TRƯỜNG ĐH QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ DƢƠNG

TÍNH LIÊN TỤC VÀ SỰ THAY ĐỔI TRONG

SÁNG TÁC TRUYỆN NGẮN NGUYỄN KHẢI

SAU NĂM 1986

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 0121

Người hướng dẫn khoa học: TS.PHẠM XUÂN THẠCH

Hà Nội tháng 03/2012

MỤC LỤC LUẬN VĂN

Trang phụ bìa Trang

Lời cam đoan

Mục lục

Mở đầu

Chƣơng 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành trình

sáng tác của nhà văn

20

1.1 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn

1.1.1 Nhà văn Nguyễn Khải

1.1.2 Những chặng đường sáng tác chính.

1.1.2.1 Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miền Bắc của

Mỹ

1.1.2.2 Thời kỳ chống Mỹ cứu nước

1.1.2.3 Thời kỳ sau 1975

1.1.2.4 Thời kỳ sau đổi mới.

1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải

1.2.1.Trước năm 1986.

1.2.2.Sau năm 1986.

Chƣơng 2: Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm

1986

2.1.Tính liên tục trong nội dung

2.1.1 Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực

2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn

2.1.1.2.Đời sống tinh thần của con người đương thời.

2.1.2.Con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86

2.1.2.1 Những con người của thời cuộc.

2.1.2.2 Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.

2 2

2.2 Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm

2.2.1 Giọng triết lý, tranh biện

2.2.2 Kết cấu tác phẩm

Chƣơng 3: Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986

3.1 Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh

3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.

3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.

3.1.3. Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm

lại.

3.2. Một số thay đổi về giọng điệu

3.2.1 Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã

3.2.2.Giọng văn tâm tình, chia sẻ.

KẾT LUẬN

3 3

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Phần Mở đầu

1.Lí do chọn đề tài

1.1 Nguyễn Khải là một nhà văn thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành từ

trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chặng đường văn của Nguyễn Khải luôn

vận động theo dòng chung, tiêu biểu cho sự phát triển của nền văn học Việt

Nam sau Cách mạng. Với một sức sáng tạo mạnh mẽ, trong nửa thế kỷ cầm

bút, ở thời điểm nào ông cũng là người có những sáng tác kịp thời để phục vụ

nhu cầu của bạn đọc. Ngay ở tác phẩm đáng đọc đầu tiên là Xung đột (1957),

nhà văn đã cho thấy hình ảnh của một miền Bắc thu nhỏ, với những cuộc đấu

tranh chính trị quyết liệt xảy ra trong từng xóm thôn, từng gia đình, từng con

người. Sau những năm chiến tranh khói lửa, lực lượng nào sẽ nổi lên, chi phối

xã hội? nông thôn sẽ đi về đâu? Tiếp tục con đường đã đi trong kháng chiến

hay trở lại con đường u tối do thực dân và các thế lực tôn giáo khống chế?

Những câu hỏi như thế đã dự báo sự ra đời của một ngòi bút chính luận sâu sắc

sau này. Từ sau Xung đột, Nguyễn Khải hướng ngòi bút của ông vào nhiều vấn

đề khác nhau của hiện thực xã hội. Cuộc đấu tranh nào cũng muốn tiếp tục,

cũng phải chỉ rõ những thành quả, những hứa hẹn chờ đợi... Từ Mùa lạc đến

Đứa con nuôi, Chuyện ngƣời tổ trƣởng máy kéo đều nhất quán trong một

giọng chung mà sau này Nguyễn Khải gọi đó là cảm hứng lãng mạn. Những

nhân vật như chị Đào, như Thoa, Thi, bé Tấm là loại mà vẫn được văn học xưa

nay đề cập rất nhiều. Họ đại diện cho một đại chúng làm gì cũng được, khổ

mấy cũng tìm ra niềm vui, vừa trải qua cái khổ đã vui ngay được, trước những

hạnh phúc đơn sơ lại càng dễ tìm thấy niềm vui thực sự. Nếu trong tác phẩm

của Thạch Lam, Nguyên Hồng, họ được miêu tả như những nạn nhân bất lực

của hoàn cảnh thì trong văn học sau 1945, họ lại được miêu tả trên vai trò là

những chủ nhân chính của một xã hội mới. Ở Nguyễn Khải cũng vậy. Cái tài

của nhà văn là đã miêu tả những nét hồn nhiên trong sinh hoạt của con người

với tất cả niềm say mê có thể có. Kể từ năm 1945, đây là những năm đầu tiên,

4 4

quần chúng lao động được hưởng những thành quả lao động của một chế độ

mới, con người không phải chạy bom đạn, lại có bát cơm trắng ăn, có bộ quần

áo lành lặn để mặc, vợ chồng con cái tối tối quây quần bên nhau chứ không còn

chia ly, xa cách như hồi nào. Dưới con mắt họ, thực tế xung quanh như đang

phục sinh. Cho đến cả thiên nhiên cũng hiện lên thiết tha, đắm đuối. Như sau

này Nguyễn Khải tự nhận, chưa bao giờ ngòi bút nhà văn ở ông lại ham tả cảnh

như ở trong thời viết Mùa lạc. Mượn cảnh để nói những say đắm trong lòng

người, mà cũng để bộc lộ cho hết những rung động, hồi hộp tha thiết trong

chính lòng mình. Cách hiểu, cách nghĩ của tác giả lúc này thường chan chứa

những tình cảm hào hứng, một sự thán phục không giấu giếm: với cái hăm hở

của tuổi trẻ, ông sẵn sàng đẩy mọi thứ lên tới cực đoan mà cũng là những tổng

kết có tính chất lý thuyết. Ví như chỉ qua một ít may mắn ban đầu, nhân vật

Đào trong Mùa lạc tìm thấy cuộc sống mới, nhà văn đã khái quát: “Sự sống

nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình trong những gian khổ hy sinh.

Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là

phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy”.[28- 33]. Tuy nhiên cũng

phải nhận thấy rằng những ý nghĩ về cuộc sống trong giai đoạn này là thành

thực, cái cảm hứng chủ đạo chi phối ngòi bút Nguyễn Khải lúc ấy là thế nào thì

ông viết ra thế ấy không một chút giả tạo, không nói theo ai hoặc vay mượn ở

ai. Trong sự hồn nhiên của nó, những khái quát nói ở đây xác định một tâm lý

thịnh hành đương thời là cảm thấy cuộc đời ngày nay khác hẳn ngày xưa, lịch

sử như được bắt đầu...tóm lại, là một cái gì phảng phất lối cảm nghĩ theo hướng

tôn giáo. Có điều, cái mà nhà văn tôn thờ chính là đời sống. Ông không kêu gọi

sự khổ hạnh, sự ép xác mà ngược lại, ông đặt niềm tin yêu vào tất cả những gì

tự nhiên, đẹp đẽ của cuộc sống này.

Vào khoảng những năm 1960 trở đi, một trong những đề tài lớn của các nhà

văn sống ở miền Bắc là viết về phong trào hợp tác hoá. Ngày nay, đọc lại

những sáng tác mang nặng tính “phục vụ kịp thời” ấy, nhiều người mỉm cười.

Tuy nhiên không phải là ở đó không có những trang sách có giá trị, ngày nay

vẫn còn được đọc lại. Riêng với Nguyễn Khải, đọc những truyện ông kể về

người, về việc ở hợp tác xã Đồng Tiến, Phú Thọ, chúng ta cũng bắt gặp một sự

5 5

say mê hết lòng chẳng khác gì ngày nào ông đã nói về cái đội sản xuất trên

Điện Biên ở Mùa lạc. Thường trong các thiên truyện viết về hợp tác, Nguyễn

Khải không giảng kỹ thuật sản xuất, cũng không đi vào minh hoạ bước đi

thường có của phong trào, mà đưa ra bức tranh toàn cảnh của nông thôn và

dừng lại ở những rắc rối vừa hồn nhiên, vừa không thể tránh khỏi khi đi vào

làm ăn tập thể. Trong khi khéo léo vạch ra những nhố nhăng, buồn cười và cả

những xót xa, cảm động trong cách tính toán mang tính vụ lợi có ở người nông

dân, tác giả không quên đặt vấn đề về nhân cách, tầm nhìn, tầm suy nghĩ của

con người, và đó là một cách làm có sức thuyết phục. Cố nhiên, say sưa ca ngợi

cái này, đôi khi là kèm theo sự chế giễu, phê phán cái kia, và sự chế giễu ở ông

có khi cũng nông nổi, bốc đồng như khi ông ca ngợi.( điều này thể hiện rất rõ

trong Tầm nhìn xa). Chẳng phải ngẫu nhiên, về sau, trong phong trào đổi mới

cách nghĩ những năm 87-88, Nguyễn Khải lại trở lại với thế giới ở xã Đồng

Tiến, để tự so sánh những điều mình dự đoán với sự phát triển của bản thân

hiện thực. Tuy nhiên, dù nói thế nào thì Cái thời lãng mạn được viết về sau

không xoá được những sai lầm ông đã mắc phải của mấy chục năm trước. Qua

các thiên truyện viết thời kỳ này, bạn đọc thấy nổi lên ở Nguyễn Khải một loại

nhân vật mà riêng ông mới có- đó là những nhân vật dù ở đâu, làm gì thì họ

luôn có những tính toán chặt chẽ, thiết thực khiến người ta phải kinh sợ. Và sau

những tính toán không chê vào đâu được ấy, người đọc có thể nghe vang lên từ

các trang sách tiếng cười giòn giã của họ, đánh dấu những chiến thắng của kẻ

biết đùa hoặc kẻ đáo để. Có thể nói, chính loại nhân vật được tiếng là không

chịu thua ai ấy đã mang lại cho tác phẩm một vẻ sinh động hiếm có, làm nên

tính hiện đại cho những trang văn Nguyễn Khải.. Tuy vậy, điều này cũng đem

lại những hạn chế nhất định, bởi cái khôn trong các nhân vật, đó không phải là

sự vận động của trí tuệ mà chỉ đơn giản là một sự thích ứng tối đa với hoàn

cảnh. Con người luôn mải mê phấn đấu cho một mục đích sẵn có, không bao

giờ có những phút dư thừa để băn khoăn về những vấn đề cá nhân. Những lối

sống như thế tuy có làm giản lược con người đi đôi chút nhưng về một phương

diện nào đó nó cũng làm cho con người ta khoẻ lên rất nhiều. Và đó là yêu cầu

6 6

mà xã hội trong giai đoạn đó đặt ra cho văn học.

Như một người chiến sĩ cách mạng chiến đấu không ngừng trên mặt trận

văn hoá văn nghệ, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc,

Nguyễn Khải lại tiếp tục đi tiên phong trong mảng đề tài những sáng tác viết về

chiến tranh. Mở đầu ông có thiên ký sự dài 130 trang- Họ sống và chiến đấu.

Bước vào cuộc chiến khi vừa mới dứt không lâu, Nguyễn Khải cũng như nhiều

người khác tin ở con người, tin ở chiến thắng tất yếu, bởi trong cuộc chiến đấu

ngày hôm nay như đang tiếp tục cái mạch hào hùng của ngày hôm qua. Thế

nên, đến với tác phẩm người đọc như cũng được truyền thêm một lòng tin

mạnh mẽ và sâu sắc, chắc chắn.Từ đây, Nguyễn Khải liên tiếp có mặt trên

những chiến trường đầy khói lửa để từ đó tìm hiểu và cắt nghĩa cốt cách những

chiến sĩ mới- những gương mặt của thời kỳ chống Mỹ. Kể từ Họ sống và chiến

đấu , Nguyễn Khải đã có tới ngàn trang sách đã được ra đời trong những năm

tháng gian lao ấy. Tuy nhiên, đọc tất cả những sáng tác trong thời kỳ này,

những Đƣờng trong mây, Ra đảo và cả Chiến sĩ, người ta đều thấy thiếu đi

một cái hồn phóng khoáng như mọi người mong đợi. Mãi đến khi chiến tranh

kết thúc, với những sáng tác viết để tổng kết chiến tranh như Cách mạng, Gặp

gỡ cuối năm, Thời gian của ngƣời, thì người ta mới thấy lại cái sinh khí đã

từng có ở Xung đột, Mùa lạc được quay trở lại.

Bắt đầu từ sau 1975, sáng tác của Nguyễn Khải cũng đã có những thay đổi

trong việc khai thác vào một địa hạt mới.Mới mươi mười lăm năm trước, người

ta tưởng như nhà văn ấy chỉ có một ám ảnh lớn là làm sao nói bằng được, nói

cho hết những vẻ đẹp khoẻ mạnh cùng sự khôn ngoan của con người.Nay, lần

đầu tiên người ta thấy sự cuồng nhiệt của Nguyễn Khải trong việc đào xới vào

những cùng quẫn, bất lực mà con người phải chịu, và nỗi khát khao không kém

là cùng với các nhân vật của mình xé toạc những tấm màn che đậy cho sự xấu

xa, nhơ bẩn ở đời, để mọi người cùng nhận thức rõ mọi chuyện, rồi từng người

...liệu mà sống. Mở đầu cho thời kỳ sáng tác này, người ta thấy nổi lên là vở

kịch Cách mạng, đây là một tác phẩm đáng được coi là bước ngoặt trong cuộc

đời sáng tác của Nguyễn Khải. Bởi lần đầu tiên người ta thấy Nguyễn Khải

7 7

công khai đứng ra làm, mà làm một cách triệt để, cái việc lâu nay ông vẫn lảng

tránh: đó là mang tiểu sử riêng , cuộc đời riêng vào trang sách, lấy chính đời tư

của mình làm tài liệu cho sáng tác.

Nếu như trước 1975, Nguyễn Khải cũng như hầu hết các nhà văn khác đều

đóng chặt cửa, không cho phép ai tìm hiểu tiểu sử riêng của mình qua văn

mình, cũng như cái Tôi của ông hiện lên qua trang sách chỉ là cái tôi của một

chiến sĩ cầm bút nồng nhiệt. Thì sau chiến tranh, khi mà mỗi con người tìm

cách động viên những sức lực cuối cùng cho trận chiến và bản thân nhà văn

cũng phải có những cố gắng phi thường để viết, thì tự nhiên trong nhận thức

của nhà văn có những biến chuyển. Mặt khác, cùng với niềm vui chung- đất

nước nối liền thì cuộc đời riêng của ông cũng có những thay đổi đột ngột- gặp

lại gia đình sau bao nhiêu năm xa cách. Từ đây, ông không còn tránh cái cách

tồn tại của mình là tồn tại thông qua nghề viết nữa. Dường như, ông bắt đầu

cảm thấy chính mình, cuộc đời riêng của mình, những ân oán thù hận cũng như

những rung động vui buồn của mình có thể và cần được trực tiếp trình bày trên

mặt giấy!

Tiếp theo vở kịch Cách mạng , Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của

ngƣời…dù được xây dựng theo những cách khác nhau, là đối thoại, tranh luận

hay tự tổng kết triết lý thì người đọc vẫn nhận thấy một âm hưởng chủ đạo

trong đó là khẳng định cuộc chiến thắng tất yếu của dân tộc; cái nhiệm vụ

chính trị mà nhà văn đặt ra cho mình khi cầm bút vẫn được thực hiện một cách

nghiêm túc và trọn vẹn.

Như thế là, đối với một cuộc chiến đấu mà bao người đã đổ xương máu hy

sinh, ngòi bút nhà văn đã theo sát, đã động viên, chia sẻ, đã nghiệm ra từ đó

những ý nghĩa lớn lao. Mặt khác, chính trong cuộc phục vụ tự nguyện và đầy

kết quả này, ngòi bút của nhà văn đã được tôi luyện. Không phải chỉ chúng ta-

những người đọc, mà hình như cả chính tác giả cũng cảm thấy thế. Hình ảnh

nhà văn sau các trang viết: khi nghiêm chỉnh tự vấn, khi tự giễu mình chơi, khi

góp vài lời pha trò, khi chân thành tỏ lòng cảm phục…tác giả đã tự cho phép

mình xuất hiện bên cạnh câu chuyện và mặc dù ông không nói rõ ra nhưng

người ta cảm thấy ông ít nhiều có phần tự hài lòng về bản thân. Điều đó có lẽ

8 8

cũng không có gì là lạ, khi mà cả đất nước đang tập trung tất cả vào những

nhiệm vụ lớn lao. Bản thân Nguyễn Khải cũng đã hoàn thành tốt nếu không nói

là xuất sắc, vai trò của một người cầm bút mà thời cuộc lúc bấy giờ đòi hỏi.

Tuy cũng có lúc “bơi ngược một tí, rẽ ngang một tí” nhưng đó cũng chỉ là nhất

thời, bởi với ông giai đoạn này thì “khuôn mình theo dòng chảy, theo dòng mà

bơi,bơi cùng với đồng đội vừa an toàn vừa vui vẻ” [28-280].

1.2.Sau một chặng đường dài kháng chiến, đất nước bước vào một chặng

đường mới- kiến thiết xây dựng và phát triển. Đời sống văn học cũng theo đó

có nhiều sự đổi thay. Không phải ở một vài tác giả, vài tác phẩm với những dấu

hiệu manh nha đâu đó mà là cả một sự chuyển mình dữ dội. Nhìn vào đời sống

văn học lúc này, người ta ngỡ ngàng, sửng sốt trước những điều mới lạ của nó.

Nguyễn Khải thuộc thế hệ các nhà văn sau cách mạng vẫn tiếp tục được con

đường văn chương mà không bị đứt quãng trong thời kỳ mới. Nếu như trước

đó, Nguyễn Khải được chú ý không chỉ ở chỗ các sáng tác của ông nóng bỏng

tính thời sự, luôn đi cùng thời cuộc mà còn bởi trên cái mạch lớn là sáng tác

phục vụ cách mạng, Nguyễn Khải luôn giữ cho mình một cái nhìn riêng- một

cái nhìn sắc sảo, không xuôi chiều dễ dàng mà luôn lật đi lật lại vấn đề. Tuy

nhiên đối chiếu với nhu cầu lớn của xã hội lúc ấy là tập trung sức lực cho cuộc

chiến đấu, thì cái sắc sảo trong lối tự nhận thức của nhà văn có vẻ không được

hợp thời. Sau khi đất nước thống nhất, và nhất là từ khi đất nước tiến hành cải

cách mở cửa Nguyễn Khải mới có dịp trở lại và phát huy hết những tiềm năng

của bản thân, có điều kiện đánh dấu bản sắc cá nhân của mình lên trang viết.

Manh nha từ năm 1974, những dấu hiệu của lối viết mới đã hình thành (với vở

kịch Đối mặt), và đặc biệt là đến giữa năm 1978, một trong những tác phẩm

quan trọng của nhà văn ra đời - tiểu thuyết Cha và con và….Đây là lần đầu tiên

trong cuộc đời Nguyễn Khải, sự bất lực của con người được ông thể hiện và lý

giải. Từ chỗ chuyên viết về các nhân vật yêu ghét rõ ràng, luôn biết mình muốn

gì và nên làm gì, phải hành động, ứng xử như thế nào để vừa có lợi cho mình

vừa có lợi cho mọi người thì đến nay, người ta thấy Nguyễn Khải lại đi vào

miêu tả những nhân vật nói năng lúng búng, cử chỉ vụng về, càng làm càng bế

tắc, nhìn đâu cũng thấy sự việc rối như tơ vò, không làm sao gỡ ra nổi. Mấy

9 9

năm từ khoảng 1988-1989 trở đi, người ta lại chứng kiến một đợt viết sôi nổi

nữa của Nguyễn Khải. Đều đều cứ mỗi tháng một kỳ, người ta lại thấy những

truyện hoặc bài phát biểu của ông in trên tạp chí Văn nghệ quân đội, Tuổi trẻ,

rồi Kiến thức ngày nay, Phụ nữ thành phố Hồ chí Minh...Trong khi khá

nhiều nhà văn ở tuổi 50, 60 ngại viết hay viết thưa hẳn đi thì Nguyễn Khải lại

đều đều có mặt, lại luôn gây được ấn tượng. Nhiều người còn đánh giá rằng

tính chuyên nghiệp của ông thời kỳ này có thể so sánh với Tô Hoài, Xuân

Diệu- những kiện tướng quen viết từ hồi tiền chiến và vẫn được coi là viết khoẻ

nhất trong đời sống văn học sau Cách mạng.

Trên một phương diện nào đó, có thể nói chúng ta chứng kiến một cuộc đối

thoại giữa Nguyễn Khải của những năm 89,90 trở đi với Nguyễn Khải của

khoảng chục năm trước. Lần này người ta vẫn thấy những nét đặc trưng trong

ngòi bút văn xuôi của ông được duy trì- đó là sự chiêm nghiệm, triết lý những

mảng hiện thực có tính vấn đề, với những nhân vật tiêu biểu của một thời...Bên

cạnh đó, người đọc cũng nhận thấy trong cái nhìn của ông đã có lui, có tới, có

thế này và có thế kia. Một Nguyễn Khải từng trải hơn, nhẹ nhõm hơn, biết vui

mà cũng biết sợ, biết có cuộc đời này và cũng còn có những cuộc đời khác nữa,

khác hẳn với Nguyễn Khải của tuổi trẻ. Điều đáng nói là trong những trang viết

sau đổi mới này, Nguyễn Khải đã làm một cuộc tự phát hiện trở lại. Ở cái tuổi

60, ông vẫn hóm hỉnh như xưa, vẫn hào hứng với sự đời như xưa, song lại có

một cái gì đó tự nhiên, dân dã, có cái nhìn thanh thản và sáng suốt hơn về mọi

chuyện, khác hẳn trước kia. Các truyện ngắn của Nguyễn Khải trước đây dù đã

rất uyển chuyển, sinh động nhưng thường chỉ toát lên một sắc thái nhất định.

Còn ngày nay, đến với truyện của ông, người ta được đến với một thế giới đa

dạng hơn, nhiều sắc thái hơn, cái anh hùng xen lẫn với cái bình thường; cái

đáng căm giận, đáng phỉ nhổ không thiếu nhưng cũng còn bao nhiêu cái đáng

tin yêu...tất cả làm nên một cuộc sống thú vị có cả tiếng cười lẫn nước mắt.

Về mặt bút pháp thì trước sau Nguyễn khải vẫn có sự trung thành với mình:

vẫn thích lối kể hơn lối tả, vẫn không để ý nhiều đến cốt truyện, đến cái hình

dáng của câu chuyện mà tập trung vào việc làm nổi bật một nhân vật, một kiểu

người, một cách sống. Bạn đọc vẫn bắt gặp một giọng văn tự nhiên, vừa dân dã

10 1 0

vừa hiện đại.

Như vậy, cũng giống như nhiều nhà văn lớn khác, sáng tác văn xuôi Nguyễn

Khải nói chung và truyện ngắn Nguyễn Khải sau đổi mới nói riêng, bên cạnh

sự thống nhất chung với giai đoạn sáng tác trước đó, là sự đổi mới thích đáng

và hợp lý với thời cuộc. Đó là minh chứng cho sự trưởng thành của một cây

bút. Tuy nhiên điều mà ai cũng có thể nhận thấy, đây là giai đoạn sáng tác khi

Nguyễn Khải đã không còn trẻ, và điều đáng nói là ở giai đoạn này thì phong

cách nhà văn đã định hình. Vậy thì những sự đổi mới ở giai đoạn này có hẳn là

một sự lột xác hoàn toàn trút bỏ những cái cũ vốn thuộc về mình để khoác lên

mình một phong cách hoàn toàn khác? Hay chỉ là một sự đổi mới vẫn dựa trên

cái nền của một bút pháp, một phong cách vốn có? Thế nên, bên cạnh việc

nghiên cứu các sáng tác văn xuôi để thấy được phong cách nhà văn, thì việc

nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong những truyện ngắn trước và sau

đổi mới của Nguyễn Khải cũng là điều cần thiết trong việc hiểu và đánh giá

toàn bộ sự nghiệp của nhà văn này.

Đặt trong sự phát triển chung của cả một nền văn học, người ta thấy rằng

sáng tác của Nguyễn Khải luôn mang những đặc điểm chung của nền văn học

cách mạng Việt Nam.

Luôn xông xáo vào những nơi nóng bỏng nhất của hiện thực, những lĩnh

vực phức tạp nhất của cuộc sống, phản ánh được những mâu thuẫn sâu sắc của

xã hội hay những biểu hiện thầm kín, tinh vi trong đời sống tư tưởng con người

thời đại, đã đưa ông trở thành một ngòi bút đầy tính chiến đấu trong nền văn

học nước nhà..Tác phẩm của ông luôn đạt tới một tầm tư tưởng, một mức độ

khái quát cao trong một nghệ thuật đầy biến hoá.

Với dấu ấn phong cách đậm nét, Nguyễn Khải sớm gây được sự chú ý của

giới nghiên cứu, phê bình văn học, đồng nghiệp cũng như sự tò mò của bạn

đọc. Nhiều tác phẩm của ông khi ra đời đã gây nhiều tranh cãi trên văn đàn. Sự

nghiệp của ông trở thành một đề tài nghiên cứu được chú ý. Đến tận hôm nay,

các sáng tác của ông vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ cần bạn đọc quan tâm.

1.3.Nguyễn Khải là một trong số các nhà văn có tác phẩm được đưa vào

giảng dạy ở chương trình phổ thông.Trong chương trình Sách giáo khoa

11 1 1

cũ có truyện ngắn Mùa lạc và trong chương trình Sách giáo khoa mới có

truyện ngắn Một ngƣời Hà Nội. Với tư cách là một người giáo viên thì

việc nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn

Khải sau năm 1986 càng có ý nghĩa thiết thực trong việc nghiên cứu,

giảng dạy và học tập những tác phẩm của ông ở nhà trường phổ thông

2. Lịch sử vấn đề

Với những đóng góp về số lượng và chất lượng các tác phẩm cho nền văn

học nước nhà, sau nửa thế kỷ cầm bút Nguyễn Khải đã được bạn đọc và giới

nghiên cứu đặt ở một vị trí xứng đáng. .

Từ những sáng tác đầu tay còn có phần non yếu về nghệ thuật (Ngƣời con

gái quang vinh-viết về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi) thì bằng con đường tự bồi

dưỡng và học tập,Nguyễn Khải đã dần khắc phục những thiếu sót ban đầu. Đặc

biệt với vốn sống và vốn hiểu biết phong phú, lại luôn được nhà văn không

ngừng bổ sung qua những chuyến đi thực tế (Nguyễn Khải đã có mặt ở một

vùng công giáo toàn tòng vào khoảng thời gian sau cải cách ruộng đất, khi mà

cuộc đấu tranh giai cấp ở đây đang diễn ra hết sức quyết liệt; ông cũng đã lên

Điện Biên ngay từ lúc nông trường mới ở bước đầu xây dựng; ông đã ra Cồn

Cỏ cũng vào những ngày đầu gay go, ác liệt nhất của cuộc chiến tranh phá

hoại…). Tất cả đã làm nên một ngòi bút Nguyễn Khải thông minh, sắc sảo

trong khám phá và nắm bắt hiện thực. Nhạy cảm với những “cái hôm nay”, cái

hàng ngày cùng với ngòi bút phân tích sắc sảo đã không những thu hút được

độc giả mà còn gây được sự chú ý với giới nghiên cứu, phê bình văn học. Đúng

như ý kiến của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong Lời giới thiệu tuyển tập

Nguyễn Khải: “Ông là một trong những nhà văn dẫn đầu thời đại. Sáng tác

của ông luôn luôn đánh dấu những biến chuyển của xã hội. Với cuộc cách

mạng này, những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một

bằng chứng, một tài iêu tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại

với tất cả những cái hay dở của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc

Nguyễn Khải”.[48-12]. Với ngòi bút hiện thực đặc sắc, năng lực quan sát và óc

phân tích sắc sảo, Nguyễn Khải đã đem đến cho bạn đọc những trang văn thấm

12 1 2

đẫm hơi thở cuộc sống và con người thời đại.

Cùng với sự ra đời của hàng loạt sáng tác khẳng định tài năng và độ chín của

phong cách Nguyễn Khải, thì một số lượng khá lớn các bài nghiên cứu, phê

bình về Nguyễn Khải cũng ra đời và đề cập đến nhiều phương diện khác nhau

trong sáng tác của Nguyễn Khải.

Nghiên cứu một cách khái quát và toàn diện về tác giả, tác phẩm Nguyễn

Khải có bài viết của GS. Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945-1975

(tập II), trong đó GS viết: “…Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, luôn luôn suy

nghĩ sâu lắng về những vấn đề mà cuộc sống đặt ra và cố gắng tìm một lời giải

đáp thuyết phục theo cách của riêng mình. Cho nên trong các tác phẩm của

nhà văn, thông qua những sự kiện xã hội, chính trị có tính chất thời sự nóng

hổi, bao giờ cũng nổi lên những vấn đề triết học có ý nghĩa nhân sinh”.[8-

185]. Cũng trong bài viết này, GS. Phan Cự Đệ đã gọi tên cho cách viết của

Nguyễn Khải là một “ngòi bút hiện thực tỉnh táo” và điều đặc biệt ở Nguyễn

Khải so với các nhà văn khác cũng giàu vốn sống trực tiếp là ở chỗ: nếu các

nhà văn khác xây dựng nhân vật của mình có đường nét gân guốc, giàu chất tạo

hình nhưng tầm khái quát nhân vật lại chưa cao, dấu ấn chủ quan của người

viết còn mờ nhạt thì ở Nguyễn Khải lại hoàn toàn ngược lại, và tác giả khẳng

định: “Nguyễn Khải là một cây bút trí tuệ, thông minh, một cây bút có tài năng,

tiêu biểu cho thế hệ các nhà văn xuôi hình thành trong cuộc kháng chiến chống

Pháp và hiện nay đang kế tục một cách vẻ vang sự nghiệp các nhà văn xuôi

trước cách mạng. Nguyễn Khải đã đóng góp cho nền văn xuôi hiện thực xã hội

chủ nghĩa một phong cách độc đáo với nhiều tác phẩm có giá trị.[8-187].

Ngoài ra còn phải kể đến Lời giới thiệu của Vương Trí Nhàn trong Tuyển tập

Nguyễn Khải (tập I) với nhan đề Nguyễn Khải trong sự vận động của văn

học cách mạng từ sau 1945, trong đó có viết: “Sự gắn bó sâu sắc với đời sống

chính trị của đất nước, niềm ao ước vô tận muốn nắm bắt cho được bao đổi

thay trong cuộc sống cách mạng, cùng là khả năng dựng lên một loại nhân vật

mới đầy ý chí và khao khát cải biến xã hội …một thời gian dài, đấy đã là

những đặc điểm chủ yếu trong ngòi bút Nguyễn Khải” [48-12] . Cùng với xu

hướng nghiên cứư tổng quát này thì Chu Nga trong bài viết Đặc điểm ngòi bút

13 1 3

hiện thực Nguyễn Khải cũng có những cố gắng để gọi tên phong cách văn

xuôi Nguyễn Khải: “…Nói đến anh, người ta thường nhắc tới Xung đột, Tầm

nhìn xa hay Chủ tịch huyện nhiều hơn. Và ngòi bút anh ở đây cũng nổi tiếng

vì những đặc điểm khác: rất sắc sảo và giàu tính chiến đấu. Những đặc điểm

này lại đi đôi với một phong cách mới- sự tỉnh táo […] hình như sự tỉnh táo ở

phong cách Nguyễn Khải là sự tỉnh táo mang màu sắc lạnh lùng; và phải

chăng chỗ này mới chính là đặc điểm ngòi bút nhà văn”.[41-26]. Ngoài ra phải

kể đến một số bài viết khác như Mục Nguyễn Khải trong Giáo trình Văn học

Việt Nam 1945-1975 (phần tác giả) của Đoàn Trọng Huy, bài của Bích Thu

nhan đề Nguyễn Khải: một đời gắn bó với thời đại và dân tộc… Những công

trình nghiên cứu này đã cho người đọc một hình dung khá cụ thể về Nguyễn

Khải ở cả sự nghiệp sáng tác cũng như giá trị các tác phẩm cùng phong cách

độc đáo riêng của ông. Hầu hết các tác giả đều khẳng định:Nguyễn Khải là một

trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam từ sau 1945.

Bên cạnh những bài viết tương đối toàn diện về sáng tác như trên thì các bài

viết về từng phương diện sáng tác của Nguyễn Khải cũng chiếm một số lượng

tương đối lớn. Có thể kể đến các bài viết như: Vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn

Khải của Nguyễn Văn Hạnh, Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật của Nguyễn

Khải với tác giả Phan Cự Đệ, hay Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn

Nguyễn Khải những năm 80 đến nay của Bích Thu…

Phần lớn các bài viết rải rác in trên các bào, tạp chí (như :Văn học, Văn

nghệ quân đội, Tác phẩm mới, Văn nghệ, Nhân dân, Văn nghệ trẻ…) đều đề

cập đến Nguyễn Khải trên tư cách là tác giả của một tác phẩm cụ thể. Chẳng

hạn như Thành Duy có Mùa lạc, một thành công mới của Nguyễn Khải,

Nguyễn Khải và Ngƣời trở về của Hà Minh Đức, Nguyễn Khải và Chiến sĩ

của Nguyễn Đăng Mạnh, hay Thời gian của ngƣời- cuốn tiểu thuyết có nhiều

âm hưởng của Huỳnh Như Phương …Hầu hết các bài viết có giá trị đăng trên

các báo, tập san, tạp chí …đã được tập hợp lại trong công trình Nguyễn Khải-

Về tác gia, tác phẩm (do Hà Công Tài và Phan Diễm Phương tuyển chọn và

giới thiệu).

Những sáng tác của Nguyễn Khải thời kỳ sau 1986 đã tạo được nhiều sự

14 1 4

chú ý của công chúng. Các bài viết về những sáng tác thời kỳ này của ông đều

đã khẳng định những đặc điểm cơ bản trong sáng tác Nguyễn Khải: khả năng

phát hiện vấn đề, ý thức tìm tòi lật xới hiện thực, sở trường tổ chức đối thoại,

nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn…Ở đây chúng tôi chỉ xin đề cập đến những bài

viết có liên quan đến vần đề tính liên tục và sự thay đổi trong những sáng tác

truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới.

Để công và dồn khá nhiều tâm huyết vào nghiên cứu con người

và văn chương Nguyễn Khải là nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn.Với bài viết

Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau 1945, nhà

nghiên cứu đã đưa ra một nhận xét căn bản trong các sáng tác truyện ngắn của

Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới là:”Cái nhìn sắc sảo vốn có từ sớm và khao khát

có mặt trong ngày hôm nay. Đối thoại với chính mình và tự phát hiện trở lại-

một phong cách vừa dân dã, vừa hiện đại” [48-24]. Trong bài viết này, nhà

nghiên cứu cũng chỉ ra rằng:”Những truyện ngắn của Nguyễn Khải viết từ

1988-1999 đến thời gian gần đây, khơi vào hai cái mạch chính: Một là cuộc

sống hôm nay của những người chung quanh, bạn bè, đồng nghiệp quen biết,

cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là số phận của những người thân trong gia đình

họ hàng nội ngoại của tác giả, những ông cậu, bà mợ mà tâm tư, tình cảm của

Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến” [48-26]. Cũng trong bài viết này, ông còn

khẳng định: ”trong những trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải

hiện ra như một người kể chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi

người vui buồn khi quan sát việc đời.” [48-27] Còn tác giả Đào Thuỷ Nguyên

trong cuốn Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn Khải trong giảng

dạy văn học Việt Nam hiện đại đã lưu ý tới cái nhìn xoáy sâu vào nhiều vấn

đề của đời sống con người đương thời, con người trong thời gian và lịch sử,

con người trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, con người trong quan hệ

gia đình, con người trong mâu thuẫn và tiếp nối gữa các thế hệ…

Cũng đề cập đến một phương diện trong sáng tác của Nguyễn Khải sau năm

1986 là hình tượng nhân vật, tác giả Nguyễn Thị Bình trong bài viết Nguyễn

Khải và tư duy tiểu thuyết đã chỉ ra:”Có một người kể chuyện đóng vai là nhà

văn, nhà báo, là”chú Khải”, “ông Khải”…cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử

15 1 5

như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình, muốn coi mình là đối tượng

của văn chương(…).Nhân vật này góp phần tạo ra giọng điệu tự nhiên, chân

thành mà vẫn phóng túng trên các trang văn Nguyễn Khải” [2-41].

Nghiên cứu về truyện ngắn trước 1986 của Nguyễn Khải không nhiều. Hầu hết

đều tập trung vào tập truyện có giá trị-Mùa lạc. Trong đó có thể kể đến Như

Phong với Phƣơng hƣớng tìm tòi của Nguyễn Khải qua tâp”Mùa lạc”, Sách

Bình luận văn học, NXB Văn học,Hà Nội,1964: “Những truyện ngắn của

Nguyễn Khải từ Mùa lạc cho đến gần đây rõ ràng là đã tỏ rõ một quan tâm

góp phần truyền bá, cổ vũ cho một chủ nghĩa nhân đạo tích cực và chân chính,

chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, quan hệ giữa người và người trong xã

hội ta[…]Nguyễn Khải đã lựa chọn được một phương hướng tốt. Kể ra cùng

một đề tài, với một số nhà văn nông cạn nào đó, những truyện như thế này dễ

có nguy cơ trở thành một thứ truyện tình ngọt lự một chất nước đường trữ tình

rẻ tiền. Nhưng với quan tâm nói trên kia, những truyện của Nguyễn Khải đã có

những chủ đề tư tưởng cao, đọc lên làm cho người ta phải nghiêm chỉnh suy

nghĩ về cách đối xử với con người thế nào cho phải, cho đúng với đạo đức xã

hội chủ nghĩa” [52-45]. Không đi vào nhận xét giá trị tư tưởng của tập truyện,

tác giả Chu Nga lại nhìn nhận thấy ở những truyện ngắn đó một vấn đề -hiện

thực xã hội, những mâu thuẫn cơ bản, nóng bỏng của xã hội : “anh lúc nào

cũng đứng giữa dòng thác cuộc đời…Anh viết liên tục mà hầu như trong tác

phẩm nào cũng vẫn đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với giai

đoạn nó ra đời. Chẳng hạn cuộc đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch sau cải

cách ruộng đất tại một vùng Công giáo (Xung đột), chủ nghĩa nhân đạo cộng

sản chủ nghĩa trong xã hội ta ngày nay (Mùa lạc), quan hệ giữa sở hữu cá thể

tập thể và Nhà nước ở giai đoạn HTX tiến lên cấp cao

(Tầm nhìn xa), cách đánh giá đúng đắn đối với những đổi mới trong cuộc

sống ở nông thôn hiện nay (Ngƣời trở về)…hay cuộc đấu tranh chống chủ

nghĩa cá nhân (Hãy đi xa hơn nữa, Anh đội phó và ngƣời thợ mộc, Một cặp

vợ chồng)…” [42-45]. Như vậy, bên cạnh những điểm vốn có của phong cách

Nguyễn Khải thì các tác giả đều khẳng định hướng đi đúng đắn của Nguyễn

16 1 6

Khải khi đi vào khai thác những mảng hiện thực đời sống khác nhau với những

cái nhìn sắc sảo giàu tính chiến đấu, luôn đi cùng với những diễn biến của thời

cuộc.

Sau 1986, truyện ngắn Nguyễn Khải viết ra cũng nhiều hơn, cùng với đó,

những bài viết, phê bình dành cho ông cũng nhiều lên. Một trong những người

dành sự quan tâm nhiều cho Nguyễn Khải phải kể đến Vương Trí Nhàn, không

chỉ nghiên cứu Nguyễn Khải trên toàn bộ sáng tác mà với một số những tác

phẩm tâm đắc ông đều có những đánh giá và nhận định của riêng mình. Chẳng

hạn như trong, Một cách tồn tại trong văn học Sách Cánh bướm và đoá

hướng dương,NXB Hải Phòng, 1999, ông thấy: “ Nếu hôm qua Nguyễn Khải

đã rất thành công trong việc diễn tả những gay gắt quyết liệt của đời sống thì

hôm nay nhà văn có phần thấm thía sự đời hơn, cái nhìn ra chiều độ lượng và

thông cảm hơn[…].Văn xuôi Nguyễn Khải hôm nay, bề ngoài có cái dễ dàng,

tự nhiên như lời nói hằng ngày song nhìn cho kỹ, thấy chữ nghĩa rất chỉnh, câu

cú tính toán kỹ càng, tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả cài chen, xen lẫn

nhau tạo nên một thế giới đa thanh mà chỉ văn xuôi hiện đại mới có” [49-76].

Cũng trong bài viết này ông còn nhận ra cái gọi là “lý sự” luôn xuất hiện đậm

đặc trong văn ông : “ không riêng gì tác giả mà ngay cả các nhân vật cũng hay

nói, thích nói, người nọ đối diện với người kia, đồng tình, phản bác nhau, xét

nét, “gí điện” nhau. Lí sự trở thành câu chuyện hằng ngày, nhất là lí sự về

những khía cạnh xã hội chính trị của đời sống...” [49-77].

Đồng thời bên cạnh những cái gọi là tiếp nối đó, Vương Trí Nhàn cũng nhận

ra nét khác biệt của những sáng tác về sau này: “Những truyện được viết vào

những năm tác giả trên dưới 60 và được in ra vào năm ông 63 tuổi này lại có

những sắc thái mới mà người ta chưa bắt gặp bao giờ. Trước mắt chúng ta là

một sự thích ứng vừa tự nhiên ,vừa khó khăn, đồng thời là một sự phát hiện lại

mình” [49-86].

Còn trong một bài viết khác, ông lại nhận thấy sự chuyển hướng trong đề tài

hiện thực của Nguyễn Khải từ sau những năm 80: “Trên đại thể, những truỵện

ngắn của Nguyễn Khải viết từ 1988-1989 đến thời gian gần đây khơi vào hai

cái mạch chính: Một là cuộc sống hôm nay của những người chung quanh, bạn

17 1 7

bè, đồng nghiệp quen biết cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là, số phận của những

người thân trong họ hàng nội ngoại của tác giả , là những ông cậu, bà mợ mà

tâm tư, tình cảm của Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến” [51-124].

Tác giả Bích Thu trong Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn

Khải những năm tám mưoi đến nay, lại phát hiện ra những nét mới trong

nghệ thuật trần thuật của tác giả, đó là: “Người trần thuật trong tác phẩm

Nguyễn Khải không bao giờ biết trước sự việc, hiện tượng mà mình miêu tả bởi

sự phức hợp giọng điệu, mang nhiều tiếng nói: giọng tác giả, giọng nhân vật,

giọng người kể chuyện với nhiều sắc thái âm điệu khác nhau hoà trộn, đan xen,

tranh cãi, đối lập, tạo dựng một lối văn tiểu thuyết đa thanh và hiện đại” [59-

26].

Một đánh giá có tính chất tương đối toàn diện về sự thay đổi trong các truyện

ngắn Nguyễn Khải sau 86 là Đọc “Truyện ngắn và tạp văn Nguyễn Khải”

của Nguyễn Hữu Sơn đăng trên Báo Nhân Dân, ngày 27/01/1999, trong đó có

viết: “Thông qua hệ thống các hình tượng nhân vật, một nỗi ám ảnh xuyên suốt

các truyện ngắn này của Nguyễn Khải là sự hụt hẫng, cách ngăn thậm chí đối

lập giữa các thế hệ. Khi đặt mình ở nhân vật “tôi”, tác giả thường hoài niệm

về một thời xa xưa, một kỷ niệm ngày chống thực dân Pháp, một buổi gặp gỡ ở

làng, một bạn văn nay không còn nữa cùng những hoài cảm khôn nguôi về thế

thái nhân tình, về nhận thức, về những đổi thay ngỡ như choáng ngợp”[55-07]

Trên cơ sở khảo sát các bài viết, các bài nghiên cứu về Nguyễn Khải và

những sáng tác của ông thời kỳ sau 1986, chúng tôi có thể rút ra những nhận

xét sau:

1.Số lượng các bài viết, những ý kiến đánh giá về Nguyễn Khải và những tác

phẩm của ông hết sức phong phú. Trước những năm 80, các tác giả chủ yếu đi

sâu phân tích cảm hứng của nhà văn trước thực tiễn cách mạng, đánh giá nội

dung hiện thực cũng như ý nghĩa xã hội của tác phẩm. Qua đó đề cao những

đóng góp của nhà văn trong việc phản ánh thực tiễn đời sống. Từ những năm

80 đến nay, chủ yếu các tác giả đi sâu tiếp cận về mặt tư tưởng, phong cách

18 1 8

nghệ thuật, chỉ ra một số biểu hiện cơ bản trong quan niệm cũng như trong cá

tính sáng tạo của Nguyễn Khải , đề cao những đóng góp của ông vào thành tựu

của nền văn xuôi đương đại Việt Nam.

Dù ở vào những thời kỳ khác nhau và xuất phát từ những góc độ không

giống nhau nhưng nhìn chung các tác giả này đều gặp nhau trong những đánh

giá chung mang tính khái quát : Nguyễn Khải là một nhà văn sắc sảo, đề cập

đến nhiều vấn đề của đời sống, có nhiều tìm tòi đổi mới và sáng tạo trong cách

viết. Tác phẩm của ông phản ánh kịp thời, sâu sắc hiện thực lịch sử cũng như

đời sống của con người thời đại. Văn ông hấp dẫn, mới mẻ, độc đáo. Nguyễn

Khải xứng đáng là một nhà văn tiêu biểu của văn học đương đại.

Riêng các bài viết, các ý kiến đánh giá đến những sáng tác thời kỳ đổi mới

đều chỉ ra những điểm mới của tác giả từ cách nhìn, giọng điệu cho đến ngôn

ngữ.

2. Như vậy, nhìn chung có thể thấy rằng các bài viết đều đã nhận định sáng tác

truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86 có vừa có tiếp tục vừa có sự đổi mới so với

giai đoạn trước đó. Đó là sự tiếp tục đặt vấn đề qua nhân vật, là sự tỉnh táo đến

lạnh lùng của giọng văn chính luận thời sự. Đó là sự đổi mới trong phạm vi

khai thác của đời sống hiện thực, của giọng điệu cùng với sự trải nghiệm của

nhà văn…Tuy nhiên, những thay đổi cũng như tiếp nối đó chỉ được đề cập rất

ít hoặc chỉ đơn thuần ở một mặt nào đó, tản mạn, sơ bộ mà chưa có khảo sát tỉ

mỉ, cụ thể. Mặc dù các nhà nghiên cứu đã đề cập đến một số khía cạnh trong

truyện ngắn của Nguyễn Khải sau đổi mới nhưng vẫn chưa có chuyên luận nào

đi sâu vào tìm hiểu tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn thời kỳ đổi

mới của Nguyễn Khải cũng như đặt nó trong mối tương quan so sánh với giai

đoạn sáng tác trước đó.Vì thế, trên cơ sở tiếp thu, phát triển ý kiến của những

nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một hướng nghiên cứu làm

sáng rõ vấn đề: Tính liên tục và sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải

sau năm 1986.

3.Mục đích nghiên cứu:

Đi sâu tìm hiểu và lý giải sự tiếp nối cũng như những đổi thay trong các truyện

19 1 9

ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986. Chúng tôi hy vọng góp một phần vào công

việc nghiên cứu Nguyễn Khải và khẳng định vị trí của ông trong nền văn học

hiện đại Việt Nam.

4.Phạm vi nghiên cứu

Sau 1986, truyện ngắn Nguyễn Khải rất phong phú, tuy nhiên luận văn chỉ đề

cập đến những truyện ngắn có giá trị đã được chính tác giả tuyển chọn trong

Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2 tập)- NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,

2002.

Luận văn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu tính liên tục và sự thay đổi trong

truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986. Đồng thời, trong quá trình nghiên

cứu, chúng tôi cũng đề cập đến những tác phẩm Nguyễn Khải ở giai đoạn trước

để so sánh, đối chiếu và khẳng định những luận điểm của mình.

5.Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp Thi pháp học cùng với sự kết hợp của

nhiều thao tác như khảo sát thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp…

Khi nghiên cứu về sự liên tục cũng như thay đổi trong các truyện ngắn

Nguyễn Khải sau năm 1986, luận văn phải đề cập đến vấn đề phong cách cũng

như bút pháp nhà văn. Điều đầu tiên và trên hết để phân biệt nhà văn này với

nhà văn khác, cũng như phân biệt một nhà văn qua những giai đoạn khác nhau

không quan trọng ở chỗ họ nói gì mà là ở chỗ họ nói như thế nào. Hay nói

cách khác, là vấn đề nhà văn tổ chức tác phẩm của mình. Bởi thế sử dụng

phương pháp thi pháp học sẽ giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn “cái cách mà nhà

văn sử dụng” để chuyển tải tư tưởng qua những truyện ngắn. Tất nhiên để đạt

được hiệu quả và độ thuyết phục cao, bên cạnh phương pháp thi pháp học là

chủ yếu thì luận văn còn sử dụng thêm một số phương pháp khác để hỗ trợ

như: thống kê, đối chiếu, so sánh,…

6.Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương như

sau:

Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành trình sáng tác

20 2 0

của nhà văn

Trong chương này, chúng tôi giới thiệu một cách khái quát về hành trình sáng

tác của Nguyễn Khải. Trên cơ sở đó, đặt truyện ngắn sáng tác sau đổi mới của

ông trong mối tương quan với toàn bộ sự nghiệp văn học của tác giả. Đồng

thời, cùng với việc giới thiệu sáng tác truyện ngắn sau 86 thì chúng tôi cũng

đưa ra những đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình về chính những sáng

tác đó để bước đầu có cái nhìn tổng quan về truyện ngắn sau 86 của Nguyễn

Khải. Nội dung chương được triển khai thành các mục như sau:

1.2 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn

1.2.1 Nhà văn Nguyễn Khải

1.2.2 Những chặng đường sáng tác chính.

1.2.2.1 Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miền Bắc của

Mỹ

1.2.2.2 Thời kỳ chống Mỹ cứu nước

1.2.2.3 Thời kỳ sau 1975

1.2.2.4 .Thời kỳ sau 1986.

1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải .

1.2.1.Trước năm 1986

1.2.2 Sau năm 1986

Chương 2: Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986.

Trên cơ sở đối chiếu, so sánh với các truyện ngắn trước 86 cũng như các sáng

tác văn xuôi trước đó, chương 2 sẽ đi vào chỉ rõ sự liên tục trong các truyện

ngắn sau 86 của Nguyễn Khải trên cả phương diện nội dung cũng như hình

thức. Chương 2 gồm các mục sau:

2.1.Tính liên tục trong nội dung

2.1.1Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực

2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn

2.1.1.2.Đời sống tinh thần của con người đương thời.

2.1.2.Con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86

2.1.2.1Những con người của thời cuộc.

2.1.2.2Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.

21 2 1

2.2Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm

2.2.1Giọng triết lý, tranh biện

2.2.2Kết cấu tác phẩm

Chương 3:Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986.

Điều làm nên một Nguyễn Khải của thời kỳ mới chính là ở sự thay đổi và thích

ứng. Một nhà văn có bản lĩnh là nhà văn dám thay đổi và có thể thay đổi đúng

cách. Nguyễn Khải thuộc số không nhiều những nhà văn trước cách mạng xác

lập được chỗ đứng vào thời kỳ mới. Tiếp theo tính liên tục ở chương2 thì

chương 3, chúng tôi đi sâu vào những thay đổi trong truyện ngắn của ông sau

đổi mới. Nội dung gồm có:

3.1Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh

3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.

3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.

3.1.3.Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm lại.

3.2. Một số thay đổi về giọng điệu

3.2.1.Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã

22 2 2

3.2.2.Giọng văn tâm tình, chia sẻ.

Chƣơng 1.Truyện ngắn Nguyễn Khải sau năm 1986 và hành

trình sáng tác của nhà văn

Đối với mỗi một tác giả , khi muốn tìm hiểu về một tác phẩm, một tập hợp tác

phẩm theo thể loại, một giai đoạn, hay bất kỳ một phương diện nào đó trong

sáng tác của họ thì đều phải đặt chúng trong tương quan với cả chặng đường

sáng tác của tác giả đó. Tất nhiên, trong cả một chặng đường dài của sự nghiệp,

không phải lúc nào cũng giống nhau, không phải lúc nào các sáng tác cũng theo

một đường thẳng mà luôn luôn có những khúc quanh tuỳ theo yêu cầu của thời

đại và tuỳ theo sự trưởng thành của chính người viết. Nhưng nó không bao giờ

hoàn toàn tách khỏi những sáng tác trước hoặc sau nó mà luôn luôn có một mối

liên hệ nhất quán bị chi phối bởi chính cái “tạng” của mỗi người viết. Và cũng

chính điều đó làm nên phong cách nhà văn. Bởi thế, trước khi đi vào bàn về

những sáng tác truyện ngắn sau 86 của Nguyễn Khải, người viết muốn khái

lược toàn bộ chặng đường sáng tác của nhà văn. Trên cơ sở đó có một cái nhìn

tổng quan và toàn diện về con đường văn nghiệp Nguyễn Khải cũng như bước

đầu thấy được mối quan hệ giữa những truyện ngắn sau 86 với những truyện

ngắn trước đó cũng như với toàn bộ sáng tác của ông.

1.1 Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn.

23 2 3

1.1.1.Nhà văn Nguyễn Khải.

Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ngày 03/02/1930 tại Hà Nội,

mất ngày 15/01/2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cuộc đời Nguyễn Khải cũng

có nhiều thăng trầm.Theo GS.Nguyễn Đăng Mạnh thì “ căn cứ vào những tác

phẩm có tính chất hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải, thấy tuổi trẻ của ông

khốn khổ, cơ cực- cơ cực và oan ức, và nhục nhã nữa chứ! Khổ còn có thể

quên được chứ oan ức và nhục nhã thì nhớ suốt đời, hận suốt đời. Mà số phận

ông cũng thật éo le. Giá cứ thuộc hẳn tầng lớp cùng dân thì đi một nhẽ. Đằng

này lại đồng thời là một giọt máu nhà quan, nhưng lại là một giọt máu

rơi…”[38-26].Từ một khối đất vô tri sẽ không thể trở thành một chiếc bình

gốm đẹp đẽ nếu nó không trải qua một sự nhào nặn và tôi luyện trong lửa đỏ.

Cũng như thế, những cay đắng, éo le, tủi cực phải trải qua trong thời niên thiếu

đã gieo mầm cho một Nguyễn Khải- nhà văn với những nét độc đáo riêng

không lẫn với bất cứ ai.

Trước khi trở thành nhà văn, Nguyễn Khải cũng đã từng cầm bút. Với tư

cách là cán bộ tuyên huấn , ông viết bài cho tờ Dân quân Hưng Yên .Cách

mạng tháng Tám bùng nổ đem lại cho đất nước một sự lột xác. Với nhiều

người, nói rằng cuộc cách mạng này đã đem đến sự đổi đời có lẽ là hơi thái quá

nhưng với Nguyễn Khải thì đó lại là một sự thật không thể phủ nhận. Tự bản

thân nhà văn khi nhớ lại những chặng đường đã qua, không ít lần ông tự hỏi

mình - nếu không có cuộc cách mạng tháng Tám thì cuộc đời mình sẽ ra sao

nhỉ? Với một người tự nhận mình là “kém tài”, lại thêm chỗ đứng ban đầu thua

kém thì khó có thể tự đẩy mình lên cao, vượt lên khỏi cái biển người thờ ơ, bất

động kia. Khi cậu thiếu niên Nguyễn Khải còn hoang mang, chán nản đến cực

độ thì cuộc Cách mạng tháng Tám thành công và kháng chiến chống Pháp bùng

nổ. Đối với Nguyễn Khải đó là một ân huệ. Bởi trước đó, cậu bé Nguyễn Khải

không có bất cứ một quyền gì ngay cả một chỗ đứng trong một gia đình cũng

không có, thậm chí còn là người mà ai cũng có thể làm nhục, thì cuộc kháng

chiến đã đem lại cho Nguyễn Khải một cái quyền - quyền tham gia kháng chiến

mà không phân biệt tuổi tác, sang hèn, học vấn hay nghề nghiệp. Bản thân nhà

văn cũng tự chiêm nghiệm- nếu không viết văn thì không biết bản thân sẽ làm

24 2 4

được việc gì. Thế nên, nói văn là sự lựa chọn của Nguyễn Khải cũng đúng mà

hơn hết, trên hết văn như là một cái “nghiệp” của một đời con người ấy. Hầu

hết những nhà văn lớn, những nhân cách lớn đều phải trải qua một thời tuổi trẻ

đầy biến cố. Và với Nguyễn Khải cũng vậy, một “tuổi thơ dữ dội” ít nhiều đã

tạo nên trong Nguyễn Khải - con người nhút nhát, an phận, một trái tim dễ xúc

động. Có lẽ vì đã từng bị làm nhục nên cả đời Nguyễn Khải không dám làm

nhục, không dám nặng lời với bất cứ một ai. Cũng do từng bị hiếp đáp, thua

thiệt nên lại càng dễ xúc động trước những số phận không may, mà như thế thì

làm lãnh đạo làm sao được! Chỉ có thể viết văn thôi. Chính cái mềm yếu, dễ

xúc động ấy khiến cho Nguyễn Khải có sự thông cảm, đồng cảm với người đời.

Ngòi bút của ông có thể dễ dàng tung hoành chỉ trên một vài chi tiết nhỏ,

những câu chuyện lặt vặt xoay quanh những cảnh ngộ nào đó. Mà ở đời này thì

những sự bất công, bất hạnh còn nhiều vô kể, thế nên “nguồn sống” để viết của

tác giả cũng là không kể xiết. Mang trong mình một trái tim bừng bừng sức

sống và rực nóng tình người, Nguyễn Khải cứ thế vững chãi bước vào làng văn

và đã tiếp tục bước trên con đường đó bởi trái tim ấy “chưa bao giờ nguội

lạnh” [49-57] .

Có lẽ cũng giống nhiều nhà văn khác, loay hoay trên ngưỡng cửa lựa chọn

lúc chập chững bước vào nghề, Nguyễn Khải đã viết để phục vụ cho nhiệm vụ

của mình cũng như phục vụ cho công cuộc kháng chiến chung của cả dân tộc.

Tác phẩm Ngƣời con gái quang vinh viết về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi là tác

phẩm được viết theo phong trào sáng tác tuyên dương , ca ngợi những anh

hùng dân tộc, phục vụ cho công tác tuyên huấn của Đảng. Có lẽ điều đó không

phù hợp với cái tạng ưa thích khám phá những mảng hiện thực có tính vấn đề

của Nguyễn Khải nên ông đã thất bại – tác phẩm chỉ là một thanh âm mờ nhạt

không được ai chú ý. Với địa vị và trách nhiệm của một người đứng trong hàng

ngũ của Đảng được trang bị kiến thức lý luận và trải qua thực tiễn của cuộc

chiến đấu, Nguyễn Khải dần dần tìm được hướng đi cho mình. Là nhà văn sớm

có ý thức dùng văn học làm vũ khí phục vụ cách mạng, góp phần làm cho cuộc

sống của con người, xã hội ngày một tốt đẹp hơn, ông đã đem hết sức mình góp

phần tích cực vào sự nghiệp chung của đất nước. Điều này được thể hiện trước

25 2 5

hết trong việc ông đã lựa chọn những nơi cuộc sống diễn ra sôi nổi, quyết liệt,

tiêu biểu của hiện thực cách mạng để làm cơ sở cho việc sáng tạo văn học.

Nhưng cũng cần lưu ý, không phải vì phục vụ cách mạng mà tác giả viết theo

lối minh hoạ, tượng trưng hay thổi phồng, tô hồng hiện thực. Ông không chỉ

đơn giản xây dựng hiện thực, phản ánh hiện thực mà quan trọng hơn, phát hiện

ra tính vấn đề của hiện thực từ đó nêu ra để xem xét, đánh giá, suy ngẫm.

Chính Nguyễn Khải cũng đã từng nói : “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay

ngổn ngang, bề bộn” [17-12], điều đó đã làm nên sức hấp dẫn cho những tác

phẩm của ông.

Bạn đọc tìm đến những tác phẩm của ông bởi những điều ông viết ra luôn

mới mẻ, hấp dẫn. Ông không bao giờ viết một cách hời hợt, mơ hồ, Cách làm

của ông, theo cách nói của Nam Cao là “sống đã rồi hãy viết”. Ông chỉ đưa ra

trên trang sách của mình những gì bản thân thực tế trải nghiệm và thực sự thấu

hiểu. Xông pha những nơi nóng bỏng nhất, những con đường ác liệt nhất,

không chỉ một lần, để bạn đọc có thể cùng trải nghiệm. Vào thời kỳ nhà nhà

làm cách mạng, người người làm cách mạng, có rất nhiều nhà văn cũng đi thực

tế, cũng viết về cùng một đề tài như Nguyễn Khải, vậy mà sáng tác của ông

vẫn giành được sự chú ý của bạn đọc. Sự thành công đó rõ ràng không phải đến

từ đề tài phản ánh mà là ở cách phản ánh- phản ánh trong cảm hứng nghiên cứu

và phân tích tâm lý. Cần phải nói thêm rằng, tinh thần nghiên cứu trong sáng

tác khác hẳn cảm hứng minh hoạ. Sáng tác với ý đồ minh hoạ sẽ không tránh

khỏi cho tác phẩm rơi vào sự quên lãng nhanh chóng, còn sáng tác với cảm

hứng nghiên cứu thì khác, nó dựa trên tính có vấn đề của hiện thực, thế nên tác

phẩm không chỉ đưa đến một hiện thực sắc sảo mà còn có ý nghĩa thời sự. Và

khi đã tìm được hướng đi đúng, các sáng tác của ông lần lượt nối tiếp nhau ra

đời đánh dấu cho sự trưởng thành dần lên của một phong cách.

Trong dòng chảy chung của dân tộc, cùng với những biến cố lớn của lịch sử

và văn đàn, giới cầm bút nói chung đã có một sự chuyển biến trong sáng tác từ

những năm 70. Riêng Nguyễn Khải, khi nhìn nhận về những sáng tác của mình,

ông tự phân chia thành 2 thời kỳ : “Từ năm 1955-1977 tôi sáng tác một cách.

Từ 1978 đến nay sáng tác theo một cách khác” [38-27] .Đến sau ĐH Đảng lần

26 2 6

thứ VI năm 1986 thì sự đổi mới đó mới trở nên rõ rệt và có chiều sâu. Nhưng

nếu như với một số nhà văn, sự chuyển biến đôi khi là đột xuất và thậm chí là

đứt quãng, đứt đoạn thì ở Nguyễn Khải lại khác, trước sau người ta vẫn thấy

trong đó có tính liên tục. Sự thay đổi có thể là trong cách đặt vấn đề, trong

phạm vi hiện thực phản ánh, trong thế giới nhân vật, cách nhìn, điểm

nhìn…nhưng trong đó người ta vẫn thấy được một sự thống nhất trong những

sáng tác trước và sau 86 để tạo nên một thứ gọi là phong cách nhà văn. Điều

này được thấy trong chính lời tự bạch của tác giả : “ Nếu một truyện ngắn hay

một cuốn tiểu thuyết chỉ có chuyện của người không có chuyện của mình thì

mạng sống của nó không thể kéo dài hơn một bài báo” [30-56]. Đến với

Nguyễn Khải của ngày hôm nay ta vẫn bắt gặp Nguyễn Khải của ngày hôm qua

với tất cả những nét duyên ngầm vốn có. Lịch sử là hành trình phát triển đi lên,

đã xa rồi cái thời của những Mùa lạc, Xung đột, Họ sống và chiến đấu…để

rồi từ Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của ngƣời là Một thời gió bụi, Hai ông già

ở Đồng Tháp Mƣời hay Hà Nội trong mắt tôi…Những tác phẩm đó đã phần

nào nói lên rằng sự chuyển biến của Nguyễn Khải là đúng đắn và hợp lý. Giải

thưởng Hồ Chí Minh về VHNT năm 2000 là một ghi nhận, vinh danh cho

những đóng góp, tìm tòi, trải nghiệm của cả một đời văn Nguyễn Khải.

1.1.2Những chặng đƣờng sáng tác chính của Nguyễn Khải

1.1.2.1. Từ khi bước vào nghề văn đến trước chiến tranh phá hoại miến Bắc

của Mỹ.

Khi còn ở tuổi thiếu niên, cách mạng tháng Tám thành công và cuộc

kháng chiến chống Pháp bùng nổ như là một ân huệ với Nguyễn Khải. Suốt

những năm kháng chiến, Nguyễn Khải đã lớn lên rất nhiều cả trong suy nghĩ

hành động và học vấn cộng với một sự từng trải cần thiết để ông có đủ dũng

khí cầm bút theo đuổi nghề làm báo và viết văn. Vừa là một chiến sĩ, một Đảng

viên, một phóng viên – đó là một cơ hội để Nguyễn Khải rèn luyện, học hỏi và

bắt đầu nhận ra gương mặt riêng của mình.

Không phải là một con chim đến từ núi lạ/ Ngứa cổ hót chơi , trước khi đến

với nghề văn, Nguyễn Khải đã từng làm công tác tuyên huấn của Đảng. Chính

điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quan niệm của ông về nghề văn và thiên

27 2 7

chức của người cầm bút. Ngay từ những ngày đầu tiên, ông đã xác định viết

văn là một nghề và tác phẩm văn học cũng phải góp phần tích cực vào cuộc

đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng. Điều này không chỉ có nguyên nhân từ

trong cuộc sống của chính tác giả mà còn bắt nguồn từ chính nhu cầu của cuộc

sống xã hội. Trên cơ sở của một thời đại đầy biến động, với nhận thức chính trị

vững vàng, Nguyễn Khải đã xông pha nơi tuyến đầu, luôn có mặt ở những nơi

nóng bỏng nhất, tiêu biểu nhất của hiện thực cách mạng. Bắt đầu bằng truyện

ngắn Ra ngoài in trên tạp chí Lúa mới của Chi hội Văn nghệ Liên khu III-

1951 thì đến năm 1952 với truyện vừa Xây dựng ông đã đoạt giải khuyến khích

về truyện và ký 1951-1952 của Hội Văn nghệ Việt Nam. Tuy thế, sau thành

công ban đầu này thì năm 1956 với tác phẩm Ngƣời con gái quang vinh

Nguyễn Khải lại đi một bước lùi trên con đường nghệ thuật. Phải đến một năm

sau, với Xung đột, ông mới chính thức đánh dấu sự có mặt của mình trong làng

văn.

Xung đột lấy bối cảnh vào khoảng cuối năm 1956 tại một thôn công giáo

toàn tòng. Tác phẩm là những “ghi chép” của tác giả về cuộc đấu tranh quyết

liệt giữa bộ đội ta và bè lũ phản động đội lốt tôn giáo nổi lên tìm cách chống

phá cách mạng ở một xóm đạo. Ở đây, Nguyễn Khải đã đi vào một mảng hiện

thực rộng lớn, có sức khái quát cao- đó là nông thôn trên con đường cải tạo và

xây dựng cuộc sống mới. Và như thế, tác giả đã đặt ra cho tác phẩm một

nhiệm vụ khám phá hiện thực xã hội vốn rất căng thẳng và đầy mâu thuẫn và

cũng có phần tương đối nhạy cảm ở một số vùng nông thôn lúc bấy giờ.

Với hai tuyến nhân vật đối lập nhau, một bên là những cán bộ cách mạng

tiên tiến, gương mẫu như Môn, Nhàn, Thuỵ...một bên là những kẻ lợi dụng tôn

giáo như cha Vinh, cha Thuyết, tu sĩ Thịnh…tác giả đã tái hiện lại một cách cụ

thể và sinh động những mâu thuẫn, giằng co quyết liệt của một xứ Hỗ tưởng

như bình lặng. Đó là một “cuộc chiến” không kém phần gay go, dữ dội: “Tiếng

loa của Đức Chúa Trời và tiếng trống của người thế gian; lời giảng hùng hồn

của cha Lân và lời lẽ đầy sức thuyết phục của các cán bộ xóm xã; những dư

luận lén lút xào xạc và những khẩu hiệu mạnh mẽ, ngay thẳng; những tối họp

xóm và những buổi chầu lễ; ngả đường ra nhà thờ và ngả đường về nhà ban

28 2 8

quản trị. Cuộc sống ở thôn Hỗ cứ náo động suốt đêm ngày. Không có tiếng

súng nổ nhưng tâm trạng con người thì giống hệt như trong một trận chiến

đấu” [50-213].

Không dừng lại ở những mâu thuẫn bề nổi, tác phẩm còn phản ánh cuộc

sống tinh thần ở nông thôn- nơi con người bị những kẻ lợi dụng tôn giáo làm

cho mê muội, sống trong tấm màn mịt mùng, tăm tối, nhẫn nhục chịu đựng.

Trong hoàn cảnh đó, ánh sáng của cách mạng, của CNXH đến với người dân

cũng thật khó khăn. Từ đó, tác phẩm đặt ra một vấn đề sâu sa hơn đó là giải

phóng cuộc sống tinh thần cho con người, làm thế nào đưa ánh sáng của chân

lý, của cách mạng đến cho họ. Chúa là người đã ngự trị hàng trăm năm nay

trong cuộc sống của người dân miền biển xứ Hỗ. Chúa khiến cho người dân

sống trong chịu đựng, nhẫn nhục, sống theo thói quen, khép mình theo định

kiến. Cuộc sống của họ bị rêu lên, mốc lên, rỉ ra, như một vũng tù ngưng đọng,

đóng váng. Vì thế, các biến cố cách mạng, những cơn bão táp chính trị thời

cuộc không hề ảnh hưởng hay mảy may khiến họ quan tâm. Dù rằng cách

mạng thành công, quan hệ sản xuất mới cùng với một cuộc sống mới đã đến

đôi lúc làm cho đức tin của họ lung lay nhưng rồi chính bản thân họ lại sợ sự

sụp đổ của cái đức tin đã làm chỗ dựa cho họ trong hơn nửa thế ký qua. Vì thế

mà “mặt nước lại đóng váng, bèo lại nở và tất cả, tất cả …lại như cũ”[50-215].

Ngay cả những cán bộ Đảng và chính quyền nơi đây cũng vẫn còn có sự nhận

thức chưa đúng về vấn đề tôn giáo. Rõ ràng là không thể hoà lẫn chân lý Đảng

với đạo lý của Chúa, không thể tin yêu Đảng theo màu sắc tín ngưỡng của tôn

giáo. Cũng không thể vừa là người trung thành với cách mạng , vừa là một con

chiên ngoan đạo bởi cái đức tin sẽ che lấp cả sự sáng suốt và tinh thần cảnh

giác của người cán bộ cách mạng.

Xung đột cũng thể hiện ngòi bút phân tích nhạy bén, sắc sảo của Nguyễn

Khải, nhất là đối với những vấn đề có tính phản diện. Với những trang viết

nóng hổi, mang đầy hơi thở cuộc sống , những cách đặt vấn đề sắc sảo, tinh tế,

tác phẩm đã báo hiệu sự xuất hiện của một phong cách văn xuôi hiện thực tỉnh

táo.

Tiếp tục mạch tư tưởng đó, Nguyễn Khải tìm đến một mảng hiện thực khác

29 2 9

cũng mới mẻ và sôi động không kém - cuộc sống ở nông trường Điện Biên và

những HTX tiên tiến ở miền Bắc. Ở đó, con người được sống trong một môi

trường hoàn toàn mới, mọi người yêu thương đùm bọc lẫn nhau trong một gia

đình lớn. thế nhưng sẽ là chưa hoàn toàn tự do nếu vẫn còn những tư tưởng,

thành kiến của chế độ cũ đeo đẳng, ám ảnh. Vì thế, vấn đề quan trọng không

phải là đưa ra cho con người một quan hệ sản xuất mới mà còn phải giải phóng

cho họ thoát khỏi những thành trì tư tưởng cũ đã ít nhiều ăn sâu và đục khoét

làm mục ruỗng tâm hồn họ.Với những chuyến đi thực tế xông xáo trên vùng

đất mới, Nguyễn Khải đã liên tiếp cho ra đời những tác phẩm phản ánh kịp thời

những diễn biến mới nhất của tình hình cách mạng. Tập truyện ngắn Mùa lạc,

các tác phẩm Tầm nhìn xa, Ngƣời trở về, Hãy đi xa hơn nữa, Gia đình lớn ,

Chủ tịch huyện…đã bước đầu xác lập cho Nguyễn Khải một chỗ đứng trên

văn đàn.

1.1.2.2. Thời kỳ chống Mỹ cứu nước

Bắt đầu từ sau 1965, Nguyễn Khải tập trung viết về cuộc kháng chiến chống

Mỹ cứu nước, Vấn đề nổi bật lên trong tác phẩm Nguyễn Khải thời kỳ này là

mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh, là khả năng con người có thể vượt

ngoại cảnh để vươn lên theo xu hướng tiến bộ cách mạng.

Khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra gay go, ác liệt thì mọi giá

trị đều được xác định lại ở mức chân thật nhất của nó. Mỗi con người dều phải

đấu tranh với bản thân một cách nghiêm khắc để giữ vững lòng tin và thêm

nghị lực chiến đấu.

Với tư cách của một người chiến sĩ, Nguyễn Khải đã xông xáo đến những

nơi chiến sự đang diễn ra ác liệt nhất :ra Cồn Cỏ- nơi đầu sóng ngọn gíó để cho

ra đời Họ sống và chiến đấu; đến với các chiến sĩ công binh trên con đường

huyết mạch Trường Sơn ông viết Đƣờng trong mây; vào tuyến lửa Vĩnh Linh-

nơi có những con người ngày đêm xông pha vượt mọi nguy hiểm để đưa hàng

tiếp tế ra Cồn Cỏ, ông có Ra đảo; tham gia chiến dịch đường 9 Nam Lào ông

có Chiến sĩ; và Tháng Ba ở Tây Nguyên được viết khi Nguyễn Khải tham gia

chiến dịch giải phóng miền Nam…Ở những tác phẩm này, Nguyễn Khải tập

trung “lý giải những mâu thuẫn, từ những vấn đề tình cảm, tình yêu, tình đồng

30 3 0

chí đến những vấn đề mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, dân chủ và tập

trung, bảo thủ và tiên tiến, sống và chết, sản xuất và chiến đấu, tiền tuyến và

hậu phương, tinh thần và vũ khí, chống Mỹ và xây dựng CNXH”. [38-72].

Chiến sĩ là tiểu thuyết lấy câu chuyện về một anh lính tăng đi lạc đơn vị,

lạc mất đồng đội. Mọi truyền thống, kỷ cương trước kia nay đều không còn

nữa. Người lính được sống hoàn toàn tự do,không cần khuôn phép. Song trong

hoàn cảnh đó, anh ta không buông thả mình, sống phóng túng mà cố gắng giữ

lấy cốt cách , kỷ luật tự giác của một người lính. Chính trong hoàn cảnh đó,

phẩm chất của người lính mới thật sự toả sáng. Qua hành trình tìm về lại đơn vị

của người lính, tác phẩm đã dựng lên một bức tranh khái quát, có quy mô về

một chiến trường dữ dội, phức tạp, ngổn ngang nguy hiểm đầy bất trắc và

những bất ngờ thú vị, với những tình huống ngẫu nhiên không sao lường trước

được. “Đó là một chiến trường sống, một thực tại, một hiện thực. Đó là một

thành công mới của Nguyễn Khải mà nhiều tiểu thuyết viết về chiến tranh chưa

đạt được”[38-132].Và trong cuộc chiến đấu ấy, chân dung người lính không

chỉ được dựng lên qua những trận đánh, những chiến công mà còn qua cả tình

đồng chí, đồng đội, tình yêu thương giữa con người với con người. Chính thứ

tình cảm ấy đã mang lại một sức mạnh ghê ghớm “nó nghiêng về phía nào thì

toàn bộ sức mạnh trút về phía ấy” [50-63].

Nhìn một cách khái quát thì những tác phẩm viết trong thời kỳ này của

Nguyễn Khải đều tập trung khắc hoạ hình tượng người anh hùng cách mạng

với tất cả sự sùng kính và lòng trìu mến. Tuy nhiên, chính điều đó đã khiến cho

những sáng tác ấy vấp phải những hạn chế. Đó là sự đơn giản hoá, một chiều

trong tính cách và đôi khi hình tượng nhân vật được thể hiện theo lối minh hoạ

giản đơn. Sau này khi có dịp nhìn nhận lại những sáng tác giai đoạn này,

Nguyễn Khải đã nhận xét rất thành thật: “Tôi không thích nhân vật chỉ đơn

thuần một chiều. Tôi muốn nhân vật của mình lớn lên trong dằn vặt, mâu thuẫn

để đến với chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng trong thời chiến, giữa lúc cả

nước đang lao vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, mình không thể viết

như thế được”[16-11].

31 3 1

1.1.2.3.Sau năm 1975.

Đất nước thống nhất kéo theo một loạt những thay đổi trong đời sống chính

trị xã hội, mở ra một hướng đi mới cho đất nước cũng như trong đời sống văn

học. Ngay từ những năm 70 những hướng đi mới, tìm tòi mới đã bắt đầu manh

nha. Nguyễn Khải tạm gác lại mối quan tâm đối với mảng hiện thực lao động

và chiến đấu ở miền Bắc để chuyển sang khai thác một hiện thực hoàn toàn

mới:cuộc sống ở miền Nam sau ngày giải phóng. Thực tế cho thấy, mặc dù

miền Nam đã giải phóng, đất nước thống nhất nhưng chưa hẳn là đã yên.

Những tàn dư của chế độ cũ còn rơi rớt lại qua những kẻ phản động giấu mình,

qua lớp người từng gắn bó với chế độ Sài gòn cũ, thậm chí là qua những tập

quán ,thói quen sinh hoạt của một số không nhỏ bộ phận người dân.Vấn đề đặt

ra bây giờ là làm sao và làm thế nào để đưa cuộc sống mới đến với người dân

miền Nam. Nguyễn Khải phát hiện ra những đấu tranh gay go, quyết liệt của

họ, những trăn trở, đau đớn, dằn vặt trước sự lựa chọn giữa hai chế độ: hoặc

chế độ cũ với những điếu thuốc lá thơm, những ly rượu Mácten và những đêm

vũ hội với chế độ mới phải san sẻ cuộc sống và quyền lợi với những người

xung quanh; hoặc chấp nhận hoặc tiếp tục chống đối…Đó là một cuộc đấu

tranh trên bình diện tư tưởng, một chiến trường không khói súng, không có

thương vong nhưng cũng không ít những đớn đau, vật vã. Để rồi cuối cùng là

sự thắng lợi của cách mạng, không chỉ là chiến thắng trên mặt trận quân sự mà

cả trên mặt trận tư tưởng, nhận thức của con người. Với những tìm tòi, trăn trở

không ngừng, Nguyễn Khải đã có những sáng tác có giá trị trong thời gian này

như: Cách mạng (kịch), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của ngƣời, Cha và con,

và…Điều tra về một cái chết.

Vở kịch Cách mạng xoay quanh cuộc sống của một số người ở thành phố

vừa được giải phóng, bước vào cuộc sống mới với nhiều mặc cảm, ngỡ ngàng.

Dù hổ thẹn vì quá khứ, dù còn đang phân vân nhưng hoàn cảnh bắt buộc họ

phải lựa chọn một con đường đi cho mình. Đó là những con người như chị

Hoàng, như Huy, phần nào vẫn còn luyến tiếc với những ảo ảnh của một thời

vàng son. Họ sống thu mình lại trong bốn bức tường của phòng ngủ, xoa mạt

chược, uống Mácten và ăn đêm. Họ là “những cái tử thi thối rữa mà chưa ai

32 3 2

chịu chôn đi cho” [50-145]. Nhưng cũng có những người như Phượng, dám

mạnh dạn bỏ, lên án quá khứ thượng lưu chỉ toàn lừa lọc, tranh giành, phản bội,

cướp đoạt, để lựa chọn CNXH. Cô là người có bản lĩnh, nghị lực, dám thẳng

thắn nhìn vào sự thật, “biết lựa chọn một cách sống trong sạch và lương thiện,

tự trọng và có trách nhiệm”[50-143]. Chủ đề sự lựa chọn của những người

dưới chế độ Sài Gòn cũ trong vở kịch tiếp tục được triển khai và giải quyết

Còn Thời gian của ngƣời, một tác phẩm đầy tính chất chính luận, lại đi theo

thấu đáo hơn trong Gặp gỡ cuối năm.

một hướng khác. Ở đó, Nguyễn Khải có dịp phát huy thế mạnh vốn có của một

cây bút giàu tính triết lý. Xoay quanh suy nghĩ, hồi tưởng của bốn nhân vật về

những quãng đời đã qua: chị Ba Huệ- cán bộ huyện, Quân- sĩ quan quân báo,

bác Hai Riềng- công nhân cao su và cha Vĩnh, tác phẩm đã đưa ra một triết lý

về thời gian để mọi người cùng trao đổi , suy ngẫm: “Chúng ta đã có những

năm tháng sống rất đẹp. Quãng đời tốt đẹp ấy mãi mãi ánh lên vẻ rực rỡ của

nó và còn soi sáng cho nhiều năm tháng về sau. Trong chúng ta, người nào tiếp

thu đầy đủ tinh thần của những năm tháng ấy sẽ đủ sức vượt qua được mọi khó

khăn trong cuộc sống hiện nay để mãi mãi trở thành một nhân cách đáng kiêu

hãnh”[50-143]. Bên cạnh đó, cũng với Cha và con, và…,Điều tra về một cái

chết, tác phẩm cũng tiếp tục một vấn đề đã đặt ra ở Xung đột, đó là tôn giáo

trong thống nhất đất nước và hoà hợp dân tộc. Lần này những hạn chế trước đó

đến đây đã được ông khắc phục. Một mặt, Nguyễn Khải nhìn thấy tôn giáo

không chân chính- tôn giáo của những kẻ đội lốt tôn giáo để làm chính trị, đã

phá hỏng cuộc sống và tâm hồn con người một cách ghê ghớm như thế nào.

Mặt khác, ông cũng tỉnh táo nhận thức được vai trò tích cực của tôn giáo khi nó

được trở về với đúng nghĩa của nó. Điều đó có nghĩa là cách mạng không đối

lập với tôn giáo mà cách mạng và tôn giáo vẫn có thể hoà hợp, người chiến sĩ

cách mạng vẫn có thể là một con chiên ngoan đạo, một cha xứ vẫn có thể đống

góp tích cực cho cuộc kháng chiến.” Đi với giáo hữu tuân theo ý muốn của

giáo hữu sẽ hoà hợp được tất cả, vì giáo hữu là nền tảng, là cội nguồn. Cách

mạng cũng từ đấy mà có.Hội Thánh cũng từ đấy mà có, bổn phận của linh mục

cũng từ đấy mà có”.[50-213] Như thế, càng về sau, ngòi bút Nguyễn Khải

33 3 3

càng phát huy, bộc lộ rõ sự sắc sảo trong cách nhìn hiện thực, con mắt ông luôn

phát hiện ra chỗ có “vấn đề” khi mà người khác chưa thấy. Đồng thời, qua

những vấn đề đưa ra đó, chất chiêm nghiệm, triết lý lại được bộc lộ ngày càng

đậm nét. Cách đào sâu, lật xới vấn đề không chỉ trong một tác phẩm mà trở lại

trong những tác phẩm khác, chứng tỏ ông luôn có những cách làm mới tác

phẩm và làm mới lại chính mình.

1.1.2.4.Thời kỳ sau năm 1986

Thời kỳ này người đọc chứng kiến sự nở rộ về truyện ngắn của Nguyễn

Khải, hàng loạt các truyện ngắn được ra đời . Ở đây người viết chỉ xin liệt kê

những tác phẩm được đánh giá cao, và được chính tác giả tuyển chọn trong

1 Nếp nhà

Tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Khải (2 tập):

2 Chúng tôi và bọn hắn

3 Người vợ

4 Người của ngày xưa

5 Nắng chiều

6 Tiền

7 Danh phận

8 Năm tháng qua đi

9 Hậu duệ dòng họ Ngô Thì

10 Một người Hà Nội

11 Đời khổ

12 Làng của danh nhân

13 Đổi đời

14 Anh hùng bĩ vận

15 Người của nghề

16 Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức

17 Một thời gió bụi

18 Đời cứ vui

19 Ông trưởng họ

20 Thầy Minh

34 3 4

21 Đã từng có những ngày vui

22 Ông cháu

23 Chuyện tình của mỗi người

24 Một bàn tay và chín bàn tay

25 Lãng tử

26 Người kể chuyện thuê

27 Nghệ nhân ở làng

28 Lạc thời

29 Những người già

30 Lính chữa cháy

31 Đàn ông

32 Sống giữa đám đông

33 Đất mỏ

34 Đàn bà

35 Nơi về

36 Quê ngoại

37 Làm trai

38 Phía khuất mặt người

39 Một chiều mùa đông

40 Mẹ và bà ngoại

41 Người tự do

42 Chị Mai

43 Mẹ và các con

44 Bạn và con của bạn

45 Ngôi chùa các chị

46 Người ngu

47 Đền miếu và bèo ốc

48 Một mẹ chồng tuyệt vời

49 Luật trời

50 Nhóm bạn thời kháng chiến

51 Má hồng

35 3 5

52 Hoa cỏ may

53 Cái cổ

54 Bạn viết cũ

55 Giận ông giời

Sau năm 1986, những đổi thay của cuộc sống xã hội nhờ chính sánh mở

cửa đã kéo theo sự thay đổi của một loạt các vấn đề khác trong xã hội. Đời

sống vật chất trở nên đầy đủ hơn, con người sống thoải mái hơn, đồng thời các

giá trị trong cuộc sống cũng được xác định lại…Xã hội trở nên đầy biến động

với những cuộc”bể dâu” khôn lường. Trước một hiện thực mới mẻ, một chính

sách tư tưởng tương đối dân chủ, ngòi bút Nguyễn Khải có điều kiện thoả sức

vẫy vùng. Thế giới nhân vật được mở rộng, thể loại sáng tác cũng được chuyển

hướng cho phù hợp với tình hình mói. Điều đáng nói là, sự mở rộng ấy lại

mang tính chất ”thu hẹp” :thế giới nhân vật ngoài những con người có tính chất

đại diện cho một cộng đồng, một thế hệ thì nay lại là những con người bình

thường đối với Nguyễn Khải; những bạn bè đồng nghiệp, bà con họ hàng thân

thuộc. Những mảnh đất một thời ông đã đi qua nay lại trở lại với tác phẩm của

ông. Mỗi người với một số phận riêng đã giúp ông suy ngẫm thêm về cuộc đời.

Đặt nhân vật không còn trong cái nền chật hẹp trước mắt mà trong một khung

cảnh rộng lớn của lịch sử, các nhân vật của Nguyễn Khải tự nhiên lại hiện lên

với nhiều nét xót xa, thương cảm. Đó là những người như Bà Bơ- người đàn bà

cũng con dòng cháu giống, hoá ra cả đời lại phục vụ các cháu, về già mới có

được chút hạnh phúc riêng [28-165]. Đó là trường hợp bà Hiền- người cô của

tác giả trong truyện Một ngƣời Hà Nội, nếu nhìn qua thì chỉ thấy bà là một

người đàn bà rất bình thường, không có kỳ tích, chiến công gì đặc biệt. Thế

nhưng điều đáng để nói ở bà là giữa thời buổi có nhiều biến động này bà vẫn

giữ được một cách sống hợp lý, giữ được chồng con, giữ được danh dự, giữ

được cả sự thanh thản và cốt cách riêng nữa. Việc Nguyễn Khải, một người đã

viết Gặp gỡ cuối năm, Khoảnh khắc đang sống… mà giờ nhìn thấy ở bà Hiền

như “một hạt bụi vàng” của Hà Nội và mong mỏi “Những hạt bụi vàng lấp

lánh đâu đó mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói

36 3 6

sáng những ánh vàng” [28-182], đã chứng tỏ ông khác đi nhiều lắm. Đồng thời

người ta cũng nhận thấy một sự đối thoại, chất vấn giữa Nguyễn Khải của hôm

nay và Nguyễn Khải ngày hôm qua trong việc nhìn nhận và miêu tả những cán

bộ, những người cùng cảnh ngộ và tuổi tác với tác giả. Trước đây, trong các

trang văn Nguyễn Khải, họ luôn là những nhân vật bừng bừng sức sống với ý

chí và cảm xúc mạnh mẽ. Vậy mà nay, các nhân vật ấy đều mất đi vẻ hiếu

thắng vốn có. Do tuổi tác ư? Điều đó cũng có thể, nhưng cái chính là do mỗi

người bắt đầu cảm thấy mình có một cuộc sống riêng. Họ biết rằng việc đời

đâu phải lúc nào cũng chỉ có công tác này, chiến dịch nọ mà còn có gia đình,

người thân, những lo toan riêng và những tính toán riêng. Đâu đó, ta bắt gặp

một người đàn bà hầu như cả đời chỉ biết lo cho chồng cho con, cúi mặt xuống

để sống mà số phận cũng không buông tha; rồi cũng có người thì luôn sống biết

điều, cả đời không làm điều gì quá đáng, vậy mà vụng lo vụng tính nên ngay

trong gia đình cũng không cảm thấy yên ổn…Liệu có thể nói là so với hôm

qua, các nhân vật của Nguyễn Khải hôm nay đang có một sự lột xác hoàn toàn,

nghĩa là cái định hướng về cuộc đời ở từng người đã hoàn toàn thay đổi? Đúng

ra thì cũng không hoàn toàn như vậy. Những tưởng anh Dụ, anh Tú, chị

Vách…sẽ khó lòng sống qua được những hờn tủi, thách thức mà cái thời gió

bụi này ném vào mặt họ. Nhưng may thay, qua ngòi bút tác giả, ở họ vẫn tiềm

tàng một sức mạnh để rồi họ vẫn tha thiết sống với một sức sống dẻo dai, bền

bỉ. Vẫn là những con người luôn thích ứng với hoàn cảnh, chỉ có điều sự thích

ứng của họ hôm nay khác với của ngày hôm qua. Cách nhìn đời, nhìn người

của nhà văn cũng thay đổi nhiều, cái sắc sảo có phần đanh đá trước kia dần

thay bằng một sự khoan hoà thắm thiết trong những trang viết đầy yêu thương

và thông cảm. Cùng với đó, tính chất hiện thực thay đổi, đời sống con người

thay đổi khiến những thể loại dài hơi trở nên không còn phù hợp nữa, Nguyễn

Khải lại trở về với thể loại truyện ngắn- một thể loại mà ở những ngày đầu cầm

bút ông đã thành công.

Điều đáng chú ý là ở thời kỳ này, Nguyễn Khải đã dành không ít trang

viết về Hà Nội, nơi ông đã sống và lớn lên một thời tuổi trẻ. Đó có thể là nét

đẹp trong tâm hồn của một người nào đó trong gia đình Nguyễn Khải, đó có thể

37 3 7

là nếp sống, nét ứng xử văn hoá mang giá trị nhân văn của đất kinh kỳ.

Trong tác phẩm Một ngƣời Hà Nội, hình ảnh con người Hà Nội, cuộc

sống Hà Nội hiện ra với một vẻ đẹp riêng qua sự cảm nhận và vốn trải nghiệm

sâu sắc của nhà văn. Qua hình ảnh cô Hiền, tác giả muốn khắc đậm bản lĩnh,

cốt cách, vẻ đẹp tâm hồn người Hà Nội qua lối sống lịch lãm, sang trọng gìn

giữ từ bao năm nay. Cô Hiền là hình ảnh một người phụ nữ luôn biết trân trọng,

nâng niu và có ý thức giữ gìn những nét đẹp của văn hoá truyền thống Hà Nội .

Qua nhân vật này, Nguyễn Khải cũng đã bộc lộ quan điểm nghệ thuật riêng về

con người mà cái chuẩn quy chiếu được đặt ra là lối ứng xử văn hoá cá nhân

của con người thể hiện bản lĩnh trong người Hà Nội. Tác phẩm cũng thể hiện

cách viết mới mẻ, sáng tạo của Nguyễn Khải trong nghệ thuật tự sự. Sự kết hợp

hai kiểu trần thuật:trần thuật khách quan và trần thuật chủ quan, giúp tác giả có

thể tự do thoải mái trong việc thể hiện nội dung, tạo ra cho tác phẩm những

tiếng nói đa chiều, nhiều tầng vỉa ý nghĩa.

Dù thế nào thì trước, sau người ta vẫn thấy ở Nguyễn Khải có sự thống

nhất:đó là một sự khao khát vô tận, khao khát không cùng muốn được có mặt

trong đời sống. Là niềm vui sướng kỳ lạ mỗi khi được lắng nghe, được trò

chuyện và được người đời khen- chê.

1.2.Truyện ngắn Nguyễn Khải.

1.2.1.Trước năm 1986.

Nguyễn Khải bắt đầu sự nghiệp viết văn vào cuối kháng chiến chống Pháp

với khá nhiều truyện ngắn viết về cuộc chiến đấu của du kích Liên khu III, và

năm 1951 , với truyện Xây dựng ông đã được giải khuyến khích về văn xuôi

trong cuộc thi văn nghệ 1951-1952. Mặc dù vậy, Nguyễn Khải lúc này vẫn

chưa được bạn đọc chú ý. Sau đó Nguyễn Khải còn để tâm viết một cuốn sách

khá công phu về nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi - Ngƣời con gái quang vinh

(1956) Ngày tết về thăm quê(1957) Chỉ tại một ngày trâu(1958)…nhưng vẫn

không có dấu hiệu khả quan hơn. Nguyên nhân là do cách viết của ông thời kỳ

đầu còn thiên về kể nhiều hơn tả do đó tác phẩm của ông thường gây ra cho

người đọc cảm giác lan man, dài dòng, nhạt nhẽo.

Đến tận 1959, khi đã tích luỹ đủ vốn sống và kinh nghiệm trong nghề viết,

38 3 8

Xung đột(I) của Nguyễn Khải mới gây được sự chú ý và được bạn đọc đánh

giá tương đối cao. Và chỉ một năm sau, tập truyện ngắn Mùa lạc đã khẳng định

thêm chỗ đứng cho nhà văn trong nền văn học đương đại. Sau này tài năng của

ông tiếp tục được khẳng định nhưng không phải ở truyện ngắn mà ở những

truyện dài và tiểu thuyết. Như thế, sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Khải trước

đổi mới là không nhiều mà chỉ tập hợp trong một tập truyện. Với Mùa lạc thì

Nguyễn Khải được các nhà phê bình đánh giá là không những đã chọn được

cho mình một phương hướng tốt trong sáng tác mà còn vượt lên những sáng tác

trước đó cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.

Toàn tập Mùa lạc gồm 7 truyện ngắn. Ngoài 3 tác phẩm được viết vào một

thời gian khác, còn lại đều lấy đề tài từ cuộc sống mới ở nông trường Điện

Biên, tập trung vào 2 chủ đề: tích cực và tiêu cực trong cuộc sống. Nằm vạ và

Một đứa con chết là cuộc sống ở vùng công giáo còn nhiều khó khăn, phức

tạp; cái cũ vẫn còn đủ sức mạnh lấn át, chèn ép cái mới. Vẫn còn những con

người như bà Bột [28]- một người phụ nữ bình thường, nghèo khổ bị bọn phản

động đội lốt tôn giáo lợi dụng, biến mụ thành tay sai đắc lực chống phá chính

quyền vô điều kiện. còn có những người như vợ chồng bác nông dân ngoan đạo

trong truyện Một đứa con chết “ vì quá tin kẻ khác nên mới bỏ cả cái hạnh

phúc thật ở đời này để đi tìm một hạnh phúc hão huyền nào không có

thật”.[50-356]. Với hai tác phẩm này, Nguyễn Khải đã vạch trần, lên án bộ mặt

thật của những kẻ phản động trá hình tự xưng là “Cha” đại diện cho Đức

Thánh để lừa bịp, dụ dỗ những giáo dân vô tội. Đồng thời qua đó cũng thấy

được những khó khăn, phức tạp còn cản trở người dân trên con đường xây

dựng cuộc sống mới nhất là những yếu kém đó còn ở trong những nhận thức ấu

trĩ, lạc hậu của chính họ.

Phần lớn những tác phẩm trong tập Mùa lạc và cũng là những thành công

của Nguyễn Khải ở tập truyện này là chủ đề cuộc sống mới. Điện Biên lúc bấy

giờ là bộ mặt điển hình nhất của miền Bắc đang bước vào xây dựng cuộc sống

mới. Trước kia, nơi đây từng là chiến trường ác liệt, các chiến sĩ cách mạng đã

phải đổ máu và nước mắt để bảo vệ từng tấc đất. Ngày nay, nơi những bãi bom

đã xanh rờn màu xanh của ngô, của đỗ. Thế nhưng trong tập truyện này,

39 3 9

Nguyễn Khải không đi vào thể hiện những thay đổi có tính lớn lao đó. Chúng

ta không thể tìm thấy trong Mùa lạc những cảnh khai phá bãi mìn như trong

Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng; những cảnh di cư, dọn nhà lên Điện

Biên như trong tuỳ bút Sông Đà của Nguyễn Tuân… ngay cả những cảnh lao

động sản xuất, khai phá đất hoang cũng không hề được tác giả phản ánh. Vấn

đề được đưa ra ở đây là mối quan hệ giữa người với người trong cuộc sống lao

động mới: quan hệ giữa bố- con trong Bố con, quan hệ đồng chí, bè bạn trong

Mùa lạc, quan hệ cấp trên- cấp dưới trong Ngƣời tổ trƣởng máy kéo hay quan

hệ giữa những con người sa cơ lỡ vận trong Mùa lạc, Đứa con nuôi. Và qua

những mối quan hệ ấy, Nguyễn Khải đã phản ánh được bản chất tốt đẹp của

một xã hội mới đang hình thành.

Để làm được điều đó tác giả đã dụng công xây dựng lên hình ảnh những

con người mới với những phẩm chất cao quý với tất cả niềm yêu mến trong sự

trân trọng. Đó là Cừ, Quang trong truyện Đứa con nuôi, là Nông Kỳ Lâm,

Doãn trong Ngƣời tổ trƣởng máy kéo. Họ chỉ là những con người bình thường,

giản dị, chất phác xuất thân từ dân nghèo nhưng đã được thử thách, rèn luyện

qua cuộc chiến đấu gian khổ. “Đấu tranh gian khổ, năm tháng luyện cho tâm

hồn một cái gì rất trong sáng, đến nỗi soi vào mình mà thấy được tâm tư của

người khác, một nghị lực mà chỉ khi gặp khó khăn mới thấy được hết sức manh

của nó và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những

người khác cùng đi với mình trên một con đường…”[50-98]. Họ mỗi người có

một xuất thân và cuộc sống riêng nhưng đều có một điểm chung là tinh thương

yêu con người- một tình yêu có thể làm thay đổi cuộc đời của một con người.

Nhân vật chị Đào trong truyện ngắn Mùa lạc là người phụ nữ ba chìm

bảy nổi, goá chồng , mất con.” Đòn gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là

giường”.[50-99]. Cuộc đời tưởng đã đến dấu chấm hết, nhưng khi lên nông

trường Điện Biên, được mọi người thương yêu, từ một người phụ nữ chua

ngoa, chao chát, chỏng lỏn trở thành một người phụ nữ dịu dàng, biết quan tâm

đến người khác. Chị đã tìm lại được hạnh phúc mà chị đã mất đi từ bảy tám

năm nay. Em Tấm là đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ bé, phải đi ở hầu hạ cho kẻ khác

để kiếm miếng cơm. Cuộc sống bươn chải sớm , lại luôn bị nhà chủ hành hạ,

40 4 0

đay nghiến, xét nét…khiến tâm hồn trong sáng của em bị vẩn đục. Từ khi được

anh Cừ- chủ nhiệm nông trường đem về nuôi, cho ăn học, lo cho tiền đồ của

em mà không nghĩ đến sự trả ơn. Thoa, Duệ đều là những người từng sống

trong cô đơn, tủi cực đã được những con người ở Điện Biên làm thay đổi, tìm

được hạnh phúc thực sự cho cuộc đời mình.

Nguyễn Khải đã rất sắc sảo khi phản ánh cái mới của xã hội ta thông qua

các mối quan hệ mang tính nhân đạo giữa con người với con người. Qua những

nhân vật tích cực như Cừ, Quang, Huân, Nông Kỳ Lâm…tác giả đã thấy được

những ngọn gió mát lành đương xuất hiện trong đời sống và làm thay đổi tâm

hồn con người. Và như thế, không phải lên nông trường Điện Biên thì những

người như chị Đào, cô Thoa, bé Tấm mới tìm thấy hạnh phúc bởi có thể gặp

những Cừ, Quang, Huân ở bất cứ đâu. Đó chính là cái mới, là bản chất tốt đẹp

của xã hội ta lúc đó.

Đi vào phản ánh các mối quan hệ đã chi phối cách thể hiện của tác phẩm.

Đọc Mùa lạc, người ta không thấy chuyện hay nói cho đúng hơn người ta

không chú ý nhiều đến câu chuyện vì nó không có gì ly kỳ, hấp dẫn. Điều hấp

dẫn, lôi kéo người đọc một cách tự nhiên là những nỗi niềm, tâm sự, dằn vặt

trong đời sống tinh thần của từng nhân vật. Với đặc điểm này, Nguyễn Khải đã

khắc phục được những nhược điểm của thời kỳ đầu và bắt đầu tạo cho mình

một phong cách độc đáo. Điều đặc biệt nữa là, trong Mùa lạc Nguyễn Khải

chú ý đến cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề. Nếu như những nhà văn viết

truyện ngắn khác như Bùi Hiển, Vũ Tú Nam và một số nhà văn khác thường ẩn

mình để tự sự việc nói lên tư tưởng của tác phẩm thì với Nguyễn Khải , ông lại

thông qua nhân vật để nêu lên những vấn đề triết lý, nhân sinh, bình luận về

một hình tượng trong đời sống. Thông thường khi tác giả can thiệp vào nhân

vật của mình thì rất dễ biến nhân vật của mình thành những người thuyết lý,

thành cái loa của người viết. Trong Mùa lạc, Nguyễn Khải đã thành công trong

việc vận dụng nghệ thuật trên để phân tích sâu nhiều vấn đề, khai thác tâm lý

nhân vật để phát hiện ra những khía cạnh và mâu thuẫn qua những câu chuyện

bình thường, giản dị của cuộc sống hàng ngày, đồng thời hướng sự suy nghĩ

của người đọc về một vấn đề nhất định, để người đọc nhận thức rõ ràng, thấu

41 4 1

đáo về vấn đề xã hội mà tác giả muốn nêu lên. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng

đôi khi Nguyễn Khải phát biểu ý kiến của mình quá lộ liễu làm người đọc có

cảm giác tác giả dựng lên những luận đề có sẵn rồi ép thực tế khuôn vào. Lại

có trường hợp Nguyễn Khải để nhân vật thuyết lý quá nhiều khiến người đọc

không thấy nhân vật mà lại thấy như chính tác giả đang thao thao bất tuyệt,

luận bình say sưa về vấn đề nêu lên. Đó cũng là những hạn chế khiến cho giá

trị của tác phẩm bị giảm sút. Tuy nhiên, tập Mùa lạc đã đánh dấu bước thành

công của Nguyễn Khải trên con đường sáng tác.

1.2.2.Sau năm 1986

Nếu như trước 1986, Nguyễn Khải chủ yếu thành công với những tiểu

thuyết, truyện dài như Xung đột(I)(II), Họ sống và chiến đấu, Tháng ba ở Tây

Nguyên, Chiến sĩ, Ngƣời trở về…thì sau đổi mới sự thay đổi của cuộc sống

hiện thực đã kéo theo nhiều sự thay đổi trong đời sống nghệ thuật. Chiến tranh

qua đi, con người trở lại với cuộc sống mới thường ngày, cái cá nhân bị tạm

gác lại nhường chỗ cho cái tập thể trong chiến tranh nay đã tìm về đúng vị trí

của nó. Đồng thời, các thể loại văn học dài hơi trở nên không còn phù hợp khi

mà bối cảnh hiện thực cho nó không còn và con người thì phải tất bật với

những lo toan vật chất thường ngày. Như là những “lát cắt”, “góc nhìn” về hiện

thực, truyện ngắn lúc này trở nên thich hợp hơn bao giờ hết. Chính vì thế, sự

chuyển hướng trong sáng tác lúc này là một điều tất yếu và cần thiết. Với

Nguyễn Khải, ngoài một số ít tác phẩm như Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi

nhân gian bé tí và bút ký, tạp văn thì sáng tác chủ yếu của ông thời kỳ này chủ

yếu là truyện ngắn. Có thể nói đây là mảng sáng tác thành công nhất của ông ở

thời kỳ này.

Vẫn là một Nguyễn Khải xông xáo, năng động, nhạy bén, ngoài việc đến

với những vùng đất cũ, những nơi đã từng đi qua một thời tuổi trẻ, gặp lại

những con người một thời làm ông trăn trở để rồi lại có một cách nhìn khác, tự

xem xét và chiêm nghiệm lại chính những sáng tác của mình thời gian qua. Thế

giới các nhân vật của Nguyễn Khải giờ đây là những con người rất bình

thường. Đó có thể là những con người mà lẽ sống duy nhất của cuộc đời họ là

cách mạng, vì lý tưởng mà vượt lên trên hết thảy, kiên trinh, tin tưởng vào lẽ

42 4 2

sống mình đã chọn như ông Ba Quốc Hội “làm việc cho cách mạng là cái

nghĩa vụ ở đời…làm theo cái lương tâm chứ không cốt làm để mai này kể công

hưởng lợi”[28-144]; là thầy Minh với triết lý sống: “cái khó nhất của mọi cái

khó là tập giữ trọn được lời hứa. Thưở nhỏ là hứa với cha mẹ, với thầy cô bạn

bè, lớn lên là hứa với ý tưởng, với đất nước với non sông. Trước khi hứa phải

nghĩ cho chín, còn đã hứa thì sau này gươm có kề cổ cũng không thay đổi, thân

phận có tan nát cũng không thay đổi”[28-348]; là ông trưởng họ trong tác

phẩm cùng tên luôn truyền dạy trong dòng họ một cách sống: “biết sống dũng

cảm, sống vị tha và dám hy sinh cho niềm tin thấy là đúng”…Rồi những cảnh

đời trắc trở, trớ trêu, những số phận nhỏ bé, suốt đời “chỉ biết làm thôi, làm

không biết đến mệt nhọc, đến ốm đau, đến nguy hiểm” [28-202]. Nếu như trước

đây, Nguyễn Khải xây dựng lên những anh hùng cách mạng với tất cả sự kính

trọng và ngưỡng mộ thì nay ngòi bút của ông lại trở nên xúc động trước những

số phận éo le, những cảnh đời bất trắc, đau khổ. Và chính trong hiện thực đó,

ông lại phát hiện ra nhiều vấn đề nhân sinh ẩn giấu, những nét đẹp của đạo đức

truyền thống trong hôm nay.

Một mảng sáng tác khác có giá trị thời kỳ này là những tác phẩm viết về

Hà Nội- nơi chứa chan, lưu giữ bao kỷ niệm của một thời. Nhân vật trong

mảng sáng tác này chủ yếu là những người thân thuộc đối với Nguyễn Khải.

Đó là cô Hiền - một người cô họ, bình thường như bao người dân Hà Nội khác

nhưng trong phong thái và cách sống của cô chứa đựng nhiều giá trị nhân văn

làm nên nét đẹp người Tràng An. Người được tác giả coi là “hạt bụi vàng” và

còn thầm ước “những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy

mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng”[50-214].

Hay là một người bà cô khác nào đó luôn chăm lo, gìn giữ gia phong của một

dòng họ trong Nếp nhà; là cô em họ biết tính toán hợp thời nhưng bao giờ cũng

trọng cái danh hơn cả trong Tiền; là một bà cụ bình thường nhưng cách ứng xử

lại danh giá trong Ngƣời của ngày xƣa…Bên cạnh những con người là hồn

cốt, là lịch sử của Hà Nội thì Nguyễn Khải còn viết về những con người của Hà

Nội ngày hôm nay-“những nhân vật chính của một vận hội mới”. Một mặt, ông

43 4 3

nhận ra đúng tiềm năng của họ, mặt khác ông cũng nhìn thấy những khiếm

khuyết của tuổi trẻ. Qua đó nêu lên những câu hỏi, là làm sao cho lớp trẻ phấn

đấu, phát huy hết khả năng, là nguồn lực chấn hưng, đổi mới xã hội.

Nếu so với những sáng tác thời còn trẻ thì nay cách viết của Nguyễn Khải

tỏ ra bao dung, nhẹ nhàng hơn. Các vấn đề ông hướng tới không còn là những

hiện thực lớn lao mang tính chất thời sự nữa mà là những giá trị nhân văn ẩn

giấu sau những điều bình dị trong cuộc sống. Tuy thế, một nét vẫn rất Nguyễn

Khải còn tồn tại là qua những câu chuyện rất đỗi bình thường ấy là những suy

tư, chiêm nghiệm, triết lý của nhà văn. Những câu như “Ở đời chỉ có cái đức là

trường tồn, càng có nhiều càng tốt, không sợ thừa. Kỳ dư những thứ khác đều

là phù du cả, có đấy, mất đấy, phúc đấy, hoạ đấy, không tính trước được

đâu”[28-456] và rồi “chỉ có cái tâm tốt của con người mới làm nảy nở được

những cái mầm yêu thương”[28-166]…thường xuất hiện rất nhiều trong truyện

ngắn Nguyễn Khải.

Như vậy, cùng với sự vận động tự thân của đời sống văn học, đồng thời

như là “một cách tồn tại trong đời sống văn học”[49], Nguyễn Khải đã có

những cách tân trên cả bình diện nội dung và nghệ thuật, vừa thể hiện độ chín

về mặt văn nghiệp, vừa để cho phù hợp với xu thế chung của thời cuộc.

Như vậy, khắc phục những thiếu sót buổi ban đầu Nguyễn Khải đã dần dần

đánh dấu sự có mặt của mình trên văn đàn bằng những tác phẩm nóng hổi tính

thời sự. Truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kí sự...và sau này là cả tạp văn,

bút kí, ở lĩnh vực nào ông cũng có những tác phẩm được người đọc hưởng ứng.

Không phải là vô cớ khi mà hầu hết các nhà nghiên cứu, phê bình đều đánh giá

Nguyễn Khải là một trong số những nhà văn có đóng góp lớn vào sự phát triển

của văn học nước nhà. Ở một phương diện khác, dù số lượng tác phẩm không

dồn dập như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, hay Nguyễn Huy Thiệp…nhưng sức

viết của ông lại tương đối dẻo dai. Ở thời kỳ nào thì những sáng tác của ông

cũng bắt kịp và đi cùng với thực tiễn đời sống văn học. Nguyễn Khải xứng

44 4 4

đáng là nhà văn tiêu biểu của thời đại chúng ta.

Chương 2 Tính liên tục trong truyện ngắn Nguyễn Khải

sau năm 1986

Lịch sử cho thấy không có sự phát triển nào là không có sự kế thừa của cái cũ,

trong cái mới luôn có cái cũ tồn tại nhưng theo một hình thức khác cũng như

trong cái cũ luôn có mầm mống cái mới nảy sinh. Sự thay đổi dù theo hình thức

nào và dù cho mục đích nào thì cũng vẫn có sự liên hệ với những gì trước đó.

Con người ta không bao giờ thoát ra khỏi cái bóng của chính mình, nhà văn

cũng vậy, anh ta dù có thay đổi, dù có “lột xác” thì vẫn không vượt ra ngoài cái

khuôn nó làm cho anh ta phân biệt với những nhà văn khác. Cũng chính nhờ sự

nhất quán trong toàn bộ con đường sáng tác mà các nhà nghiên cứu xác định

được tác giả cho một số tác phẩm “khuyết danh”. Phong cách tác giả được tạo

bởi chính những yếu tố “bền vững” đó.

2.1.Tính liên tục trong nội dung

2.1.1.Tính liên tục trong cái nhìn hiện thực

2.1.1.1 Hiện thực cuộc sống ngổn ngang, bề bộn.

Văn học là nghệ thuật phản ánh cuộc sống qua lăng kính chủ quan của nhà

văn, thế nên, dù là sáng tác theo cách nào lãng mạn, hiện thực hay siêu thực thì

cái gốc của văn vẫn là cuộc sống, nên về một khía cạnh nào đó thì nhà văn

đúng là “người thư ký trung thành của thời đại”

Khi khảo sát những truyện ngắn trước 86, chúng ta thấy Nguyễn Khải đã đi

vào phản ánh rất kịp thời những vấn đề mang tính thời sự nóng bỏng. Đó là

cuộc sống mới trên nông trường Điện Biên (Mùa lạc, Đứa con nuôi, Ngƣời tổ

trƣởng máy kéo), là công cuộc xây dựng cuộc sống mới với những tàn tích của

lối sống tư hữu vẫn còn tồn tại cản trở không nhỏ đến bước tiến của cách mạng

( Nằm vạ, Tầm nhìn xa…)Phản ánh bộ mặt mới của Điện Biên, Nguyễn Khải

đã không tô hồng cuộc sống, không đơn giản hoá con người. Anh biết nhìn và

miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng. Cuộc sống ở đây tuy

đã đổi mới nhưng không phải tự nhiên có ngay cuộc sống mới. Chủ nghĩa xã

hội ở đây cũng như ở bất cứ nơi nào khác trên miền Bắc nước ta đều xuất hiện

45 4 5

qua cuộc đấu tranh chống cái cũ, cái lạc hậu trong đời sống và trong từng con

người. Nguyễn Khải đã thấy rõ điều đó, nên nhà văn tập trung miêu tả cuộc đấu

tranh giữa cái cũ và cái mới, nêu lên những vấn đề thiết thực nóng hổi của đời

sống, của con người.

Sau 86, đất nước tiến hành đổi mới, cởi trói cho đời sống văn học. Hiện

thực được mở rộng theo cả ba chiều: quá khứ, hiện tại và tương lai giúp cho cái

nhìn của nhà văn vừa tự do hơn, dân chủ hơn vừa đa dạng hơn. Tiếp tục tính

xông xáo của một ngòi bút luôn đi đầu ở những nơi cuộc sống diễn ra sôi động

nhất, tiêu biểu nhất, Nguyễn Khải đã đi vào khai thác cuộc sống hôm nay với

những tác động của nền kinh tế thị trường đến đời sống xã hội. Chỉ có điều,

diện mạo của cuộc sống mới không đến với Nguyễn Khải từ phía những biến

cố, những đổi thay có tính quyết định mà bắt đầu từ những điều bình thường,

đơn giản trong cuộc sống.

Diện mạo của một xã hội mới được nhận ra trước hết ở sự sụp đổ của một

mô hình kinh tế mà trước đó người ta dồn hết tâm trí để xây dựng- kinh tế tập

thể. Mô hình kinh tế tự cung tự cấp, vô lo, vô nghĩ lúc đầu đã đem đến cho

người dân sự sung sướng, nhàn hạ. Nhưng rồi cái cảnh, ngày nào cũng như

ngày nào, cuộc sống cứ thế trôi đi một cách lặng lẽ, buồn tẻ, nhàm chán. Mọi

người đều sợ sự thay đổi, khinh rẻ cái cá nhân vì luôn tin vào cái hạnh phúc,

may mắn họ đang có là bất di bất dịch. Để rồi một ngày…khi nền kinh tế thị

trường ập vào thì tất cả sụp đổ, toà lâu đài họ dày công xây đắp bao lâu bỗng

dưng tan biến như bong bóng xà phòng. Đó là một thực tế ở xã N cũng như bao

vùng quê khác trên khắp đất nước.Vào những năm 70, họ phất lên, nhận bao

nhiêu huân huy chương nhờ nghề dệt cói xuất khẩu. Trồng cói đơn giản, không

tốn công sức, đầu tư ít, mẫu mã hàng thì đã có sẵn từ nhiều năm, khách ăn hàng

ở các nước XHCN vốn dễ tính, không đòi thay đổi. Thời đánh Mỹ ác liệt thế

mà hàng xuất khẩu bán vẫn chạy vậy mà bây giờ…Sự yên tĩnh đang mở ra viễn

cảnh phồn thịnh lại khiến cho người dân xã N gặp vô vàn khó khăn. Các mặt

hàng quá quen giờ đây không còn thu hút được khách hàng nữa, nó bị chèn ép

bởi những hàng mới mẫu mã đẹp hơn. Một thị trường tự do cạnh tranh đã làm

thay đổi những thứ tưởng như không bao giờ thay đổi. HTX trồng cói bị phá

46 4 6

sản. Người ta lại phải tính quay về nghề trồng lúa với bao khó khăn, thử thách.

Giấc mộng đại đồng đã tan thành mây khói, người giàu cứ giàu, ai nghèo cứ

nghèo, người ta đua nhau làm ăn, buôn bán, cạnh tranh, kèn cựa nhau từng tí

một kể cả phải dùng đến vũ lực họ cũng không từ. Những thứ xưa vẫn là của

chung, nay được đem ra mua bán, thanh lý để rồi tiền lại rơi vào túi “các ông

uỷ ban”, ”bán lúc nào, được bao nhiêu không ai biết. Các quỹ đều rỗng nhưng

tiền thì vẫn có”[28-274].

Sự thay đổi dữ dội có phần bất ngờ với số đông ấy tuy vậy cũng đưa lại

những hiệu quả tích cực ban đầu. Đó là cuộc sống đàng hoàng hơn, đủ đầy hơn.

Ở Hà Nội bây giờ, người ta không còn tiếp khách bằng những “bữa cơm du

kích” theo kiểu có gì ăn nấy nữa mà phải báo trước, phải chuẩn bị trước, “lại

ngồi bàn, khăn trải bàn, giấy thơm chùi tay, bát đĩa sáng nhoáng” [28-

286],”làm được nhà vệ sinh riêng dùng nước dội…tắm vòi hoa sen, có vòi nóng

vòi lạnh…được uống rượu Tây trước mỗi bữa ăn và nhấm nháp miếng pho mát

vào mỗi buổi chiều” [28-307]. Không chỉ ở thành phố mà sự đổi thay ấy còn

diễn ra ở cả nông thôn, ở những nơi nhà quê. Làm nông nhàn, lại kiếm tiền dễ

nên những người trẻ tuổi có thời gian rảnh, họ tìm trò vui để giải trí, mà quy

luật trong xã hội là có cầu thì tất sẽ có cung. “Một cái xóm có dăm chục nóc

nhà cũng có tiệm làm đầu, cho thuê quần áo cưới, cho mướn băng video, cầm

đồ, cho vay lãi và có cả bàn đèn lẫn gái điếm”[28-322].

Bên cạnh những tích cực mà nền kinh tế thị trường đưa đến thì đồng thời

những tiêu cực cũng theo đó ùa vào.”Bây giờ cả Hà Nội đều làm thương mại.

Gia đình thì mở quán. Cơ quan mở công ty dịch vụ “, nhà chùa thì “bán tương,

bán kinh kệ, tràng hạt, tượng ảnh” [28-286]. Đồng tiền len lỏi vào những ngõ

ngách của cuộc sống, cả những nơi được coi là thành kính thiêng liêng nhất. Sự

quyến rũ của nó không ai có thể cưỡng lại được. Mỗi người một cách: có người

chọn con đường làm quan để phát tài dẫn đến loại bỏ lẫn nhau mà “cái nhân

danh để loại bỏ thì rất đẹp nhưng thủ đoạn thì lại rất tệ. Người không ác,

không tàn nhẫn, không vô ơn thì không thể thắng cuộc được”([28-296]. Trong

cuộc chạy đua vô cùng ấy thì “vốn liếng của chúng nó là sự liều lĩnh, phản trắc

và lừa đảo. Và không hề quan tâm tới ai, không thương xót một ai ngoài đồng

47 4 7

tiền”[28-308]. Trong Một người Hà Nội khi tác giả thấy “chưa bao giờ Hà Nội

vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui” [24-64] thì đồng thời tác giả cũng

nhận ngay ra những đổi thay đó chỉ là phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa bởi

cách nói năng, cư xử của người Hà Nội bây giờ khác xưa nhiều quá. Những câu

nói tục tĩu, những hành động sỗ sàng, những cái nhìn hợm hĩnh có thể bắt gặp ở

bất cứ đâu. Con người nhiều khi không còn được là chính mình nữa. họ phải

thay đổi để tồn tại trong xã hội mới. Ở đó những người lương thiện, hiền lành

thường hay bị thua thiệt, mà muốn không bị thế thì chỉ có một cách, phải chơi

rắn và không được phép tin một ai cả, phải giữ vững một nguyên tắc sống, thà

để người khác chịu thiệt chứ nhất quyết không để mình thiệt, là danh cũng thế ,

là lợi cũng thế, phải tự bảo vệ mình tới cùng, có trường hợp mình phải, có

trường hợp mình trái nhưng “trái thì trái nhưng cứ to tiếng, cứ lấn tới thì trái

cũng thành phải.Thiếu gì người đã từng làm thế để tồn tại, để ngoi lên, để phủ

bóng lên người khác mà rồi vẫn được xã hội trọng vọng”[28-216]. Những nét

đẹp thuộc về văn hoá Hà thành thì dần bị mai một , không còn được mấy người

lưu tâm nữa, ví thử thú chơi thuỷ tiên ngày Tết chẳng hạn, một thú chơi tao

nhã, quý phái nhưng “dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đử thứ mà

lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên…” [24-65] hơn nữa “Ví thử có thuỷ

tiên thì liệu còn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên?”.[24-65].

Trong tất cả những đổi thay đó thì có lẽ sự xuống dốc về đạo đức con người

mới là điều đáng sợ nhất. Người xưa có câu “Nghĩa tử là nghĩa tận” thế nên

trước cái chết con người ta đều rất thật lòng. Vậy mà bây giờ cái tình cảm ấy đã

không còn được tôn trọng. Đám ma dường như không phải là sự đau thương

mất mát nữa mà như là một niềm vui vì “tiếng kèn, tiếng khóc đều phóng qua

loa lớn như cả làng khóc”.[28-73]. Mà điều đặc biệt hơn nữa là tiếng khóc kia

không phải là của con cháu, họ hàng thân thích mà là của những người hoàn

toàn xa lạ- những kẻ khóc thuê. Mọi sự đều trở nên gọn ghẽ, rành mạch, rõ

ràng và cũng rất tiện lợi: “con khóc cha mẹ, cháu khóc ông bà, bạn bè khóc

nhau đều có bài in trong băng, mỗi bài dài mười phút, giá năm nghìn đồng một

bài”[28-321].

Một thực tại của cuộc sống hôm nay với cơ chế thị trường vừa mở cửa, tích

48 4 8

cực có, tiêu cực có, sáng có, tối có…tất cả đều được Nguyễn Khải nhìn nhận,

đánh giá một cách rõ ràng, thấu đáo. Bắt đầu từ những “cái hôm nay”, từ thực

tế đang sống vốn là một phương châm viết của Nguyễn Khải. Ông từng viết:

“Nếu không đi, chỉ ngồi tĩnh lặng mà nhớ lại thì nhạt lắm. Ngay cả khi viết về

cái xa xưa cũng cần có tia nhoáng lửa của hôm nay, cái xôn xao của bây

giờ”[21-14]. Chính qua những cuộc gặp gỡ, trò chuyện, mắt thấy, tai nghe mà

nhà văn bất chợt nhận ra một mẫu người vốn kiếm tìm, những ý tưởng từng

nung nấu, những cốt truyện bị bỏ quên và cả những kết cấu rất mới lạ…Và đôi

khi, hiện tại là một cơ hội có sức kích thích nhiều vùng ký ức trở nên sống

động, loé sáng. Nhiều tác phẩm hay đã được bắt đầu từ những bức xúc rất nhỏ

của một chuyện hôm nay, của cái bây giờ. Tuy nhiên, văn Nguyễn Khải khác

hẳn với thứ văn “thời sự” giản đơn, dễ dãi. Tác phẩm của ông không chỉ nói về

cái hôm nay mà còn từ cái hôm nay đi vào những thân phận con người, những

thăng trầm của kiếp người.

Thực ra, khi cầm bút nhà văn nào lại chẳng bắt đầu từ cái hôm nay, thậm

chí hướng về ngày hôm nay, nhưng vấn đề là ở cách thể hiện của mỗi người.

Nếu Nguyễn Minh Châu (sau 75) và Bảo Ninh đã lấy cái hôm nay để làm điểm

tựa nhìn về quá khứ thì Nguyễn Khải, trái lại tắm mình trong cái ngày hôm nay

để nói về chính nó. Nếu tiểu thuyết của Bảo Ninh là tiếng gọi của hồi ức, của

quá khứ thì đa phần sáng tác của Nguyễn Khải là tiếng gọi của hiện tại, của

ngày hôm nay hay nói một cách khác, tác phẩm của ông là cái hôm nay đang

cất lời.

Cũng cần nói thêm rằng, tắm mình trong cái hôm nay không phải là đặc điểm

chỉ có ở Nguyễn Khải mà nhiều nhà văn cũng lựa chọn xu hướng này, trong đó

đáng chú ý là Ma Văn Kháng. Tuy nhiên giữa Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng

cũng có sự khác nhau rất rõ. Ma Văn Kháng đối diện với cái hôm nay từ một

“ô cửa”- đại gia đình hoặc một cộng đồng thu hẹp nào đó như một ngôi trường,

một tầng nhà chung cư…Quan trọng hơn, mối quan tâm lớn nhất của Ma Văn

Kháng là những giá trị chân chính của con người. Ông tái hiện thế giới hôm

nay trong sự khủng hoảng sâu sắc của các giá trị đạo đức, nhân cách truyền

thống. Còn Nguyễn Khải? Ông quan tâm nhiều hơn đến đời sống tư tưởng của

49 4 9

con người thời đại. Ông tập trung tái hiện sự va đập của các luồng tư duy, tư

tưởng của con người trên một lát cắt hiện tại. Chính thông qua cái mô-măng ấy

Nguyễn Khải đã cho người đọc thấy sự chuyển động của cái ngày hôm nay.

2.1.1.2 Đời sống tinh thần của con người đương thời .

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nói rằng ” Đời sống- đó còn là tư tưởng.

Những tư tưởng sống trong đầu óc của những người đang sống hôm nay”. Xã

hội con người được tạo nên bởi cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, những

thay đổi trong đời sống kéo theo thay đổi trong tư tưởng. Mâu thuẫn, xung đột

nảy sinh khi một nền tảng đạo đức cũ bị phá vỡ mà các giá trị đạo đức mới lại

chưa hình thành. Đó là thời kỳ diễn ra sự đấu tranh giằng co mang tính quyết

định để cái mới xác lập vị trí của nó. Gía đình là một xã hội thu nhỏ thế nên

những biến động của xã hội dù là nhỏ nhất cũng được thể hiện trước hết trong

từng gia đình, từng cá nhân mỗi người.

Trước 86, trong tập truyện Mùa lạc, những mâu thuẫn, xung đột giữa tư

tưởng cũ và tư tưởng mới đã bắt đầu được đề cập khi mới manh nha qua việc

xây dựng nên hệ thống những nhân vật tích cực và tiêu cực ít nhiều còn mang

những tàn tích của chế độ cũ. Đó là Khôi trong Ngƣời tổ trƣởng máy kéo, là

Giao trong Một cặp vợ chồng…Xét về mặt công tác thì họ là những cá nhân có

tài, có ích cho xã hội : Giao là một anh chàng y tá đẹp trai, tính nết cũng cởi mở

được mọi người trong đội sản xuất yêu mến; Khôi- anh đội phó phụ trách kế

hoạch, lại là “một cán bộ rất tháo vát, thông minh, phụ trách những công việc

trên giao cho khá trôi chảy. Thế nhưng, xét về mặt đạo đức cách mạng thì họ là

những người lạc hậu, tư tưởng của họ đối lập hẳn với tư tưởng XHCN. Lí do

duy nhất khiến họ làm việc tích cực, hăng say là vì thành tích, vì lợi ích cá

nhân họ. Và hơn nữa, họ thiếu hẳn lòng tin yêu con người, họ không yêu ai,

không tin ai ngoài bản thân mình. Với Khôi, hắn chỉ biết “nhìn người khác

bằng con mắt xoi mói đầy nghi ngờ, tìm bới ra những những nét xấu xa với nụ

cười tàn nhẫn và dùng những biện pháp cay nghiệt nhất để trừng trị họ với tấm

lòng hỉ hả”.[23-37].Với Giao, “sự sống của anh chỉ có một sức mạnh thúcđẩy:

đó là lòng tự yêu mình và chỉ vì mình”[23-37]. Anh ưa được hưởng thụ mà

không muốn trả lại, mong muốn người khác san sẻ cho mình nhiều tình yêu

50 5 0

thương nhưng bản thân lại hết sức tằn tiện trong việc chăm sóc người khác. Rõ

ràng, nhìn bề ngoài, họ không khác gì Cừ, Quang, Huân…nhưng dưói ngòi bút

tinh tế của Nguyễn Khải họ đã lộ rõ chân tướng, thực chất họ chỉ là những con

người tư sản không hơn, không kém. Đạo đức và nhân sinh quan của họ là của

giai cấp tư sản, đối lập hẳn với đạo đức của một xã hội mới- XHCN.

Sau 86,sự đối lập giữa các luồng tư tưởng mới- cũ càng trở nên rõ rệt và

đậm hơn. Trong khi mô tả hiện tại, các nhân vật của Nguyễn Khải hay hồi

tưởng về quá khứ để từ đó có sự so sánh, đối chiếu với hiện tại, hiểu thêm

những gì mình đang có và cũng thêm yêu cuộc sống mới. Và như thế, hệ thống

nhân vật trong hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Khải chia thành hai phái rất rõ

ràng: phái già và phái trẻ.Phái già là đại diện cho cái cũ, cho một thời đã qua,

cho những gì nay chỉ còn vang bóng. Phái trẻ là đại diện cho cái mới, cho thời

đại mới, cho cái đang và sẽ xuất hiện, là chủ nhân của xã hội tương lai.

Không biết có phải do ảnh hưởng từ môi trường làm việc hay không mà hầu

hết nhân vật của Nguyễn Khải là những người xuất thân từ môi trường quân

đội- những con người được rèn luyện và chiến đấu, từng đứng giữa ranh giới

giữa sự sống và cái chết nên với họ đó là quãng đời đáng sống. Đối với nhiều

người, được trở về đã là một điều may mắn và trở về một cách lành lặn lại càng

may mắn hơn hơn nữa. Đối với họ, cuộc sống là ở thế giới tinh thần chứ không

phải là những mưu toan vật chất. Thế nên, khi bước ra khỏi cuộc chiến, trở về

với thời bình nhiều người đã trở nên mất thăng bằng, chống chếnh, lạc lõng.

Mỗi người mỗi thời, mình có thời của mình, người ta lại có thời của người ta.

Dù là vàng son, dù là oanh liệt thì cái thời của họ cũng đã là cái thời đã qua,

còn bây giờ là thời của những người trẻ tuổi. Nếu hai thế hệ này sống riêng biệt

thì chắc sự đối lập, mâu thuẫn giữa họ sẽ giảm đi nhiều, đằng này họ lại sống

chung dưới một mái nhà, ăn chung một mâm, thế nên cái sự đụng độ, va chạm

Với con mắt sắc sảo, ưa phân tích, Nguyễn Khải đã sớm nhận ra sự rạn nứt,

kia lại càng trở nên gay gắt hơn.

khoảng cách ngăn vô hình đó trong mỗi gia đình. Bắt đầu từ cách sống và

những quan niệm khác nhau về giá trị…Nền kinh tế tự do mở ra bao nhiêu là

cơ hội , hứa hẹn một sự đổi đời thì người người, nhà nhà đều muốn chăm lo

51 5 1

vun vén cho lợi ích cá nhân, và cách duy nhất lúc này là kiếm tiến, kiếm thật

nhiều tiền. Câu chuyện của ông Vị- đại tá quân đội về hưu, trong Nơi về là một

ví dụ. Ông sống cùng con trai và con dâu, nhưng xem ra cuộc sống của mỗi

người lại là một thế giới riêng. Ông đã nghỉ hưu nên nhiều thời gian rảnh rỗi,

còn vợ chồng người con trai thì suốt ngày toan tính, lăn lộn để kiếm tiền. Điều

đó có lẽ sẽ là bình thường nếu hai vợ chồng anh không coi niềm vui duy nhất

sau mỗi ngày là “ngồi đếm tiền”. Hầu như hai bố con không mấy khi ngồi trò

chuyện cùng nhau. Giữa họ không hề tìm thấy một sự đồng cảm nào. Khi

người cha kể lại những kỷ niệm thời chiến thì anh con trai lại chỉ nghĩ đến

những cơ hội làm tiền, nó trách ông ngu, ông dại vì không biết nhân cơ hội mà

kiếm chác. Thậm chí, có lúc ông đi thực tế vào nông trường Dầu Tiếng, khi về

vợ chồng con trai lại hỏi ông có xin được tí đất nào trong đó không. Bởi theo

nó thì xin vài hecta đất rồi thuê người trồng điều, trồng tiêu, trồng xoài, chi phí

có một mà thu về phải gấp trăm. Thế nên, dẫu trước kia ông có là anh hùng thì

hiện tại với thằng con trai, ông nói câu nào cũng ngu, tính toán cái gì cũng dại

chỉ vì ông không coi đồng tiền là quan trọng nhất. “Ông đại tá cách mạng và

vợ chồng thằng lái buôn dẫu có tình cha con nhưng họ nhìn nhau, nói với nhau

như kẻ thù”.[28-308]. Bản thân người cha cũng biết kiếm tiền là quan trọng, là

đúng đắn và cần thiết nhưng theo ông cái vốn để sống phải là nhân cách, là học

vấn rồi sau đó mới là tiền. Ngược lại với các con ông, tiền là Thượng đế. Thế

nên, một thực tế xảy ra trong hầu hết các gia đình lúc này như Nguyễn Khải

viết là: “Sau ba chục năm nam chinh bắc chiến, đã thu lại giang sơn về một

mối, lúc ấy tóc đã bạc, răng đã rụng, mắt đã mờ, trả lại súng cho nhà nước,

khoác ba lô về nhà, thấy những người đón mình vừa quen vừa lạ. Càng ở với

nhau càng lạ. Trận đánh của những quan niệm khác nhau, của những cách

sống khác nhau, những niềm tin và nguyện vọng khác nhau bắt đầu. Đồng tiền,

người bạn đồng hành vô hại, khiêm nhường, lép vế trong bấy nhiêu năm, một

sớm một chiều đã thành kẻ dẫn đường hiểm ác, độc đoán, có sức mạnh rời núi,

lấp biển, lần lượt giết chết đám trẻ con trong gia đình và đã chờ sẵn ở nhà để

giết nốt người chiến binh còn đang ngơ ngác trước sự đổi thay của thời

52 5 2

thế”[28-319].

Hai mảng màu sáng tối là điều thường thấy ở trong mỗi gia đình. Khi mà

những người ông, người bố “đi xe đạp, mặc áo pho tá, mang kính lão, đi đâu

cũng than thở chuyện nhà con cái hư, chuyện chính trị thì Liên Xô đang là siêu

cường mà ngày một ngày hai đã biến mất nghĩ mà đau…” thì đám con cháu kẻ

mắt, tô son môi, mặc quần lửng, áo hở vai, nước Nga với chúng là nơi dễ kiếm

tiền với điều kiện duy nhất là phải liều lĩnh, lanh lợi và gan lì. Cuộc sống đổi

thay, thời thế đổi thay, đồng tiền khiến con người cũng thay đổi theo. Cái bả

vật chất có một sức cám dỗ đến kỳ lạ. Vì đồng tiền người ta có thể rũ bỏ lòng

tự trọng, vì đồng tiền người ta có thể trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn, vì tiền người

ta có thể khinh thường, coi rẻ những kẻ không có tiền dẫu đó có là chồng, là

cha mình. Anh Tần, vì công việc viết văn không thể đem lại sự giàu sang mà

anh bị chính vợ con mình mỉa mai, coi thường. Người vẫn khư khư giữ lấy nếp

sống cũ, tôn thờ một quá khứ hào hùng khi thời thế đã đổi thay ắt hẳn sẽ bị

chính những người thân thích của mình cho ra bên lề, không còn có quyền

tham dự vào bất cứ việc gì trong chính cái gia đình nhỏ bé của mình.

Quan điểm về giá trị của hai thế hệ là hoàn toàn khác nhau. Khi người cha

chỉ cần “ngày hai bữa cơm rau” thì các con cần những bữa cơm sang trọng;

người cha chỉ cần ăn no mặc ấm thì các con cần ăn ngon, mặc đẹp; người cha

muốn chọn người tốt nết, gia giáo làm con rể thì con gái lại gạt phắt, lôi về nhà

một thằng cha hơn nó gần hai chục tuổi, mặt mũi lì lợm như kẻ sát nhân nhưng

có tiền nhờ những chuyến hàng buôn lậu qua biên giới…Tất nhiên, trong

những cuộc đấu tranh đó, những tư tưởng cũ, những con người cũ phải chịu

thất bại. Một số người đành sống khép mình trong ốc đảo của sự cô đơn, tách

mình ra khỏi đám đông nhộn nhạo, tạp nhạp đó và xác lập cho mình một

khoảng trời riêng, một thế giới riêng. Một số người lại học cách chấp nhận,

sống hoà hợp với những tư tưởng mới. Họ không bao giờ đồng tình với những

thói xấu của xã hội mới nhưng cũng sẽ không bao giờ công khai phản đối nó

nữa. Phương châm sống của họ chính là :”Thiên hạ thần khí, bất khả vi dã, bất

khả chấp dã”(Lão Tử). Họ chủ trương là một “ông già vui vẻ, một cố vấn vui

vẻ”, bởi mình có thời của mình, người ta lại có thời của người ta” hay “họ có

53 5 3

việc của họ, mình có việc của mình. Muốn can thiệp thì phải có cách” [28-329].

Sự đan xen, chồng chéo giữa các luồng tư tưởng là điều tất yếu ở một xã

hội mới đang hình thành. Nói rằng chỗ mạnh của ngòi bút Nguyễn Khải là cảm

quan thời sự quả không sai. Ông đã sớm nắm bắt được những đổi thay trong xã

hội. Đặc biệt là giai đoạn 1987-1995, khi đời sống văn học có phần cởi mở thì

ông viết như làm lại mình. Đặc biệt trong thời gian này, người ta thấy trong văn

học bắt đầu xuất hiện một hiện tượng đáng chú ý là Nguyễn Huy Thiệp. Thiệp

là nhà văn của một xã hội dân sự còn Khải là nhà văn của những cuộc đấu

tranh tư tưởng. Cũng có lúc ông ghé thăm địa hạt kia nhưng về căn bản ở

Nguyễn Khải vẫn có sự nhất quán. Còn nếu so sánh với Ma Văn Kháng- người

viết cùng đề tài, thì trong khi Ma Văn Kháng chú ý đến khía cạnh bản năng, vô

thức thì Nguyễn Khải lại quan tâm đến khía cạnh ý thức, tư duy của con người.

Trong khi Ma Văn Kháng tìm cách khám phá chiều sâu tâm hồn con người thì

Nguyễn Khải tìm mọi cách khám phá chiều sâu nhận thức, chiều sâu tư tưởng.

Và có lẽ cũng do xuất thân từ một người làm công tác chính trị mà Nguyễn

Khải có một sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực đời sống tinh thần và có cái

nhìn sâu, đầy hứng thú đối với thế giới ý thức con người. Tuy nhiên, đặc điểm

này lại đưa đến một hạn chế cho tác phẩm của ông đó là dễ biến tác phẩm

thành những luận đề khô khan, nhân vật chỉ là những mẫu hình tư duy mà

không phải là những con người mọc lên từ lòng sâu cuộc sống.

2.1.2.Con ngƣời trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 86

2.1.2.1.Những con người của thời cuộc

Với thói quen của một ngòi bút xông xáo, khi quan sát hiện thực, Nguyễn Khải

thường có sự thôi thúc là cố tìm cho ra những nhân vật trẻ, khoẻ- cái yếu tố

đang lên của xã hội, những nhân vật sẽ đóng vai trò chính trong cuộc sống

tương lai.

Ngay từ những ngày đầu cầm bút, hoà chung không khí của đời sống văn

học kháng chiến và yêu cầu thời đại, Nguyễn Khải đã xây dựng trong những

sáng tác của mình hình ảnh những con người mới dẹp lãng mạn trong cảm

hứng khẳng đinh, ngợi ca. Hoà trong bản giao hưởng lớn của mùa xuân đất

nước bước vào thời kỳ đầu xây dựng CNXH, Nguyễn Khải cũng say sưa ngợi

54 5 4

ca những con người mới và cuộc sống mới. Đó là những Cừ- chủ nhiệm nông

trường, là Nông Kỳ Lâm- bí thư chi bộ, là anh Huân, anh Quang, những chiến

sĩ bộ đội chuyển sang sản xuất, họ là những con người rất bình thường , giản

dị, có khi còn giữ nguyên nét chất phác của người nông dân trước kia, nhưng

bù lại họ có một đời sống tinh thần hết sức phong phú. Dù xuất thân khác nhau,

học vấn khác nhau, công việc khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở một điểm

– đó là tình thương, một tình thương sâu sắc, già dặn của những con người đã

từng trải nhiều đã biết rất rõ thế nào là khó khăn đau khổ của cuộc đời nên rất

dễ thông cảm với những gì là đau xót ở người khác. Tình thương trở thành ý

thức trách nhiệm, thành một nhu cầu tự thân. Họ quan tâm, giúp đỡ người khác

mà không mưu cầu một sự đền ơn. Tất cả họ là những nhân vật được xây dựng

với một vẻ đẹp trọn vẹn theo tiêu chuẩn cộng đồng nhưng do thiếu chất sống

của thực tế nên dấu ấn của họ còn mờ nhạt. Song bên cạnh đó, Nguyễn Khải lại

thành công với những con người “bé nhỏ” như bé Tấm, chị Đào, cô Thoa-

những con người đã được hồi sinh trong lòng cuộc sống mới. Mỗi nhân vật đều

có những đau khổ riêng hoặc vật chất, hoặc tinh thần, nhưng tất cả họ trong

một thời gian dài đều bị sự lãnh đạm, thờ ơ, vô tình của xung quanh đẩy vào

nỗi khốn cùng bên trong không ai biết; tương lai đối với họ thật mờ mịt. Nhưng

rồi những con người ấy được sống trong một xã hội mới, vận mệnh của họ đã

đi về một hướng khác. Trong cuộc sống mới của một xã hội đang thay đổi và

xây dựng lại từ gốc rễ, họ đã giải quyết được vấn đề của đời mình từ sự giúp

đỡ, thương yêu và thấu hiểu của những người xung quanh: em Tấm được chăm

sóc, được đi học, cô Thoa được hiểu và được yêu, chị Đào cũng tìm được hạnh

phúc mà mình đáng được hưởng.

Sau 86 trở đi, khi đất nước bước vào con đường đổi mới mở ra nhiều cơ

hội mới, vận hội mới, xã hội xuất hiện những quan niệm trái ngược nhau,

những con người đối lập- đó là một đặc trưng của một xã hội đang giao thời,

khi mà chuẩn mực của các giá trị chưa được xác lập. Những con người tiêu

biểu cho xã hội ấy là những người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh sinh tử và

những con người lớn lên trong thời bình không hề biết đến khói lửa chiến

tranh, tạm gọi đó là lớp già và lớp trẻ. Họ chính là tiêu biểu cho một xã hội

55 5 5

đang vận động đi lên.

Trước hết, chúng ta nói đến lớp người già- đại diện của một xã hội cũ và

những tư tưởng cũ. Câu cửa miệng chúng ta vẫn quen nói “Gừng càng già càng

cay”- họ rõ ràng là những kho tri thức sống , những chứng nhân lịch sử sống.

Song điều mà Nguyễn Khải quan tâm không dừng lại ở đó mà ông đã nhìn thấy

ở lớp người đã qua ấy một “tiềm lực tinh thần lớn lao và mạnh mẽ ”, họ là

“những nhân vật ghê ghớm không chỉ ở cái thời đã qua mà còn cả ở trong cái

thời đang diễn ra, cái thời có vô vàn khó khăn, gai góc trong im lặng, trong

hoà bình, trong reo vui và ca hát”[50-547]. Ta bắt gặp trong trang văn Nguyễn

Khải một ông Ba Quốc Hội, thời trẻ thì làm việc cho cách mạng như là một

nghĩa vụ ở đời, không cốt để hưởng lợi, một con người có thể rẽ gió, rẽ sóng

mà đi nhưng đến thời bình thì chỉ cần làm một anh dân thường của một nước tự

do độc lập là đã thấy mãn nguyện rồi. Ông là chỗ dựa, là niềm tin, niềm an ủi

tinh thần cho người bạn chịu quá nhiều đau khổ. Những con người như họ gặp

nhau vừa như là vô tình vừa như là duyên trời định. “Một gương mặt rạng rỡ,

tự tin, một gương mặt nhẫn nhục, chịu đựng, hai gương mặt của một kiếp

người, sao lại khéo gặp nhau để gợi lên một niềm vui, một niềm tin mà chỉ lúc

đứng tuổi mới nhận ra cái ý nghĩa thâm trầm cuả nó” [28-163].

Một ông Bột luôn giữ cách sống tôn trọng , hoà đồng, giúp đỡ mọi người,

không chịu sống theo thói quen của xã hội, những thói quen mà ông cho đó là

man rợ, và quyết định trung thành với cách sống của riêng ông [28-294]. Đó

cũng là một cựu Phó bí thư tỉnh uỷ, một cựu Bộ trưởng trong Những người già,

khi trẻ đã một thời hô mưa, gọi gió thì lúc già vẫn không mất đi cái phong độ

đĩnh đạc, oai phong của một thời- là chỗ dựa tinh thần cho con cháu, được con

cháu xem như thần nhân của cả dòng họ, một lời nói là một mệnh lệnh…Đó là

bà cô Hiền luôn luôn dạy con cháu phải biết sống tự trọng. Bà không vì tình

cảm ích kỷ bản thân mà ngăn cản sự lựa chon của các con. Với đứa con đầu,

khi được hỏi về quyết định đi lính của nó, bà nói: “Tao đau đớn mà bằng lòng

vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là

biết tự trọng” [24-57]. Với đứa con thứ hai cũng vậy: “Tao không khuyến khích

cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó

56 5 6

phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.[24-58]. Bà luôn luôn cố gắng gìn giữ

những nét đẹp trong lối sống, phong cách của người Hà Nội… Tất cả họ, dù ở

đâu, ở địa vị nào, trong hoàn cảnh nào đều là những con người mang trong

mình cốt cách, tinh hoa của vẻ đẹp truyền thống. Nói như cách nói của Nguyễn

Khải thì họ là” những hạt bụi vàng lấp lánh” ẩn giấu bao nhiêu giá trị cho cuộc

đời này.

Xây dựng lớp người này, Nguyễn Khải không đơn giản dừng lại ở việc

dựng lên chân dung tinh thần mà cao hơn thế, ông muốn tìm hiểu, phân tích, lí

giải những cái hay- dở, được- mất của cả một thế hệ. Điều khiến cho ông trăn

trở, băn khoăn, day dứt là “Lớp người ấy đã đi qua một đoạn đường của lịch

sử, nhìn lùi lại một chút thì cũng là lặng lẽ. Nhưng cái tính cách, cái phong độ

của họ liệu chừng có tạo được một ảnh hưởng tích cực và lâu dài nào tới sự

phát triển của nòi giống. Đã có những thay đổi nào tận đáy sâu, tận cội rễ

trong cách sống, trong cách nghĩ, trong cách hành động, trong các mối quan

hệ trước và sau bốn chục năm qua”[50-545].

Đồng hành cùng thế hệ hôm qua là thế hệ hôm nay với một sự khác biệt

quá lớn. Họ là sức trẻ, là cái mới, cái tiến bộ. Cũng như ở giai đoạn sáng tác

trước, trong mắt Nguyễn Khải lớp trẻ có nhiều điểm tích cực, thích ứng nhanh

với điều kiện mới , là động lực cho công cuộc xây dựng xã hội mới. Trước đây,

ông vui sướng, hân hoan trước những thay đổi của những Huân, Cừ, Quang…

thì nay ông lại kinh ngạc trước sự giỏi giang, tháo vát trong việc làm chủ thời

cuộc của những con người như Lộc (Chúng tôi và bọn hắn), Khôi (Ngƣời ở

làng pháo)…Họ là những người được tác giả ưu ái gọi bằng những từ ngữ như

“những người giỏi của thời này”, và là “nhân vật chính diện của nền văn học

mới”. Tuy nhiên cũng phải thấy một điều, cảm hứng ngợi ca, khắc hoạ vẻ đẹp

lãng mạn trước đây không còn nữa mà các nhân vật lớp trẻ bây giờ của

Nguyễn Khải hiện ra với những nét phức tạp hơn, nhiều chiều hơn. Dù vẫn yêu,

vẫn phục nhưng không còn nâng niu, chằm bặp như mấy chục năm về trước.

Cái nhìn hiện thực tỉnh táo giúp nhà văn nhìn ra được cả mặt mạnh và mặt yếu

của lớp trẻ. Họ là những chủ nhân ông của một xã hội mới đang lên nhưng

cũng vì thế mà đồng thời họ mang theo luôn trong mình thói lạnh lùng, tàn

57 5 7

nhẫn, ích kỷ, chà đạp lên cả tình nghĩa, đạo lý để kiếm lời. Trong gia đình, họ

là những trụ cột, đem lại những thay đổi vật chất lớn lao cho gia đình, căn nhà

khang trang hơn, tiện nghi đầy đủ hơn, bữa cơm sang trọng hơn. Ngoài xã hội,

họ là những ông chủ trẻ, những nhà tỷ phú luôn xông xáo, nhanh nhạy nắm bắt

thời cơ. Nguyễn Khải, khi viết về những con người này, bên cạnh sự ngưỡng

mộ, ông cũng bày tỏ thái độ lên án, ông “rùng rợn” vì những “trò ma quỷ”trong

cách làm ăn kinh tế của một giám đốc công ty nhà nước [28- 338]; ông cũng

không thể đồng tình với quan niệm sống thực dụng của những ông tỷ phú coi

cái vốn lớn nhất của một đời là “sự liều lĩnh, phản trắc và lừa đảo”, coi đồng

tiền là Thượng đế, niềm vui mỗi ngày không phải là sự sum họp gia đình mà là

“đếm tiền”… Đối với nhiều người, đồng tiền có một sức mạnh vô biên, nó vượt

lên trên cả tình yêu thương, tình yêu , tình bạn. Nói ra những điều này, Nguyễn

Khải sẵn sàng đối thoại và tranh luận với bọn trẻ ở mọi nơi, mọi lúc để có thể

hiểu thêm về “đám người xôn xao, ồn ào ấy”. Khi gọi những người trẻ tuổi

bằng những cách gọi suồng sã như “hắn” hay “thằng”, “thằng đểu” là ông cũng

muốn gián tiếp qua đó bày tỏ một thái độ.

Với việc xây dựng lên cả hai thế hệ song hành với những tốt xấu, mạnh

yếu của họ trong cuộc sống , Nguyễn Khải một mặt muốn dựng lên bối cảnh

giao thời phức tạp giữa hai thời đại .Mặt khác, sau những người lạc thời dường

như nhà văn còn muốn đề nghị một thái độ cảm thông, hiểu biết lẫn nhau giữa

hai thế hệ để đi đến một tiếng nói chung trong một mục tiêu chung.

2.1.2.2 Những con người luôn thích nghi với hoàn cảnh.

Khi đề cập đến những mảng hiện thực có tính vấn đề, những mảng hiện thực

còn tươi rói sức sống, Nguyễn Khải tập trung phản ánh hình ảnh con người

trong sự vận động của thực tại. Con người đối với Nguyễn Khải không chỉ đơn

thuần là một hiện tượng của thực tại với những tính chất điển hình cho một xã

hội mà quan trọng hơn, con người là một chủ thể có ý thức, có tâm linh. Ông

quan niệm rằng thế giới trong thực tế đã chi phối sâu sắc đến số phận cá nhân

của mỗi người cũng như sự phát triển của xã hội. Sức mạnh trí tuệ đã giúp con

người nhận biết những quy luật của đời sống để từ đó nâng cao cuộc sống của

mình. Hầu hết con người trong truyện ngắn Nguyễn Khải không phải là những

58 5 8

nhân vật có tính điển hình cao, họ chỉ là những lát cắt, những trích đoạn mà

người đọc ít khi được biết rõ về những đặc điểm tâm lý, tính cách mà chủ yếu

là thế giới tinh thần của nhân vật.

Khi đi vào đề cao sức mạnh tinh thần của con người, Nguyễn Khải thường

đặt các nhân vật của mình trong mối quan hệ với hoàn cảnh thực tại. Trong tập

truyện Mùa lạc, để phản ánh cuộc sống mới ở Điện Biên, để cho bạn đọc thấy

được CNXH đang về trên vùng đất khói lửa này, Nguyễn Khải tập trung vào

việc miêu tả cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới bằng một thực tại nóng hổi

tính thời sự lúc bấy giờ. Từ đó, ông đặc biệt chú ý miêu tả những con người

đang thoát thai, lột xác, đi lên từ cuộc sống cũ để trở thành những con người

mới, những chủ nhân thật sự của một xã hội mới. Đó là những nhân vật đã nói

ở trên như chị Đào, em Tấm. cô Thoa. Mỗi người một số phận khác nhau từ

khắp các nơi trên mọi miền Tổ quốc đã không hẹn mà gặp trên Điện Biên này

để cùng lao động xây dựng lại cuộc đời. Lúc mới lên, họ vẫn còn là những

người bị ám ảnh bởi đoạn đường đời đầy éo le, trắc trở đã qua. Họ đã được giải

phóng, được tự do nhưng chưa thoát khỏi sự trì níu của những ý thức cũ, quan

niệm cũ. ”Hầu hết những con người đáng thương ấy đã bị thành kiến xấu xa

của cái xã hội đang chết đi đục khoét từ ngày còn thơ ấu. Họ sống và hành

động tuân theo những thói quen tai hại mà tự họ đôi lúc cũng nhận thấy nhưng

lại không có nghị lực cưỡng nổi” [28-376]. Dần dần, ánh sáng của cuộc sống

mới đã lôi cuốn, hấp dẫn họ, làm sống lại những chồi non từ lâu đã bị đau khổ

làm cho khô cằn, héo úa. Chị Đào từ chỗ sống táo bạo, liều lĩnh “ghen tị với

mọi người và hờn giận cho thân mình” thì nay chị thấy yêu đời hơn và tin ở

tương lai hơn. Dù Điện Biên với những con người mới đã góp một phần không

nhỏ vào việc cảm hoá và làm thay đổi những số phận hẩm hiu ấy, song điều

quan trọng và trên hết, cuộc sống mới sẽ không thể đến khi chính bản thân

những con người đó không mang trong mình một nghị lực sống phi thường và

một ý thức đấu tranh để tự vươn lên, tìm hạnh phúc cho mình.

Sau này, sự say mê của Nguyễn Khải đối với loại nhân vật có khả năng

thích ứng với thời cuộc vẫn được tiếp tục. Tất nhiên, lúc này ông đề cập đến cả

hai loại thích ừng: tích cực và tiêu cực, đáng trọng và đáng khinh. Có những kẻ

59 5 9

lợi dụng thời thế để “đục nước béo cò”, làm ăn bất chính, loại này thì ở thời

nào cũng có. Ngay cả đến Khôi, bí thư huyện uỷ thời mở cửa, đang được tỉnh

chú ý nhưng cũng không thoát khỏi những toan tính mang tính cá nhân:” Có

phải ông đã ngầm đánh giá tôi, cái thế hệ cán bộ chúng tôi là vụ lợi, là thực

dụng phải không? Con người ta ai cũng thế, đã làm giàu phải tính đến lợi. Cấp

trên thì tính đến cái lợi của cả nước, cấp dưới thì tính đến cái lợi của địa

phương, thằng dân thì tính đến cái lợi của nhà mình” [50-351]. Nhưng nhìn

chung phần lớn nhân vật thức thời của Nguyễn Khải là đáng trọng, đáng trọng

trước hết là do bản lĩnh, nhân cách. Đó là những người biết sống đúng đắn, biết

rằng “lầm lỡ một chút là tiếng xấu để đời” như ông Bột trong Sống giữa đám

đông, cô Hiền trong Một ngƣời Hà Nội. Đó cũng là những con người dám

sống hết mình cho lý tưởng, tìm được cho mình một đức tín phù hợp để thời

gian sống của mình trở nên có ý nghĩa như cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức,

ông Ba Quốc Hội, sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu…Những con người

ấy luôn luôn xa lạ với lối sống thụ động, nhạt nhẽo, hưởng thụ một cách ích kỷ

trên thành quả của người khác. Đó là “những con người mặc cái áo quá ngắn,

những mẫu người phát triển quá mau lẹ khiến cái mảnh đất sinh ra họ trở nên

chật chội” [50-214]. Họ là những người biết thích ứng với hoàn cảnh không

phải vì hèn nhát mà là biết nhượng bộ trong khi vẫn vượt lên hoàn cảnh bằng

nhân cách của mình.

Sau 86, đối tượng mà nhà văn đề cập, trở đi trở lại như một ám ảnh, như là

một cách trả nợ với cuộc đời, đó là hình tượng người lính trở về sau chiến

tranh. Nếu như trước đó, Nguyễn Khải luôn dành hết sự tôn trọng và lòng

ngưỡng mộ, thì giờ đây khi viết về những người anh hùng của thời đại, tình

cảm ấy ở Nguyễn Khải còn tăng lên gấp bội bởi ở trong hoàn cảnh nào, khó

khăn như thế nào họ cũng khiến người khác phải nghiêng mình.

Trong chiến tranh, mọi cái riêng tư cá nhân đều phải xếp sang một bên

nhường chỗ cho một mục tiêu chung, cao cả và lớn lao là độc lập tự do của dân

tộc. Dù bom lửa. dù súng đạn cũng không thể ngăn được bước chân người lính

trẻ. Tự nguyện hiến dâng cả quãng đời thanh xuân cho đất nước nhưng không

phải ai cũng có cái may mắn là được trở về . Còn những người được trở về, dù

60 6 0

so với những người bạn đã ngã xuống thì đó là một may mắn nhưng chưa hẳn

đã là một điều tốt. Chiến tranh đã tàn phá cơ thể họ, ghi dấu ấn lên trên người

họ, chiến tranh đã qua đi nhưng với họ những chứng tích của nó vẫn mãi

còn…Bước ra khỏi cuộc chiến tranh này thì người lính lại phải bước vào một

cuộc chiến khác cũng không kém phần cam go, quyết liệt và tàn khốc- chiến

đấu với chính mình.

Đến với nhân vật người lính sau chiến tranh cũng có không ít nhà văn, tuy

nhiên mỗi người đến theo một cách khác nhau. Nguyễn Minh Châu thì chăm

chú đi tìm “những hạt ngọc” ẩn giấu trong tâm hồn họ. Ngược lại Nguyễn Khải

lại hứng thú với việc từ những cái quen thuộc hằng ngày “tìm đến những ngõ

ngách thú vị và bất ngờ của đời sống bên trong” đến” cái sức mạnh tiềm tàng

dưới lớp vỏ vô tư”.[32-15].

Trong Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức, nhân vật Toàn trở về với

cuộc sống đời thường với hai hốc mắt khép kín. Sự đời thật khổ, người ta vẫn

nói “giàu hai con mắt”, bây giờ bị mù biết sống sao đây. Trong những ngày đầu

anh Toàn cũng rất bi quan: ”Như người bị chôn sống, bị chôn lúc còn rất trẻ.

Mà nào có chết được. Thân xác khoẻ mạnh, đầu óc minh mẫn, chỉ mù thôi, mù

để có thật nhiều ngày nhiều đêm ngẫm nghĩ về cái sự bị chôn sống của

mình”[28-239].Anh đã gục ngã, đã chán chường đến cực điểm, lặng lẽ và cô

độc. Cho đến một ngày, người phụ nữ của cuộc đời anh xuất hiện. Chị cũng

từng là thanh niên xung phong, biết anh ngày còn ở chiến trường. Họ đã làm

nên một Từ Thức- Giáng Hương của thời hiện đại. Toàn luôn cho rằng sống

dựa dẫm vào người khác, vào một cái thế nào đó là rất không nên, bởi vậy dù là

thương binh nhưng anh, hay nói đúng hơn là vợ chồng anh đều tự lực cánh

sinh. Bươn chải cuộc sống, xây dựng cơ ngơi, nuôi dạy con cái…một tay vợ

anh đảm đương hết. “Mười năm năm làm vợ, làm mẹ đã phải nuốt đi bao nhiêu

buồn tủi, bao nhiêu cay đắng”[28-242]. Anh Toàn dù không giúp được vợ

nhiều nhưng anh là chỗ dựa tinh thần lớn nhất cho cả gia đình. Anh cảm động

trước tấm chân tình của vợ mình mà sống, anh biết ơn sự hy sinh của người

phụ nữ ấy mà vui, mà nhịn. Người này luôn sống vì người kia, lo cho người kia

61 6 1

mà cố gắng để rồi dù bao gian truân vất vả, dù bao tủi cực có đổ dồn lên cái gia

đình nhỏ bé ấy thì hàng ngày, hằng giờ nơi ấy vẫn cất lên những tiếng cười-

tiếng cười của hạnh phúc và tình yêu thương.

Người lính trong “Một bàn tay và chín bàn tay” thì lại khác. Anh vẫn còn

may mắn nhìn thấy mọi người nhưng lại không muốn ai nhìn thấy gương mặt

mình- một gương mặt bị bom lân tinh làm trở thành “cái mảng thịt nhầy

nhụa”[28-422] ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Nghị lực sống của anh thật

đáng nể phục. Lúc đầu, khi tỉnh dậy trong một đống bông băng, anh vẫn thấy

mình may mắn vì mình còn sống và mình muốn sống. Sau nửa năm, người lính

bắt đầu đi lại được, một mắt nhìn thấy ánh sáng thì anh lại lạc quan hơn, “dầu

có bị liệt cả người nhưng còn nhìn được, còn nói được là còn nên sống”[28-

422]. Rồi hai bàn tay, bàn còn hai ngón, bàn còn ba ngón, co quắp, cứng đờ

anh vẫn không nản chí, cố gắng luyện tập để cho chúng có thể sống lại, để có

thể tự làm những việc vặt vãnh cá nhân mà không cần đến sự giúp đỡ của

người khác. Chỉ có một điều duy nhất anh sợ- đó là gương mặt mình. Vì nó mà

anh từ chối tình yêu của cô thương binh xinh đẹp, sợ phải đối mặt với người

thân nhất là mẹ anh, bởi “không một người thân nào có thể chịu đựng nổi khi

nhìn vào cái mảng thịt bầy nhầy với những hốc mắt, hốc mũi, lỗ miệng như một

đầu người đang tan rữa trong lòng đất vừa được móc lên”[28-427]. Cái giây

phút đối mặt với người mẹ là những giây phút đáng sợ nhất với anh “mồ hôi vã

ra như kẻ sắp bước lên đoạn đầu đài”[28-429]. Nhưng rồi tình yêu lớn lao của

người mẹ đã xua tan tất cả, đưa anh trở lại với cuộc sống đời thường. Và không

lâu sau, anh đã có được gia đình của mình, vợ anh chính là cô gái thương binh

xưa bị anh từ chối. Rồi họ có những đứa con khoẻ mạnh, giỏi giang, có một cơ

ngơi vững chãi…Vậy là, những số phận rủi ro, những con người bất hạnh đã

nương tựa vào nhau, tìm về với nhau. Trước những con người như thế, Nguyễn

Khải cũng không giấu nổi sự cảm phục :“Ngắm nhìn một cặp cợ chồng hạnh

phúc, tôi đột nhiên thức ngộ, một đời tôi, tôi chưa dùng được bao nhiêu cái sức

mạnh mà Thượng Đế đã ban cho mỗi người, một sức mạnh cũng gần ngang với

Thượng đế. Cứ nhìn xem, hai cái thân xác đã bị đốt cháy, chỉ còn đợi ngày

62 6 2

thành bọ thành bùn rồi mà vẫn hồi sinh được, vẫn làm cho mình bất tử bằng

dòng giống của mình, bằng sự nghiệp của mình và bằng một tình yêu không dễ

mấy ai quên”[28-433].

2.2 Tính liên tục trong nghệ thuật xây dựng tác phẩm

2.2.1.Giọng triết lý, tranh biện

Đọc tác phẩm của Nguyễn Khải, người đọc thấy mình lúc nào cũng như

học hỏi thêm được điều gì đó, như thấy mình khôn ra một ít. Sở dĩ có điều đó là

vì tác phẩm Nguyễn Khải luôn đánh vào trí tuệ người đọc. Cái tạo nên sức hấp

dẫn trong tác phẩm của ông chính là sức thuyết phục của lý lẽ. Tác phẩm của

ông bao giờ cũng chứa đựng những triết lý nhân sinh. Tuy nhiên, Nguyễn Khải

không nhằm mục đích dạy khôn người khác mà ông chỉ muốn đưa ra một tiếng

nói riêng, một cách đặt vấn đề và giải pháp riêng. Từ đó mà tác phẩm của ông

luôn kêu gọi sự đối thoại, bàn bạc, tranh luận ở người đọc.

Viết văn cũng là một cách dấn thân vào trò chơi ở đó nhà văn là người tổ

chức trò chơi, chơi với bạn đọc và đôi khi là chơi với chính mình. Văn Nguyễn

Khải là lối văn của trí tuệ, ưa lý lẽ, phân tích, mổ xẻ. Các nhân vật của ông ít

nhiều đều là sự cụ thể hoá, hiện thực hoá các tư tưởng của nhà văn thông qua

các hình thức khác nhau, trong đó chủ yếu là độc thoại và đối thoại.. Nhân vật

của Nguyễn Khải thường hay tranh cãi, lý sự, suy tư. Nhân vật suy đoán, phán

xét, bình phẩm, biện luận và triết lý. Có khi lại độc thoại, trầm ngâm suy nghĩ

về nhân tình thế thái, băn khoăn, day dứt , tiếc nuối với những hồi tưởng về quá

khứ để tự phán xét, tranh luận với chính mình. Có khi nó lại lên tiếng tranh

luận, biện bạch hùng hồn trực tiếp qua những đối thoại. Nguyễn Khải rất sở

trường về tổ chức đối thoại và kích thích tranh biện. Đôi khi người kể chuyện

cũng trực tiếp tham gia vào cuộc đối thoại, cùng tranh luận về một vấn đề nào

đó của cuộc sống xã hội. Sự cọ xát giữa các quan điểm, chính kiến giữa nhiều

chủ thể đối thoại đã tạo nên một đặc trưng về giọng văn Nguyễn Khải- giọng

triết lý, tranh biện.

Nhân vật của Nguyễn Khải thường là nhân vật có tư tưởng riêng. Họ là trí

thức, thầy tu, nghệ sĩ triết lý đã đành, đằng này ngay cả đến người lính, nông

dân thậm chí cả những người đàn bà của bếp núc cũng hay nghiền ngẫm, nói lý

63 6 3

và hơn nữa là ăn nói giỏi. Chính nhu cầu bộc lộ tư tưởng buộc các nhân vật của

ông phải giỏi lý lẽ. Mà lý lẽ muốn có sức thuyết phục cao thì nhân vật không

thể là người hiểu biết nông cạn và hời hợt. Xung quanh hai chữ “thời thế”,

Nguyễn Khải đã dẫn ra, triết lý về bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu cách sống.

Những vấn đề như ý nghĩa cuộc đời, sự lựa chọn cách sống, lương tâm , đạo

đức…đều được các nhân vật của ông đưa ra bàn luận, trao đổi. Trong một loạt

những tác phẩm: Hai ông già ở Đồng Tháp Mƣời, Chúng tôi và bọn hắn, Sƣ

già chùa Thắm và ông đại tá về hƣu, Anh hùng bĩ vận, Nếp nhà, Ngƣời ở

làng pháo, Ngƣời của ngày xƣa…các nhân vật đều có một tiếng nói riêng,

một ý thức riêng không bị phụ thuộc hay chi phối bởi chủ thể sáng tạo. Điều

này so với Nguyên Hồng thì khác hẳn, văn Nguyên Hồng chủ yếu đi vào độc

thoại nội tâm, người trần thuật và nhân vật thường cùng một chính kiến, một

giọng nói. Còn Nguyễn Khải thì ngược lại, trong các tác phẩm của mình, ông

đã tạo ra được một không khí đối thoại hết sức dân chủ. Nhân vật được “sống”

như một chỉnh thể độc lập, tự bày tỏ ý kiến, có quyền tham gia bàn luận, vấn

an, vấn an người khác, đôi khi là vấn an chính mình. Bởi vậy mà người đọc có

cảm giác đó là “lời nói về người có mặt chứ không phải lời nói về người vắng

mặt, như là lời nói của ngôi thứ hai chứ không phải lời nói của ngôi thứ

ba”(M.Bakhtin). Khi viết về nhân vật Khanh với nỗi đau mất vợ, lời văn không

thể phân biệt được là lời của nhà văn hay của chính nhân vật: “Ngày giỗ đầu,

anh làm rất to, mời những mười mấy mâm. Bưng cơm cúng lên bàn thờ vợ,

thắp mấy nén nhang, chẳng kịp khấn khứa gì, cứ đứng xuôi tay mà khóc, khóc

cho vợ, khóc cho mình. Phải đến lúc đó, anh mới thấy hết ranh giới phân chia

giữa tuổi trẻ và tuổi già, giữa cái thời sống cho mình và cho xã hội với bao

nhiêu là mộng mơ thật giả với cái thời chỉ biết sống cho con cái, một lũ con,

ngoài ra không còn hy vọng nào khác, niềm vui nào khác”[28-633].

Điều đặc biệt là khi để cho các nhân vật triết lý, tranh biện Nguyễn Khải

thường đưa ra những lời thoại có tính chất vấn, dồn đẩy, kích động. Khi để

nhân vật cô Hiền lý giải về cái sự không tư sản của mình, tác giả viết:” Tao có

bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì

làm sao thành tư sản được”[28-720] hay trong cách nhân vật khuyên giải ông

64 6 4

chồng về việc mua máy in kinh doanh:”Bà vợ hỏi:” ông có đứng máy được

không?” Ông chồng trả lời:”Không”-“ Ông có sắp chữ được không?”-

“Không”- “Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm

một ông chủ ở chế độ này à?” [28-723].

Nguyễn Khải tổ chức các đối thoại, tranh luận nhằm phản ánh các trạng

thái phức tạp, đa dạng của ý thức hệ trong xã hội. Chỉ qua cuộc đấu khẩu giữa

các nhân vật mà sự xung đột giữa các thế hệ, tầng lớp trong xã hội được bộc lộ

rõ. “Tôi hỏi: Anh không thích nói chuyện với bọn tôi à?”. Nó nhè miếng xương,

nhăn mặt: Toàn chuyện ông này ra , ông kia vào, ông này lên, ông kia xuống,

chuyện của các cơ quan quyền lực dính líu gì đến bọn cháu”- Quyền lực vẫn

chỉ huy kinh tế đấy anh ạ”. Nó cười :”Danh nghĩa là thế, còn thực chất vẫn là

đồng tiền chỉ huy. Đồng tiền lớn chỉ huy đồng tiền bé. Chúng cháu chỉ có một

ông chủ thôi, đó là thị trường, mà quy luật của thị trường thì bất biến nên dễ

ứng xử lắm”. Rồi nó hỏi, giọng xỏ xiên :” Ông chủ của chú là ai? Tôi cũng hơi

huênh hoang:” Tôi cũng chỉ có một ông chủ như anh đó là bạn đọc”. Nó cười

rất đểu, trong hai chúng tôi nó mới là thằng đểu:” Bạn đọc bây giờ đâu có

thích văn của chú nữa. Toàn là né, nói gì thì nói vẫn cứ là một cách né”.[50-7].

Trong giọng kể của Nguyễn Khải, càng về sau, yếu tố chủ quan càng át

yếu tố khách quan, rất ít khi lời kể là trung tính. Tác giả kể bằng phân tích, bình

luận, kể mà như giãi bày, ngẫm nghĩ. Người kể chuyện luôn luôn là nhân vật

quan trọng của câu chuyện, trực tiếp tham gia vào câu chuyện, khoảng cách

giữa người kể và các nhân vật của anh ta được rút ngắn tối đa, họ trở nên bình

đẳng với nhau hơn. Qua đó, nhà văn muốn thể hiện lập trường dân chủ, khách

quan của mình trước những vấn đề đưa ra trong tác phẩm. Đọc văn Nguyễn

Khải thấy xuất hiện rất nhiều đoạn trữ tình ngoại đề. Đó chính là nơi thể hiện

cách đánh giá của tác giả cũng như khơi gợi sự tranh luận ở người đọc. Về “cái

tiềm lực tinh thần của hai ông già Đồng Tháp Mười, nhà văn viết: “Cái tiềm

lực của ông già lớn thật. Người mạnh như thế cứ rẽ sóng, rẽ gió mà đi, có tai

hoạ, rủi ro nào dám bén mảng. Thoạt nghe tưởng là có số may, nghe rồi ngẫm

cho kỹ, chỉ những người thật mạnh mới tạo được cho mình những may mắn đến

hiếm có”[28-245] như khi viết về cách sống của hậu duệ dòng họ Ngô Thì, ông

65 6 5

bày tỏ: “Làm người mà khó nhỉ? Sống tẻ nhạt, sống không màu sắc, lẫn lộn với

đám đông thì yên phận. Sống đam mê, sống mạnh mẽ vượt khỏi cái thông

thường thì sóng gió bất chợt, có thể bị nhấn chìm khi chưa làm được một việc

nào cho đắc ý. Lựa chọn đi!” [28-255]. Đọc những câu văn như thế, bạn đọc

không tránh khỏi bị kích thích tranh biện đôi khi là “chạm nọc”, người ta phải

suy ngẫm, phải đánh giá để rồi lại bị cuốn hút bởi những gì nhà văn viết ra

đúng quá, hợp lý quá. Một sự thực thường diễn ra trước mắt, có khi cả chúng ta

cũng bị cuốn vào vòng xoáy của nó mà không ý thức được thì nhà văn đã mạnh

dạn đưa ra :”Con người ta đa số thích được sai khiến, được tuân phục, được

bắt chước. Người ta có sợ hãi mình, ganh ghét với mình thì mới biết kính trọng

mình, muốn được giúp đỡ, làm thân với mình. Thói thường ai cũng thích làm

bạn với người sang, người mạnh chứ ai thích đánh bạn với kẻ hèn, kẻ yếu” [28-

296] .

Như đã viết ở trên, nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Khải không thuộc

loại nhân vật tính cách mà đó là nhân vật tư tưởng. Điều nhà văn quan tâm

không phải diện mạo mà là những diễn biến tâm lý sâu kín bên trong của con

người. Càng về sau, Nguyễn Khải càng có tài phân tích tâm lý nhân vật, đào

sâu khơi những nguồn mạch, tâm tư cò ẩn kín. Một mặt nhà văn muồn phản

ánh những trạng thái tâm lý phức tạp, phong phú của con người; mặt khác,

khám phá cái tiềm lực tinh thần, tìm kiếm những tiếng nói mang giá trị nhân

bản cho cuộc đời.

Để tổ chức nên giọng triết lý, tranh biện nhằm chuyển tải các vấn đề tư

tưởng của đời sống, tạo ra không khí văn học dân chủ, Nguyễn Khải đã sử

dụng các hình thức đối thoại mà ở đó lời nói của các nhân vật luôn toát lên vẻ

đẹp của trí tuệ. Người ta có thể tìm thấy trong lời nói của các nhân vật Nguyễn

Khải các lớp từ đủ mọi lĩnh vực, từ chính trị, văn hoá nghệ thuật đến kinh tế,

tôn giáo. Khảo sát một đoạn đối thoại ngắn giữa hai nhân vật trong Hai ông già

ở Đồng Tháp Mười ta sẽ thấy ró điều này. Những từ ngữ chính trị xuất hiện

một cách dày đặc.”..Nó hỏi ngay:”Bác vô Sài Gòn mần ăn hồi nào? Không làm

cách mạng nữa hả?” Tôi cười:”Vẫn làm chứ!”. Nó tròn mắt :” Ông này lớn

gan thiệt”- “Chú đứng ngoài sao? Lãnh tụ của tao là ông Trần Chánh Thành

66 6 6

mà”- “À. Tôi hiểu bác là thành viên của phong trào cách mạng quốc gia”-

“Nói gọn hơn, tao vẫn làm cách mạng”- “Cái xe kia là bác lái?”- “Chú có

biết xe của ông lớn nào không?- “Tôi biết xe của ông Bộ trưởng phủ tổng

thống”- “Tao là tài xế của ông Nguyễn Đình Thuần”- “Bữa nay bác đi rước

ông Thuần?”- “Không, bữa nay tao đi rước ông Dương Văn Hiếu, phó giám

đốc công an Trung phần đó”- “Dạ thưa, tôi hiểu, bác cũng có làm việc cho các

ông công an Trung phần?”. Tôi càng nói hách “Tao đâu thèm làm ăn với mấy

thằng công an mật vụ, mỗi lần ông cậu từ Huế vô biểu tao đi rước ai thì tao đi

rước thôi”- “Dạ, ông cố vấn miền Trung cũng có biết bác?”- “Tao là người

trong nhà, ông cậu phải biết tao chớ…”[28-160].

Điều này, một mặt để phục vụ tính chính luận của tác phẩm, mặt khác nó

cũng thể hiện sự am hiểu sâu sắc của Nguyễn Khải trong các lĩnh vực của đời

sống xã hội. Tuy nhiên, cũng vì sự “quá khôn ngoan” của nhân vật đôi khi đem

đến cho người đọc cảm giác không thật. Nhân vật nói những điều vượt ra ngoài

giới hạn, ngoài cái khuôn của bản thân, trở thành cái loa của chính tác giả. Hơn

thế, giọng triết lý, tranh biện một mặt tạo được không khí dân chủ, kích thích

bạn đọc nhưng mặt khác nó lại khiến cho tác phẩm trở nên khô khan, “trữ tình

ngoại đề” hơi nhiều, nhất là lại ít nhiều có tính chất giáo huấn nên đôi lúc gây

phản cảm ở người đọc.

Song dù thế nào thì tính triết luận ấy đã đem lại cho ngòi bút Nguyễn Khải

một cái nhìn sâu sắc hơn vào các vấn đề của đời sống xã hội, đem lại cho văn

ông một màu sắc chính luận độc đáo, một ngôn ngữ giàu trí tuệ và một âm điệu

hùng biện lôi cuốn. Càng về những sáng tác sau này thì những hạn chế trên

càng được khắc phục. Khi ông hướng sự quan tâm của mình vào các vấn đề thế

sự, nhân sinh thì những chiêm nghiệm, suy tư của ông đưa ra đạt tới chiều sâu

triết học, được bạn đọc đồng tình và cảm phục hơn.

2.2.2 Kết cấu tác phẩm

Đọc văn Nguyễn Khải, bạn đọc thấy rất rõ một điều, văn ông không thuộc

loại văn dài dòng, màu mè, kiểu cách mà đi thẳng ngay vào vấn đề. Người đọc

có thể bắt gặp ngay nhân vật, sự kiện ở đầu tác phẩm. Tuy nhiên, văn xuôi

Nguyễn Khải nói chung và truyện ngắn của ông nói riêng không tổ chức theo

67 6 7

một trình tự dễ dãi, một xâu chuỗi các sự kiện tiếp nối như là nhân quả của

nhau…tức là theo kết cấu chặt chẽ, cô đọng vẫn hay thấy ở truyện ngắn. Tác

phẩm Nguyễn Khải thường rất ít sự kiện, biến cố, đó là sự giăng mắc các suy

ngẫm, ký ức, cảnh ngộ, những lẽ đời, lòng mình và lòng người. Thế nên, thoạt

đọc, chúng ta tưởng như đó là những mẩu chuyện khác nhau được cố ý đặt

cạnh nhau. Một sự rời rạc, đứt mạch, không liên tục là điều thường thấy trong

văn ông. Bởi Nguyễn Khải không chỉ sống với nhân vật mà ông còn chiêm

nghiệm nhân vật nữa.

Không phải ngẫu nhiên, người đọc thấy truyện ngắn Nguyễn Khải thường

xuyên xuất hiện các mẩu đối thoại ngắn. Một mặt, đối thoại tạo chất chính luận,

kích thích tranh biện, nhưng mặt khác. Nó góp phần tái hiện nhiều mảng hiện

thực đời sống khác nhau bên cạnh một hiện thực mà đối thoại xuất hiện. Lúc

đó, cái hiện thực của phát ngôn sẽ đóng vai trò làm trung tâm để từ đó quy

chiếu ra nhiều hướng khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Trong truyện ngắn

Mùa lạc, bên cạnh một nông trường Điện Biên ngày đổi mới là những cuộc

đời, những số phận khác nhau từ mọi nẻo được tái hiện. Những câu chuyện nhỏ

về Huân, Duệ, Đào…gộp lại làm nên một câu chuyện lớn về Điện Biên hôm

nay.Cũng như thế, đang nói chuyện về bà cô Hiền, tác giả lại chuyển sang

chuyện về thú chơi thuỷ tiên ngày Tết [28-182]. Từ chuyện làm cói của HTX

nào đó phá sản lại chuyển sang ngẫm nghĩ về nghề viết văn [28-272]…Sự đan

cài truyện trong truyện tạo cho văn Nguyễn Khải một sức bao chứa rất lớn.

Không phải là sự rậm rạp của những chi tiết, mật độ dày đặc của các sự kiện,

Nguyễn Khải đi vào khai thác sự phong phú của đời sống tư tưởng. Tuy nhiên

cũng cần thấy một điều, trong văn Nguyễn Khải không có sự “loé sáng” của

vùng kí ức hay sự mách bảo của vô thức…thế giới tinh thần trong văn ông dù

là kí ức hay hiện tại thì nó vẫn luôn tươi mới, ngồn ngộn chất sống. Quãng đời

hoạt động cách mạng sôi nổi có thể là cách đây đã hơn hai mươi năm nhưng

khi nhớ lại ông Ba Quốc Hội vẫn thấy như vừa mới xảy ra hôm qua…

Cách tổ chức tác phẩm như trên ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức không

gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn của ông. Khác với những tác

phẩm dài hơi thường lấy bối cảnh không gian rộng lớn như chiến trường Tây

68 6 8

Nguyên, đảo Cồn Cỏ, hay cả một vùng nông thôn công giáo, truyện ngắn

Nguyễn Khải thường tập trung vào những không gian nhỏ, hẹp của cuộc sống

đời thường. Đó là một ngôi làng trong Nằm vạ, Ngày tết về thăm quê, một khu

nhà tập thể trong Mùa lạc, Một đứa con nuôi, Một cặp vợ chồng, hay một gia

đình trong Một đứa con chết… Sau này, khi chuyển sang khai thác hiện thực

cuộc sống đời thường thì không gian ấy vẫn tiếp tục được Nguyễn Khải tận

dụng . Đó là những không gian rất đỗi đời thường, gần gũi không chỉ với tác

giả mà với cả bạn đọc.

Thật không khó để nhận thấy, nhân vật Nguyễn Khải là những nhân vật hoạt

động bằng ý thức, nhận thức thế nên môi trường hoạt động của nó chủ yếu là

thế giới nội tâm, thế giới của ý thức. Không gian tự nhiên cụ thể trong tác phẩm

thường là những không gian hẹp đến mức tối thiểu. Đối lập với một không gian

hữu hình hữu hạn là một không gian vô hình mênh mông, trong đó nhiều không

gian xa lạ với không gian thực tại được tái hiện nhờ vào các hồi ức, liên tưởng.

Với một thế giới đời sống nghiêng về tinh thần, không gian trong truyện ngắn

Nguyễn Khải là một không gian khá đặc biệt- không gian của ý thức. Nhà văn

gắn điểm nhìn trần thuật của mình vào một không gian thực tại với những vấn

đề của đời sống nhưng lại hướng trường nhìn của mình vào một không gian

tinh thần, không gian ý thức để khám phá.

Tương tự như vậy, thời gian trong các truyện ngắn Nguyễn Khải cũng là

thời gian tồn tại trong ý thức của con người. Thời gian trần thuật luôn bị dồn

nén trong một chuyến đi, một cuộc gặp gỡ; trong khi đó thì thời gian được trần

thuật lại mở ra vô biên bởi dòng chảy của ý thức nhân vật. Nhờ đó, nhà văn chỉ

cần qua một vài sự kiện cơ bản liên quan là có thể tái hiện lại toàn bộ quá trình,

diễn biến của đời sống, cuộc đời nhân vật. Mạch truyện theo đó cũng không đi

theo lối tuần tự mà bị đứt gãy, lắp ghép liên tục tuỳ theo mạch liên tưởng, suy

nghĩ của nhân vật.Chính nhờ sự phối hợp tinh tế giữa thời gian trần thuật và

thời gian được trần thuật đã làm cho tác phẩm của Nguyễn Khải như những

thước phim về đời sống trong đó mỗi khuôn hình là một lớp cắt đời sống và

chúng được sắp xếp xen kẽ, đảo lộn không theo bất cứ một trình tự nào.

Với Nguyễn Khải thời gian không chỉ là khách quan mà còn là chủ quan,

69 6 9

thời gian tồn tại , hiện hữu và in dấu ấn trong đời sống tinh thần của con người.

Bước đi của thời gian chính là ở những biến đổi nơi ý thức và những thay đổi

trong cảm nhận của mỗi cá nhân về đời sống cũng như về chính bản thân mình.

Đó là thời gian của con người chứ không còn là thời gian của tự nhiên nữa. Với

nhà văn, trong cái dòng đời tuôn chảy vô tận kia luôn luôn có những khoảnh

khắc đáng sống, đáng ghi nhớ của mỗi người. Có thể con người thành công hay

thất bại nhưng đó vẫn là khoảng thời gian có ý nghĩa khi mà chúng ta đã cố

gắng hết sống hết sức mình. Thời gian ấy là thời gian được trải nghiệm, được

tận hiến và tận hưởng của mỗi cá nhân, do đó nó mang tính chất chiêm nghiệm

rất rõ.

Sự vận động của thời gian trong văn Nguyễn Khải cũng mang tính chủ quan

với những diến biến phức tạp tuỳ theo đồ thị tinh thần của nhân vật trải

nghiệm. Có khi thời gian trôi nhanh đến chóng mặt với những sự việc dồn dập

tưởng không thể tiếp nhận kịp; nhưng cũng có lúc thời gian lại như chậm chạp,

lê thê như ngưng đọng lại thậm chí còn như được kéo dài thêm ra.

Với cách tổ chức thời gian và không gian mang ý nghĩa đời tư, cá nhân kết

hợp cách tổ chức sự kiện tự do, thoải mái theo kiểu “tuỳ hứng”, truyện ngắn

Nguyễn Khải vừa chuyển tải được nội dung xã hội rộng lớn vừa khai thác

được vấn đề con người cá nhân, con người đời tư với nhiều ý nghĩa nhân sinh

sâu sắc.

Như vậy, đi suốt những trang văn của Nguyễn Khải dù ở bất kỳ khoảng thời

gian nào, dù khi Nguyễn Khải vẫn còn là một anh cán bộ tuyên huấn hay khi đã

là một ông lão thì người đọc vẫn thấy ở đó một con người nhạy bén với thời

cuộc, xông xáo ở những nơi tuyến đầu, một anh chàng có đôi chút lém lỉnh,

hay lí sự thích tranh cãi với bạn đọc, có đôi chút ngang ngạnh nhưng vượt lên

tất cả vẫn là một sự nhiệt tình, hăng say của một con người yêu đời, có trách

70 7 0

nhiệm với cuộc đời.

Chương 3: Sự thay đổi trong truyện ngắn Nguyễn Khải

sau năm 1986

Văn chương là một lĩnh vực rất nhạy cảm, nó chỉ “dung nạp những người

biết đào sâu tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa

có” (Nam Cao).Sự thay đổi của thời đại cùng với thị hiếu của bạn đọc là yếu tố

quan trọng khiến cho bản thân văn học luôn phải thay đổi nếu không muốn bị

lãng quên. Và điều đó càng đúng với mỗi một nhà văn, sẽ là nhàm chán, là lỗi

thời với thời đại, với chính mình nếu nhà văn đó không có ý thức tự làm mới

mình. Mỗi người có một cách nghĩ và một hướng đi riêng,bạn đọc đã từng

được chứng kiến biết bao sự “chuyển mình” trên văn đàn như: Chế Lan Viên từ

“thung lũng đau thương” ra “cánh đồng vui”, như Xuân Diệu “xưa tôi hát

giọng cao, nay tôi hát giọng trầm”, như Nguyễn Tuân từ chỗ luôn thấy “thiếu

quê hương”, tìm về một thời “vang bóng” đến chỗ yêu “Sông Đà”, reo vui cùng

“Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”...Mỗi một bước thay đổi là một sự đánh dấu cho

những trưởng thành của mỗi một nhà văn. Ở Nguyễn Khải cũng vậy, cùng với

việc tiếp tục “mạch ngầm vẫn lặng lẽ chảy” thì ông cũng có những chuyển biến

tích cực cả về nội dung và hình thức như “một cách tồn tại trong văn học” theo

đánh giá của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn.

3.1 Thay đổi trong phạm vi hiện thực phản ánh

3.1.1.Hiện thực thu hẹp lại trong phạm vi cuộc sống gia đình.

Trong các sáng tác trước đây, Nguyễn Khải vẫn luôn quan tâm đến yếu tố

thời sự của tác phẩm. Một mặt đó là do nhu cầu của thời đại, mặt khác cũng là

do sự chi phối của cá tính nhà văn. Đọc các tác phẩm của ông, từ tiểu thuyết

đến truyện vừa, truyện ngắn đều thấy ở trong đó một bối cảnh lịch sử thời đại

mang tính chất tiêu biểu, phổ quát, rộng lớn cho cả một thời kỳ cách mạng. Thế

nhưng, càng về sau, phạm vi đề tài trong truyện ngắn của Nguyễn Khải càng

thu hẹp dần. Như một sự chuyển hướng từ bề rộng sang bề sâu, đề tài phản ánh

thu hẹp không có nghĩa là vấn đề phản ánh cũng thu hẹp. Khi chuyển từ hiện

71 7 1

thực xã hội rộng lớn sang một hiện thực nhỏ hơn là gia đình Nguyễn Khải

không những vẫn phản ánh được hiện thực rộng lớn của xã hội, mặt khác lại có

điều kiện đào sâu thêm vào suộc sống tư tưởng của con người thời đại- và đây

mới là điều mà Nguyễn Khải muốn hướng tới.

Dễ dàng nhận thấy trước đây nhân vật của Nguyễn Khải thường được đặt

trong mối liên hệ chính trị có tính chất cách mạng, thời cuộc trên những bình

diện lớn của xã hội. Thiết nghĩ, đó cũng là đặc điểm chung của văn học một

thời. Sau này, khi có thời gian nhìn lại những trang viết trước đó, Nguyễn Khải

đã tự nhận thấy đó là thời gian mà ông “chỉ nhìn đời, nhìn người có một nửa,

cái nửa ai cũng nhìn thấy mà bỏ qua cái nửa chỉ nhà văn mới thấy”.[30-125].

Những “hạt bụi vàng lấp lánh”, những giá trị nhân văn đích thực mà suốt

đời Nguyễn Khải kiếm tìm không phải ở đâu xa vời mà hiện hữu ngay trong

những con người bình thường với cuộc sống hàng ngày bình thường của họ.

Trong cơn bão của nền kinh tế thị trường, gia đình là nơi đầu tiên và nhanh

chóng nhất chịu sự tác động. Viết về vấn đề này , không chỉ có riêng Nguyễn

Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng rồi Nguyễn Huy Thiệp đều cũng đã

đặt ra mối quan tâm đến những rạn nứt và nguy cơ tan vỡ các giá trị nền tảng

gia đình khi nhu cầu giải phóng cá nhân đã và đang len lỏi vào trong từng ngõ

ngách của cuộc sống hôm nay.Trong các truyện ngắn của mình, Nguyễn Khải

tập trung phản ánh quan hệ của các cá nhân trong gia đình để qua đó thấy được

sự thay đổi ngấm ngầm nhưng cũng không kém phần dữ dội của đời sống xã

hội.

Trước tiên, Nguyễn Khải đề cập đến hình ảnh người chồng, người cha vốn

là trụ cột vững chắc trong gia đình. Với thời đại mới, họ không còn là những

người chủ đầy quyền uy nữa. Ngay chính bản thân họ cũng còn thấy lạc lõng,

bất lực trong ngôi nhà mà chính họ xây dựng lên. Đúng là thời đại mới đã mở

ra một vận hội mới và những cơ hội đổi đời cho nhiều gia đình nhưng đồng

thời với sự đi lên của cuộc sống vật chất là sự tụt dốc thảm hại về quyền uy và

vị thế của người chồng, người cha trong các gia đình, những con người từng

trải của hôm qua bỗng trở thành kẻ vụng dại trong hôm nay.

Trớ trêu thay, sự tồn tại và xuất hiện của họ trong gia đình bây giờ không

72 7 2

những là không cần thiết mà còn như trở nên thừa thãi, gần như luôn gây sự

bực dọc, khó chịu cho mọi người. Khoảng cách giữa họ và các thành viên khác

trong gia đình dần hình thành. Trước tiên là những khoảng cách hữu hình trong

cung cách sinh hoạt của họ, mỗi bên là một mảng màu riêng đối lập nhau.Cùng

sống dưới một mái nhà, cùng ăn một mâm nhưng anh Tần lại như một kẻ xa lạ,

nghèo đói lạc vào giữa những người sang trọng, quý phái: “Bà chủ nhà mặc bộ

đồ màu xanh gắt, dây vàng quanh cổ, vòng ngọc một cổ tay[..]Một cậu đi học

nước ngoài, một cậu đang học đại học trong nước, áo bỏ trong quần, nghiêm

chỉnh như ngồi dự đại tiệc. Cô con gái út mặc váy đầm, son phấn rực rỡ..”.

[28-286]Còn ông bố thì “vốn đã gầy, dịp này lại càng gầy như mới đau dậy,

đeo kính lão, mặc cái áo len mỏng đã thủng mấy chỗ, đưa mắt lấm lét nhìn tôi

rồi lại nhìn vợ, nhìn con, vẻ mặt căng thẳng, nhẫn nhục” [28-287].

Tiếp đến là trong quan niệm sống, những người chồng, người cha quen

sống theo khuôn mẫu, nề nếp và hơn nữa lại chỉ thích “bàn những chuyện cao

xa, chuyện viễn cảnh”, không thể đứng vững, không thể là chỗ dựa cho vợ con

trong một xã hội mà người ta ứng xử, quan hệ với nhau bằng tiền. Trong khi vợ

con cần một sự đảm bảo về cuộc sống vật chất thì người chồng lại không thể

đáp ứng. Người chồng, người cha ở quá cao trong khi vợ con anh ta lại chỉ là là

mặt đất với những toan tính vật chất tầm thường. Sự hoán đổi vai trò tất yếu

dẫn đến sự hoán đổi vị thế là điều tất yếu. Từ việc “Ông thiếu tá biến thành

người ở, bà vú của hai đứa con và làm một thằng đàn ông thuần tuý” đến “ mọi

việc từ lớn đến nhỏ đều chờ ý kiến của vợ” khiến anh ta trở nên mất giá trị

không chỉ với vợ mà với cả các con. “Với các con, tôi chỉ là người lạ, bố về

không thấy vui mà còn như vướng víu. Chúng trò chuyện với tôi ngượng ngập,

chịu đựng và bất cứ chuyện gì cũng phải hỏi mẹ[…]Sống vói vợ đã mười lăm

năm mà vẫn như sống một mình, sống ở cơ quan, ăn cơm tập thể, bàn chuyện

xã hội rồi nằm đọc sách, gặp chuyện gì bứt rứt cũng chỉ mình biết riêng

mình”.[28-289].

Rõ ràng, với họ bây giờ gia đình không còn là tổ ấm yên vui, nơi về ấm áp

sau những giờ phút căng thẳng, mỏi mệt. Nếu họ là những người chồng, người

cha vô trách nhiệm thì sự trừng phạt đó cũng là thích đáng. Nhưng không, họ

73 7 3

vẫn là những người chồng, người cha tốt, có học thức, có hiểu biết rộng, đều

nhận thức rõ sự cần thiết của những “giá trị tức thời” cũng như sự bền vững

của những giá trị vĩnh cửu; và hơn ai hết, họ cũng nhận thức được rằng muốn

tồn tại tất nhiên phải nhờ đến các “giá trị tức thời”. Thế nhưng họ vẫn có tội,

cái tội lớn nhất mà vợ con không tha thứ cho họ đó là họ không kiếm được

nhiều tiền, không có quyền , có thế để họ được mở mày mở mặt.

Khi đưa ra những số phận đáng thương, những ông Bột cố giữ cách sống

“tôn trọng mọi người” [28-296], ông Vị coi vốn liếng của cuộc đời là học vấn,

nhân cách [28-306]…nhà văn đã cho chúng ta thấy cuộc đấu tranh ngấm ngầm,

gay gắt trong việc lựa chọn cách sống – làm sao để có thể vừa hài hoà giữa

những giá trị phải dùng tới hàng ngày, hằng giờ với những giá trị chuẩn mực

“như nền tảng, như chân móng, như giằng cột”cho cả đời người, là vấn đề

Nguyễn Khải băn khoăn. “Vẫn biết rằng không thể quay lại cuộc sống tẻ nhạt,

ràng buộc lẫn nhau như ngày xưa, thiên hạ họ đã sống khác, mình chui vào cái

vỏ mãi sao được. Cứ cho là mình tình nguyện sống trong cái vỏ quen thuộc

nhưng còn vợ con? Vì không chuẩn bị thoát ra khỏi cái vỏ cũ nên không còn

làm chủ được tình thế một khi nó đã thay đổi[…]Phản đối quyết liệt ư? Gia

đình sẽ tan vỡ ngay lập tức. Nhẫn nhục bước theo thì sự tan vỡ sẽ chậm lại

nhưng rồi cũng phải tan vỡ. Vợ con đâu có biết cái giá sẽ phải trả cho một

cách sống tự do” [28-293].

Sau những người chồng, người cha là những người mẹ, người vợ. Sự

xuống dốc của người chồng lại đồng nghĩa với sự lên ngôi của người vợ; người

cha tầm thường đưa người mẹ lên mức sùng bái. Xã hội nay không thiếu những

cảnh “Nhà kia lỗi phép con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng” (Tú

Xương). Có thể cách đó một thời gian không lâu, họ cũng đã từng là những vợ

hiền, dâu thảo. Không rõ từ khi nào họ đã bị cuốn theo vòng xoáy của những

bon chen danh lợi để rồi khi người “nội tướng” đã bị mùi tanh của đồng tiền

làm say mê, bị cái xa hoa của vật chất làm cho mờ mắt thì chính họ là nguyên

nhân gây ra mọi sự bê bối, rối rắm trong cái gia đình nhỏ của mình.

Sẽ là thiếu sót nếu khi nói đến gia đình mà không đề cập đến những đứa

con. Vì là thế hệ trẻ nên họ rất xông xáo, năng động, thích ứng với thời cuộc

74 7 4

một cách rất dễ dàng. Họ có thể tiếp nhận ngay quan điểm sống của xã hội

mới, vứt bỏ không thương tiếc những gì mà họ cho là đã cũ kỹ, lỗi thời, lạc

hậu. Sự nhập cuộc và đổi đời của họ sẽ là đáng khen nếu nó không đi ngược lại

nhứng giá trị tốt đẹp của luân thường đạo lý. Với họ, người cha, người mẹ có

thể lui về ”hậu trường” để nhường lại chỗ đứng cho họ, con trai, con dâu giờ là

những người xây dựng cơ nghiệp, thay đổi số phận. Thế nhưng, oái oăm thay

những đồng tiền hàng ngày chúng kiếm được lại là những đồng tiền bất chính,

dơ bẩn do buôn lậu, buôn người, buôn hàng cấm…mà có. Chúng quá tôn sùng,

say mê đồng tiền đến mức tìm mọi cách, xoay sở mọi kiểu để kiếm tiền, càng

nhiều càng tốt. Thậm chí chúng không ngần ngại “rút ruột” người cha già, sãn

sàng đuổi ông ra khỏi nhà khi cần thiết để có khoản tiền kinh doanh [28-306].

Ngậm ngùi thay, chua xót thay cho những giá trị đạo lý bao đời đang dần dần

bị huỷ hoại, cái nền móng của gia đình đang bị lung lay, rạn nứt trong cơ chế

thị trường dự báo những bất ổn của một đời sống xã hội tương lai khi mà nó

được xây dựng trên những giá trị tức thời trước mắt.

Nhưng có lẽ không phải vì vậy mà Nguyễn Khải bi quan, trong quan niệm

của ông thì “cái nếp sống tốt đẹp của cha ông vẫn lặng lẽ chảy trong cuộc sống

ồ ạt của hiện tại” [30-25]. Nguyễn Khải vẫn nhìn thấy ở đâu đó trong cuộc

sống đời thường những người mẹ, người vợ luôn biết nhen nhóm, gìn giữ ngọn

lửa yêu thương. Có thể một mình họ phải chèo chống cả gia đình trong cơn

giông bão của thời cuộc nhưng họ vẫn lặng lẽ, can trường chịu đựng. Dù có

gặp bao khó khăn, éo le, trắc trở nhưng họ vẫn gắng giữ vững tổ ấm hạnh phúc

nhỏ bé của mình. Ở họ vừa có những nét đẹp đằm thắm, dịu dàng của người

phụ nữ truyền thống, vừa có nét cứng cỏi, mạnh mẽ, khôn ngoan của người phụ

nữ hiện đại. Họ là những người phụ nữ đẹp nhưng không phải đẹp ở ngoại hình

mà đẹp trong cốt cách, trong tâm hồn; là chỗ dựa vững chắc không chỉ về vật

chất mà cả tinh thần cho chồng, cho con. Bà cô trong Nếp nhà, luôn sống và

dạy dỗ con cái theo những nguyên tắc đạo đức tốt đẹp “sống lương thiện, sống

thẳng thắn và sống theo pháp luật hiện hành” nên đã giữ được một nếp nhà

bình ổn trong giông bão. Cô Hiền trong Một ngƣời Hà Nội thông minh, sắc

sảo, tính toán việc nước, việc nhà đâu ra đó- một người phụ nữ khôn khéo,

75 7 5

sống và dạy con cái theo một chuẩn mực riêng là lòng tự trọng. Chị Khuê trong

Ngƣời vợ sống âm thầm, nhẫn nại để giữ cho được “cả sự ốn định về tinh thần

lẫn sự ổn định trong cuộc sống vật chất hàng ngày” mà “chả thấy khổ một tí

nào”[27-395], như được sinh ra để”một đời gánh chịu mọi tai hoạ vì những

người thân yêu”[27-tr.396]. Rồi những người vợ, người mẹ của những gia đình

có chồng là thương binh nặng trong Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức,

thậm chí cả bản thân họ cũng là thương binh như trong Một bàn tay và chín

bàn tay, họ sống không phải vì bản thân mình mà sống vì chồng vì con.Giữa

những bon chen của cuộc sống thừờng nhật họ vẫn tìm thấy niềm vui, niềm

hạnh phúc nho nhỏ, giản dị để rồi ngày lại ngày tiếp tục chèo lái con thuyền

của gia đình mình đến bến bờ bình an và hạnh phúc.

Trong vấn đề người phụ nữ, Nguyễn Khải cũng có cái nhìn đa chiều, có

người tốt, có người xấu, song không vì vậy mà nhà văn hoang mang, ông vẫn

tìm thấy được và tin tưởng. Theo nhà văn, trong cơn bão tố của cuộc đời, người

duy nhất có thể gìn giữ, xây dựng hạnh phúc gia đình vẫn chính là những người

phụ nữ. Họ là những người gìn giữ, nhen nhóm ngọn lửa yêu thương trong

những mái nhà để nơi ấy mãi mãi là “nơi về”, là chỗ dựa ấm áp, bình yên. Đó

chính “là vàng mười, là kim cương, là báu vật, là sự may mắn lớn nhất mà

chồng con họ có được ở cõi đời này”.

3.1.2.Một hiện thực có tính chất đa chiều.

Một đặc điểm chung của văn học trước những năm 70 là luôn phản ánh

hiện thực có tính một chiều, tuyến tính. Hiện thực được phản ánh là sự xâu

chuỗi, liên kết tất cả các sự kiện, biến cố theo trình tự trước sau. Nhân vật lúc

nào cũng bị cuốn đi, trôi đi trong dòng thác sự kiện, ít hoặc không có cơ hội để

nghĩ về một hiện thực khác ngoài hiện thực mình đang sống. Thế nên, một điều

dễ thấy là hầu hết các sáng tác đó dù phạm vi hiện thực có lớn đến đâu thì nó

vẫn gây cho người đọc một sự thả trôi dễ dãi. Điều này xuất phát từ chính quan

niệm của con người về vấn đề thời gian và lịch sử.

Vấn đề thời gian, lịch sử trong quan hệ với con người đã được văn chương

xưa nay đề cập rất nhiều. Trước kia, con người nhìn thời gian là thời gian có

tính chất tuần hoàn như một đại lượng vĩnh cửu, mãi mãi trường tồn “xuân qua

76 7 6

xuân lại lại” (Hồ Xuân Hương). Cũng chính vì quan niệm như vậy mà người

xưa không coi trọng thực tại. Họ có xu hướng sùng cổ, coi trọng quá khứ, tôn

sùng cái Đẹp của quá khứ. Đối với họ, mọi thứ trong vũ trụ là bất biến, họ

không bao giờ có ý niệm về tương lai. Ung dung, nhàn tản, tự tại là cách sống

của các trí nhân ngày xưa cũng bởi vậy mà có. Tất nhiên, khi nhìn nhận vấn đề

thời gian, con người luôn đặt nó trong tương quan với cuộc sống. Tuy nhiên,

cái mà họ nhìn thấy chỉ là sự cô đơn, nhỏ bé của con người trước sự vô cùng,

vô thuỷ, vô chung của không gian và thời gian: “ Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu

bất kiến lai giả/ Niệm thiên địa chi du du/ Độc thượng nhiên nhi thế hạ” (Đăng

Châu U đài ca- Trần Tử Ngang).

Trong văn chương hiện đại, quan niệm thời gian đã có sự thay đổi, thời

gian bây giờ không còn là thời gian tuần hoàn mà là thời gian tuyến tính, có

tính một chiều. Trong sáng tác của Nguyễn Khải trước 86 nói riêng và văn

chương trước 75 nói chung, thời gian được gắn với các biến cố,sự kiện- đó là

thời gian của lịch sử. Bắt đầu từ những năm 80 trở đi, quan niệm về thời gian

của Nguyễn Khải đã khác, ông viết: “ Nếu trái đất không còn sự sống nữa, trở

lại trạng thái hoang sơ, nguyên thuỷ thì thời gian tự nó cũng không có. Thời

gian chỉ có ý nghĩa khi nó gắn liền với sự sống của con người và phát triển và

tiến bộ”.[50-270]. Đó là thời gian của con người- một thời gian được nhìn nhận

không phải đơn giản một chiều mà từ nhiều chiều: quá khứ, hiện tại và tương

lai. Nếu như nhiều người bây giờ nhìn thời gian như là một cái gì đó rất mơ hồ,

trừu tượng; theo dòng chảy của thời gian tất cả đều trở thành phù du…thì

Nguyễn Khải lại có cái nhìn khác. Ông gắn thời gian với cuộc sống của con

người, với những việc làm mà mối cá nhân làm được trong quãng thời gian

sống của mình. Và như thế thì “thời gian như một cái gì rất bền vững, mãi mãi

con là trong hiện tại, một hiện tại vừà hình thành vừa tiếp nối với thời gian

đang được chuần bị. Mỗi chúng ta vừa là sự hình thành của một quá khứ thăm

thẳm, vừà là sự mở ra cho một tương lai rất xa xăm” [50-154]. Vì thế, con

người sẽ có thể trở nên bất tử trong cái sự nghiệp một đời của họ. Quan niệm

của Nguyễn Khải vừa giống vừa không giống với những quan niệm trước đó:

thời gian với Nguyễn Khải không phải là “hành lang một chiều” phía sau thăm

77 7 7

thẳm, phía trước càng thăm thẳm hơn; đồng thời nó cũng không vĩnh cửu một

cách đơn thuần, thời gian chỉ trở thành vĩnh cửu khi nó gắn với hoạt động của

con người. Cái nhìn của Nguyễn Khải như vậy có tính chất biện chứng, góp

phần giải quyết mối quan hệ giữa cái hữu hạn của kiếp người và cái vô hạn của

thời gian. “Mỗi chúng ta giống như một đơn vị nhỏ nhất của thời gian, là một

tích tắc, tích tắc những ước mơ và nguyện vọng, những tranh đấu và thành bại,

những vui sướng và đau khổ, tất cả gói trọn trong cái hữu hạn khoảnh khắc,

tích tắc- tích tắc- tích tắc hãy nhớ tới cái hữu hạn, cái ngắn ngủi, cái chóng

qua của một kiếp người, hãy mơ mộng trong cái hữu hạn ấy. Với cái vĩnh viễn,

cái vô tận, cái trôi đi mãi mãi thì mình có là cái gì, chẳng là cái gì cả…Nhưng

ta vẫn có thể là cái gì đó trong cái khoảnh khắc ta đang sống, là lực đẩy dẫu

yếu ớt vào cái dòng lưu chuyển chung” [50-212].

Quan niệm này ảnh hưởng đến cách sống và lựa chọn của những nhân vật

trong truyện ngắn Nguyễn Khải. Một thế hệ thì luôn tin tưởng, yên tâm vào

một tương lai đã biết trước và luôn ẩn mình trong cái chung của cộng đồng;

còn một thế hệ lại khát khao tìm tòi, khát khao cống hiến, hướng tới cái giá trị

đích thực của cuộc sống, của cá nhân. Ở một khía cạnh sâu sa hơn, chúng ta

thấy, khi nhìn nhận hiện thực có tính biện chứng như vậy thì đồng thời Nguyễn

Khải cũng đã đi tới một cách tiếp cận con người ở một chiều sâu tư tưởng mới.

Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã phân tích rất sâu sắc về bình diện của tồn tại

con người trong tương quan với thời gian và ông cho rằng Nguyễn Khải dường

như muốn làm sống lại lớp thời gian vĩnh hằng truyền thống để soi sáng lớp

thời gian động “qua mau đến nỗi không kịp nhận biết”. Cách nhìn con người

trong tương quan với thời gian nằm bên trong mỗi con người , gắn với thời

gian của con người, gắn với sự nghiệp của mỗi người thì tương lai không chỉ ở

phía trước mà còn ở cả trong quá khứ. “Quá khứ là do người khác chuẩn bị cho

mình, còn tương lai là phần mình phải chuẩn bị cho người khác” là vậy.

Khi nhìn nhận con người trong mối quan hệ nhiều chiều trước lịch sử ta

luôn bắt gặp trong các trang văn Nguyễn Khải những cuộc “bàn giao thế hệ”.

Tuy nhiên, nếu trước những năm 80 những cuộc bàn giao ấy luôn đạt được sự

thống nhất cao về lý tưởng, ở đó thế hệ trước luôn là tấm gương để những thế

78 7 8

hệ sau noi theo. Sau những năm 80 trở đi, sự thống nhất ấy hầu như không còn

nữa, khoảng trống cách ngăn giữa các thế hệ ngày càng lớn. Có khi mỗi thế hệ

lại thuộc về một cơ chế xã hội khác nhau với các giá trị riêng, quan niệm riêng

và nguyện vọng riêng. Và tất nhiên, vận hội của thời đại mới luôn được trao

vào tay những thế hệ con người trẻ tuổi. Ở những con người này, bên cạnh tư

cách con người lịch sử, họ còn xuất hiện với tư cách những con người cá nhân

với những nét riêng biệt. Một phần con người họ là đại diện cho con người thời

đại- đây là phần mà họ không thể quyết định được. Một phần khác là chính bản

thân họ- cái phần không thống nhất, không hoà hợp với nửa kia của chính họ.

Họ là những con người dám nghĩ, dám làm, dám sống hết mình cho lý tưởng,

biết tìm cho mình một mục đích phấn đấu để quãng đời sống của mình trở nên

có ý nghĩa. Bạn đọc không hề khó để tìm thấy những con người như thế trong

các truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ này. Khôi trong Ngƣời ở làng pháo, vợ

chồng ông Ba Quốc hội trong Hai ông già ở Đồng Tháp Mƣời, hay Anh trong

Ngƣời gặp hàng ngày…dù tuổi tác không giống nhau, học vấn, nghề nghiệp

không tương đồng nhưng họ đều giống nhau ở một bầu máu nóng, ở ham muốn

ham hoạt động để được “sống thật triệt để, thật mãnh liệt”. Họ là những con

người không bao giờ chịu chết già trên giường bệnh. Họ luôn có nhu cầu tự thể

hiện, tự thay đổi với tất cả khả năng của bản thân, “tự mở miệng cạo, tự bôi

thuốc cho ra hết mọi giọt mủ”…bởi theo họ “cái cây không ra hết mủ chết

không nổi, con người vẫn còn sức mà phải ngồi yên chết cũng không nhắm

được mắt”. Đi sâu khẳng định vị trí cá nhân, nhiệt tình cổ vũ cho giá trị cá

nhân, chủ trương cái Tôi không bao giờ hoà tan vào cái Ta chung…là một

hướng nhìn nhận mới về con người của Nguyễn Khải. Khi nhìn nhận hiện thực

với một cách nhìn tỉnh táo, sáng suốt vừa cho thấy nhà văn đã xử lý sâu hơn,

linh hoạt hơn trong cách viết, vừa cho thấy sự sâu sắc trong cách đánh giá của

ông với con người trước cuộc đời.

3.1.3.Chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang cảm hứng phê phán, chiêm nghiệm

lại.

Trở lại với vấn đề đổi mới trong văn học bắt đầu từ Nghị quyết 05 của Bộ

Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam (1987) thì nền tảng của sự đổi mới trong

79 7 9

văn học bắt nguồn từ sự tự ý thức của văn học về vai trò của nó trong xã hội,

quan hệ giữa văn học và chính trị cũng như ý nghĩa của nó trong đời sống xã

hội. Giờ đây, văn học không còn được hiểu đơn giản như một công cụ chính trị,

là vũ khí của công tác tư tưởng, là phương tiện tuyên truyền, giáo dục quần

chúng mà là “bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hoá, thể hiện khát vọng của

con người về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân

cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã

hội…” (Nghị quyết của Bộ chính trị về văn học nghệ thuật và văn hoá). Chính

điều này đã làm thay đổi âm hưởng chung của đời sóng văn học: từ khẳng định,

ngợi ca sang phê phán, nhận thức lại.

Nếu trước đây, nhân vật chính của các tác phẩm hầu hết là người tốt, là

nhân vật chính diện thì bây giờ, ngược lại, trong nhiều tác phẩm các nhân vật

chính thường là nhân vật tiêu cực, giả dối, làm ăn phi pháp, thấp kém về đạo

đức. Cái đêm hôm ấy đêm gì ( ký của Phùng Gia Lộc), Những mảnh đời đen

trắng (Nguyễn Quang Lập), Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma (Nguyễn Khắc

Trường), Bến không chồng (Dương Hướng), Chuyện làng Cuội (Lê Lựu),..là

những tác phẩm có tiếng vang, hầu hết được viết theo cảm hứng đó. So với

những tác phẩm trước đây, nhiệt tình phê phán của văn học giai đoạn này dữ

dội hơn nhiều. Trước đây, các nhân vật xấu thường là những kẻ phản dân, hại

nước, còn đối với những người làm việc trong bộ máy Nhà nước, những cán bộ

cơ quan chính quyền thì sự sa sút về đạo đức hay những lỗi lầm trong công

việc thường chỉ được miêu tả như là những thiếu sót, khuyết điểm có thể sửa

chữa được, về cơ bản thì họ vẫn là người tốt. Nay thì khác hẳn, nhiều nhân vật

cán bộ, viên chức nhà nước được miêu tả không phải là những người” cơ bản

tốt” mà là những kẻ đạo đức giả, chỉ lợi dụng danh nghĩa của cách mạng để

trục lợi, để thoả mãn những ham muốn quyền lực cá nhân, trù dập người khác

để nâng cao uy tín của bản thân, của gia đình và dòng họ mình

Theo đó, lần đầu tiên trong văn học vấn đề miêu tả cái ác, cái xấu đặt ra gay

gắt. Hiện vẫn tồn tại những quan điểm khác nhau về vấn đề này, có nhiều

người cho rằng một số nhà văn có phần không kiềm chế và hả hê khi nói về cái

xấu, do đó không có ý nghĩa giáo dục thậm chí còn khiến người đọc hoài nghi

80 8 0

về cái tâm của tác giả, bên cạnh đó cũng có không ít những ý kiến ngược lại.

Tính phức tạp của vấn đề ở đây nằm trong thái độ đối với hiện thực và những

quan niệm khác nhau về chức năng của văn học. Thực ra, tái hiện cái ác cũng là

một hình thức phản ánh hiện thực và cũng là sự phản ứng với hiện thực. Văn

học không chỉ là phương tiện giáo dục đạo đức mà còn là một cách tiếp cận

cuộc sống. Tính đa nghĩa của hình tượng, trong đó có hình tượng về cái xấu

không nên bị thu hẹp trong cách lí giải theo quan điểm giáo huấn và tư duy

nghệ thuật truyền thống. Trên một bình diện khái quát hơn, sự phô diễn cái xấu

cũng như sự phê phán nó từ góc độ của cuộc đấu tranh chống tiêu cực thì sự

miêu tả thành công cái xấu, cái ác và rộng hơn là cái dị dạng, cái buồn cười

trong tác phẩm nghệ thuật đánh dấu một bước trưởng thành của văn học, chứng

tỏ năng lực bao quát cuộc sống , sự từng trải và mức độ nhận thức sâu sắc của

nhà văn.

Bên cạnh đó, công cuộc đổi mới cũng tạo cơ hội để các nhà văn nghĩ lại

về công việc sáng tác của mình. Cuộc sống giờ đây đã bộc lộ những mặt phức

tạp mà các cách phản ánh như trước đây hay những lời giải thích giản đơn,

công thức không còn đủ sức thuyết phục nữa. Mỗi người cầm bút không chỉ

nhận ra rằng sức mạnh của tác phẩm không chỉ nằm ở khối lượng hiện thực

được phản ánh mà còn phụ thuộc vào sự nghiền ngẫm của nhà văn, vào chiều

sâu của những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn gửi gắm trong đó. Trên cơ sở đó

đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm không chỉ ghi chép các tính cách mà còn soi

sáng chúng dưới nhiều góc độ khác nhau.

Trong những tác phẩm của Nguyễn Khải, bắt đầu từ Thời gian của ngƣời,

Một cõi nhân gian bé tí đến những tập truyện ngắn như Một thời gió bụi, Sƣ

già núi Thắm và ông đại tá về hƣu…giọng người kể chuyện vẫn thông minh,

lôi cuốn như trước đây nhưng mỗi ngày một thêm mềm mại, uyển chuyển.

Trong cáí nói đi đã có cái nói lại, bên cạnh sự tự tin đã có sự tự giễu mình, cuộc

sống đã được nhìn từ nhiều phía khác nhau. Nhân vật của Nguyễn Khải hầu hết

đều là những người đang sống. Qua việc kể lại một cảnh ngộ, một đời người,

những đổi thay ở một phố, một làng, nhà văn muốn quan sát, nghiên cứu những

biến chuyển đang diễn ra trong xã hội và hướng đi của nó. Các nhân vật của

81 8 1

Nguyễn Khải vẫn tâm huyết, giàu hoài bão như các nhân vật trước đây nhưng

lại hầu như ít thành công hơn, đôi khi có cái gì như là “Lãng tử”. Bản thân lời

kể chuyện cũng giàu chất suy tư hơn , cái nghĩ đã thấm đượm nỗi buồn của

người nhận ra ý nghĩa của thời gian và quy luật của đời sống.

Cũng nằm trong xu hướng này có Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. Tuy

nhiên, cái nhìn chiêm nghiệm của họ có phần khác với Nguyễn Khải. Họ chủ

yếu chiêm nghiệm lại lịch sử theo một cách nhìn mới của người viết hay của

chính người lính đã trải qua cuộc chiến. Còn Nguyễn Khải thì ông lại chiêm

nghiệm lại chính những sáng tác của mình theo thời gian và kinh nghiệm cho

phép.

Một điều đáng chú ý nữa trong truyện ngắn Nguyễn Khải là sự trở lại với đời

thường. với số phận riêng. Sự trở lại này nằm trong xu hướng tất yếu của đời

sống văn học. Suốt mấy chục năm chiến tranh, văn học cách mạng chủ yếu nói

về cái chung, chỉ xem xét cái riêng trên cơ sở quyền lợi giai cấp, của dân tộc ,

thành ra vấn đề đời thường, số phận riêng của con người bị chìm đi, thậm chí

đôi khi còn bị xem như cái gì xa lạ với đời sống văn học đích thực.

Đọc những truyện ngắn sau 86 của Nguyễn Khải, người đọc dễ dàng nhận

thấy những nhân vật chính trong tác phẩm của ông không còn là những chiến sĩ

trong những bối cảnh hoành tráng của Ra đảo hay Đƣờng trong mây nữa mà

lại là những mẹ, bà ngoại, ông cậu, bà cô, bà dì, cô em họ..và những bạn bè

thân thiết một thời của chính nhà văn. Những cuộc sống riêng được miêu tả

một cách chân thực hơn, không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có cả

thất bại và nỗi đau. Giờ đây, nỗi đau, nỗi buồn được nhìn nhận như một phạm

trù của văn học, nó như là một sự sẻ chia của nhà văn với những bi kịch, mất

mát, đau khổ cũng như nói lên tình cảm yêu thương, trân trọng của nhà văn với

chính những người thân của mình.

Trong những truyện ngắn của Nguyễn Khải không có xung đột xã hội, điều

mà tác giả quan tâm chính là sự phong phú của tâm hồn con người, sự phát

triển ý thức về cá nhân được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau với những tình

huống của cuộc sống bình thường. Những tác phẩm nhiều khi là những câu

82 8 2

chuyện kể chẳng đâu vào đâu, chẳng có tình huống hay cốt truyện gì đặc biệt,

nhưng bên trong cái tưởng như vụn vặt đó là sự phát triển, biến hoá của dòng ý

thức trong tâm linh nhân vật

Sự quan tâm đến con người bình thường và những cuộc đời bình thường đã

làm thăng bằng lại nền văn học trong nhiều năm qua vốn quá thiên về cái

chung, cái vĩ đại. Sau bao nhiêu năm trải nghiệm, cuộc sống đã giúp nhà văn

nhận ra vẻ đẹp của những cái đơn giản ở xung quanh. Cùng với đó, việc đi sâu

vào thế giới tinh thần của con người, vào quá trình tự ý thức của nó đã góp

phần củng cố thêm sự hình thành con người cá nhân trong xã hội, làm cho tiếng

nói của tác phẩm thêm sâu sắc hơn.Sự trở lại này cũng là nằm trong xu thế tất

yếu của văn học nước nhà.Do hoàn cảnh chiến tranh suốt mấy chục năm qua,

văn học cách mạng chủ yếu nói về cái chung, chỉ xem xét cái riêng xuất phát từ

quyền lợi chung của giai cấp, của dân tộc thành ra vấn đề đời thường, số phận

riêng của con người bị chìm đi, thậm chí đôi khi còn bị xem như là một cái gì

đó qua xa lạ với một nền văn học lành mạnh. Điều này cũng giải thích vì sao

khi quay lại với chủ đề này, văn học được đánh giá như đã có một hành động

đổi mới.

Trong xu hướng đổi mới này, người đọc thấy nổi lên những tác phẩm của

Nguyễn Minh Châu trong Cỏ lau, Phiên chợ Giát, trong truyện ngắn của

Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy, trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vƣờn

của Ma Văn Kháng, tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Sao đổi ngôi của

Chu Văn, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân…ở đó con gười đã được miêu tả

chân thực hơn, không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có đau khổ, thất

bại, cái đau, cái buồn giờ đây trở thành một phạm trù của văn học. Các nhà văn

đã mạnh dạn chia sẻ đối với bi kịch và những mất mát mà con người phải gánh

chịu trong suốt gần một nửa thế kỷ chiến tranh, nghèo đói đã nói lên sự gắn bó

của văn học với cuộc sống. Cũng quan tâm đến con người nhưng lại ở một

khía cạnh khác: sự phong phú hay nghèo nàn của tâm hồn được Phạm Thị Hoài

tích cực khai thác với những Thiên sứ, Mê lộ…Sự phát triển của ý thức cá

nhân được quan sát ở nhiều góc độ khác nhau, trong những tình huống hết sức

bình thường. Chính quá trình ý thức về thế giới chung quanh và tự ý thức về

83 8 3

mình trở thành nền tảng cho những câu chuyện được kể ra trong tác phẩm. Với

Nguyễn Khải, con người trong truyện ngắn sau này của ông, có khi được phản

ánh dưới tư cách của những nhân vật thời hậu chiến: trong cái Hùng có cái Bi

(thậm chí cái Bi nhiều hơn cái Hùng), có khi lại là một con người đang tiến dần

đến phần Người của mình…song dù điểm nhìn có giống với các nhà văn khác

thì vấn đề mà Nguyễn Khải muốn quan tâm phản ánh lại không chỉ đơn thuần

là cái bề nổi của những số phận bình thường trong những hoàn cảnh bình

thường mà ông muốn thông qua đó để khai phá những vỉa tầng sâu của lớp

trầm tích văn hoá dân tộc.

Điều đặc biệt nữa là trong cảm hứng chiêm nghiệm, xem xét lại, tác giả

đã trở thành một hình tượng văn học. Khi mà văn học đã không còn bị coi là

một vũ khí đắc lực của công tác chính trị nữa mà là một hoạt động nhận thức

và tự nhận thức thì tác phẩm không chỉ mang đến cho người đọc bức tranh sinh

động về cuộc sống mà còn gợi ra cho họ cùng thảo luận cũng như để người đọc

tự phán xét. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Khải chúng ta dễ dàng nhận thấy

luôn có một nhân vật “tôi”hoặc kể lại câu chuyện được nghe kể, hoặc kể lại câu

chuyện với tư cách là người trong cuộc.Tuy nhiên loại nhân vật” tôi” như thế

này ta bắt gặp không ít trong các sáng tác( không kể đến tự truyện) song nhân

vật “tôi” chưa chắc đã trùng khít với tác giả. Song, càng về sau ta càng bắt gặp

nhiều những cậu Khải, chú Khải, ông Khải, nhà văn Khải, nhà báo Khải. Có lẽ

đó cũng là một tất yếu khi những nhân vật ông quan tâm lúc này là những

người xung quanh mình, là những người đã từng một thời ông đánh giá chưa

đúng, là những vùng đất ông đã từng đi qua nay lại trở lại…Để mình trở thành

một phần của tác phẩm là Nguyễn Khải đã tự phân thân mình ra, tự tác mình ra

để phán xét, đánh giá. Ta thấy rất rõ có hai con người:một là ông Khải của hôm

nay đang xem xét, đánh giá anh Khải của ngày hôm qua để thấy sự lạ chọn của

mình trong những năm tháng đã qua là đúng hay sai. Đọc những lời ông chia sẻ

về nghề văn thật là thấm thía “ Vì một niềm tin mà tôi trở thành người cầm bút.

Nay vứt bỏ nó, thay vào một cái khác thì sẽ thành giám đốc, cố vấn, chuyên gia

kinh tế chứ đâu còn nhà văn- Ôi trời! Chẳng lẽ cái giá của nhà văn lại hơn

một ông giàm đốc? Người ta chỉ thấy các nhà văn chạy quanh các ông giám

84 8 4

đốc chứ chưa từng thấy các ông giám đốc chạy quanh nhà văn bao giờ…”[28-

273]. Có lúc ông còn tự bộc bạch về đời mình , tự thấy rằng ” đời viết văn của

tôi rất nhạt. Là một viên chức nhà nước ăn lương để viết văn. Không nghĩ ngợi

gì nhiều, trăn trở gì nhiều, không sóng gió, không hcìm nổi. Đôi lúc cũng muốn

bơi ngược một tí, rẽ ngang một tí nhưng rồi mệt quá lại khuôn mình theo dòng

chảy, theo dòng mà bơi, bơi cùng với đồng đội vừa an toàn vừa vui vẻ” [28-

274]. Nhà văn cũng tự nhận thấy mình không có gì là xuất sắc , chỉ là “một giọt

nắng nhạt” cuối ngày và cả quãng đời viết văn đã qua chỉ là “cái thời lãng

mạn” với những suy nghĩ và cái nhìn có phần sôi nổi, bồng bột của tuổi trẻ.

Khi tác giả tự biến mình thành một nhân vật, tự đánh giá và xem xét lại âu

cũng là một cách trả ơn đối vơi những người, những vùng đã một thời làm nên

tác phẩm của ông. Mặt khác, việc đưa nhân vật tôi trở thành hình tượng của tác

giả góp phần tạo nên không khí dân chủ, bình đẳng thân mật giữa tác giả và

bạn đọc.

3.2 Một số thay đổi về giọng điệu.

3.2.1 Giọng kể chuyện hóm hỉnh, dân dã.

Không phải là ngẫu nhiên mà khi càng có tuổi, con người ta càng trở nên dễ

tính hơn, xuề xoà hơn và hay “tếu” hơn. đọc truyện ngắn Nguyễn Khải những

năm 80 trở lai đây, người đạoc đều dễ dàng nhận ra một nét duyên trong cách

trần thuật của tác giả. Điều đó sở dĩ có được là xuất phát từ việc ông thay đổi

đề tài và phạm vi biểu hiện. Những mảnh ghép của cuộc sống đời thường rất

bình thường luôn đi cùng với những con người giản dị, những ngôn từ, lời nói

thân mật, suồng sã. Tác giả đã tận dụng được ưu thế của ngôn ngữ đời thường

khi chắt lọc nó tạo nên một giọng điệu kể chuyện riêng trong văn mình. Nét

riêng đó chính là giọng hài hước nhẹ nhàng, hóm hỉnh dân dã như một tiếng

cười xoà vui vẻ. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khải để cho một nhân vật

của mình hé lộ: ”Nếu như đây đó thấp thoáng một nụ cười thì cũng là cái mỉm

cười hiền lành, vui một chút, nghịch một chút cho câu chuyện được đậm đà”.

Tài năng của Nguyễn Khải như nhiều người nhận thấy là khả năng tổ chức

các đối thoại, và ông cũng không ngại sử dụng những cuộc đối thoại giàu kịch

85 8 5

tính ấy vào mục đích tạo tiếng cười.. Các nhân vật của ông, hầu hết đều được

đặt vào trong những tình huống oái oăm, sinh ra không phải thời, đứng không

phải chỗ, chọn không phải người nên đã tạo ra những bi kịch. Đó có thể là

những bi kịch lớn như hôn nhân- gia đình: một quan niệm sai, một lựa chọn sai

có thể dẫn đến hỏng cả cuộc đời. Đó là trường hợp của nhân vật Dự vốn đẹp

trai, lắm tài vặt , từng làm điêu đứng trái tim bao cô gái vậy mà lại “bị” một cô

gái lúc nào cũng nghiêm trang, công thức đến tẻ nhạt, nói chuyện trăm năm

như bàn chuyện công tác, dắt mũi; để rồi cả cuộc đời đều phải tuân theo mọi

“chỉ thị” của cô vợ độc đoán [28-256]. Đó cũng có thể là sự nhầm lẫn “cố ý”

của những con người ngộ nhận về bản thân. Ví như nhân vật Tú chỉ có khả

năng về công việc hành chính lại ôm mộng viết văn. Bà mẹ nhân vật Dũng lẽ ra

phải giữ nếp chân quê lại cứ muốn diễn vai người đàn bà quyền quý thành ra

“quê không ra quê, tỉnh không ra tỉnh” …Chính trong những nghịch lý trớ trêu

ấy, tiếng cười mới bật ra. Tuy nhiên, nếu cũng những cảnh ấy vào tay Tú

Xương thì ắt hẳn độc giả đã được nếm một dư vị chua chát, cay đắng trong lời

lẽ châm biếm sắc sảo, sâu cay; nhưng với Nguyễn Khải, ông không lấy đó để

phê phán mà chỉ như một cách mỉa mai, châm biếm nhẹ nhàng để đem đến một

tiếng cười vui vẻ mà thôi.

Bên cạnh việc tổ chức các đối thoại thì những lời độc thoại cũng được dùng

rất đắc dụng, bởi chính qua những lời độc thoại nhiều sắc thái này mà sự tự ý

thức của nhân vật trở nên sắc nét, chân thực hơn. Điều độc đáo nhất ở những

lời độc thoại này là lối nói tự trào, đùa tếu của chính người trần thuật. Đành

rằng không phải lúc nào người kể chuyện cũng trùng khít với nhà văn, nhưng

họ chính là người luôn hoà nhập, sát cánh cùng nhân vật để nhìn nhận, quan

sát, bộc lộ thái độ chứ không chỉ hoàn toàn là người đưa phán xét, đánh giá vấn

đề. Người đọc không khó để tìm thấy trong những trang viết của Nguyễn Khải

những lời thú nhận có vẻ bông đùa với xen lẫn vị chua chát về nghề viết văn và

những người hành nghề “bán chữ lấy tiền” này. Chẳng hạn khi viết về sự ngộ

nhận của nhân vật tôi về một nền văn học XHCN bất biến để rồi té ngửa, thất

vọng bởi: “Anh viết chính trị quá, cao siêu quá, bạn đọc sẽ khó mua- Bạn đọc

nào? Bạn đọc của tôi vẫn trung thành với tôi mà!-Bạn đọc quen thuộc của anh

86 8 6

đã tới tuổi về hưu rồi, đã về hưu tiền ăn còn chả đủ lấy tiền đâu mua

sách.”[28-280] thế nên họ không chịu thức thời thì chỉ có thể là những nhà văn

tồi, nhà văn thất bại, bị bạn bè khinh rẻ vì không kiếm ra tiền. Họ chua chát

nhận ra sự lạc lõng rẻ rúng của cả một thế hệ mình khi thân phận anh nhà văn

“phải xếp dưới thầy cúng với thầy bói. Mấy nghề này đang hái ra tiền vì còn

rất cần thiết cho những cái mộng tỷ phú” [28-281]. Hay trong truyện ngắn

Phía khuất mặt ngƣời , yếu tố tự trào, tự giễu cứ tự nhiên bộc lộ qua cách kể

chuyện hồn nhiên rất có duyên của nhân vật tôi. Cười mình đấy, Nhạo mình

đấy mà cứ như không. “Anh giống như người đã chịu nhiều thất bại, thất bại

trong nghề nghiệp, trong trường tình, có thể cả trong tình bạn...nói nửa lời.

cười nửa miệng…còn tôi thì thuộc loaị đang hành tiến, muốn làm gì cũng

được, “cười ha há, nói toang toang” . “Văn anh buồn, chữ nghĩa mệt mỏi

nhưng đã đọc thì không thể quên được, nó dính vào da thịt mình đến tận bây

giờ…Văn tôi thì khác, người ra kẻ vào ồn ào, nói năng băm bổ, chõ vào mặt

nhau mà nói, mà lý sự thì người đọc không kịp thở, không kịp cãi” [30-186]

Đôi khi cái cười trong văn Nguyễn Khải còn có một cái gì đó trào lộng, chua

chát dù là không nhiều lắm. Ví như khi ông dùng chính giọng giễu nhại để nói

về thời cuộc trong truyện ngắn Đất kinh kỳ :”Nếu được ông Nguyễn Tuân khen

có lẽ tôi thích hơn vì ông Nguyễn có một uy quyền trong văn giới. Được ông

Nguyễn Đình Thi khen thì càng vui vì ông Thi là người lãnh đạo Hội. Còn được

ông Tố Hữu khen thì nhất vì ông ấy là Đảng và Chính phủ”[27-436].

Dù có thể đây đó còn nhiều điều chưa bằng lòng với mình, với xã hội , với

cuộc đời nhưng Nguyễn Khải viết ra những điều đó không phải để đả kích,

châm chọc mà chỉ muốn qua đó làm dịu bớt đi những căng thẳng, những bức

xũc, dồn nén trong tâm tư, tình cảm của mỗi người. Giọng hài hước của ông chỉ

dừng lại ở giọng đùa giỡn, tếu táo cho vui , cho thoải mái để rồi từ đó con

người ta ngẫm ra , vỡ ra một điều gì đó, một phần của cuộc sống. của vận hội ,

của thời cuộc mà mình đã lãng quên.

3.2.2. Giọng văn tâm tình, chia sẻ

Cùng với nội dung thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, giọng điệu trong văn

Nguyễn Khải cũng có sự thay đổi. Nếu như trước đây tác phẩm của ông nói

87 8 7

chung thường viết theo lối một chiều đơn giản, dễ dãi thì nay ông đã thay đổi,

cùng với sự thay đổi về điểm nhìn trần thuật thì đồng thời giọng điệu cũng

được làm phong phú thêm. Các hình thức đan cài “truyện trong truyện” là lối

viết của văn học thế kỷ mới cũng được ông vận dụng triệt để để làm nổi bật

những vấn đề tư tưởng của tác phẩm.

Một điều thường thấy trong tác phẩm Nguyễn Khải nói chung và những

truyện ngắn của ông nói riêng là những cuộc gặp gỡ, đàm luận, phỏng vấn

chớp nhoáng của người trần thuật với các nhân vật. Tác giả luôn muốn người

đọc cùng sẻ chia, luận bàn về những vấn đề ông đưa ra, thế nên trong những

“mẩu chuyện” ấy, các lời đối thoại, hội thoại cứ dồn dập, trùng điệp, đan cài

vào nhau, tất cả chúng tập hợp lại để đưa ra, để mở ra một vấn đề, một nhận

định còn dở dang, còn bỏ ngỏ. Và sau những trang văn của Nguyễn Khải luôn

luôn là những khoảng trống đòi người đọc phải lấp đầy.

Cùng với thời gian, cái chanh chua, gay gắt hay cãi lý, nói lý của Ngyễn

Khải đã dần nhường chỗ cho sự điềm đạm, suy ngẫm. Một ông già hay trầm tư,

băn khoăn, lúc nào cũng chỉ thích nghiền ngẫm thế thái nhân tình đã thay thế

cho chàng thanh niên trẻ trung, sốc nổi, “lắm điều” ngày nào. Ta thường thấy,

người trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Khải hầu hết là những chứng

nhân của một thời kỳ đã qua- cái thời vàng son chói lọi của họ, đòng thời cũng

là người trực tiếp chứng kiến một thời đại mới đang “thai nghén” với đủ những

lạ lẫm, thách thức. Những sự trải nghiệm cùng với quãng đời không dài mà

cũng không còn là ngắn đủ để họ đưa ra những triết lý cho riêng mình. Chính ở

những nhân vật này những vấn đề của đời sống nhân sinh đã được đúc kết lại.

Đặc biệt khi chính Nguyễn Khải trở lại với những nơi mình đã đi qua và những

gì mình đã viết, gặp lại những con người một thời từng là nhân vật của mình,

để càng thấy rõ hơn sự thay đổi của đời người. Những gì của hôm qua và

những gì của ngày hôm nay mình nhìn thấy là hai mảng hoàn toàn trái ngược

nhau để rồi ngậm ngùi, chua chát: “Trở lại với những kỷ niệm là trở lại với

những gì đã vĩnh viễn mất nên bao giờ cũng buồn”. Giờ đây, tác giả cũng như

những “người già” trong tác phẩm của mình, cảm nhận được tận cùng nỗi

niềm, tâm trạng cô đơn, lạc lõng, bơ vơ của cả một thế hệ. Đã từng một thời, họ

88 8 8

là những người dám sống hết mình cho lý tưởng, đã từng một thời họ là những

con người sục sôi đầy nhiệt huyết, đã từng một thời họ là một phần của những

chiến công lẫy lừng, đã từng một thời....Còn bây giờ, họ chỉ còn là những “anh

hùng bĩ vận”, những kẻ ”lạc thời” với một tình cảnh chung: “... họ quên tôi rồi.

Tôi ngồi sờ sờ ở đây họ vẫn muốn quên, một lời mời tử tế cũng chẳng có. Vì

quen biết tôi, bầu bạn với tôi, các vị ấy chả được một chút lợi lộc gì. Tôi không

có tiền, lại không có danh, có khi còn gây phiền” [27-630]. Dư vị xót xa, chua

chát và dường như có cả nước mắt trong nhiều trang viết về những nhân vật

cùng nghiệp cùng nghề. “Chúng tôi, những nhà văn nhà báo, không giỏi hơn

thiên hạ nhưng cũng không thể xem là ngu hơn, vậy mà cũng đang bị tình thế

mới dắt kéo như những tên nô lệ”[28-287]. Những khó khăn của nghề viết cũng

như lý tưởng của nó được nhà văn sẻ chia rất thành thật. Đó là “Thà bị thua

thiệt đến chín lần để khỏi có một lần xúc phạm đến nhân cách một người lương

thiện” có lẽ cũng chính bởi nguyên tắc ấy mà “ tôi vẫn có một cách xử sự rất

ngu” [28-216] theo đánh giá của xã hội. Những lớp người này cùng với kinh

nghiệm và vốn sống, sự nếm trải của họ ( người kể chuyện) luôn đúc kết một

vấn đề, như sẻ chia một kinh nghiệm nào đó của cuộc sống nhân sinh. Ở một số

tác phẩm, Nguyễn Khải với tư cách người kể chuyện, trở lại những vùng đất

xưa kia đã một thời bước vào tác phẩm của mình, ông đã nhìn nhận nó trong

một cái nhìn mới của ngày hôm nay để rồi thấy không khỏi ngậm ngùi trước

những đổi thay của kiếp người, cảm thông với một quá khứ có phần lệch lạc

cuả xã hội “no ăn mà buồn…Ngày ngày đều giống nhau, người người đều

giống nhau, một đời người như ngắn đi rất nhiều vì không có những may rủi,

không có những thăng trầm” [28-280]. Đồng thời vẫn cách nhìn ấy, ông chia sẻ

quan điểm của mình với lớp trẻ về xã hội mới, về thời buổi kinh tế thị trường :

“Cứ nhìn vào con mình và con cái của bạn mình là biết ngaythời thế đã thay

đổi, chúng là những nhân vật chính của một vận hội mới, một thời buổi mới,

thời mở cửa, thời làm giàu, làm giàu cho chính mình và làm giàu cho đất

nước…Là thời mà các giá trị cũ đã mất tính tuyệt đối! Còn những giá trị mới

thì loè nhoè, bảo phải cũng được, bảo trái cũng được. Nó là giá trị của buổi

giao thời. Nghĩa là còn phải gạn lọc chán những giá trị ấy mới trở thành giá trị

89 8 9

thật để chấn hưng một dân tộc”[28-315]. Dễ dàng nhận thấy, trong truyện ngắn

của Nguyễn Khải, người trần thuật luôn tham dự, có khi hoà nhập vào cuộc

sống của các nhân vật, từ đó bộc lộ cảm xúc và cách suy ngẫm riêng. Có thể là

những suy ngẫm về nhân cách của con người “một con người hiền lành là thế,

hồn nhiên là thế mà có ngày trở thành kẻ sát nhân…vì đã bị mất phương hướng

trước những biến động tự phát của thời cuộc” , có thể là về một triết lý sống

“Thời nào cũng thế, không ai đọc sách chỉ để tu dưỡng tính tình. Đã đọc sách

là có mong mỏi một mai được xuất chính, ở vị trí then chốt của guồng máy

quản lý quốc gia, thành nhà chính trị…” [28-250].

Điều đáng nói là, để làm nên chất giọng riêng này, tác giả đã xây dựng trong

truyện ngắn của mình một thế giới nhân vật thuộc hàng “cây cao, bóng cả” cả

trong tuổi tác cũng như trong nhân cách. Trải qua bao thăng trầm, biến động

của thời cuộc, những con người ấy vẫn “biết thích ứng nhanh để hoà nhập

nhưng không chịu để mất những niềm tin riêng, cái cốt cách riêng của mình”.

Để rồi, qua lời của họ, qua những đắng cay, mặn chát của cuộc đời họ, tác giả

muốn người đọc cảm nhận những giá trị đích thực của cuộc sống này. “Hạnh

phúc không bao giờ là món quà tặng bất ngờ, không thể đi tìm mà cũng không

nên cầu xin. Nó là cách sống, một quan niệm sống, là nếp nhà, ở trong tay

mình nhưng nhận ra được nó, có ý thức vun trồng nó lại hoàn toàn không dễ.”

[26-467].Cũng đôi khi, ta lại bắt gặp những lời bình luận tinh tế về văn chương

của những nhà văn lớp trước để thấy được giá trị của văn hoá với nghề viết

“Cái nước sông Hồng,cái gió sông Hồng nó lạ lám, nó làm ra văn chương Bắc

Hà, văn chương Hà Nội. Anh muốn sống ở đâu cũng được, viết ở đâu cũng

được nhưng phải tráng qua tý chút hơi hướng của Tràng An thi mới thành văn

chương đích thực” [26-472].

Trong truyện ngắn Nguyễn Khải, lời thoại bộc lộ sự trải nghiệm rất tự nhiên,

thoải mái, nhẹ nhàng; không phải là những lời giáo huần mà là những lời sẻ

chia tâm tình hết sức gần gụi. Có thể trong một không gian rộng hay hẹp, là

quá khứ hay tương lai thì những lời thoại trong văn ông vẫn đầy nỗi niềm , tâm

sự, chất chứa suy tư.Bằng cách này, Nguyễn Khải đã kéo ngưòi đọc lại gần với

mình hơn, xoá bỏ khoảng cách ngăn giữa nhân vật và độc giả tạo cho văn ông

90 9 0

một sự gần gũi, thân thiện đến lạ kỳ.

Không thay đổi là một cách tự vẫn nhưng có những thay đổi khiến ta đến

gần cái chết hơn- đó là sự thay đổi không hợp lý. Nguyễn Khải không rơi vào

số những trường hợp ấy. Những bước đi của ông luôn gắn liền với sự phát triển

và thay đổi của nhu cầu thời đại. Những thay đổi tích cực của nền văn học mới

luôn được ông bắt kịp. Cùng với sự tinh nhạy, sắc bén vốn có trong cách nhìn

nhận mổ xẻ hiện thực, cộng với bề dày kinh nghiệm cả trên đường đời lẫn trên

con đường văn nghiệp đã tạo cho Nguyễn Khải một bệ phóng tương đối vững

chãi. Cùng với những tác phẩm trước đó, những truyện ngắn sau 86 của ông

tiếp tục khẳng định tài năng cũng như nét đặc sắc riêng gọi tên Nguyễn Khải.

KẾT LUẬN

1.Bắt đầu sự nghiệp văn chương từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, không

ngừng tìm tòi trong hơn nửa thế kỷ, Nguyễn Khải thuộc số ít các nhà văn thế hệ

sau 1945 có thành tựu nổi bật trong việc bám sát các biến động của lịch sử và

trên cơ sở đó đề xuất các vấn đề có ý nghĩa thời đại. Là một nhà văn luôn có ý

thức gắn sự nghiệp sáng tác của mình với các vấn đề lớn lao và nóng bỏng của

thực tiễn, đồng thời luôn lắng nghe sự phản hồi của đọc giả để mỗi trang văn

ông viết ra đều trở thành một cuộc đối thoại với bạn đọc.

2.Luôn theo sát những diễn biến của thời cuộc, với tiến trình cách mạng, nhìn

trên tổng thể tác phẩm cũng như truyện ngắn của Nguyễn Khải là sự phản chiếu

của sự phát triển xã hội. Trên cơ sở vừa bám sát dòng chảy hiện thực, vừa đi

vào chiều sâu của nó, không một giai đoạn nào của lịch sử với những vấn đề và

sự kiện tiêu biểu của nó lại không có mặt trong tác phẩm của ông dù ở những

mức độ đậm nhạt khác nhau và sự thành công cũng không giống nhau. Thế giới

nhân vật của truyện ngắn Nguyễn Khải là thế giới của những con người thời

đại. họ là những nhân tố mới tiêu biểu cho một xã hội mới. Thời cuộc sinh ra

họ và cũng chính họ làm thay đổi thời cuộc. Trên nền tảng hiện thực, cùng với

xu thế phát triển của thời đại, với một cảm hứng nghiên cứu, phân tích đến say

mê, Nguyễn Khải đã nhìn vấn đề hiện thực cũng như con người ở nhiều phía

khác nhau để từ đó khám phá ra bản chất của hiện thực và diện mạo tinh thần

91 9 1

của con người thời đại. Tuy nhiên, càng về sau thì những vấn đề mang tính

thời sự lớn lao càng ít được Nguyễn Khải chú ý. Ông tập trung vào những vấn

đề bình thường thậm chí là rất nhỏ trong đời sống hàng ngày. Khám phá hiện

thực từ một góc nhìn mới như là một cách để trả nợ mình và trả nợ đời.

3.Mỗi tác phẩm Nguyễn Khải viết ra là kết quả của những thôi thúc nội tại

trong tâm hồn và những trăn trở, suy ngẫm, tìm tòi trong nhận thức. Nguyễn

Khải luôn có ý thức hướng cái nhìn của mình vào thế giới hiện thực của ngày

hôm nay. Tuy nhiên, cái mà ông quan tâm không phải là sự kiện hiện thực đã

tự nó tồn tại hiển nhiên mà là ở những giá trị tư tưởng. Bởi thế, hiện thực của

miền tư tưởng cũng là điều được ông quan tâm. Ông luôn tìm cách tiếp cận con

người về mặt tư tưởng, tâm linh. Những mâu thuẫn, giằng xé, thăng trầm trong

chính đời sống tinh thần của con người thời đại là nơi biểu hiện rõ nhất những

thay đổi của thời đại mà nó đang sống. Ở những truyện ngắn trước 86, điều này

chưa được biểu hiện đậm nét nhưng càng về sau khuynh hướng này càng lộ rõ.

Hướng đi này tạo cho ngòi bút Nguyễn Khải có được một tầm tư tưởng, tầm

khái quát triết học cao cũng như đem lại cho nhân vật của ông một vẻ đẹp mới-

vẻ đẹp của tinh thần, vẻ đẹp của trí tuệ.

4.Về phương diện nghệ thuật, Nguyễn Khải đã tạo được cho mình một giọng

điệu riêng vừa truyền thống, vừa hiện đại , phối hợp được nhiều chất giọng

nhằm tái hiện lại muôn mặt đời sống, mọi trạng thái của tình cảm con người,

đồng thời tạo ra được không khí dân chủ trong đời sống văn học. Sự thay đổi

cũng như ngày càng phong phú về giọng văn cho thấy một ưu thế về vốn sống

và một khả năng làm chủ ngôn ngữ cũng như cách chiếm lĩnh hiện thực riêng

của Nguyễn Khải.

5. So với nhiều tác giả cùng thế hệ, Nguyễn Khải là người tương đối sung sức

trong suốt hành trình sáng tạo của mình; vừa giữ được sự thống nhất chung vừa

tạo được dấu ấn riêng trong từng giai đoạn. Đó là điều làm nên giá trị và sức

hấp dẫn cho truyện ngắn sau 1986 của Nguyễn Khải nói riêng và văn xuôi

Nguyễn Khải nói chung. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, những đổi mới đó

không đi ra ngoài xu hướng chung của văn học thời đại. Xét cho cùng thì

những tìm tòi, đổi mới mang dấu ấn Nguyễn Khải trong những truyện ngắn sau

92 9 2

1986 vẫn là dựa trên những gợi ý của thời đại, ông vẫn chưa phải là người đi

trước thời đại. Đóng góp của ông , nói đúng hơn chính là ở chỗ ông đã diễn đạt

được tinh thần thời đại qua một thế giới nhân vật thích ứng với sự nông sâu

trong nhận thức của riêng ông. Có nghĩa là, ông muốn qua chính tác phẩm để

đưa đến cho bạn đọc sự sống và những chiêm nghiệm của chính bản thân mình.

Hành trình của một cuộc đời lao động không biết mệt mỏi đã đưa Nguyễn

Khải đến được với một vị trí xác đáng trong lòng bạn đọc. Mỗi trang văn của

ông luôn là sự gợi mở cho người đọc nhiều ý nghĩa như những trang đời không

bao giờ khép lại.

Tài liệu tham khảo

1.Vũ Tuấn Anh (1994) Những vấn đề của văn học hiện đại qua ba cuộc

thảo luận, Tạp chí văn học,Số 9.

2.Nguyễn Thị Bình (1998) Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường,

NXB GD,Hà Nội,

3.Thành Duy (1961) Mùa lạc,một thành công mới của Nguyễn

Khải,Tạp chí Nghiên cứu văn học,số6.

93 9 3

4.Đặng Anh Đào (1992) Một hiện tƣợng mới trong hình thức kể chuyện

hôm nay,Tạp chí Văn học, số6.

5.Phan Cự Đệ (1969) Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật của Nguyễn

Khải, Báo Văn nghệ ,số 322.

6. Phan Cự Đệ (1983) Các nhà văn Việt Nam hiện đại, NXB ĐH&TH

chuyên nghiệp, Hà Nội.

7. Phan Cự Đệ (1995) 50 năm văn xuôi cách mạng (45-95), Tạp chí Văn

học số11.

8.Phan Cự Đệ (1983) Nguyễn Khải, Sách Nhà văn Việt Nam(1945-

1975)(TII),NXB ĐH&TH chuyên nghiệp,Hà Nội.

9.Bùi Hiển (1987) Bình truyện ngắn Ngƣời gặp hàng ngày của Nguyễn

Khải, Phụ trương báo Văn nghệ, tháng 6.

10.Hà Minh Đức (2001) Mùa lạc của Nguyễn Khải, Sách Tác phẩm văn

học,bình giảng và phân tích, NXBVăn học,Hà Nội.

11.Nguyễn Văn Hạnh (1964)Vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn Khải,Tạp

chí Văn học,số 9.

12. Hoàng Ngọc Hiến (1992) Năm bài giảng về thể loại, NXB GD Hà

Nội.

13 .Nguyễn Thị Huệ (1999) Cảm nhận về con ngƣời trong sáng tác của

Nguyễn Khải những năm gần đây, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt

Nam,tháng 10.

14.Nguyễn Thị Huệ (1999) Nguyễn Khải trong nhận thức mới về con

ngƣời trƣớc các lựa chọn lịch sử, Tạp chí Tác phẩm mới ,số 11.

15.Nguyễn Khải (1995) Hãy nhìn sự đổi mới của văn học với đôi mắt

thƣởng thức và thái độ khoan dung, Tạp chí Văn học, số4.

16.Nguyễn Khải (1995) Nhìn lại những trang viết của mình .Tham luận

tại Hội thảo Việt Nam nửa thế kỷ văn học. Báo Văn nghệ, số 39, ngày 30

tháng 9.

94 9 4

17.Nguyễn Khải (1989) Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ. Báo Văn

nghệ, số 41 ngày 14 tháng 10.

18.Nguyễn Khải (1995) Hãy nhìn sự chuyển hoá của văn học với đôi

mắt thƣởng thức và thái độ khoan dung, Tạp chí văn học số 4.

19.Nguyễn Khải (1998) Thời nào anh hùng nấy. Phụ san Văn nghệ

quân đội, số 2, tháng 2.

20.Nguyễn Khải (1962) Tính hiện thực trong văn học,Tạp chí Văn nghệ

quân đội, tháng 3.

21.Nguyễn Khải(1963) Hãy đi xa hơn nữa,tập truyện ngắn, NXB Văn

học, HN.

22.Nguyễn Khải (1964) Ngƣời trở về(tập truyện vừa),NXB Văn học,HN.

23.Nguyễn Khải (1990) Một ngƣời Hà Nội(tập truyện ngắn),NXB HN.

24.Nguyễn Khải (1993) Sƣ già chùa Thắm và ông đại tá về hƣu(tập

truyện),NXB Hội Nhà văn,HN.

25.Nguyễn Khải (1995) Hà Nội trong mắt tôi(tập truyện ngắn),NXB HN.

26.Nguyễn Khải (1996) Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Khải,NXB Hội

nhà văn,HN.

27.Nguyễn Khải (2002 ) Tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn Khải,NXB Hội

nhà văn,Hà Nội .

28.Nguyễn Khải (1998) Chuyện cà kê (I-IV). Phụ san Báo Văn nghệ

quân đội (từ số 10, tháng 5 đến số 15, tháng 8.

29.Nguyễn Khải (1999) Truyện nghề, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Hà

Nội.

30.Nguyễn Khải (1998) Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả quan niệm

về tiểu thuyết, Báo Tuổi trẻ chủ nhật.

31.Nguyễn Khải (1999)Tìm đất sống, Bút ký, Báo Văn nghệ, số 29.

32.Tôn Phương Lan (2001) Nguyễn Khải (Các nhà văn nhận giải thưởng HCM

33.Phong Lê (1983) Văn học những năm 80,Tạp chí Văn học,số 3.

95 9 5

năm 2000),Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam,tháng 4.

34.guyễn Văn Long (1986) Nghĩ thêm về thành tựu truyện ngắn nhân

một tuyển tập, Báo Văn nghệ ngày 9/8.

35.Phuơng Lựu (chủ biên) (2004) Lý luận văn học (3tập),NXB GD.

36.Nguyễn Đăng Mạnh (2000) Dại khôn Nguyễn Khải,Báo Văn nghệ,số

37. Nguyễn Đăng Mạnh (2002) Nguyễn Khải-Đời ngƣời, đời văn,Tạp

chí Nhà văn, số9.

38.Vũ Tú Nam (1960) Thêm một bƣớc phát triển của ngòi bút Nguyễn

Khải,Báo Văn học,số120.

39.Vũ Tú Nam (1961) Vài ý nghĩ nhân khi đọc truyện của Nguyễn

Khải,Báo Văn học,số176.

40.Chu Nga (1974) Đặc điểm hiện thực ngòi bút Nguyễn Khải,Tạp chí

Văn học ,số2.

41.Chu Nga (1977) Đặc điểm sáng tác của Nguyễn Khải, Sách Tác gia

văn xuôi VN hiện đại,NXB KHXH,Hà Nội.

42.Nguyễn Tuyết Nga (1999) Nguyễn Khải với bút ký, tạp văn,Tạp chí

Văn học, số 11.

43.Đào Thuỷ Nguyên (1998) Phong cách hiện thực tỉnh táo và thế gíơi

nhân vật Nguyễn Khải, Tạp chí Tác phẩm mới,số3.

44.Đào Thuỷ Nguyên (2000) Thế giới nhân vật Nguyễn Khaỉ theo dòng

thời gian, Tạp chí Văn học,số12.

45.Đào Thuỷ Nguyên (2001) Thế giói nhân vật Nguyễn Khải trong cảm

hứng nghiên cứu, phân tích,Tạp chí Văn học,số11.

46.Vương Trí Nhàn (1999) Cái trẻ của tuổi già, Sách Cánh bướm và

đoá hướng dương, NXB Hải Phòng.

47.Vương Trí Nhàn (1996) Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Khải

(T.I),NXB Văn học, Hà Nội.

48. Vương Trí Nhàn (1999) Nguyễn Khải hay là một cách tồn tại trong

văn học, Sách Cánh bướm và đoá hướng dương, NXB Hải Phòng.

96 9 6

49.Vương Trí Nhàn (tuyển chọn) (1996) Tuyển tập Nguyễn Khải (3 tập),

NXB Văn học,HN.

50. Vương Trí Nhàn (1996) Vài nét về sáng tác Nguyễn Khải những

năm gần đây,Tạp chí văn học.

51.Như Phong (1964) Phƣơng hƣớng tìm tòi của Nguyễn Khải qua tập

Mùa lạc, Sách Bình luận văn học, NXB Văn học, Hà Nội.

52.Hồ Phương (1960), Đọc Mùa lạc của Nguyễn Khải, Tạp chí Văn

nghệ,số 43.

53.Trần Thanh Phương (1998) Nguyễn Khải với Hà Nội trong mắt

tôi,Phụ san Báo Văn nghệ quân đội,số11.

54.Nguyễn Hữu Sơn (1999) Đọc “Truyện ngắn và tạp văn” của Nguyễn

Khải,Báo Nhân dân, ngày 27/2.

55.Huyền Sương (1997) “Nếu nhƣ trái tim tôi chƣa nguội lạnh”(Đọc

“Truyện ngắn và tạp văn” của Nguyễn Khải),Báo Phụ nữ TP

HCM,số78.

56.Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (sưu tầm và biên soạn) (1997) Văn

học Việt Nam 75-85,Tác phẩm và dư luận, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

57.Hữu Thỉnh (1998) Thêm một thành công của mảng đề tài quan trọng

và hấp dẫn,Báo Văn nghệ,số33.

58.Bích Thu (1999) Nguyễn Khải:một đời gắn bó với thời đại và dân

tộc,Tạp chí Văn nghệ quân đội, tháng1.

59.Bích Thu (1997) Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn

Khải những năm 80 đến nay,Tạp chí văn học,số10.

60.Đinh Quang Tốn (1997) Nguyễn Khải với Hà Nội,Báo Văn

nghệ,số19.

.

97 9 7