ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------

PHẠM THỊ THANH THỦY

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------

PHẠM THỊ THANH THỦY

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ : 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức

HÀ NỘI - 2010

MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................... 1

I. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1

II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................... 2

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 5

IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ................................................. 6

V. Kết cấu luận văn .................................................................................... 6

CHƯƠNG I. VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM

1930-1945 VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG TÔ HOÀI ....................... 7

1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945 ....................................... 7

1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương Tô Hoài ............................................ 14

1.2.1. Quan niệm của Tô Hoài về văn chương nghệ thuật ......................... 14

1.2.2. Những thành công trong sự nghiệp văn chương Tô Hoài ................ 17

Tiểu kết .................................................................................................... 22

CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG .......... 23

2.1. Khái niệm về nhân vật ....................................................................... 23

2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng

tháng Tám ................................................................................................ 23

2.2.1. Nhân vật nông dân, thợ thủ công .................................................... 24

2.2.2. Nhân vật trí thức ............................................................................. 30

2.2.3. Hình tượng loài vật ......................................................................... 32

2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài

trước Cách mạng tháng Tám .................................................................... 35

2.3.1. Nhân vật gắn với môi trường lao động, sinh hoạt ........................... 36

2.3.2. Nhân vật được chú trọng miêu tả ở ngoại hình, hành động, lời nói ..... 37

2.3.3. Nhân vật được xây dựng dựa trên những chi tiết về phong tục ....... 41

2.3.4. Sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc để miêu tả nhân vật ................... 43

Tiểu kết .................................................................................................... 45

CHƯƠNG III. ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU, TÌNH HUỐNG

TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ......46

3.1. Kết cấu .............................................................................................. 46

3.1.1. Khái niệm kết cấu ........................................................................... 46

3.1.2. Kết cấu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng ............... 47

3.1.2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian ..................................................... 47

3.1.2.2. Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian ................................................ 49

3.1.2.3. Kết cấu với kết thúc bất ngờ và để ngỏ ........................................ 52

3.1.2.4. Kết cấu đơn giản đan xen với trữ tình ngoại đề .......................... 54

3.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám ....... 56

3.2.1. Khái niệm về tình huống................................................................. 56

3.2.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám ...... 56

3.2.2.1. Tình huống đời thường ................................................................ 57

3.2.2.2. Tình huống bỏ làng ra đi ............................................................. 58

3.2.2.3. Tình huống chia li ........................................................................ 59

Tiểu kết .................................................................................................... 60

CHƯƠNG IV. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG

TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM .. 61

4.1. Ngôn ngữ........................................................................................... 61

4.1.1. Khái niệm ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương ............................ 61

4.1.2. Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng

tháng Tám ................................................................................................ 61

4.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình ........................................................ 63

4.1.2.2. Ngôn ngữ dân giã ........................................................................ 69

4.1.2.3. Ngôn ngữ đa thanh ...................................................................... 72

4.1.2.4. Sử dụng nhiều câu văn ngắn gây ấn tượng .................................. 74

4.2. Giọng điệu trần thuật ......................................................................... 77

4.2.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật ................................................. 77

4.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng ..... 78

4.2.2.1. Giọng điệu dí dỏm ....................................................................... 78

4.2.2.2. Giọng điệu dửng dưng ................................................................. 81

4.2.2.3. Giọng điệu trữ tình man mác ....................................................... 83

4.2.2.4. Giọng điệu suồng sã, tự nhiên ..................................................... 86

Tiểu kết .................................................................................................... 88

KẾT LUẬN ............................................................................................. 89

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 91

PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài

Trong dòng văn học hiện đại Việt Nam, Tô Hoài được đánh giá là một

cây đại thụ. Ông nhận giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm 1996. Nhà phê

bình Vương Trí Nhàn đã nhận xét : “So với các cây bút đương thời, Tô Hoài

có lẽ là nhà văn giàu chất chuyên nghiệp bậc nhất. Sống đến đâu viết đến

đấy. Việc viết lách đối với ông là một thứ lao động hàng ngày”. Giáo sư Hà

Minh Đức cho rằng “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”.

Quả thật, Tô Hoài đã miệt mài sáng tác 70 năm nay và đã cho ra đời 160 đầu

sách. Ông thành công ở nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, truyện

đồng thoại, tiểu thuyết, kịch, hồi kí, chân dung văn học. Nghiên cứu nghệ

thuật văn chương Tô Hoài sẽ giúp chúng ta đánh giá được đầy đủ hơn những

đóng góp của ông với nền văn học nước nhà.

Tô Hoài nổi tiếng với những tác phẩm như truyện dài Dế Mèn phiêu lưu

kí, Quê người, Quê nhà, Đêm mưa, Xóm giếng, tiểu thuyết Nhớ Mai Châu, Kẻ

cướp bến Bỏi, hồi kí Cát bụi chân ai, Tự truyện, tập truyện ngắn Tây Bắc...

Không chỉ thành công ở truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, ở thể loại

truyện ngắn ngay từ ngày đầu cầm bút, Tô Hoài đã tạo được cho mình một

phong cách riêng. Truyện ngắn của ông hấp dẫn người đọc ở mọi lứa tuổi

với lời kể chuyện hóm hỉnh, tài quan sát và miêu tả, cách thể hiện nhân vật

sinh động. Chuyện về một làng quê làm nghề dệt cửi với biết bao lo toan,

xuôi ngược mà cuộc sống vẫn vất vả bộn bề đã để lại nhiều cảm xúc trong

lòng người đọc.

Ngày nay, truyện ngắn vẫn là một thể loại chiếm vị trí quan trọng trong

đời sống văn học. Nó có sức phát triển bền bỉ qua năm tháng. Vì cuộc sống

công nghiệp bận rộn, gấp gáp, nhiều người yêu văn đã tìm đọc truyện ngắn. Họ

vẫn thấy ở truyện ngắn những bài học cuộc sống, những tâm tình về số phận

1

con người, cả định hướng tương lai. Các nhà văn tâm huyết với nghề cũng

đang lao động không ngừng để tìm hướng phát triển mới của truyện ngắn.

Với đề tài “Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách

mạng”, chúng tôi muốn có cái nhìn đầy đủ, trọn vẹn về những đóng góp của

Tô Hoài trong quá trình vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam

hiện đại.

II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Tô Hoài bước vào con đường văn học khá sớm. Ông cầm bút và nổi

danh từ trước năm 1945. Đến nay, Tô Hoài vẫn là nhà văn viết nhiều, dẻo

dai, sung sức ở các thể loại. Truyện ngắn Tô Hoài đã được giới phê bình văn

học chú ý ngay từ những ngày đầu cầm bút.

Các truyện ngắn của Tô Hoài trước năm 1945 được nhà xuất bản Hoa

Tiên Sài Gòn in lai với tựa đề “Chuột thành phố”, năm 1967 đã khẳng định

“Các truyện ngắn O chuột, Gã chuột bạch, Con dế mèn, Đực, Cu Lặc, Tuổi

trẻ, Một cuộc bể dâu… Đó là những tập truỵên ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho

lối văn dí dỏm, tinh nghịch của nhà văn Tô Hoài. Hầu hết những tập truyện

ngắn này, tuy cái vỏ bên ngoài nó mang nhãn hiệu là truỵên loài vật, nhưng

thực chất bên trong nó là sự phản ánh trung thực của truyện loài người, sống

giữa giữa cuộc đảo điên của xã hội ngày nay…”[28, tr 1]

Những ý kiến đánh giá phê bình về truyện ngắn của Tô Hoài còn

được tập trung trong cuốn Tô Hoài về tác gia và tác phẩm, nhà xuất bản

Giáo dục, năm 2007 được tái bản nhiều lần, do Phong Lê (giới thiệu) và Vân

Thanh (tuyển chọn).

Phong Lê cho rằng: “Đặc sắc của Tô Hoài trước năm 1945 là truyện

ngắn, gồm truyện ngắn về loài vật và truyện ngắn về cảnh và người một

vùng quê ven đô- quê ngoại và cũng là quê sinh - nơi tác giả đã sinh sống

suối đời cho đến hôm nay.” [31, tr 30]. Ngòi bút của Tô Hoài đã miêu tả sự

thay đổi của cuộc sống xung quanh mình những năm trước năm 1945.

2

Vũ Ngọc Phan nhận ra ngay cả những truyện ngắn viết về loài vật của Tô

Hoài người đọc cũng thấy thấp thoáng cuộc sống của người dân quê: “Dưới

con mắt của Tô Hoài, những nhách chó nhỏ nằm vật lên nhau, rên ư ử mà

ngủ kia. Chính là “những đứa trẻ nằm mơ, những đứa trẻ khoai củ ở nhà

quê”... chị gà mái “là một người đàn bà giỏi giang, đa tình thì nhất mực đa

tình, mà khi vướng vào cái bổn phận dạy dỗ nuôi nấng con trẻ lại đáng nên

một bậc mẹ hiền gương mẫu.” [31, tr 64-65]

Khi nghiên cứu về Tô Hoài, Phan Cự Đệ nhận xét: “Tô Hoài có một

khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh, hóm hỉnh và tinh tế. Khả năng

này giúp anh thành công khi miêu tả những hiện tượng bên ngoài, dễ trực

tiếp quan sát và cảm thụ; cảnh vật thiên nhiên, sinh hoạt hằng ngày, phong

tục lễ nghi, thế giới loài vật, vv... nhưng khả năng này rõ ràng là không đủ

khi nói về đời sống tâm lí bên trong, biện chứng tâm hồn, những quy lật bản

chất xã hội. Mặt khác, giống như một số nhà văn hiện thực phê phán chuyển

mình sang phương pháp hiện thực chủ nghĩa, Tô Hoài miêu tả khá thành

công các quan hệ gia đình, làng xóm, bạn bè, trai gái...”[31, tr 101]

Năm 2006, Mai Thị Nhung cho ra đời cuốn sách Phong cách nghệ

thuật Tô Hoài và bài viết Đặc điểm thế giới nhân vật Tô Hoài trên tạp chí

văn học. Trong đó, tác giả cũng đã thu thập rất nhiều ý kiến về nghệ thuật

viết văn Tô Hoài [38, tr 8, 9,10].

Phan Cự Đệ nhận thấy “Tô Hoài có khả năng quan sát đặc biệt, rất

thông minh, hóm hỉnh và tinh tế”. Nguyễn Đăng Mạnh cũng đồng quan

điểm “Nhà văn có khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sảo, tài hoa”. Hà

Minh Đức trong Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài khẳng định: “Tô Hoài có

một năng lực phát hiện và nắm bắt nhanh chóng thế giới khách quan”. Trần

Hữu Tá chỉ rõ năng lực đặc biệt của Tô Hoài chính là “nhãn quan phong tục

đặc biệt nhạy bén sắc sảo”. Nguyễn Văn Long nhấn mạnh: “Ở Tô Hoài, cảm

quan hiện thực nghiêng về phía sinh hoạt và phong tục”. Vương Trí Nhàn quả

3

quyết: “Tô Hoài lõi đời, sành sỏi, con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt”.

Nguyễn Đăng Điệp khái quát: “Cái nhìn không nghiêm trọng hóa là nét trội

trong cảm quan nghệ thuật của Tô Hoài”. Bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Mạnh

trong bài viết Tô Hoài với quan niệm “con người là con người”, tác giả khẳng

định: “Tô Hoài quan niệm con người là con người, chỉ là con người, thế thôi”.

Về ngôn ngữ giọng điệu, Vân Thanh nhận định: “Ngôn ngữ Tô Hoài thường

ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động”. Phan Cự Đệ cũng

có trùng một quan điểm như vậy: “Tô Hoài đã chú ý học tập ngôn ngữ nghề

nghiệp và ngôn ngữ địa phương”, “Trong tác phẩm của Tô Hoài, nhìn chung

ngôn ngữ của quần chúng đã được nâng cao, nghệ thuật hoá”. Cùng với Phan

Cự Đệ, Bùi Hiển thấy rằng: “Văn phong Tô Hoài chủ yếu bằng những nét

nhẹ, mảnh, nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi mờ ảo nữa”. Nguyễn Đăng Điệp

cũng nhận thấy những nét tiêu biểu về lối kể chuyện của Tô Hoài: “Viết về

cái của mình, quanh mình là định hướng nghệ thuật và cũng là kênh thẩm

mỹ của Tô Hoài. Đúng hơn, đây là yếu tố cốt lõi làm nên quan điểm nghệ

thuật của ông. Nó khiến ông cho văn Tô Hoài có được phong cách, giọng

điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và tinh quái”.

Năm 2007, cuốn Truyện ngắn Việt Nam lịch sử-thi pháp- chân dung”

do tác giả Phan Cự Đệ chủ biên đã viết về quá trình ra đời, phát triển của

truyện ngắn Việt Nam cùng với những gương mặt nhà văn tiêu biểu. Trong

đó, Tô Hoài đựơc nhắc đến cùng với các tác giả tên tuổi như Nguyễn Công

Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao... Người viết đã nhấn mạnh một số đặc trưng

nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài như “lối viết thông mình, hóm hỉnh, thậm

chí tinh quái, một đôi nét tâm lí và triết lí đượm sắc thái buồn pha chút mùi

vị chua chát kiểu Nam Cao”; “Những con vật trong tác phẩm Tô Hoài có nét

gì đó giống người, quen thuộc với người. Tô Hoài bắt rất nhanh những nét

đặc trưng trong tính cách của chúng.”; “Truyện ngắn Tô Hoài chịu nhiều

ảnh hưởng của văn học dân gian. Nhưng lối dẫn truyện, kết cấu truyện,

4

giọng điệu trần thuật cũng như các thủ pháp khắc hoạ tính cách nhân vật đã

thuộc về truyện ngắn hiện đại”; “Trong số truyện, cũng giống như Nam Cao

trong Chí Phèo, Tô Hòai đã sử dụng ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu

của người kể chuyện hoà lẫn với giọng điệu nhân vật”[5, tr 309, 310]...

Như vậy, những đặc điểm truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng đã

được đề cập trong một số bài viết và các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên

chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có tính hệ

thống. Chính vì thế, chúng tôi đã lựa chọn đề tài cho luận văn của mình là

“Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng”.

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1. Đối tượng

Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám

2. Phạm vi

Tuyển tập Tô Hoài, nhà xuất bản Văn học năm 1987, do giáo sư Hà

Minh Đức sưu tầm, tuyển chọn gồm 26 truyện ngắn.

1. Nhà nghèo 14. Ông dỗi

2. Lụa 15. Vàng phai

3. Một đêm gác rừng 16. Buổi chiều trong nhà

4. Chớp bể mưa nguồn 17. Khách nợ

5. Lá thư tình đầu tiên 18. Ông giăng không biết nói

6. Đi tắm đêm 19. Vợ chồng trẻ con

7. Hết một buổi chiều 20. Người đàn bà có mang

8. Một chuyến định đi xa 21. Dấy binh lấy lau làm cờ

9. Một người đi xa về 22. Con gà trống ri

10. Bóng đè 23. Đôi ri đá

11. Nhà có ma 24. Một cuộc bể dâu

12. Mùa ăn chơi 25. O chuột

13. Giữa thành phố 26. Gã chuột bạch

5

IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

1. Nhiệm vụ

Với đề tài nghiên cứu như trên, chúng tôi mong muốn:

+ Tìm ra những đặc điểm nổi bật về truyện ngắn của Tô Hoài trước

Cách mạng.

+ Đánh giá được những đóng góp của ông trong sự nghiệp văn chương

của dân tộc và đặc biệt là mảng truyện ngắn trước Cách mạng.

2. Phương pháp

+ Phương pháp phân tích tác phẩm.

+ Phương pháp so sánh

+ Phương pháp tổng hợp, thống kê

+ Phương pháp nghiên cứu liên ngành như ngôn ngữ, văn hóa...

V. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn

gồm có bốn chương

Chương I. Vài nét về diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945 và

sự nghiệp văn chương Tô Hoài.

Chương II. Đặc điểm nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn

của Tô Hoài trước Cách mạng.

Chương III. Đặc điểm kết cấu và tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài

trước Cách mạng.

Chương IV. Đặc điểm ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Tô

Hoài trước Cách mạng.

6

CHƯƠNG I

VÀI NÉT VỀ DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1930-1945

VÀ SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG TÔ HOÀI

1.1. Diện mạo truyện ngắn Việt Nam 1930-1945

Truyện ngắn Việt Nam ra đời từ thời kì văn học trung đại. Theo dòng

thời gian, thể loại này ngày càng phong phú, đa dạng, hoàn thiện, chiếm một

vị trí quan trọng trong nền văn học nước nhà. Có thể nói, giai đoạn 1930-

1945, truyện ngắn Việt Nam đã có bước tiến nhảy vọt, với nhiều phong cách

đa dạng, độc đáo.

Nhìn lại thời kì trước đó, ta mới thấy sự phát triển của truyện ngắn Việt

Nam 1930-1945.

Truyện ngắn Việt Nam thời trung đại mang nội dung và ảnh hưởng của

lối kể chuyện dân gian. Giai đoạn này còn chịu ảnh hưởng của lối văn tự sự

trong các bộ sử, lối văn ghi chép sử ít có tính văn học. Truyện có lối kể

chính xác, khách quan, lời văn ngắn gọn đơn giản, ít miêu tả tâm lí của nhân

vật, mang tính ước lệ tượng trưng. Truỵên ngắn trung đại là bước mở đầu,

đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam hiện đại.

Nhà văn Vũ Tú Nam cho rằng: “Truyện ngắn ở nước ta đã có từ lâu. Đó là

các ký cổ, truyện cổ tích…Học trong các truyện ngắn cổ như Truyền kì mạn

lục của Nguyễn Dữ, Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông… Những

truyện này đáng được học tập với thái độ trân trọng vì nó rất sinh động, súc

tích và sáng tạo. Truyện ngắn của ta nặng nề về kể và thường rất ngắn gọn,

độc đáo” [ 50, tr 63]

Bước sang thế kỉ XX, chữ quốc ngữ bắt đầu thể hiện ưu thế trong việc

mở rộng công chúng văn học. Với kĩ thuật in ấn, báo chí ngày càng phát

triển đã giúp cho các tác phẩm đến với công chúng dễ dàng và rộng lớn hơn,

chứ không bị bó hẹp như trước. Thể loại truyện ngắn đã có nhiều thay đổi

7

đáng kể. Bước đầu, truyện ngắn Việt Nam vẫn chịu ảnh hưởng của văn học

dân gian, văn học trung đại Việt Nam và Trung Quốc nhưng với sự xâm

nhập mạnh mẽ của văn hoá phương Tây, truyện ngắn thời kì này đã có màu

sắc mới. Truyện ngắn dân tộc đã dần dần chuyển mình hoà vào xu thế chung

của thời đại, vào quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà, vượt qua

những ảnh hưởng và hạn chế của các thế kỉ trước đó.

Sự ra đời của truyện ngắn hiện đại Việt Nam được đánh dấu bằng tác

phẩm Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887). Đây là

truyện ngắn đầu tiên được viết bằng chữ Quốc ngữ, khởi đầu cho hàng loạt

truyện ngắn bằng chữ quốc ngữ ở giai đoạn tiếp theo. Truyện đã đưa đến

nhiều cái mới mẻ cho công chúng. Truyện được kể ngắn gọn, sáng rõ, cốt

truyện, tình tiết, chi tiết không quá phức tạp về một chuyện tình tay ba (thầy

Phiền, vợ và bạn thân). Tác phẩm được viết theo lối kể chuyện ở ngôi thứ

nhất, kết cấu theo quy luật tâm lí chứ không theo trình tự thời gian, kết thúc

bằng bi kịch của nhân vật chứ không phải kết thúc có hậu như những câu

chuyện dân gian.

Vào những năm 20 của thế kỉ XX, truyện ngắn Việt Nam đã có nhiều

bước đi táo bạo với sự phát triển của nhiều khuynh hướng văn học.

Truyện ngắn viết theo khuynh hướng đạo lí gắn liền với các tên tuổi như

Nguyễn Bá Học, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Chánh Sắt…Bản thân họ

xuất thân là nhà Nho. Trước lối sống thực dụng của xã hội thị thành đang bị

Âu hoá, nền đạo đức Nho phong trong các gia đình phong kiến đã dần bị

phá vỡ. Những tác giả nhà Nho cảm thấy đau lòng. Họ lên tiếng bênh vực

đạo đức truyền thống. Quan niệm văn dĩ tải đạo vẫn chưa thoát khỏi các

phẩm của họ. Các tác giả chưa chú trọng xây dựng nhân vật có cá tính được

thể hiện ở chiều sâu tâm lí, ngôn ngữ, hành động. Nhân vật thực chất là một

mẫu hình để nhà văn thuyết giảng về đạo đức, vì vậy trở nên khô cứng, gò

bó, không có sức sống.

8

Khuynh hướng yêu nước và cách mạng gắn liền với tên tuổi Phan Bội

Châu và Nguyễn Ái Quốc. Tác phẩm của Phan Bội Châu có thể xem là

những đoản thiên tiểu thuyết bổ sung cho chính sử, cho lịch sử cách mạng

Việt Nam. Phan Bội Châu sáng tác để đề cao anh hùng, liệt nữ, để cổ vũ cho

phong trào yêu nước, giải phóng dân tộc. Ông nổi tiếng với những tác phẩm

Sùng bái giai nhân (1907), Chân tướng quân (1917), Tước Thái thiền sư

(1917), Tái sinh sinh (1918), Truyện Phạm Hồng Thái (1925). Phan Bội

Châu còn chịu ảnh hưởng của bút pháp viết sử, sử bình của truyện kể trung

đại. Tuy nhiên, truyện của ông đã có những đổi mới, có những dấu hiệu của

truyện ngắn hiện đại. Tác giả đóng vai là người kể chuyện, đứng ra dẫn dắt

câu chuyện. Kết cấu truyện theo trình tự thời gian nhưng cũng có kết cấu

phá vỡ thời gian tuyến tính như Tái sinh sinh. Truyện kí của Nguyễn Ái

Quốc được đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Cộng Sản Pháp và báo Người

cùng khổ của Liên hiệp các dân tộc thuộc địa từ năm 1922 đến năm 1925.

Các tác phẩm nổi tiếng của Người vào thời kì này được độc giả luôn ghi nhớ

như Con rùa, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Lời than vãn

của bà Trưng Trắc, Con người biết mùi hun khói…Phương pháp sáng tác

của Nguyễn Ái Quốc được các nhà nghiên cứu như Nguyễn Đức Nam, Hà

Minh Đức… khẳng định đó là phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc nửa đầu những năm hai mươi,

Phan Cự Đệ viết: “Đó là những truyện ngắn cô đọng, vừa mang ý nghĩa

tượng trưng, có sức khái quát lớn. Đó là những truyện được kể theo ngôi thứ

nhất hoặc ngôi thứ ba sử dụng ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện, có

khi sử dụng ngôn ngữ đa thanh nhiều nhân vật (bình phẩm về Va-ren). Đó là

những truyện ngắn tính cách, những truyện có cốt truyện căng thẳng giàu

kịch tính và những truyện có màu sắc luận đề”[6, tr 281].

Khuynh hướng hiện thực có Phạm Duy Tốn và Nguyễn Công Hoan.

Sống chết mặc bay (1918) của Phạm Duy Tốn kể về nỗi khổ của những

9

người dân và cảnh ăn chơi sa đoạ của tên quan hộ đê. Phạm Duy Tốn cũng

sử dụng nghệ thuật đối lập, tăng cấp kiểu như Ván bài bi-a của nhà văn Pháp

Alphonse Daudet để tố cáo sự vô trách nhiệm của quan lại thời bấy giờ,

đồng thời bộc lộ sự cảm thông trước nỗi thống khổ của nhân dân.

So với thời kì trước đó, truyện ngắn những năm 1930-1945 phát triển

rực rỡ, phong phú hơn. Tư duy hệ tư sản dần dần thắng thế tư tưởng phong

kiến. Cái tôi được giải phóng, nhà văn phát huy sức sáng tạo của mình. Vì

vậy, thời kì này xuất hiện nhiều cây bút độc đáo. Hàng loạt các gương mặt

tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi

Hiển, Thạch Lam, Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Thạch Lam, Hồ

Dzếnh, Đỗ Tốn… Các khuynh hướng văn học ngày càng phân hoá rõ rệt và

đấu tranh, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.

Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Đỗ Tốn, Nguyễn Tuân tiêu biểu

cho phong cách lãng mạn trữ tình.

Thạch Lam viết truyện với nghệ thuật tinh tế nhất là việc sử dụng tương

phản và hài hoà giữa các âm thanh và các vùng ánh sáng. Câu chuyện để lại

trong tâm hồn người đọc những dư vị đằm thắm của quê hương và sự cảm

thương những cuộc đời thầm lặng như những chấm sáng lù mù nhoè đi

trong bóng tối của một vùng quê tù đọng. Thạch Lam ít sử dụng cốt truyện

giàu kịch tính. Ông nghiêng về những cốt truyện tâm lí, hướng dến thế giới

bên trong con người, đặc biệt là thế giới ấn tượng và cảm giác như Hai đứa

trẻ, Dưới bóng hoàng lan, Sợi tóc.

Cũng giống như Thạch Lam, Thanh Tịnh thiên về miêu tả thế giới nội

tâm, cảm giác. Truyện ngắn của ông thường chỉ có một tình huống. Cái kết

bao giờ cũng là một kỉ niệm buồn man mác: kỉ niệm ngày đầu tiên đi học

[Tôi đi học], kỉ niệm những ngày ở làng Mĩ Lí [Quê mẹ]. Lời văn giàu chất

thơ, nhẹ nhàng, tha thiết bày tỏ một niềm cảm thông với con người nghèo

10

khổ. Bên cạnh đó, những sáng tác của ông còn đậm chất truyền kì, những

truyện kinh dị, kì bí [Ngậm ngải tình trầm].

Văn học lãng mạn còn xuất hiện một cái Tôi độc đáo- Nguyễn Tuân.

Suốt đời đi tìm và tôn thờ cái Đẹp, Nguyễn Tuân đến với các nhân vật tài

hoa, tài tử, những thú chơi tao nhã trong văn hoá ứng xử, trong văn hoá ẩm

thực. Vang bóng một thời, ông đề cao những thú chơi cổ xưa. Uống trà, chơi

hoa là một thứ nghệ thuật trang trọng, cầu kì [Chén trà trong sương sớm,

Thạch Lan Hương]. Lối chơi chữ thể hiện khí phách của người quân tử,

những con nguời có tài, có tâm [Chữ người tử tù]. Nhân vật của Nguyễn

Tuân có cái ngông, lập dị không phải là những con người bình thường. Dù

đứng ở phía nào thiện hay ác, nhân vật đều có tài đặc biệt hơn người, được lí

tưởng hoá, được phóng đại theo thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn. Truyện

của Nguyễn Tuân vẫn được kể theo trật tự thời gian tuyến tính, ở ngôi thứ

ba. Cái tài của ông là xây dựng nhân vật. Ông nắm bắt những nét đặc trưng

nhất trong tính cánh của nhân vật, miêu tả những hành động theo cách riêng

hết sức độc đáo..

Trong dòng văn học hiện thực phê phán, có những tên tuổi như Nguyễn

Công Hoan, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Kim Lân…

Nguyễn Công Hoan là người đi đầu trong phương pháp hiện thực phê

phán. Ông được coi là lá cờ đầu của văn học hiện thực phê phá những năm

1930-1945. Nguyễn Công Hoan viết về những câu chuyện về con người và

xã hội Việt Nam thời bấy giờ, với một lối kể chuyện hóm hỉnh hài hước có

tính chất châm biếm. Ông đả kích bọn quan lại và chế độ thực dân. Những

mảng đề tài xã hội trước đây, Nguyễn Công Hoan nhanh chóng chuyển sang

đề tài phản ánh các sự kiện chính trị thời cuộc. Những truyện ngắn của ông

tiểu biểu cho một thứ văn vui, thứ văn mà có lẽ từ khi nước Việt Nam có

tiểu thuyết viết theo lối mới, người ta chỉ thấy ở ngòi bút của ông mà thôi.

Những tác phẩm đầu tay của ông lấy từ đề tài những điều mắt thấy tai nghe

11

như Kiếp hồng nhan, Sóng vũ môn, Cụ đồ Ba, Cô hàng nước. Trần ai tri

kỷ… Thái độ căm ghét bọn quan tân học, luyến tiếc những nhà Nho cũ được

thể hiện qua Sóng vũ môn, cảm tình với những người ăn ở chung thuỷ nhân

hậu được thể hiện qua Cô hàng nước, Trần ai tri kỉ. Có truyện giàu yếu tố

hiên thực, tiến bộ [Sóng vũ môn], có truyện còn yếu tố lãng mạn, bảo thủ

[Kiếp hồng nhan]. Nguyễn Công Hoan khai thác đề tài từ tin tức thời sự

hàng ngày, hoặc mô tả những việt thật mà ông mắt thấy tai nghe như Oằn tà

roằn, Thật là phúc, Lập Gioòng, Răng chó của nhà tư sản, Hai thằng khốn

nạn… Chất hiện thực thấm đẫm trong tác phẩm của ông. Chủ đề tập trung

công kích bọn quan lại, địa chủ, tư sản những xấu xa của xã hội thực dân

nửa phong kiến. Truyện có nhiều chi tiết sinh động, hấp dẫn, tạo nên tiếng

cười châm biếm đả kích vào tầng lớp thị dân và nhiều kết thúc bất ngờ ảnh

hưởng truyện dân gian.

Nam Cao góp phần quan trọng trong quá trình hiện đại hoá văn học

với kiểu kết cấu tâm lí, sử dụng một thứ ngôn ngữ đa thanh, giàu chất tạo

hình. Nam Cao quan tâm đến những người nông dân bị xã hội thực dân nửa

phong kiến đẩy vào con đường bần cùng hoá, lưu manh hoá. Chí Phèo trong

tác phẩm cùng tên đã để lại nhiều nhức nhối trong lòng người đọc. Một anh

Chí nông dân, hiền lành, chân chất bị Bá Kiến, một tên lí trưởng của làng

Vũ Đại vì ghen tuông đã đẩy vào con đường tù tội. Nhà tù thực dân đã tha

hoá, biến Chí Phèo trở thành con quỷ của làng Vũ Đại. Bi kịch của Chí là bi

kịch không được thừa nhận là con người mặc dù Chí đã tha thiết trở về con

đường lương thiện. Hiện tượng người nông dân bị lưu manh hoá như Chí

Phèo được lặp đi lặp lại như một quy luật qua một số nhân vật như Năm

Thọ, Binh Chức, Trương Rự, Trạch Văn Đoành. Nam Cao còn phản ánh bi

kịch của người trí thức nghèo. Họ có khát vọng to lớn làm nên tác phẩm để

đời nhưng những nỗi lo toan cơm áo gạo tiền cứ ghì sát đất, nhà văn buộc

phải cho ra đời những tác phẩm nhạt nhẽo, nghèo nàn để mưu sinh hàng

12

ngày. Họ sống trong nỗi tuyệt vọng, đau khổ [Đời Thừa, Trăng Sáng]. Nam

Cao đã đưa ra những nguyên tắc sáng tác: “Văn chương không cần đến

người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ

dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai

khơi và sáng tạo những gì chưa có”.

Tô Hoài được đánh giá là nhà văn có sở trường về truyện ngắn.

Truyện của ông mang hương vị đồng quê với những phong tục tập quán lâu

đời của người dân quê vùng ven ngoại thành. Đằng sau cái màu sắc phong

tục, ngòi bút của Tô Hoài đã miêu tả rất rõ một xã hội đói khổ của những

người nông dân nghèo, những người thợ thủ công bị phá sản, những mối

tình cảm dang dở và những cuộc ra đi vì mưu sinh. Ông có tài phác hoạ chân

dung các kiểu người ở vùng quê ngọai thành Hà Nội thời đó. Một ngòi bút

sắc sảo tinh tế và hóm hỉnh khi tả về những phong tục sinh hoạt, chân dung

và hành vi nhân vật.

Nguyên Hồng là cây bút truỵên ngắn xuất sắc trong thời kì Mặt trận

Dân chủ. Truyện ngắn Nguyên Hồng đã làm sống dậy cuộc đời lam lũ, cơ

cực, bần cùng của những người lao động nghèo ở các vùng ngoại ô, ngõ

hẻm thành phố Hải Phòng. Ông sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản,

đối lập như trong các truyện Giọt máu, Cô gái quê, Nhà bố Nấu, Hai dòng

sữa, Cái bào thai… Có những truyện mang tính chất luận đề rõ rệt và nhiều

chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng, có những truyện kết cấu dàn trải theo

chiều dài cuộc đời bi thảm của nhân vật.

Có thể nói, truyện ngắn Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng

tháng Tám đã dần dần khẳng định được vị trí riêng của mình trên con đường

hiện đại hoá văn học nước nhà. Nhiều cây bút, nhiều phong cách mới lạ.

Những tác phẩm văn chương không dừng ở nói chuyện đạo lí, lịch sử mang

trong mình hơi thở của cuộc sống. Những câu văn dài ngắn hết sức linh

hoạt, giống như lời ăn tiếng nói của nhân dân không bị gò bó như những câu

13

văn biền ngẫu trong truỵên ngắn thời trung đại. Nhân vật và chi tiết trong tác

phẩm cũng đời thường không khuôn sáo, ước lệ như trước. Đặc biệt các nhà

văn bộc lộ cái tôi của mình một cách độc đáo rõ nét. Vì vậy, mỗi tác phẩm là

một cá tính sáng tạo riêng, một cách cảm nhận riêng về cuộc sống. Trong số

những tác giả viết truyện ngắn có tên tuổi thời kì này, Tô Hoài được coi là

môt cây bút xuất sắc, đóng góp không nhỏ cho sự thành công của truyện

ngắn nước nhà.

1.2. Sự nghiệp sáng tác văn chương Tô Hoài

1.2.1. Quan niệm của Tô Hoài về văn chương nghệ thuật

Tô Hoài sinh năm 1920, tên thật là Nguyễn Sen. Ngoài tên thật khi

viết báo, ông còn dùng những bút danh khác như: Mắt biển, Mai Trang, Duy

Phương... Quê nội ông ở thị trấn Kim Bài huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây

nhưng nhà văn lại sinh ra và lớn lên và rất gắn bó với quê ngoại ở làng

Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông Cũ (nay là phường Nghĩa Đô quận

Cầu Giấy, Hà Nội. Cái tên Tô Hoài đã trở nên gần gũi với bạn đọc suốt 70

năm qua.

Sớm đến với văn chương, ban đầu Tô Hoài cũng chịu ảnh hưởng của

xu hướng sáng tác lãng mạn đương thời, cây bút trẻ ấy cũng bắt đầu sự

nghiệp bằng những bài thơ lãng mạn, nhưng sau này ông chuyển hướng.

Trong Tự truyện, Tô Hoài tâm sự: “Chưa bao giờ tôi bắt chước theo truyện

của Khái Hưng, mặc dầu tôi thích đọc những truyện ấy. Bởi lẽ giản dị: viết

truyện viển vông giang hồ kỳ hiệp, ai cũng có thể tưởng tượng, nhưng viết

cái giống thật thì nhân vật trong truyện của các ông nhà giàu con quan có

đồn điền như thế, tôi không viết những kiểu người ấy, không bắt chước

được” [23, tr 218]. Lời thổ lộ chân tình ấy của Tô Hoài đã bộc lộ rất rõ quan

niệm của ông về văn chương. Tô Hoài không thi vị hoá đời sống, không viết

về những đôi lứa “lá ngọc cành vàng”. Tô Hoài chỉ viết những điều mà ông

nhìn thấy ở quanh mình, ở chính mình: “Đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng

14

và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả những sáng tác của tôi, ý nghĩ tự nhiên

của tôi bấy giờ là viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng quanh

mình” [23, tr 218]

Tô Hoài sống gần gũi quen thuộc với những người bình dân, những

con người lam lũ, nghèo khổ, nhếch nhác. Nhà văn từng bộc bạch: “Đời

không suông nhạt của mảnh cổ tích nhăng cuội, ở những chuyện trai gái

thông thường đem bôi nhèm trên giấy. Tôi có thể viết vô vàn truyện mơ

mộng hoa lá. Mà tôi viết không được. Xưa nay, tôi chỉ quen với những gì

vụn vặt, nhem nhọ” [31, tr 118]

Quan niệm văn chương phải bắt nguồn từ cuộc sống đã chi phối toàn

bộ các sáng tác của Tô Hoài. Bên cạnh đó, ở thể loại truyện ngắn, Tô Hoài

cũng có suy nghĩ riêng.

Nhiều tác giả văn học đã có những quan điểm rất rõ ràng về nghệ

thuật truyện ngắn. Môôm cho rằng: “Truyện ngắn là sự trình bày một sự

kiện theo trình tự diễn biến của câu chuyện , hoặc theo trình tự tâm tình.

Nhờ sự thống nhất có kịch tính, sự trình bày đó có thể loại trừ tất cả những

gì không cần thiết để bộc bạch suy nghĩ”[ 37, tr 84]. Nhà văn Bùi Hiển khi

bàn về truyện ngắn cũng khẳng định: “Truyện ngắn lấy một khoảnh khắc

trong cuộc đời một con người mà dựng lên. Có khi nhân vật đặt trước một

vấn đề phải băn khoăn suy nghĩ lựa chọn, quyết định. Có khi chỉ là một

cảnh sống và làm việc bình thường, trong đó nhân vật biểu lộ ý chí tình

cảm của mình. Có khi ở những hành động mãnh liệt, những tình tiết éo le…

Cũng có khi chỉ là tâm trạng của một nỗi bồn vui, một ý tình chớm nở.

Nhưng phải chọn khoảnh khắc mà nhân vật thể hiện đầy đủ nhất”[37, tr 17].

Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Truyện ngắn mang rất rõ cái chất của

người viết, nhất là cái chất quả quyết, đột ngột… Truyện ngắn vốn có

nhiều vẻ” [37, tr 27].

15

Nguyễn Công Hoan thì chú ý nhiều hơn đến việc xây dựng truyện

ngắn. Theo ông, “Truyện ngắn không phải là truyện mà là vấn đề được xây

dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu

dùng tiếng có cân nhắc… Muốn truyện ấy là truyện ngắn, chỉ nên lấy một

trong ngần ấy ý làm ý chính, làm chủ đề cho truyện” [50, tr 25]

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán đã nhận định

về truyện ngắn như sau: “Thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng

văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội.

Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện

ngắn thích hợp với người tiếp nhận đọc nó liền mạch không nghỉ… Cốt truyện

của truỵên ngắn thường diễn ra trong không gian hạn chế, chức năng của nó

nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Kết

cấu của truyện ngắn không phân chia thành nhiều tầng bậc mà thường xây

dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. Bút pháp tường thuật của

truyện ngắn thường là chấm phá. Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện

ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều

ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết”[18, tr 134,135].

Là người có sở trường viết truyện ngắn, ông đã có những quan điểm

rõ ràng nhất quán về thể loại này trong suốt cuộc đời hoạt động văn chương

của mình.

Trong Sổ tay viết truyện ngắn, ông đã từng bày tỏ niềm say mê của

mình với truyện ngắn: “Tôi thích truyện ngắn, bao giờ cũng tìm đọc truyện

ngắn bởi nó là thể loại có tính chiến đấu mạnh mẽ”. Tô Hoài còn quan niệm

truyện ngắn là “cưa lấy một khúc đời sống” nhưng không thể vì ngắn gọn

mà làm mất đi “chất khoẻ khoắn của đời sống” [22, tr 8]. Ông đã hiểu được

hiểu được tính hiệu quả của truyện ngắn. Theo Tô Hoài, với truyện ngắn,

người viết phải biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ. Truyện ngắn là

nơi nhà văn có thể thử tìm phong cách cho mình.

16

Tô Hoài đã từng trăn trở về “truyện ngắn hay nhất”, làm thế nào để

viết ngắn “rút ngắn, rút ngắn nữa. Cho chặt, cho chắc, cho tinh tế”[21, tr

100]. Và tác phẩm ấy phải chứa đựng những suy nghĩ của người viết về

cuộc đời: “Cái truyện ngắn hay nhất bao giờ cũng là truyện sẽ viết. Người

viết thấy ra cái khó ấy, cái đau khổ ấy, niềm hy vọng không cùng ấy trong

lúc cầm bút” [21, tr 101]. Như với các thể loại khác, Tô Hoài khẳng định

người viết truyện ngắn cũng phải để lại cho bạn đọc một dư âm nào đó trong

lòng, tránh lối viết nhạt nhẽo: “Chúng mình làm nghề viết, thành nghề viết

rồi, có thể viết cái gì viết cũng có thể được in, ít nhất thì cũng tàm tạm sạch

nước cản. Nhưng, anh cứ tưởng tượng xem, một sáng tác ra đời, bạn đọc

xong rồi, dư luận im lặng. Nghe như hòn gạch ném xuống giếng, sau tiếng

rơi bõm vào lòng giếng, là cái im lặng mênh mông. Đối với người cầm bút

không có gì ghê rợn hơn, thất vọng hơn gặp phải cảnh như thế”[22, tr 65]

Quan niệm của Tô Hoài cũng giống với các nhà viết truyện ngắn

khác. Song Tô Hoài nhấn mạnh hơn yếu tố ngắn gọn. Đồng thời, ông khẳng

định một tác phẩm truyện ngắn có giá trị phải phản ánh hiện thực cuộc sống

và sự sáng tạo, hoài bão của nhà văn.

Như vậy, truyện ngắn trước hết phải súc tích. Người viết không được

kể dài dòng. Các chi tiết hết sức tinh lọc, gây ám ảnh với người đọc, tạo nên

ấn tượng mạnh mẽ và những liên tưởng. Dung lượng và cốt truyện tập trung

một vài biến cố, trong một khoảng thời gian nhất định. Nhân vật thường

đựơc làm sáng tỏ thể hiện một trạng thái tâm thế con người thời đại. Chi tiết

đóng vai trò quan trọng mang tính biểu tượng. Truyện ngắn có khả năng

miêu tả sinh động cuộc sống và những vui buồn và khát vọng của con người.

1.2.2. Những thành công trong sự nghiệp văn chương Tô Hoài

Năm 1940, ông chính thức vào nghề văn từ truyện ngắn Nước lên.

Năm 1941, ông viết Dế Mèn phiêu lưu kí để lại một tiếng vang lớn trên văn

đàn Việt Nam cho đến tận bây giờ. Tác phẩm này được giới phê bình trong

17

nước và ngoài nước đánh giá rất cao tiêu biểu là Gô-lôp-nep, Xô-lô-khin

(1963), Trần Đăng Xuyền (1984), Nguyễn Lộc, Đỗ Quang Lưu (1990). Họ

cho rằng tác phẩm đã thể hiện tài “quan sát, nghiên cứu tỉ mỉ thế giới sinh

vật nhỏ bé của nhà văn [31, tr 454].

Từ đó cho đến nay,Tô Hoài đã hơn bảy mươi năm lao động miệt mài

không nghỉ. Ông đã để lại cho đời một sự nghiệp văn chương đồ sộ, hơn

160 đầu sách đã xuất bản. Nhiều tác phẩm của Tô Hoài đã được dịch ra các

tiếng nước ngoài như Nga, Trung Quốc, Pháp, Ba Lan, Séc, Đức, Bungari,

Cu Ba, Mông Cổ, Nhật Bản… Một số tác phẩm được đạt giải như Truyện Tây

Bắc, giải nhất tiểu thuyết của Hội văn nghệ Việt Nam, năm 1956. Miền Tây,

giải thưởng Hội nhà văn Á-Phi, năm 1970. Quê nhà, giải A giải thưởng Hội

văn nghệ Hà Nội, năm 1980. Ông còn đạt giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1

năm 1996.

Tô Hoài là một trong số ít nhà văn hiện đại nước ta đạt con số kỷ lục

trong sự nghiệp sáng tác của mình. Ông đã trải qua những mốc lịch sử và

văn học đặc biệt: trước và sau Cách mạng tháng Tám; trong chiến tranh và

trong hòa bình; trước và sau thời kỳ đổi mới văn học. Sáng tác của Tô Hoài

đa dạng về đề tài và thể loại: từ đề tài miền ngược đến đề tài miền xuôi; từ

truyện ngắn đến tiểu thuyết, truyện đồng thoại đến kịch bản phim. Ở đề tài

và thể loại nào, ông cũng ghi lại những dấu ấn riêng.

Là một trong những nhà văn thành công ở thể loại hồi kí, tự truyện,

Tô Hoài được người đọc biết đến qua những tác phẩm Cỏ dại, Tự truyện,

Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Những tác phẩm này ghi lại những chặng

đường đời khác nhau của nhà văn. Cỏ dại ghi lại kí ức về một thời thơ dại

với những kỉ niệm buồn trong những “ngày cũ buồn bã”. Tự truyện tái hiện

lại chặng đường thời niên thiếu từ lúc còn là học sinh lớp nhất trường Yên

Phụ cho đến khi phải nghỉ học, lang thang khắp đất Kẻ Chợ đến cảng Hải

Phòng tìm việc, rồi vào nghề văn, tiếp tục những ngày “phiêu lưu kiểu kiến

18

bò cho qua cơn trống trải” cùng các nghệ sĩ đến những ngày tháng sôi nổi

hoạt động cách mạng trong phong trào Văn hoá cứu quốc. Đến Cát bụi chân

ai và Chiều chiều, những chi tiết đời tư mờ dần, tác giả không kể nhiều về

mình, về gia đình mình. Nội dung chủ yếu của tác phẩm là những câu

chuyện về cuộc đời, về bạn bè, đồng nghiệp, về những người đã từng gặp gỡ

trong công tác xã hội hoặc ngoài đời thường…

Tô Hoài còn thử sức trong lĩnh vực sân khấu nghệ thuật. Ông viết

kịch bản phim: Vợ chồng A Phủ (NXB Văn học), Mường Giơn (Tạp chí Văn

nghệ Quân đội), Kim Đồng (NXB Kim Đồng), Ông Gióng (NXB Văn hóa),

Trâu húc (NXB Hà Nội), Xây thành Cổ Loa (NXB Kim Đồng), Sự tích

Thăng Long (báo Văn nghệ). Tô Hoài còn tham gia viết kịch nói, kịch múa

rối: Thạch Sanh (NXB Kim Đồng), Con mèo lười (NXB Thanh Niên), Ông

Gióng (Hội Văn nghệ Hà Nội). Hầu hết những đóng góp của ông đã gây

tiếng vang lớn.

Tên tuổi Tô Hoài được nhắc nhiều ở thể loại truyện dài. Trong suốt

bảy năm sáng tác, Tô Hoài đã để lại một khối lượng khá lớn. Bao gồm các

truyện Dế Mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941, NXB Tân Dân),

Giăng Thề (1943, NXB Tân dân), Xóm giếng ngày xưa (1943, NXB Bách

Việt), Đêm mưa (mất bản thảo), Lão đồng chí ( 1949, NXB Cứu quốc),

Mười năm (1957, NXB Hội nhà văn), Miền Tây (NXB Văn học, in hai lần –

giải thưởng Hoa Sen năm 1970), Hội nhà văn Á-Phi, Tuổi trẻ Hoàng Văn

Thụ (NXB Thanh Niên), Những ngõ phố, người đường phố (NXB Thanh

niên), Đảo hoang, Chiếc nỏ thần (NXB Kim Đồng), Quê nhà (1983, NXB

Tác phẩm mới, Giải thưởng của Hội Văn nghệ Hà Nội)... Các truyện dài của

Tô Hoài đã tạo dựng nên một bức tranh đời sống xã hội rộng lớn, lôi cuốn

người đọc bởi một bản sắc dân tộc rất đậm đà và độc đáo, một thế giới nhân

vật bình dị, đời thường, một lối kể chuyện “tự nhiên mà thủ thỉ cái tiếng nói

hồn nhiên của bản thân cuộc sống” [31, tr 24]. Trong số đó, những tác

19

phẩm nổi tiếng của ông đựơc người đọc nhắc đến nhiều nhất là Quê người,

Mười năm, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Đảo hoang, Chuyện nỏ

thần. Ở Quê người, Vũ Ngọc Phan nhận thấy Tô Hoài là “một nhà tiểu

thuyết có con mắt quan sát sâu sắc. Những tính tình u ẩn phô diễn ra ở

những cử chỉ rất nhỏ của người dân quê, những thói hủ bại, những ngôn ngữ

kỳ quặc của người dân quê và cả những cách sống cùng cực rất đáng thương

của người dân quê, ông đều cặn kẽ” [31, tr 53]. Dưới ngòi bút tả chân của

Tô Hoài, ngoài những cảnh làm lụng chật vật của người dân quê, người ta

thấy rất nhiều thói tục có thể là những tài liệu chân thực cho những nhà xã

hội học muốn khảo sát về phong tục.

Tô Hoài để lại dấu ấn đặc biệt ở thể loại truyện ngắn. Thực sự ông đã

trở thành cây bút truyện ngắn độc đáo, hấp dẫn.

Trước năm 1945 là truyện ngắn gồm các tập truyện về loài vật và truyện

ngắn về cảnh và người ở một vùng quê ven đô, nơi tác giả sinh sống suốt đời

cho đến ngày hôm nay. O chuột (1943, nhà xuất bản Tân dân) là cả một tập

truyện gồm 8 truyện về loài vật, lấy tên O chuột để gọi chung. Vũ Ngọc Phan

viết “Tô Hoài tỏ ra không giống một nhà văn nào trước ông và không giống

một nhà văn nào mới nhập tịch làng văn như ông. Truyện của ông có tính

chất nửa tâm lý, nửa triết lý mà các vai lại là loài vật... O chuột là truyện

ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là tác phẩm tiêu biểu cho lối văn đặc biệt

của ông, một lối văn viết dí dỏm, tinh quái đầy những phong vị và màu sắc

thôn quê. Cái tinh ma và cái xác thực có lẽ gặp nhau ở chỗ này” [31, tr 63].

Nhà nghèo ( là một tập truyện ngắn viết về nông thôn. Tô Hoài

thường nhìn nông thôn thiên về phía phong tục với cặp mắt hóm hỉnh, sắc

sảo. Có lẽ đây là chỗ hấp dẫn đặc biệt của ngòi bút Tô Hoài: ông nói về tục

tảo hôn (Vợ chồng trẻ con), tục đòi nợ (Khách nợ), tục cúng bái mê tín, cả

đến “tục” vợ chồng cãi nhau, làng xóm nhiếc móc nhau (Nhà nghèo, Mẹ

già...).

20

Phong Lê nhận định rằng “Trước Cách mạng, truyện của Tô Hoài in

rất đậm cảm quan nghệ thuật và giọng điệu riêng của ông- một cây bút sung

sức, đứng bên Nam Cao, làm nên dấu ấn đặt trưng cho trào lưu văn học hiện

thực Việt Nam những năm tiền Cách mạng” [31,tr 29].

Truyện ngắn viết về loài vật được đánh giá là sở trường của Tô Hoài.

Nhà văn có khả năng quan sát tinh tế, sắc sảo, có tấm lòng thực sự yêu mến ,

thực sự sống trong thế giới nhân vật của mình. Vì thế những con vật gần gũi

thân thuộc như con mèo, con chó, con ngan, con vịt, con chuột… cũng có

tâm tình, có cá tính và có cả số phận nữa. Tô Hoài là người biết tạo yếu tố

truyện, phát hiện yếu tố truyện trong đời sống tự nhiên của loài vật. “Đường

dây truyện không nhiều mầu vẻ phức tạp mà đôi lức đơn giản: đôi ri đá làm

tổ, chú gà trống ri đi tìm người bạn tình, một đời vênh vang và tàn phai của

Gà chọi, cuộc phiêu lưu của Dế Mèn. Và chính trên mạch truyện tự nhiên

ấy, ngòi bút của tác giả đã biến hoá tạo nên những lí thú cho các “nhân vật

hỗn tạp và đa dạng” của mình. Ngoài bút của Tô Hoài đã phát hiện cái ngộ

nghĩnh, lố lăng, khoe mẽ, đa điệu của một số loài vật” [31, tr 469]

Truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng là những trang viết đầy hấp

dẫn, thấm đẫm chất phong tục. Ông viết về làng quê Nghĩa Đô, một vùng

ngoại thành Hà Nội. Ở đó, người nông dân còn có nghề thủ công dệt lụa, dệt

lĩnh, ở nơi đó có những phong tục tập quán của một làng quê truyền thống.

Tô Hoài có một khả năng đặc biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ địa phương.

Tiếng nói của trong xóm, trong làng, của anh em được đưa vào tác phẩm Tô

Hoài nhẹ nhàng đã giúp ông trở thành nhà văn có biệt tài viết về những cảnh

nghèo nàn của dân quê.

Cách mạng tháng Tám thành công, Tô Hoài là nhà văn nhiệt tình tham

gia cách mạng và ông cũng viết rất sôi nổi về đời sống của người dân vùng

tạm chiến, vùng tự do, về quá trình giác ngộ cách mạng của quần chúng nhân

dân. Các truyện ngắn như Đồng chí Hùng Vương, Nà Luộc, Tào Lường, Công

21

tác xa… Tất cả đều hướng về mảng đề tài chung là cuộc sống của các dân tộc

ít người ở những triền núi Cứu quốc, căn cứ địa cách mạng. “Núi cứu quốc

tuy nghệ thuật còn đơn giản nhưng có thể đem lại cho ta một hình ảnh tương

đối đúng về đồng bào miền núi, khác hẳn những truyện đường rừng tượng

tượng của một số nhà văn lãng mạn hồi xưa… Tác phẩm cho ta hiểu con

người miền núi đúng với bản chất của họ là những con người thật thà, chất

phác, chung thuỷ, có một lòng tin mãnh liệt ở cách mạng. Tác giả đặc biệt

nhấn mạnh lòng trung thành với cách mạng của những con người miền núi

khi họ đã giác ngộ.” [32, tr 71]. Tập truyện Tây Bắc, nhà văn Bùi Hiển nhận

xét về nghệ thuật kể chuyện của Tô Hoài trong Vợ chồng A Phủ là “thiên về

thị giác, một thứ thị giác tinh nhạy, đầy màu sắc và ấn tượng, cảm xúc, nói

rộng ra hơn nữa là thiên về cảm giác, về cảm nhận trực quan cụ thể, về biểu

hiện các sắc thái tình cảm gần gũi, thầm kín” [32, tr 103]

Tiểu kết

Có thể nói, Tô Hoài là một cây đại thụ trong nền văn học hiện đại Việt

Nam. Ông đã dành trọn cụôc đời cống hiến cho sự nghiệp văn chương. Tô

Hoài đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ khiến người đọc vô cùng cảm

phục. Ở mảng đề tài nào, thể loại nào, nhà văn cũng có con đường đi riêng,

tạo nên được phong cách độc đáo. Trong đó, đặc biệt là thể loại truyện ngắn,

Tô Hoài đã ghi lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. So với truỵên

ngắn trước Cách mạng, truyện ngắn sau Cách mạng của Tô Hoài có mở rộng

hơn về phạm vi đề tài và nhận thức của một người cầm bút cách mạng đặc

biệt. Tuy nhiên, truỵên ngắn được viết trước Cách mạng tháng Tám cũng có

một phong vị riêng, đánh dấu những thành công trong cuộc đời sáng tác của

nhà văn Tô Hoài, giúp ông khẳng định được vị trí của mình trong nền văn

học Việt Nam, là một trong số những cây bút hàng đầu bên cạnh các tên tuổi

như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng, Thạch Lam…

22

CHƯƠNG II

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT

TRONG TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG

2.1. Khái niệm về nhân vật

“Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, một trong

những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn

từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có đôi khi là các con vật, các loài

cây, các sinh thể hoang đường được gắn cho những đặc điểm giống với con

người” [2, tr 249]

Có thể nói rằng, nhân vật chính là linh hồn của tác phẩm, là con đẻ

tinh thần của nhà văn. Thông qua thế giới hình tượng trong tác phẩm, nhà

văn bộc lộ cảm quan của mình trước cuộc sống, gửi gắm vào nhân vật

những tư tưởng mơ ước khát vọng hay những tâm sự thầm kín của mình.

Nhân vật cũng là nơi để nhà văn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lí tưởng

thẩm mĩ của chính bản thân mình về con người. Bản thân Tô Hoài cũng cho

rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất, tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong

một sáng tác”[19, tr 45]. Mỗi một nhà văn tuỳ theo cảm quan hiện thực đời

sống, tuỳ theo quan niệm của mình mà có những kiểu nhân vật riêng.

2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng

tháng Tám

Tô Hoài quan niệm chỉ viết về những điều mà ông nhìn thấy ở quanh

mình, ở chính mình, viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng quanh

mình. Ngòi bút Tô Hoài hướng đến những con người, những câu chuyện của

làng quê ông.

Viết về người dân quê, nhà văn có cái nhìn giản dị và xác thực về họ.

Theo ông, con người trước khi là một ai đó thì trước hết phải là chính mình,

phải là mình với tất cả những gì mà tạo hoá đã sinh ra chúng ta. Có xấu, có

23

tốt, có dở, có những thói tật của riêng mình. Con người không phải là thánh

nhân cũng không phải là các gì đó siêu phàm. Bên cạnh những tính tốt con

người con người còn có những hạn chế, thậm chí những thói xấu. Con người

có những phần cao cả nhưng cũng có gì khuất lấp ẩn sâu trong tâm hồn.

Vì vậy, nhân vật trong truyện ngắn của ông không xa lạ, họ là những

người nông dân, người thợ thủ công, những người trí thức sống ở làng

Nghĩa Đô, ngay cả đến loài vật cũng hết sức bình thường, gần gũi trong

cuộc sống hàng ngày.

2.2.1. Nhân vật nông dân, thợ thủ công

Nhân vật chiếm đa số trong những trang truyện ngắn của Tô Hoài

trước Cách mạng là những người nông dân thợ thủ công. Họ là hình ảnh

người dân làng Nghĩa Đô, là người chính người thân trong gia đình Tô Hoài.

Không giống như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài viết về

người nông dân, người thợ thủ công, ông không đi vào những sự kiện quan

trọng, những tình huống gây bất ngờ, hay những cuộc đấu tranh giai cấp.

Dưới con mắt của Tô Hoài, những người nông dân, những người thợ thủ

công đều là con người bình thường, có suy nghĩ, tâm trạng vận động theo

quy luật đời thường. Có lẽ vì vậy, nhân vật của ông không phải là những con

người hành động kiên cường giống như chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất

Tố, những kẻ quá ngờ nghệch dốt nát như con mẹ nuôi trong Đồng hào có

ma của tác giả Nguyễn Công Hoan. Thực sự, nhân vật của Tô Hoài là những

con người đời thường. Họ phải chịu cảnh đói nghèo, thất nghiệp vì những

biến động của xã hội. Họ có mặt tốt mặt xấu, có những suy nghĩ hết sức vụn

vặt, những lo toan tính toán trong cuộc sống thường nhật.

Thời ấy, làng Nghĩa Đô, người dân sống chủ yếu bằng nghề dệt cửi,

sự sống loanh quanh buộc vào mấy khung cửi mọt. Xung quanh Tô Hoài là

cảnh sống khó khăn túng quẫn của gia đình, của làng xóm nghề dệt thủ công

dần dần phá sản. Tô Hoài đã ghi lại cảnh gia đình trong Tự truyện. Những

24

ngày chợ phiên hàng ế hàng, không khí gia đình càng trở nên nặng nề: “Nhà

tôi, ngày chợ không sinh chuyện này thì chuyện khác. Hàng ít lại xấu, không

đều, không ai mua. Thế là xảy ra xô xát giữa bà ngoại tôi và các dì tôi. Ông

ngoại tôi ngồi uống rượu. Cuối cùng, bao giờ ông tôi cũng vác gậy đuổi

đánh tất cả. Mọi người chạy toán loạn đêm mới về (...) Sáng hôm sau, lại

vẫn cãi vã, làm ầm cả xóm”...

Những kí ức ấy đã ăn sâu trong tâm trí của cậu bé Tô Hoài. Vì vậy,

chúng ta hiểu tại sao những nhân vật nông dân và thợ thủ công trong truyện

ngắn của ông đựơc quan tâm nhiều nhất và đều là những con người nghèo

đói, khốn khổ, cùng cực.

Trong Đôi ri đá, Tô Hoài đã dựng lại khung cảnh làng quê tiêu điều.

Người ta ăn tết Nguyên Đán trong thầm lặng, trong nỗi buồn tê tái. “Bởi vì

làng có một nghề làm lĩnh lụa thì lĩnh lụa lại ế. Nhiều khung cửi phải xếp

lại. Những guồng tơ bỏ trống. Vắng tiếng lóc cóc van vỉ của cái vày tơ.

Ngày phiên không có bác thợ cửi say rượu, mặt đỏ gay, đi chệnh choạng

trên đường cái làng. Công việc chẳng có ... Người ta phải quẩy đất thuê, đi

làm thợ nề và ra Hà Nội kéo xe tay. Có những kẻ liều lĩnh đã ký giấy “mộ

phu” sang “Tân thế giới” [ 27, tr 314].

Cái nghèo cũng ám ảnh gia đình anh Duỵên trong Nhà nghèo. Suốt

đời hai vợ chồng anh Duyện chỉ biết cắm mặt làm lụng tối ngày mà gia đình

anh vẫn nghèo chẳng đủ ăn. Nhà nghèo đến mức chẳng có một cái gì đáng

giá, thậm chí không có một chút lửa. “Mỗi bận thổi cơm, cái Gái vẫn phải ra

tận đầu xóm xin lửa. Và tối thì mọi người trong nhà đi ngủ cùng với mặt

trời, không cần đèn.”. Cơn mưa mùa hạ xối xả, rào rào, trắng xoá gợi bao

sung sướng. Họ nghĩ đến bữa cơm “có thịt nhái nướng thơm phức chấm với

muối ớt, nhai ròn rau ráu, ngon tuyệt.” Kết thúc truyện bất ngờ khiến người

đọc vô cùng đau xót, cái Gái đứa con gái đầu của hai vợ chồng anh Duyện

đã bị rắn cắn chết trong tư thế “hai tay ôm khư khư cái giỏ nhái. Lưng nó

25

trần xám ngắt. Chân nó co queo lại”. Phải chăng ngay trong lúc nguy hiểm,

nó vẫn mơ tưởng đến món thịt nhái nướng, đến cảnh gia đình đầm ấm quanh

món ăn này. Anh Duyện đau đớn và nghĩ đến cái khổ của con gái mình:

“bấy lâu nó vào cửa vợ chồng anh, cực khổ trăm đường. Người nó có bao

nhiêu xương sườn, giơ hết cả ra.”

Cái nghèo đeo đẳng cuộc sống của dân quê, đe doạ đến hạnh phúc của

của họ. Trong Chớp bể mưa nguồn, anh Mi vì quá nghèo mà không đủ tiền

lấy vợ. Cuối cùng một ngừơi phụ nữ đã theo về nhà, làm vợ anh. Bà Móm

vô cùng phản đối vì bà cho rằng đó là người đàn bà đốn mạt, không cưới

xin, lại đàng hoàng đến nằm vạ nhà bà. Nhưng bà cũng xót xa vì nhận ra

hoàn cảnh gia đình mình: “Bà không có tiền ấy vợ cho nó à? Đâu bà có

muốn thế. Chẳng qua là cái ông trời cay đắng kia chưa muốn cho bà khá...

Ngày xưa, bà đi lấy chồng, nghèo khó lắm. Vậy mà hàng xóm cũng được

nhai bỏm bẻm miếng trầu. Làng nước cũng nhận được năm chục viên gạch

thay tiền cheo...” Tình huống “nhặt” vợ cũng đựơc đề cập trong truyện Vợ

nhặt của nhà văn Kim Lân. Anh Tràng cũng không đủ tiền cưới vợ, một

người phụ nữ cũng vì đói kém quá mà theo anh về. Cuộc sống còn khó khăn

nhưng gia đình họ hoà thuận, êm ấm, hạnh phúc được thắp lên từ những ảm

đạm tối tăm của đói nghèo. Giống với tình huống của nhà văn Kim Lân

nhưng Tô Hoài lại khai thác ở khía cạnh bi kịch. Bà Móm không chấp nhận

vợ anh Mí, vì cho rằng đó là người đàn bà đốn mạt. Bà hành hạ cô con dâu

của mình bằng tiếng chửi rủa hàng ngày tưởng như không bao giờ dứt.

Người đàn bà ấy đã không chịu đựng được đành phải bỏ đi và người con trai

bà cũng bỏ bà mà ra đi. Một người phụ nữ đánh đá, chua ngoa như bà Móm

cuối cùng cũng phải ôm mặt, hu hu khóc. “Ối con ơi!”. Tiếng khóc ăn năn

hối hận, tiếc nuối, tiếng khóc thương cho con trai khốn khổ, khóc thương

cho cuộc đời tăm tối của bà. Người nông dân đã khốn khổ vì nghèo đói, họ

còn khốn khổ vì những hủ tục làng xã đeo bám. Nếu bà Móm chấp nhận

26

người con dâu ấy và vun vén vào cho con trai thì đâu đến nỗi gia đình bà

nhà tan cửa nát, mỗi người một nơi. Cuối cùng chỉ còn mỗi mình bà trong

căn nhà trống huếch, trống hoác và chịu dằn vặt trong nỗi cô đơn.

Còn chuyện gia đình anh Hối trong Buổi chiều ở trong nhà cũng gợi

cho người đọc bao nỗi xót xa. Câu chuyện mở ra một khung cảnh gia đình

đầm ấm ba bố con quây quần bên nhau: “Hai đứa trẻ thích bố quá. Bố vừa

cho ăn kẹo bột, bố lại hát cho mà nghe”. Có hạnh phúc nào hơn thế. Cái khung

cảnh làm cho ta cảm thấy thú vị nhẹ nhàng. Sự kiện bắt đầu khi người mẹ phát

hiện bị mất chai đựng dầu. Anh Hối đã mang một chai dầu đem bán để mua

kẹo cho cả nhà. Anh không biết rằng một chai dầu khác đã được bán đi để có

tiền mua thuốc cho con lúc ốm. Hơn nữa với anh chị, từ trước đến nay, thắp

đèn vào ban tối là một chuyện tiêu hoang. Nhưng giờ đây chị Hối muốn thắp

đèn vì mất hai xu dầu, anh chị có thể làm thêm được năm xu việc vào buổi

tối. Không có cái chai ấy làm sao anh chị có thể làm thêm, chị sẽ còn trông

vào đâu. Chị Hối đã rất giận chồng. Lời qua tiếng lại, dẫn đến xô xát. Người

đọc thấy buồn chỉ vì một chai dầu mà họ đã đánh chửi nhau. Cái nghèo cái

đói luôn bao trùm trong gia đình họ khiến họ trở nên dễ dàng cáu giận.

Khách nợ góp phần hòan thiện bức tranh cuộc sống cùng khổ của

những người nông dân. Ba mươi tết, anh hương Cay phải đi trốn vì lái Khế

đến đòi nợ. Cảnh nhà anh hương Cay tan hoang, chẳng có gì. Lái Khế

“nhòm cả xuống gầm phản. Chiếc phản đã mọt sủng, mối đùn dưới gậm

từng đống đất to xù. Cầm cái hèo, lão đi xét thật nhanh gõ đốp đốp vào bức

vách. Từng tảng đất vách, trấu trắng phếch ngã xuống, lăn lóc. Rồi gã ra sân.

Mảnh vườn sân non những cây ké dại thấp lè tè, đốm hoa vòng sọng. Quanh

năm dáng chẳng ai bước vào đây.” Tết đến xuân về là dịp cả nhà sum họp

đầm ấm. Người ta quét dọn nhà cửa, sửa sang bàn thờ tổ tiên cho sạch sẽ.

Vậy mà nhà anh hương Cay vắng lạnh như không hề biết đến ngày tết. Dẫn

đến tình cảnh này là bởi anh có món nợ truyền kiếp từ bà cụ, cái món nợ

27

được truyền bằng văn tự miệng. Để rồi hôm nay, khi ngày tết đến, không

một nén hương, mẩu nến, trăm vàng. Hai bố con phải chay đi trốn nợ. Anh

hương Cay còn bị lái Khế lấy đi bát hương, bài vị tổ tiên. Làm sao ông vải,

những người thân của anh đã về nơi suối vàng có thể trở về sum họp với gia

đình trong những ngày tết ?

Tô Hoài viết về những con người thật bình thường, những chuyện

diễn ra hàng ngày. Ông còn nhìn thấy ở những người nông dân thợ thủ công

những cái hay cũng như cái dở, cái xấu và cái tốt. Con người miêu tả một

cách tự nhiên, không tô vẽ, con người với đúng nghĩa là “con người”. Vì

vậy, ở họ còn nhiều thói tật. Đàn ông nóng nảy, đàn bà lắm điều. Vợ chồng

anh Duyện (Nhà nghèo) cãi nhau cũng vì những cớ rất nhỏ. Anh chồng đang

hát nghêu ngao trong nhà, vợ nhiều lời làm cho cụt hứng. Lời qua tiếng lại,

chị Duyện càng bù lu bù loa khiến anh chống tức điên: “Ông giết cả lũ! Ông

giết cả lũ chúng mày rồi ông đâm cổ ông sau. Những của nợ kia, ông nhất

quyết sửa chúng mày trước rồi đến con mẹ chúng mày.” Còn chị Duyện ôm

váy chạy ra đầu ngõ rồi tiếp tục nheo nhéo nói vào: “Nào tôi bòn rút của chìm

của nổi gì của ai. Một nhời nói một đọi máu, ăn nói còn có giời đất, có quỷ

thần hai vai chứ”, “Ối ông cả bà nhớn ơi! Nó đốt nhà... Thằng Duyện nó đốt

nhà...”. Lúc đầu chỉ là chuyện cãi vã, anh Duyện uất run người đòi đốt nhà.

“Họ thường xuyên cãi nhau vì những cớ rất nhỏ không có nghĩa. Cái đó cũng

thành một thói quen. Lúc nào ngứa miệng, to tiếng là to tiếng liền”[20, tr77]

Điều đáng nói khi xây dựng nhân vât, Tô Hoài không chỉ nhìn ra sự

thấp kém của những nông dân thợ thủ công, ông còn nhận thấy những phẩm

chất đáng quí ở họ.

Đằng sau những cuộc cãi vã, những vụ ẩu đả, họ lại trở về với con

người thực- đó là con người giàu tình yêu thương, yêu gia đình, và khát

khao hi vọng về một cuộc sống tươi đẹp hơn. Gia đình anh Duyện cãi nhau

kịch liệt nhưng cơn mưa rào ập đến họ lai nhanh chóng tất tả đi bắt nhái

28

dường như chẳng có vụ đánh chửi nào xảy ra. Thấy chồng cặm cụi bắt nhái,

bao nhiêu yêu thương lại dâng lên. Họ cáu gắt cũng vì mệt nhọc, vì đói kém

chứ bản chất thì hiền lành, chăm chỉ, cũng mong muốn có một cái gì tốt đẹp

hơn dù đơn giản chỉ là một bữa cơm với món nhái nướng. Anh Hối bán một

chai dầu mua kẹo để cho anh và vợ con ăn. Anh sung sướng bên cạnh những

đứa nhỏ vừa cho chúng ăn kẹo và hát cho chúng nghe. Niềm vui ngập tràn

trong lòng anh, khi vợ về, anh muốn chia sẻ ngay điều đó với vợ “Nhà ra tôi

cho cái kẹo này”. Niềm vui sướng của anh cũng thật giản dị. Đó là sự đồng

cảm, chia sẻ bên người thân ngay từ những điều nhỏ nhặt nhất. Bà Móm lắm

điều, ác nghiệt là thế. Nhưng thực sự trong lòng bà đâu muốn. Bà đau xót

hối hận khi con trai bỏ đi, một mình bà ở lại trong nỗi cô đơn, tuổi già và

bệnh tật. Anh Cuông (Lá thư tình đầu tiên) sống trong niềm tin hi vọng. Anh

yêu thầm nhớ trộm cô Mi, một người con gái có đôi mắt trong thẳm và đen

láy, một người mà biết bao trai làng ngưỡng mộ và mong ước được lấy làm

vợ. Cô Mi đẹp nhất làng còn là người hay chữ nên cô không chấp nhận một

người chồng lại không biết chữ. Thế là anh chàng Cuông hiền lành chân

chất dạy sớm thức khuya âm thầm học chữ. Bức thư tình đầu tiên anh đã

hoàn thành, gửi gắm vào đó những tình cảm yêu thương chân thành thiết tha

của anh với cô Mi. Bức thư tình ấy không thực hiện đựơc sứ mệnh của nó.

Bởi vì cô Mi đã đi lấy chồng và vẫn không biết được tấm chân tình của anh.

Câu chuyện thật nhẹ nhàng để lại trong lòng người đọc niềm thương cảm.

Mặc dù đó chỉ là tình yêu đơn phương nhưng ta cảm nhận được những tình

cảm yêu thương đằm thắm của anh Cuông. Tình yêu đã giúp anh vươn lên

trong cuộc sống giúp anh có nghị lực, có chí hơn. Anh trở thành người biết

chữ trong cái làng mà ít người được học hành như thế này. Anh Tại [Một

người đi xa về] cho dù bị người yêu phụ bạc nhưng anh không sa vào tuyệt

vọng, tự huỷ hoại mình, trả thù đời. Anh cay đắng nhận ra rằng người yêu

bỏ anh đi lấy người khác vì anh không có đồng bạc trắng. Anh quyết chí đi

29

làm ăn xa vào tận đất Sài Gòn. Anh trở về làng quê trong tư thế của người

chiến thắng, người có nhiều tiền để lại cho cô Pha những ngậm ngùi tiếc

nuối “giá như thế này... thế nọ... ta đã chẳng khổ như bây giờ.”

Nhân vật người nông dân thợ thủ công trong truyện ngắn của Tô Hoài

trước Cách mạng tháng Tám có những nét riêng, độc đáo. Họ có cái khổ, cái

đói và thất bại, họ chịu đau đớn nhưng họ không ác, không buông xuôi và

họ có ước mơ hi vọng. Bên ngoài, đôi lúc họ thô kệch, nóng nảy, chua ngoa

nhưng sâu thẳm trong tâm hồn họ, đó là những con người hiền lành, chân

chất và giàu tình yêu thương.

2.2.2. Nhân vật trí thức

Truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng không đề cập nhiều đến nhân

vật trí thức như Nam Cao. Tuy vậy, những nhân vật này thể hiện một phần

nào đó tư tưởng của sáng tác của ông.

Tầng lớp trí thức tiểu tư sản được đề cập nhiều trong văn học thời kỳ

này. Nam Cao là nhà văn rất thành công với hình ảnh người trí thức tiểu tư

sản. Đó là những con người có tài năng , đức đức độ, có niềm say mê nghề

nghiệp. Vì có ý thức trách nhiệm cao với nghiệp cầm bút nên cuối cùng họ

cũng tìm ra được chân lí nghề nghiệp; “Nghệ thuật không phải là ánh trăng

lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật phải là những tiếng đau

khổ kia phát ra từ những kiếp lầm than.” [Trăng sáng]. Nhưng vì cuộc sống

mưu sinh, vì cơm áo hàng ngày, nhiều người trí thức đã cho ra đời những tác

phẩm vội vàng như anh Hộ [Đời thừa]. Hộ chán nản vì những lí tưởng

không thực hiện được. Bên cạnh đó, anh vẫn phải đối diện với những đòi hỏi

thường ngày. Anh phải viết vội, viết cẩu thả để cứu cả gia đình khỏi chết

đói. Hộ rơi vào bi kịch tinh thần, đau khổ vì những tác phẩm nhạt nhẽo của

mình nhưng không biết làm sao.

Người trí thức của Tô Hoài cũng rơi vào hoàn cảnh giống như vậy.

Tác giả không đi sâu miêu tả những bi kịch tinh thần của họ như Nam Cao.

30

Tô Hoài viết một cách nhẹ nhàng tự nhiên những suy nghĩ, hành động của

nhân vật. Truyện Hết một buổi chiều kể về một nhân vật trí thức mà tác giả

gọi ở ngôi thứ ba “gã”. Cả một buổi chiều, anh ta loay hoay không biết làm

thế nào để sáng tác. Cái bàn cái ghế không hợp đôi. Bàn thì thấp ghế lại quá

cao khiến anh đau vai mỏi cổ. Anh loay hoay kê cái bàn cao hơn bằng bốn

viên gạch nhưng cái bàn cuối cùng cũng bị đổ chổng kềnh. Chỉ còn cách cưa

cái ghế nhưng cái ghế là của bà chủ nhà thì làm sao anh cưa được. Hình ảnh

cái bàn cái ghế khập khiễng không đi đôi với nhau phải chăng là hình ảnh ẩn

dụ về cuộc sống. Người trí thức luôn phải đối diện với hiện thực nghèo khổ,

khiến họ quẩn quanh không lối thoát. Đó cũng là cuộc sống nhếch nhác tạm

bợ của người trí thức thời bấy giờ. “Gã” cũng phải đối diện với một hiện

thực giống như Độ “phải viết”, nếu không “toà soạn sẽ kêu lên rằng dạo này

hắn lười quá. Gã không dám lười bởi gã cần tiền”. Chấp nhận hiện thực như

việc chấp nhận cái bàn, cái ghế khập khiễng, gã bắt đầu viết. Một cái tên

truyện rất đẹp “Ấp hồ”. Đấy là một truyện diễm tình và suông hết sức. Gã

cảm thấy ngượng. Bởi gã nhận ra rằng: “Mạch sống cuộc đời táp nham này

còn có gì đáng lồng vào một dòng nước, một nhành hoa, một làn mây trắng…

Bên cạnh gã, cả một xóm lao động rách rưới vang rầm lên những tiếng rên la,

gầm rít. Những cái gì là trăng, là sao, là thu vàng mờ mịt trong đầu gã.” Nhận

ra hiện thực cuộc sống, người trí thức không thể cất bút nói những chuyện

mơ mộng hão huyền. Mặc dù viết về những trăn trở của người trí thức

nhưng Tô Hoài không đi sâu vào những bi kịch giống như Nam Cao. Ông

còn thắp lên niềm hi vọng trong họ. Ngày mai, gã sẽ tiếp tục viết một tác

phẩm văn chương nói lên hiện thực cuộc đời “Mai mình viết. Mai”

Nhân vật trí thức của Tô Hoài cũng hiện ra là những con người đời

thường. Đi tắm đêm kể về những chàng trai nghịch ngợm tinh quái. Họ cũng

tò mò, thú vị tình cờ được ngắm những cô gái đang tắm dưới bến “những

thành vai trăng nõn, tóc buông loà xoà trên mặt nước, gợn những vòng vàng

31

vì ánh trăng.” Họ cũng có cái bồn chồn thao thức trước vẻ đẹp đầy nữ tính

ấy. Suốt đêm, Căn thao thức không ngủ “Chúng nó đẹp như tiên sa”. Nhiều

đêm trăng, Căn đã rình mò những cô gái tắm. Bị các cô vạch mặt, Căn xấu

hổ và tìm cách trả thù. Anh đã cất hết quần áo của các cô và còn giả làm ma

để các cô sợ phát khiếp. Từ đó, các cô không còn dám chua ngoa như trước

nữa. Rõ ràng, người trí thức trong truyện ngắn của Tô Hoài không được lí

tưởng hoá như là những con người mang trọng trách lớn lao “khơi những

nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.” Tác giả đề cập đến con

người đời thường của họ cũng tò mò, thích thú, giận hờn, ghen ghét, và cũng

trả thù vặt vãnh…

2.2.3. Hình tượng loài vật

Tô Hoài là một trong những nhà văn viết về loài vật thành công nhất.

Hà Minh Đức nhận xét: “Tô Hoài là nhà văn viết thành công nhất, hấp dẫn

nhất về các loài vật” [31, tr 444]. Còn tác giả Vũ Ngọc Phan “Tô Hoài tỏ ra

không giống một nhà văn nào trước ông và cũng không giống một nhà văn

nào mới nhập tịch làng văn như ông. Truyện của ông có những tính chất nửa

tâm lí, nửa triết lý, mà các vai là loài vật.” “Nó là những truyện tả chân về

loài vật, về cụôc sống của loài vật, tuy bề ngoài ra vẻ lặng lẽ, nhưng phần

trong có lắm cái “ồn ào”, vui có, buồn có.”[31, tr 63].

Thế giới loài vật trong truyện của Tô Hoài là những con vật hết sức dị

đời thường, những con vật đã gắn bó với tuổi thơ Tô Hoài. Ẩn chứa trong

mỗi trang truyện về loài vật là câu chuyện về con người. Hà Minh Đức nhận

xét: “Truyện loài vật của Tô Hoài làm cho người đọc tưởng tượng và liên

tưởng đến cuộc sống hằng ngày của những dân thường ở quê.” [31, tr 445],

“có thể nói ý nghĩa xã hội của chuyện loài vật của Tô Hoài khá phong phú”

[31, tr 446].

Truyện gã chuột bạch gợi chúng ta hình dung về cuộc đời luẩn quẩn

của những người nông dân, bó hẹp sau luỹ tre làng. Hai vợ chồng chuột

32

bạch sống trong một cái lồng nhỏ hình vuông, đan bằng tre. Giữa lồng,

người ta treo hai cái vòng thép nhỏ, san sát từng cánh như hai chiếc đu tiên

tí hon. Chúng chỉ có việc: ăn, đánh vòng và ngủ. Đó là tóm tắt những công

việc của đôi chuột bạch. Thậm chí ngay cả lúc những đứa trẻ tinh nghịch

quên đóng cửa lồng. Ấy vậy mà đôi vợ chồng ấy cũng chẳng dám ra khỏi

lồng, chỉ tha thẩn bò ra ngoài. Hai cái bóng lồm cồm hếch chiếc mũi nhọn

lên ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Cũng như vậy O chuột kể về anh chàng mèo

“cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để mà chỉ

quẩn quanh đi o chuột”. “O chuột” ở đây không phải là danh từ mà là động

từ có thể hiểu là o ép, bắt nạt. Gã mèo cũng chẳng oai phong gì, cả đời mình

hắn chỉ rình mò, bắt nạt mấy con chuột nhép ở xó bếp.

Cuộc đời của vợ chồng Đôi ri đá có khác gì cuộc đời những người

ngụ cư ở làng Nghĩa Đô. Chúng đến ngụ cư ở cây hồng bì. Hàng ngày tần

tảo kiếm ăn làm tổ, sinh con đẻ cái. Cuộc sống cũng đầy những nhọc nhằn:

“Bốn con ri cũng nhớn nhao. Bố mẹ chúng rạc cả người, về nỗi đi kiếm mồi

cho con.” Có lần tổ của chúng bị phá hỏng nhưng đôi chim ri ấy vẫn bền bỉ

xây một chiếc tổ khác. Chúng ăn ở dè lén bình lặng, chịu khó, ít ồn ã. “Cuộc

đời trôi chảy âm thầm dưới khe lá xanh, y như cuộc đời của những người

Nghĩa Đô, cần cù và nghèo khổ trên cái khung cửi trong bốn luỹ tre già”.

Cuối cùng, chúng không thể ngụ cư ở cây hồng bì đành rời bỏ đi nơi khác

gợi ta nhớ đến những người con làng Nghĩa Đô vì cùng cực khốn đốn đành

phải bỏ làng đi làm ăn xa.“Đôi vợ chồng ri đá chịu khó và nhẫn nại kia,

cùng một đàn bốn con thơ dại, tan tác bay đi, không bao giờ còn trở về cây.

Chẳng ai biết được cái bầu đoàn khốn khổ ấy long đong bạt đi đâu và sau ra

làm sao”. Hình ảnh một đôi chim ri trở lại có thể là đôi chim ri cũ nhưng

cũng có thể lại là đôi chim ri mới. Điều đó muốn nói rằng, cuộc sống vẫn

trôi chảy âm thầm, đôi chim lại tiếp tục đối diện với những thử thách như

bao thế hệ người dân làng Nghĩa Đô vẫn âm thầm nhọc nhằn kiếm sống.

33

Ở truyện Con gà trống ri và Một cuộc bể dâu, tác giả kể về cuộc đời

của những con gà bề ngoài tưởng như chẳng có gì đáng nói nhưng đằng sau

ấy là chứa chất bao tâm sự của những số phận, những cảnh đời. Con gà

trống ri gặp phải bi kịch tình yêu. Nó là một thứ gà bé nhất của loại gà

nhưng nó vẫn có đủ tư thế hùng dũng của loài gà trống, nó vẫn giữ địa vị

một ông thống soái dẫn đầu”. Khi lớn lên, hắn có đặc tính chung của loài gà

“đa tình lắm”. Nhưng sự đa tình của hắn lại như một bi kịch của cuộc đời.

Trong sân, hắn chẳng tìm đâu được một người tri kỉ, bởi sự thấp kém về vóc

dáng của hắn: “Xung quanh khu vực chỗ nó ở, tuyệt nhiên không có đến hai

con gà ri. Cũng giống như con người, không tìm được bạn tri kỷ, học đòi đi

kiếm ăn xa: “hắn đi theo tiếng gọi của tình ái”. Nhưng cuộc đời vốn hợp lại

tan, tìm được chị gà mái ri, nhưng cái cuộc tình của hai con gà ri ấy không

được bao lâu. Cái chết của người tình lại đưa con gà trống trở lại những

tháng năm buồn tẻ. “Rồi gã đi biệt hẳn. Chắc chẳng phải là nỗi nhớ thương

cô ả má đào bạc mệnh ấy. Gã vốn tính mau quên”. Cái bản tính mau quê

nhắc ta đến Lụa và Nguyên trong truyện Lụa, hai người yêu nhau tha thiết,

họ đã thề nguyền với nhau. Lụa nếu không lấy được Nguyên, cô sẽ đi tu.

Còn Nguyên mà không lấy được Lụa, anh sẽ bỏ đi Sài Gòn. Nhưng rồi chỉ ít

tháng sau đó, Lụa lấy chồng còn Nguyên lấy vợ ngay tại làng, dường như

chẳng có lời thề nguyền hôm nào.

Một cuộc bể dâu kể lại cuộc đời của anh gà chọi, một tay hảo hán. Cái

anh hùng trọc trời khuấy nước hiện lên thật hùng dũng: “Da chàng đỏ gay,

đỏ gắt, đỏ tía, đỏ bóng lên như có quét một nước sơn thắm”. Cái oai phong

lãm liệt mà tác giả mệnh danh là Từ Hải cũng không thoát được lưỡi hái của

tử thần, bệch dịch đến, cái xóm gà vịt trở nên tan tác chia lìa.

Mỗi con vật trong truyện ngắn của Tô Hoài hiện lên thật sinh động

với nhiều tính cách khác nhau. Ả gà mái phong trần khiếp lắm nhưng khi

làm mẹ, mụ là một người mẹ tuyệt vời. Mụ không dám rời lũ con nửa bước.

34

Chăm chỉ kiếm ăn nuôi con, có khi chỉ bới được một hạt dền nhỏ mụ lại gọi

chúng đến, cho chúng ăn. Mụ vừa “nhìn các con, vừa nói chuyện vui vẻ”.

Chẳng may con mụ gặp nguy hiểm, mụ “cong chòm đuôi lên, sù vành lông

cổ”, “nhảy lên như choi choi”, bảo vệ cho kỳ được những đứa con yêu quý

của mình”. Hình ảnh ả gà mái khiến người ta liên tưởng đến con người. “Mụ

mải mê chăn nuôi con đến quên cả mình. Chả thế mà trong khi có trẻ, thân

hình mụ gày xác, gầy xơ… Phải gọi mụ là một bà lý ở nhà quê, một bà lí

hào chỉ biết có tảo tần buồn bán để nuôi con cho đi thả chim thả diều và nuôi

chồng một ngày hai bữa rượu.

Tô Hoài miêu tả những con vật hết sức bình dị, quen thuộc với cuộc

sống người dân. Trong cảm quan Tô Hoài, chúng hiện lên thật sinh động,

ngộ nghĩnh, có tính cách, số phận khác nhau. Chúng nói lên thân phận của

những người dân làng Nghĩa Đô, những con người nghèo đói, tần tảo, chịu

thương, chịu khó, những con người thuần hậu. Hà Minh Đức thật đúng khi

cho rằng: “Có thể nói ý nghĩa xã hội của chuyện loài vật của Tô Hoài khá

phong phú. Trong cuộc đời cũ truyện của loài vật gợi đến thân thận con

người, và cuộc đời mới đời sống được nâng cao hơn, nhất là ở những vùng

thôn quê cũng chi phối đến môi trường sinh sống của loài vật” [31, tr 446]

2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Tô Hoài trước

Cách mạng tháng Tám

Nhân vật là linh hồn của tác phẩm. Các phương diện thể hiện nhân vật

hết sức đa dạng. Nhà văn miêu tả chân dung, ngoại hình, tả hành động tâm

trạng hoặc đưa những chi tiết mô tả ngoại cảnh, môi trường, đồ vật xung

quanh con người làm nổi bật bức chân dung về con người. Nhân vật trong

truyện ngắn Tô Hoài được miêu tả những tâm trạng suy nghĩ phức tạp. Nhân

vật được xây dựng trong môi trường lao động, sinh hoạt, được đặc tả ở

ngoại hình, lời nói, được tác giả thể hiện ở những chi tiết rất đặc sắc thú vị.

35

2.3.1. Nhân vật gắn với môi trường lao động, sinh hoạt

Thực ra vịêc đặt nhân vật trong môi truờng lao động, sinh hoạt để xây

dựng nhân vật không phải là điều mới mẻ chỉ có ở Tô Hoài. Trong ca dao,

người xưa từng viết:

“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”

“Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”

Đọc văn học hiện thực phê phán, ta mới thấy được cách thức này

được nhiều tác giả sử dụng như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Nguyên

Hồng. Bởi muốn phản ánh đầy đủ tính cách của con người trong hiện thực

không có gì đầy đủ bằng đặt họ trong môi trường lao động, sinh hoạt.

Nhưng Tô Hoài cũng có nét riêng biệt. Ông không quá cầu kì vào việc

lựa chọn môi trường lao động sinh hoạt, ông viết đơn giản tự nhiên những gì

diễn ra xung quanh mình. Đó là môi trường lao động và sinh hoạt của người

ở làng quê Nghĩa Đô.

Vàng phai, mối tình của anh Hẹn và cô Mây nảy nở trong lao động.

Anh Hẹn đương dệt cửi lại nhớ đến cô Mây mà viết thư tình gửi đến Mây. Ở

phiên chợ, họ đã gặp nhau và trao đổi thư từ cho nhau. Nhận được thư đáp lại,

lòng anh Hẹn vô cùng sung sướng. Những đêm dệt cửi, tiếng hát của anh

vang lên hoà lẫn với tiếng đưa thoi: “Những đêm dệt cửi canh khuya, dưới

ánh đèn dầu hiu hiu, anh Hẹn cao giọng hát ngâm từng câu một. Tiếng vang

ngân ngư lẫn với tiếng thoi chạy thậm thọt qua mặt lụa kêu lách cách.” Cũng

từ đó, anh Hẹn vừa dệt cửi, vừa nghĩ đến chuyện làm thơ tặng người yêu.

“Anh nay vội việc cửi canh

Khi nào thong thả chỉ dành làm thơ

Những là bối rối lòng tơ

Nào ai ăn ở hững hờ với ai.”

36

Trong Hết một buổi chiều, gã trí thức chỉ loanh quanh với chuyện bàn

ghế, mãi rồi mới bắt tay vào viết, dòng tâm trí của hắn hướng đến những

chuyện chàng nàng, gã thấy chán ngán bởi xung quanh hắn là hiện thực đau

khổ của người dân làng quê này.

Bức chân dung nhân vật hiện lên trong truyện ngắn Tô Hoài trước

Cách mạng chủ yếu trong sinh hoạt hàng ngày. Có lẽ nó xuất phát từ cái

quan điểm của ông về con người: Con người trước hết là con người. Thói tật

của con người hầu hết được bộc lộ hết trong những sinh hoạt đời thường.

Ông dỗi thuật lại một bữa cơm chiều của gia đình lão Múi. Ông Múi

hậm hực vì bà vợ chỉ cho ăn hai bát cơm. Thế là ông dỗi mấy ngày chẳng ăn

cơm. Ông tự mò cua bắt ốc để có cái ăn. Cuối cùng, ông bị đau bụng một

trận và đành phải làm hoà với vợ.

Nhà có ma kể lại chuyện hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Anh

chồng hay chè chén đến đêm mới về, đánh chửi vợ con trong lúc say. Tiếng

thở dài của người vợ. tiếng trẻ con khóc, tiếng huỵch huỵch người chồng

đấm vợ văng vẳng trong đêm khiến người khách trọ không sao ngủ được.

Trong đêm khuya, những tiếng động ấy càng trở nên quái gở, tưởng như nhà

có ma...

2.3.2. Nhân vật được chú trọng miêu tả ở ngoại hình, hành động, lời nói

Tô Hoài có biệt tài miêu tả ngoại hình nhân vật. Mỗi bức chân dung

con người trong truyện ngắn của ông thật sinh động, cụ thể và riêng biệt.

Những cô gái thôn quê mượt mà đằm thắm: “Cô Mì mười tám. Đến

tuổi ấy, từ mùa xuân trở đi, đôi mắt người con gái trong thẳm và đen lay

láy. Cô nhìn sang hai bên, con mắt lừ đưa nghiêng nghiêng. Ôi chao là say

sưa. Miệng hoa múm mím. Mỗi khi mỉm cười một nụ cười nhỏ, đôi má hây

khẽ gợn lum xuống hai nét vòng yêu.”, các cô gái đi tắm đêm “những bờ

vai trắng nõn, tóc buông loà xoà trên mặt nước, gợn những vòng vàng vì

ánh trăng”

37

Những người phụ nữ quê khốn khổ. Tuổi già, nghèo đói và những hủ

tục đã quây lấy họ khiến hình hài của những con người ấy cũng trở nên biến

dạng. Bà Móm ngồi đấy, ngay phía ngoài đầu hè. “Váy áo vẫn còn ướt sũng.

Cái màu nâu bệch, giúng thềm vào nước và bùn, thâm xỉn lại. Khuôn mặt

xịu xuống. Đôi vành mắt khép lại. Tất cả những nếp răn trên khuôn mặt cằm

đều chảy giạt xuống phía cằm. Chiếc cằm méo mó thủng một hõm mồm. Cái

mồm móm mém ấy thế mà kêu to. Giá cứ yên lặng mãi, thoạt nhìn, người ta

tưởng đấy là một đống rạ nát như những đống rạ nát ở xung quanh. [Chớp

bể mưa nguồn, tr171]

Những kẻ đòi nợ thuê vừa có vẻ dữ dằn lại vừa đáng thương. “Đầu

lão bịt một vành khăn tai chó, hai tai khăn vểnh như đôi tai trâu. Trẻ con

tưởng lão mới mọc hai chiếc sừng bò trên đầu. Lái Khế mặc một tấm áo nâu

dài dày cộp, chó cắn có thể gẫy răng. Ngang lưng cuốn một vòng thắt lưng

điều, rách xơ xác. Tay lão ta xách một cây hèo lua tua mấy sợi tơ nhỏ.”

Những người đi làm ăn ở các đồn điền cao su mắc chứng bệnh sốt rét.

Họ tiều tuỵ, đen đúa, tội nghiệp. Trông họ chẳng khác nào những bóng ma

vật vờ. “Những bóng đen bước lùi lũi. Không phải tại trời tối, bởi trời chưa

tối hẳn, mà chính mặt mũi họ đen thực. Nước da thâm xịt, đen và xám bủng,

tưởng như sờ dến thì óc sạn cát dính vào bàn tay. Tóc ngắn, rụng lưa thưa.

Những cẳng tay cẳng chân gầy tóp”[Một đêm gác rừng, tr 163]. Tương phản

với chân tay, bụng ai cũng to phềnh. “Những cái bụng vượt ngực, phình như

những chiếc bụng giun của trẻ con. Phần nhiều người ta run đây đẩy. Ai đi

cũng khoanh hai tay, cái cổ rụt lại, đầu gối giơ cao, gieo những bước chân

líu ríu.””[Một đêm gác rừng, tr 163]

Bên cạnh đó, Tô Hoài còn miêu tả chân dung con người với nhiều sự

biến đổi sau những ngày phải đi tha hương cầu thực. Anh Tại phẫn uất vì

người yêu chê anh nghèo bỏ đi lấy người khác. Anh đã đi làm ăn xa tám

chín năm trời mới trở về. Cả làng ngạc nhiên, tò mò trước sự thay đổi của

38

anh. Trang phục anh khác hẳn những người vốn quen với áo nâu giản dị. Nó

vừa mang phong cách Tây, vừa ta, lại cả Tàu. Trang phục kiểu phương Tây

là chiếc mũ cát két bằng vải mông-ta-nhắc, sọc đen sọc trắng lẫn lộn, cái

lưỡi trai lại được lật ngược ra đằng sau gáy. Chiếc áo bành tô vàng sọng, có

một chuỗi khuy đồng trước ngực. Ở cửa tay, ở hai bên cổ, ở những miệng

túi, cả hai bên ngực, cũng rải rác những khuy. Và đến túi cũng lắm. Túi nhỏ,

túi lớn. Túi ở hai bên bẹn, túi ở hai bên ngực, túi ở hai bên trong lườn. Bởi

thế nó quá lộn xộn vì nhiều khuy, nhiều túi. Anh Tại còn vận một cái quần

lĩnh đen bóng nhoáng. Nền lĩnh lấm tấm hoa dâu óng ánh theo kiểu ta.

“Nhưng đôi giầy tàu bằng nhung đúng hệt đôi giầy của một ông tướng võ,

một ông Triệu Tử Long chẳng hạn, trong những phường hát đám tháng

giêng” [Một người đi xa về, tr 204].

Không chỉ tả hình dáng, trang phục, các nhà văn cũng chú ý đến đặc

tả khuôn mặt. Đến với sáng tác của Nam Cao, người đọc không thể quên bộ

mặt của Lang Rận. Đó là cái bộ mặt “nặng chình chĩch như người phù, da

như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn,

ngắn ngùn lại gồ lên. Đôi mắt thì húp lại như mắt lợn sề” của Lang Rận.

Hay như cái bộ mặt của Trạch Văn Đoành trong Đôi móng giò: “Cái mặt

hắn vênh vênh lên... Đôi lưỡng quyền nhô ra như gây sự với người ta (...).

Những cái răng dọa nạt ai, như một con chó khi nó gừ gừ với một con chó

khác.” Bộ mặt ấy như phô trương ra ngoài tính ngỗ ngược, ngang bướng bất

cần đời của hắn. Còn cái bộ mặt “vằn dọc, vằn ngang không biết thứ tự bao

nhiêu là sẹo” như cái mặt thớt của Chí Phèo làm cho hắn không thể trở về

cuộc đời lương thiện, cái mặt xấu đến mức ma chê quỷ hờn của Thị Nở làm

cho ai cũng phải xa lánh, không dám lấy thị làm vợ.

Nếu Nam Cao miêu tả khuôn mặt chủ yếu bộc lộ tính cách và cuộc

đời số phận thì Tô Hoài chủ yếu để diễn tả trạng thái cảm xúc nhiều hơn. Đó

là cái mặt của lão Móm giỗi cơm vợ: “Cái mặt đầy ngòm những râu ria rậm

39

rạp thì thưỡn ra. Đôi mắt cá ngão, giương bạnh, tròn xoe. Y như lối ngồi của

một chú ễch ương bụng ỏng và lồi mắt... Bấy giờ chiếc mặt thưỡi ấy mới

động đậy. Chòm râu hơi rung rung. Thực cho đến lúc cái chòm vừa râu vừa

ria ghê gớm ấy chuyển động, người ta mới kịp nhớ để biết rằng trong đó,

còn có cái miệng ông lão. Miệng ông lão mấp máy. Đầu tiên, nảy ra mấy

tiếng tóp tép, tóp tép. Rồi ông thở khà. Và chợt cười nức lên một hồi khớ

khớ. Những tiếng khớ khớ quái quỉ như nứt vỡ ở trong cổ họng và đưa ra

ngoài từng tiếng, từng tiếng.” Đó là khuôn mặt của cô Mây thẹn thùng khi

gặp người yêu: “Mây thì Mây cứ cười tít đi. Mây hay cười quá. Đôi má

phúng phính lúm lại và đỏ hây. Cặp mắt long lanh giữa đôi mí húp híp. Cái

mắt mới tình tứ làm sao! Mây cười cả má, cả mắt. Khi anh Hẹn cầm tay,

“mặt Mây đỏ hồng, đôi môi ngon và mòng mọng như hai múi quýt.”. Đó là

vẻ mặt đầy sung sướng của Mây khi được bác quyền Vực ôm hôn: “Quyền

ta bèn cúi xuống hôn đánh choét một cái vào má Mây. Cái má phính ngon

lành và nóng rừ”. Đó là khuôn mặt dữ dằn của một kẻ lên cơn dại. Lão lái

Khế cái mặt đỏ xuống tận quanh cổ. Hai tay lão cũng đỏ tía. “Mắt lão trợn

ngược lên, đục ngầu, thắm đòng đọc. Sốt lâu qúa. Lão cứ phải luôn há

miệng. Cái lưỡi lão thè lè ra thê lễ”. Đó là khuôn mặt buồn rầu đến thẫn thờ

vì phải xa người yêu của Lụa và Nguyên: “Mắt đờ đẫn, nhìn bâng quơ. Lụa

bứt mấy ngọn cỏ. Chừng như đã lâu, đôi bên chưa nói với nhau một câu nào.

Sự im lặng ngẩn ngơ trên những nét mặt băn khoăn.”

Bên cạnh xây dựng ngoại hình, Tô Hoài còn miêu tả tỉ mỉ chi tiết

những hành động cử chỉ của nhân vật. Miêu tả đôi trai gái ngồi bên nhau

tình tự, tác giả chậm giãi miêu tả từng động tác của họ: “Người con gái ngồi

xuống, thì gã nhích lại gần. Gã nhìn mặt người yêu, ấm ứ muốn nói một câu,

nhưng lại thôi. Gã bần thần nhòm xuống giếng. Lòng giếng tối om. Gã

ngẩng mặt lên, cái mặt vênh váo trơ trẽn của người say rượu. Gã không nói,

nhưng “hừm” một tiếng. Người con gái thấy lành lạnh trên gáy. Nàng quay

40

lại đằng sau. Đằng sau là mặt trăng đương ngắm hai người. Dưới đất trước

mặt có hai cái bóng. Bàn chân giẫm kề bên bóng chân. Người ta thở cũng

nghe tiếng phào. Gã nghiêng má nhìn người yêu. Rồi gã lại thở dài phè phè.

Cô nàng xua tay lên mặt.” [Ông giăng không biết nói]

Đọc những trang truyện Tô Hoài, độc giả ít thấy nhân vật dằn vặt, đau

đớn về mặt tinh thần. Tác giả Mai Thị Nhung [40, tr 123] đã khảo sát sự

xuất hiện hành động và diễn biến nội tâm nhân vật của Tô Hoài và một số

nhân vật của nhà văn khác đã phát hiện ra tần số xuất hiện hành động của Tô

Hoài lớn hơn diễn biến nội tâm và cũng hơn hẳn các nhà văn khác: “Ở Tô

Hoài là cứ 17 lần xuất hiện hành động mới có 1 lần xuất hiện diễn biến nội

tâm. Trong khi đó, Nguyên Hồng cứ 5 lần xuất hiện hành động có 1 lần xuất

hiện diễn biến nội tâm, Nam Cao cứ 6 lần xuất hiện hành động có 1 lần xuất

hiện diễn biến nội tâm, Nguyễn Khải cứ 6 lần xuất hiện hành động có 1 lần

xuất hiện diễn biến nội tâm.” Như vậy, so với các nhà văn Nguyên Hồng,

Nam Cao, Nguyễn Khải thì Tô Hoài xây dựng nhân vật có tần số xuất hiện

hành động lớn gần gấp ba lần. Tính cách nhân vật của Tô Hoài chủ yếu

được khắc hoạ thông qua cử chỉ, hành động, hơn là qua diễn biến tâm trạng.

Đó cũng là nét khác biệt của Tô Hoài với sáng tác của nhà văn cùng thời.

2.3.3. Nhân vật được xây dựng dựa trên những chi tiết về phong tục

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, chi tiết là “các tiểu tiết của tác phẩm

mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Hình tượng nghệ thuật cụ thể

gợi cảm và sống động nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, chân

dung, nội thất, về cử chỉ phản ứng nội tâm, hành vi lời nói” [18, tr 51]. Chi

tiết còn có khả năng “nói nhiều hơn bản thân nó. Tuỳ theo sự biểu hiện cụ

thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hện, giải thích, làm minh xác cấu tứ

nghệ thuật của nhà văn, trở hành tiêu điểm, điểm hội tụ tư tưởng tác giả

trong tác phẩm.”[18, tr 51]. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng khẳng định

vai trò to lớn của chi tiết: “chi tiết có thể ví như bụi vàng [...], chi tiết trong

41

đời sống thì không ai có thể sáng tác được. Nó nảy sinh từ đời sống và nhà

văn phải nắm bắt chi tiết đó để làm một trong những cái vốn cho văn học.

Nếu không có chi tiết thì truyện không thành truyện như đề cương rất đại

khái”. [6, tr 658]. Nguyễn Công Hoan từng nói: “truyện ngắn không phải là

truyện mà là một vấn đề xây dựng chi tiết”.

Trong tác phẩm, Tô Hoài đưa nhiều chi tiết về phong tục tập quán

truyền thống của quê hương. Chính điều này đã làm cho nhân vật trong

những truyện ngắn của Tô Hoài có những nét độc đáo riêng biệt. Cũng như

bao nhiêu làng quê khác, người dân đều háo hức chờ đón những ngày hội hè

đình đám. Khai thác ở mảng đề tài này, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan

viết với một giọng điệu phê phán quyết liệt. Bởi nhà văn phát hiện đây là dịp

để bọn cường hào ở địa phương bòn rút của dân chứ không còn mang tính

văn hoá nữa. Nhưng Tô Hoài lại tập trung miêu tả những lễ hội truyền thống

ở thôn quê. Tác giả chú tâm vào những sinh hoạt vui chơi của nông dân như

chọi gà, đánh cờ bỏi, hát chèo, đấu võ... Mùa ăn chơi toát lên không khí sinh

hoạt của làng vào dịp hội võ làng. Một không khí vừa trang nghiêm, vừa náo

nhiệt gợi nhớ cội nguồn. Người dân đi xem như để sống lại, hồi tưởng về

những anh hùng giỏi võ đựơc tương truyền trong làng. Tô Hoài cũng sử

dụng những chi tiết có phần li kì trong dân gian: “Trước bác cả Chửng làng

tay không mà đánh ngã được mười tên cướp... Cái độ loạn Cờ đen, bà

Khảng lừa mẹo chặt cụt tay một thằng giặc khách... Chao ôi ngày xưa ấy,

người ta giỏi võ quá.” Ngày hội, mọi người đều vui phấn chấn cả lên. Không

khí trong làng cũng trở nên sôi động hơn: “Từ hôm các lò võ lục đục kéo

đến thì cả làng rộn rịch nháo lên. Các nhà võ thì ăn chực nằm chờ, đợi ngày

đấu. Người ta ngong ngóng đi xem”. Cảnh và người như thấm đẫm không

khí lễ hội.

Đất lề quê thói, mỗi làng có một tục lệ riêng. Trai gái lấy nhau phải

nộp treo cho làng. Làng quê ấy vẫn còn nạn tảo hôn, người ta lấy vợ gả

42

chồng cho con theo sự sắp đặt của cha mẹ. Hai đứa trẻ cập kê tuổi nhau, một

thằng nhãi vừa chẵn mười tuổi, người ta quen gọi là cu Phúc, cái Ngói mới

hơn mười hai tuổi. So đôi tuổi hai đứa là hợp nên cha mẹ cho chúng lấy

nhau [Vợ chồng trẻ con]. Tục lệ này đã trở thành thâm căn cố đế trong đời

sống láng quê. Làng quê ấy, còn có kẻ chuyên đi đòi nợ thuê, họ là nỗi kinh

hoàng cho những người dân [ Lái Khế]. Nơi ấy còn có những quán nước cây

đa đầu làng, người rỗi việc, người đi làm đồng về, đi xa về ngồi uống nước

chè tươi, nói chuyện với nhau, chuyện mình chuyện người, chuyện hay

chuyện dở trong các gia đình [Một người đi xa về].

Những chi tiết về phong tục là nét độc đáo trong tác phẩm của Tô

Hoài. Nó làm các câu chuyện của nhà văn dường như có sự gắn kết với nhau

mặc dù mỗi truyện đều viết về những nhân vật, cuộc đời khác nhau. Trong

tâm tưởng của độc giả, âm thanh của làng quê vẫn còn đọng mãi. Ở đâu đó,

có tiếng trống chèo, tiếng trống hội làng rộn rã, náo nức; có bước chân thình

thình của kẻ chuyên đi đòi nợ thuê; có lời than phiền của ai đó cưới nhau mà

chẳng nộp treo cho làng; có tiếng khóc của cô dâu nhỏ tuổi mới về nhà

chồng; có tiếng rì rầm bán tán của những người đi làm đồng trở về, ngồi

nghỉ dưới quán nước đầu làng...Chất phong tục dường như là một thứ men

làm nên tác phẩm của Tô Hoài. Càng đọc, ta càng thấy cuốn hút mặc dù đó

là những câu chuyện tưởng như chẳng có chuyện gì.

2.3.4. Sử dụng hình ảnh so sánh đặc sắc để miêu tả nhân vật

So sánh là một biện pháp tu từ dựa trên quan hệ đối chiếu giữa A với

B dựa trên nét tương đồng. A là sự vật được so sánh, còn B là sự vật dùng

để so sánh. Để xây dựng nhân vật (A), đặc biệt về mặt ngọai hình, hành

động, cử chỉ, Tô Hoài đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh so sánh độc đáo

(B). Nhà văn không dùng những hình ảnh mĩ lệ làm cho nhân vật trở nên

đẹp đẽ hơn. Cái độc đáo của Tô Hoài là những hình ảnh so sánh lại hết sức

bình dị đời thường đến không ngờ. Cách so sánh này khiến ta nhớ đến tác

43

giả Hồ Xuân Hương. Trước đây, bà Chúa thơ Nôm đã rất táo báo đưa những

hình ảnh bình dị dân giã để ví với con người như quả mít, cái quạt, bánh

trôi, con ốc sên... Qua những hình ảnh đó, tác giả muốn nói về thân phận

đau khổ của người phụ nữ và tâm hồn trong trắng, thuỷ chung của họ.

Nhưng xét cho cùng, đó là những hình ảnh so sánh ngầm để Hồ Xuân

Hương nói về cuộc đời và số phận của người phụ nữ. Còn Tô Hoài sử dụng

hình ảnh so sánh miêu tả trực tiếp hình dáng, cử chỉ. Những bộ phận ngoại

hình của nhân vật như thân, đầu, mắt, mặt, miệng, nước da, cánh tay...đều

được ví với những sự vật quen thuộc như: “dải khoai”, “chiếc que tăm”,

“cây lứa nép”, “quả mít”, “mắt vịt”, “múi quít”, “vàng nghệ”, “đẵn mía”...

Cụ thể như sau: “ông chủ mặt thì xám, gầy leo kheo như cây lứa lép”, “đứa

con nhỏ sài đẹn, lom khom như chiếc dải khoai”, “nó gầy đét như chiếc que

tăm”, “lái Khế béo tròn như quả mít”, “đôi mắt hắn lơ láo như mắt vịt”,

“mặt Mây đỏ hồng, đôi môi ngon và mòng mọng như múi quýt ngọt”... Nhờ

những hình ảnh so sánh bình dị như thế, bức chân dung của nhân vật hiện

lên vừa cụ thể, vừa sinh động và đa dạng.

Hệ thống so sánh tu từ của Tô Hoài có thể chia làm ba loại chính.

Người nông dân thường được so sánh với loài vật, vật vô tri vô giác trong

hình hài khổ sở, đói kém, quanh quẩn; rất ít những hình ảnh lãng mạn, hiền

hoà mà mọi thứ đều cục mịch, thô ráp, xù xì như chính những kiếp đời u

uẩn. Những con vật lại được ví von với những đặc tính của con người. Sự so

sánh ấy đã cụ thể hoá một cách gần gũi thế giới loài vật đồng thời khiến

người đọc nhận ra cuộc sống của con vật gắn bó với con người. Kiếp loài

vật cũng đói rách, khổ sở cũng chẳng khác gì kiếp người. Hay tác giả viết về

con vật để nói đến kiếp người đầy đau khổ. So sánh đựơc dùng khi miêu tả

những nhân vật trẻ thơ, nhà văn thường dùng những hình ảnh rất ngộ

nghĩnh, đáng yêu thể hiện tính vô tư, hồn nhiên của trẻ nhỏ: “Trẻ con thì

44

trần truồng như những viên đá cuộc”[ Nhà nghèo, tr 154]; “chúng ôm nhau,

khò khè ngủ như hai con chó ốm” [Buổi chiều ở trong nhà, tr 161].

Tiểu kết

Nhân vật trong tác phẩm Tô Hoài là những con người bình dị, chủ yếu

sinh sống ở làng quê Nghĩa Đô. Họ là nông dân thợ thủ công, trí thức tiểu tư

sản và những con vật quen thuộc gắn bó với cụôc sống hàng ngày. Nhờ

khiếu quan sát, sự miêu tả tường tận tỉ mỉ ngoại hình, hành động, cử chỉ của

nhân vật và những chi tiết về phong tục cùng với hình ảnh so sánh độc đáo

mà bức chân dung những người dân quê ấy hiện lên thật sinh động với nhiều

dáng vẻ, tính cách, số phận khác nhau. Hiện lên trong tâm trí người đọc, một

vùng quê nghèo đói, tăm tối, những con người bình dị khốn với biết bao

khát vọng, lo toan và cả những thói tật đời thường. Qua đó, ta thấy được tài

năng văn chương và tấm lòng gắn bó sâu nặng với quê hương của nhà văn

Tô Hoài.

45

CHƯƠNG III

ĐẶC ĐIỂM KẾT CẤU, TÌNH HUỐNG

TRUYỆN NGẮN TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

3.1. Kết cấu

3.1.1. Khái niệm kết cấu

Kết cấu là phương diện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Một tác phẩm

nghệ thuật nếu thiếu vắng kết cấu thì bản thân nó chưa thành một chỉnh thể

nghệ thuật. Kết cấu của tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức phức tạp và

sinh động gợi cảm của tác phẩm, dưới sự chi phối của một quan điểm nghệ

thuật nhất định.

“Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác

phẩm, phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà

văn tự đặt cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc

sống và tư tưởng trong tác phẩm” [35, tr 295].

Như vậy, mọi phương diện tổ chức tác phẩm từ nhỏ nhất như ví von,

ẩn dụ, câu, đoạn cho đến tổ chức trần thuật, hệ thống hình tượng, thể loại,

cốt truyện... đều thuộc phạm vi của kết cấu. Chúng đan dệt vào nhau để tạo

ra tính hình tượng và chiều sâu nội dung của tác phẩm.

Về kết cấu của truyện ngắn, cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Nguyễn

Minh Châu Trang giấy trước đèn: “Truỵên ngắn như thân cây cổ thụ; chỉ

liếc qua những đường vân trên khoang gỗ tròn kia, dù sau trăm năm vẫn

thấy cả cuộc đời của thảo mộc”. Theo ông, viết truyện ngắn cần có kĩ xảo

“nó có gì giống như kĩ thuật của người làm pháo; dồn nén tư tưởng vào một

cái cốt truyện thật ngắn gọn, thật tự nhiên”. Nguyễn Minh Châu đã so sánh

“Tiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là mặt cắt của dòng

đời”[5, tr 251]

46

Nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng: “Truyện ngắn thường chỉ phản ánh

một khoảnh khắc, một mẩu nhỏ nào đó của cuộc sống. Nhưng cuộc sống

không phải diễn ra trên một mặt phẳng nên các mẩu nhỏ đó vẫn là một khối

- hơn nữa một khối chuyển động” [50, tr 101]

Ma Văn Kháng nhấn mạnh rõ vai trò của kết cấu: “Vấn đề là anh tổ

chức sao cho truyện của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Như người ta vẫn

nói, toàn truyện là một vòng khép kín, không dài quá, không xô đẩy xộc

xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào”[50, tr 101]

3.1.2. Kết cấu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng

3.1.2.1. Kết cấu theo trình tự thời gian

Ghi lại cuộc sống đời thường với bao lo toan vặt vãnh của những dân

ở vùng quê dệt lụa, Tô Hoài sử dụng kiểu kết cấu phù hợp với trật tự của các

sự kiện diễn ra theo thời gian, theo số phận cuộc đời của các nhân vật chính.

Có 19 tác phẩm được viết theo kết cấu theo trình tự thời gian gồm: Lụa,

Đêm gác rừng, Lá thư tình đầu tiên, Đi tắm đêm, Hết một buổi chiều, Bóng

đè, Nhà có ma, Mùa ăn chơi, Giữa thành phố, …chiếm 73%. Như vậy tác

giả chủ yếu viết truyện theo trật tự tuyến tính.

Kết cấu theo trình tự thời gian khiến cho câu chuyện của Tô Hoài

dung dị gần gũi với những truyện dân gian. Nguyễn Công Hoan cũng lựa

chọn theo kiểu kết cấu này. Nhưng không giống Nguyễn Công Hoan, Tô

Hoài chú trọng sử dụng những cốt truyện đời thường kể theo trình tự tuyến

tính làm cho câu chuyện diễn ra theo nhịp điệu của cuộc sống thường nhật,

lời kể của ông nhẩn nha, thong thả, chậm rãi, sự việc được kể tuần tự hết sức

tự nhiên.Trong truyện Nguyễn Công Hoan, câu chuyện không diễn ra đều

đều như vậy. Nhà văn muốn gây ấn tượng mạnh đến người đọc nên các sự

việc trong truyện của ông được nén lại để rồi người đọc hoàn toàn bất ngờ

khi câu chuyện kết thúc

47

Truyện của Tô Hoài kể về những con người đời thường với sinh họat

hàng ngày nên lựa chọn kết cấu này là phù hợp. Cuộc sống của người dân

quê trôi chảy theo dòng thời gian. Những trai gái sinh ra và lớn lên ở làng.

Họ yêu nhau và lấy nhau rồi sinh con đẻ cái ở đấy. Tuy nhiên, không phải

bất cứ mối tình quê nào cũng thành. Chuyện của Lụa cũng như vậy (Lụa).

Cô yêu anh Nguyên đã lâu, họ chỉ chờ đến ngày cưới. Cuối cùng họ vẫn

phải chia tay vì tuổi không hợp nhau. Lụa và Nguyên đều đi lấy người khác.

Mặc dù có buồn nhưng dòng đời vẫn tiếp tục, chuyện tình của Lụa và

Nguyên cũng giống như bao chuyện tình khác ở cái làng Nghĩa Đô, yêu mà

không lấy đựơc nhau. Khác với Lụa, Lá thư tình đầu tiên lại kể về tình yêu

đơn phương. Anh Cuông thầm yêu trộm nhớ cô Mì đã lâu mà không có cách

nào bày tỏ. Biết cô là người hay chữ nên Cuông đã cố gắng âm thầm học.

Đến khi anh đọc thông viết thạo và tự mình có thể viết được bức thư bày tỏ

tình yêu với Mì thì cô cũng đi lấy chồng. Kết truyện anh Cuông đã phải đốt

lá thư ấy đi và giữ mãi trong lòng tình yêu với cô Mì. Không chỉ viết về tình

yêu, mà biết bao những câu chuyện đời khác cứ tuần tự diễn ra. Bóng đè, cô

con dâu ông bà cả Luỹ bị bóng đè trông ốm yếu và rũ rưỡi khiến hai ông bà

rất lo lắng. Họ đã tìm mọi cách để chữa cho con nhưng chỉ được một thời

gian sau đó bệnh lại tái phát trở lại. Ông cả Luỹ đã phát hiện ra điều gì. Buổi

tối ông liền nằm ngay phòng ngoài cạnh ngay phòng con. Từ đó, cô con dâu

cũng hết bệnh. Thì ra trong lúc chồng đi vắng, cô đã ngoại tình với người

khác. Nhà có ma kể lại một ngôi nhà gia đình ở một phố vắng gần vùng đất

ngoại ô Tây Hồ. Người ta đồn rằng có ma. Có rất nhiều người khác đến đây

thuê nhưng họ đều phải bỏ đi hết. Nhân vật tôi rất tò mò đã đến đây thuê.

Nửa đêm hôm ấy, anh nghe có tiếng khóc hờ, tiếng đấm đá huỳnh huỵch lúc

đầu anh rất sợ. Sau đó anh mới phát hiện đó là tiếng ông bà chủ. Mặc dù rất

cô gắng chịu đựng nhưng anh cũng chỉ ở được ít này. Nhân vật tôi đành phải

chào từ biệt ngôi nhà ấy.

48

Có lẽ cách kể từ từ theo dòng thời gian làm câu chuyện diễn ra giống

với nhịp độ của đời sống. Làng quê ấy vất vả bộn bề với biết bao lo toan. Họ

là những con người chân chất và cũng có nhiều thói tật. Câu chuyện gia

đình, câu chuyện tình yêu cho đến tâm tư tình cảm của người dân làng

Nghĩa Đô nhẹ nhàng bước vào trang truyện của Tô Hoài. Họ cũng có buồn

có vui nhưng phảng phất nét buồn nhiều hơn. Bởi quê hương còn nhiều đói

kém, họ ngày họ vẫn phải làm việc vì miếng cơm manh áo. Làng quê đã có

lúc sa sút lụn bại, con người lâm vào cảnh thất nghiệp, túng quẫn khó khăn,

phải bỏ quê đi tha hương cầu thực ở chốn quê người. Lựa chọn kết cấu theo

dòng thời gian, Tô Hoài đã khiến cho những câu chuyện đời thường không

bị tẻ nhạt, vụn vặt mà lắng đọng. Thậm chí viết về cái buồn nhưng không

quá đau thương. Hay người ta chấp nhận cái buồn, cái đau thương giống như

một điều vốn có của cuộc sống.

3.1.2.2. Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian

Một trong những hình thức mới mẻ mà truyện ngắn từ đầu thế kỷ XX

đem đến trên phương diện kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của sự

kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo trình tự diễn biến của cốt

truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính (đi từ “nhân” tới “quả”). Các truyện

này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt truyện tự nhiên.

Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là một đặc

trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại.

Trong những truyện ngắn trước Cách mạng, có 7 tác phẩm được viết

theo trình tự đảo lộn thời gian: Một chuyến định đi xa, Nhà nghèo, Một

người đi xa về, Giữa thành phố, Vợ chồng trẻ con, Khách nợ, Chớp bể mưa

nguồn chiếm hơn 27% trong tổng số 26 truyện ngắn trong tuyển tập. Đây là

một nét mới về đặc điểm kết cấu truyện Tô Hoài và cũng là cách tân so với

truỵên ngắn thời bấy giờ. Truyện của ông không kể tho tuyến tính thời gian

mà đan xen lẫn hiện tại và quá khứ, kể theo dòng hồi tưởng của nhân vật.

49

Một chuyến định đi xa bắt đầu tự sự việc gã sẽ đi Sài Gòn bởi gã thấy

cuộc sống tẹp nhẹp đã nhai như nhai lại một cách uể oải như thế, mất bao

thời giờ. Gã quyết định đi Sài Gòn. Gã nhớ lại trước kia khi còn hai mươi

tuổi gã đã có một mối tình quê. Hai người đã định bỏ đi vì cha mẹ ngăn cấm

không cho lấy nhau. Gã đã quyết ra đi nhưng còn cô gái cuối cùng lại trở về.

Kết thúc truyện, chàng trai ấy đã ở Sài Gòn, thành phố rực rỡ ánh đèn, hối

hả nhưng cũng nhiều hỗn độn và sóng gió. Gã lại nhớ đến người yêu xưa.

Một người đi xa về mở đầu bằng việc anh Tại xa quê đã nhiều năm

nay anh trở về làng. Không còn rách rứơi như trước, anh Tại đã giàu có hơn.

Câu chuyện lại trở lại về những ngày tháng xưa, lí giải vì sao anh Tại đã ra

đi. Mùa đông năm ấy, anh Tại mượn người đến nhà cô Pha đánh tiếng. Nhà

cô Pha đã bằng lòng. Anh mừng rơn cố dành dụm tiền để lo cho đám cưới.

Không ngờ, cô Pha lại đi lấy người khác. Anh Tại đau khổ, anh nhận ra anh

quá nghèo nên mới bị người ta phụ tình. Giữa năm anh bỏ đi Nam Kì. Giờ

đây, anh trở về có thể vênh vang với làng nước. Cô Pha bây giờ lại sống

trong nghèo đói, nheo nhóc. Cô tiếc ngày xưa.

Ông dỗi cũng viết theo kiểu kết cấu như vậy. Ông Múi dỗi vì bà vợ

chỉ cho ăn hai bát cơm. Ông nhớ lại ngày xưa ông là lính thổi kèn, ông đã

gửi biết bao tiền về cho vợ. Bà Múi đã tiêu hết số tiền của ông. Đến khi ông

trở về ông vẫn bàn tay trắng. Giờ đây ông phải ăn nhờ ở vợ. Ông dỗi nhất

định không thèm. Những ngày sau đó, ông bắt được gì ăn nấy. Cả đêm hôm

ấy ông đã bị đau bụng đi ngoài vì ăn nhái bữa chiều. Cuối cùng, ông lại ăn

với vợ.

Những câu chuyện được viết theo dòng hồi tưởng của nhân vật chính.

Thực tại là kết quả của quá khứ. Cụôc đời trước mắt đầy rẫy những nghèo

túng bất hạnh khiến họ suy ngẫm nghĩ về ngày xưa. Họ muốn lí giải tại sao

mình phải khổ. Quá khứ tràn ngập trong tâm trí khiến họ luyến tiếc khôn

nguôi.

50

Ở Tô Hoài, những câu chuyện bị xáo trộn thời gian không nhiều. Các

nhân vật chỉ đơn tuyến, không phải đa tuyến nên không cùng một lúc có

nhiều mạch kể chuyện, nhiều sự xáo trộn. Hoặc cùng một mạch kể, nhân vật

chính cũng không nhớ về nhiều thời điểm khác nhau trong kí ức. Thực ra

trong khuôn khổ một truyện ngắn, lại viết về những chuyện cỏn con đời

thường thì cũng khó có thể tạo nên nhiều mạch kể chuỵên, nhiều sự xáo trộn

thời gian. Lựa chọn cách kể đảo lộn trình tự thời gian theo dòng hồi tưởng

của nhân vật làm cho câu chuyện của Tô Hoài trở nên lắng đọng gợi nhiều

suy nghĩ, nhân vật có chiều sâu tâm hồn. Không chỉ Tô Hoài, các nhà văn

trữ tình lãng mạn như Thạch Lam, Thanh Tịnh cũng kết cấu truyện theo

dòng tâm lí của nhân vật. Có lúc nhân vật hồi tưởng về quá khứ, có lúc lại

cảm giác về hiện tại. Họ chủ yếu khai thác thế giới nội tâm nhân vật, những

điều họ cảm thấy, nhận thấy, rung động. Nhân vật của Tô Hoài dù có hoài

niệm về quá khứ nhưng không chỉ những gì nhân vật cảm thấy, mà còn là

những gì đã xảy đến, diễn ra với họ. Vì vậy, cũng là hồi tưởng nhưng nhân

vật Tô Hoài chủ yếu hồi tưởng về sự việc, những diễn biến của kỉ niệm đọng

lại trong tâm trí. Kết cấu đảo lộn trình tự thời gian cũng có ở các sáng tác

của Nam Cao. Nhân vật của ông nhớ lại quá khứ để nhận thức hiện tại, mổ

xẻ và tự soi xét lấy mình. Trong truyện Lão Hạc, nhân vật chính kể lại việc

bán con Vàng với ông giáo. Lão luôn cảm thấy tự trách mình vì chót lừa một

con chó. Lão dằn vặt đau đớn, tưởng tượng đôi mắt của con Vàng dường

như đang trách móc mình. Lão khóc hu hu. Cũng là hồi tưởng, là suy nghĩ

nhưng nhân vật của Tô Hoài không tự dằn vặt mình như vậy. Họ nghĩ về

quá khứ để nhớ nhung luyến tiếc nhưng họ vẫn chấp nhận tất cả khi đối diện

với hiện tại. Đó cũng là tính cách của người dân quê vốn an phận thủ

thường, hiền lành chân chất. Tô Hoài lựa chọn kiểu kết cấu như vậy cũng là

phù hợp với câu chuyện với nhân vật của mình. Thực tế kết cấu đảo lộn

trình tự thời gian đã xuất hiện ở những năm 1930-1945 nhưng chưa nhiều,

51

chủ yếu các tác giả lựa chọn kiểu kết cấu theo trật tự thời gian tuyến tính.

Đây cũng là điểm sáng tạo của Tô Hoài trong nghệ thuật viết truyện ngắn.

Ngày nay, cách kể như vậy đã được nhiều nhà văn lựa chọn và làm nó phát

triển tinh vi, phức tạp hơn.

3.1.2.3. Kết cấu với kết thúc bất ngờ và để ngỏ

Nhà văn Sê khôp nhận định: “theo tôi, viết truyện ngắn, cốt nhất phải

tô đậm Cái mở đầu và kết luận” [6, tr 765]. Cũng như vậy, các nhà phê bình

nhất trí rằng “ấn tượng duy nhất, và mạnh mẽ mà truyện ngắn tạo nên đa

phần là nhờ vào kết thúc bất ngờ thường làm người đọc hụt hẫng, bàng

hoàng” [6, tr 765]

Khảo sát những truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng, chúng tôi

nhận thấy Tô Hoài nhiều lần sử dụng kết thúc bất ngờ và để ngỏ. Có đến 8

truyện như vậy chiếm 30% trong số những truyện ngắn của Tô Hoài trước

Cách mạng như Nhà nghèo, Lụa, Đêm gác rừng, Lá thư tình đầu tiên,

Chuyến định đi xa , Bóng đè , Khách nợ, Truyện gã chuột bạch.

Truyện Nhà nghèo kết thúc là cái Gái chết vì bị rắn cắn mà câu

chuyện được mở ra là vợ chồng anh Duyện cái nhau kịch liệt. Truyện Lụa

khiến người đọc bất ngờ vì Lụa và Nguyên đi lấy chồng mà trước đó hai

người yêu nhau tha thiết tưởng không gì chia cắt. Khách nợ kể về Lái Khế

vốn hống hách đến nhà hương Cay để đòi nợ nhưng rút cuộc không đòi nợ

được mà hắn chết vì chó dại cắn…

Những câu chuyện kết thúc bất ngờ lại thường gợi trong lòng người

đọc nhiều suy nghĩ. Truyện đã hết nhưng mạch kể của nó dường như vẫn

còn tiếp tục, miên man trong tâm tưởng của độc giả. Những cuộc đời, số

phận của các nhân vật dường như vẫn còn tiếp tục. Cái Gái chết, vợ chồng

anh Duyện và những đứa con của anh chị rồi sẽ sống ra sao? Gánh nặng vì

miếng cơm manh áo sẽ đè nặng lên gia đình anh chị như thế nào? Cuộc đời

của con người thật ngắn ngủi! Sự chia tay của Nguyên và Lụa cũng khiến

52

người đọc suy nghĩ. Lí do không hợp tuổi của họ có đúng hay không? Tình

yêu của họ nồng nàn hay cũng chỉ là hời hợt. Tại sao họ lại vội vã lấy người

khác như vậy. Đâu phải cái nghèo ngăn trở tình yêu của họ. Họ không giữ

nổi tình yêu vì họ thiếu hiểu biết, vì họ cũng ấu trĩ như những người dân quê

ở cái làng này. Cái nghèo làm họ khổ sở, cái ngu dốt cũng làm họ tối tăm.

Kết cục của Lái Khế cũng bi thảm. Kẻ hống hách ấy cũng nào có sướng gì.

Hắn làm kẻ đòi nợ thuê cho người ta. Khi hắn chết, người ta cũng chỉ cho vợ

con hắn một cái quan tài gỗ tạp. Con hắn cũng thật tội nghiệp, lếch thếch,

gầy đét như chiếc que tăm. Thực tế, người nông dân trước Cách mạng tháng

Tám đều khổ, có thể mỗi gia đình, mỗi con người có những nỗi khổ khác

nhau. Họ khổ vì sống trong nghèo đói và hủ tục lạc hậu. Họ khổ vì trong

làng vẫn còn có kẻ sẵn sàng chà đạp lên người khác để kiếm sống...

Cũng có nhiều nhà văn sử dụng kết thúc bất ngờ. Nhưng mục đích sử

dụng lại rất khác nhau.Thường kết thúc bất ngờ cho người đọc sự ngạc

nhiên, thú vị. Nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng sử dụng kiểu kết cấu này để

gây ấn tượng với người đọc đồng thời qua kết truyện nhà văn muốn phê

phán thực trạng xã hội rối ren, điên đảo. Kết thúc truyện Kép Tư Bền, bà mẹ

chết còn Tư Bền thì nhận được “tập giấy bạc”. Nhà văn đã tố cáo sâu sắc thế

lực đồng tiền, nó có sức mạnh vạn năng. Nguyễn Công Hoan sử dụng kết

thúc bất ngờ dùng để tô đậm tính cách, lật trái một bức chân dung nhân vật:

tô đậm sự lẳng lơ đồi truỵ của cô Nguyệt [Oẳn tà roằn], lật tẩy bộ mặt phản

bội đến tàn nhẫn của một người vợ [Thế là mợ nói đi Tây] hoặc hoàn thiện

thêm lí lịch cho quan lại, ngoài “chơi gái và đánh bạc” quan còn biết cả ăn

cắp [Đồng hào có ma]. Những kết thúc bất ngờ trong truyện ngắn của

Nguyễn Công Hoan thường có giá trị tố cáo, lên án xã hội mạnh mẽ.

Khác với Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài sử dụng kết thúc bất ngờ

không phải nhằm mỉa mai chế giễu hay tố cáo lên án xã hội. Kết thúc bất

ngờ, trong tác phẩm của ông vừa để miêu tả hiện thực đời thường đồng thời

53

lại gợi bao suy nghĩ trong lòng người đọc. Chúng ta tưởng mình đang đứng

trước một dòng sông nhỏ hiền hòa, không ngờ ở dưới đáy sông còn biết bao

sóng ngầm. Làng quê bình dị, những người nông dân chân chất, hiền lành.

Đằng sau đó, là biết bao bi kịch, biết bao nỗi buồn, bao lo toan, bao sự mất

mát dang dở. Với lối kể chuyện hóm hỉnh, kết thúc bất ngờ, bên ngoài tưởng

như cái hiện thực bề bộn, tối tăm, những bi kịch ở làng quê đã được làm dịu

bớt. Thực tế những đau thương vẫn ẩn chứa trong mỗi câu chuyện. Mặc dù

truyện đã kết thúc nhưng số phận cuộc đời của những con người ở làng quê

ấy vẫn nhức nhối trong lòng người đọc.

Kết thúc như vậy thể hiện tài năng của Tô Hoài và tính đa thanh của

tác phẩm của ông.

3.1.2.4. Kết cấu đơn giản đan xen với trữ tình ngoại đề

Kết cấu truyện đơn giản thường thông qua ba cảnh. Cảnh một là một

biến cố bất thường hoặc căng thẳng. Ở cảnh hai tác giả dùng ánh sáng của

quá khứ để giải các sự kiện bất thường ở cảnh một. Và ở cảnh ba thường là

một kết thúc bi kịch hoặc một kết thúc buồn chua chát.

Chớp bể mưa nguồn có kết cấu ba màn cảnh như vậy. Cảnh đầu bà

Móm đi tự tử. Cảnh hai bà Móm mâu thuẫn với con dâu. Cảnh ba vợ chồng

người con trai bỏ đi. Bà Móm thương nhớ con trai.

Ông giỗi cũng có kết cấu như vậy. Cảnh một, ông bà Múi ăn cơm.

Ông Múi giỗi vì bà chỉ cho ăn hai bát cơm. Cảnh hai, ông Mí bắt ốc nhái ăn

không thèm ăn cơm của vợ. Cảnh ba, ông bị đau bụng và cuối cùng lại phải

nhờ đến vợ.

Trong truyện Nhà nghèo, cảnh một, vợ chồng anh Duyện cãi nhau.

Cảnh hai, vợ chồng anh Duyện đi bắt nhái. Cảnh ba, anh Duyện tìm thấy xác

cái Gái bị rắn cắn chết.

Trong các câu chuyện thường đan xen phần trữ tình ngoại đề.

54

“Trữ tình ngoại đề là một trong những yếu tố ngoài cốt truyện; một bộ

phận của ngôn ngữ người kể chuyện trong các tác phẩm thuộc loại hình tự

sự, trong đó tác giả hoặc người kể chuyện trực tiếp bộc lộ tư tưởng tình cảm

quan niệm của mình đối với cuộc sống và nhân vật được trình bày trong kết

truyện” [ 18, tr 255].

Phần trữ tình ngoại đề đã tạo nên giọng điệu phức hợp của tác phẩm.

Lời văn khi thì xót xa: “Đám ma lái Khế, bốn người khiêng chiếc hòm

ra tha ma sau làng. Theo sau quan tài, vợ lão khóc ti tỉ. Thằng con lếch thếch

đi bên cạnh mẹ. Bố nó cao lớn thế mà nó gầy đét như chiếc tăm”[Khách nợ,

tr 281]

Có lúc ngôn ngữ của người kể chuyện lại mỉa mai nhất là với những

kẻ phụ tình và bộc lộ niềm cảm thông, xót thương với chàng trai đã bị phụ

tình: “Nhưng, nếu ai chịu khó để ý tất thấy cô gái nọ, mỗi khi ở nhà chồng

về nhà mình lại đi vòng cánh đồng vào trong xóm chớ không đi qua bờ

giếng như mọi người khác. Song nào ai biết đâu mà để ý. Đêm ấy chỉ có

mỗi một ông trăng ngồi trên trời là nhìn được tỏ tường từ đầu đến cuối.

Song ả đừng lo. Ông trăng thì ông ấy không biết nói.” [ Ông trăng không

biết nói, tr 266].

“Chao ôi! Ai đo được nỗi khổ của anh chàng Hẹn bây giờ. Khi cái

việc tầy đình kia đến tai thì anh choáng váng cả người. Biết bao nhiêu điều

mơ ước đã đặt vào người con gái ấy. Thơ của anh làm hay đến thế mà cô ta

chóng quên thật. Người đâu lại có người vô tâm phụ tình nhanh chóng vậy,

hả trời”[Vàng phai, tr 255]

Nhân vật người kể chuyện đôi khi không nói thẳng vấn để mà tạo nên

sự nghi hoặc trong lòng người đọc khiến họ phải suy nghĩ: “Mợ phán buồn

gì thế? Mợ khỏi bóng đè rồi kia mà?”

Nhờ những câu văn trữ tình ngoại đề mà độc giả có thể hiểu được

những suy nghĩ và thái độ của Tô Hoài với nhân vật và sự việc trong truyện.

55

3.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám

3.2.1. Khái niệm về tình huống

Tình huống là một trong những yếu tố tạo nên nét đặc trưng của

truyện ngắn.

Hêghen quan niệm: “Tình huống là một trạng thái có tính chất riêng

biệt và trở thành được quy định ở trong thuộc tính này của nó. Tình huống

góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên trong bằng

sự biểu hiện nghệ thuật. [49, tr110]

Nhà văn Mỹ Fanlkner cũng đánh giá rất cao vai trò của tình huống:

“Hành động làm nên bản chất của truyện ngắn nhưng phải có tình huống thì

mới có hành động. Còn truyện ngắn có sắc thái trữ tình không phải do cách

viết mà do hành động trong đó có sắc thái trữ tình. [ 37, tr79]

Lép Tônxtôi: “Cũng biểu hiện tư tưởng đạt hiệu quả cao nhất là qua

miêu tả các hình tượng, các hành động, các tình huống bằng từ ngữ” [14, tr

1977]

3.2.2. Tình huống trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám

Tình huống truyện Tô Hoài rất đơn giản. Nhà văn dường như không

tạo sự hấp dẫn bằng cốt truyện. Đóng vai trò quan trọng không còn là cốt

truyện mà là cái duyên, cái tài năng của người kể chuyện. Những tình huống

ta bắt gặp trong truyện ngắn của Tô Hoài đều là những tình huống vụn vặt

đời thường có thể xảy ra ở trong bất cứ gia đình nào. Khác với Tô Hoài,

Nguyễn Công Hoan thường sử dụng những tình huống li kì, tương phản, gây

ấn tượng với người đọc. Sức hút trong tác phẩm Tô Hoài là biệt tài kể

chuyện với những chi tiết đặc sắc và giọng điệu đa thanh. Lối kể nhẩn nha

lúc nhanh lúc chậm, tất cả những hình ảnh, âm thanh, màu sắc của con

người thiên nhiên hiện lên rõ ràng, sắc nét.

Những câu chuyện tưởng chừng như không có truyện của Tô Hoài

cũng rất gần gũi với những truyện ngắn trữ tình trước Cách mạng tháng

56

Tám như truyện của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh. Mặc dù vậy,

cũng có sự khác biệt. Những câu chuyện của các tác giả truyện trữ tình

được tạo nên bằng các ấn tượng cảm xúc. Truyện Tô Hoài được đan dệt

bằng những hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của nhân vật. Vì vậy, truyện ngắn

của Thạch Lam,Thanh Tịnh gần với thơ còn truyện ngắn của Tô Hoài lại

gần với đời hơn.

3.2.2.1. Tình huống đời thường

Với cảm quan hiện thực, Tô Hoài hướng ngòi bút về những người

xung quanh, những người dân làng Nghĩa Đô. Những câu chuyện về họ thật

bình dị gần gũi. Vợ chồng cãi nhau, chuyện nàng dâu xung khắc với mẹ

chồng, những cô gái làng đi tắm sông, kẻ đi đòi nợ thuê, con dâu tư tình với

người khác...

Tất cả những gì diễn ra trong cái làng quê ấy đã hiện lên thật sống

động tự nhiên trong trang viết của Tô Hoài.

Vợ chồng anh Duyện, vợ chồng anh Hối cãi nhau kịch liệt vì những

cớ không đâu. Chỉ vì giận vợ, anh Duyện đòi đốt nhà, anh Hối lại đánh vợ

đánh con. [ Nhà nghèo, Một buổi chiều ở nhà]

Bà Móm không chấp nhận cô con dâu không phải cưới hỏi gì. Điều

đó khiến cho mâu thuẫn giữa mẹ chồng ngày càng tăng. Cô con dâu không

chịu được đã bỏ đi và người con trai cũng ra đi nốt để lại bà Móm sống cô

đơn. [Chớp bể mưa nguồn]

Hết một buổi chiều mà nhà văn nọ chưa viết được trang nào. Hắn loay

hoay sửa bàn. Hắn nghĩ vẩn vơ về tác phẩm định định viết. Nhưng cuối cùng

hết một buổi chiều mà gã vẫn chưa làm được gì. [ Hết một buổi chiều]

Cái Ngói và cu Phúc lấy nhau. Cu Phúc mười tuổi còn cái Ngói mười

hai tuổi. Để cái Ngói không khóc đòi về, đêm tân hôn, người ta phải mời

bạn của cô dâu đến chơi và ngủ cùng. Hôm ấy, cái Ngói cùng chồng về ăn

cơm ở nhà mẹ. [ Vợ chồng trẻ con]

57

Ông Mí dỗi vì vợ chỉ cho ăn hai bát cơm. Cuối cùng, sau ăn những gì

tự bắt được, ông đã đau bụng suốt đêm. Cuối cùng, ông lại làm lành với vợ

[Ông dỗi].

Những câu chuyện chẳng hề có xung đột dữ dội, các sự việc không

bị nén lại đẩy lên đến mức cao trào. Mà chỉ là những câu chuyện cỏn con

vụn vặt.

3.2.2.2. Tình huống bỏ làng ra đi

Cuộc sống nghèo khó, cùng túng quá đẩy những người trai làng phải

đi làm ăn xa. Họ muốn thoát li khỏi làng quê, muốn làm giàu.

Sài Gòn trong con mắt của người dân quê giống như là một miền đất

hứa khiến cho họ có thể đổi đời. Một chuyến định đi xa kể lại việc gã muốn

đi Sài Gòn. Gã đã hò hẹn với người yêu vào Nam. Nhưng cuối cùng người

con gái không đi chỉ có gã là ra đi. Sài Gòn tưng bừng hối hả dòng người

nhưng cũng hết sức vất vả, gieo neo.

Cuộc sống thành phố dù còn nhiều ồn ào, bon chen nhưng vẫn là nơi

hấp dẫn của nhiều chàng trai quê.

Lấm được chú Tư cho ra thành phố. Lấm thấy cái gì cũng lạ từ miếng

đá mát lạnh, trong suốt có thể ăn được đến sự ầm ĩ của xe cộ. Mặc dù chui

rúc nơi gác xép chật hẹp nhưng Lấm vẫn háo hức.[Giữa thành phố]

Nhưng dù đi đâu, họ vẫn mong muốn trở về quê hương.

Anh Tại bị người yêu bỏ đi lấy người khác. Sau nhiều năm, anh khá

giả hơn. Anh lại trở về làng [ Một người đi xa về].

Bỏ làng ra đi chỉ là một giải pháp khốn cùng vì cuộc sống quá nghèo

túng, vì bi kịch gia đình. Thực chất là người dân quê rất gắn bó với quê

hương. Thành phố có hấp dẫn nhưng với họ chỉ là nơi làm ăn. Họ cố gắng

làm việc, dè xẻn chắt chui có tiền để rồi họ lại trở về sống những năm tháng

còn lại của cuộc đời mình với làng quê.

58

3.2.2.3. Tình huống chia li

Những cuộc chia li cũng là đề tài để nhiều tác phẩm văn chương viết

nên. Những cuộc chia li thường bao giờ cũng thấm đẫm nước mắt. Ở Tô Hoài,

những cuộc chia li có buồn nhưng nó được viết bằng giọng điệu vui đùa,

hóm hỉnh, đôi lúc lai dửng dưng. Vì vậy, nỗi buồn dường như được vơi đi.

Những chàng trai cô gái ở làng yêu nhau tha thiết nhưng rồi tình yêu

tan vỡ. Bởi rất nhiều lí do vì không hợp tuổi [Lụa], vì cô gái phải đi lấy

chồng [Ông giăng không biết nói], vì cô gái đã tìm người khác giàu sang

hơn chàng trai [ Một người đi xa về, Vàng phai]. Có cuộc chia li diễn ra lặng

lẽ đường ai nấy đi, chàng trai thì lấy vợ, còn cô gái cũng nhanh chóng đi lấy

chồng [Lụa]. Có cuộc chia li là bi kịch đớn đau, người con trai chết trong đêm

gặp nhau với người yêu lần cuối [Ông giăng không biết nói]. Có cuộc chia li

để lại niềm căm giận nuối tiếc trong lòng [ Một người đi xa về, Vàng phai].

Tô Hoài có biệt tài miêu tả về thế giới loài vật. Chúng hiện lên sinh

động với những tính cách của con người. Thế giới ấy cũng không bình yên,

có hợp có tan. Anh gà trống ri mãi mới tìm thấy một người bạn tình. Anh mê

lắm. Cuối cùng người ta lại làm thịt cô bạn gà bé nhỏ của anh. Anh đã ngẩn

ngơ thương tiếc bạn tình [Gà trống ri]. Ả gà mái phong trần với anh gà chọi,

một tay anh hùng hảo hán có với nhau một đàn gà con. Sau một trận dịch,

đàn gà con bệnh chết và cả tay anh hùng cũng không thoát. Chỉ còn ả gà mái

cô đơn, buồn rầu [Một cuộc bể dâu]. Vợ chồng gã chuột bạch hàng ngày

sống quanh quẩn trong cái lồng xinh xắn. Chúng suốt ngày chỉ có ăn và

đánh vòng. Một ngày kia, vợ gã ăn phải con bọ ngựa, bị hóc mà chết. Gã

còn lại một mình tiếp tục với việc ăn và đánh vòng.

Cuộc sống người dân làng Nghĩa Đô vẫn trôi chảy theo dòng đời. Ở

nơi ấy, người dân vẫn tiếp tục gồng mình để sống vì họ luôn phải đối diện

với cái nghèo, cái đói, ốm đau, bệnh tật và cả những hủ tục phong kiến lạc

hậu. Những cuộc chia li, những bi kịch tình yêu, bi kịch gia đình được Tô

59

Hoài miêu tả hết sức nhẹ nhàng mà ám ảnh trong lòng người đọc. Cho dù đó

là thế giới loài vật hay con người nhưng cũng chẳng sung sướng hơn nhau.

Tô Hoài không đao to búa lớn, không mạnh mẽ, gay gắt lên án xã hội bất

công. Nhưng tác phẩm của ông lại có giá trị hiện thực rất lớn. Nguyên nhân

của sự đổ vỡ tình yêu, gia đình li tan không thể không vì xã hội thực dân

nửa phong kiến thời bấy giờ. Xã hội tối tăm với những hủ tục nặng nề, xã

hội bóc lột làm cho người dân càng trở nên nghèo đói, xã hội bon chen, đạo

đức con người suy thoái người làng quê cũng bị thói xấu ấy.

Tiểu kết

Kết cấu và tình huống trong truyện Tô Hoài rất đơn giản. Ông không

hấp dẫn người đọc bởi kết cấu và tình huống mà là biệt tài kể chuyện. Đa số

các tác phẩm của ông được kết cấu theo thời gian tuyến tính, cũng có kết

cấu đảo lộn trật tự theo dòng tâm lí của nhân vật nhưng không nhiều. Kết

cấu đơn giản thường diễn ra ba màn cảnh. Tô Hoài còn sử dụng những kết

truyện bất ngờ và phần trữ tình ngoại đề làm cho câu chuyện có nhiều giọng

điệu, trở nên sâu sắc hơn. Tình huống truyện của Tô Hoài đều là những tình

huống đời thường trong cuộc sống với những sự việc vụn vặt lẻ tẻ dường

như chẳng có gì đáng kể để nói, để viết. Nhưng tài năng của Tô Hoài ở chỗ

làm cho những chuyện tưởng chừng như không có gì ấy lại là có chuyện.

Bức chân dung con người đời thường hiện lên sinh động gợi cho người đọc

suy nghĩ về cuộc sống của họ. Những bài học nhân văn sau mỗi ứng xử của

con người trong cuộc sống hàng ngày. Tình yêu thương lẫn nhau vẫn là sợi

dây gắn kết người dân nơi đây. Bên cạnh đó, với tình huống chia li, dời bỏ

làng quê, người đọc còn nhận ra sự thật về cuộc đời nghèo đói và bất hạnh

của người dân làng Nghĩa Đô những năm 1930-1945. .

60

CHƯƠNG IV

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN

TÔ HOÀI TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

4.1. Ngôn ngữ

4.1.1. Khái niệm ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương

Ngôn ngữ là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học. M.Gorki khẳng

định “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Có nghĩa là không có ngôn

ngữ thì không thể có tác phẩm văn học. Nhờ có ngôn ngữ, mà thế giới nhân

vật hiện ra sống động trước mắt người đọc. Qua đó, độc giả mới có thể hiểu

được những nội dung tư tưởng, chủ đề tác phẩm được gửi gắm đằng sau

hình tượng ấy. Vì vậy, văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ.

Ngôn ngữ đã được coi là một yếu tố quan trọng hàng đầu thể hiện cá tính

sáng tạo, phong cách và tài năng của nhà văn. Nh ng không phải bất cứ thứ

ngôn ngữ nào cũng trở thành ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Nhà văn

phải trau dồi, mài giũa, chắt lọc và kết hợp với khả năng sáng tạo của mình

để biến ngôn ngữ toàn dân thành ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Ngôn

ngữ của mỗi nhà văn có sự riêng biệt, độc đáo khác nhau.

4.1.2. Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng

tháng Tám

Tô Hoài đã từng khẳng định: “Ngôn ngữ truyện ngắn thường mang

tính chất đậm đặc chắt lọc, trong sáng và dễ hiểu. Cho nên muốn học viết

phải bắt đầu bằng ngôn ngữ truyện ngắn, như vậy nó luyện cho biết tiết

kiệm từ ngữ, biết cách viết cho cô đọng và đối với truyện ngắn nhà văn cần

phải biết viết ra những câu của mình… không có những câu của mình trong

truyện ngắn không có ý nghĩa”[21,tr 121]

Khảo sát đặc điểm truyện ngắn của Tô Hoài trước Cách mạng theo

chúng tôi là không thể không tìm hiểu nghệ thuật ngôn ngữ của ông. Trong

61

bài viết Tô Hoài sinh ra để viết, Nguyễn Đăng Điệp cho rằng : “Nói đến Tô

Hoài không thể không nói đến tài năng sử dụng ngôn ngữ của ông. Tô Hoài

rất ít khi dùng thứ ngôn ngữ óng ả, sặc mùi sách vở. Chữ nghĩa của ông cất

lên từ đời sống. Nhưng đó là thứ ngôn ngữ chắt lọc.” [8, tr 121]

Ngôn ngữ Tô Hoài có những nét đặc thù riêng, đã làm nên phong

cách của ông. Thử làm một phép so sánh đơn giản, ngôn ngữ Tô Hoài với

ngôn ngữ của Nguyễn Tuân ta đều nhận thấy đây là hai kiểu ngôn ngữ khác

nhau mặc dù họ đều là những bậc thầy về ngôn ngữ, sinh ra cùng thời và có

quan hệ rất thân thiết với nhau. Nguyễn Tuân đã tạo nên phong cách riêng

biệt bằng cách nói độc đáo, bằng trùng điệp liên tưởng, bằng những nét vẽ

phóng khoáng, những ấn tượng mạnh. Tô Hoài lại nhẩn nha, chi tiết đặc chất

tiểu thuyết, khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật là khoảng cách

gần gũi, suồng sã, phi sử thi. Có lẽ vì vậy, mà vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn

Tuân và Tô Hoài mang nét độc đáo riêng. Nguyễn Tuân truy tìm cái đẹp

đượm màu sắc lí tưởng. Đó có thể là cái đẹp vang bóng, có thể là cái đẹp

trong hiện tại nhưng trên nền hiện tại ấy mói cái đẹp hiện lên kì vĩ khác lạ.

Vì vậy, ngôn ngữ văn chương của Nguyễn Tuân cầu kì, đa số ông sử dụng

những câu văn dài, trúc trắc trục trặc, người mới đọc Nguyễn Tuân đều có

cảm nhận chung “văn chương Nguyễn Tuân khó đọc”. Còn Tô Hoài, cái đẹp

hiện ra chính trong đời sống đời thường. Tô Hoài không trau chuốt văn theo

cách ép hoa trong tủ hay cầu kì một cách thái quá chữ nghĩa mà ông cắt tỉa

gọn giũa câu văn, tạo nên những cấu trúc ngữ pháp mới cũng là để văn gần

với đời sống. Đúng hơn, với ông, bản thân ngôn từ cũng chính là một thực

thể sống, nó không hề đóng vai trò như một thứ vật liệu tải chở nội dung

theo cách hình dung cơ giới giản đơn. Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “ngôn

ngữ của ông mềm mại, tung tẩy, nẫu nục chất dân gian. Đó là sự tinh tế của

một cây bút cao tay, là ý thức đạt tới sự giản dị của một sự khéo léo lớn.

Chính vì thế mà văn Tô Hoài không mòn cũ theo thời gian” [8, tr 115]

62

Nhìn chung đặc điểm ngôn ngữ trong truyện ngắn Tô Hoài trước

Cách mạng năm 1945 là ngôn ngữ giàu tính tạo hình, ngôn ngữ dân giã

và câu văn thường có cấu trúc ngữ pháp đơn giản, chủ yếu là những câu

văn ngắn.

4.1.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình

Tô Hoài đã từng quan niệm “mỗi câu văn là do từng hình ảnh xuất

hiện liên tiếp, từng chữ mang hình ảnh nối tiếp vào nhau [26, tr 512].

Ngôn ngữ văn chương Tô Hoài nói chung và đặc biệt trong truyện

ngắn Tô Hoài trước Cách mạng nói riêng rất giàu chất tạo hình. Ông thường

sử dụng những từ láy, tính từ, động từ giáu sắc thài biểu cảm và những hình

ảnh so sánh, để miêu tả cuộc sống con người thật rõ nét, cụ thể và vô cùng

sinh động.

Nhà văn Tô Hoài có biệt tài sử dụng những từ láy có tính tạo hình

cao. Theo nhà ngôn ngữ Hoàng Văn Thành thì từ láy là “những từ được cấu

tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho

quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hoà với nhau về

âm và về nghĩa, có giá trị biểu trưng” [51, tr 16]. Ngoài chức năng biểu hiện

khái niệm, từ láy còn có chức năng biểu cảm.“Mỗi từ láy chứa đựng trong

mình một sự thể hiện tinh tế và sinh động về sự cảm thụ chủ quan về cách

đánh giá và thái độ của người nói trước sự vật hiện tượng của đời sống xã

hội” [51, tr 6]. Từ láy có khả năng “làm cho người đọc, người nghe cảm thụ

và hình dung một cách cụ thể, tinh tế, sống động, màu sắc, âm thanh, hình

ảnh mà sự vật biểu thị” [51, tr 132]

Nhờ việc sử dụng có hiệu quả, tính tế, chính xác các từ láy, Tô Hoài

đã xây dựng bức chân dung của các nhân vật thật sống động, có hồn.

“Mây cười tít đi. Mây hay cười quá. Đôi má phúng phính lúm lại và

đỏ hây lên. Cặp mắt long lanh giữa đôi mí húp híp. Cái mắt mới tình tứ làm

sao...” [Vàng phai, tr249]. Những từ “phúng phính”, “long lanh”, “húp híp”

63

đã gợi tả sống động hình ảnh một cô gái thôn quê đẫy đà, căng tràn sức

sống. Tác giả còn đặc tả được tất cả những biến chuyển từ mắt đến má, khi

cô Mây cười. Má thì phúng phính lúm lại, cặp mắt lại long lanh, đôi mí thì

húp híp. Tuy nhiên, nét cười của cô Mây có một cái gì đó dung tục. Má

không chỉ phính mà phúng phính, mắt không chỉ híp mà húp híp. Các từ láy

“phúng phính” và “húp híp” càng làm gia tăng sự khuôn mặt béo và đôi mắt

nhỏ của Mây. Con người như Mẫy không hoàn toàn là cô gái quê thật thà

chất phát mà còn có gì đó ham hố, thô tục. Sau này, người đọc càng thấy rõ

điều đó, Mây đã nhanh chóng bỏ anh Hẹn để đi theo bác Quyền vực vì bác

tây và giàu có hơn.

Tô Hoài cũng sử dụng khá nhiều từ láy để miêu tả các hoạt động cử

chỉ của nhân vật. “Chị Duyện gặp cái Gái. Nó giơ giỏ lên khoe với u. Cái

giỏ đã được lưng lửng. Trong giỏ, nhái xô nhau oe óe. Con Gái nhe hai hàm

răng cải mả đen xỉn, cười toét. Rồi nó lại lễ mễ vác giỏ xuống một vệ ao gần

đấy. Trong khi mẹ nó tất tả ra miệt đầu đình [Nhà nghèo, tr 55]. Các từ láy

“lưng lửng”, “lễ mễ”, “tất tả” đã gợi tả cử chỉ, trạng thái của nhân vật.

“Lưng lửng” vừa diễn đạt cái Gái đã bắt được khoảng nửa giỏ nhái nhưng

vừa gợi trước mắt người đọc cái Gái đang vui vẻ khoe với mẹ, nó xóc xóc

giỏ nhái và chắc mẩm trong bụng vì đã bắt được nhiều. “Lễ mễ” là mang

“trên sức mình một vật cồng kềnh làm cho khó đi” [57 tr 468]. Một nửa giỏ

nhái thì làm gì đến mức mà cái Gái phải “lễ mễ” bê có nghĩa là cái Gái rất

gầy bé. Còn “Tất tả” có nghĩa là “nhanh khi bị một nhu cầu thúc giục” [57,

tr 748]. Chị Duyện mặc dù vừa cãi nhau với anh Duyện nhưng mọi thứ

dường như qua đi rất nhanh chị hăm hở ra đồng bắt ếch nhái như mọi người.

Từ “tất tả” vừa gợi tả dáng đi nhanh vội vã của chị Duyện vừa thể hiện tâm

trạng nóng lòng của chị Duyện hoà vào dòng người đang lũ lượt ra đồng, bắt

nhái cải thiện món ăn hằng ngày vốn đã rất đơn sơ của họ.

64

Những từ láy được sử dụng kết hợp biện pháp tu từ nhân hóa làm cho

đối tượng vô tri, vô giác bỗng trở nên sống động. “Thành phố Sài Gòn đẫm

trong ánh sáng, nó rực lên, chỗi lên dưới bóng điện chóe ngời. Thành phố

không chịu được sức điện quyến rũ gay gắt. Nó giẫy giụa, nó rên la: này này

từng dòng người dòng xe chuyển động phăng phăng, như không bao giờ biết

ngừng, biết đứng, lúc nào cũng hối hả, tất tưởi, tới tấp, sát cánh mà ngược

mà xuôi. Các thứ tiếng, không biết được của ai, ở đâu. Ô-tô toe toe. Xe điện

tun tun. Ôi thôi, biết thế nào mà kể! Phải nói cái thành phố đương bị dìm

vào một bể ánh sáng, chói quá, đương kêu ầm lên.[Một chuyến định đi xa, tr

202]. Thành phố Sài Gòn chói lòa ánh điện, ồn ào náo nhiệt cũng có tâm

trạng giống như con người hối hả, tất tưởi, tới tấp. Âm thanh của thành phố

hiện đại với những tiếng còi xe toe toe, tun tun ồn ã, đông đúc, nhộn nhịp.

Bên cạnh đó, những tính từ, động từ được Tô Hoài sử dụng cũng làm

cho các sự vật hiện lên rõ nét với tính chất, trạng thái rất tiêu biểu, không

chung chung mờ nhạt. Vàng là màu “vàng sọng”, “vàng ệch”, “vàng hoe”,

“vàng khè”; đen là “đen bóng nhoáng”, “đen đủi”, “đen xỉn”, “thâm xỉn”,

“đen tuyền”; trắng là “trắng nõn”, trắng phau”, “trắng xóa”, “trăng trắng”;

“xanh mướt”, “xanh rờn”; xám là “xám ngắt”, “xám xịt”, “xám ngoét”,

“xám bủng”; đỏ là “hoe hoe đỏ”, “đỏ mọng”, “đỏ hoe”, “đỏ chói lọi”; thấp

thì “thấp lè tè”, cao lại “cao lêu đêu’...

Ngay cả việc miêu tả trạng thái cười và khóc của Tô Hoài cũng hết

sức đa dạng.

Cười trong tâm trạng đau khổ: “cười khinh khích”, “cười nhạt”, “cười

nức nở, như xé cổ họng” , “cười gằn”, “cười nhợt nhạt”, “cười buồn bã”...

Cười sung sướng, hạnh phúc: “cười tít đi”,“cười ề à”, “cười khì khì”,

“mỉm cười”, “cười rũ rượi”, “cười phá lên”, “cười đến vỡ bụng”, “cười giòn

tan”...

Cười xao xuyến: “cười vơ vẩn’, “cười tủm”...

65

Cười của một đứa trẻ hồn nhiên: cười “khịt mũi, nhe mấy cái răng sún”

Mỗi nhân vật cũng khóc với một vẻ khác nhau.

Khóc bên ngoài nhưng trong lòng chưa thực sự đau khổ: “khóc nhẹ

như khóc dối nên cũng tạnh chóng như mưa bóng mây.”

Khóc khi nỗi buồn bất ngờ đến: “tự dưng khóc”

Khóc khi nỗi đau đớn vỡ òa ra: khóc hu hu, nức nở, nước mắt ròng

ròng

Khóc ấm ứ: “khóc nỉ non”, “khóc nấc lên”, “khóc thút thít”, “khóc ti

tỉ”, “khóc lóc”,

Khóc của đứa trẻ cố để người khác biết: “khóc inh ỏi”

Bên cạnh ngôn ngữ chính xác giàu sắc thái biểu cảm, nét độc đáo

trong ngôn ngữ của Tô Hoài là sử dụng biện pháp tu từ so sánh. Phép so

sánh còn được gọi là tỉ dụ là “phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách

hình tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có dấu hiệu tương đồng

nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng kia.” [18, tr 451].

Biện pháp tu từ so sánh có khả năng biểu đạt hình ảnh và cảm xúc rất

lớn nên có được nhiều nhà văn sử dụng. Đọc tác phẩm văn học, ta thấy mỗi

nhà văn để lại cá tính riêng trong việc sử dụng so sánh tu từ.

So sánh trong văn chương Nguyễn Công Hoan cũng thật khác với Tô Hoài.

Lối so sánh của Nguyễn Công Hoan, rất độc đáo, tạo nên nhiều liên

tưởng bất ngờ, thú vị: “Quan ngắm một lúc, hai con mắt sáng quắc như hai

ngọn đèn giời [Thật là Phúc], lại còn có cách so sánh nhằm phê phán sự vật

hiện tượng: “Mỹ thuật nhất là cái ngực đầy như cái ví của nhà tư bản, chứ

không như cái óc của ông Nghị ngay cả trước ngày họp hội đồng”

[Samandji]. Có so sánh bất ngờ ngộ nghĩnh “xe thứ bảy thì cô xấu nhưng tân

thời, mặt phấn má hồng, môi đỏ, rẽ lệch, chiếc áo căng lườn, trong tức anh

ách như một bài thơ thất luật.” [ Đào Kép mới]

66

So sánh của Tô Hoài cũng có điểm riêng biệt. Nhà văn đã tiếp thu có

chọn lọc lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân lao động. Họ luôn gắn bó

với làng quê, luôn có mặt với khung dệt, vườn ruộng với nắng và với mưa,

với thiên nhiên bốn mùa thay đổi, với nỗi khổ của người đói nghèo, bất

hạnh, phiêu bạt, chia lìa… Vì thế, hình ảnh so sánh của Tô Hoài luôn bình

dị, dễ hiểu, gần gũi.

Tên truyện Vế A Từ so Vế B

(Sự vật được so sánh) sánh (Sự vật dùng để so sánh)

Một người đi Con đường nhỏ, mỏng như một làn khói vương

xa về mảnh, bò ngẩn ngơ

[Tr 203] giữa cánh đồng lúa

Mùa ăn chơi Ba tiếng một... hai như nước cuồn cuộn chảy

như

[tr 227] tiếng một. Những hồi khói lửa nhuốm lên,

trống ngũ liên rền rĩ xô đẩy, thúc giục gọi ráo

vang lên nghe riết. như

Mùa ăn chơi (Chàng này xô thì như những thớ đá.

[tr 230] chàng kia lùi. Một

người đâm, một người

đỡ) Những cái gạt xoèn

xoẹt biến chuyển cùng

với hai cánh tay rắn

chắc, thịt nổi lên

Một chuyến đi xa Bây giờ gã hiền lại lừ đừ như một con cá ngão

[tr198]

Một người đi Người phu xe khom như hai cánh chim, mặt đất

xa về [tr203] lưng xuống, hai khuỷu trắng lì, những bàn chân

tay nhô lên vả xuông bạch bạch.

67

Nhà có ma Ông chủ thì mặt xám như cây nứa lép, thỉnh

[Tr 217] xịt, gầy leo kheo thoảng ho sù sụ

Bà chủ cũng ốm rề rề, như nghệ.

quanh năm bủng vàng

Đứa con nhỏ sài đẹn, như chiếc dải khoai

lom khom

Mùa ăn chơi Nghẹt quá, không thở như một đàn lợn bị chọc tiết

[Tr 226] được, trẻ con khóc inh ỏi

Rồi chúng trèo tường như con nhái bén

đình, chúng leo gốc đa.

Bám thèo đảnh

Ông dỗi Đôi mắt cá ngão, Y lối ngồi của một chú ếch

[tr 238] giương bạnh, tròn xoe. như ương bụng ỏng và lôi mắt

Vàng phai Mặt Mây đỏ hồng, đôi như hai múi quít ngọt

[tr 249] môi ngon và mòng mọng

Ông giăng Chà, cánh tay trần, như đẵn mía

không biết nói trắng bạch, chắc nịch

Tr 264

Hết một buổi Cái bàn “trông nó thực như một anh có bốn chân

chiều cũng cùng đi bốn cái cà kheo

Hỡi ôi, cái bàn ngoẹo như một người đàn bà giỗi

[Tr 193] ngay đi và nó gieo cả chồng, làm nũng chồng

bốn chân xuống, giãy

nảy lên

Khách nợ Rồi lão chui người vào như một con bò thui

[tr 272] giữa ổ rạ, đầu và chân

tay thò ra, cong queo .

68

Hầu hết so sánh trong tác phẩm của Tô Hoài theo mô hình A như B

đây cũng là kiểu so sánh xuất hiện đa số trong văn học dân gian.

“Thân em như giếng nước giữa đàng

Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.”

“ Công cha như núi ngất trời,

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.

Núi cao biển rộng mênh mông,

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”

Trong so sánh truyền thống, vế A và vế B thường thì một vế trừu

tượng và một vế cụ thể. Còn trong ngôn ngữ sáng tác của Tô Hoài, vế A và

vế B là quan hệ giữa cái cụ thể với cái cụ thể. Nhân vật thường được so sánh

với hình ảnh bình dị, quen thuộc. Nhân vật là người thường được so sánh

với vật, nhân vật không phải là người lại thường được so sánh với người.

Lối so sánh của Tô Hoài rất gần gũi nhưng thật độc đáo thể hiện khả năng

quan sát và cảm nhận cuộc sống thật tinh tế.

4.1.2.2. Ngôn ngữ dân giã

Ngôn ngữ của Tô Hoài tự nhiên, rất gần với khẩu ngữ nhưng vẫn là

văn viết. Có đặc điểm này bởi Tô Hoài là nhà văn rất trọng ngôn ngữ của

quần chúng. Ông quan niệm: “Trong khi cuộc sống, nhân vật, phong cảnh,

vạn vật biến chuyển không ngừng thì câu văn cũng không thể đứng yên một

chỗ” [ 31, tr 521].

Bên cạnh đó, Tô Hoài đã sử dụng nhiều chất liệu dân gian trong câu

chuyện của mình như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, quán ngữ, Truyện Kiều.

Ví dụ hai câu trong Kiều được sử dụng trong truyện Nhà nghèo

“Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau”

[Nhà nghèo, tr 149]

69

Và rất nhiều câu ca dao được xuất hiện

“Có lá lốt tình phụ xương xông

Có chùa bên Bắc, bỏ miếu bên Đông tồi tàn.

Có bát sứ tình phụ bát đàn...”

[Vàng phai, tr 244]

“Chuông khánh còn chẳng ăn ai

Nữa là mảnh chĩnh, mảnh chai ngoài đồng”

[Vàng phai, tr 252]

Tô Hoài còn dùng ngôn ngữ rất đặc trưng của vùng quê. Đó là tiếng

nói của người dân làng Nghĩa Đô. Tác giả đã từng thừa nhận: “Các tiếng

nói ở trong nhà, ở trong làng của bà con, bạn bè lúc bé, lúc bắt đầu đầu lớn

lên nó ăn rất sâu vào óc mình. Tất cả các thứ ngôn ngữ mà tôi quen nghe,

quen dùng tạo thành cho tôi cái gốc trong các tác phẩm đầu tiên của

tôi”[31, tr 409].

Những từ “lũng lẵng”, “nhẩy”, “hẩy”, “vơ váo”, “tây ngây”, “tọc

toạch”, “thậm thọt”, “chuội”, “thòm thòm”, “chõ”, “nhắng”, “tòi”, “dó dáy”,

“lăn lóc”, “mê tơi”... đều là từ địa phương, được sử dụng trong các câu

chuyện của Tô Hoài.

Ngôn ngữ địa phương của nhà văn được chia làm hai loại. Một là

ngôn ngữ phổ thông nhưng ở làng Nghĩa Đô được dùng khác hoặc có nghĩa

khác và hai là những từ chỉ có trong tiếng nói của nhân dân làng Nghĩa Đô

mà không có trong tiếng phổ thông.

Từ “tòi” trong tiếng phổ thông là đưa ra một cách miễn cưỡng. Ví dụ

“Nói mãi hắn mới tòi ra một vài đồng bạc”. Trong câu văn của Tô Hoài từ

“tòi” được hiểu với nghĩa là nhoi lên. “Vì trời mưa vừa xong, ở những mặt

sân sôi bong bóng. Trong các lỗ ngập nước, giun quằn quại tòi lên.” [Nhà

Nghèo, tr154]

70

Từ “vơ váo” lại có sự khác về nghĩa rõ hơn. Theo từ điển tiếng Việt,

“vơ váo” có nghĩa là: lếu láo, bừa bãi (ăn nói vơ váo) và khi dùng người nỏi

tỏ thái độ chê bai trong việc đánh giá. Tác giả Võ Xuân Quế cho rằng từ vơ

váo được Tô Hoài sử dụng không hề có nghĩa trên mà lại dùng với nghĩa:

“chịu khó nhặt nhạnh, thu vén khắp nơi để góp nhặt cho mình”[31, 410].

Người Nghĩa Đô thường dùng từ này để chỉ những người nghèo nhưng cần

cù, chịu khó làm ăn, không dựa dẫm, nương nhờ người khác . “Hôm ấy, bà

lão ăn quà vơ váo ngoài chợ. Bà yên chí chiều về, thế nào lão Mũi cũng phải

làm lành với minh. [ Ông dỗi, tr 241]

Những từ “lũng lẵng”, “nhẩy”, “hẩy”,… là từ địa phương vùng quê

của tác giả, không có trong từ điển Tiếng Việt.

“Lấm cúi xuống xâu khoai đeo lũng lẵng dưới cái tay nải.(…). Đến

lúc buốt, Lấm giẫy nẩy kêu rầm lên. Lấm bảo với chú: “Cái đá Tây quái

nhẩy”[Giữa thành phố, tr 232]

Ông lão dỗi cơm hẩy” [ Ông dỗi, tr 240]

“Lũng lẵng” là tính từ làm rõ nghĩa cho động từ “đeo”. “Lũng lẵng”

có thể hiểu lủng lẳng. “Hẩy”, “nhỉ” đều là tình thái từ có nghĩa là những từ

được thêm vào câu để tạo câu nghi vấn, câu cầu khiến, câu cảm thán và để

biểu thị các sắc thái tình cảm của người nói. “Hẩy” tương đương với từ “à”,

“hả” trong tiếng phổ thông để tạo câu hỏi. “Nhẩy” tương đương với từ “nhỉ”

tạo nên sắc thái thân mật, gần gũi.

Tiếp thu ngôn ngữ bình dân, lời văn của Tô Hoài gần gũi, giản dị.

Mỗi bức tranh phong cảnh làng quê, về con người ở nơi đây hiện lên thật

sống động, chân thực. Không phải chỉ đến Tô Hoài, các nhà văn mới coi

trọng học tiếng nói của quần chúng nhân dân. Có điều khác biệt là không

phải ai cũng kể chuyện dân quê, nhẹ nhàng, tự nhiên đi vào lòng người như

Tô Hoài.

71

4.1.2.3. Ngôn ngữ đa thanh

Tô Hoài có khả năng sử dụng đối thoại, độc thoại đa dạng, nhiều tầng,

nhiều lớp: giữa nhà văn với nhân vật; nhà văn với độc giả và nhân vật, tạo

nên tiếng nói đa thanh, nhiều giọng điệu.

“Trong một truyện, cũng giống như Nam Cao trong Chí Phèo, Tô

Hoài đã sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu của người

kể chuyện đã sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi đa thanh, giọng điệu của

người kể chuyện hoà lẫn vào giọng điệu nhân vật.” [6, tr 310].

Ngôn ngữ đa thanh đựơc thể hiện qua một số tác phẩm như Nhà

nghèo, Chớp bể mưa nguồn, Ông giăng không biết nói, Một chuyến định đi

xa, Ông dỗi, Vàng phai…

Vàng phai kể lại mối tình của anh Hẹn và cô Mây. Nhà văn đã thuật

lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với biết bao xốn xang.

Lời người kể đan xen với anh Hẹn: “Mây hay cười quá. Đôi má

phung phính lúm lại và đỏ hây lên. Cặp mắt long lanh giữa đôi mí húp híp.

Cái mắt mới tình tứ sao!”

Lời Mây: “Anh Hẹn, anh hay làm thơ quá”

Lời Hẹn: “Em nói khen dối”

Lời người kể chuyện: “Những lời vụn vặt ấy trao đổi nhau. Và đôi

tình nhân ấy đứng với nhau sao rất khờ khạo. Hẹn đứng xa Mây tới một

xoạc chân dài.”

Lời người kể hoà với nhân vật: “Có khi Hẹn cũng muốn men chân gần

xíu xít một chút. Nhưng chỉ muốn thôi chứ không dám. Rồi Hẹn cũng đâm ra

bạo. Bởi vì nếu chẳng liều một tí thì biết bao giờ mới dám cầm tay bạn tình.”

Lời của Hẹn: “Cái thắt lưng bạch này Mây chuội nhà hả?”

Lời của Mây: “Vâng, em chuội lấy. Trông được đấy chứ…”

Lời của người kể: “Mây nhấc mảnh thắt lưng lên. Hẹn cầm lấy ngắm

và nhân tiện nắm ngay bàn tay Mây.”

72

Lêi cña HÑn: “C¸i th¾t l­ng lôa B¹ch nµy M©y

chuéi nhµ h¶”

Lêi cña M©y: “V©ng, em chuéi lÊy. Tr«ng ®­îc

®Êy chø...”

Lêi cña ng êi kÓ: “M©y nhÊc m¶nh th¾t l­ng

lªn. HÑn cÇm lÊy ng¾m vµ nh©n tiÖn n¾m ngay bµn tay

M©y.

Khi cô Mây bỏ anh Hẹn đi lấy bác quyền Vực, lời người kể chuyện có

phần xót xa đứng về phía anh Hẹn. Phần cuối tác phẩm, không có lời của cô

Mây, nhà văn viết về những dòng suy nghĩ của anh Hẹn và đồng cảm với

nỗi buồn của anh khi bị người yêu bỏ rơi. Lời người kể chuyện hòa quyện

đồng cảm với tâm tư của nhân vật: “Chao ôi! Ai đo được nỗi khổ lòng của

anh chàng Hẹn bây giờ. Khi cái việc tày đình kia đến tai thì anh ta choáng

váng cả người. Biết bao nhiêu điều mơ ước đã đặt vào người con gái ấy. Thơ

của anh chàng đến thế mà cô ta chóng quên thật. Người đâu lại có người vô

tâm và phụ tình nhanh chóng vậy, hả trời?”. Có thể hiểu đây là lời của tác

giả nói với nhân vật, lời của nhân vật nói với chính mình, với độc giả, lời

của tác giả với độc giả.

Nếu như đối thoại giữa tác giả- người kể chuyện với nhân vật trước

biến cố, có vẻ khách quan; trình bày là chính, thì sự đối thoại trong và sau

biến cố lại thiên về chủ quan. Nó chứa đựng sự cảm thông và niềm xót

thương. Sử dụng kiểu ngôn ngữ này không đơn thuần chỉ là một thủ pháp

nghệ thuật mà chủ yếu ẩn chứa những quan niệm, cách nhìn, cách đánh giá

cuộc sống của nhà văn.

Ng«n ng÷ ®a thanh cũng được sử dụng thành công trong sáng

tác của Nam Cao. Nhưng khác với Tô Hoài, Nam Cao sử dụng nhiều độc

thoại nội tâm của nhân vật. Nhân vật gi·i bµy tâm tr¹ng suy nghĩ của

mình tr íc hoµn c¶nh vµ nh÷ng biÕn cè cuéc ®êi.

73

Th«ng qua việc nhân vật tự mổ xẻ, phân tích về bản thân, Nam Cao

b×nh gi¸ vÒ x· héi. Vì quan tâm đến khía cạnh đời thường nên

nhân vật của Tô Hoài, những người dân quê ấy lại có những suy nghĩ hết

sức vụn, nhỏ nhặt. Họ đã nếm trải vui buồn, sướng khổ nhưng mọi thứ đều

bị cuốn đi theo nhịp điệu của cuộc sống thường nhật. Nhân vật người kể

chuyện của Tô Hoài không giống như của Nam Cao ít tranh biện với người

đọc, với nhân vật. Người kể cũng có khi đứng ngoài kể lại khách quan câu

chuyện, có khi lại hòa vào với nhân vật làm một để kể lại câu chuyện cuộc

đời họ.

Nhờ ngôn ngữ ®a thanh, phức điệu nên truyện của Tô Hoài có

cách kÓ chuyÖn linh ho¹t, hÊp dÉn, ®ång thêi ng êi

®äc c¶m nhËn ® îc c¸i nh×n, suy nghÜ cña ng êi kÓ

vµ c¸c nh©n vËt tham gia c©u chuþªn. Tõ ®ã, ng êi

®äc tiÕp cËn víi t¸c phÈm đ îc nhiÒu diÖn vµ hiÓu

® îc nh÷ng ý nghÜa s©u sa n»m trong líp c©u ch÷ cña

truyÖn.

4.2.2.4. Sử dụng nhiều câu văn ngắn gây ấn tượng

Đọc truyện ngắn của Tô Hoài, người đọc thực sự ấn tượng vì những

đoạn trần thuật sử dụng triệt để những câu văn ngắn. Câu không rườm rà về

cấu trúc ngữ pháp, ít dạng câu đặc biệt chủ yếu là câu đơn C-V hoặc câu có

bộ phận song song như một C-V1,V2,V3 hoặc C1,C2,C3 –V. Câu văn ngắn

như vậy mô tả rõ mức độ, cấp độ, tính chất nhanh chậm gấp gáp của thoạt

động hay sự vật. Giáo sư Hà Minh Đức trong tuyển tập Tô Hoài cho rằng:

“Truyện ngắn của Tô Hoài có phong vị riêng, ông viết không dài, câu

chuyện thu gọn lại trên năm bảy trang giấy. Ở đây hiện ra vài sự việc và tâm

trạng của một số người”.[27, tr 20]

74

Những câu văn ngắn thường được sử dụng để miêu tả những tình

huống căng thẳng gấp gáp. “Võ sĩ Nành trèo lên sân khấu. Võ sĩ Nành cởi

trần, mặc quần nâu lửng. Đứng giữa rạp, võ sĩ thóp bụng lại khoạng hai

chân, xuống tấn trung bình đánh huỵch một cái. Hai tay cong lên, lấy gân.

Rồi mắt, rồi mũi, rồi má, trợn trừng trợn trạc, võ sĩ loay hoay đấm đá, gạ đỡ

linh tinh ra bốn phía. Tiếng trống thúc đều đều... Một lúc, võ sĩ Nành khom

lưng, xuống chảo mã vòng khuỷu một tay, một tay xòe trước mật, yêu cái

cằm, trong mắt nhìn ra mọi người. A, bát tổ, hết bài, trẻ con vừa cười vừa

kêu. Ngoài kia tiếng vỗ tay rầm lên như sấm động.” [Mùa ăn chơi, tr 229].

Nhờ các câu văn ngắn, người đọc có thể hình dung được sự quyết liệt của

trận đấu võ và tư thế khỏe khoắn, những động tác nhanh mạnh chính xác của

các võ sĩ.

Không chỉ những sự việc đến nhanh, đột ngột, Tô Hoài còn sử dụng

những câu văn ngắn trong cả tình huống chờ đợi, nhớ nhung, ngượng nghịu.

Những cảnh huống mà đáng lẽ câu văn dài sẽ chuyển tải tốt hơn.

Lụa và Nguyên yêu nhau tha thiết nhưng học buộc phải chia tay nhau.

Những giây phút ấy, hai người chẳng biết nói câu nào. Họ ngẩn ngơ nhìn

nhau rồi nhìn xung quanh. “Hai người ngồi chéo khoeo, luồn hai tay dưới

đầu gối, mắt đờ đẫn, nhìn bâng quơ. Lụa bứt mấy ngọn cỏ. Chừng như đã

lâu, đôi bên chưa nói với nhau một câu nào. Sự im lặng ngẩn ngơ trên những

nét mặt băn khoăn. Lại có tiếng lạt xạt nhỏ của con chim ri dó dáy trong tụm

lúa sau gáy” [Lụa, tr 161].

Miêu tả nỗi buồn, sự đau khổ, các nhà văn thường sử dụng những câu

văn dài để diễn tả tâm trạng day dứt khôn nguôi. Nỗi đau buồn của anh Tại

khi người yêu đi lấy người khác cũng được diễn tả bằng những câu văn ngắn

gọn: “Anh Tại không khóc. Anh lại cười. Anh cười nhạt, gằn lại. Trước

ngày cưới Pha, mấy lần anh hẹn Pha đi nói chuyện mà Pha không đi. Pha

nhất định không dính líu rắc rối với Tại nữa. Những người con gái, hay quên

75

quá. Đầu tiên, Tại lây sự bị quên đó là điều rất tủi cực và đáng để tâm thù

lắm... Anh không định đánh què. Mà anh định cắt lưỡi nó đi. Phải cầm một

con dao bầu thực nhọn và thực sắc, đưa ngay vào cuống họng nó. Anh nghĩ

thế ra lối hăng lắm...” [Một người đi xa về, tr 208].

Dưới đây là đoạn miêu tả bà Móm buồn vì anh con trai bỏ nhà ra đi

“Bà lão Móm cũng chỉ nghe làng nước đồn đại mơ hồ như thế. Bây giờ thì

bà lão ở một mình. Một mình trong cái nhà rộng thênh thênh. Có những buổi

mùa hè từng mảng mây trăng đùn lên ở chân trời tây. Không có mưa. Có ỳ

ầm tiếng sấm tận đâu đâu. À đấy là chớp bể, đấy là mưa nguồn...Bà Móm

ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!” [ Chớp bể mưa nguồn, tr 175]

Chỉ xin so sánh với một đoạn trích nhỏ trong tác phẩm Lão Hạc của

nhà văn Nam Cao. Lão Hạc suy tính về việc bán con Vàng và kể lại chuyện

đó với ông giáo: “Lão kể nhỏ nhẻ và dài dòng thật. Nhưng đại khái có thể

rút vào hai việc. Việc thứ nhất: lão thì già, con đi vắng, vả lại nó cũng còn

dại lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó mà giữ được vườn dất

để làm ăn ở làng này: tôi là người nhiều chứ nghĩa, nhiều lí luận, người ta

kiêng nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào vườn của thằng con lão;

lão viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ tưởng dòm ngó đến; khi

nào con lão về thì nosẽ nhận vườn làm, nhưng văn tự cứ để tên tôi cũng

được, để thế để tôi trong coi ch nó... Việc thứ hai: lão già yếu lắm rồi, không

biết sống chết lúc nào, con không có nhà, lỡ chết không biết ai đứng ra lo

cho được; để phiền cho hàng xóm thì chết không nhắm mắt; lão còn được

hăm nhăm đồng bạc với năm đồng bạc vừa bán cho là ba mươi đồng bạc,

muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi đem ra, nói với hàng xóm giúp, gọi là của

lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ hàng xóm cả...” [Trích Lão Hạc,

Tuyển tập Nam Cao]

Cả dòng tâm sự của bà Móm đau khổ vì anh con trai ra đi, Tô Hoài

dùng đến 9 câu, 7 dòng còn sự suy tính của lão Hạc xung quanh việc bán

76

con vàng và gửi tiền ma chay cho ông giáo trước khi chết được nhà văn

Nam Cao viết chỉ trong có 2 câu mà lên tới 12 dòng.

So sánh về cách sử dụng câu văn của Nguyên Hồng với Tô Hoài, ta

càng thấy sự khác biệt giữa hai nhà văn này. Câu văn của Nguyên Hồng chủ

yếu là dạng câu phức, khung câu mở rộng hết cỡ, thành phần câu không phải

là một từ mà thường các cụm từ giống như gié lúa “nhánh mẹ đẻ ra nhánh

con”, như “cây trái xum xuê”, “như một đoàn tàu chợ”. Ví dụ câu văn trích

từ truyện ngắn Tàu đêm trong tập Địa ngục như sau: “Vùng quê tôi chỉ trông

vào cái khung cửi lên lúc sợi khan đã đói rồi sau đây vừa không mua được

sợi, vừa làm không thể nào kịp với giá thóc gạo thì đói quá, đói đến nỗi

không nhà nào không mấy người chết và ai còn sồng chỉ thấy có hai lỗ mắt,

đói bán hết mọi cái, trong làng chỉ còn nhà hoang với người nằm hấp hối,

rau má, rau dệu cũng không còn lại mà ăn, lắm người sau phải dỡ cả nhà bán

mà cũng chẳng ai mua, lắm người mấy hôm cố lê đi chặt củi nào gánh được

ra đến chợ bán đâu được năm hào được lẻ ngô sống ăn và uống nước đoạn

thì chết ngay ở giữa chợ; lắm người bòn vét được tất cả bát, đĩa, ấm chén

đem bán được đồng bạc rồi cứ cầm đồng bạc ấy ngẩn ngơ cho đến chiều

đoạn lả đi ở cổng làng.” Văn Nguyên Hồng là hiện thực bề bộn, lấm láp ùa

vào từ ngữ, kết thành nhánh, “lúc lủi” cho các thành phần câu. Một câu văn

có 9 dòng.

Như vậy, những câu văn ngắn gây ấn tượng cũng là đặc điểm riêng

biệt trong ngôn ngữ của Tô Hoài. Nó giúp nhà văn miêu tả liên tục các sự

việc, hành động, cử chỉ của nhân vật. Nhưng ít nhiều cũng có hạn chế khi

miêu tả nội tâm của nhân vật.

4.2. Giọng điệu trần thuật

4.2.1. Khái niệm về giọng điệu trần thuật

Giọng điệu là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm văn học, góp

phần tạo nên diện mạo riêng biệt trong sáng tác của nhà văn. Nếu như trong

77

đời sống xã hội giọng điệu chính là lời nói, giọng nói của mỗi người biểu thị

thái độ của cá nhân mình trước hiện thực cuộc sống, trước con người và

cảnh vật mà mình đối thoại, quan sát thì trong văn học, giọng điệu chính là

sự bộc lộ “thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối

với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô,

gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, sơ, thành kính hay

suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [18 tr 134]

Giọng điệu tùy thuộc vào thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ... của

mỗi người. “Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra một

tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong một hệ thống nhân vật”

[18, tr 113]

Trong một tác phẩm có thể tồn tại những giọng điệu, những sắc điệu

khác nhau song bao giờ tác phẩm cũng có một giọng điệu chủ đạo nào đó.

Trong tác phẩm văn xuôi, giọng điệu chủ yếu thể hiện qua lời người kể

chuyện và lời của nhân vật.

4.2.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Tô Hoài trước Cách

mạng

4.2.2.1. Giọng điệu dí dỏm

Giọng điệu ở mỗi tác phẩm có sự khác nhau về sắc thái nhưng nhìn

chung Tô Hoài có chất giọng mang bản sắc riêng. Giọng khách quan, dí dỏm

pha chút mỉa mai tinh quái là chất giọng chủ đạo. Từ điểm nhìn khách quan,

nhà văn mô tả những sự việc, nhưng qua những dòng miêu tả nhận xét, nhà

văn bộc lộ sự dí dỏm của mình.

Mở đầu truyện Chớp bể mưa nguồn dựng lại cảnh bà Móm đi tự tử.

Thực ra bà Móm giả bộ tự tử để dọa con trai và con dâu mình. Thông

thường khi người ta rơi vào tình cảnh phải đi tự tử là lúc họ rất tuyệt vọng

bế tắc, làm cách ấy để giải thoát khỏi cuộc sống hiện tại. Vì lẽ ấy, họ thường

làm việc này một cách lặng lẽ không để ai hay biết. Nhưng ngược lại bà

78

Móm lại cố tình làm ầm lên để cả làng cả xóm biết việc bà đang đi tự tử. Vì

vậy mà việc tự tử của bà Móm thật hài hước. “Chẳng biết có một điều gì bực

dọc, bà Móm giận con trai và nàng dâu. Không giận vừa vừa, mà lại giận

quá. Thế là cơn tức bừng bừng lên. Bà xắn hai mép váy, xăm xăm chạy ra

ngoài ao giếng. Bà la vang cho bốn bên hàng xóm và cho vợ chống thằng cả

Mí biết rằng bà đương đi đầm đầu xuống ao đây. Không có ai ra can bà. Vậy

bà nhảy phóc xuống ao thực. Đánh ùm một cái. Rồi bà bíu hai tay vào cái

cọc cầu ao. Bà rúc đầu vào giữa bụi cây cúc tần mọc lòa xòa xuống vệ nước.

Mồm bà ngoác ra kêu thực to. Kêu không phải vì sặc nước. Không phải để

hắt hơi. Bà ngoảc ra kêu thực to. Kêu như có nhà ai cháy ở trong xóm (…)

Ai cũng tưởng bà lão chỉ kêu được có vài câu thì chối cổ, phải lóm ngóp bò

lên. Chẳng ngờ họng bà khoẻ quá. Bà lão vẫn kêu rầm. Mãi sau, có người

sốt ruột xuống kéo bà lão lên, đưa hộ về nhà. Bà lão liền lên ngay. Ở dưới

nước một lúc đã thấy chán.” Hành động tự tử của bà Móm rất mau lẹ, nực

cười: bà xắn mép váy -> xăm xăm chạy ->nhảy phóc, ùm ->rúc đầu -> kêu

to, kêu rầm-> (có người kéo lên) lên ngay vì ở dưới nước thấy chán. Ngay

cả việc lí việc bà được cứu lên cũng thật buồn cười: bà kêu to quá, họng

khoẻ quá nên ảnh hưởng đến hàng xóm làm người ta sốt ruột đành kéo bà

lên, còn bà được dịp là leo lên ngay vì ở dưới thấy chán quá. Để châm biếm,

tác giả đã nêu ra hàng loạt những mâu thuẫn: tự tử>< tự lên ngay vì dưới ấy

chán quá, tự tử thường âm thầm >< cố tình cho hàng xóm biết, bà lão ><

họng khoẻ quá.

Tô Hoài còn lấy sự hài hước dí dỏm để chế giễu cuộc sống của một số

người đều đều buồn tẻ đến mức vô cảm giống như vợ chồng chuột (Truyện

Gã chuột bạch) chỉ suốt ngày quanh quẩn vớí ăn, ngủ đánh vòng, ngủ đứng.

Tiếng đánh vòng lóc cóc đều đặn giống tiếng guồng tơ quay. Chúng khá yêu

nhau, yêu nhau thần tình. Hai vợ chồng cùng đánh vòng, hai cái vòng quay

tít, rộn lên những tiếng đằm thắm. Gã chuột bạch có vẻ mơ mộng thường

79

đứng ngẩn ngơ trên nóc lồng. Chúng yêu nhau có vẻ đắm say như vậy

nhưng vợ gã chết mà gã dường như cũng chẳng biêt, chẳng mảy may động

lòng. Cuối truyện, tác giả đã chua thêm một câu “gã cũng không biết là

mình goá vợ”, gã “thậm thọt, chạy đi lại nhanh thoăn thoắt...”

Nguyễn Công Hoan dùng tiếng cười trào phúng để đả kích phê phán

những cái xấu xa, giả dối của xã hội phong kiến thực dân. Còn ở Tô Hoài,

tiếng cười nhẹ nhàng hóm hỉnh. Tiếng cười xuất phát từ những thói tật hàng

ngày. Tô Hoài lấy giọng điệu nhẹ nhàng dí dỏm khi thì mát mẻ, khi thì mỉa

mai làm phương tiện phê phán.

Ông bà cả Luỹ [Bóng đè] tất tả lo lắng, tìm đủ mọi cách để chữa chạy

cho mợ Phán “con dâu ngoan” khỏi bị bóng đè, dùng cả đến thuật Mường,

thuật Mán, thuật Tầu, lại cả thuật Nhật Bản. Bà đích thân xem bói, sắm sửa

đồ vàng mã, mua chuối, mua hoa , đóng oản, thổi xôi, giếng gà… Chỉ yên

được một dạo, mợ Phán lại mắc bệnh trở lại. Cuối cùng ông trưởng Lũy phải

đích thân kê chõng ngủ ngay cảnh cửa phòng mợ thì đêm đến không thấy

tiếng rền rĩ nữa. Khỏi bệnh, vậy mà mợ Phán lại thở dài não nuột “Mợ Phán

buồn gì thế? Mợ khỏi bóng đè rồi kia mà...Người kể nhẹ nhàng kín đáo chỉ

buông ra một câu bâng quơ, tưởng như vô tình nhưng nó lại nặng như một

lời buộc tội, như một sự thừa nhận hành động ngoại tình bấy lâu nay của

nhân vật mợ.

Trước những mặt trái của cuộc sống đời thường, Tô Hoài thể hiện cái

nhìn tinh quái giầu chất nhân văn, một giọng điệu dí dỏm nhưng có cái gì

xót xa. Nhà văn không thể làm ngơ trước những thói tật, hủ tục của người

dân quê: tục tảo hôn, tục đòi nợ, vợ chồng đánh chửi lẫn nhau. Chuyện hôn

nhân là một chuyện hệ trọng cả đời. Nhưng dường như với cái Ngói, và cu

Phúc còn quá non nớt để hiểu rõ điều đó [Vợ chồng trẻ con]. Cái Ngói mười

hai tuổi, cu Phúc mười tuổi, người ta so hai tuổi hợp thế là người ta hỏi cái

Ngói làm vợ cho thằng cu Phúc. Đám cưới, cô dâu nào cũng vừa vui vừa

80

buồn nhưng không đến mức sợ hãi, khóc như cái Ngói, “nó khóc um lên. Nó

gọi bà hương Cải ầm ỹ. Rồi nói chun lại, khiến cho mấy cô kia phải hai tay.

Làm như người ta doạ trẻ sắp đem giết thịt nó”. Tiếng khóc ấy không phải

của một người trưởng thành, khóc ngậm ngùi từ nay xa cha mẹ, bứơc chân

vào nhà chồng, mọi thứ đều xa lạ. Cái Ngói khóc “um lên” là tiếng khóc của

một đứa trẻ khi không bằng lòng hay ấm ức vì một việc gì đó. Vì vậy, lòng

Ngói nhanh chóng nguôi ngoai khi ngày đầu đám bạn của Ngói là Ngây, Bí,

Đào đã đến ngủ cùng, chơi tam cúc. Khác với cái Ngói, cu Phúc còn ngây

thơ, hồn nhiên hơn. Nó còn nằm trong đống rơm khi mọi người tất tả chuẩn

bị cưới. Đến khi đón dâu, anh chàng còn quên cả giầy. Với cu Phúc “chuyện

lấy vợ” dường như là xa lạ. Mọi người cứ làm đám cưới còn cu Phúc “có để

ý đâu đến điều vặt ấy! Cứ tu rượu tì tì. Mắt cu Phúc hoa sao lên, rồi lại rúc

đầu vào đống rơm. Nó cù nhau với mấy con ranh khác.”

Giọng điệu hài hước châm biếm có lúc bật lên qua các từ ngữ, qua

cách gọi tên, hình ảnh, lời trữ tình ngoại đề, nhưng có khi ẩn trong nhịp câu

văn, trong lời trần thuật khách quan. Cách gọi các con vật như chuột là

“nàng” [Truyện gã chuột bạch], gà trống ri là “chàng đa tình”, gà mái là “chị

ả nõn nường”[Con gà trống ri], gọi mèo là “gã tinh quái”… cách gọi như

thế tạo ra giọng kể hài hước, các con vật cũng có đặc tính của con người:

đỏng đảnh, điệu đà, đa tình, tinh quái.

Cái cười của Tô Hoài là cái cười thâm trầm, sâu sắc. Nó thể hiện con

mắt tinh nhạy và sự gắn bó tha thiết với cuộc đời của ngòi bút Tô Hoài.

4.2.2.2. Giọng điệu dửng dưng

Truyện ngắn của Tô Hoài còn có giọng điệu dửng dưng. Chủ yếu tác

giả chọn ngôi kể thứ ba, kể khách quan lại chuyện người ở quê hương mình

như một người đứng ngoài cuộc. Kể về những thói xấu, cái nghèo, cái đói

của làng quê. Tô Hoài kìm nén cảm xúc, kể như mạch đập của cuộc sống

đang diễn ra.

81

Chuyện tình của Nguyên và Lụa [Lụa] tha thiết như vậy nhưng cuối

cùng vẫn họ đành phải chia tay nhau. Phần cuối truyện tác giả buông một

câu lạnh lùng: “Tháng chạp năm ấy, cô Lụa lấy chồng người bên làng Phú

Gia. Sang tháng hai, Nguyên cũng lấy vợ, người xóm dưới, cùng làng.

Không ai nghĩ đến chuyện đi đâu. Vào Sài Gòong đương xa lăng lắc. Đi tu

phải cạo đầu trọc mà cũng khổ lắm. Những lời quả quyết kia cả hai người

cũng đã quên.” [ Lụa, tr 162]. Tô Hoài không hề miêu tả tâm lí của họ. Liệu

Nguyên và Lụa có đau khổ không? Họ có băn khoăn gì khi phải quyết định

như vậy… Tô Hoài hoàn toàn chỉ kể lại sự việc. Tự bản thân những hành

động của họ đã tố cáo họ. Tình yêu ấy cũng chẳng có gì là sâu sắc. Họ cũng

nhanh chóng quên đi để lại tiếp tục hoà nhịp cuộc sống.

Khi miêu tả về cái chết, các tác giả thường gây cho bạn đọc một nỗi ám

ảnh, ghê rợn, hoặc sự đau thương trong lòng. Nhưng Tô Hoài vẫn kể nhẩn

nha, lạnh lùng, kể chi tiết, tỉ mỉ. Đêm gác rừng kể lại câu chuyện anh Muh,

một người gác rừng chứng kiến ba kẻ đánh bạc trên sông đánh giết lẫn nhau.

“Một bàn tay chắn chắc, nổi cuồn cuộn, vòng chặt lấy một chét cổ. Ở cái cổ,

gân cũng dồn lên. Hai cái mắt nổi lục lạc. Hai mắt của gã bóp cổ cũng lồi ra.

Ánh đèn quắc vào, có lẽ ghê rợn như một cảnh hành hình dưới địa ngụ. Đến

hắn nọ mới giơ một tay lên. Trong bàn tay ấy có một hào bạc giấy. Người này

giựt vội lấy, và nới lỏng bàn tay bóp cổ ra. Gã nọ lồm cồm bò dậy. Bất thình

lình gã đấm cho kẻ địch một quả vào mặt. Nhưng gã này tránh được. Trong

khi ấy, hắn đạp cho gã kia một đạp, bắn tọt ngay xuống sông. Một tiếng ùm

vang lên. Sóng đánh óp ép vào mạn thuyền, rồi im hẳn. Nhưng nghe có tiếng

quào quào vào gỗ, như một người đương níu, trèo lên.” Ngay cả, Muh là

người chứng kiến cảnh tượng rùng rợn ấy. Tác giả không hề miêu tả tâm lí

của Muh, nỗi sợ hãi trong lòng hay tiếc thương kẻ xấu số. Với Muh chỉ có

thắc mắc liệu ngày mai cái xác có nổi lên hay không, hay lại chuyện ma rừng

hiện lên đánh bạc nhưng chả lẽ ma rừng lai tranh nhau một hào bạc giấy.

82

Cũng như vậy, tác giả miêu tả cái chết vì chó dại của lái Khế: “Lúc

mụ về đến nhà thì lão lái Khế đã không còn là lão lái Khế. Lão mê rồi. Quần

áo, lão xé toang, không cò dính một mảnh vải vào người. Lão không biết rét.

Mụ vợ lão đi vào, lão chồm ngay lên. Mụ chạy tụt ra. Vồ trượt vợ, lão ta ngã

lăn như một quả dừa rụng”[ Khách nợ, tr 280]. Tâm trạng vợ con lái Khế

như thế nào. Hầu như tác giả không hề đề cập đến. Trước mắt người đọc,

hình ảnh một lái Khế đang điên cuồng vì bệnh dại.

Câu chuyện này khiến ta chợt nghĩ đến Lão Hạc của nhà văn Nam

Cao, tác giả cũng miêu tả cái chết của lão Hạc vì bả chó: “Lão Hạc đang vật

vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sóc.

Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái,

nảy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã

đến hai giờ đồng hồ mới chết” [Lão Hạc trích Tuyển tập Tô Hoài].

Cả Tô Hoài và Nam Cao đều miêu tả hai cái chết thật dữ dội. Nhưng

kết thúc của bi kịch ấy lại rất khác nhau. Tô Hoài viết: “Đám ma lái khế,

bốn người khiêng cái hòm ra tha ma sau làng. Theo sau quan tài, vợ lão

khóc tỉ, thằng con lếch thếch đi bên cạnh mẹ. Bố nó cao lớn thế mà nó lại

gầy đét như chiếc que tăm”. [ Khách nợ, tr 281]

Nam Cao lại viết “Lão con Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt!

Lão đừng lo gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi trai

lão trở về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “Đây là cái mà ông cụ thân

sinh ra anh đã cố để lại cho anh trọn vẹn; cụ thà chết chứ không chịu bán đi

một sào...” Rõ ràng, so với Nam Cao trong đoạn truyện này, Tô Hoài kể

bằng giọng dửng dưng lạnh lùng hơn. Tuy vậy, một nỗi chua xót vẫn tự

nhiên dâng ngập trong lòng người đọc. Lái Khế hung hăng hốc hách là thế

cuối cùng cũng phải chết thảm, lão chết vợ con lão sẽ ra sao... Đời con lão

chắc cũng chẳng khá hơn gì đời lão.

83

Sở dĩ, Tô Hoài kể với giọng điệu dửng dưng vì ông không thiên về

miêu tả nội tâm cảm xúc của nhân vật, chỉ đặc tả những nét ngoại hình cử

chỉ, hành động của nhân vật để qua đó người đọc tự hình dung, tưởng tượng

về nhân vật. Bên cạnh đó, Tô Hoài kìm nén những cảm xúc chủ quan kể lại

câu chuyện như những gì vốn xảy ra ở thực tế khách quan.

4.2.2.3. Giọng điệu trữ tình man mác

Tô Hoài vừa hóm hỉnh, vừa lạnh lùng chỉ ra những thói xấu, những

tính cách hẹp hòi, những hình, những dạng của đời, có chê trách. Nhưng

đằng sau đó là một thái độ xót xa, thương cảm. Xót xa vì họ bị cuộc sống

khổ cực làm mất đi bản chất lương thiện, những tình ý sâu kín rụt rè đáng

yêu cũng bị chìm hẳn vào những lo toan, những tính toán chi li, những vụ

lợi nhỏ nhặt.

Tiếng khóc vỡ oà của bà Móm ở cuối truyện Chớp bể mưa nguồn

khiến người đọc hiểu hơn về nỗi lòng của bà. Bà không phải là người nanh

ác. Bà cũng muốn cho con có hạnh phúc. Bà thương con nhưng tình thương

này bị những cái vụn vặt đời thường che lấp mất. Bà thật sự buồn khổ, cô

đơn khi anh con trai bỏ bà ra đi. “Chao ôi! Chớp bể mưa nguồn. Chắc ở bên

Sài Gòn đương mưa to lắm. Bà Móm ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!”.

Đọc Lá thư tình đầu tiên, người đọc cảm thấy dư âm một cái gì đó

thiết tha luyến tiếc lắng đọng trong tâm hồn, thương cho anh Cuông chân

thật với tình yêu đơn phương trong sáng và cao đẹp. Câu chuyện khiến

người đọc lại nhớ đến tình Trương Chi. Khác với Trương Chi, ôm những

tình cảm tuyệt vọng trong lòng xuống tuyền đài vẫn chưa tan thì anh Cuông

nhờ có tình yêu anh sống đẹp hơn, tốt hơn và giữ mãi trong mình những tình

cảm với cô Mì.

Tô Hoài xót xa cho những kiếp người nghèo khổ, những mảnh đời bất

hạnh. Tô Hoài ít nói về cái vui, niềm sung sướng hạnh phúc. Truyện ngắn

trước Cách mạng tháng Tám của Tô Hoài, có ít nhiều ám ảnh về cái chết.

84

Cái gái đã chết vì rắn cắn [Nhà nghèo], kẻ đánh bạc xấu số bị dìm chết dưới

sông [Một đêm gác rừng], Lái khế vốn to béo hung hăng nhưng cuối cùng bị

chết vì chó dại cắn [Khách nợ], vợ gã chuột bạch đã bị chết vì nghẹn

[Truyện gã chuột bạch]và đặc biệt cả một đàn gà vịt cũng bị chết gần hết khi

một trận dịch tràn tới [Một cuộc bể dâu]. Những xác gà, xác vịt nằm chỏng

chơ trong chuồng, cả một đàn gà con cũng rơi vào tình cảnh như vậy. “Cửa

chuồng đã mở, chỉ thấy có chị gà gái mẹ dẫn bốn con nhỏ lủi thủi ra. Nhòm

vào trong: năm chú gà con kia đã nằm mỗi chú một xó chết còng queo từ

bao giờ. Và chỉ có từ sáng tới buổi trưa, cả bốn con gà còn lại này cũng mỗi

con nằm chết rụi ở một góc vườn”. Ngay gà chọi, một tay hảo hán giang hồ

được ví như người anh hùng Từ Hải cũng không thoát khỏi bi kịch ấy:

“Thảm hại quá. Ôi! Con gà chọi, ôi! con gà chọi anh hùng, con gà chọi anh

hùng chỉ còn đứng mở mắt thao láo một mắt ra nhìn, mà ngẫm nghỉ về cái

chết của mình sắp đến”. Tô Hoài cũng hay nói về sự tan vỡ trong tình yêu:

Anh Hẹn với cô Mây [Vàng phai], anh Tại với cô Pha [Một người đi xa về],

anh Nguyên với cô Lụa [Lụa], đôi trai gái [Ông trăng không biết nói], đôi

trai gái [Một chuyến định đi xa]. Họ yêu nhau say đắm, thề non hẹn biển

cuối cùng họ cũng tự dời bỏ nhau. Tình yêu thoáng chốc bị tan vỡ đã gợi

trong lòng người đọc một sự chua xót.

Bức tranh làng quê của Tô Hoài không căng thẳng dữ dội như trong

truyện của Ngô Tất Tố mà bình dị, lam lũ. “Chiều tối hôm đó, trời đã xâm

xẩm. Không mưa không nắng mà cô Lụa cũng đội nón xùm xụp, đi sang

xóm Đình. Đã nhọ mặt người, đường cái vắng không có ai. Ngõ nhà ông

phó An nghe tiếng gọi ơi ới. Đàn chó nhâu nhâu chạy ra sủa. Cô Lụa theo

người nhà ra đánh chó, đi thẳng vào trong sân.”[ Lụa, tr 159 ]. Tô Hoài

không tô vẽ cho bức tranh nông thôn thêm đẹp, không có ánh chiều bảng

lảng, có đàn trâu thung thăng trở về, có cánh chim chiều cô đơn bay trong

cùng gió, có người lữ thứ trở về. Ông viết theo nhịp điệu của đời sống. Cô

85

Lụa sang nhà ông Phó An để trả lễ trầu cau vì cô không đồng ý lấy cậu con

trai ông. Lời văn trần thuật nhanh, gấp gáp hơn theo bước chân cứng cỏi

mạnh mẽ của cô Lụa. Làng quê sao mà vắng vẻ, đượm buồn. Mới xâm xẩm

mà con đường không có ai. Tiếng gọi ơi ới, tiếng chó nhâu nhâu càng gợi ra

không gian thanh vắng.

Ngay cả mùa xuân tháng hai rộn ràng vui tươi với những ngày hội

làng nhưng đâu đấy vẫn có nét buồn. “Lµng NghÜa §« vµo mïa

xu©n, sang ®Çu th¸ng hai cã “nh÷ng c©y xoan gÇy,

th©n mèc tr¾ng, gi¬ lªn nh÷ng c¼ng tay ®en ®ñi, tr¬

trôi, ®· trë tõng tóm l¸ t¬. ” [Mùa ăn chơi]

Giọng điệu buồn man mác được thể hiện qua những từ ngữ giàu sức

gợi cảm và câu cảm thán, câu đặc biệt: “Thảm hại quá. Ôi! Con gà chọi,

ôi!” [Một cuộc bể dâu], “Chao ôi! Chớp bể mưa nguồn. Chắc ở bên Sài Gòn

đương mưa to lắm. Bà Móm ôm mặt, hu hu khóc “Ối con ơi!” [ Chớp bể

mưa nguồn], “Đổi thay. Đổi thay. Thương ôi! Dưới gót năm tháng cái gì mà

không xê lệch đi. Hai bên má anh Tại đã có mờ mờ hai vết hõm. Khi anh

nhếch mép cười, để lộ ra hai chiếc răng vàng choé” [ Một người đi xa về],

“Chao ôi! Ai đo được lòng nỗi khổ của anh chàng Hẹn bây giờ. Khi cái việc

tầy đình kai đến tai thì anh ta choáng váng cả người…” [ Vàng phai]

Giọng điệu buồn man mác được nén lại trong mỗi truyện ngắn Tô

Hoài. Nó xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương, sự gắn bó tha thiết của ông

với cuộc đời. Tô Hoài nhận ra quanh đâu đây mình vẫn còn nhiều kiếp

nghèo, những con người khốn khó. Nó thể hiện lòng đồng cảm của nhà văn

với cuộc sống của người dân quê.

4.2.2.4. Giọng điệu suồng sã, tự nhiên

Bên cạnh giọng điệu hóm hỉnh pha chút buồn, một giọng điệu nữa

cũng khá nổi bật trong các truyện ngắn của ông đó là giọng điệu suồng sã tự

86

nhiên. Chất suồng sã tự nhiên được thể hiện qua cách gọi nhân vật và đặc

biệt qua đối thoại

Tô Hoài đặt cho nhân vật những cái tên rất bình dị: anh Duyện, anh

Hẹn, anh Toại, anh Hối, anh Lấm, anh Cuông, bà Móm, bà Múi, ông Chỉnh,

ông Luỹ, tên các cô gái có phần thơ mộng hơn cô Mì, cô Mị, cô Mây…

Cách gọi nhân vật cũng rất suồng sã: anh cu, anh chàng, gã, ông lão,

bà lão, lão, bà, ả, chị chàng…

Ngay những cuộc đối thoại, nội dung cũng là những việc bình thường.

Đây là cuộc trò chuyện trước ngày hội võ.

“- Hôm nào nhỉ?

- Mai.

- Nhớ rủ tớ nhé.

Đến đàn bà, con gái cũng nào nức:

- Mai chị rủ em đi xem đấu võ nhé!

( Những tình thái từ nhé, nhỉ gợi sắc thái thân mật trong cuộc nói chuyện.)

Những cuộc cãi lộn hàng ngày của các đôi vợ chồng cũng nhẹ nhàng

bước vào trang truyện của Tô Hoài.

Người chồng hỏi:

- Mẹ mày làm gì thế?

- Tìm cái chai.

- Chai nào?

- Chai đựng dầu chứ còn chai nào nữa!

...

- Tưởng mẹ mày mang chai đi mua dầu?

...

- Ai đi mua dầu. Thôi chết tôi rồi! Cái chai đâu?

....

- Tưởng nhà ta có hai cái chai.

87

- Bán một cái hôm nọ để mua thuốc cao cho thằng Bang rồi không.

Còn cái chai nữa ở nhà đâu?

...

- Thế thì tớ không biết. Lúc nãy tớ bán nốt cái chai ấy rồi. Tưởng nhà

có hai cái thì đằng ấy đem một đi mua dầu. Ai biết đâu. Tớ bán cho thằng

đồng nát được hai xu rưỡi. Một chinh đem mua kẹo chia cả nhà đấy.

...

- Ối giời đất ơi! Hại tôi rồi! Làm hại tôi rồi. Có mỗi một cái để đựng

dầu mà cũng bán tào bán huyệt của tôi đi.

...

- Cái gì mà nói dai thế. Người đâu có người...

...

- Ối giời ôi! Người ta làm hại tôi, người ta cấm đoán tôi...

- Bố mày, ông mày cấm đoán gì mày

Xưng hô của nhân vật trong hội thoại cũng hết sức dân giã như mẹ mày, tớ,

bố mày, ông mày…

Vì Tô Hoài quan tâm đến những chuyện đời thường, mối quan hệ

tình cảm gia đình, làng xóm, bạn bè, trai gái với một cảm quan hiện thực.

Chính vì vậy, ứng xử giữa các nhân vật rất gần gũi như chính trong cuộc

sống đời thường. Giọng điệu suồng sã tự nhiên đã làm cho nhân vật sống

động hơn. Họ như đang sống, đang bước ra từ trang sách để trò chuyện với

bạn đọc.

Tiểu kết

Có thể nói ngôn ngữ giọng điệu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước

Cách mạng tháng Tám có tính phức hợp. Đó là sự hòa trộn giữa ngôn ngữ

giàu tính tạo tình, tinh tế chuẩn xác với một ngôn ngữ bình dân nôm na dễ

hiểu, giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ độc thoại và đối thoại

88

của nhân vật, sự hòa trộn giữa các giọng điệu trữ tình buồn man mác với

giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu suồng sã tự nhiên với dửng dưng

lạnh lùng. Tuy nhiên, nét nổi bật trong ngôn ngữ, giọng điệu của Tô Hoài là

ngôn ngữ dân giã, tự nhiên và giọng điệu dí dỏm hài hước cùng với những

câu văn ngắn gây ấn tượng. Ngôn ngữ Tô Hoài phong phú, sống động tuôn

chảy theo dòng thời gian, theo nhịp điệu cuộc sống. Một thứ ngôn ngữ được

chắt lọc tinh tế nhưng rất đời, rất tình.

89

KẾT LUẬN

1. Với 70 năm sáng tác, Tô Hoài đã cho ra đời một khối lượng tác

phẩm đồ sộ gồm 160 đầu sách. Ông là một tấm gương lao động nghệ thuật

bền bỉ, nỗ lực không ngừng. Ở mỗi chặng đường, Tô Hoài đều có những

thành tựu khác nhau nhưng bao giờ ông cũng đóng góp một tiếng nói riêng,

một cách nhìn, một phong cách độc đáo. Với thể loại truyện ngắn, thực sự

Tô Hoài đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả.Trong đó, truyện ngắn

trước Cách mạng đã giúp ông khẳng định được vị trí của mình trong nền văn

học Việt Nam. Tô Hoài được đánh giá là một trong số những cây bút hàng

đầu bên cạnh các tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên

Hồng, Thạch Lam…

2. Từ thế giới nhân vật, kết cấu, tình huống đến ngôn ngữ giọng điệu,

truyện ngắn Tô Hoài đều có những nét riêng độc đáo. Nhân vật trong tác

phẩm của ông chủ yếu là người dân làng Nghĩa Đô sống bằng nghề canh

cửi. Nhờ khiếu quan sát, sự miêu tả tường tận tỉ mỉ ngoại hình, hành động,

cử chỉ mà bức chân dung những người dân quê ấy hiện lên thật sinh động

với nhiều dáng vẻ, tính cách, số phận khác nhau. Đó là những con người

bình dị khốn khổ với biết bao khát vọng. Nhân vật loài vật của Tô Hoài

được miêu tả hết sức sinh động. Đó là những con vật gần gũi quen thuộc, có

buồn, có vui, có lặn lội vất vả một nắng hai sương giống như người dân làng

Nghĩa Đô vậy. Ngôn ngữ giọng điệu trong truyện ngắn của Tô Hoài trước

Cách mạng tháng Tám có tính phức hợp. Đó là sự hòa trộn giữa ngôn ngữ

giàu tính tạo tình, tinh tế chuẩn xác với một ngôn ngữ bình dân nôm na dễ

hiểu, giữa ngôn ngữ người kể chuyện với ngôn ngữ độc thoại và đối thoại

của nhân vật, sự hòa trộn giữa các giọng điệu trữ tình buồn man mác với

giọng điệu dí dỏm hài hước, giọng điệu suồng sã tự nhiên với dửng dưng

lạnh lùng. Tuy nhiên, nét nổi bật trong ngôn ngữ, giọng điệu của Tô Hoài là

90

ngôn ngữ dân giã, tự nhiên và giọng điệu dí dỏm hài hước cùng với những

câu văn ngắn gây ấn tượng. Kết cấu và tình huống trong truyện Tô Hoài rất

đơn giản. Đa số các tác phẩm của ông được kết cấu theo thời gian tuyến

tính, cũng có kết cấu đảo lộn trật tự theo dòng tâm lí của nhân vật nhưng

không nhiều. Kết cấu đơn giản thường diễn ra ba màn cảnh. Tô Hoài còn sử

dụng những kết truyện bất ngờ và phần trữ tình ngoại đề làm cho câu

chuyện có nhiều giọng điệu, trở nên sâu sắc hơn. Tình huống truyện của Tô

Hoài đều là những tình huống đời thường trong cuộc sống với những sự việc

vụn vặt lẻ tẻ dường như chẳng có gì đáng kể để nói, để viết. Nhưng tài năng

của Tô Hoài ở chỗ làm cho những chuyện tưởng chừng như không có gì ấy

lại là có chuyện. Bức chân dung con người đời thường hiện lên sinh động

gợi cho người đọc suy nghĩ về cuộc sống của họ.

3. Ngày nay, truyện ngắn vẫn là một thể loại chiếm vị trí quan trọng

trong đời sống văn học. Trong đó, Tô Hoài là người đã có đóng góp không

nhỏ vào bước phát triển của truyện ngắn Việt Nam. Truyện ngắn của ông

đến nay, vẫn có nhiều độc giả vẫn yêu thích và say sưa đọc. Bởi nhà văn đã

giúp họ nhận ra ở mỗi câu chuyện những bài học cuộc sống, những tâm tình

về số phận con người, những hoài bão, ước mơ cao đẹp. Tô Hoài đã tạo ra

truyện ngắn có vẻ đẹp riêng giữa một rừng hoa văn học đầy hương sắc. Với

việc nghiên cứu về đặc điểm truyện ngắn Tô Hoài trước Cách mạng, chúng

tôi hi vọng rằng có một cái nhìn hoàn chỉnh hơn về Tô Hoài, nhà văn của

đời, của thơ văn, của những kiếp người nghèo khổ.

91

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Duy Anh chủ biên, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, NXB Thanh

Niên, năm 2000

2. Lại Nguyên Ân, 150 Thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà

Nội, 1999

3. Lê Huy Bắc, Giọng và giọng điệu trong tác phẩm văn xuôi hiện đại,

Tạp chí văn học, số 99, năm 1988

4. M.Bakhtin, Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch,

Trường viết văn Nguyễn Du, năm 1992

5. Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn , NXB Khoa học xã hội,

năm 1994

6. Phan Cự Đệ chủ biên, Truyện ngắn Việt Nam -lịch sử- thi pháp- chân

dung, NXB Gi¸o dôc, n¨m 2007

7. Phan Cự Đệ, Cuộc sống và tiếng nói nghệ thuật”, NXB Văn học , Hà

Nội, năm 1971.

8. Nguyễn Đăng Điệp, Tô Hoài sinh ra để viết, Nghiên cứu văn học số

9, Viện văn học , năm 2004,

9. Hà Minh Đức sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu, Tuyển tập Tô Hoài,

NXB Văn học, năm 1987

10. Hà Minh Đức, Tô Hoài Đời văn và tác phẩm : Trò chuyện, ghi chép

và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài”, NXB Văn học, 2007.

11. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu tuyển tập truyện ngắn Tô Hoài, tập I,

NXB Văn học Hà Nội, năm 1996.

12. Hà Minh Đức, Hữu Nhuận, Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm”,

NXB Giáo dục, năm 2001

13. Trần Ngọc Dung, Ba phong cách truyện ngắn trong văn học Việt

Nam, Thời kì đầu từ những năm 1930 đến 1945: Nguyễn Công Hoàn,

92

Thạch Lam, Nam Cao”, Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Hà

Nội, năm 1992

14. CMac, F.Angghen, Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội, 1977

15. Nhiều tác giả, Nhà văn hiện đại thế kỉ XX, NXB Hội nhà văn 1999

16. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng tiếng Việt, NXB Giáo dục, năm 1995

17. Hoµng V¨n Hµnh, Tõ l¸y trong tiÕng ViÖt, NXB

Khoa häc x· héi. Hµ Néi, 1985,

18. Chủ biên Lê Bá Hán, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc

Gia, năm 1999

19. T« Hoµi, Mét sè kinh nghiÖm viÕt v¨n cña t«i NXB

V¨n häc Hµ Néi, n¨m 1989

20. Tô Hoài, Tôi viết bằng tình yêu cuộc sống, Tạp chí Văn học, số 6,

năm 2003

21. Tô Hoài, Nghệ thuật và phương pháp viết văn, NXB Văn học, năm 1997

22. Tô Hoài, Sổ tay viết văn, NXBH.Tác phẩm mới, năm 1977

23. Tô Hoài, Hồi kí, NXB Hội nhà văn, 2005

24. Tô Hoài, Người ven thành kí và truyện, NXB Văn học, năm 1972

25. Tô Hoài, Cỏ dại, NXB trẻ 1988

26. Đàm Trọng Huy, Tô Hoài, Lịch sử văn học Việt Nam, 2002, tập 3,

NXB Đại học sư phạm Hà Nội, tr 512

27. Tô Hoµi, Tuyển tập Tô Hoµi, NXB Văn học, Tập 1. - 1987. - 434tr

tập 2, năm 1994

28. T« Hoµi, Chuét thµnh phè, tËp truyÖn ng¾n NXB

Hoa Tiªn- Sµi Gßn, n¨m 1967

29. Lại Thị Thu Huyền Luận văn thạc sĩ khoa Ngữ văn, Chân dung văn

học Tô Hoài, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2006

30. Đinh Trọng Lạc, 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB

Giáo dục, năm 1995

93

31. Phong Lê giới thiệu, Thanh Vân tuyển chọn, Tô Hoài về tác gia và

tác phẩm, NXB Giáo Tô Hoài; năm 2001

32. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, NXB Giáo

dục, năm 2003

33. Nguyễn Long, Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn

Tô Hoài về miền núi, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 6, năm 19

34. NguyÔn V¨n Long, TiÕp cËn vµ ®¸nh gi¸ v¨n häc

ViÖt Nam sau c¸ch m¹ng th¸ng T¸m NXB Gi¸o, dôc

n¨m 2001

35. Chủ biên Phương Lựu, Lí luận văn học, NXB Giáo dục năm 2003

36. Nguyễn Đăng Mạnh, Bài khái luận tổng tập văn học, tập 30A NXB

Khoa học Xã hội, năm 1975

37. Vương Trí Nhàn, Sổ tay truỵên ngắn, NXB Hội nhà văn, năm 1988.

38. Mai Thị Nhung, Phong cách nghệ thuật Tô Hoài, NXB Giáo dục,

năm 2006

39. Mai Thị Nhung, Sắc thái giọng điệu chủ đạo trong sáng tác của Tô

Hoài, Tạp chí khoa học, ĐHSP Hà Nội, số 5, năm 2004

40. Mai Thị Nhung, Đặc điểm thế giới nhân vât Tô Hoài, tạp chí ngihên

cứu lí luận và lịch sử văn học, số 4, năm 2005

41. Ngô văn Phú và Phong Vũ (tuyển chọn và biên soạn): Các nhà văn

được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Hội nhà văn, năm 1997

42. Vũ Quần Phương, Tô Hoài, văn và đời, Tạp chí Văn học, số 8, năm

1994

43. Vò D ¬ng Quý, Trên đường bình văn, NXB Giáo dục, năm 1998

44. Vò D ¬ng Quý, Ng« TÊt Tè, NguyÔn C«ng Hoan, Vò

Träng Phông, NXB Gi¸o dôc, n¨m 2002

45. Trần Đình Sử, Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, năm

94

1993

46. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục, Hà

Nội, năm 1993

47. Trần Hữu Tá, Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, N XB

Trẻ “Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp. HCM”, năm 2001.

48. Trần Hữu Tá, Tô Hoài, giáo trình văn học Việt Nam 1945-1975, tập

II, NXB Giáo dục, năm 1990

49. Bùi Việt Thắng, Bình luận về truyện ngắn, NXB Văn học, năm 1999

50. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể

loại, NXB Quốc Gia, năm 2000

51. Hoàng Văn Thành, chủ biên Từ điển từ láy tiếng Việt, NXB Giáo dục,

Hà Nội, năm 1995, :

52. Nguyễn ĐìnhThi, Công việc của người viết tiểu thuyết, NXB Văn

học, Hà Nội, năm 1964

53. Trần Đăng Xuyền, Nhà văn hiện thực cuộc sống và cá tính sáng tạo,

NXB Văn học, Hà Nội, năm 2002

54. Trần Đăng Xuyền, Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, NXB Khoa học xã

hội, năm 2004

55. Trần Đăng Xuyền, Nhà văn và cá tính sáng tạo, NXB Khoa học xã

hội, năm 2000

56. Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin năm 1999,

95

Tô Hoài, tranh Nguyễn Sáng

Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí

Tô Hoài, ảnh Nguyễn Đình Toán

Tô Hoài, tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục năm 2001

Bí thư thành ủy Phạm Quang Nghị trao thưởng cho nhà văn Tô Hoài, tạp chí thi đua khen thưởng 2010

96

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!

Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger

 Merge multiple PDF files into one

 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge

 Extract page(s) from different PDF

files and merge into one