ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG DUNG
PHONG CÁCH THƠ VƢƠNG TRỌNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------
NGUYỄN THỊ PHƢƠNG DUNG
PHONG CÁCH THƠ VƢƠNG TRỌNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 602234
Hướng dẫn khoa học: GS.TS Mã Giang Lân
1
Hà Nội – 2010
MỤC LỤC
1
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 13
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 14
5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 15
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 16
Chương 1: Vƣơng Trọng - nhà thơ trận mạc, nhà thơ công dân ................. 16
1.1. Thơ ca chống Mỹ và những đóng góp của
nhà thơ Vương Trọng ..................................................................................... 16
1.2. Cảm hứng về con người trong chiến tranh và thời kỳ
hậu chiến ....................................................................................................... 18
1.2.1. Hình ảnh người lính ........................................................................ 18
1.2.2. Cảm hứng về người vợ, người mẹ .................................................... 35
Chương 2: Vƣơng Trọng – nhà thơ thế sự ................................................... 46
2.1. Chuyển biến trong thơ Vương Trọng thời kỳ đổi mới ............................ 46
2.2. Kiếp người nhỏ bé vô danh và những triết lý về số phận con người ……
47
2.3. Hình ảnh người thân và bạn bè ............................................................... 54
Chƣơng 3: Ngôn ngữ - nét đặc sắc nổi bật trong nghệ thuật thơ
Vƣơng Trọng ............................................................................. 64
3.1. Ngôn ngữ thơ giàu tính gợi cảm ............................................................. 65
3.2. Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu tượng ........................................................ 73
3.3. Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lý ............................................................... 79
3.4. Ngôn ngữ định danh .............................................................................. 88
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 95
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà thơ Vương Trọng tên khai sinh là Vương Đình Trọng, ông sinh
ngày 1-8-1943 tại làng Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An - mảnh đất cỗi cằn, khắc nghiệt nhưng con người thì hiếu học, giàu
ý chí, nghị lực với truyền thống văn hóa lâu đời, đặc biệt là lòng yêu say văn
chương như đã trở thành máu thịt truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Ngày nhỏ, Vương Trọng học giỏi cả văn lẫn toán. Ông kể: "Thời còn
học ở trường làng, mình đã mê thơ, đặc biệt là Truyện Kiều. Năm học lớp 6
mình đã thuộc toàn bộ Truyện Kiều. Tuy chưa phải "thần đồng thơ" nhưng
năng khiếu thơ ca đã sớm nảy nở ở tâm hồn Vương Trọng, nhất là ông lại
sống cạnh người anh trai Vương Đình Trâm - một giáo viên dạy văn thích làm
thơ và mê Kiều. Hồi kháng chiến chống Pháp, làng Đông Bích lại được chọn
làm nơi đặt trụ sở của Hội Văn nghệ cứu quốc liên khu IV. Vương Trọng có
may mắn không chỉ được biết mặt, biết tên nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng của đất
nước như: Thanh Tịnh, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư... mà còn
được các nhà thơ truyền cảm hứng thưởng thức và sáng tạo văn chương.
Những áng thơ văn của các văn nghệ sĩ ấy đã ngân rung, thấm nhuần và trở
thành mạch nguồn nuôi dưỡng hồn thơ Vương Trọng.
Học phổ thông, được cử đi thi học sinh giỏi toàn quốc môn Văn nhưng
Vương Trọng lại lựa chọn thi vào Tổng hợp Toán. Dẫu vậy, cái nợ văn
chương vẫn đeo đẳng nhà thơ. Những năm tháng ngồi trên giảng đường Đại
học là những năm tháng mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng
ác liệt. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, năm 1964, Vương Trọng rời
giảng đường Đại học để bước vào cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc. Từ
một sinh viên, Vương Trọng đã sống cuộc đời của một người lính. Lăn lộn
trên khắp các chiến trường từ núi rừng Trường Sơn đến Trường Sa, Côn Đảo,
3
từ biên cương, hải đảo đến các vùng đất địa đầu Tổ quốc, từ Nam ra Bắc, từ
đất mũi Cà Mau đến Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang… không đâu không có
dấu chân hăm hở, nhiệt tình của người lính - nhà thơ. Đi nhiều, thấy nhiều,
vốn sống của nhà thơ ngày thêm phong phú. Giai đoạn cống hiến nhiều nhất
sức trẻ cho kháng chiến cũng là giai đoạn mà hồn thơ tài hoa Vương Trọng đã
thực sự khẳng định được tên tuổi của mình với chùm 3 bài thơ đoạt giải: "Bài
thơ nằm võng", "Hội vật quê tôi", "Hoa trẩu".
Sau chiến tranh, trở về là một giáo viên dạy Toán của Trường Văn hóa
Bộ Quốc phòng, Vương Trọng được cử đi học lớp sáng tác của Hội Nhà văn
Việt Nam. Đến tháng 4-1974, Vương Trọng được điều đi B sáng tác, sau đó
ông được chuyển về Tạp chí "Văn nghệ Quân đội" và trở thành nhà văn
chuyên nghiệp từ đó. Hiện nay, dẫu đã gần đến cái tuổi "xưa nay hiếm" nhưng
ngòi bút nhà thơ còn rất sung sức, nói như nhà thơ Trần Đăng Khoa: "người
ta chỉ đẹp rực rỡ ở lứa tuổi trẻ trung và từng trải lịch lãm khi về già. Vương
Trọng lại rực rỡ ở cái tuổi sắp thành "trưởng lão" (37)
Vương Trọng là một thi sĩ có tài trong nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Gần 40 năm chung thủy với văn chương, ông đã để lại nhiều tác phẩm thực sự
có giá trị. Vương Trọng sáng tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn , bút ký, truyện
cười nhưng ông nổi tiếng với danh hiệu nhà thơ.
Tác phẩm thơ: 12 tập
1. Thơ người ra trận (in chung) 1972
2. Khoảng trời quê hương 1979
3. Cánh chim Phai khắt (truyện thơ) 1983
4. Những ngày xa 1986
5. Về thôi nàng Vọng Phu 1991
6. Đảo chìm (trường ca) 1994
4
7. Tặng người trong mơ 1996
8. Mèo đi câu 1996
9. Lời trái đất 1999
10. Ngoảnh lại (tuyển tập) 2001
11. Thơ với tuổi thơ 2001
12. Về thôi nàng Vọng Phu (tái bản) 2002
13. Năm ngắn, ngày dài 2005
Tác phẩm đoạt giải
1. "Bài thơ nằm võng", "Hoa trẩu", "Hội vật quê tôi": giải 3 Báo Văn
nghệ (1969 - 1970).
2. "Về thôi nàng Vọng Phu": giải thưởng Hội Nhà văn (1991).
3. "Đảo chìm": giải thưởng Bộ Quốc phòng (1994)
4. "Mèo đi câu": giải thưởng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1996).
Vương Trọng là một nhà thơ đa cảm, có trái tim nhân hậu, bao dung.
Giữa dòng văn học nhiều ngả rẽ, ông đã lựa chọn cho mình một lối đi riêng.
Bên cạnh những trang thơ sôi nổi viết về người lính, Vương Trọng lầm lũi trở
về với cuộc sống thường nhật, với những mảnh đời bất hạnh, những số phận
éo le, những tâm trạng bộn bề với nhiều nỗi đau nhân tình thế thái. Ở mảng
thơ thế sự, thơ Vương Trọng đằm thắm lạ lùng. Ông tâm sự: "Tôi yêu Đỗ Phủ
hơn Lý Bạch, yêu Nguyễn Du hơn Hồ Xuân Hương, bởi Đỗ Phủ, Nguyễn Du
ngoài tài thơ ra còn có trái tim lớn đau nỗi đau của những cuộc đời bất hạnh.
Thơ sinh ra không phải để người đời chơi chữ, mà cốt để chuyển tải nỗi lòng.
Bài thơ hay nhiều khi không thấy thơ đâu mà chỉ thấy cuộc đời, tâm trạng và
số phận"(37). Lời bộc bạch chân thành và tâm huyết cô đúc hành trình gần
trọn đời thơ Vương Trọng - đó là thơ của những "cuộc đời bất hạnh", mảng
thơ thế sự đã trở thành một "mỏ quặng đích thực" của thơ ông. Ở mảng thơ
5
này, có rất nhiều bài thơ có sức lan tỏa và sức sống thực sự bền lâu trong trái
tim người đọc bởi nó đã đi vào từng góc khuất tâm hồn để viết lên những suy
nghĩ đâu dễ sẻ chia.
Thực tế hiện nay, thơ văn đương đại Việt Nam đã và đang xuất hiện
nhiều xu hướng "cách tân quyết liệt". Nhiều nhà thơ, nhất là các nhà thơ trẻ
luôn khát khao một sự tìm tòi đổi mới về cả nội dung, hình thức thì Vương
Trọng vẫn trung thành với quan niệm sáng tác của mình và với thơ ca truyền
thống bởi theo ông đó là tinh hoa đã được chắt lọc và khẳng định từ ngàn
năm. Điều đặc biệt, những trang thơ ra đời từ cái tạng thơ phương Đông ấy
vẫn chiếm được cảm tình của số đông độc giả .Điều này khẳng định độ chín
với những bản sắc riêng trong thơ Vương Trọng.
Vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “ phong cách
thơ Vương Trọng” , cố gắng khảo sát , tìm hiểu để tìm ra những nét đặc sắc
nổi bật trong thơ Vương Trọng trên phương diện nội dung cũng như nghệ
thuật của thơ ông.
Ở đây,chúng tôi cũng cố gắng khảo sát và đưa ra những quan điểm
khác nhau khi tìm hiểu về phong cách với mong muốn tìm hiểu và đánh giá
chính xác nhất về phong cách thơ Vương Trọng.“Phong cách ngang ngửa
bộn bề. Từ phong cách không nằm trong từ vựng chuyên biệt. Ngoài ra, nó
không chỉ dành cho văn học, cũng không của riêng ngôn ngữ”(30). Bàn về
phong cách là một vấn đề khó, nhất là trong văn học. Tuy vậy phong cách là
thuật ngữ để gọi “cái” mà người ta có thể cảm nhận được trong văn học,
trong cuộc sống hay trong các lĩnh vực khác ( lịch sử nghệ thuật, nhân học,
thời trang, hội họa…). Vậy thực chất phong cách là gì? Trong phạm vi lĩnh
vực này người viết cố gắng khảo sát những ý kiến khác nhau xung quanh
thuật ngữ này nhằm tìm đến một quan điểm đạt đến sự thống nhất khoa học.
Trước hết là vấn đề thuật ngữ.
Thuật ngữ “phong cách”, theo viện sĩ Timophiep, bắt nguồn từ mẫu tự
Latinh. Trước đây người Hy Lạp dùng từ Stylos để chỉ cái que một đầu nhọn,
6
một đầu tù. Người La Mã cũng dùng từ Stylus, cũng chỉ cái que đó nhưng đầu
nhọn dùng để viết, đầu tù dùng để xóa, các chữ viết trên một tấm bảng như có
thoa sáp. Về sau người Pháp dùng từ Style, ban đầu với ý nghĩa nét chữ, về
sau, nó dùng để chỉ bút pháp với những đặc điểm ngôn ngữ của văn học về
ngôn ngữ. Khái niệm “phong cách” mới được sử dụng như cách hiểu hiện
nay.
Khái niệm phong cách có ngoại diên rộng, được chia làm nhiều cấp độ
khác nhau. Mỹ học tư sản theo chủ nghĩa hình thức có lúc đồng nhất nó với
phương pháp nghệ thuật, có khi thu hẹp nó trong thủ pháp sáng tác của người
nghệ sĩ. Đ.Likhaep trong Thi pháp của văn học cổ lại nhấn mạnh mối quan
hệ giữa phương pháp với thế giới quan. Ar. Grigorian trong Vấn đề phong
cách nghệ thuật thì khẳng định “ phong cách không thể vô can với phương
pháp, với thế giới quan, với bút pháp, với cá nhân người nghệ sĩ về thời đại,
với vẻ đặc thù dân tộc trong sáng tác của anh ta… Phong cách là sự thống
nhất cao nhất của tất cả những phạm trù đó”.Turbin thì lí giải phong cách
theo kiểu ngôn ngữ học, xem phong cách như một hình tượng chủ yếu, thậm
chí hoàn toàn có tính chất ngôn ngữ. Ông viết: “Phong cách- đó là ngôn ngữ
được xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng , đó là tác động qua lại,
thường xuyên giữa những khái niệm và những ý tưởng nảy sinh trong ngôn từ
vốn đặt vào một văn cảnh nghệ thuật”.Khác Turbin, V.Đnepvov nhấn mạnh
sự thống nhất giữa các yếu tố nội dung và hình thức của phong cách. Ông cho
rằng hình tượng phong cách là sự tổng hợp, là hệ thống các phương tiện miêu
tả và biểu đạt, hay nói một cách khác, phong cách được coi như là một hình
thức toàn vẹn có tính chất nội dung, “phong cách là mối liên hệ của những
hình thức mối liên hệ đó và bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật”.Ya
Elxberg phát biểu: “ phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức có nội
dung được hình thành trong sự phát triển, trong sự tác động qua lại và trong
7
sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật dưới ảnh hưởng của đối
tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan nhà văn và phương pháp của
anh ta vốn thống nhất với thế giới quan…Phong cách - đó là sự thống trị của
hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó”. Như vậy phong cách của
nhà văn là khái niệm cơ bản của thi pháp.
Ở Việt Nam, vấn đề phong cách nghệ thuật cũng được rất nhiều người
quan tâm. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: “Phong cách là một cấu trúc
hữu cơ có tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và
chứa đựng một giá trị lịch sử, có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một
thể loại, một tác phẩm hay một tác giả”. Nhà thơ Hoàng Trung Thông thì
khẳng định: “Phong cách và cá tính của nhà văn không phải một cái gì khó
hiểu. Đó là biểu hiện khác nhau của mỗi nhà văn trong khi xây dựng chủ đề
nhân vật, trong khi vận dụng hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ văn học.
Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải tự tạo cho mình một
phong cách riêng, một điệu cảm xúc riêng . Còn các tác giả trong cuốn “Lí
luận văn học” (25) thì khẳng định: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng
cũng như nghệ thuật có phong cách thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của
những nhà văn ưu tú. Nó đòi hỏi trước hết nhà văn phải đem lại tiếng nói mới
cho văn học”. “Từ điển thuật ngữ văn học” (10) thì cho rằng: “Phong cách
là quy luật thống nhất của các yếu tố của chính thể nghệ thuật, là một biểu
hiện của tính nghệ thuật”.
Như vậy, định nghĩa về phong cách có nhiều quan điểm, phong phú đa
dạng khác nhau, khó đưa ra một định nghĩa đạt được sự nhất trí của mọi
người. Tuy thế , hầu hết quan điểm đều thống nhất ở chỗ cho rằng: Phong
cách biểu hiện những đặc điểm trong cá tính sáng tạo của nhà văn, là nhận
thức của nhà văn về cuộc sống, là cái nhìn và sự cảm thụ thẩm mỹ của nhà
văn đối với thế giới, là sự tổng hợp các hình tượng nghệ thuật trong sự thống
8
nhất với nội dung
Tuy nhiên, thực tế phát triển của văn học nghệ thuật trong nước và trên
thế giới đều đã chứng minh rằng không phải nhà văn nào cũng tạo cho mình
một phong cách riêng. Cần phải xem phong cách là phẩm chất sáng tạo cao
nhất của người nghệ sĩ trong quá trình đồng hóa nghệ thuật bằng thẩm mỹ.
Nghệ thuật đạt tới đỉnh cao chính là nhờ sản phẩm của những nhà văn có khả
năng in dấu ấn của riêng mình vào việc cảm thụ và lý giải những hiện tượng
phức tạp của đời sống con người. Nói như M. Goorki: “Bạn hãy giữ lấy cái gì
là của riêng mình, làm cho nó phát triển tự do. Lúc một người không có cái gì
là của riêng mình thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết”. Phong cách của
nhà văn, đó là cái riêng, độc đáo, dị biệt và có tính bền vững. Nếu thiếu tính
bền vững, cái riêng độc đáo đó chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, nhất thời. Tuy
nhiên độc đáo thôi chưa đủ, vì như nhà thơ Vương Trọng phát biểu, người ta
có thể nổi tiếng vì xây đền nhưng người ta cũng có thể nổi tiếng vì đốt đền.
Trong văn học cũng vậy, có nhiều cái dở đến “ độc đáo” , gàn dở thì độc đáo
ấy gọi là “quái gở”, chứ không thể gọi là phong cách. Vì thế phong cách phải
mang tính thẩm mỹ. Phẩm chất thẩm mỹ ở đây không chỉ đơn thuần mang
tính kĩ xảo hình thức mà phải có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức,
giữa cái phản ánh và cái được phản ánh . “Phong cách tuyệt nhiên không phải
là kỹ xảo, không phải là chiếc áo khoác. Nếu ví con người là nghệ thuật thì
phong cách là da trên cơ thể con người”.
Vậy chúng ta sẽ tìm hiểu phong cách của một nhà văn từ đâu? Sách
“Từ điển thuật ngữ văn học”(10): “Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có
phong cách. Chỉ những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong
cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy được thể hiện ở các tác phẩm và được
lặp đi lặp lại ở các tác phẩm của nhà văn, làm cho ta có thể nhận ra sự khác
nhau… Trong chỉnh thể “nhà văn”, cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy
9
biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút
pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy”. Vậy là thực chất, phong
cách biểu hiện trong suốt quá trình họat động sáng tạo của nhà văn. Yếu tố
“lặp đi lặp lại” được coi như một cá tính, sở thích, nhu cầu, và cao hơn là
nguyên tắc tổ chức hình thức của tác phẩm. Nói đến phong cách của nhà văn
trước hết phải nói đến hệ thống hình tượng nhân vật mà nhà văn đó xây dựng
nên. Bởi vì thực chất của phong cách một phần cơ bản chính là ở chỗ nhà văn
sáng tạo ra được hệ thống hình tượng, kể cả hình tượng ngôn ngữ của riêng
mình, nghĩa là nhà văn phải sáng tạo ra kiểu cảm thụ và phản ánh nghệ thuật
của riêng mình. Phong cách toát lên từ hệ thống nghệ thuật toàn vẹn nghĩa là
đặc trưng của phong cách không phải ở yếu tố riêng lẻ này hay yếu tố riêng lẻ
khác, do đó, việc tìm hiểu phong cách chỉ có thể đạt được kết quả khả quan
khi chúng ta đặt các yếu tố cấu thành phong cách trong mối tương tác để tạo
thành một chỉnh thể thống nhất. Tư tưởng, chủ đề, hình tượng, ngôn ngữ, thể
loại, môtip… và cuối cùng là cá tính nhà văn đã có tác dụng quyết định tới sự
hình thành của phong cách: “Mỗi nhà văn có một tâm hồn riêng cũng như
mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng kèn xung
trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von, có nhà thơ là dòng suối thầm thì, có nhà
thơ là dòng thác dữ xô đẩy” (Nguyễn Đình Thi). Buffer nói: “Văn học là
người.”
Vương Trọng là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống
Mỹ của dân tộc. Suốt 40 năm , trải qua biết bao biến thiên của cuộc sống, bao
đổi thay của lịch sử, đất nước đang “thay da đổi thịt” từng ngày, Vương
Trọng vẫn gắn bó với công việc của một “phu chữ”, chắt chiu, gom góp
những mảnh ghép cuộc đời để tạo nên thơ. Càng ngày Vương Trọng càng tỏ ra sung sức với một phong cách đã định hình và được khẳng định. §ã còng
chÝnh lµ quan ®iÓm s¸ng t¸c cña th¬ «ng. Kh«ng ®ao to bóa lín, kh«ng cÇu kú
hoa mü, th¬ V ¬ng Träng lµ thø th¬ chiÕm lÜnh tr¸i tim ®éc gi¶ b»ng chÝnh sù
10
gi¶n dÞ ch©n t×nh vµ thµnh thùc cña tr¸i tim thi sÜ, "tr¸i tim lín ®au nçi ®au cña
nh÷ng cuéc ®êi bÊt h¹nh". Tuy m·i ®Õn sau nµy nhµ th¬ míi béc b¹ch nh÷ng
suy nghÜ vÒ th¬ m×nh nh ng quan ®iÓm Êy t ¬ng ®èi nhÊt qu¸n trong suèt c¶
®êi th¬ «ng ngay tõ nh÷ng vÇn th¬ ®Çu tay ra ®êi trong ®¹n löa chiÕn tranh.
Bëi víi V ¬ng Träng c¸i quan träng nhÊt kh«ng ph¶i lµ h×nh thøc th¬ ® îc
viÕt nh thÕ nµo, biÓu hiÖn ra sao mµ mét bµi th¬ muèn cã søc sèng l©u bÒn,
"® îc nhiÒu ng êi yªu thÝch" cèt lâi lµ ë chç nhµ th¬ viÕt c¸i g×, viÕt ®Ó lµm
g× ? TiÕng th¬ V ¬ng Träng lµ th¬ ® îc "ch¾t tõ m¸u" cña mét tr¸i tim giµu nh©n ¸i.
V ¬ng Träng lµ mét nhµ th¬ qu©n ®éi. Sau khi rêi gi¶ng ® êng §¹i
häc, «ng nhËp ngò. Nh÷ng vÇn th¬ ®Çu tiªn cña «ng còng lµ nh÷ng vÇn th¬
viÕt vÒ ng êi lÝnh vµ cuéc chiÕn hµo hïng cña d©n téc. Trë vÒ Hµ Néi, lµm
c«ng viÖc cña mét biªn tËp viªn cho T¹p chÝ V¨n nghÖ Qu©n ®éi, ®iÒu ®ã
khiÕn nhiÒu ng êi hiÓu lÇm m¶ng th¬ së tr êng cña §¹i t¸ qu©n ®éi V ¬ng
Träng lµ m¶ng th¬ vÒ ng êi lÝnh. Thùc tÕ, ngßi bót V ¬ng Träng kh¸ ®a d¹ng.
H¨m hë vµ l¨n lén trªn kh¾p c¸c nÎo ® êng Tæ quèc, ®Õn ®©u, V ¬ng Träng
còng t×m thÊy nguån m¹ch dåi dµo, phong phó cho th¬ m×nh. "§i, ®äc, viÕt lµ
ba kh©u ® îc anh phèi hîp kh¸ nhÞp nhµng. Trong anh, s«i næi vµ th©m trÇm
mét nhµ th¬, mÉn c¸n vµ cÇn cï nhµ b¸o". ChÊt liÖu thùc tÕ ® îc ch¾t chiu tõ
cuéc sèng nhuÇn nhuyÔn trong t©m hån nh¹y c¶m cña nhµ th¬ ®· t¹o nªn mét
V ¬ng Träng ®a thanh. Tuy vËy "cuéc ®êi, con ng êi, sè phËn" trong th¬ «ng
theo sù chuyÓn m×nh cña thêi ®¹i còng ®· cã sù vËn ®éng vµ biÕn ®æi. Trªn c¬
së nh÷ng cè g¾ng t×m t«i, ®æi míi cña ®Ò tµi th¬ V ¬ng Träng, chóng t«i m¹nh
d¹n t×m hiÓu th¬ «ng ë hai m¶ng chñ ®¹o: m¶ng th¬ trËn m¹c vµ m¶ng th¬ thÕ
11
sù ®Ó cã ® îc c¸i nh×n toµn diÖn vµ sù ®¸nh gi¸ chÝnh x¸c nhÊt vÒ th¬ «ng.
2. Lịch sử vấn đề
Vương Trọng là một nhà thơ mặc áo lính. Ông nổi tiếng trước hết với
những vần thơ trận mạc: Lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng là giọng điệu
chung của thơ ca chống Mỹ. Đương thời, Xuân Diệu, Hoài Thanh rất thích bài
thơ này – Bài thơ nằm võng, đặc biệt hai câu thơ:
"Nằm võng thấy cây rừng chao động
Tán lá như sàng các vì sao".
(Bài thơ nằm võng)
Cái nhìn ngộ nghĩnh, thú vị và rất mơ mộng, lãng mạn của chàng lính
trẻ trong khói bom lửa đạn đã tạo nên sức sống cho bài thơ và tên tuổi Vương
Trọng.
Tuy nhiên, phải đến sau này, khi nhà thơ phát hiện ra "mỏ quặng đích
thực của thơ mình" là mảng thơ thế sự thì sự nổi tiếng và sức lan thấm của
những vần thơ ấy mới tạo được chú ý của các nhà phê bình và báo giới.
Trong bài viết Ngoảnh lại, một tuyển tập thơ có chất lƣợng (34), tác
giả Nguyễn Bùi Vợi cho rằng: "đây là một tập thơ của cả một đời người...
những gì tinh túy nhất của Vương Trọng đều có ở đây”. Khái quát toàn bộ
hành trình thơ Vương Trọng qua tập "Ngoảnh lại", nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi
đã nhìn thấy gương mặt tâm hồn của Vương Trọng, đó là con người có cái
"sôi nổi thâm trầm một nhà thơ, mẫn cán và cần cù của một nhà báo”(34).
Hơn nữa, Nguyễn Bùi Vợi thấy được sự thông minh hóm hỉnh của một tư duy
toán học, nhưng cũng rất đa cảm, đa tình của một thi nhân. Thơ Vương Trọng
là những vần thơ "vừa nỗi niềm, vừa tài hoa".
Trần Đăng Khoa trong Đọc tuyển tập thơ Vƣơng Trọng (38) đã tìm
thấy ở nhà thơ cái chất "thông minh" của một "thi sĩ có tài". Theo Trần Đăng
12
Khoa, đóng góp lớn nhất của Vương Trọng cho nền thơ ca hiện đại chính là ở
mảng thơ thế sự. Đây là một nhận định rất có giá trị đã đánh giá một cách
chính xác những thành công của Vương Trọng , nhất là giai đoạn hậu chiến.
Võ Văn Trực khảo sát khá kỹ mảng thơ thế sự và tìm thấy ở trong thơ
Vương Trọng "những trái tim đồng vọng" .
Vũ Quần Phương viết về Vương Trọng: "Vương Trọng tìm chất thơ
trong đời thường khi vui hóm, khi bâng khuâng cả tâm trí nhưng bao giờ cũng
thành thật. Nó là chất thơ vốn có trong đời, không đắp điếm, không ngụy tạo,
càng không điệu bộ ngôn từ. Thơ ấy ít tạo những dư luận bùng nổ nhưng lại
có sức thấm, cứ lặng lẽ xuống lòng người "(34).
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú đã có nhìn nhận, đánh giá rất sắc sảo về
mảng thơ thế sự của Vương Trọng. Tác giả đặc biệt chú ý đến những nghịch
cảnh thế sự và khẳng định thơ Vương Trọng là thơ về những nghịch cảnh thế
sự. Những bài thơ hay nhất của Vương Trọng, theo tác giả, là những bài thơ
viết về nghịch cảnh những số phận, những cảnh đời. Vì thế mà mỗi bài thơ
lại mang dáng dấp một câu chuyện có tình tiết, có nhân vật. Thơ của ông là
thứ thơ gợi nhiều hơn cả. Bài thơ đọc xong không trơn tuột mà để lại những
dư âm trong lòng, thường là nỗi day dứt hay sự băn khoăn về một câu
chuyện trái ngang nào đó. Từ đó, Ts Nguyễn Thanh Tú khẳng định: "Hình
như với anh, không có một trường phái, một chủ nghĩa nào. Thơ anh là thơ
dành cho số đông bạn đọc đang cầm súng, cầm cày, cầm búa...".
Bên cạnh những bài viết có giá trị ghi nhận những đóng góp to lớn của
thơ Vương Trọng với nền thơ ca Việt Nam hiện đại, còn có rất nhiều các bài
phỏng vấn, nói chuyện của nhà thơ Vương Trọng được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Qua các cuộc trò chuyện chân thành và cởi
mở của Vương Trọng, Văn Châu thấy ở Vương Trọng sự "hóm hỉnh, dí dỏm
của người lính, sự sâu sắc, thâm trầm đậm chất triết lý của ông đồ Nghệ",
còn Nguyễn Xuân Hải thấy ở Vương Trọng "dáng vẻ thầy đồ" và thơ Vương
13
Trọng là thứ thơ "tải đạo giúp đời"...
Như vậy, tuy chưa có một công trình nào thực sự lớn viết về thơ Vương
Trọng, nhưng qua những bài nằm rải rác trên các mặt báo, các tác giả đã có sự
ghi nhận với những đóng góp to lớn của nhà thơ trên nhiều phương diện đối
với thơ ca hiện đại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đã có một số sinh viên mạnh dạn
lựa chọn thơ Vương Trọng làm đề tài nghiên cứu khoa học hay khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Đề tài nghiên cứu đầu tiên về thơ Vương Trọng là của sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Nhung , Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn với tiêu
đề: "Vƣơng Trọng - một hồn thơ nhân ái". Ở đề tài này, tác giả Nguyễn
Thị Thanh Nhung đã tiếp cận thơ Vương Trọng và bước đầu nhận thấy giá trị
nhân đạo trong tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ.
Công trình nghiên cứu lớn hơn là khóa luận tốt nghiệp: "Số phận con
ngƣời thời hậu chiến trong thơ Vƣơng Trọng" của sinh viên Dương Thị
Hường, Đại học Khoa học xã hội - Nhân văn.Ở khóa luận này, Dương Thị
Hường tập trung khai thác xoáy sâu vào số phận, cuộc đời, tâm sự của những
con người thời hậu chiến trong thơ Vương Trọng như hình ảnh người mẹ chờ
con, người vợ chờ chồng, hay những mảnh đời éo le, bất hạnh của "hai chị
em" có bố mẹ ly hôn, tâm sự của người mẹ "với đứa con ngoài giá thú"... Tác
giả đã so sánh tương quan những con người thời hậu chiến với một số nhân
vật trữ tình trong thơ Vương Trọng thời kỳ kháng chiến, từ đó phát hiện ra
"tấm lòng nhân ái" qua "cách nhìn mới" về số phận con người của nhà thơ
Vương Trọng.
Một khóa luận được viết khá công phu và chất lượng - đó là khóa
luận: "Những tìm tòi đổi mới của thơ Vƣơng Trọng sau 1975" của tác giả
Trần Thị Thu Hương, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Ở khóa luận
của mình, tác giả Trần Thị Thu Hương đã cho thấy một quá trình lao động
miệt mài, nỗ lực tìm tòi đổi mới của thơ Vương Trọng sau 1975, chứng tỏ
14
"quá trình vận động thơ Vương Trọng từ chủ đề, đề tài, tư tưởng, chủ yếu là
sự thay đổi trong quan niệm con người, tư tưởng nhân văn, nhân ái của nhà
thơ trước cuộc sống "(36). Tác giả đã chỉ ra nét nổi bật trong thơ Vương
Trọng sau 1975 cả về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật, đặc biệt là
những đổi mới về ngôn ngữ thơ.
Công trình gần đây nhất là khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Tạ Thị
Thu Hằng, Đại học Đà Lạt: "Về tuyển tập thơ "Ngoảnh lại" của Vƣơng
Trọng" . Tập trung khảo sát một tuyển tập thơ của nhà thơ Vương Trọng, Tạ
Thị Thu Hằng đã cố gắng khái quát hành trình thơ Vương Trọng hơn 30 năm
và nhận thấy "Ngoảnh lại - một tuyển tập thơ hay", "phong phú, sâu sắc về
nội dung trữ tình và nhuần nhuyễn ở nghệ thuật thể hiện", "thơ Vương Trọng
thấm đượm tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng đội, tình yêu đôi lứa và
tình cảm gia đình"(37). Cuối cùng tác giả khẳng định: "Vương Trọng đã
hướng thơ mình đến mục đích cao cả, phục vụ đông đảo công chúng"(37). Đó
là điều đáng trân trọng nhất ở thơ của ông.
Những công trình nghiên cứu của sinh viên, những bài viết của các nhà
phê bình, nhà báo đã phát hiện ra ở thơ Vương Trọng những nét đặc sắc, độc
đáo có tính chất khu biệt, định danh nhưng mới chỉ dừng lại ở từng mảng đề
tài, hay ở bài thơ, tập thơ. Với lòng yêu mến, đồng cảm tiếng thơ Vương
Trọng, người viết bài này mong muốn đi suốt đời thơ Vương Trọng để khái
quát lên một "phong cách thơ Vương Trọng", giúp người đọc nhận diện một
gương mặt "thi sĩ có tài trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại"(38.)
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thơ Vương Trọng
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các tập thơ của Vương Trọng
15
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
4.1. Phương pháp hệ thống
Sáng tạo thơ ca là một hình thức lao động "khổ hạnh". Nhà thơ là "phu
chữ". Mỗi bài thơ, tập thơ ra đời, đánh dấu sự hoàn tất một quá trình miệt mài
lao động và sự trưởng thành của từng ngòi bút. Đặt trong một hệ thống sẽ
giúp chúng ta có được một cái nhìn toàn diện, đầy đủ, chính xác từ đó có
được những nhận định thỏa đáng khi đánh giá một phong cách thơ.
4.2. Phương pháp thống kê
Phương pháp này giúp chúng ta có thể tìm tòi, phát hiện ra những dấu
hiệu đặc trưng của nhà thơ, đặc biệt trên phương diện nghệ thuật (ngôn ngữ,
hình ảnh, biểu tượng...) từ đó, góp phần phát hiện ra những sở trường, thế
mạnh của nhà thơ.
4.3. Phương pháp lịch sử
Văn học là sự phản ánh con người và thời đại một cách chân thực nhất.
Sử dụng phương pháp này, chúng tôi có thể thấy được sự tìm tòi, đổi mới, sự
trưởng thành của nhà thơ Vương Trọng qua từng chặng đường sáng tác của
riêng ông trong tương quan với các chặng thơ của thơ ca đương thời.
4.4. Phương pháp so sánh
So sánh các tập thơ, các giai đoạn trong suốt hành trình thơ của nhà thơ
với nhau để tìm ra sự vận động trong thơ Vương Trọng; so sánh phong cách
thơ Vương Trọng với thơ ca đương thời, với phong cách thơ của các nhà thơ
khác để thấy được sự đóng góp của nhà thơ với nền thơ cơ Việt Nam, đồng
thời khẳng định vai trò, vị trí của thơ Vương Trọng trong đời sống và trong
văn học.
4.5. Các phương pháp khác
Ngoài các phương pháp trên, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp
16
khác khi viết luận văn này: phương pháp phân tích, bình giảng, v.v..
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Vương Trọng - nhà thơ trận mạc, nhà thơ công dân.
Chương 2: Vương Trọng - nhà thơ thế sự.
17
Chương 3: Ngôn ngữ - nét đặc sắc trong nghệ thuật thơ Vương Trọng.
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1: VƢƠNG TRỌNG - NHÀ THƠ TRẬN MẠC, NHÀ THƠ
CÔNG DÂN. 1.1. Thơ ca chống Mỹ và những đóng góp của nhà thơ Vương Trọng.
“Thơ là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp”(11).
Qua thơ văn, độc giả không chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp tâm hồn, chiều sâu tư
tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan của cá nhân tác giả, qua thơ, người đọc
còn thấy hừng hực hơi thở cuộc sống, hơn hết là tinh thần của cả một dân tộc
trong từng thời đại. Còn đó, sang sảng thơ thần lời hùng thiêng sông núi của
Lý Thường Kiệt bên bờ sông Như Nguyệt; còn đó áng “Thiên cổ hùng văn”
của nhà quân sự, nhà văn hóa, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi thay mặt
Lê Lợi bố cáo với muôn dân trong thiên hạ về một thời đại huy hoàng; còn đó
niềm căm phẫn xót đau, lòng yêu nước cuộn trào trong khao khát chiến thắng
của vị Quốc Công Trần Quốc Tuấn; còn đó, những vần thơ thấm lệ của đại thi
hào Nguyễn Du xót thương kiếp người lưu loạn… Văn thơ là vậy, nhà văn
nhà thơ đâu phải chỉ là ngừời “thư kí trung thành” của thời đại, ghi lại tường
tận từng sự kiện, biến cố, mà quan trọng hơn, qua từng sự kiện biến cố đó,
nhà văn làm sống dậy tinh thần, linh hồn sức sống của cả một dân tộc . Thơ
văn chống Mỹ cũng đã đảm trách nhiệm vụ, chức năng đó một cách đầy xuất
sắc.
Nói đến thơ văn chống Mỹ cứu nước, chúng ta phải thấy được sự hiện
diện của ba thế hệ nhà văn nối tiếp trưởng thành. Thế hệ các nhà thơ thành
danh từ giai đoạn trước cách mạng, kinh qua giai đoạn chống Pháp và tiếp
18
tục cống hiến trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Ở thế hệ các nhà thơ
này, chúng ta thấy được những nỗ lực không mệt mỏi của nhiều nhà thơ lớn
mà tên tuổi của họ gắn liền với phong trào Thơ Mới. Xuân Diệu – “ông hoàng
của thơ tình” với niềm khao khát giao cảm với đời đã nỗ lực bắt mạch vào
cuộc sống và nguồn sáng của cách mạng một cách nhanh chóng tuy có khi
còn nhiều đau đớn và chưa theo kịp với sự đổi mới, sự chuyển mình của cuộc
sống. Tuy vậy, trong hành trình trở về với “cha tôi là nhân dân, mẹ tôi là Tổ
quốc”, Xuân Diệu đã tạo nên một phong cách mới và cũng thành công không
kém ở kháng chiến chống Mỹ. Vượt qua thung lũng đau thương đến với cách
đồng vui”, Chế Lan Viên với chất trí tuệ sắc sảo đem đến cho thơ chống Mỹ
một phong cách chính luận độc đáo với Hoa ngày thƣờng & Chim báo bão.
Huy Cận - người đi “lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên
những vần thơ ảo não” giai đoạn trước cách mạng, thời kì này ông đóng góp
cho thơ chống Mỹ liên tục nhiều tập thơ có giá trị : Đất nở hoa , Bài thơ
cuộc đời, Hai bàn tay em,…
Bên cạnh các nhà thơ “lão thành” là các nhà thơ trưởng thành từ giai
đoạn kháng chiến chống Pháp, trong những năm hòa bình, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nông Quốc
Chấn, Hoàng Trung Thông, … Và đặc biệt, thơ ca chống Mỹ “tươi trẻ”, khỏe
khoắn hơn với sự xuất hiện ngoạn mục của thế hệ các nhà thơ trẻ với nhiều
tên tuổi: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa
Điềm, Dương Hương Ly, Thanh Thảo.... So với đội ngũ nhà thơ chống Pháp
thì các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã tạo ra cho thế hệ mình một phong cách
riêng: trẻ trung, năng nổ, xông xáo, nhiệt huyết và luôn phơi phới niềm hân
hoan và niềm tin tất thắng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc chiến tranh toàn dân, chiến tranh
vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Đáp ứng nhiệm vụ xây dựng pháo đài tâm hồn dân
19
tộc, làm sáng tỏ mục đích cao cả của cuộc chiến đấu, tác động vào tình cảm,
nâng cao năng lực và ý chí chiến đấu bất khuất giành chiến thắng, thơ ca thời
kỳ này biểu hiện sâu sắc lòng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống, về thắng
lợi hiện tại và niềm tin vào tương lai. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là nội
dung chủ yếu , là cảm hứng chủ đạo được thơ khai thác và biểu hiện với nhiều
sắc thái khác nhau. Thơ ca thời kỳ này xoáy sâu vào đề tài Tổ Quốc, vào cuộc
chiến đấu xây dựng và bảo vệ đất nước. Nằm chung trong mạch nguồn sôi nổi
ấy, tiếng thơ Vương Trọng thời kỳ này đã hòa vào dàn đồng ca chung ngợi ca
đất nước , bộc lộ niềm tin tưởng , lạc quan vào chiến đấu và chiến thắng của
dân tộc, thể hiện sức mạnh của tuổi trẻ, chất lính trẻ trung, tếu táo của một
nhà thơ mặc áo lính.
1.2. Cảm hứng về con ngƣời trong chiến tranh và thời kỳ hậu chiến
1.2.1. Hình ảnh ngƣời lính
Khi viết “Đôi lời giữa cuộc thi thơ”, nhà thơ Vương Trọng khẳng
định: “Đề tài chiến tranh, quân đội là một vùng đất màu mỡ và có nhiều vấn
đề làm trái tim người đọc rung động mạnh”(18). Đó là nhận định của một nhà
thơ quân đội nhiều trải nghiệm cả đã thành danh trên mảng đề tài vốn đã có
nhiều người khai thác. Hình ảnh người lính trên các chiến trường đối mặt với
gian nguy và thầm lặng hy sinh vì sự bình yên của Tổ quốc luôn luôn ám ảnh
nhà thơ. Ông đã viết về họ bằng một trái tim đồng cảm, xót đau nhưng rất đỗi
tự hào.
Trong thơ, hình ảnh người lính đã thu hút nhiều bút lực. Anh giải
phóng quân mang theo nhiều vẻ đẹp qua thơ Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa
Điềm, Dương Hương Ly...Người chiến sĩ trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ
xuất hiện ở một tư thế đẹp, tài hoa, dũng cảm và có trình độ. Có một dấu nối
rất đẹp giữa người chiến sĩ hôm qua với người chiến sĩ hôm nay, người chiến
20
sĩ chống Pháp với người chiến sĩ thời chống Mỹ cứu nước. Nhưng, như Giáo
sư Mã Giang Lân nhận xét “người chiến sỹ hôm nay có thêm chiều cao, tầm
vóc chưa từng thấy”
“Anh đi xuôi ngược tung hoành
Bước dài như gió lay thành chuyển non
Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sông núi dậy sóng cồn đại dương”
(Tố Hữu- Tiếng hát sang xuân)
Cái bản chất, cái mục đích là một, nhưng tư thế, suy nghĩ, hành động đã màu
sắc, đã lung linh hơn” (16). Trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc, những vần thơ Vương Trọng ra đời trong bom đạn chiến tranh, trong
cái không khí chung của một thời đại anh hùng. Hình ảnh người lính trong thơ
ông cũng mang trong mình vẻ đẹp lãng mạn, nhiều mộng mơ:
“Nằm võng không có gối vẫn êm
Không trở mình suốt đêm không mỏi
Nằm ngoài trời mà nắng sương không tới
Bởi cây rừng biết chiều ý ta”
(Bài thơ nằm võng)
“Bài thơ nằm võng” là một trong những tác phẩm đầu tay của Vương
Trọng, đó là bài thơ đạt giải báo Văn nghệ năm 1969 – 1970. Bài thơ ra đời
năm 1969, năm khốc liệt nhất, khó khăn nhất của của cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Cả nước hừng hực khí thế “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Trên khắp nẻo đường Tổ quốc, từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến
miền ngược, từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng một tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”( Tố Hữu) . Nằm trong mạch
nguồn ấy, “Bài thơ nằm võng” là khúc hát mê say, lạc quan, tin tưởng. Ở đó
21
hình ảnh người lính hiện lên thật thi vị, lãng mạn. Sau những trận đánh hay
lúc hành quân mệt mỏi, tạm dừng chân trú quân trong rừng rậm, cánh võng
trở thành nơi lý tưởng nhất để ngả lưng.
“Nằm võng thấy cây rừng chao động
Tán lá như sàng các vì sao”
Bầu trời nhìn qua cánh rừng trong đôi mắt người lính thật lấp lánh: “Tán lá
như sàng các vì sao”. Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, thú vị có lẽ chỉ
bắt gặp trong tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của những chàng lính trẻ yêu đời,
hồn nhiên, trong trẻo. Tuy nhiên, “Bài thơ nằm võng” không chỉ đẹp bởi tâm
hồn trẻ trung, mộng mơ của người lính, bài thơ đẹp còn bởi ở đó, người đọc
bắt gặp lý tưởng sống, lý tưởng cách mạng cao cả của họ. Nằm võng suốt
đêm, không có gối, không trở mình sao mà không mỏi, nằm võng ngoài trời
sao mà nắng sương không tới, không thấm vào da thịt? Đó không chỉ là cách
nói mà còn là cách sống, là lý tưởng sống của họ. Phải ở nơi tận cùng của khó
khăn, nguy hiểm, phải đứng ở ranh giới của sự sống và cái chết, phải chứng
kiến sự ra đi của những người đồng đội hôm qua còn sát cánh bên mình, hôm
nay đã về với đất mẹ thì mới thấy được niềm lạc quan, tin tưởng, thái độ ung
dung, thảnh thơi đó cần thiết, đáng quý biết bao. Không khí của thời đại thúc
giục con người phải sống mạnh mẽ, yêu đời hơn. Sống, chiến đấu, và chiến
thắng là nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng của cả dân tộc, và cả thế hệ mỗi cá
nhân. Vương Trọng là một người lính. Ông hiểu hơn ai hết trách nhiệm, nghĩa
vụ của người lính Trường Sơn. Ông hòa mình trong dòng thác mãnh liệt của
thời đại, sống và tận hiến cho cuộc sống, lý tưởng mà mình đã lựa chọn. Vì
thế, thơ ông rất thực, rất đời. Không cầu kì hoa mỹ mà vẫn toát lên cái khí thế
của cả một thời kỳ lịch sử. Những người lính Trường Sơn là vậy, họ sống
bằng niềm lạc quan và niềm tin chiến thắng: “Một hàng quân bước, hai hàng
người vui”(Ngọc Tấn); “Mỗi trang thơ đều rộn tiếng ta cười”(Chế Lan Viên).
22
Trong đôi mắt họ “ra chiến trường như trẩy hội mùa xuân”(Xuân Thiêm).
Trong đôi mắt Vương Trọng người lính, vì thế mà mỗi chuyến xe chở hàng ra
mặt trân cũng đều hiện lên rất chân thực mà nên thơ. Bài thơ “Chiến hào ra
trận” đã khắc họa những khoảnh khắc kiên hùng và lãng mạn đó của người
lính lái xe:
“Xe chạy nhanh
Bỏ lại sau lưng nhiều vết đạn
Xe dừng đột ngột
Ném ra phía trước một hố bom
Xe rung trong tiếng rít gầm
Người lái xe nhô đầu ngoài buồng số
Bám từng chiếc máy bay
Và cứ thế, xe khi dừng khi chạy
Như thách thức quân thù.”
( Chiến hào ra trận)
Khác “bài thơ nằm võng” là những khoảnh khắc yên tĩnh bình lặng
hiếm hoi và vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, mộng mơ; “Chiến hào ra trận” ầm
ầm bom nổ, tiếng súng đạn rít gầm. Cả bài thơ là một cuộc rượt đuổi nguy
hiểm thách thức, một trận tàn sát giữa trên đầu là máy bay địch lồng lộn quần
đảo, phía dưới là những đoàn xe vật lộn kiên cường tải hàng ra trận. Cái chết
rình rập, hiện hình từ phía kẻ thù bất cứ lúc nào. Tuyến đường ra trận đầy
hiểm họa
“Bom nổ gần nổ xa
Đạn cày ngang cày dọc
Đất tung lên bám vào đầu vào mặt
Đất tung lên lấp đầy mui xe.”
23
( Chiến hào ra trận)
Những khó khăn, nguy hiểm, thách thức đã trở nên nhỏ bé trước sức chiến
đấu phi thường của người lính, sức mạnh nội lực được hội tụ bởi sức mạnh
thời đại và dân tộc:
“Ấy là khi
Mắt người lái xe bốc lửa
Sáng hơn ánh chớp đạn bom
Bắp tay cuộn tròn
Lái xe như chở chiến hào ra trận”
( Chiến hào ra trận)
Ở “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, người
lính hiện lên có cái đáng yêu, cái say sưa, khinh thường nguy hiểm mà không
có chút gì phiêu lưu mạo hiểm. Họ ngang nhiên, xông xáo, xe vỡ hết cả kính
vẫn cứ đi, đi vì nhiệm vụ:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi.
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Họ đi vì mỗi người lính lái xe đều mang trong lồng ngực một trái tim thắp
lửa:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
24
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Thì đôi mắt người lái xe trong “Chiến hào ra trận” cũng chính là trái tim
Đankô sáng rực như than lửa, sáng hơn sao và át cả cánh chớp đạn bom được
thắp lên bằng ngọn lửa của niềm tin chiến thắng. Hình ảnh người lính lái xe
mang vẻ đẹp của những anh hùng sử thi một thuở. Sức mạnh của họ là sức
mạnh của niềm tin, của lòng căm thù, sức mạnh của khát khao chiến thắng.
Vượt lên khó khăn, đạp bằng nguy hiểm, những người lính lái xe vẫn hiên
ngang chở “một chiến hào ra trận” – một hình ảnh thực, đẹp và nên thơ.
“Đặc điểm nổi bật trong tâm trạng của người chiến sĩ quân đội mà thơ
ca đã thể hiện là tinh thần lạc quan yêu đời, tinh thần chịu đựng gian khổ, hy
sinh và quyết tâm đánh giặc đến cùng”(22). Trong thơ Nguyễn Đình Thi,
Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Chính Hữu, Xuân Thiều...., hình ảnh
người lính thời chống Mỹ đã được khắc họa với đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn ấy.
Tuy nhiên, không phải thơ đã thi vị hóa, lý tưởng hóa mà chính đó là tâm
trạng điển hình cho đời sống nhân dân ta thời đánh Mỹ. “Có như vậy, chúng
ta mới giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh ác liệt 20 năm” (22)
Người lính hiện lên trong thơ Vương Trọng mang tâm trạng điển hình
đó của hình tượng người lính cụ Hồ. Trong khốc liệt của bom đạn chiến tranh,
cái chết luôn luôn rình rập, thơ Vương Trọng vẫn ngời lên sự sống, đốt cháy
lên niềm hy vọng vào một tương lai tươi đẹp. “Tiếng trẻ học bài” là một thứ
âm thanh kì diệu, trong trẻo và vang vọng đánh thức sự sống, mang bình minh
tràn ngập trận địa, gieo hạt xuân trở mình trên cỗi cằn:
“Ở đây gần chiến trường
Không gian rung nhiều tiếng động
Vẫn có phút giây yên lặng
Cho rễ làm củ, cho nụ làm hoa
Bình minh về đậu trên trang sách
25
Mang tiếng trẻ học bài vang xa”.
(Tiếng trẻ học bài)
Giữa “không gian rung nhiều tiếng động”, đôi tai nhạy cảm của nhà thơ
Vương Trọng đã bắt được thứ âm thanh trong trẻo diệu kỳ vang ngân từ tiếng
trẻ học bài – những “mầm non” đất nước, âm thanh đó là động lực chiến đấu,
là ý chí chiến thắng, là niềm tự hào về sức sống và tình yêu đất nước. Nó là
những mầm sống nảy sinh từ cái chết, là tiếng ca thúc giục:
“Khẩu trung liên trên đê
Khẩu pháo ngoài trận địa
Cởi áo bạt lắng nghe
Tiếng trẻ học bài”
(Tiếng trẻ học bài)
Có thể thấy người lính trong thơ Vương Trọng mang trong mình những
phẩm chất của những người vì lý tưởng cách mạng. Họ đã chiến đấu, đã hy
sinh và quên mình cho Tổ quốc. Trái tim họ, luôn rực lửa đấu tranh, tâm hồn
họ luôn trẻ trung, lạc quan và khát khao hòa bình, khát khao chiến thắng. Sức
mạnh thời đại, sức sống dân tộc tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả để
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Viết về những người lính, các nhà thơ không chỉ khai thác cái “bề nổi”,
khắc họa những trận đánh, những hành động anh dũng kiên cường ngoài trận
địa, họ còn tập trung làm nổi bật thế giới tâm hồn, tình cảm của những người
cầm súng. Tình cảm đồng chí, đồng đội, tình cảm quân dân cá nước đã làm
xúc động người đọc bao thế hệ. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã viết:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí”
26
( Đồng chí )
Tình cảm của người lính “là một thứ tình cảm mới, cùng chung một ý
thức, một nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mới nhưng vẫn thấy như là thứ tình cảm
xa xưa quen thuộc của dân tộc” (11).
Hình ảnh hai người chiến sĩ:
“Kì hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ tay tìm hơi ấm đêm mưa”
(Nhớ - Hồng Nguyên)
đã làm xúc động bao nhiêu thế hệ. Tình cảm bình dị, gần gũi nhưng ấm áp sẽ
còn chảy mãi trong mạch nguồn thơ ca, trong sự sáng tạo không ngừng của
nghệ thuật. Vương Trọng là một người lính. Ông hiểu hơn ai hết những vất vả
nguy hiểm trên suốt cuộc hành trình chiến đấu. Bom đạn kẻ thù đã là một lẽ,
nhưng sự khắc nghiệt của thời tiết cũng nguy hiểm không kém. Thời chống
Pháp, Quang Dũng viết về những người lính Tây Tiến sốt rét dọc đường hành
quân bằng vẻ đẹp lãng mạn:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
(Tây Tiến)
Ở “Điểm tựa các anh”, Vương Trọng cũng tái hiện một không gian
khắc nghiệt và nguy hiểm của thiên nhiên: Mùa đông dài, giá lạnh, tuyết phủ
quanh năm, đến nỗi “thư đến, tay run không bóc được”, đất thì “cằn khô vàng
uá lá sồi”, “trời khắc nghiệt cỏ gianh không mọc nổi” chứ nói gì đến rau
xanh; những người lính chốt giữ những đỉnh núi cao ấy đã tựa vào nhau, tìm
hơi ấm đêm đông:
27
“Lên đây rồi, đừng hỏi tựa vào đâu
Cứ ở lại cùng những người đồng đội
Quàng vai nhau ngồi bên bếp củi
...
Và anh cười. Tôi quên hiểu nỗi lo
Hiểu điểm tựa đỉnh cao này là thế
Tựa vào lòng dân, tựa vào tuổi trẻ
Tựa rộng dài đất nước phía sau lưng.”
( Điểm tựa các anh)
Chứng kiến cái khắc nghiệt của mùa khô Trung Lào, nhìn những người đồng
đội “khát cháy lòng”, Vương Trọng không khỏi xót xa:
“Lặng nhìn đồng đội mà thương
Nắng nôi theo suốt chặng đường hành quân
Đất tơi trì trật bàn chân
Tóc tai màu bụi áo quần màu tro
Cúi người đã nặng ba lô
Để xương vai bạn gầy nhô vai đồi
Bi đông cạn nước lâu rồi
Cạn khô cả giọt mồ hôi đường dài”
(Đi dọc mùa khô)
Cái “lặng nhìn” của Vương Trọng chứa đựng biết bao ân tình, bao nỗi niềm
thương mến, xót xa. Đó là thứ tình cảm đâu dễ cất thành lời, là “cái tình cảm
đa dạng, phong phú, tế nhị như một mạch nước ngầm thấm vào từng thế hệ,
từng hoàn cảnh cụ thể” (15). Hơi ấm của “Bếp lửa Lũng Cú”- cái địa danh
chót vót bản đồ đã sưởi ấm tình đồng đội, chứng kiến niềm hạnh phúc ngọt
ngào của những người lính khi quây quần bên bếp lửa:
28
“Tôi hơ tay vào lửa
Muốn lặng yên
Tận hưởng hạnh phúc vừa bén tới
Được ngồi sưởi cùng những người đồng đội
Bao nhiêu chốt giữ đất này”
( Bếp lửa Lũng Cú )
Được sống trong tình đồng đội, được sẻ chia mọi vui buồn, ấm lạnh của cuộc
đời, đó là niềm hạnh phúc vô bờ của người chiến sĩ trong mỗi phiên gác, mỗi
trận đánh và mỗi cuộc hành quân.
“Trao phiên gác, trao áo bông cho bạn
Mây mù ngưng, ẩm ướt nặng hai vai”
(Bên bếp lửa Lũng Cú)
Ở người lính còn có một thứ tình cảm mà chỉ có những người trong
cuộc mới biết, nói như nhà thơ Trần Ninh Hồ:
“Hai đứa cười mà lệ tràn trên má
Ai cũng nghĩ phía bạn mình bom rơi nhiều hơn”
(Phía này, phía kia)
Đó là sự lo lắng, sợ hãi khi nghĩ về bạn, lo cho bạn mình liệu có còn sống sót
sau trận bom hay không, là thái độ không yên lòng khi nghĩ về bạn, và là
niềm vui mừng đến trào nước mắt khi thấy bạn còn sống. Những cung bậc
tình cảm ấy chỉ có thể có ở người lính – những người vào sinh ra tử, thường
xuyên giáp mặt tử thần.
Tình đồng đội, đồng chí được thể hiện trong thơ Vương Trọng với
nhiều sắc thái. Có khi là niềm hạnh phúc nhỏ bé được sưởi ấm cùng đồng đội,
là cái “lặng nhìn” xót xa, thương cảm, là cái nắm tay, là cái trao lời hát, là
chung rượu cần nhường nhau trong đêm hội....Tất cả góp phần khắc họa thế
29
giới tâm hồn, tình cảm đa dạng của những người lính Trường Sơn.
“Hình ảnh anh bộ đội là hình ảnh tập trung nhất, rõ nét nhất của con
người Việt Nam trong chiến đấu. Trong cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ
đó, người Việt Nam đã chịu đựng biết bao hy sinh, biết bao tổn thất. Nhưng
không phải mọi nỗi đau của con người đều đi vào thơ. Thơ hiện đại không nói
nhiều về nỗi đau thương của con người trong chiến tranh. Ngay cả nỗi buồn,
nỗi nhớ đôi khi cũng cần phải cân lượng để không làm thơ yếu mềm, thiếu
tính chiến đấu” (22). Vương Trọng là người trực tiếp chiến đấu trên các chiến
trường. Ông chứng kiến tất cả những vất vả, gian nan, những chịu đựng, hy
sinh của người lính. Không trốn tránh hiện thực đó, ông đã viết về những gian
khổ, những hy sinh của những người lính một cách chân thực, không chút
khoa trương, phóng đại. Viết không phải để kể khổ. Viết để người đọc hiểu
hơn về người lính, để “thế hệ sau biết về thế hệ trước nhiều hơn” (Lời Vương
Trọng)
Riêng ở mảng thơ này, Vương Trọng tập trung khắc họa những người
lính chiến đấu ở Tà Sanh, ở những cánh rừng nước bạn Lào, những người lính
ở biên cương, hải đảo. Dù đất nước đã hòa bình thống nhất, nhưng vẫn còn
những người lính vì trách nhiệm, sứ mệnh cao cả của thời đại, vẫn ngày đêm
đối mặt với hiểm nguy, với những hy sinh, gian khổ, với những khốc liệt của
thiên nhiên và sự dã man của kẻ thù.
Ám ảnh lớn nhất trong thơ Vương Trọng phải kể đến những cơn khát
của người lính – những cơn khát cháy họng, khát đến “khô cả giọt máu hồng”
(Tà Sanh):
“Đánh tan trận phản kích thứ sáu trong ngày
Chúng tôi điểm mặt nhau
Những khuôn mặt quánh mồ hôi, thuốc súng, đất chiến
hào
30
Nước trong bi - đông thủng
Không còn đủ ngụm
Cho đồng chí bị thương.
Cơn khát tưởng chừng đã quên
Bỗng kéo về bỏng rát”
(Một ngày giữ chốt)
Sau trận “phản kích thứ sáu trong ngày”, những người lính tưởng
chừng có thể quên đi cơn khát, nhưng khí hậu khô khốc của nắng gió Trung
Lào tưởng như vắt kiệt nốt chút sức lực còn lại của họ. Những ai đã từng đi
qua nơi đây, những ai đã từng ngủ trưa ở Phú Lợi mới hiểu thế nào là nắng, là
gió:
“Không mây
Không gió
Bầu trời
Treo
Mặt trời – quả lửa
Không cây
Không ngọn cỏ
Đất hút tầm
Cát nỏ
Rang
Nhà tôn
Mái tôn
Vách tôn
Những người lính cởi trần
Nằm ngủ”.
31
(Trƣa Phú Lợi)
Có thể thấy nắng nóng đã trở thành một nỗi kinh hoàng, trở thành một nỗi ám
ảnh khôn khuây. Những đợt hành quân trong mùa khô, những đợt hành quân
trong nắng hạn, chứng kiến điều đó mới thấu hiểu những hy sinh, những gian
khổ chịu đựng của người lính thật sự phi thường, mới thấy được lòng dũng
cảm, ý chí kiên cường và lý tưởng cách mạng sáng ngời trong tim họ:
“Mùa khô khắc nghiệt Trung Lào
Rừng le như rạ ai cào ai phơi
Cây cà – boong cạn nhựa rồi đứng trơ
Ve gầy kêu xác rừng thưa
Tiếng chim Pơ – tốc nhớ mưa gọi khàn
.....
Lại rừng khộp, lại rừng le
Ngàn cây không chiếc lá che mái đầu
Chúng mình nghiêng bóng che nhau
Đi qua khắc nghiệt của Trung Lào mùa khô”
(Đi dọc mùa khô)
Vương Trọng không trốn tránh thực tế khi viết về những gian lao, vất
vả của đội quân tình nguyện ở Sư đoàn 330. “Tà Sanh” là bài thơ tái hiện
một cách chân thực nhất những khốc liệt của chiến tranh, của quân thù và của
cả thiên nhiên. Lời thơ giản dị, chân tình. Từng lời, từng lời là trải nghiệm của
chính ông .
Bài thơ này ra đời khi đất nước ta đã giành được độc lập, thống nhất,
chỉ còn một bộ phận quân tình nguyện còn đang làm nghĩa vụ quốc tế tại
nước bạn Lào. Ông viết về họ với một thái độ ngợi ca, viết về những hy sinh
gian khổ để cảm thấy và thấu hiểu, để trân trọng hơn những người lính dũng
cảm, kiên trung. Khác với những dòng thơ đánh Mỹ , âm hưởng chủ đạo là
32
âm hưởng lạc quan chiến thắng, không khí hừng hực sức sống của những mùa
ra trận – mùa vui bao trùm toàn bộ giọng điệu chung của thơ ca giai đoạn này
thì “Tà Sanh” là những gì nhọc nhằn, vất vả nhất. Ở “Tà Sanh”, người đọc
được chứng kiến địa bàn chiến đấu của bộ đội ta bên nước bạn thật lắm khó
khăn, nhiều trở ngại, nhất là thiên nhiên – những khu rừng mùa khô rụng hết
lá, trơ cành, những con voi già trụi lông sốt rung rừng, những dòng suối khô
cạn nước, mọi vật đứng trên cái ngưỡng chết chóc, tử khí bao trùm không
gian:
“Con voi rừng trụi lông
Sốt rung rừng lá mùa khô rơi rụng
Khe lá mục cạn dòng nước uống
Con nai khát ăn nhầm lá độc
Chết vắt ngang thân mục gỗ chắn đường
Cánh kền kền – từng mảng trời – rơi xuống
Xé nhau xác chết, thét vang rừng
Con voi già trụi lông
Quay đầu về Bát đom bong”
(Tà Sanh)
Mùa khô ở Trung Lào, sáu tháng không có một giọt mưa, bầu trời lúc
nào cũng xanh ngăn ngắt, nắng nóng chang chang khô như rang, vạn vật héo
úa, cây cối chết chóc, trụi lá khô cằn, con người cũng kiệt sức vì mất nước:
“Bạn tôi nằm héo khô trên mặt đất
Đất đồi khô, khô cả giọt máu hồng”
(Tà Sanh)
Những cơn khát khô môi, khát đến khi không nói được, muốn nói phải
nguệch ngoạc viết lên mặt hầm, những cơn khát “đến khi không đi được, nằm
nhìn trời mà tưởng nhớ dòng sông”. Sự thật là trong cuộc chiến đấu giữa
33
rừng Tà Sanh, nhiều người lính đã ngã xuống, không phải vì bom đạn, kẻ thù
mà bởi cái khắc nghiệt, nghiệt ngã của khí hậu khô cằn. Sống trong hoàn cảnh
ấy, họ có những ước mơ thật bình dị, nhưng nghĩ mà xót xa mà ám ảnh:
“Ước một cây chuối rừng
Bập răng vào nhai cho thỏa thích
Nhắc khế chua miệng không sinh nước bọt
Mắt nhìn trời cầu mong một cơn mưa”
( Tà Sanh)
Nhưng mưa chỉ nằm trong chiêm bao, mưa chỉ nằm trong cổ tích, còn những
người lính vẫn khát khô cả hồng cầu. Ngòi bút của Vương Trọng chân thực.
Ông không ngại phơi bày sự thật. Cái sự thật mà mỗi khi nghĩ tới chỉ thấy xót
lòng.
“Tà Sanh” còn ám ảnh Vương Trọng bởi những cơn sốt rét rừng. Đây
là nơi “Tàn quân Pôn Pốt đến / lẩn quất cùng vi trùng sốt rét/ cùng muỗi vằn
Anôphen/ cùng lạnh nước đen ngòm lá độ/. Lũ giết người bằng búa bằng dao/
lũ giết người bằng gặm nhấm hồng cầu/ kết bạn”. Hình ảnh những người lính
sống, chiến đấu trong khu rừng rậm rạp, nơi những đàn muỗi vằn Anôphen
hoành hành, thì việc họ bị những cơn sốt rét rừng hành hạ đã trở nên quen
thuộc.
“Và người ơi, cơn sốt rừng nhớ lấy
Hai mươi tuổi bạn tôi chống gậy
Chỉ còn hơn một triệu hồng cầu
...
Người Pa-lin đi dân công hỏa tuyến
Vài tuần thôi về sốt trọc đầu”
34
(Tà Sanh)
Quen thuộc mà vẫn quá xót xa khi những người lính mới hai mươi tuổi, cái
tuổi sinh lực cường tráng nhất đã phải chống gậy bởi “chỉ còn hơn một triệu
hồng cầu”. Biết là nguy hiểm, biết là gian khó nhưng làm sao tránh nổi.
Nhưng người lính trong thơ Vương Trọng không vì vậy mà bi lụy mà nhụt
chí, thối lui. Họ vẫn sẵn sàng đi, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng chiến đấu, vì bản
thân họ mang sẵn lý tưởng cách mạng cao đẹp, bởi họ hiểu và nhận lãnh sứ
mệnh thiêng liêng mà dân tộc giao phó. Họ đi vì nghĩa lớn.
Hình ảnh người lính còn ám ảnh trong thơ Vương Trọng bởi những cơn
đói, những cơn đói quay , đói quắt.
“Suốt ngày gạo sống không kịp bốc ăn
Giặc tan rồi mới hay mình đang đói
Túi gạo sấy trúng đạn nhiều lần vung vãi
Tay đói run nhặt gạo lẫn đất hầm
Tay lấm lem đầu súng và thuốc đạn
Gạo nhặt rồi rơi xuống bàn chân...”
(Tà Sanh)
Những câu thơ chân thật giống như một thước phim dựng lại những năm
tháng oai hùng mà gian khổ. Những câu thơ nghẹn ngào xót thương. Những
câu thơ ấy làm sáng lên một sự thật không thể phủ nhận: Những người lính
Việt Nam, những người lính trong đội quân của “Con hổ xám miền Tây” – Sư
đoàn 330 là hình tượng vĩ đại cho tinh thần đoàn kết quốc tế, sẵn sàng xả thân
vì hòa bình thế giới của dân tộc ta.
Chiến tranh không chỉ được Vương Trọng nhìn bằng đôi mắt lạc quan,
bằng niềm vui hân hoan trong ngày chiến thắng của cậu bé ngồi trên vai cha
nhìn thằng Mỹ cuối cùng cút khỏi miền Bắc , chiến tranh trong trái tim đa
35
cảm nhiều nỗi đau ấy luôn khắc khoải những vết thương khó lành
Vương Trọng không né tránh khi viết về sự hy sinh của người lính. Với
ông, bao nhiêu con người đã ngã xuống, bao máu xương đã đổ. Mỗi tấc đất
đều trộn máu cha anh, mỗi tấc đất là niềm đau nhức nhối. Vọng từ thẳm sâu,
tiếng đất hay tiếng người nghẹn ngào thổn thức
“Vết thương chảy máu bây giờ còn đau
Người ơi, đừng để mai sau
Nỗi đau mặt đất xoáy sâu lòng người”
(Tiếng đất)
“Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn”, nhà thơ bồi hồi xúc động lắng
nghe lời thông hát ru, dòng sông vỗ về để nỗi đau dịu lại giữa vùng đất thiêng
liêng, mỗi bước chân đi phải thật nhẹ vì sợ làm đau thêm người nằm dưới mộ.
“Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
Nơi gặp gỡ những người con
Thời gian không thêm tuổi
Nơi chiến trường và hậu phương xích lại
Tên liền dòng trên bia đá xanh
Cách nhau nửa quãng đời tuổi trẻ”.
( Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn)
Ngàn vạn tấm bia mộ được dựng lên ghi tên ngàn vạn con người đã ngã
xuống để “những nhịp cầu, con đò cho cuộc sống đi qua”, đó cũng là bấy
nhiêu tội ác của kẻ thù, là bấy nhiêu tình yêu thương, tự hào của nhân dân cả
nước, nhưng đó cũng là niềm đau của những người còn đang sống. Xúc động
ngậm ngùi, nhà thơ chỉ còn biết cúi đầu trước mỗi dòng tên:
“Không đủ vạn bông hoa
Cắm lên mộ từng người đồng chí
36
Tôi bước nhẹ bằng đôi chân chiến sĩ
Đến cúi đầu trước mỗi dòng tên”.
(Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn)
Nằm chung trong dòng cảm xúc về những đau thương, những hy sinh
mất mát, Vương Trọng không chạy trốn thực tế, cũng không tô hồng cho sự ra
đi của các anh thêm lý tưởng như thơ văn chống Pháp. Nhà thơ chân tình giản
dị khi viết vế sự ra đi của đồng đội:
“Vải bạt dần dần khuất
Thôi xa rồi anh ơi
Tình thương chìm vào đất
Theo dòng nước mắt rơi”
(Nấm mộ đắp bằng)
Không khí lặng yên chỉ nghe dòng nước mắt lặng lẽ lăn còn niềm đau thì nén
lại, lắng vào sâu thẳm trái tim người còn sống.
Viết về chiến tranh, viết về người lính là một mảng thơ xúc động và
chân thực của nhà thơ Vương Trọng. Có lẽ bởi ông là người trong cuộc.
Chứng kiến và cùng đồng đội trải qua những giây phút khó khăn, hiểm nghèo
nhất, Vương Trọng vì thế mà thấu hiểu mọi gian khổ của người lính, mọi hy
sinh, mất mát của họ. Ông đã viết về họ bằng một thái độ tự hào, trân trọng,
với một tấm lòng thành kính biết ơn; với một trái tim đồng cảm xót thương;
một đôi mắt tin yêu, ngưỡng vọng. “Bằng mảng thơ này, Vương Trọng đã hòa
mình vào đội ngũ của những nhà thơ khoác áo lính”(Trần Đăng Khoa).
1.2.2. Cảm hứng về người vợ, người mẹ
Theo Vương Trọng “xung quanh chúng ta, dấu ấn chiến tranh để lại
mọi nơi, nhìn về phía nào cũng gặp. Đó là đường hằn trên vầng trán của cha,
nếp nhăn trước tuổi ở cuối đuôi mắt của chị và của bà mẹ hàng xóm sống côi
cút một mình vì đứa con duy nhất đã hy sinh thời chống Mỹ”. Ở thơ mình,
37
ông đã dành một phần không nhỏ để viết về họ, những người phụ nữ đã âm
thầm hy sinh chốn hậu phương, để chồng để con ra trận. Những người phụ nữ
ấy vẫn lặng lẽ vào ra với ngổn ngang tâm sự đâu dễ tỏ bày.
Trong thơ ca Việt Nam, người đọc đã quen thuộc với sự xuất hiện của
những người phụ nữ. Đây là một đề tài truyền thống của thơ ca dân tộc ta.
Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau, hình ảnh người phụ nữ cũng được nhìn
nhận, đánh giá ở một góc độ khác nhau. Trong thơ văn trung đại, người phụ
nữ đã khẳng định được vẻ đẹp tài hoa, đức hạnh của mình nhưng nhìn chung
họ đều có chung số phận bất hạnh (Thúy Kiều, Vũ Nương,...). Giai đoạn
chống Pháp, vị trí của người phụ nữ đã đổi thay. Họ mang tâm hồn, tầm vóc
mới: đảm đang việc nước, nghèo nhưng giàu lòng thương con, thương bộ đội
như con mình, ân cần chăm lo chu tất. Các bài thơ Phá đƣờng, Bà bủ, Bầm
ơi (Tố Hữu), Ngƣời đàn bà Ninh Thuận, Bà mẹ canh biển (Tế Hanh), Cắn
răng (Phạm Hổ), Kể chuyện Vũ Lăng (Anh Thơ), Thăm lúa (Trần Hữu
Thung), Mẹ(Nguyễn Bính), Gửi mẹ trong vùng giặc chiếm (Chế Lan
Viên)....tất cả đều nhìn nhận người phụ nữ dưới một ánh sáng mới. “Tất cả
đều chan hòa trong một cảm xúc chung gắn bó với anh bộ đội, hình ảnh cuộc
kháng chiến gian khổ, anh hùng”(22) Đến giai đoạn chống Mỹ, hình ảnh
người mẹ gắn liền với hình tượng Tổ quốc – mẹ Việt Nam anh hùng là biểu
tượng vĩ đại nhất về sự hy sinh âm thầm mà cao cả.
Viết về người mẹ trong chiến tranh đã nhiều, Vương Trọng cũng góp
thêm tiếng thơ để hoàn thiện bức tranh chung về người mẹ anh hùng. Số
lượng thơ viết về người mẹ trong chiến tranh ở thơ Vương Trọng không nhiều
nhưng đủ để người đọc hiểu được tấm lòng yêu thương, trân trọng và tình
cảm sâu nặng của nhà thơ với những người mẹ. Thơ của Vương Trọng viết về
mẹ dung dị, đôn hậu và gần gũi: Đó là người mẹ đồng chiêm (Mẹ đồng
chiêm), người mẹ vùng cao (Mẹ Bắc Kạn), người mẹ Miền Nam(Bóng dừa,
38
bóng má)...và dù mỗi người mẹ ở một vùng miền khác nhau nhưng họ đều
mang trong mình vẻ đẹp của những người mẹ Việt Nam: giàu lòng nhân đạo,
giàu đức hy sinh, hết lòng vì chồng con, vì đất nước.
Cũng giống như bao bà mẹ khác, người mẹ trong thơ Vương Trọng là
hình ảnh gắn liền với quê hương, với làng quê thân thuộc, nơi nhà thơ đã lớn
khôn. Với ông, người mẹ giữ một vị trí vô cùng thiêng liêng trong suốt cả
cuộc đời, nhất là những năm đánh Mỹ. Hình bóng người mẹ luôn theo sát
bước chân hành quân của ông, giữ vững niềm tin cho ông suốt những năm dài
chiến đấu gian khổ:
“Con đến đâu cũng có bát cơm đầy
Bát cơm nào cũng gợi về nơi mẹ
Hạt thóc quê mình ngàn năm vẫn trẻ
Đủ sức theo con hết cuộc trường kỳ”
(Mẹ đồng chiêm)
Bát cơm ông ăn suốt cuộc hành trình luôn gợi nhắc về hình bóng mẹ, lam lũ,
nhọc nhằn, vật lộn với đồng sâu:
“Một ngày mẹ vật lộn với đồng sâu
Cắm cây mạ mấy lần, mấy lần cằm chạm sóng
Chân ngập trong bùn, lưng còng trong nắng
Mẹ trở về chạng vạng dáng đi”
(Mẹ đồng chiêm)
Người mẹ Việt Nam muôn đời vẫn tần tảo, chịu thương, chịu khó như thế,
vẫn hai sương một nắng “Chân ngập trong bùn, lưng còng trong nắng”. Thời
gian và khó nhọc khắc hình lên trong “chạng vạng dáng đi”. Nhưng thời gian
khó nhọc chẳng thể nào khuất phục nổi ý chí kiên cường của mẹ. Trong
những năm dài đánh Mỹ, mẹ luôn là hậu phương vững chắc cho con, cho
39
đồng đội của con. Mỗi hạt gạo, mỗi bát cơm thơm thảo mẹ gửi ra chiến
trường đều thấm giọt mồ hôi của mẹ, đều thấm tình yêu thương và niềm hy
vọng của mẹ suốt một đời lam lũ , chắt chiu:
“Hạt gạo dài nâu đỏ khó quên
Bông lúa chín hai phần ngập nước
Mẹ gặt lên mẹ ôm vào ngực
Ngực mẹ ướt đẫm cho hạt thóc khô”
(Mẹ đồng chiêm)
Với Vương Trọng và những người đồng đội, hình ảnh mẹ đã trở thành sức
mạnh cho mỗi cuộc hành quân. Ông không khắc họa nhiều, những vần thơ
chân thực và giản dị tự nó nói lên tất cả. Những “bùn quánh khô rơi dần bước
mỏi”, những “móng thâm đen một thời lam lũ, mùa gặt rồi sắc bùn ấy chưa
phai” đã trở thành những hình ảnh thiêng liêng khắc sâu vào tâm trí nhà thơ.
Người mẹ đồng chiêm nghèo, lam lũ hiện lên trong thơ Vương Trọng như
một biểu tượng bao đời của người phụ nữ Việt Nam: khó nhọc mà anh dũng
kiên cường. Với tình cảm yêu kính, với thái độ biết ơn sâu nặng, Vương
Trọng thấu hiểu những nỗi niềm sâu kín của mẹ:
“Mẹ từ đồng chiêm
Lặn lội thân cò
Con hiểu được bao điều xưa mẹ giấu
Sau lưng mẹ mặt đồng cơn gió đảo
Con nghe ra tiếng sóng gọi tên mình”
Trên dọc đường hành quân, những người lính Trường Sơn đã gặp biết
“bao bà mẹ đã từ tâm làm mẹ / nuôi giấu con như đẻ con ra”, những bà mẹ
với tình yêu thương bao la trời bể ấy đã dành nhà mình làm nơi nuôi giấu cán
bộ, chở che bộ đội. “Mẹ Bắc Kạn” là một người mẹ như thế. Dù mẹ nghèo
nhưng vòng tay luôn giang rộng, che chở cho cán bộ. Nhà mẹ trở thành nơi
40
dừng chân tin cậy của những người lính mãi mãi:
Mẹ thức dậy lần ra mở cửa
Tiếng bi đông khô khốc nhói vào tim
Mẹ nhóm lửa: “Thương quá chừng bộ đội,
Út dậy con, ra gọi anh em”.
Từ bữa đó, nấu nước chè mẹ đợi
Con mắt đêm – nhà mẹ ngọn đèn.
(Mẹ Bắc Kạn)
Dung dị và đôn hậu, người mẹ Bắc Kạn cũng đã hiến dâng cho đất nước
những đứa con yêu quý:
Con mẹ
Mẹ gửi đi mỗi đứa một vùng
Đất nước”
(Mẹ Bắc Kạn)
Và bao nỗi bồn chồn mỗi lúc nghe bom giặc nổ:
“Đã một thời
Bom giặc nổ nơi nào cũng dội vào lòng mẹ
(Mẹ đồng chiêm)
Mẹ vui mừng trước tin Sài Gòn giải phóng, mẹ nuôi bộ đội với một tình yêu
chân thành, mộc mạc:
“Chúng con nghỉ trong chở che mái lá
Sáng ra đi, mẹ tiễn ướt mắt nhìn
Bao người lính mang tình thương của mẹ
Suốt những ngày phía Bắc chẳng bình yên”
(Bóng dừa, bóng má)
Đoạn thơ xúc động bởi nó chứa đựng tình cảm yêu thương trìu mến bao la
41
của mẹ dành cho bộ đội, tình thương ấy sẽ theo các anh đi suốt tháng năm dài.
Có thể thấy, hình ảnh người mẹ trong thơ Vương Trọng mang đầy đủ
nét đẹp lớn lao, vĩ đại của những người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là nét đẹp
bình dị, mộc mạc nhưng có sức cảm hóa và động viên cổ vũ lớn lao. Những
người mẹ ấy là hậu phương vững chắc giúp các anh yên lòng đi vào trận đánh.
Vương Trọng đã viết về họ với một thái độ yêu thương, trân trọng và biết ơn
sâu nặng.
Viết về người vợ, người mẹ trong chiến tranh nhà thơ đặc biệt xoáy sâu
vào những mất mát, những hy sinh, miêu tả nỗi đau của người chiến thắng.
Đã qua rồi “những năm cả đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn
mặt”(Chế Lan Viên), lối tư duy dựa trên nền tảng cảm xúc cộng đồng chi phối
toàn bộ sáng tạo của nhà thơ: “những câu thơ viết ở kinh tuyến này lại vang
động trào sôi ở kinh tuyến khác”, khi viết về những người vợ, người mẹ,
Vương Trọng đã có một độ lùi thời gian cần thiết để nhìn nhận đánh giá một
cách khách quan, đầy đủ những mất mát hy sinh của người phụ nữ suốt cuộc
trường kì kháng chiến. Những thiệt hại, mất mát do chiến tranh gây ra không
thể đo đếm bằng những số liệu cụ thể bởi mất mát của chiến tranh không phải
chỉ có những con người đã ngã xuống, những làng mạc đã bị phá hủy, những
thành phố bị thiêu rụi, những gia đình li tán,...chiến tranh còn hằn sâu những
vết thương khó lành trong tâm hồn những người còn sống, những mẹ, những
chị ở chốn hậu phương. Người phụ nữ trong thơ Vương Trọng không giấu nổi
những khát thèm hạnh phúc rất đời trong mỏi mòn đợi chờ vô vọng vào sự trở
về của chồng, của người yêu:
“Hẹn một lần chờ đợi mấy ngàn ngày
Anh đi biệt phương trời không trở lại
Căn nhà rộng ngày lẻ loi mình chị
Đêm thắp đèn cho bóng nữa thành đôi”
42
(Chị)
Trong thơ Vương Trọng, người đọc tìm nhận ra nguyên nhân của nỗi cô đơn,
của nỗi buồn thẳm sâu trong đôi mắt “chị”. Đó là sự lỗi hẹn, lỗi hẹn có khi là
cả một đời của những người đàn ông chỉ biết ngày ra đi mà không rõ ngày trở
lại. Đất nước ta đã trải qua bao năm chiến tranh bom đạn, có bao nhiêu người
lính giã từ làng mạc, quê hương, giã từ mẹ, vợ, người yêu lên đường ra trận là
có bấy nhiêu người phụ nữ mỏi mòn đợi trông. Trước đây, vì nhiều lí do, hình
tượng người lính là hình tượng trung tâm của văn thơ, người ta quên hoặc
không dám viết về những mất mát, thiệt thòi, hy sinh của người phụ nữ,
nhưng khi bom đạn chiến tranh dần tắt, văn học đã trở về với đích đến của
mình là “lẽ đời, chuyện sống, lòng yêu”(Xuân Diệu), thẳng thắn nhìn nhận và
phản ánh những góc khuất tâm hồn, những nỗi niềm đâu dễ tỏ bày, sự cô đơn,
trống trải, hụt hẫng chơi vơi đến vô cùng:
“Căn nhà rộng ngày lẻ loi mình chị
Đêm thắp đèn cho bóng nữa thành đôi”
(Chị)
Phải là người đã đi tận cùng của nỗi buồn, nỗi cô đơn mới có thể viết được
những câu thơ như thế. Ở đây, Vương Trọng không ghi lại những nỗi niềm
một cách trực tiếp, ông cứ lặng lẽ ghi lại các hành động của chị. Nghe tiếng
“ cơm canh, bếp núc, xoong nồi”, tiếng trẻ hàng xóm ồn ào đùa nghịch, chị
khát thèm một “tiếng bát đũa va nhau”, một mình lẻ loi trong căn nhà vắng
suốt đêm dài dằng dặc, chị khao khát đợi chờ một chút “nắng niềm tháng
Chạp”, một chút hơi ấm đêm đông. Nỗi cô đơn dường như đẩy lên tận cùng
của vô vọng khi bao người ra đi giờ đây đã trở về, còn chị vẫn chẳng được
làm người đón đợi. Người phụ nữ ấy hiện lên trong thơ cứ âm thầm, lặng lẽ
lầm lũi vào ra với những ngổn ngang tâm sự, những tâm sự chưa một lần
được sẻ chia, vẫn phong kín, thẳm sâu trong tâm can chị, gặm nhấm chị mỏi
43
mòn. Hiểu nỗi niềm của người phụ nữ, Vương Trọng ước ao:
“Có cách gì cắt ngắn được thời gian
Gói cất kỹ hai mươi năm chờ đợi
Để chị được trở về mười tám tuổi
Để trai làng có nơi hẹn mùa xuân?”
(Chị)
Đó là một ước ao nhân văn và cao đẹp không chỉ của riêng nhà thơ mà còn là
của các chị . Nhưng những ước ao chẳng bao giờ có thể thực hiện được, bởi
“các chị đã chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”(Hữu Thỉnh). Các anh đã
hy sinh cả tuổi xuân cho đất nước, còn các chị đã hy sinh cả tuổi xuân, cả tình
yêu, hạnh phúc, cả khao khát, mong đợi mỏi mòn:
“Làm sao được gặp chị ơi
Ba mười cô gái của thời chiến tranh
Người thì con đã trưởng thành
Người thì lỡ bước chưa đành sang ngang?”
(Giá nhƣ ngày ấy)
Những người phụ nữ trong chiến tranh đâu chỉ có ba mười người mà còn
nhiều gấp vạn ngàn lần hơn thế nhưng họ đều có chung một số phận, có
chung một nỗi niềm.
Bên cạnh những dòng thơ viết về nỗi đau dai dẳng trong tâm hồn của
những người phụ nữ ở hậu phương, Vương Trọng đã viết nhiều bài thơ ngợi
ca những cô gái xung phong anh hùng gan dạ, hy sinh cả tuổi thanh xuân đẹp
nhất của đời người để lấp đầy những hố bom cho đoàn xe ra trận, đảm bảo
thông suốt các tuyến đường. Đó là ba mươi cô gái trong trung đội dân quân
thị trấn Đô Lương (Giá nhƣ ngày ấy), là mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc
(Lời thỉnh cầu), trong ngày hy sinh, tóc tai bê bết đất vẫn thèm một nhánh
quả bồ kết gội đầu , ước muốn giản dị đời thường nhưng khơi gợi biết bao nỗi
44
xót xa, thương cảm. Họ đều là những cô gái “chưa có chồng và chưa ngỏ lời
yêu”, những cô gái vẫn còn nguyên vẹn vẻ đẹp hồn nhiên, trong trẻo của tuổi
xuân thì .“Hai tám năm trôi qua chúng tôi không thêm một tuổi mới nào”
nhưng thân xác đã tan vào trong đất vì độc lập của Tổ quốc. Hình ảnh người
phụ nữ trong thơ Vương Trọng vì thế không chỉ hiện lên với những mất mát
và nỗi đau tâm hồn dai dẳng mà ông đã ghi nhận, tôn vinh và ngợi ca sự hy
sinh cao cả, anh dũng của họ.
Hình ảnh người phụ nữ ngóng trông đợi chờ con đã được nhà thơ hình
tượng hóa trong hình ảnh hòn Vọng Phu ôm con đợi chồng quen thuộc trong
huyền thoại:
“Đi một lần không về
Đợi ngàn năm hóa đá
Thương thân dựng trời quê
Nhớ xương vùi đất lạ”
(Vọng Phu)
Niềm tin sắt đá của những người vợ, người mẹ, những người phụ nữ đã làm
nên một phần linh hồn cho đất nước. Vương Trọng nhận ra ý nghĩa lớn lao
diệu kì ấy trong hình tượng hòn Vọng Phu. Với một cái nhìn nhân văn, một
ước mong giản dị, Vương Trọng khao khát “có một mùa xuân”, trên đất
nước này sẽ không còn những nàng Vọng Phu đứng ngóng chồng, không còn
những nàng Vọng Phu trong giá rét căm căm “hóa đá niềm tin” nữa:
“Có một mùa xuân
Tô Thị thôi nhìn trời đăm đăm
Nàng cúi nhìn con rồi trông về làng cũ”
(Có một mùa xuân)
Ở bài thơ này, người đọc gặp một suy nghĩ mới lạ, mạnh bạo và cũng đầy
nhân văn của nhà thơ Vương Trọng. Đợi chờ, ngóng trông những người đàn
45
ông trong chiến tranh thật vô vọng, dẫu ai cũng mong muốn họ sẽ trở về,
nhưng ông mong ước một ngày nào đó, họ dám nhìn thẳng vào sự khốc liệt và
tàn nhẫn của chiến tranh, dám đối diện với những sự thật đau lòng để gây
dựng lại cuộc sống, để làm hồi sinh những mảnh đất cỗi cằn vì bom đạn quân
thù.
“Người ta thương không thể trở về
Chẳng ai hiểu bằng ta điều đó
Chẳng ai hiểu bằng ta nỗi khổ
Của người vợ chờ chồng
Ta hóa đá triệu lần nỗi đợi
Để người vợ muôn đời thoát khỏi cảnh chờ mong”
(Trò chuyện với nàng Vọng Phu)
“Nàng Vọng Phu” trong thơ Vương Trọng muốn “hóa đá niềm tin” và “thời
gian chờ đợi”, “hóa đã triệu lần nỗi đợi” hay cũng chính là những nghĩ suy
của riêng tác giả. Thấu hiểu và cảm thương, đồng cảm và xót xa, ông mong
muốn được “gánh” cả “triệu lần nỗi đợi”, gánh nỗi đau âm thầm, gánh cả
những thiệt thòi, hy sinh mất mát để “những người vợ muôn đời thoát khỏi
cảnh chờ mong”. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân văn sâu sắc trong thơ
Vương Trọng.
Cảm hứng về con người trong chiến tranh và thời kì hậu chiến tranh
trong thơ Vương Trọng bộc lộ khá rõ những trang viết về người lính và bức
tranh tâm hồn của người phụ nữ. Những trang viết này ra đời, “xây dựng và
phát triển trên nền tảng ý thức cộng đồng. Cảm hứng chủ đạo của nền văn
học này là chủ nghĩa yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa”(23) ,nhưng trong thơ Vương Trọng , chúng ta thấy “sự thức tỉnh trở
lại ý thức cá nhân” (23) khi ông bắt đầu mở rộng đề tài và chủ đề mới làm
thay đổi những quan niệm về con người dựa trên tư tưởng nhân bản , đó là
46
chủ đề về người phụ nữ. Chính ở mảng đề tài này, tuy không nhiều lắm
nhưng thực sự đã giúp người đọc có được một cái nhìn toàn diện, đầy đủ và
sâu sắc hơn về sự thật chiến tranh và những hy sinh, mất mát, những nỗi đau
của người chiến thắng. Nét khác biệt đó dẫu chưa thật rõ nét nhưng giúp
người đọc yêu mến thêm những vần thơ Vương Trọng vì giá trị nhân văn cao
47
đẹp mà ông luôn hướng tới.
Chƣơng 2: VƢƠNG TRỌNG – NHÀ THƠ THẾ SỰ.
2.1. Chuyển biến trong thơ Vƣơng Trọng thời kỳ đổi mới
Sau chiÕn tranh, V ¬ng Träng më réng th¬ m×nh sang nhiÒu ®Ò tµi
kh¸c. Anh viÕt vÒ nh÷ng con ng êi b×nh th êng trong cuéc sèng ®êi th êng
mµ hÇu hÕt lµ nh÷ng con ngu êi nhá bÐ, v« danh trong ®ã cã kh«ng Ýt sè phËn
ta b¾t gÆp råi bá qua nh ng V ¬ng Träng th× dõng l¹i. H×nh nh ®©y míi lµ xø
së ®Ých thùc cña th¬ anh. M·i ®Õn nh÷ng n¨m gÇn ®©y, nhµ th¬ míi ph¸t hiÖn ra
má quÆng ®Ých thùc cña th¬ m×nh. Th¬ v ¬ng Träng lµ th¬ thÕ sù. §ãng gãp cña
th¬ anh cho nÒn th¬ hiÖn ®¹i chÝnh lµ ë m¶ng th¬ nµy. (37)
LÞch sö b íc sang mét trang míi, ®Êt n íc vµ con ng êi còng b¾t ®Çu
vµo c«ng cuéc håi sinh, th¬ v¨n ® îc më réng h¬n ph¹m vi vïng vÉy. NhiÒu
nhµ th¬ h íng ngßi bót ca ngîi c«ng cuéc x©y dùng vµ b¶o vÖ ®Êt n íc trong
thêi ®¹i míi, nh ng nhiÒu nhµ th¬ l¹i dõng l¹i ë sè phËn cña c¸ nh©n con ng êi
trong cuéc sèng ®êi th êng. Th¬ ca ®· trë thµnh tiÕng nãi c¶m th«ng vµ n©ng
®ì con ng êi ®Õn ch©n - thiÖn - mü. V ¬ng Träng ®· lùa chän cho m×nh lèi ®i
®Ó trë vÒ víi c¸i cuèi cïng cña th¬ ca lµ lÏ ®êi, lµ chuyÖn sèng, lßng yªu.
Mét mèc quan träng ®¸nh dÊu sù vËn ®éng chuyÓn biÕn tõ ®Ò tµi ng êi
lÝnh vµ trËn m¹c sang ®Ò tµi thÕ sù lµ bµi th¬ ® îc viÕt ngµy 7- 2- 1982: Bªn
mé cô NguyÔn Du. TiÕp sau ®ã lµ mét lo¹t c¸c bµi th¬ xuÊt s¾c trong ®êi th¬
V ¬ng Träng. §ã lµ nh÷ng bµi viÕt vÒ phô n÷ víi nhiÒu c¶nh ngé, t©m tr¹ng
:Víi ®øa con ngoµi gi¸ thó, Hai chÞ em, Khãc gi÷a chiªm bao, ChÞ d©u …;
«ng còng h íng ngßi bót cña m×nh vÒ phÝa nh÷ng con ng êi nhỏ bÐ, v« danh
trong x· héi víi c¸i nh×n th ¬ng c¶m, xãt xa : §Çu n¨m ng êi Êy, Ng êi mµi
48
dao, Lêi ng êi ®µo huyÖt ë nghÜa trang thµnh phè, Bªn lÒu chî …; nhµ th¬
còng cã nh÷ng ph¸t hiÖn vµ ®¸nh gi¸ míi mÎ, thó vÞ vÒ c¸c nh©n vËt huyÒn
tho¹i trong v¨n häc, nh÷ng nghÖ sÜ tµi hoa, tµi tö mµ sè kiÕp long ®ong :Bªn
mé cô NguyÔn Du, Thóy KiÒu, M« tÝp Thóy V©n, TiÕng s¸o Tr ¬ng Chi, VÒ
th«i nµng Väng Phu, NguyÔn Du, NguyÔn C«ng Trø… V ¬ng Träng kh«ng
quªn dµnh mét phÇn tiÕng th¬ m×nh ®Ó viÕt vÒ nh÷ng ng êi bªn c¹nh, gÇn gòi
víi m×nh, ®ã lµ gia ®×nh vµ b¹n bÌ cña «ng :Hoa hËu cña nhµ, Th¬ vui tÆng
c¸c bµ vî hay ghen, Nãi víi con d©u, Nhí con, ChÞ d©u, Tµo M¹t, Ph¸c
V¨n, Lª Dung…Ở phạm vi đề tài này, chúng tôi khai thác thơ Vương Trọng
trên một số vấn đề sau,cụ thể như sau.
2.2.Kiếp ngƣời nhỏ bé vô danh và những triết lý về số phận con ngƣời.
“Cảm hứng thế sự trở thành cảm hứng lớn của thơ sau 1975. Nó chi
phối cái nhìn của nhà thơ, giúp họ phát hiện ra nhiều vấn đề nhức nhối của
cuộc sống xã hội, đặc biệt là số phận của những người không may mắn”(21).
Thơ ca thời kì này không né tránh thực tế mà đã dám nhìn thẳng vào cuộc
sống, dám nói thẳng nói thật về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều sự thật đau
lòng. Thơ đã quan tâm nhiều hơn đến số phận những kiếp người nhỏ bé, vô
danh trong xã hôi, những số phận bất hạnh nhiều trắc trở, éo le trong cuộc
sống. Hình ảnh những con người bé nhỏ, vô danh xuất hiện nhiều trong thơ
Vương Trọng giai đoạn này đã làm đằm thêm hồn thơ nhân ái, bao dung.
Ngƣời mài dao trong chiều mưa cuối năm giữa ồn ào phố xá là một
hình ảnh đời thường ta có thể bắt gặp trong cuộc sống nhưng mấy ai để ý xuất
hiện trong thơ Vương Trọng như một nỗi ám ảnh. Lời rao nặng nề, trầm đục,
mỏi mệt , vọng lên lạc lõng một nỗi niềm khó tả:
“Một đầu đá, một đầu nước
Gánh không nặng bằng lời rao
Ai mài...dao”
49
( Ngƣời mài dao)
Lời rao nặng nề hơn đôi quang gánh trĩu nặng trên vai. Cách so sánh ví von
tưởng có gì khập khiễng giữa một cái hữu hình (gánh đá nước) với một cái
hữu thanh (lời rao) nhưng chính nghệ thuật so sánh giúp người đọc hữu hình
hóa , cụ thể hóa tiếng rao nặng nhọc, giúp người đọc mường tượng hình ảnh
người đàn ông già nua, đen đúa, cỗi cằn, cần mẫn, quẩy đôi quang gánh lạc
trong phố xá cuối năm ồn ào, tấp nập đông đúc. Có cái gì đó như lủi thủi, lạc
lõng, nhẫn nhục, đơn côi trong cái dáng người tất tả, mệt mỏi , trong lời rao
không át nổi sự ồn ào, nhộn nhịp của dòng đời:
“Phố xá cuối năm ồn ào
Người chen xe
Mấy ai nghe
Lời rao ngập ngừng nhịp thở”
(Ngƣời mài dao)
Sự đối lập giữa cái nhỏ bé, lạc lõng của người mài dao trong khung cảnh
người chen xe của phố phường khiến hình ảnh của ông như bị cuốn trôi vào
quên lãng, như một hạt cát nhỏ giữa dòng đời nhiều bão lốc, phong ba. Người
đàn ông ấy mong muốn một điều thật giản dị nhân văn đến đáng thương:
“Mong Tết
Mọi người giàu sang
Có nhiều thứ để chặt
Để lời ông rao
Khỏi rơi vào hun hút”
(Ngƣời mài dao)
Mong mọi người giàu sang, sung túc, để có nhiều thứ để chặt, để lời rao của
ông đừng rơi vào hun hút, để hình ảnh của ông không rơi vào hư vô để ông có
50
thể sống bằng sức lực của mình, để ông có tiền phục vụ cho nhu cầu cuộc
sống – những ước mong giản dị, nhỏ bé nhưng chứa đựng khát khao sống
mãnh liệt, đáng quý. Đó cũng là không khí và ước mong của người bán muối
trong “Đầu năm, ngƣời ấy”. Người xưa quan niệm “ đầu năm mua muối,
cuối năm mua dầu”, đầu năm mua muối để cầu may, để mong ước một năm
mặn nồng, sung túc. Người bán muối muốn bán được nhiều thì phải tranh thủ
bán lúc giêng hai. “Đầu năm, ngƣời ấy” gợi lại cảm giác lạnh lẽo, đáng
thương của kiếp người nhỏ bé. Ở đó, tác giả vẽ lại không khí vắng vẻ, lạnh
lẽo đầu năm trên phố, chỉ có hình ảnh người bán muối đang còng lưng đẩy xe,
chở muối giữa phố vắng như một dấu chấm hỏi day dứt, khắc khoải:
“Đầu năm người ấy còng lưng
Đẩy xe muối nặng thở từng lời rao”
(Đầu năm , ngƣời ấy)
Những lời rao không thành tiếng nhưng trên cái nền không gian vắng lặng,
lạnh lẽo, nó đủ sức dội vào lòng người, đánh thức trái tim nhân bản trong mỗi
chúng ta với những nghĩ suy, trăn trở về sự bé mọn, đáng thương của kiếp
người.
Người mài dao và người bán muối cũng như bao gánh hàng rong khác,
ta có thể dễ dàng bắt gặp trong cuộc sống đời thường. Có thể đó là một người
bán ve chai, một người thu mua đồng nát, một em bán báo hay một lời rao
bán bánh...những con người lam lũ, khổ cực, nhọc nhằn mưu sinh. Đằng sau
những lời rao, đằng sau những lam lũ nhọc nhằn ấy là những số phận đáng
thương mà chúng ta vì bộn bề cuộc sống có thể dễ dàng bỏ qua nhưng Vương
Trọng dừng lại để quan sát, nghĩ suy để nhận thức ra rằng cuộc đời của con
người ngắn ngủi, nhỏ bé , mỏng manh lắm, vì thế phải biết trân trọng cuộc
sống, biết nâng niu những gì mình có. Điều này được VươngTrọng thể hiện
sâu sắc hơn trong “lời ngƣời đào huyệt ở phía trang thành phố”:
51
“Chôn người như trồng khoai
Đất mềm đào bằng xẻng
Quan tài vừa đặt xuống
Vội vàng vùi đất lên”
( Lời ngƣời đào huyệt ở phía trang thành phố)
Năm này qua năm khác, ngày này qua ngày khác người đào huyệt làm
một công việc quen thuộc đến nhàm chán: Chôn người . Giọng điệu so sánh
ví von “chôn người như trồng khoai” tưởng như lạnh lùng, vô cảm như “cứa
vào lòng ta một nỗi buồn da diết” (34). Cái việc đau đớn nhất, buồn bã nhất
của con người, ấy là giây phút chứng kiến cảnh “sinh ly , tử biệt”, bạn bè,
người thân từ giã cõi đời để về với đất. Dù là người vô tình nhất, trước cái
chết của đồng loại, thường ai cũng không khỏi xót xa. Vậy nhưng , những
người đào huyệt ở đây coi cái chết như một việc bình thường, mỉa mai hơn,
hài hước hơn khi họ coi đó là những vụ lúa, vụ khoai. Tâm hồn họ dường như
đã chai sạn, trái tim và cảm xúc của họ như đã bị trơ lì, họ không còn biết run
rẩy, khóc thương trước sự ra đi vĩnh viễn của người đời:
“Tiếng khóc đã quen rồi
Làm sao còn cảm xúc
Phủi bàn tay lấm đất
Nhấp chén rượu giữa trời”
(Lời ngƣời đào huyệt ở nghĩa trang thành phố)
Những câu thơ lạnh lùng vô cảm, người đào huyệt nói về cái chết, về công
việc đào mộ, chôn người chết nhẹ nhàng, thản nhiên như nói về bao công việc
khác có thể bởi với họ đó cũng là một nghề để mưu sinh. Tuy nhiên, nếu như
chỉ dừng lại ở đấy, những người đào huyệt sẽ thành những cỗ máy vô hồn vô
cảm, những cỗ máy chôn người. Vương Trọng đã nhận ra một điều đằng sau
52
cái thái độ lạnh lùng, cười cợt ấy là nỗi xót xa tận cùng của họ về số phận
mong manh , bé nhỏ và đáng thương của con người. Cuộc đời con người thật
ngắn ngủi và hữu hạn:
“Biết bao nhiêu kiếp người
Xếp hàng trên nghĩa địa
Hoa vàng mau tàn thế
Cỏ trên mồ tươi non”
(Lời ngƣời đào huyệt ở nghĩa trang thành phố)
Vì vậy, đằng sau sự thờ ơ, hời hợt, tưởng như vô cảm đó, Vương Trọng nhận
ra những nỗi buồn sâu thăm thẳm của những người đào huyệt và bao nỗi niềm
nhân tình thế thái của họ.
“Xương cũ chưa lên đồi
Xác cũ đã vùi lấp
Chẳng ai cho thương người
Thì thôi, ta thương đất
Đất như ta tất bật
Mỗi ngày một đen thêm
Thương ai mà khóc đất
Tiếng côn trùng rỉ rên!”
(Lời ngƣời đào huyệt ở nghĩa trang thành phố)
Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi cho rằng bài thơ này“viết một cách thật lạnh lùng,
thật tỉnh táo, lại cười cợt nữa nhưng đó là một bài thơ đi đến tận cùng của
nỗi đau, nỗi hư vô của kiếp người”. “Cái lạnh lùng của bài thơ là cái lạnh
lùng dồn nén. Đó là những giọt nước mắt khóc thầm, những tiếng khóc than”
(32). Như vậy, khi viết về những người vô danh, Vương Trọng không chỉ
viết về số phận đáng thương của họ, quan trọng hơn nữa, nhà thơ đã nghĩ suy
53
và nhận thấy phía sau những số phận cụ thể đó là sự bé nhỏ, mỏng manh của
kiếp người trong cuộc sống, trong sự tuần hoàn của vũ trụ để nâng niu, trân
trọng cuộc sống, đế sống đẹp, sống tốt mỗi ngày. Cũng chính vì những cảm
xúc những suy nghĩ đó mà mỗi con người , mỗi hoàn cảnh ông gặp trong cuộc
sống đều khơi gợi trong ông những nỗi niềm thương xót. Người phụ nữ có
con ngoài giá thú là một người như thế. Từ trước tới nay, những người phụ nữ
không chồng mà chửa luôn luôn phải chịu đựng những thành kiến của dư luận
xã hội. Họ bị dè bỉu, chê bai, lên án, phê phán. Vương Trọng thì khác, bằng
trái tim nhân ái của mình, ông đồng cảm và sẻ chia với người phụ nữ có cuộc
đời éo le và bất hạnh đó:
“Mẹ làm mẹ mà chưa từng làm vợ
Vẫn suất cơm tập thể quá khiêm nhường
Nửa làm máu, nửa chia ra làm sữa
Hạnh phúc nào bằng san sẻ yêu thương”
(Với đứa con ngoài giá thú)
Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương trước đây đã lớn tiếng bênh vực những
người phụ nữ không chồng mà chửa:
“Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian thường tình”
( Hồ Xuân Hương)
Vương Trọng không lớn tiếng bênh vực, ông chỉ lặng lẽ ghi lại cuộc sống
thường nhật với nỗi đau tái tê của người phụ nữ nhẹ dạ ấy:
“Thôi nhắc chi những năm dài trống trải
Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu
Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải
Pháo cười người như đốt để trêu nhau”
54
(Với đứa con ngoài giá thú)
Nhà thơ như hóa thân vào vai người mẹ để đồng cảm với những đớn đau mà
họ phải gánh chịu, từ đó đánh thức sự đồng cảm và con tim nhân ái của mọi
người: Những người phụ nữ ấy, vì rất nhiều lý do, họ âm thầm chịu đựng nỗi
đau ghẻ lạnh trong niềm hạnh phúc ngọt ngào làm mẹ. Họ đáng thương hơn
là đáng giận, họ đáng được gần gũi, sẻ chia hơn là xa lánh, họ đáng được cảm
thông, được yêu thương hơn là sự xa lánh, dè bỉu của người đời. Những mong
muốn, suy nghĩ nhân văn ấy bắt nguồn từ trái tim bao dung của nhà thơ .Ông
đã nhìn thấy nỗi đau âm thầm, rỉ máu, những vết thương khó lành trong sâu
thẳm tâm hồn họ bằng con mắt đầy nhân ái, bao dung.
“Ngoài giá thú sao ngoài lòng thương cảm
Để người đời ghét bỏ mẹ con tôi”
(Với đứa con ngoài giá thú)
Cũng từ “trái tim lớn đau những nỗi đau của những cuộc đời bất hạnh” ấy,
người đọc như điếng lặng trước tiếng kêu gào tái tê nhói buốt của bà mẹ
nghèo tìm con trong chợ chiều xơ xác.
“ - Con tôi đâu? Con tôi đâu?
Bên lều chợ, người mẹ gào khản hơi
- Trả con tôi! Trả con tôi!
Hỏi ai ngọn gió nói lời hư vô”
(Bên lều chợ)
Trong cuộc sống đã có bao nhiêu trường hợp như thế. Những người phụ nữ vì
quá đói nghèo, không đủ khả năng nuôi thân, không thể nuôi con nên đành
dứt ruột để con ngoài chợ “nhờ người cưu mang”. Họ không phải là những
người vô tình, họ không phải là những người nhẫn tâm đến thế!Cảnh đời họ là
cảnh đời bao người phụ nữ trong thời đói kém mất mùa. Nhà thơ viết lên thực
tế đó để người đọc hiểu hơn một giai đọan gian lao của con người và đất
55
nước. Suốt từ đầu đến cuối bài thơ, người mẹ bị giày vò bởi mặc cảm tội lỗi
bỏ rơi con. Tiếng kêu gào thảm thiết cắt cứa tâm hồn mẹ, cắt cứa trái tim mẹ,
cắt cứa trái tim người.
“Chợ phiên tan từ bao giờ
Chỉ còn nắng với xác xơ quán lều
Chỉ còn rách rưới mẹ nghèo
Gọi con tê tái cả chiều trung du”
(Bên lều chợ)
Tấm lòng người mẹ tê tái hay cũng chính là tâm hồn nhà thơ đang tê tái, nhói
đau? Điều đó thật khó lí giải bởi ở đây, lời người mẹ và tâm trạng nhà thơ như
lồng vào nhau, “kết lại trong tiếng lòng đồng cảm” (T45, 34).
Nhà thơ Vương Trọng không bao giờ là người đứng ngoài cuộc. Mỗi
nhân vật sự kiện trong thơ ông đều mang một số phận khác nhau, một niềm
đau , một tâm sự, giống như một câu chuyện nhỏ đan chứa cả tâm sự của nhà
thơ về “cuộc đời, con người và số phận”. Hình ảnh của những kiếp người vô
danh trong thơ Vương Trọng vì thế là những điển hình cho cuộc đời chung
của bao kiếp người bất hạnh trong cuộc sống, đồng thời là nơi ông kí thác bao
triết lý về số phận con người.
2.3. Hình ảnh ngƣời thân và bạn bè
Nhà thơ Vũ Quần Phương từng tâm sự: “Thơ Vương Trọng thật lắm!
Ông kể chuyện gia đình ông mà ta muốn thành người tham dự....Cảm động về
tình cảm trân trọng, thành thực và sâu sắc của ông. Chùm thơ tình cảm gia
đình của Vương Trọng thành công từ nguồn gốc ấy”(33) . Gia đình, bạn bè đã
trở thành một phần máu thịt trong thơ Vương Trọng. Ông viết về họ với một
tình cảm trìu mến, yêu thương. Người đầu tiên xuất hiện trong thơ Vương
Trọng với một tình cảm thiêng liêng, quý trọng và đầy xúc động, đó là hình
56
ảnh người mẹ. Nhắc đến mẹ là nhắc đến người gần gũi yêu thương nhất,
người đã đi vào kí ức chúng ta và trở thành một miền đất thiêng nuôi dưỡng
hồn ta từ thuở ấu thơ. Với Vương Trọng, mẹ là nghị lực, niềm tin, là sức
mạnh của nhà thơ suốt cả cuộc đời. Ông đã viết về mẹ với một niềm thành
kính sâu xa:
“ Đã có lần con khóc giữa chiêm bao
Khi hình mẹ hiện về năm khốn khó
Đồng sau lụt, bờ đê sụt lở
Mẹ gánh gồng xộc xệch hoàng hôn”
(Khóc giữa chiêm bao)
Khi người mẹ đã về nơi vĩnh hằng thì giấc chiêm bao và những mảng kí ức
chập chờn thức ngủ chính là nơi hội ngộ của nhà thơ và người mẹ của mình.
Thời gian hồi cố được nhà thơ thể hiện một cách đặc sắc qua giấc chiêm bao.
Vương Trọng có lần tâm sự hình ảnh người mẹ tảo tần, lam lũ đi về trong
“xộc xệch hoàng hôn” đã được ông cất giữ suốt ba mươi năm. Sau ba mươi
năm đó, hình ảnh người mẹ tự trong lòng ông đã biến thành thơ. Và trong lời
thơ của mình, mẹ hiện lên thật chân thực. Đó là những năm không còn nhỏ,
hai anh em thường ra ngồi bậu cửa ngóng mẹ về từ phía chân đê. Vào mùa lũ
lụt, con đê cạnh nhà ông bị đứt gãy thành nhiều mảng, ngồi trong hiên nhà
ông thấy dáng mẹ đi về gập ghềnh trên dải đất mấp mô. Cái dáng bước nhỏ
bé, tảo tần, chợt ẩn chợt hiện cứ nhòa đi trong kí ức nhà thơ - Người mẹ lam
lũ, chịu khó, chịu thương. Nhà thơ Dương Quang Minh khi đọc bài thơ này đã
nhận thấy trong đó có cả quá khứ của mình. Ông xúc động viết: “Cũng như
anh, tôi có người mẹ từng sống những ngày tháng lao đao, nhất là những lúc
mùa màng thất bát sau khi con đê quai Phượng Kỉ, xã Đà Sơn cạnh xã Trung
Sơn của Trọng và xã Tân Sơn của tôi cùng huyện Đô Lương đứt tung do
không chịu nổi sức dồn nén siêu nặng của nước sông Lam từ nguồn đổ về
57
trong mùa lũ. Cảnh tôi đứng ở rìa làng trong gió bấc ngóng mẹ sau những
phiên chợ Đình, chợ Vịnh tàn cuộc có khác gì cảnh anh em Trọng ngồi co ro
bậu cửa đợi mẹ trong hoàng hôn mưa phùn đói rét sau phiên chợ Đóm, chợ
Om” .
Như thế, trong kí ức của nhà thơ Vương Trọng, vùng quê Đô Lương
gắn liền với hình ảnh người mẹ tảo tần chèo chống gia đình qua cơn khốn
khó:
“Anh em con chịu đói suốt ngày tròn
Trong chạng vạng ngồi co ro bậu cửa
Có gì nấu đâu mà nhóm lửa
Ngô hay khoai còn ở phía mẹ về”
(Khóc giữa chiêm bao)
Những câu thơ xúc động tái hiện chân thực quá khứ cơ khổ, bần hàn, cảnh
nheo nhóc của một gia đình đông con khiến người đọc không khỏi rơi nước
mắt. Người mẹ trong thơ ông thật vững chãi. Mẹ trở thành trụ cột, trở thành
sức mạnh giúp ông vượt qua cơn bĩ cực của cuộc đời. Cái dáng người xộc
xệch hoàng hôn nhỏ bé, đáng thương ấy đã trở thành niềm tin, trở thành sức
mạnh và nghị lực cho con suốt tháng năm dài. Không chỉ có vậy, hình ảnh
người mẹ hiện về trong kí ức của ông, trong tiềm thức của ông như là linh hồn
của quê hương, mẹ là quê hương của riêng ông:
“Con lang thang vất vưởng giữa đời thường
Đâu cũng sống, không đâu thành quê được
Còn quê mẹ cuối chân trời tít tắt
Con ít về từ ngày mẹ ra đi”
(Khóc giữa chiêm bao)
Với riêng nhà thơ, dù sống ở đâu cũng không bằng quê mẹ, cũng chỉ là
chốn tha hương bởi ở đó không có mẹ, không có những kí ức ngọt ngào và
58
nhiều nỗi gian lao, không kết nên tình yêu và nghị lực nên mãi mãi chỉ là
chốn tha hương. Vì thế, nhà thơ đã từng ao ước khi chết đi, ông sẽ được trở
lại với làng, trở lại với những con người lam lũ, trở về với “bàn tay lam nham
cua quắp” với “bàn chân khập khiễng bước gai đâm”, trở về với núi Quỳ
Sơn, “đất nồng hơi than cháy” cũng chính là được trở về với mảnh đất chôn
nhau cắt rốn, trở về với nơi ông đã được sinh ra và cũng là sự trở về với mẹ.
Hình ảnh người mẹ vì vậy luôn chiếm giữ vị trí thiêng liêng nhất trong trái
tim ông, trong niềm kính cẩn và yêu thương.
Viết về gia đình, viết về người thân nghĩa là kể chuyện của chính mình,
kể chuyện về những người gần gũi và yêu thương mình, có thể là người mà
mình vừa yêu quý, trân trọng, vừa biết ơn. Vương Trọng đã dành tình cảm
quý trọng và biết ơn như vậy với người chị dâu của mình. Người Việt vốn có
quan niệm “dâu con rể khách”. Tự bao giờ, người chị dâu với vẻ đẹp mộc
mạc, bình dị ấy đã bước vào gia đình Vương Trọng và trở thành một thành
viên không thể thiếu trong gia đình:
“Lớn lên cách mấy bờ rào
Một ngày vui chị bước vào nhà em
Áo cánh nâu, quần lụa đen
Cặp ba lá, đường ngôi nghiêng mái đầu”
(Chị Dâu)
“Một ngày vui”, chị đến và trở thành người chị lớn trong gia đình, đồng thời
trở thành người trụ cột cho gia đình bé nhỏ ấy bởi
“Nhà chồng, chồng ở nhà đâu
Em chồng đông, mẹ chồng đau ốm nhiều
Làm dâu gặp phải cảnh nghèo
Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan”
59
(Chị Dâu)
Nhà thơ hiểu thấu nỗi vất vả của chị dâu mình. Làm thân con gái “như hạt
mưa sa, hạt vào đài các, hạt ra ngoài đồng” (Ca dao). Người chị dâu đã đến
gia đình như một duyên nợ “làm dâu gặp phải cảnh nghèo”, nhà chồng thì
đông anh đông em, cha chồng mất sớm, mẹ chồng thì đau ốm liên miên, vượt
qua “cú sốc” ban đầu ấy, người chị dâu đã thay chồng cáng đáng, chăm lo
mọi việc của gia đình nhà chồng: chăm sóc mẹ chồng, lo lắng cho đàn em
nheo nhóc mà không một lời ca thán. “Âm thầm một chị qua thời trẻ trung”.
Trong kí ức “đứa trẻ”, Vương Trọng đã khóc vì thương chị, vì lo cho chị, và
trong cái ánh mắt “nhòe sương” ngây thơ ấy không chỉ là lòng yêu quý mà
còn là thái độ biết ơn sâu nặng
“Nghĩ mà thương lắm chị dâu
Chiều mưa gạo hết, mẹ đau cuối giường
Em ngồi đôi mắt nhòe sương
Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi
Chiều ơi mưa mãi làm gì
Hoàng hôn đừng xuống trước khi chị về”
(Chị dâu)
Chị dâu trong thơ Vương Trọng mang một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc,
chân quê, có đức tính thảo hiền, chịu thương , chịu khó ngàn đời của người
phụ nữ Việt Nam, nhưng được thể hiện một cách thật cụ thể qua việc làm,
hành động, suy nghĩ khiến người đọc thực sự xúc động. Qua đó, người đọc
hiểu rằng người đã dành cho chị dâu mình tình cảm thành kính và biết ơn sâu
nặng. Với ông, người chị dâu giống như một người mẹ thứ hai, người đã lo
lắng, đã chăm sóc cho ông suốt thời thơ bé, đến khi trưởng thành, đi học, lập
gia đình thì “chị vẫn là người chị xưa”, vẫn chu toàn mọi việc. Giọng thơ
60
chân thành, lời thơ mộc mạc, thể thơ lục bát nhuần nhuyễn, Vương Trọng
khiến người đọc thực sự xúc động bởi tình cảm gia đình nồng ấm và nghĩa
chị em sâu nặng.
Với gia đình nhỏ của mình, Vương Trọng là người luôn biết trân trọng,
nâng niu, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Ông luôn dành cho vợ, cho con, cho
cháu những suy nghĩ, tình cảm, mong ước tốt đẹp nhất. Thơ viết về vợ xưa
nay không phải hiếm hoi, nhưng viết hay mà sâu sắc trước hết phải kể đến cụ
Tú Xương. Cái kiểu “nịnh vợ” của cụ Tú thật là “cao tay”, còn Vương Trọng ,
“chiêu nịnh vợ” cũng không kém phần dí dỏm:
“Nhà có ba trai: hai con và một bố
Chỉ mình em độc đắc nữ thôi mà
Anh bạc đầu chưa qua thời nhí nhố
Cứ gọi em là hoa hậu của nhà”
(Hoa hậu của nhà)
Không phải tự nhiên ông “cứ gọi em là hoa hậu của nhà” mà bởi “chỉ mình
em độc đắc nữ thôi mà”, quan trọng hơn nữa, tuy không nói rõ nhưng rõ ràng
trong mắt thi nhân, vợ ông là đẹp nhất. Hoa hậu của ông không cần đánh
phấn, chưa từng diện mốt áo dài, áo tắm nhưng má vẫn hồng vì bén lửa bếp
than, vẫn thong dong trong bộ bà ba truyền thống. Vẻ đẹp của người vợ khiến
ông say đắm hơn cả, ấy là vẻ đẹp của tính nết hiền dịu, chịu thương chịu khó,
của sự đảm đang và hết mực yêu thương chồng con. Những ngày giỗ Tết,
những dịp bạn bè, khách khứa đến nhà, vợ ông bao giờ cũng là người tất bật
nhất. Thương vợ là người phụ nữ duy nhất trong nhà, ông thấu hiểu hết nỗi
vất vả, tất bật, nhọc nhằn của vợ, cảm thông với những việc không tên mà vợ
vẫn làm với đôi mắt sẻ chia: “Vương Trọng đã quan sát, đã thấu hiểu tình
cảm và tấm lòng người vợ nên mới viết được như thế. Anh không ca ngợi mà
tả sâu với một bút pháp hóm hỉnh, tinh nghịch với tấm lòng đằm thắm yêu
61
thương dành cho người vợ của mình”(32).
Là một người lính xa nhà, Vương Trọng như bao người lính khác,
mang theo nỗi nhớ gia đình, nhớ vợ, nhớ con tha thiết. Trong bài thơ “Nhớ
con”, ông bộc lộ những nỗi niềm thương nhớ một cách trực tiếp và đầy xúc
động:
“Nửa năm trời con mới thấy mặt cha
Cha trở về và cha đi, vội lắm
Đừng trách, con ơi, cha là người lính
Người lính mấy khi được ở gần nhà
Mẹ đưa con về ở cùng bà
Tình thương mẹ chia đều hai ngả
Nửa theo gió thổi đi miền đất lạ
Nửa hòa vào con sóng vỗ lời ru.”
(Nhớ con)
Những lần về và ra đi vội vã, người lính Vương Trọng mang theo nỗi nhớ con
tha thiết, và hơn hết là nỗi thương con mới hơn một tuổi đã phải xa cả cha và
mẹ. Đó là những tâm sự rất thực, rất chân thành. Niềm thương, nỗi nhớ ấy
như tiếp thêm sức mạnh cho ông trong suốt chặng đường dài, giúp ông nhận
ra niềm hạnh phúc nhỏ bé của mình để mà nâng niu, trân trọng:
“Nhớ thương là hạnh phúc những ngày xa
` (Nhớ con)
Viết cho con trai, Vương Trọng không quên viết cho con dâu những
vần thơ thương yêu và đầy trách nhiệm. Bằng giọng thơ tâm tình, chia sẻ, ông
đã chủ động gạt bỏ đi những ngượng ngùng, mở đường chỉ lối cho cô con dâu
mới sớm hòa nhập vào nếp sống của nhà chồng. Ông dạy con cách ăn ở, cư
xử, dạy con cách giữ hòa khí trong nhà và không quên động viên, an ủi, đồng
thời là mong ước của ông đặt vào cô con dâu mới.
62
“Buồn làm dâu sẽ chóng qua
Niềm vui lắng lại, nỗi xa xích gần”
(Nói với con dâu)
Có thể thấy, trên tất cả những vần thơ viết cho vợ, cho con trai, con
dâu, người đọc nhận ra một Vương Trọng yêu thương gia đình hết mực. Với
ông, đó mãi luôn là một tổ ấm thiêng liêng nhất, là nơi ông tìm thấy bình yên.
Bên cạnh những vần thơ viết về gia đình, Vương Trọng còn dành một
phần thơ mình để viết về những người bạn mà ông yêu quý. Trong thơ Vương
Trọng, mỗi người bạn đều được ông phác thảo thành một bức chân dung với
những nét tính cách, tâm hồn, hình dáng mang cá tính riêng của họ, chứng tỏ
với bạn bè, Vương Trọng hiểu, trân trọng và yêu mến họ chân thành. Người
đọc dễ dàng bắt gặp tình cảm ấy trong các bài thơ ông viết về Phác Văn, Tào
Mạt, Thái Vượng, Lê Dung, Duy Khán...
Nghệ sĩ nhân dân, nhà thơ, nhà văn Tào Mạt là một cái tên quen thuộc
trong làng chèo. Đó là một “nghệ sĩ thực thụ với cái nghĩa vừa thiêng liêng,
sang trọng, cao cả, vừa phóng túng, lập dị của những chữ này” (5). Ông nổi
tiếng là người thẳng thắn, bộc trực, người nào hiểu tính cách ấy của ông thì
yêu quý hết mực, người nào không hiểu thì lảng lùi xa. Vương Trọng đã phác
họa nét chân dung, tính cách ấy bằng những câu ngắn gọn:
“Tóc rễ tre cắt ngắn, chẳng đường ngôi
Mỗi sợi một lời nói thẳng
Như ớt chỉ thiên, chỉ ngược lên trời!
Mắt ủ lửa, da mặt khô
Sự thật cháy lên bất ngờ
Không thiếu người sợ bỏng
Lảng lùi xa”
63
(Tào Mạt)
Tào Mạt là một nghệ sĩ chân chính, ông yêu say nghệ thuật chèo đến độ “giữa
lúc nói chuyện gặp điều gì xúc động, Tào Mạt bật khóc như trẻ con; những
lúc chuyện trò về nghệ thuật, Tào Mạt có thể rất tự nhiên đứng dậy, uốn tay
theo một điệu múa cổ, hát to một làn điệu chèo, hay đọc thơ sang sảng.” (5)
“Tào Mạt hát
Mười tám u ung thư loét miệng
Chả là gì
Nhức nhối nào níu nổi cái vung tay”
(Tào Mạt)
Và thói quen cho chữ bạn bè:
“Một xe đạp cọc cạch
Một túi xách hành khất
Tào Mạt đi cho chữ bạn bè
Và nói lời vĩnh biệt”
(Tào Mạt)
Tào Mạt vốn có hoa tay viết chữ Hán. “Đi đâu anh cũng đem theo cái túi
đựng đủ bút, giấy, mực...anh viết rất nhanh, rất đẹp, làm bao người phải trầm
trồ, thán phục”(5. )Tào Mạt sống chân thành, đôn hậu , cởi mở với bạn bè và
với mọi người. Trong ông lúc nào cũng hừng hực lửa đam mê, ngay cả khi
bệnh tật giày vò ông vẫn không ngừng hát và tập luyện hướng dẫn, sửa chữa
động tác cho diễn viên Đoàn nghệ thuật Tổng cục Hậu cần một cách say sưa:
Lòng yêu say nghệ thuật, tình yêu cuộc sống, tình cảm chân thành với bạn bè,
người thân, những nét tính cách ấy giúp ông sống mãi với thời gian.
Viết về Phác Văn, người bạn thơ, người bạn cờ của mình, Vương
64
Trọng hiểu phía sau nụ cười ran ấy:
“Có mặn chát nước mắt
Có cay đắng nỗi niềm
Mượn tiếng cười để chấp nhận nguôi quên”
(Phác Văn)
Nhìn hoa quỳnh nở trên sân thượng, nhà thơ nhớ Thái Vượng – người bạn thơ
rất yêu vẻ đẹp của hoa quỳnh, và thấy lòng hụt hẫng, xót xa:
“Sương hay nước mắt
Ướt đẫm mặt hoa
Quỳnh muốn sà xuống đất
Để lần tìm người ấy chốn mờ xa”
(Hoa quỳnh)
Còn nhiều người bạn khác xuất hiện trong thơ Vương Trọng, dù chỉ
qua một vài dòng thơ ngắn ngủi nhưng đủ giúp người đọc hình dung ra vẻ đẹp
riêng trong tâm hồn họ. Vơi nhà thơ Vvương Trọng, họ đều là những con
người tài hoa, là những người mang chứa trong tâm hồn tình yêu cuộc sống
và khát khao cống hiến đến cuối cuộc đời. Vương Trọng đã viết về họ bằng
65
tình cảm chân thành và nỗi xót thương.
Chƣơng 3. NGÔN NGỮ - NÉT ĐẶC SẮC NỔI BẬT TRONG NGHỆ
THUẬT THƠ VƢƠNG TRỌNG.
Về vấn đề sáng tạo hình thức trong thơ, Vương Trọng đã bộc lộ rõ
ràng, thẳng thắn quan điểm của mình : “Thơ viết ra không phải để người đời
chơi chữ mà cốt để chuyển tải nỗi lòng. Bài thơ hay là bài thơ người đọc lần
đầu đã thấy hay, đọc lại hay hơn và càng đọc càng hay. Tài năng của người
viết, cái giỏi của người viết không phải ở chỗ cố diễn đạt rắc rối một vấn đề
đơn giản. Cái hay chính trước hết ở cái ý, sau đó mới đến lời”. Quan niệm thì
là vậy, nhưng nói như Boalô: “Một câu thơ tràn đầy ý tứ và tình cảm cao
thượng cũng sẽ không nghe được nếu nó làm chối tai bằng sự méo mó”. Sự
méo mó, thô vụng trong diễn đạt sẽ không thể thể hiện trôi chảy ý, tứ của nhà
thơ dẫu nó có sâu sắc thâm thúy đến mấy. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một
sinh thể hoàn chỉnh, ở đó “tư tưởng và hình thức phải hòa hợp một cách hữu
cơ như là tâm hồn và thể xác, nếu huỷ diệt hình thức, nghĩa là hủy diệt tư
tưởng và ngược lại cũng vậy” (Bêlinxki). Chính vì lẽ đó, những vần thơ nhân
ái của “trái tim lớn đau nỗi đau của những cuộc đời bất hạnh” đã tìm đến
những hình thức diễn đạt khác nhau như một sự tự nhiên, tất yếu. Mỗi hình
tượng, mỗi từ ngữ, hay giọng điệu, thể thơ được Vương Trọng lựa chọn đều
nằm trong các lằn ranh giới thống nhất nhất quán với nội dung tư tưởng bao
trùm toàn bộ sáng tác của ông để tạo nên một phong cách thơ vững chãi.
66
Vương Trọng đã tạo lập cho mình một hệ thống ngôn ngữ, giọng điệu vừa
mang nét chung của phong trào thơ ca đương thời, vừa mang cá tính riêng của
nhà thơ.
Khi tìm hiểu phong cách thơ Vương Trọng về phương diện hình thức
nghệ thuật chúng tôi nhận thấy , ngôn ngữ là một đóng góp nổi bật của
Vương Trọng. Những đóng góp này tập trung ở một số phương diện cụ thể
sau:
3.1 Ngôn ngữ thơ giàu tính gợi cảm.
Người ta hay nói đến chất thơ trong tác phẩm văn học và trong đời
sống. Nói đến chất thơ là nói đến nhân tố thuộc về nội dung. Chất thơ có thể
nằm đây đó trong cuộc sống, ở những kết tinh tiêu biểu, hoặc ở trong văn
xuôi. Nhưng nói như V.Huygô, chất thơ bộc lộ một cách diễn cảm, màu sắc
qua cấu trúc của ngôn ngữ thơ ca.
Chất thơ trước hết gắn liền với sự rung động và những cảm xúc liên
tiếp của người sáng tác. Nhà thơ Sóng Hồng nói: “Người làm thơ phải có tình
cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng”(10). Nếu thiếu đi “tình cảm
mãnh liệt” ấy với đời, thơ sẽ trở nên lý trí, nặng về phán đoán suy tưởng. Tư
duy thơ nói riêng và tư duy nghệ thuật nói chung là tư duy hình tượng (khác
với tư duy khoa học là tư duy logic), hình tượng thơ lại là hình tượng của cảm
xúc. Chính cảm xúc là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên hình tượng thơ. Có
rất nhiều cách để thể hiện cảm xúc ở trong thơ. Người ta có thể tận dụng triệt
để tác dụng của các hình ảnh, nhịp điệu, các biện pháp tu từ, yếu tố cảm thán
để thể hiện cảm xúc, phơi bày cảm xúc trong thơ. Tuy nhiên những yếu tố
thuộc về kỹ thuật thơ như vậy sẽ chỉ trở nên hữu dụng tối đa khi nó bắt nguồn
từ cảm xúc chân thành, có thật của người sáng tác. Bởi “thơ là tiếng lòng”,
“thơ từ trái tim đi và trở về với trái tim” , “Hãy gõ cửa trái tim anh, thiên tài
là ở đó” . Cái gốc của thơ chính là sự rung động của của nhà thơ trước cuộc
67
đời, con người, số phận. Và vần thơ hay là “vần thơ làm cho người ta không
thấy câu thơ mà chỉ thấy tình người” (Tố Hữu). Cảm xúc là cái gốc của hồn
thơ. Nó lan tỏa, chi phối và tham gia cấu thành vào mọi yếu tố thuộc đặc
trưng thể loại. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên được nhà thơ lựa chọn để ký thác
cảm xúc của chính mình. Ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc trữ tình là một đặc
trưng khu biệt với ngôn ngữ thuộc các thể loại khác ngoài thơ.
Vương Trọng dù sáng tác ở thể loại nào, nguồn cảm hứng dồi dào và sức
sáng tạo bền bỉ vẫn luôn được thể hiện ở độ sung nhất. Chỉ có điều lạ là dù
viết truyện, ghi ký, hay sáng tác cho thiếu nhi, ngôn ngữ Vương Trọng vẫn
đậm chất thơ. Cái chất thơ bắt mạch từ trái tim nồng nhiệt chân thành với
cuộc đời, hằng lưu trong huyết quản tới câu, tới chữ. Ngôn ngữ thơ Vương
Trọng có khi bộc lộ trực tiếp tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ, của nhân vật trữ
tình với nhiều cung bậc… Có khi, đó chỉ là những nỗi niềm vu vơ thoáng ẩn
hiện trong chập chờn giấc ngủ và những ám ảnh quá khứ, khi :
“Cơn mưa về đột ngột
Lòng đêm còn giật thót
Nỗi lo xưa”
( Mƣa đêm)
Vùng đất “chảo lửa, túi bom” của đất nước đằng đẵng những năm chiến tranh
gắn liền với đói nghèo, cơ khổ vẫn hằn in sâu sắc trong tiềm thức nhà thơ.
Miền quê ấy không ít lần trở về trong những giấc chiêm bao, dáng mẹ, dáng
chị tần tảo, lam lũ như một ký ức buồn nhưng nặng trĩu nghĩa tình ám ảnh nhà
thơ khiến trái tim thi sĩ hơn một lần thổn thức :
“Chiêm bao tan nước mắt dầm dề
Con gọi mẹ một mình trong đêm vắng
Dù biết lời con chẳng thể nào vang vọng
Tới vuông đất mẹ nằm lưng núi quê hương”
68
(Khóc giữa chiêm bao)
“Nghĩ mà thương lắm chị dâu
Chiều mưa, gạo hết, mẹ đau cuối giường
Em ngồi đôi mắt nhòa sương
Nón tơi, cắp rá ngang vườn chị đi”
(Chị dâu)
Quá khứ đau thương nhưng ấm áp tình người. Quá khứ đã trở thành một
phần cuộc sống, vỗ về nhà thơ mỗi khi tâm hồn ấy cảm thấy chênh vênh giữa
cuộc đời và cần một chỗ để bấu víu, dựa dẫm:
“Con lang thang vất vưởng giữa đời thường
Đâu cũng sống không đâu thành quê được”
( Khóc giữa chiêm bao)
Trân trọng quá khứ, nâng niu quá khứ như một báu vật của riêng mình là
thái độ thật sự đáng quý của nhà thơ, nhưng hơn hết, nó giúp nhà thơ quý
trọng từng giây từng phút của cuộc đời và vun vén tạo dựng, chăm nom cho
hạnh phúc trong hiện tại.
Viết về vợ, về con trai, con dâu, và về cháu đích tôn của mình, ngôn ngữ
thơ Vương Trọng trở nên gần gũi, giản dị, chân thật nhiều khi đến thô vụng
và lúng túng. Thế nhưng, sự lúng túng, thô vụng của ngôn ngữ ấy lại “tố cáo”
tình yêu tha thiết của ông giành cho gia đình. Tình cảm thiêng liêng, sâu nặng
đâu dễ cất thành lời:
“Nỗi lòng cha cũng hai nửa phân chia
Nửa nhớ con, nửa thương về nơi mẹ
Chỉ riêng con còn thơ dại quá
Có bao giờ con biết nhớ cha đâu!”
69
(Nhớ con)
Những câu thơ viết cho vợ của Vương Trọng vui hóm, tếu táo, dân dã như
câu nói cửa miệng, trêu đùa nhưng ẩn chứa phía sau ngôn từ ấy là thái độ biết
ơn, và tình yêu nồng ấm :
“Nhà có ba trai: hai con, một bố
Chỉ mình em độc đắc nữ thôi mà
Anh bạc đầu chưa qua thời nhí nhố
Cứ gọi em là hoa hậu của nhà”
(Hoa hậu của nhà)
Cái tình của nhà thơ cũng có khi thốt lên một cách tự nhiên khi chứng
kiến những em bé vác giậm băng qua đường Năm vất vả nhọc nhằn mà hiểm
nguy rình rập, là cái nhói đau khi chứng kiến những em bé ở Cao Bằng, Lạng
Sơn nghèo cơm, nghèo chữ, là tình thương dành cho đồng đội, lúc vui lúc
buồn chia nhau từng ngụm rượu cần, vui hát say sưa trong ấm áp tình dân, lúc
“tình thương chìm vào đất, theo dòng nước mắt rơi” khi đồng chí ngã xuống
trên chiến trận, …
Trong mảng thơ tình yêu, Vương Trọng bộc lộ rõ “bản chất” đa cảm
của một chàng thi sĩ đa tình với muôn vàn cung bậc nhớ thương: Khi thì “Sao
hồi hộp thế tim ơi/ Khi đi qua ngõ của thời yêu nhau / có gì, còn có gì đâu, /
hàng cây với gốc phi lao trụi trần”(Khi qua nơi hẹn), lúc lại “bổi hổi bồi
hồi”, nhấp nhổm đợi mong thứ Năm – thứ hẹn.
Bên cạnh hệ thống ngôn ngữ bộc lộ trực tiếp cảm xúc, nhịp điệu thơ là một
yếu tố quan trọng tạo nên tính trữ tình cho ngôn ngữ thơ Vương Trọng. Nói
đến nhịp điệu trong thơ Vương Trọng, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới hệ
thống thanh điệu, nghệ thuật ngắt nhịp và hệ thống từ loại , đặc biệt là các từ
láy gợi hình gợi cảm – những yếu tố căn bản tạo nên nhịp điệu chung của thơ
70
Vương Trọng.
Trước hết, chúng tôi nhận thấy rằng, đối với những vần thơ hướng nội –
ở đây chúng tôi hiểu là những bài thơ bộc lộ những suy nghĩ , trở trăn của nhà
thơ trước con người, sự vật, hiện tượng bên ngoài, những vần thơ thể hiện cái
tôi nội cảm của nhà thơ , tỉ lệ thanh điệu chênh nhau, thanh bằng dùng nhiều,
thanh trắc dùng ít; còn ngược lại là những vần thơ hướng ngoại, nhất là những
vần thơ tếu táo, hóm hỉnh, Vương Trọng chủ yếu sử dụng thanh trắc thể hiện
sự nhìn nhận đánh giá một cách sắc sảo, thông minh. Hệ thống thanh bằng với
đặc điểm riêng của mình có vai trò quan trọng trong việc diễn tả tiếng lòng
tưởng bàng quan, thờ ơ mà nhiều trăn trở trước mỗi số phận bất hạnh của con
người:
“Thôi nhắc chi những năm dài trống trải
Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu
Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải
Pháo cười người như đốt để trêu nhau”
( Với đứa con ngoài giá thú)
Hay
Nhà chồng chồng ở nhà đâu
Em chồng đông, mẹ chồng đau ốm nhiều
Làm dâu phải gặp cảnh nghèo
Đôi bàn tay chị chống chèo lo toan”.
( Chị dâu)
Những vần thơ khai thác các thanh bằng một cách triệt để đã kiến tạo nên một
giọng điệu rất riêng cho thơ Vương Trọng – giọng tâm tình, chia sẻ, giãi bày.
Mỗi lời thơ của ông đọc lên nghe như những lời tâm tình , thủ thỉ, như đang
khơi gợi những tâm sự thầm kín, giúp người đọc có cảm giác như đang đối
thoại trực tiếp với nhà thơ, tìm thấy ở đó một nơi tin cậy để chia sớt nỗi niềm.
71
Những thanh âm đều đặn như kể việc, kể người, thỉnh thoảng, đôi chỗ khéo
léo thêm thanh sắc như điểm nhấn, như nốt đậm trên bức tranh toàn màu sáng
khiến những vần thơ ông đi vào lòng người một cách tự nhiên mà ám ảnh và
có sức neo đậu. Với Vương Trọng, thơ là “nỗi lòng” là số phận, mỗi tiếng thơ
của ông không viết lên bằng sự tỉnh táo mà bằng cái đắm say suy tư về số
phận con người. “Thơ là tiếng lòng đồng điệu của tâm hồn con người” (Tố
Hữu),với Vương Trọng, điều đó thật đúng. Mỗi lời thơ viết lên, ngay cả
những vần thơ tưởng như vô tình nhất, đều là tiếng lòng xót đau của Vương
Trọng trước mỗi số phận đáng thương trong cuộc sống. Đó là lời của trái tim,
là nhịp điệu của trái tim thi sĩ trước cuộc đời.
Theo GS Hà Minh Đức, “bản chất giàu cảm xúc của người nghệ sĩ sẽ
quyết định tính chất phong phú về cảm xúc của hình tượng thơ” và “ hình
tượng thơ chính là hình tượng của cảm xúc. Hơn nữa, tiếng thơ phải được nói
lên từ một tấm lòng, từ những rung động sâu xa của trái tim đang xúc động.
Những thương mến, căm giận, những nỗi niềm khác nhau bộc lộ trong hình
tượng thơ đều phải chân thành, tự nhiên như một lời tâm sự, một tình cảm
không thể nén lại được”(8). Sự chân thành trong cảm xúc của một trái tim đa
cảm thể hiện một cách khéo léo, chọn lọc trong những hình ảnh giàu tính biểu
hiện và nhiều sức gợi : hình ảnh trái tim, ngọn lửa và đôi bàn tay.
Tất nhiên, hình ảnh trái tim, tự bao giờ đã trở thành hình tượng của cảm
xúc và những rung động. Trong thơ Vương Trọng, hình tượng trái tim xuất
hiện với một mật độ khá dày, đặc biệt trong tập thơ “Ngoảnh lại” (22/147 bài
thơ) chứng tỏ với ông, đây là một hình ảnh khó có thể thay thế khi những
rung động cần được giãi bày. Và quả thực đọc thơ Vương Trọng, người đọc
sẽ được đắm chìm trong một thế giới của cảm xúc, của tâm hồn khi vui đắm
bâng khuâng, lúc ngọt ngào, hạnh phúc, khi nồng nàn đa tình, khi đong đưa ý
nhị :
72
“Sao dồn dập thế tim ơi
Khi qua nơi hẹn của thời yêu nhau
Có gì, còn có gì đâu
Hàng cây với gốc phi lao trụi trần”
(Khi qua nơi hẹn)
Có khi là trái tim đau đớn, xót xa thương cảm đè nặng lồng ngực nhà thơ mỗi
đêm về khi ông chứng kiển cảnh những em nhỏ vùng cao năm , sáu tuổi gánh
những gánh củi cao nặng hơn người:
“Gánh củi đè nặng ngực tôi
Cả trong chiêm bao giấc ngủ
Trở mình ú ớ
Đòn gánh tre ép chặt con tim
…
Gánh củi trở thành đá núi
Đêm đêm đè nặng ngực tôi”
( Gánh củi)
Đôi khi trái tim là hình ảnh ẩn dụ của con người thi sĩ, con người đa tình,
con người tếu táo của chàng trai trẻ tinh nghịch mà bạo:
“Ngực em gần, cổ áo rộng gió bay
Kéo áo ra tay không chạm ngực đầy
Tim anh nhảy sắp nghiêng bát nước
Miệng em cười đôi má hây hây”
(Hội té nƣớc)
Ngôn ngữ Vương Trọng nhiều khi cũng biến đổi linh hoạt một cách
đầy thú vị. Cũng là hình ảnh “trái tim” mà nó có khi kéo người đọc đắm chìm
73
trong những nỗi niềm hạnh phúc của người vợ đọc thư chồng, có khi là nỗi
xót xa, thương cảm cho những em nhỏ vùng cao đói nghèo, nheo nhóc, có lúc
cuốn người đọc vào không khí tưng bừng, nhộn nhịp của những đêm rượu cần
ấm áp tình dân, ấm áp tình đồng chí; rồi lại nhanh chóng khiến người đọc bồi
hồi trong những trải nghiệm tình yêu lúc nồng nàn đắm say, khi hồi hộp ngơ
ngẩn. Hình ảnh trái tim đã thực sự giúp người đọc thâm nhập vào thế giới tâm
hồn của nhà thơ, để sống, cảm nhận, và đồng điệu cùng trái tim thi sĩ nặng nỗi
đời:
“Ngực yếu, trái tim thì quá nặng
Nhờ thơ san sẻ bớt niềm đau”
(Nguyễn Du)
Bên cạnh hình ảnh trái tim, ngôn ngữ thơ Vương Trọng phong phú và
giàu sức gợi còn bởi sự xuất hiện với một tần suất liên tục của hình ảnh ngọn
lửa và đôi bàn tay. Ở đây, chúng tôi khảo sát tuyển tập “Ngoảnh lại” – tuyển
tập quan trọng nhất tập hợp những vần thơ đặc sắc nhất của Vương Trọng
(tính đến thời điểm này) và nhận thấy hình ảnh ngọn lửa xuất hiện 37/147 bài
thơ, hình ảnh đôi bàn tay xuất hiện 48/ 147 bài thơ . Những hình ảnh này trở
đi trở lại nhiều lần giúp nhà thơ giãi bày, thể hiện thế giới tình cảm thật đa
dạng của mình.Trước hết , đó là những hình ảnh của hiện thực nhiều màu sắc:
Là ngọn lửa cháy sáng trên bếp lửa Lũng Cú , là ánh lửa chập chờn leo lét
thuở ấu thơ , là bàn tay gầy guộc ân tình của mẹ, của chị, đôi bàn tay ấm áp
của người yêu, …Những hình ảnh thân thuộc, gần gũi đó in sâu vào tâm trí
nhà thơ gợi nhắc về một miền ký ức đồng thời cũng trở thành những hình ảnh
biểu tượng của tình người, tình đồng chí, đồng đội, tình quân dân cá nước,
tình nghĩa vợ chồng, tình yêu đôi lứa, tình cảm cha con… Ông viết hay và
khéo về tình yêu. Đôi bàn tay đã trở thành hình ảnh hoán dụ để nói hộ trái
tim yêu ngập ngừng, e ấp nhưng cũng rất táo bạo:
74
“ Ngập ngừng khó nói lời yêu
Tay này, tay ấy biết chiều trái tim
Qua bàn , lần đến nhau tìm
Lặng im, giây phút lặng im ngọt ngào”
(Một lần em đến)
Ông cũng rất khéo léo khi thể hiện những tình cảm dạt dào , sâu lắng
của mình hoặc những trầm ngâm, suy nghĩ, những quan điểm giàu tính triết lý
của mình về tình yêu thông qua hình ảnh ngọn lửa:
“Người xin được và người mua chẳng mất
Lửa và tình sao thật giống nhau
Than củi hết ngọn lửa kia sẽ tắt
Nhiên liệu nào cho lửa cháy bền lâu”
(Lửa và tình)
“ Đã yêu thì yêu như lửa đốt
Cây cành nào cũng phải cháy thành tro”
(Triết lý tình yêu)
Có thể thấy ngôn ngữ thơ Vương Trọng thật giàu sức gợi. Từ những
hình ảnh tưởng chừng quen thuộc đến nhàm chán trong thơ, ông đã thổi vào
chúng sức sống muôn đời, ấy là hồn người, là hồn thi sĩ. Vì vậy những hình
ảnh trong thơ Vương Trọng vừa quen mà vừa lạ, gần gũi, thân thuộc nhưng
lại khơi gợi trong lòng người biết bao nhiêu nỗi niềm nhân tình thế thái.
3.2.Ngôn ngữ thơ giàu tính biểu tƣợng
“Ngôn ngữ thơ ca là sự biểu hiện tập trung nhất tính hàm súc, mỹ lệ,
phong phú của ngôn ngữ” (7). Người xưa quan niệm “quý hồ tinh bất quý hồ
đa”, văn chương quý ở chỗ tinh trắc chất lượng chứ không quý ở sự nhiều.
Tuy nhiên, để có được tính hàm súc, mỹ lệ, tinh trắc chất lượng ấy của ngôn
ngữ thơ ca, người xưa đã xây dựng, quy ước nhiều hình ảnh trở thành biểu
75
tượng, chẳng hạn Tùng, Trúc, Cúc, Mai, Long, Ly, Quy, Phượng. Vương
Trọng là người yêu say văn chương truyền thống của dân tộc. Trong thơ ông
có rất nhiều hình ảnh trở đi trở lại nhiều lần, trở thành những hình ảnh biểu
tượng chở mang tâm tư, nghĩ suy của riêng tác giả về cuộc đời và về con
người.
Người phụ nữ , những người vợ, người mẹ vẫn là những hình ảnh quen
thuộc trong thơ Vương Trọng, những hình ảnh được ông ưu ái và dành thật
nhiều tình cảm nhất đã được ông khái quát thành biểu tượng Hòn Vọng Phu.
Với mỗi người Việt Nam, nàng Tô Thị hóa đá chờ chồng đã trở nên quen
thuộc và trở thành một biểu tượng của sự thủy chung son sắt. Tuy nhiên, đọc
những bài thơ “Trò chuyện với nàng Vọng Phu”, “Về thôi nàng Vọng Phu” ,
“Có một mùa xuân”, …, người đọc sẽ ngỡ ngàng bởi sự mới mẻ mà nhà thơ
mang đến. Trí tưởng tượng phong phú, những liên tưởng đối chiếu so sánh
độc đáo khiến tảng đá vô tri đã thực sự trở thành những biểu tượng sống động
với những suy nghĩ, những trải nghiệm nội tâm phong phú và nhiều sức gợi.
Ở những bài thơ đó người đọc có cảm giác nàng Tô Thị đã bước ra khỏi thế
giới huyền thoại để đối diện với cuộc đời nhiều nỗi đau những cũng lắm niềm
vui và hy vọng. Ngôn ngữ đối thoại trong “Trò chuyện với nàng Vọng Phu”
đã mang đến một sự khám phá mới mẻ, thú vị :
“- Về thôi nàng ơi
Niềm sum họp đã vào từng cánh cửa
Sao nàng còn đứng trong mưa trong gió
Cô đơn giữa mây trời?
- Thế để đâu những lời
Ta đã hẹn với người ta thương nhớ
Người ấy chẳng bao giờ về nữa
Mấy ngàn năm ngắn ngủi lắm sao
76
Đất nước qua trăm trận binh đao
Lở bồi, dâu bể?”
( Trò chuyện với nàng Vọng Phu)
Ngôn ngữ đối thoại giúp hình tượng thơ trở nên gần gũi, mang hơi thở của sự
sống, quan trọng hơn, khi Vương Trọng nhập vai vào hòn Vọng Phu ấy, ông
đã khái quát nét đẹp tâm hồn những người đàn bà Việt, đó là sự nhẫn nại đợi
chờ và niềm tin sắt đá vào sự trở về dẫu đất nước đã trải mấy nghìn năm lở
bồi dâu bề :
“Người đời biết thân ta hóa đá
Nhưng hay đâu ta hóa đá niềm tin
Hóa đá nỗi cô đơn
Và thời gian chờ đợi”
( Trò chuyện với nàng Vọng Phu)
Ngôn ngữ đối thoại, phương thức nhân hóa, phép nhập vai, sử dụng những
nghệ thuật ấy, Vương Trọng mang đến một cái nhìn mới mẻ cho người đọc
khi nàng Vọng Phu được tự bộc lộ những nỗi niềm của người vợ chờ chồng,
khi hòn Vọng Phu trở thành cái tôi khác đối diện với nhà thơ:
“Ta hóa đá triệu lần nỗi đợi
Để những người vợ chờ chồng thoát khỏi cảnh chờ mong”
( Trò chuyện với nàng Vọng Phu)
Một sự lý giải đẹp và bất ngờ. Một sự lý giải có lẽ chỉ có được khi nhà thơ
thật sự cảm thương đồng điệu, khi trong nhà thơ có sợi dây liên tưởng nối liền
hiện thực bao số phận của những người đàn bà. Ở “Có một mùa xuân”, bức
chân dung tâm hồn nàng Vọng Phu sẽ được bộc lộ một cách đầy đủ, vẹn tròn
77
hơn qua ngôn ngữ độc thoại. Hóa thân vào nàng Vọng Phu, bao nhiêu nỗi
niềm lạnh lẽo đơn côi, bao nhiêu nỗi buồn chờ đợi không thể nào dấu nổi dẫu
thân đá kiên cường trước “bão bùng, rét cắt, nắng chang chang”. Những từ
láy giàu sức gợi “chang chang, biền biệt, lạnh lùng, chênh vênh, đăm đăm”;
phương thức nhân hóa “nàng rùng mình thân đá”, nghệ thuật tạo hình điêu
luyện “thân đá lạnh lùng, mỏm núi chênh vênh”, Vương Trọng đã cụ thể hóa,
hình tượng hóa hiện thực hóa nỗi buồn, nỗi cô đơn, sự lẻ loi, đơn chiếc, cảm
giác lạnh lùng, trống trải, sự sợ hãi của người đàn bà ngóng chồng đi biệt xứ
trước vũ trụ rộng lớn đến không cùng.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những cuộc trò chuyện trong tưởng tượng
cho thấy năng lực tư duy hướng nội dồi dào của tác giả. Trí tưởng tượng
phong phú, khả năng hóa thân nhập vai điêu luyện khi tái hiện bức chân dung
hòn Vọng Phu của nhà thơ giúp người đọc có được cái nhìn xuyên suốt, sâu
sắc và đầy nhân văn về những người phụ nữ Việt Nam.
Tính hình tượng của lời văn bắt nguồn từ chỗ đó là lời của một chủ thể
tư tưởng thẩm mỹ xã hội có tầm khái quát nhất định. Nhờ vậy, lời của một
người dễ dàng đi vào lòng người, trở thành lời nói của muôn người. Hình ảnh
nàng Vọng Phu đã trở thành một hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng là vì thế.
Vương Trọng nhiều trăn trở âu lo. Ý niệm về thời gian chảy trôi ám ảnh
trong nhiều bài thơ của ông. Hình ảnh mái tóc bạc trở đi trở lại nhiều lần
trong thơ ông như một biểu tượng về thời gian đời người.
Hình ảnh thời gian có khi được đo bằng năm bằng tháng, đo bằng nỗi cô đơn :
“Thôi nhắc chi những năm dài trống trải
Bao vầng trăng vô nghĩa rụng qua đầu
Tóc hoàng hôn thưa dần theo lược chải
Pháo cưới người như đốt để trêu nhau”
78
(Với đứa con ngoài giá thú)
“Sau mười năm gặp lại
Bảy mươi mẹ còn khỏe vậy
Ba lăm em đã héo gầy”
(Gặp lại)
Cũng có khi thời gian được tính bằng chiều dài của kiếp người:
“Sao đem giọng hát một đời
Đổi về tình hận ngậm ngùi ngàn năm”
(Nói với Trƣơng Chi)
“Kiếp trước ta là con nợ
Kiếp này mưa đêm về đòi”
(Mƣa đêm)
thời gian có khi nhập nhòe ẩn hiện trong giấc chiêm bao
“Quá khứ gần, quá khứ xa khuất.
Chiêm bao kỉ niệm nhập nhòe ”
(Những mắt hoa)
nhưng có thể nhận thấy biểu tượng về thời gian đời người được Vương Trọng
thể hiện một cách vừa sâu sắc, thâm thúy, vừa giàu triết lý sâu xa qua hình
ảnh mái tóc – trục thời gian tượng hình:
“...Một nửa ánh ngày, một nửa đêm thâu
Một phía dầm mưa, một đầu hửng nắng
Không, sợi tóc nửa chiều nửa sáng
Trưa cuộc đời, ta vừa mới đi qua.
Hai bàn tay căng sợi tóc ra
Mong manh thế mà sao rắn chắc
Trục thời gian tượng hình trước mắt
79
Ta đang ta hay ta khác ta rồi.”
(Sợi tóc hai màu)
Mái tóc vốn là biểu tượng thời gian đời người. Mái tóc xanh là biểu
tượng của “một thời trai trẻ”, mái tóc hoa râm, mái tóc bạc là hình ảnh của
tuổi già. Nhìn sợi tóc hai màu, nửa xanh nửa bạc hiển hiện trước mắt, nhà thơ
thấy “trục thời gian tượng hình trước mặt”, ông “bàng hoàng”, “thẫn thờ”,
nhận ra quy luật nghiệt ngã của thời gian:
“Ta đang bay khi ta ngồi im lặng
Cái tận cùng đâu có chẳng còn xa”
(Sợi tóc hai màu)
Thời gian chảy trôi không ngừng, đời người thì ngắn ngủi, hữu hạn.
Vương Trọng tiếc nuối thời gian, ngôn ngữ thơ ông nửa như muốn chạy đua
cùng thời gian, nửa như bất lực, xót xa: “Cười làm chi cho nham nhở nụ
cười.” Vương Trọng nhận thức rõ quy luật nghiệt ngã của cuộc đời: “Phép
mầu nào chống chọi nổi thời gian?” Vì thế, ông cũng nhận thức rõ nơi cuối
cùng con người sẽ đến: “Nấm mồ”.
“Nấm mồ” là biểu tượng của cái chết. Nấm mồ là biểu hiện của một thế
giới khác – thế giới của tâm linh – thế giới của sự chia lìa. Trên đất nước đã
trải bao cuộc binh đao, dẫu chiến tranh đã lùi về quá khứ nhưng ngàn vạn
nghĩa trang trên khắp vùng miền Tổ quốc là chứng tích đau thương của một
quá khứ anh hùng. Trong thơ chống Mỹ, hình ảnh nấm mồ của những người
đồng đội, những đồng chí đã hy sinh trở thành biểu tượng của những người
Việt Nam anh dũng, bất khuất là những cái chết đã hóa thành bất tử, cái chết
gieo mầm cho sự sống
“Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
Nơi gặp gỡ những con người
Thời gian không thêm tuổi
80
Nơi chiến trường và hậu phương xích lại
Tên liền dòng trên bia đá xanh
Ngày sinh và ngày hy sinh
Cách nhau nửa quãng đời tuổi trẻ”
(Ở nghĩa trang liệt sĩ Trƣờng Sơn)
Như chúng tôi đã khẳng định, thơ Vương Trọng là thơ của những tình
cảm, những cảm xúc chân thành trước số phận, cuộc đời của những con người
bất hạnh. Ngôn ngữ thơ ông giàu tình cảm, cảm xúc trữ tình. Trong thơ ông,
hình ảnh trái tim, ngọn lửa, đôi bàn tay, đôi mắt đã trở thành những biểu
tượng của yêu thương.Với những hình ảnh này, thơ Vương Trọng đã in đậm
dấu ấn trong lòng độc giả chân dung của một nhà thơ giàu trái tim yêu
thương.
3.3 Ngôn ngữ thơ giàu tính triết lý
Nhà thơ Vương Trọng tâm sự ông không phải là một triết gia nên triết
lý dành để các nhà triết học đảm nhận. Riêng phần mình, Vương Trọng chỉ
thích viết những gì mình hay suy tư, trăn trở. Văn học chống Mỹ và thời
kỳ văn học sau đó giọng điệu chính luận là đặc điểm nổi bật. Chất chính
luận sắc sảo mang đến cho thơ hơi điệu mới mẻ, trí tuệ; những lý luận
mang tầm khái quát về thơ, về cuộc đời, về số phận con người... Thơ
Vương Trọng không phải thơ chính luận. Ngôn ngữ thơ ông cũng là thứ
ngôn ngữ chân phương, giản dị. Những vấn đề trong thơ Vương Trọng
cũng không có cái gì đao to búa lớn. Thế nhưng, đọc thơ Vương Trọng
người đọc dễ dàng nhận ra chất trí tụê đằm sâu trong câu chữ; dễ dàng
nhận ra giọng điệu triết lý của một “ông đồ gàn xứ Nghệ”. Đọc những vần
thơ này, người ta liên tưởng tới cái chất sâu sắc, thâm trầm của cụ Tam
Nguyên thuở trứớc. Vương Trọng cóp nhặt những điều bình dị trong cuộc
sống, suy nghĩ, trăn trở bằng tư duy lôgic của một dân “toán tổng hợp” và
81
tư duy hình tượng của một nhà thơ khiến mỗi sự vật hiện lên trong thơ đều
đau đáu một nỗi niềm của nhà thơ về cuộc đời, con người, về quan hệ nhân
sinh, thế thái.
Có thể nhận thấy, bên cạnh chất trữ tình, ngôn ngữ thơ Vương Trọng
còn là ngôn ngữ giàu tính triết lý. Ngôn ngữ triết lý biểu hiện trước hết qua
nghệ thuật tương phản được nhà thơ khéo léo sử dụng :
“Hạt gạo mẩy thường nằm gần với sạn
Người đãi gạo vụng về vứt bỏ chẳng tiếc thương”
(Gạo và ngƣời)
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú cho rằng, thơ Vương Trọng là thơ nghịch
cảnh về số phận con người. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm ấy.
Chúng tôi xin đi sâu hơn là để khai thác những nghịch cảnh ấy, Vương
Trọng đã tìm thấy trong số phận của những vĩ nhân, những người phụ nữ,
những người thân....sự đối lập, tương phản giữa số phận, cuộc đời họ với
cái họ đáng được hưởng theo quy luật nhân quả, quy luật của cuộc sống. Ở
đây ít nhiều, Vương Trọng đã chịu ảnh hưởng quan niệm của Nguyễn Du:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
(Truyện Kiều)
Khi ông viết về nghịch cảnh của những vĩ nhân, những nhân cách lớn hay
những tài năng như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Đạm Tiên, Thúy Kiều,
Tào Mạt, Duy Khán, Lê Dung... Tất nhiên ở đây, ông đã nhìn nhận họ
không chỉ là những vĩ nhân, những nhân cách lớn, những con người tài
năng mà ông đã nhìn ra trong cuộc đời họ, những số phận mang bi kịch.
Đó là Nguyễn Du:
“Lưng gày trĩu nặng nỗi bể dâu
82
Ngực yếu trái tim thì quá nặng”
Là một vĩ nhân, là một đại thi hào, danh nhân văn hóa, nhưng nấm mồ
Nguyễn Du thì tuềnh toàng đến ngỡ ngàng, xót xa khiến nhà thơ không
khỏi ngậm ngùi, ái ngại:
“Tưởng rằng phận bạc Đạm Tiên
Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây
Ngẩng trời cao, cúi đất dầy
Bâng khuâng tay nắm bàn tay của mình”
(Bên mộ cụ Nguyễn Du)
Cách gọi đích danh cụ Nguyễn Tiên Điền, cách dùng cách cặp từ đối
lập, trái nghĩa (ngẩng - cúi; trời - đất ) khiến bi kịch cuộc đời của cụ thật
xót xa. Đó có khi là chân dung Tào Mạt :
“Tào Mạt hát
Mười tám u ung thư loét miệng chả là gì
Nhức nhối nào níu nổi cái vung tay”
(Tào Mạt)
Viết về các mẹ, các chị và những người em gái, Vương Trọng cũng đặt
họ vào những hoàn cảnh đối lập để người đọc cảm nhận sâu sắc hơn
những thiệt thòi và hy sinh của họ. Riêng mảng này, vận dụng số từ và
những thuật ngữ toán học là một thế mạnh của riêng Vương Trọng . Điều
này có thể được lý giải bởi Vương Trọng vốn xuất thân là một người học
toán. Những con số, những thuật ngữ toán học ông tích lũy những năm
tháng trên giảng đường đại học đã trở thành những con số có hồn, những
con số chở mang có khi là niềm khát vọng , nỗi mong đợi của cả một đời:
“Hẹn một lần chờ đợi cả ngàn ngày
Anh đi biệt phương trời không trở lại
Căn nhà trống , ngày lẻ loi mình chị
83
Đêm thắp đèn cho bóng nữa thành đôi”
(Chị)
.......
“Sau mười năm gặp lại
Bảy mươi mẹ còn khỏe vậy
Ba lăm em đã héo gầy”
(Gặp lại)
Nỗi mong chờ hóa đá:
“Đi một lần không về
Đợi ngàn năm hóa đá
Thương thân dựng trời quê
Nhớ xương vùi đất lạ”
(Vọng Phu)
Nếu làm một phép thống kê, người đọc dễ dàng nhận ra trong thơ
Vương Trọng những con số thời gian đời người, những con số đằng đẵng
trôi qua thời thanh xuân của các bà, các mẹ; những con số đong đầy nước
mắt mỏi mòn đợi trông; những con số gói ghém khát vọng làm vợ, làm mẹ
của cả một thời con gái: Mười lăm năm, hai chục năm, ba mươi năm, bốn
mươi năm, nghìn năm, hai nghìn năm, mấy ngàn năm... Sẽ có người nói
nhà thơ quá vô tình, ông lẳng lặng đếm nỗi đau, đếm sự đợi trông, đếm
mỏi mòn mong ngóng, đếm nước mắt của những người đàn bà xa chồng,
xa con; những người đàn bà khát khao hạnh phúc vẹn tròn bình dị bằng
những con số vô tình. Ông cứ lặng lẽ ghi chép, những con số tự nó nói lên
tất cả. Chất trí tụê, chất triết lý của nhà thơ Vương Trọng là ở đó. Ông mở
ra cho người đọc cánh cửa để họ tự bước vào cuộc đời của mỗi số phận,
84
mỗi nhân vật, để nghĩ suy và bình giá.
Thuật ngữ toán học được Vương Trọng sử dụng nhuần nhuyễn trong
“đoạn thẳng” – một bài thơ có cái tứ rất lạ: “cuộc đời con người ngắn
ngủi như một đoạn thẳng”
“Bà đỡ luồn tay vào găng mềm
Phu đào huyệt xắn cánh tay cầm cuốc thuổng
Một hài nhi nâng lên
Một quan tài hạ xuống
Tạo hóa chơi trò bập bênh
Trên cách tay đòn cuộc đời
Tì lên từng số phận...”
(Đoạn thẳng)
Mỗi cuộc đời là một đoạn thẳng, có đoạn ngắn đoạn dài nhưng đều
giống nhau ở hai điểm đầu: nhà hộ sinh – nghĩa địa. Trong cái đoạn thẳng
cuộc đời ngắn ngủi ấy, đau đớn lắm, mưu toan, lọc lừa nhiều “như tập hợp
vô tỉ chất chồng lên” – còn “hạnh phúc, niềm vui chỉ là số tự nhiên”.
Những đau đớn, mưu toan, lừa lọc trong cái đoạn ngắn ngủi của đời người
là vô hạn, là chồng chất số vô tỉ - không thể nào đếm xuể, còn hạnh phúc,
niềm vui thì ít ỏi, thì hữu hạn. Giọng thơ Vương Trọng lạnh lùng tưởng là
vô cảm nhưng bài thơ đem đến cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc,
những bài học đáng để mỗi người trăn trở khi sống trên cõi đời : Hãy biết
yêu thương trân trọng nhau; hãy để niềm vui hạnh phúc được nhân lên;
hãy bớt đi những mưu toan, lừa lọc để những bất hạnh những đau đớn
đừng là tập số vô tỷ, vô hạn nữa. Triết lý của Vương Trọng giản dị mà
thâm thúy sâu sắc, mỗi người phải tự rút ra bài học cho mình để sống tốt
85
hơn, để cái đoạn thẳng cuộc đời của mình trở nên có ý nghĩa hơn
Sử dụng số từ, sử dụng các thuật ngữ toán học có thể được coi là một
điểm nổi bật của ngôn ngữ thơ Vương Trọng. Trong thơ ông, những con
số đều có linh hồn. Vương Trọng đã thổi hồn mình vào chữ.
Bộc lộ một cách trực tiếp quan điểm của mình về hạnh phúc, tình yêu,
về cuộc đời và con người cũng là một điểm nổi bật của ngôn ngữ thơ
Vương Trọng. Vương Trọng đã tự thú nhận: “Con lang thang, vất vưởng
giữa đời thường. Đâu cũng sống không đâu thành quê được” (Khóc giữa
chiêm bao), nên với ông hạnh phúc có khi thật giản dị:
“Hạnh phúc là được chết nơi mình sinh nở”
(Cá hồi)
Vương Trọng viết nhiều về điều này, về niềm hạnh phúc giản dị, bé
nhỏ,mộc mạc của riêng ông:
“Núi Quỳ Sơn dành sẵn chỗ tôi nằm
Hoa ấm lửa, đất nồng hơi than cháy.
Hạnh phúc lắm được nằm xuống đấy
Dù gió mưa, không biết lạnh bao giờ”
(Lời dặn)
Vương Trọng quan niệm hạnh phúc giản dị, đơn sơ đến thế chứng tỏ ông
thực sự trân trọng cuộc sống gần gũi bên mình, thực sự yêu quý và gắn bó
với cuộc sống gần gũi, thân thuộc, dường như ông hài lòng với những gì
mình có, không bon chen danh lợi, không bị cuốn vào dòng đời xô bồ hối
hả, để giữ cho mình sự viên mãn của tâm hồn để sống trọn vẹn và thủy
chung với những gì ông có:
“Chiều vàng nhạt trên lưng đôi bò kéo
Xe bánh cao chở gỗ qua đồng
Trên gỗ mẹ ngồi cho con bú
86
Hạnh phúc đằm trên đôi cánh tay nâng”
(Đƣờng về Phum)
Hạnh phúc với Vương Trọng “gần gũi lắm”. Nó có thể chỉ là một lời sẻ
chia, một ánh mắt quan tâm trìu mến cũng đủ để sưởi ấm trái tim đa cảm
của nhà thơ, hạnh phúc nào bằng san sẻ yêu thương, là cái chạm tay nhẹ
nhàng lúc chia ly:“Dễ gì hạnh phúc được cầm tay nhau”, là cái giây phút
ngắn ngủi nhưng nồng ấm được ngồi bên đồng đội sẻ chia hơi ấm và ngọn
lửa bên bếp Lũng Cú:
“Muốn lặng yên
Tận hưởng giây phút vừa bén tới
Được ngồi sưởi cùng những người đồng đội
Bao năm chốt giữ đất này”
(Bếp lửa Lũng Cú)
Hành trình cuộc đời của con người là hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Trên
con đường dài đó, không ít người chỉ tìm thấy điều bất hạnh, những lo
toan đau khổ. Họ không nhận ra một chân lý thật đơn giản, hạnh phúc gần
gũi, giản dị và luôn ở bên trong mỗi chúng ta.
Trong suốt cuộc đời mình, Vương Trọng cũng luôn kiếm tìm hạnh
phúc, tình yêu. Thơ tình yêu của Vương Trọng không phải là nhiều. Tuy
chỉ một vài bài nhưng đủ để tạo nên triết lý riêng về vấn đề muôn thuở
của con người – đó là tình yêu. Trong “Triết lý khi yêu”, Vương Trọng
viết:
“Chừng mực với mọi điều
Với tình yêu xin đừng chừng mực
Đã yêu thì yêu như lửa đốt
Cây cành nào cũng phải cháy thành tro
Đã yêu thì yêu như rượu bốc
87
Trên có trời, dưới dất, giữa hai ta”
Viết về tình yêu nhưng ngôn ngữ thơ của ông rành rọt, dứt khoát, và quyết
liệt. Cấu trúc câu lặp lại: “Đã yêu thì...” cho thấy quan điểm thật rõ ràng,
nhất quán. Với ông, khi đã yêu thì không có gì có thể ngăn cản nổi. Tình
yêu mãnh liệt, vượt thời gian, vượt không gian. Vương Trọng viết:
“Đã yêu thì yêu như lửa đốt
Cây cành nào cũng phải cháy thành tro
Đã yêu thì yêu như rượu bốc
Trên có trời, dưới đất, giữa hai ta
Đã yêu thì yêu như ông bà
Tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội
(...)
Đã yêu thì yêu như Tiên Dung
Đẳng cấp; sang bên không bàn đến
Đã yêu thì yêu như Mị Châu
Đầu dù rơi vẫn không sai lời hẹn
Đã yêu thì yêu như Trương Chi
Thân dù tan, hồn lặn vào đáy chén”
Tình yêu của ông bà, của Tiên Dung, của Mị Châu, của Trương Chi
vốn là những tình yêu đã trở thành huyền thoại. Cách ví von, so sánh của
Vương Trọng đã cụ thể hóa quan niệm về tình yêu của riêng ông: mãnh
liệt, thủy chung. Tình yêu là duy nhất. Cũng bởi Vương Trọng, tình yêu là
duy nhất, là mãnh liệt, nên ông luôn lo lắng, trăn trở:
“Người xin được và người cho chẳng mất
Lửa với tình sao thật giống nhau
Than củi hết, ngọn lửa kia sẽ tắt
Nhiên liệu nào cho tình cháy bền lâu? ”
88
(Lửa và tình)
Nét đặc sắc của bài thơ không phải ở chỗ ông đã phát hiện ra nét tương
đồng của tình và lửa. Điều ông nhận thấy là ngọn lửa sẽ tắt nếu hết than,
hết củi, còn tình yêu, để mãi bền lâu, mỗi người phải làm gì, phải nuôi
dưỡng tình yêu như thế nào và bằng thứ “nguyên liệu” gì. Đó là điều mà
mỗi người đọc sẽ phải tự tìm câu trả lời cho mình.
Vương Trọng hay trăn trở:
“Nam châm gồm hai cực
Cực bắc và cực nam
Lá cây gồm hai mặt
Mặt dưới và mặt trên
Tình yêu gồm hai nửa
Nửa anh và nửa em”
(Theo cách thống kê)
Vương Trọng là người chịu khó quan sát, chịu khó suy nghĩ. Đôi khi,
những sự vật, sự việc rất nhỏ được ông quan sát tỉ mỉ, rồi liên tưởng, so
sánh làm bật lên những tứ thơ lạ và giàu chất trí tuệ. Ở đây, Vương Trọng
phát hiện ra mỗi vật đều có hai “nửa” – Nam châm có cực nam, cực bắc;
lá cây có mặt dưới, mặt trên, từ “nửa” là cái lằn ranh giới phân cách giữa
các mặt của một sự vật. Bằng tư duy triết học, Vương Trọng nhìn nhận soi
chiếu sự vật, tâm trạng theo hai mặt của vấn đề để tìm ra bản chất của nó.
Nhìn sợi tóc hai màu, nửa đen, nửa bạc, Vương Trọng thấy trục thời gian
tượng hình trước mặt, quá khứ, hiện tại, tương lai biểu hiện trong “bóng
sợi tóc rụng”; thấy thế giới, con người và bản thân tác giả đang đổi thay
từng ngày :
“Ta đang bay khi ta ngồi yên lặng
Cái tận cùng đâu đó chẳng còn xa”.
89
(Sợi tóc hai màu)
Có thể thấy nhìn nhận sự vật theo hai mặt của một vấn đề giúp ta nhìn
nhận sự thay đổi, phát triển của sự vật, tâm trạng một cách toàn diện, biện
chứng. Riêng Vương Trọng, nhìn nhận sự vật, tâm trạng theo hai “nửa”
của vấn đề không chỉ giúp ông thấy:
“Hai cực nam châm không thể tách
Hai nửa lá cây không thể bóc”
(Theo cách thống kê)
Và băn khoăn: “Thế còn hai nửa tình yêu?”. Tình yêu được tạo bởi hai
nửa, nửa anh và nửa em, liệu có thể “bóc”, “tách” được hay không? Câu
hỏi bỏ lửng và câu trả lời nằm trong mỗi chúng ta. Chất trí tuệ , cảm xúc
để mỗi người tự nghĩ suy và tìm ra câu trả lời cho chính mình.
Cảm xúc trong thơ bao gồm cả cảm và nghĩ. Cảm xúc trong thơ Vương
Trọng là sự kết hợp nhuần nhị, hài hòa giữa “cảm” và “nghĩ”. Khởi nguồn
từ những rung cảm, những suy nghĩ, trở trăn về cuộc đời và con người, về
hạnh phúc, về tình yêu, những rung động cực điểm ấy nhanh chóng bắt
được trong hiện thực cuộc sống những hình tượng phù hớp với hồn thơ
ông để Vương Trọng gửi gắm vào đó những triết lý, những suy nghĩ sâu
sắc, những bài học, những ý niệm đáng để người đọc phải suy nghĩ, trở
trăn. Ngôn ngữ thơ Vương Trọng vì thế mà giàu tính triết lý và trí tuệ, vì
thế mà ám ảnh và có sức lay động sâu xa tâm hồn và trí tuệ của mỗi người
thưởng thức.
3.4. Ngôn ngữ định danh.
Vương Trọng đi nhiều. Suốt một thời trai trẻ, Vương Trọng đã
cùng đồng đội “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (Tố Hữu), xuyên
rừng, vượt núi, trèo đèo, lội suối trên các chiến trường. Sau giải phóng,
Vương Trọng tham gia đoàn quân tình nguyện chống Khơ me đỏ, đặt
90
chân lên nhiều vùng đất nước bạn. Ông sống cùng nhân dân, gần gũi
với họ, hiểu cặn kẽ về con người, về tập quán mỗi vùng đất ông đã đi
qua. Vương Trọng có thói quen đi, đọc, và ghi chép. Ở ông “cần mẫn
một nhà văn, năng nổ nhiệt tình một nhà báo”. Mỗi vần thơ ông viết
đều hằn in dấu vết mảnh đất nơi ông đã đặt chân. Thơ Vương Trọng
gợi nhiều tên làng, tên bản với nhiều phong tục tập quán của đất và
người.
Đọc thơ Vương Trọng, người đọc ấn tượng với những tên làng,
tên bản rất lạ mà những người vùng xuôi có lẽ chưa bao giờ nghe tiếng:
“Tà Sanh”; “Trong đêm Phòn Thà Khẹt” hoặc những vùng đất nổi
tiếng là chảo lửa túi bom: “Ghi ở Pha Long” ,“Qua đèo Pha Đin”
,“Lên Cao Bằng”, “Núi Quỳ”, “ Đà Lạt” ,“Trƣa Phú Lợi”, “Đi dọc
mùa khô”, “Đƣờng về Phum”, “Hội té nƣớc”, “Nam bộ mà anh”,
“Mẹ Bắc Kạn”, “Một trƣa Trƣờng Sa”, “Qua đèo gió”, “Du kích
đất Mũi”....
Qua thơ mình, ngôn ngữ thơ giản dị của Vương Trọng đã khắc
họa cái khắc nghiệt của thiên nhiên nơi dải đất miền Trung gió lào cát
trắng:
“Nắng hè dội lửa vào khe đá
Khe đá bức xạ từng chùm hoa mẫu đơn
....
Ngày đội nắng, chân dép mềm đá bỏng
Để đêm về thông mọc giữa chiêm bao”
(Núi Quỳ)
Nắng miền Trung là nỗi ám ảnh trong thơ bao người. Đó là cái nắng rát
bỏng, cái nắng khô rang, cái nắng “dội lửa vào khe đá” cái nắng “chang
chang” thiêu đốt đất và người:
91
“Quê mình cái nắng chang chang
Trận mưa tháng tám lụt sang tháng mười”
(Chị dâu)
“Rồi một mùa xuân xa xứ sở
Phố phường nơi ấy nắng chang chang”
(Có một mùa xuân)
Đã là cái nắng thì phải là cái nắng chang chang kéo dài suốt sáu tháng
mùa khô, đã là lụt thì phải là trận lụt kéo dài từ tháng tám sang tháng
mười. Đã là khí hậu miền Trung thì phải “khi mưa dầm, lúc nắng phơi”
“Mặt trời – quả lửa”; “Bầu trời treo mặt trời, không mây không
gió”(Chị dâu) “mặt đất cát nỏ”. Vương Trọng không cường điệu
phóng đại khi viết về cái nắng nóng, trận mưa lũ quê mình. Sự khắc
nghiệt của thiên nhiên là có thật. Dải đất miền Trung nhỏ bé nhưng
hứng chịu bao nhiêu thiên tai, hết lụt lội lại hạn hán. Con người đã xác
xơ vì chiến tranh, vì đối phó với thiên tai nhưng không vì thế mà buông
xuôi bất lực. Người miền Trung dạn dày sương gió vẫn kiên gan trước
mọi thử thách cuộc đời để sống và yêu thương.
Trong thơ Vương Trọng, các tên đất, tên làng đi vào lời thơ một
cách nhuần nhị, giúp nhà thơ mở rộng không gian giới thiệu đất và
người:
“Lên đến Cao Bằng không sợ dốc
Đèo Giàng, đèo Gió đã lùi sau
Lên đến Cao Bằng không sợ đói
Nước trong, gạo trắng sẵn từ lâu”
“(Lên Cao Bằng)
Hành quân nửa ngày vẫn còn lên
92
Chính ủy âm thầm nhớ Pha - đin
Lính cũ: Đèo ngang, Hải Vân nhắc
Lính mới: Cao Bằng nằm phía trước”
(Qua đèo gió)
Hay
“Phong Châu cách mấy ngày đường
Chị lên Bát Xát, Trịnh Tường thăm anh”.
(Thăm chồng)
Và những địa danh đọc nghe trúc trắc, tạo ấn tượng ngay từ ban đầu đối
với người đọc:
“Ôi, Tả Hồ Xìn, Tả Hồ Xìn
Trăm năm, ngàn năm ghi tội ác”
(Xe dừng ở Tả Hồ Xìn)
“Sư đoàn 330 hành quân
Lang – vét – puốc – xát – bát – Đan – Bang.
Những cánh đồng bỏ hoang
Đường chan trời chạy trên cỏ cháy”.
(Tà Sanh)
Những phum, những bản gợi nhắc những vùng đất xa xôi, hẻo lánh,
những nơi gian khó, hiểm nguy, những vùng đất địa đầu Tổ quốc xa
xôi: Ngọn Mỏ Neo, ngọn Cấm, hoa Yên Minh, Đồng Văn, Thanh Thủy
(Hà Giang); Lũng Táo, Mã Xồ, Ma Lé, Lũng Cú (Lũng Cú), những
vùng đất mà mới nghe tên đã thấy cái hiểm trở, khó khăn, gian nan, vất
vả. Tất cả xuất hiện trong thơ Vương Trọng giúp ông kiến tạo nên một
vùng riêng in dấu bước chân hành quân của ông và đồng đội, kích thích
người đọc sự tò mò khám phá những vùng đất mới tìm hiểu những
phong tục tập quán xa lạ mà kỳ thú: hội té nước, hội ném còn, cờ
93
người...được hưởng thụ cái cảm giác ngọt ngào, yên bình hiếm hoi của
đứa con yên ngủ trong vòng tay yêu thương của mẹ suốt dọc đường về
Phum.
Có thể thấy rằng , ngôn ngữ địa danh trong thơ có vai trò quan trọng
giúp người đọc lần tìm theo hành trình Vương Trọng đã đi qua , nó không chỉ
giúp người đọc hình dung một cách tương đối đầy đủ về những mảnh đất mà
nhà thơ đã đến với những đặc trưng về đất và người mà còn giúp người đọc
hiểu sâu sắc hơn tấm lòng yêu quê hương, đất nước , ý thức trân trọng, nâng
niu giữ gìn những phong tục tập quán sinh hoạt, những vẻ đẹp mộc mạc ,
chân chất , tự nhiên và bình dị của làng xóm quê hương.
Nhà thơ Trần Đăng khoa trong tuyển thơ Ngoảnh lại có viết : “Hình
thức suy cho cùng cũng chẳng phải quan trọng , vì nó chả có giá trị gì nếu
thơ không hay . Khi đã đạt đến độ hay rồi thì người đọc chẳng ai còn để ý đến
hình thức nữa, thậm chí người ta cũng quên luôn cả con chữ”. Nói như Vũ
Quần Phương : “ Gặp thơ rồi thì quên chữ, quên câu.” Vương Trong có
94
không ít bài đạt đến cái độ siêu thoát ấy.
PHẦN KẾT LUẬN
Luận văn này ra đời xuất phát từ yêu cầu nhìn nhận và đánh giá một
cách tổng quát về hệ thống những sáng tác của Vương Trọng. Qua quá trình
tổng hợp, thống kê, nghiên cứu, phân tích thơ Vương Trọng, trên cơ sở vận
dụng những lý thuyết về phong cách và phong cách học, chúng tôi rút ra một
số kết luận sau:
Vương Trọng là một nhà thơ có phong cách. Phong cách thơ của ông
dẫu chưa thể gọi là thật sự độc đáo và sắc nét nhưng mang bản sắc riêng khó
hoà lẫn. Vương Trọng chiếm lĩnh trái tim độc giả bằng sự đằm thắm, chân
tình của một hồn thơ giàu nhân ái.
Phong cách thơ Vương Trọng thể hiện rõ qua cái tôi nội cảm nhiều trăn
trở, suy tư và trải nghiệm về con người, về cuộc sống, tình yêu. Nhân ái và
đôn hậu là giọng điệu chủ đạo của thơ ông. Mỗi con người, số phận và tâm
trạng trong thơ Vương Trọng khi vui hóm hay buồn lo, khi đau khổ hay hạnh
phúc, khi tủi hổ hay tuyệt vọng đều được soi chiếu bằng ánh mắt đôn hậu và
lý giải bằng con tim nhân ái. Vì vậy, mỗi vần thơ của Vương Trọng đều
95
hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ; đều mở rộng đường cho con người
về phía tươi đẹp nhất của cuộc sống là tình đời, tình người. Đó là đích đến của
những nhà thơ chân chính.
Vương Trọng nói nhiều đến trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ.
Ông luôn đắn đo để mỗi vần thơ của mình đều là những vần thơ có ích cho
đời. Những vần thơ không chỉ đồng cảm, sẻ chia, thương xót mà còn nâng đỡ,
dìu dắt con người trong cuộc sống vốn nhiều đau khổ, bất công. Những vần
thơ trữ tình công dân ấy thực sự đã có tác động làm thay đổi hiện thực trở lên
tốt đẹp hơn.
Đa dạng về chủ đề, đề tài; phong phú về phương thức thể hiện, hành
trình thơ Vương Trọng thực sự là kết quả của một quá trình nỗ lực không mệt
mỏi, một thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc. Thơ Vương Trọng là thơ
làm cho người ta yêu nhiều hơn là làm cho người ta phục bởi đó là thứ thơ
đem lại nguồn cảm xúc lớn.
Đến nay, hành trình thơ Vương Trọng đã trải qua gần 40 năm, nhiều bài
thơ, tập thơ của ông đã tìm được chỗ đứng vững chắc và sâu rộng trong lòng bạn
đọc, chứng tỏ độ bền của nó với thời gian. Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả, bởi
như nhà thơ Trần Đăng Khoa viết: “Thông thường, người ta chỉ đẹp rực rỡ ở lứa
tuổi trẻ trung và từng trải, lịch lãm khi trở về già. Vương Trọng lại rực rỡ ở cái
96
tuổi sắp thành trưởng lão”. Thơ Vương Trọng còn hứa hẹn nhiều mùa gặt bội thu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Bảo, Thơ Việt Nam - tác giả, tác phẩm và lời bình, Nxb Giáo dục, 2003
2. Phạm Quốc Ca, Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Hội Nhà
văn, 2003
3. Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và THCN, Hà nội, 1987
4. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học
xã hội, 2004
5. Hồng Diệu, Người lính – nhà văn, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội,
2003
6. Hữu Đạt, Phong cách học với việc dạy văn và lý luận văn học, NXB Hà
nội, Hà Nội, 2002
7. Hà Minh Đức, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, 1998
8. Hà Minh Đức, Thơ - mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục,
1998
9. Hà Minh Đức, Thơ ca Việt Nam-hình thức và thể loại, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2006
10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi , Từ điển thuật ngữ văn học,
97
NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2009
11. Sóng Hồng, Thơ, NXB Văn Học, Hà Nội, 1967
12. Phùng Minh Hiến, Tác phẩm văn chương - một sinh thể nghệ thuật, Nxb
Hội nhà văn, 2002
13. Bùi Công Hùng, Góp phần tìm hiểu nghệ thuật thơ ca, Nxb Khoa học xã
hội, 1983
14. Bùi Công Hùng, Quá trình sáng tạo thơ ca, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà
Nội, 2000
15. Mã Giang Lân, Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1994
16. Mã Giang Lân, Thơ, hành trình và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội
17. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục,
2002
18. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Nxb
Giáo dục, 2002
19. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, 2007
20. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn,tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001
21. Nguyễn Khắc Sính, Phong cách thời đại, nhìn từ một thể loại văn học,
Nxb Văn học, 2006
22. Nguyễn Bá Thành, Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
học, 1996
23. Nguyễn Bá Thành, Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, Nxb Giáo
dục, 1999
24. Nguyễn Bá Thành - Bùi Việt Thắng, Văn học Việt Nam 1967 - 1975, Nxb
98
Đại học Tổng hợp, 1990
25. Lưu Khánh Thơ ( giới thiệu và tuyển chọn), Xuân Diệu, tác phẩm văn
chương và lao động nghệ thuật, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1999
26. Nhiều tác giả, Lí luận văn học, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2002
27. Nhiều tác giả, Thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Lao Động, 2002
28. Nhiều tác giả, Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và
giảng dạy, Nxb Giáo dục, 2006
29. Nhiều tác giả, Thơ hiện đại Việt Nam, 1955 – 1975, NXB Giáo Dục, Hà
Nội, 1983
30. Nhiều tác giả, Thơ Việt Nam 1945 – 1985, NXB Văn học, Hà Nội, 1985
31. Henri Benac, Dẫn giải ý tưởng văn chương, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2008
32. IU.M.Lotman, Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2007
33. Báo Văn nghệ, 2001 - 2002 - 2003
34. Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1972 – 1993
35. Dương Thị Hường, Thân phận con người sau chiến tranh trong thơ Vương
Trọng, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2004
36. Trần Thị Thu Hương, Những tìm tòi đổi mới trong thơ Vương Trọng sau 1975,
Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2005
37. Tạ Thị Thu Hằng, Về tuyển thơ “Ngoảnh lại” của Vương Trọng”, Khóa
luận tốt nghiệp, Đại học Đà Lạt, 2007
99
38. Các tác phẩm thơ của Vương Trọng