TRƯỜNG ĐH QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ DƢƠNG
TÍNH LIÊN TỤC VÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG
SÁNG TÁC TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI
SAU NĂM 1986
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 0121
Người hướng dẫn khoa học: TS.PHẠM XUÂN THẠCH
Hà Nội tháng 03/2012
MỤC LỤC LUẬN VĂN
Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Mở đầu
Chƣơng 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành trình
sáng tác của nhà văn
20
1.1 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn
1.1.1 Nhà văn Nguyễn Khải
1.1.2 Những chặng đường sáng tác chính.
1.1.2.1 Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miền Bắc của
Mỹ
1.1.2.2 Thời kỳ chống Mỹ cứu nước
1.1.2.3 Thời kỳ sau 1975
1.1.2.4 Thời kỳ sau đổi mới.
1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải
1.2.1.Trước năm 1986.
1.2.2.Sau năm 1986.
Chƣơng 2: Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm
1986
2.1.Tính liên tục trong nội dung
2.1.1 Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực
2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn
2.1.1.2.Đời sống tinh thần của con người đương thời.
2.1.2.Con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86
2.1.2.1 Những con người của thời cuộc.
2.1.2.2 Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.
2 2
2.2 Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm
2.2.1 Giọng triết lý, tranh biện
2.2.2 Kết cấu tác phẩm
Chƣơng 3: Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986
3.1 Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh
3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.
3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.
3.1.3. Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm
lại.
3.2. Một số thay đổi về giọng điệu
3.2.1 Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã
3.2.2.Giọng văn tâm tình, chia sẻ.
KẾT LUẬN
3 3
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần Mở đầu
1.Lí do chọn đề tài
1.1 Nguyễn Khải là một nhà văn thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành từ
trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chặng đường văn của Nguyễn Khải luôn
vận động theo dòng chung, tiêu biểu cho sự phát triển của nền văn học Việt
Nam sau Cách mạng. Với một sức sáng tạo mạnh mẽ, trong nửa thế kỷ cầm
bút, ở thời điểm nào ông cũng là người có những sáng tác kịp thời để phục vụ
nhu cầu của bạn đọc. Ngay ở tác phẩm đáng đọc đầu tiên là Xung đột (1957),
nhà văn đã cho thấy hình ảnh của một miền Bắc thu nhỏ, với những cuộc đấu
tranh chính trị quyết liệt xảy ra trong từng xóm thôn, từng gia đình, từng con
người. Sau những năm chiến tranh khói lửa, lực lượng nào sẽ nổi lên, chi phối
xã hội? nông thôn sẽ đi về đâu? Tiếp tục con đường đã đi trong kháng chiến
hay trở lại con đường u tối do thực dân và các thế lực tôn giáo khống chế?
Những câu hỏi như thế đã dự báo sự ra đời của một ngòi bút chính luận sâu sắc
sau này. Từ sau Xung đột, Nguyễn Khải hướng ngòi bút của ông vào nhiều vấn
đề khác nhau của hiện thực xã hội. Cuộc đấu tranh nào cũng muốn tiếp tục,
cũng phải chỉ rõ những thành quả, những hứa hẹn chờ đợi... Từ Mùa lạc đến
Đứa con nuôi, Chuyện ngƣời tổ trƣởng máy kéo đều nhất quán trong một
giọng chung mà sau này Nguyễn Khải gọi đó là cảm hứng lãng mạn. Những
nhân vật như chị Đào, như Thoa, Thi, bé Tấm là loại mà vẫn được văn học xưa
nay đề cập rất nhiều. Họ đại diện cho một đại chúng làm gì cũng được, khổ
mấy cũng tìm ra niềm vui, vừa trải qua cái khổ đã vui ngay được, trước những
hạnh phúc đơn sơ lại càng dễ tìm thấy niềm vui thực sự. Nếu trong tác phẩm
của Thạch Lam, Nguyên Hồng, họ được miêu tả như những nạn nhân bất lực
của hoàn cảnh thì trong văn học sau 1945, họ lại được miêu tả trên vai trò là
những chủ nhân chính của một xã hội mới. Ở Nguyễn Khải cũng vậy. Cái tài
của nhà văn là đã miêu tả những nét hồn nhiên trong sinh hoạt của con người
với tất cả niềm say mê có thể có. Kể từ năm 1945, đây là những năm đầu tiên,
4 4
quần chúng lao động được hưởng những thành quả lao động của một chế độ
mới, con người không phải chạy bom đạn, lại có bát cơm trắng ăn, có bộ quần
áo lành lặn để mặc, vợ chồng con cái tối tối quây quần bên nhau chứ không còn
chia ly, xa cách như hồi nào. Dưới con mắt họ, thực tế xung quanh như đang
phục sinh. Cho đến cả thiên nhiên cũng hiện lên thiết tha, đắm đuối. Như sau
này Nguyễn Khải tự nhận, chưa bao giờ ngòi bút nhà văn ở ông lại ham tả cảnh
như ở trong thời viết Mùa lạc. Mượn cảnh để nói những say đắm trong lòng
người, mà cũng để bộc lộ cho hết những rung động, hồi hộp tha thiết trong
chính lòng mình. Cách hiểu, cách nghĩ của tác giả lúc này thường chan chứa
những tình cảm hào hứng, một sự thán phục không giấu giếm: với cái hăm hở
của tuổi trẻ, ông sẵn sàng đẩy mọi thứ lên tới cực đoan mà cũng là những tổng
kết có tính chất lý thuyết. Ví như chỉ qua một ít may mắn ban đầu, nhân vật
Đào trong Mùa lạc tìm thấy cuộc sống mới, nhà văn đã khái quát: “Sự sống
nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình trong những gian khổ hy sinh.
Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là
phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”.[28- 33]. Tuy nhiên cũng
phải nhận thấy rằng những ý nghĩ về cuộc sống trong giai đoạn này là thành
thực, cái cảm hứng chủ đạo chi phối ngòi bút Nguyễn Khải lúc ấy là thế nào thì
ông viết ra thế ấy không một chút giả tạo, không nói theo ai hoặc vay mượn ở
ai. Trong sự hồn nhiên của nó, những khái quát nói ở đây xác định một tâm lý
thịnh hành đương thời là cảm thấy cuộc đời ngày nay khác hẳn ngày xưa, lịch
sử như được bắt đầu...tóm lại, là một cái gì phảng phất lối cảm nghĩ theo hướng
tôn giáo. Có điều, cái mà nhà văn tôn thờ chính là đời sống. Ông không kêu gọi
sự khổ hạnh, sự ép xác mà ngược lại, ông đặt niềm tin yêu vào tất cả những gì
tự nhiên, đẹp đẽ của cuộc sống này.
Vào khoảng những năm 1960 trở đi, một trong những đề tài lớn của các nhà
văn sống ở miền Bắc là viết về phong trào hợp tác hoá. Ngày nay, đọc lại
những sáng tác mang nặng tính “phục vụ kịp thời” ấy, nhiều người mỉm cười.
Tuy nhiên không phải là ở đó không có những trang sách có giá trị, ngày nay
vẫn còn được đọc lại. Riêng với Nguyễn Khải, đọc những truyện ông kể về
người, về việc ở hợp tác xã Đồng Tiến, Phú Thọ, chúng ta cũng bắt gặp một sự
5 5
say mê hết lòng chẳng khác gì ngày nào ông đã nói về cái đội sản xuất trên
Điện Biên ở Mùa lạc. Thường trong các thiên truyện viết về hợp tác, Nguyễn
Khải không giảng kỹ thuật sản xuất, cũng không đi vào minh hoạ bước đi
thường có của phong trào, mà đưa ra bức tranh toàn cảnh của nông thôn và
dừng lại ở những rắc rối vừa hồn nhiên, vừa không thể tránh khỏi khi đi vào
làm ăn tập thể. Trong khi khéo léo vạch ra những nhố nhăng, buồn cười và cả
những xót xa, cảm động trong cách tính toán mang tính vụ lợi có ở người nông
dân, tác giả không quên đặt vấn đề về nhân cách, tầm nhìn, tầm suy nghĩ của
con người, và đó là một cách làm có sức thuyết phục. Cố nhiên, say sưa ca ngợi
cái này, đôi khi là kèm theo sự chế giễu, phê phán cái kia, và sự chế giễu ở ông
có khi cũng nông nổi, bốc đồng như khi ông ca ngợi.( điều này thể hiện rất rõ
trong Tầm nhìn xa). Chẳng phải ngẫu nhiên, về sau, trong phong trào đổi mới
cách nghĩ những năm 87-88, Nguyễn Khải lại trở lại với thế giới ở xã Đồng
Tiến, để tự so sánh những điều mình dự đoán với sự phát triển của bản thân
hiện thực. Tuy nhiên, dù nói thế nào thì Cái thời lãng mạn được viết về sau
không xoá được những sai lầm ông đã mắc phải của mấy chục năm trước. Qua
các thiên truyện viết thời kỳ này, bạn đọc thấy nổi lên ở Nguyễn Khải một loại
nhân vật mà riêng ông mới có- đó là những nhân vật dù ở đâu, làm gì thì họ
luôn có những tính toán chặt chẽ, thiết thực khiến người ta phải kinh sợ. Và sau
những tính toán không chê vào đâu được ấy, người đọc có thể nghe vang lên từ
các trang sách tiếng cười giòn giã của họ, đánh dấu những chiến thắng của kẻ
biết đùa hoặc kẻ đáo để. Có thể nói, chính loại nhân vật được tiếng là không
chịu thua ai ấy đã mang lại cho tác phẩm một vẻ sinh động hiếm có, làm nên
tính hiện đại cho những trang văn Nguyễn Khải.. Tuy vậy, điều này cũng đem
lại những hạn chế nhất định, bởi cái khôn trong các nhân vật, đó không phải là
sự vận động của trí tuệ mà chỉ đơn giản là một sự thích ứng tối đa với hoàn
cảnh. Con người luôn mải mê phấn đấu cho một mục đích sẵn có, không bao
giờ có những phút dư thừa để băn khoăn về những vấn đề cá nhân. Những lối
sống như thế tuy có làm giản lược con người đi đôi chút nhưng về một phương
diện nào đó nó cũng làm cho con người ta khoẻ lên rất nhiều. Và đó là yêu cầu
6 6
mà xã hội trong giai đoạn đó đặt ra cho văn học.
Như một người chiến sĩ cách mạng chiến đấu không ngừng trên mặt trận
văn hoá văn nghệ, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc,
Nguyễn Khải lại tiếp tục đi tiên phong trong mảng đề tài những sáng tác viết về
chiến tranh. Mở đầu ông có thiên ký sự dài 130 trang- Họ sống và chiến đấu.
Bước vào cuộc chiến khi vừa mới dứt không lâu, Nguyễn Khải cũng như nhiều
người khác tin ở con người, tin ở chiến thắng tất yếu, bởi trong cuộc chiến đấu
ngày hôm nay như đang tiếp tục cái mạch hào hùng của ngày hôm qua. Thế
nên, đến với tác phẩm người đọc như cũng được truyền thêm một lòng tin
mạnh mẽ và sâu sắc, chắc chắn.Từ đây, Nguyễn Khải liên tiếp có mặt trên
những chiến trường đầy khói lửa để từ đó tìm hiểu và cắt nghĩa cốt cách những
chiến sĩ mới- những gương mặt của thời kỳ chống Mỹ. Kể từ Họ sống và chiến
đấu , Nguyễn Khải đã có tới ngàn trang sách đã được ra đời trong những năm
tháng gian lao ấy. Tuy nhiên, đọc tất cả những sáng tác trong thời kỳ này,
những Đƣờng trong mây, Ra đảo và cả Chiến sĩ, người ta đều thấy thiếu đi
một cái hồn phóng khoáng như mọi người mong đợi. Mãi đến khi chiến tranh
kết thúc, với những sáng tác viết để tổng kết chiến tranh như Cách mạng, Gặp
gỡ cuối năm, Thời gian của ngƣời, thì người ta mới thấy lại cái sinh khí đã
từng có ở Xung đột, Mùa lạc được quay trở lại.
Bắt đầu từ sau 1975, sáng tác của Nguyễn Khải cũng đã có những thay đổi
trong việc khai thác vào một địa hạt mới.Mới mươi mười lăm năm trước, người
ta tưởng như nhà văn ấy chỉ có một ám ảnh lớn là làm sao nói bằng được, nói
cho hết những vẻ đẹp khoẻ mạnh cùng sự khôn ngoan của con người.Nay, lần
đầu tiên người ta thấy sự cuồng nhiệt của Nguyễn Khải trong việc đào xới vào
những cùng quẫn, bất lực mà con người phải chịu, và nỗi khát khao không kém
là cùng với các nhân vật của mình xé toạc những tấm màn che đậy cho sự xấu
xa, nhơ bẩn ở đời, để mọi người cùng nhận thức rõ mọi chuyện, rồi từng người
...liệu mà sống. Mở đầu cho thời kỳ sáng tác này, người ta thấy nổi lên là vở
kịch Cách mạng, đây là một tác phẩm đáng được coi là bước ngoặt trong cuộc
đời sáng tác của Nguyễn Khải. Bởi lần đầu tiên người ta thấy Nguyễn Khải
7 7
công khai đứng ra làm, mà làm một cách triệt để, cái việc lâu nay ông vẫn lảng
tránh: đó là mang tiểu sử riêng , cuộc đời riêng vào trang sách, lấy chính đời tư
của mình làm tài liệu cho sáng tác.
Nếu như trước 1975, Nguyễn Khải cũng như hầu hết các nhà văn khác đều
đóng chặt cửa, không cho phép ai tìm hiểu tiểu sử riêng của mình qua văn
mình, cũng như cái Tôi của ông hiện lên qua trang sách chỉ là cái tôi của một
chiến sĩ cầm bút nồng nhiệt. Thì sau chiến tranh, khi mà mỗi con người tìm
cách động viên những sức lực cuối cùng cho trận chiến và bản thân nhà văn
cũng phải có những cố gắng phi thường để viết, thì tự nhiên trong nhận thức
của nhà văn có những biến chuyển. Mặt khác, cùng với niềm vui chung- đất
nước nối liền thì cuộc đời riêng của ông cũng có những thay đổi đột ngột- gặp
lại gia đình sau bao nhiêu năm xa cách. Từ đây, ông không còn tránh cái cách
tồn tại của mình là tồn tại thông qua nghề viết nữa. Dường như, ông bắt đầu
cảm thấy chính mình, cuộc đời riêng của mình, những ân oán thù hận cũng như
những rung động vui buồn của mình có thể và cần được trực tiếp trình bày trên
mặt giấy!
Tiếp theo vở kịch Cách mạng , Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của
ngƣời…dù được xây dựng theo những cách khác nhau, là đối thoại, tranh luận
hay tự tổng kết triết lý thì người đọc vẫn nhận thấy một âm hưởng chủ đạo
trong đó là khẳng định cuộc chiến thắng tất yếu của dân tộc; cái nhiệm vụ
chính trị mà nhà văn đặt ra cho mình khi cầm bút vẫn được thực hiện một cách
nghiêm túc và trọn vẹn.
Như thế là, đối với một cuộc chiến đấu mà bao người đã đổ xương máu hy
sinh, ngòi bút nhà văn đã theo sát, đã động viên, chia sẻ, đã nghiệm ra từ đó
những ý nghĩa lớn lao. Mặt khác, chính trong cuộc phục vụ tự nguyện và đầy
kết quả này, ngòi bút của nhà văn đã được tôi luyện. Không phải chỉ chúng ta-
những người đọc, mà hình như cả chính tác giả cũng cảm thấy thế. Hình ảnh
nhà văn sau các trang viết: khi nghiêm chỉnh tự vấn, khi tự giễu mình chơi, khi
góp vài lời pha trò, khi chân thành tỏ lòng cảm phục…tác giả đã tự cho phép
mình xuất hiện bên cạnh câu chuyện và mặc dù ông không nói rõ ra nhưng
người ta cảm thấy ông ít nhiều có phần tự hài lòng về bản thân. Điều đó có lẽ
8 8
cũng không có gì là lạ, khi mà cả đất nước đang tập trung tất cả vào những
nhiệm vụ lớn lao. Bản thân Nguyễn Khải cũng đã hoàn thành tốt nếu không nói
là xuất sắc, vai trò của một người cầm bút mà thời cuộc lúc bấy giờ đòi hỏi.
Tuy cũng có lúc “bơi ngược một tí, rẽ ngang một tí” nhưng đó cũng chỉ là nhất
thời, bởi với ông giai đoạn này thì “khuôn mình theo dòng chảy, theo dòng mà
bơi,bơi cùng với đồng đội vừa an toàn vừa vui vẻ” [28-280].
1.2.Sau một chặng đường dài kháng chiến, đất nước bước vào một chặng
đường mới- kiến thiết xây dựng và phát triển. Đời sống văn học cũng theo đó
có nhiều sự đổi thay. Không phải ở một vài tác giả, vài tác phẩm với những dấu
hiệu manh nha đâu đó mà là cả một sự chuyển mình dữ dội. Nhìn vào đời sống
văn học lúc này, người ta ngỡ ngàng, sửng sốt trước những điều mới lạ của nó.
Nguyễn Khải thuộc thế hệ các nhà văn sau cách mạng vẫn tiếp tục được con
đường văn chương mà không bị đứt quãng trong thời kỳ mới. Nếu như trước
đó, Nguyễn Khải được chú ý không chỉ ở chỗ các sáng tác của ông nóng bỏng
tính thời sự, luôn đi cùng thời cuộc mà còn bởi trên cái mạch lớn là sáng tác
phục vụ cách mạng, Nguyễn Khải luôn giữ cho mình một cái nhìn riêng- một
cái nhìn sắc sảo, không xuôi chiều dễ dàng mà luôn lật đi lật lại vấn đề. Tuy
nhiên đối chiếu với nhu cầu lớn của xã hội lúc ấy là tập trung sức lực cho cuộc
chiến đấu, thì cái sắc sảo trong lối tự nhận thức của nhà văn có vẻ không được
hợp thời. Sau khi đất nước thống nhất, và nhất là từ khi đất nước tiến hành cải
cách mở cửa Nguyễn Khải mới có dịp trở lại và phát huy hết những tiềm năng
của bản thân, có điều kiện đánh dấu bản sắc cá nhân của mình lên trang viết.
Manh nha từ năm 1974, những dấu hiệu của lối viết mới đã hình thành (với vở
kịch Đối mặt), và đặc biệt là đến giữa năm 1978, một trong những tác phẩm
quan trọng của nhà văn ra đời - tiểu thuyết Cha và con và….Đây là lần đầu tiên
trong cuộc đời Nguyễn Khải, sự bất lực của con người được ông thể hiện và lý
giải. Từ chỗ chuyên viết về các nhân vật yêu ghét rõ ràng, luôn biết mình muốn
gì và nên làm gì, phải hành động, ứng xử như thế nào để vừa có lợi cho mình
vừa có lợi cho mọi người thì đến nay, người ta thấy Nguyễn Khải lại đi vào
miêu tả những nhân vật nói năng lúng búng, cử chỉ vụng về, càng làm càng bế
tắc, nhìn đâu cũng thấy sự việc rối như tơ vò, không làm sao gỡ ra nổi. Mấy
9 9
năm từ khoảng 1988-1989 trở đi, người ta lại chứng kiến một đợt viết sôi nổi
nữa của Nguyễn Khải. Đều đều cứ mỗi tháng một kỳ, người ta lại thấy những
truyện hoặc bài phát biểu của ông in trên tạp chí Văn nghệ quân đội, Tuổi trẻ,
rồi Kiến thức ngày nay, Phụ nữ thành phố Hồ chí Minh...Trong khi khá
nhiều nhà văn ở tuổi 50, 60 ngại viết hay viết thưa hẳn đi thì Nguyễn Khải lại
đều đều có mặt, lại luôn gây được ấn tượng. Nhiều người còn đánh giá rằng
tính chuyên nghiệp của ông thời kỳ này có thể so sánh với Tô Hoài, Xuân
Diệu- những kiện tướng quen viết từ hồi tiền chiến và vẫn được coi là viết khoẻ
nhất trong đời sống văn học sau Cách mạng.
Trên một phương diện nào đó, có thể nói chúng ta chứng kiến một cuộc đối
thoại giữa Nguyễn Khải của những năm 89,90 trở đi với Nguyễn Khải của
khoảng chục năm trước. Lần này người ta vẫn thấy những nét đặc trưng trong
ngòi bút văn xuôi của ông được duy trì- đó là sự chiêm nghiệm, triết lý những
mảng hiện thực có tính vấn đề, với những nhân vật tiêu biểu của một thời...Bên
cạnh đó, người đọc cũng nhận thấy trong cái nhìn của ông đã có lui, có tới, có
thế này và có thế kia. Một Nguyễn Khải từng trải hơn, nhẹ nhõm hơn, biết vui
mà cũng biết sợ, biết có cuộc đời này và cũng còn có những cuộc đời khác nữa,
khác hẳn với Nguyễn Khải của tuổi trẻ. Điều đáng nói là trong những trang viết
sau đổi mới này, Nguyễn Khải đã làm một cuộc tự phát hiện trở lại. Ở cái tuổi
60, ông vẫn hóm hỉnh như xưa, vẫn hào hứng với sự đời như xưa, song lại có
một cái gì đó tự nhiên, dân dã, có cái nhìn thanh thản và sáng suốt hơn về mọi
chuyện, khác hẳn trước kia. Các truyện ngắn của Nguyễn Khải trước đây dù đã
rất uyển chuyển, sinh động nhưng thường chỉ toát lên một sắc thái nhất định.
Còn ngày nay, đến với truyện của ông, người ta được đến với một thế giới đa
dạng hơn, nhiều sắc thái hơn, cái anh hùng xen lẫn với cái bình thường; cái
đáng căm giận, đáng phỉ nhổ không thiếu nhưng cũng còn bao nhiêu cái đáng
tin yêu...tất cả làm nên một cuộc sống thú vị có cả tiếng cười lẫn nước mắt.
Về mặt bút pháp thì trước sau Nguyễn khải vẫn có sự trung thành với mình:
vẫn thích lối kể hơn lối tả, vẫn không để ý nhiều đến cốt truyện, đến cái hình
dáng của câu chuyện mà tập trung vào việc làm nổi bật một nhân vật, một kiểu
người, một cách sống. Bạn đọc vẫn bắt gặp một giọng văn tự nhiên, vừa dân dã
10 1 0
vừa hiện đại.
Như vậy, cũng giống như nhiều nhà văn lớn khác, sáng tác văn xuôi Nguyễn
Khải nói chung và truyện ngắn Nguyễn Khải sau đổi mới nói riêng, bên cạnh
sự thống nhất chung với giai đoạn sáng tác trước đó, là sự đổi mới thích đáng
và hợp lý với thời cuộc. Đó là minh chứng cho sự trưởng thành của một cây
bút. Tuy nhiên điều mà ai cũng có thể nhận thấy, đây là giai đoạn sáng tác khi
Nguyễn Khải đã không còn trẻ, và điều đáng nói là ở giai đoạn này thì phong
cách nhà văn đã định hình. Vậy thì những sự đổi mới ở giai đoạn này có hẳn là
một sự lột xác hoàn toàn trút bỏ những cái cũ vốn thuộc về mình để khoác lên
mình một phong cách hoàn toàn khác? Hay chỉ là một sự đổi mới vẫn dựa trên
cái nền của một bút pháp, một phong cách vốn có? Thế nên, bên cạnh việc
nghiên cứu các sáng tác văn xuôi để thấy được phong cách nhà văn, thì việc
nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong những truyện ngắn trước và sau
đổi mới của Nguyễn Khải cũng là điều cần thiết trong việc hiểu và đánh giá
toàn bộ sự nghiệp của nhà văn này.
Đặt trong sự phát triển chung của cả một nền văn học, người ta thấy rằng
sáng tác của Nguyễn Khải luôn mang những đặc điểm chung của nền văn học
cách mạng Việt Nam.
Luôn xông xáo vào những nơi nóng bỏng nhất của hiện thực, những lĩnh
vực phức tạp nhất của cuộc sống, phản ánh được những mâu thuẫn sâu sắc của
xã hội hay những biểu hiện thầm kín, tinh vi trong đời sống tư tưởng con người
thời đại, đã đưa ông trở thành một ngòi bút đầy tính chiến đấu trong nền văn
học nước nhà..Tác phẩm của ông luôn đạt tới một tầm tư tưởng, một mức độ
khái quát cao trong một nghệ thuật đầy biến hoá.
Với dấu ấn phong cách đậm nét, Nguyễn Khải sớm gây được sự chú ý của
giới nghiên cứu, phê bình văn học, đồng nghiệp cũng như sự tò mò của bạn
đọc. Nhiều tác phẩm của ông khi ra đời đã gây nhiều tranh cãi trên văn đàn. Sự
nghiệp của ông trở thành một đề tài nghiên cứu được chú ý. Đến tận hôm nay,
các sáng tác của ông vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ cần bạn đọc quan tâm.
1.3.Nguyễn Khải là một trong số các nhà văn có tác phẩm được đưa vào
giảng dạy ở chương trình phổ thông.Trong chương trình Sách giáo khoa
11 1 1
cũ có truyện ngắn Mùa lạc và trong chương trình Sách giáo khoa mới có
truyện ngắn Một ngƣời Hà Nội. Với tư cách là một người giáo viên thì
việc nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn
Khải sau năm 1986 càng có ý nghĩa thiết thực trong việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập những tác phẩm của ông ở nhà trường phổ thông
2. Lịch sử vấn đề
Với những đóng góp về số lượng và chất lượng các tác phẩm cho nền văn
học nước nhà, sau nửa thế kỷ cầm bút Nguyễn Khải đã được bạn đọc và giới
nghiên cứu đặt ở một vị trí xứng đáng. .
Từ những sáng tác đầu tay còn có phần non yếu về nghệ thuật (Ngƣời con
gái quang vinh-viết về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi) thì bằng con đường tự bồi
dưỡng và học tập,Nguyễn Khải đã dần khắc phục những thiếu sót ban đầu. Đặc
biệt với vốn sống và vốn hiểu biết phong phú, lại luôn được nhà văn không
ngừng bổ sung qua những chuyến đi thực tế (Nguyễn Khải đã có mặt ở một
vùng công giáo toàn tòng vào khoảng thời gian sau cải cách ruộng đất, khi mà
cuộc đấu tranh giai cấp ở đây đang diễn ra hết sức quyết liệt; ông cũng đã lên
Điện Biên ngay từ lúc nông trường mới ở bước đầu xây dựng; ông đã ra Cồn
Cỏ cũng vào những ngày đầu gay go, ác liệt nhất của cuộc chiến tranh phá
hoại…). Tất cả đã làm nên một ngòi bút Nguyễn Khải thông minh, sắc sảo
trong khám phá và nắm bắt hiện thực. Nhạy cảm với những “cái hôm nay”, cái
hàng ngày cùng với ngòi bút phân tích sắc sảo đã không những thu hút được
độc giả mà còn gây được sự chú ý với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Đúng
như ý kiến của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong Lời giới thiệu tuyển tập
Nguyễn Khải: “Ông là một trong những nhà văn dẫn đầu thời đại. Sáng tác
của ông luôn luôn đánh dấu những biến chuyển của xã hội. Với cuộc cách
mạng này, những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một
bằng chứng, một tài iêu tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại
với tất cả những cái hay dở của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc
Nguyễn Khải”.[48-12]. Với ngòi bút hiện thực đặc sắc, năng lực quan sát và óc
phân tích sắc sảo, Nguyễn Khải đã đem đến cho bạn đọc những trang văn thấm
12 1 2
đẫm hơi thở cuộc sống và con người thời đại.
Cùng với sự ra đời của hàng loạt sáng tác khẳng định tài năng và độ chín của
phong cách Nguyễn Khải, thì một số lượng khá lớn các bài nghiên cứu, phê
bình về Nguyễn Khải cũng ra đời và đề cập đến nhiều phương diện khác nhau
trong sáng tác của Nguyễn Khải.
Nghiên cứu một cách khái quát và toàn diện về tác giả, tác phẩm Nguyễn
Khải có bài viết của GS. Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945-1975
(tập II), trong đó GS viết: “…Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, luôn luôn suy
nghĩ sâu lắng về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra và cố gắng tìm một lời giải
đáp thuyết phục theo cách của riêng mình. Cho nên trong các tác phẩm của
nhà văn, thông qua những sự kiện xã hội, chính trị có tính chất thời sự nóng
hổi, bao giờ cũng nổi lên những vấn đề triết học có ý nghĩa nhân sinh”.[8-
185]. Cũng trong bài viết này, GS. Phan Cự Đệ đã gọi tên cho cách viết của
Nguyễn Khải là một “ngòi bút hiện thực tỉnh táo” và điều đặc biệt ở Nguyễn
Khải so với các nhà văn khác cũng giàu vốn sống trực tiếp là ở chỗ: nếu các
nhà văn khác xây dựng nhân vật của mình có đường nét gân guốc, giàu chất tạo
hình nhưng tầm khái quát nhân vật lại chưa cao, dấu ấn chủ quan của người
viết còn mờ nhạt thì ở Nguyễn Khải lại hoàn toàn ngược lại, và tác giả khẳng
định: “Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, thông minh, một cây bút có tài năng,
tiêu biểu cho thế hệ các nhà văn xuôi hình thành trong cuộc kháng chiến chống
Pháp và hiện nay đang kế tục một cách vẻ vang sự nghiệp các nhà văn xuôi
trước cách mạng. Nguyễn Khải đã đóng góp cho nền văn xuôi hiện thực xã hội
chủ nghĩa một phong cách độc đáo với nhiều tác phẩm có giá trị.[8-187].
Ngoài ra còn phải kể đến Lời giới thiệu của Vương Trí Nhàn trong Tuyển tập
Nguyễn Khải (tập I) với nhan đề Nguyễn Khải trong sự vận động của văn
học cách mạng từ sau 1945, trong đó có viết: “Sự gắn bó sâu sắc với đời sống
chính trị của đất nước, niềm ao ước vô tận muốn nắm bắt cho được bao đổi
thay trong cuộc sống cách mạng, cùng là khả năng dựng lên một loại nhân vật
mới đầy ý chí và khao khát cải biến xã hội …một thời gian dài, đấy đã là
những đặc điểm chủ yếu trong ngòi bút Nguyễn Khải” [48-12] . Cùng với xu
hướng nghiên cứư tổng quát này thì Chu Nga trong bài viết Đặc điểm ngòi bút
13 1 3
hiện thực Nguyễn Khải cũng có những cố gắng để gọi tên phong cách văn
xuôi Nguyễn Khải: “…Nói đến anh, người ta thường nhắc tới Xung đột, Tầm
nhìn xa hay Chủ tịch huyện nhiều hơn. Và ngòi bút anh ở đây cũng nổi tiếng
vì những đặc điểm khác: rất sắc sảo và giàu tính chiến đấu. Những đặc điểm
này lại đi đôi với một phong cách mới- sự tỉnh táo […] hình như sự tỉnh táo ở
phong cách Nguyễn Khải là sự tỉnh táo mang màu sắc lạnh lùng; và phải
chăng chỗ này mới chính là đặc điểm ngòi bút nhà văn”.[41-26]. Ngoài ra phải
kể đến một số bài viết khác như Mục Nguyễn Khải trong Giáo trình Văn học
Việt Nam 1945-1975 (phần tác giả) của Đoàn Trọng Huy, bài của Bích Thu
nhan đề Nguyễn Khải: một đời gắn bó với thời đại và dân tộc… Những công
trình nghiên cứu này đã cho người đọc một hình dung khá cụ thể về Nguyễn
Khải ở cả sự nghiệp sáng tác cũng như giá trị các tác phẩm cùng phong cách
độc đáo riêng của ông. Hầu hết các tác giả đều khẳng định:Nguyễn Khải là một
trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam từ sau 1945.
Bên cạnh những bài viết tương đối toàn diện về sáng tác như trên thì các bài
viết về từng phương diện sáng tác của Nguyễn Khải cũng chiếm một số lượng
tương đối lớn. Có thể kể đến các bài viết như: Vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn
Khải của Nguyễn Văn Hạnh, Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật của Nguyễn
Khải với tác giả Phan Cự Đệ, hay Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn
Nguyễn Khải những năm 80 đến nay của Bích Thu…
Phần lớn các bài viết rải rác in trên các bào, tạp chí (như :Văn học, Văn
nghệ quân đội, Tác phẩm mới, Văn nghệ, Nhân dân, Văn nghệ trẻ…) đều đề
cập đến Nguyễn Khải trên tư cách là tác giả của một tác phẩm cụ thể. Chẳng
hạn như Thành Duy có Mùa lạc, một thành công mới của Nguyễn Khải,
Nguyễn Khải và Ngƣời trở về của Hà Minh Đức, Nguyễn Khải và Chiến sĩ
của Nguyễn Đăng Mạnh, hay Thời gian của ngƣời- cuốn tiểu thuyết có nhiều
âm hưởng của Huỳnh Như Phương …Hầu hết các bài viết có giá trị đăng trên
các báo, tập san, tạp chí …đã được tập hợp lại trong công trình Nguyễn Khải-
Về tác gia, tác phẩm (do Hà Công Tài và Phan Diễm Phương tuyển chọn và
giới thiệu).
Những sáng tác của Nguyễn Khải thời kỳ sau 1986 đã tạo được nhiều sự
14 1 4
chú ý của công chúng. Các bài viết về những sáng tác thời kỳ này của ông đều
đã khẳng định những đặc điểm cơ bản trong sáng tác Nguyễn Khải: khả năng
phát hiện vấn đề, ý thức tìm tòi lật xới hiện thực, sở trường tổ chức đối thoại,
nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn…Ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập đến những bài
viết có liên quan đến vần đề tính liên tục và sự thay đổi trong những sáng tác
truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới.
Để công và dồn khá nhiều tâm huyết vào nghiên cứu con người
và văn chương Nguyễn Khải là nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn.Với bài viết
Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau 1945, nhà
nghiên cứu đã đưa ra một nhận xét căn bản trong các sáng tác truyện ngắn của
Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới là:”Cái nhìn sắc sảo vốn có từ sớm và khao khát
có mặt trong ngày hôm nay. Đối thoại với chính mình và tự phát hiện trở lại-
một phong cách vừa dân dã, vừa hiện đại” [48-24]. Trong bài viết này, nhà
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng:”Những truyện ngắn của Nguyễn Khải viết từ
1988-1999 đến thời gian gần đây, khơi vào hai cái mạch chính: Một là cuộc
sống hôm nay của những người chung quanh, bạn bè, đồng nghiệp quen biết,
cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là số phận của những người thân trong gia đình
họ hàng nội ngoại của tác giả, những ông cậu, bà mợ mà tâm tư, tình cảm của
Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến” [48-26]. Cũng trong bài viết này, ông còn
khẳng định: ”trong những trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải
hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi
người vui buồn khi quan sát việc đời.” [48-27] Còn tác giả Đào Thuỷ Nguyên
trong cuốn Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn Khải trong giảng
dạy văn học Việt Nam hiện đại đã lưu ý tới cái nhìn xoáy sâu vào nhiều vấn
đề của đời sống con người đương thời, con người trong thời gian và lịch sử,
con người trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, con người trong quan hệ
gia đình, con người trong mâu thuẫn và tiếp nối gữa các thế hệ…
Cũng đề cập đến một phương diện trong sáng tác của Nguyễn Khải sau năm
1986 là hình tượng nhân vật, tác giả Nguyễn Thị Bình trong bài viết Nguyễn
Khải và tư duy tiểu thuyết đã chỉ ra:”Có một người kể chuyện đóng vai là nhà
văn, nhà báo, là”chú Khải”, “ông Khải”…cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử
15 1 5
như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng
của văn chương(…).Nhân vật này góp phần tạo ra giọng điệu tự nhiên, chân
thành mà vẫn phóng túng trên các trang văn Nguyễn Khải” [2-41].
Nghiên cứu về truyện ngắn trước 1986 của Nguyễn Khải không nhiều. Hầu hết
đều tập trung vào tập truyện có giá trị-Mùa lạc. Trong đó có thể kể đến Như
Phong với Phƣơng hƣớng tìm tòi của Nguyễn Khải qua tâp”Mùa lạc”, Sách
Bình luận văn học, NXB Văn học,Hà Nội,1964: “Những truyện ngắn của
Nguyễn Khải từ Mùa lạc cho đến gần đây rõ ràng là đã tỏ rõ một quan tâm
góp phần truyền bá, cổ vũ cho một chủ nghĩa nhân đạo tích cực và chân chính,
chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa người và người trong xã
hội ta[…]Nguyễn Khải đã lựa chọn được một phương hướng tốt. Kể ra cùng
một đề tài, với một số nhà văn nông cạn nào đó, những truyện như thế này dễ
có nguy cơ trở thành một thứ truyện tình ngọt lự một chất nước đường trữ tình
rẻ tiền. Nhưng với quan tâm nói trên kia, những truyện của Nguyễn Khải đã có
những chủ đề tư tưởng cao, đọc lên làm cho người ta phải nghiêm chỉnh suy
nghĩ về cách đối xử với con người thế nào cho phải, cho đúng với đạo đức xã
hội chủ nghĩa” [52-45]. Không đi vào nhận xét giá trị tư tưởng của tập truyện,
tác giả Chu Nga lại nhìn nhận thấy ở những truyện ngắn đó một vấn đề -hiện
thực xã hội, những mâu thuẫn cơ bản, nóng bỏng của xã hội : “anh lúc nào
cũng đứng giữa dòng thác cuộc đời…Anh viết liên tục mà hầu như trong tác
phẩm nào cũng vẫn đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với giai
đoạn nó ra đời. Chẳng hạn cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch sau cải
cách ruộng đất tại một vùng Công giáo (Xung đột), chủ nghĩa nhân đạo cộng
sản chủ nghĩa trong xã hội ta ngày nay (Mùa lạc), quan hệ giữa sở hữu cá thể
tập thể và Nhà nước ở giai đoạn HTX tiến lên cấp cao
(Tầm nhìn xa), cách đánh giá đúng đắn đối với những đổi mới trong cuộc
sống ở nông thôn hiện nay (Ngƣời trở về)…hay cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân (Hãy đi xa hơn nữa, Anh đội phó và ngƣời thợ mộc, Một cặp
vợ chồng)…” [42-45]. Như vậy, bên cạnh những điểm vốn có của phong cách
Nguyễn Khải thì các tác giả đều khẳng định hướng đi đúng đắn của Nguyễn
16 1 6
Khải khi đi vào khai thác những mảng hiện thực đời sống khác nhau với những
cái nhìn sắc sảo giàu tính chiến đấu, luôn đi cùng với những diễn biến của thời
cuộc.
Sau 1986, truyện ngắn Nguyễn Khải viết ra cũng nhiều hơn, cùng với đó,
những bài viết, phê bình dành cho ông cũng nhiều lên. Một trong những người
dành sự quan tâm nhiều cho Nguyễn Khải phải kể đến Vương Trí Nhàn, không
chỉ nghiên cứu Nguyễn Khải trên toàn bộ sáng tác mà với một số những tác
phẩm tâm đắc ông đều có những đánh giá và nhận định của riêng mình. Chẳng
hạn như trong, Một cách tồn tại trong văn học Sách Cánh bướm và đoá
hướng dương,NXB Hải Phòng, 1999, ông thấy: “ Nếu hôm qua Nguyễn Khải
đã rất thành công trong việc diễn tả những gay gắt quyết liệt của đời sống thì
hôm nay nhà văn có phần thấm thía sự đời hơn, cái nhìn ra chiều độ lượng và
thông cảm hơn[…].Văn xuôi Nguyễn Khải hôm nay, bề ngoài có cái dễ dàng,
tự nhiên như lời nói hằng ngày song nhìn cho kỹ, thấy chữ nghĩa rất chỉnh, câu
cú tính toán kỹ càng, tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả cài chen, xen lẫn
nhau tạo nên một thế giới đa thanh mà chỉ văn xuôi hiện đại mới có” [49-76].
Cũng trong bài viết này ông còn nhận ra cái gọi là “lý sự” luôn xuất hiện đậm
đặc trong văn ông : “ không riêng gì tác giả mà ngay cả các nhân vật cũng hay
nói, thích nói, người nọ đối diện với người kia, đồng tình, phản bác nhau, xét
nét, “gí điện” nhau. Lí sự trở thành câu chuyện hằng ngày, nhất là lí sự về
những khía cạnh xã hội chính trị của đời sống...” [49-77].
Đồng thời bên cạnh những cái gọi là tiếp nối đó, Vương Trí Nhàn cũng nhận
ra nét khác biệt của những sáng tác về sau này: “Những truyện được viết vào
những năm tác giả trên dưới 60 và được in ra vào năm ông 63 tuổi này lại có
những sắc thái mới mà người ta chưa bắt gặp bao giờ. Trước mắt chúng ta là
một sự thích ứng vừa tự nhiên ,vừa khó khăn, đồng thời là một sự phát hiện lại
mình” [49-86].
Còn trong một bài viết khác, ông lại nhận thấy sự chuyển hướng trong đề tài
hiện thực của Nguyễn Khải từ sau những năm 80: “Trên đại thể, những truỵện
ngắn của Nguyễn Khải viết từ 1988-1989 đến thời gian gần đây khơi vào hai
cái mạch chính: Một là cuộc sống hôm nay của những người chung quanh, bạn
17 1 7
bè, đồng nghiệp quen biết cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là, số phận của những
người thân trong họ hàng nội ngoại của tác giả , là những ông cậu, bà mợ mà
tâm tư, tình cảm của Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến” [51-124].
Tác giả Bích Thu trong Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải những năm tám mưoi đến nay, lại phát hiện ra những nét mới trong
nghệ thuật trần thuật của tác giả, đó là: “Người trần thuật trong tác phẩm
Nguyễn Khải không bao giờ biết trước sự việc, hiện tượng mà mình miêu tả bởi
sự phức hợp giọng điệu, mang nhiều tiếng nói: giọng tác giả, giọng nhân vật,
giọng người kể chuyện với nhiều sắc thái âm điệu khác nhau hoà trộn, đan xen,
tranh cãi, đối lập, tạo dựng một lối văn tiểu thuyết đa thanh và hiện đại” [59-
26].
Một đánh giá có tính chất tương đối toàn diện về sự thay đổi trong các truyện
ngắn Nguyễn Khải sau 86 là Đọc “Truyện ngắn và tạp văn Nguyễn Khải”
của Nguyễn Hữu Sơn đăng trên Báo Nhân Dân, ngày 27/01/1999, trong đó có
viết: “Thông qua hệ thống các hình tượng nhân vật, một nỗi ám ảnh xuyên suốt
các truyện ngắn này của Nguyễn Khải là sự hụt hẫng, cách ngăn thậm chí đối
lập giữa các thế hệ. Khi đặt mình ở nhân vật “tôi”, tác giả thường hoài niệm
về một thời xa xưa, một kỷ niệm ngày chống thực dân Pháp, một buổi gặp gỡ ở
làng, một bạn văn nay không còn nữa cùng những hoài cảm khôn nguôi về thế
thái nhân tình, về nhận thức, về những đổi thay ngỡ như choáng ngợp”[55-07]
Trên cơ sở khảo sát các bài viết, các bài nghiên cứu về Nguyễn Khải và
những sáng tác của ông thời kỳ sau 1986, chúng tôi có thể rút ra những nhận
xét sau:
1.Số lượng các bài viết, những ý kiến đánh giá về Nguyễn Khải và những tác
phẩm của ông hết sức phong phú. Trước những năm 80, các tác giả chủ yếu đi
sâu phân tích cảm hứng của nhà văn trước thực tiễn cách mạng, đánh giá nội
dung hiện thực cũng như ý nghĩa xã hội của tác phẩm. Qua đó đề cao những
đóng góp của nhà văn trong việc phản ánh thực tiễn đời sống. Từ những năm
80 đến nay, chủ yếu các tác giả đi sâu tiếp cận về mặt tư tưởng, phong cách
18 1 8
nghệ thuật, chỉ ra một số biểu hiện cơ bản trong quan niệm cũng như trong cá
tính sáng tạo của Nguyễn Khải , đề cao những đóng góp của ông vào thành tựu
của nền văn xuôi đương đại Việt Nam.
Dù ở vào những thời kỳ khác nhau và xuất phát từ những góc độ không
giống nhau nhưng nhìn chung các tác giả này đều gặp nhau trong những đánh
giá chung mang tính khái quát : Nguyễn Khải là một nhà văn sắc sảo, đề cập
đến nhiều vấn đề của đời sống, có nhiều tìm tòi đổi mới và sáng tạo trong cách
viết. Tác phẩm của ông phản ánh kịp thời, sâu sắc hiện thực lịch sử cũng như
đời sống của con người thời đại. Văn ông hấp dẫn, mới mẻ, độc đáo. Nguyễn
Khải xứng đáng là một nhà văn tiêu biểu của văn học đương đại.
Riêng các bài viết, các ý kiến đánh giá đến những sáng tác thời kỳ đổi mới
đều chỉ ra những điểm mới của tác giả từ cách nhìn, giọng điệu cho đến ngôn
ngữ.
2. Như vậy, nhìn chung có thể thấy rằng các bài viết đều đã nhận định sáng tác
truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86 có vừa có tiếp tục vừa có sự đổi mới so với
giai đoạn trước đó. Đó là sự tiếp tục đặt vấn đề qua nhân vật, là sự tỉnh táo đến
lạnh lùng của giọng văn chính luận thời sự. Đó là sự đổi mới trong phạm vi
khai thác của đời sống hiện thực, của giọng điệu cùng với sự trải nghiệm của
nhà văn…Tuy nhiên, những thay đổi cũng như tiếp nối đó chỉ được đề cập rất
ít hoặc chỉ đơn thuần ở một mặt nào đó, tản mạn, sơ bộ mà chưa có khảo sát tỉ
mỉ, cụ thể. Mặc dù các nhà nghiên cứu đã đề cập đến một số khía cạnh trong
truyện ngắn của Nguyễn Khải sau đổi mới nhưng vẫn chưa có chuyên luận nào
đi sâu vào tìm hiểu tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn thời kỳ đổi
mới của Nguyễn Khải cũng như đặt nó trong mối tương quan so sánh với giai
đoạn sáng tác trước đó.Vì thế, trên cơ sở tiếp thu, phát triển ý kiến của những
nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một hướng nghiên cứu làm
sáng rõ vấn đề: Tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải
sau năm 1986.
3.Mục đích nghiên cứu:
Đi sâu tìm hiểu và lý giải sự tiếp nối cũng như những đổi thay trong các truyện
19 1 9
ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986. Chúng tôi hy vọng góp một phần vào công
việc nghiên cứu Nguyễn Khải và khẳng định vị trí của ông trong nền văn học
hiện đại Việt Nam.
4.Phạm vi nghiên cứu
Sau 1986, truyện ngắn Nguyễn Khải rất phong phú, tuy nhiên luận văn chỉ đề
cập đến những truyện ngắn có giá trị đã được chính tác giả tuyển chọn trong
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2 tập)- NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,
2002.
Luận văn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong
truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986. Đồng thời, trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi cũng đề cập đến những tác phẩm Nguyễn Khải ở giai đoạn trước
để so sánh, đối chiếu và khẳng định những luận điểm của mình.
5.Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp Thi pháp học cùng với sự kết hợp của
nhiều thao tác như khảo sát thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp…
Khi nghiên cứu về sự liên tục cũng như thay đổi trong các truyện ngắn
Nguyễn Khải sau năm 1986, luận văn phải đề cập đến vấn đề phong cách cũng
như bút pháp nhà văn. Điều đầu tiên và trên hết để phân biệt nhà văn này với
nhà văn khác, cũng như phân biệt một nhà văn qua những giai đoạn khác nhau
không quan trọng ở chỗ họ nói gì mà là ở chỗ họ nói như thế nào. Hay nói
cách khác, là vấn đề nhà văn tổ chức tác phẩm của mình. Bởi thế sử dụng
phương pháp thi pháp học sẽ giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn “cái cách mà nhà
văn sử dụng” để chuyển tải tư tưởng qua những truyện ngắn. Tất nhiên để đạt
được hiệu quả và độ thuyết phục cao, bên cạnh phương pháp thi pháp học là
chủ yếu thì luận văn còn sử dụng thêm một số phương pháp khác để hỗ trợ
như: thống kê, đối chiếu, so sánh,…
6.Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương như
sau:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành trình sáng tác
20 2 0
của nhà văn
Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một cách khái quát về hành trình sáng
tác của Nguyễn Khải. Trên cơ sở đó, đặt truyện ngắn sáng tác sau đổi mới của
ông trong mối tương quan với toàn bộ sự nghiệp văn học của tác giả. Đồng
thời, cùng với việc giới thiệu sáng tác truyện ngắn sau 86 thì chúng tôi cũng
đưa ra những đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình về chính những sáng
tác đó để bước đầu có cái nhìn tổng quan về truyện ngắn sau 86 của Nguyễn
Khải. Nội dung chương được triển khai thành các mục như sau:
1.2 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn
1.2.1 Nhà văn Nguyễn Khải
1.2.2 Những chặng đường sáng tác chính.
1.2.2.1 Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miền Bắc của
Mỹ
1.2.2.2 Thời kỳ chống Mỹ cứu nước
1.2.2.3 Thời kỳ sau 1975
1.2.2.4 .Thời kỳ sau 1986.
1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải .
1.2.1.Trước năm 1986
1.2.2 Sau năm 1986
Chương 2: Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986.
Trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các truyện ngắn trước 86 cũng như các sáng
tác văn xuôi trước đó, chương 2 sẽ đi vào chỉ rõ sự liên tục trong các truyện
ngắn sau 86 của Nguyễn Khải trên cả phương diện nội dung cũng như hình
thức. Chương 2 gồm các mục sau:
2.1.Tính liên tục trong nội dung
2.1.1Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực
2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn
2.1.1.2.Đời sống tinh thần của con người đương thời.
2.1.2.Con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86
2.1.2.1Những con người của thời cuộc.
2.1.2.2Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.
21 2 1
2.2Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm
2.2.1Giọng triết lý, tranh biện
2.2.2Kết cấu tác phẩm
Chương 3:Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986.
Điều làm nên một Nguyễn Khải của thời kỳ mới chính là ở sự thay đổi và thích
ứng. Một nhà văn có bản lĩnh là nhà văn dám thay đổi và có thể thay đổi đúng
cách. Nguyễn Khải thuộc số không nhiều những nhà văn trước cách mạng xác
lập được chỗ đứng vào thời kỳ mới. Tiếp theo tính liên tục ở chương2 thì
chương 3, chúng tôi đi sâu vào những thay đổi trong truyện ngắn của ông sau
đổi mới. Nội dung gồm có:
3.1Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh
3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.
3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.
3.1.3.Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm lại.
3.2. Một số thay đổi về giọng điệu
3.2.1.Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã
22 2 2
3.2.2.Giọng văn tâm tình, chia sẻ.
Chƣơng 1.Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành
trình sáng tác của nhà văn
Đối với mỗi một tác giả , khi muốn tìm hiểu về một tác phẩm, một tập hợp tác
phẩm theo thể loại, một giai đoạn, hay bất kỳ một phương diện nào đó trong
sáng tác của họ thì đều phải đặt chúng trong tương quan với cả chặng đường
sáng tác của tác giả đó. Tất nhiên, trong cả một chặng đường dài của sự nghiệp,
không phải lúc nào cũng giống nhau, không phải lúc nào các sáng tác cũng theo
một đường thẳng mà luôn luôn có những khúc quanh tuỳ theo yêu cầu của thời
đại và tuỳ theo sự trưởng thành của chính người viết. Nhưng nó không bao giờ
hoàn toàn tách khỏi những sáng tác trước hoặc sau nó mà luôn luôn có một mối
liên hệ nhất quán bị chi phối bởi chính cái “tạng” của mỗi người viết. Và cũng
chính điều đó làm nên phong cách nhà văn. Bởi thế, trước khi đi vào bàn về
những sáng tác truyện ngắn sau 86 của Nguyễn Khải, người viết muốn khái
lược toàn bộ chặng đường sáng tác của nhà văn. Trên cơ sở đó có một cái nhìn
tổng quan và toàn diện về con đường văn nghiệp Nguyễn Khải cũng như bước
đầu thấy được mối quan hệ giữa những truyện ngắn sau 86 với những truyện
ngắn trước đó cũng như với toàn bộ sáng tác của ông.
1.1 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn.
23 2 3
1.1.1.Nhà văn Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ngày 03/02/1930 tại Hà Nội,
mất ngày 15/01/2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc đời Nguyễn Khải cũng
có nhiều thăng trầm.Theo GS.Nguyễn Đăng Mạnh thì “ căn cứ vào những tác
phẩm có tính chất hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải, thấy tuổi trẻ của ông
khốn khổ, cơ cực- cơ cực và oan ức, và nhục nhã nữa chứ! Khổ còn có thể
quên được chứ oan ức và nhục nhã thì nhớ suốt đời, hận suốt đời. Mà số phận
ông cũng thật éo le. Giá cứ thuộc hẳn tầng lớp cùng dân thì đi một nhẽ. Đằng
này lại đồng thời là một giọt máu nhà quan, nhưng lại là một giọt máu
rơi…”[38-26].Từ một khối đất vô tri sẽ không thể trở thành một chiếc bình
gốm đẹp đẽ nếu nó không trải qua một sự nhào nặn và tôi luyện trong lửa đỏ.
Cũng như thế, những cay đắng, éo le, tủi cực phải trải qua trong thời niên thiếu
đã gieo mầm cho một Nguyễn Khải- nhà văn với những nét độc đáo riêng
không lẫn với bất cứ ai.
Trước khi trở thành nhà văn, Nguyễn Khải cũng đã từng cầm bút. Với tư
cách là cán bộ tuyên huấn , ông viết bài cho tờ Dân quân Hưng Yên .Cách
mạng tháng Tám bùng nổ đem lại cho đất nước một sự lột xác. Với nhiều
người, nói rằng cuộc cách mạng này đã đem đến sự đổi đời có lẽ là hơi thái quá
nhưng với Nguyễn Khải thì đó lại là một sự thật không thể phủ nhận. Tự bản
thân nhà văn khi nhớ lại những chặng đường đã qua, không ít lần ông tự hỏi
mình - nếu không có cuộc cách mạng tháng Tám thì cuộc đời mình sẽ ra sao
nhỉ? Với một người tự nhận mình là “kém tài”, lại thêm chỗ đứng ban đầu thua
kém thì khó có thể tự đẩy mình lên cao, vượt lên khỏi cái biển người thờ ơ, bất
động kia. Khi cậu thiếu niên Nguyễn Khải còn hoang mang, chán nản đến cực
độ thì cuộc Cách mạng tháng Tám thành công và kháng chiến chống Pháp bùng
nổ. Đối với Nguyễn Khải đó là một ân huệ. Bởi trước đó, cậu bé Nguyễn Khải
không có bất cứ một quyền gì ngay cả một chỗ đứng trong một gia đình cũng
không có, thậm chí còn là người mà ai cũng có thể làm nhục, thì cuộc kháng
chiến đã đem lại cho Nguyễn Khải một cái quyền - quyền tham gia kháng chiến
mà không phân biệt tuổi tác, sang hèn, học vấn hay nghề nghiệp. Bản thân nhà
văn cũng tự chiêm nghiệm- nếu không viết văn thì không biết bản thân sẽ làm
24 2 4
được việc gì. Thế nên, nói văn là sự lựa chọn của Nguyễn Khải cũng đúng mà
hơn hết, trên hết văn như là một cái “nghiệp” của một đời con người ấy. Hầu
hết những nhà văn lớn, những nhân cách lớn đều phải trải qua một thời tuổi trẻ
đầy biến cố. Và với Nguyễn Khải cũng vậy, một “tuổi thơ dữ dội” ít nhiều đã
tạo nên trong Nguyễn Khải - con người nhút nhát, an phận, một trái tim dễ xúc
động. Có lẽ vì đã từng bị làm nhục nên cả đời Nguyễn Khải không dám làm
nhục, không dám nặng lời với bất cứ một ai. Cũng do từng bị hiếp đáp, thua
thiệt nên lại càng dễ xúc động trước những số phận không may, mà như thế thì
làm lãnh đạo làm sao được! Chỉ có thể viết văn thôi. Chính cái mềm yếu, dễ
xúc động ấy khiến cho Nguyễn Khải có sự thông cảm, đồng cảm với người đời.
Ngòi bút của ông có thể dễ dàng tung hoành chỉ trên một vài chi tiết nhỏ,
những câu chuyện lặt vặt xoay quanh những cảnh ngộ nào đó. Mà ở đời này thì
những sự bất công, bất hạnh còn nhiều vô kể, thế nên “nguồn sống” để viết của
tác giả cũng là không kể xiết. Mang trong mình một trái tim bừng bừng sức
sống và rực nóng tình người, Nguyễn Khải cứ thế vững chãi bước vào làng văn
và đã tiếp tục bước trên con đường đó bởi trái tim ấy “chưa bao giờ nguội
lạnh” [49-57] .
Có lẽ cũng giống nhiều nhà văn khác, loay hoay trên ngưỡng cửa lựa chọn
lúc chập chững bước vào nghề, Nguyễn Khải đã viết để phục vụ cho nhiệm vụ
của mình cũng như phục vụ cho công cuộc kháng chiến chung của cả dân tộc.
Tác phẩm Ngƣời con gái quang vinh viết về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi là tác
phẩm được viết theo phong trào sáng tác tuyên dương , ca ngợi những anh
hùng dân tộc, phục vụ cho công tác tuyên huấn của Đảng. Có lẽ điều đó không
phù hợp với cái tạng ưa thích khám phá những mảng hiện thực có tính vấn đề
của Nguyễn Khải nên ông đã thất bại – tác phẩm chỉ là một thanh âm mờ nhạt
không được ai chú ý. Với địa vị và trách nhiệm của một người đứng trong hàng
ngũ của Đảng được trang bị kiến thức lý luận và trải qua thực tiễn của cuộc
chiến đấu, Nguyễn Khải dần dần tìm được hướng đi cho mình. Là nhà văn sớm
có ý thức dùng văn học làm vũ khí phục vụ cách mạng, góp phần làm cho cuộc
sống của con người, xã hội ngày một tốt đẹp hơn, ông đã đem hết sức mình góp
phần tích cực vào sự nghiệp chung của đất nước. Điều này được thể hiện trước
25 2 5
hết trong việc ông đã lựa chọn những nơi cuộc sống diễn ra sôi nổi, quyết liệt,
tiêu biểu của hiện thực cách mạng để làm cơ sở cho việc sáng tạo văn học.
Nhưng cũng cần lưu ý, không phải vì phục vụ cách mạng mà tác giả viết theo
lối minh hoạ, tượng trưng hay thổi phồng, tô hồng hiện thực. Ông không chỉ
đơn giản xây dựng hiện thực, phản ánh hiện thực mà quan trọng hơn, phát hiện
ra tính vấn đề của hiện thực từ đó nêu ra để xem xét, đánh giá, suy ngẫm.
Chính Nguyễn Khải cũng đã từng nói : “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay
ngổn ngang, bề bộn” [17-12], điều đó đã làm nên sức hấp dẫn cho những tác
phẩm của ông.
Bạn đọc tìm đến những tác phẩm của ông bởi những điều ông viết ra luôn
mới mẻ, hấp dẫn. Ông không bao giờ viết một cách hời hợt, mơ hồ, Cách làm
của ông, theo cách nói của Nam Cao là “sống đã rồi hãy viết”. Ông chỉ đưa ra
trên trang sách của mình những gì bản thân thực tế trải nghiệm và thực sự thấu
hiểu. Xông pha những nơi nóng bỏng nhất, những con đường ác liệt nhất,
không chỉ một lần, để bạn đọc có thể cùng trải nghiệm. Vào thời kỳ nhà nhà
làm cách mạng, người người làm cách mạng, có rất nhiều nhà văn cũng đi thực
tế, cũng viết về cùng một đề tài như Nguyễn Khải, vậy mà sáng tác của ông
vẫn giành được sự chú ý của bạn đọc. Sự thành công đó rõ ràng không phải đến
từ đề tài phản ánh mà là ở cách phản ánh- phản ánh trong cảm hứng nghiên cứu
và phân tích tâm lý. Cần phải nói thêm rằng, tinh thần nghiên cứu trong sáng
tác khác hẳn cảm hứng minh hoạ. Sáng tác với ý đồ minh hoạ sẽ không tránh
khỏi cho tác phẩm rơi vào sự quên lãng nhanh chóng, còn sáng tác với cảm
hứng nghiên cứu thì khác, nó dựa trên tính có vấn đề của hiện thực, thế nên tác
phẩm không chỉ đưa đến một hiện thực sắc sảo mà còn có ý nghĩa thời sự. Và
khi đã tìm được hướng đi đúng, các sáng tác của ông lần lượt nối tiếp nhau ra
đời đánh dấu cho sự trưởng thành dần lên của một phong cách.
Trong dòng chảy chung của dân tộc, cùng với những biến cố lớn của lịch sử
và văn đàn, giới cầm bút nói chung đã có một sự chuyển biến trong sáng tác từ
những năm 70. Riêng Nguyễn Khải, khi nhìn nhận về những sáng tác của mình,
ông tự phân chia thành 2 thời kỳ : “Từ năm 1955-1977 tôi sáng tác một cách.
Từ 1978 đến nay sáng tác theo một cách khác” [38-27] .Đến sau ĐH Đảng lần
26 2 6
thứ VI năm 1986 thì sự đổi mới đó mới trở nên rõ rệt và có chiều sâu. Nhưng
nếu như với một số nhà văn, sự chuyển biến đôi khi là đột xuất và thậm chí là
đứt quãng, đứt đoạn thì ở Nguyễn Khải lại khác, trước sau người ta vẫn thấy
trong đó có tính liên tục. Sự thay đổi có thể là trong cách đặt vấn đề, trong
phạm vi hiện thực phản ánh, trong thế giới nhân vật, cách nhìn, điểm
nhìn…nhưng trong đó người ta vẫn thấy được một sự thống nhất trong những
sáng tác trước và sau 86 để tạo nên một thứ gọi là phong cách nhà văn. Điều
này được thấy trong chính lời tự bạch của tác giả : “ Nếu một truyện ngắn hay
một cuốn tiểu thuyết chỉ có chuyện của người không có chuyện của mình thì
mạng sống của nó không thể kéo dài hơn một bài báo” [30-56]. Đến với
Nguyễn Khải của ngày hôm nay ta vẫn bắt gặp Nguyễn Khải của ngày hôm qua
với tất cả những nét duyên ngầm vốn có. Lịch sử là hành trình phát triển đi lên,
đã xa rồi cái thời của những Mùa lạc, Xung đột, Họ sống và chiến đấu…để
rồi từ Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của ngƣời là Một thời gió bụi, Hai ông già
ở Đồng Tháp Mƣời hay Hà Nội trong mắt tôi…Những tác phẩm đó đã phần
nào nói lên rằng sự chuyển biến của Nguyễn Khải là đúng đắn và hợp lý. Giải
thưởng Hồ Chí Minh về VHNT năm 2000 là một ghi nhận, vinh danh cho
những đóng góp, tìm tòi, trải nghiệm của cả một đời văn Nguyễn Khải.
1.1.2Những chặng đƣờng sáng tác chính của Nguyễn Khải
1.1.2.1. Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miến Bắc
của Mỹ.
Khi còn ở tuổi thiếu niên, cách mạng tháng Tám thành công và cuộc
kháng chiến chống Pháp bùng nổ như là một ân huệ với Nguyễn Khải. Suốt
những năm kháng chiến, Nguyễn Khải đã lớn lên rất nhiều cả trong suy nghĩ
hành động và học vấn cộng với một sự từng trải cần thiết để ông có đủ dũng
khí cầm bút theo đuổi nghề làm báo và viết văn. Vừa là một chiến sĩ, một Đảng
viên, một phóng viên – đó là một cơ hội để Nguyễn Khải rèn luyện, học hỏi và
bắt đầu nhận ra gương mặt riêng của mình.
Không phải là một con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hót chơi , trước khi đến
với nghề văn, Nguyễn Khải đã từng làm công tác tuyên huấn của Đảng. Chính
điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quan niệm của ông về nghề văn và thiên
27 2 7
chức của người cầm bút. Ngay từ những ngày đầu tiên, ông đã xác định viết
văn là một nghề và tác phẩm văn học cũng phải góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Điều này không chỉ có nguyên nhân từ
trong cuộc sống của chính tác giả mà còn bắt nguồn từ chính nhu cầu của cuộc
sống xã hội. Trên cơ sở của một thời đại đầy biến động, với nhận thức chính trị
vững vàng, Nguyễn Khải đã xông pha nơi tuyến đầu, luôn có mặt ở những nơi
nóng bỏng nhất, tiêu biểu nhất của hiện thực cách mạng. Bắt đầu bằng truyện
ngắn Ra ngoài in trên tạp chí Lúa mới của Chi hội Văn nghệ Liên khu III-
1951 thì đến năm 1952 với truyện vừa Xây dựng ông đã đoạt giải khuyến khích
về truyện và ký 1951-1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam. Tuy thế, sau thành
công ban đầu này thì năm 1956 với tác phẩm Ngƣời con gái quang vinh
Nguyễn Khải lại đi một bước lùi trên con đường nghệ thuật. Phải đến một năm
sau, với Xung đột, ông mới chính thức đánh dấu sự có mặt của mình trong làng
văn.
Xung đột lấy bối cảnh vào khoảng cuối năm 1956 tại một thôn công giáo
toàn tòng. Tác phẩm là những “ghi chép” của tác giả về cuộc đấu tranh quyết
liệt giữa bộ đội ta và bè lũ phản động đội lốt tôn giáo nổi lên tìm cách chống
phá cách mạng ở một xóm đạo. Ở đây, Nguyễn Khải đã đi vào một mảng hiện
thực rộng lớn, có sức khái quát cao- đó là nông thôn trên con đường cải tạo và
xây dựng cuộc sống mới. Và như thế, tác giả đã đặt ra cho tác phẩm một
nhiệm vụ khám phá hiện thực xã hội vốn rất căng thẳng và đầy mâu thuẫn và
cũng có phần tương đối nhạy cảm ở một số vùng nông thôn lúc bấy giờ.
Với hai tuyến nhân vật đối lập nhau, một bên là những cán bộ cách mạng
tiên tiến, gương mẫu như Môn, Nhàn, Thuỵ...một bên là những kẻ lợi dụng tôn
giáo như cha Vinh, cha Thuyết, tu sĩ Thịnh…tác giả đã tái hiện lại một cách cụ
thể và sinh động những mâu thuẫn, giằng co quyết liệt của một xứ Hỗ tưởng
như bình lặng. Đó là một “cuộc chiến” không kém phần gay go, dữ dội: “Tiếng
loa của Đức Chúa Trời và tiếng trống của người thế gian; lời giảng hùng hồn
của cha Lân và lời lẽ đầy sức thuyết phục của các cán bộ xóm xã; những dư
luận lén lút xào xạc và những khẩu hiệu mạnh mẽ, ngay thẳng; những tối họp
xóm và những buổi chầu lễ; ngả đường ra nhà thờ và ngả đường về nhà ban
28 2 8
quản trị. Cuộc sống ở thôn Hỗ cứ náo động suốt đêm ngày. Không có tiếng
súng nổ nhưng tâm trạng con người thì giống hệt như trong một trận chiến
đấu” [50-213].
Không dừng lại ở những mâu thuẫn bề nổi, tác phẩm còn phản ánh cuộc
sống tinh thần ở nông thôn- nơi con người bị những kẻ lợi dụng tôn giáo làm
cho mê muội, sống trong tấm màn mịt mùng, tăm tối, nhẫn nhục chịu đựng.
Trong hoàn cảnh đó, ánh sáng của cách mạng, của CNXH đến với người dân
cũng thật khó khăn. Từ đó, tác phẩm đặt ra một vấn đề sâu sa hơn đó là giải
phóng cuộc sống tinh thần cho con người, làm thế nào đưa ánh sáng của chân
lý, của cách mạng đến cho họ. Chúa là người đã ngự trị hàng trăm năm nay
trong cuộc sống của người dân miền biển xứ Hỗ. Chúa khiến cho người dân
sống trong chịu đựng, nhẫn nhục, sống theo thói quen, khép mình theo định
kiến. Cuộc sống của họ bị rêu lên, mốc lên, rỉ ra, như một vũng tù ngưng đọng,
đóng váng. Vì thế, các biến cố cách mạng, những cơn bão táp chính trị thời
cuộc không hề ảnh hưởng hay mảy may khiến họ quan tâm. Dù rằng cách
mạng thành công, quan hệ sản xuất mới cùng với một cuộc sống mới đã đến
đôi lúc làm cho đức tin của họ lung lay nhưng rồi chính bản thân họ lại sợ sự
sụp đổ của cái đức tin đã làm chỗ dựa cho họ trong hơn nửa thế ký qua. Vì thế
mà “mặt nước lại đóng váng, bèo lại nở và tất cả, tất cả …lại như cũ”[50-215].
Ngay cả những cán bộ Đảng và chính quyền nơi đây cũng vẫn còn có sự nhận
thức chưa đúng về vấn đề tôn giáo. Rõ ràng là không thể hoà lẫn chân lý Đảng
với đạo lý của Chúa, không thể tin yêu Đảng theo màu sắc tín ngưỡng của tôn
giáo. Cũng không thể vừa là người trung thành với cách mạng , vừa là một con
chiên ngoan đạo bởi cái đức tin sẽ che lấp cả sự sáng suốt và tinh thần cảnh
giác của người cán bộ cách mạng.
Xung đột cũng thể hiện ngòi bút phân tích nhạy bén, sắc sảo của Nguyễn
Khải, nhất là đối với những vấn đề có tính phản diện. Với những trang viết
nóng hổi, mang đầy hơi thở cuộc sống , những cách đặt vấn đề sắc sảo, tinh tế,
tác phẩm đã báo hiệu sự xuất hiện của một phong cách văn xuôi hiện thực tỉnh
táo.
Tiếp tục mạch tư tưởng đó, Nguyễn Khải tìm đến một mảng hiện thực khác
29 2 9
cũng mới mẻ và sôi động không kém - cuộc sống ở nông trường Điện Biên và
những HTX tiên tiến ở miền Bắc. Ở đó, con người được sống trong một môi
trường hoàn toàn mới, mọi người yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong một gia
đình lớn. thế nhưng sẽ là chưa hoàn toàn tự do nếu vẫn còn những tư tưởng,
thành kiến của chế độ cũ đeo đẳng, ám ảnh. Vì thế, vấn đề quan trọng không
phải là đưa ra cho con người một quan hệ sản xuất mới mà còn phải giải phóng
cho họ thoát khỏi những thành trì tư tưởng cũ đã ít nhiều ăn sâu và đục khoét
làm mục ruỗng tâm hồn họ.Với những chuyến đi thực tế xông xáo trên vùng
đất mới, Nguyễn Khải đã liên tiếp cho ra đời những tác phẩm phản ánh kịp thời
những diễn biến mới nhất của tình hình cách mạng. Tập truyện ngắn Mùa lạc,
các tác phẩm Tầm nhìn xa, Ngƣời trở về, Hãy đi xa hơn nữa, Gia đình lớn ,
Chủ tịch huyện…đã bước đầu xác lập cho Nguyễn Khải một chỗ đứng trên
văn đàn.
1.1.2.2. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước
Bắt đầu từ sau 1965, Nguyễn Khải tập trung viết về cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, Vấn đề nổi bật lên trong tác phẩm Nguyễn Khải thời kỳ này là
mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh, là khả năng con người có thể vượt
ngoại cảnh để vươn lên theo xu hướng tiến bộ cách mạng.
Khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra gay go, ác liệt thì mọi giá
trị đều được xác định lại ở mức chân thật nhất của nó. Mỗi con người dều phải
đấu tranh với bản thân một cách nghiêm khắc để giữ vững lòng tin và thêm
nghị lực chiến đấu.
Với tư cách của một người chiến sĩ, Nguyễn Khải đã xông xáo đến những
nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt nhất :ra Cồn Cỏ- nơi đầu sóng ngọn gíó để cho
ra đời Họ sống và chiến đấu; đến với các chiến sĩ công binh trên con đường
huyết mạch Trường Sơn ông viết Đƣờng trong mây; vào tuyến lửa Vĩnh Linh-
nơi có những con người ngày đêm xông pha vượt mọi nguy hiểm để đưa hàng
tiếp tế ra Cồn Cỏ, ông có Ra đảo; tham gia chiến dịch đường 9 Nam Lào ông
có Chiến sĩ; và Tháng Ba ở Tây Nguyên được viết khi Nguyễn Khải tham gia
chiến dịch giải phóng miền Nam…Ở những tác phẩm này, Nguyễn Khải tập
trung “lý giải những mâu thuẫn, từ những vấn đề tình cảm, tình yêu, tình đồng
30 3 0
chí đến những vấn đề mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, dân chủ và tập
trung, bảo thủ và tiên tiến, sống và chết, sản xuất và chiến đấu, tiền tuyến và
hậu phương, tinh thần và vũ khí, chống Mỹ và xây dựng CNXH”. [38-72].
Chiến sĩ là tiểu thuyết lấy câu chuyện về một anh lính tăng đi lạc đơn vị,
lạc mất đồng đội. Mọi truyền thống, kỷ cương trước kia nay đều không còn
nữa. Người lính được sống hoàn toàn tự do,không cần khuôn phép. Song trong
hoàn cảnh đó, anh ta không buông thả mình, sống phóng túng mà cố gắng giữ
lấy cốt cách , kỷ luật tự giác của một người lính. Chính trong hoàn cảnh đó,
phẩm chất của người lính mới thật sự toả sáng. Qua hành trình tìm về lại đơn vị
của người lính, tác phẩm đã dựng lên một bức tranh khái quát, có quy mô về
một chiến trường dữ dội, phức tạp, ngổn ngang nguy hiểm đầy bất trắc và
những bất ngờ thú vị, với những tình huống ngẫu nhiên không sao lường trước
được. “Đó là một chiến trường sống, một thực tại, một hiện thực. Đó là một
thành công mới của Nguyễn Khải mà nhiều tiểu thuyết viết về chiến tranh chưa
đạt được”[38-132].Và trong cuộc chiến đấu ấy, chân dung người lính không
chỉ được dựng lên qua những trận đánh, những chiến công mà còn qua cả tình
đồng chí, đồng đội, tình yêu thương giữa con người với con người. Chính thứ
tình cảm ấy đã mang lại một sức mạnh ghê ghớm “nó nghiêng về phía nào thì
toàn bộ sức mạnh trút về phía ấy” [50-63].
Nhìn một cách khái quát thì những tác phẩm viết trong thời kỳ này của
Nguyễn Khải đều tập trung khắc hoạ hình tượng người anh hùng cách mạng
với tất cả sự sùng kính và lòng trìu mến. Tuy nhiên, chính điều đó đã khiến cho
những sáng tác ấy vấp phải những hạn chế. Đó là sự đơn giản hoá, một chiều
trong tính cách và đôi khi hình tượng nhân vật được thể hiện theo lối minh hoạ
giản đơn. Sau này khi có dịp nhìn nhận lại những sáng tác giai đoạn này,
Nguyễn Khải đã nhận xét rất thành thật: “Tôi không thích nhân vật chỉ đơn
thuần một chiều. Tôi muốn nhân vật của mình lớn lên trong dằn vặt, mâu thuẫn
để đến với chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng trong thời chiến, giữa lúc cả
nước đang lao vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mình không thể viết
như thế được”[16-11].
31 3 1
1.1.2.3.Sau năm 1975.
Đất nước thống nhất kéo theo một loạt những thay đổi trong đời sống chính
trị xã hội, mở ra một hướng đi mới cho đất nước cũng như trong đời sống văn
học. Ngay từ những năm 70 những hướng đi mới, tìm tòi mới đã bắt đầu manh
nha. Nguyễn Khải tạm gác lại mối quan tâm đối với mảng hiện thực lao động
và chiến đấu ở miền Bắc để chuyển sang khai thác một hiện thực hoàn toàn
mới:cuộc sống ở miền Nam sau ngày giải phóng. Thực tế cho thấy, mặc dù
miền Nam đã giải phóng, đất nước thống nhất nhưng chưa hẳn là đã yên.
Những tàn dư của chế độ cũ còn rơi rớt lại qua những kẻ phản động giấu mình,
qua lớp người từng gắn bó với chế độ Sài gòn cũ, thậm chí là qua những tập
quán ,thói quen sinh hoạt của một số không nhỏ bộ phận người dân.Vấn đề đặt
ra bây giờ là làm sao và làm thế nào để đưa cuộc sống mới đến với người dân
miền Nam. Nguyễn Khải phát hiện ra những đấu tranh gay go, quyết liệt của
họ, những trăn trở, đau đớn, dằn vặt trước sự lựa chọn giữa hai chế độ: hoặc
chế độ cũ với những điếu thuốc lá thơm, những ly rượu Mácten và những đêm
vũ hội với chế độ mới phải san sẻ cuộc sống và quyền lợi với những người
xung quanh; hoặc chấp nhận hoặc tiếp tục chống đối…Đó là một cuộc đấu
tranh trên bình diện tư tưởng, một chiến trường không khói súng, không có
thương vong nhưng cũng không ít những đớn đau, vật vã. Để rồi cuối cùng là
sự thắng lợi của cách mạng, không chỉ là chiến thắng trên mặt trận quân sự mà
cả trên mặt trận tư tưởng, nhận thức của con người. Với những tìm tòi, trăn trở
không ngừng, Nguyễn Khải đã có những sáng tác có giá trị trong thời gian này
như: Cách mạng (kịch), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của ngƣời, Cha và con,
và…Điều tra về một cái chết.
Vở kịch Cách mạng xoay quanh cuộc sống của một số người ở thành phố
vừa được giải phóng, bước vào cuộc sống mới với nhiều mặc cảm, ngỡ ngàng.
Dù hổ thẹn vì quá khứ, dù còn đang phân vân nhưng hoàn cảnh bắt buộc họ
phải lựa chọn một con đường đi cho mình. Đó là những con người như chị
Hoàng, như Huy, phần nào vẫn còn luyến tiếc với những ảo ảnh của một thời
vàng son. Họ sống thu mình lại trong bốn bức tường của phòng ngủ, xoa mạt
chược, uống Mácten và ăn đêm. Họ là “những cái tử thi thối rữa mà chưa ai
32 3 2
chịu chôn đi cho” [50-145]. Nhưng cũng có những người như Phượng, dám
mạnh dạn bỏ, lên án quá khứ thượng lưu chỉ toàn lừa lọc, tranh giành, phản bội,
cướp đoạt, để lựa chọn CNXH. Cô là người có bản lĩnh, nghị lực, dám thẳng
thắn nhìn vào sự thật, “biết lựa chọn một cách sống trong sạch và lương thiện,
tự trọng và có trách nhiệm”[50-143]. Chủ đề sự lựa chọn của những người
dưới chế độ Sài Gòn cũ trong vở kịch tiếp tục được triển khai và giải quyết
Còn Thời gian của ngƣời, một tác phẩm đầy tính chất chính luận, lại đi theo
thấu đáo hơn trong Gặp gỡ cuối năm.
một hướng khác. Ở đó, Nguyễn Khải có dịp phát huy thế mạnh vốn có của một
cây bút giàu tính triết lý. Xoay quanh suy nghĩ, hồi tưởng của bốn nhân vật về
những quãng đời đã qua: chị Ba Huệ- cán bộ huyện, Quân- sĩ quan quân báo,
bác Hai Riềng- công nhân cao su và cha Vĩnh, tác phẩm đã đưa ra một triết lý
về thời gian để mọi người cùng trao đổi , suy ngẫm: “Chúng ta đã có những
năm tháng sống rất đẹp. Quãng đời tốt đẹp ấy mãi mãi ánh lên vẻ rực rỡ của
nó và còn soi sáng cho nhiều năm tháng về sau. Trong chúng ta, người nào tiếp
thu đầy đủ tinh thần của những năm tháng ấy sẽ đủ sức vượt qua được mọi khó
khăn trong cuộc sống hiện nay để mãi mãi trở thành một nhân cách đáng kiêu
hãnh”[50-143]. Bên cạnh đó, cũng với Cha và con, và…,Điều tra về một cái
chết, tác phẩm cũng tiếp tục một vấn đề đã đặt ra ở Xung đột, đó là tôn giáo
trong thống nhất đất nước và hoà hợp dân tộc. Lần này những hạn chế trước đó
đến đây đã được ông khắc phục. Một mặt, Nguyễn Khải nhìn thấy tôn giáo
không chân chính- tôn giáo của những kẻ đội lốt tôn giáo để làm chính trị, đã
phá hỏng cuộc sống và tâm hồn con người một cách ghê ghớm như thế nào.
Mặt khác, ông cũng tỉnh táo nhận thức được vai trò tích cực của tôn giáo khi nó
được trở về với đúng nghĩa của nó. Điều đó có nghĩa là cách mạng không đối
lập với tôn giáo mà cách mạng và tôn giáo vẫn có thể hoà hợp, người chiến sĩ
cách mạng vẫn có thể là một con chiên ngoan đạo, một cha xứ vẫn có thể đống
góp tích cực cho cuộc kháng chiến.” Đi với giáo hữu tuân theo ý muốn của
giáo hữu sẽ hoà hợp được tất cả, vì giáo hữu là nền tảng, là cội nguồn. Cách
mạng cũng từ đấy mà có.Hội Thánh cũng từ đấy mà có, bổn phận của linh mục
cũng từ đấy mà có”.[50-213] Như thế, càng về sau, ngòi bút Nguyễn Khải
33 3 3
càng phát huy, bộc lộ rõ sự sắc sảo trong cách nhìn hiện thực, con mắt ông luôn
phát hiện ra chỗ có “vấn đề” khi mà người khác chưa thấy. Đồng thời, qua
những vấn đề đưa ra đó, chất chiêm nghiệm, triết lý lại được bộc lộ ngày càng
đậm nét. Cách đào sâu, lật xới vấn đề không chỉ trong một tác phẩm mà trở lại
trong những tác phẩm khác, chứng tỏ ông luôn có những cách làm mới tác
phẩm và làm mới lại chính mình.
1.1.2.4.Thời kỳ sau năm 1986
Thời kỳ này người đọc chứng kiến sự nở rộ về truyện ngắn của Nguyễn
Khải, hàng loạt các truyện ngắn được ra đời . Ở đây người viết chỉ xin liệt kê
những tác phẩm được đánh giá cao, và được chính tác giả tuyển chọn trong
1 Nếp nhà
Tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Khải (2 tập):
2 Chúng tôi và bọn hắn
3 Người vợ
4 Người của ngày xưa
5 Nắng chiều
6 Tiền
7 Danh phận
8 Năm tháng qua đi
9 Hậu duệ dòng họ Ngô Thì
10 Một người Hà Nội
11 Đời khổ
12 Làng của danh nhân
13 Đổi đời
14 Anh hùng bĩ vận
15 Người của nghề
16 Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức
17 Một thời gió bụi
18 Đời cứ vui
19 Ông trưởng họ
20 Thầy Minh
34 3 4
21 Đã từng có những ngày vui
22 Ông cháu
23 Chuyện tình của mỗi người
24 Một bàn tay và chín bàn tay
25 Lãng tử
26 Người kể chuyện thuê
27 Nghệ nhân ở làng
28 Lạc thời
29 Những người già
30 Lính chữa cháy
31 Đàn ông
32 Sống giữa đám đông
33 Đất mỏ
34 Đàn bà
35 Nơi về
36 Quê ngoại
37 Làm trai
38 Phía khuất mặt người
39 Một chiều mùa đông
40 Mẹ và bà ngoại
41 Người tự do
42 Chị Mai
43 Mẹ và các con
44 Bạn và con của bạn
45 Ngôi chùa các chị
46 Người ngu
47 Đền miếu và bèo ốc
48 Một mẹ chồng tuyệt vời
49 Luật trời
50 Nhóm bạn thời kháng chiến
51 Má hồng
35 3 5
52 Hoa cỏ may
53 Cái cổ
54 Bạn viết cũ
55 Giận ông giời
Sau năm 1986, những đổi thay của cuộc sống xã hội nhờ chính sánh mở
cửa đã kéo theo sự thay đổi của một loạt các vấn đề khác trong xã hội. Đời
sống vật chất trở nên đầy đủ hơn, con người sống thoải mái hơn, đồng thời các
giá trị trong cuộc sống cũng được xác định lại…Xã hội trở nên đầy biến động
với những cuộc”bể dâu” khôn lường. Trước một hiện thực mới mẻ, một chính
sách tư tưởng tương đối dân chủ, ngòi bút Nguyễn Khải có điều kiện thoả sức
vẫy vùng. Thế giới nhân vật được mở rộng, thể loại sáng tác cũng được chuyển
hướng cho phù hợp với tình hình mói. Điều đáng nói là, sự mở rộng ấy lại
mang tính chất ”thu hẹp” :thế giới nhân vật ngoài những con người có tính chất
đại diện cho một cộng đồng, một thế hệ thì nay lại là những con người bình
thường đối với Nguyễn Khải; những bạn bè đồng nghiệp, bà con họ hàng thân
thuộc. Những mảnh đất một thời ông đã đi qua nay lại trở lại với tác phẩm của
ông. Mỗi người với một số phận riêng đã giúp ông suy ngẫm thêm về cuộc đời.
Đặt nhân vật không còn trong cái nền chật hẹp trước mắt mà trong một khung
cảnh rộng lớn của lịch sử, các nhân vật của Nguyễn Khải tự nhiên lại hiện lên
với nhiều nét xót xa, thương cảm. Đó là những người như Bà Bơ- người đàn bà
cũng con dòng cháu giống, hoá ra cả đời lại phục vụ các cháu, về già mới có
được chút hạnh phúc riêng [28-165]. Đó là trường hợp bà Hiền- người cô của
tác giả trong truyện Một ngƣời Hà Nội, nếu nhìn qua thì chỉ thấy bà là một
người đàn bà rất bình thường, không có kỳ tích, chiến công gì đặc biệt. Thế
nhưng điều đáng để nói ở bà là giữa thời buổi có nhiều biến động này bà vẫn
giữ được một cách sống hợp lý, giữ được chồng con, giữ được danh dự, giữ
được cả sự thanh thản và cốt cách riêng nữa. Việc Nguyễn Khải, một người đã
viết Gặp gỡ cuối năm, Khoảnh khắc đang sống… mà giờ nhìn thấy ở bà Hiền
như “một hạt bụi vàng” của Hà Nội và mong mỏi “Những hạt bụi vàng lấp
lánh đâu đó mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói
36 3 6
sáng những ánh vàng” [28-182], đã chứng tỏ ông khác đi nhiều lắm. Đồng thời
người ta cũng nhận thấy một sự đối thoại, chất vấn giữa Nguyễn Khải của hôm
nay và Nguyễn Khải ngày hôm qua trong việc nhìn nhận và miêu tả những cán
bộ, những người cùng cảnh ngộ và tuổi tác với tác giả. Trước đây, trong các
trang văn Nguyễn Khải, họ luôn là những nhân vật bừng bừng sức sống với ý
chí và cảm xúc mạnh mẽ. Vậy mà nay, các nhân vật ấy đều mất đi vẻ hiếu
thắng vốn có. Do tuổi tác ư? Điều đó cũng có thể, nhưng cái chính là do mỗi
người bắt đầu cảm thấy mình có một cuộc sống riêng. Họ biết rằng việc đời
đâu phải lúc nào cũng chỉ có công tác này, chiến dịch nọ mà còn có gia đình,
người thân, những lo toan riêng và những tính toán riêng. Đâu đó, ta bắt gặp
một người đàn bà hầu như cả đời chỉ biết lo cho chồng cho con, cúi mặt xuống
để sống mà số phận cũng không buông tha; rồi cũng có người thì luôn sống biết
điều, cả đời không làm điều gì quá đáng, vậy mà vụng lo vụng tính nên ngay
trong gia đình cũng không cảm thấy yên ổn…Liệu có thể nói là so với hôm
qua, các nhân vật của Nguyễn Khải hôm nay đang có một sự lột xác hoàn toàn,
nghĩa là cái định hướng về cuộc đời ở từng người đã hoàn toàn thay đổi? Đúng
ra thì cũng không hoàn toàn như vậy. Những tưởng anh Dụ, anh Tú, chị
Vách…sẽ khó lòng sống qua được những hờn tủi, thách thức mà cái thời gió
bụi này ném vào mặt họ. Nhưng may thay, qua ngòi bút tác giả, ở họ vẫn tiềm
tàng một sức mạnh để rồi họ vẫn tha thiết sống với một sức sống dẻo dai, bền
bỉ. Vẫn là những con người luôn thích ứng với hoàn cảnh, chỉ có điều sự thích
ứng của họ hôm nay khác với của ngày hôm qua. Cách nhìn đời, nhìn người
của nhà văn cũng thay đổi nhiều, cái sắc sảo có phần đanh đá trước kia dần
thay bằng một sự khoan hoà thắm thiết trong những trang viết đầy yêu thương
và thông cảm. Cùng với đó, tính chất hiện thực thay đổi, đời sống con người
thay đổi khiến những thể loại dài hơi trở nên không còn phù hợp nữa, Nguyễn
Khải lại trở về với thể loại truyện ngắn- một thể loại mà ở những ngày đầu cầm
bút ông đã thành công.
Điều đáng chú ý là ở thời kỳ này, Nguyễn Khải đã dành không ít trang
viết về Hà Nội, nơi ông đã sống và lớn lên một thời tuổi trẻ. Đó có thể là nét
đẹp trong tâm hồn của một người nào đó trong gia đình Nguyễn Khải, đó có thể
37 3 7
là nếp sống, nét ứng xử văn hoá mang giá trị nhân văn của đất kinh kỳ.
Trong tác phẩm Một ngƣời Hà Nội, hình ảnh con người Hà Nội, cuộc
sống Hà Nội hiện ra với một vẻ đẹp riêng qua sự cảm nhận và vốn trải nghiệm
sâu sắc của nhà văn. Qua hình ảnh cô Hiền, tác giả muốn khắc đậm bản lĩnh,
cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn người Hà Nội qua lối sống lịch lãm, sang trọng gìn
giữ từ bao năm nay. Cô Hiền là hình ảnh một người phụ nữ luôn biết trân trọng,
nâng niu và có ý thức giữ gìn những nét đẹp của văn hoá truyền thống Hà Nội .
Qua nhân vật này, Nguyễn Khải cũng đã bộc lộ quan điểm nghệ thuật riêng về
con người mà cái chuẩn quy chiếu được đặt ra là lối ứng xử văn hoá cá nhân
của con người thể hiện bản lĩnh trong người Hà Nội. Tác phẩm cũng thể hiện
cách viết mới mẻ, sáng tạo của Nguyễn Khải trong nghệ thuật tự sự. Sự kết hợp
hai kiểu trần thuật:trần thuật khách quan và trần thuật chủ quan, giúp tác giả có
thể tự do thoải mái trong việc thể hiện nội dung, tạo ra cho tác phẩm những
tiếng nói đa chiều, nhiều tầng vỉa ý nghĩa.
Dù thế nào thì trước, sau người ta vẫn thấy ở Nguyễn Khải có sự thống
nhất:đó là một sự khao khát vô tận, khao khát không cùng muốn được có mặt
trong đời sống. Là niềm vui sướng kỳ lạ mỗi khi được lắng nghe, được trò
chuyện và được người đời khen- chê.
1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải.
1.2.1.Trước năm 1986.
Nguyễn Khải bắt đầu sự nghiệp viết văn vào cuối kháng chiến chống Pháp
với khá nhiều truyện ngắn viết về cuộc chiến đấu của du kích Liên khu III, và
năm 1951 , với truyện Xây dựng ông đã được giải khuyến khích về văn xuôi
trong cuộc thi văn nghệ 1951-1952. Mặc dù vậy, Nguyễn Khải lúc này vẫn
chưa được bạn đọc chú ý. Sau đó Nguyễn Khải còn để tâm viết một cuốn sách
khá công phu về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi - Ngƣời con gái quang vinh
(1956) Ngày tết về thăm quê(1957) Chỉ tại một ngày trâu(1958)…nhưng vẫn
không có dấu hiệu khả quan hơn. Nguyên nhân là do cách viết của ông thời kỳ
đầu còn thiên về kể nhiều hơn tả do đó tác phẩm của ông thường gây ra cho
người đọc cảm giác lan man, dài dòng, nhạt nhẽo.
Đến tận 1959, khi đã tích luỹ đủ vốn sống và kinh nghiệm trong nghề viết,
38 3 8
Xung đột(I) của Nguyễn Khải mới gây được sự chú ý và được bạn đọc đánh
giá tương đối cao. Và chỉ một năm sau, tập truyện ngắn Mùa lạc đã khẳng định
thêm chỗ đứng cho nhà văn trong nền văn học đương đại. Sau này tài năng của
ông tiếp tục được khẳng định nhưng không phải ở truyện ngắn mà ở những
truyện dài và tiểu thuyết. Như thế, sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Khải trước
đổi mới là không nhiều mà chỉ tập hợp trong một tập truyện. Với Mùa lạc thì
Nguyễn Khải được các nhà phê bình đánh giá là không những đã chọn được
cho mình một phương hướng tốt trong sáng tác mà còn vượt lên những sáng tác
trước đó cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
Toàn tập Mùa lạc gồm 7 truyện ngắn. Ngoài 3 tác phẩm được viết vào một
thời gian khác, còn lại đều lấy đề tài từ cuộc sống mới ở nông trường Điện
Biên, tập trung vào 2 chủ đề: tích cực và tiêu cực trong cuộc sống. Nằm vạ và
Một đứa con chết là cuộc sống ở vùng công giáo còn nhiều khó khăn, phức
tạp; cái cũ vẫn còn đủ sức mạnh lấn át, chèn ép cái mới. Vẫn còn những con
người như bà Bột [28]- một người phụ nữ bình thường, nghèo khổ bị bọn phản
động đội lốt tôn giáo lợi dụng, biến mụ thành tay sai đắc lực chống phá chính
quyền vô điều kiện. còn có những người như vợ chồng bác nông dân ngoan đạo
trong truyện Một đứa con chết “ vì quá tin kẻ khác nên mới bỏ cả cái hạnh
phúc thật ở đời này để đi tìm một hạnh phúc hão huyền nào không có
thật”.[50-356]. Với hai tác phẩm này, Nguyễn Khải đã vạch trần, lên án bộ mặt
thật của những kẻ phản động trá hình tự xưng là “Cha” đại diện cho Đức
Thánh để lừa bịp, dụ dỗ những giáo dân vô tội. Đồng thời qua đó cũng thấy
được những khó khăn, phức tạp còn cản trở người dân trên con đường xây
dựng cuộc sống mới nhất là những yếu kém đó còn ở trong những nhận thức ấu
trĩ, lạc hậu của chính họ.
Phần lớn những tác phẩm trong tập Mùa lạc và cũng là những thành công
của Nguyễn Khải ở tập truyện này là chủ đề cuộc sống mới. Điện Biên lúc bấy
giờ là bộ mặt điển hình nhất của miền Bắc đang bước vào xây dựng cuộc sống
mới. Trước kia, nơi đây từng là chiến trường ác liệt, các chiến sĩ cách mạng đã
phải đổ máu và nước mắt để bảo vệ từng tấc đất. Ngày nay, nơi những bãi bom
đã xanh rờn màu xanh của ngô, của đỗ. Thế nhưng trong tập truyện này,
39 3 9
Nguyễn Khải không đi vào thể hiện những thay đổi có tính lớn lao đó. Chúng
ta không thể tìm thấy trong Mùa lạc những cảnh khai phá bãi mìn như trong
Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng; những cảnh di cư, dọn nhà lên Điện
Biên như trong tuỳ bút Sông Đà của Nguyễn Tuân… ngay cả những cảnh lao
động sản xuất, khai phá đất hoang cũng không hề được tác giả phản ánh. Vấn
đề được đưa ra ở đây là mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sống lao
động mới: quan hệ giữa bố- con trong Bố con, quan hệ đồng chí, bè bạn trong
Mùa lạc, quan hệ cấp trên- cấp dưới trong Ngƣời tổ trƣởng máy kéo hay quan
hệ giữa những con người sa cơ lỡ vận trong Mùa lạc, Đứa con nuôi. Và qua
những mối quan hệ ấy, Nguyễn Khải đã phản ánh được bản chất tốt đẹp của
một xã hội mới đang hình thành.
Để làm được điều đó tác giả đã dụng công xây dựng lên hình ảnh những
con người mới với những phẩm chất cao quý với tất cả niềm yêu mến trong sự
trân trọng. Đó là Cừ, Quang trong truyện Đứa con nuôi, là Nông Kỳ Lâm,
Doãn trong Ngƣời tổ trƣởng máy kéo. Họ chỉ là những con người bình thường,
giản dị, chất phác xuất thân từ dân nghèo nhưng đã được thử thách, rèn luyện
qua cuộc chiến đấu gian khổ. “Đấu tranh gian khổ, năm tháng luyện cho tâm
hồn một cái gì rất trong sáng, đến nỗi soi vào mình mà thấy được tâm tư của
người khác, một nghị lực mà chỉ khi gặp khó khăn mới thấy được hết sức manh
của nó và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những
người khác cùng đi với mình trên một con đường…”[50-98]. Họ mỗi người có
một xuất thân và cuộc sống riêng nhưng đều có một điểm chung là tinh thương
yêu con người- một tình yêu có thể làm thay đổi cuộc đời của một con người.
Nhân vật chị Đào trong truyện ngắn Mùa lạc là người phụ nữ ba chìm
bảy nổi, goá chồng , mất con.” Đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là
giường”.[50-99]. Cuộc đời tưởng đã đến dấu chấm hết, nhưng khi lên nông
trường Điện Biên, được mọi người thương yêu, từ một người phụ nữ chua
ngoa, chao chát, chỏng lỏn trở thành một người phụ nữ dịu dàng, biết quan tâm
đến người khác. Chị đã tìm lại được hạnh phúc mà chị đã mất đi từ bảy tám
năm nay. Em Tấm là đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ bé, phải đi ở hầu hạ cho kẻ khác
để kiếm miếng cơm. Cuộc sống bươn chải sớm , lại luôn bị nhà chủ hành hạ,
40 4 0
đay nghiến, xét nét…khiến tâm hồn trong sáng của em bị vẩn đục. Từ khi được
anh Cừ- chủ nhiệm nông trường đem về nuôi, cho ăn học, lo cho tiền đồ của
em mà không nghĩ đến sự trả ơn. Thoa, Duệ đều là những người từng sống
trong cô đơn, tủi cực đã được những con người ở Điện Biên làm thay đổi, tìm
được hạnh phúc thực sự cho cuộc đời mình.
Nguyễn Khải đã rất sắc sảo khi phản ánh cái mới của xã hội ta thông qua
các mối quan hệ mang tính nhân đạo giữa con người với con người. Qua những
nhân vật tích cực như Cừ, Quang, Huân, Nông Kỳ Lâm…tác giả đã thấy được
những ngọn gió mát lành đương xuất hiện trong đời sống và làm thay đổi tâm
hồn con người. Và như thế, không phải lên nông trường Điện Biên thì những
người như chị Đào, cô Thoa, bé Tấm mới tìm thấy hạnh phúc bởi có thể gặp
những Cừ, Quang, Huân ở bất cứ đâu. Đó chính là cái mới, là bản chất tốt đẹp
của xã hội ta lúc đó.
Đi vào phản ánh các mối quan hệ đã chi phối cách thể hiện của tác phẩm.
Đọc Mùa lạc, người ta không thấy chuyện hay nói cho đúng hơn người ta
không chú ý nhiều đến câu chuyện vì nó không có gì ly kỳ, hấp dẫn. Điều hấp
dẫn, lôi kéo người đọc một cách tự nhiên là những nỗi niềm, tâm sự, dằn vặt
trong đời sống tinh thần của từng nhân vật. Với đặc điểm này, Nguyễn Khải đã
khắc phục được những nhược điểm của thời kỳ đầu và bắt đầu tạo cho mình
một phong cách độc đáo. Điều đặc biệt nữa là, trong Mùa lạc Nguyễn Khải
chú ý đến cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Nếu như những nhà văn viết
truyện ngắn khác như Bùi Hiển, Vũ Tú Nam và một số nhà văn khác thường ẩn
mình để tự sự việc nói lên tư tưởng của tác phẩm thì với Nguyễn Khải , ông lại
thông qua nhân vật để nêu lên những vấn đề triết lý, nhân sinh, bình luận về
một hình tượng trong đời sống. Thông thường khi tác giả can thiệp vào nhân
vật của mình thì rất dễ biến nhân vật của mình thành những người thuyết lý,
thành cái loa của người viết. Trong Mùa lạc, Nguyễn Khải đã thành công trong
việc vận dụng nghệ thuật trên để phân tích sâu nhiều vấn đề, khai thác tâm lý
nhân vật để phát hiện ra những khía cạnh và mâu thuẫn qua những câu chuyện
bình thường, giản dị của cuộc sống hàng ngày, đồng thời hướng sự suy nghĩ
của người đọc về một vấn đề nhất định, để người đọc nhận thức rõ ràng, thấu
41 4 1
đáo về vấn đề xã hội mà tác giả muốn nêu lên. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng
đôi khi Nguyễn Khải phát biểu ý kiến của mình quá lộ liễu làm người đọc có
cảm giác tác giả dựng lên những luận đề có sẵn rồi ép thực tế khuôn vào. Lại
có trường hợp Nguyễn Khải để nhân vật thuyết lý quá nhiều khiến người đọc
không thấy nhân vật mà lại thấy như chính tác giả đang thao thao bất tuyệt,
luận bình say sưa về vấn đề nêu lên. Đó cũng là những hạn chế khiến cho giá
trị của tác phẩm bị giảm sút. Tuy nhiên, tập Mùa lạc đã đánh dấu bước thành
công của Nguyễn Khải trên con đường sáng tác.
1.2.2.Sau năm 1986
Nếu như trước 1986, Nguyễn Khải chủ yếu thành công với những tiểu
thuyết, truyện dài như Xung đột(I)(II), Họ sống và chiến đấu, Tháng ba ở Tây
Nguyên, Chiến sĩ, Ngƣời trở về…thì sau đổi mới sự thay đổi của cuộc sống
hiện thực đã kéo theo nhiều sự thay đổi trong đời sống nghệ thuật. Chiến tranh
qua đi, con người trở lại với cuộc sống mới thường ngày, cái cá nhân bị tạm
gác lại nhường chỗ cho cái tập thể trong chiến tranh nay đã tìm về đúng vị trí
của nó. Đồng thời, các thể loại văn học dài hơi trở nên không còn phù hợp khi
mà bối cảnh hiện thực cho nó không còn và con người thì phải tất bật với
những lo toan vật chất thường ngày. Như là những “lát cắt”, “góc nhìn” về hiện
thực, truyện ngắn lúc này trở nên thich hợp hơn bao giờ hết. Chính vì thế, sự
chuyển hướng trong sáng tác lúc này là một điều tất yếu và cần thiết. Với
Nguyễn Khải, ngoài một số ít tác phẩm như Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi
nhân gian bé tí và bút ký, tạp văn thì sáng tác chủ yếu của ông thời kỳ này chủ
yếu là truyện ngắn. Có thể nói đây là mảng sáng tác thành công nhất của ông ở
thời kỳ này.
Vẫn là một Nguyễn Khải xông xáo, năng động, nhạy bén, ngoài việc đến
với những vùng đất cũ, những nơi đã từng đi qua một thời tuổi trẻ, gặp lại
những con người một thời làm ông trăn trở để rồi lại có một cách nhìn khác, tự
xem xét và chiêm nghiệm lại chính những sáng tác của mình thời gian qua. Thế
giới các nhân vật của Nguyễn Khải giờ đây là những con người rất bình
thường. Đó có thể là những con người mà lẽ sống duy nhất của cuộc đời họ là
cách mạng, vì lý tưởng mà vượt lên trên hết thảy, kiên trinh, tin tưởng vào lẽ
42 4 2
sống mình đã chọn như ông Ba Quốc Hội “làm việc cho cách mạng là cái
nghĩa vụ ở đời…làm theo cái lương tâm chứ không cốt làm để mai này kể công
hưởng lợi”[28-144]; là thầy Minh với triết lý sống: “cái khó nhất của mọi cái
khó là tập giữ trọn được lời hứa. Thưở nhỏ là hứa với cha mẹ, với thầy cô bạn
bè, lớn lên là hứa với ý tưởng, với đất nước với non sông. Trước khi hứa phải
nghĩ cho chín, còn đã hứa thì sau này gươm có kề cổ cũng không thay đổi, thân
phận có tan nát cũng không thay đổi”[28-348]; là ông trưởng họ trong tác
phẩm cùng tên luôn truyền dạy trong dòng họ một cách sống: “biết sống dũng
cảm, sống vị tha và dám hy sinh cho niềm tin thấy là đúng”…Rồi những cảnh
đời trắc trở, trớ trêu, những số phận nhỏ bé, suốt đời “chỉ biết làm thôi, làm
không biết đến mệt nhọc, đến ốm đau, đến nguy hiểm” [28-202]. Nếu như trước
đây, Nguyễn Khải xây dựng lên những anh hùng cách mạng với tất cả sự kính
trọng và ngưỡng mộ thì nay ngòi bút của ông lại trở nên xúc động trước những
số phận éo le, những cảnh đời bất trắc, đau khổ. Và chính trong hiện thực đó,
ông lại phát hiện ra nhiều vấn đề nhân sinh ẩn giấu, những nét đẹp của đạo đức
truyền thống trong hôm nay.
Một mảng sáng tác khác có giá trị thời kỳ này là những tác phẩm viết về
Hà Nội- nơi chứa chan, lưu giữ bao kỷ niệm của một thời. Nhân vật trong
mảng sáng tác này chủ yếu là những người thân thuộc đối với Nguyễn Khải.
Đó là cô Hiền - một người cô họ, bình thường như bao người dân Hà Nội khác
nhưng trong phong thái và cách sống của cô chứa đựng nhiều giá trị nhân văn
làm nên nét đẹp người Tràng An. Người được tác giả coi là “hạt bụi vàng” và
còn thầm ước “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy
mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng”[50-214].
Hay là một người bà cô khác nào đó luôn chăm lo, gìn giữ gia phong của một
dòng họ trong Nếp nhà; là cô em họ biết tính toán hợp thời nhưng bao giờ cũng
trọng cái danh hơn cả trong Tiền; là một bà cụ bình thường nhưng cách ứng xử
lại danh giá trong Ngƣời của ngày xƣa…Bên cạnh những con người là hồn
cốt, là lịch sử của Hà Nội thì Nguyễn Khải còn viết về những con người của Hà
Nội ngày hôm nay-“những nhân vật chính của một vận hội mới”. Một mặt, ông
43 4 3
nhận ra đúng tiềm năng của họ, mặt khác ông cũng nhìn thấy những khiếm
khuyết của tuổi trẻ. Qua đó nêu lên những câu hỏi, là làm sao cho lớp trẻ phấn
đấu, phát huy hết khả năng, là nguồn lực chấn hưng, đổi mới xã hội.
Nếu so với những sáng tác thời còn trẻ thì nay cách viết của Nguyễn Khải
tỏ ra bao dung, nhẹ nhàng hơn. Các vấn đề ông hướng tới không còn là những
hiện thực lớn lao mang tính chất thời sự nữa mà là những giá trị nhân văn ẩn
giấu sau những điều bình dị trong cuộc sống. Tuy thế, một nét vẫn rất Nguyễn
Khải còn tồn tại là qua những câu chuyện rất đỗi bình thường ấy là những suy
tư, chiêm nghiệm, triết lý của nhà văn. Những câu như “Ở đời chỉ có cái đức là
trường tồn, càng có nhiều càng tốt, không sợ thừa. Kỳ dư những thứ khác đều
là phù du cả, có đấy, mất đấy, phúc đấy, hoạ đấy, không tính trước được
đâu”[28-456] và rồi “chỉ có cái tâm tốt của con người mới làm nảy nở được
những cái mầm yêu thương”[28-166]…thường xuất hiện rất nhiều trong truyện
ngắn Nguyễn Khải.
Như vậy, cùng với sự vận động tự thân của đời sống văn học, đồng thời
như là “một cách tồn tại trong đời sống văn học”[49], Nguyễn Khải đã có
những cách tân trên cả bình diện nội dung và nghệ thuật, vừa thể hiện độ chín
về mặt văn nghiệp, vừa để cho phù hợp với xu thế chung của thời cuộc.
Như vậy, khắc phục những thiếu sót buổi ban đầu Nguyễn Khải đã dần dần
đánh dấu sự có mặt của mình trên văn đàn bằng những tác phẩm nóng hổi tính
thời sự. Truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kí sự...và sau này là cả tạp văn,
bút kí, ở lĩnh vực nào ông cũng có những tác phẩm được người đọc hưởng ứng.
Không phải là vô cớ khi mà hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình đều đánh giá
Nguyễn Khải là một trong số những nhà văn có đóng góp lớn vào sự phát triển
của văn học nước nhà. Ở một phương diện khác, dù số lượng tác phẩm không
dồn dập như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, hay Nguyễn Huy Thiệp…nhưng sức
viết của ông lại tương đối dẻo dai. Ở thời kỳ nào thì những sáng tác của ông
cũng bắt kịp và đi cùng với thực tiễn đời sống văn học. Nguyễn Khải xứng
44 4 4
đáng là nhà văn tiêu biểu của thời đại chúng ta.
Chương 2 Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải
sau năm 1986
Lịch sử cho thấy không có sự phát triển nào là không có sự kế thừa của cái cũ,
trong cái mới luôn có cái cũ tồn tại nhưng theo một hình thức khác cũng như
trong cái cũ luôn có mầm mống cái mới nảy sinh. Sự thay đổi dù theo hình thức
nào và dù cho mục đích nào thì cũng vẫn có sự liên hệ với những gì trước đó.
Con người ta không bao giờ thoát ra khỏi cái bóng của chính mình, nhà văn
cũng vậy, anh ta dù có thay đổi, dù có “lột xác” thì vẫn không vượt ra ngoài cái
khuôn nó làm cho anh ta phân biệt với những nhà văn khác. Cũng chính nhờ sự
nhất quán trong toàn bộ con đường sáng tác mà các nhà nghiên cứu xác định
được tác giả cho một số tác phẩm “khuyết danh”. Phong cách tác giả được tạo
bởi chính những yếu tố “bền vững” đó.
2.1.Tính liên tục trong nội dung
2.1.1.Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực
2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn.
Văn học là nghệ thuật phản ánh cuộc sống qua lăng kính chủ quan của nhà
văn, thế nên, dù là sáng tác theo cách nào lãng mạn, hiện thực hay siêu thực thì
cái gốc của văn vẫn là cuộc sống, nên về một khía cạnh nào đó thì nhà văn
đúng là “người thư ký trung thành của thời đại”
Khi khảo sát những truyện ngắn trước 86, chúng ta thấy Nguyễn Khải đã đi
vào phản ánh rất kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng bỏng. Đó là
cuộc sống mới trên nông trường Điện Biên (Mùa lạc, Đứa con nuôi, Ngƣời tổ
trƣởng máy kéo), là công cuộc xây dựng cuộc sống mới với những tàn tích của
lối sống tư hữu vẫn còn tồn tại cản trở không nhỏ đến bước tiến của cách mạng
( Nằm vạ, Tầm nhìn xa…)Phản ánh bộ mặt mới của Điện Biên, Nguyễn Khải
đã không tô hồng cuộc sống, không đơn giản hoá con người. Anh biết nhìn và
miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng. Cuộc sống ở đây tuy
đã đổi mới nhưng không phải tự nhiên có ngay cuộc sống mới. Chủ nghĩa xã
hội ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào khác trên miền Bắc nước ta đều xuất hiện
45 4 5
qua cuộc đấu tranh chống cái cũ, cái lạc hậu trong đời sống và trong từng con
người. Nguyễn Khải đã thấy rõ điều đó, nên nhà văn tập trung miêu tả cuộc đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới, nêu lên những vấn đề thiết thực nóng hổi của đời
sống, của con người.
Sau 86, đất nước tiến hành đổi mới, cởi trói cho đời sống văn học. Hiện
thực được mở rộng theo cả ba chiều: quá khứ, hiện tại và tương lai giúp cho cái
nhìn của nhà văn vừa tự do hơn, dân chủ hơn vừa đa dạng hơn. Tiếp tục tính
xông xáo của một ngòi bút luôn đi đầu ở những nơi cuộc sống diễn ra sôi động
nhất, tiêu biểu nhất, Nguyễn Khải đã đi vào khai thác cuộc sống hôm nay với
những tác động của nền kinh tế thị trường đến đời sống xã hội. Chỉ có điều,
diện mạo của cuộc sống mới không đến với Nguyễn Khải từ phía những biến
cố, những đổi thay có tính quyết định mà bắt đầu từ những điều bình thường,
đơn giản trong cuộc sống.
Diện mạo của một xã hội mới được nhận ra trước hết ở sự sụp đổ của một
mô hình kinh tế mà trước đó người ta dồn hết tâm trí để xây dựng- kinh tế tập
thể. Mô hình kinh tế tự cung tự cấp, vô lo, vô nghĩ lúc đầu đã đem đến cho
người dân sự sung sướng, nhàn hạ. Nhưng rồi cái cảnh, ngày nào cũng như
ngày nào, cuộc sống cứ thế trôi đi một cách lặng lẽ, buồn tẻ, nhàm chán. Mọi
người đều sợ sự thay đổi, khinh rẻ cái cá nhân vì luôn tin vào cái hạnh phúc,
may mắn họ đang có là bất di bất dịch. Để rồi một ngày…khi nền kinh tế thị
trường ập vào thì tất cả sụp đổ, toà lâu đài họ dày công xây đắp bao lâu bỗng
dưng tan biến như bong bóng xà phòng. Đó là một thực tế ở xã N cũng như bao
vùng quê khác trên khắp đất nước.Vào những năm 70, họ phất lên, nhận bao
nhiêu huân huy chương nhờ nghề dệt cói xuất khẩu. Trồng cói đơn giản, không
tốn công sức, đầu tư ít, mẫu mã hàng thì đã có sẵn từ nhiều năm, khách ăn hàng
ở các nước XHCN vốn dễ tính, không đòi thay đổi. Thời đánh Mỹ ác liệt thế
mà hàng xuất khẩu bán vẫn chạy vậy mà bây giờ…Sự yên tĩnh đang mở ra viễn
cảnh phồn thịnh lại khiến cho người dân xã N gặp vô vàn khó khăn. Các mặt
hàng quá quen giờ đây không còn thu hút được khách hàng nữa, nó bị chèn ép
bởi những hàng mới mẫu mã đẹp hơn. Một thị trường tự do cạnh tranh đã làm
thay đổi những thứ tưởng như không bao giờ thay đổi. HTX trồng cói bị phá
46 4 6
sản. Người ta lại phải tính quay về nghề trồng lúa với bao khó khăn, thử thách.
Giấc mộng đại đồng đã tan thành mây khói, người giàu cứ giàu, ai nghèo cứ
nghèo, người ta đua nhau làm ăn, buôn bán, cạnh tranh, kèn cựa nhau từng tí
một kể cả phải dùng đến vũ lực họ cũng không từ. Những thứ xưa vẫn là của
chung, nay được đem ra mua bán, thanh lý để rồi tiền lại rơi vào túi “các ông
uỷ ban”, ”bán lúc nào, được bao nhiêu không ai biết. Các quỹ đều rỗng nhưng
tiền thì vẫn có”[28-274].
Sự thay đổi dữ dội có phần bất ngờ với số đông ấy tuy vậy cũng đưa lại
những hiệu quả tích cực ban đầu. Đó là cuộc sống đàng hoàng hơn, đủ đầy hơn.
Ở Hà Nội bây giờ, người ta không còn tiếp khách bằng những “bữa cơm du
kích” theo kiểu có gì ăn nấy nữa mà phải báo trước, phải chuẩn bị trước, “lại
ngồi bàn, khăn trải bàn, giấy thơm chùi tay, bát đĩa sáng nhoáng” [28-
286],”làm được nhà vệ sinh riêng dùng nước dội…tắm vòi hoa sen, có vòi nóng
vòi lạnh…được uống rượu Tây trước mỗi bữa ăn và nhấm nháp miếng pho mát
vào mỗi buổi chiều” [28-307]. Không chỉ ở thành phố mà sự đổi thay ấy còn
diễn ra ở cả nông thôn, ở những nơi nhà quê. Làm nông nhàn, lại kiếm tiền dễ
nên những người trẻ tuổi có thời gian rảnh, họ tìm trò vui để giải trí, mà quy
luật trong xã hội là có cầu thì tất sẽ có cung. “Một cái xóm có dăm chục nóc
nhà cũng có tiệm làm đầu, cho thuê quần áo cưới, cho mướn băng video, cầm
đồ, cho vay lãi và có cả bàn đèn lẫn gái điếm”[28-322].
Bên cạnh những tích cực mà nền kinh tế thị trường đưa đến thì đồng thời
những tiêu cực cũng theo đó ùa vào.”Bây giờ cả Hà Nội đều làm thương mại.
Gia đình thì mở quán. Cơ quan mở công ty dịch vụ “, nhà chùa thì “bán tương,
bán kinh kệ, tràng hạt, tượng ảnh” [28-286]. Đồng tiền len lỏi vào những ngõ
ngách của cuộc sống, cả những nơi được coi là thành kính thiêng liêng nhất. Sự
quyến rũ của nó không ai có thể cưỡng lại được. Mỗi người một cách: có người
chọn con đường làm quan để phát tài dẫn đến loại bỏ lẫn nhau mà “cái nhân
danh để loại bỏ thì rất đẹp nhưng thủ đoạn thì lại rất tệ. Người không ác,
không tàn nhẫn, không vô ơn thì không thể thắng cuộc được”([28-296]. Trong
cuộc chạy đua vô cùng ấy thì “vốn liếng của chúng nó là sự liều lĩnh, phản trắc
và lừa đảo. Và không hề quan tâm tới ai, không thương xót một ai ngoài đồng
47 4 7
tiền”[28-308]. Trong Một người Hà Nội khi tác giả thấy “chưa bao giờ Hà Nội
vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui” [24-64] thì đồng thời tác giả cũng
nhận ngay ra những đổi thay đó chỉ là phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa bởi
cách nói năng, cư xử của người Hà Nội bây giờ khác xưa nhiều quá. Những câu
nói tục tĩu, những hành động sỗ sàng, những cái nhìn hợm hĩnh có thể bắt gặp ở
bất cứ đâu. Con người nhiều khi không còn được là chính mình nữa. họ phải
thay đổi để tồn tại trong xã hội mới. Ở đó những người lương thiện, hiền lành
thường hay bị thua thiệt, mà muốn không bị thế thì chỉ có một cách, phải chơi
rắn và không được phép tin một ai cả, phải giữ vững một nguyên tắc sống, thà
để người khác chịu thiệt chứ nhất quyết không để mình thiệt, là danh cũng thế ,
là lợi cũng thế, phải tự bảo vệ mình tới cùng, có trường hợp mình phải, có
trường hợp mình trái nhưng “trái thì trái nhưng cứ to tiếng, cứ lấn tới thì trái
cũng thành phải.Thiếu gì người đã từng làm thế để tồn tại, để ngoi lên, để phủ
bóng lên người khác mà rồi vẫn được xã hội trọng vọng”[28-216]. Những nét
đẹp thuộc về văn hoá Hà thành thì dần bị mai một , không còn được mấy người
lưu tâm nữa, ví thử thú chơi thuỷ tiên ngày Tết chẳng hạn, một thú chơi tao
nhã, quý phái nhưng “dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đử thứ mà
lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên…” [24-65] hơn nữa “Ví thử có thuỷ
tiên thì liệu còn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên?”.[24-65].
Trong tất cả những đổi thay đó thì có lẽ sự xuống dốc về đạo đức con người
mới là điều đáng sợ nhất. Người xưa có câu “Nghĩa tử là nghĩa tận” thế nên
trước cái chết con người ta đều rất thật lòng. Vậy mà bây giờ cái tình cảm ấy đã
không còn được tôn trọng. Đám ma dường như không phải là sự đau thương
mất mát nữa mà như là một niềm vui vì “tiếng kèn, tiếng khóc đều phóng qua
loa lớn như cả làng khóc”.[28-73]. Mà điều đặc biệt hơn nữa là tiếng khóc kia
không phải là của con cháu, họ hàng thân thích mà là của những người hoàn
toàn xa lạ- những kẻ khóc thuê. Mọi sự đều trở nên gọn ghẽ, rành mạch, rõ
ràng và cũng rất tiện lợi: “con khóc cha mẹ, cháu khóc ông bà, bạn bè khóc
nhau đều có bài in trong băng, mỗi bài dài mười phút, giá năm nghìn đồng một
bài”[28-321].
Một thực tại của cuộc sống hôm nay với cơ chế thị trường vừa mở cửa, tích
48 4 8
cực có, tiêu cực có, sáng có, tối có…tất cả đều được Nguyễn Khải nhìn nhận,
đánh giá một cách rõ ràng, thấu đáo. Bắt đầu từ những “cái hôm nay”, từ thực
tế đang sống vốn là một phương châm viết của Nguyễn Khải. Ông từng viết:
“Nếu không đi, chỉ ngồi tĩnh lặng mà nhớ lại thì nhạt lắm. Ngay cả khi viết về
cái xa xưa cũng cần có tia nhoáng lửa của hôm nay, cái xôn xao của bây
giờ”[21-14]. Chính qua những cuộc gặp gỡ, trò chuyện, mắt thấy, tai nghe mà
nhà văn bất chợt nhận ra một mẫu người vốn kiếm tìm, những ý tưởng từng
nung nấu, những cốt truyện bị bỏ quên và cả những kết cấu rất mới lạ…Và đôi
khi, hiện tại là một cơ hội có sức kích thích nhiều vùng ký ức trở nên sống
động, loé sáng. Nhiều tác phẩm hay đã được bắt đầu từ những bức xúc rất nhỏ
của một chuyện hôm nay, của cái bây giờ. Tuy nhiên, văn Nguyễn Khải khác
hẳn với thứ văn “thời sự” giản đơn, dễ dãi. Tác phẩm của ông không chỉ nói về
cái hôm nay mà còn từ cái hôm nay đi vào những thân phận con người, những
thăng trầm của kiếp người.
Thực ra, khi cầm bút nhà văn nào lại chẳng bắt đầu từ cái hôm nay, thậm
chí hướng về ngày hôm nay, nhưng vấn đề là ở cách thể hiện của mỗi người.
Nếu Nguyễn Minh Châu (sau 75) và Bảo Ninh đã lấy cái hôm nay để làm điểm
tựa nhìn về quá khứ thì Nguyễn Khải, trái lại tắm mình trong cái ngày hôm nay
để nói về chính nó. Nếu tiểu thuyết của Bảo Ninh là tiếng gọi của hồi ức, của
quá khứ thì đa phần sáng tác của Nguyễn Khải là tiếng gọi của hiện tại, của
ngày hôm nay hay nói một cách khác, tác phẩm của ông là cái hôm nay đang
cất lời.
Cũng cần nói thêm rằng, tắm mình trong cái hôm nay không phải là đặc điểm
chỉ có ở Nguyễn Khải mà nhiều nhà văn cũng lựa chọn xu hướng này, trong đó
đáng chú ý là Ma Văn Kháng. Tuy nhiên giữa Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng
cũng có sự khác nhau rất rõ. Ma Văn Kháng đối diện với cái hôm nay từ một
“ô cửa”- đại gia đình hoặc một cộng đồng thu hẹp nào đó như một ngôi trường,
một tầng nhà chung cư…Quan trọng hơn, mối quan tâm lớn nhất của Ma Văn
Kháng là những giá trị chân chính của con người. Ông tái hiện thế giới hôm
nay trong sự khủng hoảng sâu sắc của các giá trị đạo đức, nhân cách truyền
thống. Còn Nguyễn Khải? Ông quan tâm nhiều hơn đến đời sống tư tưởng của
49 4 9
con người thời đại. Ông tập trung tái hiện sự va đập của các luồng tư duy, tư
tưởng của con người trên một lát cắt hiện tại. Chính thông qua cái mô-măng ấy
Nguyễn Khải đã cho người đọc thấy sự chuyển động của cái ngày hôm nay.
2.1.1.2 Đời sống tinh thần của con người đương thời .
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nói rằng ” Đời sống- đó còn là tư tưởng.
Những tư tưởng sống trong đầu óc của những người đang sống hôm nay”. Xã
hội con người được tạo nên bởi cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, những
thay đổi trong đời sống kéo theo thay đổi trong tư tưởng. Mâu thuẫn, xung đột
nảy sinh khi một nền tảng đạo đức cũ bị phá vỡ mà các giá trị đạo đức mới lại
chưa hình thành. Đó là thời kỳ diễn ra sự đấu tranh giằng co mang tính quyết
định để cái mới xác lập vị trí của nó. Gía đình là một xã hội thu nhỏ thế nên
những biến động của xã hội dù là nhỏ nhất cũng được thể hiện trước hết trong
từng gia đình, từng cá nhân mỗi người.
Trước 86, trong tập truyện Mùa lạc, những mâu thuẫn, xung đột giữa tư
tưởng cũ và tư tưởng mới đã bắt đầu được đề cập khi mới manh nha qua việc
xây dựng nên hệ thống những nhân vật tích cực và tiêu cực ít nhiều còn mang
những tàn tích của chế độ cũ. Đó là Khôi trong Ngƣời tổ trƣởng máy kéo, là
Giao trong Một cặp vợ chồng…Xét về mặt công tác thì họ là những cá nhân có
tài, có ích cho xã hội : Giao là một anh chàng y tá đẹp trai, tính nết cũng cởi mở
được mọi người trong đội sản xuất yêu mến; Khôi- anh đội phó phụ trách kế
hoạch, lại là “một cán bộ rất tháo vát, thông minh, phụ trách những công việc
trên giao cho khá trôi chảy. Thế nhưng, xét về mặt đạo đức cách mạng thì họ là
những người lạc hậu, tư tưởng của họ đối lập hẳn với tư tưởng XHCN. Lí do
duy nhất khiến họ làm việc tích cực, hăng say là vì thành tích, vì lợi ích cá
nhân họ. Và hơn nữa, họ thiếu hẳn lòng tin yêu con người, họ không yêu ai,
không tin ai ngoài bản thân mình. Với Khôi, hắn chỉ biết “nhìn người khác
bằng con mắt xoi mói đầy nghi ngờ, tìm bới ra những những nét xấu xa với nụ
cười tàn nhẫn và dùng những biện pháp cay nghiệt nhất để trừng trị họ với tấm
lòng hỉ hả”.[23-37].Với Giao, “sự sống của anh chỉ có một sức mạnh thúcđẩy:
đó là lòng tự yêu mình và chỉ vì mình”[23-37]. Anh ưa được hưởng thụ mà
không muốn trả lại, mong muốn người khác san sẻ cho mình nhiều tình yêu
50 5 0
thương nhưng bản thân lại hết sức tằn tiện trong việc chăm sóc người khác. Rõ
ràng, nhìn bề ngoài, họ không khác gì Cừ, Quang, Huân…nhưng dưói ngòi bút
tinh tế của Nguyễn Khải họ đã lộ rõ chân tướng, thực chất họ chỉ là những con
người tư sản không hơn, không kém. Đạo đức và nhân sinh quan của họ là của
giai cấp tư sản, đối lập hẳn với đạo đức của một xã hội mới- XHCN.
Sau 86,sự đối lập giữa các luồng tư tưởng mới- cũ càng trở nên rõ rệt và
đậm hơn. Trong khi mô tả hiện tại, các nhân vật của Nguyễn Khải hay hồi
tưởng về quá khứ để từ đó có sự so sánh, đối chiếu với hiện tại, hiểu thêm
những gì mình đang có và cũng thêm yêu cuộc sống mới. Và như thế, hệ thống
nhân vật trong hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Khải chia thành hai phái rất rõ
ràng: phái già và phái trẻ.Phái già là đại diện cho cái cũ, cho một thời đã qua,
cho những gì nay chỉ còn vang bóng. Phái trẻ là đại diện cho cái mới, cho thời
đại mới, cho cái đang và sẽ xuất hiện, là chủ nhân của xã hội tương lai.
Không biết có phải do ảnh hưởng từ môi trường làm việc hay không mà hầu
hết nhân vật của Nguyễn Khải là những người xuất thân từ môi trường quân
đội- những con người được rèn luyện và chiến đấu, từng đứng giữa ranh giới
giữa sự sống và cái chết nên với họ đó là quãng đời đáng sống. Đối với nhiều
người, được trở về đã là một điều may mắn và trở về một cách lành lặn lại càng
may mắn hơn hơn nữa. Đối với họ, cuộc sống là ở thế giới tinh thần chứ không
phải là những mưu toan vật chất. Thế nên, khi bước ra khỏi cuộc chiến, trở về
với thời bình nhiều người đã trở nên mất thăng bằng, chống chếnh, lạc lõng.
Mỗi người mỗi thời, mình có thời của mình, người ta lại có thời của người ta.
Dù là vàng son, dù là oanh liệt thì cái thời của họ cũng đã là cái thời đã qua,
còn bây giờ là thời của những người trẻ tuổi. Nếu hai thế hệ này sống riêng biệt
thì chắc sự đối lập, mâu thuẫn giữa họ sẽ giảm đi nhiều, đằng này họ lại sống
chung dưới một mái nhà, ăn chung một mâm, thế nên cái sự đụng độ, va chạm
Với con mắt sắc sảo, ưa phân tích, Nguyễn Khải đã sớm nhận ra sự rạn nứt,
kia lại càng trở nên gay gắt hơn.
khoảng cách ngăn vô hình đó trong mỗi gia đình. Bắt đầu từ cách sống và
những quan niệm khác nhau về giá trị…Nền kinh tế tự do mở ra bao nhiêu là
cơ hội , hứa hẹn một sự đổi đời thì người người, nhà nhà đều muốn chăm lo
51 5 1
vun vén cho lợi ích cá nhân, và cách duy nhất lúc này là kiếm tiến, kiếm thật
nhiều tiền. Câu chuyện của ông Vị- đại tá quân đội về hưu, trong Nơi về là một
ví dụ. Ông sống cùng con trai và con dâu, nhưng xem ra cuộc sống của mỗi
người lại là một thế giới riêng. Ông đã nghỉ hưu nên nhiều thời gian rảnh rỗi,
còn vợ chồng người con trai thì suốt ngày toan tính, lăn lộn để kiếm tiền. Điều
đó có lẽ sẽ là bình thường nếu hai vợ chồng anh không coi niềm vui duy nhất
sau mỗi ngày là “ngồi đếm tiền”. Hầu như hai bố con không mấy khi ngồi trò
chuyện cùng nhau. Giữa họ không hề tìm thấy một sự đồng cảm nào. Khi
người cha kể lại những kỷ niệm thời chiến thì anh con trai lại chỉ nghĩ đến
những cơ hội làm tiền, nó trách ông ngu, ông dại vì không biết nhân cơ hội mà
kiếm chác. Thậm chí, có lúc ông đi thực tế vào nông trường Dầu Tiếng, khi về
vợ chồng con trai lại hỏi ông có xin được tí đất nào trong đó không. Bởi theo
nó thì xin vài hecta đất rồi thuê người trồng điều, trồng tiêu, trồng xoài, chi phí
có một mà thu về phải gấp trăm. Thế nên, dẫu trước kia ông có là anh hùng thì
hiện tại với thằng con trai, ông nói câu nào cũng ngu, tính toán cái gì cũng dại
chỉ vì ông không coi đồng tiền là quan trọng nhất. “Ông đại tá cách mạng và
vợ chồng thằng lái buôn dẫu có tình cha con nhưng họ nhìn nhau, nói với nhau
như kẻ thù”.[28-308]. Bản thân người cha cũng biết kiếm tiền là quan trọng, là
đúng đắn và cần thiết nhưng theo ông cái vốn để sống phải là nhân cách, là học
vấn rồi sau đó mới là tiền. Ngược lại với các con ông, tiền là Thượng đế. Thế
nên, một thực tế xảy ra trong hầu hết các gia đình lúc này như Nguyễn Khải
viết là: “Sau ba chục năm nam chinh bắc chiến, đã thu lại giang sơn về một
mối, lúc ấy tóc đã bạc, răng đã rụng, mắt đã mờ, trả lại súng cho nhà nước,
khoác ba lô về nhà, thấy những người đón mình vừa quen vừa lạ. Càng ở với
nhau càng lạ. Trận đánh của những quan niệm khác nhau, của những cách
sống khác nhau, những niềm tin và nguyện vọng khác nhau bắt đầu. Đồng tiền,
người bạn đồng hành vô hại, khiêm nhường, lép vế trong bấy nhiêu năm, một
sớm một chiều đã thành kẻ dẫn đường hiểm ác, độc đoán, có sức mạnh rời núi,
lấp biển, lần lượt giết chết đám trẻ con trong gia đình và đã chờ sẵn ở nhà để
giết nốt người chiến binh còn đang ngơ ngác trước sự đổi thay của thời
52 5 2
thế”[28-319].
Hai mảng màu sáng tối là điều thường thấy ở trong mỗi gia đình. Khi mà
những người ông, người bố “đi xe đạp, mặc áo pho tá, mang kính lão, đi đâu
cũng than thở chuyện nhà con cái hư, chuyện chính trị thì Liên Xô đang là siêu
cường mà ngày một ngày hai đã biến mất nghĩ mà đau…” thì đám con cháu kẻ
mắt, tô son môi, mặc quần lửng, áo hở vai, nước Nga với chúng là nơi dễ kiếm
tiền với điều kiện duy nhất là phải liều lĩnh, lanh lợi và gan lì. Cuộc sống đổi
thay, thời thế đổi thay, đồng tiền khiến con người cũng thay đổi theo. Cái bả
vật chất có một sức cám dỗ đến kỳ lạ. Vì đồng tiền người ta có thể rũ bỏ lòng
tự trọng, vì đồng tiền người ta có thể trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn, vì tiền người
ta có thể khinh thường, coi rẻ những kẻ không có tiền dẫu đó có là chồng, là
cha mình. Anh Tần, vì công việc viết văn không thể đem lại sự giàu sang mà
anh bị chính vợ con mình mỉa mai, coi thường. Người vẫn khư khư giữ lấy nếp
sống cũ, tôn thờ một quá khứ hào hùng khi thời thế đã đổi thay ắt hẳn sẽ bị
chính những người thân thích của mình cho ra bên lề, không còn có quyền
tham dự vào bất cứ việc gì trong chính cái gia đình nhỏ bé của mình.
Quan điểm về giá trị của hai thế hệ là hoàn toàn khác nhau. Khi người cha
chỉ cần “ngày hai bữa cơm rau” thì các con cần những bữa cơm sang trọng;
người cha chỉ cần ăn no mặc ấm thì các con cần ăn ngon, mặc đẹp; người cha
muốn chọn người tốt nết, gia giáo làm con rể thì con gái lại gạt phắt, lôi về nhà
một thằng cha hơn nó gần hai chục tuổi, mặt mũi lì lợm như kẻ sát nhân nhưng
có tiền nhờ những chuyến hàng buôn lậu qua biên giới…Tất nhiên, trong
những cuộc đấu tranh đó, những tư tưởng cũ, những con người cũ phải chịu
thất bại. Một số người đành sống khép mình trong ốc đảo của sự cô đơn, tách
mình ra khỏi đám đông nhộn nhạo, tạp nhạp đó và xác lập cho mình một
khoảng trời riêng, một thế giới riêng. Một số người lại học cách chấp nhận,
sống hoà hợp với những tư tưởng mới. Họ không bao giờ đồng tình với những
thói xấu của xã hội mới nhưng cũng sẽ không bao giờ công khai phản đối nó
nữa. Phương châm sống của họ chính là :”Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã, bất
khả chấp dã”(Lão Tử). Họ chủ trương là một “ông già vui vẻ, một cố vấn vui
vẻ”, bởi mình có thời của mình, người ta lại có thời của người ta” hay “họ có
53 5 3
việc của họ, mình có việc của mình. Muốn can thiệp thì phải có cách” [28-329].
Sự đan xen, chồng chéo giữa các luồng tư tưởng là điều tất yếu ở một xã
hội mới đang hình thành. Nói rằng chỗ mạnh của ngòi bút Nguyễn Khải là cảm
quan thời sự quả không sai. Ông đã sớm nắm bắt được những đổi thay trong xã
hội. Đặc biệt là giai đoạn 1987-1995, khi đời sống văn học có phần cởi mở thì
ông viết như làm lại mình. Đặc biệt trong thời gian này, người ta thấy trong văn
học bắt đầu xuất hiện một hiện tượng đáng chú ý là Nguyễn Huy Thiệp. Thiệp
là nhà văn của một xã hội dân sự còn Khải là nhà văn của những cuộc đấu
tranh tư tưởng. Cũng có lúc ông ghé thăm địa hạt kia nhưng về căn bản ở
Nguyễn Khải vẫn có sự nhất quán. Còn nếu so sánh với Ma Văn Kháng- người
viết cùng đề tài, thì trong khi Ma Văn Kháng chú ý đến khía cạnh bản năng, vô
thức thì Nguyễn Khải lại quan tâm đến khía cạnh ý thức, tư duy của con người.
Trong khi Ma Văn Kháng tìm cách khám phá chiều sâu tâm hồn con người thì
Nguyễn Khải tìm mọi cách khám phá chiều sâu nhận thức, chiều sâu tư tưởng.
Và có lẽ cũng do xuất thân từ một người làm công tác chính trị mà Nguyễn
Khải có một sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực đời sống tinh thần và có cái
nhìn sâu, đầy hứng thú đối với thế giới ý thức con người. Tuy nhiên, đặc điểm
này lại đưa đến một hạn chế cho tác phẩm của ông đó là dễ biến tác phẩm
thành những luận đề khô khan, nhân vật chỉ là những mẫu hình tư duy mà
không phải là những con người mọc lên từ lòng sâu cuộc sống.
2.1.2.Con ngƣời trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86
2.1.2.1.Những con người của thời cuộc
Với thói quen của một ngòi bút xông xáo, khi quan sát hiện thực, Nguyễn Khải
thường có sự thôi thúc là cố tìm cho ra những nhân vật trẻ, khoẻ- cái yếu tố
đang lên của xã hội, những nhân vật sẽ đóng vai trò chính trong cuộc sống
tương lai.
Ngay từ những ngày đầu cầm bút, hoà chung không khí của đời sống văn
học kháng chiến và yêu cầu thời đại, Nguyễn Khải đã xây dựng trong những
sáng tác của mình hình ảnh những con người mới dẹp lãng mạn trong cảm
hứng khẳng đinh, ngợi ca. Hoà trong bản giao hưởng lớn của mùa xuân đất
nước bước vào thời kỳ đầu xây dựng CNXH, Nguyễn Khải cũng say sưa ngợi
54 5 4
ca những con người mới và cuộc sống mới. Đó là những Cừ- chủ nhiệm nông
trường, là Nông Kỳ Lâm- bí thư chi bộ, là anh Huân, anh Quang, những chiến
sĩ bộ đội chuyển sang sản xuất, họ là những con người rất bình thường , giản
dị, có khi còn giữ nguyên nét chất phác của người nông dân trước kia, nhưng
bù lại họ có một đời sống tinh thần hết sức phong phú. Dù xuất thân khác nhau,
học vấn khác nhau, công việc khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở một điểm
– đó là tình thương, một tình thương sâu sắc, già dặn của những con người đã
từng trải nhiều đã biết rất rõ thế nào là khó khăn đau khổ của cuộc đời nên rất
dễ thông cảm với những gì là đau xót ở người khác. Tình thương trở thành ý
thức trách nhiệm, thành một nhu cầu tự thân. Họ quan tâm, giúp đỡ người khác
mà không mưu cầu một sự đền ơn. Tất cả họ là những nhân vật được xây dựng
với một vẻ đẹp trọn vẹn theo tiêu chuẩn cộng đồng nhưng do thiếu chất sống
của thực tế nên dấu ấn của họ còn mờ nhạt. Song bên cạnh đó, Nguyễn Khải lại
thành công với những con người “bé nhỏ” như bé Tấm, chị Đào, cô Thoa-
những con người đã được hồi sinh trong lòng cuộc sống mới. Mỗi nhân vật đều
có những đau khổ riêng hoặc vật chất, hoặc tinh thần, nhưng tất cả họ trong
một thời gian dài đều bị sự lãnh đạm, thờ ơ, vô tình của xung quanh đẩy vào
nỗi khốn cùng bên trong không ai biết; tương lai đối với họ thật mờ mịt. Nhưng
rồi những con người ấy được sống trong một xã hội mới, vận mệnh của họ đã
đi về một hướng khác. Trong cuộc sống mới của một xã hội đang thay đổi và
xây dựng lại từ gốc rễ, họ đã giải quyết được vấn đề của đời mình từ sự giúp
đỡ, thương yêu và thấu hiểu của những người xung quanh: em Tấm được chăm
sóc, được đi học, cô Thoa được hiểu và được yêu, chị Đào cũng tìm được hạnh
phúc mà mình đáng được hưởng.
Sau 86 trở đi, khi đất nước bước vào con đường đổi mới mở ra nhiều cơ
hội mới, vận hội mới, xã hội xuất hiện những quan niệm trái ngược nhau,
những con người đối lập- đó là một đặc trưng của một xã hội đang giao thời,
khi mà chuẩn mực của các giá trị chưa được xác lập. Những con người tiêu
biểu cho xã hội ấy là những người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh sinh tử và
những con người lớn lên trong thời bình không hề biết đến khói lửa chiến
tranh, tạm gọi đó là lớp già và lớp trẻ. Họ chính là tiêu biểu cho một xã hội
55 5 5
đang vận động đi lên.
Trước hết, chúng ta nói đến lớp người già- đại diện của một xã hội cũ và
những tư tưởng cũ. Câu cửa miệng chúng ta vẫn quen nói “Gừng càng già càng
cay”- họ rõ ràng là những kho tri thức sống , những chứng nhân lịch sử sống.
Song điều mà Nguyễn Khải quan tâm không dừng lại ở đó mà ông đã nhìn thấy
ở lớp người đã qua ấy một “tiềm lực tinh thần lớn lao và mạnh mẽ ”, họ là
“những nhân vật ghê ghớm không chỉ ở cái thời đã qua mà còn cả ở trong cái
thời đang diễn ra, cái thời có vô vàn khó khăn, gai góc trong im lặng, trong
hoà bình, trong reo vui và ca hát”[50-547]. Ta bắt gặp trong trang văn Nguyễn
Khải một ông Ba Quốc Hội, thời trẻ thì làm việc cho cách mạng như là một
nghĩa vụ ở đời, không cốt để hưởng lợi, một con người có thể rẽ gió, rẽ sóng
mà đi nhưng đến thời bình thì chỉ cần làm một anh dân thường của một nước tự
do độc lập là đã thấy mãn nguyện rồi. Ông là chỗ dựa, là niềm tin, niềm an ủi
tinh thần cho người bạn chịu quá nhiều đau khổ. Những con người như họ gặp
nhau vừa như là vô tình vừa như là duyên trời định. “Một gương mặt rạng rỡ,
tự tin, một gương mặt nhẫn nhục, chịu đựng, hai gương mặt của một kiếp
người, sao lại khéo gặp nhau để gợi lên một niềm vui, một niềm tin mà chỉ lúc
đứng tuổi mới nhận ra cái ý nghĩa thâm trầm cuả nó” [28-163].
Một ông Bột luôn giữ cách sống tôn trọng , hoà đồng, giúp đỡ mọi người,
không chịu sống theo thói quen của xã hội, những thói quen mà ông cho đó là
man rợ, và quyết định trung thành với cách sống của riêng ông [28-294]. Đó
cũng là một cựu Phó bí thư tỉnh uỷ, một cựu Bộ trưởng trong Những người già,
khi trẻ đã một thời hô mưa, gọi gió thì lúc già vẫn không mất đi cái phong độ
đĩnh đạc, oai phong của một thời- là chỗ dựa tinh thần cho con cháu, được con
cháu xem như thần nhân của cả dòng họ, một lời nói là một mệnh lệnh…Đó là
bà cô Hiền luôn luôn dạy con cháu phải biết sống tự trọng. Bà không vì tình
cảm ích kỷ bản thân mà ngăn cản sự lựa chon của các con. Với đứa con đầu,
khi được hỏi về quyết định đi lính của nó, bà nói: “Tao đau đớn mà bằng lòng
vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là
biết tự trọng” [24-57]. Với đứa con thứ hai cũng vậy: “Tao không khuyến khích
cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó
56 5 6
phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.[24-58]. Bà luôn luôn cố gắng gìn giữ
những nét đẹp trong lối sống, phong cách của người Hà Nội… Tất cả họ, dù ở
đâu, ở địa vị nào, trong hoàn cảnh nào đều là những con người mang trong
mình cốt cách, tinh hoa của vẻ đẹp truyền thống. Nói như cách nói của Nguyễn
Khải thì họ là” những hạt bụi vàng lấp lánh” ẩn giấu bao nhiêu giá trị cho cuộc
đời này.
Xây dựng lớp người này, Nguyễn Khải không đơn giản dừng lại ở việc
dựng lên chân dung tinh thần mà cao hơn thế, ông muốn tìm hiểu, phân tích, lí
giải những cái hay- dở, được- mất của cả một thế hệ. Điều khiến cho ông trăn
trở, băn khoăn, day dứt là “Lớp người ấy đã đi qua một đoạn đường của lịch
sử, nhìn lùi lại một chút thì cũng là lặng lẽ. Nhưng cái tính cách, cái phong độ
của họ liệu chừng có tạo được một ảnh hưởng tích cực và lâu dài nào tới sự
phát triển của nòi giống. Đã có những thay đổi nào tận đáy sâu, tận cội rễ
trong cách sống, trong cách nghĩ, trong cách hành động, trong các mối quan
hệ trước và sau bốn chục năm qua”[50-545].
Đồng hành cùng thế hệ hôm qua là thế hệ hôm nay với một sự khác biệt
quá lớn. Họ là sức trẻ, là cái mới, cái tiến bộ. Cũng như ở giai đoạn sáng tác
trước, trong mắt Nguyễn Khải lớp trẻ có nhiều điểm tích cực, thích ứng nhanh
với điều kiện mới , là động lực cho công cuộc xây dựng xã hội mới. Trước đây,
ông vui sướng, hân hoan trước những thay đổi của những Huân, Cừ, Quang…
thì nay ông lại kinh ngạc trước sự giỏi giang, tháo vát trong việc làm chủ thời
cuộc của những con người như Lộc (Chúng tôi và bọn hắn), Khôi (Ngƣời ở
làng pháo)…Họ là những người được tác giả ưu ái gọi bằng những từ ngữ như
“những người giỏi của thời này”, và là “nhân vật chính diện của nền văn học
mới”. Tuy nhiên cũng phải thấy một điều, cảm hứng ngợi ca, khắc hoạ vẻ đẹp
lãng mạn trước đây không còn nữa mà các nhân vật lớp trẻ bây giờ của
Nguyễn Khải hiện ra với những nét phức tạp hơn, nhiều chiều hơn. Dù vẫn yêu,
vẫn phục nhưng không còn nâng niu, chằm bặp như mấy chục năm về trước.
Cái nhìn hiện thực tỉnh táo giúp nhà văn nhìn ra được cả mặt mạnh và mặt yếu
của lớp trẻ. Họ là những chủ nhân ông của một xã hội mới đang lên nhưng
cũng vì thế mà đồng thời họ mang theo luôn trong mình thói lạnh lùng, tàn
57 5 7
nhẫn, ích kỷ, chà đạp lên cả tình nghĩa, đạo lý để kiếm lời. Trong gia đình, họ
là những trụ cột, đem lại những thay đổi vật chất lớn lao cho gia đình, căn nhà
khang trang hơn, tiện nghi đầy đủ hơn, bữa cơm sang trọng hơn. Ngoài xã hội,
họ là những ông chủ trẻ, những nhà tỷ phú luôn xông xáo, nhanh nhạy nắm bắt
thời cơ. Nguyễn Khải, khi viết về những con người này, bên cạnh sự ngưỡng
mộ, ông cũng bày tỏ thái độ lên án, ông “rùng rợn” vì những “trò ma quỷ”trong
cách làm ăn kinh tế của một giám đốc công ty nhà nước [28- 338]; ông cũng
không thể đồng tình với quan niệm sống thực dụng của những ông tỷ phú coi
cái vốn lớn nhất của một đời là “sự liều lĩnh, phản trắc và lừa đảo”, coi đồng
tiền là Thượng đế, niềm vui mỗi ngày không phải là sự sum họp gia đình mà là
“đếm tiền”… Đối với nhiều người, đồng tiền có một sức mạnh vô biên, nó vượt
lên trên cả tình yêu thương, tình yêu , tình bạn. Nói ra những điều này, Nguyễn
Khải sẵn sàng đối thoại và tranh luận với bọn trẻ ở mọi nơi, mọi lúc để có thể
hiểu thêm về “đám người xôn xao, ồn ào ấy”. Khi gọi những người trẻ tuổi
bằng những cách gọi suồng sã như “hắn” hay “thằng”, “thằng đểu” là ông cũng
muốn gián tiếp qua đó bày tỏ một thái độ.
Với việc xây dựng lên cả hai thế hệ song hành với những tốt xấu, mạnh
yếu của họ trong cuộc sống , Nguyễn Khải một mặt muốn dựng lên bối cảnh
giao thời phức tạp giữa hai thời đại .Mặt khác, sau những người lạc thời dường
như nhà văn còn muốn đề nghị một thái độ cảm thông, hiểu biết lẫn nhau giữa
hai thế hệ để đi đến một tiếng nói chung trong một mục tiêu chung.
2.1.2.2 Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.
Khi đề cập đến những mảng hiện thực có tính vấn đề, những mảng hiện thực
còn tươi rói sức sống, Nguyễn Khải tập trung phản ánh hình ảnh con người
trong sự vận động của thực tại. Con người đối với Nguyễn Khải không chỉ đơn
thuần là một hiện tượng của thực tại với những tính chất điển hình cho một xã
hội mà quan trọng hơn, con người là một chủ thể có ý thức, có tâm linh. Ông
quan niệm rằng thế giới trong thực tế đã chi phối sâu sắc đến số phận cá nhân
của mỗi người cũng như sự phát triển của xã hội. Sức mạnh trí tuệ đã giúp con
người nhận biết những quy luật của đời sống để từ đó nâng cao cuộc sống của
mình. Hầu hết con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải không phải là những
58 5 8
nhân vật có tính điển hình cao, họ chỉ là những lát cắt, những trích đoạn mà
người đọc ít khi được biết rõ về những đặc điểm tâm lý, tính cách mà chủ yếu
là thế giới tinh thần của nhân vật.
Khi đi vào đề cao sức mạnh tinh thần của con người, Nguyễn Khải thường
đặt các nhân vật của mình trong mối quan hệ với hoàn cảnh thực tại. Trong tập
truyện Mùa lạc, để phản ánh cuộc sống mới ở Điện Biên, để cho bạn đọc thấy
được CNXH đang về trên vùng đất khói lửa này, Nguyễn Khải tập trung vào
việc miêu tả cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới bằng một thực tại nóng hổi
tính thời sự lúc bấy giờ. Từ đó, ông đặc biệt chú ý miêu tả những con người
đang thoát thai, lột xác, đi lên từ cuộc sống cũ để trở thành những con người
mới, những chủ nhân thật sự của một xã hội mới. Đó là những nhân vật đã nói
ở trên như chị Đào, em Tấm. cô Thoa. Mỗi người một số phận khác nhau từ
khắp các nơi trên mọi miền Tổ quốc đã không hẹn mà gặp trên Điện Biên này
để cùng lao động xây dựng lại cuộc đời. Lúc mới lên, họ vẫn còn là những
người bị ám ảnh bởi đoạn đường đời đầy éo le, trắc trở đã qua. Họ đã được giải
phóng, được tự do nhưng chưa thoát khỏi sự trì níu của những ý thức cũ, quan
niệm cũ. ”Hầu hết những con người đáng thương ấy đã bị thành kiến xấu xa
của cái xã hội đang chết đi đục khoét từ ngày còn thơ ấu. Họ sống và hành
động tuân theo những thói quen tai hại mà tự họ đôi lúc cũng nhận thấy nhưng
lại không có nghị lực cưỡng nổi” [28-376]. Dần dần, ánh sáng của cuộc sống
mới đã lôi cuốn, hấp dẫn họ, làm sống lại những chồi non từ lâu đã bị đau khổ
làm cho khô cằn, héo úa. Chị Đào từ chỗ sống táo bạo, liều lĩnh “ghen tị với
mọi người và hờn giận cho thân mình” thì nay chị thấy yêu đời hơn và tin ở
tương lai hơn. Dù Điện Biên với những con người mới đã góp một phần không
nhỏ vào việc cảm hoá và làm thay đổi những số phận hẩm hiu ấy, song điều
quan trọng và trên hết, cuộc sống mới sẽ không thể đến khi chính bản thân
những con người đó không mang trong mình một nghị lực sống phi thường và
một ý thức đấu tranh để tự vươn lên, tìm hạnh phúc cho mình.
Sau này, sự say mê của Nguyễn Khải đối với loại nhân vật có khả năng
thích ứng với thời cuộc vẫn được tiếp tục. Tất nhiên, lúc này ông đề cập đến cả
hai loại thích ừng: tích cực và tiêu cực, đáng trọng và đáng khinh. Có những kẻ
59 5 9
lợi dụng thời thế để “đục nước béo cò”, làm ăn bất chính, loại này thì ở thời
nào cũng có. Ngay cả đến Khôi, bí thư huyện uỷ thời mở cửa, đang được tỉnh
chú ý nhưng cũng không thoát khỏi những toan tính mang tính cá nhân:” Có
phải ông đã ngầm đánh giá tôi, cái thế hệ cán bộ chúng tôi là vụ lợi, là thực
dụng phải không? Con người ta ai cũng thế, đã làm giàu phải tính đến lợi. Cấp
trên thì tính đến cái lợi của cả nước, cấp dưới thì tính đến cái lợi của địa
phương, thằng dân thì tính đến cái lợi của nhà mình” [50-351]. Nhưng nhìn
chung phần lớn nhân vật thức thời của Nguyễn Khải là đáng trọng, đáng trọng
trước hết là do bản lĩnh, nhân cách. Đó là những người biết sống đúng đắn, biết
rằng “lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời” như ông Bột trong Sống giữa đám
đông, cô Hiền trong Một ngƣời Hà Nội. Đó cũng là những con người dám
sống hết mình cho lý tưởng, tìm được cho mình một đức tín phù hợp để thời
gian sống của mình trở nên có ý nghĩa như cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức,
ông Ba Quốc Hội, sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu…Những con người
ấy luôn luôn xa lạ với lối sống thụ động, nhạt nhẽo, hưởng thụ một cách ích kỷ
trên thành quả của người khác. Đó là “những con người mặc cái áo quá ngắn,
những mẫu người phát triển quá mau lẹ khiến cái mảnh đất sinh ra họ trở nên
chật chội” [50-214]. Họ là những người biết thích ứng với hoàn cảnh không
phải vì hèn nhát mà là biết nhượng bộ trong khi vẫn vượt lên hoàn cảnh bằng
nhân cách của mình.
Sau 86, đối tượng mà nhà văn đề cập, trở đi trở lại như một ám ảnh, như là
một cách trả nợ với cuộc đời, đó là hình tượng người lính trở về sau chiến
tranh. Nếu như trước đó, Nguyễn Khải luôn dành hết sự tôn trọng và lòng
ngưỡng mộ, thì giờ đây khi viết về những người anh hùng của thời đại, tình
cảm ấy ở Nguyễn Khải còn tăng lên gấp bội bởi ở trong hoàn cảnh nào, khó
khăn như thế nào họ cũng khiến người khác phải nghiêng mình.
Trong chiến tranh, mọi cái riêng tư cá nhân đều phải xếp sang một bên
nhường chỗ cho một mục tiêu chung, cao cả và lớn lao là độc lập tự do của dân
tộc. Dù bom lửa. dù súng đạn cũng không thể ngăn được bước chân người lính
trẻ. Tự nguyện hiến dâng cả quãng đời thanh xuân cho đất nước nhưng không
phải ai cũng có cái may mắn là được trở về . Còn những người được trở về, dù
60 6 0
so với những người bạn đã ngã xuống thì đó là một may mắn nhưng chưa hẳn
đã là một điều tốt. Chiến tranh đã tàn phá cơ thể họ, ghi dấu ấn lên trên người
họ, chiến tranh đã qua đi nhưng với họ những chứng tích của nó vẫn mãi
còn…Bước ra khỏi cuộc chiến tranh này thì người lính lại phải bước vào một
cuộc chiến khác cũng không kém phần cam go, quyết liệt và tàn khốc- chiến
đấu với chính mình.
Đến với nhân vật người lính sau chiến tranh cũng có không ít nhà văn, tuy
nhiên mỗi người đến theo một cách khác nhau. Nguyễn Minh Châu thì chăm
chú đi tìm “những hạt ngọc” ẩn giấu trong tâm hồn họ. Ngược lại Nguyễn Khải
lại hứng thú với việc từ những cái quen thuộc hằng ngày “tìm đến những ngõ
ngách thú vị và bất ngờ của đời sống bên trong” đến” cái sức mạnh tiềm tàng
dưới lớp vỏ vô tư”.[32-15].
Trong Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức, nhân vật Toàn trở về với
cuộc sống đời thường với hai hốc mắt khép kín. Sự đời thật khổ, người ta vẫn
nói “giàu hai con mắt”, bây giờ bị mù biết sống sao đây. Trong những ngày đầu
anh Toàn cũng rất bi quan: ”Như người bị chôn sống, bị chôn lúc còn rất trẻ.
Mà nào có chết được. Thân xác khoẻ mạnh, đầu óc minh mẫn, chỉ mù thôi, mù
để có thật nhiều ngày nhiều đêm ngẫm nghĩ về cái sự bị chôn sống của
mình”[28-239].Anh đã gục ngã, đã chán chường đến cực điểm, lặng lẽ và cô
độc. Cho đến một ngày, người phụ nữ của cuộc đời anh xuất hiện. Chị cũng
từng là thanh niên xung phong, biết anh ngày còn ở chiến trường. Họ đã làm
nên một Từ Thức- Giáng Hương của thời hiện đại. Toàn luôn cho rằng sống
dựa dẫm vào người khác, vào một cái thế nào đó là rất không nên, bởi vậy dù là
thương binh nhưng anh, hay nói đúng hơn là vợ chồng anh đều tự lực cánh
sinh. Bươn chải cuộc sống, xây dựng cơ ngơi, nuôi dạy con cái…một tay vợ
anh đảm đương hết. “Mười năm năm làm vợ, làm mẹ đã phải nuốt đi bao nhiêu
buồn tủi, bao nhiêu cay đắng”[28-242]. Anh Toàn dù không giúp được vợ
nhiều nhưng anh là chỗ dựa tinh thần lớn nhất cho cả gia đình. Anh cảm động
trước tấm chân tình của vợ mình mà sống, anh biết ơn sự hy sinh của người
phụ nữ ấy mà vui, mà nhịn. Người này luôn sống vì người kia, lo cho người kia
61 6 1
mà cố gắng để rồi dù bao gian truân vất vả, dù bao tủi cực có đổ dồn lên cái gia
đình nhỏ bé ấy thì hàng ngày, hằng giờ nơi ấy vẫn cất lên những tiếng cười-
tiếng cười của hạnh phúc và tình yêu thương.
Người lính trong “Một bàn tay và chín bàn tay” thì lại khác. Anh vẫn còn
may mắn nhìn thấy mọi người nhưng lại không muốn ai nhìn thấy gương mặt
mình- một gương mặt bị bom lân tinh làm trở thành “cái mảng thịt nhầy
nhụa”[28-422] ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Nghị lực sống của anh thật
đáng nể phục. Lúc đầu, khi tỉnh dậy trong một đống bông băng, anh vẫn thấy
mình may mắn vì mình còn sống và mình muốn sống. Sau nửa năm, người lính
bắt đầu đi lại được, một mắt nhìn thấy ánh sáng thì anh lại lạc quan hơn, “dầu
có bị liệt cả người nhưng còn nhìn được, còn nói được là còn nên sống”[28-
422]. Rồi hai bàn tay, bàn còn hai ngón, bàn còn ba ngón, co quắp, cứng đờ
anh vẫn không nản chí, cố gắng luyện tập để cho chúng có thể sống lại, để có
thể tự làm những việc vặt vãnh cá nhân mà không cần đến sự giúp đỡ của
người khác. Chỉ có một điều duy nhất anh sợ- đó là gương mặt mình. Vì nó mà
anh từ chối tình yêu của cô thương binh xinh đẹp, sợ phải đối mặt với người
thân nhất là mẹ anh, bởi “không một người thân nào có thể chịu đựng nổi khi
nhìn vào cái mảng thịt bầy nhầy với những hốc mắt, hốc mũi, lỗ miệng như một
đầu người đang tan rữa trong lòng đất vừa được móc lên”[28-427]. Cái giây
phút đối mặt với người mẹ là những giây phút đáng sợ nhất với anh “mồ hôi vã
ra như kẻ sắp bước lên đoạn đầu đài”[28-429]. Nhưng rồi tình yêu lớn lao của
người mẹ đã xua tan tất cả, đưa anh trở lại với cuộc sống đời thường. Và không
lâu sau, anh đã có được gia đình của mình, vợ anh chính là cô gái thương binh
xưa bị anh từ chối. Rồi họ có những đứa con khoẻ mạnh, giỏi giang, có một cơ
ngơi vững chãi…Vậy là, những số phận rủi ro, những con người bất hạnh đã
nương tựa vào nhau, tìm về với nhau. Trước những con người như thế, Nguyễn
Khải cũng không giấu nổi sự cảm phục :“Ngắm nhìn một cặp cợ chồng hạnh
phúc, tôi đột nhiên thức ngộ, một đời tôi, tôi chưa dùng được bao nhiêu cái sức
mạnh mà Thượng Đế đã ban cho mỗi người, một sức mạnh cũng gần ngang với
Thượng đế. Cứ nhìn xem, hai cái thân xác đã bị đốt cháy, chỉ còn đợi ngày
62 6 2
thành bọ thành bùn rồi mà vẫn hồi sinh được, vẫn làm cho mình bất tử bằng
dòng giống của mình, bằng sự nghiệp của mình và bằng một tình yêu không dễ
mấy ai quên”[28-433].
2.2 Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm
2.2.1.Giọng triết lý, tranh biện
Đọc tác phẩm của Nguyễn Khải, người đọc thấy mình lúc nào cũng như
học hỏi thêm được điều gì đó, như thấy mình khôn ra một ít. Sở dĩ có điều đó là
vì tác phẩm Nguyễn Khải luôn đánh vào trí tuệ người đọc. Cái tạo nên sức hấp
dẫn trong tác phẩm của ông chính là sức thuyết phục của lý lẽ. Tác phẩm của
ông bao giờ cũng chứa đựng những triết lý nhân sinh. Tuy nhiên, Nguyễn Khải
không nhằm mục đích dạy khôn người khác mà ông chỉ muốn đưa ra một tiếng
nói riêng, một cách đặt vấn đề và giải pháp riêng. Từ đó mà tác phẩm của ông
luôn kêu gọi sự đối thoại, bàn bạc, tranh luận ở người đọc.
Viết văn cũng là một cách dấn thân vào trò chơi ở đó nhà văn là người tổ
chức trò chơi, chơi với bạn đọc và đôi khi là chơi với chính mình. Văn Nguyễn
Khải là lối văn của trí tuệ, ưa lý lẽ, phân tích, mổ xẻ. Các nhân vật của ông ít
nhiều đều là sự cụ thể hoá, hiện thực hoá các tư tưởng của nhà văn thông qua
các hình thức khác nhau, trong đó chủ yếu là độc thoại và đối thoại.. Nhân vật
của Nguyễn Khải thường hay tranh cãi, lý sự, suy tư. Nhân vật suy đoán, phán
xét, bình phẩm, biện luận và triết lý. Có khi lại độc thoại, trầm ngâm suy nghĩ
về nhân tình thế thái, băn khoăn, day dứt , tiếc nuối với những hồi tưởng về quá
khứ để tự phán xét, tranh luận với chính mình. Có khi nó lại lên tiếng tranh
luận, biện bạch hùng hồn trực tiếp qua những đối thoại. Nguyễn Khải rất sở
trường về tổ chức đối thoại và kích thích tranh biện. Đôi khi người kể chuyện
cũng trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại, cùng tranh luận về một vấn đề nào
đó của cuộc sống xã hội. Sự cọ xát giữa các quan điểm, chính kiến giữa nhiều
chủ thể đối thoại đã tạo nên một đặc trưng về giọng văn Nguyễn Khải- giọng
triết lý, tranh biện.
Nhân vật của Nguyễn Khải thường là nhân vật có tư tưởng riêng. Họ là trí
thức, thầy tu, nghệ sĩ triết lý đã đành, đằng này ngay cả đến người lính, nông
dân thậm chí cả những người đàn bà của bếp núc cũng hay nghiền ngẫm, nói lý
63 6 3
và hơn nữa là ăn nói giỏi. Chính nhu cầu bộc lộ tư tưởng buộc các nhân vật của
ông phải giỏi lý lẽ. Mà lý lẽ muốn có sức thuyết phục cao thì nhân vật không
thể là người hiểu biết nông cạn và hời hợt. Xung quanh hai chữ “thời thế”,
Nguyễn Khải đã dẫn ra, triết lý về bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu cách sống.
Những vấn đề như ý nghĩa cuộc đời, sự lựa chọn cách sống, lương tâm , đạo
đức…đều được các nhân vật của ông đưa ra bàn luận, trao đổi. Trong một loạt
những tác phẩm: Hai ông già ở Đồng Tháp Mƣời, Chúng tôi và bọn hắn, Sƣ
già chùa Thắm và ông đại tá về hƣu, Anh hùng bĩ vận, Nếp nhà, Ngƣời ở
làng pháo, Ngƣời của ngày xƣa…các nhân vật đều có một tiếng nói riêng,
một ý thức riêng không bị phụ thuộc hay chi phối bởi chủ thể sáng tạo. Điều
này so với Nguyên Hồng thì khác hẳn, văn Nguyên Hồng chủ yếu đi vào độc
thoại nội tâm, người trần thuật và nhân vật thường cùng một chính kiến, một
giọng nói. Còn Nguyễn Khải thì ngược lại, trong các tác phẩm của mình, ông
đã tạo ra được một không khí đối thoại hết sức dân chủ. Nhân vật được “sống”
như một chỉnh thể độc lập, tự bày tỏ ý kiến, có quyền tham gia bàn luận, vấn
an, vấn an người khác, đôi khi là vấn an chính mình. Bởi vậy mà người đọc có
cảm giác đó là “lời nói về người có mặt chứ không phải lời nói về người vắng
mặt, như là lời nói của ngôi thứ hai chứ không phải lời nói của ngôi thứ
ba”(M.Bakhtin). Khi viết về nhân vật Khanh với nỗi đau mất vợ, lời văn không
thể phân biệt được là lời của nhà văn hay của chính nhân vật: “Ngày giỗ đầu,
anh làm rất to, mời những mười mấy mâm. Bưng cơm cúng lên bàn thờ vợ,
thắp mấy nén nhang, chẳng kịp khấn khứa gì, cứ đứng xuôi tay mà khóc, khóc
cho vợ, khóc cho mình. Phải đến lúc đó, anh mới thấy hết ranh giới phân chia
giữa tuổi trẻ và tuổi già, giữa cái thời sống cho mình và cho xã hội với bao
nhiêu là mộng mơ thật giả với cái thời chỉ biết sống cho con cái, một lũ con,
ngoài ra không còn hy vọng nào khác, niềm vui nào khác”[28-633].
Điều đặc biệt là khi để cho các nhân vật triết lý, tranh biện Nguyễn Khải
thường đưa ra những lời thoại có tính chất vấn, dồn đẩy, kích động. Khi để
nhân vật cô Hiền lý giải về cái sự không tư sản của mình, tác giả viết:” Tao có
bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì
làm sao thành tư sản được”[28-720] hay trong cách nhân vật khuyên giải ông
64 6 4
chồng về việc mua máy in kinh doanh:”Bà vợ hỏi:” ông có đứng máy được
không?” Ông chồng trả lời:”Không”-“ Ông có sắp chữ được không?”-
“Không”- “Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm
một ông chủ ở chế độ này à?” [28-723].
Nguyễn Khải tổ chức các đối thoại, tranh luận nhằm phản ánh các trạng
thái phức tạp, đa dạng của ý thức hệ trong xã hội. Chỉ qua cuộc đấu khẩu giữa
các nhân vật mà sự xung đột giữa các thế hệ, tầng lớp trong xã hội được bộc lộ
rõ. “Tôi hỏi: Anh không thích nói chuyện với bọn tôi à?”. Nó nhè miếng xương,
nhăn mặt: Toàn chuyện ông này ra , ông kia vào, ông này lên, ông kia xuống,
chuyện của các cơ quan quyền lực dính líu gì đến bọn cháu”- Quyền lực vẫn
chỉ huy kinh tế đấy anh ạ”. Nó cười :”Danh nghĩa là thế, còn thực chất vẫn là
đồng tiền chỉ huy. Đồng tiền lớn chỉ huy đồng tiền bé. Chúng cháu chỉ có một
ông chủ thôi, đó là thị trường, mà quy luật của thị trường thì bất biến nên dễ
ứng xử lắm”. Rồi nó hỏi, giọng xỏ xiên :” Ông chủ của chú là ai? Tôi cũng hơi
huênh hoang:” Tôi cũng chỉ có một ông chủ như anh đó là bạn đọc”. Nó cười
rất đểu, trong hai chúng tôi nó mới là thằng đểu:” Bạn đọc bây giờ đâu có
thích văn của chú nữa. Toàn là né, nói gì thì nói vẫn cứ là một cách né”.[50-7].
Trong giọng kể của Nguyễn Khải, càng về sau, yếu tố chủ quan càng át
yếu tố khách quan, rất ít khi lời kể là trung tính. Tác giả kể bằng phân tích, bình
luận, kể mà như giãi bày, ngẫm nghĩ. Người kể chuyện luôn luôn là nhân vật
quan trọng của câu chuyện, trực tiếp tham gia vào câu chuyện, khoảng cách
giữa người kể và các nhân vật của anh ta được rút ngắn tối đa, họ trở nên bình
đẳng với nhau hơn. Qua đó, nhà văn muốn thể hiện lập trường dân chủ, khách
quan của mình trước những vấn đề đưa ra trong tác phẩm. Đọc văn Nguyễn
Khải thấy xuất hiện rất nhiều đoạn trữ tình ngoại đề. Đó chính là nơi thể hiện
cách đánh giá của tác giả cũng như khơi gợi sự tranh luận ở người đọc. Về “cái
tiềm lực tinh thần của hai ông già Đồng Tháp Mười, nhà văn viết: “Cái tiềm
lực của ông già lớn thật. Người mạnh như thế cứ rẽ sóng, rẽ gió mà đi, có tai
hoạ, rủi ro nào dám bén mảng. Thoạt nghe tưởng là có số may, nghe rồi ngẫm
cho kỹ, chỉ những người thật mạnh mới tạo được cho mình những may mắn đến
hiếm có”[28-245] như khi viết về cách sống của hậu duệ dòng họ Ngô Thì, ông
65 6 5
bày tỏ: “Làm người mà khó nhỉ? Sống tẻ nhạt, sống không màu sắc, lẫn lộn với
đám đông thì yên phận. Sống đam mê, sống mạnh mẽ vượt khỏi cái thông
thường thì sóng gió bất chợt, có thể bị nhấn chìm khi chưa làm được một việc
nào cho đắc ý. Lựa chọn đi!” [28-255]. Đọc những câu văn như thế, bạn đọc
không tránh khỏi bị kích thích tranh biện đôi khi là “chạm nọc”, người ta phải
suy ngẫm, phải đánh giá để rồi lại bị cuốn hút bởi những gì nhà văn viết ra
đúng quá, hợp lý quá. Một sự thực thường diễn ra trước mắt, có khi cả chúng ta
cũng bị cuốn vào vòng xoáy của nó mà không ý thức được thì nhà văn đã mạnh
dạn đưa ra :”Con người ta đa số thích được sai khiến, được tuân phục, được
bắt chước. Người ta có sợ hãi mình, ganh ghét với mình thì mới biết kính trọng
mình, muốn được giúp đỡ, làm thân với mình. Thói thường ai cũng thích làm
bạn với người sang, người mạnh chứ ai thích đánh bạn với kẻ hèn, kẻ yếu” [28-
296] .
Như đã viết ở trên, nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Khải không thuộc
loại nhân vật tính cách mà đó là nhân vật tư tưởng. Điều nhà văn quan tâm
không phải diện mạo mà là những diễn biến tâm lý sâu kín bên trong của con
người. Càng về sau, Nguyễn Khải càng có tài phân tích tâm lý nhân vật, đào
sâu khơi những nguồn mạch, tâm tư cò ẩn kín. Một mặt nhà văn muồn phản
ánh những trạng thái tâm lý phức tạp, phong phú của con người; mặt khác,
khám phá cái tiềm lực tinh thần, tìm kiếm những tiếng nói mang giá trị nhân
bản cho cuộc đời.
Để tổ chức nên giọng triết lý, tranh biện nhằm chuyển tải các vấn đề tư
tưởng của đời sống, tạo ra không khí văn học dân chủ, Nguyễn Khải đã sử
dụng các hình thức đối thoại mà ở đó lời nói của các nhân vật luôn toát lên vẻ
đẹp của trí tuệ. Người ta có thể tìm thấy trong lời nói của các nhân vật Nguyễn
Khải các lớp từ đủ mọi lĩnh vực, từ chính trị, văn hoá nghệ thuật đến kinh tế,
tôn giáo. Khảo sát một đoạn đối thoại ngắn giữa hai nhân vật trong Hai ông già
ở Đồng Tháp Mười ta sẽ thấy ró điều này. Những từ ngữ chính trị xuất hiện
một cách dày đặc.”..Nó hỏi ngay:”Bác vô Sài Gòn mần ăn hồi nào? Không làm
cách mạng nữa hả?” Tôi cười:”Vẫn làm chứ!”. Nó tròn mắt :” Ông này lớn
gan thiệt”- “Chú đứng ngoài sao? Lãnh tụ của tao là ông Trần Chánh Thành
66 6 6
mà”- “À. Tôi hiểu bác là thành viên của phong trào cách mạng quốc gia”-
“Nói gọn hơn, tao vẫn làm cách mạng”- “Cái xe kia là bác lái?”- “Chú có
biết xe của ông lớn nào không?- “Tôi biết xe của ông Bộ trưởng phủ tổng
thống”- “Tao là tài xế của ông Nguyễn Đình Thuần”- “Bữa nay bác đi rước
ông Thuần?”- “Không, bữa nay tao đi rước ông Dương Văn Hiếu, phó giám
đốc công an Trung phần đó”- “Dạ thưa, tôi hiểu, bác cũng có làm việc cho các
ông công an Trung phần?”. Tôi càng nói hách “Tao đâu thèm làm ăn với mấy
thằng công an mật vụ, mỗi lần ông cậu từ Huế vô biểu tao đi rước ai thì tao đi
rước thôi”- “Dạ, ông cố vấn miền Trung cũng có biết bác?”- “Tao là người
trong nhà, ông cậu phải biết tao chớ…”[28-160].
Điều này, một mặt để phục vụ tính chính luận của tác phẩm, mặt khác nó
cũng thể hiện sự am hiểu sâu sắc của Nguyễn Khải trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tuy nhiên, cũng vì sự “quá khôn ngoan” của nhân vật đôi khi đem
đến cho người đọc cảm giác không thật. Nhân vật nói những điều vượt ra ngoài
giới hạn, ngoài cái khuôn của bản thân, trở thành cái loa của chính tác giả. Hơn
thế, giọng triết lý, tranh biện một mặt tạo được không khí dân chủ, kích thích
bạn đọc nhưng mặt khác nó lại khiến cho tác phẩm trở nên khô khan, “trữ tình
ngoại đề” hơi nhiều, nhất là lại ít nhiều có tính chất giáo huấn nên đôi lúc gây
phản cảm ở người đọc.
Song dù thế nào thì tính triết luận ấy đã đem lại cho ngòi bút Nguyễn Khải
một cái nhìn sâu sắc hơn vào các vấn đề của đời sống xã hội, đem lại cho văn
ông một màu sắc chính luận độc đáo, một ngôn ngữ giàu trí tuệ và một âm điệu
hùng biện lôi cuốn. Càng về những sáng tác sau này thì những hạn chế trên
càng được khắc phục. Khi ông hướng sự quan tâm của mình vào các vấn đề thế
sự, nhân sinh thì những chiêm nghiệm, suy tư của ông đưa ra đạt tới chiều sâu
triết học, được bạn đọc đồng tình và cảm phục hơn.
2.2.2 Kết cấu tác phẩm
Đọc văn Nguyễn Khải, bạn đọc thấy rất rõ một điều, văn ông không thuộc
loại văn dài dòng, màu mè, kiểu cách mà đi thẳng ngay vào vấn đề. Người đọc
có thể bắt gặp ngay nhân vật, sự kiện ở đầu tác phẩm. Tuy nhiên, văn xuôi
Nguyễn Khải nói chung và truyện ngắn của ông nói riêng không tổ chức theo
67 6 7
một trình tự dễ dãi, một xâu chuỗi các sự kiện tiếp nối như là nhân quả của
nhau…tức là theo kết cấu chặt chẽ, cô đọng vẫn hay thấy ở truyện ngắn. Tác
phẩm Nguyễn Khải thường rất ít sự kiện, biến cố, đó là sự giăng mắc các suy
ngẫm, ký ức, cảnh ngộ, những lẽ đời, lòng mình và lòng người. Thế nên, thoạt
đọc, chúng ta tưởng như đó là những mẩu chuyện khác nhau được cố ý đặt
cạnh nhau. Một sự rời rạc, đứt mạch, không liên tục là điều thường thấy trong
văn ông. Bởi Nguyễn Khải không chỉ sống với nhân vật mà ông còn chiêm
nghiệm nhân vật nữa.
Không phải ngẫu nhiên, người đọc thấy truyện ngắn Nguyễn Khải thường
xuyên xuất hiện các mẩu đối thoại ngắn. Một mặt, đối thoại tạo chất chính luận,
kích thích tranh biện, nhưng mặt khác. Nó góp phần tái hiện nhiều mảng hiện
thực đời sống khác nhau bên cạnh một hiện thực mà đối thoại xuất hiện. Lúc
đó, cái hiện thực của phát ngôn sẽ đóng vai trò làm trung tâm để từ đó quy
chiếu ra nhiều hướng khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Trong truyện ngắn
Mùa lạc, bên cạnh một nông trường Điện Biên ngày đổi mới là những cuộc
đời, những số phận khác nhau từ mọi nẻo được tái hiện. Những câu chuyện nhỏ
về Huân, Duệ, Đào…gộp lại làm nên một câu chuyện lớn về Điện Biên hôm
nay.Cũng như thế, đang nói chuyện về bà cô Hiền, tác giả lại chuyển sang
chuyện về thú chơi thuỷ tiên ngày Tết [28-182]. Từ chuyện làm cói của HTX
nào đó phá sản lại chuyển sang ngẫm nghĩ về nghề viết văn [28-272]…Sự đan
cài truyện trong truyện tạo cho văn Nguyễn Khải một sức bao chứa rất lớn.
Không phải là sự rậm rạp của những chi tiết, mật độ dày đặc của các sự kiện,
Nguyễn Khải đi vào khai thác sự phong phú của đời sống tư tưởng. Tuy nhiên
cũng cần thấy một điều, trong văn Nguyễn Khải không có sự “loé sáng” của
vùng kí ức hay sự mách bảo của vô thức…thế giới tinh thần trong văn ông dù
là kí ức hay hiện tại thì nó vẫn luôn tươi mới, ngồn ngộn chất sống. Quãng đời
hoạt động cách mạng sôi nổi có thể là cách đây đã hơn hai mươi năm nhưng
khi nhớ lại ông Ba Quốc Hội vẫn thấy như vừa mới xảy ra hôm qua…
Cách tổ chức tác phẩm như trên ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức không
gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của ông. Khác với những tác
phẩm dài hơi thường lấy bối cảnh không gian rộng lớn như chiến trường Tây
68 6 8
Nguyên, đảo Cồn Cỏ, hay cả một vùng nông thôn công giáo, truyện ngắn
Nguyễn Khải thường tập trung vào những không gian nhỏ, hẹp của cuộc sống
đời thường. Đó là một ngôi làng trong Nằm vạ, Ngày tết về thăm quê, một khu
nhà tập thể trong Mùa lạc, Một đứa con nuôi, Một cặp vợ chồng, hay một gia
đình trong Một đứa con chết… Sau này, khi chuyển sang khai thác hiện thực
cuộc sống đời thường thì không gian ấy vẫn tiếp tục được Nguyễn Khải tận
dụng . Đó là những không gian rất đỗi đời thường, gần gũi không chỉ với tác
giả mà với cả bạn đọc.
Thật không khó để nhận thấy, nhân vật Nguyễn Khải là những nhân vật hoạt
động bằng ý thức, nhận thức thế nên môi trường hoạt động của nó chủ yếu là
thế giới nội tâm, thế giới của ý thức. Không gian tự nhiên cụ thể trong tác phẩm
thường là những không gian hẹp đến mức tối thiểu. Đối lập với một không gian
hữu hình hữu hạn là một không gian vô hình mênh mông, trong đó nhiều không
gian xa lạ với không gian thực tại được tái hiện nhờ vào các hồi ức, liên tưởng.
Với một thế giới đời sống nghiêng về tinh thần, không gian trong truyện ngắn
Nguyễn Khải là một không gian khá đặc biệt- không gian của ý thức. Nhà văn
gắn điểm nhìn trần thuật của mình vào một không gian thực tại với những vấn
đề của đời sống nhưng lại hướng trường nhìn của mình vào một không gian
tinh thần, không gian ý thức để khám phá.
Tương tự như vậy, thời gian trong các truyện ngắn Nguyễn Khải cũng là
thời gian tồn tại trong ý thức của con người. Thời gian trần thuật luôn bị dồn
nén trong một chuyến đi, một cuộc gặp gỡ; trong khi đó thì thời gian được trần
thuật lại mở ra vô biên bởi dòng chảy của ý thức nhân vật. Nhờ đó, nhà văn chỉ
cần qua một vài sự kiện cơ bản liên quan là có thể tái hiện lại toàn bộ quá trình,
diễn biến của đời sống, cuộc đời nhân vật. Mạch truyện theo đó cũng không đi
theo lối tuần tự mà bị đứt gãy, lắp ghép liên tục tuỳ theo mạch liên tưởng, suy
nghĩ của nhân vật.Chính nhờ sự phối hợp tinh tế giữa thời gian trần thuật và
thời gian được trần thuật đã làm cho tác phẩm của Nguyễn Khải như những
thước phim về đời sống trong đó mỗi khuôn hình là một lớp cắt đời sống và
chúng được sắp xếp xen kẽ, đảo lộn không theo bất cứ một trình tự nào.
Với Nguyễn Khải thời gian không chỉ là khách quan mà còn là chủ quan,
69 6 9
thời gian tồn tại , hiện hữu và in dấu ấn trong đời sống tinh thần của con người.
Bước đi của thời gian chính là ở những biến đổi nơi ý thức và những thay đổi
trong cảm nhận của mỗi cá nhân về đời sống cũng như về chính bản thân mình.
Đó là thời gian của con người chứ không còn là thời gian của tự nhiên nữa. Với
nhà văn, trong cái dòng đời tuôn chảy vô tận kia luôn luôn có những khoảnh
khắc đáng sống, đáng ghi nhớ của mỗi người. Có thể con người thành công hay
thất bại nhưng đó vẫn là khoảng thời gian có ý nghĩa khi mà chúng ta đã cố
gắng hết sống hết sức mình. Thời gian ấy là thời gian được trải nghiệm, được
tận hiến và tận hưởng của mỗi cá nhân, do đó nó mang tính chất chiêm nghiệm
rất rõ.
Sự vận động của thời gian trong văn Nguyễn Khải cũng mang tính chủ quan
với những diến biến phức tạp tuỳ theo đồ thị tinh thần của nhân vật trải
nghiệm. Có khi thời gian trôi nhanh đến chóng mặt với những sự việc dồn dập
tưởng không thể tiếp nhận kịp; nhưng cũng có lúc thời gian lại như chậm chạp,
lê thê như ngưng đọng lại thậm chí còn như được kéo dài thêm ra.
Với cách tổ chức thời gian và không gian mang ý nghĩa đời tư, cá nhân kết
hợp cách tổ chức sự kiện tự do, thoải mái theo kiểu “tuỳ hứng”, truyện ngắn
Nguyễn Khải vừa chuyển tải được nội dung xã hội rộng lớn vừa khai thác
được vấn đề con người cá nhân, con người đời tư với nhiều ý nghĩa nhân sinh
sâu sắc.
Như vậy, đi suốt những trang văn của Nguyễn Khải dù ở bất kỳ khoảng thời
gian nào, dù khi Nguyễn Khải vẫn còn là một anh cán bộ tuyên huấn hay khi đã
là một ông lão thì người đọc vẫn thấy ở đó một con người nhạy bén với thời
cuộc, xông xáo ở những nơi tuyến đầu, một anh chàng có đôi chút lém lỉnh,
hay lí sự thích tranh cãi với bạn đọc, có đôi chút ngang ngạnh nhưng vượt lên
tất cả vẫn là một sự nhiệt tình, hăng say của một con người yêu đời, có trách
70 7 0
nhiệm với cuộc đời.
Chương 3: Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải
sau năm 1986
Văn chương là một lĩnh vực rất nhạy cảm, nó chỉ “dung nạp những người
biết đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa
có” (Nam Cao).Sự thay đổi của thời đại cùng với thị hiếu của bạn đọc là yếu tố
quan trọng khiến cho bản thân văn học luôn phải thay đổi nếu không muốn bị
lãng quên. Và điều đó càng đúng với mỗi một nhà văn, sẽ là nhàm chán, là lỗi
thời với thời đại, với chính mình nếu nhà văn đó không có ý thức tự làm mới
mình. Mỗi người có một cách nghĩ và một hướng đi riêng,bạn đọc đã từng
được chứng kiến biết bao sự “chuyển mình” trên văn đàn như: Chế Lan Viên từ
“thung lũng đau thương” ra “cánh đồng vui”, như Xuân Diệu “xưa tôi hát
giọng cao, nay tôi hát giọng trầm”, như Nguyễn Tuân từ chỗ luôn thấy “thiếu
quê hương”, tìm về một thời “vang bóng” đến chỗ yêu “Sông Đà”, reo vui cùng
“Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”...Mỗi một bước thay đổi là một sự đánh dấu cho
những trưởng thành của mỗi một nhà văn. Ở Nguyễn Khải cũng vậy, cùng với
việc tiếp tục “mạch ngầm vẫn lặng lẽ chảy” thì ông cũng có những chuyển biến
tích cực cả về nội dung và hình thức như “một cách tồn tại trong văn học” theo
đánh giá của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn.
3.1 Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh
3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.
Trong các sáng tác trước đây, Nguyễn Khải vẫn luôn quan tâm đến yếu tố
thời sự của tác phẩm. Một mặt đó là do nhu cầu của thời đại, mặt khác cũng là
do sự chi phối của cá tính nhà văn. Đọc các tác phẩm của ông, từ tiểu thuyết
đến truyện vừa, truyện ngắn đều thấy ở trong đó một bối cảnh lịch sử thời đại
mang tính chất tiêu biểu, phổ quát, rộng lớn cho cả một thời kỳ cách mạng. Thế
nhưng, càng về sau, phạm vi đề tài trong truyện ngắn của Nguyễn Khải càng
thu hẹp dần. Như một sự chuyển hướng từ bề rộng sang bề sâu, đề tài phản ánh
thu hẹp không có nghĩa là vấn đề phản ánh cũng thu hẹp. Khi chuyển từ hiện
71 7 1
thực xã hội rộng lớn sang một hiện thực nhỏ hơn là gia đình Nguyễn Khải
không những vẫn phản ánh được hiện thực rộng lớn của xã hội, mặt khác lại có
điều kiện đào sâu thêm vào suộc sống tư tưởng của con người thời đại- và đây
mới là điều mà Nguyễn Khải muốn hướng tới.
Dễ dàng nhận thấy trước đây nhân vật của Nguyễn Khải thường được đặt
trong mối liên hệ chính trị có tính chất cách mạng, thời cuộc trên những bình
diện lớn của xã hội. Thiết nghĩ, đó cũng là đặc điểm chung của văn học một
thời. Sau này, khi có thời gian nhìn lại những trang viết trước đó, Nguyễn Khải
đã tự nhận thấy đó là thời gian mà ông “chỉ nhìn đời, nhìn người có một nửa,
cái nửa ai cũng nhìn thấy mà bỏ qua cái nửa chỉ nhà văn mới thấy”.[30-125].
Những “hạt bụi vàng lấp lánh”, những giá trị nhân văn đích thực mà suốt
đời Nguyễn Khải kiếm tìm không phải ở đâu xa vời mà hiện hữu ngay trong
những con người bình thường với cuộc sống hàng ngày bình thường của họ.
Trong cơn bão của nền kinh tế thị trường, gia đình là nơi đầu tiên và nhanh
chóng nhất chịu sự tác động. Viết về vấn đề này , không chỉ có riêng Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng rồi Nguyễn Huy Thiệp đều cũng đã
đặt ra mối quan tâm đến những rạn nứt và nguy cơ tan vỡ các giá trị nền tảng
gia đình khi nhu cầu giải phóng cá nhân đã và đang len lỏi vào trong từng ngõ
ngách của cuộc sống hôm nay.Trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Khải
tập trung phản ánh quan hệ của các cá nhân trong gia đình để qua đó thấy được
sự thay đổi ngấm ngầm nhưng cũng không kém phần dữ dội của đời sống xã
hội.
Trước tiên, Nguyễn Khải đề cập đến hình ảnh người chồng, người cha vốn
là trụ cột vững chắc trong gia đình. Với thời đại mới, họ không còn là những
người chủ đầy quyền uy nữa. Ngay chính bản thân họ cũng còn thấy lạc lõng,
bất lực trong ngôi nhà mà chính họ xây dựng lên. Đúng là thời đại mới đã mở
ra một vận hội mới và những cơ hội đổi đời cho nhiều gia đình nhưng đồng
thời với sự đi lên của cuộc sống vật chất là sự tụt dốc thảm hại về quyền uy và
vị thế của người chồng, người cha trong các gia đình, những con người từng
trải của hôm qua bỗng trở thành kẻ vụng dại trong hôm nay.
Trớ trêu thay, sự tồn tại và xuất hiện của họ trong gia đình bây giờ không
72 7 2
những là không cần thiết mà còn như trở nên thừa thãi, gần như luôn gây sự
bực dọc, khó chịu cho mọi người. Khoảng cách giữa họ và các thành viên khác
trong gia đình dần hình thành. Trước tiên là những khoảng cách hữu hình trong
cung cách sinh hoạt của họ, mỗi bên là một mảng màu riêng đối lập nhau.Cùng
sống dưới một mái nhà, cùng ăn một mâm nhưng anh Tần lại như một kẻ xa lạ,
nghèo đói lạc vào giữa những người sang trọng, quý phái: “Bà chủ nhà mặc bộ
đồ màu xanh gắt, dây vàng quanh cổ, vòng ngọc một cổ tay[..]Một cậu đi học
nước ngoài, một cậu đang học đại học trong nước, áo bỏ trong quần, nghiêm
chỉnh như ngồi dự đại tiệc. Cô con gái út mặc váy đầm, son phấn rực rỡ..”.
[28-286]Còn ông bố thì “vốn đã gầy, dịp này lại càng gầy như mới đau dậy,
đeo kính lão, mặc cái áo len mỏng đã thủng mấy chỗ, đưa mắt lấm lét nhìn tôi
rồi lại nhìn vợ, nhìn con, vẻ mặt căng thẳng, nhẫn nhục” [28-287].
Tiếp đến là trong quan niệm sống, những người chồng, người cha quen
sống theo khuôn mẫu, nề nếp và hơn nữa lại chỉ thích “bàn những chuyện cao
xa, chuyện viễn cảnh”, không thể đứng vững, không thể là chỗ dựa cho vợ con
trong một xã hội mà người ta ứng xử, quan hệ với nhau bằng tiền. Trong khi vợ
con cần một sự đảm bảo về cuộc sống vật chất thì người chồng lại không thể
đáp ứng. Người chồng, người cha ở quá cao trong khi vợ con anh ta lại chỉ là là
mặt đất với những toan tính vật chất tầm thường. Sự hoán đổi vai trò tất yếu
dẫn đến sự hoán đổi vị thế là điều tất yếu. Từ việc “Ông thiếu tá biến thành
người ở, bà vú của hai đứa con và làm một thằng đàn ông thuần tuý” đến “ mọi
việc từ lớn đến nhỏ đều chờ ý kiến của vợ” khiến anh ta trở nên mất giá trị
không chỉ với vợ mà với cả các con. “Với các con, tôi chỉ là người lạ, bố về
không thấy vui mà còn như vướng víu. Chúng trò chuyện với tôi ngượng ngập,
chịu đựng và bất cứ chuyện gì cũng phải hỏi mẹ[…]Sống vói vợ đã mười lăm
năm mà vẫn như sống một mình, sống ở cơ quan, ăn cơm tập thể, bàn chuyện
xã hội rồi nằm đọc sách, gặp chuyện gì bứt rứt cũng chỉ mình biết riêng
mình”.[28-289].
Rõ ràng, với họ bây giờ gia đình không còn là tổ ấm yên vui, nơi về ấm áp
sau những giờ phút căng thẳng, mỏi mệt. Nếu họ là những người chồng, người
cha vô trách nhiệm thì sự trừng phạt đó cũng là thích đáng. Nhưng không, họ
73 7 3
vẫn là những người chồng, người cha tốt, có học thức, có hiểu biết rộng, đều
nhận thức rõ sự cần thiết của những “giá trị tức thời” cũng như sự bền vững
của những giá trị vĩnh cửu; và hơn ai hết, họ cũng nhận thức được rằng muốn
tồn tại tất nhiên phải nhờ đến các “giá trị tức thời”. Thế nhưng họ vẫn có tội,
cái tội lớn nhất mà vợ con không tha thứ cho họ đó là họ không kiếm được
nhiều tiền, không có quyền , có thế để họ được mở mày mở mặt.
Khi đưa ra những số phận đáng thương, những ông Bột cố giữ cách sống
“tôn trọng mọi người” [28-296], ông Vị coi vốn liếng của cuộc đời là học vấn,
nhân cách [28-306]…nhà văn đã cho chúng ta thấy cuộc đấu tranh ngấm ngầm,
gay gắt trong việc lựa chọn cách sống – làm sao để có thể vừa hài hoà giữa
những giá trị phải dùng tới hàng ngày, hằng giờ với những giá trị chuẩn mực
“như nền tảng, như chân móng, như giằng cột”cho cả đời người, là vấn đề
Nguyễn Khải băn khoăn. “Vẫn biết rằng không thể quay lại cuộc sống tẻ nhạt,
ràng buộc lẫn nhau như ngày xưa, thiên hạ họ đã sống khác, mình chui vào cái
vỏ mãi sao được. Cứ cho là mình tình nguyện sống trong cái vỏ quen thuộc
nhưng còn vợ con? Vì không chuẩn bị thoát ra khỏi cái vỏ cũ nên không còn
làm chủ được tình thế một khi nó đã thay đổi[…]Phản đối quyết liệt ư? Gia
đình sẽ tan vỡ ngay lập tức. Nhẫn nhục bước theo thì sự tan vỡ sẽ chậm lại
nhưng rồi cũng phải tan vỡ. Vợ con đâu có biết cái giá sẽ phải trả cho một
cách sống tự do” [28-293].
Sau những người chồng, người cha là những người mẹ, người vợ. Sự
xuống dốc của người chồng lại đồng nghĩa với sự lên ngôi của người vợ; người
cha tầm thường đưa người mẹ lên mức sùng bái. Xã hội nay không thiếu những
cảnh “Nhà kia lỗi phép con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng” (Tú
Xương). Có thể cách đó một thời gian không lâu, họ cũng đã từng là những vợ
hiền, dâu thảo. Không rõ từ khi nào họ đã bị cuốn theo vòng xoáy của những
bon chen danh lợi để rồi khi người “nội tướng” đã bị mùi tanh của đồng tiền
làm say mê, bị cái xa hoa của vật chất làm cho mờ mắt thì chính họ là nguyên
nhân gây ra mọi sự bê bối, rối rắm trong cái gia đình nhỏ của mình.
Sẽ là thiếu sót nếu khi nói đến gia đình mà không đề cập đến những đứa
con. Vì là thế hệ trẻ nên họ rất xông xáo, năng động, thích ứng với thời cuộc
74 7 4
một cách rất dễ dàng. Họ có thể tiếp nhận ngay quan điểm sống của xã hội
mới, vứt bỏ không thương tiếc những gì mà họ cho là đã cũ kỹ, lỗi thời, lạc
hậu. Sự nhập cuộc và đổi đời của họ sẽ là đáng khen nếu nó không đi ngược lại
nhứng giá trị tốt đẹp của luân thường đạo lý. Với họ, người cha, người mẹ có
thể lui về ”hậu trường” để nhường lại chỗ đứng cho họ, con trai, con dâu giờ là
những người xây dựng cơ nghiệp, thay đổi số phận. Thế nhưng, oái oăm thay
những đồng tiền hàng ngày chúng kiếm được lại là những đồng tiền bất chính,
dơ bẩn do buôn lậu, buôn người, buôn hàng cấm…mà có. Chúng quá tôn sùng,
say mê đồng tiền đến mức tìm mọi cách, xoay sở mọi kiểu để kiếm tiền, càng
nhiều càng tốt. Thậm chí chúng không ngần ngại “rút ruột” người cha già, sãn
sàng đuổi ông ra khỏi nhà khi cần thiết để có khoản tiền kinh doanh [28-306].
Ngậm ngùi thay, chua xót thay cho những giá trị đạo lý bao đời đang dần dần
bị huỷ hoại, cái nền móng của gia đình đang bị lung lay, rạn nứt trong cơ chế
thị trường dự báo những bất ổn của một đời sống xã hội tương lai khi mà nó
được xây dựng trên những giá trị tức thời trước mắt.
Nhưng có lẽ không phải vì vậy mà Nguyễn Khải bi quan, trong quan niệm
của ông thì “cái nếp sống tốt đẹp của cha ông vẫn lặng lẽ chảy trong cuộc sống
ồ ạt của hiện tại” [30-25]. Nguyễn Khải vẫn nhìn thấy ở đâu đó trong cuộc
sống đời thường những người mẹ, người vợ luôn biết nhen nhóm, gìn giữ ngọn
lửa yêu thương. Có thể một mình họ phải chèo chống cả gia đình trong cơn
giông bão của thời cuộc nhưng họ vẫn lặng lẽ, can trường chịu đựng. Dù có
gặp bao khó khăn, éo le, trắc trở nhưng họ vẫn gắng giữ vững tổ ấm hạnh phúc
nhỏ bé của mình. Ở họ vừa có những nét đẹp đằm thắm, dịu dàng của người
phụ nữ truyền thống, vừa có nét cứng cỏi, mạnh mẽ, khôn ngoan của người phụ
nữ hiện đại. Họ là những người phụ nữ đẹp nhưng không phải đẹp ở ngoại hình
mà đẹp trong cốt cách, trong tâm hồn; là chỗ dựa vững chắc không chỉ về vật
chất mà cả tinh thần cho chồng, cho con. Bà cô trong Nếp nhà, luôn sống và
dạy dỗ con cái theo những nguyên tắc đạo đức tốt đẹp “sống lương thiện, sống
thẳng thắn và sống theo pháp luật hiện hành” nên đã giữ được một nếp nhà
bình ổn trong giông bão. Cô Hiền trong Một ngƣời Hà Nội thông minh, sắc
sảo, tính toán việc nước, việc nhà đâu ra đó- một người phụ nữ khôn khéo,
75 7 5
sống và dạy con cái theo một chuẩn mực riêng là lòng tự trọng. Chị Khuê trong
Ngƣời vợ sống âm thầm, nhẫn nại để giữ cho được “cả sự ốn định về tinh thần
lẫn sự ổn định trong cuộc sống vật chất hàng ngày” mà “chả thấy khổ một tí
nào”[27-395], như được sinh ra để”một đời gánh chịu mọi tai hoạ vì những
người thân yêu”[27-tr.396]. Rồi những người vợ, người mẹ của những gia đình
có chồng là thương binh nặng trong Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức,
thậm chí cả bản thân họ cũng là thương binh như trong Một bàn tay và chín
bàn tay, họ sống không phải vì bản thân mình mà sống vì chồng vì con.Giữa
những bon chen của cuộc sống thừờng nhật họ vẫn tìm thấy niềm vui, niềm
hạnh phúc nho nhỏ, giản dị để rồi ngày lại ngày tiếp tục chèo lái con thuyền
của gia đình mình đến bến bờ bình an và hạnh phúc.
Trong vấn đề người phụ nữ, Nguyễn Khải cũng có cái nhìn đa chiều, có
người tốt, có người xấu, song không vì vậy mà nhà văn hoang mang, ông vẫn
tìm thấy được và tin tưởng. Theo nhà văn, trong cơn bão tố của cuộc đời, người
duy nhất có thể gìn giữ, xây dựng hạnh phúc gia đình vẫn chính là những người
phụ nữ. Họ là những người gìn giữ, nhen nhóm ngọn lửa yêu thương trong
những mái nhà để nơi ấy mãi mãi là “nơi về”, là chỗ dựa ấm áp, bình yên. Đó
chính “là vàng mười, là kim cương, là báu vật, là sự may mắn lớn nhất mà
chồng con họ có được ở cõi đời này”.
3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.
Một đặc điểm chung của văn học trước những năm 70 là luôn phản ánh
hiện thực có tính một chiều, tuyến tính. Hiện thực được phản ánh là sự xâu
chuỗi, liên kết tất cả các sự kiện, biến cố theo trình tự trước sau. Nhân vật lúc
nào cũng bị cuốn đi, trôi đi trong dòng thác sự kiện, ít hoặc không có cơ hội để
nghĩ về một hiện thực khác ngoài hiện thực mình đang sống. Thế nên, một điều
dễ thấy là hầu hết các sáng tác đó dù phạm vi hiện thực có lớn đến đâu thì nó
vẫn gây cho người đọc một sự thả trôi dễ dãi. Điều này xuất phát từ chính quan
niệm của con người về vấn đề thời gian và lịch sử.
Vấn đề thời gian, lịch sử trong quan hệ với con người đã được văn chương
xưa nay đề cập rất nhiều. Trước kia, con người nhìn thời gian là thời gian có
tính chất tuần hoàn như một đại lượng vĩnh cửu, mãi mãi trường tồn “xuân qua
76 7 6
xuân lại lại” (Hồ Xuân Hương). Cũng chính vì quan niệm như vậy mà người
xưa không coi trọng thực tại. Họ có xu hướng sùng cổ, coi trọng quá khứ, tôn
sùng cái Đẹp của quá khứ. Đối với họ, mọi thứ trong vũ trụ là bất biến, họ
không bao giờ có ý niệm về tương lai. Ung dung, nhàn tản, tự tại là cách sống
của các trí nhân ngày xưa cũng bởi vậy mà có. Tất nhiên, khi nhìn nhận vấn đề
thời gian, con người luôn đặt nó trong tương quan với cuộc sống. Tuy nhiên,
cái mà họ nhìn thấy chỉ là sự cô đơn, nhỏ bé của con người trước sự vô cùng,
vô thuỷ, vô chung của không gian và thời gian: “ Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu
bất kiến lai giả/ Niệm thiên địa chi du du/ Độc thượng nhiên nhi thế hạ” (Đăng
Châu U đài ca- Trần Tử Ngang).
Trong văn chương hiện đại, quan niệm thời gian đã có sự thay đổi, thời
gian bây giờ không còn là thời gian tuần hoàn mà là thời gian tuyến tính, có
tính một chiều. Trong sáng tác của Nguyễn Khải trước 86 nói riêng và văn
chương trước 75 nói chung, thời gian được gắn với các biến cố,sự kiện- đó là
thời gian của lịch sử. Bắt đầu từ những năm 80 trở đi, quan niệm về thời gian
của Nguyễn Khải đã khác, ông viết: “ Nếu trái đất không còn sự sống nữa, trở
lại trạng thái hoang sơ, nguyên thuỷ thì thời gian tự nó cũng không có. Thời
gian chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với sự sống của con người và phát triển và
tiến bộ”.[50-270]. Đó là thời gian của con người- một thời gian được nhìn nhận
không phải đơn giản một chiều mà từ nhiều chiều: quá khứ, hiện tại và tương
lai. Nếu như nhiều người bây giờ nhìn thời gian như là một cái gì đó rất mơ hồ,
trừu tượng; theo dòng chảy của thời gian tất cả đều trở thành phù du…thì
Nguyễn Khải lại có cái nhìn khác. Ông gắn thời gian với cuộc sống của con
người, với những việc làm mà mối cá nhân làm được trong quãng thời gian
sống của mình. Và như thế thì “thời gian như một cái gì rất bền vững, mãi mãi
con là trong hiện tại, một hiện tại vừà hình thành vừa tiếp nối với thời gian
đang được chuần bị. Mỗi chúng ta vừa là sự hình thành của một quá khứ thăm
thẳm, vừà là sự mở ra cho một tương lai rất xa xăm” [50-154]. Vì thế, con
người sẽ có thể trở nên bất tử trong cái sự nghiệp một đời của họ. Quan niệm
của Nguyễn Khải vừa giống vừa không giống với những quan niệm trước đó:
thời gian với Nguyễn Khải không phải là “hành lang một chiều” phía sau thăm
77 7 7
thẳm, phía trước càng thăm thẳm hơn; đồng thời nó cũng không vĩnh cửu một
cách đơn thuần, thời gian chỉ trở thành vĩnh cửu khi nó gắn với hoạt động của
con người. Cái nhìn của Nguyễn Khải như vậy có tính chất biện chứng, góp
phần giải quyết mối quan hệ giữa cái hữu hạn của kiếp người và cái vô hạn của
thời gian. “Mỗi chúng ta giống như một đơn vị nhỏ nhất của thời gian, là một
tích tắc, tích tắc những ước mơ và nguyện vọng, những tranh đấu và thành bại,
những vui sướng và đau khổ, tất cả gói trọn trong cái hữu hạn khoảnh khắc,
tích tắc- tích tắc- tích tắc hãy nhớ tới cái hữu hạn, cái ngắn ngủi, cái chóng
qua của một kiếp người, hãy mơ mộng trong cái hữu hạn ấy. Với cái vĩnh viễn,
cái vô tận, cái trôi đi mãi mãi thì mình có là cái gì, chẳng là cái gì cả…Nhưng
ta vẫn có thể là cái gì đó trong cái khoảnh khắc ta đang sống, là lực đẩy dẫu
yếu ớt vào cái dòng lưu chuyển chung” [50-212].
Quan niệm này ảnh hưởng đến cách sống và lựa chọn của những nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Khải. Một thế hệ thì luôn tin tưởng, yên tâm vào
một tương lai đã biết trước và luôn ẩn mình trong cái chung của cộng đồng;
còn một thế hệ lại khát khao tìm tòi, khát khao cống hiến, hướng tới cái giá trị
đích thực của cuộc sống, của cá nhân. Ở một khía cạnh sâu sa hơn, chúng ta
thấy, khi nhìn nhận hiện thực có tính biện chứng như vậy thì đồng thời Nguyễn
Khải cũng đã đi tới một cách tiếp cận con người ở một chiều sâu tư tưởng mới.
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã phân tích rất sâu sắc về bình diện của tồn tại
con người trong tương quan với thời gian và ông cho rằng Nguyễn Khải dường
như muốn làm sống lại lớp thời gian vĩnh hằng truyền thống để soi sáng lớp
thời gian động “qua mau đến nỗi không kịp nhận biết”. Cách nhìn con người
trong tương quan với thời gian nằm bên trong mỗi con người , gắn với thời
gian của con người, gắn với sự nghiệp của mỗi người thì tương lai không chỉ ở
phía trước mà còn ở cả trong quá khứ. “Quá khứ là do người khác chuẩn bị cho
mình, còn tương lai là phần mình phải chuẩn bị cho người khác” là vậy.
Khi nhìn nhận con người trong mối quan hệ nhiều chiều trước lịch sử ta
luôn bắt gặp trong các trang văn Nguyễn Khải những cuộc “bàn giao thế hệ”.
Tuy nhiên, nếu trước những năm 80 những cuộc bàn giao ấy luôn đạt được sự
thống nhất cao về lý tưởng, ở đó thế hệ trước luôn là tấm gương để những thế
78 7 8
hệ sau noi theo. Sau những năm 80 trở đi, sự thống nhất ấy hầu như không còn
nữa, khoảng trống cách ngăn giữa các thế hệ ngày càng lớn. Có khi mỗi thế hệ
lại thuộc về một cơ chế xã hội khác nhau với các giá trị riêng, quan niệm riêng
và nguyện vọng riêng. Và tất nhiên, vận hội của thời đại mới luôn được trao
vào tay những thế hệ con người trẻ tuổi. Ở những con người này, bên cạnh tư
cách con người lịch sử, họ còn xuất hiện với tư cách những con người cá nhân
với những nét riêng biệt. Một phần con người họ là đại diện cho con người thời
đại- đây là phần mà họ không thể quyết định được. Một phần khác là chính bản
thân họ- cái phần không thống nhất, không hoà hợp với nửa kia của chính họ.
Họ là những con người dám nghĩ, dám làm, dám sống hết mình cho lý tưởng,
biết tìm cho mình một mục đích phấn đấu để quãng đời sống của mình trở nên
có ý nghĩa. Bạn đọc không hề khó để tìm thấy những con người như thế trong
các truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ này. Khôi trong Ngƣời ở làng pháo, vợ
chồng ông Ba Quốc hội trong Hai ông già ở Đồng Tháp Mƣời, hay Anh trong
Ngƣời gặp hàng ngày…dù tuổi tác không giống nhau, học vấn, nghề nghiệp
không tương đồng nhưng họ đều giống nhau ở một bầu máu nóng, ở ham muốn
ham hoạt động để được “sống thật triệt để, thật mãnh liệt”. Họ là những con
người không bao giờ chịu chết già trên giường bệnh. Họ luôn có nhu cầu tự thể
hiện, tự thay đổi với tất cả khả năng của bản thân, “tự mở miệng cạo, tự bôi
thuốc cho ra hết mọi giọt mủ”…bởi theo họ “cái cây không ra hết mủ chết
không nổi, con người vẫn còn sức mà phải ngồi yên chết cũng không nhắm
được mắt”. Đi sâu khẳng định vị trí cá nhân, nhiệt tình cổ vũ cho giá trị cá
nhân, chủ trương cái Tôi không bao giờ hoà tan vào cái Ta chung…là một
hướng nhìn nhận mới về con người của Nguyễn Khải. Khi nhìn nhận hiện thực
với một cách nhìn tỉnh táo, sáng suốt vừa cho thấy nhà văn đã xử lý sâu hơn,
linh hoạt hơn trong cách viết, vừa cho thấy sự sâu sắc trong cách đánh giá của
ông với con người trước cuộc đời.
3.1.3.Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm
lại.
Trở lại với vấn đề đổi mới trong văn học bắt đầu từ Nghị quyết 05 của Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (1987) thì nền tảng của sự đổi mới trong
79 7 9
văn học bắt nguồn từ sự tự ý thức của văn học về vai trò của nó trong xã hội,
quan hệ giữa văn học và chính trị cũng như ý nghĩa của nó trong đời sống xã
hội. Giờ đây, văn học không còn được hiểu đơn giản như một công cụ chính trị,
là vũ khí của công tác tư tưởng, là phương tiện tuyên truyền, giáo dục quần
chúng mà là “bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hoá, thể hiện khát vọng của
con người về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân
cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã
hội…” (Nghị quyết của Bộ chính trị về văn học nghệ thuật và văn hoá). Chính
điều này đã làm thay đổi âm hưởng chung của đời sóng văn học: từ khẳng định,
ngợi ca sang phê phán, nhận thức lại.
Nếu trước đây, nhân vật chính của các tác phẩm hầu hết là người tốt, là
nhân vật chính diện thì bây giờ, ngược lại, trong nhiều tác phẩm các nhân vật
chính thường là nhân vật tiêu cực, giả dối, làm ăn phi pháp, thấp kém về đạo
đức. Cái đêm hôm ấy đêm gì ( ký của Phùng Gia Lộc), Những mảnh đời đen
trắng (Nguyễn Quang Lập), Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma (Nguyễn Khắc
Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu),..là
những tác phẩm có tiếng vang, hầu hết được viết theo cảm hứng đó. So với
những tác phẩm trước đây, nhiệt tình phê phán của văn học giai đoạn này dữ
dội hơn nhiều. Trước đây, các nhân vật xấu thường là những kẻ phản dân, hại
nước, còn đối với những người làm việc trong bộ máy Nhà nước, những cán bộ
cơ quan chính quyền thì sự sa sút về đạo đức hay những lỗi lầm trong công
việc thường chỉ được miêu tả như là những thiếu sót, khuyết điểm có thể sửa
chữa được, về cơ bản thì họ vẫn là người tốt. Nay thì khác hẳn, nhiều nhân vật
cán bộ, viên chức nhà nước được miêu tả không phải là những người” cơ bản
tốt” mà là những kẻ đạo đức giả, chỉ lợi dụng danh nghĩa của cách mạng để
trục lợi, để thoả mãn những ham muốn quyền lực cá nhân, trù dập người khác
để nâng cao uy tín của bản thân, của gia đình và dòng họ mình
Theo đó, lần đầu tiên trong văn học vấn đề miêu tả cái ác, cái xấu đặt ra gay
gắt. Hiện vẫn tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề này, có nhiều
người cho rằng một số nhà văn có phần không kiềm chế và hả hê khi nói về cái
xấu, do đó không có ý nghĩa giáo dục thậm chí còn khiến người đọc hoài nghi
80 8 0
về cái tâm của tác giả, bên cạnh đó cũng có không ít những ý kiến ngược lại.
Tính phức tạp của vấn đề ở đây nằm trong thái độ đối với hiện thực và những
quan niệm khác nhau về chức năng của văn học. Thực ra, tái hiện cái ác cũng là
một hình thức phản ánh hiện thực và cũng là sự phản ứng với hiện thực. Văn
học không chỉ là phương tiện giáo dục đạo đức mà còn là một cách tiếp cận
cuộc sống. Tính đa nghĩa của hình tượng, trong đó có hình tượng về cái xấu
không nên bị thu hẹp trong cách lí giải theo quan điểm giáo huấn và tư duy
nghệ thuật truyền thống. Trên một bình diện khái quát hơn, sự phô diễn cái xấu
cũng như sự phê phán nó từ góc độ của cuộc đấu tranh chống tiêu cực thì sự
miêu tả thành công cái xấu, cái ác và rộng hơn là cái dị dạng, cái buồn cười
trong tác phẩm nghệ thuật đánh dấu một bước trưởng thành của văn học, chứng
tỏ năng lực bao quát cuộc sống , sự từng trải và mức độ nhận thức sâu sắc của
nhà văn.
Bên cạnh đó, công cuộc đổi mới cũng tạo cơ hội để các nhà văn nghĩ lại
về công việc sáng tác của mình. Cuộc sống giờ đây đã bộc lộ những mặt phức
tạp mà các cách phản ánh như trước đây hay những lời giải thích giản đơn,
công thức không còn đủ sức thuyết phục nữa. Mỗi người cầm bút không chỉ
nhận ra rằng sức mạnh của tác phẩm không chỉ nằm ở khối lượng hiện thực
được phản ánh mà còn phụ thuộc vào sự nghiền ngẫm của nhà văn, vào chiều
sâu của những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn gửi gắm trong đó. Trên cơ sở đó
đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm không chỉ ghi chép các tính cách mà còn soi
sáng chúng dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong những tác phẩm của Nguyễn Khải, bắt đầu từ Thời gian của ngƣời,
Một cõi nhân gian bé tí đến những tập truyện ngắn như Một thời gió bụi, Sƣ
già núi Thắm và ông đại tá về hƣu…giọng người kể chuyện vẫn thông minh,
lôi cuốn như trước đây nhưng mỗi ngày một thêm mềm mại, uyển chuyển.
Trong cáí nói đi đã có cái nói lại, bên cạnh sự tự tin đã có sự tự giễu mình, cuộc
sống đã được nhìn từ nhiều phía khác nhau. Nhân vật của Nguyễn Khải hầu hết
đều là những người đang sống. Qua việc kể lại một cảnh ngộ, một đời người,
những đổi thay ở một phố, một làng, nhà văn muốn quan sát, nghiên cứu những
biến chuyển đang diễn ra trong xã hội và hướng đi của nó. Các nhân vật của
81 8 1
Nguyễn Khải vẫn tâm huyết, giàu hoài bão như các nhân vật trước đây nhưng
lại hầu như ít thành công hơn, đôi khi có cái gì như là “Lãng tử”. Bản thân lời
kể chuyện cũng giàu chất suy tư hơn , cái nghĩ đã thấm đượm nỗi buồn của
người nhận ra ý nghĩa của thời gian và quy luật của đời sống.
Cũng nằm trong xu hướng này có Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. Tuy
nhiên, cái nhìn chiêm nghiệm của họ có phần khác với Nguyễn Khải. Họ chủ
yếu chiêm nghiệm lại lịch sử theo một cách nhìn mới của người viết hay của
chính người lính đã trải qua cuộc chiến. Còn Nguyễn Khải thì ông lại chiêm
nghiệm lại chính những sáng tác của mình theo thời gian và kinh nghiệm cho
phép.
Một điều đáng chú ý nữa trong truyện ngắn Nguyễn Khải là sự trở lại với đời
thường. với số phận riêng. Sự trở lại này nằm trong xu hướng tất yếu của đời
sống văn học. Suốt mấy chục năm chiến tranh, văn học cách mạng chủ yếu nói
về cái chung, chỉ xem xét cái riêng trên cơ sở quyền lợi giai cấp, của dân tộc ,
thành ra vấn đề đời thường, số phận riêng của con người bị chìm đi, thậm chí
đôi khi còn bị xem như cái gì xa lạ với đời sống văn học đích thực.
Đọc những truyện ngắn sau 86 của Nguyễn Khải, người đọc dễ dàng nhận
thấy những nhân vật chính trong tác phẩm của ông không còn là những chiến sĩ
trong những bối cảnh hoành tráng của Ra đảo hay Đƣờng trong mây nữa mà
lại là những mẹ, bà ngoại, ông cậu, bà cô, bà dì, cô em họ..và những bạn bè
thân thiết một thời của chính nhà văn. Những cuộc sống riêng được miêu tả
một cách chân thực hơn, không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có cả
thất bại và nỗi đau. Giờ đây, nỗi đau, nỗi buồn được nhìn nhận như một phạm
trù của văn học, nó như là một sự sẻ chia của nhà văn với những bi kịch, mất
mát, đau khổ cũng như nói lên tình cảm yêu thương, trân trọng của nhà văn với
chính những người thân của mình.
Trong những truyện ngắn của Nguyễn Khải không có xung đột xã hội, điều
mà tác giả quan tâm chính là sự phong phú của tâm hồn con người, sự phát
triển ý thức về cá nhân được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau với những tình
huống của cuộc sống bình thường. Những tác phẩm nhiều khi là những câu
82 8 2
chuyện kể chẳng đâu vào đâu, chẳng có tình huống hay cốt truyện gì đặc biệt,
nhưng bên trong cái tưởng như vụn vặt đó là sự phát triển, biến hoá của dòng ý
thức trong tâm linh nhân vật
Sự quan tâm đến con người bình thường và những cuộc đời bình thường đã
làm thăng bằng lại nền văn học trong nhiều năm qua vốn quá thiên về cái
chung, cái vĩ đại. Sau bao nhiêu năm trải nghiệm, cuộc sống đã giúp nhà văn
nhận ra vẻ đẹp của những cái đơn giản ở xung quanh. Cùng với đó, việc đi sâu
vào thế giới tinh thần của con người, vào quá trình tự ý thức của nó đã góp
phần củng cố thêm sự hình thành con người cá nhân trong xã hội, làm cho tiếng
nói của tác phẩm thêm sâu sắc hơn.Sự trở lại này cũng là nằm trong xu thế tất
yếu của văn học nước nhà.Do hoàn cảnh chiến tranh suốt mấy chục năm qua,
văn học cách mạng chủ yếu nói về cái chung, chỉ xem xét cái riêng xuất phát từ
quyền lợi chung của giai cấp, của dân tộc thành ra vấn đề đời thường, số phận
riêng của con người bị chìm đi, thậm chí đôi khi còn bị xem như là một cái gì
đó qua xa lạ với một nền văn học lành mạnh. Điều này cũng giải thích vì sao
khi quay lại với chủ đề này, văn học được đánh giá như đã có một hành động
đổi mới.
Trong xu hướng đổi mới này, người đọc thấy nổi lên những tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu trong Cỏ lau, Phiên chợ Giát, trong truyện ngắn của
Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy, trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vƣờn
của Ma Văn Kháng, tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Sao đổi ngôi của
Chu Văn, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân…ở đó con gười đã được miêu tả
chân thực hơn, không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có đau khổ, thất
bại, cái đau, cái buồn giờ đây trở thành một phạm trù của văn học. Các nhà văn
đã mạnh dạn chia sẻ đối với bi kịch và những mất mát mà con người phải gánh
chịu trong suốt gần một nửa thế kỷ chiến tranh, nghèo đói đã nói lên sự gắn bó
của văn học với cuộc sống. Cũng quan tâm đến con người nhưng lại ở một
khía cạnh khác: sự phong phú hay nghèo nàn của tâm hồn được Phạm Thị Hoài
tích cực khai thác với những Thiên sứ, Mê lộ…Sự phát triển của ý thức cá
nhân được quan sát ở nhiều góc độ khác nhau, trong những tình huống hết sức
bình thường. Chính quá trình ý thức về thế giới chung quanh và tự ý thức về
83 8 3
mình trở thành nền tảng cho những câu chuyện được kể ra trong tác phẩm. Với
Nguyễn Khải, con người trong truyện ngắn sau này của ông, có khi được phản
ánh dưới tư cách của những nhân vật thời hậu chiến: trong cái Hùng có cái Bi
(thậm chí cái Bi nhiều hơn cái Hùng), có khi lại là một con người đang tiến dần
đến phần Người của mình…song dù điểm nhìn có giống với các nhà văn khác
thì vấn đề mà Nguyễn Khải muốn quan tâm phản ánh lại không chỉ đơn thuần
là cái bề nổi của những số phận bình thường trong những hoàn cảnh bình
thường mà ông muốn thông qua đó để khai phá những vỉa tầng sâu của lớp
trầm tích văn hoá dân tộc.
Điều đặc biệt nữa là trong cảm hứng chiêm nghiệm, xem xét lại, tác giả
đã trở thành một hình tượng văn học. Khi mà văn học đã không còn bị coi là
một vũ khí đắc lực của công tác chính trị nữa mà là một hoạt động nhận thức
và tự nhận thức thì tác phẩm không chỉ mang đến cho người đọc bức tranh sinh
động về cuộc sống mà còn gợi ra cho họ cùng thảo luận cũng như để người đọc
tự phán xét. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Khải chúng ta dễ dàng nhận thấy
luôn có một nhân vật “tôi”hoặc kể lại câu chuyện được nghe kể, hoặc kể lại câu
chuyện với tư cách là người trong cuộc.Tuy nhiên loại nhân vật” tôi” như thế
này ta bắt gặp không ít trong các sáng tác( không kể đến tự truyện) song nhân
vật “tôi” chưa chắc đã trùng khít với tác giả. Song, càng về sau ta càng bắt gặp
nhiều những cậu Khải, chú Khải, ông Khải, nhà văn Khải, nhà báo Khải. Có lẽ
đó cũng là một tất yếu khi những nhân vật ông quan tâm lúc này là những
người xung quanh mình, là những người đã từng một thời ông đánh giá chưa
đúng, là những vùng đất ông đã từng đi qua nay lại trở lại…Để mình trở thành
một phần của tác phẩm là Nguyễn Khải đã tự phân thân mình ra, tự tác mình ra
để phán xét, đánh giá. Ta thấy rất rõ có hai con người:một là ông Khải của hôm
nay đang xem xét, đánh giá anh Khải của ngày hôm qua để thấy sự lạ chọn của
mình trong những năm tháng đã qua là đúng hay sai. Đọc những lời ông chia sẻ
về nghề văn thật là thấm thía “ Vì một niềm tin mà tôi trở thành người cầm bút.
Nay vứt bỏ nó, thay vào một cái khác thì sẽ thành giám đốc, cố vấn, chuyên gia
kinh tế chứ đâu còn nhà văn- Ôi trời! Chẳng lẽ cái giá của nhà văn lại hơn
một ông giàm đốc? Người ta chỉ thấy các nhà văn chạy quanh các ông giám
84 8 4
đốc chứ chưa từng thấy các ông giám đốc chạy quanh nhà văn bao giờ…”[28-
273]. Có lúc ông còn tự bộc bạch về đời mình , tự thấy rằng ” đời viết văn của
tôi rất nhạt. Là một viên chức nhà nước ăn lương để viết văn. Không nghĩ ngợi
gì nhiều, trăn trở gì nhiều, không sóng gió, không hcìm nổi. Đôi lúc cũng muốn
bơi ngược một tí, rẽ ngang một tí nhưng rồi mệt quá lại khuôn mình theo dòng
chảy, theo dòng mà bơi, bơi cùng với đồng đội vừa an toàn vừa vui vẻ” [28-
274]. Nhà văn cũng tự nhận thấy mình không có gì là xuất sắc , chỉ là “một giọt
nắng nhạt” cuối ngày và cả quãng đời viết văn đã qua chỉ là “cái thời lãng
mạn” với những suy nghĩ và cái nhìn có phần sôi nổi, bồng bột của tuổi trẻ.
Khi tác giả tự biến mình thành một nhân vật, tự đánh giá và xem xét lại âu
cũng là một cách trả ơn đối vơi những người, những vùng đã một thời làm nên
tác phẩm của ông. Mặt khác, việc đưa nhân vật tôi trở thành hình tượng của tác
giả góp phần tạo nên không khí dân chủ, bình đẳng thân mật giữa tác giả và
bạn đọc.
3.2 Một số thay đổi về giọng điệu.
3.2.1 Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã.
Không phải là ngẫu nhiên mà khi càng có tuổi, con người ta càng trở nên dễ
tính hơn, xuề xoà hơn và hay “tếu” hơn. đọc truyện ngắn Nguyễn Khải những
năm 80 trở lai đây, người đạoc đều dễ dàng nhận ra một nét duyên trong cách
trần thuật của tác giả. Điều đó sở dĩ có được là xuất phát từ việc ông thay đổi
đề tài và phạm vi biểu hiện. Những mảnh ghép của cuộc sống đời thường rất
bình thường luôn đi cùng với những con người giản dị, những ngôn từ, lời nói
thân mật, suồng sã. Tác giả đã tận dụng được ưu thế của ngôn ngữ đời thường
khi chắt lọc nó tạo nên một giọng điệu kể chuyện riêng trong văn mình. Nét
riêng đó chính là giọng hài hước nhẹ nhàng, hóm hỉnh dân dã như một tiếng
cười xoà vui vẻ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khải để cho một nhân vật
của mình hé lộ: ”Nếu như đây đó thấp thoáng một nụ cười thì cũng là cái mỉm
cười hiền lành, vui một chút, nghịch một chút cho câu chuyện được đậm đà”.
Tài năng của Nguyễn Khải như nhiều người nhận thấy là khả năng tổ chức
các đối thoại, và ông cũng không ngại sử dụng những cuộc đối thoại giàu kịch
85 8 5
tính ấy vào mục đích tạo tiếng cười.. Các nhân vật của ông, hầu hết đều được
đặt vào trong những tình huống oái oăm, sinh ra không phải thời, đứng không
phải chỗ, chọn không phải người nên đã tạo ra những bi kịch. Đó có thể là
những bi kịch lớn như hôn nhân- gia đình: một quan niệm sai, một lựa chọn sai
có thể dẫn đến hỏng cả cuộc đời. Đó là trường hợp của nhân vật Dự vốn đẹp
trai, lắm tài vặt , từng làm điêu đứng trái tim bao cô gái vậy mà lại “bị” một cô
gái lúc nào cũng nghiêm trang, công thức đến tẻ nhạt, nói chuyện trăm năm
như bàn chuyện công tác, dắt mũi; để rồi cả cuộc đời đều phải tuân theo mọi
“chỉ thị” của cô vợ độc đoán [28-256]. Đó cũng có thể là sự nhầm lẫn “cố ý”
của những con người ngộ nhận về bản thân. Ví như nhân vật Tú chỉ có khả
năng về công việc hành chính lại ôm mộng viết văn. Bà mẹ nhân vật Dũng lẽ ra
phải giữ nếp chân quê lại cứ muốn diễn vai người đàn bà quyền quý thành ra
“quê không ra quê, tỉnh không ra tỉnh” …Chính trong những nghịch lý trớ trêu
ấy, tiếng cười mới bật ra. Tuy nhiên, nếu cũng những cảnh ấy vào tay Tú
Xương thì ắt hẳn độc giả đã được nếm một dư vị chua chát, cay đắng trong lời
lẽ châm biếm sắc sảo, sâu cay; nhưng với Nguyễn Khải, ông không lấy đó để
phê phán mà chỉ như một cách mỉa mai, châm biếm nhẹ nhàng để đem đến một
tiếng cười vui vẻ mà thôi.
Bên cạnh việc tổ chức các đối thoại thì những lời độc thoại cũng được dùng
rất đắc dụng, bởi chính qua những lời độc thoại nhiều sắc thái này mà sự tự ý
thức của nhân vật trở nên sắc nét, chân thực hơn. Điều độc đáo nhất ở những
lời độc thoại này là lối nói tự trào, đùa tếu của chính người trần thuật. Đành
rằng không phải lúc nào người kể chuyện cũng trùng khít với nhà văn, nhưng
họ chính là người luôn hoà nhập, sát cánh cùng nhân vật để nhìn nhận, quan
sát, bộc lộ thái độ chứ không chỉ hoàn toàn là người đưa phán xét, đánh giá vấn
đề. Người đọc không khó để tìm thấy trong những trang viết của Nguyễn Khải
những lời thú nhận có vẻ bông đùa với xen lẫn vị chua chát về nghề viết văn và
những người hành nghề “bán chữ lấy tiền” này. Chẳng hạn khi viết về sự ngộ
nhận của nhân vật tôi về một nền văn học XHCN bất biến để rồi té ngửa, thất
vọng bởi: “Anh viết chính trị quá, cao siêu quá, bạn đọc sẽ khó mua- Bạn đọc
nào? Bạn đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà!-Bạn đọc quen thuộc của anh
86 8 6
đã tới tuổi về hưu rồi, đã về hưu tiền ăn còn chả đủ lấy tiền đâu mua
sách.”[28-280] thế nên họ không chịu thức thời thì chỉ có thể là những nhà văn
tồi, nhà văn thất bại, bị bạn bè khinh rẻ vì không kiếm ra tiền. Họ chua chát
nhận ra sự lạc lõng rẻ rúng của cả một thế hệ mình khi thân phận anh nhà văn
“phải xếp dưới thầy cúng với thầy bói. Mấy nghề này đang hái ra tiền vì còn
rất cần thiết cho những cái mộng tỷ phú” [28-281]. Hay trong truyện ngắn
Phía khuất mặt ngƣời , yếu tố tự trào, tự giễu cứ tự nhiên bộc lộ qua cách kể
chuyện hồn nhiên rất có duyên của nhân vật tôi. Cười mình đấy, Nhạo mình
đấy mà cứ như không. “Anh giống như người đã chịu nhiều thất bại, thất bại
trong nghề nghiệp, trong trường tình, có thể cả trong tình bạn...nói nửa lời.
cười nửa miệng…còn tôi thì thuộc loaị đang hành tiến, muốn làm gì cũng
được, “cười ha há, nói toang toang” . “Văn anh buồn, chữ nghĩa mệt mỏi
nhưng đã đọc thì không thể quên được, nó dính vào da thịt mình đến tận bây
giờ…Văn tôi thì khác, người ra kẻ vào ồn ào, nói năng băm bổ, chõ vào mặt
nhau mà nói, mà lý sự thì người đọc không kịp thở, không kịp cãi” [30-186]
Đôi khi cái cười trong văn Nguyễn Khải còn có một cái gì đó trào lộng, chua
chát dù là không nhiều lắm. Ví như khi ông dùng chính giọng giễu nhại để nói
về thời cuộc trong truyện ngắn Đất kinh kỳ :”Nếu được ông Nguyễn Tuân khen
có lẽ tôi thích hơn vì ông Nguyễn có một uy quyền trong văn giới. Được ông
Nguyễn Đình Thi khen thì càng vui vì ông Thi là người lãnh đạo Hội. Còn được
ông Tố Hữu khen thì nhất vì ông ấy là Đảng và Chính phủ”[27-436].
Dù có thể đây đó còn nhiều điều chưa bằng lòng với mình, với xã hội , với
cuộc đời nhưng Nguyễn Khải viết ra những điều đó không phải để đả kích,
châm chọc mà chỉ muốn qua đó làm dịu bớt đi những căng thẳng, những bức
xũc, dồn nén trong tâm tư, tình cảm của mỗi người. Giọng hài hước của ông chỉ
dừng lại ở giọng đùa giỡn, tếu táo cho vui , cho thoải mái để rồi từ đó con
người ta ngẫm ra , vỡ ra một điều gì đó, một phần của cuộc sống. của vận hội ,
của thời cuộc mà mình đã lãng quên.
3.2.2. Giọng văn tâm tình, chia sẻ
Cùng với nội dung thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, giọng điệu trong văn
Nguyễn Khải cũng có sự thay đổi. Nếu như trước đây tác phẩm của ông nói
87 8 7
chung thường viết theo lối một chiều đơn giản, dễ dãi thì nay ông đã thay đổi,
cùng với sự thay đổi về điểm nhìn trần thuật thì đồng thời giọng điệu cũng
được làm phong phú thêm. Các hình thức đan cài “truyện trong truyện” là lối
viết của văn học thế kỷ mới cũng được ông vận dụng triệt để để làm nổi bật
những vấn đề tư tưởng của tác phẩm.
Một điều thường thấy trong tác phẩm Nguyễn Khải nói chung và những
truyện ngắn của ông nói riêng là những cuộc gặp gỡ, đàm luận, phỏng vấn
chớp nhoáng của người trần thuật với các nhân vật. Tác giả luôn muốn người
đọc cùng sẻ chia, luận bàn về những vấn đề ông đưa ra, thế nên trong những
“mẩu chuyện” ấy, các lời đối thoại, hội thoại cứ dồn dập, trùng điệp, đan cài
vào nhau, tất cả chúng tập hợp lại để đưa ra, để mở ra một vấn đề, một nhận
định còn dở dang, còn bỏ ngỏ. Và sau những trang văn của Nguyễn Khải luôn
luôn là những khoảng trống đòi người đọc phải lấp đầy.
Cùng với thời gian, cái chanh chua, gay gắt hay cãi lý, nói lý của Ngyễn
Khải đã dần nhường chỗ cho sự điềm đạm, suy ngẫm. Một ông già hay trầm tư,
băn khoăn, lúc nào cũng chỉ thích nghiền ngẫm thế thái nhân tình đã thay thế
cho chàng thanh niên trẻ trung, sốc nổi, “lắm điều” ngày nào. Ta thường thấy,
người trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Khải hầu hết là những chứng
nhân của một thời kỳ đã qua- cái thời vàng son chói lọi của họ, đòng thời cũng
là người trực tiếp chứng kiến một thời đại mới đang “thai nghén” với đủ những
lạ lẫm, thách thức. Những sự trải nghiệm cùng với quãng đời không dài mà
cũng không còn là ngắn đủ để họ đưa ra những triết lý cho riêng mình. Chính ở
những nhân vật này những vấn đề của đời sống nhân sinh đã được đúc kết lại.
Đặc biệt khi chính Nguyễn Khải trở lại với những nơi mình đã đi qua và những
gì mình đã viết, gặp lại những con người một thời từng là nhân vật của mình,
để càng thấy rõ hơn sự thay đổi của đời người. Những gì của hôm qua và
những gì của ngày hôm nay mình nhìn thấy là hai mảng hoàn toàn trái ngược
nhau để rồi ngậm ngùi, chua chát: “Trở lại với những kỷ niệm là trở lại với
những gì đã vĩnh viễn mất nên bao giờ cũng buồn”. Giờ đây, tác giả cũng như
những “người già” trong tác phẩm của mình, cảm nhận được tận cùng nỗi
niềm, tâm trạng cô đơn, lạc lõng, bơ vơ của cả một thế hệ. Đã từng một thời, họ
88 8 8
là những người dám sống hết mình cho lý tưởng, đã từng một thời họ là những
con người sục sôi đầy nhiệt huyết, đã từng một thời họ là một phần của những
chiến công lẫy lừng, đã từng một thời....Còn bây giờ, họ chỉ còn là những “anh
hùng bĩ vận”, những kẻ ”lạc thời” với một tình cảnh chung: “... họ quên tôi rồi.
Tôi ngồi sờ sờ ở đây họ vẫn muốn quên, một lời mời tử tế cũng chẳng có. Vì
quen biết tôi, bầu bạn với tôi, các vị ấy chả được một chút lợi lộc gì. Tôi không
có tiền, lại không có danh, có khi còn gây phiền” [27-630]. Dư vị xót xa, chua
chát và dường như có cả nước mắt trong nhiều trang viết về những nhân vật
cùng nghiệp cùng nghề. “Chúng tôi, những nhà văn nhà báo, không giỏi hơn
thiên hạ nhưng cũng không thể xem là ngu hơn, vậy mà cũng đang bị tình thế
mới dắt kéo như những tên nô lệ”[28-287]. Những khó khăn của nghề viết cũng
như lý tưởng của nó được nhà văn sẻ chia rất thành thật. Đó là “Thà bị thua
thiệt đến chín lần để khỏi có một lần xúc phạm đến nhân cách một người lương
thiện” có lẽ cũng chính bởi nguyên tắc ấy mà “ tôi vẫn có một cách xử sự rất
ngu” [28-216] theo đánh giá của xã hội. Những lớp người này cùng với kinh
nghiệm và vốn sống, sự nếm trải của họ ( người kể chuyện) luôn đúc kết một
vấn đề, như sẻ chia một kinh nghiệm nào đó của cuộc sống nhân sinh. Ở một số
tác phẩm, Nguyễn Khải với tư cách người kể chuyện, trở lại những vùng đất
xưa kia đã một thời bước vào tác phẩm của mình, ông đã nhìn nhận nó trong
một cái nhìn mới của ngày hôm nay để rồi thấy không khỏi ngậm ngùi trước
những đổi thay của kiếp người, cảm thông với một quá khứ có phần lệch lạc
cuả xã hội “no ăn mà buồn…Ngày ngày đều giống nhau, người người đều
giống nhau, một đời người như ngắn đi rất nhiều vì không có những may rủi,
không có những thăng trầm” [28-280]. Đồng thời vẫn cách nhìn ấy, ông chia sẻ
quan điểm của mình với lớp trẻ về xã hội mới, về thời buổi kinh tế thị trường :
“Cứ nhìn vào con mình và con cái của bạn mình là biết ngaythời thế đã thay
đổi, chúng là những nhân vật chính của một vận hội mới, một thời buổi mới,
thời mở cửa, thời làm giàu, làm giàu cho chính mình và làm giàu cho đất
nước…Là thời mà các giá trị cũ đã mất tính tuyệt đối! Còn những giá trị mới
thì loè nhoè, bảo phải cũng được, bảo trái cũng được. Nó là giá trị của buổi
giao thời. Nghĩa là còn phải gạn lọc chán những giá trị ấy mới trở thành giá trị
89 8 9
thật để chấn hưng một dân tộc”[28-315]. Dễ dàng nhận thấy, trong truyện ngắn
của Nguyễn Khải, người trần thuật luôn tham dự, có khi hoà nhập vào cuộc
sống của các nhân vật, từ đó bộc lộ cảm xúc và cách suy ngẫm riêng. Có thể là
những suy ngẫm về nhân cách của con người “một con người hiền lành là thế,
hồn nhiên là thế mà có ngày trở thành kẻ sát nhân…vì đã bị mất phương hướng
trước những biến động tự phát của thời cuộc” , có thể là về một triết lý sống
“Thời nào cũng thế, không ai đọc sách chỉ để tu dưỡng tính tình. Đã đọc sách
là có mong mỏi một mai được xuất chính, ở vị trí then chốt của guồng máy
quản lý quốc gia, thành nhà chính trị…” [28-250].
Điều đáng nói là, để làm nên chất giọng riêng này, tác giả đã xây dựng trong
truyện ngắn của mình một thế giới nhân vật thuộc hàng “cây cao, bóng cả” cả
trong tuổi tác cũng như trong nhân cách. Trải qua bao thăng trầm, biến động
của thời cuộc, những con người ấy vẫn “biết thích ứng nhanh để hoà nhập
nhưng không chịu để mất những niềm tin riêng, cái cốt cách riêng của mình”.
Để rồi, qua lời của họ, qua những đắng cay, mặn chát của cuộc đời họ, tác giả
muốn người đọc cảm nhận những giá trị đích thực của cuộc sống này. “Hạnh
phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm mà cũng không
nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay
mình nhưng nhận ra được nó, có ý thức vun trồng nó lại hoàn toàn không dễ.”
[26-467].Cũng đôi khi, ta lại bắt gặp những lời bình luận tinh tế về văn chương
của những nhà văn lớp trước để thấy được giá trị của văn hoá với nghề viết
“Cái nước sông Hồng,cái gió sông Hồng nó lạ lám, nó làm ra văn chương Bắc
Hà, văn chương Hà Nội. Anh muốn sống ở đâu cũng được, viết ở đâu cũng
được nhưng phải tráng qua tý chút hơi hướng của Tràng An thi mới thành văn
chương đích thực” [26-472].
Trong truyện ngắn Nguyễn Khải, lời thoại bộc lộ sự trải nghiệm rất tự nhiên,
thoải mái, nhẹ nhàng; không phải là những lời giáo huần mà là những lời sẻ
chia tâm tình hết sức gần gụi. Có thể trong một không gian rộng hay hẹp, là
quá khứ hay tương lai thì những lời thoại trong văn ông vẫn đầy nỗi niềm , tâm
sự, chất chứa suy tư.Bằng cách này, Nguyễn Khải đã kéo ngưòi đọc lại gần với
mình hơn, xoá bỏ khoảng cách ngăn giữa nhân vật và độc giả tạo cho văn ông
90 9 0
một sự gần gũi, thân thiện đến lạ kỳ.
Không thay đổi là một cách tự vẫn nhưng có những thay đổi khiến ta đến
gần cái chết hơn- đó là sự thay đổi không hợp lý. Nguyễn Khải không rơi vào
số những trường hợp ấy. Những bước đi của ông luôn gắn liền với sự phát triển
và thay đổi của nhu cầu thời đại. Những thay đổi tích cực của nền văn học mới
luôn được ông bắt kịp. Cùng với sự tinh nhạy, sắc bén vốn có trong cách nhìn
nhận mổ xẻ hiện thực, cộng với bề dày kinh nghiệm cả trên đường đời lẫn trên
con đường văn nghiệp đã tạo cho Nguyễn Khải một bệ phóng tương đối vững
chãi. Cùng với những tác phẩm trước đó, những truyện ngắn sau 86 của ông
tiếp tục khẳng định tài năng cũng như nét đặc sắc riêng gọi tên Nguyễn Khải.
KẾT LUẬN
1.Bắt đầu sự nghiệp văn chương từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, không
ngừng tìm tòi trong hơn nửa thế kỷ, Nguyễn Khải thuộc số ít các nhà văn thế hệ
sau 1945 có thành tựu nổi bật trong việc bám sát các biến động của lịch sử và
trên cơ sở đó đề xuất các vấn đề có ý nghĩa thời đại. Là một nhà văn luôn có ý
thức gắn sự nghiệp sáng tác của mình với các vấn đề lớn lao và nóng bỏng của
thực tiễn, đồng thời luôn lắng nghe sự phản hồi của đọc giả để mỗi trang văn
ông viết ra đều trở thành một cuộc đối thoại với bạn đọc.
2.Luôn theo sát những diễn biến của thời cuộc, với tiến trình cách mạng, nhìn
trên tổng thể tác phẩm cũng như truyện ngắn của Nguyễn Khải là sự phản chiếu
của sự phát triển xã hội. Trên cơ sở vừa bám sát dòng chảy hiện thực, vừa đi
vào chiều sâu của nó, không một giai đoạn nào của lịch sử với những vấn đề và
sự kiện tiêu biểu của nó lại không có mặt trong tác phẩm của ông dù ở những
mức độ đậm nhạt khác nhau và sự thành công cũng không giống nhau. Thế giới
nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Khải là thế giới của những con người thời
đại. họ là những nhân tố mới tiêu biểu cho một xã hội mới. Thời cuộc sinh ra
họ và cũng chính họ làm thay đổi thời cuộc. Trên nền tảng hiện thực, cùng với
xu thế phát triển của thời đại, với một cảm hứng nghiên cứu, phân tích đến say
mê, Nguyễn Khải đã nhìn vấn đề hiện thực cũng như con người ở nhiều phía
khác nhau để từ đó khám phá ra bản chất của hiện thực và diện mạo tinh thần
91 9 1
của con người thời đại. Tuy nhiên, càng về sau thì những vấn đề mang tính
thời sự lớn lao càng ít được Nguyễn Khải chú ý. Ông tập trung vào những vấn
đề bình thường thậm chí là rất nhỏ trong đời sống hàng ngày. Khám phá hiện
thực từ một góc nhìn mới như là một cách để trả nợ mình và trả nợ đời.
3.Mỗi tác phẩm Nguyễn Khải viết ra là kết quả của những thôi thúc nội tại
trong tâm hồn và những trăn trở, suy ngẫm, tìm tòi trong nhận thức. Nguyễn
Khải luôn có ý thức hướng cái nhìn của mình vào thế giới hiện thực của ngày
hôm nay. Tuy nhiên, cái mà ông quan tâm không phải là sự kiện hiện thực đã
tự nó tồn tại hiển nhiên mà là ở những giá trị tư tưởng. Bởi thế, hiện thực của
miền tư tưởng cũng là điều được ông quan tâm. Ông luôn tìm cách tiếp cận con
người về mặt tư tưởng, tâm linh. Những mâu thuẫn, giằng xé, thăng trầm trong
chính đời sống tinh thần của con người thời đại là nơi biểu hiện rõ nhất những
thay đổi của thời đại mà nó đang sống. Ở những truyện ngắn trước 86, điều này
chưa được biểu hiện đậm nét nhưng càng về sau khuynh hướng này càng lộ rõ.
Hướng đi này tạo cho ngòi bút Nguyễn Khải có được một tầm tư tưởng, tầm
khái quát triết học cao cũng như đem lại cho nhân vật của ông một vẻ đẹp mới-
vẻ đẹp của tinh thần, vẻ đẹp của trí tuệ.
4.Về phương diện nghệ thuật, Nguyễn Khải đã tạo được cho mình một giọng
điệu riêng vừa truyền thống, vừa hiện đại , phối hợp được nhiều chất giọng
nhằm tái hiện lại muôn mặt đời sống, mọi trạng thái của tình cảm con người,
đồng thời tạo ra được không khí dân chủ trong đời sống văn học. Sự thay đổi
cũng như ngày càng phong phú về giọng văn cho thấy một ưu thế về vốn sống
và một khả năng làm chủ ngôn ngữ cũng như cách chiếm lĩnh hiện thực riêng
của Nguyễn Khải.
5. So với nhiều tác giả cùng thế hệ, Nguyễn Khải là người tương đối sung sức
trong suốt hành trình sáng tạo của mình; vừa giữ được sự thống nhất chung vừa
tạo được dấu ấn riêng trong từng giai đoạn. Đó là điều làm nên giá trị và sức
hấp dẫn cho truyện ngắn sau 1986 của Nguyễn Khải nói riêng và văn xuôi
Nguyễn Khải nói chung. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, những đổi mới đó
không đi ra ngoài xu hướng chung của văn học thời đại. Xét cho cùng thì
những tìm tòi, đổi mới mang dấu ấn Nguyễn Khải trong những truyện ngắn sau
92 9 2
1986 vẫn là dựa trên những gợi ý của thời đại, ông vẫn chưa phải là người đi
trước thời đại. Đóng góp của ông , nói đúng hơn chính là ở chỗ ông đã diễn đạt
được tinh thần thời đại qua một thế giới nhân vật thích ứng với sự nông sâu
trong nhận thức của riêng ông. Có nghĩa là, ông muốn qua chính tác phẩm để
đưa đến cho bạn đọc sự sống và những chiêm nghiệm của chính bản thân mình.
Hành trình của một cuộc đời lao động không biết mệt mỏi đã đưa Nguyễn
Khải đến được với một vị trí xác đáng trong lòng bạn đọc. Mỗi trang văn của
ông luôn là sự gợi mở cho người đọc nhiều ý nghĩa như những trang đời không
bao giờ khép lại.
Tài liệu tham khảo
1.Vũ Tuấn Anh (1994) Những vấn đề của văn học hiện đại qua ba cuộc
thảo luận, Tạp chí văn học,Số 9.
2.Nguyễn Thị Bình (1998) Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường,
NXB GD,Hà Nội,
3.Thành Duy (1961) Mùa lạc,một thành công mới của Nguyễn
Khải,Tạp chí Nghiên cứu văn học,số6.
93 9 3
4.Đặng Anh Đào (1992) Một hiện tƣợng mới trong hình thức kể chuyện
hôm nay,Tạp chí Văn học, số6.
5.Phan Cự Đệ (1969) Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật của Nguyễn
Khải, Báo Văn nghệ ,số 322.
6. Phan Cự Đệ (1983) Các nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB ĐH&TH
chuyên nghiệp, Hà Nội.
7. Phan Cự Đệ (1995) 50 năm văn xuôi cách mạng (45-95), Tạp chí Văn
học số11.
8.Phan Cự Đệ (1983) Nguyễn Khải, Sách Nhà văn Việt Nam(1945-
1975)(TII),NXB ĐH&TH chuyên nghiệp,Hà Nội.
9.Bùi Hiển (1987) Bình truyện ngắn Ngƣời gặp hàng ngày của Nguyễn
Khải, Phụ trương báo Văn nghệ, tháng 6.
10.Hà Minh Đức (2001) Mùa lạc của Nguyễn Khải, Sách Tác phẩm văn
học,bình giảng và phân tích, NXBVăn học,Hà Nội.
11.Nguyễn Văn Hạnh (1964)Vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn Khải,Tạp
chí Văn học,số 9.
12. Hoàng Ngọc Hiến (1992) Năm bài giảng về thể loại, NXB GD Hà
Nội.
13 .Nguyễn Thị Huệ (1999) Cảm nhận về con ngƣời trong sáng tác của
Nguyễn Khải những năm gần đây, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt
Nam,tháng 10.
14.Nguyễn Thị Huệ (1999) Nguyễn Khải trong nhận thức mới về con
ngƣời trƣớc các lựa chọn lịch sử, Tạp chí Tác phẩm mới ,số 11.
15.Nguyễn Khải (1995) Hãy nhìn sự đổi mới của văn học với đôi mắt
thƣởng thức và thái độ khoan dung, Tạp chí Văn học, số4.
16.Nguyễn Khải (1995) Nhìn lại những trang viết của mình .Tham luận
tại Hội thảo Việt Nam nửa thế kỷ văn học. Báo Văn nghệ, số 39, ngày 30
tháng 9.
94 9 4
17.Nguyễn Khải (1989) Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ. Báo Văn
nghệ, số 41 ngày 14 tháng 10.
18.Nguyễn Khải (1995) Hãy nhìn sự chuyển hoá của văn học với đôi
mắt thƣởng thức và thái độ khoan dung, Tạp chí văn học số 4.
19.Nguyễn Khải (1998) Thời nào anh hùng nấy. Phụ san Văn nghệ
quân đội, số 2, tháng 2.
20.Nguyễn Khải (1962) Tính hiện thực trong văn học,Tạp chí Văn nghệ
quân đội, tháng 3.
21.Nguyễn Khải(1963) Hãy đi xa hơn nữa,tập truyện ngắn, NXB Văn
học, HN.
22.Nguyễn Khải (1964) Ngƣời trở về(tập truyện vừa),NXB Văn học,HN.
23.Nguyễn Khải (1990) Một ngƣời Hà Nội(tập truyện ngắn),NXB HN.
24.Nguyễn Khải (1993) Sƣ già chùa Thắm và ông đại tá về hƣu(tập
truyện),NXB Hội Nhà văn,HN.
25.Nguyễn Khải (1995) Hà Nội trong mắt tôi(tập truyện ngắn),NXB HN.
26.Nguyễn Khải (1996) Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Khải,NXB Hội
nhà văn,HN.
27.Nguyễn Khải (2002 ) Tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Khải,NXB Hội
nhà văn,Hà Nội .
28.Nguyễn Khải (1998) Chuyện cà kê (I-IV). Phụ san Báo Văn nghệ
quân đội (từ số 10, tháng 5 đến số 15, tháng 8.
29.Nguyễn Khải (1999) Truyện nghề, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Hà
Nội.
30.Nguyễn Khải (1998) Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả quan niệm
về tiểu thuyết, Báo Tuổi trẻ chủ nhật.
31.Nguyễn Khải (1999)Tìm đất sống, Bút ký, Báo Văn nghệ, số 29.
32.Tôn Phương Lan (2001) Nguyễn Khải (Các nhà văn nhận giải thưởng HCM
33.Phong Lê (1983) Văn học những năm 80,Tạp chí Văn học,số 3.
95 9 5
năm 2000),Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam,tháng 4.
34.guyễn Văn Long (1986) Nghĩ thêm về thành tựu truyện ngắn nhân
một tuyển tập, Báo Văn nghệ ngày 9/8.
35.Phuơng Lựu (chủ biên) (2004) Lý luận văn học (3tập),NXB GD.
36.Nguyễn Đăng Mạnh (2000) Dại khôn Nguyễn Khải,Báo Văn nghệ,số
37. Nguyễn Đăng Mạnh (2002) Nguyễn Khải-Đời ngƣời, đời văn,Tạp
chí Nhà văn, số9.
38.Vũ Tú Nam (1960) Thêm một bƣớc phát triển của ngòi bút Nguyễn
Khải,Báo Văn học,số120.
39.Vũ Tú Nam (1961) Vài ý nghĩ nhân khi đọc truyện của Nguyễn
Khải,Báo Văn học,số176.
40.Chu Nga (1974) Đặc điểm hiện thực ngòi bút Nguyễn Khải,Tạp chí
Văn học ,số2.
41.Chu Nga (1977) Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Khải, Sách Tác gia
văn xuôi VN hiện đại,NXB KHXH,Hà Nội.
42.Nguyễn Tuyết Nga (1999) Nguyễn Khải với bút ký, tạp văn,Tạp chí
Văn học, số 11.
43.Đào Thuỷ Nguyên (1998) Phong cách hiện thực tỉnh táo và thế gíơi
nhân vật Nguyễn Khải, Tạp chí Tác phẩm mới,số3.
44.Đào Thuỷ Nguyên (2000) Thế giới nhân vật Nguyễn Khaỉ theo dòng
thời gian, Tạp chí Văn học,số12.
45.Đào Thuỷ Nguyên (2001) Thế giói nhân vật Nguyễn Khải trong cảm
hứng nghiên cứu, phân tích,Tạp chí Văn học,số11.
46.Vương Trí Nhàn (1999) Cái trẻ của tuổi già, Sách Cánh bướm và
đoá hướng dương, NXB Hải Phòng.
47.Vương Trí Nhàn (1996) Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Khải
(T.I),NXB Văn học, Hà Nội.
48. Vương Trí Nhàn (1999) Nguyễn Khải hay là một cách tồn tại trong
văn học, Sách Cánh bướm và đoá hướng dương, NXB Hải Phòng.
96 9 6
49.Vương Trí Nhàn (tuyển chọn) (1996) Tuyển tập Nguyễn Khải (3 tập),
NXB Văn học,HN.
50. Vương Trí Nhàn (1996) Vài nét về sáng tác Nguyễn Khải những
năm gần đây,Tạp chí văn học.
51.Như Phong (1964) Phƣơng hƣớng tìm tòi của Nguyễn Khải qua tập
Mùa lạc, Sách Bình luận văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
52.Hồ Phương (1960), Đọc Mùa lạc của Nguyễn Khải, Tạp chí Văn
nghệ,số 43.
53.Trần Thanh Phương (1998) Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt
tôi,Phụ san Báo Văn nghệ quân đội,số11.
54.Nguyễn Hữu Sơn (1999) Đọc “Truyện ngắn và tạp văn” của Nguyễn
Khải,Báo Nhân dân, ngày 27/2.
55.Huyền Sương (1997) “Nếu nhƣ trái tim tôi chƣa nguội lạnh”(Đọc
“Truyện ngắn và tạp văn” của Nguyễn Khải),Báo Phụ nữ TP
HCM,số78.
56.Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (sưu tầm và biên soạn) (1997) Văn
học Việt Nam 75-85,Tác phẩm và dư luận, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
57.Hữu Thỉnh (1998) Thêm một thành công của mảng đề tài quan trọng
và hấp dẫn,Báo Văn nghệ,số33.
58.Bích Thu (1999) Nguyễn Khải:một đời gắn bó với thời đại và dân
tộc,Tạp chí Văn nghệ quân đội, tháng1.
59.Bích Thu (1997) Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải những năm 80 đến nay,Tạp chí văn học,số10.
60.Đinh Quang Tốn (1997) Nguyễn Khải với Hà Nội,Báo Văn
nghệ,số19.
.
97 9 7