ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

-----------------------------------------------------

ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THÙY TRANG

-----------------------------------------------------

ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ

Mã số: 60 22 01 21

Hà Nội - 2014

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo, đặc

biệt là PGS. TS Lưu Khánh Thơ, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình

thực hiện luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình cùng bạn bè,

đồng nghiệp đã luôn ở bên, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện

luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Người viết

Nguyễn Thị Thùy Trang

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu

được nêu trong luận văn là trung thực. Các kết quả nêu trong luận văn chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Trang

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3

3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 10

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 10

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 11

6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 11

7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................ 12

Chương 1. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRƯỜNG CA VÀ CON ĐƯỜNG

SÁNG TẠO CỦA LÊ THỊ MÂY ............................................................... 13

1.1. Cơ sở lý luận về thể loại trường ca ................................................. 13

1.1.1. Khái niệm trường ca .................................................................. 13

1.1.2. Một số ý kiến về thể loại trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại . 15

1.1.3. Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại 17

1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề về sự hình thành thể loại .......... 17

1.1.3.2. Sau 1945 – thời kỳ phát triển và khẳng định của trường ca . 19

1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại ...................................................... 21

1.2. Con đường sáng tạo của Lê Thị Mây ............................................. 26

1.2.1. Vài nét về tiểu sử ........................................................................ 26

1.2.2. Khái quát về tác phẩm ............................................................... 29

Tiểu kết ................................................................................................... 35

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG THẨM MỸ TRONG TRƯỜNG CA LÊ

THỊ MÂY ................................................................................................... 36

2.1. Hình ảnh người chiến sĩ................................................................... 36

2.1.1. Những người lính trực tiếp chiến đấu ....................................... 36

2.1.2. Những nữ giao liên mở đường .................................................. 39

2.1.3. Những chiến sĩ làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu ..................... 43

2.2. Hình ảnh người phụ nữ ................................................................... 45

2.2.1. Hình ảnh người mẹ ................................................................... 45

2.2.2. Khát vọng hạnh phúc ................................................................. 49

2.3. Hình ảnh đất nước ........................................................................... 53

2.3.1. Hình ảnh đất nước trong chiến tranh ....................................... 53

2.3.2. Hình ảnh đất nước trong thời bình ........................................... 56

2.4. Lý tưởng và hành trình đi tới chiến thắng ..................................... 58

Tiểu kết ................................................................................................... 62

CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY

..................................................................................................................... 63

3.1. Hình thức tổ chức văn bản .............................................................. 63

3.1.1. Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ ........................................ 63

3.1.2. Ngôn ngữ ................................................................................... 65

3.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tượng trưng, ám gợi .............................. 66

3.1.2.2. Nhiều khoảng trống, khoảng lặng trong thơ ......................... 68

3.1.2.3. Ngôn ngữ đời sống ............................................................... 72

3.1.2.4. Ngôn ngữ mang sắc thái dân gian ........................................ 73

3.1.3. Thể thơ ....................................................................................... 77

3.1.3.1. Thể thơ tự do ........................................................................ 77

3.1.3.2. Thể thơ lục bát ..................................................................... 81

3.1.3.3. Vĩ thanh ............................................................................... 83

3.2. Giọng điệu ........................................................................................ 86

3.2.1. Giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi ............................... 86

3.2.2. Giọng điệu bi thương ................................................................. 88

3.2.3. Giọng điệu trữ tình triết lý ......................................................... 90

Tiểu kết ................................................................................................... 95

PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 100

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trường ca là thể loại có khả năng thâu tóm và phản ánh những nội

dung khá hoành tráng và cảm hứng mãnh liệt, giàu chất triết lý, trữ tình.

Trường ca Việt Nam đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trong kháng chiến,

với những cây bút nổi tiếng: Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm,

Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Thị

Mây…

Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những kí ức anh dũng hào hùng của dân

tộc vẫn vẹn nguyên trong trái tim và trang viết của các nhà văn, nhà thơ –

chiến sĩ. Các tác phẩm ra đời góp phần vào dòng chảy liên tục trong sự phát

triển của trường ca Việt Nam bằng sự nhạy cảm, những chiêm nghiệm suy tư

của những tác giả đã đi qua cuộc chiến tranh máu lửa của dân tộc.

Dưới ngòi bút của các tác giả, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ

hiện lên chân thực và sinh động. Với đặc trưng của thể loại, sự đa dạng của

cấu trúc và dung lượng đồ sộ, trường ca Việt Nam hiện đại đã phát huy sức

mạnh trong việc lưu giữ những hình ảnh của cuộc kháng chiến.

Nếu như trong chiến tranh, văn học Việt Nam nói chung, thơ ca nói

riêng thường hiện lên với cái nhìn lãng mạn hóa, lý tưởng hóa; vấn đề phản

ánh trong thơ phải là những vấn đề lớn lao, chứa đựng vận mệnh cả dân tộc;

“cái tôi” phải nhường chỗ cho “cái ta” chung…Thì từ sau 1975 đã có những

đổi thay rõ rệt cùng với sự đổi thay của đời sống xã hội. Sự thay đổi được thể

hiện trên mọi bình diện từ quan điểm sáng tác, chủ đề, đề tài, tư tưởng… của

nhà văn. Trong thời đại mở cửa, con người có quyền tự do sáng tác, tự do bộc

lộ cái tôi cá tính riêng. Trong thơ xuất hiện những mạch ngầm cảm xúc suy tư

của tác giả.

1

1.2. Lê Thị Mây từ lâu là một gương mặt được nhiều nhà nghiên cứu

yêu mến và quan tâm. Đã có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về Lê

Thị Mây với vai trò là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu thế kỷ XX, với

một loạt những sáng tác ghi dấu ấn trong lòng người đọc, trong một giai đoạn

văn học hiện đại sôi động và phong phú. Lê Thị Mây nổi bật với giọng thơ

riêng độc đáo. Ở Lê Thị Mây, người đọc bắt gặp một giọng thơ đằm thắm dịu

dàng, nhiều trăn trở lo âu mà khát khao mãnh liệt. Đã có nhiều công trình, bài

viết về thơ Lê Thị Mây tuy nhiên còn nhiều phương diện trong thơ vẫn chưa

được nói đến kĩ lưỡng.

Đặc biệt, nhà thơ là gương mặt nữ đầu tiên thuộc thế hệ chống Mỹ viết

trường ca và đạt được những thành công đáng ghi nhận. Ba trường ca được

xuất bản từ năm 2003 đến nay: Lửa mùa hong áo (Nxb Quân đội 2003), Tự

khúc ánh sáng (Nxb Quân đội 2006), Người sau chân sóng (Nxb Quân đội

2013), tuy không nhiều so với số lượng thơ và truyện ngắn tác giả sáng tác

nhưng với những giá trị đạt được cũng đủ ghi dấu ấn trong lòng người đọc

bao thế hệ. Đặc biệt, trường ca Người sau chân sóng của Lê Thị Mây đoạt

giải nhất cuộc thi “Đây biển Việt Nam” do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức

năm 2011 – 2012.

1.3. Nghiên cứu đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây giúp người đọc

có cái nhìn toàn diện và hệ thống hơn về cuộc đời và phong cách sáng tác của

một tác giả. Đề tài vận dụng những phương pháp nghiên cứu, khảo sát hiệu

quả về đặc điểm trường ca, mong muốn đem đến một đóng góp về đặc điểm

trường ca độc đáo của Lê Thị Mây. Trường ca Lê Thị Mây có dung lượng

lớn, kết cấu chặt chẽ, giàu chất trữ tình và tính sử thi. Càng về sau chất triết lý

chiêm nghiệm càng tăng.

Thơ Lê Thị Mây tiêu biểu cho phong cách đặc trưng của tác giả thơ nữ.

Lê Thị Mây đi sâu vào những ẩn ức trong chiều sâu tâm hồn con người, khắc

2

họa những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, người phụ nữ Việt

Nam trong thời chiến và thời bình.

1.4. Hiện nay, trường ca được chú ý và quan tâm trong công việc

nghiên cứu và giảng dạy ở các cấp học. Đặc biệt nhiều tập trường ca được đưa

vào nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các trường đại học. Tìm hiểu, nghiên

cứu đặc điểm trường ca Lê Thị Mây góp phần làm rõ hơn thế giới nghệ thuật

trường ca Lê Thị Mây nói riêng, thơ Lê Thị Mây nói chung, phần nào giúp ích

cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trường ca trong các trường

học hiện nay.

Trên cơ sở tiếp thu những công trình của các nhà nghiên cứu từ trước

và xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm trường ca Lê

Thị Mây. Từ đó có cái nhìn toàn vẹn hơn về trường ca của một nhà thơ nữ tiêu

biểu thế kỷ XX.

2. Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây trong toàn bộ sáng tác của

tác giả giúp người đọc có được cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về cuộc đời,

sự nghiệp và những ẩn ức trong thơ. Đã có nhiều bài viết, công trình bàn về

đặc điểm trường ca của một tác giả văn học, giai đoạn văn học: Trường ca

Nguyễn Trọng tạo (Nguyễn Thế Lượng), Mấy suy nghĩ về thể trường ca (Lại

Nguyên Ân), Tình yêu đôi lứa trong trường ca về thời chống Mỹ (Nguyễn Thị

Liên Tâm), Trường ca Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại (Nguyễn Thị

Hậu), Trường ca Việt, một cách nhìn (Yến Nhi), Về các khuynh hướng phát

triển trường ca Việt (Hà Quảng), Đặc điểm giọng điệu trong trường ca sử thi

hiện đại (Diêu Lan Phương)...

2.1. Nghiên cứu về thơ Lê Thị Mây

Thơ chiếm đa số trong sáng tác của Lê Thị Mây. Sự tâm huyết say mê,

triết lý suy tư về con người, cuộc đời cũng được tác giả bày tỏ nhiều trong

3

thơ. Trong Lê Thị Mây - tìm tòi và thể hiện, Bích Thu đã nhận định: “Với năm

tập thơ in trong khoảng mười năm trở lại đây: Những mùa trăng mong chờ (in

chung: 1980), Dịu dàng (1987), Tuổi mười ba (1990), đặc biệt với Tặng riêng

một người (1990), người đọc đã cảm nhận được những rung động mới mẻ về

sự bừng tỉnh con người cá nhân, khẳng định cá tính và niềm khát khao tình

yêu của một tâm hồn đầy nữ tính, trong cuộc hành trình đến với thơ và đến

với bản thân mình của Lê Thị Mây” [43, tr. 484] và cũng chỉ rõ: “Đọc thơ Lê

Thị Mây, độc giả nhận thấy những suy nghĩ về tâm trạng, về số phận, về nhân

tình thế thái là một ý thức khá rõ tạo nên chiều sâu và sự phức hợp của các

cảm xúc, với mô típ nhân vật trữ tình đi tìm bản thân, trải qua những bất hạnh,

những đớn đau tinh thần, những nghiền ngẫm về tình yêu, hạnh phúc” [43, tr.

487]. Cuộc đời nhiều mất mát, khổ đau, nhiều nỗi buồn tạo nên một hồn thơ

Lê Thị Mây đằm thắm dịu dàng đầy nữ tính, một: “Lê Thị Mây không chỉ

trầm ngâm với “cái tôi” của mình mà còn quan tâm, đồng cảm với những thân

phận người phụ nữ thời hậu chiến, những éo le, những dở dang, những đợi chờ, cay

đắng: “Giấc mơ của người thiếu phụ chờ chồng, nửa vầng trăng” [43, tr. 491].

Vũ Nho trong bài viết Hờn nửa vầng trăng (Về tập Du ca cây lựu tình)

đã nhận xét về thơ Lê Thị Mây rằng: “Trước hết và trên hết, chị đã nhặt lên

những gì quanh chị, gắn liền với chị. Những gì đã trải nghiệm, đã hy vọng, đã

đớn đau, đã sống với tư cách một công dân, một tình nhân, một người đàn bà,

một thi sĩ. Có đôi khi cái hiện thực bộn bề được chị chưng cất: “Ta chưng cất

nỗi niềm cay đắng” (…) Vẫn là những câu chuyện muôn đời không cũ:

Những khát khao, hi vọng, những đợi chờ, lỡ dở, mất mát, những cay đắng,

hờn lẫy… đa dạng và đa diện như cuộc sống nhưng được nói với một cách

thức mới” [52, tr. 273].Và tác giả cũng rất thành thực khi ca ngợi Lê Thị Mây

trong lời bình cho bài thơ Gió quả phụ: “Phải có một trái tim nhạy cảm, có

tấm lòng đầy vị tha, có sự cảm thông sâu sắc của người đàn bà mới thấy hết

4

những mất mát hi sinh của người phụ nữ trong chiến tranh và nhất là những

mất mát hy sinh khi chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Gió quả phụ là một lời

hiệu triệu có ý nghĩa toàn cầu nhân danh những khổ đau, mất mát của người

phụ nữ: hãy vĩnh viễn ngăn chặn và chấm dứt chiến tranh. Để mãi mãi gió

không là quả phụ. Gió không là trầm ca. Để mãi mãi Gió chỉ là người đàn bà

hát những khúc ca ngọt ngào hạnh phúc” [52, tr. 289].

Trong bài Lê Thị Mây và vết sẹo thơ, tác giả Ngô Minh đã trải dài

những kỉ niệm, những nỗi buồn của Lê Thị Mây ra trước mắt người đọc. Tác

giả viết: “Nói đến Lê Thị Mây là nói đến nỗi buồn. Nỗi buồn đau do chiến

tranh và số phận ấy đã thành sẹo trong thơ chị, nó làm nên hình hài và ruột

gan thơ chị. Ngồi buồn cầm hết mông lung/ Vết thương năm cũ thủy chung dễ

gì. Vết thương ấy là vết thương chiến tranh và đau hơn là những vết thương

lòng đã nhiều lần mưng mủ” [50]. Tác giả cũng cho rằng: “Chị đã lao động

cật lực, đã chịu đựng biết bao mất mát đau thương của số phận, kể cả sự cô

đơn và quyền được làm mẹ, để ghi tên mình vào danh sách những cây bút nữ

xuất sắc nhất của làng thơ Việt thế kỉ XX” [50]. “Cô thanh niên xung phong

nhiều năm trên Trường Sơn ấy đến nay đã xuất bản 20 tác phẩm thơ văn;

được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam về tập thơ Tặng riêng một người

(1990) và tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam cho truyện dài Huyết ngọc

(1998). Chị có bài thơ nổi tiếng “Những mùa trăng mong chờ” được chọn vào

100 bài thơ hay nhất thế kỷ” [50]. Đó là những ghi nhận xứng đáng cho sự hi

sinh và cống hiến hết mình cho nghệ thuật của Lê Thị Mây.

Trong bài viết Nhà thơ Lê Thị Mây – nỗi buồn như con cọp rình mồi

tháng chạp, tác giả Như Bình cũng có chung những nhận định như Ngô Minh

về nỗi buồn, những mất mát lớn lao trong cuộc đời Lê Thị Mây để cống hiến

cho đời những vần thơ hay, “Chiếm lĩnh bạn đọc một thời gian dài bởi những

bài thơ xuất thần, tài hoa và sâu sắc khi nói về tình yêu, về thân phận của

5

những người đàn bà đi qua chiến tranh” [6]. “Bao nhiêu sự duyên dáng, xinh

đẹp và gợi cảm chị chắt chiu, dành dụm và trút hết vào thơ, dành cho thơ. Bên

ngoài chị là một người đàn bà giản đơn, không quan tâm nhan sắc như muôn

ngàn người đàn bà khác. Chị dành tất cả cho con đường thơ, và khi đó, con

cọp trong chị dường như đang bước ra từ phiên bản chị để lao động cật lực, để

đạt bằng được cái đích chị đã vạch sẵn. Phải là một tâm hồn vô cùng mẫn cảm

trước cái đẹp, hạnh phúc, khổ đau” [6].

Trong bài Tình yêu dài suốt cuộc đời, tác giả Đinh Quang Tốn đã viết:

“Ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh mà thơ Lê Thị Mây không nói trực tiếp

về chiến tranh như đa số các nhà thơ thời ấy. Thơ chị nói về tình yêu và thân

phận con người (…). Ở thơ chị, cuộc sống hiện thực cứ lặn đi, chỉ còn lại

cách nói riêng của chị (…). Đọc thơ Lê Thị Mây hôm nay, dẫu chị chẳng cố

tình, tôi vẫn thấy chị đang đi ở giữa hai quan niệm thơ truyền thống và thơ

“hiện đại”, tuy không phải bài nào cũng đạt được như vậy. Đó là đổi mới,

hiện đại một cách lặng lẽ bình dị, chứ không bí hiểm kỳ quặc. Lê Thị Mây là

một trong những nhà thơ đi đến hiện đại một cách tự nhiên, không cần tuyên

ngôn, la hét” [69]. Lời tác giả trích dẫn tâm sự của Lê Thị Mây giúp người

đọc có cái nhìn rõ nét hơn về những ẩn ức chị gửi vào trong thơ: “Tôi nghĩ,

thơ là nỗi buồn thầm kín của tôi đã cất tiếng khóc khi còn lại một mình”

(“Nhà văn Việt Nam hiện đại” – Hội Nhà văn Việt Nam – 2007) [69].

Tác giả Hà Quang Thiều trong bài viết về bài thơ Trăng cây rơm của

Lê Thị Mây đã cảm nhận được tâm trạng của người con gái: “Khao khát tình

yêu như cây rơm đợi lửa… Nhưng vẫn hồn hậu, bâng khuâng và huyền hoặc

như một vầng trăng xa vời” [73]. Tác giả viết: “ Bài thơ viết về tâm trạng của

một người con gái, khắc khoải chờ mong tình yêu đến với mình. Một câu

chuyện rất bình thường mà ở đâu cũng có những cô gái đợi chờ tình yêu như

thế… Nhưng ở đây, tình cảm ấy được gửi gắm vào hình thái nửa thực, nửa

6

hư, làm người đọc phải liên tưởng đến nhiều chiều của một diễn biến tâm lý,

đó là trăng cây rơm… Trăng là hình tượng của những giấc mộng, của những

khát khao lãng mạn không cùng… Nhưng cây rơm ở đây lại quá đỗi thực”

[73]. Tình yêu, niềm tin trong người con gái ấy luôn song song tồn tại với sự

dằn vặt, đợi chờ. Đó cũng là một trong những nguồn thi hứng để Lê Thị Mây

sáng tác: “Vẫn tràn đầy sức sống, tràn đầy khát khao… Song vẫn chỉ là sự đợi

chờ. Một sự đợi chờ dằn vặt nhưng lại thanh thản, bình tĩnh… Và một niềm

tin, niềm hi vọng vẫn còn nung nấu, ấp ủ… trong trái tim người con gái đợi

chờ” [73].

Trong bài bình Lỡ hẹn “Đám cỏ xanh” Võ Văn Luyến đã có những

nhận xét và thấu hiểu với tâm trạng của người con gái trong bài thơ: giận hờn,

lo sợ, cô đơn khi người yêu lỡ hẹn: “Rõ là nỗi buồn thu lại, cất giấu ở góc

khuất trái tim. Thành thử tình yêu bị đẩy lên vời vợi “chỉ sao trời yêu nhau”.

Đằng sau câu thơ rưng rưng nỗi tủi phận rất đáng yêu, rất nữ tính của người bị

đơn sai lỗi hẹn” [42]. Tác giả cũng cho rằng: “Hình như ngóng – mong –

trông – đợi ở người phụ nữ mới da diết, và nếu được giãi bày thì ngoài họ ra ít

có ai nói được hay hơn, thấm đẫm hơn, xúc động hơn” [42].

2.2. Nghiên cứu về trường ca Lê Thị Mây

Trường ca tuy chiếm số lượng không nhiều trong sáng tác của Lê Thị

Mây nhưng với lối viết độc đáo, sâu sắc, chân thật và ý nghĩa, ba tập trường

ca có sức khái quát và khắc họa lớn về những giai đoạn lịch sử của dân tộc,

bằng chính chiêm nghiệm cuộc đời tác giả đã trải qua. Trường ca góp phần

hoàn thành sứ mệnh trong việc chuyên chở tâm huyết, tuyên ngôn , những ẩn

ức triết lý của nhà thơ tới người đọc.

Hoàng Kim Dung trong Một ngày xưa yêu cho đến bây giờ đã nhận

định về trường ca Lửa mùa hong áo (2003) của Lê Thị Mây: "Tính đến thời

điểm hiện nay, có lẽ chị là nhà thơ nữ duy nhất viết trường ca về đề tài chiến

7

tranh cách mạng" [13]. Tác giả bài viết có nhận xét khá chính xác: "Cảm

hứng chủ đạo về những người phụ nữ Việt Nam bình dị yêu thương nhân hậu

mà dũng cảm anh hùng đã được nhà thơ tâm niệm, ấp ủ, đã sáng lên ngọn lửa

sáng tạo từ trong thẳm sâu của tâm hồn thi sĩ. Từ những ý tưởng đó Lê Thị

Mây đã viết nên trường ca Lửa mùa hong áo với mười bảy chương, 143 trang

sách. Trong Lửa mùa hong áo nhà thơ đã có một nội lực thi ca dồi dào và tài

hoa. Cảm hứng chủ đạo định hướng cho lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng yêu quê

hương đất nước da diết. Như một cuốn phim trôi dòng về quá khứ với các sự

kiện bi thương và hào hùng" [13]. Chính: "Trái tim thi sĩ rung động sâu xa đã

đưa người đọc về những bến bờ của cội nguồn tình cảm. Những khát vọng về

tình yêu, về hạnh phúc của tuổi trẻ. Nó đẹp, thơ mộng nhưng sao giản dị và

thương mến lạ lùng giữa cuộc chiến tranh ác liệt" [13].

Cùng nói về trường ca Lửa mùa hong áo (2003) của Lê Thị Mây, tác

giả Nguyễn Thị Hậu trong Trường ca Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể

loại nhận định: "Trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây khi xuất hiện

đã làm ngỡ ngàng nhiều người. Qua trường ca này chị đã chứng tỏ phụ nữ

cũng mạnh mẽ chẳng kém gì nam giới. Chị cũng gia nhập vào cái mạch trữ

tình - suy tư lịch sử của các đồng nghiệp nam giới. Chất trữ tình lịch sử đã thể

hiện sâu đậm trong trường ca của chị" [29, tr. 123] và "Điều đặc biệt đây lại là

nhà thơ nữ duy nhất viết trường ca" [29, tr. 123]

Nói về trường ca Lửa mùa hong áo (2003) và Tự khúc ánh sáng (2006),

Ngân Hà trong Lê Thị Mây - nữ sĩ viết trường ca nhận định: "Nếu phải kể tên

các nhà thơ từng viết trường ca thì có thể kể tới các tên tuổi như Nguyễn

Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Mai Văn Phấn,

Trần Anh Thái… mới giật mình nhận ra những tên tuổi ấy chiếm hơn 99% là

nam và tính đến nay chúng ta chỉ có duy nhất một nhà thơ nữ viết trường ca,

đó là Lê Thị Mây ". [27] Và: "đọc trường ca của Lê Thị Mây “nhiều người

8

không dứt ra được” cho đến khi những dòng chữ cuối cùng xuất hiện. Dù là

kể lại, nhớ lại con người, sự kiện… trong chiến tranh thì Lê Thị Mây cũng

không dùng giọng trần thuật, tường thuật đều đều mà lúc nào cũng chứa chan

tình cảm, lúc dồn dập, tha thiết tạo nên sức hấp dẫn của thể thơ" [27]

Vĩ Lam đã nhận định về trường ca Người sau chân sóng (2013) trong

Lê Thị Mây: 40 năm mang trong mình đứa con từ biển: "Phải đến khi gặp

được nữ nhà thơ, những người tổ chức chương trình mới thấu hiểu, và cảm

nhận hết sự ngây thơ, trong trẻo, chỉ biết sống với Thơ của một cô cựu thanh

niên xung phong, đã suốt 40 năm liền đi trong giấc mơ dài về biển" [35]. "40

năm, từ giây phút vỡ nát của trái tim trong đôi mắt của cô gái thanh niên xung

phong khi trở về quê hương để đứng trước cảnh hoang tàn của chiến tranh.

Bao nỗi nhớ quê hương, gia đình và những kỉ niệm bỗng chốc chỉ còn lại

trong những giọt nước mắt để rồi từ đó đứa con tinh thần bắt đầu hình thành

trong cô từ ấy"[35]. Và sau 40 năm ấy, mạch chảy trong thơ Lê Thị Mây vẫn

luôn mãnh liệt và giằng xé, vẫn chưa bao giờ ngơi nghỉ.

Đọc thơ Lê Thị Mây chúng ta không chỉ nhận ra nhiều nỗi buồn thấm

thía, trong thơ luôn ẩn giấu sự khắc khoải đợi chờ. Ẩn chứa trong thơ còn vẻ

đẹp của sức sống, hi vọng và niềm tin, tin vào tương lai và yêu mến con người

tốt đẹp. Nhà thơ yêu và đợi chờ, hi vọng bằng trái tim rất đỗi hiền lành, vị tha

của người con gái. Chị san sẻ những nỗi buồn, niềm tin và tình yêu ấy cho cả

những số phận người phụ nữ khác kém may mắn trong tình yêu, những mảnh

đời mất mát lớn lao qua chiến tranh ác liệt, mà ít khi giữ cho riêng mình, bằng

cách rất dung dị đáng yêu, rất nữ tính là gửi vào trong thơ. Càng về sau tính

ẩn ức trong thơ Lê Thị Mây càng rõ nét.

Trên đây là một số bài viết, ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu về

nhà thơ Lê Thị Mây. Tuy nhiên chưa công trình, bài viết nào có một cái nhìn

hệ thống và toàn diện về Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây.Trên cơ sở tiếp thu

9

những ý kiến trước, luận văn tiếp tục làm rõ những đặc sắc nổi bật đó trong

trường ca Lê Thị Mây.

3. Mục đích nghiên cứu

Lựa chọn nghiên cứu đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, mục đích

của chúng tôi ở đề tài này nhằm xác định khái niệm trường ca; tìm hiểu đặc

điểm trường ca Lê Thị Mây qua nội dung và nghệ thuật biểu hiện qua đó

nhằm làm rõ hơn phong cách nhà thơ và những đóng góp đáng kể của tác giả

ở thể loại này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Với mục đích khoa học đã đặt ra, luận văn về đề tài Đặc điểm trường

ca Lê Thị Mây tập trung xem xét và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến

đề tài. Cụ thể là cảm hứng sáng tác, những đặc sắc về nội dung, những đặc

sắc về nghệ thuật của trường ca Lê Thị Mây. Từ đó thấy được những đóng

góp riêng của nhà thơ về thể loại trường ca.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Căn cứ vào mục đích khoa học và đối tượng nghiên cứu của đề tài, ở đề

tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, chúng tôi tập trung đi sâu vào khai thác

ba trường ca đã xuất bản của tác giả:

Lửa mùa hong áo (Nxb Quân đội 2003)

Tự khúc ánh sáng (Nxb Quân đội 2006)

Người sau chân sóng (Nxb Quân đội 2013)

Bên cạnh đó luận văn còn tìm hiểu một số tập thơ tiêu biểu của Lê Thị Mây:

Tình yêu dài suốt cuộc đời (Hội nhà văn, 2004)

Thương nhớ một ngày (Hội nhà văn, 2006)

Thơ và trường ca Lê Thị Mây (Hội nhà văn, 2009)

10

Ngoài ra, luận văn còn đi vào khảo sát và tham khảo thơ, trường ca của

một số nhà thơ Việt Nam tiêu biểu qua các thời kì để đối chiếu, so sánh, tìm

ra những nét tương đồng và khác biệt trong trường ca Lê Thị Mây.

Để tiến hành nghiên cứu đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, chúng

tôi có những hướng tiếp cận tư liệu để triển khai như sau:

Trước hết, tìm đọc tất cả các trường ca đã xuất bản của Lê Thị Mây cho

đến nay.

Thứ hai, tìm các bài viết, công trình nghiên cứu bàn về thể loại trường

ca, về trường ca của các tác giả nữ, trường ca Lê Thị Mây.

Thứ ba, khảo sát đặc điểm từng trường ca từ đó khái quát những đặc

điểm tiêu biểu của trường ca Lê Thị Mây.

Thứ tư, so sánh với một số tác giả cùng thể loại, cùng thời.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các

phương pháp sau: phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp tiếp cận thi

pháp học, xã hội học, văn học…; phương pháp thống kê; phương pháp đối

chiếu so sánh.

6. Đóng góp của luận văn

Tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, luận văn chỉ ra

những đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong trường ca của tác giả.

Qua đó có cái nhìn đầy đủ và có hệ thống toàn diện hơn về đặc điểm trường

ca Lê Thị Mây, khẳng định những đóng góp nổi bật về mặt thể loại trường ca

trong thơ ca Việt Nam hiện đại, từ đó làm nổi bật phong cách tác giả. Trên cơ

sở những kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn còn là tài liệu tham khảo hữu

ích cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Lê Thị Mây nói riêng và cho

việc giảng dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường nói chung.

11

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

được triển khai thành ba chương:

Chương 1. Đặc trưng thể loại trường ca và con đường sáng tạo của Lê

Thị Mây

Chương 2. Đối tượng thẩm mỹ trong trường ca Lê Thị Mây

Chương 3. Nghệ thuật trong trường ca Lê Thị Mây

12

Chương 1

ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRƯỜNG CA VÀ CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO

CỦA LÊ THỊ MÂY

1.1. Cơ sở lý luận về thể loại trường ca

1.1.1. Khái niệm trường ca

Thuật ngữ hay tên gọi “trường ca” trong tiếng Việt (tiếng Anh là

“poem”, tiếng Pháp “poème” để phân biệt với “sử thi” hay “anh hùng ca” có

nguồn gốc từ văn học phương Tây, bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những

năm 50 của thế kỉ XX. Khái niệm trường ca xuất hiện trong bối cảnh văn học

có những vận động, biến đổi mạnh mẽ là một thể loại văn học mới có khả

năng đáp ứng nhu cầu phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, vận mệnh dân

tộc. Đây được coi là một thể loại có tầm cỡ hoành tráng trong hệ thống thơ ca,

“làm nên gương mặt riêng của thơ ca hiện đại Việt Nam” [5, tr.22]

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Trường ca là tác phẩm dài, bằng thơ,

có nội dung ý nghĩa xã hội rộng lớn” [81, tr.1057]

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Trường ca là tác phẩm thơ có

dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca cũng

được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết danh hoặc

có tác giả”. [24, tr. 376]

Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng: “Trường ca có

dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình. Chúng

được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và truyện kể hoặc bằng nới

rộng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách cải biên các

truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian. Trường ca với tư

cách một thể loại tổng hợp, trữ tình – tự sự, hoành tráng cho phép kết hợp

những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan niệm về lịch

sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới”. [3, tr. 363 – 364]

13

“Trường ca là kết quả của một quá trình kế thừa, tiếp thu và tương tác

giữa các thể loại thơ ca trường thiên” [29, tr. 56]. Đó là những tác phẩm có

tầm vóc lớn lao về cả hình thức và nội dung, có khả năng thể hiện những vấn

đề lớn của dân tộc, thời đại. Trường ca được coi là biến thể của sử thi truyền

thống. Chất sử thi hùng tráng trong những bản anh hùng ca cổ vẫn được tiếp

nối trong trường ca, làm nên nét độc đáo đặc trưng cho thể loại này. Theo

những cách định nghĩa trên, trường ca đồng nhất với sử thi, anh hùng ca, dùng

để chỉ những sáng tác dân gian có tính chất sử thi và độ dài: Iliats, Ôđixê,

Ramayana, Mahabrata… của thế giới hay Đam San, Xinh Nhã, các Khan

(Tây Nguyên)… của Việt Nam. Trường ca hiện đại vừa có sự vận động kế

thừa trường ca cổ vừa có những nét khác biệt, đặc trưng riêng của một thể loại

văn học hiện đại. Ở trường ca, đặc biệt là trường ca hiện đại, chất trữ tình –

suy tư chiếm vị trí nổi trội bên cạnh chất tự sự vốn có.

Trường ca phản ánh sự vận động của lịch sử dân tộc qua những biến

động lớn lao. Đó là cảm hứng để các tác giả viết lên những bản trường ca

hoành tráng đầy chất sử thi cách mạng. Hiện thực chiến tranh khắc nghiệt mà

hào hùng qua hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ đã trở thành nguồn cảm xúc

vô tận, đưa thể loại trường ca trở thành gương mặt riêng tiêu biểu của văn học

Việt Nam hiện đại, đặc biệt từ sau năm 1975. Cũng như sử thi, trường ca

được viết lên từ chất liệu hào hùng của cuộc sống, từ trái tim và tài năng của

những con người đã đi qua chiến tranh, trưởng thành trong chiến tranh. Rất

nhiều những tác phẩm thành công ra đời sau khi đã diễn ra những sự kiện lịch

sử ấy. Bởi, để viết lên những tác phẩm giá trị: “nhà thơ cần có một độ lùi thời

gian cần thiết để chiêm nghiệm lịch sử, để tích lũy cảm xúc, và khi lịch sử đã

đi qua nhưng âm ba của những sự kiện lớn ấy vẫn “không thể nào quên”,

trường ca lại xuất hiện rầm rộ hơn và để lại nhiều thành tựu nghệ thuật cao

hơn” [4]

14

1.1.2. Một số ý kiến về thể loại trường ca trong văn học Việt Nam

hiện đại

Trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ra đời xuất phát từ nhu cầu

tổng kết, nhận diện lịch sử dân tộc. Mỗi bước hình thành và phát triển qua

từng giai đoạn đánh dấu một mốc đổi mới quan trọng của thể loại trường ca.

Trên con đường nghệ thuật đi tìm ý nghĩa cho thể loại, mỗi tác giả có một cái

nhìn riêng về thể loại trường ca. Mỗi ý kiến tiêu biểu về trường ca hiện đại

Việt Nam đã làm rõ nét hơn về đặc điểm trường ca Việt Nam hiện đại.

Nhà phê bình Lại Nguyên Ân trong Mấy suy nghĩ về thể trường ca cho

rằng: “Một vấn đề khá mấu chốt của trường ca là vấn đề quan hệ giữa tính tự

sự và tính trữ tình” [2]. Phạm Ngọc Cảnh trong Trường ca và người viết

trường ca lại quan niệm: “Trường ca phải là sự khái quát nội dung rộng lớn”.

Tác giả Từ Sơn trong Về khái niệm trường ca gọi trường ca là những tác

phẩm thơ dài có cốt truyện. Về sau, một loạt ý kiến định nghĩa trường ca được

đưa ra như: Đỗ Văn Khang, Phạm Huy Thông, Hoàng Ngọc Hiến, Mã Giang

Lân… Các ý kiến đã góp phần làm sáng rõ hơn khái niệm trường ca.

Về đặc trưng thể loại, Lại Nguyên Ân ngay từ Mấy suy nghĩ về thể

trường ca (2 – 1975) được đăng trên báo, sau đó in trong Văn học và phê bình

đã cho rằng: “Trong thơ những năm gần đây có sự xuất hiện ngày càng nhiều

những sáng tác thơ dài, thường được gọi là trường ca” [2]. Bài viết đã đề cập

đến sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng của thể loại trường

ca; tác giả ghi nhận những thể nghiệm của thể loại trường ca, đồng thời nêu

lên những khác biệt của trường ca so với các thể tài khác: truyện thơ, thơ

trường thiên, thơ sân khấu, thơ dài trữ tình chính luận; nêu lên những đặc

trưng cơ bản của thể loại trường ca; các hình thức trường ca viết trong giai

đoạn đó.

15

Mai Bá Ấn trong Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại

cho rằng: “Trường ca là một tác phẩm được viết bằng thơ trên phương thức

kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố tự sự và trữ tình, có tính hoành tráng về cả

phương diện nội dung, tư tưởng và cấu trúc nghệ thuật tác phẩm, được nhà

thơ viết nên bằng một dung lượng cảm hứng mạnh mẽ, cảm xúc tuôn trào gắn

liền với những chấn động lớn lao của lịch sử, của dân tộc và thời đại” [4].

Bài viết chỉ ra rằng trường ca là một cấu trúc nghệ thuật phức hợp thông qua

các phương thức biểu hiện. Theo tác giả, xu hướng trường ca hóa thơ dài sẽ

hạ thấp vai trò của trường ca, làm mờ đi ranh giới giữa chúng với các thể loại

văn học khác. Bài viết là nghiên cứu tiêu biểu về đặc trưng thể loại trường ca,

ngoài ra còn nhiều bài viết công phu của các tác giả khác về đặc điểm này:

Trần Ngọc Vương, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc…

Nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ trong Đôi nét về trường ca những năm

gần đây – nhìn từ góc độ thể loại cũng đưa ra ý kiến về sự phát triển của thể

loại trường ca từ sau năm 1975: “trường ca phát triển theo hướng trữ tình,

tâm lý, triết lý, yếu tố cốt truyện giảm xuống, các cảm xúc cá nhân thường

được đặt trong liên hệ với những sự kiện lớn của lịch sử, của đất nước”. Tác

giả dựa vào nội dung, đối tượng phản ánh, phương thức thể hiện, hình tượng

trung tâm và âm hưởng chủ đạo của tác phẩm để làm căn cứ xác định thể loại.

Trong bài viết, tác giả đưa ra cái nhìn mới về một số tác phẩm trường ca tiêu

biểu đương thời.

Nhiều bài viết, ý kiến được đưa ra như: Trường ca – thành tựu của nền

văn học mới và Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại (Vũ

Văn Sỹ), Về đặc trưng trường ca qua “Người cùng thời” (Mai Văn Phấn),

Chất sử thi trong trường ca Việt Nam hiện đại 1954 – 1985 (Nguyễn Thị

Hồng Liên), Trường ca về đề tài chiến tranh chống Mỹ (nhìn từ góc độ thể

loại) (Diêu Lan Phương), Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến

16

cuối thế kỷ XX (Đào Thị Bình), Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa

Điềm và Thanh Thảo (Mai Bá Ấn)…

1.1.3. Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại

1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề về sự hình thành thể loại

Trước 1945, trường ca hiện đại Việt Nam hầu như chưa có, nhưng

những tiền đề của nó đã xuất hiện và phát triển từ xa xưa theo sự thâm trầm

của lịch sử dân tộc. Trường ca là thể loại có khả năng dung chứa và phản ánh

những sự kiện lớn lao của thời đại, vì thế mà trong điều kiện lịch sử thuận lợi

và hào hùng mới khai sinh ra thể loại trường ca.

Giai đoạn trước năm 1945 trường ca Việt Nam tồn tại dưới dạng những

bản anh hùng ca mang đậm tính chất sử thi tồn tại lâu đời trong lịch sử dân

tộc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Những Đam San, Xinh Nhã,

sử thi Tây Nguyên đầy âm hưởng núi rừng. Các tác phẩm đã đi vào kho tàng

văn học cổ, trở thành tài liệu quý giá cho việc học tập, nghiên cứu của các thế

hệ sau, tạo cơ sở cho thể loại trường ca ra đời. Chính trạng thái chống chiến

tranh liên miên của cha ông ta trong quá khứ đã làm tiền đề cho sự ra đời của

thể loại trường ca sau này. Tuy nhiên ở thời kì lịch sử mà con người vốn ngại

thay đổi trong nhịp sống bình lặng của đất nước có truyền thống lúa nước và

bị phong kiến phương Bắc đô hộ hàng nghìn năm thì khó sinh ra thể loại

trường ca.

Chiến tranh là điều kiện gắn kết và thức tỉnh ý thức cộng đồng dân tộc,

một điều kiện quan trọng hình thành thể loại. Qua 20 thế kỉ hình thành và phát

triển, dân tộc ta trải qua biết bao cuộc chiến chống ngoại xâm. Chính ý thức

dân tộc, cộng đồng, sự đoàn kết và lòng tự tôn dân tộc đã làm nên những

chiến thắng rực rỡ với những chiến công vang dội của quân và dân ta. Điều đó

có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn, đồng thời ảnh hưởng sâu sắc tới trường

ca mang âm hưởng sử thi.

17

Trong những cuộc chiến hào hùng của dân tộc ấy, nhân dân chiến một

vị trí quan trọng. Họ được nâng tầm thành sức mạnh để đập tan mọi bè lũ

cướp nước và bán nước. Tầm quan trọng của nhân dân đã được Nguyễn Trãi

đề cập: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Theo Nguyễn Trãi,

dân chính là thước đo và động lực của mọi hoạt động chính trị. Tư tưởng ấy

khá hiện đại và tiến bộ gần với tư tưởng Hồ Chí Minh sau này. Trước Nguyễn

Trãi, vai trò của nhân dân (hay quần chúng nhân dân như sau này vẫn gọi)

chưa được xem trọng, trong quan niệm của văn học phong kiến, vẫn coi nhân

dân là dân đen, con đỏ. Tuy nhiên, trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, vai trò

của nhân dân cũng hết sức quan trọng, làm nên chiến thắng và sự bình yên

cho tổ quốc bằng sức mạnh cộng đồng.

Tiền thân của trường ca trong lịch sử dân tộc là những truyền thuyết, sử

thi, thơ trường thiên: Thánh Gióng, Hào khí Đông A, những tác phẩm văn thơ

của các tầng lớp trong thế kỉ XVIII, XIX, và đến văn thơ cách mạng hiện đại

sau này. Trong những tác phẩm đại tự sự ấy, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần

tự hào dân tộc đóng vai trò quan trọng, cũng là tiền đề cho sự hình thành thể

loại trường ca hiện đại sau này.

Chính chất sử thi, anh hùng ca trong văn học truyền thống đã ảnh

hưởng đến tư duy thể loại trường ca. Có thể thấy, mỗi thể loại văn học ra đời

trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định và phù hợp để phát triển. Trường ca

ra đời trong nền lịch sử sôi động và hào hùng của thời đại.

Bắt đầu từ năm 1935, giữa lúc phong trào Thơ Mới phát triển sôi động

đã xuất hiện trường ca Tiếng địch sông Ô của Huy Thông. Tác phẩm mà theo

tác giả sau này phát biểu thì đó là trường ca hiện đại đầu tiên trong nền thơ

hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên tác phẩm vẫn mang âm hưởng trường ca sử thi

cổ - trung đại của thế giới và chưa thể hiện rõ những đặc trưng thể loại trường

ca hiện đại.

18

1.1.3.2. Sau 1945 – thời kỳ phát triển và khẳng định của trường ca

Bước qua phong trào Thơ Mới, văn học chuyển từ thể hiện đời sống cá

nhân sang thể hiện những vấn đề lớn lao của dân tộc và thời đại, chuyển từ

“cái tôi” sang “cái ta” chung. Văn học thời kì này phát triển theo định hướng

của Đảng, trở thành một mặt trận phục vụ kháng chiến. Đó là nền văn học

hướng về đại chúng, về giai cấp công, nông, binh. Danh hiệu nhà văn – chiến

sĩ được đề cao trên mặt trận văn hóa văn nghệ mà Hồ chủ tịch đã khẳng định

năm 1951.

Thể loại trường ca cũng không nằm ngoài sự vận động và phát triển đó.

Điều kiện lịch sử đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho thể loại phát huy khả

năng phản ánh hiện thực và phục vụ kháng chiến, ghi giữ lại những khoảnh

khắc đau thương mà vinh quang của dân tộc. Âm hưởng sử thi đã trở thành

sợi chỉ xuyên suốt trong các sáng tác văn học nói chung ở thời kì này. Các

nhà văn, nhà thơ bị cuốn theo không khí hào hùng của thời đại mới, nhà thơ

Hữu Thỉnh trong Sự chuẩn bị của người viết trẻ đã phát biểu: “Hiện thực

chiến tranh, cuộc sống của người lính dội vào mạnh đến mức vượt ra khỏi

một thời đoạn, một đề tài. Nó thành một tâm thế” [77] và “cuộc sống lớn lao,

bi tráng quá, đòi hỏi phải mở rộng các kích cỡ” [77].

Văn học Việt Nam nói chung, trường ca nói riêng từ sau năm 1945 có ý

nghĩa tổng kết một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trong những năm kháng

chiến chống Pháp và những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, một số bản

trường ca đầu tiên ra đời: Từ đêm mười chín (Khương Hữu Dụng, năm 1951),

Những người trên cửa biển (Văn Cao, 1956), Tiếng hát trên địa ngục Côn

Đảo (Phùng Quán, 1955), Bài thơ Hắc Hải (Nguyễn Đình Thi, 1959), Du kích

sông Loan (Xuân Hoàng, 1963)… Ở giai đoạn này, trường ca còn rất khiêm

tốn về số lượng và chất lượng nhưng vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.

19

Sang kháng chiến chống Mỹ, trường ca có sự phát triển vượt bậc về cả

số lượng và chất lượng. Thời kì này, các nhà thơ đã trưởng thành, lớn mạnh,

có đủ sức vóc để đảm đương một thể loại văn học mới đặc sắc. Năm 1964,

trường ca Bài ca chim Chơ – rao ra đời, đây được coi là “một cú hích, một

dấu mốc” chính thức khai sinh ra thể loại trường ca hiện đại Việt Nam” [9, tr.

74]. Từ đó, ra đời một loạt tác phẩm: Nguyễn Văn Trỗi (Lê Anh Xuân, 1969),

Mặt đường khát vọng (1974), Kể chuyện ăn cốm giữa sân (Nguyễn Khắc

Phục, 1974), Theo chân Bác (Tố Hữu, 1970), Bác (Lê Đạt, 1970), Hồ Chí

Minh (Lê Huy Quang, 1969 – 1970)…

Đặc biệt từ sau năm 1975, trường ca được coi là đã đạt được một vụ

mùa bội thu. Năm 1975 là một bước ngoặt lịch sử của đất nước. Đại thắng

mùa xuân năm 1975 đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên của độc

lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta vĩnh

viễn thoát khỏi ách nô dịch của các nước đế quốc, đất nước thoát khỏi thảm

họa bị chia cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo về được thành quả của

Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Kể từ đây, nước Việt Nam ta: “Từ

Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau/ Trời ta chỉ một trên đầu/ Bắc Nam liền một

dải” (Tố Hữu).

Hoàn cảnh lịch sử là điều kiện để văn học Việt Nam nói chung, thơ ca

nói riêng có những tiếng nói mới, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Sau

chiến tranh, thơ Việt Nam có những bước chuyển biến rõ rệt, có những thay

đổi và hình thành nhiều xu hướng khác nhau. Các nhà văn, nhà thơ bắt đầu đi

sâu vào nền hiện thực mới: hiện thực đời sống nội tâm của cái tôi cá nhân.

Trường ca hiện đại Việt Nam chuyển hướng thể hiện chất trữ tình trên nền tự

sự - những sự kiện lịch sử dân tộc. Có thể nói giai đoạn chống Mỹ và sau

chống Mỹ là thời kì phát triển rực rỡ của thể loại trường ca. Trường ca giai

đoạn này có sự đan xen hai yếu tố tự sự và trữ tình, làm nên độ hoàn chỉnh về

20

thể loại của trường ca; có ý nghĩa tổng kết, khẳng định một giai đoạn lịch sử

với những chiến công hào hùng của dân tộc. Một loạt tác phẩm ra đời: Những

người đi tới biển (Thanh Thảo, 1977), Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh,

1979), Trường ca sư đoàn (Nguyễn Đức Mậu, 1980), Con đường của những

vì sao (Nguyễn Trọng Tạo, 1981), Mặt trời trong lòng đất (Trần Mạnh Hảo,

1981)…

Từ sau năm 1980 trường ca đi sâu vào khuynh hướng trữ tình với các

tác phẩm: Khối vuông rubíc (Thanh Thảo, 1985), Trường ca biển (Hữu Thỉnh,

1994), Gọi nhau qua vách núi (Thi Hoàng, 1995), Người cùng thời (Mai Văn

Phấn, 1999), Đổ bóng xuống mặt trời (Trần Anh Thái, 1999), Lửa mùa hong

áo (Lê Thị Mây, 2003)…

1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại

Để viết lên những tác phẩm giá trị, đòi hỏi các tác giả phải có vốn sống,

sự chiêm nghiệm về cuộc đời, điều đó lí giải vì sao nhiều tác phẩm giá trị ra

đời nhiều năm sau chiến tranh, khi đã có độ lùi cần thiết. Hầu hết các tác giả

viết trường ca đều đã đi qua chiến tranh, chứng kiến và cảm nhận những mất

mát hi sinh và chiến thắng hào hùng dân tộc. Nội dung của trường ca được thể

hiện với con mắt của người trong cuộc, những con người đại diện cho chân lí

và chính nghĩa. Hai chủ đề lớn của trường ca hiện đại Việt Nam là: Chủ đề về

chiến tranh và người lính, đất nước và số phận con người.

Chiến tranh và người lính

Thể loại trường ca khai sinh trên nền hiện thực hào hùng của lịch sử

dân tộc. Những cuộc chiến tranh vĩ đại mà quân và dân ta đã trải qua là nguồn

cảm hứng vô tận cho các nhà văn trải nghiệm và viết lên những bản trường ca

đặc sắc. Đặc biệt, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ

trên nền lịch sử lâu đời của cha ông ta đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của

các nhà văn, nhà thơ. Họ viết về chiến tranh, ghi giữ dấu ấn của dân tộc, viết

21

về người lính – những con người trực tiếp đương đầu nơi đầu súng ngọn giáo,

nơi chiến trường ác liệt. Họ viết về chính họ - những con người đã góp phần

mình vào cuộc chiến tranh, đã đi qua chiến tranh và đem tâm huyết tài năng

góp lại cho cuộc đời. Trong bom đạn, trong gian khổ hi sinh, những phẩm

chất cao đẹp của người lính càng bộc lộ rõ ràng. Những con người sẵn sàng hi

sinh cho độc lập tự do Tổ quốc:

“Người ta không thể chọn để được sinh ra

Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy.

… − Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

(nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc?)

Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ Quốc?”

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Và chỉ có những người lính mới cảm nhận được hết cái mong manh của

nấc đạn, mong manh giữa sự sống và cái chết:

“Hòa bình và chiến tranh, cách nhau bằng nấc đạn”

(Ngày 30 tháng 4 – Nguyễn Đức Mậu)

Gian khổ là thế, nhưng họ luôn vững tin vào ngày gặp mặt với một tinh

thần lạc quan…:

“Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng

Một nửa nhân dân ngày mai ta nhận mặt

Nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng”.

(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Có thể nói chiến tranh và người lính là đề tài bất tận cho thể loại trường ca.

Đất nước và số phận con người

Lòng yêu nước là truyền thống tốt đẹp bao đời của dân tộc Việt Nam ta.

Chính lòng yêu nước nồng nàn đã trở thành sức mạnh chiến đấu và chiến

thắng mọi thế lực thù địch giữ vững hòa bình. “Đó là thứ của quý, bấy lâu

22

nay phải cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm nay nhờ cách mạng được

đem ra trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê ” (Hồ Chí Minh). Trong

sáng tác của các tác giả, cảm hứng về đất nước vẫn luôn là cảm hứng chủ đạo.

Hình tượng đất nước là: “Hình tượng đẹp đẽ được xây dựng thành công vào

bậc nhất” [70]. Dưới ngòi bút của các tác giả, đất nước hiện lên muôn vẻ đẹp,

muôn màu:

“Đất nước

Bốn ngàn năm không nghỉ

Những đạo quân song song cùng lịch sử

Đi suốt thời gian đi suốt không gian

Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang…

… Đất nước của những người con gái, con trai

Đẹp hơn hoa hồng cứng hơn sắt thép

Xa nhau không hề rơi nước mắt

Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”

(Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi – Nam Hà)

Đất nước hiện lên gần gũi và thân thương nơi một góc rừng trận địa:

“một gốc sim thôi, một gốc sim cằn,

sim như là không có cũng không sao…

… nhưng trước mặt là Tổ Quốc

dù chỉ gốc sim thôi, dù chỉ gốc sim cằn

anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện”

(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Đất nước mang âm hưởng đồng vọng cả quá khứ và hiện tại, tiếp thêm

sức mạnh chiến đấu cho những người lính trên chiến trường:

“Trụ sống lưng Tổ quốc

Hỡi Trường Sơn dằng dặc

23

Bọc trứng Âu Cơ xếp đá hộc nâng đường”.

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Nguyễn Khoa Điềm có cách định nghĩa về đất nước đầy cảm xúc:

“Đất là nơi Chim về,

Nước là nơi Rồng ở.

Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng…”

(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)

Đất nước là tình đồng chí đồng đội, là tinh thần đoàn kết tạo nên sức

mạnh dân tộc:

“Một sư đoàn có những dòng sông

Con sóng vỗ hai bờ truyền thuyết

Thế hệ mai sau tìm đến soi mình

Tôi sung sướng được uống chung nguồn nước”

(Trường ca sư đoàn – Nguyễn Đức Mậu)

Đất nước hiện lên trên trang viết các tác giả còn là vẻ đẹp bình dị, gần

gũi thân thương của những con người, cuộc đời bình dị. Những người anh

hùng của nhân dân:

“Có biết bao người con gái, con trai

Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)

Trong hầu hết các trường ca, hình tượng người mẹ - người phụ nữ anh

hùng được khắc họa rõ nét. Mẹ là nguồn cội yêu thương, là nơi tìm về, mẹ

sinh ra những anh hùng cho dân tộc:

24

“Cho con xin bắt đầu từ mẹ

Để nói về chúng con

Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính

Xanh màu áo lính

Đã từng sung sướng, đã từng nghẹn ngào

Được làm con mẹ

Được ra trận những năm đất nước mình khốc liệt”

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Đất nước anh hùng trong thời chiến và thanh bình trong thời bình. Đất

nước bảo bọc che chở yêu thương trong Người sau chân sóng:

“Mẹ đất liền đêm đêm hỏi sóng nghe thuyền. Cửa sông phao số

không trồi trụt. Và nhịp tim nghìn đảo đứng đón buồm. Bồng bềnh Trường Sa,

Hoàng Sa dựng non bộ án ngữ biển Đông che ấm đất liền, hưởng trăng thanh

gió lặng. Hồn vía cửa sông treo lên đỉnh cột buồm”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Số phận con người cũng là mảng đề tài được các nhà văn quan tâm. Ở

bất cứ thời đại lịch sử nào, số phận con người cũng gắn liền với vận mệnh đất

nước. Con người trong hoàn cảnh tự khẳng định mình. Trường ca trước năm

1975 chủ yếu đi vào khai thác hình ảnh con người mang tính tập thể, cộng

đồng. Đến sau năm 1975, Cách mạng thành công, nhu cầu đổi mới và sáng

tạo trong văn học đã đưa các tác giả đến với miền đất mới: khai thác những

khía cạnh, tâm tư sâu kín của con người, đời sống nội tâm phong phú và phức

tạp. Số phận con người đời tư nhiều khổ đau, mất mát sau chiến tranh:

“Chị đợi chờ quay mặt vào đêm

Hai mươi năm mong trời chóng tối

Hai mươi năm cơm phần để nguội

25

(…)

Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”

(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Nỗi mát mát lớn lao của những người mẹ được khắc họa rõ nét trong thơ:

“Mỗi bận chiến trường tin báo tử

Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài”

(Đất nước hình tia chớp – Trần Mạnh Hảo)

Vượt lên trên mọi khó khăn gian khổ, những con người kiên cường ấy

lại tiếp tục hăng say góp sức mình xây dựng đất nước ngày thêm giàu đẹp:

“Và dấu chân Người trong dấu chân ngư ông cùng các trai đinh

quần tụ. Những dấu chân quẫy sóng bám thuyền. Những dấu chân lún cát

bám làng. Tay thì nâng sông xanh lên soi mặt. Thấy miền Trung nhấp nhô

trăm nghìn đảo. Thấy sau lưng điệp điệp Trường Sơn. Hoàng Sa – Trường Sa

– hòn non bộ của bờ Mẹ - đất – liền. Cánh đại bàng yêu đảo bay về biển.

cánh hải âu nhớ nguồn bay tìm tháp đèn biết mắt thuyền cay sóng. Nước

nguồn xanh làm mực cho thi nhân”.

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

1.2. Con đường sáng tạo của Lê Thị Mây

1.2.1. Vài nét về tiểu sử

Lê Thị Mây tên thật là Phạm Thị Tuyết Bông, bút danh khác là Phạm

Thị Tuyết Hoa, sinh ngày 04/02/1949. Có ý kiến cho rằng chị sinh ra ở vùng

đất Quảng Bình nhưng cũng có người cho rằng quê hương chị là mảnh đất

Quảng Trị.

Năm 1993, Hội Văn nghệ Quảng trị ra Cửa Việt bộ mới, nhà văn Xuân

Đức, lúc đó là Giám đốc Sở Văn hóa và Chủ tịch Hội Văn nghệ đã đích thân

26

vào Huế mời Lê Thị Mây ra làm Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Quảng

Trị, rồi sau đó làm Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt, vì chị quê gốc là Triệu

Long, Triệu Phong, Quảng Trị. Còn trong sách “Các nhà văn Việt Nam hiện

đại Quảng Bình” lại xếp Lê Thị Mây vào danh sách “nhà văn Quảng Bình”.

Điều đó cũng rất đúng vì chị sinh ra ở Bảo Ninh, Đồng Hới. Mảnh đất “dọc

bờ sông trắng nắng chang chang” (Hàn Mạc Tử) bên kia sông Nhật Lệ có rất

nhiều người nổi tiếng như nhà ngôn ngữ học Hoàng Tuệ, nhà văn Bảo Ninh,

nhà thơ Hà Nhật….

Ngay từ thuở ấu thơ, khi còn là đứa trẻ tóc cháy nắng, ngón chân thô

sần bởi suốt ngày thọc sâu trên cát bỏng theo trẻ con chơi chắt chơi chuyền,

thì chị đã không giống những đứa trẻ lấm lem muối cát khác. Những trưa

nắng cháy, chị đã thì thầm cho lũ bạn cùng trang lứa nghe những câu chuyện

cổ tích từ sự mơ mộng và khát vọng của mình. Tuổi thơ sống trong đói nghèo

cơ cực đã nuôi lớn trong tâm hồn Lê Thị Mây khát vọng làm thi sĩ. Để sau

này, chị đến với thơ bằng tình yêu vô bờ bến, cho dù Lê Thị Mây bắt đầu đời

mình bằng những nghề nghiệp khác nhau không liên quan đến con đường thi

sỹ nổi tiếng của chị, như là sự dẫn dắt kỳ lạ của số phận.

Năm mười bảy tuổi, học hết phổ thông, Lê Thị Mây gia nhập Thanh

niên xung phong hoạt động ở vùng miền Tây Quảng Bình. Hiện chị còn giữ

cuốn nhật ký ghi lại những ngày ở Tróoc, một vùng rừng Trường Sơn rất sôi

động như là một chứng tích đời mình. Trong tập thơ Những mùa trăng mong

chờ (1980), chị kể: “Vừa rời nách mẹ mới hai trăm ngày đêm, bọn Mỹ đã bẻ

gãy tuổi mười bảy của tôi bằng trận bom đầu tiên khi chúng ra miền Bắc

…Vết bom xuyên sâu vào mặt tôi, làm dị dạng gương mặt sắp đón nhận tuổi

hai mươi… Đôi má bầu bĩnh, làn môi dịu ngọt, và đôi mắt trong veo của tôi

chưa hề in dấu môi tình. Cái vết thương chiến tranh ấy, cho đến bây giờ hàng

năm hễ trở trời là đau nhức… Chính sự phản kháng chiến tranh đã dẫn tôi đến

27

với thơ, thốt lên những gì trái tim mang chứa, viết thành câu chữ, bảo vệ cái

đẹp của mùa xuân và tình yêu…”. Tuổi hai mươi đẹp đẽ của chị cũng đã

mang nỗi đau chia ly. Người yêu đầu tiên , một bác sĩ quê ở xứ Quảng đã chia

tay chị đi B. Chị kể: “ Ba năm sau tôi mới hay tin anh hy sinh ở chiến trường

Quảng Trị” [50]. Có lẽ đó là mối tình đầu đau xót của Lê Thị Mây khởi đầu

cho bao mối tình ngang trái đi qua đời chị - cuộc đời một người con gái nhiều

bất hạnh đa đoan, để tới khi đã bước sang tuổi năm mươi chị mới tìm thấy bến

đỗ của cuộc đời mình. Đó có lẽ cũng là một nguyên nhân khiến thơ chị luôn

nặng những ưu tư, ẩn ức, dồn nén cô đơn.

Ở Thanh niên xung phong, Phạm Thị Tuyết Bông đã làm những bài thơ

đầu tiên chép chi chít vào cuốn sổ nhỏ. Đó là những bước đi đầu tiên đưa chị

đến với con đường thi sĩ sau này. Để tới năm 1972, khi rời đơn vị Thanh niên

xung phong, Bông đã tìm gặp nhà thơ Xuân Hoàng, lúc đó là Hội trưởng Hội

Văn nghệ Quảng Bình. Trong hồi ký Âm vang thời chưa xa (tập II), Xuân

Hoàng kể rằng, không biết làm thế nào Bông xin được lá thư viết tay của ông

Cổ Kim Thành, là bí thư tỉnh ủy, một người cũng hay làm thơ, gửi cho Xuân

Hoàng. Xuân Hoàng đọc qua vài ba bài, thấy “thơ thật thà và sơ lược như thơ

chung gửi về Hội lúc đó”. Nhưng có lẽ nhà thơ Xuân Hoàng nhận ra những

câu thơ của Bông dù “thật thà” cũng đã ánh lên chút hy vọng ở tương lai liền

nhận Phạm Thị Tuyết Bông vào làm nhân viên đánh máy. Một thời gian sau,

Hội văn nghệ Quảng Bình nhận thêm một cô gái làm thơ nữa là Lâm Thị Mỹ

Dạ. Năm sau, Bông và Dạ được nhà thơ Xuân Hoàng cho đi học lớp Bồi

dưỡng viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá, Hà Nội. Đi học

về, Phạm Thị Bông có bút danh mới là Lê Thị Mây. Theo Xuân Hoàng thì cái

tên Mây có liên quan đến hai chữ bông và mây trong câu ca dao của Ngô Văn

,Lê Thị Mây vào danh sách “nhà văn Quảng Bình”. Điều đó cũng rất đúng vì

chị sinh ra ở Bảo Ninh, Đồng Hới. Nữ thi sĩ đã đóng góp cho đời hơn hai

28

mươi tập thơ văn hay và đặc sắc. Trong đó phải kể đến tập thơ Tặng riêng

một người (1990) được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam; truyện dài

Huyết ngọc (1998) cũng được tặng thưởng của Hội Nhà văn; trường ca Người

sau chân sóng được giải nhất cuộc thi “Đây biển Việt Nam” do Hội Nhà văn

Việt Nam và Vietnamnet tổ chức năm 2012. Lê Thị Mây là người con gái biết

giấu nỗi đau để cười trước mọi người. Những câu thơ nao lòng ấy sẽ còn sống

mãi trong lòng người nhiều thế hệ. Chị đã gửi trọn tâm hồn mình trong thơ,

ghi tên rạng rỡ trong danh sách những cây bút nữ tiêu biểu thế kỷ XX.

1.2.2. Khái quát về tác phẩm

Cuộc đời Lê Thị Mây gặp nhiều bất hạnh, phải chăng vì lẽ đó mà thơ

chị thường nhiều dự cảm, lo âu, nhiều ẩn ức không thể giãi bày.

Những chặng đường sáng tác và trưởng thành của Lê Thị Mây được

đánh dấu bằng sự ra đời của những tập thơ. Càng về sau chất triết lý trong thơ

Lê Thị Mây càng gia tăng. Bảy tập thơ, ba trường ca đã xuất bản là thành quả

lao động nghệ thuật không ngừng của tác giả Những mùa trăng mong chờ.

Năm 1980, Lê Thị Mây cho xuất bản tập thơ Những mùa trăng mong

chờ. Đây là tập thơ đầu tay của Lê Thị Mây gồm năm mươi hai bài. Chủ đề

chính trong tập thơ là tình yêu, với những cung bậc cảm xúc khác nhau của

người con gái đợi chờ người yêu trở về từ chiến trường. Sự mong ngóng đợi

chờ da diết có thể bắt gặp ở bất cứ vần thơ nào. Từ Bài thơ buổi sáng mở đầu:

“Ban mai em nhớ anh/ Một ngày mong vời vợi/ …Nỗi nhớ anh đau thắt/ Như

nắng ăn vào da” ; tới tâm trạng háo hức bồn chồn khi hay tin người yêu sắp

trở về: “Thư anh tin ngày về/ Cho vầng trăng hẹn mọc/ Trong ngần hoa cau

thơm/ Mây chớm màu tha thiết” (Những mùa trăng mong chờ); và niềm vui

bất ngờ trọn vẹn trong hạnh phúc ngọt ngào khi gặp lại người yêu: “Anh

khoác ba lô về/ Đất trời dồn chật lại/ Em tái nhợt niềm vui/ Như trăng mọc

ban ngày” (Những mùa trăng mong chờ). Tâm trạng của người thiếu nữ - ngôi

29

sao dậy thì khi yêu cũng tràn đầy ước vọng, say mê và niềm tin của tuổi trẻ.

Lê Thị Mây đã dành thật nhiều cảm xúc để viết lên những bài thơ tình đặc

sắc. Tập thơ được người đọc biết tới với bài thơ nổi tiếng Những mùa trăng

mong chờ được xếp vào một trong một trăm bài thơ hay nhất thế kỷ trong

cuộc thi Chọn những bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ XX do Trung tâm văn

hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức. Bài thơ đã góp phần

khẳng định sự đặc sắc của tập thơ, và gắn liền với tên tuổi của Lê Thị Mây.

Bên cạnh đề tài về tình yêu, tập thơ đầu tay cũng gây chú ý với những

bài thơ thấm đậm tình cảm ruột thịt thiêng liêng: Mẹ, Thăm mẹ Cửa Việt, Tiễn

em trai nhập ngũ, Nhớ em, Với mẹ cơn sốt chưa giảm, Áo đồng đội em, Đưa

em về quê mẹ, Giấc mơ của mẹ… ; Ngợi ca đất nước Việt Nam, con người

Việt Nam anh dũng kiên cường trong khói lửa chiến tranh: Chiếc nón Trường

Sơn, Khúc hát rừng, Đất, Mặt trời ở biển, Dừng ở Đồng Hới, Mặt trời ở mỏ,

Cát làng tôi… Tập thơ lấp lánh niềm tin hi vọng như “cát vàng rơi” của

những tâm hồn phơi phới vào một ngày mai thống nhất không xa: “Mây biển

chợt về chớp lóe đằng đông/ Chim báo bão ơi báo điều ta biết/ Hãy bay lượn

nơi đỉnh cột buồm quen thuộc” (Mặt trời ở biển); “Cát vàng rơi, cát vàng rơi/

Sau đêm mưa ngọt càng ngời nắng mai” (Cát làng tôi); “chợt như trăng non

tiếp nhận ánh ngày/ Tôi tiếp nhận niềm tin nước nhà thống nhất/ …Sắc cờ rao

nơi chót mũi Cà Mau” (Mặt trời ở mỏ). Ta cũng không thể quên những câu

thơ Lê Thị Mây viết về mẹ với một giọng thơ dung dị nhẹ nhàng: “Mẹ già ơi

mái tóc tiên/ Mẹ là vừng sáng dịu hiền trên cao/ Thuyền con xô trước biển

trào/ Mặt trời trước ngực tỏa vào bao la”. Tập thơ sử dụng chủ yếu thể thơ

lục bát, năm chữ, thơ tự do; giọng thơ không quá chau chuốt cầu kỳ càng dễ

đi vào lòng người đọc.

Năm 1991, Lê Thị Mây cho xuất bản tập thơ Tặng riêng một người.

Tập thơ đã đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1990. Nếu tập thơ

30

đầu tiên viết về nỗi ngóng trông đợi chờ của người con gái đang yêu thì đến

Tặng riêng một người, người đọc bắt gặp tâm hồn một người phụ nữ đã từng

trải hơn, với những ám ảnh về thân phận trước hạnh phúc lứa đôi, những mất

mát, lỡ dở, những cảnh ngộ éo le, cay đắng sau chiến tranh, qua một loạt

những bài thơ như: Cốc rượu đầy, Bài hát Chiếc lồng chim, Giọt lệ, Bữa cơm,

Mưa đám cỏ, Hai đóa hồng, Giấc mơ thiếu phụ, Gió quả phụ… Và ẩn sâu

trong đó là những khát khao nhục thể, giấc mơ luyến ái dồn nén trong Gió

quả phụ, Giấc mơ thiếu phụ… cô đơn. Những mất mát, những dự cảm lo

lắng, buồn đau càng khiến thơ Lê Thị Mây thêm cô đơn, ám ảnh.

Thời đại thi ca mới mở ra cũng khiến những ẩn ức, khao khát trong thơ

Lê Thị Mây được giãi bày cởi mở hơn. Trong tập thơ này cũng đã xuất hiện

những ngôn từ mới lạ, độc đáo, nhiều ám ảnh và sức gợi.

Sau Tặng riêng một người, năm 1996 Lê Thị Mây cho xuất bản hai tập

thơ Giấc mơ thiếu phụ và Du ca cây lựu tình. Tập thơ thấm đẫm chất triết lý

suy tư của người phụ nữ từng trải khi đã bước sang ngưỡng cửa của tuổi bốn

mươi. Những đau khổ, buồn vui, thăng trầm trong cuộc đời được Lê Thị Mây

đem trút hết vào thơ: Nỗi buồn, sự lo âu khắc khoải trong tình yêu càng hiện

lên rất rõ ràng, mãnh liệt trong giấc mơ một mái ấm gia đình và những đứa

con ngoan: Khuya, Vô đề, Dạ khúc trái tim, Rét lộc, Khóc dưới vừng trăng,

Kim chỉ, Lẻ bóng… Một mình đong đếm bước đi của thời gian càng khiến thơ

Lê Thị Mây thêm xót xa, cô đơn đến vô cùng: Hoa tết, Bài hát cổ,Tết giao

thừa, Tết Quý dậu, Hoài cổ… Có nỗi cô đơn nào hơn thiếu không khí sum

vầy ngày tết, thiếu hơi ấm con trẻ: “Tuổi này đã ngại đi đâu đó/ Năm ba ngày

tết cũng ở nhà/… Pháo nổ giật mình mờ trang lệ/ Nhà bên hàng xóm ríu rít

con/ Vú mẹ yếm hồng câu đối đỏ”.

Đến năm 1999, Lê Thị Mây xuất bản tập thơ Khúc hát buổi tối. Tập thơ

đã được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Tập thơ tiếp tục những

31

sáng tác của Lê Thị Mây về tình yêu, với những dự cảm, chiêm nghiệm lớn

hơn trong tâm hồn một người đàn bà từng trải. Lê Thị Mây nhắc nhiều đến

hình ảnh trái tim – cũng như một con người biết khóc, cười, buồn đau, hạnh

phúc trong: Mưa ở sông Hương, Người đến sau cùng, Nếu anh còn trở lại, Du

khúc trái tim, Trái tim trong cát, Hạnh phúc…

Người đàn bà ấy qua bao năm tháng vẫn bền bỉ đi tìm tình yêu đích

thực của đời mình để rồi thốt lên : “Không ai yêu như tôi yêu nhiều đến thế/

Tuổi tình yêu dài trọn cuộc đời tôi”. Nhưng đó không còn là một tình yêu

bồng bột, nhiều háo hức mê say của ngày đầu tiên, mà là những đằm thắm dịu

dàng trong hồn người phụ nữ đang ngày càng đến độ chín.

Năm 2003, trường ca Lửa mùa hong áo ra đời - trường ca đầu tay của

Lê Thị Mây. Tác phẩm đã đạt giải thưởng Ủy ban Liên hiệp Văn học nghệ

thuật Việt Nam (2003). Lửa mùa hong áo là bản anh hùng ca về thời chống

Mỹ máu lửa mà vinh quang của dân tộc. Mỗi vần thơ như một lời tâm tình

gan ruột, một cách bày tỏ nỗi đau thương, niềm tự hào trước những người con

anh dũng hi sinh vì tổ quốc. Đó là những người bà, người mẹ: "Bóng mẹ rưng

rưng hậu phương lớn quê nhà/ Vừng dương lăn hũ gạo mỗi ngày đầy thêm

một nắm", người chị, những nữ giao liên phá đá mở đường: "Tiểu đội mỗi

người/ Một bà Triệu/ Một Bà Trưng/ Một Nữ Oa vác đá vá vết thương",

những anh bộ đội "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" (Tố Hữu) khi tuổi đời còn

rất trẻ, những chiến sĩ đưa thư, canh giữ kho muối, phục vụ hậu cần... không

quản ngại vất vả gian lao, nguyện hi sinh tuổi thanh xuân làm nên chiến thắng

lịch sử, hòa bình cho dân tộc. Tác phẩm được viết lên từ chính những trải

nghiệm của một nhà thơ đã có cả "tuổi thanh xuân gắn bó thương nhớ với con

đường Trường Sơn máu lửa" [13]. Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm là

những người phụ nữ Việt Nam bình dị yêu thương nhân hậu mà dũng cảm

32

anh hùng. Những sự kiện lịch sử bi tráng hiện lên rõ ràng bằng thi pháp sử thi,

trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn của Lê Thị Mây.

Năm 2006, sự ra đời trường ca Tự khúc ánh sáng đánh dấu bước phát

triển mới của trường ca Lê Thị Mây. Tự khúc ánh sáng có thể coi là những

“đối thoại” về chiến tranh. Người đọc nhận ra cuộc đối thoại này xuất phát từ

niềm tin, từ lương tri qua đó dựng lên những số phận, thân phận của con

người trong cuộc chiến. Cuộc đối thoại đó còn là bản anh hùng ca bất diệt về

những điều thiêng liêng. Đến trường ca này thì Lê Thị Mây không chỉ cho

người đọc thấm thía về chiến tranh bằng cái nhìn của người chứng kiến, người

trong cuộc mà dường như còn là chính mình. Kẻ thù có thể giam giữ được thể xác,

có thể tra tấn hành hạ thể xác nhưng không thể xiềng xích nổi niềm tin" [27].

Cũng trong năm 2006, tập thơ Thương nhớ một ngày của Lê Thị Mây

ra đời. Tập thơ gây chú ý bởi chủ yếu những bài thơ viết về người lính, về

những vùng đất, địa danh mà chị đã đi qua chiến tranh, những người mẹ anh

hùng… với cái nhìn hoàn toàn đổi khác từ hiện tại. Lê Thị Mây đã tái hiện rất

sinh động, chân thực hình tượng người lính, tình yêu sâu nặng với đất nước

quê hương, với mảnh đất miền Trung nơi chị sinh ra. Qua một loạt bài thơ

như: Anh không hề vắng mặt, nhắn cùng em trai, Chiếc mũ, Tiếng hát của

loài chim bị diệt, Gió từ sông Nhật Lệ, Hoa hồng Đồng Hới…

Đến năm 2007, Lê Thị Mây xuất bản tập thơ Thời trẻ của anh. Tập thơ

là những nỗi đau, sự đồng cảm, cái nhìn của một người Thanh niên xung

phong đã đi qua chiến tranh, đã trải qua những hi sinh mất mát của: người

lính và cuộc sống của họ khi trở về với đời thường, nỗi đau của những người

vợ mất chồng, mẹ mất con sau chiến tranh… Lên án phản đối những cuộc

chiến tranh phi nghĩa gieo rắc mất mát đau thương trên khắp hành tinh. Với

những bài thơ như: Vượt sông Ta Lê, Làng Vây, Chiến lợi phẩm, Khối đá đen,

Tìm bóng lịch sử, Thao thức, Trường Sa…

33

Năm 2013, trường ca Người sau chân sóng của Lê Thị Mây được xuất

bản. Đây là tác phẩm đoạt giải nhất hạng mục thơ cuộc thi "Đây biển Việt

Nam" do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Báo điện tử

VietNamNet tổ chức năm 2011- 2012. Người sau chân sóng ra đời từ nỗi nhớ

da diết và tình yêu dâng đầy với biển quê hương sau suốt 40 năm ấp ủ, thai

nghén của nhà thơ. Tác phẩm là bản trường ca anh hùng mang hơi thở của

cuộc sống mới; đồng hiện, ám ảnh bởi cả quá khứ, hiện tại và tương lai vùng

biển miền Trung nắng gió. Nơi có tuổi thơ êm đềm, có mẹ, có cha, có “anh”,

có lão ngư, những người dân chài và cảnh sông nước hùng vĩ bảo bọc chở

che… Lê Thị Mây đã từng nói: “Trong 1000 giấc mơ của tôi – có 80% liên

quan đến biển” [ 35]. Và “chỉ cần nhắc về biển, đôi mắt cô đã sáng lên và chất

giọng Quảng Bình đặc trưng bỗng biết run rẩy: “Biển cho tôi cảm xúc! Một

cảm xúc dạt dào như những con sóng đánh vào tâm hồn của những người

cầm bút…” [35].

Những chặng đường sáng tác và trưởng thành của Lê Thị Mây được

đánh dấu bằng sự ra đời của những tập thơ. Càng về sau chất triết lý trong thơ

Lê Thị Mây càng gia tăng. Hơn hai mươi tác phẩm đã xuất bản là thành quả

lao động nghệ thuật không ngừng của tác giả Những mùa trăng mong chờ.

Thơ Lê Thị Mây càng về sau càng “chín”, từng trải và triết lý hơn. Qua

những tập thơ đã xuất bản, Lê Thị Mây thể hiện khá rõ nét phong cách nghệ

thuật của mình. Ở đề tài nào chị cũng có những vần thơ đặc sắc đi vào lòng

người đọc. Lê Thị Mây đã cảm thông với cuộc đời, với những kiếp người từ

những nỗi đau của bản thân nhà thơ bằng sự sẻ chia thành thực nhất. Nhưng

có lẽ đặc sắc và ám ảnh nhất là những bài thơ viết về tình yêu. Nó giống như

sợi chỉ đỏ xuyên suốt chặng đường sáng tác thơ Lê Thị Mây. Tình yêu ấy lớn

lên theo sự phát triển của từng tập thơ; khóc cười trong trái tim người đàn bà

suốt đời đi tìm tình yêu đích thực.

34

Lê Thị Mây là một nhà thơ đi đến hiện đại tự nhiên, không cần tuyên

ngôn, lớn tiếng.

Trong Nhà văn Việt Nam hiện đại (Hội Nhà văn Việt Nam, 2007), nhà

thơ tâm sự : “Tôi nghĩ, thơ là nỗi buồn thầm kín của tôi đã cất tiếng khóc khi

còn lại một mình”.

Thuộc thế hệ nhà văn xuất hiện từ kháng chiến chống Mỹ, đi qua

những mất mát đau thương của chiến tranh dân tộc, Lê Thị Mây thấm thía

những mất mát của chiến tranh đem lại. Nhà thơ không đi sâu khai thác cuộc

chiến ở mặt bom rơi máu đổ, khốc liệt chiến trường mà luôn luôn quan tâm,

đi sâu vào từng số phận con người,những nỗi đau, mất mát chiến tranh để lại.

Ở Lê Thị Mây, nhà văn trước hết phải là công dân, người chiến sĩ. Số

phận đất nước gắn liền với số phận dân tộc và chiến tranh. Nhà thơ đề cao tư

cách công dân của người nghệ sĩ.

Tiểu kết

Trường ca là thể loại có sức dung chứa và phản ánh những sự kiện lớn

lao của thời đại. Các nhà văn, nhà thơ đã chọn trường ca để thử sức và lưu giữ

cảm xúc về giai đoạn quan trọng của lịch sử. Trường ca Việt Nam hiện đại là

sự tiếp nối nghệ thuật truyền thống, phát triển bền bỉ và khẳng định được vị trí

qua thời gian. Chưa bao giờ trường ca Việt Nam phát triển rực rỡ như thời kỳ

chống đế quốc Mỹ và thời kỳ hậu chiến. Độ lùi thời gian càng làm tăng khả

năng phản ánh, chất triết lý chiêm nghiệm và sức nặng mỗi bản trường ca.

Trường ca đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và tiếp tục phát triển,

khẳng định vị thế trong nền thơ ca dân tộc.

Lê Thị Mây là gương mặt nữ đầu tiên thuộc thế hệ chống Mỹ viết

trường ca. Những tác phẩm của nhà thơ được xuất bản đã đạt được những

thành công nhất định trong văn học hiện đại dân tộc. Bảy tập thơ, ba trường

ca, bút ký,văn xuôi… ra đời là kết quả của quá trình sáng tạo nghệ thuật

không mệt mỏi của tác giả.

35

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG THẨM MỸ TRONG

TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY

2.1. Hình ảnh người chiến sĩ

Nhân vật người chiến sĩ là hình ảnh xuyên suốt trong văn học Việt Nam

thời kì kháng chiến. Dưới ngòi bút của các tác giả, họ - những con người

nguyện hi sinh cả máu xương, hạnh phúc riêng tư và tuổi thanh xuân cho đất

nước hiện lên với muôn vẻ đẹp anh hùng và quả cảm, lạc quan.

Tiếp nối truyền thống tốt đẹp ấy, Lê Thị Mây với hai trường ca Lửa

mùa hong áo và Tự khúc ánh sáng đã thể hiện đầy đủ mọi khía cạnh trong

cuộc sống và chiến đấu của họ, làm nổi bật những phẩm chất quý giá của

người lính cụ Hồ.

2.1.1. Những người lính trực tiếp chiến đấu

Những người lính anh dũng quả cảm không quản ngại gian khổ hi sinh

nơi tuyến đầu góp phần làm nên chiến thắng dân tộc. Họ ra đi để lại sau lưng

là quê hương yêu dấu, người mẹ già đợi cửa chờ con, người em gái thân

thương chưa kịp hẹn hò:

“Mười sáu mười bảy tuổi ai không nao nức

Mong được rời nách áo mẹ ra đi

Tiếng núi sông thăm thẳm rầm rì

Phía mặt trận trai làng hành quân lũ lượt

… Buổi ấy yêu chưa ai kịp hẹn hò

Kề cái chết lòng nung quyết thắng”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Với họ, hạnh phúc của toàn dân tộc còn lớn hơn gấp bội tình cảm riêng tư:

“Nhưng em ơi, chính giây phút này đây

Cho anh được quên niềm riêng nồng cháy

… Cho anh được quên để nhớ về đất nước”

(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)

36

Dưới ngòi bút của Lê Thị Mây, những gian khổ hi sinh của người chiến

sĩ hiện lên rõ ràng; mất mát đau thương mà không bi lụy, đầy quyết tâm và

quả cảm:

“Nằm trên thớt

Ngực gãy bảy chiếc xương sườn mỗi hơi thở cõng niềm tin lăn tới

… Đấu trí

Trả đòn

Chết không sợ, không nhụt chí”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Họ dùng chính nghĩa làm vũ khí chiến thắng những thế lực đen tối, tội

ác khôn cùng quân giặc gây ra:

“Họng súng nhằm phụ nữ mang thai

Sự hủy diệt văn minh không tuyên bố

Sự hủy diệt trái đất không tuyên bố

Một Việt Nam bị ngắm đầu mũi xâm lăng

… Mỹ leo thang Mỹ gây nồi da xáo thịt”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Đất nước có chiến tranh, người chiến sĩ ý thức được nhiệm vụ và sứ

mệnh lịch sử của mình, với “lời thề cảm tử vùi sâu trong ngực” (Lửa mùa

hong áo – Lê Thị Mây). Bước vào cuộc chiến là bước vào nơi cam go ác liệt, là:

“Mười ngón tay bám chặt lấy mùa khô

Ngón chân Giao Chỉ nghe gió lạnh từ Mũi Đước

Ngầm Lộp ộp sập lầy hố bom sâu hong hốc”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Biết bao gian khổ hi sinh, những thiếu thốn vật chất không thể kể hết:

“Với ngày hai thỏi lương khô

Với cơn sốt rét mùa mưa tái rừng”

(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)

37

Nhưng trên tất cả, những người lính cụ Hồ không bị hiện thực bi

thương vùi dập mà vượt qua đầy nghị lực, lạc quan:

“Có hôm chỉ toàn bánh vẽ

Em vẽ lên trời một vầng trăng khuôn mặt mẹ Âu Cơ

Em vẽ con cua chín càng bò về chân bể”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Chừng nào còn bóng dáng quân thù trên đất nước người lính còn vững

tay súng đương đầu:

“Anh lại đi với khẩu súng trong tay

Anh lại đi

Đôi dép đúc thay quai

Con tàu lính ồn ào lời tiễn biệt”

(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)

Các tác giả viết trường ca về chiến tranh không né tránh hiện thực, hi

sinh mà đối diện với hiện thực. Dưới ngòi bút của họ, chiến tranh và người

lính hiện lên chân thực nhất. Trên chiến trường, ranh giới giữa sự sống và cái

chết mong manh, “nhẹ tựa lông hồng”:

“Nhưng em ơi, biết bao đồng đội

Nằm lại với non sông như đá tảng cây rừng”

(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)

Những người lính chiến đấu, “đã sống và chết

Giản dị và bình tâm”

(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)

Họ nằm lại trên chiến trường cùng đồng đội, đồng chí, hóa thân vào núi

sông đất nước, vào dáng hình xứ sở:

38

“Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh

Trọn đời làm chiến sĩ vô danh”

(Bài ca chim Chơrao – Thu Bồn)

Tên tuổi họ mãi bất tử âm vang tới ngàn đời để những thế hệ nối tiếp

Việt Nam kề vai gánh vác non sông:

“Sau cánh cửa xà lim bao đồng chí

Không trở về xương cốt hóa muối mặn đại dương

Đá chuyển rung trong thớ đá

Thời gian

Phục sinh trên những hàng bia mộ”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

2.1.2. Những nữ giao liên mở đường

Gắn bó một phần cuộc đời mình với cuộc chiến tranh chống Mỹ vĩ đại

của đất nước, bằng những chiêm nghiệm của bản thân và trái tim đồng cảm,

Lê Thị Mây viết rất hay, rất xúc động về cuộc sống những nữ giao liên mở

đường. Trong sáng tác của tác giả, những cô gái thanh niên xung phong hiện

lên thân thương mà quả cảm. Họ mang trong lòng sức mạnh và nghị lực phi

thường quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, vượt mọi gian khổ hi sinh

bằng tình yêu tổ quốc:

“Em Mận không chịu thay ca

Đứng làm cọc đường mắt thâm quầng

… Tiểu đội bổ sung quân, đầu chụm đầu yêu thương

Lòng không sờn qua cái chết”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Những người con gái vẫn chưa bước qua tuổi mười tám đôi mươi, chưa

biết thế nào là rung động yêu thương đầu đời:

39

“Chưa một lần yêu cho lồng ngực rung lên

Đáy thắt lưng ong em chưa một lần làm mẹ

Ba mươi tuổi em không còn trẻ”

(Sông núi trên vai – Anh Ngọc)

Lê Thị Mây viết về họ xúc động và ám ảnh. Tác giả soi chiếu kĩ vào

từng số phận, từng con người; dừng lại rất lâu tri ân, mặc niệm với tình cảm

trìu mến, dịu hiền và khâm phục cho chính chặng đường thanh xuân mình đã

đi qua, cho những người chị, người em, những người con gái cùng từng chung

chiến hào, kề vai sát cánh:

“À ru nào trái bầu non

Tình em tình chị đỡ dìu nâng niu

Khi em út nào khi chị cả

Khi chụm đầu tình đồng chí sẻ chia”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Đó là những em Nụ, em Ngân, em Thảo, em Hoa, em Cúc, em Đào,

“Em Xoan ăn chưa no lo vác nặng/… Em cõng mìn/ Cõng kíp nổ”; “Em Quế

gầy nhom/ Mười bảy tuổi/ Chưa có eo lưng/ Chưa có bắp thịt/… Sinh mệnh

con đường hòa máu thịt vào em”; “Em Nết, em Ngò/… Cơn sốt rét da xanh

vào mặt đá”; “Em Cải út/ Bím tóc đen dày/ Má em nẻ gió bấc đỏ rực/… Trái

tim châm ngòi nổ phá thủy lôi” (Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Gian khổ là thế, hi sinh là thế nhưng trên những gương mặt thiếu nữ

không bao giờ tắt nụ cười, niềm lạc quan hi vọng. Sự lạc quan ngọt ngào

trong đạn bom khóc liệt quân thù:

“Vốc nước loáng trăng

ngập ngừng soi răng khểnh

… Em nhoẻn cười nước mắt đầm vai áo bạn

… Em lung linh hát mơ câu Quan họ

Nón quai thao úp mái hóa hầm kèo”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

40

Mỗi người con gái đến với cuộc chiến mang theo một mảnh trời yêu

thương. Họ đại diện cho một thế hệ, một vùng quê bất khuất kiên cường:

“Tiểu đội mười hai người

Mười hai quê quây quần náo nức

Quả thị rơi

Bà cho chị Tấm mẹ cho thêm điều ước

Chị ngã em nâng đồng đội tựa nhau”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Không ruột rà máu mủ, không quen thân quen biết nhưng họ đã nhanh

chóng sát vai trong một chiến hào, bên nhau khi cận kề sự sống cái chết, khi

đói, khi no, những trận sốt rét rừng “xoắn tím cả làn môi” (Đường tới thành

phố- Hữu Thỉnh) làm tiều tụy vẻ thanh xuân hừng hực sức sống.

Họ gọi nhau là chị em; nhường nhau từng miếng cơm manh áo; chăm

nhau từng giấc ngủ; cùng nhớ về mẹ, về quê hương - nguồn yêu thương nuôi

dưỡng sức mạnh; nhắc nhau vượt qua gian khổ hi sinh, ốm đau bệnh tật để

chờ đón ngày “núi sông nối liền một dải” (Lời của Bác – Đình Thu):

“Chân hàng ẩn gió Lào quay quắt

Nắm cơm treo phần đồng đội lá đu cong…”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Hình ảnh những người nữ giao liên mở đường “áo con gái nắng xổ tà

còn nguyên niềm mơ ước” hiện lên rất đẹp trên trang viết các tác giả qua hai

cuộc chiến tranh. Họ không yếu đuối bi lụy mà đầy quyết tâm chiến đấu và

chiến thắng, vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương vững chắc góp phần vào

chiến thắng dân tộc:

“Gặp em trên cao lộng gió

Rừng lạ, ào ào lá đỏ

Em đứng bên đường

41

Như quê hương

Vai áo bạc quàng súng trường”

(Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi)

Họ là những nữ thanh niên xung phong nơi Ngã ba Đồng Lộc, là

Nguyệt nơi Mảnh trăng cuối rừng, là chị Võ Thị Sáu hiên ngang hát vang khi

bước ra pháp trường. Họ góp công làm nên con đường Trường Sơn huyết

mạch; những người con mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, tên tuổi họ hòa vào

non sông với biết bao đồng đội vô danh khác: “Không ai nhớ mặt đặt tên/

Nhưng họ đã làm ra đất nước” (Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm),

để lại một Khoảng trời hố bom thương nhớ:

“Tên em đã thành tên chung anh gọi

Em là cô thanh niên xung phong”

(Gửi em – cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật)

Những con người đã trở về, đã ra đi, đã sống và đã chết để làm nên

tương lai đất nước. Những nữ giao liên mở đường giữ vị trí trang trọng và ưu

ái trong trường ca Lê Thị Mây:

“Sau trận bom

… Đồng đội mặc niệm bên đồng đội

Rừng mặc niệm bên rừng

Đá mặc niệm bên đá”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Ước mơ hạnh phúc riêng tư, về mái ấm gia đình, về chàng trai yêu

thương ngày hòa bình luôn hiện hữu, đáng yêu, đáng trân trọng và cảm động:

“Tiểu đội mười hai người

Đáy ba lô có mảng trời xanh áo cưới

… Ôi buồng cau lổ chín ngã bên thềm

Trầu cánh phượng thách người chưa dám cưới

42

Hiên mưa dầm hoa lựu thức trắng đêm

Cát nín lặng vùi sâu thêm nỗi đợi”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Có thể nói, những vần thơ viết về những người nữ giao liên trong

trường ca Lê Thị Mây là những vần thơ đẹp nhất. Những vần thơ có cả chất

thép và chất tình, có cả sự dịu dàng và lòng quả cảm. Họ góp phần làm nên

hình tượng người phụ nữ Việt Nam, đại diện cho một thế hệ thanh niên đã

sống và chiến đấu hết mình vì dân tộc. Họ chứng minh rằng: điều chính nghĩa

dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn luôn chiến thắng, tình yêu thực sự có

sức mạnh vượt qua tất cả.

2.1.3. Những chiến sĩ làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu

Những chiến sĩ ấy thầm lặng phía sau, ngày đêm cùng hậu phương tiếp

sức cho chiến trường. Đó là những anh nuôi vốn quen thuộc và nổi tiếng trong

văn thơ cách mạng với Bếp Hoàng Cầm, với Tiểu đội xe không kính, với chú

bé liên lạc Lượm quả cảm mà hồn nhiên trong thơ Tố Hữu:

“Vụt qua mặt trận

Đạn bay vèo vèo

Thư đề “thượng khẩn”

Sợ chi hiểm nghèo!”

Trong sáng tác của mình, Lê Thị Mây dành hẳn một chương nói về họ.

Hình ảnh những chiến sĩ đưa thư, giữ kho muối cần cù và nhẫn nại, chiến đấu

với lòng yêu nước, sự quyết tâm:

Lính kho: “Lính kho đội hàng

Như Sơn Tinh

Cổ tích

Nghìn bậc lên trời

Nghìn sâu

Xuống thác…”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

43

Giao liên: “Giao liên đi

Bằng tai

Bằng mũi

Bằng mắt

Choạng tối nhận lệnh

Mờ đất giao quân”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Có những gian khổ hi sinh, có sự đối mặt giữa sự sống và cái chết

nhưng họ luôn giữ tinh thần lạc quan quyết một lòng đồng tâm đánh giặc.

Những chú voi chiến đấu, cỏ cây, con đường, ánh trăng.... cũng trở

thành tấm gương phản chiếu, đại diện cho lòng yêu nước. Không biết tự lúc

nào những vật tưởng chừng vô tri ấy cũng mang tâm hồn, mang tình yêu nước

mạnh mẽ, đầy nội lực và đáng khâm phục dưới ngòi bút tinh tế của Lê Thị Mây:

Đá: “Đá cuộn âm thầm

Theo gót mùa mưa, mùa khô chiến dịch”

Voi: “Voi

Cuốn ngà voi húc đánh vu hồi sào huyệt

Trâu cuốn sừng

Húc vào lưng Mỹ truy kích”

Đường: “Người hi sinh hồn vía nhập cung đường

Con đường cao hơn khi vượt hố bom xe rú

Con đường cao hơn khi vượt ngầm nước lũ

Con đường cao hơn khi vượt hố lầy”

Cỏ: “Chân nương cỏ, cỏ không cúi rạp

Chân chạm đá, đá nín thở nằm im

Chân lội suối, suối giữ nguyên lá mục”

Trăng: “Gương con soi

Trăng thành vừng mẫu tử”

44

Tất cả làm nên bản anh hùng ca hào hùng, đẹp mà không kém phần

lãng mạn. Làm nên bức tranh muôn màu về cuộc chiến tranh cam go khắc

nghiệt nhưng luôn hừng hực tinh thần chiến đấu, hừng hực lòng lạc quan,

quyết chiến và quyết thắng trước kẻ thù.

2.2. Hình ảnh người phụ nữ

2.2.1. Hình ảnh người mẹ

Mẹ - bóng hình dấu yêu luôn ám ảnh trong thơ Lê Thị Mây. Ta có thể

bắt gặp Mẹ với những nỗi đau thương, mất mát, đức hi sinh, tảo tần ở bất cứ

tập thơ nào: Mẹ và Tổ quốc, Nôi tre, Mẹ, Với mẹ, Với mẹ cơn sốt chưa giảm,

Giấc mơ của mẹ, Ngôi làng mẹ sinh anh, Những bè dấu chân, Bi ca về sự ám

sát người mẹ, Hát nựng con… Lê Thị Mây có hẳn một mảng thơ phong phú,

tràn đầy xúc cảm thiêng liêng dành cho Mẹ. Dù “Thế giới đổi thay mới mẻ

bao điều/ Tôi đã trên đầu hai thứ tóc”, nhưng trở về với Mẹ, với quê hương,

nhà thơ vẫn ngỡ mình còn nhỏ bé: “Và trong ký ức/ Mẹ sinh nên làng/… Thuở

mẹ sinh làng trăng cài bướm lên hàng cúc” để mẹ âu yếm, vỗ về:

“Chân nối bàn chân âm thầm nỗi nhớ

Tay quờ đêm ấp vú mẹ nói mê…”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Mẹ là niềm tin và sức mạnh gợi nhắc chiến sĩ tìm về, khắc ghi trong

mỗi giờ phút hi sinh gian khổ. Trong tim người chiến sĩ, hình ảnh người mẹ

luôn là hình ảnh tỏa sáng nhất:

“Gân đá tư tưởng đá con đọc chính bằng tinh thần của con qua

nỗi đau

Bằng chính trái tim mẹ con đã sinh thành trao tặng con nhịp đập

Tự thuở trong bào thai chín tháng mười ngày”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

45

Mẹ gắn với những điều gần gũi thân thương, vùng văn hóa dân gian

thấm đượm ân tình. Mẹ đã hóa cổ tích, huyền thoại. Đó là vẻ đẹp mang đậm

thiên tính nữ ở con người quê mộc mạc đơn sơ của mẹ. Chỉ trong vần thơ về

mẹ chúng ta mới có thể bắt gặp những tiếng vọng nghĩa tình tri ân cảm động:

“Mẹ gập bóng bên con

Tóc con rụng

Mẹ so vào sợi nhớ

Tay con gầy

Mẹ đỡ quả gọi xuân”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Mẹ từ lâu đẹp và thiêng liêng, tạc vào non sông đất nước, đại diện cho

phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: anh hùng, bất khuất, trung

hậu, đảm đang. Văn học kháng chiến đã khắc họa rất thành công hình ảnh

người mẹ, người chị anh dũng, tảo tần: chị Út Tịch, mẹ Suốt, mẹ Tơm…:

“Bà Định

Đếm bom

Bà mẹ cầm súng

Chị Út Tịch

Đếm bom

Chị Võ Thị Thắng

Trong xà lim với nụ cười bất diệt”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

“Chúng tôi biết ơn bà mẹ nghèo làng Gióng

Đẫ nuôi con lam lũ nhọc nhằn”

(Trường ca sư đoàn – Nguyễn Đức Mậu)

Mẹ bước ra từ ca dao dân ca, mẹ là lời ru ngọt ngào ấm lòng chiến sĩ

giữa rừng sâu:

46

“Con vùi mặt vào rừng ngủ

… Gió cõng rừng áo mẹ bọc câu ca

Trăm trứng bọc lời nguyền chân lý

Như yếm bùa trước ngực yếm con mang”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

từ cổ tích, truyền thuyết, Bà Trưng bà Triệu:

“Quả thị rơi

Bà cho chị Tấm mẹ cho thêm điều ước”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Mẹ hiện lên đẹp, nhẫn nại, dịu hiền và hi sinh trong kháng chiến chống

Mỹ. Trên bước đường hành quân mỗi người con thấp thoáng bóng dáng mẹ -

hậu phương lớn quê nhà ngóng trông, mong chờ tin thắng trận:

“Mẹ chờ con – lòng mẹ rộng bao la

… Mẹ hằng dõi theo ta qua tháng ngày lửa đạn”

(Con đường của những vì sao – Nguyễn Trọng Tạo)

Mẹ là cội nguồn nuôi dưỡng sức mạnh, mẹ chở che và bao bọc, mẹ là

Hơi ấm ổ rơm. Mẹ hóa thân thành huyền thoại:

“Bóng mẹ rưng rưng hậu phương lớn quê nhà

Vừng dương lăn hũ gạo mỗi ngày đầy thêm một nắm”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Cũng giống như sáng tác của các tác giả khác. Trong sáng tác Lê Thị

Mây mẹ chiếm một số lượng lớn, một vị trí quan trọng và thiêng liêng. Nơi

đâu cũng có thể bắt gặp bóng dáng mẹ, hình ảnh mẹ - những bà mẹ Việt Nam

anh hùng:

“Mẹ ẩn hình cây ẩn tuổi

Tay mẹ nâng niu tay mẹ ẵm bồng”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

47

Mẹ đẹp, bao dung nhân hậu trong cả thời chiến và thời bình. Mẹ đi suốt

chặng đường sáng tác thơ ca Lê Thị Mây:

“Rừng là mẹ

Cây là lời

Âu Cơ

Trăm trứng

Bọc cười

Tiếng con”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

“Mẹ tránh bão bằng sự bao dung. Bằng sự chở che. Bằng sự

chịu đựng. Đem nước mắt tưới cho cây. Đem mồ hôi làm nên muối mặn. Cả

cuộc đời là dòng sông. Lọn tóc đen là nguồn mạch tâm hồn”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Dưới ngòi bút của Lê Thị Mây, hình ảnh mẹ bằng xương bằng thịt đã

hóa thân thành quê hương, thành dáng hình xứ sở. Tình yêu thương của mẹ đã

chuyển hóa thành tình quê hương, dân tộc. Mẹ bao bọc, chở che, mẹ bảo vệ

nâng bước chân chiến sĩ trên bước đường gian lao:

“Mẹ là miền Trung gánh nợ nước thù nhà

… Vành tang lớn âm thầm mẹ biết

Đau thắt đêm dài mỗi tấc núi sông

Giọt nước mắt lặn vào từng khúc ruột”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Với trái tim phụ nữ đôn hậu dịu dàng, Lê Thị Mây đã viết lên những

vần thơ đầy xúc động về mẹ - Người mẹ Việt Nam – Người mẹ anh hùng.

Những vần thơ về mẹ mãi ám ảnh tâm trí người đọc, đại diện cho một thế hệ,

một dân tộc đau thương mà anh hùng.

48

2.2.2. Khát vọng hạnh phúc

Khát vọng hạnh phúc là niềm tin để người chiến sĩ làm nên những

chiến công cho ngày hòa bình lập lại. Đó chính là điểm nhấn soi sáng trong

tâm hồn con người. Xuất phát từ tâm trạng và hoàn cảnh đã trải qua, Lê Thị

Mây như dốc hết gan ruột để giãi bày trong sáng tác của mình, để nói lên

những khát khao hạnh phúc riêng tư những nữ chiến sĩ trong bom đạn chiến

tranh, trong khói bom ác liệt. Hiện thực khắc nghiệt nhưng không bi lụy,

những người chiến sĩ ấy luôn sống, chiến đấu hết mình và ước mong ngày hòa

bình lập lại, họ được trở về với cuộc sống đời thường, được làm tròn thiên

chức người vợ, người mẹ với mong ước hạnh phúc nhỏ nhoi:

“Con về Nam chiến trường giục giã

Tấm ảnh gia đình ôm ấp giấc mơ

Ôi tấm ảnh chụp chung con những tưởng

Sẽ có ngày khoe mẹ lũ con thơ

Sẽ có ngày mẹ thỏa lòng ngắm mừng con gái

Tập kết theo chồng công tác đảm đang”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Uớc mong tưởng chừng giản đơn ấy nhưng trong cuộc chiến tranh

chống Mỹ trường kì của dân tộc lại cần cả một sự cố gắng, một sức mạnh phi

thường của không biết bao con người chiến đấu ngày đêm giành lấy độc lập,

giành lấy tự do:

“Để có một đồng bằng trước mặt

Chúng ta lên đường mười tám đôi mươi”

(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Những tâm sự, ẩn ức riêng tư thể hiện rõ cả trong thời chiến và thời

bình. Lê Thị Mây đi sâu vào từng ngõ ngách trong tâm hồn con người. Đó là

49

mong ước rất đáng yêu và giản dị của người nữ thanh niên xung phong về

ngày cưới, ngày chung đôi:

“Ôi buồng cau lổ chín ngã bên thềm

Trầu cánh phượng thách người chưa dám cưới

Hiên mưa dầm hoa lựu thức thâu đêm

Cát nín lặng vùi sâu thêm nỗi đợi”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Đó là nỗi nhớ mong gia đình, nhớ mong mẹ, quê hương bản quán:

“Áo sung quân lính mới mặc nguyên hồ

Cây môn thục nhớ vườn rau, quả cà dầm của mẹ”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Ngày đoàn tụ, những người lính vỡ òa trong niềm vui, niềm hạnh phúc

thân thương sau tháng năm dài xa cách:

“Hòa bình như đứa con lưu lạc

Chạy chân trần về gặp lại quê hương!”

(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)

Tình yêu và sự thủy chung dành cho người yêu thương, cho một niềm

tin mãnh liệt vào ngày gặp mặt, sông núi yên bình:

“Một ngày xưa yêu cho đến bao giờ

Con còng gió nghiêng mặt trời xe cát

Yêu đến sâu nước khôn cùng dào dạt

Yêu đến bờ yêu đến bến chao chân

Bông súng đỏ phù sa lên gò má

Mắt liếc lá răm hẹn hãy còn xuân”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Đó là những phút tâm tình nơi chiến trường chị em san sẻ cho nhau:

“Không lời trối trăng chị dìu em qua cái chết bàng hoàng

50

Tên các chị, khuôn mặt các chị, em chưa biết hết

Nhưng nhịp đập của tình yêu tha thiết

Làm tổ trong ngực em tựa tằm nằm trong kén”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Có những con người may mắn được trở về, được tiếp tục sống và cống

hiến cho đất nước ở thời bình, được làm vợ, làm mẹ. Và có những con người

mãi mãi không trở về nhưng trái tim họ để lại tình yêu vô bờ ở tuổi thanh

xuân, để lại khoảng trời xanh ngát tuổi hai mươi: Đặng Thùy Trâm, Nguyễn

Văn Thạc:

“Trong bọc áo chị còn kim chỉ, trang nhật kí dở dang

… Màu mực đừng phai, vết đạn xuyên thời gian dằng dặc

Kí ức bập bùng mỗi tên núi tên sông thao thức những thiêng liêng.

… Gió lật từng trang sẽ gặp chị dép lốp ba lô má lúm đồng tiền,

gặp khi chị hát, chị ru, gặp lời anh tiễn đưa chưa kịp hẹn hò đôi lứa

Áo cưới vò đau, nước chảy hóa trời xanh…”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Khát vọng và ước mong hạnh phúc thời nào cũng thế, bước qua chiến

tranh, con người lại trở về với cuộc sống đời thường. Sự tan hoang đổ nát dần

nhường chỗ cho cuộc sống bình yên. Miền sống cứ tiếp tục sinh sôi từ đời này

qua đời khác. Người thiếu nữ trong thời bình cũng mang ước mong về một

mái ấm hạnh phúc, cũng kiếm tìm hạnh phúc của cuộc đời mình:

“Em gọi anh là chàng trai biển muốn chỉ kể anh nghe. Sợ anh

lẫn đám đông trai thuyền trai làng hào hoa kia trai phố. Em nhắc nghìn lần

nhưng không đủ. Cuộc kiếm tìm sự e ngại làm cho nhiều lời”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

51

Lê Thị Mây diễn tả rất chính xác tâm trạng của thiếu nữ đang yêu trong

cuộc sống bình yên ở Người sau chân sóng. Từ cái e ấp nhẹ nhàng thuở tóc

đuôi gà:

“Lũ con gái là lũ dìa hoa bơi trong bờ mà không thể làm động

biển. Tóc đuôi gà buộc nồm non con mắt cười mà chớp về lúng liếng. Lũ trai

làng bén gót níu sau lưng”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Đến cái lúng túng hồi hộp loạn nhịp trước người mình yêu:

“Rung cảm ngân từ cát ánh sao xanh. Tay úp vào tay cho thời

gian làm ngọc. Bầy sếu núi Mâu bay về đầu cửa sông chở cả ánh hoàng hôn.

Dưới cánh chim có ảo ảnh nhịp tim anh và em cùng du ca giữa bay và tìm đậu”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Sự ngóng trông và nỗi nhớ đợi da diết khi người yêu đi xa:

“Người ra đi và em ở lại, nỗi buồn ai dâng đầy? Trái tim em thả

neo, lòng chờ đợi ngày mai. Ánh lân tinh em vớt lên dát ngời vạt áo hóa muôn

sắc thêu thùa giấc mơ thiếu nữ”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Và niềm hạnh phúc vỡ òa ngày gặp mặt. Những nhớ thương hờn giận

trào dâng sau bao tháng ngày xa cách:

“Thuyền về bến chưa phơi xong mành lưới. Không kịp chào hỏi

mọi người anh vội vã tìm em… Nỗi vồ vập bị kìm nén bước chân anh chùng

chình bị lạc… Môi mượn lời yến ríu ran làm tổ. Bọt của sóng khơi và máu

của tim làm nên tổ báu vật yến sào. Nhịp tim mạch gấp gáp ngọt ngào… Mắt

lưới em đan muốn vây bủa nhịp tim”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Tất cả hiện lên trọn vẹn và tràn đầy, đầy hứng khởi ngợi ca cuộc sống

mới hòa bình. Tất cả được viết lên, được giãi bày từ chính gan ruột tác giả với

52

quê hương, từ những cảm xúc vốn dĩ của con người mà tác giả đã trải qua, rất

đáng yêu đáng trân trọng.

2.3. Hình ảnh đất nước

Đất nước là hình ảnh trung tâm trong bất cứ sáng tác nào thời kì kháng

chiến và hậu kháng chiến. Độ lùi thời gian và không khí sử thi càng khiến đất

nước hiện lên hào hùng và huyền thoại. Rất nhiều trường ca lớn ra đời lấy

hình tượng đất nước là trung tâm: Bài ca chim chơrao (Thu Bồn), Lửa đèn

(Phạm Tiến Duật), Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Đường tới

thành phố (Hữu Thỉnh), Những người đi tới biển (Thanh Thảo), Trường ca sư

đoàn ( Nguyễn Đức Mậu), Sóng Côn Đảo (Anh Ngọc), Đất nước hình tia

chớp (Trần Mạnh Hảo)….

Hòa trong dòng cảm hứng yêu nước ấy, Lê Thị Mây đã viết lên những

vần thơ đầy cảm xúc thiêng liêng về đất nước, dân tộc, quê hương, xuyên suốt

trong cả ba bản trường ca của tác giả.

2.3.1. Hình ảnh đất nước trong chiến tranh

Trong chiến tranh, đất nước gợi nhiều niềm thương nhớ. Tột cùng tội

ác quân giặc gieo rắc trên khắp đất nước này khiến bất cứ người con dân tộc

Việt Nam nào cũng cảm thấy xót đau. Những giá trị văn hóa lịch sử ngàn đời

ông cha để lại, buổi bình yên một sáng tinh mơ trên đồng lúa, những nốt nhạc

ước mơ tương lai con nhỏ bị giày xéo hoang tàn:

“Mịt mù từ buổi tinh mơ

Bom tọa độ trẻ chăn trâu ngửa mặt lùa trâu tìm cỏ

Rầm

Cột

Đời Lý, Trần

Gạch

Ngói

53

Đời Đinh, Nguyễn

Lấp hố bom

Chống lầy

Bên hố bom cây sáo còn nguyên nốt nhạc

Đám mây cõng diều sơ tán qua chân đê”.

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Hình ảnh đất nước của những ngày xưa cũ yên bình và hiền hòa luôn

ám ảnh, trở đi trở lại trong sáng tác các tác giả. Đất nước đẹp dịu dàng xao

xuyến lòng độ sang thu:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may”

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Hoa gạo tượng trưng cho sự bình yên trong không gian văn hóa cổ

truyền nông thôn Việt, gắn với cây đa, bến nước, sân đình, hội hè, đình đám.

Hoa gạo đỏ bờ tháng ba dịu dàng mà đau thương giữa cuộc chiến tranh khốc

liệt.Biểu tượng choc ho cuộc sống sung túc ấm no. Hoa gạo nhắc người chiến

sĩ ước vọng niềm tin về ngày hòa bình không xa:

“Rạng ngày ngủ chửa kịp mơ

Miên man hoa gạo đỏ bờ tháng ba”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Đất nước là sự đồng vọng quá khứ, hiện tại và tương lai. Đất nước gắn

liền với tuổi thơ êm đềm, với dòng sông quê ngày đêm ấp ôm che chở xóm

làng, với những người mẹ mỏi ngóng tin con. Hình ảnh dòng sông trở đi trở

lại ám ảnh trong thơ Lê Thị Mây. Hồn quê luôn gắn với hồn sông, bao vui

54

buồn quá khứ hiện tại và chắc cả tương lai cũng diễn ra bên dòng sông quen

thuộc: từ con sông Bạch Đằng hào hùng lịch sử đến Nhớ con sông quê hương

của Giang Nam, Bên kia sông Đuống kiên cường mà đau thương gắn với lịch

sử một giai đoạn lịch sử dân tộc của Hoàng Cầm…:

“Dòng sông thời gian

Sông khúc xạ niềm thương

Sông đau thắt

Khúc bi hùng đát nước trong đất nước

Khúc bi hùng máu trong máu hi sinh”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Đất nước là nỗi nhớ mong những giá trị văn hóa quý giá của dân tộc:

trầu cánh phượng, bến sông quê, tục cưới hỏi. Với tiếng trống chèo đêm hội

nam nữ hát khúc giao duyên:

“Ôi đất nước ta yêu

Ngọn núi dòng sông

Lối ngõ bờ tre thành phố cánh đồng

Câu ví đò xuôi

Trống chèo đêm hội

Con trâu kéo cày ngẩng nhìn ống khói

Sắc mật tiếng ve, cong vút tiếng gà”

(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)

Đất nước sống trong trái tim và lí tưởng những người chiến sĩ đang đối

mặt với bom đạn kẻ thù, giữa sự sống và cái chết:

“Thẳng căng một dây đàn bầu từ trái tim mỗi người đến trái tim Tổ quốc

Hoàng Sa, Trường Sa Côn Đảo là những nốt đàn sóng lớp lớp âm vang”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

55

Đất nước là sự đoàn kết, là tinh thần đồng đội cao quý và thiêng liêng,

tình quân dân cá nước:

“Bùn là xương cốt đồng đội

Người sống sống cho người chết

Nguyện hi sinh

Người chết chết cho người sống

Nguyện hi sinh

Đá hộc là thân thể nứt ra từ trống đồng Ngọc Lũ

Là phần kết lại mộ hồn chiến sĩ

… Trụ sống lưng Tổ quốc”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Hình ảnh Mẹ Âu Cơ bọc trăm trứng, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”,

một câu hát đưa đò, một khúc ca quan họ, một câu ca dao da diết trữ tình hiện

lên đằm thắm đầy cảm động trong trường ca Lê Thị Mây:

“Từ bọc trứng Âu Cơ đá tụ hồn người quyết tử

Núi sinh núi đất nước ra đời

Núi sinh núi trăm trứng huyền tích ra đời

Trứng đầu thai thắng ngoại xâm từ Bà Trưng Bà Triệu”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

2.3.2. Hình ảnh đất nước trong thời bình

Bước qua cuộc chiến, đất nước mạnh mẽ đi lên, vươn cao và vươn xa

với sức sống mới, nội lực tràn đầy. Tất cả được thể hiện đầy đủ trong trường

ca Người sau chân sóng. Tác phẩm được viết bằng tình yêu ấp ủ sau hơn bốn

mươi năm xa quê hương, xa biển miền Trung ruột thịt của tác giả. Mỗi vần

thơ vì thế mà thấm đượm ân tình. Tác phẩm như một lời tri ân, như một thông

điệp yêu thương tác giả gửi về nơi chôn rau cắt rốn:

56

“Hỡi Tổ quốc Việt Nam muôn đời nghe nhạc nước. Bản thánh ca

khởi nguyên phồn thực phồn sinh. Mỗi nét bút vẽ nên bến bờ cong cong hình

thiếu nữ. Áo dài bay gấm vóc cả giang sơm, lộng lẫy vạt ngân hà”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Những con người đang ngày đêm ra khơi bám biển,chở tôm cá đầy

khoang về làm giàu quê hương:

“Thuyền vượt phao số không anh khuất sau chân sóng. Làng chỉ

còn đàn bà trẻ nít lẫn kim đan. Lưới dạ lưới te lưới mành lưới tủ. Mắt lưới

long lanh bến đợi bến chờ”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Cảnh sắc quê hương biển miền Trung hiện lên rực rỡ, tự hào trong sáng

tác tác giả:

“Sông ôm ấp làng ta là lệ chảy quanh gò má. Động cát trinh

nguyên gió lùa dấu chân bay về phía chân trời. Mặt trời mọc, mặt trời lặn

thẳng căng một đường khơi. Thẳng căng một dây đàn, con mắt thuyền nhấn

nốt. Khúc trữ tình, tình biển anh và em. Ngọn Đầu Mâu, ngọn U Bò ở giữa.

Núi Giăng Màn ngước vời vợi sóng biển Đông”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Những rặng núi, con sông, triền cát mang dáng hình đất nước, bao bọc

xóm làng:

“Bồng bềnh Trường Sa, Hoàng Sa dựng non bộ án ngự biển

Đông che ấm đất liền, hưởng trăng thanh gió lặng. Hồn vía của sông treo lên

đỉnh cột buồm”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Những huyền thoại, truyền thuyết tự ngàn đời mà người dân biển tin và

yêu, đặt trong tim ở vị trí trang trọng nhất: những núi Đầu Mâu, núi U Bò, núi

Giăng Màn, con sông Lệ, rặng Ông Hiền thần khúc:

57

“Cha bảo, rạng Ông Hiền triều lên chìm khuất. Khi triều ròng

gù lưng lật đật. San hô ngời rựng đỏ rực bình minh. Anh thì bảo, rạng Ông

Hiền vệ sĩ báo điềm lành. Cho thuyền áp cửa sông làng tình tứ”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Con người, biển, trời, thiên nhiên và cuộc sống vùng biển hòa chung

vào khúc hoan ca cuộc đời mới. Và con người trong xã hội chủ nghĩa làm chủ

cuộc đời, làm chủ bản thân. Họ sống và yêu hăng say với tất cả nhiệt huyết,

say mê tuổi trẻ:

“Trai đinh, lão ngư lặn theo bóng lạc thuyền. Thuyền bão đánh

tan tành từng mảnh. … Bao hải đội Cảm tử quân tuần biển… Bốn mặt lâu đài

ngân hà thả hoa đăng… Ôm mạn thuyền vạn chài yêu đảo. Vòng tay Người

chèo chống lúc lâm nguy.

Hỡi bến bờ

Cong cong

Hồn chữ S.

Đây biển Việt Nam”

(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)

Những vần thơ vút cao trong khí thế tự hào, gửi gắm trong đó là tình

yêu vô bờ dành cho đất nước. Mỗi mảnh đời gắn với hồn quê từ thuở hồng

hoang cha ông mở cõi:

“Ơi quê hương, trong tầm mắt ta nhìn

Chín mươi chín ngọn núi cao đứng cạnh trời phương bắc

Chín mươi chín đại bàng sải cánh trong truyền thuyết”

(Con đường của những vì sao – Nguyễn Trọng Tạo)

2.4. Lý tưởng và hành trình đi tới chiến thắng

Những cô gái, chàng trai tuổi mười tám đôi mươi gác lại ước mơ ngồi

trên ghế nhà trường, gác lại những niềm vui tuổi trẻ riêng tư để hòa mình vào

không khí đấu tranh sục sôi toàn dân tộc:

58

“Con gửi lại sau lưng

Những ước mơ nhà văn, bác học

Đề nhận lấy cánh rừng

Để nhận lấy dãy Trường Sơn dựng dốc”

(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)

Không thể kể hết những nỗi đau, mất mát hi sinh quân và dân ta đã trải

qua trong kháng chiến:

“Dioxin?

Dioxin màu cam của mười sáu công ty tư bản Mỹ

Biến dạng bào thai trẻ chỉ có đầu

… Đinh đóng vào trống trống đau

Đinh đóng vào đàn đàn rung nức nở

Dây đàn bùng cao lửa hận Việt Nam

… Chín chiếc đinh dài chín gang

Chín ổ vi trùng uốn ván

Sẵn chờ ăn thịt tù nhân

Thân tù cuộn cong dấu hỏi

Chín chiếc xuyên qua giường cưới

Xuyên đau từng thớ đất làng”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Đó là những người lính vĩnh viễn nằm xuống nơi chiến trường, không

bao giờ được chứng kiến ngày nước nhà toàn thắng:

“Chết – hy sinh cho Tổ quốc – Hùng ơi

Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất”

(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)

Những gia đình mãi mãi bị vùi lấp trong bom đạn chiến tranh, trong lửa

hận quân thù. Những người vợ mất chồng, người chồng mất vợ:

59

“Một mình một mâm cơm

Ngồi bên nào cũng lệch

Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền

Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế

Và chị buồn như bông điệp xé đôi

Bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại”

(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)

Và những mất mát, nỗi đau sau chiến tranh cho đến hôm nay vẫn vẹn

nguyên đầy ám ảnh, nhắc thế hệ trẻ nhớ về một thời đau thương của dân tộc,

về tội ác quân thù: những trẻ em bị ảnh hưởng bởi chất độc Dioxin tàn ác,

những người phụ nữ lỡ dở không có hạnh phúc nhỏ nhoi làm vợ, làm mẹ.

Những bà mẹ Việt Nam anh hùng mất chồng con.

Vượt lên trên tất cả, con người Việt Nam qua bao thế hệ vẫn luôn vững

vàng chiến đấu và chiến thắng biết bao cuộc xâm lăng, chiến tranh phi nghĩa,

giành chiến thắng vẻ vang khẳng định nội lực dân tộc mình:

“Đi qua cái chết

Cha phục sinh

Máu bẩm chưa tan trên hốc mắt hốc mũi tuổi già

Cha ôm trọn hình hài Tổ Quốc

Ôi Tổ Quốc – Không có gì quý hơn độc lập tự do”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Những con người bền bỉ sống và chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng,

Bác Hồ, dưới ngọn cờ chính nghĩa. Tất cả tạo nên sức mạnh toàn dân tộc mà

không bất cứ kẻ thù nào có thể đánh bại. Họ quyết không theo giặc, quyết

không bị mua chuộc dụ dỗ, quyết không khai dù nửa lời, mặc cho bao nhiêu

tra tấn đòn roi khắc nghiệt:

60

“Khí oan khiên uất nghẹn trời cao

Ôi thưa mẹ thù thêm chồng chất

Cơm đã thiu cá lạnh kiến ruồi bâu

Con tuyệt thực giữ trọn niềm trung liệt

Chúng đòi con ly khai Đảng vinh thân”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Nhà tù Côn Đảo là biểu tượng của sự tàn ác dã man đế quốc Mỹ dựng

lên. Đến hôm nay vẫn vẹn nguyên ám ảnh giữa bốn bề biển khơi xa xôi ngút ngàn:

“Chúng tôi ra đảo tù đã thấm máu các anh

Các anh đến giữa mùa gió chướng

Đốt xương khô gió không thể cuốn

Nằm phơi trên bãi cát mịt mù”

(Lời chào – Trần Mạnh Thường)

Tinh thần yêu nước – tinh thần thép những người tù chính trị khiến mỗi

thế hệ người Việt cảm động và vẫn ngàn năm nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước

rực cháy trong tim. Tinh thần ấy được hun đúc từ sức mạnh phi thường, lòng

tin với Đảng, Bác, và hi vọng vào một ngày mai hòa bình trong đó có một

phần đóng góp máu xương của họ:

“Chết không dễ lưỡi không tham ăn, nói hớ

Chết không dễ lưỡi không nhả đường dây cơ sở

Chết không dễ lưỡi là phẩm chất trung kiên”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Tất cả được thể hiện qua những hình ảnh nghệ thuật, những câu thơ đầy

ánh sáng ngập tràn trong thơ: con đường, trăng, màu xanh, đỏ, cau trầu, lời

ru… Trong bất cứ hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt nào con người vẫn giữ

vững niềm tin vào ngày mai chiến thắng.

61

Tiểu kết

Dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo, Lê Thị Mây đã viết lên những bản

trường ca đầy cảm xúc. Trong sáng tác của nhà thơ, hình ảnh: người chiến sĩ,

những nữ giao liên mở đường, hình ảnh mẹ, hình ảnh đất nước, khát vọng

hạnh phúc, lý tưởng chiến thắng hiện lên đẹp, gần gũi thân quen và chân thực

hơn bao giờ hết. Đó là minh chứng cho một Việt Nam bất khuất kiên cường

trong chiến tranh và hăng say đi lên con đường mới trong hòa bình. Độ lùi

thời gian và những chiêm nghiệm lịch sử khiến những sự kiện đã trôi qua

dường như vẫn vẹn nguyên tươi màu, góp phần lưu giữ những phút giây

thiêng liêng của lịch sử dân tộc. Ba bản trường ca có sức xâu chuỗi và dung

chứa lịch sử rộng lớn, là sợi chỉ xuyên suốt những chặng đường lịch sử của

dân tộc, để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.

62

CHƯƠNG 3

3.1. Hình thức tổ chức văn bản

NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY

3.1.1. Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ

Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ là yếu tố quan trọng góp phần

chuyển tải nội dung trong mỗi tác phẩm thơ. Với một thể loại có dung lượng

đồ sộ và câu chữ tương đối lớn như trường ca thì yếu tố này càng giữ vai trò

quyết định. Trong trường ca, các nhà nghiên cứu chia ra hai cách tổ chức

đoạn thơ, câu thơ là tổ chức theo sự kiện và tổ chức theo chủ đề. Xét trong

trường hợp cụ thể ba bản trường ca của Lê Thị Mây: Lửa mùa hong áo, Tự

khúc ánh sáng, Người sau chân sóng, có thể thấy ở mỗi bản trường ca có sự

sử dụng các cách tổ chức khác nhau và kết hợp nhuần nhuyễn các cách tổ

chức dựa trên dòng cảm xúc, hệ thống nhân vật và sự kiện, tạo nên sự độc đáo

và đặc trưng riêng cho phong cách viết trường ca của tác giả.

Ở Lửa mùa hong áo, tác giả tổ chức thành mười bảy chương và đặt tên

cho từng chương theo thứ tự. Lê Thị Mây đã tổ chức câu, đoạn thơ chủ yếu

theo yếu tố sự kiện, tuy vẫn có yếu tố cốt truyện và nhân vật:

Chương một: KHÚC DẠO ĐẦU

Chương hai: NGOÁI LẠI VỚI SÔNG LÀNG

Chương ba: ĐỒNG ĐỘI

Chương bốn: KHÚC HÁT NHỮNG CON ĐƯỜNG

Chương năm: BINH TRẠM TRƯỜNG SƠN

Chương sáu: ÂM VANG NHỮNG CÁNH RỪNG

Chương bảy: GIẤC MƠ BAN NGÀY

Chương tám: LỬA PHÀ MIỀN TRUNG

Chương chín: CẢM TỬ

63

Chương mười: LÍNH KHO

Chương mười một: KHÚC HUYỀN THOẠI

Chương mười hai: THƯ

Chương mười ba: ĐẾM BOM

Chương mười bốn: DƯỚI ĐÁ

Chương mười lăm: TÓC

Chương mười sáu: CHỊ ƠI

Chương mười bảy: VỌNG KHÚC TRƯỜNG SƠN

Mở đầu bản trường ca là cảnh những chàng trai cô gái rời áo mẹ ra đi,

để lại sau lưng quê hương, tuổi thơ và những người thân yêu dấu. Họ mang

theo hành trang là tình yêu bao la với quê hương đất nước, với những giá trị

văn hóa đặc sắc của dân tộc, quyết tâm thắng giặc giải phóng quê nhà. Mỗi

chương như một sự kiện có sự liên kết chặt chẽ với nhau kể về những gian

khổ hi sinh muôn mặt của người lính trên chiến trường, đời sống sinh hoạt,

chiến đấu và tâm tư tình cảm của họ. Có những chương đóng vai trò cảm xúc

trữ tình đan xen với dòng sự kiện: chương hai: Ngoái lại với sông làng,

chương bảy: Giấc mơ ban ngày, chương chín: Cảm tử, chương mười một:

Khúc huyền thoại. Có những chương đi vào khắc họa rất kĩ từng nhóm nhân

vật: Chương viết về mười hai nữ chiến sĩ – đồng đội, chương mười: lính kho.

Chương mười bảy đóng vai trò tổng kết bản trường ca, kết thúc một chặng

đương chiến đấu, khúc vĩ thanh của Lửa mùa hong áo :Vọng khúc Trường

Sơn, để lại dấu ấn trong lòng người đọc.

Nếu ở trường ca Lửa mùa hong áo tổ chức chủ yếu theo sự kiện thì ở

Tự khúc ánh sáng, tác giả lại khéo léo kết hợp hai yếu tố tổ chức theo sự kiện

và theo chủ đề. Điều đặc biệt ở bản trường ca này là tác phẩm chia làm mười

chương, và một phần vĩ thanh. Mỗi chương lại có hai phần đăng đối với nhau

được đặt tên theo trình tự sự kiện. Từ chương mở đầu có ý nghĩa như một sự

64

khái quát hành trình chiến đấu, lí tưởng của dân tộc, những khó khăn của

người chiến sĩ cách mạng tới khi sa vào lưới giặc, và những khó khăn hi sinh

gian khổ bắt đầu từ đây. Ở các chương tiếp theo tác giả miêu tả diễn biến

những khó khăn và tranh đấu của chiến sĩ trong nhà tù Côn Đảo, xen lẫn đó là

những chiêm nghiệm, những đoạn miêu tả cảm xúc trữ tình. Đánh dấu những

mốc sự kiện là những khoảng thời gian cụ thể báo hiệu từng bước chiến

thắng: Chương bốn. một: Đối mặt 1970, Chương chín. một: Côn Đảo 1972.

Tất cả có sự liên kết chặt chẽ làm nên chủ đề chung của tác phẩm là bản Tự

khúc ánh sáng, là niềm tự hào vinh quang và niềm tin bất diệt của người chiến

sĩ, của nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh ngục tù. Phần tự do và vĩ thanh

thời gian có ý nghĩa tổng kết chiến thắng của dân tộc.

Người sau chân sóng là bản trường ca viết về cuộc sống hòa bình của

Lê Thị Mây. Ở tác phẩm này tác giả đã tổ chức theo chủ đề. Tác phẩm chia

thành ba phần lớn, mỗi phần có các phần nhỏ nối tiếp nhau: phần một từ một

đến mười ba; phần hai từ mười bốn đến ba mốt; phần ba từ ba hai đến ba tám.

Mỗi phần có một phần ở cuối đóng vai trò tiểu kết. Tất cả các phần đều hướng

đến chủ đề chung của không khí ngợi ca tinh thần hăng say lao động, những

tâm tư tình cảm của đôi lứa trong thời bình. Từng phần miêu tả rất chính xác,

tinh tế diễn biến tâm tư tình cảm của người thiếu nữ, thể hiện rõ nét sự tự hào

cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ trời biển quê hương và tinh thần lao động không

ngừng nghỉ của những con người ngày đêm bám biển.

3.1.2. Ngôn ngữ

“Ngôn ngữ - “cái sản phẩm xã hội lưu giữ trong óc mỗi người” của mỗi

cộng đồng. (…) Các nhà ngôn ngữ học trên thế giới đều thống nhất “Ngôn

ngữ là một hệ thống tín hiệu, khẩu ngữ, võ đoán, dùng trong các hoạt động

giao tiếp của con người[32, tr.296] . “Qua “tiếng lòng” của nhà thơ ngôn ngữ

được cấu trúc lại để tạo thành ngôn ngữ mới, đẹp, sâu xa và triết lý” [32, tr.302].

65

Thơ hiện đại cuốn hút người đọc bởi sự sáng tạo và phong phú của

ngôn ngữ. Ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong thơ, qua đó cái tôi của

nhà thơ được bộc lộ. Hình thức thể hiện đầu tiên trong thơ là ngôn ngữ. “Nhà

thơ tư duy bằng ngôn ngữ. Thơ là một cấu trúc cô đọng, hàm súc, vì vậy ngôn

ngữ thơ phải chứa đựng nhiều thông báo, một câu, một chữ có thể gợi lên

nhiều nghĩa” [41, tr.37].

Ba bản trường ca của Lửa mùa hong áo, Tự khúc ánh sáng và Người

sau chân sóng của Lê Thị Mây đã có sự lựa chọn hệ thống ngôn từ tinh tế để

chuyển tải nội dung, chủ đề tư tưởng trong tác phẩm đến người đọc. Tác giả

đã kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo nhiều dạng ngôn ngữ, thể hiện rõ nét sắc

thái ngôn ngữ trường ca.

3.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tượng trưng, ám gợi

Ngôn ngữ thơ Lê Thị Mây giàu tính tượng trưng, ám gợi. Thơ Lê Thị

Mây đậm chất triết lý về đời sống và con người, vì vậy nó phần nào chi phối

cách sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ trong thơ chị. Nhà thơ thường chọn cách

nói đầy ẩn ý, thâm trầm, lắng đọng trước mọi vấn đề trong thơ bằng sự nhẹ

nhàng tinh tế của trái tim phụ nữ.

Viết về ước mong hạnh phúc của người thiếu nữ, Lê Thị Mây có hình

ảnh so sánh rất lạ: “mỗi nhịp tim nâng đường lệch nghiêng tuần trăng mật”.

Tuần trăng mật đại diện cho hạnh phúc lứa đôi, cho đám cưới, mong ước bình

dị trong chiến tranh.

Tội ác quân giặc hiện lên rõ nét qua những câu thơ đầy ám ảnh:

“Giây thong lọng thắt nghẹn ký ức

(…) Trắng thời gian

Trắng không gian

Trắng ngôn ngữ”

Biển trời quê hương đẹp và lạ trong vần thơ đầy sáng tạo của Lê Thị Mây:

66

“Mỗi tấc đất tấc trời tấc nước

Cánh buồm nâu dựng gió trong mơ

Tiếng vỗ cánh trào dâng hơi thở đổ

Máu hồng hoang lưu vết san hô”

Lê Thị Mây thể hiện rất chuẩn xác tâm trạng đang yêu của người thiếu

nữ với trái tim thấu hiểu, đa cảm dịu dàng:

“Âm thanh tình khúc vẽ kí ức trên cát. Vầng trăng khắc họa giấc mơ

anh rồi rắc xuống dấu chân. Lửa khắc họa sự nồng nàn, mưa khắc họa vệt

mùa đông tê tái. Bức tranh cát, em li ti ức triệu hạt phân thân. Ức triệu mắt

lưới đa tình em dềnh dàng với sóng”

Trong thơ Lê Thị Mây, người đọc bắt gặp những hình ảnh ví von rất lạ,

mọi câu chuyện, hành động hiện lên rất dễ thương mang đặc trưng phong

cách Lê Thị Mây. Viết về người thiếu nữ, Lê Thị Mây liên tưởng họ với “lũ

dìa hoa”, tình họ với “dây hoa muống tím”, “cây lựu mùa xuân”, “con sò

ngậm ngọc”, với “những loài hoa biển”, “hạt dương liễu xanh”…

Chàng trai biển là “cá ngừ đại dương” trong tình yêu thiếu nữ, trong

“khúc hoan ca nhịp tim của biển”.

Những người đàn bà vùng biển nhẫn nại và hiền lành luôn trông ngóng,

âu lo cho sự bình an những người đàn ông của họ, họ là những con người

mang sức mạnh phi thường, những “người sau chân sóng”.

Phải có một trái tim rung cảm và thấu hiểu, trí tưởng tượng và sức sáng

tạo độc đáo không ngừng, Lê Thị Mây mới có thể đưa vào tác phẩm của mình

những hình ảnh giàu tính tượng trưng mang hơi thở hiện đại mà gần gũi ấy,

tạo ra phong cách viết trường ca độc đáo riêng trong trường ca Việt Nam hiện

đại. Sức sáng tạo và lao động nghệ thuật không ngừng đã tạo nên tên tuổi nhà

thơ Lê Thị Mây. Chị đã ghi tên mình vào danh sách những nhà thơ nữ xuất

67

sắc nhất bằng những vần thơ cảm động chắt ra từ chính cuộc đời nhiều bất

hạnh đau thương.

3.1.2.2. Nhiều khoảng trống, khoảng lặng trong thơ

Khoảng trống (hay khoảng trắng) “trong phong cách học thuộc các

ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng là "Sự ngắt lời đột ngột do bị dồn

nén về tình cảm, do lưỡng lự trù trừ, hoặc do không muốn tiếp tục câu

chuyện". Sự im lặng trong văn học tạo nên khoảng trống trong dòng lời, làm

cho mạch lời văn không liên tục, gián đoạn, đứt nối. Khoảng trống trong văn

bản nghệ thuật có thể được biểu hiện bằng dấu chấm lửng. Trong âm nhạc,

khoảng trống giữa các tiết đoạn âm thanh có thể được tạo ra bằng dấu lặng có

giá trị của một quãng ngừng nghỉ. Trong hội thoại, khoảng trống được tạo nên

chủ yếu bằng sự thiếu hụt một trong hai yếu tố trao hoặc đáp. Khoảng trống

im lặng trong văn học không phải là cấp chiếu nghỉ. Tùy vào văn cảnh và

dụng ý nghệ thuật của tác giả ở từng tác phẩm cụ thể, khoảng trống trong

mạch trần thuật có những hiệu quả nghệ thuật khác nhau” [17]. Những

khoảng trắng của “không gian văn bản” cũng là một biện pháp hữu hiệu trong

việc tạo khoảng trống giữa các lời thơ. Một đặc điểm thể hiện khoảng trống

trong thơ hiện nay là cách phân chia khổ thơ, xuống hàng, bỏ trống… để thể

hiện dụng ý nghệ thuật… khá phổ biến, cũng bởi ảnh hưởng của những chủ

nghĩa hình thức phương Tây. “Một ý thức lao động chuyên nghiệp cộng với

tri thức, trí tuệ, thường trực tìm kiếm hình ảnh mới, lạ từ “sự va đập chói lòa

của từ”, làm nảy sinh những ý nghĩa, cái nhìn mới, đẹp vào cuộc đời, con

người từ kết quả của những hình ảnh đó” [32, tr.310].

Những khoảng trống, khoảng lặng xuất hiện với tần số lớn trong thơ Lê

Thị Mây, như một nét độc đáo khẳng định phong cách nghệ thuật. Mặt khác

cũng là cách nhà thơ thể hiện những ẩn ức dồn nén không thể giãi bày. Sự

xuất hiện của những khoảng trống, khoảng lặng ấy góp phần tạo tính nhạc cho thơ.

68

Người đọc có thể dễ dàng bắt gặp những vần thơ với sự phân chia

không đối xứng tạo ra sức căng và dụng ý nghệ thuật trong trường ca Lê Thị

Mây như:

“Một tiểu đội

Một đại đội

Một trung đoàn

Người đi

Cây đi

Rừng đi

Lá đi cong mặt lá

Sau gót chân

Chuối rừng chín bói chùng chiềng mùa hạ”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Để diễn tả tâm trạng nữ giao liên nhớ nhà, nhớ mẹ và quê hương yêu

dấu, Lê Thị Mây đã dùng cách cắt câu, từ rất lạ và độc đáo tạo sự đứt gãy

giữa dòng thơ:

“Tiểu đội mười hai người

Đáy ba lô có mảnh trời mang màu áo cưới

Nghĩa chị em bồng bế trái bầu non

Mừng thắng trận gạo giã trong mũ cối

Than nướng bánh đa

lốp đốp hạt vừng thơm

Sợi bún

riêu cua

cay xé ớt chỉ thiên.”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

69

Hình ảnh những thiếu nữ đang tuổi trăng rằm “vừa rời nách áo mẹ ra đi”

đến nơi chiến tranh ác liệt hiện lên thân thương qua những vần thơ dồn dập:

“Sư đoàn đầu tiên áo xẻ tà con gái

Tóc dài

Lưng ong

Ngực

Vai

Chưa nở

Chân nối bàn chân âm thầm nỗi nhớ

Tay quờ đêm ấp vú mẹ nói mê…

Tiểu đội mười hai người

trăng rằm làm nón

bom dội không rơi”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Diễn tả không khí trầm hùng âm vang của những cánh rừng Trường

Sơn, bao bọc chở che chiến sĩ như trái tim người mẹ, Lê Thị Mây sử dụng

những dấu gạch nối, chấm lửng tạo khoảng trống và cảm xúc giữa dòng thơ:

“Cây nấm là con

Đội chớp

Đội mưa

Vuốt mặt

Quả chín cũng là con –

Lăn bên ráo

Cung đường nào –

Cũng nhận phần mẹ hi sinh

Đêm trở lạnh

Miếng trầu

70

Quánh nồng thay bát cháo.

(…) Ôi mắt cây

Mắt mẹ

Mắt rừng

Sâu hun hút chói bừng trên trán núi

Xe là con xăng là máu

Tim đường là tim mẹ

Ôi mắt cây-vân gỗ hướng vừng dương

Dẫn đàn con tiếp bước

Rừng giao mùa rạo rực nắng hờn thu…”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Một loạt những câu thơ, từ ngữ, hình ảnh dồn dập, lặp đi lặp lại diễn tả

một thời kì tranh đấu sục sôi và hào hùng của quân và dân ta:

“Đối mặt: CIA?

Đối mặt: chúa ngục?

Đối mặt: roi điện?

Đối mặt: ma-trắc?

Đối mặt: roi cá độc?

Ngậm vào ruột gan khắc vào vỏ não khuôn mặt đồng chí đã hy sinh”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

“Khai mau – Sẽ được sống

Khai mau – sẽ được thăng hàm

Lũ hành quyết dí mũi lê nôn nóng.

Cắn răng thề với Đảng ta

Kiên trung với Đảng máu hòa đất chan

Cỏ của tinh thần Nguyễn Trung Trực bất diệt

Cỏ của tinh thần nước Nam bất diệt.”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

71

“Ánh sáng tự lòng thề với Đảng với nhân dân

Một ngày

Mỗi giờ

Mỗi khắc

Tiếng hát

Và ánh sáng

Tự có ở trong lòng rỏ máu đầu tay.

(…) Những dẻ xương sườn khô cong

Những dẻ xương sườn tung ánh sáng

Những dẻ xương sườn của lớp lớp người cộng sản

Và tiếng hát căng hết mũi tên

Dậy mà đi

Dậy mà đi.

(…) Thề hi sinh đến cùng!

Thề cứu lấy nước nhà!”

(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)

Những khoảng trắng bất tận tạo ra từng lớp sóng dồn dập trong thơ và

trường ca Lê Thị Mây, do đó tạo được độ nén cần thiết và dư ba vang vọng

cho câu thơ trong lòng người đọc. Ta còn có thể bắt gặp lối sử dụng nghệ

thuật độc đáo này của Lê Thị Mây trong một loạt bài thơ: Sông Hiếu, Bí mật

mùa xuân, Về nguồn, Cát bay, Những tấu khúc trên sóng, Trên nỗi buồn, Hai

mảnh, Thanh tân, Gió xuân ở Huế, Mắt chữ…

3.1.2.3. Ngôn ngữ đời sống

Ngôn ngữ đời sống vốn thân thuộc trong sáng tác văn học, và càng

được sử dụng rộng rãi trong thơ và trường ca các tác giả Việt Nam hiện đại.

Rất nhiều tác giả đã sử dụng thành công ngôn ngữ đời sống trong tác phẩm,

trong đó có Lê Thị Mây. Những vần thơ, hình ảnh đầy sáng tạo bởi cách viết

72

lạ hóa, phá cách, bởi cách dùng ngôn ngữ dân gian, ngôn ngữ chiến tranh bên

cạnh ngôn ngữ đời sống hàng ngày trong thơ tác giả tạo ấn tượng lớn trong

lòng người đọc. Đó là lớp ngôn ngữ gần gũi với lới ăn tiếng nói hàng ngày

của nhân dân.

Một loạt những từ ngữ, hình ảnh trong thơ mang đậm cảm xúc trữ tình

hiện lên ấn tượng: bàn chân lội suối nhột tiếng cười; thụng thịnh áo tân binh;

dốc trơn, sình lầy, thác cả; miếng trầu, quánh nồng thay bát cháo; con gái

làng Thuận chằm nón bài thơ; rằng đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh; lưng mẹ gập

mùa khô, bóng mẹ sấp mùa mưa; đầu gối run không bò nổi qua đá tai mèo;

chân người bị cùm vào chân ghế, tay người bị xích vào tay ghế; chụm bàn tay

anh vốc cát giữ rừng; em chạy chân trần trên cát bỏng tiếng ve; làng chỉ còn

đàn bà trẻ nít lẫn kim đan; khi làm mẹ vạch vú cho con bú, sữa trong hồn con

trẻ óng ngời xinh…

Những hình ảnh ngôn ngữ đời thường xuất hiện trong thơ khiến những

tác phẩm của Lê Thị Mây đẹp dung dị, gần gũi thân thương. Những vần thơ

như chắt ra từ gan ruột người con gái vùng quê miền Trung Việt Nam chân

chất hiền hòa, thân thuộc như chính sự nồng hậu và bình dị của dải đất Việt

Nam cong cong hình chữ S.

3.1.2.4. Ngôn ngữ mang sắc thái dân gian

Mảng màu ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian kết hợp hài hòa trong thơ

Lê Thị Mây. Lê Thị Mây vận dụng nhuần nhuyễn yếu tố dân gian khi nhắc tới

hình ảnh người mẹ, người bà, tới miền quê thân thuộc trong lòng đứa con xa

quê… Ngôn ngữ dân gian như những nốt nhạc trữ tình lắng lại giữa không khí

tranh đấu bi thương hào hùng, neo giữ tâm hồn chiến sĩ trở về với những giá

trị văn hóa tinh hoa.

73

Để diễn tả nỗi nhớ quê hương và lòng quyết tâm vượt mọi hi sinh gian

khổ, Lê Thị Mây tìm đến những hình ảnh rất đỗi thân thuộc gắn bó với cha

ông, với tuổi ấu thơ tự ngàn đời:

“Mượn quả thị rơi từ trang cổ tích

Em từ cây

rơi xuống bếp Hoàng Cầm

… Niêu cơm Thạch Sanh ấm cật bạt mùa đông

… Máu đỏ từ nắm đất mẹ chôn nhau nên xóm nên làng

Năm mươi con lên rừng

Năm mươi con xuống bể

Thánh Gióng lẫy nôi tre lớn từ mụt măng đọt mưng

Rau má, tàu bay, môn thục, củ rừng

Quả cà, quả thị, trái ớt cay

Đẩy lùi cơn sốt rét

… Nghĩa chị em bồng bế trái bầu non

… Núi Sơn Tinh

Sông Thủy Tinh chờ trống trận Hùng Vương”

(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)

Những vần thơ đã khái quát tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam

anh hùng. Một loạt những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết từ ngày mở cõi

được tác giả gợi nhắc đầy sống động: quả thị trong câu chuyện cổ Tấm Cám

tượng trưng cho sự kiên cường vượt qua hoàn cảnh, cho chân lí ở hiền gặp

lành; niêu cơm Thạch Sanh, chàng Sơn Tinh, Thủy Tinh đại diện cho lí tưởng

về sức mạnh phi thường của dân tộc để chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại

xâm; Con rồng cháu tiên gợi nhắc về lịch sử và tổ tiên người Việt, về mẹ Âu

Cơ và Lạc Long Quân, về “năm mươi con lên rừng, năm mươi con xuống bể”

mở mang bờ cõi; chiến tích Thánh Gióng có sức mạnh phi thường chiến thắng

74

giặc Ân; rau má, quả cà, quả thị gắn với tuổi thơ, với cha ông ta từ ngàn đời

mang hồn cốt quê hương… Những chiến tích và kí ức ấy góp phần nuôi

dưỡng sức mạnh chiến đấu trong lòng những người con ngày đêm chắc tay

súng bảo vệ tổ quốc.

Trong thơ Lê Thị Mây, bà và mẹ luôn gắn với những lời ru, với quả thị,

cô Tấm đậm hương cổ tích:

- “Mỗi quả thị đầy âm âm nước mắt

Thị đậu quả trên cây nước mắt chảy lên cây.

Mỗi cây một trai làng đứng mặc niệm

Mỗi cây bà ngoại vươn cành đỡ quả”

- “Quả thị ủ lời bà ngoại cầu mong”

- “Bà ngoại cho quả thị hóa chị Tấm cời than”

- “Mẹ theo con từ khi Lạc Long Quân xuống bể”

- “Hóa thân trong lửa

Hồn thiêng rừng mẹ hóa câu ru”

- “Vạt nối vạt gió bời bời

Câu ru con lý mẹ hời đó đây…”

Trầu cánh phượng gắn liền với câu chuyện nghĩa tình Trầu cau cổ, với

câu ca quan họ, áo tứ thân xưa, nay lại là một hình ảnh tượng trưng cho ước

mong hạnh phúc lứa đôi trong ngày vui toàn thắng:

“Ôi buồng cau lổ chín ngã bên thềm

Trầu cánh phượng thách người chưa dám cưới”

Tinh thần lạc quan, ý chí chiến đấu của người chiến sĩ nơi chiến trường

ác liệt đươc ví von với những hình ảnh dân gian rất hay, độc đáo mà gần gũi

thân thương. Một câu ví dặm từ thuở lọt lòng, câu ca Quan họ bên bến sông

quê của kí ức yên bình đủ ru lòng người chiến sĩ giữa rừng xa thăm thẳm:

75

- “Vốc nước lóa trăng

ngập ngừng soi răng khểnh

Dép bốn quai dùng dằng câu ví dặm”

- “Em nhoẻn cười nước mắt đầm vai áo bạn

Má nhọ nồi em thay chị Tấm cời than”

- Em lung linh hát mơ câu Quan họ

- Nón quai thao úp mái hóa hầm kèo”

Nghĩa tình chị em, tình đồng đội, tình quân dân hiện lên cảm động gợi

nhắc trái tim ghi nhớ truyền thống ngàn đời của ông cha, ấy là “Con rồng

cháu tiên” kề vai cùng lo việc nước; “nghĩa chị em bồng bế trái bầu non”;

“chị ngã em nâng đồng đội tựa nhau”; “nhiễu điều phủ lấy giá gương” trong

câu ca dân tộc; “củ khoai vùi góc bếp chia nhau” quen thuộc trong thơ Tố

Hữu, Chế Lan Viên; “động Hàm Nghi áo vua trong nếp cỏ, khúc ruột miền

Trung ấm tình đồng đội thiêng liêng”…

Sức mạnh chiến đấu và chiến thắng kẻ thù từ nội lực dân tộc, từ trái tim

yêu nước nồng nàn những con người anh dũng được thần thánh hóa sánh

ngang với sức mạnh phi thường, siêu nhiên:

- “Tiểu đội mỗi người

một Bà Triệu

một Bà Trưng

một Nữ Oa vác đá vá vết thương”

- “Đường ra đời trong nếp áo nàng Bân”

Một câu hò thân thương trên đường chiến đấu đầy gian khổ, đồng đất

quê hương bát ngát cánh cò giúp người chiến sĩ quên đi mọi khó khăn mệt nhọc:

“Ngầm, cầu, ổ voi, ổ trâu thơ Bác gọi lửa hồng

Người liền người í ơi câu quan họ

Hò sông Mã sóng liền câu ví dặm

76

Quân nối quân bãi đồng hương căng ngực thở phập phồng”

Câu chuyện cổ Nàng Tô Thị chờ chồng trong dân gian được tác giả

nhắc tới với một tinh thần mới mẻ và sáng tạo. Biểu tượng cho phẩm chất

người phụ nữ Việt Nam, cho lòng thủy chung son sắt hóa thân, nâng tầm

thành sức mạnh chiến đấu quân thù. Không buồn đau bi lụy mà đầy hi vọng

lạc quan về ngày hạnh phúc:

“Đường Trường Sơn ơi đường Hồ Chí Minh

Có tóc con gái áo xẻ tà gió thổi

Có vai con gái tựa Vọng Phu nhưng không hóa đá nhịp tim

Mỗi nhịp tim nâng đường lệch nghiêng tuần trăng mật”

Một “tiếng chim cuốc” từ ngàn xưa vọng về gợi nhắc nỗi đau mất nước.

Lê Thị Mây đã kết hợp nhuần nhuyễn hài hòa yếu tố dân gian trong

sáng tác của mình, như một chút lắng đọng gắn kết thấm đượm hồn dân tộc.

Trái tim thi sĩ đa cảm và đa tài ấy đã thể hiện trong tác phẩm của mình một Lê

Thị Mây nặng lòng với quê hương xứ sở, với những giá trị văn hóa ngàn đời

của cha ông. Để những thế hệ mai sau soi chiếu tự nhắc nhở bản thân ghi nhớ

và noi theo cội nguồn.

3.1.3. Thể thơ

3.1.3.1. Thể thơ tự do

Thơ tự do là thể thơ “không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về

số câu, số chữ, niêm đối… Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể

thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể

khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do… Đặc điểm đáng chú ý của thơ tự do thường

là phá khổ - không theo khổ 4 dòng, 6 dòng đều đặn ngay ngắn… Có thể mở

rộng câu thơ, kéo dài câu thơ thành hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng in, có

thể sắp xếp thành “bậc thang” để tô đậm nhịp điệu trong câu, có thể xen kẽ

câu ngắn dài thoải mái” [24, tr.319].

77

Sau chiến tranh thơ tự do đóng vai trò chủ đạo trong thơ. Do phù hợp

với nhu cầu đòi hỏi thơ đi sát hơn với cuộc đời, phản ánh những khía cạnh đa

dạng của cuộc sống, và con người với mong muốn tự do giãi bày, thể hiện

tâm tư tình cảm, khẳng định cái tôi cá tính không bị gò bó của mình. “Theo

kết quả thống kê của tác giả Phạm Quốc Ca trong Tuyển tập thơ Việt Nam

1975 – 2000, thơ tự do chiếm cao nhất: 654/1144 bài (56%). Cũng theo kết

quả thống kê của nhà nghiên cứu Lê Lưu Oanh, tỉ lệ các bài thơ với câu thơ tự

do chiếm giải trong các giải thưởng là tỉ lệ chiếm ưu thế tuyệt đối” [31, tr.78].

Trong sáng tác của các nhà thơ nữ thời kỳ này: Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,

Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Phi Tuyết Ba…, thơ tự do cũng chiếm vị

trí rất lớn. Bởi nhà thơ có thể tự do giãi bày, để cảm xúc tràn qua những dòng

thơ mà không bị bó buộc bởi vần, luật như trong thơ ca cổ điển. Thơ tự do

khá phổ biến trong sáng tác Lê Thị Mây, đồ sộ cả về số lượng và chất lượng.

Trong số 7 tập thơ gồm 390 bài thì số lượng thơ làm theo thể tự do chiếm 242

bài (62%). Ba trường ca của Lê Thị Mây cũng chủ yếu làm theo thể thơ tự do.

Sử dụng thể thơ tự do diễn tả những mất mát lớn lao trong chiến tranh

giúp người đọc hình dung rõ ràng bức tranh hiện thực khắc nghiệt và nỗi đau

thương u uất của con người chảy tràn qua từng câu thơ:

“Chúng treo giá cái lưỡi

Bóp méo nhân quyền

Và treo trái đất lên đầu sợi tóc

Bằng vũ khí hạt nhân

Bằng chất độc hóa học

Khay dụng cụ tội ác

Không có đêm

Không có ngày

Thế kỷ hai mươi Mỹ no căng lợi nhuận

78

Thảm sát Vĩnh Trinh!

Thảm sát Ba Làng An!

Thảm sát Sỹ!”

Hình thức thơ dài ngắn không đều, câu thơ bị ngắt quãng, vỡ ra thành

từng mảnh càng làm tình cảnh con người thêm đau đớn.

Nhà thơ bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi đau của mẹ - miền Trung bằng thể

thơ tự do với những câu thơ rất dài như cảm xúc chảy tràn:

“Mẹ là miền Trung gánh nợ nước thù nhà

Cha Đảng viên trung kiên chúng giết

Máu chảy thành sông máy chém Diệm lê qua

Vành tang lớn âm thầm mẹ biết

Đau thắt đêm dài mỗi tấc núi sông

Giọt nước mắt lặn vào từng khúc ruột”

Ở đoạn thơ này, dường như ranh giới giữa thơ và văn xuôi trong sáng

tác Lê Thị Mây đã bị xóa nhòa.

Cũng có những câu thơ cực ngắn trong sáng tác của chị, chỉ khoảng

một, hai hoặc ba âm tiết. Để diễn tả khí thế chiến đấu sục sôi của quân và dân ta:

- “Voi

Cuốn ngà voi húc đánh vu hồi sào huyệt địch

Trâu cuốn sừng

Húc vào lưng Mỹ truy kích

Thuyền

Cuốn sông

Dựng thủy binh nghìn trùng chiến dịch”

- “Đạn

Xếp

Thế trận lòng dân

79

Xe

Pháo

Trận đồ thần tốc”

Hay thể hiện trạng thái cô đọng của cảm xúc:

“Một trái tim

Một trái tim

Về cát bụi hồng hoang

Là khói

Là sương

Sau vết xe cảm tử

Trái tim trong sỏi đỏ

thở

và lăn…”

Ở trường ca Người sau chân sóng, Lê Thị Mây sáng tác hoàn toàn theo

thể tự do. Những câu thơ dài nối tiếp nhau như một câu chuyện tự sự trữ tình

từ gan ruột nhà thơ về quê hương miền Trung ruột thịt:

“Anh hỏi vì sao con sông ôm ấp làng ta? Vì sao những con sóng không

mệt mỏi. Nỗi ve vuốt lặp lại. Bờ cát không sao giấu nổi bao đường cong dịu

mềm. Cánh tay đa cảm ơi. Con sông ôm ấp làng ta. Sinh lực của biển uống no

nê nguồn nước cửa sông”.

Lê Thị Mây đã linh hoạt và khéo léo sử dụng thể thơ tự do để giãi bày

tâm tư tình cảm của mình. Thể thơ rất phù hợp với tiếng lòng của một nhà thơ

– người phụ nữ suốt đời đi tìm hạnh phúc, với khát khao bản thể và ẩn ức

không thể giãi bày. Một tâm hồn với nhiều trạng thái cảm xúc phức tạp đan

xen. Một người luôn trăn trở sáng tạo cho đời những câu thơ hay giàu ý nghĩa

và lấp lánh tính nhân văn.

80

3.1.3.2. Thể thơ lục bát

Thơ lục bát là thể thơ truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc của Việt

Nam ta. Nó ăn sâu vào tiềm thức nhân dân trong lời ăn tiếng nói hàng ngày,

những câu ca dao dân ca, bài đồng giao, lời hát ru con trẻ… Đã có rất nhiều

nhà thơ thành công ở thể thơ này như: Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy,

Đồng Đức Bốn, Lê Đình Cánh, Nguyễn Trọng Tạo… như một sự tìm về với

cội nguồn dân tộc. Dường như trong sự nghiệp sáng tác của các nhà thơ, dù ít

dù nhiều cũng đã tìm tới thế giới êm đềm của thơ lục bát. Thơ lục bát rất dễ

nhớ, dễ thuộc, quy luật của câu thơ nhiều luật bằng hơn luật trắc khiến câu thơ

như có nhạc điệu du dương âm vang vào lòng người đọc. Thể thơ lục bát góp

phần làm phong phú hơn kho tàng thơ ca nước nhà, giống như sức ảnh hưởng

của thơ Haiku với Nhật Bản, thơ Đường với Trung Quốc .

Thể thơ lục bát được Lê Thị Mây sử dụng nhiều trong những sáng tác

giai đoạn đầu để diễn tả tình yêu mẹ, tình yêu quê hương đất nước, tình đồng

chí đồng đội gắn bó thân thiết và sức mạnh, niềm tin chiến thắng của dân tộc.

Âm điệu nhẹ nhàng của thể thơ giúp gợi nhắc những kỷ niệm như lời thủ thỉ

tâm tình, yêu thương. Càng về sau, khi đã từng trải hơn trong cuộc đời, chất

triết lý gia tăng nhiều hơn trong thơ, Lê Thị Mây ít dùng thể thơ lục bát mà

tìm đến thể thơ tự do cho phù hợp hơn với tâm tư xúc cảm nhiều ẩn ức dồn

nén. Số lượng 51 bài thơ làm theo thể lục bát trong 390 bài thơ của tác giả tuy

không phải là nhiều nhưng cũng ghi được dấu ấn trong lòng người đọc bởi

những vần thơ đặc sắc nặng ân tình.

Sử dụng thể thơ lục bát và mượn hình ảnh trong ca dao khiến câu thơ

của Lê Thị Mây về mẹ, về bà thật gần gũi. Câu thơ đã diễn tả được những tảo

tần hi sinh và lòng thương con vô bờ của người phụ nữ nơi hậu phương:

- “Sông làng tiễn với ấu thơ

Đò sang mẹ dặn câu chờ cầm tay

81

Ngoảnh tìm mẹ ngoảnh tìm cây

Giăng Màn núi ngủ áo mây buông lời

Vạt nối vạt gió bời bời

Câu ru con lý mẹ hời đó đây…

(…) Mẹ bên nắng mẹ bên xanh

Hứng bom một phía chiến tranh thế này”

- “Gió lùa liếp cửa bà ơi

Bấm tay cháu đếm từng lời khôn ngoan

Một ô hai ô ăn quan

Chơi chuyền chơi chắt đường làng tuổi thơ

Ngủ ngồi giật thột cháu mơ

Tay bà tay cháu phất cờ mồm lên”

Tình yêu thương san sẻ giữa những người lính trên chiến trường hiện

lên đầy cảm động trong trang thơ Lê Thị Mây:

“Che đèn rừng trở heo may

Mực nhòe đổ nét bom cày dập hoa

Liền em liền chị nhớ nhà

Thư chung cùng đọc mẹ già nhớ chung

Riêng lòng ngọn cỏ khẽ rung

Lưng trời ngọn thác mung lung vỡ ào”

Thể thơ lục bát diễn tả rất chính xác nỗi nhớ thương và tình yêu lứa đôi

trong thời chiến:

“Thư này cháu viết về đêm

Chữ xô chữ vỡ rơi rền tiếng bom

Ngách hầm nghiêng mực ứa son

Thủy chung em giữ cho tròn niềm tin

Mặc bấc lùa buốt vào tim

82

Ba năm một bóng một hình của anh”

Và lòng hẹn thề cùng chung hạnh phúc trong ngày hòa bình không xa.

Tình yêu đôi lứa trong khói lửa chiến tranh sẽ vẫn còn lưu luyến mãi:

“Giá không bom đạn thương đau

Yêu nhau hẹn cưới dây trầu hẹn tươi”

Khi viết về thể thơ lục bát, Lê Thị Mây thường sử dụng nhịp điệu quen

thuộc: 2/2/2, 3/3 (câu lục); 2/2/2/2, 4/4 (câu bát) càng khiến lời thơ thêm gần

gũi với người đọc như chính những lời ca dao tục ngữ trong dân gian, làm nên

giá trị thẩm mỹ độc đáo.

3.1.3.3. Vĩ thanh

Vĩ thanh là yếu tố xuất hiện nhiều trong những bản trường ca hiện đại.

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, vĩ thanh là: “Phần bổ sung vào tác

phẩm văn học, bao gồm những kết luận, những điều mà tác giả cho là cần

thiết nhằm làm rõ thêm những gì đã được viết ra trong văn bản” [24, tr. 355]

Trong trường ca Lê Thị Mây, có thể thấy ở cả ba tác phẩm đều có phần

vĩ thanh. Ở Lửa mùa hong áo, chương mười bảy: Vọng khúc Trường Sơn có ý

nghĩa như phần vĩ thanh tổng kết những cảm xúc và chặng đường người lính

đã đi qua:

“Gió lùa hốc núi vang vọng khúc Trường Sơn

Chị đã mang theo thời gian tóc xanh vẫn xanh như thủa trước

Chị đã mang theo cả mối tình cả giấc mơ giấu đằng sau mắt ướt

Cỏ bơ phờ nơi bậc đá ngóng trông”

Những mất mát hi sinh, tiếc thương lòng quả cảm mãi nằm lại với tên

đất, tên làng; về nghĩa tình con người trong chiến đấu:

“Em muốn tin, em muốn kể, lời nhặt hết dịu dàng, tay nhặt hết xương tan

Rằng áo chị đan nàng Bân tiếp đường kim mũi chỉ

Chị thấm nước mắt óng ả lời ru, óng ả câu mái hò, câu khoan, câu lý

83

Củi lửa mười hai chỗ ngồi, người về thiếu mười hai…”

Khắc họa tượng đài chiến sĩ vô danh, tên tuổi họ đã hóa thân thành tên

chung đất nước:

“Tiểu đội mười hai người, mười hai tháng trăng treo rằm quả thị

Chị ơi hãy về

Mùa hong áo

lửa uy nghi…”

Những câu thơ xúc động ấy khiến người đọc nhớ lại lòng quả cảm và

sự hi sinh của mười cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc. Họ nằm xuống để mang lại

quang vinh cho dân tộc, cho hòa bình cơm áo ấm no.

Phần cuối trong Tự khúc ánh sáng: Tự do và vĩ thanh thời gian thể hiện

rất đúng tinh thần bản trường ca – bản trường ca ngập tràn ánh sáng chân lí

đấu tranh và niềm vui chiến thắng. Toàn quân và dân Việt Nam luôn nhớ ghi

ngày chiến thắng rực sáng, ngày thay đổi ý nghĩa cuộc đời toàn dân tộc. Niềm

vui hạnh phúc vỡ òa trong cờ, hoa, trong không khí sục sôi chiến thắng:

“Đêm ba mươi tháng tư

Rạng mồng một tháng năm

Côn Đảo giải phóng lập chính quyền cách mạng

Cờ đỏ ảnh Bác Hồ rưng rưng mừng Độc-lập

Cờ đỏ ảnh Bác Hồ mừng thống nhất non sông”

Chất triết lý chiêm nghiệm tạo sức nặng lắng đọng gói trọn bản trường

ca, và dư vang của nó vẫn còn vang vọng mãi:

“Thế kỷ đi qua trong im lặng của cha

Thế kỷ đi qua từng mặt chữ của cha

Thế kỷ đi qua Tự khúc ánh sáng của cha

Cháy và không tắt

Thời gian của cha cất tiếng hát”

84

Người sau chân sóng mang hơi thở mới, sức sống mới của một miền

quê, một vùng đất xưa anh hùng đấu tranh, nay cùng đất nước hát khúc hoan

ca đi trên con đường mới: tự do và hăng say lao động xây đắp nước nhà phồn vinh.

Thánh khúc tha nhân cuối phần III có ý nghĩa như phần vĩ thanh của

tác phẩm; ca ngợi lòng yêu nước, yêu biển trời và sự chở che nhân dân trong

an lành của Người – Tổ quốc:

“Ôm mạn thuyền vạn chài yêu đảo. Vòng tay Người chèo chống lúc

lâm nguy.

Hỡi bến bờ

Cong cong

Hồn chữ S.

Đây biển Việt Nam”

Ca ngợi tinh thần lao động, không khí của tự do nơi đầu sóng ngọn

gió, núi sông nối liền một dải:

“Tiếng ai hỏi chân sóng thế nào ư? Hãy cùng Người lắng nghe muôn

nghìn con nhạc nước. Nước mặn thế, tự khóe mắt thức ngủ. Giọt lệ trào và

máu thắm ngàn năm. Người ngóng về con sóng hướng trời Nam. Đăm đăm

nước, sâu khôn cùng nguyện ước. Vắt qua vai Người dây đàn đường Thiên

Lý. Dây đàn rung nối Bắc về Nam. Nối trời Nam lên hồn xanh Lũng Cú. Hộp

đàn bầu, ngực biển, gió bên lưng”.

Kết tinh và tôn vinh hồn cốt dân tộc; sự tự hào về một đất nước Việt

Nam giàu đẹp, biển bạc rừng vàng:

“Hỡi Tổ quốc Việt Nam muôn đời nghe nhạc nước. Bản thánh ca khởi

nguyên phồn thực phồn sinh. Mỗi nét bút vẽ nên bến bờ cong cong hình thiếu

nữ. Áo dài bay gấm vóc cả giang sơn, lộng lẫy vạt ngân hà”

Phần vĩ thanh giữ vai trò quan trọng trong tác phẩm, góp phần làm nên

kết thúc hoàn chỉnh và sự lắng đọng âm vang trầm hùng của bản trường ca

85

trong lòng người đọc. Đó không chỉ chương độc lập riêng biệt mà là một phần

quan trọng của tác phẩm trường ca.

3.2. Giọng điệu

Giọng điệu là yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học, tạo nên những

bộ mặt riêng biệt trong phong cách từng tác phẩm. “Giọng điệu nghệ thuật

không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu

hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn là yếu tố có vai trò thống nhất

mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể” [38, tr 48]. Giọng

điệu là hình thức của tác phẩm, yếu tố nội tại của nghệ thuật ngôn từ và mang

tính nội dung tác phẩm. Trong trường ca Lê Thị Mây, yếu tố giọng điệu đóng

vai trò quan trọng và xuất hiện trong một số giọng điệu chính như:

3.2.1. Giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi

Là giọng điệu quen thuộc trong những bản trường ca viết về chiến

tranh, viết về một thời đau thương mà anh hùng của dân tộc. Độ lùi thời gian

trong những sáng tác sau chiến tranh đã làm sống lại một thời đạn bom khốc

liệt. Hai bản trường ca Lửa mùa hong áo và Tự khúc ánh sáng là minh chứng

rõ ràng cho điều ấy.

Hình tượng đất nước đau thương mà anh hùng hiện lên đầy cảm xúc:

“Đất nước rộng dài có bao nhiêu con sông

Quốc lộ một ôm vòng tay Nam Bắc

Ôi miền Trung cát lóa núi non dằng dặc

Bao nhiêu con phà gạt sóng dữ đội bom?”

Sự ngợi ca những con người anh dũng hi sinh, góp phần làm nên chiến

thắng dân tộc:

“Gió bấc non đem tro rải khắp đồi, đem tiếng chim về làm tổ mỗi chiều

Đem bướm giăng trăng sáng, bầy chuồn kim thêu gối để chị mang theo

như chị sống

86

Đem câu hát môi chị ngậm đất, đất cháy bỏng

Chị nồng nàn như quả, quả mỗi ngày anh bế ẵm cho gió giữ hương,

cho tay bế giữ làn hơi”

Lòng quả cảm, tinh thần đoàn kết vượt mọt khó khăn gian khổ trên

những cung đường:

“Tiểu đội mười hai người

trăng rằm làm nón

bom dội không rơi

Rằm tháng giêng bánh phu thê chạm ngõ

Rằm tháng chạp mưa phùn đất là máu xương gắn bó”

Niềm tin yêu vào ngày mai toàn thắng:

“Khắp miền Nam tử tù cộng sản lưu đày

Họ không tin thượng đế

Họ tin ở trời xanh

Tin cái chết sẽ nảy sinh sự thật”

Những người mẹ Việt Nam anh hùng trong mỗi bước chiến đấu cùng

toàn dân tộc:

“Cây sào cong phơi áo mẹ thẫn thờ

Mỗi hạt cát thề hi sinh quyết liệt

Mỗi hạt cát dính quyện cùng da thịt

Những lở bồi mẹ vẫy phút ra đi”

Trái tim quả cảm lấp lánh ánh sáng trong khói lửa chiến tranh:

“Trái tim làm mặt trời lăn

Cha trao cho con những hừng đông vân đá thức làm ngọc

(…) Thẳng căng một dây đàn bầu từ trái tim mỗi người đến trái tim Tổ quốc”

Và máu, máu là biểu tượng cho sự hi sinh, sự tiếp sinh, kết tinh tinh

thần dân tộc:

87

“Máu là tư tưởng đỏ từ đất xanh lên cây cho lộc

Cái mới trong đá kết tinh làm ngọc

Tinh thần cái mới hội tụ nối dài cha trong trời đất non sông”

Người nối người, đời nối đời sẽ viết tiếp bản trường ca chiến thắng:

“Chính con là nốt ngân vọng bản hùng ca cha để lại

Chính con là cuốn sách cha ký thác cho đời

Chính con là chữ của cha nối dài huyết thống

Sống làm người và chết bằng sức mạnh của một con người

Trên cột mộ nẩy sinh cái mới

Mọi cái mới đều bắt đầu từ phả hệ, từ lòng dân”.

Giọng điệu sử thi góp phần làm nên không khí huyền thoại, truyền

thuyết của đất nước từ ngày mở cõi, của một vùng quê mang đậm dấu ấn lịch

sử nơi khúc ruột miền Trung Tổ quốc:

“Vâng liềm trăng vụt hóa bãi cát vàng rực nắng. Đảo Ba Bình ưỡn

ngực hứng sao sa. Nhớ mẹ đất liền sóng đêm trào mặn chát. Con mắt sao

Hôm, sao Mai đỏ hoe. Thắp đèn Trường Sa dọi ba chiều sử sách. Lạc Long

Quân rẽ sóng song tuần. Mẹ Âu Cơ xếp cánh bay tiên nữ. Tóc thả xanh thềm

lục địa biển Đông ta”.

Giọng điệu sử thi làm nên nét đặc sắc riêng biệt trong trường ca Lê Thị

Mây. Trong không khí trầm hùng, những chiến thắng của dân tộc, những

chiến tích lịch sử hiện lên đậm nét, ghi dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.

3.2.2. Giọng điệu bi thương

Giọng điệu bi thương trong trường ca Lê Thị Mây được khắc họa rõ

nét, như những nốt trầm lắng đọng về sự mất mát hi sinh của dân tộc ta.

Giọng điệu bi thương góp phần làm rõ hơn hiện thực của cuộc kháng chiến.

88

Có nỗi đau nào lớn hơn khi chứng kiến quê hương đất nước thanh bình

bị quân thù giày xéo, sự đau thương oán hận ngút trời xanh. Từng vần thơ như

từng tiếng khóc xé gan ruột nghẹn ngào:

“Xóm làng con bị lùa ấp chiến lược?

Những người cha người mẹ bầy em

Lọ mực

Bảng đen

Thầy giáo

Bị trực thăng xúc hốt

Thảm sát

Và diệt cỏ chúng diệt người tận gốc”

Những giá trị lịch sử tốt đẹp ngàn đời bị chôn vùi trong bom đạn chiến tranh:

“Mịt mù từ buổi tinh mơ

Bom tọa độ trẻ chăn trâu ngửa mặt lùa trâu tìm cỏ

Rầm

Cột

Đời Lý, Trần

Gạch

Ngói

Đời Đinh, Nguyễn

Lấp hố bom”

Chứng kiến sự ra đi của người đồng đội, chị em gắn bó ân tình là một

nỗi đau không dễ gì quên được:

“Khuất tiếng nói

Khuất tiếng cười

Đồng đội mặc niệm bên đồng đội”

Hạnh phúc lứa đôi, mong ước làm mẹ, làm vợ tạm gác lại vì chiến tranh:

89

“Áo gấp nếp ưu tư, bởi chị chưa lần mặc, anh chưa lần ngắm yêu thương

Biền biệt xa biền biệt mây biền biệt gió

Cau đám hỏi chưa têm, chị khóc không dám dỗ”

Chất độc Dioxin quái ác, nỗi ám ảnh ấy còn gieo rắc đến muôn đời:

“Vượt cánh rừng nhiễm độc da cam

Hoa quái thai

Trái cây quái thai

Con bướm

Con chẫu chàng nhiễm sắc tố quái thai”

Những đứa trẻ sinh ra không lành lặn vì tội ác quân giặc:

“Dioxin?

Dioxin màu cam của mười sáu công ty tư bản Mỹ

Biến dạng bào thai trẻ chỉ có đầu”

Mười hai nữ giao liên phá đá mở đường, trên vai còn vẹn nguyên

những ước mơ tuổi thanh xuân dang dở, đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường:

“Tóc em Phượng em Ngà cuộn tóc rừng, cuộn hồn trong đá

Tiểu đội mười hai chỗ ngồi, mười hai nốt nhạc thả dấu lặng và ngân”

Mỗi câu thơ, mỗi khung cảnh như một thước phim quay chậm về hiện

thực chiến tranh, về mất mát to lớn của dân tộc để có ngày hôm nay nhân dân

được sống trong những ngày tháng hòa bình.

3.2.3. Giọng điệu trữ tình triết lý

Giọng điệu trữ tình triết lý khá phổ biến trong thể loại trường ca – vốn

là một thể loại có tính chất tổng kết, khái quát một thời đại, giai đoạn lịch sử,

có khả năng nhận thức và phản ánh một dung lượng hiện thực rộng lớn. Chút

trữ tình triết lý xen giữa nhịp điệu sử thi hào hùng đem đến hơi thở và sức

sống mới quyện hòa trong không khí đạn bom máu lửa tạo dư vị lắng đọng

ngọt ngào kết đọng trong những vần thơ.

90

Lê Thị Mây mang hơi thở triết lý trữ tình vào tác phẩm từ trái tim

người phụ nữ đã đi qua chiến tranh, đã yêu và sống trọn tuổi thanh xuân với

một chặng đường dân tộc. Cũng vì thế mà trong tác phẩm của nhà thơ, có

những cảm xúc rất thật, rất chân tình mà giàu cảm xúc.

Mở đầu bản trường ca đầy hoài niệm, nhẹ nhàng như ngàn xưa vọng về:

“Xin các chị cho em nén giữ trong lòng

Làn hương sả bắt đầu từ kí ức”

Nét chiêm nghiệm rất thật về sự dâng hiến và hi sinh của một thế hệ

thanh niên cho nền độc lập nước nhà. Thời gian trôi nhanh như nước đổ

không chờ đợi một ai, con người ta có quyền hoài niệm, có quyền gợi nhớ, có

quyền nuối tiếc và mong ước, cố gắng vì một ngày mai khác hơn:

“Tuổi mười bảy sừng trâu u u gió

Mười chín đôi mươi thời gian đưa nước đổ

Chỉ con đường tung giải lụa hóa dòng sông”

Tác giả viết rất chính xác tâm trạng của người thiếu nữ, tâm trạng của

những người đang yêu bằng chính xúc cảm đã trải qua trong cuộc đời. Những

tình cảm thiêng liêng ấy luôn đẹp, ngọt ngào và trữ tình dù trong thời bình

hay thời chiến:

“Yêu đến sâu nước khôn cùng dào dạt

Yêu đến bờ yêu đến bến chao chân”

Cảm nhận những mất mát hi sinh trong chiến tranh, tác giả ý thức được

sự quan trọng của chính nghĩa, lẽ phải, của điều cốt tử làm nên sự quyết tâm

tranh đấu:

“Mỗi mũi tên mũi chông bay tới đích là chân lý

Mặn của máu là chân lý

Mặn của lời nứt từ đá rẫy nứt từ khuôn trăng sáng”

91

Trên mỗi bước đường chiến dịch, người chiến sĩ đặt chân đến bao

nhiêu làng quê, con đường thân thuộc trên dải quê hương cong cong hình chữ

S này. Mỗi nơi dừng chân, mỗi sự quan tâm những người anh em đồng chí lại

tiếp thêm cho họ sức mạnh, mỗi nơi đi qua không biết đã trở thành một phần

máu thịt trong tâm hồn họ tự lúc nào:

“Một ngày ở hóa nên quê

Lưng che ngọn bấc tay vê ngọn nồm”

Giặc đến, già, trẻ, gái, trai không phân biệt đều trở thành những anh

hùng quả cảm. Hình ảnh “lão tướng xứ Thanh con gái Quảng Xuân, bắn máy

bay bằng viên đạn nhỏ, con gái làng Thuận chằm nón bài thơ” đại diện cho

cả một thế hệ quân và dân quyết tâm đánh giặc. Một chút trữ tình, một cái

nhìn khâm phục và trìu mến, một chiếc nón bài thơ dịu dàng giữa không gian

ác liệt.

Viết về chiến tranh, Lê Thị Mây không né tránh hiện thực mà nhìn

thẳng vào hiện thực. Tác giả thể hiện rất chính xác những lỡ dở hi sinh trong

chiến tranh với con mắt trữ tình cảm thông sâu sắc. Cái hẫng chân được dùng

rất chính xác để diễn tả bước đi vô tình của thời gian, chút ghen con gái trước

hạnh phúc lứa đôi vẹn tròn, thế nhưng câu thơ không bi lụy mà tràn đầy hi

vọng và bừng sáng với quyết tâm đánh giặc để đoàn viên:

“Hẫng chân tuổi quá đôi mươi

Hẵm xanh là nước ngậm lời người ghen

(…) Buộc dây mở lại cầm đây

Ba lô áo cưới đợi ngày thủy chung”

Hình ảnh con đường ám ảnh trong chiến dịch, con đường xuất hiện

nhiều và trở đi trở lại trong trường ca Lê Thị Mây. Con đường nối hai miền

Bắc Nam sum họp; con đường của lí tưởng, của tương lai; con đường của tình

đồng đội keo sơn gắn bó; con đường huyết mạch trái tim của Tổ quốc; đường

92

mang hồn cốt của những người chiến sĩ. Con đường đồng vọng và hội tụ sức

mạnh quá khứ, hiện tại và tương lai:

“Người hi sinh hồn vía nhập cung đường

Con đường cao hơn khi vượt hố bom xe rú

Con đường cao hơn khi vượt ngầm nước lũ

Con đường cao hơn khi vượt hố lầy

(…) Trụ sống lưng Tổ quốc

Hỡi Trường Sơn dằng dặc

Bọc trứng Âu Cơ xếp đá hộc nâng đường”

Tình đồng chí đồng đội hiện lên đầy cảm xúc trong những vần thơ thấm

đượm chất triết lý trữ tình. Giữa ranh giới sự sống và cái chết, con người ta

biết cho đi mà không đòi hỏi cho riêng mình. Hiện thực đã làm trồi bật lên

phẩm chất cao đẹp và quả cảm của con người Việt Nam, khiến người đọc cảm

nhận rõ ràng sự khắc nghiệt của cuộc chiến:

“Người sống sống cho người chết

Nguyện hi sinh

Người chết chết cho người sống

Nguyện hi sinh”

Vai trò to lớn của nhân dân trong chiến đấu được nhà thơ ý thức và đúc

kết. Dân là sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ thù, dân là đất nước, dân làm nên

gấm vóc non sông:

“Đảng giữ dân, giành dân, dân là gió trời ngoài cửa ngục

Dân là cờ đỏ trong tim

Khi chiến thắng cờ đỏ cũng trao tay người hối cải

(…) Nhân dân chia lá lành đùm lá rách bên nhau”

Hình ảnh trái tim hiện lên thật đẹp, trái tim được hình tượng hóa mang

sức mạnh phi thường. Trái tim và ánh sáng đại diện cho sự sống, cho niềm tin

93

và chân lý. Trái tim mang sức mạnh Việt Nam. Phải có cái nhìn nhạy bén và

sức cảm nhận tinh tế, Lê Thị Mây mới có thể viết hay và đầy triết lý như thế

về hình ảnh trái tim:

“Trái tim nảy mầm

Trái tim ra rễ

Hạt giống đỏ phục sinh”

Chiêm nghiệm về chiến thắng, tổng kết giai đoạn lịch sử đã đi qua,

những vần thơ chợt trầm lại như tấm lòng đồng vọng tri ân sự hi sinh cao quý

thiêng liêng của một thế hệ anh hùng sinh ra trong giai đoạn lịch sử anh hùng.

Niềm vui hạnh phúc vỡ òa, sự biết ơn, tự hào về một quá khứ như thế. Những

người chiến sĩ ấy đã “sống và chết, giản dị và bình tâm” để làm nên đất nước.

Cái chết cao cả vinh quang:

“Danh dự và sức mạnh là không ngừng hi vọng

Không gì có thể tước đoạt thời gian sống

Không gì có thể tước đoạt thời gian tranh đấu kiên cường

Cái chết của chị Võ Thị Sáu làm gương cất tiếng hát

Chết một lần nhưng một lần lựa chọn

Chết một lần nhưng một lần được sống cho quê hương”

Những năm tháng chiến tranh đi qua, đất nước lại bình yên trong niềm

vui mới, cuộc sống mở ra cho con người những cơ hội để yêu thương, để tận

hưởng biển trời tự do và góp công vào xây dựng nước nhà phồn thịnh. Lời thơ

dịu dàng trữ tình hơn, ngọt ngào êm ái:

“Mùa bóng này trao biển cho trai đinh. Thế kỷ này ngư trường lớn trời

Nam. Sóng linh hiển cõng thẻ bài triều Nguyễn. Vụt hóa liềm trăng cài trên

lưng Cá Ông. Liềm trằn ngả nghiêng vụt hóa con tàu lớn cưỡi sóng lừng”.

Tình yêu thiếu nữ hiện lên đẹp ngọt ngào và thơ mộng lung linh. Tình

yêu vui say của cuộc sống hòa bình:

94

“Em hóa thân biết chúm chím giấc mơ. Em làm nụ ngậm sương đêm

muối mặn. Mây nghiêng về làm cánh tím long lanh. Tím đến nao lòng, tím đến

cùng đằm thắm. Em làm dây bò đến tận những xa xanh. Em mở lá đón gió

nồm nhớ biển”

Chiêm nghiệm cuộc đời được viết lên từ biển, từ những bước chân đi

qua trong cuộc đời. Sự sống cứ muôn đời tiếp diễn không ngừng nghỉ, chiêm

nghiệm về cuộc đời, về con người, về vòng quay của thời gian. Không gì có

thể hủy diệt sự sống kì diệu trên trái đất, nó bất diệt và mãi trường tồn:

“Bọc bào thai trăm trứng nghĩa đồng bào. Trăm bổn phận mới dựng

nên đất nước. Lũ vích con từ trăm trứng nở rồi. Tìm vích mẹ chúng lại ra với

sóng. Ngẩng đầu bơi trong nghĩa lớn cuộc đời”

Bằng con mắt của người chiến sĩ đã bước qua chiến tranh, đã sống qua

cả một kiếp người, Lê Thị Mây đã viết lên những vần thơ trữ tình triết lý suy

tư lấp lánh giá trị nhân văn cao đẹp. Khắc họa rõ nét những hi sinh anh dũng

và vẻ đẹp tuyệt vời tâm hồn người Việt Nam trong bom đạn, trong mọi hoàn

cảnh gian khổ khắc nghiệt. Tình yêu và niềm tin chiến thắng luôn là sức mạnh

và chân lí vượt qua mọi thách thức trong cuộc đời để tỏa sáng mãi trong lòng

dân tộc.

Tiểu kết

Lê Thị Mây đã thể hiện nghệ thuật độc đáo, khả năng sáng tạo không

ngừng trong ba bản trường ca. Sự vận dụng, kết hợp tài tình những yếu tố

nghệ thuật truyền thống và hiện đại tạo nên nét độc đáo, góp phần thể hiện nội

dung đặc sắc của tác phẩm. Tác phẩm vừa thể hiện được những đặc điểm

chung của thể loại trường ca vừa mang phong cách sáng tác mới mẻ của tác

giả. Những vần thơ được viết lên bằng trái tim đậm thiên tính nữ, chất suy tư

chiêm nghiệm của một con người đã đi qua những thăng trầm của cuộc đời.

Càng về sau, chất triết lý suy tư trong sáng tác của nhà thơ càng nhiều và sâu sắc.

95

PHẦN KẾT LUẬN

1. Là nữ sĩ đầu tiên trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

viết trường ca, Lê Thị Mây đã khẳng định được tài năng và bút lực của mình

qua ba tác phẩm trường ca đã được xuất bản, có những đóng góp nhất định

vào hành trình thơ ca kháng chiến. Tác phẩm thơ và trường ca của Lê Thị

Mây là tiếng nói của một tâm hồn nhạy cảm, giàu tình yêu thương và chất

triết lý, suy tư chiêm nghiệm trước cuộc đời. Mỗi câu thơ đánh dấu một bước

đường tác giả đã đi qua, về những tháng năm đã sống và cống hiến hết mình

góp phần vào chiến thắng dân tộc. Bảy tập thơ, 390 bài; ba trường ca: Lửa

mùa hong áo, Tự khúc ánh sáng, Người sau chân sóng; các thể loại khác:

truyện ngắn, truyện dài, bút ký… và một loạt những giải thưởng văn học cao

quý đã góp phần khẳng định tên tuổi Lê Thị Mây. Ba bản trường ca ra đời

trong thời hậu chiến của tác giả giúp người đọc có sự hình dung và cái nhìn

hoàn chỉnh vào quá trình chiến đấu và chiến thắng kẻ thù khi đất nước có

chiến tranh, và cuộc sống hăng say lao động khi đất nước hòa bình; góp phần

vào sự thành công chung của trường ca Việt Nam hiện đại.

2. Ba bản trường ca Lửa mùa hong áo, Tự khúc ánh sáng, Người sau

chân sóng là một bức tranh muôn hình sinh động của tác giả về những vấn đề

trong đời sống xã hội thời chiến và thời bình. Lê Thị Mây đi sâu khai thác thế

giới hình ảnh trong các bản trường ca, góp phần làm sáng rõ hơn đặc trưng

thể loại. Hình ảnh đóng vai trò chủ đạo trong việc thể hiện nội dung và tư

tưởng của tác phẩm, tạo nên linh hồn tác phẩm.

Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên đẹp và sinh động trong tác phẩm Lê

Thị Mây. Đó là những con người đang ngày đêm trực tiếp chiến đấu trên

chiến trường; những nữ giao liên mở đường mang trái tim dịu dàng mà quả

cảm; những chiến sĩ làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu: đưa thư, giữ kho muối,

anh nuôi âm thầm hi sinh không quản ngại phía sau… Dưới ngòi bút của Lê

96

Thị Mây, họ hiện lên đầy quả cảm. Họ sẵn sàng hi sinh tuổi xuân, xương máu,

tạm gác lại phía sau những mơ ước tuổi trẻ, những khát khao tình yêu hạnh

phúc bình dị cùng chiến đấu với lí tưởng và khát vọng chiến thắng giành lại

hòa bình cho đất nước.

Hình ảnh người mẹ trở thành biểu tượng thiêng liêng cho lòng quả cảm,

đức hi sinh và tình thương bao dung dịu dàng. Mẹ đại diện cho phẩm chất phụ

nữ Việt Nam: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Mẹ là niềm tin và

nguồn động viên tinh thần lớn lao cho những đứa con đang ngày đêm chắc tay

súng trên chiến trường. Khát vọng hạnh phúc lí tưởng chiến thắng được Lê

Thị Mây đề cập rất cụ thể sinh động, đó là niềm tin để người chiến sĩ chiến

đấu làm nên những chiến công cho ngày hòa bình lập lại. Ước mong hạnh

phúc là điểm nhấn soi sáng tâm hồn con người, cả trong thời chiến và thời bình.

Hình ảnh Đất nước và Nhân dân là hình ảnh đẹp trong tác phẩm Lê Thị

Mây. Đất nước hiện lên với đủ mọi dáng vẻ: đau thương trong chiến tranh và

bình yên ở thời bình, đất nước với truyền thống lịch sử ngàn đời hiên ngang

vượt qua bom đạn. Và Nhân dân – sức mạnh cốt yếu làm nên chiến thắng dân

tộc mọi thời đại.

Hình ảnh trăng, trầu cau, con đường, lời ru… hiện lên đẹp và sinh

động. Mỗi hình ảnh là một nhân vật chứng kiến và kể chuyện chiến tích hào

hùng của ông cha; mỗi hình ảnh mang trong nó hồn cốt và dáng dấp dân tộc

Việt. Thế giới hình ảnh sinh động của Lê Thị Mây đã khẳng định cái nhìn và

cảm xúc đậm chất trữ tình, triết lý suy tư của tác giả về cuộc kháng chiến vĩ

đại và những đổi thay của dân tộc.

3. Bên cạnh việc khai thác những hình ảnh tiêu biểu trong ba bản

trường ca, luận văn tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật trong mỗi bản trường ca Lê

Thị Mây. Với khả năng tìm tòi và sáng tạo không ngừng, Lê Thị Mây đã

mang lại hơi thở mới về nghệ thuật cho tác phẩm của mình. Nghệ thuật

97

trường ca Lê Thị Mây là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đan xen giữa yếu tố

truyền thống và hiện đại. Sức khái quát và dung chứa đồ sộ trong mỗi bản

trường phản ánh hiện thực và mọi vấn đề rộng lớn. Yếu tố tự sự và trữ tình

kết cấu đan xen trong mỗi bản trường ca tạo ra đặc trưng riêng. Tác giả tổ

chức ba bản trường ca theo hệ thống sự kiện và chủ đề tạo ra những bước phát

triển xuyên suốt và nối dài các giai đoạn phát triển sinh động và chân thực của

đất nước.

Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ; sự kĩ lưỡng trong sử dụng ngôn

ngữ đa dạng và phong phú tạo phong cách độc đáo riêng trong tác phẩm Lê

Thị Mây. Các tác phẩm có sự hòa quyện đan xen giữa ngôn ngữ giàu tính

tượng trưng ám gợi; nhiều khoảng trống khoảng lặng trong thơ; ngôn ngữ đời

sống và ngôn ngữ mang sắc thái dân gian khiến ngôn ngữ trong trường ca Lê

Thị Mây vừa gần gũi, sáng tạo vừa mang màu sắc hiện đại.

Tác giả đã kết hợp khéo léo thể thơ tự do, thể thơ lục bát và vĩ thanh

tạo ra nhịp điệu phong phú và đặc sắc trong tác phẩm, góp phần tạo điểm

nhấn và những chiêm nghiệm suy tư được bộc lộ rõ nét trong mỗi trường ca.

Giọng điệu đóng vai trò quan trọng trong thơ Lê Thị Mây, giọng điệu ngợi ca

mang âm hưởng sử thi, đan xen với giọng điệu bi thương, giọng điệu trữ tình

triết lý sâu sắc góp phần tích cực trong việc thể hiện nội dung tác phẩm.

4. Với những thành công đạt được, Lê Thị Mây đã khẳng định được

phong cách và bút lực của một nghệ sĩ luôn tìm tòi và sáng tạo vì nghệ thuật,

trong một thời kỳ văn học mà trường ca đã không còn được quan tâm như

giai đoạn phát triển mười năm sau chiến tranh do những đặc trưng về thể loại.

Chị đã thổi vào đó hơi thở của cuộc sống mới với những tìm tòi biểu hiện

nghệ thuật phong phú đặc sắc, giúp độc giả có cái nhìn gần gũi và đầy đủ hơn

công lao to lớn của ông cha vì độc lập tự do nước nhà.

98

Luận văn về đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây chắc chắn không

tránh khỏi thiếu sót, nhưng với những nghiên cứu của mình, với sự yêu mến

dành cho phong cách và tác phẩm Lê Thị Mây, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần

nhỏ vào việc đánh giá, khẳng định một gương mặt thơ, trường ca có những

đóng góp và thành công nhất định trong sự phát triển của văn học Việt Nam

hiện đại.

99

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Thị Ngọc Anh (2007), Đặc sắc cái tôi trữ tình trong sáng tác một số

nhà thơ nữ thế hệ chống Mỹ cứu nước, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Khoa

văn học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn.

2. Lại Nguyên Ân (1984), Mấy suy nghĩ về thể trường ca, Tạp chí văn học.

3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia

Hà Nội.

4. Mai Bá Ấn, Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại,

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13086.

5. Đào Thị Bình (2008), Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến

cuối thế kỉ XX, Luận án tiến sỹ, Đại gọc sư phạm Hà Nội.

6. Như Bình, Nhà thơ Lê Thị Mây – nỗi buồn như con cọp rình mồi tháng

chạp, cand.com.

7. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin.

8. Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB

Khoa học xã hội.

10. Nguyễn Văn Dân, Trường ca với tư cách là một thể loại mới, Tạp chí

sông Hương số 230 – 04 – 2008.

11. Nông Thị Hồng Diệu (2006), Thế hệ các nhà thơ nữ trưởng thành trong

kháng chiến chống Mỹ, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Khoa văn học, Đại học

Khoa học xã hội và nhân văn.

12. Nguyễn Duy (2010), Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn.

13. Hoàng Kim Dung, Một ngày xưa yêu cho đến bao giờ,

http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c174/n3303/Mot-ngay-xua-yeu-

cho-den-bay-gio.html, ngày 26/08/2009.

100

14. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội.

15. Hữu Đạt (1999), Nhà văn sự sáng tạo nghệ thuật: lý luận phê bình,

NXB Hội Nhà văn.

16. Nguyễn Văn Đông, Lối rẽ và khoảng trống trong mạch trần thuật ở

sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, tonvinhvanhoadoc.vn.

17. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Chặng đường mới của văn học Việt

Nam, NXB Chính trị Quốc gia.

18. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

19. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm: phê bình và tiểu luận, NXB

Văn học.

20. Trần Đình Sử (2004), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.

21. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục.

22. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội.

23. N.A.Gulaiep, Lý luận văn học, (Lê Ngọc Tân dịch) (1982), NXB Đại học

và Trung học chuyên nghệp.

24. Đỗ Xuân Hà (2006), Văn học thế giới thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

25. Hồ Thế Hà, Thơ Việt, nhìn lại và suy nghĩ – Phê bình,

tapchisonghuong.com.vn.

26. Ngân Hà, Lê Thị Mây – nữ sĩ viết trường ca,

http://phuctriethoc.blogspot.com/2011/10/le-thi-may.html.

27. Nguyễn Thị Hà (2010), Hạnh phúc đời thường và tình yêu trong thơ Ý

Nhi, Báo cáo khoa học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.

28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ

điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục Việt Nam.

101

29. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2011), Đặc sắc thơ Lê Thị Mây, Luận văn thạc

sĩ ngữ văn, Đại học Vinh.

30. Trịnh Thị Hằng (2006), Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam

1975 – 2000, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân văn.

31. Nguyễn Thị Hậu (2013), Trường ca Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ

thể loại, NXB Văn học, Hà Nội.

32. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, NXB

Giáo dục.

33. Đỗ Thị Thu Huyền, Những giọt thơ tích tụ nơi thượng nguồn thi cảm,

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=18407.

34. Hoàng Thị Hường, Nguyễn Minh Châu với vai trò mở đường trong công

cuộc đổi mới văn xuôi sau 1975, kh – sdh.udn.vn.

35. Vĩ Lam, Lê Thị Mây – 40 năm mang trong mình đứa con của biển,

vnnet.vn.

36. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

37. Mã Giang Lân (2003), Thơ hiện đại Việt Nam những lời bình, NXB Giáo

dục.

38. Mã Giang Lân (1982), Trường ca, vấn đề thể loại, Tạp chí văn học.

39. Mã Giang Lân, Bùi Việt Thắng (2007), Văn học Việt Nam sau 1975, Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

40. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2003), Nhà thơ Việt

Nam hiện đại, NXB Lao động.

41. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội.

42. Võ Văn Luyến, Lỡ hẹn “Đám cỏ xanh” – Bình thơ, Vovanluyenqt.com.

102

43. Nguyễn Thế Lượng (2013), Trường ca Nguyễn Trọng Tạo, Luận văn

thạc sĩ khoa học ngữ văn, Thái Nguyên.

44. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình (1978), Lý luận

văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

45. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, NXB Giáo dục.

46. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật,

NXB Hội Nhà văn.

47. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Đại

học Quốc gia.

48. Lê Thị Mây (1980), Những mùa trăng mong chờ, NXB Hội Nhà văn.

49. Lê Thị Mây (2009), Thơ Lê Thị Mây, NXB Hội Nhà văn.

50. Ngô Minh, Lê Thị Mây và vết sẹo thơ, Tienphong.vn.

51. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các thể thơ ca và sự phát triển

của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.

52. Yến Nhi, Trường ca Việt, một cách nhìn,

http://4phuong.net/ebook/46578302/truong-ca-viet-mot-cach-nhin.html.

53. Vũ Nho (2009), 33 gương mặt thơ nữ, NXB Hội Nhà văn.

54. Vũ Nho, Đi tìm vẻ đẹp của thơ, http://xn--amccminh-

bza.vn/?page=newsDetail&id=535421&site=17809.

55. Vũ Nho, Đi tìm vẻ đẹp lục bát trong thơ, Lucbat.com.

56. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam: 1975 – 1990 – chuyên

luận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

57. Nguyễn Hằng Phương, Cảm hứng chủ đạo trong ca dao người Việt,

cadaotucngu.com.

58. G.N.Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử, Lại

Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch), NXB Giáo dục, 1998.

103

59. Lê Hồ Quang, Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, Tạp

chí văn học số 3, 2012.

60. Lê Hồ Quang, Thơ Lưu Quang Vũ “Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời

anh…”, Phongdiep.net.

61. Hà Quảng, Về các khuynh hướng phát triển trường ca Việt,

http://vanvn.net/news/11/889-ve-cac-khuynh-huong-phat-trien-truong-

ca-viet.html.

62. Quân chủng hải quân (2005), Hoa biển, NXB Quân đội Nhân dân.

63. Vũ Tiến Quỳnh (1998), Phê bình bình luận văn học, NXB Văn nghệ

thành phố Hồ Chí Minh.

64. Xuân Quỳnh (2011), Không bao giờ là cuối, NXB Hội Nhà văn.

65. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng

tạo, NXB Văn học.

66. Nguyễn Thanh Tâm (2012), Sự thâm nhập của chất văn xuôi vào thơ

Việt Nam đương đại, Luận án tiến sĩ văn học, Học viện Khoa học Xã hội.

67. Nguyễn Thị Liên Tâm, Đặc điểm giọng điệu trong trường ca sử thi hiện

đại, http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13006.

68. Nguyễn Thị Liên Tâm, Tình yêu đôi lứa trong trường ca thời chống Mỹ,

http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=10978.

69. Đinh Quang Tốn, Tình yêu dài suốt cuộc đời, Cand.com.

70. Trần Thị Thanh Tuyền, Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến

chống Mỹ, http://text.123doc.vn/document/271129-hinh-tuong-dat-nuoc-

trong-tho-khang-chien-chong-my.htm.

71. Hoài Thanh – Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học.

72. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại,

NXB Văn học.

73. Hà Quang Thiều, Trăng cây rơm, Baobacninh.com.vn.

104

74. Hữu Thỉnh (1981), Sự chuẩn bị của người viết trẻ, Báo văn nghệ. Lưu

Khánh Thơ, Đôi nét về trường ca những năm gần đây – nhìn từ góc độ

thể loại, http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=920.

75. Lưu Khánh Thơ (2001), Nhà văn qua hồi ức người thân, NXB Văn hóa

thông tin.

76. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện

đại, NXB Khoa học Xã hội.

77. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Giọng điệu trong trường ca Trần Anh Thái,

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/giong-dieu-trong-

truong-ca-tran-anh-thai-22-1971625.html.

78. Nhã Thuyên, Thơ nữ: Giới là một vấn đề, nguvan.hnue.edu.vn.

79. Nguyễn Trường Văn, “Gió quả phụ” và nỗi ám ảnh của chiến tranh,

Cand.com.

80. Vũ Đình Văn, Hoàng Nhuận Cầm (1974), Thơ tuổi hai mươi, NXB

Quân đội nhân dân.

81. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung

tâm từ điển học, Hà Nội.

82. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục.

105