ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
Bùi Hoàng Yến
KHẢO SÁT SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC PHÁP TRÊN
NAM PHONG TẠP CHÍ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam
Hà Nội-2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******
Bùi Hoàng Yến
KHẢO SÁT SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC PHÁP TRÊN
NAM PHONG TẠP CHÍ
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn Học Việt Nam
Mã số: 60 22 30
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Trần Ngọc Vƣơng
Hà Nội-2015
Lời Tri ân
Luận văn này là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu suốt ba năm
trong chương trình đào tạo Thạc sĩ, dưới tay truyền dạy, hướng dẫn nhiệt
tình, nghiêm túc và khoa học của tập thể thầy cô là các Giáo sư, Phó giáo
sư, Tiến sỹ đáng kính của trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn Hà
Nội. Vì thế, trước tiên tôi xin kính gửi đến quý thầy cô lời tri ân sâu sắc về
những tri thức và tình cảm mà các thầy cô đã dành cho tôi trong thời gian
qua!
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến người thầy - Giáo sư –
Tiến sỹ Trần Ngọc Vương, một nhà giáo mẫu mực trong nhân cách, tận
tâm trong giảng dạy và nghiêm túc, khách quan trong khoa học, người đã
tận tình hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này!
Nhân đây, tôi cũng xin gửi đến gia đình, bạn bè và những đồng
nghiệp thân thiết của tôi – những người đã động viên, giúp đỡ, tạo mọi
điều kiện tốt nhất cho tôi, trong thời gian học tập và thực hiện công trình
khoa học đầu tiên của mình – lời cảm ơn chân thành, thắm thiết!
Hà Nội ngày 09 tháng 02 năm 2015
Bùi Hoàng Yến
MỤC LỤC
A - MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọ đề tài. ................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu – Ý nghĩa thực tiễn của luận văn. .................. 4
2.1. Mục đích nghiên cứu: ....................................................................... 4
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn. ....................................................... 5
3. Lịch sử vấn đề. ...................................................................................... 6
3.1. Trƣớc cách mạng tháng tám. ........................................................... 6
3.2. Sau cách mạng tháng Tám. .............................................................. 7
3.3. Từ năm 1975 đến nay. ...................................................................... 9
4. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu. ........................................ 10
B. NỘI DUNG ............................................................................................ 12
1. Chương 1. Nam Phong tạp chí với những bƣớc thăng trầm của lịch
sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. ............................................................. 12
1.1. Thực dân Pháp – Sự chuyển đổi chính sách xâm lƣợc. ............... 12
1.2. Sự thay đổi của đội ngũ trí thức Việt Nam khi thực dân Pháp
xâm lƣợc. ................................................................................................. 13
1.3. Công cuộc đổi thay chuyển mình của nền văn học. ..................... 15
Chƣơng II. NAM PHONG TẠP CHÍ CÙNG VỚI SỰ TIẾP NHẬN
VĂN HỌC PHƢƠNG TÂY ...................................................................... 26
2.1. Nam Phong ra đời và tiến triển. ..................................................... 26
2.1.1. Bối cảnh báo chí Việt Nam trƣớc khi Nam Phong tạp chí ra đời. ... 26
2.1.2. Nam Phong tạp chí. ...................................................................... 32
2.2. Quá trình phát triển của Văn học Việt Nam qua sự tiếp nhận văn
học Pháp. ................................................................................................. 35
2.2.1. Sự đóng góp các tác phẩm, công trình dịch thuật của các diễn
giả tiêu biểu trên Nam Phong. .............................................................. 35
2.2.2. Văn học có những thay đổi mới. ................................................. 41
CHƢƠNG 3. CÁC TÁC GIẢ ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC TRUYỀN BÁ
VĂN HÓA, VĂN HỌC PHÁP – CHÂU ÂU TRÊN NAM PHONG. ... 68
3.1. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Phạm Quỳnh (1892 - 1945). ................ 68
3.2. Các tác giả đóng góp trên Nam Phong. ......................................... 74
3.2.1. Nguyễn Bá Trác (1881 – 1845) – Lối văn „ám chỉ” và “hàm
súc”. ......................................................................................................... 75
3.2.2. Nguyễn Hữu Tiến (1875 – 1941) – Nhà biên khảo, dịch thuật tài
năng. ........................................................................................................ 77
3.2.3. Nguyễn Trọng Thuật (1993 – 1940). ........................................... 81
3.2.4. Nguyễn Bá Học (1858 – 1921). ..................................................... 82
KẾT LUẬN ................................................................................................ 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 90
A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọ đề tài.
Văn hóa Việt Nam nói chung và Văn học học Việt Nam nói riêng,
trong tiến trình lịch sử của mình đã có những cuộc tiếp xúc, ảnh hưởng lớn,
hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với văn hóa, văn học nước ngoài. Trong quá
trình tiếp xúc ấy, văn hóa - văn học Việt Nam đã tiếp nhận, chắt lọc tinh
hoa của nhân loại để tự làm phong phú bản sắc văn hóa riêng của dân tộc.
Để diễn tả những cuộc gặp gỡ kỳ lạ mà cũng hứng thú giữa các nền
văn hóa khác nhau, ở nhiều nước trên thế giới, các học giả thường sử dụng
khái niệm acculturation. Trong tiếng Việt, có người dịch thuật ngữ đó là
thụ ứng, hấp thụ, gần đây hơn thấy một số khái niệm hỗn dung, tiếp biến,
đan xen, giao thoa..v.v…Tuy nhiên thì trong Bách khoa toàn thư Mỹ định
nghĩa acculturation “là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn
hóa khác nhau, gây nên sự biến đổi trong dạng thức hóa ban đầu của một
hay cả hai bên” (Dẫn theo Hà Văn Tấn, tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật 4 -
1981). Đối chiếu với một định nghĩa nghiêm chỉnh như thế, người ta thấy
cuộc tiếp xúc giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa phương Tây, trước tiên
là văn hóa Pháp trong một vài thế kỷ gần đây, nhất là cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, đáng được coi là một hành động acculturation điển hình. Trong
phạm vi luận văn này, sở dĩ không dùng những giao thoa, đan xen, mà chỉ
dùng một chữ khá phổ biến là chữ tiếp nhận. Bởi lẽ, rõ ràng là trong quá
trình tiếp xúc mà chúng ta đang quan sát, sự biến đổi chủ yếu xảy ra ở một
bên (phía Việt Nam), hơn là cả hai bên (cả phía Pháp). Hơn thế nữa, phải
nhìn nhận đó là một sự biến đổi quá lớn, biến đổi hẳn trong dạng thức. Sau
khi tiếp xúc, văn hóa Việt Nam như nhào nặn lại, làm lại hoàn toàn, điều
đó là đương nhiên, theo các nhà lịch sử văn hóa thì hòa nhập vừa là đặc
trưng, là tính nội tại, vừa là điều kiện sống còn của văn hóa. Lịch sử của
mỗi nền văn hóa không chỉ là sự phát triển tự thân của nó, mà còn là lịch
1
sử của mối quan hệ giữa nó với các nền văn hóa khác. Riêng ở Việt Nam
lịch sử đã hai lần biết tới một sự cấy ghép văn hóa ngoại lai như vậy,
nhưng cả hai lần văn hóa Việt Nam đều không mất đi, không bị đồng hóa,
trong khi cải biến vẫn giữ được sắc thái riêng của mình.
Từ cuộc tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, chúng ta vẫn có những thời
kỳ phát triển độc đáo, như văn hóa Lý – Trần, văn hóa cuối Lê đầu
Nguyễn, bằng chứng cho thấy sau khi làm một cuộc thay máu hoàn toàn
dưới ảnh hưởng của văn hóa, văn học Pháp, nền văn chương Việt Nam nửa
đầu thế kỷ có được những đứa con bụ bẫm như nền tiểu thuyết hiện đại,
phong trào thơ mới.v.v..Quả thật là những bước đầu Âu hóa đã xảy ra với
muôn vàn lúng túng, và những điều ấy cũng đúng với công cuộc biến đổi
trong văn hóa tinh thần, sự biến đổi xảy ra gián tiếp chậm chạp, có khi
người này cấy trồng, người kia gặt hái.
Nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, chúng tôi nhận ra
một điều, bất kỳ cuốn sách nào, bài viết nào khi đề cập đến văn học giai
đoạn này đều nói đến Nam Phong tạp chí, có những bài nghiên cứu đã
khẳng định vai trò của Nam Phong trong quá trình phát triển của nền văn
học mới. Và cũng theo sự tìm hiểu của chúng tôi, Phạm Quỳnh và một số
tác giả tân tiến khác được coi là những nhân vật tiêu biểu của quá trình tiếp
nhận văn hóa vừa nói ở trên, ít ra là ở giai đoạn đầu của sự tiếp nhận ấy.
Người ta chỉ nghĩ đến Phạm Quỳnh như một trong những người có cơ sở
Tây học vững chắc, song sự thực trong cái môi trường văn hóa Hán Việt
rộng lớn lúc ấy. Hán học đã thấm vào ông, cả hai nền văn hoa Đông – Tây
kết hợp ở ông khá nhuần nhị. Tiếp nối sự nghiệp của những Trương Vĩnh
Ký, Huỳnh Tịnh Của, những thành tựu của giai đoạn văn hóa tiền chiến, là
khá rực rỡ, được gợi mở từ nhiều năm trước khi những người như Nguyễn
Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Tản Đà...đều xây nền đắp móng cho nền văn học
mới. Tuy có nhiều ý kiến không tích cực đối với Phạm Quỳnh, nhưng khi
2
lần giở lại Nam Phong, chúng tôi yên tâm khi tìm hiểu những đóng góp
của Phạm Quỳnh trong sự tiếp nhận văn hóa phương Tây và góp phần hình
thành nền văn hóa, văn học mới của dân tộc trong thời hiện đại.
Chúng tôi chọn Nam Phong tạp chí nhưng không phải bàn mọi điều
về Nam Phong mà chỉ chọn một đối tượng nghiên cứu chuyên ngành hẹp,
là khảo sự tiếp nhận của văn học Pháp trên tạp chí. Xét trong lịch sử báo
chí thì Nam Phong không phải là tờ tạp chí ra đời đầu tiên, nhưng nó lại có
vai trò nhiều mặt trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam trong vài
chục năm đầu thế kỷ XX. Xét về qui mô, dung lượng, mức độ sâu rộng
của kiến thức phản ánh thì không có tạp chí nào đầu thế kỷ XX có thể so
sánh với nó. Tuy lượng thông tin và qui mô rộng vậy nhưng Nam Phong
vẫn dành phần trang trọng nhất, lưu ý nhất cho văn học như : Du kí, du
hành, tiểu thuyết, tản văn, truyện ngắn, thơ ca, lý luận phê bình.v.v.Với
lịch sử văn học Việt Nam giao thời, dù muốn dù không Nam Phong đã để
lại những dấu ấn đáng kể . Trong Nam Phong số 1, năm 1917, Phạm
Quỳnh đã nói đến chủ trương văn hóa của ông “Cái mục đích của bản báo
là muốn gây lấy một nền văn học mới để thay vào cái nho học cũ, cùng đề
xướng lên một cái tư trào mới hợp với thời thế cùng trình độ dân ta. Cái
tính cách của sự học vấn mới cùng cái trào mới ấy là tổ thuật cái học vấn
tư tưởng của Thái Tây, nhất là của nước đại Pháp, mà không quên cái
quốc túy trong nước”. Trong bài viết “Bới tìm kho tư liệu của báo Nam
Phong” của Nhân Nghĩa viết năm 1941 đã từng thừa nhận “Trong suốt 18
năm trời, từ 1917 đến 1934, với 210 tập báo dày dặn đã chứng minh điều
Thiếu Sơn đã nói về báo Nam Phong “Có nhiều người không biết đọc văn
Tây, văn Tàu, chỉ nhờ Nam Phong vun đúc cũng có được cái tri thức phổ
thông tạm đủ sinh hoạt ở đời”. Trong hơn 17 năm, Nam Phong đã giới
thiệu 49 truyện và chùm truyện ngắn dịch từ nước ngoài, trong đó có 25
truyện và chùm truyện ngắn Trung Hoa và 24 truyện ngắn phương Tây,
trong đó có 22 truyện ngắn của Pháp. Truyện ngắn nước ngoài trên tạp chí
3
Nam Phong, có đóng góp nhất định trong việc giới thiệu văn học phương
Tây, văn học Trung Quốc và rèn luyện câu văn Quốc ngữ ở buổi đầu hình
thành nền văn học mới. Nam Phong thực sự trở thành vườn ươm cho quá
trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà. Ý thức được vai trò to lớn của
Nam Phong, càng thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài “ Khảo sát sự tiếp
nhận văn học Pháp trên Nam Phong tạp chí” làm đối tượng nghiên cứu
khoa học để thực hiện luận văn.
2. Mục đích nghiên cứu – Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Năm 1975, sau cuộc đại thắng mùa Xuân, dân tộc Việt Nam, cách
mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VI – 1986 nêu vấn đề đổi mới toàn diện đất nước, đưa đất nước
nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới. Trong không khí ấy, các
nhà nghiên cứu được khích lệ nhìn vào sự thật để đánh giá đúng chân giá
trị của các vấn đề thực tiễn phức tạp, tư duy và hành động theo quy luật
của khách quan. Trên tinh thần đổi mới ấy, văn học Việt Nam đầu thế kỷ
XX đã được nghiên cứu, nhìn nhận và đánh giá một cách thỏa đáng. Và
cũng xuất phát từ tinh thần ấy mà Nam Phong tạp chí cũng được các nhà
nghiên cứu quan tâm mặc dù xưa nay tạp chí này được coi là công cụ của
thực dân Pháp nhằm tuyên truyền phục vụ cho cuộc xâm lăng của chúng,
Phạm Quỳnh chủ nhiệm tờ báo được gọi là “bồi bút tay sai” và Nam Phong
tạp chí là tờ báo “nô dịch”.
Mặc dù vậy khi tìm hiểu chúng tôi vẫn nhận thấy trong việc đánh giá
về Nam Phong tạp chí cả trước và sau Cách mạng tháng Tám, các nhà
nghiên cứu vẫn có những điểm gặp gỡ nhau: “Trong lịch sử văn học hiện
đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong. Vì nếu ai
đọc toàn bộ tạp chí này cũng phải thừa nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho
người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ bách khoa toàn thư
bằng quốc văn”[31-119]. Sau này Lại Văn Hùng trong cuốn Truyện ngắn
4
Nam Phong (tuyển) có nhận xét: “Nam Phong tạp chí là một tờ báo tuy do
Pháp chủ trương nhưng về khách quan vẫn có những đóng góp đáng ghi
nhận vào sự chuyển hướng của văn hóa, văn học Việt Nam trong ba mươi
năm đầu thế kỷ”. Và hiện nay, các nhận định của các nhà nghiên cứu đều
nhất trí với nhận xét trên.
Viết luận văn này, mục đích của chúng tôi là muốn khảo một cách
khách quan về vai trò của trí thức Việt Nam trong quá trình tiếp nhận văn
hóa phương Tây đầu thế kỷ XX. Cụ thể là các tác phẩm, học giả đăng tải
trên Nam Phong tạp chí trong 17 năm tồn tại. Tạp chí đã xây dựng được
một đội ngũ sáng tác văn học mới cho thế hệ 1913 – 1932 và cả thế hệ sau,
mở ra một giai đoạn mới cho văn học, tạo đà cho văn học thời kỳ sau đổi
mới phát triển đạt nhiều thành tựu giá trị.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Xem xét và đánh giá Nam Phong tạp chí trong tiến trình phát triển,
đổi mới văn học đầu thế kỷ XX, cần phải đặt nó trong tiến trình phát triển
báo chí giai đoạn này chúng ta mới thấy được sự đóng góp của Nam Phong
cho văn học Việt Nam.
Các tài liệu nghiên cứu cho thấy, Nam Phong so với các tạp chí mang
tính văn học cùng thời thì có “văn hoạt động học” nổi bật hơn cả, chính vì
vậy tạp chí đã trở thành tư liệu không thể thiếu khi tìm hiểu và nghiên cứu
văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX.
Mặc dù chỉ quan tâm đến phương diện học thuật và văn học trên Nam
Phong tạp chí, song chúng tôi cũng cố gắng ý thức một cách thật rành
mạch về tính chất hai mặt của tạp chí. Mục đích chính của Nam Phong tạp
chí là phục vụ cho âm ưu xâm lược bằng văn hóa, văn học của thực dân
Pháp, muốn “Pháp hóa” tinh thần người Việt Nam để dễ bề cai trị trong
tình trạng cuộc “chiến tranh võ trang” đã hoàn thành. Thực tế cho thấy rất
nhiều nhà nghiên cứu ở các thời điểm khác nhau đã chỉ ra, Nam Phong
thực tế có tác động hai mặt. Chính sách xâm lược văn hóa không thể như
5
súng đạn, bắn là trúng đích, hoặc đạn nổ là mục tiêu gục ngã, bởi vậy mặt
thứ hai như C.Marx nói “Công cụ lịch sử không tự giác” của Nam Phong
biến nó thành tạp chí vừa phục vụ cho chủ nghĩa thực dân vừa muốn
“tranh thủ”, “lèo lái” ngòi bút hướng tới một thứ “chủ nghĩa yêu nước xấu
hổ” và “vụng trộm”. Chính chức năng thứ hai này đã tạo ra những sản
phẩm giá trị cho giai đoạn văn học đầu thế kỷ. Tuy vậy đóng góp này chỉ
được xem xét trên tinh thần “phát sinh” của “công cụ lịch sử” chứ không
hoàn toàn thuộc về chủ đích của Nam Phong tạp chí.
3. Lịch sử vấn đề.
3.1. Trƣớc cách mạng tháng tám.
Trong cuốn “Phê bình và cảo luận” ra đời năm 1933, Thiếu Sơn nhận
xét: “Có nhiều người, không được biết văn Tây, văn Tàu nhờ Nam Phong
mà cũng có được các tri thức phổ thông tạm đủ cho sinh hoạt ở đời, có
nhiều ông đồ Nho chỉ coi Nam Phong mà cũng biết được đại khái văn
chương học thuật của Tây phương, có nhiều ông đồ Tây coi Nam Phong
mà cũng hiểu đôi cái tinh thần văn hóa Á Đông”. Trong cuốn “Việt Nam
văn hóa sử cương” (1938) đánh giá về Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh viết:
“Về phương diện văn học thì Nam Phong tạp chí theo một tôn chỉ với Đông
Dương tạp chí, dùng Việt ngữ để truyền đạt học thuật cổ kim và du nhập tư
tưởng Đông Tây, chứng rằng Việt ngữ không những chỉ thích dụng về các
lối văn chương suông mà có thể dùng viết văn về sử học, triết học và khoa
học nữa”. Trong cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân
(1942) trong phần mở đầu Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh viết:
“Những tư tưởng phương Tây đầy rẫy trên Đông Dương tạp chí, trên Nam
Phong tạp chí, và từ hai cơ quan ấy thấm dần vào các hạng người có
học…Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn
với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng
Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ
6
cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng…Chưa
bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam
Phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”[4-52].
Trong các nghiên cứu viết về Nam Phong thời kỳ này, có lẽ cuốn Nhà
văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan giành nhiều tâm lực và thời gian
nhất. Trong hai tập sách với tổng số 1179 trang giới thiệu 79 nhà văn tiêu
biểu tham gia sáng tác từ cuối thế kỷ XIX đến đầu những năm 1940 của
thế kỷ XX bằng chữ quốc ngữ có 7 tác giả của Nam Phong tạp chí : Phạm
Quỳnh (Thượng Chi); Nguyễn Bá Học; Nguyễn Hữu Tiến (Đông Châu);
Nguyễn Trọng Thuật (Đồ Nam Tử); Lâm Tấn Phác (Đông Hồ); Tương Phố
(Đỗ Thị Đàm); Phạm Duy Tốn với 101 trang sách. Vũ Ngọc Phan coi tạp
chí Nam Phong là “bách khoa toàn thư” và các nhà văn trên tạp chí thuộc
“các nhà văn lớp đầu” thời kỳ mới có chữ quốc ngữ.
Trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm cũng đã có
cảm nhận khá sắc sảo về các bước chuyển biến của văn học Việt Nam từ
trung đại chuyển sang hiện đại cũng như vai trò của Nam Phong, ông đã
giới thiệu các phần mà tạp chí trình bày và đánh giá “Đã có công dịch
thuật các học thuyết của Thái Tây và luyện cho tiếng Nam có thể đạt được
các ý tưởng mới”
3.2. Sau cách mạng tháng Tám.
Năm 1949, trong cuốn Việt Nam văn học sử (trích yếu), tác giả
Nghiêm Toản đã đánh giá cao công lao của Nam Phong tạp chí và Đông
Dương tạp chí trong việc chuẩn hóa chữ quốc ngữ, đưa việc sử dụng chữ
quốc ngữ vào các lĩnh vực khoa học, văn học, triết học.v.v.v.
… “Ảnh hưởng của Nam Phong rất lớn, không những gâp dựng cho
tiếng ta cho đủ chữ phô bày hết mọi tính tình, ý niệm lại phổ thông hóa
những điểu đại cương thiết yếu trong các học thuật Đông, Tây, mới, cũ và
những điểm chính trong văn hóa cổ học như nghi lễ, phong tục, văn
7
chương…” [35-247].
Tử khoảng 1954 – 1975 các học giả, nhà nghiên cứu văn học, cả hai
miền Nam Bắc đều có những công trình nghiên cứu về Nam Phong tạp chí:
Ở miền Nam có Thanh Lãng với cuốn: Biểu nhất lãm văn học cận đại
(1682 – 1945) tập I (1958); Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1976). Ở cả
hai cuốn sách này, Thanh Lãng đã đánh giá khá cao Nam Phong tạp chí
trong tiến tình văn học Việt Nam. Nếu ở cuốn thứ nhất ông đánh giá chung
về Phạm Quỳnh “là một tập sự của thế hệ văn học 1862 – 1913 để biến
thành một tay chỉ đạo trong thế hệ văn học 1913 – 1930 rồi biến ra một
bóng bù nhìn trong thế hệ văn học 1930 – 1945” thì ở cuốn thứ hai ông đã
giới thiệu khá tỉ mỉ đến từng tiểu loại văn học cùng một số bỉnh bút của tạp
chí.
Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ (1961)
đã nêu vấn đề bước đầu của văn quốc ngữ. Ông đánh giá Nam Phong tạp
chí và Đông Dương tạp chí mặc dù còn vướng nhiều về quá khứ song cũng
đã có cố gắng trong việc dung hòa Âu Á.
Nguyễn Văn Trung trong một chuyên luận giành riêng cho đề tài này
là cuốn Chủ đích Nam Phong (1975) đã nêu vấn đề Nam Phong tạp chí cả
về văn học và chính trị, ông đã tố cáo tính chất lừa bịp và mê hoặc của các
chính sách thực dân qua Nam Phong – một công sụ tuyên truyền của thực
dân; Về văn học ông cũng khách quan đánh giá một số đóng góp của tạp
chí này. Ngoài ra còn một số cuốn như: Mục lục phân tích Nam Phong
1917 – 1934 của Nguyễn Khắc Xuyên (1986) đã cung cấp danh mục các
bài viết trên Nam Phong trong suốt 17 năm, chia hai phần mục lục chuyên
ngành và mục lục tên tác giả. Cuốn Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy
đến 1945 của Huỳnh Văn Tòng (tái bản 1992) giành khá nhiều trang giới
thiệu Nam Phong tạp chí nêu các vấn đề về chính trị và văn học, cả phê
phán Nam Phong và nêu những đóng góp của tạp chí.
Ở miền Bắc giai đoạn 1945 – 1975 có một số công trình nghiên cứu
8
có đề cập trực tiếp tới Nam Phong tạp chí tiêu biểu như: Đại cương về văn
học sử Việt Nam của Nguyễn Khánh Toàn (1954); Sơ thảo lịch sử văn học
của nhóm Văn sử địa (gồm các tác giả Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng chi,
Hồng Phong, Văn Tân), Nhà xuất bản Văn – Sử - Địa, 1957; Lược thảo
lịch sử văn học của nhóm Lê Quý Đôn biên soạn, Nhà xuất bản xây dựng
1957; Giáo trình văn học Việt Nam của trường Đại học sư phạm Hà Nội
(1963). Nhìn chung các công trình nghiên cứu này đều có chung quan
điểm: “Phạm Quỳnh là tên tay sai đắc lực của đế quốc Pháp trên lãnh vực
văn học, một tên Việt gian lợi hại chống cách mạng” [41 – 137]; “Đông
Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí tuyệt nhiên không có công lao gì đối
với văn học dân tộc cả” [49 – 109].
3.3. Từ năm 1975 đến nay.
Các công trình nghiên cứu về Nam Phong tạp chí có hai xu hướng:
Xu hướng thứ nhất thể hiện qua các cuốn giáo trình văn học Việt Nam
được in lại hoặc mới in trong đó các tác giả vẫn giữ quan điểm đánh giá
Nam Phong tạp chí về phương diện chính trị là tạp chí “tay sai bồi bút liêm
sỉ…” hoặc coi việc “xây đắp nền quốc văn” như là thực hiện “chủ nghĩa ái
quốc bằng quốc ngữ”.
Xu hướng thứ hai đó là một số đánh giá có xu hướng đổi mới như tác
giả Nguyễn Lộc cho rằng “Phạm Quỳnh là người đã kiên trì đề ra việc sử
dụng chữ quốc ngữ và làm phong phú nó…Ông cũng là người kiên trì góp
phần xây dựng nền văn học dân tộc, thúc đẩy nó phát triển theo chiều
hướng hiện đại của thế giới” [46 – 193].
Giáo sư Nguyễn Đình Chú trong công trình: “Tác giả Việt Nam” tập I,
Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1990 cũng có những đánh giá khách quan
hơn về Nam Phong tạp chí: “…Nói cho công bằng thì “văn nghiệp” của
Phạm Quỳnh, ngoài phần độc tố gây hại ra, không phải không có những
điều có tác dụng khách quan đáng kể, góp phần vào công cuộc hiện đại
9
hóa văn hóa, văn học Việt Nam trong thời cận đại này” [5-173].
Tìm hiểu về Nam Phong tạp chí có nghiên cứu của con gái Thượng
chi Phạm Quỳnh là bà Phạm Thị Ngoạn (1993), Nguyên tác Pháp văn đã
đăng trong tập kỷ yếu đệ nhị và đệ tam cá nguyệt 1973 của Hội nghiên cứu
các vấn đề Đông Dương. Công trình này nhằm giới thiệu bảng mục lịch
phân tích của tạp chí Nam Phong và mô tả một vài nét chính diện mạo của
những nhân vật đã từng tích cực góp phần vào nếp sống của tạp chí, xét về
mọi phương diện xã hội , chính trị hay văn chương. Đồng thời xác định vai
trò của Nam Phong từ năm 1917 đến 1934, và giải thích tại sao Nam
Phong có thể coi như biểu hiện cho một thời đại trong lịch sử Việt Nam.
Qua sơ lược trình bày các công trình nghiên cứu văn học bàn về Nam
Phong tạp chí, chúng tôi nhận thấy, các vấn đề nêu trong các công trình tuy
ở mức độ nông, sâu, rộng hẹp khác nhau, tinh thần khen ngợi hoặc phê
phán hoặc chống Nam Phong tạp chí thì vẫn có một thực tế không thể phủ
nhận đó là:
Người ta không thể nghi ngờ rằng Nam Phong đã đánh dấu một thời
đại, cũng như nó đã hoàn tất một sứ mệnh thuần túy đối với lịch sử ngôn
ngữ của dân tộc. Trong những lĩnh vực khác, Nam Phong đã lưu lại những
nét chính yếu về nếp sinh hoạt phức tạp, nếp sống dồi dào về văn chương
thời kỳ đó.
4. Quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu.
Vận dụng quy luật khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhìn nhận đánh giá sự vật, sự việc con người
theo quá trình phát triển và phủ định đồng thời kết hợp với quan điểm lịch
sử đó là các nguyên tắc mà chúng tôi thực hiện khi tìm hiểu và khảo sát
Nam phong tạp chí, một tờ báo xưa nay được coi là phức tạp.
Quan điểm của chúng tôi là: Khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp
trên Nam Phong tạp chí, nhằm chỉ ra cụ thể đóng góp quan trọng của nó
10
đối với tiến trình phát triển văn học mới. Tìm hiểu thêm về quan hệ giao
lưu Đông - Tây, về vai trò của tri thức Việt Nam trong quá trình tiếp nhận
văn hóa, văn học phương Tây đầu thế kỷ XX.
Khảo sát sự tiếp nhận văn học Pháp trên Nam Phong, chúng tôi xác
định tính chất của luận văn là nghiên cứu văn học sử. Vì là vấn đề nghiên
cứu văn học sử nên trong quá trình nghiên cứu chúng tôi buộc phải tìm
hiểu các yếu tố liên quan đến tạp chí như: Bối cảnh lịch sử xã hội, văn hóa,
tinh thần, tư tưởng, ảnh hưởng của lịch sử, chính trị đến quá trình phát
triển của văn học nước nhà trên Nam Phong tạp chí.
Để làm tốt công việc trên chúng tôi sử dụng các phương pháp: So
sánh, phân tích tổng hợp, phương pháp liên ngành. Đây là những phương
pháp tích cực giúp chúng tôi khảo sát và đánh giá toàn bộ sự tiếp nhận văn
học phương Tây cụ thể là văn học Pháp đối với văn học nước nhà và làm
11
nổi bật cũng như thành tựu bước đầu đổi mới của nó.
B. NỘI DUNG
1. Chương 1
Nam Phong tạp chí với những bƣớc thăng trầm của lịch sử Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.
1.1. Thực dân Pháp – Sự chuyển đổi chính sách xâm lƣợc.
Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp trong cuộc xâm lược
Việt Nam đã biến đất nước Việt Nam từ một dân tộc thuộc vùng Đông
Nam Á trở thành một bộ phận của thế giới trong tình thế hoàn toàn mất
quyền tự chủ. Bằng kinh nghiệm đi xâm lược các nước thuộc địa ở châu
Phi, thực dân Pháp đem kinh nghiệm ấy để đồng hóa dân tộc Việt Nam
(bằng mọi hình thức) nhằm cắt đứt mọi quan hệ của người Việt Nam với
truyền thống quá khứ, để họ quên đi nỗi nhục vong quốc nô, an phận với
cuộc sống hiện tại. Chính sách “đồng hóa” về văn hóa của Pháp ở Việt
Nam đã không thực hiện được như đối với nhiều nước thuộc địa ở châu
Phi.
Đầu thế kỷ XX, bạo lực quân sự của thực dân Pháp ở Việt Nam đã
hoàn thành nhiệm vụ, người Việt Nam đã bị đánh bại. Nhưng tuy bị đánh
bại song Việt Nam là một dân tộc không cam chịu. Có vô số biểu hiện bức
xúc trong đời sống tinh thần. Vũ khí theo nghĩa đen đã bị tước bỏ, kể cả
việc thực dân Pháp cho sục sạo để thu nhặt hết các đồ dùng bằng sắt có khả
năng giúp vào việc tái tạo vũ khí. Nhưng còn phải tiến hành một cuộc
chinh phục tinh thần: phải thống trị về văn hóa. Ở cấp độ này thực dân
Pháp đã tỏ ra không thành công dễ như quân sự. Sự đổ vỡ của tư tưởng
trực trị, đồng hóa buộc Pháp phải hướng tới “chính sách hợp tác”. Nhưng
“hợp tác” có nghĩa là làm sao vẫn phải bảo đảm sự “hướng dẫn”, phục vụ
ý đồ của chủ nghĩa thực dân. Nam Phong tạp chí thay cho Đông Dương tạp
chí đã „lỗi thời”. Với tư cách là công cụ văn hóa thực hiện sách lược “lỗ
thoát hơi cần thiết” của Pháp ở Việt Nam đã trở thành nơi tập hợp các nho
12
sĩ, văn sĩ Việt Nam để ở đó họ hoạt động văn hóa, văn học tùy theo mục
đích, khả năng riêng của từng người. Ngoài chức năng “công cụ xâm lược,
khai hóa” của thực dân Pháp, Nam Phong cũng có chức năng “công cụ
không tự giác” mà chính nó không làm sao kiểm soát được. Từ chức năng
này làm thay đổi bộ mặt văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tạo
một không khí sáng tác văn học theo quan điểm thẩm mỹ và lý luận hiện
đại, phong trào nghiên cứu, khảo cứu, dịch thuật đưa nền văn học dân tộc
từ qui mô vùng hội nhập với văn học thế giới theo xu thế hiện đại, mở ra
“một thời đại mới” cho thi ca, văn học.
1.2. Sự thay đổi của đội ngũ trí thức Việt Nam khi thực dân Pháp
xâm lƣợc.
Chuyển chính sách xâm lược từ “đồng hóa” sang “hợp tác” là cả một
bài toán mà thực dân Pháp đã tính rất chu đáo. “Hợp tác” nhưng làm sao
vẫn phải bảo đảm sự “hướng dẫn” của chính phủ bảo hộ, Đông Dương tạp
chí lúc này đã “lỗi mốt” bởi cách phát ngôn của ông chủ tờ báo quá “hỗn
xược” và Nam Phong tạp chí thay thế cho nó để thực hiện vai trò “hướng
dẫn” tiếp tục. Trước sự thay đổi về chính sách xâm lược của thực dân
Pháp, giới trí thức Việt Nam, sau thất bại của phong trào Cần Vương rồi
của phong trào Duy Tân, phân hóa rất mạnh mẽ và có tâm lí rất phức tạp.
Ngoài số ít các nhà yêu nước giám đối mặt với kẻ thù như Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh còn lại đa phần là giới trí thức không giám “trực diện”
đấu tranh với kẻ thù. Họ chỉ muốn „yêu nước an toàn” bằng hình thức hoạt
động văn hóa để bóng gió gửi gắm tâm sự hoặc gìn giữ những tài sản tinh
thần mà ông cha để lại. Đấu tranh bạo lực là điểu mà phần lớn trí thức đều
không muốn, họ do dự, một mặt muốn giữ gìn sao cho cuộc sống được
bình yên, mặt khác cũng đau đớn trước tình trạng vong quốc nô của dân
tộc, tóm lại họ muốn “yêu nước ôn hòa”. Trong tình trạng chưa xuất hiện
khả năng đấu tranh vũ trang, chưa có lực lượng chính trị mới về chất (phải
sau 1925), nên mọi “ngọn cờ” đều chỉ nhân danh dân tộc nói chung và mức
13
độ phải là “ôn hòa”, “mềm dẻo” (lực lượng của giai cấp tư sản lẫn giai cấp
vô sản đều chưa có sức mạnh đáng kể). Trong tình hình này Nam Phong
tạp chí ra đời thật đúng lúc, nó lại đánh đúng vào tâm trạng phức tạp của
đa số giới trí thức Việt Nam.
Khi các nhà văn sĩ tài danh như Nguyễn Bá Học, Nguyễn Văn Tố,
Phạm Duy Tốn, Nguyễn Tường Tam, Trần Trọng Kim, Tương Phố, Đỗ
Thị Đàm, Đông Hồ Lâm Tấn Phác…đã tập hợp đông đủ nơi Nam Phong
tạp chí cũng là lúc lối sống, lối làm việc, nghiên cứu, học tập của phương
Tây đã du nhập vào Việt Nam làm thay đổi hẳn cách làm việc, cách tư duy,
cách sinh hoạt ở các đô thị lớn. Lối làm việc, nghiên cứu và tư duy Tây Âu
thể hiện rõ nét làm thay đổi hẳn tư duy do dự, ngại triết lý, tránh xa lý luận
của người Việt Nam trước đây. Đặc biệt sự đổi thay tư duy của lớp trí thức
tân học lẫn cựu học được thể hiện rất rõ.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đội ngũ trí thức là lớp nhà
Nho nguyên hợp, đồng nhất hóa tư tưởng từ trên xuống dưới theo một
khuôn mẫu gần như công thức của “nhà Nho hành đạo”, họ chỉ chăm lo rèn
“Tâm, Chí, Đạo”, không có ai có hứng thú đi vào những vấn đề tư tưởng
triết học, thậm chí họ “không có hứng thú tìm hiểu, tiếp nhận”. Trong tình
trạng tư duy lý luận không phát triển, những vấn đề nhận thức, loogic,
phương pháp không được bàn bạc, đội ngũ nhà Nho đa phần hướng thượng
gắn bó với cung đình, số ít gắn bó với làng xã thường bị động, họ không có
sự liên kết mà cô độc, không có sức mạnh xã hội. Từ đặc điểm ý thức hệ trì
trệ ấy làm cho xã hội Việt Nam thời phong kiến không có trí thức chuyên
ngành, không có đội ngũ trí thức về triết học, khoa học, kỹ thuật để cách
tân đổi mới đất nước. Tóm lại lớp trí thức nhà Nho dưới chế độ xã hội
phong kiến bảo thủ đa phần là thụ động, họ không có nhu cầu “tư duy lô
gic”, “tư duy khoa học” khám phá và sáng tạo. Đặc tính này dẫn đến tình
trạng trì trệ, kém phát triển về mọi mặt trong xã hội.
Thực dân Pháp đến xâm lược Việt Nam đã làm thay đổi nếp sinh hoạt
14
nếp suy nghĩ của người Việt Nam theo chiều hướng cả tích cực lẫn tiêu
cực. Việc “hiện đại hóa”, “chuyên nghiệp hóa” đội ngũ trí thức Việt Nam,
sự phân công lao động nội tại của tầng lớp trí thức đã xảy ra, xuất hiện loại
trí thức mà trước đây chưa từng có, như ký giả, văn sĩ chuyên nghiệp, các
nhà khoa học, nhà kỹ thuật, doanh nhân trí thức như Bạch Thái Bưởi,
những nhà tư tưởng cách mạng chuyên nghiệp như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, thậm chí ngay trong nội bộ giới văn nghệ sĩ cũng có sự phân
công khác trước như: nhà văn, nhà thơ, diễn viên, họa sĩ, nhạc sỹ, trước
đây các yếu tố này thường tồn tại trong một người: nhà nho tri thức. Sự
thay đổi này làm cho văn đàn Việt Nam thật phong phú và đa dạng về đội
ngũ sáng tác, phong cách sáng tác nghiên cứu, dịch thuật, khảo cứu. Lúc
này các văn sĩ nói riêng, giới trí thức nói chung đã tích cực chủ động và có
nhu cầu học hỏi, tìm hiểu kể cả những vấn đề về học thuật tư tưởng, những
vấn đề mang tính lý thuyết. Họ không chỉ quan tâm đến văn học, mà còn
tập trung nghiên cứu triết học, mỹ học, kinh tế học, sử học. Nghĩa là
nghiên cứu theo chuyên ngành và định hướng chuyên nghiệp hóa theo
chiều sâu và đặc biệt quan tâm đến lý luận sáng tác cảm thụ văn học hiện
đại. “phong cách trí thức mới này” cộng với “tâm lý phức tạp” trên kia đều
được Nam Phong tạp chí đáp ứng ở mức độ tương đối nhất, họ có thể
“bằng lòng” với Nam Phong tạp chí trong giai đoạn hiện tại này. Sẽ có lúc
cả lực lượng tư sản, cả lực lượng vô sản đều “không bằng lòng” với Nam
Phong tạp chí, nhưng đó là điều xảy ra chủ yếu sau 1930. Trong khoảng
“tranh tối tranh sáng này” Nam Phong tạp chí là nơi các trí thức tạm thời
vừa lòng để “hoạt động văn hóa, văn học” đồng thời cũng là nơi mà những
người sáng lập ra nó tạm thời “tập hợp” đội ngũ trí thức để thực hiện mục
đích “khai thác văn hóa” của mình. Một lớp trí thức như vậy đã tập trung
đông đảo trên Nam Phong tạp chí.
1.3. Công cuộc đổi thay chuyển mình của nền văn học.
Trước khi bị người Pháp xâm lược và đô hộ thì Việt Nam đã là một
15
quốc gia có nền văn học phát triển với bản sắc độc đáo gắn với bề dày
hàng ngàn năm văn hiến của lịch sử dân tộc.
Văn học viết Việt Nam chính thức ra đời từ thế kỷ X cùng với nền
độc lập, tự chủ của dân tộc và từ đó trở thành một bộ phận quan trọng,
không thể thiếu của nền văn hóa dân tộc. Trong tiến trình ngót mười thế
kỷ xây dựng và phát triển, văn học viết Việt Nam, một mặt chủ động
tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố ngoại lai, mặt khác kế thừa
những thành quả của văn hóa, văn học dân gian dân tộc, đã đạt được nhiều
thành tựu rực rỡ, kết tinh trong sáng tác của những tên tuổi lớn như
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu,
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương,…
Tuy đã đạt được những thành tựu lớn về nhiều phương diện, nhưng
cho đến cuối thế kỷ XIX, nhìn chung văn học viết Việt Nam vẫn như một
dòng sông nhỏ hiền hòa, êm trôi giữa đôi bờ của vùng đất văn hóa Trung
đại phương đông, phong kiến, cổ truyền, chở nặng trong mình những hạt
phù sa của tư tưởng văn hóa ấy và vẫn còn quẩn quanh trong vùng châu
thổ già cỗi này mà chưa vươn mình ra biển lớn của văn học thế giới; nó
vẫn nằm trong quĩ đạo của văn hóa – văn học khu vực Đông Á, mà Trung
Hoa là nền văn hóa – văn học hạt nhân. Nói một cách cụ thể, đó vẫn là
một nền văn học chịu ảnh hưởng và sự chi phối sâu sắc của văn học và
văn hóa phương Đông, mà chủ yếu là của Trung Hoa, về nhiều phương
diện:
Tư tưởng học thuật, quan niệm văn học, hệ thống thi pháp, thể loại,
ngôn ngữ, chữ viết,…Chính sự chi phối và ảnh hưởng ấy mà trên đại thể,
văn học Việt Nam thời Trung đại có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Về phương diện nội dung tư tưởng, văn học Trung đại Việt Nam
chịu ảnh hưởng sâu sắc các hệ tư tưởng Phật giáo, Lão giáo, và đặc biệt là
Nho giáo.
Yêu nước trong văn học Trung đại Việt Nam luôn gắn liền với tư
16
tưởng trung quân, ở những thời đoạn giai cấp phong kiến có vai trò tích
cực xứng đáng đại diện cho bản lĩnh và quyền lợi dân tộc đã đành, đến khi
chế độ phong kiến suy thoái, giai cấp phong kiến đã trắng trợn bộc lộ sự
phản động, quay lưng lại với dân tộc, thì trong sáng tác của các nhà nho,
tư tưởng ấy vẫn ngự trị, dù cho các tác giả có giả tưởng chuyển hướng
lý tưởng vào một vị minh quân nào đi chăng nữa. Thế kỷ XV, Nguyễn
Trãi khăng khăng giữ tấm lòng “Trung lẫn hiếu, mài chẳng khuyết
nhuộm chẳng đen”. Đến cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu vẫn viết
Lục Vân Tiên với tuyên ngôn:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”
(Lục Vân Tiên)
Ngay cả khi triều đình Tự Đức quay lưng lại với dân chúng, nhẫn tâm
bán rẻ Nam Kỳ cho thực dân Pháp thì trong sáng tác của nhà thơ được
xem là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống thực dân Pháp vào
cuối thế kỷ XIX vẫn thấy xuất hiện những dòng thơ, những câu văn cảm
động đến tuyệt vọng về tư tưởng trung quân:
“Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một
chữ ấm đủ đền công đó”(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc).
Hay:
“Bao giờ thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông”(Xúc cảnh).
Nhân đạo cũng là một nội dung lớn của văn học Trung đại Việt
Nam. Đó là tình cảm tự nhiên, thiết tha trân trọng những giá trị nhân sinh,
chân thành xúc cảm trước sự vui buồn của con người, căm phẫn những
thế lực gian tà chà đạp quyền lợi nhân dân và tổ quốc. Những tình
cảm đó tùy hoàn cảnh lịch sử – xã hội và tùy vào từng tác giả mà có
sắc thái khác nhau ở mỗi tác phẩm nhưng, hoặc nhạt hoặc đậm, có chịu
ảnh hưởng tư tưởng từ bi bác ái của Phật giáo hoặc là tư tưởng nhân nghĩa
17
của Nho giáo.
Về phương diện hình thức, văn học viết Trung đại Việt Nam là một
nền văn học song ngữ, một bộ phận viết bằng chữ Hán và một bộ phận
viết bằng chữ Nôm. Buổi đầu xây dựng nền văn học viết nước nhà, do
chưa có văn tự riêng nên cha ông ta lâm thời buộc phải vay mượn chữ
Hán để sáng tác. Bộ phận văn học chữ Hán vì vậy ra đời trước. Đã vay
mượn chữ Hán thì buộc phải vay mượn luôn cả hệ thống kinh nghiệm
văn học do các thế hệ thi văn nhân Trung Hoa đúc rút qua thực tiễn
hàng ngàn năm sáng tác, bao gồm từ quan niệm văn học, loại thể, cho
đến thủ pháp nghệ thuật và nguồn thi văn liệu,… Tuy vay mượn văn tự và
thi pháp Trung Hoa nhưng suốt trong quá trình sáng tác, mỗi một tác giả
đều luôn có ý thức Việt hóa sáng tác của mình để tác phẩm là của dân
tộc. Đến thế kỷ XIII, chữ Nôm bắt đầu được sử dụng để sáng tác và
dưới thời Trần căn bản chỉ mới ở mức độ ứng dụng kinh nghiệm đúc
rút được từ sáng tác văn thơ chữ Hán vào sáng tác thơ văn chữ Nôm. Sau
nhiều thế kỷ bền bỉ nỗ lực, đến thế kỷ XVIII, XIX các tác giả mới có điều
kiện vận dụng một cách trực tiếp và rộng rãi kinh nghiệm văn học dân
gian dân tộc vào sáng tác văn học chữ Nôm, đưa văn học tiếng Việt phát
triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
Một đặc điểm quan trọng nữa về mặt hình thức của văn học Việt
Nam Trung đại đó là tính quy phạm khá rõ rệt. Tính quy phạm thể hiện
trước hết ở quan điểm nghệ thuật coi trọng mục đích giáo huấn của văn
chương, xem văn chương là công cụ chuyển tải đạo lý, là phương
tiện phục vụ cho việc “sửa sang việc đời”. Quan niệm “Văn dĩ tải đạo”
(Văn để chở đạo) và “Thi ngôn chí” (Thơ nói chí) có địa vị thống soái,
chi phối quá trình văn học từ sáng tác đến tiếp nhận. Chúng ta dễ dàng
nhận thấy quan niệm ấy được phát biểu công khai qua sáng tác của nhiều
tác giả:
“Đao bút phải dùng tài đã vẹn,
18
Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,
Điện Bắc đà đà yên phận tiên.”
(Nguyễn Trãi) “Học theo ngòi bút chí công,
Trong thơ cho ngụ tấm lòng Xuân Thu.”
(Nguyễn Đình Chiểu) “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”
(Nguyễn Đình Chiểu)
Cái gốc của văn chương là đạo lý:
“Văn và đạo tuy có tên khác nhau nhưng nội dung của nó thì bắt
nguồn từ đạo” (Nguyễn Văn Siêu).
“Văn của thánh nhân là để chở đạo, văn của văn nhân là để luận
đạo. Cho nên bàn về văn của thánh nhân – như sự trong sáng, tinh tế
của Chu dịch, sự thông thoát chí lý của Thượng thư, sự uyển chuyển
trung hậu của Kinh thi, sự cung kính trang nghiêm của Kinh lễ, sự khen
chê có cân nhắc của sách Xuân Thu – văn đến năm kinh là tột đỉnh…”
(Nguyễn Tư Giản).
Về quy mô và phạm vi kết tinh, văn học trung đại có phạm vi kết tinh
ở văn vần hơn là văn xuôi; quy mô kết tinh vừa và nhỏ. Quy mô nghệ
thuật này sẽ thiên về bút pháp chấm phá, điểm nhãn, gợi hơn là tả. Các
tác giả văn học thời kỳ này thường hướng về cái đẹp trong quá khứ, thiên
về cái đẹp xinh xắn, thanh cao, tao nhã . Do vậy, trong sáng tác của mình,
họ luôn thể hiện kiểu tư duy nghệ thuật giàu khả năng nắm bắt cái bản
chất, cái tinh túy, cái thần của sự vật, của tâm trạng con người hơn cái vẻ
bề ngoài của sự vật.
Văn học Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX mới thực sự bước vào thời
kỳ hiện đại hóa để hình thành nên một nền văn học mới. Đó là một nền
văn học phát triển trong xu hướng tiếp cận cùng văn học thế giới với
những nét đặc thù. Nói như Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn học sử
19
giản ước tân biên, đó là “hầu như tân tạo trong một giai đoạn lịch sử
mới”, khác hẳn với văn học trung đại cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức
thể loại.
Ở phương diện nội dung, nếu như văn học trung đại chịu ảnh hưởng
và chi phối chủ yếu bởi tư tưởng, học thuật Trung Hoa; luân lý, đạo đức
Khổng Mạnh, thì sang thế thế kỷ XX, văn học hiện đại chủ yếu chịu ảnh
hưởng của tư tưởng, học thuật phương Tây với những lý thuyết về dân chủ,
về ý thức cá nhân,… Do vậy, tuy vẫn tiếp thu và kế thừa những truyền
thống lớn của văn học dân tộc đó là yêu nước và nhân đạo, nhưng văn
học hiện đại đã phát huy lên một bước mới: tinh thần dân chủ.
Về nội dung yêu nước, văn học hiện đại không còn bị ràng buộc bởi
cái vòng kim cô của tư tưởng trung quân như trong văn học trung đại
nữa mà đã thực sự giải phóng với sự biểu hiện phong phú trên tinh thần
dân chủ. Các tác giả là những nhà cách mạng theo xu hướng tư sản,
chẳng hạn như Phan Bội Châu, ngay từ đầu thế kỷ đã quan niệm: “Dân là
dân nước, nước là nước dân”. Các tác giả thuộc bộ phận văn học cách
mạng vô sản thì gắn chủ nghĩa yêu nước với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Với bộ phận văn học hợp pháp, do nhiều lý do khách quan, tinh thần yêu
nước được thể hiện một cách kín đáo hơn nhưng cũng không kém sâu sắc
và cảm động qua tình yêu đối với những đường nét, dáng vẻ đáng yêu của
con người và cảnh vật của đất nước; cái đẹp của văn hóa dân tộc và đặc
biệt là đối với ngôn ngữ dân tộc. Ở khía cạnh này, Nguyễn Văn Vĩnh,
Phạm Quỳnh là những là những gương mặt tiêu biểu.
Tinh thần dân chủ cũng đem đến cho nội dung nhân đạo của văn học
hiện đại những biểu hiện mới mẻ. Đối tượng chủ yếu của văn học hiện
đại là những con người bình thường trong xã hội. Chủ nghĩa nhân đạo
trong văn học hiện đại còn gắn liền với sự thức tỉnh về ý thức cá nhân
của người cầm bút. Do vậy mà trong nhiều tác phẩm văn học thời kỳ
này, ta thấy sự thể hiện khá sâu sắc khát vọng sống, sự đề cao tài
20
năng, phẩm giá của mỗi con người; sự đấu tranh không khoan nhượng
với luân lý, lễ giáo phong kiến để bảo vệ hạnh phúc cá nhân, đặc biệt là
các vấn đề về tình yêu đôi lứa, hôn nhân, gia đình…
Ở phương diện hình thức thể loại, nếu văn học trung đại chỉ tập trung
chủ yếu vào các thể loại văn vần với những hình thức chật hẹp và quy
định khắc khe, nghiêm ngặt về niêm luật; văn xuôi có thì cũng là loại
văn biền ngẫu và phương tiện sáng tác là chữ Hán, chữ Nôm, rất khó
khăn cho sự tiếp nhận của công chúng bình dân, thì ở văn học hiện đại, ta
thấy có sự phát triển hết sức đa dạng các thể loại. Bên cạnh các thể thơ
cũ, đã thấy xuất hiện các thể thơ tự do, thơ văn xuôi được sáng tác bằng
chữ quốc ngữ. Đặt biệt là sự xuất hiện của các thể loại văn xuôi quốc ngữ
như tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, bút ký, tùy bút, lý luận phê bình
văn học cũng như các thể kịch là dấu hiệu của một nền văn học hiện đại.
Tuy nhiên để có một nền văn học hiện đại phát triển trong xu
hướng tiếp xúc, hòa nhập với văn học thế giới, mang những nét đặc thù
như đã nói ở trên, văn học Việt Nam đã phải trải qua một quá trình cách
tân, hiện đại hóa hết sức lâu dài và phức tạp với nhiều giai đoạn. Mà mỗi
một giai đoạn cách tân là kết quả của biết bao nhiêu tâm huyết, tài năng
của các thế hệ cầm bút. Về đại thể, văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, là một nền văn học đang ở
trong quá trình hiện đại hóa, mà thời gian từ năm 1900 đến 1930 là
những giai đoạn đầu của quá trình ấy. Trong khuôn khổ của luận văn
này, chúng tôi chủ yếu chỉ tập trung khái quát tình hình văn học Việt Nam
trong ba mươi năm đầu của thế kỷ XX.
Như đã nói ở trên, văn học Việt Nam trong khoảng ba mươi năm đầu
thế kỷ XX là nền văn học đang ở trong tiến trình hiện đại hóa. Tiến trình
này trải qua hai chặng đường chủ yếu:
Chặng đường thứ nhất, diễn ra trong khoảng hai mươi năm đầu thế
kỷ XX. Quá trình hiện đại hóa bắt đầu bằng sự hình thành các thể văn
21
xuôi quốc ngữ. Chữ quốc ngữ vốn do các giáo sĩ phương Tây sáng tạo
ra vào khoảng thế kỷ XVII nhằm phục vụ cho mục đích truyền giáo.
Sau gần ba thế kỷ phát triển, với sự tham gia cải tiến, sáng tạo của của
các thế hệ giáo sỹ phương Tây và trí thức Việt Nam, cho đến cuối thế kỷ
XIX, chữ quốc ngữ về cơ bản đã hoàn thiện và từ địa hạt tôn giáo, nó
chuyển dần sang lĩnh vực văn hóa, văn học. Đầu thế kỷ XX, ý thức được
sự thuận tiện cũng như tầm quan trọng của nó trong việc truyền bá tư
tưởng văn minh phương Tây, nâng cao dân trí, chấn hưng đất nước, các sỹ
phu trong Duy tân hội và Đông kinh nghĩa thục cũng như một số trí
thức Tây học có tâm huyết như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh v.v…ra
sức hô hào, vận động cho việc truyền bá và học chữ quốc ngữ. Nói về tầm
quan trọng cũng như sự tiện lợi của chữ quốc ngữ, thơ Đông kinh nghĩa
thục có đoạn viết:
“Trước hết phải học ngay quốc ngữ, Khỏi đôi đường tiếng, chữ khác
nhau. Chữ ta, ta đã thuộc làu, Nói ra nên tiếng, viết câu nên bài. Sẵn cơ sở
để khai tâm trí…”
Năm 1907, cùng với sự vận động, hô hào tích cực của phong trào
Duy tân, Nguyễn Văn Vĩnh đã vận động đổi tờ báo chữ Hán Đại Nam
Đồng Văn nhật báo thành tờ báo quốc ngữ Đăng Cổ tùng báo với hai tôn
chỉ: truyền bá học thuật phương Tây và cổ động cho chữ quốc ngữ. Tiếp
theo Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh và phái Nam Phong cũng tích cực
ra sức truyền bá chữ quốc ngữ. Năm 1917, trên tạp chí Nam Phong số ra
đầu tiên, Phạm Quỳnh đã có hẳn một bài luận thuyết bàn về Văn quốc ngữ.
Chính sự truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ như vậy đã tác động tích
cực đến sự hình thành tầng lớp công chúng văn học mới cũng như sự ra
đời và phát triển nền văn xuôi nước ta.
Nhưng điều kiện quan trọng hơn cho sự phát triển của văn xuôi quốc
ngữ ở giai đoạn này phải kể đến sự xuất hiện và phát triển của báo chí cũng
như phong trào dịch thuật. Từ văn thông tin báo chí và văn dịch thuật mà
22
câu văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt ra đời, trưởng thành và phát triển.
Thực ra mầm mống của văn xuôi nghệ thuật tiếng Việt đã xuất hiện
vào cuối thế kỷ XIX với một số sáng tác như bài ký Chuyến đi thăm Bắc
Kỳ năm Ất Hợi của Trương Vĩnh Ký (1876), truyện Thầy Lazaro Phiền
của Nguyễn Trọng Quản (1887)…Nhưng phải đến đầu thế kỷ XX thì mới
có hẳn một phong trào viết văn xuôi quốc ngữ, đặc biệt là ở miền Nam.
Năm 1910, Trần Thiện Trung đã cho ra đời cuốn tiểu thuyết Hoàng Tố
Anh hàm oan viết theo lối mới khá chững chạc. Tuy nhiên những sáng
tác văn xuôi trong giai đoạn này cũng mới chỉ là những thử nghiệm bước
đầu chứ chưa thực sự có giá trị cao về mặt nghệ thuật và phạm vi phát
triển của nó cũng mới chỉ thu hẹp ở một số đô thị ở miền Nam. Văn xuôi
giai đoạn này chủ yếu vẫn tập trung ở mảng dịch thuật.
Nhìn một cách tổng quát, sự phát triển của văn học Việt Nam trong
giai đoạn này vẫn gắn với những tên tuổi của những tác giả thuộc phong
trào Duy tân, Đông kinh nghĩa thục như Phan Chu Trinh, Phan Bội
Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Lương
Văn Can, Lê Đại…Với tư tưởng canh tân, họ kêu gọi nâng cao dân trí,
khai thông dân khí, hô hào thực nghiệp, bỏ hư văn, học khoa học, phổ
biến chữ quốc ngữ, mở rộng báo chí…Qua đó, họ đã tạo nên cả một
phong trào sáng tác thơ văn tuyên truyền cổ động có nội dung chính trị
mới mẻ, mang hơi thở và khí phách thời đại. Tuy nhiên bộ phận văn học
này cũng chỉ mới thể hiện sự đổi mới về tư tưởng chính trị, xã hội và học
thuật mà chưa có sự đổi mới thực sự về tư tưởng thẩm mỹ.
Tóm lại là ở giai đoạn này, văn học đã có sự đổi mới về nội dung tư
tưởng. Chẳng hạn về ý thức hệ, văn học chủ yếu chịu sự chi phối của ý
thức hệ tư sản; về lý tưởng chính trị xã hội, chủ nghĩa yêu nước đã gắn
với lý tưởng cách mạng dân chủ tư sản, khác với văn học trung đại chủ
nghĩa yêu nước không thể tách rời lý tưởng tôn quân... Về mặt nghệ thuật,
văn học giai đoạn 1900 – 1920 vẫn chưa có những đổi mới đáng kể. Các
23
tác giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho
trước kia. Tiêu biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách mạng. Còn nhiều
tác phẩm thể hiện những vấn đề mới của cách mạng bằng hình thức
nghệ thuật cũ. Các tác giả còn ít dùng chữ quốc ngữ để sáng tác, chưa bỏ
được lối văn biền ngẫu, thơ vẫn là loại thể được ưa chuộng, ngôn ngữ vẫn
còn mang tính chất cầu kỳ, bóng bẩy...
Chặng thứ hai, diễn ra từ khoảng năm 1920 đến năm 1930. Quá trình
hiện đại hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Văn học không chỉ đổi mới về
nội dung mà cả nghệ thuật cũng đã khác trước rất nhiều.
Văn xuôi nghệ thuật đã phát triển mạnh hơn trước với sự phong phú
của nhiều thể loại. Ở thể loại tiểu thuyết, phải kể đến những gương mặt
tiêu biểu như Hồ Biểu Chánh ở trong Nam với hàng chục tiểu thuyết dày
dặn; Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm ở ngoài Bắc với các tác phẩm Tố
Tâm, Kim Anh lệ sử. Truyện ngắn ở giai đoạn này cũng đã phát triển với
những tên tuổi tiêu biểu như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Nhất Linh.
Về thể bút ký, có sự góp mặt của những gương mặt tiêu biểu như Phạm
Quỳnh, Tương Phố, Đông Hồ… Phần lớn những tác giả kể trên thuộc lớp
trí thức Tây học đầu tiên do vậy tác phẩm của họ chịu ảnh hưởng rõ rệt
tiểu thuyết, truyện ngắn của Pháp.
Trên lĩnh vực thi ca, “cái Tôi” cá nhân đã bắt đầu cựa quậy từ cuối
thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX với những cá tính độc đáo như Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, thì đến giai đoạn này
nó càng tự khẳng định mạnh mẽ hơn với Trần Tuấn Khải, đặc biệt là Tản
Đà với hồn thơ phóng túng, tràn đầy tình cảm và cảm xúc. Tuy nhiên, thơ
ca giai đoạn này cũng chỉ mới dừng lại ở chỗ khẳng định “cái Tôi” cá
nhân về mặt nội dung cảm xúc và khai thác những thể điệu tự do trong
thơ cổ, xét về mặt hình thức thể hiện, mà chưa thực sự cách tân một cách
triệt để.
Ở giai đoạn này, văn học Việt Nam thấy xuất hiện một loại hình văn
24
học mới du nhập từ phương Tây, tuy thành tựu còn khiêm tốn nhưng rất
đáng chú ý. Đó là thể loại kịch nói với những tác phẩm của các tác giả
tiêu biểu như Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long; Bạn
và vợ của Nguyễn Hữu Kim; Ông Tây An Nam của Nam Xương…
Tóm lại, trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, tình hình văn học Việt
Nam có nhiều biến động sâu sắc. Văn học dân tộc đang trong cơn vật vã
dữ dội của sự sinh thành, sự lột xác để hòa mình vào với văn học hiện đại
thế giới. Sự chuyển mình ấy đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về
nội dung lẫn hình thức, mặc dù nó vẫn chưa thực sự thoát ra khỏi ảnh
hưởng của văn học cũ. Tuy nhiên, để giai đoạn mở đường của văn học
Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa có được những thành tựu bước
đầu như vậy là nhờ sự cống hiến to lớn và hết mình của những trí thức
vừa có tâm, lại vừa có tài như của một bộ phận nhỏ thế hệ các học giả của
25
Nam Phong tạp chí.
Chƣơng II.
NAM PHONG TẠP CHÍ CÙNG VỚI SỰ TIẾP NHẬN VĂN HỌC
PHƢƠNG TÂY
2.1. Nam Phong ra đời và tiến triển.
2.1.1. Bối cảnh báo chí Việt Nam trƣớc khi Nam Phong tạp chí ra đời.
Mầm mống báo chí đã có ở nước ta từ lâu, thể hiện dưới nhiều hình
thức hết sức đa dạng, phong phú. Đó là những câu vè lưu truyền trong
dân gian, những lời rao của mõ làng, những cuộc “giảng thập điều”
trong trong sinh hoạt làng xã… cho đến những hình thức “thông tin
chính thức” của nhà nước phong kiến bằng cách yết bảng văn ở Quảng
Văn Đình thời Lê Thánh Tông hay Quảng Minh Đình thời Nguyễn Gia
Long…
Nói về nguồn gốc báo chí, trong bài Nước ta xưa có được tự do
ngôn luận không? đăng trên tạp chí Tri Tân, số 206 (04/ 10/ 1945), Ứng
Hòe Nguyễn văn Tố cho biết:
“Khâm định Việt sử (quyển 14, tờ 15a) chép lại rằng: “Nguyên
trước, những chiếu, lệnh của nhà vua, lâm thời bộ đem yết bảng, đến
năm Tân Hợi (1491), vua Lê Thánh Tông cho dựng một cái đình ở ngoài
cửa Đại Hưng (tức cửa Nam thành Thăng Long) để làm nơi niêm yết
những phép tắc trị dân, đặt tên là Quảng Văn Đình… Ba chữ “Quảng
Văn Đình” nghĩa là một cơ sở để thu nhặt giấy tờ ở các nơi. Đến đời
Gia Long (1802 – 1819), làm đình ở phường Nam Hưng (tức Cửa Nam
bây giờ), trên có đặt tên là Quảng Minh Đình… cũng để dán những
huấn lệnh của nhà vua. Cạnh đó có hai tòa nhà ngói ở cửa Đông Nam gọi
là Hiệp Nghị đường (Nhà để họp bàn), phàm dân gian có việc gì uất ức,
cho đến bày tỏ, cho nên các đình, ở mé ngoài miếu thờ Thành Hoàng
vừa là nơi để tụ họp khi tế lễ, lúc hương ẩm, vừa để dán những huấn
26
lệnh của nhà vua, cứ ngày Một và Rằm các huynh thứ trong làng ra đọc
những huấn lệnh và giảng nghĩa cho dân gian nghe, thường gọi là giảng
thập điều”.
Như vậy cái đình tức là báo chí, có định lệ mồng Một và Rằm tức
là nhật báo hoặc tuần báo…Báo chí tức là những tờ huấn lệnh dán ở đình
làng tựa như tờ Acta diurna của người La Mã đời xưa”.
Cách cắt nghĩa độc đáo trên của Ứng Hòe cho ta ý niệm về một
“hình thức báo chí” trong xã hội Việt Nam cổ truyền. Tuy nhiên, theo
đúng nghĩa hiện đại, báo chí Việt Nam chỉ thực sự xuất hiện cùng với sự
thiết lập chế độ thuộc địa của Thực dân Pháp trên đất nước ta.
Báo chí ở Việt Nam ra đời đầu tiên và trước hết là nhằm phục vụ
cho mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp về nhiều phương
diện, đặc biệt là phương diện chính trị và văn hóa. Ngay từ khi chiếm
được Nam Kỳ, vào năm 1861, thực dân Pháp đã cho xuất bản tờ công báo
đầu tiên phục vụ cho công cuộc viễn chính của chúng ở xứ này. Đó là tờ
Bulletin officiel de l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc
viễn chinh xứ Nam Kỳ) mà nội dung của nó là những nghị định, công
văn, đạo luật, các chỉ thị, các bài diễn văn… phát ra từ soái phủ Nam Kỳ.
Tờ báo được lưu hành và sử dụng như một phương tiện thông tin và thống
nhất chỉ đạo cho cuộc đánh chiếm và cai trị của Pháp ở Nam Kỳ. Nó đặt
nền móng cho các tờ công báo chính thức về sau này của chính quyền thực
dân.
Cùng với tiến trình đánh chiếm và áp đặt chế độ cai trị của thực dân
Pháp lên các vùng đất của Việt Nam, hàng loạt tờ báo, tạp chí bằng tiếng
Pháp của chính quyền thực dân đã nối tiếp nhau ra đời: Le Courrier de
Saigon (Tin Sài Gòn) ấn hành số đầu tiên vào ngày 01/ 01/ 1864, đến
năm 1879 đổi thành Journal Officiel la Cochinchine (Công báo xứ Nam
Kỳ), và cuối cùng, năm 1889, mang tên Journal Officiel de l'Indochine
(Công báo Đông Dương); những bản Niên giám (An nuaire) được xuất
27
bản hàng năm, từ năm 1865; Bulletin Officiel du protectorat de l'Annam et
du Tonkin (Kỷ yếu công vụ của nền bảo hộ xứ Trung và Bắc kỳ) ấn hành
vào năm 1883, đến năm 1886 đổi thành Moniteur du Protectorat de
l'Annam et du Tonkin; L'Avenir du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ -
1884); Bulletin du comité agricole et industriel de la Cochinchine (Kỷ
yếu của Ủy ban canh nông và kỹ nghệ xứ Nam Kỳ - 1869 – 1881); Bulletin
de la Societé Etudes Indochinoise (Kỷ yếu của Hội nghiên cứu Đông
Dương – 1883); Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương – 1892)…
Ở Nam Kỳ (chủ yếu tập trung ở Sài Gòn) có các tờ báo sau đây:
Independance de Saigon (Sài Gòn độc lập – 1870), L'Ere nouvelle (Nhật
tân báo – 1879), Journal de Saigon (Nhật báo Sài Gòn – 1880), Le
Mékong (Mê Kông – 1883), Le Saigonais (Người Sài Gòn – 1883),
L'Indochine (Đông Dương – 1884), Unité Indochinoise (Đông Dương
thống nhất – 1884), La Trompette (Kèn đồng – 1884), L'Extrême
Orent (Viễn Đông – 1887), L'Independant (Tự lập – 1888), Le Courier
Saigonais (Tin Sài Gòn – 1889), Saigon Respublicain (Sài Gòn cộng
hòa – 1888), Petites affiches (Rao vặt – 1888), Le Cochinchinois (Dân
Nam Kỳ - 1888), Le progres de Saigon (Sài Gòn tiến bộ - 1889), …
Ở Bắc Kỳ, dòng báo chữ Pháp có phần ít ỏi hơn. Cuối thế kỷ
XIX, ngoài tờ báo L'Avernir du Tonkin (Tương lai xứ Bắc Kỳ) còn có
các tờ Le Courier d'Haiphong (Tin tức Hải Phòng - 1886),
L'Indépendance Tonkinoise (Xứ Bắc Kỳ tự lập - 1889), L'escho du
Tonkin (Tiếng vang Bắc Kỳ - 1896), Le France d'Asie (Pháp – Á,
1893), Le gazette d'Haiphong (Báo Hải Phòng, 1895)…
Có một thực tế là từ năm 1861, sau sự ra đời của tờ báo Bulletin
officiel de l'Expédition de la Cochinchine (Kỷ yếu công vụ cuộc viễn
chinh xứ Nam Kỳ) tuy hàng loạt tờ báo bằng tiếng Pháp đã xuất hiện trên
khắp cõi Việt Nam với số lượng khá lớn nhưng chủ yếu chúng chỉ dành
cho độc giả Pháp, chủ yếu là giới quân sự và dân sự trong bộ máy chính
28
quyền thuộc địa mà rất ít người Việt sử dụng được.
Như đã nói ở trên, báo chí ở Việt Nam ra đời trước hết là nhằm phục
vụ cho mưu đồ xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp. Sau Hòa ước
1862, về cơ bản thực dân Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm và thiết lập
chế độ cai trị ở ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Nhận thấy đã đến lúc cần
phải truyền bá học thuật và tư tưởng văn hóa Pháp vào Việt nam, nhất là
tạo cho việc đưa chữ Quốc Ngữ vào quĩ đạo xâm lăng văn hóa, đánh bại
chữ Nho và văn hóa phương Đông, đầu năm 1865 Soái phủ Nam Kỳ đã
quyết định cho xuất bản tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở nước ta, tờ Gia Định
báo. Có thể nói đây là tờ báo mở đầu cho nền báo chí Việt Nam.
Nhận thức được sức mạnh lớn lao của công cụ báo chí trong tiến trình
xâm lăng, đô hộ và đồng hóa, nhưng đồng thời thực dân Pháp cũng ý
thức một cách sâu sắc “tác hại” ghê gớm của nó đối với an nguy của nền
đô hộ của chúng ở Việt Nam. Vì vậy mà trong suốt hơn 80 năm cai trị,
thực dân Pháp đã thực hiện một chế độ báo chí hết sức khắt khe và
không đồng nhất ở cả ba kỳ trên đất nước ta. Ngay cả ở Nam Kỳ, sau các
hiệp ước Harmand (1883) và Patenôtre (1884) đã thực sự trở thành xứ
thuộc địa trực trị của Pháp ở Đông Dương, lẽ ra phải được hưởng những
điều khoản của Luật thừa nhận tự do báo chí ngày 29 tháng 7 năm 1881 (
Loi du 29 Juiller 1881, sur la liberté de la presse) của Pháp, nhưng thực
tế thì hoàn toàn ngược lại. Về phạm vi điều chỉnh, điều 10, đạo luật nói
trên cho phép áp dụng tại chính quốc cũng như tại Algérie và các xứ
thuộc địa khác. Về đối tượng áp dụng, các điều 5, 6, 7 của đạo luật này
quy định: dù báo chí xuất bản bằng tiếng Pháp hay tiếng bản xứ đều tự
do, muốn ra báo không cần phải có một điều kiện nào ngoài việc viên
quản lý phải có quốc tịch Pháp, đã là thành viên và có đăng ký thủ tục
với Sở Biện lý. Tuy nhiên sớm nhận thấy chỗ “sơ hở chết người” này,
một mặt, thực dân Pháp vẫn cho phép báo chí bằng tiếng Pháp được tự do
xuất bản, mặt khác, chúng ban hành sắc lệnh ngày 30 tháng 12 năm 1898,
29
buộc tất cả các báo tiếng Việt, chữ Hán và các tiếng khác phải có giấy
phép trước khi xuất bản. Tất nhiên là đối với Trung Kỳ và Bắc Kỳ thì
việc xuất bản báo chí lại càng phức tạp và gắt gao hơn. Và một điều mỉa
mai là hầu như đa số các tờ báo tiếng Việt, lúc đầu đều do người Pháp
đứng tên: Gia Định báo (1865) với E. Poteau, Đồng Văn nhật báo
(1893) với F. H. Schneider, Nông Cổ Mín Đàm (1901) với Cavanaggio…
Do chính sách báo chí bất bình đẳng cùng với chế độ kiểm duyệt gắt
gao như vậy nên từ năm 1865, kể từ thời điểm Gia Định Báo ra đời, cho
đến đầu thế kỷ XX (năm 1900), thời gian ngót ngét gần nửa thế kỷ nhưng
ở Việt Nam chỉ lác đác dăm bảy tờ báo lớn nhỏ, kể cả viết bằng chữ Hán:
Gia Định báo (1865), Phan Yên báo (1868), Nhựt Trình Nam Kỳ (1883),
Thông loại Khóa Trình (1888), Đại Nam Đồng Văn nhật báo
(1893)…trong số này, có những tờ phải sớm đình bản vì có hơi hướng
yêu nước như trường hợp Phan Yên báo chẳng hạn. Sang đến đầu thế kỷ
XX, do áp lực của phong trào yêu nước ngày một phát triển, đặc biệt là
các phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, cùng với
tình hình thế giới có nhiều biến động, thực dân Pháp có nới lỏng chính
sách báo chí đôi chút. Chính điều này đã tạo điều kiện cho nhiều tờ báo
ra đời, góp phần vào sự phát triển của báo chí Việt Nam cũng như sự
phát triển của chữ quốc ngữ và văn học. Tính từ thời điểm đầu thế kỷ XX
đến năm 1917, khi Nam Phong tạp chí ra đời, số lượng các tờ báo bằng
tiếng Việt so với giai đoạn trước đó đã có sự gia tăng đáng kể. Chỉ trong 17
năm, số lượng các tờ báo đã gấp ba lần so với nửa thế kỷ trước đó. Với sự
ra đời nhanh chóng như vậy trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của văn
hóa và xã hội nước nhà, có thể nói báo chí trong thời kỳ này đã đóng vai
trò “bà đỡ mát tay” cho sự sinh thành, phát triển của văn học quốc ngữ
và đã góp phần hình thành nên đời sống văn học hiện đại. Phạm Thế Ngũ
trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, khi nghiên cứu về văn học
giai đoạn 1907 – 1932, đã coi “vai trò tiên phong của báo chí” là một
30
trong năm “yếu tính” của văn học. Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn
học Việt Nam cũng đặc biệt nhấn mạnh tới tầm quan trọng của báo chí
khi nói đến “văn học thế hệ 1913” và dành hẳn một chương cho
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh với hai tờ Đông Dương tạp chí và
Nam Phong tạp chí, hai nhà văn – nhà báo và hai tờ báo theo ông là tiêu
biểu đương thời. Bùi Đức Tịnh trong Những bước đầu của báo chí, tiểu
thuyết và thơ mới, Bằng Giang trong Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865
– 1930 cũng cho báo chí là một “bộ môn tiên phong của nền văn học
mới”
Tuy nhiên, khảo sát chung các tờ báo ra đời trong giai đoạn từ
năm 1900 đến năm 1917, trừ Đông Dương tạp chí và Trung Bắc tân văn,
ta thấy chúng vẫn còn nhiều hạn chế so với báo chí phương Tây cả về ngôn
ngữ, nội dung, đề tài, phạm vi phản ánh. Hầu hết các báo đều ở dạng sơ
khai, chưa thật đúng với nghĩa một tờ báo hiện đại. Sở dĩ có hiện tượng
trên là do sự chi phối của những nguyên nhân mà nhà chí sỹ Huỳnh Thúc
Kháng đã phân tích khá khái quát trên tờ Tiếng Dân do ông làm chủ bút:
Thiếu tài liệu cho Bộ biên tập làm việc: Tài liệu là yếu tố -
quan trọng cho bất cứ tờ báo nào. Muốn viết bài xã luận hay một bài báo
đều cần nhiều tài liệu. Riêng tờ Tiếng Dân thì tài liệu thiếu thốn quá nhiều.
Đường giao thông khó khăn: Muốn được độc giả chú ý, tờ -
báo cần có tin tức hằng ngày. Phương tiện giao thông ở xứ ta còn yếu
kém, muốn đi từ Nam ra Bắc, phải tốn 5, 7 ngày, vùng thôn quê, vùng
sơn cước lại là nơi khó tới lui. Như vậy làm sao thu thập tin tức?
Nạn mù chữ: Báo sống nhờ độc giả. Ở Trung Kỳ, ngoại trừ -
thành thị, chỉ có 10 phần trăm dân chúng ở thôn quê biết đọc. Bởi vậy
người ta đọc báo rất ít.
Sự yếu kém về kỹ nghệ và thương mại: Báo phát triển -
mạnh khi giới doanh thương chú ý đến nó. Giới doanh thương cần
quảng cáo hàng hóa trên báo và họ cần giúp đỡ cho tờ báo được sống. Ở
31
xứ ta, thương mại và kỹ nghệ hầu như không có vậy thì tờ báo làm sao
đứng vững lâu dài nếu thiếu người chịu đăng quảng cáo.
- Hiện tượng tâm lý: Ở những nước tiên tiến, báo chí được
phồn thịnh nhờ tất cả mọi người đọc báo, từ kẻ doanh nghiệp đến người
lao động, từ văn sỹ đến chính trị gia. Báo chí nhờ đó mà trở thành một
lực lượng đáng kể. Nhưng ở xứ ta, thấy ít nói đến báo chí và thích đọc
báo. Không được dư luận công chúng biết đến thì báo khó mà sống dai
được
Nhưng Huỳnh thúc Kháng cũng chỉ mới phân tích đến những nguyên
nhân kinh tế, xã hội mà chưa đề cập đến một nguyên nhân hết sức quan
trọng, kìm hãm sự phát triển của báo chí trong giai đoạn này đó là chính
sách báo chí hà khắc cùng với một chế độ kiểm duyệt vô cùng gắt gao của
thực dân Pháp. Tất cả những nguyên nhân trên đã kìm hãm sự phát triển
của báo chí Việt Nam trong thời kỳ này.
Tóm lại, cho đến đầu thế kỷ XX báo chí vẫn là một cái gì đó chưa
được biết đến một cách rộng rãi trong đời sống Việt Nam. Do ảnh
hưởng của phong trào yêu nước cùng với nhiệt tình, tâm huyết của
những nhà trí thức nặng lòng với dân tộc, báo chí Việt Nam từ sau năm
1900 trở đi đã có phần khởi sắc nhưng phải đợi đến khi Đông Dương tạp
chí (1913) và Trung Bắc tân văn (1915) ra đời thì báo chí Việt Nam mới
bước sang một kỷ nguyên mới. Và đến năm 1917, với sự ra đời của Nam
Phong tạp chí thì báo chí Việt Nam mới thực sự trưởng thành vượt bậc.
2.1.2. Nam Phong tạp chí.
Trong lịch sử nghề làm báo và xuất bản ở Việt Nam, tạp chí Nam
Phong có thể xếp ngay sau Đông Dương tạp chí do Schneider sáng lập
năm 1913 và Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương.
Cũng như Đông Dương tạp chí, Nam Phong là tiền phong, tiền bối,
nếu ta không muốn nói là ông tổ dìu dắt văn chương Việt Nam với bước
tiến mới, trên một chặng đường dài sau khi đã cắt đứt mối liên quan lệ
32
thuộc vào văn chương Trung Quốc.
Năm 1917, Việt Nam bị chia thành ba miền Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
kỳ. Tuy đều thuộc quyền bảo hộ của Pháp, nhưng Bắc kỳ và Trung kỳ
không cùng một quy chế. Bắc kỳ do Pháp cai trị trực tiếp, Trung kỳ thuộc
Nam triều điều khiển. Cả Bắc kỳ và Trung kỳ hợp lại dưới danh từ “đế
quốc An Nam”, còn Nam kỳ là thuộc địa của Pháp.
Đất nước thanh bình không những ở cả ba kỳ mà còn ở các nước láng
giềng Cao Miên và Ai Lao. Sự hiện diện của người Pháp tạm thời được coi
như một tình thế ổn định. Kỳ thi Hương cuối cùng được tổ chức tại Nam
Định, khi lãnh trách nhiệm bãi bỏ thi cựu học. Toàn quyền Albert Sarraut
muốn chứng tỏ tương lại Việt Nam rồi đây sẽ gắn liền với Tân học. Một kỷ
nguyên mới bắt đầu lộ rạng, có thể coi là kỷ nguyên của chữ quốc ngữ.
Hai chữ Nam Phong có nghĩa là gió thổi từ phương Nam tới. Trong
sách Kinh Thi một bài thơ (ra đời có lẽ từ thời hoàng kim, Trung Quốc
thanh bình được dìu dắt bởi các vị hiền nhân), đã ca tụng:
“Ôi gió Nam tốt thay!
Thổi mát lòng dân tộc
Ôi gió Nam ơn thay!
Xoa dịu buồn dân gian.
Gió Nam thổi đúng lúc thay!
Khiến quốc dân phú cường”.
Kinh Thi là một cuốn thi tuyển ghi chép những bài dân ca được đức
Khổng Tử sắp xếp và bình chú. Tương truyền trong dân gian là bài dân ca
Nam Phong do kỳ thủy bộc lộ nỗi hân hoan của người nông dân Trung Hoa
coi gió Nam như ân nhân và thân hữu. Bài ca này là một bài ca hy vọng,
người nông dân mong mỏi gió Nam, chẳng khác nào toàn thể thần dân đón
chờ hạnh phúc.
Nam Phong tạp chí số 1 ra mắt độc giả, ngay cái bìa cũng được xem
là quan trọng, tạp chí muốn đạt tới một tôn chỉ nào, đó là quy tắc bất di bất
33
dịch trong làng báo. Kể từ số 20, năm 1919, mục đích, tôn chỉ của Nam
Phong được thường xuyên nhắc lại trong tạp chí rất minh bạch và khúc
triết.
“Mục đích của Nam Phong là thể cái chủ nghĩa khai hóa của nhà
nước, biên tập những bài bằng quốc văn, Hán văn, Pháp văn, để giúp sự
mở mang tri thức, giữ gìn đạo đức trong quốc dân An Nam, truyền bá các
khoa học của Thái Tây, nhất là học thuật tư tưởng Đại Pháp, bảo tồn cái
quốc túy của nước Việt Nam ta, cùng bênh vực quyền lợi người Pháp,
người Nam trong trường kinh tế”.
“Báo Nam Phong lại chú ý riêng về sự tập luyện văn quốc ngữ cho
thành một nền quốc văn An Nam”.
Kể từ số 64, tháng 10 năm 1922, sau 5 năm ra mắt, tạp chí mới mạnh
dạn cống hiến với độc giả một “phụ trương” bằng Pháp văn, tuy chỉ là phụ
trương nhưng tầm quan trọng cũng đáng cho chúng ta lưu ý. Trước hết phụ
trương phản ánh nếp sinh hoạt trí thức tại Âu châu, qua các bài báo từ Paris
gửi về và được đăng lại. Sau nữa những bài đã từng đăng trong các báo
Pháp văn từ Nam chí Bắc và những bài của chính chủ bút Phạm Quỳnh đã
đăng trong các Nhật báo ở Hà Nội, tiếp đó là những ý kiến hay của các bài
khảo cứu của một số nhân vật Việt Nam: Nguyễn Văn Nho, Lê Tài
Trường, Đông Hà, Nguyễn Văn Tố, Ưng Quả, Hán Thu..Đã khiến phụ
trương trở thành một cuốn bách khoa về các đề tài phong phú. Ý kiến chí
hướng cho phần phụ trương Pháp văn đã được nhà chủ bút trình bày trong
Nam Phong số 64:
“…Trước là đối phó với các bạn tân học ưa đọc Pháp văn, sau là giới
thiệu những sự học hành, tư tưởng, dư luận, hành vi của người mình cho
người Tây biết. Sau nữa là lâm thời có thể đạt được ý kiến quốc dân tới
34
chính phủ bảo hộ mau hơn và tiện hơn bằng quốc văn…”
2.2. Quá trình phát triển của Văn học Việt Nam qua sự tiếp nhận
văn học Pháp.
2.2.1. Sự đóng góp các tác phẩm, công trình dịch thuật của các
diễn giả tiêu biểu trên Nam Phong.
Song song với sự ảnh hưởng văn hóa Pháp, Nam Phong cho công bố
rất nhiều các bản dịch, phóng tác, khảo luận, phê bình…phủ rộng chữ quốc
ngữ. Những bản dịch mà tạp chí công bố là những công trình rất có giá trị.
Ngay trong những số đầu tiên ra mắt, dưới ngòi bút của chủ biên
Phạm Quỳnh đã giới thiệu bản dịch ra quốc ngữ. Dường như trong giai
đoạn đầu, tạp chí đã dồn công sức vào cấc công trình dịch thuật và phóng
tác. Việc tiếp nhận và phổ biến văn học mới sẽ tạo cơ hội cho tiếng Việt
thêm phong phú.
Trong các số đầu Nam Phong độc giả được tiếp nhận những bài khảo
cứu dành cho nền văn hóa Pháp, như “Phương pháp luận” (dịch từ cuốn
Discours de la mesthode của Descartes với lời bình chú của Phạm Quỳnh,
số 3 tháng 9, 1917); “Triết lý nước Pháp” (do Phạm Quỳnh phụ trách, số 8,
tháng 02, 1918); với nền văn hóa phương Tây, có “Văn học Hy Lạp (phóng
tác Nguyễn Mạnh Bổng, theo tài liệu Pháp và Hán văn số 4, tháng
10,1917).
Đồng hành cùng Nam Phong, nhiều tác phẩm, công trình đã được
phiên dịch của nhiều tác giả. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi xin
phép nêu ra một số dịch giả tiêu biểu quan trọng:
Phạm Quỳnh dịch từ Corneille: Le Cid và Horace (Tuồng lôi xích, số
38- 1920; Tuồng hòa lạc, số 73 tháng 7 năm 1923). Từ Marivaux: Alequin
poli pa Imour (chàng ngốc hóa khôn vì tình, số 45, tháng 3 năm 1921) và
les Jeux de I’amout et du hasard (Tình duyên với lai tình cờ, số 54, tháng
2-1921). Từ Voltaire: Manon ou la sgesse des gens (Chuyện chàng Manon
hay sự khôn ngoan của người đời, số 44, tháng 2-1921). Từ Courteline:
35
Oh, Jeunesse (Ôi thiếu niên, số 52, tháng 10-1921). Từ Xavier de Maistre:
Les lepsreux de la Cite d’ Aoste (Nguời hủi trở thành A -ốc, số 37,thangs7-
1920).v.v.
Vũ Công Nghị dịch từ Xavier de Maistre: La Jeure Sibérienne (Công
Vị hiếu nữ, số 57, tháng 3-1922); từ Bà Nam tước De Stael Corine ou I’
Italie (Cổ liên nữ sĩ, số 61, tháng 7-1922)…
Hoàng Tích Chu dịch từ Guy de Maupassant: Un drame en mer (Một
cái bi kịch ngoài bể, số 43, tháng 1-1921).
Nguyễn Háo Vĩnh dịch từ Shakespeare: Le marchand de Venise (Chú
lái buôn thành Venise, số 21, tháng 3-1921).
(Theo: Phạm Thị Ngoạn, Tìm hiểu tạp chí Nam Phong 1917-1934,
Luận án tiến sĩ, nguyên tác Pháp văn đã đăng trong tập Kỷ yếu đệ nhị và đệ
tam cá nguyệt 1973 của Hội Nghiên cứu các vấn đề Đông Dương, bản dịch
của Phạm Trọng Nhân, Ý Việt, Yerres, 1993).
Ngoài ra còn một số tác phẩm của các tác giả Pháp ít tên tuổi hơn
được dịch ra quốc ngữ vì bút hiệu được xuất hiện trên các báo Pháp ở Pari.
Tựu chung tất cả các tác phẩm được phiên dịch ra quốc ngữ đã làm nổi bật
một số nét sinh hoạt ở Pari. Một tập truyện có tên “Một bậc thiếu niên anh
hùng: Ông phi tướng Guynemer” số 18, tháng 2-1918 đã một thời kích
thích lòng dũng cảm của cả giới trẻ Việt Nam.
Những tác phẩm hay thiên khảo cứu, phê bình, tiểu sử liên quan đến
các văn hào hay bác học Pháp hoặc các nước phương Tây khác. Baudelaire
(Pháp văn thi loại: Baude-laire tiên sinh, số 6, tháng 2-1917); Maurice
Barres (một danh sĩ nước Pháp); Rabindranath Tagore (Một đại thi sĩ Ấn
Độ: “Ông R.Tagore”, số 38, tháng 5-1929; Lịch sử triết học A.comte, số
138, tháng 5-1929. Đa phần các dịch thuật được trình bày dưới dạng “văn
tuyển”, in đối chiếu với nguyên tác bằng ngoại ngữ. Tiêu biểu là các bài
thơ ngụ ngôn của La Phontaine, bản dịch của Nguyễn Mạnh Hồng và Vũ
Văn Lê. Và những thơ của Verlaine, Victor Hugo, Vigny..với các dịch giả
36
Lâm Tấn Phác, Nguyễn Can Mộng.v..v..Nhất là Nguyễn Can Mộng xuất
thân khoa bảng cựu học mà sau này lại rất sở trường về Pháp văn, ông đã
dịch Sully Prudhomme, Claudius Popelin, Voltaire và nhiều văn hào khác
nữa. Ngoài ra những bản dịch của Nguyễn Mạnh Bổng trong tập: “paroles
d‟un croyant” của Lamennais dịch ra thơ lục bát nhan đề “Đày biệt xứ” rất
ấn tượng và được hoan nghênh trong văn giới.
Theo quan niệm của chủ bút Nam Phong Phạm Quỳnh thì các tác
phẩm được dịch từ phương Tây phải coi như mẫu mực để trợ lực cho các
tác phẩm Việt Nam sau này được soạn thảo hoàn hảo hơn so với trước đây.
Khi giới thiệu bản dịch “le Cid” Phạm Quỳnh đã nêu vấn đề như sau:
“Tuồng “Lôi Xích” là một bản kịch hay nhất trong văn chương nước
Pháp (…) Tuồng này tức là lối bi kịch viết bằng thơ. Truyện là một truyện
hiếu tình xung đột nhau, mà hiếu thắng tình, làm cho hai người chủ động
bị xa cách rồi sau lại được tái hợp, cũng phảng phất như những chuyện ở
Đông phương ta, nhưng cách kết cấu khéo hơn nhiều. Đại khái các tuồng,
các truyện của ta, không phải là tích không hay, chỉ vì đạt đề vụng nên cái
hay mất đi cả, hoặc không biểu lộ ra được hết. Thường ta dặt tuồng, đặt
truyện theo lối làm sử, việc gì cũng kể hết đầu đôi, từ lúc khởi thủy cho đến
lúc kết cục, như nói về một người thời ta từ lúc người ấy còn nhở cho đến
lúc người ấy đã già, thành ra cái phần cốt yếu, cái then chốt trong bài
tuồng, trong vở truyện bị ngập cả vào các phần khác hoặc rườm rà, hoặc
vô vị mà không xuất ra được hết (…).
“Nay dịch ra quốc ngữ không những là để công bố cho quốc dân biết
một áng văn chương hay của Đại Pháp, mà cốt giới thiệu cho các nhà lưu
tâm về diễn kịch biết cái cách soạn kịch của Thái Tây tinh xảo là dường
nào…Phiên dịch không tài nào cho vừa hay đúng được. Người dịch khổ
tâm về hai điều: một là sợ không đúng với lời văn Tây, hai là sợ không lọn
ra văn ta, lọn tiếng ta tất không đúng lời Tây, đúng lời Tây tất không lọn
tiếng ta; được đằng nọ hỏng đằng kia, phải tùy nghi châm chước vậy. Xin
37
các độc giả lượng cho” (“Tuồng Lôi xích”.NP, số 38 tháng 8, 1920, trang
87-88).
Bằng những nỗ lực không mệt mỏi, Phạm Quỳnh thường xuyên
hướng mọi sự kiện vè văn chương văn học Việt Nam. Ông viết trong đoạn
cuối phê bình cuốn tiểu thuyết “Le sens de la mort” của Paul Bourget:
“Sách ấy nghiên cứu một vấn đề xưa nay người ta chưa xét đến bao
giờ, mà giải các vấn đề ấy ra một phương diện thật là mới lạ cho tai mắt
ta. Chúng tôi đã cố giải cho dễ hiểu nhưng cũng tự biết rằng còn lỗ mỗ
lắm. Có lắm cái tư tưởng cảm giác không tài nào diễn ra tiếng ta cho minh
liệu dược. Cho hay cái quốc văn ta mới nở còn non nớt chưa đủ sức mà ra
vẫy vùng trong bể ngôn luận. Bởi vậy mà ta phải luyện cho nó có cái tư
cách ấy. Bài này cũng là một bài tập luyện như thế. Tưởng các nhà báo
cũng lượng biết cho. (“Một bộ tiểu thuyết mới: “Nghĩa cái chết” NP, số 1,
tháng 7 năm 1917 trang 27).
Ngoài các bản dịch về tác phẩm văn học, Nam Phong còn cống hiến
cho độc giả những đoạn ngắn để “lấp chỗ trống” ở cuối trang hay giữa hai
hàng. Đó là những tư tưởng cách ngôn hay trích dịch từ những tác phẩm
Pháp, Trung Hoa hay những nước phương Tây khác. Những bản dịch,
phóng tác hay nghiên cứu phê bình các tác phẩm phương Tây đã ảnh
hưởng rất mạnh đến các tác giả Việt Nam thời đó, và mở cửa cho một trào
lưu mới khiến nền văn chương quốc gia trở nên “canh tân” và phong phú.
Những tác giả đi đầu trong trào lưu canh tân này phải kể đến Phạm
Duy Tốn, một nhân vật ai nấy đều biết đến. Đó là một đoản thiên nhan đề
“Sống chết mặc bây”, chịu ảnh hưởng và mô phỏng từ truyện La partie de
billard (Ván chơi bi da) của Alphonse Daudet, Phạm Duy Tốn đã thành
công, tác phẩm được coi như độc đáo, thuần túy Việt Nam. Điều đó chứng
tỏ trào lưu mới có thể rất bổ ích cho nền văn chương quốc gia.
Một tác giả khác là Nguyễn Mạnh Bổng cũng nổi tiếng với tác phẩm
“Ai giết người”, trong công cuộc tìm đường theo khuynh hướng tả chân,
38
khai thác mảng truyện trinh thám theo quan niệm phương Tây, những bức
tranh độc đáo về phong tục tập quán nơi thôn dã, những cảnh ðời tại Hà
Nội, hay nếp sống ở các tụng đình là nơi các quan xử án…
Ngay như nhà nho Nguyễn Bá Học cũng có một thái độ rất “mới”,
trong “Câu chuyện một tối của người tân hôn” (trong NP số 46), ông tố
cáo sự bóc lột vô nhân đạo mà nạn nhân là các cô gáo làm công cho nhà
máy sợi Nam Định. Thể văn của ông khác hẳn so với các qui tắc mà ông
đã lựa chọn:
“Công nhật mỗi ngày là 25 su, công ba 17 su, còn con gái mới vào
chưa quen, công ăn mỗi ngày 14 su. Lâu lâu sẽ lên hạng nhì hạng nhất.
Chỉ giờ làm việc có điều hơi ngặt, mỗi ngày phải làm 15 giờ, từ 6 giờ sáng
đến 9 giờ tối, trừ cho có nửa giờ ăn, ai đến làm trễ giờ thì phải phạt”.
Trào lưu văn học mới này đặt tiền đề cho chủ nghĩa “lãng mạn” trong
văn chương. Lãng mạn chủ nghĩa là một thứ khuynh hướng trong văn nghệ
giới Âu Châu vào thế kỷ XIX, trái với cổ điển chủ nghĩa. “Lãng mạn chủ
nghĩa là tức là chủ quan chủ nghĩa, tức là chủ nghĩa cảm tình vô câu thức,
tự do miêu tả cái tính tình và cảm giác cảu con người chứ không chịu sự
bó buộc qui tắc nào cả” (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, Sài Gòn 1957).
Chủ nghĩa lãng mạn được trình bày đầy nhiệt huyết trên Nam Phong.
Xuất phát từ các tác giả giàu tình cảm như Phạm Quỳnh, Nguyễn Tràng
Kiều…Đối với Nguyễn Tràng Kiều ông coi lãng mạn thuần túy phải là
lãng mạn tranh đấu:
“Có kẻ bảo người Việt Nam ta nghèo tình cảm và không có một chút
tinh thần lãng mạn nào. Nhưng ta đọc những văn của Chu Mạnh Trinh,
những ca của Nguyễn Công Trứ, những thơ của Nguyễn Khắc Hiếu thì
chẳng lãng mạn đó ư? Nhưng nếu lẫn lãng mạn (romantisime) với chủ
nghĩa cá nhân (individualisme) thì có thể nói rằng: Chịu cái đạo thống của
Khổng Mạnh người Việt Nam ta không có biết tới cái chủ nghĩa cá nhân
bao giờ. Văn học thì thiên về chủ quan, nghĩa là nặng về chủ quan, nghĩa
39
là nặng về tâm và nhẹ về trí; chú trọng về đạo đức, từ chương và chểnh
mảng về thực nghiệm khoa học. Mà mới từ trong vòng 30 năm nay, cái
“bản ngã” (le moi) mới thấy phát hiện trong văn học một cách rõ
ràng…Vì quen sống ở các nơi thành thị phồn hoa nên chế độ gia đình
không biết nữa, cái thế lực của gia tộc và quê hương đối với những người
ấy sẽ bị cái cá nhân chủ nghĩa đánh đổ. Ai nấy đều giác ngộ mà hiểu rằng
mình có cá tính (personnalite’) nên đều thấy phóng túng tự do, hành động
làm sự táo bạo, ngang tàn”(…).
“Đời lãng mạn, người lãng mạn. Rồi tất cả những người lãng mạn sẽ
lần lần đem cái tâm hồn đa cảm, đa sầu trước kia còn để vào những cảnh
hoa tàn, lá rụng, trăng khuất sương mù, nhưng rồi sau sẽ biết rung động
vì “những điều trông thấy” trong cái xã hội đầy những sự bất bình, mùi
thống khổ kia sẽ tạo ra những văn thơ lãng mạn. Quang cảnh văn học ta,
vì thế sẽ có phần khởi sắc”.(Lê Tràng kiều: “Bút thanh niên lãng mạn”
Nam Phong số 206, 16-10-1934, trang 150).
Trong nhóm Nam Phong, tác giả được coi là “lãng mạn”, phải kể đến
Tương Phố và Đông Hồ với “Giọt lệ thu” và “Linh phượng”. Hai tác giả
này có phong cách lãng mạn truyền thống kiểu của Chu Mạnh Trinh,
Nguyễn Khắc Hiểu, Nguyễn Tràng Kiều.v.v.v. Lãng mạn kiều phô trương
tình cảm, nếu các tác giả ấy có nói đến “cái tôi” của đời tư mình, thì cũng
không đi quá trớn với một thể văn biết hòa hợp lối văn tao nhã, ý thanh
cao, với vẻ nên thơ, nghĩa là tất cả những gì mà truyền thống thường đòi
hỏi.
Thật chưa chính xác khi nhiều người cho rằng Nam Phong đã chủ
trương một loại “lãng mạn đẫm lệ”, nhất là ngày nay ai cũng biết cuốn tiểu
thuyết “Tố Tâm” là sách gối đầu giường của đa số các học sinh trung học
trong các năm 1926, 1930, đã khơi mào cho làn sóng lãng mạn tràn lan
trong giới thanh niên. Ngoài ra một số ý kiến còn cho rằng không phải
Nam Phong mà là cuốn tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách đã gây nên
40
phong trào tự tử vì chống đối hay thất vọng, vào thời gian đó, phong trào
nảy nở trong đám thanh niên đã rập khuôn tình cảm theo nhân vật trong
“Tố Tâm”.
2.2.2. Văn học có những thay đổi mới.
2.2.2.1. Thơ
Sự khác nhau trong quan niệm về thơ giữa phƣơng Đông và
phƣơng Tây.
Thơ ta thơ Tây là bài khảo luận thể hiện tập trung nhất kiến giải của
Phạm Quỳnh về sự khác nhau giữa thơ phương Đông và thơ phương Tây.
So sánh sự khác nhau trong quan niệm về thơ giữa phương Đông và
phương Tây, Phạm Quỳnh cho rằng với phương Đông, mà cụ thể là Trung
Hoa và Việt Nam, thơ là một thú chơi tao nhã, là sự thể hiện những tình
cảm, ý tưởng cao cả bằng những ngôn từ đẹp đẽ, có âm hưởng, tiết tấu
nhằm tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ cho người thưởng thức. Quan
niệm về thơ của người Trung Hoa và Việt Nam được ông nhận xét như
sau: “Ta coi thơ tức là vẽ, mà vẽ tức là thơ; thơ là vẽ bằng lời, bằng thanh
âm, vẽ là thơ bằng hình, bằng màu sắc. Nên bức tranh sơn thủy tức là bài
thơ tả cảnh hiển hiện ra cho mắt ta trông; mà bài thơ tả cảnh tức là bức
tranh sơn thuỷ cất tiếng lên cho tai ta nghe vậy”.
Với quan niệm thơ là “vô hình họa”, “hữu thanh họa”, nên trong thơ
Trung Hoa và thơ của ta thời Trung đại, mà nhất là lối thơ Đường luật, đòi
hỏi phải tuân theo qui tắc nghệ thuật hết sức chặt chẽ, chú trọng làm thế
nào chỉ với một khuôn khổ câu chữ tối thiểu nhưng truyền thần được
cái hồn của cảnh, cái tình của người một cách tối đa. Thơ là tiếng nói tự
nhiên của tâm hồn con người, “là tiếng kêu tự nhiên của con tâm”.
Người Trung Hoa định luật nghiêm cho thơ là muốn gia công cho
tiếng kêu ấy hay hơn, nhưng cũng chính vì vậy mà nhiều khi làm cho thơ
mất đi cái vẻ tự nhiên đáng ra phải có.
Thơ, đối với người phương Tây là nghệ thuật lại cũng vừa là triết lý,
41
đề cao hình thức nhưng càng coi trọng nội dung, bởi thế mà hình thức
của thơ cốt làm sao thể hiện nội dung cảm xúc, nội dung triết lý cho hết
sức tự do, phóng khoáng. Cùng một đối tượng phản ánh, một đề tài thể
hiện, thơ Trung Hoa, thơ ta sẽ có những nét bút phong nhã, thanh tao, rất
khéo nhưng kém sinh động, thiếu tự nhiên vì nặng về phần gia công gọt
dũa. Trong khi đó, thơ phương Tây tuy có thể không được khéo bằng
nhưng lại có nét bút đậm đà, lời lẽ thắm thiết, hùng hồn, sinh động.
Nhằm củng cố luận giải của mình và cũng giúp độc giả có tư liệu để
thấy rõ hơn sự khác nhau giữa hai lối thơ, Phạm Quỳnh đã công phu
phân tích bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan và Buổi
chiều chơi núi (Soir en montagne) của Léonce Depont. Qua sự phân tích
của ông, người đọc thấy hiện lên rõ ràng bức tranh trong Qua đèo Ngang
là một tuyệt bút, đủ cả đất trời, mây nước, núi non, cây cỏ, đá hoa,
chim kêu vượn hú…lại thêm chút tình của kẻ lữ thứ một mình đối diện
với trời cao đất rộng trong cảnh chiều tà. Tất cả được thể hiện bằng một
lối ngôn từ chải chuốt, giọng điệu êm ái trong khuôn khổ nghiêm ngặt
của thể thơ Đường luật gồm tám câu thơ với 56 chữ. Nhưng theo ông, đó
là bức tranh gia công trong các lọ sứ Tàu. Ngược lại, bức tranh trong bài
thơ Soir en montagne không có được cái gọt dũa, chải chuốt, gọn ghẽ
nhưng tình cảm dồi dào, tư tưởng siêu việt hơn hẳn.
Kết luận về sự khác nhau trong quan niệm, thể thức của “thơ ta” và
“thơ Tây”, Phạm Quỳnh nói một cách đầy hình ảnh như sau:
“Cứ so sánh hai lối thơ ấy thì biết hai cái tinh thần khác nhau là
dường nào. Một bên thì vụ bề nhân công, một bên thì chuộng về thiên phú.
Vụ bề nhân công thì chủ lấy cực kỳ tinh xảo, làm bài thơ như trạm một
hòn ngọc, uốn một cái cây, sửa cái vườn cảnh, thế nào cho trong cái giới
hạn nhất định, thêu nên bức gấm trăm hoa. Chuộng vẻ thiên phú thì nhà
thơ tự coi mình như cái phong cầm, tùy gió thổi mà nên tiếng:
42
Tiếng trong như hạc bay qua Tiếng đục như suối mới sa nửa vời
Lời thơ phải tùy theo lớp sóng trong lòng là khi dài khi ngắn, khi
thấp khi cao, không thể cầm giữ trong phạm vi nhất định”
Khi khuyến khích nền tản văn mới nảy nở, Nam Phong tạo căn bản
cho một nền văn học quốc gia đổi mới. Ngay năm 1917 chủ bút Phạm
Quỳnh đã luận bàn về thơ Pháp và Âu Châu có thể ảnh hưởng đến thơ Việt
Nam :
“Ngày nay ta bắt chước cái thể, cái luật, cái hình thức của thơ Tàu
rồi, thì nên quay về Âu châu mà đón lấy cái luồng tư tưởng, gió cảm hứng
mới. Cái cảm hứng của thơ Tây thật là có lắm vẻ ly kỳ, tuyệt thú, xưa nay
ta chưa từng biết bao giờ. Người Tây dùng nhời thơ vẽ được hết cái cảnh
vật trong giời đất, diễn được hết cái tâm lí trong người ta…” (Nam Phong
số 6, tháng 12-1917, trang 368 “Pháp văn thi thoại”- “Bạch Đức Lai tiên
sinh”).
Nguyễn Mạnh Bổng đăng trong “Từ khúc mới” giới thiệu về thơ mới
như sau:
“Cái lối văn vần nước ta thực đã chen vai làm cho văn đàn lắm nỗi vẻ
vang, nhiều thú vị. Nhưng ở cái buổi đời này, muôn sự muôn vật đều cần
thêm mới luôn, thì lối văn ta cũng nên nghĩ ra cho thêm nhiều lối mới.
Nhân nghĩ thế, bỉ nhân có theo những từ khúc Tàu các bậc phong lưu đời
trước nay hãy làm để tạo tình tả cảnh, mà đàn ra quốc văn, hãy đăng vào
mục “văn uyển” này ít nhiều, đôi khi cũng đặt ra vài lời mới nữa, mong
rằng các đồng chí sửa cho” (Nam Phong, số 9, tháng 3-1918, trang 167).
Nhà thơ Nam Thảo, một nhà thơ ít tên tuổi, cho ra mắt tập “Dây đàn
đau đớn” (1919), Phạm Quỳnh đã viết bài bình phẩm khe khắt cho tập thơ
này, vì ông cho rằng tác giả quá ư táo bạo:
“Tập thơ Nôm này là của một ông Tây học, thuộc dòng Lý-Đỗ, học
nghề làm thơ, không đề rõ tên, chỉ đề hiệu là Nam Thảo. Ông không đề tên
phải vì ông muốn thí nghiệm một sự khí bạo quá, mà sự thí nghiệm ấy chắc
43
là hỏng. Ông muốn đem vần điệu tây mà làm thơ ta thời thể sao được?
Ông há lại không biết rằng thanh âm của nước nào là riêng cho nước ấy,
không thể tự tiện biến đổi được. Và ngay như các tiếng Âu Châu là những
tiếng liên vần, có chữ ít vần, có chữ nhiều vần âm hưởng tiết tấu không
nghiêm lắm mà có người “xướng” ra cái lối “tự do” không theo thi pháp
cũ, cũng còn không được thay; huống chi là tiếng độc vận như tiếng mình,
mỗi chủ là mỗi vần, phải xếp đặt có tiết tấu thời âm hưởng mới thanh
thoát, đặt hơi chênh lệch là khổ độc ngay; như vậy mà làm thơ muốn phá
lề lối cũ theo âm điệu Tây, thời còn nghe sao được? Thử đọc những câu:
“Hỡi các người chết; ta kính trọng,
Các người như là còn sống…(!)
Ngồi xe điện, xe điện chạy,
Mau mau mở bảy.
Cô trông nẻo xa,
Mong chóng đến đấy…(!)
Tình nọ cảnh kia ở đâu đâu,
Kéo đến trong lòng đông nghìn nghịt…(!)
Thú nào bằng thú vợ chồng,
Bấy lâu cách mặt mà nay cùng giường…(!)”
Không biết có ai cho là thơ từ gì không, chớ đọc nó khổ tai quá.
Không những khổ tai mà buồn cả trí nữa, vì cái tư tưởng nó cũng tầm
thường lắm.
“Dám khuyên ông Nam Thảo (chẳng biết ông là ai) đừng nên làm cái
lối thơ kỳ quặc ấy nữa, mà uổng công vô ích, lại để người ta cười” (“Giới
thiệu sách mới”, Nam Phong số 23, tháng 5-1919, trang 424).
Sau Nam Thảo dường như báo hiệu Phan Khôi sẽ ra mắt làng văn, với
tác phẩm “Tình Già” là khuôn mẫu hoàn hảo nhất về :”Thơ mới”. Thơ
mới được hiểu theo chiều hướng tức là bỏ hết thảy những qui tắc cũ về
44
niêm luật đồng thời còn mới ở cách chọn đề tài, cũng như từ ngữ. Phan
Khôi đã tả tình của một đôi lứa “nhân ngãi” về già, bằng một thể thơ tự do
4, 5, 6,7 chữ hay nhiều hơn thế. Ngoài ra còn có tác phẩm “Từ khúc mới”
của Mân Châu cũng đã từng có thái độ đi tìm sự mới mẻ này.
Sự thành công của “thơ mới” theo năm tháng càng được khẳng định.
Bài thơ “Khuê phụ thán” đăng trong Nam Phong số 21, tháng 3 năm 1919,
(trang 229-230) được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Phạm Quỳnh đã coi
như khuôn mẫu, ông dịch ra Pháp văn rồi phê bình trong cuốn “La po’esie
annamite”. Thơ gồm 10 bài liên tiếp, mỗi bài có 8 câu, câu cuối của bài
trên được trích hay để nguyên làm câu đầu cho bài dưới. Phê bình bài thơ
này, Phạm Quỳnh đã để lại thiên “truyền ký” lan khắp trong dân chúng,
những người yêu thơ:
… “bài thơ bi ai sầu thảm này đã truyền tụng sâu rộng ở miền Trung
và ngay ngoài Bắc cũng có nhiều người biết; tác giả có lẽ là bà chánh phi
của cựu hoàng Thành Thái thời là thân mẫu của cựu hoàng Duy Tân. Xa
chồng và con bị đi đày đảo Resunion sau vụ âm mưu 1916, vị hoàng phi
này bị truất phế đã ký thác nỗi đau thương phiền muộn vào những vần thơ
buồn thảm. Qua những lời thơ nhỏ lệ, người ta có cảm tưởng như sống lại
trong luồng gió mạnh trận phong ba, tấn bi kịch đã diễn ra trong triều đình
cổ kính, và nỗi u sầu ngột ngạt bao trùm kinh đô tiếc thương của nhà
Nguyễn. Tuy nhiên sau 13 năm, trong Nam Phong số 169 đã công bố sự
thực về tác giả. Thi nhân đã tế nhị khéo léo khóc than giùm cho thiếu phụ
xa chồng và hiền mẫu xa con là một nhà Nho ở Vĩnh Long tên là Thượng
Tân Thị. Bài thơ thể hiện lòng yêu nước trung quân, làm cho đề tài trở nên
cao cả, cộng thêm những tình cảm sâu đậm khiến công chúng sẵn sàng
cảm thông rung động. Trường hơp của Thượng Tân Thị thật đặc biệt hiếm
có, vì khi một bài thơ ra mắt công chúng, không dễ gì có sự trùng hợp của
45
các yếu tố thiên thời đến như vậy.
Hòa chung dòng chảy đổi mới canh tân của nền văn học nước nhà
chịu sự chi phối của văn học phương Tây, đối với tầng lớp thi nhân Việt
Nam mà nói, bất kỳ sự việc nào cũng nên thơ cả, một chi tiết nhỏ về đời
sống hàng ngày, một nhận xét tối thông thường, một sự kiện bình thường
hay những biến cố quan trọng, những xúc động kinh hoàng hay những cảm
tưởng hiếm có và sâu sắc. Tất cả đều là cơ hội cho thi sĩ sáng tác nên
những tứ tuyệt hay bát cú. Thời đó ta cũng bắt gặp một loại văn gọi là “thi
thoại” (nói chuyện về thơ) từ lâu đã bắt rễ chặt trong tập quán. Về thể loại
này một số văn sĩ nổi tiếng như Chương Dân Phan Khôi; Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến; Sở Cuồng Lê Dư…đều là những thi sĩ cừ khôi trong thi
giới. Vì thế mà trong 17 năm trời, mục “văn uyển” trong Nam Phong
thường là nơi hẹn hò hay gặp gỡ của các thi sĩ và người yêu thơ.
Nhìn chung, hàng mấy chục nhà thơ trong nhóm Nam Phong, với
hàng mấy ngàn bài tứ tuyệt, bát cú, hay theo các thể thơ khác nữa đã cống
hiến cho độc giả và lưu truyền hậu thế cả một kho tàng phong phú, gồm
những danh từ, từ ngữ chọn lọc trong ngôn ngữ bình dân hay văn chương
Hán-Việt. Dẫu rằng khi nhìn lại những trang báo xưa, ta cảm giác như một
mảnh vườn cũ bị bỏ hoang, các bài thơ có vẻ lỗi thời, tàn úa, bị gò bó phát
triển trong một khung cảnh bất biến, vay mượn câu từ, lối văn hóa phương
Tây, nhưng nguồn thi hứng đó vẫn duy trì được vẻ xinh tươi, năng động để
tạo nên muôn vàn sắc thái, nhưng biểu hiện một cách dè dặt kín đáo. Tất cả
đóng góp không nhỏ cho tiếng nói nước nhà.
Bên những sáng tác về thơ, mục “văn uyển” trên Nam Phong còn
cống hiến cho các độc giả những câu đối, những bài hát ả đào, những bài
phú, văn tế, những bài dân ca hát xẩm do những ca sĩ mù biểu diễn. Vì
thực tế thơ Việt Nam gồm nhiều thể loại khác biệt. Mỗi thời đại, thơ có sự
diễn đạt, thể hiện khác nhau, nhưng tựu trung, đích thực là thơ chân
46
chính thì nó phải làm cho đời sống con người được phong phú, góp phần
hình thành và phát triển nhân cách, góp phần xây dựng cuộc đời.
Về thơ ca, tuy không đưa ra một hệ thống lý thuyết tương đối đầy
đủ, nhưng Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong đã thể hiện rõ quan niệm
của mình về việc tiếp thu, cải tiến và phát triển thơ ca dân tộc. Quan trọng
hơn nữa là tác giả đã thể hiện một quan niệm hết sức tích cực về vai trò,
ý nghĩa của thơ đối với cuộc sống con người. Đây là một quan niệm hết
sức hiện đại, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa việc kế thừa những tinh hoa
của văn học dân tộc với việc tiếp thu những yếu tố tiến bộ của văn học thế
giới. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành phát triển của nền thơ
hiện đại còn non trẻ của Việt Nam trong giai đoạn đầu.
2.2.2.2. Đoản thiên tiểu thuyết và truyện ngắn trên Nam Phong
tạp chí.
Trong hơn 17 năm, Nam Phong đã giới thiệu 49 truyện và chùm
truyện ngắn dịch từ nước ngoài, trong đó có 25 truyện và chùm truyện
ngắn Trung Hoa và 24 truyện ngắn phương Tây, trong đó có 22 truyện
ngắn của Pháp. Riêng Phạm Quỳnh là người dịch nhiều nhất, chiếm hai
phần ba (16/24 truyện) các tác phẩm dịch phương Tây. “Truyện ngắn nước
ngoài trên tạp chí Nam Phong có đóng góp nhất định trong việc giới thiệu
văn học phương Tây, văn học Trung Quốc và rèn luyện câu văn Quốc ngữ
ở buổi đầu hình thành nền văn học mới…góp phần quan trọng vào việc
thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà trên lĩnh vực văn
xuôi…Nam Phong thực sự trở thành vườn ươm các truyện ngắn có giá trị
đâm chồi nẩy lộc” (Từ điển văn học. Bộ mới – NXB Thế giới 2004).
Trong hệ thống các thể loại văn xuôi nghệ thuật, tiểu thuyết có vị
trí hết sức quan trọng trong việc đánh giá sự phát triển của một nền văn
học. Thể loại tiểu thuyết, hiểu theo quan niệm của văn học hiện đại, chỉ
mới manh nha ở Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX. Tác phẩm
47
được xem là mở đầu cho thể loại này là cuốn Thầy Lazaro Phiền
của Nguyễn Trọng Quản, xuất bản tại Sài Gòn vào năm 1887. Sang đến
đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết Việt Nam thực sự khởi sắc với những đóng
góp sáng tạo của các nhà văn đi tiên phong như Hồ Biểu Chánh ở
trong Nam; Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm…ngoài Bắc. Cùng với sự
xuất hiện ngày càng nhiều sáng tác phẩm thì lý thuyết về thể loại văn học
này cũng dần dần được quan tâm, buổi đầu thường thể hiện qua những Lời
tựa, Lời giới thiệu cho mỗi tiểu thuyết mới được xuất bản. Chẳng hạn,
trong Lời tựa cuốn tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền nhà văn Nguyễn
Trọng Quản phát biểu suy nghĩ của ông về việc viết tiểu thuyết như sau:
“Đã biết rằng dân ta xưa nay chẳng thiếu chi thơ phú văn truyện
nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó, mà
những đấng ấy thuộc về đời xưa chớ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó tôi
mới dám bày đặt một chuyện đời nay là sự thường có trước trước mặt ta
luôn, như thế thì sẽ có nhiều người lấy làm vui lòng mà đọc, kẻ thì cho
quen mặt chữ, người thì cho đặng giải phiền một giây” (Dẫn theo Mã
Giang Lân, 40, 302).
Như vậy, Nguyễn Trọng Quản quan niệm tiểu thuyết là “bày đặt
chuyện đời”, tức là một thể loại hư cấu dựa trên một cảm hứng về thế sự.
Hồ Biểu Chánh thì quan niệm ông viết tiểu thuyết là nhằm viết chuyện
nước mình cho người mình đọc: “Người mình mà biết truyện bên Tàu
không bổ ích cho bằng biết truyện trong nước mình” [Mã Giang Lân,
Sđd]. Những quan niệm như trên chỉ như là suy nghĩ chủ quan của những
người trực tiếp sáng tác, chưa phải là những đúc kết mang tính lý luận đạt
đến tầm khái quát.
Vào thời kỳ mở đầu của văn xuôi quốc ngữ, những người cầm bút để
sáng tác tiểu thuyết đăng trên tạp chí này, chưa hẳn đã là những nhà văn
chuyên nghiệp như ở giai đoạn sau. Hầu hết họ là những trí thức, mà nghề
nghiệp của họ: có người là nhà giáo như Nguyễn Bá Học, có người là nhà
48
báo như Phạm Duy Tốn, có người còn là sinh viên như Hoàng Ngọc
Phách… Do vậy, “những điều trông thấy” và vấn đề mà họ quan tâm
chính là cuộc sống của một tầng lớp mới – tầng lớp trí thức tiểu tư sản.
Xuyên thấm và bật ra từ đề tài ấy, chính là sự bế tắc về tư tưởng, cảnh gian
nan và những khó khăn, buồn tẻ trong đời sống của những người công
chức, trí thức… trong buổi giao thời. Đó là chuyện về một anh học trò cựu
học, thất bại trong buổi tân học đang lấn át, bị gia đình đuổi đi và tự tìm
lấy cuộc sống cho mình (Dư sinh lịch hiểm ký – Nguyễn Bá Học) . Đó
còn là cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo của một anh cùng nho: ba tháng
chưa có tiền trả nợ thuê nhà, vợ vá áo rách, cuối cùng phải “cầm cái áo
ngoài” “để đi gửi lấy mấy đấu gạo mà thổi bữa cơm sáng…” (À, chuyện
chiêm bao! – Nguyễn Bá Học). Hoặc, cho dù là một anh công chức làm
thư ký “cho một nhà giây thép” như chàng Lê Tâm (Tình xưa – Nguyễn
Tiến Lãng) thì cả đời cũng chỉ thấy buồn tẻ ở nơi núi rừng xa vắng, “gió
cuốn ngàn lau xào xạc…”, “đầy trời sương tỏa khói mịt mù”, và đau khổ
hơn là cảnh vợ con anh “đã phải bệnh sốt rét ngã nước, ngày càng đau yếu,
gầy mòn” (Nam Phong tạp chí số 179, tr.263). Sống trong cảnh chán
chường đó, ngay cả đến một bức thư tình của người bạn gái năm xưa nào
đấy, có thể xua đi những buồn tủi, tẻ nhạt của cuộc sống hiện tại, đối với
Lê Tân cũng trở nên vô vọng. Buồn bã, chàng chỉ còn biết „với lấy con dấu
ngày trên tấm “tam bông” đen, rồi cái vật vô tội nọ lại nện xuống phong bì
chan chát như cái đầu đen đập vào tường một cách điên cuồng thất
vọng”… Những biến động về kinh tế, văn hóa của xã hội Việt Nam, chính
sách bóc lột thuộc địa của thực dân cùng với sự phá sản của nền học cũ…
ít nhiều đã có dấu ấn trong nội dung của những đoản thiên tiểu thuyết đầu
tiên ấy. Đáng lưu ý hơn là ngay từ giai đoạn mở đầu của tiểu thuyết mới
Việt Nam, đời sống của công nhân, nông dân cũng đã được phản ánh khá
sâu sắc. Mặc dù chỉ có 2/45 truyện viết về đề tài này Câu chuyện một tối
của người tân hôn của Nguyễn Bá Học và Sống chết mặc bay của Phạm
49
Duy Tốn, nhưng không phải vì thế mà đề tài này trở nên mờ nhạt. Trái lại,
có thể coi đây là 2 truyện thành công, gây được ấn tượng sâu sắc nhất
trong toàn bộ tiểu thuyết sáng tác trên Nam Phong tạp chí thời kỳ ấy.
Phạm Duy Tốn đã thấy được những cơ cực của người nông dân suốt ngày
“bì bõm dưới bùn lầy” để cứu đê, làm phu đê ngày trước. Đê vỡ, đời sống
của họ còn thê thảm hơn, cảnh “nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu,
nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết”, sẽ dẫn đến cảnh “kẻ sống không chỗ
ở, kẻ chết không nơi chôn”, “tình cảm thảm sầu” không kể hết. Với tác giả
Phạm Duy Tốn, người nông dân và những bất công, cơ cực của họ đã được
thể hiện trong tác phẩm bằng niềm cảm thông, thương xót của tác giả.
Bao trùm và xuyên suốt nội dung cũng như đề tài của hầu hết các
truyện đăng trênNam Phong thời bấy giờ là chủ đề về đạo đức, luân lý xã
hội. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ là xã hội giao thời giữa “cái cũ” và “cái
mới”, giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây, mà trong đó cái
cũ chưa hoàn toàn mất đi và cái mới chưa hoàn toàn thay thế. Nhưng như
tác giả Thi nhân Việt Nam đã nhận định: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc
biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”. Những
nền nếp, kỷ cương, đạo đức và lối sống… của một xã hội phương Đông
đóng cửa hàng nghìn năm đến nay đã bị một phen lung lay. Mỗi căn nhà và
mỗi con người trong xã hội ấy đều bị chi phối, bởi sự đổi thay lớn lao đó.
Dưới con mắt của những nhà nho thì đó quả là một sự “sa đọa”. Hầu hết
các tác phẩm của những cây bút vốn có nguồn gốc Hán học như: Nguyễn
Bá Học, Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Văn Cơ, Đoàn Ngọc
Bích… đều có viết về đề tài này.
Ngay từ tiểu thuyết đầu tay và cũng là tiểu thuyết đầu tiên đăng
trên Nam Phong tạp chí là Câu chuyện gia tình, Nguyễn Bá Học đã muốn
cho mọi người “làm chứng cái khốn nạn chung trong xã hội” bấy giờ! Đó
là chuyện một anh học trò Tây học, lên sống ở tỉnh thành, do ảnh hưởng lối
sống mới, nên so với khi ở nhà “tính nết đổi hẳn”. Tệ hại hơn, anh ta đã
50
ngoại tình và về nhà lấy tiền, tư trang của vợ đem đi ăn chơi và dan díu với
tình nhân! Dưới con mắt của nhà nho thầy giáo Nguyễn Bá Học thì đó quả
là hành động phi đạo đức lớn, mà điều này do chính sự “học mới” gây nên.
Ông muốn tố cáo trước dư luận xã hội về sự sa đọa nghiêm trọng ấy!
Tương tự như đề tài và chủ đề của tiểu thuyết trên, Truyện cô Phụng của
Xuân Quang Đoàn Ngọc Bích cũng nên lên một trường hợp hư hỏng của
một cô gái con nhà “giáo học” ở Hải Phòng. Ảnh hưởng lối sống mới, cô
ăn chơi, cô “son phấn” cô “nhởn nhơ”… không lo chuyện học hành, bị lưu
ban, cô phải bỏ học và cuối cùng kết quả là cuộc đời của cô đắm chìm
trong dòng nước xoáy của xã hội Việt Nam đang trên đường tư sản
hóa. Chuyện cô chiêu Nhì (Nguyễn Bá Học), và Nước đời lắm nỗi (Phạm
Duy Tốn)… cũng mang chủ đề tương tự như vậy. Các tác giả trên bộc lộ
sự lo ngại và vang lên những tiếng chuông báo động về độ rung của đạo
đức, luân lý xã hội đang ngày càng bị rạn nứt dưới ảnh hưởng của “văn
minh” của lối sống phương Tây đưa đến xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ
XX! Tư tưởng chủ đạo của những tác phẩm trên là tư tưởng phê phán.
Cũng cùng viết về chủ đề đạo đức, ở khía cạnh khác, các tiểu thuyết
của Mân Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Văn Cơ, Vũ Miễn Nam… đã
biểu dương một số hành vi tốt đẹp, có đạo đức của người biết tôn trọng chữ
nhân, chữ nghĩa. Biểu dương những hành động tốt, xét đến cùng cũng là
nhằm để phê phán, cảnh giới những hành động xấu. Tiểu thuyết Một cánh
hoa chìm của Nguyễn Văn Cơ viết về một người con gái vị tha, nhận lấy
cái chết về mình, nhường sự sống cho đứa em khác mẹ trong một ngày lụt
lớn là một tác phẩm đem đến nhiều xúc động cho người đọc. Người viết
truyện đã không khỏi bùi ngùi, cảm phục rằng “đáy nước đục, bẩn kia là
ngôi mộ của một tấm lòng vàng ngọc”, của “một cánh hoa chìm‟…
Truyện Ai giết người của Mân Châu cũng mang chủ đề tương tự. Ai giết
người? Viên quan xử kiện khó lòng mà tìm ra được, bởi vì hai anh em nhà
kia không có ai giết người cả, nhưng ai cũng nhận là mình giết người để
51
nhận lấy cái tội chết thay cho nhau. Sau cùng, ở phần cuối truyện có người
đến nhận là mình giết, vì để trả thù cho bạn thì câu chuyện mới được sáng
tỏ. Chủ đề chính của truyện là đề cao và chứng minh cho đạo đức phong
kiến: nhân, nghĩa, trí, tín… của Nho giáo, “thánh nhân”… Còn Câu
chuyện nhà sư của Nguyễn Bá Học hay Thần thiên lương của Mân Châu
Nguyễn Mạnh Bổng là những kết cục đầy tính bi kịch cho những kẻ vong
ân, bội nghĩa, sống không có thủy có chung trong đời. Cuối cùng, không ai
khác, chúng bị chính tòa án lương tâm giày vò, xét xử. Những hành động
bất lương, bội bạc ấy đã phải trả giá rất đắt: “cái chết trừng phạt họ!”
Ngoài ra, một số tiểu thuyết khác cũng xoay quoanh chủ đề này, song
nội dung câu chuyện có khác hơn ít nhiều… Một anh chàng tham lam, làm
giàu bằng thái độ sống ích kỷ và keo bẩn, cuối cùng bao nhiêu của cải làm
ra được cũng lại bị trời lấy đi mất! (Của trời trời lại lấy đi – tác giả Đ.H.).
Một gia đình nọ tham giàu gả bán con cho một anh trọc phú. Sống với gia
đình này, cô bị hành hạ, ngược đãi. Không chịu nổi, cô phải trốn lên một
tỉnh giáp biên buôn bán, rồi lấy phải một kẻ du đãng, bất hạnh, sau cô phải
trở về sống với cha mẹ đẻ… (Gả bán con – Đoàn Ngọc Bích). Hoặc, một
cô gái nhẹ dạ, mắc lừa một thằng Sở Khanh xỏ lá, bị nó cuỗm hết của rồi
trốn theo nhân tình khác (Con người Sở Khanh – Phạm Duy Tốn)…
Đề tài về tình yêu và hôn nhân gia đình cũng được các nhà tiểu
thuyết Nam Phong đề cập tới. Người viết đầu tiên về đề tài này là Song
An Hoàng Ngọc Phách, với tiểu thuyết Giọt lệ hồng lâu. Tác phẩm miêu tả
tình cảm một mỹ nhân khuê các tên là Lan Nương, vì gia cảnh mà phải lưu
lạc, sa chân vào chốn lầu hồng… Câu chuyện giãi bày cảnh ngộ đớn đau
của người con gái phải bán thân vào chốn giang hồ ấy. Sống trong cảnh đó,
nhiều lần nàng phải “gạt thầm nước mắt trong tiệc rượu, chết trong ruột mà
phải cười, bị người làm khổ mà phải chiều chuộng”. Xét đến cùng, những
người con gái ấy chính là những nạn nhân của xã hội thực dân nửa phong
kiến bấy giờ. Họ không có tội, vì xã hội ấy đã xô đẩy họ vào con đường ô
52
nhục, lầm than: „Trên thế lộ nào ai cắm biển chỉ rõ đường hay, đường dở
cho chúng em đi, khi chúng em đã đi lầm đường rồi nào ai đã ra tay tế độ,
bắc cầu cho chúng em sang”.
Để tài và chủ đề hôn nhân gia đình được đan xen với đề tài và chủ đề
về đạo đức, luân lý xã hội qua Duyên kỳ ngộ một chị hàng hoa (Nguyễn
Ngọc Thiều) người viết truyện muốn ca ngợi một mối tình chung thủy dựa
trên ân nghĩa mà cả hai người đã bù đắp cho nhau trong những ngày tháng
trước. Do vậy mà ai chẳng ngờ, người con gái trẻ trung xinh đẹp ở “bên bờ
sông Châu Giang của xứ sở Sơn Nam” kia, lại có thể kết duyên cùng một
ông già đã tuổi sáu mưởi làng bên nọ. Về sau, mặc dù cô gái ấy có bị
những chàng trai si tình quyến rũ, bắt cóc nhưng cô vẫn cự tuyệt để trốn
về, sống chung tình với người chồng già nua và đứa con của mình…
Ngược chiều với chủ đề trên, tuy cũng với đề tài hôn nhân và gia
đình, nhưng những tiểu thuyết ngắn của Phạm Vọng Chi lại đi theo một
cách thể hiện khác. Đoản thiên tiểu thuyết Vì đâu nên nỗi dở dang là ví dụ
như thế. Gia đình đang êm ấm, hạnh phúc, nhưng rồi người chồng “tự
nhiên tà dâm”, “say đắm cô Vân, cô Nguyệt” để rồi người vợ “mê tín”, đi
xem bói và quá tin vào lời thày bói mà lấy thêm thiếp cho chồng. Kết cục
là gia đình tan nát, đúng như tiêu đề của truyện, Vì đâu nên nỗi dở dang,
vì nàng mê tín, vì chàng tà dâm. Rồi một thầy ký nọ, nhờ vợ làm ăn khá
giả mà có tiền mua được ba người hầu xinh xắn dễ coi, thày lừa vợ đi vắng
mà thông dâm với đám hầu ấy. Chuyện vỡ lở, lửa tình cạnh tranh, đám hầu
ấy đã bỏ thuốc độc cho cả hai vợ chồng thầy ký về “chơi miền Tây trúc”
(Phạm Vọng Chi – Mại thiếp vi nô)… Chủ đề chung của những truyện trên
là phê phán những hủ tục xấu xa, những thói dâm ô “đa thê, đa thiếp”, vì
nó mà nhiều gia đình đã trở nên tan vỡ, bất hạnh trong xã hội bấy giờ.
Trong số các tác giả đoản thiên khác có thể sắp xếp vào khuynh
hướng dung hòa, ta có Phạm Duy Tốn với “Con người sở khanh” (Nam
Phong, số 20-2-1919); “Nước đời lắm nỗi” (Nam Phong, số 23, năm
53
1919); Nguyễn Mạnh Bổng với “Ai giết người” (Nam Phong số 28, tháng
11-1919); “Thần thiên lương” (Nam Phong, số 36, tháng 6-1920); Hoàng
Ngọc Phách với “Giọt lệ hồng lâu” ( Nam Phong, số 21, tháng 10-1921);
Nguyễn Thúc Khiêm với “Truyện Ông nghè Tân” (Nam Phong, số 153,
tháng 8-1930); Nguyễn Tiến Lãng với “Tình xưa” do Đông Hồ dịch (Nam
Phong, số 179, tháng 12-1932); Tùng Toàn với “Tuyết Nga” (Nam Phong
số 192, tháng 2-3 năm 1934); Lê Đức Nhượng với “Bữa cỗ nợ miệng”
(Nam Phong số 204, tháng 9-1934).
Đặt vào hoàn cảnh của xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, nhìn nhận
một cách khái quát, những đề tài và chủ đề của tiểu thuyết trên Nam
Phong tạp chí đã nêu chưa phải là những vấn đề xã hội cơ bản. Bởi vì, thời
kỳ này nhân dân và sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, phong kiến;
phong trào đấu tranh ái quốc cũng có lúc dâng cao, chủ đề của những tác
phẩm trên chưa đi đúng vào những vấn đề bản chất nhất của đời sống xã
hội. Song, đòi hỏi làm sao hơn được đối với những tác giả cầm bút của thời
kỳ này, khi mà chỗ đứng của họ hầu hết là chỗ đứng của những trí thức
tiểu tư sản. Họ viết theo nhận thức hoàn toàn tự nhiên của họ đối với xã
hội, mà chưa hề chịu sự tác động hay ảnh hưởng của những khuynh hướng
tư tưởng tiến bộ nào. Đó là còn chưa kể đến sự kiểm duyệt chặt chẽ của
những người biên tậpNam Phong tạp chí. Ở giai đoạn sau, do có ảnh
hưởng từ những phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, như phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-
1931, phong trào Mặt trận dân chủ 1936-1939…, các tác giả của văn học
hiện thực phê phán 1930-1945 sẽ được nhìn nhận và đánh giá theo một góc
độ khác.
2.2.2.3. Ký
Ký là tên gọi chung của một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa
văn học và báo chí, hình thức chủ yếu là văn xuôi tự sự nhưng cũng có
văn xuôi trữ tình. Ký gồm nhiều loại như: hồi ký, nhật ký, du ký, bút ký,
54
phóng sự, ký sự, tùy bút, … Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về ký.
Điều đó cho thấy ký là một thể loại đa dạng, nhiều biến thể, nhiều hình
thức. Dựa vào mục đích sáng tác, đại thể người ta phân ký thành hai nhóm:
ký báo chí và ký văn học.
Ký ra đời rất sớm trong lịch sử văn học nhân loại, nhưng phải đến thế
ký XIX nó mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Ở Việt Nam, ký đã có từ thời
Trung đại, với nhiều tác phẩm có giá trị: Linh tế tháp ký (Trương Hán
Siêu), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình
Hổ)…
Văn chương trong gắn nối với các mục tiêu học thuật đó là mục tiêu
của Nam Phong, và đó cũng là giá trị toát ra từ các du ký, vốn là một thể
trong văn xuôi. Sự xen cài, giao thoa này là đặc trưng của thời kỳ đầu hiện
đại hóa, khi văn chương chưa thoát ra khỏi mục tiêu giáo huấn, và khi
người viết là đứng ở nhiều tư cách, trong đó gồm cả, hoặc chủ yếu là tư
cách học giả (érudit) mà chưa thật sự là nhà văn, theo nghĩa chuyên nghiệp
(écrivain). Chính bởi đặc trưng và mục tiêu đó – vốn là sản phẩm của một
thời, nên Nam Phong tạp chí nói chung (gồm cả du ký) đã thỏa mãn được
nhu cầu học tập, đào luyện của một thế hệ trí thức mới như Thiếu Sơn, Vũ
Ngọc Phan, Đào Duy Anh… Thiếu Sơn viết năm 1933 : “ Gần hai chục
năm nay không biết Tạp chí Nam Phong có giúp được chút gì cho sự giữ
gìn đạo đức trong dân gian không thì tôi không được biết. Chứ thực tình nó
đã giúp được sự mở mang tri thức trong quốc dân nhiều lắm”. Và Đào Duy
Anh, viết năm 1973 : “ Tôi tự học văn học Việt Nam và biết viết Quốc văn
phải nói thực một phần không ít là nhờ chuyên đọc Tạp chí Nam Phong.
Trong khi dạy học ở Đồng Hới, đồng thời với việc học thêm chữ Pháp theo
một chương trình nhất định, tôi không bỏ việc nghiên cứu Quốc văn và
Hán văn, vẫn lấy Tạp chí Nam Phong làm công cụ chính”…
Sau thời giao chuyển được phản ánh và kết đọng rất rõ qua Tạp chí
Nam Phong, mà 62 du ký là một bộ phận, sẽ đến thời kỳ hoàn thiện diện
55
mạo hiện đại của nó, từ 1930 đến 1945. Nếu truyện ngắn và tiểu thuyết
cùng phóng sự, tùy bút, hồi ký có một bước phát triển mới thì du ký lại có
phần chững lại, khi văn chương tách ra khỏi học thuật, để trở thành một
khu vực chuyên, với giá trị văn chương là chủ yếu, chứ không còn xen cài
với các giá trị khảo cứu về văn hóa, phong tục hoặc lịch sử. Người viết,
viết với tư cách nhà văn mà không có một tư cách nào khác, nên việc đi để
tìm cảm giác lạ (trong một xã hội tù túng, ngột ngạt), đi để thay đổi thực
đơn cho dạ dày và giác quan, rồi phô cái Tôi của mình ra trên mặt giấy cho
moi người cùng thấy.
Đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa nền văn
học, thể tài du ký phát triển mạnh mẽ, mà người có công đầu trong sự
phát triển ấy là Phạm Quỳnh. Là học giả, là trí thức, lại vừa là hoặc từng là
công chức của nhà nước nên mỗi du ký bao giờ cũng là sự dồn nén các tri
thức về địa dư và lịch sử, cùng những cảm khái và suy ngẫm về thời thế.
Mỗi du ký, xen với việc kể, tả thế nào cũng có những suy nghĩ
về xưa và nay, về người và ta, qua đó gửi gắm khát vọng thay đổi đất
nước, sao cho thoát khỏi sự lạc hậu và tăm tối, để được bằng người. Trở lại
tư cách của người viết qua mấy chục du ký- mà ở đâychúng tôi chỉ dẫn 2
trường hợp là Đông Hồ và Phạm Quỳnh, để thấy phẩm chất của trí thức
thuộc cả hai phái Cựu học và Tân học, cùng với tư cách xã hội đã quy định
chặt chẽ nội dung và cách viết của họ.
Không kể phần di cảo Hoa Đường tùy bút được viết vào cuối đời,
với năm thiên du ký: Mười ngày ở Huế, Trẩy chùa Hương, Một tháng ở
Nam Kỳ, Pháp du hành trình nhật ký, Du lịch xứ Lào đăng trên Nam
Phong tạp chí, Phạm Quỳnh thực sự là người mở đường và phát động cho
phong trào viết du ký trên Nam Phong cũng như nhiều báo khác thời bấy
giờ. Chính vì vậy mà trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm
Thế Ngũ gọi ông là nhà du ký, với những dòng nhận định sau:
“Phạm Quỳnh tuy không tiến đến làm tiểu thuyết song đã viết
56
trong báo Nam Phong nhiều thiên du ký: Mười ngày ở Huế, Trẩy chùa
Hương, Một tháng ở Nam Kỳ, rồi dài hơn nữa là Pháp du hành trình nhật
ký. Những thiên du ký ấy (…) đều có giá trị văn học và chứng tỏ bên cạnh
con người Phạm Quỳnh học giả, lý thuyết gia, còn có một con người
Phạm Quỳnh văn gia, tâm hồn giàu cảm xúc tinh tế và ngòi bút duyên
dáng dễ ưa”
Đối với thể loại ký, Phạm Quỳnh không có những phát biểu trực
tiếp mang tính lý luận về thể loại nhưng qua các thiên du ký đăng trên
tạp chí Nam Phong ta lại thấy ông có quan niệm khá rõ và nhất quán về
nhóm thể loại này.
Cần phải nhận rõ rằng Phạm Quỳnh coi việc viết ký như một công
việc luyện tập viết văn trong giai đoạn đầu nhằm mục đích rèn luyện câu
văn quốc ngữ và sau đó là tiến tới việc xây dựng những tiểu thuyết lớn. Vì
lẽ đó, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông tập trung bàn luận khá kỹ
về tiểu thuyết, về thơ, kịch nhưng không có những bài khảo luận riêng
về ký.
Phạm Quỳnh quan niệm ký là loại văn ghi chép những chuyện có
thật mà không bịa đặt. Cốt truyện trong ký không cần phải hư cấu, bố trí
mà diễn ra theo trật tự thời gian tuyến tính. Nó là dạng “sơ thảo” nhất
của thể loại tiểu thuyết. Đặc biệt ở thể tài du ký, nội dung của nó là kể
lại những điều “mắt đã được trông, tai đã được nghe, tinh thần đã cảm cái
hồn xưa của loài giống, thân thể đã gội cái khí thiêng của núi sông” [5,
số10] hoặc những điều quan sát được ở xứ người cho quốc dân. Mục đích
của việc ghi chép, kể lại không nhằm “khoe với ai cái văn chương sốc nổi,
chỉ muốn đem lời thành thực mà giãi bày bàn bạc cùng quốc dân, hoặc
lòng nhiệt thành có người cảm, lời bàn ngay có kẻ nghe”
Như vậy, mục đích của Phạm Quỳnh khi mở mục du ký trên báo Nam
Phong, mà bản thân ông là người nhiệt tình tham gia sáng tác, không ngoài
việc cổ vũ, hô hào, khuyến khích sự ghi chép của những người du lịch
57
với mục đích vừa rèn luyện câu văn quốc ngữ, tập sự cho việc xây dựng
những tác phẩm tiểu thuyết qui mô sau này, vừa lĩnh hội và truyền đạt
những tri thức văn hóa cho quốc dân trong một thời đại đầy những biến
động, đổi thay của đất nước. Có phải vì thế chăng mà trong các thiên du
ký của mình, những điều ông phản ánh đều là những vấn đề thuộc về văn
hóa? Mười ngày ở Huế là những hình ảnh về miền đất đế đô, với những
nỗi niềm về lịch sử, văn hóa của dân tộc đã trở thành ám tượng trong
tiềm thức con người. Một tháng ở Nam Kỳ là cảm xúc vui sướng và tin
tưởng ở tương lai của tổ quốc về một vùng đất phì nhiêu, giàu có với
những con người thuần phác, chân thành. Pháp du hành trình nhật ký là
cảm tưởng chân thành về một xứ sở hoa lệ, với những điều mới lạ của
một nền văn minh mà nhiều người dân ta chưa hề biết…
Từ các tác phẩm du ký của ông, ta nhận thấy Phạm Quỳnh có một
tư tưởng hết sức tiến bộ về văn hóa. Ông mong mỏi tiếp thu tinh hoa văn
minh phương Tây để xây dựng văn hóa mới của nước nhà, nhưng đồng
thời tha thiết chủ trương giữ gìn những giá trị truyền thống của dân tộc,
chống sự lai căng, mất gốc. Trong Pháp du hành trình nhật ký, tác giả nói
rất rõ ràng suy nghĩ của ông:
“Nếu dân Việt Nam là một dân mới có, chưa có nền nếp, chưa có lịch
sử gì thì quý quốc cứ việc hóa theo Tây cả, dạy cho học chữ Tây hết cả,
đồng hóa được đến đâu hay đến đó. Nhưng ngặt thay, dân Việt Nam không
phải là một tờ giấy trắng muốn vẽ gì vào cũng được; tức là một tập giấy
đã có chữ sẵn từ đời nào đến giờ rồi. Nếu bây giờ viết lên thì e thành giấy
lộn mất”
Các thiên du ký của Phạm Quỳnh sử dụng đủ các lối văn, từ kể
chuyện, tả cảnh, tả tình, đến đối thoại, độc thoại… Nhờ sự phong phú
của các lối văn đó, người đọc không chỉ cảm nhận được những điều mới
lạ ở xứ người qua lời kể của tác giả, mà còn hiểu được tình cảm cũng như
tâm sự đời tư của ông. Như vậy, theo ông, ngôn ngữ ký là loại ngôn ngữ
58
linh hoạt và sinh động; giọng điệu ký không bắt buộc đơn nhất mà có thể
tùy thuộc với từng hoàn cảnh, sự việc tác giả chứng kiến và tái hiện.
Trong bài du ký Một tháng ở Nam Kỳ, khi so sánh về tính cách của hai
cuộc du lịch ở Huế và Nam Kỳ, tác giả viết:
“Lần trước là đi vãn cảnh một nơi đất cũ, còn đầy những dấu tích
đời xưa, mỗi bước như động đến tấm lòng hoài cổ, chạnh những nông nỗi
cố hương; nghe tiếng chim kêu trên bãi cát mà nỗi thương nước nhớ nhà
không thể cầm được, ngắm bức phong cảnh chốn tôn lăng mà lòng cảm
hoài về lịch sử như chan như chứa; bao nhiêu những giọng ngậm ngùi ai
oán thủa bình sinh không ngờ mà lâm li trên tờ giấy, khiến người đọc
cũng phải lạnh lẽo trong lòng.(…) Lần này thì thật khác: cái khí vị lạnh
lẽo kia đã đổi ra cái khí vị nồng nàn rồi. Nam Kỳ là một nơi đất mới,
mới đủ đường: địa chất, lịch sử, văn hóa đều là mới cả; người ta đương
hăm hở về đường tiến thủ, muốn bước cho chóng, lên cho mau, chưa từng
bận lòng đến những nỗi thương cũ tiếc xưa, phiền xa buồn muộn. Đất
cũng không từng có những dấu vết cũ, như tòa thành cổ, góc miếu xưa,
đủ nhắc cho người ta tấm lòng nhớ cũ, mà chỉ mênh mang những đồng
rộng không cùng, sức người mở mang không xuể. Lại thêm Tạo vật đãi
người quá hậu, cho cái đất kia phì nhiêu có một, cách làm ăn không khó
nhọc mà đường sinh hoạt được thảnh thơi; tiền bạc đã nhiều, tiêu dùng
càng lắm, đời người như lấy sự khoái lạc làm cái mục đích không hai.
Khoái lạc lại khoái lạc mà suốt năm như bữa tiệc một ngày! Cho nên cái
cảm giác của người mới bước chân tới đây là cái cảm giác vui, vui mà
tin cậy ở cái tương lai, chớ không phải buồn mà thương tiếc cho sự ký
vãng.
Ấy hai cuộc du lịch khác nhau như thế, lời kỹ thuật tất cũng không
in một giọng” (Nam Phong số 17).
Tóm lại là về truyện ngắn cũng như ký, quan niệm của Phạm Quỳnh
59
còn có phần đơn giản. Ông coi chúng là những dạng sơ thảo, bước đầu
của tiểu thuyết. Sáng tác truyện ngắn và ký là nhằm luyện tập câu văn
quốc ngữ và là bước đầu để tiến đến xây dựng tiểu thuyết.
Ngoài ra có rất nhiều tác giả và trong mỗi số Nam Phong đều có nhiều
trang dành cho các cuộc du ngoạn, các bài phóng sự ghi lại những điều mắt
thấy tai nghe, tả cảnh đất trời cũng như đời sống hàng ngày, ví như những
bài: “Lời cảm cựu của mấy ngày chơi Bắc Ninh” (Nam Phong số 100,
tháng 10-1925); “Bà Nà du ký” của Huỳnh Thị Bảo Hòa (Nam Phong, số
163, tháng 6-1931).
2.2.2.4. Kịch
Kịch là một loại hình nghệ thuật vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn
học. Đây là một loại hình nghệ thuật còn hết sức mới mẻ đối với văn học
Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX. Do vậy việc viết bài biên
khảo để giới thiệu những kiến thức mang tính lý luận về kịch là điều hết
sức cần thiết. Phạm Quỳnh đã nói rõ điều này trong phần mở đầu công
trình Khảo về diễn kịch của mình:
“Từ ngày hội Khai trí tiến đức khai diễn bài Bệnh tưởng là một bài
hí kịch trong cổ bản nước Pháp, quốc dân đã thấy khuynh hướng về lối
kịch mới, người xem kịch đã nhiều và người soạn kịch cũng có. Sự nhiệt
thành ấy là hay, nhưng mà lệ thường ở nước ta, những người bắt chước
có ý thức thời ít, những kẻ bắt chước để a dua thời nhiều; cho nên thấy
nhiều người cổ võ về tân kịch, vị tất đủ chứng rằng nhiều người đã hiểu
hết tinh thần của kịch mới vậy”
Với tư cách là người hướng đạo cho sự hình thành và phát triển một
loại hình văn học mới, trong bài khảo cứu của mình, Phạm Quỳnh đã cung
cấp cho người đọc một hệ thống lý thuyết cơ bản và tương đối đầy đủ về
kịch: khái niệm, đặc trưng, đặc điểm nội dung hình thức, phân loại
kịch…
Khái niệm “Kịch” (tiếng Pháp: Drame), hay thể loại kịch (Genre
60
dramatique) xuất phát từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “hoạt động”. Theo
đó, Phạm Quỳnh đưa ra khái niệm về kịch như sau: “Diễn kịch là một lối
văn chương bày diễn ra một việc gì hoặc có thực, hoặc đặt ra, bằng
những vai người hành động và nói năng hiển nhiên như thực. Diễn kịch
có ba lối chính: một là bi kịch (tragédie), hai là hí kịch (comédie), ba là
nhạc kịch (opéra)”
Ngoài những bài viết quan trọng và có ý nghĩa về thơ, tiểu thuyết,
Phạm Quỳnh quan tâm đến sự hình thành và phát triển của thể loại kịch nói
trong văn học hiện đại Việt Nam. Quan niệm về kịch của ông được thể
hiện rải rác trong các bài viết: Một tháng ở Nam Kì, Một sự thí nghiệm đã
nên công, Pháp du hành trình nhật ký, Thuật chuyện du lịch ở Pháp…,
đặc biệt là công trình Khảo về diễn kịch.
Là người nhạy cảm với các hoạt động văn học, năm 1918, trong
bài Một tháng ở Nam kỳ, Phạm Quỳnh viết: “Nay muốn cho nghề diễn
kịch nước ta phát đạt được thì phải quyết chí cải cách mới xong. Thứ nhất,
phải phân biệt chốn kịch trường với nhà ca quán và nơi võ đài, cho nghề
tuồng, nghề hát, nghề múa mỗi nghề thông một cõi, nghề nào giữ cho
thuần cái tôn chỉ, cái tinh thần của nghề ấy, không lẫn lộn với nhau, thì
mỗi nghề mới phát đạt đến cực điểm được”. Như vậy, Phạm Quỳnh đã chỉ
rõ yêu cầu, điều kiện để phát triển nền sân khấu kịch nói lúc bấy giờ. Theo
ông, để xây dựng nền kịch nói, một mặt, lấy cái tinh thần trong kịch
phương Tây để gây dựng thành một hình thức nghệ thuật biểu diễn mới,
mặt khác, song song phát triển các loại hình sân khấu truyền thống sao cho
loại hình nào cũng có chỗ đứng của nó. Hay nói như PGS. Tiến sĩ Phan
Trọng Thưởng: “Sự ra đời của kịch nói không dẫn đến sự tận diệt của
Tuồng, Chèo mà trái lại dẫn đến sự cách tân hai thể loại này để cùng tồn
tại”. Phạm Quỳnh cũng chỉ rõ sự khác nhau giữu kịch nói và sân khấu
truyền thống là ở hình thức ngôn ngữ. Tuồng, Chèo là múa và hát, còn kịch
nói là hành động và đối thoại. Sau bài Một tháng ở Nam Kỳ (1918), tháng
61
tư năm 1920 Phạm Quỳnh viết Một sự thí nghiệm đã nên công đánh giá
vở Người bệnh tưởng do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, được công diễn lần đầu
ở Việt Nam. Có thể thấy, Phạm Quỳnh là người rất quan tâm đến xây dựng
nền kịch nói ở nước ta.
Cho đến trước năm 1921, ở Việt Nam chưa xuất hiện những nhà viết
kịch chuyên nghiệp, lối văn này cũng mới chỉ vào Việt Nam thông qua một
số tác phẩm dịch của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Xét về đóng góp
của Phạm Quỳnh ở lĩnh vực lí luận kịch, trước hết phải kể đến công lao
của ông trong dịch kịch bản Pháp. Ông dịch Le Cid của Corneille thành
tuồng Lôi Xích (Nam Phong số 38, 39), dịch Horace của Corneille
tuồng Hòa Lạc (Nam Phong số 73, 74, 75), dịch Trò chơi tình yêu và
ngẫu nhiên của Marivaux thành Chàng Ngốc hóa khôn vì tình… Mục
đích của Phạm Quỳnh khi dịch kịch nói Pháp là nhằm giới thiệu cho độc
giả Việt Nam làm quen với một thể loại văn học mới và mong muốn học
tập để sáng tác. Phạm Quỳnh còn đưa lí luận sáng tác kịch từ phương Tây
vào Việt Nam giúp các nhà soạn kịch nước ta có cơ sở để sáng tạo nên
những tác phẩm kịch nói đầu tiên. Những vấn đề lí luận này được thể hiện
tương đối rõ qua bài viết Khảo về diễn kịch. Trong bài viết này, ông chỉ
rõ: “diễn kịch cũng như tiểu thuyết, diễn thuyết, là những lối văn chương
mới ngày nay, nhiều người ưa nhưng ít người hiểu phép tắc ra thế nào”.
Như vậy, soạn Khảo về diễn kịch, ông muốn đem đến cho những người
yêu thích, quan tâm đến thể loại văn học này một cái nhìn toàn diện, chính
xác từ phương diện lí luận.
Theo Phạm Quỳnh, ở giai đoạn phát triển thứ nhất của nghề diễn kịch
thì nó phải có quan hệ với luân lí đạo đức, khi phát triển cao hơn nó mới
thoát li dần ra khỏi luân lí và hướng về đường mĩ thuật, nhưng đây là một
quá trình phát triển lâu dài. Thực ra, quan niệm này đã thể hiện ngay trong
việc Phạm Quỳnh lựa chọn dịch kịch Corneille. Chọn bi kịch của
Corneille, nghĩa là ông quan tâm nhiều hơn đến lối văn chương gắn với
62
luân lí đạo đức. Ông cho rằng, Corneille là ông tổ nghề diễn kịch ở Pháp,
chuyên về lối bi kịch. Đặc điểm kịch Corneille là nghiên về vấn đề luân lí
xã hội “Đại ý các bài tuồng của ông là tả những cái thủ đoạn anh hùng của
các bậc siêu quần, bạt chúng và thường là tả tình dục phản đối với nghĩa
vụ, mà sau nghĩa vụ thắng đoạt được. Các bài tuồng của ông có thể cho là
những bài dạy đạo đức rất cao thượng”. Và khi nhìn nhận giá trị kịch của
Racine, ông cũng đề cập đến khía cạnh giáo huấn đạo đức mà ca ngợi
“Ông tả về nhân tình thế thái một cách sâu sắc… Racine không có dạy đạo
đức cho người ta, nhưng ông thuộc tâm lí người ta không ai bằng. Đọc
những bài bi kịch của ông cũng có thể khôn người ra”.
Có thể thấy, Phạm Quỳnh đã đề cao thể loại kịch nói và hoạt động
diễn kịch, có công giới thiệu, đưa thêm một thể loại nghệ thuật của phương
Tây vào văn học nước nhà. Nhưng giới hạn mục đích của kịch vào phạm vi
luân lí đạo đức, vô tình Phạm Quỳnh đã bó hẹp phạm vi đời sống của kịch
nói. Đây là điểm hạn chế, song đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ, cái công của
Phạm Quỳnh đối với kịch nói Việt Nam không phải là nhỏ.
Trong bài của Phạm Quỳnh tường thuật buổi diễn kịch nói đầu tiên
của Việt Nam ta tại chính nhà hát này nhan đề Một sự thí nghiệm đã nên
công – Cuộc diễn kịch của “Hội Khai Trí Tiến Đức”, đăng trên báo Nam
Phong năm 1920, sau này đưa vào tập Thượng Chi văn tập. Ngày 25
tháng tư năm 1920 sẽ thành một ngày đáng kỷ niệm trong lịch sử Hội
“Khai Trí Tiến Đức”, trong lịch sử diễn kịch ở nước ta, trong lịch sử quốc
văn ta nữa.
Một bản cổ kịch Pháp dịch ra tiếng Việt Nam, tại nhà hát Lớn Hà Nội,
Hội “Khai Trí Tiến Đức” chủ trương để trợ quyên vào Hội “Đông Dương
kỷ niệm” bên Pháp. Bản kịch ấy là một hài kịch của Molière, tay danh kịch
nước Pháp về thế kỷ thứ 17, người dịch là ông Nguyễn Văn Vĩnh, một nhà
Tây học có tiếng ở Bắc kỳ, và người diễn là một ban tài tử vì nhiệt thành
về sự nghiệp cải lương (đổi mới – PT chú) diễn kịch mà dám đánh bạo
63
đảm đương một việc rất mới lạ, xưa nay chưa ai làm bao giờ. Ông Nguyễn
Văn Vĩnh bắt đầu dịch mấy bản kịch của Molière đã ba bốn năm trước,
đăng trong Đông Dương tạp chí. Chủ ý ông là muốn dịch rồi đem ra diễn
trên sân khấu; để giúp việc cải lương diễn kịch ở nước ta, nên cách ông
dịch là thoát dịch, cốt lấy ý và lời cho gọn tiếng ta, có thể đem ra diễn
được, không câu nệ đúng như nguyên văn chữ Pháp.
Ngoài ra còn một số những vở hài kịch hay bi kịch viết theo thể “hát
chèo” do Nguyễn Thúc Khiêm sáng tác dưới các nhan đề “Xuân Hương
khóc cay chàng Tổng Cóc” (Nam Phong số 135, 136, tháng 11, 12-1929)
và “Tô Thị chết đắng anh kỳ lừa” (Nam Phong số 138, tháng 5-1929);
hay hơn nữa là “Bích câu kỳ ngộ” (Nam Phong số 179-181, từ tháng 12-
1932 đến tháng 2-1939).
Theo Phạm Quỳnh, tôn chỉ của kịch trong thời kỳ đầu là thực hiện
chức năng giáo dục đạo đức, bảo vệ luân lý. Trong văn học hiện đại, tiểu
thuyết và kịch thường không thiên về nội dung đạo đức, luân lý mà chỉ
chú trọng về mặt nghệ thuật. Nước ta bấy giờ còn kém châu Âu về mọi
mặt, nhất là về văn học. Do vậy tiếp thu các thể loại kịch và tiểu thuyết
của châu Âu, ta nên bắt chước những thành quả của mấy trăm năm
trước, không nên mô phỏng lối tiểu thuyết và kịch hiện thời để khỏi hại
đến luân lý, đạo đức.
2.2.2.5. Lý luận phê bình văn học
Trên Nam Phong thể loại phê bình văn chương được phát triển theo
một đà tiến mới. Sau khi các bài phê bình đăng trên Nam Phong như: Dưới
bút hiệu Phạm Quỳnh có: (Bình phẩm “Một tấm lòng” của Đoàn Như
Khuê, Nam Phong, số 3, tháng 8-1917); Bút hiệu Trịnh Đình Rư có: (Bình
phẩm thơ văn cùng sách mới – Sách “Ngọn đèn khuya” của Nguyễn Mạnh
Bổng, Nam Phong số 18, tháng 12-1918); Bút hiệu Nguyễn Mạnh Bổng (
Bình phẩm sách “Khối tình” của Nguyễn Khắc Hiếu, Nam Phong số 17,
tháng 11-1918).
64
Trong cấu trúc của đời sống văn học, lý luận phê bình đóng vai trò
hướng đạo cho các hoạt động sáng tác và tiếp nhận. Ở phương diện này,
trong giai đoạn giao thời của văn học Việt Nam, Phạm Quỳnh được xem
là “một đạo sư văn nghệ mới”.
Những bài khảo luận của Phạm Quỳnh về các tác giả Pháp, những bài
này khảo sát này đã thức dậy nghệ thuật phê bình, đồng thời đưa ra những
kiểu mẫu khơi nguồn cho thế hệ ký giả trẻ.
Khảo sát các công trình lý luận, phê bình văn học của Phạm Quỳnh,
trước hết chúng ta nhận thấy tác giả đã có những quan niệm đúng đắn và
nhất quán về vai trò chức năng cũng như ảnh hưởng của hoạt động lý luận
phê bình đối với văn học. Xuất phát từ mục đích xây dựng và phát triển
nền văn mới trên cơ sở tiếp thu những tri thức văn học hiện đại của
phương Tây, đồng thời bảo tồn, kế thừa những thành tựu xuất sắc của văn
học dân tộc, Phạm Quỳnh chủ trương lý luận phê bình phải làm nhiệm vụ
đánh giá, sửa chữa, uốn nắn, khuyến khích và hướng đạo cho văn học.
Không bằng lòng với lối phê bình văn học theo kiểu tán dương,
“điểm nhãn” của lý luận phê bình cũ, Phạm Quỳnh chủ trương cần phải
dùng phương pháp phê bình khảo cứu của văn học phương Tây mới có
thể tìm hiểu và đánh giá được những giá trị đặc sắc của tác phẩm văn học.
Trong nhận thức của ông, nhiệm vụ của lý luận phê bình trước hết là
nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá một cách đầy đủ và đúng đắn những giá trị
đặc sắc của tác phẩm văn học. Điều ấy chỉ có thể thực hiện được với
phương pháp của lý luận phê bình Phương Tây. Với nhận thức như vậy
nên ông đi tiên phong vận dụng phương pháp nghiên cứu văn học của
phương Tây vào việc phê bình các tác phẩm văn học cổ Việt Nam. Trong
bài nghiên cứu về Truyện Kiều, năm 1919, Phạm Quỳnh nói rõ là
“không thể lấy cái tỉ lệ thường của văn chương Nôm mà xét được. Phải
dùng phép phê bình khảo cứu của văn học Thái Tây mới mong phát
biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của một nền tuyệt tác
65
trong quốc văn Việt Nam ta”. Nghiên cứu về Tục ngữ ca dao, Phạm
Quỳnh cũng áp dụng triệt để phương pháp nghiên cứu phê bình của văn
học phương Tây như vậy.
Đối với các tác phẩm văn học mới trong nước, quan điểm của
Phạm Quỳnh là đánh giá một cách đúng mức những tiến bộ, những
thành tựu ban đầu của các tác giả nhằm khuyến khích, đồng thời chỉ ra
những hạn chế nhằm uốn nắn sửa chữa. Với quan niệm như vậy nên
trong tất cả các bài phê bình của Phạm Quỳnh ta luôn bắt gặp một thái
độ chừng mực, lịch sự. Chỗ khen, ông khen một cách nhiệt tình, sôi nổi;
chỗ chê, ông chê một cách nhẹ nhàng, lịch sự. Chẳng hạn như đối với
các tác phẩm Khối tình con, Giấc mộng con của Tản Đà, Một tấm lòng
của Đoàn Như Khuê, Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn…
Không chỉ làm nhiệm vụ nghiên cứu, đánh giá, sửa chữa, uốn nắn,
khuyến khích cho văn học phát triển, Phạm Quỳnh còn rất chú trọng đến
nhiệm vụ của lý luận phê bình phải cung cấp cho văn học những “cái
thuật”, tức hệ thống lý thuyết, bao gồm những thuật ngữ, khái niệm thể
loại, phương pháp sáng tác,… tức hướng đạo cho hoạt động sáng tác văn
học. Phạm Quỳnh là người đã giới thiệu và cung cấp cho văn học Việt Nam
những lý thuyết và khái niệm cơ bản về nhiều thể loại văn học. Trong các
bài biên khảo về các thể loại kịch, tiểu thuyết, tác giả không chỉ giới
thiệu nguồn gốc ra đời, vai trò xã hội, chức năng nghệ thuật của các thể loại
mà còn đi sâu vào những vấn đề “kỹ thuật” thuộc về đặc trưng thể loại.
Chẳng hạn khi bàn về diễn kịch, bên cạnh việc trình bày về nguồn gốc, ý
nghĩa của kịch, Phạm Quỳnh giới thiệu khá kỹ lưỡng những yếu tố cốt yếu
của việc soạn kịch.
Tóm lại, có thể nói Phạm Quỳnh là một nhà lý luận phê bình xuất sắc
của văn học Việt Nam trong buổi giao thời. Với những quan niệm tích cực về
vai trò, chức năng của lý luận phê bình như đã phân tích ở trên, Phạm Quỳnh
đã có những đóng góp giá trị cho lý luận và thực tiễn sáng tác cũng như tiếp
66
nhận thưởng thức văn học trong thời kỳ đầu.
Tiểu kết.
Trong 15 năm chủ trương tạp chí Nam Phong, Phạm Quỳnh đã xây lắp
cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng những bài bình luận, khảo cứu
hết sức công phu…Muốn hiểu những vấn đề đạo giáo, muốn biết văn học sử
cùng học thuật, tư tưởng nước Tàu, nước Nhật, nước Pháp, muốn đọc thơ ca
Việt Nam từ đời Lý, Trần, cho đến ngày nay, muốn biết thêm về lịch sử nước
Nam, tiểu sử các đấng danh nhân nước nhà… chỉ có đọc Nam Phong, là có thể
hiểu biết được. “… Một người chỉ biết đọc Quốc ngữ mà có khiếu thông minh
có thể dùng tạp chí Nam Phong để mở mang học thức của mình.”
Đối với công cuộc xây dựng và phát triển nền văn học Việt Nam theo
hướng hiện đại trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, Phạm Quỳnh với vai
trò là một trong những nhà văn đi tiên phong, đã có những đóng góp
nhất định, cần được ghi nhận. Sự đóng góp ấy, thể hiện trên nhiều lĩnh
vực văn học: Tiếp tục công cuộc truyền bá chữ quốc ngữ đã được khởi
xướng ở giai đoạn trước, cải tiến câu văn quốc ngữ, xây dựng và phát triển
nền quốc văn; phát triển phong trào dịch thuật; giới thiệu những khái niệm
cơ bản, mang tính lý luận về đặc điểm, kết cấu, nguyên tắc xây dựng các
67
thể loại văn học cũng như việc phát triển các thể loại đó.
CHƢƠNG 3
CÁC TÁC GIẢ ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC TRUYỀN BÁ VĂN
HÓA, VĂN HỌC PHÁP – CHÂU ÂU TRÊN NAM PHONG.
3.1. Chủ nhiệm kiêm chủ bút Phạm Quỳnh (1892 - 1945).
(Bút danh: Thượng Chi; Hồng Nhân; Hoa Đường; Lương Ngọc).
Phạm Quỳnh sinh tại Hà Nội, số nhà 17 phố Hàng Trống, sinh ngày 17
tháng 12 năm 1892 năm Nhâm Thìn theo âm lịch. Gia đình khi đó từ biệt
làng Lương Ngọc để lên Hà Nội lập nghiệp, và Phạm Quỳnh đã ra đời,
khôn lớn và học hành tại Hà Nội.
Nguyên quán họ Phạm này vốn ở làng Lương Ngọc, phủ Bình Giang,
nay là xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Thân phụ là
Phạm Hữu Điển đỗ tú tài nho học, thân mẫu là Vũ Thị Đoan. Phạm Quỳnh
mồ côi mẹ từ khi mới chín tháng tuổi, và đến năm 9 tuổi, lại mồ côi cha,
sống trong tình yêu thương và sự chăm sóc dạy dỗ của bà nội từ nhỏ. Năm
1908, Phạm Quỳnh tốt nghiệp thủ khoa Trường trung học Bảo Hộ (Collège
du Protectorat), ra làm thông ngôn tại Trường Pháp quốc Viễn Đông Bác
Cổ Hà Nội (École Française d‟Extrême-Orient). Một năm sau, năm 1909,
kết duyên với cô Lê Thị Vân, sinh cùng năm 1892, nguyên quán làng Thọ
Vực, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Có lẽ, với tài năng, tư chất của
một người đỗ “thủ khoa” và đã có những năm tháng làm việc ở nơi viện
sách Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, được tiếp cận với bao nhiêu sách vở, tri
thức Đông Tây kim cổ, Phạm Quỳnh sớm trở thành một người có học vấn
uyên bác? Trí thức Bắc Hà thời đó đã suy tôn “Tràng An tứ hổ”, gồm bốn
học sinh xuất sắc nhất trường Thông ngôn Hà Nội là: “Vĩnh – Quỳnh – Tố
– Tốn”. (“Vĩnh – Quỳnh – Tố – Tốn”: Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Tố, Phạm Duy Tốn).
Hiện nay có rất nhiều những bài viết, công trình nghiên cứu viết chi
68
tiết về cuộc đời của Phạm Quỳnh. Trong khuôn khổ bài luận văn này,
chúng tôi chỉ trình bày những đóng góp của ông trong công cuộc tiếp nhận
văn hóa, văn học Pháp với tư cách là chủ bút Tạp chí Nam Phong.
Năm 1917 Nam Phong chào đời, đối với Phạm Quỳnh tạp chí trở
thành một phương tiện khả dĩ giải thoát ông khỏi vòng vây của cô đơn.
Cũng như lịch sử cổ kim đã từng chứng tỏ khía cạnh này của nghề làm báo.
Giữa các độc giả và Phạm Quỳnh, một sợi dây cảm thông được tạo nên,
dưới hình thức một cuộc đối thoại (kể từ số 26 tháng 4 năm 1919, Nam
Phong đã đặt ra mục “thư cho người bạn”). Ông nhận thấy mỗi cuộc bút
chiến đã dạy cho ông biết phải làm thế nào để truyền bá tư tưởng và truyền
cảm tâm tư.
Có thể nói Nam Phong chẳng khác nào một trường học, qui tụ một số
môn sinh. Trong môn phái đó, một tiếng nói Việt Nam tiến bộ được rèn
luyện, một nền văn hóa canh tân được chủ trương.
Trọn đời Phạm Quỳnh không hề sáng tác một bài thơ hay một cuốn
tiểu thuyết. Mặc dù tự học về chữ Nho, ông rất khắt khe trong việc áp dụng
những khuôn phép cổ truyền, hơn các vị khoa bảng xuất thân từ các kỳ thi
hương hội. Ông không chấp nhận “nghệ thuật vì du hí” mà cũng không tán
thành “nghệ thuật vì nghệ thuật”. Phần khác do văn hóa Pháp đào tạo, ông
không chủ trương nền văn chương sáo ngữ, chứa đầy những dẫn văn hay
hình bóng vay mượn trong lịch sử Trung Hoa và Việt Nam. Tác luyện một
nền văn hóa mới thuần túy Việt Nam, rèn luyện sao cho tiếng nói của đất
nước có đủ khả năng diễn tả những tư tưởng mới và những kiến thức mới.
Đó là những tôn chỉ giáo huấn mà Phạm Quỳnh chủ trương trên Nam
Phong.
Từ năm 1917 đến năm 1932, Phạm Quỳnh làm Chủ nhiệm kiêm chủ
bút tạp chí Nam Phong, phụ trách lớp dạy về Ngôn ngữ và văn chương
Hán Việt tại Trường cao đẳng Hà Nội từ năm 1924 đến năm 1932. Ông là
người sáng lập và là Tổng thư ký Hội Khai trí tiến đức tại Hà Nội, Hội
69
trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ từ năm 1925 – 1928, Phó Hội trưởng Hội địa dư
Hà Nội năm 1931 và Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ Xã hội Bắc kỳ năm
1931-1932. Ngày 11 tháng 11 năm 1932, Phạm Quỳnh được Hoàng đế Bảo
Đại bổ nhiệm chức Thượng thư kiêm Ngự tiền Văn phòng, rồi đến ngày 02
tháng 5 năm 1933, được bổ nhiệm chức Thượng thư Bộ Quốc gia Giáo
dục, kết thúc thời kỳ làm chủ bútTạp chí Nam Phong từ số 198 năm 1932.
Chức vụ chủ bút Nam Phong tạp chí lúc đầu chuyển giao cho Nguyễn
Trọng Thuật, rồi tiếp đến Lê Văn Phúc và sau cùng được chuyển sang tay
người con rể của ông là Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng, một người rất giỏi
tiếng Pháp và am hiểu văn hóa Tây phương. Bên cạnh đó, là sự trợ giúp
của các nhà Hán học nổi tiếng: Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Tùng Vân
Nguyễn Đôn Phục, Lê Dư, Bùi Kỷ, Nguyễn Tường Tam… Nhưng cho dù
ai chủ nhiệm, quản trị và dù có cố gắng thế nào đi nữa, thì sự nghiệp
của Nam Phong tạp chí cũng đành phải dừng lại ở tháng 12 năm 1934, với
210 số! Bởi vì, về chủ quan, hành trình 17 năm 6 tháng cho “cuộc đời” của
một tạp chí ở vào giai đoạn trước Cách Mạng Tháng Tám, cũng là một
hành trình khí dài, trí cũng cùng và lực đã kiệt. Song, dù sao Nam Phong
tạp chícũng đã đi trọn con đường lịch sử của nó. Bằng vào những bài viết
của Phạm Quỳnh thuộc nhiều lĩnh vực nói chung và phần văn học nói
riêng, về cơ bản chúng tôi đánh giá cao vai trò của Phạm Quỳnh và tạp
chí Nam Phong trong việc xây dựng nền quốc học và quốc văn cho nước
nhà hồi đầu thế kỷ XX…Đọc văn Phạm Quỳnh ta “đọc” được tư tưởng,
tình cảm và lòng khát khao của ông về việc xây dựng một nền quốc học,
quốc văn mới cho nước nhà những năm đầu thế kỷ XX. Trước đây, vì
nhiều lý do khác nhau, đã có những nhận định như những tảng đá nặng đè
lên cuộc đời và văn nghiệp của Phạm Quỳnh. Không nên lật ngược lại
hoàn toàn điều đó, nhưng cũng không nên quá “ám ảnh” vào những điều
đó. Vấn đề là, đến nay chúng ta đã có đủ điều kiện để nghiên cứu trong
một không gian rộng lớn, cái nhìn tỉnh táo hơn, thì cần có điều chỉnh và
70
xem xét lại một cách công bằng, khoa học hơn. Khoa học trước sau vẫn
phải được nhìn nhận bằng cái nhìn khoa học… Xét riêng về văn học, thật
khách quan để nhìn nhận, những gì Phạm Quỳnh làm được và để lại cho
đời, cứ xem vào quá khứ buổi quốc văn còn sơ khai hồi đầu thế kỷ XX cho
đến nay, đều là rất đáng quý. Ảnh hưởng lâu dài của văn trên Nam
Phong và văn nghiệp của Phạm Quỳnh đối với sự phát triển của nền văn
học nước nhà đã có nhiều người khẳng định. Chúng tôi ghi nhận ở ông chủ
bút Phạm Quỳnh, là một người tài hoa, uyên bác, một tấm lòng trải gần 18
năm khát khao “phụng sự cái chủ nghĩa bồi đắp cho nền quốc văn” đầy
nhiệt thành của ông. Ông là một nhà văn lớn, một học giả lớn về văn hóa,
văn học của nước ta giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tấm lòng của ông, công sức
của ông đối với văn hóa, văn học của dân tộc ta ở vào giai đoạn “tìm
đường” ấy, là rất đáng được những lớp người của thế kỷ XXI khẳng định,
tôn vinh. “Dạ đài cách mặt khuất lời…” (Nguyễn Du – Truyện Kiều).
Lịch sử văn học Việt Nam đến nay cần nhìn nhận ông như những tác giả
khác đầu thế kỷ XX. Đằng sau những bài viết có giá trị học thuật khá cao,
mà ở vào giai đoạn bấy giờ ít có người nào có được một tri thức thâm viễn
như ông, là hình ảnh của ông. Ông mong ước qua việc kiến thiết vững
vàng nền quốc học, quốc văn mà dân trí ta ngày một mở mang, đất nước ta
ngày một đi lên, từ đó sẽ dần dần tiến tới tương lai văn minh, tươi sáng cho
dân tộc trong những ngày đau thương của đất nước.
Từ những tìm hiểu về quan niệm văn hóa của Phạm Quỳnh, Vương
Trí Nhàn đã đi đến kết luận "Phạm Quỳnh đáng được coi là một trong số
nhân vật tiêu biểu của quá trình tiếp nhận văn hóa..., ít ra là ở giai đoạn đầu
của sự tiếp nhận ấy. Người ta thường chỉ nghĩ đến ông như một trong
những người có cơ sở Tây học vững chắc, song sự thực là trong cái môi
trường Hán Việt rộng lớn lúc ấy, Hán học đã thấm vào ông, cả hai nền văn
hóa Đông Tây kết hợp ở ông khá nhuần nhị. Tiếp nối sự nghiệp của những
Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của... ông thuộc loại xây nền đắp móng cho
71
nền văn hóa mới. Không hề có sự chuyển giao chính thức, song ông đã làm
những việc cụ thể để biến ước mơ của các nhà nho đầu thế kỷ, như Phan
Chu Trinh và các yếu nhân Đông Kinh Nghĩa Thục trở thành hiện thực.
Khốn thay những điều tâm huyết ấy lại được Phạm Quỳnh thực hiện trong
vòng tay của kẻ cướp nước". Nhưng cuối cùng với những phân tích mà ông
gọi là "công bình, khoa học, cận nhân tình", Vương Trí Nhàn đã "ngần
ngại" nói ra một thực tế "Phạm Quỳnh còn yêu nước, và đó là một kiểu yêu
nước ở thời của ông, theo cách của riêng ông" rồi đi đến một "kết luận khái
quát: khi một người có hoạt động thực sự trên lĩnh vực văn hóa, trở thành
có đóng góp về văn hóa, người đó nhất thiết phải có tình cảm tốt đẹp và
sâu sắc với dân tộc, với đất nước".
Phạm Quỳnh đã thực hiện đúng chủ trương văn hóa của ông. Chủ
trương đó được Phạm Quỳnh trình bày trong "Mấy nhời nói đầu", Nam
Phong số 1, tháng 7-1917: "Cái mục đích của bản báo là muốn gây lấy một
nền học mới để thay vào cái nho học cũ, cùng đề xướng lên một cái tư trào
mới hợp với thời thế cùng trình độ dân ta. Cái tính cách của sự học vấn mới
cùng cái trào mới ấy là tổ thuật cái học vấn tư tưởng của Thái Tây, nhất là
của nước Đại Pháp, mà không quên cái quốc túy trong nước".
Gắn bó với Phạm Quỳnh ròng rã 18 năm là tạp chí Nam Phong. Tập
sách đã đưa ra nhiều bài viết đánh giá về đóng góp của Nam Phong trong
lịch sử báo chí Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình phát triển của nền văn
học chữ Quốc ngữ trong buổi đầu thế kỷ XX, cung cấp được một cách ngắn
gọn "Thư mục tiêu biểu của Phạm Quỳnh trong Nam Phong", tập hợp được
một số bài viết và trích đoạn bài viết từng nhận xét về tạp chí Nam Phong
từ 1941 đến nay ở cả hai miền Nam Bắc. Có người như Vĩnh Hoàn trong
bài viết "Phẩm chất Phạm Quỳnh" đã xem Nam Phong là "sào huyệt" của
Phạm Quỳnh và đưa ra một nhận định cũng rất cực đoan "Nói một cách
khác, Phạm Quỳnh là Nam Phong". Dương Quảng Hàm trong "Việt Nam
văn học sử yếu" xuất bản năm 1941 cũng từng nhận xét "Cả cái văn nghiệp
72
của ông Phạm Quỳnh đều xuất hiện trên tạp chí Nam Phong, tạp chí ấy
trong một thời kỳ, đã thành một cơ quan chung cho các học giả cùng theo
đuổi một chủ đích của ông". Phạm Thế Ngũ trong "Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên" ra đời năm 1961 ở miền Nam cũng đã đánh giá cao đóng
góp của Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong trong quá trình hình thành
nghệ thuật tiểu thuyết mới của Việt Nam. Trong bài viết "Bới tìm trong kho
tư liệu của báo Nam Phong" của Nhân Nghĩa viết năm 1941 đã từng thừa
nhận "trong suốt 18 năm trời, từ 1917 đến 1934, với 210 tập báo dày dặn đã
chứng minh điều Thiếu Sơn đã nói về báo Nam Phong "Có nhiều người
không biết đọc văn Tây, văn Tàu, chỉ nhờ Nam Phong vun đúc cũng có
được cái tri thức phổ thông tạm đủ sinh hoạt ở đời".
Trong bóng đêm đen tối của lịch sử dân tộc những năm đầu thế kỷ
XX, đặt bên những nẻo đường cứu nước của nhiều chí sĩ cùng thời, đến nay
nhin lại, chúng ta cần ghi nhận ở ông một tinh thần dân tộc và một phần
công lao không nhỏ của ông bắt nguồn từ một tấm lòng nhiệt thành đối với
nền “quốc văn”, “quốc học” của nước nhà, giữ gìn lấy cái tinh hoa của dân
tộc giống nòi, đồng thời biết tiếp nhận cái hay của người mà bồi bổ, gây
dựng lấy cho mình một nền văn hóa mới, một nền văn học mới.
Tác giả Dương Trung Quốc đã nhận định "Những vấn đề liên quan
đến sự lựa chọn thái độ với văn minh phương Tây - sự cộng tác hay chống
đối sự cai trị của chế độ thực dân luôn là vấn đề sát sườn với giới trí thức
cận đại. Những Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký hay Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh... luôn là những trường hợp có sự đánh giá trái chiều" và
cuối cùng tác giả đã kết luận "Khỏi phải phân tích dài dòng, cùng với thời
gian càng ngày chúng ta càng nhận ra, về căn bản những trí thức đều quy tụ
về một mối là hướng tới dân tộc bằng cách tiếp cận với văn hóa phương
Tây, vì với nền văn hóa ấy, chủ nghĩa thực dân chỉ là một hiện tượng lịch
sử, còn những giá trị tiến bộ, giá trị căn bản của một nền văn minh luôn là
nguồn lực cho sự phát triển, nhất là với văn minh phương Tây, những giá trị
73
dân chủ là một ưu thế mang tính chất tiên phong".
Tóm lại Phạm Quỳnh là người viết nhiều nhất trong Tạp chí Nam
Phong, Nhà văn Vũ Ngọc Phan, năm 1942, khi xuất bản sách Nhà văn
hiện đại (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, 1942, tập 1, tr.125-126), đã
dành cho Phạm Quỳnh đến hơn 33 trang sách với hết lời ca ngợi liên quan
đến những công trình khảo cứu, dịch thuật, du ký và bình luận:
“Ông là người viết nhiều nhất trong tạp chí Nam Phong. Một điều mà
người đọc nhận thấy trước nhất trong những bài biên tập và trước thuật
của ông là ông không cẩu thả… Phạm Quỳnh là một nhà văn có thể bàn
luận một cách vững vàng và sáng suốt bất cứ về một vấn đề gì, từ thơ văn
cho đến triết lý, đạo giáo, cho đến chính trị, xã hội, không một vấn đề nào
là không tham khảo tường tận trước khi đem bàn trên mặt giấy. Trong lịch
sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam
Phong, vì nếu ai đọc toàn bộ tạp chí này, cũng phải nhận là rất đầy đủ, có
thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn bộ bách khoa
toàn thư bằng quốc văn.” Trong 15 năm chủ trương tạp chí Nam Phong,
Phạm Quỳnh đã xây lắp cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng
những bài bình luận, khảo cứu hết sức công phu…
3.2. Các tác giả đóng góp trên Nam Phong.
Đồng hành cùng Phạm Quỳnh, một nhóm học giả cùng với một số văn
nhân trẻ đã từng hấp thụ văn hóa Tây phương, sốt sắng giáo huấn dân
chúng, đồng thời quan niệm không nên đoạn tuyệt với quá khứ và tập quán.
Báo chí thời đó tin rằng, thông tin và giáo dục chỉ là một. Quan niệm ấy bắt
nguồn từ Khổng học, nếu không giáo huấn thì viết báo để làm gì. Đó là
quan niệm của toàn thể ban biên tập Nam Phong. Các tác giả cố gắng có
những tư tưởng, lập luận và thể tài giống như của Nam Phong.
Khảo cứu tiểu sử của những tác giả này là một việc làm rất khó, dù có
viết hàng trăm trang giấy cũng không đủ phản chiếu nếp sống và sự nghiệp
của một tác giả. Trong số mấy chục tên các văn nhân, tác giả, chúng tôi chỉ
74
lựa chọn một số rất ít được coi là điển hình nhất. Những tác giả có nhiều
đóng góp quan trọng trong đổi mới văn học nước nhà và có tầm ảnh hưởng
xã hội.
3.2.1. Nguyễn Bá Trác (1881 – 1845) – Lối văn „ám chỉ” và “hàm súc”.
Nguyễn Bá Trác, bút danh Tiêu Đẩu, giữ vai trò là chủ bút phần Hán
tự. Tuy nhiên trong thực tế dường như ông có nhiều ảnh hưởng đối với
phần quốc ngữ. Ông xuất thân từ một gia đình văn tự, là một nhà cách
mạng chính hiệu. Sau nhiều năm bôn ba để tìm đường chiến đấu, ông sánh
vai với các nhà cách mạng quốc gia yêu nước. Sau đó ông bỏ cuộc trở về
quê hương.
Năm 1917, Nguyễn Bá Trác là đồng sáng lập viên và đồng chủ bút
Nam Phong với Phạm Quỳnh. Là một nhà văn hữu hạng, ông sử dụng thật
tài tình lối diễn tả hàm súc, là một nghệ thuật rất thịnh hành trong giới văn
nhân thời đó. Lối diễn tả nói ít hiểu nhiều hoặc hàm ý nói một đàng họ giả
hiểu theo một kiểu khác…
Những sáng tác chính của ông bằng chữ Hán – Việt và quốc văn :
- Âu Châu chiến sử.
- Hãn mạn du kí.
- Hoàng Việt giáp tý niên biểu (Bản dịch ra Việt ngữ đã được Viện
khảo cổ Sài Gòn ấn hành 1963)
Qua quá trình sáng tác tản văn, độc giả thấy ở Ông một thái độ chán
chường và hoài nghi vốn dĩ là tập quán của nhà nho. Một nhà cách mạng
hối tiếc, như đứa con hoang toàng trở về với gia đình, đang cởi mở tâm tư,
ông cảm thấy tâm hồn thơi thới vì đang đi đúng đường. Như vậy vào năm
1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả thực đóng vai
trò đàn anh, vì tuổi tác, vì danh vị đỗ cử nhân, và nhất là uy tín của một quá
khứ mạo hiểm khiến ông nổi danh và được kính trọng.
Muốn hiểu Nguyễn Bá Trác, ta đọc “Bài tự tình với Sông Hương”
trong Nam Phong số 2. Qua bài tản văn ngắn ngủi dài vừa 37 dòng. Ông sử
75
dụng nghệ thuật tinh vi lối “ám chỉ”, “hàm súc” làm cho độc giả hiểu rõ ý
nghĩa sâu xa của mình khi qui thuận. Trước đây là một nhà cách mạng quốc
gia, ông đã sống ẩn náu bên Trung Hoa, khi xa quê ông nặng lòng nhớ
nước. Khi về Kinh, ông tả cảnh Huế thời đó, khả ái, phồn vinh, cổ kính
trong ý chí canh tân:
“…Non Ngự Bình hãy còn xanh, nước Hương Giang hãy còn trong,
đình ta lâu đài mỗi ngày mỗi đẹp, công nghiệp, bản triều, gây dựng trang
nghiêm rực rỡ biết là bao..”
Ông ôn lại những kỉ niệm tháng năm thời thơ ấu, một cuộc đối thoại
với cây đa :
“…Đến bây giờ cũng thuyền ấy, cũng bến ấy, cũng quen quen, lạ lạ
mấy ả hữu tình, mà cung đàn giọng hát biết lựa làm sao, có cụm bồ đề đấy
ta xin hỏi :
“ Mấy năm nay hát bài nào?
Trăng làm sao? Nước làm sao? Hỡi chàng?
Bồ - đề nói:
Mấy năm nay tôi ở chốn này,
Khi nồng khi lạnh, khi đầy khi vơi,
Mừng nay êm gió tạnh trời.”
Tản văn tình cảm, nên thơ, nhịp nhàng như điệu nhạc, đầy hàm súc,
ám chỉ sâu xa. Ông cho rằng lịch sử chỉ là một chuỗi thăng trầm „Khi nồng
khi lạnh, khi đầy khi vơi”.
Sau này trong nhiều bài viết bằng Việt văn đăng trong Nam Phong,
Nguyễn Bá Trác còn trở lại với các bài viết “ Hãn mạn du kí” ( Nam Phong
từ số 39 – 43).
Nguyễn Bá Trác từ giã tạp chí vào khoảng tháng 9 năm 1919, để vào
Huế nhận nhiệm vụ do triều đình giao phó. Cuối đời ông hưởng cuộc sống
an nhàn nơi quê nhà thuộc phủ Điện Bàn. Năm 1945 ông bị bắt và không
76
quay trở về.
3.2.2. Nguyễn Hữu Tiến (1875 – 1941) – Nhà biên khảo, dịch thuật
tài năng.
Trong ban biên tập Nam Phong, Nguyễn Hữu Tiến chuyên về khảo
cứu và phiên dịch các tác phẩm Trung Hoa sang quốc ngữ. Nhà phê bình
Vũ Ngọc Phan, đã viết trong “Nhà văn hiện đại” tập 1, như sau :
“Ông là một nhà văn đã cho chúng ta biết về học thuyết, tư tưởng Tàu
nhiều hơn cả nhà văn lối cũ” (NXB Thăng Long, Sài Gòn, 1960, trang
139).
Nhờ những bản dịch hay của Nguyễn Hữu Tiến mà nhiều độc giả có
khi không đọc được Hán văn trong nguyên bản cũng thấu hiểu được Khổng
học. Những dịch phẩm của ông đăng trong Nam Phong, được gom lại từng
tập, dưới những nhan đề có uy tín, không cần ai phê bình hay giới thiệu.
“Mạnh tử quốc văn giải thích”(ghi chú, giảng giải và bình luận những tư
tưởng của Đức Mạnh tử); “Lịch sử và sự nghiệp của Tư Mã Quang”,
“Gương đức dục”(dịch từ nguyên tác của Lương Khải Siêu).
Từ năm 1918, theo khuôn mẫu “Cổ xúy nguyên âm”, ông cống hiến
cho độc giả Nam Phong một loạt bài nhan đề “Nam âm thi văn khảo biện”
(khảo cứu và bình luận về thơ văn Việt Nam).
Từ số 48 (tháng 6 năm 1921), Nguyễn Hữu Tiến công bố bản dịch tiểu
thuyết “Lĩnh nam dật sử” (truyện lịch sử). Tác phẩm này đã được Trần
Nhật Duật phiên dịch sang Hán tự vào thế kỷ XIII, nhưng đến đầu thế kỷ
XX, nhờ Nguyễn Hữu Tiến chúng ta được thưởng thức bằng bản dịch tiếng
Việt.
Một dịch phẩm khác của Nguyễn Hữu Tiến, được đăng trong Nam
Phong từ số 121, (tháng 9 năm 1927), là tập hồi kí “Vũ trung tùy bút” của
Phạm Đình Hổ. Đây là một kho tàng quý giá cho chúng ta biết rất nhiều về
người và việc của Việt Nam thời Lê Mạc.
Nguyễn Hữu Tiến, hợp tác đều đặn với tạp chí, năm 1922 ông cho ra
77
cuốn “ Văn học sử nước Tàu”, dịch từ nguyên tác của Vương Mộng Tang.
Từ tháng 1 năm 1932 đến tháng 12 năm 1934, ông cống hiến dịch phẩm
“Khảo về luân lí học sử nước Tàu” của tác giả Trương Tôn Nguyên. Song
song với thời gian này ông cho ra mắt “Việt Nam tổ quốc túy ngôn” cùng
với Nguyễn Trọng Thuật. Đây là những ghi chép phong dao, ngạn ngữ dân
ca, được sắp xếp và bình chú.
Cùng với Nguyễn Đôn Phục, ông dịch và đăng tải “Luận ngữ quốc văn
giải thích” trong Nam Phong, từ tháng 8 năm 1931 đến tháng 5 năm 1933,
hai ông phiên dịch và cho ra tập “Mạnh tử quốc văn giải thích”( bài đăng từ
số 158). Đó là những bản dịch giá trị mà sau này gom góp trình bày thành
quyển.
Nguyễn Hữu Tiến là một trong những nhà bỉnh bút đầu tiên của Nam
Phong, ông thủy chung cộng tác cùng Nam Phong cho đến khi bị đình bản.
Thật ly kỳ thay vì Phạm Quỳnh, Nguyễn Hữu Tiến là tác giả của bài tạp chí
“Vĩnh biệt độc giả”
“Mười tám năm…thực đã hiến cho văn đàn người Nam một cái sự
nghiệp khai – mac đáng ghi nhớ, là cái sự nghiệp làm tăng tiến cho tiếng
mẹ đẻ (…) Sự nghiệp Nam Phong cống hiến cho quốc văn mười tám năm
trời, nay tóm lại không ngoài hai tính cách : Một là bắt đầu làm cho tăng
tiến trình độ tiếng Nam, hai là duy trì chủ nghĩa quốc gia cho dân tộc…”
“Nay đến lúc chia tay, cái hôn vĩnh biệt nồng nàn, Nam Phong xin chỉ
vào tập sách 210 số, có tên bản chí và dặn cùng các bạn văn, bạn học và
bạn tri âm một lời rằng :
“Bàn văn luận đạo bấy nay
Bạn cùng tri kỷ c n đây là tình!”
(“Tổng thuật sự nghiệp Nam Phong. N.P.Số 210, 16/12/1034).
Nguyễn Hữu Tiến đã góp phần rất nhiều tạo cho Nam Phong một
khuynh hướng trùng với tư tưởng của Phạm Quỳnh: Ấy là học thuyết
Khổng Mạnh, tinh thần hiếu cổ và ý chí gúp độc giả trau dồi kiến thức.
78
Trên Nam Phong, Nguyễn Hữu Tiến là tác giả của hàng trăm bài đăng trong
tạp chí. Bản chất của phiên dịch và khảo cứu là thường xuyên cố gắng đưa
vào văn chương Việt Nam với mức độ tối đa tất cả những điều liên quan
đến đạo lý, lễ nghi, triết học văn chương Trung Hoa. Nguyễn Hữu Tiến
chứng tỏ một tâm hồn cởi mở, muốn cống hiến tất cả những gì độc giả lưu
tâm hay thắc mắc: “Thơ mới và thơ cũ” (Nam Phong số 193), “Một đạo
luật bảo vệ tầm tơ” (Nam Phong số 200), “Tình trạng sinh hoạt dân quê
hiện nay” (Nam Phong số 209)…
Nguyễn Đôn Phục (Bút danh Tùng Vân).
Nguyễn Đôn Phục xuất hiện lần đầu trên tạp chí Nam Phong vào tháng
9 năm 1919 ( Nam Phong số 25), dưới bản dịch khiêm cung “Vợ thầy Cử
Lư” từ nguyên tác Hoa văn. Ông cộng tác không gián đoạn cho đến số chót
( Nam Phong số 210, tháng 12 năm 1934) với ba bài dịch : Hai áng thơ và
một bài đạo lí, chỉ với ba bài này đã đủ tượng trưng cho cả văn tài và niềm
tin của ông.
Nguyễn Đôn Phục có rất nhiều bài dịch thuật, khảo luận, thơ và nhất là
tinh thần tiềm tàng trong các bài viết ấy là một tinh thần phục hưng tất cả
những gì tốt đẹp nhất trong Khổng học, đồng thời tiếp nhận tất cả những gì
bổ ích trong tân học. Những điều này đã khiến Đôn Phục trở thành cây bút
hữu hạng của nhóm Nam Phong và là một trong những người đã sáng lập
nên phong trào văn chương và trí thức mà Nam Phong là trụ cốt.
Nếu Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Hữu Tiến hay bất cứ một tác giả nào
trong Nam Phong đều thể hiện tài năng qua các bài biên khảo, dịch thuật
uyên bác, thì Nguyễn Đôn Phục lại có một sự khác biệt hẳn so với các bạn
đồng hành bấy giờ là nhờ các công trình sáng tác thực sự về văn chương.
Các bài thơ thể hiện tế nhị và rung cảm, các bài văn mà nội dung cũng như
hình thức cách tân mà vẫn phù hợp với quan niệm cổ điển. Sáng tác của
ông dường như gạn bỏ những gì là khách sáo, thể hiện sự độc đáo, thanh
nhã, không kém phần quyết liệt. Ông đã khám phá ra những danh từ duyên
79
dáng, lối diễn tả nhất quán, khiến vẻ tân kỳ bộc lộ ngày càng được độc giả
quan tâm.
Nguyễn Đôn Phục là nhân vật độc nhất thời bấy giờ có một “tác phong
bút chiến” . Tính chất độc đáo và óc châm biếm của ông thật mới mẻ, khiến
nửa thế kỷ sau, khi đọc lại độc giả vẫn có cảm tưởng như đối thoại với hòa khí
của một bậc hiền nhân hay một bậc đàn anh tuổi tác mà vẫn hiểu chúng ta.
Những “hài văn” của ông đăng trong tạp chí đều đượm một vẻ tân kỳ
hiếm có. Những bài tường thuật hay đối thoại đưa lên sân khấu khiến độc
giả có thể tưởng tượng và rung cảm. Với thể thức như vậy, Nguyễn Đôn
Phục đã nêu lên những vấn đề quan trọng mà vẫn không làm khán giả buồn
chán :
- “Chừa nói chữ Nho” (Nam Phong số 50, tháng 8 năm 1921).
- “Sự lạ” (hay chuyện “Một ông quan không chịu nhận lễ vật”, Nam
Phong số 59, tháng 5 năm 1922).
- “Bức thư thần quốc ngữ kêu nài thần chữ nho” (Nam Phong số 196,
tháng 5 năm 1934.
Một lòng với Nam Phong, Nguyễn Đôn Phục tha thiết với công
cuộc dùng chữ quốc ngữ để xây đắp một nền văn học quốc gia. Các biên
khảo của ông đa dạng nhiều đề tài phong phú :
- “Vấn đề ấu trĩ viên” (Nam Phong số 60, tháng 6 năm 1922).
- “Luận về nghĩa trời, đất, người” (Nam Phong số 62, tháng 8 năm
1922).
- “Khảo về cách hài văn” (Nam Phong số 64, tháng 10 năm 1922).
- “Bàn về lịch sử nước Tàu” (Nam Phong từ số 80 đến 86, từ tháng 2
đến tháng 8 năm 1924).
- “Điều tra về tình trạng hương thôn” (Nam Phong số 113, tháng 1
năm 1927).
Các bài du ký:
- “Du tử trần ký” (Nam Phong số 59, tháng 5 năm 1922).
80
- “Cuộc đi chơi Sài Sơn” (Nam Phong số 93, tháng 3 năm 1925).
Nguyễn Đôn Phục còn dịch rất nhiều tác phẩm Trung Hoa ra
quốc văn khảo luận hay tiểu thuyết:
- “Tây Thi diễm sử” (tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa, Nam Phong số 114
đến 117, tháng 2 đến tháng 5 năm 1927).
- “Chồng tôi” (Nam Phong từ số 119 đến 130, tháng 7 năm 1917 đến
tháng 6 năm 1928).
- “Danh nho nước Tàu” (Nam Phong từ số 136 đến 151).
- “ Tấm gương tình” (Nam Phong từ số 142 đến 154, từ tháng 9 năm
1929, đến tháng 9 năm 1930).
Về thơ, Nguyễn Đôn Phục có một số sáng tác sau:
- “Tùng – vân vân – văn” (Nam Phong số 56, tháng 2 năm 1922).
- “Hà – Đông thập - vịnh” (Nam Phong số 166, tháng 10 năm
1932)…
3.2.3. Nguyễn Trọng Thuật (1993 – 1940).
Nguyễn Trọng Thuật, bút danh Đồ Nam, ông là một trong những cây
bút cốt cán của Nam Phong. Ông ra mắt độc giả vào khoảng tháng 12 năm
1919, bài đầu tiên nhan đề “Dư luận”, đăng trong Nam Phong số 30, bàn về
“Chấn chỉnh quan trường của quan tổng đốc Thân Trọng Huề”.
Nguyễn Trọng Thuật cống hiến cho độc giả nhiều biên khảo và
phiên dịch có giá trị. Năm 1925 danh tiếng của ông nổi như cồn với phần
thưởng văn chương mà Hội Khai Trí Tiến Đức dành cho ông nhờ cuốn
“Quả dưa đỏ”. Có thể nói ông là một trong những bậc thầy của nền tiểu
thuyết viết bằng quốc ngữ.
Lịch sử đã cung cấp đề tài cho tác giả Quả dưa đỏ”, liên quan đến
những trào lưu văn chương đề cao nghị lực và tình thương trong khuôn khổ
lễ giáo Khổng học. Vì bị vu cáo hoàng tử Mai An Tiêm bị vua trừng phạt
sống cuộc đời đầy ải trên một hoang đảo. Nhưng không hề sờn lòng nản
chí, cố gắng vượt qua khó khăn. Hoàng tử và công chúa sau khi khám phá
81
ra một loại quả dưa có ruột màu đỏ, bèn gia công trồng trọt đại qui mô. Rất
nhiều dưa được vứt xuống biển khiến hòn đảo được nhiều người biết đến,
trở nên phồn thịnh và nổi tiếng. Vua Hùng vương nghe tin bèn triệu về
kinh, phục hồi chức tước cho hoàng tử đã bị hàm oan.
Đề tài mượn tích truyện xưa đã được Nguyễn Trọng Thuật phóng tác
dưới một hình thức trang trọng cổ truyền. Tuy vậy vẫn hợp với trào lưu mới
nhờ những đoạn tả cảnh, tả tình sinh động và chân thực đến mức tỉ mỉ.
Chính vì vậy “Quả dưa đỏ” được coi như một trong những cuốn tiểu thuyết
tiên phong viết bằng chữ quốc ngữ, với một nguồn cảm hứng sâu rộng về
nội dung cũng như thể văn.
“Quả dưa đỏ” được trình diện các độc giả Nam Phong trong mười kỳ
liên tiếp (từ số 103 đến số 113, và từ tháng 3 năm 1926 đến tháng 1 năm
1927) chỉ là một phần nhỏ trong hoạt động rất phong phú của Nguyễn
Trọng Thuật, vì ông còn là tác giả của nhiều biên khảo, phân tích, phê
bình…
Nguyễn Trọng Thuật còn sáng tác khoảng 100 bài thơ ngụ ngôn và
tình cảm có đăng trong Nam Phong. Có thể nói rằng Nguyễn Trọng Thuật
là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho Nam Phong, thành công
trong nhiệm vụ dung hòa lòng tôn sùng quá khứ với sự hoan nghênh tiếp
đón nền văn hóa mới.
3.2.4. Nguyễn Bá Học (1858 – 1921).
Nếu như Nguyễn Trọng Thuật là bậc thầy của nền tiểu thuyết mới thì
Nguyễn Bá Học là nhà văn đã đi tiên phong trong thể loại đoạn thiên tiểu
thuyết hay truyện ngắn.
Trong Nam Phong số 10 (tháng 4 năm 1918), độc giả có dịp thưởng
thức “Câu chuyện gia đình” là một truyện ngắn được cấu tạo theo quan
niệm cũ. Tác giả mượn lời của một cô nàng bán hoa mộc mạc, kể chuyện
với một giọng văn diêm dúa để trình bày những ý niệm đạo lí. Thời đó cách
trình bày như vậy rất được hoan nghênh.
82
Nguyễn Bá Học tha thiết với sứ mệnh của giáo dục. Về văn chương
ông cũng có quan niệm tuyệt đối chính thống, tôn trọng tinh thần Khổng
giáo. Trước hết ông muốn là một nhà đạo đức, như ông đã tâm sự qua
những dòng dưới đây:
“Tiểu thuyết, ký sự, luận thuyết, diễn thuyết là những áng văn chương
hữu dụng, còn thơ phú, ca dao, có vần có điệu, chỉ dùng để ngâm nga
không suy ra thực sự. Chẳng những vô ích mà lại có lúc làm cho mê mẩn cả
tình thần, tô điểm sai cả cảnh thực…”(trang 24, “lời khuyên học trò”, Nam
Phong số 24, tháng 6, năm 1919). Đối với thời đại ấy, khái niệm ấy được
xem là hẹp hòi, nhưng thái độ can đảm và minh bạch như trên rất giống với
Phạm Quỳnh.
Từ năm 1918 đến 1920, Nguyễn Bá Học gửi đăng rất nhiều bài.
Nhưng tình cờ văn học sử đã đưa ông lên hàng đầu các nhà văn tiên phong
về truyện ngắn. Ông cho ra mắt trong Nam Phong tổng cộng được chín
truyện. Trong chín truyện này có hai truyện đang được lưu trong hậu thế :
“Chuyện ông Lý Chắm”, mô tả những phong tục nơi thôn dã (Nam Phong
số 13, tháng 7, năm 1918) và “Dư sinh lịch hiểm ký”, ôn lại một cuộc sống
phiêu lưu (Nam Phong số 35, tháng 5 năm 1920). Phạm Quỳnh đã đón nhận
và ca ngợi những truyện ngắn ấy như sau :
“Có giá trị nhất là mấy bài đoản thiên tiểu thuyết, toàn là ngụ ý răn
đời. Lập ý đã hay, lời văn lại nhã. Mỗi bài in ra, các bạn đọc lấy làm khoái
trá vô cùng” (Bài viếng của bản chí chủ bút Nam Phong số 50, tháng 8 năm
1921). Nguyễn Bá Học được nổi danh nhờ ở các đoản thiên tiểu thuyết là
một sự tình cờ. Các sáng tác chủ yếu bàn về đạo lý sư phạm, văn chương,
phong tục xã hội, mà nhất là về đời sống hương thôn.
Lâm Tấn Phác (1906 – 1969).
Lâm Tấn Phác, bút danh Đông Hồ, ông làm quen với độc giả Nam
Phong kể từ số 80, tháng 5 năm 1924 bằng hai bài thơ đường luật nhan đề :
“Xuân nhật thi bút” (tạm dịch Ngày xuân khai bút). Ba tháng sau tên ông đã
83
xuất hiện, nhưng với tư cách „sao lục” và thu thập các bài “thơ văn cũ Nam
kỳ”, trong Nam Phong số 78, tháng 12 năm 1923.
Bài tản văn đầu tiên của ông “Hà tiên Mạc thị sử” ra mắt trong số 107,
tháng 7 năm 1926. Một năm sau nhờ chính nhà văn Đông Hồ giới thiệu
trong tạp chí “ Gia đình giáo dục kí” (số 115, tháng 3 năm 1927) mà chúng
ta được biết ngôi trường do ông sáng lập tại Hà tiên trùng danh với Hội
Khai Trí Tiến Đức thường đăng kỉ yếu và biên bản trong Nam Phong.
Trường mang tên “Khai Trí Tiến Đức học xã” do Đông Hồ sáng lập, do
chính ông và một số bằng hữu điều khiển.
Trong trường có những biểu ngữ nặng tinh thần, Khổng học được
trưng trên tường với những phương ngôn:
“Ba điều đáng tiếc:
Ở đời có ba điều đáng tiếc:
- Một là hôm nay bỏ qua
- Hai là đời này chẳng học
- Ba là thân này lỡ hư”
(Trích Chu hi đời Tống)
Và ngay bên là những lời của Phạm Quỳnh :
“ Quốc ngữ quốc gia:
Tiếng là nước, tiếng còn thì nước còn
Tiếng mất thì nước mất…
Truyện Kiều còn, tiếng ta còn,
Tiếng ta còn, nước ta còn…”
Năm 1928 Đông Hồ phu nhân qua đời ông cống hiến tập hồi kí “Linh
phượng” (tên người quá cố), tập lệ kí của Lâm Trác Chi, Phạm Quỳnh có
ngợi khen :
“Các bạn thường đọc văn của Đông Hồ Lâm – Lâm Trác Chi, chắc đã
biết ông là một tri kỉ với quốc văn và là một người bạn quí của bản chí.
Hoặc là khảo về lịch sử Hà tiên, hoặc là thuật cuộc du lịch Phú Quốc, hoặc
84
là bàn luận về văn chương, hoặc là cảm khoái về thời thế, lời văn của ông
bao giờ cũng có giọng thành thực thiết tha mà chứa chan một tấm lòng ưu
ái”.
“Gần đây tiếp được tập văn ông gửi ra, tưởng là truyện tiểu thuyết
giữa đời, ai đời chính là tập lệ kí chép cái sầu niệu vong của ông vậy. Than
ôi! Những nỗi sinh tử biệt ly ở đời, người nào có qua cầu mới biết được cái
khổ. Nhưng dẫu khách bàng quang với những tình cảm ấy cũng không cầm
lòng được; huống là bạn văn chương, tuy kẻ chân trời người gốc biển mà
tinh thần vẫn thường gặp nhau trong mộng tưởng. Tôi đọc luôn một hồi
không ngừng, đọc xong càng thấy dao động quả tim, đọc xong như ngậm
ngùi thương xót”.
“Đặt quyển vở xuống nghĩ trong bụng rằng: Tình mà đến chí tình như
thế, thì lòng nào mà không cảm. Đã cẳm được lòng người thì tình riêng tự
nhiên hóa ra tình chung; cái sầu của một người mà hóa ra cái sầu của trăm
nghìn người vậy. Nay cái chí tình ấy lại diễn ra cái giọng lâm li ai oán như
ttrong tập văn này thì cái sức cảm động lại tăng lên dường nào! Thực vàng
thử lửa mới hay, quốc văn ta đã chịu được, đã mang được cái chí tình như
thế, thực đã xứng đáng làm một nền văn chương chân chính vậy. Biết đâu
đấy? Nước tàu kia có văn khóc của Hàn Thoại Chi, nước Nam ta há không
có tập văn khóc vợ của Lâm Trác Chi đó dư…” (“Linh phượng”, Nam
Phong số 128, tháng 4 năm 1928).
Trong tạp chí Nam Phong, Đông Hồ đại diện cho tiếng vang từ miền
Nam, cho tiếng nói tinh thần và tâm hồn người miền Nam nước Việt. Trong
Nam Phong sáng tác tân văn của ông quan trọng hơn nhiều so sánh với các
sáng tác bằng thơ. Ông tiếp tục cộng tác cho Nam Phong đến năm 1934, số
85
203, với đoạn cuối loạt bài “Hoài cảm” (chương Làng báo trẻ con).
KẾT LUẬN
Có thể nói Nam Phong tạp chí ra đời vào thời điểm ấy và tồn tại cho
đến hết giai đoạn giao thời, đã phản ánh đầy đủ mọi diễn biến của đời sống
văn học ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Tờ tạp chí này đã dành một mảnh đất
rộng lớn cho văn chương và trên đó các thể loại văn học đua nhat phát triển,
trong đó đáng lưu ý là sự tiếp nhận những tư tưởng, luồng gió mới từ
phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp.
Ở lĩnh vực báo chí, với vai trò là một nhà báo, một chủ bút của một
tờ tạp chí lớn, có uy tín, Phạm Quỳnh với sự cộng tác đắc lực của những
cây bút tên tuổi, đã có những đóng góp quan trọng cả về mặt hoạt động
thực tiễn lẫn về phương diện lý luận, góp phần hoàn thiện và phát triển
nền báo chí ở Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Lợi dụng sự đỡ đầu
của chính quyền thực dân, Phạm Quỳnh và các cộng sự của ông đã biến tờ
báo thành cơ quan truyền bá những tư tưởng học thuật của phương Tây
trong nỗ lực xây dựng, chấn hưng văn hóa nước nhà và sự thực đã góp
phần tạo nên một diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam những năm đầu
thế kỷ XX.
Về mục đích của báo chí, thông qua việc chủ trương tờ báo của mình,
Phạm Quỳnh đã xác định những đặc trưng cơ bản, mang tính lý luận cho
báo chí, đó là chức năng thông tin, tuyên truyền và giáo dục. Về nội
dung của báo chí, chính sự phong phú, đa dạng của các mục, các bài
trên Nam Phong, Phạm Quỳnh và Nam Phong tạp chí đã góp phần vô
cùng to lớn trong việc hoàn thiện và phát triển báo chí Việt Nam từ
hình thức sơ khai, đơn giản lên trình độ hiện đại, đúng với đặc trưng về
nội dung của thể loại này. Một đóng góp quan trọng nữa của Phạm
Quỳnh và báo Nam Phong đối với báo chí Việt Nam đó là về mặt ngôn
ngữ báo chí và cách thức biên tập, đưa tin. Tiếp nối sự nghiệp truyền bá
chữ quốc ngữ của thế hệ trí thức đi trước, Phạm Quỳnh và báo Nam Phong
86
đã kiên trì nghiên cứu, cải tạo câu văn quốc ngữ, khiến nó có khả năng
diễn đạt một cách trong sáng, rõ ràng mọi khái niệm thâm thúy của tư
tưởng triết học kim cổ đông tây thông qua việc tổ chức biên dịch, giới
thiệu các tư tưởng ấy trên mặt báo. Những cố gắng ấy của Nam Phong,
đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển ngôn ngữ tiếng Việt , nói
chung và ngôn ngữ báo chí, nói riêng. Qua những bài viết được biên tập
kỹ càng, với nội dung phong phú, cùng với những cuộc tranh luận công
khai về văn học, văn hóa trên mặt báo, thu hút sự quan tâm của công
chúng độc giả, Phạm Quỳnh và Nam Phong đã góp phần tạo nên không
khí sôi nổi cho đời sống ngôn luận thời bấy giờ cũng như phát triển lực
lượng độc giả cho báo chí Việt Nam. Về phương diện lý luận, chính Phạm
Quỳnh là người đầu tiên cung cấp cho khoa lý luận báo chí Việt Nam
những ý kiến quí giá về ý nghĩa của báo chí, cũng như vai trò, nhiệm vụ của
người làm báo.
Ở lĩnh vực văn học, công lao lớn nhất của Phạm Quỳnh và các học
giả đương thời cần được lịch sử ghi nhận là nỗ lực xây dựng và phát triển
nền văn mới. Trên báo Nam Phong của mình, ông đã mở nhiều chuyên
mục văn học, tạo điều kiện bảo tồn và phục hồi những giá trị văn học cũ;
tiếp thu cái hay, cái đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật của các tác
phẩm văn học nước ngoài cũng như khuyến khích phát triển các thể loại
văn học mới.
Phạm Quỳnh chính là người mở đường cho ngành lý luận phê bình
phát triển. Quan niệm về mục đích và phương pháp lý luận phê bình văn
học của Phạm Quỳnh là một quan niệm hết sức tiến bộ, có ảnh hưởng
sâu sắc không chỉ đối với các nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học
đương thời mà cả với nền nghiên cứu lý luận phê bình hiện nay của Việt
Nam. Trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hóa văn học, với quan
niệm tiến bộ và thực tiễn lý luận phê bình của mình, Phạm Quỳnh đã có
nhiều đóng góp cho việc phục hồi, đánh giá đúng đắn những giá trị của
87
văn học cổ truyền cũng như định hướng và khuyến khích sự phát triển của
văn học mới.
Ở lĩnh vực dịch thuật, cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh là
một dịch giả lớn của giai đoạn văn học giao thời. Với quan điểm thâu thái
tư tưởng học thuật tiến bộ của văn minh Đông – Tây bồi bổ cho nền học
nước nhà và phát triển ngôn ngữ dân tộc, Phạm Quỳnh đã có nhiều công
trình dịch thuật giá trị. Và qua hoạt động dịch thuật ấy, ông đã đóng góp
cho nền dịch thuật Việt Nam những kinh nghiệm và mẫu mực về
phương pháp dịch thuật cũng như phát động nên một phong trào dịch
thuật sôi nổi và rầm rộ trong văn học nước nhà những năm đầu thế kỷ XX.
Đối với sự bồi bổ, phát triển hoàn thiện chữ quốc ngữ và câu văn
quốc ngữ, Phạm Quỳnh là một trong những người ghi công đầu. Chính
ông, bằng nỗ lực hô hào, kêu gọi, đề ra những biện pháp cụ thể và trực
tiếp tham gia cải tiến câu văn quốc ngữ thông qua các bài diễn thuyết,
dịch thuật, biên khảo của mình, đã đưa chữ quốc ngữ từ giai đoạn ấu trĩ
sang giai đoạn trưởng thành. Câu văn quốc ngữ đến thời Phạm Quỳnh đã
đạt đến sự hoàn thiện, đủ sức diễn đạt một cách trong sáng, rõ ràng mọi
khái niệm thâm thúy của các tư tưởng triết học kim cổ đông tây cũng
như biểu hiện một cách tinh tế và sâu sắc những tư tưởng, tình cảm sâu
kín của con người.
Về mặt thể loại, bằng hoạt động dịch thuật, khảo cứu và sáng tác,
Phạm Quỳnh là người mở đường cho thể tài du ký và là người đầu tiên
cung cấp những tri thức mang tính lý luận về các thể loại văn học mới như
tiểu thuyết, thơ, kịch, góp phần hình thành và phát triển các thể loại này.
Kế thừa quan niệm “Văn dĩ tải đạo” của văn học truyền thống
trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của văn học phương Tây, Phạm
Quỳnh đặc biệt coi trong nội dung tư tưởng của văn học, với sự nhấn
mạnh chức năng giáo dục của nó. Nhưng mặt khác ông cũng tha thiết kêu
gọi sự phá vỡ những khuôn mẫu, qui phạm cứng nhắc của văn học cổ
88
truyền; đổi mới, cách tân về hình thức nghệ thuật.
Tuy nhiên, với tình hình văn hóa, văn học Việt Nam trong giai đoạn
đầu thế kỷ XX, như đã phân tích ở trên, gạt qua những hạn chế tất yếu
về tư tưởng, cái công của Phạm Quỳnh đối với văn hóa, văn học nước
nhà là rất lớn, cần phải được ghi nhận một cách công bằng và xứng đáng.
Vấn đề về Phạm Quỳnh là một vấn đề phức tạp. Tiềm năng nghiên
cứu vẫn còn rất phong phú. Những gì mà luận văn chúng tôi thực hiện
chỉ là kết quả khiêm tốn bước đầu. Bởi cho dù với tham vọng muốn tìm
hiểu một cách đầy đủ hơn, nhưng do nhiều nguyên nhân, bước đầu
chúng tôi chỉ có thể tiến hành nghiên cứu một vài khía cạnh nhỏ trong
sự nghiệp đồ sộ của bậc trí giả này. Mong rằng kết quả nghiên cứu của
luận văn, về mặt khoa học, ít nhiều cũng góp một tiếng vào nỗ lực chung
nghiên cứu về hiện tượng Phạm Quỳnh - một trong những con người đặc
biệt trong bối cảnh của lịch sử văn hóa, văn học Việt Nam giai đoạn giao
89
thời nửa đầu thế kỷ XX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tác phẩm của Phạm Quỳnh và báo Nam Phong.
1. Phạm Quỳnh (2003), Luận giải văn học và triết học, Nxb. Văn hóa
thông tin và Trung tâm văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
2. Phạm Quỳnh (2004), Pháp du hành trình nhật ký, Nxb. Hội nhà
văn, Hà Nội.
3. Phạm Quỳnh (2006), Thượng Chi văn tập, Nxb. Văn học, Hà Nội.
4. Phạm Quỳnh (2007), Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời
gian từ
năm 1922 đến năm 1933, Nxb. Tri thức và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ
Đông Tây, Hà Nội.
5. Tạp chí Nam Phong.
B. Tài liệu nghiên cứu về Phạm Quỳnh và báo Nam Phong.
6. Nguyễn Đình Chú, Trịnh Vĩnh Long (2005), “Báo chí và văn
chương qua một trường hợp: Nam Phong tạp chí”, Tạp chí Nghiên cứu văn
học (Số2).
7. Nguyễn Đình Chú (2007), “Thượng Chi bàn về tiểu thuyết trên tạp
chí Nam Phong”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 4).
8. Dương Quảng Hàm, (1943), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ quốc
gia giáo dục tái bản 1956, Nxb. Trung Việt, Sài Gòn.
9. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá
(2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
10. Đặng Thai Mai (1974), Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ
XX, (bản in lần thứ ba), Hà Nội.
11. Maurice Durant và Nguyễn Trần Huân (1969), Văn học Việt Nam dẫn
luận (Introduction à la litératureVietnamienne), Maison neulve et la
rose, Paris.
90
12. Nguyên Ngọc (2008), “Sự công bằng lịch sử được trả lại”, Bằng
đôi chân trần, Nxb.
.1. Trần Ngọc Vương (1998). Văn học Việt Nam dòng riêng giữa
A. Các tài liệu khác .
nguồn chung. NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Trần Ngọc Vương (2001). Lí luận phê bình văn học miền Trung
thế kỉ XX (viết chung). Nxb Đà Nẵng.
3. Trần Ngọc Vương (2006) Tuyển tập Trần Đình Hượu (2 tập,
viết tựa).
1. Aristote (2007), Nghệ thuật thi ca, Nxb. Lao động.
2. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư
tuyển chọn, dịch), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà nội.
3. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học – Lý luận và ứng
dụng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Đại học khoa học xã hội và nhân văn (2004), Giáo trình mỹ học đại
cương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học –
Vấn đề và suy nghĩ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
7. Hégel (2005), Mỹ học, Nxb. Văn học, Hà Nội.
8. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
13. 37. Đỗ Quang Hưng (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 –
1945, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội.
14. 38. Denis huisman (2004), Mỹ học, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
15. 39. Immanuel Kant (2007), Phê phán năng lực phán đoán, Nxb. Tri
thức, Hà Nội.
16. 40. Mã Giang Lân (2005), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
91
17. 41. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
18. 42. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học cổ điển phương Đông
(Tuyển tập, tập 1), Nxb.
19. Giáo dục, Hà Nội.
20. 43. Phương Lựu (2005), Lý luận văn học hiện đại phương Tây,
21. (Tuyển tập, tập 2), Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
22. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Đại học sư phạm, Hà Nội.
23. Phương Lựu, Trần Đình Sử (2008), Giáo trình Lý luận văn học
(tập 2), Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.
24. M. F. Ốp-xi-an-nhi-cốp (2001), Mỹ học cơ bản và nâng cao, Nxb.
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
25. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Điểm tựa phê bình văn học, Nxb Lao
động, Hà Nội.
26. Viện văn học Việt Nam (2002). Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ
92
XX. Chính trị quốc gia, Hà Nội.