Ơ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------
CAO CẨM THI
VẤN ĐỀ PHỤ NỮ
TRONG TRƯỚC TÁC CỦA PHAN KHÔI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------
CAO CẨM THI
VẤN ĐỀ PHỤ NỮ
TRONG TRƯỚC TÁC CỦA PHAN KHÔI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60 22 34
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. TRẦN HẢI YẾN
HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦ U ...................................................................................................... 3
1.Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 7
4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 9
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 9
7. Các chữ viết tắt .......................................................................................... 9
NỘI DUNG ................................................................................................. 10
Chương 1. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX và vấn đề phụ nữ ............. 10
1.1. Khi giới nữ trở thành một vấn đề xã hội ...................................... 10
1.1.1. Phụ nữ trong diễn ngôn truyền thống ......................................... 10
1.1.2. Phụ nữ trong những chuyển biến lịch sử, văn hóa, xã hội Việt
Nam đầu thế kỷ XX .............................................................................. 18
1.2. Phương tiện và phạm vi thể hiện quan điểm về phụ nữ .............. 22
1.2.1. Phương tiện truyền tải thông tin về vấn đề phụ nữ ..................... 22
1.2.2 Phạm vi thể hiện vấn đề phụ nữ ................................................... 26
1.3. Phan Khôi - những trải nghiệm tri thức ...................................... 30
1.3.1. Nền tảng học vấn, tư tưởng của Phan Khôi ................................ 30
1.3.2. Hoạt động báo chí của Phan Khôi .............................................. 34
Tiểu kết ....................................................................................................... 37
Chương 2. Nhà báo Phan Khôi và vấn đề phụ nữ ................................. 39
2.1. Những vấn đề phụ nữ qua các bài báo của Phan Khôi ............... 39
2.1.1. Nguyên tắc chung: Nam nữ bình quyền ..................................... 39
2.1.2. Phụ nữ trong môi trường gia đình ............................................... 41
1
2.1.3. Phụ nữ trong môi trường xã hội ................................................. 52
2.2. Những tương tác và tranh luận của Phan Khôi với học giả đương
thời về vấn đề phụ nữ ............................................................................ 61
2.2.1. Tranh luận về bình quyền nam nữ .............................................. 62
2.2.2. Tranh luận về phụ nữ trong gia đình .......................................... 65
2.2.3. Tranh luận về phụ nữ trong môi trường xã hội........................... 68
2.3. Nghệ thuật viết báo của Phan Khôi ............................................... 74
2.3.2. Phong cách báo chí……………………………………………. 77
2.3.1. Cơ sở lập luận ............................................................................. 74
Tiểu kết ....................................................................................................... 85
Chương 3. Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra và vấn đề phụ nữ ........................ 87
3.1. Vấn đề phụ nữ qua cốt truyện và nhân vật .................................. 87
3.1.1. Cốt truyện.................................................................................... 87
3.1.2. Nhân vật ...................................................................................... 89
3.2. Đặc thù diễn ngôn của tác phẩm ................................................... 97
3.2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................... 97
3.2.2. Ngôn ngữ và nghệ thuật kể chuyện .......................................... 100
3.3. Giao thoa và khoảng cách giữa diễn đàn xã hội và diễn đàn nghệ
thuật ...................................................................................................... 105
Tiểu kết ..................................................................................................... 107
KẾT LUẬN .............................................................................................. 109
TÀI LIỆU THAM KHẢ O ..................................................................... 111
2
PHỤ LỤC ................................................................................................. 117
MỞ ĐẦ U
1. Lí do chọn đề tài
Những năm đầu thế kỷ XX, việc thay đổi chế độ cai trị sang dân sự
của thực dân Pháp đã gây nên nhiều thay đổi trong đời sống xã hội Việt
Nam. Những thay đổi trong xã hội và ảnh hưởng của trào lưu tư tưởng tự do,
dân chủ, bình đẳng từ phương Tây (trong đó có vấn đề bình quyền nam nữ
và giải phóng phụ nữ) đã làm hình thành nên vấn đề phụ nữ trong xã hội
Việt Nam. Trước thực tế đó, vốn là một học giả thức thời với chủ trương duy
tân cải cách mạnh mẽ, Phan Khôi đã tích cực luận giải vấn đề này. Các bài
báo về phụ nữ và liên quan đến phụ nữ chiếm một phần lớn trong sự nghiệp
của Phan Khôi, cũng là những trang viết giá trị nặng tâm lực và giàu trí lực
của ông, làm sôi động không khí báo chí, tư tưởng đương thời. Tuy nhiên,
cho đến nay, những đóng góp của Phan Khôi đối với vấn đề phụ nữ trong
bối cảnh hiện đại hóa dân tộc đầu thế kỉ XX vẫn chưa được nhìn nhận một
cách hệ thống và thấu đáo. Việc đánh giá như thế nào về vị trí của Phan
Khôi như một nhà nữ quyền với hệ thống các bài nghị luận, phê bình, khảo
cứu, bút chiến, sáng tác vẫn đang để ngỏ. Đó là lý do để chúng tôi lựa chọn
đề tài Vấn đề phụ nữ trong trước tác của Phan Khôi. Với đề tài này, người
viết đi vào khảo sát và đánh giá những luận bàn của Phan Khôi xung quanh vấn đề phụ nữ. Cùng với các ngôn luận trên báo chí của ông, chúng tôi kết
hợp tìm hiểu cuốn tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra (1939), hướng đến nhận diện
đầy đủ hơn công lao của Phan Khôi với tư cách một cây bút canh tân trong
môi trường hợp pháp của chế độ thuộc địa.
3
2. Lịch sử vấn đề
Trong khóa luận tốt nghiệp: Đóng góp cho văn học của Phan Khôi
qua báo chí những năm 20- 30 của thế kỷ XX (tháng 6/ 2012), chúng tôi đã
trình bày đầy đủ lịch sử vấn đề nghiên cứu tác gia Phan Khôi. Vì vậy ở đây,
chúng tôi chỉ tập trung nhìn lại những đánh giá về vấn đề phụ nữ trong di
sản của Phan Khôi và một số tác giả cùng thời với ông.
Vương Trí Nhàn trong Nghiệp văn có bài viết Phan Khôi, hình ảnh
còn lại đã đề cập đến phương diện này ở Phan Khôi. Nhà nghiên cứu đưa ra
một cái nhìn chung về Phan Khôi, đó là: “người can dự” vào những vấn đề
xã hội ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, người “đi trước thời đại” với sự nhạy
cảm và bộc trực của một “nhà thăm dò” những vấn đề quan yếu nảy ra trong
đời sống. Ông đưa ra ví dụ tiêu biểu: “Cuộc đấu tranh để từ bỏ những ràng
buộc cổ hủ đối với phụ nữ là một vấn đề lớn của xã hội Việt Nam nửa đầu
thế kỷ... Phan Khôi với các bài báo vài ngàn chữ của ông đã rải rác ra đời
sớm hơn các tiểu thuyết, chẳng hạn bài Tống Nho với phụ nữ in ra từ
13/8/1931, bài Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu in
ra 20/8/1931. Hai bài này đã khiến cho nhà thơ nổi tiếng đương thời như Tản
Đà hết sức bất bình, ông viết rằng như vậy là Phan Khôi “loạn ngôn hoặc
chúng, gây bại hoại phong hóa”. Ngày nay, đọc lại từ khoảng cách xa về thờ i gian, người ta nhận thấy Phan Khôi tuy xuất thân từ cựu học nhưng đã có tư
tưởng khá mới, và trong một số việc, ông còn đi trước cả Tự lực văn đoàn”
[33,28]. Lại Nguyên Ân - người đã “trục vớt” đáng kể di sản báo chí của
Phan Khôi cũng có một số bàn luận về Phan Khôi với vấn đề giới nữ. Ông
nhận định, đương thời, Phan Khôi là người làm sắc hơn, rõ hơn những khái
niệm gọi là “nữ học, nữ quyền”. Gần đây nhất (18/6/2011), trong bài tham
luận Phan Khôi và Đạm Phương nữ sử, qua một bức thư và một bài báo, khi
đề cập đến mối liên hệ giữa Phan Khôi và Đạm Phương (qua cuộc trưng cầu
4
ý kiến về vấn đề phụ nữ do Phan Khôi chủ trì trên tờ PNTV), Lại Nguyên Ân
đã đưa ra so sánh: “mức độ cởi mở và công bằng hơn cho nữ giới, trong cách
đặt vấn đề của nữ sĩ Đạm Phương, là còn khá dè dặt, trong khi đó, cách đặt
vấn đề nữ quyền của Phan Khôi, nêu ra sau nữ sĩ chừng 7-8 năm, là mạnh
mẽ hơn nhiều, căn bản hơn nhiều, quyết liệt hơn nhiều... Sự gặp gỡ, một
cách gián tiếp, dưới dạng trao đổi bằng thơ tín, giữa Phan Khôi với Đạm
Phương nữ sử, trong cuộc trưng cầu ý kiến của tuần báo PNTV năm 1929,
tựu trung chỉ có vậy; đó là sự đồng thuận về ý kiến trên một vấn đề đời sống
rất quan thiết là giới nữ, cũng chính là một vấn đề xã hội, dưới cái nhìn duy
tân, yêu cầu “cải lương” nhiều mặt trong quan niệm sống, trong sinh hoạt xã
hội, hướng theo các chuẩn mực của văn minh Âu Tây” [49]. Ngoài Lại
Nguyên Ân và Vương Trí Nhàn, một số tác giả khác đều có đề cập đến việc
học giả Phan Khôi “dũi” vào những vấn đề liên quan đến phụ nữ và bênh
vực cho họ, nhưng chưa có một công trình, bài viết nào đi vào hệ thống,
chiều sâu để lí giải, đánh giá tư cách ấy qua trước tác của ông.
Về việc nghiên cứu vấn đề phụ nữ qua báo chí giai đoạn giao thời nói
chung, có thể kể đến tác giả Đặng Thị Vân Chi với cái nhìn khá bao quát
Dòng báo phụ nữ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Trong bài viết này,
tác giả diễn giải về quá trình hình thành diễn đàn phụ nữ và sự ra đời của
dòng báo phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám cũng như đội ngũ tác giả đã tạo ra sự hùng hậu của dòng báo này. Đồng thời, thâu tóm lại nội dung chính
của các tờ nữ báo, đó là: phản ánh vai trò và địa vị của phụ nữ trong xã hội;
vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ; cuộc sống sinh hoạt của các tầng lớp
phụ nữ. Tiếp tục mạch quan tâm này, bài viết Phan Bội Châu với vấn đề phụ
nữ đầu thế kỷ XX của Đặng Thị Vân Chi tìm hiểu nhận thức của Phan Bội
Châu đối với vai trò và vị trí của người phụ nữ trong xã hội. Qua so sánh với
những học giả khác, nhà nghiên cứu đi đến nhận định: Phan Bội Châu là
5
người có tinh thần triệt để hơn hết khi đánh giá cao khả năng cách mạng của
người phụ nữ trong cuộc vận động giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX và
nhận thức các tư tưởng dân chủ tư sản về phụ nữ [50].
Nhiều bài viết của các tác giả bàn luận về đóng góp của Đạm Phương
nữ sử với vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX, tiêu biểu là Nguyễn Khoa Diệu
Biên với: Bà Đạm Phương và công tác giáo dục nữ giới trên Tạp chí Đồng
Khánh MTX - Huế - 1994; Thế Thanh với Đạm Phương - người rung tiếng
chuông đòi quyền sống của phụ nữ từ hồi đầu thế kỷ (Báo Đại Đoàn Kết, số
xuân năm 1998), hay Lê Thanh Hiền với loạt bài trên các tạp chí Văn hóa
nghệ thuật; Cánh buồm... Điểm chung của các bài viết này là đề cao những
nỗ lực của Đạm Phương trong việc vận động phát triển cuộc sống cho phụ
nữ, quan tâm đến vấn đề nữ học, hướng nghiệp, hướng dẫn cách thức tổ
chức gia đình, nuôi dạy con cái để phụ nữ có một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Về những đóng góp cho vấn đề phụ nữ, không chỉ có Phan Bội Châu
hay Đạm Phương nữ sử, Phan Thị Bạch Vân cũng được nhìn nhận như một
tác gia nữ đã tích cực đấu tranh cho nữ quyền vào đầu thế kỷ XX. Khi bàn
luận về “tinh thần phụ nữ” đương thời ở Nữ lưu thư quán Gò Công, tác giả
Lê Tâm với bài viết Phan Thị Bạch Vân và tinh thần phụ nữ, đã khẳng định
vai trò của nhà báo, nhà văn Phan Thị Bạch Vân như là trụ cột tinh thần cho
một trong những hoạt động đầu tiên của phụ nữ Nam Kỳ, thể hiện bước
chuyển mình của thời đại đối với các vấn đề canh tân. Lê Tâm cũng nhận
diện lại một số tiểu thuyết như: Giám hồ nữ hiệp, Nữ anh tài, Kiếp hoa thảm
sử, Lâm Kiều Loan, cho thấy sự tiến bộ của nhà văn Phan Thị Bạch Vân
trong việc thể hiện hình tượng người phụ nữ mới, có bản lĩnh, tự chủ trong
tình yêu, hôn nhân, sự nghiệp, dám hy sinh vì nghĩa lớn.
Có hai nghiên cứu của học giả nước ngoài về “Vấn đề phụ nữ thời kỳ
cận đại qua tư liệu báo chí”. Trong tập Essay into Vietnamese pasts (Những
6
bài tiểu luận về Việt Nam xưa) của Shawn Mc Hale có bài viết Printing and
power: Vietnamese debates over women’s place in society, 1918-1934 (In ấn
và quyền lực: Các cuộc tranh luận ở Việt Nam về vị trí của người phụ nữ
trong xã hội 1918-1934), tác giả đã đưa ra một số nhận định về những ý
nghĩa của cuộc tranh luận trên 2 tờ báo: Nữ giới chung và PNTV về vai trò
và vị trí của người phụ nữ trong xã hội. Tác giả David Marr với bài viết The
1920s women’s right debates in Vietnam (Những cuộc tranh luận về nữ
quyền ở Việt Nam trong những năm 1920) trong cuốn Vietnamese tradition
on Trial 1920-1945 (Truyền thống Việt Nam trướ c thử thách 1920-1945)
cho rằng: ngay từ những năm 1920, vấn đề phụ nữ nhanh chóng trở thành
“trung tâm điểm mà các cuộc thảo luận khác thường xoay quanh nó”, và ông
đề cập đến vai trò nổi bật của một số tờ báo như: Nữ giới chung, PNTV hay
tổ chức Hội nữ công của Đạm Phương nữ sử. Cả Shawn Mc Hale và David
Marr đều chủ yếu khảo sát trên qua hai tờ báo Nữ giới chung và PNTV.
Những bài viết trên của các tác giả đều ít nhiều có liên quan đến nội
dung của đề tài Vấn đề phụ nữ trong trước tác của Phan Khôi mà chúng tôi
thực hiện. Đó cũng là cơ sở, nguồn tư liệu được người viết tận dụng cho việc
liên hệ, đối sánh, để đem đến một cái nhìn tổng quát, khách quan về nhận
thức và mức độ đóng góp của Phan Khôi trong vấn đề phụ nữ cho văn hóa,
văn học, xã hội đương thời.
3. Phạm vi nghiên cứu
Khoảng thời gian, tư liệu
Phan Khôi có vai trò tâm điểm trên diễn đàn báo chí và văn chương
trong khoảng thời gian từ 1928 đến năm 1939. Dựa trên nguồn tư liệu là 5 ấn
phẩm đăng báo của Phan Khôi trong các năm 1928, 1929, 1930, 1931, 1932
do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân sưu tầm và công bố, chúng tôi lọc ra
được 57 bài báo Phan Khôi viết về phụ nữ. Khảo sát thêm các báo từ năm
7
1933 đến năm 1939 mà Phan Khôi tham gia với các vai trò khác nhau như:
tiếp tục vai trò chủ bút cho PNTV (1933, 1934); bắt đầu là chủ bút kiêm cây
viết chính của PNTĐ (1933, 1934); Tràng An (1935); là sáng lập kiêm chủ
bút của Sông Hương (1936 đến tháng 3/1937); là cộng tác viên cho loạt báo:
Thực nghiệp dân báo (1933), Hà Nội báo (1936), Đông Dương tạp chí tục
bản (1937-1938), Thời vụ (tháng 7&8.1938), Dư luận (tháng 8& 9/1938),
Tao đàn (1939), chúng tôi tìm được thêm 20 bài báo của ông về vấn đề phụ
nữ (thực chất, từ sau 1935, Phan Khôi không có bài viết nào về vấn đề phụ
nữ). Tổng hơ ̣p la ̣i, 77 bài báo đã lựa lo ̣c nói trên sẽ là tư liê ̣u khảo sát chính của luận văn. Bên cạnh đó, chúng tôi kết hợp tìm hiểu cuốn tiểu thuyết Trở
vỏ lửa ra1 (năm 1939), tác phẩm cũng mang tư tưởng nữ quyền mà Phan
Khôi đã thể hiê ̣n trên báo chí.
Phạm vi vấn đề
Trong luận văn này chúng tôi không tìm hiểu toàn bộ di sản phong
phú của Phan Khôi mà giới hạn diện nghiên cứu, khảo sát của mình trong
vấn đề phụ nữ qua các bài báo và tiểu thuyết thể hiê ̣n quan niệm, nhận thức
của ông.
4. Mục đích nghiên cứu
Như tên luận văn Vấn đề phụ nữ trong trước tác của Phan Khôi, ở
đây, Phan Khôi được đánh giá trên tư cách một tác giả văn học trình bày một
vấn đề xã hội. Mục đích của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là nhận
diện việc Phan Khôi đã quan tâm đến vấn đề phụ nữ trong giai đoạn giao
thời như thế nào. Đồng thời, tìm hiểu những tác động đến không khí xã hội,
1 Cuốn tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra do nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm Lại Nguyên Ân cung cấp. Chúng tôi xin cảm ơn ông đã bảo lưu được một văn bản hiện nay đã trở thành quý hiếm và chia sẻ với chúng tôi tư liệu này.
8
văn chương về chính vấn đề này, cũng như những đường hướng phát triển
chung của văn hóa dân tộc mà Phan Khôi đã tạo ra khi đưa vấn đề phụ nữ
lên báo chí và vào sáng tác văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, người viết nhìn nhận, đánh giá đóng góp về một
vấn đề tư tưởng - xã hội trong trước tác của một nhà báo, tác giả văn học.
Bản thân đối tượng nghiên cứu liên quan đến nhiều vấn đề: Lịch sử, văn hóa,
xã hội, báo chí... trong những mối liên hệ đa chiều. Bởi vậy, người viết vận
dụng những phương pháp tiếp cận: nghiên cứu liên ngành, văn học sử và
nghiên cứu văn học từ văn hóa.
Để cụ thể hóa những phương pháp đó, người viết sử dụng những thao
tác thống kê, khảo sát, tổng hợp kết hợp phân tích, lý giải những quan niệm
của Phan Khôi về vấn đề phụ nữ như: nữ quyền, vị trí của phụ nữ, giải
phóng phụ nữ... Thao tác so sánh (đồng đại, lịch đại) cũng là không thể
thiếu, đặc biệt là đặt đối tượng nghiên cứu trong không khí văn hóa, văn học
- báo chí đương thời, đồng thời cố gắng khu biệt đối tượng để nhận diện
những đóng góp riêng cũng như những giới hạn của tác giả.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tư liệu tham khảo , nội dung chính
của luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX và vấn đề phụ nữ
Chương 2: Nhà báo Phan Khôi và vấn đề phụ nữ
Chương 3: Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra và vấn đề phụ nữ
7. Các chữ viết tắt
NGC : Nữ giới chung
PNTV: Phụ nữ tân văn
PNTĐ: Phụ nữ thời đàm
ĐPTB: Đông Pháp thời báo
9
TLVĐ: Tự lực văn đoàn
NỘI DUNG
Chương 1
Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX và vấn đề phụ nữ
1.1. Khi giới nữ trở thành một vấn đề xã hội
1.1.1. Phụ nữ trong diễn ngôn truyền thống
Việt Nam là một đất nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, nơi chế
độ phong kiến tồn tại một cách dai dẳng và bền vững. Giai cấp thống trị
phong kiến đã sử dụng các phương tiện khác nhau để biến hệ tư tưởng Nho
giáo trở thành ý thức hệ chi phối nhận thức, hành vi, thiết chế, tâm lí và tập
tục xã hội. Với tính chất nam quyền mạnh mẽ, Nho giáo đã phân định không
gian và phạm vi rạch ròi cho nam-nữ, trong đó, vị thế chủ chốt tất yếu là
nam giới. Trong xã hội Nho giáo, người đàn ông nắm trong tay quyền quyết
định và phụ nữ là người phục tùng (phu xướng, phụ tùy). Những quan niệm
“phụ nhân nan hóa”, “tam tòng, tứ đức” của Nho giáo là mạng lưới lí thuyết
phản động đã tạo ra sự bất bình đẳng giới trong xã hội phương Đông nói
chung và ở Việt Nam nói riêng.
Thứ nhất, phụ nữ bị xem là thấp kém hơn và chỉ đáng để phục vụ cho
nam giới. Quan niệm đó ấn định rất rõ ràng trong đời sống văn hóa, người
phụ nữ luôn bị coi và tự coi là “phái yếu”, tồn tại một cách “khiêm nhường”
bên cạnh “phái mạnh”. Chữ “tài”, chữ “trí” chỉ gắn liền với người quân tử,
kẻ trượng phu. Phụ nữ bị xếp chung hàng với hạng tiểu nhân. Họ không có
quyền đi học hay tham gia thi cử, không có mặt trong bộ máy quản lí làng xã
hay có bất kì tiếng nói nào trong những vấn đề “nghị sự”. Thực tế ấy xuất
10
phát từ một quan niệm đầy miệt thị: “Phụ nhân nan hóa”. Khổng Tử cho
rằng: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã. Cận chi, tắc bất tốn, viễn
chi tắc oán” (chỉ có đàn bà và bọn tiểu nhân là khó nuôi dạy. Hễ ta gần gũi
thì khinh nhờn, hễ ta xa cách thì oán ghét). Từ đó nảy sinh tư tưởng trọng
nam khinh nữ, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, tạo nên chế độ tôn tộc,
gia trưởng, cha truyền con nối theo người đàn ông.
Thứ hai, Nho giáo qui định phụ nữ phải giữ đạo “tam tòng” (tại gia tòng
phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Thân phận người phụ nữ được xác
định phụ thuộc tuyệt đối vào đàn ông, “khuê môn bất xuất”. Như một qui
ước đã được mặc định, phụ nữ có bổn phận lớn nhất là chăm sóc và phụng
dưỡng những người đàn ông (cha, chồng, con trai), theo từng giai đoạn trong
đời mình. Khi chồng chết, người phụ nữ góa vẫn phải thủ tiết thờ chồng.
Trương Vĩnh Ký khi trích lời cổ nhân Nho gia, trong Minh Tâm Bửu Giám
phần nói về phụ hạnh, có viết: “Trong đàn bà góa, có người nghèo khổ, có
nên lấy chồng lại nữa chăng? Và trong trường hợp này câu trả lời: sự đói rét
là sự rất nhỏ, chứ sự lỗi tiết là điều rất lớn”. Nếu lỗi tiết, người phụ nữ thậm
chí có thể phải chịu hành hạ, ngược đãi một cách dã man nhất2. Sự bất bình
đẳng thể hiện ở chỗ: Người phụ nữ giữ gìn trinh tiết cho một chồng, trong
khi người đàn ông có thể có nhiều vợ, được bỏ vợ khi người vợ không đẻ
được con trai hoặc thất xuất (phạm một trong 7 tội: không con, dâm dật,
không thờ cha mẹ chồng, lắm lời, trộm cắp, ghen tị, bệnh hiểm nghèo).
Trong chế độ phong kiến Việt Nam, luật Hồng Đức (ban hành năm 1483) và
luật Gia Long (ban hành năm 1815) đều công nhận và bảo vệ chế độ gia tộc
phụ quyền, thể hiện rõ nhất ở tình trạng đa thê. Chế độ cung tần thực chất là
2 Luật Gia Long - điển hình cho sự áp bức phi nhân đối với người phụ nữ - đã đề ra các cực hình, nhục hình đối với họ như: gọt gáy bôi vôi, thả bè trôi sông, voi giày ngựa xéo…
11
đỉnh cao phát triển nhất và dã man nhất của chế độ đa thê.
Nguyên tắc thành văn “tam tòng” thực chất là cái cùm để giam cầm nữ giới,
“đẩy vị trí của họ xuống hàng kẻ nô lệ, nô lệ không chỉ về kinh tế, chính trị,
văn hóa, mà nô lệ cả về tình cảm và tình dục” [3,25].
Thứ ba, Nho giáo đặt ra nguyên tắc người phụ nữ phải trau dồi “tứ đức”.
“Tứ đức” là “nữ hữu tứ hạnh” gồm: Phụ đức, phụ ngôn, phụ dung, phụ công
– qui định khắt khe về hành vi đạo đức và hành vi sinh hoạt của người phụ nữ 3. Việc trau dồi “tứ đức” yêu cầu phụ nữ phải thực hiện trong cuộc sống
hằng ngày. Những tiêu chuẩn này thực chất là công cụ áp chế tinh thần
người phụ nữ, ăn sâu vào tiềm thức của họ quán tính: “tự mình tu dưỡng, tự
mình ràng buộc, tự mình nhược hóa mình”. Thuyết “tam tòng, tứ đức”, hay
“phụ nhân nan hóa” là rào cản vô hình, hà khắc trói buộc tự do và kìm hãm
sự phát triển của người phụ nữ. Nó cũng là thước đo duy nhất để xã hội định
giá họ, đồng thời, làm cơ sở đưa vào luật tục và văn chương; đồng thờ i các hình thức văn chương cũng luôn đươ ̣c vâ ̣n du ̣ng để chuyển tải những bài gia huấn hoă ̣c bô ̣c lô ̣ quan điểm củ a ngườ i viết về ngườ i phu ̣ nữ. Nhiều nho gia đã dành thời gian tâm sức soạn các tác phẩm Gia huấn,
Nữ huấn với mục đích giáo dục “tại gia” cho phụ nữ, thay thế cho giáo dục
học đường. Các bài gia huấn, nữ huấn thường tập hợp những lời dạy dỗ,
hướng dẫn, bao quát toàn bộ cuộc đời một người phụ nữ từ khi còn bé ở nhà
với cha mẹ cho đến khi làm dâu và tới lúc về già. Hình thức văn bản hầu hết
12
dưới dạng văn vần, thể loại lục bát, dễ nhớ, dễ truyền khẩu, và vì thế “có thể 3 “Công” là công việc. Công việc của người phụ nữ truyền thống là dành cho gia đình, tề gia nội trợ, sinh con đẻ cái để dòng họ đông đúc, phục vụ cả nhà chồng, lựa ý chồng để “nâng khăn, sửa túi” hợp đạo làm vợ. “Dung” là dung nhan, dung mạo, dáng dấp thể hiện ra ở bên ngoài gương mặt, trên thân hình. Dung đòi hỏi người phụ nữ ra vào e lệ, đi đứng khép nép. Dù trong lòng đau khổ hay giận dữ vẫn phải kìm nén cho gương mặt nhẹ nhàng, tươi cười. “Ngôn” là lời ăn, tiếng nói. “Ngôn” đòi hỏi người phụ nữ phải dùng những lời lẽ ngọt ngào, lựa lời cho đúng ý người nghe để không bị chạnh lòng, giận dữ. Đàn bà con gái không được cười to, nói lóng, bàn vào mọi việc trong nhà. “Hạnh” là đức hạnh, phẩm giá. “Hạnh” đòi hỏi người phụ nữ phải chịu thương chịu khó, phục tùng chồng và gia đình chồng. Đàn bà suốt đời phải giữ tiết hạnh, thủy chung dù chồng có năm thê bảy thiếp.
làm lời khuyên răn được, làm châm ngôn cho bọn đàn bà con gái [51], có
thể lưu truyền qua nhiều thế hệ. Cổ huấn nữ ca của tác giả Đặng Xuân Bảng
là một tác phẩm tiêu biểu cho việc giáo dục phụ nữ tại gia. Cổ huấn nữ ca
gồm 468 câu, viết theo thể thơ lục bát. Tác phẩm giảng giải chi tiết, cụ thể
mọi vấn đề phụ nữ cần nhận thức, ứng xử, trong đó, Đặng Xuân Bảng dành
39 câu (câu 369 đến câu 408) để lưu ý phụ nữ về cách xử thế trong trường
hợp chẳng may phải chịu cảnh góa chồng:
Kiên trinh hai chữ là đầu,
Đá trơ trơ vững, gương lầu lầu trong…
… Dẫu mà tuổi trẻ đầu xanh
Quyết lòng ở vậy, chẳng tình trăng hoa
Bướm ong đâu mặc người ta
Nước trong, trăng sáng mới là gái trinh…
Phụ nữ được khuyến khích không tái giá, ở vậy thờ chồng, nuôi con.
Và phẩm giá cao đẹp nhất của họ được khẳng định là đức đoan chính, ý thức
giữ gìn tiết trinh. Quan niệm được rao giảng phổ cập bằng thơ ca đó đã chi phối mạnh mẽ số phận của người phụ nữ qua nhiều thế hệ.
Song hành với sự nêu gương và đề cao đến mức cực đoan về đức
hạnh, nhà nho né tránh hoặc phê phán vẻ đẹp dung mạo của người phụ nữ:
Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt
Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông
(Gia huấn ca4)
Nguyễn Trãi không dưới một lần cảnh báo về nguy cơ tiềm ẩn hậu
4 Bản Gia huấn ca được cho là bản gia huấn đầu tiên và là bản được nhắc đến nhiều nhất từng được công bố gắn với tên tuổi của Nguyễn Trãi. Gia huấn ca dạy cho đàn bà, con gái biết an phận với vai trò thứ yếu và phụ thuộc trong xã hội.
13
quả “mất quốc gia, lìa thiên hạ, bại tan gia thất, tổn hại tinh thần” từ nữ sắc:
Sắc là giặc đam làm chi
Thuở trọng còn phòng có khi suy
Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ
Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi
Bại tan gia thất đời từng thấy
Tổn hại tinh thần sự ích chi
Phu phụ đạo thường chăng được chớ
Nối tông họa phải một đôi khi
(Giới sắc)
Nữ sắc - một thứ tự thân nó đáng được trân trọng, nâng niu, đã bị các
nhà đạo đức phong kiến “hạ giá” xem như một thứ cám dỗ, „tội đồ”, cần phê
coi người phán và loại bỏ. Lê Thánh Tông khi vịnh về Dương Quí Phi đã
con gái đẹp này là yêu ma mê hoặc Đường Huyền Tông, gây nên viễn cảnh
mù mịt đáng sợ của vương triều.
Đến thế kỷ XVI, Nguyễn Dữ với Truyền kỳ mạn lục càng làm rõ hơn
thái độ kỳ thị của nhà nho với nữ sắc. Kiểu nhân vật phụ nữ có dung nhan
xinh đẹp, hấp dẫn đàn ông nhưng lại là những yêu quái, hồ ly đội lốt người
được tác giả xây dựng như là biểu trưng cho quan niệm đương thời: phụ nữ
chứa chất sự mê hoặc, là nguồn gốc của tội lỗi, gây nên oan nghiệt, sai trái,
lụn bại cho những đấng nam nhi (nàng Liễu, nàng Đào (Truyện kỳ ngộ ở
Trại Tây), Giáng Hương (Từ Thức gặp tiên), Thị Nghi (Truyện yêu quái ở
Xương Giang), Nhị Khanh (Truyện cây gạo)... Bên cạnh đó, Truyền kỳ mạn
lục còn có kiểu nhân vật phụ nữ chính diện, điển hình cho những phẩm chất,
tiết hạnh truyền thống: công dung ngôn hạnh, xứng đáng là bậc liệt nữ. Đó là
Nhị Khanh (Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu), Lệ nương (Truyện Lệ
nương), Vũ Thị Thiết (Truyện người con gái Nam Xương), những người
14
chung thuỷ, luôn chăm lo hiếu nghĩa, khao khát cuộc sống bình thường.
Nhưng xã hội loạn ly đẩy họ ra khỏi nếp nhà yên bình , phải chịu đo ̣a đày,
bất công, và cuối cùng bị đẩy tới cái chết. Đặc biệt, hành động tuẫn tiết theo
chồng hay lấy cái chết để chứng minh tiết hạnh với người chồng của họ
được tác giả khuyến khích, ngợi ca. Truyền kỳ mạn lục là một dấu mốc quan
trọng trong việc nâng cao vai trò của hình tượng nhân vật nữ trong văn
chương nhà nho. Nhân vật người phụ nữ chiếm số lượng lớn trong tác phẩm,
có tới 10/20 truyện trong tập lấy nhân vật chính là người phụ nữ, nhiều câu
chuyện về cuộc đời họ còn được gọi thẳng ra, trở thành tiêu đề truyện. Tuy
với nhãn quan, tư tưởng phong kiến, nhà văn không tránh khỏi cái nhìn khắt
khe đến cay nghiệt đối với người phụ nữ khi đòi hỏi họ phải có "nhân thân
trong sạch", tuyệt đối trung trinh, nhưng trong cách miêu tả của Nguyễn Dữ,
vẫn ẩn chứa niềm thương cảm với những nghịch cảnh mà họ đương đầu. Khi
lựa chọn đối tượng phản ánh trung tâm là người phụ nữ với những bất hạnh
và khát vọng hạnh phúc, Nguyễn Dữ đã là người đầu tiên đưa số phận người
phụ nữ vào văn học trung đại Việt Nam, dự báo cho những thay đổi về hình
tượng người phụ nữ trong văn học nhà nho những giai đoạn sau.
Sang thế kỷ XVIII-XIX, đời sống văn học đã có những thay đổi tích
cực. Theo cách nói của nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, đó là thời đại của
văn học chủ tình. Trong trào lưu văn học này, các tác phẩm văn học xuất sắc
đều có nội dung về tình yêu, khát vọng hạnh phúc của người phụ nữ. Nhân
vật trung tâm là người phụ nữ được đề cập đến một cách phổ biến trong
nhiều tác phẩm: người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn
- Đoàn Thị Điểm, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn
Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, những nàng Dao Tiên
trong Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang của
Phạm Thái, Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du… Nhân vật phụ
15
nữ đã bước vào văn chương với một tư cách, tính chất hoàn toàn khác biệt.
Họ là đối tượng thẩm mỹ, chứ không chỉ là đối tượng phản ánh. Sự hiện diện
phong phú của những số phận, nhan sắc, cảm xúc, khát vọng, tình yêu… tự
thân phản ánh một vấn đề lớn - vấn đề phụ nữ, góp vào đời sống văn học
một giá trị nhân văn cao cả. Các tác giả đều nói lên một cách sâu sắc, thấm
thía địa vị thấp kém, nghịch cảnh éo le, số phận khổ đau cũng như tâm tư
của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Chẳng hạn, Đặng Trần Côn -
Đoàn Thị Điểm với đề tài người chinh phụ chờ chồng đi chiến trận trở về
(Chinh phụ ngâm) đã thể hiện được những tâm sự thầm kín, những khát
khao về đời sống tinh thần và thể xác của người chinh phụ. Trong Chinh phụ
ngâm có những diễn đạt đầy ám ảnh sự mỏi mòn đến khô héo của người phụ
nữ khi phải xa chồng:
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt
Trống tiều khua, như rứt buồng gan
Võ vàng đổi khác dung nhan
Khuê ly mới biết tân toan dường này
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều lại tập trung khai thác
tâm trạng sầu thảm và bi kịch của người cung phi. Trong khi diễn tả sâu sắc
và đầy xúc động thế giới nội tâm của người con gái bị hủy hoại tuổi xuân, bị
quân vương thất sủng nơi cung cấm, nhà thơ gián tiếp lên án chế độ cung
tần, sự áp bức tột cùng về giới đối với phụ nữ. Theo nhà nghiên cứ u Trần Nho Thìn, màu sắc ái ân, nhục thể của cả hai tác phẩm là nét nữ quyền nổi
bật, vượt qua được định kiến nói chung của văn chương nhà nho [54].
Đứng ở vị trí là người phát ngôn cho giới mình, Hồ Xuân Hương,
người phụ nữ “nổi loạn” của thời đại, đã có những bài thơ bày tỏ niềm kiêu
hãnh về vẻ đẹp hình thức, tâm hồn, trí tuệ của giới nữ. Bà nêu bật vẻ đẹp bên
trong (Bánh trôi nước; Con ốc nhồi; Quả mít); ca ngợi tuổi trẻ tươi mát,
16
phồn thực của các cô gái đang xoan (Đề tranh tố nữ); và cũng táo bạo đi vào
đến từng chi tiết của vẻ đẹp cơ thể phụ nữ (Thiếu nữ)… Người phụ nữ trong
thơ Xuân Hương luôn ngẩng cao ở tư thế hiên ngang, đầy bản lĩnh với ý thức
về giá trị bản thân. Gắn chặt đời mình cùng với số phận bi đát, bé nhỏ trong
vòng lễ giáo khắc nghiệt, thơ Xuân Hương phản kháng mạnh mẽ sự bất công
của chế độ đa thê:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
(Làm lẽ)
Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem như tác phẩm đỉnh cao về tính
nhân văn trong việc phản ánh số phận người phụ nữ. Nhân vật Thúy Kiều là
biểu tượng cho sự phá vỡ những nguyên tắc đã nghiễm nhiên “mặc định”
của chế độ nam quyền. Kiều dám mạnh dạn, chủ động đến với tình yêu của
mình, vượt qua đi cái rào cản “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” mà “xăm xăm
băng lối vườn khuya một mình”. Bước chân “xăm xăm” ấy của Kiều đã cho
thấy bản lĩnh của người nữ nhi đạp lên kiềm tỏa của lễ giáo phong kiến để
tìm lấy hạnh phúc cá nhân. Từ thời đại của Nguyễn Du, nhiều người đã cho
Truyện Kiều là một cuốn dâm thư đáng bị lên án. Cho đến những thập kỷ
đầu của thế kỷ XX, Truyện Kiều vẫn bị những nhà nho cuối cùng, vốn được
coi là những người có tư tưởng tiến bộ (Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Ngô
Đức Kế) phê phán. Họ chủ yếu dựa vào hai lập luận của luân lí Nho giáo để
chê trách và lên án Kiều: Thứ nhất, nàng đã không “tòng nhất chi chung” với
Kim Trọng mà đi lấy hai người đàn ông khác; thứ hai, nàng đã không “tuẫn
tiết” để giữ lấy tấm thân trong sạch suốt 15 năm đọa đầy chốn thanh lâu nhơ
nhớp. Điều đó cho thấy tư tưởng tiến bộ, vượt thời đại của Nguyễn Du, cái
nhìn cảm thông, yêu thương, trân trọng đặc biệt dành của một nhà Nho, một
17
người nam nhi dành cho người phụ nữ.
Như vậy, từ những tác phẩm của Đặng Xuân Bảng, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Dữ, đến những sáng tác vào thế kỷ XVIII, XIX với đỉnh cao Truyện
Kiều đã là bước tiến dài trong lịch sử văn học về sự bênh vực quyền sống và
quyền hạnh phúc cho người phụ nữ. Từ việc bị khinh miệt, kiêng dè, nữ giới
được công nhận và ngợi ca về sắc đẹp, tài năng, và được bênh vực về quyền
được hạnh phúc một cách trực diện. Đó là một sự biến chuyển lớ n trong việc tiếp cận nữ quyền của văn chương trung đại.
1.1.2. Phụ nữ trong những chuyển biến lịch sử, văn hóa, xã hội Việt
Nam đầu thế kỷ XX
Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiếp tục đẩy mạnh chương trình khai
thác thuộc địa ở Viê ̣t Nam, tạo ra những biến đổi to lớn trong tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Nền kinh tế có tính xã hội hóa cao của phương thức sản xuất tư bản
không còn phù hợp với chế độ gia đình cũ nữa. Phụ nữ dù muốn hay không
cũng bị cuốn hút vào các hoạt động sản xuất xã hội.
Các trào lưu tư tưởng mới, các thành tựu khoa học kĩ thuật, văn hóa
nghệ thuật từ phương Tây thông qua sách báo nước ngoài tràn vào Việt
Nam, góp phần hình thành phương pháp tư duy duy lý tồn tại bên cạnh lối tư
duy duy cảm của người Việt. Những nề nếp, kỷ cương, đạo đức và lối sống
của một xã hội phương Đông đóng cửa hàng ngàn năm đến nay đã bị một
phen lung lay. Chưa bao giờ ảnh hưởng của thế giới bên ngoài dội đến các sĩ
phu Việt Nam mạnh đến như vậy. Những tác động của tân thư, tân văn và sự
bùng nổ của phong trào Duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc, của tư tưởng dân
chủ châu Âu đã tạo ra những thức nhận đáng kể cho họ. Những trí thức vốn
thâm nhiễm văn hóa Trung Hoa từ máu thịt như Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Trần Quí Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế… đã nỗ lực tự vứt
18
bỏ, tự phủ định, hướng tới một cuộc canh tân văn hóa, cải cách sinh hoạt có
sức ảnh hưởng mạnh mẽ rộng khắp ba miền. Phong trào yêu nước và duy tân
đầu thế kỷ XX là một cuộc vận động giải phóng dân tộc về mặt chính trị - xã
hội cũng như khai sáng về phương diện tư tưởng. Và le lói trong tinh thần
canh tân này có sự đổi mới bước đầu về người phụ nữ.
Một trong những hệ quả to lớn của quá trình thực dân hóa là việc thúc
đẩy sự phát triển mau chóng của đô thị ở Việt Nam. Kéo theo đó là sự xuất
hiện những tầng lớp mới của xã hội, với lối sống tư sản hóa mau chóng hình
thành đã đem lại một luồng gió tinh thần khác biệt. Đô thị cũng là cửa ngõ
giao lưu, du nhập các tư tưởng dân chủ tư sản, thu hút một số sĩ phu tân tiến.
Các phong trào canh tân, cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX đều có xuất xứ từ
địa bàn đô thị: Phong trào duy tân Quảng Nam - Đà Nẵng, phong trào Minh
tân Sài Gòn, trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội… Do đó, đô thị cũng
trở thành nơi tập trung diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt về tư tưởng, văn
hóa, lối sống, trong đó có những vấn đề về bình quyền nam nữ và hoạt động
của giới nữ.
Cùng với sự hình thành của các đô thị lớn, tầng lớp phụ nữ thành thị
tăng lên nhanh chóng. Bên cạnh đội ngũ nữ công nhân đông đảo với các
hình thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là bộ phận phụ nữ tiểu tư sản thành thị
gồm tiểu thương, vợ con các viên chức làm việc trong các công sở của Pháp
và của tư nhân, các công chức (y tá, thư kí, hộ sinh), trí thức (dạy học, viết
báo, viết văn, làm thơ…). Phụ nữ dần tách khỏi môi trường gia đình và trở
thành một lực lượng xã hội quan trọng, lao động với sự chuyên môn hóa
trong các hoạt động: kinh doanh, hành chính, giáo dục, văn hóa... Quá trình
tiếp xúc, hội nhập với văn hóa phương Tây đầu thế kỷ XX đã đem lại cho
phụ nữ cơ hội để tự cởi trói bản thân, tiếp cận những tư tưởng về nữ quyền
và giải phóng phụ nữ. Nhiều phụ nữ trí thức đã nhanh chóng nhập cuộc, đi
19
đầu trong việc cổ động phong trào giải phóng phụ nữ qua các hoạt động viết
báo, sáng tác văn chương, diễn thuyết, lập các Hội phụ nữ, tổ chức các
phong trào quyên góp từ thiện. Tiêu biểu đó là: Đạm Phương nữ sử, Sương
Nguyệt Anh, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Vân Đài, bà Nguyễn Đức Nhuận, Nguyễn
Thị Kiêm…
Thêm một sự thay đổi đáng kể trong xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX là việc mở các trường công cộng dành cho nữ sinh5. Lần đầu tiên phụ nữ Việt
Nam được đi học cùng một chương trình giáo dục như nam giới, nhưng khác
với nam sinh là nữ sinh mỗi tuần được học thêm một số giờ nữ công gia
chánh (theo quy định của Học chính Tổng quy ban hành năm 1917). Tiếng
Pháp cũng được học phổ cập cho họ. Chương trình đào tạo của các trường
nữ học hướng tới mục tiêu xây dựng một nền giáo dục đa ngành nghề, bình
đẳng giữa hai giới. Phụ nữ có một môi trường xã hội mới để chứng tỏ bản
thân. Họ được củng cố thêm niềm tin về khả năng độc lập và quyền được
khẳng định không thua kém đàn ông của giới mình. Một tầng lớp nữ sinh tân
học chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp với lối sống mới trái ngược với quan
điểm đạo đức truyền thống xuất hiện. Nhiều vấn đề về lối sống, phong tục,
tập quán liên quan đến giới nữ đã không còn phù hợp và đứng trước yêu cầu
phải thay đổi.
5 Lớp học đầu tiên dành cho nữ giới bắt đầu năm 1906, với sự khởi xướng của Đông Kinh nghĩa thục (gồm lớp nam và lớp nữ). Nhóm sáng lập Đông Kinh nghĩa thục đã mở lớp học cho nữ sinh với mục đích “bài trừ tư tưởng nam tôn nữ ti của cổ nhân, muốn cho phụ nữ đóng một vai trò trong xã hội, tạo cho họ một nhân sinh quan mới, một lối sống mới” [29,24]. Đây là một “động thái” mang ý nghĩa cải cách quan trọng, phá vỡ “lời nguyền”: “nữ nhi nan giáo” (phụ nữ khó dạy) của Khổng Tử. Năm 1910, trường công lập Pháp Việt giành cho nữ sinh được mở ở Hà Nội với số lượng ngày càng đông, và qui mô được mở rộng sang các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Ninh Bình… Ở Sài Gòn, trường nữ giới Áo Tím được mở năm 1915. Năm 1917, trường Nữ học của miền Trung: Đồng Khánh (Huế) ra đời. 6 Thực trạng phụ nữ bị áp bức ở nhiều nơi, nhiều nền văn hóa khác nhau đã tạo nên một phong trào rộng khắp. Cho đến đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh của họ đã đi được những bước dài. Cùng với phong trào giải phóng nô lệ ở Mỹ, phụ nữ Mỹ đã lập Hội quyền phụ nữ và tổ chức Đại hội lần đầu tiên vào năm 1848. Đến năm 1920, chính phủ Mỹ phải công nhận quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ. Ở châu Âu, trước chiến tranh thế giới thứ nhất,lần lượt, phụ nữ một số nước như
20
Thêm vào đó, làn sóng đấu tranh đòi nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên toàn cầu6 qua báo chí đã nhanh chóng lan tới, có tác động không nhỏ đến dư
luận Việt Nam, tạo khí thế, động lực mạnh mẽ cho giới nữ. Đây là yếu tố
khách quan, mang tính thời đại, toàn cầu, đi liền với chính yêu cầu nội tại,
cụ thể của tình hình trong nước về vấn đề phụ nữ. Các trào lưu vận động giải
phóng của phụ nữ thế giới đã giúp phụ nữ Việt Nam thức nhận về tình trạng
của mình, “ý thức rằng họ là một nhóm người trong xã hội với các nỗi bất
bình và yêu cầu riêng”. Các tổ chức phụ nữ như Phụ nữ giải phóng, Hội nữ
quyền, Nữ công học hội được tổ chức ở nhiều nơi với các cấp độ khác nhau
của mục tiêu vận động phụ nữ, khuyến khích phụ nữ tham gia các công việc ngoài xã hội7... Đúng như nhận định của Trần Thiện Ty và Bùi Thế Phúc
trong Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam (1932): “Hiện nay mọi việc đã thay đổi.
Phụ nữ không muốn bị đàn ông áp chế nữa, chị em cần phải biết gió mát trời
xanh. Luồng gió tự do đã thổi khắp đám phụ nữ tân thời… Thế thì trên mảnh
đất Việt Nam này phụ nữ đã thành một vấn đề rồi đó” [50].
Khi thực thể xã hội thực dân ngày càng rõ nét, số phận người phụ nữ
càng trở thành mối quan tâm lớn. Như một yêu cầu tất yếu của thời đại, đầu
thế kỷ XX, ở Việt Nam, “nữ quyền” và “giải phóng phụ nữ” bắt đầu trở
thành những khẩu hiệu được phát động, phổ biến rộng khắp. Trong xã hội
Việt Nam đã dần xuất hiện “vấn đề phụ nữ” bên cạnh các vấn đề xã hội
Phần Lan, Đan Mạch, Nauy, Ailen, Nga, Đức, Anh… giành được quyền chính trị như nam giới. Ở các nước phương Đông, phong trào nữ quyền ở Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ đều có những diễn biến tích cực. Tháng 6/1930 tờ thời báo New York đã lên tiếng kêu gọi những người phụ nữ Ấn Độ vốn bị đè nén dã man dưới chế độ đẳng cấp bước ra khỏi nhà bếp để giành lấy cuộc sống mới gắn với quyền lợi xã hội, quốc gia. Cuộc đấu tranh của phụ nữ đã buộc chính phủ Nhật Bản xét đến quyền tuyển cử của phụ nữ. Phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc cũng đã đưa ra những chính sách về bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực kinh tế, thi cử, quân sự và hôn nhân… Phong trào phụ nữ thế giới phát triển mạnh mẽ đã dẫn đến việc nhóm họp Hội nghị phụ nữ thế giới (vào tháng 6/1929 tại Luân Đôn) với sự tham dự của phụ nữ 40 nước, trong đó có cả phụ nữ các nước châu Á. Đến tháng 1/1931, Đại hội phụ nữ châu Á tổ chức tại thành phố Laho, Ấn Độ đề cập đến việc liên kết phụ nữ châu Á để đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ, chống chế độ đa thê, quyền được trợ cấp khi đau ốm, thai sản, bảo vệ văn hóa, bảo vệ hòa bình... 7 Trong đó, Nữ công học hội (1926) do Đạm Phương nữ sử khởi xướng và làm Hội trưởng hoạt động khá hiệu quả. Đây là một tổ chức phụ nữ phi chính phủ đầu tiên của nước ta và là một trường giáo dục văn hoá và chức nghiệp cho phụ nữ Việt Nam.
21
khác. Hơn thế, vấn đề phụ nữ có ý nghĩa quan trọng trong bước chuyển mình
đi tới hiện đại hóa của một dân tộc đã bị kìm hãm suốt nghìn năm Bắc thuộc
về tư tưởng.
1.2. Phương tiện và phạm vi thể hiện quan điểm về phụ nữ
1.2.1. Phương tiện truyền tải thông tin về vấn đề phụ nữ
Xuất phát từ nhu cầu cai trị, sinh hoạt văn hóa của người Pháp ở
thuộc địa và nhu cầu thực tiễn cần có phương tiện ngôn luận làm cầu nối
giữa người đi chinh phục và người bị chinh phục, cùng với nghề in và hoạt
động xuất bản, thực dân Pháp đã đưa báo chí vào Việt Nam. Báo chí trở
thành phương tiện thông tin, diễn đàn xã hội văn hóa trên cả nước. Nằm
trong chiến lược văn hóa chung với mục đích đẩy lui ảnh hưởng của Hán
học, báo chí Quốc ngữ đã được triển khai và trở thành một hiện tượng mới
mẻ, một thành tố của quá trình hiện đại hóa đời sống văn hóa xã hội Việt
Nam. Đây cũng là một phương tiện hữu hiệu để các trí thức yêu nước Việt
Nam thực hiện khát vọng canh tân tự cường, dịch thuật, truyền bá tư tưởng
dân chủ phương Tây. Thông tin về các phong trào nữ quyền và giải phóng
phụ nữ trên thế giới cũng được quan tâm truyền tải rộng rãi. Trước thực tế
giới nữ đã trở thành một vấn đề xã hội bức xúc, đông đảo học giả làm dấy
lên những cuộc thảo luận thể hiện sự thay đổi quan điểm về phụ nữ và hoạt
động của giới nữ so với diễn ngôn truyền thống. Phụ nữ trở thành một vấn
đề nổi bật trên báo chí theo ý nghĩa tích cực của nó. Do đó, báo chí - một
công cụ thông tin và giao tiếp hàng đầu đặc trưng cho một xã hội hiện đại
đầu thế kỷ XX, đã có tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh cho công bằng
giới. Nhìn lại gần mười thế kỷ trước đó của xã hội cổ truyền Việt Nam, có
thể coi đây là một diễn đàn xã hội “đột xuất” cho mọi vấn đề trong đó có vấn
22
đề phụ nữ được luận bàn trực diện, công khai.
Bắt đầu từ số 799 ra ngày 9-5-1907, Đăng cổ tùng báo có một mục
mới là Nhời đàn bà bắt đầu đề cập đến những vấn đề về phụ nữ, do Nguyễn
Văn Vĩnh viết với bút danh Đào Thị Loan. Sau khi Đăng cổ tùng báo bị đình
bản do những nhạy cảm chính trị, trên Đông Dương tạp chí (trong hai năm
1913-1914) và Trung Bắc tân văn (trong hai năm 1915-1916) mục Nhời đàn
bà lại xuất hiện, chủ yếu vẫn do Nguyễn Văn Vĩnh viết dưới bút danh Đào
Thị Loan và Nguyễn Thị Bổng.
Từ sau chiến tranh Thế giới Thứ nhất, phong trào đòi nữ quyền của
phụ nữ châu Âu phát triển mạnh mẽ đã tạo ra không khí sôi nổi cho các cuộc
thảo luận trên báo chí. Hầu hết các báo đều dành một số trang để bàn về vấn
đề phụ nữ, hoặc có mục giành riêng cho phụ nữ như: Khai hóa Nhật Báo có
mục Văn nữ giới, Phụ nữ diễn đàn; Hữu thanh tạp chí có mục Văn thơ đàn
bà và Gương nữ giới; Thần chung có mục Lời bạn gái; ĐPTB cũng có mục
Văn nữ giới và Lời đàn bà; Hà Thành ngọ báo có mục Tiếng oanh; Báo Văn
minh và báo Tiếng dân có mục Phụ nữ diễn đàn; Công luận có mục Lời bạn
gái…
Đặc biệt, việc xuất bản báo Nữ giới chung 1918 đã đánh dấu sự khởi
đầu của một dòng báo mới, dòng báo chuyên biệt về nữ giới. Từ năm 1929
8 PNTV do bà Nguyễn Đức Nhuận làm chủ bút có ảnh hưởng không nhỏ về xã hội, văn chương trên khắp ba miền, được đánh giá là mở màn cho thể loại tuần báo Việt Nam... Về chính trị, PNTV giữ thái độ tương đối ôn hòa, với tôn chỉ: “không có đảng phái nào hết, chỉ thờ chân lí, xem Tổ quốc là tôn giáo” và “chuyên tâm khảo luận những vấn đề liên quan tới đàn bà, tức là quan hệ của quốc gia xã hội. Tờ báo có xu hướng cấp tiến, khởi xướng và giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của nữ giới bấy giờ dưới ánh sáng của tư tưởng mới; cổ động cho việc cải cách phong tục, nếp sống và hôn nhân gia đình (Nho giáo và vấn đề gia đình người Việt Nam hiện đại; phụ nữ với quốc sự, văn chương…).
23
với sự ra đời của tờ báo phụ nữ thứ hai, cũng là tờ báo phụ nữ thành công nhất: PNTV8, hàng loạt các báo phụ nữ được xuất bản. Tính đến năm 1945,
đã có 12 đầu báo nữ giới phục vụ cho đông đảo độc giả khắp ba kỳ9 với
những tôn chỉ, mục đích rõ ràng như: “hướng đạo chỉ vẽ chị em trong lúc sôi
nổi tân thời, đặng vững vàng trên con đường văn minh tiến hóa…dung hòa
tân cựu, bênh vực lợi quyền chị em” (Phụ nữ tân tiến), hay “quyết đánh đổ
những sức phản nghịch do cái dư luận bất chánh hoặc cái dư luận thiên vị
khư khư đứng một chỗ định ngăn cản, không chịu theo sự tiến bộ trong tư
tưởng và cuộc sinh hoạt của đàn bà mới, người mới, đời mới”(Đàn bà mới);
“hành động theo một chủ nghĩa tân tiến có lợi ích trực tiếp cho chị em chúng
ta” (Phụ nữ)... Các tờ báo phụ nữ thường tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, viết
bài và thăm dò ý kiến, làm rõ hơn nhận thức của xã hội về các vấn đề xung quanh đời sống giới nữ10. Những diễn đàn và các báo chuyên biệt về giới nữ
tạo được không khí sôi nổi để các học giả thể hiện quan điểm về một vấn đề
quan yếu của buổi giao thời. Đây cũng chính là cơ hội cho phụ nữ nói lên
các vấn đề của giới mình, đòi hỏi những quyền lợi thiết thực nhất mà họ
đáng được hưởng.
Sự hình thành “vấn đề phụ nữ” cùng với sự phát triển của “nền văn
hóa in ấn” đã làm xuất hiện ngày càng nhiều ấn phẩm viết về phụ nữ. Phải
kể đến các sách chuyên khảo về phụ nữ như: Nam nữ bình quyền của Đặng
Văn Bẩy ở Sài Gòn (1928), Vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu (1929), Nam
quốc nữ lưu, Nữ lưu văn học sử của Sở Cuồng Lê Dư (1929), Vấn đề phụ nữ
9 PNTV (1/5/1929- 21/4/1935); PNTĐ (8/12/1930-20/6/1931); (17/9/1933-5/6/1934); Phụ nữ tân tiến (29/7/1932- 15/7/1933); (16/3/1934- 5/4/1934); Đàn bà mới (1/12/1934- 28/12/1936); Nữ lưu (22/5/1936- 4/6/1937); Nữ công tạp chí (10/1936- 8/1938); Việt nữ (7/4/1937- 11/1937); Phụ nữ (16/2/1938- 4/1939); Nữ giới (11/1938- 11/1939); Đàn bà (24/3/1939- 1945); Bạn gái (1941- 1942); Việt nữ (26/10/1945-26/1/1946). 10 Ngay trong số ra mắt, PNTV đã tổ chức cuộc “Trưng cầu ý kiến các danh nhân về vấn đề phụ nữ”, sau đó là các cuộc thi viết về “Văn chương và đức hạnh”, cuộc thảo luận “Kiều nên khen hay nên chê”; Đàn bà mới khởi xướng những cuộc tranh luận như: “Đàn bà góa có nên cải giá không”; “Có nên tự giải phóng không khi chồng có vợ bé không đoái hoài đến vợ?”; “Vợ không có con thì có nên lấy vợ hai để có con nối dõi không?”; Báo Đàn bà tổ chức cuộc thi viết “Người đàn bà Việt Nam kiểu mẫu”.
24
ở Việt Nam của Trần Thiện Ty và Bùi Thế Phúc (1932)…
Song hành cùng với báo chí, văn học đầu thế kỷ XX cũng là một diễn
đàn sôi động bàn về những vấn đề phụ nữ. Hầu như các tác phẩm văn học
thời kỳ này đều được đăng tải trên báo trước khi in thành sách. Những tiểu
thuyết của Đạm Phương nữ sử như Kim Tú Cầu, Hồng phấn tương tri hay
của Phan Thị Bạch Vân như Gương nữ kiệt, Giám hồ nữ hiệp, Nữ anh tài,
Lâm Kiều Loan, Kiếp hoa thảm sử đã nói lên tinh thần người phụ nữ buổi
giao thời. Đó là những người phụ nữ đầy bản lĩnh, tự chủ trong tình yêu, hôn
nhân, học tập, sự nghiệp, dám hy sinh vì nghĩa lớn. Loạt tiểu thuyết của
Phan Thị Bạch Vân là câu chuyện về ý chí nữ lưu, có phần phản chiếu bóng
dáng “nữ kiệt, nữ hiệp” của riêng Việt Nam.
Tố Tâm (sáng tác năm 1922, xuất bản năm 1925) của Hoàng Ngọc
Phách là một dấu ấn đáng kể trong đề tài viết về nữ giới và tình yêu. Cuốn
tiểu thuyết mang tên nhân vật chính là một cô gái mới với mối tình say đắm
sầu thảm và cái chết bi thương gây ra bởi những ràng buộc của hệ ý thức
phong kiến và chế độ đại gia đình. Cái chết để bảo vệ tình yêu của Tố Tâm
là ngòi nổ tạo những hiệu ứng xã hội trong lớp thanh niên nam nữ đương
thời. Tố Tâm nhận được sự ủng hộ của lớp thanh niên nam nữ ảnh hưởng
văn hóa phương Tây, ngược lại, vấp phải sự phản đối kịch liệt của các nhà
cựu học. Từ nguồn mạch mà Tố Tâm đã khơi ra, với tiêu chí “trọng tự do cá
nhân, làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa”, nhiều tiểu
thuyết của các nhà văn, nhà báo tự do TLVĐ đã đấu tranh mạnh mẽ cho
quyền lợi và cổ vũ phong trào giải phóng phụ nữ. Các nhân vật nữ của Nhất
Linh, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thạch Lam luôn cố vùng dậy thoát khỏi những
ràng buộc của lễ giáo phong kiến, giành lấy quyền hạnh phúc, quyền định
đoạt cuộc sống của mình (Nhung trong Lạnh lùng, Loan trong Đoạn tuyệt,
Trâm trong Nắng thu, Mai trong Nửa chừng xuân, Hồng trong Thoát ly)…
25
Họ là những hình tượng đầy sống động cho chủ đề nữ quyền mà các tác giả
muốn thể hiện trong không khí chung của báo chí học thuật, văn chương
đương thời.
1.2.2. Phạm vi thể hiện vấn đề phụ nữ
Có thể hình dung nhận thức về vấn đề phụ nữ ở Việt Nam buổi giao
thời theo hai giai đoạn với sự thay đổi về tính chất.
Giai đoạn thứ nhất là thời kỳ của các nhà nho duy tân có mục đích giải
phóng dân tộc bắt đầu từ việc canh tân xã hội, văn hóa. Họ là những nhà
khoa bảng sinh trong những năm 60, 70 của thế kỷ XIX, những nhân cách
vẫn được chính sử định danh là “nhà nho chí sĩ”, như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế. Phong trào duy tân được các
sĩ phu yêu nước phát động rộng rãi khắp ba miền với chủ trương đấu tranh
giữa cái mới và cái cũ, mở mang trí tuệ, đào tạo nhân tài nhằm thay đổi tận
gốc xã hội và con người Việt Nam. Văn minh tân học sách (1902) ra đời,
hàm chứa những tư tưởng đổi mới lớn lao, sau này đã trở thành một trong những tài liệu giảng dạy quan trọng nhất của trường Đông Kinh nghĩa thục11.
Tuyên ngôn của phái duy tân qua Văn minh tân học sách với sự nhấn mạnh:
“mở rộng dân quyền, cải thiện dân sinh", tuy chưa đề cập đến vấn đề phụ nữ
nhưng bước đầu cũng đã nói đến những vấn đề bình đẳng xã hội. Do đó đã
gián tiếp tạo ra một bước thay đổi trong nhận thức về vấn đề phụ nữ.
Trong các nhà nho duy tân, Phan Bội Châu là người thể hiện rõ nhất
những quan niệm tiến bộ về vai trò của phụ nữ trong xã hội. Ông luôn có ý
11 Văn Minh Tân Học Sách là một áng văn nghị luận, bàn về văn minh ta, văn minh Tây, nêu lên những nguyên nhân làm cho nước ta chậm tiến, ngưng trệ kéo dài, đồng thời đưa ra những biện pháp văn hóa và kinh tế nhằm đưa nước ta tiến kịp phương Tây. Những mặt văn minh Tây khác Ta cần phải học tập bao gồm: Tự do tư tưởng, tự do viết sách bày tỏ ý kiến của mình; chế độ giáo dục nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản, thiết thực; chế độ chính trị lập hiến, cộng hòa, bàn việc gì cũng khai hội, ai nấy đều góp ý, cốt làm sao cho đúng chân lý, hợp tình hình; coi nước và dân có quan hệ mật thiết, không có việc trên áp chế dưới [58].
26
thức gắn khái niệm nữ quyền với tư tưởng dân quyền. Phan Bội Châu nhấn
mạnh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, phụ nữ bình đẳng với nam giới.
Theo Phan Bội Châu, muốn giải phóng phụ nữ, cần phải: Mở mang về
đường tri thức cho phụ nữ; Liên kết đoàn thể của người phụ nữ; Chấn hưng chức nghiệp của người phụ nữ; Nâng cao địa vị của người phụ nữ12. Tuy
nhiên, theo Phan Bội Châu cũng như các chí sĩ duy tân, phụ nữ mới chỉ được
đề cao như nam giới trong phạm vi đấu tranh vì công cuộc “cứu vong” của
dân tộc và phần nhỏ trong việc canh tân xã hội.
Giai đoạn thứ hai là thời kỳ của các trí thức tân - cựu thích ứng với sự
đô hộ của Pháp, tức là chấp nhận xu thế biến đổi theo phương Tây như: Trần
Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Diệp Văn Kỳ, Sương Nguyệt
Anh, Đạm Phương nữ sử… Phan Khôi thuô ̣c nhóm tác giả này.
Vấn đề phụ nữ gắn với quan điểm duy tân được đề cập từ rất sớm, bắt
đầu từ Nguyễn Văn Vĩnh trên ĐCTB qua mục Nhời đàn bà. Trong bối cảnh
của phong trào duy tân và Đông Kinh nghĩa thục, những vấn đề phụ nữ chủ
yếu nhằm phê phán hủ tục, tập quán cũ (tang ma, cưới xin), tục đa thê, trinh
tiết, chuyện vợ cả vợ lẽ và những quan niệm không đúng về việc phụ nữ đi
học... Về sau khi ĐCTB đình bản, mục Nhời đàn bà chuyển sang ĐDTC và
Trung Bắc tân văn, lần đầu tiên, đã nhắc đến khái niệm nữ quyền: “Sao cho
nữ quyền chúng ta ngày càng nhớn để cho các thầy nó đố dám lên mặt tu mi
mà bắt nạt căn quắc” (ĐDTC,11/2/1914); “muốn mang tư tưởng cùng chị em
bàn bạc để đúc lấy nữ quyền, dạy bảo nhau chóng nên người khôn ngoan, tài
đảm để gây nên một giống nòi mạnh bạo, sau này chiếm lấy một phần nữ sử
với hoàn cầu” (Trung Bắc tân văn, 21/1/1915).
Chủ bút Nữ giới chung (1918), Sương Nguyệt Anh cũng giải nghĩa
12 “Phan Bội Châu với vấn đề phụ nữ đầu thế kỷ XX”, Phan Bội Châu, con người và sự nghiệp (Kỷ yếu Hội thảo khoa học); 1998, Nhà in Khoa học công nghệ, Hà Nội.
27
“nam nữ bình quyền là gì”. Theo bà, quyền bình đẳng nam nữ có nghĩa là
“phụ nữ có cùng lợi ích như nam giới”. Tác giả Lan Anh trong bài Quyền lợi
của phụ nữ ta phải tương xứng với nghĩa vụ trên PNTV, sau khi trích dịch
một đoạn trong “Bách khoa toàn thư” về số phận của phụ nữ toàn thế giới,
đã đưa ra ý kiến: “… Em cũng nghĩ như nhà Bách khoa nọ ở trong bài nầy,
không hề chủ ý về chánh trị quyền, chỉ muốn bàn xem có phải là xưa nay
trong tư tưởng của kẻ đàn ông, chỉ xem đàn bà là con vật để sai, cái máy để
sanh, cái đồ để vui chơi tiêu khiển hay không? Mà phụ nữ ta nào có phải là
đáng chịu cái số phận nhục nhã như thế sao?”.
Còn Phạm Quỳnh đề cập đến vấn đề nữ quyền trên ĐDTC trong bài
Về thói trọng nam khinh nữ của ta (1914) và bài Sự giáo dục đàn bà con gái
(1917). Ông đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong gia đình, nhưng cho rằng
phụ nữ vốn bị đánh giá thấp suy cho cùng chỉ vì không có học thức mà thôi”
và quyền bình đẳng nam nữ được hiểu là “phải lưu tâm đến việc giáo dục
đàn bà”. Cuộc đấu tranh đòi nữ quyền là cuộc đấu tranh “sao cho nữ quyền
chúng ta ngày càng nhớn và làm thiên hạ kinh hồn bạt vía chẳng dám khinh
chi đến lũ má hồng quần lĩnh chúng ta”. Giáo dục phụ nữ được coi là biện
pháp để thực hiện bình đẳng nam nữ. Đây cũng là quan niệm chung của
nhiều học giả. Nhưng một số người vẫn quan niệm vị trí của phụ nữ là ở
trong gia đình nên nội dung giáo dục cũng chủ yếu nhằm giúp phụ nữ làm
tốt việc nội trợ, “con gái phải học để nhân cách hoàn toàn” để “hiểu được
tam tòng, tứ đức”.
Càng về sau, khi những ảnh hưởng của văn hóa Pháp ngày càng trở
nên sâu đậm hơn, ở một đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, một
phương diê ̣n tốn nhiều giấy mực bàn luận của các học giả là việc vận động
giải phóng phụ nữ thoát khỏi lễ giáo phong kiến, nhìn nhận lại quan niệm về
trinh tiết, sự thủ tiết của phụ nữ góa chồng, hôn nhân tự do, nạn đa thê…
28
Đạm Phương nữ sử phủ định lễ giáo phong kiến, chỉ ra sự hà khắc, coi
thường phụ nữ như nô lệ: "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, bắt người đàn bà
thủ tiết thờ chồng khi chồng chết, hạn chế học hành của phụ nữ đều phải vứt
bỏ cùng với tam tòng tứ đức" [Trung Bắc Tân Văn, 21/6/1926]. Diệp Văn
Kỳ thì cho rằng: Ở một đất nước mà mọi người dân đều không có sự tự chủ
về chính trị thì “đối với phụ nữ chỉ còn chuyện giải phóng, giải phóng ở
phong tục, giải phóng ở gia đình, giải phóng ở xã hội”. Hay như Phan Khôi
kêu gọi “chỉ trích Khổng giáo, đả phá cái chế độ đại gia đình”, vì chị em phụ
nữ mà “xóa cái luật nam tôn, nữ ty, giảng lại cái nghĩa chữ trinh, bênh vực
sự cải giá là vô tội”.
Sự thay đổi của văn hóa xã hội cũng đặt ra vấn đề xác định mẫu hình
phụ nữ lí tưởng thích hợp với thời đại mới. Tác giả Văn Tâm cho rằng một
người đàn bà mới phải vừa là một người vợ đảm đang trong gia đình, vừa là
một người hoạt động ngoài xã hội [Đàn bà mới, 24/8/1936]. Chung Thị Vân
thì kết luận: “người đàn bà mới thật sự cũng không thua các chị em xưa về
sự quán xuyến trong gia đình. Hơn nữa, người đàn bà mới biết trông xa, hiểu
rộng, rõ địa vị trách nhiệm mình trong xã hội” [Đàn bà mới, 24/8/1936]. Và
vấn đề phụ nữ chức nghiệp cũng được đặt ra như một trách nhiệm của
“người đàn bà mới”. Nhiều tác giả coi việc giải quyết nghề nghiệp để tự lập
là một yếu tố quan trọng để mang lại quyền bình đẳng cho phụ nữ, “là một
cái chìa khóa để mở cửa phụ nữ giải phóng”. Như ý kiến của tác giả Cô Diệu
Vân trên Tràng An (12/3/1935): “Muốn cho người ta trọng mình trước hết
mình phải trọng lấy mình, nghĩa là mình phải có chức nghiệp”.
Những ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản về quyền con người
còn làm nảy sinh các cuộc thảo luận về quyền lao động, quyền hưởng lương
ngang bằng và các chế độ bảo hiểm, quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ…
Trong diễn tiến của sinh hoạt văn nghệ Việt Nam đầu thế kỷ XX, vấn đề phụ
29
nữ đã thực sự lôi cuốn sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà báo, học
giả và thu hút sự chú ý của bạn đọc. Trước một phương diện nhất định của
vấn đề phụ nữ: nữ quyền, nữ học, phụ nữ chức nghiệp, giải phóng phụ nữ
khỏi lễ giáo phong kiến, quyền lợi chính trị của phụ nữ… đều có hai luồng ý
kiến trái chiều: ủng hộ và phản bác. Cuộc thảo luận về vấn đề phụ nữ theo
đó có thể được chia theo ba hướng: cấp tiến, thủ cựu và ôn hòa. Song dù ở
bất kỳ cấp độ nào cũng có thể thấy vấn đề phụ nữ ở giai đoạn này thay vì
trực diện đặt mình trước mục tiêu giải phóng dân tộc, đã chuyển sang phạm vi xã hội sâu rộng hơn các nhà nho duy tân trước đó.
1.3. Phan Khôi - những trải nghiệm tri thức
1.3.1. Nền tảng học vấn, tư tưởng của Phan Khôi
Phan Khôi (1887-1959), hiệu là Chương Dân, sinh ở làng Bảo An,
huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông xuất thân trong gia đình có truyền
thống Nho học, ông ngoại là tổng đốc Hoàng Diệu, cha là phó bảng Phan
Trần. Ông học giỏi Hán học từ nhỏ, nổi tiếng thông minh, ham học hỏi và
hay “lý sự”. Phan Khôi đã tự thuật về mình: "Tôi từ nhỏ có tư bẩm thông
minh lạ. Lên 13 tuổi đã "cụ thể tam trương": là về lối văn khoa cử, kinh
nghĩa ở trường nhất, thi phú trường nhì, văn sách trường ba tôi đều làm được
cả trong tuổi ấy. Ông nội tôi và ông thân tôi đều để hy vọng vào tôi nhiều lắm”13. Phan Khôi được cha gửi đi trọ học trường Trần Quý Cáp trong 10
năm (từ 1896 đến 1906). Trần Quý Cáp là người thầy đầu tiên và cũng là
người có ảnh hưởng sâu xa đến tư tưởng và phương thức tranh đấu bất bạo
động của Phan Khôi sau này. Càng trưởng thành, tư tưởng cựu học càng rời
xa ông. Đã không ít lần, Phan Khôi thẳng thắn tranh luận về xu thế thời đại
với cha và ông nội, kiên quyết bảo vệ những quan điểm của mình. Đức tính
13 Bài Đi học đi thi có tiểu tựa: Ký ức lục của một vị lão Nho, ký tên Tú Vườn, in trên Sông Hương từ số 23 (7/1) đến 30 (13/3/1937), Phạm Hồng Toàn sưu tập.
30
ngay thẳng, cương trực, đôi khi ngang ngạnh rất đặc trưng của người Quảng
Nam này đã trở thành phong cách “độc” của học giả Phan Khôi. Năm 19
tuổi (1906), vâng lời cha, Phan Khôi ra Huế dự thi Hương nhưng chỉ đậu tú
tài. Trình độ Hán học của ông vẫn được Phan Châu Trinh đánh giá là có thể
sánh với trình độ tiến sĩ xuất sắc.
Những biến chuyển lịch sử khiến tuổi trẻ của Phan Khôi giống như
nhiều trí thức Nho học Việt Nam bấy giờ, phải đứng trước lựa chọn: Rời bỏ
văn hóa Hán, tiếng Hán - thứ giá trị đã trở thành cổ truyền, truyền thống để
chấp nhận văn hóa Pháp - tức là chấp nhận một thứ ngoại lai, một thứ được
xem là vô đạo trước truyền thống. Phan Khôi đã mạnh bước lựa chọn con
đường tân học, hướng hẳn về phương Tây hiện đại. Ông cũng đã tự nói về
thái độ lựa chọn dứt khoát của mình: “…tôi đã đọc sách họ Khổng từ lúc lên
sáu tuổi, đẻ ra và lớn lên trong cửa ngài, mà đến lúc chia tay, chẳng được một giọt nước mắt gọi là có”14. Và sự dứt khoát này thống nhất trong toàn bộ
tư tưởng và sự nghiệp báo chí của ông. Ngay lúc ngọn gió Đông du và Duy
tân thổi đến Quảng Nam, Phan Khôi nhanh chóng hưởng ứng phong trào của
ba sĩ phu “tam hùng đất Quảng” là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp. Ông là một trong những người đầu tiên ở Quảng Nam cắt đi
cái búi tóc - biểu tượng của chế độ phong kiến đã đè nặng tư tưởng người
dân Việt Nam hàng trăm năm. Bài vè cắt tóc của Phan Khôi thời bấy giờ
được lưu truyền rộng rãi, cổ vũ thanh thiếu niên mạnh dạn bứt phá, chuyển
theo trào lưu mới. Từ sự thức nhận sâu sắc rằng khung cảnh thế giới mở ra
khiến cho không gian văn hóa hàng nghìn năm đã quá chật hẹp, Phan Khôi
14 Phan Thị Nga, Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô luận lí [Hà Nội Báo, 10/3/1936]. 15 Trong Hồi kí “Nhớ cha tôi Phan Khôi” Phan Thị Mỹ Khanh viết: “…ông nhanh chóng đổi mới nhờ sự tự học, nâng cao trình độ trí thức kịp với thời đại. Mà sự tự học là do cái ý chí tiến thủ quyết tâm và bền bỉ của ông. Nhờ sự tự học, ông sớm sử dụng nhuần nhuyễn khoa luận lý học,
31
bắt đầu bước vào quá trình tích cực học quốc ngữ, tiếng Pháp, miệt mài nghiên cứu khoa lý luận học, thâu nhận tri thức mới mẻ của thế giới15. Từ
1916 đến 1919, Phan Khôi đã tìm hiểu và rất tâm đắc với các tác giả là nhà
văn, học giả Trung Hoa tân thời như Hồ Thích, Lâm Ngữ Đường, đặc biệt là
Lỗ Tấn bởi kiến văn phong phú, lập luận chặt chẽ, văn phong sáng sủa của
họ. Từ 1920-1925 ông dịch Kinh Thánh cho Hội Tin lành của Mỹ. Bản dịch
của ông được đánh giá cao bởi câu văn gãy gọn, trong sáng, văn phạm chuẩn
mực. Quá trình tiếp xúc sâu sắc với Kinh Thánh cũng giúp ông hiểu thấu đáo
văn minh Tây phương từ nguồn cội. Những trải nghiệm dày dặn đã tạo nên
nhà báo và học giả Phan Khôi am hiểu hai nền văn hoá Đông Tây.
Vào giai đoạn lịch sử mà tư tưởng duy tân đang lan tràn rộng khắp, nhà
nho Phan Khôi nhiệt thành hô hào cải cách, bài trừ thủ cựu - “những cái thù
địch với mọi sự mới”. Và sự giải quyết tận gốc, theo ông, đó là “bắt đầu từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước”16. Thực thi phương châm đó,
trong sự nghiệp cầm bút của mình, Phan Khôi khởi xướng những đề tài tranh
luận lớn có tiếng vang khắp ba kỳ về vấn đề học thuật (quốc học, chữ quốc
ngữ, sử học, thơ mới-thơ cũ, nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân
sinh…), và vấn đề tư tưởng như: tư tưởng Tây phương và Đông phương,
đánh giá lại Nho giáo, chủ nghĩa cá nhân, nữ quyền. Trong những nội dung
tư tưởng Phan Khôi bàn luận, vấn đề phụ nữ được quan tâm nhiều. Chủ
trương giải phóng phụ nữ, đặc biệt là đưa phụ nữ thoát khỏi những lề thói
đạo đức phong kiến luôn hiển hiện trong sự nghiệp cầm bút của Phan Khôi.
Cụ thể, trong cuộc đụng độ văn hóa Đông Tây, việc học theo văn minh
khoa văn phạm vào cách suy nghĩ và cách viết văn sáng sủa, rành mạch. Ngay khi tên tuổi ông đã có chỗ đứng trong làng văn, làng báo rồi, ông vẫn không ngừng học hỏi…. Ông am hiểu văn học Đông Tây kim cổ, lịch sử Âu Á, một số vấn đề về triết học, một số học thuyết chính trị, toàn những lĩnh vực mới mẻ, phức tạp. Cái ý chí tiến thủ ấy đã đưa ông từ một tú tài nho học vươn lên thành nhà văn hiện đại”[16,118]. 16 Trung lập, [s.6218 (9.8.1930) ; s.6220 (12.8.1930) ; s.6221 (13.8.1930) ; s.6223 (18.8.1930)]
32
Âu Mỹ là điều nhiều trí thức thừa nhận. Tuy nhiên nhiều người cho rằng, dù
phải dung nạp nền văn minh ấy, vẫn phải giữ lại tinh thần truyền thống văn
hóa phương Đông. Chủ trương tân cựu điều hòa, thổ nạp Á Âu của Phạm
Quỳnh được nhiều người tán thưởng. Phan Khôi kịch liệt phản đối, “bác cái
thuyết tân cựu điều hòa”, xem đó là động thái không dứt khoát, khẳng định
muốn đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới hiện đại phải dám vứt bỏ cái yếu kém, tụt hậu của nền văn hóa cũ17. Với Nho giáo, Phan Khôi đặt ra vấn
đề đánh giá lại vai trò của nó trong xã hội hiện đại một cách cấp thiết. Trong
những cuộc tranh luận sôi nổi về Nho giáo với các học giả đương thời, ông
đã chứng minh đạo Nho không còn là khuôn vàng thước ngọc nữa mà đã trở
nên phản tiến hóa, lỗi thời khi gặp làn sóng Âu hóa từ phương Tây tràn sang.
Sự tự phản tỉnh, tự phủ định quyết liệt hơn cả nhiều cây bút Tây học chính là
điểm độc đáo trong tư tưởng một người vốn vỡ lòng bằng sách vở thánh
hiền18. Ông rất chú trọng đến mối quan hệ của Nho giáo, đặc biệt là Hán
Nho và Tống Nho với phụ nữ, bác bỏ những tín điều trái tự nhiên, phi nhân,
những lễ giáo hủ lậu xưa nay áp chế họ. Nội dung này nằm trong “xu hướng
17 “Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu; Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết châu Âu sắp tan nát; Tư tưởng của Tây phương và Đông phương; Bác cái thuyết tân cựu điều hòa”. 18 Khởi đầu, trên Thần chung, Phan Khôi có bài“Tên ông Khổng Tử nằm ở đầu lưỡi các nhà chính trị”, đề cập đến vấn đề: “liệu học thuyết Khổng Tử có còn phù hợp với thời đại ngày nay hay không?”. Tiếp đó là loạt bài với nhan đề lớn“Ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta” (từ số 213 đến 249/1929) - cách nhìn có hệ thống của Phan Khôi với Khổng giáo. Loạt bài này được xem như dấu ấn đáng kể trong việc công phá thành lũy tư tưởng bảo thủ ở xứ sở này để mở ra một sự đổi mới trong tư tưởng, suy nghĩ; và do đó có tác động đến nhiều mặt, cả về đời sống xã hội cũng như sự phát triển của văn học nghệ thuật.
19 Theo Trần Nho Thìn, đầu thế kỷ XX, trong xu thế chung của châu Á mà Fukuzawwa Yukuchi diễn tả là “thoát Á luận”, nhiều trí thức vùng Đông Á hay vùng văn hóa Hán đã tiến hành phê phán nhiều giá trị truyền thống phương Đông trong đó có Nho giáo. Trong các xu hướng phê phán Nho giáo đó, có một xu hướng phê phán Nho giáo như một học thuyết nam quyền - đàn áp nữ quyền. Tại Trung Quốc, có thể kể đến Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường, tại Việt Nam tiêu biểu là Phan Khôi [54].
33
phê phán Nho giáo như một học thuyết nam quyền - đàn áp nữ quyền của nhiều trí thức vùng Đông Á đầu thế kỷ XX19. Nho giáo Việt Nam trong đời
sống tư tưởng xã hội Việt Nam căn bản là Tống Nho. Những mặt hủ bại của
nó đã gây nên những biến cố, “nạn dịch” xã hội như nạn tự tử của thanh niên
nam nữ, việc xô xát trong gia đình, vợ giết hại chồng… Phan Khôi đã thể
hiện mối quan tâm về sự thủ cựu của Tống Nho và những ý tưởng canh tân
xã hội qua vấn đề phụ nữ.
Về vấn đề chủ nghĩa cá nhân (Individualisme) của tư tưởng phương
Tây, Phan Khôi đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 193020. Ông
nhấn mạnh rằng phải phổ cập nội dung chủ nghĩa cá nhân vào đơn vị con
người trong xã hội ta. Đó là điều kiện tiên quyết cho một xã hội hiện đại:
chú trọng quyền con người. Có thể xem đây là động thái đáng kể của Phan
Khôi trong khung cảnh cái tôi cá nhân hầu như bị ức chế trong đời sống xã
hội Á Đông. Thực chất, đề xuất vấn đề nữ quyền của Phan Khôi cũng là một
nội dung cụ thể của sự vận động phổ biến chủ nghĩa cá nhân.
Như vậy, từ việc Phan Khôi đề cập và giải quyết vấn đề chủ nghĩa cá
nhân, tư tưởng Tây phương và Đông phương đến việc đánh giá lại Nho giáo
đều có mối liên hệ với vấn đề phụ nữ. Tất cả đều nằm trong chủ trương duy
tân, hiện đại hóa của một học giả, nhà báo, nhà văn thức thời. Đây cũng
chính là những tư tưởng có giá trị làm tiền đề cho nền văn học mới, khai mở
tinh thần cho TLVĐ và Thơ mới.
20 Năm 1928, trong bài “Tư tưởng của Tây phương và Đông phương” [ĐPTB, 27/9/1928; 2/10/1928], Phan Khôi đã làm rõ sự khác biệt căn bản giữa tính chất “thống thuộc”, gò trong nghĩa vụ ở con người phương Đông và tính tự chủ của con người cá nhân phương Tây. Chủ nghĩa cá nhân trong lí giải của Phan Khôi chính là một quan niệm trong các xã hội phương Tây về quyền, lợi ích và tính chất (tự chủ, tự do, bình đẳng) của con người trong tổ chức cộng đồng đó. Tiếp đó, trong bài báo“Cá nhơn chủ nghĩa” [Trung lập, 28/11/1931], Phan Khôi trực tiếp nói rõ hơn đến từ chủ nghĩa cá nhân và sự liên hệ của nó với tư tưởng dân chủ ở con người và xã hội Việt Nam đương thời. Theo Phan Khôi, chủ nghĩa cá nhân là khi mỗi người tự độc lập về tinh thần (tự suy nghĩ, phán đoán, chủ động) và vật chất (tự nuôi sống mình).
34
1.3.2. Hoạt động báo chí
Phan Khôi “xông” vào báo chí một cách rất tự nhiên. Năm 1907,
hưởng ứng phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, ông ra Bắc học tiếng Pháp,
viết bài cho tờ Đăng cổ tùng báo (cơ quan ngôn luận cổ động tư tưởng cải
cách của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục). Khi trường Đông Kinh Nghĩa Thục
và tờ Đăng Cổ tùng báo bị cấm, ông về Nam Định học chữ Pháp với
Nguyễn Bá Học rồi sau đó về quê do bị mật thám Pháp theo dõi.
Ông chính thức bước vào nghề báo vào năm 1918, khi được giới thiệu
làm cho NPTC tại Hà Nội. Thời gian này, ông chuyên tâm nghiên cứu về
khoa lí luận học và đã bộc lộ là một trong những nhà báo đầu tiên có lối viết
gãy gọn, trình bày tư tưởng dễ hiểu, dễ thuyết phục độc giả. Trong giai đoạn
Phan Khôi cộng tác với NPTC, văn học Trung Quốc nổi lên những cuộc vận
động đổi mới. Một lối văn gần với quốc dân - văn bạch thoại - được cổ vũ và
văn ngôn có tính bác học bị kiêng dè hơn. Không khí đó ít nhiều ảnh hưởng
đến văn giới nước ta và Phan Khôi là người đón nhận tinh thần ấy đầy say
mê. Ông tìm hiểu về Hồ Thích, Lỗ Tấn. Hơn một năm sau, do những bất
đồng ý kiến với chủ bút Phạm Quỳnh, Phan Khôi đã bỏ vào Nam làm cho tờ
Lục tỉnh tân văn. Ông tiếp xúc nhiều với sách báo Trung Quốc. Lục tỉnh tân
văn là một tờ báo ra đời sớm, theo khuynh hướng cấp tiến gây chú ý ở Nam
Kỳ. Báo ra đời trong phong trào vận động Minh tân ở Nam Kỳ (số đầu ra
ngày 14/11/1907), chủ bút là Trần Chánh Chiếu. Phan Khôi đã làm việc ở
đây một thời gian, vì bài báo Giải đại ý bài diễn thuyết của quan toàn quyền
Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị, ông bị cho nghỉ việc. Năm 1920, ông trở
ra Hà Nội viết cho Thực nghiệp dân báo. Năm 1921, tạp chí Hữu Thanh ra
mắt do Nguyễn Khắc Hiếu làm chủ bút đã mời Phan Khôi tham gia. Tuy
nhiên, do báo chí miền Bắc hạn chế việc bộc lộ những quan điểm có tính
cách tân của Phan Khôi, ông lại trở vào Nam. Vì lí do chính trị, Phan Khôi
35
không ở Sài Gòn mà xuống Cà Mau ẩn náu ở đồn điền của một người bạn,
đọc sách, viết bài, cộng tác với các báo và rèn luyện tiếng Pháp, thông qua
thư từ qua lại với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do ở Sài Gòn. Khi Diệp
Văn Kì, Nguyễn Văn Bá tiến hành những thay đổi mạnh mẽ trên tờ ĐPTB
mà họ vừa tiếp quản, đầu năm 1928 Phan Khôi được mời làm cộng tác viên
đặc biệt bên cạnh bộ biên tập gồm những kẻ sĩ đất Bắc như: Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu, Ngô Tất Tố. Đây là dấu mốc ghi nhận thời kì thứ hai Phan Khôi
góp mặt với báo chương Sài Gòn, kéo dài đến năm 1933, gắn với các tờ
ĐPTB (1928), Thần chung (1929-1930), PNTV (1929-1933), Trung lập
(1930-1933), và cũng chính là thời kỳ “làm nên thương hiệu Phan Khôi”.
Ông đồng thời gửi bài cộng tác với Đông Tây ở Hà Nội (1930-1932). Đặc
biệt, từ 1929, Phan Khôi trở thành cây bút trụ cột trong tờ tuần báo PNTV -
một gương mặt đặc biệt trong dòng báo chí công khai. Phan Khôi là một cây
bút sung sức trên tuần báo này với hàng trăm bài báo trong 5 năm, từ 1929-
1933, (và một thời gian rất ngắn cuối năm 1934). Ông viết trên nhiều mục:
xã thuyết, nghiên cứu, khảo luận, lí luận phê bình văn học, sáng tác, tranh
luận, và đề tài nổi bật là về giới nữ. Qua PNTV, Phan Khôi đã ghi dấu một
giai đoạn cầm bút “thăng hoa” của mình. Ngoài chuyện bài vở đăng báo,
Phan Khôi cũng tham gia chấm thi để trao "học bổng phụ nữ" cho học sinh
đi du học tại Pháp do PNTV tổ chức. Đó cũng có thể xem là hoạt động xã hội
nổi bật ở một tác gia chủ yếu tác động đến xã hội bằng ngôn luận như Phan
Khôi. Tháng 4 năm 1933, Phan Khôi lại trở ra Hà Nội, hợp tác với “cố
nhân” là Thực nghiệp dân báo trong khoảng thời gian ngắn (đến tháng
8/1933). Từ 17/9/1933 đến 11/2/1934, Phan Khôi nhận lời ông bà Nguyễn
Văn Đa, làm chủ bút của PNTĐ. Ông đã biến đổi PNTĐ từ khuynh hướng
bảo thủ chuyển sang cấp tiến, nhất là trên vấn đề giới nữ. Đầu năm 1935,
Phan Khôi vào Huế, làm chủ bút nhật báo Tràng An. Hoạt động cho đến
36
7/1/1936, với bài báo Nên bài xích lối văn không thành thực đụng chạm đến
việc nội cung triều đình Nguyễn, ông buộc phải rời vị trí chủ bút. Đầu tháng
8 năm 1936, ông cho ra mắt tuần báo Sông Hương, tờ báo duy nhất trong đời
mình ông là người sáng lập, là chủ nhiệm kiêm chủ bút. Ông tạm ngừng sau
số ra ngày 27/3/1937 và bán lại tờ báo cho nhóm cộng sản Phan Đăng Lưu.
Ngoài những tờ báo chính trong hoạt động báo chí của Phan Khôi giai
đoạn trước Cách mạng tháng Tám trên đây, ông còn góp bài trên một số báo
như: Hà Nội báo (1936-1937), Đông Dương tạp chí (1937-1938), Dư luận
(1938), Thời vụ (1938), Tao đàn (1939), Phổ thông bán nguyệt san (1939).
Cuốn tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra được in trên Phổ thông bán nguyệt san (s41,
16/8/1939) của nhà xuất bản Tân dân.
Qua trước tác của Phan Khôi, người ta thấy rõ nét chân dung một tác
gia nhập cuộc say sưa, một Phan Khôi uyên bác, thẳng thắn, lập luận gai
góc, phản biện xã hội bằng trí tuệ sắc bén và tư duy cấp tiến, kiên quyết bài
trừ Hán học, cổ xúy cho tân học, trong đó có vấn đề phụ nữ. Đó là “hình ảnh
kỳ lạ nhất, cô độc nhất, bản lĩnh nhất của lịch sử báo chí Việt Nam hiện đại.
Ngay trong cái cõi nhân sinh ta bà bụi bặm, ông đã chọn thái độ sống như
một cây thông. Ông đứng sừng sững, không bè phái, băng nhóm dù đơn độc
nhưng lại dám “gây sự” từ Nam chí Bắc trên trường văn trận bút” [38,19].
Tiểu kết
Trong xã hội Việt Nam, dưới ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đậm
chất nam quyền, phụ nữ phải chịu nhiều áp chế, bị khinh miệt và tước mất
quyền lợi. Điều đó cũ ng được thể hiện trong các diễn ngôn truyền thống.
Đầu thế kỷ XX, chương trình khai thác thuộc địa của Pháp đã gây những
biến chuyển lớn cho xã hội Việt Nam. Sự biến chuyển đó đã tác động đến
cuộc sống của phụ nữ trên mọi phương diện. Từ chỗ chỉ quanh quẩn với
37
trong phạm vi gia đình, nhiều phụ nữ đã vươn tới hòa nhập với xã hội, chứng
minh khả năng của mình với nam giới. Với sự thay đổi và phát triển ý thức
về giới, họ đã có thể bước đầu kề vai sát cánh cùng người nam để hít thở
chung không khí của thời đại. Tình hình trong nước và những ảnh hưởng của
phong trào nữ quyền và giải phóng phụ nữ trên thế giới đã hình thành nên
vấn đề phụ nữ. Cũng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, báo chí xuất hiện
và với sự xuất hiện của báo chí, hết những vấn đề của phụ nữ được các học
giả đề cập: vai trò và vị trí của phụ nữ, bình quyền nam nữ, phụ nữ giáo dục,
phụ nữ chức nghiệp, phụ nữ với chính trị… Xuất hiện trên báo chí thời kỳ
này, một số tác phẩm văn học với đề tài về phụ nữ trong cuộc sống, tình yêu,
hôn nhân... cũng cho thấy cái nhìn nhân bản và những quan niệm tiến bộ về
nữ quyền, giải phóng phụ nữ.
Vốn là một đại diện cho lớp nhà nho cuối cùng, nhưng trước những
yêu cầu của lịch sử, Phan Khôi đã chủ động tiếp thu Tây học, hưởng ứng con
đường cải cách văn hóa, thực thi dân chủ. Phan Khôi hăng hái nhập cuộc,
nắm bắt những vấn đề mới “trên bước đường tấn hóa”, đặc biệt là vấn đề
phụ nữ. Hai chương tiếp theo đây sẽ là sự khảo sát cụ thể trước tác báo chí
và văn chương của Phan Khôi để hiểu hơn mức độ quan tâm và đóng góp
38
của ông với vấn đề phụ nữ.
Chương 2
Nhà báo Phan Khôi và vấn đề phụ nữ
Theo thống kê bước đầu, danh mục các bài báo liên quan đến phụ nữ
của Phan Khôi trong vòng 5 năm (từ 1928 đến 1935) gồm 77 bài (xin xem
phụ lục). Dựa trên thống kê này, chúng tôi nhận thấy Phan Khôi đề cập đến
nhiều phương diện của vấn đề phụ nữ. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn,
chúng tôi chỉ tập trung vào một số nội dung chính - cũng là những vấn đề
trọng yếu được Phan Khôi bàn luận.
2.1. Những vấn đề phụ nữ qua các bài báo của Phan Khôi
2.1.1. Nguyên tắc chung: Nam nữ bình quyền
Nhận thức về tình trạng “bé mọn” của phụ nữ, Phan Khôi chỉ rõ
những phân biệt đối xử tồn tại lâu đời với họ như : “trọng nam khinh nữ,
nam tôn nữ ty”. Ông nói: “Cái quan niệm chung của xã hội đối với phụ nữ là
khinh dể đàn bà, coi đàn bà chẳng ra chi. Mà cái quan niệm ấy là do chế độ của xã hội, lễ giáo của thánh hiền mà ra vậy”21. Phan Khôi muốn từng bước
xóa bỏ những định kiến ấy, lên tiếng đòi lại công bằng cho phụ nữ: “nam nữ
cũng đồng là người cả, cớ sao lại có một bên chịu thiệt thòi như thế?”. Nhiều
21 “Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta [PNTV, s5,30.5.1929] 22 “Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình” [PNTV, s50, 1/5/1930]; “Xóa một cái án trong lịch sử: thân oan cho Võ Hậu” [PNTV, số 53 ngày 22/5/1930]; “Trời, vua với đàn bà con gái”[PNTV, s121, 3/3/1932]; “Pháp luật đối với phụ nữ”[PNTV, s130, 12/5/1932]; “Do sự nặng nhẹ” [Trung lập, s699, 20/4/1933]; “Ỷ chúng hiếp cô” [PNTĐ, s16,31/12/1933; s19, 21/1/1934]; “Một việc quan hệ vừa với nhân mạng vừa với khoa học: Người đàn bà bị bỏ đỉa vào tai” [Tràng An, s4, 12/3/1935; s5, 15/5/1935; s8, 26/3/1935]
39
bài viết của ông tập trung phản ánh cũng như bài trừ sự phân biệt đối xử theo giới22.
Nhân vật Võ Tắc Thiên, nữ hoàng đế đời Đường của Trung Quốc,
trong mắt của dư luận nói chung là một nữ chúa tàn bạo, một dâm phụ ghê
gớm. Nhưng Phan Khôi cho rằng cần “thân oan cho một người đàn bà vô
tội”, và hơn thế, cần công tâm khi đánh giá giá trị của phụ nữ. Ông khẳng
định: “Võ Hậu là một vị hoàng đế anh minh, một nhà chánh trị đại tài, một
tay vận động nữ quyền kịch liệt, chẳng có đắc tội gì với lịch sử hết” [PNTV,
s53, 22/5/1930]. Phan Khôi đặt giả thiết “nếu bà là đàn ông thì người ta đã
tôn cho là ông vua thánh”, để bật ra cái nhìn phân biệt giới đã chi phối dư
luận.
Đó là chuyện minh tuyết cho người thiên cổ. Còn biện hoặc cho phụ
nữ đương thời thì tiêu biểu là chuyện Phan Khôi bênh vực một nữ sĩ (tên
P.L) khi bà bị những đồng nghiệp nam hạ nhục nhân cách và hô hào làng
báo “trục xuất” chỉ vì xích mích cá nhân nhỏ nhặt. Phan Khôi đả kích họ:
“Hay là các ông ỷ chúng hiếp cô, tính hùa nhau một đàn đực đuổi một con
cái? Ấy, không được đâu, còn có người ta đây nữa mà?” [PNTĐ,
s16,31/12/1933].
Hay trường hợp người đàn bà tên là Trần Thị Quyến ở Thừa Thiên
Huế vì chống trả lại kẻ hãm hiếp mình mà bị bỏ đỉa vào tai, nhưng đến kêu
oan ở quan tòa và xin gặp quan thầy thuốc thì đều bị chối từ. Trên ba số báo
liên tiếp, Phan Khôi lên án sự tàn nhẫn, vô lương tâm của những kẻ ăn lương
nhà nước nhưng coi rẻ nhân mạng, đơn giản vì nhân mạng đó là một người
đàn bà thường dân. Ông quyết liệt đòi lại nhân quyền cho người phụ nữ này.
Theo ông, bởi xã hội Nho giáo nam quyền “kể đàn bà như là vật phụ
thuộc của đàn ông” nên phụ nữ tin vào bổn mệnh, vào địa vị thấp kém của
họ so với đàn ông, khắc sâu vào tiềm thức họ sự thuần phục, chấp nhận. Tất
40
yếu của kết cục ấy là tâm lí nô lệ, là rào cản ngăn không cho họ dám vươn
tới tự do. Để giải quyết vấn đề phụ nữ, Phan Khôi cho rằng yếu tố đầu tiên là
chính bản thân phụ nữ phải tự thức nhận và giác ngộ về mình.
Trong thiên khảo luận trường kỳ Theo tục ngữ phong dao, xét về sự
sinh hoạt của phụ nữ nước ta, Phan Khôi nhấn mạnh: “Trước hết, nước ta do
theo lễ giáo phong tục, mà coi đàn bà con gái không ra chi. Đối với đàn ông,
đàn bà phải chịu nhiều cái điều ước bất bình đẳng. Đàn bà đối với xã hội, có
nghĩa vụ không kém gì đàn ông, nhưng quyền lợi không bằng đàn ông”. Ông
chủ trương đòi quyền lợi cho người phụ nữ trên tất cả các phương diện của
đời sống. Nhưng Phan Khôi cũng đưa ra lưu ý rằng: “phải tùy theo hiện
trạng xã hội để yêu cầu cho chị em những quyền lợi đáng được và vãn hồi
cho những quyền lợi đã mất. Cái quyền lợi nào mà bên nam giới chưa hưởng
được thì chúng tôi không dại gì đòi cho nữ giới được hưởng, vì chúng tôi nghĩ làm như thế là vu khoát mà chẳng ích lợi chi”23. Nhận thức được thân
phận nô lệ của người Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, ông phê phán sự “giản
đơn”, “hão huyền” phi thực tế của một số học giả về vấn đề nữ quyền. Phan
Khôi chủ trương tập trung vào việc vận động giải phóng phụ nữ khỏi ràng
buộc của lễ giáo phong kiến.
2.1.2. Phụ nữ trong môi trường gia đình
2.1.2.1. Vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình
Trước thực tế nhiều phụ nữ ở thành thị “không biết công việc làm ăn,
không hiếu thuận với gia nương, thậm chí say mê chơi bời, không nghĩ đến
chồng con nữa”, khiến giới nữ bị đánh đồng rằng “đều đã đổ đốn như vậy
cả”, Phan Khôi đã khẳng định lại về giá trị truyền thống của người phụ nữ
trong gia đình, họ tộc, đặc biệt là người phụ nữ ở nông thôn, với “cái nề nếp
đã lâu lắm, bền vững lắm”, mà “sau này xã hội ta được tấn bộ nhiều, cũng có
23 “Phụ nữ thời đàm đổi làm tuần báo” [s1, 17/9/1933]
41
một phần lớn nhờ ở đó”.
Trước hết là vai trò của phụ nữ trong lao động sản xuất để duy trì cuộc
sống gia đình. Phan Khôi khảo luận trong tục ngữ, phong dao về công sức
lao động của phụ nữ và khẳng định: “cái công khó của phụ nữ ta đối với gia
đình thật là hơn đàn bà nước nào hết”24. Ngoài chuyện tề gia nội trợ, còn
trăm thứ việc nặng nhẹ trong sản xuất nông nghiệp ở nông thôn mà người
phụ nữ ghánh vác với chồng không quản ngại. Rồi canh cửi, dệt lụa, buôn
bán - là những việc “gần như đàn ông không biết tới”. Người phụ nữ một tay
thu vén, tạo ra tài sản chính cho gia đình và cao hơn còn “giúp đỡ sự sống
cho cả xã hội nữa”. Đặc biệt đáng ngợi ca là những người phụ nữ nuôi chồng
học hành, theo đòi cử nghiệp hoặc gánh vác gia đình cho chồng đi lính.
Bên cạnh đó, Phan Khôi đánh giá cao vai trò của người phụ nữ trong
việc giáo dưỡng con cái, tạo nền tảng cho xã hội. Qua những trường hợp của
Việt Nam như mẹ ông Nguyễn Cao25 hay của Trung Hoa như bà Vương
Thạc Nhân, mẹ ông Cố Viêm Võ26, Phan Khôi trực tiếp bày tỏ quan niệm
của mình về tầm quan trọng của vấn đề “mẫu giáo”: “…sự tập rèn bồi dưỡng
cho thành ra một bậc vĩ nhân như vậy, ta phải nhìn nhận là công của người
hiền mẫu. Trông trong nước có nhân tài mà không trông ở cái khí thiêng
chung đúc của non sông, thật không bằng trông ở sự giáo hóa của người từ
mẫu vậy”. Thiên chức “mẫu giáo” của người phụ nữ cũng được Phan Khôi
xem như chức phận của họ với quốc sự một cách gián tiếp (sẽ đề cập ở phần
sau). Sự nhìn nhận của Phan Khôi đã đối lập lại với quan niệm của Nho giáo
từng tồn tại bao đời nay, xem người phụ nữ chỉ có nghĩa vụ duy trì nòi
24 “Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta [PNTV, 1929] 25 “Việt Nam phụ nữ liệt truyện”[PNTV, s7, 13/6/1929]; 26 “Một cái gương sáng cho người làm mẹ” [PNTV, s19, 5/9/1929]
42
giống, là “cái máy đẻ”, là “cái đồ chơi vui, vật mọn của bọn nam nhi”.
Cách nhìn của Phan Khôi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình
cũng là ý kiến chung của học giả đương thời. Từ người thủ cựu tới cấp tiến đều đề cao vai trò của người phụ nữ với tư cách là người vợ, người mẹ27.
2.1.2.2. Giải phóng phụ nữ trên phương diện gia đình
Đả phá chế độ đại gia đình
Theo Phan Khôi, chế độ đại gia đình là “cái họa áp chế” người phụ nữ.
Chế độ này có gốc rễ từ thuyết “tam cang” của Hán Nho, với mục đích phục
vụ cho cuộc trị an cho nhà vua. Với mô hình đồng cư, mỗi một thành viên
nam nữ trong gia đình đều bị khép vào khuôn khổ, chịu sự áp đặt của người
gia trưởng. Trong các bài viết của Phan Khôi, việc “nhận thức lại chánh thể
chuyên chế”, chủ trương giải phóng thế hệ trẻ, đặc biệt là phụ nữ khỏi sự áp
chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục28. Bắt đầu từ bài khảo luận kéo dài nhiều số trên
PNTV năm 1929 Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ
27 Trong mục “Nhời đàn bà”, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đánh giá cao vai trò của người phụ nữ trong sản xuất và tạo lập kinh tế gia đình, đặc biệt sự đảm đang tần tảo của người phụ nữ đã góp phần nuôi sống gia đình, nhất là những gia đình có người chồng theo đương khoa cử, học hành, không trực tiếp lao động [Đại Nam ĐCTB, s3, 11/4/1907]. Dưới tiêu đề Thế lực người đờn bà, Sương Nguyệt Anh khẳng định: “Có đờn bà mới sinh ra thánh hiền, hào kiệt, mới có người tô điểm non sông; không có đàn bà thì loài người ắt tiêu duyệt, thế giới hưu quạnh như cù lao hoang, đâu là nhà “triết hoc”, nhà “văn hóa”, nhà “chánh trị”, đâu là nhà “kinh tế”, nhà “cách trí”, nhà “giáo dục” và hết thảy các hạng người ở trên trái đất này.” [NGC, s1, 1/2/1918]. Nguyễn Song Kim trong bài viết Đạo đàn bà [NGC, s18, 14/6/1918] nhấn mạnh vai trò “nội tướng trong nhà” của phụ nữ. Trong gia đình, khi vai trò của người đàn ông quá mờ nhạt, “chỉ biết cái đại khái mà thôi”, “chỉ có ở đấy làm vì mà thôi”, thì phụ nữ là người quan xuyến tất cả, từ lo lắng công việc gia đình nhà chồng, thờ cha mẹ chồng, cùng chồng ghanh vác nuôi gia đình, đến cách đối nhân xử thế để giữ được trong ấm ngoài êm.
28 “Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta” [PNTV, s5 (30.5.1929); s7 (13.6.1929); s8 (20.6.1929); s9 (27.6.1929); s10 (4.7.1929); s12 (18.7.1929); s13 (25.7.1929); s14 (1.8.1929); s15 (8.8.1929); s17 (22.8.1929); s18 (29.8.1929)]; “Luận về phụ nữ tự sát” [PNTV, s22, 26/9/1929]; “Gia đình ở xứ ta, nay cũng thành ra vấn đề rồi” [PNTV, s83,21/5/1931]; “Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý của Khổng Mạnh” [PNTV, s85, 4/6/1931]; “Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay” [PNTV, s87, 18/6/1931]; “Lại nói về tam cang với ngũ luân” [PNTV, s89, 2/7/1931]; “Một cái hại của chế độ đại gia đình: Bà gia với nàng dâu”, s96, 20/8/1931]; “Giải quyết một vấn đề gia đình” [PNTV, s159, 14/7/1932].
43
nước ta, Phan Khôi đã phân tích thấu đáo để chỉ ra những thiệt thòi mà
người đàn bà phải chịu trong gia đình. Chẳng hạn như “sự ép duyên, sự chia
gia tài, sự mẹ chồng hành hạ, sự bà con bên chồng dằn thúc, sự cách biệt
nhau trong khi mới lấy chồng” (điểm này Phan Khôi nhấn mạnh như một
“bổn tính tự nhiên” của con người, là quyền của người đàn bà trong ái tình,
nhưng các nhà nho luôn nhân danh đạo đức mà cho là phàm tục)… Ông
thẳng thắn chỉ ra cái gọi là “luân lý gia đình”, là “quốc túy” thực chất lại
“toàn là xiềng xích gươm đao để trói buộc đâm chém nhau”: “gia đình luân
lý! Lần này phải có tôi là kẻ nhẫn tâm nầy để xỉ tướng ngài ra!”. Chính chế
độ đại gia đình “đầy đọa người đàn bà như một người nô lệ và cất mất cả
nhân cách của họ”.
Đương thời, hiện tượng tự sát ở nhiều cô gái trẻ gây chấn động xã hội.
Nếu “mấy ông đại nho, mấy ông lão thành” đều cho đó là hành động dại dột,
kết tội bất hiếu, cướp công cha mẹ, vô trách nhiệm với xã hội thì Phan Khôi
lại nhìn nhận như bản lĩnh thoát khỏi cái gông lễ giáo, chế độ đại gia đình áp
chế. Ông gióng hồi chuông cảnh báo rằng: “gia đình ở xứ ta, nay cũng đã
thành ra vấn đề rồi” và mong muốn chấn chỉnh hiện trạng đó: “mỗi một gia
đình, người gia trưởng phải có kiến thức sâu xa, phải có độ lượng khoan đại,
chớ vụ cho thỏa lòng tư dục của mình, mà phải đoái đến cái tương lai của
nước nhà, của nòi giống, liệu mà nới bớt trói buộc cho người phụ nữ dưới quyền mình, thì cái họa tự sát lần lần tiêu đi được”29.
Đặc biệt, ông khẳng định mối bất cập lớn của chế độ đại gia đình là
chuyện xung đột mẹ chồng - nàng dâu, trong đó, người bị đè nén luôn là
nàng dâu, bởi nhẽ: “ai nấy đã tin lời Tống Nho, ông La Tùng Ngạn nói:
“trong thiên hạ chẳng có cha mẹ nào là không phải. Dựa câu ấy làm xương
29 “Luận về phụ nữ tự sát”, [PNTV, s22, 26/9/1929].
44
sống, bên bà gia càng được trớn mà phũ phàng thêm, bên nàng dâu càng bị
đè mà căm tức thêm, vì đó nhiều khi đã sinh ra sự đại biến trong gia đình”30.
Phan Khôi phân tích để vạch rõ việc “bà gia ngược đãi nàng dâu” (chửi bới,
đánh đập, chia rẽ tình vợ chồng đến nỗi phải bỏ mạng) là sự “bạo ngược vô
đạo thứ nhứt” của luân lý gia đình ta.
Lối đại gia đình như một cơ chế quyền lực lỗi thời, phản tiến hóa cho
thế hệ trẻ và càng khiến những “con người thấp kém” như phụ nữ mất quyền
tự chủ. Phan Khôi đề xuất chuyển từ mô hình đại gia đình sang mô hình gia
đình hạt nhân. Đây là vấn đề lần đầu tiên được Phan Khôi khởi xướng, hơn
thế, nó còn mang tính chất thời sự cho cả một thế kỷ. Tính chất mẫn cảm này
càng khẳng định vai trò tiên phong quyết liệt trong tư tưởng của Phan Khôi.
Chế độ hôn nhân
Khác với các học giả đầu thế kỷ XX không ủng hộ vấn đề tự do yêu đương31, Phan Khôi đứng về phái tân tư tưởng, vì hạnh phúc cá nhân. Ông
cực lực lên án quan niệm xem hôn nhân là việc chung của gia tộc, là quyền
của cha mẹ, con cái chỉ có nghĩa vụ phụng mệnh và chỉ ra đó chính là một
trong những nguyên nhân lớn nhất đẩy số phận người phụ nữ vào bi kịch,
đồng nghĩa là một chế độ sát nhân gián tiếp.
Trong bài khảo luận về tục ngữ, phong dao, ông bàn về thực trạng
này: “Hễ cha mẹ đã có quyền ép được thì cứ việc ép, đặt đâu ngồi đó, nào có
nghĩ gì đến cái ái tình của con cái… Xét lại, cha mẹ mà sở dĩ hay ép con, là
vì ham giàu”. Bởi lẽ, tâm lý của người con gái “thường trái với tâm lý cha
mẹ, nghĩa là không ham giàu, mà lấy cái duyên với nhau làm trọng” - nhưng
30 “Một cái hại của chế độ đại gia đình”: Bà gia với nàng dâu” [ PNTV, s96, 20/8/1931]. 31 Quyền lợi của cộng đồng, của gia đình được đặt lên trên vì “đạo kết hôn của con người cốt ở hạnh phúc và truyền chủng. Việc hôn nhân rất quan trọng nên phải để cho cha mẹ là những người có kinh nghiệm, trách nhiệm và kiến thức quyết định” [Nguyễn Bá Học, năm 1920] . Hay do “phong hóa mình là còn ở vào cái gia tộc chủ nghĩa, mà phong hóa người ta về thời xã hội chủ nghĩa, cho nên tư cách độc lập mình chưa có mấy chút, mà sự phục tòng, không muốn phục tòng cha mẹ còn phục tòng ai?” [Đạm Phương, năm 1918].
45
“tiếc thay vì cái chế độ gia đình ép buộc, làm cho nó không nảy nở ra được
mà lại tiêu mòn dần đi”. Phản nhân văn hơn còn là những hủ tục “cướp đi
tuổi xuân” của người con gái như ép phải lấy chồng trẻ con, hoặc ông lão.
Người con gái bị ép ấy về sau trở nên làm mẹ, thì cũng hùa theo chế độ ấy
của đàn ông bày ra mà ép con mình nữa. Cái cuộc “trả thù xuống” ấy cứ
nối nhau mãi đời nọ sang đời kia, không ngày nào dứt. Cũng vì đó mà xã
hội càng ngày càng thấp hèn, càng ngày càng dơ đục, chỉ biết tiền bạc là
quý, mà không kể chi duyên, chi ái tình !
Và chung qui, hệ quả cuối cùng là làm méo mó phong hóa dân tộc:
Ông phê phán chế độ ép duyên hủ lậu bằng những luận điểm sâu cay và
thâm thúy. Nhân chuyện báo La Courrier de Saϊgon lên án một luật sư “vu
cáo, nói oan điều nhơ nhớp cho xã hội” (khi biện hộ cho một Tú bà tên
Nguyễn Thị Bạch vì tội đem gả hai thiếu niên mới mười một và mười ba
tuổi bằng quan điểm: “cái nghề mãi dâm là thường quá ở trong xã hội nầy,
thường cho đến đỗi nó không còn làm hổ nhục bao nhiêu; trong sự gả cưới,
nhiều cha mẹ đem con bán cho ai ưng mua mắc là được; hay cha mẹ sanh
con gái, thường vui như được một số tiền vốn về sau”), Phan Khôi đã ngụ ý
Chuyện bán dâm là khác, chuyện gả con lấy chồng là khác. Khác nhau
như hai việc "cho mướn" và "bán". Bấy lâu nay mình thường dùng những
tiếng "mãi dâm, buôn son bán phấn", thành ra mình cho cái nghề mãi dâm
là một sự buôn bán. Nên mình mới có thể đem nó mà so sánh với sự gả
cưới trong xã hội nầy, như ông trạng sư kia. Chớ kỳ thật thì nó là sự "cho
mướn"; còn đám gả cưới mới thật là việc "bán buôn”.
… Mua heo chọn nái, mua gái lựa dòng. Tra vấn cho tới việc của cha mẹ,
ông bà hai bên. Tính lợi tính hại, tính tới tính lui. Cần mai mối đặng nói
những chuyện mà hai đàng bợ ngợ khó nói ngay mặt nhau. Chừng xem xét
so tính xong xuôi, thì phải làm giấy tờ rõ ràng, có làng xóm, có note thị
chứng. Công chuyện làm đành rành giữa ban ngày, chớ có mù mờ u ám
như sự "cho mướn" kia đâu.
46
đồng tình với vị luật sư bằng lối nói mỉa:
Trách ông trạng sư kia đã chuyên môn về luật pháp mà không giữ phương
diện pháp luật, lại đứng về phương diện tâm lý mà so sánh thì lánh sao cho
khỏi mích lòng xã hội được?
[Trung lập, Sài Gòn, s6988 ,15/4/1933]
Như vậy, Phan Khôi đã gián tiếp khẳng định, việc gả con gái của cha
mẹ xưa nay, thực chất là một cuộc buôn bán, tính toán lợi nhuận không hơn.
Nó hoàn toàn phản nhân văn và cần phải loại bỏ. Không chỉ với quyền kết
hôn, cả quyền ly hôn phụ nữ cũng không thể tự quyết bởi những áp lực vô
hình của cha mẹ, thân tộc, dư luận. Nên “dầu gặp sự thất ý, họ cũng phải cắn
răng mà chịu”, khiến họ “quanh đi quẩn lại rồi cũng chỉ chịu ép một bề”,
“gặp anh chồng không ra chi, cũng phải mang lấy cả đời như mang lấy nợ”.
Bên cạnh việc đấu tranh cho quyền tự do hôn nhân của phụ nữ, Phan
Khôi còn phê phán chế độ đa thê của nam giới. Ông bày tỏ sự cảm thông với
cảnh ngộ làm lẽ của phụ nữ. Một ví dụ điển hình cũng được xem như đỉnh
cao của chế độ đa thê là sự áp chế cung nhân của các bậc đế vương. Ngòi bút
Một người đàn ông mà cho đến 120 người đàn bà lận, thì chỉ có làm thịt ra
mà ăn cả một đời, họa may mới hết!...Thấy những sự đế vương đối đãi
cùng phụ nữ như vậy mà ai không tức. Huống chi chính mình phụ nữ đã
chịu lấy sự ngược đãi ấy, sự vô nhơn đạo ấy mà cúi đầu nhịn mãi được hay
sao? Thế nhưng xưa nay chưa hề thấy trong đám họ có ai ra ý nghịch cùng
người ngược đãi mình đó, nghịch cùng cái chế độ áp bách mình đó. Sự ấy
không đủ lấy làm lạ, là vì chính cái ông thánh bày ra phép lập 120 vị hậu
cung đó cũng có đặt ra lễ giáo, dạy đàn bà một mực phải nhu thuận.
[“Hoàng đề với phụ nữ”, PNTV s36, 9/1/1930]
sắc sảo của Phan Khôi đã lột trần bản chất dã man của nó:
Ở đây, Phan Khôi đã đụng chạm đến gốc rễ xã hội của câu chuyện ức hiếp
khi chỉ ra nguyên nhân sâu xa, căn bản nằm ở chế độ quân chủ chuyên chế,
và cho rằng chế độ ấy không có lí do để tồn tại trong bối cảnh hiện đại hóa
47
xã hội.
Quyền cải giá của phụ nữ
Nho giáo, mà chủ yếu là Tống Nho, từ thế kỷ X vì phục vụ cho tầng
lớp thống trị và lợi ích của đàn ông, càng nhấn mạnh những đòi hỏi về tiết
hạnh đối với phụ nữ, nhất là cách nhìn mang tính điển chế hóa đối với người
quả phụ (không khuyến khích họ tái giá) và đề cao mẫu người phụ nữ thủ tiết và tuẫn tiết. Qua một loạt bài viết sắc sảo32, Phan Khôi đã cực lực bài
bác quan niệm “sát nhân, ăn thịt người này”.
Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, câu chuyện trinh tiết vẫn được
quan niệm rất khắt khe. Những nhà nho duy tân (vốn có tinh thần phê phán
Tống Nho mạnh mẽ) vẫn thể hiện lập trường bảo thủ của Tống Nho về đời sống thân xác của phụ nữ33. Tác giả Phạm Bạch Tuyết của báo NGC cũng
khẳng định quyết liệt: “người đàn bà quí nhất là trinh tiết, không có trinh thì
không có gì cả”; “chữ trinh đáng giá ngàn vàng, thậm chí là vô giá”, bởi nhẽ:
“Vàng tuy có thật mà có giá, ai cũng có thể mua đặng, tuy quí nhưng chưa
lấy chi quí lắm. Chớ chữ trinh thì khắp cả vàng ngoài trái đất đã dễ mua à?
Mua được quả là không lấy làm quí, đánh giá được lại quả là không đáng quí lắm nữa! Vô giá thì mới thật là báu vật”34. Chữ trinh được đặt ra như một
điều kiện tiên quyết để người phụ nữ nên người “hiền thê, từ mẫu”, làm mát
lòng cha mẹ. Hay khi bàn về chữ trinh, Đạm Phương nữ sử cho rằng: “người
đàn bà mà phải giữ chữ trinh, cũng giống như người đàn ông phải giữ có chữ
32 “Chữ trinh: Cái tiết với cái nết” [PNTV s21,19/9/1929]; “Chuyện bà cố tôi” [PNTV s25, 17/10/1929]; “Tống Nho với phụ nữ” [PNTV s95, 13/8/1931]; “Không chăn gối cũng vợ chồng [Trung lập s6501, 30/7/1931]; “Bà Tương Phố lấy chồng” [PNTĐ, s21, 4/2/1934] 33 Như Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng đánh giá thái độ chủ động tìm đến Kim Trọng trong đêm khuya thanh vắng của Thúy Kiều: “Một đôi thiếu niên nam nữ, đêm thanh người vắng, trèo tường trổ ngõ, ước hội chuyện trò với nhau, đối với phong hóa đạo đức đã là việc bất chính, mở đầu quyển sách như thế, dù sau có tô vẽ hiếu nghĩa gì đâu nữa cũng không đủ làm gương tốt cho đời”; hay “Hiện xã hội ta ngày nay mà diễn ra những tuồng thương vong, bại tục kia, cái giống độc con đĩ Kiều gieo vào trong cõi tư tưởng không phải là ít” [53].
34 “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng” [ NGC, s20, 28/6/1918]
48
trung vậy. Trung trinh hai chữ ngang nhau”; “chữ trinh tiết là nguyên nhân
thứ nhất, lớn nhất, cần nhất để cho rõ ràng chứng minh rằng: cái quả tim của
người đàn bà là chỉ có trọn một niềm đối với người mà mình đã kí thác cái
đời của mình cho người” [10,79].
Trong khi chính hai nữ học giả trên đều đồng nhất chữ trinh với thước
đo nhân cách của người phụ nữ như quy chuẩn của lễ giáo phong kiến thì
một tác giả nam giới như Phan Khôi lại có cái nhìn hết sức mới mẻ và sắc
sảo khi khảo về “chữ trinh, cái tiết với cái nết”. Ông truy nguyên nguồn gốc
của chữ trinh và khẳng định nó là kết quả của việc “hấp thọ văn hóa Tàu”
chứ “đàn bà thời thượng cổ không giữ trinh”. Ông phân định rạch ròi nội
hàm của khái niệm chữ trinh: đó là nết trinh và tiết trinh; nhấn mạnh đến nết
trinh là sự chủ động, tự nguyện, mang tính bản chất và chủ quan ở người phụ
nữ, còn tiết trinh là sự trói buộc từ bên ngoài mang tính khách quan áp đặt
họ. Người phụ nữ có cái nết tốt, hẳn sẽ có được chữ trinh. Bởi vậy, ông
khuyến khích phụ nữ tự nguyện trau giồi nết trinh. Từ những quan niệm
sòng phẳng, rõ ràng đó, Phan Khôi nhìn nhận sự cải giá là bình thường, ai ở
được cũng tốt, ai không ở được thì lấy chồng, “sự ấy chẳng thành ra vấn đề”.
Ông cho rằng từ quan niệm chữ trinh với ý nghĩa trinh tiết tới việc cấm phụ
nữ góa chồng tái giá cũng chỉ bắt đầu từ thời Tống Nho do một câu nói của
Trình Hy: “chết đói là việc nhỏ, thất tiết là việc lớn”. Tuy chỉ là luật trong
luân lí truyền thống nhưng nó có hiệu lực mạnh hơn luật pháp công khai,
khiến “không biết bao nhiêu là người vợ hiền, mẹ lành, đàn bà có phước, mà
Vì theo luân lý Tống Nho nên pháp luật nước ta dầu không cấm hẳn đàn
bà cải giá nhưng cũng cướp mất quyền lợi của người đàn bà cải giá. Một
người đàn bà chết chồng mà đi lấy chồng thì luật bắt phải ra đi tay không,
giao gia tài cho bên chồng, dầu của ấy là của vợ chồng đồng công mà tạo
lập ra thì cũng mặc. Chồng chết có con trai, mà đi lấy chồng để kiếm
49
phải chịu điều tủi nhục và đau xót”:
phương thế nuôi con, sau lại về ở với con trong nhà chồng trước nữa, chết
đi, không được thờ chung với chồng vào từ đường”.
[PNTV s21,19/9/1929]
Phan Khôi đưa ra một vụ việc có thật về bà cố mình để làm bằng chứng cho sự nghiệt ngã này của Tống Nho35. Đó là biểu tượng cho người
phụ nữ độc lập, dám bước qua hàng rào lễ giáo cổ hủ đầu thế kỷ XIX để xác
định nữ quyền, tái giá, nuôi chín con, lập nên cơ nghiệp, nhưng bà lại phải
“trả giá” cho chính bản lĩnh đó của mình. Xuất phát từ nhận thức lý trí sâu
sắc kết hợp với trường hợp cụ thể đậm nhân tình như vậy, Phan Khôi đã kiên
quyết đòi kiện cái luật cổ hủ của xã hội thời ấy.
Ông thông cảm với nỗi khổ của người phụ nữ góa bụa khi muốn tìm
một chỗ dựa mới thì lại sợ xã hội dè bỉu, phải chấp nhận cảnh sống cô đơn
trong phần đờ i còn la ̣i . Táo bạo hơn là một nhà nho như Tú Khôi còn có cái
nhìn đầy nhân văn với những nhu cầu bản năng, thân xác của họ trong sợi
35 Bà cố ông lấy ông cố được 15 năm, có 7 người con thì ông cố qua đời. Bà buôn gánh ở Hội An, nuôi con trong 6 năm rồi tái giá, làm kế một ông Đội khá giả ở làng Hội Vực, nhưng bà ra điều kiện: phải để cho bà về nhà chồng trước trông nom con cái. Sáu năm sau, ông Đội mất, bà đem 2 con với ông Đội về nuôi cùng 7 con đời chồng trước. Vốn là người lao động giỏi, thêm có vốn của chồng để lại, bà còn mạnh dạn thu mua hàng số lượng lớn, mở đại lí giao dịch với các thương gia nước ngoài, việc làm mà thời bấy giờ phần đông nhân dân e ngại. Việc kinh doanh thuận lợi, bà trở thành “cự phú”, tạo công việc ổn định cho người dân trong vùng, riêng trong dòng họ Phan nhiều người giàu lên, con cháu được học hành, đỗ đạt, làm quan. Dù có công lớn với gia đình, nhưng vì “tội tái giá”, nên sau khi mất, ở tuổi 73, bà không được chôn ở đất công của làng Bảo An mà phải mua đất của làng khác để an táng. Đó là một cách “luật lệ” trừng phạt bà mặc dù cả tộc, cả làng đều biết ơn công đức của bà. Theo Phan Thị Mỹ Khanh thì “năm 1941, nhân ngày giỗ tộc họ Phan, cha tôi ra giữa tộc trình bày đầu đuôi sự việc, có lý có tình mới được các vị trong tộc chấp nhận cho nghinh bài vị của bà vào nhà thờ. Thế là, sau gần 80 năm, cái án cải giá của bà cố cha tôi mới được xóa bỏ” [16,123].
36 Phan Khôi kể câu chuyện có thật về vợ chồng anh Trần Hòa ở Trung Hoa: “không chăn gối cũng vợ chồng”. Anh Hòa là người Hoa kiều, lấy chị vợ người Hoa này khi cả hai đang tuổi xuân xanh. Nhưng khi chưa kịp động phòng thì anh Hòa phải lên tàu về An Nam làm ăn. Anh lại cưới vợ An Nam và “đẻ con cái bộn bề”, trong khi chị vợ ở nhà không dám đi bước nữa, cắn răng chịu“chăn đơn gối chiếc, thiệt một đời xuân xanh”. Phan Khôi phẫn nộ cho tình cảnh của người
50
dây oan nghiệt của việc thủ tiết - điều mà các nhà cựu học bấy giờ đều né tránh36. Phan Khôi bình luận: “Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái
luật cấm cải giá mà ra, vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hóa chứ có bổ ích gì
đâu? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi, từ rày về sau, trong óc chúng ta,
cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa” [PNTV, s95,
13/8/1931].
Không chỉ phê phán việc cấm đàn bà góa cải giá, Phan Khôi còn
nguyền rủa, xỉ vả sự phản nhân văn, man rợ, thoái hóa của luật bắt tuẫn tiết
Coi hai việc trên nầy thì biết cái luật buộc đàn bà thủ tiết là do lòng ích kỷ
của đàn ông, và bởi đó làm cho cái mạng người đàn bà khinh rẻ không ra
chi. Vả, như Phan Nguyên Thiệu và Mã Sĩ Anh kia, mình không chết vì
nước, sao lại bắt hầu vợ phải chết vì chồng? Mình còn muốn thoát thân đi
trốn, sao không cho vợ trốn theo mà lại bắt phải chết? Tâm địa của bọn
đàn ông như vậy, thật là chó má không còn chỗ nói ; nhưng có phải tự họ
làm được sự nhẫn tâm vô đạo ấy đâu, nó là do cái thuyết thủ tiết của Tống
Nho mà ra vậy. Ấy, chuộng trinh chuộng về tiết, thì chẳng những giam
đàn bà vào trong cái cảnh điu đứng đắng cay và thấp hèn, mà lại còn sanh
ra cái tệ khinh rẻ mạng người là như thế nữa. Song, lũ đờn ông ấy họ coi
đàn bà như đồ bỏ, chết mấy cũng thây kệ!
theo chồng mà Tống Nho khởi xướng:
Nhận xét một cô gái vì chữ tiết trinh mà khi nghe tin chồng chưa cưới
chết cũng phải tự tử theo, Phan Khôi cho rằng, cô gái ấy không phải vì quá
yêu thương chồng chưa cưới mà chỉ vì nghĩ rằng: Dẫu có sống cũng chẳng
lấy được chồng, thà chết đi thì lại được tiếng tiết liệt để đời. Theo ông, cái
chết đó là cái chết “vì luân lý bó buộc mà chết”, một cái chết ngu dại và vô
ích. Phan Khôi dũng cảm nhìn thẳng, vạch trần bản chất chế độ Nho giáo
nam quyền trong việc “cấp biển vàng, sinh biểu cho những người nào ở góa
trọn đời hay là tự chết theo chồng”: “Những cái ân điển ấy thường tình lấy
51
làm vinh hạnh lắm, song nghĩ kĩ ra, chẳng qua là cái biểu hiện tham lam ích vợ, chồng trở về, chị rụng răng tóc bạc mà vẫn là con gái: “Vợ chồng mà không chăn gối, thôi còn vợ chồng làm quái gì!... Lễ pháp với giáo hóa! Đồ sát nhơn! Đồ ăn thịt người!” [Trung lập s6501, 30/7/1931]
kỷ của đàn ông và cũng là cái xiềng để trói đàn bà lại”. [PNTV, s2,
19/9/1929]. Có thể thấy, trong khi phân tích mạch lạc từ nguồn gốc, bản
chất, và việc lạm dụng “chữ trinh”, Phan Khôi - ở góc độ một nhà tư tưởng
canh tân - đã bộc lộ một lập trường riêng rất tiến bộ, nhân văn và công bằng
với phụ nữ.
Trong các bài báo, hàng loạt những đối sánh, phản biện được Phan
Khôi đưa ra nhằm nổi rõ sự ràng buộc đơn phương bất công, cực đoan mà
phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu: “Làm sao không buộc đàn ông
phải trinh mà chỉ nội đàn bà thôi?” hay: “đã cho phép chắp nối thì định cho
đàn bà, đàn ông chung một kỳ hạn mới phải, cớ sao đàn ông một năm mãn
khó được tục huyền, còn đàn bà thì phải thủ tiết đến ba năm?”, “đàn ông
chết vợ thi được lấy vợ khác, vậy thì đàn bà chết chồng đương nhiên cũng
phải được đi lấy chồng khác”. Sòng phẳng hơn là: “Đã cấm đàn bà cải giá
xin cũng cấm đàn ông tái thú luôn”… Đây là những phát ngôn đủ sức “gây
sốc” ở thời điểm đương thời ở một nhà cựu học như Phan Khôi, khiến ông
thậm chí bị coi là làm “bại hoại phong hóa” (Tản Đà).
Như vậy, có thể nhận thấy Phan Khôi rất quan tâm đến nội dung giải
phóng phụ nữ khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến qua việc phê
phán những nguyên tắc đạo đức Nho giáo như quan niệm về trinh tiết, luật
tam tòng, vấn đề hôn nhân và chế độ đại gia đình. Ông bênh vực quyền của
phụ nữ trên khía cạnh đạo đức từ việc thức nhận không thể giải quyết vấn đề
phụ nữ bằng luật pháp trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa. Về sau, những
vấn đề này đã trở thành chủ đề chính trong các tác phẩm của TLVĐ.
2.1.3. Phụ nữ trong môi trường xã hội
2.1.3.1. Phụ nữ với giáo dục
Giáo dục phụ nữ là một mục tiêu của phong trào nữ quyền tư sản
52
trong thời kỳ đầu, được các quan chức, các học giả, các nhà cách mạng bàn
luận sôi nổi. Đa số ý kiến đều khẳng định tầm quan trọng của nữ học. Việc
đi học không thể chỉ là đặc quyền của riêng nam giới và lời nguyền “nữ nhi
nan hóa” cần được xóa bỏ.
Qua các bài báo37, Phan Khôi cũng đã làm rõ luận điểm: mọi sự bất
bình đẳng giới trong xã hội đều xuất phát từ quyền được đi học hay không -
tứ c quyền có tri thứ c - của người phụ nữ. Ông lật tẩy thủ đoạn tinh vi của xã
hội Nho giáo nam quyền: “Đại để ở dưới cái chế độ xã hội này, hễ là dân và
đàn bà thì phải chịu khổ. Dân bị kẻ cầm quyền áp chế, đàn bà bị đàn ông áp
chế. Kẻ cầm quyền làm cho dân ngu đi, đặng để đè ép, cũng như đàn ông
làm cho đàn bà ngu đi đặng dễ sai khiến” [PNTV, s3,16/5/1929]. Cũng do đó
mà tồn tại một thực trạng bao đời nay là: “cách giáo nữ của người mình dễ
dàng lắm, sơ sài lắm, chỉ dạy phải chìu họ mạc, làm đầy tớ cho chồng. Ngoài
ra, tri thức của một con người nên mở mang đến đâu, nhân cách của một con
người ở đời phải thế nào, thì không hề dạy đến”38. Từ những lập luận rất sắc
bén như vâ ̣y, ông đòi hỏi quyền lợi cho phụ nữ: “Sự học để nuôi trí khôn, nó
cần cho người ta cũng như là sự ăn để nuôi xác thịt. Đàn ông biết nuôi trí
khôn mình, mà không cho đàn bà cũng nuôi trí khôn, thì khác nào như cấm
họ ăn để nuôi xác thịt? Như vậy có thể nào được đâu” [PNTV, s1, 2/5/1929].
Và mục đích của sự giáo dục phụ nữ cũng cần phải nhận thức lại với phạm
vi bao quát “học để làm người”, chứ không phải “học chỉ để làm lương thê
hiền mẫu”. Nói cách khác, Phan Khôi đã mở rộng nữ học từ đức dục sang cả
37 “Cái vấn đề nữ lưu giáo dục” [PVTV, s7, 13/6/1929]; “Tư cách phụ nữ xưa nay khác nhau: Làm vợ làm mẹ với làm người” [PNTĐ, s2, 24/9/1933]; “Phụ nữ Hà Nội với sự xướng lập: Nữ lưu học hội ở Sài Gòn” [PNTĐ, s10, 19/11/1933]; “Sách giáo khoa cho nữ sinh”[PNTĐ, s21, 4/2/1934] 38 “Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta”, đã dẫn.
53
trí dục.
Đi vào việc giáo dục như thế nào, Phan Khôi quan tâm đến những khía
cạnh cụ thể như: Lập các hội nữ học [PNTĐ, s10, 19/11/1933]; cho nam nữ
Về các môn khoa học, như toán, vật lý, lịch sử v.v… đành không có sách
riêng được. Bởi đã muốn cho gái và trai đồng có một cái tri thức ngang
nhau thì phải học một thứ sách như nhau. Tưởng nên làm thêm sách “Nữ
tử quốc văn giáo khoa” để dạy trong các trường nữ học. Trong cách sách
ấy phải lấy con gái làm chủ vị. Phải cho cái nhân cách của con gái hiển
hiện ra ở trong cách sách ấy. Rồi thì “Luân lý giáo khoa thư” nữa, cho con
gái, cũng phải có sách riêng.
sinh học chung; hay nếu vẫn phải học riêng, thì nên có sách riêng:
Sâu sát hơn, một số biện pháp cần kíp cho vấn đề nữ học cũng được
1. Các ông đại biểu vận động sao cho chánh phủ lập trường con gái khắp
nơi, cho có đủ thầy giáo tài năng và nhứt là chương trình giáo huấn cho có
chủ nghĩa chánh đáng.
2. Các nhà trí thức thì lập nên những trường tiểu học, trung học và cao
đẳng, dạy bằng chữ quốc ngữ cả; từ lớp trung học thì dạy chữ Pháp theo
cách dạy tiếng ngoại ngữ.
3. Các bà từ thiện và có hằng sản lập ra những lớp học cho người lớn, để
cho đàn bà ta có chồng con rồi cũng có thể nhân vài giờ mỗi ngày đến đó
mà học tập.
4. Nhà nhiệt thành về sự công ích hợp một hội đồng làm sách nữ tử giáo khoa
thơ, lựa toàn người hay; sách làm phát cho không, hay là bán thật rẻ.
[PNTĐ, s21, 4/2/1934]
ông đề xuất như:
Một khía cạnh rất đáng kể là trong khi hô hào phụ nữ hãy xóa bỏ tự ti,
39 “Về văn học của phụ nữ Việt Nam “[PNTV, s1, 2/5/1929]; “Văn học với nữ tánh”[PNTV, s2, 9/5/1929]; “Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thạnh” [PNTV, s3, 16/5/1929]; “Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh” [PNTV, s6, 6/6/1929]; “Số các nhà nữ tác giả bên Tàu trong khoảng ba trăm năm nay” [PNTV, s160, 21/7/1932].
54
thoát khỏi góc bếp tối tăm, chủ động đến với học vấn, Phan Khôi chú trọng vào việc xây dựng nền văn học nữ lưu39: khẳng định trách nhiệm, đánh giá
cao khả năng, tiềm năng của phụ nữ với văn học: “Theo trình độ tiến hóa của
loài người ngày nay, thì về phe phụ nữ ta cũng phải có một nền văn học”.
Trước hết, Phan Khôi luận giải về mối quan hệ giữa người phụ nữ và
văn học trên hai điểm chính: Thứ nhất, phụ nữ là biểu tượng cho cái đẹp còn
văn học cũng như các loại hình nghệ thuật nói chung luôn có thiên hướng
mỹ cảm; thứ hai, đặc trưng của nữ giới là yếu mềm, nhạy cảm, nội tâm - gần
với thuộc tính của văn học nên người phụ nữ sẽ dễ dàng chiếm lĩnh thế giới
văn chương hơn đàn ông.
Dựa trên những suy luận này, tác giả nhấn mạnh vai trò người phụ nữ
trong văn học, khẳng định vị thế của họ trong sáng tác văn chương và dự
cảm và tin tưởng rằng văn học nữ sẽ tạo dựng nên một thời đại riêng, vững
chãi, dày dặn, có giá trị. Phụ nữ sẽ trở thành chủ thể trung tâm chứ không
chỉ là đối tượng trung tâm của sáng tác văn học. Những quan điểm trên đã
tạo nên cuộc tranh luận với Thế Phụng, một ngòi bút của báo Công Luận (sẽ
đề cập ở phần sau).
Bên cạnh văn chương, Phan Khôi còn đề xuất: “Đàn bà nên học
thuốc”. Trước thực tế “nước ta chưa có một người đàn bà nào làm thầy thuốc
hết”, ông quả quyết: “chức quan thầy thuốc, giá được phần nhiều đàn bà
làm, sẽ xứng đáng hơn, tốt hơn phần nhiều đàn ông làm » [PNTĐ; s9;
12/11/1933]. Trên cơ sở quan trọng nhất là: “về thông minh tài lực thì người
ta đã nghiệm thấy rồi: sự đó, hai bên nam nữ cân nhau, không thành ra vấn
đề », ông lí giải sự phù hợp hơn ấy trên mấy điểm chính: tính cách đàn bà
thường trầm tĩnh, nhẫn nại, nhất là hay chịu khó, đối lập với thô bạo, nóng
nảy, chóng chán của đàn ông ; Đàn bà làm thầy thuốc sẽ tiện chữa bệnh cho
đàn bà và trẻ con do quen thuộc với sinh lý, tâm lý phái âm và cũng gần với
trẻ con hơn đàn ông ; và nếu về khoa hộ sinh, với « cái bàn tay búp măng
55
múp míp, đã nhỏ mà lại mềm » thì đàn bà săn sóc cho nhau lại càng tiện. Từ
những lí do đó, Phan Khôi khuyến khích phụ nữ tự tin vào năng lực của giới
mình và rèn luyện sức khỏe tốt để học trường Thuốc.
Có thể thấy, vấn đề phụ nữ với giáo dục được Phan Khôi bàn luận khá
chỉnh chu, chi tiết. Nhận thức và định hướng của ông mang tính canh tân,
tích cực, so với những trí thức như Nguyễn Bá Học, Phạm Quỳnh tuy ủng hộ
nữ học, nhưng lại muốn bảo lưu những giá trị đạo đức phong kiến vẫn còn
hợp lí. “Cái lõi” vẫn là giáo dục phụ nữ trong vị thế phụ thuộc vào nam giới
với mục đích cuối cùng là để họ làm tốt hơn bổn phận trong gia đình: thờ
chồng, dạy con. Phan Khôi, đứng trên tư tưởng nhân quyền định hướng mục
đích giáo nữ hoàn toàn tương đồng với nam giới: Học để phát triển nhân
cách và có mặt trong xã hội, đóng vai trò của mình trong xã hội. Do đó, ông
đề cập đến nền tân học đúng nghĩa cho người phụ nữ với một chương trình
giáo dục toàn diện. Ngoài ra, tập trung phát triển những lĩnh vực mà phụ nữ
có tiềm năng hơn đàn ông như: Văn học, y học.
2.1.3.2. Phụ nữ vớ i chức nghiệp
Đương thời, nhiều bài báo đặt vấn đề nghề nghiệp cho phụ nữ40. Các
bài báo về vấn đề phụ nữ chức nghiệp dễ gây nhận thức sai lệch rằng phụ nữ
mất bình đẳng chính là vì không có việc làm, hoặc những người phụ nữ tiêu
phí thời gian vào những việc vô bổ cũng không có việc làm. Chức nghiệp
được coi như cách giải phóng tốt nhất cho phụ nữ và sẽ giải quyết được tình
trạng bất bình đẳng về giới. Cho rằng những ý kiến này không phản ánh
đúng thực tế tình hình phụ nữ Việt Nam, Phan Khôi đã chỉ ra “có nhiều
người chú ý đến vấn đề chức nghiệp của phụ nữ, nghĩa là bàn tính cách dạy
dỗ làm sao cho đàn bà có công việc làm để mà tự lập lấy thân” xuất phát từ
40 “Chị em ta nên học những nghề nghiệp để mưu tự lập lấy thân” [PNTV, 4/7/1929]; “Nghĩa vụ của chị em là phải lo cho có nghề nghiệp” [PNTV, 20/3/1930]; “Chị em ta đừng ăn bám chồng con nữa” [PNTV, 7/8/1930]; “Cái hại ăn rưng ngồi rồi của chị em ta” [PNTV, 5/11/1931]
56
thực trạng một bộ phận phụ nữ ở thành phố vô nghiệp, “ăn không ngồi rồi”,
và một bộ phận phụ nữ ở quê - “hạng chăm làm ăn hơn hết” lại bị “tư bổn và
cơ khí cướp hết những việc quen làm”. Phan Khôi muốn “nói cho rõ ra rằng
đàn bà ta không phải là không có nghề làm ăn đâu, mà xưa nay trong trường
sanh hoạt của xã hội ta, họ vẫn gánh một phần việc lớn lao chẳng kém gì đàn ông vậy”41. Ông khẳng định, ở một dân tộc “chuyên về nghề nông”, phụ nữ
nghèo tham gia lao động cật lực để nuôi sống gia đình và bản thân. Đó chính
là chức nghiệp của họ (như đã đề cập ở phần trên).
Như vậy, Phan Khôi ủng hộ quan niệm phụ nữ cần có nghề nghiệp để tự
lập, giành bình quyền với nam giới, tham gia sản xuất của cải cho xã hội,
nhưng lưu ý vấn đề chức nghiệp chỉ hướng tới giải phóng tầng lớp phụ nữ tiểu
tư sản khỏi vòng gia đình. Ý kiến này của Phan Khôi nhận được sự ủng hộ của
Phan Văn Hùm: « Cần phải giải phóng những phụ nữ nghèo, những phụ nữ
đang phải bán công nuôi miệng một cách cực khổ… Hạng này là hạng chiếm
đại đa số trong xã hội mà chức nghiệp không làm sao giải phóng cho họ được »
[« Phụ nữ chức nghiệp », PNTV, 6/9/1934].
2.1.3.3. Phụ nữ với quốc sự
Tuy nhận thấy sự bất bình đẳng về mặt chính trị là một bất công tồn
tại lâu đời trong xã hội ta: “Đàn bà dầu có tài trí khôn ngoan mà muốn lo đến
việc nước nữa cũng chẳng ai cho lo, muốn dự đến quốc sự cũng chẳng ai cho dự” như nhiều tác giả đương thời42 nhưng Phan Khôi lại trực tiếp nêu ra
quan điểm: “Đàn bà Việt Nam ta bây giờ không nên làm quốc sự, nói cho rõ
41 “Ý kiến của chúng tôi đối với thời sự” [PNTV, s6; 6/6/1929].
42 “Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta” (PNTV 1929) 43 Phan Khôi đã đề cập đến vấn đề này liên tục trong ba số báo của PNTV: “Đàn bà cũng nên làm quốc sự” [s2, 9/5/1929]; “Cái chức vụ của phụ nữ trong các kỳ tuyển cử” [s4, 23/5/1929]; “Đàn bà với quốc sự” [s5, 30/5/1929].
57
hơn, là không nên làm quốc sự có ý nghĩa về chánh trị, thứ nhứt là cái chánh trị ở trong tình cảnh ta ngày nay”43. Hai lí do được chỉ ra: Thứ nhất: Sự bất
bình đẳng về giáo dục và huấn luyện về mặt chính trị của nam nữ; thứ hai:
việc làm quốc sự “không hạp với địa vị hiện tại của người đàn bà ở nước ta
chút nào”. Phan Khôi cho rằng, khi không có quyền ứng cử và tuyển cử, thì
“chức vụ” họ cần thực thi là khuyên nhủ người đàn ông “đi vào con đường
thẳng”, tránh tiêu cực. Không nhất thiết phải xông pha nơi hàng ngũ, mà
gián tiếp trong “buồng the trướng gấm”: “chị em ta ở trong gia đình mà biết
lo cái thiên chức của mình để khích động nhơn tài như vậy, thì chẳng làm
quốc sự, mà kỳ thiệt là làm quốc sự có ý nghĩa sâu xa và cao thượng lắm”
[PNTV, s5, 30/5/1929].
Từ việc nhận thức: trong khuôn khổ của chế độ thuộc địa và thực tế
của xã hội Việt Nam đương thời, cuộc vận động nữ quyền với những yêu
cầu về chính trị là ảo tưởng, Phan Khôi không quyết liệt trên phương diện
44 Trong một số bài giới thiệu về phong trào phụ nữ trên thế giới “Đàn bà mới của một nước mới Thổ Nhĩ Kỳ”[PNTV, s51(8/5/1930), s52 (15.5.1930)]; “Cuộc phụ nữ vận động ở nước Triều Tiên” [PNTV, s138 (6/6/1932); s144 (16/6/1932)], “Câu chuyện thú trong nghị viện có đàn bà” [PNTV, s161, 28/7/1932], Phan Khôi đã gián tiếp bộc lộ sự ủng hộ quyền lợi chính trị của phụ nữ và cổ xúy tinh thần đấu tranh của nữ giới, chẳng hạn: “Cũng như ở xứ Việt Nam ta, đã mười mấy thế kỷ, phụ nữ Triều Tiên ở dưới quyền áp chế, mà một mai họ đứng lên, vùng dậy, đi ra, bước lên võ đài chính trị và xã hội như thế, thật là đã tấn bộ hơn nữ giới ta nhiều lắm” [PNTV, S144, 16/6/1932].
45 “Một ngày kia đàn bà họ được quyền tham chánh, rồi họ lấy số đông họ đè lên đàn ông như hiện trạng ở các nước bên Âu - Mỹ đó, chừng đó rồi có sức mà bắt lỗi họ!” [Trung lập, s6724, 9/5/1932]. 46 Ngay trên số đấu tiên của PNTV, Phan Khôi đã mở ra cuộc trưng cầu ý kiến các danh nhân trong nước đối với vấn đề phụ nữ, và nhận được sự tham gia, hưởng ứng của hầu hết những người có tên tuổi trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Qua đó, có thể hình dung quan điểm và nhận thức của các nhóm trí thức thuộc nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau đối với vấn đề phụ nữ trong xã hội hiện đại.
58
phụ nữ với quốc sự. Điều này không có nghĩa là ông không ủng hộ quyền lợi chính trị của phụ nữ Viê ̣t Nam 44 và không nhìn thấy khả năng của họ45. Vì vâ ̣y, vào năm 1932, tổng kết cuộc trưng cầu ý kiến trên PNTV46, Phan Khôi
đã khẳng định: “Tình thế phụ nữ ở trong nước ta ngày nay quyết không phải
như hồi trước, lấy khuê môn làm cửa ngục cho đàn bà mà ghánh vác non
sông không phải là phần việc của con gái”.
2.1.3.4. Một số vấn đề văn hóa xã hội
Phụ nữ với việc diễn thuyết
Từ việc khẳng định khả năng tri thức của phụ nữ đương thời, Phan
Khôi khuyến khích hoạt động diễn thuyết trong nữ giới. Trong bài viết “Đàn
bà con gái có nên ra giữa đám đô hội mà diễn thuyết chăng ?” [ĐPTB, s735,
Hiện mấy năm nay con gái nước ta mà nhứt là ở Nam Kỳ, đã có nhiều người có
học thức chẳng kém gì trai. Nếu đã có học thức mà lại có ý kiến gì hay, thì tức
cũng có quyền đến giữa công chúng mà phô bày ý kiến của mình như trai vậy.
23/6/1928], ông đã thể hiện quan điểm về việc này:
Phan Khôi nhấn mạnh: “nếu đã có quyền thì tất cũng phải có phận sự
như đàn ông con trai”, phụ nữ nên tự viết bài diễn thuyết và bộc lộ quan
điểm cá nhân, chứ không phải “cậy người đàn ông viết giùm”, và tốt hơn hết
là diến thuyết về chính vấn đề của nữ giới… Hay trong bài Nữ diễn giả
trong Nam [PNTĐ, s7, 29/10/1933], ông nhắn nhủ những chị em chưa tự tin
vào mình thì nên tích cực đến dự thính các cuộc diễn thuyết của người khác,
“để trong đám nữ lưu, ngày càng có những tay diễn giả xuất sắc”.
Phụ nữ với thể thao
Trong bài Phụ nữ thể thao [PNTĐ, s15, 24/12/1933], qua việc phản
đối ý kiến của bạn đọc cho rằng «việc ham mê thể thao là một phong thượng
kỳ quặc của Tây, Tây quá, không thích hợp với phụ nữ Việt Nam ta; phụ nữ
ta dù cho đến bao lâu nữa cũng không có thể có được cái tập tục mê thể thao
Người ta, bất kỳ nam nữ, phải nhờ có vận động thì con người mới nở nang,
chặt chịa, và mới vui vẻ mà sống…Phụ nữ ta hiện giờ còn lãnh đạm với thể
thao là vì thấy chưa cần lắm, mà cũng có một phần ở tại tri thức chưa được
59
đến như thế », Phan Khôi đã ủng hộ hoạt động thể thao cho giới nữ:
mở mang và sinh kế chưa được dư dụ. Chứ mai sau, có một ngày, tri thức
mở mang, biết sinh lý người ta là quan hệ, sinh kế dư dụ, có thì giờ để
luyện tập, lại gia dĩ máy móc thêm nhiều ra, ít có dịp cất nhắc đến chân tay,
thì ngày ấy, đàn bà con gái ta cũng phải chuộng thể thao như họ và chẳng
còn ai lấy làm lạ hết.
Khi nhiều tờ báo ở Hà Thành đồng loạt lên án hiện tượng khiêu vũ do
e ngại việc nam nữ gần gũi gây phản cảm, Phan Khôi đã nói rõ Vì sao chúng
tôi không bài trừ cái dịch khiêu vũ?: “Chúng tôi thấy khiêu vũ là một môn
thể thao, một môn mỹ thuật, lấy cái đẹp cái vui mà đào dưỡng tánh tình người ta, chẳng có gì hại đến phong hóa hết”47. Ông tẩy chay quan niệm
“nam nữ thụ thụ bất thân”, cổ vũ phụ nữ thoải mái, cởi mở với việc khiêu vũ
- một hình thức giao tiếp xã hội.
Có thể thấy, Phan Khôi muốn hướng giới nữ tới một đời sống văn hóa
lành mạnh, giúp họ trân trọng giá trị của bản thân hơn. Việc khuyến khích
những hoạt động thể thao, khiêu vũ - vốn mới mẻ đối với đời sống văn hóa
xã hội đương thời đã cho thấy sự cấp tiến, văn minh của Phan Khôi. Ông
luôn thức thời với những dấu hiệu Âu hóa trong đời sống xã hội.
Phục trang cho phụ nữ
Vốn là một học giả có tư tưởng cải cách toàn diện, triệt để, Phan Khôi
không chỉ muốn giải phóng phụ nữ trên phương diện đạo đức hay học thức
mà ông còn quan tâm đến những chuyện thuộc về hình thức của họ. Trong
bài báo Vấn đề cải cách cho phụ nữ [PNTV, s118, 28/1/1932], ông bàn đến
việc cải cách ăn mặc, phục trang cho phụ nữ. Từ việc một người phụ nữ viết
thư gửi đến tòa soạn búc xúc vì thiết kế của đôi giày nữ gây nhiều phiền hà,
Phan Khôi thể hiện sự đồng tình “đôi giày của đàn bà An Nam hễ là bất tiện
cho họ thì phải sửa đổi”, bởi lẽ “ngày nay phụ nữ không chỉ ở trong khuê các
47 “Vì sao chúng tôi không bài trừ cái dịch khiêu vũ” [PNTĐ, s14, 17/12/1933].
60
nữa, họ phải ra ghánh vác công việc xã hội, phải chen vào đám đông”. Phan
Khôi phản đối một số ý kiến bảo thủ, máy móc như: “muốn cho phụ nữ ta
cũng có học thức, tài nghề như phụ nữ nước người, chớ còn sự ăn mặc, sự
trang sức miễn thế nào xong thì thôi, không cần phải cải cách những cái đó
làm chi” hay “lo chải chuốt cái mã cho xinh, đồ trang sức cho mình cho đẹp
thì có làm gì!”
Theo ông, đó là tư duy của các nhà đạo đức cũ “muốn cho người ta có
cái hồn của thế kỷ hai mươi, nhưng cái xác thì cứ giữ của thế kỷ mười chín
về trước” [PNTV, s118, 28/1/1932]. Ông chủ trương phải cải cách từ những
vấn đề hình thức nhỏ nhất để đáp ứng cả hai yêu cầu tiện lợi và thẩm mỹ cho
phụ nữ, khiến họ tự tin bước ra giao tiếp xã hội. Đó là một quan niệm rất văn
minh dành cho nữ giới trong giai đoạn hiện đại hóa.
2.2. Những tương tác và tranh luận của Phan Khôi với học giả đương
thời về vấn đề phụ nữ
Là một nhà báo nổi bật về phong cách luận chiến , Phan Khôi đã từ ng tham gia vào nhiều cuô ̣c tranh luâ ̣n đương thờ i : Tranh luâ ̣n vớ i Pha ̣m Quỳnh về Truyê ̣n Kiều (1930), tranh luâ ̣n về quốc ho ̣c (1931), tranh luâ ̣n thơ cũ thơ
mớ i (1932), tranh luâ ̣n Duy vâ ̣t và Duy tâm (1933-1936). Vớ i vấn đề phu ̣ nữ,
các bài báo của ông cũng, hoă ̣c khơi ngòi cho mô ̣t tranh luâ ̣n, hoă ̣c nhân mô ̣t tranh luâ ̣n đang diễn ra mà «góp bàn» thêm . Nói cách khác, xung quanh vấn đề phụ nữ, Phan Khôi đã có những tương tác, đối thoại với các học giả cũng
như độc giả đương thời trên diễn đàn báo chí. Có thể các cuộc tranh luận đó
do Phan Khôi khởi xướng, hoặc là phản ứng của Phan Khôi với quan điểm
của các tác giả khác. Qua những cuộc bút chiến càng thấy rõ hơn tính quyết
liệt, triệt để trong chủ trương giải phóng phụ nữ của Phan Khôi. Bao giờ ông
cũng lập luận sắc bén và có thái độ rất rạch ròi về vấn đề đang tranh luận.
61
Dưới đây chúng tôi trình bày một số cuộc tranh luận chính:
2.2.1. Tranh luận về bình quyền nam nữ
Cuộc tranh luận về việc “Thân oan cho Võ Hậu” với Nguyễn Hoàng Cảnh
Như đã đề cập, trên PNTV [s53, 22/5/1930; s55, 5/6/1930], Phan Khôi
bàn về chuyện cần đánh giá một cách khách quan, công tâm về Võ Tắc
Thiên, xóa định kiến coi bà như là “một con dâm phụ nhứt thiên hạ”. Ông
cho rằng nguyên nhân sâu xa khiến Võ Hậu mang ô danh chỉ bởi bà đã làm
trái cái lễ chế của thánh hiền đặt ra :“đàn bà không được dự việc ngoài”. Đàn
bà làm vua, cầm quyền hành chính trị trong tay, khiến bọn đàn ông phải cúi
đầu nên mới vu hãm, nói xấu, biến vị nữ hoàng ấy thành một người có tội
trong lịch sử. Qua việc khảo cứu lịch sử, Phan Khôi ngợi ca bà “là một
người đàn bà kỳ kiệt ở trong lịch sử loài người” bởi ba điểm:
. Thứ
Thứ nhất, Võ Hậu là một vị hoàng đế anh minh48. Thứ hai, Võ Hậu là
. Phan Khôi đề cao
nhà chánh trị đại tài (nếu nhìn nhận tách bạch với khía cạnh đạo đức)49 ba, Võ Hậu là “một tay vận động nữ quyền kịch liệt”50
công lao này của bà: “Võ Hậu có ý nhắc cái địa vị đàn bà lên một bậc để cho
họ mở mày mở mặt giữa loài người, kẻo xưa nay bị đàn ông giày vò luôn,
48 Sử sách đã ghi lại những động thái sáng suốt tiến bộ vượt bậc của bà so với các triều đại trước: ban hành phép “điện thí”, (bắt cử tử vào ứng thí trong đền vua một ngày), tránh được sự gian dối trong khoa cử trước đó; phế trừ phép “ngự sử giám quân” ,dùng văn thần coi việc binh thay cho võ tướng, tránh được cái hoạ võ tướng chuyên quyền; và những hành động thể hiện sự độ lượng, biết người, công tâm được hiền tài qui phục… 49 Bà khéo léo đi từng bước một đến chính sách độc tài- biện pháp của những nhà chánh trị ghê gớm đời bấy giờ; dùng phép “cáo mật” và những hình pháp nghiêm ngặt để trừng trị kẻ phản đối, sau khi thiên hạ khiếp phục thì bãi bỏ những hình pháp ấy.
50 Chẳng hạn, bà đãi đọa, trọng thị vợ quan ở quê nhà, phong chức Quận quân cho phụ nữ từ 80 tuổi trở lên; giành quyền chủ tế và cho một bà quý tộc nữa đứng dâng tuần rượu khi cử hành lễ phong thiện - công việc xưa nay vốn thuộc về đàn ông; là người đàn bà đầu tiên mở cuộc đại yến- việc chưa có tiền lệ trong sử Tàu; cử hành đại lễ tế Tây Lăng nguyên phi (người bày ra nghề tằm tơ ) hai lần, làm cho người ta sanh cái lòng tồn trọng, sùng bái đàn bà; cho soạn và sách Liệt nữ truyện, Cổ kim nội phạm ca ngợi tài đức của phụ nữ; hạ lệnh sửa cổ lễ “cha còn thì để tang cho mẹ có một năm” thành ba năm…
62
mất cả tư cách”.
Tiếp đó, Phan Khôi đưa ra lời biện hộ để phủ nhận hai “danh từ sỉ
nhục” mà các nhà bàn sử qui kết cho Võ Hậu: tàn ác và dâm uế.
Về chuyện tàn ác, thì cái tàn ác của Võ Hậu là một sự bất đắc dĩ, cũng
như trong các cuộc cách mạng khác, không thế tránh được chuyện chém
giết. Đó là một cái công lệ của lịch sử xưa nay. Không có thủ đoạn tàn nhẫn
ấy thì khó trị an trong nước được. Nhất là với cuộc cách mạng đặc biệt như
của Võ Hậu, “đàn bà tranh với đàn ông”, lại càng không thể khoan nhượng.
Còn về sự dâm uế của Võ Hậu, Phan Khôi cho rằng không nên nói tới, bởi
đó là “chuyện kín trong buồng người ta”. Và bởi là chuyện kín, nên càng
không có cơ sở để kết luận. Nếu có thật, “thì cũng chỉ là chuyện riêng của
đàn bà, người quân tử nếu biết tự trọng thì đừng nói tới”. Sòng phẳng hơn,
đặt “bà vua Võ Hậu” với “các ông vua khác” trong cán cân đối trọng, Phan
Khôi nhìn nhận chuyện “dâm uế” của bà “là chuyện thường”. Võ Hậu có
quyền chọn cung nhân bằng đàn ông để mua vui như các ông vua nhốt trong
cung mấy ngàn đàn bà. Nếu “đã trách thì nên trách hết thảy”. Phan Khôi
cũng không loại trừ khả năng Võ Hậu “trả cái thù đàn ông bao lâu tệ bạc với
phụ nữ” bằng việc bắt người nam tử đánh phấn, mặc áo lông, cỡi hạc, làm
trò đùa. Cuối cùng, ông nhắn nhủ dư luận xóa bỏ thiên kiến coi Võ Hậu là
tội nhân.
Sau lời tuyên cáo trắng án cho Võ Hậu đó, Nguyễn Hoàng Cảnh đã
chất vấn Phan Khôi trên PNTV số 58. Nguyễn Hoàng Cảnh do nhầm lẫn đã
bắt bẻ Phan Khôi khi tôn Võ Hậu là “ông thánh” nếu là đàn ông. Phan Khôi
đáp lại, chữ ông dùng là “ông vua thánh”, hoàn toàn đúng nghĩa. Thứ hai,
ông Cảnh phê Phan Khôi việc khen ngợi thủ đoạn “soán đoạt chức vị của
người” của Võ Hậu, Phan Khôi cũng đính chính lại rằng mình “không tỏ ý
khen hay chê”. Việc Võ Hậu dùng thủ đoạn để cầm quyền là chuyện Phan
63
Khôi không bàn đến.
Tiếp đó, Nguyễn Hoàng Cảnh phản đối việc Phan Khôi bao biện
chuyện có cung nhân đàn ông của Võ Hậu là bình thường: “Phần nhiều đàn
ông nước ta vẫn còn tánh hủ lậu, giữ câu trai năm thê bảy thiếp, gái chính
chuyên một chồng. Nếu phụ nữ mà thiệt hành cái ý tưởng của tiên sanh, thì e
không khỏi gia đình tan nát”. Phan Khôi cho rằng ý kiến của ông Cảnh đã
quá thiên tư, đứng trên lập trường bảo vệ cho sự chuyên chế, hủ lậu của đàn
ông, nhưng lại “chỉ muốn nhốt một mình đàn bà vào trong rọ”. Chính bởi
vậy, sẽ không đánh giá công tâm được về Võ Hậu. Phan Khôi nhấn mạnh tâm
thế khách quan của ông khi đưa ra cái nhìn toàn diện về người phụ nữ này:
“tôi chỉ thấy loài người mà thôi, chớ tôi chẳng phân biệt đàn ông với đàn bà;
trong óc tôi không có cái vết của những chữ “nam tôn nữ ty”, không có cái
lằn của những lời tục ngữ như là “thập nữ viết vô”; “phụ nhân nan hóa”, mà
nói cho đến cùng, tôi cũng quên đứt đi tôi là đàn ông hay đàn bà nữa, tôi chỉ biết tôi là một người trong loài người vậy”51. Phan Khôi tiếp tục phản
pháo lại bằng những lí lẽ rắn đe thường thấy trên lập trường yêu cầu bình
quyền trong vấn đề trinh tiết, mối quan hệ vợ chồng.
Ông thừa nhận một chỗ sai về cách diễn đạt mà ông Hoàng Cảnh chỉ ra
đó là không thể nói: “Các đế quốc đời nay đi chinh phục nước người, dời cái
chánh quyền ở tay nầy qua tay khác, không làm ngay một lần, vẫn theo cái
kiểu từng bước một của Võ hậu đó”. Phải sửa lại : “tức là cái kiểu từng bước
một của Võ Hậu đó”.
Sự trao đổi của Phan Khôi với Nguyễn Hoàng Cảnh cũng là để đáp lại
nhiều ý kiến gửi đến phản đối việc Phan Khôi chiêu tuyết cho Võ Hậu. Trước
sau, ông vẫn giữ lập trường, chấp nhận đứng về phía cái chưa (hoặc không)
51 “Trả lời mấy vị độc giả hỏi về bài “Thân oan cho Võ Hậu” [PNTV, s60, 10/7/1930]
64
được dư luận thừa nhận, vì nhận rõ bản chất của những thiên kiến ấy, như
ông nói: “ấy cho biết cái thói trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào trong máu
thịt xương tủy người mình”.
2.2.2. Tranh luận về phụ nữ trong gia đình
Cuộc tranh luận về việc cải giá của phụ nữ với Tản Đà
Thực chất cuộc tranh luận này nằm trong chủ đề lớn là luân lý, đạo đức của người Việt mà Phan Khôi khởi xướng52. Với bài báo Tống Nho với phụ
nữ, luận điểm Phan Khôi đưa ra nhằm chống lại sự khống chế của Tống Nho
đối với phụ nữ chủ yếu trên 2 điểm: vấn đề trinh tiết của nữ giới và sự thủ tiết
của người phụ nữ đối với chồng. Đó là hai điểm có tác động mạnh mẽ tới
quyền sống, quyền bình đẳng của người phụ nữ với nam giới.
Tản Đà nổi cơn thịnh nộ lên án Phan Khôi, coi chính phản ứng kể trên
của Phan Khôi là “vu hãm tiên hiền, loạn ngôn hoặc chúng, bại hoại phong
hóa” bằng những lời “tầm bậy”. Trong một loạt 4 bài với tiêu đề “Một cái tai
nạn lưu hành ở Nam Kỳ: Phan Khôi” đăng trên An Nam tạp chí các số 26, 29,
34, 37 (13/2/1932; 20/2/1932; 26/3/1932; 16/4/1932), ông đả kích Phan Khôi
gay gắt và đề nghị cho Phan Khôi một bản án “chịu ba trăm roi đòn, chia
đánh ở ba nơi: trước sân Văn miếu Thăng Long là nơi gốc văn vật của sự học
Nho của nước ta từ triều nhà Lý, ở Huế, là nơi thủ phủ xứ Trung Kỳ, ở
Quảng Nam, là nơi chốn của tội nhân sinh trưởng học tập”.
Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người đàn bà là “một phong tục cao
cả có từ đời Khổng Tử chứ đâu phải chỉ mới có từ đời Tống” như quan niệm
Cứ vậy ngẫm ra, tự thấy rằng một đạo trinh tiết của đàn bà Á đông, thực do
thượng cổ truyền lại, gốc ở một chữ trong kinh Dịch nẩy mầm ra, đời đời
52 Ngòi nổ đầu tiên là từ bài: Cái cười của con rồng cháu tiên của Phan Khôi trên PNTV số 84 (28/5/1931). Mượn chuyện đánh giá cuốn tiểu thuyết Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh đã khéo mô tả hết cái đê tiện, cái vô nhân đạo trong cái cười của người Việt Nam, Phan Khôi khuyến cáo người Việt đừng nên quá tự mãn với những danh hiệu “Con Rồng cháu Tiên; nghìn năm văn hiến” mà không chịu sửa mình. Tản Đà qui kết Phan Khôi mạ lỵ cả dân tộc, cả tổ tiên, giang sơn đất nước.
65
của Phan Khôi:
nối tiếp vun bồi, gây thành cái phong hoá tuyệt thanh quí trong nhân loại.
Nay Phan Khôi dám cho những sự đó là đàn bà chịu sự thiệt thòi, mà lại
qui cái ảnh hưởng trực tiếp là chịu của Tống Nho. Thực là loạn ngôn hoặc
chúng vậy.
[An Nam tạp chí, s34,26/4/1932].
Thêm một lí lẽ mà Tản Đà bác lại Phan Khôi là: Không có luật nào
cấm đàn bà góa cải giá, đó chỉ là sự tự nguyện của họ để chứng minh tấm
lòng của mình và duy trì một tập tính tốt cho phong hóa. Ở điểm này, Tản Đà
đã cố tình bỏ qua thực tế: chính định kiến khinh bỉ và rẻ rúng người cải giá là
tự cổ nhân nêu ra, rồi răn dạy người đời thủ tiết với chồng, cướp mất quyền
lợi của họ - đã tạo thành một sự đạo luật vô hình ám ảnh người phụ nữ. Đây
là điều mà Phan Khôi đã đề cập nhiều lần.
Nếu như Phan Khôi đánh giá quan niệm bảo thủ của các đại diện
Tống Nho Trung Hoa đối với vấn đề cải giá của phụ nữ bị chồng bỏ hoặc
góa chồng là “bất công, vô đạo, cướp mất quyền lợi của đàn bà mà không bổ
ích gì cho phong hóa” thì Tản Đà lại bảo vệ quy định “bất thành văn” đó,
Dẫu chưa hẳn như phụng hoàng, kỳ lân trong phi cầm tẩu thú, thời cũng là
hòn ngọc ở núi đá, hạt châu trong bể chai. Đời đời vua chúa, ơn ban tiết
hạnh khả phong cũng là vì vật quí của đời, đời nên biết quí vậy.
[An Nam tạp chí, s37, ngày 16/4/1932]
khẳng định một lần nữa giá trị của những tiết phụ xưa:
Những lập luận trên cho thấy, “cả mớ lễ giáo phong kiến tam tòng, tứ
đức cũ rích, đặc biệt màu phong kiến ngàn xưa vẫn trói buộc người phụ nữ
đã được Tản Đà coi như khuôn vàng thước ngọc cho phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ XX”53[48,335]. Điều này đi ngược lại chủ trương giải phóng giới nữ
53 Tản Đà vốn nặng lòng với Nho giáo. Ông tỏ ra quan ngại cho nền đạo đức cổ truyền trước ảnh hưởng của lối sinh hoạt tư sản thực dân và đồng thuận với xu hướng quy tất cả sự hư hỏng vào cái “khoa học kỹ thuật”, “văn minh phương Tây”, thiếu sự điều hòa, chỉnh lí của đạo đức phương
66
khỏi những quan niệm đạo đức, luân lí cũ mà Phan Khôi vẫn theo đuổi.
Trong cuộc “đụng độ tư tưởng” này, chỉ có Tản Đà đơn phương phản
bác, Phan Khôi không đáp lại Tản Đà54 .
Sự tranh luận về chuyện cải giá của phụ nữ thu hút sự quan tâm của
các học giả đương thời. Phan Khôi cũng nhận được một số ý kiến đồng tình.
Chất Hằng Dương Tự Quán đánh giá Phan Khôi có “cái tư tưởng khai phóng quá khích nhưng thực ra hợp lẽ phải”55. Tác giả Bắc Hà trên Công luận
[s2348, 29/4/1932] cũng thừa nhận phong tục thủ tiết trong xã hội Trung
Hoa và Việt Nam - một thứ luật không có văn bản minh bạch nhưng bất khả
Bởi Hán Nho và Tống Nho đã làm sai lạc bổn tướng của Khổng giáo, cho
nên Khổng giáo của Khổng Tử lưu tệ có ít, mà Khổng giáo của Hán Nho
và Tống Nho lưu tệ càng nhiều, như thuyết tam cương và câu "ngạ tử sự
tiểu, thất tiết sự đại" đó đều của Hán Nho và Tống Nho đặt ra, Khổng giáo
đâu có quá đáng thế!
kháng là phản nhân văn và đó là do Tống Nho đề xướng:
Tác giả Nguyễn Văn Huyên khi so sánh giữa tục kỳ thị sự cải giá ở
người Kinh với tục cải giá bình thường ở người Thổ Chiêm Hóa cũng đề cập
đến cuộc xung đột tư tưởng nói trên, với ý đánh giá quan niệm của Phan
Đông. Theo bài viết “Phong hóa của nhà nước hiện nay, tưởng ai nấy công nhận là suy đồi” [Hữu thanh, s12, 15/1/1922], Tản Đà khẳng định “thuốc bổ cứu chính là Khổng giáo, là cương thường Nho giáo chứ không có gì mới lạ hết”. 54 Chính trong lúc Tản Đà hăng hái buộc tội Phan Khôi, Nguyễn Tiến Lãng lên tiếng công kích Phan Khôi trong hai bài trên báo Trung Bắc, viết bằng tiếng Pháp, đề là Autour d‟une Polémique. Phan Khôi đáp lại bằng bài "Cái học vào lỗ tai ra lỗ miệng" trên Đông Tây số 160, ngày 6/4/32, trong đó Phan Khôi chê Nguyễn Tiến Lãng là dốt, dùng sai tiếng Pháp, không hiểu nghĩa chữ Polémique là gì cả. Nguyễn Tiến Lãng tiếp tục trên An Nam tạp chí số 38, 23/4/1932 với giọng điệu gay gắt, phũ phàng, khẳng định việc ủng hộ Tản Đà, tẩy chay Phan Khôi: “Huống chi bài trừ Phan Khôi tôi cần gì phải làm nữa, vì đã có ông Tản Đà… sau này mặc cho Khôi lớn tiếng xin, để xã hội nghe cáo trạng của thi sĩ Tản Đà mà cùng cười với tôi". Sau Nguyễn Tiến Lãng, đến lượt Vân Bằng lên tiếng chửi Phan Khôi trong bài Tôi thất vọng về Phan Khôi [An Nam tạp chí, s39, 30/4/1932], tố cáo Phan Khôi như là người hiếu chiến, gây gỗ với mọi người, lập dị muốn làm khác người ta. 55 “Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi ( Hay là một cái tỷ hiệu luận giữa Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu” [Văn học tạp chí s18, 1/6/1933]
67
Khôi là “chú trọng về nhân đạo, về cái đời thực tế”, và khẳng định
Nếu Tản Đà tiên sinh được mục kích những cảnh gia đình êm đẹp của
người đàn bà Thổ cải giá (hay tái giá), cái cảnh tượng yên vui của người
“chú dượng” gây dựng cho con riêng vợ, thờ phụng tổ tiên và trông nom
di sản cho người đã khuất, thời chẳng những tiên sinh không nỡ gọi ông
Phan Khôi là một cái “nạn” mà có lẽ Trang Tử tái sinh cũng không thổ lộ
được những giọng chua cay trong bài hát cổ bồn
[“Các giống người và chế độ thổ ty ở châu Chiêm Hóa”: IV. Ái tình và
hôn nhân cuả người Thổ; Đông Pháp, Hà Nội, 11 Janvier 1934].
Với Hoàng Tăng Bí: Phụ nữ làm công việc xã hội
2.2.3. Tranh luận về phụ nữ trong môi trường xã hội
Trên PNTĐ [s4, 8/10/1933], tác giả Hoàng Tăng Bí56 với bài báo
Thiên chức của đàn bà đã nêu quan điểm bảo vệ “chế độ gia tộc của ta”, duy
trì chức phận của đàn bà là chỉ trong phạm vi gia đình, tề gia nội trợ, nuôi
dạy con cái để người đàn ông gánh vác công việc xã hội.
Theo Hoàng Tăng Bí, từ xưa đến nay, «nhờ cái chế độ gia tộc, mà đã
sản xuất được biết bao nhiêu mẹ hiền vợ đảm, khiến cho chồng con được
yên vui, gia môn được hưng vượng. Đó cũng là cái trách nhiệm quý báu và
quan trọng của người đàn bà ở trong gia đình và đối với xã hội». Nhưng
trước những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, quan niệm nam nữ bình
quyền, người mình thấy choáng ngợp mà cho rằng hay, đua nhau bắt chước,
và tự phá đi những lễ giáo và tập tục bao đời. Phụ nữ cũng quên mất chức
phận trong gia đình, lao ra xã hội. Bởi lẽ đó, ông khẳng định: “người đàn bà
đi làm công việc ở bên ngoài đã trái hẳn cái lẽ tự nhiên của trời đất”, không
hoàn thành bổn phận đúng nghĩa của họ: “con cái không ai dạy nuôi, tỳ bộc
không ai quản đốc, bếp nước và ruộng vườn không ai trông nom, sự hư hỏng
ở trong gia đình, thật không biết đến đâu mà nói”. Và kéo theo là “những
điều hư hại khác về tinh thần, lại càng dữ dội lắm nữa”. Theo ông, đó là
68
những tổn thất lớn của nữ giới mà họ đánh đổi chỉ để lấy được “một tháng 56 Hoàng Tăng Bí là một cây bút nghị luận của nhật báo Trung Bắc tân văn.
độ dăm bảy chục và cái tiếng tự mình tìm cách mưu sinh, không phải ăn bám
chồng”.
Một ý quan trọng được Hoàng Tăng Bí nhấn mạnh là cái nếp người
đàn bà chỉ ở trong phạm vi gia đình của ta được nhiều người ngoại quốc
ngợi khen bởi «nhờ đó gây dựng nên mối hạnh phúc cho gia đình, xây đắp
được nền phong hóa cho xã hội». Từ đó, ông đi đến kết luận việc người phụ
nữ hoạt động ngoài xã hội là một trào lưu nhất thời, ham mới chuộng lạ quá,
không kịp suy xét sâu xa, và tiên liệu “họ sẽ lại thấy cái chế độ cũ của mình
là phải là hay, rồi lại quay về lối cũ” với chế độ gia tộc. Lo ngại ý kiến của
Hoàng Tăng Bí gây lệch lạc trong nhận thức của phụ nữ, Phan Khôi đã “ra
mặt” “Phản đối bài Thiên chức của đàn bà” [PNTĐ, s5, 15/10/1933]. Nhà
luận lý Phan Khôi đã nhìn thấy sự lỏng lẻo trong bài viết của Hoàng Tăng Bí
khi tác giả này chỉ dựa trên cơ sở “người ngoại quốc khen ngợi phong hóa
nước ta”, “khâm phục cách tổ chức gia đình và xã hội nước ta” để lập luận.
Thêm vào đó, Phan Khôi coi lời khen ấy chỉ là “lời nói xằng” và bác lại hai
nhẽ: nếu phong hóa của nước ta tốt, cách tổ chức gia đình xã hội của ta là
tốt, thì đã phát triển hơn nhiều chứ không nghèo yếu như hiện tại. Và nếu họ
nhận cho của ta là tốt thật, thì sao họ không làm theo ta, thay vì ca tụng tán
dương? Lý lẽ của Phan Khôi đối lập với Hoàng Tăng Bí và hoàn toàn có sức
thuyết phục: ở nhiều nước tiến bộ, đàn bà cũng đã, đang làm việc ngoài như
đàn ông, đương nhiên họ không thể quay ra bắt chước ta, bắt đàn bà chỉ
quanh quẩn trong xó bếp, mà ngược lại, để thích ứng với cuộc sống mới,
chúng ta phải học theo họ, tức là khuyến khích phụ nữ hoạt động ngoài xã
hội.
Điểm mấu chốt mà Phan Khôi phản biện lại Hoàng Tăng Bí là từ khái
niệm “thiên chức của đàn bà”. Phan Khôi định nghĩa: “Thiên chức” là để chỉ
69
những việc trời sinh đàn bà ra để mà phó thác, việc mà đàn ông không làm
được: đẻ con và cho con bú. Theo đó, việc Hoàng Tăng Bí cho rằng: “thiên
chức của đàn bà là ở trong bếp, trong buồng, trong nhà trong” là vô căn cứ:
“câu ấy chẳng qua do người ta đặt ra, làm sao lại gọi là “thiên chức” được?”.
Phan Khôi chủ trương không thể bắt phụ nữ giữ cái nền nếp cũ, cái phong
Bao nhiêu những nghề của đàn bà ta vốn làm từ xưa, bây giờ họ còn làm
được chăng?...Nuôi tằm, ươm tơ, đặt rượu cho đến những là may vá v.v.,
cứ hễ mỗi một nghề của đàn bà làm bằng tay thuở trước là ngày nay có
một thứ máy choán lấy. Có nhiều nơi phụ nữ chẳng những thất nghiệp mà
lại tuyệt nghiệp nữa. Trong nhà không có việc làm mà ở ngoài thì càng
ngày càng dựng thêm các hãng các sở cần dùng đàn bà làm việc: như nhà
máy sợi, còn có những nhà diêm, ty rượu, nhà máy ươm, các hãng buôn
bán,…
thể xưa, bởi nó không phù hợp với hiện trạng bấy giờ:
Ông đã chỉ ra rằng trong bối cảnh hiện đại hóa xã hội, tư bản hóa kinh
tế, ở một đất nước nông nghiệp, phần đông phụ nữ phải thoát khỏi khuôn
khổ gia đình để trực tiếp tham gia các công việc ngoài xã hội, đó là một thực
tế khách quan. Và không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, mà với giáo dục, văn hóa,
ở đâu cũng cần đến phụ nữ. Ông khẳng định: “Khi xã hội cần đến đàn bà ra
làm việc là đàn bà phải “đạp tiêu phòng mà ra”, chẳng còn nói lôi thôi gì hết,
dù muốn hay không muốn là cũng phải ra, cũng phải dự việc ngoài”. Khi đã
bước ra hoạt động ngoài xã hội, ganh đua thị trường, phụ nữ vẫn có thể sắp
đặt việc nhà một cách linh hoạt.
Phan Khôi cũng lưu ý rằng tùy người, tùy theo hoàn cảnh mà đàn bà
tham gia công việc ngoài xã hội, “còn ai không cần như thế thì cứ ở trong
nhà mà lo việc bếp nước, lo việc tề gia nội trợ, nuôi dạy con cái, kiểm đốc tỳ
độc, coi ngó ruộng vườn, chứ nào ai có cấm?”. Ông kết lại bài tranh luận
bằng lời cổ xúy giới nữ: “Theo lý thuyết của tôi trên đó, tôi dám khuyên phụ
70
nữ ta chớ nên lấy ý riêng mà chống lại hoàn cảnh; hễ người nào thấy mình bị
hoàn cảnh xô đẩy là phải sớm liệu ra khỏi cửa buồng đi mà mưu cầu sự sinh
hoạt để khỏi thiệt cái đời của mình”. Có thể nói với ý tưởng này, Phan Khôi
chứng tỏ ông là một nhà báo canh tân quyết liệt về vấn đề nữ giới nhưng
cũng đủ độ mềm dẻo và thực tiễn.
Những dẫn giải trên cho thấy sự đối lập giữa hai luồng tư tưởng: thủ
cựu - canh tân của Hoàng Tăng Bí và Phan Khôi về vị trí của người phụ nữ.
Thực chất, đây là câu chuyện nên hay không nên ủng hộ người phụ nữ bước
ra môi trường xã hội. Và Phan Khôi vẫn cho thấy sự thống nhất của ông
trong khuynh hướng thức thời, hiện đại như những bài báo trước đó.
Với Thế Phụng: Phụ nữ với văn học
Như trên đã nói, khi bàn về nữ học, Phan Khôi chú trọng đến phương
diện phát triển nền văn học nữ lưu. Sau ba bài báo của Phan Khôi trên ba số
liên tiếp của PNTV [s1, s2, s3 năm 1929], tác giả Thế Phụng đã lên tiếng
phủ định địa vị của người phụ nữ trong văn học. Thế Phụng vẫn ủng hộ quan
điểm nam nữ bình quyền, đề cao nữ học, nhưng bác bỏ luận điểm của Phan
Khôi về mối quan hệ của nữ tính và văn học. Nếu Phan Khôi cho rằng “nữ
tánh có nhiều chỗ thích hợp với văn học, đàn bà chuyên về văn học có lẽ hay
Ông nói đàn bà có nhiều tình cảm để thành văn, song ta phải nên phân
biệt. Đàn bà hay sợ hãi mà đến thất kinh, hay thương xót mà đến rơi lụy,
dễ vui, dễ buồn, song đó là cái nhu cảm tầm thường, nông nổi, yếu đuối,
không thể sản sinh ra văn chương được. Nhà thi văn phải có những cảm
giác thâm trầm, thanh nhã, cao thượng mới làm ra được thi văn… Ông nói
đàn bà có tính nhẫn nại, ý chừng nghĩa là hay chăm chỉ tìm kiếm, làm nhà
khoa học khảo cứu được… song học cứu cần phải chịu khó tìm kiếm, ghi
nhớ nhiều mà còn phải biết so sánh, suy xét đến nơi đến chốn, đàn bà vốn
tánh tình nông nổi vị tất đã làm được. Còn như cái tánh tỉ mỉ dùng vào
71
hơn đàn ông” thì Thế Phụng lại quan niệm trái ngược. Thế Phụng phân tích:
việc mài dũa thi văn, thì thi văn không phải vì mài dũa nhiều mà nên hay57.
Tiếp đó, Thế Phụng đánh giá việc Phan Khôi viện dẫn “trong văn
chương Tàu có nhiều chỗ nói về đàn bà” để chứng minh “nữ tánh thích hợp
với văn học” là chưa thuyết phục, phần vì đó chỉ mới là văn chương Tàu,
phần vì các nhà thơ viết nhiều về đàn bà thì đàn bà cũng chỉ là một phương
tiện để gửi gắm tình ý mà thôi “giống như tả hoa”, hoặc thi văn mà tự nói về
mình thì “trơ trẽn”… Trung tâm địa vị trong văn học vẫn là của đàn ông -
những con người “tao nhã, lại sâu sắc, có ý khí, lại có ý bảo phụ” - điều mà
đàn bà không có được.
Ông đi đến điểm chốt bác lại ý mà Phan Khôi đưa ra: “Đàn ông mà
nói chuyện đàn bà làm sao cho tinh tế bằng đàn bà nói lấy chuyện của
mình?”. Theo Thế Phụng cái hay của văn chương nghệ thuật là truyền tải
được tinh thần của đối tượng “không đúng mà như hệt”, toát lên được cả
“cái ý kí thác của tác giả nữa”.
Sau ý kiến của Thế Phụng, trên PNTV số 6 (6/6/1929), Phan Khôi đã
xin “thương xác” lại bằng một tinh thần cởi mở. Phan Khôi ghi nhận việc
Thế Phụng phê ông chỉ lấy văn học Tàu mà “khái luận hết thảy” cho nền văn
học nữ lưu: “Hiện nay tôi chỉ biết được quán xuyến về văn học Tàu mà thôi,
nên tôi dạn nói ra cái điều tôi biết. Sau nầy tôi biết rộng thêm nữa, tôi sẽ phô
diễn thêm để cho vững cái giả thuyết của tôi”. Phan Khôi bắt bẻ lại luận
điểm mà Thế Phụng đưa ra: phê đàn bà ủy mị, nhưng lại bao biện rằng các
tác giả đàn ông vốn không muốn làm mất cái vẻ trượng phu hào kiệt của
mình nên ký thác vào người đàn bà để thở than khóc lóc cho người ta thương
57 “Phụ nữ đối với văn học” [Công luận, 22/5/1929]
72
xót. Như vậy chính là Thế Phụng đang tự “thổ lộ cái tâm sự của bọn đàn
ông, khinh miệt đàn bà, hay đổ thừa cho đàn bà… nhưng họ lại vừa đê hèn,
vừa giảo quyệt, vừa nhút nhát”. Phan Khôi lưu ý Thế Phụng điều quan trọng
ông đã đề cập: “chủ ý của tôi là khuyên đàn bà phải học, phải lập cái nền văn
học của họ lên trên sự tri thức… những cái nhu cảm của đàn bà, những cái
tầm thường, yếu đuối, nông nổi của họ… có thể nhờ học mà biến đổi được”.
Thêm vào đó, đàn bà sở dĩ yếu đuối không phải chỉ do “thiên tính” mà còn
bởi “xưa nay vẫn ở dưới quyền áp chế, vẫn làm đồ chơi cho đàn ông. Bị áp
chế thì dưỡng thành cái thói đê hèn, làm đồ chơi thì tập quen cái trò ẻo lả”.
Như vậy, Phan Khôi đưa ra những nguyên do mang tính khách quan để lí
giải những hạn chế của phụ nữ trong văn học. Ông tin rằng phụ nữ sẽ khắc
phục được những đặc tính đó và phát huy tiềm năng nếu được giải phóng và
học tập. Sau cuộc bút chiến của Phan Khôi - Thế Phụng, bà Nguyễn Đức
Nhuận trong bài Văn học của phụ nữ Việt Nam [PNTV, s25, 1929] đã có ý
kiến ủng hộ Phan Khôi: “Văn học là biểu hiện của tính tình loài người thì
làm sao có thể lảng tránh phụ nữ là nhân quần xã hội được? Phụ nữ dẫu có
nhu cảm mà phát ra ở văn chương thì đó cũng là cái biểu hiện của người nhu
cảm và văn chương nhu cảm có hề chi? Vị tất đã dở.”
Qua những trao đổi này, có thể thấy Thế Phụng mặc dù đã chủ trương
đổi mới cái nhìn về người phụ nữ nhưng nó vẫn bó hẹp trong con mắt đầy
phân biệt về giới của quan điểm truyền thống. Ở một vài điểm, Thế Phụng
có lí khi phê Phan Khôi, đặc biệt là ở những kết luận với giọng điệu quả
quyết, cố tình đẩy lên đến mức cực đoan như: “nếu một người đàn bà chồng
để thiệt, mà kể sự mình chắc hẳn hay hơn ông Khuất Nguyên, ông Đỗ Phủ”
nhưng ý hướng chung toát lên trong lập luận của Phan Khôi là việc xóa bỏ
hoàn toàn những định kiến xem thường năng lực người phụ nữ, chỉ ra những
73
ưu thế của họ phù hợp trên một vài lĩnh vực của khoa học và cũng là nghề
nghiệp (văn học - nhà văn, y học - thầy thuốc). Và chính điểm này cho thấy
mặt tiến bộ, triệt để của ông.
Qua những cuộc tranh luận về vấn đề phụ nữ trên đây, Phan Khôi đã
thể hiện lối bảo vệ đến cùng quan điểm của ông (mà đôi khi mang tính chất
bao biện). Không phải chi tiết nào Phan Khôi cũng đúng nhưng nổi lên là một tinh thần “khải phóng”58 riết ráo, triệt để cho phụ nữ. Ông không có bất
kỳ sự cầm chừng, thỏa hiệp nào trước những mặt bảo thủ, “phản tiến hóa”
với đối tượng phụ nữ. Đồng thời, các tranh luận cũng cho thấy phụ nữ thực
sự là một trong những vấn đề được xã hội đương thời hết sức quan tâm.
2.3. Nghệ thuật viết báo của Phan Khôi
2.3.1. Cơ sở lập luận
2.3.1.1. Điểm tựa tư tưởng
Là học giả có nền tảng Hán học uyên thâm nhưng lại chủ động tiếp cận
nền văn minh phương Tây, khi bàn đến các vấn đề phụ nữ, Phan Khôi có
điểm tựa tư tưởng của cả phương Đông và phương Tây.
Về phương Đông, ông dựa trên tư tưởng Nho giáo truyền thống để
chống lại tân Nho giáo. Dựa trên việc minh tư tưởng của Khổng Mạnh, ông
bài trừ Hán Nho và Tống Nho đã tạo ra sự trói buộc trên những phương diện
luân lí đạo đức, hôn nhân, gia đình vớ i người phụ nữ. Những luân lí ấy trong xã hội hiện đại đã trở thành vấn đề lớn. Phan Khôi dẫn giải để chứng minh
ngũ luân do Khổng Mạnh đề xướng có tinh thần bình đẳng, trong mối quan
hệ gia đình, không hề có ý nâng cao người làm cha, làm chồng để đè nén
người làm tôi, làm con, làm vợ. Thuyết tam cương bắt đầu từ Hán Nho chứ
không phải của Khổng Mạnh, với tinh thần thâu tóm quyền lực cho người
gia trưởng, khuyến khích đồng cư, hình thành chế độ gia đình hà khắc, áp
58 Chữ dùng của Chất Hằng Dương Tự Quán khi nói về Phan Khôi (đã dẫn)
74
chế người phụ nữ. Chủ trương trị dân của Khổng Mạnh là “dưỡng dục, cấp
cầu”, về sau Tống Nho lấy cái lý: “trung, hiếu, liêm, tiết” làm trọng, đè nén
cái dục như “ẩm thực, nam nữ”, bởi vật nên mới có những quan niệm khắt
nghiệt về trinh tiết, luật cấm đàn bà góa cải giá. Phan Khôi chỉ rõ “Khổng
Nho chẳng có dạy cái những điều xằng bậy ấy”. Chẳng có thánh hiền nào
cấm đàn bà cải giá bởi “đức Khổng Tử cũng để vợ”. Những điều trên, Phan
Trong bài Lại nói về tam cang với ngũ luân ở Phụ Nữ tân văn số 89, tôi có
nói rằng: "Trong cái vòng luân lý đạo đức tôi muốn lấy Khổng Mạnh làm
thầy, mà đồng thời tôi cũng muốn phế truất Hán Nho và Tống Nho. Tôi
nói thế không phải nói bậy đâu. Hán Nho như cái thuyết tam cang của họ
mà tôi đã bác đi trong mấy bài trước đó, đáng phế truất là đường nào.
Tống Nho lại còn nhiều điều không hiệp với Khổng Mạnh mà làm hại cho
ta hơn nữa tức như cái luật cấm cải giá là bất công, vô đạo, cướp mất
quyền lợi của đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hoá, ta nên phế trừ đi
là phải" [ PNTV, s95, 13/8/1931].
Khôi nhiều lần phát ngôn rõ:
Quan tâm đến vấn đề phụ nữ như một biểu hiện cho tính chất phản động của
Tống Nho, Phan Khôi đã giải quyết vấn đề phụ nữ từ việc chỉ ra bằng chứng lý những sai lệch căn bản của nó với Nho giáo cổ điển.
Về tư tưởng Tây phương, do ảnh hưởng tất yếu của thời đại, tư tưởng
dân chủ tư sản về quyền con người, trong đó có quyền phụ nữ là cơ sở quan
trọng cho những lập luận của Phan Khôi. Cách Phan Khôi đặt vấn đề nữ
quyền thâu nạp vào trong hai chữ “nhân quyền”: Đàn bà cũng như đàn ông,
cùng là con người, phải cùng được hưởng chung một quyền lợi. Ông đã chỉ
ra dưới chế độ quân chủ chuyên chế, do ảnh hưởng của thuyết Tam cương
mà phụ nữ không có quyền làm người nữa: “người ta sanh ra ở đời nay là
người… tự do. Dầu ở dưới chánh thể nào cũng mặc lòng, trông theo ánh
sáng của thời đại, mình cũng có thể giữ được cái nhân cách. Đàn bà con gái
75
cũng là người, ai lại kém ai” [PNTV, s21, 19/9/1929]. Vấn đề phụ nữ mà
Phan Khôi bàn luận trên các khía cạnh: nam nữ bình đẳng, giáo dục, chức
nghiệp, chính trị, diễn thuyết, thể thao, trang phục… đều được lập luận dựa
trên nền tảng vững vàng là tư tưởng nhân quyền.
Một điểm nữa, như đã đề cập, những năm đầu thế kỷ XX, Phan Khôi
là học giả đầu tiên nói đến và ủng hộ tư tưởng tự chủ và chủ nghĩa cá nhân
của phương Tây trong xã hội Việt Nam. Với lối tiểu gia đình của người Tây,
cứ hễ con trai con gái có vợ có chồng thì được ở riêng ra, được tự chủ lấy
mà làm ăn, khỏi lụy đến cha mẹ và cũng không ở dưới quyền cha mẹ nữa.
Nhân quyền và dân quyền vì thế được đảm bảo. Ông cho rằng cần thực thi
những điều ấy để mỗi người có địa vị, tư cách vững vàng, không ai xâm
phạm đến ai, duy trì được sự bình đẳng trong xã hội. Dựa trên tư tưởng mới
mẻ của phương Tây về chủ nghĩa cá nhân và mô hình gia đình hạt nhân,
Phan Khôi lập luận về việc giải phóng người phụ nữ khỏi áp chế của chế độ
đại gia đình.
2.3.1.2. Nguồn dữ liệu
Có thể xem trước tác nói chung của Phan Khôi là một “bách khoa toàn
thư” về văn hóa. Với những dữ liệu phong phú lồng ghép trong việc trình
bày, lập luận vấn đề phụ nữ, Phan Khôi đã gián tiếp mở rộng hiểu biết cho
độc giả.
Trong bài viết Theo tục ngữ phong dao, xét về sự sanh hoạt của phụ
nữ nước ta (đăng trên 11 số báo, từ số 5, 30/5/1929 đến số 18, 29/8/1929),
Phan Khôi đã làm một cuộc trưng tập khá đầy đủ về lề thói sinh hoạt, phong
tục tập quán, vị trí, thân phận… của người phụ nữ qua tác phẩm văn học
truyền miệng. Ông rà soát kỹ lưỡng để tìm kiếm từng dấu vết biểu hiện đời
sống của người phụ nữ trong tục ngữ, ca dao, dân ca. Các bài viết của Phan
76
Khôi trên PNTV về thân phâ ̣n ngườ i p hụ nữ, chất liê ̣u hầu hết đều đươ ̣c lấy từ thi ca bình dân (xin xem thống kê ở phần Phu ̣ lu ̣c).
Là một nhà Hán học uyên thâm, ông cũng vận dụng triệt để kiến thức
của mình về văn học, sử học Trung Hoa. Chẳng hạn: Phan Khôi dẫn ra
những dữ liệu văn học sử của văn học nữ thời kỳ Mãn Thanh [PNTV, s3,
16/5/1929]; hay nguồn sử liệu dồi dào của Trung Hoa như: gương sáng về
“mẫu giáo” cho người làm mẹ bà Vương Thạc Nhân [PNTV, s19, 5/9/1929] ;
giai thoại trong sách Cận tư lục về sự khắc nghiệt các nhà Tống Nho: Trình
Hy, Phan Nguyễn Thiệu, Mã Sĩ Anh với việc thủ tiết của đàn bà [PNTV, s21,
19/9/1929]; chuyện hoang dâm của những ông vua Tùy Dượng Đế, Võ Minh
Tôn [PNTV, s36, 9/1/1930]; chuyện bạc đãi vợ của vua Hán Võ Đế; chuyện
vua Đạo Tôn nước Liêu tuyên án hành hình hoàng hậu Ý Đức [PNTV, s50,
1/5/1930]; sự bất công của Đại Thanh luật lệ với phụ nữ [PNTV, s130;
12/5/1932]…
Với tâm thế nhập cuộc, Phan Khôi thường cập nhật thông tin, mô tả
các phong trào vận động phụ nữ, các hoạt động văn hóa,chính trị, xã hội, các
tập tục hôn nhân mới mẻ của phụ nữ trên thế giới: Cuộc phụ nữ vận động
của phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ [PNTV, s51,8/5/1930; s52, 15/5/1930], Triều Tiên
[PNTV, s138, 6/6/1932; s144, 16/6/1932], chuyện vợ chồng ly dị ở nước Ba
Lan [PNTV, s159,14/7/1932], phụ nữ trong nghị viện ở Âu Mỹ [PNTV, s161,
22/7/1933], phong trào phụ nữ thể thao ở Anh [PNTĐ,s15, 24/121933], việc
lấy chồng của phụ nữ giành nữ quyền ở Bisagos, châu Phi [PNTĐ,
s1,17/9/1933]… và đặt trong cái nhìn đối sánh với trạng thái của phụ nữ
trong nước: “trông người lại nghĩ đến ta”. Đó là cách Phan Khôi truyền bá
những tinh hoa của văn hóa phương Tây với định hướng thay đổi những cổ
hủ, trì trệ trong tư tưởng và phong hóa dân tộc.
Những câu chuyện “người thật viêc thật” ở nước mình cũng được ông
77
sử dụng linh hoạt. Ví dụ: chuyện bà cố trong gia tô ̣c ông, chuyện nữ phạm
nhân Nguyễn Thị Lồng giết chồng ở Quảng Nam, những vụ tự sát của nam
nữ thanh niên,…
Như vậy, trong khi bàn đến vấn đề phụ nữ, Phan Khôi đã vận dụng
nguồn dữ liệu là văn học dân gian và nguồn tri thức Đông Tây phong phú trong
sách vở, và những sự viê ̣c xảy ra trong đời sống đương thờ i mà ông quan sát được.
2.3.2. Phong cách báo chí
2.3.2.1. Giàu chất luận lý
Phan Khôi sinh ra ở một vùng quê được truyền tụng nhiều với câu nói:
“Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co”. Biểu đạt dân gian này nói đến
“tập tính” ưa biện bác, thích lật xới những điều tai nghe mắt thấy để tìm hiểu
thấu đáo vấn đề. Đặc tính vùng miền cộng với cá tính tự thân khiến Phan
Khôi nổi tiếng là người hay lý sự, cãi cọ, vặn vẹo, đến nỗi có câu phương
ngôn: “Lý sự quá Phan Khôi”. Ông trở thành tay kiện tướng về khả năng
biện luận trong giới học giả đương thời. Văn cách báo chí của Phan Khôi
nặng tính chất lý luận hơn là tường thuật. Ông luôn quan tâm đến cái lý đằng
sau các biến động, các sự việc của thời sự. Lý luận của ông thường xuyên va
chạm với các thành kiến, thiên kiến của xã hội, nên mang nhiều yếu tố luận
chiến. Nhiều bài viết liên quan đến phụ nữ của Phan Khôi cũng thuộc loại
luận thuyết, tranh luận. Tài tranh luận của ông cứng cỏi đến mức “Đào Trinh , và từng làm Chủ Nhất - mô ̣t trong “tứ đa ̣i” củ a làng báo Sài Gòn bấy giờ
nhiê ̣m báo PNTV - có những ngón độc hiểm khi bút chiến nhưng ông chỉ kiêng nể có mô ̣t ngườ i. Ngườ i ấy là ông Phan Khôi”59
Bản thân Phan Khôi là vốn học giả luôn đặt luận lý học như một
nguyên tắc tiên quyết và nhất quán khi cầm bút: “Phải lấy luận lý học làm
59 Thiếu Sơn, dẫn theo Phụ-nữ tân-văn – phấn son tô điểm sơn hà , tr.22.
78
nền. Phàm một người đã nắm bút làm văn thì ít nữa phải biết qua luận lý
học”60. Con đườ ng đến vớ i luâ ̣n lý ho ̣c cũng là hướ ng đi “tống cựu n ghênh tân” trong tư tưở ng ông : “Nhân nghe ông Quỳnh nói về cái lơ ̣i củ a khoa lý luâ ̣n ông tìm ngay sách Tàu ho ̣c . Nghiền ngẫm mãi đến lú c hiểu ông muốn xem có đú ng vớ i sách Tây không, ông giao thiê ̣p vớ i vài ngườ i ho ̣c cao đẳng Hà Nội lấy luận lý làm đề cho câu truyện, ông đem những điều ông sở hiểu ở . Họ viết cho ông xem những đoa ̣n ho ̣ học rồi. sách Tàu ra nói cho họ biết
Nhờ đó ông rõ hết các danh từ bên Tây và thâm hiểu khoa luâ ̣n lý . Từ khi ông hiểu khoa ấy , lối viết củ a ông đổi hẳn . Bao nhiêu bài ông viết ở Nam phong đươ ̣c ngườ i xem để ý , ông cho là rườ m rà , đẽo go ̣t cả . Ông bắt đầu viết đươ ̣c rành ma ̣ch sát són g như lối văn nghê ̣ ông hiê ̣n giờ , từ hồi ông làm cho Đông Phá p thờ i bá o ở Nam. Nhờ luâ ̣n lý ông đoa ̣n tuyê ̣t hẳn vớ i tinh thần củ a nền ho ̣c khoa cử trướ c , ông phản đô ̣ng la ̣i lối viết hào nhoáng , bấp bênh cũ…”61
Về cách thức lập luận, Phan Khôi thường đưa ra một định đề, một
khẳng định rồi giải thích, chứng minh, lập luận làm sáng tỏ. Khi đặt ra một
vấn đề, Phan Khôi thường có thao tác giải nghĩa, truy nguyên thuật ngữ, xác
định chính xác nội hàm các khái niệm, để “đánh trúng” vào phạm vi và nội
dung cần bàn luận - theo ông nói, đó là “thuyết chính danh”. Chẳng hạn, ông
định nghĩa: “nữ tánh trong văn học”, phân biệt “nết trinh” và “tiết trinh”,
“vấn đề phụ nữ”, “phụ nữ giải phóng”, “sự cải cách cho phụ nữ”, “cuộc phụ
nữ vận động”, “giáo dục cho phụ nữ”, “thiên chức của đàn bà”, “gái tân
60 “Văn nghị luận phải viết thế nào” [Trung lập s 6491, 18/7/1931] 61 Phan Thi ̣ Nga, Hà Nội báo, s10, 13/3/1936. Dẫn theo Hợp lưu, s33, tháng 2&3 năm 1997, tr.23-24.
79
thời”… (những chữ in nghiêng được Phan Khôi tách ra cắt nghĩa rõ ràng).
Với quan niệm trước khi nói điều gì cũng “phải tra xét cho phân minh,
có chứng cứ rành rành rồi sẽ nói” [PNTV s66, 21/8/1930], khi đưa ra một
luận điểm, Phan Khôi thường kèm theo những ví dụ minh họa.
Chẳng hạn để chứng minh cho luận điểm phụ nữ là đối tượng trung
tâm mà văn học hướng đến, Phan Khôi viện dẫn những tác phẩm văn học có
giá trị lớn trong nền văn học cổ điển đều xoay quanh chuyện về phụ nữ: từ
Kinh thi đến những sáng tác kinh điển của các nhà thơ bậc nhất trong nền đại
Đường thi: Khuất Nguyên (Sở từ), Lý Bạch(hầu hết các tác phẩm), Đỗ Phủ
(Giai nhân), Bạch Cư Dị (Tỳ bà hành) của Trung Quốc, từ Kinh Thánh của
Thiên Chúa giáo với quyển Nhã ca của Salomon, rồi đến Việt Nam với
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn…
[PNTV, s2, 9/5/1929 ]; hay để làm rõ sự áp bức trong gia đình đối với nam
nữ thanh niên, Phan Khôi đã dẫn ra thông tin về những vụ tự sát liên tục tại
Hà Nội: cô Tuyết Hồng, anh Hữu Nghĩa [PNTV, s33, 21/5/1931]; chứng
minh cho chế độ đại gia đình không có trước khi thuyết tam cương ra đời,
Phan Khôi đưa ra trường hợp Nghiêu Thuấn là bậc đại hiếu nhưng không
đồng cư với cha là Cổ Tẩu [PNTV, s96, 20/8/1931].
Nhờ các thao tác trên, các bài viết về vấn đề phụ nữ nói riêng cũng
như báo chí nói chung của Phan Khôi luôn có tính duy lí cao, lập luận mạch
lạc sáng sủa, chặt chẽ, chứng liê ̣u rõ ràng, có sức thuyết phục.
2.3.2.2. Ngôn ngữ, văn phong
62 Phan Khôi từng “cảnh cáo các nhà học phiệt” với lối ngôn ngữ hàn lâm, kinh viện, cách viết rắc rối, tù mù, khó hiểu. Ông phát biểu “đọc mà thấy những chỗ ấy, làm cho tôi tức đà muốn chết”. Ông tuyên bố: “văn phải viết đâu ra đó như lời giao kèo hay lời quan tòa nghị án, hãy đào huyệt mà chôn cái giọng văn khoa cử ngày xưa đi cho tuyệt”. [“Bàn về việc dịch sách Phật”, Trung lập, s6538, 12/9/1931] Quan điểm đó được bộc lộ nhất quán với cách viết, cách sử dụng ngôn từ của Phan Khôi.
80
Phan Khôi vốn là học giả từ ng đặt vấn đề xây dựng câu văn quốc ngữ như một khâu quan trọng tạo tiền đề cho việc hiện đại hóa văn học62. Là một
cây bú t uyên bác, thông thái nhưng lối viết, cách diễn đạt của Phan Khôi lại rất đỗi “bình dân”, gần gũi. Đó là kiểu ngôn ngữ “thật rõ, thật gọn mà lại dễ
hiểu” [PNTV s74, 16/10/1930].
Nhà nho tân tiến Phan Khôi đã gần như thoát ly khỏi những từ Hán
văn. Thay vào đó là những tục ngữ, thành ngữ dân gian. Khẩu ngữ cũng
được sử dụng một cách phóng túng, tạo ra lối diễn đạt thoải mái, không có
chút gò ép. Chẳng hạn, ông viết: “Vợ chồng mà không chăn gối, thôi còn vợ
chồng làm quái gì; Tình cảnh như vậy cho nên chị ta chửi là đáng kiếp lắm;
Sinh biểu cái mốc xì họ!” [Trung lập, s6501, 30/7/1931]. Hay: “Đồ đàn ông
voi xé”; “Chưa có nữ quyền mà còn như vậy thay, huống chi một mai có nữ
quyền thì đám “thị mẹt” còn lộng cho đến đâu nữa”; “Ở xứ này, có mốc xì
chi là cái nữ quyền đâu” [Trung lập, s6354, 23/11/1931]; Ông gọi tục cấm
đàn bà góa cải giá là “tục trời đánh”; dùng từ “vua đực”; “vua cái”… Cách
diễn đạt, cách sử dụng ngôn ngữ tự nhiên, bình dị như đời sống, khiến những
bài viết của ông dễ tiếp nhận với phần đông độc giả.
Văn Phan Khôi không có lối nói sáo ngữ , đăng đối - chịu ảnh hưởng
của lối học từ chương. Bao giờ ông cũng có thái độ rạch ròi, dứt khoát về
vấn đề đang bàn luận, phô diễn trực tiếp những gì ông nghĩ. Chẳng hạn: “Tôi
phải lấy làm lạ, sao thánh hiền đã dạy người ta ở có hiếu với mẹ, ở có nghĩa
với vợ, mà lại đi khinh đàn bà?” [PNTV, s5, 30/5/1929]; “Riêng phần tôi, từ
hồi có trí khôn đến giờ, tôi gườm gườm coi cái chế độ ấy là thù, hôm nay, tôi
đem kiện nó trước tòa án công chúng!”; “ai nấy cũng phải xỉ vào cái chế độ
nặng nề kia mà khống cáo nó như tôi vậy” [PNTV, s25, 17/10/1929]; Tôi
phải vì nhân đạo mà căm tức, tức cho sự bất bình đẳng giữa loài người!”
[PNTV, s95, 13/8/1931]; “Lễ pháp với giáo hóa! Đồ sát nhơn! Đồ ăn thịt
81
người!; “Than ôi, xã hội ta biết bao nhiêu người đã chết dưới cái lý ấy non
một ngàn năm nay, mà ngày nay còn đòi đem nó ra để giết họ nữa ư?”
[PNTV, s99, 17/9/1931]… Sự minh bạch, ráo riết ấy trong văn phong tự nó
nói lên cá tính của người cầm bút - “văn là người”63.
Trong khi lập luận, ông thường có giọng điệu trào phúng, dí dỏm, ví
dụ: “Tôi chẳng phải thầy thuốc thơm quen tay trị bệnh xã hội đâu. Tôi chẳng
qua là một người khai thiệt ra cái xã hội này đau gì trong khi có nhiều kẻ vì
cớ gì đó mà giấu giếm” [PNTV, s83, 21/5/1930]; “bởi vì, đi ăn cướp ai hồi
gà mới gáy, kêu cửa kêu ngõ om sòm, làm mất giấc ngủ vợ chồng cô Tẩu, bà
ấy vốn cay nghiệt, liệu có dậy vác cây mà phang cho không” [PNTV, s96,
20/8/1931]…
Và còn có lúc rất sỗ sàng: “vùi dập bớt những cái chó má của đáng
trượng phu Việt Nam đi” [Trung lập, s6354, 23/1/1931]; “Hầu hết thức giả
Việt Nam thỉnh thoảng cũng thở ra những câu như vậy” [PNTĐ,
s5,15/10/1933]; “Việc ấy tôi cho là thối lắm”; “tôi sẽ ăn cứt cho con ông”
[PNTĐ, s19, 21/1/1934]….
Trái ngược với kiểu văn chương “bình dân” của Phan Khôi, Phạm
Quỳnh lại có một lối văn quý phái, hàn lâm, hoa mĩ. Giọng văn cũng nghiêm
nghị khác với lối châm biếm hài hước của Phan Khôi. Trong khi Phan Khôi
dùng nhiều tiếng Nôm, Phạm Quỳnh rất chuộng chữ Nho.
Những bài báo cùng viết về một vấn đề phụ nữ của hai tác giả, có sự
khác biệt rõ về văn phong. Chẳng hạn, khi bàn về nữ học, Phan Khôi có
Sự học của phụ nữ ngày nay, không những để làm vợ, làm mẹ, mà để làm
người nữa. Ngày xưa chỉ học làm vợ, làm mẹ, tự nhiên phải không đủ mà
63 Trái ngược với phong cách báo chí , Phan Khôi bi ̣ coi là mô ̣t phong cách dở trong khu vực thi ca: Chất Hằng (đã dẫn) đã thẳng thừ ng về thơ Phan Khôi như sau: “thơ ông cũng hùng hổ như ông, hay là khắc khổ như văn xuôi củ a ông, hoă ̣c nha ̣t nhẽo vô duyên như hình dáng củ a ông”.
82
những câu văn gãy gọn, ý tứ minh bạch, với lối diễn đạt đơn giản:
làm người. Bây giờ cứ nói như bên nam mà học làm người đi. Hễ làm
người được thì làm vợ làm mẹ được, có khi rồi cũng không cần phải học
riêng sự làm vợ làm mẹ nữa. Cái mục đích của sự nữ học hiếm có ở xứ ta
xưa nay, chỉ ở bốn chữ “lương thê hiền mẫu”. Dạy cho họ như thế hằng
ngàn năm nay, mà cái công hiệu ra sao cũng đã thấy rồi. Bây giờ tưởng
nên đổi cái mục đích ấy đi, dạy cho họ làm người đi. Ấy là vài lời chúng
tôi muốn đem hiến cho nhà đương đạo mới vừa cầm lấy quyền giáo dục
trong xứ ta.
[PNTĐ, s2, 24/ 9/1933]
Câu văn của Phạm Quỳnh lại kéo dài, thì được săn sóc một cách điệu đà,
Cái đức người đàn bà bên Đông phương ta, không lọ là phải đánh đông dẹp
bắc, không lọ là phải tranh nhau nam nữ bình quyền, không lọ là phải
nghiên cứu đến các vị hành tinh, không lọ là phải suy xét phép kỷ hà học.
Dù có học hành, cũng chỉ cốt trong tứ đức, nữ công sao cho chuyên cần, nữ
dung sao cho yểu điệu, nữ ngôn sao cho hòa thuận, nữ hạnh sao cho chính
chuyên, đối với cha mẹ giữ lấy chữ hiếu, đối với gia đình giữ lấy chữ hòa
lạc, đối với con giữ lấy chữ nhân ái cù lao, đối với nhân quần giữ lấy chữ
thiện phúc đức, thế là bậc nữ lưu đệ nhất, thế là đủ
[“Đàn bà Đông phương”, Nam Phong, s101, 1925]
giọng văn trang nhã:
Trong một câu, chữ Nho chiếm gần hết, khiến văn phong có vẻ trịnh trọng,
“bệ vệ” đến mức nặng nề.
Hay khi bàn về vấn đề gia đình,(không nói đến chuyện Phan Khôi đả
phá sự áp chế trong gia đình, còn Phạm Quỳnh lại lo lắng cho kỷ cương của
Do cái lẽ tấn hóa của nước ta nó đi từng bước, mà cái chế độ gia đình đến
ngày nay mới thành ra vấn đề, cầu giải quyết trước mặt chúng ta. Cái vấn
đề ấy rút lại trong mấy câu nầy : Bởi những sự thay đổi của kinh tế, tư
tưởng, pháp luật, tóm lại là sự biến động của xã hội, mà cái chế độ gia
đình xứ ta không thích hiệp nữa, thì bây giờ nên làm thế nào? Nói rõ ra, ấy
83
nó), văn phong cũng rất khác biệt. Phan Khôi viết:
là kẻ bề dưới trong một gia đình ngày nay, khi đã đến tuổi trưởng thành
rồi, thì mong được độc lập, không chịu quyền bó buộc của bề trên nữa,
như vậy có được chăng? Nếu bảo là được, thì cái chế độ ấy nên sửa đổi thế
nào cho thích hiệp? ấy cái vấn đề gia đình xứ ta ngày nay như vậy đó.
Chúng ta lo mà giải quyết sớm đi. Không giải quyết thì cứ còn có người
chết oan hoài, chết cho đến bao giờ vấn đề ấy được giải quyết.
[PNTV, s83, 21/5/1931]
Ngày nay gia đình ở ta thật không có kỷ cương gì cả, đến nhà danh giá thế
phiệt cách cư xử cũng thấy phóng túng hơn xưa. Nhiều người không lấy
chốn gia đình làm trọng nữa, không những thế, lại coi gia đình là một sự
bó buộc mình, chỉ muốn thoát ly cho khỏi. Làm con thì lấy cái quyền cha
mẹ làm nặng, lấy lời khuyên bảo làm phiền, không kể còn có kẻ vô loại
đến ăn ở bất nhân, bất hiếu với đấng sinh thành ra mình, đãi cha mẹ tệ hơn
kẻ ăn người ở. Hạng ấy không phải là không nhiều. Thủ phạm gây ra cái
vạ luân thường đảo điên, gia đình tan nát là những người đòi nữ quyền, đòi
tự do, nhất là đòi tự do kết hôn, bất chấp quyền của cha mẹ, quyền của gia
đình, không chủ trì cái gia đạo, coi sóc trong việc nhà, mà thành một vật
trang hoàng để phô bày nơi đàn điếm.
[Nam phong, s21, 1918]
Phạm Quỳnh thì viết:
Không “trực ngôn”, thẳng thắn như Phan Khôi, Phạm Quỳnh “có chua
chát cũng chua chát một cách xa xôi” (Vũ Ngọc Phan), “giọng văn vẫn trang
nhã ngay cả những chỗ chê bai”.
, lôi cuốn đô ̣c Có thể nói, văn báo chí củ a Phan Khôi thu hú t sự chú ý
giả nhờ chất tranh biện và lối biểu đạt dí dỏm (humour). Văn phong của
64 Đầu những năm 20, diễn ra cuộc tranh luận về lối văn Hoàng Tích Chu. Hoàng Tích Chu được xem như người đi tiên phong trong việc vận dụng chữ quốc ngữ vào viết sách, báo với thứ “văn cộc”, tạo ra những phản ứng trái chiều. Nhiều người chê lối văn của đó không “kêu” và nêu cao lí tưởng về một lối văn “dài thuột, bóng bẩy”. Phan Khôi lại khẳng định sự tân tiến, hữu dụng của
84
Phan Khôi có sự tương đồng với lối viết của Hoàng Tích Chu - một cây bút độc đáo với kiểu “văn cộc” khác biệt đương thời64. Phan Khôi là một trong
những nhà báo đầu tiên với cách viết câu văn gãy gọn, trình bày tư tưởng dễ
hiểu, dễ thuyết phục độc giả, tạo những ảnh hưởng tích cực cho việc hiện đại
hóa nền quốc văn.
Tiểu kết
Các bài báo về vấn đề phụ nữ là những diễn ngôn bình đẳng giới đã
góp phần không nhỏ làm nên tên tuổi Phan Khôi. Đặt trên bình diện chung
vấn đề phụ nữ được các học giả đầu thế kỷ XX quan tâm, phạm vi bàn luận
vấn đề phụ nữ của Phan Khôi là phong phú (nữ quyền, chế độ đại gia đình,
hôn nhân tự do, trinh tiết, giáo dục, chính trị, thể thao, trang phục). Về tính
chất, trong khi nhiều tác giả cùng thời vẫn không thoát khỏi những tiêu
chuẩn đạo đức truyền thống của Nho giáo về người phụ nữ thì Phan Khôi đã
hoàn toàn bước qua được rào cản đó, tố cáo những gì phản nhân sinh, bênh
vực quyền lợi xứng đáng cho họ. Có thể xem Phan Khôi là tác giả Việt Nam
đầu tiên phê phán Nho giáo (thực chất là Tống Nho) đàn áp phụ nữ một cách
hệ thống, hô hào mọi người học tập tinh thần duy lý của Tây phương, mở
màn cho TLVĐ cũng như cho phong trào Âu hóa ào ạt vào đầu thập niên 1930. Qua đó, Phan Khôi thi hành những nội dung cơ bản nhất về quyền con
người trong đời sống hiện đại. Đây cũng là cách để ông thực hiện chủ trương
duy tân của mình.
Những cuộc tranh luận của Phan Khôi với các học giả đương thời
càng cho thấy tính quyết liệt, triệt để của ông trong việc giải phóng phụ nữ,
85
và tạo nên sự sôi nổi cho không khí học thuật, báo chí. “văn cộc” Hoàng Tích Chu trong văn giới, báo giới đương thời. Trên tờ Trung lập năm 1931, số 6491, trong bài Văn nghị luận phải viết như thế nào?, ông đánh giá cao “cách đặt câu khá gọn, nhất là nhiều khi hiểu được cái ý của tác giả ở bên ngoài lời văn” và có chủ trương tương đồng với Hoàng Tích Chu trong việc đổi mới tiếng Việt trên báo chí, tránh lối diễn đạt dài dòng; đưa ngôn ngữ hàng ngày sống động vào câu văn tiếng Việt.
Khi bàn về vấn đề phụ nữ, Phan Khôi dựa trên nền tảng tư tưởng của
cả phương Đông và phương Tây. Với phông văn hóa dày dặn, ông dẫn giải
nguồn tư liệu phong phú, kết hợp những lập luận chặt chẽ và lối diễn đạt gãy
gọn, ý tứ minh bạch, khúc chiết, Phan Khôi tạo được phong cách riêng trên
từng trang viết.
Bình quyền và giải phóng cho phụ nữ là một vấn đề xã hội song lại có
- mô ̣t
nhiều tác động đến nội dung củ a văn học hiện đại. Vì thế những bài viết của Phan Khôi về vấn đ ề này không chỉ đón g góp cho báo chí bấy giờ mảng quan trọng của sinh hoạt văn chương hiện đại - mà còn góp phần mở
86
đườ ng cho cái nhìn nhân văn , đổi mới về phụ nữ của nhiều hình thức văn chương Viê ̣t Nam ít năm sau đó.
Chương 3
Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra và vấn đề phụ nữ
Như đã trình bày ở Chương 1 của Luận văn , năm 1939 sau khi Sông hương bị khai tử , Phan Khôi vào Sài Gòn da ̣y chữ Hán và viết tiểu thuyết, đó là tác phẩm Trở vỏ lử a ra . Tiểu thuyết in trên Phổ thông bán nguyệt san
[s41,16/8/1939] tại Hà Nội. Với cuốn tiểu thuyết đầu tay và duy nhất này,
Phan Khôi tiếp tục lật lại vấn đề phụ nữ đã được ông bàn luận sôi nổi trên
báo chí.
3.1. Vấn đề phụ nữ qua cốt truyện và nhân vật
3.1.1. Cốt truyện
Trở vỏ lửa ra xoay quanh cuộc đời lận đận và ngắn ngủi của cô gái
tên là Trần Thị Nghi. Ông bà Giám là cự phú ở Qui Nhơn, có nhiều của
cải đất đai. Thế nhưng họ không có con trai, chỉ có hai con gái và Trần
Thị Nghi là con gái út. Để có người nối dõi tông đường, ông bà lập tự cho
đứa cháu họ là Trần Cửu Thưởng vốn là một nông dân thất học. Với mong
muốn Cửu Thưởng có chút danh vị để xứng đáng là người thừa kế của gia
đình cự phú, ông bà Giám xin quan trên chiếu lệ cho Thưởng được hàm
“Hàn lâm viện”. Nhưng quan tỉnh xét y không biết chữ nên chỉ cho cái
hàm “chánh cửu phẩm bá hộ”. Khi ông bà Giám qua đời, Cửu Thưởng âm
mưu chiếm đoạt tài sản, không cho Nghi đi học vì sợ tốn kém, ép cô phải
lấy một người giàu có theo sự sắp đặt của y. Với quyết tâm học hành và
nhờ sự giúp đỡ của nhiều người, Nghi ra Hà Nội học ban tú tài. Trong khi
đó gia tài vẫn chưa được chia và Cửu Thưởng vẫn đóng vai trò gửi tiền
hàng tháng cho cô. Cửu Thưởng luôn tìm cách gây sức ép để Nghi từ bỏ
87
con đường học vấn, về nhà lấy chồng. Cuối cùng vì quá uất ức, cơ cực,
Nghi đổ bệnh qua đời khi vừa nhận ra tình yêu của mình, để lại cái gia tài
chắc sẽ thuộc về Cửu Thưởng và không thể không bị san sẻ cho lũ quan
tham ở địa phương.
Trở vỏ lửa ra đã phản ánh được hiện trạng xã hội những năm đầu thế
kỷ XX với những tệ đoan phổ biến như chuyện mua quan bán tước, nạn
quan tham nặng nề ở địa phương (thời gian câu chuyện diễn ra vào khoảng
năm 1922).
Với hệ thống nhân vật khá phong phú (cô nữ sinh Trần Thị Nghi, anh
nông dân Cửu Thưởng, bà giáo, bạn bè trí thức của Nghi, bà dì, anh rể và chị
gái Nghi, bọn quan lại địa phương), tác phẩm tập trung khai thác sự đối lập
giữa tính cách và tư tưởng của hai nhân vật chính: Trần Thị Nghi và Cửu
Thưởng - một đại diện cho người phụ nữ tiến bộ và một đại diện cho sự gia
trưởng thủ cựu chuyên chế trong gia đình. Cốt truyện mang tính luận đề xã
hội rõ nét: phê phán chế độ trọng nam khinh nữ, khẳng định quyền tự do hôn
nhân và học vấn của người phụ nữ.
Để làm nổi bật chủ đề tư tưởng đó, Phan Khôi đã tạo ra những hoàn
cảnh éo le cho nhân vật Nghi, từng bước đẩy xung đột giữa Nghi và Cửu
Thưởng lên cao: Bố mẹ mất, bị Cửu Thưởng ép duyên, cắt tiền học, tranh
chấp tài sản, rồi anh rể mất, chị gái khốn đốn chạy theo vụ kiện, Nghi phải đi
làm để tự lo cho việc học, cơ cực và uất ức, Nghi đổ bệnh, phải từ bỏ việc
học, khi biết yêu cũng là lúc biết mình sắp chết, cuối cùng ra đi trong những
tiếc nuối về tình yêu mới chớm và con đường học vấn đã dày công phấn đấu.
Câu chuyện khép lại với cái chết của Nghi và những lời chì chiết cay độc
của Cửu Thưởng - kẻ gián tiếp gây ra cái chết cho cô. Kết thúc ấy đã làm nổi
rõ bi kịch của những người phụ nữ trong sự áp chế của chế độ gia trưởng.
Phan Khôi vẫn nặng nề thuật lại những diễn biến trong cuộc đời của nhân
88
vật, nhân vật bị gò trong cốt truyện nhằm minh họa cho luận đề. Có nhiều
tình tiết được sắp đặt thiếu tự nhiên, như khi Nghi mới đến hầu kiện lần đầu,
nhưng một quan án lại hỏi nàng giữa công đường: “Có biết Hà Văn Hải
không? Con tôi đấy, nó cũng học ở Hà Nội, nhưng trường thuốc” [23,114].
Khi Nghi ốm nặng ở Hà Nội, bạn nàng là Xuân Sơn mời thầy thuốc đến,
người đó vô tình lại là Hà Văn Hải, con trai của quan án sát. Cách dàn dựng
sự kiện gượng ép, lộ liễu như thế chỉ nhằm chứng minh cho chủ đề đã định
sẵn. Đó chính là những dấu ấn của văn chương nhà Nho với lối kết cấu đơn
tuyến, cốt truyện phát triển nhờ những sự kiện, hành động đầy ắp, theo trật
tự diễn biến của thời gian tự nhiên.
Trở vỏ lửa ra chưa có sự hiện đại hóa cốt truyện như tiểu thuyết của
TLVĐ. Cũng là những tiểu thuyết luận đề về giải phóng phụ nữ (Lạnh lùng
là vấn đề hạnh phúc lứa đôi của người đàn bà góa; Đoạn tuyệt là những vấn
đề gia đình, mẹ chồng nàng dâu, sự ép duyên…) nhưng sự kết thành của cốt
truyện TLVĐ không đơn thuần là sự kiện, hành động truyện, mà còn dựa trên
cơ sở những tâm trạng và suy nghĩ của nhân vật. Các nhà văn Tây học đã có
sự kết hợp giữa cốt truyện luận đề và diễn biến tâm lí, câu chuyện diễn tiếp
theo mạch chảy của thế giới nội tâm nhân vật.
3.1.2. Nhân vật
3.1.2.1. Trần Thị Nghi – nhân vật phát ngôn cho tư tưởng nữ quyền của
Phan Khôi
Theo quan niệm truyền thống, cùng với cốt truyện, nhân vật là phương
tiện cơ bản để nhà văn trình bày cuộc sống, thể hiện tư tưởng, chủ đề tác
phẩm. Thông qua nhân vật Trần Thị Nghi, Phan Khôi bài bác quan niệm
“trọng nam khinh nữ” trong chế độ gia đình mang tính chuyên chế, khẳng
định quyền của người nữ trên những điểm chính: bình đẳng học vấn và hôn
89
nhân.
Có thể thấy vấn đề trọng nam khinh nữ thể hiện từ nhan đề tác phẩm:
“Trở vỏ lửa ra” với mục đích hướng đến nhân vật Trần Thị Nghi. Trong bài
khảo luận về ca dao, tục ngữ trên PNTV 1929 Phan Khôi có dẫn ra câu này:
“Đẻ ra mà thấy là con gái một cái, là khinh đứt đi rồi, cho nên: Con gái trở vỏ lửa ra / Nữ sanh ngoại hướng”65. Trần Thị Nghi là con gái út của ông bà
Giám, thông minh, duyên dáng, có cá tính và ý thức phản kháng mạnh mẽ.
Khi cha mẹ mất, cô chịu nhiều buồn sầu và áp lực trước cái nhìn hạn hẹp
gia trưởng của Cửu Thưởng. Tuy dốt nát nhưng vin vào vai trò chăm giữ
hương hỏa của gia tộc, quyền trưởng nam trong nhà, Cửu Thưởng ra sức
lộng quyền. Mọi vấn đề trong cuộc sống của Nghi đều bị Cửu Thưởng o ép,
tước đoạt quyền tự chủ vì nàng là phận gái. Như những người phụ nữ khác,
tất cả những thiệt thòi của Nghi đều có xuất phát từ định kiến về giới. Nhà
văn đã mượn lời bà giáo để nói lên thực tế ấy: “Chị phải biết chị là nạn
nhân của cái chế độ xã hội An Nam hằng ngàn năm nay. Cái chế độ ấy đã
không coi đàn bà con gái chúng ta ra gì, cho nên chị mới phải ở trong cái
tình cảnh đáng thương như thế” [23,26]. Bản thân Nghi cũng nhận thức sâu
sắc về nguyên nhân sâu xa khiến cuộc sống của cô phải lao đao cơ khổ. Khi
bị ốm, trong cơn mê man, Nghi “khi thì công kích chế độ “trọng nam khinh
nữ”, khi thì đay đi đay lại câu tục ngữ: nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”
[23,126]. Quan niệm của xã hội nam quyền đã đóng khung thân phận người
65 Câu tục ngữ này phản ánh một phong tục khá quen thuộc của miền Trung cả ở miền Bắc trong
thời kì phong kiến: Nhà có đàn bà sinh đẻ, người ta buộc một que củi đun dở một đầu với lá ráy
treo ở đầu ngõ trong vòng một tháng. Nếu sinh con trai thì đầu que củi đó được quay vào trong
còn khi sinh con gái thì trở đầu đó ra ngoài. Việc “trở vỏ lửa ra” nhằm thông báo cho người ngoài
biết trong nhà có đàn bà đẻ nhằm tránh cữ cho trẻ, để những người có tang hay vận xung khắc
không vào gây ảnh hưởng đến trẻ. Nó còn cho thấy quan niệm về giới tính trẻ từ khi sinh ra với ý
nghĩa nối dõi tông đường vốn được nhân dân coi trọng.
90
phụ nữ trong “xó bếp, cửa sau”. Nghi là hình mẫu “cô gái mới”, “cô gái tân
thời” mà Phan Khôi đã bàn đến trên báo chí66. Được học tập, tiếp cận những
tư tưởng dân chủ, Nghi luôn có ý hướng phá bỏ những định kiến giam hãm
người phụ nữ, khẳng định giá trị của mình trong xã hội. Cô dám chống lại
sự gia trưởng của Cửu Thưởng, chủ động trong cuộc sống và học tập.
Không phải vô tình khi Phan Khôi đưa vào chi tiết Nghi theo học ngành
luật. Đó là ý tưởng của nhà văn muốn Nghi có hiểu biết, có hành động thiết
thực để giành lại quyền lợi chính đáng của chị em cô trong việc phân chia
tài sản với Cửu Thưởng. Nhưng Nghi đã không kịp thực hiện điều đó thì
lâm trọng bệnh. Phán Thục gái khi nhắn nhủ cô bạn Xuân Sơn lo liệu hậu
sự cho Nghi đã khẳng định số phận bất hạnh của Nghi là do cô không chấp
nhận sự phân biệt bất công đã mặc định cho người phụ nữ: “Con em tôi nay
mai như có mệnh hệ thế nào thì cũng chính bởi cái tư tưởng cao xa của nó
làm hại nó! Nó tưởng cái tài lực của nó có thể vẫy vùng để thoát ra ngoài
khuôn khổ được, chứ có biết đâu rằng rút cục lại nó cũng vẫn một hạng “trở
vỏ lửa ra” như tôi hay như chúng ta!” [23,139]. Câu nói ấy của chị gái Nghi
cùng với cái chết của Nghi đã vạch ra sự phản nhân văn, tố cáo mạnh mẽ
chế độ “trọng nam khinh nữ”. Qua đó cũng cho thấy bất bình đẳng nam nữ
vào thời điểm cuối những năm 1930 vẫn còn là câu chuyện thế sự nhức
nhối.
Quyền tự do học tập
Tuy bị Cửu Thưởng cấm đoán, Nghi vẫn kiên định theo đuổi chí học
hành. Những nguyện vọng của Nghi về việc học khi trình bày với Cửu
Thưởng đã nói lên khát vọng của cô: “Hiện nay nhà nước mở rộng đường
66 Theo quan niệm của Phan Khôi: “Gái tân thời phải có học thức mới, tư tưởng mới, giỏi ra nữa
phải có cách sinh hoạt mới: như thế mới là "tân". Cái "mới" thật, phải mới từ trong đầu mới ra.
[PNTĐ, s7, 29/10/1933]
91
học vấn của con gái cũng như con trai. Em mới thi đỗ đó là cái bằng tiểu
học mà thôi, chứ còn lên cao đẳng tiểu học, lên tú tài, rồi cử nhân, tiến sĩ
nữa: Ví chẳng khác nào con đường đi hàng ngàn cây số mà em mới bước
được một bước. Vậy cái điều em tha thiết bây giờ là làm sao để được theo
mãi con đường ấy cho đến nơi” [23,35]. Hay khi cô thổ lộ với bà giáo: “con
không bằng lòng làm một người đàn bà thường, mà ưng làm một người có
học thức như thầy” [23,47].
Tư tưởng và ý hướng tiến thủ của Nghi thực sự mới mẻ, tiến bộ. Nó
xuất phát từ ý thức về giá trị bản thân ở nhân vật, vượt thoát khỏi suy nghĩ
thủ cựu xưa nay: phụ nữ cứ an phận thủ thường, chỉ nên gắn với buồng the
bếp núc. Bởi Nghi thức nhận được học tập là giải pháp cho vấn đề bình
quyền nam nữ: “Đàn bà con gái chúng ta không học, hay học mà chỉ học đến
ấu học tiểu học thì còn mong bình quyền với ai?” [23,85]. Từ Qui Nhơn vào
Phan Thiết học xong bậc tiểu học, Nghi tìm cách đối phó với Cửu Thưởng
để được vào Sài Gòn học lên cao đẳng, rồi ra Hà Nội học tú tài, chuyên
nghành luật. Cô luôn là một nữ sinh xuất sắc trong trường. Những khó khăn,
thiếu thốn, áp lực không làm Nghi mảy may nản lòng, từ bỏ con đường học
vấn. Trong suốt tiểu thuyết, Phan Khôi thể hiện thái độ đề cao, trân trọng
những khát vọng mở mang tri thức của Nghi. Có khi, Phan Khôi mượn lời
bà giáo để tranh biện, đòi quyền lợi cho Nghi: “người ta ai cũng có quyền tự
do cần tri thức, mà anh của chị lại toan cướp cái quyền ấy của chị thì chị
phải giành lại chứ sao” [23,49] và muốn giúp Nghi “giành lại quyền tự do
khi nào nó bị cướp”. Đó cũng là chủ trương mà nhà văn muốn đấu tranh cho
nhân vật của mình. Trở vỏ lửa ra tập trung khai thác bình diện quyền mở
mang học vấn, tiếp cận tri thức, văn hóa của người phụ nữ, coi đó là nền
tảng quan trọng giúp người phụ nữ và cả xã hội thay đổi tập tục lạc hậu liên
quan đến giới nữ. Đây cũng có thể coi là nét riêng của tác phẩm so với các
92
sáng tác đương thời và trước đó khi tiếp cận vấn đề phụ nữ.
Hình tượng người phụ nữ tân thời với hệ tư tưởng mới mẻ, chống đối
lễ giáo phong kiến thủ cựu nặng nề và chế độ đại gia đình Nho giáo hà khắc
như Trần Thị Nghi đã trở thành là hình tượng trung tâm trong các sáng tác
mang tính luận đề của TLVĐ. Những phụ nữ trẻ trong tiểu thuyết TLVĐ luôn
ở trong thế vận động, vừa là nạn nhân, nhưng cũng vừa là người dám đấu
tranh. Họ có ý thức mạnh mẽ về giá trị bản thân, phát ngôn và hành động để
bảo vệ nhân vị, danh dự và quyền lợi chính đáng của mình. Đó là sự khẳng
định của Loan trong Đoạn tuyệt với bố mẹ cô khi cự tuyệt chuyện hôn nhân
sắp đặt, coi đó là “chuyện của nàng, là chuyện rất quan hệ trong đời nàng,
mà chỉ quan hệ với nàng mà thôi” [30,172]. Hay là Mai trong Nửa chừng
xuân cương quyết từ chối việc sắp đặt của bà Án và khẳng khái đối chất:
“nhà tôi không có mả lấy lẽ” [14,123]; Nhung trong Lạnh lùng với sự quả
quyết: “Con có quyền đi lấy chồng” [31,261]… Qua các nhân vật đầy cá tính
này, Nhất Linh và Khái Hưng đã đi tiên phong trong việc cất lên tiếng nói
bênh vực và đấu tranh vì quyền bình đẳng cho người phụ nữ trong xã hội.
Quyền tự do hôn nhân
Nhân vật Trần Thị Nghi còn thể hiện tư tưởng của nhà văn về quyền tự
do hôn nhân của người phụ nữ. Cô kiên quyết chống lại âm mưu ép gả vì
tiền của Cửu Thưởng: “Tôi nói có thể là có thể với người nào tôi bằng lòng
kia, chứ Cửu Khiết thì tôi xin chịu. Vả lại tôi không hề biết hắn là người thế
nào, mà tôi cũng không cần biết hắn nữa” [23,90]. Bản lĩnh hơn, Nghi khẳng
định lựa chọn trong hôn nhân của mình, tiêu chí không phải là vật chất tiền
bạc mà là tri thức: “Tôi có học ít nhiều thì cố nhiên tôi phải tìm làm bạn với
người nào cũng có học ít nhiều như tôi”, “tôi thích học giỏi mà không thích
nhiều tiền, ai lại cấm tôi?” [23,90]. Đó chính là cái quyết liệt, chủ động của
những “cô gái tân thời”. Được tiếp cận tri thức, tiếp xúc luồng tư tưởng tự
93
do dân chủ, tự do cá nhân phương Tây, họ không chấp nhận sự áp đặt của
tôn ti trật tự, của thuyết “môn đăng hộ đối”. Họ có bản ngã và không cho
phép ai định đoạt hạnh phúc cuộc đời mình. Về sau, Nghi đã gặp và yêu Văn
Hải, một chàng sinh viên trường y giỏi giang và tận tụy với cô. Tình yêu ấy
đúng với những ý nguyện của Nghi.
Cũng với chủ đề về tự do hôn nhân, tiểu thuyết Kim Tú Cầu67 của
Đạm Phương nói về việc cha mẹ Kim Tú Cầu vì tin lời thầy bói đã ép con từ
bỏ tình yêu của mình để làm vợ một ông quan luống tuổi, đẩy cô sớm rơi
vào cảnh góa bụa, cùng với những tiêu cực trong một xã hội kim tiền nhiễu
nhương, bất an đã dồn Kim Tú Cầu vào đường cùng. Cũng là hình tượng để
gửi gắm tư tưởng về tự do trong hôn nhân và tình yêu của phụ nữ nhưng
nhân vật Kim Tú Cầu lại là mẫu phụ nữ truyền thống tiêu biểu, không dám
chống đối lại cha mẹ, cam chịu những áp đặt, cay đắng mà mình gặp phải và
kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm khi chưa bao giờ dám sống với trái
tim mình. Sự phản ứng của cô chỉ là những dằng co trong suy nghĩ chứ
không phải sự bộc lộ bằng lời nói, hành động. Qua nhân vật Kim Tú Cầu,
Đạm Phương đưa ra lời cảnh báo đối với các bậc cha mẹ áp đặt hôn nhân
cho con cái, đối với xã hội khi không quan tâm đến con người cá thể. Trần
Thị Nghi không thỏa hiệp như Kim Tú Cầu. Cô đem lại ấn tượng mạnh về
sự quả quyết, bản lĩnh, dù kết cục vẫn là một bi kịch. Hình tượng Nghi có sự
67 Kim Tú Cầu là tiểu thuyết đầu tay của Đạm Phương, được in trên Lục tỉnh tân văn và Trung
Bắc tân văn rải rác từ tháng 7 năm 1922 đến tháng 7 năm 1923, gần 70 trang, chia thành 10 chương. 68 Tử Quân cũng là một người phụ nữ trí thức dám đấu tranh cho quyền tự do yêu đương của
chính mình. Cô yêu Quyên Sinh, một chàng trai trí thức có cùng chí hướng. Nhưng tình yêu của
94
đồng điệu với nhân vật Tử Quân trong truyện ngắn Tiếc thương những ngày đã mất của Lỗ Tấn68 - tác giả mà Phan Khôi đặc biệt ưa thích, chịu những ảnh hưởng về tư tưởng canh tân xã hội và vấn đề phụ nữ.
Nhân vật Trần Thị Nghi chiếm được cảm tình và sẻ chia của độc giả.
Cái chết giữa lúc xuân xanh còn nhiều khát vọng của Nghi có một sức ám
ảnh sâu sắc. Số phận Nghi có sức khái quát nhất định cho thân phận người
phụ nữ trong xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, gánh những hủ tục và bất
công: bị cấm đoán về tư tưởng, hạn chế tri thức, ràng buộc hôn nhân. Phan
Khôi đã thấu cảm cho những thiệt thòi và đòi bình quyền cho họ. Nhà văn
đã khái quát số phận và lên án tất cả những “thế lực” gia đình, xã hội gây
đau khổ cho người phụ nữ: “Sinh trưởng trong một gia đình chuyên chế,
trong một xã hội đầy rẫy những chế độ bất bình và tàn khốc, duy có kẻ nào
lành như con cừu, không thích tự do như con lợn thì mới được yên thân;
còn ai biết đau đớn mà nhúc nhích, thấy ngột ngạt mà vùng vẫy, là người ấy
sẽ thiệt thân, sẽ chết, chết dưới sức phản động của cái chế độ ấy” [23,80].
3.1.2.2. Cửu Thưởng - nhân vật đại diện cho chế độ nam quyền
Ở một khía cạnh khác, tinh thần bênh vực nữ quyền của Phan Khôi
được thể hiện trong việc xây dựng nhân vật phản diện - “đối tượng” mang ý
nghĩa đối lập với Trần Thị Nghi: Cửu Thưởng. Phan Khôi đã đánh vào
những đặc tính hủ bại, phản tiến bộ của đối tượng: gia trưởng, dốt nát, tham
lam, đớn hèn. Phan Khôi cũng có những thành công nhất định khi khắc họa
hai người bị gia đình, bạn bè và xã hội ngăn cấm, dèm pha. Bất chấp những lời dị nghị, nhạo
báng, Tử Quân bỏ nhà ra đi. Nàng đến với Quyên Sinh bằng tất cả tấm lòng yêu thương, chân
thành, và ước muốn xây dựng một gia đình lý tưởng, bình đẳng. Nếu ở Quyên Sinh vẫn còn sự sợ
sệt, rụt rè thì Tử Quân thì không thỏa hiệp, không dao động vào sợ hãi. Nhưng rút cục, mọi hy
vọng đó cũng đều bị cuộc đời cướp đi hết, cuộc sống kinh tế lâm vào bế tắc đã khiến cho gia đình
nàng tan vỡ. Tử Quân lại quay trở về sống bên sự lạnh lùng của người cha và sự khinh ghét của
người đời. Nàng lâm vào bước đường cùng và chết trong nỗi cô đơn, lặng lẽ.
95
hình tượng Cửu Thưởng.
Cửu Thưởng là đại diện cho luồng tư tưởng phong kiến khinh miệt phụ
nữ, coi vị trí và chức phận của họ là “bé mọn”, chỉ nằm trong phạm vi gia
đình. Y liên tục bài bác việc học tập của Nghi vì quan niệm: “Thứ con gái có
học được mà làm chi! Ở nhà đó, vài năm nữa gả cưới chồng cho xong
chuyện” [23,16]. Cửu Thưởng xem Nghi là người con gái hư hỏng, đổ đốn,
không chịu an phận thủ thường như người khác, để “liên lụy đến phụ
huynh”. Với cái nhìn hủ bại đó, Cửu Thưởng liên tục có những ứng xử bất
công, bạc đãi với Nghi. Từ việc cậy quyền gia trưởng gây áp chế trong gia
đình, khiến Nghi ban đầu “trở nên khiếp phục, không dám nói câu gì trái ý”;
đến việc lập kế đẩy Nghi vào cuộc hôn nhân với Cửu Khiết để y độc chiếm
tài sản, dùng mọi biện pháp “mềm nắn rắn buông” để buộc Nghi từ bỏ việc
học, cắt viện trợ của Nghi ngay lúc cô khốn khó và lâm trọng bệnh, hối lộ
quan tham để tranh giành tài sản… Những quan niệm và việc làm của Cửu
Thưởng đã đẩy Nghi đến bi kịch. Một người con gái tràn đầy nhiệt huyết, nỗ
lực để khẳng định mình cuối cùng vẫn không thể được sống với ước mơ và
tình yêu chính đáng bởi sự dồn ép vô hình của chuyên chế gia đình. Nếu
Cửu Thưởng không ra sức ngăn cản việc học của Nghi, không ỷ thế cướp
đoạt số tài sản nhẽ ra cô dùng cho việc trang trải cuộc sống và học tập,
không o ép cấm đoán tư tưởng cô, thì Nghi đã không phải lao lực và uất ức
mà lâm trọng bệnh. Nhân vật Cửu Thưởng là sự hiện diện cho định kiến về
giới trong xã hội phong kiến nam quyền, coi nam giới đóng vai trò quyết
định, người phụ nữ phải chịu sự phân biệt đối xử và bị tước đoạt mọi quyền
lợi.
Bản thân Cửu Thưởng xuất thân từ tầng lớp nông dân thất học và chính
sự thất học ấy góp phần lí giải nhiều cực đoan trong những mối quan hệ gia
đình và xã hội của y. Một anh nông dân trọc phú lo chạy án, lo hối lộ để
96
tranh chấp tài sản vốn dĩ không thuộc về mình, “thà cho quan ăn” chứ không
chịu cho em gái học hành vì sợ tốn kém. Y tính toán chi li: “nó làm chi té ra
cho ai một đồng mà nó đòi tiêu năm trăm đồng về phần nó? Bốn năm: hai
ngàn đồng! Làm gì có?” [23,32] và “xót xa” khi gửi tiền ra cho Nghi ở Hà
Nội: “cầm thanh đơn mà tay run lẩy bẩy, miệng ngấp ngó nói không nên
lời”. Một đằng y cậy quyền gia trưởng, hống hách bắt nạt vợ con em út trong
nhà, một đằng lại sợ quan tới mức khi nhận được giấy báo thư tưởng trát đòi
đến cửa quan Tây mà “lo sợ ngày đêm, thiếu điều mất cả máu mặt”; khi đến
hầu án thì “thụp xuống lạy bốn lạy, không đợi quan hỏi gì, cứ một mực kêu
xin” [23,19]. Thái độ ấy đối lập hoàn toàn với phong thái tự tin, điềm nhiên
của Nghi lúc hầu án. Cắt nghĩa cho hành vi, tâm lí của Cửu Thưởng, Phan
Khôi bình luận: “Đại phàm hễ nhà giàu mà dốt nát thì hay sợ quan, sợ nhà
nước” [23,64]. Qua hình tượng nhân vật Cửu Thưởng, Phan Khôi đã đi sâu
vào sự thật nguy hại do thấp kém về học thức và đặt ra vấn đề khai quang
nhận thức tăm tối của người nông dân.
3.2. Đặc thù diễn ngôn của tác phẩm
3.2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Trở vỏ lửa ra thuộc dạng tác phẩm luận đề nên diễn tiến truyện và
nhất là nhân vật được nhà văn xây dựng để minh họa cho chủ đích của tác
giả. Các nhân vật mới chỉ đơn giản là những cái loa phát ngôn cho tư tưởng
của tác giả. Có thể nhận thấy, hai nhân vật chính Trần Thị Nghi và Phan Cửu
Thưởng tuy mang những đặc tính khá tiêu biểu cho những kiểu người trong
xã hội nhưng gần như không được nhà văn dành cho những miêu tả ngoại
hình, tâm lý hoặc những cử chỉ bên ngoài, hành động tâm lý bên trong. Chân
dung họ cũng thiếu những chi tiết riêng, nên thiếu sự sinh động của đời sống
cá thể. Dường như họ chỉ xuất hiện thẳng băng trên cái bề mặt của các tình
97
tiết cốt truyện đơn tuyến. Chính tư duy báo chí khi đươ ̣c đưa vào tiểu thuyết mô ̣t cách đơn giản đã khiến nhân vật của tiểu thuyết gia Phan Kh ôi bị giản
lược đời sống nội tâm, và nếu có được diễn tả cũng là qua sự diễn đa ̣t giải
cứng nhắc của nhà văn. Chẳng hạn, nhà văn nói lên tâm lí của Nghi khi được
chị dâu cho biết sự thật cô đã bị Cửu Thưởng lừa về nhà: “Được lời căn vặn
ấy, Nghi lại càng tỏ ra cái thái độ bình tĩnh, không ai là người có thể đoán
biết được cô là người đương có chút tâm sự băn khoăn và bối rối. Hằng ngày
cô cứ bấm đốt ngón tay thầm tính, chỉ sợ lơ đễnh mà đã tới ngày nhập học ở
trường nữ học Sài Gòn” [23,60]. Hay mỗi khi nhận được thư chị dâu - người
phải chịu những sự hành hạ vô lí của Cửu Thưởng khi Nghi đi học xa:
“Những tin tức ấy làm cho Nghi sinh ra trăm mối ưu phiền. Cô thương cha
nhớ mẹ, tủi thân phận mình mồ côi, lại thương hại cho chị dâu vì mình mà
chịu khổ. Một đôi khi nghĩ tới gia đình, Nghi cũng có sinh lòng chán nản,
nhưng nhờ trời phú cho cái tính đằm và có nghị lực nên lại mần ngơ đi được
cả mà chuyên tâm học tập” [23,79].
Và ngòi bút của Phan Khôi tỏ ra bất lực hoàn toàn khi lí giải những
vấn đề phức tạp như tình yêu đôi lứa. Nhà văn thay bằng việc miêu tả hành
động hay thông qua độc thoại nội tâm, đã diễn giải tâm lí của Nghi trong
tình yêu với Văn Hải một cách vụng về. Chẳng hạn: “Những cái cử chỉ ấy
chứng thực là những cái trưng tượng của ái tình: chẳng phải yêu, thì có khi
nào một người ốm liệt lại còn vui sống được như thế? Ôi, duy có thế mới là
ái tình… Yêu trước khi chết cũng giống như ăn uống trước khi gần chết chú
có gì lạ! Người ta đã không vì cớ biết mình tuần sau chết mà tuần này bỏ ăn
uống, thì có lẽ nào vì cớ biết mình năm sau chết mà năm nay bỏ yêu?” [23,132]. Theo Kiều Thanh Quế69, “Phan Khôi cố giải phẫu tình yêu cho dễ
69 “Trở vỏ lửa ra” Phan Khôi, hay là trả Phan Khôi lại cho địa hạt của Phan Khôi [Báo Mai, 29/9/1939]
98
hiểu mà thành ra buồn cười”. Kiều Thanh Quế “khuyến nghị”: “Ông Phan
Khôi nên đành để nghệ thuật quý báu của mình mà phụng sự những điều
mình sở đắc, hãy trả Phan Khôi lại địa hạt của Phan Khôi”.
Cũng chính tư duy báo chí đã khiến Phan Khôi đôi khi vì muốn thể hiện
một đặc tính nổi trội của con người mà gượng ép “điều chỉnh” tâm lí nhân
vật theo ý muốn chủ quan của ông, bỏ qua logic tâm lí học. Dễ thấy hơn cả
là sự lý tính của Nghi khi nhận được bức điện tín báo tin mẹ mất trên lớp.
Biết trước nội dung đau đớn bên trong, cô vẫn cố tình không mở ra, giữ “nét
mặt thản nhiên, không một vẻ gì đổi khác”, điềm tĩnh trở về nhà giấu dì
Tuấn, sau bữa cơm mới sang nhà bà giáo giãi bày và nêu dự định không về
chịu tang mẹ vì sợ Cửu Thưởng sẽ không cho đi học nữa. Chỉ đến khi bà
giáo đụng đến nỗi ấm ức, bị cấm cản vô lí của mình Nghi mới “xây mặt úp
vào cây cột kề bên, thổn thức khóc”. Trên đường về quê, Nghi cũng chỉ “nằn
nì xin dì về nhà lần này nói giúp với anh mình làm sao cũng cho mình đi học
nữa” [23,10]. Ở đây, nhà văn vì muốn tập trung thể hiện lòng hiếu học của
Nghi mà để nỗi đau mất mát theo qui luật tất yếu của tâm lí con người bị mờ
lấp, bỏ quên. Chất Hằng phê văn xuôi Pha n Khôi “khắc khổ” chắc cũng bở i điều này.
Điểm này là một hạn chế đáng kể của Phan Khôi với một tiểu thuyết
ra đời năm 1939. Bở i, ngay đầu những năm 1930, các nhà văn TLVĐ đã rất
thành công trong việc xây dựng những nhân vật sống động từ ngoại hình đến
tâm lí nhân vật, đặc biệt là những người phụ nữ. Họ miêu tả vẻ đẹp thể chất
như một phần giá trị của con người, diễn tả tâm lí nhân vật thông qua hành
động một cách tinh tế và phù hợp với quy luật tâm lý học.
“Cái được” của Phan Khôi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật là việc
sử dụng ngôn ngữ đối thoại nói lên bản chất nhân vật. Hai nhân vật chính đã
tự bộc lộ được mình qua những lời đối thoại. Qua ngôn ngữ của họ, người
99
đọc thấy được sự đối lập gay gắt giữa hai tính cách, hai quan niệm sống.
Hình tượng Nghi hiện lên đầy tự chủ, bản lĩnh qua khẩu khí và những phát
ngôn có lí lẽ, văn hóa. Chẳng hạn, Phan Khôi miêu tả Nghi “thư thả nói từng
câu, có câu, cô dằn từng tiếng một”: “Tôi dùng tiền đi học, sao anh lại nói tôi
“xài”? Còn ba năm nay tôi không về đây, là vì thấy anh không tốt với tôi”;
“Thưa anh, tôi còn phải đi học nữa, đã định lấy chồng đâu… Anh nói nghe
như có lẽ mà không có lẽ” [23,89]. Đó là ngôn ngữ đĩnh đạc của một cô gái
tân thời có tri thức, có bản lĩnh. Nó khác biệt với những phát ngôn thô tục,
đúng với bản chất vô học và cục cằn của Cửu Thưởng: “Tao thà cho quan ăn
chứ không chịu cho con chó ấy một đồng”; “Thi cái đếch gì? Học? Học cái
gì” [23,31]; “Rồi đây tao không thí cho một đồng nhỏ nào hết thì có ăn cứt
người ta!” [23,32]; “Có một đồng thì chị ỉa trên miệng tôi! Bao nhiêu thì đã
vơ vét cho cô Nghi đi học hai năm hết rồi” [23,109].
3.2.2. Ngôn ngữ và nghệ thuật kể chuyện
Ngôn ngữ
So với những sáng tác của các tác giả thời kỳ đầu trong cuộc cách tân
văn học, như tiểu thuyết Kim Tú Cầu của Đạm Phương, Nữ anh tài của Phan
Thị Bạch Vân, ngôn ngữ trong tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra đã có nhiều khác
biệt theo hướng hiện đại và tiến bộ. Cách hành văn ngắn gọn, trong sáng, dễ
hiểu, không còn câu văn biền ngẫu, những hình ảnh ước lệ, kiểu viết gò câu,
chọn chữ, tạo ra sự đài các, văn phong trang trọng - lối hành văn trung đại
nhằm phục vụ cho lớp độc giả bình dân vẫn còn đang phổ biến trong những
năm 1920. Phan Khôi sử dụng ngôn ngữ của đời sống thường ngày tự nhiên
để kể câu chuyện của mình. Như đã nói ở trên, từ năm 1931, với chủ trương
ủng hộ kiểu “văn cộc”, ngắn gọn, rõ ràng của Hoàng Tích Chu, các bài viết
của Phan Khôi luôn được diễn đạt “bình dân”, gần gũi, thoát ly khỏi những
từ Hán văn, thay bằng những khẩu ngữ thoải mái. Đến tiểu thuyết, ưu điểm
100
này cũng được phát huy. Trong tác phẩm, không khó để thấy những câu văn
giản dị, gọn gàng, sáng sủa như thế này: “Cửu Thưởng nghe xong đoạn đó,
gằm mặt xuống, ra vẻ sượng sùng, lẩm bẩm trong miệng: “Thứ chuyện cũ,
tám mươi đời vương nay, ai biết đâu mà cũng nói” [23,34]; “Cửu Thưởng gái
chưa biết lấy lời chi đáp lại, chỉ im lặng nhìn chồng, thì chàng nổi nóng lên,
mắng xối vợ vuốt mặt không kịp” [23,51]. Hay: “Luôn ba năm, đến mùa
nghỉ nắng hay ngày Tết, Nghi đều không về nhà. Cô cho rằng nhà như thế thì
có vui sướng chi mà về. Một lẽ nữa là nhà bây giờ đâu còn là nhà của cha mẹ
cô! Về chỉ thêm tủi não” [23,79].
Bên cạnh đó, Phan Khôi cũng cho thấy khả năng khai thác và vận dụng
nhuần nhị, có hiệu quả vốn phương ngữ miền Trung trong tác phẩm. Như Vũ
Ngọc Phan chỉ rõ: “những chữ, những câu tác giả dùng đặc tiếng “đường
Trong”… những cách gọi: Phán Thục gái, phán Thục trai, Cửu Thưởng trai,
Cửu Thưởng gái; rồi những chữ: chỗi dậy, bãi hãi, la lối, sử giặc, hai hành lệ
nhểu xuống, mắng xối bự mặt, đỏ chạch cặp con mắt, thêm trội, nóc chính,
nóc phụ, giã lã, băng bộ sang thăm, thấy tắt hút, nói cù cưa, bỏ trầm trây, sấn
sướt, nói chằm bẵm; mần ngơ đi… Dùng những chữ như thế để thuật lại một
chuyện xảy ra ở miền nam Trung Kì, không những vừa thích hợp, lại còn
làm giàu cho tiếng Việt Nam nữa” [29,274].
Nghệ thuật kể chuyện
Dễ nhận thấy, tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra được viết theo lối tự sự
truyền thống, câu chuyện được kể từ điểm nhìn của một “người kể chuyện -
tác giả” - là người ngoài cuộc và có quyền năng toàn tri, biết tuốt, không
phải là nhân vật trong câu chuyện của chính nó. Cũng kể về số phận của
người phụ nữ khi không tự chủ được tình yêu và hôn nhân, Đạm Phương khi
tái hiện cuộc đời nàng Tú Cầu đã chuyển đổi giọng kể: từ phần đầu là giọng
tác giả dẫn dắt về câu chuyện tình lặng lẽ của hai nhân vật chính, tiếp theo là
101
giọng kể của nhân vật bà sư, phần cuối lại mượn giấc mơ của Ngọc Lan
trong khi bị ngất trước tin dữ để Tú Cầu kể lại những sự việc bất hạnh nàng
gặp phải sau khi từ giã với chàng. Nếu như từ những năm 1920, khi tiểu
thuyết văn xuôi quốc ngữ đang có những vận động ban đầu, Đạm Phương đã
có ý thức đa dạng hóa giọng kể, xê dịch các điểm nhìn thì Phan Khôi với Trở
vỏ lửa ra - sau đó gần 2 thập kỷ - vẫn kể lại cuộc đời Nghi chỉ bằng một
giọng kể, một lối trần thuật đơn thanh. Với điểm nhìn “toàn tri”, tiểu thuyết thể hiện sự áp đặt cái nhìn chủ quan của nhà văn lên độc giả.
Trong suốt 15 chương của cuốn tiểu thuyết, tác giả ham tranh luận, rào
đón, giảng giải hơn là sáng tạo văn chương một cách tự nhiên, thuần thục.
Phan Khôi ở vai trò một đạo diễn đứng ra chỉ đạo, sắp xếp, dẫn dắt các nhân
vật, ấn định các tình tiết, biến cố trong câu chuyện. Nhà văn không để ngôn
ngữ và hành động của nhân vật tự đẩy việc đi. Có những chặng câu chuyện
có thể đã gây được một cao trào, Phan Khôi lại làm hụt ngay bằng những lời
kể. Chẳng hạn trong đoạn dễ gây được tâm lí hồi hộp cho độc giả là Cửu
Thưởng âm mưu viết thư lừa Nghi về nhà, khi đang kể đến thái độ đắc ý của
Cửu Thưởng “… chàng tiên liệu rằng hễ không gửi tiền thì Nghi phải cụt
đường: chỉ có một nước về nhà, chứ không đi đâu mà cũng không ở đâu
được nữa”, tác giả “sốt sắng” đưa ngay ra kết cục sự việc, cho biết Nghi
không mắc mưu Cửu Thưởng: “Ai dè vỏ quýt dày lại có móng tay nhọn! Bà
giáo, thầy của Nghi một người đàn bà mà túc trí đa mưu lắm. Nhờ có bà,
Nghi mới gỡ mình ra khỏi mọi sự lúng túng khó khăn” [23,45]. Câu chuyện
lẽ ra đã có thể diễn biến tự nhiên và tạo hứng thú về thái độ nhận lá thư và
quyết định của Nghi ở phần sau nếu không có lời kể “sống sượng” này. Phan
Khôi gây cảm tưởng phiền nhiễu cho người tiếp nhận, tước mọi cơ hội được
suy luận và đương nhiên, ông vô tình gạt bỏ vai trò “đồng sáng tạo” ở họ. Sự
can thiệp của Phan Khôi có phần thái quá trong việc “chưa bắt đầu đã lo cột
102
lại”. Chi tiết đáng tiếc nhất là ngay khi câu chuyện đi được một nửa, tác giả
đã báo trước cái chết của nhân vật chính: “…cũng vì đó mà từ nay về sau,
cái điều uất ức trong lòng Nghi một ngày thêm một ngày; uất ức mà không
làm gì tốt, rồi sanh ra tật bệnh để đến nỗi thiệt thòi cái đời xuân xanh”
[23,80]. Và không chỉ một lần ông “lưu ý” điều đó: “Cô Nghi đau bệnh bất
trị, chỉ còn có một cái chết, nay mai người ta sẽ đưa cô đến một địa Bạch
Mai”; “Yêu trước khi gần chết thì cũng như ăn uống trước khi gần chết chứ
có lại gì”; “Giá như Nghi cứ làm một người thường, như hàng triệu cô thiếu
nữ khác,… rút cục chỉ là một mảnh hồn thơ phiêu bạt ở đất người?”.
Khi viết tiểu thuyết, Phan Khôi ở tâm thế của một ngòi bút nghị luận
hướng về phía người đọc, sốt sắng lo thuyết minh, chen lời mình. Sự can
thiệp của Phan Khôi thường không đúng lúc. Lỗi này khá nhiều trong tác
phẩm. Chẳng hạn: “Khi thấy bà ấy nhờ thì chửa được nhờ, mà vì cớ săn sóc
cho Nghi, bị Cửu Thưởng coi như người thù số một, thì ai nấy cũng nên vì
bà mà thương hại” [23,28]; “người đọc truyện nên thấy chỗ này trước nhất”.
Hay khi đăng lại bức thư ông phải lo dẫn giải: “Thư như thế này”… Ngay cả
khi nhân vật đang đối thoại, ông cũng xuất hiện và chú thích một cách thừa
thãi. Ví dụ, khi Nghi trả lời bà giáo: “Thật, con đã nói, anh con chỉ biết có
đồng tiền”, Phan Khôi “chêm” vào hai từ: “Và thêm”, rồi mới để cho nhân
vật nói tiếp: “con lấy làm khổ tâm quá” [23,25]. Tương tự, khi Nghi nói
chuyện với dì Tuấn: “Có thế chứ! Không thì cứ phải trông cậy vào cái mưu
bí mật của bà giáo mà còn chưa biết nó có hiệu quả hay không nữa!”, Phan
Khôi lại “chen ngang” bằng hai từ: “Và thêm”, và tiếp tục câu nói của Nghi:
“Anh Cửu cháu thình lình đổi ý có lạ không, dì coi” [23,55].
Lỗi mà Phan Khôi mắc phải có thể giải thích bởi sự ảnh hưởng từ tiểu
thuyết chương hồi Trung Quốc. Vũ Ngọc Phan “phê” điều này nặng nề:
“tiểu thuyết Tàu - tôi nói tiểu thuyết cổ - tuy có cái đặc sắc của Á Đông
103
trong cách bố trí và phô diễn tính tình, nhưng lại có những tật rất lớn là cứ
thỉnh thoảng tác giả lại hướng về độc giả, dùng lời khôn khéo để dặn dò, hay
dùng lời nghị luận để giảng giải. Đó là một sự thấp kém về nghệ thuật… Tôi
nhận thấy rằng Trở vỏ lửa ra đã có hai tật ấy” [37,272]. Đây là tình trạng
chung của các tác giả sinh ra ngay trên ngưỡng cửa của giai đoạn giao thời.
Văn chương của họ in đậm tính chất thuyết giảng dài dòng. Dù có ý thức
cách tân nhưng họ vừa chưa thể dứt bỏ một quá khứ dài thi pháp văn học
trung đại. Nữ anh tài của Phan Thị Bạch Vân với nhân vật chính Tú Anh là
một tiểu thuyết luận đề (về vấn đề chức nghiệp của phụ nữ). Trong tác phẩm,
tác giả cũng thường dùng lối bình luận trực tiếp, giảng giải cho độc giả. Tiêu
biểu nhất là đoạn văn nằm ở trang 25- 26, cuốn thứ 6 của bộ tiểu thuyết:
“Cùng chư độc giả yêu quí, bộ tiểu thuyết Nữ anh tài đến đây thì dứt… Tóm
tắt câu chuyện về bộ ấy, thì toàn là những chuyện về mặt phụ nữ với chức
nghiệp. Vai chủ động ấy dẫu là vì cảnh thế éo le, nhưng thế nào cũng chẳng
quên cái phận sự của mình đối với quốc gia, sao cho đáng một bực Nữ lưu
tân tiến… Con người có cái ái tình mà gặp cảnh thế xã hội bất ưng ý, rồi
đem cái ái tình ấy mà làm tình yêu nước, tình yêu dân, thì ôi thôi, đáng khen
biết bao, đáng kính biết bao!” [53].
Bên cạnh đó, do đặc điểm của loại tiểu thuyết đơn thanh, thu về một
điểm nhìn, một giọng điệu của tác giả nên cách kể chuyện trong Trở vở lửa
ra hiển nhiên theo kiểu: yêu thương trân trọng nhân vật chính diện, đả kích,
mỉa mai nhân vật phản diện (rõ nhất qua hai nhân vật Nghi và Cửu Thưởng).
Điều này cũng chi phối bởi văn cách báo chí quen thuộc của Phan Khôi. Qua
cách kể chuyện, tình cảm của tác giả đối với nhân vật trực tiếp phô bày theo
lối trực ngôn trên báo chí của ông. Phan Khôi không có sự lạnh lùng trong
giọng của người kể chuyện khách quan. Ông bộc lộ thái độ yêu ghét rõ ràng.
Chẳng hạn, khi miêu tả Cửu Thưởng “đét người đi, câm mồm không nói lại
104
được lời nào” [23,83]; “Cửu Thưởng gái vốn không gian trá hiểm độc như
chồng nàng… nàng không hay mình đã trở thành một kẻ đồng mưu với
chồng làm một việc giả dối và hèn mạt” [23,52]; “khi nói về Nghi: “cái tấn
kịch thương tâm ấy cứ diễn đi diễn lại một ngày tới vài ba lần” [23,128];
“chỉ thương hại cho Văn Hải và Nghi” [23,133]; hay kể về Xuân Sơn: “tội
nghiệp cho Xuân Sơn, một niềm chơn thành giúp bạn” [23,126]… Đó là một
kiểu tự sự in đậm cá tính của nhà văn, nhân tố chủ quan của tác giả thể hiện
thái độ với nhân vật, sự kiện qua những lời nhận xét, bình luận sôi nổi.
Những điều đã chỉ ra ở trên cũng là sự khác biệt rõ nét của Trở vỏ lửa
ra với những sáng tác của TLVĐ với cùng chủ đề về phụ nữ. Thường thấy
trong các tiểu thuyết Lạnh lùng, Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân là kiểu trần
thuật bằng những lời nửa trực tiếp. Các tác giả nhập thân vào nhân vật để nói
lên suy nghĩ của mình, nhưng ngôn ngữ vẫn thấm nhuần tình cảm và suy
nghĩ của nhân vật, qua đó, nhà văn thâm nhập vào thế giới nội tâm phong
phú của nhân vật để đồng cảm, sẻ chia với họ.
3.3. Giao thoa và khoảng cách giữa diễn đàn xã hội và diễn đàn nghệ
thuật
Có thể xem Trở vỏ lửa ra là sự hình tượng hóa cho những ngôn luận
trên báo chí về vấn đề phụ nữ của Phan Khôi. Trong Trở vỏ lửa ra, cả ba
luận điểm Phan Khôi đặt ra đều đã được quan tâm kĩ lưỡng trên báo chí
trước đó.
Điển hình là trong loạt bài trên PNTV, Phan Khôi phê phán định kiến
trọng nam khinh nữ trong xã hội. Ông nói: “Cái quan niệm chung của xã hội
đối với phụ nữ là khinh dể đàn bà, coi đàn bà chẳng ra chi. Mà cái quan
niệm ấy là do chế độ của xã hội, lễ giáo của thánh hiền mà ra vậy” [PNTV,
s5,30/5/1929]. Ông chỉ ra thực tế chính vì lối tư duy thủ cựu này mà phụ nữ
không được học hành đầy đủ như đàn ông. Qua nhiều bài báo, Phan Khôi đã
105
bàn luận khá chỉnh chu, chi tiết về quyền học tập của phụ nữ. Ông lập luận
sắc sảo: “Sự học để nuôi trí khôn, nó cần cho người ta cũng như là sự ăn để
nuôi xác thịt. Đàn ông biết nuôi trí khôn mình, mà không cho đàn bà cũng
nuôi trí khôn, thì khác nào cấm học ăn để nuôi xác thịt?” [PNTV, s1,
2/5/1929]. Đứng trên tư tưởng nhân quyền, ông định hướng mục đích giáo
nữ hoàn toàn tương đồng với nam giới: Học để phát triển nhân cách và có
mặt trong xã hội, đóng vai trò của mình trong xã hội. Do đó, phụ nữ cần tiếp
cận một nền tân học hữu dụng, toàn diện. Trong tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra,
con đường học vấn của nhân vật Trần Thị Nghi cũng là nền học hiện đại:
theo từng bậc học và học luật để làm luật sư.
Về quyền tự do hôn nhân của phụ nữ, nếu trong Trở vỏ lửa ra, nhân
vật Trần Thị Nghi khẳng khái, dứt khoát nêu rõ lập trường tự quyết lựa chọn
người bạn đời của mình thì trên báo chí, Phan Khôi cũng đã cực lực lên án
việc ép duyên, coi đó chính là một chế độ sát nhân gián tiếp. Chẳng hạn,
trong bài khảo luận về tục ngữ, phong dao, ông nói về thực trạng này: “Hễ
cha mẹ đã có quyền ép được thì cứ việc ép, đặt đâu ngồi đó, nào có nghĩ gì
đến cái ái tình của con cái… Xét lại, cha mẹ mà sở dĩ hay ép con, là vì ham
giàu”. Trên Trung lập [s6988,15/4/1933], Phan Khôi tiếp tục khẳng định,
việc gả con gái của cha mẹ xưa nay, xét về phương diện tâm lí, thực chất là
một cuộc buôn bán, tính toán lợi nhuận không hơn. Nó hoàn toàn phản nhân
văn và cần phải loại bỏ. Như vậy trên hai diễn đàn xã hội và nghệ thuật,
Phan Khôi cho thấy sự nhất quán trong lập trường của mình về vấn đề phụ
nữ.
Đến 1939, khi Phan khôi viết Trở vỏ lửa ra về vấn đề phụ nữ thì
TLVĐ đã nở rộ với những Đoạn tuyệt (1933), Nửa chừng xuân (1934),
Bướm trắng (1939). Khi giải quyết vấn đề phụ nữ, các nhà văn TLVĐ đã tiếp
thu các kĩ thuật viết châu Âu, tiến đến hiện đại hóa kết cấu, cách xây dựng
106
nhân vật cho đến lối diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ. Do đó, Trở vỏ lửa ra với
những hạn chế về nghệ thuật đã không có đóng góp nào đáng kể trong việc
truyền tải thông điệp về nữ quyền. Trong khi đó, qua những bài báo về vấn
đề phụ nữ, lại hiện ra một Phan Khôi ấn tượng, tiên phong, quyết liệt hơn.
Sự “gặp gỡ” cùng một chủ đề của hai diễn đàn cho thấy phụ nữ - một vấn đề
nóng bỏng của xã hội đương thời - cũng là vấn đề khiến ông không thôi trăn
trở, song “khoảng cách” về thành tựu, sức tác động giữa việc viết báo và viết
tiểu thuyết về chính vấn đề đó cũng khẳng định đó là những khu vực mang
tính đặc thù riêng và sự đổi thay của nghệ thuật ở tầng sâu thường đòi hỏi
nhiều thời gian hơn, cũng như cần một năng khiếu phù hợp.
Tiểu kết
70 Tình trạng này cũng đúng với trường hợp Tình già của chính Phan Khôi . Bài thơ được coi là phát dại bác bắn vào thành trì thơ cũ và nh ờ đó, Phan Khôi đươ ̣c đánh giá là ngườ i khở i xướ ng phong trào Thơ mớ i , song chính ông la ̣i « tự thú »: “Mớ i cái mốc xì ! Bài Tình già tui làm theo
107
Trở vỏ lửa ra thể hiện cái nhìn giàu tính triết luận của Phan Khôi vấn đề phụ nữ. Việc tìm hiểu tác phẩm Trở vỏ lửa ra cho thấy ở tư cách tiểu thuyết gia, Phan Khôi đã đề cập đến vấn đề phụ nữ như thế nào. Công tâm đánh giá, đây không phải là một tác phẩm đặc sắc. Nỗ lực hình tượng hóa những ngôn luận trên báo chí về vấn đề phụ nữ của Phan Khôi bị níu lại bởi quán tính văn chương truyền thống, bở i văn cách cá nhân củ a tác giả . Tuy bị xét là khô cứng và khuôn mẫu về mặt nghệ thuật khi áp dụng một luận đề trong câu chuyện và từ đầu đến cuối chỉ chăm chú rao giảng cho nó, nhưng xét về góc nhìn tư tưởng trong tiểu thuyết, Phan Khôi rất sắc sảo với lập trường đấu tranh của một nhà nho duy tân mạnh mẽ, nó thống nhất như những quan điểm trên diễn đàn báo chí mà ông đã đưa ra trong việc giải thoát đời sống phụ nữ khỏi những giới hạn của khuôn khổ cũ, những định kiến về giới. Mă ̣t khác, vị trí khiêm nhường của tác phẩm này trong địa hạt tiểu thuyết Vi ệt Nam hiện đại đương thời - trái ngược hẳn với vị trí của các bài báo của chính ông - cũng cho thấy tính canh tân về tư tưở ng và thành công trong nghê ̣ thuâ ̣t không phải bao giờ cũng là hai giá tri ̣ đồng hành70.
điê ̣u thơ cổ phong củ a Tàu , chớ mớ i cái gì !” [Dẫn theo Thiê ̣n Mô ̣c Lan :Phụ-Nữ Tân-Văn, phấn son tô điểm sơn hà ]
108
KẾT LUẬN
Vớ i những khảo sát cu ̣ thể ở hai chương chí nh củ a Luâ ̣n văn , có thể nói phụ nữ là vấn đề trọng tâm trong trước tác của Phan Khôi. Về trước tác
báo chí, thông qua các bài viết với tần suất cao, tính hệ thống, và chủ trương
giải phóng quyết liệt cho phụ nữ, Phan Khôi đã có tác động đáng kể vào
nhận thức xã hội. Đặt trong tương quan chung với các học giả đầu thế kỷ
XX, phạm vi bàn luận vấn đề phụ nữ của Phan Khôi là toàn diện, hệ thống
(bình quyền nam nữ, chế độ đại gia đình, hôn nhân tự do, trinh tiết, giáo dục,
chính trị, thể thao, trang phục). Về tính chất, ông cũng cho thấy sự tiến bộ và
tính tiên phong của mình. Trong khi nhiều tác giả vẫn không thoát khỏi
những tiêu chuẩn đạo đức truyền thống của nho giáo về người phụ nữ thì
Phan Khôi đã hoàn toàn bước qua được rào cản đó, tố cáo những gì phản
nhân sinh, bênh vực quyền lợi xứng đáng cho họ. Phan Khôi là nhà ngôn
luận Việt Nam đầu tiên nêu vấn đề nữ quyền một cách bức thiết, triệt để,
nhất quán hơn cả. Các bài báo của Phan Khôi chứng tỏ tác giả đã đưa ra cái
nhìn mới mẻ về người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Ông quan tâm nhiều đến
tất cả các vấn đề xung quanh đời sống phụ nữ và đề cao giá trị của họ trên
bình diện xã hội.
Nếu như trên diễn đàn báo chí, về vấn đề phụ nữ, đóng góp của Phan
Khôi là nổi bật thì ở diễn đàn văn chương lại khiêm nhường hơn với tiểu
thuyết Trở vỏ lửa ra. Tác phẩm đặt ra ba vấn đề chính: phê phán chế độ
trọng nam khinh nữ, khẳng định quyền tự do hôn nhân và học vấn của người
phụ nữ. Vấn đề phụ nữ từ sự diễn giải bằng luận lí rạch ròi, thiên về tư biện
qua các bài báo khi chuyển sang một thể tài đòi hỏi sức tưởng tượng, hư cấu
và khả năng miêu tả tâm lí nhân vật lại chưa đạt được những hiệu quả cần
109
có. Tác phẩm được viết trong tâm thế của một người làm báo, một nhà canh
tân xã hội cải lương can thiệp vào vấn đề phụ nữ, vì thế mà khô cứng nghèo
tính nghệ thuật. Phan Khôi có ý tranh luận về một thứ quan niệm hơn là tập
trung xây dựng hình tượng văn học. Bên cạnh đó, phong cách của ông vẫn
mang dấu ấn rõ nét của kiểu sáng tác văn học nhà nho. Trong không khí
chung của việc hiện đại hóa tiểu thuyết nửa đầu thế kỉ, Phan Khôi không có
đóng góp gì đáng kể về mặt nghệ thuật, nhưng về nội dung tư tưởng, tác
phẩm cũng góp thêm một tiếng nói đấu tranh cho vấn đề phụ nữ. Quan điểm
của Phan Khôi vẫn thống nhất với những ý hướng mà ông đã đặt ra trên báo
chí. Trở vỏ lửa ra được nhìn nhận là tiếp tục mạch tư tưởng bênh vực nữ
quyền của Phan Khôi, làm nên một cái nhìn hoàn chỉnh, toàn diện về sự
đóng góp của Phan Khôi với vấn đề phụ nữ ở cả hai hoạt động ngôn luận và
sáng tác văn học.
Vấn đề phụ nữ là một vấn đề đời sống xã hội rất quan thiết, được đặt
trong tính hệ thống với những yêu cầu “duy tân”, “cải lương” nhiều mặt
trong sinh hoạt xã hội, hướng theo các chuẩn mực của văn minh Âu Tây. Cụ
thể, vấn đề phụ nữ được Phan Khôi đặt lồng vào, hay nói đúng hơn là xem
như những biểu hiện “phản tiến hóa” của tư tưởng Tống Nho mà ông đặc
biệt quan tâm và tìm mọi cách thay đổi. Trong một cái nhìn bao quát, vấn đề
phụ nữ nằm trong chủ trương nhà nho duy tân, nhà văn hóa biết hội nhập
như Phan Khôi đã góp phần không nhỏ trong việc thúc đầy văn hóa tư tưởng
110
nói chung và nền văn học dân tộc nói riêng trên bước đường hiện đại hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢ O
Sách và tạp chí
1. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
2. Nguyễn Kim Anh (nc,st,gt) (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh.
3. Phùng Thị Kim Anh (2004), “Các quan niệm nửa đầu thế kỷ XX về việc
phụ nữ tham gia lao động xã hội”, TC Khoa học về phụ nữ, (6), tr 25
4. Lại Nguyên Ân (2008), “Phan Khôi và chủ nghĩa cá nhân”, NCVH, (12),
tr22 - tr28.
5. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn con người và văn chương, Nxb Văn
học, Hà Nội.
6. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê
Chí Dũng, Hà Văn Đức (2003), Văn học Việt Nam 1900 - 1945, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
7. Vu Gia (2003), Phan Khôi – Tiếng Việt, báo chí và thơ mới, Nxb Đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
8. Trần Văn Giàu (2000), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
9. Bằng Giang (1974), Mảnh vụn văn học sử, Nxb Chân Lưu, Sài Gòn.
10. Lê Thanh Hiền, Nguyễn Khoa Điềm (st, bs) (2010), Tuyển tập Đạm
Phương nữ sử, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng (1996), Văn học Việt Nam 1900-1930,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Mai Quỳnh Hoa (1983), “Đôi nét về bà Sương Nguyệt Anh, chủ bút tờ
111
tuần báo Nữ giới chung”, TCVH, (3), tr10 - tr15.
13. Nguyễn Anh Hùng (1997), “Những nhà báo và những tờ báo quốc ngữ
đầu tiên”, Tạp chí xưa nay, (369), tr12 - tr16.
14. Khái Hưng (1991), Nửa chừng xuân, Nxb Đại học & Giáo dục chuyên
nghiệp, H.
15. Khái Hưng (1999), Hồn bướm mơ tiên, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
16. Phan Thị Mỹ Khanh (2001), Nhớ cha tôi – Phan Khôi (hồi ký), Nxb Đà
Nẵng.
17. Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928 (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên
soạn) (2003), Nxb Đà Nẵng, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
18. Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1929 (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên
soạn) (2005), Nxb Đà Nẵng, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
19. Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1930 (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên
soạn) (2006), Nxb Đà Nẵng, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
20. Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1931 (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên
soạn) (2007), Nxb Đà Nẵng, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
21. Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1932 (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên
soạn) (2010), Nxb Tri thức, Hà Nội.
22. Phan Khôi viết và dịch Lỗ Tấn (Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn)
(2007), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
23. Phan Khôi (1939), Trở vỏ lửa ra, Phổ thông bán nguyệt san, Hà Nội.
24. Phan Khôi (2009) Sông Hương, Nhà xuất bản lao động - Trung tâm Văn
hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
25. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn hóa
xuất bản, Sài Gòn.
26. Thanh Lãng (1975), 13 năm tranh luận văn học, Nxb Văn học, Hội
112
nghiên cứu và giảng dậy thành phố Hồ Chí Minh.
27. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hóa Văn học Việt
Nam 1900 - 1945, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
28. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến, quyển thượng,
Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Mai Quốc Liên (cb), Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Cừ, (2002), VHVN thế
kỷ XX: Văn xuôi đầu thế kỷ, Nxb Văn học, Hà Nội.
30. Nhất Linh (1992), Đoạn tuyệt, Nxb Đại học & Giáo dục chuyên nghiệp,
H.
31. Nhất Linh (1999), Lạnh lùng, Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
32. Phạm Thế Ngũ (1974), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Tập II,
III, Nxb Quốc học Tòng thư.
33. Vương Trí Nhàn (2001), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa
trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
34. Vương Trí Nhàn (2001), Nghiệp văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
35. Nguyễn Đăng Mạnh (2009), “Phong cách nghị luận, bút chiến của Phan
Khôi”, NCVH,(10), tr41- tr52
36. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Phan Quang (2000), “Cảm nhận về báo chí Việt Nam thế kỷ XX”, Báo
Nhân dân, số ra ngày 08, 09- 9.
38. Lê Minh Quốc (2007), “Nghĩ về Phan Khôi”, Tạp chí Xưa nay, (292),
tr19
39. Thế Thanh (1998), “Đạm Phương- người rung tiếng chuông đòi quyền
sống của phụ nữ từ hồi đầu thế kỷ”, Báo Đại đoàn kết, số Xuân.
40. Chương Thâu (st,bs) (2001), Phan Bội Châu toàn tập, tập 5, Nxb Thuận
113
Hóa và trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Huế.
41. Bích Thu (2000), Văn học và Báo chí – Từ một góc nhìn, Nxb Văn học,
Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Thiện (cb) (1997), Tuyển tập phê bình nghiên cứu Văn
học Việt Nam 1900- 1945, Nxb Văn học, Hà Nội.
43. Nguyễn Ngọc Thiện, Lữ Huy Nguyên (st) (1998), Tao Đàn 1939, Nxb
Văn học, Hà Nội.
44. Bùi Đức Tịnh (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu
thuyết và thơ mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
45. Huỳnh Văn Tòng (1994), Lịch sử báo chí Việt Nam từ đầu thế kỷ đến
1930, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
46. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Phạm Yến (1996), “Cảm hứng về thân phận người phụ nữ trong văn hóa
xưa và nay”, TVVHNT, (12), tr 25.
48. Nguyễn Khắc Xương (st,bs,gt) (2002), Tản Đà toàn tập, Nxb Văn học,
Hà Nội.
Internet:
49. Lại Nguyên Ân, Phan Khôi và Đạm Phương nữ sử, qua một bức thư và
một bài báo (Tham luận tại hội thảo về Đạm Phương Nữ Sử, Huế),
http://trannhuong.com/tin-tuc-8951/phan-khoi-va-dam-phuong-nu-suqua-
mot-buc-thu-va-mot-bai-bao.vhtm, 19/6/ 2011
50. Đặng Thị Vân Chi,Vấn đề nữ quyền ở Việt Nam đầu thế kỷ XX,
http://chuyencuachi.blogspot.com/2010/01/van-e-nu-quyen-o-viet-nam-
au-ky-xx.html, 13/1/2010
51. Đặng Thị Vân Chi, Gia huấn; Nữ huấn và giáo dục phụ nữ thời phong
114
kiến qua một số tác phẩm giáo dục gia đình của Đặng Xuân Bảng,
http://chuyencuachi.blogspot.com/2011/07/gia-huan-nu-huan-va-giao-
duc-phu-nu.html, 11/7/2011
52. Tôn Phương Lan, Đạm Phương nữ sử và ánh xạ tư tưởng nữ quyền,
http://vhnt.org.vn/NewsDe140tails.aspx?NewID=855&cate=, 15/3/2012
53. Lê Thị Thanh Tâm, Phan Thị Bạch Vân và tinh thần phụ nữ
http://www.khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_conte
nt&view=article&id=1098:phan-th-bch-van-va-tinh-thn-ph-n&catid=63:vn-
hc-vit-nam&Itemid=106, 15/4/2010
54. Trần Nho Thìn, Nho giáo và nữ quyền,
http://khoavanhoc.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id
=419:nho-giao-va-n-quyn&catid=42:cong-trinh-khoa-hc&Itemid=116,
25/05/2010
55. Trần Nho Thìn, Tư tưởng nữ học của Đạm Phương nữ sử (kỳ 1),
http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van hoa/2976-
tu-tuong-nu-hoc-cua-dam-phuong-nu-su-ky-1.html, 03/08/2011
56. Trần Nho Thìn, Tư tưởng nữ học của Đạm Phương nữ sử (kỳ 2),
http://vanhoanghean.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-
hoa/2982-tu-tuong-nu-hoc-cua-dam-phuong-nu-su-ky-2.html, 04/08/2011
57. Nguyễn Hưng Quốc, Nữ quyền luận, http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=147,
15/4/2012
58. Bùi Quang Minh, Văn minh tân học sách, http://khaisang.blogspot.com/2013/03/van-minh-tan-hoc-sach.html, 31/3/2013 Những tờ báo đã khảo sát:
115
59. Thực nghiệp dân báo (1933, 1934) - KH: J8M - TVQG 60. Trung lập (1933) - KH: J18M- TVQG 61. Phụ nữ tân văn (1933, 1934) - KH: C271M- TVQG 62. Phụ nữ thời đàm (bộ mới) (1933- 1934) - KH: V‟372 – VSH 63. Tràng An (1935, 1936) - KH: J254- TVQG
PHỤ LỤC
Danh mục các bài báo của Phan Khôi bàn về phụ nữ
Tên bài Tên báo Số báo Ngày ra báo
1 Câu chuyện hằng ngày: Đàn bà con ĐPTB 735 23.6.1928
gái có nên diễn thuyết
2 Câu chuyện hằng ngày: Vợ chồng ĐPTB 799 30.11.1928
bằng giấy
3 Về văn học của phụ nữ Việt Nam PNTV 2.5.1929 1
4 Văn học với nữ tánh PNTV 9.5.1929 2
5 Đàn bà cũng nên làm quốc sự PNTV 9.5.1929 2
6 Văn học của phụ nữ nước Tàu về PNTV 16.5.1929 3
thời kỳ toàn thạnh
7 Cái chức vụ của phụ nữ trong các kì PNTV 4 23.5.1929
tuyển cử
8 Đàn bà với quốc sự PNTV 30.5.1929 5
9 Lại nói về vấn đề văn học với nữ PNTV 6.6.1929 6
tánh
10 Ý kiến của chúng tôi đối với thời sự PNTV 6.6.1929 6
116
11 Cái vấn đề nữ lưu giáo dục PNTV 13.6.1929 7
12 Theo tục ngữ, phong dao xét về sự PNTV 5; 7; 8; 30.5.1929;
sinh hoạt của phụ nữ nước ta 9; 10; 13.6.1929;
12;13; 20.6.1929;
14; 15; 27.6.1929;
17; 18 4.7.1929;
18.7.1929;
25.7.1929;
1.8.1929;
8.8.1929;
22.8.1929;
29.8.1929
13 Việt Nam phụ nữ liệt truyện PNTV 1; 7; 10; 2.5.1929;
14; 15; 13.6.1929;
16; 20 4.7.1929;
1.8.1929;
8.8.1929;
15.8.1929;
12.9.1929
14 Tổng luận về cuộc chưng cầu ý kiến PNTV 15 8.8.1929
của PNTV
15 Một cái gương sáng cho người làm PNTV 19 5.9.1929
mẹ
16 Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự PNTV 20 12.9.1929
117
do
17 Chữ trinh: cái tiết với cái nết PNTV 21 19.9.1929
18 Luận về phụ nữ tự sát 22 26.9.1929 PNTV
19 Chuyện bà cố tôi 25 17.10.1929 PNTV
20 Nữ công 26 24.10.1929 PNTV
21 Hoàng đế với phụ nữ PNTV 36 9.1.1930
22 Những tục lạ về nam nữ ở thế gian PNTV 36; 37; 9.1.1930;
38 16.1.1930;
23.1.1930
23 Câu chuyện hằng ngày: Ông Thần 298 17.1.1930
Clemenceau với phụ nữ chung
24 Lại hoàng đế với phụ nữ (Chuyện PNTV 50 1.5.1930
một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị
tử hình)
25 Đàn bà mới ở một nước mới Thổ PNTV 51; 52 8.5.1930;
Nhĩ kỳ 15.5.1930
26 Xóa một cái án trong lịch sử: Thân PNTV 53; 55 22.5.1930;
oan cho Võ Hậu 5.6.1930
27 Trả lời mấy vị độc giả hỏi về bài PNTV 60 10.7.1930
“Thân oan cho Võ Hậu”
118
28 Những điều nghe thấy: Đồ đàn ông Trung lập 6534 23.1.1931
voi xé
29 Những điều nghe thấy: Lòng tín Trung lập 6362 2.2.1931
nghĩa nữ lưu
30 Những điều nghe thấy: Con mình và Trung lập 6384 6.3.1931
con người
31 Những điều nghe thấy: Mang nặng Trung lập 6385 7.3.1931
và đẻ đau
32 Gia đình ở xứ ta nay đã thành ra vấn PNTV 83 21.5.1931
đề rồi
33 Cái chế độ gia đình nước ta đem PNTV 85 4.6.1931
gióng với luân lí Khổng Mạnh
34 Sự lập thân của thanh niên nam nữ PNTV 87 18.6.1931
đời nay
35 Lại nói về tam cang với ngũ luân PNTV 2.7.1931 89
36 Tống Nho với phụ nữ PNTV 95 13.8.1931
37 Một cái hại của chế độ đại gia đình: PNTV 96 20.8.1931
Bà gia với nàng dâu
38 Những điều trông thấy: Không chăn Trung lập 6501 30.7.1931
gối cũng vợ chồng
39 Những điều nghe thấy: Chị em ta Trung lập 6581 3.11.1931
119
hãy nghe các ổng họ khen bà Tú
Xương
40 Một cái án mạng mà người thủ Trung lập 6635 11.1.1932
phạm được tiêu diêu ngoài pháp luật
41 Trong một tuần lễ hai cái án phụ nữ PNTV 117 21.1.1932
tự sát
42 Vấn đề cải cách cho phụ nữ PNTV 118 28.1.1932
43 Sự phân cách nam nữ và sự tỵ hiềm PNTV 130 12.5.1932
44 Thế nào là phụ nữ giải phóng Trung lập 6732 20.5.1932
45 Cuộc phụ nữ vận động ở nước Triều PNTV 138; 6.6.1932;
Tiên 144 16.6.1932
46 Giải quyết một vấn đề gia đình (Con PNTV 159 14.7.1932
có vợ rồi, có nên ở chung với cha
mẹ chăng)
47 Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân PNTV 158; 7.7.1932;
sanh quan 160 21.7.1932
48 Trả lời bài Vấn đề phụ nữ giải PNTV 162 4.8.1932
phóng với nhân sanh quan
49 Những điều nghe thấy: Thờ đàn bà Trung lập 6724 9.5.1932
50 Những điều nghe thấy: Phong hóa Trung lập 6725 10.5.1932
Nam Kỳ tốt hơn đâu hết
120
51 Những điều nghe thấy: Phụ nữ giải Trung lập 6837 22.9.1932
phóng
52 Những điều nghe thấy: Gái khôn Trung lập 6847 4.10.1932
53 Tạp trở: Trời, vua với đàn bà con PNTV 121 3.3.1932
gái
54 Tạp trở: Pháp luật đối với phụ nữ PNTV 130 12.5.1932
55 Tạp trở: Sự vợ chồng li dị ở nước PNTV 159 14.7.1932
phô-lôn
56 Tạp trở: Số các nhà nữ tác giả bên PNTV 160 21.7.1932
Tàu trong khoảng ba trăm năm nay
57 Cái quan hệ đối với tờ nữ báo PNTĐ 3.2.1933 12
58 Sao chúng tôi không bài trừ cái dịch PNTĐ 17.2.1933 14
khiêu vũ
59 Những điều nghe thấy: Vì mụ Tú bà Trung lập 6988 15.4.1933
60 Những điều nghe thấy: Do sự nặng Trung lập 6991 20.4.1933
nhẹ
61 Tạp trở: Câu chuyện thú trong nghị PNTV 161 22.7.1933
viện có đàn bà
62 Phụ nữ thời đàm đổi làm tuần báo PNTĐ 1 17.9.1933
63 Tạp trở: Đi cưới chồng PNTĐ 1 17.9.1933
64 Cái ý nghĩa thật của vấn đề phụ nữ ở PNTĐ 1 17.9.1933
121
xứ ta
65 Tư cách người phụ nữ xưa nay khác PNTĐ 2 24.9.1933
nhau: làm vợ, làm mẹ với làm người
5 66 Phản đối bài: Thiên chức của đàn bà PNTĐ 15.10.1933
7 67 Gái tân thời ở Hà Nội PNTĐ 29.10.1933
7 68 Nữ diễn giả trong Nam PNTĐ 29.10.1933
9 69 Đàn bà nên học thuốc PNTĐ 12.11.1933
70 Phụ nữ Hà Nội với sự xướng lập: PNTĐ 10 19.11.1933
Nữ lưu học hội ở Sài Gòn
15 71 Phụ nữ thể thao PNTĐ 24.12.1933
18 72 Lời bạt về bài “Vấn đề luyến ái” của PNTĐ 14.1.1934
Liêu Kỳ Lộc
73 Đáp ông Hồng Tiêu về bài: Ỷ chúng PNTĐ 19 21.1.1934
hiếp cô
21 74 Sách giáo khoa cho nữ sinh PNTĐ 4.2.1934
21 75 Tiểu phê bình: Bà Tương Phố lấy PNTĐ 4.2.1934
chồng
76 Một việc quan hệ vừa với nhân Tràng An 4 12.5.1935
mạng vừa với khoa học: Người đàn
bà bị bỏ đỉa vào tai
77 Việc người đàn bà bị bỏ đỉa vào tai Tràng An 5; 8 15.5.1935
122
26.5.1935