QU N
N Ọ O Ọ N N N -----------------------
PH M THỊ LAN ANH
SỰ VẬN NG CỦA THỂ LO I TRUYỀN KỲ TỪ
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ
LUẬN N SĨ
huyên ngành: Văn học Việt Nam
N – 2019
QU N
N Ọ O Ọ N N N -----------------------
PH M THỊ LAN ANH
SỰ VẬN NG CỦA THỂ LO I TRUYỀN KỲ TỪ
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ
LUẬN N SĨ
huyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vương
N - 2019
LỜI CẢM ƠN
Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của
GS.TS Trần Ngọc Vương cùng sự góp ý của các Giáo sư – Tiến sĩ trong
hội đồng chấm luận văn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp
đỡ chân thành và quý báu đó.
Dù đã rất nỗ lực, song do khả năng và thời gian có hạn nên luận
văn không tránh khỏi những điểm khuyết thiếu. Kính mong nhận được sự
đóng góp chân thành từ các Giáo sư – Tiến sĩ cũng như quý học giả quan
tâm.
Người thực hiện
Phạm Thị Lan Anh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ẦU .............................................................................................. 3
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 4
3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài .................................................................... 9
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 10
hương 1: Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ .......... 11
1.1. Khái niệm thể loại ............................................................................. 11
1.2. ặc trưng của thể loại truyền kỳ ........................................................... 12
1.2.1. Đặc trưng về nội dung ...................................................................... 12
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật .................................................................... 13
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở Việt Nam 16
1.3.1. Giai đoạn thế kỷ X-XIV ...................................................................... 16
1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV - XVII ................................................................. 19
1.3.3. Giai đoạn thế kỷ XVIII – cuối thế kỷ XIX .......................................... 24
hương 2: N ỰU CỦA TRUYỀN KỲ VIỆ N M ẾN TRUYỀN
KỲ MẠN LỤC ................................................................................................. 27
2.1. Tích hợp kinh nghiệm truyền kỳ khu vực ...................................... 27
2.1.1. Sự tích hợp trong cốt truyện .......................................................... 27
1
2.1.2. Sự tích hợp trong kỹ xảo xây dựng nghệ thuật ............................. 36
2.2. Bàn về khả năng thâu hóa thành tựu của văn học dân gian Việt
Nam trong Truyền kỳ mạn lục ................................................................... 41
2.2.1. Sự thâu hóa về chủ đề, đề tài ......................................................... 42
2.2.2. Sự thâu hóa về cốt truyện .............................................................. 45
2.2.3. Sự thâu hóa trong trình bày nhân vật ........................................... 46
2.3. Thành tựu của Truyền kỳ mạn lục................................................... 47
hương 3: SỰ TÍCH HỢP CỦA CÁC YẾU TỐ TRUYỀN KỲ TỪ SAU
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ ............................ 63
3.1. ình hình văn bản của Truyền kỳ tân phả ........................................ 63
3.2. Những xu hướng mới của truyện truyền kỳ tích hợp trong Truyền
kỳ tân phả .................................................................................................... 64
3.2.1. Quá trình “tục hóa” để tiến tới ........................................................ 64
3.2.2. Những xu hướng mới trong nội dung ............................................. 68
3.2.3. Những xu hướng mới về nghệ thuật biểu hiện ............................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92
PHẦN MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyền kỳ là một thể loại văn học đặc trưng của văn học Việt Nam thời
kỳ trung đại. Khởi nguồn của thể loại này ở nước ta xuất phát từ nền văn học
cổ đại Trung Hoa. Từ đây, nó trở thành một thể loại mang lại nhiều thành tựu
cho nền văn học của các nước ông Á như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn
Quốc… với những Kim ngao tân thoại (Kim Thời Tập – Hàn Quốc), Gia tì tử
(Asai Ryohi – Nhật Bản), Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu – Trung Quốc)… Khi
mới hình thành ở Việt Nam, tiêu biểu là Thánh Tông di thảo tương truyền của
vua Lê Thánh Tông, truyền kỳ chưa được coi là một thể loại mà mới chỉ được
xem xét trên phương diện tác phẩm. Chỉ đến khi Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ ra đời ở thế kỷ XVI, tạo thành một tiếng vang lớn thì truyện
truyện truyền kỳ mới gây được sự chú ý. Từ đây truyền kỳ trở thành một thể
loại xuyên suốt trong tiến trình văn học Trung đại Việt Nam với lần lượt các
tác phẩm ra đời sau đó như Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm, Lan Trì
kiến văn lục của Vũ Trinh, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích…
Từ thế kỷ thứ XV ra đời tác phẩm gây tiếng vang lớn là Truyền kỳ mạn
lục - đánh một dấu mốc quan trọng cho chặng đường phát triển của thể loại
truyền kỳ phải trải qua hai thế kỷ “im ắng”, chúng ta mới lại thấy sự xuất hiện
tiếp tục của thể loại truyền kỳ với Truyền kỳ tân phả ( oàn Thị iểm). Như
vậy, Truyền kỳ mạn lục không phải là một dấu son rực rỡ chấm hết cho truyện
truyền kỳ ở Việt Nam. Mặc dù, truyện truyền kỳ trước và sau Truyền kỳ mạn
lục khá phát triển nhưng khi nhắc đến thể loại truyền kỳ, người ta không biết
nhiều đến các tác phẩm khác mà chỉ tập trung chú ý vào ngôi sao sáng nhất
của thể loại này. ây là một thiệt thòi đáng kể của truyền kỳ trong sự phát
3
triển đa dạng và không ngừng của nền văn học Việt Nam nói chung và nền
văn học trung đại Việt Nam nói riêng. Sau gần hai thế kỷ để xuất hiện một tác
phẩm mới chắc chắn Truyền kỳ tân phả sẽ có những sự vận động và biến đổi
so với sáng tác của giai đoạn trước. Ngay ở nhan đề tác phẩm, chữ “tân” đã
cho chúng ta thấy điều ấy.
Quá trình hình thành, phát sinh, phát triển, hoàn thiện và tiêu vong là lẽ
tất nhiên của mọi hiện tượng đời sống xã hội. Các sáng tạo tinh thần không
nằm ngoài quỹ đạo ấy. Thể loại truyền kỳ hình thành và phát triển ở thời kỳ
văn học trung đại Việt Nam, mặc dù không còn xuất hiện trong văn học hiện
đại nữa nhưng đó chính là một tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát
triển của truyện ngắn và tiểu thuyết. Truyện truyền kỳ ở Việt Nam mặc dù
được các nhà nghiên cứu quan tâm khá nhiều nhưng họ chủ yếu khai thác ở
khía cạnh từng tác phẩm cụ thể, riêng lẻ là chính, nhất là dành sự quan tâm
đặc biệt cho Truyền kỳ mạn lục hoặc nghiên cứu truyền kỳ ở mức độ khái quát
hóa cao theo cả một giai đoạn hay một khía cạnh chung cùng xuất hiện ở các
tác phẩm truyền kỳ. Vì thế, luận văn của chúng tôi ra đời với mong muốn
bước đầu tìm hiểu về sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm cụ thể
là Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả để thấy được con đường đi của
truyền kỳ qua hai thế kỷ, cũng từ đó dần định hình được hướng phát triển của
thể loại trong bối cảnh văn hóa, văn học chung của nước nhà.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Truyện truyền kỳ là một đề tài rộng lớn và đã được nhiều người nghiên
cứu khai thác trên nhiều phương diện khác nhau, có thể nghiên cứu từng tác
phẩm nhỏ lẻ hoặc nghiên cứu các phương diện cụ thể cùng xuất hiện ở nhiều
tác phẩm hay tiến trình hình thành, phát triển của thể loại từ khi hình thành
đến khi phát triển… ác bài nghiên cứu này xuất hiện khá nhiều trên các tạp
4
chí, sách báo và công trình khoa học… Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và
Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm đã được khá nhiều nhà nghiên cứu lựa
chọn làm đối tượng nghiên cứu nhưng chưa có công trình nào lựa chọn hai tác
phẩm để nhìn ra sự vận động trong thể loại truyền kỳ. Về Truyền kỳ mạn lục,
phương diện tên tác giả, niên đại tác giả sống, số lượng tác phẩm... là những
vấn đề gây ra nhiều tranh cãi của các nhà nghiên cứu. Ngoài ra, những đóng
góp của Truyền kỳ mạn lục cho thể loại, mối tương quan giữa Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc)… cũng
rất được quan tâm. Có thể kể những nghiên cứu như: “Bàn thêm về tác giả,
tác phẩm Truyền kỳ mạn lục” của Lại Văn ùng trên Tạp chí văn học số
10/2002; “Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện?”, “Truyền kỳ mạn lục
dưới góc độ so sánh văn học” của Nguyễn ăng Na in trong Con đường giải
mã văn học trung đại của NXB Giáo dục năm 2006, “Tìm hiểu khuynh hướng
sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ” in trên Tạp chí văn học số
7/1987 của Nguyễn Phạm Hùng, “Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại
truyền kỳ Đông Á” của Vũ Thanh, bài viết “Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục
với Tiễn đăng tân thoại” của Trần Nghĩa in trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm
1987… Trong chương trình Trung học phổ thông, các em học sinh cũng mới
chỉ được tiếp cận với tác phẩm nhỏ lẻ nằm trong Truyền kỳ mạn lục (là
Chuyện người con gái Nam Xương và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên)
chứ chưa được tìm hiểu khái quát về sự phát triển chung của thể loại truyền
kỳ. Như vậy các em mới được giới thiệu về một sô tác phẩm được coi là kiệt
tác của thể loại truyền kỳ trong kho tàng văn học dân tộc.
Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm cũng được khá nhiều các nhà
nghiên cứu lựa chọn làm đối tượng, có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu về tác phẩm như “Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả” của Bùi Thị
Thiên Thai in trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 9 năm 2010; “Mối liên hệ
5
giữa Truyền kỳ tân phả và lễ hội văn hóa dân gian” của Trần Thị Băng Thanh
và Bùi Thị Thiên Thai trên trang báo điện tử của Viện Văn học tháng 8 năm
2011 hay Luận văn Thạc sĩ “Khảo sát giá trị văn bản Truyền kỳ tân phả của
Đoàn Thị Điểm” của Trần Thị Hải Bình năm 2009…
Xét trên phương diện nghiên cứu về thể loại, các nhà nghiên cứu,
những người soạn sách cũng đã có ý thức tổng hợp, tập hợp các tác phẩm
được gọi chung là truyền kỳ. Ở nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa
học đã có công xác lập tên gọi của tác phẩm cũng như đánh giá về tình trạng
lưu giữ văn bản của các tác phẩm truyền kỳ. iển hình có công trình luận án
Tiến sĩ “Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kỳ viết bằng chữ Hán
ở Việt Nam thời trung đại” của Phạm Văn Thắm năm 1996. ông trình đã
xác lập được những tiêu chí để nhận diện và xác lập danh mục truyện truyền
kỳ đồng thời nghiên cứu tình trạng văn bản, xác định niên đại, tác giả của tác
phẩm, từ đó nêu nhận xét về nội dung và nghệ thuật của truyện truyền kỳ, góp
phần xác định giá trị của truyện truyền kỳ. Một công trình khác cũng có vai
trò tập hợp các tác phẩm truyền kỳ đó là bộ sách Truyện truyền kỳ Việt Nam
của Nhà xuất bản Giáo dục, phát hành năm 1999. Bộ sách là công trình biên
soạn, dịch và tổng hợp các tác phẩm truyền kỳ, đưa ra những khái quát chung
về cuộc đời tác giả, nội dung tư tưởng của tác phẩm chứ chưa có sự nhìn
nhận, so sánh các tác phẩm truyền kỳ với nhau để thấy mối tương quan và sự
phát triển trên phương diện thể loại của các truyện truyền kỳ. Như vậy bộ
sách này cũng mới chỉ mang chức năng tổng hợp và giới thiệu là chính.
Xét trên phương diện nghiên cứu về đặc điểm, sự vận động của thể loại,
chúng ta có thể kể đến những trang viết về một số vấn đề lí luận của văn học
trung đại Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa, trong đó có nhắc đến thể loại
truyền kỳ trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa”
6
của GS.TS Trần Nho Thìn, NXB Giáo dục, năm 2008; bài nghiên cứu “Thể
loại truyện kỳ ảo Việt Nam trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến
đỉnh điểm” của P S. TS Vũ Thanh in trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X
đến thế kỷ XIX – Những vấn đề lý luận và lịch sử - Trần Ngọc Vương (chủ
biên), NXB ại học quốc gia Hà Nội, năm 2015. Ở bài viết này, Vũ Thanh có
đề cập đến sự vận động của thể loại truyện kỳ ảo trong đó có nhắc đến truyền
kỳ, mà cụ thể là Truyền kỳ mạn lục – được coi là đỉnh điểm của sự phát triển
này. Ông tập trung đi sâu vào tìm hiểu sự vận động từ văn học dân gian ảnh
hưởng đến thể loại truyện kỳ ảo, cho đến khi Truyền kỳ mạn lục ra đời và bỏ
ngỏ giai đoạn sau đó từ sau Truyền kỳ mạn lục cho đến cuối thế kỷ XIX. Ông
là một người dành khá nhiều tâm huyết khi nghiên cứu về thể loại truyền kỳ
với nhiều những bài viết khác như “Những biến đổi của yếu tố “kì” và „thực”
trong truyện truyền kỳ Việt Nam” in trên Tạp chí Văn học số 6 năm 1994,
“Truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XIX”, “Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong
văn học Việt Nam hiện đại” in trong công trình Những vấn đề lí luận và lịch
sử văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001… Và nhiều bài viết
khác phân tích tác giả, tác phẩm truyền kỳ cụ thể. Các công trình của ông
mang tính khái quát chung cho một hoặc một vài giai đoạn lịch sử phát triển
của truyền kỳ, những đặc điểm đặc trưng của thể loại hoặc đi vào phân tích
từng tỉ mỉ tác phẩm, mở ra nhiều luận giải sắc bén cho những người muốn tìm
hiểu về thể loại truyền kỳ tham khảo.
Ngoài ra còn có một số công trình luận văn thạc sĩ như “Đặc điểm
truyện truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX” của Lương Thị
Huyền Thương năm 2009 đã trình bày được các đặc trưng cụ thể của thể loại
truyền kỳ và đưa ra những so sánh cho thấy những điểm mới trong truyện
truyền kỳ giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, “Vị trí của thể loại
truyền kỳ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam” của Trần Nghi
7
Dung năm 2012 nghiên cứu về vai trò của thể loại truyền kỳ vừa là cầu nối
giữa văn học dân gian với văn học viết vừa là thể loại đánh dấu sự phát triển
của văn xuôi trung đại và ảnh hưởng đến văn học hiện đại.
Có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, luận văn, luận án viết về
các tác phẩm truyền kỳ, các khía cạnh về đặc trưng thể loại, về quá trình hình
thành, phát triển của thể loại truyền kỳ, tuy vậy, vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu về sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm nổi bật là
Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả. Luận văn “Sự vận động của thể loại
truyền kỳ từ Truyền kỳ mạn lục đến Truyền kỳ tân phả” hi vọng đóng góp
được một cái nhìn mới mẻ trên phương diện thể loại thông qua hai kiệt tác
truyền kỳ của dân tộc.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu chính của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là
văn bản tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả in trong cuốn Tổng
tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam Tập 1, do Trần Nghĩa chủ biên, NXB Thế
giới, năm 1997 và cuốn Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam của ỗ Thị Hảo
chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, năm 2010. Theo đó, tổng số truyện chúng
tôi khảo sát sẽ là 26 truyện: Truyền kỳ mạn lục (20 truyện), Truyền kỳ tân phả
(6 truyện). Ngoài ra là một số tác phẩm khác được sử dụng trong quá trình
phân tích, so sánh là Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Lĩnh Nam chích quái
lục (Trần Thế Pháp), Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên)…
4. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiếp cận vấn đề bằng sự kết hợp của nhiều phương pháp khác
nhau để có cái nhìn bao quát toàn diện rồi đi đến phân tích, lý giải và đưa ra
những lí luận cụ thể cho công trình nghiên cứu. ác phương pháp được sử
8
dụng sẽ là:
Phương pháp so sánh, đặt hai tác phẩm văn học trong một mối tương
quan dựa trên các phạm trù cụ thể để so sánh, đối chiếu cho thấy sự vận động,
biến đổi từ Truyền kỳ mạn lục đến Truyền kỳ tân phả, ngoài ra còn có sự so
sánh văn học dưới cái nhìn tương quan với văn hóa và lịch sử để thấy được sự
tác động qua lại giữa lịch sử, các vấn đề đời sống với văn học.
Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm
hướng tới chỉ ra và so sánh cụ thể các luận cứ để tìm ra đặc điểm cho thấy sự
vận động về thể loại của truyền kỳ.
Phân tích – tổng hợp: Thao tác này nhằm đi vào nghiên cứu từng tác
phẩm cụ thể để đưa ra những luận cứ và lí luận cho vấn đề mình cần giải
quyết. Sau đó tổng hợp lại các ý kiến để khái quát, bao quát vấn đề. Sử dụng
phương pháp này chúng tôi muốn có một sự nhìn nhận đa chiều để không bị
bỏ sót ý.
Bằng sự kết hợp của nhiều phương pháp khoa học, chúng tôi muốn xác
lập được hệ thống luận điểm, luận cứ khoa học, từ đó lí giải và làm sáng tỏ
vấn đề.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn là một công trình tìm hiểu về quá trình vận động về thể loại
truyền kỳ dựa trên hai tác phẩm cụ thể là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
và Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm. húng tôi cũng hi vọng luận văn sẽ
đưa ra một kiến giải về sự vận động và biến đổi của một hiện tượng văn học
được khá nhiều người quan tâm.
Luận văn hi vọng sẽ là một đóng góp tích cực cho sự khẳng định giá trị
9
của một thể loại đã từng ít được quan tâm trong quá khứ.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
Phần Nội dung của luận văn chia làm ba chương:
hương 1: Khái lược chung về thể loại truyền kỳ
hương 2: Thành tựu của truyền kỳ Việt Nam đến Truyền kỳ mạn lục
hương 3: Sự tích hợp của các yếu tố truyền kỳ từ sau Truyền kỳ mạn
10
lục đến Truyền kỳ tân phả.
hương 1: Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ
1.1. Khái niệm thể loại
Khái niệm truyền kỳ dựa trên nhiều cách diễn đạt khác nhau, tuy nhiên
cái cốt lõi để tạo nên truyện truyền kỳ chính là yếu tố “kỳ” và “ảo”. Theo lời
iáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Theo đúng nghĩa đen của nó, truyền kỳ chỉ có
nghĩa là truyền đi, kể lại một sự lạ. Sự lạ này có thể là chuyện của thần thánh
của ma quái, chuyện có những thông tin dị biệt đối với việc đời. Bao nhiêu
những vấn đề ứng mộng mị, huyền ảo, hư thực hàm hồ đều có thể gọi là kỳ
cả”. (Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam – GS. Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn
Quang Ân, NXB Văn hóa - Thông tin, HN, 1995).
Truyền kỳ là một thể loại văn học được bắt nguồn từ Trung Quốc. ây
là một thể loại thịnh hành và phát triển nhất là vào đời ường. Theo Từ điển
thuật ngữ văn học thì “truyền kỳ” có nghĩa là “thể loại tự sự ngắn cổ điển của
văn học Trung Quốc thịnh hành ở đời ường. Tên gọi này cuối đời ường
mới có. Kỳ có nghĩa là không có thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu”(Lê Bá
Hán, Trần ình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Giáo dục).
Theo Từ điển Văn học (bộ mới) thì Truyền kỳ là “một hình thức văn
xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau các nhà văn nâng
lên thành văn chương bác học, sử dụng các môtip kỳ quái, hoang đường lồng
vào trong cốt truyện của ý nghĩa trần thế” [10] theo ỗ ức Hiểu, Nguyễn
Huệ hi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển Văn học (bộ mới),
NXB Thế giới).
Khi du nhập vào Việt Nam, truyện truyền kỳ có một dạng thức ngắn
11
gọn giống như một truyện ngắn của thời kỳ hiện đại. ó là sự tiếp thu từ một
nền văn học gốc, dựa trên các yếu tố văn hóa, đặc trưng dân tộc và cảm quan,
ý thức sáng tạo của tác giả mà truyện truyền kỳ của các tác giả Việt Nam giữ
được nét riêng của người Việt, gắn với truyền thống, văn hóa người Việt.
1.2. ặc trưng của thể loại truyền kỳ
1.2.1. Đặc trưng về nội dung
Truyện truyền kỳ là một thể loại sử dụng nhiều yếu tố kỳ ảo, ly kỳ làm
nên những câu chuyện đặc sắc để từ đó thể hiện những tâm tư, tình cảm của
tác giả, thường là những suy nghĩ, phản ánh về hiện thực đương thời. Hiện
thực đó có thể là một hiện thực tối tăm, đầy rẫy chiến tranh đấu đá như trong
Nam Xương nữ tử lục, chiến tranh loạn lạc khiến người chồng Vũ Thị Thiết
phải xung quân ra chiến trận. Trong xã hội ấy cũng có những thành phần tham
quan tham nhũng, sự bất công xã hội hiển hiện rõ rệt, điển hình như trong Túy
Tiêu truyện, nàng Túy Tiêu bị quan Trụ quốc họ Thân nhìn trúng, bị bắt về
làm vợ ông. ến khi Dư Nhuận hi làm đơn kiện cáo lên tận triều đình cũng
không ai giải quyết cho chàng vì uy thế của quan Trụ quốc quá lớn, không ai
dám động vào. Rồi hiện thực những đời vua gần hết thời, vua quan trụy lạc,
như hình ảnh của vua Hồ án Thương trong Na Sơn tiều đối lục. ó là một vị
vua“ tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn
kho của để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng
vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan
chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được
thưởng, lòng dân động lay…”. òn quan lại trong triều thì tham của đút lót,
chạy chọt khắp nơi để hòng có chức cao, ăn chơi xa hoa vô độ, “kêu xin chạy
chọt lúc nào cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà
chồng chất đầy rẫy”, “khoản đãi khách khứa mỗi ngày tốn phí đến hàng
12
chuông thóc”, hay như trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, vua Trần Phế
ế bị con cáo vạch trần là kẻ có những việc làm tàn bạo: “đương mùa hạ mà
giở những công việc khổ dân không phải thời; giẫm trên lúa để thỏa cái ham
thích săn bắn không phải chỗ, quanh đầm mà vậy, bọc núi mà đốt, không phải
lẽ […] tạm quay xe giá, để khiến người và vật đều được bình yên?”.
Không chỉ ở chốn trần gian, nơi quan trường, kể cả trong nơi thờ cúng
như đền thờ miếu mạo, tình trạng tham ô, ăn của đút lót cũng xảy ra liên
miên. Tên Bách hộ họ Thôi chiếm đoạt ngôi đền của thần nước Việt rồi tha hồ
hưng yêu tác quái mà không ai trong đấng tối cao biết đến chỉ vì các đền miếu
xung quanh đều ăn của đút lót của hắn trong Tản Viên từ phán sự lục. Ngay
cả hiện thực về một xã hội hỗn loạn về luân thường đạo lý cũng được thể hiện
trong truyện truyền kỳ, đó là bạn bè thấy vợ bạn đẹp bèn bày cách chơi cờ bạc
để bạn cược vợ, rồi khi bạn thua âm mưu cướp vợ bạn trong Người nghĩa phụ
Khoái Châu.
Truyện truyền kỳ còn mang đậm giá trị nhân văn. ó là niềm cảm
thương sâu sắc của tác giả đối với các nhân vật của mình, đặc biệt là người
phụ nữ trong xã hội đương thời. Người phụ nữ hiện lên trong các tác phẩm
truyền kỳ phần lớn mang trong mình nét đẹp nết na, là người phụ nữ của gia
đình, hết mực vì chồng, vì con, thậm chí còn hi sinh thân mình vì quốc gia đại
sự. Tuy vậy, số phận của họ lại gặp nhiều ngang trái, thường không có cái kết
suôn sẻ như là bị hàm oan phải chết oan nghiệt, có tài năng nhưng không
được dùng (nàng Phù Dung trong Truyện đền thiêng nơi cửa bể thuộc Truyền
kỳ tân phả có ý dâng biểu và Kê minh tập sách).
1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật
Dùng cái ảo kết hợp với cái thực làm phương thức truyền tải nội dung,
thể hiện giá trị nội dung là giá trị hiện thực và nhân văn. Yếu tố kỳ ảo được sử
13
dụng như một phương thức kể chuyện làm cho câu chuyện được kể thêm hấp
dẫn. Thông qua cái kỳ ảo, các tác giả truyện truyền kỳ kể về một thế giới
khác, vừa là qua thế giới đó để lột tả thế giới hiện thực, lại vừa là một khát
vọng ở một cuộc sống khác (cuộc sống chốn thiên cung, thần tiên…). Thế
giới tình cảm phong phú của con người với yêu ma cũng là một đặc trưng cho
sự kết hợp giữa hiện thực và kỳ ảo, điển hình là trong sáng tác Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ. ó là cuộc tình của hai nàng yêu hoa Liễu và ào với
chàng học trò Hà Nhân ở phía trại Tây, chàng à Nhân đắm đuối trong cuộc
tình ấy cho đến khi được ông già hàng xóm nói cho biết là khu vườn ấy của
một nhà quan đã bị bỏ hoang 20 năm nay không có ai ở thì lấy đâu ra hai
người con gái đẹp. ay như chàng Từ Thức vì may mắn trong một lần giải
cứu cho một cô gái lại chính là nàng tiên rồi được lấy tiên làm vợ. Chàng
Phạm Tử ư được một lần lên du ngoạn ở chốn thiên cung để có cái nhìn về
một thế giới khác hoàn toàn mới mẻ, đây cũng chính như khát vọng của
Nguyễn Dữ muốn được thoát ra khỏi cuộc sống đầy u tối của một xã hội
đương thời mà ông đang sống, muốn bước ra khỏi tối tăm, loạn lạc để được
thỏa sức vẫy vùng…
Những motip có từ trong dân gian cũng xuất hiện nhiều ở trong các tác
phẩm truyền kỳ, bởi đây được coi là một trong những cội nguồn quan trọng
nhất của thể loại truyền kỳ ở nước ta. Tiêu biểu nhất đó là hiện tượng sinh đẻ
kỳ lạ khi bà mẹ của gã trà đồng thấy một ngôi sao rơi vào bụng mà đẻ ra một
cậu con trai (Chuyện gã trà đồng giáng sinh – Truyền kỳ mạn lục), vợ quan
Hành khiển đêm hôm ấy chiêm bao thấy rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách
bên tả sau đó có mang sinh ra hai người con trai (Chuyện nghiệp oan của Đào
Thị - Truyền kỳ mạn lục)… cho chúng ta nhớ đến truyện cổ tích Sọ Dừa nổi
tiếng. ay như truyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo gợi cho ta nhớ đến
câu chuyện Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê trong dân gian… Motip truyện ở hiền
14
gặp lành, ác giả ác báo cũng có xuất hiện ở trong các tác phẩm truyện truyền
kỳ, như là trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kỳ mạn lục,
chàng Tử Văn vì nỗi bất bình tên Bách hộ họ Thôi cướp đền của thần người
Việt, hưng yêu tác quái, làm hại đến dân, chàng bèn mang lửa đến đốt đền.
Mặc dù bị tên Bách hộ họ Thôi kiện dưới âm ty, nhưng vì là làm việc nghĩa
nên kết cục hắn ta mới là người bị nhốt lại. Nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện
người con gái Nam Xương nết na, thùy mị, là nàng dâu hiếu thảo, nhưng vì bị
oan mà phải tự vẫn. Tuy vậy kết cục, nàng cũng được minh oan và yên phận
với cuộc sống cung nữ dưới thủy cung.
Nhân vật truyện truyền kỳ hiện lên chủ yếu qua sự miêu tả về ngoại
hình bên ngoài, qua tài năng, ngôn ngữ của nhân vật chứ không chú trọng vào
miêu tả diễn biến tâm lý, nội tâm nhân vật. Vẻ đẹp phẩm chất thể hiện qua
những hoàn cảnh mà nhân vật đó phải trải qua, thông qua những cử chỉ, lời
nói của nhân vật ấy, giống như nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con
gái Nam Xương, nàng yêu chồng, thể hiện nỗi nhớ chồng bằng cách hằng đêm
chỉ lên vách mà nói với bé ản đó là cha bé, hay khi bị chồng nghi oan thì hết
sức muốn giải thích nhưng không được thì đành tuẫn tiết… ay như nàng
Giáng Kiều trong Cuộc kỳ ngộ ở Bích Câu vì muốn khuyên can Tú Uyên bớt
rượu chè bê tha thì xướng những bài thơ nhắn nhủ, rồi khi bị chàng đuổi đi
cũng chỉ khóc mà van xin ở lại. Người phụ nữ liễu yếu đào tơ thể hiện qua cử
chỉ nhẹ nhàng, lời nói mềm mỏng, còn như xây dựng nhân vật nam nhi lại chú
tâm vào tài năng của nhân vật đó, như là tài thơ mà nhất là tài nhạc của Dư
Nhuận hi, tài thơ không ai sánh bằng của Tú Uyên,… ó là cách thể hiện
15
của mỗi nhân vật ở trong các câu chuyện này của các tác giả truyện truyền kỳ.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở
Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn thế kỷ X-XIV
Chiến thắng năm 938 trên sông Bạch ằng của Ngô Quyền mở ra một
trang sử mới cho dân tộc ta. Từ đây dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ
một nghìn năm Bắc thuộc, đánh dấu thời kỳ hòa bình, độc lập, tự chủ. Ý thức
độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ ngày càng được đề cao, không chỉ ở
phương diện chính trị, quân sự mà còn cả trong văn hóa, văn học. Nhất là khi
có sự xuất hiện của văn học viết.
Văn học viết Việt Nam khi mới ra đời còn chịu nhiều ảnh hưởng từ văn
học dân gian và có sự tiếp thu về thể loại từ nền văn học Trung oa như thơ
phú, văn chính luận, văn xuôi viết về lịch sử... Những tác phẩm thời kỳ này
chủ yếu được sưu tầm từ truyện dân gian, được ghi chép, chỉnh lý hoặc gắn
liền với chức năng tôn giáo, lễ nghi, ghi chép hành trạng các vị cao tăng...
Một số tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này đó là Lĩnh Nam chích quái lục (Trần
Thế Pháp); Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên); Báo cực truyện; Thiền uyển
tập anh… Nét đặc trưng nhất của thể loại truyền kỳ đã bắt đầu xuất hiện trong
các tác phẩm này chính là yếu tố hoang đường, kỳ ảo. Dù mới chỉ là những
manh nha ban đầu, chủ yếu là những ghi chép, tính sáng tạo còn chưa nhiều
nhưng những tác phẩm này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo bước tiền
đề, đặt nền móng cho sự phát triển của thể loại truyền kỳ ở những kỷ tiếp đó.
Việt điện u linh tập kể về các vị thần linh được thờ cúng ở Việt Nam,
trong đó có các nhân quân (vua chúa), hạo khí anh linh(thần sông, thần núi),
quân thần (bề tôi trung liệt)… Theo bài Tựa đề năm Khai ựu nguyên niên
(1329, đời Trần Hiến Tông) của Lý Tế Xuyên thì ông đã chọn kể theo phương
16
châm: "những bậc sáng suốt, ngay thẳng mới gọi là thần; không phải những
loại dâm tà, yêu quái, ma quỷ cũng gọi là thần đâu!” 27 vị thần được thờ cúng
ở Việt Nam xuất hiện trong truyện không chỉ kể về công trạng của thần lúc
sinh thời mà còn kể về sự hiển linh độ dân giúp nước sau khi mất theo công
thức "dương trợ-âm phù". ây chính là những nét làm nên sự huyền ảo, kỳ lạ
của các câu chuyện. Và những chi tiết kỳ ảo trong Việt điện u linh tập thường
gắn với sự báo mộng, hiện hồn… Như Truyện Bố Cái Đại Vương (tức Phùng
ưng), Truyện Trương Hống, Trương Hát, v.v… là truyện kể về việc thần
linh đời trước đã "hiển linh" để "phù trợ" các anh hùng đời sau chống quân
xâm lược.
Thiền uyển tập anh viết về sự tích, hành trạng của 68 vị thiền sư nổi
tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời inh, Lê, Lý, thuộc các phái Vô
Ngôn Thông, Tỳ Ni a Lưu hi, Thảo ường. Theo lời của òa Thượng
Thích Thanh Tứ, “Thiền uyển tập anh là một tác phẩm không những có giá trị
về lịch sử Phật giáo Việt Nam mà còn là một tác phẩm truyện ký có giá trị về
mặt văn học, triết học và văn hóa dân gian”. (Trích Lời Tựa của òa thượng
Thích Thanh Tứ in ở đầu sách Thiền uyển tập anh (bản dịch của Nguyễn ức
Thọ và Nguyễn Thúy Nga). Tác phẩm thường có những dữ kiện mang màu
sắc kỳ ảo, gắn liền với sự ra đời, hành trạng của các vị thiền sư, sự cứu độ cho
nhân dân và những phép biến hóa huyền bí... Theo nhận xét của các tác giả
trong Từ điển Văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX về Thiền
uyển tập anh thì “các thiên tiểu truyện, truyện ký lịch sử ở đây có thể đồng
thời được xem như những tác phẩm truyền kỳ” (Lại Nguyên Ân, Từ điển Văn
học Việt Nam, từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB Q N, 2005;
t481). Sự đầu thai hóa kiếp, biết rõ về số kiếp của mình; sư chữa bệnh hủi cho
dân chỉ bằng niệm chú vào nước lá rồi phun lên người bệnh, sư đi lại không
17
cần mở cửa… là những yếu tố mang màu sắc kỳ lạ, hoang đường xuất hiện
trong những câu chuyện về các vị thiền sư ở Thiền uyển tập anh – những dấu
hiệu đặc trưng của thể loại truyền kỳ.
Lĩnh Nam chích quái lục của Lý Tế Xuyên là một tuyển tập ghi chép lại
những câu chuyện kỳ lạ lưu truyền trong dân gian. ó là một tập hợp các
truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam được biên soạn vào khoảng cuối
đời nhà Trần – vì thế màu sắc kỳ ảo vô cùng đậm nét. ó là những câu
chuyện gắn với nguồn gốc người Việt hay những phong tục tập quán của
người Việt (Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Ngư tinh, Truyện Hồ tinh, Truyện
Mộc tinh, Truyện bánh chưng, Truyện trầu cau…); có chuyện lại là sự tích từ
thời Bắc thuộc (Truyện Nam Chiếu…); có chuyện là thần tích thời Lý – Trần
(Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Truyện Hà Ô Lôi)… Những
yếu tố hoang đường, kỳ ảo thường xuất hiện trong văn học dân gian đều dễ
nhận thấy trong Lĩnh Nam chích quái lục như là thụ thai thần kỳ, ra đời kỳ lạ,
sức mạnh phi thường, trừ diệt yêu quái, cái chết kỳ lạ… thể hiện thái độ yêu
ghét của nhân dân và đồng thờikhẳng định tinh thần tự tôn dân tộc, niềm tự
hào dân tộc.
Những tác phẩm văn xuôi thời kỳ này mặc dù chưa thoát li hoàn toàn ra
khỏi văn học dân gian nhưng lại là cái nôi cho sự phát triển của văn xuôi ở
các giai đoạn tiếp theo, trong đó có thể loại truyền kỳ cả về nội dung và nghệ
thuật. Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái… đều là
những tác phẩm mang màu sắc yêu nước, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ca
ngợi những vị anh hùng, địa linh nhân kiệt… đã xuất hiện từ trong văn học
dân gian. Những yêu tố kỳ ảo, hoang đường ở những tác phẩm này sẽ là tiền
đề làm nên bước phát triển rực rỡ cho thể loại truyện truyền kỳ ở giai đoạn
18
sau.
1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV - XVII
Sau khi giành độc lập từ tay giặc phương Bắc, đất nước ta vẫn không
ngừng bị giặc ngoại xâm xâm phạm bờ cõi, từ giặc Tống, giặc Nguyên cho
đến giặc Minh. Trong bối cảnh đó, vua tôi đồng lòng chống giặc, quyền lợi
của giai cấp phong kiến và quyền lợi của nhân dân lúc này cùng nằm trên một
chiến tuyến, tất cả vì mục đích độc lập, chủ quyền dân tộc. hính điều này đã
một phần quyết định đến nội dung tư tưởng của các sáng tác văn học trong
thời kỳ này.
Khi Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa chống quân nhà Minh và cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418-1427) đã mang về độc lập một lần
nữa cho dân tộc. Lê Lợi lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê
đi vào xây dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào thế kỷ XV, dưới thời Lê
Thái Tông, Lê Thánh Tông. Tuy vậy, đến cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI,
xã hội phong kiến bắt đầu bộc lộ sự suy thoái của nó. Bên trong cung đình
Hậu Lê không tránh khỏi xung đột. ặc biệt là sau cái chết của Lê Thánh
Tông, quan lại nhiều lần chia bè phái đấu đá nhau. ất nước lục đục, nhân
dân rơi vào cảnh lầm than, là những gì của hiện thực được phản ánh vào trong
tác phẩm văn học thời kỳ này, đặc biệt là trong văn xuôi. Nội dung yêu nước
với tinh thần ngợi ca dần lắng xuống nhường chỗ cho những sáng tác mang
âm hưởng phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân với tinh thần nhân đạo.
Tinh thần đó cũng được thể hiện rõ trong các sáng tác truyền kỳ, làm nên
bước phát triển rực rỡ nhất của thể loại này với dấu mốc là sự ra đời của
Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ). Nhân vật trung tâm của những truyện này
không phải là những anh hùng hào kiệt, những cao tăng, thiền sư mà là những
người dân hết sức bình thường trong cuộc sống hiện thực đang đầy rẫy những
19
rối ren, lầm than, đen tối.
Không chỉ tác động tới nội dung đề tài phản ánh, hoàn cảnh xã hội thay
đổi còn ảnh hưởng đến các hình thức nghệ thuật. Trải qua năm thế kỷ phát
triển, văn học viết không còn dựa dẫm một cách thụ động vào văn học dân
gian nữa mà phát triển định hình, cứng cáp hơn, tạo ra những bước tiến mới,
thậm chí là có những đỉnh cao trong một số thể loại. Bên cạnh việc ghi chép,
sưu tầm các câu chuyện trong dân gian, các tác giả văn học đã bắt đầu có cái
nhìn sâu sắc hơn về vai trò của văn học trong giai đoạn này. Nhu cầu phản
ánh hiện thực xã hội đã tạo nên những chuyển biến trong nhận thức về sự đổi
mới trong sáng tác của các tác giả. Từ đây, những tác phẩm văn học ra đời
mang đậm tính sáng tạo và cá tính của người cầm bút. ây là những tiền đề
để thể loại truyền kỳ phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn này.
Thế kỷ XV văn học viết còn kế thừa cảm hứng yêu nước và âm hưởng
còn sót lại của hào khí ông . Dần dần văn học Việt Nam chuyển sang cảm
hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán các tệ nạn xã hội, sự
suy thoái về mặt đạo đức.
Trong tình hình đất nước có nhiều biến động trải dài suốt hai thế kỷ,
đây lại là giai đoạn phát triển và đạt đỉnh cao của truyền kỳ Việt Nam. Ở giai
đoạn này, truyền kỳ đã thoát khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian và văn
học chức năng và mang tính sáng tạo. Thành tựu nổi bật là hai tác phẩm
Thánh tông di thảo được cho là của Lê Thánh Tông và Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ…
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm truyện truyền kỳ của tác giả Nguyễn
Dữ, bao gồm 20 truyện ngắn, được viết bằng chữ án. ây được xem là tác
phẩm truyền kỳ tiêu biểu nhất, từng được ví như áng “thiên cổ kỳ bút” của
nền văn học trung đại Việt Nam. Hiện nay có nhiều dị bản mang các tên gọi
20
như Cựu biên truyền kỳ mạn lục, Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm
tập chú. Văn bản đã được khắc in và sao chép lại nhiều lần để đáp ứng nhu
cầu người đọc.
Truyền kỳ mạn lục tức là truyện ghi chép những câu chuyện tản mạn
được lưu truyền. ách đặt tên như vậy thể hiện sự khiêm tốn của tác giả
Nguyễn Dữ khi đây là một tác phẩm rất kỳ công gọt giũa, là sự sáng tạo ra
những câu chuyện kỳ lạ của tác giả, dựa trên nền tảng văn học dân gian và
tinh hoa truyện truyền kỳ của Trung Hoa.
Thánh Tông di thảo là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, gồm có 19
truyện. Tác giả tập truyện này vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Tuy
nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng đây là tập hợp của các truyện ký trong đó có
nhiều truyện là của Lê Thánh Tông. Những câu chuyện viết theo loại hình
truyền kỳ, tạp ký và ngụ ngôn. Theo Từ điển văn học: “người viết hoặc dựa
vào truyện dân gian, hoặc dựa vào những sự kiện lịch sử (có liên quan đến
thời kháng chiến chống Minh và thời của vua Lê Thánh Tông), hoặc dựa vào
văn liệu hay thực tế cuộc sống mà cấu tạo nên truyện mới. Vì vậy có thể nói
Thánh Tông di thảo là một sáng tác phẩm, trong đó có phóng tác, có tái tạo và
có cả hư cấu”. (Theo Bùi Duy Tân, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1637). Chính
những yếu tố hư cấu này làm nên thể loại truyền kỳ của Thánh Tông di thảo,
mặc dù trong nhan đề tác phẩm không hề nhắc đến “truyền kỳ”. Yếu tố truyền
kỳ đã xuất hiện rất rõ nét trong một số truyện như Duyên lạ xứ hoa, Chuyện lạ
nhà thuyền chài, Tinh chuột… Trong Thánh Tông di thảo có truyện đề cập
đến tình yêu lứa đôi với những nhân vật nữ nết na, đức hạnh và chung thủy
với cái nhìn bao dung, nhân đạo... Ngoài ra, tiếng cười trào phúng đầy chất trí
tuệ cũng là một đặc điểm khá nổi bật của Thánh Tông di thảo. Tác phẩm này
là một cột mốc đánh dấu bước tiến của văn tự sự, từ chỗ nặng về ghi chép sự
21
tích cũ đến chỗ sáng tạo những truyện mới.
Nam ông mộng lục là tác phẩm được Hồ Nguyên Trừng viết ở Trung
Quốc, nhưng nội dung vẫn bối cảnh, con người trong cuộc sống hiện thực của
thời Lý – Trần ở Việt Nam. Tác phẩm mang đậm tinh thần dân tộc khi Hồ
Nguyên Trừng thể hiện nỗi sầu xa xứ qua những hồi ức được ghi chép, từ đó
thể hiện lòng tự tôn dân tộc, ngầm ngụ ý với bạn bè Trung Hoa về một nền
văn hóa dân tộc không hề thua kém.
Trong giai đoạn này, con người bắt đầu được đưa vào làm trung tâm
phản ánh rõ nét hơn so với giai đoạn trước đó. Truyện truyền kỳ tận dụng tối
đa đặc trưng tiêu biểu của nó là yếu tố kỳ ảo để thông qua đó phản ánh giá trị
nội dung mà tác giả muốn được nhấn mạnh. Tình tiết câu chuyện ly kỳ, hấp
dẫn, cuốn hút, người đọc được đưa đến những vùng đất thần tiên, ma quỷ,
không có thật để đi từ hồi hộp này đến bất ngờ khác. Mọi sắc thái biểu hiện từ
thấp hèn đến cao sang như là yêu quái, ma cây, quỷ dạ xoa, thần, Phật… đều
đi vào các tác phẩm truyền kỳ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể chuyện và
miêu tả để đưa các yếu tố kỳ ảo gắn liền với những hành động của con người,
từ đó làm nổi bật lên nhiều bức tranh về cuộc sống và cả những ý đồ phản ánh
của tác giả về các hiện tượng đời sống, về con người… on người trở thành
trung tâm phản ánh, chính vì thế con người trong xã hội thực có vai trò khá
quan trọng trong mỗi tình huống, có ý nghĩa cả với những thế giới hư ảo. Khi
có con người, chuyện trắng đen nơi âm ti, đền thờ miếu mạo mới được làm
sáng tỏ như trong Tản Viên từ phán sự lục, nhờ có chàng Ngô Tử Văn đốt đền
thì tên Bách hộ họ Thôi mới bị vạch trần hành vi cướp đền, nhũng nhiễu nhân
dân nơi âm ti. Trong Dạ Xoa bộ soái lục, Dĩ Thành dù là người trần mắt thịt
nhưng vì có tính tình hào hiệp, đại nghĩa nên được bọn quỷ Dạ Xoa tôn lên
làm thủ lĩnh, hết sức tiến cử cho chàng với Diêm Vương, xin cho chàng chức
Tướng Dạ Xoa; về sau chàng được bạn lập đền thờ vì hiển linh báo hiểm họa
22
sắp xảy đến giúp bạn cứu được cả gia đình…
on người khi được đưa vào làm trung tâm, các tác giả truyền kỳ
không chỉ đề cao họ mà còn cảm thương với những số phận con người nhỏ
bé, đặc biệt là người phụ nữ. Nàng Vũ Thị Thiết trong Nam Xương nữ tử lục
dù là một người con gái thùy mị, nết na, hết lòng hiếu thảo với mẹ chồng,
thủy chung với chồng và giàu lòng thương con thì kết cục nàng vẫn bị hàm
oan và chết oan. Ở Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Từ Nhị Khanh cũng được
miêu tả là một người phụ nữ của gia đình, hi sinh tình riêng, giữ trọn đạo hiếu
để chồng cùng với cha chồng đi xa lĩnh chức mới. Sau nhiều năm chờ đợi,
sóng gió cũng đến với nàng khi bà cô nhất định gả nàng cho người khác. ến
khi thoát được nạn đó, hai vợ chồng đoàn tụ với nhau thì cuối cùng nàng vẫn
phải chịu cái chết oan uổng vì thói chơi bời, cờ bạc của chồng. Nàng ào àn
Than trong Đào thị nghiệp oan ký dù có cá tính mạnh mẽ, sống mãnh liệt vì
tình yêu đôi lứa mà trở thành yêu quái, hưng yêu tác quái, sau cùng cũng bị sư
Pháp Vân tiêu diệt thành tro bụi; nàng Liễu Nhu Nương và ào ồng Nương
trong Tây viên kỳ ngộ ký cũng là hai người con gái vì tình yêu đôi lứa cũng
phải chịu kết cục tan nát trong mưa bão… Người phụ nữ trong sáng tác truyền
kỳ dù là hiền lương, thùy mị, nết na hay cá tính mạnh, chuyên hưng yêu tác
quái, sống vì dục vọng thì kết cục họ nhận lại đều là cay đắng. ó chính là số
phận của người phụ nữ trong một thời kỳ tăm tối mà tác giả Nguyễn Dữ muốn
thông qua những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn của mình muốn phản ánh.
Truyện truyền kỳ giai đoạn này không chỉ đề cao con người mà còn
phản ánh những mặt trái của đời sống, hay đó chính là hiện thực tăm tối thời
kỳ tác giả sống, đó là nạn đút lót, ăn của hối lộ (Tản Viên từ phán sự lục), ỷ
cậy quyền thế mà ức hiếp người khác (Túy Tiêu truyện), thói ăn chơi xa đọa
của vua quan (Đà Giang dạ ẩm ký, Na Sơn tiều đối lục)… Ngoài ra, những
câu chuyện tình cảm, tình yêu đôi lứa cũng được khắc họa rõ nét, thậm chí có
23
phần mãnh liệt, giàu tính nhục dục như Mộc miên thụ truyện, Đào thị nghiệp
oan ký, Tây viên kỳ ngộ ký… Nhiều mặt của đời sống, về tâm tình của con
người được tác giả đưa vào truyện truyền kỳ để những yếu tố kỳ ảo làm hết
vai trò của mình trong việc làm toát lên nội dung tác phẩm.
Truyện truyền kỳ thế kỷ XV- XV được xem là thời kỳ rực rỡ nhất bởi
yếu tố kỳ ảo được sử dụng nhuần nhuyễn, đậm đặc và thông qua đó nhiều nội
dung tác giả muốn phản ánh về một xã hội tăm tối hay là sự cảm thương với
những số phận con người nhỏ bé… được nêu bật.
1.3.3. Giai đoạn thế kỷ XVIII – cuối thế kỷ XIX
Bước sang thời kỳ này, truyện truyền kỳ bắt đầu có những “bước lùi”
trong nghệ thuật biểu hiện khi yếu tố kỳ ảo dần bị thu hẹp lại, yếu tố thực
được các tác giả coi trọng hơn. ây được xem như một sự “canh tân”, một
hướng đi mới cho thể loại truyền kỳ trong một giai đoạn lịch sử mới. Thời kỳ
này nổi bật lên với những tác phẩm truyền kỳ của các tác giả oàn Thị iểm
(Truyền kỳ tân phả), Vũ Trinh (Lan Trì kiến văn lục), Phạm Quý Thích (Công
dư tiệp ký)…
Nếu như giai đoạn trước, truyện truyền kỳ đã đạt tới đỉnh cao thì sang
giai đoạn này, các tác giả muốn có hướng đi mới cho truyện truyền kỳ, cố
gắng để thể loại này tiếp tục tồn tại và được đón nhận. Xu hướng của các tác
giả thời kỳ này đó là cố gắng đưa các yếu tố của cuộc sống hiện thực vào tác
phẩm để thể hiện rằng câu chuyện được viết ra rất gần với đời sống, tạo sự tin
tưởng nơi người đọc. hính điều này đã làm “mai một” nét đặc sắc nhất của
truyện truyền kỳ là yếu tố kỳ ảo. Cái ảo dần giảm đi tức bản chất của truyện
truyền kỳ đã đổi khác, nếu như câu chuyện không còn nhuốm màu kỳ ảo nữa
tức là truyện truyền kỳ không còn giữ đúng bản chất của nó. Tác giả muốn
đưa đời sống thực vào tác phẩm, thể hiện đầu tiên và nhìn thấy rõ nhất là ở
24
nhan đề tác phẩm, như Vũ Trinh đặt tên cho sáng tác của mình là Lan Trì kiến
văn lục, từ “kiến văn” cho thấy rõ điều đó, Vũ Trinh muốn kể về những điều
chính mắt ông nhìn thấy để từ đó tạo dựng niềm tin nơi người đọc. iều này
một phần có thể hiểu được là do bối cảnh lịch sử, văn học quyết định sáng tác
của các tác giả truyền kỳ. Thế kỷ XVIII, thế kỷ của trào lưu nhân đạo chủ
nghĩa, mà nổi bật là tiếng nói đòi quyền sống, đòi hạnh phúc và đấu tranh giải
phóng con người, nhất là người phụ nữ. Truyền kỳ tân phả của oàn Thị
iểm ra đời trong bối cảnh ấy, vì vậy, trong sáng tác của bà, nhân vật người
phụ nữ là trung tâm phản ánh ở đa số truyện, họ đều là những người phụ nữ
có xuất thân cao sang, quyền quý, không là con nhà quan thì cũng là tiên trên
trời giáng thế. Những hành động, việc làm của họ càng thể hiện vai trò của
người nữ trong xã hội như là khuyên bảo chồng phải làm theo lẽ đúng (Bích
Câu kỳ ngộ, Vân Cát thần nữ lục), tài văn thơ không thua kém gì bậc nam
nhân (Vân Cát thần nữ lục). Không chỉ vậy, Truyền kỳ tân phả của oàn Thị
iểm được đưa vào rất nhiều thơ phú, thậm chí dung lượng tác phẩm dành
cho thơ chiếm phần lớn, khiến cho kết cấu câu chuyện trở nên lỏng lẻo. ây
là một hướng sáng tác, hướng khác là tuyệt nhiên rất hiếm thơ ca như trong
sáng tác của Vũ Trinh, dung lượng mỗi truyện ngắn gọn và có phần lời bình,
thêm vào của tác giả thể hiện rằng câu chuyện đó có người chứng kiến, tạo
thêm niềm tin nơi người đọc.
Những câu chuyện trong đời sống thực tại đi vào trong tác phẩm truyền
kỳ làm cho yếu tố kỳ ảo trong nhiều câu chuyện rất ít như Long hổ đấu kỳ - có
duy nhất yếu tố kỳ ảo là con hổ và con rồng biết nói tiếng người và cùng đấu
khẩu hay gần như yếu tố kỳ ảo bị ẩn đi như Tùng bách thuyết thoại… Thể loại
truyền kỳ giai đoạn này dần được sáng tác theo một xu hướng mới làm cho
những câu chuyện kỳ không còn thật sự kỳ, tạo ra một lối sáng tác mới, mở
đường cho văn học giai đoạn tiếp theo phát triển, đó là sự xuất hiện của thể
25
loại truyện ngắn, tiểu thuyết.
Bước sang thế kỷ XIX khi có thực dân Pháp xâm lược nước ta, những
đòi hỏi mới về sáng tác văn chương phục vụ cho công cuộc bảo vệ đất nước
khiến cho những thể loại văn học mới dần ra đời phù hợp với nhu cầu của thời
đại. Chữ viết mới ra đời đó là chữ quốc ngữ, mục đích chính của văn học thời
kỳ này cũng khác, đó là đề cao sự hào hiệp, tinh thần yêu nước mà tiêu biểu là
sáng tác của Nguyễn ình hiểu. Từ đây, văn học chữ Hán, chữ Nôm dần
khép lại vai trò của mình; thể loại truyền kỳ sáng tác bằng chữ Hán cáo
chung, mở ra một thời kỳ văn học mới với sự lên ngôi của truyện ngắn cận
hiện đại.
Tiểu kết: Như vậy, ở chương , với những khái lược về thể loại truyền
kỳ, từ khái niệm đến đặc trưng của thể loại về nội dung, nghệ thuật và các giai
đoạn phát triển của thể loại truyền kỳ, chúng ta đã có những cái nhìn chung
nhất về thể loại này ở Việt Nam. Thể loại truyền kỳ trải qua gần mười thế kỷ
với ba giai đoạn, đã đi hết con đường từ hình thành, phát sinh, phát triển, suy
thoái và tiêu vong theo quy luật vốn có của mọi hiện tượng. iai đoạn đầu là
những manh nha đầu tiên cho sự hình thành của thể loại truyền kỳ, đến giai
đoạn thứ hai là sự phát triển huy hoàng nhất của thể loại với điểm sáng là
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Bước sang giai đoạn thứ ba, truyền kỳ
dần đi vào con đường tàn lụi, nhưng ở đầu giai đoạn ba, vẫn có những tác
phẩm truyền kỳ được coi là đặc sắc, tiêu biểu là Truyền kỳ tân phả của bà
oàn Thị iểm. Dù đến nay thể loại truyền kỳ không còn nữa nhưng nó đã
khẳng định được những giá trị nhất định trong thời gian tồn tại và tạo nên
26
được nét đặc trưng, là một thành tựu của nền văn học trung đại Việt Nam.
hương 2:THÀNH TỰU CỦA TRUYỀN KỲ VIỆ N M ẾN
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
2.1. Tích hợp kinh nghiệm truyền kỳ khu vực
húng ta đã biết đến cái nôi của thể loại truyền kỳ là bắt nguồn từ
Trung oa sau đó ảnh hưởng đến các nước đồng văn, trong đó có Việt Nam.
Có thể nói, Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu được xem là tác phẩm truyền kỳ
tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho truyện truyền kỳ Trung Quốc và nó
được xem là tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự ra đời của thể loại
truyền kỳ ở các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc... ối với Việt
Nam, Tiễn đăng tân thoại có ảnh hưởng rất sâu sắc và được xem là có tác
động không nhỏ cho sự ra đời của tác phẩm được cho rằng là truyện truyền kỳ
đầu tiên, một áng “thiên cổ kỳ bút” đó là Truyền kỳ mạn lục. Ảnh hưởng từ
những chất liệu, thao tác, kỹ năng… làm nên một thể loại được xem là mới
mẻ ở Việt Nam, Nguyễn Dữ đã tạo ra một Truyền kỳ mạn lục có nhiều nét
tương đồng, tiếp thu từ Tiễn đăng tân thoại. Không thể không nói rằng
Truyền kỳ mạn lục tuy có tiếp thu, “bắt chước” Tiễn đăng tân thoại, nhưng ở
đó vẫn mang đậm nét độc đáo, là sự sáng tạo, bỏ ra “chất xám” rất kỳ công
của Nguyễn Dữ, bản chất khác hoàn toàn so với Tiễn đăng tân thoại của Cù
Hựu, nhưng phần này sẽ dần được làm sáng tỏ ở phía sau. Trước tiên chúng
tôi sẽ làm sáng tỏ những khía cạnh được Nguyễn Dữ tiếp thu để mở màn cho
thể loại truyện truyền kỳ ở Việt Nam qua Truyền kỳ mạn lục.
2.1.1. Sự tích hợp trong cốt truyện
Làm nên hồn cốt của mỗi một tác phẩm trước hết phải nói đến cốt
truyện. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ khi ra đời, không thể phủ nhận
rằng có những tình tiết thuộc về cốt truyện vẫn là sự tiếp nhận từ Tiễn đăng
27
tân thoại của Cù Hựu. iều này, tuy không thể hiện rõ nét mà chỉ là điểm
xuyết, ở mỗi một truyện trong Truyền kỳ mạn lục ta lại thấy có hình bóng của
nhân vật, của tình tiết câu chuyện, những sự việc… xuất hiện trong Tiễn đăng
tân thoại. Tuy vậy, nếu nhìn nhận kỹ lưỡng, ta không hề thấy Nguyễn Dữ cóp
nhặt nguyên xi từ nguyên tác của Cù Hựu, hàm lượng sáng tạo của tác giả rất
cao có trong từng truyện trong Truyền kỳ mạn lục. Cốt truyện trong Truyền kỳ
mạn lục cũng như trong Tiễn đăng tân thoại chủ yếu là những câu chuyện kỳ
quái về tình yêu nam nữ, người sĩ tử, những chuyện kỳ lạ chốn âm phủ hay
thủy cung, những yêu ma thần quỷ… ó thường là những câu chuyện về
người đàn ông bị mê hoặc, cuốn hút bởi những cô gái đẹp - thường là những
hồn ma, bóng quỷ xuất hiện để quyến rũ đàn ông (Đằng Mục túy du Tụ Cảnh
viên ký; Tây viên kỳ ngộ ký; Xương Giang yêu quái lục…); hay như những
chuyện kẻ sĩ tử, người có học, khí phách ngang tàng không sợ ma quỷ hay
chết chóc, được du ngoạn ở chốn âm phủ, thủy cung ( Mệnh Hồ sinh minh
mộng lục; Long Đường linh hội lục; Tản Viên từ phán sự lục; Long Đình đối
tụng lục…).
Trước hết phải nói đến dung lượng của hai tác phẩm Tiễn đăng tân
thoại và Truyền kỳ mạn lục, cả hai đều bao gồm 20 truyện nhỏ, chia làm 4
quyển, dung lượng mỗi truyện của Truyền kỳ mạn lục sẽ dài hơn một chút so
với Tiễn đăng tân thoại, xét về mặt hình thức, điều này một phần cho thấy sự
sáng tạo, điều tiết con chữ của Nguyễn Dữ bám khá sát so với tác phẩm đi
trước là Tiễn đăng tân thoại. Sự phụ trội hơn cụ thể được tính bằng phần lời
bình có ở cuối mỗi truyện của Truyền kỳ mạn lục. 19/20 truyện của Truyền kỳ
mạn lục, tác giả đều có phần lời bình cho mỗi truyện (chỉ trừ truyện Kim Hoa
thi thoại là không có phần lời bình). iều này làm nên sự khác biệt lớn của
Truyền kỳ mạn lục so với Tiễn đăng tân thoại, thể hiện sự sáng tạo của tác giả
Nguyễn Dữ cũng như dụng tậm nghệ thuật và mục đích sâu xa của tác giả.
28
iều này còn giải thích cho việc, sáng tác Truyền kỳ mạn lục trong bối cảnh
lúc bấy giờ quả thực là một điều hết sức nhạy cảm, đó là cái mới của Nguyễn
Dữ, dường như chưa ai táo bạo được như ông. Phần lời bình được xem như
một sự tiết chế, dung hòa giữa đôi cánh sáng tạo với thực tại cuộc sống – thời
kỳ mà tác giả đang sống – không cho phép có những hoạt động, những câu
chuyện xảy ra như trong các truyện có ở Truyền kỳ mạn lục.
ọc Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, mỗi một truyện sẽ thấy một
nét gì đó có phần giống so với Tiễn đăng tân thoại, nhưng để chỉ ra cụ thể nó
giống ở điểm gì lại là một việc làm không dễ dàng. Bởi lẽ Nguyễn Dữ tuy có
học hỏi nhưng không hề lấy nguyên si từ tác phẩm trước mà có sự sáng tạo
độc đáo, thậm chí là tích hợp tình tiết giữa nhiều truyện của Tiễn đăng tân
thoại để làm nên một truyện trong Truyền kỳ mạn lục. Chỉ có một truyện duy
nhất là Mộc miên thụ truyện có sự tái hiện khá rõ nét truyện Mẫu đơn đăng ký
trong Tiễn đăng tân thoại khi có cùng chung một motip truyện là một chàng
trai gặp được ma nữ xinh đẹp đi cùng người hầu, sau rồi vì sắc đẹp của cô gái
mà chàng trai bị mê hoặc, hai người vẫn thường qua lại thân mật hàng đêm.
hàng trai đều được bạn bè hoặc người hàng xóm cảnh báo về mối quan hệ
của anh ta với cô gái và khuyên nhủ rất nhiều. Rồi tình cờ chàng trai biết
được nguồn gốc thật sự của cô gái đó là ma nhờ những đặc điểm như tên tuổi,
cô hầu gái đi cùng, trong Mẫu đơn đăng ký thì là hầu gái cầm chiếc đèn hình
hai bông hoa mẫu đơn, còn trong Mộc miên thụ truyện là cô hầu gái cầm theo
chiếc đàn cầm. Ngay cả khi bị phát hiện, chàng trai vô cùng sợ hại và có ý
trốn tránh thì cũng không thoát khỏi sự mê hoặc của ma nữ, cuối cùng phải
nhận cái chết tức tưởi bên quan tài của ma nữ. Sau đó, cả hai người khi đã
thành ma thì cùng nhau đi tác oai tác quái làm hại người dân lành, phải có sự
ra tay của pháp sư mới dẹp được họa đó. Phần cốt truyện nhìn chung là như
vậy, nhưng với vị trí là tác phẩm ra đời sau, Mộc miên thụ truyện của Nguyễn
29
Dữ vẫn có những điểm khác biệt về tình tiết được lựa chọn để làm nên sáng
tác riêng của mình, không hoàn toàn giống so với Mẫu đơn đăng ký của Cù
Hựu. Cụ thể, có thể kể đến như chàng trai ở Mẫu đơn đăng ký là chàng trai họ
Kiều, còn trong Mộc miên thụ truyện là một người lái buôn – nó thể hiện một
tầng lớp người trong xã hội Việt Nam bấy giờ. Người phát hiện ra chuyện tình
kỳ lạ, một bên là ông già người hàng xóm, còn một bên là bạn bè phường
buôn. ặc điểm nhận dạng của cô gái, người hầu đi theo một bên mang đèn
hình hoa mẫu đơn đi trước, đi sau là cô gái đẹp tuyệt sắc, còn một bên là cô
gái đẹp theo sau là con hầu cầm theo cây đàn cầm. Nơi chết một người là
được quàn trong chùa, là người con gái có xuất thân danh giá, còn một bên là
một cô gái có quan tài nằm trong một ngôi nhà nhỏ phía thôn ông. Nguyên
về phần này có phần khá khác biệt, bởi nhân vật nữ của Nguyễn Dữ thường là
những cô gái có xuất thân bình thường, không mấy khi có xuất thân từ tầng
lớp danh giá, có địa vị trong xã hội.
Truyện Tản Viên từ Phán sự lục trong Truyền kỳ mạn lục, khi đọc lên
ta sẽ thấy “dáng dấp” của Tiễn đăng tân thoại trong đó, thấp thoáng những
tình tiết, chi tiết và bối cảnh như là tính cách con người, bối cảnh âm phủ có
diêm vương, ma quỷ… Người đàn ông cương trực, ngay thẳng, không sợ ma
quỷ, Từ Thức có nét gì đó cứng rắn giống như Lệnh Hồ Soạn trong Lệnh Hồ
sinh minh mộng lục ở Tiễn đăng tân thoại khi thấy việc bất bình thì không
ngại hành động, nói lên tiếng nói của bình để bảo vệ cho lẽ phải. Cả hai đều bị
áp giải xuống âm phủ để Diêm vương hỏi tội, nhưng rồi đều được giải oan.
Tản Viên từ phán sự lục còn thấp thoáng những hình ảnh có trong Vĩnh Châu
dã miếu ký khi đều xuất hiện ngôi đền hay ngôi miếu bị kẻ xấu chiếm giữ, gây
phiền nhiễu cho dân lành trong vùng, không có lấy một ai dám đứng lên
chống lại chúng bởi tránh phải gặp tai họa. Chàng trai Tất Ứng Tường cũng
viết tờ trạng tố cáo để mong kẻ ác không có chốn dung thân. Ở đây, motip của
30
Tản Viên từ phán sự lục khá giống với Vĩnh Châu dạ miếu ký. Khi bị tên Bách
hộ họ Thôi tố cáo với Diêm Vương, Ngô Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như
lời ông cụ già - vị thần đích thực của ngôi đền bị chiếm đã nói, lời rất cương
chính, không chịu chùn nhụt chút nào. Người đội mũ trụ nói: Ấy là ở trước
vương phủ mà hắn còn quật cường như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt
bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu, sợ gì mà hắn không dám
cho một mớ lửa. Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái, nhưng
Diêm Vương vì thế bụng cũng sinh nghi, Tử Văn nói: - Nếu nhà vua không tin
lời tôi, xin đem giấy đến đền Tản Viên để hỏi hư thực; không có sự thực như
thế, tôi lại xin chịu thêm cái tội nói càn. […] Lập tức sai người đến đền Tản
Viên để lấy chứng thực. Sai nhân về tâu, nhất đúng với lời Tử Văn. [14,
tr.301]. Phân đoạn này giống với phân đoạn khi Tất Ứng Tường khi bị con
yêu trăn bịa chuyện vu cáo: Hắn khai: “Tôi ở trên trần không có tội gì, thế mà
thư sinh Tất Ứng Tường lại vu cáo tôi với đức Nam Nhạc khiến cho thần binh
xuống thảo phạt làm cả họ bị chết, hang ổ tan tành, nỗi oan khổ thực không
kể xiết. Ứng Tường nghe nói biết ngay là con yêu trăn bịa chuyện để trả thù
bèn trình bày hết những việc nó hại người, hại vật, ra oai tác quái ra sao.
Chàng và con yêu trăn tranh cãi trong ngoài lồng sắt, lời qua tiếng lại rất
mệt song cuối cùng nó vẫn không nhận tội. Vị vương bèn sai viên lại mang
công văn tới phủ Hoành Sơn núi Nam Nhạc và tờ thiếp cho Ty thành hoàng ở
Vĩnh Châu để xin chứng thực về việc này. Sau đó, phủ Hoành Sơn và Ty
thành Vĩnh Châu có công văn trả lời, nội dung đúng như sự thực mà Tất Ứng
Tường đã trình bày, bấy giờ con yêu mới tắc họng”. [14, tr. 120 – 121].
Không chỉ vậy, Ngô Tử Văn trong Tản Viên từ phán sự lục hay chàng Phùng
ại Dị trong Thái Hư Tư pháp truyện chính vì sự chính trực, vì nghĩa, làm
điều ngay thẳng của mình mà Ngô Tử Văn hay Phùng ại Dị đều được nhận
một chức quan có trọng trách lớn khi bước ra khỏi giới dương gian, coi như
31
một sự báo đáp của những thế lực chính nghĩa, nhờ có họ mà được phân rõ
trắng đen. Như vậy, từ một truyện Tản Viên từ phán sự lục, chúng ta có thể
nhìn thấy bóng dáng của một số truyện có trong Tiễn đăng tân thoại của Cù
Hựu như là Lệnh Hồ sinh minh mộng lục, Vĩnh Châu dã miếu ký, Thái Hư Tư
pháp truyện.
Nhân vật nữ luôn là một đối tượng được các nhà văn ưu ái đưa vào tác
phẩm của mình, từ Cù Hựu đến Nguyễn Dữ. Theo đó, cốt truyện xoay xung
quanh nhân vật nữ chiếm phần lớn số lượng tác phẩm, nhất là trong Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ (11/20 truyện). Ngoài cốt truyện Mộc miên thụ
truyện có sự tái hiện khá rõ nét truyện Mẫu đơn đăng ký trong Tiễn đăng tân
thoại thì những truyện khác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có xuất
hiện nhân vật nữ có một vài nét giống với một số truyện trong Tiễn đăng tân
thoại. ọc Túy Tiêu truyện ta thấy nàng Túy Tiêu khá giống với tạo hình của
nhân vật nàng La Ái Ái, họ cùng được hai tác giả giới thiệu là nàng ca kỹ có
nhan sắc và tài năng, vừa thông minh, hát hay lại giỏi thơ từ, nhưng diễn biến
câu chuyện của Túy Tiêu truyện lại khác hoàn toàn so với Ái Khanh truyện –
có xuất hiện nhân vật La Ái Ái nói trên. Tuy nhiên, cốt truyện của Ái Khanh
truyện lại khá giống với cốt truyện của Lệ Nương truyện khi nàng Lệ Nương
hay nàng Ái Khanh đều là những liệt nữ, họ khi đã có chồng thì nguyện thề
thủy chung, đến lúc phải vào tay kẻ khác thì quyết chọn cái chết để giữ lòng
thủy chung. Có thể nói, từ một Ái Khanh truyện của Cù Hữu, Nguyễn Dữ đã
“xé lẻ” ra thành nhiều câu chuyện khác nhau cho “đứa con tinh thần” của
mình. Ta có thể bắt gặp dáng hình của nàng Ái Khanh trong Lệ Nương truyện,
trong Khoái Châu nghĩa phụ truyện, trong Túy Tiêu truyện. Hình ảnh của
nàng Ái Khanh tài sắc, giỏi làm thơ ta có thể thấy đậm nét nhất trong bóng
sáng của nàng Túy Tiêu; nàng Ái Khanh hiếu thuận với mẹ chồng, hết lòng
săn sóc mẹ chồng lúc ốm đau và chồng vắng nhà, thay chồng quán xuyến mọi
32
chuyện trong gia đình một cách chu toàn, thấu đáo, ta lại bắt gặp ở nàng Vũ
Thị Thiết; nàng Ái Khanh trung liệt, quyết giữ lòng thủy chung một lòng với
chồng khi rơi vào bàn tay dơ bẩn của kẻ khác, đã lựa chọn cái chết để bảo
toàn sự tiết hạnh, ta lại bắt gặp rõ nét nhất ở nàng Lệ Nương… Những chi tiết
tự sự và miêu tả của hai tác giả trích ra sau đây sẽ cho ta thấy rõ nét được
những điều này:
Về vẻ đẹp được giới thiệu: Trong Ái Khanh truyện: “Ở Gia Hưng có
nàng ca kỹ nổi tiếng La Ái Ái sắc đẹp và tài nghệ một thời không ai sánh kịp”.
Trong Túy Tiêu truyện: “Trong đám con hát có ả Túy Tiêu là người xinh
đẹp”. (T275)
Về lòng hiếu thảo và sự tiết hạnh: Trong Ái Khanh truyện: “Mẹ chàng
vì nỗi nhớ con, bệnh thêm trầm trọng, gục xuống gối trên giường. Ái Khanh
chăm sóc rất chu đáo, bất kể cháo hay thuốc đều tự mình nếm trước, cơm
canh ắt tự mình nấu lấy. Rồi cầu thần lễ Phật để nạn khỏi tai qua, nói khéo
nói khôn để mẹ hởi lòng hởi dạ”[14, tr.132]; hay như qua lời kể của người lão
bộc cũ với chàng Triệu đó là “Mấy cây này đều do mợ Sáu trồng cả đấy […]
Đây là do mợ Sáu lo liệu tất cả. Cụ bà thấy cậu mãi không về thương nhớ mà
ngã bệnh, mợ săn sóc chu đáo lắm nhưng không may cụ bà qua đời, mợ chọn
chỗ đem chôn ở đây. Mợ mặc áo ô, tay níu áo quan, được ba tháng thì quân
của ông người Miêu vào thành, nhà cửa bị chiếm có tên Lưu Vạn hộ định bắt
ép mợ nhưng mợ không nghe bèn thắt cổ tự tử…” [14, tr. 134]. Trong Nam
Xương nữ tử truyện: “Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức
thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng mà gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo
khuyên lơn. […] Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như
đối với cha mẹ sinh ra” [29, tr. 289]. Trong Lệ Nương truyện, nàng Lệ Nương
vì không muốn chết nơi đất khách quê người nên đã tự tận để được gần gũi
33
với quê hương, quyết giữ tiết tháo.
Cùng là motip không tin vào chuyện ma quỷ, âm phủ, chết rồi phải trả
giá cho những tai ương, tội ác đã gây ra khi còn sống... tuy ở truyện Lý tướng
quân truyện trong Truyền kỳ mạn lục có đôi nét thoáng qua về kiểu truyện này
so với Lệnh Hồ sinh minh mộng lục trong Tiễn đăng tân thoại, nhưng vẫn là
sự cải biên, sáng tạo mới mẻ của tác giả Nguyễn Dữ. ùng là người giàu có
nhưng có lòng tham, khi phải chịu cái chết, lão già họ Ô vì sau khi chết gia
đình lễ Phật khắp nơi, đốt nhiều tiền giấy mà được quan dưới âm phủ ưng ý
tha cho sống trở lại. ây là một sự bất công không ít đối với những người
nghèo khổ hay những người bị tên này ức hiếp, mà điển hình là thể hiện qua
sự phẫn nộ về nỗi bất công này của Lệnh Hồ Soạn. Lão già họ Ô cũng từng
được trải qua thế giới âm phủ sau đó may mắn được trở về. Lệnh Hồ Soạn lại
là người cương trực, không tin thần linh, ma quỷ, vì vậy khi được dịp xuống
dưới âm phủ thì như được mở mang tầm mắt, hiểu hơn về một thế giới khác
mình. Phải đến tận lúc này Lệnh Hồ Soạn mới có vẻ tin vào ma quỷ. òn như
Lý Hữu Chi thì có được chứng kiến tận mắt vẫn không tin là mình sẽ phải trả
giá, không những thế hắn còn làm quá lên, càng sách nhiễu, tàn bạo hơn. Sự
tưởng tượng về một thế giới khác của tác giả Cù Hựu và Nguyễn Dữ khá là
phong phú, trong suy nghĩ của họ, người lính như trên trần gian thay vì người
bình thường sẽ là quỷ đầu trâu, Diêm Vương giống như một vị vua, phủ đệ
cũng giống như cung điện nơi trần gian, với rất nhiều cung hình phạt khác
nhau tùy vào những tội nặng hay nhẹ. Sự ám chỉ, so sánh về một thế giới trần
gian với một thế giới nơi cõi chết để qua đó thể hiện cái hiện thực xã hội lúc
bấy giờ, Soạn nói: “Thoạt đầu ta chỉ bảo thế gian mới có quan tham lại nhũng
nhận tiền bạc rồi bẻ queo pháp luật, kẻ giàu có đưa hối lộ là được vẹn toàn,
người nghèo không có tiền thì bị khép tội, ngờ đâu dưới âm phủ mà lại quá
quắt hơn thế!”. [14, tr. 64] . iều này há chẳng phải khẳng định rằng nơi trần
34
gian, nạn tham nhũng hoành hành ngang dọc hay sao? Chính Lệnh Hồ Soạn
kêu lên nỗi bất bình để rồi được vời đến chốn âm phủ hỏi tội, từ đó có cơ
duyên để chàng biết nơi âm phủ như thế nào, quỷ thần ra làm sao.
Như vậy để cho thấy sự sáng tạo không ngừng của Nguyễn Dữ tạo ra
những tác phẩm dù có mang dáng dấp cũng không phải là nguyên tác hoàn
toàn, nó trở thành một nét độc đáo riêng, mang chất riêng của Nguyễn Dữ.
Khi đã có hàm lượng chất xám ở đó, tính sở hữu cá nhân sẽ cao hơn. Lẽ tất
nhiên, nguyên liệu để làm nên tác phẩm của Cù Hựu và Nguyễn Dữ nói riêng
và rất nhiều tác giả khác nói chung, sẽ từ nhiều nguồn khác nhau, nhất là từ
nguồn gốc dồi dào là văn học dân gian, văn học truyền miệng, hay từ chính
những tác phẩm đã đi trước như cách mà Nguyễn Dữ đang làm. Tuy nhiên, để
khẳng định được giá trị của mỗi tác phẩm cũng như tài năng của tác giả thì
phải xét đến sự sáng tạo, phần trăm cóp nhặt, học hỏi từ những tác phẩm
khác. Nguyễn Dữ mặc dù có chịu ảnh hưởng của Cù Hựu, cụ thể là chịu ảnh
hưởng của Tiễn đăng tân thoại khi sáng tác Truyền kỳ mạn lục, nhưng sự tích
hợp một cách thông minh của ông từ tác phẩm này đã làm nên giá trị to lớn
của Truyền kỳ mạn lục – một tác phẩm được gọi là “áng thiên cổ kỳ bút” của
nền văn học nước nhà.
Ở Truyền kỳ mạn lục ta sẽ bắt gặp những kết cấu cốt truyện có trong
Tiễn đăng tân thoại, nhưng những sáng tạo, thay đổi của Nguyễn Dữ đã phần
nào thể hiện rõ sự không trùng lặp, và trí liên tưởng tuyệt vời của tác giả. Tính
chất ly kỳ, hấp dẫn của câu chuyện không bị giảm trừ, thậm chí còn tạo được
sự cuốn hút, mới mẻ nơi người đọc.
Xét về khía cạnh thể hiện sự dối trá, gian ác, xa hoa, trụy lạc của vua
chúa lúc đương thời, trong truyện Na Sơn tiều đối lục, mượn lời của người
tiều phu sống ẩn mình trong núi Na Sơn, tác giả đã ngầm ý phê phán triều đại
35
nhà Hồ, cũng như nhà Mạc dối trá, hoang phí, tham lam, nhũng nhiễu dân
lành. Truyện Đà Giang dạ ẩm ký, Nguyễn Dữ muốn phê phán vua chúa không
lo chính sự mà chỉ ham thích săn bắn làm khổ dân chúng.
2.1.2. Sự tích hợp trong kỹ xảo xây dựng nghệ thuật
Kỹ xảo nghệ thuật, ngôn ngữ văn tự thanh tân, điển nhã của cả hai tác
phẩm có sức truyền cảm, đó là một trong những nguyên nhân khiến cho sách
được lưu truyền sâu rộng và được nhiều người biết đến và ngày càng lan tỏa.
Mặc dù nhân vật của Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại chưa được
khắc họa một cách tỉ mỉ, hình tượng không mấy nổi bật, kết cấu sắp xếp còn
thiếu mới mẻ, song cả hai đều có những điểm khả quan nhất định, tiêu biểu là
có nhiều tình tiết xuất hiện biến ảo, cuốn hút người đọc. Ở điểm này, Nguyễn
Dữ và Cù Hựu đều bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ và tạo nên những nét độc đáo
riêng có ở mỗi kiệt tác.
Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại đều có nhiều đặc trưng và
quy luật chung khác tương đồng, điều này chứng tỏ văn học Trung Quốc và
văn học Việt Nam có mối quan hệ khá mật thiết. Truyền kỳ mạn lục tuy có
tích hợp và chịu sự ảnh hưởng từ Tiễn đăng tân thoại nhưng mặc nhiên không
hề là một sự sao chép cứng nhắc, mà đó là sự kết tinh tinh hoa của trí tuệ
Nguyễn Dữ, từ đó sáng tạo nên một tác phẩm được gọi là áng “thiên cổ kỳ
bút” của Việt Nam.
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đan xen khá nhiều văn vần cùng
với văn xuôi dù vậy đã có sự tiết giảm phần văn vần nhiều so với sáng tác của
Cù Hựu, khiến cho lời văn, toàn bộ câu chuyện được kể trở nên mềm mại
hơn. Lời văn của Nguyễn Dữ trau chuốt, gắn cho những nhân vật của mình tài
văn khá chỉn chu khi có thể “xuất khẩu thành thơ”, không chỉ là những nhân
vật có tài năng, ngay cả người lái buôn như Trình Trung Ngộ biết ít chữ
36
nghĩa, khi nghe nàng Nhị Khanh làm hai bài thơ cho nghe thì cũng biết khen
rằng “Văn tài của nàng không kém gì Dị An ngày xưa”. Ở thời Nguyễn Dữ
sống, mặc dù chế độ Nho giáo đã có những khủng hoảng nhưng vai trò thống
trị và sự ảnh hưởng của nó tới đời sống và những quan niệm, tư duy của con
người vẫn còn rất mạnh mẽ. Trong ý thức hệ Nho giáo, tầng lớp người lái
buôn không hề được coi trọng (sĩ, nông, công, thương), vì thế sự xuất hiện
của nhân vật Trình Trung Ngộ trong truyện Mộc miên thụ truyện biết nói
những câu hoa mĩ như người học thức là một dụng ý sâu sắc của tác giả
Nguyễn Dữ. Dù biết ít chữ, Trung Ngộ cũng biết đến Dị An – một đại thi gia
đời Tống, có tài văn thơ, nhất là ở thể từ, cho thấy qua ngòi bút sắc sảo của
Nguyễn Dữ thì nhân vật của ông cũng trở nên sắc sảo. ay như đứa bé con
mới chỉ bốn tuổi trong Nam Xương nữ tử lục, nhưng đã biết nói chuyện, lập
luận với cha của mình mạch lạc, gãy gọn: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại
biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”… Bằng kinh nghiệm
và tài văn của mình, Nguyễn Dữ đã tạo nên một tác phẩm có sự linh hoạt
trong bút điệu, xây dựng hình tượng sống động, không chỉ qua ngôn ngữ kể,
tả mà còn làm toát lên thông qua việc gán những tài văn chương cho nhân vật.
Mặc dù là những câu chuyện xoay xung quanh hồn ma bóng quỷ, quanh
những chuyện tình yêu nam nữ,… nhưng văn khí của Nguyễn Dữ vẫn phần
nào toát lên giọng điệu văn ngôn trang trọng, lịch sự.
Không chỉ trong giọng văn, ngôn từ được sử dụng, để cho khéo và
việc sử dụng từ ngữ trở nên hợp lý, ta lại phải xem xét đến một cái tài nữa của
Nguyễn Dữ đó chính là nghệ thuật sắp đặt, xây dựng tình huống truyện sao
cho hợp lý, làm đà để câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn, không bị đơn điệu.
Trong Nam Xương nữ tử lục, nàng Vũ Thị Thiết phải dẫn đến một cái chết
oan uổng và rồi sau đó là sự hối hận của người chồng trở thành rất hợp lý.
Nguyễn Dữ xây dựng nhân vật nàng Vũ Thị Thiết là một người phụ nữ thùy
37
mị, nết na, hiếu thảo, hết lòng vì chồng vì con. áng lý, với một thân phận
như vậy, nàng xứng đáng được hưởng một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc sum
vầy. Tuy vậy, trớ trêu là chồng nàng lại phải đi chiến trận, để lại nàng ở nhà
cùng mẹ già, con nhỏ, lo toan tất cả mọi việc. Nàng vẫn giữ nguyên vẹn nét
nết na, hết lòng vì gia đình của mình, và đáng lý khi chồng trở về, điều này
nàng phải được chồng ghi nhận. Nhưng nếu phát triển câu chuyện theo hướng
đó thì thật nhàm chán, Nguyễn Dữ đã tạo ra một tình huống là người chồng
trở về trò chuyện cùng con và rồi phát hiện ra, khi mình đi vắng, có một
người đàn ông khác đêm đêm vẫn đến đây. Vốn dĩ chuyện cũng có thể sẽ
không có gì nếu như chàng Trương là một người bình tĩnh và điềm đạm.
Nhưng Nguyễn Dữ lại xây dựng nên chàng là một người tính tình hay ghen,
đa nghi. Vậy là nàng Vũ Thị Thiết không có cơ hội để làm sáng tỏ sự thật.
Với một người thủy chung như nàng, nhất định sẽ không chịu hàm oan một
điều xấu xa đến thế, nhất định không thể nào chịu đựng được nỗi giày vò chỉ
vì một lý do không có thật từ chồng. Nàng đã phải chọn lựa cái chết. Cái chết
ấy cực đau đớn, tủi hờn, gây nên nỗi đáng tiếc, tiếc thương cho nàng nơi
người đọc. Nhưng để câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì nàng Vũ Thị Thiết
cũng sẽ mãi mãi bị chôn vùi nơi đáy nước cùng với nỗi oan khuất đó. Nguyễn
Dữ đã cho chàng Trương nhận ra sự mù quáng của mình khi trò chuyện cùng
cậu con trai nhỏ. Sự bình tĩnh lúc này của chàng đã quá muộn màng, vợ chàng
đã không còn nữa. Xây dựng tình huống này là Nguyễn Dữ tạo cơ hội để cho
nhân vật nhỏ của mình được lên tiếng, cậu bé ản đóng vai trò là người tháo
nút thắt trong câu chuyện đầy mâu thuẫn và bi kịch của cha mẹ mình. Kết cục,
nàng Vũ Thị Thiết được giải oan, nhưng cuối cùng vẫn là gia đình không
được đoàn tụ, chàng Trương vẫn là mất vợ, bé ản vẫn là mồ côi mẹ. Câu
chuyện khi vào tay Nguyễn Dữ đã trở nên ly kỳ, hấp dẫn rất nhiều lần, khiến
38
cho người đọc phải trải qua, thấy đáng tiếc hết lần này tới lần khác.
Xây dựng câu chuyện tình yêu phi chính nghĩa của đôi àn Than và
sư Vô Kỷ trong Đào thị nghiệp oan ký là một chuỗi những tình tiết ly kỳ hấp
dẫn, từ khi Hàn Than là một cung nữ được trả về cuộc sống đời thường, sau
đó thường đi lại nhà quan Hành Khiển rồi bị vợ quan nghi ngờ có tình cảm
bất chính mà gây nên nỗi oán hận muốn trả thù. Trả thù không thành bèn đi tu
ở chùa, rồi cũng vì kiêu ngạo mà biết thân phận trước đây đành bỏ trốn một
lần nữa. Nàng có duyên gặp sư Vô Kỷ, dù cùng ở chốn cửa Phật nhưng hai
người vẫn ngày ngày quấn quýt, tư thông, quên hết việc kinh kệ. Chuyện làm
sai trái đến lúc phải trả giá, Hàn Than có mang rồi ốm lay lắt, Vô Kỷ dù là sư
bác lại không biết thuốc, không làm cách nào cứu chữa được cho người yêu
khiến nàng phải chết đau thương. Vô Kỷ vì thương nhớ quá mấy tháng sau
cũng chết. ai người hóa kiếp làm con của quan Hành Khiển. Câu chuyện
ngày càng trở nên ly kỳ khi một vị thầy tu nghèo nhìn ra là những yêu quái
bèn báo cho quan Hành Khiển biết mà liệu. Rồi chặng đường gian nan quan
Hành Khiển đi tìm đại sư Pháp Vân – bởi chỉ có ngài mới giúp được gia đình
trị nạn yêu quái kia. Quả như lời nói của hai cậu con trai là tinh biến thành,
đại sư Pháp Vân đã tiêu diệt được hai kẻ yêu nghiệt. Hai kẻ biến thành hai con
rắn, nhờ thuật của sư Pháp Vân mà bị biến ra tro cả.
Trong cách tả, các tác giả rất chú ý miêu tả, diễn tả và lồng ghép các
yếu tố kỳ ảo để tạo nên nỗi ghê sợ nơi người đọc. Tuy vậy, thay vì đưa yếu tố
kỳ ảo vào để được người đọc tin tưởng là chuyện có thật, coi là chuyện có thật
vì được kể như một câu chuyện xảy ra ngoài đời như trong văn học dân gian,
thì Nguyễn Dữ đưa yếu tố kỳ ảo vào Truyền kỳ mạn lục là có một ý thức về sự
hư cấu của tác giả, ít nhiều mang yếu tố mô tả, không đơn thuần chỉ là kể ra
câu chuyện. iều này khẳng định sự sáng tạo của tác giả, chứ không chỉ là kể
lại, tóm lược lại những điều đã có trong quá khứ như những truyện kỳ ảo ở
39
giai đoạn trước đó như là Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục…
Yếu tố kỳ ảo được dùng như là một phương tiện nghệ thuật để diễn tả
ý nghĩa sâu sắc về hiện thực cuộc sống. ó là sự so sánh giữa trần gian với
âm phủ, cho rằng trần gian mới có nạn mua quan bán quyền chứ ở âm phủ
không thể mất quy củ như vậy để khẳng định rằng ở trần gian đang chính là
một nơi nhũng loạn, không ở đâu lại bất ổn như vậy. Nguyễn Dữ đưa yếu tố
kỳ ảo, xây dựng lên khung cảnh ở một chốn âm phủ, cũng có người đứng đầu
là Diêm vương giống như vị vua trên trần gian, có đội ngũ quan quân binh
lính, có các hình luật rõ ràng. Cấu trúc ấy giống như một bộ máy cai trị trên
trần gian. Nhưng, điểm khác biệt là trên trần gian, người ta mua quan bán
chức, cứ có tiền là được, không có sự công lý, công bằng, không được xét trên
những quy chuẩn ban đầu được tạo ra. Chứ không phải như ở dưới âm phủ,
nếu anh mắc tội này thì bị xử theo khung hình này, nếu mắc tội khác thì xử
theo khung khác cho phù hợp. Như việc muốn nhận chức ở một địa vị nào đó
phải có tài năng thực sự, là con người đức hạnh và được tiến cử đề bạt mới
được chấp thuận, giống như cái cách mà Ngô Tử Văn được nhậm chức Phán
sự ở đền Tản Viên vậy. ây hay chính là mong mỏi của Nguyễn Dữ về một
xã hội có trước có sau, tuân thủ theo quy định đã đề ra, và đặc biệt là có lương
tâm con người đối với con người, không phải là sự bóc lột, chèn ép như cuộc
sống mà ông đang sống và như những gì mà chính mắt ông nhìn, tai ông nghe
thấy.
Mỗi một yếu tố kỳ ảo có trong tác phẩm, mỗi một tình huống truyện
xảy ra hay con người của mỗi nhân vật và cách mà họ xuất hiện đều là có
chứa dụng ý của tác giả ở trong đó. Vì có cái tâm nên mới sáng tác, vì có lòng
lương thiện nên mới viết ra những lời lẽ, ý tứ muốn lên án, phê phán xã hội,
khóc tiếng khóc cảm thương. Nguyễn Dữ mặc dù có học hỏi, tiếp nhận từ
những thành tựu đi trước trong thể loại, nhưng đó là nguyên liệu để ông quy
40
tụ lại, hòa trộn cùng với chất xám, sự sáng tạo của mình làm nên một tác
phẩm riêng biệt, phù hợp với nhân tình thế thái và qua đó phản ánh được dụng
tâm của tác giả đối với chính lòng mình, cũng như đối với bạn đọc đương
thời.
2.2. Bàn về khả năng thâu hóa thành tựu của văn học dân gian
Việt Nam trong Truyền kỳ mạn lục
Làm nên thể loại truyện truyền kỳ ở Việt Nam, mà đặc biệt là tác phẩm
đặc sắc Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ ở sự tích hợp từ thể loại truyền kỳ
trong khu vực, mà điều quan trọng là nó thâu hóa, tiếp thu được từ nền văn
học dân gian đồ sộ của dân tộc. Văn học dân gian là một từ chỉ chung cho
nhiều thể loại khác nhau được nhân dân ta truyền cho nhau từ đời này sang
đời khác bằng phương thức truyền miệng. iều đáng nói, văn học dân gian
được chia ra làm nhiều thể loại khác nhau như truyện cổ tích, truyền thuyết,
thần thoại, truyện ngụ ngôn… Và, trong một số thể loại cụ thể như truyện cổ
tích, truyền thuyết, yếu tố kỳ ảo, ly kỳ cũng đã được dân gian sử dụng rất
nhiều khiến cho câu chuyện trở nên thần bí và lôi cuốn người nghe. Chính từ
những điểm này, chúng ta xét đến sự thâu hóa vào trong truyện truyền kỳ, mà
ở đây ta xét về tác phẩm tiêu biểu nhất, được xem là xuất sắc nhất của thể loại
là Truyền kỳ mạn lục.
Trước hết, để hiểu về khái niệm “thâu hóa”, thâu có nghĩa là từ đầu đến
cuối, thâu còn có nghĩa là thu; hóa có nghĩa là biến đổi, thay đổi, chuyển sang
một cái khác. Ta có thể hiểu đơn giản thâu hóa có nghĩa là sự thu tóm lại từ
đầu đến cuối rồi biến chuyển thành một cái khác. Ở đây, chúng ta xét đến đối
tượng là truyện Truyền kỳ mạn lục trong mối quan hệ với các truyện thuộc thể
loại truyền kỳ nói riêng và với văn học Việt Nam từ văn học dân gian đến văn
học viết nói chung, mà ở đó tác giả tích góp từ những cái có sẵn, biến hóa,
41
sáng tạo để trở thành sản phẩm của riêng mình. Truyền kỳ mạn lục bên cạnh
việc tích hợp từ truyện truyền kỳ Trung Quốc, bên cạnh việc sáng tạo của tác
giả Nguyễn Dữ còn có một hàm lượng là sự thâu hóa từ chính nền văn học
trong nước, cô đọng, chắt lọc để trở thành một tác phẩm vừa mang âm hưởng,
màu sắc của quê hương, dân tộc, vừa mang nét cá tính sáng tạo riêng của tác
giả Nguyễn Dữ. Sự thâu hóa đó được nhìn nhận, đánh giá dựa trên một số tiêu
chí tiêu biểu đó là về chủ đề, đề tài, cốt truyện và cách trình bày nhân vật.
2.2.1. Sự thâu hóa về chủ đề, đề tài
Nền tảng văn học dân gian giàu có đã là một nguồn nguyên liệu dồi
dào cho những sáng tác của các tác giả văn học trung đại nói chung, tác giả
Nguyễn Dữ nói riêng. Truyền kỳ mạn lục có một số truyện lấy từ truyền
thuyết địa phương làm tư liệu để sáng tác. Thể loại truyền kỳ vốn xuất phát từ
nước ngoài, khi du nhập về nước ta, truyện truyền kỳ chỉ giữ nguyên về hình
thức thể loại, còn như nội dung thì lại phụ thuộc vào sự sáng tạo của tác giả
cũng như nền văn hóa, văn học dồi dào của dân tộc, làm thành lớp nền vững
chắc và căn cốt nơi tư tưởng tác giả. Có thể nói, Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ mang màu sắc dân tộc đậm đà và tinh thần thời đại rõ rệt. Thời
điểm mà các câu chuyện xảy ra chủ yếu ở thời Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
Theo như đúc kết của Nguyễn ăng Na, văn xuôi tự sự Việt Nam thế
kỷ X – X V chưa tách khỏi văn học dân gian và văn học chức năng, đồng thời
vẫn mang đậm nét văn – sử - triết bất phân. Vì vậy, các tác phẩm văn xuôi
thời kỳ này chủ yếu là các truyện dân gian và truyện lịch sử, tôn giáo. Truyện
truyền kỳ giai đoạn này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
nên nền móng cho văn xuôi trung đại Việt Nam về phương diện nội dung và
phương thức tư duy nghệ thuật. Về nội dung, các tác phẩm chủ yếu muốn
khẳng định Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền riêng, có lịch sử
42
lâu đời và có tương lai trường tồn. Về nghệ thuật, truyện truyền kỳ nói riêng
dựa vào truyện dân gian, lấy truyện dân gian làm cơ sở để xây dựng các tác
phẩm trong giai đoạn tiếp theo. Ở thời kỳ này, một số tác phẩm như Việt điện
u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục là những tác phẩm điển hình như thế. ây
là những tác phẩm khởi nguồn cho sự ra đời của truyện truyền kỳ ở Việt Nam,
là “bàn đạp” để làm nên một Truyền kỳ mạn lục xuất sắc đến thế cho giai
đoạn tiếp theo. Tính chất của hai sách này giống nhau là cùng chép chuyện lạ
của các thần linh được thờ cúng ở các địa phương. Nhiều sự tích chép truyện
các nhân vật trước khi có sử Việt Nam. Trong Truyền kỳ mạn lục, ngoài
truyện đầu tiên là Hạng Vương từ ký khá đặc biệt ra, tức là viết về một vị
không phải người Việt, chuyện xảy ra ở Trung Quốc, thì các truyện còn lại,
nhân vật đều là người Việt, nơi xảy ra cũng thuộc các vùng lãnh thổ của Việt
Nam, mang phong vị Việt Nam. Trong đó, có nhiều truyện thần thoại, chí
quái đời xưa được chép ở Lĩnh Nam chích quái lục và Việt điện u linh tập như
truyện Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Kim Hoa thi thoại ký, Phạm Tử Hư du
thiên tào lục…
Chủ đề được Nguyễn Dữ thâu hóa vào trong Truyền kỳ mạn lục có thể
kể đến như câu chuyện về “chùa cổ ma cây” xuất hiện nhiều trong truyện dân
gian, ta thấy qua truyện Mộc miên thụ truyện, có hai con yêu tinh lấp mình
trong cây gạo cổ thụ để hưng yêu tác quái, ức hiếp dân lành… ặc biệt,
truyện Phạm Tử Hư du thiên tào lục, tác giả Nguyễn Dữ đã cải biên từ gốc
truyện lấy trong Lĩnh Nam chích quái lục, có chàng Phạm Tử ư thờ thầy.
Tiêu chuẩn để Nam Tào chọn trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp
là đều được Nguyễn Dữ dựa vào truyện này trong Lĩnh Nam chích quái lục
mà cải biên thành Phạm Tử Hư du tiên tào lục và có thêm phần lời khuyên
43
răn của thầy.
Chủ đề có phần không thay đổi nhưng được thêm thắt tình tiết để câu
chuyện trở nên hay hơn, chữ nghĩa của tài năng Nguyễn Dữ sử dụng cũng
chau chuốt hơn, cách hành văn lưu loát và tình tiết biến hóa phong phú. Như
vậy để thấy rằng, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ra đời là một sự dụng
tâm không hề nhỏ của tác giả khi tích hợp từ khu vực cho đến trong nước từ
hiện tại cho đến quá khứ, kết hợp với đó là tư duy sáng tạo tuyệt vời của tác
giả tạo nên một kiệt tác trong văn xuôi trung đại Việt Nam.
Những đề tài trong văn học dân gian được tiếp thu khá nhiều trong
Truyền kỳ mạn lục, đặc trưng nổi bật là đề tài về cái thiện cái ác phản ánh sự
bất công của xã hội, ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, công bằng… Kiểu
kết thúc truyện có hậu trong văn học dân gian thấp thoáng xuất hiện trong
Truyền kỳ mạn lục ở một số truyện Nam Xương nữ tử lục, Túy Tiêu truyện,
Tản Viên từ phán sự lục… Nàng Vũ Thị Thiết khi chọn trầm mình xuống
sông, nàng có một cuộc sống an nhàn, hạnh phúc nơi thủy cung. Mặc dù
không đạt được hạnh phúc điền viên, vui vầy bên chồng con nơi trần thế,
nhưng bước sang thế giới khác là nơi ở của Linh Phi, nàng có một cuộc sống
bớt khổ tâm hơn. Nàng Túy Tiêu cùng chàng Dư Nhuận Chi dù phải ngăn
cách do Túy Tiêu bị tên Trụ quốc họ Thân cướp về làm vợ, đến cuối cùng
nàng đã trốn thoát được khỏi nhà hắn và hai vợ chồng đoàn tụ, trốn đến một
nơi xa sống hạnh phúc bên nhau. Chàng Ngô Tử Văn trong Tản Viên từ phán
sự lục, sau khi đốt đền và bị tên Bách hộ họ Thôi tố cáo ở Âm phủ thì sau này
chàng cũng đòi lại được sự trong sạch và được vị thần ở ngôi đền giúp đỡ, trở
thành một viên quan ở đền Tản Viên. Những truyện của Truyền kỳ mạn lục
chủ yếu mang màu sắc huyền ảo, ma mị và trong đó vẫn có những yếu tố của
dân gian tích hợp trong đó khiến người đọc cảm thấy được sự gần gũi của tác
44
phẩm.
2.2.2. Sự thâu hóa về cốt truyện
Truyền kỳ mạn lục tích hợp nhiều những cốt truyện hay của Tiễn đăng
tân thoại, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, trong đó vẫn có hồn cốt Việt khi mà ở
tác phẩm này còn chứa đựng những nét thuộc về cốt truyện trong dân gian.
ược xem như là tiểu thuyết truyền kỳ đầu tiên của nền văn học nước nhà,
Truyền kỳ mạn lục không quên tiếp nhận những thành tựu có được từ nền văn
học dân gian đồ sộ, phát huy những cái đã có được, gọt giũa trở thành một
kiệt tác văn chương như bây giờ chúng ta được thưởng thức. Cốt truyện trong
dân gian thường đơn giản, theo kể chuyện theo thời gian tuyến tính, khiến cho
người nghe dễ hiểu. Truyền kỳ mạn lục cũng có những điều ấy, cốt truyện của
tác phẩm này thực chất khá đơn giản, với dung lượng mỗi truyện không quá
dài. Ban đầu cũng là giới thiệu về niên đại, sau đó là sự xuất hiện của nhân
vật, rồi đến các tình tiết câu chuyện dần được mở ra. ọc Nam Xương nữ tử
lục ta sẽ thấy có phần giống với truyện Vợ chàng Trương trong motip. ó là
cùng một người vợ thùy mị nết na, chồng đi xa, ở nhà chăm con nhỏ. Nàng
Vũ Thị Thiết có một cách dỗ con là nhìn lên bức vách chỉ rằng đó là cha
thằng bé. Sau cùng chính điều này dẫn đến nỗi oan khuất của nàng Vũ thị mà
phải trầm mình xuống sông mà chết. Nhưng thay vì cái kết đến đây thôi trong
truyện cổ tích, Nguyễn Dữ đã phát triển thêm phần nàng Vũ thị trở về để giải
oan, khiến cho câu chuyện thêm ly kỳ hấp dẫn hơn khi có thêm một câu
chuyện về chàng Phan lang người cùng làng được gặp nàng nơi thủy cung.
Tức là, dựa trên một nền văn học dân gian đã có sẵn, Nguyễn Dữ chắt lọc tình
tiết hay, phát triển thêm những diễn biến mới lạ, tháo gỡ vướng mắc, tạo thêm
bất ngờ nơi người đọc, khiến cho Truyền kỳ mạn lục vẫn luôn cuốn hút, được
45
nhiều người hưởng ứng suốt một thời.
ay như truyện Từ Thức tiên hôn lục, vốn có nguồn gốc từ cốt truyện
Sự tích động Từ Thức trong truyện cổ tích Việt Nam. Truyện cổ tích này được
Nguyễn ổng hi sưu tầm trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, cốt truyện
tương đối giống với Từ Thức tiên hôn lục. Chứng tỏ Nguyễn Dữ đã có những
tích hợp từ trong truyện cổ tích vào tác phẩm của mình. Diễn biến truyện khá
giống với diễn biến của truyện cổ tích, tuy nhiên Từ Thức tiên hôn lục vẫn có
một giá trị riêng bởi trong tác phẩm, Nguyễn Dữ sáng tạo thêm phần thơ và
lời văn của ông được gọt giũa tinh xảo hơn. Tầng ý nghĩa chứa đựng trong tác
phẩm cũng sâu sắc hơn nhiều so với việc chỉ đơn thuần kể chuyện như trong
truyện cổ tích. Thông qua tác phẩm này, Nguyễn Dữ muốn thể hiện quan
niệm sống của một kẻ sĩ muốn lánh đời, lánh đục về trong, chán ngán cảnh
quan trường lươn lẹo.
Nhìn chung những truyện ta đọc lên sẽ thấy có hơi hướng của truyện cổ
tích, truyền thuyết… có trong dân gian. ây là một nguồn dưỡng chất dồi
dào, tạo nền tảng cho những tác giả trung đại thỏa sức sáng tạo dựa trên đó,
nhưng không vì thế Nguyễn Dữ lại lạm dụng quá nhiều mà làm mất đi nét cá
tính sáng tạo riêng của mình.
2.2.3. Sự thâu hóa trong trình bày nhân vật
Tiếp thu từ nền văn học dân gian, có nhiều cách thức kỳ lạ cho nhân
vật xuất hiện. Trong Truyền kỳ mạn lục cũng xuất hiện những sự xuất hiện lạ
kỳ như thế. ó là việc vợ quan Hành Khiển chiêm bao thấy hai con rắn cắn
vào mạng sườn dưới nách bên trái, liền sau đấy có mang, sinh ra hai người
con trai đặt tên là Long Thúc và Long Quý. Sau này, khi phát hiện ra hai
người con trai này là do yêu quái biến thành gây họa cho gia đình, quan hành
khiển đã đi cầu cứu sự giúp đỡ của đại sư Pháp Vân. Khi trở về, vừa hay hai
46
đứa con đã chết, mở nắp quan tài xem thì đúng là chúng đã biến thành hai con
rắn vàng. Hai cậu bé ấy cũng thuộc vào loại đặc biệt khi chỉ mới một tuổi đã
biết nói, lên tám tuổi đã biết làm văn, rất được cha mẹ yêu quý. Ở đây ta có
thể nhìn thấy rõ về những motip quen thuộc có trong văn học dân gian, cụ thể
là ở các câu chuyện cổ tích với sự sinh nở kỳ lạ như chàng Sọ Dừa vì người
mẹ uống nước trong sọ dừa mà về có mang, hay bà mẹ ướm chân vào vết
chân khổng lồ mà sinh ra Thánh ióng… Motip thông minh nhanh nhẹn như
là truyện Cậu bé thông minh… Những motip quen thuộc được Nguyễn Dữ
thâu hóa vào trong tác phẩm của mình để trở thành những câu chuyện hấp
dẫn, mang đậm đà màu sắc dân tộc, vì vốn dĩ trong nó chứa đựng những âm
hưởng của văn học dân gian Việt Nam.
Nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục được Nguyễn Dữ trình bày theo
đúng sự diễn tiến tuyến tính của không gian và thời gian như trong các tác
phẩm văn học dân gian cũng như những truyện manh nha của thể loại truyền
kỳ như Lĩnh Nam chích quái lục, Việt điện u linh tập…
2.3. Thành tựu của Truyền kỳ mạn lục
Về nội hàm tư tưởng, Truyền kỳ mạn lục thông qua những yếu tố kỳ
ảo, hoang đường kết hợp với lối kể chuyện hấp dẫn, sinh động của tác giả,
bên ngoài mặc sức bay bổng, sáng tạo, sống trong cõi ảo mộng, kỳ lạ, hấp
dẫn, mượn những nỗi uất ức của những kẻ sĩ, thư sinh, cảnh bi hoan, ly hợp
của trái gái thời loạn… để bên trong làm thỏa mãn cái tâm của một người nho
đạo. Nguyễn Dữ mặc dù tự tay viết ra những điều nằm ngoài khuôn phép của
Nho giáo, thậm chí những điều được cho là bị cấm kỵ, nhưng chính bản thân
ông cũng chưa thoát ra khỏi con người của bậc nho sĩ. Từ những điều mình
viết ra ông muốn thể hiện rõ nỗi lo của mình về tình hình của xã hội lúc bấy
giờ, đó là những nhũng nhiễu, loạn lạc trong nước và cả những nguy cơ xâm
47
lăng từ bên ngoài chính là mối họa nhà Minh.
Truyền kỳ mạn lục phản ánh hiện thực xã hội , từ chiến tranh loạn lạc
cho đến quan tham lại nhũng, đạo đức bị thoái hóa… Bắt đầu từ cuối thời nhà
Trần, Việt Nam bước vào những năm tháng có nhiều biến động. Năm 1400,
Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tự lập làm vua, tông thất nhà Trần sang
Trung Quốc xin nhà Minh mang quân sang đánh ồ Quý Ly. Nhà Minh lấy
vớ Hồ Quý Ly phản nghịch đã đem quân sang đánh, biến An Nam trở thành
một huyện lị của Trung Quốc và đặt quan cai trị. Nhân dân An Nam khi ấy
không chịu sự cùm kẹp của quân nhà Minh đã nhất loạt nổi dậy, ủng hộ con
cháu nhà Trần chống giặc Minh. Phong trào khởi nghĩa nổi dậy ở khắp nơi
nhưng không có nhiều thành tựu. Khi ấy có một người tên Lê Lợi đã chiêu tập
được quân lính đánh đuổi được giặc Minh, lập nên nhà Hậu Lê. Tuy vậy, sau
một vòng quay, đến cuối thời Hậu Lê lại tiếp tục đi vào vết xe đổ của những
triều đại đi trước. Năm 1527, Mạc ăng Dung cướp ngôi nhà Lê tự lên làm
vua. ất nước cũng từ đó bị chia cắt, chiến tranh, loạn lạc liên miên, nhân dân
rơi vào cảnh vô cùng lầm than. Nguyễn Dữ lại sinh ra vào đúng thời loạn lạc
ấy, lúc làm quan có thể ông đã mắt thấy, tai nghe những điều ngang ngược,
dân chúng khổ ải, điêu linh, nhưng chỉ là một chân Tri huyện nhỏ nhoi thì
chẳng có cách nào để thực hiện được hoài bão, bèn xin bỏ về quê. Truyền kỳ
mạn lục giống như là một nơi để Nguyễn Dữ bày tỏ, bộc bạch nỗi lòng mình,
trong đó chứa đựng tất cả nỗi cô phẫn, những điều không vui, muốn thoát ra
khỏi hiện thực đau lòng. Những chuyện trong Truyền kỳ mạn lục phần lớn
được lấy bối cảnh vào thời Lê sơ, đất nước loạn lạc, rối ren, chiến tranh liên
miên, quan tham lại nhũng vô số kể, lúc ấy ma quỷ hoành hành, bi kịch tình
yêu, hôn nhân gia đình đều từ chiến tranh, sự thối nát của xã hội mà ra.
Nguyễn Dữ thông qua sáng tác của mình mà làm hiện rõ lên thực trạng tối
tăm đó. Tất cả là những tiếng kêu bất bình, sự bất mãn đối với hiện thực chính
48
trị đương thời của tác giả làm nên những câu chuyện thấm đẫm màu sắc bi
cảm, rối ren. ôn nhân gia đình tan vỡ, nứt mẻ do chiến tranh có thể nhìn
thấy trong Nam Xương nữ tử lục, Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Lệ Nương
truyện… Xã hội loạn lạc, quan tham nổi lên, ức hiếp dân lành dẫn đến những
cảnh chia lìa bi thương, bị bóc lột tài sản, của cải, thậm chí là con người như
trong Lý tướng quân truyện, Tản Viên từ phán sự lục, Na Sơn tiều đối lục…
Xã hội loạn lạc, tới mức nơi cửa Phật cũng không giữ nổi vẻ tôn nghiêm, thần
quyền bị mua chuộc, tượng Phật thì đi ăn trộm của dân, không còn thể thống,
phép tắc nào như trong Đông Triều phế tự truyện, Tản Viên phán sự lục…
Nguyễn Dữ đã rất dụng tâm khi viết Truyền kỳ mạn lục. Cái hiện thực xã hội
đen tối ấy ông từng trải qua, đến nay muốn tránh xa nó, giống như là nhân vật
trong tác phẩm của chính mình. Na Sơn tiều đối lục, nhân vật lão tiều phu
sống cuộc đời thanh cảnh giữa chốn núi rừng bát ngát, không màng thế sự bên
ngoài. án Thương giao cho quan hầu là Trương công đi mời người tiều phu
về làm việc, thì tiều phu hết lời chối từ, khi quan công tỏ ý khoe khoang liền
bị tiều phu giận mà rằng: “Ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không
vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là
người thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân
để xây dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai; phao phí
gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn,
hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời
ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng; lòng dân động lay, nên đã xảy ra
việc quân sông Đáy, bơ cõi chếch mếch nên đã mất dải đất Cổ Lâu. Vậy mà
các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Duy có Nguyễn Bằng
Cử có lượng nhưng chậm chạp; Hoàng Hối Khanh có học nhưng lờ mờ; Lê
Cảnh kỳ giỏi mưu tính nhưng không quyết đoán; Lưu Thúc Kiệm quân tử
nhưng chưa được là bậc nhân; còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là đồ nát
49
rượu; phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát
nhau; chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả.
Nay đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn
xắn áo mà lội nữa ư? […] Ta không cố chấp, ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi
bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong triều đình, vẩn đục, rối loạn lại còn toan kéo
người khác để cùng đắm với mình” [14, tr. 347 – 348]. Bao nhiêu nỗi lòng
Nguyễn Dữ đều mượn lời người tiều phu mà bộc bạch hết cả, lời căm phẫn
có, lời trách móc có, lời mỉa mai có… iện thực chính trị tuy không trực tiếp
can dự vào nhưng ông luôn nắm rõ được tình hình đang diễn ra như thế nào.
Người tiều phu ấy còn nắm rõ từng người trong bộ máy thối nát đó, để quyết
không bước chân vào mà trở nên nhơ nhuốc giống họ.
Xã hội thực tại vua không ra vua, thần không ra thần ấy còn được thể
hiện khá rõ nét qua một truyện khác là Đà Giang dạ ẩm ký, qua lời đối thoại
giữa hai con cáo và khỉ giả dạng thành người cùng Hồ Quý Ly. Quân thần chỉ
lo ăn chơi nhảy múa, săn bắn vui thú chẳng lo màng đến chuyện chính sự.
“ ương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân, là không phải thời, giày lên
lúa để thỏa cái ham thích săn bắn là không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc
núi mà đốt, là không phải lẽ”. ến loại hồ ly còn thấu hiểu sự tình đến vậy mà
quan quân nhà vua lại chẳng làm được như vậy, chỉ biết làm khổ dân chúng
và muôn loài. Bao mối họa ngoài kia chẳng lo dẹp lại đi lo tìm kiếm một thứ
xa vời là con hồ ly tinh nghìn tuổi: “Hiện nay thánh hóa chưa khắp, bờ cõi
chưa yên: Bồng Nga là con chó dại, cắn càn ở Nam phương, Lý Anh là con
hổ đói gầm thét ở tây bắc. Ngô Bệ ngông cuồng, tuy đã tắt, Đường Lang lấm
lét vẫn còn kia, sao không giương cái cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên
tử, lấy nhân làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào kiệt làm nanh vuốt,
lấy trung tín làm giáp trụ, cẩn thận lồng cũi để giá ngự những tướng khó trị,
sửa chuốt cung tên để dọa nạt những nước bất phục, tóm bắt giặc giã, đóng
50
cũi giải về, khiến cho gần xa quang sạch. Cớ sao bỏ những việc ấy không
làm, lại đi lẩn quẩn ở công việc săn bắn dù được chim muông như núi, chúng
tôi cũng lấy làm không phục” [14, tr. 377 – 378]. Việc lớn trước mắt không
lo, dẹp loạn cho dân không lo, những quan với vua chỉ lo ăn chơi, thỏa thú vui
của mình, còn thế sự mặc sao cũng được. ời sống nhân dân lâm vào lầm
than, khổ ai nhưng chẳng ai hay biết. Nguyễn Dữ khi viết ra những dòng này
có lẽ bằng những lời lẽ, giọng văn cay nghiệt, đay nghiến để mà xả cơn phẫn
uất trước nỗi bất bình.
Vua quan trong thế giới thực tại đã thối nát là thế, đến thế giới thần
linh tiên Phật cũng không có gì tốt đẹp hơn. Sự tôn nghiêm, nét đẹp tôn giáo
đã bị bán đứng đi hết cả, cũng chỉ bởi cái xã hội kia tác động. Dân vì nghèo
túng không có gì để cúng dường lên chùa để nên nỗi Phật, hộ pháp ở chùa
cũng phải đi ăn trộm đồ ăn của dân, trong Đông Triều phế tự truyện. Sự chèn
ép, dọa nạt khiến cho tên Bách Hộ họ Thôi cướp đi ngôi đền của thần thổ địa
cũng không ai lên tiếng, Diêm vương cũng chẳng hay để nên nỗi gây phẫn uất
cho dân chúng, đỉnh điểm là Hồ Tử Văn phải bất bình mà cho một mồi lửa
đốt đền. Thần phật cũng tham của đút lót mà lơ đi sự thật, điều phải điều trái
lẫn lộn, không còn công minh, không còn vì dân chúng nữa, cứ để im cho
những thế lực xấu xa hoành hành. Phật cũng không thoát khỏi những bản ngã
đời thường là đói rách phải chạy đi đến nhà người dân mà bẻ trộm mía, bắt
trộm cá… ái xã hội ấy thật là đảo điên, không còn phân biệt được trắng đen,
phải trái, thật giả lẫn lộn. Truyền kỳ mạn lục là cả một bức tranh hỗn loạn về
cuộc sống của một thời kỳ tăm tối. Quan quân ăn chơi cứ việc ăn chơi, hưởng
thụ, dân chúng lầm than, khổ ai thì cứ việc khổ ải lầm than, để dẫn đến bao
câu chuyện đau lòng mà không có cái gì an ủi được. ũng may nhờ có những
yếu tố kỳ ảo, mà một hiện thực khác được đặt niềm hi vọng, tươi sáng hơn, tốt
đẹp hơn. Nàng Vũ Thị Thiết hàm oan nhưng được thần tiên chốn thủy cung
51
cho nương tựa, tạo điều kiện cho nàng được về giải oan (trong Nam Xương nữ
tử lục); chàng Phạm Tử ư đang trong một mối tơ vò khi không hiểu sao học
mãi chẳng thành thì được thầy đã tạ thế hiện về chỉ cho nguyên do, còn cho
chàng lên chốn Thiên tào chơi (trong Phạm Tử Hư du Thiên tào lục).
Những mặt trái của xã hội đằng sau các nghi lễ thờ cúng được tái hiện
rõ nét. Tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc dường như được tích hợp khá nhiều
trong các sáng tác truyền kỳ. Truyền kỳ mạn lục với 20 truyện, trong đó có
những truyện phản ánh đến một khía cạnh không thể thiếu trong đời sống tâm
linh và văn hóa của người Việt, đó là văn hóa thờ cúng. Văn hóa ấy gắn liền
với những địa danh, địa điểm thờ cúng như chùa, đền, phủ… Ở Truyền kỳ
mạn lục, mặt trái xã hội, những gì còn “nhem nhuốc” cũng được ông đưa vào
phản ánh, mặc dù người ta thường nhắc đến khía cạnh này với một thái độ
cung kính, trang nghiêm và có phần kiêng sợ nếu như làm điều không đúng,
ấy thế mà Ngô Tử Văn của ông đốt đền, đốt xong còn bình thản như không,
tướng hộ pháp của ông ăn vụng cá, thực phẩm của nhân dân trong vùng để
thỏa mãn cơn đói, mặc dù có vị ăn chay nhưng cũng không chịu, Phật nhưng
lại đi ăn vụng. Trong Đào Thị nghiệp oan ký, sư Vô Kỷ đại diện cho tầng lớp
tăng ni, đại diện cho sự thanh tịnh, nhưng hắn lại cùng Hàn Than làm những
điều trái với quy tắc của một người tu hành, dám mang cái tà dâm, dục vọng
vào chốn cửa Phật mà không kiêng dè gì, đi trái với đạo đức của người tu
hành… Bức tranh màu tối về tín ngưỡng thờ cúng của dân tộc được thể hiện
trong Truyền kỳ mạn lục cho thấy một chân thực nhưng lại là mặt trái của xã
hội mà trong một thời kỳ văn hóa nước ta, những điều tối kỵ này không dễ để
phô bày. Trên thực tế, nơi chùa chiền, miếu mạo là nơi thờ Phật và các vị
thần, sẽ được mặc định là chốn linh thiêng, tôn nghiêm. ho đến khi đọc
Truyền kỳ mạn lục: Phật trong chùa đêm đêm vẫn ra khỏi ngôi chùa cũ nát để
đi ăn trộm đồ ăn của dân, dẫn đến sự phẫn nộ của nhân dân, phải tìm ra mọi
52
cách để bắt được “kẻ ăn trộm”. Thần, Phật – những vị vốn dĩ luôn được nhân
dân coi trọng và thờ cúng thì trong Truyền kỳ mạn lục lại trở thành những
“nhân vật phản diện” trong xã hội với những hành vi xấu xa, đáng lên án.
Trong Tản Viên từ phán sự lục, việc hối lộ, đút lót, bao che nơi thánh thần
cũng không có gì khác so với người dân sống trong xã hội thực tại khi viên
quan phương Bắc thất trận trên đất Việt cướp ngôi đền của vị thần nước Việt,
nhũng nhiễu dân trong vùng mà không bị trừng phạt. Nguyên nhân là do
những vị thần khác ở các ngôi đền khác xung quanh đó đã bị tên Bách hộ họ
Thôi hối lộ. Chỉ đến khi Ngô Tử Văn – một người ngay thẳng, không biết sợ
hãi những điều chướng tai gai mắt đốt đi ngôi đền, mọi chuyện mới được giải
quyết. Yếu tố dục vọng, tình yêu nam nữ xuất hiện trong giới tu hành cũng
được thể hiện rõ ràng qua Đào thị nghiệp oan ký. Người con gái đẹp như nàng
Hàn Than xuất hiện nơi cửa chùa do sư cụ Pháp Vân trụ trì đã khiến sư bác
Vô Kỷ không thể kiềm lòng thế tục mà đi trái lại với đạo đức của người tu
hành. Nơi chùa chiền nhưng àn Than và sư Vô Kỷ đã vì tình yêu mà bất
chấp, đắm chìm trong hoan lạc để đến nỗi nàng Hàn Than phải chết vì sinh
con. Thực trạng chốn tu hành, mở rộng ra là thực trạng của xã hội rối ren lúc
đương thời sinh ra những con người có lối sống không đúng chuẩn mực, gây
nên những điều chướng tai gai mắt. ó là nạn tham nhũng, đút lót, mua quyền
bán chức, cậy quyền ức hiếp người…
Không chỉ là phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu sắc, rõ nét đến
thế, Truyền kỳ mạn lục còn là tiếng lòng cảm thương cho những kiếp người
phải sống trong thời đại tăm tối ấy, đặc biệt là những người phụ nữ thấp cổ bé
họng. Xã hội loạn lạc, đồng tiền được coi trọng, quan cao được kiêng nể
không dám phiền hà tới, dẫn đến cảnh chia ly sầu biệt của đôi vợ chồng Dư
Nhuận Chi và nàng Túy Tiêu. Túy Tiêu là một nàng ca nữ nhưng có nhan sắc
lại thông minh, được Dư Nhuận hi để ý. ai người nhanh chóng kết thành
53
đôi. Khi hai vợ chồng chuyển đến kinh thành thuê trọ để chàng dùi mài kinh
sử chờ đến ngày đi thi, Túy Tiêu trong ngày mùng Một Tết đi chơi ở Tháp
Báo Thiên liền bị tên quan Trụ quốc họ Thân cướp về làm vợ vì mê sắc đẹp
của nàng. Nhuận Chi không biết kêu kiện cửa nào vì kêu đến tận triều đình
cũng không được giải quyết cho vì họ Thân uy thế rất lớn, các tòa các sở đều
tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử. Hai vợ chồng đau lòng vì
thương nhớ nhau, mãi đến khi phải tìm cách để chạy trốn mới được đoàn tụ.
Người phụ nữ thân phận bé nhỏ, sống trong cái xã hội bất công ấy lại càng
không được tự quyết định số phận mình. Liền một lúc bị bắt đi dù đã có
chồng cũng không thể kêu oan, không thể làm gì khác được. ay như nàng Lệ
Nương, trong lúc rối ren loạn lạc bị quân giặc bắt đi cũng chẳng biết làm cách
nào, chỉ còn đường tìm đến cái chết để tự giải thoát cho mình, không phải làm
hồn ma bơ vơ lạc lõng nơi đất khách quê người. ây đều là những câu chuyện
đáng thương tâm của nhiều cảnh đời trong xã hội thực được Nguyễn Dữ phản
ánh trong Truyền kỳ mạn lục. Những người con gái trong Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ như đã phân tích ở trên, thường là những cô gái đẹp, nết na,
thùy mị hoặc ở một khía cạnh hoàn toàn khác, có cá tính mạnh mẽ, là những
hồn ma bóng quỷ chuyên đi trêu ghẹo, dụ dỗ đàn ông. Dẫu họ có là người như
thế nào, có hiền lành, thánh thiện hay có gai góc, ghớm ghê thù chung cục họ
vẫn phải chịu một cái kết đau đớn. Bởi bản thân họ, những người phụ nữ ấy
lại tồn tại trong một thời kỳ mà xã hội đớn hèn, tăm tối, với đủ thứ nhũng
nhiễu, loạn lạc. Làm sao để không bị chịu ảnh hưởng, tác động từ cái xã hội
ấy. Nàng Vũ Thị Thiết thủy chung, hết lòng vì chồng vì con, là người con dâu
hiếu thảo, nhưng kết cục vẫn phải chấp nhận một cái chết oan uổng. Mà
nguyên nhân sâu xa có thể nói đến đó chính là do chiến tranh. Nếu như không
có chiến tranh, chồng nàng đã không phải ra trận, đã không phải vợ chồng ly
biệt suốt mấy năm ròng để xảy ra câu chuyện hiểu lầm đầy tàn khốc dẫn đến
54
cái chết thảm thê của Vũ Thị Thiết. Chiến tranh – từ thực tại xã hội lúc bấy
giờ gây ra cái chết oan khuất của nàng Từ Nhị Khanh trong Khoái Châu
nghĩa phụ truyện dẫn đến kết cục đau thương. hồng nàng Nhị Khanh sau khi
rời xa gia đình nhiều năm vẫn không từ bỏ thói mải mê chơi bời, tham tiền
dẫn đến bị bạn lừa cướp vợ. Dù có đi xa, mãi mới được trở về đoàn tụ cũng
không thay tính đổi nết để đến nỗi mất vợ vì cái chết oan uổng mà nàng lựa
chọn. Người vợ thủy chung đến thế đáng lẽ phải được sống trong tình yêu
thương của chồng, vậy mà nàng phải chịu cái chết đau đớn cả về thể xác lẫn
tâm hồn. Nàng không ngờ bị chồng bán đứng như vậy, một người vợ đầu gối
tay ấp cũng không bằng một ván bài. Tệ nạn xã hội từ xa xưa đã đáng bị lên
án, để xảy ra những nỗi bất hạnh trong nhiều gia đình.
ô gái gai góc như nàng àn Than trong Đào Thị nghiệp oan ký, hay
nàng Nhị Khanh trong Mộc miên thụ truyện hay nàng Hồng, nàng Liễu trong
Tây viên kỳ ngộ ký cũng không tránh khỏi những cái kết đau lòng, thương
tâm. Mọi người khi đọc có thể cho rằng, nhưng cô gái ấy vì là yêu ma, lại
hưng yêu tác quái, gây bao nỗi khổ hạnh cho người lành thì xứng đáng phải
chịu cái kết đau đớn như vậy, nàng Nhị Khanh thì bị đạo sĩ thu phục, nàng
Hàn Than thì bị Pháp Vân đại sư khiến cho phải thịt nát xương tan, nàng
Hồng, nàng Liễu thì bị gió bão quật ngã... Tuy vậy, nhìn thoáng hơn ta sẽ
thấy, những cô gái ấy âu cũng chỉ là đang đi kiếm tìm, đang khát khao một
tình yêu chân chính, một tình yêu đúng nghĩa. Trong thế giới phong kiến ấy,
tuy Nho giáo đang mất dần vị trí độc tôn, khép con người ta vào những khuôn
mẫu khắt khe, cứng nhắc, nhưng vẫn còn những ảnh hưởng không hề nhỏ.
Người phụ nữ khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc dường như là một
điều tối kỵ, và trước giờ chưa có ai dám làm. Và Nguyễn Dữ - một tác giả
cũng được xem như là người tiên phong khi lên tiếng cho tình yêu nam nữ
trong cái bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Chẳng ai công nhận, chẳng ai đồng tình,
55
ủng hộ những chuyện hoan lạc, ái ân táo bạo đến dường ấy, nhưng Nguyễn
Dữ lại rất mạnh bạo trong miêu tả những chuyện tình người với ma đầy mê
hoặc, đầy huyền ảo đến thế. Thậm chí, ông còn say sưa kể về những cuộc
hoan lạc của nàng Nhị Khanh với tên lái buôn Trình Trung Ngộ, giữa hai
nàng Hồng, Liễu với chàng học trò à Nhân… Tuy nhiên, Nguyễn Dữ cũng
có nghệ thuật của riêng mình, ông viết vậy mà lại không phải do ông viết vậy,
không ai có thể trách móc, lên án được ông khi đề cập đến những vấn đề nhạy
cảm một cách táo bạo đến thế. Bởi ông đã sắp sẵn một “đường lui” cho mình,
đó chính là hệ thống những lời bình có ở cuối mỗi truyện được kể.
Có 19/20 truyện trong Truyền kỳ mạn lục có lời bình ở cuối truyện
(chỉ trừ truyện Kim Hoa thi thoại ký). Những lời bình này được cho là lời của
tác giả Nguyễn Dữ. Nhân vật viết lời bình chỉ xuất hiện khi câu chuyện đã kết
thúc, ở cuối mỗi truyện, lời lẽ, ý tứ trái ngược hoàn toàn so với câu chuyện
được kể ở phần trên. Cho phép sự xuất hiện của nhân vật này là một nét rất
sáng tạo của tác giả Nguyễn Dữ, bởi lẽ ở mỗi truyện, ông thường để cho trí
tưởng tượng, sự sáng tạo của mình bay cao, bay xa, viết đến tột cùng của
những hành động của các nhân vật trong truyện. Những thói ăn chơi xa đọa,
dâm dục vô biên được tác giả phóng túng viết ra, cái cuộc sống ấy khác xa với
đời sống hiện thực mà tác giả đang sống và cũng có một phần hiện thực xã
hội được tác giả lột tả trong mỗi truyện. Thường cuối mỗi truyện, nhiệm vụ
của nhân vật viết lời bình là phê phán những thói dâm ô, trái luân thường đạo
lý đã có trong truyện, hay phê phán những anh chàng có mắt như không khi
yêu phải người ca kỹ hay con yêu tinh… Mọi mặt trái xã hội tác giả đều
mượn lời nhân vật này để nói lên cái cảm nghĩ của mình, thường là phủ định
sạch trơn đối với những lời đã viết ở trên. Nói chung, lời bình này có vai trò
rất quan trọng trong mỗi truyện ở Truyền kỳ mạn lục, bởi có nó mới có sự cân
bằng, sự biện hộ cho những phóng túng trong tay bút của Nguyễn Dữ trong
56
mỗi câu chuyện nằm bên trên phần lời bình này.
Nếu như phía trên vừa tác thành cho cặp đôi là nàng Túy Tiêu vốn xuất
hiện thân từ làng hát đào với chàng Dư Nhuận Chi tài giỏi về thơ ca, họ đã
phải trải qua cả một quãng thời gian cách trở chỉ vì tên quan Trụ quốc họ
Thân, cuối cùng họ cũng chạy trốn được với nhau lánh xa đời để được sống
hạnh phúc bên nhau, không bị ai dòm ngó. Những tưởng với một câu chuyện
như thế với một cốt truyện như thế thì phải nên được đánh giá là một câu
chuyện có kết thúc có hậu, ấy vậy mà đọc xuống đến lời bình của tác giả thì
thấy thật là ngược. Lời bình liền lúc đó được viết ra với lời lẽ chê bai Dư
Nhuận Chi tham sắc nên mới chịu lấy con hát về làm vợ, chê Nhuận Chi thật
là người ngu, chỉ vì một cô vợ là đào hát mà cũng hi sinh, mạo hiểm mà hòng
cứu thoát ra được: “Than ôi! Người con trai bất trung, ông vua trung thường
xấu hổ về bầy tôi ấy. Người con gái bất chính, kẻ sĩ trung thường xấu hổ về
người vợ ấy. Túy Tiêu là một ả ca xướng, chẳng là người chính chuyên, không
hiểu Nhuận Chi ham luyến về cái gì? Vì nàng hiền chăng? Nhưng hết là vợ họ
Trương lại là hầu họ Lý? Vì nàng đẹp chăng? Thì hết làm mê Hạ Sái lại làm
hoặc Dương Thành. Vậy mà lại khinh thường sự đi sự đến, nhẫn nhục tới ở
với người, sờ đầu cọp, vuốt râu hùm, suýt nữa thì không thoát miệng cọp. Như
chàng Nhuận Chi , thật là người ngu vậy” [14, tr. 372]. Lời bình rất đỗi chê
bai cả hai con người này, tác giả như muốn phản ánh một thực trạng xã hội
đảo điên, những chuyện mê muội thế nào cũng có thể xảy ra mà người ta
người trong cuộc không biết đến vậy. Trong truyện Đà Giang dạ ẩm ký,
Nguyễn Dữ lại có ý chê bai Hồ Quý Ly để cho các loài yêu quái qua mặt mà
không làm gì được, chỉ bởi cái sự “tâm thuật không chính”, chứ nếu chính
trực thì muôn loài đều phải nể sợ, khẳng định được sự khôn thiêng hơn muôn
loài khác của con người. Nói như vậy có chăng tác giả đang hạ thấp nhân vật
xuống, để hiện một sự khinh bỉ vô cùng cực khi cho rằng còn không bằng
57
những loài vật khác?
Phản ánh mặt trái của xã hội để từ đó vạch bộ mặt thật, cho người đời
nhìn thấy những cái tưởng là phải mà không phải, tưởng là đen mà không đen,
ngay cả đến quy củ trong chốn thờ tự cũng bị đảo lộn, sư không ra sư, ni
không ra ni. Lời bình trong truyện Đào Thị nghiệp oan ký thể hiện rất rõ điều
này khi Nguyễn Dữ chê sư Vô Kỷ, chê quan hành khiển. ai con người đại
diện cho hai lực lượng khá có uy trong xã hội đương thời, những lại làm
những chuyện không ra sao, trái với những mong đợi của nhân dân: “Than ôi!
Theo về dị đoan chỉ có hại. Huống chi đã theo lại còn không giữ cho đúng
phép, thì mối hại phỏng còn xiết nói được ư? ã Vô Kỷ kia, là một kẻ gian
dâm, buông thói tà dục, chẳng những dối người, lại còn dối vị Phật của hắn
thờ nữa. iá đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa môn ngày xưa thì
hắn cũng không oan chút nào. Thế còn Nhược Chân thì hẳn là không có lỗi
chăng? áp rằng làm quan mà như thế, còn gì là chính gia nữa! Mầm vạ mọc
lên, suýt nữa hãm vào chốn nguy khốn, chính mình làm mình chịu, không
đáng lấy làm lạ chút nào”. Nguyễn Dữ gọi Vô Kỷ là “kẻ gian dâm”, là “gã”
thể hiện tột cùng cái sự khinh bỉ, đó là cách thể hiện và con măt nhìn khác về
bức tranh tôn giáo nước ta trên một khía cạnh tu hành ở vào một thời điểm xã
hội có quá nhiều rối ren, loạn lạc. Chuyện thần phật, thờ cúng có đôi khi trong
mắt nhìn của Nguyễn Dữ không còn quá linh thiêng hay là quan trọng nữa,
không chỉ là chê trách sư Vô Kỷ mà còn là lên án những người được gọi là
thần, được dân chúng thờ cúng nhưng cũng không phải là một vị thần đức độ,
mang lại sự bình yên cho nhân dân mà được cúng tế như thế lại gây ra trò
nhũng nhiễu, tác oai tác quái, như tên Thuồng Luồng trong truyện Long đình
đối tụng lục: “Than ôi, chống được ách lớn thì thờ, cản được nạn lớn thì thờ,
đó là phép cúng tế. Hưởng sự cúng tế ấy thì phải cố danh tư nghĩa, đâu có lẽ
nhận sự thờ cúng lại còn gây tai họa cho người. Thế thì cái tội của vị thần
58
Thuồng Luồng chỉ phải bị đày thôi. Quảng lợi Vương dụng hình như thế, thật
là chưa đáng. Tất phải làm như Hứa Tốn, Thứ Phi mới là cái việc thú vị
được. Cho nên Địch Nhân Kiệt khi làm tuần phủ Hà Nam, tâu xin phá hủy
đến 1700 tòa đền thờ không xứng đáng, thật là phải lắm” [14, tr. 277]. Hay
như trong Đông Triều phế tự truyện, Nguyễn Dữ có bình: “Than ôi! Cái
thuyết nhà Phật thật là vô ích mà có hại quá lắm. Nghe lời nói năng thì từ bi,
quảng đại, tìm sự ứng báo thì bắt gió mơ hồ. Nhân dân kính tin, đến nỗi có
người phá sản để cúng cho nhà chùa. Nay xem cái dư nghiệt ở trong một ngôi
chùa rất nát mà còn gớm ghê như thế, huống ngày thường cúng vái sầm uất,
phỏng còn tai hại đến đâu. Song những anh quân, hiền tướng, chẳng hạn như
Tô học sĩ đời Tống, Lương Trạng nguyên đời Lê, thường muốn trừ bỏ mà vẫn
không thể được, thường có nhiều người giúp rập, ước sao có hàng trăm ông
Hàn Xương Lê ra đời, xúm lại mà đánh, đốt hết sách và chiếm hết nhà mới có
thể được” [14, tr. 358 – 359]. Thời kỳ mà ông sống, có lẽ Phật giáo đang dần
xuống cấp, việc thờ cúng, đền chùa miếu mạo như dần mất đi sự tôn nghiêm.
Chính bản thân vị hộ pháp cũng không thể hiện rõ sự uy nghiêm của mình, đi
ăn trộm đồ ăn của dân thực không còn gì để nói, dân chúng khó có thể tin
tưởng và thành khẩn cúng bái.
Không chỉ vậy, Nguyễn Dữ còn có lời răn dạy đối với vua chúa, qua
truyện Na Sơn tiều đối lục: “Tuy nói việc tang bại của nhà Hồ, đúng như là
bói cỏ bói rùa, nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người,
nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đi như vậy. Kẻ làm vua chúa nên thấy sự
chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đinh, chính trăm quan, chính
muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả”. ình ảnh
người tiều phu giống như một người đang về quê sống ẩn dật, nhưng vẫn tò
mò muốn biết sự đời. Ông đã lánh xa chốn quan trường, không bao giờ muốn
ra mặt cho một chế độ sắp đến hồi kết nữa. Sự hưng thịnh hay suy vong của
59
một triều đại phụ thuộc rất nhiều vào cái chính của người làm vua chúa, từ đó
là từ cái chính lan tỏa ra cái gốc chính triều đình, cái chính từ đó lan tỏa ra
muôn dân, ai cũng sẽ cảm nhận được sự trung thành, nhiệt huyết và khi đó
không ai có thể nhìn vào soi mói được nữa.
ưa ra những lời khuyên răn trong lời bình, không chỉ là đối với những
thế lực có tầm cỡ trong xã hội lúc bấy giờ mà còn là đối với những con người
bình thường, trong cuộc sống gia đình bình thường nữa. Trong truyện Khoái
Châu nghĩa phụ truyện, Nguyễn Dữ viết: “ Than ôi, người con gái có ba đạo
theo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng
không? Thưa rằng không. Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không
theo tà dục. Chết hợp với nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là
theo chồng đó. Có người vợ như thế mà lại để cho phải hàm oan một cách ai
oán. Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà , phải trước tự sửa
mình lấy chính, khiến cho không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời
đất” [14, tr. 277]. Trọng Quỳ mang vợ ra làm cá cược đánh bạc với bạn thật
là đáng hổ thẹn, khiến nỗi Nhị Khanh phải tự tử để thể hiện lòng trung và
quyết định không bao giờ để rơi vào tay người khác. Sự bồng bột đó khiến
cho Trọng Quỳ phải trả một cái giá quá đắt khi mất đi một người vợ chỉn chu,
tháo vát, hết lòng vì mình. Lời bình, Nguyễn Dữ chê trách Trọng Quỳ là đúng
và ở đây ông đã lên tiếng bênh vực người phụ nữ, một cách đường đường
chính chính và còn đúng nữa. ũng từ đây, ông lại đưa ra một bài học xương
máu để những ai chưa từng trải qua hoặc những ai có nhu cầu sẽ nhìn vào đó
mà học tập. Vừa phê phán, vừa đúc rút kinh nghiệm, vừa đưa ra bài học và có
những khiển trách nhất định. Muốn quan tâm đến người khác, muốn răn đe
người khác, ngay bản thân mình phải tự sửa mình tước, lúc ấy mới biết đến
60
quan tâm người khác được, mà không bị lệch lạc.
Lời bình luôn được mở đầu bằng “Than ôi!”, giống như là tác giả, tự
đọc lại tác phẩm của mình, rồi sau đó mới rút ra lời bình, cảm thán về những
câu chuyện bi kịch có, hoan lạc có, hạnh phúc có, rồi tự rút lấy bài học không
chỉ cho những người trong thế hệ mình mà cho nhiều người ở các thế hệ khác,
nếu như còn muốn tiếp tục làm hưng thịnh, tiếp tục của những ước mơ và
khát khao thì hãy từ những câu chuyện ông đúc rút ra mà tự ngẫm lại mình và
ngẫm sự đời.
Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục rất nghiêm túc. Trong Nghiên cứu
so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Trần Ích Nguyên dẫn ra
một khái niệm đó là “phát phẫn mà viết sách”. Nó tạo nên một truyền thống
trong động cơ sáng tác của các tác giả từ cổ chí kim, từ Trung oa cho đến
các nước khác trong khu vực, và cụ thể hơn là từ Cù Hựu cho đến Nguyễn Dữ
và các tác giả viết truyền kỳ khác trong khu vực. Ông dẫn lời của Chu Thanh
Nguyên là một người thành tâm khuyên người đời làm làm người tốt để khỏi
bị đời sau phỉ nhổ; một người thì bày tỏ hết cái khí trong tâm, đem cái bình
sinh muốn khóc muốn cười, muốn nhảy viết hết ra trên giấy, mượn cái đó mà
làm vợi đi cái khí bất bình đang đầy ắp ở trong lòng. Tiêu chuẩn lấy việc đáng
vui, đang buồn, đáng sợ, đáng lạ để viết và mong muốn làm dấy lên tinh thần
sáng tác có tác dụng “khuyến thiện trừng ác”, “thương kẻ cùng quẫn, xót
người oan khuất”, có cảm xúc mà viết nên nỗi bất bình. Quả thực vậy, cứ nhìn
vào sáng tác của Nguyễn Dữ chúng ta cũng có thể thấy rõ những điều ấy.
Sáng tác của Nguyễn Dữ hay là của Cù Hựu, nếu chỉ đơn thuần là kêu lên cho
sướng mà thôi thì chẳng nói làm gì, vì khi ấy nó chẳng còn mang nhiều ý
nghĩa sâu sắc nữa. Nhưng ở đây, các ông viết nên những câu chuyện này để
mà từ đó nói nên được nỗi lòng mình, vì các tác giả động tâm mới tạo thành
động lực dồn xuống bút lực mà sáng tạo ra những câu chuyện bày tỏ tấm
61
lòng, bày tỏ nỗi phẫn uất, bất bình, đó âu cũng vì từ thương người mà ra.
Tiểu kết: Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được coi là một áng thiên
cổ kỳ bút, tác phẩm truyền kỳ xuất sắc nhất của thể loại truyện truyền kỳ ở
Việt Nam. ể làm nên kiệt tác này là sự kết hợp của ba yếu tố căn bản. Thứ
nhất là sự tích hợp từ truyện truyền kỳ khu vực, mà ở đây chủ yếu là từ nền
văn học kiến tạo vùng Trung Hoa, tiêu biểu là tác phẩm Tiễn đăng tân thoại
của Cù Hựu. Thứ hai là nguồn dưỡng chất từ văn học dân gian dồi dào của
dân tộc. Ở tác phẩm là sự tích lũy, chắt lọc những gì thuộc riêng về quê
hương, đất nước, con người Việt Nam, những gì là bản tính, đặc sắc văn hóa
riêng biệt để khi bạn bè quốc tế có dịp tìm hiểu và đọc truyện truyền kỳ của
Việt Nam thì biết ngay đây là sáng tác của người Việt và viết về con người
Việt Nam, sự vật, hiện tượng diễn ra trên đất Việt Nam. Yếu tố quan trọng
nhất làm nên thành tựu to lớn của Truyền kỳ mạn lục đó chính là tài năng và
sự sáng tạo của tác giả Nguyễn Dữ. Từ kinh nghiệm của khu vực, nguồn dữ
liệu văn học dân gian dồi dào, để làm nên nét độc đáo riêng và được người
đời thấy ấn tượng là sự sáng tạo, tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và
chất liệu của Nguyễn Dữ. Chính từ những yếu tố đã có, qua bàn tay tài hoa
của mình, Nguyễn Dữ đã tạo nên một Truyền kỳ mạn lục không chỉ nổi tiếng
trong nước mà còn được bạn bè trong khu vực công nhận. Xét trên phương
diện thể loại truyện truyền kỳ nói riêng và trong tiến trình phát triển của văn
xuôi Việt Nam nói riêng, tạo nên một bước tiền đề quan trọng cho sự phát
62
triển của thể loại trong những giai đoạn sau.
hương 3: SỰ TÍCH HỢP CỦA CÁC YẾU TỐ TRUYỀN KỲ TỪ SAU
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ
3.1. ình hình văn bản của Truyền kỳ tân phả
Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ oàn Thị iểm được sáng tác vào khoảng
đầu thế kỷ thứ XVIII. Tác phẩm hiện có nhiều bản in và bản chép tay, được
lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Một số nhà nghiên cứu cho
rằng Truyền kỳ tân phả còn có tên gọi khác là Tục truyền kỳ. ây là tác phẩm
được coi là tiêu biểu của thể loại truyền kỳ ở thế kỷ thứ XVIII. Theo Phạm
Văn Thắm, tác phẩm này được nhắc tới ở một số thư tịch cổ và hiện còn nhiều
bản in và bản chép tay được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm:
bản khắc in ký hiệu A.48 gồm 182 trang khổ 27x16cm do Lạc Thiện ường
tảng bản, bao gồm 06 truyện và một mục lục. 06 truyện đó là Hải Khẩu linh
từ lục, Vân Cát thần nữ lục, An Ấp liệt nữ lục, Bích Câu kỳ ngộ ký, Tùng Bách
thuyết thoại, Long hổ đấu kỳ.
Bản mang ký hiệu VHv.2959 gồm 84 trang, khổ 24x14,5cm, trang 10
dòng, dòng xấp xỉ 20 chữ, có tên là Tục truyền kỳ, gồm 03 truyện là Hải Khẩu
linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục và An Ấp liệt nữ lục. Về cơ bản thì bản này
giống với bản A.48. Mục lục của bản Truyền kỳ tân phả có 06 truyện thì 03
truyện Hải Khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục và An Ấp liệt nữ lục khắc
chữ to; 03 truyện Bích Câu kỳ ngộ, Tùng Bách thuyết thoại và Long hổ đấu kỳ
khắc chữ nhỏ. Mục lục của bản Tục truyền kỳ này chỉ có 03 truyện là Hải
Khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục, An Ấp liệt nữ lục đều khắc bằng chữ
to. Trong số 06 truyện của Truyền kỳ tân phả, chỉ có 02 tryện là Hải khẩu linh
từ lục và An Ấp liệt nữ lục ghi rõ tác giả là oàn Thị iểm, 04 truyện còn lại
63
không ghi tên tác giả.
Bản thứ ba mang ký hiệu VHv.1487, chép tay gồm 158 trang, khổ
27x15cm, trang 08 dòng, dòng xấp xỉ 21 chữ; sách gồm 01 mục lục và 06
truyện. Ngoài ra còn có bản mang ký hiệu VHv.415 – VHv.416 chép bằng bút
sắt, khổ 21x17cm, chỉ có một truyện là Bích Câu kỳ ngộ.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Truyền kỳ tân phả còn có tên gọi là
Tục truyền kỳ. Theo Phan Huy Chú, Tục truyền kỳ do oàn Thị iểm soạn
gồm 06 truyện: Bích Câu kỳ ngộ, Hải Khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục,
Hoành Sơn tiên cục, An Ấp liệt nữ và Nghĩa khuyển khuất miêu. Tuy nhiên,
sách này đã không còn.
Dựa trên những tác phẩm đã còn và căn cứ vào sự phân tích của các
nhà nghiên cứu đi trước và lựa chọn dịch, chúng tôi sẽ khảo sát Truyền kỳ tân
phả trên sáu truyện là Hải Khẩu Linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục, An Ấp liệt
nữ lục, Bích Câu kỳ ngộ, Tùng Bách thuyết thoại và Long hổ đấu kỳ.
3.2. Những xu hướng mới của truyện truyền kỳ tích hợp trong
Truyền kỳ tân phả
3.2.1. Quá trình “tục hóa” để tiến tới
Mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống đều có xu hướng hình thành,
phát sinh, phát triển và tiêu vong. Quá trình này cũng đúng với sự hình thành
và phát triển của thể loại truyện truyền kỳ. Ban đầu khi truyện truyền kỳ được
manh nha bởi các tác phẩm chí quái, chí dị, đó là những tiền đề đầu tiên cho
sự ra đời của một đỉnh cao là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Nhưng
không phải chỉ đơn thuần là các tác phẩm chí quái, chí dị trong nước mới
quyết định sự hình thành nên một thể loại đặc sắc trong tiến trình văn học
trung đại Việt Nam là truyện truyền kỳ, mà nó còn là sự kết hợp của nhiều
64
yếu tố, trong đó có sự tích hợp của kinh nghiệm sáng tác truyện truyền kỳ
trong khu vực, yếu tố tích lũy những tinh hoa của nền văn học dân gian Việt
Nam dồi dào, cùng với đó là sự sáng tạo, tài hoa của tác giả thấm đượm trong
từng con chữ, câu văn. Quá trình phát triển của truyện truyền kỳ trải dài qua
khoảng sáu thế kỷ. Từ khi Truyền kỳ mạn lục – một tác phẩm truyền kỳ được
đón nhận và công nhận ra đời, phải đến ngót nghét hai thế kỷ sau mới lại xuất
hiện những tác phẩm truyền kỳ mới mà trước tiên phải kể đến là Truyền kỳ
tân phả. Truyện truyền kỳ Việt Nam từ đây như khoác lên một chiếc áo mới.
Những truyện viết theo thể loại truyền kỳ lại được các tác giả đặt cho một cái
tên khác, nhan đề thường là “kiến văn”, “ký sự”, “phả”, “ký”… Như vậy,
trong truyện truyền kỳ bắt đầu có sự tích hợp của khá nhiều thể loại khác
nhau, và truyện truyền kỳ, đặc biệt là từ Truyền kỳ tân phả, Lan Trì kiến văn
lục, Công dư tiệp ký, Vũ trung tùy bút… sẽ là tiền đề để hình thành nên khác
thể loại văn học mới mẻ ở nước ta trong thời kỳ hiện đại.
Sở dĩ có một mục này, chúng tôi muốn nói đến một yếu tố mà yếu tố
này lại có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của thể loại truyền kỳ, đó
chính là sự quay lại, về lại trong sáng tác truyện truyền kỳ. Truyền kỳ tân phả
của oàn Thị iểm, có ý kiến cho rằng nó còn có tên gọi khác là Tục truyền
kỳ. Chữ “tục” thông thường mang khá nhiều ý nghĩa, đó có thể là phong tục,
là thông tục, mang tính quần chúng, là dung tục, thế tục, kế tục… Trong cuốn
Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, GS.TS. Trần Ngọc Vương cho rằng, cái
tục theo nghĩa rộng nhất chính là cái đời thường, cái hàng ngày, “tồn tại trong
mối quan hệ vừa đối lập, vừa gián cách lại vừa bị thống trị bởi cái thiêng”
[45, tr. 279]. iáo sư Trần Ngọc Vương trong so sánh mối tương quan giữa
cái tục và cái thiêng đã chỉ ra rằng cái tục vốn dĩ tồn tại trên một phạm vi hết
sức rộng lớn mà cái thiêng so với cái tục không là gì, chỉ chiếm một số lượng
rất ít ỏi. Tuy vậy, không thể chỉ có cái tục tồn tại hay chỉ có cái thiêng tồn tại
65
được, chúng không thể nào tách rời nhau. Cái thiêng có vai trò cung cấp ý
nghĩa cho cái tục, còn cái tục cấp sự sống, sức sống cho cái thiêng. Nhưng
vốn dĩ, trong xã hội cũ, cái thiêng mới được chọn lựa làm khuôn mẫu, chuẩn
mực mà thôi. Vấn đề này không chỉ nằm trong tôn giáo mà nó còn mở rộng ra
ở phạm trù văn hóa, đạo đức, văn học. Trong văn học, không chỉ riêng văn
học Việt Nam, sự hình thành của bất kể nền văn học nào, thậm chí là nền văn
học kiến tạo vùng như Trung oa thì cũng đều được bắt nguồn trực tiếp và
từng bước dựa trên cơ sở là văn học dân gian, cái thiêng được “nhô lên” và
tách dần ra khỏi cái tục. Khi văn học Việt Nam tiếp thu những tinh hoa từ văn
học kiến tạo vùng, cũng chỉ tiếp thu, học hỏi những khuôn mẫu về cái thiêng,
còn như các yếu tố của cái tục trong sự dung hòa giữa cái thiêng và cái tục tạo
nên một chỉnh thể hoàn chỉnh thì các tác giả Việt Nam lại lấy từ nền văn học
dân gian dồi dào của nước nhà. Trong một nền văn học mà cái thiêng được
chấp nhận và tôn vinh thì xu hướng hướng thượng là điều tất nhiên, nhưng
nếu chỉ nói đến cái thiêng mà không có chất xã hội, không có chất “con
người” trong đó thì nền văn học đó lại trở nên vô vị. “Văn học quân phương,
văn học hướng thượng rất hiếm chỗ cho cái hài, bởi thứ văn học ấy cơ hồ
không chấp nhận tiếng cười. Tuy nhiên chỉ con người mới thực sự biết cười”,
và tiếng cười thường xuyên tự tỏ ra là một chỉ số, một “chứng chỉ” của một
cơ thể xã hội tráng kiện và một tâm hồn xã hội lành mạnh. Cái quan phương,
quan liêu đi đến giới hạn tận cùng, tới trạng thái “cổ điển” sẽ là khởi điểm
cho những khúc quành, lối rẽ” [45, tr 282]. Ngay dưới thời Lê Thánh Tông,
khi mà Nho giáo được chính thức công bố về vị trí độc tôn cũng chính là lúc
cái tục được hé lộ ra dưới ngọn bút của các “đấng thượng nhân”. Ứng chữ
“tục” này vào nhan đề truyện Tục truyền kỳ - một tên gọi khác của Truyền kỳ
tân phả, chúng ta có thể hiểu một nghĩa nôm na là truyền kỳ về những câu
chuyện đời thường. Văn học bác học vốn là một sự tất yếu của quá trình phát
66
triển văn học, trong đó là những chủ đề, yếu tố sang trọng, quý tộc được nói
tới, còn những thứ như trong dân gian hầu như rất ít khi có hoặc giả có thì
cũng phải cách điệu, “nâng tầm” lên mới được. Ngay cả đội ngũ tác giả sáng
tác cũng là những người thuộc tầng lớp quý tộc, có học thức trong xã hội.
Truyền kỳ trong thời điểm nó mới ra đời, như Truyền kỳ mạn lục, vốn dĩ được
nhân dân hết mực yêu thích, là một hiện tượng mới mẻ và nhiều người thích
đọc. Nhưng để xét trong xã hội đó, những người được coi là làm văn chính
thống thì chắc hẳn không nhiều người thích kiệt tác này. Tuy vậy, khi cái tục
bắt đầu xuất hiện ở trong tác phẩm này, nó lại dần được công nhận nhiều hơn,
tạo một luồng gió mới mẻ trong một thời điểm Nho giáo chiếm vị trí độc tôn.
Bởi lẽ những điều ma quái, những điều dung tục, tà dâm… đều xuất hiện
trong đó, mà đây đều là những thứ quy định Nho giáo kiêng kỵ. Tuy nhiên,
nhờ vào tài năng của tác giả cũng như những biện pháp nghệ thuật tác giả sử
dụng, như sự xuất hiện của nhân vật lời bình – hay chính là tác giả, đứng
ngoài câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn để tạo độ tin cậy nơi người đọc, thì Truyền
kỳ mạn lục vẫn có khả năng được tồn tại mà không bị liệt vào hàng sách cấm
lưu truyền. Bước đến thế kỷ thứ XV , Nho giáo đang dần dần thoái trào thì
các yếu tố tục lại càng có nhiều cơ hội được đi vào trong văn học hơn. Thời
điểm đó, Truyền kỳ tân phả ra đời chính là lúc có thể tích lũy trong mình
nhiều tinh hoa từ “dưỡng chất trần gian” – nền văn học dân gian đồ sộ. Khi
ấy, truyện truyền kỳ đúng mang tính chất “tục hóa” – quay về, quay về với
nền văn học dân gian lưu truyền từ bao đời của nhân dân, làm nên một tác
phẩm văn chương bác học, nhưng lại đậm đà các yếu tố gần gũi với nhân dân.
Ở Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm nói riêng hay các tác phẩm truyện
truyền kỳ thời điểm thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ X X nói chung như Lan Trì
kiến văn lục của Vũ Trinh, Công dư tiệp ký của Vũ Phương ề… các yếu tố
dân gian như đề tài, cốt truyện, motip, nhân vật… của truyện cổ tích, truyền
67
thuyết, truyện ngụ ngôn… có một khu vườn mới để bung tỏa hương thơm.
Xét trên phương diện thể loại truyện truyền kỳ, sự “quay về” này giống như
một bước tiến mới mẻ. Tuy vậy, xét trên phương diện nghệ thuật, lấy yếu tố
kỳ ảo – đặc trưng lớn nhất của thể loại truyền kỳ ra để so sánh truyện truyền
kỳ ở hai thời điểm thì tại thời điểm Truyền kỳ tân phả ra đời, cái kỳ với xu
hướng dần gắn bó với đời sống xã hội, con người hơn thì Truyền kỳ tân phả
lại đang có một bước “thụt lùi” so với kiệt tác Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ. Nhưng xét trong sự vận động phát triển chung của nền văn học nước nhà,
đây lại được coi là một bước tiến mới mẻ, một sự vận động theo đúng tiến
trình vận động chung của cả một nền văn học.
Xét trên tiến trình phát triển của thể loại, cái “tục” còn được coi là sự
kế tục, tiếp tục của truyền kỳ. iều này là không thể phủ nhận, bởi sau hai thế
kỷ, cụm từ “truyền kỳ” một lần nữa được xuất hiện trong Truyền kỳ tân phả,
làm nối tiếp mạch phát triển của thể loại từ sau Truyền kỳ mạn lục. Tuy nhiên,
trong lần xuất hiện tiếp tục này, truyền kỳ đã mang một màu sắc khác rất mới
mẻ so với kiệt tác trước đó.
3.2.2. Những xu hướng mới trong nội dung
3.2.2.1. Tư tưởng nghệ thuật dần biến đổi
Trong Truyền kỳ tân phả, ngoài tài bói Kinh Dịch, nhìn nhận chuyện
chính sự, đàm phán và chỉ nước cho vua Lê Thánh Tông trừng trị tên ô đôc
Nam hải của nàng Phù Dung trong Hải khẩu linh từ lục, thì tài văn chương thi
phú của nàng cũng được để cập đến rất nhiều. ái tài văn thơ ấy còn được thể
hiện xuyên suốt ở những người phụ nữ khác trong Truyền kỳ tân phả, như
trong Bích Câu kỳ ngộ, khi Tú Uyên nài Giáng Kiều làm thơ, nàng đã từ chối
với cớ “Việc giấy mực không phải phận đàn bà” thì Tú Uyên đáp lại “Ban
Cơ, Sái nữ xưa, chúng ta đã được nghe tiếng là người giỏi văn thơ, lại còn
68
nàng Đạo Uẩn, Dị An ngày nay ta cũng còn ghi chép. Đó chẳng phải đàn bà
là gì? ”. ây giống như lời tác giả oàn Thị iểm khẳng định cho cái tài văn
thơ của nữ giới là cũng không thể coi thường. Chính vì thế, xuyên suốt các
truyện trong Truyền kỳ tân phả, dung lượng các bài thơ, ngâm chiếm rất lớn,
đôi khi còn làm cho mạch truyện trở nên lỏng lẻo. Trong truyện Hải khẩu linh
từ lục, ngoài cặp đối của Trần Duệ Tông và Phù Dung, bài minh và bài biểu
của nàng dâng vua thì còn có bài văn chiêu hồn của Trần Duệ Tông, một vài
bài thơ của Lê Thánh Tông. Truyện Bích Câu kỳ ngộ thì có nguyên phần Lê
Thánh Tông gặp tiên ở chùa Ngọc Hồ, hai bên làm thơ, mỹ nhân chữa thơ của
vua, bình rằng: “Câu trên thiếu ý cảnh, đổi chữ chày kình mấy khắc làm gió
xuân đưa kệ, đổi chữ ba canh làm chữ mơ tiên, chữ thảm làm chữ khổ, chữ
sông làm chữ nguồn”. ến một người phụ nữ cũng cao tay hơn khi còn chỉnh
chữ trong thơ của vua thì sự khẳng định tài năng của nữ giới lại được nhân lên
nhiều lần. Thơ từ trong Truyền kỳ tân phả đều được chọn câu lựa chữ rất cầu
kỳ, thơ thù tạc xướng họa của Tú Uyên và Giáng Kiều thì nhiều không đếm
hết. Truyện An Ấp liệt nữ lục tuy nói rằng “Các bài xướng họa đã chép ở tập
Quan thư hòa minh, nay không dẫn ra đây”, nhưng ít cũng có đến bảy bài
thơ, một bài ca, một bài hành và một bài văn tế. ến Truyện Vân Cát thần nữ
lục thì có thể nói oàn Thị iểm đã mặc sức thể hiện khoái cảm nghệ thuật
cá nhân trong trò ảo thuật với những ám hiệu văn tự, bộ phận thơ từ lồng ghép
vào cốt truyện chiếm ngót nửa dung lượng tác phẩm. Như vậy có thể thấy, từ
đây vai trò của người phụ nữ đã được nâng lên. ó không chỉ là tài năng của
riêng tác giả, mà bà còn khẳng định một vị thế mới của người phụ nữ trong xã
hội. Lúc này, giống như oàn Thị iểm đang đòi quyền bình đẳng cho nữ
giới, bà gán cho nhân vật của mình những tài năng, những suy nghĩ về việc
lớn, thế sự. ó không phải chỉ riêng là việc của đàn ông mà bắt đầu có sự xuất
hiện của nữ giới. Không chỉ thế, họ còn có vai trò đóng góp trách nhiệm của
69
mình vào công cuộc yêu nước, như nàng Phù Dung trong Hải khẩu linh từ,
dâng kế sách cho vua, rồi từ lấy thân mình để bảo vệ cho đội quân của vua…
Từ đây, những việc lớn lao, vốn chỉ được dành cho nam giới thì theo quan
niệm của oàn Thị iểm, phụ nữ cũng có thể làm và thậm chí làm tốt những
việc coi là chuyện gánh vác giang sơn. oàn Thị iểm nêu cao vai trò nữ
quyền, quyền bình đẳng giới, họ không chỉ có vai trò khuyên răn những người
đàn ông bên cạnh mình, họ còn có một quyền khác nữa đó là tự quyết định
hành động và cuộc sống của mình. Nàng Phù Dung khi khuyên can vua không
được đã tự quyết định việc hi sinh thân mình để bảo toàn cho các cung nữ,
nàng lựa chọn kết cục đó một cách tự thân, không do ai ép uổng.
Trong bài đề tựa sách Kiến văn lục (Kiến văn lục tự) bài số 1 do Văn
sinh là Huyền Trai Ngô Hoàng ở Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai đề có đoạn
ghi: “Nước Việt ta từ triều Đinh, triều Lý tới nay, trải mười mấy thế kỷ, chả lẽ
không có chuyện gì đáng ghi chép? Thế mà ngoài chính sử ra, không còn
truyền lại thứ gì. Có những ghi chép như kiểu Chích quái, Truyền kỳ đấy,
nhưng đều bỉ lậu, tạp nham, chỉ để cho những anh đồ nhà quê nằm khoèo trên
giường đọc cho vợ con nghe thôi, chứ những người hiểu biết xem qua mà
không lợm giọng, bỏ chạy thì cũng hiếm! Đó là lý do phải viết Kiến văn lục
này” [29, tr. 825]. Cứ theo lời người này nói thì những ý nghĩa và cả những
sáng tạo độc đáo, sự công nhận là áng “thiên cổ kỳ bút” của Truyền kỳ mạn
lục đều đã bị phủ định hoàn toàn. Huyền Trai Ngô oàng đã đề cao Lan Trì
kiến văn lục của Vũ Trinh, cho rằng: “Sách này, về phép ghi chép thì cũng
giống như Sưu thần, Tề hài còn về nội dung thì có ngụ bút của Thái sử công.
Nhưng mục đích viết sách của ông đâu chỉ có ghi lại những việc tai nghe, mắt
thấy! Tấm lòng ưu thời mẫn thế, ý tưởng giữ gìn truyền thống, sửa sang
phong tục của ông luôn luôn thể hiện ở lời văn. Có nói đến việc quái dị,
nhưng không thoát ly đạo thường, có kể về điều biến hóa, nhưng không mất đi
70
lẽ chính, đại để là ngụ ý khuyên răn và cảnh cáo sâu xa, để người xem sau
này thấy điều hay thì bắt chước, thấy điều dở thì phòng ngừa, thực có ích rất
nhiều cho thế giáo, làm sao có thể coi là loại dã sử của các vị quan xoàng!”
[29, tr. 825]. Lời tựa có nhận xét Lan Trì kiến văn lục tuy có điều kỳ ảo nhưng
không thoát ly đạo thường, có điều biến hóa nhưng không mất đi lẽ chính. Và
trong tác phẩm chứa đựng tấm lòng ưu thời mẫn thế của Vũ Trinh, ông cũng
rất ý thức trong việc giữ gìn truyền thống, sửa sang phong tục. iều này có
thể thấy qua việc quay trở về sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian
để từ đó “giữ gìn truyền thống”, cái kỳ ảo trong truyện cũng không thoát ra
ngoài cuộc sống đời thường, tư tưởng của tác giả đã bắt đầu biến đổi theo
chiều hướng đơn giản hóa và quay về với cội nguồn dân tộc.
3.2.2.2. Đề cao nho giáo, khoa cử
Nho giáo với cương vị của một đạo trị nước, một học thuyết về quản lý
xã hội. iều này lý giải cho sự tồn tại của Nho giáo trong xã hội phong kiến ở
nước ta. Nho giáo phát triển hưng thịnh nhất dưới thời Lê Thánh Tông, nhưng
khi bước sang thế kỷ XVI – XVII, chiến tranh, nội chiến xảy ra liên miên, dẫn
đến xã hội có nhiều biến động, Nho giáo cũng vì thế có nhiều phần bị lung
lay. Bước sang thế kỷ thứ XVIII, là một thời kỳ rối loạn, đó là thế kỷ của
những cuộc chiến tranh nông dân, những cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn
thống trị àng Trong và àng Ngoài, những cuộc kháng chiến chống xâm
lược. Vì thế, những giá trị Nho giáo giờ đây bị đảo lộn. Tuy vậy, vì là một
học thuyết về quản lý nhà nước, nên các thế lực phong kiến vẫn cố gắng kiến
hưng, duy trì Nho gia, lập Nho giáo ở thế chủ đạo trong bối cảnh có sự đi lên,
phát triển dần của Phật giáo và ạo giáo. Theo đó, đại diện cho Nho giáo là
khoa cử, những cư sĩ, quan lại, coi trọng việc học hành ra làm quan… thể hiện
khá rõ nét trong truyện truyền kỳ giai đoạn sau. Tính chất yêu ma, quỷ quái
71
với những tình yêu nam nữ, chuyện tình kỳ lạ, táo bạo trong Truyền kỳ mạn
lục đã dần dần không còn nhiều bóng dáng trong Truyền kỳ tân phả hay Lan
Trì kiến văn lục hay Công dư tiệp ký… Vấn đề học hành khoa cử được coi
trọng và đặt lên hàng đầu. Trong giai đoạn trước, Truyền kỳ mạn lục viết ra
với những hình tượng nữ, tình yêu của nữ được viết với vai trò răn dạy người
nam giới, cảnh cáo họ nên tránh xa nữ giới, tình yêu đôi lứa để không bị ảnh
hưởng đến con đường tiến cử. Trong Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết
thế kỷ XIX, iáo sư Trần Nho Thìn có viết: “Đến Truyền kỳ mạn lục ở thế kỷ
XVI, ta vẫn còn gặp không ít hồn ma hóa thành những thiếu nữ xinh đẹp,
những cô gái có quan niệm phóng túng về tình yêu nam nữ, kể cả quan hệ
thân xác khiến cho các chàng trai ham mê tình dục đến chỗ thân bại danh
liệt. Đó là các chuyện kể như Truyện cây gạo, Yêu quái ở Xương Giang, Cuộc
kỳ ngộ ở Trại Tây… Xét hiệu quả giáo dục gián tiếp thì những sáng tác tuyên
truyền nữ sắc đáng sợ góp phần cảnh tỉnh, răn đe về những nguy hại của nữ
sắc đối với bậc hiền nhân, quân tử” [41, tr. 55]. ến truyện truyền kỳ ở giai
đoạn sau, quan niệm về Nho giáo gắn liền với việc tập trung vào khoa cử, thi
thố để được đề tên bảng vàng, được vinh quy bái tổ. Nàng Giáng Kiều khuyên
chồng là Tú Uyên không nên trễ nải việc học hành, vui thú gia đình điền viên
mà quên đi việc chữ nghĩa (trong Từ Thức tiên hôn lục); ức Liễu Hạnh khi ở
trần giới cũng không quên căn dặn chàng ào Lang quên đi việc dùi mài kinh
sử để có ngày được ra làm quan (trong Vân Cát thần nữ lục). Chàng họ Hà
sau khi được chàng họ Nguyễn khai thông trí óc đã quay trở lại con đường
học vấn, ôn thi miệt mài để đến ngày được cưỡi ngựa vinh quy bái tổ, làm
rạng danh gia đình dòng họ. ến khi chính chàng họ Hà trả ơn anh bạn họ
Nguyễn chưa thi đỗ làm quan của mình bằng một cách làm rất xúc động,
khiến chàng họ Nguyễn không khỏi cảm tạ và khâm phục. Sau cả hai người
cũng đỗ ra làm quan, tình bạn lại càng thắm thiết (trong Tùng Bách thuyết
72
thoại)….
Trong Lan Trì Kiến văn lục, Vũ Trinh có đến bảy truyện viết về đề tài
thi cử: Nguyễn Quỳnh; Tái sinh; Nguyễn ca kỹ; Thụ yêu; Báo ân tháp;
Nguyễn Trạng Nguyên; Kỳ mộng. ặc biệt, trong truyện của ông, có truyện,
những ngôi vị đầu bảng thường đều đã do thiên triều quyết định từ trước.
Trong Báo ân tháp, ông Cử ở Kinh Môn đáng lẽ đã bị đánh trượt do bài có
mắc nhiều lỗi, nhưng vì cô gái có duyên gặp gỡ với chàng mà đã chết đến báo
mộng xin quan chấm thi cho chàng qua, chàng mới được đỗ. Trong Kỳ mộng,
hai ông Cử họ Nguyễn và họ Trần dù đã được báo mộng trước về đề thi,
nhưng đến khi vào lều thi thì bèn quên sạch không thể nhớ được chữ nào, dù
trước đó đã chép ra và học thuộc lòng nhiều lần. Cuối cùng, bài phú ấy lại
đúng là của ông Lê Tân ở xã Cổ ôi, huyện Nông Cống, giống hoàn toàn với
bài phú hai ông Cử nghe được trong giấc mộng. Lan Trì Ngư iả bàn rằng
công danh phú quý là do tiền định, người không có phận thì thực cũng thành
mơ.
Bên cạnh đó, một số truyện cũng có đề cập đến vấn đề trong Phật giáo
đó là kiếp luân hồi như truyện Ký tam sinh, Ngộ Tiền Sinh, Bà Chúa Liễu
Hạnh trong Vân Cát thần nữ lục cũng trải qua ba kiếp giáng trần… tuy nhiên
dấu ấn cũng không nhiều, điều này chủ yếu khẳng định cho việc sử dụng các
yếu tố kỳ ảo – một đặc trưng điển hình của truyện truyền kỳ.
3.2.3. Những xu hướng mới về nghệ thuật biểu hiện
3.2.3.1 Sự tích hợp yếu tố dân gian trong đề tài, cốt truyện
Từ thế kỷ XVIII, thể loại truyền kỳ vẫn tiếp tục phát triển và tuy không
được giới nghiên cứu hiện thời công nhận nhiều, nhưng chúng ta phải thừa
nhận rằng truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục là sự cố gắng rất nhiều của các tác
giả. Truyền kỳ mạn lục mở đầu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, và khi vừa
73
ra đời nó đã đánh dấu được vị trí của mình, khi được xem là một áng “thiên
cổ kỳ bút” – một vị trí được xem như độc tôn. Dù vậy, theo lẽ thường tình của
mọi sự vật, hiện tượng, sẽ có sự hình thành, phát sinh và phát triển. Từ sau
Truyền kỳ mạn lục, thể loại truyện truyền kỳ ở Việt Nam vẫn tiếp tục phát
sinh, phát triển, thể hiện bằng sự ra đời của các tác phẩm truyền kỳ khác nữa,
đánh dấu con đường đi của thể loại này suốt chiều dài lịch sử văn học Trung
đại Việt Nam. Có thể nói, để có thể xứng tầm, hay thậm chí là để vượt qua
được Truyền kỳ mạn lục, các tác giả truyện truyền kỳ sau Nguyễn Dữ đã rất
kỳ công và đã có nhiều cách tân, canh tân, đổi mới để truyện truyền kỳ có cái
mới mẻ, độc đáo riêng. húng ta không khẳng định rằng các truyện truyền kỳ
khác ngoài Truyền kỳ mạn lục là xuất sắc hay hay hơn nhiều so với Truyền kỳ
mạn lục, nhưng chúng ta cần phải ghi nhận sự tồn tại của các tác phẩm ấy. Nó
đã tồn tại như nó cần phải thế. Những tác phẩm sau Truyền kỳ mạn lục như
Truyền kỳ tân phả ( oàn Thị iểm); Công dư tiệp ký (Vũ Phương ề); Lan
Trì kiến văn lục ( Vũ Trinh); Tân truyền kỳ lục (Phạm Quý Thích)… là những
tác phẩm như thế. Các tác giả hoặc làm mới cho tác phẩm của mình bằng cách
thêm chữ “tân” ngay ở nhan đề tác phẩm, hoặc tuy nhan đề không hề đề cập
đến thể loại là truyền kỳ nhưng trong các sáng tác lại mang đậm màu sắc kỳ
ảo của thể loại. Bước sang thế kỷ thứ XVIII, thế giới hiện thực bắt đầu được
tích hợp rõ nét hơn vào trong các sáng tác. iều này được phản ánh rõ ràng
khi mà bối cảnh lịch sử giai đoạn đó đã tác động đến xu hướng sáng tác của
các tác giả. ầu thế kỷ XVIII, bối cảnh xã hội tương đối phức tạp, khi mà chế
độ phong kiến đã ở sâu trong thời kỳ khủng hoảng, các thế lực phong kiến
như Lê – Trịnh ở đàng Ngoài, Nguyễn ở đàng trong ra sức bóc lột nhân dân,
ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến và xa lầy vào những cuộc ăn chơi vô độ,
gây ra nỗi khổ hạnh cho nhân dân. Tình cảnh xã hội ngày càng trở nên đen
tối, khổ đau, vua quan thì bỏ quên chính sự, ăn chơi sa đọa, vơ vét, bóc lột
74
của dân, dân chúng thì đói nghèo, lầm than, bệnh tật, luôn sống trong nơm
nớp lo sợ… Trước thực trạng khốn cùng ấy, nhân dân chỉ còn duy nhất một
con đường đó là vùng lên khởi nghĩa. Những năm 30 – 40 của thế kỷ XVIII,
phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra rầm rộ, sôi nổi, tuy không có nhiều
thành công nhưng đã giáng những đòn đau điếng vào chế độ phong kiến.
Sự kết nối trong nhân dân, công cụ để tạo nên niềm tin, sức mạnh và
tinh thần đoàn kết, cổ vũ họ phấn đấu chính là cơ hội và điều kiện để những
yếu tố của văn học dân gian xuất hiện, đó là những điều dễ hiểu, dễ nghe và
tạo nên sự cuốn hút. Tận dụng điều đó, các tác giả sáng tác truyện truyền kỳ
thời điểm này cũng tích hợp trong tác phẩm của mình nhiều yếu tố của văn
học dân gian, đưa đến một tiến bộ mới về tính hiện thực, tính nhân văn, tinh
thần nhân đạo chủ nghĩa. iện thực về những cuộc khởi nghĩa của nông dân
cũng đi vào trong các tác phẩm, phản ánh rõ nét bối cảnh đương thời.
Trong So sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Trần Ích
Nguyên có nhắc đến Truyền kỳ tân phả và ông cho rằng Truyền kỳ tân phả là
cuốn mô phỏng sớm nhất Truyền kỳ mạn lục. Thực vậy, ngót nghét gần hai
thế kỷ sau khi Truyền kỳ mạn lục ra đời ta mới thấy xuất hiện một tác phẩm
truyền kỳ mới do một tác giả là nữ sĩ sáng tác. Truyền kỳ tân phả xuất hiện
muộn và mang trên mình chữ “tân” để chứng tỏ cho người đời thấy, dù sau
khoảng thời gian khá lâu mới xuất hiện nhưng điều đó là có nguyên nhân. Tác
giả còn phải canh tân, làm mới truyền kỳ rồi sau đó mới giới thiệu đến bạn
đọc.
Truyền kỳ thời đại mới thường gắn với đời thực, lấy câu chuyện kỳ ảo
để từ đó răn đời. Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích kể về những câu
chuyện con vật như con chó, con ve, con nhặng xanh, âu đến cuối cùng gắn
chúng với kẻ sĩ, người ngay kẻ gian… để kết chuyện lại đề ra câu nói răn đời,
75
than thở cho cái xã hội nhiễu nhương này. Lan Trì kiến văn lục kể về những
câu chuyện văn nhân, những chuyện tình trắc trở, những chuyện kỳ lạ…
nhưng tác giả lại cố gắng đưa một nhân vật mình quen biết hay chính bản thân
mình chứng kiến câu chuyện xảy ra, câu chuyện được kể để biến câu chuyện
lạ đó gần với đời thực hơn; “kiến” tức là chứng kiến, nhìn thấy. Tuy vậy,
những kết cấu câu chuyện, đề tài chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy được tích
hợp khá nhiều từ trong dân gian. Các truyện truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục
vẫn tiếp tục kế thừa nguồn văn liệu dồi dào từ văn học dân gian, nó được tích
hợp trong đề tài, chủ đề… ở các sáng tác này.
Trong Truyền kỳ tân phả, chúng ta sẽ nhìn thấy một motip quen thuộc
của truyện cổ tích khi đọc truyện Bích Câu kỳ ngộ, giống với truyện cổ tích
Người đẹp trong tranh. Motip chàng trai gặp cô gái đẹp rồi tương tư, người
đẹp ẩn mình trong bức tranh sau đó hiện ra những lúc chàng vắng nhà. Chàng
trai thấy điều lạ rồi phát hiện ra người đẹp trong tranh… Bích Câu kỳ ngộ của
oàn Thị iểm cũng kể chuyện theo motip như vậy, nhưng có phần cầu kỳ
hơn. hàng trai Tú Uyên vốn là một người hào hoa, phong nhã, giỏi thơ văn,
chỉ cần đặt bút là viết được thành văn, thơ làm ra không đếm kể. Chàng có
một đặc điểm là không khi nào tin vào thần tiên nên sáng tác ra bài thơ “Bất
tín thần tiên” để thể hiện quan điểm của mình. Bất ngờ trong một lần đi chơi
hội, chàng Tú Uyên bắt gặp một bài thơ viết trên chiếc lá đưa đến trước mặt
mình mà chàng phải lấy làm lạ khi có một đối thủ làng thơ. Rồi chàng được
gặp cô gái – vốn dĩ là một nàng tiên “trạc độ mười bảy, mười tám tuổi, mày lá
liễu, má hoa đào, ăn mặc gọn gàng” và đem mối tương tư, cả đêm thức trắng
không sao ngủ được. Rồi chàng được một ông già bán cho một bức tranh tố
nữ - cô gái trong tranh lại giống y hệt ngươi con gái chàng đã tương tư. em
tranh về treo, mỗi lần gió sáng trăng chiều lại mượn tranh tiêu sầu. Từ đó cứ
coi như trong nhà có một người nữa, ăn cơm mời cùng ăn đến một tháng trời,
76
thì than thở rằng mãi không có người nội trợ, trách người con gái đẹp lạnh
nhạt không đối đáp lại tình chàng. Sau hôm đó, chàng đi học về thì thấy có
cơm dẻo canh ngọt chờ sẵn, toàn là những thức ngon vật lạ, liền thấy lạ lẫm
không biết ở đâu. Từ đó mỗi khi đi học về chàng đều thấy có sẵn cơm chờ
mình, liền một hôm giả vờ đi học, nửa đường quay trở về thình lình gặp được
cô tiên từ trong tranh bước ra. Lúc này chàng Tú Uyên liền có người vợ là
tiên, tên Hà Giáng Kiều. Nàng Giáng Kiều dù là tiên nữ trên trời, nhưng khi
thành vợ chàng Tú Uyên thì hết mực làm một người vợ hiền, ngày ngày lo
cơm nước, khuyên can chồng việc rượu chè tới nơi tới chốn. Một nàng tiên lại
vừa đẹp người, đẹp nết, khi mới quen Tú Uyên, vì không muốn duyên dễ
được dễ mất mà tự đặt ra những cách trở ban đầu để những mong được gìn
giữ lâu bền về sau, ấy vậy mà nàng cũng có lúc phải trải qua hoàn cảnh đáng
thương. hàng Tú Uyên vì có vợ lo toan mọi chuyện đâm ra nhàn thân,
thường hay rượu chè bê tha. “Thì giờ thấm thoắt, dần dà đã đến ba năm. Biết
đâu thế sự đương hay nhiều phần đâm ra dở, đến nỗi nhầm nhỡ cả giai kỳ.
Chỉ vì tính chàng thích uống rượu, hàng ngày sống trong cảnh phấn hương là
lượt, khề khà làm vui, thường muốn ép nàng cùng uống rượu.” Chàng Tú
Uyên có ý không nghe lời khuyên của vợ, vẫn cứ rượu chè bừa bãi, những lời
thề thốt đều bị ma men làm cho quên hết. Giáng Kiều vẫn rất mực khuyên can
mà không được. “Trong cơn tức giận, chàng lấy roi đánh nàng, đuổi nàng đi.
Nàng cố van xin, chàng vẫn không thèm để ý”. Bất lực trước người chồng bê
tha, nàng đành bỏ đi trong buồn tủi, mai khi sau này Tú Uyên tỉnh ngộ nàng
mới trở về sum họp. Sau cả hai vợ chồng cùng bay về trời sống cuộc sống của
người tiên. Truyện Vân Cát thần nữ kể câu chuyện về đức Liễu Hạnh công
chúa ba lần giáng trần kết duyên cùng chàng ào Lang, sau để lại nhiều công
đức cho đời, giúp vua đánh giặc, được lập đền thờ công đức và dân chúng thờ
cúng đến tận ngày nay. ây là một nhân vật đã có từ trong truyền thuyết,
77
nhưng qua ngòi bút của nữ sĩ oàn Thị iểm, Liễu Hạnh công chú hiện lên
với nhiều sắc thái cảm xúc và tài năng. Vị thần được nhân dân thờ cúng tuy là
linh thiêng, là người cõi trời cõi tiên nhưng vẫn có những điều gần gũi, vẫn
sinh con đẻ cái, và có những cảm xúc của con người trong cuộc sống đời
thường. Chỉ khác là, nguồn gốc của bà vốn là tiên trên trời mà thôi.
Tình tiết về yếu tố sinh đẻ kỳ lạ cũng được đề cập đến trong Vân Cát
thần nữ lục khi bà mẹ 40 tuổi mới có một con trai. “Đến năm Thiên Hựu, bà
vợ có mang đã quá kỳ sinh nở, tự nhiên mắc bệnh nặng, cả ngày không ăn
uống gì cả, chỉ thích hương hoa thơm mà thôi. Người nhà ngờ là yêu quái liền
mời thầy cúng lễ, nhưng bệnh bà lại càng tăng thêm”. Sau khi chồng bà là
Thái Công bị ngất đi và lạc đến chốn cung tiên thì nhìn thấy câu chuyện một
tiên đồng làm rơi mẻ chiếc chén liền bị dẫn đi phạt, mà theo lời đồn là phải
giáng xuống trần gian. Khi tỉnh dậy thì bà mẹ đã sinh ra một người con gái,
mà cô con gái ấy lại chính là người tiên nữ bị phạt giáng xuống trần trong
giấc mộng của người cha. Motip sinh đẻ kỳ lạ còn gặp trong một số truyện
khác ở Lan Trì kiến văn lục như là Đứa con của rắn, Đẻ lạ,… là câu chuyện
tác hợp giữa thần với người, mẹ chết mà con vẫn được chào đời, sau là hồn
ma nuôi con bằng quà bánh… Những sáng tạo của tác giả có dựa trên motip
truyện từ dân gian làm nên những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn. Chuyện tình ở
Thanh Trì lại rất giống với truyện cổ tích Trương Chi – Mị Nương, gắn liền
với hình ảnh con đò, người lái đò và những câu hát mê đắm lòng người. Cùng
có một motip chàng lái đò nhà nghèo nhưng lại có tiếng hát hay, con gái phú
ông say mê tiếng hát ấy mà ốm tương tư, muốn được lấy chàng lái đò làm
chồng. Nhưng tiếc rằng phú ông chê chàng trai nghèo, không môn đăng hậu
đối với gia đình ông nên nhất quyết không gả con gái cho. ây là một câu
chuyện tình éo le, đầy bi thương của chàng trai nghèo với cô gái nhà giàu.
Câu chuyện của Vũ Trinh có cải biên đi đôi chút, là chàng Nguyễn Sinh phẫn
78
uất mà bỏ đi tìm đường làm giàu, quyết có tiền rồi trở về cưới cô gái. Nó gắn
liền với hiện thực cuộc sống khi buôn bán, thương lái đang dần dần phát triển
trong xã hội. hàng Trương hi không chỉ nhà nghèo mà ngoại hình, khuôn
mặt cũng không được đẹp để đến nỗi nàng Mị Nương vô cùng thất vọng. Sau
này chàng Trương mới là người chết trước, cũng vì một nỗi ốm tương tư. âu
chuyện của Vũ Trinh tuy cũng có một người phải chết vì tình nhưng tình tiết
nhỏ lẻ thì được cải biên đôi chút, một phần là thể hiện sự sáng tạo mới mẻ của
ông, một phần là để gần với cuộc sống hiện thực thời kỳ ông sống.
Trong Lan Trì kiến văn lục, tác giả Vũ Trinh cũng dựng lên nhiều
chuyện khai thác đề tài từ truyện cổ tích như là truyện Sống lại, ta thấy motip
trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam như truyện Anh chàng họ Đào,
Chuyện tình ở Thanh Trì giống với cốt truyện Trương Chi, Mị Nương, truyện
Ông tiên ăn mày giống với cốt truyện Hai anh em…
Câu chuyện thường gây ra các xung đột và giải quyết các xung đột từng
bước, từ đó dẫn đến một ý nghĩa phản ánh, thường là phản ánh giá trị nhân
đạo, khuyến thiện trừng ác, hoặc làm ơn được trả ơn hoặc có công thì sẽ được
đền đáp. Tuy nhiên, khi bước sang tác phẩm truyền kỳ được các tác giả sáng
tác, nó không còn mang ý nghĩa đơn thuần như truyện kể dân gian nữa mà có
ý nghĩa đối với xã hội, thực tiễn sâu sắc hơn.
3.2.3.2. “Bác học hóa” những văn liệu từ dân gian
Mặc dù những truyện truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục như là Truyền
kỳ tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Công dư tiệp ký… đều mang khá đậm nét
yếu tố của văn học dân gian trong đó. Tuy vậy, làm nên giá trị tác phẩm,
khẳng định khả năng sáng tạo của các tác giả, không thể không nói đến những
cái mới, những cái thuộc về sự phát triển câu chuyện của các tác giả viết
truyện truyền kỳ. Truyền kỳ tân phả được sáng tác vào khoảng đầu thế kỷ
79
XVIII, thời kỳ này, những khuôn mẫu về lễ giáo, nề nếp nho giáo đã đi vào
quỹ đạo và dần trở thành một lối mòn, có tác động sâu sắc tới tiềm thức của
con người, nhất là những người làm văn, những người sáng tác nghệ thuật.
hính để phù hợp với những quy chuẩn ấy và cả xu hướng phát triển chung
của văn học thời kỳ này, các sáng tác văn học nói chung, truyện truyền kỳ nói
riêng cần có quá trình “bác học hóa”. iều này thể hiện rõ nét nhất trước hết ở
các nhân vật trong Truyền kỳ tân phả. Vốn dĩ là một tác giả nữ, những câu
chuyện bà sáng tác cũng đều liên quan đến giới nữ, nhân vật chính là nữ giới.
Vai trò của người phụ nữ cũng vì thế mà được đẩy lên cao. Khác với truyện
truyền kỳ trước đó là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, nhân vật của oàn
Thị iểm có phần được “chọn lọc” kỹ lưỡng hơn. Nếu như ở Truyền kỳ mạn
lục, nhân vật nữ có thể là những cô gái có xuất thân bình thường, những cô
gái là ma nữ, yêu quái, hồn hoa, bóng quỷ… thì nhân vật nữ của oàn Thị
iểm thường có xuất thân danh giá, không phải con nhà quan, con của quân
vương thì cũng là tiên giáng trần, thần tiên trên trời. Câu chuyện kỳ ảo xoay
quanh các nhân vật này cũng không tạo nên một sự quá rùng rợn như ở
Truyền kỳ mạn lục, bởi lẽ họ đều là những nhân vật mang đến điều lành cho
những người xung quanh, chứ không phải những bóng ma chuyên đi trêu
ghẹo dân lành như trong Đào thị nghiệp oan ký hay Mộc miên thụ truyện…
trong Truyền kỳ mạn lục.
Bên cạnh xuất thân quý phái, những người phụ nữ này còn có một đặc
điểm là rất tài hoa, có học thức và thậm chí còn đóng vai trò định hướng,
khuyên răn cho người đàn ông của mình. Sự đề cao người phụ nữ ở oàn Thị
iểm có phần đậm nét và rõ ràng hơn Nguyễn Dữ. Nguyễn Dữ có chăng chỉ
là sự cảm thương, tìm cách giải thoát những bế tắc cho họ, còn đối với oàn
Thị iểm, nhân vật nữ lại có phần mang tính tự chủ, tự định đoạt hướng đi và
quyết định của mình, thậm chí còn là nơi dựa vào cho những nhân vật nam
80
xuất hiện trong truyện. Như nàng Phù Dung trong Truyện đền thiêng ở cửa
bể. Nàng Nguyễn ơ là một cung phi triều Trần trong Truyện đền thiêng ở
cửa bể, vốn là một con gái nhà quan, tính đứng đắn, tư dung xinh đẹp, thông
hiểu âm luật nên được kén vào hậu cung. Nàng rất được vua yêu và quý mến
tài ứng khẩu thơ ca của nàng, được vua ban tên là Phù Dung. Phù Dung
không chỉ thông làu âm luật, thi ca, nàng còn có những dự cảm nhạy bén
trong chính sự của nước nhà nên đã có những lời can gián dâng lên vua. ến
vua cũng phải thốt lên mà rằng: “Không ngờ một nữ nhi lại thông tuệ đến thế!
Thật là một Từ Phi ở trong cung của trẫm vậy”. Hết lần này tới lần khác, Phù
Dung đều có những nhìn nhận thấu đáo và đưa ra lời khuyên cho nhà vua,
nhưng vì tính cố chấp, nhà vua vẫn không nghe theo lời nàng mà đem binh đi
đánh hiêm Thành. Nàng phận làm vợ cũng cùng ra chiến trận mang theo
nhiều dự cảm chẳng lành. ái gì đến cũng đến, trên đường vào chiến trận, gió
bão nổi lên, sóng bể gào thét, rồi thấy một người nanh to, râu xồm vào yêu
cầu vua gửi cho một người nội trợ trong đám cung phi néu không sẽ không bỏ
qua cho quân binh nhà vua. Phù Dung biết sự tình chấp thuận hi sinh thân
mình để bảo toàn cho vua và các binh sĩ. ái chết đáng thương của nàng dẫn
đến một cuộc sống buồn tủi vì phải chung sống với một kẻ yêu quái dưới thủy
giới. Một người liệt nữ xứng đáng sau này được giải oan, lập đền thờ, nhưng
cũng đau xót vì thất thời thất thế, không quay lại được, không để cho vua
nghe theo lời khuyên chân thành của nàng được. Tuy vậy, trong cả câu
chuyện, nàng nổi bật lên là một người am tường nhất, lường trước được mọi
điều, chỉ hiềm một nỗi không được nghe theo. Phù Dung xuất thân con quan
lại giỏi trong thơ ca, trong chính sự âu cũng là một người phụ nữ có giá, dù
cho số phận nàng cũng chẳng bớt phần đau thương. Sự quyết định trầm mình
xuống biển, giao thân cho Hải Khẩu iao ô đốc vùng Nam Hải vốn là một
tên yêu quái hay hưng yêu tác quái “chuyên quyền, phóng túng, tham sắc đẹp,
81
ăn hối lộ”, chỉ hằng mong thuyền của vua được yên ổn ra trận đánh hiêm
Thành. Là một người phụ nữ thông minh, cầm kỳ thi họa món gì cũng tinh
thông lại am hiểu chuyện chính sự, nhiều lần thường can gián vua nhưng
không được, dẫu vậy nàng vẫn cố gắng làm đủ mọi cách để thể hiện tấm lòng
của người vợ đối với đức phu quân, của nghĩa tôi đối với một vị vua của một
nước, không ngại hi sinh thân mình trong bất cứ hoàn cảnh nào để được làm
tròn bổn phận của một người phụ nữ - là hậu phương vững chắc của người
đàn ông. Từ trong những câu chuyện dân gian, người phụ nữ của gia đình đã
sớm được đề cao, ca ngợi, cho đến thời kỳ phong kiến, với những quy định
chuẩn mực chặt chẽ, người phụ nữ lại càng có những khuôn mẫu phải tuân
thủ, đó vừa là trách nhiệm lại vừa là gánh nặng đối với họ - trong con mắt của
những người trong thời kỳ hiện đại nhìn về quá khứ ấy. Họ cũng vì thế trực
tiếp đi vào những sáng tác của các tác giả trung đại, để người đọc nhìn thấy
hiện thân người phụ nữ trong xã hội xưa, vừa khâm phục lại vừa thương cảm
cho họ.
Nàng tiên Giáng Kiều, vợ chàng Tú Uyên vốn là tiên nữ trên trời nên tư
dung xinh đẹp lại thông làu thi luật, khiến Tú Uyên phải thán phục. Khi thành
vợ chàng Tú Uyên thì hết mực làm một người vợ hiền, ngày ngày lo cơm
nước, khuyên can chồng việc rượu chè tới nơi tới chốn và nàng cũng là một
người chủ động. Dù có lòng cảm mếm Tú Uyên, dù đã nhìn thấy sự si tình
của chàng trai dành cho mình, nhưng nàng vẫn nhất quyết ẩn mình một thời
gian dài trong bức họa, không chịu bước ra sớm để gặp chàng trai ấy. Nàng
cho rằng tạo cho chàng sự quý trọng khi những bước đầu tiên cần có sự gian
nan, để hai người biết đường yêu thương nhau mà ở bên nhau dài lâu vẹn
tròn. ến khi bị Tú Uyên đuổi đi, dù nhìn thấy sự ăn năn, hối hận rõ mồn một
của chồng, nàng cũng không mủi lòng mà sớm xuất hiện. Chỉ khi Tú Uyên
lựa chọn việc quyên sinh đời mình nàng mới xuất hiện để cứu độ chàng cũng
82
như nối lại duyên xưa cùng chàng. Rồi từ đó, nàng không chịu sống ở cảnh
trần gian ngắn ngủi bèn khuyên Tú Uyên học theo đạo tiên để cùng nhau lên
chốn thiên đình sinh sống. Nàng Giáng Kiều đã đạt được một thành công
không hề nhỏ khi cảm hóa được một người đàn ông, khai sáng tư tưởng cho
Tú Uyên - nếu như trước đây chàng không bao giờ tin vào tiên, Phật thì nay,
nhờ có duyên kỳ ngộ này, được lấy đúng vợ tiên, đáng nói hơn là lại học theo
đạo tiên để được lên chốn tiên cảnh ở… Viết về những người phụ nữ như vậy
mới cho thấy sự đề cao nữ quyền của oàn Thị iểm. Vốn là một tác giả nữ,
viết những tác phẩm xoay quanh nhân vật nữ, bà như muốn thay mặt giới nữ
nói lên lòng mình, sự tài năng cũng như tiếng nói bình đẳng của nữ giới. ây
là một điểm khá mới mẻ và mang dấu ấn đậm nét trong Truyền kỳ tân phả và
được xem như một bước tiến mới từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đến
Truyền kỳ tân phả trong việc xây dựng hình tượng nữ với sự khẳng định một
cách sâu sắc hơn vai trò của người phụ nữ trong gia đình nói riêng và trong xã
hội nói chung. Họ cũng có tiếng nói, cũng có những sự quả quyết và định
hướng hướng đi của gia đình, không phải chỉ khi trở thành hồn ma rồi, được
giao cho một trọng trách nào đấy nơi đền thiêng hay dưới thủy cung… đã có
những cái nhìn được trước sự việc để báo mộng về khuyên răn người nhà nữa,
mà chính họ nhìn nhận sự việc, không thông qua một thế lực nào khác.
Người phụ nữ trong sáng tác của các tác giả truyền kỳ đều giữ được sự
chủ động của mình, nếu như nhân vật nữ của Truyền kỳ mạn lục có những lúc
chủ động trong chuyện tình ái, ham muốn dục vọng thì người nữ trong Truyền
kỳ tân phả cũng có những điểm mạnh riêng, đó là dẫn dắt, định hướng cho
người đàn ông của mình. Cách nhìn của tác giả về một sự vật hiện tượng đã
bắt đầu có sự chuyển hướng. Nếu như nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục
với loại hình là những yêu tinh, hồn ma, hồn hoa… qua lời kể của Nguyễn Dữ
có phần hoạt động khá tự do so với khuôn phép của nhà nho, gây kích thích
83
trí tưởng tượng và gây ra sự hấp dẫn thì đến Truyền kỳ tân phả của oàn Thị
iểm, tuy là người phụ nữ ở dạng tinh yêu lại được gắn với những khuôn mẫu
nhất định, không làm những chuyện quá lệch khuôn, gây ra những sự kích
thích mới lạ. Nhân vật phụ nữ là tinh ma của Nguyễn Dữ - một tác giả nam
hiện lên rất mới lạ trong bối cảnh xã hội ông sống. Những nét táo bạo khi diễn
tả những cảnh hoan lạc ái ân, sự táo bạo của người nữ trong việc mê hoặc,
quyến rũ bạn tình có vẻ trước đó chưa có tác phẩm nào lột tả một cách rõ nét
đến như vậy, gây ra những sự tò mò, sự “thích thú” vì điều mới lạ nơi người
đọc, hay chính là cảm thức của những nhà nho không đứng đắn. Chất nho học
được oàn Thị iểm lồng ghép vào trong tác phẩm của mình đậm đặc hơn
khi những khuôn phép, những chuẩn mực vẫn được thi hành, không có gì
vượt quá đáng qua khuôn mẫu ấy. Nhân vật nữ từ Truyền kỳ mạn lục đến
Truyền kỳ tân phả có những nét chuyển hóa dần dần, yếu tố kỳ vẫn xuất hiện
đi cùng những nhân vật, nhưng có vẻ các nhân vật dù còn mang hơi hướng
thoát tục những nét chân thực dần dần gần gũi hơn. ọc hai tác phẩm, người
đọc có cảm giác sáng tác của Nguyễn Dữ có phần ly kỳ, hấp dẫn hơn, cuốn
hút người đọc đi theo từng hành động, việc làm, thái độ của nhân vật, thậm
chí gây cho người đọc những nỗi kinh sợ, rợn tóc gáy như khi đọc Chuyện
cây gạo hay Chuyện nghiệp oan của Đào Thị… Nhân vật nữ được ông tái
hiện có phần gai góc hơn, táo báo hơn và mang nhiều sắc thái kỳ ảo - đặc
trưng lớn nhất của truyện truyền kỳ. òn như đọc tác phẩm của oàn Thị
iểm, Truyền kỳ tân phả dù tác giả có nhắc đến các khung cảnh khác với đời
sống thực tại là chốn thủy cung, chốn thiên đình, tiên cảnh, hay cả âm ti,
người đọc được lãng đãng du ngoạn cũng các nhân vật đến với những miền
đất thần tiên, không có thật, nhưng tuyệt nhiên không hề có nhiều cảm giác
kinh sợ hoặc quá ngạc nhiên, bất ngờ. Từ những cảm thức chân thực ấy mới
cảm thấy yếu tố kỳ ảo trong đây dù có nhưng không quá nỗi khiến cho người
84
đọc thấy sự ảo diệu khôn lường. hưa hết, những nhân vật xuất hiện trong
những không thời gian thực chân thực như địa chỉ tỉnh, huyện, vùng miền rõ
ràng khiến cho yếu tố ảo bị giảm đi đáng kể. Nhân vật nữ trong Truyền kỳ tân
phả cũng vì thế tạo cho người đọc có cảm giác gần gũi, chân thực hơn. ọ chỉ
đơn thuần là những người vợ hiền, những nàng tiên hiền lành rất mực vì gia
đình nơi trần thế, không gây phương hại đến ai, gặp phải điều tai ương cũng
là do vạn bất đắc dĩ phải cam chịu, nó gần gũi hơn với hình ảnh của người
phụ nữ Việt Nam trong chuẩn mực của lễ giáo phong kiến, hay chính là nho
giáo.
Long hổ đấu kỳ trong Truyền kỳ tân phả mang yếu tố về những câu
chuyện truyền thuyết. Ta có thể nhận thấy hình tượng con rồng chính là một
nét của văn hóa truyền thống phương ông nói chung và văn hóa Việt Nam
nói riêng. Rồng là tượng trưng cho nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Lấy
hình tượng từ trong truyền thuyết, như trong Con rồng cháu tiên, rồng có cái
uy và mặc sức thể hiện tài năng và niềm mến mộ của con người dành cho
mình. ó là đặc quyền và lợi thế riêng của nó. Cuộc đối đầu đầy cam go,
không ai nhường phần ai giữa rồng và hổ hay chính là thể hiện tài năng của
tác giả trong trí tưởng tượng và sự vận dụng những kinh nghiệm dân gian,
kinh nghiệm trong đời sống để bày ra đủ các thể tài của hai loài vật. Nhân vật
“ta” khi giải thích cho vị đạo sĩ nghe về loài rồng và hổ được tạo nên bởi khí
tinh, khí thô như thế nào, nên nhìn vào và tin vào, chọn nơi kết bạn là rồng
chứ không phải hổ để thấy được sự am hiểu, lý lẽ sâu sắc, có tình có lý. Từ
một câu chuyện tranh đua hơn kém của rồng và hổ mà nói đến đạo lý sống
trong cuộc đời. ó là lời răn phải biết tinh tường trong nhìn nhận con người
và các sự vật, hiện tượng diễn ra quanh ta để phân biệt rõ phải trái, trắng đen,
từ đó mà đi theo lẽ đúng, lánh xa điều trái, giống như là lời khuyên nên nghe
85
và tin vào tài năng của rồng còn giống hổ chỉ là kẻ thù, quân bạc nhược vậy.
Từ những yếu tố, motip tích hợp từ nguồn văn học dân gian, tác giả
oàn Thị iểm sáng tạo thêm, mở rộng tình tiết, kết cấu câu chuyện khiến
cho câu chuyện trở nên phong phú hơn. Như là việc gắn thêm phần cuộc sống
đời thường, phần con người bản năng yêu chồng thương con, hết lòng vì gia
đình cho đức Chúa Liễu Hạnh trong Vân Cát thần nữ lục, vốn là một bà chúa
linh thiêng được nhân dân thờ cúng suốt bao đời nay. Những người phụ nữ
trong sáng tác của bà, ai cũng có tài thơ văn, khéo léo khuyên chồng sửa mình
cho đúng bậc quan, theo nghiệp khoa cử. Trong mỗi truyện, yếu tố thơ từ
được tích hợp rất dày đặc, thể hiện tài năng của oàn Thị iểm. Hải khẩu
linh từ lục có một bài “Kê minh tập sách”, một bài tế chiêu hồn, hai bài thơ;
An Ấp liệt nữ lục có tới 12 câu thơ và bài thơ, một bài văn tế; Vân Cát thần
nữ lục có 17 bài thơ, từ và câu đối; Bích Câu kỳ ngộ có 18 vế thơ, bài thơ;
Tùng bách thuyết thoại có 07 câu thơ, bài thơ… ôi khi, dung lượng thơ
chiếm phần lớn dung lượng của tác phẩm. Theo như nhận xét của Phan Huy
Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì Truyền kỳ tân phả “văn từ đẹp
đẽ nhưng khí cách hơi yếu, không được bằng sách trước”, tức sách Truyền kỳ
mạn lục của Nguyễn Dữ. Theo như Trần Ích Nguyên trong So sánh Tiễn đăng
tân thoại và Truyền kỳ mạn lục thì cho rằng Truyền kỳ tân phả của oàn Thị
iểm là cuốn mô phỏng Truyền kỳ mạn lục sớm nhất hiện còn. ây là những
sách truyền kỳ mang phong khí sáng tác, chứ không đơn thuần chỉ là sự ghi
chép lại như thể chí quái, chí dị như trước đây nữa. Tuy vậy, các sáng tác
truyền kỳ thế kỷ XVIII, truyện truyền kỳ có một chiếc áo mới mẻ hơn khi
cung cách sáng tác có phần quay lại với nguồn “dinh dưỡng” từ văn học dân
gian dồi dào hơn, các tác giả lồng ghép tài năng cũng như chứng minh điều
mình kể ra là có thật, tức mang nét gần gũi với cuộc sống đời thực hơn. iều
này có thể kể đến khi oàn Thị iểm giới thiệu các nhân vật của mình
thường nêu rất rõ địa điểm, thời gian diễn ra sự việc, còn Vũ Trinh lại thường
trong câu chuyện của mình dẫn ra người ông quen biết hoặc một nhân vật có
86
thật trong lịch sử từng được chứng kiến câu chuyện, hoặc kết quả của câu
chuyện ấy. Trong An Áp liệt nữ lục, oàn Thị iểm ngay đầu tác phẩm giới
thiệu: “ oàng triều khoảng niên hiệu Vĩnh Thịnh, có một vị Tiến sĩ trẻ tuổi,
tên là inh oàn, hiệu là Mặc Trai, người làng An Ấp. Nghệ n”; trong Bích
Câu kỳ ngộ, tác giả giới thiệu: “Phường Bích Câu ở phía tây nam thành
Thăng Long (phường này thuộc huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên trong
Đô thành), có cái gò Kim Quy (gò này ở bên hữu nhà Quốc Tử giám) cạnh
đấy có cái ao hình cách phượng (thường gọi là Phượng Trì, nay gọi là hồ Tú
Uyên), hồ ao vây bọc, cây cỏ xanh tươi, đã lâu không có người ở. Về đời
Hồng Đức có một người học trò họ Trần, tên Uyên, tự Vưu Ban, vốn con nhà
phúc hậu, trọng thi lễ. Cha làm quan huyện, có âm đức, mãi về sau mới sinh
ra Uyên…” [29, tr. 358]. ịa chỉ, niên hiệu rõ ràng, thậm chí là cả học hàm
của nhân vật trong truyện cũng được giới thiệu rõ ràng, để câu chuyện gần gũi
hơn với cuộc sống đương thời. Ở Lan Trì kiến văn lục, tác giả Vũ Trinh cũng
lồng ghép các yếu tố đời thực vào trong tác phẩm. Câu chuyện Cá thần, sau
khi kể về chuyện người lái buôn khi bị chủ thuyền hãm hãi đẩy xuống biển thì
ông ta được cá thần cứu giúp, tên thuyền trưởng độc ác bị trừng trị thì cuối
truyện có đoạn: “Bấy giờ, ông chú tôi là Triện Lĩnh bá Trần Danh ương làm
tướng coi đồn binh ộng Hải, xét xử án ấy, nhưng vì lâu ngày, quên mất tên
người lái buôn”. Hay truyện Con hổ hào hiệp, sau khi kể chuyện con hổ tốt
bụng với người lương thiện và đứa bé vô tội, trừng trị kẻ làm cha mà gian ác,
lừa lọc. Cuối truyện lại có câu: “Việc này xảy ra vào năm anh Tuất (1790).
Em họ tôi là Trần Danh Lưu đi Lạng Sơn được nghe kể lại… Sở dĩ nhan đề
tác phẩm là Lan Trì kiến văn lục, tức kể những chuyện ông Lan Trì được
chứng kiến (Lan Trì là tên hiệu của tác giả Vũ Trinh). Ngay nhan đề đã nói
lên hướng đi của tác giả, tức tập trung nêu lên những câu chuyện của mình
viết đều là chuyện đã từng nghe, nay ông chỉ tập hợp lại thành tập truyện này.
Màu sắc kỳ ảo tuy có nhưng cuối mỗi truyện lại gắn thêm lời bàn luận của tác
giả hoặc kể tên người từng chứng kiến, từng được nghe câu chuyện đó.
87
Truyện truyền kỳ đến giai đoạn này đã bắt đầu có một hướng mới mẻ, không
còn đi quá xa so với những miêu tả, lột tả ngoài tầm kiểm soát của người trần
mắt thịt như trước đây – tức Truyền kỳ mạn lục nữa.
Tiểu kết: Sau Truyền kỳ mạn lục phải đến gần hai thế kỷ chúng ta mới được
tiếp tục có được những tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ, tiêu biểu là Truyền kỳ tân
phả của oàn Thị iểm. Tác phẩm đại diện cho những nét canh tân mới mẻ của thể
loại truyền kỳ sau một khoảng thời gian vắng bóng. Khoảng thời gian “đứt mạch”
không phải là ngắn, các tác giả sáng tác truyện truyền kỳ có đến gần hai thế kỷ để
chuẩn bị, tích lũy và làm nên những điều mới mẻ, “canh tân” cho thể loại để giới
thiệu đến toàn thể văn đàn. Không phải lẽ ngẫu nhiên có được một “sự chuẩn bị”
dài hơi đến vậy. Có lẽ, trước cái bóng quá lớn của Truyền kỳ mạn lục, các tác giả
thế hệ sau phải tìm cách để cho đứa con tinh thần của mình khi chào đời sẽ không bị
vùi dập, có đất để tồn tại và được mọi người công nhận. Những điều được các tác
giả canh tân dù rất nhỏ nhặt, ở từng chi tiết nhỏ như lối hành văn, cách vận dụng
chất liệu dân gian về đề tài, cốt truyện… cũng làm nên một cái khác so với truyện
truyền kỳ trước đó. Những thay đổi đó là nỗ lực của các tác giả hay cũng chính là
hoàn cảnh xã hội, các giá trị văn hóa của đời sống lúc bấy giờ quyết định đến xu
hướng sáng tác của các tác giả truyện truyền kỳ. Truyện truyền kỳ dù có yếu tố kỳ
ảo nhưng đã bớt ma mị, bớt phần dâm tục, nhiều phần màu sắc dân gian và nhiều
phần đời thực tích hợp trong đó. ây là một diện mạo mới của truyện truyền kỳ, tuy
không đem lại nhiều điểm vượt trội hơn về những cái kỳ ảo cho thể loại, nhưng lại
là một bước chuẩn bị vững chắc cho sự ra đời của các thể loại truyện ngắn, ký sự…
trong giai đoạn mới. Sự tích hợp của nhiều thể loại trong truyện truyền kỳ như thơ
từ, ký,… vừa là thể hiện tài năng của tác giả vừa là một xu hướng mới đáp ứng
88
dòng chảy chung của nền văn học nước nhà.
KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển của truyện truyền kỳ Việt Nam đã trải qua
một thời gian tương đối dài, tuy không đi hết chiều dài lịch sử văn học viết
nước nhà và đến nay đã không còn tồn tại thể loại này nữa, nhưng những giá
trị mà truyền kỳ đem lại thì vẫn còn mãi. Nó thể hiện ở sự nhớ đến và sự quan
tâm của rất nhiều các nhà nghiên cứu văn học dành cho từ trước tới nay. Và
đồng thời là sự xuất hiện của các thể loại mới mà chủ yếu thuộc dòng văn
xuôi – có nguồn gốc và dấu vết của truyện truyền kỳ. Từ những ngày đầu hình
thành khoảng thế kỷ XV – XVI, một thành tựu nổi bật ngay khi vừa mới ra
đời như là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã mang đến một làn gió mới
trên văn đàn trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Xuyên suốt quá trình phát triển và dần đi vào lụi tàn trải qua gần bốn
thế kỷ, truyện truyền kỳ đã phô ra tất cả những vẻ đẹp, những hạn chế, những
lúng túng trong sự tìm ra con đường đi của mình. Ở mỗi một thời kỳ chúng ta
lại nhìn thấy truyền kỳ có những nét khác biệt, thậm chí không phải nhiều
nhưng cũng đánh dấu từng đoạn lịch sử và từng xu hướng sáng tạo của các tác
giả ứng với mỗi thời kỳ đó. Lựa chọn con đường đi từ Truyền kỳ mạn lục đến
Truyền kỳ tân phả giống như việc lựa chọn hai tác phẩm truyền kỳ xuất sắc
nhất ở hai thời điểm khác nhau trên tiến trình phát triển của thể loại, giống
như nối hai đỉnh cao của thể loại, đi từ thể nghiệm này sang thể nghiệm khác
để nhìn ra sự vận động trên con đường phát triển đi lên. Truyền kỳ khi vừa ra
đời đã khẳng định được ngay vị thế của nó với một kiệt tác là Truyền kỳ mạn
lục. Trong lời tựa cho tác phẩm đề năm 1547, à Thiện Hán cho rằng Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ không vượt ra khỏi phên giậu của Tông Cát. Ông
nhận xét như thế này có thể hiểu theo rất nhiều khía cạnh khác nhau. Thời
89
điểm tác phẩm ra đời theo dự đoán chỉ sau khi Tiễn đăng tân thoại được du
nhập vào Việt Nam trong một thời gian ngắn. Hà Thiện Hán nhận định như
vậy có thể ông đang biện hộ cho Nguyễn Dữ, bảo vệ Nguyễn Dữ bởi những
câu chuyện Nguyễn Dữ viết đã bắt đầu vượt ra khỏi khuôn mẫu của xã hội lúc
bấy giờ, vì vậy Truyền kỳ mạn lục chỉ là một sự mô phỏng lại một tác phẩm
đã có của Trung Quốc. húng ta cũng có thể hiểu theo một khía cạnh khác
rằng ông đang mặc cảm và có tinh thần tự ti khi cho rằng sáng tác của tác giả
Việt Nam không thể vượt qua sáng tác của Trung Quốc, chưa kể tác phẩm này
của Việt Nam không phải là một tác phẩm tiên phong của thể loại. Sự mặc
cảm dân tộc sẽ luôn mặc định rằng Trung Quốc tốt hơn, sáng tác của tác giả
Trung Quốc xuất sắc hơn. Nhìn chung, quan niệm sáng tác của các nhà Nho
Việt Nam xưa, trong mối tương quan với văn học Trung Quốc thường không
mấy khi bộc lộ cái riêng, tinh thần văn hóa Việt Nam mà luôn vừa có sự
khẳng định sự “vô tốn” (không kém) và “bất dị” (không khác). Nhưng dù ý
nghĩa lời nhận xét của à Thiên án là như thế nào thì với cảm quan của một
người đọc tác phẩm, chiêm ngưỡng tác phẩm trong dòng chảy văn học trung
đại nước nhà, chúng ta không thể phủ nhận tài năng của Nguyễn Dữ. Ông đã
biết dựa trên những nguồn dinh dưỡng đã có, hòa trộn cùng tài năng, các sử
dụng ngôn từ biến hóa để làm nên kiệt tác của riêng mình và là một niềm tự
hào của dân tộc Việt Nam.
Nhưng không vì thế mà thể loại này chỉ dừng lại ở đó – một đỉnh cao
duy nhất và sau đó không còn gì. Truyền kỳ tân phả ra sau và cũng được đánh
giá cao về thể loại truyền kỳ, mặc dù còn nhiều ý kiến cho rằng nó không
được như sáng tác của Nguyễn Dữ. Người ta chờ đợi và tìm tòi một đỉnh cao
mới, hi vọng có thể “cao hơn” so với Truyền kỳ mạn lục nhưng điều đó không
hề dễ dàng. Tuy khi nhìn tổng quan, Truyền kỳ tân phả không được bằng
Truyền kỳ mạn lục, nhưng ở tác phẩm tích hợp những yếu tố mới mẻ mà
90
Truyền kỳ mạn lục chưa có. Yếu tố bác học, gần gũi đời thường hay quay về
với nguồn cội là những yếu tố tiêu biểu của truyền kỳ giai đoạn sau thể hiện
qua Truyền kỳ tân phả. Tuy rằng cái kỳ ảo mà trở nên gần gũi với đời sống
thực hơn sẽ dần phôi pha - làm giảm đi đặc trưng của thể loại truyền kỳ, cái
thực lên ngôi, chứng tỏ quan niệm sáng tác của các tác giả đã khác, làm nên
những giá trị mới cho thể loại truyền kỳ. húng tôi đánh giá cao những nỗ lực
canh tân của các tác giả truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục. ề tài nghiên cứu
của chúng tôi là chỉ ra sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm truyền
kỳ chính với mong muốn chỉ ra được trên tiến trình phát triển của thể loại, có
thể có những bước lùi. Bước lùi đó chỉ nằm trong một khoảng rất ngắn trên
một con đường dài qua nhiều thế kỷ để thể loại truyền kỳ được sống hết vận
mệnh của nó. Sự vận động không đồng nghĩa với khái niệm sự phát triển, nó
có thể di chuyển theo chiều hướng đi lên, đi xuống hay đi ngang để tạo ra một
cái khác, làm nên một diện mạo mới trên một hành trình chung. Những phân
tích trên đây tuy chưa thể bao quát được hết tất cả những vấn đề trong sự phát
triển của thể loại truyền kỳ nhưng mong rằng sẽ là những tư liệu để mở ra
những hướng nghiên cứu mới sâu hơn về thể loại truyền kỳ - một thể loại ghi
91
nhiều dấu ấn trong sự phát triển chung của nền văn học trung đại Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (2006), Tân truyền kỳ Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà
Nội.
2. Lại Nguyên Ân chủ biên (2005), Từ điển Văn học Việt Nam, từ
nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB ại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Huệ Chi (1999), Truyện truyền kỳ Việt Nam, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Dân (2012), Phương pháp luận nghiên cứu văn học,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Trần Nghi Dung (2012), Vị trí của thể loại truyền kỳ trong tiến trình
phát triển của văn học Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ.
6. oàn Thị iểm, Ngô Lập Chi – Trần Văn iáp (dịch) (2013),
Truyền kỳ tân phả, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
7. Trần Văn iáp (1984), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, NXB Văn hóa,
Hà Nội
8. Lê Bá Hán, Trần ình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điên thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
9. ỗ Thị Hảo chủ biên (2010), Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội
10. ỗ ức Hiểu, Nguyễn Huệ hi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ
92
biên (2004), Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.
11. Nguyễn Ngọc Hiệp (2007), Truyện truyền kỳ Việt Nam: Sự kết hợp
giữa văn hóa bác học và truyền thống dân gian, Văn hóa dân gian, (Số 2), tr.
40 – 48.
12. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học Trung đại,
NXB ại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Nguyễn Phạm ùng (2006), oán định lại thân thế Nguyễn Dữ và
thời điểm sáng tác Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 1), tr 123 –
134.
14. Cù Hựu - Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn
lục, NXB Văn học, Hà Nội.
15. Mai Thu Huyền (2018), Cấm kỵ và vượt rào: Trường hợp Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-
hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/cam-ki-va-vuot-rao-truong-hop-truyen-ky-man-
luc-cua-nguyen-du
16. Jean Karel, Phan Minh Châu (dịch) (2010), Truyện kỳ ảo, NXB TP.
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
17. S Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn Quang Ân (1995), Kho Tàng truyện
truyền Kỳ Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, Hà Nội.
18. inh Thị Khang (2007), So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma
trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 4),
93
tr. 62 – 72.
19. Nguyễn Thị Diệu Linh (2017), Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ
Đông Á, NXB Văn hóa Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Thị Mai Liên (2014), Mộng - ảo và khát vọng hạnh phúc
lứa đôi trong Tiễn đăng tân thoại, Kim ngao tân thoại, Truyền kỳ mạn lục và
Vũ nguyệt vật ngữ, Nghiên cứu Đông Bắc Á, (Số 1) (155), tr. 32 – 42.
21. Phạm Luân (2006), Bàn thêm cách gọi tên tác giả và tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 3), tr. 132 -136.
22. Nguyễn ăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại
Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn ăng Na (2005), Truyền kỳ mạn lục dưới giác độ so sánh,
Tạp chí Hán Nôm, (Số 6), tr 3 – 8.
24. PGS. TS. Nguyễn ăng Na (2015), Vài nét về truyện truyền kỳ Việt
Nam.
http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamtrungdai/tabid/1
02/newstab/584/Default.aspx
25. Ngô Thị Thanh Nga (2016), Về kiểu nhân vật truyện truyền kỳ thế
kỷ XVIII – XIX, Nghiên cứu văn học, (Số 7), tr. 53 -59.
26. Ngô Thị Thanh Nga (2018), Về chức năng thẩm mỹ của truyện
truyền kỳ thế kỷ XV – XVII, Nghiên cứu văn học, ( Số 5), tr. 51 – 60.
27. Nguyễn Thị Kim Ngân (2017), Folklore và văn học viết nghiên cứu
từ góc độ “dịch chuyển không gian” trong truyện cổ tích và truyện truyền kỳ,
94
NXB ại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Kim Ngân (2014), Hồn ma và bóng quỷ trong truyện
truyền kỳ trung đại từ góc nhìn Folklore, Nghiên cứu văn học, (Số 4), tr.53-
63.
29. Trần Nghĩa (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam Tập 1,
NXB Thế giới, Hà Nội.
30. Trần Nghĩa (1987), Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng
tân thoại, Tạp chí Hán Nôm, (Số 1).
31. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại
và Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học, Hà Nội.
32. Lê Dương Khắc Minh (2016), Nghĩ về cội nguồn của truyện truyền
kỳ trung đại Việt Nam, Khoa học ĐH Sư phạm Tp. HCM, (Số 5), tr. 72 – 82.
33. ỗ Thị Mỹ Phương (2015), Nhân vật mang màu sắc kỳ ảo trong
truyện truyền kỳ Việt Nam trung đại, Nghiên cứu văn học, (Số 1), tr. 82- 93.
34. ỗ Thị Mỹ Phương (2016), Mô thức tự sự đặc thù trong truyện
truyền kỳ thế kỷ XVIII – XIX, Văn hóa Nghệ thuật, (Số 380), tr. 64 – 66.
35. ỗ Thị Mỹ Phương (2016), Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung
đại (nhìn từ phương diện tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật), Luận án
Tiến sĩ, ại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.
36. ỗ Thị Mỹ Phương (2017), Sự biến đổi lời văn trong truyện truyền
kỳ trung đại, Văn hóa Nghệ thuật, (Số 393), tr. 70 – 73.
37. B.L. Riptin (2006), Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu
(Trung Quốc) với Kim ngao tân thoại của Kim Thời Tập (Triều Tiên), Truyền
kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Ca Tỳ Tử của Asai Rey (Nhật
95
Bản), Nghiên cứu văn học, (Số 12), tr. 46 – 58.
38. Bùi Duy Tân chủ biên (2003), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế
giới, Hà Nội.
39. Bùi Thị Thiên Thai (2014), Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả.
https://phebinhvanhoc.com.vn/doan-thi-diem-va-truyen-ky-tan-pha/
40. Phạm Văn Thắm (1996), Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại
truyền kỳ viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời trung đại, Luận án Tiến sĩ Văn
học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
41. GS. TS. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới
góc nhìn văn hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Nguyễn ức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch (1990), Thiền uyển tập
anh, NXB Văn học, Hà Nội.
43. Nguyễn ùng Vĩ (2017), Truyện truyền kỳ với sự thể hiện lịch sử,
tín ngưỡng và con người.
http://caohocvan16qnu.blogspot.com/2017/03/truyen-truyen-ky-voi-su-
hien-lich-su.html
44. Trần Ngọc Vương chủ biên (2015), Văn học Việt Nam thế kỷ X đến
thế kỷ XIX – Những vấn đề lý luận và lịch sử, NXB ại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
45. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ,
96
NXB Tri thức, Hà Nội.