ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG DUNG

PHONG CÁCH THƠ VƢƠNG TRỌNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG DUNG

PHONG CÁCH THƠ VƢƠNG TRỌNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số : 602234

Hướng dẫn khoa học: GS.TS Mã Giang Lân

1

Hà Nội – 2010

MỤC LỤC

1

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 10

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 13

4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 14

5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 15

PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 16

Chương 1: Vƣơng Trọng - nhà thơ trận mạc, nhà thơ công dân ................. 16

1.1. Thơ ca chống Mỹ và những đóng góp của

nhà thơ Vương Trọng ..................................................................................... 16

1.2. Cảm hứng về con người trong chiến tranh và thời kỳ

hậu chiến ....................................................................................................... 18

1.2.1. Hình ảnh người lính ........................................................................ 18

1.2.2. Cảm hứng về người vợ, người mẹ .................................................... 35

Chương 2: Vƣơng Trọng – nhà thơ thế sự ................................................... 46

2.1. Chuyển biến trong thơ Vương Trọng thời kỳ đổi mới ............................ 46

2.2. Kiếp người nhỏ bé vô danh và những triết lý về số phận con người ……

47

2.3. Hình ảnh người thân và bạn bè ............................................................... 54

Chƣơng 3: Ngôn ngữ - nét đặc sắc nổi bật trong nghệ thuật thơ

Vƣơng Trọng ............................................................................. 64

3.1. Ngôn ngữ thơ giàu tính gợi cảm ............................................................. 65

3.2. Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu tượng ........................................................ 73

3.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lý ............................................................... 79

3.4. Ngôn ngữ định danh .............................................................................. 88

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 95

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nhà thơ Vương Trọng tên khai sinh là Vương Đình Trọng, ông sinh

ngày 1-8-1943 tại làng Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh

Nghệ An - mảnh đất cỗi cằn, khắc nghiệt nhưng con người thì hiếu học, giàu

ý chí, nghị lực với truyền thống văn hóa lâu đời, đặc biệt là lòng yêu say văn

chương như đã trở thành máu thịt truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Ngày nhỏ, Vương Trọng học giỏi cả văn lẫn toán. Ông kể: "Thời còn

học ở trường làng, mình đã mê thơ, đặc biệt là Truyện Kiều. Năm học lớp 6

mình đã thuộc toàn bộ Truyện Kiều. Tuy chưa phải "thần đồng thơ" nhưng

năng khiếu thơ ca đã sớm nảy nở ở tâm hồn Vương Trọng, nhất là ông lại

sống cạnh người anh trai Vương Đình Trâm - một giáo viên dạy văn thích làm

thơ và mê Kiều. Hồi kháng chiến chống Pháp, làng Đông Bích lại được chọn

làm nơi đặt trụ sở của Hội Văn nghệ cứu quốc liên khu IV. Vương Trọng có

may mắn không chỉ được biết mặt, biết tên nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng của đất

nước như: Thanh Tịnh, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư... mà còn

được các nhà thơ truyền cảm hứng thưởng thức và sáng tạo văn chương.

Những áng thơ văn của các văn nghệ sĩ ấy đã ngân rung, thấm nhuần và trở

thành mạch nguồn nuôi dưỡng hồn thơ Vương Trọng.

Học phổ thông, được cử đi thi học sinh giỏi toàn quốc môn Văn nhưng

Vương Trọng lại lựa chọn thi vào Tổng hợp Toán. Dẫu vậy, cái nợ văn

chương vẫn đeo đẳng nhà thơ. Những năm tháng ngồi trên giảng đường Đại

học là những năm tháng mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng

ác liệt. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, năm 1964, Vương Trọng rời

giảng đường Đại học để bước vào cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc. Từ

một sinh viên, Vương Trọng đã sống cuộc đời của một người lính. Lăn lộn

trên khắp các chiến trường từ núi rừng Trường Sơn đến Trường Sa, Côn Đảo,

3

từ biên cương, hải đảo đến các vùng đất địa đầu Tổ quốc, từ Nam ra Bắc, từ

đất mũi Cà Mau đến Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang… không đâu không có

dấu chân hăm hở, nhiệt tình của người lính - nhà thơ. Đi nhiều, thấy nhiều,

vốn sống của nhà thơ ngày thêm phong phú. Giai đoạn cống hiến nhiều nhất

sức trẻ cho kháng chiến cũng là giai đoạn mà hồn thơ tài hoa Vương Trọng đã

thực sự khẳng định được tên tuổi của mình với chùm 3 bài thơ đoạt giải: "Bài

thơ nằm võng", "Hội vật quê tôi", "Hoa trẩu".

Sau chiến tranh, trở về là một giáo viên dạy Toán của Trường Văn hóa

Bộ Quốc phòng, Vương Trọng được cử đi học lớp sáng tác của Hội Nhà văn

Việt Nam. Đến tháng 4-1974, Vương Trọng được điều đi B sáng tác, sau đó

ông được chuyển về Tạp chí "Văn nghệ Quân đội" và trở thành nhà văn

chuyên nghiệp từ đó. Hiện nay, dẫu đã gần đến cái tuổi "xưa nay hiếm" nhưng

ngòi bút nhà thơ còn rất sung sức, nói như nhà thơ Trần Đăng Khoa: "người

ta chỉ đẹp rực rỡ ở lứa tuổi trẻ trung và từng trải lịch lãm khi về già. Vương

Trọng lại rực rỡ ở cái tuổi sắp thành "trưởng lão" (37)

Vương Trọng là một thi sĩ có tài trong nền thi ca Việt Nam hiện đại.

Gần 40 năm chung thủy với văn chương, ông đã để lại nhiều tác phẩm thực sự

có giá trị. Vương Trọng sáng tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn , bút ký, truyện

cười nhưng ông nổi tiếng với danh hiệu nhà thơ.

Tác phẩm thơ: 12 tập

1. Thơ người ra trận (in chung) 1972

2. Khoảng trời quê hương 1979

3. Cánh chim Phai khắt (truyện thơ) 1983

4. Những ngày xa 1986

5. Về thôi nàng Vọng Phu 1991

6. Đảo chìm (trường ca) 1994

4

7. Tặng người trong mơ 1996

8. Mèo đi câu 1996

9. Lời trái đất 1999

10. Ngoảnh lại (tuyển tập) 2001

11. Thơ với tuổi thơ 2001

12. Về thôi nàng Vọng Phu (tái bản) 2002

13. Năm ngắn, ngày dài 2005

Tác phẩm đoạt giải

1. "Bài thơ nằm võng", "Hoa trẩu", "Hội vật quê tôi": giải 3 Báo Văn

nghệ (1969 - 1970).

2. "Về thôi nàng Vọng Phu": giải thưởng Hội Nhà văn (1991).

3. "Đảo chìm": giải thưởng Bộ Quốc phòng (1994)

4. "Mèo đi câu": giải thưởng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1996).

Vương Trọng là một nhà thơ đa cảm, có trái tim nhân hậu, bao dung.

Giữa dòng văn học nhiều ngả rẽ, ông đã lựa chọn cho mình một lối đi riêng.

Bên cạnh những trang thơ sôi nổi viết về người lính, Vương Trọng lầm lũi trở

về với cuộc sống thường nhật, với những mảnh đời bất hạnh, những số phận

éo le, những tâm trạng bộn bề với nhiều nỗi đau nhân tình thế thái. Ở mảng

thơ thế sự, thơ Vương Trọng đằm thắm lạ lùng. Ông tâm sự: "Tôi yêu Đỗ Phủ

hơn Lý Bạch, yêu Nguyễn Du hơn Hồ Xuân Hương, bởi Đỗ Phủ, Nguyễn Du

ngoài tài thơ ra còn có trái tim lớn đau nỗi đau của những cuộc đời bất hạnh.

Thơ sinh ra không phải để người đời chơi chữ, mà cốt để chuyển tải nỗi lòng.

Bài thơ hay nhiều khi không thấy thơ đâu mà chỉ thấy cuộc đời, tâm trạng và

số phận"(37). Lời bộc bạch chân thành và tâm huyết cô đúc hành trình gần

trọn đời thơ Vương Trọng - đó là thơ của những "cuộc đời bất hạnh", mảng

thơ thế sự đã trở thành một "mỏ quặng đích thực" của thơ ông. Ở mảng thơ

5

này, có rất nhiều bài thơ có sức lan tỏa và sức sống thực sự bền lâu trong trái

tim người đọc bởi nó đã đi vào từng góc khuất tâm hồn để viết lên những suy

nghĩ đâu dễ sẻ chia.

Thực tế hiện nay, thơ văn đương đại Việt Nam đã và đang xuất hiện

nhiều xu hướng "cách tân quyết liệt". Nhiều nhà thơ, nhất là các nhà thơ trẻ

luôn khát khao một sự tìm tòi đổi mới về cả nội dung, hình thức thì Vương

Trọng vẫn trung thành với quan niệm sáng tác của mình và với thơ ca truyền

thống bởi theo ông đó là tinh hoa đã được chắt lọc và khẳng định từ ngàn

năm. Điều đặc biệt, những trang thơ ra đời từ cái tạng thơ phương Đông ấy

vẫn chiếm được cảm tình của số đông độc giả .Điều này khẳng định độ chín

với những bản sắc riêng trong thơ Vương Trọng.

Vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “ phong cách

thơ Vương Trọng” , cố gắng khảo sát , tìm hiểu để tìm ra những nét đặc sắc

nổi bật trong thơ Vương Trọng trên phương diện nội dung cũng như nghệ

thuật của thơ ông.

Ở đây,chúng tôi cũng cố gắng khảo sát và đưa ra những quan điểm

khác nhau khi tìm hiểu về phong cách với mong muốn tìm hiểu và đánh giá

chính xác nhất về phong cách thơ Vương Trọng.“Phong cách ngang ngửa

bộn bề. Từ phong cách không nằm trong từ vựng chuyên biệt. Ngoài ra, nó

không chỉ dành cho văn học, cũng không của riêng ngôn ngữ”(30). Bàn về

phong cách là một vấn đề khó, nhất là trong văn học. Tuy vậy phong cách là

thuật ngữ để gọi “cái” mà người ta có thể cảm nhận được trong văn học,

trong cuộc sống hay trong các lĩnh vực khác ( lịch sử nghệ thuật, nhân học,

thời trang, hội họa…). Vậy thực chất phong cách là gì? Trong phạm vi lĩnh

vực này người viết cố gắng khảo sát những ý kiến khác nhau xung quanh

thuật ngữ này nhằm tìm đến một quan điểm đạt đến sự thống nhất khoa học.

Trước hết là vấn đề thuật ngữ.

Thuật ngữ “phong cách”, theo viện sĩ Timophiep, bắt nguồn từ mẫu tự

Latinh. Trước đây người Hy Lạp dùng từ Stylos để chỉ cái que một đầu nhọn,

6

một đầu tù. Người La Mã cũng dùng từ Stylus, cũng chỉ cái que đó nhưng đầu

nhọn dùng để viết, đầu tù dùng để xóa, các chữ viết trên một tấm bảng như có

thoa sáp. Về sau người Pháp dùng từ Style, ban đầu với ý nghĩa nét chữ, về

sau, nó dùng để chỉ bút pháp với những đặc điểm ngôn ngữ của văn học về

ngôn ngữ. Khái niệm “phong cách” mới được sử dụng như cách hiểu hiện

nay.

Khái niệm phong cách có ngoại diên rộng, được chia làm nhiều cấp độ

khác nhau. Mỹ học tư sản theo chủ nghĩa hình thức có lúc đồng nhất nó với

phương pháp nghệ thuật, có khi thu hẹp nó trong thủ pháp sáng tác của người

nghệ sĩ. Đ.Likhaep trong Thi pháp của văn học cổ lại nhấn mạnh mối quan

hệ giữa phương pháp với thế giới quan. Ar. Grigorian trong Vấn đề phong

cách nghệ thuật thì khẳng định “ phong cách không thể vô can với phương

pháp, với thế giới quan, với bút pháp, với cá nhân người nghệ sĩ về thời đại,

với vẻ đặc thù dân tộc trong sáng tác của anh ta… Phong cách là sự thống

nhất cao nhất của tất cả những phạm trù đó”.Turbin thì lí giải phong cách

theo kiểu ngôn ngữ học, xem phong cách như một hình tượng chủ yếu, thậm

chí hoàn toàn có tính chất ngôn ngữ. Ông viết: “Phong cách- đó là ngôn ngữ

được xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng , đó là tác động qua lại,

thường xuyên giữa những khái niệm và những ý tưởng nảy sinh trong ngôn từ

vốn đặt vào một văn cảnh nghệ thuật”.Khác Turbin, V.Đnepvov nhấn mạnh

sự thống nhất giữa các yếu tố nội dung và hình thức của phong cách. Ông cho

rằng hình tượng phong cách là sự tổng hợp, là hệ thống các phương tiện miêu

tả và biểu đạt, hay nói một cách khác, phong cách được coi như là một hình

thức toàn vẹn có tính chất nội dung, “phong cách là mối liên hệ của những

hình thức mối liên hệ đó và bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật”.Ya

Elxberg phát biểu: “ phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức có nội

dung được hình thành trong sự phát triển, trong sự tác động qua lại và trong

7

sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật dưới ảnh hưởng của đối

tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan nhà văn và phương pháp của

anh ta vốn thống nhất với thế giới quan…Phong cách - đó là sự thống trị của

hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó”. Như vậy phong cách của

nhà văn là khái niệm cơ bản của thi pháp.

Ở Việt Nam, vấn đề phong cách nghệ thuật cũng được rất nhiều người

quan tâm. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: “Phong cách là một cấu trúc

hữu cơ có tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và

chứa đựng một giá trị lịch sử, có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một

thể loại, một tác phẩm hay một tác giả”. Nhà thơ Hoàng Trung Thông thì

khẳng định: “Phong cách và cá tính của nhà văn không phải một cái gì khó

hiểu. Đó là biểu hiện khác nhau của mỗi nhà văn trong khi xây dựng chủ đề

nhân vật, trong khi vận dụng hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ văn học.

Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải tự tạo cho mình một

phong cách riêng, một điệu cảm xúc riêng . Còn các tác giả trong cuốn “Lí

luận văn học” (25) thì khẳng định: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng

cũng như nghệ thuật có phong cách thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của

những nhà văn ưu tú. Nó đòi hỏi trước hết nhà văn phải đem lại tiếng nói mới

cho văn học”. “Từ điển thuật ngữ văn học” (10) thì cho rằng: “Phong cách

là quy luật thống nhất của các yếu tố của chính thể nghệ thuật, là một biểu

hiện của tính nghệ thuật”.

Như vậy, định nghĩa về phong cách có nhiều quan điểm, phong phú đa

dạng khác nhau, khó đưa ra một định nghĩa đạt được sự nhất trí của mọi

người. Tuy thế , hầu hết quan điểm đều thống nhất ở chỗ cho rằng: Phong

cách biểu hiện những đặc điểm trong cá tính sáng tạo của nhà văn, là nhận

thức của nhà văn về cuộc sống, là cái nhìn và sự cảm thụ thẩm mỹ của nhà

văn đối với thế giới, là sự tổng hợp các hình tượng nghệ thuật trong sự thống

8

nhất với nội dung

Tuy nhiên, thực tế phát triển của văn học nghệ thuật trong nước và trên

thế giới đều đã chứng minh rằng không phải nhà văn nào cũng tạo cho mình

một phong cách riêng. Cần phải xem phong cách là phẩm chất sáng tạo cao

nhất của người nghệ sĩ trong quá trình đồng hóa nghệ thuật bằng thẩm mỹ.

Nghệ thuật đạt tới đỉnh cao chính là nhờ sản phẩm của những nhà văn có khả

năng in dấu ấn của riêng mình vào việc cảm thụ và lý giải những hiện tượng

phức tạp của đời sống con người. Nói như M. Goorki: “Bạn hãy giữ lấy cái gì

là của riêng mình, làm cho nó phát triển tự do. Lúc một người không có cái gì

là của riêng mình thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết”. Phong cách của

nhà văn, đó là cái riêng, độc đáo, dị biệt và có tính bền vững. Nếu thiếu tính

bền vững, cái riêng độc đáo đó chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, nhất thời. Tuy

nhiên độc đáo thôi chưa đủ, vì như nhà thơ Vương Trọng phát biểu, người ta

có thể nổi tiếng vì xây đền nhưng người ta cũng có thể nổi tiếng vì đốt đền.

Trong văn học cũng vậy, có nhiều cái dở đến “ độc đáo” , gàn dở thì độc đáo

ấy gọi là “quái gở”, chứ không thể gọi là phong cách. Vì thế phong cách phải

mang tính thẩm mỹ. Phẩm chất thẩm mỹ ở đây không chỉ đơn thuần mang

tính kĩ xảo hình thức mà phải có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức,

giữa cái phản ánh và cái được phản ánh . “Phong cách tuyệt nhiên không phải

là kỹ xảo, không phải là chiếc áo khoác. Nếu ví con người là nghệ thuật thì

phong cách là da trên cơ thể con người”.

Vậy chúng ta sẽ tìm hiểu phong cách của một nhà văn từ đâu? Sách

“Từ điển thuật ngữ văn học”(10): “Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có

phong cách. Chỉ những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong

cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy được thể hiện ở các tác phẩm và được

lặp đi lặp lại ở các tác phẩm của nhà văn, làm cho ta có thể nhận ra sự khác

nhau… Trong chỉnh thể “nhà văn”, cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy

9

biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút

pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy”. Vậy là thực chất, phong

cách biểu hiện trong suốt quá trình họat động sáng tạo của nhà văn. Yếu tố

“lặp đi lặp lại” được coi như một cá tính, sở thích, nhu cầu, và cao hơn là

nguyên tắc tổ chức hình thức của tác phẩm. Nói đến phong cách của nhà văn

trước hết phải nói đến hệ thống hình tượng nhân vật mà nhà văn đó xây dựng

nên. Bởi vì thực chất của phong cách một phần cơ bản chính là ở chỗ nhà văn

sáng tạo ra được hệ thống hình tượng, kể cả hình tượng ngôn ngữ của riêng

mình, nghĩa là nhà văn phải sáng tạo ra kiểu cảm thụ và phản ánh nghệ thuật

của riêng mình. Phong cách toát lên từ hệ thống nghệ thuật toàn vẹn nghĩa là

đặc trưng của phong cách không phải ở yếu tố riêng lẻ này hay yếu tố riêng lẻ

khác, do đó, việc tìm hiểu phong cách chỉ có thể đạt được kết quả khả quan

khi chúng ta đặt các yếu tố cấu thành phong cách trong mối tương tác để tạo

thành một chỉnh thể thống nhất. Tư tưởng, chủ đề, hình tượng, ngôn ngữ, thể

loại, môtip… và cuối cùng là cá tính nhà văn đã có tác dụng quyết định tới sự

hình thành của phong cách: “Mỗi nhà văn có một tâm hồn riêng cũng như

mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng kèn xung

trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von, có nhà thơ là dòng suối thầm thì, có nhà

thơ là dòng thác dữ xô đẩy” (Nguyễn Đình Thi). Buffer nói: “Văn học là

người.”

Vương Trọng là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống

Mỹ của dân tộc. Suốt 40 năm , trải qua biết bao biến thiên của cuộc sống, bao

đổi thay của lịch sử, đất nước đang “thay da đổi thịt” từng ngày, Vương

Trọng vẫn gắn bó với công việc của một “phu chữ”, chắt chiu, gom góp

những mảnh ghép cuộc đời để tạo nên thơ. Càng ngày Vương Trọng càng tỏ ra sung sức với một phong cách đã định hình và được khẳng định. §ã còng

chÝnh lµ quan ®iÓm s¸ng t¸c cña th¬ «ng. Kh«ng ®ao to bóa lín, kh«ng cÇu kú

hoa mü, th¬ V ¬ng Träng lµ thø th¬ chiÕm lÜnh tr¸i tim ®éc gi¶ b»ng chÝnh sù

10

gi¶n dÞ ch©n t×nh vµ thµnh thùc cña tr¸i tim thi sÜ, "tr¸i tim lín ®au nçi ®au cña

nh÷ng cuéc ®êi bÊt h¹nh". Tuy m·i ®Õn sau nµy nhµ th¬ míi béc b¹ch nh÷ng

suy nghÜ vÒ th¬ m×nh nh ng quan ®iÓm Êy t ¬ng ®èi nhÊt qu¸n trong suèt c¶

®êi th¬ «ng ngay tõ nh÷ng vÇn th¬ ®Çu tay ra ®êi trong ®¹n löa chiÕn tranh.

Bëi víi V ¬ng Träng c¸i quan träng nhÊt kh«ng ph¶i lµ h×nh thøc th¬ ® îc

viÕt nh thÕ nµo, biÓu hiÖn ra sao mµ mét bµi th¬ muèn cã søc sèng l©u bÒn,

"® îc nhiÒu ng êi yªu thÝch" cèt lâi lµ ë chç nhµ th¬ viÕt c¸i g×, viÕt ®Ó lµm

g× ? TiÕng th¬ V ¬ng Träng lµ th¬ ® îc "ch¾t tõ m¸u" cña mét tr¸i tim giµu nh©n ¸i.

V ¬ng Träng lµ mét nhµ th¬ qu©n ®éi. Sau khi rêi gi¶ng ® êng §¹i

häc, «ng nhËp ngò. Nh÷ng vÇn th¬ ®Çu tiªn cña «ng còng lµ nh÷ng vÇn th¬

viÕt vÒ ng êi lÝnh vµ cuéc chiÕn hµo hïng cña d©n téc. Trë vÒ Hµ Néi, lµm

c«ng viÖc cña mét biªn tËp viªn cho T¹p chÝ V¨n nghÖ Qu©n ®éi, ®iÒu ®ã

khiÕn nhiÒu ng êi hiÓu lÇm m¶ng th¬ së tr êng cña §¹i t¸ qu©n ®éi V ¬ng

Träng lµ m¶ng th¬ vÒ ng êi lÝnh. Thùc tÕ, ngßi bót V ¬ng Träng kh¸ ®a d¹ng.

H¨m hë vµ l¨n lén trªn kh¾p c¸c nÎo ® êng Tæ quèc, ®Õn ®©u, V ¬ng Träng

còng t×m thÊy nguån m¹ch dåi dµo, phong phó cho th¬ m×nh. "§i, ®äc, viÕt lµ

ba kh©u ® îc anh phèi hîp kh¸ nhÞp nhµng. Trong anh, s«i næi vµ th©m trÇm

mét nhµ th¬, mÉn c¸n vµ cÇn cï nhµ b¸o". ChÊt liÖu thùc tÕ ® îc ch¾t chiu tõ

cuéc sèng nhuÇn nhuyÔn trong t©m hån nh¹y c¶m cña nhµ th¬ ®· t¹o nªn mét

V ¬ng Träng ®a thanh. Tuy vËy "cuéc ®êi, con ng êi, sè phËn" trong th¬ «ng

theo sù chuyÓn m×nh cña thêi ®¹i còng ®· cã sù vËn ®éng vµ biÕn ®æi. Trªn c¬

së nh÷ng cè g¾ng t×m t«i, ®æi míi cña ®Ò tµi th¬ V ¬ng Träng, chóng t«i m¹nh

d¹n t×m hiÓu th¬ «ng ë hai m¶ng chñ ®¹o: m¶ng th¬ trËn m¹c vµ m¶ng th¬ thÕ

11

sù ®Ó cã ® îc c¸i nh×n toµn diÖn vµ sù ®¸nh gi¸ chÝnh x¸c nhÊt vÒ th¬ «ng.

2. Lịch sử vấn đề

Vương Trọng là một nhà thơ mặc áo lính. Ông nổi tiếng trước hết với

những vần thơ trận mạc: Lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng là giọng điệu

chung của thơ ca chống Mỹ. Đương thời, Xuân Diệu, Hoài Thanh rất thích bài

thơ này – Bài thơ nằm võng, đặc biệt hai câu thơ:

"Nằm võng thấy cây rừng chao động

Tán lá như sàng các vì sao".

(Bài thơ nằm võng)

Cái nhìn ngộ nghĩnh, thú vị và rất mơ mộng, lãng mạn của chàng lính

trẻ trong khói bom lửa đạn đã tạo nên sức sống cho bài thơ và tên tuổi Vương

Trọng.

Tuy nhiên, phải đến sau này, khi nhà thơ phát hiện ra "mỏ quặng đích

thực của thơ mình" là mảng thơ thế sự thì sự nổi tiếng và sức lan thấm của

những vần thơ ấy mới tạo được chú ý của các nhà phê bình và báo giới.

Trong bài viết Ngoảnh lại, một tuyển tập thơ có chất lƣợng (34), tác

giả Nguyễn Bùi Vợi cho rằng: "đây là một tập thơ của cả một đời người...

những gì tinh túy nhất của Vương Trọng đều có ở đây”. Khái quát toàn bộ

hành trình thơ Vương Trọng qua tập "Ngoảnh lại", nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi

đã nhìn thấy gương mặt tâm hồn của Vương Trọng, đó là con người có cái

"sôi nổi thâm trầm một nhà thơ, mẫn cán và cần cù của một nhà báo”(34).

Hơn nữa, Nguyễn Bùi Vợi thấy được sự thông minh hóm hỉnh của một tư duy

toán học, nhưng cũng rất đa cảm, đa tình của một thi nhân. Thơ Vương Trọng

là những vần thơ "vừa nỗi niềm, vừa tài hoa".

Trần Đăng Khoa trong Đọc tuyển tập thơ Vƣơng Trọng (38) đã tìm

thấy ở nhà thơ cái chất "thông minh" của một "thi sĩ có tài". Theo Trần Đăng

12

Khoa, đóng góp lớn nhất của Vương Trọng cho nền thơ ca hiện đại chính là ở

mảng thơ thế sự. Đây là một nhận định rất có giá trị đã đánh giá một cách

chính xác những thành công của Vương Trọng , nhất là giai đoạn hậu chiến.

Võ Văn Trực khảo sát khá kỹ mảng thơ thế sự và tìm thấy ở trong thơ

Vương Trọng "những trái tim đồng vọng" .

Vũ Quần Phương viết về Vương Trọng: "Vương Trọng tìm chất thơ

trong đời thường khi vui hóm, khi bâng khuâng cả tâm trí nhưng bao giờ cũng

thành thật. Nó là chất thơ vốn có trong đời, không đắp điếm, không ngụy tạo,

càng không điệu bộ ngôn từ. Thơ ấy ít tạo những dư luận bùng nổ nhưng lại

có sức thấm, cứ lặng lẽ xuống lòng người "(34).

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú đã có nhìn nhận, đánh giá rất sắc sảo về

mảng thơ thế sự của Vương Trọng. Tác giả đặc biệt chú ý đến những nghịch

cảnh thế sự và khẳng định thơ Vương Trọng là thơ về những nghịch cảnh thế

sự. Những bài thơ hay nhất của Vương Trọng, theo tác giả, là những bài thơ

viết về nghịch cảnh những số phận, những cảnh đời. Vì thế mà mỗi bài thơ

lại mang dáng dấp một câu chuyện có tình tiết, có nhân vật. Thơ của ông là

thứ thơ gợi nhiều hơn cả. Bài thơ đọc xong không trơn tuột mà để lại những

dư âm trong lòng, thường là nỗi day dứt hay sự băn khoăn về một câu

chuyện trái ngang nào đó. Từ đó, Ts Nguyễn Thanh Tú khẳng định: "Hình

như với anh, không có một trường phái, một chủ nghĩa nào. Thơ anh là thơ

dành cho số đông bạn đọc đang cầm súng, cầm cày, cầm búa...".

Bên cạnh những bài viết có giá trị ghi nhận những đóng góp to lớn của

thơ Vương Trọng với nền thơ ca Việt Nam hiện đại, còn có rất nhiều các bài

phỏng vấn, nói chuyện của nhà thơ Vương Trọng được đăng tải trên các

phương tiện thông tin đại chúng. Qua các cuộc trò chuyện chân thành và cởi

mở của Vương Trọng, Văn Châu thấy ở Vương Trọng sự "hóm hỉnh, dí dỏm

của người lính, sự sâu sắc, thâm trầm đậm chất triết lý của ông đồ Nghệ",

còn Nguyễn Xuân Hải thấy ở Vương Trọng "dáng vẻ thầy đồ" và thơ Vương

13

Trọng là thứ thơ "tải đạo giúp đời"...

Như vậy, tuy chưa có một công trình nào thực sự lớn viết về thơ Vương

Trọng, nhưng qua những bài nằm rải rác trên các mặt báo, các tác giả đã có sự

ghi nhận với những đóng góp to lớn của nhà thơ trên nhiều phương diện đối

với thơ ca hiện đại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đã có một số sinh viên mạnh dạn

lựa chọn thơ Vương Trọng làm đề tài nghiên cứu khoa học hay khóa luận tốt

nghiệp của mình.

Đề tài nghiên cứu đầu tiên về thơ Vương Trọng là của sinh viên

Nguyễn Thị Thanh Nhung , Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn với tiêu

đề: "Vƣơng Trọng - một hồn thơ nhân ái". Ở đề tài này, tác giả Nguyễn

Thị Thanh Nhung đã tiếp cận thơ Vương Trọng và bước đầu nhận thấy giá trị

nhân đạo trong tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ.

Công trình nghiên cứu lớn hơn là khóa luận tốt nghiệp: "Số phận con

ngƣời thời hậu chiến trong thơ Vƣơng Trọng" của sinh viên Dương Thị

Hường, Đại học Khoa học xã hội - Nhân văn.Ở khóa luận này, Dương Thị

Hường tập trung khai thác xoáy sâu vào số phận, cuộc đời, tâm sự của những

con người thời hậu chiến trong thơ Vương Trọng như hình ảnh người mẹ chờ

con, người vợ chờ chồng, hay những mảnh đời éo le, bất hạnh của "hai chị

em" có bố mẹ ly hôn, tâm sự của người mẹ "với đứa con ngoài giá thú"... Tác

giả đã so sánh tương quan những con người thời hậu chiến với một số nhân

vật trữ tình trong thơ Vương Trọng thời kỳ kháng chiến, từ đó phát hiện ra

"tấm lòng nhân ái" qua "cách nhìn mới" về số phận con người của nhà thơ

Vương Trọng.

Một khóa luận được viết khá công phu và chất lượng - đó là khóa

luận: "Những tìm tòi đổi mới của thơ Vƣơng Trọng sau 1975" của tác giả

Trần Thị Thu Hương, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Ở khóa luận

của mình, tác giả Trần Thị Thu Hương đã cho thấy một quá trình lao động

miệt mài, nỗ lực tìm tòi đổi mới của thơ Vương Trọng sau 1975, chứng tỏ

14

"quá trình vận động thơ Vương Trọng từ chủ đề, đề tài, tư tưởng, chủ yếu là

sự thay đổi trong quan niệm con người, tư tưởng nhân văn, nhân ái của nhà

thơ trước cuộc sống "(36). Tác giả đã chỉ ra nét nổi bật trong thơ Vương

Trọng sau 1975 cả về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật, đặc biệt là

những đổi mới về ngôn ngữ thơ.

Công trình gần đây nhất là khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Tạ Thị

Thu Hằng, Đại học Đà Lạt: "Về tuyển tập thơ "Ngoảnh lại" của Vƣơng

Trọng" . Tập trung khảo sát một tuyển tập thơ của nhà thơ Vương Trọng, Tạ

Thị Thu Hằng đã cố gắng khái quát hành trình thơ Vương Trọng hơn 30 năm

và nhận thấy "Ngoảnh lại - một tuyển tập thơ hay", "phong phú, sâu sắc về

nội dung trữ tình và nhuần nhuyễn ở nghệ thuật thể hiện", "thơ Vương Trọng

thấm đượm tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng đội, tình yêu đôi lứa và

tình cảm gia đình"(37). Cuối cùng tác giả khẳng định: "Vương Trọng đã

hướng thơ mình đến mục đích cao cả, phục vụ đông đảo công chúng"(37). Đó

là điều đáng trân trọng nhất ở thơ của ông.

Những công trình nghiên cứu của sinh viên, những bài viết của các nhà

phê bình, nhà báo đã phát hiện ra ở thơ Vương Trọng những nét đặc sắc, độc

đáo có tính chất khu biệt, định danh nhưng mới chỉ dừng lại ở từng mảng đề

tài, hay ở bài thơ, tập thơ. Với lòng yêu mến, đồng cảm tiếng thơ Vương

Trọng, người viết bài này mong muốn đi suốt đời thơ Vương Trọng để khái

quát lên một "phong cách thơ Vương Trọng", giúp người đọc nhận diện một

gương mặt "thi sĩ có tài trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại"(38.)

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Thơ Vương Trọng

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Các tập thơ của Vương Trọng

15

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:

4.1. Phương pháp hệ thống

Sáng tạo thơ ca là một hình thức lao động "khổ hạnh". Nhà thơ là "phu

chữ". Mỗi bài thơ, tập thơ ra đời, đánh dấu sự hoàn tất một quá trình miệt mài

lao động và sự trưởng thành của từng ngòi bút. Đặt trong một hệ thống sẽ

giúp chúng ta có được một cái nhìn toàn diện, đầy đủ, chính xác từ đó có

được những nhận định thỏa đáng khi đánh giá một phong cách thơ.

4.2. Phương pháp thống kê

Phương pháp này giúp chúng ta có thể tìm tòi, phát hiện ra những dấu

hiệu đặc trưng của nhà thơ, đặc biệt trên phương diện nghệ thuật (ngôn ngữ,

hình ảnh, biểu tượng...) từ đó, góp phần phát hiện ra những sở trường, thế

mạnh của nhà thơ.

4.3. Phương pháp lịch sử

Văn học là sự phản ánh con người và thời đại một cách chân thực nhất.

Sử dụng phương pháp này, chúng tôi có thể thấy được sự tìm tòi, đổi mới, sự

trưởng thành của nhà thơ Vương Trọng qua từng chặng đường sáng tác của

riêng ông trong tương quan với các chặng thơ của thơ ca đương thời.

4.4. Phương pháp so sánh

So sánh các tập thơ, các giai đoạn trong suốt hành trình thơ của nhà thơ

với nhau để tìm ra sự vận động trong thơ Vương Trọng; so sánh phong cách

thơ Vương Trọng với thơ ca đương thời, với phong cách thơ của các nhà thơ

khác để thấy được sự đóng góp của nhà thơ với nền thơ cơ Việt Nam, đồng

thời khẳng định vai trò, vị trí của thơ Vương Trọng trong đời sống và trong

văn học.

4.5. Các phương pháp khác

Ngoài các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp

16

khác khi viết luận văn này: phương pháp phân tích, bình giảng, v.v..

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 3 chương:

Chương 1: Vương Trọng - nhà thơ trận mạc, nhà thơ công dân.

Chương 2: Vương Trọng - nhà thơ thế sự.

17

Chương 3: Ngôn ngữ - nét đặc sắc trong nghệ thuật thơ Vương Trọng.

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: VƢƠNG TRỌNG - NHÀ THƠ TRẬN MẠC, NHÀ THƠ

CÔNG DÂN. 1.1. Thơ ca chống Mỹ và những đóng góp của nhà thơ Vương Trọng.

“Thơ là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp”(11).

Qua thơ văn, độc giả không chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp tâm hồn, chiều sâu tư

tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan của cá nhân tác giả, qua thơ, người đọc

còn thấy hừng hực hơi thở cuộc sống, hơn hết là tinh thần của cả một dân tộc

trong từng thời đại. Còn đó, sang sảng thơ thần lời hùng thiêng sông núi của

Lý Thường Kiệt bên bờ sông Như Nguyệt; còn đó áng “Thiên cổ hùng văn”

của nhà quân sự, nhà văn hóa, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi thay mặt

Lê Lợi bố cáo với muôn dân trong thiên hạ về một thời đại huy hoàng; còn đó

niềm căm phẫn xót đau, lòng yêu nước cuộn trào trong khao khát chiến thắng

của vị Quốc Công Trần Quốc Tuấn; còn đó, những vần thơ thấm lệ của đại thi

hào Nguyễn Du xót thương kiếp người lưu loạn… Văn thơ là vậy, nhà văn

nhà thơ đâu phải chỉ là ngừời “thư kí trung thành” của thời đại, ghi lại tường

tận từng sự kiện, biến cố, mà quan trọng hơn, qua từng sự kiện biến cố đó,

nhà văn làm sống dậy tinh thần, linh hồn sức sống của cả một dân tộc . Thơ

văn chống Mỹ cũng đã đảm trách nhiệm vụ, chức năng đó một cách đầy xuất

sắc.

Nói đến thơ văn chống Mỹ cứu nước, chúng ta phải thấy được sự hiện

diện của ba thế hệ nhà văn nối tiếp trưởng thành. Thế hệ các nhà thơ thành

danh từ giai đoạn trước cách mạng, kinh qua giai đoạn chống Pháp và tiếp

18

tục cống hiến trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Ở thế hệ các nhà thơ

này, chúng ta thấy được những nỗ lực không mệt mỏi của nhiều nhà thơ lớn

mà tên tuổi của họ gắn liền với phong trào Thơ Mới. Xuân Diệu – “ông hoàng

của thơ tình” với niềm khao khát giao cảm với đời đã nỗ lực bắt mạch vào

cuộc sống và nguồn sáng của cách mạng một cách nhanh chóng tuy có khi

còn nhiều đau đớn và chưa theo kịp với sự đổi mới, sự chuyển mình của cuộc

sống. Tuy vậy, trong hành trình trở về với “cha tôi là nhân dân, mẹ tôi là Tổ

quốc”, Xuân Diệu đã tạo nên một phong cách mới và cũng thành công không

kém ở kháng chiến chống Mỹ. Vượt qua thung lũng đau thương đến với cách

đồng vui”, Chế Lan Viên với chất trí tuệ sắc sảo đem đến cho thơ chống Mỹ

một phong cách chính luận độc đáo với Hoa ngày thƣờng & Chim báo bão.

Huy Cận - người đi “lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên

những vần thơ ảo não” giai đoạn trước cách mạng, thời kì này ông đóng góp

cho thơ chống Mỹ liên tục nhiều tập thơ có giá trị : Đất nở hoa , Bài thơ

cuộc đời, Hai bàn tay em,…

Bên cạnh các nhà thơ “lão thành” là các nhà thơ trưởng thành từ giai

đoạn kháng chiến chống Pháp, trong những năm hòa bình, xây dựng chủ

nghĩa xã hội ở miền Bắc như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nông Quốc

Chấn, Hoàng Trung Thông, … Và đặc biệt, thơ ca chống Mỹ “tươi trẻ”, khỏe

khoắn hơn với sự xuất hiện ngoạn mục của thế hệ các nhà thơ trẻ với nhiều

tên tuổi: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa

Điềm, Dương Hương Ly, Thanh Thảo.... So với đội ngũ nhà thơ chống Pháp

thì các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã tạo ra cho thế hệ mình một phong cách

riêng: trẻ trung, năng nổ, xông xáo, nhiệt huyết và luôn phơi phới niềm hân

hoan và niềm tin tất thắng.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc chiến tranh toàn dân, chiến tranh

vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Đáp ứng nhiệm vụ xây dựng pháo đài tâm hồn dân

19

tộc, làm sáng tỏ mục đích cao cả của cuộc chiến đấu, tác động vào tình cảm,

nâng cao năng lực và ý chí chiến đấu bất khuất giành chiến thắng, thơ ca thời

kỳ này biểu hiện sâu sắc lòng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống, về thắng

lợi hiện tại và niềm tin vào tương lai. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là nội

dung chủ yếu , là cảm hứng chủ đạo được thơ khai thác và biểu hiện với nhiều

sắc thái khác nhau. Thơ ca thời kỳ này xoáy sâu vào đề tài Tổ Quốc, vào cuộc

chiến đấu xây dựng và bảo vệ đất nước. Nằm chung trong mạch nguồn sôi nổi

ấy, tiếng thơ Vương Trọng thời kỳ này đã hòa vào dàn đồng ca chung ngợi ca

đất nước , bộc lộ niềm tin tưởng , lạc quan vào chiến đấu và chiến thắng của

dân tộc, thể hiện sức mạnh của tuổi trẻ, chất lính trẻ trung, tếu táo của một

nhà thơ mặc áo lính.

1.2. Cảm hứng về con ngƣời trong chiến tranh và thời kỳ hậu chiến

1.2.1. Hình ảnh ngƣời lính

Khi viết “Đôi lời giữa cuộc thi thơ”, nhà thơ Vương Trọng khẳng

định: “Đề tài chiến tranh, quân đội là một vùng đất màu mỡ và có nhiều vấn

đề làm trái tim người đọc rung động mạnh”(18). Đó là nhận định của một nhà

thơ quân đội nhiều trải nghiệm cả đã thành danh trên mảng đề tài vốn đã có

nhiều người khai thác. Hình ảnh người lính trên các chiến trường đối mặt với

gian nguy và thầm lặng hy sinh vì sự bình yên của Tổ quốc luôn luôn ám ảnh

nhà thơ. Ông đã viết về họ bằng một trái tim đồng cảm, xót đau nhưng rất đỗi

tự hào.

Trong thơ, hình ảnh người lính đã thu hút nhiều bút lực. Anh giải

phóng quân mang theo nhiều vẻ đẹp qua thơ Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa

Điềm, Dương Hương Ly...Người chiến sĩ trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ

xuất hiện ở một tư thế đẹp, tài hoa, dũng cảm và có trình độ. Có một dấu nối

rất đẹp giữa người chiến sĩ hôm qua với người chiến sĩ hôm nay, người chiến

20

sĩ chống Pháp với người chiến sĩ thời chống Mỹ cứu nước. Nhưng, như Giáo

sư Mã Giang Lân nhận xét “người chiến sỹ hôm nay có thêm chiều cao, tầm

vóc chưa từng thấy”

“Anh đi xuôi ngược tung hoành

Bước dài như gió lay thành chuyển non

Mái chèo một chiếc xuồng con

Mà sông núi dậy sóng cồn đại dương”

(Tố Hữu- Tiếng hát sang xuân)

Cái bản chất, cái mục đích là một, nhưng tư thế, suy nghĩ, hành động đã màu

sắc, đã lung linh hơn” (16). Trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ của

dân tộc, những vần thơ Vương Trọng ra đời trong bom đạn chiến tranh, trong

cái không khí chung của một thời đại anh hùng. Hình ảnh người lính trong thơ

ông cũng mang trong mình vẻ đẹp lãng mạn, nhiều mộng mơ:

“Nằm võng không có gối vẫn êm

Không trở mình suốt đêm không mỏi

Nằm ngoài trời mà nắng sương không tới

Bởi cây rừng biết chiều ý ta”

(Bài thơ nằm võng)

“Bài thơ nằm võng” là một trong những tác phẩm đầu tay của Vương

Trọng, đó là bài thơ đạt giải báo Văn nghệ năm 1969 – 1970. Bài thơ ra đời

năm 1969, năm khốc liệt nhất, khó khăn nhất của của cuộc kháng chiến chống

Mỹ. Cả nước hừng hực khí thế “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Trên khắp nẻo đường Tổ quốc, từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến

miền ngược, từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng một tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn

đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”( Tố Hữu) . Nằm trong mạch

nguồn ấy, “Bài thơ nằm võng” là khúc hát mê say, lạc quan, tin tưởng. Ở đó

21

hình ảnh người lính hiện lên thật thi vị, lãng mạn. Sau những trận đánh hay

lúc hành quân mệt mỏi, tạm dừng chân trú quân trong rừng rậm, cánh võng

trở thành nơi lý tưởng nhất để ngả lưng.

“Nằm võng thấy cây rừng chao động

Tán lá như sàng các vì sao”

Bầu trời nhìn qua cánh rừng trong đôi mắt người lính thật lấp lánh: “Tán lá

như sàng các vì sao”. Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, thú vị có lẽ chỉ

bắt gặp trong tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của những chàng lính trẻ yêu đời,

hồn nhiên, trong trẻo. Tuy nhiên, “Bài thơ nằm võng” không chỉ đẹp bởi tâm

hồn trẻ trung, mộng mơ của người lính, bài thơ đẹp còn bởi ở đó, người đọc

bắt gặp lý tưởng sống, lý tưởng cách mạng cao cả của họ. Nằm võng suốt

đêm, không có gối, không trở mình sao mà không mỏi, nằm võng ngoài trời

sao mà nắng sương không tới, không thấm vào da thịt? Đó không chỉ là cách

nói mà còn là cách sống, là lý tưởng sống của họ. Phải ở nơi tận cùng của khó

khăn, nguy hiểm, phải đứng ở ranh giới của sự sống và cái chết, phải chứng

kiến sự ra đi của những người đồng đội hôm qua còn sát cánh bên mình, hôm

nay đã về với đất mẹ thì mới thấy được niềm lạc quan, tin tưởng, thái độ ung

dung, thảnh thơi đó cần thiết, đáng quý biết bao. Không khí của thời đại thúc

giục con người phải sống mạnh mẽ, yêu đời hơn. Sống, chiến đấu, và chiến

thắng là nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng của cả dân tộc, và cả thế hệ mỗi cá

nhân. Vương Trọng là một người lính. Ông hiểu hơn ai hết trách nhiệm, nghĩa

vụ của người lính Trường Sơn. Ông hòa mình trong dòng thác mãnh liệt của

thời đại, sống và tận hiến cho cuộc sống, lý tưởng mà mình đã lựa chọn. Vì

thế, thơ ông rất thực, rất đời. Không cầu kì hoa mỹ mà vẫn toát lên cái khí thế

của cả một thời kỳ lịch sử. Những người lính Trường Sơn là vậy, họ sống

bằng niềm lạc quan và niềm tin chiến thắng: “Một hàng quân bước, hai hàng

người vui”(Ngọc Tấn); “Mỗi trang thơ đều rộn tiếng ta cười”(Chế Lan Viên).

22

Trong đôi mắt họ “ra chiến trường như trẩy hội mùa xuân”(Xuân Thiêm).

Trong đôi mắt Vương Trọng người lính, vì thế mà mỗi chuyến xe chở hàng ra

mặt trân cũng đều hiện lên rất chân thực mà nên thơ. Bài thơ “Chiến hào ra

trận” đã khắc họa những khoảnh khắc kiên hùng và lãng mạn đó của người

lính lái xe:

“Xe chạy nhanh

Bỏ lại sau lưng nhiều vết đạn

Xe dừng đột ngột

Ném ra phía trước một hố bom

Xe rung trong tiếng rít gầm

Người lái xe nhô đầu ngoài buồng số

Bám từng chiếc máy bay

Và cứ thế, xe khi dừng khi chạy

Như thách thức quân thù.”

( Chiến hào ra trận)

Khác “bài thơ nằm võng” là những khoảnh khắc yên tĩnh bình lặng

hiếm hoi và vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, mộng mơ; “Chiến hào ra trận” ầm

ầm bom nổ, tiếng súng đạn rít gầm. Cả bài thơ là một cuộc rượt đuổi nguy

hiểm thách thức, một trận tàn sát giữa trên đầu là máy bay địch lồng lộn quần

đảo, phía dưới là những đoàn xe vật lộn kiên cường tải hàng ra trận. Cái chết

rình rập, hiện hình từ phía kẻ thù bất cứ lúc nào. Tuyến đường ra trận đầy

hiểm họa

“Bom nổ gần nổ xa

Đạn cày ngang cày dọc

Đất tung lên bám vào đầu vào mặt

Đất tung lên lấp đầy mui xe.”

23

( Chiến hào ra trận)

Những khó khăn, nguy hiểm, thách thức đã trở nên nhỏ bé trước sức chiến

đấu phi thường của người lính, sức mạnh nội lực được hội tụ bởi sức mạnh

thời đại và dân tộc:

“Ấy là khi

Mắt người lái xe bốc lửa

Sáng hơn ánh chớp đạn bom

Bắp tay cuộn tròn

Lái xe như chở chiến hào ra trận”

( Chiến hào ra trận)

Ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, người

lính hiện lên có cái đáng yêu, cái say sưa, khinh thường nguy hiểm mà không

có chút gì phiêu lưu mạo hiểm. Họ ngang nhiên, xông xáo, xe vỡ hết cả kính

vẫn cứ đi, đi vì nhiệm vụ:

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi.

Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

Họ đi vì mỗi người lính lái xe đều mang trong lồng ngực một trái tim thắp

lửa:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

24

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

Thì đôi mắt người lái xe trong “Chiến hào ra trận” cũng chính là trái tim

Đankô sáng rực như than lửa, sáng hơn sao và át cả cánh chớp đạn bom được

thắp lên bằng ngọn lửa của niềm tin chiến thắng. Hình ảnh người lính lái xe

mang vẻ đẹp của những anh hùng sử thi một thuở. Sức mạnh của họ là sức

mạnh của niềm tin, của lòng căm thù, sức mạnh của khát khao chiến thắng.

Vượt lên khó khăn, đạp bằng nguy hiểm, những người lính lái xe vẫn hiên

ngang chở “một chiến hào ra trận” – một hình ảnh thực, đẹp và nên thơ.

“Đặc điểm nổi bật trong tâm trạng của người chiến sĩ quân đội mà thơ

ca đã thể hiện là tinh thần lạc quan yêu đời, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy

sinh và quyết tâm đánh giặc đến cùng”(22). Trong thơ Nguyễn Đình Thi,

Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Chính Hữu, Xuân Thiều...., hình ảnh

người lính thời chống Mỹ đã được khắc họa với đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn ấy.

Tuy nhiên, không phải thơ đã thi vị hóa, lý tưởng hóa mà chính đó là tâm

trạng điển hình cho đời sống nhân dân ta thời đánh Mỹ. “Có như vậy, chúng

ta mới giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh ác liệt 20 năm” (22)

Người lính hiện lên trong thơ Vương Trọng mang tâm trạng điển hình

đó của hình tượng người lính cụ Hồ. Trong khốc liệt của bom đạn chiến tranh,

cái chết luôn luôn rình rập, thơ Vương Trọng vẫn ngời lên sự sống, đốt cháy

lên niềm hy vọng vào một tương lai tươi đẹp. “Tiếng trẻ học bài” là một thứ

âm thanh kì diệu, trong trẻo và vang vọng đánh thức sự sống, mang bình minh

tràn ngập trận địa, gieo hạt xuân trở mình trên cỗi cằn:

“Ở đây gần chiến trường

Không gian rung nhiều tiếng động

Vẫn có phút giây yên lặng

Cho rễ làm củ, cho nụ làm hoa

Bình minh về đậu trên trang sách

25

Mang tiếng trẻ học bài vang xa”.

(Tiếng trẻ học bài)

Giữa “không gian rung nhiều tiếng động”, đôi tai nhạy cảm của nhà thơ

Vương Trọng đã bắt được thứ âm thanh trong trẻo diệu kỳ vang ngân từ tiếng

trẻ học bài – những “mầm non” đất nước, âm thanh đó là động lực chiến đấu,

là ý chí chiến thắng, là niềm tự hào về sức sống và tình yêu đất nước. Nó là

những mầm sống nảy sinh từ cái chết, là tiếng ca thúc giục:

“Khẩu trung liên trên đê

Khẩu pháo ngoài trận địa

Cởi áo bạt lắng nghe

Tiếng trẻ học bài”

(Tiếng trẻ học bài)

Có thể thấy người lính trong thơ Vương Trọng mang trong mình những

phẩm chất của những người vì lý tưởng cách mạng. Họ đã chiến đấu, đã hy

sinh và quên mình cho Tổ quốc. Trái tim họ, luôn rực lửa đấu tranh, tâm hồn

họ luôn trẻ trung, lạc quan và khát khao hòa bình, khát khao chiến thắng. Sức

mạnh thời đại, sức sống dân tộc tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả để

chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

Viết về những người lính, các nhà thơ không chỉ khai thác cái “bề nổi”,

khắc họa những trận đánh, những hành động anh dũng kiên cường ngoài trận

địa, họ còn tập trung làm nổi bật thế giới tâm hồn, tình cảm của những người

cầm súng. Tình cảm đồng chí, đồng đội, tình cảm quân dân cá nước đã làm

xúc động người đọc bao thế hệ. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã viết:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí”

26

( Đồng chí )

Tình cảm của người lính “là một thứ tình cảm mới, cùng chung một ý

thức, một nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mới nhưng vẫn thấy như là thứ tình cảm

xa xưa quen thuộc của dân tộc” (11).

Hình ảnh hai người chiến sĩ:

“Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng

Quờ tay tìm hơi ấm đêm mưa”

(Nhớ - Hồng Nguyên)

đã làm xúc động bao nhiêu thế hệ. Tình cảm bình dị, gần gũi nhưng ấm áp sẽ

còn chảy mãi trong mạch nguồn thơ ca, trong sự sáng tạo không ngừng của

nghệ thuật. Vương Trọng là một người lính. Ông hiểu hơn ai hết những vất vả

nguy hiểm trên suốt cuộc hành trình chiến đấu. Bom đạn kẻ thù đã là một lẽ,

nhưng sự khắc nghiệt của thời tiết cũng nguy hiểm không kém. Thời chống

Pháp, Quang Dũng viết về những người lính Tây Tiến sốt rét dọc đường hành

quân bằng vẻ đẹp lãng mạn:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

(Tây Tiến)

Ở “Điểm tựa các anh”, Vương Trọng cũng tái hiện một không gian

khắc nghiệt và nguy hiểm của thiên nhiên: Mùa đông dài, giá lạnh, tuyết phủ

quanh năm, đến nỗi “thư đến, tay run không bóc được”, đất thì “cằn khô vàng

uá lá sồi”, “trời khắc nghiệt cỏ gianh không mọc nổi” chứ nói gì đến rau

xanh; những người lính chốt giữ những đỉnh núi cao ấy đã tựa vào nhau, tìm

hơi ấm đêm đông:

27

“Lên đây rồi, đừng hỏi tựa vào đâu

Cứ ở lại cùng những người đồng đội

Quàng vai nhau ngồi bên bếp củi

...

Và anh cười. Tôi quên hiểu nỗi lo

Hiểu điểm tựa đỉnh cao này là thế

Tựa vào lòng dân, tựa vào tuổi trẻ

Tựa rộng dài đất nước phía sau lưng.”

( Điểm tựa các anh)

Chứng kiến cái khắc nghiệt của mùa khô Trung Lào, nhìn những người đồng

đội “khát cháy lòng”, Vương Trọng không khỏi xót xa:

“Lặng nhìn đồng đội mà thương

Nắng nôi theo suốt chặng đường hành quân

Đất tơi trì trật bàn chân

Tóc tai màu bụi áo quần màu tro

Cúi người đã nặng ba lô

Để xương vai bạn gầy nhô vai đồi

Bi đông cạn nước lâu rồi

Cạn khô cả giọt mồ hôi đường dài”

(Đi dọc mùa khô)

Cái “lặng nhìn” của Vương Trọng chứa đựng biết bao ân tình, bao nỗi niềm

thương mến, xót xa. Đó là thứ tình cảm đâu dễ cất thành lời, là “cái tình cảm

đa dạng, phong phú, tế nhị như một mạch nước ngầm thấm vào từng thế hệ,

từng hoàn cảnh cụ thể” (15). Hơi ấm của “Bếp lửa Lũng Cú”- cái địa danh

chót vót bản đồ đã sưởi ấm tình đồng đội, chứng kiến niềm hạnh phúc ngọt

ngào của những người lính khi quây quần bên bếp lửa:

28

“Tôi hơ tay vào lửa

Muốn lặng yên

Tận hưởng hạnh phúc vừa bén tới

Được ngồi sưởi cùng những người đồng đội

Bao nhiêu chốt giữ đất này”

( Bếp lửa Lũng Cú )

Được sống trong tình đồng đội, được sẻ chia mọi vui buồn, ấm lạnh của cuộc

đời, đó là niềm hạnh phúc vô bờ của người chiến sĩ trong mỗi phiên gác, mỗi

trận đánh và mỗi cuộc hành quân.

“Trao phiên gác, trao áo bông cho bạn

Mây mù ngưng, ẩm ướt nặng hai vai”

(Bên bếp lửa Lũng Cú)

Ở người lính còn có một thứ tình cảm mà chỉ có những người trong

cuộc mới biết, nói như nhà thơ Trần Ninh Hồ:

“Hai đứa cười mà lệ tràn trên má

Ai cũng nghĩ phía bạn mình bom rơi nhiều hơn”

(Phía này, phía kia)

Đó là sự lo lắng, sợ hãi khi nghĩ về bạn, lo cho bạn mình liệu có còn sống sót

sau trận bom hay không, là thái độ không yên lòng khi nghĩ về bạn, và là

niềm vui mừng đến trào nước mắt khi thấy bạn còn sống. Những cung bậc

tình cảm ấy chỉ có thể có ở người lính – những người vào sinh ra tử, thường

xuyên giáp mặt tử thần.

Tình đồng đội, đồng chí được thể hiện trong thơ Vương Trọng với

nhiều sắc thái. Có khi là niềm hạnh phúc nhỏ bé được sưởi ấm cùng đồng đội,

là cái “lặng nhìn” xót xa, thương cảm, là cái nắm tay, là cái trao lời hát, là

chung rượu cần nhường nhau trong đêm hội....Tất cả góp phần khắc họa thế

29

giới tâm hồn, tình cảm đa dạng của những người lính Trường Sơn.

“Hình ảnh anh bộ đội là hình ảnh tập trung nhất, rõ nét nhất của con

người Việt Nam trong chiến đấu. Trong cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ

đó, người Việt Nam đã chịu đựng biết bao hy sinh, biết bao tổn thất. Nhưng

không phải mọi nỗi đau của con người đều đi vào thơ. Thơ hiện đại không nói

nhiều về nỗi đau thương của con người trong chiến tranh. Ngay cả nỗi buồn,

nỗi nhớ đôi khi cũng cần phải cân lượng để không làm thơ yếu mềm, thiếu

tính chiến đấu” (22). Vương Trọng là người trực tiếp chiến đấu trên các chiến

trường. Ông chứng kiến tất cả những vất vả, gian nan, những chịu đựng, hy

sinh của người lính. Không trốn tránh hiện thực đó, ông đã viết về những gian

khổ, những hy sinh của những người lính một cách chân thực, không chút

khoa trương, phóng đại. Viết không phải để kể khổ. Viết để người đọc hiểu

hơn về người lính, để “thế hệ sau biết về thế hệ trước nhiều hơn” (Lời Vương

Trọng)

Riêng ở mảng thơ này, Vương Trọng tập trung khắc họa những người

lính chiến đấu ở Tà Sanh, ở những cánh rừng nước bạn Lào, những người lính

ở biên cương, hải đảo. Dù đất nước đã hòa bình thống nhất, nhưng vẫn còn

những người lính vì trách nhiệm, sứ mệnh cao cả của thời đại, vẫn ngày đêm

đối mặt với hiểm nguy, với những hy sinh, gian khổ, với những khốc liệt của

thiên nhiên và sự dã man của kẻ thù.

Ám ảnh lớn nhất trong thơ Vương Trọng phải kể đến những cơn khát

của người lính – những cơn khát cháy họng, khát đến “khô cả giọt máu hồng”

(Tà Sanh):

“Đánh tan trận phản kích thứ sáu trong ngày

Chúng tôi điểm mặt nhau

Những khuôn mặt quánh mồ hôi, thuốc súng, đất chiến

hào

30

Nước trong bi - đông thủng

Không còn đủ ngụm

Cho đồng chí bị thương.

Cơn khát tưởng chừng đã quên

Bỗng kéo về bỏng rát”

(Một ngày giữ chốt)

Sau trận “phản kích thứ sáu trong ngày”, những người lính tưởng

chừng có thể quên đi cơn khát, nhưng khí hậu khô khốc của nắng gió Trung

Lào tưởng như vắt kiệt nốt chút sức lực còn lại của họ. Những ai đã từng đi

qua nơi đây, những ai đã từng ngủ trưa ở Phú Lợi mới hiểu thế nào là nắng, là

gió:

“Không mây

Không gió

Bầu trời

Treo

Mặt trời – quả lửa

Không cây

Không ngọn cỏ

Đất hút tầm

Cát nỏ

Rang

Nhà tôn

Mái tôn

Vách tôn

Những người lính cởi trần

Nằm ngủ”.

31

(Trƣa Phú Lợi)

Có thể thấy nắng nóng đã trở thành một nỗi kinh hoàng, trở thành một nỗi ám

ảnh khôn khuây. Những đợt hành quân trong mùa khô, những đợt hành quân

trong nắng hạn, chứng kiến điều đó mới thấu hiểu những hy sinh, những gian

khổ chịu đựng của người lính thật sự phi thường, mới thấy được lòng dũng

cảm, ý chí kiên cường và lý tưởng cách mạng sáng ngời trong tim họ:

“Mùa khô khắc nghiệt Trung Lào

Rừng le như rạ ai cào ai phơi

Cây cà – boong cạn nhựa rồi đứng trơ

Ve gầy kêu xác rừng thưa

Tiếng chim Pơ – tốc nhớ mưa gọi khàn

.....

Lại rừng khộp, lại rừng le

Ngàn cây không chiếc lá che mái đầu

Chúng mình nghiêng bóng che nhau

Đi qua khắc nghiệt của Trung Lào mùa khô”

(Đi dọc mùa khô)

Vương Trọng không trốn tránh thực tế khi viết về những gian lao, vất

vả của đội quân tình nguyện ở Sư đoàn 330. “Tà Sanh” là bài thơ tái hiện

một cách chân thực nhất những khốc liệt của chiến tranh, của quân thù và của

cả thiên nhiên. Lời thơ giản dị, chân tình. Từng lời, từng lời là trải nghiệm của

chính ông .

Bài thơ này ra đời khi đất nước ta đã giành được độc lập, thống nhất,

chỉ còn một bộ phận quân tình nguyện còn đang làm nghĩa vụ quốc tế tại

nước bạn Lào. Ông viết về họ với một thái độ ngợi ca, viết về những hy sinh

gian khổ để cảm thấy và thấu hiểu, để trân trọng hơn những người lính dũng

cảm, kiên trung. Khác với những dòng thơ đánh Mỹ , âm hưởng chủ đạo là

32

âm hưởng lạc quan chiến thắng, không khí hừng hực sức sống của những mùa

ra trận – mùa vui bao trùm toàn bộ giọng điệu chung của thơ ca giai đoạn này

thì “Tà Sanh” là những gì nhọc nhằn, vất vả nhất. Ở “Tà Sanh”, người đọc

được chứng kiến địa bàn chiến đấu của bộ đội ta bên nước bạn thật lắm khó

khăn, nhiều trở ngại, nhất là thiên nhiên – những khu rừng mùa khô rụng hết

lá, trơ cành, những con voi già trụi lông sốt rung rừng, những dòng suối khô

cạn nước, mọi vật đứng trên cái ngưỡng chết chóc, tử khí bao trùm không

gian:

“Con voi rừng trụi lông

Sốt rung rừng lá mùa khô rơi rụng

Khe lá mục cạn dòng nước uống

Con nai khát ăn nhầm lá độc

Chết vắt ngang thân mục gỗ chắn đường

Cánh kền kền – từng mảng trời – rơi xuống

Xé nhau xác chết, thét vang rừng

Con voi già trụi lông

Quay đầu về Bát đom bong”

(Tà Sanh)

Mùa khô ở Trung Lào, sáu tháng không có một giọt mưa, bầu trời lúc

nào cũng xanh ngăn ngắt, nắng nóng chang chang khô như rang, vạn vật héo

úa, cây cối chết chóc, trụi lá khô cằn, con người cũng kiệt sức vì mất nước:

“Bạn tôi nằm héo khô trên mặt đất

Đất đồi khô, khô cả giọt máu hồng”

(Tà Sanh)

Những cơn khát khô môi, khát đến khi không nói được, muốn nói phải

nguệch ngoạc viết lên mặt hầm, những cơn khát “đến khi không đi được, nằm

nhìn trời mà tưởng nhớ dòng sông”. Sự thật là trong cuộc chiến đấu giữa

33

rừng Tà Sanh, nhiều người lính đã ngã xuống, không phải vì bom đạn, kẻ thù

mà bởi cái khắc nghiệt, nghiệt ngã của khí hậu khô cằn. Sống trong hoàn cảnh

ấy, họ có những ước mơ thật bình dị, nhưng nghĩ mà xót xa mà ám ảnh:

“Ước một cây chuối rừng

Bập răng vào nhai cho thỏa thích

Nhắc khế chua miệng không sinh nước bọt

Mắt nhìn trời cầu mong một cơn mưa”

( Tà Sanh)

Nhưng mưa chỉ nằm trong chiêm bao, mưa chỉ nằm trong cổ tích, còn những

người lính vẫn khát khô cả hồng cầu. Ngòi bút của Vương Trọng chân thực.

Ông không ngại phơi bày sự thật. Cái sự thật mà mỗi khi nghĩ tới chỉ thấy xót

lòng.

“Tà Sanh” còn ám ảnh Vương Trọng bởi những cơn sốt rét rừng. Đây

là nơi “Tàn quân Pôn Pốt đến / lẩn quất cùng vi trùng sốt rét/ cùng muỗi vằn

Anôphen/ cùng lạnh nước đen ngòm lá độ/. Lũ giết người bằng búa bằng dao/

lũ giết người bằng gặm nhấm hồng cầu/ kết bạn”. Hình ảnh những người lính

sống, chiến đấu trong khu rừng rậm rạp, nơi những đàn muỗi vằn Anôphen

hoành hành, thì việc họ bị những cơn sốt rét rừng hành hạ đã trở nên quen

thuộc.

“Và người ơi, cơn sốt rừng nhớ lấy

Hai mươi tuổi bạn tôi chống gậy

Chỉ còn hơn một triệu hồng cầu

...

Người Pa-lin đi dân công hỏa tuyến

Vài tuần thôi về sốt trọc đầu”

34

(Tà Sanh)

Quen thuộc mà vẫn quá xót xa khi những người lính mới hai mươi tuổi, cái

tuổi sinh lực cường tráng nhất đã phải chống gậy bởi “chỉ còn hơn một triệu

hồng cầu”. Biết là nguy hiểm, biết là gian khó nhưng làm sao tránh nổi.

Nhưng người lính trong thơ Vương Trọng không vì vậy mà bi lụy mà nhụt

chí, thối lui. Họ vẫn sẵn sàng đi, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng chiến đấu, vì bản

thân họ mang sẵn lý tưởng cách mạng cao đẹp, bởi họ hiểu và nhận lãnh sứ

mệnh thiêng liêng mà dân tộc giao phó. Họ đi vì nghĩa lớn.

Hình ảnh người lính còn ám ảnh trong thơ Vương Trọng bởi những cơn

đói, những cơn đói quay , đói quắt.

“Suốt ngày gạo sống không kịp bốc ăn

Giặc tan rồi mới hay mình đang đói

Túi gạo sấy trúng đạn nhiều lần vung vãi

Tay đói run nhặt gạo lẫn đất hầm

Tay lấm lem đầu súng và thuốc đạn

Gạo nhặt rồi rơi xuống bàn chân...”

(Tà Sanh)

Những câu thơ chân thật giống như một thước phim dựng lại những năm

tháng oai hùng mà gian khổ. Những câu thơ nghẹn ngào xót thương. Những

câu thơ ấy làm sáng lên một sự thật không thể phủ nhận: Những người lính

Việt Nam, những người lính trong đội quân của “Con hổ xám miền Tây” – Sư

đoàn 330 là hình tượng vĩ đại cho tinh thần đoàn kết quốc tế, sẵn sàng xả thân

vì hòa bình thế giới của dân tộc ta.

Chiến tranh không chỉ được Vương Trọng nhìn bằng đôi mắt lạc quan,

bằng niềm vui hân hoan trong ngày chiến thắng của cậu bé ngồi trên vai cha

nhìn thằng Mỹ cuối cùng cút khỏi miền Bắc , chiến tranh trong trái tim đa

35

cảm nhiều nỗi đau ấy luôn khắc khoải những vết thương khó lành

Vương Trọng không né tránh khi viết về sự hy sinh của người lính. Với

ông, bao nhiêu con người đã ngã xuống, bao máu xương đã đổ. Mỗi tấc đất

đều trộn máu cha anh, mỗi tấc đất là niềm đau nhức nhối. Vọng từ thẳm sâu,

tiếng đất hay tiếng người nghẹn ngào thổn thức

“Vết thương chảy máu bây giờ còn đau

Người ơi, đừng để mai sau

Nỗi đau mặt đất xoáy sâu lòng người”

(Tiếng đất)

“Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn”, nhà thơ bồi hồi xúc động lắng

nghe lời thông hát ru, dòng sông vỗ về để nỗi đau dịu lại giữa vùng đất thiêng

liêng, mỗi bước chân đi phải thật nhẹ vì sợ làm đau thêm người nằm dưới mộ.

“Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn

Nơi gặp gỡ những người con

Thời gian không thêm tuổi

Nơi chiến trường và hậu phương xích lại

Tên liền dòng trên bia đá xanh

Cách nhau nửa quãng đời tuổi trẻ”.

( Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn)

Ngàn vạn tấm bia mộ được dựng lên ghi tên ngàn vạn con người đã ngã

xuống để “những nhịp cầu, con đò cho cuộc sống đi qua”, đó cũng là bấy

nhiêu tội ác của kẻ thù, là bấy nhiêu tình yêu thương, tự hào của nhân dân cả

nước, nhưng đó cũng là niềm đau của những người còn đang sống. Xúc động

ngậm ngùi, nhà thơ chỉ còn biết cúi đầu trước mỗi dòng tên:

“Không đủ vạn bông hoa

Cắm lên mộ từng người đồng chí

36

Tôi bước nhẹ bằng đôi chân chiến sĩ

Đến cúi đầu trước mỗi dòng tên”.

(Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn)

Nằm chung trong dòng cảm xúc về những đau thương, những hy sinh

mất mát, Vương Trọng không chạy trốn thực tế, cũng không tô hồng cho sự ra

đi của các anh thêm lý tưởng như thơ văn chống Pháp. Nhà thơ chân tình giản

dị khi viết vế sự ra đi của đồng đội:

“Vải bạt dần dần khuất

Thôi xa rồi anh ơi

Tình thương chìm vào đất

Theo dòng nước mắt rơi”

(Nấm mộ đắp bằng)

Không khí lặng yên chỉ nghe dòng nước mắt lặng lẽ lăn còn niềm đau thì nén

lại, lắng vào sâu thẳm trái tim người còn sống.

Viết về chiến tranh, viết về người lính là một mảng thơ xúc động và

chân thực của nhà thơ Vương Trọng. Có lẽ bởi ông là người trong cuộc.

Chứng kiến và cùng đồng đội trải qua những giây phút khó khăn, hiểm nghèo

nhất, Vương Trọng vì thế mà thấu hiểu mọi gian khổ của người lính, mọi hy

sinh, mất mát của họ. Ông đã viết về họ bằng một thái độ tự hào, trân trọng,

với một tấm lòng thành kính biết ơn; với một trái tim đồng cảm xót thương;

một đôi mắt tin yêu, ngưỡng vọng. “Bằng mảng thơ này, Vương Trọng đã hòa

mình vào đội ngũ của những nhà thơ khoác áo lính”(Trần Đăng Khoa).

1.2.2. Cảm hứng về người vợ, người mẹ

Theo Vương Trọng “xung quanh chúng ta, dấu ấn chiến tranh để lại

mọi nơi, nhìn về phía nào cũng gặp. Đó là đường hằn trên vầng trán của cha,

nếp nhăn trước tuổi ở cuối đuôi mắt của chị và của bà mẹ hàng xóm sống côi

cút một mình vì đứa con duy nhất đã hy sinh thời chống Mỹ”. Ở thơ mình,

37

ông đã dành một phần không nhỏ để viết về họ, những người phụ nữ đã âm

thầm hy sinh chốn hậu phương, để chồng để con ra trận. Những người phụ nữ

ấy vẫn lặng lẽ vào ra với ngổn ngang tâm sự đâu dễ tỏ bày.

Trong thơ ca Việt Nam, người đọc đã quen thuộc với sự xuất hiện của

những người phụ nữ. Đây là một đề tài truyền thống của thơ ca dân tộc ta.

Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau, hình ảnh người phụ nữ cũng được nhìn

nhận, đánh giá ở một góc độ khác nhau. Trong thơ văn trung đại, người phụ

nữ đã khẳng định được vẻ đẹp tài hoa, đức hạnh của mình nhưng nhìn chung

họ đều có chung số phận bất hạnh (Thúy Kiều, Vũ Nương,...). Giai đoạn

chống Pháp, vị trí của người phụ nữ đã đổi thay. Họ mang tâm hồn, tầm vóc

mới: đảm đang việc nước, nghèo nhưng giàu lòng thương con, thương bộ đội

như con mình, ân cần chăm lo chu tất. Các bài thơ Phá đƣờng, Bà bủ, Bầm

ơi (Tố Hữu), Ngƣời đàn bà Ninh Thuận, Bà mẹ canh biển (Tế Hanh), Cắn

răng (Phạm Hổ), Kể chuyện Vũ Lăng (Anh Thơ), Thăm lúa (Trần Hữu

Thung), Mẹ(Nguyễn Bính), Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (Chế Lan

Viên)....tất cả đều nhìn nhận người phụ nữ dưới một ánh sáng mới. “Tất cả

đều chan hòa trong một cảm xúc chung gắn bó với anh bộ đội, hình ảnh cuộc

kháng chiến gian khổ, anh hùng”(22) Đến giai đoạn chống Mỹ, hình ảnh

người mẹ gắn liền với hình tượng Tổ quốc – mẹ Việt Nam anh hùng là biểu

tượng vĩ đại nhất về sự hy sinh âm thầm mà cao cả.

Viết về người mẹ trong chiến tranh đã nhiều, Vương Trọng cũng góp

thêm tiếng thơ để hoàn thiện bức tranh chung về người mẹ anh hùng. Số

lượng thơ viết về người mẹ trong chiến tranh ở thơ Vương Trọng không nhiều

nhưng đủ để người đọc hiểu được tấm lòng yêu thương, trân trọng và tình

cảm sâu nặng của nhà thơ với những người mẹ. Thơ của Vương Trọng viết về

mẹ dung dị, đôn hậu và gần gũi: Đó là người mẹ đồng chiêm (Mẹ đồng

chiêm), người mẹ vùng cao (Mẹ Bắc Kạn), người mẹ Miền Nam(Bóng dừa,

38

bóng má)...và dù mỗi người mẹ ở một vùng miền khác nhau nhưng họ đều

mang trong mình vẻ đẹp của những người mẹ Việt Nam: giàu lòng nhân đạo,

giàu đức hy sinh, hết lòng vì chồng con, vì đất nước.

Cũng giống như bao bà mẹ khác, người mẹ trong thơ Vương Trọng là

hình ảnh gắn liền với quê hương, với làng quê thân thuộc, nơi nhà thơ đã lớn

khôn. Với ông, người mẹ giữ một vị trí vô cùng thiêng liêng trong suốt cả

cuộc đời, nhất là những năm đánh Mỹ. Hình bóng người mẹ luôn theo sát

bước chân hành quân của ông, giữ vững niềm tin cho ông suốt những năm dài

chiến đấu gian khổ:

“Con đến đâu cũng có bát cơm đầy

Bát cơm nào cũng gợi về nơi mẹ

Hạt thóc quê mình ngàn năm vẫn trẻ

Đủ sức theo con hết cuộc trường kỳ”

(Mẹ đồng chiêm)

Bát cơm ông ăn suốt cuộc hành trình luôn gợi nhắc về hình bóng mẹ, lam lũ,

nhọc nhằn, vật lộn với đồng sâu:

“Một ngày mẹ vật lộn với đồng sâu

Cắm cây mạ mấy lần, mấy lần cằm chạm sóng

Chân ngập trong bùn, lưng còng trong nắng

Mẹ trở về chạng vạng dáng đi”

(Mẹ đồng chiêm)

Người mẹ Việt Nam muôn đời vẫn tần tảo, chịu thương, chịu khó như thế,

vẫn hai sương một nắng “Chân ngập trong bùn, lưng còng trong nắng”. Thời

gian và khó nhọc khắc hình lên trong “chạng vạng dáng đi”. Nhưng thời gian

khó nhọc chẳng thể nào khuất phục nổi ý chí kiên cường của mẹ. Trong

những năm dài đánh Mỹ, mẹ luôn là hậu phương vững chắc cho con, cho

39

đồng đội của con. Mỗi hạt gạo, mỗi bát cơm thơm thảo mẹ gửi ra chiến

trường đều thấm giọt mồ hôi của mẹ, đều thấm tình yêu thương và niềm hy

vọng của mẹ suốt một đời lam lũ , chắt chiu:

“Hạt gạo dài nâu đỏ khó quên

Bông lúa chín hai phần ngập nước

Mẹ gặt lên mẹ ôm vào ngực

Ngực mẹ ướt đẫm cho hạt thóc khô”

(Mẹ đồng chiêm)

Với Vương Trọng và những người đồng đội, hình ảnh mẹ đã trở thành sức

mạnh cho mỗi cuộc hành quân. Ông không khắc họa nhiều, những vần thơ

chân thực và giản dị tự nó nói lên tất cả. Những “bùn quánh khô rơi dần bước

mỏi”, những “móng thâm đen một thời lam lũ, mùa gặt rồi sắc bùn ấy chưa

phai” đã trở thành những hình ảnh thiêng liêng khắc sâu vào tâm trí nhà thơ.

Người mẹ đồng chiêm nghèo, lam lũ hiện lên trong thơ Vương Trọng như

một biểu tượng bao đời của người phụ nữ Việt Nam: khó nhọc mà anh dũng

kiên cường. Với tình cảm yêu kính, với thái độ biết ơn sâu nặng, Vương

Trọng thấu hiểu những nỗi niềm sâu kín của mẹ:

“Mẹ từ đồng chiêm

Lặn lội thân cò

Con hiểu được bao điều xưa mẹ giấu

Sau lưng mẹ mặt đồng cơn gió đảo

Con nghe ra tiếng sóng gọi tên mình”

Trên dọc đường hành quân, những người lính Trường Sơn đã gặp biết

“bao bà mẹ đã từ tâm làm mẹ / nuôi giấu con như đẻ con ra”, những bà mẹ

với tình yêu thương bao la trời bể ấy đã dành nhà mình làm nơi nuôi giấu cán

bộ, chở che bộ đội. “Mẹ Bắc Kạn” là một người mẹ như thế. Dù mẹ nghèo

nhưng vòng tay luôn giang rộng, che chở cho cán bộ. Nhà mẹ trở thành nơi

40

dừng chân tin cậy của những người lính mãi mãi:

Mẹ thức dậy lần ra mở cửa

Tiếng bi đông khô khốc nhói vào tim

Mẹ nhóm lửa: “Thương quá chừng bộ đội,

Út dậy con, ra gọi anh em”.

Từ bữa đó, nấu nước chè mẹ đợi

Con mắt đêm – nhà mẹ ngọn đèn.

(Mẹ Bắc Kạn)

Dung dị và đôn hậu, người mẹ Bắc Kạn cũng đã hiến dâng cho đất nước

những đứa con yêu quý:

Con mẹ

Mẹ gửi đi mỗi đứa một vùng

Đất nước”

(Mẹ Bắc Kạn)

Và bao nỗi bồn chồn mỗi lúc nghe bom giặc nổ:

“Đã một thời

Bom giặc nổ nơi nào cũng dội vào lòng mẹ

(Mẹ đồng chiêm)

Mẹ vui mừng trước tin Sài Gòn giải phóng, mẹ nuôi bộ đội với một tình yêu

chân thành, mộc mạc:

“Chúng con nghỉ trong chở che mái lá

Sáng ra đi, mẹ tiễn ướt mắt nhìn

Bao người lính mang tình thương của mẹ

Suốt những ngày phía Bắc chẳng bình yên”

(Bóng dừa, bóng má)

Đoạn thơ xúc động bởi nó chứa đựng tình cảm yêu thương trìu mến bao la

41

của mẹ dành cho bộ đội, tình thương ấy sẽ theo các anh đi suốt tháng năm dài.

Có thể thấy, hình ảnh người mẹ trong thơ Vương Trọng mang đầy đủ

nét đẹp lớn lao, vĩ đại của những người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là nét đẹp

bình dị, mộc mạc nhưng có sức cảm hóa và động viên cổ vũ lớn lao. Những

người mẹ ấy là hậu phương vững chắc giúp các anh yên lòng đi vào trận đánh.

Vương Trọng đã viết về họ với một thái độ yêu thương, trân trọng và biết ơn

sâu nặng.

Viết về người vợ, người mẹ trong chiến tranh nhà thơ đặc biệt xoáy sâu

vào những mất mát, những hy sinh, miêu tả nỗi đau của người chiến thắng.

Đã qua rồi “những năm cả đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn

mặt”(Chế Lan Viên), lối tư duy dựa trên nền tảng cảm xúc cộng đồng chi phối

toàn bộ sáng tạo của nhà thơ: “những câu thơ viết ở kinh tuyến này lại vang

động trào sôi ở kinh tuyến khác”, khi viết về những người vợ, người mẹ,

Vương Trọng đã có một độ lùi thời gian cần thiết để nhìn nhận đánh giá một

cách khách quan, đầy đủ những mất mát hy sinh của người phụ nữ suốt cuộc

trường kì kháng chiến. Những thiệt hại, mất mát do chiến tranh gây ra không

thể đo đếm bằng những số liệu cụ thể bởi mất mát của chiến tranh không phải

chỉ có những con người đã ngã xuống, những làng mạc đã bị phá hủy, những

thành phố bị thiêu rụi, những gia đình li tán,...chiến tranh còn hằn sâu những

vết thương khó lành trong tâm hồn những người còn sống, những mẹ, những

chị ở chốn hậu phương. Người phụ nữ trong thơ Vương Trọng không giấu nổi

những khát thèm hạnh phúc rất đời trong mỏi mòn đợi chờ vô vọng vào sự trở

về của chồng, của người yêu:

“Hẹn một lần chờ đợi mấy ngàn ngày

Anh đi biệt phương trời không trở lại

Căn nhà rộng ngày lẻ loi mình chị

Đêm thắp đèn cho bóng nữa thành đôi”

42

(Chị)

Trong thơ Vương Trọng, người đọc tìm nhận ra nguyên nhân của nỗi cô đơn,

của nỗi buồn thẳm sâu trong đôi mắt “chị”. Đó là sự lỗi hẹn, lỗi hẹn có khi là

cả một đời của những người đàn ông chỉ biết ngày ra đi mà không rõ ngày trở

lại. Đất nước ta đã trải qua bao năm chiến tranh bom đạn, có bao nhiêu người

lính giã từ làng mạc, quê hương, giã từ mẹ, vợ, người yêu lên đường ra trận là

có bấy nhiêu người phụ nữ mỏi mòn đợi trông. Trước đây, vì nhiều lí do, hình

tượng người lính là hình tượng trung tâm của văn thơ, người ta quên hoặc

không dám viết về những mất mát, thiệt thòi, hy sinh của người phụ nữ,

nhưng khi bom đạn chiến tranh dần tắt, văn học đã trở về với đích đến của

mình là “lẽ đời, chuyện sống, lòng yêu”(Xuân Diệu), thẳng thắn nhìn nhận và

phản ánh những góc khuất tâm hồn, những nỗi niềm đâu dễ tỏ bày, sự cô đơn,

trống trải, hụt hẫng chơi vơi đến vô cùng:

“Căn nhà rộng ngày lẻ loi mình chị

Đêm thắp đèn cho bóng nữa thành đôi”

(Chị)

Phải là người đã đi tận cùng của nỗi buồn, nỗi cô đơn mới có thể viết được

những câu thơ như thế. Ở đây, Vương Trọng không ghi lại những nỗi niềm

một cách trực tiếp, ông cứ lặng lẽ ghi lại các hành động của chị. Nghe tiếng

“ cơm canh, bếp núc, xoong nồi”, tiếng trẻ hàng xóm ồn ào đùa nghịch, chị

khát thèm một “tiếng bát đũa va nhau”, một mình lẻ loi trong căn nhà vắng

suốt đêm dài dằng dặc, chị khao khát đợi chờ một chút “nắng niềm tháng

Chạp”, một chút hơi ấm đêm đông. Nỗi cô đơn dường như đẩy lên tận cùng

của vô vọng khi bao người ra đi giờ đây đã trở về, còn chị vẫn chẳng được

làm người đón đợi. Người phụ nữ ấy hiện lên trong thơ cứ âm thầm, lặng lẽ

lầm lũi vào ra với những ngổn ngang tâm sự, những tâm sự chưa một lần

được sẻ chia, vẫn phong kín, thẳm sâu trong tâm can chị, gặm nhấm chị mỏi

43

mòn. Hiểu nỗi niềm của người phụ nữ, Vương Trọng ước ao:

“Có cách gì cắt ngắn được thời gian

Gói cất kỹ hai mươi năm chờ đợi

Để chị được trở về mười tám tuổi

Để trai làng có nơi hẹn mùa xuân?”

(Chị)

Đó là một ước ao nhân văn và cao đẹp không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là

của các chị . Nhưng những ước ao chẳng bao giờ có thể thực hiện được, bởi

“các chị đã chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”(Hữu Thỉnh). Các anh đã

hy sinh cả tuổi xuân cho đất nước, còn các chị đã hy sinh cả tuổi xuân, cả tình

yêu, hạnh phúc, cả khao khát, mong đợi mỏi mòn:

“Làm sao được gặp chị ơi

Ba mười cô gái của thời chiến tranh

Người thì con đã trưởng thành

Người thì lỡ bước chưa đành sang ngang?”

(Giá nhƣ ngày ấy)

Những người phụ nữ trong chiến tranh đâu chỉ có ba mười người mà còn

nhiều gấp vạn ngàn lần hơn thế nhưng họ đều có chung một số phận, có

chung một nỗi niềm.

Bên cạnh những dòng thơ viết về nỗi đau dai dẳng trong tâm hồn của

những người phụ nữ ở hậu phương, Vương Trọng đã viết nhiều bài thơ ngợi

ca những cô gái xung phong anh hùng gan dạ, hy sinh cả tuổi thanh xuân đẹp

nhất của đời người để lấp đầy những hố bom cho đoàn xe ra trận, đảm bảo

thông suốt các tuyến đường. Đó là ba mươi cô gái trong trung đội dân quân

thị trấn Đô Lương (Giá nhƣ ngày ấy), là mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc

(Lời thỉnh cầu), trong ngày hy sinh, tóc tai bê bết đất vẫn thèm một nhánh

quả bồ kết gội đầu , ước muốn giản dị đời thường nhưng khơi gợi biết bao nỗi

44

xót xa, thương cảm. Họ đều là những cô gái “chưa có chồng và chưa ngỏ lời

yêu”, những cô gái vẫn còn nguyên vẹn vẻ đẹp hồn nhiên, trong trẻo của tuổi

xuân thì .“Hai tám năm trôi qua chúng tôi không thêm một tuổi mới nào”

nhưng thân xác đã tan vào trong đất vì độc lập của Tổ quốc. Hình ảnh người

phụ nữ trong thơ Vương Trọng vì thế không chỉ hiện lên với những mất mát

và nỗi đau tâm hồn dai dẳng mà ông đã ghi nhận, tôn vinh và ngợi ca sự hy

sinh cao cả, anh dũng của họ.

Hình ảnh người phụ nữ ngóng trông đợi chờ con đã được nhà thơ hình

tượng hóa trong hình ảnh hòn Vọng Phu ôm con đợi chồng quen thuộc trong

huyền thoại:

“Đi một lần không về

Đợi ngàn năm hóa đá

Thương thân dựng trời quê

Nhớ xương vùi đất lạ”

(Vọng Phu)

Niềm tin sắt đá của những người vợ, người mẹ, những người phụ nữ đã làm

nên một phần linh hồn cho đất nước. Vương Trọng nhận ra ý nghĩa lớn lao

diệu kì ấy trong hình tượng hòn Vọng Phu. Với một cái nhìn nhân văn, một

ước mong giản dị, Vương Trọng khao khát “có một mùa xuân”, trên đất

nước này sẽ không còn những nàng Vọng Phu đứng ngóng chồng, không còn

những nàng Vọng Phu trong giá rét căm căm “hóa đá niềm tin” nữa:

“Có một mùa xuân

Tô Thị thôi nhìn trời đăm đăm

Nàng cúi nhìn con rồi trông về làng cũ”

(Có một mùa xuân)

Ở bài thơ này, người đọc gặp một suy nghĩ mới lạ, mạnh bạo và cũng đầy

nhân văn của nhà thơ Vương Trọng. Đợi chờ, ngóng trông những người đàn

45

ông trong chiến tranh thật vô vọng, dẫu ai cũng mong muốn họ sẽ trở về,

nhưng ông mong ước một ngày nào đó, họ dám nhìn thẳng vào sự khốc liệt và

tàn nhẫn của chiến tranh, dám đối diện với những sự thật đau lòng để gây

dựng lại cuộc sống, để làm hồi sinh những mảnh đất cỗi cằn vì bom đạn quân

thù.

“Người ta thương không thể trở về

Chẳng ai hiểu bằng ta điều đó

Chẳng ai hiểu bằng ta nỗi khổ

Của người vợ chờ chồng

Ta hóa đá triệu lần nỗi đợi

Để người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ mong”

(Trò chuyện với nàng Vọng Phu)

“Nàng Vọng Phu” trong thơ Vương Trọng muốn “hóa đá niềm tin” và “thời

gian chờ đợi”, “hóa đã triệu lần nỗi đợi” hay cũng chính là những nghĩ suy

của riêng tác giả. Thấu hiểu và cảm thương, đồng cảm và xót xa, ông mong

muốn được “gánh” cả “triệu lần nỗi đợi”, gánh nỗi đau âm thầm, gánh cả

những thiệt thòi, hy sinh mất mát để “những người vợ muôn đời thoát khỏi

cảnh chờ mong”. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn sâu sắc trong thơ

Vương Trọng.

Cảm hứng về con người trong chiến tranh và thời kì hậu chiến tranh

trong thơ Vương Trọng bộc lộ khá rõ những trang viết về người lính và bức

tranh tâm hồn của người phụ nữ. Những trang viết này ra đời, “xây dựng và

phát triển trên nền tảng ý thức cộng đồng. Cảm hứng chủ đạo của nền văn

học này là chủ nghĩa yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, lý tưởng xã hội chủ

nghĩa”(23) ,nhưng trong thơ Vương Trọng , chúng ta thấy “sự thức tỉnh trở

lại ý thức cá nhân” (23) khi ông bắt đầu mở rộng đề tài và chủ đề mới làm

thay đổi những quan niệm về con người dựa trên tư tưởng nhân bản , đó là

46

chủ đề về người phụ nữ. Chính ở mảng đề tài này, tuy không nhiều lắm

nhưng thực sự đã giúp người đọc có được một cái nhìn toàn diện, đầy đủ và

sâu sắc hơn về sự thật chiến tranh và những hy sinh, mất mát, những nỗi đau

của người chiến thắng. Nét khác biệt đó dẫu chưa thật rõ nét nhưng giúp

người đọc yêu mến thêm những vần thơ Vương Trọng vì giá trị nhân văn cao

47

đẹp mà ông luôn hướng tới.

Chƣơng 2: VƢƠNG TRỌNG – NHÀ THƠ THẾ SỰ.

2.1. Chuyển biến trong thơ Vƣơng Trọng thời kỳ đổi mới

Sau chiÕn tranh, V ¬ng Träng më réng th¬ m×nh sang nhiÒu ®Ò tµi

kh¸c. Anh viÕt vÒ nh÷ng con ng êi b×nh th êng trong cuéc sèng ®êi th êng

mµ hÇu hÕt lµ nh÷ng con ngu êi nhá bÐ, v« danh trong ®ã cã kh«ng Ýt sè phËn

ta b¾t gÆp råi bá qua nh ng V ¬ng Träng th× dõng l¹i. H×nh nh ®©y míi lµ xø

së ®Ých thùc cña th¬ anh. M·i ®Õn nh÷ng n¨m gÇn ®©y, nhµ th¬ míi ph¸t hiÖn ra

má quÆng ®Ých thùc cña th¬ m×nh. Th¬ v ¬ng Träng lµ th¬ thÕ sù. §ãng gãp cña

th¬ anh cho nÒn th¬ hiÖn ®¹i chÝnh lµ ë m¶ng th¬ nµy. (37)

LÞch sö b íc sang mét trang míi, ®Êt n íc vµ con ng êi còng b¾t ®Çu

vµo c«ng cuéc håi sinh, th¬ v¨n ® îc më réng h¬n ph¹m vi vïng vÉy. NhiÒu

nhµ th¬ h íng ngßi bót ca ngîi c«ng cuéc x©y dùng vµ b¶o vÖ ®Êt n íc trong

thêi ®¹i míi, nh ng nhiÒu nhµ th¬ l¹i dõng l¹i ë sè phËn cña c¸ nh©n con ng êi

trong cuéc sèng ®êi th êng. Th¬ ca ®· trë thµnh tiÕng nãi c¶m th«ng vµ n©ng

®ì con ng êi ®Õn ch©n - thiÖn - mü. V ¬ng Träng ®· lùa chän cho m×nh lèi ®i

®Ó trë vÒ víi c¸i cuèi cïng cña th¬ ca lµ lÏ ®êi, lµ chuyÖn sèng, lßng yªu.

Mét mèc quan träng ®¸nh dÊu sù vËn ®éng chuyÓn biÕn tõ ®Ò tµi ng êi

lÝnh vµ trËn m¹c sang ®Ò tµi thÕ sù lµ bµi th¬ ® îc viÕt ngµy 7- 2- 1982: Bªn

mé cô NguyÔn Du. TiÕp sau ®ã lµ mét lo¹t c¸c bµi th¬ xuÊt s¾c trong ®êi th¬

V ¬ng Träng. §ã lµ nh÷ng bµi viÕt vÒ phô n÷ víi nhiÒu c¶nh ngé, t©m tr¹ng

:Víi ®øa con ngoµi gi¸ thó, Hai chÞ em, Khãc gi÷a chiªm bao, ChÞ d©u …;

«ng còng h íng ngßi bót cña m×nh vÒ phÝa nh÷ng con ng êi nhỏ bÐ, v« danh

trong x· héi víi c¸i nh×n th ¬ng c¶m, xãt xa : §Çu n¨m ng êi Êy, Ng êi mµi

48

dao, Lêi ng êi ®µo huyÖt ë nghÜa trang thµnh phè, Bªn lÒu chî …; nhµ th¬

còng cã nh÷ng ph¸t hiÖn vµ ®¸nh gi¸ míi mÎ, thó vÞ vÒ c¸c nh©n vËt huyÒn

tho¹i trong v¨n häc, nh÷ng nghÖ sÜ tµi hoa, tµi tö mµ sè kiÕp long ®ong :Bªn

mé cô NguyÔn Du, Thóy KiÒu, M« tÝp Thóy V©n, TiÕng s¸o Tr ¬ng Chi, VÒ

th«i nµng Väng Phu, NguyÔn Du, NguyÔn C«ng Trø… V ¬ng Träng kh«ng

quªn dµnh mét phÇn tiÕng th¬ m×nh ®Ó viÕt vÒ nh÷ng ng êi bªn c¹nh, gÇn gòi

víi m×nh, ®ã lµ gia ®×nh vµ b¹n bÌ cña «ng :Hoa hËu cña nhµ, Th¬ vui tÆng

c¸c bµ vî hay ghen, Nãi víi con d©u, Nhí con, ChÞ d©u, Tµo M¹t, Ph¸c

V¨n, Lª Dung…Ở phạm vi đề tài này, chúng tôi khai thác thơ Vương Trọng

trên một số vấn đề sau,cụ thể như sau.

2.2.Kiếp ngƣời nhỏ bé vô danh và những triết lý về số phận con ngƣời.

“Cảm hứng thế sự trở thành cảm hứng lớn của thơ sau 1975. Nó chi

phối cái nhìn của nhà thơ, giúp họ phát hiện ra nhiều vấn đề nhức nhối của

cuộc sống xã hội, đặc biệt là số phận của những người không may mắn”(21).

Thơ ca thời kì này không né tránh thực tế mà đã dám nhìn thẳng vào cuộc

sống, dám nói thẳng nói thật về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều sự thật đau

lòng. Thơ đã quan tâm nhiều hơn đến số phận những kiếp người nhỏ bé, vô

danh trong xã hôi, những số phận bất hạnh nhiều trắc trở, éo le trong cuộc

sống. Hình ảnh những con người bé nhỏ, vô danh xuất hiện nhiều trong thơ

Vương Trọng giai đoạn này đã làm đằm thêm hồn thơ nhân ái, bao dung.

Ngƣời mài dao trong chiều mưa cuối năm giữa ồn ào phố xá là một

hình ảnh đời thường ta có thể bắt gặp trong cuộc sống nhưng mấy ai để ý xuất

hiện trong thơ Vương Trọng như một nỗi ám ảnh. Lời rao nặng nề, trầm đục,

mỏi mệt , vọng lên lạc lõng một nỗi niềm khó tả:

“Một đầu đá, một đầu nước

Gánh không nặng bằng lời rao

Ai mài...dao”

49

( Ngƣời mài dao)

Lời rao nặng nề hơn đôi quang gánh trĩu nặng trên vai. Cách so sánh ví von

tưởng có gì khập khiễng giữa một cái hữu hình (gánh đá nước) với một cái

hữu thanh (lời rao) nhưng chính nghệ thuật so sánh giúp người đọc hữu hình

hóa , cụ thể hóa tiếng rao nặng nhọc, giúp người đọc mường tượng hình ảnh

người đàn ông già nua, đen đúa, cỗi cằn, cần mẫn, quẩy đôi quang gánh lạc

trong phố xá cuối năm ồn ào, tấp nập đông đúc. Có cái gì đó như lủi thủi, lạc

lõng, nhẫn nhục, đơn côi trong cái dáng người tất tả, mệt mỏi , trong lời rao

không át nổi sự ồn ào, nhộn nhịp của dòng đời:

“Phố xá cuối năm ồn ào

Người chen xe

Mấy ai nghe

Lời rao ngập ngừng nhịp thở”

(Ngƣời mài dao)

Sự đối lập giữa cái nhỏ bé, lạc lõng của người mài dao trong khung cảnh

người chen xe của phố phường khiến hình ảnh của ông như bị cuốn trôi vào

quên lãng, như một hạt cát nhỏ giữa dòng đời nhiều bão lốc, phong ba. Người

đàn ông ấy mong muốn một điều thật giản dị nhân văn đến đáng thương:

“Mong Tết

Mọi người giàu sang

Có nhiều thứ để chặt

Để lời ông rao

Khỏi rơi vào hun hút”

(Ngƣời mài dao)

Mong mọi người giàu sang, sung túc, để có nhiều thứ để chặt, để lời rao của

ông đừng rơi vào hun hút, để hình ảnh của ông không rơi vào hư vô để ông có

50

thể sống bằng sức lực của mình, để ông có tiền phục vụ cho nhu cầu cuộc

sống – những ước mong giản dị, nhỏ bé nhưng chứa đựng khát khao sống

mãnh liệt, đáng quý. Đó cũng là không khí và ước mong của người bán muối

trong “Đầu năm, ngƣời ấy”. Người xưa quan niệm “ đầu năm mua muối,

cuối năm mua dầu”, đầu năm mua muối để cầu may, để mong ước một năm

mặn nồng, sung túc. Người bán muối muốn bán được nhiều thì phải tranh thủ

bán lúc giêng hai. “Đầu năm, ngƣời ấy” gợi lại cảm giác lạnh lẽo, đáng

thương của kiếp người nhỏ bé. Ở đó, tác giả vẽ lại không khí vắng vẻ, lạnh

lẽo đầu năm trên phố, chỉ có hình ảnh người bán muối đang còng lưng đẩy xe,

chở muối giữa phố vắng như một dấu chấm hỏi day dứt, khắc khoải:

“Đầu năm người ấy còng lưng

Đẩy xe muối nặng thở từng lời rao”

(Đầu năm , ngƣời ấy)

Những lời rao không thành tiếng nhưng trên cái nền không gian vắng lặng,

lạnh lẽo, nó đủ sức dội vào lòng người, đánh thức trái tim nhân bản trong mỗi

chúng ta với những nghĩ suy, trăn trở về sự bé mọn, đáng thương của kiếp

người.

Người mài dao và người bán muối cũng như bao gánh hàng rong khác,

ta có thể dễ dàng bắt gặp trong cuộc sống đời thường. Có thể đó là một người

bán ve chai, một người thu mua đồng nát, một em bán báo hay một lời rao

bán bánh...những con người lam lũ, khổ cực, nhọc nhằn mưu sinh. Đằng sau

những lời rao, đằng sau những lam lũ nhọc nhằn ấy là những số phận đáng

thương mà chúng ta vì bộn bề cuộc sống có thể dễ dàng bỏ qua nhưng Vương

Trọng dừng lại để quan sát, nghĩ suy để nhận thức ra rằng cuộc đời của con

người ngắn ngủi, nhỏ bé , mỏng manh lắm, vì thế phải biết trân trọng cuộc

sống, biết nâng niu những gì mình có. Điều này được VươngTrọng thể hiện

sâu sắc hơn trong “lời ngƣời đào huyệt ở phía trang thành phố”:

51

“Chôn người như trồng khoai

Đất mềm đào bằng xẻng

Quan tài vừa đặt xuống

Vội vàng vùi đất lên”

( Lời ngƣời đào huyệt ở phía trang thành phố)

Năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác người đào huyệt làm

một công việc quen thuộc đến nhàm chán: Chôn người . Giọng điệu so sánh

ví von “chôn người như trồng khoai” tưởng như lạnh lùng, vô cảm như “cứa

vào lòng ta một nỗi buồn da diết” (34). Cái việc đau đớn nhất, buồn bã nhất

của con người, ấy là giây phút chứng kiến cảnh “sinh ly , tử biệt”, bạn bè,

người thân từ giã cõi đời để về với đất. Dù là người vô tình nhất, trước cái

chết của đồng loại, thường ai cũng không khỏi xót xa. Vậy nhưng , những

người đào huyệt ở đây coi cái chết như một việc bình thường, mỉa mai hơn,

hài hước hơn khi họ coi đó là những vụ lúa, vụ khoai. Tâm hồn họ dường như

đã chai sạn, trái tim và cảm xúc của họ như đã bị trơ lì, họ không còn biết run

rẩy, khóc thương trước sự ra đi vĩnh viễn của người đời:

“Tiếng khóc đã quen rồi

Làm sao còn cảm xúc

Phủi bàn tay lấm đất

Nhấp chén rượu giữa trời”

(Lời ngƣời đào huyệt ở nghĩa trang thành phố)

Những câu thơ lạnh lùng vô cảm, người đào huyệt nói về cái chết, về công

việc đào mộ, chôn người chết nhẹ nhàng, thản nhiên như nói về bao công việc

khác có thể bởi với họ đó cũng là một nghề để mưu sinh. Tuy nhiên, nếu như

chỉ dừng lại ở đấy, những người đào huyệt sẽ thành những cỗ máy vô hồn vô

cảm, những cỗ máy chôn người. Vương Trọng đã nhận ra một điều đằng sau

52

cái thái độ lạnh lùng, cười cợt ấy là nỗi xót xa tận cùng của họ về số phận

mong manh , bé nhỏ và đáng thương của con người. Cuộc đời con người thật

ngắn ngủi và hữu hạn:

“Biết bao nhiêu kiếp người

Xếp hàng trên nghĩa địa

Hoa vàng mau tàn thế

Cỏ trên mồ tươi non”

(Lời ngƣời đào huyệt ở nghĩa trang thành phố)

Vì vậy, đằng sau sự thờ ơ, hời hợt, tưởng như vô cảm đó, Vương Trọng nhận

ra những nỗi buồn sâu thăm thẳm của những người đào huyệt và bao nỗi niềm

nhân tình thế thái của họ.

“Xương cũ chưa lên đồi

Xác cũ đã vùi lấp

Chẳng ai cho thương người

Thì thôi, ta thương đất

Đất như ta tất bật

Mỗi ngày một đen thêm

Thương ai mà khóc đất

Tiếng côn trùng rỉ rên!”

(Lời ngƣời đào huyệt ở nghĩa trang thành phố)

Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi cho rằng bài thơ này“viết một cách thật lạnh lùng,

thật tỉnh táo, lại cười cợt nữa nhưng đó là một bài thơ đi đến tận cùng của

nỗi đau, nỗi hư vô của kiếp người”. “Cái lạnh lùng của bài thơ là cái lạnh

lùng dồn nén. Đó là những giọt nước mắt khóc thầm, những tiếng khóc than”

(32). Như vậy, khi viết về những người vô danh, Vương Trọng không chỉ

viết về số phận đáng thương của họ, quan trọng hơn nữa, nhà thơ đã nghĩ suy

53

và nhận thấy phía sau những số phận cụ thể đó là sự bé nhỏ, mỏng manh của

kiếp người trong cuộc sống, trong sự tuần hoàn của vũ trụ để nâng niu, trân

trọng cuộc sống, đế sống đẹp, sống tốt mỗi ngày. Cũng chính vì những cảm

xúc những suy nghĩ đó mà mỗi con người , mỗi hoàn cảnh ông gặp trong cuộc

sống đều khơi gợi trong ông những nỗi niềm thương xót. Người phụ nữ có

con ngoài giá thú là một người như thế. Từ trước tới nay, những người phụ nữ

không chồng mà chửa luôn luôn phải chịu đựng những thành kiến của dư luận

xã hội. Họ bị dè bỉu, chê bai, lên án, phê phán. Vương Trọng thì khác, bằng

trái tim nhân ái của mình, ông đồng cảm và sẻ chia với người phụ nữ có cuộc

đời éo le và bất hạnh đó:

“Mẹ làm mẹ mà chưa từng làm vợ

Vẫn suất cơm tập thể quá khiêm nhường

Nửa làm máu, nửa chia ra làm sữa

Hạnh phúc nào bằng san sẻ yêu thương”

(Với đứa con ngoài giá thú)

Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương trước đây đã lớn tiếng bênh vực những

người phụ nữ không chồng mà chửa:

“Không chồng mà chửa mới ngoan

Có chồng mà chửa thế gian thường tình”

( Hồ Xuân Hương)

Vương Trọng không lớn tiếng bênh vực, ông chỉ lặng lẽ ghi lại cuộc sống

thường nhật với nỗi đau tái tê của người phụ nữ nhẹ dạ ấy:

“Thôi nhắc chi những năm dài trống trải

Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu

Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải

Pháo cười người như đốt để trêu nhau”

54

(Với đứa con ngoài giá thú)

Nhà thơ như hóa thân vào vai người mẹ để đồng cảm với những đớn đau mà

họ phải gánh chịu, từ đó đánh thức sự đồng cảm và con tim nhân ái của mọi

người: Những người phụ nữ ấy, vì rất nhiều lý do, họ âm thầm chịu đựng nỗi

đau ghẻ lạnh trong niềm hạnh phúc ngọt ngào làm mẹ. Họ đáng thương hơn

là đáng giận, họ đáng được gần gũi, sẻ chia hơn là xa lánh, họ đáng được cảm

thông, được yêu thương hơn là sự xa lánh, dè bỉu của người đời. Những mong

muốn, suy nghĩ nhân văn ấy bắt nguồn từ trái tim bao dung của nhà thơ .Ông

đã nhìn thấy nỗi đau âm thầm, rỉ máu, những vết thương khó lành trong sâu

thẳm tâm hồn họ bằng con mắt đầy nhân ái, bao dung.

“Ngoài giá thú sao ngoài lòng thương cảm

Để người đời ghét bỏ mẹ con tôi”

(Với đứa con ngoài giá thú)

Cũng từ “trái tim lớn đau những nỗi đau của những cuộc đời bất hạnh” ấy,

người đọc như điếng lặng trước tiếng kêu gào tái tê nhói buốt của bà mẹ

nghèo tìm con trong chợ chiều xơ xác.

“ - Con tôi đâu? Con tôi đâu?

Bên lều chợ, người mẹ gào khản hơi

- Trả con tôi! Trả con tôi!

Hỏi ai ngọn gió nói lời hư vô”

(Bên lều chợ)

Trong cuộc sống đã có bao nhiêu trường hợp như thế. Những người phụ nữ vì

quá đói nghèo, không đủ khả năng nuôi thân, không thể nuôi con nên đành

dứt ruột để con ngoài chợ “nhờ người cưu mang”. Họ không phải là những

người vô tình, họ không phải là những người nhẫn tâm đến thế!Cảnh đời họ là

cảnh đời bao người phụ nữ trong thời đói kém mất mùa. Nhà thơ viết lên thực

tế đó để người đọc hiểu hơn một giai đọan gian lao của con người và đất

55

nước. Suốt từ đầu đến cuối bài thơ, người mẹ bị giày vò bởi mặc cảm tội lỗi

bỏ rơi con. Tiếng kêu gào thảm thiết cắt cứa tâm hồn mẹ, cắt cứa trái tim mẹ,

cắt cứa trái tim người.

“Chợ phiên tan từ bao giờ

Chỉ còn nắng với xác xơ quán lều

Chỉ còn rách rưới mẹ nghèo

Gọi con tê tái cả chiều trung du”

(Bên lều chợ)

Tấm lòng người mẹ tê tái hay cũng chính là tâm hồn nhà thơ đang tê tái, nhói

đau? Điều đó thật khó lí giải bởi ở đây, lời người mẹ và tâm trạng nhà thơ như

lồng vào nhau, “kết lại trong tiếng lòng đồng cảm” (T45, 34).

Nhà thơ Vương Trọng không bao giờ là người đứng ngoài cuộc. Mỗi

nhân vật sự kiện trong thơ ông đều mang một số phận khác nhau, một niềm

đau , một tâm sự, giống như một câu chuyện nhỏ đan chứa cả tâm sự của nhà

thơ về “cuộc đời, con người và số phận”. Hình ảnh của những kiếp người vô

danh trong thơ Vương Trọng vì thế là những điển hình cho cuộc đời chung

của bao kiếp người bất hạnh trong cuộc sống, đồng thời là nơi ông kí thác bao

triết lý về số phận con người.

2.3. Hình ảnh ngƣời thân và bạn bè

Nhà thơ Vũ Quần Phương từng tâm sự: “Thơ Vương Trọng thật lắm!

Ông kể chuyện gia đình ông mà ta muốn thành người tham dự....Cảm động về

tình cảm trân trọng, thành thực và sâu sắc của ông. Chùm thơ tình cảm gia

đình của Vương Trọng thành công từ nguồn gốc ấy”(33) . Gia đình, bạn bè đã

trở thành một phần máu thịt trong thơ Vương Trọng. Ông viết về họ với một

tình cảm trìu mến, yêu thương. Người đầu tiên xuất hiện trong thơ Vương

Trọng với một tình cảm thiêng liêng, quý trọng và đầy xúc động, đó là hình

56

ảnh người mẹ. Nhắc đến mẹ là nhắc đến người gần gũi yêu thương nhất,

người đã đi vào kí ức chúng ta và trở thành một miền đất thiêng nuôi dưỡng

hồn ta từ thuở ấu thơ. Với Vương Trọng, mẹ là nghị lực, niềm tin, là sức

mạnh của nhà thơ suốt cả cuộc đời. Ông đã viết về mẹ với một niềm thành

kính sâu xa:

“ Đã có lần con khóc giữa chiêm bao

Khi hình mẹ hiện về năm khốn khó

Đồng sau lụt, bờ đê sụt lở

Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn”

(Khóc giữa chiêm bao)

Khi người mẹ đã về nơi vĩnh hằng thì giấc chiêm bao và những mảng kí ức

chập chờn thức ngủ chính là nơi hội ngộ của nhà thơ và người mẹ của mình.

Thời gian hồi cố được nhà thơ thể hiện một cách đặc sắc qua giấc chiêm bao.

Vương Trọng có lần tâm sự hình ảnh người mẹ tảo tần, lam lũ đi về trong

“xộc xệch hoàng hôn” đã được ông cất giữ suốt ba mươi năm. Sau ba mươi

năm đó, hình ảnh người mẹ tự trong lòng ông đã biến thành thơ. Và trong lời

thơ của mình, mẹ hiện lên thật chân thực. Đó là những năm không còn nhỏ,

hai anh em thường ra ngồi bậu cửa ngóng mẹ về từ phía chân đê. Vào mùa lũ

lụt, con đê cạnh nhà ông bị đứt gãy thành nhiều mảng, ngồi trong hiên nhà

ông thấy dáng mẹ đi về gập ghềnh trên dải đất mấp mô. Cái dáng bước nhỏ

bé, tảo tần, chợt ẩn chợt hiện cứ nhòa đi trong kí ức nhà thơ - Người mẹ lam

lũ, chịu khó, chịu thương. Nhà thơ Dương Quang Minh khi đọc bài thơ này đã

nhận thấy trong đó có cả quá khứ của mình. Ông xúc động viết: “Cũng như

anh, tôi có người mẹ từng sống những ngày tháng lao đao, nhất là những lúc

mùa màng thất bát sau khi con đê quai Phượng Kỉ, xã Đà Sơn cạnh xã Trung

Sơn của Trọng và xã Tân Sơn của tôi cùng huyện Đô Lương đứt tung do

không chịu nổi sức dồn nén siêu nặng của nước sông Lam từ nguồn đổ về

57

trong mùa lũ. Cảnh tôi đứng ở rìa làng trong gió bấc ngóng mẹ sau những

phiên chợ Đình, chợ Vịnh tàn cuộc có khác gì cảnh anh em Trọng ngồi co ro

bậu cửa đợi mẹ trong hoàng hôn mưa phùn đói rét sau phiên chợ Đóm, chợ

Om” .

Như thế, trong kí ức của nhà thơ Vương Trọng, vùng quê Đô Lương

gắn liền với hình ảnh người mẹ tảo tần chèo chống gia đình qua cơn khốn

khó:

“Anh em con chịu đói suốt ngày tròn

Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa

Có gì nấu đâu mà nhóm lửa

Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về”

(Khóc giữa chiêm bao)

Những câu thơ xúc động tái hiện chân thực quá khứ cơ khổ, bần hàn, cảnh

nheo nhóc của một gia đình đông con khiến người đọc không khỏi rơi nước

mắt. Người mẹ trong thơ ông thật vững chãi. Mẹ trở thành trụ cột, trở thành

sức mạnh giúp ông vượt qua cơn bĩ cực của cuộc đời. Cái dáng người xộc

xệch hoàng hôn nhỏ bé, đáng thương ấy đã trở thành niềm tin, trở thành sức

mạnh và nghị lực cho con suốt tháng năm dài. Không chỉ có vậy, hình ảnh

người mẹ hiện về trong kí ức của ông, trong tiềm thức của ông như là linh hồn

của quê hương, mẹ là quê hương của riêng ông:

“Con lang thang vất vưởng giữa đời thường

Đâu cũng sống, không đâu thành quê được

Còn quê mẹ cuối chân trời tít tắt

Con ít về từ ngày mẹ ra đi”

(Khóc giữa chiêm bao)

Với riêng nhà thơ, dù sống ở đâu cũng không bằng quê mẹ, cũng chỉ là

chốn tha hương bởi ở đó không có mẹ, không có những kí ức ngọt ngào và

58

nhiều nỗi gian lao, không kết nên tình yêu và nghị lực nên mãi mãi chỉ là

chốn tha hương. Vì thế, nhà thơ đã từng ao ước khi chết đi, ông sẽ được trở

lại với làng, trở lại với những con người lam lũ, trở về với “bàn tay lam nham

cua quắp” với “bàn chân khập khiễng bước gai đâm”, trở về với núi Quỳ

Sơn, “đất nồng hơi than cháy” cũng chính là được trở về với mảnh đất chôn

nhau cắt rốn, trở về với nơi ông đã được sinh ra và cũng là sự trở về với mẹ.

Hình ảnh người mẹ vì vậy luôn chiếm giữ vị trí thiêng liêng nhất trong trái

tim ông, trong niềm kính cẩn và yêu thương.

Viết về gia đình, viết về người thân nghĩa là kể chuyện của chính mình,

kể chuyện về những người gần gũi và yêu thương mình, có thể là người mà

mình vừa yêu quý, trân trọng, vừa biết ơn. Vương Trọng đã dành tình cảm

quý trọng và biết ơn như vậy với người chị dâu của mình. Người Việt vốn có

quan niệm “dâu con rể khách”. Tự bao giờ, người chị dâu với vẻ đẹp mộc

mạc, bình dị ấy đã bước vào gia đình Vương Trọng và trở thành một thành

viên không thể thiếu trong gia đình:

“Lớn lên cách mấy bờ rào

Một ngày vui chị bước vào nhà em

Áo cánh nâu, quần lụa đen

Cặp ba lá, đường ngôi nghiêng mái đầu”

(Chị Dâu)

“Một ngày vui”, chị đến và trở thành người chị lớn trong gia đình, đồng thời

trở thành người trụ cột cho gia đình bé nhỏ ấy bởi

“Nhà chồng, chồng ở nhà đâu

Em chồng đông, mẹ chồng đau ốm nhiều

Làm dâu gặp phải cảnh nghèo

Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan”

59

(Chị Dâu)

Nhà thơ hiểu thấu nỗi vất vả của chị dâu mình. Làm thân con gái “như hạt

mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra ngoài đồng” (Ca dao). Người chị dâu đã đến

gia đình như một duyên nợ “làm dâu gặp phải cảnh nghèo”, nhà chồng thì

đông anh đông em, cha chồng mất sớm, mẹ chồng thì đau ốm liên miên, vượt

qua “cú sốc” ban đầu ấy, người chị dâu đã thay chồng cáng đáng, chăm lo

mọi việc của gia đình nhà chồng: chăm sóc mẹ chồng, lo lắng cho đàn em

nheo nhóc mà không một lời ca thán. “Âm thầm một chị qua thời trẻ trung”.

Trong kí ức “đứa trẻ”, Vương Trọng đã khóc vì thương chị, vì lo cho chị, và

trong cái ánh mắt “nhòe sương” ngây thơ ấy không chỉ là lòng yêu quý mà

còn là thái độ biết ơn sâu nặng

“Nghĩ mà thương lắm chị dâu

Chiều mưa gạo hết, mẹ đau cuối giường

Em ngồi đôi mắt nhòe sương

Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi

Chiều ơi mưa mãi làm gì

Hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về”

(Chị dâu)

Chị dâu trong thơ Vương Trọng mang một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc,

chân quê, có đức tính thảo hiền, chịu thương , chịu khó ngàn đời của người

phụ nữ Việt Nam, nhưng được thể hiện một cách thật cụ thể qua việc làm,

hành động, suy nghĩ khiến người đọc thực sự xúc động. Qua đó, người đọc

hiểu rằng người đã dành cho chị dâu mình tình cảm thành kính và biết ơn sâu

nặng. Với ông, người chị dâu giống như một người mẹ thứ hai, người đã lo

lắng, đã chăm sóc cho ông suốt thời thơ bé, đến khi trưởng thành, đi học, lập

gia đình thì “chị vẫn là người chị xưa”, vẫn chu toàn mọi việc. Giọng thơ

60

chân thành, lời thơ mộc mạc, thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, Vương Trọng

khiến người đọc thực sự xúc động bởi tình cảm gia đình nồng ấm và nghĩa

chị em sâu nặng.

Với gia đình nhỏ của mình, Vương Trọng là người luôn biết trân trọng,

nâng niu, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Ông luôn dành cho vợ, cho con, cho

cháu những suy nghĩ, tình cảm, mong ước tốt đẹp nhất. Thơ viết về vợ xưa

nay không phải hiếm hoi, nhưng viết hay mà sâu sắc trước hết phải kể đến cụ

Tú Xương. Cái kiểu “nịnh vợ” của cụ Tú thật là “cao tay”, còn Vương Trọng ,

“chiêu nịnh vợ” cũng không kém phần dí dỏm:

“Nhà có ba trai: hai con và một bố

Chỉ mình em độc đắc nữ thôi mà

Anh bạc đầu chưa qua thời nhí nhố

Cứ gọi em là hoa hậu của nhà”

(Hoa hậu của nhà)

Không phải tự nhiên ông “cứ gọi em là hoa hậu của nhà” mà bởi “chỉ mình

em độc đắc nữ thôi mà”, quan trọng hơn nữa, tuy không nói rõ nhưng rõ ràng

trong mắt thi nhân, vợ ông là đẹp nhất. Hoa hậu của ông không cần đánh

phấn, chưa từng diện mốt áo dài, áo tắm nhưng má vẫn hồng vì bén lửa bếp

than, vẫn thong dong trong bộ bà ba truyền thống. Vẻ đẹp của người vợ khiến

ông say đắm hơn cả, ấy là vẻ đẹp của tính nết hiền dịu, chịu thương chịu khó,

của sự đảm đang và hết mực yêu thương chồng con. Những ngày giỗ Tết,

những dịp bạn bè, khách khứa đến nhà, vợ ông bao giờ cũng là người tất bật

nhất. Thương vợ là người phụ nữ duy nhất trong nhà, ông thấu hiểu hết nỗi

vất vả, tất bật, nhọc nhằn của vợ, cảm thông với những việc không tên mà vợ

vẫn làm với đôi mắt sẻ chia: “Vương Trọng đã quan sát, đã thấu hiểu tình

cảm và tấm lòng người vợ nên mới viết được như thế. Anh không ca ngợi mà

tả sâu với một bút pháp hóm hỉnh, tinh nghịch với tấm lòng đằm thắm yêu

61

thương dành cho người vợ của mình”(32).

Là một người lính xa nhà, Vương Trọng như bao người lính khác,

mang theo nỗi nhớ gia đình, nhớ vợ, nhớ con tha thiết. Trong bài thơ “Nhớ

con”, ông bộc lộ những nỗi niềm thương nhớ một cách trực tiếp và đầy xúc

động:

“Nửa năm trời con mới thấy mặt cha

Cha trở về và cha đi, vội lắm

Đừng trách, con ơi, cha là người lính

Người lính mấy khi được ở gần nhà

Mẹ đưa con về ở cùng bà

Tình thương mẹ chia đều hai ngả

Nửa theo gió thổi đi miền đất lạ

Nửa hòa vào con sóng vỗ lời ru.”

(Nhớ con)

Những lần về và ra đi vội vã, người lính Vương Trọng mang theo nỗi nhớ con

tha thiết, và hơn hết là nỗi thương con mới hơn một tuổi đã phải xa cả cha và

mẹ. Đó là những tâm sự rất thực, rất chân thành. Niềm thương, nỗi nhớ ấy

như tiếp thêm sức mạnh cho ông trong suốt chặng đường dài, giúp ông nhận

ra niềm hạnh phúc nhỏ bé của mình để mà nâng niu, trân trọng:

“Nhớ thương là hạnh phúc những ngày xa

` (Nhớ con)

Viết cho con trai, Vương Trọng không quên viết cho con dâu những

vần thơ thương yêu và đầy trách nhiệm. Bằng giọng thơ tâm tình, chia sẻ, ông

đã chủ động gạt bỏ đi những ngượng ngùng, mở đường chỉ lối cho cô con dâu

mới sớm hòa nhập vào nếp sống của nhà chồng. Ông dạy con cách ăn ở, cư

xử, dạy con cách giữ hòa khí trong nhà và không quên động viên, an ủi, đồng

thời là mong ước của ông đặt vào cô con dâu mới.

62

“Buồn làm dâu sẽ chóng qua

Niềm vui lắng lại, nỗi xa xích gần”

(Nói với con dâu)

Có thể thấy, trên tất cả những vần thơ viết cho vợ, cho con trai, con

dâu, người đọc nhận ra một Vương Trọng yêu thương gia đình hết mực. Với

ông, đó mãi luôn là một tổ ấm thiêng liêng nhất, là nơi ông tìm thấy bình yên.

Bên cạnh những vần thơ viết về gia đình, Vương Trọng còn dành một

phần thơ mình để viết về những người bạn mà ông yêu quý. Trong thơ Vương

Trọng, mỗi người bạn đều được ông phác thảo thành một bức chân dung với

những nét tính cách, tâm hồn, hình dáng mang cá tính riêng của họ, chứng tỏ

với bạn bè, Vương Trọng hiểu, trân trọng và yêu mến họ chân thành. Người

đọc dễ dàng bắt gặp tình cảm ấy trong các bài thơ ông viết về Phác Văn, Tào

Mạt, Thái Vượng, Lê Dung, Duy Khán...

Nghệ sĩ nhân dân, nhà thơ, nhà văn Tào Mạt là một cái tên quen thuộc

trong làng chèo. Đó là một “nghệ sĩ thực thụ với cái nghĩa vừa thiêng liêng,

sang trọng, cao cả, vừa phóng túng, lập dị của những chữ này” (5). Ông nổi

tiếng là người thẳng thắn, bộc trực, người nào hiểu tính cách ấy của ông thì

yêu quý hết mực, người nào không hiểu thì lảng lùi xa. Vương Trọng đã phác

họa nét chân dung, tính cách ấy bằng những câu ngắn gọn:

“Tóc rễ tre cắt ngắn, chẳng đường ngôi

Mỗi sợi một lời nói thẳng

Như ớt chỉ thiên, chỉ ngược lên trời!

Mắt ủ lửa, da mặt khô

Sự thật cháy lên bất ngờ

Không thiếu người sợ bỏng

Lảng lùi xa”

63

(Tào Mạt)

Tào Mạt là một nghệ sĩ chân chính, ông yêu say nghệ thuật chèo đến độ “giữa

lúc nói chuyện gặp điều gì xúc động, Tào Mạt bật khóc như trẻ con; những

lúc chuyện trò về nghệ thuật, Tào Mạt có thể rất tự nhiên đứng dậy, uốn tay

theo một điệu múa cổ, hát to một làn điệu chèo, hay đọc thơ sang sảng.” (5)

“Tào Mạt hát

Mười tám u ung thư loét miệng

Chả là gì

Nhức nhối nào níu nổi cái vung tay”

(Tào Mạt)

Và thói quen cho chữ bạn bè:

“Một xe đạp cọc cạch

Một túi xách hành khất

Tào Mạt đi cho chữ bạn bè

Và nói lời vĩnh biệt”

(Tào Mạt)

Tào Mạt vốn có hoa tay viết chữ Hán. “Đi đâu anh cũng đem theo cái túi

đựng đủ bút, giấy, mực...anh viết rất nhanh, rất đẹp, làm bao người phải trầm

trồ, thán phục”(5. )Tào Mạt sống chân thành, đôn hậu , cởi mở với bạn bè và

với mọi người. Trong ông lúc nào cũng hừng hực lửa đam mê, ngay cả khi

bệnh tật giày vò ông vẫn không ngừng hát và tập luyện hướng dẫn, sửa chữa

động tác cho diễn viên Đoàn nghệ thuật Tổng cục Hậu cần một cách say sưa:

Lòng yêu say nghệ thuật, tình yêu cuộc sống, tình cảm chân thành với bạn bè,

người thân, những nét tính cách ấy giúp ông sống mãi với thời gian.

Viết về Phác Văn, người bạn thơ, người bạn cờ của mình, Vương

64

Trọng hiểu phía sau nụ cười ran ấy:

“Có mặn chát nước mắt

Có cay đắng nỗi niềm

Mượn tiếng cười để chấp nhận nguôi quên”

(Phác Văn)

Nhìn hoa quỳnh nở trên sân thượng, nhà thơ nhớ Thái Vượng – người bạn thơ

rất yêu vẻ đẹp của hoa quỳnh, và thấy lòng hụt hẫng, xót xa:

“Sương hay nước mắt

Ướt đẫm mặt hoa

Quỳnh muốn sà xuống đất

Để lần tìm người ấy chốn mờ xa”

(Hoa quỳnh)

Còn nhiều người bạn khác xuất hiện trong thơ Vương Trọng, dù chỉ

qua một vài dòng thơ ngắn ngủi nhưng đủ giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp

riêng trong tâm hồn họ. Vơi nhà thơ Vvương Trọng, họ đều là những con

người tài hoa, là những người mang chứa trong tâm hồn tình yêu cuộc sống

và khát khao cống hiến đến cuối cuộc đời. Vương Trọng đã viết về họ bằng

65

tình cảm chân thành và nỗi xót thương.

Chƣơng 3. NGÔN NGỮ - NÉT ĐẶC SẮC NỔI BẬT TRONG NGHỆ

THUẬT THƠ VƢƠNG TRỌNG.

Về vấn đề sáng tạo hình thức trong thơ, Vương Trọng đã bộc lộ rõ

ràng, thẳng thắn quan điểm của mình : “Thơ viết ra không phải để người đời

chơi chữ mà cốt để chuyển tải nỗi lòng. Bài thơ hay là bài thơ người đọc lần

đầu đã thấy hay, đọc lại hay hơn và càng đọc càng hay. Tài năng của người

viết, cái giỏi của người viết không phải ở chỗ cố diễn đạt rắc rối một vấn đề

đơn giản. Cái hay chính trước hết ở cái ý, sau đó mới đến lời”. Quan niệm thì

là vậy, nhưng nói như Boalô: “Một câu thơ tràn đầy ý tứ và tình cảm cao

thượng cũng sẽ không nghe được nếu nó làm chối tai bằng sự méo mó”. Sự

méo mó, thô vụng trong diễn đạt sẽ không thể thể hiện trôi chảy ý, tứ của nhà

thơ dẫu nó có sâu sắc thâm thúy đến mấy. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một

sinh thể hoàn chỉnh, ở đó “tư tưởng và hình thức phải hòa hợp một cách hữu

cơ như là tâm hồn và thể xác, nếu huỷ diệt hình thức, nghĩa là hủy diệt tư

tưởng và ngược lại cũng vậy” (Bêlinxki). Chính vì lẽ đó, những vần thơ nhân

ái của “trái tim lớn đau nỗi đau của những cuộc đời bất hạnh” đã tìm đến

những hình thức diễn đạt khác nhau như một sự tự nhiên, tất yếu. Mỗi hình

tượng, mỗi từ ngữ, hay giọng điệu, thể thơ được Vương Trọng lựa chọn đều

nằm trong các lằn ranh giới thống nhất nhất quán với nội dung tư tưởng bao

trùm toàn bộ sáng tác của ông để tạo nên một phong cách thơ vững chãi.

66

Vương Trọng đã tạo lập cho mình một hệ thống ngôn ngữ, giọng điệu vừa

mang nét chung của phong trào thơ ca đương thời, vừa mang cá tính riêng của

nhà thơ.

Khi tìm hiểu phong cách thơ Vương Trọng về phương diện hình thức

nghệ thuật chúng tôi nhận thấy , ngôn ngữ là một đóng góp nổi bật của

Vương Trọng. Những đóng góp này tập trung ở một số phương diện cụ thể

sau:

3.1 Ngôn ngữ thơ giàu tính gợi cảm.

Người ta hay nói đến chất thơ trong tác phẩm văn học và trong đời

sống. Nói đến chất thơ là nói đến nhân tố thuộc về nội dung. Chất thơ có thể

nằm đây đó trong cuộc sống, ở những kết tinh tiêu biểu, hoặc ở trong văn

xuôi. Nhưng nói như V.Huygô, chất thơ bộc lộ một cách diễn cảm, màu sắc

qua cấu trúc của ngôn ngữ thơ ca.

Chất thơ trước hết gắn liền với sự rung động và những cảm xúc liên

tiếp của người sáng tác. Nhà thơ Sóng Hồng nói: “Người làm thơ phải có tình

cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng”(10). Nếu thiếu đi “tình cảm

mãnh liệt” ấy với đời, thơ sẽ trở nên lý trí, nặng về phán đoán suy tưởng. Tư

duy thơ nói riêng và tư duy nghệ thuật nói chung là tư duy hình tượng (khác

với tư duy khoa học là tư duy logic), hình tượng thơ lại là hình tượng của cảm

xúc. Chính cảm xúc là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên hình tượng thơ. Có

rất nhiều cách để thể hiện cảm xúc ở trong thơ. Người ta có thể tận dụng triệt

để tác dụng của các hình ảnh, nhịp điệu, các biện pháp tu từ, yếu tố cảm thán

để thể hiện cảm xúc, phơi bày cảm xúc trong thơ. Tuy nhiên những yếu tố

thuộc về kỹ thuật thơ như vậy sẽ chỉ trở nên hữu dụng tối đa khi nó bắt nguồn

từ cảm xúc chân thành, có thật của người sáng tác. Bởi “thơ là tiếng lòng”,

“thơ từ trái tim đi và trở về với trái tim” , “Hãy gõ cửa trái tim anh, thiên tài

là ở đó” . Cái gốc của thơ chính là sự rung động của của nhà thơ trước cuộc

67

đời, con người, số phận. Và vần thơ hay là “vần thơ làm cho người ta không

thấy câu thơ mà chỉ thấy tình người” (Tố Hữu). Cảm xúc là cái gốc của hồn

thơ. Nó lan tỏa, chi phối và tham gia cấu thành vào mọi yếu tố thuộc đặc

trưng thể loại. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên được nhà thơ lựa chọn để ký thác

cảm xúc của chính mình. Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc trữ tình là một đặc

trưng khu biệt với ngôn ngữ thuộc các thể loại khác ngoài thơ.

Vương Trọng dù sáng tác ở thể loại nào, nguồn cảm hứng dồi dào và sức

sáng tạo bền bỉ vẫn luôn được thể hiện ở độ sung nhất. Chỉ có điều lạ là dù

viết truyện, ghi ký, hay sáng tác cho thiếu nhi, ngôn ngữ Vương Trọng vẫn

đậm chất thơ. Cái chất thơ bắt mạch từ trái tim nồng nhiệt chân thành với

cuộc đời, hằng lưu trong huyết quản tới câu, tới chữ. Ngôn ngữ thơ Vương

Trọng có khi bộc lộ trực tiếp tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ, của nhân vật trữ

tình với nhiều cung bậc… Có khi, đó chỉ là những nỗi niềm vu vơ thoáng ẩn

hiện trong chập chờn giấc ngủ và những ám ảnh quá khứ, khi :

“Cơn mưa về đột ngột

Lòng đêm còn giật thót

Nỗi lo xưa”

( Mƣa đêm)

Vùng đất “chảo lửa, túi bom” của đất nước đằng đẵng những năm chiến tranh

gắn liền với đói nghèo, cơ khổ vẫn hằn in sâu sắc trong tiềm thức nhà thơ.

Miền quê ấy không ít lần trở về trong những giấc chiêm bao, dáng mẹ, dáng

chị tần tảo, lam lũ như một ký ức buồn nhưng nặng trĩu nghĩa tình ám ảnh nhà

thơ khiến trái tim thi sĩ hơn một lần thổn thức :

“Chiêm bao tan nước mắt dầm dề

Con gọi mẹ một mình trong đêm vắng

Dù biết lời con chẳng thể nào vang vọng

Tới vuông đất mẹ nằm lưng núi quê hương”

68

(Khóc giữa chiêm bao)

“Nghĩ mà thương lắm chị dâu

Chiều mưa, gạo hết, mẹ đau cuối giường

Em ngồi đôi mắt nhòa sương

Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi”

(Chị dâu)

Quá khứ đau thương nhưng ấm áp tình người. Quá khứ đã trở thành một

phần cuộc sống, vỗ về nhà thơ mỗi khi tâm hồn ấy cảm thấy chênh vênh giữa

cuộc đời và cần một chỗ để bấu víu, dựa dẫm:

“Con lang thang vất vưởng giữa đời thường

Đâu cũng sống không đâu thành quê được”

( Khóc giữa chiêm bao)

Trân trọng quá khứ, nâng niu quá khứ như một báu vật của riêng mình là

thái độ thật sự đáng quý của nhà thơ, nhưng hơn hết, nó giúp nhà thơ quý

trọng từng giây từng phút của cuộc đời và vun vén tạo dựng, chăm nom cho

hạnh phúc trong hiện tại.

Viết về vợ, về con trai, con dâu, và về cháu đích tôn của mình, ngôn ngữ

thơ Vương Trọng trở nên gần gũi, giản dị, chân thật nhiều khi đến thô vụng

và lúng túng. Thế nhưng, sự lúng túng, thô vụng của ngôn ngữ ấy lại “tố cáo”

tình yêu tha thiết của ông giành cho gia đình. Tình cảm thiêng liêng, sâu nặng

đâu dễ cất thành lời:

“Nỗi lòng cha cũng hai nửa phân chia

Nửa nhớ con, nửa thương về nơi mẹ

Chỉ riêng con còn thơ dại quá

Có bao giờ con biết nhớ cha đâu!”

69

(Nhớ con)

Những câu thơ viết cho vợ của Vương Trọng vui hóm, tếu táo, dân dã như

câu nói cửa miệng, trêu đùa nhưng ẩn chứa phía sau ngôn từ ấy là thái độ biết

ơn, và tình yêu nồng ấm :

“Nhà có ba trai: hai con, một bố

Chỉ mình em độc đắc nữ thôi mà

Anh bạc đầu chưa qua thời nhí nhố

Cứ gọi em là hoa hậu của nhà”

(Hoa hậu của nhà)

Cái tình của nhà thơ cũng có khi thốt lên một cách tự nhiên khi chứng

kiến những em bé vác giậm băng qua đường Năm vất vả nhọc nhằn mà hiểm

nguy rình rập, là cái nhói đau khi chứng kiến những em bé ở Cao Bằng, Lạng

Sơn nghèo cơm, nghèo chữ, là tình thương dành cho đồng đội, lúc vui lúc

buồn chia nhau từng ngụm rượu cần, vui hát say sưa trong ấm áp tình dân, lúc

“tình thương chìm vào đất, theo dòng nước mắt rơi” khi đồng chí ngã xuống

trên chiến trận, …

Trong mảng thơ tình yêu, Vương Trọng bộc lộ rõ “bản chất” đa cảm

của một chàng thi sĩ đa tình với muôn vàn cung bậc nhớ thương: Khi thì “Sao

hồi hộp thế tim ơi/ Khi đi qua ngõ của thời yêu nhau / có gì, còn có gì đâu, /

hàng cây với gốc phi lao trụi trần”(Khi qua nơi hẹn), lúc lại “bổi hổi bồi

hồi”, nhấp nhổm đợi mong thứ Năm – thứ hẹn.

Bên cạnh hệ thống ngôn ngữ bộc lộ trực tiếp cảm xúc, nhịp điệu thơ là một

yếu tố quan trọng tạo nên tính trữ tình cho ngôn ngữ thơ Vương Trọng. Nói

đến nhịp điệu trong thơ Vương Trọng, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới hệ

thống thanh điệu, nghệ thuật ngắt nhịp và hệ thống từ loại , đặc biệt là các từ

láy gợi hình gợi cảm – những yếu tố căn bản tạo nên nhịp điệu chung của thơ

70

Vương Trọng.

Trước hết, chúng tôi nhận thấy rằng, đối với những vần thơ hướng nội –

ở đây chúng tôi hiểu là những bài thơ bộc lộ những suy nghĩ , trở trăn của nhà

thơ trước con người, sự vật, hiện tượng bên ngoài, những vần thơ thể hiện cái

tôi nội cảm của nhà thơ , tỉ lệ thanh điệu chênh nhau, thanh bằng dùng nhiều,

thanh trắc dùng ít; còn ngược lại là những vần thơ hướng ngoại, nhất là những

vần thơ tếu táo, hóm hỉnh, Vương Trọng chủ yếu sử dụng thanh trắc thể hiện

sự nhìn nhận đánh giá một cách sắc sảo, thông minh. Hệ thống thanh bằng với

đặc điểm riêng của mình có vai trò quan trọng trong việc diễn tả tiếng lòng

tưởng bàng quan, thờ ơ mà nhiều trăn trở trước mỗi số phận bất hạnh của con

người:

“Thôi nhắc chi những năm dài trống trải

Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu

Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải

Pháo cười người như đốt để trêu nhau”

( Với đứa con ngoài giá thú)

Hay

Nhà chồng chồng ở nhà đâu

Em chồng đông, mẹ chồng đau ốm nhiều

Làm dâu phải gặp cảnh nghèo

Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan”.

( Chị dâu)

Những vần thơ khai thác các thanh bằng một cách triệt để đã kiến tạo nên một

giọng điệu rất riêng cho thơ Vương Trọng – giọng tâm tình, chia sẻ, giãi bày.

Mỗi lời thơ của ông đọc lên nghe như những lời tâm tình , thủ thỉ, như đang

khơi gợi những tâm sự thầm kín, giúp người đọc có cảm giác như đang đối

thoại trực tiếp với nhà thơ, tìm thấy ở đó một nơi tin cậy để chia sớt nỗi niềm.

71

Những thanh âm đều đặn như kể việc, kể người, thỉnh thoảng, đôi chỗ khéo

léo thêm thanh sắc như điểm nhấn, như nốt đậm trên bức tranh toàn màu sáng

khiến những vần thơ ông đi vào lòng người một cách tự nhiên mà ám ảnh và

có sức neo đậu. Với Vương Trọng, thơ là “nỗi lòng” là số phận, mỗi tiếng thơ

của ông không viết lên bằng sự tỉnh táo mà bằng cái đắm say suy tư về số

phận con người. “Thơ là tiếng lòng đồng điệu của tâm hồn con người” (Tố

Hữu),với Vương Trọng, điều đó thật đúng. Mỗi lời thơ viết lên, ngay cả

những vần thơ tưởng như vô tình nhất, đều là tiếng lòng xót đau của Vương

Trọng trước mỗi số phận đáng thương trong cuộc sống. Đó là lời của trái tim,

là nhịp điệu của trái tim thi sĩ trước cuộc đời.

Theo GS Hà Minh Đức, “bản chất giàu cảm xúc của người nghệ sĩ sẽ

quyết định tính chất phong phú về cảm xúc của hình tượng thơ” và “ hình

tượng thơ chính là hình tượng của cảm xúc. Hơn nữa, tiếng thơ phải được nói

lên từ một tấm lòng, từ những rung động sâu xa của trái tim đang xúc động.

Những thương mến, căm giận, những nỗi niềm khác nhau bộc lộ trong hình

tượng thơ đều phải chân thành, tự nhiên như một lời tâm sự, một tình cảm

không thể nén lại được”(8). Sự chân thành trong cảm xúc của một trái tim đa

cảm thể hiện một cách khéo léo, chọn lọc trong những hình ảnh giàu tính biểu

hiện và nhiều sức gợi : hình ảnh trái tim, ngọn lửa và đôi bàn tay.

Tất nhiên, hình ảnh trái tim, tự bao giờ đã trở thành hình tượng của cảm

xúc và những rung động. Trong thơ Vương Trọng, hình tượng trái tim xuất

hiện với một mật độ khá dày, đặc biệt trong tập thơ “Ngoảnh lại” (22/147 bài

thơ) chứng tỏ với ông, đây là một hình ảnh khó có thể thay thế khi những

rung động cần được giãi bày. Và quả thực đọc thơ Vương Trọng, người đọc

sẽ được đắm chìm trong một thế giới của cảm xúc, của tâm hồn khi vui đắm

bâng khuâng, lúc ngọt ngào, hạnh phúc, khi nồng nàn đa tình, khi đong đưa ý

nhị :

72

“Sao dồn dập thế tim ơi

Khi qua nơi hẹn của thời yêu nhau

Có gì, còn có gì đâu

Hàng cây với gốc phi lao trụi trần”

(Khi qua nơi hẹn)

Có khi là trái tim đau đớn, xót xa thương cảm đè nặng lồng ngực nhà thơ mỗi

đêm về khi ông chứng kiển cảnh những em nhỏ vùng cao năm , sáu tuổi gánh

những gánh củi cao nặng hơn người:

“Gánh củi đè nặng ngực tôi

Cả trong chiêm bao giấc ngủ

Trở mình ú ớ

Đòn gánh tre ép chặt con tim

Gánh củi trở thành đá núi

Đêm đêm đè nặng ngực tôi”

( Gánh củi)

Đôi khi trái tim là hình ảnh ẩn dụ của con người thi sĩ, con người đa tình,

con người tếu táo của chàng trai trẻ tinh nghịch mà bạo:

“Ngực em gần, cổ áo rộng gió bay

Kéo áo ra tay không chạm ngực đầy

Tim anh nhảy sắp nghiêng bát nước

Miệng em cười đôi má hây hây”

(Hội té nƣớc)

Ngôn ngữ Vương Trọng nhiều khi cũng biến đổi linh hoạt một cách

đầy thú vị. Cũng là hình ảnh “trái tim” mà nó có khi kéo người đọc đắm chìm

73

trong những nỗi niềm hạnh phúc của người vợ đọc thư chồng, có khi là nỗi

xót xa, thương cảm cho những em nhỏ vùng cao đói nghèo, nheo nhóc, có lúc

cuốn người đọc vào không khí tưng bừng, nhộn nhịp của những đêm rượu cần

ấm áp tình dân, ấm áp tình đồng chí; rồi lại nhanh chóng khiến người đọc bồi

hồi trong những trải nghiệm tình yêu lúc nồng nàn đắm say, khi hồi hộp ngơ

ngẩn. Hình ảnh trái tim đã thực sự giúp người đọc thâm nhập vào thế giới tâm

hồn của nhà thơ, để sống, cảm nhận, và đồng điệu cùng trái tim thi sĩ nặng nỗi

đời:

“Ngực yếu, trái tim thì quá nặng

Nhờ thơ san sẻ bớt niềm đau”

(Nguyễn Du)

Bên cạnh hình ảnh trái tim, ngôn ngữ thơ Vương Trọng phong phú và

giàu sức gợi còn bởi sự xuất hiện với một tần suất liên tục của hình ảnh ngọn

lửa và đôi bàn tay. Ở đây, chúng tôi khảo sát tuyển tập “Ngoảnh lại” – tuyển

tập quan trọng nhất tập hợp những vần thơ đặc sắc nhất của Vương Trọng

(tính đến thời điểm này) và nhận thấy hình ảnh ngọn lửa xuất hiện 37/147 bài

thơ, hình ảnh đôi bàn tay xuất hiện 48/ 147 bài thơ . Những hình ảnh này trở

đi trở lại nhiều lần giúp nhà thơ giãi bày, thể hiện thế giới tình cảm thật đa

dạng của mình.Trước hết , đó là những hình ảnh của hiện thực nhiều màu sắc:

Là ngọn lửa cháy sáng trên bếp lửa Lũng Cú , là ánh lửa chập chờn leo lét

thuở ấu thơ , là bàn tay gầy guộc ân tình của mẹ, của chị, đôi bàn tay ấm áp

của người yêu, …Những hình ảnh thân thuộc, gần gũi đó in sâu vào tâm trí

nhà thơ gợi nhắc về một miền ký ức đồng thời cũng trở thành những hình ảnh

biểu tượng của tình người, tình đồng chí, đồng đội, tình quân dân cá nước,

tình nghĩa vợ chồng, tình yêu đôi lứa, tình cảm cha con… Ông viết hay và

khéo về tình yêu. Đôi bàn tay đã trở thành hình ảnh hoán dụ để nói hộ trái

tim yêu ngập ngừng, e ấp nhưng cũng rất táo bạo:

74

“ Ngập ngừng khó nói lời yêu

Tay này, tay ấy biết chiều trái tim

Qua bàn , lần đến nhau tìm

Lặng im, giây phút lặng im ngọt ngào”

(Một lần em đến)

Ông cũng rất khéo léo khi thể hiện những tình cảm dạt dào , sâu lắng

của mình hoặc những trầm ngâm, suy nghĩ, những quan điểm giàu tính triết lý

của mình về tình yêu thông qua hình ảnh ngọn lửa:

“Người xin được và người mua chẳng mất

Lửa và tình sao thật giống nhau

Than củi hết ngọn lửa kia sẽ tắt

Nhiên liệu nào cho lửa cháy bền lâu”

(Lửa và tình)

“ Đã yêu thì yêu như lửa đốt

Cây cành nào cũng phải cháy thành tro”

(Triết lý tình yêu)

Có thể thấy ngôn ngữ thơ Vương Trọng thật giàu sức gợi. Từ những

hình ảnh tưởng chừng quen thuộc đến nhàm chán trong thơ, ông đã thổi vào

chúng sức sống muôn đời, ấy là hồn người, là hồn thi sĩ. Vì vậy những hình

ảnh trong thơ Vương Trọng vừa quen mà vừa lạ, gần gũi, thân thuộc nhưng

lại khơi gợi trong lòng người biết bao nhiêu nỗi niềm nhân tình thế thái.

3.2.Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu tƣợng

“Ngôn ngữ thơ ca là sự biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, mỹ lệ,

phong phú của ngôn ngữ” (7). Người xưa quan niệm “quý hồ tinh bất quý hồ

đa”, văn chương quý ở chỗ tinh trắc chất lượng chứ không quý ở sự nhiều.

Tuy nhiên, để có được tính hàm súc, mỹ lệ, tinh trắc chất lượng ấy của ngôn

ngữ thơ ca, người xưa đã xây dựng, quy ước nhiều hình ảnh trở thành biểu

75

tượng, chẳng hạn Tùng, Trúc, Cúc, Mai, Long, Ly, Quy, Phượng. Vương

Trọng là người yêu say văn chương truyền thống của dân tộc. Trong thơ ông

có rất nhiều hình ảnh trở đi trở lại nhiều lần, trở thành những hình ảnh biểu

tượng chở mang tâm tư, nghĩ suy của riêng tác giả về cuộc đời và về con

người.

Người phụ nữ , những người vợ, người mẹ vẫn là những hình ảnh quen

thuộc trong thơ Vương Trọng, những hình ảnh được ông ưu ái và dành thật

nhiều tình cảm nhất đã được ông khái quát thành biểu tượng Hòn Vọng Phu.

Với mỗi người Việt Nam, nàng Tô Thị hóa đá chờ chồng đã trở nên quen

thuộc và trở thành một biểu tượng của sự thủy chung son sắt. Tuy nhiên, đọc

những bài thơ “Trò chuyện với nàng Vọng Phu”, “Về thôi nàng Vọng Phu” ,

“Có một mùa xuân”, …, người đọc sẽ ngỡ ngàng bởi sự mới mẻ mà nhà thơ

mang đến. Trí tưởng tượng phong phú, những liên tưởng đối chiếu so sánh

độc đáo khiến tảng đá vô tri đã thực sự trở thành những biểu tượng sống động

với những suy nghĩ, những trải nghiệm nội tâm phong phú và nhiều sức gợi.

Ở những bài thơ đó người đọc có cảm giác nàng Tô Thị đã bước ra khỏi thế

giới huyền thoại để đối diện với cuộc đời nhiều nỗi đau những cũng lắm niềm

vui và hy vọng. Ngôn ngữ đối thoại trong “Trò chuyện với nàng Vọng Phu”

đã mang đến một sự khám phá mới mẻ, thú vị :

“- Về thôi nàng ơi

Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa

Sao nàng còn đứng trong mưa trong gió

Cô đơn giữa mây trời?

- Thế để đâu những lời

Ta đã hẹn với người ta thương nhớ

Người ấy chẳng bao giờ về nữa

Mấy ngàn năm ngắn ngủi lắm sao

76

Đất nước qua trăm trận binh đao

Lở bồi, dâu bể?”

( Trò chuyện với nàng Vọng Phu)

Ngôn ngữ đối thoại giúp hình tượng thơ trở nên gần gũi, mang hơi thở của sự

sống, quan trọng hơn, khi Vương Trọng nhập vai vào hòn Vọng Phu ấy, ông

đã khái quát nét đẹp tâm hồn những người đàn bà Việt, đó là sự nhẫn nại đợi

chờ và niềm tin sắt đá vào sự trở về dẫu đất nước đã trải mấy nghìn năm lở

bồi dâu bề :

“Người đời biết thân ta hóa đá

Nhưng hay đâu ta hóa đá niềm tin

Hóa đá nỗi cô đơn

Và thời gian chờ đợi”

( Trò chuyện với nàng Vọng Phu)

Ngôn ngữ đối thoại, phương thức nhân hóa, phép nhập vai, sử dụng những

nghệ thuật ấy, Vương Trọng mang đến một cái nhìn mới mẻ cho người đọc

khi nàng Vọng Phu được tự bộc lộ những nỗi niềm của người vợ chờ chồng,

khi hòn Vọng Phu trở thành cái tôi khác đối diện với nhà thơ:

“Ta hóa đá triệu lần nỗi đợi

Để những người vợ chờ chồng thoát khỏi cảnh chờ mong”

( Trò chuyện với nàng Vọng Phu)

Một sự lý giải đẹp và bất ngờ. Một sự lý giải có lẽ chỉ có được khi nhà thơ

thật sự cảm thương đồng điệu, khi trong nhà thơ có sợi dây liên tưởng nối liền

hiện thực bao số phận của những người đàn bà. Ở “Có một mùa xuân”, bức

chân dung tâm hồn nàng Vọng Phu sẽ được bộc lộ một cách đầy đủ, vẹn tròn

77

hơn qua ngôn ngữ độc thoại. Hóa thân vào nàng Vọng Phu, bao nhiêu nỗi

niềm lạnh lẽo đơn côi, bao nhiêu nỗi buồn chờ đợi không thể nào dấu nổi dẫu

thân đá kiên cường trước “bão bùng, rét cắt, nắng chang chang”. Những từ

láy giàu sức gợi “chang chang, biền biệt, lạnh lùng, chênh vênh, đăm đăm”;

phương thức nhân hóa “nàng rùng mình thân đá”, nghệ thuật tạo hình điêu

luyện “thân đá lạnh lùng, mỏm núi chênh vênh”, Vương Trọng đã cụ thể hóa,

hình tượng hóa hiện thực hóa nỗi buồn, nỗi cô đơn, sự lẻ loi, đơn chiếc, cảm

giác lạnh lùng, trống trải, sự sợ hãi của người đàn bà ngóng chồng đi biệt xứ

trước vũ trụ rộng lớn đến không cùng.

Ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những cuộc trò chuyện trong tưởng tượng

cho thấy năng lực tư duy hướng nội dồi dào của tác giả. Trí tưởng tượng

phong phú, khả năng hóa thân nhập vai điêu luyện khi tái hiện bức chân dung

hòn Vọng Phu của nhà thơ giúp người đọc có được cái nhìn xuyên suốt, sâu

sắc và đầy nhân văn về những người phụ nữ Việt Nam.

Tính hình tượng của lời văn bắt nguồn từ chỗ đó là lời của một chủ thể

tư tưởng thẩm mỹ xã hội có tầm khái quát nhất định. Nhờ vậy, lời của một

người dễ dàng đi vào lòng người, trở thành lời nói của muôn người. Hình ảnh

nàng Vọng Phu đã trở thành một hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là vì thế.

Vương Trọng nhiều trăn trở âu lo. Ý niệm về thời gian chảy trôi ám ảnh

trong nhiều bài thơ của ông. Hình ảnh mái tóc bạc trở đi trở lại nhiều lần

trong thơ ông như một biểu tượng về thời gian đời người.

Hình ảnh thời gian có khi được đo bằng năm bằng tháng, đo bằng nỗi cô đơn :

“Thôi nhắc chi những năm dài trống trải

Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu

Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải

Pháo cưới người như đốt để trêu nhau”

78

(Với đứa con ngoài giá thú)

“Sau mười năm gặp lại

Bảy mươi mẹ còn khỏe vậy

Ba lăm em đã héo gầy”

(Gặp lại)

Cũng có khi thời gian được tính bằng chiều dài của kiếp người:

“Sao đem giọng hát một đời

Đổi về tình hận ngậm ngùi ngàn năm”

(Nói với Trƣơng Chi)

“Kiếp trước ta là con nợ

Kiếp này mưa đêm về đòi”

(Mƣa đêm)

thời gian có khi nhập nhòe ẩn hiện trong giấc chiêm bao

“Quá khứ gần, quá khứ xa khuất.

Chiêm bao kỉ niệm nhập nhòe ”

(Những mắt hoa)

nhưng có thể nhận thấy biểu tượng về thời gian đời người được Vương Trọng

thể hiện một cách vừa sâu sắc, thâm thúy, vừa giàu triết lý sâu xa qua hình

ảnh mái tóc – trục thời gian tượng hình:

“...Một nửa ánh ngày, một nửa đêm thâu

Một phía dầm mưa, một đầu hửng nắng

Không, sợi tóc nửa chiều nửa sáng

Trưa cuộc đời, ta vừa mới đi qua.

Hai bàn tay căng sợi tóc ra

Mong manh thế mà sao rắn chắc

Trục thời gian tượng hình trước mắt

79

Ta đang ta hay ta khác ta rồi.”

(Sợi tóc hai màu)

Mái tóc vốn là biểu tượng thời gian đời người. Mái tóc xanh là biểu

tượng của “một thời trai trẻ”, mái tóc hoa râm, mái tóc bạc là hình ảnh của

tuổi già. Nhìn sợi tóc hai màu, nửa xanh nửa bạc hiển hiện trước mắt, nhà thơ

thấy “trục thời gian tượng hình trước mặt”, ông “bàng hoàng”, “thẫn thờ”,

nhận ra quy luật nghiệt ngã của thời gian:

“Ta đang bay khi ta ngồi im lặng

Cái tận cùng đâu có chẳng còn xa”

(Sợi tóc hai màu)

Thời gian chảy trôi không ngừng, đời người thì ngắn ngủi, hữu hạn.

Vương Trọng tiếc nuối thời gian, ngôn ngữ thơ ông nửa như muốn chạy đua

cùng thời gian, nửa như bất lực, xót xa: “Cười làm chi cho nham nhở nụ

cười.” Vương Trọng nhận thức rõ quy luật nghiệt ngã của cuộc đời: “Phép

mầu nào chống chọi nổi thời gian?” Vì thế, ông cũng nhận thức rõ nơi cuối

cùng con người sẽ đến: “Nấm mồ”.

“Nấm mồ” là biểu tượng của cái chết. Nấm mồ là biểu hiện của một thế

giới khác – thế giới của tâm linh – thế giới của sự chia lìa. Trên đất nước đã

trải bao cuộc binh đao, dẫu chiến tranh đã lùi về quá khứ nhưng ngàn vạn

nghĩa trang trên khắp vùng miền Tổ quốc là chứng tích đau thương của một

quá khứ anh hùng. Trong thơ chống Mỹ, hình ảnh nấm mồ của những người

đồng đội, những đồng chí đã hy sinh trở thành biểu tượng của những người

Việt Nam anh dũng, bất khuất là những cái chết đã hóa thành bất tử, cái chết

gieo mầm cho sự sống

“Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn

Nơi gặp gỡ những con người

Thời gian không thêm tuổi

80

Nơi chiến trường và hậu phương xích lại

Tên liền dòng trên bia đá xanh

Ngày sinh và ngày hy sinh

Cách nhau nửa quãng đời tuổi trẻ”

(Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn)

Như chúng tôi đã khẳng định, thơ Vương Trọng là thơ của những tình

cảm, những cảm xúc chân thành trước số phận, cuộc đời của những con người

bất hạnh. Ngôn ngữ thơ ông giàu tình cảm, cảm xúc trữ tình. Trong thơ ông,

hình ảnh trái tim, ngọn lửa, đôi bàn tay, đôi mắt đã trở thành những biểu

tượng của yêu thương.Với những hình ảnh này, thơ Vương Trọng đã in đậm

dấu ấn trong lòng độc giả chân dung của một nhà thơ giàu trái tim yêu

thương.

3.3 Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lý

Nhà thơ Vương Trọng tâm sự ông không phải là một triết gia nên triết

lý dành để các nhà triết học đảm nhận. Riêng phần mình, Vương Trọng chỉ

thích viết những gì mình hay suy tư, trăn trở. Văn học chống Mỹ và thời

kỳ văn học sau đó giọng điệu chính luận là đặc điểm nổi bật. Chất chính

luận sắc sảo mang đến cho thơ hơi điệu mới mẻ, trí tuệ; những lý luận

mang tầm khái quát về thơ, về cuộc đời, về số phận con người... Thơ

Vương Trọng không phải thơ chính luận. Ngôn ngữ thơ ông cũng là thứ

ngôn ngữ chân phương, giản dị. Những vấn đề trong thơ Vương Trọng

cũng không có cái gì đao to búa lớn. Thế nhưng, đọc thơ Vương Trọng

người đọc dễ dàng nhận ra chất trí tụê đằm sâu trong câu chữ; dễ dàng

nhận ra giọng điệu triết lý của một “ông đồ gàn xứ Nghệ”. Đọc những vần

thơ này, người ta liên tưởng tới cái chất sâu sắc, thâm trầm của cụ Tam

Nguyên thuở trứớc. Vương Trọng cóp nhặt những điều bình dị trong cuộc

sống, suy nghĩ, trăn trở bằng tư duy lôgic của một dân “toán tổng hợp” và

81

tư duy hình tượng của một nhà thơ khiến mỗi sự vật hiện lên trong thơ đều

đau đáu một nỗi niềm của nhà thơ về cuộc đời, con người, về quan hệ nhân

sinh, thế thái.

Có thể nhận thấy, bên cạnh chất trữ tình, ngôn ngữ thơ Vương Trọng

còn là ngôn ngữ giàu tính triết lý. Ngôn ngữ triết lý biểu hiện trước hết qua

nghệ thuật tương phản được nhà thơ khéo léo sử dụng :

“Hạt gạo mẩy thường nằm gần với sạn

Người đãi gạo vụng về vứt bỏ chẳng tiếc thương”

(Gạo và ngƣời)

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú cho rằng, thơ Vương Trọng là thơ nghịch

cảnh về số phận con người. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm ấy.

Chúng tôi xin đi sâu hơn là để khai thác những nghịch cảnh ấy, Vương

Trọng đã tìm thấy trong số phận của những vĩ nhân, những người phụ nữ,

những người thân....sự đối lập, tương phản giữa số phận, cuộc đời họ với

cái họ đáng được hưởng theo quy luật nhân quả, quy luật của cuộc sống. Ở

đây ít nhiều, Vương Trọng đã chịu ảnh hưởng quan niệm của Nguyễn Du:

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

(Truyện Kiều)

Khi ông viết về nghịch cảnh của những vĩ nhân, những nhân cách lớn hay

những tài năng như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Đạm Tiên, Thúy Kiều,

Tào Mạt, Duy Khán, Lê Dung... Tất nhiên ở đây, ông đã nhìn nhận họ

không chỉ là những vĩ nhân, những nhân cách lớn, những con người tài

năng mà ông đã nhìn ra trong cuộc đời họ, những số phận mang bi kịch.

Đó là Nguyễn Du:

“Lưng gày trĩu nặng nỗi bể dâu

82

Ngực yếu trái tim thì quá nặng”

Là một vĩ nhân, là một đại thi hào, danh nhân văn hóa, nhưng nấm mồ

Nguyễn Du thì tuềnh toàng đến ngỡ ngàng, xót xa khiến nhà thơ không

khỏi ngậm ngùi, ái ngại:

“Tưởng rằng phận bạc Đạm Tiên

Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây

Ngẩng trời cao, cúi đất dầy

Bâng khuâng tay nắm bàn tay của mình”

(Bên mộ cụ Nguyễn Du)

Cách gọi đích danh cụ Nguyễn Tiên Điền, cách dùng cách cặp từ đối

lập, trái nghĩa (ngẩng - cúi; trời - đất ) khiến bi kịch cuộc đời của cụ thật

xót xa. Đó có khi là chân dung Tào Mạt :

“Tào Mạt hát

Mười tám u ung thư loét miệng chả là gì

Nhức nhối nào níu nổi cái vung tay”

(Tào Mạt)

Viết về các mẹ, các chị và những người em gái, Vương Trọng cũng đặt

họ vào những hoàn cảnh đối lập để người đọc cảm nhận sâu sắc hơn

những thiệt thòi và hy sinh của họ. Riêng mảng này, vận dụng số từ và

những thuật ngữ toán học là một thế mạnh của riêng Vương Trọng . Điều

này có thể được lý giải bởi Vương Trọng vốn xuất thân là một người học

toán. Những con số, những thuật ngữ toán học ông tích lũy những năm

tháng trên giảng đường đại học đã trở thành những con số có hồn, những

con số chở mang có khi là niềm khát vọng , nỗi mong đợi của cả một đời:

“Hẹn một lần chờ đợi cả ngàn ngày

Anh đi biệt phương trời không trở lại

Căn nhà trống , ngày lẻ loi mình chị

83

Đêm thắp đèn cho bóng nữa thành đôi”

(Chị)

.......

“Sau mười năm gặp lại

Bảy mươi mẹ còn khỏe vậy

Ba lăm em đã héo gầy”

(Gặp lại)

Nỗi mong chờ hóa đá:

“Đi một lần không về

Đợi ngàn năm hóa đá

Thương thân dựng trời quê

Nhớ xương vùi đất lạ”

(Vọng Phu)

Nếu làm một phép thống kê, người đọc dễ dàng nhận ra trong thơ

Vương Trọng những con số thời gian đời người, những con số đằng đẵng

trôi qua thời thanh xuân của các bà, các mẹ; những con số đong đầy nước

mắt mỏi mòn đợi trông; những con số gói ghém khát vọng làm vợ, làm mẹ

của cả một thời con gái: Mười lăm năm, hai chục năm, ba mươi năm, bốn

mươi năm, nghìn năm, hai nghìn năm, mấy ngàn năm... Sẽ có người nói

nhà thơ quá vô tình, ông lẳng lặng đếm nỗi đau, đếm sự đợi trông, đếm

mỏi mòn mong ngóng, đếm nước mắt của những người đàn bà xa chồng,

xa con; những người đàn bà khát khao hạnh phúc vẹn tròn bình dị bằng

những con số vô tình. Ông cứ lặng lẽ ghi chép, những con số tự nó nói lên

tất cả. Chất trí tụê, chất triết lý của nhà thơ Vương Trọng là ở đó. Ông mở

ra cho người đọc cánh cửa để họ tự bước vào cuộc đời của mỗi số phận,

84

mỗi nhân vật, để nghĩ suy và bình giá.

Thuật ngữ toán học được Vương Trọng sử dụng nhuần nhuyễn trong

“đoạn thẳng” – một bài thơ có cái tứ rất lạ: “cuộc đời con người ngắn

ngủi như một đoạn thẳng”

“Bà đỡ luồn tay vào găng mềm

Phu đào huyệt xắn cánh tay cầm cuốc thuổng

Một hài nhi nâng lên

Một quan tài hạ xuống

Tạo hóa chơi trò bập bênh

Trên cách tay đòn cuộc đời

Tì lên từng số phận...”

(Đoạn thẳng)

Mỗi cuộc đời là một đoạn thẳng, có đoạn ngắn đoạn dài nhưng đều

giống nhau ở hai điểm đầu: nhà hộ sinh – nghĩa địa. Trong cái đoạn thẳng

cuộc đời ngắn ngủi ấy, đau đớn lắm, mưu toan, lọc lừa nhiều “như tập hợp

vô tỉ chất chồng lên” – còn “hạnh phúc, niềm vui chỉ là số tự nhiên”.

Những đau đớn, mưu toan, lừa lọc trong cái đoạn ngắn ngủi của đời người

là vô hạn, là chồng chất số vô tỉ - không thể nào đếm xuể, còn hạnh phúc,

niềm vui thì ít ỏi, thì hữu hạn. Giọng thơ Vương Trọng lạnh lùng tưởng là

vô cảm nhưng bài thơ đem đến cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc,

những bài học đáng để mỗi người trăn trở khi sống trên cõi đời : Hãy biết

yêu thương trân trọng nhau; hãy để niềm vui hạnh phúc được nhân lên;

hãy bớt đi những mưu toan, lừa lọc để những bất hạnh những đau đớn

đừng là tập số vô tỷ, vô hạn nữa. Triết lý của Vương Trọng giản dị mà

thâm thúy sâu sắc, mỗi người phải tự rút ra bài học cho mình để sống tốt

85

hơn, để cái đoạn thẳng cuộc đời của mình trở nên có ý nghĩa hơn

Sử dụng số từ, sử dụng các thuật ngữ toán học có thể được coi là một

điểm nổi bật của ngôn ngữ thơ Vương Trọng. Trong thơ ông, những con

số đều có linh hồn. Vương Trọng đã thổi hồn mình vào chữ.

Bộc lộ một cách trực tiếp quan điểm của mình về hạnh phúc, tình yêu,

về cuộc đời và con người cũng là một điểm nổi bật của ngôn ngữ thơ

Vương Trọng. Vương Trọng đã tự thú nhận: “Con lang thang, vất vưởng

giữa đời thường. Đâu cũng sống không đâu thành quê được” (Khóc giữa

chiêm bao), nên với ông hạnh phúc có khi thật giản dị:

“Hạnh phúc là được chết nơi mình sinh nở”

(Cá hồi)

Vương Trọng viết nhiều về điều này, về niềm hạnh phúc giản dị, bé

nhỏ,mộc mạc của riêng ông:

“Núi Quỳ Sơn dành sẵn chỗ tôi nằm

Hoa ấm lửa, đất nồng hơi than cháy.

Hạnh phúc lắm được nằm xuống đấy

Dù gió mưa, không biết lạnh bao giờ”

(Lời dặn)

Vương Trọng quan niệm hạnh phúc giản dị, đơn sơ đến thế chứng tỏ ông

thực sự trân trọng cuộc sống gần gũi bên mình, thực sự yêu quý và gắn bó

với cuộc sống gần gũi, thân thuộc, dường như ông hài lòng với những gì

mình có, không bon chen danh lợi, không bị cuốn vào dòng đời xô bồ hối

hả, để giữ cho mình sự viên mãn của tâm hồn để sống trọn vẹn và thủy

chung với những gì ông có:

“Chiều vàng nhạt trên lưng đôi bò kéo

Xe bánh cao chở gỗ qua đồng

Trên gỗ mẹ ngồi cho con bú

86

Hạnh phúc đằm trên đôi cánh tay nâng”

(Đƣờng về Phum)

Hạnh phúc với Vương Trọng “gần gũi lắm”. Nó có thể chỉ là một lời sẻ

chia, một ánh mắt quan tâm trìu mến cũng đủ để sưởi ấm trái tim đa cảm

của nhà thơ, hạnh phúc nào bằng san sẻ yêu thương, là cái chạm tay nhẹ

nhàng lúc chia ly:“Dễ gì hạnh phúc được cầm tay nhau”, là cái giây phút

ngắn ngủi nhưng nồng ấm được ngồi bên đồng đội sẻ chia hơi ấm và ngọn

lửa bên bếp Lũng Cú:

“Muốn lặng yên

Tận hưởng giây phút vừa bén tới

Được ngồi sưởi cùng những người đồng đội

Bao năm chốt giữ đất này”

(Bếp lửa Lũng Cú)

Hành trình cuộc đời của con người là hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Trên

con đường dài đó, không ít người chỉ tìm thấy điều bất hạnh, những lo

toan đau khổ. Họ không nhận ra một chân lý thật đơn giản, hạnh phúc gần

gũi, giản dị và luôn ở bên trong mỗi chúng ta.

Trong suốt cuộc đời mình, Vương Trọng cũng luôn kiếm tìm hạnh

phúc, tình yêu. Thơ tình yêu của Vương Trọng không phải là nhiều. Tuy

chỉ một vài bài nhưng đủ để tạo nên triết lý riêng về vấn đề muôn thuở

của con người – đó là tình yêu. Trong “Triết lý khi yêu”, Vương Trọng

viết:

“Chừng mực với mọi điều

Với tình yêu xin đừng chừng mực

Đã yêu thì yêu như lửa đốt

Cây cành nào cũng phải cháy thành tro

Đã yêu thì yêu như rượu bốc

87

Trên có trời, dưới dất, giữa hai ta”

Viết về tình yêu nhưng ngôn ngữ thơ của ông rành rọt, dứt khoát, và quyết

liệt. Cấu trúc câu lặp lại: “Đã yêu thì...” cho thấy quan điểm thật rõ ràng,

nhất quán. Với ông, khi đã yêu thì không có gì có thể ngăn cản nổi. Tình

yêu mãnh liệt, vượt thời gian, vượt không gian. Vương Trọng viết:

“Đã yêu thì yêu như lửa đốt

Cây cành nào cũng phải cháy thành tro

Đã yêu thì yêu như rượu bốc

Trên có trời, dưới đất, giữa hai ta

Đã yêu thì yêu như ông bà

Tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội

(...)

Đã yêu thì yêu như Tiên Dung

Đẳng cấp; sang bên không bàn đến

Đã yêu thì yêu như Mị Châu

Đầu dù rơi vẫn không sai lời hẹn

Đã yêu thì yêu như Trương Chi

Thân dù tan, hồn lặn vào đáy chén”

Tình yêu của ông bà, của Tiên Dung, của Mị Châu, của Trương Chi

vốn là những tình yêu đã trở thành huyền thoại. Cách ví von, so sánh của

Vương Trọng đã cụ thể hóa quan niệm về tình yêu của riêng ông: mãnh

liệt, thủy chung. Tình yêu là duy nhất. Cũng bởi Vương Trọng, tình yêu là

duy nhất, là mãnh liệt, nên ông luôn lo lắng, trăn trở:

“Người xin được và người cho chẳng mất

Lửa với tình sao thật giống nhau

Than củi hết, ngọn lửa kia sẽ tắt

Nhiên liệu nào cho tình cháy bền lâu? ”

88

(Lửa và tình)

Nét đặc sắc của bài thơ không phải ở chỗ ông đã phát hiện ra nét tương

đồng của tình và lửa. Điều ông nhận thấy là ngọn lửa sẽ tắt nếu hết than,

hết củi, còn tình yêu, để mãi bền lâu, mỗi người phải làm gì, phải nuôi

dưỡng tình yêu như thế nào và bằng thứ “nguyên liệu” gì. Đó là điều mà

mỗi người đọc sẽ phải tự tìm câu trả lời cho mình.

Vương Trọng hay trăn trở:

“Nam châm gồm hai cực

Cực bắc và cực nam

Lá cây gồm hai mặt

Mặt dưới và mặt trên

Tình yêu gồm hai nửa

Nửa anh và nửa em”

(Theo cách thống kê)

Vương Trọng là người chịu khó quan sát, chịu khó suy nghĩ. Đôi khi,

những sự vật, sự việc rất nhỏ được ông quan sát tỉ mỉ, rồi liên tưởng, so

sánh làm bật lên những tứ thơ lạ và giàu chất trí tuệ. Ở đây, Vương Trọng

phát hiện ra mỗi vật đều có hai “nửa” – Nam châm có cực nam, cực bắc;

lá cây có mặt dưới, mặt trên, từ “nửa” là cái lằn ranh giới phân cách giữa

các mặt của một sự vật. Bằng tư duy triết học, Vương Trọng nhìn nhận soi

chiếu sự vật, tâm trạng theo hai mặt của vấn đề để tìm ra bản chất của nó.

Nhìn sợi tóc hai màu, nửa đen, nửa bạc, Vương Trọng thấy trục thời gian

tượng hình trước mặt, quá khứ, hiện tại, tương lai biểu hiện trong “bóng

sợi tóc rụng”; thấy thế giới, con người và bản thân tác giả đang đổi thay

từng ngày :

“Ta đang bay khi ta ngồi yên lặng

Cái tận cùng đâu đó chẳng còn xa”.

89

(Sợi tóc hai màu)

Có thể thấy nhìn nhận sự vật theo hai mặt của một vấn đề giúp ta nhìn

nhận sự thay đổi, phát triển của sự vật, tâm trạng một cách toàn diện, biện

chứng. Riêng Vương Trọng, nhìn nhận sự vật, tâm trạng theo hai “nửa”

của vấn đề không chỉ giúp ông thấy:

“Hai cực nam châm không thể tách

Hai nửa lá cây không thể bóc”

(Theo cách thống kê)

Và băn khoăn: “Thế còn hai nửa tình yêu?”. Tình yêu được tạo bởi hai

nửa, nửa anh và nửa em, liệu có thể “bóc”, “tách” được hay không? Câu

hỏi bỏ lửng và câu trả lời nằm trong mỗi chúng ta. Chất trí tuệ , cảm xúc

để mỗi người tự nghĩ suy và tìm ra câu trả lời cho chính mình.

Cảm xúc trong thơ bao gồm cả cảm và nghĩ. Cảm xúc trong thơ Vương

Trọng là sự kết hợp nhuần nhị, hài hòa giữa “cảm” và “nghĩ”. Khởi nguồn

từ những rung cảm, những suy nghĩ, trở trăn về cuộc đời và con người, về

hạnh phúc, về tình yêu, những rung động cực điểm ấy nhanh chóng bắt

được trong hiện thực cuộc sống những hình tượng phù hớp với hồn thơ

ông để Vương Trọng gửi gắm vào đó những triết lý, những suy nghĩ sâu

sắc, những bài học, những ý niệm đáng để người đọc phải suy nghĩ, trở

trăn. Ngôn ngữ thơ Vương Trọng vì thế mà giàu tính triết lý và trí tuệ, vì

thế mà ám ảnh và có sức lay động sâu xa tâm hồn và trí tuệ của mỗi người

thưởng thức.

3.4. Ngôn ngữ định danh.

Vương Trọng đi nhiều. Suốt một thời trai trẻ, Vương Trọng đã

cùng đồng đội “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (Tố Hữu), xuyên

rừng, vượt núi, trèo đèo, lội suối trên các chiến trường. Sau giải phóng,

Vương Trọng tham gia đoàn quân tình nguyện chống Khơ me đỏ, đặt

90

chân lên nhiều vùng đất nước bạn. Ông sống cùng nhân dân, gần gũi

với họ, hiểu cặn kẽ về con người, về tập quán mỗi vùng đất ông đã đi

qua. Vương Trọng có thói quen đi, đọc, và ghi chép. Ở ông “cần mẫn

một nhà văn, năng nổ nhiệt tình một nhà báo”. Mỗi vần thơ ông viết

đều hằn in dấu vết mảnh đất nơi ông đã đặt chân. Thơ Vương Trọng

gợi nhiều tên làng, tên bản với nhiều phong tục tập quán của đất và

người.

Đọc thơ Vương Trọng, người đọc ấn tượng với những tên làng,

tên bản rất lạ mà những người vùng xuôi có lẽ chưa bao giờ nghe tiếng:

“Tà Sanh”; “Trong đêm Phòn Thà Khẹt” hoặc những vùng đất nổi

tiếng là chảo lửa túi bom: “Ghi ở Pha Long” ,“Qua đèo Pha Đin”

,“Lên Cao Bằng”, “Núi Quỳ”, “ Đà Lạt” ,“Trƣa Phú Lợi”, “Đi dọc

mùa khô”, “Đƣờng về Phum”, “Hội té nƣớc”, “Nam bộ mà anh”,

“Mẹ Bắc Kạn”, “Một trƣa Trƣờng Sa”, “Qua đèo gió”, “Du kích

đất Mũi”....

Qua thơ mình, ngôn ngữ thơ giản dị của Vương Trọng đã khắc

họa cái khắc nghiệt của thiên nhiên nơi dải đất miền Trung gió lào cát

trắng:

“Nắng hè dội lửa vào khe đá

Khe đá bức xạ từng chùm hoa mẫu đơn

....

Ngày đội nắng, chân dép mềm đá bỏng

Để đêm về thông mọc giữa chiêm bao”

(Núi Quỳ)

Nắng miền Trung là nỗi ám ảnh trong thơ bao người. Đó là cái nắng rát

bỏng, cái nắng khô rang, cái nắng “dội lửa vào khe đá” cái nắng “chang

chang” thiêu đốt đất và người:

91

“Quê mình cái nắng chang chang

Trận mưa tháng tám lụt sang tháng mười”

(Chị dâu)

“Rồi một mùa xuân xa xứ sở

Phố phường nơi ấy nắng chang chang”

(Có một mùa xuân)

Đã là cái nắng thì phải là cái nắng chang chang kéo dài suốt sáu tháng

mùa khô, đã là lụt thì phải là trận lụt kéo dài từ tháng tám sang tháng

mười. Đã là khí hậu miền Trung thì phải “khi mưa dầm, lúc nắng phơi”

“Mặt trời – quả lửa”; “Bầu trời treo mặt trời, không mây không

gió”(Chị dâu) “mặt đất cát nỏ”. Vương Trọng không cường điệu

phóng đại khi viết về cái nắng nóng, trận mưa lũ quê mình. Sự khắc

nghiệt của thiên nhiên là có thật. Dải đất miền Trung nhỏ bé nhưng

hứng chịu bao nhiêu thiên tai, hết lụt lội lại hạn hán. Con người đã xác

xơ vì chiến tranh, vì đối phó với thiên tai nhưng không vì thế mà buông

xuôi bất lực. Người miền Trung dạn dày sương gió vẫn kiên gan trước

mọi thử thách cuộc đời để sống và yêu thương.

Trong thơ Vương Trọng, các tên đất, tên làng đi vào lời thơ một

cách nhuần nhị, giúp nhà thơ mở rộng không gian giới thiệu đất và

người:

“Lên đến Cao Bằng không sợ dốc

Đèo Giàng, đèo Gió đã lùi sau

Lên đến Cao Bằng không sợ đói

Nước trong, gạo trắng sẵn từ lâu”

“(Lên Cao Bằng)

Hành quân nửa ngày vẫn còn lên

92

Chính ủy âm thầm nhớ Pha - đin

Lính cũ: Đèo ngang, Hải Vân nhắc

Lính mới: Cao Bằng nằm phía trước”

(Qua đèo gió)

Hay

“Phong Châu cách mấy ngày đường

Chị lên Bát Xát, Trịnh Tường thăm anh”.

(Thăm chồng)

Và những địa danh đọc nghe trúc trắc, tạo ấn tượng ngay từ ban đầu đối

với người đọc:

“Ôi, Tả Hồ Xìn, Tả Hồ Xìn

Trăm năm, ngàn năm ghi tội ác”

(Xe dừng ở Tả Hồ Xìn)

“Sư đoàn 330 hành quân

Lang – vét – puốc – xát – bát – Đan – Bang.

Những cánh đồng bỏ hoang

Đường chan trời chạy trên cỏ cháy”.

(Tà Sanh)

Những phum, những bản gợi nhắc những vùng đất xa xôi, hẻo lánh,

những nơi gian khó, hiểm nguy, những vùng đất địa đầu Tổ quốc xa

xôi: Ngọn Mỏ Neo, ngọn Cấm, hoa Yên Minh, Đồng Văn, Thanh Thủy

(Hà Giang); Lũng Táo, Mã Xồ, Ma Lé, Lũng Cú (Lũng Cú), những

vùng đất mà mới nghe tên đã thấy cái hiểm trở, khó khăn, gian nan, vất

vả. Tất cả xuất hiện trong thơ Vương Trọng giúp ông kiến tạo nên một

vùng riêng in dấu bước chân hành quân của ông và đồng đội, kích thích

người đọc sự tò mò khám phá những vùng đất mới tìm hiểu những

phong tục tập quán xa lạ mà kỳ thú: hội té nước, hội ném còn, cờ

93

người...được hưởng thụ cái cảm giác ngọt ngào, yên bình hiếm hoi của

đứa con yên ngủ trong vòng tay yêu thương của mẹ suốt dọc đường về

Phum.

Có thể thấy rằng , ngôn ngữ địa danh trong thơ có vai trò quan trọng

giúp người đọc lần tìm theo hành trình Vương Trọng đã đi qua , nó không chỉ

giúp người đọc hình dung một cách tương đối đầy đủ về những mảnh đất mà

nhà thơ đã đến với những đặc trưng về đất và người mà còn giúp người đọc

hiểu sâu sắc hơn tấm lòng yêu quê hương, đất nước , ý thức trân trọng, nâng

niu giữ gìn những phong tục tập quán sinh hoạt, những vẻ đẹp mộc mạc ,

chân chất , tự nhiên và bình dị của làng xóm quê hương.

Nhà thơ Trần Đăng khoa trong tuyển thơ Ngoảnh lại có viết : “Hình

thức suy cho cùng cũng chẳng phải quan trọng , vì nó chả có giá trị gì nếu

thơ không hay . Khi đã đạt đến độ hay rồi thì người đọc chẳng ai còn để ý đến

hình thức nữa, thậm chí người ta cũng quên luôn cả con chữ”. Nói như Vũ

Quần Phương : “ Gặp thơ rồi thì quên chữ, quên câu.” Vương Trong có

94

không ít bài đạt đến cái độ siêu thoát ấy.

PHẦN KẾT LUẬN

Luận văn này ra đời xuất phát từ yêu cầu nhìn nhận và đánh giá một

cách tổng quát về hệ thống những sáng tác của Vương Trọng. Qua quá trình

tổng hợp, thống kê, nghiên cứu, phân tích thơ Vương Trọng, trên cơ sở vận

dụng những lý thuyết về phong cách và phong cách học, chúng tôi rút ra một

số kết luận sau:

Vương Trọng là một nhà thơ có phong cách. Phong cách thơ của ông

dẫu chưa thể gọi là thật sự độc đáo và sắc nét nhưng mang bản sắc riêng khó

hoà lẫn. Vương Trọng chiếm lĩnh trái tim độc giả bằng sự đằm thắm, chân

tình của một hồn thơ giàu nhân ái.

Phong cách thơ Vương Trọng thể hiện rõ qua cái tôi nội cảm nhiều trăn

trở, suy tư và trải nghiệm về con người, về cuộc sống, tình yêu. Nhân ái và

đôn hậu là giọng điệu chủ đạo của thơ ông. Mỗi con người, số phận và tâm

trạng trong thơ Vương Trọng khi vui hóm hay buồn lo, khi đau khổ hay hạnh

phúc, khi tủi hổ hay tuyệt vọng đều được soi chiếu bằng ánh mắt đôn hậu và

lý giải bằng con tim nhân ái. Vì vậy, mỗi vần thơ của Vương Trọng đều

95

hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ; đều mở rộng đường cho con người

về phía tươi đẹp nhất của cuộc sống là tình đời, tình người. Đó là đích đến của

những nhà thơ chân chính.

Vương Trọng nói nhiều đến trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ.

Ông luôn đắn đo để mỗi vần thơ của mình đều là những vần thơ có ích cho

đời. Những vần thơ không chỉ đồng cảm, sẻ chia, thương xót mà còn nâng đỡ,

dìu dắt con người trong cuộc sống vốn nhiều đau khổ, bất công. Những vần

thơ trữ tình công dân ấy thực sự đã có tác động làm thay đổi hiện thực trở lên

tốt đẹp hơn.

Đa dạng về chủ đề, đề tài; phong phú về phương thức thể hiện, hành

trình thơ Vương Trọng thực sự là kết quả của một quá trình nỗ lực không mệt

mỏi, một thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc. Thơ Vương Trọng là thơ

làm cho người ta yêu nhiều hơn là làm cho người ta phục bởi đó là thứ thơ

đem lại nguồn cảm xúc lớn.

Đến nay, hành trình thơ Vương Trọng đã trải qua gần 40 năm, nhiều bài

thơ, tập thơ của ông đã tìm được chỗ đứng vững chắc và sâu rộng trong lòng bạn

đọc, chứng tỏ độ bền của nó với thời gian. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả, bởi

như nhà thơ Trần Đăng Khoa viết: “Thông thường, người ta chỉ đẹp rực rỡ ở lứa

tuổi trẻ trung và từng trải, lịch lãm khi trở về già. Vương Trọng lại rực rỡ ở cái

96

tuổi sắp thành trưởng lão”. Thơ Vương Trọng còn hứa hẹn nhiều mùa gặt bội thu.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Bảo, Thơ Việt Nam - tác giả, tác phẩm và lời bình, Nxb Giáo dục, 2003

2. Phạm Quốc Ca, Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Hội Nhà

văn, 2003

3. Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và THCN, Hà nội, 1987

4. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học

xã hội, 2004

5. Hồng Diệu, Người lính – nhà văn, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội,

2003

6. Hữu Đạt, Phong cách học với việc dạy văn và lý luận văn học, NXB Hà

nội, Hà Nội, 2002

7. Hà Minh Đức, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 1998

8. Hà Minh Đức, Thơ - mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,

1998

9. Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam-hình thức và thể loại, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2006

10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi , Từ điển thuật ngữ văn học,

97

NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2009

11. Sóng Hồng, Thơ, NXB Văn Học, Hà Nội, 1967

12. Phùng Minh Hiến, Tác phẩm văn chương - một sinh thể nghệ thuật, Nxb

Hội nhà văn, 2002

13. Bùi Công Hùng, Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, Nxb Khoa học xã

hội, 1983

14. Bùi Công Hùng, Quá trình sáng tạo thơ ca, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà

Nội, 2000

15. Mã Giang Lân, Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1994

16. Mã Giang Lân, Thơ, hành trình và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội

17. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục,

2002

18. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb

Giáo dục, 2002

19. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

Nxb Giáo dục, 2007

20. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn,tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2001

21. Nguyễn Khắc Sính, Phong cách thời đại, nhìn từ một thể loại văn học,

Nxb Văn học, 2006

22. Nguyễn Bá Thành, Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn

học, 1996

23. Nguyễn Bá Thành, Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb Giáo

dục, 1999

24. Nguyễn Bá Thành - Bùi Việt Thắng, Văn học Việt Nam 1967 - 1975, Nxb

98

Đại học Tổng hợp, 1990

25. Lưu Khánh Thơ ( giới thiệu và tuyển chọn), Xuân Diệu, tác phẩm văn

chương và lao động nghệ thuật, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1999

26. Nhiều tác giả, Lí luận văn học, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2002

27. Nhiều tác giả, Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao Động, 2002

28. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và

giảng dạy, Nxb Giáo dục, 2006

29. Nhiều tác giả, Thơ hiện đại Việt Nam, 1955 – 1975, NXB Giáo Dục, Hà

Nội, 1983

30. Nhiều tác giả, Thơ Việt Nam 1945 – 1985, NXB Văn học, Hà Nội, 1985

31. Henri Benac, Dẫn giải ý tưởng văn chương, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2008

32. IU.M.Lotman, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2007

33. Báo Văn nghệ, 2001 - 2002 - 2003

34. Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1972 – 1993

35. Dương Thị Hường, Thân phận con người sau chiến tranh trong thơ Vương

Trọng, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2004

36. Trần Thị Thu Hương, Những tìm tòi đổi mới trong thơ Vương Trọng sau 1975,

Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2005

37. Tạ Thị Thu Hằng, Về tuyển thơ “Ngoảnh lại” của Vương Trọng”, Khóa

luận tốt nghiệp, Đại học Đà Lạt, 2007

99

38. Các tác phẩm thơ của Vương Trọng