ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----***----- ĐỖ THỊ HẢI THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN TỪ NGUYÊN TĨNH
NGÀNH : VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỎA DIỆU THÚY
Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục
PHẦNMỞĐẦU........................................................................................................6 1. Lí do chọn đề tài:....................................................................................................6 2. Lịch sử vấn đề:......................................................................................................6 3. Mục tiêu nghiên cứu:.............................................................................................9 4. Đối tƣợng và phạm vinghiên cứu:.....................................................................10 5. Phƣơng phánghiên cứu:......................................................................................10 6. Cấu trúc của luận văn:........................................................................................11 PHẦN NỘI DUNGChƣơng một: Truyện ngắn từ nguyên tĩnh - Một không gian
xứ Thanh đậm nét……………………………………………………………….12 1.1. Nông thôn Xứ Thanh qua hình ảnh “làng tôi” của tác giả .......................12 1.1.1. “Làng tôi” với những hiện thực bi hài trong quá khứ............................12 1.1.2. “Làng tôi” trong thời mở cửa..................................................................18 1.2. Một Xứ Thanh kiên cường bất khuất qua hình ảnhHàm Rồng...................25 1.2.1. Hình ảnh Hàm Rồng, trọng điểm hủy diệt của Đế quốc Mỹ.....................25 1.2.2. Hình ảnh Hàm Rồng hiên ngang,bất khuất.............................................27
Chƣơng hai: Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú................................................34 2.1. Nhân vật tư tưởng.............................................................................................34 2.2. Nhân vật số phận..............................................................................................41 2.3. Nhân vật loại hình..............................................................................................45 2.3.1. Nhân vật người tốt...........................................................................................45 2.3.2. Nhân vậtngười xấu.........................................................................................52 2.4. Nhân vật tính cách.......................................................................................57 2.4.1. Kiểu tính cách “lưỡng hóa”......................................................................58 2.4.2. Kiểu tính cách “tự nhiên bản thể”.............................................................60
Chƣơng ba: Một số đặc điểm ở phƣơng diện trần thuật
...........................................64 3.1. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt..........................................................................64
4
3.1.1. Điểm nhìn gián tiếp....................................................................................64 3.1.2. Điểm nhìn trực tiếp.....................................................................................66 3.1.3. Điểm nhìn nửa trực tiếp, nửagián tiếp........................................................68 3.2. Sử dụng yếu tố huyền ảo để dẫn dắt và kết nối mạch truyện...........................71
3.2.1. Khai thác đề tài dân gian để tạo dựng cốt truyện kỳ ảo............................71
3.2.2. Sử dụng tình tiế, chi tiết hoang đường, kì ảo làm hạt nhân của tứ truyện..72
3.3. Giọng điệu trần thuật đa giọng.........................................................................74 3.3.1. Giọng nghiêm cẩn, cung kính.....................................................................74 3.3.2. Giọng ngợi ca.............................................................................................75 3.3.3. Giọng khách quan, lạnh lùng......................................................................76
3.3.4. Giọng cảm thông, chia sẻ.............................................................................78
3.3.5. Giọng hài hước, châm biếm................................. .......................................78
3.3.6. Giọng giễu nhại............................................................................................79
KẾT
PHẦN LUẬN..................................................................................................................82 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................83
5
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Luận văn được hình thành từ những lý do sau:
Từ Nguyên Tĩnh là nhà văn xứ Thanh với đúng nghĩa của cách gọi ấy: ông sinh
ra và lớn lên ở xứ Thanh, vào bộ đội thì trở thành anh lính Hàm Rồng. Trừ mấy năm
được “mài đũng quần” trên ghế của giảng đường khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng
hợp rồi lại trở về với mảnh đất đã sinh thành và chắp cánh cho ông trở thành nhà văn
như bây giờ. Đó là lí do khiến phần lớn sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh đều lấy cảm
hứng từ xứ Thanh, đậm đặc không gian xứ Thanh, thấm đẫm tâm hồn tính cách xứ
Thanh. Ở một mức độ nào đó muốn tìm hiểu về con người và mảnh đất Thanh Hóa
giai đọan hiện đại có thể tìm đến sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh như một địa chỉ đáng
tin cậy.
Từ Nguyên Tĩnh vẫn luôn nhận mình là nhà văn tỉnh lẻ, nhưng “nhà văn tỉnh
lẻ” này trong ngót ba mươi năm cầm bút đã cho ra mắt 6 tập truyện ngắn, 4 tiểu
thuyết, 2 tập thơ và một trường ca. Tuy nhiên, nghệ thuật không quen đo đếm ở số
lượng, tác phẩm của Từ Nguyên Tĩnh cũng đã được nhận nhiều giải thưởng văn
chương.
Truyện ngắn dường như là thể loại gắn bó suốt đời của cây bút này: sáng tác
đầu tay là truyện ngắn, đỉnh cao thành công của sự nghiệp sáng tác là truyện ngắn và
hình như cứ vài năm lại đều đặn cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn. Tập Truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh – NXB Công an nhân dân, 2006 cho thấy truyện ngắn là nơi
tập trung “cái hồn, cái tạng của nhà văn”.
Tìm hiểu thế giới nghệ thuật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, luận văn nhằm
hướng tới tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của một tác giả tiêu biểu, có đóng góp cho sự
phát triển của một vùng văn học nói riêng, nền văn học Việt Nam nói chung.
Hiện nay trong chương trình ở các cấp phổ thông và đại học đã đưa nội dung
giới thiệu tác giả và tác phẩm văn học địa phương vào giảng dạy. Luận văn nghiên cứu
6
một tác giả địa phương nhằm phục vụ cho việc tìm hiểu, học tập và góp phần xây
dựng chương trình này.
2. Lịch sử vấn đề:
Từ Nguyên Tĩnh từng đoạt nhiều giải thưởng văn chương, vì vậy, tác phẩm của
ông đã thu hút được sự quan tâm độc giả trong đó có giới phê bình, nghiên cứu. Là
cây bút xông xáo trên nhiều thể loại nên số lượng bài viết về tác phẩm ông cũng không
ít. Theo thống kê của chúng tôi, những bài viết phần lớn tập trung cho mảng truyện
ngắn, với hai hướng nghiên cứu sau:
Hướng nghiên cứu thứ nhất, tập trung vào một truyện hoặc một tập truyện cụ
thể. ở hướng nghiên cứu này, thường là các bài phê bình, cảm nhận về một truyện nào
đó được giải hoặc có sự độc đáo, thú vị, cũng có thể nhân một tuyển tập truyện ngắn
của tác giả ra mắt bạn đọc. Chẳng hạn, bài viết “Từ Nguyên Tĩnh qua truyện ngắn
Người tình của cha” của Nguyễn Minh Khiêm - Báo Văn hóa Thông tin số 31-32(918-
919) ngày21/6/2007. Theo Nguyễn Minh Khiêm, truyện ngắn Người tình của cha: “là
một tác phẩm có sức lôi cuốn và ám ảnh (...) Cái tầm văn hóa dân tộc, cái đặc trưng
nhất của người Việt được thẩm thấu trọn vẹn qua Người tình của cha...”. Khi tập
truyện ngắn “Mối tình chàng Lung mù” ra mắt đã nhận được sự hưởng ứng của độc
giả.
Đáng chú ý hơn cả là ba bài viết của các tác giả: Bùi Việt Thắng, Văn Đắc và
Nguyễn Văn Lưu. Bùi Việt Thắng trong “Mối tình chàng Lung mù- tập truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992” in trên báo Văn nghệ quân đội tháng 12/1993, cảm
nhận rằng trong “Mối tình chàng Lung mù” Từ Nguyên Tĩnh đã “viết bằng cả tấm
lòng, cả bầu tâm sự muốn dốc hết và chia sẻ với mọi người những suy ngẫm của mình
trước con người(...) Truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh cuốn hút người đọc nhờ lối kể
chuyện nửa thực nửa hư, bàng bạc màu sắc huyền thoại cổ tích...”. Văn Đắc trong
“Mối tình chàng Lung mù- tập truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992” in trên
báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam số 25(1745) thứ 7 ngày 19/6/1993 thì tâm đắc
với cách kể chuyện “ngắn về lời mà thật dài về thân phận, kể, ngẫm mãi không dứt.
Truyện như thế là có dư vị”. Nguyễn Văn Lưu trong “ Nhìn cuộc đời nhân ái - về tập
truyện ngắn Mối tình chàng Lung mù” in trên báo Nhân Dân thứ 7, ngày 1/8/1993 thì
bị lôi cuốn bởi “cách viết trầm tĩnh và cái nhìn nhân ái về cuộc đời” của tập truyện. 7
Tuy nhiên, như đã nói, những bài viết trên đây mới là những ý kiến nhận xét
bước đầu, những cảm nhận, đánh giá khái quát chứ chưa đi sâu khảo sát, nghiên cứu
phân tích. Song đó cũng là những ý kiến bổ ích cho đề tài của chúng tôi.
Hướng nghiên cứu khái quát:
ở hướng nghiên cứu này có hai dạng: thứ nhất, nghiên cứu bao quát toàn bộ tác
phẩm của tác giả, như bài viết: “Cây bút xứ Thanh” của tác giả Bùi Việt Thắng in trên
báo Văn Hóa Thanh Hóa số 383, 7/1998. Trong khuôn khổ của một bài báo mà đưa ra
ý kiến về tất cả các thể loại thì chỉ có thể là những nhận xét bước đầu hoặc những cảm
nhận khái quát, chẳng hạn “Từ Nguyên Tĩnh viết cả ký, tiểu thuyết và truyện ngắn,
nhưng dĩ nhiên người đọc vẫn nhớ anh là một nhà văn viết truyện ngắn rất có duyên
hiện nay... góp phần làm khởi sắc thể loại “nhỏ” vốn có truyền thống và thành tựu
trong nền văn học dân tộc, đặc biệt ở thế kỉ XX”.
Tác giả Đỗ Văn Phác trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh (Nhân đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh– NXB Công an nhân dân, năm
2006)” in trên tạp chí Xứ Thanh tháng 8/2007 thì cảm nhận được nội dung cụ thể của
một số truyện ngắn tiêu biểu và phần nào phát hiện ra bút pháp nghệ thuật của nhà
văn.
Đáng kể hơn cả là một số bài viết đã đi sâu nghiên cứu về một phương diện
nào đó của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, như : “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh” in trên tạp chí Xứ Thanh số 323, 5/2008; “Về yếu tố huyền thoại kì
ảo trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh” ” in trên tạp chí Xứ Thanh 8/2008, và “Truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh- món nợ làng quê” (Đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, NXB
Công an ND, 2006 ) in trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số 148, 5/2007 của
TS Hỏa Diệu Thúy. Theo TS Hỏa Diệu Thúy, thế giới nhân vật trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh “đa dạng về tính cách, phức tạp trong tâm hồn”; ấn tượng nhất trong
nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là yếu tố “huyền thoại kì ảo”; cũng theo TS
Hỏa Diệu Thúy, quê hương là nỗi ám ảnh lớn nhất của Từ Nguyên Tĩnh, nỗi ám ảnh
ấy như trở thành “món nợ” trong xúc cảm nghệ thuật của ông.
Tác giả Mạnh Lê trong bài viết “Mấy đặc sắc truyện ngắn Từ NguyênTĩnh”
trên tạp chí Xứ Thanh số 45 cũng đã cảm nhận về truyện ngắn của ông: “...quả là văn
anh có nguồn mạch. Cái mạch nguồn dễ nhận ra trước mắt là sắc thái một vùng quê”. 8
Tác giả cũng nhấn mạnh nét đặc sắc truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là truyện đậm chất
triết lí và “yếu tố huyền ảo”.
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh cũng đã thu hút được sự chú ý của sinh viên đại
học. Chẳng hạn, sinh viên Hứa Linh Phương K44 Báo Chí- Trường Đại học
KHXH&NV Hà Nội có bài viết “Những câu chuyện Hàm Rồng và cái nhìn nhân ái”
(Về tập truyện ngắn Mối tình chàng Lung mù – Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992).
Một công trình dài hơi hơn là khóa luận tốt nghiệp của Huỳnh Sơn- sinh viên
Đại học Huế với tên gọi “Bản sắc nghệ thuật Từ Nguyên Tĩnh”. Khóa luận có 3
chương: Chương một: “Từ Nguyên Tĩnh và truyện ngắn”, ở chương này tác giả lí luận
chung về truyện ngắn và giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm; Chương hai “Nội dung
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh”. Như tên chương đã gợi ra, tác giả tìm hiểu nội dung
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh ở các nội dung cụ thể sau: “Mỗi truyện ngắn Từ Nguyên
Tĩnh là một tấm lòng, một nỗi niềm tâm sự, một ước vọng và khát khao riêng”, đó là
“sự chiêm nghiệm về số phận của con người” ;và Chương ba “Nghệ thuật truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh”. Về nghệ thuật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, khóa luận đưa ra
nhận xét như sau: Mỗi câu chuyện của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh là một sự chiêm
nghiệm về số phận của con người, là sự “liên tưởng, hồi tưởng đan xen qúa khứ, hiện
tại, tương lai”.
Tuy nhiên trong khoá luận, Huỳnh Sơn chủ yếu đi vào lí thuyết chung về thể
loại truyện ngắn và phân tích nội dung một số truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh. Các ý
triển khai có sự lặp lại ở các chương chứ chưa phát hiện ra những ý mới. Nhìn chung,
trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, Huỳnh Sơn chưa đưa ra được những ý
kiến có chiều sâu bàn bạc, nghiên cứu.
Như vậy, nhìn chung, các bài viết, kể cả khóa luận tốt nghiệp của Huỳnh Sơn
cũng mới dừng ở “bước đầu tìm hiểu”, hoặc “nhân đọc” hoặc chỉ đi sâu vào một
phương diện nào đó của tác phẩm chứ chưa nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện
toàn bộ thế giới nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh. Các bài viết trên tuy đã cho
chúng tôi những gợi ý quý báu song chúng tôi nhận thấy nguồn tư liệu đánh giá về
truyện ngắn của ông là khá phong phú tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về thế giới nghệ thuật truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh. Chúng tôi coi đó là chỗ còn bỏ ngỏ để đặt vấn đề nghiên cứu. 9
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn hướng tới tìm hiểu, nhận diện thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh, từ đó nhằm tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn đồng thời
chỉ ra nét đặc trưng riêng của một nhà văn gắn bó với địa phương, vì vậy tác phẩm
mang sắc thái địa phương rõ nét.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Quan niệm về đề tài: Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi chủ biên- NXB Giáo dục, năm 2000, “Thế giới nghệ
thuật” là “một thế giới riêng được sáng tạo theo các nguyên tắc tư tưởng”; Thế giới
nghệ thuật có “không gian riêng, thời gian riêng, có quy luật tâm lí riêng, có quan hệ
xã hội riêng, quan niệm đạo đức thang bậc giá trị riêng”; Mỗi thế giới nghệ thuật “ứng
với một quan niệm về thế giới, một cách cắt nghĩa về thế giới”. Thế giới nghệ thuật
giúp ta “hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội
nguồn trong thế giới quan, văn hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của
nghệ sĩ”.
Xét theo quan niệm trên, Từ Nguyên Tĩnh quả đã tạo ra được một thế giới nghệ
thuật riêng trong các sáng truyện ngắn của mình. Thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với
mảnh đất và con người xứ Thanh được lọc qua lăng kính của một người con xứ Thanh.
- Phạm vi và cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Thế giới nghệ thuật”
trong các sáng tác truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống. Nghiên cứu toàn bộ toàn bộ sáng tác truyện ngắn của
một nhà văn rất cần tới những thống kê, phân loại. Phương pháp hệ thống giỳp cho việc
phỏt hiện ra hạt nhõn lụ gớc tạo nờn tớnh khu biệt của loại hỡnh thể loại, từ đó xác định
rõ đối tượng nghiên cứu, khảo sát.
- Phương pháp loại hình. Đề tài tập trung khảo sát nghiên cứu một thể loại là
truyện ngắn vì vậy cần tới những thao tác của phương pháp loại hình.
- Luận văn cũng sẽ sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp phân
tích văn học, phương pháp so sánh văn học hoặc phối hợp một số phương pháp nghiên
cứu liên ngành. 10
- Từ Nguyên Tĩnh là nhà văn đương đại, cho nên trong khi giải quyết đề tài,
chúng tôi có thể sử dụng phương pháp phỏng vấn để làm sáng rõ đề tài.
6. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của luận văn sẽ được kết cấu thành
ba chương:
Chương một: Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, một không gian Xứ Thanh đậm
nét
Chương hai: Thế giới nhân vật đa dạng, phong phú
Chương ba: Một số đặc điểm ở phương diện trần thuật
11
NỘI DUNG
Chƣơng một
TRUYỆN NGẮN TỪ NGUYÊN TĨNH, MỘT KHÔNG GIAN
XỨ THANH ĐẬM NÉT
Là một trong những cây bút khi đã thành danh rồi vẫn bám trụ tại mảnh đất quê
nhà, phải chăng đó chính là lí do khiến không gian nghệ thuật chính trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh là không gian xứ Thanh, là con người và cuộc sống của mảnh đất
miền trung nắng gió mặn mòi.
1.1. Nông thôn Xứ Thanh qua hình ảnh “làng tôi” của tác giả
Từ Nguyên Tĩnh sinh ra ở làng Bàn Thạch, xã Xuân Quang, huyện Thọ Xuân,
Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 36 km về phía tây tính theo đường chim bay.
Đó là một làng thuần nông “ít học, chỉ thích cày ruộng, quanh quẩn với vài sào ruộng
hoặc cày thuê cuốc mướn.”. Một vùng đất bán sơn địa, song có lẽ là mạch đất hưng
vượng nên “sinh ra cả anh hùng và thi sĩ”. Đây là quê hương của hai bậc anh hùng hào
kiệt có công sáng lập nên hai triều đại lớn trong lịch sử dân tộc: Lê Hoàn và Lê Lợi;
cũng là nơi phát tích nghề ca công. Mảnh đất giàu trầm tích văn hoá này trở thành
nguồn cảm hứng dồi dào cho các sáng tác của Từ Nguyên Tĩnh.
1.1.1. “Làng tôi” với những hiện thực bi hài trong quá khứ
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh có một mảng lớn về hiện thực nông thôn và nông
thôn ấy chủ yếu là sự việc và con người của quê hương tác giả. Có nhà nghiên cứu đã
nhận xét rằng Từ Nguyên Tĩnh đã “mượn ô cửa làng mình để nhìn ra thế giới”. Từ
làng Bàn Thạch trong thực tế, vào đến tác phẩm lúc thì vẫn là làng Bàn Thạch, lúc lại
trở thành làng La Đá Hạ. Với không gian làng mình, Từ Nguyên Tĩnh đã tái hiện bức
tranh nông thôn xứ Thanh sống động đủ những cung bậc bi hài.
Hãy bắt đầu bằng truyện ngắn “Kiếp người”. “Kiếp người” lấy cảm hứng từ
hiện thực sau Cách mạng tháng Tám 1945, tiếp đến là cuộc cải cách ruộng đất vào
những năm 50, 60 của thế kỉ trước ngay ở chính làng quê của tác giả, “làng tôi”, thậm
chí là câu chuyện của chính gia đình “tôi” – tác giả. Những vui buồn của những năm
tháng ấy dường như không thể nguôi ngoai trong cảm xúc của những người trong
cuộc. Qua câu chuyện của chị Kén- nhân vật trong truyện cũng là “chị ruột” của nhân
vật người kể chuyện, hiện lên cuộc sống và không khí nông thôn xứ Thanh một thời. 12
“Năm 1945 chị Kén tôi mười sáu. Cùng lũ gái làng ra đình Bàn Thạch xem
nghĩa quân cách mạng về cướp chính quyền Nam Triều”. Sau đó là những ngày tháng
sôi nổi của một nông thôn hừng hực khí thế cách mạng. “Chị tôi vào thanh niên cứu
quốc, đi “một hai” tập võ bị. Cha mẹ tôi vui lắm. Chị Kén đã thành cách mạng rồi.”
[33; 135]
“Chị Kén tôi” đẹp nức tiếng trong vùng, “mặt tròn như vành trăng, da trắng, tóc
dài. Trời sao lại cho nhà tôi. Bây giờ những người còn sống cùng tuổi chị vẫn kể lại.
Trầm trồ khen chị đẹp.” Chị đã lọt mắt xanh người cưỡi bạch mã về làng tước ấn tín
của bọn cường hào địa chủ - anh Lượng. “Nhà tôi vinh dự có con rể làm lãnh đạo cách
mạng. Đám cưới của chị Kén và anh câu Lượng nổi tiếng cả một vùng”.
Cải cách đến, bỗng dưng anh câu Lượng bị bắt, bị qui là phản động: “làm người
cách mạng nằm bờ nằm bụi mà dám lấy con nhà bóc lột làng Bàn Thạch, mà tổng
Cương Thạch này ai lạ gì con cháu cố Cửu. Ruộng đất của ông ta bằng cả hồ làng Bàn
Thạch”. Chả là, “ông bà tôi vốn giàu có, cũng từ chuyện chân lấm tay bùn” mà nức
tiếng tốt bụng của làng Bàn Thạch. “Có năm làng mất mùa, đã lấy lúa của nhà giúp
làng nộp thuế”. Song, giàu khi ấy là một “tội”, trở thành mầm họa. Máy bay Đa-cô-ta
của Pháp oanh tạc chợ Rạng, cầu Quần Kênh được nghi là có “chỉ điểm”. Anh Câu
Lượng “bị li khai khỏi tổ chức”, “không hiểu có bị tra tấn không nhưng người anh
còm rom và mắc bệnh ho lao”. “Xưa làng xã tung hô anh bao nhiêu thì thì bây giờ tẩy
chay phỉ nhổ: “Cái quân phản động ấy dây vào làm gì... chắc là bị tra tấn trong tù
không chịu nổi khai ra... Mà phải lắm đấy... Nó lại lấy con cái nhà giàu...”. “Người ta
quên đi công lao thầy mẹ tôi, chị Kén mua vàng , hiến của cho cách mạng. Họ cũng
chẳng cần biết bom đạn và tai biến nhắm vào gia đình tàn tạ...” [33, 139]
Đó là không khí của những năm cải cách ruộng đất với những chính sách bắt
nguồn từ tư duy ấu trĩ, cực đoan mà ngay sau đó Đảng ta đã nhận ra sai lầm. Cái ấu trĩ,
thiển cận của một thời khiến con người ta không quan tâm đến ngọn nguồn của sự việc
để xem xét đánh giá, yêu và ghét một cách hồn nhiên theo cảm tính dẫn đến những
oan sai cho bao số phận. Chị Kén “tôi” từ ngày ấy chìm nổi, ngụp lặn trong cuộc sống
bi đát nhất, bị hạ nhục, bị dày vò, chị trở thành nạn nhân của sự sai lầm trong tư duy
ấu trĩ. Tác giả không giấu nổi sự xót xa cho thân phận người chị khốn khổ chân yếu
tay mềm bị vùi dập tức tưởi: “…bó chị vào manh chiếu rách nát, khênh chị ra Mã 13
Tiền. Chị không tưởng tượng nổi được mình ra đi lại khốn khổ như thế này. Chị từng
đẹp một thời. Ai nhìn đến chị thảy đều giật mình, cùng một kiếp người…Chị ra Mã
Tiền không kèn trống, áo quan. Con Tấn khóc như xé vải: Mẹ ơi! Mẹ ơi”[33, 150].
Qua câu chuyện về người chị gái, câu chuyện về làng Bàn Thạch, Từ Nguyên Tĩnh đã
dựng lại không khí của những năm tháng ấy trên mảnh đất xứ Thanh. Nỗi đau không
hề nhỏ, những mất mát xuất phát từ những sai lầm, song dẫu sao, khí thế cách mạng
đang hừng hực khi đó đã cuốn đi tất cả.
Truyện Gã nhà quê lại là câu chuyện về một kiếp người khác, kiếp của lão Cao,
lão già cô độc chột một mắt để lại cho tác giả nhiều ấn tượng nhất mỗi khi nhớ về làng
mình hay nếu có ai nhắc đến hai chữ “nhà quê”. Chuyện về cuộc đời lão Cao làm nghề
chăn vịt, biết đủ thứ chuyện trên đời. Cuộc đời lão như một pho sử của làng. Câu
chuyện về cuộc đời lão cho ta hình dung về một nông thôn xứ Thanh ở một giai đoạn
lịch sử một đi không trở lại. “Thời ấy dân mình ngu hơn bây giờ. Chỉ biết nai lưng ra
làm cho bọn chánh, lý hào mục hưởng”. Câu chuyện của lão Cao với lũ trẻ đưa người
đọc trở về cái “thời ấy”, cái thời nô lệ. Lão Cao tứ cố vô thân không tấc đất cắm dùi,
đổi lại Cao khoẻ mạnh và khá lanh lợi (bằng chứng là anh ta xúi cho cường hào địa
chủ đào ao thả cá và người làng Bàn Thạch đã có một dãy ao tới vài chục mẫu). Cao
phải đi làm thuê cho địa chủ, anh chàng nghèo hèn nhưng khoẻ mạnh đã đem lòng yêu
con gái địa chủ và cũng được yêu lại. Sự việc bị phát giác, Cao bị nhà địa chủ đánh
cho gục đổ như cây chuối, lại bị làm nhục trước mặt người yêu. May nhờ có người đàn
bà tàn tật dìu về thuốc thang mới thoát chết. Nhưng tình yêu của thời trai trẻ còn mạnh
hơn cái chết. Cao rình gặp Liên và lần liều mạng này Cao phải trả giá bằng một con
mắt. Cao bị đuổi ra đám cồn hoang cắm lều chăn vịt.
Rồi những năm cải cách, những người nghèo khổ như lão Cao trở thành “yếu
nhân” trong làng. Lão Cao đã lọt vào tầm ngắm có thể làm chủ tịch xã bởi “cải cách
người ta tìm người khổ nhất làng để làm chủ tịch xã. Trong làng, lão là người “bị ăn
đòn roi của địa chủ nhiều nhất” [33; 27]. Nhưng cuối cùng lão Cao đã không được làm
chủ tịch bởi lão gây ra chuyện động trời là tiếp tế trứng vịt cho địa chủ phản động.
Câu chuyện về cuộc đời lão Cao càng tô đậm thêm bức tranh ảm đạm của
những thân phận tối tăm, bé mọn chịu nhiều áp bức đè nén trong những năm trước
cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt, tác giả trở về với việc phản ánh những sai lầm, ấu trĩ 14
của một số chủ trương trong công cuộc cải cách ruộng đất, một hiện thực mà trước đây
những cây bút thường né tránh. Có thể coi đó là một thái độ dũng cảm. Những câu
chuyện của chị Kén, của lão Cao làm hiện lên bóng mây u ám của nông thôn xứ Thanh
một thời.
Truyện Họ hàng nông dân lại là một cách tiếp cận khác, tiếp cận từ cái nhìn bên
trong. Họ Công “toàn nông dân. Điều đó tỏ ra không có gì là thiệt thòi. Bốn đời là
nông dân. Thậm chí cả chục đời là nông dân”. “Điều đó đáng tự hào lắm”. Họ ấy
“đông thật… mạnh thật”. Ngày giỗ họ “các bậc bô lão ngồi ngắm con cháu ăn như dâu
tằm ăn mà không dừng lại được, đưa tay lên vuốt chòm râu”. Đã thế, dòng họ này còn
đã từng “thay nhau làm chánh, phó lý; hết cành trên lại xống cành dưới, hết cha đến
con”. Song, dòng họ này cũng có “khối chuyện buồn” và buồn nhất là “không đào đâu
ra người có chữ nghĩa”. “Mạnh và đông nhưng có nỗi buồn về thất học”. Nếu nói về
đức tính thì ông tổ họ này nổi tiếng tằn tiện. Thủa hàn vi “đi chợ tỉnh bán chanh không
dám ăn quà, uống nước sợ tốn tiền. Dọc đường đái cố nhịn bằng được về nhà mới tiểu
kẻo mất của. Còn ba cây số nhịn không nổi phải chọn một cục đất cay của người ta mà
tè, đem về”[1, 8]. Có thể nói đây là chi tiết đắt giá về tính kiệm cần của người nông
dân xứ Thanh. Nó “ngang cơ” với chi tiết ăn “cá gỗ” của người nông dân xứ Nghệ. Xứ
Thanh vốn là mảnh đất thiên nhiên hà khắc, thiên tai địch họa luôn là nỗi lo sợ đối với
người dân, vì vậy để sống được ở đây người dân phải hết sức tằn tiện và chịu khó.
Đời con, đời cháu hình như cũng kế thừa được “đức tính” ấy. Ông Thầu “có tài tần
tiện đến mức lạ lùng. Lò vôi của xã giao cho thằng cháu họ mỗi lần đi qua ông xin một
cục, một năm trời ông đã có hố vôi tôi làm được cái chuồng lợn. Người ta nói, gạch
làm bếp là do ông đi hót phân rơi ở đường nhặt về xây đủ đấy”. Họ này giàu là nhờ
tiết kiệm cùng với tính chịu thương chịu khó, thành có máu mặt ở làng. Qua những
chi tiết độc đáo trên ta thấy nó tiêu biểu cho tâm lý và cách sống tằn tiện chi li đến tội
nghiệp của một bộ phận người nông dân. Giàu do tiết kiệm, do chắt bóp. Đó là cách
vươn lên để tự khẳng định của người nông dân xứ Thanh.
Dòng họ ấy không chỉ nổi tiếng về tính tằn tiện, tiết kiệm mà cũng nổi bật về
tính háo danh. Cả họ Công đều giàu nhưng hầu hết cả họ đều buồn một nỗi là trong họ
không có ai làm quan to và con em “thiếu ăn học”, “Cái buồn làm nẫu ruột bọn choai
choai, cái buồn làm khô héo người già cả”. Con trai chú Thầu “nghe đâu đánh nhau rất 15
máu me ở Hàm Rồng suýt được phong anh hùng” nhưng lại trật lất bởi cái tính huyếnh
hoáng của chú Thầu. Chưa được đưa tin lên đài báo mà mới có anh cán bộ về thẩm tra
đã “loan tin” và “ngã ngay con lợn ra liên hoan”, lại thêm cái tội “lãng phí lương thực
phá hoại sản xuất, chống Mỹ”. Chuyện con trai chú mất anh hùng làm “cả họ tiếc ngẩn
ngơ hàng năm trời”.
Ông Thầu có niềm tha thiết “con cái có danh giá”. Ông muốn “một ngày nào đó,
chi của cành thứ hai này phải nêu danh, là trụ cột của họ này”. Vì vậy khi đứa con trai
học hàm thụ đại học của ông bị “bóng gió” là “đại học giả cày. Đại học “bia –thịt chó”
là chú cứ bực mình. Tư tưởng này lan đến cả ông Tứ thuộc “cành cuối cùng của dòng
họ” cũng muốn “họ mình phải có cán bộ chủ chốt ở xã, ông muốn tiếng nói của mình
phải vang lên trong dòng họ”. Ông Tứ cứ băn khoăn “tại sao họ này lại không có một
người làm tướng là chính ông hay con trai ông chẳng hạn”. Từ ý thức về sự kém cỏi
của họ mình, họ Công quyết định nghĩ đến sự “phương trưởng” của dòng họ để không
thua kém họ khác. Điều đó lại làm họ khác trong làng “giật mình”, họ Công “đông
lắm, không khéo phải mổ trâu bò mới đủ thức ăn. Chắc họ sẽ thuê tiền quảng áo trên ti
vi”. “Nhưng có người lại cười khẩy, họ ấy toàn nông dân cả, trừ vài liệt sĩ có ai rời
làng ra đi đâu mà quảng cáo”. Ông Thầu nghe vậy mà “sốt ruột, tiếc ngẩn ngơ, có phải
thằng cháu của họ này làm chủ tịch xã trị cho bọn nó một trận cho trắng mắt ra, quân
ngụ cư hỗn láo” [33; 15].
Bằng sự thể hiện tâm trạng ông Thầu và ông Tứ, Từ Nguyên Tĩnh đã đi vào mổ
xẻ tâm lí háo danh, thích oai oách của đại đa số người nông dân. Dù không biết chữ
nhưng bao giờ cũng muốn chứng tỏ bản thân. Mỗi dòng họ như một tập đoàn chính trị
nhỏ, luôn tự đấu tranh, họ này nhìn họ kia để giành giật quyền cai trị.
Cho đến khi ông Thầu không đạt được khát vọng, ông quay trở về với tinh thần
cào bằng, tự an ủi với lí lẽ nông dân là tất cả, là gốc rễ để an ủi cho sự thất bại đó .
Ông răn dạy con cháu về sự cố thủ làng quê của họ mình “Họ ta toàn là nông dân... Bộ
ai cũng ra thành thị mà sống lắy đâu ra thóc gạo mà nuôi con người” rồi cuối cùng
cũng “cáo chết ba năm quay đầu về núi”, “đằng nào cũng thành nông dân (...) Họ này
là nông dân, điều đó chỉ đáng tự hào mà thôi”. Ông lại nhấn mạnh “tướng tá gì ở đâu
không biết, hãy cứ về đây họ này sẽ nhuộm thành nông dân cho mà xem”. Cũng từ
cách suy nghĩ ấy, ông Tứ lại có cách cai trị dòng họ hết sức độc đoán, gia trưởng “Tôi 16
cấm ai có ý nghĩ bỏ làng, bỏ họ mà đi. Bắt chước những thằng bỏ làng hay sao? Tôi là
cấm. Họ này cấm đấy”. Đó là cái lối cai trị cực đoan, ích kỉ và gia trưởng rất tiêu biểu
cho tính cách người nông dân ở những vùng quê xa xôi, căn cốt, ít có điều kiện giao
tiếp. Ở đấy, tập tục, lề thói ngự trị hầu nhue theo quy luật “mạnh được yếu thua”.
Truyện Họ hàng nông dân phải chăng là cách Từ Nguyên Tĩnh “luận” về tính
cách người nông dân nói chung, đặc biệt là tính cách con người xứ Thanh qua cách
ông quan sát và đúc kết từ một dòng họ? Tuy nhiên, qua đó cũng cho thấy cách sống,
cách nghĩ của người nông dân xứ Thanh với những nét đặc trưng của xứ này.
Trong truyện Đứa bỏ làng lại là một hiện thực khác, một hiện thực nông thôn
lạc hậu, đời sống dân trí thấp, người dân lẩn quẩn trong đói nghèo, mê tín. Dốt nát đi
liền với nghèo đói, căn bệnh cố hữu của nông thôn Việt Nam một thời, xứ Thanh
không là ngoại lệ. Viết về thực trạng đó, nhà văn muốn gióng lên hồi chuông về vấn
đề phát triển nông thôn trước hết chính là vấn đề nâng cao dân trí: Cả làng Bàn Thạch
“trí thức” chỉ có ba người: “Bác Lung làm thầy bói, ông Lật thầy cúng và chú tôi”.
Tuy chú tôi không biết chữ “nhưng cũng nói được những lời lạ lùng”. Bác Lung thầy
bói “tiếng tăm hàng nửa thế kỉ của bác nổi như cồn. Đâu đâu người ta cũng đến xin ý
kiến bác”, từ chuyện “mất của” đến “tình duyên dang dở”, nhất là những người “mộ
lạc”. Thậm chí ông còn “bói về thời cuộc thua được của ta, ẩu đả của thế giới, luận về
Kiều”. Đã thế lại có lão Lật, “người thấp, đen sắt miệng méo làm nghề thầy cúng ủng
hộ” nên bác Lung rất “mạnh”.
Lão Lật thì lo liệu sức khỏe cho cả làng, “bọn nhóc ốm, hái lá léo không khỏi.
Cúng. Người ốm thập tử nhất sinh lập đàn cầu đảo, khỏi ngay. Động mồ động mả
cúng ăn nên làm ra”. Chính quyền xã là con cháu trong nhà, lại ít chữ thành ra người
“lo cho sinh mệnh của làng tôi là bác Lung và lão Lật thầy cúng”. Còn chú Ngũ tôi
“một chữ cắn đôi cũng không biết”, nhưng có dạo đã “làm tới chân chủ tịch xã” nhưng
“cũng chỉ nhập tâm các cuộc họp. Sau đã có máy đứa đàn em văn hoá lớp hai lớp ba
lên thay” [33; 34].Tri thức khoa học và sự văn minh là một điều xa lạ, lạc lõng ở làng
quê này.
“Trí thức” của làng thì như vậy, cán bộ xã chỉ lo ăn chơi, “ban ngày thì mấy
ông chính quyền xã điều hành- ăn uống lỉnh kỉnh, đêm về thì âm binh”, làng càng
“bại”. Điều hành cả xã không phải là bộ máy chính quyền vững mạnh, liêm khiết mà 17
chính là thầy bói Lung và lão Lật – thầy cúng. Con người làng quê tôi “nhỏ bé như
con chuột”. Chú Ngũ – tuy không biết chữ nhưng cảm nhận được điều ấy mà bất lực,
“không bác lại được những gì đã ăn sâu bén rễ trong tâm thức người dân bao đời”.
“Làng mình đất đẹp đấy cháu ạ...Nhưng có con sông án ngữ mất rồi. Đứa nào vượt
qua được sông thì khá”. Ông chú giải thích cho thế hệ sau và cũng là để tự an ủi mình
bằng chính lời của thầy bói. Trong sự u mê và sợ hãi, con sông quê thành con sông
tiền định, nằm án ngữ ngăn cách làng Bàn Thạch với thế giới bền ngoài. Luỹ tre làng
cũng thành vật thiêng, thành thành luỹ vững chắc vừa bảo vệ vừa níu giữ bước chân
những con người nơi đây. “Đứa nào vượt qua được sông thì khá”. Câu nói như một lời
nguyền. Chú Ngữ cũng có khát khao vượt qua được con sông ấy để thay đổi cuộc đời
nhưng cái sợ cố hữu luôn ngăn cản khiến chú luôn bị dày vò thổn thức: “ngay chú hèn
cũng không dám đi”, bởi nếu đi sẽ thành “đứa bỏ làng – cái tiếng ấy ngày xưa là lời
chửi độc, khinh rẻ của dân làng tôi- không được làng chấp nhận, ghét bỏ phải bỏ làng
ra đi - đời chết rấp – bờ bụi ở đâu đâu…mà có khi đói kém không dám mò mặt về
làng”[31;33] . Cũng đã có người bỏ làng ra đi, nhưng phần lớn những kẻ ấy đều ra đi
với đúng nghĩa của từ ấy: “Người đầu tiên là Đỏ Vạc – vào rừng hái củi mà chết đói.
Nghe đâu cha nó cũng dắt chị dâu đi hái củi bị cọp vồ…mấy ông đi lính Pháp, đi Tân
thế giới ở luôn bên đó nên danh nên giá. Mấy chú vào đồn điền cao su. Mấy anh chàng
đi chém thuê vì chẳng có nghề nghiệp và cái lá lót ruột…[33;33]. Bị những tập quán,
phong tục từ nghìn đời trói buộc, lại thiếu kiến thức khoa học, người dân nơi đây lẩn
quẩn trong đói nghèo, trong sợ hãi và bất lực.
Làng Bàn Thạch trong quá khứ qua những trang viết của Từ Nguyên Tĩnh thật u
buồn. Đó cũng là sự u buồn của một thời. Bằng quan điểm đổi mới trong cách nhìn
hiện thực, tác giả đã cho người đọc tiếp cận với “hiện thực mặt trái”, “hiện thực khuất
lấp” của một thời. Dưới cái nhìn ấy, thực tiễn hiện ra với những cung bậc bi hài. Sự
nghèo khổ, bị áp bức dài lâu, lại thêm chiến tranh liên miên, người nông dân trong mỗi
làng quê Việt Nam phải gồng mình để chịu đựng và tồn tại. Có cái gì đó thật xa xót
khi nhìn lại những tháng năm ấy. Chân thực và sống động, Từ Nguyên Tĩnh đã cho
người đọc cảm nhận hình ảnh nông thôn xứ Thanh một thời qua cửa sổ “làng tôi”.
1.1.2. “Làng tôi” trong thời mở cửa
18
Năm 1986, chủ trương thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã đem đếm cho
cả nước một không khí phấn khởi, hồi hởi khiến xã hội thay đổi về mọi mặt, trong đó
sự thay đổi sâu sắc nhất là đổi mới về tư duy. Người Việt Nam nói chung và người
Thanh Hoá nói riêng dần dần thoát khỏi lối tư duy làng xã để đến với văn minh đô thị.
Người dân làng Bàn Thạch của tác giả cũng đã vượt qua được “dòng sông định mệnh”
để vươn ra tự khẳng định mình. Đây cũng là một trong những chủ đề chính trong
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh được ông dành nhiều tâm huyết: “Làng tôi” đã đổi mới.
Như trên đã nói, sự thay đổi lớn nhất của “làng tôi” nói riêng, nông thôn Thanh
Hóa và mở rộng ra trong cả nước thời “mở cửa” chính là đổi mới tư tưởng, đổi mới tư
duy. Truyện “Đứa bỏ làng” cùng một lúc đã đặt ra hiện thực ấy. Chi tiết về cái chết
của chú Ngũ “treo lơ lửng trên chiếc dây thừng. Chú như muốn bay lên trời mà không
bay nổi…” như là kết cục tất yếu của sự tăm tối, bế tắc. Trong số những kẻ lần mò tìm
cách thay đổi ấy chính là “tôi”, có sự ngấm ngầm đồng tình của dòng họ “cả họ góp
cho tôi gạo thóc, tế lễ rồi cũng tốt nghiệp đại học”. Có lẽ nhờ những năm tháng trong
quân ngũ (có đến mười năm rồi lại trở về làng) mà có thêm bản lĩnh và quyết tâm thay
đổi chăng? Và “tôi” chính là đứa “bỏ làng” sớm nhất “Tôi theo vợ nhập cư vào nửa
gian nhà của ủy ban kế hoạch. Ba mươi cây số phải mất bốn chục năm mới rời được
làng đi đến cái thị xã lèo tèo, bề bộn. Tôi bùi ngùi, muốn quên đi cái khổ truyền kiếp”.
Lác đác lại có đứa bỏ làng. “Chiều nay, tôi lại có khách. Thằng cháu họ”. Sau một hồi
tâm sự, nó khóc lên hu hu: “Bác ạ, dù có phải mang tiếng là đứa bỏ làng, cháu cũng ra
đi thôi”. Quyết định “bỏ làng” chính là quyết định về tư tưởng, là sự thay đổi tư tưởng
thâm căn cố đế, đã trở thành máu thịt, tâm hồn, phong tục, lối sống của người nông
dân nơi đây. Sự thay đổi ấy khó khăn và đau đớn đến nỗi, vì nó người ta đánh đổi cả
sinh mạng. Đến đây, khái niệm “bỏ làng” đồng nghĩa với sự đổi thay, kẻ dám bỏ làng
là kẻ dám thay đổi. Và trong số những kẻ dám “bỏ làng” để học hành, để làm ăn xa ấy
đã trở về để thay đổi quê hương.
Truyện ngắn “Đứa bỏ làng” vừa thể hiện cái khó, vừa thể hiện tính tất yếu của
công cuộc đổi mới. Đối với người nông dân xứ Thanh, vùng đất cực khổ đến nghiệt
ngã, nhưng hình như, chính sự nghiệt ngã đó sẽ là tiền đề thôi thúc sự đổi thay.
Sự đổi thay bắt đầu từ những cá nhân, nhưng đổi thay có ý nghĩa nhất là sự đổi
thay của quê hương, làng xã. Từ Nguyên Tĩnh thầm thán phục những cá nhân đã góp 19
phần đổi thay quê hương. Cũng ngay trên chính làng quê của mình đã cho ông hình
mẫu để ông sáng tạo nên hình tượng con người không chỉ biết đổi mới tư duy mà còn
mang tư duy mới ấy làm thay đổi cuộc sống của bà con nơi đây: cô kỹ sư Hương Mơ.
Cô gái ấy, ngay từ những ngày đất nước còn giặc giã, ngay khi những con người của
làng Bàn Thạch còn âm u trong lũy tre làng đã dám khuyên người yêu: “Anh giỏi bắn
súng nhưng còn phải biết cầm bút, sau này đất nước cần có trí thức, không phải lúc
nào cũng đi theo con trâu và cái cày”. Biết người yêu còn nặng nợ với làng quê, cô
ngấm ngầm ghi tên cho anh đi học, buộc anh phải đi học, phải “vượt sông” rời làng.
Bản thân cô, sau khi tốt nghiệp kỹ sư, cô trở về làng và băt đầu những ngày “trả
nghĩa” cho quê hương và cũng là để thực hiện ước mơ đổi mới quê hương của mình:
“Mơ mạnh dạn đưa giống mới vào ruộng đồng quê nhà. Bao ngày trần lưng với ruộng
thí nghiệm…Không biết nàng nghe ai xui dại mà muốn giao đất cho từng hộ quản lý.
Nàng thuyết trình với Ban chủ nhiệm để từng hộ lo thì công chăm bón đỡ đi rất
nhiều. Họ có thể tranh thủ ra thăm ruộng mà không cần đến sự đốc thúc của đội sản
xuất…”. Sự đổi mới nào phải chả phải trả giá bằng mồ hôi và nước mắt. Cái bảo thủ,
khi cần sẽ cấu kết với tiêu cực để chống lại cái mới. Con đường và ước mơ đổi mới
quê hương của Hương Mơ cũng đầy chông gai. Khó khăn đến mức đôi lúc tưởng như
phải đầu hàng, ngay đến người yêu của cô, đã từng trải qua binh nghiệp vì lo lắng cho
cô cũng phải lên tiếng can ngăn, bàn lùi, chấp nhận thỏa hiệp. Nhưng Mơ thì không,
cô tin vào những điều mình làm, cô tin vào bà con, cô tin vào chân lý. Đám cưới của
cô với chính người mà trước đây đã “đổ toàn bộ lỗi lầm giống má của mấy vụ cấy chui
cấy lủi” lên đầu Hương Mơ cho thấy niềm tin của cô thật trong sáng: “Anh đừng nói
thế…Cái sai của sự ấu trĩ một thời…có thế, bây giờ anh ấy mới thương em gấp nghìn
lần…”[33; 47]. Đám cưới của cô ồn ào trong sự đông vui, cởi mở. Dân làng thể hiện
tình cảm yêu quý, kính trọng và biết ơn cô kỹ sư đã mang sức sống mới cho làng. Cô
trở thành người anh hùng của làng quê trong sự ngưỡng mộ, tự hào: “Mới đây tôi về
huyện nhà viết báo. Viết về những người anh hùng của làng quê. Chủ tịch huyện niềm
nở mới: - Anh Bùi nên viết về người làm ruộng ở Bàn Thạch. – Ai vậy? – Chị Hương
Mơ anh biết chứ ?”. Cuối truyện, ta biết thêm một nét đẹp nữa ở con người này: “Mơ
không đồng ý cho tôi viết. Nàng nói, cái chuyện làm ruộng ai chả biết”.
20
Nếu Nợ làng quê là câu chuyện về “người anh hùng làm ruộng” của làng Bàn
Thạch thì Thằng K-X lại là viết về “người anh hùng V.A.C”. Đến truyện ngắn này, sự
thay đổi của làng “tôi” đã rõ nét hơn. “Quê tôi vốn là vùng tự do(...) chuyện học hành
lại ít ai nghĩ đến” chỉ “giỏi cày bừa cấy gặt”. Vì vậy việc chú Bân có “bằng cử nhân sử
học, lại được phân công về dạy ngay ở trường cấp III huyện nhà” là một niềm vinh dự
cho cả “họ tôi” thậm chí “cả hàng xã” bởi “người có học đỗ đạt ở quê tôi thật hiếm
hoi”. Tuy nhiên bấy giờ, khó khăn là tình trạng chung của xã hội và ông giáo trường
làng uyên thâm đến đâu cũng không ngoại lệ. “Gian nhà của trường giành cho chú tím
thật chật hẹp. Ngoài giường chiếu từ thời chú thím lấy nhau đóng bằng gỗ xoan ra,
chẳng có gì đáng kể. Chỉ có giá sách là đồ sộ”. Cái tâm lí của ông giáo với một kho
kiến thức như vậy luôn háo hức được truyền thụ cho những học trò nghèo quê hương.
Vừa dạy học vừa viết báo, chú Bân rất có uy tín trong làng và được bạn văn kính nể.
Nhưng cuộc sống khốn khó của những năm bao cấp khiến chú khó chú tâm vào công
việc dạy học. Tiền nhuận bút chỉ “một vài đồng bạc”, còn thím phải “nấu rượu rải cho
các quán và nuôi lợn nái”. Cái “vất vả của cuộc đời đã làm thím không còn bóng dáng
của cô gái Hà Nội năm nào”. Là người có trình độ và niềm tin vững chắc ông giáo đi
đến quyết định táo bạo “sang năm chú về hưu non. Không thể để cho thím và các em
khổ mãi được” và dũng cảm “bán một cặp lợn tạ để mua ba-bet-ta làm nghề V.A.C.
Chú tự đi lấy phân ở các cơ quan về chăm cho cá của mình. Chú thường đi rất sớm và
về khi chưa có người đi làm”. Bằng sự cần cù dám nghĩ, dám làm mà năm ấy trời
thương “đổ của cho nhà chú. Lợn nhiều lấy phân cho cá ăn nên bán cá có bạc triệu”
[33; 413] gia đình chú thực sự đổi đời. Chú “xây nhà hai tầng ngay đầu phố huyện”,
thím thì “béo ra, trẻ lại (...) Mái tóc uốn kiểu làn sóng càng tôn thêm vẻ đẹp duyên
dáng” còn chú “mang cặp kính trắng nom trí thức hơn thời kì chú dạy học”. Hai đứa
con gái “mặc minidíp, không cần thoa phấn mà vẫn hồng hào...”. Đặc biệt là trong nhà
của chú “điệu nhạc Lăm-ba-đa từ chiếc viđiô chảy tràn ra phố” gợi nên không khí
cuộc sống văn minh, hiện đại. Mô hình kinh tế của chú được các nhà báo muốn đến
“lấy tài liệu” để viết bài.
Có lẽ để có được một quyết định táo bạo như vậy hẳn chú Bân phải trăn trở, suy
nghĩ nhiều lắm. Nghề giáo vốn coi trọng chữ nghĩa, đề cao danh dự, vì vậy từ một ông
giáo uyên thâm đến một “thằng kà xia” suốt ngày bận rộn tính toán là cả một bước 21
chuyển quan trọng mang cả sự đau đớn, chua xót lẫn quyết tâm lớn lao. Dù xã hội vẫn
công việc của chú độc nhất vô nhị và thuộc loại “hạ đẳng”, dù người ta toàn gọi chú là
“thằng Kà- xia” và ngay cả “mẹ tôi”- người chị dâu của chú khi nói về chú cũng “quay
đi che dấu nụ cười” nhưng trong con người ấy vẫn giữ một bản lĩnh vững vàng và
niềm tin sắt đá về con đường mình đã chọn.
Thực tế của cuộc sống đòi hỏi người ta phải lựa chọn, trăn trở, suy nghĩ thiết
thực hơn, đối đầu với thực tế để thoát ra khỏi định kiến xã hội để làm mới cuộc sống.
Chú Bân đã biết tận dụng những gì của quê hương mình để làm giàu nhanh chóng và
giúp đỡ nhiều người có công ăn việc làm. Điều quan trọng không phải là làm việc gì
mà cái chính là con người biết lợi ích và ý nghĩa của công việc. Hình ảnh của chú Bân
cũng là của nhiều người dân Việt Nam thời bấy giờ. Đất nước đã qua thời kì bao cấp
mà bước sang thời kì kinh tế thị trường nhưng vẫn còn khó khăn về mọi mặt. Chất
lượng cuộc sống của nhân dân đang còn thấp, cán bộ công chức chưa thể dựa vào
đồng lương của mình để sống. Nhu cầu sinh tồn buộc nhiều người phải đưa ra những
quyết định quan trọng như chú Bân để giải phóng mình. Quan niệm “làm ruộng theo
làng” dần dần mai một. Họ giám từ bỏ những vỏ bọc cố hữu của mình để tự tin hơn,
bản lĩnh hơn, tìm cho mình một chỗ đứng trong xã hội. Họ giám thay đổi mình và sẵn
sàng chịu trách nhiệm với những thay đổi đó. Làm giàu cho mình cũng là làm giàu cho
đất nước thì những quyết định đó dù thế nào thì vẫn là một quyết định đúng đắn.
Viết về mảng đề tài này, truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh không chỉ đi sâu vào sự
tiến bộ về lĩnh vực kinh tế ở “làng tôi” mà còn thấy được sự đổi mới trong chính cuộc
sống sinh hoạt hằng ngày ở, trong quan niệm về hạnh phúc. Mùa yêu đương là một
truyện ngắn như vậy.
Làng Bàn Thạch đã thực sự thay đổi với nếp sống mới. Xưa kia người dân vốn
“đi ngủ kịp cùng gà vịt” nhưng nay điện đã về làng thì “hôm nào có bóng đá quốc tế là
tụ tập ngồi xem thấu sáng rồi ra đồng luôn”. Người nông thôn giờ đây không chỉ lo
cơm ăn áo mặc mà đã biết chú ý đến nâng cao đời sống tinh thần. Cái vất vả của nhà
nông không còn là gánh nặng số mệnh mà đã có cách nhìn lạc quan hơn “dễ dàng chấp
nhận mất mát, lo âu, thanh thản” của mùa cấy cày, coi “niềm vui và mệt mỏi” của đời
người nông dân là một phần của cuộc sống. Cái mới ở làng Bàn Thạch còn thể hiện
ngay trong việc cưới xin của người dân. Đám cưới giờ đây được phục vụ bởi “mấy gã 22
dịch vụ đám cưới” với tiếng “loa đài” rộn ràng vui vẻ. Cái bầu không khí vốn thanh
bình, yên tĩnh của làng quê nay đã nhộn lên bởi những giai điệu sôi nổi, hiện đại của
cuộc sống mới. Chỉ có những con người yêu quê, có tâm hồn nhạy cảm như Từ
Nguyên Tĩnh mới lắng nghe được âm thanh diệu kì của cuộc sống nơi đây.
Đặc biệt làm chủ làng xã bây giờ không còn là những con người như ông Thầu,
chú Ngữ nữa mà là một thế hệ mới với cách sống và tư duy hết sức mới mẻ - anh
chàng Thốn. Thốn vốn là anh chàng sinh ra và lớn lên ở làng Bàn Thạch nhưng đã có
cơ hội để “đi ra” trong mấy năm thực hiện chính sách nghĩa vụ. Rời quân ngũ anh lại
trở về làng quê làm một người nông dân với bao điều mới mẻ. Có thể nói, Thốn là
mẫu người nông dân mới ở làng quê: tự tin, cởi mở, nồng nhiệt và cả pha chút ngang
tàng. Chàng nông dân Thốn tự tin trước hết ở quyết định không cưới vợ trong làng mà
ở rất xa, xa lắc xa lơ, mãi tận trong Nam, mà cưới một cách nhẹ nhàng “đành cưới
thôi, người ta giàu cưới xin linh đình, còn mình nghèo cưới xin cũng cỗ bàn”. Mặt
khác người xưa vốn quan niệm “trâu ta ăn cỏ đồng ta” khi chọn vợ thì chàng nông dân
đặc sệt ấy lại mò vào tận Quảng Nam rước người đẹp về làm vợ. Thốn nói với người
chú ruột “cháu hồn nhiên chơi chơi lại vớ được con vợ như tiên”. Đấy là một sự dũng
cảm, liều lĩnh và cũng là cách Thốn đang cố gắng cởi trói, phá bỏ những trật tự quan
niệm cũ.
Quyết định của Thốn khiến người chú phăi băn khoăn “chết thiệt con gái nhà ai
đẹp mà lại lấy cháu tôi. Làm sao dám chui đầu vào cảnh thiếu thốn này (...) rồi ra ai
cày cuốc mà nuôi vợ ngồi soi gương chải tóc”. Thốn lí sự lại “ Chú ơi, cháu mài cái
đẹp ra ăn đấy, chú cứ nghĩ quẩn, vợ cháu làm gì chả được, bộ nhà mình quanh đi quẩn
lại chỉ toàn bộ mặt khảo cổ thôi làm sao chịu nổi” [33; 375]. Quan niệm vợ chồng
trong tư duy của Thốn không còn là hình ảnh “chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”,
người vợ bây giờ không cần đầu tắt mặt tối, lam lũ bươn chải như thân cò nơi đồng
ruộng mà có thể ở nhà để chăm lo gia đình. Đó mới chính là thiên chức lớn nhất của
người phụ nữ. Người chồng hiện đại là người có những suy nghĩ bình đẳng, dân chủ
hơn với vợ và một người đã từng đi ra, lại có lối suy nghĩ linh động như Thốn chắc
chắn sẽ là người biết tìm ra cách làm giàu để nuôi vợ con. Với Thốn cày ruộng để cho
vợ soi gương chải tóc cũng là một hạnh phúc. Thốn sẽ là một trong những người tiên
phong trong việc xây dựng một gia đình kiểu mới. 23
Mặt khác, qua chi tiết ấy đã thể hiện một quan niệm mới mẻ của người nông
dân về cái đẹp. Giờ đây họ đã biết chú ý đến cái đẹp hình thức của vợ, thay vào cái vẻ
khoẻ mạnh, cục mịch, chắc lẳn của các cô thôn nữ xưa kia thì cái đẹp bây giờ phải
mảnh mai, mềm mại thậm chí có thể hơi “tiểu thư khuê các”, người chồng bây giờ đã
biết làm tất cả để giữ gìn cái đẹp ấy.
Đổi mới về tư duy còn thể hiện ngay trong ngôn ngữ của Thốn. Trong lời nói
của Thốn không còn cái rụt rè nhút nhát thuần tuý của người dân chân lấm tay bùn,
Thốn đối đáp với chú của mình rất hồn nhiên, bỗ bã, cà chớn “Chú mới lạc hậu làm
sao...đời sống mới có nghĩa là mời các cụ mặc áo lương, các cô bận áo dài đến động
viên họ hút thuốc lào và ngồi nhìn mình mà đánh chẩu hả chú!”, “Cũng phải có gì cho
các cụ nhắm chứ, chú bảo từ khi đẻ ra mình các cụ đã ngồi chờ rồi mà!” [29;366] .
Cũng có lúc ngôn ngữ của Thốn lại “lếu láo”, “ngạo nghễ‟: “...chú biết không nhà gái
ở tận miền Nam chứ không thì bỏ mẹ” hay “Em thấy không, thằng Cui lừa lúc nhà
mình có việc chuồn đi theo gái...rõ thật là...”.
Rồi từ trong cách nói chuyện với Diệu Linh- vợ sắp cưới của mình Thốn rất tự
nhiên, lém lỉnh “Em đã thấy tình yêu của gã thợ cày chưa!”, “Anh gặp em cái dạo đi
lính ở trong đó là biết mình sẽ lấy em làm vợ mà!”. Anh chàng nông dân ấy cũng âu
yếm vợ mình một cách “sắc bẻm”: “Diệu Linh nàng ơi!”, “Đừng cưng”.v.v. Đó là
ngôn ngữ của một anh chàng nông dân vừa mới “đi ra” mang chút “bụi bặm”, mới mẻ
của thành thị nhưng vẫn chưa thoát khỏi chất mộc mạc, chân chất thôn quê. Ngôn ngữ
của Thốn bớt rườm rà mà ngắn gọn tự nhiên, khách quan hơn, phù hợp với nhịp sống
mới chứ không phải là sự pha trộn từ ngữ nước ngoài tạo ra một giọng điệu lai căng,
kệch cỡm.
Tuy nhiên trong những cái mới ở làng quê ấy còn có những cái tiêu cực, cái tiêu
cực thể hiện ở dấu hiệu học đòi, hãnh tiến; ở lối sống hưởng thụ, ăn chơi đàng điếm.
Đó là những “tay bợm đánh tiết canh lòng lợn nhìn đã tưng bừng no nê, đó là lối ăn
mặc không còn “hương đồng gió nội” của hai cô con gái chú Bân với chiếc “minidíp”
cũn cỡn và cách nhảy “Lăm-ba-đa” của những anh chàng nông dân - dấu hiệu manh
nha của những trò Karaôke trá hình (Thằng K-X). Đặc biệt cái tiêu cực rõ nét nhất
“làng tôi” là có nguy cơ bị “bỏ không” bởi sự mưu sinh làm giàu của con người. Làng
24
đã có tới “hàng trăm đứa bỏ làng ra đi”, “trút lại cái đói”, cái khổ cho người già. Văn
Từ Nguyên Tĩnh rõ ràng có tính dự báo nhiều hơn là miêu tả.
Như vậy, qua những trang văn của Từ Nguyên Tĩnh, qua hình ảnh “Làng tôi”,
người đọc đã thấy được sự am hiểu và tình yêu của ông đối với làng quê xứ Thanh. ở
làng quê ấy mọi cung bậc tình cảm, mọi số phận con người vui và buồn, may mắn và
bất hạnh đều “châu tuần” về đây tạo nên một nông thôn xứ Thanh thu nhỏ với đầy sự
ngổn ngang, bộn bề, phức tạp. Độc giả cũng nhận ra làng Bàn Thạch nói riêng hay xứ
Thanh nói chung đang có những bước chuyển mình, làng quê thuần nông ấy đã và
đang du nhập những ảnh hưởng của văn minh đô thị hay có, dở có. Sự chuyển mình
lột xác tuy còn có những vật vã, đau đớn song đó là hệ quả tất yếu của lịch sử. Đó
chính là xu thế chung của dân tộc, thời đại.
1.2. Một xứ Thanh kiên cƣờng, bất khuất qua hình ảnh Hàm Rồng
Những năm tháng mảnh đất Xứ Thanh trở thành mục tiêu hủy diệt nằm cắt đứt
con đường giao thông huyết mạch tiếp viện cho chiến trường miền Nam của đế quốc
Mỹ cũng là những năm tháng Từ Nguyên Tĩnh trở thành lính pháo thủ Hàm Rồng. Đó
là nguyên nhân có một xứ Thanh kiên cường, bất khuất qua hình ảnh không gian
Hàm Rồng.
Bị thất bại ở chiến trường miền Nam Việt Nam, cuối năm 1964 đầu năm 1965
đế quốc Mỹ vạch kế hoạch ném bom miềm Bắc nhằm cắt đứt sự chi viện vào miền
Nam. Là tỉnh trọng điểm về kinh tế của khu vực bắc miền Trung với nhiều khu công
nghiệp, dân số của tỉnh lại đông thứ hai cả nước nên Thanh Hóa là nơi cung cấp nhiều
sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Mặt khác Thanh Hoá còn nằm trên con
đường huyết mạch Bắc Nam, là nơi trung chuyển, tiếp viện cho chiến trường với nhiều
cầu giao thông lớn như cầu Lèn, cầu Tào, cầu Hàm Rồng và cầu Ghép. Phá được một
trong những chiếc cầu lớn ấy coi như cắt đứt tuyến đường chi viện cho miền Nam, đè
bẹp được tinh thần, ý chí chiến đấu của quân dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chính vì
vậy tỉnh Thanh Hoá đã nằm trong tầm ngắm của máy bay Mỹ và đã chịu sự tàn phá
nặng nề của bom đạn.
Trước khi trở thành nhà văn, Từ Nguyên Tĩnh là chàng pháo thủ thực thụ, tham
gia chiến đấu bảo vệ cây cầu Hàm Rồng huyền thoại. Bắt đầu là những mẩu tin, những
bài phóng sự rồi đến truyện ngắn... Chùm truyện ngắn viết về Hàm Rồng, về xứ Thanh 25
trong những năm tháng đánh Mỹ của Từ Nguyên Tĩnh giống như những phóng sự tái
hiện hình ảnh một Hàm Rồng trọng điểm huỷ diệt và một Hàm Rồng hiên ngang bất
khuất.
1.2.1. Hình ảnh Hàm Rồng, trọng điểm hủy diệt của Đế quốc Mỹ
“Chờ B52” là một trong những truyện ngắn đặc sắc về hình ảnh con người và
vùng đất Hàm Rồng hồi âý. B52, loại máy bày chiến đấu mới nhất, sức mạnh của nó
được phía bên kia rêu rao là “bất khả chiến bại”. Với độ cao, bay trên mười nghìn mét,
hiện chưa có thứ vũ khí nào chạm tới. Sức rải thảm của B52 thật đáng sợ. Nó có thể
rải bom một vùng rộng lớn khoảng 2,5 kilômét vuông. Khi Oasinhtơn dọa sẽ mang
con ngáo ộp B52 ra huỷ diệt miền Bắc “đưa Hà Nội trở về thời kì đồ đá”, tổng thống
Mỹ Níchxơn tưởng khuất phục được quân dân miền Bắc bởi sức huỷ diệt khủng khiếp
của nó. Hãy nghe Từ Nguyên Tĩnh miêu tả một trong những trận huỷ diệt ấy: Vùng
Hàm Rồng chỉ với diện tích chưa đầy một kilômet vuông nhưng biến thành một túi
bom “ Một vùng đỏ lòm từ chân cầu tới Nam Ngạn. Từ Nam Ngạn đến nhà máy điện,
đồi Cô Tiên...Đâu đâu cũng có hố bom, chết chóc”. Những chiếc B52 “vào ném bom
rồi lao ra biến mất” như tia chớp đầy sự ma quái và bí hiểm, nếu những người lính
không tinh nhanh thì thị xã Thanh Hoá có thể bị san phẳng trong chốc lát. Đêm máy
bay B52 rải thảm, cả một vùng náo động bởi “tiếng nổ rền rền...kéo dài tưởng là vô
tận” và “khoảng cách các hố bom cách nhau rất đều”. Chi tiết này cho thấy để huỷ diệt
Hàm Rồng, đế quốc Mỹ đã lên kế hoạch ném bom một cách chính xác, chi li đến từng
centimet, một con kiến cũng khó sống sót huống hồ là con người. Chỉ cần một sự bất
cẩn của những người lính cao xạ thì B52 sẽ “xoá sổ toàn bộ các đơn vị”. Sự ác liệt thể
hiện ở những tổn thất mà quân và dân Hàm Rồng phải gánh chịu: “Tuy những người
pháo thủ vẫn kịp bắn chặn máy bay cường kích và bắn phá Hàm Rồng” nhưng bộ đội
vẫn hy sinh nhiều. Chùa Nam Ngạn nằm sát trận địa Hàm Rồng phải mở cửa để đón
bộ đội vào cấp cứu và dưỡng thương. Sư Đàm, trụ trì chùa Nam Ngạn thường phải “bí
mật cầu siêu cho hương hồn người lính” siêu thoát trở về đất Mẹ.
Cùng bị bắn phá với cầu Hàm Rồng là cây cầu Đò Lèn (Cô gái Đò Lèn). Ở đây,
“bom dội như rây bột”, đoạn đường từ cầu Lèn về đến Hàm Rồng có xa xôi gì cho
cam nhưng mất hai ngày xe chi viện và chàng pháo thủ San vẫn chưa đến được.
Những trạm gác phòng không được dựng lên liên tiếp, các cô thanh niên xung phong 26
trở thành cọc tiêu sống đứng canh chừng bom nổ chậm, chỉ đường, dẫn đường cho xe.
Ngày “Mỹ trở mặt đánh lại Miền Bắc. Lèn và Hàm Rồng chúng đánh ác liệt hơn”.
Chúng “cho thí nghiệm tất cả các loại vũ khí hiện đại nhất và cũng man rợ nhất: bom
laze, bom tinh khôn khiến bộ đội, dân quân và thanh niên xung phong hy sinh nhiều”.
Hàm Rồng càng chịu nhiều trận mưa bom của máy bay B52. “Hố bom, san sát là hố
bom. Mấy toa xe lửa hất lên nằm chỏng chơ đổ nát, vắng bóng người”. Cảnh vật đầy
chết chóc, hoang liêu. Con mương nép mình vào sườn đồi nhuốm “một màu đỏ quạch”
như máu của những con người đã ngã xuống, bờ sông Lèn “khô kiệt, bờ bị vỡ nát”.
Với sức tàn phá như vậy, sự sống tưởng như không còn có thể hiện diện ở đây.
Cái ác liệt của chiến tranh thể hiện rõ hơn và đau đớn hơn là những di chứng để
lại trên gương mặt con người. Tuyết Mai vốn là cô thanh niên xung phong trẻ trung ở
trạm gác Đò Lèn, “nắng gió bom đạn không làm mất vẻ duyên dáng thiếu nữ. Khoé
miệng cười phô ra chiếc răng khểnh ánh lên vẻ dìu dịu”. Nhưng chỉ mấy năm sau,
gương mặt người nữ anh hùng gác cầu năm nào đã bị bom na pan làm cho “rỗ chằng
rỗ chịt”. Cô thiếu nữ nổi tiếng hoa khôi một thời ở tổ đội thanh niên xung phong gác
cầu đã phải chạy trốn quá khứ, chạy trốn đồng đội. San, người yêu của cô đã mất bao
nhiêu thời gian để đi tìm cô. Nhiều năm mày mò anh đã tìm đến địa chỉ nhưng chính
anh cũng không ngờ, người phụ nữ - chị cấp dưỡng ở một địa chỉ mà anh vẫn hằng
qua lại chính là Tuyết Mai. Giờ, cô đã đổi tên, người đàn bà cô đơn, không chồng con,
có gương mặt rỗ chằng rỗ chịt chính là Tuyết Mai duyên dáng và xinh tươi năm nào,
nữ anh hùng của gác cầu Đò Lèn năm xưa. Cô lại tránh anh, “cô không muốn cho
người quen cũ nhận ra bộ mặt bị bom na pan của mình”. Có biết bao nhiêu những
người như Tuyết Mai đã hi sinh tuổi thanh xuân và hạnh phúc của mình vì sự bất tử
của những cây cầu ấy và bao nhiêu người đã ngã xuống.
Bức tranh Hàm Rồng – xứ Thanh trong những năm tháng ác liệt tô đậm thêm
bức tranh về những năm tháng máu lửa mà kẻ thù đã gây ra cho đất nước này.
1.2.2. Hình ảnh Hàm Rồng hiên ngang bất khuất:
Song trong khói lửa đạn bom huỷ diệt, Hàm Rồng – xứ Thanh vẫn hiên ngang
bất khuất. Là người trong cuộc, Từ Nguyên Tĩnh tự hào ngợi ca tinh thần kiên cường,
dũng cảm, ý chí bất khuất của đồng chí, đồng đội, những người con của quê hương
Thanh Hóa anh hùng. Những chàng lái xe, những pháo thủ, những thiếu nữ, những cô 27
thanh niên xung phong… Hãy nghe một cuộc đối đáp của họ ở trạm gác Đò Lèn sẽ
thấy những con người đang đối mặt với đạn bom ấy học sống như thế nào: “- Anh gì
ơi! có tranh thủ giặt quần áo mà phơi đi kẻo máy bay nó đến đấy! Thật chả bõ cho
đêm qua nghe cái giọng ra lệnh mới gắt chứ. Tôi đã bảo các anh phải lùi xe lại. Thì
đồng chí cứ để cho bọn này đi né qua hố bom có được không? Không thể được, xe đi
qua chỗ có bom nổ chậm nó kích nổ, sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Thì tính mạng của
bọn này, việc gì đến cô. Này đồng chí bộ đội nói hay nhỉ? Lại có cái kiểu ăn nói thế à!
Tôi nói thế phạm thượng gì đến o? Không o cháu gì sất, đề nghị ăn nói cho nghiêm túc
trong lúc làm nhiệm vụ…Lái xe buông ra một câu đủ cho San và cô gái trẻ nghe thấy:
Cậu ôm chặt lấy cô ấy cho mình lái xe có được không? – Này đồng chí trung sĩ !
không được ăn nói kiểu ấy nhé…v.v..”[33; 232]. Bom đạn cày xới suốt ngày nhưng
không làm mất đi sự trong trẻo, hồn nhiên vô tư của họ nhưng nghiêm túc, trong công
việc, là anh chàng pháo thủ kiêm nhà báo Bùi vừa đánh giặc vừa đi lấy tin ở trận địa
kịp thời phục vụ cho trận chiến, chàng Lung mù mang tiếng hát của mình để át đi
tiếng bom động viên anh em chiến đấu...Tất cả đều bị hút về vấn đề trọng tâm: vận
mệnh dân tộc. Họ là những con người anh hùng bất khuất. kiên định vững vàng.
Hình ảnh hiên ngang bất khuất của Hàm Rồng trước hết được thể hiện qua
những người lính đang trực tiếp chiến đấu để bảo vệ cây cầu huyền thoại. Bùi và Tân
(Chuyện tình bên cầu Tào) là những người lính chiến đấu ở trận địa cầu Tào. Tân,
chàng trai Hà Nội, ngày cùng đồng đội kéo pháo vào, tâm trạng náo nức được “chiến
đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng” song vị trí của họ là ở cầu Tào. Cầu Tào cách Hàm Rồng
không xa là mấy và đều là cửa ngõ để vào thị xã Thanh Hoá. Những chàng pháo thủ
nếu phát hiện từ xa có B52 mò vào rải thảm là họ quay pháo bắn trả để “chia lửa” với
Hàm Rồng. Hàm Rồng mới là mục tiêu chính của bom Mỹ, nhưng nếu chỉ có mình
quân dân Hàm Rồng thì vẫn không thể đứng vững. Hai anh chàng háo hức “chiến đấu
vì mục đích lớn lao”, “cầu Tào có phải hi sinh cho Hàm Rồng cũng là vinh dự”.
Bom đạn cứ quần nhau trên đầu nhưng để “tiếng hát át tiếng bom”, đơn vị cử
Bùi và Tân “có chữ viết đẹp làm bích báo” khích lệ tinh thần đồng đội. “Con người ta
chạm đến sống chết cũng có nhiều tâm sự cao sang lắm”. Bây giờ còn bên nhau nhưng
có thể ngã xuống bất cứ lúc nào vì vậy họ yêu thương nhau, chắt chiu từng giây phút.
Tuy nhiên, “chiến tranh tuy ác liệt”, “khẩu đội bị thương vong gần hết nhưng hai 28
thằng cứ trơ ra không hề suy xuyển”. Bom đạn không thể quật ngã được Bùi và Tân,
số phận đã buộc hai con người yêu đời, dũng cảm lại với nhau. Tình đồng đội và ý chí
quyết chiến của những người lính đã giúp họ vượt qua sự khắc nghiệt của chiến tranh.
Và cây cầu Tào vẫn còn đó như là “số phận riêng của hai đứa, lúc lành lặn khi bị đánh
gẫy vẫn nằm án ngữ trước mặt”. Vì vậy hết ông chính trị viên đại đội đến cán bộ tiếp
thu cứ giữ hai người làm “nòng cốt cho đơn vị”, “chủ chốt cho trận địa”. Tân như nhà
“sử gia” của đơn vị, anh “hí hoáy ghi chép những suy nghĩ, trận đánh” với niềm say
sưa kì lạ. Có lẽ trong anh được chiến đấu cho Hàm Rồng là một sứ mệnh lớn lao đối
với người lính, “biết trụ vững vị trí của mình đã là anh hùng”. Song họ chiến đấu
không đơn lẻ, ngoài những người lính còn có dân quân cầu Tào. Sau trận oanh tạc của
máy bay Mỹ, cầu Tào bị gãy, “Thuỷ đã vào tiếp đạn cho khẩu đội” Tân và Bùi. Thuỷ
bị thương, Tân vừa tiếp tục chiến đấu vừa cứu sống Thuỷ bằng máu của mình. Dòng
máu của Tân chảy trong huyết quản Thuỷ, ngay cả khi Tân hi sinh rồi, dòng máu ấy
vẫn chảy và nồng ấm tình người. Tân đã ngã xuống nhưng tình yêu đối với Tổ quốc
vẫn dạt dào gửi lại. “Anh không hề chết” [16; 220].
Nhưng có lẽ ác liệt hơn, kiên cường hơn vẫn là trận địa Hàm Rồng. Hàm Rồng
Nam Ngạn là mục tiêu bảo vệ chính của quân dân Thanh Hoá lúc này. Sự sống còn
của cầu Hàm Rồng có ý nghĩa quan trọng trong cuộc kháng chiến, cả nước hướng về
nơi đây với một niềm tin mãnh liệt cho ý chí quyết chiến quyết thắng. Vì vậy quân và
dân Hàm Rồng chiến đấu kiên cường viết nên trang sử chói lọi trong lịch sử đấu tranh
bảo vệ dân tộc. Vốn là người lính Hàm Rồng, hiện thực của những năm chiến đấu ấy
sống lại trong truyện ngắn Từ NguyênTĩnh chân thực và sinh động.
Nếu ở cầu Tào là những chàng trai ngày đêm “chia lửa” với Hàm Rồng thì ở
trận địa Hàm Rồng là những chàng pháo thủ trực tiếp đón chờ B52 (Chờ B52). Chờ
đợi sự huỷ diệt trong tư thế chủ động, bình tĩnh và tự tin. Tĩnh (nhân vật kể chuyện
xưng “tôi”) cùng đồng đội phải phát hiện ra B52 vào thả bom để bắn ba phát về thị xã
Thanh Hoá báo động. Nhiệm vụ lớn lao như vậy nhưng khẩu đội đã đi sơ tán một nửa,
một số vào núi đá ẩn nấp, “chỉ còn ba số ở lại quyết chiến với B52 của địch”. Ba chiến
sĩ, hai người mới đi bệnh viện về còn một người là sinh viên mới ra trường, tuổi đời
và kinh nghiệm chiến đấu còn non nớt nhưng luôn luôn phải “trực để chiến đấu”.
29
Đông là trợ lý ra đa, anh có “độ nhạy cảm hết sức đặc biệt” trong cái đám nhiễu
hiện lên màn huỳnh quang, anh nhận ra tín hiệu của B52. Anh luôn“ say mê giao
giảng cho tôi về cách nhận bộ mặt B52” để tiêu diệt nó. Sự sống còn của thị xã và cây
cầu Hàm Rồng phụ thuộc vào độ tinh nhanh và dũng cảm của những người lính. Tuy
nhiên cũng có phút giây chờ đợi dài, đầy căng thẳng, hồi hộp lo lắng. Cả ba người
“chui vào chiếc hầm chữ A sát bờ công sự, ép người như nêm”, “tiếng ù ù...ào ào ép
sâu trong tai...Tôi cố nén sự run rẩy do lúng túng” 33; 264]. Căn hầm chật chội, chật
tới mức nghe được tiếng “thì thụp của tim người bên cạnh”. Chỉ cần một người run lên
là tạo nên sự phản ứng dây chuyền. Đó không phải là cái run của sự sợ hãi mà là nỗi lo
không hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ cần một chút sai sót là cả thị xã Thanh Hoá có thể bị
san phẳng. Những chú lính trẻ “chưa một lần uống hơi thở đàn bà mà người ta dám
nhìn thẳng vào quân thù mà bắn”, ra chiến trận là hiến thân cho đất nước lo gì đến cái
chết. Bên ngoài, tiếng máy bay gào rú như xé nát bầu trời, chiếu những tia lửa tạc vào
nền màn đêm hình ảnh bất tử của những anh chàng pháo thủ.
Đêm B52 vào trải thảm, tưởng như có thể “xoá sổ toàn bộ các đơn vị trên đồi
cao” nhưng pháo của ta ở các trận địa vẫn “tung lên đỏ trời”, cả vùng Hàm Rồng như
một biển lửa. Đó chính những chàng pháo thủ quyết sống mái cho cây cầu bất tử.
“Chờ B52” mang ý nghĩa “trang trọng của sự chờ đợi và dĩ nhiên có sự bỡn cợt coi
thường cái chết”.
Nếu những chàng pháo thủ trực ngoài chiến trận kiên cường bất khuất thì những
cô thanh niên xung phong cũng vô cùng gan dạ. Họ là những cô gái trạm gác cầu Đò
Lèn (Cô gái Đò Lèn) chân yếu tay mềm song cũng rất nguyên tắc, vừa rời khỏi ghế
nhà trường đã xung phong ra trận địa. Công việc của các cô là “lấp hố bom, tháo bom
nổ chậm, kịp cho đêm đến thông đường cho xe đi”. Có điều trong khi các cô lo sợ cho
tính mạng của những chàng lái xe thì chính các cô lại đang đứng trên những túi bom
khổng lồ. Để đảm bảo an toàn cho các anh, các cô khăng khăng “tính mạng của các
anh không thể đem ra mà thách đố với bom nổ chậm được”. Có lúc cánh lái xe láu cá
đã phải nghĩ ra “mẹo”để cho xe đi: “cậu ôm chặt lấy cô ấy để cho mình lái xe qua có
được không?” hoặc “bế” cô gái lên ca bin. Chi tiết thể hiện vẻ đẹp ngời sáng của
những con người trong lửa đạn. Nó vừa anh hùng vừa hết sức lãng mạn, vừa tinh
nghịch, lém lỉnh vừa nghiêm túc, nhiệt tình trong công việc. Trong những điều kiện 30
khắc nghiệt của chiến tranh, đôi khi người ta phải biết thi vị hoá để tiếp tục sống và
chiến đấu. Vì vậy trong thư, những người lái xe gửi về luôn một niềm cảm phục, yêu
mến những cô gái phòng không nơi đây “lúc cần thì nguyên tắc ra phết. Nhưng giáp
mặt sao dễ thương đến thế”. Các lớp người này ngã xuống rồi lại có những người khác
“ngày đêm bám trụ”. Dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng không để cây cầu gục ngã.
Nếu ở ngoài trận địa, cuộc chiến cấp bách, khẩn trương đòi hỏi ý chí và tinh
thần cao độ của các chiến sĩ thì ở hậu phương công cuộc phục vụ kháng chiến của
nhân dân cũng dũng cảm và gian nan, kiên trì không kém. Truyện ngắn Thuyền nan đã
tái hiện lại không khí ấy.
Sát trận địa Hàm Rồng là vùng hậu cứ làng Giàng, Nam Ngạn. Cả làng Giàng,
nhà nhà chống giặc, người người chống giặc. Trong làng, “Thanh niên trai tráng ra đi
hết cả”, còn ở nhà người già và phụ nữ là hậu phương vững chắc. Dù thiếu thốn nhưng
người dân vẫn cố gắng học chữ để “đánh nổi thằng sen đầm quốc tế”. Mọi người vừa
sản xuất vừa chiến đấu và “tranh thủ giờ nghỉ trưa đến lớp” bất kể “máy bay của Mỹ
bổ nhào trút bom đạn xuống cầu Hàm Rồng”.
Ngày đế quốc Mỹ leo thang bắn phá Hàm Rồng, cả làng Giàng như một cuộc
tổng động viên, số thanh niên còn lại được huy động “lên trận địa giúp bộ đội lau
súng, tập thay thế làm pháo thủ”, chuẩn bị cho lực lượng sau này. Nhân dân trong làng
được lệnh đan thuyền nan cho thanh niên đi hoả tuyến. Giặc đánh ta bằng đường bộ thì
ta đi đường thuỷ nhằm đảm bảo cho miền Nam thân yêu không một ngày thiếu lương
nhu đạn dược. Một chiếc thuyền nan cũng chở được “vài ba tấn, laị dễ cơ động, luồn
lách”. Những ngày ấy “cả làng Giàng thệt sôi động. Người đi lên tận ngã ba sông chở
nứa về. Người ở nhà đập nứa, vót nan. Tiếng dùi nện vào đòn kê nghe râm ran cả một
vùng”. Nhịp sống ở đây thật náo nức, tất bật. “Đêm đan lát, giã gạo. Sáng ra bửng mắt
đã quang gánh chợ búa khắp nơi(...) Trâu ra đồng cày cho kịp phần đêm, về nhà sẵn
sàng lên trận địa tiếp đạn cho bộ đội. Người biết đan thuyền thì nhận về đan không
công xá gì, kịp cho binh đoàn thuyền nan ra trận” [33; 301]tạo nên một không khí náo
nhiệt, khẩn trương. Tất cả đều sục sôi quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ. Đến “ngày hạ
thuỷ những chiếc thuyền nan, làng Giàng thật sự trở thành ngày hội”, các chiến binh
từ khắp các huyện đổ về, háo hức học cách bơi, chèo thuyền sẵn sàng vào tuyến lửa.
31
Nổi bật lên trong hình ảnh dân quân làng Giàng là Ngân- cô cán bộ đoàn của xã.
Cô vừa sản xuất, vừa làm công tác xã hội lại vừa tiếp tế cho bộ đội. Mọi công việc
nặng nhọc cô giành lấy phần hơn mà không nghĩ đến bản thân mình. Hạnh phúc riêng
rư Ngân đều gác lại. Ngân còn nghĩ đến nhiệm vụ, còn “muốn phụng dưỡng cha mẹ,
nuôi đứa em mù loà tội nghiệp”. Có thầy giáo Dĩnh đến nhà ở trọ để dạy chữ, Ngân
yên tâm cùng binh đoàn thuyền nan đi vào tuyến lửa. Người con gái vốn từ nhỏ đã
“thạo sông nước và biết sửa thuyền ngấm nước” nay được giao nhiệm vụ làm đoàn
phó binh đoàn thuyền nan là một niềm vinh dự, một sứ mệnh lớn lao. Quà tặng Ngân
mang về cho em gái sau lần lên đường đầu tiên là mảnh dù pháo sáng, cô khoe “chiếc
dù này rơi xuống thuyền của Ngân ở sông Son” như thể chiến công cô giành được. Và
đó cũng là kỉ vật cuối cùng Ngân để lại cho Nga, “Ngân ra đi biền biệt từ ngày ấy”, từ
bữa cào hến ở sông Mã và nằm lại ở chiến trường Quảng Bình nhẹ nhàng, thanh thản.
Người lính vì đất nước thì chết ở đâu cũng là quê hương mình.
Qua khảo sát các truyện ngắn về đề tài chiến tranh của Từ Nguyên Tĩnh có thể
thấy gắn với những câu chuyện về người lính, người dân quân trong truyện ngắn của
ông là những chuyện tình trong sáng, cảm động. Tình yêu riêng tư đã hoà quyện với
tình yêu quê hương đất nước tạo nên sức mạnh vô biên lấn át bom đạn của kẻ thù. Tân
chiến đấu không mệt mỏi để bảo vệ cầu Tào bởi nơi thủ đô thân yêu vẫn có người con
gái đang hướng về anh với niềm tin yêu, hi vọng. Tuyết Mai và San mỗi người ở một
chiến tuyến nhưng hứa hẹn “sẽ ra quê Mai thưa chuyện với cha mẹ và họ hàng”. Ngân
ra đi vào tuyến lửa bởi một niềm tin vững chắc về tình yêu và trách nhiệm của thầy
giáo Dĩnh nơi quê nhà “Nhà Ngân mà có chàng rể như vậy thì phúc đời”. Chàng Lung
mù- tác phẩm của “nhà điêu khắc chán đời” mỗi lần đệm đàn cho cô thanh niên Toàn
hát “đôi tay như có ma lực, nhảy múa trên phím đàn”. Mỗi lần “liên hoan văn nghệ,
hát mừng chiến thắng”, mỗi lần “lên trận địa gặp gỡ bộ đội vui hát cùng họ” tiếng hát
của anh đã phần nào làm dịu đi nỗi đau thân thể của những người lính bị thương và
khích lệ thêm tinh thần chiến đấu của họ.
Thiêng liêng nhất trong trái tim mỗi con người là nỗi niềm về đất nước. Qua
những trang văn của Từ Nguyên Tĩnh, những con người Việt Nam nói chung và Hàm
Rồng Thanh Hoá nói riêng đi vào mặt trận thật hồn nhiên bản lĩnh. Là người lính viết
văn, Từ Nguyên Tĩnh đã lách sâu ngòi bút của mình vào tâm hồn đồng đội, những cô 32
thanh niên xung phong...để chỉ ra những điểm sáng lung linh trong tâm hồn họ. Quân
và dân Hàm Rồng cùng với cây cầu huyền thoại đã trở thành biểu tượng bất tử cho ý
chí quật cường, bất khuất trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh và trong lịch sử đất
nước.
Mỗi một nhà văn trong đời cầm bút bao giờ cũng có duyên nợ với một vùng đất
nhất định. Đối với Từ Nguyên Tĩnh, làng Bàn Thạch hay là không gian Xứ Thanh
không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn của tác giả mà còn là nơi cung cấp cho ông nguồn
văn liệu chính và cảm hứng sáng tác. Con người ông, tâm hồn ông được tắm đẫm
trong không gian, hơi thở xứ Thanh. Qua những trang truyện ngắn, Từ Nguyên Tĩnh
đã gửi vào đấy sự hiểu biết, niềm tự hào yêu thương xen lẫn những suy tư, trăn trở đối
của mình đối với mảnh đất quê hương. Có thể coi Từ Nguyên Tĩnh là Cây bút Xứ
Thanh như nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã gọi.
33
Chƣơng hai
THẾ GIỚI NHÂN VẬT ĐA DẠNG, PHONG PHÚ
Nếu lấy cái mốc 1975 để phân chia sự vận động và phát triển của nền văn học
Việt Nam sau cách mạng Tháng Tám mà giai đoạn 1945- 1975 là giai đoạn văn học
sử thi và giai đoạn sau 1975 đến nay là văn học thời kì đổi mới thì Từ Nguyên Tĩnh là
nhà văn của cả hai giai đoạn. Trưởng thành trong những năm tháng chống Mỹ ác liệt,
những trang viết của Từ Nguyên Tĩnh vang lên âm hưởng của một thời đại sử thi. Sau
khi đất nước thống nhất, chuyển mình mạnh mẽ, để hội nhập và phát triển cây bút Từ
Nguyên Tĩnh cũng nhanh chóng gia nhập vào lực lượng những thành viên góp phần
tích cực vào công cuộc đổi mới đời sống văn học. Vì vậy thế giới nhân vật trong
truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh thực sự phong phú. Sự phong phú ấy vừa là nguyên nhân
vừa là hệ quả của sự đa dạng phong phú trong đời sống xã hội. Theo khảo sát của
chúng tôi, thế giới nhân vật trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh có khá nhiều dạng
thức phong phú: nhân vật tư tưởng, nhân vật số phận, nhân vật loại hình, nhân vật tính
cách.
2.1. Kiểu nhân vật tƣ tƣởng
Nhân vật tư tưởng là “Kiểu nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức
tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội (...) Nhân vật tư tưởng cũng có thể chứa
đựng những phẩm chất tính cách, cá tính và nhân cách. Nhưng cá tính và tính cách
không phải là hạt nhân tạo nên cấu trúc của nhân vật tư tưởng (...) loại nhân vật này
thường dễ rơi vào công thức, trở thành cái loa phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. (Từ
điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển
thuật ngữ văn học- NXB Giáo dục, năm 2000)
Theo quan niệm trên, trong thế giới nhân vật của truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh
có kiểu nhân vật tư tưởng. Kiểu nhân vật tư tưởng này cũng một lúc vừa phản ánh 34
những quan niệm xã hội, vừa phát ngôn cho tư tưởng, nhận thức cá nhân của nhà văn.
Nhân vật trong truyện Kiếp cầm ca là cách để tác giả vừa bộc lộ quan niệm của xã hội
về giới làm nghệ thuật và cũng là một cách để tác giả tranh luận với quan niệm, tư
tưởng cổ hủ trên bằng phương pháp phản đề thông qua hình tượng nghệ thuật. Thằng
Đất và Tuyết Tuyết là hai nhân vật chính trong truyện Kiếp cầm ca.
Tuyết Tuyết vốn là cái đĩ Beo, người bên sông, cha mẹ mất sớm làm con nuôi
cụ Cố Cợn. Là đứa ở, nhưng “trời lại phú cho cái giọng hát hay từ trong bụng mẹ”.
Lớn lên, “nó cứ trắng phỡn ra, áo sống mũ mão mới có trên là Tuyết Tuyết”. Thằng
Đất, gã trai ngụ cư, cái tay chạy xe vô gia cư, không hiểu học được ở đâu ngón đàn
sáo. “Người ta nói, tay ngụ cư này chính là người chăn trâu thuế cho cụ Cố Cợn, vốn
đã có tình ý với đứa ở là con đĩ Beo”. Nếu không được trời ban cho giọng hát và khả
năng âm nhạc kỳ tài, có lẽ cu Đất và đĩ Beo đã trở thành một cặp vợ chồng hạnh phúc.
Bởi cả hai cùng nghèo hèn, cùng tứ cố vô thân nương tựa vào nhau. Chúng yêu nhau
đến nỗi ngay cả khi Đĩ Beo bị mua đi bán lại, thằng Đất, tay câu cá ngụ cư vẫn vác
cần câu giang hồ hết làng nọ qua làng kia, ở đâu sáng đèn là đến, nghe được tiếng
thoảng trong đêm là tìm. Tìm cô Beo ngày nào…”[33;73]. Nhưng khốn nỗi, ông trời
vốn oái oăm, ban cho hai kẻ khốn khổ kia những khả năng hiếm có: Tuyết Tuyết có
“giọng hát hay từ trong bụng mẹ”, thằng Đất chăn trâu có tài chỉ cần nghe lỏm là học
được các ngón đàn. Số phận ban cho chúng kiếp “đào nương” và “ca công”. “Xướng
ca vô loài”, ai quan tâm đến chúng, càng không có ai để ý đến tình yêu của chúng.
Chúng đâu được coi là kiếp con người. Mà chúng cũng ghê gớm thật. Ai đời khi Tuyết
Tuyết đã được bán cho quan Tây, thành bà “đầm”, được đưa về trời Tây thế mà chúng
vẫn không chịu rời. Thằng Đất dù “lội nước sâu cũng mặc phải đánh được đàn cho
Tuyết Tuyết hát”, hắn được quan Tây cho đi theo làm phu đánh đàn. Song, chúng lại
thành một đôi tình nhân bất chính. Thoát chết lần ấy chúng vẫn không chịu từ bỏ nhau.
Thằng Đất còn lặn lội sang trời Tây một lần nữa nhờ tiếng đàn. Song lần này thì cả hai
được toại nguyện: “Người ta bảo quan trông coi việc đào sông sau này làm đến chức
Bộ trưởng tài phiệt. Ngài mới đóng cũi nhốt thằng Đất và con Beo, chỏ tàu thủy đưa
về La Đá Hạ (…) Ngài sai bọn phu làng hồ đưa xuống bè, nhốt hai đứa vào một cũi,
dìm xuống lòng hồ”[33,79].
35
Nửa sau của câu chuyện, Từ Nguyên Tĩnh lại đặt ra vấn đề khác: “Người ta bảo,
xuống đó mà Đất vẫn còn đàn, Tuyết Tuyết vẫn hát. Vì vậy đêm đêm người kéo vó te,
kẻ đi đánh cá trộm vẫn nghe được tiếng đàn của Đất và tiếng hát của Tuyết Tuyết lay
động cả lòng hồ La Đá Hạ”. “Vào những đêm mưa thâm gió bấc …họ thấy trên mặt
hồ La Đá Hạ nổi lên con thuyền mờ ảo như mà đêm. con thuyền nhẹ bẫng trôi trên
màn sương khói, có tiếng đàn sáo đâu tận lưng trời…Người ta tin Đất và Tuyết Tuyết
vẫn còn đấy. Đâu đây trong khí động của lòng hồ…”[33, 79- 80]. Phải chăng tác giả
muốn minh chứng cho sự bất tử của tình yêu và nghệ thuật? Tác giả mượn lời người
dân vùng La Đá Hạ để “luận” về kiếp cầm ca: „Từ anh chàng cày thuê cuốc mướn đến
cụ tiên chỉ, chức dịch trong làng, con mụ mắt lé, miệng méo ế chồng những ngứa
miệng có dịp bàn đến chuyện hát xướng là y như rằng ra giọng cao đạo làm bộ măt
khinh khi: cái lũ vô loài hèn hạ. Ai bảo việc gì mà khóc cười, bó gối chau mày, đau
đời kia chứ? Chúng nó làm gì cho cuộc đời này nhỉ? Tiếng đàn lồ ca ấy có làm cho ai
chết được đâu…”. Nhưng lạ lùng thay “vắng tiếng đàn dạo của thằng Đất và lời buong
lơi của ả Tuyết Tuyết họ thấy thiêu thiếu một bộ phận nào đó trong con người. Bụng
no rồi, lại càng thấy thiếu. Một lúc nào đó, dù thảng hoặc hiếm hoi nhận ra rằng: tất cả
mọi thứ bậc đều nợ nần thằng Đất và Tuyết Tuyết. Ai cũng được nghe mà chưa một
lần trả nợ cho cái kiếp cầm ca lạc loài”. Hơn thế, tác giả còn giả tưởng: “Nếu trong
cùng một lúc, mất hết tiếng đàn và lời ca rẻ rúng ấy nhỉ. Thì loài người sẽ thành cái
quái gì đây?” Người ta còn truyền miệng cho nhau “Vì trái đất đầy buồn nản. Dù có
cơm rượu no say vẫn thiếu thốn, mong có thú vui và trọn vẹn…Tạo hóa động lòng trắc
ẩn mà nứt nòi ra những sinh linh bé nhỏ, đem tiếng đàn và giọng hát làm dịu đi nỗi
đau của sự nhọc nhằn đời người”. Sự phỉ báng bị trả giá. Người La Đá Hạ không khỏi
ngậm ngùi nuối tiếc…
Như vậy, câu chuyện của thằng Đất và cái đĩ Beo Tuyết Tuyết chỉ là bịa đặt.
Hai nhân vật giả tưởng để tác giả thử lý giải nguyên nhân của lời nguyền rủa định
mệnh: xướng ca vô loài. Tình yêu của thằng Đất và Tuyết Tuyết bị cho là “vô loài”
bởi nó tự do và mãnh liệt, nó phá vỡ mọi trật tự, khuôn phép của lễ giáo phong kiến.
Thằng Đất say đắm Tuyết Tuyết không chỉ vì nhan sắc mà trước hết là vì giọng hát mê
hoặc. Sức cám dỗ của nghệ thuật thật ghê gớm, người ta sợ ma lực của nó và cho rằng
36
ma lực của nó có thể xui khiến người ta quên hết mọi khuôn phép, mọi trật tự lễ giáo,
thành ra “vô loài”.
Song, từ sự cảnh báo đến thành phủ nhận nghệ thuật là cả một vấn đề. Mượn
câu chuyện của thằng Đất và Tuyết Tuyết để mong giải tỏa một tư tưởng đã có từ bao
đời. Tác giả đã chỉ ra sự cực đoan, định kiến bảo thủ, lệch lạc của thái độ, cách nhìn
nhận ấu trĩ một thời về nghệ thuật và giới nghệ thuật là câu chuyện của quá khứ,
nhưng ngay cả bây giờ liệu có còn quan niệm ấy trong tư tưởng của con người hiện
nay không? “Luận” về “kiếp cầm ca”, tác giả ghi nhận công lao to lớn của những con
người sống chết vì con người mà lại chính con người bạc đãi: Họ đã “làm dịu đi nỗi
đau của sự nhọc nhằn đời người”.
Truyện ngắn Hạnh phúc trần gian cũng thuộc loại truyện tư tưởng. Hai nhân vật
Doanh và Gioóc-Đanh là hai nhân vật tư tưởng phát ngôn cho quan niệm: hạnh phúc
không ở nơi đâu xa xôi, cũng không tự dưng mà có. Nó có thể tự tìm đến với mỗi số
phận, nhưng nếu không biết gìn giữ, không biết nâng niu trân trọng thì nó sẽ vuột ra
khỏi tầm tay mà không thể kiếm tìm lại được.
Doanh từng là người có chức quyền, luôn đứng trên danh vọng, anh đã từng
ném chút đỉnh bố thí những đồng bạc rơi rụng cho những kiếp người khổ ải. Một chữ
ký của anh chứa đựng sức mạnh của đồng tiền và quyền lực. Cái hạnh phúc hơn của
anh là có “một tổ ấm nho nhỏ và người vợ xinh đẹp, hiền lành”. Đối với bao người đó
là niềm mơ ước một đời song với Doanh tất cả vẫn không chế ngự được trái tim đầy
tham vọng. Tham vọng chính là động lực để người ta thành đạt hơn, giúp con người có
ý chí và sự quyết tâm cao độ, nhưng nếu tham vọng quá nó khiến con người ta trở nên
tàn nhẫn lạnh lùng. Doanh là con người như vậy, anh đã trở thành “thằng chồng khốn
nạn phụ bạc, có chức vụ bé nhỏ đã lừa gạt vợ” để ra đi tìm sự giàu có. Doanh “vứt bỏ
quá khứ” để đi tìm hạnh phúc ở “chân trời khác lạ”. Nơi đó không phải là quê hương
mà ở phía bên kia bờ đại dương xa xôi mờ mịt. Con người vốn tham lam, đứng trước
sự cám dỗ khó biết đâu là giới hạn.
Nhưng cái viễn cảnh huy hoàng diễm lệ ấy đâu không thấy, Doanh chỉ thấy
mình “là cọng rác, là bọt nước” giữa đại dương mênh mông huyền bí. Sự may rủi của
tạo hoá đã ban cho Doanh sự sống lần hai. Cái hạnh phúc đầu tiên oà vỡ sau những
ngày trôi dạt trên biển “ôi! Sống rồi. Sống lại thật rồi”. Khi con người ta đối diện giữa 37
sự sồng và cái chết mới thấy “yêu quý cuộc sống xiết bao”. Giọt nước mắt muộn mằn
đầy sự hối hận “tại sao lại ngu muội dám liều lĩnh huỷ hoại thân xác, vứt bỏ cuộc sống
của mình”. Bát cháo cá của lão Gioóc-Đanh, ân nhân cứu mạng Doanh khiến cho anh
cảm nhận được hương vị ngọt ngào của cuộc sống, cái hương vị mà bao nhiêu năm
nay Doanh chưa được nếm bởi sự no đủ của những món ngon vật lạ. Doanh tự lục vấn
mình “tại sao lại thích ra đi tìm sự giàu có mà vứt bỏ quá khứ nhỉ? Giàu có làm gì khi
có một tổ ấm nho nhỏ và người vợ” [33; 493]. Anh cay đắng nhận ra bao nhiêu năm
nay mình chưa được sống thật sự theo đúng nghĩa, cả đời toàn “lăn lộn, bon chen lừa
gạt” Doanh “không nghĩ được điều gì hay ho”. Cái hạnh phúc bình dị là được sống
nơi trần gian, được làm người lương thiện bây giờ anh mới nhận ra. Hoá ra lâu nay
anh chỉ làm bạn với những kẻ cũng đầy tham vọng, mưu mô và cơ hội; những con
người biết chấp nhận và trân trọng cuộc sống như lão Gioóc-Đanh bây giờ anh mới
được gặp. Chính lão và vợ lão (lại là người vợ mà Doanh đã từng ruồng bỏ ) đã giúp
Doanh nhận ra được giá trị của hạnh phúc nơi trần gian. Cuộc sống hạnh phúc không
phải là luôn gồng mình, là căng lên với tất cả. Hãy sống bình dị để đời thanh thản, đó
chính là triết lí mà Từ Nguyên Tĩnh muốn gửi đến độc giả.
Còn Gioóc-Đanh lại cũng từng có tất cả những điều mà người đời khao khát,
“được ăn học, nếm trải đủ mùi sinh viên”. Cuộc đời vinh hoa như trải thảm trước mắt
Gioóc-Đanh, có thể về “bất cứ trường nào ở nước Nam này để làm giáo học, làm thầy
ký xuất hiện cùng quan hàng tỉnh”. Tuy nhiên, cũng như Doanh lão khó mà thoả mãn
với những gì mình đã có, “sự ngông cuồng đã cướp đi cuộc đời và ước mơ”, Gioóc-
Đanh đành “bán xới ra cùng đại dương. Sống cô đơn cùng mênh mông của vũ trụ”.
Cuộc sống ăn sóng nằm gió thấm thía vào Gioóc-Đanh nỗi khổ cực của trần gian “mỗi
lần kiếm được con cá là gặp sự chết chóc. Thách thức cuộc đời với cái chết”. Cái đam
mê khát vọng một thời đã lùi vào quá khứ để nhường chỗ cho chân lý “dẫu nghèo khó
cũng phải sống làm con người nơi mặt đất”. Gioóc-Đanh không còn ý nghĩ trở về cố
hương, nơi đây chính là quê hương của lão.
Nhưng điều quan trọng hơn nơi đây chính là thiên đường của Gioóc-Đanh. Cả
thời trai trẻ lão đã hi sinh cho đại dương, đã thế lại cho hai chàng trai trẻ vào đất liền
tìm vợ, một mình nơi đầu sóng ngọn gió làm tín hiệu cho tàu. Nhưng cũng chính từ đại
dương lão lại “nhặt” hạnh phúc bất ngờ đó là một “nàng tiên”. Nàng là nửa phần còn 38
lại mà đời lão thiếu thốn, là “một phép màu để sống” mà tạo hoá “kì quặc” đã ban cho
lão, giúp lão thêm một lí do chính đáng nữa để tồn tại ở bờ biển nắng gió này. Và điều
quan trọng hơn nàng đã “đánh thức trái tim lầm lạc” của Gioóc-Đanh, cho lão biết lão
còn có ý nghĩa biết bao với cuộc đời này. Trong con mắt nhân gian, Gioóc-Đanh là
một “gã trai bại trận” nhưng với nàng lão là “người đàn ông vĩ đại”, thậm chí là
“Thượng đế”. Thượng đế của sự hi sinh và lòng nhân ái vì vậy “nếu mà gặp thì dù ở
đảo xa xôi hay trên rừng núi cũng sống trọn đời”. Nàng đã dành cho lão một “hạnh
phúc trọn vẹn” bằng tình yêu lẫn sự hàm ơn và cảm phục
Hai nhân vật tiêu biểu cho quan niệm mới về con người, đó là kiểu con người
sám hối, thức tỉnh đầy suy tư, dằn vặt. Từ Nguyên Tĩnh không đi sâu vào lí giải cuộc
đời hai nhân vật với những biến cố, sự kiện mà ông chú tâm khai thác quan điểm cá
nhân của mỗi người trước cuộc đời để đưa ra những triết lí nhân sinh sâu sắc, một
quan niệm xã hội trong cách nhìn nhận hạnh phúc. Họ trở thành “cái loa phát ngôn”
cho chính những tư tưởng của tác giả. Hạnh phúc của con người không phải là cái gì
phù phiếm, không thuộc sở hữu của mình. Nó cũng không phải là đồng tiền, địa vị.
Hạnh phúc không ở nơi đâu xa lạ mà con người cứ băn khoăn kiếm tìm, nó ở ngay
trong chính những cái bình dị bên cạnh chúng ta. Tình yêu của lão Gioóc-Đanh không
nằm ở những địa vị đầy sự hứa hẹn và “thân thể ngọc ngà” của “con đầm non tơ” mà ở
nơi đại dương mênh mông với nàng tiên của mình. Hạnh phúc của Doanh cũng không
nằm ở bên kia bờ đại dương với tương lai xa hoa huyễn hoặc, ở những đồng tiền ô trọc
mà ở ngay “trần gian” với cuộc sống đời thường. Nhân vật Doanh tiêu biểu cho quan
niệm về con người của văn học sau 75, đó là kiểu con người sám hối thức tỉnh đầy suy
tư dằn vặt. Chính điều đó con người mới nhận ra chân lí của cuộc sống và định hướng
cho sự phát triển nhân cách.
Cũng đề cập đến phẩm chất con người, xã hội quan niệm trong mỗi chúng ta ai
cũng có hai mặt đối lập đó là cái xấu và cái tốt hay đều có quỷ sứ và thiên thần, “rắn
rít và rồng phượng” tồn tại, “chỉ hơn kém nhau là sự nhốt giữ kẻ đạo tặc ấy hay thả
rông ra mà thôi”. Quan niệm ấy được Từ Nguyên Tĩnh hình tượng hóa thành hai nhân
vật Quỷ sứ và Thiên thần trong truyện ngắn cùng tên.
Quỷ sứ theo truyền thuyết được hiểu là quỷ dưới âm phủ, chuyên hành hạ linh
hồn những người có tội. Còn Thiên Thần lại là thần ở trên trời cao luôn ban phước 39
lành cho loài người. Tuy nhiên khi đi giải thích hình tượng, nhà văn đã có những quan
điểm riêng. Quỷ sứ và Thiên thần ở đây không phải là những nhân vật cụ thể với
những đặc điểm tính cách, với những hành động thể hiện sứ mệnh của mình mà đó là
những nhân vật mang tính biểu trưng. Qủy sứ là đại diện cho những cái xấu xa, tàn ác,
đê tiện, còn Thiên Thần tượng trưng cho những gì đẹp đẽ, cao cả, thánh thiện.
Quỷ sứ đôi khi được ẩn “dưới một khuôn mặt đẹp” cũng như cái xấu đôi khi
đươc che đậy bởi vẻ bề ngoài hào nhoáng, mỹ miều. Nếu như con người ta không đủ
tỉnh táo sẽ “không sao tránh được sự cám dỗ của nó”, khiến con người ta “mê mẩn tâm
hồn” để làm những việc trái luân thường đạo lí. Còn Thiên thần có một đạo đức “lấy ai
so được”, thiên thần tốt đến nỗi “đi đến đâu là tỏa ra vầng hào quang ban phát cho
người”, có sức mạnh “cải hóa làm cho con người thấy lối sống cần mà sống” thế
nhưng khổ nỗi hắn lại yêu Quỷ sứ. Thiên thần ở trên trời cao, quỷ sứ ở địa ngục và
con người ở trần gian, vì vậy, con người là sự giao thoa, gặp gỡ của hai nhân vật đối
lập trên. Cuộc hôn nhân của chúng chính là sự tồn tại song song hai phẩm chất trong
mỗi con người.
Quỷ sứ (cái xấu) và Thiên thần (cái đẹp) lúc ở bên nhau, chúng “giống nhau quá
thể tới mức nhầm lẫn, ăn mặc của cộng đồng sao giống nhau thế”, có nghĩa là về hình
thức chúng tương đồng, trùng lặp đến mức làm người đời khó phân biệt. Người tỉnh
táo sẽ nhận ra đâu là quỷ sứ để né tránh, rời xa còn người ngu muội sẽ để cho nó dẫn
đường chỉ lối. Chệch đi một chút sẽ là xấu hoặc sẽ là tốt khó phân định ranh giới. Và
khi “con người không ý thức được mình, chỉ còn thú vui thể xác”, sống tận cùng với
nỗi “ham mê” rộng ra là làm những điều tàn ác xấu xa khác thì chính là lúc cái xấu
(quỷ sứ) trong mỗi con người đang lấn lướt cái tốt, cái tốt nhoà đi tan biến ra và con
người chỉ còn mang trong mình bản chất của quỷ.
Có những khi để dung hòa hai mặt ấy trong một con người, người ta phải để cho
chúng biến hoá khôn lường. Có khi Quỷ sứ “phải nhập vào cô gái xấu xí(tồi tệ thay cái
xấu xí) còn Thiên thần hiện nguyên hình đẹp đẽ” và ngược lại có khi “nàng hiện
nguyên hình là một cô gái đẹp và chàng phải khoác bộ mặt xấu xí” để được bên nhau.
Song tính cách con người luôn có sự vận động, chuyển hoá “dẫu thiên thần nhưng
cũng bị quỷ sứ quyến rũ nên tan biến mình ra có khác gì qủy sứ đâu”. “Nguy hại thay
khi qủy sứ quá ham muốn làm người ...có ai biết được hậu quả của Quỷ sứ gây 40
ra...Còn Thiên thần còn nhớ gì vai trò của mình nữa, biến thành quỷ sứ mất rồi...Họ
làm loạn cả loài người...”. Như vậy dù có tuyệt đối là thiên thần, trong sáng và thánh
thiện nhưng con người ta ở phút giây nào đó cũng trở thành ác quỷ với những điều xấu
xa, vị kỉ. Và có thế mới đúng là bản chất của con người, đa chiều và phức tạp, toàn
diện và sâu sắc.
Nhưng bản chất con người là hướng thiện vì vậy nhiều lúc Quỷ sứ và Thiên
thần “nhập vào đánh nhau trong một con người” cũng như cuộc đấu tranh của cái xấu
và cái tốt, cái thiện và cái ác để con người đi tới hoàn thiện bản thân. Đó là cuộc đấu
tranh đầy dằn vặt, đau đớn mang tính lựa chọn, đôi khi sự lựa chọn thật sự nghiệt ngã.
Thiên thần vốn đẹp và mong manh yếu ớt còn “Quỷ sứ thì khỏe nên cái xấu và cái ác
đầy ra đấy” [37; 466]. Song đấy chỉ là sự thất bại tạm thời, dù trên trái đất này có
nhiều người xấu nhưng nếu “ đi tìm còn gặp ối người tốt lành”. Cái ác không thể ngự
trị được; cái đẹp, cái tốt vẫn là chủ nhân của trái đất. Người có tư chất có bản lĩnh sẽ
nhận ra đâu là Quỷ sứ, đâu là Thiên thần mà kìm chế hay nuôi dưỡng.
Qua hai nhân vật tư tưởng Quỷ sứ và Thiên thần, Từ Nguyên Tĩnh đã bày tỏ
quan điểm về phẩm chất con người. Con người không phải ai cũng hoàn toàn tốt hay
hoàn toàn xấu. Trong chúng ta luôn luôn diễn ra sự thống nhất và đấu tranh giữa
những mặt tốt và mặt xấu để con người trở nên hoàn thiện hơn. Đó là cách nhìn đời,
nhìn người đầy biện chứng. Nhà văn cũng giúp chúng ta nhìn lại bản thân mình để thử
xem ta thuộc cung bậc nào trong cõi đời này từ đó định hướng cho sự phát triển nhân
cách.
Ngoài những nhân vật trên còn một số nhân vật chưa có tầm vóc của nhân vật tư
tưởng nhưng qua đó nhà văn muốn gửi gắm những triết lí nhân sinh sâu sắc như Tịnh
trong Đò dọc, sư cụ trong Cái chết của sư cụ chùa Tụng Thiên, Thuyết tiến sĩ thần học
trong Mẹ, ... Nếu như nhân vật Doanh nhận ra hạnh phúc của con người là được sống
ở trần gian thì Tịnh cũng nhìn thấy ý nghĩa cuộc đời trong ước mơ giản dị khiêm
nhường và biết chấp nhận nó. Đến nhân vật sư cụ tư tưởng triết lí thể hiện ngay trong
câu nói của người em trai của ông “trời ơi có tôn giáo nào dễ dãi không để anh tôi khỏi
chết oan chết uổng vì làm điều thiện”. Câu nói chứa sức nặng của triết lí: chết oan vì
làm điều thiện là bi kịch như có người đã nhận xét. Còn ông tiến sĩ thần học lại là
thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới người đọc: sự thành công của con người phải có 41
giá trị thực tiễn chứ không phải là những lí thuyết sáo rỗng, lừa bịp mang tính phiếm
luận. Như vậy, qua mỗi nhân vật nhà văn đều kí gửi vào đấy những tâm sự, suy tư,
chiêm nghiệm, triết luận của mình đồng thời đi mổ xẻ, phân tích nó để tìm ra bản chất
bộn bề, sinh động của cuộc sống.
2.2. Kiểu nhân vật số phận
Có thể coi “nhân vật số phận” như một dạng thức khác của “nhận vật tư tưởng”.
Nhân vật số phận thường gánh trên vai gáng nặng số phận mà trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh phần lớn có số phận khổ. Loại “người khổ” này có thể do “hồng nhan
bạc phận” như chị Kén, có thể do sinh ra đã khổ như Lung mù, có thể do bị áp bức
như Đỏ Cao. Nhân vật số phận không được quan tâm nhiều đến tính cách mà chủ yếu
được miêu tả trong hoàn cảnh, thân phận. Kén trong truyện ngắn Kiếp người là biểu
tượng cho thân phận “hồng nhan bạc phận”. Qua kiểu nhân vật này, Từ Nguyên Tĩnh
thể hiện một cái nhìn xót thương, bao dung, đối với những “kiếp người” trầm luân,
đau khổ.
Như đã phân tích, Kiếp người là câu chuyện viết về cuộc đời cô Kén hồng nhan
song bị số phận bạc đãi, vùi dập đến ê chề. Đọc truyện, độc giả không khỏi miên man
cho số kiếp một con người bị hệ lụy bởi những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ. Chị Kén nhân
vật xuất hiện đầu câu chuyện với vẻ đep rực rỡ. Cả làng Bàn Thạch ai cũng “trầm trồ
khen chị đẹp”, ai cũng “muốn cưới hỏi cho con mình”. Cuộc hôn nhân của chị với
anh Lượng hứa hẹn một cuộc đời đầy hạnh phúc nhưng bất hạnh lại nhanh chóng ập
xuống. Chị Kén trở thành bà góa khi mới qua tuổi hai mươi.
Những chuỗi ngày sống cuộc sống khốn tiếp đó vùi dập và dày vò người phụ nữ
tội nghệp. Từ một cô gái xinh đẹp, con nhà tử tế, chị Kén bị đối xử như một thứ đồ
vật, bị khinh khi, bị chà đạp hạ nhục. Chị ra đi trong lạnh lẽo và khốn cùng.
Chị Kén là nhân vật điển hình cho kiểu nhân vật số phận bất hạnh trong truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh. Chị Kén mang cái kiếp sinh ra đã khổ, cái khổ bủa vây tất cả
không một chút ánh sáng, một tia hi vọng. Viết về cuộc đời chị Kén ta thấy nỗi đau
của nhà văn dường như trào ra đầu bút. Đó là nỗi đau của một trái tim nhân hậu thấy
được những bi ai của loài người. Câu chuyện cũng mang bóng dáng cuộc đời người
chị gái bạc phận của Từ Nguyên Tĩnh, nó như một nén hương mà nhà văn muốn thắp
lên cho người đàn bà xấu số. 42
Người vợ của biển cả cũng thể hiện một thân phận đen bạc, nhưng khác với
nhân vật Kén bị cuộc đời vùi dập đến không còn khả năng chống trả, nhân vật Thương
ở đây lại mạnh mẽ hơn. Cô dám chống lại sự sắp đặt nhưng do số kiếp nhưng cuối
cùng cũng không tránh khỏi số kiếp “đào hoa”. Và nỗi đau khổ lớn nhất của Thương
chính là bị phụ bạc, ruồng rẫy.
Chặng đường đầu đời giống như Kén, Thương cũng là một người con gái “ hay
đáo để” ở miền gió cát, nhan sắc của cô lọt vào “tầm ngắm” của lão Ri. Lão là loại
“làm ăn đang phát”, lão muốn chọn Thương làm vợ cho thằng con tật nguyền là Thực
và đến “dạm hỏi bằng một thúng lúa”. Thương thì “chẳng quan tâm” đến tiền của nhà
lão đặc biệt là cái thằng thọt hợm hĩnh. Cô thích được “hoạt động xã hội” và cũng bởi
vì Thương yêu Phú trong đội văn nghệ. Nhưng vì mẹ già, cảnh nhà neo đơn “phải cậy
nhờ người ta” nên Thương đành phải chiều lòng mẹ đem thân gả bán. Đám cưới diễn
ra, “to nhất vùng cát” nhưng không làm Thương hạnh phúc. Thương cay đắng nhận ra
sự thật thằng chồng chỉ “đứng cao chạm vú, chân lại thọt”, cô và hắn như đôi đũa lệch,
Thương nhất quyết không sống đời sống vợ chồng với hắn. Để hành hạ Thương, lão
Ri trơ trẽn đến đòi lại tiền cưới hỏi và nhục mạ mẹ con Thương “tôi bỏ tiền ra mua
trâu cái, tại sao lại không cho trâu đực đi tơ”. Song Thương là cô gái bản lĩnh, cô ý
thức được bản thân mình và dám đấu tranh bảo vệ tình yêu, hành động lấy chiếc dao
rựa “đặt bàn tay phải chặt đến phập một nhát, ngón út rơi ra một đốt” và thề “chỉ yêu
và lấy anh Phú” cho thấy sự phản kháng quyết liệt đầy ý thức, là hành vi ca ngợi sự tự
do vượt qua định kiến để sống cho bản thân mình [33; 174]. Nếu so với cô Kén, cuộc
đời Thương có dấu hiệu sáng sủa nhiều hứa hẹn.
Hạnh phúc thật sự đến với Thương sau khi phiên toà xử Thương thắng kiện, cô
đã được tháo cũi sổ lồng, những bất hạnh của cuộc đời cô đã khép lại để mở sang
trang mới. Nhưng nếu như ở chặng đầu, Thương là cô gái mạnh mẽ, bản lĩnh thì ở
chặng đời sau cô đầy bất lực và cam chịu. Những gì cô phải hi sinh, phải đấu tranh
không đem lại cho Thương một hạnh phúc hoàn hảo. Cuộc hôn nhân đẹp nhưng cô
không có thiên chức được làm mẹ thì Phú “ra đi chiến trận”, Thương lại vò võ một
mình ở nhà, chờ đợi và khát khao cháy bỏng một ngày “anh ấy sẽ cùng đoàn quân
thắng trận trở về...”. Khao khát mãnh liệt hơn là cô sẽ “sinh cho đời những cậu bé
thơm tho và đẹp nhất trần gian”. Những ngày xa chồng chị lại chịu sự quấy nhiễu của 43
Thực. Thương như con mồi béo bở trước mặt, cái thú tính trong người luôn dày vò
hắn, hắn tìm mọi cách cô ve vãn dụ dỗ nhưng không lay chuyển nổi trái tim sắt đá
thuỷ chung. Tấm lòng kiên trinh vẫn hướng về nơi xa có tiếng súng. Cô thành hòn
vọng phu chờ chồng.
Rồi cũng đến ngày Phú trở về, sau bao nhiêu năm xa cách những tưởng Thương
cô sẽ được bù đắp vậy mà anh “chẳng mặn mà gì”, anh biện minh cho sự trễ nải của
mình “đất nước vừa giải phóng anh bận nhiều việc”. Anh giờ đã là một con người
khác có địa vị và đầy tham vọng, trong trái tim anh Thương không còn là người con
gái từng một thời sống chết. Phú ra đi nhanh chóng như muốn rũ bỏ tất cả, Thương lại
một mình như chưa bao giờ cô có chồng, chưa bao giờ có mặt trong cuộc đời của anh.
Ngày vào Nam tìm chồng, Thương phải dấu thân phận của mình, dấu đi những
giọt nước mắt thương thân. Thà Thương cứ ở vậy, thà cô đừng vào Nam tìm chồng thì
sự thật đỡ nghiệt ngã, trái ngang hơn. Nhà Phú lộng lẫy quá, Phú vẫn “giọng ngọt
ngào” đầy giả dối: “Em vào hồi nào. Sao không điện cho anh đưa xe đón”. Phú “vẫn là
con người mà chị yêu quý, tôn thờ nhưng giờ xa lạ...”. Cái cám dỗ của đồng tiền, sức
hấp dẫn của người phụ nữ tư sản miền Nam khiến anh quên đi tất cả trở nên tầm
thường, ích kỉ. Phú quên đi ngày nào vì anh mà Thương dám bỏ đi ngón tay út của
mình, vì anh mà cô bị cạo đầu bôi vôi bêu riếu khắp chợ. Trước mặt anh chỉ là người
phụ nữ quê mùa, nhếch nhác tội nghiệp. Những lời nói của ông anh vợ và vợ Phú càng
như gáo nước lạnh dội vào Thương, họ khuyên cô “nên về quê là sẽ được sự chu cấp
về tài chánh”. Họ bỏ tiền ra để mua sự im lặng và chấp nhận của cô, Thương có thể
làm tất cả nhưng không kéo được Phú trở lại, cuộc sống của anh là ở trời Nam với
công danh và sắc đẹp.
Nếu như Thương lấy Thực dù không yêu nhưng cô còn được làm vợ, làm mẹ,
nhưng lấy Phúc cô đã mất tất cả. Có thể nói cuộc đời của Thương đầy nghịch lý, trớ
trêu, cô không bị tra tấn bởi đòn roi, bị bỏ đói và chết thê thảm như Kén lại là những
chuỗi ngày của xa cách, nhớ nhung, chờ đợi và thất vọng. Một con người dám đứng
lên đấu tranh cho tình yêu lại bị chính tình yêu ấy ruỗng rẫy. Mỗi chặng đường đời, cô
đều hi sinh cho người chồng phụ bạc, vẫn luôn tôn thờ thứ tình yêu viễn vông ấy.
Cuộc đời Thương cũng tiêu biểu cho thân phận những người đàn bà sau chiến
tranh. Chiến tranh tác động sâu sắc lên số phận con người đó là di chứng trên cơ thể, 44
là khả năng tái sinh sự sống, ở thái độ sự đối xử của con người, đặc biệt là những
người thân và ở sự thay đổi nhân cách. Suốt thời chiến biết bao người vợ ở hậu
phương vò võ đợi chồng, là một người vợ hiền dâu thảo nhưng sau chiến tranh chính
họ lại bị những người chồng rũ bỏ để chạy theo những cái hào nhoáng, tầm thường. Cả
đời họ là sự hy sinh, thuỷ chung, chịu đựng nhưng rốt cục, họ luôn phải nhận về mình
sự thua thiệt, bất hạnh.
Có thể nói, Từ Nguyên Tĩnh đã rọi cái nhìn thẳng thắn, trung thực “đến tận đáy”
vào những nhân vật số phận để lột tả những góc khuất của cuộc đời. Cũng từ đây, ta
thấy dường như nhà văn luôn dành cho người phụ nữ một cái nhìn nhân ái, chia sẻ,
yêu thương. Họ là ngọn nguồn của tình yêu nhưng họ cũng là đối tượng dễ bị tổn
thương và đáng thương nhiều nhất.
3.3. Nhân vật loại hình
Nhân vật loại hình là kiểu nhân vật “thể hiện tập trung một loại phẩm chất, tính
cách nào đó của con người hoặc các phẩm chất, tính cách, đạo đức của một loại người
nhất định của một thời đại” (Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học- NXB Giáo dục, năm 2000).
Theo quan niệm này, truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh, đã xây dựng nhân vật
theo hai kiểu: nhân vật tốt, nhân vật xấu.
3.1. Nhân vật tốt
Nhân vật người tốt thường được hiểu là nhân vật chính diện, là “nhân vật thể
hiện những giá trị tinh thần, những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả của con
người được nhà văn miêu tả, khẳng định, đề cao trong tác phẩm theo một quan điểm
tư tưởng, một lí tưởng xã hội-thẩm mỹ nhất định”.
Nhân vật chính diện trong văn học ở mỗi giai đoạn lịch sử thể hiện lí tưởng xã
hội và lí tưởng thẩm mĩ của thời đại mình. Trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa
nhân vật chính diện là những “quần chúng bị áp bức nhưng họ đã vùng lên chống lại
xã hội áp bức, bóc lột để xây dựng xã hội mới”. ở truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh kiểu
nhân vật này chủ yếu là những người lính trong và sau kháng chiến chống Mỹ với đức
hi sinh, lòng nhân hậu, vị tha độ lượng. Có thể tìm thấy họ ở rất nhiều truyện ngắn của
ông như Chuyện tình trong hang đá, Người tình của cha, Vợ chồng xe trâu, Chim Xa
Xa lại về... 45
Truyện ngắn Người tình của cha tạo ấn tượng đặc biệt với độc giả ngay từ
những ngày đầu mới xuất hiện. Người đọc không quên được hình ảnh người cha và
người mẹ của Thu Trang với sự hi sinh thầm lặng và lòng thuỷ chung, nhân hậu vị tha.
Hình ảnh người cha lại được hiện lên qua lời kể của con gái Thu Trang (nhân vật kể
chuyện xưng “tôi”) càng làm cho câu chuyện trở nên xúc động.
Tình yêu của họ nảy nở trong chiến trường Tây Nguyên. Ngày ấy “chiến tranh
tàn khốc và thiếu thốn”, cha bị sốt rét “hàng tháng trời cha nằm ở trạm giao liên”, mẹ
Thu “lội khắp rừng tìm lá thuốc nam sắc cho cha uống”. Mẹ phải bắt giun cho cha
nuốt sống. Đói rét và bệnh tật hành hạ cha đến nỗi “tóc và lông mày rụng hết”, mẹ
không quản ngại, liều lĩnh đến tận bản cùi xa xôi xin ngô về nấu cháo bón cho cha
từng thìa [33; 541]. Ông cứ kể về vợ với giọng ngọt ngào như đang được sống cùng
những năm tháng ấy. Nhưng cứu được sinh mạng cho cha thì mẹ lại bị nhiễm bệnh
hủi.
Sau chiến thắng, biết bao người lính bước tới bục vinh quang, tiền tài danh vọng
nhưng vợ chồng người lính phải chia tay nhau trong lặng lẽ. Người cha vì tương lai
của Thu Trang đã dựng nên hiện trường giả cho cái chết của người vợ xấu số, chấp
nhận cảnh gà trống nuôi con. Còn người mẹ vì không muốn con bị mọi người xa lánh
nên đã thay tên đổi họ trở lại bản cùi xa xôi. Mặt khác, người chồng bởi phẩm chất
người lính và tấm lòng thuỷ chung son sắt vẫn hướng về vợ với niềm yêu da diết. Cả
tuổi trẻ họ hiến dâng bản thân vì Tổ quốc, bây giờ họ tự nguyện hi sinh bản thân vì
hạnh phúc của con. Sự hi sinh lặng thầm mà đau đớn, cha mẹ của Thu Trang đã tạo
nên một vỏ bọc an toàn cho cuộc sống của con. Các lớp hi sinh dồn nén lên nhau tạo
nên hiệu quả thẩm mỹ bất ngờ.
Không chỉ như vậy, trong công việc hàng ngày cha luôn dành cho Thu Trang
một tình thương vô hạn, ngày nào cũng vậy cha luôn “ra đi từ mờ sáng nhưng cơm
nước đậy sẵn lồng bàn cho tôi ăn đi học. Tối nào trở về dù khuya cũng mua cho tôi lúc
thì quả xoài, hôm thì hộp kẹo”. Cha “phải làm thay phần việc của mẹ. Lo từng mớ
rau, quả cà cà cả việc may sắm”. Ông muốn bù đắp cho con những thiệt thòi khi thiếu
đi bàn tay dịu dàng của người mẹ. Thu Trang “lớn lên trong sự nhọc nhằn thức khuya
dậy sớm nai lưng đạp xích lô của cha” và trong ấn tượng tốt đẹp về mẹ. Trong trí
tưởng tượng non nớt của Thu Trang là hình ảnh người mẹ “đôn hậu”, “ có nụ cười 46
đầm ấm dễ thương” luôn dõi theo cuộc sống của hai cha con. Đó là chỗ dựa tinh thần
vững chắc cho hai cha con trong cuộc sống nhọc nhằn.
Vừa gồng mình bởi cuộc sống vất vả, người cha còn phải cố gắng che dấu đi sự
thật rằng người vợ cùi của ông vẫn còn sống đó chính là “người đàn bà mặc đồ đen”.
Sống nhưng không được gần nhau đã là đau khổ, phải lén lút gặp nhau cũng là đau
khổ, nhưng đau khổ hơn họ bị coi là đôi tình nhân bất chính. Mỗi lần gặp gỡ giữa họ
đầy nước mắt và sự bất lực: “nín đi em...trời bắt tội, anh biết làm sao được! ”. Người
cha biết xung quanh ông có nhiều lời dị nghị đàm tiếu “ông ấy có người tình là phải
rồi”, “đàn ông đàn ang họ vậy cả đấy, đầu gối cắt còn máu thì còn thích nhấp nhổm”
nhưng vẫn không thể thanh minh, cái sự thật kia còn nghiệt ngã gấp trăm lần. Ông
cũng hiểu được nỗi lòng của Thu Trang và càng bồi đắp thêm tình cảm cho con. Còn
Thu Trang “buồn một lẽ cha không nói thật ra cùng mình”, bởi cha “cứ kể với giọng
ngọt ngào” về mẹ như một tình yêu duy nhất mà vẫn có người tình. Trong tâm hồn
nhạy cảm của cô bé mới lớn là một sự hụt hẫng, chông chênh “thôi rồi còn đâu những
ngày đầm ấm nơi căn nhà lá đạm bạc. Thì đằng nào cha cũng cần có cuộc đời riêng”.
Người cha phải nén chịu trước những nghi ngờ, dằn vặt của con. Từ Nguyên Tĩnh đã
khéo léo đưa ra những chi tiết tạo nên sự hồi hộp cho độc giả cũng là để làm nổi bật ý
tưởng ở cuối truyện.
Sự việc vỡ oà sau cái chết của cha, sự xa cách của hai vợ chồng lần này là mãi
mãi. Khi Thu Trang hiểu ra sự thật thì đã muộn, thông tin bất ngờ về người mẹ là nút
để tháo gỡ mâu thuẫn nhưng tạo nên dư ba trong lòng người đọc. Người ta vẫn tự hỏi,
cả một đời những người lính ấy đã chiến đấu không mệt mỏi cho hạnh phúc của mọi
người nhưng kết thúc lại là gì? bản thân người lính và gia đình nhận được gì? thái độ
của mọi người đối với họ ra sao? Người lính đứng trước kẻ thù thì gan dạ dũng cảm,
nhưng đứng trước dư luận xã hội lại như một con chim gãy cánh, muốn cất mình bay
nhưng không sao cất nổi. Lòng gan dạ không còn là vũ khí tối ưu để người lính đối
mặt với hiện thực phũ phàng. Từ Nguyên Tĩnh nhìn người lính từ để thấy được nhiều
góc độ trong tâm hồn họ nhưng nổi bật nhất vẫn là sự hi sinh cao cả, là tấm lòng bao
dung nhân ái. Người lính bao giờ cũng biết nén lại những cảm xúc cá nhân để vì một
mục đích lớn lao hơn.
47
Cũng trong tuyến nhân vật người tốt, anh lính Liệu trong truyện ngắn Vợ chồng
xe trâu được Từ Nguyên Tĩnh thể hiện với cái nhìn lạc quan hơn. Theo mạch cảm
hứng, nhân vật Liệu cũng là người đầy lòng hi sinh, đức vị tha. Chính bởi điều đó mà
anh lại tìm được hạnh phúc của mình.
Liệu là người lính phục vụ trong quân ngũ, “đường đời mở ra đợi anh sự thăng
trưởng”. Bao nhiêu người “châu tuần lấy anh, thèm khát về hạnh phúc”. Lẽ ra anh vẫn
ở lại đơn vị theo đuổi sự nghiệp của mình nhưng số phận đã “đẩy anh rẽ về một lối
khác”. Vợ anh ở quê nhà đã ra đi để lại cho anh căn nhà, con trâu bạc và đứa con gái
mười tuổi. Hạnh phúc đối với anh như một giấc mơ đến rồi đi khiến anh ngỡ ngàng,
chưa bao giờ anh thấy cô đơn trống vắng đến vậy. Con người vốn lâu nay chỉ quen
cầm súng, cầm bút hạnh phúc nay phải trở về để mưu sinh cuộc sống, Liệu giải ngũ
với danh hiệu “hưu non” về chăm lo nhà cửa con cái. Con người vốn lâu nay chỉ quen
cầm súng, cầm bút nay phải trở về trở thành anh xe trâu để mưu sinh đầy sự nuối tiếc,
anh khoác ba lô trở về trong tâm trạng trống trải, vô định.
Hân xuất hiện bất ngờ như một thách đố với gã xe trâu Liệu này: vốn là một cô
giáo cấp ba, trong lòng đầy khát vọng và sự nông nổi dại khờ. Cô đã “yêu như điên và
lao vào cuộc tình” với gã thầy giáo đẹp trai. Nhưng “người tình bỏ nghề đi kiếm sống
nơi chân trời xa lạ” để lại cô với cái thai trong bụng. Hân như bị rơi xuống đáy vực
tuyệt vọng, cô tìm đến cái chết. Hôm ấy, khi vừa “đổ xong xe vôi, Liệu thong dong trở
về nhà”. “Hốt hoảng và ngỡ ngàng”, anh nhìn thấy “thân thể treo lủng lẳng trên cành
nhãn”. “Thu hết sức lực nhảy qua bờ rào đầy gai. Đạp tung cánh cửa bếp tìm được con
dao rựa. Dồn hết sức lực nhảy lên, một cánh tay ôm cô gái một tay chặt đứt chiếc
thừng…Liệu ôm người con gái èo ọt như quả mướp đặt xuống đất”[1,253]. Anh đã
cưu mang mẹ con cô gái trong sự nhiếc móc, phỉ báng, khinh khi…. “Tình cảm của
người đàn ông, của người cha bao dung trào lên trong anh”. “Liệu muốn gào thét lên:
hỡi các người bạc ác kia ơi! các người không có quyền nguyền rủa cô ấy”. Liệu giang
tay ra đón nhận mẹ con Hân trong niềm thương cảm lẫn tình yêu như mối nhân duyên
tiền định. Hai con người đến với nhau từ sự đồng cảnh và cảm thông chia sẻ. Đám
cưới không có gì sang trọng “không đốt pháo, không áo cưới, không mời mọc bạn bè”
nhưng đầy ắp tình thương. Người ta vây bủa xung quanh bởi sự hiếu kì, bởi “khinh bỉ
hay lòng ghen tị” cho hạnh phúc bất ngờ của anh xe trâu. Còn đối với Liệu đó là một 48
giấc mơ, “anh tưởng mình đã gặp Hân từ trong tiền kiếp” [19; 255]. Anh không tin
được “cô gái xinh đẹp kia lại là vợ mình”. Chi tiết này lung linh vẻ đẹp của yếu tố kì
lạ. “Lạ” ở chỗ một người dám đứng ra rước một người đàn bà và một đứa trẻ bị bỏ rơi
về làm vợ. Điều đó có thể giải thích bởi lòng vị tha, nhân ái. Cái tầm thường nhỏ nhen
đã bị khuất phục bởi tinh thần nghĩa hiệp, cao thượng.
Đoạn kết của thiên truyện là sự thăng hoa của lòng nhân ái. Hình ảnh chiếc xe
trâu “siêu thoát cùng vợ chồng xe trâu bay lên hòa nhập cùng giải thiên hà xa xôi” như
lời TS Hoả Diệu Thuý đó là “chất thơ của tình yêu thương và trân trọng con người”.
Cũng từ cảm hứng về nhân vật tốt là người lính, chú Kiểng trong truyện ngắn
Chim Xa Xa Xa lại về được Từ Nguyên Tĩnh xây dựng từ góc độ khác. Đó là người
lính duy nhất trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh biết đến mùi danh lợi bằng chính tài
năng và lương tâm người lính cộng sản. Chú Kiểng cả “một đời lặn lội đánh giặc”, đến
lúc giải ngũ trong khi nhiều người lính nhanh chân chiếm được một vị trí cao nơi đô
thị, “chở cả nhà ra thành phố chiếm chỗ” thì chú lại “nhận cái chân cuốc đất đào đá”
nơi núi rừng Tiên Sa để lập nghiệp. Trong mắt mọi người chú là kẻ “dại dại, ương
ương, dở dở” còn với chú Kiểng “ở đâu chả là Tổ quốc”. Đã thế chú lại không “ngó
ngàng đến việc tậu vợ”, tất cả đều dành cho vùng đất Tiên Sa.
Thực ra chú Kiểng chọn mảnh đất này làm chỗ dừng chân “để chôn chút kỷ
niệm của đời mình”. Nơi đây chú từng có một tình yêu đẹp và trong sáng với cô dân
công có “bộ răng đen nhức, vấn khăn lụa đen có giọng hát chèo thật khó quên”. Vẻ
đẹp ấy khiến chú tôn thờ và là nguyên nhân cho chú chọn một lối đi riêng. Nhưng như
bao mối tình thời chiến khác, chú và thím phải gác lại chuyện riêng tư để phấn đấu vì
một mục đích lớn lao của dân tộc và hứa “Mai ngày còn sống sẽ làm nhà ở cạnh suối
Tiên Sa này để ở”. Lời hẹn thề như dao chém núi, như một lời nguyền theo chú suốt
cuộc đời bởi vậy mà hoà bình, dù không biết người yêu ở nơi nào, có thể bà “không
còn ở trên đời này”, có thể “người ta còn sống, hoạt động ở phía Nam” vì vậy mà chú
vẫn “phải về đây thôi, lời thề ước ở chốn này...”. Chú không lập gia đình, chú sợ “nhỡ
người ta còn sống”, nếu lấy vợ tức là đã “làm điều thất đức”. ý nghĩ vừa buồn cười
vừa đáng thương song đó một đặc điểm nổi bật của tình yêu người lính, biết yêu và
chờ đợi như không một ai khác có thể.
49
Vùng núi Tiên Sa nơi lưu giữ kỉ niệm một thời đã trở thành máu thịt của chú.
Chú Kiểng tâm sự “chú không xung phong về xây dựng nông trường thì trách nhiệm
để cho ai”. Sự thuỷ chung với người yêu và với mảnh đất này tạo nên sợi dây ràng
buộc thiêng liêng. Với tầm nhìn và tài năng, chú đưa Tiên Sa trở thành địa điểm du
lịch nổi tiếng, thậm chí nó thu hút được “Việt kiều vào đầu tư đường xá, du lịch”.
Hình của những bọn trẻ nơi đây được “trưng tận đẩu đâu nơi ngoại quốc”. Công lao
của chú đối với Tiên Sa rất lớn. Người dân nơi đây tự hào và biết ơn chú đặc biệt sự tự
hào, biết ơn lại được thể hiện qua giọng nói của những đứa trẻ “ông ấy lo cho cả vùng
này có công ăn việc làm”, “ông may cả quần áo cho tụi cháu vào lớp”, rồi còn xây
trường học cho chúng. Chúng hồn nhiên gọi chú là “vua Kiểng” bởi sự giàu có và
những nghĩa cử hào hiệp. Lời bọn trẻ như là một chân lí “Nếu ông Kiểng mà có vợ
con thì bọn cháu và cả vùng này chả thiệt lắm sao?” [33; 337].
Tình cảm và đạo đức của chú Kiểng thấm vào tâm hồn những đứa trẻ, chú dạy
cho chúng những bài học vào đời “dù nghèo các cháu cũng không được nhận quà”.
Đối với cả vùng chú là ân nhân. Một con người suốt đời hi sinh cho dân cho nước thật
đáng trân trọng, khâm phục biết bao. Ngay cả đến phút giây sắp từ giã cõi đời con
người ấy vẫn âm thầm hi sinh và đầy lòng vị tha, nhân hậu.
Viết về những người lính sau chiến tranh, ngòi bút của Từ Nguyên Tĩnh như
nhạy bén, linh hoạt và sâu sắc hơn. Mặt khác là một nhà văn chiến sĩ dường như ông
luôn dành cho đồng đội của mình những gì ưu ái nhất. Và sự thực trong đời thường,
họ vẫn là những con người đáng trân trọng và dường như là một biểu tượng của lòng
tốt và đức hi sinh. Tuy nhiên bên cạnh đó ông cũng đặt ra một vấn đề mang tính thời
đại đó là cách nhìn, đối xử của xã hội đối với người lính trở về.
Nếu nhân vật người tốt trong các truyện ngắn trên là những người lính thì anh
chàng Lung mù trong truyện ngắn Mối tình chàng Lung mù kiểu nhân vật “lạ hoắc”
(chữ của Văn Đắc). Lạ bởi vì viết về con người trong chiến tranh các nhà văn thường
hay chọn đối tượng là những chiến sĩ, những cô thanh niên xung phong, người mẹ anh
hùng... mà ít ai đề cập đến kiểu nhân vật như chàng Lung mù. Mặt khác “lạ” mà rất
đời thường bởi quan niệm : hạnh phúc của con người là được yêu và dâng hiến cho
đồng loại.
50
Chàng Lung có số phận không may mắn, “bố mẹ anh chết từ đời nào chẳng rõ”,
“nhà cửa ngay trận bom dội đầu tiên đã tan nát cả”, người thân cũng không còn một ai
buộc phải “ra ngay miếu thờ cạnh hang đá để trú ngụ”. Không những thế anh còn là
tác phẩm “vội vàng của nhà điêu khắc chán đời”, “bàn tay ác độc của tạo hoá đã bóp
méo cả con người” khiến “dáng hình dị dạng” và đôi mắt thì mù loà.
Tuy thiệt thòi như vậy nhưng giống bao thanh niên thời chiến, Lung cũng có
khát vọng được trở thành người lính xông pha nơi hòn tên mũi đạn cho “phỉ chí làm
trai” và tất nhiên đó chỉ là một ước mơ xa xỉ vì vậy Lung mang một “nỗi buồn bất
tận”. Anh đã từng tâm sự với Bùi “Cái đời chán bỏ mẹ đi. Người ta có mắt đi đánh
giặc(...) Thà cứ mất quách đi một tay hoặc một chân mà có mắt mà nhìn đời nhỉ? Vị trí
nào cho mình đi đánh giặc, có vị trí nào cho người mù hở ông?” [41; 500]. Trong lúc
cả nước đang sôi sục hướng về vận mệnh dân tộc thì Lung thấy mình như vô dụng,
đứng bên ngoài cuộc chiến. Có lần anh “đứng trên mỏm đá ngửa mặt lên trời” nghe
máy bay bay lượn mà bất lực, lần khác Lung tự an ủi mình bằng cách giả những hành
động của người lính chỉ huy cao xạ. Dù vậy tạo hoá cũng không quá bất công với anh
mà ban cho anh giọng hát “tròn trịa, ngọt ngào”. Lung đóng góp sức mình vào cuộc
chiến bằng việc làm khiêm tốn là đánh kẻng cho bà con vào trú ẩn máy bay. Cái hang
của anh trở thành “trạm giao liên” cho trận địa. Từ “sào huyệt” của mình, Lung mang
tiếng hát đến cho bộ đội ta sau những trận đánh ác liệt. Anh tâm sự: “mình không vác
được đạn, không bắn được súng, nhưng hát với cây đàn “nhà quê” cũng là đánh Mỹ
phải không” càng cho thấy tấm lòng luôn hướng về cuộc chiến.
Tuy nhiên đằng sau đôi mắt mù loà ấy lại là trái tim ngời sáng tràn ngập yêu
thương và sự hi sinh. Trong tốp thanh niên xung phong hay được lung đánh đàn cho
nghe anh dành tình yêu đơn phương cho Toàn “danh ca” mặc dù biết Toàn đã có
người khác. Tình yêu của anh cứ âm thầm, dõi theo từng bước của cô. Năm Toàn sinh
bé Cường, người ta đi qua sào huyệt của anh cứ “chõ” vào mấy câu trêu trọc, chế giễu
làm anh “xót xa”. Nhưng Toàn và Ngà đã chết trong bom đạn, Lung vượt lên trên nỗi
xót xa để nuôi con của người mình yêu thầm nhớ trộm. Trong anh không có chỗ cho
sự ghen tuông vị kỉ, chính tình yêu đã hoá giải tình yêu. Đứa con là “kỉ niệm” của
Toàn để lại và cũng là của những người lính đã ngã xuống cho mảnh đất Hàm Rồng.
Lung nuôi bé Cường như là sự trả nghĩa cho người đồng chí. 51
Trong thời chiến, tiếng hát phục vụ bộ đội còn trong thời bình tiếng hát của
Lung là miếng cơm manh áo, nó theo hai cha con người hát rong mù đi suốt chiều dài
đất nước. Đấy còn là cuộc hành trình đi tìm cội nguồn và lòng nhân ái bởi trong anh
luôn day dứt một điều “Mình còn đi! Đi tìm quê của cháu. Nuôi cháu thì được thôi.
Nhưng mình sợ nó thất học”. Với chàng Lung yêu và được hi sinh vì tình yêu là ý
nghĩa của cuộc đời. Đó cũng là triết lí giản dị mà Từ Nguyên Tĩnh gửi đến người đọc
thông qua nhân vật chàng Lung.
Ngoài những nhân vật được Từ Nguyên Tĩnh dụng công xây dựng trên còn có
nhiều truyện tác giả dành sự ưu ái cho một số nhân vật như Đạo trong Lầm lỗi một
con người, San trong Cô gái Đò Lèn, Ngân, Nga, Dĩnh trong Thuyền nan, Bân trong
Thằng K-X... Mỗi nhân vật với một cuộc đời khác nhau nhưng đặc điểm chung nổi bật
của họ vẫn là lòng hi sinh, nhân ái, thuỷ chung. Trong thời chiến và thời bình họ luôn
sống hồn hậu, tôn thờ lí tưởng của mình, yêu một cách đắm say, son sắt. Điều đó có
thể hiểu một nhà văn chân chính bao giờ cũng đi tìm cái đẹp, tôn vinh cái đẹp.
3.2. Nhân vật xấu
Nhân vật “người xấu” hay còn gọi là nhân vật phản diện. Ngược với nhân vật
chính diện, nhân vật phản diện là kiểu nhân vật “mang những phẩm chất xấu xa, trái
với đạo lí và lí tưởng con người, được nhà văn miêu tả trong tác phẩm với thái độ chế
giễu, lên án, phủ định” (Từ điển thuật ngữ văn học)
Chúng tôi xếp kiểu nhân vật “người xấu” hay “phản diện” vào kiểu nhân vật
loại hình vì ở kiểu nhân vật này tác giả như cũng muốn chứng minh rằng có loại người
xấu trên đời. Loại người ấy vẫn trà trộn trong chúng ta, hay nói khác đi đó là loại
người bị cái xấu chiếm lĩnh tâm hồn, trái tim. Phần thiện, phần tốt đã không chiến
thắng nổi phần ích kỷ, tham lam khiến học trở thành kẻ mưu mô, vụ lợi, độc ác, phản
trắc… Từ Nguyên Tĩnh dường như là một bác sĩ phẫu thuật tâm lí khi ông mổ xẻ được
những góc khuất mờ tối, những âm mưu toan tính đã được nâng lên thành kĩ năng kĩ
xảo trong tâm hồn kiểu nhân vật này. Mầm trong truyện ngắn Rượu tắc kè là một trong
những minh chứng.
Mầm mang bản chất của một kẻ hình như đã biết tính toán cho mình ngay từ
trong bụng mẹ. Con người ấy, tuỳ từng hoàn cảnh luôn biết vận dụng để có lợi cho
mình. Trong chiến tranh cũng như thời bình ông Mầm đã có một phương châm sống 52
riêng dọn đường cho sự thăng tiến trên con đường công danh. Ông từng làm “công vụ
tiểu đoàn” nhưng đã biết cầu cạnh, ẩn nhẫn, biết lấy lòng thủ trưởng, nắm tâm lí thủ
trưởng như những quân cờ trong mình và xoay theo thời cuộc. Mầm biết hi sinh những
gì là sở thích cá nhân “cấm được ăn no”, khi thủ trưởng ăn thì phải “ngồi nhìn” . Khi
thủ trưởng ngủ phải biết “thu dém chăn màn” như một người người mẹ đối với con
thơ. Anh ta hiểu mình đang đứng ở vị trí nào và coi việc “chấp hành, lựa ý trên mà
làm” như là một tôn chỉ của hành động.
Đặc biệt Mầm không bao giờ uống bia rượu bởi nếu “đụng vào là lưỡi của anh
khác rồi”, lời nói sẽ không còn là của anh nữa, nó sẽ dắt anh đi theo ma lực khó kiểm
soát nổi. Mà điều này đối với các sếp là tối kị. Mầm phải cho cấp trên thấy được sự
“mẫn cán, chăm chỉ”, “trung thực” của mình tạo nên sự tin tưởng ở cấp trên. Những
người lãnh đạo bao giờ cũng muốn nhân viên của mình phục vụ một cách tận tụy,
trung thành hơn là khua môi múa mép gây nên nỗi lo sợ mơ hồ, đố kị ở họ. Mầm lại có
cái biệt tài ấy thành thử ra con đường công danh cứ “thẳng đường mà đi ...Đi như có
sự sắp xếp của số phận”. Mầm nhanh chóng được ra Bắc học để nâng cao trình độ
chuẩn bị cho một chiếc ghế cao hơn.
Khi đã ngồi ở vị trí cao, Ông Mầm lại cũng có “đức chịu đựng phi thường đối
với kẻ bề dưới”. Kẻ dưới tuy có yếu thế hơn song nó cũng có thể làm phản ứng bất cứ
lúc nào. Tuy nhiên nếu ông làm sai thì cũng phải từ tốn, nổi nóng là hỏng hết mọi việc
lại bị mang tiếng là cán bộ uy hiếp nhân viên, cứ cho nó chửi, “miệng nó chửi tai nó
nghe”, đến lúc “phát triển đến cao trào” là cho “bảo vệ lập biên bản, là chú chàng có
trốn thoát đằng trời”. Đó là “kế nhẫn nhục” mà ông thường phổ biến cho các con như
bài học xương máu
Đối với vợ mình, không biết có phải ông may mắn khi lấy được bà hay là ngược
lại. Vợ ông “xấu thôi” nhưng “được bảo vệ bằng bàn tay vàng”. Bà có cái “quyền làm
ra tiền, quyền con ông to, là cán cân, là chỗ dựa cho gia đình này”. Vì vậy ở cơ quan
ông Mầm uy nghi là thế mà ở nhà lại là một người chồng hết sức ngoan ngoãn, khiêm
tốn. Có những lúc ông cao hứng nói với con cái “bây giờ các con sướng! Cha mẹ lo
cho mọi thứ trong tủ... mở tủ ra là có cái nhét vào dạ dày...Còn cha mẹ mày phải hứng
chịu biết bao gian truân” nhưng bắt gặp cái lườm của vợ ông phải “im re”, “im lặng
kẻo nát nhà”[33; 428]. Đó là cách xử sự của người đàn ông khôn ngoan. Lúc khác khi 53
ông nhắc đến ân huệ bên nhà ngoại, bà vợ ông lại nói “cái ngữ bố mày rời tôi ra thì
không có cái quần mà mặc” cho thấy ông vô cùng đúng đắn khi chọn cưới bà.
Nói vậy nhưng ông cũng thuộc típ người hãnh tiến. Trải qua nhiều năm làm
việc, ông cố gắng trang bị cho mình các loại bằng bởi “lúc người ta cất nhắc mình
không có đủ bằng coi như tự loại” và dán cho con cái các loại “nhãn hiệu” để chúng
chen chúc nơi thành phố. Một kịch bản quen thuộc của những người làm quan. Như
vậy mới được xem là thức thời, có tầm nhìn xa trông rộng. Những đứa con của ông,
đứa nào ông cũng cố “cưới vợ gả chồng khi còn tại chức”. Ông có lấy không của ai
đâu, cả đời ông đi ăn cỗ rồi chẳng qua là trả món “nợ miệng” mà thôi. Đấy là cái tham
của kẻ khôn khéo, tế nhị, biết làm cho đồng tiền chui vào túi mình một cách “hợp
pháp”.
Mặt khác khi người ta có quyền cũng cần phải là người bác ái, quảng giao vì
vậy ông Mầm có rất nhiều bạn và mỗi “loại bạn” ông lại đề ra những nguyên tắc xử sự
riêng và không sống bằng tình cảm thật của mình. Đối với cấp trên cũng là bạn nhưng
tốt nhất là phải “giữ hòa khí” kẻo phải “vạ”. Với bạn làm ăm thì “ôkê, cung bậc theo
liều lượng men bia" song sòng phẳng là yếu tố chính để giữ mối quan hệ lâu dài. Với
hàng xóm cần tôn trọng nhưng không suồng sã, thân thiết. Đó không phải cung cách
của người làm quan. Phải tỏ ra là người biết lẽ phải, có học nhưng phải giữ khoảng
cách để phân rõ “giai cấp”. Đặc biệt đối với những người bạn cũ “không gây thù oán,
không có khả năng làm thất thiệt” đến sự “thượng lộ bình an” của mình thì ông Mầm
rất chiều chuộng kiểu như của một đấng bề trên. Ông dạy con cái “Ba là cấm chúng
mày để cho ai đến cửa mà lại về không” cho thấy tấm lòng “nhân ái” của ông. Có thể
nói cả cuộc đời ông Mầm là những sự toan tính, nguyên tắc, cái gì cũng không được
vượt “quá” [33; 431].Ông ép mình vào những khuôn khổ nhất định để đạt được mục
đích.
Tình huống gặp lại người bạn cũ trong chiến tranh đã khắc hoạ đầy đủ chân
dung của ông Mầm- một kẻ trốn chạy, bị đạo đức đào thải. Tháo là người bạn năm xưa
đã được Mầm “truyền lại” cho chức công vụ tiểu đoàn và chức làm cha cho đứa con
của ông với Luyến. Những năm tháng ở chiến trường cô y tá Luyến đã trao cho Mầm
một tình yêu trinh nguyên, giúp ông “lập nên công trạng”. “Nàng đã giúp cho Mầm
trong lúc khốn khó vừa lòng cấp trên bằng những chai rượu tắc kè”. Ông nhanh chóng 54
được ra Bắc học tập. Mầm ra đi hồn nhiên “quên” những gì xảy ra giữa ông với
Luyến. Giữa lúc tuyệt vọng, Tháo đã dang rộng vòng tay đến với nàng, gánh chịu hậu
quả mà Mầm để lại. Cái anh bạn Tháo “ngu” hơn ông ấy vì lòng hào hiệp, vì “sự
khẳng khái và thiếu cẩn trọng” của mình nên “không có chức vụ gì”. Cuộc sống của
anh và Luyến rất vất vả, “nỗi đau cũng đã được vùi lấp trong quá khứ. Đã thành sẹo
trong lòng mỗi con người”. Mầm đã phản bội lại đức tin của người yêu, người đồng
chí và vô trách nhiệm với con đẻ của mình. Trong suốt quãng đời Mầm vẫn “nhớ về
Luyến” nhưng “ông buộc phải quên đi, trong nỗi lo âu...” rằng “một ngày nào đó ông
sẽ đối mặt với sự thật”. Nó sẽ làm ảnh hưởng tới những gì mà bấy lâu nay ông dày
công gây dựng.
Với hình ảnh Mầm, Từ Nguyên Tĩnh đã kí gửi tâm sự, người lính sau những
năm tháng chiến tranh ác liệt, đa phần trở về tiếp tục thành người anh hùng thời bình
còn một bộ phận lại trở thành những “con biến hình” với bao toan tính, mưu mô và cơ
hội. Chiến tranh là chết chóc song cũng tạo cơ hội cho nhiều người leo lên bậc cao
danh vọng. Để đạt được mục đích họ có thể làm tất cả kể cả việc chà đạp lên chính
những người thân, người đồng chí từng vào sinh ra tử với mình.
Nếu cái xấu của ông Mầm thể hiện trên con đường công danh thì Thực trong
truyện ngắn Người vợ của biển cả lại được nhà văn khai thác ở khía cạnh khác. Đó là
một con người đầy dục vọng thấp hèn, bỉ ổi và đê tiện. Trong bộ óc cặn bã của hắn là
những ham muốn đầy thú tính và điều đó chi phối mọi hành động của hắn trong toàn
bộ câu chuyện.
Thực là con nhà giàu có bởi do lão Ri cha hắn “chối khéo đi dân công phục vụ
mặt trận Điện Biên Phủ để lo làm giàu”. Nhưng Thực lại thọt. Hắn để mắt tới Thương
“con bé hay đáo để” ở xóm cát và quyết tâm lấy làm vợ. Hắn “khoái ra mặt nói với trẻ
trâu: Mẹ chúng bay. Con Thương vợ tao rồi sẽ làm bà chủ tra roi vào đít tụi mày”.
Bằng uy lực và đồng tiền hắn ép Thương làm đám cưới dù biết Thương đã yêu Phú.
Nhưng đêm tân hôn Thương không cho Thực “ngủ” Thực đang tâm “thụi vào mặt
mũi” người vợ, “vừa thụi vừa la: Này! Này! Tao đánh cho mày hết liếc mắt đưa tình...
Sư bố mày! Đã là vợ chồng thì tao có quyền ngủ...”. “Một năm về làm dâu nhà lão Ri,
một năm ăn đòn roi” , Thương đau đớn, ê chề.
55
Đã thế cha con hắn lại còn đến nhà nhục mạ mẹ Thương “ Tôi bỏ tiền ra mua
trâu cái, tại sao lại không cho trâu đực đi tơ”. Bằng nhiều thủ đoạn, hắn xoay được
chân “chủ tịch của làng Cát”. Nhưng tay chủ tịch ấy lại gạ gẫm vợ của người đang ở
chiến trường: “Em ơi! Tuổi xuân đâu có chờ đợi ai (...) em thử xem, sức vóc đàn ông
của anh đây”[33; 177]. Để ép Thương, hắn bí mật làm giấy chứng nhận giả “Thương
có con hoang” đối với đứa con nuôi của Thương để buộc Thương phải lựa chọn hắn,
“bàn chân thọt loay hoay như con nhện đực nhảy múa trước con mồi”. Thực là biểu
hiện của loại người bệnh hoạn, thú tính.
Gắn với nhân vật người xấu là nhân vật bị “tha hoá”, đánh mất mình. Đó là
những nhân vật đã từng có hành vi tốt, đã từng là “người tốt” song bị sa ngã, bị lôi
kéo, bị mua chuộc, bị cám dỗ và không vượt qua được sự cám dỗ nên đã đánh mất đi
những bản chất tốt đẹp như Phú (Người vợ của biển cả), Dụ (Qủa báo). Phú xuất hiện
trong chặng đời đầu tiên của Thương là một chàng trai đáng mến, đầy tài năng và sự
nhiệt tình của tuổi trẻ, anh tham gia đội văn nghệ làng Cát, biểu diễn cứ được dân làng
“vỗ tay rầm rầm khen hay”. Anh yêu Thương chân thành và có trách nhiệm với tình
yêu của mình. Cái ngày Thương bị mẹ rao ngoài chợ anh không ngần ngại Thương là
gái có chồng, đến thề trước mặt mẹ Thương: “Thương là vợ của con. Mẹ cho con đưa
về!”. Họ đã thành một đôi trời sinh. Đội văn nghệ từ khi có sự trở lại của hai vợ chồng
họ như đã sống lại, “ai cũng yêu mến đôi vợ chồng trẻ xả thân vì đội văn nghệ” [33;
175].
Song, sau khi ở chiến trường trở về, Phú như một người khác. Tiếng súng đã
ngừng rất lâu Phú mới trở về, mà trước người vợ héo mòn vì chờ đợi, anh cũng “chẳng
mặn mà gì”. Phú viện lý do “đất nước vừa giải phóng anh bận nhiều việc”, thế rồi lại
vội vã ra đi. Lần này thì anh đi thật, không một hẹn ngày trở lại, không một dòng địa
chỉ. Thương phải “bán đi cả ổ lợn” lặn lội vào Nam tìm chồng và cô đã chứng kiến sự
thật trớ trêu: Phú đã có một cơ ngơi và một gia đình êm ấm. Hình ảnh người vợ “trẻ
đẹp” và hai đứa con “đẹp như tranh” cho thấy sự sung túc, hạnh phúc của gia đình
Phú. Hóa ra anh vợ của Phú là người có chức quyền, ông “bảo lãnh gây dựng cho các
em” và thậm chí có thể “cắt chức” Phú. Ông ta khuyên Thương “nên về quê là sẽ được
sự chu cấp về tài chánh”. Tiền tài, địa vị và cái đẹp đã cuốn hút Phú, khiến Phú bị tha
hoá về nhân cách, quay lưng lại với quá khứ. Phú đã quên đi người vợ vò võ một mình 56
đợi chồng ở quê hương, quên những ngày hai người từng “chia lửa” với nhau trong
gian khó. Phú đã trốn chay và muốn rũ bỏ tất cả những gì nghèo nàn, nhếch nhác và
già cỗi của quá khứ để sống với hiện tại no đủ, hào nhoáng.
Nhân vật bị tha hóa thứ hai là Dụ trong truyện ngắn Quả báo. Nổi bật trong tính
cách của Dụ là ham danh vọng và “bạc tình”.
Dụ tốt nghiệp trường đại học tổng hợp với tấm bằng loại ưu và từ đó “cái may
cứ mở ra với đời Dụ”. Dụ làm công việc của người đi “sưu tầm lại kho tàng văn học
dân gian miền núi” đây là một việc vất vả bởi “chỉ có những người dám chịu gian
truân mới làm nổi”. Thực ra ngoài việc muốn “đem bí mật của hàng ngàn năm bị khép
kín ở những thung lũng hoang sơ đến với loài người” Dụ còn có một khát vọng hoàn
thành một công trình “dày hàng ngàn trang in ba thứ tiếng có tên anh – Lê Dụ”, cái
công trình ấy sẽ được “xếp hàng cùng những sử thi của Hi Lạp, ấn Độ cổ xưa”. Nó sẽ
vinh danh anh như một nhà khoa học tầm cỡ, rồi “mai kia Lê Dụ sẽ là một chuyên gia
Đông Nam châu á, sẽ cắp cặp bay đi Manila, Gia-các-ta, Singapo, Tôkyô và cần gì, sẽ
có nhiều nhiều...”, anh “sẽ là người có thể nói với thế giới về dân tộc mình” [35; 442].
Chỉ nghĩ đến đó thôi là Dụ đã thấy mình như đang “say”, say sự thành đạt, danh tiếng,
Dụ thấy hài lòng về con đường mình đã chọn. Để đạt được mục đích của mình, Dụ đã
thuyết phục được ông Vi Cheng- “người nghệ nhân già có bộ răng đen nhức” trao cho
anh những “dòng thơ nguyên sinh” bởi trong ông “chứa cả một núi chuyện”, rồi
“khặp”, “xường”. Và đặc biệt cả câu chuyện tình của ông với “người vợ đẹp quê ở ven
sông Chu” bằng tuổi con gái mình cũng là một bí mật đáng khám phá.
Song có điều để đạt tới dục vọng ấy, Dụ cũng đã lãng quên đi quá khứ. Hóa ra,
những ngày còn ở núi rừng Trường Sơn, Dụ đã yêu Duyên và cô đã “trao cho anh sự
trinh trắng”. Khi Duyên thông báo về cái thai, “anh đã van xin Duyên hãy gắng chịu vì
chuẩn bị công bố kết nạp Đảng”[35; 444]. Duyên âm thầm nuôi con một mình trong
đắng cay và cô đơn. Rồi Dụ lại vào trường đại học, Duyên lại ôm đứa con thơ lặn lội
ra Bắc tìm chồng nhưng rồi lại phải ôm con trong “bom đạn xin ăn” trở về. Duyên
hiểu ra: cái mà Dụ nhắm đến là tấm bằng đại học và tương lai tốt đẹp đang đón chờ
phía trước. Dụ gặp lại Duyên trong cái lần đi sưu tầm văn hóa dân gian ấy. Duyên đã
thành vợ của Vi Cheng, người vừa cho Dụ cái kho hồ sơ giúp hắn thực hiện khát vọng
công danh. Dụ không khỏi ngỡ ngàng trước một bà chủ “thanh cao đẫy đà”. Con trai 57
hắn, giờ đã thành chàng thanh niên tuấn tú. Trong hắn dậy lên cảm giác “ghen tuông”
mơ hồ “lan toả khắp người”. Nhưng tất cả đều đã muộn…
Nhân vật xấu như một phép đối lập với nhân vật tốt. Thể hiện hai kiểu nhân vật
hầu như luôn song hành này, tác giả như muốn làm phép đối chứng: cái xấu không
thiếu trong cõi đời này. Nhưng cứ có cái xấu nảy sinh thì có ngay lòng tốt chế ngự. Tư
duy niềm tin này phải chăng là cách nhà văn bộc lộ tình yêu và niềm tin của mình
trước cuộc sống vĩnh hằng.
2.4. Nhân vật tính cách
Nhân vật tính cách là “kiểu nhân vật phức tạp được miêu tả trong tác phẩm như
một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật”. Linh hồn của nhân vật tính cách “thể
hiện chủ yếu ở tương quan giữa các thuộc tính đó với nhau, với môi trường, tình
huống. Nhân vật tính cách vì thế, thường có những mâu thuẫn nội tại, những nghịch lí,
những chuyển hoá, do đó tính cách thường có một quá trình tự phát triển khiến cho
nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó”. Hạt nhân của tính cách chính là “cá
tính” của nhân vật (Theo Từ điển thuật ngữ văn học).
Theo khảo sát của chúng tôi, nhân vật tính cách trong truyện ngắn Từ Nguyên
Tĩnh có hai loại: nhân vật với tính cách “lưỡng hóa” và nhân vật “bản thể tự nhiên ”.
2.4.1. Nhân vật với tính cách “lưỡng hóa”
Nhân vật với tính cách “lưỡng hóa” là nhân vật có tính cách phức tạp, không có
sự rạch ròi trong khái niệm “tốt - xấu”. Nhìn ở góc độ này có thể họ là người xấu, tầm
thường, bỉ ổi nhưng ở góc độ khác thì lại là người tốt bụng, hoặc đáng thương, thậm
chí đáng trân trọng. Thể hiện kiểu nhân vật này, Từ Nguyên Tĩnh muốn tái hiện sự
phức tạp, đa dạng của cuộc sống, đặc biệt thế giới con người. Mọi cái khuôn công thức
khó mà bao trùm được thực tiễn cây đời xanh tươi.
Bà Nga trong truyện Đàn bà là một nhân vật khá phức tạp. Bà chủ quán nước
chè đá đỗ đen này đã vào tuổi năm mươi nhưng khi bà ta “cười khúc khích bĩu môi ra”
thì bà ta “trẻ trung ra đến mức người nghe chuyện phải lúng túng. Nhân vật người kể
chuyện – gã làm thuê “biết ơn cô Nga, vì cô không họ hàng gì với tôi nhưng đối xử lại
tử tế. Lúc không kiếm được khách cô cho giật tạm vài ngàn ăn cơm bình dân, cho vay
thêm một hai ngàn đưa cho vợ…”[33,50]. Thế nhưng anh ta cũng nghe được nhiều lời
đồn về cuộc đời của cô “Người ta khen cô là người đàn bà phúc hậu, con cái đỗ đạt 58
làm ăn chu chỉnh. Có kẻ lại chê cô loại gái đĩ “quý tộc”. Cô để ngoài ta mọi chuyện.
Có nhiều chiếc xe con, xe máy nào tạt vào cô đều đon đả mời chào…cô vẫn trẻ trung,
duyên dáng, bất cần đời”. Khi đã thành “kẻ chịu chuyện”, cô Nga đã cho hắn biết lịch
sử cuộc đời cô từ tuổi mười sáu, xinh đẹp, làm y tá cơ quan bị cưỡng đoạt như thế nào.
Rồi từ chỗ bị lợi dụng, đến chỗ chấp nhận để sống rồi, tận dụng, khai thác sắc đẹp để
sống nhàn hạ, để được tâng bốc, được yêu chiều như thế nào. “Cô được bao nhiêu
người yêu? – Nhiều, nhiều lắm hàng trăm người yêu cô!”. Kẻ đang hầu chuyện kia thú
nhận: “Thứ thực nếu không vì cuộc sinh nhai, nhờ vả tôi dám thụi vào mặt người đàn
bà đáng ghét đĩ bợm”. Nhưng rồi câu chuyện của cô lại làm cho hắn “chết lặng” vì bất
ngờ vì sự độ lượng, vị tha của cô, vì sự “đoan chính” của cô. „Tôi phát điên lên vì
hàng trăn câu chuyện của cô Nga kể như đùa. Cô chỉ vào những chiếc cúp, những lão
béo từ nơi căn nhà ba tầng xuất hiện. Họ như nhau ráo. Van xin cô cho chết. Họ đi lại
thế kia có vẻ oai phong, nhưng cô bắt bò bốn chân cũng phải bò. Tôi căm thù đàn bà
đến mức tưởng về đến nhà là có thể giáng vào mặt vợ những cái tác. Nhưng thú thật
tôi lại nghe bao nhiêu người xuýt xoa khen ngợi cô Nga. Cô ăn ở phúc đức quá. Biết
trước biết sau, nhường trên nhịn dưới chơi với ai cũng giành lấy phần thiệt. Ai nhờ
việc gì là loay hoay làm cho bằng được…”[33,58]. Có lần, anh ta còn chứng kiến
người đàn bà ấy khấn trước bàn thờ phật: “Lạy trời lạy phật, nếu trời có hại thì hại tôi,
tôi có chết cũng được, nhưng đừng bắt các con tôi chết vì chúng nó vô tội…- cô Nga
khóc”. Như vậy, những gì mà nhân vật “tôi – gã làm thuê” được chứng kiến anh ta
luôn có những tình cảm trái chiều: vừa thương cảm, mến phục vừa căm ghét, khinh
bỉ. Những xúc cảm trái chiều ấy cứ đan xen nhau, thay thế nhau trong cách ứng xử của
người chịu ơn trước người đàn bà mà từ trong cốt cách của bà ta, anh ta vừa quý vừa
sợ, vừa yêu vừa ghét.
Một nhân vật khác dù không khắc họa rõ nhưng cũng phần nào thể hiện được
nét “lưỡng hoá” trong tính cách là nhân vật người cha trong truyện ngắn Người cha tội
nghiệp.
Ông có một mối tình đầu đẹp và lãng mạn với cô Vân “có giọng hát quan họ
nổi tiếng trong vùng”. Họ đã từng thề bồi “dù ván nát thuyền lìa cũng thác với nhau
trong kiếp phiêu diêu của câu hát”. Nhưng ông “được bố mẹ hỏi vợ” và cũng “không
dám cởi bỏ trọng trách mà gia đình đặt cho”. Luôn đau đáu về tình yêu dang dở, ông 59
“xung” vào đội lính ở đồn Việt Yên mong được gần người xưa. Đối với làng xóm họ
mạc việc ông đi lính cho giặc là một sự xỉ nhục, với vợ ông đã “phụ bạc trách nhiệm
vợ chồng”, phản bội lại gia đình, làng nước, đến nỗi “họ hàng can gián không nổi bỏ
ra về”, thậm chí con trai ông không vào được đại học cũng bởi cái lí lịch không trong
sáng ấy. Nhưng mục đích của ông không giống bao người thời bấy giờ là mong tìm sự
chở che, thăng tiến mà chỉ là để thoả mãn niềm yêu. ở gần người yêu, ông “năm thì
mười hoạ mới ghé qua nhà” đưa cho vợ chút tiền rồi “vội vàng ra đi”. Trong lần vợ
lên tận đồn đánh ghen, trái tim ông dường như “dửng dưng và lạnh lùng”.
Tuy nhiên về phía gia đình và vợ con ông lại có “sự chịu đựng đến đau lòng” và
có trách nhiệm với gia đình. Ngày ông trở về nhà luôn “ngồi nơi chõng tre, kéo thuốc
lào vặt” như gặm nhấm nỗi buồn cho cuộc tình dang dở. “Nỗi dày vò” từ dạo vợ đánh
ghen vẫn chưa nguôi trong ông dâng lên thành nỗi buồn khó tả. Ông cũng không dám
phản ứng lại vợ bởi ông vẫn thương con thương vợ, “bởi đằng nào ông cũng đem lòng
yêu thương người khác”. Nhiều lần vợ dày vò ông chỉ biết “ngồi thừ ra thở dài”.
Trong ông là sự dằn vặt chịu đựng đến tội nghiệp. Điều ông cần là sự cảm thông, chia
sẻ. Dù vậy ông vẫn yêu gia đình, cái năm nhà không đủ ăn, vợ “chạy ngược chạy
xuôi” còn ông thì phải “đi đào gạch thuê” lấy tiền cho con trai ăn học. Tình cảm ấy
được người con xác nhận “ông vẫn thương tôi và em Hà đấy”. Dù thế nào trong ông
tình phụ tử vẫn thiêng liêng.
Viết về nhân vật có tính cách “lưỡng hoá”, Từ Nguyên Tĩnh đã tạo nên cái nhìn
biện chứng về tính cách nhân vật. Con người không phải ai cũng hoàn toàn tốt hay
hoàn toàn xấu, cái chính là phải biết phát hiện và tạo điều kiện cho cái tốt trong con
người ta thể hiện và phát triển. Đạt được điều đó thì cách nhìn nhận con người mới
toàn diện và nhân văn hơn. Văn Từ Nguyên Tĩnh đang cố gắng đi tìm cái đẹp của cuộc
sống ẩn đằng sau sự xù xì thô nhám. Họ vừa là “thiên thần” lại vừa là “quỷ sứ” (như
cách gọi trong một truyện ngắn của Từ Nguyên Tĩnh) góp phần làm cho cuộc sống
thêm sinh động.
2.4.2. Nhân vật “bản thể tự nhiên ”
Trong cái khung lý luận, chưa có khái niệm cho kiểu nhân vật này. Theo quan
điểm của chúng tôi, nhân vật “bản thể tự nhiên” là một dạng của kiểu nhân vật tính
cách, nghĩa là “một cá nhân có cá tính nổi bật” và cá tính đó có “quá trình tự phát triển 60
tự nhiên, khiến cho nhân vật không đồng nhất giản đơn vào chính nó”. Chúng tôi gọi
nhân vật “bản thể tự nhiên” vì tác giả không định thể hiện quan niệm đạo đức thông
qua nhân vật. Họ không thuộc típ người tốt hay xấu, đúng hay sai, cao cả hay thấp
hèn. Họ lựa chọn cách sống và bộc lộ bản tính hồn nhiên của mình mà không bị trói
buộc bởi bất cứ nguyên tắc hay tham vọng gì và họ đã tìm thấy hạnh phúc. Hạnh phúc
với họ là được sống theo sở thích và khả năng của mình, không phải toan tính, bon
chen, thủ đoạn. Hồn nhiên như cây cỏ, sông nước, họ đi giữa cuộc đời mà không
vướng bận những lo toan. Mới nhìn, cứ ngỡ họ là những con người đơn giản, thô mộc,
nhưng khi tiếp xúc, mới biết những cung bậc tâm hồn của họ cũng rất phong phú. Đặc
biệt, tác giả muốn nhấn mạnh sự khỏe khoắn của tâm hồn trong những con người này.
Phải chăng, thông qua kiểu nhân vật này, tác giả muốn đưa ra một quan niệm sống,
đồng thời thể nghiệm một kiểu nhân vật mới chăng?
Hóa, Thơm, Tịnh trong truyện ngắn Đò dọc thuộc típ nhân vật trên. Hóa “có vợ
đẹp làm máy khâu ở Quần Kênh” nhưng “tạm bỏ nghề máy khâu kiếm chiếc thuyền đi
đò dọc…”. Thơm từng có “một gia đình bề thế” và từng “ước mơ học xong đại học
đem kiến thức của mình đến cho đời”. Nhưng tâm hồn khẳng khái, ngay thẳng của cô
sớm “chán cảnh đời giả tạo”, cô đã từ chối tất cả để dong duổi cùng sông nước. Còn
Tịnh – nhân vật “tôi” cũng đã học hết cấp ba, rời làng đi bộ đội, có khiếu viết lách, có
vợ là kỹ sư nông nghiệp, nhưng rời quân ngũ “không nghề ngỗng, không bằng cấp”,
mặc cảm trước những “nút buộc nọ tự dưng thành nỗi buồn khó tả”. Mỗi người một lý
do, họ gặp nhau và chiếc đò dọc của Hóa đã trở thành nơi hội tụ của những kẻ mơ
màng, ưa tự do phóng túng, chán đời nữa tìm niềm vui và cuộc sống. Tự nguyện dấn
thân và lựa chọn cuộc sống, họ hồn nhiên bộc lộ cá tính của mình. Cô Thơm, đã từng
là nữ sinh lớp 12 kia, cũng đã từng mơ mộng, giờ đã ngấp nghé tuổi thiếu phụ với
“nước da đỏ au màu hồng do chan nắng gió”. Cô có thể “nhảy tùm xuống nước, bơi
vào bờ mặc cho nước vẫn chảy ròng ròng, chằng dây vào vai, neo người kéo thuyền
như chực vập xuống cùng dòng sông”. Từ cô toát ra “hơi thở hào hển đầy mãnh lực”
của những con người ăn sóng nằm gió, chứa đựng một “khát vọng sống đến vô cùng”.
Có lúc cô “nuốt đến ực tiếng cười vào ngực” kéo Tịnh lăn ùm xuống sông càng thể
hiện sự mạnh mẽ, khoẻ khoắn. Thơm như vị chúa của dòng sông. Đứng trước cô,
người đàn ông như Tịnh trở nên thừa thãi, vụng về. Khi được anh Hoá giới thiệu cho 61
Tịnh, người “đồng nghiệp” mới, Thơm “nguýt một cái rõ dài, ý chừng cái loại ấy thì
chấp làm gì, chỉ tội ngứa mắt”. Cử chỉ ấy cho thấy một cá tính mạnh mẽ. Cái cách cô
ăn nói cũng thật bộc trực, dạn dĩ. Khi hai người vào bãi “ăn sấm lộc trời” Thơm bảo
“cái món này xào tỏi làm một bát ô tô rồi ngủ là khoái”. Khi Tịnh sợ không dám cùng
cô đi “ăn sấm lộc trời”, Thơm nói thẳng không cần ý tứ “Thật vô tích sự...cái ngưc anh
may ra chỉ học thôi chứ làm được cái quái gì”. Nhưng đang chao chát ngang tàng thế,
cô lại có thể dịu dàng, nữ tính một cách đáng yêu: “- Không mệt lắm đâu…nhưng đi
lâu mỏi chân là muốn lăn ra đường ngủ đấy…; - Khéo không đâm đầu phải cầu anh
ơi!; - ông trời, dậy đi nào!...mau lên, có việc đấy”. Rồi “phải biết quen với cuộc sống
sông nước anh ạ! Đó là điều thú vị mà trời ban cho đấy” [33; 90]. Ngót ba mươi mà
Thơm cứ hồn nhiên, bộc trực bộc lộ suy nghĩ, hành vi cử chỉ của mình. Cô không cần
biết người ta nghĩ gì về mình, cô không làm duyên, làm bộ, không cầu kỳ, ý tứ.
Những gì cô có cứ lồ lộ hiện ra tự nhiên. Tuy cái bản ngã trong Thơm mạnh mẽ, hồn
nhiên như vậy song ở con người Thơm vẫn toát lên vẻ đáng mến. Cái đáng mến của cô
là biết sống thật với chính mình, sống hồn nhiên vô tư không rơi vào những ham muốn
trần tục. Tâm hồn cô thánh thiện và trong trẻo đến vô cùng.
Nếu ở nhân vật Thơm cá tính bản thể tự nhiên thể hiện thành một cái tôi mạnh
mẽ, phóng khoáng, phiêu du thì ở nhân vật “tôi” trong Thợ cối xay lại là một tính cách
bình lặng đến mờ nhạt, hiền lành đến thụ động.
Từ câu chuyện tuổi thơ nghịch ngợm, “tôi”- cậu cả một gia đình cũng có tiếng
trong làng lại “dạm ngõ” được cô “công chúa” của làng, con bác phó cối. Những tháng
ngày cùng Nhàn đi lấy trở củi về bán cho bộ đội, theo bố Nhàn đến các làng xa “cạp
cối xay hoặc đóng mới cho họ” với chàng trai trẻ là những tháng ngày thật hạnh phúc.
Nhiều người thấy vậy nhìn thương hại “thời buổi đất nước còn chiến tranh, tại sao lại
có kẻ lạc hậu đến thế không biết. Không có chí làm trai, xông pha nơi trận mạc”
nhưng anh vẫn “không nghe thấy gì cả”. Thực ra anh cũng không suy nghĩ nhiều đến
thế. Rồi anh cũng vào bộ đội, Bần trong buổi tiễn bạn lên đường ra mặt trận đã nói
“đúng ra cậu phải là đứa được đi du học nước ngoài mới phải (...) chuyện Nhàn ở nhà
còn có bạn bè, cậu cứ yên lòng mà đi”. Anh hồn nhiên tin vào lời nói tưởng như chân
thành ấy. Tin “Nhàn và Bần đã lấy nhau và định cư ở chân trời xa xôi” khiến anh cảm
thấy oán giận nhưng nghĩ lại cũng thương ông Ky nên lòng “dịu lại” [33; 167]. 62
Trở về sau cuộc chiến, anh cũng chưa định hướng gì cho tương lai, khi ông Ky
bảo “Hay anh đi đóng cối xay cùng tôi”, anh cũng vác tráp theo sau như một sự phó
mặc vô định trước cuộc đời. Nghề nghiệp của anh càng ngày không còn được vị trí
như xưa, nhưng khi anh thợ mộc ném cái nhìn “dè bỉu coi thường”, thì anh “lờ đi cho
xong chuyện”. Thực ra cũng như bao người lính khác rời nghế nhà trường là đã đi bộ
đội, nay trở về không nghề ngỗng nhưng quan trọng cũng bởi anh không có chí hướng,
không có mục đích kế hoạch để tạo hướng đi mới cho cuộc đời. Ngay cả chuyện trăm
năm của anh, cứ như có bàn tay sắp đặt của tạo hóa, anh cưới vợ do sự “tác thành”
của ông Ky. Anh tin vào sự mai mối của ông Ky hay sự buông xuôi dễ dãi. Anh “tự
nhiên trở thành người của bản làng” tiếp tục cái nghề cha truyền con nối. Mọi chuyện
cứ diễn ra quanh cuộc đời anh một cách tẻ nhạt thể hiện sự luẩn quẩn. ở con người anh
không có cái băn khoăn đi tìm lẽ sống, không có những thủ đoạn để vươn tới vòng
danh lợi. Đọc truyện người đọc cảm thấy nhân vật cứ nhàn nhạt, quẩn quanh đến tội
nghiệp.
Như trên đã nói, nhân vật “bản thể tự nhiên” gần với nhân vật có tính cách
“lưỡng hóa” nhưng chúng không phải là một. Chúng tôi tách ra để nghiên cứu nhằm
nhấn mạnh sắc thái “tự nhiên, bản thể” của con người. Nhiều khi, sức mạnh bản thể
vượt lên cả hoàn cảnh. Tác giả cũng không định thể hiện họ điển hình cho tầng lớp
hay giai cấp nào. Họ đại diện cho chính họ - những bản thể tự nhiên mà tạo hóa đã
sinh ra.
Như vậy, qua sự nghiên cứu trên đây cho thấy thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh quả thực phong phú đa dạng gồm nhiều kiểu người, nhiều dạng
thức tính cách. Mỗi nhân vật của ông là một hiện thân cho cuộc sống phồn tạp, cắc cớ,
trái khoáy, mỗi con người là “một thế giới, một tiểu vũ trụ” (1). Song dù họ là ai, họ
cũng là “một bí ẩn của cuộc sống” (2) như TS Hỏa Diệu Thuý đã nhận xét.
63
Chƣơng ba
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM Ở PHƢƠNG DIỆN TRẦN THUẬT
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh cũng đã tạo được dấu ấn riêng ở phương diện trần
thuật. Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi giới hạn nghiên cứu một số đặc điểm nổi
bật sau: điểm nhìn trần thuật linh hoạt, sử dụng yếu tố huyền thoại kì ảo để dẫn dắt và
kết nối mạch truyện, giọng điệu trần thuật đa thanh đa giọng.
3.1. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt
Điểm nhìn trần thuật hay còn gọi là “điểm nhìn nghệ thuật” tức là “vị trí từ đó
người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm” (Từ điển thuật ngữ văn
học). Trong văn học truyền thống, phần lớn sử dụng điểm nhìn ở ngôi thứ ba số ít. Ở
điểm nhìn ấy, nhà văn trở thành người “biết hết, thấy tất”, thành người “phán truyền
chân lí”. Đến văn học thời kì hiện đại các nhà văn đã có ý thức tạo dựng nhiều điểm
nhìn trần thuật linh hoạt: có điểm nhìn gián tiếp, điểm nhìn trực tiếp, điểm nhìn nửa
trực tiếp nửa gián tiếp.
Từ Nguyên Tĩnh vận dụng tất các điểm nhìn trên cho thấy sự linh hoạt trong
tiếp cận và phản ánh hiện thực của tác giả. Điều đáng kể là trong mỗi truyện ngắn, có
thể được vận dụng nhiều điểm nhìn tạo nên giọng trần thuật đa dạng. Trong thao tác
nghiên cứu, để làm rõ vấn đề cần trình bày chúng tôi tách ra để tiện cho việc theo dõi.
3.1.1. Điểm nhìn gián tiếp
Điểm nhìn gián tiếp là điểm nhìn mà người trần thuật đứng ở vị trí ngôi thứ ba
số ít kể lại câu chuyện, tái hiện lại câu chuyện, có vai trò quyết định sự phát triển của
mạch truyện cũng như số phận của nhân vật. Về nguyên tắc, cách trần thuật này người
trần thuật trong vai trò người đứng ngoài ít để lộ tung tích, hoàn toàn lạnh lùng với
những gì đang diễn ra, không có những lời phán xét đánh giá hay bình phẩm về những
chi tiết và sự kiện, thái độ của người trần thuật đối với nhân vật phải khách quan và
trung tính. Tuy nhiên, trên thực tế, tính chủ quan của cách trần thuật gián tiếp này vẫn
bị chi phối bởi quan điểm tư tưởng của nhà văn. Thế giới quan, nhân sinh quan của
nhà văn sẽ dẫn dắt nội dung và cả hình thức nghệ thuật tác phẩm. Nhìn chung, đây là
cách kể chuyện truyền thống và tương đối ổn định trong văn học. 64
Từ Nguyên Tĩnh đã sử dụng phương pháp kể chuyện truyền thống này trong
khá nhiều truyện ngắn của mình, nhất là các truyện lấy nội dung phản ánh là các câu
chuyện của quá khứ hoặc về những nhân vật nào đó trong làng, ngoài xã mà tác giả
được nghe hoặc chứng kiến: Kiếp người, Gã nhà quê, Đàn bà, Mối tình chàng Lung
mù, Lão kéo vó bè trên sông Lê, Cô gái Đò Lèn, Vợ chồng xe trâu, Thầy Bèo v.v…
Những câu chuyện mang tính chất “kể lại” khiến sự xuất hiện của người trần thuật khó
có sự lựa chọn nào khác ngoài vai trò “gián tiếp”. Tuy nhiên, tác giả cũng tìm cách
“làm mới” bằng những thao tác, cách điệu để tăng thêm sự “chân thật” cho câu
chuyện.
Có thể lấy bất cứ câu chuyện nào có nội dung trên để khảo sát đều thấy đặc
điểm này: Truyện Kiếp cầm ca có vai trò của hai người kể, một là lời kể của “người
kéo vó te bên hồ La Đá Hạ kể lại” việc “chứng kiến con thuyền ẩn hiện rì rầm trôi
trong mưa thâm gió bấc” và một là của người kể dấu mặt, một “người ta” nào đó biết
câu chuyện về thằng Đất, “chàng trai chơi đàn nổi tiếng họ Ca Công La Đá Hạ và ả
Tuyết Tuyết” có giọng hát nổi tiếng vùng này. Câu chuyện của gã câu cá tạo nên màn
sương huyền ảo cho truyện, là cái vỏ ngoài của câu chuyện. Cách tạo ra lớp vỏ ngoài
này chính là một sáng tạo để gây chú ý, tăng thêm phần hấp dẫn. Câu chuyện chính về
cuộc đời của hai nhân vật đã được dựng lại bằng lời kể của một “ai đó” biết rất tường
tận cuộc đời của hai nhân vật từ lúc thằng Đất là đứa ngụ cư, câu cá trộm, Tuyết Tuyết
là đứa ở, hát hay rồi bị bán như thế nào. Không chỉ biết chuyện khi chúng còn ở làng
La Đá Hạ mà còn biết cả chuyện khi chúng ở bên trời Tây. Người kể chuyện như một
thánh nhân vô hình lúc thì ở bên Tuyết Tuyết, lúc thì ở bên thằng Đất, lúc lại về làng,
ghi được tiếng nói của người này, đọc được suy nghĩ của người kia. Tính “khách
quan” của người kể lại mang đầy sự chủ quan bởi đó là sự trần thuật của một người.
Truyện Nước mắt quân vương hay Tiếng trống đồng, cũng được kể bằng điểm
nhìn gián tiếp như vậy, tính “khách quan” của câu chuyện ở đây cũng được thông qua
lời kể của người vô hình. Người kể ấy, nếu có phải cách chúng ta hàng mấy trăm năm,
từ thời Bình Định vương áo vải mới tụ tập nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa. Quân ít,
giặc mạnh, Người đang bị chúng truy sát khắp nơi cơ mà. Hoặc giả từ thời “làng Đồng
đúc trống đồng để thuần phục voi trắng của quan Tri Châu”…Chuyện được kể lại như
65
một câu chuyện cổ. Bởi ai cũng biết hiện thực đã lùi vào rất xa của quá khứ, sự phục
hiện bằng điểm nhìn của người trong cuộc khó tránh khỏi sự hồ nghi của người đọc.
Song, đối với một số truyện mà hiện thực phản ánh rơi vào thời hiện đại, tác giả
lại sử dụng vị trí người trần thuật đứng ở vị trí ngôi thứ nhất số ít xưng “tôi”, đóng vai
trò ghi chép lại câu chuyện mà họ được chứng kiến hoặc nghe người trong cuộc kể lại.
Người kể chuyện khi ấy vừa là người dẫn chuyện, vừa là người “biết hết” trần thuật lại
câu chuyện. Thật ra, đây là biến thái khác của trần thuật gián tiếp, người trần thuật
đứng ngoài, “kể” vẫn là cách dẫn chuyện duy nhất tạo nên mạch truyện tuyến tính.
Chẳng hạn, truyện Gã nhà quê, mở đầu bằng nhân vật “tôi” dẫn truyện bằng lối
kể rất thật: “Người để lại cho tôi nhiều ấn tượng mà mỗi khi nhớ đến là cứ muốn cầm
bút, viết một cái gì đấy là lão Cao, làm nghề chăn vịt. Suốt từ thời thơ ấu đến khi rời
làng ra đi, lão luôn gần gũi tụi tôi” [2; 19]. Như vậy, “tôi” kể chuyện lão Cao chứ
không phải lão Cao tự kể về cuộc đời lão. Vì là người cùng quê, gắn bó với nhân vật
trong truyện từ thời thơ ấu, lại bị lão thu hút, yêu quý lão bằng những câu chuyện quỷ
quái và bằng cả những quả trứng vịt của lão “thử tưởng tượng mà xem, cái thời đói
khát lúc đó được chén một quả trứng vịt là sướng run lên” nên nhân vật “tôi” tỏ ra khá
thông thạo, tường tận về cuộc đời nhân vật. Đại loại có thể hiểu như thế này: “tôi” –
tác giả đã chắp nối các câu chuyện từ chính lão Cao kể và từ chính những gì được
quan sát thấy để dựng lại cuộc đời lão: “Thật ra chuyện riêng về đời lão, mãi trước
đêm rời làng vào bộ đội mới được nghe, nhưng con người lão đã thu hút bọn trẻ chúng
tôi từ thời chăn bò” [1, 21]. Sự cách điệu ở đây đã có hiệu quả, như vậy là “người biết
hết” là tác giả ở đây chỉ biết một phần, phần bên ngoài, rất nhỏ, còn phần chính, diễn
biến cuộc đời, số phận nhân vật là do chính nhân vật kể, tác giả chỉ làm phận sự là
“ghi chép” lại. Đoạn văn ở cuối truyện như một “thao tác” để nhấn mạnh điều này
“còn tôi trong cuộc đời phiêu bạt của mình ở chốn thị thành, khi nghe người ta nhắc
đến hai chữ “nhà quê” lại nhớ đến lão Cao – Gã nhà quê”. Sự sáng tạo trên khiến câu
chuyện có vẻ “thật” hơn, song về bản chất, vẫn chưa có sự dịch chuyển thực sự từ
điểm nhìn bên ngoài vào bên trong. Tính ghi chép, tính kể, tức là điểm nhìn gián tiếp
vẫn là cách trần thuật chính của người người kể chuyện
3.1.2. Điểm nhìn trực tiếp
66
Điểm nhìn trực tiếp hay còn gọi là điểm nhìn bên trong tức là người trần thuật
đứng ở ngôi thứ nhất số ít, xưng “tôi” trong vai trò người trong cuộc (nhân vật kể
chuyện đồng thời là người trong cuộc). Qua điểm nhìn này nhà văn có thể đào sâu vào
các vỉa tầng nội tâm phong phú phức tạp và hết sức tinh vi của nhân vật. Tâm trạng
nhân vật được thể hiện thông qua những đoạn đối thoại và độc thoại nội tâm. Đây là
một biểu hiện của sự dịch chuyển điểm nhìn nghệ thuật từ bên ngoài – chủ quan vào
bên trong- khách quan, nghĩa là trao điểm nhìn trần thuật cho nhân vật.
Có thể thấy, Từ Nguyên Tĩnh đã rất nỗ lực trong việc tạo ra cách trần thuật này. Đó
là việc tác giả luôn ý thức trong việc tạo ra tình huống đối thoại hoặc độc thoại để
nhân vật tự bộc lộ tâm hồn, tính cách của mình. Thế giới nội tâm nhân vật không phải
được “kể” mà thông qua “thuật – tả”. Từ Nguyên Tĩnh đã có những trang miêu tả tâm
lý khá thành công qua việc miêu tả nội tâm nhân vật. Chẳng hạn, đoạn miêu tả tâm
trạng của Thu Trang trong trạng thái giằng co đau đớn giữa tình cảm thương cha “phải
làm thay phần việc của mẹ, lo từng mớ rau, quả cà, cả việc vá may và thân phận người
làm nghề xích lô bèo bọt” để nuôi mình khôn lớn với sự giận dữ đầy đau khổ trong
suy nghĩ “cha là người bạc tình, sớm quên người vợ nằm xuống khi cỏ chưa kịp lên
xanh”. Xung đột tâm trạng ấy khiến tâm hồn trẻ thơ của cô bị xáo động dữ dội. Cô bé
cố gắng chế ngự suy nghĩ và tình cảm nhưng không sao che dấu tình cảm và hành
động thất thường. Người cha bối rối vì không thể biện minh cho con hiểu v.v…Truyện
ngắn Người tình của cha là một trong những sáng tác khá thành công khi tác giả đã
tìm đến kiểu trần thuật trực tiếp để diễn tả những tâm trạng đầy mâu thuẫn của người
trong cuộc.
Điểm nhìn trực tiếp còn được nhà văn sử dụng hiệu quả khi thể hiện thế giới nội
tâm đầy phức tạp của nhân vật “tôi”( Tịnh) ở truyện ngắn Đò dọc. Tâm trạng Tịnh
hiện lên sinh động thông qua những đối thoại và độc thoại nội tâm. Đấy là tâm trạng
“buồn khó tả” của anh lính trở về sau cuộc chiến, ngơ ngác với thời đại mới và cảm
thấy vô dụng, thừa thãi và bất lực trước cuộc sống đang hừng hực hồi sinh. Tâm trạng
âý được thể hiện qua câu nói của Tinh với anh Hóa “Em cũng chán đời lắm, chả có
nghề ngỗng gì sất. Học không hay cày ruộng cũng không biết...”. Là những lời Tịnh tự
độc thoại, tự nói với mình gợi nên một cái tôi đầy cô đơn, nhỏ bé “ơi con sông! Ta nào
biết bến này là bến nào...Ta chưa từng lặn hụp xuống đáy dòng. Ta chỉ là sinh linh bé 67
nhỏ bất ngờ được gắn ghép, chắp nối trôi đi cùng con thuyền phiêu lãng”. Rồi đến
những suy tư, trăn trở và dự cảm của anh với kiếp người vùng sông nước “rồi đây
những đứa nhóc ra đời, con thuyền này đã thành số phận và nghề nghiệp của chúng.
Không biết sau này chúng có oán tôi, người cha đã sớm phó thác cuộc đời cho sông
nước” [8; 95]. Nhờ những đọan đối thoại, độc thoại như vậy mà thế giới nội tâm
phong phú với những bộn bề lo âu, trăn trở của Tịnh trở nên rất thật và rất gần gũi.
Thế giới nội tâm của nhân vật “tôi” trong Truyện Nợ làng quê lại dằn vặt, day
dứt xen lẫn sự ân hận đối với quê nhà. Anh cảm thấy có lỗi với đồng ruộng quê hương
đặc biệt là với Hương Mơ, người mà anh đã từng yêu và nhiều hứa hẹn. Câu chuyện là
lời độc thoại lớn của nhân vật “Tôi biết mình là kẻ hèn đã phản bội lại nàng nhưng còn
tự bào chữa. Tôi đã chối bỏ đồng ruộng quê nhà, mặc cho nàng phải gánh chịu sau vụ
đổ bể của vụ cấy chui cấy lủi”[4; 45]. Chính điều đó bây giờ khiến anh nỗi “u hoài,
buồn nản” luôn dày vò và lặp lại với anh như là “bệnh tật”.
Qua điểm nhìn trực tiếp, nhân vật tha hồ thể hiện những cảm giác của mình
trước những bộn bề của cuộc sống, soi chiếu qua lăng kính chủ quan. Vì vậy thế giới
chủ quan có sức thuyết phục hơn đối với người đọc. ở một phần nào đó điểm nhìn này
cho ta thấy tác phẩm có dáng dấp tự truyện. Trong một số truyện của Từ Nguyên Tĩnh
như Nợ làng quê, Mối tình đầu, Chờ B52, Cái thời khói lửa ta như thấy thấp thoáng
bóng dáng của nhà văn. Đọc truyện ngắn như đang đọc câu chuyện của nhà văn với
những chi tiết được lặp lại ở nhiều truyện.Tuy nhiên những truyện như Thợ cối xay,
Mối tình đầu, Chờ B52 nhân vật xưng “tôi” trực tiếp kể về cuộc đời mình xong hầu
như ít thể hiện cảm xúc mà cứ kể như câu chuyện vốn có, như người thứ ba kể chuyện.
Truyện cũng ít có sự bình luận, dường như, người kể chuyện muốn dành công việc đó
cho độc giả.
3.1.3. Điểm nhìn nửa trực tiếp, nửa gián tiếp
Điểm nhìn nửa trực tiếp, nửa gián tiếp hay còn gọi là “lời nửa trực tiếp”, là
“biện pháp diễn đạt lời văn khi nhân vật có bề ngoài thuộc về tác giả (về mặt chấm
câu, ngữ pháp) nhưng về nội dung và phong cách lại thuộc về nhân vật (...) cho phép
người đọc thâm nhập vào ý nghĩ thầm kín của nhân vật” (Từ điển thuật ngữ văn học).
Ở điểm nhìn này, người đọc khó nhận ra đâu là lời của nhà văn đâu là lời của nhân vật.
68
Hãy thử xem đoạn văn kể về ông Tứ trong truyện ngắn Họ hàng nông dân: “...
Bố ông chết cái dạo mới hòa bình. Ông nội có làm đến Chánh đấy nhưng vì ít học, cờ
bạc thành ra cũng phá sản. Ông thành dân nghèo ở đợ cho nhà ông bác đầu cành đi
chăn trâu. Cái vận may đến, thiếu chân đưa công văn ông nhảy vào và hòa bình (1954)
thành ngay cán bộ trẻ. Ông cứ học tắt mãi thành ra tự dưng là người có phẩm hàm”.
Rõ ràng ở đây ông Tứ không tự kể về đời mình. Đã có một người vô hình “biết hết,
thấy tất” giới thiệu khái quát nhưng đầy đủ về lai lịch, thân thế của ông Tứ từ thở thiếu
thời cho đến lúc về già một cách khá cụ thể và chính xác. Các sự kiện trong đời ông
Tứ nối tiếp nhau hiện ra tạo nên một mạch kể rõ ràng như người kể chuyện được
chứng kiến, dõi theo tất cả. Tuy nhiên, có thể cho đây là suy nghĩ của ông Tứ về lý
lịch của đời mình cũng không sao, sắc thái tranh luận, đối thoại trong cách diễn đạt
cho thấy sự hiện diện của cái “tôi” – người trong cuộc. Cách trần thuật này tạo ra hiệu
ứng “nửa trực tiếp, nửa gián tiếp” khiến mạch trần thuật trở nên sinh động, lôi cuốn
hơn. Đây là suy nghĩ của ông Tứ: “Là nông dân nhưng ông cũng muốn cho họ mình
phải có cán bộ chủ chốt ở xã, ông muốn tiếng nói của mình phải vang lên trong dòng
họ như nói trước ngàn quân. Ông muốn một ngày nào đó cậu con trai ông ít ra cũng
theo nghiệp bố, có được phẩm hàm cao hơn ông” [1; 12]. Người trần thuật đã “lặn
sâu” vào bên trong để “đọc” được những suy nghĩ bên trong sâu kín của ông Tứ và
khám phá ra cái lòng khát khao ham muốn danh tiếng tột bậc của ông. Song, cũng rất
khó để tách bạch đâu là suy nghĩ của ông Tứ hay suy nghĩ, nhận xét của tác giả. Điểm
nhìn nửa trực tiếp nửa gián tiếp cũng được sử dụng khá thành công trong truyện ngắn
Họ hàng nông dân để dẫn dắt mạch truyện. Mở đầu câu chuyện là lời dẫn “Họ này
toàn nông dân. Điều đó tỏ ra không có sự gì là thiệt thòi. Bốn đời là nông dân. Thậm
chí cả chục đời là nông dân. Điều đó có gì phải băn khoăn. Dân đinh thì đông, có việc
họ việc làng ào một cái là tắp lự...”. Đây là giọng của người kể chuyện vô hình “biết
hết, thấy tất” khẳng định chắc chắn “giai cấp” của dòng họ Công. Nhưng cũng có thể
là của người trong họ, hoặc có thể đó là của người trong làng tỏ rõ thái độ lập trường
đối với gốc gác của họ. Là nông dân thì có gì là thiệt thòi và băn khoăn, thậm chí còn
đáng tự hào nữa bởi cả nước Việt Nam nông nghiệp từ buổi đầu sơ khai, có ai không
xuất thân từ nông dân.
69
Sự chuyển dịch điểm nhìn từ lại từ người kể chuyện lại đến người làng “Không
ai giàu ba họ nhưng họ này giàu đấy, người họ này thay nhau làm chánh, phó lý; hết
cành trên lại rơi xuống cành dưới, hết cha đến con. Người ta kể ông Chánh Cò làm Lý
trưởng đến con bà ba làm phó lý, lại con bà hai làm Cửu. Con ông Chánh Lung làm Lý
trưởng...”[1, 5]. Trong lời kể trên người trần thuật và người làng như đang đọc ra “gia
phả” của dòng họ Công với một sự kính nể, ngưỡng mộ song trong đấy dường như
cũng chứa đựng sự thèm muốn, ghanh tị, đố kị của những người vốn quanh năm cơ
cực. Cái điều đáng tự hào của dòng họ nông dân đặc sệt này là mỗi khi ra ngõ là được
chào “Bác ạ- chú ạ” thì “Cứ là râm ran, râm ran đến vui tai”.Người kể chuyện thấy tất
cả, còn người được chào nghe niềm vui rân rân trong người và ở một góc nào đấy
người làng như cũng được chứng kiến cảnh ấy mà thấy tai mình cũng gióng lên. Đặc
biệt khi nói về nỗi buồn của họ Công “Họ này khối chuyện buồn ra đấy. Ví dụ, ở đời
nào cũng có một lão điếc, một ông mù, một ông không con (...) Cái số trời nó vậy,
thương thật...” người kể chuyện như xác nhận chân lý của quy luật bù trừ và tỏ thái độ
cảm thông cho họ Công nhưng đó cũng là sự hả hê, đắc chí của những người làng lâu
nay vốn thua thiệt.
Đôi khi trong một câu nói chứa đựng cả điểm nhìn của người kể chuyện và thái
độ của ông Thầu “Người ta nói, gạch làm nhà bếp là do ông đi hót phân rơi ở đường
mà nhặt về xây đủ đấy. Cha cái bọn thấy ông giàu mà ngứa miệng; ông vay mượn,
mua bán sòng phẳng chi li đến mức độ có ai được ông giúp cũng thấy nể lòng” [1; 9].
Người kể chuyện cũng đồng cảm với nỗi khổ của ông Thầu, còn bản thân ông thì bực
bội với miệng lưỡi thế gian, chúng thấy ông giàu rồi mà bới móc, chế giễu. Bản tính
tằn tiện, tiết kiệm cũng đáng coi trọng lắm chứ.
Như vậy chỉ qua một số đoạn trong truyện ngắn Họ hàng nông dân ta đã thấy có
sự tác động qua lại phức tạp của nhiều điểm nhìn, điểm nhìn nhà văn, điểm nhìn người
kể chuyện, điểm nhìn nhân vật và cả của những nhân vật khác không nằm trong cốt
truyện. Ngôn ngữ của người trần thuật nhiều khi đan cài xen lẫn của những người
ngoài cuộc, truyện ta như thấy nhà văn đang làm một cuộc tranh luận với độc giả về
những ý kiến của mình. Với việc sử dụng nhiều điểm nhìn để có thể nhìn nhận vấn đề
được đầy đủ, toàn diện, soi chiếu ở nhiều chiều tạo nên sự đa thanh, đa giọng.
70
Theo thống kê của chúng tôi, trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh, nhà văn sử
dụng điểm nhìn trực tiếp và nửa trực tiếp nửa gián tiếp là chủ yếu, đây là sự nỗ lực của
tác giả trong việc đổi mới, hiện đại hóa phương thức trần thuật.
3.2. Sử dụng yếu tố huyền ảo để dẫn dắt và kết nối mạch truyện
Sử dụng yếu tố huyền ảo trong việc dẫn dắt và kết nối mạch truyện là một đặc
điểm nổi bật của nghệ thuật truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh. Phương pháp sáng tác này
xuất hiện đầu tiên ở phương Tây vào những năm sáu mươi với chủ trương dùng yếu tố
“kì lạ, huyền ảo là hình thức phản ánh hiện thực để tránh lối diễn đạt trực tiếp”. ở Việt
Nam vào những năm cuối thế kỉ trước, một số cây bút đã thành công trong việc vận
dụng phương pháp này như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Trần Hạ Tháp, Hiền
Phương v.v...Từ Nguyên Tĩnh nằm trong số những nhà văn đã tìm thấy hứng thú trong
cách thể hiện nghệ thuật ấy. Qua khảo sát các tác phẩm của Từ Nguyên Tĩnh có thể
thấy để tạo ấn tượng này ông sử dụng các thủ pháp sau:
3.2.1. Khai thác đề tài dân gian để tạo dựng cốt truyện kỳ ảo
Trước hết để tạo ấn tượng huyền thoại kỳ ảo, Từ Nguyên Tĩnh lấy đề tài từ
những tích truyện xưa chỉ có trong những lời đồn đại hoặc những câu chuyện dân gian
còn lưu truyền, như: Kiếp cầm ca, Nước mắt quân vương…. Truyện Kiếp cầm ca kể
về cuộc tình bi thương giữa thằng Đất- dân ngụ cư câu cá trộm nhưng có bàn tay vàng
của một nghệ sĩ tài ba và Tuyết Tuyết- đứa ở nhưng có giọng hát vàng trời phú được
lưu truyền trong dân gian. Tuy nhiên tích truyện chỉ là cái cớ để tác giả đả phá, bác bỏ,
gột rửa một quan niệm bảo thủ, cố hữu đã ăn sâu bén rễ trong dân gian đó là sự coi
thường miệt thị những người làm nghề ca hát như cách gọi “xướng ca vô loài”. Đây là
một thái độ đầy rộng lượng, tỉnh táo đối với “kiếp cầm ca lạc loài”. Chỉ khi nào tiếng
đàn, tiếng hát được coi trọng thì loài người mới thực sự văn minh.
Truyện Nước mắt quân vương lại khai thác đề tài lịch sử để tạo nên một tác
phẩm giống như truyền thuyết lịch sử. Tuy nhiên sự thật lịch sử đã được lãng mạn
hóa, kỳ ảo hoá tạo nên một câu chuyện tình yêu. Mượn sự kiện Bình Định Vương Lê
Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược bị quân giặc vây bủa phải ẩn
nấp khốn đốn trong vùng núi Thanh Hóa, nhà văn đã tạo nên cốt truyện độc đáo mang
màu sắc huyền thoại hư ảo. Nước mắt của bậc quân vương trọng nghĩa tình có sức
biến cải sâu sắc, nó không chỉ làm cho mảnh đất ân nghĩa trở thành một vùng ao hồ 71
rộng lớn trong lành, tươi mát mà còn khiến cho tình yêu trở thành bất tử bởi “dưới cát
đó vẫn có tiếng rì rào như thể khúc tình xuân của ai thủ thỉ”. Qua giọt nước mắt của
quân vương, điều mà tác giả muốn nói tình yêu có sức mạnh nhiệm màu và không bao
giờ bị mai một.
Để thể hiện sự vi huyền, kì ảo, hoang đường nhà văn sử dụng những chi tiết hư
hư, thực thực. Mở đầu Kiếp cầm ca là cảnh những đêm “mưa thâm gió bấc, mặt trăng
bất chợt hiện ra...”, trên lòng hồ La Đá Hạ “một con thuyền ẩn hiện rì rầm trong mưa
thầm gió bấc” và tiếng nhạc mơ hồ, hư ảo tạo nên một không gian đầy bí hiểm ma
quái, gợi cái cảm giác rờn rợn mà tò mò. Đó là những từ ngữ phiếm chỉ: “Ngày ấy”,
“Cái ngày xót xa ấy”, “Đêm ấy”, “Đêm đó” v.v... tạo nên một thời gian đầy sự xa xôi,
huyền bí, mơ hồ về cuộc đời thằng Đất và ả Tuyết Tuyết. Các tình tiết cũng nhuốm
màu huyền thoại qua lời truyền miệng của người đời: “Người ta nói, ban đầu Đất cũng
được quan Tây cho đi theo làm phu đánh đàn...”, rồi một đêm “Người đi câu cá trộm
chứng kiến một việc lạ..”, và “người ta bảo, xuống đó mà Đất vẫn còn đàn, còn Tuyết
Tuyết vẫn còn hát” v.v...Tất cả những yếu tố trên xoay quanh câu chuyện tạo nên sự
hư thực khiến người đọc vừa thấy gần gũi, chân thực vừa khó nắm bắt, tin tưởng.
3.2.2. Sử dụng tình tiết, chi tiết hoang đường, kì ảo làm hạt nhân của tứ
truyện
Loại truyện viết theo thủ pháp này chiếm đa số trong truyện ngắn Từ Nguyên
Tĩnh. Tuy nhiên cái hoang đường kì ảo này không phải của “cái ngày xa xôi ấy” mà
nằm ngay trong hiện thực cuộc sống tươi nguyên, sinh động. Nó là một mắt xích đặc
biệt tạo nên bước đột phá trong mạch truyện gây hiệu quả thẩm mỹ bất ngờ. Qua sự
nghiên cứu, chúng tôi hệ thống được truyện có yếu tố kì lạ thành những nhóm sau:
Cái “kì lạ” đồng nghĩa với cái đẹp, lòng vị tha, đức hi sinh mang mầu sắc huyền
thoại. Có thể nói khi viết về đề tài này Từ Nguyên Tĩnh vẫn còn dư âm của cảm hứng
sử thi, lãng mạn của dòng văn học 1945-1975 , chính vì vậy con người dưới ngòi bút
của ông trở nên lung linh huyền ảo, mang vẻ đẹp lí tưởng, phi thường. Có thể tìm thấy
bút pháp này ở những truyện: Người tình của cha, Chim Xa Xa lại về, Chuyện tình
trong hang đá, Nàng Trà My, Cô gái Đò Lèn... Con người ở đây sống đến tận cùng
của bản chất người, không có những so đo, toan tính, vụ lợi. Ở họ đều lấp lánh vẻ đẹp
hi sinh cá nhân riêng tư cho cộng đồng rộng lớn và nhất quán từ suy nghĩ đến hành 72
động như một chân lý cuộc sống. Nhà văn đã dùng yếu tố kì lạ, huyền ảo không phải
để “lạ hoá” mà chính là để “đẹp hóa” nhân vật lý tưởng như Mạnh Lê từng nhận xét.
Nhóm kì lạ, hoang đường thứ hai nằm trong bản chất sự việc tưởng như “lạ lẫm,
khác thường” nhưng đằng sau vẫn là sự tôn vinh, khẳng định cái Đẹp qua những
truyện ngắn Vợ chồng xe trâu, Nợ làng quê, Gã nhà quê, Rượu tắc kè... Người đọc
không quên được những tình tiết mà những cái ích kỉ, nhỏ nhen, tầm thường sẽ chế
giễu là “gàn dở, ngớ ngẩn, điên rồ” thậm chí là “ngu muội”. Đó là những hành động từ
chối danh vọng ở chốn thành thị để trở về thành một cô kĩ sư nông dân như Hương
Mơ (Nợ làng quê), là cái “ngu” của anh Tháo khi dám đứng ra gánh chịu tai tiếng
thậm chí là kỉ luật để chở che, bao bọc cho người mình yêu với tấm lòng vị tha đến
hồn nhiên, thánh thiện (Rượu tắc kè). Là cái “vô phúc‟ của anh chàng xe trâu khi
“rước” mẹ con người đàn bà bị bỏ rơi về làm vợ (Vợ chồng xe trâu)… Cái „lạ” thể
hiện ở những tình huống rất khác thường nhưng lại rất Người. Và cái Đẹp không nằm
ở vẻ bề ngoài hào nhoáng, không đạt đến mức lí tưởng thiên thần mà “man mác khắp
vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường. Công việc
của nhà văn là phải hiểu cái đẹp ở chính chỗ mà người ta không ngờ tới, tìm cái đẹp
kín đáo và che lấp của sự vật cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”
(Thạch Lam). Văn Từ Nguyên Tĩnh đang cố gắng đi tìm cái “kín đáo và che lấp” ấy.
Cuối cùng là cái “kì lạ” nằm trong mối tương quan giữa cái tốt và xấu, cái cao
cả và tầm thường hay cái “thiên thần và quỷ sứ” trong bản thân mỗi con người nằm ở
những truyện ngắn: Đàn bà, Người cha tội nghiệp, Mùa yêu đương, Người đàn bà sau
chiến tranh... Cái “lạ” ở chỗ một người có lối sống đàng điếm, buông thả, đĩ bợm
song lại có một trái tim rất “Mẹ” (bà Nga trong truyện ngắn Đàn bà), “lạ” quan niệm
mới mẻ lạ lẫm của anh nông dân Thốn về tình yêu và hạnh phúc (Mùa yêu đương), ở
chỗ sự thuỷ chung, tôn thờ và nỗi đau chồng chết dễ khiến người vợ trở nên mơ màng
ảo tưởng đến mức khi chung đụng với người khác mà vẫn tưởng chồng mình của cô
Màu (Người cha tội nghiệp). Trong những cái kì lạ ấy là cuộc đấu tranh gay gắt, mạnh
mẽ và nghiệt ngã để sống đúng bản chất người, tất cả họ bao giờ cũng tìm thấy một lí
do để chiếm được cảm tình nơi độc giả. Ở khía cạnh khác cái “lạ” có thể còn nằm
trong cái nghịch dị, trái khoáy, oái oăm và ấu trĩ của một thời kì mà đến bây giờ nghĩ
lại người ta vẫn còn kinh ngạc, không tin nổi, như các truyện: Kiếp người, Gã nhà 73
quê, Đàn bà, Người kéo vó bè trên sông Lê. Qua cách thể hiện cái lạ này nhà văn như
muốn “làm một cuộc tranh luận cùng độc giả, như muốn khiêu chiến với những trật tự
quan niệm cũ” (Hỏa Diệu Thúy). Tuy nhiên ở đây cũng cần bàn thêm về việc sử dụng
yếu tố “lạ” khi khắc họa nhân vật lão Bối trong Người kéo vó bè trên sông Lê. Quả
thực nhà văn có hơi tàn nhẫn, đã “lạ” hóa nhân vật tới mức dị dạng, thê thảm.
3.3. Giọng điệu trần thuật đa giọng
Giọng điệu trần thuật là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của
nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô,
gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm...” (Từ điển thuật ngữ văn học).
Giọng điệu trần thuật thể hiện dấu ấn nhà văn, qua đó người đọc có thể thấy
được chiều sâu tư tưởng, thái độ, phong cách, sở trường ngôn ngữ .v.v...của nhà văn
thông qua tác phẩm. Với Từ Nguyên Tĩnh, ứng với một thế giới nhân vật phong phú,
phức tạp là giọng điệu trần thuật phong phú, đa giọng. Mỗi một nhân vật nhà văn luôn
tìm được giọng điệu riêng phù hợp để thể hiện nhằm đạt hiệu quả thẩm mỹ tối đa. Tất
nhiên khi xây dựng một nhân vật không phải nhà văn chỉ dùng một giọng điệu mà nó
là sự phức hợp của nhiều giọng phù hợp với mỗi hoàn cảnh, song vẫn có một giọng
chính, chủ đạo. Điều đó có nghĩa là trong một tác phẩm sẽ có nhiều giọng cho nhiều
nhân vật. Sự tách bạch, phân định trên đây nhằm mục đích nghiên cứu để thấy được
nỗ lực của Từ Nguyên Tĩnh trong việc hiện đại hóa cách kể chuyện.
3.3.1. Giọng nghiêm cẩn, cung kính
Giọng nghiêm cẩn là loại giọng điệu chỉn chu, nghiêm túc nhằm thể hiện những
sự việc cũng có tính chất nghiêm túc, quan trọng trong đời sống. Trong truyện ngắn
Từ Nguyên Tĩnh, giọng điệu này xuất hiện ở những đoạn nhằm tái hiện lại những sự
kiện trang trọng thể hiện nét đẹp văn hóa. Đoạn văn miêu tả cảnh làng Đồng làm lễ tế
thần đồng để đúc trống (Tiếng trống đồng) là một ví dụ: “Ngày làm khuôn trống đồng
cũng đến. Mặt trời đỏ ối mệt nhọc nhô lên từ dạ dày của biển cả. Quan lý cho dân dinh
tụ tập ở sân đình. Khăn xếp, áo lương chưng diện vào, không khí lễ lạt của làng Đồng
làm mọi người quên đi đói khát, sự mệt nhọc vì lo âu. Đám trai tráng nhận được hiệu
lệnh phất cờ liền khiêng thần trống đồng đi tới. Ngồi trên kiệu là Cả Mâm hoá trang
mặt mày tròn như chiếc trống. Đầu đội chiếc mão có hình tia mặt trời” [42; 517]. Cả 74
đoạn văn là không khí trang trọng, tôn nghiêm, thiêng liêng của lễ tế thần trống đồng,
mọi người chuẩn bị cho buổi lễ một cách chu đáo, cẩn thận, chặt chẽ. Tất cả đều
nghiêng mình kính cẩn trước thần trống, qùy sụp lạy lục. Ai cũng tràn đày hi vọng về
việc sẽ đúc được một chiếc trống đồng qúy giá để cứu làng Đồng khỏi cái đói khốn
khổ. Nhà văn như hòa mình vào buổi lễ, vào mỗi con người để gọi ra cái thần thái của
sự việc.
Cũng thể hiện sự quan trọng nghiêm túc của sự việc, giọng điệu nghiêm cẩn
được sử dụng trong đoạn bàn bạc của ông Thầu (Họ hàng nông dân) với những các vị
đứng đầu dòng họ Công về việc xây mộ Tổ. Đó là những đoạn đối thoại hết sức nhịp
nhàng, các nhân vật sử dụng ngôn ngữ và thi lễ với nhau đúng chức phận theo tôn ti
trật tự: “Chú Thầu đấy à! Vào uống nước, tôi mới pha đây.- Dạ! Ông Thầu nhìn quanh
quất gian nhà trống trải như tìm thêm quyết tâm của mình. Cháu muốn thưa với bác
chuyện xây mộ cho cụ Tổ nhà ta. - ừ! Tôi cũng tám chín mươi rồi. Xây mộ Tổ tôi đi
cho yên! - Cháu đâu dám nghĩ đến chuyện đó. Nhưng nghĩ sau này con cháu không
biết được gốc gác của dòng họ. – Chú đã bàn với các chi dưới chưa?...” [1; 11]. Hay
đoạn chú Tứ bàn với ông Thầu: “- Thế ý bác định tổ chức ra sao? – Còn sao nữa. Bổ
vào các suất đinh. Nhưng có dân chủ và mở rộng hơn cho các nhà có con gái, chồng đi
vắng cũng được tham gia”. Qua những đoạn đối thoại trên ta thấy những con người
trong dòng họ Công cư xử rất mực thước thứ tự, trên kính dưới nhường. Đối với việc
họ, qua chất giọng đều thấy toát lên sự chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, lên kế hoạch và
tổ chức chặt chẽ; mọi người đều ý thức được vai trò trách nhiệm của mình và sốt sắng
cho công việc. Nhà văn đã nhìn thấy vẻ đẹp truyền thống văn hoá trong phong tục của
người Việt Nam thông qua việc xây mộ Tổ của một dòng họ cụ thể và thể hiện nó một
cách trang trọng, kính cẩn.
3.3.2. Giọng ngợi ca
Giọng văn này thường được Từ Nguyên Tĩnh sử dụng để xây dựng những nhân
vật chính diện nhân vật người tốt như: Lung mù trong Mối tình chàng Lung mù, chú
Kiểng trong Chim xa xa lại về, Tân trong Chuyện tình bên cầu Tào, Mai trong Cô gái
Đò Lèn v.v… chú Kiểng trong Chim Xa Xa lại về là một người anh hùng từ chiến
trường nhưng chú lại “từ chối nhà cửa và cả chức vụ để lên rừng mở đất” và trở thành
ân nhân của cả vùng. Giọng ngợi ca thể hiện trong sự truyền tụng này: “- Ông ấy giàu 75
có như vua ấy chứ! - Ông ấy lo cho cả vùng này có công ăn việc làm! - ... Nếu ông
Kiểng mà có vợ con thì bọc cháu và cả vùng này chả thiệt lắm sao?”. Nhà văn không
để người đọc phải mất công đi tìm thái độ tình cảm của mình đằng sau những lớp chữ
đa nghĩa, kín đáo mà ông đã mượn giọng của những đứa trẻ nơi đây để thể hiện một
cách trực tiếp, hồn hậu sự ngợi ca, trân trọng. Lời của những đứa trẻ song lại chứa
đựng một sự đánh giá, chiêm nghiệm đầy ý thức. Những nghĩa cử cao đẹp và sự chung
tình đến mức “kì cục”, “luẩn quẩn” của chú Kiểng được đặt lên trên tầm mắt để soi
ngắm, ngưỡng vọng.
Cũng với giọng điệu ngợi ca, yêu mến nhà văn lại quan sát người cha, người mẹ
trong Người tình của cha từ những hình ảnh bạo liệt nơi chiến trường đến sự bình dị,
gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Trong chiến trường là những ngày cha chịu đựng
đau đớn về thể xác, còn mẹ là tình yêu chồng bất chấp sự nguy hiểm. Kể về những
khốc liệt nhưng thực chất nhằm tôn vinh ngợi ca phẩm chất anh hùng, sự hi sinh của
họ. Đặc biệt nhà văn còn để sự ngợi ca, thương yêu kính trọng hiện lên qua lời nói của
con gái Thu Trang: “có lẽ ít người cha trên đời này thương yêu con như cha tôi”, cha
“lo từng mớ rau quả cà và cả việc may vá”, cha phải „dạy thật sớm đón khách đi chợ,
đón người từ ga tàu về”... Trong tâm hồn cô gái mới lớn, người cha như một mẫu hình
lí tưởng cho sự hi sinh, lòng nhân ái và sự tần tảo, chịu thương chịu khó, là “người
lính” giữa đời thường. Hai cha con có cuộc sống đạm bạc, đơn sơ nhưng qua giọng
điệu trần thuật ta không thấy toát lên sự nghèo hèn, thô tục, u ám mà vẫn là vẻ đẹp của
sự yêu thương và lãng mạn mang âm hưởng ngợi ca “những hôm vắng khách cha bảo
tôi lên xe ngồi và cha con tôi rong ruổi khắp phố phường”. Nói về cuộc đời người xích
lô, nhà văn cũng không sử dụng những từ ngữ cũ rích, nhầu nát, mệt mỏi vẫn một chất
giọng chắc nịch đầy tự tin, khoẻ khoắn. Bản chất con người và sự việc đã toát lên vẻ
đẹp đáng ngợi ca, tôn thờ.
3.3.3. Giọng khách quan, lạnh lùng
Giọng khách quan, lạnh lùng được Từ Nguyên Tĩnh sử dụng có hiệu quả trong
việc xây dựng những mảnh đời éo le, bất hạnh; những số phận bi thương, ngang trái
như thằng Đất và Tuyết Tuyết (Kiếp cầm ca), chị Kén, anh Câu Lượng (Kiếp người),
Đỏ Cao (Gã nhà quê), lão Bối (Người kéo vó bè trên sông Lê)... Tác giả như muốn tỏ
ra thật khách quan, lạnh lùng trong việc tái hiện những số phận thê thảm, trớ trêu. Tác 76
giả Đất là “thằng”, gọi Tuyết Tuyết là “ả”, gọi Đỏ Cao là “gã”, gọi Bối, người lính
thương tật trở về sau chiến tranh là “lão”- lão Bối. Ngay với người chị và anh rể rất
đáng thương của mình, tác giả cũng xưng gọi “chị kén tôi”, anh “câu Lượng” v.v…Sự
“lạnh lùng” này càng có ý nghĩa khi tác giả tái hiện những số phận đáng thương: ở đây
không có sự cố ý nào cả, không có bênh vực hay chủ quan bóp méo sự thật. Chính
hiện thực đang lên tiếng. Tác giả săn đuổi đến tận cùng hiện thực u ám hay những nỗi
đau thương.
Thử khảo sát giọng lạnh lùng mà nhà văn đã sử dụng trong truyện Người kéo vó
bè trên sông Lê. Mở đầu truyện là hình ảnh lão Bối thật ghê sợ, dị biệt: “Bối chưa đến
tuổi bốn lăm, nhưng mọi người dân vùng này đều gọi là “lão Bối”. Thực ra “không ai
đoán biết được lão già hay trẻ, lão buồn hay vui. Mặt mũi bị bóc hết lớp da. Có riêng
gì mặt, đầu, tay và hầu khắp người đều bị bóc như vỏ khoai. Không lông mày, không
râu... may mà còn vài sợi tóc lơ thơ tóc vàng hoe và trắng bẩng, chẳng che nổi cái sọ
trọc lốc”. Với cách xưng gọi có cái gì như xách mé: “Bối chưa đến tuổi bốn lăm”, tác
giả đã diễn tả tâm lý khách quan của những người không quen biết Bối, hoặc có quen
biết đi nữa thì chuyện của lão cũng đã lâu lắm rồi, chả ai quan tâm, người ta không cần
biết nguyên nhân của gương mặt nham nhở đến quái dị kia, người ta chỉ thấy sợ. Lão
sống một mình, lâu dần khiến người ta càng thấy xa lạ. Nhất là với tụi trẻ, chẳng ai nói
cho chúng biết. Lão Bối trở thành một “dị nhân” từ lúc nào. Đấy là cách tác giả kể về
người anh hùng đi qua chiến tranh. Bom na pan đã biến một thanh niên đẹp trai, khỏe
mạnh thành một bộ mặt gớm ghsiếc. “Lão nhận ra khách của vợ đến chơi, giật mình
nhìn thấy bộ mặt của lão, vội chào ra về..việc đi lại lão cũng chọ phần đem. Lão tránh
gặp người, người quen thì cười cợt, kẻ lạ gặp lão rú lên bỏ chạy, họ sợ lão hơn sợ ma”.
Đứa con không may ốm chết, người vợ vì buồn khổ cũng sinh bệnh, “người anh độc
nhất của lão cũng hi sinh ở chiến trường xa”, lão thành kẻ cô độc trên cõi đời. Với
giọng văn lạnh lùng, Từ Nguyên Tĩnh đã tái hiện một cuộc đời, một số phận tàn nhẫn
đến nghiệt ngã. Phải chăng với giọng điệu này cách tác giả muốn rung lên hồi chuông
cảnh báo về thái độ vô ơn, sự lạnh lùng, vô cảm của những thế hệ sau đối với thế hệ
cha anh, đối với những cống hiến hi sinh của những người đã giành tuổi xuân và
xương máu cho đọc lập, tự do của tổ quốc.
77
Giọng khách quan, lạnh lùng với Từ Nguyên Tĩnh cũng là phép ứng xử cần thiết
trong những trường hợp cần sự lên tiếng của khách quan.
3.3.4. Giọng cảm thông, chia sẻ
Mặc dù vậy, không phải lúc nào tác giả cũng tỏ ra khách quan lạnh lùng. Nhiều
khi, trước những mảnh đời bất hạnh, trước những bi thương, ngang trái, tác giả không
dấu nổi thái độ cảm thông, chia sẻ với nhân vật của mình.
Trong truyện Mối tình chàng Lung mù, nhà văn luôn dành cho anh sự ưu ái
bằng một thứ ngôn ngữ yêu thương chân thành. Cái cách mà tác giả kể về những tâm
sự của Lung mù cho thấy tác giả yêu mến, chia se, cảm thông với nhân vật của mình
như thế nào: “cái đời chán bỏ mẹ đi. Người ta có mắt đi đánh giặc, có mắt, làm cái
quái gì cũng được (...) Vị trí nào cho mình đi đánh giặc, có vị trí nào cho người mù hả
ông?”[41; 500]. Tác giả để cho các chiến sĩ luôn yêu quý Lung, cái miếu của anh trở
thành “Sào huyệt Lung mù”, là nơi “đi lại, vãn chuyện” của bộ đội, thanh niên xung
phong và dân làng, ai đi qua dù sớm hay muộn luôn “chõ vào mấy câu” để hỏi thăm
anh mà không bao giờ tỏ ra miệt thị, phân biệt. Các cô thanh niên xung phong, các cô
dân quân sau khi tắm giặt xong thường vào miếu yêu cầu Lung đệm đàn để hát, đặc
biệt họ luôn dành cho anh một giọng điệu dịu dàng, ân cần như một người mẹ nựng
đứa con bị thiệt thòi: “Anh Lung tắt đèn rồi à, còn thức không anh? (...) có nhận ra em
không? (...) còn ai nữa nào? (...) Ôi anh Lung giỏi quá!”[41; 504]. Lung là người bạn,
là phút giây thanh thản, yêu đời của mọi người sau những trận chiến căng thẳng.
3.3.5. Giọng hài hước, châm biếm
Hài hước là sự “phê phán nhẹ nhàng chủ yếu gây cười, mua vui trên cơ sở vạch
ra sự mất hài hoà cân đối giữa nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, đặc biệt
là lí tưởng và thực tế (...) giúp người ta nhận ra sự trớ trêu của tình huống, mỉm cười
mà phân biệt đúng sai”(Từ điển thuật ngữ văn học). Từ Nguyên Tĩnh đã sử dụng giọng
điệu này trong việc phê phán những quan niệm, tư tưởng đáng cười của dòng họ Công
trong truyện ngắn Họ hàng nông dân.
Hiện thực mà nhà văn hài hước, phê phán đó là tư tưởng háo danh của dòng họ
Công. Đây là tư tưởng thâm căn cố đế ở nông thôn, lẽ dĩ nhiên công danh sự nghiệp
trong một đời người ai mà chẳng khát khao vươn tới, song đối với dòng họ Công nó
lại vượt ngưỡng trở nên khôi hài. Đó là chi tiết việc con trai chú Thầu suýt được 78
phong anh hùng do “đánh nhau rất máu me ở Hàm Rồng”, cái tin ấy làm náo nức cả
dòng họ bởi đây là cơ hội để mở mày mở mặt với làng xóm, để xoá đi cái lí lịch “bốn
đời là nông dân” và thất học. Nhưng sự việc chưa được loan tin, mới có anh cán bộ về
thẩm tra chú đã “huyếnh hoáng” ngả con lợn ra liên hoan ầm ĩ, đến khi trật lất chú và
cả họ “tiếc ngẩn ngơ hàng năm trời”. Ngôn ngữ và cách tác giả kể về chuyện sắp được
phong anh hùng của chủ Thầu khá hài hước, nào là “đánh nhau rất máu me”, nào là
“dòng họ náo nức”, nào là “liên hoan ầm ĩ” v.v…Rồi đến chuyện những cậu sinh viên
đi điền dã về nhà chú Thầu không biết moi ra ở đâu bao “ý nghĩa thiêng liêng” cho
chữ lót “Công” của dòng họ khiến chú Thầu cứ sướng rơn liền vật con cày tơ ra chiêu
đãi lại còn đưa thêm cả cái bình cắm hương ra Hà Nội chụp ảnh. Hay việc chú luôn
khát khao con cái có “danh giá”, phải có bằng Đại học “xịn” hẳn hoi. Nhưng khốn nỗi
con chú chỉ qua được mức “hàm thụ” nên khi thằng con nuôi họ cứ bóng gió “- Xì!
Đại học giả cày. Đại học Bia- Thịt chó” là chú tức lộn ruột. Những chi tiết hài hước,
với một thứ ngôn ngữ hài hước đã tạo nên giọng điều hài hước cho những chuyện giở
khóc giở cười.
3.3.6. Giọng giễu nhại
Giễu nhại là nhại lại một cách giễu cợt, là bắt chước để cười. Đây là giọng điệu
riêng, độc đáo của thể loại tiểu thuyết đương đại đánh dấu sự đổi mới trong giọng điệu
trần thuật. Giọng điệu này được dùng để giễu cợt, châm biếm những cái nghịch lí,
những mặt khuất lấp của hiện thực mà trước đây người ta không dám nhìn thẳng, nói
thật. Trong truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh giọng giễu nhại được sử dụng đắc địa trong
việc tái hiện lại một thời qúa khứ với những hiện thực bi hài. Bút pháp này được tìm
thấy trong một số truyện như: Kiếp cầm ca, Gã nhà quê, Kiếp người...
Kiếp cầm ca mượn câu chuyện về cuộc tình của thằng Đất và Tuyết Tuyết để
giễu nhại, cười cợt bọn quan lại ăn trên ngồi trốc, không hiểu gì về nghệ thuật nhưng
dám lên án, phỉ báng, miệt thị gọi họ là “xướng ca vô loài”. Cái cười nằm ngay trong
những mâu thuẫn, phi lí, nghịch dị: “Người ta ghét cái đĩ lả lơi bát trai của ả, người ta
lại mê giọng hát trời ban của ả. (...) đĩ mà thằng nào cũng rúc đầu vào được, đó là thứ
men tình mà tạo hóa đỏng đảnh bắt người đời phải trả cái nghiệp chướng lúc lăng
loàn”[7; 77]. Các cụ say đắm tiếng hát tiếng đàn của họ nhưng cũng không quên sỉ vả,
đằng sau những giây phút lả lơi buông tuồng là một cái nhìn đầy miệt thị. Tuy nhiên 79
khinh bỉ mà các cụ vẫn không dứt ra được khỏi ma lực ấy, con người có đạo mạo, mực
thước với những lí luận cao siêu vẫn phải có nhu cầu tưởng như đáng khinh nhưng lại
là tất yếu của cuộc sống ấy. Với thủ pháp lật ngược vấn đề, Từ Nguyên Tĩnh đã tạo
nên tình huống bất ngờ đầy bi hài, cái hài ẩn sâu, nguỵ trang bởi cái bi.
Ở truyện ngắn Gã nhà quê, nhà văn lại chọn bối cảnh của cuộc cải cách ruộng
đất trong những năm 50 của đất nước với những hiện tượng phi lí, nghịch dị để giễu
nhại. Thời kì này người ta chủ trương phá hết, đập hết những tàn dư phong kiến và tìm
ra được người xứng đáng để đứng đầu chính quyền làng xã. Tuy nhiên cái nghịch lí ở
chỗ người ta chủ trương “thay đổi ngôi vị theo nguyên tắc lật ngược” tức là “những
người hôm qua là ông chủ, bà chủ thì hôm nay là những kẻ tội đồ và ngược lại những
thân phận số kiếp từng bị coi là bèo bọt, thấp hèn, khốn khổ nhát thì giờ đây vừa là
quan toà, vừa là nhân chứng, xét xử tội phạm” (Cõi người, hay cái bi -hài của cõi
nhân sinh [21; 112]). Theo nguyên tắc trên, người có thể đứng ra lãnh đạo làng xã ở
Gã nhà quê phải là “những người khổ nhất, tố nhiều” như lão Cao. Lão thuộc thành
phần cùng đinh, khố rách áo ôm và là người “bị ăn đòn roi của địa chủ nhiều nhất”. Sự
giễu nhại châm biếm hướng đến tình huống “có vấn đề”, nhà văn đã đặt song song
những mặt đối nghịch để giễu nhại: vị trí quan trọng (chủ tịch xã) – người tầm thường
(khổ nhất, nghèo nhất, thậm chí mù chữ, thất học). Người ta không quan tâm đến trình
độ văn hóa, năng lực quản lí, điều hành của “vị chủ tịch” mà cắt đặt ngôi vị một cách
cảm tính.
Sự giễu cợt, chớt nhả tiếp tục thể hiện qua những chi tiết “thế là một đồn lên
mười, mười khuếch lên trăm rằng lão Cao sắp làm chủ tịch đến nơi rồi. Kẻ nịnh nọt
đến cầu lợi, kẻ có dính dáng tội ác muốn được tha thứ đều tìm đến gian lều của lão. Từ
lúc mờ sáng đến khuya khoắt, không lúc nào lão được yên. Không giường chiếu họ
ngồi bệt xuống cỏ rả mà nói chuyện, mà trình bày” [2; 27]. Từ một kẻ cùng đinh lão
Cao trở thành “yếu nhân” của làng xã, mọi việc đều đến “xin ý kiến cụ chủ tịch”, còn
“cụ” cũng sướng cái bụng khi tưởng tượng đến lúc được giở sổ sách “quát vào mặt
mấy thằng mất dạy”, rửa hờn cho những ngày khốn khổ. Đến đây người đọc có thể
nhận ra à công việc làm chủ tịch là như vậy. Lão Cao mà trở thành chủ tịch xã thật sự
thì có lẽ sẽ kéo theo những trái khoáy, ngược đời khác nữa. Nhưng rồi vị chủ tịch
tương lai lại bị hạ bệ bởi lão có “liên hệ với địa chủ” đó là thúng trứng vịt ở nhà chánh 80
Thành. Vậy là lão Cao đã không có lí lịch trong sáng và uy tín bị giảm rõ rệt, người ta
hạ lão cũng nhanh chóng, bất ngờ như lúc đưa lão lên khiến cho “cả xã ngạc nhiên”.
Có lẽ nhiều kẻ đã từng đến xu nịnh, lạy lục “cụ” vừa hả hê vừa nuối tiếc lắm. Nhà văn
cứ kể chậm rãi, từ tốn,huyện cứ như đùa như thật nhưng đầy bất ngờ khiến cho tiếng
cười trở nên sâu cay thâm thuý.
Qua giọng điệu giễu nhại châm biếm, sự thật lịch sử được nhìn nhận lại đầy
những cái vô lí, nghịch lí, những góc khuất mà trước đây người ta không dám đề cập
tới. Những chuyện bi hài ấy cứ được Từ Nguyên Tĩnh điềm nhiên chậm rãi kể lại mà
không dấu diếm, e ngại, điều đó cũng thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của nhà văn. Hiện
thực này được nhà văn giễu nhại độc đáo, táo bạo hơn trong tiểu thuyết Cõi người.
Tuy nhiễn giễu nhại không phải chỉ để phơi bày những mặt khuất lấp, méo mó của quá
khứ mà là để chia tay, tống tiễn nó đồng thời cũng là “một cách nhắc nhở, cảnh báo
đối với hiện tại và tương lai” (Hỏa Diệu Thúy)
Như vậy, qua sự nghiên cứu bước đầu, có thể thấy nghệ thuật trần thuật truyện
ngắn Từ Nguyên Tĩnh nổi lên một số đặc điểm độc đáo: linh hoạt trong điểm nhìn trần
thuật, “bàng bạc màu sắc huyền thoại cổ tích” (Bùi Việt Thắng) và độc đáo hơn cả là
sự đa dạng, phức hợp trong giọng điệu trần thuật. Với đặc điểm ấy truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh cho thấy sự phong phú của vốn sống, sự phức tạp của hiện thực và sự
nhạy cảm của tâm hồn nhà văn. Chính những yếu tố đó góp phần làm cho cây bút
truyện ngắn này ngày càng có nhiều thành công và sự yêu mến của độc giả.
81
PHẦN KẾT LUẬN
Từ Nguyên Tĩnh là nhà văn đang vào độ chín, ở một mức độ nào đó trong phạm
vi thể loại truyện ngắn, có thể nói ông là một cây bút đã tạo được dấu ấn riêng, cá tính
riêng:
Dấu ấn của ngòi bút ấy trước hết thể hiện ở chỗ: ông đã tái hiện được một
không gian xứ Thanh qua lăng kính của riêng mình, một xứ Thanh với những bình
diện phong phú, đa dạng của cuộc sống: một xứ Thanh của cuộc sống đời thường với
những cung bậc bi – hài, tốt xấu đan xen và một xứ Thanh anh hùng trong cuộc chiến
tranh giữ nước vĩ đại. Trong cách tiếp cận hiện thực, có thể thấy đây là ngòi bút năng
động và có chiều sâu: dám nghĩ và dám viết, Từ Nguyên Tĩnh đã biết khai thác và làm
mới những hiện thực đã cũ.
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh cũng đã để lại dấu ấn về một thế giới nhân nhân
vật đa dạng và phức tạp, thể hiện cái nhìn nhiều chiều của nhà văn về con người và
cuộc sống. Qua cách thể hiện của Từ Nguyên Tĩnh, người đọc có cảm giác: con người
trong thế giới này quả là những bí ẩn của cuộc sống. Mọi sự đơn giản, một chiều,
những cái khung công thức quả rất khó để “chụp” cho một số phận, một tính cách, một
cá tính. Với cách thể hiện ấy, Từ Nguyên Tĩnh thuộc về những cây bút đang nỗ lực
trong việc đổi mới cách tiếp cận và phản ánh hiện thực.
Gắn liền với nhận thức, tư duy ấy là bút pháp trần thuật theo hướng hiện đại từ
điểm nhìn đến ngôn ngữ, giọng điệu. Điểm nhìn trần thuật linh hoạt cùng với giọng
điệu đa thanh cũng đã góp phần tạo ấn tượng về một lối viết có cá tính.
Mặc dù chưa có những đột phá trong nghệ thuật thể loại, chưa có những tác
phẩm thật xuất sắc, song có thể thấy sự nỗ lực của một cây bút trong hành trình cống
hiến và sáng tạo. Từ Nguyên Tĩnh là một trong những cây bút có đóng góp đáng kể
cho mảng văn học xứ Thanh nói riêng, văn học Việt Nam nói chung ở phương diện thể
loại.
82
DANH MỤC TƢ LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1980), “Mấy vấn đề thể loại sử thi của văn học hiện đại”, Văn
học, (1), tr.82-92.
2. Lại Nguyên Ân (1987), “Thử tìm hiểu loại hình các mô típ chủ đề trong văn học
Việt Nam hiện đại”, Văn học, (6), tr. 3-10.
3. Đỗ Chu (1975), “Một nền văn học gắn liền với vận mệnh dân tộc”, Báo Văn
nghệ, ngày 7-10.
4. Hồng Chương (1965), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, Nxb Văn
học Hà Nội.
5. Văn Đắc (1993), “Mối tình chàng Lung mù- tập truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh -
NXB HNV 1992”- Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam (25 -1745) thứ 7 ngày 19/6/
.
6. Nguyễn Văn Đấu (2000), Các loại hình cơ bản của truyện ngắn hiện đại, Luận án
tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học sư phạm Hà Nội.
7. Trần Thanh Địch (1988), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
8. Nguyễn Minh Khiêm (2007), “Từ Nguyên Tĩnh qua truyện ngắn Người tình của
cha”, Báo Văn hóa Thông tin số (31-32) ngày 21-6.
9. Mạnh Lê (1999), “Mấy đặc sắc truyện ngắn Từ NguyênTĩnh”, Tạp chí Xứ Thanh
(45).
10. Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam hiện thực xã hội chủ nghĩa, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
11. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại: Những chân dung tiêu biểu, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Lưu (1993), “Nhìn cuộc đời nhân ái”, Báo Nhân Dân, ngày 1-8.
14. Phương Lựu chủ biên (1997) , Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
15. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn-
NXB Giáo dục.
83
16. Lã Nguyên (1988), “Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình”, Báo
Văn nghệ, (45).
17. Đỗ Văn Phác (2007), “Bước đầu tìm hiểu truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh (Nhân
đọc Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh– NXB Công an nhân dân, 2006)”, Tạp chí Xứ
Thanh.
18. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn
học- NXB Giáo dục, 2009.
19.Hứa Linh Phượng K44 Báo Chí- Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội “Những
câu chuyện Hàm Rồng và cái nhìn nhân ái” (Về tập truyện ngắn Mối tình chàng Lung
mù- Từ Nguyên Tĩnh NXB HNV 1992).
20. Huỳnh Sơn- Đại học Tổng hợp Huế (1995), Bản sắc truyện ngắn Từ Nguyên
Tĩnh.
21. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb
Văn học, Hà Nội.
22. Bùi Việt Thắng (1998), “Cây bút xứ Thanh” - Báo Văn Hóa (383).
23. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Bùi Việt Thắng (1993), “Mối tình chàng Lung mù- tập truyện ngắn Từ Nguyên
Tĩnh NXB HNV 1992”- Báo Văn nghệ quân đội.
25. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại- NXB Đại học quốc gia Hà Nội
26. Hỏa Diệu Thúy (2010), Từ Nguyên Tĩnh và cái bi hài trong cõi nhân sinh, NXB
Thanh Hóa, tr 114-121.
27. Hỏa Diệu Thúy (2007), “Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh- món nợ làng quê” (Đọc
Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh- NXB Công an ND, 2006), Tạp chí Diễn đàn văn nghệ
Việt Nam (148).
28. Hỏa Diệu Thúy (2004), “Về yếu tố huyền thoại kì ảo trong truyện ngắn Từ
Nguyên Tĩnh”, Tạp chí Xứ Thanh tháng 8/2004.
29. Từ Nguyên Tĩnh (1993), Tập truyện ngắn Gã nhà quê- NXB Hội văn học.
30. Từ Nguyên Tĩnh (1992), Tập truyện ngắn Mối tình chàng Lung mù- NXB Hội
nhà văn.
84
31. Từ Nguyên Tĩnh (1997), Tập truyện ngắn Mùa yêu đương- NXB Công an
nhân dân..
32. Từ Nguyên Tĩnh (2005), Tập truyện ngắn Chuyện lạ trên núi Mắt Rồng- NXB
Quân đội nhân dân.
33. Từ Nguyên Tĩnh (2006), Truyện ngắn Từ Nguyên Tĩnh – NXB Công an nhân
dân.
34. Tư Ngũ - Y Tịnh (2010), Từ Nguyên Tĩnh và cái bi hài trong cõi nhân sinh,
NXB Thanh Hoá.
35. Từ điển Tiếng Việt (2000), NXB Đà Nẵng.
85