ĐẠI HỌC Q U ốC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
N G Ô B Í C H T H Ư
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YÊU CỦA PHONG CÁCH THƠ CHẾ l a n v i ê n
LUẬN VẪN THẠC s ĩ KHOA HỌC NGỮVĂN CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 5.04.33
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN PCS. PTS. NGUYỄN BÁ THÀNH.
HÀ NỘI 1997
1
MỤC LỤC
TRANG
/. PH ẦN M Ở ĐẦU
I. 1. Lý do chọn đề tài.................................... s
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................. 6
I. 3. Phương pháp nghiên cứu............................. 10
I. 4. Đối tượng và p h ạ m vi nghiên cứu..................... 10
I. 5. Đ ó n g góp của luận án................................ 11
//. CHƯƠNG MỘT: CẢI TỎI Đ ÁY CÁ TÍNH
ỉ. 6. B ố cục của luận án................................... 11
II. 1. Cái tôi trong "Điêu tàn".............................. 13.
11.2. Cái tôi sau Cách m ạ n g ... ............................19.
11.3. Cái tôi giai đoạn cuối đỏi............................. 25
3
11.4. Ché Lan Viên - một cái tôi thổng nhất................. 30
///. CHƯƠNG HAI: C l ứ r TR1ÊT HỌC TRONG THƠ.
III. 1. N h ữ n g suy tư triểt học trong thơ...................... 32
111.2. Q u a n niệm về vũ trụ................................ 33
111.3. Qu a n niệm về thời gian............................. 36
111.4. Q u a n niệm về vẩn đề tồn tại và hư vô, sổng và cbểt trong
sự tự liên hệ vđi bản thân........................... 40
111.5. N h ữ n g m â u thuẫn trong quan niệm sổng và chết, tồn tại và
IV. CHƯƠNG RA : CÁC THỦ PHÁP N G ỈỈỆ rĩĩU Ậ T.
hư v ô ............................................. 43
IV. 1. N g ô n ngữ......................................... 49
IV.2. Thể thơ.............................. :............ 66
IV.3. Kết cáu........................................... 69
V. CHƯƠNG BỐN: CÁI Ả o VÀ CẢI Tĩĩực.
v.l. Khái niệm cái ảo và cái thực.......................... 74
V.2. Cái ảo lẩn át cái thực trong "Điêu tàn"................. 75
V.3. Cái thực và cái ảo hài hòa, dao xen trong thơ sau Cách
m ạ n g ............................................. 81
V.4. Cái ảo trỏ lại lẩn át cái thực một cách sâu rộng hơn trong
VI.. K Ể T L V Ậ N . ..........................................................................................................87
VII. D AN II M ỤC TÀI LIỆU T R ỈC IĨD Ẫ N ............................................................. 90
thơ giai đoạn cuổi đời...............................84
A. Sách................................... ;............ 90
4
B. B áo và tạp chí........................................ 93
I. L Ý D O C H Ọ N Đ Ể TÀI.
P H Ầ N M Ở Đ Ầ U
Chế Lan Viên là một nhà thơ lớn. Trong lịch sử thd ca Việt N a m
ông đã tự xác định cho mình một vị trí riêng, đặc biệt, bên cạnh tên
tuổi của hàng loạt những nhà thơ lớn khác. V à cho đén nay hầu hét ý
kiến đều đánh giá ông là một "cây đại thụ" "lùng lững trong nền thi ca
hiện đại Việt N a m thể kỷ X X này". Bỏi vậy việc nghiên cứu phong
cách thơ Chế Lan Viên là một việc làm cần thiết. H ơ n thế nửa, với một
khói lượng đồ sộ các tác phẩm, bao trùm trong một thài gian dài nhiều
được cuộc hành trình thơ ca không chỉ của riêng ông m à của cả một
bién cổ lịch sử lớn lao, thơ Ché Lan Viên giúp người đọc nhìn nhận
thế hệ các nhà thơ Việt N a m , gợi lên được bóng dáng của cả một thòi
đại lịch su của dân tộc. Tính cá thể và tính phổ quát đều ẩn chứa trong
hiện tượng văn học này.
C hế Lan Viên là nhà thơ có một hệ thống tư tưỏng triết học khá
phức tạp. H ầ u hết những vấn đề lớn của triét học nhân loại đều được
ông dề cập đến trong tác phẩm, bằng một thứ ngôn ngữ thơ ca đặc
trưng. Ô n g là một nhà thơ Iđn có tư tưổng. N h ư n g cũng gióng như
nhiều nghệ sĩ lớn của thế giới m à ánh sáng tài nang của họ không phải
dễ dàng được chấp nhận ngay, những nhận định về thơ C hế Lan Viên
cũng dầy m â u thuẫn và phức tạp. N h ữ n g lởi ngợi ca và phủ định đều
5
hưđng về ông. Bỏi vậy, để đánh giá chỉnh xác về hiện tương văn học
nay can mụi KI1ÜÏ luụng công việc to lđn với phương pháp làm việc thật
chặt chẽ, khoa học và sự cộng tác của nhiều người.
Đ ế n vổi thơ Ché Lan viên, chúng ta như được cùng nhà thơ
bưđc vào một cuộc hành trình "đi tìm mặt" của chính nhà thơ. Ớ đó
chúng ta bắt gặp một Chế Lan Viên đầy bản lĩnh, không mệt mỏi vượt J
qua mọi thử thách nghiệt ngã của số phận, cuộc đời, một C hế Lan Viên
với một phong cách thơ dộc đáo, thóng nhất trong tính đa dạng, một
Chế Lan viên với gương mặt rát con người, m à mỗi chúng ta đều có thê
tìm thấy mình trong đó.
c h ủ y ể u c ủ a p h o n g c á ch th ư C h ế L a n V iên với một hy vọng sẽ góp
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài N h ữ n g đặc điểm
được phần nào vào việc nghiên cứu một tác giả lớn của nền văn học
II. L ỊC H S Ử N G H IÊ N C Ứ U VÂN Đ Ẻ
Việt N a m hiện đại.
Thơ Chế Lan Viên là một hiện tượng văn học rẩt phức tạp, tập
trung nhiều ý kiến dánh giá không thống nhất, thậm chí trái ngược
nhau. Đ ã từng tồn tại hai khuynh hướng nghiên cứu khác nhau theo
quan điểm văn học M á c xít và quan điểm nghệ thuật tư sản trước đây ỏ
Miề n N a m cùng về tác giả văn học này. C h ủ yếu các ý kién xoay
quanh việc đánh giá thơ Chế Lan Viên ỏ hai giai đoạn sáng tác trưổc
Đ iêu tàn ~ tập thơ đầu tay của Ché Lan Viên đã được Hoài
và sau Cách mạng.
Thanh nhận định như "một niềm kinh dị''giữa làng thơ Việt N a m
đương thởi. C ủ n g chung ý kiến này có rất nhiều nhà phê bình nghiên
C ác n h à nghiên cứu th eo quan đ iểm tư sản cũng đ ã h ết lòi ca ngdi
cứu khác, trong đó có N guyễn Vỹ.
tàn để hạ bệ và chê thơ Chế Lan Viên sau cách m ạ n g ỏ miền B ắ c ‘ k é m
tập thơ nảy, nhung vó i một dụng ý chính trị rõ ràng. H ọ đề cao Đ iêu
6
cỏi, xuyên tạc đưòng lói văn nghệ của Đảng.
jLsiêu tàn đầy dll hơn là công trình C h ế L a n Viên
- th i s ĩ tiền ch iến của H o à n g Diệp. Là bạn thơ của Ché Lan Viên thời
iNguicu w u
ỏ Bình Định (trưđc 1945), H o à n g Diệp có khách quan hơn trong đánh
giá, nhưng toàn cục m à xét tập phê bình này thiếu một phương pháp
luận cơ bản. Tác giả chủ yếu dựa vào ấn tượng chủ quan, đề cao yéu tó
địa lý, con người riêng để lý giải tác phẩm.
C ũ n g nghiên cứu về thơ Ché Lan Viên, các nhà phê bình theo
quan điểm M á c xit có những nhận định toàn diện hơn, khách quan hơn
và m a n g tính vãn học hơn. H ầ u hét đều khẩng định Ché Lan Viên là
một nhà thơ lớn, có những đóng góp lớn vào nền văn học dân tộc, đặc
biệt ỏ giai đoạn sau n ă m 1945. H à n g trăm bài nghiên cứu về thơ Chế
Lan Viên, trong đó phải kể đến những bài của các cán bộ lịch sử, văn
học của hai trưởng Đại học Tổng hợp và Đại học Sư p h ạ m (nay thuộc
trường Đ H K H X H & NV), các công trình của Viện V ă n học. Nhiều bài
viết sâu sắc, phần nào nêu lên dược những khía cạnh khác nhau của
phong cách thơ Chế Lan Viên như: Đ ọ c A n h sáng vả p h ù sa (Hà
M i n h Đức), N h ữ n g biển cồn hây đ e m đến trong thơ (Lê Đình Kỵ),
Ché Lan Viên và nhửng tìm tòi trong nghệ thuật thơ (Nguyễn Lộc),
T h ơ C h ế L a n Viên (Nguyễn V ă n Hạnh), N h ữ n g bài thơ đ á n h gỉặc
(Nguyễn X u â n Nam), Đổi thoại mổi vcỹf C h ế L a n Viên (Hoàng Lan) ,
Mộí^số_b.ài viểt d ã chủ trọng nhiểu đến phương^diện h ỉĩĩh thức
nghệ íìm ật cim íhơ Chế^ĨMn Viên. N guyễn V ă n Hạnh trong bài Tho'
và Đ ọ c hai tập Di cảo thơ (Nguyễn B á Thành) ...
C h ể L a n Viên cho rằng: hình thức cơ bản, phổ biến trong lư duy nghệ
thuật của Chế Lan Viên là sự đối lập.
Bài viết C h ế L a n Viên vói cái nhìn nghệ tliuật trong thơ của
H u ỳ n h V ă n H o a chú ý nhiều đén tính chất ẩn dụ, tượng trưng của thơ
Chế Lan Yiên.
C ù n g chung hưdng nghiên cứu như vậy, tác giả N guyễn Lộc đã
phát hiện ra ba yếu tó quan trọng, góp phần tạo nên phong cách dộc
đáo của thơ C hế Lan Viên, đó là tính chất ẩn dụ, tượng trưng khả năng
liên tưởng và két cấu dùng biện pháp tương phản.
7
I ICI! ư a u r u n n g h ê - S ố 2 6 , r a n g à y t h ứ 7, m ù n g 1 t h á n g 7 n ă m
1989, só báo dặc biệt về Ché Lan Viên, có bài Thùơíig tiếc anh C h ế
L a n Viên của Mai Q u ố c Liên. Đ â y là một bài viết c ẩm dộng, khá sâu
sắc về con người và thd Chể Lan Viên. Bằng vốn hiểu biết sâu rộng,
tác giả Mai Q u ố c Liên đã phát hiện ra điểm gặp gỡ , tương đồng của
thơ Chế Lan Viên và thơ Đ ư ờ n g (Trung Quóc) đó chính là nghệ thuật
s_iLdụng_cáLđối_nghịcli: "Ché Lan Viên thu hút tinh hoa của nhiều nền
thơ vào thơ mình m à không làm mất bản sắc riêng, bản sắc dân tộc.
N h ư n g nổi bạt nhất, theo tôi, vẫn là việc anh tiếp thu được một bí quyết
lớn cửa thơ Đường, đó là nghệ thuật sử dụng cái đối nghịch... Khi một
câu thơ được nói lên, được diễn tả trong thế dối nghịch, nó gây án
Chửa về Tuyên Thái thăm tre trúc. H ãy đến sông H ổng ngẩm nứa
xu ô i.. H a y K hi tơ ỏ c h ỉ là nơi đấí ỏ. K hi ta đi âẩt đ ã hỏa tâm hổn " (41,
tượng sâu sắc... Ché Lan Viên hay làm thơ theo dạng áy rất nhuần nhị:
tr ll)1
V ũ Q u ầ n Phương trong bài N hớ anh Chê L an Viên dã có những
nhận xét khá xác đảng: ”Ớ nửa cuối thế kỷ này, tôi nghĩ, C hế Lan Viên
là người có công đầu trong việc cách tân câu thơ Việt N a m . M ỗ i bài là
một thủ pháp, một tìm tòi trong diễn đạt...
... Các thủ pháp thơ hình như anh đều tinh tưởng, thuần thục, từ
Đ ư ò n g Tổng đến siêu thực, tượng trưng... C ó bài ý rất thoáng, chĩ gợi
một nét để rồi ngân nga mãi (Sổng cầu), lại có bài tình ý vây bọc,
tung hung như m ê hồn trận (Trận tuyến này trên cả các m à u da) "
(41, trang 7)
trọug Jihiều đếiĩ íùĩh tư tư ỏ n g .^ h ấ i n í tuệ của Jhơ^ ChểJLcm__Viên, k h ả
ũăagjư_duỵ_ẩJầm _kháLquál c ù c u îh à J h a .T'rong số nhiều bài viết phải
Bên cạnh những bài viết đã nêu trên, c ó m ột s ổ bài khác lạ i.ch ú
kể dén các bài: Đối thoại mới vói C h ế L a n Viên ciìa H o à n g Lan, C h ế
h ọ c số 4/ 1989), C h ế L a n Viên nhà tfi L a n Viên ơỉ! biết nói gỉ đây của H o à n g Trung Thông (T ọp c h í Văn Y ? r 1 ' (Báo Văn n g h ệ số 26/1989) unat iri m ẹ la an tượng sâu sắc nhất m à nhà thơ H o à n g Trung Thông c ả m nhận được. Trong bài viết để tưỏng niệm Chế Lan Viên, H o à n g Trung Thông viết: "Không hiểu sao một nhà thơ viét Đ iêu tàn lúc mới 16 tuổi, hay hơn một chút dã s đ m suy nghĩ nhân cái sóng m à nói cái chét, hay ngược lại, nhân cái mình m à nói cái ta, hay ngược lại nhân cái Tháp m à nói dân tộc, nhân không gian m à nói thời gian, nhân con ngưởi m à nói nhân loại... " (38, ừang 89) H o à n g Lan trong bài viết Đổi thoại mới VÓI C h ế L a n Viên cho lằng: "Bên canh sự tồn tại nhiều phong cách của nền thd hiện đại, Chế thành một phong cách riêng: nhà thơ ừí tuệ của c ả m xúc". (28a, trang Lan Viên hiện lên với một sắc m à u riêng. M à u sắc ấy có thể đắp nổi 27) C ò n M a i Q u ố c Liên thì khẩng định: "Ché Lan Viên là mổt nhà thơ tư tưỏng, anh chịu ảnh hưỏng của nhiều triét thuyết, nhiều tôn giáo, cuối cùng đi đến nền văn hóa của triết học M a c xit, m à bản chất vẫn là chủ nghĩa nhân đạo, là học thuyết về con người, con người trong sự hòa hợp giữa Tôi và Ta, giữa cá nhấn và xã hội... " (41, trang 11) Rất nhiều bài nghiên cứu dã đưa ra các phương pháp tiếp cận khác nhau như Ngifôi làm viíừn vĩnh cửu (Trần M ạ n h Hảo), C h ế L a n (Hoài Anh) ... Trong bài viết của mình, Hoài A n h đã nêu bật lên sự độc đáo của phong cách thơ C hé Lan Viên thông qua sự so sảnh giữa thơ H u y C ậ n và thơ C h é Lan Viên: "Huy C ận và Ché Lan Viên cùng một thời đại, cùng một phương pháp sáng lác, trong thơ cũng có một số tính chất gióng nhau, sử dụng một số thể loại và thủ pháp giống nhau nhũng phong cách vẫn khác nhau". (28a, trang 206) C ó thể nói có không ít bài viét về C hế Lan Viên, vê những vấn đề có liên quan đén phong cách thợ C h ế Lan Viên, tuy nhiên đó vẫn chỉ là những bài viết từ những góc độ khác nhau, nliấn m ạ n h khí a cạnh này hoặc khỉa cạnh khác trong phong cách thơ của C h ế Lan Viên, m à chưa có một công trình thật sự khái quát, tổng hợp về toàn bộ phong 9 cách và sự nghiệp của nhà thơ lớn này. Sau ichi ra dơi tnem ba tập D i cảo , sự nghiệp thơ Chế Lan Viên dường như được bồi đắp thêm, được m ỏ rộng ra, m ặ c dù ông dã qua đời. Với tham vọng nghiên cứu thơ Ché Lan Viên một cách toàn diện p h o n g cách thơ thật sự làmột vấn đề lớn và rất khó, chúng tôi chỉ xin và hệ thống, chúng tôi chọn p h o n g cách thơ để làm đề tài. Tuy nhiên đề cập dến trong luận án này nảy những đặc điểm chủ yéu nhát của III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN c ứ u phong cách thơ Ché Lan Viên m ả thôi. Trên cơ sỏ nhận thức luận biện chứng M á c xít, chúng tôi xác định phương pháp nghiên cứu của luận án này như sau: 1. Sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh loại hình và những nguyên tắc của phong cách học để nghiên cứu vấn đề. Bằng thống kê, đối lập, xét tần số xuất hiện... chúng tôi cố gắng phát hiện ra cái mới của thơ Chế Lan Viên, những đổng góp riêng của thd ông trong mói tương quan với các nhà thd cùng thời. 2. Phương pháp lịch sử: Phải nghiên cứu từng vấn đề trong quá trình phát triển của nó, gắn với nhung thòi điểm lịch sử cụ thể. T ừ đó rút ra những nhận định chung nhất. 3. Phương pháp tổng hợp liên ngành: Ngoài hai phương pháp tiếp cận chủ yếu nói trên, trong quá trình nghiên cứu, để làm phong phú sáng tỏ vấn đề trên nhiều phương diện, chúng tôi vận dụng cả những phương pháp nghiên cứu khác như: văn học sử, phê bình văn IV. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHẠM Vỉ NGHIÊN c ứ u . học, ngôn ngữ học, phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp... 1. M ụ c đích của đề tài là tìm hiểu phong cách thơ Chế Lan Viên bỏi vậy trong luận án này chúng tôi sẽ khảo sát hầu nhu' toàn bộ các 10 sáng tác thơ của ông (đặc biệt là các tập thơ lđn). N h ữ n g tác p h ẩ m văn xuôi, tiểu luận, phê bình của ông được x e m là những tư liệu tham khảo quan trọng, soi sáng nhiều vấn đề trong quá trình nghiên cứu. 2. Trong luận án này chúng tôi chỉ đi sâu nghiên cứu những đặc điểm chiì yéu nhất, những phương diện nổi trội nhất theo chúng tôi đã làm nên nét riêng trong phong cách thơ Chế Lan Viên. N h ữ n g yếu tố V. Đ Ó N G G Ó P CỦA L U Ậ N ÁN: m ờ nhạt khác chúng tôi không đề cập và đi sâu nghiên cứu. ỉ,an Viên m ột cách có hệ thổng, xét trên nhiều phương diện. 1 .Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về p h o n g cá ch lhơ C h ế 2. Luận án được thực hiện dựa trên những nguồn tư liệu mới nhất về thơ Chế Lan Viên. Đ ó là ba tập D i cảo thơ" I, II, III, được nhả văn 1992, 1993 và 1996. 3. Đ â y là công trình đầu tiên đề cập và đi sâu nghiên cứu về vấn VI. BÓ CỤC CỦA LUẬN ẤN. đề cáiiù_ĩá„cáLthực trong phong cách thơ Chế Lan Viên. Luận án được bố cục như sau: - Phần m ở dầu: Nói về lý do chọn đề tài, lịch sử nghiên cứu vấn đề, phương pháp nghiên cứu, đối tượng và p h ạ m vi nghiên cứu, đóng góp của luận án, trình bày bó cục của luận án. - C h ư ơ n g I: Cái tôi đầy cá tính. - C h ư ơ n g II: N h ữ n g suy tư triết học trong thơ. - C h ư ơ n g III: Các thủ pháp nghệ thuật. - C h ư ơ n g IV: Cái ảo và cái thực. - Phần kết luận: Khái quát toàn bộ tinh thần của lụận án, khẳng 11 định những luận điểm cơ bản m à luận án đã trình bày. Nghiên cứu phong cách thơ Chế Lan Viên, vẩn đề đầu tiên m à chúng tôi đề cập đến là cái tôi đầy cá tính m à nhà thơ bộc lộ qua thơ. Vì sao vậy? Phải chăng đây chính là một chiếc chìa khóa để m ỏ vào một thế giới bí ẩn và cũng đầy thú vị m à ta gọi là phong cách của nhà thơ. M ộ t nhà thơ chỉ thực sự tạo nên được phong cách riêng của mình khi nhà thơ đó cổ được "tiếng nói ciỉa mình", v à "tiếng nói" ấy được cất lên chính ỉà nhờ một cái tôi đầy cá tỉnh trong thơ. Tuôcghênhep đã nói với chúng ta về điều này: "Cái quan trọng trong tài năng văn học...và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỷ một tài năng nào, là cái m à tôi m u ó n gọi là tiéng nói của mình. Đ ú n g thể, cái quan trọng là tiéng nói của mình, cái quan trọng là cái giọng riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bẩt ký một người nào khác... Đ ó chính là đặc điểm phân biệt chủ yểu của một tài năng sóng độc đáo" (27a, Tr 90) Qua n niệm này không phải ngay từ đầu dã dược thừa nhận một hiện từ nhiều phía. O.Brik, một trong những đại biểu tích cực của trường phái hìnli thức vả sau này trỏ thành người tuyên truyền hăng hái cho thứ văn học của sự kiện khẳng định: "Tất cả những gì m à nhà thơ viết ra đều có ý nghĩa vđi tư cách là một phần công việc của anh ta trong sự nghiệp chung và hoàn toàn vô giá trị với tư cách là sự bộc lộ 12 cái "tôi" của anh ta". (27a, tr 87). C ò n Haiđơgơ, một trong số những nhà lý luận lớn nhất của chủ nghĩa hiện sinh thì viét: "Đối vđi tác phẩm, người nghệ sĩ là một cái gì đó không quan trọng, thậm chí có thê nói rằng người nghệ sĩ bằng cách tự hủy hoại mình trong sáng tác đã giúp cho việc nâng cao tác p h ẩ m nghệ thuật." (27a, tr 95) C h o dù có mọi lởi tranh cãi đi chăng nữa, chúng ta - vổi một cái nhìn biện chứng - không thể nào phủ nhận được sự hiện diện một cái tôi trong thơ, như là một trong những yếu tố quan trọng làm nên phong cách nhà thơ. Cái tôi trữ tình chính là trang tâm, tạo nên sự vận động linh hoạt của tứ thơ, hệ thống c ả m xúc cung như những liên tưỏng trong thơ. Cái tôi trữ tình càng đa đạng phong phú thi Ihơ càng có sức hấp đẫn m ạ n h m ẽ vđi ngưòi đọc. M ộ t trong những đặc điểm lổn của thơ trữ tình ]à tính chát tự biểu hiện. Tuy nhiên chủng ta không thể hoàn toàn đồng nhất hai khái niệm cái tôi trữ tình và cái tôi của chủ thể sáng tạo (tức nhà thơ). Cái tôi trữ tình là cái tôi đã được nghệ thuật hóa, là nơi bộc lộ rõ nét nhất cái riêng của một tác giả trong thơ. T ừ cuộc dời đển thơ, quy luật điển hình hóa trong nghệ thuật đã tạo nên nhiều p h ẩ m chất, nhiều giá trị mđi do trí tưỏng tượng, do những c ả m xúc có tính chất phân thân để nhập hòa vào đổi tượng của bản thân tác giả tạo nên. Trong thơ nhà thơ thưởng bộc lộ những phần sâu kín nhất, những khát vọng thầm kín nhát m à trong cuộc đời thực họ chưa có được. Cái tôi đầy cá tính của Ché Lan Viên m à chúng ta đề cập đến ỏ ừên, cũng được tìm hiểu trên phương diện này. Đ ó là một cái tôi chứa đựng những tư tưỏng tâm đắc nhất của nhà thơ, nhưng không phải là chính nhà thơ. Nói cách khác đó là một C hé Lan Viên trong thơ, tuy rằng con người ‘ấy cũng thật gần I - ặl. C Á I TÔ I TR O N G Đ IỂ U TẢ N gũi với một Chế Lan Viên ngoài dời. ở tuổi 17, với tập thơ đầu tay Đ iêu tà n , Chể Lan Viên đã "đột ngột xuất hiện ra giữa làng thơ Việt N a m như một niềm kinh dị'' (23 tr 219). Trong tập thơ đó đã ẩn chứa những dấu hiệu của một nhà thơ tài 13 hoa, độc đáo và trí tuệ. nhà thơ lãng m ạn khác. I - ç 1.1 Đ iểm gặp g õ của cái tói - Chê Lan Viên với cái tôi cửa các Điều ldn nhẩt m à Chế Lan Viên và các nhà thơ cùng thế hệ vđi ông làm được là đã dẩy lên được cả một thời đại mới trong thi ca Việt N a m , đã đưa được một chữ íôi trực tiếp vào thơ. Đ â y cũng là điểm khác biệt nhất giữa các nhà thơ lẵng m ạ n 30 - 45 vổi các nhả thơ tiền bổi. Đ ể nói lên chí làm trai của mình, Nguyễn Trãi - "người khổng lồ của thế kỷ 15" - phải dùng đến hình tượng cây tùng, Nguyễn Bỉnh K h i ê m phải m ư ợ n đến "cây thông", còn Nguyễn D u phải bằng hình ảnh "Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên" mới nói được nỗi lòng đau đáu của mình trước vận nước. Trong thơ trữ tình phong kiến cái tôi của nhà thơ thường được biểu hiện một cách gián tiếp. Đôi khi cái tôi ẩy được Côn Sơn suối chả y rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiểu êm. ( 3 1 , ừ 4 5 ) ẩn đưđi một chữ ta, như Nguyễn Trãi đã từng viét trong C ô n Sơn ca : H a y N guyễn Bỉnh K h i ê m trong Bạch vân quốc ngữ thi với những vần ...Tơ dại ta tìm nơi váng vẻ N gười khôn ngưởi đến chốn lao xao... thơ nghĩ suy về thế sự: (32 , tr 37) Sự hiện diện của các nhà Thơ M ớ i củng vdi một chừ lôi trực tiếp ữ o n g thơ đã làm biển đổi hẳn giọng điệu của cả một nền thơ: "Thi nhân ta cơ hồ đã mất hét cái cót cách hiên ngang ngày trước. C h ữ ta với họ rộng quá. T â m hồn họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. ... Đời chúng ta n ằ m trong vòng chữ tôi. M ẩ t bề rộng ta đi tìm b ề sâu. N h ư n g càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế L ữ ta phiêu lưu trong trưòng tình cùng cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng vđi H à n M ặ c Tử, Chế Lan Viên, ta đ ắ m say cùng X u â n Diệu. N h ư n g động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đ ắ m vẫn bơ 14 vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trỏ về hồn ta cùng H u y Cận..." (23 tr. 54) Trong Đ iêu tà n , cái tôi được nhà thơ khai thác, biểu hiện ỏ mọi khía canh, mọi góc độ c ả m xúc. Đ ó là cái tôi đ ắ m say trong tình yêu, trong khát vọng được lên tiên, hay giao hòa cùng những hồn m a nơi nghĩa địa. Cái tôi ấy chứa đựng tát cả cái buồn, cái chán, c ả m giác cô đơn m à ta thường gặp trong cái tôi của các nhà thơ lãng m ạ n khác. Biét Trời ơi, chán nản đang vây p h ủ Ý tưổng hôn (ôi giữa cõi Tang ! bao lần cái tôi ẩy phải thổt lên: Trời hỡi trời hôm nay ía chán hét N hữĩĩg sắc màu hình ảnh của trần gian (Thu, 1, tr 54) Quả tim í a là m ột khôi u buồn M ạch máu ta là những m ôi đau thương (Tạo lập, 1, tr 32) (Đừng quên ỉãng, 1, trl8) N h ữ n g câu thơ như vậy có lẽ đã diễn tả được tận cùng cái buồn, tận củng cái chán, tận củng nỗi tuyệt vọng của con ngưòi. N h ư n g nếu chỉ như vậy thôi thì cái tôi trong Đ iêu tàn cũng không khác hay củng không khác nhiều lắm vđi cái tôi của các nhà thơ lãng m ạ n khác. N h ữ n g cung bậc xúc c ả m ấy có lẽ cũng không xa lạ lắm, néu ta đã từng đọc thơ của Xuân Diệu, H u y Cận, H à n M ặ c Tử, V Ü Cây dài bóng x ế ngắn ngơ - H ồn em đ ã chín m ấy m ùa thương đau Tay anh em hãy tựa đần Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi (H uy Cận, N g ậ m ngủi, 23, tr 145) H o à n g Chương... H a y nỗi sầu tựa như một bức thành vững chãi trong thơ V u Đ ắt trời nghiêng ngửa M à trước m ẩt thành sâu chưa sụp đô Đ ất trời nghiêng ngửa Thành s ầ u không sụp đổ, em ơi! Ho à n g Chương: (Tho’say, 23, tr 353) I - ẸỈ.2 N hữ ng điểm khác biệt T rong D iê u tàn c á i íôi đ ã đưa ra m ội quan niệm íhảm .m ĩi hếí
ỵên_aon ngiíài đừng Vĩ u buồn là những đóa hoa tươi Và đau k h ổ là chiến công rực rd (Đừng quên lãng, 1, tr 18^ Cải chắt trí tuệ, suy tư của một Ché Lan Viên sail này đã dược bộc lộ ngay từ tập thơ đầu tiên qua cách quan niệrri như vậy. v à đó tàn. Khi V ũ Ho à n g Chương khuyên con ngưòi hãy hướng tới một cõi cũng là cội nguồn chi phói m ạ c h xúc c ả m của toàn bộ tập thơ Đ iêu trời Quên, để lãng quên đi tất cả, thì cái tôi trong Đ iêu tàn lại nói vđi chúng ta một điều ngược lại: con người đừng bao giờ quên lãng, bỏi vì nỗi buồn, niềm đau khổ ẩy lại chính là cái Đẹp. v à chúng ta - những con người trần tục trên cõi dời này - làm sao có thể sống m à thiéu được cải Đẹp. Nói khác những điều mọi người vẫn nói, phát hiện ra những p h ẩ m chát khác lạ của một vấn đề tưởng chừng quen thuộc là một đặc CŨBgMáLvÀ.ỉìẫi b iíấ ì^ c h á ĩi íiỉyệt vọng^ cổ đơỉr như_ahiều_nhà tÈƠ-Ấãĩig-jmạn_cùng thời, nhưng đối tượng mà cái tôi. írnng Đ iêu tàn hưángJáLJj3LhũảnAQàiiJíhácJLẩn. Khi H u y Cận nói với chúng ta nỗi điểm nổi bật của cái tói trong Đ iêu tà n . buồn nơi quán chật, đèo cao, nỗi buồn của sông đài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đ ê m mưa, buồn nhớ bạn..., khô ng hiểu vì sao tồi buồn, Lưu Trọng L ư với những vần thơ sầu rụng N gh iên g nghiêng m ải tóc hương nồng. Thời gian lặng rót m ột dòng buồn tênh, thi Chế Lan Viên là người duy nhất hướng nỗi lòng mình, Xuâ n Diệu buồn cái buồn vô cớ H ôm nay tròi nhẹ lên cao. Tôi buôn nỗi buồn thương da diét của mình tới một dân tộc đã bị diệt vong từ lâu tàn , Chế Lan Viên đã viết: Trong thơ ta dân Chàm luôĩĩ số n g m ãi Trong thơ ía xương máu khóc không thôi. trong quá khứ - dân tộc Chàm. N g a y trong lời đề tựa cho tập thơ Đ iêu 16 (1, tr 9) M ọ i cảnh sắc, con ngưởi của hiện tại đều gợi lên trong tâm tưỏng nhà thơ những cảnh sắc, con người của quá khứ. Nhìn nhung tia B ạn ơi trong bao nhiêu lia nắng rõ Tia nào đâu rơi tự nước Chàm ta? nắng rực rỡ buổi ban mai, Người lại chạnh lòng buồn, tự hỏi: (Nắng mai, 1, tr 34j N g h e tiếng m õ rao d ê m khuya, một sự liên tưỏng kỳ lạ lại đển Và m õ làng não nể reo lốc cốc Tựa đầu lâu reo dưói khớp xương tàn với tôi: (Bóng tốỉ, 1, tr 43) C ó thể nói cái dân tộc C h à m ấy, vdi những cảnh tượng rủng rợn, có một sức lôi cuốn, hấp dẫn kỳ lạ đối với nhà thơ. N g a y khi m ù a xuân đến, khi đẩt trời cảnh sắc như được hồi sinh, tràn đẳy sự sóng, cái tôi H ã y bảo ta: cánh hoa đào mơn mán K hông p h ả i là khô i máu của dân Chàm ... Quả dừa xanh không p h ả i đầu người chiến s ĩ X á c pháo rơi không p h ả i thịt m uôn người của nhà thơ vẫn bị á m ảnh: (Xuân về, 1, tr 48) g iò ng máu thẩm và tiếng sông trôi lại tựa như tiêng huyết kêu rạo rực N h ư cô hồn rạo rực bãi tha ma K hi ồ ạt như m uôn năm không đứt Ô ạt trôi nguồn máu chiến trường xa D ò n g sông Linh trong sự c ả m nhận của tôi lại giống như một (Sổng Linh, ], tr 51) Q u ả thật tâm hồn và trí tưỏng tượng phong phd, kỳ lạ của nhà thơ cũng giống như những cái tháp C h à m kia, thật lẻ loi và bí ẩn. Ta không thể gặp được một nhà thơ vđi những câu thơ tương tự như vậy K h i ỉục ú m y à o M n bề^Lâu. m ọi n g ó c ngách xú c cảm jcủa.m inh, của cái tôi củ a m ìỉĩh nhiều như C h ế Lan Viên. Ta là ai đây? Vì sao lại trên văn đàn thơ ca lãng m ạ n Việt N a m 30 - 45. có sự hiện diện của ta trong cõi đcM này, trong vũ trụ này? Phải làm sao g iã trong tình yêu: M au với chứ, vội vàng lên vói chứ! Em, em ơi! tình non sắp già rồi..., hay H à n M ặ c T ử đ ắ m mình trong cái dau thể xác, đây để sự hiện diện ấy trỏ thành bẩt tử?...Khi Xuân Diệu vội vàng, giục tay thi s ĩ k ẻ lên írđng, có lẽ không có nhà thơ nào dừng lại một chút, tự hưđng tđi Chúa nguyên cầu: X in tha thứ những câu 1hơ tội ìẩi. c ủ a hàn đặt cho mình những câu hỏi như vậy. H a y ít ra trong thơ của họ ta không hề bắt gặp những câu hỏi tương tự như vậy. Ché Lan Viên thi khác. Ớ vào lúa tuổi bồng bột, đễ suy nghĩ nông nổi, Chế Lan Viên không giống nhiều người khác, để m ặ c con người mình bị cuốn theo những xúc c ả m tự nảy sinh, m à trái lại Ngưỏi khao khát hiểu tháu đến tận củng bản chất của vẩn đề. Người bị dẳn vặt, dày vỏ nghi ngờ về sự tồn tại của chính bản thân mình. N h ữ n g câu hỏi lớn được đặt ra m ặ c dủ B iết làm sao g iữ m ãi điỉỢc Tơ đ â y ? ... A i bảo giùm: Ta có có ta không? chua tìm được lời giải đáp: Ta đứng trước cỗi Ta khôn hiểu /hấu N h ư không sao hiểu được nghĩa thời gian (Ta, 1, ir2 0 ) 1 (Cõi ta, 1, tr 69 ) 18 I - ụ. C Ả I TÔ I S A U C Á C H M ẠNG : P IỈẢ N X É T CÁ ỉ TÔI c ủ , X U A T
H IỆ N C Ả I TÔ I C H IẾ N Sĩ. T ừ Đ iêu tàn (1937) đến A n h sá n g và p h ù sa (1960) rồi những C h im bão bão (1967), N h ữ n g bài th ơ đánh giặc (1972), Đ ối thoại m ói tập thơ thời chống M ỹ của Chể Lan Viên như H oa n g à y thư ờ ng - (1973), H á i theo m ù a (1977), là một khoảng cách thời gian rát xa, với biết bao biển cố lổn lao của lịch sử dân tộc. V à ỏ mỗi thời điểm khác nhau đó, ta đều bắt gặp trong thơ Chế Lan Viên một cái tôi vđi những nét mới mẻ, dộc dáo khác nhau, nhưng dồng thời vẫn có nẻt gì đó rất I - ặ2.1 P hán xél cải tồi cũ. gần gũi vói cái tôi một thuỏ Đ iêu tàn T ử những cái buồn vay m ư ợ n để viết D iêu tà n , sau Đ iêu íàn đi theo Cách mạng, Chế Lan Viên đã có những cái buồn vui thật, sướng khổ thật, được mất thật. K h ô n g có Cách m ạ n g làm sao chúng ta có được một Chể Lan Viên như h ô m nay? tàn vẫn là một cột m ố c đầu tiên, một đáu ấn đầu tiên trong cả cuộc đòi N h ư n g vượt lên ừên mọi sự đổi thay đó, với Chế Lan Viên, Đ iêu và hành trình thơ ca của mình, để từ đó cho dù nhà thơ có tung hoành ngang dọc bón phương trời, qua những khoảng không gian, thời gian dài rộng, vẫn nhìn về đó để tìm lại cái tôi của chính mình. Là một nhà thơ luôn nghiêm khắc trong sự tự nhìn nhận, đánh giá bản thãn, so với nhiều đồng nghiệp cùng thế hệ, Ché Lan Viên là người có phẳn quyết liệt hơn cả trong việc chói bỏ con người cũ của mình, cái tôi cũ của Tôi đi giữa lòng mình M à mình không hiểu nữa Tôi đi giữa siêu hỉnh ... Tôi như con sô n g Thương Chảy lòng mình thương nhớ Đ ánh đấm cả thuyền mình Trong cuộc đời tại c h ỗ mình. Nhìn lại quãng đời quá khứ, nhà thơ c ả m nhận: (Ngoảnh lại mưòì lăm năm, 2, tr 84 - 85J Ta làm con nai lạc giữa rừng thu Làm h ổ sơ cơ giận vườn bách thảo Làm bóng m a H ời sở soạĩĩg đêm mơ Làm í ất cả c h ỉ trừ không d ỗ máu Thật tỉnh táo và quyết liệt trong sự tự đánh giá bản thân: Chớ bao giờ quên nổi chua cay của m ột thời thơ ấy T ổ quốc trong lòng ta m à có cũng như không N hân dân ỏ quanh mà ta chảng thấy Thơ xuôi tay như nước chầy xu ô i dòng Nghĩ về cái tôi thuỏ Đ iêu tàn nhà thơ tự nhủ với lòng mình: (3, tr 65) Khi có được những suy nghĩ như vậy về mình, về thơ mình, chứng tỏ cái tôi h ô m nay của nhà thơ đã khác xưa nhiều lắm. Cái tôi bây giô từng trải hơn, chững chạc hơn, và đã thật sự tníỏng thảnh. Biết bao lần cái tôi ẩy nghiêm khắc dánh giá lại cái tôi cũ của mình - cái tôi của cái thuỏ ban đầu đầy đ a m m ê m à cũng thật vụng dại: "Tôi chì là một cơn mưa. M ộ t dòng nước mắt. M ộ t viên gạch đổ. M ộ t ánh hoàng hôn. Thời Đ iêu tàn tôi đâu có thơ tình. Tôi quản lý những tháp để, những n ấ m mồ, còn nhường địa hạt tình yêu cho Lưu Trọng Lư, cho anh X u â n Diệu... " (18a, M ấ t nỗi đau ricng và được cái VIIÍ chung, tr. 35) Chỉnh Cách m ạ n g đã làm đổi thay tát cả. Cácli m ạ n g dã đánh thức nhà thơ khỏi những "cơn mê" buồn thảm, đưa nhà thơ từ thế giới hoang tàn chết chóc đển một thể giđi mđi của sự sóng và tình yêu. Nơi I - Ç2.2 Cái tôi m ới xuất hiện ấy con người nhà thơ như được hồi sinh lại và bắt đầu biến chuyển. N ế u như trước cách mạng, Ché Lan Viên cũng như các nhà thơ lãng m ạ n khác, chưa bao giờ đặt ra những câu hỏi về T ổ quốc, về nhân ngày nào tr o n g ^ iê u J n n : '^ a là a ilg iỏ dâỳ>jJược nhà (hơ đũi ỉại dưới m â lJ m K sà n g n h â n thức m ớii 20 dân, thì sau Cách m ạ n g nhà thơ đã làm được điều đó. C âu h ỏ i day_dúĩ Câu hỏi hư vô thổi nghìn nên tắl "Ta vì ai" kh ẽ xoay chiều ngọn bấc Bàn tay người thấp lợi triệu chồi xanh " Ta là ai" như ngọn gió siêu hình (Hai câu hỏi, 2, tri 4,) Câu hỏi thứ nhất: "Ta là ai? còn hay mát! Đ ư ợ c gì và mất gì?". Câu hỏi ấy như một ngọn gió hư vô, ta cứ thắp lên hy vọng nào, ánh lửa nào, là nó thổi cho tắt hết. N h ư n g chỉ cần xoay ngược ngọn bấc lại thì á m nóng ngay. Chỉ cần xoay ngược lại câu hỏi "Ta là ai" thành "Ta vì ai", ta phục vụ cho ai dây , thì ta sẽ thấy rằng cây ra fộc, m ù a lên K á is ự c h ư y J n b ìê n m ạ n h _ m ẽ v ề ^ ih ậ n í hức, cái lô i củ a C h ế^L a n Viêngiâđứykhôngcòiĩ_dđm ucM m JL(m ^JỉìổÌgịdLcô^dóc^_hiw jì.daujjằư
ỉhài kị> trưóc cách m ạng, j n à ỉuỏn có găng vượỊ khổi cái /ôi có đơn bé
nhỏ đeJĩẩa vào cái ta ch u u g của m ọi ngườiL Trong thung lũng đau thương vẫn íìm ra v ũ k h í P há cô đơn - "ta” hòa hợp vói "người". xanh, nhờ có bàn tay con ngưôi hành động. (Khi đã có liưíhig rồi, 2, tr 33) N h ư một người vừa được chữa khỏi bệnh, nhà thơ tự ghi lại nhật Ta lấn từng nồi đau như m ùa chiêm lấn vành đai trắng Lấn bệnh tật m à đi, máu đ ổ lấn da xanh Bốn bức tường vôi chận ỉấv đời mình Ta cũng lấn. N ụ tầm xuân ra ánh sảng. ký của đỏi mình: (Nhật ký m ộ t nguVri cliữa bệnh, 2, tr 1 \) và những "ý nghĩ m ù a xuân" vừa đến : Tôi đổi năm đau lấy những ngày lành N h ư đuổi giậc lấy từng tấc đấí Từìig tấc tự do trông vời m ỏi mất Đ uôi m ây dài, cướp những quãng trời xanh l (Ý nghĩ iuùa xuân, 2, tr 69j K h ô n g còn cái buồn, cái chán ngày xu'a, cái tôi bây giờ tháy cuộc đời đẹp hơn, vui hơn, và khát khao chia sẻ niềm vui ắy với mọi 21 người. N h ử e m cỏi hết thươtig đau đã giãi bày tâm sự ẩy của nhà thơ: Hổn 1a trăng tròn Câu thơ nức nổ Tạnh dỏng đau k h ổ Bây giò dẹp hơn (2, tr 52) N g o ả n h lại m ù a đổng đã qua, cái tôi ao ước được làm con chiin đẹp A nh làm con chim đẹp nhất Chiều hôm cho đến sao mai Iĩá t lên những dỏng suôi mát Trái tim chia sẻ cho người B ay đến rừng cây non lộc nhất, cất lên tiếng hót về con người và cuộc sóng: (Ngoảnh lại m ù a đông, 2, tr 77) N h ư n g để thực hiện được khát vọng ắy cũng không phải là điều dễ dàng. N h ữ n g nỗi đau buồn xưa từng á m ảnh Chế Lan Viên một thời không phải ngay chốc lát biến hẳn được khỏi tâm hồn ông. N h ư một lữ hành đơn độc, Chế Lan Viên đã lầm lũi vượt qua sa m ạ c siêu hình, di từ "thung lũng đau thương đến cánh đồng vui" (tên một bài viết của C.L.V). N h ư n g ra đén cánh đồng vui rồi, ỏ ông vẫn còn những nỗi buồn rơi rdt lại, và thơ ông vẫn bàng bạc một nỗi đạu, như thể những Tôi tỉ ong đau vẫn làm viên m uôi b ể Đ ẻ mặn lòng những kẻ m uốn vô tư vét thương xưa của ông chưa chịu khép miệng.: (Khi đã có huìíìig rồi, 2, tr 33) Bao trùm tập thơ A n h sá n g và p h ù sa - tập thơ thành công lớn đầu tiên của Chế Lan Viên tỉnh từ sau Cách m ạ n g - là niềm lạc quan tin yêu cuộc sống của cái tôi. N h ư n g trong niềm vui dó, ta vẫn thấy một cái gì bàng hoàng của một người di xa mới về, có cái ngỡ ngàng của một người mới ố m dậy, thẩy cái gì cũng mổi lạ,cũng bâng khuâng. Quì xu ống bên điỉờng Tôi hôn cuộc sống ĨMỢĩĩg đởi m à rộng N ên đòi còn thương Cái vui chưa thật tự nhiên, thoải mái: 22 (Đi ra ngoại ổ, 2, tr 52) C òn trong N h ậ t ký m ộ t n giĩở i c h ữ a b ệ n h cái tôi tự nói về Tôi đứng giữa nhành vui còn bõ ngd N h ư em Kiểu e lệ nép vào hoa mình: (2, tr 71) Ché Lan Viên và hầu hét các nhà thơ lãng m ạ n cùng thé hệ, khi đi theo Cách m ạ n g đều đã phải trải qua một chăng đưòng "tự lột xác". C h o nên cũng không có gì là khó hiểu khi ta đọc được những câu thơ như vậy. N h ữ n g nhà thơ dó, những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuâu Diệu, H u y Cận, Tể Hanh, Chế Lan Viên... đều là những con ngưdi từ thể giới một người đển thể giđi nhiều ngưòi, từ thung lũng đau thương ra đến cánh đồng vui, những con người xưa kia "tự xé da thịt mình , nay đi vả lại thịt da và xây dựng m ù a xuân". Chính Chế Lan Viên đã tâm sự về chặng đường thử thách đầy khó khăn đó của riêng mình và những ngưòi cùng thế hệ: "Chiíng tôi vào Cách mạng, là người Cách m ạ n g rồi, nhưng vẫn không ngớt làm phiền cho Cách mạng, c ả nước đi nhanh. Riêng tôi về c h ậ m vì đã trót đi xa. Đi xa là đi những đâu? Đi tuốt ra khỏi cuộc đời, về phía tha ma, về phía siêu hình... Hình như một tên ăn trộm dễ cải tạo hơn một người thần bí..." (M ấ t nỗi đau riêng và được cái vui chung, 18a, tr 27) T ừ bỏ "cái gia tài đồ sộ của hàng triệu nỗi buồn" , đi theo Đảng, Chế Lan Viên đã tìm dược ý nghĩa cuộc dời mình trong cuộc đời của nhân dân, ý nghĩa của thơ mình trong tính m ụ c đích "vì ai" : "Nhờ có Đảng, có nhân dân tôi đã thành một ngọn sóng, một vị mặn, một hạt muổi của đời trong cái biển đời vô tận" (18a, tr 20). N h u n g đổi thay m ạ n h m ẽ đó của cái tôi Ché Lan Viên ngoài đời đã in dấu vào thơ, tạo nên trong thơ một cái tôi trữ tình mới mẻ. Đ ó ỉà cái tôi chién sĩ. K h ô n g chỉ đau nỗi đau chung m à hàng triệu đồng bào phải chịu đựng, cái tôi ắy còn giành trọn những tỉnh cả m thương yêu nhất của mình cho T ổ quốc, và hướng lòng c ă m thù vô hạn vào kẻ thủ x â m lược. , ^ O i! Tồ q u ô d ia y êu như máu thịt N h ư mẹ cha la như vợ như chồng 23 Vì tổ quốc, cái tôi ấy d á m ]àm tất cả, kể cả sự hy sinh; Ới! T ổ quốc nếu cần ta chết Cho m ỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông (Sao chiến thắng, 3, tr 69) Nỗi đau, tình yêu và sự c ă m thù ẩy đã khơi dậy trong tôi khát A i không đau khi lửa cháy các ngôi nhà C h ỉ g ổ rách nát bươm đủ lỏng ta đau buốt ... M iền Bắc chịu đau cho m iền Nơm sồn g nhữìig ngày độc lập N hữ ng p h ú t nhìn trời. Ta đâu liếc íhịl xương ía. vọng được hành động, được xả thân vì T ổ quốc: (Thởi sự hè 72, bình luận, 4, tr 75) T â m trạng ẩy, khát vọng hành động ấy đâu chỉ là riêng của tôi, hay của một ngưới nào đấy, m à đó là tâm trạng chung, khát vọng chưng của cả một dân tộẹ những n ă m chống Mỹ. D o đó, ỏ đây, cái tôi cũng đang hóa thân đần thành cái ta, nhân danh cái ta. Chúng ta càng hiểu được vì sao chúng ta đã giành được chiến thắng và trở thành một huyền thoại được cả thể giới biét đén như câu chuyện chàng Đ a vít bé nhỏ chién thắng tên Gôliat khổng lồ. Trong thơ giai đoạn chóng M ỹ của Chế Lan viên, ta bắt gặp một cái tôi đã hoàn toàn chuyển biến cả về tư tưỏng lẫn hành động. Cái tôi ẩy giờ đây đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng. B ao xúc c ả m đã ùa N g ày vào Đ ảng đất tròi như đổi khác N hữ ng vật vó tri cũng làm rưng nước m ắí Đ á sổi, cây cằn sao bổng thấy thiêng liêng G iọng nói quen nghe, màu dût quen nhìn B ỗ ng chan chứa trăm điều chưa nói hết. đến với tôi trong giở phút thiêng liêng đó: (Kết nạp Đ ả n g trên quê mẹ, 2, tr 80) C ũ n g trong giây phút ấy, cái tôi đã nói lên một khát vọng phải Cho lôi sinh ra buổi Đ ả n g dựng xâ y đời M ắt được thấy lỏng sô n g ra gặp b ể Tôi với m ẻ thép g a n g đâu là đứa trẻ sinh đôi. nói là khác lạ, nhưng cũng thật chân thành của riêng mình: * r 24 * (TÔ quốc bao giờ đẹp thê này chăng, 3, tr 73^ J - ệ 3 . C Ả I TÔ I TRONG D I CẢO N ế u như trong tập thơ dầu tay, cái tôi của Chế Lan Viên khóc than cho một dân tộc đã bị tuyệt diệt trong quá khứ - dân tộc C h à m , thì đén tập thơ cuổi đòi D i cảo, cải tôi ẩy lại hòa tháp Ă n g kor khóc mình lúc sắp bưóc vào "xứ không màu". C ó thể nói con đường thđ ciìa Chế Lan Viên đi từ tháp C h à m dến tháp B ay on và trên hành trình thơ ấy Chế Lan Viên đã để lại cho đời một khói lượng tác p h ẩ m đồ sộ và có nhiều giá trị, m a n g những dấu ấn riêng của từng thời kỳ sáng tác. Sau n ă m 75 Chế Lan Viên đã cho ra mắt nhiều tập thơ: n ă m 76 lả ỉĩo a trước lărig ngư ời, và n ă m 1977 là H ả i theo m ù a , nhưng về thực chất đó là thơ của thời chống đ ấ (1984), Ta g ử i cho m ìn h (1986), và đặc biệt là ba tập D i cảo tho', Mỹ. N h ữ n g tập thơ có tỉnh chát chuyển giai đoạn rố nhất là H o a trên tác p h ẩ m thơ duy nhất được giải thưỏng thơ của Hội nhà văn n ă m 1994. D i cảo là một loạt các bài thơ, những phác thảo thơ từ n ă m 1933 tới nay mới được in lần đầu và những bài thơ đặc biệt xuất sắc tác giả viết vào những n ă m cuối đời, trong một hoàn cảnh hết sức éo le m à nhả thơ gọi là hành trình đi đến lò thiêu. Nhiều bài còn dưới dạng bản nháp chưa kịp hoàn chĩnh. Trong ba tập thơ này ta bắt gặp một cái tôi trĩu nặng những suy tư về cuộc đời, về sự nghiệp. Q u a đó nhà thơ bộc lộ một cách chân thành nhất những tâm tư gửi g ắ m cho đời, sau khi đã thấy rõ sự đòi hỏi rất gần của một cuộc ra đi. Ché Lan Viên là một nhà thơ nhập cuộc từ 25 ]d" Giở đây nhà thơ như m u ố n "ngụp lặn" vào đáy sâu "bể loài người" hỏa nhập hét mình vào cuộc đời trần thế đầy trăn trở. T ã m tư, cảm xúc khá bề bộn, có thể thâu tỏm vào chuyện đời, chuyện thư, m à cái cót lõi của nó là những suy n g ầ m về lý tưởng, quan niệm sống, hoạt dộng, Mội điểu rất thú vị, nhưng khổng p h ả i là hất ngờ k h ija bắt gặp Ổ cái tôi tron g Đ i cão nhữĩĩg điểm thật gần gũi với cái tồi Irong Đ iê u tàn. trong dó có hoạt động nghệ thuật cao quí được nâng lên thành triết lý. ..Trong .thơ_giai.đoạn_cuÓLdời,„_CJiể_Lan_Viên aóLnhiều dếruiỗi buồn vả sự cỏ đơn, điều m à ta thường gặp trong Đ iêu tàn. C ó khi nhà giặc cỏ không sao dập tắt được: N ối buồn như giặc cổ Q uấy rẩy anh liên hồi thơ gọi nó ra thành tên, đó la nỗi buồn sa m ạc, hay vỉ nó như một thứ (Giặc cỏ, 13, tr 165) C ữ n g có khi nhà thơ không gọi nó thành tên., cả bài thơ không có một chữ buồn, chữ chán hay cô đdn, nhưng ta lại c ả m nhận được điều đó qua â m điệu của cả bài. Nỗi buồn ấy như đã lắng xuống tầng sâu, không dễ dàng nhìn thấy được. Trong bài C á c m ù a hoa Ché Lan Thôi không còn chờ m ùa hoa p h ía trước M à ngoái đầu nhảm lại các m ùa hoa phía sau Đ ẩ y là quy luật Viên viết: N hận mà không đau , Ta cỏ còn nó đâu K h ông p h ả i hoa khuất m à ía khuất Ta đi vào xú' không màu. ... Thôi cho la khỏi đếm từỉìg m ùa hoa m ột (Các m ù a hoa, 11, tr 107) C ả Đ iêu tàn \ k D i cảo đều nói nhiều dén cái buồn, sự cô dơn nhưng so vđi Đ iêu íàn, cái buồn trong D i cảo có cơ sồ hiện thực hơn. Đ ó không phải là nỗi buồn "thời thượng" m à cả một thế hệ các nhà T h ơ M ớ i đã trải qua thời trước. Đ ó là sự đau đớn nảy sinh từ những điều nhà thơ tự trông thấy, tự trải nghiệm, nhũ khi oán trách só m ệ n h ngặt nghèo, Chế Lan Viên nghĩ đén Nguyễn Minh Châu, Xuân Quỳnh, N ổ i ám ảnh vẻ cái, chết íhuâ Đ iêu tàn luôn írổ .về_.với^cáLtôi
ũh ữ n g jiă m Jh á n g .a iố L đ à i^à ^d ư Ờ Jĩg jữ h ư ^cÁ n jĩm n h _ m ẽ h m ^ d a .diết bơn. N h à thơ đã đặt ra những " câu hỏi sỗ sảng " với chính mình: N g ày m ai anh chêt thê là sớm hay ĨĨ1UỘĨ1 ?
Đ áng liếc hay là không? Lư u Q u a n g VÜ... (13, tr. 26) m ội nhúm xương fro trong bình . C ò n trong bài Đ ể lại Chế Lan Viên Trong bài T ừ thể chi ca Chế Lan Viên hình dung mình thành A nh chẩng dem được đêm trăng nào vào huyệl trong tổng s ố đêm trăng anh ngắm Tổng s ố m ặt trời anh đành bổ lại khô ng m ang đi D ù có liệm cho anh m ội nhúm gạo hạnh phúc nhúm m uồi thi ca. Thì anh làm sao ăn được Đ ến bển Lú, sồ n g M ê các thứ ngọt ngon đem theo thành đắng ngắt Liệm cho anh triết học đ ễ làm gì? viét: (Đê lại, 13, tr 106; C ó thể nói trong những nhà thơ củng thế hệ hoặc sail thế hệ ông, C h é Lan Viên là người bị á m ảnh nhiều nhẩt về cái chét. Khác với Xuâ n Diệu, cho đến tận phút cuổi đời vẫn là một nhà thơ nồng đất, còn vẫn si tình đến ngất ngư. Nói về cái chết, Chế Lan Viên có nhiệt với tình yêu và đ a m m ê cuộc sống Trong h()i thổ trót dáng trời nhiều giọng diệu khác nhau, khi hài hước c h â m biếm nhẹ nhàng, khi buồn bã, khi n g ậ m ngùi luyến tiếc... C ũ n g giống trong Đ iêu tàn hình ảnh thiên đường, dịa ngục, vạc dầu, địa phủ, tro bụi... xuất hiện rất nhiều lần trong D ì cảo. v ổ n biểu tượng về bãi tha m a tử thời Đ iêu tàn được dùng lại khá nhiều: đáy mồ, huyệt tối, đầu lâu, hồn ma, dĩ vàng... C ó những câu thơ m a n g đắn vết 27 của Đ iêu tà n . N ế u như trong Đ iêu tàn, cải tôi khao khát clược xa lảnh cuộc đời trần tục, tim đén một thế giới cô độc, riêng tư, thỉ đén D i cảo ta lại c ả m m ỏi không nguổL nhận được ước nguyện sâu sa đó của nhà thơ. Trong tập thơ cuôi.đời,
C k£jM nJZiên^nhiều Jầ n nói đến m ột cuộc lĩỏ^về_ như m ộí niềm m ong Với m ặ c c ả m là mình đã xa cách cuộc ddi dân đã, trong trẻo, thuần khiét nhất, Chế Lan Viên m o n g m u ố n có một cuộc trà về như Thu quân lại Đ ời anh sắp tối rồi ... P hải thu quân Thu những gỉ rơi vãi N hững gỉ đã bay đi lảm cõi Gọi về. một cuộc thu quân : ( M ù a thu quân , 12, tr 144) Cho tồi vê vói cành lau Vàng vọ v ề với con (râu nghé ọ C ó cặp sừng bd ngd Chiều buồn không biết cọ vào đâu? KJhi cái tôi nói lên ước nguyện của mình: ( C ử lau Đinh B ộ Lĩnh, 11, tr 97) thì ta hiểu cái đích trỏ về của tôi không còn là sự hòa nhập cộng dồng, m à là theo nghĩa xa lánh, ẩn náu. Trố về như vậy là quay iại điểm xuất Đ i g ầ n hét chặng đưòng dài đầy biên c ổ và gian truân, gần tới phát đầu tiên của nhà thơ thuở Đ iêu tàn. sô n g là trò chơi với những điều ngẫu nhiên, m a y rủi, được mẩt, hạnh H ạnh p h ú c đến thình lỉnh và ỏ th ế dơn côi Còn taì ương thi đôn dập đánh vu hồi phúc khổ dau... 28 (Hai chiều, 11, tr 188) N h à thơ tự vỉ cuộc đời mình gióng như một con thuyền nhỏ nhoi Thuyền anh đi giữa b ể hai trời May, Rih' đó K hông sắp bên này íhì ngửa phía kia thôi. di giữa biển đời đầy sóng gió đó : (11, tr 188) N é u như trong Đ iêu tàn cái tôi dược biểu hiện ở mọi ngóc ngách xúc c ả m của tâm hồn, những buồn, vui, cô đơn, m ơ mộng... như một sự giãi bày, thi đến D i cảo cải tôi ấy lại nói về minh như một sự chiêm lóe sán g giữa vũ trụ bao la, như ngọn than B ay on bổn m ật , như một con bài m à sự m a y rủi n ằ m trong tay Thượng đế: Ta là con bài mà bóng tối chơi ía nghiệm, dầy tình táo của lý trí. Tôi tự ví mình như một hạí hụi đã từng (Rút trong tập nhá p Prométhée ,13, tr 86) Đ ã tùng hoài nghi sự tồn tại của chính mình thời Điêu tàn, chói quá-khứ đ ể tỉm JạũdiúiliJjữhih,JM iJạLcái tôi đích íỉĩực củ a mình. bỏ quyết liệt cái tôi cũ của minh thôi sau Cách mạng,_đến„tỉhững năm N h à thơ có một câu hỏi nổi tiếng từ thuở Đ iêu tà n : Ta là ai?. Ta là ai? thành Ta vỉ a ũ trong bài Hai câu hỏi viết ở đầu tập A n h sá n g và p h ù sa. N h ư n g đén những ngày cuói đỏi, Chế Lan Viên trỏ lại Câu hỏi này tưỏng chừng nhà thơ đã tìm ra lời giải đáp khi chuyển đổi băn khoăn vdi câu hỏi này: ta là ai?. Trong D l cảo , chiíng ta bắt gặp một cái tôi đầy hoang mang, đao động trước hệ thóng những tư tưỏng, quan niệm nghệ thuật trước đó của mình, c ó những bài thơ giai đoạn Ta là ta m à luôn bối rối Tim lại ta. {Rút trong íập nháp Nhặí, 13, tr 109j này m a n g dấu vết của chủ nghĩa tượng trưng hoặc siêu thực: Ta vi ai? v ể đâu? H ạt móc? L à ta chăng? D ồng sô n g là ía chăng? Tiếng khóc Là ta chăng? Vì sao lạc phư ơ ng trời 29 Trong bài Hỏi - đáp Ché Lan Viên viết: L à ta chăng? Ta chưa kịp trả lởi Thì sông đ ã cuốn ta vào bóng tối. (11, tr 96) N h ữ n g câu hỏi ẩy cất lên nhưng nhả thơ vẫn chưa tìm được lời đáp. I - Ẹ4. CHÉ LAN VIÊN - MỘT CẢI TÔI THốNG NHẤT. Trong thơ Chế Lan Viên, ta bắt gặp một cái tôi luôn vận động và phát triển không ngừng. Tuy nhiên, nó vẫn là cái tôi của một chủ thể duy nhất - Ché Lan Viên, bỏi vậy nó m a n g trong mình tính thóng nhất về mặt nội tại. Ớ bất cứ thỏi điểm sáng tác nào của Chế Lan Viên, khao khát nhận thức, m ong m uôn hiểu đến tận cùng bản chất của mọi vân để, và không bao g iỏ tự bằng lòng với mình. ta đều gặp cái tôi, với những đặc điểm chung nổi bật. Đ ó là cái tôi luôn N g a y khi chưa đầy 17 tuổi, Ché Lan Viên đã tạo ra trong thơ mình một chất giọng riêng, một cái tôi độc đáo, đầy suy tư, trăn trỏ... Khi buồn, khi vui, khi cô đơn, đau khổ, hạnh phúc, cái tôi áy không chỉ dừng lại ỏ sự c ả m nhận và giãi bày, m à nó đi xa hơn thế, tìm đến căn nguyên của nỗi buồn, niềm vui, đau khổ, hạnh phúc. Cái tôi ẩy biết đặt ra những câu hỏi ldn, những câu hỏi m à phải đi suốt một hành trình dài dặc, đển khi gần tới cái đich cuối cùng, tôi mới tìm ra lời giải đáp: đâu là gíá trị đích thực của nghệ thuật, của thơ ca, của người nghệ sĩ, đâu là chân lý, đâu là ý nghĩa của đời người?...Tưỏng chừng như vđi lới, khát vọng nhận thức là vô cùng và thé giới là vô tận vỏi bao điều bỉ ẩn. C ò n với chính bản thân mình, cái tôi của nhà thơ chưa bao giở thỏa mãn, chưa bao giờ biết dừng lại, như người vừa chạy vừa xâ u kim, coi những bài thơ tâm huyết của mình chỉ là những phác thảo và phải 30 hoàn thiện không ngừng. Với Ché Lan Viên, thiên chức và tài năng của nhà thơ hình như do định m ện h dành cho họ, và sự sáng tạo luôn ià sự Tôi tài năng chưa đầy nửa gịợí Có hộc lổc chạy đén hết chân trời cũng là dồ bất ỉực Sao c h ỉ ấ y kim kia tôi vẫn p h ả i câm ? thách đố, đầy bí hiểm: (Xâu kim, 11, tr 86) M ộ t đặc diểm nổi bật khác của cái tôi trong thơ Chế Lan Viên, đó là một cá7 tôi íi nhiều m ang bóng dáng của cái tôt thời Đ iêu tàn. Đ iêu tàn . Nói cách khác đó là cái iôi chịu ảnh hưỏng ít nhiều của cái tôi thời Việc Ché Lan Viên quyết liệt chối bỏ con người cũ của mình, cái tôi cíĩ ciỉa mình sau khi di theo Cách mạng, về Ihực chát chiíng tỏ Đ iêu tàn. N h u n g hành trình cách m ạ n g dân tộc càng đi xa, nhà thơ-0 nhà thơ đang cố gắng thoát khỏi ảnh hưỏng cái tôi cữ của mình trong càng thẩy không có lý do gì lại :ự mình làm nghèo mình đi như vậy. K h ô n g chỉ mình Ché Lan Viên cảm nhận rõ diều đó, m à ngay từ thế kỷ X I X Gô g ô n đã viết. " H ã y m a n g theo tất cả để lên đường khi từ những n ă m niên thiếu dịu dàng bước vào tuổi trũỏng thành khắc khổ, hãy m a n g theo tất cả c ả m xúc của tâm hồn nhân loại, dừng bỏ nó lại dọc đưòng để rồi sau đó lại nhặt lên" (Theo 13, tr 167). C ó lúc Chế Lan Viên đã chói bỏ cái tôi của mình để rồi lại phải tỉm lại nó trong D i cảo. Hành trình nghệ llmật của nhà thơ nhu' một vòng tròn khép kín. Nhà thơ hướng tâm hồn tới những chân trời tư tưỏng khác nhau của nhãn loại, để rồi lại trở về với chính mình, với cái tôi đích thực của mình. C ó thể nói sự vận động của cái tôi trong thơ Chế Lan Viên là sự vận dộng m a n g tính quy luật, tắt yểu. N ó hé m ỏ cho chúng ta thấy tâm hồn phức tạp, phong phú của nhà thơ, đồng thời đ e m lại cho ta ắn tượng về một cái tôi Ché Lan Viên độc đáo và thống nhất. 31 1 1 - ụ . TR IẾ T H Ọ C VÀ S U Y T ư TR IẾ T H Ọ C TRONG TỊ lơ . Cù n g với lịch sử tư duy của con người là sự ra đởi của lịch sử triết học. Bất kỳ một bộ m ô n nghiên cứu khoa học nào, kể cả nghệ thuật và thơ ca đều phải vận dụng tư duy triết học. Đ ã có giai đoạn trong văn học phương Đông, người ta quan niệm một tác p h ẩ m văn học đồng thời là một tác p h ẩ m sử học và triết học. C h o dển ngày nay tuy quan niệm đó đã thay đổi, nhưng ỏ những tác p h ẩ m van học lớn đích thực, ta vẫn tháy nổi lên những yếu tố triểt học cũng như sử học. v ề khái niệm chất triết học trong thơ, trưổc hết chúng ta phải nói rằng, dãy là một khái niệm chỉ có ý nghĩa tương đối, bỏi vì nhà thơ nào cũng có tư duy triết học ỏ m ứ c độ ít hoặc nhiều, nhà thơ nào cũng cố m ột hệ Ihống các quan niệm, cách lý giải các hiện tượng của thế giới tự nhiên, xà hội và ỉù duy ỏ trình độ cao hoặc thấp. N h ư n g có một số nhà thơ đã vận dụng những vấn dề đó làm đối tượng m ô tả trực tiếp và là nguồn c ả m hứng chủ đạo trong sáng tác của mình. N h u n g nhà thơ như vậy chúng ta gọi là những nhà thơ có nhiều tư duy triết học. xét phương diện này, Chế Lan Viên chỉnh là một nhà thơ như vậy. Nói đến Ché Lan Viên là ta nói đến một nhà thơ trỉ tuệ, có tư duy triết học sâu 32 Sắc và phức tạp. Chất triết học trong thơ ông được bộc ]ộ ỏ nhiều phương diện, như cách nhìn của nhà thơ về vũ trụ, về thời gian, cách I I - Ẹ 2. Q U A N N IỆ M VE v ũ TR ụ. quan niệm của nhà thơ về vắn đề tồn tại và hư vô, sống và chết... V ũ trụ là nguồn cảm hứng lớn xuyên suốt nhiều tập thơ của Ch é Lan Viên. N h ư n g Ché Lan Viên không phải là nhà thơ duy nhất viết về vũ trụ. Trước Cách m ạ n g H u y Cận đã từng viết V ũ trụ ca. chđng liệt. Só n g rí< nhau đi bát ngát cưài, m u ô n triệu dòng suôi mê say. Đ i về biển ĩĩhạc xa tăm tắp. V ũ trụ trong thơ H u y Cận là vũ trụ m ỏ huy hoàng, v ũ trụ m ênh m ông đéĩi cảm hòa, và cái tôi của nhà thơ Trong đó ta bắt gặp nhừng biểu tượng ký vĩ của vũ trụ Biển vang triều Ta góp chân nhanh cùng bốn gió Ta đi mau quá tầm chân người Ta gặp hồn ta trong v ũ trụ cũng là một cái tôi kỷ vĩ, hài hòa cùng cái kỳ vĩ của vũ trụ: (Xuân hành, 25a, tr 136) Khác H u y Cận, Chế Lan Viên lại có nhừng suy nghĩ rất bi quan N g ày m ai đây m uôn loài rồi tan rã Vũ trụ kia rồi biển ra h ư không về sự tồn tại của loài người và vũ trụ: (Bóng tỏi, 1, tr 43) C ò n trái đát đói với người chỉ là mộ1 khôi sầu vô hạn . Cái tôi của Chế Lan Viên trước vũ trụ không có được cái kỳ vĩ như cái tôi của H u y Cận, m à thật nhỏ bé và cô đơn. Kh a o khát hiểu đển tận cùng bản chất của víĩ trụ, nhưng không sao hiểu thấu, nhà thơ c ả m nhận dược sự rỢn ngỢp, tương phản rõ rệt giữa cái nhỏ nhoi của con người với cái m ê n h mông, vô cùng vô tận của dất trời. N h ữ n g vần Trời xanh ới hdi! xanh khôn nói H ồn tồi m uốn hiểu chẳng cùng cho C ó cánh chim g ì bay chới với Chếl rôi! N ó lạc giữa H ư vó thơ về vũ trụ của Ché Lan Viên phảng phất hơi hưđng thơ Đưởng: 33 (Đọc sách, 1, tr 27) Trong một lần trả lời phỏng vấn giáo su' văn học Đ ứ c Gunter Giesenfild, Ché Lan Viên đã tự họa chân dung mình, với lời tự bạch: "Tôi thích thơ cổ Á Đ ô n g và thơ thể kỷ X X của châu Âu. của châu Ấ, thích Kinh phật (Livres bouddhistes), thơ Đ ư ờ n g (poésie de ĩépoque des Tang ), thơ của Lý Bạch (Ly Tai Pé ), Đ ỗ Phủ (Tou Fou); Châu  u Lan Viên nói về thơ, nói vể mình - Tuần báo Văn n g h ệ - số Tết Q u ý thích Rainer Maria Rilke, Apollinare, Neruda, Eluarđ, Rítsos ..." (Chê D ậ u 23/1/1993) C ò n theo nhà phê bình văn học Hoài Thanh thì "Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đén thơ Đường", c ả m hứng của Chế Lan Viên về vũ trụ, con người có điểm thật gần gũi vdi cách c ả m của một nhà thơ Đ ư ờ n g cách xa ông mươi mười lãm thể kỷ, Đ ó ]à Trần T ử Tiền bất kiên c ổ nhân Hậu bất kiến lai giả N iệm thiên địa chi du du Đ ộc thương nhiên nhi th ế hạ N g a n g với bài Đ ă n g u châu đài ca ( Bài ca lên đài ư Châu) N goảnh lại trước: người xưa vắng vẻ Trông về sau: quạnh q u ẽ người sau N gẫm tròi đất dời lâu M ình ta rơi hạt lệ sầu chứa chan theo bản địch của Trần Trọng San là: (29c, tr 68) C ó lẽ nếu biết sau mình có một nhà thơ cũng đau dáu n g ẫ m suy về cái kỳ vĩ, vô cùng của trời đát, cái nhỏ nhoi đơn dộc của kiếp người, thì Trần T ử Ng a n g đ ả không phải một mình rơi hạt lệ sâu chứa chan . Thơ ca qủa là tiếng nói tri â m tri kỷ! Sau Cách mạng, cách cảm, cách nghĩ của Ché Lan Viên về vũ trụ hầu lại hoàn toàn thay đổi. N ế u như trước đây nhà thơ nhìn vũ trụ bằng cái nhìn siêu hình với quan niệm "bẩt khả tri", thì giờ đây nhà thơ cho rằng con ngưdi có thể hiểu được và làm được tất cả, kể cả việc cải tạo thế giới. Khát vọng của con ngưỏi là vô cùng vả khả nărlg của con 34 người là vô tận. Đ â y chính là quan điểm của chủ nghĩa duy vật. Trong thơ Ché Lan Viên không còn sự cách biệt, tương phản giữa cái nhỏ bé của con ngưôi với cái mên h m ô n g vô hạn của víĩ trụ. Giờ đãy vũ trụ và con người thật gần gui, giao hòa vđi nhau như thể Ới VW trụ đón mời ta đến M à không gian ì à bển fa qua Trăng gần CÌ10 c h ỉ sao xa X ưa là khách lạ, nay là anh em. anh em: (Bay ngang m ặ t tròi, 2, tr 63) sá n g và p h ù sa, chúng ta lại bắt gặp một bầu trời xanh quyến luyến. N h ư bầy chim cơ, Trời nghiêng bóng suối... ỉĩỉề n như íuôi nhỏ ... C ò n trong bài Đi ra ngoại của Ché Lan Viên trong tập A n h Sự thay dổi trong quan niệm về vũ trụ của Ché Lan Viên xuất phát từ sự thay dổi trong tư tưỏng của chính nhả thơ, gắn liền với những biến động lớn lao của thời đại. Thời đại lớn cho ta đôi cánh . V à chính đôi cánh ấy của thời đại đã nâng thơ Chế Lan Viên bay lên, bay lên cùng mặt trời và hòa nhập cùng vũ trụ. nhung n ă m tháng cuối đời. N h ư n g khác với các giai đoạn trưđc đó, đây là giai đoạn có tính chát chiêm nghiệm và đúc kết kinh nghiệm sống của nhà thơ. N h à thơ không chĩ suy n g ẫ m về cái tôi của mình, về con người nói chung, về các vẩn đề xà hội, m à cả nhung vắn đề huyền bí, cao siêu của thể giới tự nhiên, của vũ trụ. Với một tư duy triét học sâu sắc, Chế Lan Viên dã nghiền n g ẫ m và cổ gắng tìm ra mối liên liệ nội tại giữa bản thể con người và vũ trụ. Trong bài ĐàII bầu, C hé Lan Trút hét lạp âm cứa v ũ trụ đì, c h ỉ còn m ột dây bản ng ã của anh thôi Viên viểt: Chứa những âm ăm u u v ũ trụ B ản n g ã anh Ơ71ỈĨ chỉ lìm ra hiếu rõ K h i chạm s ổ p h ậ n mình cùng m ội vì sao lạ đôi ngôi. ... Bản ng ã của anh chứa những íạp âm rạn v õ của sao trời 35 (Đàn hầu, 13, tr 20) l ĩ - ệ3. Q U A N N IỆ M VỂ TH Ờ I GIAN. Lịch sử nghệ thuật đã cho tháy các nhà văn nhà thơ ở những thời đại khác nhau, hoặc thậm chí trong củng một thời đại luôn có những cách ỉý giải khác nhau về quá trình thòi gian. Trong lĩnh vực thơ ca, thôi gian là một hình tượng do nhà thơ sáng tạo nên, và m a n g đ ậ m dấu ắn cá nhân của chủ thể sáng tạo. Chính ở dây phong cách của các nhà thơ được bộc lộ rõ. Ớ Chế Lan Viên, quan niệm của nhà thơ về thời gian cũng có những điểm khác biệt với cách quan niệm của các nhà thơ khác. C ù n g một thế hệ với Ché Lan Viên, mỗi nhà thơ lãng m ạ n lại xây dựng nên những hình tượng thôi gian riêng, theo cách cảm nhận riêng của mình. Đ o à n Phú T ứ dùng màu thời gian và hương thời gian M àu íhời gian không xanh M àu thời gian tím ngát H ương thời gian khôn g nồng H ương thời gian thanh thanh. để gợi lại ký ức về một tình yêu đẹp đấ qua của mình: ( M à u thời gian, 23, tr 114) Thời gian trong thơ X u â n Diệu thì gáp gáp, hói hả, giục giã X uâ n đương t ớ i , nghĩa là xuân đương qua X uân còĩi non ,nghĩa là xuân s ẽ già M à xuân hết, nghĩa lả tôi cũng mất ... M au đi thôi ! M ùa chưa nga chiểu hôm. người ta phải sống hết minh với những phút giây hiện tại. Bỏi vì: (Vội vàng, 36, tr 125) Trái ngũỢc hẩn vổi Xuâ n Diệu, Ché Lan Viên thưdng d ắ m mình trong những kỷ niệm của quá khứ, khát khao quay ngược lại thòi gian: Ta nhăm m ắt mặc y ên cho hiện tại Biến dần ra d ĩ vãng ỏ trên mi... (Tạo lập, 1, tr 32) tưâng như đ ĩ vãng đến gần đây (Chiển tiìọìig). sổng trong thời gian  m thanh của dòng sông trôi chảy cũng làm nhà thơ cảm tháy hiện tại nhưng Ché Lan Viên chĩ một lòng hướng về quá khứ. N h à thơ yêu những con người của kiếp trưdc, khao khát được trỏ về một m ù a những nghìn xưa : A i đâu trỏ lại m ùa thu trước N hặt lấy cho tôi những lả vảng Với ciỉa hoa tươi m uôn cánh rã v ề dây đem chắn nẻo xuân sang. thu trưdc, m u ố n tìm lại những nét thơ xanh cũ với những cảnh cũ (Xuân, 1, tr 67) Ý m u ố n thật ngông cuồng, ngộ nghĩnh. Trong cái ngông cuồng, ngộ nghĩnh ấy ta còn thấy cả một sức m ạ n h phi thường. Chắn một luồng gió, chắn một dòng sông, chắn những đợt sóng hung hăng ngoài biển cả còn có thể được, nhưng m à chắn nẻo xuân sa n g thì quả thực ừưđc và sau Ché Lan Viên chưa từng có người nào như vậy. Khát vọng trỏ về quá khứ của nhà thơ quả thật là m ã n h liệt. Thời gian trong tâm tưỏng Chế Lan Viên luôn hiện lên như một C ả d ĩ vãng là chuối m ổ vổ tận Cả tương lai là chuôi huyệt chưa í hành Và hiện tại, biết cùng chàng hỡi bạn C ũng đương chôn ỉặĩĩg ỉẽ chuỗi ngày xanh nỗi á m ảnh thật u buồn, tuyệt vọng: (NhiTng n ấ m mổ, 1, tr 37) Với việc sử dụng từ chuôi được láy đi láy lại tới ba lần trong một khổ thơ bổn câu (chuôi mồ, chuôi huyệí, chuỗi ngày), nhà thơ đã gợi lên trong ngưòi đọc c ả m nhận về một dòng thòi gian đài dặc, bất tận, đang trôi vdi một nhịp diệu ch ậ m rãi, đầy ả m đạm. Khi biết rằng những câu thơ ẩy được viết nên khi tác giả chưa đầy 17 tuổi ta càng c ả m nhận rõ hơn cái bí ẩn, kỳ lạ của tâm hồn thi sĩ. Ý thức rõ về thời gian và nói lên quan niệm riêng ciỉa mình về thời gian là một đặc điểm độc đáo của tư duy triết học Chế Lan Viên. Đ ặ c 37 điểm ấy sẽ còn được bộc lộ xuyên suốt tiến trình thơ ca của Chế Lan Viên với sự vận động và bién đổi không ngừng. Sống trong không khỉ hào hùng của cả dân tộc trong những ngày đánh Mỹ, tư tưỏng của Ché Lan Viên đã có sự trưỏng thành vượt bậc và quan niệm của nhà thơ về thời gian cũng đã thay đổi hoàn toàn N hữỉĩg ngày tồi sông đây là những ngày dẹp hơn lât cả Dù m ai sau đời muôn vạn lần hơn so với thời trước cách mạng. (Tổ quổc bao giỏ’ đẹp thế này chăng, 3, tr 72) Trong những tập thơ viết thôi chống Mỹ, Chế Lan V i ê n ‘luôn hưđng lòng mình, thơ mìĩứi vào hiện tại và tương lai với niềm vui, nụ Ôi tương lai như hải cảng lẩm tàu N hữ ng con tàu chỏ đầy hạnh p h ú c Ôi ! tương lai như m ùa chiêm lắm thóc Lẩm liếng cười, lắm cánh bồ câu cười và hy vọng: ( C h i m lượn trăm vòng, 2, tr 29) Lịch sử cây ta đất đ ã thay màu C h ỉ còn máu sôn g H ồng trong quả ngọt Con chim ăn thấy vị p h ù sa trong tiếng hót C h ỉ còn nắng tròi kết sáp nhụy hoa ngon O ng tìm hoa đôi cánh thấy hổn chồn. C h ỉ còn câ y...cây...chỉ còn cuộc sông. Trong Tết trổng cây h ô m nay, người đã thấy ngày mai: (Giữa Tết trồng cây, 2, tr 43) Neil nhu' trong Điêu tàn, Chế Lan Viên phủ định hiện tại một cách gián tiếp thông qua ước m u ố n quay ngược lại thời gian quá khứ, thì trong những tập thơ sau Cách m ạ n g nhà thơ đã trực tiếp khắng định hiện tại và tương lai. Sự thay đổi cách quan niệm về thời gian của Chế Lan Viên phản ánh sự thay dổi, vận dộng của tư duy triết hộc của nhà thơ, gắn liền vđi những biến động của thời đại cũng như của chính tâm 38 lý nhà thơ. Đ ế n những n ă m cuối đời, c ả m xúc về thời gian sổ n g là định hưdng lớn nhất cuốn hút tư duy thơ Chế Lan Viên. Nếu như ổ giai đoạn về già, thì đén D i cảo, nhà thơ đã phải chóng chọi quyết liệt vđi thời gian nước xiết, với bệnh tật và buồn đau. Gió thổi m ây bay bất írẩc ... Phải tranh thủ làm í hơ giữa hai chớp m ắt trưđc đó, nhà thơ vần còn đủng đỉnh triết lý về những ìá thơm hái híc Thời gian nước xiết ... Viết thêm ! Viết nữa! Viết vào. ... Viết đi Ị vỉểí đi! Viếlĩ Viết (Thỏi gian nu’ó"c xiết, 12, tr 64) C ả m xúc của nhà thơ về thỏi gian dường như dồn nén hơn, thúc M ối ngày, m ối phút, m ỗi giây Thấy thời gian đang dồn anh vào chân tường. bách hơn: (Dổn vào chân tuofng, 13, tr 213) Đôi khi nhà thơ c ả m thấy quỹ thời gian đang bị vơi đi một cách Sô ngày còn ỉại của anh trên trái đất, đếm rồi N h ư thóc giống đếm từng hạt m ột C h ỉ cồn từỉig ấy hạt thôi, anh p h ả i tạo ra m ùa đáng SỢ: (Nghề của chúng ta, 11, tr47) ẩy, sống cho những p h ú t giâ y hiện tại : Cái hôn ngày hôm trưóc đ ẻ ngày hôm trước hôn, qu ả chín ngày m ai có ngày m ai hái ... C h ỉ p h ú t g iâ y hiện tại 1ĩ~ước m ắt này cũ n g đ ã cho anh hạnh phúc, nụ c.ười và nước m ất lo toan. M ặ c dù cũng có lúc tự nhủ vổi lòng mình phải ngày nào việc (Ngày nào việc ẩy, 13, tr 120) nhũng Chế Lan Viên vẫn thường nhìn về quá khứ, về những chặng Thôi không còn chờ m ùa hoa p h ía Irưóc M à ngoái đầu nhầm ìại các m ùa hoa p h ía sau đường mình đã đi qua: 39 (Các m ù a hoa, 12, tr 107) Khi đứng ỏ gần cái đích cuối cùng của cuộc đời, Chế Lan Viên buồn khoảnh khắc m à thôi. C ò n sự vĩnh hằng thuộc về thiên nhiên, tạo c ả m nhận thời gian của một đời người thật quả ngắn ngủi, chỉ là vui Giữa 3 vạn 6 nghìn ngày chóng mặt A nh ỏ đây chốc lát Vui buồn khoảnh khắc R ồi anh ra đi C h ỉ có màu xanh chu kỳ Trỏ về đều đặn ... C h ỉ có cây kia là bất tận vật: I (Cây và người, 13, tr 67) I I -Ç 4. Q U A N N IỆ M VỂ VẨN D E TÔ N TẠI Và I Ỉ Ư VÔ, S ố N G VÀ C H É T TRO N G s ự T ự L IẾ N ỈĨỆ VỚI B A N TIỈÁN. Tồn tại và hư vô, sống và chét là những vấn đề triểt học á m ảnh con người từ rất lâu, kể từ khi con ngưòi sinh ra trên trái đẩt này. Descartes, nhà triết học Pháp thể ky717 đã từng nêu lên một m ệ n h dề nổi tiếng "Tôi tư duy nghĩa là tôi tồn tại”. N h ư n g vẩn đề đó không chỉ là mối quan tâm riêng của triết học, m à là mối quan tâm chung của mọi ngành khoa học khác, kể cả văn học, nghệ thuật. Sêchxpia trong vỏ kịch nổi tiếng H ă m lẻ í đã đề cập đến điều đó, thông qua dòng độc 40 thoại nội tâm quyết liệt của nhân vật chính - chàng hoàng tử giả điên xứ Đ a n Mạch: "Tồn tại hay không tồn tại" (To be or not to be). Đ ế n thể kỷ X X , Hoochê Luix Boochex, một huyền thoại của văn học thế giới thế kỷ X X , người đã được rất nhỉều nhà văn lớn trên thế giới nhắt trí coi là bậc thầy và cha dẻ của văn học châu M ỹ La tinh hiện đại, đã dưa ra một quan niệm độc đáo về sự sóng và cái chét: "Cái chết - dó là kho báu chung cho mọi người". C ò n trong văn học Việt N a m hiện đại, một trong những nhà thơ đã trăn trỏ nhiều nhất, đặt ra nhiều lần nhất vẩn đề sự sóng và cái chét, tồn tại và hư vô dó là Ché Lan Viên. T ừ tập thơ đầu tiên Đ iêu tàn viết ra khi chưa đầy 17 tuổi dến tập thơ cuối dời khi đã bước vào tuổi "thát thập cổ lai hy", Chế Lan Viên không ngừng nghiền n g ẫ m về vấn đề triểt học có ý nghĩa Iđn này. v à thơ ca chính là sự phản ánh hệ thóng những quan niệm này của nhà thơ. Trưdc Cách m ạ n g trong Đ iêu tàn, Ché Lan Viên đã đặt ra câu hỏi với chính mình: A i bảo giùm ta có có ta không? (Ta, 1, tr 20). Liệu có thực đã và đang tồn tại một Chể Lan Viên trong cối đời này hay không? N h à thơ nghi ngô sự tồn tại của chính mình và điều đó đã phản ánh lối tư duy siêu hình của Chế Lan Viên khi viết Đ iêu tàn. V ậ y cội nguồn của lối tư duy đó là đâu? Chúng ta đã biết rằng trong cái gia tài "hàng triệu nỗi buồn" thuổ ấy, Ché Lan Viên đã bị "nỗi buồn ghê g ớ m nhất" đè lên tâm hồn - đó là tôn giáo: " M ỏ đầu tôi yêu Chúa. Rồi tôi yêu Phật". M à Phật dã dạy con người: Đời là bể khổ, thân cát bụi lại trồ về cát bụi. Phật còn dạy rằng: sự tồn tại của con người trên cối đòi trần tục vô cùng ngắn ngủi và phù du, con ngưòi chỉ đạt được sự vĩnh hằng sau khi chết. Khi nghi ngò sự tồn tại của chính mình, Chế Lan Viên có lẽ đã chịu ảnh hưỏng ít nhiều của tư tưỏng đạo Phật. H ơ n thế nừa, con ngưòỉ chỉ có thể tin chắc vào sự tồn tại của minh khi tim thấy ý nghĩa cuộc sống của mình, khi tìm thấy chỗ dứng của mình trong xã hội. Trong hoàn cảnh đương thời, không chỉ mình Ch ế Lan Viên m à cả một thế hệ các nhà thơ lãng m ạ n đều có chung c ả m giác bơ vơ, buồn tủi, không biết phải làm gì, sóng ra sao, ý nghĩa bị chiểu đánh lưới. C hẩng biết đi đâu đứng sầu bỏng t ô i , hay Trâng sá n g trâng x a trăng rộng quá. H ai người nhưng chẩng hớl bơ vớ. C ó lẽ 41 cuộc sóng ở đâu? X u â n Diệu đã nói vổi chúng ta điều đó: Ta là con nai chính c ả m giác bơ vơ ấy dã gỢỈ lên trong Ché Lan Viên sự hoải nghi về sự tồn tại của chỉnh mình: A i bảo giùm ía có có la không? Đi theo Cách mạng, Chế Lan Viên vẫn không ngừng suy n g ẫ m về vấn đề tồn tại và hư vô, sóng và chết. N h à thơ đã đặt lại vẩn đề đó "Ta là ai" như ngọn gió siêu hình Câu hói h ư vô thổi nghìn nên lắt "Ta vì a i" kh ẽ xoay chiều ngọn bấc Bàn tay người tháp lại triệu chồi xanh. trong bài Hai câu hỏi: N é u như trước đây nhà thơ nghi ngờ sự tồn tại của chính mình, thì giờ đây nhà thơ đã khẩng định rõ sự tồn tại của mình, khẩng định ý ai. Sự tồn tại của con người trên trái đẩt này chỉ có ý nghĩa khi con nghĩa cuộc sống của mình, khi chuyển câu hỏi từ Ta là ai thành Ta vì người không chỉ nghĩ về bản thân mình, về việc ta là ai m ả cỏn biết nghĩ về người khác ta vi ai. Giờ đây nhà thơ đẵ có một định hưđng rõ ngưài dưới vực sâu vẫn cứu kẻ trên bờ. N êu dưới vực sâu cỏn dũng k h í ràng về thế giới quan và nhân sinh quan. M à khi đ ã có hướng rồi thì (Khi đẵ có hưóìig rồi, 2, ír 33). Khác với lối tư duy siêu hình biểu hiện trong thơ trước Cách mạng, đến giai đoạn này Ché Lan Viên đã bộc lộ trong thơ một cách nhìn, một cách c ả m mới, m a n g dán ẩn ciìa lói tư duy biện chứng. Đ ó cũng là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển của tư duy triết học của nhà thơ. Đ é n D i cảo, rất nhỉều lần Chế Lan Viên đạt lại vẩn đề sự sống và cái chết, tồn tại vả hư vô. N h à thơ cho rằng mọi vật thể trong vũ trụ không phải là nhất thành bất biến, m à trái lại luôn ổ trong một trạng thái bắt hoàn toàn: từ một chỉnh thể hoàn chỉnh ban đầu sẽ xảy ra một m ong trỏ lại hoàn toàn. Đ ó là quy luật m a n g tính bản chắt không chỉ quá trình tự phá vỡ, để rồi sau đó lại phải trải qua quá trình chẩp vả lại của vũ trụ, m à của mọi sự vật hiện tượng. Vđi cách quan niệm đó Chế S ố n g được là vỉ kh ông hoàn toàn L à luôn ỗ thê chênh vênh Lan Viên nhận định về cuộc sống: 42 (Bẩt hoàn toàn, 13, ti 171) v à vổi phép suy luận lôgic, Chế Lan Viên cho rằng con người cũng không n ằ m ngoài quy luật chung dó của vũ trụ. Bắt hoàn toàn là Ta là /a mà luôn luôn bôi rôỉ Tìm lại la D i tám cõi mười phư ơng rồi m ỏi tìm ra N ó ổ trong nhà. bài thơ bộc lộ quan niệm riêng của nhà thơ về vấn đề này: ( 13, tr. 17 Ụ Bản chất tư duy của con người, theo nhà thơ luôn trong trạng thái bất Ổn, luôn giao dộng giữa hai thái cực, giữa lòng tin và sự hoài nghi vào sự tồn tại của chính mình. C ó thể nói thơ Chế Lan Viên giai đoạn cuối đời đà phản ánh được sự hoài nghi m a n g tính triết học, đồng thời cũng phản ánh được tư duy triết học đa dạng và phức tạp của nhà thơ. II-Ẹ 5. N H Ữ N G M Ẩ U TIỈƯ ẢN TRONG Q U A N N IỆ M SÔ N G VÀ CHẾT, TỒ N TẠI VÀ H ư VỎ. Trong thực tế có nhiều nhà vấn lớn, nhà thơ lớn m à trong sáng tác của họ chứa dựng nhiều m â u thuẫn về tư tưỏng. Ban dăc, ngưdi dã từng tuyên bố rằng ông sáng tác dưdi ánh sáng của hai luồng tư tũỏng nhà thờ và nền quân chủ, nhưng ông cũng dồng thòi là người đã quyết liệt chống đối lại hai thế lực đó trong tác p h ẩ m của mình. Trũờng hợp L. Tônxtôi củng vậy. ô n g là một nhà văn vĩ đại không chỉ cỉia nước N g a m à của cả thể giđi, người đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo trong tác 43 phẩm, nhưng cũng đồng thời là người có ỉt nhiều tư lũỏng phản động. Trỏ lại với Chế Lan Viên, chúng ta nhận thấy thơ ông bộc lộ rất nhiều m â u thuẫn về phương điện triết học cung như quan niệm nghệ thuật, đặc biệt là về vấn đề tồn tại và hư vô, sống và chét. D ư ờ n g như đó là một dặc điểm chung phổ biến của các nghệ sĩ lớn, m à căn nguyên của nó n ằ m ỏ yếu tố xã hội và yếu tố cá nhân, khả năng nhận thức của Nói về c ắ i chết, cửa ảL cnôi cùỉìg_của_cuộcxỉời m à J â l cả m ọi n g ư ờ L d ù s ớ m dù muộii đều phái đ i qua, dối khi C h ố L a n Viên đổng nhấtJìó v ớ i^ ự h ư vô, hư vô bỏi vì đã bị quên lãng: Sẽ quên thôi, sẽ quên í hôi Dù hứa nhó H ạnh p h ú c s ẽ quên, đau khô s ẽ quên mỗi nhà thơ, nhà văn. Con sông lũ lụt yêu đương s ẽ cạn dỏng trơ sỏi đá. Người í a quên ... Cái hôn yêu lửa nóng sẽ là đấl thó Củ n g với sự lãng quển là nỗi đau. Nỗi đau của một ngưồi biết chắc rằng sự hiện hữu của mình trong cõi dời này chẩng khác gì một hạt bụi nhỏ nhoi, và tất cả những gì đói vđi mình là cao quý thiêng liêng nhất cuối cùng sẽ trỏ thành vô nghĩa. Đ ó là nỗi đau đơn độc, chí có một mình anh c ả m nhận được, không ngưởi sẻ chia. Nỗi đau ẩy của C h ỗ anh ra đi Đ ẻ lại h ố thẩm Vực xoáy Chế Lan Viên thẩm vào từng ý thơ, từng câu thơ ông viết: N hư ng rồi đỏi lấp ngay K hông ai nhó nữa Nước khỏa đầy K hông ai đau nữa cả. 44 (Chỗ anh ra đi, 13, tr 130) Khí đồng nhất cái chết và sự hư vô, Chế Lan Viên m u ố n nói đến quy luật phổ biến của sổ phận những con ngưôi bình thường, những con người không phải là vĩ nhân, không phải là những anh hùng của thời đại... và ông tự xếp mình vào trong số những con ngưởi bình thưởng đó. Đ ấ y là một sự tự đánh giá nghiêm khắc bản thân hay là nỗi lo rất con người? C ó lẽ là cả hai. N h u n g khi nghĩ về cái chết, không bao giờ Ché Lan Viên chỉ nghĩ từ một chiều dơn giản, m à trái lại từ rất nhiều chiều phức tạp, những ý tưỏng đan xen nhau, thậm chí có khi jỵ ể ỵ jfjh ư có lúc Chê Laỉì Viên nghĩ_v.ề_cáLchết_váiJháLdộJhật bLquan, thì cũng có lúc nằả íhơ ỉại íỏ ra thậl lạc quan khi n g h ĩ về nó. NJĩàJhơ.cho.j:ầng_cáLchếLlà s ự t ổn lại dưới dạng k h á c ,Á m ộ t. íhế_ giới
khóa. Bằng một niềm tin m ã n h liệt, nhà thơ tin vào sự bất tử của mình. m â u thuẫn vđi nhau. Thể xác có thể bị mẩt đi, nhưng tinh thần sẽ cỏn lại mãi. N ó sẽ tồn tại ỏ một thế giới khác, đằng sau cái chết, ở cõi không màu. T ừ nời đó, nhà thơ vẫn có thể nhìn thấy tất cả những gì đang diễn ra trên trái đất này - cái hành tinh không vắng lặng giữa thiên hà; vẫn có thể nhìn chiếc hoa dại hoa vườn nhỏ nhặt. Ỏ trong cõi không màu la vẫn thấy nó lừ x a "(Các m ủ a hoa, 11, tr 107) thấy các mùa hoa và c ả m nhận được hơi người ấm áp. V à du là mội Sự sóng và cái chết trong sự hìnli dung của Ché Lan Viên P hía bên này lá sen ỉà cuộc đời rất tuyệt M à bên kia lá sen cũng là cuộc đời. giống như hai mặt của chiểc lá sen: / (Gió lật lá sen hồ, 11, tr 204) Trong những bài thơ nảy, cái chết hiện lên không có gì là khủng í khiếp, đáng sợ như con người thường hay hình dung về nó, m à trái lại nó gần gũi như một miền quê, nơi ta đã sinh ra. ở đó con nguôi vẫn tồn tại, nhũng là sự tồn tại ỏ một thể dạng khác. Đ ó là sự hóa thân vào trong cỏ, trong hạt sương, trong đá, trong những tia'nắng ngoài vũòn lạnh vắng: 45 khi m ù a xuân đến, trong những bông hoa nỗ bùng, giữa rừng hoang M a i sau... m ai sau khi chẳng còn í a nữa M ột chút nắng xao ỏ đầu ngọn gió Là ta đấy mà, ai có biết đâu ? (Ngưòi mai sa», 11, tr 71) N h ư một hành khách bước lên chuyển xe không có khứ hồi dến một miền vô tận - cái chét, Ché Lan Viên ý thức rất rõ rằng có cái chết không đồng nhất vđi sự hư vô, có cái chết lại hóa thành bát tử. Bỏi vì trên chuyến xe ấy không chỉ có một mình nhà thơ, m à còn có cả những ngưởi khác, những Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... những con người m à tuổi tên sẽ còn lại mãi, bất chấp thời gian. Khi ấy cái chết cững chính A nh tồn lại mãi K hông bằng íuôi tên mà như tro bụi là sự tồn tại vĩnh hằng: Tĩiái với cách hiẻu íhông íhường^cho l ằng tổn fại_và sấtig là hai
kháU 3iệin.aóẠjĩghĩajương.đồng,_Chế_.Lan^Viên__quan_niệmJồn. tạ i và
sổng không hoàn toàn đổng nhất với n h a u jh ơ ĩi th ể nữa CÒ1Ĩ có sự khác
ỉiiệL vổ cù ng quan trọng. N êu coi sự hiện điện của bắt kỳ sự vật, hiện (11, tr 106) tượng nào trong trái đất, trong vũ trụ đều là sự "tồn tại", thì sự "sóng" theo Chế Lan Viên phải được hiểu ỏ một cấp độ cao hơn, vđi một chất lượng thẩm m ỹ cao hơn. Nhà thơ cho rằng có nil nhiều ngưởi tồn tại m à như chua hề sóng, chùa hề n ế m trải mọi buồn, vui ciìa cuộc đôi. Đ ó là những con người lãnh đ ạ m với cuộc dời, lãnh clạm với sự sổng quanh Gặp mùa đào m à khống có nối buồn Thôi Hộ. Đi qua m ùa xuân không ngoái c ổ lấy m ội lần. " (Lãnh đạm, 12, tr 58) mình, với cái đẹp... N h ữ n g người đó K hông nghe biếc đầu cây gọ i họ. Cuộc sống của những người nhu' vậy tuy có kéo dài di nua, m ột ngày Xuân\ (12, tr 58). nhũng cũng thật vô nghĩa: Iĩọ sổng ba trăm sáu chục ngày, không biết N h ữ n g câu thơ của Chế Lan Viên gợi chúng ta nhớ dén một câu ngạn ngữ quen thuợc: ngiĩdí sống nhiều không phải là người sống lâu m à là người được n ê m trải nhiều trong cõi đòi. Đ ó chính là giá trị đícli 46 thực của cuộc sống. N h ư n g sống thì phải như thế nào? Đ ể trả lời câu hỏi đó, mỗi ngưdỉ đều có cách quan niệm riêng của mình. N. Oxldrôpxki đã nói lên th ế đẩy: Đòi người chĩ sống có một lần, phải sống cho xứng đáng, những trăn trở suy nghĩ của mình trong tác ph ẩ m nổi tiéng Thép đã tôi đửng bao giò sống hoài, sống phí những n ă m tháng tuổi trẻ, đế đến khi n h ắ m mắt xuôi tay không phải nói câu ân hận. N h ư n g có người lại cho sóng là phải được hưởng những lạc thú lơi ỉẩ ánh đèn. Cho cung bực ngả nghiêng điên rồ xác thịt. Rượu, ritợu nữa và quên, quên hét! (Vũ Hoàng Chương, Say đi e m , 23, tr 353). Hay phải được của cuộc đởi, phải say và phải quên Sav cho tận hưởng tất cả những gì m à cuộc sống hiện tại d e m lại: nỗi d a m m ê Ta muốn ốm Cả sự sông m ới bắt đầu mơn mỏn Ta m uốn viết m âv đưa và g ió lượn Ta m uôn sa y cánh bướm với tình yêu Tơ m uôn thâu trong một cái hôn nhiều... tình yêu, cái đẹp của mây, gió, cỏ cây... như Xuân Diệu đã từng viết: (Vội vàng, 36, tr ] 25) Khác với các nhà thơ, nhà văn khác, Chế Lan Viên có một quan niệm riêng, rát độc đáo về khái niệm "sóng". Cuộc sống con
ngư ờ i k h ô n g thể g iố n g n h ư n h ữ n g con Ốc, con CHƠ lù hãm ổ ao nhà chỉ hô hồng vì sợ chét giữa phong ba. biét đêm nằm nghe gầm g ừ biẻn động và không bao giờ đ á m hái sơn Đ ã sóng con người phải d á m chẩp nhận mọi phiêu lưu, m ạ o ,• hiểm và phải vượt qua được với một nghị lực và bản lĩnh phi thường. Phải như người đang đi men m iệng W c nghìn đời nhung không bao git) ngã nhào vào đó, để ỗ xa người ia ngỡ anh dang đi giữa đường hoa ( M e n vực, 13, tr 99) Đ ã sống phải d á m làm tắt cả, vì tình yêu, vì cái đẹp, bắt chấp an toàn nào thổ! ổ sou lưng. Lên cao làm chi ? Là d ể hái cành hổng. mọi hiểm nguy đe dọa, giống như ngưòi làm xiếc lổn cao chả cỏ dây 47 (Xiếc, 13, tr57; 48 M ỗ i nhà thơ có tài đều đi tìm những thủ pháp và những phương tiện độc đáo để thể hiện tư tưởng và hình tượng của mình. Chính nhờ các thủ pháp, các phưđng tiện đó m à hình tượng thơ trỏ nên hẩp dẫn, lôi cuốn, gần gũi với bạn đọc. v à điều đó cũng có nghĩa là nlià thơ đã tạo ra được phong cách của mình. Chế Lan Viên đã từng ví nhà thơ giống như ngưỏi đi săn, còn các thủ pháp nghệ thũật thì giống nbư những mũi tên của người đi s8n vậy. Bằng sự phối hợp nhuần nhuyễn hảng loạt các thủ pháp nghệ thuật như ngôn ngữ, thể thơ, kết cẩu... thơ I I I - ạ . N G Ô N NGỦ: Chế Lan Viên đã dể lại trong lòng ngưòi đọc những ấn tượng khó quên. H ầ u hét các nhà nghiên cứu đều thống nhát cho rằng "ngôn ngữ khồng chĩ như là những cơ sỏ đầu tiên của tác p h ẩ m văn học m à còn như là những hiện tượng của phong cách" (27a, trl 91). Chính ngôn ngữ lả nơi để các nhà thơ có thể bộc lộ rõ nhẩt phong cách riêng của mình 49 Chể Lan Viên quan niệm Làm thơ ỉà lạo ra m ột hành tinh thứ hơi bằng ngôn ngữ (Đừng đi chân đất, 13, tr 230). Trải qua một cuộc hành trình dài hơn 50 năm, Ché Lan Viên đã thực sự tạo ra dược "một hành tinh thứ hai" bằng chất liệu ngôn ngữ riêng của mình. Đ ó là thứ ngôn ngữ trữ tình - trí tuệ , vừa m a n g tỉnh ẩn dụ tượng trứng cao, vừa giàu nhạc điệu và tính tạo hình. V à chỉnh sự biển dổi một cách linh hoạt các yểu tổ ngôn ngữ dó đã giúp Ché Lan Viên thành công trong khi dề cập hàng loạt vẩn đề, tu những vẩn đề lớn m a n g tầm nhân loại, có tính triết lý cao, những vấn đề xã hội, thòi sự, đén nlìững vẩn dề cá nliân, những I I I —ậ l.l. N g â n ngữ ÍỈÍO' dưói góc độ vần tho', câu tho', dòng tho", vân
từ ngữ: xúc cảm riêng tư... M ộ t trong những đặc điểm phân biệt ngôn ngữ thi ca và ngôn ngũ: văn xuôi là ỏ sự hòa âm. V à để tạo ra sự hòa â m ẩy có thể có nhiều cách, nhùng cách trũdc tiên m à không một nhà thơ nào bỏ qua đó là sử dụng vần, X u hướng chung là nhung ngưdi cầm bút sử dụng nó ngày một sáng tạo hơn, có hiệu quả hơn, chứ không phải là loại bỏ nó. Chể Lan Viên vón được coi là một trong những tác giả thiên về tliơ lự do. N h ư n g ngay ỏ những bài thơ "tự do” nhắt của nhà thơ, vần vẫn rát được coi trọng. N ỏ vẫn là những "diểm ngôi sáng"', nhung cái "nút", những điểm "nối" ràng buộc các dòng với nhau thành một chỉnh thể. Bài T ổ qtiổc bao giở đẹp thể nảy chăng có thể được coi là một trong vô số ...Cho tôi sinh ra buổi D ảng dựng x â v đời Mdf được thấy dòng sôn g ra gập b ể Ta với m ẻ thép gang đầu là đứa trẻ sinh dôi N guyễn Van Trồi ra di cồn dạy chúng ta cười Cho tôi sinh ra giữa những ngày diệt M ỹ Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy Bên nhữĩig dũng s ĩ đuổi xe tâng ngoàĩ dồng và hạ trực thang rơi. 50 (3, tr 73) Theo con số thống kê của một số nhà ngôn ngữ thì trong sáu tập thư ờ ng - C him báo bão, Đ ôi (hoại m ói, N h ữ n g hài tho' đánh giặc, H oa trước lăng N gười) có tới 3049 cặp vần, trong đó tỉ lệ các â m thơ của Chế Lan Viên (G ủí các anh, A n h sá n g và p h ù sa, H oa ngày chính đồng nhất hoàn toàn là 46%, các â m cuối đồng nhắt hoàn toàn là 81,8% (Dẩn theo 27b, tr 90). C ó thể nói nhiều bài thơ tự do của Chế Lan Viên không trỏ nên rời rạc một phần chủ yếu là nhờ sự liên kết của ; Xé.Lyề_câu íhơ, cỉòng íhơ của Ché Lan Viên, ta thẩy có những các vần. đặc điểm riêng, khá độc đáo. T ừ nhung câu thơ dải, Jthá đều đặn, chủ yểu là 8 tiếng trong tập Đ iêu tàn đén thời ký sau Cách m ạ n g Tháng Tám, Chế Lan Viên dã làm một cuộc cách m ạ n g về câu thơ, dòng thơ. Khuôn khổ câu thơ cũ bị phá vỡ. Thay vào đó là các bài thơ tự do xuất hiện ngày càng nhiều với những câu thơ đài, ngắn được đặt xen kẽ vđi nhau, n h ằ m biểu đạt một ý tưỏng lớn của cả bài. Khác với lôi đi irậí Ịự như đang diễu qua lễ đài của những câu thơ cũ, những bài thơ cũ, thơ chếnh choáng, chứìi nam đá chân chiêu. Gọi là múa cũng được. Mà bay cũng được. Truy kích bổi thi iứ. (Cácỉi, 12, tr 224) Chế Lan Viên sau Cách m ạ n g Tháng tám như những câu thơ say, Tuy nhiên cluing ta cũng không thể phủ định một điều là ngay trong tập thơ đầu tiên ấy đã chứa đựng những m ầ m m ó n g của một lói tư duy phá cách, đẩy táo bạo. K h ổ thơ sau là một ví dụ về sự sáng tạo H ổi vêu tinh (mà dâu râĩig còn íổ rõ Trên nền xương mà chân dẫm chửa p h o i m ò Trên nấm mô) m àu vàĩig ỉời nức nổ. Ta chờ ngươi trong những buéi đêm mơ. câu thđ của Chế Lan Viên: (1, ír 38) Thông thường mỗi dòng thơ là một câu thơ. N h ư n g ổ đây ta thấy một câu thơ m à trải dài tđi ba dòng thơ. Đ ó là hiện tượng "vắt dòng" m ả ta tháy rất hiếm lchi xuất hiện trong thơ ca lãng m ạ n đương lliời. Ngư ợ c lại, có khi nhà thơ lại đồn nén trong một dòng thơ có tới ba câu 51 thơ, như bài N g ủ trong sao: N hưng mà Ịrâĩig ! N hưng mà sao ! N hưng mả giỏ ! Ôn ào lên lán loạn chạv quanh lơ Phút hôn độn qua rồi. Trời ! Đau khô !... N h ừ n g cách tân nói trên của Chế Lan Viên về câu thơ, đòng thơ không phải là biểu hiện của lối tư duy chuộng hình thức, chạy theo hình thức, m à ồ đây có một sự hải hòa nhuần nhuyễn giữa hình thức và ý nghĩa nội dung của cả khổ thơ, bài thơ. Sức hấp dẫn chinh phục lòng ngưỏi của thơ Chế Lan Viên cũng được tỏa ra từ đó. M ộ t đặc điểm nổi bật khác của ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên là N ế u như trước đây có ý kiển cho rằng từ ngữ dùng trong thơ ca phải là từ ngữ bóng bẩy, có tính hoa mỹ, thì sau này trước thực tế cuộc sóng phong phú ngày càng m ở rộng, các nhà thơ khá m phá ra rằng mọi hiện tượng xã hội cần phải được x e m xét từ nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau. C ó hỉc ngôn ngữ phải lắng sâu, nhiều tính triết lý, nhưng cũng có lúc phải bộc bạch trực quan sinh động đối với đói tượng m à mình đang miêu tả. vẩn đề là tùy thuộc vào đói tượng dược miêu tả và bút pháp của nhà thơ. Đ ọ c thơ Ché Lan Viên chúng ta càng hiểu rõ hơn điều này. Trong thơ Chế Lan Viên không chỉ có một không gian bao quát với những biến có xã hội lớn lao, m à còn có cả mộl không gian đời thường, với những nỗi khát vọng đời thường. Đ ó là cuộc đòi thường ngày có hai chiều sáp, ngửa với m u ô n vàn chuyện đỏi của nó bình thường có, dơn giản có, m à phức tạp, dừ dội cũng có... Trong thơ Ché Lan Viên, chúng ta bắt gặp dòng sông Hồng, V à m c ỏ Tây thân thiết nghe tiêng sạp dần theo nhịp sóng mau ỏ mội vùng than, lìay thăm son, hoa ỉau trắng, búp lộc vừng ... cũng trỏ thành niềm c ả m hứng cảnh chùa nghèo... T ừ con cỏ, chim vít vịí, vịt trời hồ Tây đến hoa gạo trong thơ Chế Lan Viên. C ó cả những bài thơ giản.dị, dầy chất liệu 52 cuộc sóng, đi thắng vào lòng người như: C o n đi so" tán xa, C o n lên
Quế Võ, Nhflfem n C ó thể nói sau Cách m ạ n g Tháng Tám, Chế Lan Viên đã m ỏ rộng cánh cửa thơ cho hiện thực cuộc sổng ùa vào. Y ếu tó khẩu ngữ được nhả thơ vận đụng một cách chọn lọc, linh hoạt, đã gây nên ỏ Cơn hỏi cha: "Bom có giết chết m èo?"
"Có, khỉ xuống hầm con hãy nhó m ang theo " Con lại hỏi: "Bom cỏ giéi thỏ cao su và ngựa gô ? " Ôi đồ chơi con trẻ bao lần hoen máu đổ Con hổi cha: "Bom có giết m ẹ khtìng ? " ngưòi đọc những xúc động m ạ n h mẽ, như bài thơ C o n hỏi cha: (3, tr 46) Bài thơ được cấu tứ theo kiểu dổi thoại giửa hai nhân vật: cha và con với những câu hỏi vả ừả lời rất bình đị, song bên trong những câu hỏi và trả lời đó là c ả m xúc của nhả thơ, tập trung theo một dòng c ầ m hứng chủ đạo là tố cáo tội ác đé quóc Mỹ. D o vậy những hình ảnh dược chọn lựa rất cụ thể, sinh động, nhưng lại h à m chứa một ý nghĩa khái quát. Con mèo, con thồ cao su, ngựa gô là những con vật, đồ vật gắn liền với tuổi thơ đáng yêu của trẻ. Đ ó là thé giới của sự bình yên, vậy m à b o m M ỹ nào có đung tha. v ả nữa - người mẹ, tiếng gọi thiêng liêng của tất cả mọi ngưòi, càng thiêng liêng đói với con trẻ trở thành đối tượng của cuộc chiến tranh. Cái m ạ c h liên tưỏng áy đã nãng giá trị tư tưổng của bài thơ, nhờ sự liên két chặt chẽ một cluìm những c ả m xúc với nhiều cung bậc khác nhau, tăng tiến tới m ứ c cao nhất, v à cuối củng nó dẫn tói một bước ngoặt, biến những suy nghĩ thành một câu trả Đ ừng hỏi nữa con ơi đừng có hỏi D e ngày m ai cha ra trận cho con. lời, một hành động cụ thể: 53 ỈII -ẸỊ.2. Tính chấl ân dụ-tượng Iru'ng Nhiều nhà thơ cho rằng cuộc sống như một cái thang có nliiều bậc. N ê u thơ chĩ giiíp người đọc leo hết các bậc áy thì chua phải là thơ. Phải giúp cho người đọc bước lên những nấc thang cao hơn, những nấc thang không hề có, không hề thấy, dấy mđi đích thực là thơ. Còn Chế cái bẻ sâu, ố cái bề sau, ỏ cái bề xa. C ó lẽ chính vỉ quan niệm ắy m à Lan Viên thì luôn quan niệm, phải p h á t giác sự việc ỏ bề chưa thây, ỏ thơ Ché Lan Viên ỉt khi đơn nghĩa. Ngoài một tâng nghĩa bề mặt ra, nhiều bài thơ, câu thd còn có những tầng nghĩa nữa ẩn sâu hơn, dó là ý nghĩa ẩn dụ-tượng trũng. Đ ọ c Đ iêu tàn một câu hỏi hiện lên trong tâm trí ngiíòi đọc: Điều gì đã á m ảnh Ché Lan Viên khiến người viết nên những vần thc5 ảo não đến như vậy để khóc thương cho một dân tộc đã bị diệt vong từ lâu trong quá khứ ? C ó phải đơn thuần chỉ do một ý m u ố n ngông cuồng, thích làm chuyện khác lạ, như tuyên ngôn Ngũòi đà từng công bố trên văn đàn đũơng íhởi: "Thi sĩ không phải là người. N ó là người mơ. Người say. Ngũời điên"? Nêu chỉ vì một lý do đó thôi thì ta phải giải thích sao đây về nỗi buồn, nỗi đau sâu xa trong cả tập thơ ? Ẩ n tượng thỏi thơ ấu ỏ một vùng quê nghèo miền Trung, nơi có rất nhiều tháp Chàm, chung tích của một nền vãn minh đã bị mai một, một dân tộc đã bị tuyệt diệt, đã khắc sâu vào tâm kliảm nhà thơ. Ầ n tượng áy lại bal gặp cảnh đời của những người dAn Việt N a m đương thời II uất, đau khổ, mắt tự do, tát cả những điều đó dã đ e m lại cho Chế Lan Viên một tâm trạng buồn thương sâu sắc, một cạm giác bé tắc và bất lực. Trong một lẳn tự bạch Ché Lan Viên viết: " ... Nếu chỉ !à nỗi buồn của riêng cuộc sống h ẩ m hiu của tôi thôi thì cũng được thôi. N h ũ n g đây lại là nghìn triệu tiếng khóc, cơn mu'a, tiếng gió vi vu đến từ bất ký đâu, có khi tới vay mu'Ợn giả m à lại cứ buồn rẩt thật". (Mắt nểi đan riêng và được cái vui cluing, 18a, Tr. 21) K h ô n g phải Chế Lan Viên dã viết Đ iêu tàn cho riêng dân tộc Chàm, tuy đúng ]ả quá khứ của dân tộc ẩy đã tác động vào chiều sâu 54 của tâm hồn nhà thơ. K h ô n g phải Ché Lan Viên dã viết Đ iêu tìm cho ai khác, than vãn vì ai khác, m à viét cho chính dân tộc Việt Nam, cho những người dân Việt N a m lúc báy giò dang đứng bên bờ vực thầm. Tuy rằng khi viết tập thơ đó, Chế Lan Viên cũng gióng như hầu hết các nhà thơ lãng m ạ n cùng thời, đều ỏ khá xa Cách mạng, có khi là ngược nữa kia. D u y tâm và duy vật. Yị nghệ thuật và vị nhãn sinh. Siêu hình và cuộc sống. "Có điều ngược trí chứ chắng ngược lòng" như chính Chế Lan Viên tâm sự sau này. C ó lần T Ó H ữ u đã nói với Chế Len Viên: "Lúc ẩy anh e m lòng đúng m à trí lạc". Đ iêu tàn đã bộc lộ đúng điều dó. cả tập thơ có thể coi lả một lời ẩn dụ kin đáo của nhà thơ về tình cảm y.êu thương da diết đển xót xa đối vổi dân tộc, với đất nước và con người Việt N a m . Tuy rằng điều dó nhà thơ không nói rõ ra qua những câu thơ, những bài thơ cụ thể, nhưng dó là ấn tượng sâu nhất m à Đ iêu tàn đã để lại trong lòng người đọc. Giống như Chế Lan Viên, nhiều nhà thơ lãng m ạ n khác cũng su dụng thủ pháp ẩn dụ, tượng trưng trong thơ, chỉ có điều khác lả nó được bộc ỉộ qua từng bài thơ riêng biệt, cụ thể, như Thế L ữ với bậi thơ N h ớ ’ rừng. M ư ợ n lời con hổ trong vưdn bách thảo, nhà thơ đã diễn tả c ả m giác bức bổi vì cuộc sóng tù đày, giam h ã m và bộc lộ khát vọng Gậm m ột khối căm hòn trong cũi sắl Ta nằm dài írồỉĩg ngày tháng dần qua Khinh lũ ĩigưởi kia ngạo man, ngẩn ngơ G iương m ắt bé, diễu oai linh rừng íhẵm m u ố n được tung hoành ỏ một cuộc đời rộng lớn, tự do: (23, tr 62) tàn ta mới rút ra được lời ẩn đụ kín đáo đó của nhà thơ. C ò n với Ché Lan Viên, phải ìừ tất cả các bài thơ trong tập Đ iêu Sau Cách mạng, ngôn ngữ tíiơ của Ché Lan Viên vẫn giữ được một nét nổi bật từ thời Đ iêu tàn, đó là ngôn ngu ĩìiang tính ẩn dụ - C ó những bài Chế Lan Viên viét về những việc cụ thể nhũng tứ những việc cụ thể ấy, ý nghĩa bài thơ không bị bó lại m à được m ỏ rộng ra, được nâng lên thành khái quát, triết ]ý. Giua Tểt trổng cây ià câu 55 chuyện trồng cây vảo dịp Tết theo lởi kêu gọi của Bác H ồ nhùng không phải hoàn toàn là chuyện trồng cây, m à là chuyện con người, Anh trồng cho em một nhành cây nưâc mắt Cỏ cành ỉá không Nam không Bắc A nh trồng cho em trong đất âm ngã ba đường L ấ y cải vui của cuộc đỏi đánh bạt m ọi đau /hương chuyện đắt nưđc: (Giua Tết trổng cậy, 2, tr 42) Lại có những bài thơ Chế Lan Viên viết ra như một lời tâm sự, ẩn dưdi đó là một điều vô cùng lớn lao. Đ ó là khát vọng hướng thiện của nhà thơ, người dã từng "lạc trí" một thời nay m o n g ước được hiểu Bạn thân m ến ơi, dừng xua con chim nhỏ M ôi câu thơ đều muôn báo tin lành M ỗi đêm tàn đều m uôn hóa bỉnh minh ... Đ ừng đuổi thơ tôi, vỉ mộ í chút chiểu ỉà nào ngả brìĩĩg H ãy kiên lòng, s ẽ thấy nắng m ai ỉên và c ả m thông: (Nhật ký m ộ t nguììri chua bệnh, 2, tr 73) Ớ các bài thơ chóng M ỹ của Chể Lan Viên, điểm xiiẩt phát dường như đều là những vấn đề có tính khái quát, từ đó gọi về những hình ảnh sắc cạnh, những c ả m nghĩ đột xuất, làm cho ý nghĩa khái quát như được sóng lại một đờì sống cụ thể. Thơ Chế Lan Viên là loại thơ có tư tưỏng, và để diễn đạt tư tưỏng của niình thì ẩn dụ - tượng trung lả một thủ pháp nghệ thuật đắc dụng của nhà thơ. Đ ể làm nổi bật tính chát hào hùng, kỷ ảo, sức tnạnli ciỉa dân tộc ta thời chổng Mỹ, Chế Lan Viên đã dùng hàng loạt hình ảnh m a n g tính K hông ai có th ể ngủ yên í rong đời chật Buỗi íhủy triều vẫy gọi những vầĩig írđng Mới g ié lúa đều m uốn thêm nhiều hạt G ỗ trăm cây đều m uốn hóa nên trầm M ỗi chú bé đều nằm m ơ ngựa sổi M ối con sông đều m uốn hỏa Bạch Đằng. ẩn đụ cao: (Tổ quổc bao giờ đẹp thế này chăng , 3, tr 72) Hình ảnh thơ xuẩt hiện liên tiếp, gọi nhau, bổ sung cho nhau 56 làm nổi bật lên khí thế phát huy hét mọi tiềm lực cổng hiên cho (Jẩt nước của mọi người đân Việt Na m . Tuy rằng trong cuộc chiên đáu h ô m nay có thể không còn những bài Hịch, bài Phú, bải Cáo xưa kia, nhưng vẫn cần phải có cái hơi thơ sang sảng hào khí đã từng nức lòng hàng triệu quân sĩ, nức lòng già, trẻ, gái, trai khi quân xârh lược ngáp nghé bờ cõi nước nhà. Vdi H o a n gà y thư ờ ng - C him báo bão, N h ữ n g bài
tho'đánh giặc, Đối thoại tnỏi, chế lan Viên đã làm dược điều dó, Cũ n g vđi â m hưỏng hảo hùng dó, Chế Lan Viên đã diễn tả trong thơ khát vọng sẵn sàng hy sinh vì sự sống còn của Tô quốc, vì Ta x é mình ra ngang dọc chiến hào Cho T ổ quốc ỉiền sông núi vạn đời sau Việt N am chịu vạn ngày lửa đạn Cho nghìn năm nhân loại ngẩng cao đầu. thế dứng "ngẩng cao đầu" kiêu hãnh của T ổ quốc: (Thờỉ sự hè 72, Bình luận, 4, tr 75) Nói về quá khứ xưa, giai đoạn bé tắc tìm đưởng của dân tộc, Cha ô n g xưa từng đấm nát tay írưâc cửa cuộc đời Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khóa N h ữ ĩĩg p h o tượng chùa Tây Phương không biết cách trả lời Chể Lan Viên dùng những hình ảnh m a n g tính biểu tượng: (TỐ quốc bao giờ đẹp thể này chăng, 3, tr 71) N h à thơ làm ta m ê say tính chất ký vĩ của dân tộc ta, thời đại ta, bằng việc gợi lên trong ta những ý nghĩa tiềm ẩn írong những sự việc bình thường. C ó bài thơ tưỏng chừng giản dị nhưng thực ra lại là một lời ẩn dụ, như bài C o n c ò . Đ ó là lời nói với con về một lòi ru: con cò trắng muốt, vất vả trong ca dao như chia sẻ nỗi buồn vui với e m bé. V à tỏa hồn dân tộc vào cuộc đời của em. Bài thơ nửa thực nửa hư m a n g ý vị dân ca m a n mác. Đ ế n tập D ì cảo cuổi đời, mỗi bài thơ của Ché Lan Viên lựa như một câu hỏi, buộc ngưỏi đọc phải suy n g ẫ m và tìm ra các tầng nghĩa ẩn chứa trong đó. BỊ thúc bách bỏi thòi gian nước x iế t, thơ Chể Lan Viên giai đoạn này đường như đồn nén hơn, trĩu nặng suy tư hơn, phản ánh câo tuy tồn tại ỏ dạng những phác thảo chưa thật hoàn chỉnh nhưng mọi khía cạnh phức tạp của tâm hồn nhà thơ. Nhiều bài thơ trong D i 57 giá trị của nó lại không phải là nhỏ. Đ ọ c nhung bài Ihơ ấy ta có một c ả m giác, diíng như nhà văn V ũ Thị Thường - người bạn đời của Chế Lan Viên nhận xét: như ta đang được ăn một bữa cá, tuy khổng có đu mọi gia vị cầu kỷ, nhùng đúng là những C011 cá tươi nguyên vừa mới câu được. N h ữ n g bài thơ ấy nliư một sự cô đúc lại quan niệm sống, triết lý sống của nhả thơ. Ché Lan Viên chẩp nhận và sẵn sàng dánh dổi một cuộc sống bình yên m à buồn tẻ, vô vị, lắy một cuộc sống cho dù đầy sóng gió và tai ương. C ó hai lẽ sóng và sự lựa chọn là ồ bản thân mỗi người. Bài thơ Sóng là một lời ẩn dụ. Nỗi khao khát hiểu đến tận cùng cái tôi của mình thu ỏ Đ iêu tàn còn day dứt C h ê ’Lan viên đển tận những n ă m cuối đỏi. N h à thơ đã nhiều lần có "tìm lại mình", sự hiện diện của mình giữa không gian m ê n h m ô n g và thời gian nước xiết. Trong mỗi khoảnh khắc thời gian đi M ột bóng ngựa hổng không quay trổ lại M ộl tiếng còi tàu khuất p h ía xa xa M ột chấm chim bay làm (rời mất hút B ay đi rồi, ta biết dấy là ta qua, mỗi người dều để lại một chút gì của mình trong dó: (Cái đi qua, 13, tr 60) 1 Bị á m ảnh nhiều về cái chết, Chế Lan Viên làm nhiều bài thơ trong tâm thế một người chuẩn bị đi xa. C ó những bài thơ, dù không có lẩy một từ "chết", nhưng ta vẫn cảm nhận được điều đó. N h ữ n g câu thơ đ ằ m lại, bình thản, m à chứa đựng trong đó bao xáo động của lòng Tôi thu dọn đòi mình như người sấp về quê cũ C hả cần gỉ thêm Chừng này đ ã đủ Chừng này íhươìig, chừng này giận dữ C hùĩìg này hoa, cỉùùig này bão tií Đ i bỉnh y ê n ... người: (Về quê cũ, 13, tr 33) Triết lý nhiều về cuộc đòi, về con người, Chế Lan Viên cíĩng suy n g ẫ m nhiều về thơ, về sứ m ạ n g của nhà thơ. C ó bài thd như một lời 58 ẩn dụ về sự lựa chọn giữa cái cao quý và cái tầm thường của thơ ca' Đ ổi m ột câu íhơ sư íử lấy mộ í bẩy mèo Đ ôi mội câu thơ vổ sao, vổ các giải Ngân hà lấy nghìn câu bất chuột C hả là sư tứ ỏ đây, ngoài phổ, trong nhà không ai gặp
Sao chẳng dùng được việc gi, CỎĨ1 chuột thì là thời cuộc ( M è o cliuột, 13, tr 196) JIĨ-<ẸI.3. Tính họa và tính nhạc "Thi trung hữu họa. Thi tnmg hữu nhạc". Quan niệm thơ ca đó xuất phát từ phương Đông, nhưng có lẽ không phải là của riêng phương Đông. Đ â y là điểm gặp gở, giao thoa của hai nền thơ ca lớn phương Tây và phương Đông. V à Ché Lan Viên là ngưởi đã lĩnh hội được cả hai luồng tư tưỏng Đ ô n g - Tây đó. C ó thể nói ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên là ngôn ngữ đầy tính họa và tỉnh nhạc. Tuy nhiên hai yéu tó này của ngôn ngữ không tồn tại một cách độc lập, hoàn toàn tách biệt, m à có sự phối hợp nhuần nhuyễn với các yếu tố khác, góp phần tạo nên phong cách độc đáo của nhà thơ. K. Fêđin đã viét về vấn đề này: "Những yếu lố của phong cách thỉ có nhiều. Cái khó của việc n ắ m được những yéu tố ẩy là ỏ chỗ cluing không có sự tồn lại tuyệt dối, không sóng một cuộc sóng độc lập m à gắn bó với nhau liệt như những quân cờ". ( Những vấn đề phong cách, 27a, tr 201) Tính họa Đ ọ c lại thơ Đ ư ờ n g (Trung Quốc) và thơ của các nhà thơ cổ điển Việt N a m , ta nhận thẩy một điều thơ đã đạt tới sự tinh luyện của sự tổng hòa của ba thành tố nhạc - họa - thơ. Đ ó )à những câu thơ Đ ư ở n g luật của H ồ X u â n Hương, thơ lục bát và song thất lục bát của Nguyễn 59 Du, Đ o à n Thị Điểm... Á o chàng đò rực ráng pha Ngựa chảng sác trổng như là Ịuyốí in M ột trái trăng íhu chín m õm mòm N ả y vừng quê đổ đổ lỏm lom (Đoàn Thị Điểm, Cliinh phụ ngâm, 21, tr 22) (Hồ Xuân Ilương, Trăng thu , 24, tr 14) N guyệt lạc ô đề sương mãn íhiêĩi G iang ph o n g ngư hỏa đôi sầu miên Cô Tô thành ngoại H àn Sơn tự D ạ bán chung thanh đáo khách 1huyền. H a y bải P h o n g kiều dạ bạc của Trương Kế: (Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời. H à n g cây phong bên sông, lửa chài đói giấc ngủ sầu. Chùa H à n Sơn ỏ ngoại thành C ô Tô. N ử a đ ê m tiếng chuông đến thuyền khách). < Chế Lan Viên trong thơ đã kể thừa dược tính họa truyền thóng đó của thơ ca phương Đông. Tuy nhiên m à u sắc trong thơ Chế Lan Viên hết sức linh hoạt, có sự chuyển đổi từ g a m m à u tối sang g a m m à u sáng, rồi lại trở về g a m tối, gắn với thơ ỏ từng giai đoạn sáng tác cụ thể. Bao trùm cả tập thơ Đ iêu tàn là một m à u sắc 11 á m và ả m đạm. Tuy đây đó trên bức tranh m à u x á m ấy thỉnh thoảng có lóe lên những g a m m à u tươi sáng, khi nhà thơ miêu tả một buổi nắng mai khi xuân Đ â y tà áo chuôi ìion bay ph ấp p hớ i P hơi m àu xanh lấp lảnh dưới sương m ai Đ ây pháo đỏ lập lòe trong nắng chỏi Đ â y hoa đào m ỉm m iệng đón xuân hỉơi. về, hay một đ ê m trăng ndi thành cổ: (Xuân về, 1, tr 48) N h ũ n g những câu thơ như vậy trong Đ iêu tàn là rẩt hiểm. Cluì t a n ,T r ă n g (Tien, Đ cm x u â n sầu , M ơ tră n g , T ắ in tr ă n g , Ngủ tro n g sao... 60 yếu nhà thơ viết về bóng đ ê m qua hàng loạt bài thơ: B ó n g tối, Đ e m Đ ê m tói hiện ]ên trong Đ iêu tàn như một đối tượng thẩm mỹ, màn đen huyền bí, dày đặc bóng đêm mớ. C ó khi m a n g những sắc thái một nhân vật sóng dộng. C ó khi dó là hầu bóng tôi mênh mang, một đêm luôn hoảng hốt m ãi không thôi, Lài chưa dứt bóng đêm dà vụt biên, Vài vũng đêm u ám, đang điên cuồng giãy giụa giữa vùng trâng. tình c ả m của con người: Kìa bỏng đêm kinh khủng chạy vào ta, Bóỉig thuyền m ộng cita N àng trâng vào đốn bên m ây xa, với những vì sao N h ũ n g lại có cả ĩihữĩig buổi đêm mơ với suôi trâng êm, những con như đang sa xuống cõi trần ... Sự hài hòa giữa g a m m à u tói - sáng, vổi m à u tối làm nền dà đ e m đến cho Đ iêu tàn một thứ ánh sáng lấp lánh, huyền ảo. Phải chăng cũng vì vậy những vần thơ "diên" của nhà thơ mỏi chinh phục được sự say m ê của người đọc không chỉ của đương thỏi. T ừ g a m m à u tói là chủ yểu trong Đ iêu tàn, sau Cách m ạ n g Tháng Tám, thơ của Chế Lan Viên hiện lên với một g a m m à u hoàn toàn khác trước. Trong A n h sá/tg và p h ù sa, nhà thơ sử đụng những g a m m à u sáng, rực rỡ miêu tả thiên nhiên, đất nước, con người Việt m á ngẩ nghiêng say, từ biển khơi xanh biếc như hàng nghìn m ù a thu N a m . T ừ những miền quê đất m ật lúa vàĩìg vổi mật đất ngày xuân nỉm'
máu rót, từ những con sổng dệt phù sa trong rừng vắng v ớ i đôi bờ đỏ còn đọng lại đén thế giới của loài cá dưdi biển sâu: Cá vào hội xòe hoa m ang áo dẹp Cá nụ, cá chuồn, cá chim không p h ả i chim dâu, ' cá hồng hổng sdc vẫy Con cá so ng cầm đuốc, dẫn /hơ về. ... N ơi những đàn m âv trang xóa cả hơi đi (Cành ph o n g lan bể, 2, tr ] 15) Phong cảnh thiên nhiên trải rộng theo không gian m ê n h m a n g của đất nưđc, dổi sẩc thay m à u theo thời gian bốn m ù a xuân - hạ - thu - đông. V à với việc sử đụng hàng loạt các tính từ chỉ m à u sắc, Chế Lan Viên đã vẽ nên buc tranh đầy sinh động, biến hóa, bức tranh ẩy không tĩnh lặng m à phập phồng như chính sự sóng đang diễn ra trên đất nước. Đ ê n H o a n g à y thư ờ ng - C hìm bdo bão, tuy rằng từng bài thơ trong tập thơ này không phải là một bức tranh cụ thể, trực tiếp nhũng 61 xét ỏ tùng đoạn, tùng câu thì đó ]à những câu thơ giàu hình tượng, có R oi trên cành chừng đ ã đi qua Chen lá lục quả bàng vàng đ ã chín Cỏ có d ễ mềm hơn vì sương bén Cúc bên đường nghiêng nhữĩĩg giọt sương hoa. tính tạo hình. Trong bài Tròi đã lạnh rổi Chế Lan Viên viết: (3, tr 67) Đ êm nay sao chúi vàng như thóc giông Phải đêm nay trời cũng được mùa? ... H ãy yêu! H ãy yêu tâi cả M ột chiếc cẩu vừa m âi bắc qua sống M ộl hợp lác lúa chiêm vàng óng ả M ội nhà ăn cửa s ổ sơn hổng H a y những câu thơ trong bài Sao chiến thắng: (3, tr 70) N ế u như m à u xanh được coi là m à u của tuổi trẻ và hy vọng, m à u tím là của tình yêu và nỗi nhổ, thì N h ữ n g bài th ư đánh giặc là những bài thơ m à u đỏ: m à u đỏ của niềm tin, m à u đỏ của sắc cờ như nhà thd đã từng ca ngợi Cờ rất đỏ như ỏ đòi ìhịnh (rị. Dĩ nhiên đây chỉ là một m à u trong bảng m à u phong phú của thơ Chế Lan Viên. Các m à u áy bổ sung cho nhau, như những tiếng chim trong buổi ban mai, làm nên cái g iặc , có những câu thơ như thắm đ ư ợ m một m à u đỏ, m à u đỏ của lửa đa dạng của ngôn ngữ thơ Ché Lan Viên. Trong N h ữ n g bài tho' đánh A i không đau khi lửa cháy các ngôi nhà C h ỉ g ổ rách nát tươm íỉủ lòng ta đau buổi... cháy, của xương m á u nhân dân ta đã đổ: (Thỏi sự hè 72, bình luận, 4, tr 76) Tập thơ Đ ổ i th o q ỉ m ó i của Ché Lan Yiên lại như một c h ù m hoa nhiều m à u sắc, bẩt chấp cỗi cằn, sỏi đá của thời gian, tuổi tác, có nỏ kịp vào m ù a xuân dâng nguôi, dẫu không m o n g gì "hương sắc lạ". N h ư một nhà phê bỉnh nói về tập thơ Đ ối thoại m ỏ i: "Anh sáng trí tuệ đ e m đến cho hình tượng thơ Chế Lan Viên vẻ đẹp lóng lánh nhiều m à u đột 62 ngột của đ ê m hội pháo hoa. Trên nền trời giao c ả m vô hình giữa nhà thơ và bạn đọc, cái dẹp trí tuệ ấy nỏ bừng m u ô n c h ù m hoa ngũ sắc, xòa nỏ mãi nhừng tia đẹp bất ngờ, từ nhiều điểm nổ bát chợt của xúc động" (Hoàng Lan, Đổi thoại mói vó"i C h ế L a n Viên,28a, tr 126) Trong Đổi thoại mói ta gặp m à u m â y trắng, biểu tượng của tình yêu M àu trắng là màu m ây của em, m à u đỏ b ầ m của ]á bàng m ù a lá, hay m à u xanh nõn của lá cây khi m ù a xuân đến: lá rụng N hữĩìg cây bàng đỏ lá cuối năm. N hữ ng cây hàng cu ôi đời rơi Cái dậy thỉ của m ột mùa xuân ... Lá xanh non, lá nõn, lá ngân (5, tr 56) Đ e n D i cảo, ngôn ngừ thơ Chế Lan viên lại có sự chuyển đổi lớn về m à u sắc. N h ữ n g g a m m à u chói lọi rực rđ, đầy sứủ sóng không còn xuất hiện nhiều như giai đoạn trưdc dó nừa, m à thay vào đẩy là một m ây, nhạt nhẽo mù m ờ vô vị, những đêm đặc đêm đen... N h à thơ hình m à u sắc ả m đạm, u ám, là những ngàv trống khôĩĩg nhờ nhờ trắng dung ra cả ngày mình sẽ ỏ bên kia cuộc đòi, trong vô hình bóỉig tối Đến ngày anh ổ trong vô hỉnh - bóng íối B ên kia, bên kia anh quay đầu nhìn lại N g ũ sắc cuộc đời chói lọi M à anh trỏ vể thì đ ã vô phương nhìn lại một cuộc đòi chói lọi đã vĩnh viễn qua đi: (Đên ngày, 13, tr 81) tàn, với nhung g a m m à u quen thuộc trong Đ iêu tàn. Trong D i cảo Chế Lan Viên dã lảm một cuộc trd về với Đ iêu N h ư n g trong thơ Chế Lan Viên, những sắc màu, loài hoa không chỉ đơn thuần là những sắc màu, loài hoa bình thường, đơn giản của tự nhiên, m à đó là hoa trên đả, sen tư tưỗng. N h à thơ đầ đùa vào trong các sắc m à u những quan niệm thẩm mỹ, triết luận về tình yêu, về cuộc đỏi của mình. N g ắ m m à u đỏ lá bàng khi m ù a dông dến, nhà thơ c ảm nhận như m ù a đông của cuộc đòi mình cũng đang đần đển từng giây Ta đứng p h ía này m àu đổ p h ía kia cây A n h lỏn tuổi làm sao ngăn được nỏ 63 từng phút, từng ngày, không sao ngăn cản được: Chậm một ngàv là một ngày nó đỏ
Cái tuổi già ngăn Ỉ1Ó p h ía nào dây ? (Lại lá bàng, 12, tr 487) Tính nhạc N ê u như xét ỏ tính họa, thơ Chế Lan Viên có những yéu tố gần gũi với thơ ca phương Đông, thì ỏ tính nhạc, Ché Lan Viên lại tỏ ra chịu nhiều ảnh hưỏng của thơ phương Tây, đặc biệt là thơ Pháp. Bỏi vì tuy đi sau rất nhiều so với phương Đông, nhưng hình thức nhạc trong thơ tự do quê gốc ỏ Pháp là "thiên biến vạn hóa". Sự tung hoành của tính nhạc trong thơ tự do, trên cơ sỏ nhạc tính của â m nhạc hiện dại, là không có hạn độ. N ó thực sự là thơ tự do (vers libres) đúng vđi ý nghĩa đầy đủ của thuật ngữ này. Các nhà thơ lãng m ạ n thưòng rắt đề cao vai trò của â m nhạc trong thơ. Paul Verlaine đề xướng: câu thơ phải giàu nhạc tính và ăm nhạc trước m oi điều (...De la musique avant toute chose). Ớ góc độ này, thơ Chế Lan Viên có lẽ gần với thơ Pháp hơn. lớn âm thanh. Trên các đại p h o n g cầm (Thợ, 13, tr 2ĨS ) Chế Lan Viên quan niệm: Có thơ của âm nhạc giơợ tranh từĩig trận Nh ạ c điệu của thơ Chế Lan Viên hét sức uyển chuyển và linh hoạt, n h ằ m diễn tả tư tưỏng, hay những biển đổi bất thường trong tâm A i đâu trỏ lại m ùa thu írước N hặt lấy cho tôi những lả vàng Vói cứa hoa iươi m uôn cảnh rã v ề đây đem chđrt nẻo xuân sa ng trạng nhà thơ. Khi chậm rãi, đều đều, phảng phất u buồn: (Xuân, 1, tr 67) khi dồn dập, gấp gáp như sự xáo trộn, thảng thốt của chính tâm hồn nhà thơ: N hưng m à trăng! Nhưiĩg mả sao ! Nhưtĩg mà g ió
Ớn ào lên tán loạn chạy quanh ía , (Ngủ trong sao, 1; tr 16) C ó những câu thơ lại nhấp nhô, ngả nghiêng, lảo đảo, như đang 64 củng trong cơn say vdi con tàu, vđi cột tàu, ống khói: Say lảo dáo, tàu hát lừ đại dương hát lỏi H át tử bê háí vào Cột tàu say, ông khói say, sa y từ dây neo dãy cáp Từ trên boong say xuống các buồng iàìẢ. (Tàu đến, 2, tr 68) C ó khi nhà thơ sử dụng nbững câu thơ ngắn (4 chữ) với nhịp sOng thôi lại thấy ngưòi, cũng có khi lại dùng những câu thơ dài, điệu ê m đ ề m để diễn tả một đòng sông đang xuôi chảy, như bài T h ấ y rộng, dâng lên như nước thủy triều để nói lên sức lớn mạnh không gì ngăn cản được của Cách m ạ n g trên con đường di tđi tương lai, như bài Sao chiến thắng. C ó những câu thơ không có nhịp m ạ n h và tiết tấu dứt khoát như trong hành khúc, â m thanh các từ không có gì đặc biệt. N h ũ n g câu thơ Ôi Trường Sơn v ĩ đại của ta ơi Ta dựa vào ngươi kéo p há o lên đồi Ta dựa vào Đ ả ng ta lên liếng hát Dưới chân la đến đầu hàng Dơ-Cá( vẫn có chất thơ nội tại của nó, vẫn có sức bay bổng riểng: (Tể quổc bao gi T h ậ m chỉ ngay trong một bài thơ có sự biến đổi đột ngột về nhạc Giặc M ỹ m ày đến đây
Thì ta tiêu diệt ngav Trời xanh ta nôi lửa B ẻ xanh ta giết m ày Ới! T ổ quốc ta, ta yêu như máu thụ N h ư m ẹ cha ta như vợ như chồng Ôi, T ổ quốc! N ếu cần ta chết Cho m ỗi ngôi nhà ngọn núi con sôn g điệu giữa hai khổ thđ liên tiếp: (Sao chiến thắng, 3, tr 70) K h ổ thơ đầu nhà thơ dùng thể 5 chữ, nhịp thơ ngắn, đanh dhắc và rắn rỏi, bộc lộ sự c ă m thù vô hạn vđi đé quốc Mỹ. Đ ế n khổ thơ thứ hai, câu thơ lại trải dài, da diét, nói về tình yêu dắt nước thiết tha, Sự 65 biến đổi nhịp điệu bất ngồ m à vẫn giữ dược nét hài hòa trong giai điệu. 111- ệ2 T IIỂ THƠ. Ché Lan Viên là người đã sáng tác và thử nghiệm hầu hết mọi thể thơ và ỏ thể thơ nào cũng có những bài thơ đặc sắc. Cũ n g qua việc sử đụng các thể thơ của Chế Lan Viên, chúng ta mới hiểu rỏ dược năng lực lư duy cũng như c ả m quan thẩm m ỹ của nhà thơ trong cả quá trình sảng tác, từ chỗ đơn giản, đơn diệu, đến chỗ ngày một đa dạng hơn, phức tạp hơn. Trong Đ iêu tàn, hầu hét các bài thơ đều được Ché Lan Yiên viết theo thể 8 tiếng, thể thơ khá nổi tiếng và thịnh hành trong Thơ Mới. M ặ c dù cũng có một vài bài viết theo thể 8, 9 tiếng xen kẽ hoặc 7 tiếng, nhũng nhìn chung cả tập thơ của Ché Lan Viên chưa có được sự cách tân mđi về thể loại. C ó lẽ cũng chỉnh vì vậy đã gây nên ỏ hgưỏi đọc c ảm giác về sự đơn giản đến m ú c hơi đơn điệu, do nhiều bài Ihơ cùng lặp lại một kiểu thể loại với một kiểu xúc c ả m quen thuộc: buồn, chán, cô đơn, tuyệt vọng... N ế u nhũ ví những xúc c ả m của con người là một phím dàn có rất nhiều cung bậc khác nhau, thì với Đ iêu tàn Chế Lan Viên chỉ mổi ch ạ m được cung bậc Lrầm - buồn m à thôi, c ỏ n rất nhiều cung bậc khác của tìnli c ả m con ngi/di chưa được Đ iêu tàn đề cập đén. H o a n g à y th ư ờ n g - ch ùn btío bão, Đ ố i ího ạ ỉ m ói, H ái tỉ 'O m ùa... Chế Sau Cách mạng, với hàng loạt tập thơ nhu': Ả n h s i Ig và p h ù sa, Lan Viên dã làm được một sự bung phá về thể loại the. N ă n g lực tư duy của nhả thơ đã đạt tới một trình độ cao hơn hẳn so với Đ iêu tàn. Chế Lan Viên hiểu rằng hiện thực cuộc sống vô cùng da dạng và phong phú, cũng giống như thể giới tâm hồn con người, bỏi vậy không thể chỉ dùng một thể thơ nhất định để biểu hiện cái thế giổi m u ô n m à u sắc đó. Giai đoạn này, Ché Lan Viên đã làm những thử nghiệm táo bạo trên híìu hểt mọi thổ thư: T ứ (!ổt đổn bình thể 3, 4 tiổng biốn lióíi, Di ra ngoại ô, Lộc m ù a xuân thể 4 tiéng, Đi trong hu'o'ng cliùa Hương, Tìnli ca ban niai thể 5 tiếng. H o a đào ntf soin, Cuổi n ă m thể 6/8. lỉua c«"m thúòìig trong bản nhỏ thể song thất lục bát. Ngoài ra còn nhiều bài thơ theo thể tứ tuyệt, 8 tiểng hoặc thể tự do. v ó n yêu thơ cách luật và hiểu biết vững vàng các thể thơ đó, M ù a c ổ điển - một tập thơ Đ ư ờ n g luật của Quách Tấn - và tuyên bó ngay lúc phong trào Thơ M ới thịnh hành, Ché Lan Viên đã giới thiệu Lụy nhó mưa ngàn luôn nượp nượp Tóc íhề m ây núi bạc phơ phơ. sẵn sàng đổi tập thơ đẳu tay của mình ỉẩy hai câu về núi V ọ n g phu : Tuy nói cũòng điệu cho nổi bật ý, nhũng cũng thể hiện một thiên hưdng nghệ thuật của Chế Lan Viên: biết quý trọng kinh nghiệm của các nhà thơ cách luật và thích tìm trong các thể thơ ấy chất thơ của thời đại mđi. Ai đã đọc các tập thơ viết sau Cách m ạ n g của Ché Lan Viên đều nhận thấy ông là nhà thơ đương đại viết nhiều thơ tứ tiiyệt. Xuân Diệu đã từng khen thơ tứ tuyệt của Chể Lan Viên: Thu" m ù a nu’ó"c lũ tliật đúng là tiêu chuẩn của một bài thơ tứ tuyệt xưa nay. Trong 28 chừ m à có đủ nliđ, trông, mừng, giận, thương xót cứ như lẫn N hớ xuôi trông m ãi m ảnh tin nhà N a v dược p h o n g thư suôi nưóc ỉihỏa C hẩng dám giận nhiều con thác lũ Thương tình chú ngựa khô đường xa. vào nhau. M à nghĩ ra từng khía cạnh đều chính đáng. C ó những bài tứ tuyệt khác giản dị, tự nhiên, như một ý H oa tặng cho em ỉà hoa sim núi Canh nấu em ăn ỉà bát rau rừng Lau m ặt p h ấ n em nghiêng m ình xuôỉĩg suối Con suôi rừng cũng mến chi vân công, thoáng đén nhưng cứ làm ta nhó mãi: 67 (Chị vãn cOng, 2, Ir 17) Nhiều bài thơ 8 tiểng của Chế Lan Viên cíĩng đạt dén sự nhuân nhuyễn, có chân cảm: Tiếng hát con tàu, Đ ọ c Kiều,Hoa hổng trong bệnh viện, Gửi Kiều cho e m n ă m đánh Mỹ. Nga y trong Đ iêu tàn đã có nhiều bài thơ 8 tiếng khá nhuần nhuyễn, nhưng đường như mđi chỉ nhnẳn nhuyễn trong tỉnh yêu và nỗi buồn. Nh ữ n g bài thơ 8 tiếng sau náy của C hế Lan Viên đã m ỏ ra thé giổi tình c ảm rộng hơn: tình đồng chí", đồng đội, tình yêu dất nước, dản tộc... Chỉnh độ nhuần nhuyễn của những bài thơ 8 tiếng này đã chứng tỏ độ chín trong t'ư tưỏng cũng như trong nghệ thuật của Chế Lan Viên. Trong D i cảo, hầu hết các bài lại được nhà thổ viết theo thể tự do, những câu dài ngắn đan xen nhau một cách hài hòa trong một tổng thể chung, n h ằ m bộc lộ một ỷ tưởng nào đó của nhà thơ: K h ô n g phải chì dén D ì cảo Chế Lan Viên mới bắt dầu viết thơ tự do, m à ngay từ rất sớm, trong tập thơ G ủĩ các a nh nhà thơ đã có những thử nghiệm theo hướng này. N h ư n g phải đến những bài thơ sail đó mới đạt được thành công hơn. N h ờ câu thơ m ỏ rộng, Ché Lan Viên có thể diễn đạt thoải mái tư tưởng, tình c ảm của mình, dù khiíc chiết, tinh vi, hay khái quát, trừu tượng. N h ờ đó đã đưa thơ gẳn với cuộc đời. M ỗ i lần hoa có thể coi là một trong số rất nhiều bài thơ Chế Lan Viên M ối lần hoa Trái dấí lại y êu như buổi yêu đầu N hững lẩm lòng trổ nên dại cìộí Thỏi ẹỉaĩi đến, thời gian đi hoang hôi C ỏ như suỏi uổng vào chân la bước C ây rực rỡ sắc màu N h ư những tình nhân thắp đuốc Đe tìm nhau. (.R ú t trong tập nháp "Hoa trên đá 2", 13, tr 78) viết theo thể loại tự do nảy: 68 Khác với phong cách của nhiều nhà thd khác, thường chỉ chú ý dển hòa â m và m u ố n tìm đến sự hài hòa, Chế LanViên thích sử dụng những nghịch â m và m u ố n chãn lý lóe lên từ khoảng giữa hai cực đối lập. KêLaấu tươngphản, một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong thơ Đ ư ờ n g cổ dại Trung Hoa, đã được Chế Lan Viên khai thác tối đa các thé m ạ n h trong khả năng biểu đạt c ả m xúc và tư tưởng. Sự tương phản m à ta gặp nhiều nhất trong Đ iêu tàn là sự tưdng phản giữa cảnh vật và con ngưdi. cảnh vật càng rực rõ, tươi sáng bao nhiêu thi lòng người lại chán nản, u buồn nhường áy. Sự tương phản có khi được biểu hiện ra giữa các phần, các khổ trong một bài thơ, như trong bài N ắ n g mai, có khi được bộc lộ kín dáo ngay trong một khổ Nhưng Ỉỏỉĩg ơi sao không lên tiếng hát N hớ làm chi cảnh c ũ những nghìn xùa L òng hỡi lòng! Kìa trời xuân bát ngát M uôn sắc màu rạng 1'd dưới hương đưa. thơ, như bải X u â n về : (1, tr 48) K h ô n g chỉ riêng Chể Lan Viên m ả hầu hét các nhà thơ lãng m ạ n đương thdi đều để lại trong thơ một nỗi buồn chan chứa. Đ é n m ứ c Hoài Thanh phải thốt lên: "Thực chúa bao giỏ thơ Việt N a m buồn và trời nhẹ lỆn cao - Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. Lưu Trọng L ư nhắt lả xôn xao như thé". Xu â n Diệu buồn cái buồn vô cổ ỉĩôm , nay C hập chờn số n g lại những ngàv không. C ò n H u y Cận lại nói cùng ta buồn vì một dĩ vãng đẹp đẽ đã xa L òng rượi buồn theo thời D ĩ vãng. } nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài, tròi rộng, nỗi buồn của ngũdi lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn d ê m mùa, buồn nhớ 69 bạn... Cái buồn của H u y Cận trong L ử a th iê n g có điểm rắt gần với cái buồn của Ché Lan Viên trong Đ iêu tà n : Đ ê u là nỗi buồn tỏa ra từ hồn của người cơ hồ không biểt đến ngoại cảnh, cả liai người đều đã gọi dậy "cái hồn buồn của Đ ô n g Á, đã khơi được cái mạch sầu m ấ y nghìn n ă m vẫn n g ấ m n g ầ m trong cõi dất này" (23, tr 137) C ó khác chang là ỏ chỗ, cái buồn ciỉa H u y Cận nhiều khi có sự tương đồng với cảnh vật: buồn vì đ ê m mưa, buồn vì xa cách nhớ nhung bạn, buồn vì nghe tiếng nhạc đ á m ma... C ò n với Chể Lan Viên, nỗi buồn lại thường được đặt trong một thể tương phản hoàn toàn với cảnh vật. cảnh vật càng tươi sáng tràn đầy sự sổng thì lòng ngưỏi càng u á m và trĩu nặng 11 buồn. Cái buồn vì thế càng có chiều sâu hơn, da diết hơn. Kết cấu tương phản ỏ đây thật đắc dụng trong việc biểu hiện tư tưỏng bài thơ, nâng cao ý nghĩa thẩm m ỹ của hình tượng thơ. được Chế Lan Viên biểu hiện thông qua những đối lập về thỏi gian, về Trong thơ sau Cách m ạ n g Tháng Tám, sự tương phản , đối lập không gian hay những tình c ả m trong lòng ngưởi. N h à thơ đã cho người đọc tiểp xúc vđi những bất ngở và tương phản trong ý thơ, trong hình ảnh, trong két cấu, trong nhạc điệu, từ yêu thương dến giận dử, từ yên tĩnh đến bàng hoàng, từ trang nghiêm đến trào lộng... Tính đa diện và sức biến hóa của thơ Chế Lan Viên một phần quan trọng lả dựa trên sự tương phản đó. Xưa, ỉa hái nhành lan m ặt đất Nay, vin cành m ai dẹp trong trăng. C ó sự tương phản về thời gian: (Ôi chị H ằ n g nga cổ gái Nga, 2, tr 65) Đ ất nước m ênh môĩĩg, đài anh nhổ hẹp Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi? C ó sự tương phản về không gian: (Tiếng hát con tàu, 2, tr 22) 70 C ó sự tương phản giua cảnh vật và lỏng ngưòi: Đ ât nước sẩp đôi thay rồi mà tôi chẳng hiẽt Người thay đổi đời ía dã về kìa, ỉa vẫn không hay Tôi vẫn khép p h ò n g văn hì hục viết N ẩng trôi di oan uổng biết bao ỉỉgày. (Ngtìỏi thay đf>i (Tời tỏi, Ngu'01 thay đổi thơ tôi, 3, tr 65) Tình c ả m trong thơ Chế Lan Viên không phải là thứ tình cảm giản đơn, m à là sự chen cài của nhiều tình c ả m khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. N h à thơ thường nói đển cái buồn thật đ ậ m để chuyển Khóc ch ẩn g ăn thua, anh hãy thử cười Cười được rồi bổng rơi lan nưâc mắt sang nói đén những nguồn vui dù mđi hé, nhưng là nguồn vui lổn. (Nhật ký m ộ t nguol chua bệnh, 2, tr 71) Chế Lan Viên còn có cả những bài thơ ngắn, ghi lại những suy nghĩ chợt đến của mình. M ộ t cái tên ngổ T ạ m Thương cũng gợi lên một cái gì rát nhẹ, rẩt sâu của đời, của người. Bài thơ được cẩu tứ theo N g õ rât cụt m à lòng sâu thẩm N g õ bảy thước m à lòng m uốn dặm Thương m ội đời đâu p hải Tạm Thương. kiểu tương phản: i (Ngõ T ạ m Thương, 5, tr 19) Trong D i cảo, yếu tố tương phản được bộc lộ ngay từ tên của các bài thơ, như : Đ ê m và ngày, T r ò n và méo, vĩ m ô và vi mO, Tro và lửa, T â m và hổn, V ă n xuôi vả thơ, N ặ n g - nhẹ, H o a và rễ, R a - vào... N h à thơ quan niệm cuộc đời như một chuỗi dài những hành trình tỉm kiém và k h á m phá chân lý, k h á m phá chính bản thân con người. T â m hổn mỗi người là nơi hội tụ, xung đột của hai lực lượng cái ác và cái thiện, cái đẹp và cái xấu. Ớ nơi ấy xảy ra cuộc chiến â m thầm Cuộc chiến tranh màu trắng của Ị ăm hồn Tuyết nhắm tayết chia p h e m à đôi chọi Tuyết này đỏi tan tuyết kia tồn lại P hía chấp nhận hóa bùn, p h ía k ỳ vọng cỏ xanh non. và khốc liệt: 71 (Cuộc chiến, 12, tr 57) N h à thơ diễn tả quy luật tất yểu của thời gian, hết ngày lại đến Đừ/ĩ g buồn đêm phù du
D ã có ngày bấí tử đêm, như sự luân phiên của hai khái niệm đối lập: ( Đ ê m và ngày, 13, tr 96) Q u y luật ấy không chỉ đúng trong tự nhiên m à còn đúng vổi cuộc sổng con người: có nỗi buồn thì có cả niềm vui, có sự lãng quên thì cũng có cả nỗi nhớ... Chính sự thống nhất của nliừng mặt đói lập áy đà làm nên cuộc sổng. Chế Lan Viên không theo hẩn một tôn giáo nào, nhưng tôn giáo lại là nỗi á m ảnh khôn nguôi suổt một đời ông sống. C h ỗ gặp gô của tư tưỏng Chế Lan Viên và tôn giáo là ý thức về sự m o n g m a n h ngắn ngủi của đời ngưòi. N h à thơ trăn trỏ rát nhiều về cái gọi là số A nh đâu p h ả i mặt tròi chói lỏa Cho đến lúc tắt cũng hỏa thành hoàng hôn rực rõ A nh c h ỉ là ngọn đèn con con B ỗn g dưng p h ụ t tắt Thê là íôi om phận: (Số phận, 13, tr 80) C ó nhiều hình ảnh tương phản: một mặt trời chói lòa và một ngọn đèn con con, hoàng hôn rực rỡ và cái tối om của đời ngưỏi, của cái chết. N h ư n g sự tồn tại của con ngưôi trên cõi dời này không phải là vô nghĩa. Sự ngắn ngủi của cuộc đờ) không ngdn cản con ngưdi làm nên những điều kỳ điệu, lổn lao. Lịch sử đã thay đổi bao trang, nhưng tên tuổi những con người vĩ đại vẫn còn lại mai với thòi gian. C ó những điều tưỏng chừng là nghịch lý nhưng lại ]à điều có thực: ngưdi bị mẩt cũng lại là ngưởi đ e m cho. V à đó cũng là ý tưởng lớn nhẩt m ả Chế Lan Đ ừ ng là người bị m ất B ao giở gặp anh nhân loại cũng được Được m ột cái gì Thê là anh hạnh p h ú c 72 Viên bộc lộ trong bài thơ Phía trúức : Anh, người bị mất Vân luôn luôn có gì đ ể CỈĨO (13, tr 136) V à nhữnp .'âu thô Ché Lan Viên để lại cho đòi là những câu thơ hình anjh m à cả về ý nghĩa biểu hiện. 73 IV - ặl. K H Ả I N IỆ M CÁI Ấ o VÀ CẢI m ự c . P. Éluard đã nói một ý rất hay: có đủ loại thơ, nhưng chữ thơ bao giờ cũng đứng trưdc (Theo 22a, tr 297). Trong thơ, ngoài cái lớn lao của hiện thực, thơ bao giờ cũng tìm đến thế giới của những ước m ơ và m ộ n g tưỏng. Thể giới có tính chát m ộ n g ảo này tiiy không hiện hình lên trực tiếp bằng những quan hệ cụ thể, nhưng vẫn có sức m ạ n h truyền c ả m riêng và có một vị trí quan trọng đặc biệt trong thơ. V ậ y thực chắt cái ảo là gì ? Theo từ điển Larousse: Cái ảo (fantastique) được định nghĩa như kết quả của trí tưỏng tượng, là tất cả những gì do trí tưỏng tượng của con người tạo nên. Ở phương Tây, huyền ảo còn được dùng như một danh từ để chỉ một thể loại văn học nghệ thuật m à đặc trùng của nó là sự x â m nhập của những yếu tố kỷ ảo, siêu nhiên vào trong thế giới lôgic thực tại. Rất nhiều nhà kinh điển, nhả thơ, nhà văn... cũng đưa ra những nhận xét, quan niệm của mình về cái ảo. A-pô li ne (Apollinaire) cho rằng: "Cái lĩnh vực phong phú ít được biết nhất, cái lĩnh vực có một chiều rộng không bờ là tưỏng tượng. Vì vậy không có gì lạ nếu người 74 ta đã dành danh hiệu nhà thơ chủ yếu là cho những người đi tìm những liêm vui mới rải rác trên những không gian đồ sộ của sự tưỏng tượng" iTheo 22a, tr 302) T ổ H ữu đấ có lần nói: "Thơ phải chăng là diều ấy, m ơ ở trong thực, cái vô hình trong cái hữu hình. N h ữ n g mà u trong thâu, không sáng cũng không tối, là m ờ nhưng lại rõ, cái chính xác của sự m ơ hồ, cái bảng lảng, có thể nói như vậy khi ngưới ta là thi sĩ." (Theo 22a, tr 297) Xu â n Thu nhã tập cũng đưa ra một định nghĩa về thơ: "Thơ là cni gì huyền ảo, tinh khiết, thâm thúy, cao siêu, cái hình ảnh sự khắc khoải bẩt diệt của m u ô n vật: cõi "vô củng". (Theo 22a, tr 287) Q u a hàng loạt các định nghĩa đã nêu trên, chúng ta có thể rút ra một nhận định khái quát và ngắn gọn nhất: cải ảo là tât cả những điểu các giác quan chúng ta có th ể cấm nhận được. Nói cách khác, cái thực Trỏ lại vđi Chế Lan Yiên, ta nhận thấy trong thơ ông có sự đan Đ iêu tàn đển tập thơ cuối đời D i cão vdi các m ứ c độ, sắc thái biểu xen giữa cái ảo và cái thực. Y ế u tố này được bộc lộ từ tập thơ đầu tiên hiện khác 11 hau, và đã trở thành một đặc trưng nổi bật của phong cách thơ C hế Lan Viên. Cái ảo dã m ở rộng thế giới thực, giúp người đọc c ả m nhận được nhiều p h ạ m vi rộng rãi bao la ciìa h ô m qua, h ô m nay và ngảy mai, của cái có thật vả cái có thể có, nên có, của cái ta đang sổng và cái mọi người m o n g ước. Cái ảo trong thơ Chế Lan Viên, theo chúng tôi, được tạo nên bỏi các giẩc mơ, bởi những liên tùỏng táo bạo IV-ệ 2 CÁIẨO LẤN ẤT CÁI T ĩỉự c TRONG ĐIÊU TẢN. Đ ọc Đ iêu tà n , chúng ta như dang lạc bước vào một thế giới hoặc thậm chí phi lý, và bỏi "độ nhòe" ciìa ngôn ngữ. m ộ n g ầo kỷ íạ của chính nhà thơ. D ư ờ n g như nhà thơ m ơ ngay cả khi tỉnh thúc. H ầ u hết các bài thơ đều nói đén các giấc mơ. M ơ hay cái ảo, 75 chính là đặc điểm nổi bật đầu tiên của cả tập thơ Đ iêu tà n . I V -Ẹ2.1 Giấc m o'tình y êu Kh ô n g có gì lạ khi một chàng trai mới lớn, nhát là người dó lại có m ộ n g làm thi sĩ thường xuyên bị á m ảnh bởi những giấc m ơ thầm kỉn vê tình yêu. Nh ư n g cái khác người của chàng thi sĩ này là ở chỗ đối tượng m à chàng gửi g ắ m mọi niềm thương nỗi nhổ không phải là những người con gái đẹp ndi trần thé, m à là nhung Chiêm nùơng. Thời gian đã qua đi. Cái tên Chiêm Thành chí còn trong sử sách. N h ư n g bóng dáng nhừng ngưởi đẹp của dân tộc đã bị tuyệt diệt ẩy vần luôn hiện diện trong tâm tưỏng nhà thơ họ Chế như một niềm á m ảnh. N h à thơ tưỏng tượng ra những cuộc hẹn hò, những lần gặp gở với các Ta vừa thấy bóng N àng trẽn cỏ biếc Suôi tóc dài êm chảy giữa giỏng trăng Ta vửa nghe giọng sầu bi tha thiết Của Chiêm nương gờn gợn sóng cung H ằng Chiêm nương: Ta gập N àng trên một vì sao nhổ Ta hôn N àng írong bỏng núi m ây cao Ta ôm N à ng trong những nguồn trăng đ ổ Ta ghi N àng trong những suối trăng sao (Mộng, 1, tr 14) (Ngủ trong sao, 1, trló) N h à thơ dưỏng như được n ế m trải tất cả nhung ning động tình yêu m ã n h liệt nhất, đa diết nhất và cũng tinh tế nhất, cả nỗi nbđ m o n g B ên của Tháp ngóng trông người Chiêm nữ Ta vẩn vơ nhìn không k h i bâng khuâng Vài ngôi sao lẻ loi hồi hộp thỏ xao xuyén khi phải dợi chờ: (Đọi nguol C h i ê m nữ, l, tr 65) Ta cùng N à n g nhìn nhau không tiếng nói Sợ lòi than lay đ ổ cả đêm sâu Đ ồ i hơi thỏ lìm nhau trong bóng tôi... Nỗi đ a m m ê và sự hòa nhập: 76 ( Đ ê m tản, 1, tr 45) V a cuộc chuyện trò của những kẻ đang yêu: H ãy lau ngay ngấn lệ đọng trong mi, Đưa môi đây, này môi anh chan chứa Rượu yêu đương bừng nóng của tình si ... Em ghen à? Thôi anh không đi nữa (Trăng điên, 1, tr 59) C ứ đ ắ m mình trong những p hút m ộng điên cuồng, mơ dữ dội , rồi có lúc nhà thơ chợt bừng tỉnh Mơ rồi ! Mơ rồi ! Ta mơ rỏi !. Giác m ộ n g tình yêu tan biến, chỉ còn nỗi xót xa, nhớ tiếc bóng đáng ngưòi M ộng tàn rồi! bóng người Chiêm nữ ấy Biết tim đâu, lòng hỡi, dưâi Trăng ngà ! con gái đẹp giò đã xa: (Mộng, 1, tr 14) N h ư những cãu chuyện tình đẹp nhất trên đời này, yêu đấy, đ a m m ê đấy m à không sao đến được với nhau, chàng thi sĩ đau khổ, P hút hôn độn qua rồi. Tròi! Đ au khổ! (Ngủ trong sao, 1, trl6) nỗi dau khổ đắng lòng của một người đã từng biết thé nào lả hạnh phúc N h ư n g ỏ đây không chỉ đơn thuần là giấc m ơ về tình yêu. C ò n một cái gì dấy ẩn đằng sau đó. Ngưdi Chiêm nữ ấy không có thật, cả cuộc tình lãng mạn, đara m ê áy cũng không có thật. Tất cả chỉ hiện lên, chỉ được hình dung ra trong trí tưởng tượng ciìa nhà thơ. Ngưôi C h i ê m nữ ấy phải chcing là hiện thân cho cái Đẹp, cái Đ ẹ p hoàn m ỹ và bí ẩn. C ò n cuộc tỉnh ấy là hiện thân cho niềm khao khát hưổng tới cái đẹp, chiếm lĩiih lấy cái đẹp của nhà thơ. N h ư n g cái đẹp có là của riêng ai bao giò ? Bỏi vậy m u ô n đỏi thi sĩ cứ khao khát để rồi lại đau khổ, sưa vào khắp cõi Trời M ơ ! I V - ệ2.2 Giấc m ơ siê u thoát. đau khể rồi lại càng khao khát thêm, Người chỉ CÒĨ1 biết thả hồn sa y Đ ọ c Đ iêu tàn ta nhận thấy cái íôi trữ tình của nhà thơ "mơ" nhiều quá. V à đáng hĩnh Người, ta hình dung ra trong một thé bay lên, bay lên m ột cối rộng lớn vô cùrtg: cõi tiên. Dưới chân Người, chỉ có 77 bóng đ ê m hun hút, những cảnh tiêu diều, đổ nát, những pho tượng ]ỏ loi, nhưng n a m m ô không, nhung liêng cười ghê rỢiĩ, hơi khóc rung dài của những yêu m a nơi nghĩa địa... Thế giói áy đói lập hoàn toàn với . . .d ể xiêm ìẽn m ây rỏi nhẹ hước Xuông dòng Ngân, lỏa chói ánh hào quang Sao í án loạn đua bơi trên mặt nước Tiếng lao xao dội (hấu đên cung ĩ lằng ( 1 tr 16) một thê giới tuyệt vời, sáng chói ỏ bên trên, nơi ẩy Ngũởi có thể: Dưới kia là bóng đ ê m đen lật, trên này là ánh sáng chói lòa, dưới kia là nỗi buồn, trên này là nơi ngự trị của hạnh phúc, tình yêu. Ngưòi chính là sứ giả của cối trần gian dến két bạn với nhung vì tinh tú. Đứng dấy nhé, cho anh tên cung Quảng Bảo cô Hằng: Diện ngọc rộng không cụng Sao không đi, vào chi trong mây trắng Cho ánh m à bao p h ủ cả không trung? Ngưòi nói với người yêu trong m ộ n g của mình: (Trăng điên, l, tr 59) H ãy cho íối một tinh cầu giả lạnh Một vì sao trơ trọi cuối trời xa D ẻ nơi ẩy tháng ngày tôi lẩn tránh N hữ ng ưu phiền, đau k h ổ với buồn lo! M u ố n xa lánh cội trần gian, Ngưdi m ơ ước: (Nhứng soi tơ lỏng, 1, tr 13) K ỳ lạ thay thể giới m ộ n g ảo của Ngưdí. Trong cõi trời đất vô củng vô tận, ta có thể gặp Người ỏ bất cứ nơi dâu. Người hóa thân trong một làn khói mảnh, chu du khắp nơi cùng tròi cuối đắt, hay rải K ia trài cao, trẽn m ãi chín íầng cao H ồn ta bay trong m ột làn khói tỏa C hắng biết rồi lưu lạc đến nơi nào ? hồn khắp cõi trời trong : Lớp hồn í ôi êm rải khắp tròi trong. (Đọi ngùòi C h i ê m nu, 1, tr 65) 78 (Hồn trôi, l, tr 46) ơ đây có thể nhận thấy rõ ảnh hưỏng sâu sắc của Sac lơ Bô- đơ le (Chai les Baudelaire), "người cha của chủ nghĩa tượng trưng", ông tô của nền thơ hiện dại Pháp đói vổi Chế Lan Viên. C ó gì thật gần gui H ãy bay thật xa những nơi đầy chướng k h í bệnh hoạn này Đe tẩm mình trên thượng tầng không k h í cho tâm hồn thanh khiết, ... Đ ằng sau những chán chường và những nổi ỉmồn
Đ è nặng lên kiếp sổng mù sương bụi lầm ỉỉạ n h p hú c thay cho ai có íh ể c ó đôi cánh mãnh Hệt Vúl bay lên tận những vùng trời tươi sảng và thanh bình ! giua ươc m ơ siêu thoát của Chế Lan Viên với những câu thơ trong bài
Siêu thăng của B ô đơ le (Baudelaire) : (19, tr 21) bệnh hoạn với những kiếp sông mù sương bụi lâm, m u ó n vươn tới một Chối bỏ thực tại, như cách nói của Baudelaire đầy chướng k h í thế giới khác, nơi áy có một bầu không khỉ thanh khiết vả trong lành, có lẽ đó không phải là thứ ảnh hưỏng một chiều đơn thuần của thd Pháp đói với thơ Việt Nam, m à cỏn là sự gặp gđ, điểm tương đồng về tư tưỏng của các nhà thơ Pháp và Yiệt N a m . Y ả phải chăng đó cũng là I V -Ẹ2.3 G iấc m o'giao hòa cõi âm du'oïîg. điểm tựa để Ché Lan Viên viét nên những câu thơ "có cánh" như vậy. K h ô n g phải chĩ đến Ché Lan Viên, văn học mới nói đến ước m ơ giao hòa giữa người cối ã m và người cối dương. Trước đó từ rất lâu, trong văn học thời Phục H ư n g (thế kỷ 16), ta đã biết đến điều đó như là một ước vọng thầm kín, m a n g tính bản thể của con ngưởi. Trí tưỏng tượng của con người vô cùng phong phú. V à "tham vọng" của con người cũng thật vô cùng. K h ô n g chỉ m u ố n tìm hiểu cuộc sống của loài người trên trái đất, con người còn m u ố n k h á m phá, chinh phục cả những miền đất bí ẩn, những khoảng không xa xôi. Trí tưỏng tượng giúp con người hình dung nên cả một thế giới thần kỷ của các bậc thẳn linh nơi thiên đàng, và cả một địa ngục khủng khiếp nơi â m gidi. Con 79 người chính là sứ giả, có khả năng giao lưu giữa hai cõi trời và đất. I ĩ y L ạp , lại cững có thể trò chuyện, kết bạn vđi những hồn ma. Trong C o n ngưỏi có thê đánh bạn vói các bậc thần linh như trong Thần (hoại tác p h ẩ m nổi tiểng H ăm ỉẻt của sểchxpia (thế kỷ 16), hồn m a dã hiện di n vói tư cách là một nhân vật văn học, với vị trí then chốt, là mắt xích của toàn bộ câu chuyện. Trong văn học phương Đông, chuyện m a cũng không hiếm. Chúng ta đã từng bị lạc trong thế giđi tliực - hư kỷ ảo của L iêu trai c h í dị (Bồ Tùng Linh), hay Truyền k ỳ m ạn ỉục Nguyễn Dữ), những tác p h ẩ m có thể được xếp vảo hàng kiệt tác văn chương thế giới. V à giờ dây )à thế giđi của Đ iêu tàn . Cái thế giđi ngưòi - m a lẫn lộn m à Chế Lan Viên nói dén trong Đ iêu tàn không phải là mới mẻ, nhưng diều đáng nói ỏ đây là tất cả điều đó đã dược hinJh dung nên trong trí tưỏng tượng của một nhà thơ chưa đầy 17 tuổi. Ớ vào tiiổi đó, con người ta có thể có những giấc m ơ về tỉnh yêu đôi lứa, thậm chí cả giấc m ơ được lên Tiên, cũng là điều có tliể hiểu được. cõi âm chờ đợi những bao lâu, được siết chặt những chiếc sọ dừa ứ huyết để bật lên những nguổĩĩ mơ rồ dại thi cũng là điều ký la! N h ù n g lại m ơ được chuyện trò, yêu đương nhung hồn ma, m ơ được vể Nlià thơ đã bao lần chuyện trò, hẹn hò với những hồn ma, yêu tinh nơi nghĩa địa, hình dung ra cuộc đổi đáp giữa mình với một n ấ m Hồn ma ơi! Hồn ma ơi! có nhớ N ơi m i hằng chôn gửi hận Trần gian? ... Hồn ma ơi! Trong những đêm u tôi
M i íung m ây về chân trời vòi vọi H ãy mau nghiêng cánh lại â bên m ổ P hủ lỏng la say đắm chút hương mơ! m ồ không, lời lẽ như nói với một người bạn tâm tình: ( M ổ không , 1, tr 21) V à một ưổc m u ố n đẩy vẻ ngông cuồng đổi với cái tuổi 17 khi H ã y tìm cho m ột nấm mộ hoang tàn Đ ào đất lên, cậy cả nắp hòm sđng H ãy chôn chợt thân ta vào chôn ấy nhà thơ ước dược chôn minh trong một n ấ m m ồ hoang nào đó: ... L ấ y hơi m a nuôi sống tẩm hỏn mơ. 80 IV-Ç3. CẢI Tlíực VÀ CÁI ẢO H ÀI HÒA, D AN XEN TRONG T ỉĩơ
SA U CÁCH MẠNG. Sau Cách m ạ n g tháng Tám, Chể Lan Viên đã m ở rộng lòng minh, thơ mình cho tẩt cả những â m vang của cuộc đời thực dội vào. Chất hiện thực nổi bật trong nhiều bài thơ chóng M ỹ của Chế Lan Viên. C ù n g nhà thơ ta đi suót dọc dài đát nước, đêrí những miền đất Bắc, đồi D iện Biên rực lửa, Tây Bắc - x ứ thiêng liêng rừng núi d ã anh hùng , qua những miền quê trù phú, ấ m no một trung châu cỉấí mật lúa v à n g . M ội m ùa dâu m ang lụa đến cho tằm. Ra biển khơi nông hơi gió bể, hay những bải cảng tẩp nập với trăm con tàu đến từ trâm xứ sà và có tên trong lịch sử, gắn liền vdi những chiến công: đến rừĩig sâu Việt những p h ố p hư ờ ng x ứ biển khói than che. C ủ n g nhà thơ chúng ta trỏ về với những x ó m lảng, nơi có những cảnh đôi thân thuộc thoi đưa côi 81 giũ, tăm lên lúa nỏ và những con người mới, thật đẹp nhô tình yêu lứa đoi va tình yêu lao dộng' Tóc họ xõa còn bay mùi nhựa g ấ Tay họ thơm mùi đắt họ vun trồng N hững nhãn, cam, chanh, những íáo, lê, hông... ... Dưới bóng cây ta những cặp tình nhăn vể tựa ỉigiĩ (Giữa Tểt trổng cây, 2, tr 43) N h à thd nói với chúng ta từ những vấn đề lổn lao, sâu sắc như tình yêu T ổ quóc dến nhừng tình c ầ m rất riêng tư, rất đời thưdng m à mỗi người đọc đều có thể tìm thấy mình trong đó: tiếng chim lu hú gọi m ù a vải đỏ, m à u hoa gạo son, giấc chiêm bao gặp mẹ, bông mai vàng, ngàn lau trắng từ thời Nguyễn D u viết Kiều bạc xóa đến bây giò, nhánh đào yêu trước cửa, cho đến mùi hương hoa xoan tím tháng ba như níu ảo nhà thơ chẩng cho qua vườn. N é u trong thơ chĩ có cái thực thôi thỉ chưa đủ để tạo nên một phong cách thơ độc đáo Chế Lan Viên. Cái ảo - đặc điểm nổi bật của tập thơ Đ iêu tàn vẫn dược nhà thơ tiép tục sử dụng và phát triển trong tần g hề mặt, cỉễ nhận thấy như trong Điêu tàn, mà hiện diện kín đáo những bài thơ sau Cách mạng. Nhưng giờ đây cái ảo không hiên lên ỏ của nhà lỉĩơL Chế Lan Viên có biệt tài trong việc đặt hai sự vật khác lạ kề bên nhau, rồi bỗng dưng phát hiện ra, hoặc tạo ra mối quan hệ giữa hai sự vật ấy một cách hết sức bất ngờ, theo lối liên tưỏng không ai đoán trưdc được. Biệt tài này đã bộc lộ ngay từ tập thơ Đ iêu tàn, và đến thơ giai đoạn chóng M ỹ của Chế Lan Viên ta lại bắt gặp đây đó những câu Cầm hạt thóc trên tay N ặ n g m áu người đ ã khuất thơ có kiểu cẩu tứ quen thuộc như vậy: (Tlióc mới Điện Biên, 3, tr 68) N h ả thơ ý thức về cuộc sóng h ô m nay trong sự gắn liền với những hy sinh, mất mát của ngày qua. Chiều liên tưởng hiện tại " quá 82 khứ này đã tùng được nhà thơ sử dụng rất nhiều trong Đ iêu tàn . Ngay giữa m ù a xuân, khi sự sống, niềm vui đang dâng lên ỏ mọi cảnh vật, H ãy bảo ta: cánh hoa đào mơn mân Không phải là khôi máu của dân Chàm lòng người, nhà thơ vẫn bị á m ảnh bỏi quá khứ buồn đau của một dân
tộc: (Xuân về, 1, tr 48) N h ữ n g câu thơ được viết ra ỏ nhừng thòi điểm cách xa nhau đó nhưng vẫn có điểm tương đồng, gần gũi về lối tư duy, cách cả m và chiều liên tưổng. C ổ gắng đoạn tuyệt với cái sầu vạn c ổ nhà thơ không còn 'khao khát m ột tình cầu g iả lạnh để lẩn trốn cuộc dời, m à trái lại ước m o n g được hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời Con gặp lại nhân dân như nai về suôi cũ Cỏ đói giêng hai, chim én gặp mùa N h ư đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừtìg bống gặp cánh tay đưa. mình trong đó. C ó những câu thơ giản dị m à xúc động lòng ngưòi: (Tiểng hát con tàu, 2, tr 23) Chế Lan Viên không thi vị hóa cuộc dời, nhũng từ những khung cảnh sinh hoạt bình thường gần gũi, nhả thơ biết tìm ra những khỉa Anh yêu bàn tay Đ o ng đưa như suôi A nh y êu bàn chân E m dồn nhịp cối cạnh nên thơ, duyên dáng. Câu thơ lóe lên sự liên tưởng thú vị : (Thoi đu"a cổi giã, 2, tr 47) C ó sự liên tưởng do sự tương đồng về m à u sắc, đường nét, hình dáng của sự vật. N h ư n g có sự liên tưỏng lại do chiều sâu suy tưỏng tạo nên. C ó những nỗi nhó tưỏng chừng như vô cớ, nhưng thực ra lại có Thành p h ố không chim lu hú B ố n g đâu vải chín đầy đường M ười m ấy năm trời đẩy n h ỉ Chưa về thăm lại quê hương. một lôgic nội tại: 83 (Tu hií, 5, tr 66) Nỗi nhớ tình yêu trong xa cách được nhà thơ diễn tả bằng nhưng liên tưỏng thật đẹp. Câu thơ vừa thực vừa ảo, gội lên cái m ô n g lung, huyền điệu của tâm tưỏng. Đ ó là cái thực của c ả m XIÍC, và cũng chỉnh là cái ảo của c ả m xúc. N h ữ n g câu thơ đã đạt dến độ nhuần A nh cách xa em như đất liền xa b ể Nửa đêm nằm lắng sóng phương em nhuyễn của trí tuệ - c ả m xúc: ... Em nhấm mất cho lòng anh lặng gió Cho sao tròi yên rụng một đêm hoa ... Anh không ngủ. Phải vì em đang nhớ ( C h ù m nhỏ thơ yêu, 5, tr 67) Tuy không viết nhiều thơ tình như Xuân Diệu, nhưng Chế Lan Viên cũng dể lại những câu thơ tình, những bài thơ tỉnh nổi tiếng, với một phong cách rất riêng, rẩt Ché Lan Viên. Cái đẹp trong trẻo, tinh nguyên của tinh yêu đôi lứa lấp lánh sáng trong những câu thơ bay Em đi như chiều đi Gọi chim vưòn bay hét E m vê tiỉũ ĩỉĩữi vê R ừng non xanh lộc biếc bổng, đầy sức gdi, nhiêu m à u sắc và â m thanh: R ãi hạt vàng chi chữ ... Tình em như sao khuya Gọi ban m ai lại về. ' ... Tình ta như lộc biếc IV-Ẹ4. CÁI ẢO TRỞ LẠI LÃN ẤT CẢI m ự c MỘT CẢCIỈ SẨƯ RỘNG
ĨỈƠN TRONG THƠ c u ó l ĐỜI. (Tình ca ban mai, 2, tr 57) Trong Đ iêu íàn, cái ảo được bộc lộ chủ yếu qua các giấc m ơ về tình yêu, về sự siêu thoát, và sự giao hòa cõi â m - dương. Chính yếu tố ảo đó đã lôi tuột người đọc vào Cling trong thé giới m ộ n g m ơ kỷ lạ của nhà thơ. Trải qua giai đoạn thơ sau Cách mạng, cái ảo và cái thực hài 84 hòa đan xen nhau, đến thơ giai đoạn cuói đời, cái ầo lại một lần nữa trỏ lại lan at cái thực, nhưng với một chất lượng nhận thức và thẩm m ỹ ' khác xa với Đ iêu tàn . Hâu hết cảc bài thơ trong D ì cảo đều có một điểm xuẩt phát chung là những sự việc cỏ thật, nhừng con người có thật, nhung cảnh huông có thật trong cuộc đởi. Nh ư n g từ điểm xuất phát đó nhà thơ m ỏ rộng chiều liên tưỏng, suy tưỏng, đưa người đọc bưổc vào một thể giới ầo của tâm linh, của những suy luận, hồi ức... Đ ể rồi đến khi bài thơ kêt thúc chúng ta chợt nhận ra rằng, nhả thơ dã dùng cái ảo dó như một phương tiện để đạt đển cái đích cuối cùng là bộc lộ những chiêm nghiệm, triết lý của mình về cuộc đởi, về con người, về nghệ thuật... Bất cứ một sự việc nào, dù là bình thưòng nhỏ bé đều có thể gợi lên trong nhà thơ những liên tưỏng, suy ngẫ m sâu xa về một kliía cạnh nào đó của cuộc sóng con người. C h o dù có khi chỉ là những Cái p h ú t đầu tiên tuyết chạm vào đất (hể nào N h ư tà áo bay, như hơi thỏ nhẹ... Trắng í inh như lòng yêu ngày chưa yêu Thê nhưng giờ lạnh lẽo như nhữiĩg tình yêu tan rồi, c h ỉ còn nối đau dọng lọi... (T u y ết, 13, tr 109) bông tuyét trắng rơi ở một xứ sớ xa lạ nào đó: Chỉ một m à u tuyết trắng đó thôi cũng gợi lên trong nhà thơ rất nhiều suy tưỏng, thậm chí trái ngược nhau. M à u trắng ấy có khi là biểu tượng cho sự trong trắng của tình yêu buổi ban đầu, có khi lại là biểu tượng cho nỗi đau còn lại của những mói tình tan vở... C o n ngưdi thd luôn suy tư trước cuộc đòi áy đã thổi vào trong những cảnh vật tưỏng như vô hồn những sắc thái tâm trạng đa dạng của c.on Tigưdi. N h ữ n g tro ng đó, và có linh thần ư thì không tan. Đau m ãi đến vô cùng (13, tr
109) CáLảaJL0iĩgJjjđ_OiêÍLaỉĩ_ỵiêiì_có.khLđượcJạ0 nên bỏi_ldộ.nhòe" của_agôn ogữ cảnh vật ẩy, những bông tuyết trắng ẩy như có tinh thân tham dự vào M ộ t trong những đặc trưng nổi bật của ngôn ngừ thơ, khác vổi 85 ngôn ngữ văn xuôi ]à ỏ chỗ, ngôn ngữ thơ không nhắt thiết lúc nào cũng phải có sự ninh mạch rõ ràng về ý nghĩa của từng câu, tung chữ. M a co lue nó cân có độ mỏ, dộ nhòe nhẩt định để làm tăng thêm tính đa thanh, đa diện, sức bay bổng của ý thơ. Điều quan trọng là khi đặt trong văn mạch chung của cả bài, chúng ta vẫn có thể hiểu được những câu, nhừng chữ đó, và đặc biệt nó phải tạo được sự hòa â m với các câu chư khác trong bài. N ếu thành công thì những câu thơ như vậy sẽ rát gây ân tượng dối với ngưdi đọc. Lê Đạt trong bài thơ B ó n g chữ cũng Em về í ráng đầy cong khung nhớ
Mưa m ấy mùa mây m ấy độ Ihu Vườn thức một m ùi hoa đi vắng Em vẫn dâv mà em ố dâu
Chiểu Au Lứu bóng chữ động chân cầu. có những câu thơ rẩt hay theo kiểu như vậy: (26a, tr 27) Ché Lan Viên cũng ý thức về điều này từ rất sđm. Trong thơ ồng A nh nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ỉa như cánh kiến hoa vàng có những câu thơ hay và lạ như: (Tiếng hát con tàu, 2, tr 24) Giỏ thôi lá sen hổ ỉậí lại phía bên kia Phía ẩ y g ọ i anh về v ề dâu chưa biết nữa C h ỉ biết hồn anh ỉật ìại củng với gió Ớ tro ng hồn ai đó ném íhia lia. H a y những câu lliơ trong bài Gió lật lá sen hồ: (11, tr 19) 86 H ơ n nửa thê kỷ làm thơ, Chế Lan Viên dã đắp cho mình một nẻo đưởng riêng, độc đáo và đầy cá tính, một diều không dễ trong sáng tạo nghệ thuật. Đ ể tạo được phong cách thơ của mình, Chế Lan Viên đã sử dụng hàng loạt yểu tô như cái tôi đầy cá tính, chẩt triét học trong thơ, các thủ pháp nghệ thuật, cái ảo và cái thực. M ộ t điều chúng ta dễ dàng nhận thẩy là các yếu tố nói trên không phải luôn luôn được định hìiih trong một thé tĩnh tại, m à trái lại luôn vận động vả biển đổi cùng với sự phát triển không ngừng của tư bốn mặt. V à Irong thơ chúng la bắt gặp một Chế Lan Viên vđi rất duy nhả thơ. Chế Lan Viên đã lừng ví mình giổng như íháp Bay-on nhiều gương mặt khác nhau. M ỗ i giai đoạn sáng tác, thậm chí mỗi tập thơ, mỗi bài thơ cũng có những diện m ạ o riêng. Điều đó nói với chúng ta về một con người không bao giò hài lòng về bản thân mình, về những gì mình đã đạt được. Đ ó là một con ngưdi luôn khao khát nhận thức, luôn suy tư, tìm tòi, m o n g hiểu thấu đến tận củng bản chất của mọi vấn đề: của vũ trụ, cuộc sóng, nghệ thuật, con ngưòi và chính bản
thân cái tôi của mình. B ằ n g thơ, C hé Lan Viên đã lảm dược một điều tâm niệm của rất nhiều nhà thơ Idn trên thế giới. Đ ó là "khả năng nói hểt mọi điều của thơ" (Louis Aragon) và "Tẩt cả mọi điều đều có thể 87 bàn bạc bằng thơ" (Maiakôpski). Thơ Che Lan Viên dã tạo được một sức m ạ n h á m ảnh đói vđi nguòi đọc trên rả hai phương điện tình cảm và trí tuệ. Nhà thơ có một số bài thơ â m vang lòng ngưòi nhừng n ă m đánh Mỹ, và chắc chắn sẽ con vọng mãi vế sau khi thời đánh M ỹ đã qua, vĩnh viễn di vào lịch sử dân tộc. K h ô n g chỉ vậy, m à ngay cả những bải thơ ngắn, những bài thơ tư tuyệt của nhà thơ cũng đã tìm dến vả ở lại nơi sâu kín nhất trong lòng ngưởi đọc. C ó thể nói Chể Lan Viên là một trong số rất hiếm các nhà thơ lãng m ạ n đi theo Cách m ạ n g vẫn có thơ hay, thậm chí còn hay hdn cả giai doạn trước Cách mạng. N ế u như Đ iêu tàn chinh'phục người đọc bỏi một tài năng thiên bẩm, vừa hé lộ, thì các tập thơ sau Cách m ạ n g của Ché Lan Viên lại chinh phục người dọc bồi một tài năng đã trưỏng thành và đã đạt tới dộ chín của nó. Chính Chế Lan Viên cũng ý thức rất rõ điều này khi ông cho rằng Điêu tản chúa phải là tập thơ hay nhất, thành công nhất trong cả sự nghiệp sáng tác của ông. N h ư n g bất cứ sự việc nảo, vẩn đề nào cũng có hai mãt của nó. Thơ Chế Lan Viên cũng vậy. v ẻ đẹp trong hình tượng thơ Chế Lan Viên là kết quả của một chủ thể trữ tình có hoạt động trí tuệ dầy nấng động và sắc bén. N h ư n g mặt khác, chính hoạt dộng đó có khi lại hạn chế sức m ạ n h của thơ Ché Lan Viên. Đ ó là khi cảm xúc không theo kịp suy nghĩ, hay suy nghĩ trượt lên trên cảm xúc. Tác động không xuôi chiều của trí tuệ trong thd Ché Lan Viên dã dẩy những bài thơ dài chóng M ỹ của nhà thơ đến một chỗ đứng khá chông chênh bên miệng vực. C h ỗ đứng ỏ đưdng ranh giới tnỏng manh giữa đỉnh núi và vực thẩm. K h ô n g khéo những bài thơ đó có thể bị biển thành "xã luận bắt thành vần", khéo ra sẽ đi thẳng vào lòng người như một sức mạnh, chinh phục cả lý trí lẫn trái tim người đọc. M ộ t số bài như: Chuỗi thơ anh Trỗi, Tiếng hát át tiếng bom,Nghìn riíỏi ngày đ e m ... chùa tạo đũỢc những bước song hành giữa cảm xúc vả trí tuệ. Tuy có một vài điểm như vậy, nhũng khi đọc thơ Chế Lan Viên không ai chê thơ Chế Lan Viên lả dễ dãi. Bỏi vì Chế Lan Viên không bao giò dễ dãi trong thơ, m à trái lại luôn đặt cho mình những yêu cầu 88 hết sức nghiêm khắc. Vdi Chế Lan Viên , chỉ khi nào trí tuệ nhà thơ trỏ thành trí tuệ - trái tim, nghĩa là khi tình cảm và lý trí, con người thi sĩ và con người công dân hòa nhập làm một, thì khi áy toàn bộ sức mạnh tài nấng của nhà thơ mới có dịp biểu lộ. Chính nhà thơ cũng dự cảm đuợc con đường hòa nhập tất yếu ấy: "Trái tim nóng bỏng ấy là tài tại H ội nghị nhà vãn Ả Phi lần thứ 5 họp tại Aỉm a - Atơ Liên Xổ, T ừ 04 năng. Trái tim nóng bỏng áy là trí tuệ" ( Tham luận của Chê Lan Viên đến 10/9/1973) M a n g trong mình rất nhiều m âu thuẫn, cả những nghịch lý của kiếp ngưởi, cả những mâu thuẫn không sao giải quyết được của số phận, Ché Lan Viên đúng như lòi của Ziri Wolker (Theo 28a, tr 227): "Qua nhà thơ, ngu'di ta thấy tầm cố của thời đại m à ông ta sống". Chế Lan Viên chính là một thời đại của thi ca, của lịch sử xã hội Việt N a m trong thể kỷ đẳy đau thương nhưng cũng đầy hùng khí này. Suốt cuộc đôi mình, Chế Lan Viên giống như một ngưòỉ làm vườn miệt mài trên cánh đồng vĩnh cửu của thơ ca. V à với thơ, Chế Lan Viên mãi mãi là một cây đại thụ của thế kỷ X X trong lịch sử văn học Việt Nam. "Tương lai chỉ thuộc về những ai n ắ m được phong cách". Theo quan niệm đó của nhà văn vĩ đại V.Huygô, Chế Lan Viên không chỉ là một nhà thơ của quá khứ, m à CÒI1 xứng đáng là một nhà thơ của các thế 89 hệ trong tương lai. T À I L I Ệ U T R Í C H D Ẫ N A. S Á C H I. Ché Lan Viên. Đ iêu tàn. N X B . Hội nhả văn. H. 1995 2 . Chế Lan Viên. A n h sán g và p h ù sa. N X B . V ã n học.H.1960 3 . Chế Lan Viên. H o a ngày thư ờng -C hìm báo hão. N X B . V ă n học. H.19Ố7 4 . Chể Lan Viên. N h ữ n g bài tho' đảnh giặc. N X B . Thanh niên. H.1972 5 . Ché Lan Viên. Đ ổi thoại mói. N X B . V ă n học. H. 1973 6 . C h ế Lan Viên. H oa trước lăn g tigưòi. N X B Thanh niên. H. 1977 7 . C hế Lan Viên. H á i theo m ùa. N X B Tác p h ẩ m mới. H. 1977 8 . Ché Lan Viên. H o a trên đá. N X B V ă n học. H. 1984 9 . C h é Lan Viên. Ta g ử i cho m ình. N X B Tác p h ẩ m mới. H. 1986 10. Chế Lan Viên. Tuyển tập. Tập I. N X B V ă n học. H. 1985. II. C h ế Lan Viên. D ì cão thư. Tập I. N X B Thuận Hóa. Huế. 1992. 12. C hé Lan Viên. D í cảo thơ. Tập II. N X B Thuận Hóa. Huế. 1993. 13.Chế Lan Viên. D i cảo thư. Tập III. N X B Thuận Hóa. Huế. 1996. 14. Ché Lan Viên. P h ê bình văn học. N X B . V ă n học. H. 1962 15. C h ế Lan Viên. T ừ th u n g lũ n g đau tltu'ong ra cánh đồng vui. Phê bình vấn học. N X B V ă n học, H. 1962. 16. C h ế Lan Viên. S u y n g h ĩ và bình luận. N X B . V ăn học. H. ] 971 17a. Chế Lan Viên. N ó i c h u yệ n tho" đầu x u â n . N X B Giải phóng. M. 90 1976. 18a. C h e L a n V iên. T ừ g á c K h u ê Văn đến qu án T ru n g Tân. N X B 17b. Che Lan Viên. N g h ĩ cạnh dòng tho' (Tiểu luận). N X B . V ăn học.
H. 1981. Tác p h ẩ m mổi. H. 1981 18b. Chế Lan Viên. N goại vi tho'. N X B Thuận Hóa. Huế. 1987. 19 . Đ ô n g Hoài. Tho' Pháp nửa sau th ể k ỷ X I X đầu th ế k ỷ X X . Tuyển, dịch, giai thiệu. N X B V ă n học. H. 1992 p h á p th ế k ỷ X X . Nghiên cứu - Tuyển - Dịch. N X B V ã n học H. 1994 20. Đ ô n g Hoài, Qu ỳ n h Thư Nhiên. C hủ nghĩa siêu thự c trong tho' 21. Đ o à n Thị Điểm. C hinh p h ụ ngâm . Lại Ng ọ c Cang khảo thích và giổi thiệu. N X B V ă n học. H. 1964 22a. H à M i n h Đức, Lê B á Hán. Co’ s ử lý luận văn học. Tập II. N X B Đại học & trung học chuyên nghiệp. H. 1985 (Tựa của Chê Lan Viên). N X B . Khoa học X ã hội. H. 1974 22b. H à Min h Đức. Tho’ và m ẩy vẩn đề trong tho' Việt N a m hiện đại 22c. H à Min h Đức. Thực tiễn cách m ạ n g và sá n g tạo tho' ca. N X B . V ă n học. H. ỉ 977. 23. Hoài Thanh, Hoài Chân. T hi n h â n Việt N a m 1932 - 1941. N X B V ă n học. H. 1988. 24. H ồ X u â n Hương. Tuyển tập thơ. Thái Bạch soạn. N X B Khai Trí. Sài gòn. 1967 25a. H u y Cận. T uyển íập Tho'. Tập I. N X B V ă n học. H. 1986 25b. H ữ u Đạt. N g ô n n g ữ (ho' Việt N am . N X B . Giáo dục. H. 1996. 26a. Lê Đạt. B ó n g chữ. N X B Hội nhà văn. H. 1994 26b. Lê Đình Kỵ. Đ ư ờ ng vào tho'. N X B . V ă n học. H. 1969. triển văn học. N X B Tác p h ẩ m mới (Hội nhà vấn Việt Nam). H. 1978 27a. M.B.Khrapchenko. c á tính sá n g tạo cửa n h ấ văn và s ự p h á t 27b. M ai N g ọ c Chừ. v ầ n th ơ Việt N a m . N X B . Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. H. 1991. 27c. M ã Giang Lân. Tìm h iểu thơ. N X B Thanh niên. H. 1997. 28a. Nhiều tác giả. C h ế L a n Viên ngư ờ i làm vườn vĩnh cửu. Phong Lan sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn. N X B Hội nhà vấn. H. 1995. 28b. Nhiều tác giả. L a o đ ộ n g n h à văn. N X B V ă n học. 1967. 28c. Nhiều tác giả. C o 'sở lý luận văn học. N X B . Đại học trung học
chuyên nghiệp. H. 1980 28d. Nhiêu tác giả. D ẩn luận nghiên cứu vãn học. Tập II. G.s G - N Pospelov chủ biên. N X B Giáo dục. H. 1985 29a.Nhiều tác giả. L ý luận văn học. Tập III. N X B Giáo dục. H. 1988 29b. Nhiều tác giả. N h à tho" hiện đại Việt N am N X B . Khoa học X ã
hội. H. 1984. 29c. Nhiều tác gìả.Tho’’ Điìòlng. Tập I. (Kiều V ăn biên soạn). N X B 29d. N h iề u tác giả. Tho' Đ ư òlig. T ập II. (K iều V ă n biên soạn). N X B Đ ồ n g Nai. 1994 Đ ồ n g Nai. 1994. 30a. Nguyễn B á Thành. T ư d u y th ơ và tư duy th ư hiện đại Việt N am . N X B V ă n học. H. 1995 30b. Nguyễn Đ a n g Mạnh. N h à văn, tư tưởng và p h o n g cách. N X B . V ă n học. H. 1983 tiểu luận). N X B . Tác p h ẩ m mới. H. 1985. 30c.Nguyễn Xuâ n Nam. Thơ, Tìm h iểu vả ỉhưỏlng thức. (Phê hình và 31. Nguyễn Trãi. Toàn tập. N X B Khoa học xã hội. H. 1976 K hánh ch ủ biên. N X B V ă n bọc. H. 1983. 32. N g uyễn Bỉnh Khiêm. Tho' văn N g u yễn B ỉn h Khiêm . Dinh Gia 33a. Phan Ngọc. Tìm h iểu p h o n g cách N g u yễn D u trong truyện Kiều. N X B K h o a học xã hội, H, 1985 33b. Phan C ự Đệ. P h ong trào Tho’M ói. N X B . Khoa học. H. 1966. 34. Phan C ự Đệ, H à M i n h Đức. N h à văn Việt N a m hiện đại. Tập I. N X B . Đ H & T H chuyên nghiệp. H. 1983. 35. Trần Đình sử. T hỉ p h á p tho' T ổ Iỉữ u . H. 1987. 36. X u â n Diệu. T uyển tập thơ : N X B V ă n học. H. 1983 37.X u â n Diệu. C ổ ng việc lảm thơ. Phê bình và tiểu luận. N X B . Văn 92 học. H. 1984. B. B Á O V À T Ạ P CHÍ. 38. Tạp c h í Văn học. số 4/1989, sổ 6/1993. 38b. Tạp c h i Tác p h ẩ m mói. só 9/1970, só 23/1973, số 35/1974. 39. Tạp c h ỉ Văn nghệ. T ừ số 32 đến số 43/1960. 39b. Tạp c h ỉ Văn n g h ệ quân đội. Tháng 4/1994. 40. Thâliff fin văn hóa văn nghệ. (Ban văn hóa văn nghệ trang ương Đảng), só 1 và só 2/1989. 42. Văn n g h ệ thù nlí p h ổ H ồ C h i M in h , s ố 591. (ng ày 2 3/0 6 /1 9 8 9 ). 41. Văn n g h ê , số 26/1989.(Thứ7, ngày 1/7/1989). Ngoài các báo, tạp chí nói trên, chúng tôi còn tham khảo thêm 93 các báo: N giìời H à Nội, Văn n g h ệ trễ, Tạp c h ỉ c ử a Việt....X in x em danh m ục tài liệu trích dẫn d cuối hiận án.
Viên - một bản lĩnh, một tâm hổn thcf phong phú, đa dạng và bí ẩn
Vũ Thị Thường SƯU tầm, tuyển chọn và cho ra mắt bạn đọc vào năm
CHƯƠNG I:
CÁI TÔI ĐẦY CÁ TÍNH
cách dễ dàng. Những ý kiến phủ nliận vai trò của cái tôi trong thơ xuát
l
15
Với việc đưa va một quan niệm độc đáo về nôi đau khô vĩ đại của con
người, hướng thơ ca vào một đổi tượng phải nói ỉà kỳ lợ trong mất những ngitài
đương thời - số phận bi kịch của một dân tộc irong quá khứ - và khái vọng đào sâu
đến tận cùng cái tôi bản thể của con người, Chế ĩ.an Viên đã (hực sự íạo ra được
"tiếng nói của riêng mình", phong cách í hơ của riêng minh. Con đường tìm kiếm
chân lý, nhận thức thực tại xã hội, con ngiỉòi và bản thân của nhà thơ dã dược bấí
đâu với íập thơ Điêu tàn. Nhiều câu hổi nhà thơ đặt ra còn chưa có lòi đáp. Và sự
bùng nô cuộc Cách mạng vĩ đại Tháng 8 - 1945 sẽ đem đến câu trả lời cho tất cả
nôi niềm băn khoăn của tác giả. Liệu cá tính độc đáo của cáị tôi trong Điêu tàn
sẽ bị dập tất In/âc cơn bão táp cách mạng, hay sẽ tiếp tục tự khắng định? Điêu
tàn tựa như một cánh cửa, mỏ ra /rước chúng ta một chặng đường thơ mái cùỉìg
một Chê Lan Viên với nhiều điều mới ĩ nả, bấí ngờ.
,9
(Nguưỉ thay đổi đ
Không ngl'i'ng tìm íòi, sáng tạo, cái lới của Chê ỉ,an Viên luôn tạo ra những
bấi ngà thú vị cho ngỉĩởi đọc. cái tôi ấy dã ítbĩg đem đến cho người dọc "niềm
kinh dị” thuỏ Điêu tàn, niềm kinh ngạc xen lẫn hân hoan, hào hứng bài những
chuyển biển mạnh mẽ thài sau Cách mạng, còn đến cuôi dời, san từtig ây năm
tháng trăn trỏ và suy tư, cái lỗi ấy sẽ nói vái người dọc điểu gỉ đây ? Có thể nói,
trong thơ Chể Lan Viên , cái tôi của nhà thơ khổng ngừng vận động và phát triển.
Cái tôi ẩy không chỉ sông vói hiện tại, hướng vê tương lai, mà CÒỈ1 luân ngoảnh về
quá khứ, định giá lại các giá íiị, Và đó cũng là một trong những đậc điểm nôi bật
của cái tôi giai đoạn cuối đời.
26
cái đích cuối cùng của cuộc đài. C h ế Lan Viên ngoảnh nhìn lại lắt c ả
ỵà_đỂLnáUMjahữiìg^cJiỉêJLỉ-.ngbiệm^.a_ùêJig^nìj.iIìji>ểucuổc^đời_jấ
p h ậ n, bản thân. N h à thơ chợt nhận ra rằng Cuộc đời là trò chơi. Cuộc
Với Di cảo, cái tôi của Chế Lan Viên đã làm một cuộc trỗ về với cái tôi
cứa Điêu tàn. Có nhiêu điểm gần gũi, quen íhuộc, nhưng xéi ỏ khía cạnh kỉĩác, cái
tôi trong Dì cão điíợc biểu hiện ổ một tầm triết lý cao hơn, sâu sấc hơn\ đó là
những đúc két chiêm nghiệm của cả một đài ngưòì, một dời thơ. cái tôi irong Di
cảo vỉ thể đa dạng hơn, phức tạp hơn và cũng thú vị hơn.
CHƯƠNG il:
NHỮNG SUY Tư TRIẾT HỌC
Cảm hứng về VÜ trụ được Chế Lan Viên tiếp tục duy trì đén tận
Sự vận động của mạch xúc cảm về vũ trụ của Chế ỉ,an Viên gắn liển với sụ'
phái triển của quá trình tư duy của nhà íhơ. Cho dù hệ Ihông những quan niệm về
vũ trụ ciỉa nhà thơ chưa thông nhái, còn mang đậm dấu ấn chú quan, nhưng nó đã
phản ánh được tính chất đa dạng, phức tạp của tư duy triết học Ché Lan Viên.
36
Quan niệm về thỏi giơn của Chế Lan Viên ỏ những ihòi điểm sáng tác khác
nhau có những đặc điểm nổi bật khác nhan, củng lờ nấi ám ảnh về quớ khứ,
nhưng nôi ám ảnh trong Di cảo có những sẩc thái riêng, khác trong Điêu tàn. Cái
nhìn về quá khứ trong Dì cảo là cái nhìn có tính chất dúc kểt của một người đã
vượt qua rất nhiêu thăng trầm của cuộc đời, có một vổn sổng, vốn hiểu biết già
dặn, phong phú. Còn cái nhìn trong Điêu tàn là cái nhìn của một chàng irai mơ
mộng, tuy ít nhiêu có tư tưỏng íiển bộ xét trong hoàn cảnh đương thài, và cũng
chính nhò thòi gian mà những trìét lý về thòi gian của Chế Lan Viên đã vươn tói
một tâm cao hơn, sâa sẳc hơn, gân chân lý hơn.
Vói việc đưa ra hệ thống quan niệm vẻ vấn đề có tỉnh triết học lớn: Tổn tại
và hĩt vô, sổng v ò chét, Ché Lan Viên đã íạo được một giọng thơ khác hẳn vài các
nhà thơ Việt Nom khác. Dó ỉà giọng thơ suy tưỏng và triêi ỉý về nhân sinh, về, vũ
trụ, về thế thái nhân tình. Chất triét học trong thơ Chể ỉ,an Viền nôi bật lên trỗ
thành một đặc diễm chủ yêit, điều mà ta không thể không nói dền khi bàn vể
phong cách thơ Chế Lan Viên.
(QuÊn, 11, tr206)
vét thương không có đáy
Nói đến Ché ỉ,on Viên là la nói dền một nhà thơ đầy trí tuệ, luôn (rân trồ.
đào sâu vào các vẩn đề có ỷ nghĩa triết học lớn lao như vît trụ, thời gian, sự sông
và cái chét, tôn íại và hit vỏ... Dề cập tới những vấn đề này trong í hơ (ức /à Chế
Lan Viên đã bắt được vào cải nguồn mạch sâu sa nhất của triết học toàn nhũn
loại.
Dù viết về vũ trụ, thời gian hay bất cứ ván đề nào, Chê Lơn Viên luân đâí
nó trong một trục đổi chiếu duv nhất là con ngiỉời. Con người c.hỉnh là trung tâm
của vũ trụ. Con ngiỉời cỏ thể làm được tất cả, có thể trỗ thành đôi tượng chn những
lời chỉ trích, phê phán của hậu thề, cũng có thể d ể lại những lời ngợi ca cao qui,
hoặc thậm chí cả sự bái ttĩ sau khi chét, c ó củi chểt hóa thành hư vô. Nhưng có
cái chái lại hóa thành sự tồn tại vĩnh hằng. Chính mạch ngâm triết học này là mội
trong những đặc điểm quan trọng nhất của phong cách thơ Chế Lan Viền.
CHƯƠNG JU:
CÁC THỦ PHÁP NGHỆ THUẬT
CÍÍC v í d ụ:
( 1, tr 16)
ỵấiLíứj2gữLsmỈL lìoạLdàL (hườngrất đa dạng. phong phú mà nhà thơ sử
dụng trongJÌĩơ.
Kế thừa những kinh nghiệm sảng (ác íhơ truyền thông (như chủ trọng đến
vẩn íhơ), đồng thời lại có những cách tăn táo bạo trên phương diện câu thơ dòng
thơ, thơ Chế Lan Viên vừa mang đậm yểu tó truyền thông, vừa bộc lộ rõ nét hiện
đại. Vốn từ ngữ sinh hoại đời thường phong phú, đa dạng, được vận dụng rất linh •
hoạt đã đem lại cho thơ Chế Lan Viên cải hơi thổ tự nhiên, khỏe khoán của cuộc
đời thực.
tượng ừưng cao.
Nói đến ngôn ngữ thơ mang tính án dụ Ít/Ợng trưĩig là ta nói dền chát suy
nghĩ, chất trí tuệ của thơ Ché Lơn Viên . Chính nhà dặc diểm này mà thơ Ché ỉ,an
Viên đa diện, đa chiều, nhiều tầng ngữ nghĩa. Chắt ItỉỢng nhận thức của thơ Chê
Lan Viên chủ yểu thẻ hiện ở chiểu sâu hơn là chiều rộng, ở iầm íriêí lý cùa cuộc
sông dược phản ánh hơn là quy mô của cuộc sông được phản ánh.
Nên như ỏ tính họa, thơ Chế Lan Viên có sự chuyên dôi các gam màu gân
với lừng giai đoạn sáng tác, thì ỏ nhịp điệu thơ (tính nhạc) ta lại nhân thấy mội sự
nhái quán, thông nhất vè phong cách xuyên suối iừ Điêu tàn dền Di cảo. Dó là sự
uyển chuyển, liiĩh hoạt, tự do về câu chữ, VƯ nhịp điệu. Thơ Chế Lan Viên không
bao giò gâỵ nên ở người đọc cảm giác gò bó do sự bát buộc vể vần điệu, thể loại...
Điểu quan trọng nhát vói Chế Lan Viên là việc thể hiện (ư tưởng của tác phẩm, sự
hài hòa giữa hình thức nghệ thuật và nội dung biểu hiện. Dó chính là cái đích mà
Chê Lan Viên muốn vươn tới (rong íìĩơ.
66
Qua việc vậti dụnọ; các thể loại thơ, chúng la có thể thấy dĩỉợc phân nào
phong cách, lài núng nghệ thuật, cũng như tư tưâng của các nhà thơ. Chính sự đa
dạng của các thể thơ mà Chê Lan Viên sử dụng đã góp phần lao nên lỉnh da dạng J
của phong cách thơ Chế Lan Viên.
III-ệ 3 KẾT CẨU
nửa lạnh bóng ciiịều. Nửa ẩm nắĩĩg ngày hấp h ô i , một phần khôn, ch í
phần trót dại... rất cả đều có hai vể tương phản nhau, không chĩ về
Trong tư tiìởng Chế Lan Viền, trong 1Ỉ1Ơ Chế ĩ,an Viên luôn có sự giầng co
giữa hai cực đôi lập, hai phạm trù đối lập, hai khái niệm đôi ỉập. .. và chính qua
sự đôi lập đó, Chê Lan Viên đã nêu bật lên quy luật quan trọng của cuộc sông
cũng như của sự íỉnìỏng thức nghệ thuật. Đây không đơn thuần là vấn dể kỹ thuật.
Nêu khỗỉìg có sự quan sát, không có khả năng khái quái, không sổng, không có lý
Mỏng thì không thể đì đến những đôi lập dộc đáo và mói mẻ như Ché Lan Vịên đã
làm.
Việc sử dụng và phối họp nhuần nhuyễn hàng loạt các thủ pháp nghệ
thuật như ngôn ngữ, th ể thư, kêí cẩu đã tạo cho thư Chế Lan Viên một diện
mạo riêng, không th ể lẫn được vói bẩi kỳ nhà thơ nào khác. Chẩt trữ tình trí tuệ
trong th ơ Chế Lan Viên đu'ọ’c làm nên không chỉ bỏĩ mạch ngầm (riết học trong
tho’ mà còn bởi một ngôn ngữ mang tính ẩn dụ tượng trưng cao, giai điệu cùa
cấc câu íhơ’, s ự biển hóa đu (lạng của cdc th ể tho' và kết cấu tương phản. Cấc
thử pháp ngh ệ thuật đỏ của Chế Lan Viên tựa như những nũíi (êit của người đi
săn, đã bay đung đén cái đích cần đến của nó, đã klỉoi lêit ở người đọc nhũìtg
ruitg câm thẩm mỹ và đ ể ỉạ i một ẩn Ufflîg khó quên.
CHƯƠNG JV
CÁI ẢO VÀ CÁI THỤC
do tr í tưỏng tượng của con người tạo nên. Trái ngược vái cái ảo, cái
thực lại là lất cả những gỉ đã và đang íồn íại xung quanh ta, mà bàng
là (hê giới quanh ta, và đi vào tác phẩm nó íạo nên yếu tô hiện thực
cua thơ ca.
(M áu xương, 1, tr 56)
Đteu tàn dã dãn dất ngiiờì đọc vào một thể giói thực - hư, người - ma -
tiên lân lộn. ơ thê giới dó, cả điẻìi kỳ diệu nhất lẫn những điểu kỳ quặc nhất đểu
co thể xay ra. Và như vậy "thơ đã trỗ thành một thứ ảo giác kỳ diệu", như cách nói
cua Maxime Formant trong cuốn Những nhà tưọĩig trung chã nghĩa., cỏ íhể nói
Chê Lan Viên dã sảng lác tập thơ Điêu tàn vái một bút pháp rất gấn vói bút pháp
cua văn chương kỳ ảo, mà bậc thầy của nó là nhà thơ Pháp nôi iìếng Arthur
Rimbaud. Sẽ rất thú vị khi la so sánh nhữtĩg vân thơ của nhà thơ họ Chế vái những
vân Ihơ viêt cùng một đẻ íàl của Rimbaud trong tập í hơ văn xuôi Một mùa ở địa
ngục:
Tôi phải có cái địa ngục cho sự nôi giận của tối,
cải địa ngục cho lòng kiêu ngạo của tâi,
và cái dịa ngục cho sự vổ vẻ. một hợp táu của những cỉịa ngục.
Tôi chết vì mệt mỏi. Dó ìà ngôi mộ,
Tôi sẽ chết, khủng khiếp của khủng khiếp...
... Đó là lửa lại bổc cao củng vái kẻ b ị đày ải của nó ỏ nơi địa ngục
(Đêm ở dị a ngục í rong tập Mội mùa ả địa ngục, 19, tr 71)
Rimbaud íựý thức về mình: "Tôi là bậc thầy về sự sáng tạo ra những hình
tượng kỳ ảo". Cũng có thể nói một lời tương íự như vậy về Chế ỉ,an Viên: Õng là
một nhà thơ xuất sấc trong việc sáng tạo ra những hỉnh tượng kỳ ảo
hơn, nhuần nhị hơn trong sự kết hợp, đan xen vói cải thực, lấp lánh
íiáLíg^ímugJừtĩg_câu,Jừng chữ} qua jihững liên tưởng mới lạ. âộc đảo
Với việc kết hợp, đan xen cái thực và cái ảo trong thơ. Chế ỉ,an Viền dã
tạo ra được những "khoảng tráng" cần thiết cho thơ, cho sức tướng tiỉỢng phong
phú cùa người dọc. và cải ảo ở đây đã được tạo nền bởi "một hấn hợp lạ lùng
giữa trừu íƯỢng vái cụ thể, giữa hình ảnh vói tư iưỏng" - điều mà khổng chỉ Chê
Lan Viên mà rất nhiều nhà thơ lớn của thế giới hắng tâm niệm và thực hiện.
KẾT LUẬN