phẩm giá của mỗi con người; sự đấu tranh không khoan nhượng

với luân lý, lễ giáo phong kiến để bảo vệ hạnh phúc cá nhân, đặc biệt là

các vấn đề về tình yêu đôi lứa, hôn nhân, gia đình…

Ở phương diện hình thức thể loại, nếu văn học trung đại chỉ tập trung

chủ yếu vào các thể loại văn vần với những hình thức chật hẹp và quy

định khắc khe, nghiêm ngặt về niêm luật; văn xuôi có thì cũng là loại

văn biền ngẫu và phương tiện sáng tác là chữ Hán, chữ Nôm, rất khó

khăn cho sự tiếp nhận của công chúng bình dân, thì ở văn học hiện đại, ta

thấy có sự phát triển hết sức đa dạng các thể loại. Bên cạnh các thể thơ

cũ, đã thấy xuất hiện các thể thơ tự do, thơ văn xuôi được sáng tác bằng

chữ quốc ngữ. Đặt biệt là sự xuất hiện của các thể loại văn xuôi quốc ngữ

như tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, bút ký, tùy bút, lý luận phê bình

văn học cũng như các thể kịch là dấu hiệu của một nền văn học hiện đại.

Tuy nhiên để có một nền văn học hiện đại phát triển trong xu

hướng tiếp xúc, hòa nhập với văn học thế giới, mang những nét đặc thù

như đã nói ở trên, văn học Việt Nam đã phải trải qua một quá trình cách

tân, hiện đại hóa hết sức lâu dài và phức tạp với nhiều giai đoạn. Mà mỗi

một giai đoạn cách tân là kết quả của biết bao nhiêu tâm huyết, tài năng

của các thế hệ cầm bút. Về đại thể, văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX

cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, là một nền văn học đang ở

trong quá trình hiện đại hóa, mà thời gian từ năm 1900 đến 1930 là

những giai đoạn đầu của quá trình ấy. Trong khuôn khổ của luận văn

này, chúng tôi chủ yếu chỉ tập trung khái quát tình hình văn học Việt Nam

trong ba mươi năm đầu của thế kỷ XX.

Như đã nói ở trên, văn học Việt Nam trong khoảng ba mươi năm đầu

thế kỷ XX là nền văn học đang ở trong tiến trình hiện đại hóa. Tiến trình

này trải qua hai chặng đường chủ yếu:

Chặng đường thứ nhất, diễn ra trong khoảng hai mươi năm đầu thế

kỷ XX. Quá trình hiện đại hóa bắt đầu bằng sự hình thành các thể văn

21

xuôi quốc ngữ. Chữ quốc ngữ vốn do các giáo sĩ phương Tây sáng tạo

ra vào khoảng thế kỷ XVII nhằm phục vụ cho mục đích truyền giáo.

Sau gần ba thế kỷ phát triển, với sự tham gia cải tiến, sáng tạo của của

các thế hệ giáo sỹ phương Tây và trí thức Việt Nam, cho đến cuối thế kỷ

XIX, chữ quốc ngữ về cơ bản đã hoàn thiện và từ địa hạt tôn giáo, nó

chuyển dần sang lĩnh vực văn hóa, văn học. Đầu thế kỷ XX, ý thức được

sự thuận tiện cũng như tầm quan trọng của nó trong việc truyền bá tư

tưởng văn minh phương Tây, nâng cao dân trí, chấn hưng đất nước, các sỹ

phu trong Duy tân hội và Đông kinh nghĩa thục cũng như một số trí

thức Tây học có tâm huyết như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh v.v…ra

sức hô hào, vận động cho việc truyền bá và học chữ quốc ngữ. Nói về tầm

quan trọng cũng như sự tiện lợi của chữ quốc ngữ, thơ Đông kinh nghĩa

thục có đoạn viết:

“Trước hết phải học ngay quốc ngữ, Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác

nhau. Chữ ta, ta đã thuộc làu, Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài. Sẵn cơ sở

để khai tâm trí…”

Năm 1907, cùng với sự vận động, hô hào tích cực của phong trào

Duy tân, Nguyễn Văn Vĩnh đã vận động đổi tờ báo chữ Hán Đại Nam

Đồng Văn nhật báo thành tờ báo quốc ngữ Đăng Cổ tùng báo với hai tôn

chỉ: truyền bá học thuật phương Tây và cổ động cho chữ quốc ngữ. Tiếp

theo Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh và phái Nam Phong cũng tích cực

ra sức truyền bá chữ quốc ngữ. Năm 1917, trên tạp chí Nam Phong số ra

đầu tiên, Phạm Quỳnh đã có hẳn một bài luận thuyết bàn về Văn quốc ngữ.

Chính sự truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ như vậy đã tác động tích

cực đến sự hình thành tầng lớp công chúng văn học mới cũng như sự ra

đời và phát triển nền văn xuôi nước ta.

Nhưng điều kiện quan trọng hơn cho sự phát triển của văn xuôi quốc

ngữ ở giai đoạn này phải kể đến sự xuất hiện và phát triển của báo chí cũng

như phong trào dịch thuật. Từ văn thông tin báo chí và văn dịch thuật mà

22

câu văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt ra đời, trưởng thành và phát triển.

Thực ra mầm mống của văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt đã xuất hiện

vào cuối thế kỷ XIX với một số sáng tác như bài ký Chuyến đi thăm Bắc

Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký (1876), truyện Thầy Lazaro Phiền

của Nguyễn Trọng Quản (1887)…Nhưng phải đến đầu thế kỷ XX thì mới

có hẳn một phong trào viết văn xuôi quốc ngữ, đặc biệt là ở miền Nam.

Năm 1910, Trần Thiện Trung đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết Hoàng Tố

Anh hàm oan viết theo lối mới khá chững chạc. Tuy nhiên những sáng

tác văn xuôi trong giai đoạn này cũng mới chỉ là những thử nghiệm bước

đầu chứ chưa thực sự có giá trị cao về mặt nghệ thuật và phạm vi phát

triển của nó cũng mới chỉ thu hẹp ở một số đô thị ở miền Nam. Văn xuôi

giai đoạn này chủ yếu vẫn tập trung ở mảng dịch thuật.

Nhìn một cách tổng quát, sự phát triển của văn học Việt Nam trong

giai đoạn này vẫn gắn với những tên tuổi của những tác giả thuộc phong

trào Duy tân, Đông kinh nghĩa thục như Phan Chu Trinh, Phan Bội

Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Lương

Văn Can, Lê Đại…Với tư tưởng canh tân, họ kêu gọi nâng cao dân trí,

khai thông dân khí, hô hào thực nghiệp, bỏ hư văn, học khoa học, phổ

biến chữ quốc ngữ, mở rộng báo chí…Qua đó, họ đã tạo nên cả một

phong trào sáng tác thơ văn tuyên truyền cổ động có nội dung chính trị

mới mẻ, mang hơi thở và khí phách thời đại. Tuy nhiên bộ phận văn học

này cũng chỉ mới thể hiện sự đổi mới về tư tưởng chính trị, xã hội và học

thuật mà chưa có sự đổi mới thực sự về tư tưởng thẩm mỹ.

Tóm lại là ở giai đoạn này, văn học đã có sự đổi mới về nội dung tư

tưởng. Chẳng hạn về ý thức hệ, văn học chủ yếu chịu sự chi phối của ý

thức hệ tư sản; về lý tưởng chính trị xã hội, chủ nghĩa yêu nước đã gắn

với lý tưởng cách mạng dân chủ tư sản, khác với văn học trung đại chủ

nghĩa yêu nước không thể tách rời lý tưởng tôn quân... Về mặt nghệ thuật,

văn học giai đoạn 1900 – 1920 vẫn chưa có những đổi mới đáng kể. Các

23

tác giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho

trước kia. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều

tác phẩm thể hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng hình thức

nghệ thuật cũ. Các tác giả còn ít dùng chữ quốc ngữ để sáng tác, chưa bỏ

được lối văn biền ngẫu, thơ vẫn là loại thể được ưa chuộng, ngôn ngữ vẫn

còn mang tính chất cầu kỳ, bóng bẩy...

Chặng thứ hai, diễn ra từ khoảng năm 1920 đến năm 1930. Quá trình

hiện đại hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Văn học không chỉ đổi mới về

nội dung mà cả nghệ thuật cũng đã khác trước rất nhiều.

Văn xuôi nghệ thuật đã phát triển mạnh hơn trước với sự phong phú

của nhiều thể loại. Ở thể loại tiểu thuyết, phải kể đến những gương mặt

tiêu biểu như Hồ Biểu Chánh ở trong Nam với hàng chục tiểu thuyết dày

dặn; Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm ở ngoài Bắc với các tác phẩm Tố

Tâm, Kim Anh lệ sử. Truyện ngắn ở giai đoạn này cũng đã phát triển với

những tên tuổi tiêu biểu như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nhất Linh.

Về thể bút ký, có sự góp mặt của những gương mặt tiêu biểu như Phạm

Quỳnh, Tương Phố, Đông Hồ… Phần lớn những tác giả kể trên thuộc lớp

trí thức Tây học đầu tiên do vậy tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng rõ rệt

tiểu thuyết, truyện ngắn của Pháp.

Trên lĩnh vực thi ca, “cái Tôi” cá nhân đã bắt đầu cựa quậy từ cuối

thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX với những cá tính độc đáo như Hồ Xuân

Hương, Nguyễn Du, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, thì đến giai đoạn này

nó càng tự khẳng định mạnh mẽ hơn với Trần Tuấn Khải, đặc biệt là Tản

Đà với hồn thơ phóng túng, tràn đầy tình cảm và cảm xúc. Tuy nhiên, thơ

ca giai đoạn này cũng chỉ mới dừng lại ở chỗ khẳng định “cái Tôi” cá

nhân về mặt nội dung cảm xúc và khai thác những thể điệu tự do trong

thơ cổ, xét về mặt hình thức thể hiện, mà chưa thực sự cách tân một cách

triệt để.

Ở giai đoạn này, văn học Việt Nam thấy xuất hiện một loại hình văn

24

học mới du nhập từ phương Tây, tuy thành tựu còn khiêm tốn nhưng rất

đáng chú ý. Đó là thể loại kịch nói với những tác phẩm của các tác giả

tiêu biểu như Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long; Bạn

và vợ của Nguyễn Hữu Kim; Ông Tây An Nam của Nam Xương…

Tóm lại, trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, tình hình văn học Việt

Nam có nhiều biến động sâu sắc. Văn học dân tộc đang trong cơn vật vã

dữ dội của sự sinh thành, sự lột xác để hòa mình vào với văn học hiện đại

thế giới. Sự chuyển mình ấy đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về

nội dung lẫn hình thức, mặc dù nó vẫn chưa thực sự thoát ra khỏi ảnh

hưởng của văn học cũ. Tuy nhiên, để giai đoạn mở đường của văn học

Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa có được những thành tựu bước

đầu như vậy là nhờ sự cống hiến to lớn và hết mình của những trí thức

vừa có tâm, lại vừa có tài như của một bộ phận nhỏ thế hệ các học giả của

25

Nam Phong tạp chí.

Chƣơng II.

NAM PHONG TẠP CHÍ CÙNG VỚI SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC

PHƢƠNG TÂY

2.1. Nam Phong ra đời và tiến triển.

2.1.1. Bối cảnh báo chí Việt Nam trƣớc khi Nam Phong tạp chí ra đời.

Mầm mống báo chí đã có ở nước ta từ lâu, thể hiện dưới nhiều hình

thức hết sức đa dạng, phong phú. Đó là những câu vè lưu truyền trong

dân gian, những lời rao của mõ làng, những cuộc “giảng thập điều”

trong trong sinh hoạt làng xã… cho đến những hình thức “thông tin

chính thức” của nhà nước phong kiến bằng cách yết bảng văn ở Quảng

Văn Đình thời Lê Thánh Tông hay Quảng Minh Đình thời Nguyễn Gia

Long…

Nói về nguồn gốc báo chí, trong bài Nước ta xưa có được tự do

ngôn luận không? đăng trên tạp chí Tri Tân, số 206 (04/ 10/ 1945), Ứng

Hòe Nguyễn văn Tố cho biết:

“Khâm định Việt sử (quyển 14, tờ 15a) chép lại rằng: “Nguyên

trước, những chiếu, lệnh của nhà vua, lâm thời bộ đem yết bảng, đến

năm Tân Hợi (1491), vua Lê Thánh Tông cho dựng một cái đình ở ngoài

cửa Đại Hưng (tức cửa Nam thành Thăng Long) để làm nơi niêm yết

những phép tắc trị dân, đặt tên là Quảng Văn Đình… Ba chữ “Quảng

Văn Đình” nghĩa là một cơ sở để thu nhặt giấy tờ ở các nơi. Đến đời

Gia Long (1802 – 1819), làm đình ở phường Nam Hưng (tức Cửa Nam

bây giờ), trên có đặt tên là Quảng Minh Đình… cũng để dán những

huấn lệnh của nhà vua. Cạnh đó có hai tòa nhà ngói ở cửa Đông Nam gọi

là Hiệp Nghị đường (Nhà để họp bàn), phàm dân gian có việc gì uất ức,

cho đến bày tỏ, cho nên các đình, ở mé ngoài miếu thờ Thành Hoàng

vừa là nơi để tụ họp khi tế lễ, lúc hương ẩm, vừa để dán những huấn

26

lệnh của nhà vua, cứ ngày Một và Rằm các huynh thứ trong làng ra đọc

những huấn lệnh và giảng nghĩa cho dân gian nghe, thường gọi là giảng

thập điều”.

Như vậy cái đình tức là báo chí, có định lệ mồng Một và Rằm tức

là nhật báo hoặc tuần báo…Báo chí tức là những tờ huấn lệnh dán ở đình

làng tựa như tờ Acta diurna của người La Mã đời xưa”.

Cách cắt nghĩa độc đáo trên của Ứng Hòe cho ta ý niệm về một

“hình thức báo chí” trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Tuy nhiên, theo

đúng nghĩa hiện đại, báo chí Việt Nam chỉ thực sự xuất hiện cùng với sự

thiết lập chế độ thuộc địa của Thực dân Pháp trên đất nước ta.

Báo chí ở Việt Nam ra đời đầu tiên và trước hết là nhằm phục vụ

cho mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp về nhiều phương

diện, đặc biệt là phương diện chính trị và văn hóa. Ngay từ khi chiếm

được Nam Kỳ, vào năm 1861, thực dân Pháp đã cho xuất bản tờ công báo

đầu tiên phục vụ cho công cuộc viễn chính của chúng ở xứ này. Đó là tờ

Bulletin officiel de l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc

viễn chinh xứ Nam Kỳ) mà nội dung của nó là những nghị định, công

văn, đạo luật, các chỉ thị, các bài diễn văn… phát ra từ soái phủ Nam Kỳ.

Tờ báo được lưu hành và sử dụng như một phương tiện thông tin và thống

nhất chỉ đạo cho cuộc đánh chiếm và cai trị của Pháp ở Nam Kỳ. Nó đặt

nền móng cho các tờ công báo chính thức về sau này của chính quyền thực

dân.

Cùng với tiến trình đánh chiếm và áp đặt chế độ cai trị của thực dân

Pháp lên các vùng đất của Việt Nam, hàng loạt tờ báo, tạp chí bằng tiếng

Pháp của chính quyền thực dân đã nối tiếp nhau ra đời: Le Courrier de

Saigon (Tin Sài Gòn) ấn hành số đầu tiên vào ngày 01/ 01/ 1864, đến

năm 1879 đổi thành Journal Officiel la Cochinchine (Công báo xứ Nam

Kỳ), và cuối cùng, năm 1889, mang tên Journal Officiel de l'Indochine

(Công báo Đông Dương); những bản Niên giám (An nuaire) được xuất

27

bản hàng năm, từ năm 1865; Bulletin Officiel du protectorat de l'Annam et

du Tonkin (Kỷ yếu công vụ của nền bảo hộ xứ Trung và Bắc kỳ) ấn hành

vào năm 1883, đến năm 1886 đổi thành Moniteur du Protectorat de

l'Annam et du Tonkin; L'Avenir du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ -

1884); Bulletin du comité agricole et industriel de la Cochinchine (Kỷ

yếu của Ủy ban canh nông và kỹ nghệ xứ Nam Kỳ - 1869 – 1881); Bulletin

de la Societé Etudes Indochinoise (Kỷ yếu của Hội nghiên cứu Đông

Dương – 1883); Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương – 1892)…

Ở Nam Kỳ (chủ yếu tập trung ở Sài Gòn) có các tờ báo sau đây:

Independance de Saigon (Sài Gòn độc lập – 1870), L'Ere nouvelle (Nhật

tân báo – 1879), Journal de Saigon (Nhật báo Sài Gòn – 1880), Le

Mékong (Mê Kông – 1883), Le Saigonais (Người Sài Gòn – 1883),

L'Indochine (Đông Dương – 1884), Unité Indochinoise (Đông Dương

thống nhất – 1884), La Trompette (Kèn đồng – 1884), L'Extrême

Orent (Viễn Đông – 1887), L'Independant (Tự lập – 1888), Le Courier

Saigonais (Tin Sài Gòn – 1889), Saigon Respublicain (Sài Gòn cộng

hòa – 1888), Petites affiches (Rao vặt – 1888), Le Cochinchinois (Dân

Nam Kỳ - 1888), Le progres de Saigon (Sài Gòn tiến bộ - 1889), …

Ở Bắc Kỳ, dòng báo chữ Pháp có phần ít ỏi hơn. Cuối thế kỷ

XIX, ngoài tờ báo L'Avernir du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ) còn có

các tờ Le Courier d'Haiphong (Tin tức Hải Phòng - 1886),

L'Indépendance Tonkinoise (Xứ Bắc Kỳ tự lập - 1889), L'escho du

Tonkin (Tiếng vang Bắc Kỳ - 1896), Le France d'Asie (Pháp – Á,

1893), Le gazette d'Haiphong (Báo Hải Phòng, 1895)…

Có một thực tế là từ năm 1861, sau sự ra đời của tờ báo Bulletin

officiel de l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc viễn

chinh xứ Nam Kỳ) tuy hàng loạt tờ báo bằng tiếng Pháp đã xuất hiện trên

khắp cõi Việt Nam với số lượng khá lớn nhưng chủ yếu chúng chỉ dành

cho độc giả Pháp, chủ yếu là giới quân sự và dân sự trong bộ máy chính

28

quyền thuộc địa mà rất ít người Việt sử dụng được.

Như đã nói ở trên, báo chí ở Việt Nam ra đời trước hết là nhằm phục

vụ cho mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp. Sau Hòa ước

1862, về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm và thiết lập

chế độ cai trị ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Nhận thấy đã đến lúc cần

phải truyền bá học thuật và tư tưởng văn hóa Pháp vào Việt nam, nhất là

tạo cho việc đưa chữ Quốc Ngữ vào quĩ đạo xâm lăng văn hóa, đánh bại

chữ Nho và văn hóa phương Đông, đầu năm 1865 Soái phủ Nam Kỳ đã

quyết định cho xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta, tờ Gia Định

báo. Có thể nói đây là tờ báo mở đầu cho nền báo chí Việt Nam.

Nhận thức được sức mạnh lớn lao của công cụ báo chí trong tiến trình

xâm lăng, đô hộ và đồng hóa, nhưng đồng thời thực dân Pháp cũng ý

thức một cách sâu sắc “tác hại” ghê gớm của nó đối với an nguy của nền

đô hộ của chúng ở Việt Nam. Vì vậy mà trong suốt hơn 80 năm cai trị,

thực dân Pháp đã thực hiện một chế độ báo chí hết sức khắt khe và

không đồng nhất ở cả ba kỳ trên đất nước ta. Ngay cả ở Nam Kỳ, sau các

hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884) đã thực sự trở thành xứ

thuộc địa trực trị của Pháp ở Đông Dương, lẽ ra phải được hưởng những

điều khoản của Luật thừa nhận tự do báo chí ngày 29 tháng 7 năm 1881 (

Loi du 29 Juiller 1881, sur la liberté de la presse) của Pháp, nhưng thực

tế thì hoàn toàn ngược lại. Về phạm vi điều chỉnh, điều 10, đạo luật nói

trên cho phép áp dụng tại chính quốc cũng như tại Algérie và các xứ

thuộc địa khác. Về đối tượng áp dụng, các điều 5, 6, 7 của đạo luật này

quy định: dù báo chí xuất bản bằng tiếng Pháp hay tiếng bản xứ đều tự

do, muốn ra báo không cần phải có một điều kiện nào ngoài việc viên

quản lý phải có quốc tịch Pháp, đã là thành viên và có đăng ký thủ tục

với Sở Biện lý. Tuy nhiên sớm nhận thấy chỗ “sơ hở chết người” này,

một mặt, thực dân Pháp vẫn cho phép báo chí bằng tiếng Pháp được tự do

xuất bản, mặt khác, chúng ban hành sắc lệnh ngày 30 tháng 12 năm 1898,

29

buộc tất cả các báo tiếng Việt, chữ Hán và các tiếng khác phải có giấy

phép trước khi xuất bản. Tất nhiên là đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ thì

việc xuất bản báo chí lại càng phức tạp và gắt gao hơn. Và một điều mỉa

mai là hầu như đa số các tờ báo tiếng Việt, lúc đầu đều do người Pháp

đứng tên: Gia Định báo (1865) với E. Poteau, Đồng Văn nhật báo

(1893) với F. H. Schneider, Nông Cổ Mín Đàm (1901) với Cavanaggio…

Do chính sách báo chí bất bình đẳng cùng với chế độ kiểm duyệt gắt

gao như vậy nên từ năm 1865, kể từ thời điểm Gia Định Báo ra đời, cho

đến đầu thế kỷ XX (năm 1900), thời gian ngót ngét gần nửa thế kỷ nhưng

ở Việt Nam chỉ lác đác dăm bảy tờ báo lớn nhỏ, kể cả viết bằng chữ Hán:

Gia Định báo (1865), Phan Yên báo (1868), Nhựt Trình Nam Kỳ (1883),

Thông loại Khóa Trình (1888), Đại Nam Đồng Văn nhật báo

(1893)…trong số này, có những tờ phải sớm đình bản vì có hơi hướng

yêu nước như trường hợp Phan Yên báo chẳng hạn. Sang đến đầu thế kỷ

XX, do áp lực của phong trào yêu nước ngày một phát triển, đặc biệt là

các phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, cùng với

tình hình thế giới có nhiều biến động, thực dân Pháp có nới lỏng chính

sách báo chí đôi chút. Chính điều này đã tạo điều kiện cho nhiều tờ báo

ra đời, góp phần vào sự phát triển của báo chí Việt Nam cũng như sự

phát triển của chữ quốc ngữ và văn học. Tính từ thời điểm đầu thế kỷ XX

đến năm 1917, khi Nam Phong tạp chí ra đời, số lượng các tờ báo bằng

tiếng Việt so với giai đoạn trước đó đã có sự gia tăng đáng kể. Chỉ trong 17

năm, số lượng các tờ báo đã gấp ba lần so với nửa thế kỷ trước đó. Với sự

ra đời nhanh chóng như vậy trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của văn

hóa và xã hội nước nhà, có thể nói báo chí trong thời kỳ này đã đóng vai

trò “bà đỡ mát tay” cho sự sinh thành, phát triển của văn học quốc ngữ

và đã góp phần hình thành nên đời sống văn học hiện đại. Phạm Thế Ngũ

trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, khi nghiên cứu về văn học

giai đoạn 1907 – 1932, đã coi “vai trò tiên phong của báo chí” là một

30

trong năm “yếu tính” của văn học. Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn

học Việt Nam cũng đặc biệt nhấn mạnh tới tầm quan trọng của báo chí

khi nói đến “văn học thế hệ 1913” và dành hẳn một chương cho

Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh với hai tờ Đông Dương tạp chí và

Nam Phong tạp chí, hai nhà văn – nhà báo và hai tờ báo theo ông là tiêu

biểu đương thời. Bùi Đức Tịnh trong Những bước đầu của báo chí, tiểu

thuyết và thơ mới, Bằng Giang trong Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865

– 1930 cũng cho báo chí là một “bộ môn tiên phong của nền văn học

mới”

Tuy nhiên, khảo sát chung các tờ báo ra đời trong giai đoạn từ

năm 1900 đến năm 1917, trừ Đông Dương tạp chí và Trung Bắc tân văn,

ta thấy chúng vẫn còn nhiều hạn chế so với báo chí phương Tây cả về ngôn

ngữ, nội dung, đề tài, phạm vi phản ánh. Hầu hết các báo đều ở dạng sơ

khai, chưa thật đúng với nghĩa một tờ báo hiện đại. Sở dĩ có hiện tượng

trên là do sự chi phối của những nguyên nhân mà nhà chí sỹ Huỳnh Thúc

Kháng đã phân tích khá khái quát trên tờ Tiếng Dân do ông làm chủ bút:

Thiếu tài liệu cho Bộ biên tập làm việc: Tài liệu là yếu tố -

quan trọng cho bất cứ tờ báo nào. Muốn viết bài xã luận hay một bài báo

đều cần nhiều tài liệu. Riêng tờ Tiếng Dân thì tài liệu thiếu thốn quá nhiều.

Đường giao thông khó khăn: Muốn được độc giả chú ý, tờ -

báo cần có tin tức hằng ngày. Phương tiện giao thông ở xứ ta còn yếu

kém, muốn đi từ Nam ra Bắc, phải tốn 5, 7 ngày, vùng thôn quê, vùng

sơn cước lại là nơi khó tới lui. Như vậy làm sao thu thập tin tức?

Nạn mù chữ: Báo sống nhờ độc giả. Ở Trung Kỳ, ngoại trừ -

thành thị, chỉ có 10 phần trăm dân chúng ở thôn quê biết đọc. Bởi vậy

người ta đọc báo rất ít.

Sự yếu kém về kỹ nghệ và thương mại: Báo phát triển -

mạnh khi giới doanh thương chú ý đến nó. Giới doanh thương cần

quảng cáo hàng hóa trên báo và họ cần giúp đỡ cho tờ báo được sống. Ở

31

xứ ta, thương mại và kỹ nghệ hầu như không có vậy thì tờ báo làm sao

đứng vững lâu dài nếu thiếu người chịu đăng quảng cáo.

- Hiện tượng tâm lý: Ở những nước tiên tiến, báo chí được

phồn thịnh nhờ tất cả mọi người đọc báo, từ kẻ doanh nghiệp đến người

lao động, từ văn sỹ đến chính trị gia. Báo chí nhờ đó mà trở thành một

lực lượng đáng kể. Nhưng ở xứ ta, thấy ít nói đến báo chí và thích đọc

báo. Không được dư luận công chúng biết đến thì báo khó mà sống dai

được

Nhưng Huỳnh thúc Kháng cũng chỉ mới phân tích đến những nguyên

nhân kinh tế, xã hội mà chưa đề cập đến một nguyên nhân hết sức quan

trọng, kìm hãm sự phát triển của báo chí trong giai đoạn này đó là chính

sách báo chí hà khắc cùng với một chế độ kiểm duyệt vô cùng gắt gao của

thực dân Pháp. Tất cả những nguyên nhân trên đã kìm hãm sự phát triển

của báo chí Việt Nam trong thời kỳ này.

Tóm lại, cho đến đầu thế kỷ XX báo chí vẫn là một cái gì đó chưa

được biết đến một cách rộng rãi trong đời sống Việt Nam. Do ảnh

hưởng của phong trào yêu nước cùng với nhiệt tình, tâm huyết của

những nhà trí thức nặng lòng với dân tộc, báo chí Việt Nam từ sau năm

1900 trở đi đã có phần khởi sắc nhưng phải đợi đến khi Đông Dương tạp

chí (1913) và Trung Bắc tân văn (1915) ra đời thì báo chí Việt Nam mới

bước sang một kỷ nguyên mới. Và đến năm 1917, với sự ra đời của Nam

Phong tạp chí thì báo chí Việt Nam mới thực sự trưởng thành vượt bậc.

2.1.2. Nam Phong tạp chí.

Trong lịch sử nghề làm báo và xuất bản ở Việt Nam, tạp chí Nam

Phong có thể xếp ngay sau Đông Dương tạp chí do Schneider sáng lập

năm 1913 và Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương.

Cũng như Đông Dương tạp chí, Nam Phong là tiền phong, tiền bối,

nếu ta không muốn nói là ông tổ dìu dắt văn chương Việt Nam với bước

tiến mới, trên một chặng đường dài sau khi đã cắt đứt mối liên quan lệ

32

thuộc vào văn chương Trung Quốc.

Năm 1917, Việt Nam bị chia thành ba miền Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam

kỳ. Tuy đều thuộc quyền bảo hộ của Pháp, nhưng Bắc kỳ và Trung kỳ

không cùng một quy chế. Bắc kỳ do Pháp cai trị trực tiếp, Trung kỳ thuộc

Nam triều điều khiển. Cả Bắc kỳ và Trung kỳ hợp lại dưới danh từ “đế

quốc An Nam”, còn Nam kỳ là thuộc địa của Pháp.

Đất nước thanh bình không những ở cả ba kỳ mà còn ở các nước láng

giềng Cao Miên và Ai Lao. Sự hiện diện của người Pháp tạm thời được coi

như một tình thế ổn định. Kỳ thi Hương cuối cùng được tổ chức tại Nam

Định, khi lãnh trách nhiệm bãi bỏ thi cựu học. Toàn quyền Albert Sarraut

muốn chứng tỏ tương lại Việt Nam rồi đây sẽ gắn liền với Tân học. Một kỷ

nguyên mới bắt đầu lộ rạng, có thể coi là kỷ nguyên của chữ quốc ngữ.

Hai chữ Nam Phong có nghĩa là gió thổi từ phương Nam tới. Trong

sách Kinh Thi một bài thơ (ra đời có lẽ từ thời hoàng kim, Trung Quốc

thanh bình được dìu dắt bởi các vị hiền nhân), đã ca tụng:

“Ôi gió Nam tốt thay!

Thổi mát lòng dân tộc

Ôi gió Nam ơn thay!

Xoa dịu buồn dân gian.

Gió Nam thổi đúng lúc thay!

Khiến quốc dân phú cường”.

Kinh Thi là một cuốn thi tuyển ghi chép những bài dân ca được đức

Khổng Tử sắp xếp và bình chú. Tương truyền trong dân gian là bài dân ca

Nam Phong do kỳ thủy bộc lộ nỗi hân hoan của người nông dân Trung Hoa

coi gió Nam như ân nhân và thân hữu. Bài ca này là một bài ca hy vọng,

người nông dân mong mỏi gió Nam, chẳng khác nào toàn thể thần dân đón

chờ hạnh phúc.

Nam Phong tạp chí số 1 ra mắt độc giả, ngay cái bìa cũng được xem

là quan trọng, tạp chí muốn đạt tới một tôn chỉ nào, đó là quy tắc bất di bất

33

dịch trong làng báo. Kể từ số 20, năm 1919, mục đích, tôn chỉ của Nam

Phong được thường xuyên nhắc lại trong tạp chí rất minh bạch và khúc

triết.

“Mục đích của Nam Phong là thể cái chủ nghĩa khai hóa của nhà

nước, biên tập những bài bằng quốc văn, Hán văn, Pháp văn, để giúp sự

mở mang tri thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các

khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái

quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp,

người Nam trong trường kinh tế”.

“Báo Nam Phong lại chú ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho

thành một nền quốc văn An Nam”.

Kể từ số 64, tháng 10 năm 1922, sau 5 năm ra mắt, tạp chí mới mạnh

dạn cống hiến với độc giả một “phụ trương” bằng Pháp văn, tuy chỉ là phụ

trương nhưng tầm quan trọng cũng đáng cho chúng ta lưu ý. Trước hết phụ

trương phản ánh nếp sinh hoạt trí thức tại Âu châu, qua các bài báo từ Paris

gửi về và được đăng lại. Sau nữa những bài đã từng đăng trong các báo

Pháp văn từ Nam chí Bắc và những bài của chính chủ bút Phạm Quỳnh đã

đăng trong các Nhật báo ở Hà Nội, tiếp đó là những ý kiến hay của các bài

khảo cứu của một số nhân vật Việt Nam: Nguyễn Văn Nho, Lê Tài

Trường, Đông Hà, Nguyễn Văn Tố, Ưng Quả, Hán Thu..Đã khiến phụ

trương trở thành một cuốn bách khoa về các đề tài phong phú. Ý kiến chí

hướng cho phần phụ trương Pháp văn đã được nhà chủ bút trình bày trong

Nam Phong số 64:

“…Trước là đối phó với các bạn tân học ưa đọc Pháp văn, sau là giới

thiệu những sự học hành, tư tưởng, dư luận, hành vi của người mình cho

người Tây biết. Sau nữa là lâm thời có thể đạt được ý kiến quốc dân tới

34

chính phủ bảo hộ mau hơn và tiện hơn bằng quốc văn…”

2.2. Quá trình phát triển của Văn học Việt Nam qua sự tiếp nhận

văn học Pháp.

2.2.1. Sự đóng góp các tác phẩm, công trình dịch thuật của các

diễn giả tiêu biểu trên Nam Phong.

Song song với sự ảnh hưởng văn hóa Pháp, Nam Phong cho công bố

rất nhiều các bản dịch, phóng tác, khảo luận, phê bình…phủ rộng chữ quốc

ngữ. Những bản dịch mà tạp chí công bố là những công trình rất có giá trị.

Ngay trong những số đầu tiên ra mắt, dưới ngòi bút của chủ biên

Phạm Quỳnh đã giới thiệu bản dịch ra quốc ngữ. Dường như trong giai

đoạn đầu, tạp chí đã dồn công sức vào cấc công trình dịch thuật và phóng

tác. Việc tiếp nhận và phổ biến văn học mới sẽ tạo cơ hội cho tiếng Việt

thêm phong phú.

Trong các số đầu Nam Phong độc giả được tiếp nhận những bài khảo

cứu dành cho nền văn hóa Pháp, như “Phương pháp luận” (dịch từ cuốn

Discours de la mesthode của Descartes với lời bình chú của Phạm Quỳnh,

số 3 tháng 9, 1917); “Triết lý nước Pháp” (do Phạm Quỳnh phụ trách, số 8,

tháng 02, 1918); với nền văn hóa phương Tây, có “Văn học Hy Lạp (phóng

tác Nguyễn Mạnh Bổng, theo tài liệu Pháp và Hán văn số 4, tháng

10,1917).

Đồng hành cùng Nam Phong, nhiều tác phẩm, công trình đã được

phiên dịch của nhiều tác giả. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi xin

phép nêu ra một số dịch giả tiêu biểu quan trọng:

Phạm Quỳnh dịch từ Corneille: Le Cid và Horace (Tuồng lôi xích, số

38- 1920; Tuồng hòa lạc, số 73 tháng 7 năm 1923). Từ Marivaux: Alequin

poli pa Imour (chàng ngốc hóa khôn vì tình, số 45, tháng 3 năm 1921) và

les Jeux de I’amout et du hasard (Tình duyên với lai tình cờ, số 54, tháng

2-1921). Từ Voltaire: Manon ou la sgesse des gens (Chuyện chàng Manon

hay sự khôn ngoan của người đời, số 44, tháng 2-1921). Từ Courteline:

35

Oh, Jeunesse (Ôi thiếu niên, số 52, tháng 10-1921). Từ Xavier de Maistre:

Les lepsreux de la Cite d’ Aoste (Nguời hủi trở thành A -ốc, số 37,thangs7-

1920).v.v.

Vũ Công Nghị dịch từ Xavier de Maistre: La Jeure Sibérienne (Công

Vị hiếu nữ, số 57, tháng 3-1922); từ Bà Nam tước De Stael Corine ou I’

Italie (Cổ liên nữ sĩ, số 61, tháng 7-1922)…

Hoàng Tích Chu dịch từ Guy de Maupassant: Un drame en mer (Một

cái bi kịch ngoài bể, số 43, tháng 1-1921).

Nguyễn Háo Vĩnh dịch từ Shakespeare: Le marchand de Venise (Chú

lái buôn thành Venise, số 21, tháng 3-1921).

(Theo: Phạm Thị Ngoạn, Tìm hiểu tạp chí Nam Phong 1917-1934,

Luận án tiến sĩ, nguyên tác Pháp văn đã đăng trong tập Kỷ yếu đệ nhị và đệ

tam cá nguyệt 1973 của Hội Nghiên cứu các vấn đề Đông Dương, bản dịch

của Phạm Trọng Nhân, Ý Việt, Yerres, 1993).

Ngoài ra còn một số tác phẩm của các tác giả Pháp ít tên tuổi hơn

được dịch ra quốc ngữ vì bút hiệu được xuất hiện trên các báo Pháp ở Pari.

Tựu chung tất cả các tác phẩm được phiên dịch ra quốc ngữ đã làm nổi bật

một số nét sinh hoạt ở Pari. Một tập truyện có tên “Một bậc thiếu niên anh

hùng: Ông phi tướng Guynemer” số 18, tháng 2-1918 đã một thời kích

thích lòng dũng cảm của cả giới trẻ Việt Nam.

Những tác phẩm hay thiên khảo cứu, phê bình, tiểu sử liên quan đến

các văn hào hay bác học Pháp hoặc các nước phương Tây khác. Baudelaire

(Pháp văn thi loại: Baude-laire tiên sinh, số 6, tháng 2-1917); Maurice

Barres (một danh sĩ nước Pháp); Rabindranath Tagore (Một đại thi sĩ Ấn

Độ: “Ông R.Tagore”, số 38, tháng 5-1929; Lịch sử triết học A.comte, số

138, tháng 5-1929. Đa phần các dịch thuật được trình bày dưới dạng “văn

tuyển”, in đối chiếu với nguyên tác bằng ngoại ngữ. Tiêu biểu là các bài

thơ ngụ ngôn của La Phontaine, bản dịch của Nguyễn Mạnh Hồng và Vũ

Văn Lê. Và những thơ của Verlaine, Victor Hugo, Vigny..với các dịch giả

36

Lâm Tấn Phác, Nguyễn Can Mộng.v..v..Nhất là Nguyễn Can Mộng xuất

thân khoa bảng cựu học mà sau này lại rất sở trường về Pháp văn, ông đã

dịch Sully Prudhomme, Claudius Popelin, Voltaire và nhiều văn hào khác

nữa. Ngoài ra những bản dịch của Nguyễn Mạnh Bổng trong tập: “paroles

d‟un croyant” của Lamennais dịch ra thơ lục bát nhan đề “Đày biệt xứ” rất

ấn tượng và được hoan nghênh trong văn giới.

Theo quan niệm của chủ bút Nam Phong Phạm Quỳnh thì các tác

phẩm được dịch từ phương Tây phải coi như mẫu mực để trợ lực cho các

tác phẩm Việt Nam sau này được soạn thảo hoàn hảo hơn so với trước đây.

Khi giới thiệu bản dịch “le Cid” Phạm Quỳnh đã nêu vấn đề như sau:

“Tuồng “Lôi Xích” là một bản kịch hay nhất trong văn chương nước

Pháp (…) Tuồng này tức là lối bi kịch viết bằng thơ. Truyện là một truyện

hiếu tình xung đột nhau, mà hiếu thắng tình, làm cho hai người chủ động

bị xa cách rồi sau lại được tái hợp, cũng phảng phất như những chuyện ở

Đông phương ta, nhưng cách kết cấu khéo hơn nhiều. Đại khái các tuồng,

các truyện của ta, không phải là tích không hay, chỉ vì đạt đề vụng nên cái

hay mất đi cả, hoặc không biểu lộ ra được hết. Thường ta dặt tuồng, đặt

truyện theo lối làm sử, việc gì cũng kể hết đầu đôi, từ lúc khởi thủy cho đến

lúc kết cục, như nói về một người thời ta từ lúc người ấy còn nhở cho đến

lúc người ấy đã già, thành ra cái phần cốt yếu, cái then chốt trong bài

tuồng, trong vở truyện bị ngập cả vào các phần khác hoặc rườm rà, hoặc

vô vị mà không xuất ra được hết (…).

“Nay dịch ra quốc ngữ không những là để công bố cho quốc dân biết

một áng văn chương hay của Đại Pháp, mà cốt giới thiệu cho các nhà lưu

tâm về diễn kịch biết cái cách soạn kịch của Thái Tây tinh xảo là dường

nào…Phiên dịch không tài nào cho vừa hay đúng được. Người dịch khổ

tâm về hai điều: một là sợ không đúng với lời văn Tây, hai là sợ không lọn

ra văn ta, lọn tiếng ta tất không đúng lời Tây, đúng lời Tây tất không lọn

tiếng ta; được đằng nọ hỏng đằng kia, phải tùy nghi châm chước vậy. Xin

37

các độc giả lượng cho” (“Tuồng Lôi xích”.NP, số 38 tháng 8, 1920, trang

87-88).

Bằng những nỗ lực không mệt mỏi, Phạm Quỳnh thường xuyên

hướng mọi sự kiện vè văn chương văn học Việt Nam. Ông viết trong đoạn

cuối phê bình cuốn tiểu thuyết “Le sens de la mort” của Paul Bourget:

“Sách ấy nghiên cứu một vấn đề xưa nay người ta chưa xét đến bao

giờ, mà giải các vấn đề ấy ra một phương diện thật là mới lạ cho tai mắt

ta. Chúng tôi đã cố giải cho dễ hiểu nhưng cũng tự biết rằng còn lỗ mỗ

lắm. Có lắm cái tư tưởng cảm giác không tài nào diễn ra tiếng ta cho minh

liệu dược. Cho hay cái quốc văn ta mới nở còn non nớt chưa đủ sức mà ra

vẫy vùng trong bể ngôn luận. Bởi vậy mà ta phải luyện cho nó có cái tư

cách ấy. Bài này cũng là một bài tập luyện như thế. Tưởng các nhà báo

cũng lượng biết cho. (“Một bộ tiểu thuyết mới: “Nghĩa cái chết” NP, số 1,

tháng 7 năm 1917 trang 27).

Ngoài các bản dịch về tác phẩm văn học, Nam Phong còn cống hiến

cho độc giả những đoạn ngắn để “lấp chỗ trống” ở cuối trang hay giữa hai

hàng. Đó là những tư tưởng cách ngôn hay trích dịch từ những tác phẩm

Pháp, Trung Hoa hay những nước phương Tây khác. Những bản dịch,

phóng tác hay nghiên cứu phê bình các tác phẩm phương Tây đã ảnh

hưởng rất mạnh đến các tác giả Việt Nam thời đó, và mở cửa cho một trào

lưu mới khiến nền văn chương quốc gia trở nên “canh tân” và phong phú.

Những tác giả đi đầu trong trào lưu canh tân này phải kể đến Phạm

Duy Tốn, một nhân vật ai nấy đều biết đến. Đó là một đoản thiên nhan đề

“Sống chết mặc bây”, chịu ảnh hưởng và mô phỏng từ truyện La partie de

billard (Ván chơi bi da) của Alphonse Daudet, Phạm Duy Tốn đã thành

công, tác phẩm được coi như độc đáo, thuần túy Việt Nam. Điều đó chứng

tỏ trào lưu mới có thể rất bổ ích cho nền văn chương quốc gia.

Một tác giả khác là Nguyễn Mạnh Bổng cũng nổi tiếng với tác phẩm

“Ai giết người”, trong công cuộc tìm đường theo khuynh hướng tả chân,

38

khai thác mảng truyện trinh thám theo quan niệm phương Tây, những bức

tranh độc đáo về phong tục tập quán nơi thôn dã, những cảnh ðời tại Hà

Nội, hay nếp sống ở các tụng đình là nơi các quan xử án…

Ngay như nhà nho Nguyễn Bá Học cũng có một thái độ rất “mới”,

trong “Câu chuyện một tối của người tân hôn” (trong NP số 46), ông tố

cáo sự bóc lột vô nhân đạo mà nạn nhân là các cô gáo làm công cho nhà

máy sợi Nam Định. Thể văn của ông khác hẳn so với các qui tắc mà ông

đã lựa chọn:

“Công nhật mỗi ngày là 25 su, công ba 17 su, còn con gái mới vào

chưa quen, công ăn mỗi ngày 14 su. Lâu lâu sẽ lên hạng nhì hạng nhất.

Chỉ giờ làm việc có điều hơi ngặt, mỗi ngày phải làm 15 giờ, từ 6 giờ sáng

đến 9 giờ tối, trừ cho có nửa giờ ăn, ai đến làm trễ giờ thì phải phạt”.

Trào lưu văn học mới này đặt tiền đề cho chủ nghĩa “lãng mạn” trong

văn chương. Lãng mạn chủ nghĩa là một thứ khuynh hướng trong văn nghệ

giới Âu Châu vào thế kỷ XIX, trái với cổ điển chủ nghĩa. “Lãng mạn chủ

nghĩa là tức là chủ quan chủ nghĩa, tức là chủ nghĩa cảm tình vô câu thức,

tự do miêu tả cái tính tình và cảm giác cảu con người chứ không chịu sự

bó buộc qui tắc nào cả” (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, Sài Gòn 1957).

Chủ nghĩa lãng mạn được trình bày đầy nhiệt huyết trên Nam Phong.

Xuất phát từ các tác giả giàu tình cảm như Phạm Quỳnh, Nguyễn Tràng

Kiều…Đối với Nguyễn Tràng Kiều ông coi lãng mạn thuần túy phải là

lãng mạn tranh đấu:

“Có kẻ bảo người Việt Nam ta nghèo tình cảm và không có một chút

tinh thần lãng mạn nào. Nhưng ta đọc những văn của Chu Mạnh Trinh,

những ca của Nguyễn Công Trứ, những thơ của Nguyễn Khắc Hiếu thì

chẳng lãng mạn đó ư? Nhưng nếu lẫn lãng mạn (romantisime) với chủ

nghĩa cá nhân (individualisme) thì có thể nói rằng: Chịu cái đạo thống của

Khổng Mạnh người Việt Nam ta không có biết tới cái chủ nghĩa cá nhân

bao giờ. Văn học thì thiên về chủ quan, nghĩa là nặng về chủ quan, nghĩa

39

là nặng về tâm và nhẹ về trí; chú trọng về đạo đức, từ chương và chểnh

mảng về thực nghiệm khoa học. Mà mới từ trong vòng 30 năm nay, cái

“bản ngã” (le moi) mới thấy phát hiện trong văn học một cách rõ

ràng…Vì quen sống ở các nơi thành thị phồn hoa nên chế độ gia đình

không biết nữa, cái thế lực của gia tộc và quê hương đối với những người

ấy sẽ bị cái cá nhân chủ nghĩa đánh đổ. Ai nấy đều giác ngộ mà hiểu rằng

mình có cá tính (personnalite’) nên đều thấy phóng túng tự do, hành động

làm sự táo bạo, ngang tàn”(…).

“Đời lãng mạn, người lãng mạn. Rồi tất cả những người lãng mạn sẽ

lần lần đem cái tâm hồn đa cảm, đa sầu trước kia còn để vào những cảnh

hoa tàn, lá rụng, trăng khuất sương mù, nhưng rồi sau sẽ biết rung động

vì “những điều trông thấy” trong cái xã hội đầy những sự bất bình, mùi

thống khổ kia sẽ tạo ra những văn thơ lãng mạn. Quang cảnh văn học ta,

vì thế sẽ có phần khởi sắc”.(Lê Tràng kiều: “Bút thanh niên lãng mạn”

Nam Phong số 206, 16-10-1934, trang 150).

Trong nhóm Nam Phong, tác giả được coi là “lãng mạn”, phải kể đến

Tương Phố và Đông Hồ với “Giọt lệ thu” và “Linh phượng”. Hai tác giả

này có phong cách lãng mạn truyền thống kiểu của Chu Mạnh Trinh,

Nguyễn Khắc Hiểu, Nguyễn Tràng Kiều.v.v.v. Lãng mạn kiều phô trương

tình cảm, nếu các tác giả ấy có nói đến “cái tôi” của đời tư mình, thì cũng

không đi quá trớn với một thể văn biết hòa hợp lối văn tao nhã, ý thanh

cao, với vẻ nên thơ, nghĩa là tất cả những gì mà truyền thống thường đòi

hỏi.

Thật chưa chính xác khi nhiều người cho rằng Nam Phong đã chủ

trương một loại “lãng mạn đẫm lệ”, nhất là ngày nay ai cũng biết cuốn tiểu

thuyết “Tố Tâm” là sách gối đầu giường của đa số các học sinh trung học

trong các năm 1926, 1930, đã khơi mào cho làn sóng lãng mạn tràn lan

trong giới thanh niên. Ngoài ra một số ý kiến còn cho rằng không phải

Nam Phong mà là cuốn tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách đã gây nên

40

phong trào tự tử vì chống đối hay thất vọng, vào thời gian đó, phong trào

nảy nở trong đám thanh niên đã rập khuôn tình cảm theo nhân vật trong

“Tố Tâm”.

2.2.2. Văn học có những thay đổi mới.

2.2.2.1. Thơ

Sự khác nhau trong quan niệm về thơ giữa phƣơng Đông và

phƣơng Tây.

Thơ ta thơ Tây là bài khảo luận thể hiện tập trung nhất kiến giải của

Phạm Quỳnh về sự khác nhau giữa thơ phương Đông và thơ phương Tây.

So sánh sự khác nhau trong quan niệm về thơ giữa phương Đông và

phương Tây, Phạm Quỳnh cho rằng với phương Đông, mà cụ thể là Trung

Hoa và Việt Nam, thơ là một thú chơi tao nhã, là sự thể hiện những tình

cảm, ý tưởng cao cả bằng những ngôn từ đẹp đẽ, có âm hưởng, tiết tấu

nhằm tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ cho người thưởng thức. Quan

niệm về thơ của người Trung Hoa và Việt Nam được ông nhận xét như

sau: “Ta coi thơ tức là vẽ, mà vẽ tức là thơ; thơ là vẽ bằng lời, bằng thanh

âm, vẽ là thơ bằng hình, bằng màu sắc. Nên bức tranh sơn thủy tức là bài

thơ tả cảnh hiển hiện ra cho mắt ta trông; mà bài thơ tả cảnh tức là bức

tranh sơn thuỷ cất tiếng lên cho tai ta nghe vậy”.

Với quan niệm thơ là “vô hình họa”, “hữu thanh họa”, nên trong thơ

Trung Hoa và thơ của ta thời Trung đại, mà nhất là lối thơ Đường luật, đòi

hỏi phải tuân theo qui tắc nghệ thuật hết sức chặt chẽ, chú trọng làm thế

nào chỉ với một khuôn khổ câu chữ tối thiểu nhưng truyền thần được

cái hồn của cảnh, cái tình của người một cách tối đa. Thơ là tiếng nói tự

nhiên của tâm hồn con người, “là tiếng kêu tự nhiên của con tâm”.

Người Trung Hoa định luật nghiêm cho thơ là muốn gia công cho

tiếng kêu ấy hay hơn, nhưng cũng chính vì vậy mà nhiều khi làm cho thơ

mất đi cái vẻ tự nhiên đáng ra phải có.

Thơ, đối với người phương Tây là nghệ thuật lại cũng vừa là triết lý,

41

đề cao hình thức nhưng càng coi trọng nội dung, bởi thế mà hình thức

của thơ cốt làm sao thể hiện nội dung cảm xúc, nội dung triết lý cho hết

sức tự do, phóng khoáng. Cùng một đối tượng phản ánh, một đề tài thể

hiện, thơ Trung Hoa, thơ ta sẽ có những nét bút phong nhã, thanh tao, rất

khéo nhưng kém sinh động, thiếu tự nhiên vì nặng về phần gia công gọt

dũa. Trong khi đó, thơ phương Tây tuy có thể không được khéo bằng

nhưng lại có nét bút đậm đà, lời lẽ thắm thiết, hùng hồn, sinh động.

Nhằm củng cố luận giải của mình và cũng giúp độc giả có tư liệu để

thấy rõ hơn sự khác nhau giữa hai lối thơ, Phạm Quỳnh đã công phu

phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan và Buổi

chiều chơi núi (Soir en montagne) của Léonce Depont. Qua sự phân tích

của ông, người đọc thấy hiện lên rõ ràng bức tranh trong Qua đèo Ngang

là một tuyệt bút, đủ cả đất trời, mây nước, núi non, cây cỏ, đá hoa,

chim kêu vượn hú…lại thêm chút tình của kẻ lữ thứ một mình đối diện

với trời cao đất rộng trong cảnh chiều tà. Tất cả được thể hiện bằng một

lối ngôn từ chải chuốt, giọng điệu êm ái trong khuôn khổ nghiêm ngặt

của thể thơ Đường luật gồm tám câu thơ với 56 chữ. Nhưng theo ông, đó

là bức tranh gia công trong các lọ sứ Tàu. Ngược lại, bức tranh trong bài

thơ Soir en montagne không có được cái gọt dũa, chải chuốt, gọn ghẽ

nhưng tình cảm dồi dào, tư tưởng siêu việt hơn hẳn.

Kết luận về sự khác nhau trong quan niệm, thể thức của “thơ ta” và

“thơ Tây”, Phạm Quỳnh nói một cách đầy hình ảnh như sau:

“Cứ so sánh hai lối thơ ấy thì biết hai cái tinh thần khác nhau là

dường nào. Một bên thì vụ bề nhân công, một bên thì chuộng về thiên phú.

Vụ bề nhân công thì chủ lấy cực kỳ tinh xảo, làm bài thơ như trạm một

hòn ngọc, uốn một cái cây, sửa cái vườn cảnh, thế nào cho trong cái giới

hạn nhất định, thêu nên bức gấm trăm hoa. Chuộng vẻ thiên phú thì nhà

thơ tự coi mình như cái phong cầm, tùy gió thổi mà nên tiếng:

42

Tiếng trong như hạc bay qua Tiếng đục như suối mới sa nửa vời

Lời thơ phải tùy theo lớp sóng trong lòng là khi dài khi ngắn, khi

thấp khi cao, không thể cầm giữ trong phạm vi nhất định”

Khi khuyến khích nền tản văn mới nảy nở, Nam Phong tạo căn bản

cho một nền văn học quốc gia đổi mới. Ngay năm 1917 chủ bút Phạm

Quỳnh đã luận bàn về thơ Pháp và Âu Châu có thể ảnh hưởng đến thơ Việt

Nam :

“Ngày nay ta bắt chước cái thể, cái luật, cái hình thức của thơ Tàu

rồi, thì nên quay về Âu châu mà đón lấy cái luồng tư tưởng, gió cảm hứng

mới. Cái cảm hứng của thơ Tây thật là có lắm vẻ ly kỳ, tuyệt thú, xưa nay

ta chưa từng biết bao giờ. Người Tây dùng nhời thơ vẽ được hết cái cảnh

vật trong giời đất, diễn được hết cái tâm lí trong người ta…” (Nam Phong

số 6, tháng 12-1917, trang 368 “Pháp văn thi thoại”- “Bạch Đức Lai tiên

sinh”).

Nguyễn Mạnh Bổng đăng trong “Từ khúc mới” giới thiệu về thơ mới

như sau:

“Cái lối văn vần nước ta thực đã chen vai làm cho văn đàn lắm nỗi vẻ

vang, nhiều thú vị. Nhưng ở cái buổi đời này, muôn sự muôn vật đều cần

thêm mới luôn, thì lối văn ta cũng nên nghĩ ra cho thêm nhiều lối mới.

Nhân nghĩ thế, bỉ nhân có theo những từ khúc Tàu các bậc phong lưu đời

trước nay hãy làm để tạo tình tả cảnh, mà đàn ra quốc văn, hãy đăng vào

mục “văn uyển” này ít nhiều, đôi khi cũng đặt ra vài lời mới nữa, mong

rằng các đồng chí sửa cho” (Nam Phong, số 9, tháng 3-1918, trang 167).

Nhà thơ Nam Thảo, một nhà thơ ít tên tuổi, cho ra mắt tập “Dây đàn

đau đớn” (1919), Phạm Quỳnh đã viết bài bình phẩm khe khắt cho tập thơ

này, vì ông cho rằng tác giả quá ư táo bạo:

“Tập thơ Nôm này là của một ông Tây học, thuộc dòng Lý-Đỗ, học

nghề làm thơ, không đề rõ tên, chỉ đề hiệu là Nam Thảo. Ông không đề tên

phải vì ông muốn thí nghiệm một sự khí bạo quá, mà sự thí nghiệm ấy chắc

43

là hỏng. Ông muốn đem vần điệu tây mà làm thơ ta thời thể sao được?

Ông há lại không biết rằng thanh âm của nước nào là riêng cho nước ấy,

không thể tự tiện biến đổi được. Và ngay như các tiếng Âu Châu là những

tiếng liên vần, có chữ ít vần, có chữ nhiều vần âm hưởng tiết tấu không

nghiêm lắm mà có người “xướng” ra cái lối “tự do” không theo thi pháp

cũ, cũng còn không được thay; huống chi là tiếng độc vận như tiếng mình,

mỗi chủ là mỗi vần, phải xếp đặt có tiết tấu thời âm hưởng mới thanh

thoát, đặt hơi chênh lệch là khổ độc ngay; như vậy mà làm thơ muốn phá

lề lối cũ theo âm điệu Tây, thời còn nghe sao được? Thử đọc những câu:

“Hỡi các người chết; ta kính trọng,

Các người như là còn sống…(!)

Ngồi xe điện, xe điện chạy,

Mau mau mở bảy.

Cô trông nẻo xa,

Mong chóng đến đấy…(!)

Tình nọ cảnh kia ở đâu đâu,

Kéo đến trong lòng đông nghìn nghịt…(!)

Thú nào bằng thú vợ chồng,

Bấy lâu cách mặt mà nay cùng giường…(!)”

Không biết có ai cho là thơ từ gì không, chớ đọc nó khổ tai quá.

Không những khổ tai mà buồn cả trí nữa, vì cái tư tưởng nó cũng tầm

thường lắm.

“Dám khuyên ông Nam Thảo (chẳng biết ông là ai) đừng nên làm cái

lối thơ kỳ quặc ấy nữa, mà uổng công vô ích, lại để người ta cười” (“Giới

thiệu sách mới”, Nam Phong số 23, tháng 5-1919, trang 424).

Sau Nam Thảo dường như báo hiệu Phan Khôi sẽ ra mắt làng văn, với

tác phẩm “Tình Già” là khuôn mẫu hoàn hảo nhất về :”Thơ mới”. Thơ

mới được hiểu theo chiều hướng tức là bỏ hết thảy những qui tắc cũ về

44

niêm luật đồng thời còn mới ở cách chọn đề tài, cũng như từ ngữ. Phan

Khôi đã tả tình của một đôi lứa “nhân ngãi” về già, bằng một thể thơ tự do

4, 5, 6,7 chữ hay nhiều hơn thế. Ngoài ra còn có tác phẩm “Từ khúc mới”

của Mân Châu cũng đã từng có thái độ đi tìm sự mới mẻ này.

Sự thành công của “thơ mới” theo năm tháng càng được khẳng định.

Bài thơ “Khuê phụ thán” đăng trong Nam Phong số 21, tháng 3 năm 1919,

(trang 229-230) được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Phạm Quỳnh đã coi

như khuôn mẫu, ông dịch ra Pháp văn rồi phê bình trong cuốn “La po’esie

annamite”. Thơ gồm 10 bài liên tiếp, mỗi bài có 8 câu, câu cuối của bài

trên được trích hay để nguyên làm câu đầu cho bài dưới. Phê bình bài thơ

này, Phạm Quỳnh đã để lại thiên “truyền ký” lan khắp trong dân chúng,

những người yêu thơ:

… “bài thơ bi ai sầu thảm này đã truyền tụng sâu rộng ở miền Trung

và ngay ngoài Bắc cũng có nhiều người biết; tác giả có lẽ là bà chánh phi

của cựu hoàng Thành Thái thời là thân mẫu của cựu hoàng Duy Tân. Xa

chồng và con bị đi đày đảo Resunion sau vụ âm mưu 1916, vị hoàng phi

này bị truất phế đã ký thác nỗi đau thương phiền muộn vào những vần thơ

buồn thảm. Qua những lời thơ nhỏ lệ, người ta có cảm tưởng như sống lại

trong luồng gió mạnh trận phong ba, tấn bi kịch đã diễn ra trong triều đình

cổ kính, và nỗi u sầu ngột ngạt bao trùm kinh đô tiếc thương của nhà

Nguyễn. Tuy nhiên sau 13 năm, trong Nam Phong số 169 đã công bố sự

thực về tác giả. Thi nhân đã tế nhị khéo léo khóc than giùm cho thiếu phụ

xa chồng và hiền mẫu xa con là một nhà Nho ở Vĩnh Long tên là Thượng

Tân Thị. Bài thơ thể hiện lòng yêu nước trung quân, làm cho đề tài trở nên

cao cả, cộng thêm những tình cảm sâu đậm khiến công chúng sẵn sàng

cảm thông rung động. Trường hơp của Thượng Tân Thị thật đặc biệt hiếm

có, vì khi một bài thơ ra mắt công chúng, không dễ gì có sự trùng hợp của

45

các yếu tố thiên thời đến như vậy.

Hòa chung dòng chảy đổi mới canh tân của nền văn học nước nhà

chịu sự chi phối của văn học phương Tây, đối với tầng lớp thi nhân Việt

Nam mà nói, bất kỳ sự việc nào cũng nên thơ cả, một chi tiết nhỏ về đời

sống hàng ngày, một nhận xét tối thông thường, một sự kiện bình thường

hay những biến cố quan trọng, những xúc động kinh hoàng hay những cảm

tưởng hiếm có và sâu sắc. Tất cả đều là cơ hội cho thi sĩ sáng tác nên

những tứ tuyệt hay bát cú. Thời đó ta cũng bắt gặp một loại văn gọi là “thi

thoại” (nói chuyện về thơ) từ lâu đã bắt rễ chặt trong tập quán. Về thể loại

này một số văn sĩ nổi tiếng như Chương Dân Phan Khôi; Đông Châu

Nguyễn Hữu Tiến; Sở Cuồng Lê Dư…đều là những thi sĩ cừ khôi trong thi

giới. Vì thế mà trong 17 năm trời, mục “văn uyển” trong Nam Phong

thường là nơi hẹn hò hay gặp gỡ của các thi sĩ và người yêu thơ.

Nhìn chung, hàng mấy chục nhà thơ trong nhóm Nam Phong, với

hàng mấy ngàn bài tứ tuyệt, bát cú, hay theo các thể thơ khác nữa đã cống

hiến cho độc giả và lưu truyền hậu thế cả một kho tàng phong phú, gồm

những danh từ, từ ngữ chọn lọc trong ngôn ngữ bình dân hay văn chương

Hán-Việt. Dẫu rằng khi nhìn lại những trang báo xưa, ta cảm giác như một

mảnh vườn cũ bị bỏ hoang, các bài thơ có vẻ lỗi thời, tàn úa, bị gò bó phát

triển trong một khung cảnh bất biến, vay mượn câu từ, lối văn hóa phương

Tây, nhưng nguồn thi hứng đó vẫn duy trì được vẻ xinh tươi, năng động để

tạo nên muôn vàn sắc thái, nhưng biểu hiện một cách dè dặt kín đáo. Tất cả

đóng góp không nhỏ cho tiếng nói nước nhà.

Bên những sáng tác về thơ, mục “văn uyển” trên Nam Phong còn

cống hiến cho các độc giả những câu đối, những bài hát ả đào, những bài

phú, văn tế, những bài dân ca hát xẩm do những ca sĩ mù biểu diễn. Vì

thực tế thơ Việt Nam gồm nhiều thể loại khác biệt. Mỗi thời đại, thơ có sự

diễn đạt, thể hiện khác nhau, nhưng tựu trung, đích thực là thơ chân

46

chính thì nó phải làm cho đời sống con người được phong phú, góp phần

hình thành và phát triển nhân cách, góp phần xây dựng cuộc đời.

Về thơ ca, tuy không đưa ra một hệ thống lý thuyết tương đối đầy

đủ, nhưng Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong đã thể hiện rõ quan niệm

của mình về việc tiếp thu, cải tiến và phát triển thơ ca dân tộc. Quan trọng

hơn nữa là tác giả đã thể hiện một quan niệm hết sức tích cực về vai trò,

ý nghĩa của thơ đối với cuộc sống con người. Đây là một quan niệm hết

sức hiện đại, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa việc kế thừa những tinh hoa

của văn học dân tộc với việc tiếp thu những yếu tố tiến bộ của văn học thế

giới. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành phát triển của nền thơ

hiện đại còn non trẻ của Việt Nam trong giai đoạn đầu.

2.2.2.2. Đoản thiên tiểu thuyết và truyện ngắn trên Nam Phong

tạp chí.

Trong hơn 17 năm, Nam Phong đã giới thiệu 49 truyện và chùm

truyện ngắn dịch từ nước ngoài, trong đó có 25 truyện và chùm truyện

ngắn Trung Hoa và 24 truyện ngắn phương Tây, trong đó có 22 truyện

ngắn của Pháp. Riêng Phạm Quỳnh là người dịch nhiều nhất, chiếm hai

phần ba (16/24 truyện) các tác phẩm dịch phương Tây. “Truyện ngắn nước

ngoài trên tạp chí Nam Phong có đóng góp nhất định trong việc giới thiệu

văn học phương Tây, văn học Trung Quốc và rèn luyện câu văn Quốc ngữ

ở buổi đầu hình thành nền văn học mới…góp phần quan trọng vào việc

thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà trên lĩnh vực văn

xuôi…Nam Phong thực sự trở thành vườn ươm các truyện ngắn có giá trị

đâm chồi nẩy lộc” (Từ điển văn học. Bộ mới – NXB Thế giới 2004).

Trong hệ thống các thể loại văn xuôi nghệ thuật, tiểu thuyết có vị

trí hết sức quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển của một nền văn

học. Thể loại tiểu thuyết, hiểu theo quan niệm của văn học hiện đại, chỉ

mới manh nha ở Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX. Tác phẩm

47

được xem là mở đầu cho thể loại này là cuốn Thầy Lazaro Phiền

của Nguyễn Trọng Quản, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1887. Sang đến

đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết Việt Nam thực sự khởi sắc với những đóng

góp sáng tạo của các nhà văn đi tiên phong như Hồ Biểu Chánh ở

trong Nam; Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm…ngoài Bắc. Cùng với sự

xuất hiện ngày càng nhiều sáng tác phẩm thì lý thuyết về thể loại văn học

này cũng dần dần được quan tâm, buổi đầu thường thể hiện qua những Lời

tựa, Lời giới thiệu cho mỗi tiểu thuyết mới được xuất bản. Chẳng hạn,

trong Lời tựa cuốn tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền nhà văn Nguyễn

Trọng Quản phát biểu suy nghĩ của ông về việc viết tiểu thuyết như sau:

“Đã biết rằng dân ta xưa nay chẳng thiếu chi thơ phú văn truyện

nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó, mà

những đấng ấy thuộc về đời xưa chớ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó tôi

mới dám bày đặt một chuyện đời nay là sự thường có trước trước mặt ta

luôn, như thế thì sẽ có nhiều người lấy làm vui lòng mà đọc, kẻ thì cho

quen mặt chữ, người thì cho đặng giải phiền một giây” (Dẫn theo Mã

Giang Lân, 40, 302).

Như vậy, Nguyễn Trọng Quản quan niệm tiểu thuyết là “bày đặt

chuyện đời”, tức là một thể loại hư cấu dựa trên một cảm hứng về thế sự.

Hồ Biểu Chánh thì quan niệm ông viết tiểu thuyết là nhằm viết chuyện

nước mình cho người mình đọc: “Người mình mà biết truyện bên Tàu

không bổ ích cho bằng biết truyện trong nước mình” [Mã Giang Lân,

Sđd]. Những quan niệm như trên chỉ như là suy nghĩ chủ quan của những

người trực tiếp sáng tác, chưa phải là những đúc kết mang tính lý luận đạt

đến tầm khái quát.

Vào thời kỳ mở đầu của văn xuôi quốc ngữ, những người cầm bút để

sáng tác tiểu thuyết đăng trên tạp chí này, chưa hẳn đã là những nhà văn

chuyên nghiệp như ở giai đoạn sau. Hầu hết họ là những trí thức, mà nghề

nghiệp của họ: có người là nhà giáo như Nguyễn Bá Học, có người là nhà

48

báo như Phạm Duy Tốn, có người còn là sinh viên như Hoàng Ngọc

Phách… Do vậy, “những điều trông thấy” và vấn đề mà họ quan tâm

chính là cuộc sống của một tầng lớp mới – tầng lớp trí thức tiểu tư sản.

Xuyên thấm và bật ra từ đề tài ấy, chính là sự bế tắc về tư tưởng, cảnh gian

nan và những khó khăn, buồn tẻ trong đời sống của những người công

chức, trí thức… trong buổi giao thời. Đó là chuyện về một anh học trò cựu

học, thất bại trong buổi tân học đang lấn át, bị gia đình đuổi đi và tự tìm

lấy cuộc sống cho mình (Dư sinh lịch hiểm ký – Nguyễn Bá Học) . Đó

còn là cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo của một anh cùng nho: ba tháng

chưa có tiền trả nợ thuê nhà, vợ vá áo rách, cuối cùng phải “cầm cái áo

ngoài” “để đi gửi lấy mấy đấu gạo mà thổi bữa cơm sáng…” (À, chuyện

chiêm bao! – Nguyễn Bá Học). Hoặc, cho dù là một anh công chức làm

thư ký “cho một nhà giây thép” như chàng Lê Tâm (Tình xưa – Nguyễn

Tiến Lãng) thì cả đời cũng chỉ thấy buồn tẻ ở nơi núi rừng xa vắng, “gió

cuốn ngàn lau xào xạc…”, “đầy trời sương tỏa khói mịt mù”, và đau khổ

hơn là cảnh vợ con anh “đã phải bệnh sốt rét ngã nước, ngày càng đau yếu,

gầy mòn” (Nam Phong tạp chí số 179, tr.263). Sống trong cảnh chán

chường đó, ngay cả đến một bức thư tình của người bạn gái năm xưa nào

đấy, có thể xua đi những buồn tủi, tẻ nhạt của cuộc sống hiện tại, đối với

Lê Tân cũng trở nên vô vọng. Buồn bã, chàng chỉ còn biết „với lấy con dấu

ngày trên tấm “tam bông” đen, rồi cái vật vô tội nọ lại nện xuống phong bì

chan chát như cái đầu đen đập vào tường một cách điên cuồng thất

vọng”… Những biến động về kinh tế, văn hóa của xã hội Việt Nam, chính

sách bóc lột thuộc địa của thực dân cùng với sự phá sản của nền học cũ…

ít nhiều đã có dấu ấn trong nội dung của những đoản thiên tiểu thuyết đầu

tiên ấy. Đáng lưu ý hơn là ngay từ giai đoạn mở đầu của tiểu thuyết mới

Việt Nam, đời sống của công nhân, nông dân cũng đã được phản ánh khá

sâu sắc. Mặc dù chỉ có 2/45 truyện viết về đề tài này Câu chuyện một tối

của người tân hôn của Nguyễn Bá Học và Sống chết mặc bay của Phạm

49

Duy Tốn, nhưng không phải vì thế mà đề tài này trở nên mờ nhạt. Trái lại,

có thể coi đây là 2 truyện thành công, gây được ấn tượng sâu sắc nhất

trong toàn bộ tiểu thuyết sáng tác trên Nam Phong tạp chí thời kỳ ấy.

Phạm Duy Tốn đã thấy được những cơ cực của người nông dân suốt ngày

“bì bõm dưới bùn lầy” để cứu đê, làm phu đê ngày trước. Đê vỡ, đời sống

của họ còn thê thảm hơn, cảnh “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu,

nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”, sẽ dẫn đến cảnh “kẻ sống không chỗ

ở, kẻ chết không nơi chôn”, “tình cảm thảm sầu” không kể hết. Với tác giả

Phạm Duy Tốn, người nông dân và những bất công, cơ cực của họ đã được

thể hiện trong tác phẩm bằng niềm cảm thông, thương xót của tác giả.

Bao trùm và xuyên suốt nội dung cũng như đề tài của hầu hết các

truyện đăng trênNam Phong thời bấy giờ là chủ đề về đạo đức, luân lý xã

hội. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ là xã hội giao thời giữa “cái cũ” và “cái

mới”, giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây, mà trong đó cái

cũ chưa hoàn toàn mất đi và cái mới chưa hoàn toàn thay thế. Nhưng như

tác giả Thi nhân Việt Nam đã nhận định: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc

biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”. Những

nền nếp, kỷ cương, đạo đức và lối sống… của một xã hội phương Đông

đóng cửa hàng nghìn năm đến nay đã bị một phen lung lay. Mỗi căn nhà và

mỗi con người trong xã hội ấy đều bị chi phối, bởi sự đổi thay lớn lao đó.

Dưới con mắt của những nhà nho thì đó quả là một sự “sa đọa”. Hầu hết

các tác phẩm của những cây bút vốn có nguồn gốc Hán học như: Nguyễn

Bá Học, Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Văn Cơ, Đoàn Ngọc

Bích… đều có viết về đề tài này.

Ngay từ tiểu thuyết đầu tay và cũng là tiểu thuyết đầu tiên đăng

trên Nam Phong tạp chí là Câu chuyện gia tình, Nguyễn Bá Học đã muốn

cho mọi người “làm chứng cái khốn nạn chung trong xã hội” bấy giờ! Đó

là chuyện một anh học trò Tây học, lên sống ở tỉnh thành, do ảnh hưởng lối

sống mới, nên so với khi ở nhà “tính nết đổi hẳn”. Tệ hại hơn, anh ta đã

50

ngoại tình và về nhà lấy tiền, tư trang của vợ đem đi ăn chơi và dan díu với

tình nhân! Dưới con mắt của nhà nho thầy giáo Nguyễn Bá Học thì đó quả

là hành động phi đạo đức lớn, mà điều này do chính sự “học mới” gây nên.

Ông muốn tố cáo trước dư luận xã hội về sự sa đọa nghiêm trọng ấy!

Tương tự như đề tài và chủ đề của tiểu thuyết trên, Truyện cô Phụng của

Xuân Quang Đoàn Ngọc Bích cũng nên lên một trường hợp hư hỏng của

một cô gái con nhà “giáo học” ở Hải Phòng. Ảnh hưởng lối sống mới, cô

ăn chơi, cô “son phấn” cô “nhởn nhơ”… không lo chuyện học hành, bị lưu

ban, cô phải bỏ học và cuối cùng kết quả là cuộc đời của cô đắm chìm

trong dòng nước xoáy của xã hội Việt Nam đang trên đường tư sản

hóa. Chuyện cô chiêu Nhì (Nguyễn Bá Học), và Nước đời lắm nỗi (Phạm

Duy Tốn)… cũng mang chủ đề tương tự như vậy. Các tác giả trên bộc lộ

sự lo ngại và vang lên những tiếng chuông báo động về độ rung của đạo

đức, luân lý xã hội đang ngày càng bị rạn nứt dưới ảnh hưởng của “văn

minh” của lối sống phương Tây đưa đến xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ

XX! Tư tưởng chủ đạo của những tác phẩm trên là tư tưởng phê phán.

Cũng cùng viết về chủ đề đạo đức, ở khía cạnh khác, các tiểu thuyết

của Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Văn Cơ, Vũ Miễn Nam… đã

biểu dương một số hành vi tốt đẹp, có đạo đức của người biết tôn trọng chữ

nhân, chữ nghĩa. Biểu dương những hành động tốt, xét đến cùng cũng là

nhằm để phê phán, cảnh giới những hành động xấu. Tiểu thuyết Một cánh

hoa chìm của Nguyễn Văn Cơ viết về một người con gái vị tha, nhận lấy

cái chết về mình, nhường sự sống cho đứa em khác mẹ trong một ngày lụt

lớn là một tác phẩm đem đến nhiều xúc động cho người đọc. Người viết

truyện đã không khỏi bùi ngùi, cảm phục rằng “đáy nước đục, bẩn kia là

ngôi mộ của một tấm lòng vàng ngọc”, của “một cánh hoa chìm‟…

Truyện Ai giết người của Mân Châu cũng mang chủ đề tương tự. Ai giết

người? Viên quan xử kiện khó lòng mà tìm ra được, bởi vì hai anh em nhà

kia không có ai giết người cả, nhưng ai cũng nhận là mình giết người để

51

nhận lấy cái tội chết thay cho nhau. Sau cùng, ở phần cuối truyện có người

đến nhận là mình giết, vì để trả thù cho bạn thì câu chuyện mới được sáng

tỏ. Chủ đề chính của truyện là đề cao và chứng minh cho đạo đức phong

kiến: nhân, nghĩa, trí, tín… của Nho giáo, “thánh nhân”… Còn Câu

chuyện nhà sư của Nguyễn Bá Học hay Thần thiên lương của Mân Châu

Nguyễn Mạnh Bổng là những kết cục đầy tính bi kịch cho những kẻ vong

ân, bội nghĩa, sống không có thủy có chung trong đời. Cuối cùng, không ai

khác, chúng bị chính tòa án lương tâm giày vò, xét xử. Những hành động

bất lương, bội bạc ấy đã phải trả giá rất đắt: “cái chết trừng phạt họ!”

Ngoài ra, một số tiểu thuyết khác cũng xoay quoanh chủ đề này, song

nội dung câu chuyện có khác hơn ít nhiều… Một anh chàng tham lam, làm

giàu bằng thái độ sống ích kỷ và keo bẩn, cuối cùng bao nhiêu của cải làm

ra được cũng lại bị trời lấy đi mất! (Của trời trời lại lấy đi – tác giả Đ.H.).

Một gia đình nọ tham giàu gả bán con cho một anh trọc phú. Sống với gia

đình này, cô bị hành hạ, ngược đãi. Không chịu nổi, cô phải trốn lên một

tỉnh giáp biên buôn bán, rồi lấy phải một kẻ du đãng, bất hạnh, sau cô phải

trở về sống với cha mẹ đẻ… (Gả bán con – Đoàn Ngọc Bích). Hoặc, một

cô gái nhẹ dạ, mắc lừa một thằng Sở Khanh xỏ lá, bị nó cuỗm hết của rồi

trốn theo nhân tình khác (Con người Sở Khanh – Phạm Duy Tốn)…

Đề tài về tình yêu và hôn nhân gia đình cũng được các nhà tiểu

thuyết Nam Phong đề cập tới. Người viết đầu tiên về đề tài này là Song

An Hoàng Ngọc Phách, với tiểu thuyết Giọt lệ hồng lâu. Tác phẩm miêu tả

tình cảm một mỹ nhân khuê các tên là Lan Nương, vì gia cảnh mà phải lưu

lạc, sa chân vào chốn lầu hồng… Câu chuyện giãi bày cảnh ngộ đớn đau

của người con gái phải bán thân vào chốn giang hồ ấy. Sống trong cảnh đó,

nhiều lần nàng phải “gạt thầm nước mắt trong tiệc rượu, chết trong ruột mà

phải cười, bị người làm khổ mà phải chiều chuộng”. Xét đến cùng, những

người con gái ấy chính là những nạn nhân của xã hội thực dân nửa phong

kiến bấy giờ. Họ không có tội, vì xã hội ấy đã xô đẩy họ vào con đường ô

52

nhục, lầm than: „Trên thế lộ nào ai cắm biển chỉ rõ đường hay, đường dở

cho chúng em đi, khi chúng em đã đi lầm đường rồi nào ai đã ra tay tế độ,

bắc cầu cho chúng em sang”.

Để tài và chủ đề hôn nhân gia đình được đan xen với đề tài và chủ đề

về đạo đức, luân lý xã hội qua Duyên kỳ ngộ một chị hàng hoa (Nguyễn

Ngọc Thiều) người viết truyện muốn ca ngợi một mối tình chung thủy dựa

trên ân nghĩa mà cả hai người đã bù đắp cho nhau trong những ngày tháng

trước. Do vậy mà ai chẳng ngờ, người con gái trẻ trung xinh đẹp ở “bên bờ

sông Châu Giang của xứ sở Sơn Nam” kia, lại có thể kết duyên cùng một

ông già đã tuổi sáu mưởi làng bên nọ. Về sau, mặc dù cô gái ấy có bị

những chàng trai si tình quyến rũ, bắt cóc nhưng cô vẫn cự tuyệt để trốn

về, sống chung tình với người chồng già nua và đứa con của mình…

Ngược chiều với chủ đề trên, tuy cũng với đề tài hôn nhân và gia

đình, nhưng những tiểu thuyết ngắn của Phạm Vọng Chi lại đi theo một

cách thể hiện khác. Đoản thiên tiểu thuyết Vì đâu nên nỗi dở dang là ví dụ

như thế. Gia đình đang êm ấm, hạnh phúc, nhưng rồi người chồng “tự

nhiên tà dâm”, “say đắm cô Vân, cô Nguyệt” để rồi người vợ “mê tín”, đi

xem bói và quá tin vào lời thày bói mà lấy thêm thiếp cho chồng. Kết cục

là gia đình tan nát, đúng như tiêu đề của truyện, Vì đâu nên nỗi dở dang,

vì nàng mê tín, vì chàng tà dâm. Rồi một thầy ký nọ, nhờ vợ làm ăn khá

giả mà có tiền mua được ba người hầu xinh xắn dễ coi, thày lừa vợ đi vắng

mà thông dâm với đám hầu ấy. Chuyện vỡ lở, lửa tình cạnh tranh, đám hầu

ấy đã bỏ thuốc độc cho cả hai vợ chồng thầy ký về “chơi miền Tây trúc”

(Phạm Vọng Chi – Mại thiếp vi nô)… Chủ đề chung của những truyện trên

là phê phán những hủ tục xấu xa, những thói dâm ô “đa thê, đa thiếp”, vì

nó mà nhiều gia đình đã trở nên tan vỡ, bất hạnh trong xã hội bấy giờ.

Trong số các tác giả đoản thiên khác có thể sắp xếp vào khuynh

hướng dung hòa, ta có Phạm Duy Tốn với “Con người sở khanh” (Nam

Phong, số 20-2-1919); “Nước đời lắm nỗi” (Nam Phong, số 23, năm

53

1919); Nguyễn Mạnh Bổng với “Ai giết người” (Nam Phong số 28, tháng

11-1919); “Thần thiên lương” (Nam Phong, số 36, tháng 6-1920); Hoàng

Ngọc Phách với “Giọt lệ hồng lâu” ( Nam Phong, số 21, tháng 10-1921);

Nguyễn Thúc Khiêm với “Truyện Ông nghè Tân” (Nam Phong, số 153,

tháng 8-1930); Nguyễn Tiến Lãng với “Tình xưa” do Đông Hồ dịch (Nam

Phong, số 179, tháng 12-1932); Tùng Toàn với “Tuyết Nga” (Nam Phong

số 192, tháng 2-3 năm 1934); Lê Đức Nhượng với “Bữa cỗ nợ miệng”

(Nam Phong số 204, tháng 9-1934).

Đặt vào hoàn cảnh của xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, nhìn nhận

một cách khái quát, những đề tài và chủ đề của tiểu thuyết trên Nam

Phong tạp chí đã nêu chưa phải là những vấn đề xã hội cơ bản. Bởi vì, thời

kỳ này nhân dân và sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, phong kiến;

phong trào đấu tranh ái quốc cũng có lúc dâng cao, chủ đề của những tác

phẩm trên chưa đi đúng vào những vấn đề bản chất nhất của đời sống xã

hội. Song, đòi hỏi làm sao hơn được đối với những tác giả cầm bút của thời

kỳ này, khi mà chỗ đứng của họ hầu hết là chỗ đứng của những trí thức

tiểu tư sản. Họ viết theo nhận thức hoàn toàn tự nhiên của họ đối với xã

hội, mà chưa hề chịu sự tác động hay ảnh hưởng của những khuynh hướng

tư tưởng tiến bộ nào. Đó là còn chưa kể đến sự kiểm duyệt chặt chẽ của

những người biên tậpNam Phong tạp chí. Ở giai đoạn sau, do có ảnh

hưởng từ những phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân dưới sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản, như phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-

1931, phong trào Mặt trận dân chủ 1936-1939…, các tác giả của văn học

hiện thực phê phán 1930-1945 sẽ được nhìn nhận và đánh giá theo một góc

độ khác.

2.2.2.3. Ký

Ký là tên gọi chung của một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa

văn học và báo chí, hình thức chủ yếu là văn xuôi tự sự nhưng cũng có

văn xuôi trữ tình. Ký gồm nhiều loại như: hồi ký, nhật ký, du ký, bút ký,

54

phóng sự, ký sự, tùy bút, … Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về ký.

Điều đó cho thấy ký là một thể loại đa dạng, nhiều biến thể, nhiều hình

thức. Dựa vào mục đích sáng tác, đại thể người ta phân ký thành hai nhóm:

ký báo chí và ký văn học.

Ký ra đời rất sớm trong lịch sử văn học nhân loại, nhưng phải đến thế

ký XIX nó mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Ở Việt Nam, ký đã có từ thời

Trung đại, với nhiều tác phẩm có giá trị: Linh tế tháp ký (Trương Hán

Siêu), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình

Hổ)…

Văn chương trong gắn nối với các mục tiêu học thuật đó là mục tiêu

của Nam Phong, và đó cũng là giá trị toát ra từ các du ký, vốn là một thể

trong văn xuôi. Sự xen cài, giao thoa này là đặc trưng của thời kỳ đầu hiện

đại hóa, khi văn chương chưa thoát ra khỏi mục tiêu giáo huấn, và khi

người viết là đứng ở nhiều tư cách, trong đó gồm cả, hoặc chủ yếu là tư

cách học giả (érudit) mà chưa thật sự là nhà văn, theo nghĩa chuyên nghiệp

(écrivain). Chính bởi đặc trưng và mục tiêu đó – vốn là sản phẩm của một

thời, nên Nam Phong tạp chí nói chung (gồm cả du ký) đã thỏa mãn được

nhu cầu học tập, đào luyện của một thế hệ trí thức mới như Thiếu Sơn, Vũ

Ngọc Phan, Đào Duy Anh… Thiếu Sơn viết năm 1933 : “ Gần hai chục

năm nay không biết Tạp chí Nam Phong có giúp được chút gì cho sự giữ

gìn đạo đức trong dân gian không thì tôi không được biết. Chứ thực tình nó

đã giúp được sự mở mang tri thức trong quốc dân nhiều lắm”. Và Đào Duy

Anh, viết năm 1973 : “ Tôi tự học văn học Việt Nam và biết viết Quốc văn

phải nói thực một phần không ít là nhờ chuyên đọc Tạp chí Nam Phong.

Trong khi dạy học ở Đồng Hới, đồng thời với việc học thêm chữ Pháp theo

một chương trình nhất định, tôi không bỏ việc nghiên cứu Quốc văn và

Hán văn, vẫn lấy Tạp chí Nam Phong làm công cụ chính”…

Sau thời giao chuyển được phản ánh và kết đọng rất rõ qua Tạp chí

Nam Phong, mà 62 du ký là một bộ phận, sẽ đến thời kỳ hoàn thiện diện

55

mạo hiện đại của nó, từ 1930 đến 1945. Nếu truyện ngắn và tiểu thuyết

cùng phóng sự, tùy bút, hồi ký có một bước phát triển mới thì du ký lại có

phần chững lại, khi văn chương tách ra khỏi học thuật, để trở thành một

khu vực chuyên, với giá trị văn chương là chủ yếu, chứ không còn xen cài

với các giá trị khảo cứu về văn hóa, phong tục hoặc lịch sử. Người viết,

viết với tư cách nhà văn mà không có một tư cách nào khác, nên việc đi để

tìm cảm giác lạ (trong một xã hội tù túng, ngột ngạt), đi để thay đổi thực

đơn cho dạ dày và giác quan, rồi phô cái Tôi của mình ra trên mặt giấy cho

moi người cùng thấy.

Đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa nền văn

học, thể tài du ký phát triển mạnh mẽ, mà người có công đầu trong sự

phát triển ấy là Phạm Quỳnh. Là học giả, là trí thức, lại vừa là hoặc từng là

công chức của nhà nước nên mỗi du ký bao giờ cũng là sự dồn nén các tri

thức về địa dư và lịch sử, cùng những cảm khái và suy ngẫm về thời thế.

Mỗi du ký, xen với việc kể, tả thế nào cũng có những suy nghĩ

về xưa và nay, về người và ta, qua đó gửi gắm khát vọng thay đổi đất

nước, sao cho thoát khỏi sự lạc hậu và tăm tối, để được bằng người. Trở lại

tư cách của người viết qua mấy chục du ký- mà ở đâychúng tôi chỉ dẫn 2

trường hợp là Đông Hồ và Phạm Quỳnh, để thấy phẩm chất của trí thức

thuộc cả hai phái Cựu học và Tân học, cùng với tư cách xã hội đã quy định

chặt chẽ nội dung và cách viết của họ.

Không kể phần di cảo Hoa Đường tùy bút được viết vào cuối đời,

với năm thiên du ký: Mười ngày ở Huế, Trẩy chùa Hương, Một tháng ở

Nam Kỳ, Pháp du hành trình nhật ký, Du lịch xứ Lào đăng trên Nam

Phong tạp chí, Phạm Quỳnh thực sự là người mở đường và phát động cho

phong trào viết du ký trên Nam Phong cũng như nhiều báo khác thời bấy

giờ. Chính vì vậy mà trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm

Thế Ngũ gọi ông là nhà du ký, với những dòng nhận định sau:

“Phạm Quỳnh tuy không tiến đến làm tiểu thuyết song đã viết

56

trong báo Nam Phong nhiều thiên du ký: Mười ngày ở Huế, Trẩy chùa

Hương, Một tháng ở Nam Kỳ, rồi dài hơn nữa là Pháp du hành trình nhật

ký. Những thiên du ký ấy (…) đều có giá trị văn học và chứng tỏ bên cạnh

con người Phạm Quỳnh học giả, lý thuyết gia, còn có một con người

Phạm Quỳnh văn gia, tâm hồn giàu cảm xúc tinh tế và ngòi bút duyên

dáng dễ ưa”

Đối với thể loại ký, Phạm Quỳnh không có những phát biểu trực

tiếp mang tính lý luận về thể loại nhưng qua các thiên du ký đăng trên

tạp chí Nam Phong ta lại thấy ông có quan niệm khá rõ và nhất quán về

nhóm thể loại này.

Cần phải nhận rõ rằng Phạm Quỳnh coi việc viết ký như một công

việc luyện tập viết văn trong giai đoạn đầu nhằm mục đích rèn luyện câu

văn quốc ngữ và sau đó là tiến tới việc xây dựng những tiểu thuyết lớn. Vì

lẽ đó, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông tập trung bàn luận khá kỹ

về tiểu thuyết, về thơ, kịch nhưng không có những bài khảo luận riêng

về ký.

Phạm Quỳnh quan niệm ký là loại văn ghi chép những chuyện có

thật mà không bịa đặt. Cốt truyện trong ký không cần phải hư cấu, bố trí

mà diễn ra theo trật tự thời gian tuyến tính. Nó là dạng “sơ thảo” nhất

của thể loại tiểu thuyết. Đặc biệt ở thể tài du ký, nội dung của nó là kể

lại những điều “mắt đã được trông, tai đã được nghe, tinh thần đã cảm cái

hồn xưa của loài giống, thân thể đã gội cái khí thiêng của núi sông” [5,

số10] hoặc những điều quan sát được ở xứ người cho quốc dân. Mục đích

của việc ghi chép, kể lại không nhằm “khoe với ai cái văn chương sốc nổi,

chỉ muốn đem lời thành thực mà giãi bày bàn bạc cùng quốc dân, hoặc

lòng nhiệt thành có người cảm, lời bàn ngay có kẻ nghe”

Như vậy, mục đích của Phạm Quỳnh khi mở mục du ký trên báo Nam

Phong, mà bản thân ông là người nhiệt tình tham gia sáng tác, không ngoài

việc cổ vũ, hô hào, khuyến khích sự ghi chép của những người du lịch

57

với mục đích vừa rèn luyện câu văn quốc ngữ, tập sự cho việc xây dựng

những tác phẩm tiểu thuyết qui mô sau này, vừa lĩnh hội và truyền đạt

những tri thức văn hóa cho quốc dân trong một thời đại đầy những biến

động, đổi thay của đất nước. Có phải vì thế chăng mà trong các thiên du

ký của mình, những điều ông phản ánh đều là những vấn đề thuộc về văn

hóa? Mười ngày ở Huế là những hình ảnh về miền đất đế đô, với những

nỗi niềm về lịch sử, văn hóa của dân tộc đã trở thành ám tượng trong

tiềm thức con người. Một tháng ở Nam Kỳ là cảm xúc vui sướng và tin

tưởng ở tương lai của tổ quốc về một vùng đất phì nhiêu, giàu có với

những con người thuần phác, chân thành. Pháp du hành trình nhật ký là

cảm tưởng chân thành về một xứ sở hoa lệ, với những điều mới lạ của

một nền văn minh mà nhiều người dân ta chưa hề biết…

Từ các tác phẩm du ký của ông, ta nhận thấy Phạm Quỳnh có một

tư tưởng hết sức tiến bộ về văn hóa. Ông mong mỏi tiếp thu tinh hoa văn

minh phương Tây để xây dựng văn hóa mới của nước nhà, nhưng đồng

thời tha thiết chủ trương giữ gìn những giá trị truyền thống của dân tộc,

chống sự lai căng, mất gốc. Trong Pháp du hành trình nhật ký, tác giả nói

rất rõ ràng suy nghĩ của ông:

“Nếu dân Việt Nam là một dân mới có, chưa có nền nếp, chưa có lịch

sử gì thì quý quốc cứ việc hóa theo Tây cả, dạy cho học chữ Tây hết cả,

đồng hóa được đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay, dân Việt Nam không

phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là một tập giấy

đã có chữ sẵn từ đời nào đến giờ rồi. Nếu bây giờ viết lên thì e thành giấy

lộn mất”

Các thiên du ký của Phạm Quỳnh sử dụng đủ các lối văn, từ kể

chuyện, tả cảnh, tả tình, đến đối thoại, độc thoại… Nhờ sự phong phú

của các lối văn đó, người đọc không chỉ cảm nhận được những điều mới

lạ ở xứ người qua lời kể của tác giả, mà còn hiểu được tình cảm cũng như

tâm sự đời tư của ông. Như vậy, theo ông, ngôn ngữ ký là loại ngôn ngữ

58

linh hoạt và sinh động; giọng điệu ký không bắt buộc đơn nhất mà có thể

tùy thuộc với từng hoàn cảnh, sự việc tác giả chứng kiến và tái hiện.

Trong bài du ký Một tháng ở Nam Kỳ, khi so sánh về tính cách của hai

cuộc du lịch ở Huế và Nam Kỳ, tác giả viết:

“Lần trước là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích

đời xưa, mỗi bước như động đến tấm lòng hoài cổ, chạnh những nông nỗi

cố hương; nghe tiếng chim kêu trên bãi cát mà nỗi thương nước nhớ nhà

không thể cầm được, ngắm bức phong cảnh chốn tôn lăng mà lòng cảm

hoài về lịch sử như chan như chứa; bao nhiêu những giọng ngậm ngùi ai

oán thủa bình sinh không ngờ mà lâm li trên tờ giấy, khiến người đọc

cũng phải lạnh lẽo trong lòng.(…) Lần này thì thật khác: cái khí vị lạnh

lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi. Nam Kỳ là một nơi đất mới,

mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả; người ta đương

hăm hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho mau, chưa từng

bận lòng đến những nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn muộn. Đất

cũng không từng có những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc miếu xưa,

đủ nhắc cho người ta tấm lòng nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những đồng

rộng không cùng, sức người mở mang không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi

người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một, cách làm ăn không khó

nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã nhiều, tiêu dùng

càng lắm, đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không hai.

Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái

cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà

tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký

vãng.

Ấy hai cuộc du lịch khác nhau như thế, lời kỹ thuật tất cũng không

in một giọng” (Nam Phong số 17).

Tóm lại là về truyện ngắn cũng như ký, quan niệm của Phạm Quỳnh

59

còn có phần đơn giản. Ông coi chúng là những dạng sơ thảo, bước đầu

của tiểu thuyết. Sáng tác truyện ngắn và ký là nhằm luyện tập câu văn

quốc ngữ và là bước đầu để tiến đến xây dựng tiểu thuyết.

Ngoài ra có rất nhiều tác giả và trong mỗi số Nam Phong đều có nhiều

trang dành cho các cuộc du ngoạn, các bài phóng sự ghi lại những điều mắt

thấy tai nghe, tả cảnh đất trời cũng như đời sống hàng ngày, ví như những

bài: “Lời cảm cựu của mấy ngày chơi Bắc Ninh” (Nam Phong số 100,

tháng 10-1925); “Bà Nà du ký” của Huỳnh Thị Bảo Hòa (Nam Phong, số

163, tháng 6-1931).

2.2.2.4. Kịch

Kịch là một loại hình nghệ thuật vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn

học. Đây là một loại hình nghệ thuật còn hết sức mới mẻ đối với văn học

Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Do vậy việc viết bài biên

khảo để giới thiệu những kiến thức mang tính lý luận về kịch là điều hết

sức cần thiết. Phạm Quỳnh đã nói rõ điều này trong phần mở đầu công

trình Khảo về diễn kịch của mình:

“Từ ngày hội Khai trí tiến đức khai diễn bài Bệnh tưởng là một bài

hí kịch trong cổ bản nước Pháp, quốc dân đã thấy khuynh hướng về lối

kịch mới, người xem kịch đã nhiều và người soạn kịch cũng có. Sự nhiệt

thành ấy là hay, nhưng mà lệ thường ở nước ta, những người bắt chước

có ý thức thời ít, những kẻ bắt chước để a dua thời nhiều; cho nên thấy

nhiều người cổ võ về tân kịch, vị tất đủ chứng rằng nhiều người đã hiểu

hết tinh thần của kịch mới vậy”

Với tư cách là người hướng đạo cho sự hình thành và phát triển một

loại hình văn học mới, trong bài khảo cứu của mình, Phạm Quỳnh đã cung

cấp cho người đọc một hệ thống lý thuyết cơ bản và tương đối đầy đủ về

kịch: khái niệm, đặc trưng, đặc điểm nội dung hình thức, phân loại

kịch…

Khái niệm “Kịch” (tiếng Pháp: Drame), hay thể loại kịch (Genre

60

dramatique) xuất phát từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “hoạt động”. Theo

đó, Phạm Quỳnh đưa ra khái niệm về kịch như sau: “Diễn kịch là một lối

văn chương bày diễn ra một việc gì hoặc có thực, hoặc đặt ra, bằng

những vai người hành động và nói năng hiển nhiên như thực. Diễn kịch

có ba lối chính: một là bi kịch (tragédie), hai là hí kịch (comédie), ba là

nhạc kịch (opéra)”

Ngoài những bài viết quan trọng và có ý nghĩa về thơ, tiểu thuyết,

Phạm Quỳnh quan tâm đến sự hình thành và phát triển của thể loại kịch nói

trong văn học hiện đại Việt Nam. Quan niệm về kịch của ông được thể

hiện rải rác trong các bài viết: Một tháng ở Nam Kì, Một sự thí nghiệm đã

nên công, Pháp du hành trình nhật ký, Thuật chuyện du lịch ở Pháp…,

đặc biệt là công trình Khảo về diễn kịch.

Là người nhạy cảm với các hoạt động văn học, năm 1918, trong

bài Một tháng ở Nam kỳ, Phạm Quỳnh viết: “Nay muốn cho nghề diễn

kịch nước ta phát đạt được thì phải quyết chí cải cách mới xong. Thứ nhất,

phải phân biệt chốn kịch trường với nhà ca quán và nơi võ đài, cho nghề

tuồng, nghề hát, nghề múa mỗi nghề thông một cõi, nghề nào giữ cho

thuần cái tôn chỉ, cái tinh thần của nghề ấy, không lẫn lộn với nhau, thì

mỗi nghề mới phát đạt đến cực điểm được”. Như vậy, Phạm Quỳnh đã chỉ

rõ yêu cầu, điều kiện để phát triển nền sân khấu kịch nói lúc bấy giờ. Theo

ông, để xây dựng nền kịch nói, một mặt, lấy cái tinh thần trong kịch

phương Tây để gây dựng thành một hình thức nghệ thuật biểu diễn mới,

mặt khác, song song phát triển các loại hình sân khấu truyền thống sao cho

loại hình nào cũng có chỗ đứng của nó. Hay nói như PGS. Tiến sĩ Phan

Trọng Thưởng: “Sự ra đời của kịch nói không dẫn đến sự tận diệt của

Tuồng, Chèo mà trái lại dẫn đến sự cách tân hai thể loại này để cùng tồn

tại”. Phạm Quỳnh cũng chỉ rõ sự khác nhau giữu kịch nói và sân khấu

truyền thống là ở hình thức ngôn ngữ. Tuồng, Chèo là múa và hát, còn kịch

nói là hành động và đối thoại. Sau bài Một tháng ở Nam Kỳ (1918), tháng

61

tư năm 1920 Phạm Quỳnh viết Một sự thí nghiệm đã nên công đánh giá

vở Người bệnh tưởng do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, được công diễn lần đầu

ở Việt Nam. Có thể thấy, Phạm Quỳnh là người rất quan tâm đến xây dựng

nền kịch nói ở nước ta.

Cho đến trước năm 1921, ở Việt Nam chưa xuất hiện những nhà viết

kịch chuyên nghiệp, lối văn này cũng mới chỉ vào Việt Nam thông qua một

số tác phẩm dịch của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Xét về đóng góp

của Phạm Quỳnh ở lĩnh vực lí luận kịch, trước hết phải kể đến công lao

của ông trong dịch kịch bản Pháp. Ông dịch Le Cid của Corneille thành

tuồng Lôi Xích (Nam Phong số 38, 39), dịch Horace của Corneille

tuồng Hòa Lạc (Nam Phong số 73, 74, 75), dịch Trò chơi tình yêu và

ngẫu nhiên của Marivaux thành Chàng Ngốc hóa khôn vì tình… Mục

đích của Phạm Quỳnh khi dịch kịch nói Pháp là nhằm giới thiệu cho độc

giả Việt Nam làm quen với một thể loại văn học mới và mong muốn học

tập để sáng tác. Phạm Quỳnh còn đưa lí luận sáng tác kịch từ phương Tây

vào Việt Nam giúp các nhà soạn kịch nước ta có cơ sở để sáng tạo nên

những tác phẩm kịch nói đầu tiên. Những vấn đề lí luận này được thể hiện

tương đối rõ qua bài viết Khảo về diễn kịch. Trong bài viết này, ông chỉ

rõ: “diễn kịch cũng như tiểu thuyết, diễn thuyết, là những lối văn chương

mới ngày nay, nhiều người ưa nhưng ít người hiểu phép tắc ra thế nào”.

Như vậy, soạn Khảo về diễn kịch, ông muốn đem đến cho những người

yêu thích, quan tâm đến thể loại văn học này một cái nhìn toàn diện, chính

xác từ phương diện lí luận.

Theo Phạm Quỳnh, ở giai đoạn phát triển thứ nhất của nghề diễn kịch

thì nó phải có quan hệ với luân lí đạo đức, khi phát triển cao hơn nó mới

thoát li dần ra khỏi luân lí và hướng về đường mĩ thuật, nhưng đây là một

quá trình phát triển lâu dài. Thực ra, quan niệm này đã thể hiện ngay trong

việc Phạm Quỳnh lựa chọn dịch kịch Corneille. Chọn bi kịch của

Corneille, nghĩa là ông quan tâm nhiều hơn đến lối văn chương gắn với

62

luân lí đạo đức. Ông cho rằng, Corneille là ông tổ nghề diễn kịch ở Pháp,

chuyên về lối bi kịch. Đặc điểm kịch Corneille là nghiên về vấn đề luân lí

xã hội “Đại ý các bài tuồng của ông là tả những cái thủ đoạn anh hùng của

các bậc siêu quần, bạt chúng và thường là tả tình dục phản đối với nghĩa

vụ, mà sau nghĩa vụ thắng đoạt được. Các bài tuồng của ông có thể cho là

những bài dạy đạo đức rất cao thượng”. Và khi nhìn nhận giá trị kịch của

Racine, ông cũng đề cập đến khía cạnh giáo huấn đạo đức mà ca ngợi

“Ông tả về nhân tình thế thái một cách sâu sắc… Racine không có dạy đạo

đức cho người ta, nhưng ông thuộc tâm lí người ta không ai bằng. Đọc

những bài bi kịch của ông cũng có thể khôn người ra”.

Có thể thấy, Phạm Quỳnh đã đề cao thể loại kịch nói và hoạt động

diễn kịch, có công giới thiệu, đưa thêm một thể loại nghệ thuật của phương

Tây vào văn học nước nhà. Nhưng giới hạn mục đích của kịch vào phạm vi

luân lí đạo đức, vô tình Phạm Quỳnh đã bó hẹp phạm vi đời sống của kịch

nói. Đây là điểm hạn chế, song đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, cái công của

Phạm Quỳnh đối với kịch nói Việt Nam không phải là nhỏ.

Trong bài của Phạm Quỳnh tường thuật buổi diễn kịch nói đầu tiên

của Việt Nam ta tại chính nhà hát này nhan đề Một sự thí nghiệm đã nên

công – Cuộc diễn kịch của “Hội Khai Trí Tiến Đức”, đăng trên báo Nam

Phong năm 1920, sau này đưa vào tập Thượng Chi văn tập. Ngày 25

tháng tư năm 1920 sẽ thành một ngày đáng kỷ niệm trong lịch sử Hội

“Khai Trí Tiến Đức”, trong lịch sử diễn kịch ở nước ta, trong lịch sử quốc

văn ta nữa.

Một bản cổ kịch Pháp dịch ra tiếng Việt Nam, tại nhà hát Lớn Hà Nội,

Hội “Khai Trí Tiến Đức” chủ trương để trợ quyên vào Hội “Đông Dương

kỷ niệm” bên Pháp. Bản kịch ấy là một hài kịch của Molière, tay danh kịch

nước Pháp về thế kỷ thứ 17, người dịch là ông Nguyễn Văn Vĩnh, một nhà

Tây học có tiếng ở Bắc kỳ, và người diễn là một ban tài tử vì nhiệt thành

về sự nghiệp cải lương (đổi mới – PT chú) diễn kịch mà dám đánh bạo

63

đảm đương một việc rất mới lạ, xưa nay chưa ai làm bao giờ. Ông Nguyễn

Văn Vĩnh bắt đầu dịch mấy bản kịch của Molière đã ba bốn năm trước,

đăng trong Đông Dương tạp chí. Chủ ý ông là muốn dịch rồi đem ra diễn

trên sân khấu; để giúp việc cải lương diễn kịch ở nước ta, nên cách ông

dịch là thoát dịch, cốt lấy ý và lời cho gọn tiếng ta, có thể đem ra diễn

được, không câu nệ đúng như nguyên văn chữ Pháp.

Ngoài ra còn một số những vở hài kịch hay bi kịch viết theo thể “hát

chèo” do Nguyễn Thúc Khiêm sáng tác dưới các nhan đề “Xuân Hương

khóc cay chàng Tổng Cóc” (Nam Phong số 135, 136, tháng 11, 12-1929)

và “Tô Thị chết đắng anh kỳ lừa” (Nam Phong số 138, tháng 5-1929);

hay hơn nữa là “Bích câu kỳ ngộ” (Nam Phong số 179-181, từ tháng 12-

1932 đến tháng 2-1939).

Theo Phạm Quỳnh, tôn chỉ của kịch trong thời kỳ đầu là thực hiện

chức năng giáo dục đạo đức, bảo vệ luân lý. Trong văn học hiện đại, tiểu

thuyết và kịch thường không thiên về nội dung đạo đức, luân lý mà chỉ

chú trọng về mặt nghệ thuật. Nước ta bấy giờ còn kém châu Âu về mọi

mặt, nhất là về văn học. Do vậy tiếp thu các thể loại kịch và tiểu thuyết

của châu Âu, ta nên bắt chước những thành quả của mấy trăm năm

trước, không nên mô phỏng lối tiểu thuyết và kịch hiện thời để khỏi hại

đến luân lý, đạo đức.

2.2.2.5. Lý luận phê bình văn học

Trên Nam Phong thể loại phê bình văn chương được phát triển theo

một đà tiến mới. Sau khi các bài phê bình đăng trên Nam Phong như: Dưới

bút hiệu Phạm Quỳnh có: (Bình phẩm “Một tấm lòng” của Đoàn Như

Khuê, Nam Phong, số 3, tháng 8-1917); Bút hiệu Trịnh Đình Rư có: (Bình

phẩm thơ văn cùng sách mới – Sách “Ngọn đèn khuya” của Nguyễn Mạnh

Bổng, Nam Phong số 18, tháng 12-1918); Bút hiệu Nguyễn Mạnh Bổng (

Bình phẩm sách “Khối tình” của Nguyễn Khắc Hiếu, Nam Phong số 17,

tháng 11-1918).

64

Trong cấu trúc của đời sống văn học, lý luận phê bình đóng vai trò

hướng đạo cho các hoạt động sáng tác và tiếp nhận. Ở phương diện này,

trong giai đoạn giao thời của văn học Việt Nam, Phạm Quỳnh được xem

là “một đạo sư văn nghệ mới”.

Những bài khảo luận của Phạm Quỳnh về các tác giả Pháp, những bài

này khảo sát này đã thức dậy nghệ thuật phê bình, đồng thời đưa ra những

kiểu mẫu khơi nguồn cho thế hệ ký giả trẻ.

Khảo sát các công trình lý luận, phê bình văn học của Phạm Quỳnh,

trước hết chúng ta nhận thấy tác giả đã có những quan niệm đúng đắn và

nhất quán về vai trò chức năng cũng như ảnh hưởng của hoạt động lý luận

phê bình đối với văn học. Xuất phát từ mục đích xây dựng và phát triển

nền văn mới trên cơ sở tiếp thu những tri thức văn học hiện đại của

phương Tây, đồng thời bảo tồn, kế thừa những thành tựu xuất sắc của văn

học dân tộc, Phạm Quỳnh chủ trương lý luận phê bình phải làm nhiệm vụ

đánh giá, sửa chữa, uốn nắn, khuyến khích và hướng đạo cho văn học.

Không bằng lòng với lối phê bình văn học theo kiểu tán dương,

“điểm nhãn” của lý luận phê bình cũ, Phạm Quỳnh chủ trương cần phải

dùng phương pháp phê bình khảo cứu của văn học phương Tây mới có

thể tìm hiểu và đánh giá được những giá trị đặc sắc của tác phẩm văn học.

Trong nhận thức của ông, nhiệm vụ của lý luận phê bình trước hết là

nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá một cách đầy đủ và đúng đắn những giá trị

đặc sắc của tác phẩm văn học. Điều ấy chỉ có thể thực hiện được với

phương pháp của lý luận phê bình Phương Tây. Với nhận thức như vậy

nên ông đi tiên phong vận dụng phương pháp nghiên cứu văn học của

phương Tây vào việc phê bình các tác phẩm văn học cổ Việt Nam. Trong

bài nghiên cứu về Truyện Kiều, năm 1919, Phạm Quỳnh nói rõ là

“không thể lấy cái tỉ lệ thường của văn chương Nôm mà xét được. Phải

dùng phép phê bình khảo cứu của văn học Thái Tây mới mong phát

biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của một nền tuyệt tác

65

trong quốc văn Việt Nam ta”. Nghiên cứu về Tục ngữ ca dao, Phạm

Quỳnh cũng áp dụng triệt để phương pháp nghiên cứu phê bình của văn

học phương Tây như vậy.

Đối với các tác phẩm văn học mới trong nước, quan điểm của

Phạm Quỳnh là đánh giá một cách đúng mức những tiến bộ, những

thành tựu ban đầu của các tác giả nhằm khuyến khích, đồng thời chỉ ra

những hạn chế nhằm uốn nắn sửa chữa. Với quan niệm như vậy nên

trong tất cả các bài phê bình của Phạm Quỳnh ta luôn bắt gặp một thái

độ chừng mực, lịch sự. Chỗ khen, ông khen một cách nhiệt tình, sôi nổi;

chỗ chê, ông chê một cách nhẹ nhàng, lịch sự. Chẳng hạn như đối với

các tác phẩm Khối tình con, Giấc mộng con của Tản Đà, Một tấm lòng

của Đoàn Như Khuê, Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn…

Không chỉ làm nhiệm vụ nghiên cứu, đánh giá, sửa chữa, uốn nắn,

khuyến khích cho văn học phát triển, Phạm Quỳnh còn rất chú trọng đến

nhiệm vụ của lý luận phê bình phải cung cấp cho văn học những “cái

thuật”, tức hệ thống lý thuyết, bao gồm những thuật ngữ, khái niệm thể

loại, phương pháp sáng tác,… tức hướng đạo cho hoạt động sáng tác văn

học. Phạm Quỳnh là người đã giới thiệu và cung cấp cho văn học Việt Nam

những lý thuyết và khái niệm cơ bản về nhiều thể loại văn học. Trong các

bài biên khảo về các thể loại kịch, tiểu thuyết, tác giả không chỉ giới

thiệu nguồn gốc ra đời, vai trò xã hội, chức năng nghệ thuật của các thể loại

mà còn đi sâu vào những vấn đề “kỹ thuật” thuộc về đặc trưng thể loại.

Chẳng hạn khi bàn về diễn kịch, bên cạnh việc trình bày về nguồn gốc, ý

nghĩa của kịch, Phạm Quỳnh giới thiệu khá kỹ lưỡng những yếu tố cốt yếu

của việc soạn kịch.

Tóm lại, có thể nói Phạm Quỳnh là một nhà lý luận phê bình xuất sắc

của văn học Việt Nam trong buổi giao thời. Với những quan niệm tích cực về

vai trò, chức năng của lý luận phê bình như đã phân tích ở trên, Phạm Quỳnh

đã có những đóng góp giá trị cho lý luận và thực tiễn sáng tác cũng như tiếp

66

nhận thưởng thức văn học trong thời kỳ đầu.

Tiểu kết.

Trong 15 năm chủ trương tạp chí Nam Phong, Phạm Quỳnh đã xây lắp

cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng những bài bình luận, khảo cứu

hết sức công phu…Muốn hiểu những vấn đề đạo giáo, muốn biết văn học sử

cùng học thuật, tư tưởng nước Tàu, nước Nhật, nước Pháp, muốn đọc thơ ca

Việt Nam từ đời Lý, Trần, cho đến ngày nay, muốn biết thêm về lịch sử nước

Nam, tiểu sử các đấng danh nhân nước nhà… chỉ có đọc Nam Phong, là có thể

hiểu biết được. “… Một người chỉ biết đọc Quốc ngữ mà có khiếu thông minh

có thể dùng tạp chí Nam Phong để mở mang học thức của mình.”

Đối với công cuộc xây dựng và phát triển nền văn học Việt Nam theo

hướng hiện đại trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, Phạm Quỳnh với vai

trò là một trong những nhà văn đi tiên phong, đã có những đóng góp

nhất định, cần được ghi nhận. Sự đóng góp ấy, thể hiện trên nhiều lĩnh

vực văn học: Tiếp tục công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ đã được khởi

xướng ở giai đoạn trước, cải tiến câu văn quốc ngữ, xây dựng và phát triển

nền quốc văn; phát triển phong trào dịch thuật; giới thiệu những khái niệm

cơ bản, mang tính lý luận về đặc điểm, kết cấu, nguyên tắc xây dựng các

67

thể loại văn học cũng như việc phát triển các thể loại đó.

CHƢƠNG 3

CÁC TÁC GIẢ ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC TRUYỀN BÁ VĂN

HÓA, VĂN HỌC PHÁP – CHÂU ÂU TRÊN NAM PHONG.

3.1. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Phạm Quỳnh (1892 - 1945).

(Bút danh: Thượng Chi; Hồng Nhân; Hoa Đường; Lương Ngọc).

Phạm Quỳnh sinh tại Hà Nội, số nhà 17 phố Hàng Trống, sinh ngày 17

tháng 12 năm 1892 năm Nhâm Thìn theo âm lịch. Gia đình khi đó từ biệt

làng Lương Ngọc để lên Hà Nội lập nghiệp, và Phạm Quỳnh đã ra đời,

khôn lớn và học hành tại Hà Nội.

Nguyên quán họ Phạm này vốn ở làng Lương Ngọc, phủ Bình Giang,

nay là xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Thân phụ là

Phạm Hữu Điển đỗ tú tài nho học, thân mẫu là Vũ Thị Đoan. Phạm Quỳnh

mồ côi mẹ từ khi mới chín tháng tuổi, và đến năm 9 tuổi, lại mồ côi cha,

sống trong tình yêu thương và sự chăm sóc dạy dỗ của bà nội từ nhỏ. Năm

1908, Phạm Quỳnh tốt nghiệp thủ khoa Trường trung học Bảo Hộ (Collège

du Protectorat), ra làm thông ngôn tại Trường Pháp quốc Viễn Đông Bác

Cổ Hà Nội (École Française d‟Extrême-Orient). Một năm sau, năm 1909,

kết duyên với cô Lê Thị Vân, sinh cùng năm 1892, nguyên quán làng Thọ

Vực, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Có lẽ, với tài năng, tư chất của

một người đỗ “thủ khoa” và đã có những năm tháng làm việc ở nơi viện

sách Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, được tiếp cận với bao nhiêu sách vở, tri

thức Đông Tây kim cổ, Phạm Quỳnh sớm trở thành một người có học vấn

uyên bác? Trí thức Bắc Hà thời đó đã suy tôn “Tràng An tứ hổ”, gồm bốn

học sinh xuất sắc nhất trường Thông ngôn Hà Nội là: “Vĩnh – Quỳnh – Tố

– Tốn”. (“Vĩnh – Quỳnh – Tố – Tốn”: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh,

Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn).

Hiện nay có rất nhiều những bài viết, công trình nghiên cứu viết chi

68

tiết về cuộc đời của Phạm Quỳnh. Trong khuôn khổ bài luận văn này,

chúng tôi chỉ trình bày những đóng góp của ông trong công cuộc tiếp nhận

văn hóa, văn học Pháp với tư cách là chủ bút Tạp chí Nam Phong.

Năm 1917 Nam Phong chào đời, đối với Phạm Quỳnh tạp chí trở

thành một phương tiện khả dĩ giải thoát ông khỏi vòng vây của cô đơn.

Cũng như lịch sử cổ kim đã từng chứng tỏ khía cạnh này của nghề làm báo.

Giữa các độc giả và Phạm Quỳnh, một sợi dây cảm thông được tạo nên,

dưới hình thức một cuộc đối thoại (kể từ số 26 tháng 4 năm 1919, Nam

Phong đã đặt ra mục “thư cho người bạn”). Ông nhận thấy mỗi cuộc bút

chiến đã dạy cho ông biết phải làm thế nào để truyền bá tư tưởng và truyền

cảm tâm tư.

Có thể nói Nam Phong chẳng khác nào một trường học, qui tụ một số

môn sinh. Trong môn phái đó, một tiếng nói Việt Nam tiến bộ được rèn

luyện, một nền văn hóa canh tân được chủ trương.

Trọn đời Phạm Quỳnh không hề sáng tác một bài thơ hay một cuốn

tiểu thuyết. Mặc dù tự học về chữ Nho, ông rất khắt khe trong việc áp dụng

những khuôn phép cổ truyền, hơn các vị khoa bảng xuất thân từ các kỳ thi

hương hội. Ông không chấp nhận “nghệ thuật vì du hí” mà cũng không tán

thành “nghệ thuật vì nghệ thuật”. Phần khác do văn hóa Pháp đào tạo, ông

không chủ trương nền văn chương sáo ngữ, chứa đầy những dẫn văn hay

hình bóng vay mượn trong lịch sử Trung Hoa và Việt Nam. Tác luyện một

nền văn hóa mới thuần túy Việt Nam, rèn luyện sao cho tiếng nói của đất

nước có đủ khả năng diễn tả những tư tưởng mới và những kiến thức mới.

Đó là những tôn chỉ giáo huấn mà Phạm Quỳnh chủ trương trên Nam

Phong.

Từ năm 1917 đến năm 1932, Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm kiêm chủ

bút tạp chí Nam Phong, phụ trách lớp dạy về Ngôn ngữ và văn chương

Hán Việt tại Trường cao đẳng Hà Nội từ năm 1924 đến năm 1932. Ông là

người sáng lập và là Tổng thư ký Hội Khai trí tiến đức tại Hà Nội, Hội

69

trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ từ năm 1925 – 1928, Phó Hội trưởng Hội địa dư

Hà Nội năm 1931 và Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ Xã hội Bắc kỳ năm

1931-1932. Ngày 11 tháng 11 năm 1932, Phạm Quỳnh được Hoàng đế Bảo

Đại bổ nhiệm chức Thượng thư kiêm Ngự tiền Văn phòng, rồi đến ngày 02

tháng 5 năm 1933, được bổ nhiệm chức Thượng thư Bộ Quốc gia Giáo

dục, kết thúc thời kỳ làm chủ bútTạp chí Nam Phong từ số 198 năm 1932.

Chức vụ chủ bút Nam Phong tạp chí lúc đầu chuyển giao cho Nguyễn

Trọng Thuật, rồi tiếp đến Lê Văn Phúc và sau cùng được chuyển sang tay

người con rể của ông là Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng, một người rất giỏi

tiếng Pháp và am hiểu văn hóa Tây phương. Bên cạnh đó, là sự trợ giúp

của các nhà Hán học nổi tiếng: Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Tùng Vân

Nguyễn Đôn Phục, Lê Dư, Bùi Kỷ, Nguyễn Tường Tam… Nhưng cho dù

ai chủ nhiệm, quản trị và dù có cố gắng thế nào đi nữa, thì sự nghiệp

của Nam Phong tạp chí cũng đành phải dừng lại ở tháng 12 năm 1934, với

210 số! Bởi vì, về chủ quan, hành trình 17 năm 6 tháng cho “cuộc đời” của

một tạp chí ở vào giai đoạn trước Cách Mạng Tháng Tám, cũng là một

hành trình khí dài, trí cũng cùng và lực đã kiệt. Song, dù sao Nam Phong

tạp chícũng đã đi trọn con đường lịch sử của nó. Bằng vào những bài viết

của Phạm Quỳnh thuộc nhiều lĩnh vực nói chung và phần văn học nói

riêng, về cơ bản chúng tôi đánh giá cao vai trò của Phạm Quỳnh và tạp

chí Nam Phong trong việc xây dựng nền quốc học và quốc văn cho nước

nhà hồi đầu thế kỷ XX…Đọc văn Phạm Quỳnh ta “đọc” được tư tưởng,

tình cảm và lòng khát khao của ông về việc xây dựng một nền quốc học,

quốc văn mới cho nước nhà những năm đầu thế kỷ XX. Trước đây, vì

nhiều lý do khác nhau, đã có những nhận định như những tảng đá nặng đè

lên cuộc đời và văn nghiệp của Phạm Quỳnh. Không nên lật ngược lại

hoàn toàn điều đó, nhưng cũng không nên quá “ám ảnh” vào những điều

đó. Vấn đề là, đến nay chúng ta đã có đủ điều kiện để nghiên cứu trong

một không gian rộng lớn, cái nhìn tỉnh táo hơn, thì cần có điều chỉnh và

70

xem xét lại một cách công bằng, khoa học hơn. Khoa học trước sau vẫn

phải được nhìn nhận bằng cái nhìn khoa học… Xét riêng về văn học, thật

khách quan để nhìn nhận, những gì Phạm Quỳnh làm được và để lại cho

đời, cứ xem vào quá khứ buổi quốc văn còn sơ khai hồi đầu thế kỷ XX cho

đến nay, đều là rất đáng quý. Ảnh hưởng lâu dài của văn trên Nam

Phong và văn nghiệp của Phạm Quỳnh đối với sự phát triển của nền văn

học nước nhà đã có nhiều người khẳng định. Chúng tôi ghi nhận ở ông chủ

bút Phạm Quỳnh, là một người tài hoa, uyên bác, một tấm lòng trải gần 18

năm khát khao “phụng sự cái chủ nghĩa bồi đắp cho nền quốc văn” đầy

nhiệt thành của ông. Ông là một nhà văn lớn, một học giả lớn về văn hóa,

văn học của nước ta giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tấm lòng của ông, công sức

của ông đối với văn hóa, văn học của dân tộc ta ở vào giai đoạn “tìm

đường” ấy, là rất đáng được những lớp người của thế kỷ XXI khẳng định,

tôn vinh. “Dạ đài cách mặt khuất lời…” (Nguyễn Du – Truyện Kiều).

Lịch sử văn học Việt Nam đến nay cần nhìn nhận ông như những tác giả

khác đầu thế kỷ XX. Đằng sau những bài viết có giá trị học thuật khá cao,

mà ở vào giai đoạn bấy giờ ít có người nào có được một tri thức thâm viễn

như ông, là hình ảnh của ông. Ông mong ước qua việc kiến thiết vững

vàng nền quốc học, quốc văn mà dân trí ta ngày một mở mang, đất nước ta

ngày một đi lên, từ đó sẽ dần dần tiến tới tương lai văn minh, tươi sáng cho

dân tộc trong những ngày đau thương của đất nước.

Từ những tìm hiểu về quan niệm văn hóa của Phạm Quỳnh, Vương

Trí Nhàn đã đi đến kết luận "Phạm Quỳnh đáng được coi là một trong số

nhân vật tiêu biểu của quá trình tiếp nhận văn hóa..., ít ra là ở giai đoạn đầu

của sự tiếp nhận ấy. Người ta thường chỉ nghĩ đến ông như một trong

những người có cơ sở Tây học vững chắc, song sự thực là trong cái môi

trường Hán Việt rộng lớn lúc ấy, Hán học đã thấm vào ông, cả hai nền văn

hóa Đông Tây kết hợp ở ông khá nhuần nhị. Tiếp nối sự nghiệp của những

Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của... ông thuộc loại xây nền đắp móng cho

71

nền văn hóa mới. Không hề có sự chuyển giao chính thức, song ông đã làm

những việc cụ thể để biến ước mơ của các nhà nho đầu thế kỷ, như Phan

Chu Trinh và các yếu nhân Đông Kinh Nghĩa Thục trở thành hiện thực.

Khốn thay những điều tâm huyết ấy lại được Phạm Quỳnh thực hiện trong

vòng tay của kẻ cướp nước". Nhưng cuối cùng với những phân tích mà ông

gọi là "công bình, khoa học, cận nhân tình", Vương Trí Nhàn đã "ngần

ngại" nói ra một thực tế "Phạm Quỳnh còn yêu nước, và đó là một kiểu yêu

nước ở thời của ông, theo cách của riêng ông" rồi đi đến một "kết luận khái

quát: khi một người có hoạt động thực sự trên lĩnh vực văn hóa, trở thành

có đóng góp về văn hóa, người đó nhất thiết phải có tình cảm tốt đẹp và

sâu sắc với dân tộc, với đất nước".

Phạm Quỳnh đã thực hiện đúng chủ trương văn hóa của ông. Chủ

trương đó được Phạm Quỳnh trình bày trong "Mấy nhời nói đầu", Nam

Phong số 1, tháng 7-1917: "Cái mục đích của bản báo là muốn gây lấy một

nền học mới để thay vào cái nho học cũ, cùng đề xướng lên một cái tư trào

mới hợp với thời thế cùng trình độ dân ta. Cái tính cách của sự học vấn mới

cùng cái trào mới ấy là tổ thuật cái học vấn tư tưởng của Thái Tây, nhất là

của nước Đại Pháp, mà không quên cái quốc túy trong nước".

Gắn bó với Phạm Quỳnh ròng rã 18 năm là tạp chí Nam Phong. Tập

sách đã đưa ra nhiều bài viết đánh giá về đóng góp của Nam Phong trong

lịch sử báo chí Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình phát triển của nền văn

học chữ Quốc ngữ trong buổi đầu thế kỷ XX, cung cấp được một cách ngắn

gọn "Thư mục tiêu biểu của Phạm Quỳnh trong Nam Phong", tập hợp được

một số bài viết và trích đoạn bài viết từng nhận xét về tạp chí Nam Phong

từ 1941 đến nay ở cả hai miền Nam Bắc. Có người như Vĩnh Hoàn trong

bài viết "Phẩm chất Phạm Quỳnh" đã xem Nam Phong là "sào huyệt" của

Phạm Quỳnh và đưa ra một nhận định cũng rất cực đoan "Nói một cách

khác, Phạm Quỳnh là Nam Phong". Dương Quảng Hàm trong "Việt Nam

văn học sử yếu" xuất bản năm 1941 cũng từng nhận xét "Cả cái văn nghiệp

72

của ông Phạm Quỳnh đều xuất hiện trên tạp chí Nam Phong, tạp chí ấy

trong một thời kỳ, đã thành một cơ quan chung cho các học giả cùng theo

đuổi một chủ đích của ông". Phạm Thế Ngũ trong "Việt Nam văn học sử

giản ước tân biên" ra đời năm 1961 ở miền Nam cũng đã đánh giá cao đóng

góp của Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong trong quá trình hình thành

nghệ thuật tiểu thuyết mới của Việt Nam. Trong bài viết "Bới tìm trong kho

tư liệu của báo Nam Phong" của Nhân Nghĩa viết năm 1941 đã từng thừa

nhận "trong suốt 18 năm trời, từ 1917 đến 1934, với 210 tập báo dày dặn đã

chứng minh điều Thiếu Sơn đã nói về báo Nam Phong "Có nhiều người

không biết đọc văn Tây, văn Tàu, chỉ nhờ Nam Phong vun đúc cũng có

được cái tri thức phổ thông tạm đủ sinh hoạt ở đời".

Trong bóng đêm đen tối của lịch sử dân tộc những năm đầu thế kỷ

XX, đặt bên những nẻo đường cứu nước của nhiều chí sĩ cùng thời, đến nay

nhin lại, chúng ta cần ghi nhận ở ông một tinh thần dân tộc và một phần

công lao không nhỏ của ông bắt nguồn từ một tấm lòng nhiệt thành đối với

nền “quốc văn”, “quốc học” của nước nhà, giữ gìn lấy cái tinh hoa của dân

tộc giống nòi, đồng thời biết tiếp nhận cái hay của người mà bồi bổ, gây

dựng lấy cho mình một nền văn hóa mới, một nền văn học mới.

Tác giả Dương Trung Quốc đã nhận định "Những vấn đề liên quan

đến sự lựa chọn thái độ với văn minh phương Tây - sự cộng tác hay chống

đối sự cai trị của chế độ thực dân luôn là vấn đề sát sườn với giới trí thức

cận đại. Những Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký hay Phạm Quỳnh,

Nguyễn Văn Vĩnh... luôn là những trường hợp có sự đánh giá trái chiều" và

cuối cùng tác giả đã kết luận "Khỏi phải phân tích dài dòng, cùng với thời

gian càng ngày chúng ta càng nhận ra, về căn bản những trí thức đều quy tụ

về một mối là hướng tới dân tộc bằng cách tiếp cận với văn hóa phương

Tây, vì với nền văn hóa ấy, chủ nghĩa thực dân chỉ là một hiện tượng lịch

sử, còn những giá trị tiến bộ, giá trị căn bản của một nền văn minh luôn là

nguồn lực cho sự phát triển, nhất là với văn minh phương Tây, những giá trị

73

dân chủ là một ưu thế mang tính chất tiên phong".

Tóm lại Phạm Quỳnh là người viết nhiều nhất trong Tạp chí Nam

Phong, Nhà văn Vũ Ngọc Phan, năm 1942, khi xuất bản sách Nhà văn

hiện đại (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, 1942, tập 1, tr.125-126), đã

dành cho Phạm Quỳnh đến hơn 33 trang sách với hết lời ca ngợi liên quan

đến những công trình khảo cứu, dịch thuật, du ký và bình luận:

“Ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam Phong. Một điều mà

người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên tập và trước thuật

của ông là ông không cẩu thả… Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn

luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn

cho đến triết lý, đạo giáo, cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào

là không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch

sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam

Phong, vì nếu ai đọc toàn bộ tạp chí này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có

thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn bộ bách khoa

toàn thư bằng quốc văn.” Trong 15 năm chủ trương tạp chí Nam Phong,

Phạm Quỳnh đã xây lắp cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng

những bài bình luận, khảo cứu hết sức công phu…

3.2. Các tác giả đóng góp trên Nam Phong.

Đồng hành cùng Phạm Quỳnh, một nhóm học giả cùng với một số văn

nhân trẻ đã từng hấp thụ văn hóa Tây phương, sốt sắng giáo huấn dân

chúng, đồng thời quan niệm không nên đoạn tuyệt với quá khứ và tập quán.

Báo chí thời đó tin rằng, thông tin và giáo dục chỉ là một. Quan niệm ấy bắt

nguồn từ Khổng học, nếu không giáo huấn thì viết báo để làm gì. Đó là

quan niệm của toàn thể ban biên tập Nam Phong. Các tác giả cố gắng có

những tư tưởng, lập luận và thể tài giống như của Nam Phong.

Khảo cứu tiểu sử của những tác giả này là một việc làm rất khó, dù có

viết hàng trăm trang giấy cũng không đủ phản chiếu nếp sống và sự nghiệp

của một tác giả. Trong số mấy chục tên các văn nhân, tác giả, chúng tôi chỉ

74

lựa chọn một số rất ít được coi là điển hình nhất. Những tác giả có nhiều

đóng góp quan trọng trong đổi mới văn học nước nhà và có tầm ảnh hưởng

xã hội.

3.2.1. Nguyễn Bá Trác (1881 – 1845) – Lối văn „ám chỉ” và “hàm súc”.

Nguyễn Bá Trác, bút danh Tiêu Đẩu, giữ vai trò là chủ bút phần Hán

tự. Tuy nhiên trong thực tế dường như ông có nhiều ảnh hưởng đối với

phần quốc ngữ. Ông xuất thân từ một gia đình văn tự, là một nhà cách

mạng chính hiệu. Sau nhiều năm bôn ba để tìm đường chiến đấu, ông sánh

vai với các nhà cách mạng quốc gia yêu nước. Sau đó ông bỏ cuộc trở về

quê hương.

Năm 1917, Nguyễn Bá Trác là đồng sáng lập viên và đồng chủ bút

Nam Phong với Phạm Quỳnh. Là một nhà văn hữu hạng, ông sử dụng thật

tài tình lối diễn tả hàm súc, là một nghệ thuật rất thịnh hành trong giới văn

nhân thời đó. Lối diễn tả nói ít hiểu nhiều hoặc hàm ý nói một đàng họ giả

hiểu theo một kiểu khác…

Những sáng tác chính của ông bằng chữ Hán – Việt và quốc văn :

- Âu Châu chiến sử.

- Hãn mạn du kí.

- Hoàng Việt giáp tý niên biểu (Bản dịch ra Việt ngữ đã được Viện

khảo cổ Sài Gòn ấn hành 1963)

Qua quá trình sáng tác tản văn, độc giả thấy ở Ông một thái độ chán

chường và hoài nghi vốn dĩ là tập quán của nhà nho. Một nhà cách mạng

hối tiếc, như đứa con hoang toàng trở về với gia đình, đang cởi mở tâm tư,

ông cảm thấy tâm hồn thơi thới vì đang đi đúng đường. Như vậy vào năm

1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả thực đóng vai

trò đàn anh, vì tuổi tác, vì danh vị đỗ cử nhân, và nhất là uy tín của một quá

khứ mạo hiểm khiến ông nổi danh và được kính trọng.

Muốn hiểu Nguyễn Bá Trác, ta đọc “Bài tự tình với Sông Hương”

trong Nam Phong số 2. Qua bài tản văn ngắn ngủi dài vừa 37 dòng. Ông sử

75

dụng nghệ thuật tinh vi lối “ám chỉ”, “hàm súc” làm cho độc giả hiểu rõ ý

nghĩa sâu xa của mình khi qui thuận. Trước đây là một nhà cách mạng quốc

gia, ông đã sống ẩn náu bên Trung Hoa, khi xa quê ông nặng lòng nhớ

nước. Khi về Kinh, ông tả cảnh Huế thời đó, khả ái, phồn vinh, cổ kính

trong ý chí canh tân:

“…Non Ngự Bình hãy còn xanh, nước Hương Giang hãy còn trong,

đình ta lâu đài mỗi ngày mỗi đẹp, công nghiệp, bản triều, gây dựng trang

nghiêm rực rỡ biết là bao..”

Ông ôn lại những kỉ niệm tháng năm thời thơ ấu, một cuộc đối thoại

với cây đa :

“…Đến bây giờ cũng thuyền ấy, cũng bến ấy, cũng quen quen, lạ lạ

mấy ả hữu tình, mà cung đàn giọng hát biết lựa làm sao, có cụm bồ đề đấy

ta xin hỏi :

“ Mấy năm nay hát bài nào?

Trăng làm sao? Nước làm sao? Hỡi chàng?

Bồ - đề nói:

Mấy năm nay tôi ở chốn này,

Khi nồng khi lạnh, khi đầy khi vơi,

Mừng nay êm gió tạnh trời.”

Tản văn tình cảm, nên thơ, nhịp nhàng như điệu nhạc, đầy hàm súc,

ám chỉ sâu xa. Ông cho rằng lịch sử chỉ là một chuỗi thăng trầm „Khi nồng

khi lạnh, khi đầy khi vơi”.

Sau này trong nhiều bài viết bằng Việt văn đăng trong Nam Phong,

Nguyễn Bá Trác còn trở lại với các bài viết “ Hãn mạn du kí” ( Nam Phong

từ số 39 – 43).

Nguyễn Bá Trác từ giã tạp chí vào khoảng tháng 9 năm 1919, để vào

Huế nhận nhiệm vụ do triều đình giao phó. Cuối đời ông hưởng cuộc sống

an nhàn nơi quê nhà thuộc phủ Điện Bàn. Năm 1945 ông bị bắt và không

76

quay trở về.

3.2.2. Nguyễn Hữu Tiến (1875 – 1941) – Nhà biên khảo, dịch thuật

tài năng.

Trong ban biên tập Nam Phong, Nguyễn Hữu Tiến chuyên về khảo

cứu và phiên dịch các tác phẩm Trung Hoa sang quốc ngữ. Nhà phê bình

Vũ Ngọc Phan, đã viết trong “Nhà văn hiện đại” tập 1, như sau :

“Ông là một nhà văn đã cho chúng ta biết về học thuyết, tư tưởng Tàu

nhiều hơn cả nhà văn lối cũ” (NXB Thăng Long, Sài Gòn, 1960, trang

139).

Nhờ những bản dịch hay của Nguyễn Hữu Tiến mà nhiều độc giả có

khi không đọc được Hán văn trong nguyên bản cũng thấu hiểu được Khổng

học. Những dịch phẩm của ông đăng trong Nam Phong, được gom lại từng

tập, dưới những nhan đề có uy tín, không cần ai phê bình hay giới thiệu.

“Mạnh tử quốc văn giải thích”(ghi chú, giảng giải và bình luận những tư

tưởng của Đức Mạnh tử); “Lịch sử và sự nghiệp của Tư Mã Quang”,

“Gương đức dục”(dịch từ nguyên tác của Lương Khải Siêu).

Từ năm 1918, theo khuôn mẫu “Cổ xúy nguyên âm”, ông cống hiến

cho độc giả Nam Phong một loạt bài nhan đề “Nam âm thi văn khảo biện”

(khảo cứu và bình luận về thơ văn Việt Nam).

Từ số 48 (tháng 6 năm 1921), Nguyễn Hữu Tiến công bố bản dịch tiểu

thuyết “Lĩnh nam dật sử” (truyện lịch sử). Tác phẩm này đã được Trần

Nhật Duật phiên dịch sang Hán tự vào thế kỷ XIII, nhưng đến đầu thế kỷ

XX, nhờ Nguyễn Hữu Tiến chúng ta được thưởng thức bằng bản dịch tiếng

Việt.

Một dịch phẩm khác của Nguyễn Hữu Tiến, được đăng trong Nam

Phong từ số 121, (tháng 9 năm 1927), là tập hồi kí “Vũ trung tùy bút” của

Phạm Đình Hổ. Đây là một kho tàng quý giá cho chúng ta biết rất nhiều về

người và việc của Việt Nam thời Lê Mạc.

Nguyễn Hữu Tiến, hợp tác đều đặn với tạp chí, năm 1922 ông cho ra

77

cuốn “ Văn học sử nước Tàu”, dịch từ nguyên tác của Vương Mộng Tang.

Từ tháng 1 năm 1932 đến tháng 12 năm 1934, ông cống hiến dịch phẩm

“Khảo về luân lí học sử nước Tàu” của tác giả Trương Tôn Nguyên. Song

song với thời gian này ông cho ra mắt “Việt Nam tổ quốc túy ngôn” cùng

với Nguyễn Trọng Thuật. Đây là những ghi chép phong dao, ngạn ngữ dân

ca, được sắp xếp và bình chú.

Cùng với Nguyễn Đôn Phục, ông dịch và đăng tải “Luận ngữ quốc văn

giải thích” trong Nam Phong, từ tháng 8 năm 1931 đến tháng 5 năm 1933,

hai ông phiên dịch và cho ra tập “Mạnh tử quốc văn giải thích”( bài đăng từ

số 158). Đó là những bản dịch giá trị mà sau này gom góp trình bày thành

quyển.

Nguyễn Hữu Tiến là một trong những nhà bỉnh bút đầu tiên của Nam

Phong, ông thủy chung cộng tác cùng Nam Phong cho đến khi bị đình bản.

Thật ly kỳ thay vì Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến là tác giả của bài tạp chí

“Vĩnh biệt độc giả”

“Mười tám năm…thực đã hiến cho văn đàn người Nam một cái sự

nghiệp khai – mac đáng ghi nhớ, là cái sự nghiệp làm tăng tiến cho tiếng

mẹ đẻ (…) Sự nghiệp Nam Phong cống hiến cho quốc văn mười tám năm

trời, nay tóm lại không ngoài hai tính cách : Một là bắt đầu làm cho tăng

tiến trình độ tiếng Nam, hai là duy trì chủ nghĩa quốc gia cho dân tộc…”

“Nay đến lúc chia tay, cái hôn vĩnh biệt nồng nàn, Nam Phong xin chỉ

vào tập sách 210 số, có tên bản chí và dặn cùng các bạn văn, bạn học và

bạn tri âm một lời rằng :

“Bàn văn luận đạo bấy nay

Bạn cùng tri kỷ c n đây là tình!”

(“Tổng thuật sự nghiệp Nam Phong. N.P.Số 210, 16/12/1034).

Nguyễn Hữu Tiến đã góp phần rất nhiều tạo cho Nam Phong một

khuynh hướng trùng với tư tưởng của Phạm Quỳnh: Ấy là học thuyết

Khổng Mạnh, tinh thần hiếu cổ và ý chí gúp độc giả trau dồi kiến thức.

78

Trên Nam Phong, Nguyễn Hữu Tiến là tác giả của hàng trăm bài đăng trong

tạp chí. Bản chất của phiên dịch và khảo cứu là thường xuyên cố gắng đưa

vào văn chương Việt Nam với mức độ tối đa tất cả những điều liên quan

đến đạo lý, lễ nghi, triết học văn chương Trung Hoa. Nguyễn Hữu Tiến

chứng tỏ một tâm hồn cởi mở, muốn cống hiến tất cả những gì độc giả lưu

tâm hay thắc mắc: “Thơ mới và thơ cũ” (Nam Phong số 193), “Một đạo

luật bảo vệ tầm tơ” (Nam Phong số 200), “Tình trạng sinh hoạt dân quê

hiện nay” (Nam Phong số 209)…

Nguyễn Đôn Phục (Bút danh Tùng Vân).

Nguyễn Đôn Phục xuất hiện lần đầu trên tạp chí Nam Phong vào tháng

9 năm 1919 ( Nam Phong số 25), dưới bản dịch khiêm cung “Vợ thầy Cử

Lư” từ nguyên tác Hoa văn. Ông cộng tác không gián đoạn cho đến số chót

( Nam Phong số 210, tháng 12 năm 1934) với ba bài dịch : Hai áng thơ và

một bài đạo lí, chỉ với ba bài này đã đủ tượng trưng cho cả văn tài và niềm

tin của ông.

Nguyễn Đôn Phục có rất nhiều bài dịch thuật, khảo luận, thơ và nhất là

tinh thần tiềm tàng trong các bài viết ấy là một tinh thần phục hưng tất cả

những gì tốt đẹp nhất trong Khổng học, đồng thời tiếp nhận tất cả những gì

bổ ích trong tân học. Những điều này đã khiến Đôn Phục trở thành cây bút

hữu hạng của nhóm Nam Phong và là một trong những người đã sáng lập

nên phong trào văn chương và trí thức mà Nam Phong là trụ cốt.

Nếu Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Hữu Tiến hay bất cứ một tác giả nào

trong Nam Phong đều thể hiện tài năng qua các bài biên khảo, dịch thuật

uyên bác, thì Nguyễn Đôn Phục lại có một sự khác biệt hẳn so với các bạn

đồng hành bấy giờ là nhờ các công trình sáng tác thực sự về văn chương.

Các bài thơ thể hiện tế nhị và rung cảm, các bài văn mà nội dung cũng như

hình thức cách tân mà vẫn phù hợp với quan niệm cổ điển. Sáng tác của

ông dường như gạn bỏ những gì là khách sáo, thể hiện sự độc đáo, thanh

nhã, không kém phần quyết liệt. Ông đã khám phá ra những danh từ duyên

79

dáng, lối diễn tả nhất quán, khiến vẻ tân kỳ bộc lộ ngày càng được độc giả

quan tâm.

Nguyễn Đôn Phục là nhân vật độc nhất thời bấy giờ có một “tác phong

bút chiến” . Tính chất độc đáo và óc châm biếm của ông thật mới mẻ, khiến

nửa thế kỷ sau, khi đọc lại độc giả vẫn có cảm tưởng như đối thoại với hòa khí

của một bậc hiền nhân hay một bậc đàn anh tuổi tác mà vẫn hiểu chúng ta.

Những “hài văn” của ông đăng trong tạp chí đều đượm một vẻ tân kỳ

hiếm có. Những bài tường thuật hay đối thoại đưa lên sân khấu khiến độc

giả có thể tưởng tượng và rung cảm. Với thể thức như vậy, Nguyễn Đôn

Phục đã nêu lên những vấn đề quan trọng mà vẫn không làm khán giả buồn

chán :

- “Chừa nói chữ Nho” (Nam Phong số 50, tháng 8 năm 1921).

- “Sự lạ” (hay chuyện “Một ông quan không chịu nhận lễ vật”, Nam

Phong số 59, tháng 5 năm 1922).

- “Bức thư thần quốc ngữ kêu nài thần chữ nho” (Nam Phong số 196,

tháng 5 năm 1934.

Một lòng với Nam Phong, Nguyễn Đôn Phục tha thiết với công

cuộc dùng chữ quốc ngữ để xây đắp một nền văn học quốc gia. Các biên

khảo của ông đa dạng nhiều đề tài phong phú :

- “Vấn đề ấu trĩ viên” (Nam Phong số 60, tháng 6 năm 1922).

- “Luận về nghĩa trời, đất, người” (Nam Phong số 62, tháng 8 năm

1922).

- “Khảo về cách hài văn” (Nam Phong số 64, tháng 10 năm 1922).

- “Bàn về lịch sử nước Tàu” (Nam Phong từ số 80 đến 86, từ tháng 2

đến tháng 8 năm 1924).

- “Điều tra về tình trạng hương thôn” (Nam Phong số 113, tháng 1

năm 1927).

Các bài du ký:

- “Du tử trần ký” (Nam Phong số 59, tháng 5 năm 1922).

80

- “Cuộc đi chơi Sài Sơn” (Nam Phong số 93, tháng 3 năm 1925).

Nguyễn Đôn Phục còn dịch rất nhiều tác phẩm Trung Hoa ra

quốc văn khảo luận hay tiểu thuyết:

- “Tây Thi diễm sử” (tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa, Nam Phong số 114

đến 117, tháng 2 đến tháng 5 năm 1927).

- “Chồng tôi” (Nam Phong từ số 119 đến 130, tháng 7 năm 1917 đến

tháng 6 năm 1928).

- “Danh nho nước Tàu” (Nam Phong từ số 136 đến 151).

- “ Tấm gương tình” (Nam Phong từ số 142 đến 154, từ tháng 9 năm

1929, đến tháng 9 năm 1930).

Về thơ, Nguyễn Đôn Phục có một số sáng tác sau:

- “Tùng – vân vân – văn” (Nam Phong số 56, tháng 2 năm 1922).

- “Hà – Đông thập - vịnh” (Nam Phong số 166, tháng 10 năm

1932)…

3.2.3. Nguyễn Trọng Thuật (1993 – 1940).

Nguyễn Trọng Thuật, bút danh Đồ Nam, ông là một trong những cây

bút cốt cán của Nam Phong. Ông ra mắt độc giả vào khoảng tháng 12 năm

1919, bài đầu tiên nhan đề “Dư luận”, đăng trong Nam Phong số 30, bàn về

“Chấn chỉnh quan trường của quan tổng đốc Thân Trọng Huề”.

Nguyễn Trọng Thuật cống hiến cho độc giả nhiều biên khảo và

phiên dịch có giá trị. Năm 1925 danh tiếng của ông nổi như cồn với phần

thưởng văn chương mà Hội Khai Trí Tiến Đức dành cho ông nhờ cuốn

“Quả dưa đỏ”. Có thể nói ông là một trong những bậc thầy của nền tiểu

thuyết viết bằng quốc ngữ.

Lịch sử đã cung cấp đề tài cho tác giả Quả dưa đỏ”, liên quan đến

những trào lưu văn chương đề cao nghị lực và tình thương trong khuôn khổ

lễ giáo Khổng học. Vì bị vu cáo hoàng tử Mai An Tiêm bị vua trừng phạt

sống cuộc đời đầy ải trên một hoang đảo. Nhưng không hề sờn lòng nản

chí, cố gắng vượt qua khó khăn. Hoàng tử và công chúa sau khi khám phá

81

ra một loại quả dưa có ruột màu đỏ, bèn gia công trồng trọt đại qui mô. Rất

nhiều dưa được vứt xuống biển khiến hòn đảo được nhiều người biết đến,

trở nên phồn thịnh và nổi tiếng. Vua Hùng vương nghe tin bèn triệu về

kinh, phục hồi chức tước cho hoàng tử đã bị hàm oan.

Đề tài mượn tích truyện xưa đã được Nguyễn Trọng Thuật phóng tác

dưới một hình thức trang trọng cổ truyền. Tuy vậy vẫn hợp với trào lưu mới

nhờ những đoạn tả cảnh, tả tình sinh động và chân thực đến mức tỉ mỉ.

Chính vì vậy “Quả dưa đỏ” được coi như một trong những cuốn tiểu thuyết

tiên phong viết bằng chữ quốc ngữ, với một nguồn cảm hứng sâu rộng về

nội dung cũng như thể văn.

“Quả dưa đỏ” được trình diện các độc giả Nam Phong trong mười kỳ

liên tiếp (từ số 103 đến số 113, và từ tháng 3 năm 1926 đến tháng 1 năm

1927) chỉ là một phần nhỏ trong hoạt động rất phong phú của Nguyễn

Trọng Thuật, vì ông còn là tác giả của nhiều biên khảo, phân tích, phê

bình…

Nguyễn Trọng Thuật còn sáng tác khoảng 100 bài thơ ngụ ngôn và

tình cảm có đăng trong Nam Phong. Có thể nói rằng Nguyễn Trọng Thuật

là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho Nam Phong, thành công

trong nhiệm vụ dung hòa lòng tôn sùng quá khứ với sự hoan nghênh tiếp

đón nền văn hóa mới.

3.2.4. Nguyễn Bá Học (1858 – 1921).

Nếu như Nguyễn Trọng Thuật là bậc thầy của nền tiểu thuyết mới thì

Nguyễn Bá Học là nhà văn đã đi tiên phong trong thể loại đoạn thiên tiểu

thuyết hay truyện ngắn.

Trong Nam Phong số 10 (tháng 4 năm 1918), độc giả có dịp thưởng

thức “Câu chuyện gia đình” là một truyện ngắn được cấu tạo theo quan

niệm cũ. Tác giả mượn lời của một cô nàng bán hoa mộc mạc, kể chuyện

với một giọng văn diêm dúa để trình bày những ý niệm đạo lí. Thời đó cách

trình bày như vậy rất được hoan nghênh.

82

Nguyễn Bá Học tha thiết với sứ mệnh của giáo dục. Về văn chương

ông cũng có quan niệm tuyệt đối chính thống, tôn trọng tinh thần Khổng

giáo. Trước hết ông muốn là một nhà đạo đức, như ông đã tâm sự qua

những dòng dưới đây:

“Tiểu thuyết, ký sự, luận thuyết, diễn thuyết là những áng văn chương

hữu dụng, còn thơ phú, ca dao, có vần có điệu, chỉ dùng để ngâm nga

không suy ra thực sự. Chẳng những vô ích mà lại có lúc làm cho mê mẩn cả

tình thần, tô điểm sai cả cảnh thực…”(trang 24, “lời khuyên học trò”, Nam

Phong số 24, tháng 6, năm 1919). Đối với thời đại ấy, khái niệm ấy được

xem là hẹp hòi, nhưng thái độ can đảm và minh bạch như trên rất giống với

Phạm Quỳnh.

Từ năm 1918 đến 1920, Nguyễn Bá Học gửi đăng rất nhiều bài.

Nhưng tình cờ văn học sử đã đưa ông lên hàng đầu các nhà văn tiên phong

về truyện ngắn. Ông cho ra mắt trong Nam Phong tổng cộng được chín

truyện. Trong chín truyện này có hai truyện đang được lưu trong hậu thế :

“Chuyện ông Lý Chắm”, mô tả những phong tục nơi thôn dã (Nam Phong

số 13, tháng 7, năm 1918) và “Dư sinh lịch hiểm ký”, ôn lại một cuộc sống

phiêu lưu (Nam Phong số 35, tháng 5 năm 1920). Phạm Quỳnh đã đón nhận

và ca ngợi những truyện ngắn ấy như sau :

“Có giá trị nhất là mấy bài đoản thiên tiểu thuyết, toàn là ngụ ý răn

đời. Lập ý đã hay, lời văn lại nhã. Mỗi bài in ra, các bạn đọc lấy làm khoái

trá vô cùng” (Bài viếng của bản chí chủ bút Nam Phong số 50, tháng 8 năm

1921). Nguyễn Bá Học được nổi danh nhờ ở các đoản thiên tiểu thuyết là

một sự tình cờ. Các sáng tác chủ yếu bàn về đạo lý sư phạm, văn chương,

phong tục xã hội, mà nhất là về đời sống hương thôn.

Lâm Tấn Phác (1906 – 1969).

Lâm Tấn Phác, bút danh Đông Hồ, ông làm quen với độc giả Nam

Phong kể từ số 80, tháng 5 năm 1924 bằng hai bài thơ đường luật nhan đề :

“Xuân nhật thi bút” (tạm dịch Ngày xuân khai bút). Ba tháng sau tên ông đã

83

xuất hiện, nhưng với tư cách „sao lục” và thu thập các bài “thơ văn cũ Nam

kỳ”, trong Nam Phong số 78, tháng 12 năm 1923.

Bài tản văn đầu tiên của ông “Hà tiên Mạc thị sử” ra mắt trong số 107,

tháng 7 năm 1926. Một năm sau nhờ chính nhà văn Đông Hồ giới thiệu

trong tạp chí “ Gia đình giáo dục kí” (số 115, tháng 3 năm 1927) mà chúng

ta được biết ngôi trường do ông sáng lập tại Hà tiên trùng danh với Hội

Khai Trí Tiến Đức thường đăng kỉ yếu và biên bản trong Nam Phong.

Trường mang tên “Khai Trí Tiến Đức học xã” do Đông Hồ sáng lập, do

chính ông và một số bằng hữu điều khiển.

Trong trường có những biểu ngữ nặng tinh thần, Khổng học được

trưng trên tường với những phương ngôn:

“Ba điều đáng tiếc:

Ở đời có ba điều đáng tiếc:

- Một là hôm nay bỏ qua

- Hai là đời này chẳng học

- Ba là thân này lỡ hư”

(Trích Chu hi đời Tống)

Và ngay bên là những lời của Phạm Quỳnh :

“ Quốc ngữ quốc gia:

Tiếng là nước, tiếng còn thì nước còn

Tiếng mất thì nước mất…

Truyện Kiều còn, tiếng ta còn,

Tiếng ta còn, nước ta còn…”

Năm 1928 Đông Hồ phu nhân qua đời ông cống hiến tập hồi kí “Linh

phượng” (tên người quá cố), tập lệ kí của Lâm Trác Chi, Phạm Quỳnh có

ngợi khen :

“Các bạn thường đọc văn của Đông Hồ Lâm – Lâm Trác Chi, chắc đã

biết ông là một tri kỉ với quốc văn và là một người bạn quí của bản chí.

Hoặc là khảo về lịch sử Hà tiên, hoặc là thuật cuộc du lịch Phú Quốc, hoặc

84

là bàn luận về văn chương, hoặc là cảm khoái về thời thế, lời văn của ông

bao giờ cũng có giọng thành thực thiết tha mà chứa chan một tấm lòng ưu

ái”.

“Gần đây tiếp được tập văn ông gửi ra, tưởng là truyện tiểu thuyết

giữa đời, ai đời chính là tập lệ kí chép cái sầu niệu vong của ông vậy. Than

ôi! Những nỗi sinh tử biệt ly ở đời, người nào có qua cầu mới biết được cái

khổ. Nhưng dẫu khách bàng quang với những tình cảm ấy cũng không cầm

lòng được; huống là bạn văn chương, tuy kẻ chân trời người gốc biển mà

tinh thần vẫn thường gặp nhau trong mộng tưởng. Tôi đọc luôn một hồi

không ngừng, đọc xong càng thấy dao động quả tim, đọc xong như ngậm

ngùi thương xót”.

“Đặt quyển vở xuống nghĩ trong bụng rằng: Tình mà đến chí tình như

thế, thì lòng nào mà không cảm. Đã cẳm được lòng người thì tình riêng tự

nhiên hóa ra tình chung; cái sầu của một người mà hóa ra cái sầu của trăm

nghìn người vậy. Nay cái chí tình ấy lại diễn ra cái giọng lâm li ai oán như

ttrong tập văn này thì cái sức cảm động lại tăng lên dường nào! Thực vàng

thử lửa mới hay, quốc văn ta đã chịu được, đã mang được cái chí tình như

thế, thực đã xứng đáng làm một nền văn chương chân chính vậy. Biết đâu

đấy? Nước tàu kia có văn khóc của Hàn Thoại Chi, nước Nam ta há không

có tập văn khóc vợ của Lâm Trác Chi đó dư…” (“Linh phượng”, Nam

Phong số 128, tháng 4 năm 1928).

Trong tạp chí Nam Phong, Đông Hồ đại diện cho tiếng vang từ miền

Nam, cho tiếng nói tinh thần và tâm hồn người miền Nam nước Việt. Trong

Nam Phong sáng tác tân văn của ông quan trọng hơn nhiều so sánh với các

sáng tác bằng thơ. Ông tiếp tục cộng tác cho Nam Phong đến năm 1934, số

85

203, với đoạn cuối loạt bài “Hoài cảm” (chương Làng báo trẻ con).

KẾT LUẬN

Có thể nói Nam Phong tạp chí ra đời vào thời điểm ấy và tồn tại cho

đến hết giai đoạn giao thời, đã phản ánh đầy đủ mọi diễn biến của đời sống

văn học ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Tờ tạp chí này đã dành một mảnh đất

rộng lớn cho văn chương và trên đó các thể loại văn học đua nhat phát triển,

trong đó đáng lưu ý là sự tiếp nhận những tư tưởng, luồng gió mới từ

phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp.

Ở lĩnh vực báo chí, với vai trò là một nhà báo, một chủ bút của một

tờ tạp chí lớn, có uy tín, Phạm Quỳnh với sự cộng tác đắc lực của những

cây bút tên tuổi, đã có những đóng góp quan trọng cả về mặt hoạt động

thực tiễn lẫn về phương diện lý luận, góp phần hoàn thiện và phát triển

nền báo chí ở Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Lợi dụng sự đỡ đầu

của chính quyền thực dân, Phạm Quỳnh và các cộng sự của ông đã biến tờ

báo thành cơ quan truyền bá những tư tưởng học thuật của phương Tây

trong nỗ lực xây dựng, chấn hưng văn hóa nước nhà và sự thực đã góp

phần tạo nên một diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam những năm đầu

thế kỷ XX.

Về mục đích của báo chí, thông qua việc chủ trương tờ báo của mình,

Phạm Quỳnh đã xác định những đặc trưng cơ bản, mang tính lý luận cho

báo chí, đó là chức năng thông tin, tuyên truyền và giáo dục. Về nội

dung của báo chí, chính sự phong phú, đa dạng của các mục, các bài

trên Nam Phong, Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí đã góp phần vô

cùng to lớn trong việc hoàn thiện và phát triển báo chí Việt Nam từ

hình thức sơ khai, đơn giản lên trình độ hiện đại, đúng với đặc trưng về

nội dung của thể loại này. Một đóng góp quan trọng nữa của Phạm

Quỳnh và báo Nam Phong đối với báo chí Việt Nam đó là về mặt ngôn

ngữ báo chí và cách thức biên tập, đưa tin. Tiếp nối sự nghiệp truyền bá

chữ quốc ngữ của thế hệ trí thức đi trước, Phạm Quỳnh và báo Nam Phong

86

đã kiên trì nghiên cứu, cải tạo câu văn quốc ngữ, khiến nó có khả năng

diễn đạt một cách trong sáng, rõ ràng mọi khái niệm thâm thúy của tư

tưởng triết học kim cổ đông tây thông qua việc tổ chức biên dịch, giới

thiệu các tư tưởng ấy trên mặt báo. Những cố gắng ấy của Nam Phong,

đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt , nói

chung và ngôn ngữ báo chí, nói riêng. Qua những bài viết được biên tập

kỹ càng, với nội dung phong phú, cùng với những cuộc tranh luận công

khai về văn học, văn hóa trên mặt báo, thu hút sự quan tâm của công

chúng độc giả, Phạm Quỳnh và Nam Phong đã góp phần tạo nên không

khí sôi nổi cho đời sống ngôn luận thời bấy giờ cũng như phát triển lực

lượng độc giả cho báo chí Việt Nam. Về phương diện lý luận, chính Phạm

Quỳnh là người đầu tiên cung cấp cho khoa lý luận báo chí Việt Nam

những ý kiến quí giá về ý nghĩa của báo chí, cũng như vai trò, nhiệm vụ của

người làm báo.

Ở lĩnh vực văn học, công lao lớn nhất của Phạm Quỳnh và các học

giả đương thời cần được lịch sử ghi nhận là nỗ lực xây dựng và phát triển

nền văn mới. Trên báo Nam Phong của mình, ông đã mở nhiều chuyên

mục văn học, tạo điều kiện bảo tồn và phục hồi những giá trị văn học cũ;

tiếp thu cái hay, cái đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của các tác

phẩm văn học nước ngoài cũng như khuyến khích phát triển các thể loại

văn học mới.

Phạm Quỳnh chính là người mở đường cho ngành lý luận phê bình

phát triển. Quan niệm về mục đích và phương pháp lý luận phê bình văn

học của Phạm Quỳnh là một quan niệm hết sức tiến bộ, có ảnh hưởng

sâu sắc không chỉ đối với các nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học

đương thời mà cả với nền nghiên cứu lý luận phê bình hiện nay của Việt

Nam. Trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn học, với quan

niệm tiến bộ và thực tiễn lý luận phê bình của mình, Phạm Quỳnh đã có

nhiều đóng góp cho việc phục hồi, đánh giá đúng đắn những giá trị của

87

văn học cổ truyền cũng như định hướng và khuyến khích sự phát triển của

văn học mới.

Ở lĩnh vực dịch thuật, cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là

một dịch giả lớn của giai đoạn văn học giao thời. Với quan điểm thâu thái

tư tưởng học thuật tiến bộ của văn minh Đông – Tây bồi bổ cho nền học

nước nhà và phát triển ngôn ngữ dân tộc, Phạm Quỳnh đã có nhiều công

trình dịch thuật giá trị. Và qua hoạt động dịch thuật ấy, ông đã đóng góp

cho nền dịch thuật Việt Nam những kinh nghiệm và mẫu mực về

phương pháp dịch thuật cũng như phát động nên một phong trào dịch

thuật sôi nổi và rầm rộ trong văn học nước nhà những năm đầu thế kỷ XX.

Đối với sự bồi bổ, phát triển hoàn thiện chữ quốc ngữ và câu văn

quốc ngữ, Phạm Quỳnh là một trong những người ghi công đầu. Chính

ông, bằng nỗ lực hô hào, kêu gọi, đề ra những biện pháp cụ thể và trực

tiếp tham gia cải tiến câu văn quốc ngữ thông qua các bài diễn thuyết,

dịch thuật, biên khảo của mình, đã đưa chữ quốc ngữ từ giai đoạn ấu trĩ

sang giai đoạn trưởng thành. Câu văn quốc ngữ đến thời Phạm Quỳnh đã

đạt đến sự hoàn thiện, đủ sức diễn đạt một cách trong sáng, rõ ràng mọi

khái niệm thâm thúy của các tư tưởng triết học kim cổ đông tây cũng

như biểu hiện một cách tinh tế và sâu sắc những tư tưởng, tình cảm sâu

kín của con người.

Về mặt thể loại, bằng hoạt động dịch thuật, khảo cứu và sáng tác,

Phạm Quỳnh là người mở đường cho thể tài du ký và là người đầu tiên

cung cấp những tri thức mang tính lý luận về các thể loại văn học mới như

tiểu thuyết, thơ, kịch, góp phần hình thành và phát triển các thể loại này.

Kế thừa quan niệm “Văn dĩ tải đạo” của văn học truyền thống

trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của văn học phương Tây, Phạm

Quỳnh đặc biệt coi trong nội dung tư tưởng của văn học, với sự nhấn

mạnh chức năng giáo dục của nó. Nhưng mặt khác ông cũng tha thiết kêu

gọi sự phá vỡ những khuôn mẫu, qui phạm cứng nhắc của văn học cổ

88

truyền; đổi mới, cách tân về hình thức nghệ thuật.

Tuy nhiên, với tình hình văn hóa, văn học Việt Nam trong giai đoạn

đầu thế kỷ XX, như đã phân tích ở trên, gạt qua những hạn chế tất yếu

về tư tưởng, cái công của Phạm Quỳnh đối với văn hóa, văn học nước

nhà là rất lớn, cần phải được ghi nhận một cách công bằng và xứng đáng.

Vấn đề về Phạm Quỳnh là một vấn đề phức tạp. Tiềm năng nghiên

cứu vẫn còn rất phong phú. Những gì mà luận văn chúng tôi thực hiện

chỉ là kết quả khiêm tốn bước đầu. Bởi cho dù với tham vọng muốn tìm

hiểu một cách đầy đủ hơn, nhưng do nhiều nguyên nhân, bước đầu

chúng tôi chỉ có thể tiến hành nghiên cứu một vài khía cạnh nhỏ trong

sự nghiệp đồ sộ của bậc trí giả này. Mong rằng kết quả nghiên cứu của

luận văn, về mặt khoa học, ít nhiều cũng góp một tiếng vào nỗ lực chung

nghiên cứu về hiện tượng Phạm Quỳnh - một trong những con người đặc

biệt trong bối cảnh của lịch sử văn hóa, văn học Việt Nam giai đoạn giao

89

thời nửa đầu thế kỷ XX.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tác phẩm của Phạm Quỳnh và báo Nam Phong.

1. Phạm Quỳnh (2003), Luận giải văn học và triết học, Nxb. Văn hóa

thông tin và Trung tâm văn hóa Đông Tây, Hà Nội.

2. Phạm Quỳnh (2004), Pháp du hành trình nhật ký, Nxb. Hội nhà

văn, Hà Nội.

3. Phạm Quỳnh (2006), Thượng Chi văn tập, Nxb. Văn học, Hà Nội.

4. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời

gian từ

năm 1922 đến năm 1933, Nxb. Tri thức và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ

Đông Tây, Hà Nội.

5. Tạp chí Nam Phong.

B. Tài liệu nghiên cứu về Phạm Quỳnh và báo Nam Phong.

6. Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long (2005), “Báo chí và văn

chương qua một trường hợp: Nam Phong tạp chí”, Tạp chí Nghiên cứu văn

học (Số2).

7. Nguyễn Đình Chú (2007), “Thượng Chi bàn về tiểu thuyết trên tạp

chí Nam Phong”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 4).

8. Dương Quảng Hàm, (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ quốc

gia giáo dục tái bản 1956, Nxb. Trung Việt, Sài Gòn.

9. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá

(2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.

10. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ

XX, (bản in lần thứ ba), Hà Nội.

11. Maurice Durant và Nguyễn Trần Huân (1969), Văn học Việt Nam dẫn

luận (Introduction à la litératureVietnamienne), Maison neulve et la

rose, Paris.

90

12. Nguyên Ngọc (2008), “Sự công bằng lịch sử được trả lại”, Bằng

đôi chân trần, Nxb.

.1. Trần Ngọc Vương (1998). Văn học Việt Nam dòng riêng giữa

A. Các tài liệu khác .

nguồn chung. NXB Giáo dục, Hà Nội.

2. Trần Ngọc Vương (2001). Lí luận phê bình văn học miền Trung

thế kỉ XX (viết chung). Nxb Đà Nẵng.

3. Trần Ngọc Vương (2006) Tuyển tập Trần Đình H­ượu (2 tập,

viết tựa).

1. Aristote (2007), Nghệ thuật thi ca, Nxb. Lao động.

2. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư

tuyển chọn, dịch), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà nội.

3. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học – Lý luận và ứng

dụng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học,

Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Đại học khoa học xã hội và nhân văn (2004), Giáo trình mỹ học đại

cương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học –

Vấn đề và suy nghĩ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

7. Hégel (2005), Mỹ học, Nxb. Văn học, Hà Nội.

8. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

13. 37. Đỗ Quang Hưng (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 –

1945, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.

14. 38. Denis huisman (2004), Mỹ học, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

15. 39. Immanuel Kant (2007), Phê phán năng lực phán đoán, Nxb. Tri

thức, Hà Nội.

16. 40. Mã Giang Lân (2005), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt

Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

91

17. 41. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

18. 42. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển phương Đông

(Tuyển tập, tập 1), Nxb.

19. Giáo dục, Hà Nội.

20. 43. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học hiện đại phương Tây,

21. (Tuyển tập, tập 2), Nxb.

Giáo dục, Hà Nội.

22. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb

Đại học sư phạm, Hà Nội.

23. Phương Lựu, Trần Đình Sử (2008), Giáo trình Lý luận văn học

(tập 2), Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.

24. M. F. Ốp-xi-an-nhi-cốp (2001), Mỹ học cơ bản và nâng cao, Nxb.

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

25. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Điểm tựa phê bình văn học, Nxb Lao

động, Hà Nội.

26. Viện văn học Việt Nam (2002). Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ

92

XX. Chính trị quốc gia, Hà Nội.