ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
-----------------------------------------------------
ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
-----------------------------------------------------
ĐẶC ĐIỂM TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lưu Khánh Thơ
Mã số: 60 22 01 21
Hà Nội - 2014
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tất cả các thầy cô giáo, đặc
biệt là PGS. TS Lưu Khánh Thơ, đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình cùng bạn bè,
đồng nghiệp đã luôn ở bên, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người viết
Nguyễn Thị Thùy Trang
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu
được nêu trong luận văn là trung thực. Các kết quả nêu trong luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Thùy Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................... 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 11
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................... 11
7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................ 12
Chương 1. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRƯỜNG CA VÀ CON ĐƯỜNG
SÁNG TẠO CỦA LÊ THỊ MÂY ............................................................... 13
1.1. Cơ sở lý luận về thể loại trường ca ................................................. 13
1.1.1. Khái niệm trường ca .................................................................. 13
1.1.2. Một số ý kiến về thể loại trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại . 15
1.1.3. Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại 17
1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề về sự hình thành thể loại .......... 17
1.1.3.2. Sau 1945 – thời kỳ phát triển và khẳng định của trường ca . 19
1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại ...................................................... 21
1.2. Con đường sáng tạo của Lê Thị Mây ............................................. 26
1.2.1. Vài nét về tiểu sử ........................................................................ 26
1.2.2. Khái quát về tác phẩm ............................................................... 29
Tiểu kết ................................................................................................... 35
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG THẨM MỸ TRONG TRƯỜNG CA LÊ
THỊ MÂY ................................................................................................... 36
2.1. Hình ảnh người chiến sĩ................................................................... 36
2.1.1. Những người lính trực tiếp chiến đấu ....................................... 36
2.1.2. Những nữ giao liên mở đường .................................................. 39
2.1.3. Những chiến sĩ làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu ..................... 43
2.2. Hình ảnh người phụ nữ ................................................................... 45
2.2.1. Hình ảnh người mẹ ................................................................... 45
2.2.2. Khát vọng hạnh phúc ................................................................. 49
2.3. Hình ảnh đất nước ........................................................................... 53
2.3.1. Hình ảnh đất nước trong chiến tranh ....................................... 53
2.3.2. Hình ảnh đất nước trong thời bình ........................................... 56
2.4. Lý tưởng và hành trình đi tới chiến thắng ..................................... 58
Tiểu kết ................................................................................................... 62
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY
..................................................................................................................... 63
3.1. Hình thức tổ chức văn bản .............................................................. 63
3.1.1. Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ ........................................ 63
3.1.2. Ngôn ngữ ................................................................................... 65
3.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tượng trưng, ám gợi .............................. 66
3.1.2.2. Nhiều khoảng trống, khoảng lặng trong thơ ......................... 68
3.1.2.3. Ngôn ngữ đời sống ............................................................... 72
3.1.2.4. Ngôn ngữ mang sắc thái dân gian ........................................ 73
3.1.3. Thể thơ ....................................................................................... 77
3.1.3.1. Thể thơ tự do ........................................................................ 77
3.1.3.2. Thể thơ lục bát ..................................................................... 81
3.1.3.3. Vĩ thanh ............................................................................... 83
3.2. Giọng điệu ........................................................................................ 86
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi ............................... 86
3.2.2. Giọng điệu bi thương ................................................................. 88
3.2.3. Giọng điệu trữ tình triết lý ......................................................... 90
Tiểu kết ................................................................................................... 95
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trường ca là thể loại có khả năng thâu tóm và phản ánh những nội
dung khá hoành tráng và cảm hứng mãnh liệt, giàu chất triết lý, trữ tình.
Trường ca Việt Nam đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trong kháng chiến,
với những cây bút nổi tiếng: Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm,
Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Thị
Mây…
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những kí ức anh dũng hào hùng của dân
tộc vẫn vẹn nguyên trong trái tim và trang viết của các nhà văn, nhà thơ –
chiến sĩ. Các tác phẩm ra đời góp phần vào dòng chảy liên tục trong sự phát
triển của trường ca Việt Nam bằng sự nhạy cảm, những chiêm nghiệm suy tư
của những tác giả đã đi qua cuộc chiến tranh máu lửa của dân tộc.
Dưới ngòi bút của các tác giả, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
hiện lên chân thực và sinh động. Với đặc trưng của thể loại, sự đa dạng của
cấu trúc và dung lượng đồ sộ, trường ca Việt Nam hiện đại đã phát huy sức
mạnh trong việc lưu giữ những hình ảnh của cuộc kháng chiến.
Nếu như trong chiến tranh, văn học Việt Nam nói chung, thơ ca nói
riêng thường hiện lên với cái nhìn lãng mạn hóa, lý tưởng hóa; vấn đề phản
ánh trong thơ phải là những vấn đề lớn lao, chứa đựng vận mệnh cả dân tộc;
“cái tôi” phải nhường chỗ cho “cái ta” chung…Thì từ sau 1975 đã có những
đổi thay rõ rệt cùng với sự đổi thay của đời sống xã hội. Sự thay đổi được thể
hiện trên mọi bình diện từ quan điểm sáng tác, chủ đề, đề tài, tư tưởng… của
nhà văn. Trong thời đại mở cửa, con người có quyền tự do sáng tác, tự do bộc
lộ cái tôi cá tính riêng. Trong thơ xuất hiện những mạch ngầm cảm xúc suy tư
của tác giả.
1
1.2. Lê Thị Mây từ lâu là một gương mặt được nhiều nhà nghiên cứu
yêu mến và quan tâm. Đã có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về Lê
Thị Mây với vai trò là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu thế kỷ XX, với
một loạt những sáng tác ghi dấu ấn trong lòng người đọc, trong một giai đoạn
văn học hiện đại sôi động và phong phú. Lê Thị Mây nổi bật với giọng thơ
riêng độc đáo. Ở Lê Thị Mây, người đọc bắt gặp một giọng thơ đằm thắm dịu
dàng, nhiều trăn trở lo âu mà khát khao mãnh liệt. Đã có nhiều công trình, bài
viết về thơ Lê Thị Mây tuy nhiên còn nhiều phương diện trong thơ vẫn chưa
được nói đến kĩ lưỡng.
Đặc biệt, nhà thơ là gương mặt nữ đầu tiên thuộc thế hệ chống Mỹ viết
trường ca và đạt được những thành công đáng ghi nhận. Ba trường ca được
xuất bản từ năm 2003 đến nay: Lửa mùa hong áo (Nxb Quân đội 2003), Tự
khúc ánh sáng (Nxb Quân đội 2006), Người sau chân sóng (Nxb Quân đội
2013), tuy không nhiều so với số lượng thơ và truyện ngắn tác giả sáng tác
nhưng với những giá trị đạt được cũng đủ ghi dấu ấn trong lòng người đọc
bao thế hệ. Đặc biệt, trường ca Người sau chân sóng của Lê Thị Mây đoạt
giải nhất cuộc thi “Đây biển Việt Nam” do Hội nhà văn Việt Nam tổ chức
năm 2011 – 2012.
1.3. Nghiên cứu đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây giúp người đọc
có cái nhìn toàn diện và hệ thống hơn về cuộc đời và phong cách sáng tác của
một tác giả. Đề tài vận dụng những phương pháp nghiên cứu, khảo sát hiệu
quả về đặc điểm trường ca, mong muốn đem đến một đóng góp về đặc điểm
trường ca độc đáo của Lê Thị Mây. Trường ca Lê Thị Mây có dung lượng
lớn, kết cấu chặt chẽ, giàu chất trữ tình và tính sử thi. Càng về sau chất triết lý
chiêm nghiệm càng tăng.
Thơ Lê Thị Mây tiêu biểu cho phong cách đặc trưng của tác giả thơ nữ.
Lê Thị Mây đi sâu vào những ẩn ức trong chiều sâu tâm hồn con người, khắc
2
họa những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, người phụ nữ Việt
Nam trong thời chiến và thời bình.
1.4. Hiện nay, trường ca được chú ý và quan tâm trong công việc
nghiên cứu và giảng dạy ở các cấp học. Đặc biệt nhiều tập trường ca được đưa
vào nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các trường đại học. Tìm hiểu, nghiên
cứu đặc điểm trường ca Lê Thị Mây góp phần làm rõ hơn thế giới nghệ thuật
trường ca Lê Thị Mây nói riêng, thơ Lê Thị Mây nói chung, phần nào giúp ích
cho công việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trường ca trong các trường
học hiện nay.
Trên cơ sở tiếp thu những công trình của các nhà nghiên cứu từ trước
và xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm trường ca Lê
Thị Mây. Từ đó có cái nhìn toàn vẹn hơn về trường ca của một nhà thơ nữ tiêu
biểu thế kỷ XX.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây trong toàn bộ sáng tác của
tác giả giúp người đọc có được cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về cuộc đời,
sự nghiệp và những ẩn ức trong thơ. Đã có nhiều bài viết, công trình bàn về
đặc điểm trường ca của một tác giả văn học, giai đoạn văn học: Trường ca
Nguyễn Trọng tạo (Nguyễn Thế Lượng), Mấy suy nghĩ về thể trường ca (Lại
Nguyên Ân), Tình yêu đôi lứa trong trường ca về thời chống Mỹ (Nguyễn Thị
Liên Tâm), Trường ca Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể loại (Nguyễn Thị
Hậu), Trường ca Việt, một cách nhìn (Yến Nhi), Về các khuynh hướng phát
triển trường ca Việt (Hà Quảng), Đặc điểm giọng điệu trong trường ca sử thi
hiện đại (Diêu Lan Phương)...
2.1. Nghiên cứu về thơ Lê Thị Mây
Thơ chiếm đa số trong sáng tác của Lê Thị Mây. Sự tâm huyết say mê,
triết lý suy tư về con người, cuộc đời cũng được tác giả bày tỏ nhiều trong
3
thơ. Trong Lê Thị Mây - tìm tòi và thể hiện, Bích Thu đã nhận định: “Với năm
tập thơ in trong khoảng mười năm trở lại đây: Những mùa trăng mong chờ (in
chung: 1980), Dịu dàng (1987), Tuổi mười ba (1990), đặc biệt với Tặng riêng
một người (1990), người đọc đã cảm nhận được những rung động mới mẻ về
sự bừng tỉnh con người cá nhân, khẳng định cá tính và niềm khát khao tình
yêu của một tâm hồn đầy nữ tính, trong cuộc hành trình đến với thơ và đến
với bản thân mình của Lê Thị Mây” [43, tr. 484] và cũng chỉ rõ: “Đọc thơ Lê
Thị Mây, độc giả nhận thấy những suy nghĩ về tâm trạng, về số phận, về nhân
tình thế thái là một ý thức khá rõ tạo nên chiều sâu và sự phức hợp của các
cảm xúc, với mô típ nhân vật trữ tình đi tìm bản thân, trải qua những bất hạnh,
những đớn đau tinh thần, những nghiền ngẫm về tình yêu, hạnh phúc” [43, tr.
487]. Cuộc đời nhiều mất mát, khổ đau, nhiều nỗi buồn tạo nên một hồn thơ
Lê Thị Mây đằm thắm dịu dàng đầy nữ tính, một: “Lê Thị Mây không chỉ
trầm ngâm với “cái tôi” của mình mà còn quan tâm, đồng cảm với những thân
phận người phụ nữ thời hậu chiến, những éo le, những dở dang, những đợi chờ, cay
đắng: “Giấc mơ của người thiếu phụ chờ chồng, nửa vầng trăng” [43, tr. 491].
Vũ Nho trong bài viết Hờn nửa vầng trăng (Về tập Du ca cây lựu tình)
đã nhận xét về thơ Lê Thị Mây rằng: “Trước hết và trên hết, chị đã nhặt lên
những gì quanh chị, gắn liền với chị. Những gì đã trải nghiệm, đã hy vọng, đã
đớn đau, đã sống với tư cách một công dân, một tình nhân, một người đàn bà,
một thi sĩ. Có đôi khi cái hiện thực bộn bề được chị chưng cất: “Ta chưng cất
nỗi niềm cay đắng” (…) Vẫn là những câu chuyện muôn đời không cũ:
Những khát khao, hi vọng, những đợi chờ, lỡ dở, mất mát, những cay đắng,
hờn lẫy… đa dạng và đa diện như cuộc sống nhưng được nói với một cách
thức mới” [52, tr. 273].Và tác giả cũng rất thành thực khi ca ngợi Lê Thị Mây
trong lời bình cho bài thơ Gió quả phụ: “Phải có một trái tim nhạy cảm, có
tấm lòng đầy vị tha, có sự cảm thông sâu sắc của người đàn bà mới thấy hết
4
những mất mát hi sinh của người phụ nữ trong chiến tranh và nhất là những
mất mát hy sinh khi chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Gió quả phụ là một lời
hiệu triệu có ý nghĩa toàn cầu nhân danh những khổ đau, mất mát của người
phụ nữ: hãy vĩnh viễn ngăn chặn và chấm dứt chiến tranh. Để mãi mãi gió
không là quả phụ. Gió không là trầm ca. Để mãi mãi Gió chỉ là người đàn bà
hát những khúc ca ngọt ngào hạnh phúc” [52, tr. 289].
Trong bài Lê Thị Mây và vết sẹo thơ, tác giả Ngô Minh đã trải dài
những kỉ niệm, những nỗi buồn của Lê Thị Mây ra trước mắt người đọc. Tác
giả viết: “Nói đến Lê Thị Mây là nói đến nỗi buồn. Nỗi buồn đau do chiến
tranh và số phận ấy đã thành sẹo trong thơ chị, nó làm nên hình hài và ruột
gan thơ chị. Ngồi buồn cầm hết mông lung/ Vết thương năm cũ thủy chung dễ
gì. Vết thương ấy là vết thương chiến tranh và đau hơn là những vết thương
lòng đã nhiều lần mưng mủ” [50]. Tác giả cũng cho rằng: “Chị đã lao động
cật lực, đã chịu đựng biết bao mất mát đau thương của số phận, kể cả sự cô
đơn và quyền được làm mẹ, để ghi tên mình vào danh sách những cây bút nữ
xuất sắc nhất của làng thơ Việt thế kỉ XX” [50]. “Cô thanh niên xung phong
nhiều năm trên Trường Sơn ấy đến nay đã xuất bản 20 tác phẩm thơ văn;
được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam về tập thơ Tặng riêng một người
(1990) và tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam cho truyện dài Huyết ngọc
(1998). Chị có bài thơ nổi tiếng “Những mùa trăng mong chờ” được chọn vào
100 bài thơ hay nhất thế kỷ” [50]. Đó là những ghi nhận xứng đáng cho sự hi
sinh và cống hiến hết mình cho nghệ thuật của Lê Thị Mây.
Trong bài viết Nhà thơ Lê Thị Mây – nỗi buồn như con cọp rình mồi
tháng chạp, tác giả Như Bình cũng có chung những nhận định như Ngô Minh
về nỗi buồn, những mất mát lớn lao trong cuộc đời Lê Thị Mây để cống hiến
cho đời những vần thơ hay, “Chiếm lĩnh bạn đọc một thời gian dài bởi những
bài thơ xuất thần, tài hoa và sâu sắc khi nói về tình yêu, về thân phận của
5
những người đàn bà đi qua chiến tranh” [6]. “Bao nhiêu sự duyên dáng, xinh
đẹp và gợi cảm chị chắt chiu, dành dụm và trút hết vào thơ, dành cho thơ. Bên
ngoài chị là một người đàn bà giản đơn, không quan tâm nhan sắc như muôn
ngàn người đàn bà khác. Chị dành tất cả cho con đường thơ, và khi đó, con
cọp trong chị dường như đang bước ra từ phiên bản chị để lao động cật lực, để
đạt bằng được cái đích chị đã vạch sẵn. Phải là một tâm hồn vô cùng mẫn cảm
trước cái đẹp, hạnh phúc, khổ đau” [6].
Trong bài Tình yêu dài suốt cuộc đời, tác giả Đinh Quang Tốn đã viết:
“Ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh mà thơ Lê Thị Mây không nói trực tiếp
về chiến tranh như đa số các nhà thơ thời ấy. Thơ chị nói về tình yêu và thân
phận con người (…). Ở thơ chị, cuộc sống hiện thực cứ lặn đi, chỉ còn lại
cách nói riêng của chị (…). Đọc thơ Lê Thị Mây hôm nay, dẫu chị chẳng cố
tình, tôi vẫn thấy chị đang đi ở giữa hai quan niệm thơ truyền thống và thơ
“hiện đại”, tuy không phải bài nào cũng đạt được như vậy. Đó là đổi mới,
hiện đại một cách lặng lẽ bình dị, chứ không bí hiểm kỳ quặc. Lê Thị Mây là
một trong những nhà thơ đi đến hiện đại một cách tự nhiên, không cần tuyên
ngôn, la hét” [69]. Lời tác giả trích dẫn tâm sự của Lê Thị Mây giúp người
đọc có cái nhìn rõ nét hơn về những ẩn ức chị gửi vào trong thơ: “Tôi nghĩ,
thơ là nỗi buồn thầm kín của tôi đã cất tiếng khóc khi còn lại một mình”
(“Nhà văn Việt Nam hiện đại” – Hội Nhà văn Việt Nam – 2007) [69].
Tác giả Hà Quang Thiều trong bài viết về bài thơ Trăng cây rơm của
Lê Thị Mây đã cảm nhận được tâm trạng của người con gái: “Khao khát tình
yêu như cây rơm đợi lửa… Nhưng vẫn hồn hậu, bâng khuâng và huyền hoặc
như một vầng trăng xa vời” [73]. Tác giả viết: “ Bài thơ viết về tâm trạng của
một người con gái, khắc khoải chờ mong tình yêu đến với mình. Một câu
chuyện rất bình thường mà ở đâu cũng có những cô gái đợi chờ tình yêu như
thế… Nhưng ở đây, tình cảm ấy được gửi gắm vào hình thái nửa thực, nửa
6
hư, làm người đọc phải liên tưởng đến nhiều chiều của một diễn biến tâm lý,
đó là trăng cây rơm… Trăng là hình tượng của những giấc mộng, của những
khát khao lãng mạn không cùng… Nhưng cây rơm ở đây lại quá đỗi thực”
[73]. Tình yêu, niềm tin trong người con gái ấy luôn song song tồn tại với sự
dằn vặt, đợi chờ. Đó cũng là một trong những nguồn thi hứng để Lê Thị Mây
sáng tác: “Vẫn tràn đầy sức sống, tràn đầy khát khao… Song vẫn chỉ là sự đợi
chờ. Một sự đợi chờ dằn vặt nhưng lại thanh thản, bình tĩnh… Và một niềm
tin, niềm hi vọng vẫn còn nung nấu, ấp ủ… trong trái tim người con gái đợi
chờ” [73].
Trong bài bình Lỡ hẹn “Đám cỏ xanh” Võ Văn Luyến đã có những
nhận xét và thấu hiểu với tâm trạng của người con gái trong bài thơ: giận hờn,
lo sợ, cô đơn khi người yêu lỡ hẹn: “Rõ là nỗi buồn thu lại, cất giấu ở góc
khuất trái tim. Thành thử tình yêu bị đẩy lên vời vợi “chỉ sao trời yêu nhau”.
Đằng sau câu thơ rưng rưng nỗi tủi phận rất đáng yêu, rất nữ tính của người bị
đơn sai lỗi hẹn” [42]. Tác giả cũng cho rằng: “Hình như ngóng – mong –
trông – đợi ở người phụ nữ mới da diết, và nếu được giãi bày thì ngoài họ ra ít
có ai nói được hay hơn, thấm đẫm hơn, xúc động hơn” [42].
2.2. Nghiên cứu về trường ca Lê Thị Mây
Trường ca tuy chiếm số lượng không nhiều trong sáng tác của Lê Thị
Mây nhưng với lối viết độc đáo, sâu sắc, chân thật và ý nghĩa, ba tập trường
ca có sức khái quát và khắc họa lớn về những giai đoạn lịch sử của dân tộc,
bằng chính chiêm nghiệm cuộc đời tác giả đã trải qua. Trường ca góp phần
hoàn thành sứ mệnh trong việc chuyên chở tâm huyết, tuyên ngôn , những ẩn
ức triết lý của nhà thơ tới người đọc.
Hoàng Kim Dung trong Một ngày xưa yêu cho đến bây giờ đã nhận
định về trường ca Lửa mùa hong áo (2003) của Lê Thị Mây: "Tính đến thời
điểm hiện nay, có lẽ chị là nhà thơ nữ duy nhất viết trường ca về đề tài chiến
7
tranh cách mạng" [13]. Tác giả bài viết có nhận xét khá chính xác: "Cảm
hứng chủ đạo về những người phụ nữ Việt Nam bình dị yêu thương nhân hậu
mà dũng cảm anh hùng đã được nhà thơ tâm niệm, ấp ủ, đã sáng lên ngọn lửa
sáng tạo từ trong thẳm sâu của tâm hồn thi sĩ. Từ những ý tưởng đó Lê Thị
Mây đã viết nên trường ca Lửa mùa hong áo với mười bảy chương, 143 trang
sách. Trong Lửa mùa hong áo nhà thơ đã có một nội lực thi ca dồi dào và tài
hoa. Cảm hứng chủ đạo định hướng cho lý tưởng thẩm mỹ, lý tưởng yêu quê
hương đất nước da diết. Như một cuốn phim trôi dòng về quá khứ với các sự
kiện bi thương và hào hùng" [13]. Chính: "Trái tim thi sĩ rung động sâu xa đã
đưa người đọc về những bến bờ của cội nguồn tình cảm. Những khát vọng về
tình yêu, về hạnh phúc của tuổi trẻ. Nó đẹp, thơ mộng nhưng sao giản dị và
thương mến lạ lùng giữa cuộc chiến tranh ác liệt" [13].
Cùng nói về trường ca Lửa mùa hong áo (2003) của Lê Thị Mây, tác
giả Nguyễn Thị Hậu trong Trường ca Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ thể
loại nhận định: "Trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây khi xuất hiện
đã làm ngỡ ngàng nhiều người. Qua trường ca này chị đã chứng tỏ phụ nữ
cũng mạnh mẽ chẳng kém gì nam giới. Chị cũng gia nhập vào cái mạch trữ
tình - suy tư lịch sử của các đồng nghiệp nam giới. Chất trữ tình lịch sử đã thể
hiện sâu đậm trong trường ca của chị" [29, tr. 123] và "Điều đặc biệt đây lại là
nhà thơ nữ duy nhất viết trường ca" [29, tr. 123]
Nói về trường ca Lửa mùa hong áo (2003) và Tự khúc ánh sáng (2006),
Ngân Hà trong Lê Thị Mây - nữ sĩ viết trường ca nhận định: "Nếu phải kể tên
các nhà thơ từng viết trường ca thì có thể kể tới các tên tuổi như Nguyễn
Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Mai Văn Phấn,
Trần Anh Thái… mới giật mình nhận ra những tên tuổi ấy chiếm hơn 99% là
nam và tính đến nay chúng ta chỉ có duy nhất một nhà thơ nữ viết trường ca,
đó là Lê Thị Mây ". [27] Và: "đọc trường ca của Lê Thị Mây “nhiều người
8
không dứt ra được” cho đến khi những dòng chữ cuối cùng xuất hiện. Dù là
kể lại, nhớ lại con người, sự kiện… trong chiến tranh thì Lê Thị Mây cũng
không dùng giọng trần thuật, tường thuật đều đều mà lúc nào cũng chứa chan
tình cảm, lúc dồn dập, tha thiết tạo nên sức hấp dẫn của thể thơ" [27]
Vĩ Lam đã nhận định về trường ca Người sau chân sóng (2013) trong
Lê Thị Mây: 40 năm mang trong mình đứa con từ biển: "Phải đến khi gặp
được nữ nhà thơ, những người tổ chức chương trình mới thấu hiểu, và cảm
nhận hết sự ngây thơ, trong trẻo, chỉ biết sống với Thơ của một cô cựu thanh
niên xung phong, đã suốt 40 năm liền đi trong giấc mơ dài về biển" [35]. "40
năm, từ giây phút vỡ nát của trái tim trong đôi mắt của cô gái thanh niên xung
phong khi trở về quê hương để đứng trước cảnh hoang tàn của chiến tranh.
Bao nỗi nhớ quê hương, gia đình và những kỉ niệm bỗng chốc chỉ còn lại
trong những giọt nước mắt để rồi từ đó đứa con tinh thần bắt đầu hình thành
trong cô từ ấy"[35]. Và sau 40 năm ấy, mạch chảy trong thơ Lê Thị Mây vẫn
luôn mãnh liệt và giằng xé, vẫn chưa bao giờ ngơi nghỉ.
Đọc thơ Lê Thị Mây chúng ta không chỉ nhận ra nhiều nỗi buồn thấm
thía, trong thơ luôn ẩn giấu sự khắc khoải đợi chờ. Ẩn chứa trong thơ còn vẻ
đẹp của sức sống, hi vọng và niềm tin, tin vào tương lai và yêu mến con người
tốt đẹp. Nhà thơ yêu và đợi chờ, hi vọng bằng trái tim rất đỗi hiền lành, vị tha
của người con gái. Chị san sẻ những nỗi buồn, niềm tin và tình yêu ấy cho cả
những số phận người phụ nữ khác kém may mắn trong tình yêu, những mảnh
đời mất mát lớn lao qua chiến tranh ác liệt, mà ít khi giữ cho riêng mình, bằng
cách rất dung dị đáng yêu, rất nữ tính là gửi vào trong thơ. Càng về sau tính
ẩn ức trong thơ Lê Thị Mây càng rõ nét.
Trên đây là một số bài viết, ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu về
nhà thơ Lê Thị Mây. Tuy nhiên chưa công trình, bài viết nào có một cái nhìn
hệ thống và toàn diện về Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây.Trên cơ sở tiếp thu
9
những ý kiến trước, luận văn tiếp tục làm rõ những đặc sắc nổi bật đó trong
trường ca Lê Thị Mây.
3. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn nghiên cứu đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, mục đích
của chúng tôi ở đề tài này nhằm xác định khái niệm trường ca; tìm hiểu đặc
điểm trường ca Lê Thị Mây qua nội dung và nghệ thuật biểu hiện qua đó
nhằm làm rõ hơn phong cách nhà thơ và những đóng góp đáng kể của tác giả
ở thể loại này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích khoa học đã đặt ra, luận văn về đề tài Đặc điểm trường
ca Lê Thị Mây tập trung xem xét và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến
đề tài. Cụ thể là cảm hứng sáng tác, những đặc sắc về nội dung, những đặc
sắc về nghệ thuật của trường ca Lê Thị Mây. Từ đó thấy được những đóng
góp riêng của nhà thơ về thể loại trường ca.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích khoa học và đối tượng nghiên cứu của đề tài, ở đề
tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, chúng tôi tập trung đi sâu vào khai thác
ba trường ca đã xuất bản của tác giả:
Lửa mùa hong áo (Nxb Quân đội 2003)
Tự khúc ánh sáng (Nxb Quân đội 2006)
Người sau chân sóng (Nxb Quân đội 2013)
Bên cạnh đó luận văn còn tìm hiểu một số tập thơ tiêu biểu của Lê Thị Mây:
Tình yêu dài suốt cuộc đời (Hội nhà văn, 2004)
Thương nhớ một ngày (Hội nhà văn, 2006)
Thơ và trường ca Lê Thị Mây (Hội nhà văn, 2009)
10
Ngoài ra, luận văn còn đi vào khảo sát và tham khảo thơ, trường ca của
một số nhà thơ Việt Nam tiêu biểu qua các thời kì để đối chiếu, so sánh, tìm
ra những nét tương đồng và khác biệt trong trường ca Lê Thị Mây.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, chúng
tôi có những hướng tiếp cận tư liệu để triển khai như sau:
Trước hết, tìm đọc tất cả các trường ca đã xuất bản của Lê Thị Mây cho
đến nay.
Thứ hai, tìm các bài viết, công trình nghiên cứu bàn về thể loại trường
ca, về trường ca của các tác giả nữ, trường ca Lê Thị Mây.
Thứ ba, khảo sát đặc điểm từng trường ca từ đó khái quát những đặc
điểm tiêu biểu của trường ca Lê Thị Mây.
Thứ tư, so sánh với một số tác giả cùng thể loại, cùng thời.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các
phương pháp sau: phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp tiếp cận thi
pháp học, xã hội học, văn học…; phương pháp thống kê; phương pháp đối
chiếu so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm trường ca Lê Thị Mây, luận văn chỉ ra
những đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong trường ca của tác giả.
Qua đó có cái nhìn đầy đủ và có hệ thống toàn diện hơn về đặc điểm trường
ca Lê Thị Mây, khẳng định những đóng góp nổi bật về mặt thể loại trường ca
trong thơ ca Việt Nam hiện đại, từ đó làm nổi bật phong cách tác giả. Trên cơ
sở những kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn còn là tài liệu tham khảo hữu
ích cho những độc giả quan tâm, yêu thích thơ Lê Thị Mây nói riêng và cho
việc giảng dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường nói chung.
11
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
được triển khai thành ba chương:
Chương 1. Đặc trưng thể loại trường ca và con đường sáng tạo của Lê
Thị Mây
Chương 2. Đối tượng thẩm mỹ trong trường ca Lê Thị Mây
Chương 3. Nghệ thuật trong trường ca Lê Thị Mây
12
Chương 1
ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRƯỜNG CA VÀ CON ĐƯỜNG SÁNG TẠO
CỦA LÊ THỊ MÂY
1.1. Cơ sở lý luận về thể loại trường ca
1.1.1. Khái niệm trường ca
Thuật ngữ hay tên gọi “trường ca” trong tiếng Việt (tiếng Anh là
“poem”, tiếng Pháp “poème” để phân biệt với “sử thi” hay “anh hùng ca” có
nguồn gốc từ văn học phương Tây, bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ những
năm 50 của thế kỉ XX. Khái niệm trường ca xuất hiện trong bối cảnh văn học
có những vận động, biến đổi mạnh mẽ là một thể loại văn học mới có khả
năng đáp ứng nhu cầu phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, vận mệnh dân
tộc. Đây được coi là một thể loại có tầm cỡ hoành tráng trong hệ thống thơ ca,
“làm nên gương mặt riêng của thơ ca hiện đại Việt Nam” [5, tr.22]
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Trường ca là tác phẩm dài, bằng thơ,
có nội dung ý nghĩa xã hội rộng lớn” [81, tr.1057]
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Trường ca là tác phẩm thơ có
dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình. Trường ca cũng
được dùng để gọi các tác phẩm sử thi thời cổ và trung đại, khuyết danh hoặc
có tác giả”. [24, tr. 376]
Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng: “Trường ca có
dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình. Chúng
được soạn bằng cách xâu chuỗi các bài hát sử thi và truyện kể hoặc bằng nới
rộng một vài truyền thuyết dân gian (Ahoyler) hoặc bằng cách cải biên các
truyện cổ xưa trong tiến trình tồn tại của sáng tác dân gian. Trường ca với tư
cách một thể loại tổng hợp, trữ tình – tự sự, hoành tráng cho phép kết hợp
những chấn động lớn, những cảm xúc trầm sâu và những quan niệm về lịch
sử vẫn là một thể loại hiệu năng của thơ ca thế giới”. [3, tr. 363 – 364]
13
“Trường ca là kết quả của một quá trình kế thừa, tiếp thu và tương tác
giữa các thể loại thơ ca trường thiên” [29, tr. 56]. Đó là những tác phẩm có
tầm vóc lớn lao về cả hình thức và nội dung, có khả năng thể hiện những vấn
đề lớn của dân tộc, thời đại. Trường ca được coi là biến thể của sử thi truyền
thống. Chất sử thi hùng tráng trong những bản anh hùng ca cổ vẫn được tiếp
nối trong trường ca, làm nên nét độc đáo đặc trưng cho thể loại này. Theo
những cách định nghĩa trên, trường ca đồng nhất với sử thi, anh hùng ca, dùng
để chỉ những sáng tác dân gian có tính chất sử thi và độ dài: Iliats, Ôđixê,
Ramayana, Mahabrata… của thế giới hay Đam San, Xinh Nhã, các Khan
(Tây Nguyên)… của Việt Nam. Trường ca hiện đại vừa có sự vận động kế
thừa trường ca cổ vừa có những nét khác biệt, đặc trưng riêng của một thể loại
văn học hiện đại. Ở trường ca, đặc biệt là trường ca hiện đại, chất trữ tình –
suy tư chiếm vị trí nổi trội bên cạnh chất tự sự vốn có.
Trường ca phản ánh sự vận động của lịch sử dân tộc qua những biến
động lớn lao. Đó là cảm hứng để các tác giả viết lên những bản trường ca
hoành tráng đầy chất sử thi cách mạng. Hiện thực chiến tranh khắc nghiệt mà
hào hùng qua hai cuộc chống Pháp và chống Mỹ đã trở thành nguồn cảm xúc
vô tận, đưa thể loại trường ca trở thành gương mặt riêng tiêu biểu của văn học
Việt Nam hiện đại, đặc biệt từ sau năm 1975. Cũng như sử thi, trường ca
được viết lên từ chất liệu hào hùng của cuộc sống, từ trái tim và tài năng của
những con người đã đi qua chiến tranh, trưởng thành trong chiến tranh. Rất
nhiều những tác phẩm thành công ra đời sau khi đã diễn ra những sự kiện lịch
sử ấy. Bởi, để viết lên những tác phẩm giá trị: “nhà thơ cần có một độ lùi thời
gian cần thiết để chiêm nghiệm lịch sử, để tích lũy cảm xúc, và khi lịch sử đã
đi qua nhưng âm ba của những sự kiện lớn ấy vẫn “không thể nào quên”,
trường ca lại xuất hiện rầm rộ hơn và để lại nhiều thành tựu nghệ thuật cao
hơn” [4]
14
1.1.2. Một số ý kiến về thể loại trường ca trong văn học Việt Nam
hiện đại
Trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại ra đời xuất phát từ nhu cầu
tổng kết, nhận diện lịch sử dân tộc. Mỗi bước hình thành và phát triển qua
từng giai đoạn đánh dấu một mốc đổi mới quan trọng của thể loại trường ca.
Trên con đường nghệ thuật đi tìm ý nghĩa cho thể loại, mỗi tác giả có một cái
nhìn riêng về thể loại trường ca. Mỗi ý kiến tiêu biểu về trường ca hiện đại
Việt Nam đã làm rõ nét hơn về đặc điểm trường ca Việt Nam hiện đại.
Nhà phê bình Lại Nguyên Ân trong Mấy suy nghĩ về thể trường ca cho
rằng: “Một vấn đề khá mấu chốt của trường ca là vấn đề quan hệ giữa tính tự
sự và tính trữ tình” [2]. Phạm Ngọc Cảnh trong Trường ca và người viết
trường ca lại quan niệm: “Trường ca phải là sự khái quát nội dung rộng lớn”.
Tác giả Từ Sơn trong Về khái niệm trường ca gọi trường ca là những tác
phẩm thơ dài có cốt truyện. Về sau, một loạt ý kiến định nghĩa trường ca được
đưa ra như: Đỗ Văn Khang, Phạm Huy Thông, Hoàng Ngọc Hiến, Mã Giang
Lân… Các ý kiến đã góp phần làm sáng rõ hơn khái niệm trường ca.
Về đặc trưng thể loại, Lại Nguyên Ân ngay từ Mấy suy nghĩ về thể
trường ca (2 – 1975) được đăng trên báo, sau đó in trong Văn học và phê bình
đã cho rằng: “Trong thơ những năm gần đây có sự xuất hiện ngày càng nhiều
những sáng tác thơ dài, thường được gọi là trường ca” [2]. Bài viết đã đề cập
đến sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng của thể loại trường
ca; tác giả ghi nhận những thể nghiệm của thể loại trường ca, đồng thời nêu
lên những khác biệt của trường ca so với các thể tài khác: truyện thơ, thơ
trường thiên, thơ sân khấu, thơ dài trữ tình chính luận; nêu lên những đặc
trưng cơ bản của thể loại trường ca; các hình thức trường ca viết trong giai
đoạn đó.
15
Mai Bá Ấn trong Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại
cho rằng: “Trường ca là một tác phẩm được viết bằng thơ trên phương thức
kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố tự sự và trữ tình, có tính hoành tráng về cả
phương diện nội dung, tư tưởng và cấu trúc nghệ thuật tác phẩm, được nhà
thơ viết nên bằng một dung lượng cảm hứng mạnh mẽ, cảm xúc tuôn trào gắn
liền với những chấn động lớn lao của lịch sử, của dân tộc và thời đại” [4].
Bài viết chỉ ra rằng trường ca là một cấu trúc nghệ thuật phức hợp thông qua
các phương thức biểu hiện. Theo tác giả, xu hướng trường ca hóa thơ dài sẽ
hạ thấp vai trò của trường ca, làm mờ đi ranh giới giữa chúng với các thể loại
văn học khác. Bài viết là nghiên cứu tiêu biểu về đặc trưng thể loại trường ca,
ngoài ra còn nhiều bài viết công phu của các tác giả khác về đặc điểm này:
Trần Ngọc Vương, Mã Giang Lân, Vũ Đức Phúc…
Nhà nghiên cứu Lưu Khánh Thơ trong Đôi nét về trường ca những năm
gần đây – nhìn từ góc độ thể loại cũng đưa ra ý kiến về sự phát triển của thể
loại trường ca từ sau năm 1975: “trường ca phát triển theo hướng trữ tình,
tâm lý, triết lý, yếu tố cốt truyện giảm xuống, các cảm xúc cá nhân thường
được đặt trong liên hệ với những sự kiện lớn của lịch sử, của đất nước”. Tác
giả dựa vào nội dung, đối tượng phản ánh, phương thức thể hiện, hình tượng
trung tâm và âm hưởng chủ đạo của tác phẩm để làm căn cứ xác định thể loại.
Trong bài viết, tác giả đưa ra cái nhìn mới về một số tác phẩm trường ca tiêu
biểu đương thời.
Nhiều bài viết, ý kiến được đưa ra như: Trường ca – thành tựu của nền
văn học mới và Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại (Vũ
Văn Sỹ), Về đặc trưng trường ca qua “Người cùng thời” (Mai Văn Phấn),
Chất sử thi trong trường ca Việt Nam hiện đại 1954 – 1985 (Nguyễn Thị
Hồng Liên), Trường ca về đề tài chiến tranh chống Mỹ (nhìn từ góc độ thể
loại) (Diêu Lan Phương), Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến
16
cuối thế kỷ XX (Đào Thị Bình), Đặc điểm trường ca Thu Bồn, Nguyễn Khoa
Điềm và Thanh Thảo (Mai Bá Ấn)…
1.1.3. Các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại
1.1.3.1. Trước 1945 – những tiền đề về sự hình thành thể loại
Trước 1945, trường ca hiện đại Việt Nam hầu như chưa có, nhưng
những tiền đề của nó đã xuất hiện và phát triển từ xa xưa theo sự thâm trầm
của lịch sử dân tộc. Trường ca là thể loại có khả năng dung chứa và phản ánh
những sự kiện lớn lao của thời đại, vì thế mà trong điều kiện lịch sử thuận lợi
và hào hùng mới khai sinh ra thể loại trường ca.
Giai đoạn trước năm 1945 trường ca Việt Nam tồn tại dưới dạng những
bản anh hùng ca mang đậm tính chất sử thi tồn tại lâu đời trong lịch sử dân
tộc từ hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Những Đam San, Xinh Nhã,
sử thi Tây Nguyên đầy âm hưởng núi rừng. Các tác phẩm đã đi vào kho tàng
văn học cổ, trở thành tài liệu quý giá cho việc học tập, nghiên cứu của các thế
hệ sau, tạo cơ sở cho thể loại trường ca ra đời. Chính trạng thái chống chiến
tranh liên miên của cha ông ta trong quá khứ đã làm tiền đề cho sự ra đời của
thể loại trường ca sau này. Tuy nhiên ở thời kì lịch sử mà con người vốn ngại
thay đổi trong nhịp sống bình lặng của đất nước có truyền thống lúa nước và
bị phong kiến phương Bắc đô hộ hàng nghìn năm thì khó sinh ra thể loại
trường ca.
Chiến tranh là điều kiện gắn kết và thức tỉnh ý thức cộng đồng dân tộc,
một điều kiện quan trọng hình thành thể loại. Qua 20 thế kỉ hình thành và phát
triển, dân tộc ta trải qua biết bao cuộc chiến chống ngoại xâm. Chính ý thức
dân tộc, cộng đồng, sự đoàn kết và lòng tự tôn dân tộc đã làm nên những
chiến thắng rực rỡ với những chiến công vang dội của quân và dân ta. Điều đó
có ý nghĩa chính trị xã hội rộng lớn, đồng thời ảnh hưởng sâu sắc tới trường
ca mang âm hưởng sử thi.
17
Trong những cuộc chiến hào hùng của dân tộc ấy, nhân dân chiến một
vị trí quan trọng. Họ được nâng tầm thành sức mạnh để đập tan mọi bè lũ
cướp nước và bán nước. Tầm quan trọng của nhân dân đã được Nguyễn Trãi
đề cập: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Theo Nguyễn Trãi,
dân chính là thước đo và động lực của mọi hoạt động chính trị. Tư tưởng ấy
khá hiện đại và tiến bộ gần với tư tưởng Hồ Chí Minh sau này. Trước Nguyễn
Trãi, vai trò của nhân dân (hay quần chúng nhân dân như sau này vẫn gọi)
chưa được xem trọng, trong quan niệm của văn học phong kiến, vẫn coi nhân
dân là dân đen, con đỏ. Tuy nhiên, trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, vai trò
của nhân dân cũng hết sức quan trọng, làm nên chiến thắng và sự bình yên
cho tổ quốc bằng sức mạnh cộng đồng.
Tiền thân của trường ca trong lịch sử dân tộc là những truyền thuyết, sử
thi, thơ trường thiên: Thánh Gióng, Hào khí Đông A, những tác phẩm văn thơ
của các tầng lớp trong thế kỉ XVIII, XIX, và đến văn thơ cách mạng hiện đại
sau này. Trong những tác phẩm đại tự sự ấy, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
tự hào dân tộc đóng vai trò quan trọng, cũng là tiền đề cho sự hình thành thể
loại trường ca hiện đại sau này.
Chính chất sử thi, anh hùng ca trong văn học truyền thống đã ảnh
hưởng đến tư duy thể loại trường ca. Có thể thấy, mỗi thể loại văn học ra đời
trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định và phù hợp để phát triển. Trường ca
ra đời trong nền lịch sử sôi động và hào hùng của thời đại.
Bắt đầu từ năm 1935, giữa lúc phong trào Thơ Mới phát triển sôi động
đã xuất hiện trường ca Tiếng địch sông Ô của Huy Thông. Tác phẩm mà theo
tác giả sau này phát biểu thì đó là trường ca hiện đại đầu tiên trong nền thơ
hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên tác phẩm vẫn mang âm hưởng trường ca sử thi
cổ - trung đại của thế giới và chưa thể hiện rõ những đặc trưng thể loại trường
ca hiện đại.
18
1.1.3.2. Sau 1945 – thời kỳ phát triển và khẳng định của trường ca
Bước qua phong trào Thơ Mới, văn học chuyển từ thể hiện đời sống cá
nhân sang thể hiện những vấn đề lớn lao của dân tộc và thời đại, chuyển từ
“cái tôi” sang “cái ta” chung. Văn học thời kì này phát triển theo định hướng
của Đảng, trở thành một mặt trận phục vụ kháng chiến. Đó là nền văn học
hướng về đại chúng, về giai cấp công, nông, binh. Danh hiệu nhà văn – chiến
sĩ được đề cao trên mặt trận văn hóa văn nghệ mà Hồ chủ tịch đã khẳng định
năm 1951.
Thể loại trường ca cũng không nằm ngoài sự vận động và phát triển đó.
Điều kiện lịch sử đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho thể loại phát huy khả
năng phản ánh hiện thực và phục vụ kháng chiến, ghi giữ lại những khoảnh
khắc đau thương mà vinh quang của dân tộc. Âm hưởng sử thi đã trở thành
sợi chỉ xuyên suốt trong các sáng tác văn học nói chung ở thời kì này. Các
nhà văn, nhà thơ bị cuốn theo không khí hào hùng của thời đại mới, nhà thơ
Hữu Thỉnh trong Sự chuẩn bị của người viết trẻ đã phát biểu: “Hiện thực
chiến tranh, cuộc sống của người lính dội vào mạnh đến mức vượt ra khỏi
một thời đoạn, một đề tài. Nó thành một tâm thế” [77] và “cuộc sống lớn lao,
bi tráng quá, đòi hỏi phải mở rộng các kích cỡ” [77].
Văn học Việt Nam nói chung, trường ca nói riêng từ sau năm 1945 có ý
nghĩa tổng kết một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trong những năm kháng
chiến chống Pháp và những năm đầu kháng chiến chống Mỹ, một số bản
trường ca đầu tiên ra đời: Từ đêm mười chín (Khương Hữu Dụng, năm 1951),
Những người trên cửa biển (Văn Cao, 1956), Tiếng hát trên địa ngục Côn
Đảo (Phùng Quán, 1955), Bài thơ Hắc Hải (Nguyễn Đình Thi, 1959), Du kích
sông Loan (Xuân Hoàng, 1963)… Ở giai đoạn này, trường ca còn rất khiêm
tốn về số lượng và chất lượng nhưng vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
19
Sang kháng chiến chống Mỹ, trường ca có sự phát triển vượt bậc về cả
số lượng và chất lượng. Thời kì này, các nhà thơ đã trưởng thành, lớn mạnh,
có đủ sức vóc để đảm đương một thể loại văn học mới đặc sắc. Năm 1964,
trường ca Bài ca chim Chơ – rao ra đời, đây được coi là “một cú hích, một
dấu mốc” chính thức khai sinh ra thể loại trường ca hiện đại Việt Nam” [9, tr.
74]. Từ đó, ra đời một loạt tác phẩm: Nguyễn Văn Trỗi (Lê Anh Xuân, 1969),
Mặt đường khát vọng (1974), Kể chuyện ăn cốm giữa sân (Nguyễn Khắc
Phục, 1974), Theo chân Bác (Tố Hữu, 1970), Bác (Lê Đạt, 1970), Hồ Chí
Minh (Lê Huy Quang, 1969 – 1970)…
Đặc biệt từ sau năm 1975, trường ca được coi là đã đạt được một vụ
mùa bội thu. Năm 1975 là một bước ngoặt lịch sử của đất nước. Đại thắng
mùa xuân năm 1975 đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên của độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta vĩnh
viễn thoát khỏi ách nô dịch của các nước đế quốc, đất nước thoát khỏi thảm
họa bị chia cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo về được thành quả của
Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Kể từ đây, nước Việt Nam ta: “Từ
Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau/ Trời ta chỉ một trên đầu/ Bắc Nam liền một
dải” (Tố Hữu).
Hoàn cảnh lịch sử là điều kiện để văn học Việt Nam nói chung, thơ ca
nói riêng có những tiếng nói mới, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Sau
chiến tranh, thơ Việt Nam có những bước chuyển biến rõ rệt, có những thay
đổi và hình thành nhiều xu hướng khác nhau. Các nhà văn, nhà thơ bắt đầu đi
sâu vào nền hiện thực mới: hiện thực đời sống nội tâm của cái tôi cá nhân.
Trường ca hiện đại Việt Nam chuyển hướng thể hiện chất trữ tình trên nền tự
sự - những sự kiện lịch sử dân tộc. Có thể nói giai đoạn chống Mỹ và sau
chống Mỹ là thời kì phát triển rực rỡ của thể loại trường ca. Trường ca giai
đoạn này có sự đan xen hai yếu tố tự sự và trữ tình, làm nên độ hoàn chỉnh về
20
thể loại của trường ca; có ý nghĩa tổng kết, khẳng định một giai đoạn lịch sử
với những chiến công hào hùng của dân tộc. Một loạt tác phẩm ra đời: Những
người đi tới biển (Thanh Thảo, 1977), Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh,
1979), Trường ca sư đoàn (Nguyễn Đức Mậu, 1980), Con đường của những
vì sao (Nguyễn Trọng Tạo, 1981), Mặt trời trong lòng đất (Trần Mạnh Hảo,
1981)…
Từ sau năm 1980 trường ca đi sâu vào khuynh hướng trữ tình với các
tác phẩm: Khối vuông rubíc (Thanh Thảo, 1985), Trường ca biển (Hữu Thỉnh,
1994), Gọi nhau qua vách núi (Thi Hoàng, 1995), Người cùng thời (Mai Văn
Phấn, 1999), Đổ bóng xuống mặt trời (Trần Anh Thái, 1999), Lửa mùa hong
áo (Lê Thị Mây, 2003)…
1.1.4. Nội dung trường ca hiện đại
Để viết lên những tác phẩm giá trị, đòi hỏi các tác giả phải có vốn sống,
sự chiêm nghiệm về cuộc đời, điều đó lí giải vì sao nhiều tác phẩm giá trị ra
đời nhiều năm sau chiến tranh, khi đã có độ lùi cần thiết. Hầu hết các tác giả
viết trường ca đều đã đi qua chiến tranh, chứng kiến và cảm nhận những mất
mát hi sinh và chiến thắng hào hùng dân tộc. Nội dung của trường ca được thể
hiện với con mắt của người trong cuộc, những con người đại diện cho chân lí
và chính nghĩa. Hai chủ đề lớn của trường ca hiện đại Việt Nam là: Chủ đề về
chiến tranh và người lính, đất nước và số phận con người.
Chiến tranh và người lính
Thể loại trường ca khai sinh trên nền hiện thực hào hùng của lịch sử
dân tộc. Những cuộc chiến tranh vĩ đại mà quân và dân ta đã trải qua là nguồn
cảm hứng vô tận cho các nhà văn trải nghiệm và viết lên những bản trường ca
đặc sắc. Đặc biệt, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
trên nền lịch sử lâu đời của cha ông ta đã tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của
các nhà văn, nhà thơ. Họ viết về chiến tranh, ghi giữ dấu ấn của dân tộc, viết
21
về người lính – những con người trực tiếp đương đầu nơi đầu súng ngọn giáo,
nơi chiến trường ác liệt. Họ viết về chính họ - những con người đã góp phần
mình vào cuộc chiến tranh, đã đi qua chiến tranh và đem tâm huyết tài năng
góp lại cho cuộc đời. Trong bom đạn, trong gian khổ hi sinh, những phẩm
chất cao đẹp của người lính càng bộc lộ rõ ràng. Những con người sẵn sàng hi
sinh cho độc lập tự do Tổ quốc:
“Người ta không thể chọn để được sinh ra
Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy.
… − Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc?)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì còn chi Tổ Quốc?”
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Và chỉ có những người lính mới cảm nhận được hết cái mong manh của
nấc đạn, mong manh giữa sự sống và cái chết:
“Hòa bình và chiến tranh, cách nhau bằng nấc đạn”
(Ngày 30 tháng 4 – Nguyễn Đức Mậu)
Gian khổ là thế, nhưng họ luôn vững tin vào ngày gặp mặt với một tinh
thần lạc quan…:
“Ngày mai chúng ta đánh trận cuối cùng
Một nửa nhân dân ngày mai ta nhận mặt
Nhân dân trở về từ bên kia mặt trăng”.
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Có thể nói chiến tranh và người lính là đề tài bất tận cho thể loại trường ca.
Đất nước và số phận con người
Lòng yêu nước là truyền thống tốt đẹp bao đời của dân tộc Việt Nam ta.
Chính lòng yêu nước nồng nàn đã trở thành sức mạnh chiến đấu và chiến
thắng mọi thế lực thù địch giữ vững hòa bình. “Đó là thứ của quý, bấy lâu
22
nay phải cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm nay nhờ cách mạng được
đem ra trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê ” (Hồ Chí Minh). Trong
sáng tác của các tác giả, cảm hứng về đất nước vẫn luôn là cảm hứng chủ đạo.
Hình tượng đất nước là: “Hình tượng đẹp đẽ được xây dựng thành công vào
bậc nhất” [70]. Dưới ngòi bút của các tác giả, đất nước hiện lên muôn vẻ đẹp,
muôn màu:
“Đất nước
Bốn ngàn năm không nghỉ
Những đạo quân song song cùng lịch sử
Đi suốt thời gian đi suốt không gian
Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang…
… Đất nước của những người con gái, con trai
Đẹp hơn hoa hồng cứng hơn sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”
(Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi – Nam Hà)
Đất nước hiện lên gần gũi và thân thương nơi một góc rừng trận địa:
“một gốc sim thôi, một gốc sim cằn,
sim như là không có cũng không sao…
… nhưng trước mặt là Tổ Quốc
dù chỉ gốc sim thôi, dù chỉ gốc sim cằn
anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện”
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Đất nước mang âm hưởng đồng vọng cả quá khứ và hiện tại, tiếp thêm
sức mạnh chiến đấu cho những người lính trên chiến trường:
“Trụ sống lưng Tổ quốc
Hỡi Trường Sơn dằng dặc
23
Bọc trứng Âu Cơ xếp đá hộc nâng đường”.
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Nguyễn Khoa Điềm có cách định nghĩa về đất nước đầy cảm xúc:
“Đất là nơi Chim về,
Nước là nơi Rồng ở.
Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng…”
(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Đất nước là tình đồng chí đồng đội, là tinh thần đoàn kết tạo nên sức
mạnh dân tộc:
“Một sư đoàn có những dòng sông
Con sóng vỗ hai bờ truyền thuyết
Thế hệ mai sau tìm đến soi mình
Tôi sung sướng được uống chung nguồn nước”
(Trường ca sư đoàn – Nguyễn Đức Mậu)
Đất nước hiện lên trên trang viết các tác giả còn là vẻ đẹp bình dị, gần
gũi thân thương của những con người, cuộc đời bình dị. Những người anh
hùng của nhân dân:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Trong hầu hết các trường ca, hình tượng người mẹ - người phụ nữ anh
hùng được khắc họa rõ nét. Mẹ là nguồn cội yêu thương, là nơi tìm về, mẹ
sinh ra những anh hùng cho dân tộc:
24
“Cho con xin bắt đầu từ mẹ
Để nói về chúng con
Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính
Xanh màu áo lính
Đã từng sung sướng, đã từng nghẹn ngào
Được làm con mẹ
Được ra trận những năm đất nước mình khốc liệt”
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Đất nước anh hùng trong thời chiến và thanh bình trong thời bình. Đất
nước bảo bọc che chở yêu thương trong Người sau chân sóng:
“Mẹ đất liền đêm đêm hỏi sóng nghe thuyền. Cửa sông phao số
không trồi trụt. Và nhịp tim nghìn đảo đứng đón buồm. Bồng bềnh Trường Sa,
Hoàng Sa dựng non bộ án ngữ biển Đông che ấm đất liền, hưởng trăng thanh
gió lặng. Hồn vía cửa sông treo lên đỉnh cột buồm”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Số phận con người cũng là mảng đề tài được các nhà văn quan tâm. Ở
bất cứ thời đại lịch sử nào, số phận con người cũng gắn liền với vận mệnh đất
nước. Con người trong hoàn cảnh tự khẳng định mình. Trường ca trước năm
1975 chủ yếu đi vào khai thác hình ảnh con người mang tính tập thể, cộng
đồng. Đến sau năm 1975, Cách mạng thành công, nhu cầu đổi mới và sáng
tạo trong văn học đã đưa các tác giả đến với miền đất mới: khai thác những
khía cạnh, tâm tư sâu kín của con người, đời sống nội tâm phong phú và phức
tạp. Số phận con người đời tư nhiều khổ đau, mất mát sau chiến tranh:
“Chị đợi chờ quay mặt vào đêm
Hai mươi năm mong trời chóng tối
Hai mươi năm cơm phần để nguội
25
(…)
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Nỗi mát mát lớn lao của những người mẹ được khắc họa rõ nét trong thơ:
“Mỗi bận chiến trường tin báo tử
Mẹ lại hoài thai bằng nỗi đau dài”
(Đất nước hình tia chớp – Trần Mạnh Hảo)
Vượt lên trên mọi khó khăn gian khổ, những con người kiên cường ấy
lại tiếp tục hăng say góp sức mình xây dựng đất nước ngày thêm giàu đẹp:
“Và dấu chân Người trong dấu chân ngư ông cùng các trai đinh
quần tụ. Những dấu chân quẫy sóng bám thuyền. Những dấu chân lún cát
bám làng. Tay thì nâng sông xanh lên soi mặt. Thấy miền Trung nhấp nhô
trăm nghìn đảo. Thấy sau lưng điệp điệp Trường Sơn. Hoàng Sa – Trường Sa
– hòn non bộ của bờ Mẹ - đất – liền. Cánh đại bàng yêu đảo bay về biển.
cánh hải âu nhớ nguồn bay tìm tháp đèn biết mắt thuyền cay sóng. Nước
nguồn xanh làm mực cho thi nhân”.
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
1.2. Con đường sáng tạo của Lê Thị Mây
1.2.1. Vài nét về tiểu sử
Lê Thị Mây tên thật là Phạm Thị Tuyết Bông, bút danh khác là Phạm
Thị Tuyết Hoa, sinh ngày 04/02/1949. Có ý kiến cho rằng chị sinh ra ở vùng
đất Quảng Bình nhưng cũng có người cho rằng quê hương chị là mảnh đất
Quảng Trị.
Năm 1993, Hội Văn nghệ Quảng trị ra Cửa Việt bộ mới, nhà văn Xuân
Đức, lúc đó là Giám đốc Sở Văn hóa và Chủ tịch Hội Văn nghệ đã đích thân
26
vào Huế mời Lê Thị Mây ra làm Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Quảng
Trị, rồi sau đó làm Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt, vì chị quê gốc là Triệu
Long, Triệu Phong, Quảng Trị. Còn trong sách “Các nhà văn Việt Nam hiện
đại Quảng Bình” lại xếp Lê Thị Mây vào danh sách “nhà văn Quảng Bình”.
Điều đó cũng rất đúng vì chị sinh ra ở Bảo Ninh, Đồng Hới. Mảnh đất “dọc
bờ sông trắng nắng chang chang” (Hàn Mạc Tử) bên kia sông Nhật Lệ có rất
nhiều người nổi tiếng như nhà ngôn ngữ học Hoàng Tuệ, nhà văn Bảo Ninh,
nhà thơ Hà Nhật….
Ngay từ thuở ấu thơ, khi còn là đứa trẻ tóc cháy nắng, ngón chân thô
sần bởi suốt ngày thọc sâu trên cát bỏng theo trẻ con chơi chắt chơi chuyền,
thì chị đã không giống những đứa trẻ lấm lem muối cát khác. Những trưa
nắng cháy, chị đã thì thầm cho lũ bạn cùng trang lứa nghe những câu chuyện
cổ tích từ sự mơ mộng và khát vọng của mình. Tuổi thơ sống trong đói nghèo
cơ cực đã nuôi lớn trong tâm hồn Lê Thị Mây khát vọng làm thi sĩ. Để sau
này, chị đến với thơ bằng tình yêu vô bờ bến, cho dù Lê Thị Mây bắt đầu đời
mình bằng những nghề nghiệp khác nhau không liên quan đến con đường thi
sỹ nổi tiếng của chị, như là sự dẫn dắt kỳ lạ của số phận.
Năm mười bảy tuổi, học hết phổ thông, Lê Thị Mây gia nhập Thanh
niên xung phong hoạt động ở vùng miền Tây Quảng Bình. Hiện chị còn giữ
cuốn nhật ký ghi lại những ngày ở Tróoc, một vùng rừng Trường Sơn rất sôi
động như là một chứng tích đời mình. Trong tập thơ Những mùa trăng mong
chờ (1980), chị kể: “Vừa rời nách mẹ mới hai trăm ngày đêm, bọn Mỹ đã bẻ
gãy tuổi mười bảy của tôi bằng trận bom đầu tiên khi chúng ra miền Bắc
…Vết bom xuyên sâu vào mặt tôi, làm dị dạng gương mặt sắp đón nhận tuổi
hai mươi… Đôi má bầu bĩnh, làn môi dịu ngọt, và đôi mắt trong veo của tôi
chưa hề in dấu môi tình. Cái vết thương chiến tranh ấy, cho đến bây giờ hàng
năm hễ trở trời là đau nhức… Chính sự phản kháng chiến tranh đã dẫn tôi đến
27
với thơ, thốt lên những gì trái tim mang chứa, viết thành câu chữ, bảo vệ cái
đẹp của mùa xuân và tình yêu…”. Tuổi hai mươi đẹp đẽ của chị cũng đã
mang nỗi đau chia ly. Người yêu đầu tiên , một bác sĩ quê ở xứ Quảng đã chia
tay chị đi B. Chị kể: “ Ba năm sau tôi mới hay tin anh hy sinh ở chiến trường
Quảng Trị” [50]. Có lẽ đó là mối tình đầu đau xót của Lê Thị Mây khởi đầu
cho bao mối tình ngang trái đi qua đời chị - cuộc đời một người con gái nhiều
bất hạnh đa đoan, để tới khi đã bước sang tuổi năm mươi chị mới tìm thấy bến
đỗ của cuộc đời mình. Đó có lẽ cũng là một nguyên nhân khiến thơ chị luôn
nặng những ưu tư, ẩn ức, dồn nén cô đơn.
Ở Thanh niên xung phong, Phạm Thị Tuyết Bông đã làm những bài thơ
đầu tiên chép chi chít vào cuốn sổ nhỏ. Đó là những bước đi đầu tiên đưa chị
đến với con đường thi sĩ sau này. Để tới năm 1972, khi rời đơn vị Thanh niên
xung phong, Bông đã tìm gặp nhà thơ Xuân Hoàng, lúc đó là Hội trưởng Hội
Văn nghệ Quảng Bình. Trong hồi ký Âm vang thời chưa xa (tập II), Xuân
Hoàng kể rằng, không biết làm thế nào Bông xin được lá thư viết tay của ông
Cổ Kim Thành, là bí thư tỉnh ủy, một người cũng hay làm thơ, gửi cho Xuân
Hoàng. Xuân Hoàng đọc qua vài ba bài, thấy “thơ thật thà và sơ lược như thơ
chung gửi về Hội lúc đó”. Nhưng có lẽ nhà thơ Xuân Hoàng nhận ra những
câu thơ của Bông dù “thật thà” cũng đã ánh lên chút hy vọng ở tương lai liền
nhận Phạm Thị Tuyết Bông vào làm nhân viên đánh máy. Một thời gian sau,
Hội văn nghệ Quảng Bình nhận thêm một cô gái làm thơ nữa là Lâm Thị Mỹ
Dạ. Năm sau, Bông và Dạ được nhà thơ Xuân Hoàng cho đi học lớp Bồi
dưỡng viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá, Hà Nội. Đi học
về, Phạm Thị Bông có bút danh mới là Lê Thị Mây. Theo Xuân Hoàng thì cái
tên Mây có liên quan đến hai chữ bông và mây trong câu ca dao của Ngô Văn
,Lê Thị Mây vào danh sách “nhà văn Quảng Bình”. Điều đó cũng rất đúng vì
chị sinh ra ở Bảo Ninh, Đồng Hới. Nữ thi sĩ đã đóng góp cho đời hơn hai
28
mươi tập thơ văn hay và đặc sắc. Trong đó phải kể đến tập thơ Tặng riêng
một người (1990) được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam; truyện dài
Huyết ngọc (1998) cũng được tặng thưởng của Hội Nhà văn; trường ca Người
sau chân sóng được giải nhất cuộc thi “Đây biển Việt Nam” do Hội Nhà văn
Việt Nam và Vietnamnet tổ chức năm 2012. Lê Thị Mây là người con gái biết
giấu nỗi đau để cười trước mọi người. Những câu thơ nao lòng ấy sẽ còn sống
mãi trong lòng người nhiều thế hệ. Chị đã gửi trọn tâm hồn mình trong thơ,
ghi tên rạng rỡ trong danh sách những cây bút nữ tiêu biểu thế kỷ XX.
1.2.2. Khái quát về tác phẩm
Cuộc đời Lê Thị Mây gặp nhiều bất hạnh, phải chăng vì lẽ đó mà thơ
chị thường nhiều dự cảm, lo âu, nhiều ẩn ức không thể giãi bày.
Những chặng đường sáng tác và trưởng thành của Lê Thị Mây được
đánh dấu bằng sự ra đời của những tập thơ. Càng về sau chất triết lý trong thơ
Lê Thị Mây càng gia tăng. Bảy tập thơ, ba trường ca đã xuất bản là thành quả
lao động nghệ thuật không ngừng của tác giả Những mùa trăng mong chờ.
Năm 1980, Lê Thị Mây cho xuất bản tập thơ Những mùa trăng mong
chờ. Đây là tập thơ đầu tay của Lê Thị Mây gồm năm mươi hai bài. Chủ đề
chính trong tập thơ là tình yêu, với những cung bậc cảm xúc khác nhau của
người con gái đợi chờ người yêu trở về từ chiến trường. Sự mong ngóng đợi
chờ da diết có thể bắt gặp ở bất cứ vần thơ nào. Từ Bài thơ buổi sáng mở đầu:
“Ban mai em nhớ anh/ Một ngày mong vời vợi/ …Nỗi nhớ anh đau thắt/ Như
nắng ăn vào da” ; tới tâm trạng háo hức bồn chồn khi hay tin người yêu sắp
trở về: “Thư anh tin ngày về/ Cho vầng trăng hẹn mọc/ Trong ngần hoa cau
thơm/ Mây chớm màu tha thiết” (Những mùa trăng mong chờ); và niềm vui
bất ngờ trọn vẹn trong hạnh phúc ngọt ngào khi gặp lại người yêu: “Anh
khoác ba lô về/ Đất trời dồn chật lại/ Em tái nhợt niềm vui/ Như trăng mọc
ban ngày” (Những mùa trăng mong chờ). Tâm trạng của người thiếu nữ - ngôi
29
sao dậy thì khi yêu cũng tràn đầy ước vọng, say mê và niềm tin của tuổi trẻ.
Lê Thị Mây đã dành thật nhiều cảm xúc để viết lên những bài thơ tình đặc
sắc. Tập thơ được người đọc biết tới với bài thơ nổi tiếng Những mùa trăng
mong chờ được xếp vào một trong một trăm bài thơ hay nhất thế kỷ trong
cuộc thi Chọn những bài thơ Việt Nam hay nhất thế kỷ XX do Trung tâm văn
hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức. Bài thơ đã góp phần
khẳng định sự đặc sắc của tập thơ, và gắn liền với tên tuổi của Lê Thị Mây.
Bên cạnh đề tài về tình yêu, tập thơ đầu tay cũng gây chú ý với những
bài thơ thấm đậm tình cảm ruột thịt thiêng liêng: Mẹ, Thăm mẹ Cửa Việt, Tiễn
em trai nhập ngũ, Nhớ em, Với mẹ cơn sốt chưa giảm, Áo đồng đội em, Đưa
em về quê mẹ, Giấc mơ của mẹ… ; Ngợi ca đất nước Việt Nam, con người
Việt Nam anh dũng kiên cường trong khói lửa chiến tranh: Chiếc nón Trường
Sơn, Khúc hát rừng, Đất, Mặt trời ở biển, Dừng ở Đồng Hới, Mặt trời ở mỏ,
Cát làng tôi… Tập thơ lấp lánh niềm tin hi vọng như “cát vàng rơi” của
những tâm hồn phơi phới vào một ngày mai thống nhất không xa: “Mây biển
chợt về chớp lóe đằng đông/ Chim báo bão ơi báo điều ta biết/ Hãy bay lượn
nơi đỉnh cột buồm quen thuộc” (Mặt trời ở biển); “Cát vàng rơi, cát vàng rơi/
Sau đêm mưa ngọt càng ngời nắng mai” (Cát làng tôi); “chợt như trăng non
tiếp nhận ánh ngày/ Tôi tiếp nhận niềm tin nước nhà thống nhất/ …Sắc cờ rao
nơi chót mũi Cà Mau” (Mặt trời ở mỏ). Ta cũng không thể quên những câu
thơ Lê Thị Mây viết về mẹ với một giọng thơ dung dị nhẹ nhàng: “Mẹ già ơi
mái tóc tiên/ Mẹ là vừng sáng dịu hiền trên cao/ Thuyền con xô trước biển
trào/ Mặt trời trước ngực tỏa vào bao la”. Tập thơ sử dụng chủ yếu thể thơ
lục bát, năm chữ, thơ tự do; giọng thơ không quá chau chuốt cầu kỳ càng dễ
đi vào lòng người đọc.
Năm 1991, Lê Thị Mây cho xuất bản tập thơ Tặng riêng một người.
Tập thơ đã đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam (1990. Nếu tập thơ
30
đầu tiên viết về nỗi ngóng trông đợi chờ của người con gái đang yêu thì đến
Tặng riêng một người, người đọc bắt gặp tâm hồn một người phụ nữ đã từng
trải hơn, với những ám ảnh về thân phận trước hạnh phúc lứa đôi, những mất
mát, lỡ dở, những cảnh ngộ éo le, cay đắng sau chiến tranh, qua một loạt
những bài thơ như: Cốc rượu đầy, Bài hát Chiếc lồng chim, Giọt lệ, Bữa cơm,
Mưa đám cỏ, Hai đóa hồng, Giấc mơ thiếu phụ, Gió quả phụ… Và ẩn sâu
trong đó là những khát khao nhục thể, giấc mơ luyến ái dồn nén trong Gió
quả phụ, Giấc mơ thiếu phụ… cô đơn. Những mất mát, những dự cảm lo
lắng, buồn đau càng khiến thơ Lê Thị Mây thêm cô đơn, ám ảnh.
Thời đại thi ca mới mở ra cũng khiến những ẩn ức, khao khát trong thơ
Lê Thị Mây được giãi bày cởi mở hơn. Trong tập thơ này cũng đã xuất hiện
những ngôn từ mới lạ, độc đáo, nhiều ám ảnh và sức gợi.
Sau Tặng riêng một người, năm 1996 Lê Thị Mây cho xuất bản hai tập
thơ Giấc mơ thiếu phụ và Du ca cây lựu tình. Tập thơ thấm đẫm chất triết lý
suy tư của người phụ nữ từng trải khi đã bước sang ngưỡng cửa của tuổi bốn
mươi. Những đau khổ, buồn vui, thăng trầm trong cuộc đời được Lê Thị Mây
đem trút hết vào thơ: Nỗi buồn, sự lo âu khắc khoải trong tình yêu càng hiện
lên rất rõ ràng, mãnh liệt trong giấc mơ một mái ấm gia đình và những đứa
con ngoan: Khuya, Vô đề, Dạ khúc trái tim, Rét lộc, Khóc dưới vừng trăng,
Kim chỉ, Lẻ bóng… Một mình đong đếm bước đi của thời gian càng khiến thơ
Lê Thị Mây thêm xót xa, cô đơn đến vô cùng: Hoa tết, Bài hát cổ,Tết giao
thừa, Tết Quý dậu, Hoài cổ… Có nỗi cô đơn nào hơn thiếu không khí sum
vầy ngày tết, thiếu hơi ấm con trẻ: “Tuổi này đã ngại đi đâu đó/ Năm ba ngày
tết cũng ở nhà/… Pháo nổ giật mình mờ trang lệ/ Nhà bên hàng xóm ríu rít
con/ Vú mẹ yếm hồng câu đối đỏ”.
Đến năm 1999, Lê Thị Mây xuất bản tập thơ Khúc hát buổi tối. Tập thơ
đã được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Tập thơ tiếp tục những
31
sáng tác của Lê Thị Mây về tình yêu, với những dự cảm, chiêm nghiệm lớn
hơn trong tâm hồn một người đàn bà từng trải. Lê Thị Mây nhắc nhiều đến
hình ảnh trái tim – cũng như một con người biết khóc, cười, buồn đau, hạnh
phúc trong: Mưa ở sông Hương, Người đến sau cùng, Nếu anh còn trở lại, Du
khúc trái tim, Trái tim trong cát, Hạnh phúc…
Người đàn bà ấy qua bao năm tháng vẫn bền bỉ đi tìm tình yêu đích
thực của đời mình để rồi thốt lên : “Không ai yêu như tôi yêu nhiều đến thế/
Tuổi tình yêu dài trọn cuộc đời tôi”. Nhưng đó không còn là một tình yêu
bồng bột, nhiều háo hức mê say của ngày đầu tiên, mà là những đằm thắm dịu
dàng trong hồn người phụ nữ đang ngày càng đến độ chín.
Năm 2003, trường ca Lửa mùa hong áo ra đời - trường ca đầu tay của
Lê Thị Mây. Tác phẩm đã đạt giải thưởng Ủy ban Liên hiệp Văn học nghệ
thuật Việt Nam (2003). Lửa mùa hong áo là bản anh hùng ca về thời chống
Mỹ máu lửa mà vinh quang của dân tộc. Mỗi vần thơ như một lời tâm tình
gan ruột, một cách bày tỏ nỗi đau thương, niềm tự hào trước những người con
anh dũng hi sinh vì tổ quốc. Đó là những người bà, người mẹ: "Bóng mẹ rưng
rưng hậu phương lớn quê nhà/ Vừng dương lăn hũ gạo mỗi ngày đầy thêm
một nắm", người chị, những nữ giao liên phá đá mở đường: "Tiểu đội mỗi
người/ Một bà Triệu/ Một Bà Trưng/ Một Nữ Oa vác đá vá vết thương",
những anh bộ đội "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" (Tố Hữu) khi tuổi đời còn
rất trẻ, những chiến sĩ đưa thư, canh giữ kho muối, phục vụ hậu cần... không
quản ngại vất vả gian lao, nguyện hi sinh tuổi thanh xuân làm nên chiến thắng
lịch sử, hòa bình cho dân tộc. Tác phẩm được viết lên từ chính những trải
nghiệm của một nhà thơ đã có cả "tuổi thanh xuân gắn bó thương nhớ với con
đường Trường Sơn máu lửa" [13]. Cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm là
những người phụ nữ Việt Nam bình dị yêu thương nhân hậu mà dũng cảm
32
anh hùng. Những sự kiện lịch sử bi tráng hiện lên rõ ràng bằng thi pháp sử thi,
trữ tình kết hợp nhuần nhuyễn của Lê Thị Mây.
Năm 2006, sự ra đời trường ca Tự khúc ánh sáng đánh dấu bước phát
triển mới của trường ca Lê Thị Mây. Tự khúc ánh sáng có thể coi là những
“đối thoại” về chiến tranh. Người đọc nhận ra cuộc đối thoại này xuất phát từ
niềm tin, từ lương tri qua đó dựng lên những số phận, thân phận của con
người trong cuộc chiến. Cuộc đối thoại đó còn là bản anh hùng ca bất diệt về
những điều thiêng liêng. Đến trường ca này thì Lê Thị Mây không chỉ cho
người đọc thấm thía về chiến tranh bằng cái nhìn của người chứng kiến, người
trong cuộc mà dường như còn là chính mình. Kẻ thù có thể giam giữ được thể xác,
có thể tra tấn hành hạ thể xác nhưng không thể xiềng xích nổi niềm tin" [27].
Cũng trong năm 2006, tập thơ Thương nhớ một ngày của Lê Thị Mây
ra đời. Tập thơ gây chú ý bởi chủ yếu những bài thơ viết về người lính, về
những vùng đất, địa danh mà chị đã đi qua chiến tranh, những người mẹ anh
hùng… với cái nhìn hoàn toàn đổi khác từ hiện tại. Lê Thị Mây đã tái hiện rất
sinh động, chân thực hình tượng người lính, tình yêu sâu nặng với đất nước
quê hương, với mảnh đất miền Trung nơi chị sinh ra. Qua một loạt bài thơ
như: Anh không hề vắng mặt, nhắn cùng em trai, Chiếc mũ, Tiếng hát của
loài chim bị diệt, Gió từ sông Nhật Lệ, Hoa hồng Đồng Hới…
Đến năm 2007, Lê Thị Mây xuất bản tập thơ Thời trẻ của anh. Tập thơ
là những nỗi đau, sự đồng cảm, cái nhìn của một người Thanh niên xung
phong đã đi qua chiến tranh, đã trải qua những hi sinh mất mát của: người
lính và cuộc sống của họ khi trở về với đời thường, nỗi đau của những người
vợ mất chồng, mẹ mất con sau chiến tranh… Lên án phản đối những cuộc
chiến tranh phi nghĩa gieo rắc mất mát đau thương trên khắp hành tinh. Với
những bài thơ như: Vượt sông Ta Lê, Làng Vây, Chiến lợi phẩm, Khối đá đen,
Tìm bóng lịch sử, Thao thức, Trường Sa…
33
Năm 2013, trường ca Người sau chân sóng của Lê Thị Mây được xuất
bản. Đây là tác phẩm đoạt giải nhất hạng mục thơ cuộc thi "Đây biển Việt
Nam" do Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam và Báo điện tử
VietNamNet tổ chức năm 2011- 2012. Người sau chân sóng ra đời từ nỗi nhớ
da diết và tình yêu dâng đầy với biển quê hương sau suốt 40 năm ấp ủ, thai
nghén của nhà thơ. Tác phẩm là bản trường ca anh hùng mang hơi thở của
cuộc sống mới; đồng hiện, ám ảnh bởi cả quá khứ, hiện tại và tương lai vùng
biển miền Trung nắng gió. Nơi có tuổi thơ êm đềm, có mẹ, có cha, có “anh”,
có lão ngư, những người dân chài và cảnh sông nước hùng vĩ bảo bọc chở
che… Lê Thị Mây đã từng nói: “Trong 1000 giấc mơ của tôi – có 80% liên
quan đến biển” [ 35]. Và “chỉ cần nhắc về biển, đôi mắt cô đã sáng lên và chất
giọng Quảng Bình đặc trưng bỗng biết run rẩy: “Biển cho tôi cảm xúc! Một
cảm xúc dạt dào như những con sóng đánh vào tâm hồn của những người
cầm bút…” [35].
Những chặng đường sáng tác và trưởng thành của Lê Thị Mây được
đánh dấu bằng sự ra đời của những tập thơ. Càng về sau chất triết lý trong thơ
Lê Thị Mây càng gia tăng. Hơn hai mươi tác phẩm đã xuất bản là thành quả
lao động nghệ thuật không ngừng của tác giả Những mùa trăng mong chờ.
Thơ Lê Thị Mây càng về sau càng “chín”, từng trải và triết lý hơn. Qua
những tập thơ đã xuất bản, Lê Thị Mây thể hiện khá rõ nét phong cách nghệ
thuật của mình. Ở đề tài nào chị cũng có những vần thơ đặc sắc đi vào lòng
người đọc. Lê Thị Mây đã cảm thông với cuộc đời, với những kiếp người từ
những nỗi đau của bản thân nhà thơ bằng sự sẻ chia thành thực nhất. Nhưng
có lẽ đặc sắc và ám ảnh nhất là những bài thơ viết về tình yêu. Nó giống như
sợi chỉ đỏ xuyên suốt chặng đường sáng tác thơ Lê Thị Mây. Tình yêu ấy lớn
lên theo sự phát triển của từng tập thơ; khóc cười trong trái tim người đàn bà
suốt đời đi tìm tình yêu đích thực.
34
Lê Thị Mây là một nhà thơ đi đến hiện đại tự nhiên, không cần tuyên
ngôn, lớn tiếng.
Trong Nhà văn Việt Nam hiện đại (Hội Nhà văn Việt Nam, 2007), nhà
thơ tâm sự : “Tôi nghĩ, thơ là nỗi buồn thầm kín của tôi đã cất tiếng khóc khi
còn lại một mình”.
Thuộc thế hệ nhà văn xuất hiện từ kháng chiến chống Mỹ, đi qua
những mất mát đau thương của chiến tranh dân tộc, Lê Thị Mây thấm thía
những mất mát của chiến tranh đem lại. Nhà thơ không đi sâu khai thác cuộc
chiến ở mặt bom rơi máu đổ, khốc liệt chiến trường mà luôn luôn quan tâm,
đi sâu vào từng số phận con người,những nỗi đau, mất mát chiến tranh để lại.
Ở Lê Thị Mây, nhà văn trước hết phải là công dân, người chiến sĩ. Số
phận đất nước gắn liền với số phận dân tộc và chiến tranh. Nhà thơ đề cao tư
cách công dân của người nghệ sĩ.
Tiểu kết
Trường ca là thể loại có sức dung chứa và phản ánh những sự kiện lớn
lao của thời đại. Các nhà văn, nhà thơ đã chọn trường ca để thử sức và lưu giữ
cảm xúc về giai đoạn quan trọng của lịch sử. Trường ca Việt Nam hiện đại là
sự tiếp nối nghệ thuật truyền thống, phát triển bền bỉ và khẳng định được vị trí
qua thời gian. Chưa bao giờ trường ca Việt Nam phát triển rực rỡ như thời kỳ
chống đế quốc Mỹ và thời kỳ hậu chiến. Độ lùi thời gian càng làm tăng khả
năng phản ánh, chất triết lý chiêm nghiệm và sức nặng mỗi bản trường ca.
Trường ca đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và tiếp tục phát triển,
khẳng định vị thế trong nền thơ ca dân tộc.
Lê Thị Mây là gương mặt nữ đầu tiên thuộc thế hệ chống Mỹ viết
trường ca. Những tác phẩm của nhà thơ được xuất bản đã đạt được những
thành công nhất định trong văn học hiện đại dân tộc. Bảy tập thơ, ba trường
ca, bút ký,văn xuôi… ra đời là kết quả của quá trình sáng tạo nghệ thuật
không mệt mỏi của tác giả.
35
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG THẨM MỸ TRONG
TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY
2.1. Hình ảnh người chiến sĩ
Nhân vật người chiến sĩ là hình ảnh xuyên suốt trong văn học Việt Nam
thời kì kháng chiến. Dưới ngòi bút của các tác giả, họ - những con người
nguyện hi sinh cả máu xương, hạnh phúc riêng tư và tuổi thanh xuân cho đất
nước hiện lên với muôn vẻ đẹp anh hùng và quả cảm, lạc quan.
Tiếp nối truyền thống tốt đẹp ấy, Lê Thị Mây với hai trường ca Lửa
mùa hong áo và Tự khúc ánh sáng đã thể hiện đầy đủ mọi khía cạnh trong
cuộc sống và chiến đấu của họ, làm nổi bật những phẩm chất quý giá của
người lính cụ Hồ.
2.1.1. Những người lính trực tiếp chiến đấu
Những người lính anh dũng quả cảm không quản ngại gian khổ hi sinh
nơi tuyến đầu góp phần làm nên chiến thắng dân tộc. Họ ra đi để lại sau lưng
là quê hương yêu dấu, người mẹ già đợi cửa chờ con, người em gái thân
thương chưa kịp hẹn hò:
“Mười sáu mười bảy tuổi ai không nao nức
Mong được rời nách áo mẹ ra đi
Tiếng núi sông thăm thẳm rầm rì
Phía mặt trận trai làng hành quân lũ lượt
… Buổi ấy yêu chưa ai kịp hẹn hò
Kề cái chết lòng nung quyết thắng”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Với họ, hạnh phúc của toàn dân tộc còn lớn hơn gấp bội tình cảm riêng tư:
“Nhưng em ơi, chính giây phút này đây
Cho anh được quên niềm riêng nồng cháy
… Cho anh được quên để nhớ về đất nước”
(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)
36
Dưới ngòi bút của Lê Thị Mây, những gian khổ hi sinh của người chiến
sĩ hiện lên rõ ràng; mất mát đau thương mà không bi lụy, đầy quyết tâm và
quả cảm:
“Nằm trên thớt
Ngực gãy bảy chiếc xương sườn mỗi hơi thở cõng niềm tin lăn tới
… Đấu trí
Trả đòn
Chết không sợ, không nhụt chí”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Họ dùng chính nghĩa làm vũ khí chiến thắng những thế lực đen tối, tội
ác khôn cùng quân giặc gây ra:
“Họng súng nhằm phụ nữ mang thai
Sự hủy diệt văn minh không tuyên bố
Sự hủy diệt trái đất không tuyên bố
Một Việt Nam bị ngắm đầu mũi xâm lăng
… Mỹ leo thang Mỹ gây nồi da xáo thịt”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Đất nước có chiến tranh, người chiến sĩ ý thức được nhiệm vụ và sứ
mệnh lịch sử của mình, với “lời thề cảm tử vùi sâu trong ngực” (Lửa mùa
hong áo – Lê Thị Mây). Bước vào cuộc chiến là bước vào nơi cam go ác liệt, là:
“Mười ngón tay bám chặt lấy mùa khô
Ngón chân Giao Chỉ nghe gió lạnh từ Mũi Đước
Ngầm Lộp ộp sập lầy hố bom sâu hong hốc”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Biết bao gian khổ hi sinh, những thiếu thốn vật chất không thể kể hết:
“Với ngày hai thỏi lương khô
Với cơn sốt rét mùa mưa tái rừng”
(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)
37
Nhưng trên tất cả, những người lính cụ Hồ không bị hiện thực bi
thương vùi dập mà vượt qua đầy nghị lực, lạc quan:
“Có hôm chỉ toàn bánh vẽ
Em vẽ lên trời một vầng trăng khuôn mặt mẹ Âu Cơ
Em vẽ con cua chín càng bò về chân bể”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Chừng nào còn bóng dáng quân thù trên đất nước người lính còn vững
tay súng đương đầu:
“Anh lại đi với khẩu súng trong tay
…
Anh lại đi
Đôi dép đúc thay quai
Con tàu lính ồn ào lời tiễn biệt”
(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)
Các tác giả viết trường ca về chiến tranh không né tránh hiện thực, hi
sinh mà đối diện với hiện thực. Dưới ngòi bút của họ, chiến tranh và người
lính hiện lên chân thực nhất. Trên chiến trường, ranh giới giữa sự sống và cái
chết mong manh, “nhẹ tựa lông hồng”:
“Nhưng em ơi, biết bao đồng đội
Nằm lại với non sông như đá tảng cây rừng”
(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)
Những người lính chiến đấu, “đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”
(Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Họ nằm lại trên chiến trường cùng đồng đội, đồng chí, hóa thân vào núi
sông đất nước, vào dáng hình xứ sở:
38
“Nằm khuất nơi đâu ven rừng đá lạnh
Trọn đời làm chiến sĩ vô danh”
(Bài ca chim Chơrao – Thu Bồn)
Tên tuổi họ mãi bất tử âm vang tới ngàn đời để những thế hệ nối tiếp
Việt Nam kề vai gánh vác non sông:
“Sau cánh cửa xà lim bao đồng chí
Không trở về xương cốt hóa muối mặn đại dương
Đá chuyển rung trong thớ đá
Thời gian
Phục sinh trên những hàng bia mộ”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
2.1.2. Những nữ giao liên mở đường
Gắn bó một phần cuộc đời mình với cuộc chiến tranh chống Mỹ vĩ đại
của đất nước, bằng những chiêm nghiệm của bản thân và trái tim đồng cảm,
Lê Thị Mây viết rất hay, rất xúc động về cuộc sống những nữ giao liên mở
đường. Trong sáng tác của tác giả, những cô gái thanh niên xung phong hiện
lên thân thương mà quả cảm. Họ mang trong lòng sức mạnh và nghị lực phi
thường quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, vượt mọi gian khổ hi sinh
bằng tình yêu tổ quốc:
“Em Mận không chịu thay ca
Đứng làm cọc đường mắt thâm quầng
… Tiểu đội bổ sung quân, đầu chụm đầu yêu thương
Lòng không sờn qua cái chết”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Những người con gái vẫn chưa bước qua tuổi mười tám đôi mươi, chưa
biết thế nào là rung động yêu thương đầu đời:
39
“Chưa một lần yêu cho lồng ngực rung lên
Đáy thắt lưng ong em chưa một lần làm mẹ
Ba mươi tuổi em không còn trẻ”
(Sông núi trên vai – Anh Ngọc)
Lê Thị Mây viết về họ xúc động và ám ảnh. Tác giả soi chiếu kĩ vào
từng số phận, từng con người; dừng lại rất lâu tri ân, mặc niệm với tình cảm
trìu mến, dịu hiền và khâm phục cho chính chặng đường thanh xuân mình đã
đi qua, cho những người chị, người em, những người con gái cùng từng chung
chiến hào, kề vai sát cánh:
“À ru nào trái bầu non
Tình em tình chị đỡ dìu nâng niu
Khi em út nào khi chị cả
Khi chụm đầu tình đồng chí sẻ chia”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Đó là những em Nụ, em Ngân, em Thảo, em Hoa, em Cúc, em Đào,
“Em Xoan ăn chưa no lo vác nặng/… Em cõng mìn/ Cõng kíp nổ”; “Em Quế
gầy nhom/ Mười bảy tuổi/ Chưa có eo lưng/ Chưa có bắp thịt/… Sinh mệnh
con đường hòa máu thịt vào em”; “Em Nết, em Ngò/… Cơn sốt rét da xanh
vào mặt đá”; “Em Cải út/ Bím tóc đen dày/ Má em nẻ gió bấc đỏ rực/… Trái
tim châm ngòi nổ phá thủy lôi” (Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Gian khổ là thế, hi sinh là thế nhưng trên những gương mặt thiếu nữ
không bao giờ tắt nụ cười, niềm lạc quan hi vọng. Sự lạc quan ngọt ngào
trong đạn bom khóc liệt quân thù:
“Vốc nước loáng trăng
ngập ngừng soi răng khểnh
… Em nhoẻn cười nước mắt đầm vai áo bạn
… Em lung linh hát mơ câu Quan họ
Nón quai thao úp mái hóa hầm kèo”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
40
Mỗi người con gái đến với cuộc chiến mang theo một mảnh trời yêu
thương. Họ đại diện cho một thế hệ, một vùng quê bất khuất kiên cường:
“Tiểu đội mười hai người
Mười hai quê quây quần náo nức
Quả thị rơi
Bà cho chị Tấm mẹ cho thêm điều ước
Chị ngã em nâng đồng đội tựa nhau”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Không ruột rà máu mủ, không quen thân quen biết nhưng họ đã nhanh
chóng sát vai trong một chiến hào, bên nhau khi cận kề sự sống cái chết, khi
đói, khi no, những trận sốt rét rừng “xoắn tím cả làn môi” (Đường tới thành
phố- Hữu Thỉnh) làm tiều tụy vẻ thanh xuân hừng hực sức sống.
Họ gọi nhau là chị em; nhường nhau từng miếng cơm manh áo; chăm
nhau từng giấc ngủ; cùng nhớ về mẹ, về quê hương - nguồn yêu thương nuôi
dưỡng sức mạnh; nhắc nhau vượt qua gian khổ hi sinh, ốm đau bệnh tật để
chờ đón ngày “núi sông nối liền một dải” (Lời của Bác – Đình Thu):
“Chân hàng ẩn gió Lào quay quắt
Nắm cơm treo phần đồng đội lá đu cong…”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Hình ảnh những người nữ giao liên mở đường “áo con gái nắng xổ tà
còn nguyên niềm mơ ước” hiện lên rất đẹp trên trang viết các tác giả qua hai
cuộc chiến tranh. Họ không yếu đuối bi lụy mà đầy quyết tâm chiến đấu và
chiến thắng, vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương vững chắc góp phần vào
chiến thắng dân tộc:
“Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ, ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường
41
Như quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường”
(Lá đỏ - Nguyễn Đình Thi)
Họ là những nữ thanh niên xung phong nơi Ngã ba Đồng Lộc, là
Nguyệt nơi Mảnh trăng cuối rừng, là chị Võ Thị Sáu hiên ngang hát vang khi
bước ra pháp trường. Họ góp công làm nên con đường Trường Sơn huyết
mạch; những người con mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, tên tuổi họ hòa vào
non sông với biết bao đồng đội vô danh khác: “Không ai nhớ mặt đặt tên/
Nhưng họ đã làm ra đất nước” (Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm),
để lại một Khoảng trời hố bom thương nhớ:
“Tên em đã thành tên chung anh gọi
Em là cô thanh niên xung phong”
(Gửi em – cô thanh niên xung phong – Phạm Tiến Duật)
Những con người đã trở về, đã ra đi, đã sống và đã chết để làm nên
tương lai đất nước. Những nữ giao liên mở đường giữ vị trí trang trọng và ưu
ái trong trường ca Lê Thị Mây:
“Sau trận bom
… Đồng đội mặc niệm bên đồng đội
Rừng mặc niệm bên rừng
Đá mặc niệm bên đá”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Ước mơ hạnh phúc riêng tư, về mái ấm gia đình, về chàng trai yêu
thương ngày hòa bình luôn hiện hữu, đáng yêu, đáng trân trọng và cảm động:
“Tiểu đội mười hai người
Đáy ba lô có mảng trời xanh áo cưới
… Ôi buồng cau lổ chín ngã bên thềm
Trầu cánh phượng thách người chưa dám cưới
42
Hiên mưa dầm hoa lựu thức trắng đêm
Cát nín lặng vùi sâu thêm nỗi đợi”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Có thể nói, những vần thơ viết về những người nữ giao liên trong
trường ca Lê Thị Mây là những vần thơ đẹp nhất. Những vần thơ có cả chất
thép và chất tình, có cả sự dịu dàng và lòng quả cảm. Họ góp phần làm nên
hình tượng người phụ nữ Việt Nam, đại diện cho một thế hệ thanh niên đã
sống và chiến đấu hết mình vì dân tộc. Họ chứng minh rằng: điều chính nghĩa
dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn luôn chiến thắng, tình yêu thực sự có
sức mạnh vượt qua tất cả.
2.1.3. Những chiến sĩ làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu
Những chiến sĩ ấy thầm lặng phía sau, ngày đêm cùng hậu phương tiếp
sức cho chiến trường. Đó là những anh nuôi vốn quen thuộc và nổi tiếng trong
văn thơ cách mạng với Bếp Hoàng Cầm, với Tiểu đội xe không kính, với chú
bé liên lạc Lượm quả cảm mà hồn nhiên trong thơ Tố Hữu:
“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề “thượng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo!”
Trong sáng tác của mình, Lê Thị Mây dành hẳn một chương nói về họ.
Hình ảnh những chiến sĩ đưa thư, giữ kho muối cần cù và nhẫn nại, chiến đấu
với lòng yêu nước, sự quyết tâm:
Lính kho: “Lính kho đội hàng
Như Sơn Tinh
Cổ tích
Nghìn bậc lên trời
Nghìn sâu
Xuống thác…”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
43
Giao liên: “Giao liên đi
Bằng tai
Bằng mũi
Bằng mắt
Choạng tối nhận lệnh
Mờ đất giao quân”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Có những gian khổ hi sinh, có sự đối mặt giữa sự sống và cái chết
nhưng họ luôn giữ tinh thần lạc quan quyết một lòng đồng tâm đánh giặc.
Những chú voi chiến đấu, cỏ cây, con đường, ánh trăng.... cũng trở
thành tấm gương phản chiếu, đại diện cho lòng yêu nước. Không biết tự lúc
nào những vật tưởng chừng vô tri ấy cũng mang tâm hồn, mang tình yêu nước
mạnh mẽ, đầy nội lực và đáng khâm phục dưới ngòi bút tinh tế của Lê Thị Mây:
Đá: “Đá cuộn âm thầm
Theo gót mùa mưa, mùa khô chiến dịch”
Voi: “Voi
Cuốn ngà voi húc đánh vu hồi sào huyệt
Trâu cuốn sừng
Húc vào lưng Mỹ truy kích”
Đường: “Người hi sinh hồn vía nhập cung đường
Con đường cao hơn khi vượt hố bom xe rú
Con đường cao hơn khi vượt ngầm nước lũ
Con đường cao hơn khi vượt hố lầy”
Cỏ: “Chân nương cỏ, cỏ không cúi rạp
Chân chạm đá, đá nín thở nằm im
Chân lội suối, suối giữ nguyên lá mục”
Trăng: “Gương con soi
Trăng thành vừng mẫu tử”
44
Tất cả làm nên bản anh hùng ca hào hùng, đẹp mà không kém phần
lãng mạn. Làm nên bức tranh muôn màu về cuộc chiến tranh cam go khắc
nghiệt nhưng luôn hừng hực tinh thần chiến đấu, hừng hực lòng lạc quan,
quyết chiến và quyết thắng trước kẻ thù.
2.2. Hình ảnh người phụ nữ
2.2.1. Hình ảnh người mẹ
Mẹ - bóng hình dấu yêu luôn ám ảnh trong thơ Lê Thị Mây. Ta có thể
bắt gặp Mẹ với những nỗi đau thương, mất mát, đức hi sinh, tảo tần ở bất cứ
tập thơ nào: Mẹ và Tổ quốc, Nôi tre, Mẹ, Với mẹ, Với mẹ cơn sốt chưa giảm,
Giấc mơ của mẹ, Ngôi làng mẹ sinh anh, Những bè dấu chân, Bi ca về sự ám
sát người mẹ, Hát nựng con… Lê Thị Mây có hẳn một mảng thơ phong phú,
tràn đầy xúc cảm thiêng liêng dành cho Mẹ. Dù “Thế giới đổi thay mới mẻ
bao điều/ Tôi đã trên đầu hai thứ tóc”, nhưng trở về với Mẹ, với quê hương,
nhà thơ vẫn ngỡ mình còn nhỏ bé: “Và trong ký ức/ Mẹ sinh nên làng/… Thuở
mẹ sinh làng trăng cài bướm lên hàng cúc” để mẹ âu yếm, vỗ về:
“Chân nối bàn chân âm thầm nỗi nhớ
Tay quờ đêm ấp vú mẹ nói mê…”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Mẹ là niềm tin và sức mạnh gợi nhắc chiến sĩ tìm về, khắc ghi trong
mỗi giờ phút hi sinh gian khổ. Trong tim người chiến sĩ, hình ảnh người mẹ
luôn là hình ảnh tỏa sáng nhất:
“Gân đá tư tưởng đá con đọc chính bằng tinh thần của con qua
nỗi đau
Bằng chính trái tim mẹ con đã sinh thành trao tặng con nhịp đập
Tự thuở trong bào thai chín tháng mười ngày”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
45
Mẹ gắn với những điều gần gũi thân thương, vùng văn hóa dân gian
thấm đượm ân tình. Mẹ đã hóa cổ tích, huyền thoại. Đó là vẻ đẹp mang đậm
thiên tính nữ ở con người quê mộc mạc đơn sơ của mẹ. Chỉ trong vần thơ về
mẹ chúng ta mới có thể bắt gặp những tiếng vọng nghĩa tình tri ân cảm động:
“Mẹ gập bóng bên con
Tóc con rụng
Mẹ so vào sợi nhớ
Tay con gầy
Mẹ đỡ quả gọi xuân”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Mẹ từ lâu đẹp và thiêng liêng, tạc vào non sông đất nước, đại diện cho
phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam: anh hùng, bất khuất, trung
hậu, đảm đang. Văn học kháng chiến đã khắc họa rất thành công hình ảnh
người mẹ, người chị anh dũng, tảo tần: chị Út Tịch, mẹ Suốt, mẹ Tơm…:
“Bà Định
Đếm bom
Bà mẹ cầm súng
Chị Út Tịch
Đếm bom
Chị Võ Thị Thắng
Trong xà lim với nụ cười bất diệt”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
“Chúng tôi biết ơn bà mẹ nghèo làng Gióng
Đẫ nuôi con lam lũ nhọc nhằn”
(Trường ca sư đoàn – Nguyễn Đức Mậu)
Mẹ bước ra từ ca dao dân ca, mẹ là lời ru ngọt ngào ấm lòng chiến sĩ
giữa rừng sâu:
46
“Con vùi mặt vào rừng ngủ
… Gió cõng rừng áo mẹ bọc câu ca
Trăm trứng bọc lời nguyền chân lý
Như yếm bùa trước ngực yếm con mang”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
từ cổ tích, truyền thuyết, Bà Trưng bà Triệu:
“Quả thị rơi
Bà cho chị Tấm mẹ cho thêm điều ước”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Mẹ hiện lên đẹp, nhẫn nại, dịu hiền và hi sinh trong kháng chiến chống
Mỹ. Trên bước đường hành quân mỗi người con thấp thoáng bóng dáng mẹ -
hậu phương lớn quê nhà ngóng trông, mong chờ tin thắng trận:
“Mẹ chờ con – lòng mẹ rộng bao la
… Mẹ hằng dõi theo ta qua tháng ngày lửa đạn”
(Con đường của những vì sao – Nguyễn Trọng Tạo)
Mẹ là cội nguồn nuôi dưỡng sức mạnh, mẹ chở che và bao bọc, mẹ là
Hơi ấm ổ rơm. Mẹ hóa thân thành huyền thoại:
“Bóng mẹ rưng rưng hậu phương lớn quê nhà
Vừng dương lăn hũ gạo mỗi ngày đầy thêm một nắm”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Cũng giống như sáng tác của các tác giả khác. Trong sáng tác Lê Thị
Mây mẹ chiếm một số lượng lớn, một vị trí quan trọng và thiêng liêng. Nơi
đâu cũng có thể bắt gặp bóng dáng mẹ, hình ảnh mẹ - những bà mẹ Việt Nam
anh hùng:
“Mẹ ẩn hình cây ẩn tuổi
Tay mẹ nâng niu tay mẹ ẵm bồng”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
47
Mẹ đẹp, bao dung nhân hậu trong cả thời chiến và thời bình. Mẹ đi suốt
chặng đường sáng tác thơ ca Lê Thị Mây:
“Rừng là mẹ
Cây là lời
Âu Cơ
Trăm trứng
Bọc cười
Tiếng con”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
“Mẹ tránh bão bằng sự bao dung. Bằng sự chở che. Bằng sự
chịu đựng. Đem nước mắt tưới cho cây. Đem mồ hôi làm nên muối mặn. Cả
cuộc đời là dòng sông. Lọn tóc đen là nguồn mạch tâm hồn”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Dưới ngòi bút của Lê Thị Mây, hình ảnh mẹ bằng xương bằng thịt đã
hóa thân thành quê hương, thành dáng hình xứ sở. Tình yêu thương của mẹ đã
chuyển hóa thành tình quê hương, dân tộc. Mẹ bao bọc, chở che, mẹ bảo vệ
nâng bước chân chiến sĩ trên bước đường gian lao:
“Mẹ là miền Trung gánh nợ nước thù nhà
… Vành tang lớn âm thầm mẹ biết
Đau thắt đêm dài mỗi tấc núi sông
Giọt nước mắt lặn vào từng khúc ruột”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Với trái tim phụ nữ đôn hậu dịu dàng, Lê Thị Mây đã viết lên những
vần thơ đầy xúc động về mẹ - Người mẹ Việt Nam – Người mẹ anh hùng.
Những vần thơ về mẹ mãi ám ảnh tâm trí người đọc, đại diện cho một thế hệ,
một dân tộc đau thương mà anh hùng.
48
2.2.2. Khát vọng hạnh phúc
Khát vọng hạnh phúc là niềm tin để người chiến sĩ làm nên những
chiến công cho ngày hòa bình lập lại. Đó chính là điểm nhấn soi sáng trong
tâm hồn con người. Xuất phát từ tâm trạng và hoàn cảnh đã trải qua, Lê Thị
Mây như dốc hết gan ruột để giãi bày trong sáng tác của mình, để nói lên
những khát khao hạnh phúc riêng tư những nữ chiến sĩ trong bom đạn chiến
tranh, trong khói bom ác liệt. Hiện thực khắc nghiệt nhưng không bi lụy,
những người chiến sĩ ấy luôn sống, chiến đấu hết mình và ước mong ngày hòa
bình lập lại, họ được trở về với cuộc sống đời thường, được làm tròn thiên
chức người vợ, người mẹ với mong ước hạnh phúc nhỏ nhoi:
“Con về Nam chiến trường giục giã
Tấm ảnh gia đình ôm ấp giấc mơ
Ôi tấm ảnh chụp chung con những tưởng
Sẽ có ngày khoe mẹ lũ con thơ
Sẽ có ngày mẹ thỏa lòng ngắm mừng con gái
Tập kết theo chồng công tác đảm đang”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Uớc mong tưởng chừng giản đơn ấy nhưng trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ trường kì của dân tộc lại cần cả một sự cố gắng, một sức mạnh phi
thường của không biết bao con người chiến đấu ngày đêm giành lấy độc lập,
giành lấy tự do:
“Để có một đồng bằng trước mặt
Chúng ta lên đường mười tám đôi mươi”
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Những tâm sự, ẩn ức riêng tư thể hiện rõ cả trong thời chiến và thời
bình. Lê Thị Mây đi sâu vào từng ngõ ngách trong tâm hồn con người. Đó là
49
mong ước rất đáng yêu và giản dị của người nữ thanh niên xung phong về
ngày cưới, ngày chung đôi:
“Ôi buồng cau lổ chín ngã bên thềm
Trầu cánh phượng thách người chưa dám cưới
Hiên mưa dầm hoa lựu thức thâu đêm
Cát nín lặng vùi sâu thêm nỗi đợi”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Đó là nỗi nhớ mong gia đình, nhớ mong mẹ, quê hương bản quán:
“Áo sung quân lính mới mặc nguyên hồ
Cây môn thục nhớ vườn rau, quả cà dầm của mẹ”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Ngày đoàn tụ, những người lính vỡ òa trong niềm vui, niềm hạnh phúc
thân thương sau tháng năm dài xa cách:
“Hòa bình như đứa con lưu lạc
Chạy chân trần về gặp lại quê hương!”
(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)
Tình yêu và sự thủy chung dành cho người yêu thương, cho một niềm
tin mãnh liệt vào ngày gặp mặt, sông núi yên bình:
“Một ngày xưa yêu cho đến bao giờ
Con còng gió nghiêng mặt trời xe cát
Yêu đến sâu nước khôn cùng dào dạt
Yêu đến bờ yêu đến bến chao chân
Bông súng đỏ phù sa lên gò má
Mắt liếc lá răm hẹn hãy còn xuân”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Đó là những phút tâm tình nơi chiến trường chị em san sẻ cho nhau:
“Không lời trối trăng chị dìu em qua cái chết bàng hoàng
50
Tên các chị, khuôn mặt các chị, em chưa biết hết
Nhưng nhịp đập của tình yêu tha thiết
Làm tổ trong ngực em tựa tằm nằm trong kén”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Có những con người may mắn được trở về, được tiếp tục sống và cống
hiến cho đất nước ở thời bình, được làm vợ, làm mẹ. Và có những con người
mãi mãi không trở về nhưng trái tim họ để lại tình yêu vô bờ ở tuổi thanh
xuân, để lại khoảng trời xanh ngát tuổi hai mươi: Đặng Thùy Trâm, Nguyễn
Văn Thạc:
“Trong bọc áo chị còn kim chỉ, trang nhật kí dở dang
… Màu mực đừng phai, vết đạn xuyên thời gian dằng dặc
Kí ức bập bùng mỗi tên núi tên sông thao thức những thiêng liêng.
… Gió lật từng trang sẽ gặp chị dép lốp ba lô má lúm đồng tiền,
gặp khi chị hát, chị ru, gặp lời anh tiễn đưa chưa kịp hẹn hò đôi lứa
Áo cưới vò đau, nước chảy hóa trời xanh…”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Khát vọng và ước mong hạnh phúc thời nào cũng thế, bước qua chiến
tranh, con người lại trở về với cuộc sống đời thường. Sự tan hoang đổ nát dần
nhường chỗ cho cuộc sống bình yên. Miền sống cứ tiếp tục sinh sôi từ đời này
qua đời khác. Người thiếu nữ trong thời bình cũng mang ước mong về một
mái ấm hạnh phúc, cũng kiếm tìm hạnh phúc của cuộc đời mình:
“Em gọi anh là chàng trai biển muốn chỉ kể anh nghe. Sợ anh
lẫn đám đông trai thuyền trai làng hào hoa kia trai phố. Em nhắc nghìn lần
nhưng không đủ. Cuộc kiếm tìm sự e ngại làm cho nhiều lời”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
51
Lê Thị Mây diễn tả rất chính xác tâm trạng của thiếu nữ đang yêu trong
cuộc sống bình yên ở Người sau chân sóng. Từ cái e ấp nhẹ nhàng thuở tóc
đuôi gà:
“Lũ con gái là lũ dìa hoa bơi trong bờ mà không thể làm động
biển. Tóc đuôi gà buộc nồm non con mắt cười mà chớp về lúng liếng. Lũ trai
làng bén gót níu sau lưng”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Đến cái lúng túng hồi hộp loạn nhịp trước người mình yêu:
“Rung cảm ngân từ cát ánh sao xanh. Tay úp vào tay cho thời
gian làm ngọc. Bầy sếu núi Mâu bay về đầu cửa sông chở cả ánh hoàng hôn.
Dưới cánh chim có ảo ảnh nhịp tim anh và em cùng du ca giữa bay và tìm đậu”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Sự ngóng trông và nỗi nhớ đợi da diết khi người yêu đi xa:
“Người ra đi và em ở lại, nỗi buồn ai dâng đầy? Trái tim em thả
neo, lòng chờ đợi ngày mai. Ánh lân tinh em vớt lên dát ngời vạt áo hóa muôn
sắc thêu thùa giấc mơ thiếu nữ”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Và niềm hạnh phúc vỡ òa ngày gặp mặt. Những nhớ thương hờn giận
trào dâng sau bao tháng ngày xa cách:
“Thuyền về bến chưa phơi xong mành lưới. Không kịp chào hỏi
mọi người anh vội vã tìm em… Nỗi vồ vập bị kìm nén bước chân anh chùng
chình bị lạc… Môi mượn lời yến ríu ran làm tổ. Bọt của sóng khơi và máu
của tim làm nên tổ báu vật yến sào. Nhịp tim mạch gấp gáp ngọt ngào… Mắt
lưới em đan muốn vây bủa nhịp tim”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Tất cả hiện lên trọn vẹn và tràn đầy, đầy hứng khởi ngợi ca cuộc sống
mới hòa bình. Tất cả được viết lên, được giãi bày từ chính gan ruột tác giả với
52
quê hương, từ những cảm xúc vốn dĩ của con người mà tác giả đã trải qua, rất
đáng yêu đáng trân trọng.
2.3. Hình ảnh đất nước
Đất nước là hình ảnh trung tâm trong bất cứ sáng tác nào thời kì kháng
chiến và hậu kháng chiến. Độ lùi thời gian và không khí sử thi càng khiến đất
nước hiện lên hào hùng và huyền thoại. Rất nhiều trường ca lớn ra đời lấy
hình tượng đất nước là trung tâm: Bài ca chim chơrao (Thu Bồn), Lửa đèn
(Phạm Tiến Duật), Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm), Đường tới
thành phố (Hữu Thỉnh), Những người đi tới biển (Thanh Thảo), Trường ca sư
đoàn ( Nguyễn Đức Mậu), Sóng Côn Đảo (Anh Ngọc), Đất nước hình tia
chớp (Trần Mạnh Hảo)….
Hòa trong dòng cảm hứng yêu nước ấy, Lê Thị Mây đã viết lên những
vần thơ đầy cảm xúc thiêng liêng về đất nước, dân tộc, quê hương, xuyên suốt
trong cả ba bản trường ca của tác giả.
2.3.1. Hình ảnh đất nước trong chiến tranh
Trong chiến tranh, đất nước gợi nhiều niềm thương nhớ. Tột cùng tội
ác quân giặc gieo rắc trên khắp đất nước này khiến bất cứ người con dân tộc
Việt Nam nào cũng cảm thấy xót đau. Những giá trị văn hóa lịch sử ngàn đời
ông cha để lại, buổi bình yên một sáng tinh mơ trên đồng lúa, những nốt nhạc
ước mơ tương lai con nhỏ bị giày xéo hoang tàn:
“Mịt mù từ buổi tinh mơ
Bom tọa độ trẻ chăn trâu ngửa mặt lùa trâu tìm cỏ
Rầm
Cột
Đời Lý, Trần
Gạch
Ngói
53
Đời Đinh, Nguyễn
Lấp hố bom
Chống lầy
Bên hố bom cây sáo còn nguyên nốt nhạc
Đám mây cõng diều sơ tán qua chân đê”.
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Hình ảnh đất nước của những ngày xưa cũ yên bình và hiền hòa luôn
ám ảnh, trở đi trở lại trong sáng tác các tác giả. Đất nước đẹp dịu dàng xao
xuyến lòng độ sang thu:
“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Hoa gạo tượng trưng cho sự bình yên trong không gian văn hóa cổ
truyền nông thôn Việt, gắn với cây đa, bến nước, sân đình, hội hè, đình đám.
Hoa gạo đỏ bờ tháng ba dịu dàng mà đau thương giữa cuộc chiến tranh khốc
liệt.Biểu tượng choc ho cuộc sống sung túc ấm no. Hoa gạo nhắc người chiến
sĩ ước vọng niềm tin về ngày hòa bình không xa:
“Rạng ngày ngủ chửa kịp mơ
Miên man hoa gạo đỏ bờ tháng ba”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Đất nước là sự đồng vọng quá khứ, hiện tại và tương lai. Đất nước gắn
liền với tuổi thơ êm đềm, với dòng sông quê ngày đêm ấp ôm che chở xóm
làng, với những người mẹ mỏi ngóng tin con. Hình ảnh dòng sông trở đi trở
lại ám ảnh trong thơ Lê Thị Mây. Hồn quê luôn gắn với hồn sông, bao vui
54
buồn quá khứ hiện tại và chắc cả tương lai cũng diễn ra bên dòng sông quen
thuộc: từ con sông Bạch Đằng hào hùng lịch sử đến Nhớ con sông quê hương
của Giang Nam, Bên kia sông Đuống kiên cường mà đau thương gắn với lịch
sử một giai đoạn lịch sử dân tộc của Hoàng Cầm…:
“Dòng sông thời gian
Sông khúc xạ niềm thương
Sông đau thắt
Khúc bi hùng đát nước trong đất nước
Khúc bi hùng máu trong máu hi sinh”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Đất nước là nỗi nhớ mong những giá trị văn hóa quý giá của dân tộc:
trầu cánh phượng, bến sông quê, tục cưới hỏi. Với tiếng trống chèo đêm hội
nam nữ hát khúc giao duyên:
“Ôi đất nước ta yêu
Ngọn núi dòng sông
Lối ngõ bờ tre thành phố cánh đồng
Câu ví đò xuôi
Trống chèo đêm hội
Con trâu kéo cày ngẩng nhìn ống khói
Sắc mật tiếng ve, cong vút tiếng gà”
(Tình ca người lính – Nguyễn Trọng Tạo)
Đất nước sống trong trái tim và lí tưởng những người chiến sĩ đang đối
mặt với bom đạn kẻ thù, giữa sự sống và cái chết:
“Thẳng căng một dây đàn bầu từ trái tim mỗi người đến trái tim Tổ quốc
Hoàng Sa, Trường Sa Côn Đảo là những nốt đàn sóng lớp lớp âm vang”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
55
Đất nước là sự đoàn kết, là tinh thần đồng đội cao quý và thiêng liêng,
tình quân dân cá nước:
“Bùn là xương cốt đồng đội
Người sống sống cho người chết
Nguyện hi sinh
Người chết chết cho người sống
Nguyện hi sinh
Đá hộc là thân thể nứt ra từ trống đồng Ngọc Lũ
Là phần kết lại mộ hồn chiến sĩ
… Trụ sống lưng Tổ quốc”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Hình ảnh Mẹ Âu Cơ bọc trăm trứng, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”,
một câu hát đưa đò, một khúc ca quan họ, một câu ca dao da diết trữ tình hiện
lên đằm thắm đầy cảm động trong trường ca Lê Thị Mây:
“Từ bọc trứng Âu Cơ đá tụ hồn người quyết tử
Núi sinh núi đất nước ra đời
Núi sinh núi trăm trứng huyền tích ra đời
Trứng đầu thai thắng ngoại xâm từ Bà Trưng Bà Triệu”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
2.3.2. Hình ảnh đất nước trong thời bình
Bước qua cuộc chiến, đất nước mạnh mẽ đi lên, vươn cao và vươn xa
với sức sống mới, nội lực tràn đầy. Tất cả được thể hiện đầy đủ trong trường
ca Người sau chân sóng. Tác phẩm được viết bằng tình yêu ấp ủ sau hơn bốn
mươi năm xa quê hương, xa biển miền Trung ruột thịt của tác giả. Mỗi vần
thơ vì thế mà thấm đượm ân tình. Tác phẩm như một lời tri ân, như một thông
điệp yêu thương tác giả gửi về nơi chôn rau cắt rốn:
56
“Hỡi Tổ quốc Việt Nam muôn đời nghe nhạc nước. Bản thánh ca
khởi nguyên phồn thực phồn sinh. Mỗi nét bút vẽ nên bến bờ cong cong hình
thiếu nữ. Áo dài bay gấm vóc cả giang sơm, lộng lẫy vạt ngân hà”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Những con người đang ngày đêm ra khơi bám biển,chở tôm cá đầy
khoang về làm giàu quê hương:
“Thuyền vượt phao số không anh khuất sau chân sóng. Làng chỉ
còn đàn bà trẻ nít lẫn kim đan. Lưới dạ lưới te lưới mành lưới tủ. Mắt lưới
long lanh bến đợi bến chờ”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Cảnh sắc quê hương biển miền Trung hiện lên rực rỡ, tự hào trong sáng
tác tác giả:
“Sông ôm ấp làng ta là lệ chảy quanh gò má. Động cát trinh
nguyên gió lùa dấu chân bay về phía chân trời. Mặt trời mọc, mặt trời lặn
thẳng căng một đường khơi. Thẳng căng một dây đàn, con mắt thuyền nhấn
nốt. Khúc trữ tình, tình biển anh và em. Ngọn Đầu Mâu, ngọn U Bò ở giữa.
Núi Giăng Màn ngước vời vợi sóng biển Đông”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Những rặng núi, con sông, triền cát mang dáng hình đất nước, bao bọc
xóm làng:
“Bồng bềnh Trường Sa, Hoàng Sa dựng non bộ án ngự biển
Đông che ấm đất liền, hưởng trăng thanh gió lặng. Hồn vía của sông treo lên
đỉnh cột buồm”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Những huyền thoại, truyền thuyết tự ngàn đời mà người dân biển tin và
yêu, đặt trong tim ở vị trí trang trọng nhất: những núi Đầu Mâu, núi U Bò, núi
Giăng Màn, con sông Lệ, rặng Ông Hiền thần khúc:
57
“Cha bảo, rạng Ông Hiền triều lên chìm khuất. Khi triều ròng
gù lưng lật đật. San hô ngời rựng đỏ rực bình minh. Anh thì bảo, rạng Ông
Hiền vệ sĩ báo điềm lành. Cho thuyền áp cửa sông làng tình tứ”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Con người, biển, trời, thiên nhiên và cuộc sống vùng biển hòa chung
vào khúc hoan ca cuộc đời mới. Và con người trong xã hội chủ nghĩa làm chủ
cuộc đời, làm chủ bản thân. Họ sống và yêu hăng say với tất cả nhiệt huyết,
say mê tuổi trẻ:
“Trai đinh, lão ngư lặn theo bóng lạc thuyền. Thuyền bão đánh
tan tành từng mảnh. … Bao hải đội Cảm tử quân tuần biển… Bốn mặt lâu đài
ngân hà thả hoa đăng… Ôm mạn thuyền vạn chài yêu đảo. Vòng tay Người
chèo chống lúc lâm nguy.
Hỡi bến bờ
Cong cong
Hồn chữ S.
Đây biển Việt Nam”
(Người sau chân sóng – Lê Thị Mây)
Những vần thơ vút cao trong khí thế tự hào, gửi gắm trong đó là tình
yêu vô bờ dành cho đất nước. Mỗi mảnh đời gắn với hồn quê từ thuở hồng
hoang cha ông mở cõi:
“Ơi quê hương, trong tầm mắt ta nhìn
Chín mươi chín ngọn núi cao đứng cạnh trời phương bắc
Chín mươi chín đại bàng sải cánh trong truyền thuyết”
(Con đường của những vì sao – Nguyễn Trọng Tạo)
2.4. Lý tưởng và hành trình đi tới chiến thắng
Những cô gái, chàng trai tuổi mười tám đôi mươi gác lại ước mơ ngồi
trên ghế nhà trường, gác lại những niềm vui tuổi trẻ riêng tư để hòa mình vào
không khí đấu tranh sục sôi toàn dân tộc:
58
“Con gửi lại sau lưng
Những ước mơ nhà văn, bác học
Đề nhận lấy cánh rừng
Để nhận lấy dãy Trường Sơn dựng dốc”
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Không thể kể hết những nỗi đau, mất mát hi sinh quân và dân ta đã trải
qua trong kháng chiến:
“Dioxin?
Dioxin màu cam của mười sáu công ty tư bản Mỹ
Biến dạng bào thai trẻ chỉ có đầu
… Đinh đóng vào trống trống đau
Đinh đóng vào đàn đàn rung nức nở
Dây đàn bùng cao lửa hận Việt Nam
… Chín chiếc đinh dài chín gang
Chín ổ vi trùng uốn ván
Sẵn chờ ăn thịt tù nhân
Thân tù cuộn cong dấu hỏi
Chín chiếc xuyên qua giường cưới
Xuyên đau từng thớ đất làng”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Đó là những người lính vĩnh viễn nằm xuống nơi chiến trường, không
bao giờ được chứng kiến ngày nước nhà toàn thắng:
“Chết – hy sinh cho Tổ quốc – Hùng ơi
Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất”
(Nấm mộ và cây trầm – Nguyễn Đức Mậu)
Những gia đình mãi mãi bị vùi lấp trong bom đạn chiến tranh, trong lửa
hận quân thù. Những người vợ mất chồng, người chồng mất vợ:
59
“Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
Chị vẫn nhớ anh và mong anh như thế
Và chị buồn như bông điệp xé đôi
Bằng tuổi trẻ không bao giờ trở lại”
(Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh)
Và những mất mát, nỗi đau sau chiến tranh cho đến hôm nay vẫn vẹn
nguyên đầy ám ảnh, nhắc thế hệ trẻ nhớ về một thời đau thương của dân tộc,
về tội ác quân thù: những trẻ em bị ảnh hưởng bởi chất độc Dioxin tàn ác,
những người phụ nữ lỡ dở không có hạnh phúc nhỏ nhoi làm vợ, làm mẹ.
Những bà mẹ Việt Nam anh hùng mất chồng con.
Vượt lên trên tất cả, con người Việt Nam qua bao thế hệ vẫn luôn vững
vàng chiến đấu và chiến thắng biết bao cuộc xâm lăng, chiến tranh phi nghĩa,
giành chiến thắng vẻ vang khẳng định nội lực dân tộc mình:
“Đi qua cái chết
Cha phục sinh
Máu bẩm chưa tan trên hốc mắt hốc mũi tuổi già
Cha ôm trọn hình hài Tổ Quốc
Ôi Tổ Quốc – Không có gì quý hơn độc lập tự do”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Những con người bền bỉ sống và chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Bác Hồ, dưới ngọn cờ chính nghĩa. Tất cả tạo nên sức mạnh toàn dân tộc mà
không bất cứ kẻ thù nào có thể đánh bại. Họ quyết không theo giặc, quyết
không bị mua chuộc dụ dỗ, quyết không khai dù nửa lời, mặc cho bao nhiêu
tra tấn đòn roi khắc nghiệt:
60
“Khí oan khiên uất nghẹn trời cao
Ôi thưa mẹ thù thêm chồng chất
Cơm đã thiu cá lạnh kiến ruồi bâu
Con tuyệt thực giữ trọn niềm trung liệt
Chúng đòi con ly khai Đảng vinh thân”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Nhà tù Côn Đảo là biểu tượng của sự tàn ác dã man đế quốc Mỹ dựng
lên. Đến hôm nay vẫn vẹn nguyên ám ảnh giữa bốn bề biển khơi xa xôi ngút ngàn:
“Chúng tôi ra đảo tù đã thấm máu các anh
Các anh đến giữa mùa gió chướng
Đốt xương khô gió không thể cuốn
Nằm phơi trên bãi cát mịt mù”
(Lời chào – Trần Mạnh Thường)
Tinh thần yêu nước – tinh thần thép những người tù chính trị khiến mỗi
thế hệ người Việt cảm động và vẫn ngàn năm nuôi dưỡng ngọn lửa yêu nước
rực cháy trong tim. Tinh thần ấy được hun đúc từ sức mạnh phi thường, lòng
tin với Đảng, Bác, và hi vọng vào một ngày mai hòa bình trong đó có một
phần đóng góp máu xương của họ:
“Chết không dễ lưỡi không tham ăn, nói hớ
Chết không dễ lưỡi không nhả đường dây cơ sở
Chết không dễ lưỡi là phẩm chất trung kiên”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Tất cả được thể hiện qua những hình ảnh nghệ thuật, những câu thơ đầy
ánh sáng ngập tràn trong thơ: con đường, trăng, màu xanh, đỏ, cau trầu, lời
ru… Trong bất cứ hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt nào con người vẫn giữ
vững niềm tin vào ngày mai chiến thắng.
61
Tiểu kết
Dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo, Lê Thị Mây đã viết lên những bản
trường ca đầy cảm xúc. Trong sáng tác của nhà thơ, hình ảnh: người chiến sĩ,
những nữ giao liên mở đường, hình ảnh mẹ, hình ảnh đất nước, khát vọng
hạnh phúc, lý tưởng chiến thắng hiện lên đẹp, gần gũi thân quen và chân thực
hơn bao giờ hết. Đó là minh chứng cho một Việt Nam bất khuất kiên cường
trong chiến tranh và hăng say đi lên con đường mới trong hòa bình. Độ lùi
thời gian và những chiêm nghiệm lịch sử khiến những sự kiện đã trôi qua
dường như vẫn vẹn nguyên tươi màu, góp phần lưu giữ những phút giây
thiêng liêng của lịch sử dân tộc. Ba bản trường ca có sức xâu chuỗi và dung
chứa lịch sử rộng lớn, là sợi chỉ xuyên suốt những chặng đường lịch sử của
dân tộc, để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
62
CHƯƠNG 3
3.1. Hình thức tổ chức văn bản
NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG CA LÊ THỊ MÂY
3.1.1. Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ
Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ là yếu tố quan trọng góp phần
chuyển tải nội dung trong mỗi tác phẩm thơ. Với một thể loại có dung lượng
đồ sộ và câu chữ tương đối lớn như trường ca thì yếu tố này càng giữ vai trò
quyết định. Trong trường ca, các nhà nghiên cứu chia ra hai cách tổ chức
đoạn thơ, câu thơ là tổ chức theo sự kiện và tổ chức theo chủ đề. Xét trong
trường hợp cụ thể ba bản trường ca của Lê Thị Mây: Lửa mùa hong áo, Tự
khúc ánh sáng, Người sau chân sóng, có thể thấy ở mỗi bản trường ca có sự
sử dụng các cách tổ chức khác nhau và kết hợp nhuần nhuyễn các cách tổ
chức dựa trên dòng cảm xúc, hệ thống nhân vật và sự kiện, tạo nên sự độc đáo
và đặc trưng riêng cho phong cách viết trường ca của tác giả.
Ở Lửa mùa hong áo, tác giả tổ chức thành mười bảy chương và đặt tên
cho từng chương theo thứ tự. Lê Thị Mây đã tổ chức câu, đoạn thơ chủ yếu
theo yếu tố sự kiện, tuy vẫn có yếu tố cốt truyện và nhân vật:
Chương một: KHÚC DẠO ĐẦU
Chương hai: NGOÁI LẠI VỚI SÔNG LÀNG
Chương ba: ĐỒNG ĐỘI
Chương bốn: KHÚC HÁT NHỮNG CON ĐƯỜNG
Chương năm: BINH TRẠM TRƯỜNG SƠN
Chương sáu: ÂM VANG NHỮNG CÁNH RỪNG
Chương bảy: GIẤC MƠ BAN NGÀY
Chương tám: LỬA PHÀ MIỀN TRUNG
Chương chín: CẢM TỬ
63
Chương mười: LÍNH KHO
Chương mười một: KHÚC HUYỀN THOẠI
Chương mười hai: THƯ
Chương mười ba: ĐẾM BOM
Chương mười bốn: DƯỚI ĐÁ
Chương mười lăm: TÓC
Chương mười sáu: CHỊ ƠI
Chương mười bảy: VỌNG KHÚC TRƯỜNG SƠN
Mở đầu bản trường ca là cảnh những chàng trai cô gái rời áo mẹ ra đi,
để lại sau lưng quê hương, tuổi thơ và những người thân yêu dấu. Họ mang
theo hành trang là tình yêu bao la với quê hương đất nước, với những giá trị
văn hóa đặc sắc của dân tộc, quyết tâm thắng giặc giải phóng quê nhà. Mỗi
chương như một sự kiện có sự liên kết chặt chẽ với nhau kể về những gian
khổ hi sinh muôn mặt của người lính trên chiến trường, đời sống sinh hoạt,
chiến đấu và tâm tư tình cảm của họ. Có những chương đóng vai trò cảm xúc
trữ tình đan xen với dòng sự kiện: chương hai: Ngoái lại với sông làng,
chương bảy: Giấc mơ ban ngày, chương chín: Cảm tử, chương mười một:
Khúc huyền thoại. Có những chương đi vào khắc họa rất kĩ từng nhóm nhân
vật: Chương viết về mười hai nữ chiến sĩ – đồng đội, chương mười: lính kho.
Chương mười bảy đóng vai trò tổng kết bản trường ca, kết thúc một chặng
đương chiến đấu, khúc vĩ thanh của Lửa mùa hong áo :Vọng khúc Trường
Sơn, để lại dấu ấn trong lòng người đọc.
Nếu ở trường ca Lửa mùa hong áo tổ chức chủ yếu theo sự kiện thì ở
Tự khúc ánh sáng, tác giả lại khéo léo kết hợp hai yếu tố tổ chức theo sự kiện
và theo chủ đề. Điều đặc biệt ở bản trường ca này là tác phẩm chia làm mười
chương, và một phần vĩ thanh. Mỗi chương lại có hai phần đăng đối với nhau
được đặt tên theo trình tự sự kiện. Từ chương mở đầu có ý nghĩa như một sự
64
khái quát hành trình chiến đấu, lí tưởng của dân tộc, những khó khăn của
người chiến sĩ cách mạng tới khi sa vào lưới giặc, và những khó khăn hi sinh
gian khổ bắt đầu từ đây. Ở các chương tiếp theo tác giả miêu tả diễn biến
những khó khăn và tranh đấu của chiến sĩ trong nhà tù Côn Đảo, xen lẫn đó là
những chiêm nghiệm, những đoạn miêu tả cảm xúc trữ tình. Đánh dấu những
mốc sự kiện là những khoảng thời gian cụ thể báo hiệu từng bước chiến
thắng: Chương bốn. một: Đối mặt 1970, Chương chín. một: Côn Đảo 1972.
Tất cả có sự liên kết chặt chẽ làm nên chủ đề chung của tác phẩm là bản Tự
khúc ánh sáng, là niềm tự hào vinh quang và niềm tin bất diệt của người chiến
sĩ, của nhân dân Việt Nam trong hoàn cảnh ngục tù. Phần tự do và vĩ thanh
thời gian có ý nghĩa tổng kết chiến thắng của dân tộc.
Người sau chân sóng là bản trường ca viết về cuộc sống hòa bình của
Lê Thị Mây. Ở tác phẩm này tác giả đã tổ chức theo chủ đề. Tác phẩm chia
thành ba phần lớn, mỗi phần có các phần nhỏ nối tiếp nhau: phần một từ một
đến mười ba; phần hai từ mười bốn đến ba mốt; phần ba từ ba hai đến ba tám.
Mỗi phần có một phần ở cuối đóng vai trò tiểu kết. Tất cả các phần đều hướng
đến chủ đề chung của không khí ngợi ca tinh thần hăng say lao động, những
tâm tư tình cảm của đôi lứa trong thời bình. Từng phần miêu tả rất chính xác,
tinh tế diễn biến tâm tư tình cảm của người thiếu nữ, thể hiện rõ nét sự tự hào
cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ trời biển quê hương và tinh thần lao động không
ngừng nghỉ của những con người ngày đêm bám biển.
3.1.2. Ngôn ngữ
“Ngôn ngữ - “cái sản phẩm xã hội lưu giữ trong óc mỗi người” của mỗi
cộng đồng. (…) Các nhà ngôn ngữ học trên thế giới đều thống nhất “Ngôn
ngữ là một hệ thống tín hiệu, khẩu ngữ, võ đoán, dùng trong các hoạt động
giao tiếp của con người[32, tr.296] . “Qua “tiếng lòng” của nhà thơ ngôn ngữ
được cấu trúc lại để tạo thành ngôn ngữ mới, đẹp, sâu xa và triết lý” [32, tr.302].
65
Thơ hiện đại cuốn hút người đọc bởi sự sáng tạo và phong phú của
ngôn ngữ. Ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong thơ, qua đó cái tôi của
nhà thơ được bộc lộ. Hình thức thể hiện đầu tiên trong thơ là ngôn ngữ. “Nhà
thơ tư duy bằng ngôn ngữ. Thơ là một cấu trúc cô đọng, hàm súc, vì vậy ngôn
ngữ thơ phải chứa đựng nhiều thông báo, một câu, một chữ có thể gợi lên
nhiều nghĩa” [41, tr.37].
Ba bản trường ca của Lửa mùa hong áo, Tự khúc ánh sáng và Người
sau chân sóng của Lê Thị Mây đã có sự lựa chọn hệ thống ngôn từ tinh tế để
chuyển tải nội dung, chủ đề tư tưởng trong tác phẩm đến người đọc. Tác giả
đã kết hợp nhuần nhuyễn và sáng tạo nhiều dạng ngôn ngữ, thể hiện rõ nét sắc
thái ngôn ngữ trường ca.
3.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tượng trưng, ám gợi
Ngôn ngữ thơ Lê Thị Mây giàu tính tượng trưng, ám gợi. Thơ Lê Thị
Mây đậm chất triết lý về đời sống và con người, vì vậy nó phần nào chi phối
cách sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ trong thơ chị. Nhà thơ thường chọn cách
nói đầy ẩn ý, thâm trầm, lắng đọng trước mọi vấn đề trong thơ bằng sự nhẹ
nhàng tinh tế của trái tim phụ nữ.
Viết về ước mong hạnh phúc của người thiếu nữ, Lê Thị Mây có hình
ảnh so sánh rất lạ: “mỗi nhịp tim nâng đường lệch nghiêng tuần trăng mật”.
Tuần trăng mật đại diện cho hạnh phúc lứa đôi, cho đám cưới, mong ước bình
dị trong chiến tranh.
Tội ác quân giặc hiện lên rõ nét qua những câu thơ đầy ám ảnh:
“Giây thong lọng thắt nghẹn ký ức
(…) Trắng thời gian
Trắng không gian
Trắng ngôn ngữ”
Biển trời quê hương đẹp và lạ trong vần thơ đầy sáng tạo của Lê Thị Mây:
66
“Mỗi tấc đất tấc trời tấc nước
Cánh buồm nâu dựng gió trong mơ
Tiếng vỗ cánh trào dâng hơi thở đổ
Máu hồng hoang lưu vết san hô”
Lê Thị Mây thể hiện rất chuẩn xác tâm trạng đang yêu của người thiếu
nữ với trái tim thấu hiểu, đa cảm dịu dàng:
“Âm thanh tình khúc vẽ kí ức trên cát. Vầng trăng khắc họa giấc mơ
anh rồi rắc xuống dấu chân. Lửa khắc họa sự nồng nàn, mưa khắc họa vệt
mùa đông tê tái. Bức tranh cát, em li ti ức triệu hạt phân thân. Ức triệu mắt
lưới đa tình em dềnh dàng với sóng”
Trong thơ Lê Thị Mây, người đọc bắt gặp những hình ảnh ví von rất lạ,
mọi câu chuyện, hành động hiện lên rất dễ thương mang đặc trưng phong
cách Lê Thị Mây. Viết về người thiếu nữ, Lê Thị Mây liên tưởng họ với “lũ
dìa hoa”, tình họ với “dây hoa muống tím”, “cây lựu mùa xuân”, “con sò
ngậm ngọc”, với “những loài hoa biển”, “hạt dương liễu xanh”…
Chàng trai biển là “cá ngừ đại dương” trong tình yêu thiếu nữ, trong
“khúc hoan ca nhịp tim của biển”.
Những người đàn bà vùng biển nhẫn nại và hiền lành luôn trông ngóng,
âu lo cho sự bình an những người đàn ông của họ, họ là những con người
mang sức mạnh phi thường, những “người sau chân sóng”.
Phải có một trái tim rung cảm và thấu hiểu, trí tưởng tượng và sức sáng
tạo độc đáo không ngừng, Lê Thị Mây mới có thể đưa vào tác phẩm của mình
những hình ảnh giàu tính tượng trưng mang hơi thở hiện đại mà gần gũi ấy,
tạo ra phong cách viết trường ca độc đáo riêng trong trường ca Việt Nam hiện
đại. Sức sáng tạo và lao động nghệ thuật không ngừng đã tạo nên tên tuổi nhà
thơ Lê Thị Mây. Chị đã ghi tên mình vào danh sách những nhà thơ nữ xuất
67
sắc nhất bằng những vần thơ cảm động chắt ra từ chính cuộc đời nhiều bất
hạnh đau thương.
3.1.2.2. Nhiều khoảng trống, khoảng lặng trong thơ
Khoảng trống (hay khoảng trắng) “trong phong cách học thuộc các
ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng là "Sự ngắt lời đột ngột do bị dồn
nén về tình cảm, do lưỡng lự trù trừ, hoặc do không muốn tiếp tục câu
chuyện". Sự im lặng trong văn học tạo nên khoảng trống trong dòng lời, làm
cho mạch lời văn không liên tục, gián đoạn, đứt nối. Khoảng trống trong văn
bản nghệ thuật có thể được biểu hiện bằng dấu chấm lửng. Trong âm nhạc,
khoảng trống giữa các tiết đoạn âm thanh có thể được tạo ra bằng dấu lặng có
giá trị của một quãng ngừng nghỉ. Trong hội thoại, khoảng trống được tạo nên
chủ yếu bằng sự thiếu hụt một trong hai yếu tố trao hoặc đáp. Khoảng trống
im lặng trong văn học không phải là cấp chiếu nghỉ. Tùy vào văn cảnh và
dụng ý nghệ thuật của tác giả ở từng tác phẩm cụ thể, khoảng trống trong
mạch trần thuật có những hiệu quả nghệ thuật khác nhau” [17]. Những
khoảng trắng của “không gian văn bản” cũng là một biện pháp hữu hiệu trong
việc tạo khoảng trống giữa các lời thơ. Một đặc điểm thể hiện khoảng trống
trong thơ hiện nay là cách phân chia khổ thơ, xuống hàng, bỏ trống… để thể
hiện dụng ý nghệ thuật… khá phổ biến, cũng bởi ảnh hưởng của những chủ
nghĩa hình thức phương Tây. “Một ý thức lao động chuyên nghiệp cộng với
tri thức, trí tuệ, thường trực tìm kiếm hình ảnh mới, lạ từ “sự va đập chói lòa
của từ”, làm nảy sinh những ý nghĩa, cái nhìn mới, đẹp vào cuộc đời, con
người từ kết quả của những hình ảnh đó” [32, tr.310].
Những khoảng trống, khoảng lặng xuất hiện với tần số lớn trong thơ Lê
Thị Mây, như một nét độc đáo khẳng định phong cách nghệ thuật. Mặt khác
cũng là cách nhà thơ thể hiện những ẩn ức dồn nén không thể giãi bày. Sự
xuất hiện của những khoảng trống, khoảng lặng ấy góp phần tạo tính nhạc cho thơ.
68
Người đọc có thể dễ dàng bắt gặp những vần thơ với sự phân chia
không đối xứng tạo ra sức căng và dụng ý nghệ thuật trong trường ca Lê Thị
Mây như:
“Một tiểu đội
Một đại đội
Một trung đoàn
Người đi
Cây đi
Rừng đi
Lá đi cong mặt lá
Sau gót chân
Chuối rừng chín bói chùng chiềng mùa hạ”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Để diễn tả tâm trạng nữ giao liên nhớ nhà, nhớ mẹ và quê hương yêu
dấu, Lê Thị Mây đã dùng cách cắt câu, từ rất lạ và độc đáo tạo sự đứt gãy
giữa dòng thơ:
“Tiểu đội mười hai người
Đáy ba lô có mảnh trời mang màu áo cưới
Nghĩa chị em bồng bế trái bầu non
Mừng thắng trận gạo giã trong mũ cối
Than nướng bánh đa
lốp đốp hạt vừng thơm
Sợi bún
riêu cua
cay xé ớt chỉ thiên.”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
69
Hình ảnh những thiếu nữ đang tuổi trăng rằm “vừa rời nách áo mẹ ra đi”
đến nơi chiến tranh ác liệt hiện lên thân thương qua những vần thơ dồn dập:
“Sư đoàn đầu tiên áo xẻ tà con gái
Tóc dài
Lưng ong
Ngực
Vai
Chưa nở
Chân nối bàn chân âm thầm nỗi nhớ
Tay quờ đêm ấp vú mẹ nói mê…
Tiểu đội mười hai người
trăng rằm làm nón
bom dội không rơi”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Diễn tả không khí trầm hùng âm vang của những cánh rừng Trường
Sơn, bao bọc chở che chiến sĩ như trái tim người mẹ, Lê Thị Mây sử dụng
những dấu gạch nối, chấm lửng tạo khoảng trống và cảm xúc giữa dòng thơ:
“Cây nấm là con
Đội chớp
Đội mưa
Vuốt mặt
Quả chín cũng là con –
Lăn bên ráo
Cung đường nào –
Cũng nhận phần mẹ hi sinh
Đêm trở lạnh
Miếng trầu
70
Quánh nồng thay bát cháo.
(…) Ôi mắt cây
Mắt mẹ
Mắt rừng
Sâu hun hút chói bừng trên trán núi
Xe là con xăng là máu
Tim đường là tim mẹ
Ôi mắt cây-vân gỗ hướng vừng dương
Dẫn đàn con tiếp bước
Rừng giao mùa rạo rực nắng hờn thu…”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Một loạt những câu thơ, từ ngữ, hình ảnh dồn dập, lặp đi lặp lại diễn tả
một thời kì tranh đấu sục sôi và hào hùng của quân và dân ta:
“Đối mặt: CIA?
Đối mặt: chúa ngục?
Đối mặt: roi điện?
Đối mặt: ma-trắc?
Đối mặt: roi cá độc?
Ngậm vào ruột gan khắc vào vỏ não khuôn mặt đồng chí đã hy sinh”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
“Khai mau – Sẽ được sống
Khai mau – sẽ được thăng hàm
Lũ hành quyết dí mũi lê nôn nóng.
Cắn răng thề với Đảng ta
Kiên trung với Đảng máu hòa đất chan
Cỏ của tinh thần Nguyễn Trung Trực bất diệt
Cỏ của tinh thần nước Nam bất diệt.”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
71
“Ánh sáng tự lòng thề với Đảng với nhân dân
Một ngày
Mỗi giờ
Mỗi khắc
Tiếng hát
Và ánh sáng
Tự có ở trong lòng rỏ máu đầu tay.
(…) Những dẻ xương sườn khô cong
Những dẻ xương sườn tung ánh sáng
Những dẻ xương sườn của lớp lớp người cộng sản
Và tiếng hát căng hết mũi tên
Dậy mà đi
Dậy mà đi.
(…) Thề hi sinh đến cùng!
Thề cứu lấy nước nhà!”
(Tự khúc ánh sáng – Lê Thị Mây)
Những khoảng trắng bất tận tạo ra từng lớp sóng dồn dập trong thơ và
trường ca Lê Thị Mây, do đó tạo được độ nén cần thiết và dư ba vang vọng
cho câu thơ trong lòng người đọc. Ta còn có thể bắt gặp lối sử dụng nghệ
thuật độc đáo này của Lê Thị Mây trong một loạt bài thơ: Sông Hiếu, Bí mật
mùa xuân, Về nguồn, Cát bay, Những tấu khúc trên sóng, Trên nỗi buồn, Hai
mảnh, Thanh tân, Gió xuân ở Huế, Mắt chữ…
3.1.2.3. Ngôn ngữ đời sống
Ngôn ngữ đời sống vốn thân thuộc trong sáng tác văn học, và càng
được sử dụng rộng rãi trong thơ và trường ca các tác giả Việt Nam hiện đại.
Rất nhiều tác giả đã sử dụng thành công ngôn ngữ đời sống trong tác phẩm,
trong đó có Lê Thị Mây. Những vần thơ, hình ảnh đầy sáng tạo bởi cách viết
72
lạ hóa, phá cách, bởi cách dùng ngôn ngữ dân gian, ngôn ngữ chiến tranh bên
cạnh ngôn ngữ đời sống hàng ngày trong thơ tác giả tạo ấn tượng lớn trong
lòng người đọc. Đó là lớp ngôn ngữ gần gũi với lới ăn tiếng nói hàng ngày
của nhân dân.
Một loạt những từ ngữ, hình ảnh trong thơ mang đậm cảm xúc trữ tình
hiện lên ấn tượng: bàn chân lội suối nhột tiếng cười; thụng thịnh áo tân binh;
dốc trơn, sình lầy, thác cả; miếng trầu, quánh nồng thay bát cháo; con gái
làng Thuận chằm nón bài thơ; rằng đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh; lưng mẹ gập
mùa khô, bóng mẹ sấp mùa mưa; đầu gối run không bò nổi qua đá tai mèo;
chân người bị cùm vào chân ghế, tay người bị xích vào tay ghế; chụm bàn tay
anh vốc cát giữ rừng; em chạy chân trần trên cát bỏng tiếng ve; làng chỉ còn
đàn bà trẻ nít lẫn kim đan; khi làm mẹ vạch vú cho con bú, sữa trong hồn con
trẻ óng ngời xinh…
Những hình ảnh ngôn ngữ đời thường xuất hiện trong thơ khiến những
tác phẩm của Lê Thị Mây đẹp dung dị, gần gũi thân thương. Những vần thơ
như chắt ra từ gan ruột người con gái vùng quê miền Trung Việt Nam chân
chất hiền hòa, thân thuộc như chính sự nồng hậu và bình dị của dải đất Việt
Nam cong cong hình chữ S.
3.1.2.4. Ngôn ngữ mang sắc thái dân gian
Mảng màu ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian kết hợp hài hòa trong thơ
Lê Thị Mây. Lê Thị Mây vận dụng nhuần nhuyễn yếu tố dân gian khi nhắc tới
hình ảnh người mẹ, người bà, tới miền quê thân thuộc trong lòng đứa con xa
quê… Ngôn ngữ dân gian như những nốt nhạc trữ tình lắng lại giữa không khí
tranh đấu bi thương hào hùng, neo giữ tâm hồn chiến sĩ trở về với những giá
trị văn hóa tinh hoa.
73
Để diễn tả nỗi nhớ quê hương và lòng quyết tâm vượt mọi hi sinh gian
khổ, Lê Thị Mây tìm đến những hình ảnh rất đỗi thân thuộc gắn bó với cha
ông, với tuổi ấu thơ tự ngàn đời:
“Mượn quả thị rơi từ trang cổ tích
Em từ cây
rơi xuống bếp Hoàng Cầm
… Niêu cơm Thạch Sanh ấm cật bạt mùa đông
… Máu đỏ từ nắm đất mẹ chôn nhau nên xóm nên làng
Năm mươi con lên rừng
Năm mươi con xuống bể
Thánh Gióng lẫy nôi tre lớn từ mụt măng đọt mưng
Rau má, tàu bay, môn thục, củ rừng
Quả cà, quả thị, trái ớt cay
Đẩy lùi cơn sốt rét
… Nghĩa chị em bồng bế trái bầu non
… Núi Sơn Tinh
Sông Thủy Tinh chờ trống trận Hùng Vương”
(Lửa mùa hong áo – Lê Thị Mây)
Những vần thơ đã khái quát tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam
anh hùng. Một loạt những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết từ ngày mở cõi
được tác giả gợi nhắc đầy sống động: quả thị trong câu chuyện cổ Tấm Cám
tượng trưng cho sự kiên cường vượt qua hoàn cảnh, cho chân lí ở hiền gặp
lành; niêu cơm Thạch Sanh, chàng Sơn Tinh, Thủy Tinh đại diện cho lí tưởng
về sức mạnh phi thường của dân tộc để chiến đấu và chiến thắng giặc ngoại
xâm; Con rồng cháu tiên gợi nhắc về lịch sử và tổ tiên người Việt, về mẹ Âu
Cơ và Lạc Long Quân, về “năm mươi con lên rừng, năm mươi con xuống bể”
mở mang bờ cõi; chiến tích Thánh Gióng có sức mạnh phi thường chiến thắng
74
giặc Ân; rau má, quả cà, quả thị gắn với tuổi thơ, với cha ông ta từ ngàn đời
mang hồn cốt quê hương… Những chiến tích và kí ức ấy góp phần nuôi
dưỡng sức mạnh chiến đấu trong lòng những người con ngày đêm chắc tay
súng bảo vệ tổ quốc.
Trong thơ Lê Thị Mây, bà và mẹ luôn gắn với những lời ru, với quả thị,
cô Tấm đậm hương cổ tích:
- “Mỗi quả thị đầy âm âm nước mắt
Thị đậu quả trên cây nước mắt chảy lên cây.
Mỗi cây một trai làng đứng mặc niệm
Mỗi cây bà ngoại vươn cành đỡ quả”
- “Quả thị ủ lời bà ngoại cầu mong”
- “Bà ngoại cho quả thị hóa chị Tấm cời than”
- “Mẹ theo con từ khi Lạc Long Quân xuống bể”
- “Hóa thân trong lửa
Hồn thiêng rừng mẹ hóa câu ru”
- “Vạt nối vạt gió bời bời
Câu ru con lý mẹ hời đó đây…”
Trầu cánh phượng gắn liền với câu chuyện nghĩa tình Trầu cau cổ, với
câu ca quan họ, áo tứ thân xưa, nay lại là một hình ảnh tượng trưng cho ước
mong hạnh phúc lứa đôi trong ngày vui toàn thắng:
“Ôi buồng cau lổ chín ngã bên thềm
Trầu cánh phượng thách người chưa dám cưới”
Tinh thần lạc quan, ý chí chiến đấu của người chiến sĩ nơi chiến trường
ác liệt đươc ví von với những hình ảnh dân gian rất hay, độc đáo mà gần gũi
thân thương. Một câu ví dặm từ thuở lọt lòng, câu ca Quan họ bên bến sông
quê của kí ức yên bình đủ ru lòng người chiến sĩ giữa rừng xa thăm thẳm:
75
- “Vốc nước lóa trăng
ngập ngừng soi răng khểnh
Dép bốn quai dùng dằng câu ví dặm”
- “Em nhoẻn cười nước mắt đầm vai áo bạn
Má nhọ nồi em thay chị Tấm cời than”
- Em lung linh hát mơ câu Quan họ
- Nón quai thao úp mái hóa hầm kèo”
Nghĩa tình chị em, tình đồng đội, tình quân dân hiện lên cảm động gợi
nhắc trái tim ghi nhớ truyền thống ngàn đời của ông cha, ấy là “Con rồng
cháu tiên” kề vai cùng lo việc nước; “nghĩa chị em bồng bế trái bầu non”;
“chị ngã em nâng đồng đội tựa nhau”; “nhiễu điều phủ lấy giá gương” trong
câu ca dân tộc; “củ khoai vùi góc bếp chia nhau” quen thuộc trong thơ Tố
Hữu, Chế Lan Viên; “động Hàm Nghi áo vua trong nếp cỏ, khúc ruột miền
Trung ấm tình đồng đội thiêng liêng”…
Sức mạnh chiến đấu và chiến thắng kẻ thù từ nội lực dân tộc, từ trái tim
yêu nước nồng nàn những con người anh dũng được thần thánh hóa sánh
ngang với sức mạnh phi thường, siêu nhiên:
- “Tiểu đội mỗi người
một Bà Triệu
một Bà Trưng
một Nữ Oa vác đá vá vết thương”
- “Đường ra đời trong nếp áo nàng Bân”
Một câu hò thân thương trên đường chiến đấu đầy gian khổ, đồng đất
quê hương bát ngát cánh cò giúp người chiến sĩ quên đi mọi khó khăn mệt nhọc:
“Ngầm, cầu, ổ voi, ổ trâu thơ Bác gọi lửa hồng
Người liền người í ơi câu quan họ
Hò sông Mã sóng liền câu ví dặm
76
Quân nối quân bãi đồng hương căng ngực thở phập phồng”
Câu chuyện cổ Nàng Tô Thị chờ chồng trong dân gian được tác giả
nhắc tới với một tinh thần mới mẻ và sáng tạo. Biểu tượng cho phẩm chất
người phụ nữ Việt Nam, cho lòng thủy chung son sắt hóa thân, nâng tầm
thành sức mạnh chiến đấu quân thù. Không buồn đau bi lụy mà đầy hi vọng
lạc quan về ngày hạnh phúc:
“Đường Trường Sơn ơi đường Hồ Chí Minh
Có tóc con gái áo xẻ tà gió thổi
Có vai con gái tựa Vọng Phu nhưng không hóa đá nhịp tim
Mỗi nhịp tim nâng đường lệch nghiêng tuần trăng mật”
Một “tiếng chim cuốc” từ ngàn xưa vọng về gợi nhắc nỗi đau mất nước.
Lê Thị Mây đã kết hợp nhuần nhuyễn hài hòa yếu tố dân gian trong
sáng tác của mình, như một chút lắng đọng gắn kết thấm đượm hồn dân tộc.
Trái tim thi sĩ đa cảm và đa tài ấy đã thể hiện trong tác phẩm của mình một Lê
Thị Mây nặng lòng với quê hương xứ sở, với những giá trị văn hóa ngàn đời
của cha ông. Để những thế hệ mai sau soi chiếu tự nhắc nhở bản thân ghi nhớ
và noi theo cội nguồn.
3.1.3. Thể thơ
3.1.3.1. Thể thơ tự do
Thơ tự do là thể thơ “không bị ràng buộc vào các quy tắc nhất định về
số câu, số chữ, niêm đối… Thơ tự do là thơ phân dòng nhưng không có thể
thức nhất định. Nó có thể là hợp thể, phối xen các đoạn thơ làm theo các thể
khác nhau, hoặc hoàn toàn tự do… Đặc điểm đáng chú ý của thơ tự do thường
là phá khổ - không theo khổ 4 dòng, 6 dòng đều đặn ngay ngắn… Có thể mở
rộng câu thơ, kéo dài câu thơ thành hàng chục tiếng, gồm nhiều dòng in, có
thể sắp xếp thành “bậc thang” để tô đậm nhịp điệu trong câu, có thể xen kẽ
câu ngắn dài thoải mái” [24, tr.319].
77
Sau chiến tranh thơ tự do đóng vai trò chủ đạo trong thơ. Do phù hợp
với nhu cầu đòi hỏi thơ đi sát hơn với cuộc đời, phản ánh những khía cạnh đa
dạng của cuộc sống, và con người với mong muốn tự do giãi bày, thể hiện
tâm tư tình cảm, khẳng định cái tôi cá tính không bị gò bó của mình. “Theo
kết quả thống kê của tác giả Phạm Quốc Ca trong Tuyển tập thơ Việt Nam
1975 – 2000, thơ tự do chiếm cao nhất: 654/1144 bài (56%). Cũng theo kết
quả thống kê của nhà nghiên cứu Lê Lưu Oanh, tỉ lệ các bài thơ với câu thơ tự
do chiếm giải trong các giải thưởng là tỉ lệ chiếm ưu thế tuyệt đối” [31, tr.78].
Trong sáng tác của các nhà thơ nữ thời kỳ này: Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Phi Tuyết Ba…, thơ tự do cũng chiếm vị
trí rất lớn. Bởi nhà thơ có thể tự do giãi bày, để cảm xúc tràn qua những dòng
thơ mà không bị bó buộc bởi vần, luật như trong thơ ca cổ điển. Thơ tự do
khá phổ biến trong sáng tác Lê Thị Mây, đồ sộ cả về số lượng và chất lượng.
Trong số 7 tập thơ gồm 390 bài thì số lượng thơ làm theo thể tự do chiếm 242
bài (62%). Ba trường ca của Lê Thị Mây cũng chủ yếu làm theo thể thơ tự do.
Sử dụng thể thơ tự do diễn tả những mất mát lớn lao trong chiến tranh
giúp người đọc hình dung rõ ràng bức tranh hiện thực khắc nghiệt và nỗi đau
thương u uất của con người chảy tràn qua từng câu thơ:
“Chúng treo giá cái lưỡi
Bóp méo nhân quyền
Và treo trái đất lên đầu sợi tóc
Bằng vũ khí hạt nhân
Bằng chất độc hóa học
Khay dụng cụ tội ác
Không có đêm
Không có ngày
Thế kỷ hai mươi Mỹ no căng lợi nhuận
78
Thảm sát Vĩnh Trinh!
Thảm sát Ba Làng An!
Thảm sát Sỹ!”
Hình thức thơ dài ngắn không đều, câu thơ bị ngắt quãng, vỡ ra thành
từng mảnh càng làm tình cảnh con người thêm đau đớn.
Nhà thơ bày tỏ nỗi đau xót trước nỗi đau của mẹ - miền Trung bằng thể
thơ tự do với những câu thơ rất dài như cảm xúc chảy tràn:
“Mẹ là miền Trung gánh nợ nước thù nhà
Cha Đảng viên trung kiên chúng giết
Máu chảy thành sông máy chém Diệm lê qua
Vành tang lớn âm thầm mẹ biết
Đau thắt đêm dài mỗi tấc núi sông
Giọt nước mắt lặn vào từng khúc ruột”
Ở đoạn thơ này, dường như ranh giới giữa thơ và văn xuôi trong sáng
tác Lê Thị Mây đã bị xóa nhòa.
Cũng có những câu thơ cực ngắn trong sáng tác của chị, chỉ khoảng
một, hai hoặc ba âm tiết. Để diễn tả khí thế chiến đấu sục sôi của quân và dân ta:
- “Voi
Cuốn ngà voi húc đánh vu hồi sào huyệt địch
Trâu cuốn sừng
Húc vào lưng Mỹ truy kích
Thuyền
Cuốn sông
Dựng thủy binh nghìn trùng chiến dịch”
- “Đạn
Xếp
Thế trận lòng dân
79
Xe
Pháo
Trận đồ thần tốc”
Hay thể hiện trạng thái cô đọng của cảm xúc:
“Một trái tim
Một trái tim
Về cát bụi hồng hoang
Là khói
Là sương
Sau vết xe cảm tử
Trái tim trong sỏi đỏ
thở
và lăn…”
Ở trường ca Người sau chân sóng, Lê Thị Mây sáng tác hoàn toàn theo
thể tự do. Những câu thơ dài nối tiếp nhau như một câu chuyện tự sự trữ tình
từ gan ruột nhà thơ về quê hương miền Trung ruột thịt:
“Anh hỏi vì sao con sông ôm ấp làng ta? Vì sao những con sóng không
mệt mỏi. Nỗi ve vuốt lặp lại. Bờ cát không sao giấu nổi bao đường cong dịu
mềm. Cánh tay đa cảm ơi. Con sông ôm ấp làng ta. Sinh lực của biển uống no
nê nguồn nước cửa sông”.
Lê Thị Mây đã linh hoạt và khéo léo sử dụng thể thơ tự do để giãi bày
tâm tư tình cảm của mình. Thể thơ rất phù hợp với tiếng lòng của một nhà thơ
– người phụ nữ suốt đời đi tìm hạnh phúc, với khát khao bản thể và ẩn ức
không thể giãi bày. Một tâm hồn với nhiều trạng thái cảm xúc phức tạp đan
xen. Một người luôn trăn trở sáng tạo cho đời những câu thơ hay giàu ý nghĩa
và lấp lánh tính nhân văn.
80
3.1.3.2. Thể thơ lục bát
Thơ lục bát là thể thơ truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc của Việt
Nam ta. Nó ăn sâu vào tiềm thức nhân dân trong lời ăn tiếng nói hàng ngày,
những câu ca dao dân ca, bài đồng giao, lời hát ru con trẻ… Đã có rất nhiều
nhà thơ thành công ở thể thơ này như: Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Duy,
Đồng Đức Bốn, Lê Đình Cánh, Nguyễn Trọng Tạo… như một sự tìm về với
cội nguồn dân tộc. Dường như trong sự nghiệp sáng tác của các nhà thơ, dù ít
dù nhiều cũng đã tìm tới thế giới êm đềm của thơ lục bát. Thơ lục bát rất dễ
nhớ, dễ thuộc, quy luật của câu thơ nhiều luật bằng hơn luật trắc khiến câu thơ
như có nhạc điệu du dương âm vang vào lòng người đọc. Thể thơ lục bát góp
phần làm phong phú hơn kho tàng thơ ca nước nhà, giống như sức ảnh hưởng
của thơ Haiku với Nhật Bản, thơ Đường với Trung Quốc .
Thể thơ lục bát được Lê Thị Mây sử dụng nhiều trong những sáng tác
giai đoạn đầu để diễn tả tình yêu mẹ, tình yêu quê hương đất nước, tình đồng
chí đồng đội gắn bó thân thiết và sức mạnh, niềm tin chiến thắng của dân tộc.
Âm điệu nhẹ nhàng của thể thơ giúp gợi nhắc những kỷ niệm như lời thủ thỉ
tâm tình, yêu thương. Càng về sau, khi đã từng trải hơn trong cuộc đời, chất
triết lý gia tăng nhiều hơn trong thơ, Lê Thị Mây ít dùng thể thơ lục bát mà
tìm đến thể thơ tự do cho phù hợp hơn với tâm tư xúc cảm nhiều ẩn ức dồn
nén. Số lượng 51 bài thơ làm theo thể lục bát trong 390 bài thơ của tác giả tuy
không phải là nhiều nhưng cũng ghi được dấu ấn trong lòng người đọc bởi
những vần thơ đặc sắc nặng ân tình.
Sử dụng thể thơ lục bát và mượn hình ảnh trong ca dao khiến câu thơ
của Lê Thị Mây về mẹ, về bà thật gần gũi. Câu thơ đã diễn tả được những tảo
tần hi sinh và lòng thương con vô bờ của người phụ nữ nơi hậu phương:
- “Sông làng tiễn với ấu thơ
Đò sang mẹ dặn câu chờ cầm tay
81
Ngoảnh tìm mẹ ngoảnh tìm cây
Giăng Màn núi ngủ áo mây buông lời
Vạt nối vạt gió bời bời
Câu ru con lý mẹ hời đó đây…
(…) Mẹ bên nắng mẹ bên xanh
Hứng bom một phía chiến tranh thế này”
- “Gió lùa liếp cửa bà ơi
Bấm tay cháu đếm từng lời khôn ngoan
Một ô hai ô ăn quan
Chơi chuyền chơi chắt đường làng tuổi thơ
Ngủ ngồi giật thột cháu mơ
Tay bà tay cháu phất cờ mồm lên”
Tình yêu thương san sẻ giữa những người lính trên chiến trường hiện
lên đầy cảm động trong trang thơ Lê Thị Mây:
“Che đèn rừng trở heo may
Mực nhòe đổ nét bom cày dập hoa
Liền em liền chị nhớ nhà
Thư chung cùng đọc mẹ già nhớ chung
Riêng lòng ngọn cỏ khẽ rung
Lưng trời ngọn thác mung lung vỡ ào”
Thể thơ lục bát diễn tả rất chính xác nỗi nhớ thương và tình yêu lứa đôi
trong thời chiến:
“Thư này cháu viết về đêm
Chữ xô chữ vỡ rơi rền tiếng bom
Ngách hầm nghiêng mực ứa son
Thủy chung em giữ cho tròn niềm tin
Mặc bấc lùa buốt vào tim
82
Ba năm một bóng một hình của anh”
Và lòng hẹn thề cùng chung hạnh phúc trong ngày hòa bình không xa.
Tình yêu đôi lứa trong khói lửa chiến tranh sẽ vẫn còn lưu luyến mãi:
“Giá không bom đạn thương đau
Yêu nhau hẹn cưới dây trầu hẹn tươi”
Khi viết về thể thơ lục bát, Lê Thị Mây thường sử dụng nhịp điệu quen
thuộc: 2/2/2, 3/3 (câu lục); 2/2/2/2, 4/4 (câu bát) càng khiến lời thơ thêm gần
gũi với người đọc như chính những lời ca dao tục ngữ trong dân gian, làm nên
giá trị thẩm mỹ độc đáo.
3.1.3.3. Vĩ thanh
Vĩ thanh là yếu tố xuất hiện nhiều trong những bản trường ca hiện đại.
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa, vĩ thanh là: “Phần bổ sung vào tác
phẩm văn học, bao gồm những kết luận, những điều mà tác giả cho là cần
thiết nhằm làm rõ thêm những gì đã được viết ra trong văn bản” [24, tr. 355]
Trong trường ca Lê Thị Mây, có thể thấy ở cả ba tác phẩm đều có phần
vĩ thanh. Ở Lửa mùa hong áo, chương mười bảy: Vọng khúc Trường Sơn có ý
nghĩa như phần vĩ thanh tổng kết những cảm xúc và chặng đường người lính
đã đi qua:
“Gió lùa hốc núi vang vọng khúc Trường Sơn
Chị đã mang theo thời gian tóc xanh vẫn xanh như thủa trước
Chị đã mang theo cả mối tình cả giấc mơ giấu đằng sau mắt ướt
Cỏ bơ phờ nơi bậc đá ngóng trông”
Những mất mát hi sinh, tiếc thương lòng quả cảm mãi nằm lại với tên
đất, tên làng; về nghĩa tình con người trong chiến đấu:
“Em muốn tin, em muốn kể, lời nhặt hết dịu dàng, tay nhặt hết xương tan
Rằng áo chị đan nàng Bân tiếp đường kim mũi chỉ
Chị thấm nước mắt óng ả lời ru, óng ả câu mái hò, câu khoan, câu lý
83
Củi lửa mười hai chỗ ngồi, người về thiếu mười hai…”
Khắc họa tượng đài chiến sĩ vô danh, tên tuổi họ đã hóa thân thành tên
chung đất nước:
“Tiểu đội mười hai người, mười hai tháng trăng treo rằm quả thị
Chị ơi hãy về
Mùa hong áo
lửa uy nghi…”
Những câu thơ xúc động ấy khiến người đọc nhớ lại lòng quả cảm và
sự hi sinh của mười cô gái nơi ngã ba Đồng Lộc. Họ nằm xuống để mang lại
quang vinh cho dân tộc, cho hòa bình cơm áo ấm no.
Phần cuối trong Tự khúc ánh sáng: Tự do và vĩ thanh thời gian thể hiện
rất đúng tinh thần bản trường ca – bản trường ca ngập tràn ánh sáng chân lí
đấu tranh và niềm vui chiến thắng. Toàn quân và dân Việt Nam luôn nhớ ghi
ngày chiến thắng rực sáng, ngày thay đổi ý nghĩa cuộc đời toàn dân tộc. Niềm
vui hạnh phúc vỡ òa trong cờ, hoa, trong không khí sục sôi chiến thắng:
“Đêm ba mươi tháng tư
Rạng mồng một tháng năm
Côn Đảo giải phóng lập chính quyền cách mạng
Cờ đỏ ảnh Bác Hồ rưng rưng mừng Độc-lập
Cờ đỏ ảnh Bác Hồ mừng thống nhất non sông”
Chất triết lý chiêm nghiệm tạo sức nặng lắng đọng gói trọn bản trường
ca, và dư vang của nó vẫn còn vang vọng mãi:
“Thế kỷ đi qua trong im lặng của cha
Thế kỷ đi qua từng mặt chữ của cha
Thế kỷ đi qua Tự khúc ánh sáng của cha
Cháy và không tắt
Thời gian của cha cất tiếng hát”
84
Người sau chân sóng mang hơi thở mới, sức sống mới của một miền
quê, một vùng đất xưa anh hùng đấu tranh, nay cùng đất nước hát khúc hoan
ca đi trên con đường mới: tự do và hăng say lao động xây đắp nước nhà phồn vinh.
Thánh khúc tha nhân cuối phần III có ý nghĩa như phần vĩ thanh của
tác phẩm; ca ngợi lòng yêu nước, yêu biển trời và sự chở che nhân dân trong
an lành của Người – Tổ quốc:
“Ôm mạn thuyền vạn chài yêu đảo. Vòng tay Người chèo chống lúc
lâm nguy.
Hỡi bến bờ
Cong cong
Hồn chữ S.
Đây biển Việt Nam”
Ca ngợi tinh thần lao động, không khí của tự do nơi đầu sóng ngọn
gió, núi sông nối liền một dải:
“Tiếng ai hỏi chân sóng thế nào ư? Hãy cùng Người lắng nghe muôn
nghìn con nhạc nước. Nước mặn thế, tự khóe mắt thức ngủ. Giọt lệ trào và
máu thắm ngàn năm. Người ngóng về con sóng hướng trời Nam. Đăm đăm
nước, sâu khôn cùng nguyện ước. Vắt qua vai Người dây đàn đường Thiên
Lý. Dây đàn rung nối Bắc về Nam. Nối trời Nam lên hồn xanh Lũng Cú. Hộp
đàn bầu, ngực biển, gió bên lưng”.
Kết tinh và tôn vinh hồn cốt dân tộc; sự tự hào về một đất nước Việt
Nam giàu đẹp, biển bạc rừng vàng:
“Hỡi Tổ quốc Việt Nam muôn đời nghe nhạc nước. Bản thánh ca khởi
nguyên phồn thực phồn sinh. Mỗi nét bút vẽ nên bến bờ cong cong hình thiếu
nữ. Áo dài bay gấm vóc cả giang sơn, lộng lẫy vạt ngân hà”
Phần vĩ thanh giữ vai trò quan trọng trong tác phẩm, góp phần làm nên
kết thúc hoàn chỉnh và sự lắng đọng âm vang trầm hùng của bản trường ca
85
trong lòng người đọc. Đó không chỉ chương độc lập riêng biệt mà là một phần
quan trọng của tác phẩm trường ca.
3.2. Giọng điệu
Giọng điệu là yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học, tạo nên những
bộ mặt riêng biệt trong phong cách từng tác phẩm. “Giọng điệu nghệ thuật
không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là phương tiện biểu
hiện quan trọng của tác phẩm văn học, mà còn là yếu tố có vai trò thống nhất
mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể” [38, tr 48]. Giọng
điệu là hình thức của tác phẩm, yếu tố nội tại của nghệ thuật ngôn từ và mang
tính nội dung tác phẩm. Trong trường ca Lê Thị Mây, yếu tố giọng điệu đóng
vai trò quan trọng và xuất hiện trong một số giọng điệu chính như:
3.2.1. Giọng điệu ngợi ca mang âm hưởng sử thi
Là giọng điệu quen thuộc trong những bản trường ca viết về chiến
tranh, viết về một thời đau thương mà anh hùng của dân tộc. Độ lùi thời gian
trong những sáng tác sau chiến tranh đã làm sống lại một thời đạn bom khốc
liệt. Hai bản trường ca Lửa mùa hong áo và Tự khúc ánh sáng là minh chứng
rõ ràng cho điều ấy.
Hình tượng đất nước đau thương mà anh hùng hiện lên đầy cảm xúc:
“Đất nước rộng dài có bao nhiêu con sông
Quốc lộ một ôm vòng tay Nam Bắc
Ôi miền Trung cát lóa núi non dằng dặc
Bao nhiêu con phà gạt sóng dữ đội bom?”
Sự ngợi ca những con người anh dũng hi sinh, góp phần làm nên chiến
thắng dân tộc:
“Gió bấc non đem tro rải khắp đồi, đem tiếng chim về làm tổ mỗi chiều
Đem bướm giăng trăng sáng, bầy chuồn kim thêu gối để chị mang theo
như chị sống
86
Đem câu hát môi chị ngậm đất, đất cháy bỏng
Chị nồng nàn như quả, quả mỗi ngày anh bế ẵm cho gió giữ hương,
cho tay bế giữ làn hơi”
Lòng quả cảm, tinh thần đoàn kết vượt mọt khó khăn gian khổ trên
những cung đường:
“Tiểu đội mười hai người
trăng rằm làm nón
bom dội không rơi
Rằm tháng giêng bánh phu thê chạm ngõ
Rằm tháng chạp mưa phùn đất là máu xương gắn bó”
Niềm tin yêu vào ngày mai toàn thắng:
“Khắp miền Nam tử tù cộng sản lưu đày
Họ không tin thượng đế
Họ tin ở trời xanh
Tin cái chết sẽ nảy sinh sự thật”
Những người mẹ Việt Nam anh hùng trong mỗi bước chiến đấu cùng
toàn dân tộc:
“Cây sào cong phơi áo mẹ thẫn thờ
Mỗi hạt cát thề hi sinh quyết liệt
Mỗi hạt cát dính quyện cùng da thịt
Những lở bồi mẹ vẫy phút ra đi”
Trái tim quả cảm lấp lánh ánh sáng trong khói lửa chiến tranh:
“Trái tim làm mặt trời lăn
Cha trao cho con những hừng đông vân đá thức làm ngọc
(…) Thẳng căng một dây đàn bầu từ trái tim mỗi người đến trái tim Tổ quốc”
Và máu, máu là biểu tượng cho sự hi sinh, sự tiếp sinh, kết tinh tinh
thần dân tộc:
87
“Máu là tư tưởng đỏ từ đất xanh lên cây cho lộc
Cái mới trong đá kết tinh làm ngọc
Tinh thần cái mới hội tụ nối dài cha trong trời đất non sông”
Người nối người, đời nối đời sẽ viết tiếp bản trường ca chiến thắng:
“Chính con là nốt ngân vọng bản hùng ca cha để lại
Chính con là cuốn sách cha ký thác cho đời
Chính con là chữ của cha nối dài huyết thống
Sống làm người và chết bằng sức mạnh của một con người
Trên cột mộ nẩy sinh cái mới
Mọi cái mới đều bắt đầu từ phả hệ, từ lòng dân”.
Giọng điệu sử thi góp phần làm nên không khí huyền thoại, truyền
thuyết của đất nước từ ngày mở cõi, của một vùng quê mang đậm dấu ấn lịch
sử nơi khúc ruột miền Trung Tổ quốc:
“Vâng liềm trăng vụt hóa bãi cát vàng rực nắng. Đảo Ba Bình ưỡn
ngực hứng sao sa. Nhớ mẹ đất liền sóng đêm trào mặn chát. Con mắt sao
Hôm, sao Mai đỏ hoe. Thắp đèn Trường Sa dọi ba chiều sử sách. Lạc Long
Quân rẽ sóng song tuần. Mẹ Âu Cơ xếp cánh bay tiên nữ. Tóc thả xanh thềm
lục địa biển Đông ta”.
Giọng điệu sử thi làm nên nét đặc sắc riêng biệt trong trường ca Lê Thị
Mây. Trong không khí trầm hùng, những chiến thắng của dân tộc, những
chiến tích lịch sử hiện lên đậm nét, ghi dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.
3.2.2. Giọng điệu bi thương
Giọng điệu bi thương trong trường ca Lê Thị Mây được khắc họa rõ
nét, như những nốt trầm lắng đọng về sự mất mát hi sinh của dân tộc ta.
Giọng điệu bi thương góp phần làm rõ hơn hiện thực của cuộc kháng chiến.
88
Có nỗi đau nào lớn hơn khi chứng kiến quê hương đất nước thanh bình
bị quân thù giày xéo, sự đau thương oán hận ngút trời xanh. Từng vần thơ như
từng tiếng khóc xé gan ruột nghẹn ngào:
“Xóm làng con bị lùa ấp chiến lược?
Những người cha người mẹ bầy em
Lọ mực
Bảng đen
Thầy giáo
Bị trực thăng xúc hốt
Thảm sát
Và diệt cỏ chúng diệt người tận gốc”
Những giá trị lịch sử tốt đẹp ngàn đời bị chôn vùi trong bom đạn chiến tranh:
“Mịt mù từ buổi tinh mơ
Bom tọa độ trẻ chăn trâu ngửa mặt lùa trâu tìm cỏ
Rầm
Cột
Đời Lý, Trần
Gạch
Ngói
Đời Đinh, Nguyễn
Lấp hố bom”
Chứng kiến sự ra đi của người đồng đội, chị em gắn bó ân tình là một
nỗi đau không dễ gì quên được:
“Khuất tiếng nói
Khuất tiếng cười
Đồng đội mặc niệm bên đồng đội”
Hạnh phúc lứa đôi, mong ước làm mẹ, làm vợ tạm gác lại vì chiến tranh:
89
“Áo gấp nếp ưu tư, bởi chị chưa lần mặc, anh chưa lần ngắm yêu thương
Biền biệt xa biền biệt mây biền biệt gió
Cau đám hỏi chưa têm, chị khóc không dám dỗ”
Chất độc Dioxin quái ác, nỗi ám ảnh ấy còn gieo rắc đến muôn đời:
“Vượt cánh rừng nhiễm độc da cam
Hoa quái thai
Trái cây quái thai
Con bướm
Con chẫu chàng nhiễm sắc tố quái thai”
Những đứa trẻ sinh ra không lành lặn vì tội ác quân giặc:
“Dioxin?
Dioxin màu cam của mười sáu công ty tư bản Mỹ
Biến dạng bào thai trẻ chỉ có đầu”
Mười hai nữ giao liên phá đá mở đường, trên vai còn vẹn nguyên
những ước mơ tuổi thanh xuân dang dở, đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường:
“Tóc em Phượng em Ngà cuộn tóc rừng, cuộn hồn trong đá
Tiểu đội mười hai chỗ ngồi, mười hai nốt nhạc thả dấu lặng và ngân”
Mỗi câu thơ, mỗi khung cảnh như một thước phim quay chậm về hiện
thực chiến tranh, về mất mát to lớn của dân tộc để có ngày hôm nay nhân dân
được sống trong những ngày tháng hòa bình.
3.2.3. Giọng điệu trữ tình triết lý
Giọng điệu trữ tình triết lý khá phổ biến trong thể loại trường ca – vốn
là một thể loại có tính chất tổng kết, khái quát một thời đại, giai đoạn lịch sử,
có khả năng nhận thức và phản ánh một dung lượng hiện thực rộng lớn. Chút
trữ tình triết lý xen giữa nhịp điệu sử thi hào hùng đem đến hơi thở và sức
sống mới quyện hòa trong không khí đạn bom máu lửa tạo dư vị lắng đọng
ngọt ngào kết đọng trong những vần thơ.
90
Lê Thị Mây mang hơi thở triết lý trữ tình vào tác phẩm từ trái tim
người phụ nữ đã đi qua chiến tranh, đã yêu và sống trọn tuổi thanh xuân với
một chặng đường dân tộc. Cũng vì thế mà trong tác phẩm của nhà thơ, có
những cảm xúc rất thật, rất chân tình mà giàu cảm xúc.
Mở đầu bản trường ca đầy hoài niệm, nhẹ nhàng như ngàn xưa vọng về:
“Xin các chị cho em nén giữ trong lòng
Làn hương sả bắt đầu từ kí ức”
Nét chiêm nghiệm rất thật về sự dâng hiến và hi sinh của một thế hệ
thanh niên cho nền độc lập nước nhà. Thời gian trôi nhanh như nước đổ
không chờ đợi một ai, con người ta có quyền hoài niệm, có quyền gợi nhớ, có
quyền nuối tiếc và mong ước, cố gắng vì một ngày mai khác hơn:
“Tuổi mười bảy sừng trâu u u gió
Mười chín đôi mươi thời gian đưa nước đổ
Chỉ con đường tung giải lụa hóa dòng sông”
Tác giả viết rất chính xác tâm trạng của người thiếu nữ, tâm trạng của
những người đang yêu bằng chính xúc cảm đã trải qua trong cuộc đời. Những
tình cảm thiêng liêng ấy luôn đẹp, ngọt ngào và trữ tình dù trong thời bình
hay thời chiến:
“Yêu đến sâu nước khôn cùng dào dạt
Yêu đến bờ yêu đến bến chao chân”
Cảm nhận những mất mát hi sinh trong chiến tranh, tác giả ý thức được
sự quan trọng của chính nghĩa, lẽ phải, của điều cốt tử làm nên sự quyết tâm
tranh đấu:
“Mỗi mũi tên mũi chông bay tới đích là chân lý
Mặn của máu là chân lý
Mặn của lời nứt từ đá rẫy nứt từ khuôn trăng sáng”
91
Trên mỗi bước đường chiến dịch, người chiến sĩ đặt chân đến bao
nhiêu làng quê, con đường thân thuộc trên dải quê hương cong cong hình chữ
S này. Mỗi nơi dừng chân, mỗi sự quan tâm những người anh em đồng chí lại
tiếp thêm cho họ sức mạnh, mỗi nơi đi qua không biết đã trở thành một phần
máu thịt trong tâm hồn họ tự lúc nào:
“Một ngày ở hóa nên quê
Lưng che ngọn bấc tay vê ngọn nồm”
Giặc đến, già, trẻ, gái, trai không phân biệt đều trở thành những anh
hùng quả cảm. Hình ảnh “lão tướng xứ Thanh con gái Quảng Xuân, bắn máy
bay bằng viên đạn nhỏ, con gái làng Thuận chằm nón bài thơ” đại diện cho
cả một thế hệ quân và dân quyết tâm đánh giặc. Một chút trữ tình, một cái
nhìn khâm phục và trìu mến, một chiếc nón bài thơ dịu dàng giữa không gian
ác liệt.
Viết về chiến tranh, Lê Thị Mây không né tránh hiện thực mà nhìn
thẳng vào hiện thực. Tác giả thể hiện rất chính xác những lỡ dở hi sinh trong
chiến tranh với con mắt trữ tình cảm thông sâu sắc. Cái hẫng chân được dùng
rất chính xác để diễn tả bước đi vô tình của thời gian, chút ghen con gái trước
hạnh phúc lứa đôi vẹn tròn, thế nhưng câu thơ không bi lụy mà tràn đầy hi
vọng và bừng sáng với quyết tâm đánh giặc để đoàn viên:
“Hẫng chân tuổi quá đôi mươi
Hẵm xanh là nước ngậm lời người ghen
(…) Buộc dây mở lại cầm đây
Ba lô áo cưới đợi ngày thủy chung”
Hình ảnh con đường ám ảnh trong chiến dịch, con đường xuất hiện
nhiều và trở đi trở lại trong trường ca Lê Thị Mây. Con đường nối hai miền
Bắc Nam sum họp; con đường của lí tưởng, của tương lai; con đường của tình
đồng đội keo sơn gắn bó; con đường huyết mạch trái tim của Tổ quốc; đường
92
mang hồn cốt của những người chiến sĩ. Con đường đồng vọng và hội tụ sức
mạnh quá khứ, hiện tại và tương lai:
“Người hi sinh hồn vía nhập cung đường
Con đường cao hơn khi vượt hố bom xe rú
Con đường cao hơn khi vượt ngầm nước lũ
Con đường cao hơn khi vượt hố lầy
(…) Trụ sống lưng Tổ quốc
Hỡi Trường Sơn dằng dặc
Bọc trứng Âu Cơ xếp đá hộc nâng đường”
Tình đồng chí đồng đội hiện lên đầy cảm xúc trong những vần thơ thấm
đượm chất triết lý trữ tình. Giữa ranh giới sự sống và cái chết, con người ta
biết cho đi mà không đòi hỏi cho riêng mình. Hiện thực đã làm trồi bật lên
phẩm chất cao đẹp và quả cảm của con người Việt Nam, khiến người đọc cảm
nhận rõ ràng sự khắc nghiệt của cuộc chiến:
“Người sống sống cho người chết
Nguyện hi sinh
Người chết chết cho người sống
Nguyện hi sinh”
Vai trò to lớn của nhân dân trong chiến đấu được nhà thơ ý thức và đúc
kết. Dân là sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ thù, dân là đất nước, dân làm nên
gấm vóc non sông:
“Đảng giữ dân, giành dân, dân là gió trời ngoài cửa ngục
Dân là cờ đỏ trong tim
Khi chiến thắng cờ đỏ cũng trao tay người hối cải
(…) Nhân dân chia lá lành đùm lá rách bên nhau”
Hình ảnh trái tim hiện lên thật đẹp, trái tim được hình tượng hóa mang
sức mạnh phi thường. Trái tim và ánh sáng đại diện cho sự sống, cho niềm tin
93
và chân lý. Trái tim mang sức mạnh Việt Nam. Phải có cái nhìn nhạy bén và
sức cảm nhận tinh tế, Lê Thị Mây mới có thể viết hay và đầy triết lý như thế
về hình ảnh trái tim:
“Trái tim nảy mầm
Trái tim ra rễ
Hạt giống đỏ phục sinh”
Chiêm nghiệm về chiến thắng, tổng kết giai đoạn lịch sử đã đi qua,
những vần thơ chợt trầm lại như tấm lòng đồng vọng tri ân sự hi sinh cao quý
thiêng liêng của một thế hệ anh hùng sinh ra trong giai đoạn lịch sử anh hùng.
Niềm vui hạnh phúc vỡ òa, sự biết ơn, tự hào về một quá khứ như thế. Những
người chiến sĩ ấy đã “sống và chết, giản dị và bình tâm” để làm nên đất nước.
Cái chết cao cả vinh quang:
“Danh dự và sức mạnh là không ngừng hi vọng
Không gì có thể tước đoạt thời gian sống
Không gì có thể tước đoạt thời gian tranh đấu kiên cường
Cái chết của chị Võ Thị Sáu làm gương cất tiếng hát
Chết một lần nhưng một lần lựa chọn
Chết một lần nhưng một lần được sống cho quê hương”
Những năm tháng chiến tranh đi qua, đất nước lại bình yên trong niềm
vui mới, cuộc sống mở ra cho con người những cơ hội để yêu thương, để tận
hưởng biển trời tự do và góp công vào xây dựng nước nhà phồn thịnh. Lời thơ
dịu dàng trữ tình hơn, ngọt ngào êm ái:
“Mùa bóng này trao biển cho trai đinh. Thế kỷ này ngư trường lớn trời
Nam. Sóng linh hiển cõng thẻ bài triều Nguyễn. Vụt hóa liềm trăng cài trên
lưng Cá Ông. Liềm trằn ngả nghiêng vụt hóa con tàu lớn cưỡi sóng lừng”.
Tình yêu thiếu nữ hiện lên đẹp ngọt ngào và thơ mộng lung linh. Tình
yêu vui say của cuộc sống hòa bình:
94
“Em hóa thân biết chúm chím giấc mơ. Em làm nụ ngậm sương đêm
muối mặn. Mây nghiêng về làm cánh tím long lanh. Tím đến nao lòng, tím đến
cùng đằm thắm. Em làm dây bò đến tận những xa xanh. Em mở lá đón gió
nồm nhớ biển”
Chiêm nghiệm cuộc đời được viết lên từ biển, từ những bước chân đi
qua trong cuộc đời. Sự sống cứ muôn đời tiếp diễn không ngừng nghỉ, chiêm
nghiệm về cuộc đời, về con người, về vòng quay của thời gian. Không gì có
thể hủy diệt sự sống kì diệu trên trái đất, nó bất diệt và mãi trường tồn:
“Bọc bào thai trăm trứng nghĩa đồng bào. Trăm bổn phận mới dựng
nên đất nước. Lũ vích con từ trăm trứng nở rồi. Tìm vích mẹ chúng lại ra với
sóng. Ngẩng đầu bơi trong nghĩa lớn cuộc đời”
Bằng con mắt của người chiến sĩ đã bước qua chiến tranh, đã sống qua
cả một kiếp người, Lê Thị Mây đã viết lên những vần thơ trữ tình triết lý suy
tư lấp lánh giá trị nhân văn cao đẹp. Khắc họa rõ nét những hi sinh anh dũng
và vẻ đẹp tuyệt vời tâm hồn người Việt Nam trong bom đạn, trong mọi hoàn
cảnh gian khổ khắc nghiệt. Tình yêu và niềm tin chiến thắng luôn là sức mạnh
và chân lí vượt qua mọi thách thức trong cuộc đời để tỏa sáng mãi trong lòng
dân tộc.
Tiểu kết
Lê Thị Mây đã thể hiện nghệ thuật độc đáo, khả năng sáng tạo không
ngừng trong ba bản trường ca. Sự vận dụng, kết hợp tài tình những yếu tố
nghệ thuật truyền thống và hiện đại tạo nên nét độc đáo, góp phần thể hiện nội
dung đặc sắc của tác phẩm. Tác phẩm vừa thể hiện được những đặc điểm
chung của thể loại trường ca vừa mang phong cách sáng tác mới mẻ của tác
giả. Những vần thơ được viết lên bằng trái tim đậm thiên tính nữ, chất suy tư
chiêm nghiệm của một con người đã đi qua những thăng trầm của cuộc đời.
Càng về sau, chất triết lý suy tư trong sáng tác của nhà thơ càng nhiều và sâu sắc.
95
PHẦN KẾT LUẬN
1. Là nữ sĩ đầu tiên trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
viết trường ca, Lê Thị Mây đã khẳng định được tài năng và bút lực của mình
qua ba tác phẩm trường ca đã được xuất bản, có những đóng góp nhất định
vào hành trình thơ ca kháng chiến. Tác phẩm thơ và trường ca của Lê Thị
Mây là tiếng nói của một tâm hồn nhạy cảm, giàu tình yêu thương và chất
triết lý, suy tư chiêm nghiệm trước cuộc đời. Mỗi câu thơ đánh dấu một bước
đường tác giả đã đi qua, về những tháng năm đã sống và cống hiến hết mình
góp phần vào chiến thắng dân tộc. Bảy tập thơ, 390 bài; ba trường ca: Lửa
mùa hong áo, Tự khúc ánh sáng, Người sau chân sóng; các thể loại khác:
truyện ngắn, truyện dài, bút ký… và một loạt những giải thưởng văn học cao
quý đã góp phần khẳng định tên tuổi Lê Thị Mây. Ba bản trường ca ra đời
trong thời hậu chiến của tác giả giúp người đọc có sự hình dung và cái nhìn
hoàn chỉnh vào quá trình chiến đấu và chiến thắng kẻ thù khi đất nước có
chiến tranh, và cuộc sống hăng say lao động khi đất nước hòa bình; góp phần
vào sự thành công chung của trường ca Việt Nam hiện đại.
2. Ba bản trường ca Lửa mùa hong áo, Tự khúc ánh sáng, Người sau
chân sóng là một bức tranh muôn hình sinh động của tác giả về những vấn đề
trong đời sống xã hội thời chiến và thời bình. Lê Thị Mây đi sâu khai thác thế
giới hình ảnh trong các bản trường ca, góp phần làm sáng rõ hơn đặc trưng
thể loại. Hình ảnh đóng vai trò chủ đạo trong việc thể hiện nội dung và tư
tưởng của tác phẩm, tạo nên linh hồn tác phẩm.
Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên đẹp và sinh động trong tác phẩm Lê
Thị Mây. Đó là những con người đang ngày đêm trực tiếp chiến đấu trên
chiến trường; những nữ giao liên mở đường mang trái tim dịu dàng mà quả
cảm; những chiến sĩ làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu: đưa thư, giữ kho muối,
anh nuôi âm thầm hi sinh không quản ngại phía sau… Dưới ngòi bút của Lê
96
Thị Mây, họ hiện lên đầy quả cảm. Họ sẵn sàng hi sinh tuổi xuân, xương máu,
tạm gác lại phía sau những mơ ước tuổi trẻ, những khát khao tình yêu hạnh
phúc bình dị cùng chiến đấu với lí tưởng và khát vọng chiến thắng giành lại
hòa bình cho đất nước.
Hình ảnh người mẹ trở thành biểu tượng thiêng liêng cho lòng quả cảm,
đức hi sinh và tình thương bao dung dịu dàng. Mẹ đại diện cho phẩm chất phụ
nữ Việt Nam: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Mẹ là niềm tin và
nguồn động viên tinh thần lớn lao cho những đứa con đang ngày đêm chắc tay
súng trên chiến trường. Khát vọng hạnh phúc lí tưởng chiến thắng được Lê
Thị Mây đề cập rất cụ thể sinh động, đó là niềm tin để người chiến sĩ chiến
đấu làm nên những chiến công cho ngày hòa bình lập lại. Ước mong hạnh
phúc là điểm nhấn soi sáng tâm hồn con người, cả trong thời chiến và thời bình.
Hình ảnh Đất nước và Nhân dân là hình ảnh đẹp trong tác phẩm Lê Thị
Mây. Đất nước hiện lên với đủ mọi dáng vẻ: đau thương trong chiến tranh và
bình yên ở thời bình, đất nước với truyền thống lịch sử ngàn đời hiên ngang
vượt qua bom đạn. Và Nhân dân – sức mạnh cốt yếu làm nên chiến thắng dân
tộc mọi thời đại.
Hình ảnh trăng, trầu cau, con đường, lời ru… hiện lên đẹp và sinh
động. Mỗi hình ảnh là một nhân vật chứng kiến và kể chuyện chiến tích hào
hùng của ông cha; mỗi hình ảnh mang trong nó hồn cốt và dáng dấp dân tộc
Việt. Thế giới hình ảnh sinh động của Lê Thị Mây đã khẳng định cái nhìn và
cảm xúc đậm chất trữ tình, triết lý suy tư của tác giả về cuộc kháng chiến vĩ
đại và những đổi thay của dân tộc.
3. Bên cạnh việc khai thác những hình ảnh tiêu biểu trong ba bản
trường ca, luận văn tìm hiểu đặc sắc nghệ thuật trong mỗi bản trường ca Lê
Thị Mây. Với khả năng tìm tòi và sáng tạo không ngừng, Lê Thị Mây đã
mang lại hơi thở mới về nghệ thuật cho tác phẩm của mình. Nghệ thuật
97
trường ca Lê Thị Mây là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đan xen giữa yếu tố
truyền thống và hiện đại. Sức khái quát và dung chứa đồ sộ trong mỗi bản
trường phản ánh hiện thực và mọi vấn đề rộng lớn. Yếu tố tự sự và trữ tình
kết cấu đan xen trong mỗi bản trường ca tạo ra đặc trưng riêng. Tác giả tổ
chức ba bản trường ca theo hệ thống sự kiện và chủ đề tạo ra những bước phát
triển xuyên suốt và nối dài các giai đoạn phát triển sinh động và chân thực của
đất nước.
Cách thức tổ chức đoạn thơ, câu thơ; sự kĩ lưỡng trong sử dụng ngôn
ngữ đa dạng và phong phú tạo phong cách độc đáo riêng trong tác phẩm Lê
Thị Mây. Các tác phẩm có sự hòa quyện đan xen giữa ngôn ngữ giàu tính
tượng trưng ám gợi; nhiều khoảng trống khoảng lặng trong thơ; ngôn ngữ đời
sống và ngôn ngữ mang sắc thái dân gian khiến ngôn ngữ trong trường ca Lê
Thị Mây vừa gần gũi, sáng tạo vừa mang màu sắc hiện đại.
Tác giả đã kết hợp khéo léo thể thơ tự do, thể thơ lục bát và vĩ thanh
tạo ra nhịp điệu phong phú và đặc sắc trong tác phẩm, góp phần tạo điểm
nhấn và những chiêm nghiệm suy tư được bộc lộ rõ nét trong mỗi trường ca.
Giọng điệu đóng vai trò quan trọng trong thơ Lê Thị Mây, giọng điệu ngợi ca
mang âm hưởng sử thi, đan xen với giọng điệu bi thương, giọng điệu trữ tình
triết lý sâu sắc góp phần tích cực trong việc thể hiện nội dung tác phẩm.
4. Với những thành công đạt được, Lê Thị Mây đã khẳng định được
phong cách và bút lực của một nghệ sĩ luôn tìm tòi và sáng tạo vì nghệ thuật,
trong một thời kỳ văn học mà trường ca đã không còn được quan tâm như
giai đoạn phát triển mười năm sau chiến tranh do những đặc trưng về thể loại.
Chị đã thổi vào đó hơi thở của cuộc sống mới với những tìm tòi biểu hiện
nghệ thuật phong phú đặc sắc, giúp độc giả có cái nhìn gần gũi và đầy đủ hơn
công lao to lớn của ông cha vì độc lập tự do nước nhà.
98
Luận văn về đề tài Đặc điểm trường ca Lê Thị Mây chắc chắn không
tránh khỏi thiếu sót, nhưng với những nghiên cứu của mình, với sự yêu mến
dành cho phong cách và tác phẩm Lê Thị Mây, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần
nhỏ vào việc đánh giá, khẳng định một gương mặt thơ, trường ca có những
đóng góp và thành công nhất định trong sự phát triển của văn học Việt Nam
hiện đại.
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Ngọc Anh (2007), Đặc sắc cái tôi trữ tình trong sáng tác một số
nhà thơ nữ thế hệ chống Mỹ cứu nước, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Khoa
văn học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn.
2. Lại Nguyên Ân (1984), Mấy suy nghĩ về thể trường ca, Tạp chí văn học.
3. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội.
4. Mai Bá Ấn, Hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam hiện đại,
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13086.
5. Đào Thị Bình (2008), Thể trường ca trong văn học Việt Nam từ 1945 đến
cuối thế kỉ XX, Luận án tiến sỹ, Đại gọc sư phạm Hà Nội.
6. Như Bình, Nhà thơ Lê Thị Mây – nỗi buồn như con cọp rình mồi tháng
chạp, cand.com.
7. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, NXB Văn hóa thông tin.
8. Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB
Khoa học xã hội.
10. Nguyễn Văn Dân, Trường ca với tư cách là một thể loại mới, Tạp chí
sông Hương số 230 – 04 – 2008.
11. Nông Thị Hồng Diệu (2006), Thế hệ các nhà thơ nữ trưởng thành trong
kháng chiến chống Mỹ, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Khoa văn học, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn.
12. Nguyễn Duy (2010), Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn.
13. Hoàng Kim Dung, Một ngày xưa yêu cho đến bao giờ,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c174/n3303/Mot-ngay-xua-yeu-
cho-den-bay-gio.html, ngày 26/08/2009.
100
14. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại, NXB Khoa học xã hội.
15. Hữu Đạt (1999), Nhà văn sự sáng tạo nghệ thuật: lý luận phê bình,
NXB Hội Nhà văn.
16. Nguyễn Văn Đông, Lối rẽ và khoảng trống trong mạch trần thuật ở
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, tonvinhvanhoadoc.vn.
17. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Chặng đường mới của văn học Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia.
18. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.
19. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm: phê bình và tiểu luận, NXB
Văn học.
20. Trần Đình Sử (2004), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.
21. Trần Đình Sử (2001), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục.
22. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
23. N.A.Gulaiep, Lý luận văn học, (Lê Ngọc Tân dịch) (1982), NXB Đại học
và Trung học chuyên nghệp.
24. Đỗ Xuân Hà (2006), Văn học thế giới thế kỷ XX, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
25. Hồ Thế Hà, Thơ Việt, nhìn lại và suy nghĩ – Phê bình,
tapchisonghuong.com.vn.
26. Ngân Hà, Lê Thị Mây – nữ sĩ viết trường ca,
http://phuctriethoc.blogspot.com/2011/10/le-thi-may.html.
27. Nguyễn Thị Hà (2010), Hạnh phúc đời thường và tình yêu trong thơ Ý
Nhi, Báo cáo khoa học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn.
28. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ
điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục Việt Nam.
101
29. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2011), Đặc sắc thơ Lê Thị Mây, Luận văn thạc
sĩ ngữ văn, Đại học Vinh.
30. Trịnh Thị Hằng (2006), Cảm hứng thế sự đời tư trong thơ Việt Nam
1975 – 2000, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn.
31. Nguyễn Thị Hậu (2013), Trường ca Việt Nam hiện đại nhìn từ góc độ
thể loại, NXB Văn học, Hà Nội.
32. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết hiện đại, NXB
Giáo dục.
33. Đỗ Thị Thu Huyền, Những giọt thơ tích tụ nơi thượng nguồn thi cảm,
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=18407.
34. Hoàng Thị Hường, Nguyễn Minh Châu với vai trò mở đường trong công
cuộc đổi mới văn xuôi sau 1975, kh – sdh.udn.vn.
35. Vĩ Lam, Lê Thị Mây – 40 năm mang trong mình đứa con của biển,
vnnet.vn.
36. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
37. Mã Giang Lân (2003), Thơ hiện đại Việt Nam những lời bình, NXB Giáo
dục.
38. Mã Giang Lân (1982), Trường ca, vấn đề thể loại, Tạp chí văn học.
39. Mã Giang Lân, Bùi Việt Thắng (2007), Văn học Việt Nam sau 1975, Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
40. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2003), Nhà thơ Việt
Nam hiện đại, NXB Lao động.
41. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
42. Võ Văn Luyến, Lỡ hẹn “Đám cỏ xanh” – Bình thơ, Vovanluyenqt.com.
102
43. Nguyễn Thế Lượng (2013), Trường ca Nguyễn Trọng Tạo, Luận văn
thạc sĩ khoa học ngữ văn, Thái Nguyên.
44. Phương Lựu, Nguyễn Xuân Nam, Thành Thế Thái Bình (1978), Lý luận
văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
45. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, NXB Giáo dục.
46. Nguyễn Đăng Mạnh (1999), Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật,
NXB Hội Nhà văn.
47. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Đại
học Quốc gia.
48. Lê Thị Mây (1980), Những mùa trăng mong chờ, NXB Hội Nhà văn.
49. Lê Thị Mây (2009), Thơ Lê Thị Mây, NXB Hội Nhà văn.
50. Ngô Minh, Lê Thị Mây và vết sẹo thơ, Tienphong.vn.
51. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Các thể thơ ca và sự phát triển
của hình thức thơ ca trong văn học Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội.
52. Yến Nhi, Trường ca Việt, một cách nhìn,
http://4phuong.net/ebook/46578302/truong-ca-viet-mot-cach-nhin.html.
53. Vũ Nho (2009), 33 gương mặt thơ nữ, NXB Hội Nhà văn.
54. Vũ Nho, Đi tìm vẻ đẹp của thơ, http://xn--amccminh-
bza.vn/?page=newsDetail&id=535421&site=17809.
55. Vũ Nho, Đi tìm vẻ đẹp lục bát trong thơ, Lucbat.com.
56. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam: 1975 – 1990 – chuyên
luận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
57. Nguyễn Hằng Phương, Cảm hứng chủ đạo trong ca dao người Việt,
cadaotucngu.com.
58. G.N.Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch), NXB Giáo dục, 1998.
103
59. Lê Hồ Quang, Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, Tạp
chí văn học số 3, 2012.
60. Lê Hồ Quang, Thơ Lưu Quang Vũ “Tâm hồn anh dằn vặt cuộc đời
anh…”, Phongdiep.net.
61. Hà Quảng, Về các khuynh hướng phát triển trường ca Việt,
http://vanvn.net/news/11/889-ve-cac-khuynh-huong-phat-trien-truong-
ca-viet.html.
62. Quân chủng hải quân (2005), Hoa biển, NXB Quân đội Nhân dân.
63. Vũ Tiến Quỳnh (1998), Phê bình bình luận văn học, NXB Văn nghệ
thành phố Hồ Chí Minh.
64. Xuân Quỳnh (2011), Không bao giờ là cuối, NXB Hội Nhà văn.
65. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng
tạo, NXB Văn học.
66. Nguyễn Thanh Tâm (2012), Sự thâm nhập của chất văn xuôi vào thơ
Việt Nam đương đại, Luận án tiến sĩ văn học, Học viện Khoa học Xã hội.
67. Nguyễn Thị Liên Tâm, Đặc điểm giọng điệu trong trường ca sử thi hiện
đại, http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=13006.
68. Nguyễn Thị Liên Tâm, Tình yêu đôi lứa trong trường ca thời chống Mỹ,
http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=10978.
69. Đinh Quang Tốn, Tình yêu dài suốt cuộc đời, Cand.com.
70. Trần Thị Thanh Tuyền, Hình tượng đất nước trong thơ kháng chiến
chống Mỹ, http://text.123doc.vn/document/271129-hinh-tuong-dat-nuoc-
trong-tho-khang-chien-chong-my.htm.
71. Hoài Thanh – Hoài Chân (1999), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học.
72. Nguyễn Bá Thành (1995), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Văn học.
73. Hà Quang Thiều, Trăng cây rơm, Baobacninh.com.vn.
104
74. Hữu Thỉnh (1981), Sự chuẩn bị của người viết trẻ, Báo văn nghệ. Lưu
Khánh Thơ, Đôi nét về trường ca những năm gần đây – nhìn từ góc độ
thể loại, http://www.bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=920.
75. Lưu Khánh Thơ (2001), Nhà văn qua hồi ức người thân, NXB Văn hóa
thông tin.
76. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện
đại, NXB Khoa học Xã hội.
77. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Giọng điệu trong trường ca Trần Anh Thái,
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/giong-dieu-trong-
truong-ca-tran-anh-thai-22-1971625.html.
78. Nhã Thuyên, Thơ nữ: Giới là một vấn đề, nguvan.hnue.edu.vn.
79. Nguyễn Trường Văn, “Gió quả phụ” và nỗi ám ảnh của chiến tranh,
Cand.com.
80. Vũ Đình Văn, Hoàng Nhuận Cầm (1974), Thơ tuổi hai mươi, NXB
Quân đội nhân dân.
81. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng – Trung
tâm từ điển học, Hà Nội.
82. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục.
105