QU N

N Ọ O Ọ N N N -----------------------

PH M THỊ LAN ANH

SỰ VẬN NG CỦA THỂ LO I TRUYỀN KỲ TỪ

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ

LUẬN N SĨ

huyên ngành: Văn học Việt Nam

N – 2019

QU N

N Ọ O Ọ N N N -----------------------

PH M THỊ LAN ANH

SỰ VẬN NG CỦA THỂ LO I TRUYỀN KỲ TỪ

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ

LUẬN N SĨ

huyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Ngọc Vương

N - 2019

LỜI CẢM ƠN

Đề tài này được thực hiện dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của

GS.TS Trần Ngọc Vương cùng sự góp ý của các Giáo sư – Tiến sĩ trong

hội đồng chấm luận văn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn những sự giúp

đỡ chân thành và quý báu đó.

Dù đã rất nỗ lực, song do khả năng và thời gian có hạn nên luận

văn không tránh khỏi những điểm khuyết thiếu. Kính mong nhận được sự

đóng góp chân thành từ các Giáo sư – Tiến sĩ cũng như quý học giả quan

tâm.

Người thực hiện

Phạm Thị Lan Anh

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ẦU .............................................................................................. 3

1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 4

3. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 8

4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 8

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài .................................................................... 9

6. Cấu trúc luận văn ................................................................................... 10

hương 1: Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ .......... 11

1.1. Khái niệm thể loại ............................................................................. 11

1.2. ặc trưng của thể loại truyền kỳ ........................................................... 12

1.2.1. Đặc trưng về nội dung ...................................................................... 12

1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật .................................................................... 13

1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở Việt Nam 16

1.3.1. Giai đoạn thế kỷ X-XIV ...................................................................... 16

1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV - XVII ................................................................. 19

1.3.3. Giai đoạn thế kỷ XVIII – cuối thế kỷ XIX .......................................... 24

hương 2: N ỰU CỦA TRUYỀN KỲ VIỆ N M ẾN TRUYỀN

KỲ MẠN LỤC ................................................................................................. 27

2.1. Tích hợp kinh nghiệm truyền kỳ khu vực ...................................... 27

2.1.1. Sự tích hợp trong cốt truyện .......................................................... 27

1

2.1.2. Sự tích hợp trong kỹ xảo xây dựng nghệ thuật ............................. 36

2.2. Bàn về khả năng thâu hóa thành tựu của văn học dân gian Việt

Nam trong Truyền kỳ mạn lục ................................................................... 41

2.2.1. Sự thâu hóa về chủ đề, đề tài ......................................................... 42

2.2.2. Sự thâu hóa về cốt truyện .............................................................. 45

2.2.3. Sự thâu hóa trong trình bày nhân vật ........................................... 46

2.3. Thành tựu của Truyền kỳ mạn lục................................................... 47

hương 3: SỰ TÍCH HỢP CỦA CÁC YẾU TỐ TRUYỀN KỲ TỪ SAU

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ ............................ 63

3.1. ình hình văn bản của Truyền kỳ tân phả ........................................ 63

3.2. Những xu hướng mới của truyện truyền kỳ tích hợp trong Truyền

kỳ tân phả .................................................................................................... 64

3.2.1. Quá trình “tục hóa” để tiến tới ........................................................ 64

3.2.2. Những xu hướng mới trong nội dung ............................................. 68

3.2.3. Những xu hướng mới về nghệ thuật biểu hiện ............................... 73

KẾT LUẬN .................................................................................................... 89

2

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92

PHẦN MỞ ẦU

1. Lý do chọn đề tài

Truyền kỳ là một thể loại văn học đặc trưng của văn học Việt Nam thời

kỳ trung đại. Khởi nguồn của thể loại này ở nước ta xuất phát từ nền văn học

cổ đại Trung Hoa. Từ đây, nó trở thành một thể loại mang lại nhiều thành tựu

cho nền văn học của các nước ông Á như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn

Quốc… với những Kim ngao tân thoại (Kim Thời Tập – Hàn Quốc), Gia tì tử

(Asai Ryohi – Nhật Bản), Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu – Trung Quốc)… Khi

mới hình thành ở Việt Nam, tiêu biểu là Thánh Tông di thảo tương truyền của

vua Lê Thánh Tông, truyền kỳ chưa được coi là một thể loại mà mới chỉ được

xem xét trên phương diện tác phẩm. Chỉ đến khi Truyền kỳ mạn lục của

Nguyễn Dữ ra đời ở thế kỷ XVI, tạo thành một tiếng vang lớn thì truyện

truyện truyền kỳ mới gây được sự chú ý. Từ đây truyền kỳ trở thành một thể

loại xuyên suốt trong tiến trình văn học Trung đại Việt Nam với lần lượt các

tác phẩm ra đời sau đó như Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm, Lan Trì

kiến văn lục của Vũ Trinh, Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích…

Từ thế kỷ thứ XV ra đời tác phẩm gây tiếng vang lớn là Truyền kỳ mạn

lục - đánh một dấu mốc quan trọng cho chặng đường phát triển của thể loại

truyền kỳ phải trải qua hai thế kỷ “im ắng”, chúng ta mới lại thấy sự xuất hiện

tiếp tục của thể loại truyền kỳ với Truyền kỳ tân phả ( oàn Thị iểm). Như

vậy, Truyền kỳ mạn lục không phải là một dấu son rực rỡ chấm hết cho truyện

truyền kỳ ở Việt Nam. Mặc dù, truyện truyền kỳ trước và sau Truyền kỳ mạn

lục khá phát triển nhưng khi nhắc đến thể loại truyền kỳ, người ta không biết

nhiều đến các tác phẩm khác mà chỉ tập trung chú ý vào ngôi sao sáng nhất

của thể loại này. ây là một thiệt thòi đáng kể của truyền kỳ trong sự phát

3

triển đa dạng và không ngừng của nền văn học Việt Nam nói chung và nền

văn học trung đại Việt Nam nói riêng. Sau gần hai thế kỷ để xuất hiện một tác

phẩm mới chắc chắn Truyền kỳ tân phả sẽ có những sự vận động và biến đổi

so với sáng tác của giai đoạn trước. Ngay ở nhan đề tác phẩm, chữ “tân” đã

cho chúng ta thấy điều ấy.

Quá trình hình thành, phát sinh, phát triển, hoàn thiện và tiêu vong là lẽ

tất nhiên của mọi hiện tượng đời sống xã hội. Các sáng tạo tinh thần không

nằm ngoài quỹ đạo ấy. Thể loại truyền kỳ hình thành và phát triển ở thời kỳ

văn học trung đại Việt Nam, mặc dù không còn xuất hiện trong văn học hiện

đại nữa nhưng đó chính là một tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát

triển của truyện ngắn và tiểu thuyết. Truyện truyền kỳ ở Việt Nam mặc dù

được các nhà nghiên cứu quan tâm khá nhiều nhưng họ chủ yếu khai thác ở

khía cạnh từng tác phẩm cụ thể, riêng lẻ là chính, nhất là dành sự quan tâm

đặc biệt cho Truyền kỳ mạn lục hoặc nghiên cứu truyền kỳ ở mức độ khái quát

hóa cao theo cả một giai đoạn hay một khía cạnh chung cùng xuất hiện ở các

tác phẩm truyền kỳ. Vì thế, luận văn của chúng tôi ra đời với mong muốn

bước đầu tìm hiểu về sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm cụ thể

là Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả để thấy được con đường đi của

truyền kỳ qua hai thế kỷ, cũng từ đó dần định hình được hướng phát triển của

thể loại trong bối cảnh văn hóa, văn học chung của nước nhà.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Truyện truyền kỳ là một đề tài rộng lớn và đã được nhiều người nghiên

cứu khai thác trên nhiều phương diện khác nhau, có thể nghiên cứu từng tác

phẩm nhỏ lẻ hoặc nghiên cứu các phương diện cụ thể cùng xuất hiện ở nhiều

tác phẩm hay tiến trình hình thành, phát triển của thể loại từ khi hình thành

đến khi phát triển… ác bài nghiên cứu này xuất hiện khá nhiều trên các tạp

4

chí, sách báo và công trình khoa học… Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và

Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm đã được khá nhiều nhà nghiên cứu lựa

chọn làm đối tượng nghiên cứu nhưng chưa có công trình nào lựa chọn hai tác

phẩm để nhìn ra sự vận động trong thể loại truyền kỳ. Về Truyền kỳ mạn lục,

phương diện tên tác giả, niên đại tác giả sống, số lượng tác phẩm... là những

vấn đề gây ra nhiều tranh cãi của các nhà nghiên cứu. Ngoài ra, những đóng

góp của Truyền kỳ mạn lục cho thể loại, mối tương quan giữa Truyền kỳ mạn

lục của Nguyễn Dữ và Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc)… cũng

rất được quan tâm. Có thể kể những nghiên cứu như: “Bàn thêm về tác giả,

tác phẩm Truyền kỳ mạn lục” của Lại Văn ùng trên Tạp chí văn học số

10/2002; “Truyền kỳ mạn lục có 20 hay 22 truyện?”, “Truyền kỳ mạn lục

dưới góc độ so sánh văn học” của Nguyễn ăng Na in trong Con đường giải

mã văn học trung đại của NXB Giáo dục năm 2006, “Tìm hiểu khuynh hướng

sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ” in trên Tạp chí văn học số

7/1987 của Nguyễn Phạm Hùng, “Đóng góp của Nguyễn Dữ cho thể loại

truyền kỳ Đông Á” của Vũ Thanh, bài viết “Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục

với Tiễn đăng tân thoại” của Trần Nghĩa in trên Tạp chí Hán Nôm số 1 năm

1987… Trong chương trình Trung học phổ thông, các em học sinh cũng mới

chỉ được tiếp cận với tác phẩm nhỏ lẻ nằm trong Truyền kỳ mạn lục (là

Chuyện người con gái Nam Xương và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên)

chứ chưa được tìm hiểu khái quát về sự phát triển chung của thể loại truyền

kỳ. Như vậy các em mới được giới thiệu về một sô tác phẩm được coi là kiệt

tác của thể loại truyền kỳ trong kho tàng văn học dân tộc.

Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm cũng được khá nhiều các nhà

nghiên cứu lựa chọn làm đối tượng, có thể kể đến một số công trình nghiên

cứu về tác phẩm như “Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả” của Bùi Thị

Thiên Thai in trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 9 năm 2010; “Mối liên hệ

5

giữa Truyền kỳ tân phả và lễ hội văn hóa dân gian” của Trần Thị Băng Thanh

và Bùi Thị Thiên Thai trên trang báo điện tử của Viện Văn học tháng 8 năm

2011 hay Luận văn Thạc sĩ “Khảo sát giá trị văn bản Truyền kỳ tân phả của

Đoàn Thị Điểm” của Trần Thị Hải Bình năm 2009…

Xét trên phương diện nghiên cứu về thể loại, các nhà nghiên cứu,

những người soạn sách cũng đã có ý thức tổng hợp, tập hợp các tác phẩm

được gọi chung là truyền kỳ. Ở nhiều công trình nghiên cứu, các nhà khoa

học đã có công xác lập tên gọi của tác phẩm cũng như đánh giá về tình trạng

lưu giữ văn bản của các tác phẩm truyền kỳ. iển hình có công trình luận án

Tiến sĩ “Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kỳ viết bằng chữ Hán

ở Việt Nam thời trung đại” của Phạm Văn Thắm năm 1996. ông trình đã

xác lập được những tiêu chí để nhận diện và xác lập danh mục truyện truyền

kỳ đồng thời nghiên cứu tình trạng văn bản, xác định niên đại, tác giả của tác

phẩm, từ đó nêu nhận xét về nội dung và nghệ thuật của truyện truyền kỳ, góp

phần xác định giá trị của truyện truyền kỳ. Một công trình khác cũng có vai

trò tập hợp các tác phẩm truyền kỳ đó là bộ sách Truyện truyền kỳ Việt Nam

của Nhà xuất bản Giáo dục, phát hành năm 1999. Bộ sách là công trình biên

soạn, dịch và tổng hợp các tác phẩm truyền kỳ, đưa ra những khái quát chung

về cuộc đời tác giả, nội dung tư tưởng của tác phẩm chứ chưa có sự nhìn

nhận, so sánh các tác phẩm truyền kỳ với nhau để thấy mối tương quan và sự

phát triển trên phương diện thể loại của các truyện truyền kỳ. Như vậy bộ

sách này cũng mới chỉ mang chức năng tổng hợp và giới thiệu là chính.

Xét trên phương diện nghiên cứu về đặc điểm, sự vận động của thể loại,

chúng ta có thể kể đến những trang viết về một số vấn đề lí luận của văn học

trung đại Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa, trong đó có nhắc đến thể loại

truyền kỳ trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa”

6

của GS.TS Trần Nho Thìn, NXB Giáo dục, năm 2008; bài nghiên cứu “Thể

loại truyện kỳ ảo Việt Nam trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến

đỉnh điểm” của P S. TS Vũ Thanh in trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ X

đến thế kỷ XIX – Những vấn đề lý luận và lịch sử - Trần Ngọc Vương (chủ

biên), NXB ại học quốc gia Hà Nội, năm 2015. Ở bài viết này, Vũ Thanh có

đề cập đến sự vận động của thể loại truyện kỳ ảo trong đó có nhắc đến truyền

kỳ, mà cụ thể là Truyền kỳ mạn lục – được coi là đỉnh điểm của sự phát triển

này. Ông tập trung đi sâu vào tìm hiểu sự vận động từ văn học dân gian ảnh

hưởng đến thể loại truyện kỳ ảo, cho đến khi Truyền kỳ mạn lục ra đời và bỏ

ngỏ giai đoạn sau đó từ sau Truyền kỳ mạn lục cho đến cuối thế kỷ XIX. Ông

là một người dành khá nhiều tâm huyết khi nghiên cứu về thể loại truyền kỳ

với nhiều những bài viết khác như “Những biến đổi của yếu tố “kì” và „thực”

trong truyện truyền kỳ Việt Nam” in trên Tạp chí Văn học số 6 năm 1994,

“Truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XIX”, “Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong

văn học Việt Nam hiện đại” in trong công trình Những vấn đề lí luận và lịch

sử văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001… Và nhiều bài viết

khác phân tích tác giả, tác phẩm truyền kỳ cụ thể. Các công trình của ông

mang tính khái quát chung cho một hoặc một vài giai đoạn lịch sử phát triển

của truyền kỳ, những đặc điểm đặc trưng của thể loại hoặc đi vào phân tích

từng tỉ mỉ tác phẩm, mở ra nhiều luận giải sắc bén cho những người muốn tìm

hiểu về thể loại truyền kỳ tham khảo.

Ngoài ra còn có một số công trình luận văn thạc sĩ như “Đặc điểm

truyện truyền kỳ Việt Nam thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX” của Lương Thị

Huyền Thương năm 2009 đã trình bày được các đặc trưng cụ thể của thể loại

truyền kỳ và đưa ra những so sánh cho thấy những điểm mới trong truyện

truyền kỳ giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, “Vị trí của thể loại

truyền kỳ trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam” của Trần Nghi

7

Dung năm 2012 nghiên cứu về vai trò của thể loại truyền kỳ vừa là cầu nối

giữa văn học dân gian với văn học viết vừa là thể loại đánh dấu sự phát triển

của văn xuôi trung đại và ảnh hưởng đến văn học hiện đại.

Có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu, luận văn, luận án viết về

các tác phẩm truyền kỳ, các khía cạnh về đặc trưng thể loại, về quá trình hình

thành, phát triển của thể loại truyền kỳ, tuy vậy, vẫn chưa có công trình nào

nghiên cứu về sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm nổi bật là

Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả. Luận văn “Sự vận động của thể loại

truyền kỳ từ Truyền kỳ mạn lục đến Truyền kỳ tân phả” hi vọng đóng góp

được một cái nhìn mới mẻ trên phương diện thể loại thông qua hai kiệt tác

truyền kỳ của dân tộc.

3. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu chính của chúng tôi khi thực hiện luận văn này là

văn bản tác phẩm Truyền kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả in trong cuốn Tổng

tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam Tập 1, do Trần Nghĩa chủ biên, NXB Thế

giới, năm 1997 và cuốn Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam của ỗ Thị Hảo

chủ biên, NXB Khoa học Xã hội, năm 2010. Theo đó, tổng số truyện chúng

tôi khảo sát sẽ là 26 truyện: Truyền kỳ mạn lục (20 truyện), Truyền kỳ tân phả

(6 truyện). Ngoài ra là một số tác phẩm khác được sử dụng trong quá trình

phân tích, so sánh là Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Lĩnh Nam chích quái

lục (Trần Thế Pháp), Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên)…

4. Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi tiếp cận vấn đề bằng sự kết hợp của nhiều phương pháp khác

nhau để có cái nhìn bao quát toàn diện rồi đi đến phân tích, lý giải và đưa ra

những lí luận cụ thể cho công trình nghiên cứu. ác phương pháp được sử

8

dụng sẽ là:

Phương pháp so sánh, đặt hai tác phẩm văn học trong một mối tương

quan dựa trên các phạm trù cụ thể để so sánh, đối chiếu cho thấy sự vận động,

biến đổi từ Truyền kỳ mạn lục đến Truyền kỳ tân phả, ngoài ra còn có sự so

sánh văn học dưới cái nhìn tương quan với văn hóa và lịch sử để thấy được sự

tác động qua lại giữa lịch sử, các vấn đề đời sống với văn học.

Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp này chúng tôi nhằm

hướng tới chỉ ra và so sánh cụ thể các luận cứ để tìm ra đặc điểm cho thấy sự

vận động về thể loại của truyền kỳ.

Phân tích – tổng hợp: Thao tác này nhằm đi vào nghiên cứu từng tác

phẩm cụ thể để đưa ra những luận cứ và lí luận cho vấn đề mình cần giải

quyết. Sau đó tổng hợp lại các ý kiến để khái quát, bao quát vấn đề. Sử dụng

phương pháp này chúng tôi muốn có một sự nhìn nhận đa chiều để không bị

bỏ sót ý.

Bằng sự kết hợp của nhiều phương pháp khoa học, chúng tôi muốn xác

lập được hệ thống luận điểm, luận cứ khoa học, từ đó lí giải và làm sáng tỏ

vấn đề.

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Luận văn là một công trình tìm hiểu về quá trình vận động về thể loại

truyền kỳ dựa trên hai tác phẩm cụ thể là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

và Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm. húng tôi cũng hi vọng luận văn sẽ

đưa ra một kiến giải về sự vận động và biến đổi của một hiện tượng văn học

được khá nhiều người quan tâm.

Luận văn hi vọng sẽ là một đóng góp tích cực cho sự khẳng định giá trị

9

của một thể loại đã từng ít được quan tâm trong quá khứ.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài Phần Mở đầu, Phần Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,

Phần Nội dung của luận văn chia làm ba chương:

hương 1: Khái lược chung về thể loại truyền kỳ

hương 2: Thành tựu của truyền kỳ Việt Nam đến Truyền kỳ mạn lục

hương 3: Sự tích hợp của các yếu tố truyền kỳ từ sau Truyền kỳ mạn

10

lục đến Truyền kỳ tân phả.

hương 1: Á L ỢC CHUNG VỀ THỂ LO I TRUYỀN KỲ

1.1. Khái niệm thể loại

Khái niệm truyền kỳ dựa trên nhiều cách diễn đạt khác nhau, tuy nhiên

cái cốt lõi để tạo nên truyện truyền kỳ chính là yếu tố “kỳ” và “ảo”. Theo lời

iáo sư Vũ Ngọc Khánh: “Theo đúng nghĩa đen của nó, truyền kỳ chỉ có

nghĩa là truyền đi, kể lại một sự lạ. Sự lạ này có thể là chuyện của thần thánh

của ma quái, chuyện có những thông tin dị biệt đối với việc đời. Bao nhiêu

những vấn đề ứng mộng mị, huyền ảo, hư thực hàm hồ đều có thể gọi là kỳ

cả”. (Kho tàng truyện truyền kỳ Việt Nam – GS. Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn

Quang Ân, NXB Văn hóa - Thông tin, HN, 1995).

Truyền kỳ là một thể loại văn học được bắt nguồn từ Trung Quốc. ây

là một thể loại thịnh hành và phát triển nhất là vào đời ường. Theo Từ điển

thuật ngữ văn học thì “truyền kỳ” có nghĩa là “thể loại tự sự ngắn cổ điển của

văn học Trung Quốc thịnh hành ở đời ường. Tên gọi này cuối đời ường

mới có. Kỳ có nghĩa là không có thực, nhấn mạnh tính chất hư cấu”(Lê Bá

Hán, Trần ình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điển thuật ngữ văn học,

NXB Giáo dục).

Theo Từ điển Văn học (bộ mới) thì Truyền kỳ là “một hình thức văn

xuôi tự sự Trung Quốc, bắt nguồn từ truyện kể dân gian, sau các nhà văn nâng

lên thành văn chương bác học, sử dụng các môtip kỳ quái, hoang đường lồng

vào trong cốt truyện của ý nghĩa trần thế” [10] theo ỗ ức Hiểu, Nguyễn

Huệ hi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển Văn học (bộ mới),

NXB Thế giới).

Khi du nhập vào Việt Nam, truyện truyền kỳ có một dạng thức ngắn

11

gọn giống như một truyện ngắn của thời kỳ hiện đại. ó là sự tiếp thu từ một

nền văn học gốc, dựa trên các yếu tố văn hóa, đặc trưng dân tộc và cảm quan,

ý thức sáng tạo của tác giả mà truyện truyền kỳ của các tác giả Việt Nam giữ

được nét riêng của người Việt, gắn với truyền thống, văn hóa người Việt.

1.2. ặc trưng của thể loại truyền kỳ

1.2.1. Đặc trưng về nội dung

Truyện truyền kỳ là một thể loại sử dụng nhiều yếu tố kỳ ảo, ly kỳ làm

nên những câu chuyện đặc sắc để từ đó thể hiện những tâm tư, tình cảm của

tác giả, thường là những suy nghĩ, phản ánh về hiện thực đương thời. Hiện

thực đó có thể là một hiện thực tối tăm, đầy rẫy chiến tranh đấu đá như trong

Nam Xương nữ tử lục, chiến tranh loạn lạc khiến người chồng Vũ Thị Thiết

phải xung quân ra chiến trận. Trong xã hội ấy cũng có những thành phần tham

quan tham nhũng, sự bất công xã hội hiển hiện rõ rệt, điển hình như trong Túy

Tiêu truyện, nàng Túy Tiêu bị quan Trụ quốc họ Thân nhìn trúng, bị bắt về

làm vợ ông. ến khi Dư Nhuận hi làm đơn kiện cáo lên tận triều đình cũng

không ai giải quyết cho chàng vì uy thế của quan Trụ quốc quá lớn, không ai

dám động vào. Rồi hiện thực những đời vua gần hết thời, vua quan trụy lạc,

như hình ảnh của vua Hồ án Thương trong Na Sơn tiều đối lục. ó là một vị

vua“ tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn

kho của để mở phố Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng

vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình ngục có của đút là xong, quan

chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay bị giết, kẻ nói điều nịnh thì được

thưởng, lòng dân động lay…”. òn quan lại trong triều thì tham của đút lót,

chạy chọt khắp nơi để hòng có chức cao, ăn chơi xa hoa vô độ, “kêu xin chạy

chọt lúc nào cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà

chồng chất đầy rẫy”, “khoản đãi khách khứa mỗi ngày tốn phí đến hàng

12

chuông thóc”, hay như trong Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang, vua Trần Phế

ế bị con cáo vạch trần là kẻ có những việc làm tàn bạo: “đương mùa hạ mà

giở những công việc khổ dân không phải thời; giẫm trên lúa để thỏa cái ham

thích săn bắn không phải chỗ, quanh đầm mà vậy, bọc núi mà đốt, không phải

lẽ […] tạm quay xe giá, để khiến người và vật đều được bình yên?”.

Không chỉ ở chốn trần gian, nơi quan trường, kể cả trong nơi thờ cúng

như đền thờ miếu mạo, tình trạng tham ô, ăn của đút lót cũng xảy ra liên

miên. Tên Bách hộ họ Thôi chiếm đoạt ngôi đền của thần nước Việt rồi tha hồ

hưng yêu tác quái mà không ai trong đấng tối cao biết đến chỉ vì các đền miếu

xung quanh đều ăn của đút lót của hắn trong Tản Viên từ phán sự lục. Ngay

cả hiện thực về một xã hội hỗn loạn về luân thường đạo lý cũng được thể hiện

trong truyện truyền kỳ, đó là bạn bè thấy vợ bạn đẹp bèn bày cách chơi cờ bạc

để bạn cược vợ, rồi khi bạn thua âm mưu cướp vợ bạn trong Người nghĩa phụ

Khoái Châu.

Truyện truyền kỳ còn mang đậm giá trị nhân văn. ó là niềm cảm

thương sâu sắc của tác giả đối với các nhân vật của mình, đặc biệt là người

phụ nữ trong xã hội đương thời. Người phụ nữ hiện lên trong các tác phẩm

truyền kỳ phần lớn mang trong mình nét đẹp nết na, là người phụ nữ của gia

đình, hết mực vì chồng, vì con, thậm chí còn hi sinh thân mình vì quốc gia đại

sự. Tuy vậy, số phận của họ lại gặp nhiều ngang trái, thường không có cái kết

suôn sẻ như là bị hàm oan phải chết oan nghiệt, có tài năng nhưng không

được dùng (nàng Phù Dung trong Truyện đền thiêng nơi cửa bể thuộc Truyền

kỳ tân phả có ý dâng biểu và Kê minh tập sách).

1.2.2. Đặc trưng về nghệ thuật

Dùng cái ảo kết hợp với cái thực làm phương thức truyền tải nội dung,

thể hiện giá trị nội dung là giá trị hiện thực và nhân văn. Yếu tố kỳ ảo được sử

13

dụng như một phương thức kể chuyện làm cho câu chuyện được kể thêm hấp

dẫn. Thông qua cái kỳ ảo, các tác giả truyện truyền kỳ kể về một thế giới

khác, vừa là qua thế giới đó để lột tả thế giới hiện thực, lại vừa là một khát

vọng ở một cuộc sống khác (cuộc sống chốn thiên cung, thần tiên…). Thế

giới tình cảm phong phú của con người với yêu ma cũng là một đặc trưng cho

sự kết hợp giữa hiện thực và kỳ ảo, điển hình là trong sáng tác Truyền kỳ mạn

lục của Nguyễn Dữ. ó là cuộc tình của hai nàng yêu hoa Liễu và ào với

chàng học trò Hà Nhân ở phía trại Tây, chàng à Nhân đắm đuối trong cuộc

tình ấy cho đến khi được ông già hàng xóm nói cho biết là khu vườn ấy của

một nhà quan đã bị bỏ hoang 20 năm nay không có ai ở thì lấy đâu ra hai

người con gái đẹp. ay như chàng Từ Thức vì may mắn trong một lần giải

cứu cho một cô gái lại chính là nàng tiên rồi được lấy tiên làm vợ. Chàng

Phạm Tử ư được một lần lên du ngoạn ở chốn thiên cung để có cái nhìn về

một thế giới khác hoàn toàn mới mẻ, đây cũng chính như khát vọng của

Nguyễn Dữ muốn được thoát ra khỏi cuộc sống đầy u tối của một xã hội

đương thời mà ông đang sống, muốn bước ra khỏi tối tăm, loạn lạc để được

thỏa sức vẫy vùng…

Những motip có từ trong dân gian cũng xuất hiện nhiều ở trong các tác

phẩm truyền kỳ, bởi đây được coi là một trong những cội nguồn quan trọng

nhất của thể loại truyền kỳ ở nước ta. Tiêu biểu nhất đó là hiện tượng sinh đẻ

kỳ lạ khi bà mẹ của gã trà đồng thấy một ngôi sao rơi vào bụng mà đẻ ra một

cậu con trai (Chuyện gã trà đồng giáng sinh – Truyền kỳ mạn lục), vợ quan

Hành khiển đêm hôm ấy chiêm bao thấy rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách

bên tả sau đó có mang sinh ra hai người con trai (Chuyện nghiệp oan của Đào

Thị - Truyền kỳ mạn lục)… cho chúng ta nhớ đến truyện cổ tích Sọ Dừa nổi

tiếng. ay như truyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo gợi cho ta nhớ đến

câu chuyện Lấy vợ cóc, Lấy chồng dê trong dân gian… Motip truyện ở hiền

14

gặp lành, ác giả ác báo cũng có xuất hiện ở trong các tác phẩm truyện truyền

kỳ, như là trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên – Truyền kỳ mạn lục,

chàng Tử Văn vì nỗi bất bình tên Bách hộ họ Thôi cướp đền của thần người

Việt, hưng yêu tác quái, làm hại đến dân, chàng bèn mang lửa đến đốt đền.

Mặc dù bị tên Bách hộ họ Thôi kiện dưới âm ty, nhưng vì là làm việc nghĩa

nên kết cục hắn ta mới là người bị nhốt lại. Nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện

người con gái Nam Xương nết na, thùy mị, là nàng dâu hiếu thảo, nhưng vì bị

oan mà phải tự vẫn. Tuy vậy kết cục, nàng cũng được minh oan và yên phận

với cuộc sống cung nữ dưới thủy cung.

Nhân vật truyện truyền kỳ hiện lên chủ yếu qua sự miêu tả về ngoại

hình bên ngoài, qua tài năng, ngôn ngữ của nhân vật chứ không chú trọng vào

miêu tả diễn biến tâm lý, nội tâm nhân vật. Vẻ đẹp phẩm chất thể hiện qua

những hoàn cảnh mà nhân vật đó phải trải qua, thông qua những cử chỉ, lời

nói của nhân vật ấy, giống như nàng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con

gái Nam Xương, nàng yêu chồng, thể hiện nỗi nhớ chồng bằng cách hằng đêm

chỉ lên vách mà nói với bé ản đó là cha bé, hay khi bị chồng nghi oan thì hết

sức muốn giải thích nhưng không được thì đành tuẫn tiết… ay như nàng

Giáng Kiều trong Cuộc kỳ ngộ ở Bích Câu vì muốn khuyên can Tú Uyên bớt

rượu chè bê tha thì xướng những bài thơ nhắn nhủ, rồi khi bị chàng đuổi đi

cũng chỉ khóc mà van xin ở lại. Người phụ nữ liễu yếu đào tơ thể hiện qua cử

chỉ nhẹ nhàng, lời nói mềm mỏng, còn như xây dựng nhân vật nam nhi lại chú

tâm vào tài năng của nhân vật đó, như là tài thơ mà nhất là tài nhạc của Dư

Nhuận hi, tài thơ không ai sánh bằng của Tú Uyên,… ó là cách thể hiện

15

của mỗi nhân vật ở trong các câu chuyện này của các tác giả truyện truyền kỳ.

1.3. Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyền kỳ ở

Việt Nam

1.3.1. Giai đoạn thế kỷ X-XIV

Chiến thắng năm 938 trên sông Bạch ằng của Ngô Quyền mở ra một

trang sử mới cho dân tộc ta. Từ đây dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ

một nghìn năm Bắc thuộc, đánh dấu thời kỳ hòa bình, độc lập, tự chủ. Ý thức

độc lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ ngày càng được đề cao, không chỉ ở

phương diện chính trị, quân sự mà còn cả trong văn hóa, văn học. Nhất là khi

có sự xuất hiện của văn học viết.

Văn học viết Việt Nam khi mới ra đời còn chịu nhiều ảnh hưởng từ văn

học dân gian và có sự tiếp thu về thể loại từ nền văn học Trung oa như thơ

phú, văn chính luận, văn xuôi viết về lịch sử... Những tác phẩm thời kỳ này

chủ yếu được sưu tầm từ truyện dân gian, được ghi chép, chỉnh lý hoặc gắn

liền với chức năng tôn giáo, lễ nghi, ghi chép hành trạng các vị cao tăng...

Một số tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này đó là Lĩnh Nam chích quái lục (Trần

Thế Pháp); Việt điện u linh tập (Lý Tế Xuyên); Báo cực truyện; Thiền uyển

tập anh… Nét đặc trưng nhất của thể loại truyền kỳ đã bắt đầu xuất hiện trong

các tác phẩm này chính là yếu tố hoang đường, kỳ ảo. Dù mới chỉ là những

manh nha ban đầu, chủ yếu là những ghi chép, tính sáng tạo còn chưa nhiều

nhưng những tác phẩm này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo bước tiền

đề, đặt nền móng cho sự phát triển của thể loại truyền kỳ ở những kỷ tiếp đó.

Việt điện u linh tập kể về các vị thần linh được thờ cúng ở Việt Nam,

trong đó có các nhân quân (vua chúa), hạo khí anh linh(thần sông, thần núi),

quân thần (bề tôi trung liệt)… Theo bài Tựa đề năm Khai ựu nguyên niên

(1329, đời Trần Hiến Tông) của Lý Tế Xuyên thì ông đã chọn kể theo phương

16

châm: "những bậc sáng suốt, ngay thẳng mới gọi là thần; không phải những

loại dâm tà, yêu quái, ma quỷ cũng gọi là thần đâu!” 27 vị thần được thờ cúng

ở Việt Nam xuất hiện trong truyện không chỉ kể về công trạng của thần lúc

sinh thời mà còn kể về sự hiển linh độ dân giúp nước sau khi mất theo công

thức "dương trợ-âm phù". ây chính là những nét làm nên sự huyền ảo, kỳ lạ

của các câu chuyện. Và những chi tiết kỳ ảo trong Việt điện u linh tập thường

gắn với sự báo mộng, hiện hồn… Như Truyện Bố Cái Đại Vương (tức Phùng

ưng), Truyện Trương Hống, Trương Hát, v.v… là truyện kể về việc thần

linh đời trước đã "hiển linh" để "phù trợ" các anh hùng đời sau chống quân

xâm lược.

Thiền uyển tập anh viết về sự tích, hành trạng của 68 vị thiền sư nổi

tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời inh, Lê, Lý, thuộc các phái Vô

Ngôn Thông, Tỳ Ni a Lưu hi, Thảo ường. Theo lời của òa Thượng

Thích Thanh Tứ, “Thiền uyển tập anh là một tác phẩm không những có giá trị

về lịch sử Phật giáo Việt Nam mà còn là một tác phẩm truyện ký có giá trị về

mặt văn học, triết học và văn hóa dân gian”. (Trích Lời Tựa của òa thượng

Thích Thanh Tứ in ở đầu sách Thiền uyển tập anh (bản dịch của Nguyễn ức

Thọ và Nguyễn Thúy Nga). Tác phẩm thường có những dữ kiện mang màu

sắc kỳ ảo, gắn liền với sự ra đời, hành trạng của các vị thiền sư, sự cứu độ cho

nhân dân và những phép biến hóa huyền bí... Theo nhận xét của các tác giả

trong Từ điển Văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX về Thiền

uyển tập anh thì “các thiên tiểu truyện, truyện ký lịch sử ở đây có thể đồng

thời được xem như những tác phẩm truyền kỳ” (Lại Nguyên Ân, Từ điển Văn

học Việt Nam, từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB Q N, 2005;

t481). Sự đầu thai hóa kiếp, biết rõ về số kiếp của mình; sư chữa bệnh hủi cho

dân chỉ bằng niệm chú vào nước lá rồi phun lên người bệnh, sư đi lại không

17

cần mở cửa… là những yếu tố mang màu sắc kỳ lạ, hoang đường xuất hiện

trong những câu chuyện về các vị thiền sư ở Thiền uyển tập anh – những dấu

hiệu đặc trưng của thể loại truyền kỳ.

Lĩnh Nam chích quái lục của Lý Tế Xuyên là một tuyển tập ghi chép lại

những câu chuyện kỳ lạ lưu truyền trong dân gian. ó là một tập hợp các

truyền thuyết và cổ tích dân gian Việt Nam được biên soạn vào khoảng cuối

đời nhà Trần – vì thế màu sắc kỳ ảo vô cùng đậm nét. ó là những câu

chuyện gắn với nguồn gốc người Việt hay những phong tục tập quán của

người Việt (Truyện họ Hồng Bàng, Truyện Ngư tinh, Truyện Hồ tinh, Truyện

Mộc tinh, Truyện bánh chưng, Truyện trầu cau…); có chuyện lại là sự tích từ

thời Bắc thuộc (Truyện Nam Chiếu…); có chuyện là thần tích thời Lý – Trần

(Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không, Truyện Hà Ô Lôi)… Những

yếu tố hoang đường, kỳ ảo thường xuất hiện trong văn học dân gian đều dễ

nhận thấy trong Lĩnh Nam chích quái lục như là thụ thai thần kỳ, ra đời kỳ lạ,

sức mạnh phi thường, trừ diệt yêu quái, cái chết kỳ lạ… thể hiện thái độ yêu

ghét của nhân dân và đồng thờikhẳng định tinh thần tự tôn dân tộc, niềm tự

hào dân tộc.

Những tác phẩm văn xuôi thời kỳ này mặc dù chưa thoát li hoàn toàn ra

khỏi văn học dân gian nhưng lại là cái nôi cho sự phát triển của văn xuôi ở

các giai đoạn tiếp theo, trong đó có thể loại truyền kỳ cả về nội dung và nghệ

thuật. Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái… đều là

những tác phẩm mang màu sắc yêu nước, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, ca

ngợi những vị anh hùng, địa linh nhân kiệt… đã xuất hiện từ trong văn học

dân gian. Những yêu tố kỳ ảo, hoang đường ở những tác phẩm này sẽ là tiền

đề làm nên bước phát triển rực rỡ cho thể loại truyện truyền kỳ ở giai đoạn

18

sau.

1.3.2. Giai đoạn thế kỉ XV - XVII

Sau khi giành độc lập từ tay giặc phương Bắc, đất nước ta vẫn không

ngừng bị giặc ngoại xâm xâm phạm bờ cõi, từ giặc Tống, giặc Nguyên cho

đến giặc Minh. Trong bối cảnh đó, vua tôi đồng lòng chống giặc, quyền lợi

của giai cấp phong kiến và quyền lợi của nhân dân lúc này cùng nằm trên một

chiến tuyến, tất cả vì mục đích độc lập, chủ quyền dân tộc. hính điều này đã

một phần quyết định đến nội dung tư tưởng của các sáng tác văn học trong

thời kỳ này.

Khi Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa chống quân nhà Minh và cuộc khởi

nghĩa Lam Sơn kéo dài suốt 10 năm (1418-1427) đã mang về độc lập một lần

nữa cho dân tộc. Lê Lợi lên ngôi mở ra triều đại Hậu Lê (1428-1789). Nhà Lê

đi vào xây dựng đất nước và đạt tới cực thịnh vào thế kỷ XV, dưới thời Lê

Thái Tông, Lê Thánh Tông. Tuy vậy, đến cuối thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI,

xã hội phong kiến bắt đầu bộc lộ sự suy thoái của nó. Bên trong cung đình

Hậu Lê không tránh khỏi xung đột. ặc biệt là sau cái chết của Lê Thánh

Tông, quan lại nhiều lần chia bè phái đấu đá nhau. ất nước lục đục, nhân

dân rơi vào cảnh lầm than, là những gì của hiện thực được phản ánh vào trong

tác phẩm văn học thời kỳ này, đặc biệt là trong văn xuôi. Nội dung yêu nước

với tinh thần ngợi ca dần lắng xuống nhường chỗ cho những sáng tác mang

âm hưởng phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân với tinh thần nhân đạo.

Tinh thần đó cũng được thể hiện rõ trong các sáng tác truyền kỳ, làm nên

bước phát triển rực rỡ nhất của thể loại này với dấu mốc là sự ra đời của

Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ). Nhân vật trung tâm của những truyện này

không phải là những anh hùng hào kiệt, những cao tăng, thiền sư mà là những

người dân hết sức bình thường trong cuộc sống hiện thực đang đầy rẫy những

19

rối ren, lầm than, đen tối.

Không chỉ tác động tới nội dung đề tài phản ánh, hoàn cảnh xã hội thay

đổi còn ảnh hưởng đến các hình thức nghệ thuật. Trải qua năm thế kỷ phát

triển, văn học viết không còn dựa dẫm một cách thụ động vào văn học dân

gian nữa mà phát triển định hình, cứng cáp hơn, tạo ra những bước tiến mới,

thậm chí là có những đỉnh cao trong một số thể loại. Bên cạnh việc ghi chép,

sưu tầm các câu chuyện trong dân gian, các tác giả văn học đã bắt đầu có cái

nhìn sâu sắc hơn về vai trò của văn học trong giai đoạn này. Nhu cầu phản

ánh hiện thực xã hội đã tạo nên những chuyển biến trong nhận thức về sự đổi

mới trong sáng tác của các tác giả. Từ đây, những tác phẩm văn học ra đời

mang đậm tính sáng tạo và cá tính của người cầm bút. ây là những tiền đề

để thể loại truyền kỳ phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn này.

Thế kỷ XV văn học viết còn kế thừa cảm hứng yêu nước và âm hưởng

còn sót lại của hào khí ông . Dần dần văn học Việt Nam chuyển sang cảm

hứng thế sự, đi vào chuyện đời, chuyện người, phê phán các tệ nạn xã hội, sự

suy thoái về mặt đạo đức.

Trong tình hình đất nước có nhiều biến động trải dài suốt hai thế kỷ,

đây lại là giai đoạn phát triển và đạt đỉnh cao của truyền kỳ Việt Nam. Ở giai

đoạn này, truyền kỳ đã thoát khỏi mối ràng buộc của văn học dân gian và văn

học chức năng và mang tính sáng tạo. Thành tựu nổi bật là hai tác phẩm

Thánh tông di thảo được cho là của Lê Thánh Tông và Truyền kỳ mạn lục của

Nguyễn Dữ…

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm truyện truyền kỳ của tác giả Nguyễn

Dữ, bao gồm 20 truyện ngắn, được viết bằng chữ án. ây được xem là tác

phẩm truyền kỳ tiêu biểu nhất, từng được ví như áng “thiên cổ kỳ bút” của

nền văn học trung đại Việt Nam. Hiện nay có nhiều dị bản mang các tên gọi

20

như Cựu biên truyền kỳ mạn lục, Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm

tập chú. Văn bản đã được khắc in và sao chép lại nhiều lần để đáp ứng nhu

cầu người đọc.

Truyền kỳ mạn lục tức là truyện ghi chép những câu chuyện tản mạn

được lưu truyền. ách đặt tên như vậy thể hiện sự khiêm tốn của tác giả

Nguyễn Dữ khi đây là một tác phẩm rất kỳ công gọt giũa, là sự sáng tạo ra

những câu chuyện kỳ lạ của tác giả, dựa trên nền tảng văn học dân gian và

tinh hoa truyện truyền kỳ của Trung Hoa.

Thánh Tông di thảo là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, gồm có 19

truyện. Tác giả tập truyện này vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Tuy

nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng đây là tập hợp của các truyện ký trong đó có

nhiều truyện là của Lê Thánh Tông. Những câu chuyện viết theo loại hình

truyền kỳ, tạp ký và ngụ ngôn. Theo Từ điển văn học: “người viết hoặc dựa

vào truyện dân gian, hoặc dựa vào những sự kiện lịch sử (có liên quan đến

thời kháng chiến chống Minh và thời của vua Lê Thánh Tông), hoặc dựa vào

văn liệu hay thực tế cuộc sống mà cấu tạo nên truyện mới. Vì vậy có thể nói

Thánh Tông di thảo là một sáng tác phẩm, trong đó có phóng tác, có tái tạo và

có cả hư cấu”. (Theo Bùi Duy Tân, Từ điển văn học (bộ mới), tr. 1637). Chính

những yếu tố hư cấu này làm nên thể loại truyền kỳ của Thánh Tông di thảo,

mặc dù trong nhan đề tác phẩm không hề nhắc đến “truyền kỳ”. Yếu tố truyền

kỳ đã xuất hiện rất rõ nét trong một số truyện như Duyên lạ xứ hoa, Chuyện lạ

nhà thuyền chài, Tinh chuột… Trong Thánh Tông di thảo có truyện đề cập

đến tình yêu lứa đôi với những nhân vật nữ nết na, đức hạnh và chung thủy

với cái nhìn bao dung, nhân đạo... Ngoài ra, tiếng cười trào phúng đầy chất trí

tuệ cũng là một đặc điểm khá nổi bật của Thánh Tông di thảo. Tác phẩm này

là một cột mốc đánh dấu bước tiến của văn tự sự, từ chỗ nặng về ghi chép sự

21

tích cũ đến chỗ sáng tạo những truyện mới.

Nam ông mộng lục là tác phẩm được Hồ Nguyên Trừng viết ở Trung

Quốc, nhưng nội dung vẫn bối cảnh, con người trong cuộc sống hiện thực của

thời Lý – Trần ở Việt Nam. Tác phẩm mang đậm tinh thần dân tộc khi Hồ

Nguyên Trừng thể hiện nỗi sầu xa xứ qua những hồi ức được ghi chép, từ đó

thể hiện lòng tự tôn dân tộc, ngầm ngụ ý với bạn bè Trung Hoa về một nền

văn hóa dân tộc không hề thua kém.

Trong giai đoạn này, con người bắt đầu được đưa vào làm trung tâm

phản ánh rõ nét hơn so với giai đoạn trước đó. Truyện truyền kỳ tận dụng tối

đa đặc trưng tiêu biểu của nó là yếu tố kỳ ảo để thông qua đó phản ánh giá trị

nội dung mà tác giả muốn được nhấn mạnh. Tình tiết câu chuyện ly kỳ, hấp

dẫn, cuốn hút, người đọc được đưa đến những vùng đất thần tiên, ma quỷ,

không có thật để đi từ hồi hộp này đến bất ngờ khác. Mọi sắc thái biểu hiện từ

thấp hèn đến cao sang như là yêu quái, ma cây, quỷ dạ xoa, thần, Phật… đều

đi vào các tác phẩm truyền kỳ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể chuyện và

miêu tả để đưa các yếu tố kỳ ảo gắn liền với những hành động của con người,

từ đó làm nổi bật lên nhiều bức tranh về cuộc sống và cả những ý đồ phản ánh

của tác giả về các hiện tượng đời sống, về con người… on người trở thành

trung tâm phản ánh, chính vì thế con người trong xã hội thực có vai trò khá

quan trọng trong mỗi tình huống, có ý nghĩa cả với những thế giới hư ảo. Khi

có con người, chuyện trắng đen nơi âm ti, đền thờ miếu mạo mới được làm

sáng tỏ như trong Tản Viên từ phán sự lục, nhờ có chàng Ngô Tử Văn đốt đền

thì tên Bách hộ họ Thôi mới bị vạch trần hành vi cướp đền, nhũng nhiễu nhân

dân nơi âm ti. Trong Dạ Xoa bộ soái lục, Dĩ Thành dù là người trần mắt thịt

nhưng vì có tính tình hào hiệp, đại nghĩa nên được bọn quỷ Dạ Xoa tôn lên

làm thủ lĩnh, hết sức tiến cử cho chàng với Diêm Vương, xin cho chàng chức

Tướng Dạ Xoa; về sau chàng được bạn lập đền thờ vì hiển linh báo hiểm họa

22

sắp xảy đến giúp bạn cứu được cả gia đình…

on người khi được đưa vào làm trung tâm, các tác giả truyền kỳ

không chỉ đề cao họ mà còn cảm thương với những số phận con người nhỏ

bé, đặc biệt là người phụ nữ. Nàng Vũ Thị Thiết trong Nam Xương nữ tử lục

dù là một người con gái thùy mị, nết na, hết lòng hiếu thảo với mẹ chồng,

thủy chung với chồng và giàu lòng thương con thì kết cục nàng vẫn bị hàm

oan và chết oan. Ở Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Từ Nhị Khanh cũng được

miêu tả là một người phụ nữ của gia đình, hi sinh tình riêng, giữ trọn đạo hiếu

để chồng cùng với cha chồng đi xa lĩnh chức mới. Sau nhiều năm chờ đợi,

sóng gió cũng đến với nàng khi bà cô nhất định gả nàng cho người khác. ến

khi thoát được nạn đó, hai vợ chồng đoàn tụ với nhau thì cuối cùng nàng vẫn

phải chịu cái chết oan uổng vì thói chơi bời, cờ bạc của chồng. Nàng ào àn

Than trong Đào thị nghiệp oan ký dù có cá tính mạnh mẽ, sống mãnh liệt vì

tình yêu đôi lứa mà trở thành yêu quái, hưng yêu tác quái, sau cùng cũng bị sư

Pháp Vân tiêu diệt thành tro bụi; nàng Liễu Nhu Nương và ào ồng Nương

trong Tây viên kỳ ngộ ký cũng là hai người con gái vì tình yêu đôi lứa cũng

phải chịu kết cục tan nát trong mưa bão… Người phụ nữ trong sáng tác truyền

kỳ dù là hiền lương, thùy mị, nết na hay cá tính mạnh, chuyên hưng yêu tác

quái, sống vì dục vọng thì kết cục họ nhận lại đều là cay đắng. ó chính là số

phận của người phụ nữ trong một thời kỳ tăm tối mà tác giả Nguyễn Dữ muốn

thông qua những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn của mình muốn phản ánh.

Truyện truyền kỳ giai đoạn này không chỉ đề cao con người mà còn

phản ánh những mặt trái của đời sống, hay đó chính là hiện thực tăm tối thời

kỳ tác giả sống, đó là nạn đút lót, ăn của hối lộ (Tản Viên từ phán sự lục), ỷ

cậy quyền thế mà ức hiếp người khác (Túy Tiêu truyện), thói ăn chơi xa đọa

của vua quan (Đà Giang dạ ẩm ký, Na Sơn tiều đối lục)… Ngoài ra, những

câu chuyện tình cảm, tình yêu đôi lứa cũng được khắc họa rõ nét, thậm chí có

23

phần mãnh liệt, giàu tính nhục dục như Mộc miên thụ truyện, Đào thị nghiệp

oan ký, Tây viên kỳ ngộ ký… Nhiều mặt của đời sống, về tâm tình của con

người được tác giả đưa vào truyện truyền kỳ để những yếu tố kỳ ảo làm hết

vai trò của mình trong việc làm toát lên nội dung tác phẩm.

Truyện truyền kỳ thế kỷ XV- XV được xem là thời kỳ rực rỡ nhất bởi

yếu tố kỳ ảo được sử dụng nhuần nhuyễn, đậm đặc và thông qua đó nhiều nội

dung tác giả muốn phản ánh về một xã hội tăm tối hay là sự cảm thương với

những số phận con người nhỏ bé… được nêu bật.

1.3.3. Giai đoạn thế kỷ XVIII – cuối thế kỷ XIX

Bước sang thời kỳ này, truyện truyền kỳ bắt đầu có những “bước lùi”

trong nghệ thuật biểu hiện khi yếu tố kỳ ảo dần bị thu hẹp lại, yếu tố thực

được các tác giả coi trọng hơn. ây được xem như một sự “canh tân”, một

hướng đi mới cho thể loại truyền kỳ trong một giai đoạn lịch sử mới. Thời kỳ

này nổi bật lên với những tác phẩm truyền kỳ của các tác giả oàn Thị iểm

(Truyền kỳ tân phả), Vũ Trinh (Lan Trì kiến văn lục), Phạm Quý Thích (Công

dư tiệp ký)…

Nếu như giai đoạn trước, truyện truyền kỳ đã đạt tới đỉnh cao thì sang

giai đoạn này, các tác giả muốn có hướng đi mới cho truyện truyền kỳ, cố

gắng để thể loại này tiếp tục tồn tại và được đón nhận. Xu hướng của các tác

giả thời kỳ này đó là cố gắng đưa các yếu tố của cuộc sống hiện thực vào tác

phẩm để thể hiện rằng câu chuyện được viết ra rất gần với đời sống, tạo sự tin

tưởng nơi người đọc. hính điều này đã làm “mai một” nét đặc sắc nhất của

truyện truyền kỳ là yếu tố kỳ ảo. Cái ảo dần giảm đi tức bản chất của truyện

truyền kỳ đã đổi khác, nếu như câu chuyện không còn nhuốm màu kỳ ảo nữa

tức là truyện truyền kỳ không còn giữ đúng bản chất của nó. Tác giả muốn

đưa đời sống thực vào tác phẩm, thể hiện đầu tiên và nhìn thấy rõ nhất là ở

24

nhan đề tác phẩm, như Vũ Trinh đặt tên cho sáng tác của mình là Lan Trì kiến

văn lục, từ “kiến văn” cho thấy rõ điều đó, Vũ Trinh muốn kể về những điều

chính mắt ông nhìn thấy để từ đó tạo dựng niềm tin nơi người đọc. iều này

một phần có thể hiểu được là do bối cảnh lịch sử, văn học quyết định sáng tác

của các tác giả truyền kỳ. Thế kỷ XVIII, thế kỷ của trào lưu nhân đạo chủ

nghĩa, mà nổi bật là tiếng nói đòi quyền sống, đòi hạnh phúc và đấu tranh giải

phóng con người, nhất là người phụ nữ. Truyền kỳ tân phả của oàn Thị

iểm ra đời trong bối cảnh ấy, vì vậy, trong sáng tác của bà, nhân vật người

phụ nữ là trung tâm phản ánh ở đa số truyện, họ đều là những người phụ nữ

có xuất thân cao sang, quyền quý, không là con nhà quan thì cũng là tiên trên

trời giáng thế. Những hành động, việc làm của họ càng thể hiện vai trò của

người nữ trong xã hội như là khuyên bảo chồng phải làm theo lẽ đúng (Bích

Câu kỳ ngộ, Vân Cát thần nữ lục), tài văn thơ không thua kém gì bậc nam

nhân (Vân Cát thần nữ lục). Không chỉ vậy, Truyền kỳ tân phả của oàn Thị

iểm được đưa vào rất nhiều thơ phú, thậm chí dung lượng tác phẩm dành

cho thơ chiếm phần lớn, khiến cho kết cấu câu chuyện trở nên lỏng lẻo. ây

là một hướng sáng tác, hướng khác là tuyệt nhiên rất hiếm thơ ca như trong

sáng tác của Vũ Trinh, dung lượng mỗi truyện ngắn gọn và có phần lời bình,

thêm vào của tác giả thể hiện rằng câu chuyện đó có người chứng kiến, tạo

thêm niềm tin nơi người đọc.

Những câu chuyện trong đời sống thực tại đi vào trong tác phẩm truyền

kỳ làm cho yếu tố kỳ ảo trong nhiều câu chuyện rất ít như Long hổ đấu kỳ - có

duy nhất yếu tố kỳ ảo là con hổ và con rồng biết nói tiếng người và cùng đấu

khẩu hay gần như yếu tố kỳ ảo bị ẩn đi như Tùng bách thuyết thoại… Thể loại

truyền kỳ giai đoạn này dần được sáng tác theo một xu hướng mới làm cho

những câu chuyện kỳ không còn thật sự kỳ, tạo ra một lối sáng tác mới, mở

đường cho văn học giai đoạn tiếp theo phát triển, đó là sự xuất hiện của thể

25

loại truyện ngắn, tiểu thuyết.

Bước sang thế kỷ XIX khi có thực dân Pháp xâm lược nước ta, những

đòi hỏi mới về sáng tác văn chương phục vụ cho công cuộc bảo vệ đất nước

khiến cho những thể loại văn học mới dần ra đời phù hợp với nhu cầu của thời

đại. Chữ viết mới ra đời đó là chữ quốc ngữ, mục đích chính của văn học thời

kỳ này cũng khác, đó là đề cao sự hào hiệp, tinh thần yêu nước mà tiêu biểu là

sáng tác của Nguyễn ình hiểu. Từ đây, văn học chữ Hán, chữ Nôm dần

khép lại vai trò của mình; thể loại truyền kỳ sáng tác bằng chữ Hán cáo

chung, mở ra một thời kỳ văn học mới với sự lên ngôi của truyện ngắn cận

hiện đại.

Tiểu kết: Như vậy, ở chương , với những khái lược về thể loại truyền

kỳ, từ khái niệm đến đặc trưng của thể loại về nội dung, nghệ thuật và các giai

đoạn phát triển của thể loại truyền kỳ, chúng ta đã có những cái nhìn chung

nhất về thể loại này ở Việt Nam. Thể loại truyền kỳ trải qua gần mười thế kỷ

với ba giai đoạn, đã đi hết con đường từ hình thành, phát sinh, phát triển, suy

thoái và tiêu vong theo quy luật vốn có của mọi hiện tượng. iai đoạn đầu là

những manh nha đầu tiên cho sự hình thành của thể loại truyền kỳ, đến giai

đoạn thứ hai là sự phát triển huy hoàng nhất của thể loại với điểm sáng là

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Bước sang giai đoạn thứ ba, truyền kỳ

dần đi vào con đường tàn lụi, nhưng ở đầu giai đoạn ba, vẫn có những tác

phẩm truyền kỳ được coi là đặc sắc, tiêu biểu là Truyền kỳ tân phả của bà

oàn Thị iểm. Dù đến nay thể loại truyền kỳ không còn nữa nhưng nó đã

khẳng định được những giá trị nhất định trong thời gian tồn tại và tạo nên

26

được nét đặc trưng, là một thành tựu của nền văn học trung đại Việt Nam.

hương 2:THÀNH TỰU CỦA TRUYỀN KỲ VIỆ N M ẾN

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC

2.1. Tích hợp kinh nghiệm truyền kỳ khu vực

húng ta đã biết đến cái nôi của thể loại truyền kỳ là bắt nguồn từ

Trung oa sau đó ảnh hưởng đến các nước đồng văn, trong đó có Việt Nam.

Có thể nói, Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu được xem là tác phẩm truyền kỳ

tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho truyện truyền kỳ Trung Quốc và nó

được xem là tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến sự ra đời của thể loại

truyền kỳ ở các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc... ối với Việt

Nam, Tiễn đăng tân thoại có ảnh hưởng rất sâu sắc và được xem là có tác

động không nhỏ cho sự ra đời của tác phẩm được cho rằng là truyện truyền kỳ

đầu tiên, một áng “thiên cổ kỳ bút” đó là Truyền kỳ mạn lục. Ảnh hưởng từ

những chất liệu, thao tác, kỹ năng… làm nên một thể loại được xem là mới

mẻ ở Việt Nam, Nguyễn Dữ đã tạo ra một Truyền kỳ mạn lục có nhiều nét

tương đồng, tiếp thu từ Tiễn đăng tân thoại. Không thể không nói rằng

Truyền kỳ mạn lục tuy có tiếp thu, “bắt chước” Tiễn đăng tân thoại, nhưng ở

đó vẫn mang đậm nét độc đáo, là sự sáng tạo, bỏ ra “chất xám” rất kỳ công

của Nguyễn Dữ, bản chất khác hoàn toàn so với Tiễn đăng tân thoại của Cù

Hựu, nhưng phần này sẽ dần được làm sáng tỏ ở phía sau. Trước tiên chúng

tôi sẽ làm sáng tỏ những khía cạnh được Nguyễn Dữ tiếp thu để mở màn cho

thể loại truyện truyền kỳ ở Việt Nam qua Truyền kỳ mạn lục.

2.1.1. Sự tích hợp trong cốt truyện

Làm nên hồn cốt của mỗi một tác phẩm trước hết phải nói đến cốt

truyện. Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ khi ra đời, không thể phủ nhận

rằng có những tình tiết thuộc về cốt truyện vẫn là sự tiếp nhận từ Tiễn đăng

27

tân thoại của Cù Hựu. iều này, tuy không thể hiện rõ nét mà chỉ là điểm

xuyết, ở mỗi một truyện trong Truyền kỳ mạn lục ta lại thấy có hình bóng của

nhân vật, của tình tiết câu chuyện, những sự việc… xuất hiện trong Tiễn đăng

tân thoại. Tuy vậy, nếu nhìn nhận kỹ lưỡng, ta không hề thấy Nguyễn Dữ cóp

nhặt nguyên xi từ nguyên tác của Cù Hựu, hàm lượng sáng tạo của tác giả rất

cao có trong từng truyện trong Truyền kỳ mạn lục. Cốt truyện trong Truyền kỳ

mạn lục cũng như trong Tiễn đăng tân thoại chủ yếu là những câu chuyện kỳ

quái về tình yêu nam nữ, người sĩ tử, những chuyện kỳ lạ chốn âm phủ hay

thủy cung, những yêu ma thần quỷ… ó thường là những câu chuyện về

người đàn ông bị mê hoặc, cuốn hút bởi những cô gái đẹp - thường là những

hồn ma, bóng quỷ xuất hiện để quyến rũ đàn ông (Đằng Mục túy du Tụ Cảnh

viên ký; Tây viên kỳ ngộ ký; Xương Giang yêu quái lục…); hay như những

chuyện kẻ sĩ tử, người có học, khí phách ngang tàng không sợ ma quỷ hay

chết chóc, được du ngoạn ở chốn âm phủ, thủy cung ( Mệnh Hồ sinh minh

mộng lục; Long Đường linh hội lục; Tản Viên từ phán sự lục; Long Đình đối

tụng lục…).

Trước hết phải nói đến dung lượng của hai tác phẩm Tiễn đăng tân

thoại và Truyền kỳ mạn lục, cả hai đều bao gồm 20 truyện nhỏ, chia làm 4

quyển, dung lượng mỗi truyện của Truyền kỳ mạn lục sẽ dài hơn một chút so

với Tiễn đăng tân thoại, xét về mặt hình thức, điều này một phần cho thấy sự

sáng tạo, điều tiết con chữ của Nguyễn Dữ bám khá sát so với tác phẩm đi

trước là Tiễn đăng tân thoại. Sự phụ trội hơn cụ thể được tính bằng phần lời

bình có ở cuối mỗi truyện của Truyền kỳ mạn lục. 19/20 truyện của Truyền kỳ

mạn lục, tác giả đều có phần lời bình cho mỗi truyện (chỉ trừ truyện Kim Hoa

thi thoại là không có phần lời bình). iều này làm nên sự khác biệt lớn của

Truyền kỳ mạn lục so với Tiễn đăng tân thoại, thể hiện sự sáng tạo của tác giả

Nguyễn Dữ cũng như dụng tậm nghệ thuật và mục đích sâu xa của tác giả.

28

iều này còn giải thích cho việc, sáng tác Truyền kỳ mạn lục trong bối cảnh

lúc bấy giờ quả thực là một điều hết sức nhạy cảm, đó là cái mới của Nguyễn

Dữ, dường như chưa ai táo bạo được như ông. Phần lời bình được xem như

một sự tiết chế, dung hòa giữa đôi cánh sáng tạo với thực tại cuộc sống – thời

kỳ mà tác giả đang sống – không cho phép có những hoạt động, những câu

chuyện xảy ra như trong các truyện có ở Truyền kỳ mạn lục.

ọc Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, mỗi một truyện sẽ thấy một

nét gì đó có phần giống so với Tiễn đăng tân thoại, nhưng để chỉ ra cụ thể nó

giống ở điểm gì lại là một việc làm không dễ dàng. Bởi lẽ Nguyễn Dữ tuy có

học hỏi nhưng không hề lấy nguyên si từ tác phẩm trước mà có sự sáng tạo

độc đáo, thậm chí là tích hợp tình tiết giữa nhiều truyện của Tiễn đăng tân

thoại để làm nên một truyện trong Truyền kỳ mạn lục. Chỉ có một truyện duy

nhất là Mộc miên thụ truyện có sự tái hiện khá rõ nét truyện Mẫu đơn đăng ký

trong Tiễn đăng tân thoại khi có cùng chung một motip truyện là một chàng

trai gặp được ma nữ xinh đẹp đi cùng người hầu, sau rồi vì sắc đẹp của cô gái

mà chàng trai bị mê hoặc, hai người vẫn thường qua lại thân mật hàng đêm.

hàng trai đều được bạn bè hoặc người hàng xóm cảnh báo về mối quan hệ

của anh ta với cô gái và khuyên nhủ rất nhiều. Rồi tình cờ chàng trai biết

được nguồn gốc thật sự của cô gái đó là ma nhờ những đặc điểm như tên tuổi,

cô hầu gái đi cùng, trong Mẫu đơn đăng ký thì là hầu gái cầm chiếc đèn hình

hai bông hoa mẫu đơn, còn trong Mộc miên thụ truyện là cô hầu gái cầm theo

chiếc đàn cầm. Ngay cả khi bị phát hiện, chàng trai vô cùng sợ hại và có ý

trốn tránh thì cũng không thoát khỏi sự mê hoặc của ma nữ, cuối cùng phải

nhận cái chết tức tưởi bên quan tài của ma nữ. Sau đó, cả hai người khi đã

thành ma thì cùng nhau đi tác oai tác quái làm hại người dân lành, phải có sự

ra tay của pháp sư mới dẹp được họa đó. Phần cốt truyện nhìn chung là như

vậy, nhưng với vị trí là tác phẩm ra đời sau, Mộc miên thụ truyện của Nguyễn

29

Dữ vẫn có những điểm khác biệt về tình tiết được lựa chọn để làm nên sáng

tác riêng của mình, không hoàn toàn giống so với Mẫu đơn đăng ký của Cù

Hựu. Cụ thể, có thể kể đến như chàng trai ở Mẫu đơn đăng ký là chàng trai họ

Kiều, còn trong Mộc miên thụ truyện là một người lái buôn – nó thể hiện một

tầng lớp người trong xã hội Việt Nam bấy giờ. Người phát hiện ra chuyện tình

kỳ lạ, một bên là ông già người hàng xóm, còn một bên là bạn bè phường

buôn. ặc điểm nhận dạng của cô gái, người hầu đi theo một bên mang đèn

hình hoa mẫu đơn đi trước, đi sau là cô gái đẹp tuyệt sắc, còn một bên là cô

gái đẹp theo sau là con hầu cầm theo cây đàn cầm. Nơi chết một người là

được quàn trong chùa, là người con gái có xuất thân danh giá, còn một bên là

một cô gái có quan tài nằm trong một ngôi nhà nhỏ phía thôn ông. Nguyên

về phần này có phần khá khác biệt, bởi nhân vật nữ của Nguyễn Dữ thường là

những cô gái có xuất thân bình thường, không mấy khi có xuất thân từ tầng

lớp danh giá, có địa vị trong xã hội.

Truyện Tản Viên từ Phán sự lục trong Truyền kỳ mạn lục, khi đọc lên

ta sẽ thấy “dáng dấp” của Tiễn đăng tân thoại trong đó, thấp thoáng những

tình tiết, chi tiết và bối cảnh như là tính cách con người, bối cảnh âm phủ có

diêm vương, ma quỷ… Người đàn ông cương trực, ngay thẳng, không sợ ma

quỷ, Từ Thức có nét gì đó cứng rắn giống như Lệnh Hồ Soạn trong Lệnh Hồ

sinh minh mộng lục ở Tiễn đăng tân thoại khi thấy việc bất bình thì không

ngại hành động, nói lên tiếng nói của bình để bảo vệ cho lẽ phải. Cả hai đều bị

áp giải xuống âm phủ để Diêm vương hỏi tội, nhưng rồi đều được giải oan.

Tản Viên từ phán sự lục còn thấp thoáng những hình ảnh có trong Vĩnh Châu

dã miếu ký khi đều xuất hiện ngôi đền hay ngôi miếu bị kẻ xấu chiếm giữ, gây

phiền nhiễu cho dân lành trong vùng, không có lấy một ai dám đứng lên

chống lại chúng bởi tránh phải gặp tai họa. Chàng trai Tất Ứng Tường cũng

viết tờ trạng tố cáo để mong kẻ ác không có chốn dung thân. Ở đây, motip của

30

Tản Viên từ phán sự lục khá giống với Vĩnh Châu dạ miếu ký. Khi bị tên Bách

hộ họ Thôi tố cáo với Diêm Vương, Ngô Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như

lời ông cụ già - vị thần đích thực của ngôi đền bị chiếm đã nói, lời rất cương

chính, không chịu chùn nhụt chút nào. Người đội mũ trụ nói: Ấy là ở trước

vương phủ mà hắn còn quật cường như thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt

bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh hiu, sợ gì mà hắn không dám

cho một mớ lửa. Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái, nhưng

Diêm Vương vì thế bụng cũng sinh nghi, Tử Văn nói: - Nếu nhà vua không tin

lời tôi, xin đem giấy đến đền Tản Viên để hỏi hư thực; không có sự thực như

thế, tôi lại xin chịu thêm cái tội nói càn. […] Lập tức sai người đến đền Tản

Viên để lấy chứng thực. Sai nhân về tâu, nhất đúng với lời Tử Văn. [14,

tr.301]. Phân đoạn này giống với phân đoạn khi Tất Ứng Tường khi bị con

yêu trăn bịa chuyện vu cáo: Hắn khai: “Tôi ở trên trần không có tội gì, thế mà

thư sinh Tất Ứng Tường lại vu cáo tôi với đức Nam Nhạc khiến cho thần binh

xuống thảo phạt làm cả họ bị chết, hang ổ tan tành, nỗi oan khổ thực không

kể xiết. Ứng Tường nghe nói biết ngay là con yêu trăn bịa chuyện để trả thù

bèn trình bày hết những việc nó hại người, hại vật, ra oai tác quái ra sao.

Chàng và con yêu trăn tranh cãi trong ngoài lồng sắt, lời qua tiếng lại rất

mệt song cuối cùng nó vẫn không nhận tội. Vị vương bèn sai viên lại mang

công văn tới phủ Hoành Sơn núi Nam Nhạc và tờ thiếp cho Ty thành hoàng ở

Vĩnh Châu để xin chứng thực về việc này. Sau đó, phủ Hoành Sơn và Ty

thành Vĩnh Châu có công văn trả lời, nội dung đúng như sự thực mà Tất Ứng

Tường đã trình bày, bấy giờ con yêu mới tắc họng”. [14, tr. 120 – 121].

Không chỉ vậy, Ngô Tử Văn trong Tản Viên từ phán sự lục hay chàng Phùng

ại Dị trong Thái Hư Tư pháp truyện chính vì sự chính trực, vì nghĩa, làm

điều ngay thẳng của mình mà Ngô Tử Văn hay Phùng ại Dị đều được nhận

một chức quan có trọng trách lớn khi bước ra khỏi giới dương gian, coi như

31

một sự báo đáp của những thế lực chính nghĩa, nhờ có họ mà được phân rõ

trắng đen. Như vậy, từ một truyện Tản Viên từ phán sự lục, chúng ta có thể

nhìn thấy bóng dáng của một số truyện có trong Tiễn đăng tân thoại của Cù

Hựu như là Lệnh Hồ sinh minh mộng lục, Vĩnh Châu dã miếu ký, Thái Hư Tư

pháp truyện.

Nhân vật nữ luôn là một đối tượng được các nhà văn ưu ái đưa vào tác

phẩm của mình, từ Cù Hựu đến Nguyễn Dữ. Theo đó, cốt truyện xoay xung

quanh nhân vật nữ chiếm phần lớn số lượng tác phẩm, nhất là trong Truyền kỳ

mạn lục của Nguyễn Dữ (11/20 truyện). Ngoài cốt truyện Mộc miên thụ

truyện có sự tái hiện khá rõ nét truyện Mẫu đơn đăng ký trong Tiễn đăng tân

thoại thì những truyện khác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ có xuất

hiện nhân vật nữ có một vài nét giống với một số truyện trong Tiễn đăng tân

thoại. ọc Túy Tiêu truyện ta thấy nàng Túy Tiêu khá giống với tạo hình của

nhân vật nàng La Ái Ái, họ cùng được hai tác giả giới thiệu là nàng ca kỹ có

nhan sắc và tài năng, vừa thông minh, hát hay lại giỏi thơ từ, nhưng diễn biến

câu chuyện của Túy Tiêu truyện lại khác hoàn toàn so với Ái Khanh truyện –

có xuất hiện nhân vật La Ái Ái nói trên. Tuy nhiên, cốt truyện của Ái Khanh

truyện lại khá giống với cốt truyện của Lệ Nương truyện khi nàng Lệ Nương

hay nàng Ái Khanh đều là những liệt nữ, họ khi đã có chồng thì nguyện thề

thủy chung, đến lúc phải vào tay kẻ khác thì quyết chọn cái chết để giữ lòng

thủy chung. Có thể nói, từ một Ái Khanh truyện của Cù Hữu, Nguyễn Dữ đã

“xé lẻ” ra thành nhiều câu chuyện khác nhau cho “đứa con tinh thần” của

mình. Ta có thể bắt gặp dáng hình của nàng Ái Khanh trong Lệ Nương truyện,

trong Khoái Châu nghĩa phụ truyện, trong Túy Tiêu truyện. Hình ảnh của

nàng Ái Khanh tài sắc, giỏi làm thơ ta có thể thấy đậm nét nhất trong bóng

sáng của nàng Túy Tiêu; nàng Ái Khanh hiếu thuận với mẹ chồng, hết lòng

săn sóc mẹ chồng lúc ốm đau và chồng vắng nhà, thay chồng quán xuyến mọi

32

chuyện trong gia đình một cách chu toàn, thấu đáo, ta lại bắt gặp ở nàng Vũ

Thị Thiết; nàng Ái Khanh trung liệt, quyết giữ lòng thủy chung một lòng với

chồng khi rơi vào bàn tay dơ bẩn của kẻ khác, đã lựa chọn cái chết để bảo

toàn sự tiết hạnh, ta lại bắt gặp rõ nét nhất ở nàng Lệ Nương… Những chi tiết

tự sự và miêu tả của hai tác giả trích ra sau đây sẽ cho ta thấy rõ nét được

những điều này:

Về vẻ đẹp được giới thiệu: Trong Ái Khanh truyện: “Ở Gia Hưng có

nàng ca kỹ nổi tiếng La Ái Ái sắc đẹp và tài nghệ một thời không ai sánh kịp”.

Trong Túy Tiêu truyện: “Trong đám con hát có ả Túy Tiêu là người xinh

đẹp”. (T275)

Về lòng hiếu thảo và sự tiết hạnh: Trong Ái Khanh truyện: “Mẹ chàng

vì nỗi nhớ con, bệnh thêm trầm trọng, gục xuống gối trên giường. Ái Khanh

chăm sóc rất chu đáo, bất kể cháo hay thuốc đều tự mình nếm trước, cơm

canh ắt tự mình nấu lấy. Rồi cầu thần lễ Phật để nạn khỏi tai qua, nói khéo

nói khôn để mẹ hởi lòng hởi dạ”[14, tr.132]; hay như qua lời kể của người lão

bộc cũ với chàng Triệu đó là “Mấy cây này đều do mợ Sáu trồng cả đấy […]

Đây là do mợ Sáu lo liệu tất cả. Cụ bà thấy cậu mãi không về thương nhớ mà

ngã bệnh, mợ săn sóc chu đáo lắm nhưng không may cụ bà qua đời, mợ chọn

chỗ đem chôn ở đây. Mợ mặc áo ô, tay níu áo quan, được ba tháng thì quân

của ông người Miêu vào thành, nhà cửa bị chiếm có tên Lưu Vạn hộ định bắt

ép mợ nhưng mợ không nghe bèn thắt cổ tự tử…” [14, tr. 134]. Trong Nam

Xương nữ tử truyện: “Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức

thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng mà gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo

khuyên lơn. […] Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như

đối với cha mẹ sinh ra” [29, tr. 289]. Trong Lệ Nương truyện, nàng Lệ Nương

vì không muốn chết nơi đất khách quê người nên đã tự tận để được gần gũi

33

với quê hương, quyết giữ tiết tháo.

Cùng là motip không tin vào chuyện ma quỷ, âm phủ, chết rồi phải trả

giá cho những tai ương, tội ác đã gây ra khi còn sống... tuy ở truyện Lý tướng

quân truyện trong Truyền kỳ mạn lục có đôi nét thoáng qua về kiểu truyện này

so với Lệnh Hồ sinh minh mộng lục trong Tiễn đăng tân thoại, nhưng vẫn là

sự cải biên, sáng tạo mới mẻ của tác giả Nguyễn Dữ. ùng là người giàu có

nhưng có lòng tham, khi phải chịu cái chết, lão già họ Ô vì sau khi chết gia

đình lễ Phật khắp nơi, đốt nhiều tiền giấy mà được quan dưới âm phủ ưng ý

tha cho sống trở lại. ây là một sự bất công không ít đối với những người

nghèo khổ hay những người bị tên này ức hiếp, mà điển hình là thể hiện qua

sự phẫn nộ về nỗi bất công này của Lệnh Hồ Soạn. Lão già họ Ô cũng từng

được trải qua thế giới âm phủ sau đó may mắn được trở về. Lệnh Hồ Soạn lại

là người cương trực, không tin thần linh, ma quỷ, vì vậy khi được dịp xuống

dưới âm phủ thì như được mở mang tầm mắt, hiểu hơn về một thế giới khác

mình. Phải đến tận lúc này Lệnh Hồ Soạn mới có vẻ tin vào ma quỷ. òn như

Lý Hữu Chi thì có được chứng kiến tận mắt vẫn không tin là mình sẽ phải trả

giá, không những thế hắn còn làm quá lên, càng sách nhiễu, tàn bạo hơn. Sự

tưởng tượng về một thế giới khác của tác giả Cù Hựu và Nguyễn Dữ khá là

phong phú, trong suy nghĩ của họ, người lính như trên trần gian thay vì người

bình thường sẽ là quỷ đầu trâu, Diêm Vương giống như một vị vua, phủ đệ

cũng giống như cung điện nơi trần gian, với rất nhiều cung hình phạt khác

nhau tùy vào những tội nặng hay nhẹ. Sự ám chỉ, so sánh về một thế giới trần

gian với một thế giới nơi cõi chết để qua đó thể hiện cái hiện thực xã hội lúc

bấy giờ, Soạn nói: “Thoạt đầu ta chỉ bảo thế gian mới có quan tham lại nhũng

nhận tiền bạc rồi bẻ queo pháp luật, kẻ giàu có đưa hối lộ là được vẹn toàn,

người nghèo không có tiền thì bị khép tội, ngờ đâu dưới âm phủ mà lại quá

quắt hơn thế!”. [14, tr. 64] . iều này há chẳng phải khẳng định rằng nơi trần

34

gian, nạn tham nhũng hoành hành ngang dọc hay sao? Chính Lệnh Hồ Soạn

kêu lên nỗi bất bình để rồi được vời đến chốn âm phủ hỏi tội, từ đó có cơ

duyên để chàng biết nơi âm phủ như thế nào, quỷ thần ra làm sao.

Như vậy để cho thấy sự sáng tạo không ngừng của Nguyễn Dữ tạo ra

những tác phẩm dù có mang dáng dấp cũng không phải là nguyên tác hoàn

toàn, nó trở thành một nét độc đáo riêng, mang chất riêng của Nguyễn Dữ.

Khi đã có hàm lượng chất xám ở đó, tính sở hữu cá nhân sẽ cao hơn. Lẽ tất

nhiên, nguyên liệu để làm nên tác phẩm của Cù Hựu và Nguyễn Dữ nói riêng

và rất nhiều tác giả khác nói chung, sẽ từ nhiều nguồn khác nhau, nhất là từ

nguồn gốc dồi dào là văn học dân gian, văn học truyền miệng, hay từ chính

những tác phẩm đã đi trước như cách mà Nguyễn Dữ đang làm. Tuy nhiên, để

khẳng định được giá trị của mỗi tác phẩm cũng như tài năng của tác giả thì

phải xét đến sự sáng tạo, phần trăm cóp nhặt, học hỏi từ những tác phẩm

khác. Nguyễn Dữ mặc dù có chịu ảnh hưởng của Cù Hựu, cụ thể là chịu ảnh

hưởng của Tiễn đăng tân thoại khi sáng tác Truyền kỳ mạn lục, nhưng sự tích

hợp một cách thông minh của ông từ tác phẩm này đã làm nên giá trị to lớn

của Truyền kỳ mạn lục – một tác phẩm được gọi là “áng thiên cổ kỳ bút” của

nền văn học nước nhà.

Ở Truyền kỳ mạn lục ta sẽ bắt gặp những kết cấu cốt truyện có trong

Tiễn đăng tân thoại, nhưng những sáng tạo, thay đổi của Nguyễn Dữ đã phần

nào thể hiện rõ sự không trùng lặp, và trí liên tưởng tuyệt vời của tác giả. Tính

chất ly kỳ, hấp dẫn của câu chuyện không bị giảm trừ, thậm chí còn tạo được

sự cuốn hút, mới mẻ nơi người đọc.

Xét về khía cạnh thể hiện sự dối trá, gian ác, xa hoa, trụy lạc của vua

chúa lúc đương thời, trong truyện Na Sơn tiều đối lục, mượn lời của người

tiều phu sống ẩn mình trong núi Na Sơn, tác giả đã ngầm ý phê phán triều đại

35

nhà Hồ, cũng như nhà Mạc dối trá, hoang phí, tham lam, nhũng nhiễu dân

lành. Truyện Đà Giang dạ ẩm ký, Nguyễn Dữ muốn phê phán vua chúa không

lo chính sự mà chỉ ham thích săn bắn làm khổ dân chúng.

2.1.2. Sự tích hợp trong kỹ xảo xây dựng nghệ thuật

Kỹ xảo nghệ thuật, ngôn ngữ văn tự thanh tân, điển nhã của cả hai tác

phẩm có sức truyền cảm, đó là một trong những nguyên nhân khiến cho sách

được lưu truyền sâu rộng và được nhiều người biết đến và ngày càng lan tỏa.

Mặc dù nhân vật của Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại chưa được

khắc họa một cách tỉ mỉ, hình tượng không mấy nổi bật, kết cấu sắp xếp còn

thiếu mới mẻ, song cả hai đều có những điểm khả quan nhất định, tiêu biểu là

có nhiều tình tiết xuất hiện biến ảo, cuốn hút người đọc. Ở điểm này, Nguyễn

Dữ và Cù Hựu đều bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ và tạo nên những nét độc đáo

riêng có ở mỗi kiệt tác.

Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại đều có nhiều đặc trưng và

quy luật chung khác tương đồng, điều này chứng tỏ văn học Trung Quốc và

văn học Việt Nam có mối quan hệ khá mật thiết. Truyền kỳ mạn lục tuy có

tích hợp và chịu sự ảnh hưởng từ Tiễn đăng tân thoại nhưng mặc nhiên không

hề là một sự sao chép cứng nhắc, mà đó là sự kết tinh tinh hoa của trí tuệ

Nguyễn Dữ, từ đó sáng tạo nên một tác phẩm được gọi là áng “thiên cổ kỳ

bút” của Việt Nam.

Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đan xen khá nhiều văn vần cùng

với văn xuôi dù vậy đã có sự tiết giảm phần văn vần nhiều so với sáng tác của

Cù Hựu, khiến cho lời văn, toàn bộ câu chuyện được kể trở nên mềm mại

hơn. Lời văn của Nguyễn Dữ trau chuốt, gắn cho những nhân vật của mình tài

văn khá chỉn chu khi có thể “xuất khẩu thành thơ”, không chỉ là những nhân

vật có tài năng, ngay cả người lái buôn như Trình Trung Ngộ biết ít chữ

36

nghĩa, khi nghe nàng Nhị Khanh làm hai bài thơ cho nghe thì cũng biết khen

rằng “Văn tài của nàng không kém gì Dị An ngày xưa”. Ở thời Nguyễn Dữ

sống, mặc dù chế độ Nho giáo đã có những khủng hoảng nhưng vai trò thống

trị và sự ảnh hưởng của nó tới đời sống và những quan niệm, tư duy của con

người vẫn còn rất mạnh mẽ. Trong ý thức hệ Nho giáo, tầng lớp người lái

buôn không hề được coi trọng (sĩ, nông, công, thương), vì thế sự xuất hiện

của nhân vật Trình Trung Ngộ trong truyện Mộc miên thụ truyện biết nói

những câu hoa mĩ như người học thức là một dụng ý sâu sắc của tác giả

Nguyễn Dữ. Dù biết ít chữ, Trung Ngộ cũng biết đến Dị An – một đại thi gia

đời Tống, có tài văn thơ, nhất là ở thể từ, cho thấy qua ngòi bút sắc sảo của

Nguyễn Dữ thì nhân vật của ông cũng trở nên sắc sảo. ay như đứa bé con

mới chỉ bốn tuổi trong Nam Xương nữ tử lục, nhưng đã biết nói chuyện, lập

luận với cha của mình mạch lạc, gãy gọn: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại

biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”… Bằng kinh nghiệm

và tài văn của mình, Nguyễn Dữ đã tạo nên một tác phẩm có sự linh hoạt

trong bút điệu, xây dựng hình tượng sống động, không chỉ qua ngôn ngữ kể,

tả mà còn làm toát lên thông qua việc gán những tài văn chương cho nhân vật.

Mặc dù là những câu chuyện xoay xung quanh hồn ma bóng quỷ, quanh

những chuyện tình yêu nam nữ,… nhưng văn khí của Nguyễn Dữ vẫn phần

nào toát lên giọng điệu văn ngôn trang trọng, lịch sự.

Không chỉ trong giọng văn, ngôn từ được sử dụng, để cho khéo và

việc sử dụng từ ngữ trở nên hợp lý, ta lại phải xem xét đến một cái tài nữa của

Nguyễn Dữ đó chính là nghệ thuật sắp đặt, xây dựng tình huống truyện sao

cho hợp lý, làm đà để câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn, không bị đơn điệu.

Trong Nam Xương nữ tử lục, nàng Vũ Thị Thiết phải dẫn đến một cái chết

oan uổng và rồi sau đó là sự hối hận của người chồng trở thành rất hợp lý.

Nguyễn Dữ xây dựng nhân vật nàng Vũ Thị Thiết là một người phụ nữ thùy

37

mị, nết na, hiếu thảo, hết lòng vì chồng vì con. áng lý, với một thân phận

như vậy, nàng xứng đáng được hưởng một cuộc sống ấm êm, hạnh phúc sum

vầy. Tuy vậy, trớ trêu là chồng nàng lại phải đi chiến trận, để lại nàng ở nhà

cùng mẹ già, con nhỏ, lo toan tất cả mọi việc. Nàng vẫn giữ nguyên vẹn nét

nết na, hết lòng vì gia đình của mình, và đáng lý khi chồng trở về, điều này

nàng phải được chồng ghi nhận. Nhưng nếu phát triển câu chuyện theo hướng

đó thì thật nhàm chán, Nguyễn Dữ đã tạo ra một tình huống là người chồng

trở về trò chuyện cùng con và rồi phát hiện ra, khi mình đi vắng, có một

người đàn ông khác đêm đêm vẫn đến đây. Vốn dĩ chuyện cũng có thể sẽ

không có gì nếu như chàng Trương là một người bình tĩnh và điềm đạm.

Nhưng Nguyễn Dữ lại xây dựng nên chàng là một người tính tình hay ghen,

đa nghi. Vậy là nàng Vũ Thị Thiết không có cơ hội để làm sáng tỏ sự thật.

Với một người thủy chung như nàng, nhất định sẽ không chịu hàm oan một

điều xấu xa đến thế, nhất định không thể nào chịu đựng được nỗi giày vò chỉ

vì một lý do không có thật từ chồng. Nàng đã phải chọn lựa cái chết. Cái chết

ấy cực đau đớn, tủi hờn, gây nên nỗi đáng tiếc, tiếc thương cho nàng nơi

người đọc. Nhưng để câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì nàng Vũ Thị Thiết

cũng sẽ mãi mãi bị chôn vùi nơi đáy nước cùng với nỗi oan khuất đó. Nguyễn

Dữ đã cho chàng Trương nhận ra sự mù quáng của mình khi trò chuyện cùng

cậu con trai nhỏ. Sự bình tĩnh lúc này của chàng đã quá muộn màng, vợ chàng

đã không còn nữa. Xây dựng tình huống này là Nguyễn Dữ tạo cơ hội để cho

nhân vật nhỏ của mình được lên tiếng, cậu bé ản đóng vai trò là người tháo

nút thắt trong câu chuyện đầy mâu thuẫn và bi kịch của cha mẹ mình. Kết cục,

nàng Vũ Thị Thiết được giải oan, nhưng cuối cùng vẫn là gia đình không

được đoàn tụ, chàng Trương vẫn là mất vợ, bé ản vẫn là mồ côi mẹ. Câu

chuyện khi vào tay Nguyễn Dữ đã trở nên ly kỳ, hấp dẫn rất nhiều lần, khiến

38

cho người đọc phải trải qua, thấy đáng tiếc hết lần này tới lần khác.

Xây dựng câu chuyện tình yêu phi chính nghĩa của đôi àn Than và

sư Vô Kỷ trong Đào thị nghiệp oan ký là một chuỗi những tình tiết ly kỳ hấp

dẫn, từ khi Hàn Than là một cung nữ được trả về cuộc sống đời thường, sau

đó thường đi lại nhà quan Hành Khiển rồi bị vợ quan nghi ngờ có tình cảm

bất chính mà gây nên nỗi oán hận muốn trả thù. Trả thù không thành bèn đi tu

ở chùa, rồi cũng vì kiêu ngạo mà biết thân phận trước đây đành bỏ trốn một

lần nữa. Nàng có duyên gặp sư Vô Kỷ, dù cùng ở chốn cửa Phật nhưng hai

người vẫn ngày ngày quấn quýt, tư thông, quên hết việc kinh kệ. Chuyện làm

sai trái đến lúc phải trả giá, Hàn Than có mang rồi ốm lay lắt, Vô Kỷ dù là sư

bác lại không biết thuốc, không làm cách nào cứu chữa được cho người yêu

khiến nàng phải chết đau thương. Vô Kỷ vì thương nhớ quá mấy tháng sau

cũng chết. ai người hóa kiếp làm con của quan Hành Khiển. Câu chuyện

ngày càng trở nên ly kỳ khi một vị thầy tu nghèo nhìn ra là những yêu quái

bèn báo cho quan Hành Khiển biết mà liệu. Rồi chặng đường gian nan quan

Hành Khiển đi tìm đại sư Pháp Vân – bởi chỉ có ngài mới giúp được gia đình

trị nạn yêu quái kia. Quả như lời nói của hai cậu con trai là tinh biến thành,

đại sư Pháp Vân đã tiêu diệt được hai kẻ yêu nghiệt. Hai kẻ biến thành hai con

rắn, nhờ thuật của sư Pháp Vân mà bị biến ra tro cả.

Trong cách tả, các tác giả rất chú ý miêu tả, diễn tả và lồng ghép các

yếu tố kỳ ảo để tạo nên nỗi ghê sợ nơi người đọc. Tuy vậy, thay vì đưa yếu tố

kỳ ảo vào để được người đọc tin tưởng là chuyện có thật, coi là chuyện có thật

vì được kể như một câu chuyện xảy ra ngoài đời như trong văn học dân gian,

thì Nguyễn Dữ đưa yếu tố kỳ ảo vào Truyền kỳ mạn lục là có một ý thức về sự

hư cấu của tác giả, ít nhiều mang yếu tố mô tả, không đơn thuần chỉ là kể ra

câu chuyện. iều này khẳng định sự sáng tạo của tác giả, chứ không chỉ là kể

lại, tóm lược lại những điều đã có trong quá khứ như những truyện kỳ ảo ở

39

giai đoạn trước đó như là Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục…

Yếu tố kỳ ảo được dùng như là một phương tiện nghệ thuật để diễn tả

ý nghĩa sâu sắc về hiện thực cuộc sống. ó là sự so sánh giữa trần gian với

âm phủ, cho rằng trần gian mới có nạn mua quan bán quyền chứ ở âm phủ

không thể mất quy củ như vậy để khẳng định rằng ở trần gian đang chính là

một nơi nhũng loạn, không ở đâu lại bất ổn như vậy. Nguyễn Dữ đưa yếu tố

kỳ ảo, xây dựng lên khung cảnh ở một chốn âm phủ, cũng có người đứng đầu

là Diêm vương giống như vị vua trên trần gian, có đội ngũ quan quân binh

lính, có các hình luật rõ ràng. Cấu trúc ấy giống như một bộ máy cai trị trên

trần gian. Nhưng, điểm khác biệt là trên trần gian, người ta mua quan bán

chức, cứ có tiền là được, không có sự công lý, công bằng, không được xét trên

những quy chuẩn ban đầu được tạo ra. Chứ không phải như ở dưới âm phủ,

nếu anh mắc tội này thì bị xử theo khung hình này, nếu mắc tội khác thì xử

theo khung khác cho phù hợp. Như việc muốn nhận chức ở một địa vị nào đó

phải có tài năng thực sự, là con người đức hạnh và được tiến cử đề bạt mới

được chấp thuận, giống như cái cách mà Ngô Tử Văn được nhậm chức Phán

sự ở đền Tản Viên vậy. ây hay chính là mong mỏi của Nguyễn Dữ về một

xã hội có trước có sau, tuân thủ theo quy định đã đề ra, và đặc biệt là có lương

tâm con người đối với con người, không phải là sự bóc lột, chèn ép như cuộc

sống mà ông đang sống và như những gì mà chính mắt ông nhìn, tai ông nghe

thấy.

Mỗi một yếu tố kỳ ảo có trong tác phẩm, mỗi một tình huống truyện

xảy ra hay con người của mỗi nhân vật và cách mà họ xuất hiện đều là có

chứa dụng ý của tác giả ở trong đó. Vì có cái tâm nên mới sáng tác, vì có lòng

lương thiện nên mới viết ra những lời lẽ, ý tứ muốn lên án, phê phán xã hội,

khóc tiếng khóc cảm thương. Nguyễn Dữ mặc dù có học hỏi, tiếp nhận từ

những thành tựu đi trước trong thể loại, nhưng đó là nguyên liệu để ông quy

40

tụ lại, hòa trộn cùng với chất xám, sự sáng tạo của mình làm nên một tác

phẩm riêng biệt, phù hợp với nhân tình thế thái và qua đó phản ánh được dụng

tâm của tác giả đối với chính lòng mình, cũng như đối với bạn đọc đương

thời.

2.2. Bàn về khả năng thâu hóa thành tựu của văn học dân gian

Việt Nam trong Truyền kỳ mạn lục

Làm nên thể loại truyện truyền kỳ ở Việt Nam, mà đặc biệt là tác phẩm

đặc sắc Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ ở sự tích hợp từ thể loại truyền kỳ

trong khu vực, mà điều quan trọng là nó thâu hóa, tiếp thu được từ nền văn

học dân gian đồ sộ của dân tộc. Văn học dân gian là một từ chỉ chung cho

nhiều thể loại khác nhau được nhân dân ta truyền cho nhau từ đời này sang

đời khác bằng phương thức truyền miệng. iều đáng nói, văn học dân gian

được chia ra làm nhiều thể loại khác nhau như truyện cổ tích, truyền thuyết,

thần thoại, truyện ngụ ngôn… Và, trong một số thể loại cụ thể như truyện cổ

tích, truyền thuyết, yếu tố kỳ ảo, ly kỳ cũng đã được dân gian sử dụng rất

nhiều khiến cho câu chuyện trở nên thần bí và lôi cuốn người nghe. Chính từ

những điểm này, chúng ta xét đến sự thâu hóa vào trong truyện truyền kỳ, mà

ở đây ta xét về tác phẩm tiêu biểu nhất, được xem là xuất sắc nhất của thể loại

là Truyền kỳ mạn lục.

Trước hết, để hiểu về khái niệm “thâu hóa”, thâu có nghĩa là từ đầu đến

cuối, thâu còn có nghĩa là thu; hóa có nghĩa là biến đổi, thay đổi, chuyển sang

một cái khác. Ta có thể hiểu đơn giản thâu hóa có nghĩa là sự thu tóm lại từ

đầu đến cuối rồi biến chuyển thành một cái khác. Ở đây, chúng ta xét đến đối

tượng là truyện Truyền kỳ mạn lục trong mối quan hệ với các truyện thuộc thể

loại truyền kỳ nói riêng và với văn học Việt Nam từ văn học dân gian đến văn

học viết nói chung, mà ở đó tác giả tích góp từ những cái có sẵn, biến hóa,

41

sáng tạo để trở thành sản phẩm của riêng mình. Truyền kỳ mạn lục bên cạnh

việc tích hợp từ truyện truyền kỳ Trung Quốc, bên cạnh việc sáng tạo của tác

giả Nguyễn Dữ còn có một hàm lượng là sự thâu hóa từ chính nền văn học

trong nước, cô đọng, chắt lọc để trở thành một tác phẩm vừa mang âm hưởng,

màu sắc của quê hương, dân tộc, vừa mang nét cá tính sáng tạo riêng của tác

giả Nguyễn Dữ. Sự thâu hóa đó được nhìn nhận, đánh giá dựa trên một số tiêu

chí tiêu biểu đó là về chủ đề, đề tài, cốt truyện và cách trình bày nhân vật.

2.2.1. Sự thâu hóa về chủ đề, đề tài

Nền tảng văn học dân gian giàu có đã là một nguồn nguyên liệu dồi

dào cho những sáng tác của các tác giả văn học trung đại nói chung, tác giả

Nguyễn Dữ nói riêng. Truyền kỳ mạn lục có một số truyện lấy từ truyền

thuyết địa phương làm tư liệu để sáng tác. Thể loại truyền kỳ vốn xuất phát từ

nước ngoài, khi du nhập về nước ta, truyện truyền kỳ chỉ giữ nguyên về hình

thức thể loại, còn như nội dung thì lại phụ thuộc vào sự sáng tạo của tác giả

cũng như nền văn hóa, văn học dồi dào của dân tộc, làm thành lớp nền vững

chắc và căn cốt nơi tư tưởng tác giả. Có thể nói, Truyền kỳ mạn lục của

Nguyễn Dữ mang màu sắc dân tộc đậm đà và tinh thần thời đại rõ rệt. Thời

điểm mà các câu chuyện xảy ra chủ yếu ở thời Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.

Theo như đúc kết của Nguyễn ăng Na, văn xuôi tự sự Việt Nam thế

kỷ X – X V chưa tách khỏi văn học dân gian và văn học chức năng, đồng thời

vẫn mang đậm nét văn – sử - triết bất phân. Vì vậy, các tác phẩm văn xuôi

thời kỳ này chủ yếu là các truyện dân gian và truyện lịch sử, tôn giáo. Truyện

truyền kỳ giai đoạn này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành

nên nền móng cho văn xuôi trung đại Việt Nam về phương diện nội dung và

phương thức tư duy nghệ thuật. Về nội dung, các tác phẩm chủ yếu muốn

khẳng định Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền riêng, có lịch sử

42

lâu đời và có tương lai trường tồn. Về nghệ thuật, truyện truyền kỳ nói riêng

dựa vào truyện dân gian, lấy truyện dân gian làm cơ sở để xây dựng các tác

phẩm trong giai đoạn tiếp theo. Ở thời kỳ này, một số tác phẩm như Việt điện

u linh tập, Lĩnh Nam chích quái lục là những tác phẩm điển hình như thế. ây

là những tác phẩm khởi nguồn cho sự ra đời của truyện truyền kỳ ở Việt Nam,

là “bàn đạp” để làm nên một Truyền kỳ mạn lục xuất sắc đến thế cho giai

đoạn tiếp theo. Tính chất của hai sách này giống nhau là cùng chép chuyện lạ

của các thần linh được thờ cúng ở các địa phương. Nhiều sự tích chép truyện

các nhân vật trước khi có sử Việt Nam. Trong Truyền kỳ mạn lục, ngoài

truyện đầu tiên là Hạng Vương từ ký khá đặc biệt ra, tức là viết về một vị

không phải người Việt, chuyện xảy ra ở Trung Quốc, thì các truyện còn lại,

nhân vật đều là người Việt, nơi xảy ra cũng thuộc các vùng lãnh thổ của Việt

Nam, mang phong vị Việt Nam. Trong đó, có nhiều truyện thần thoại, chí

quái đời xưa được chép ở Lĩnh Nam chích quái lục và Việt điện u linh tập như

truyện Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Kim Hoa thi thoại ký, Phạm Tử Hư du

thiên tào lục…

Chủ đề được Nguyễn Dữ thâu hóa vào trong Truyền kỳ mạn lục có thể

kể đến như câu chuyện về “chùa cổ ma cây” xuất hiện nhiều trong truyện dân

gian, ta thấy qua truyện Mộc miên thụ truyện, có hai con yêu tinh lấp mình

trong cây gạo cổ thụ để hưng yêu tác quái, ức hiếp dân lành… ặc biệt,

truyện Phạm Tử Hư du thiên tào lục, tác giả Nguyễn Dữ đã cải biên từ gốc

truyện lấy trong Lĩnh Nam chích quái lục, có chàng Phạm Tử ư thờ thầy.

Tiêu chuẩn để Nam Tào chọn trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, hoàng giáp

là đều được Nguyễn Dữ dựa vào truyện này trong Lĩnh Nam chích quái lục

mà cải biên thành Phạm Tử Hư du tiên tào lục và có thêm phần lời khuyên

43

răn của thầy.

Chủ đề có phần không thay đổi nhưng được thêm thắt tình tiết để câu

chuyện trở nên hay hơn, chữ nghĩa của tài năng Nguyễn Dữ sử dụng cũng

chau chuốt hơn, cách hành văn lưu loát và tình tiết biến hóa phong phú. Như

vậy để thấy rằng, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ ra đời là một sự dụng

tâm không hề nhỏ của tác giả khi tích hợp từ khu vực cho đến trong nước từ

hiện tại cho đến quá khứ, kết hợp với đó là tư duy sáng tạo tuyệt vời của tác

giả tạo nên một kiệt tác trong văn xuôi trung đại Việt Nam.

Những đề tài trong văn học dân gian được tiếp thu khá nhiều trong

Truyền kỳ mạn lục, đặc trưng nổi bật là đề tài về cái thiện cái ác phản ánh sự

bất công của xã hội, ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, công bằng… Kiểu

kết thúc truyện có hậu trong văn học dân gian thấp thoáng xuất hiện trong

Truyền kỳ mạn lục ở một số truyện Nam Xương nữ tử lục, Túy Tiêu truyện,

Tản Viên từ phán sự lục… Nàng Vũ Thị Thiết khi chọn trầm mình xuống

sông, nàng có một cuộc sống an nhàn, hạnh phúc nơi thủy cung. Mặc dù

không đạt được hạnh phúc điền viên, vui vầy bên chồng con nơi trần thế,

nhưng bước sang thế giới khác là nơi ở của Linh Phi, nàng có một cuộc sống

bớt khổ tâm hơn. Nàng Túy Tiêu cùng chàng Dư Nhuận Chi dù phải ngăn

cách do Túy Tiêu bị tên Trụ quốc họ Thân cướp về làm vợ, đến cuối cùng

nàng đã trốn thoát được khỏi nhà hắn và hai vợ chồng đoàn tụ, trốn đến một

nơi xa sống hạnh phúc bên nhau. Chàng Ngô Tử Văn trong Tản Viên từ phán

sự lục, sau khi đốt đền và bị tên Bách hộ họ Thôi tố cáo ở Âm phủ thì sau này

chàng cũng đòi lại được sự trong sạch và được vị thần ở ngôi đền giúp đỡ, trở

thành một viên quan ở đền Tản Viên. Những truyện của Truyền kỳ mạn lục

chủ yếu mang màu sắc huyền ảo, ma mị và trong đó vẫn có những yếu tố của

dân gian tích hợp trong đó khiến người đọc cảm thấy được sự gần gũi của tác

44

phẩm.

2.2.2. Sự thâu hóa về cốt truyện

Truyền kỳ mạn lục tích hợp nhiều những cốt truyện hay của Tiễn đăng

tân thoại, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, trong đó vẫn có hồn cốt Việt khi mà ở

tác phẩm này còn chứa đựng những nét thuộc về cốt truyện trong dân gian.

ược xem như là tiểu thuyết truyền kỳ đầu tiên của nền văn học nước nhà,

Truyền kỳ mạn lục không quên tiếp nhận những thành tựu có được từ nền văn

học dân gian đồ sộ, phát huy những cái đã có được, gọt giũa trở thành một

kiệt tác văn chương như bây giờ chúng ta được thưởng thức. Cốt truyện trong

dân gian thường đơn giản, theo kể chuyện theo thời gian tuyến tính, khiến cho

người nghe dễ hiểu. Truyền kỳ mạn lục cũng có những điều ấy, cốt truyện của

tác phẩm này thực chất khá đơn giản, với dung lượng mỗi truyện không quá

dài. Ban đầu cũng là giới thiệu về niên đại, sau đó là sự xuất hiện của nhân

vật, rồi đến các tình tiết câu chuyện dần được mở ra. ọc Nam Xương nữ tử

lục ta sẽ thấy có phần giống với truyện Vợ chàng Trương trong motip. ó là

cùng một người vợ thùy mị nết na, chồng đi xa, ở nhà chăm con nhỏ. Nàng

Vũ Thị Thiết có một cách dỗ con là nhìn lên bức vách chỉ rằng đó là cha

thằng bé. Sau cùng chính điều này dẫn đến nỗi oan khuất của nàng Vũ thị mà

phải trầm mình xuống sông mà chết. Nhưng thay vì cái kết đến đây thôi trong

truyện cổ tích, Nguyễn Dữ đã phát triển thêm phần nàng Vũ thị trở về để giải

oan, khiến cho câu chuyện thêm ly kỳ hấp dẫn hơn khi có thêm một câu

chuyện về chàng Phan lang người cùng làng được gặp nàng nơi thủy cung.

Tức là, dựa trên một nền văn học dân gian đã có sẵn, Nguyễn Dữ chắt lọc tình

tiết hay, phát triển thêm những diễn biến mới lạ, tháo gỡ vướng mắc, tạo thêm

bất ngờ nơi người đọc, khiến cho Truyền kỳ mạn lục vẫn luôn cuốn hút, được

45

nhiều người hưởng ứng suốt một thời.

ay như truyện Từ Thức tiên hôn lục, vốn có nguồn gốc từ cốt truyện

Sự tích động Từ Thức trong truyện cổ tích Việt Nam. Truyện cổ tích này được

Nguyễn ổng hi sưu tầm trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, cốt truyện

tương đối giống với Từ Thức tiên hôn lục. Chứng tỏ Nguyễn Dữ đã có những

tích hợp từ trong truyện cổ tích vào tác phẩm của mình. Diễn biến truyện khá

giống với diễn biến của truyện cổ tích, tuy nhiên Từ Thức tiên hôn lục vẫn có

một giá trị riêng bởi trong tác phẩm, Nguyễn Dữ sáng tạo thêm phần thơ và

lời văn của ông được gọt giũa tinh xảo hơn. Tầng ý nghĩa chứa đựng trong tác

phẩm cũng sâu sắc hơn nhiều so với việc chỉ đơn thuần kể chuyện như trong

truyện cổ tích. Thông qua tác phẩm này, Nguyễn Dữ muốn thể hiện quan

niệm sống của một kẻ sĩ muốn lánh đời, lánh đục về trong, chán ngán cảnh

quan trường lươn lẹo.

Nhìn chung những truyện ta đọc lên sẽ thấy có hơi hướng của truyện cổ

tích, truyền thuyết… có trong dân gian. ây là một nguồn dưỡng chất dồi

dào, tạo nền tảng cho những tác giả trung đại thỏa sức sáng tạo dựa trên đó,

nhưng không vì thế Nguyễn Dữ lại lạm dụng quá nhiều mà làm mất đi nét cá

tính sáng tạo riêng của mình.

2.2.3. Sự thâu hóa trong trình bày nhân vật

Tiếp thu từ nền văn học dân gian, có nhiều cách thức kỳ lạ cho nhân

vật xuất hiện. Trong Truyền kỳ mạn lục cũng xuất hiện những sự xuất hiện lạ

kỳ như thế. ó là việc vợ quan Hành Khiển chiêm bao thấy hai con rắn cắn

vào mạng sườn dưới nách bên trái, liền sau đấy có mang, sinh ra hai người

con trai đặt tên là Long Thúc và Long Quý. Sau này, khi phát hiện ra hai

người con trai này là do yêu quái biến thành gây họa cho gia đình, quan hành

khiển đã đi cầu cứu sự giúp đỡ của đại sư Pháp Vân. Khi trở về, vừa hay hai

46

đứa con đã chết, mở nắp quan tài xem thì đúng là chúng đã biến thành hai con

rắn vàng. Hai cậu bé ấy cũng thuộc vào loại đặc biệt khi chỉ mới một tuổi đã

biết nói, lên tám tuổi đã biết làm văn, rất được cha mẹ yêu quý. Ở đây ta có

thể nhìn thấy rõ về những motip quen thuộc có trong văn học dân gian, cụ thể

là ở các câu chuyện cổ tích với sự sinh nở kỳ lạ như chàng Sọ Dừa vì người

mẹ uống nước trong sọ dừa mà về có mang, hay bà mẹ ướm chân vào vết

chân khổng lồ mà sinh ra Thánh ióng… Motip thông minh nhanh nhẹn như

là truyện Cậu bé thông minh… Những motip quen thuộc được Nguyễn Dữ

thâu hóa vào trong tác phẩm của mình để trở thành những câu chuyện hấp

dẫn, mang đậm đà màu sắc dân tộc, vì vốn dĩ trong nó chứa đựng những âm

hưởng của văn học dân gian Việt Nam.

Nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục được Nguyễn Dữ trình bày theo

đúng sự diễn tiến tuyến tính của không gian và thời gian như trong các tác

phẩm văn học dân gian cũng như những truyện manh nha của thể loại truyền

kỳ như Lĩnh Nam chích quái lục, Việt điện u linh tập…

2.3. Thành tựu của Truyền kỳ mạn lục

Về nội hàm tư tưởng, Truyền kỳ mạn lục thông qua những yếu tố kỳ

ảo, hoang đường kết hợp với lối kể chuyện hấp dẫn, sinh động của tác giả,

bên ngoài mặc sức bay bổng, sáng tạo, sống trong cõi ảo mộng, kỳ lạ, hấp

dẫn, mượn những nỗi uất ức của những kẻ sĩ, thư sinh, cảnh bi hoan, ly hợp

của trái gái thời loạn… để bên trong làm thỏa mãn cái tâm của một người nho

đạo. Nguyễn Dữ mặc dù tự tay viết ra những điều nằm ngoài khuôn phép của

Nho giáo, thậm chí những điều được cho là bị cấm kỵ, nhưng chính bản thân

ông cũng chưa thoát ra khỏi con người của bậc nho sĩ. Từ những điều mình

viết ra ông muốn thể hiện rõ nỗi lo của mình về tình hình của xã hội lúc bấy

giờ, đó là những nhũng nhiễu, loạn lạc trong nước và cả những nguy cơ xâm

47

lăng từ bên ngoài chính là mối họa nhà Minh.

Truyền kỳ mạn lục phản ánh hiện thực xã hội , từ chiến tranh loạn lạc

cho đến quan tham lại nhũng, đạo đức bị thoái hóa… Bắt đầu từ cuối thời nhà

Trần, Việt Nam bước vào những năm tháng có nhiều biến động. Năm 1400,

Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tự lập làm vua, tông thất nhà Trần sang

Trung Quốc xin nhà Minh mang quân sang đánh ồ Quý Ly. Nhà Minh lấy

vớ Hồ Quý Ly phản nghịch đã đem quân sang đánh, biến An Nam trở thành

một huyện lị của Trung Quốc và đặt quan cai trị. Nhân dân An Nam khi ấy

không chịu sự cùm kẹp của quân nhà Minh đã nhất loạt nổi dậy, ủng hộ con

cháu nhà Trần chống giặc Minh. Phong trào khởi nghĩa nổi dậy ở khắp nơi

nhưng không có nhiều thành tựu. Khi ấy có một người tên Lê Lợi đã chiêu tập

được quân lính đánh đuổi được giặc Minh, lập nên nhà Hậu Lê. Tuy vậy, sau

một vòng quay, đến cuối thời Hậu Lê lại tiếp tục đi vào vết xe đổ của những

triều đại đi trước. Năm 1527, Mạc ăng Dung cướp ngôi nhà Lê tự lên làm

vua. ất nước cũng từ đó bị chia cắt, chiến tranh, loạn lạc liên miên, nhân dân

rơi vào cảnh vô cùng lầm than. Nguyễn Dữ lại sinh ra vào đúng thời loạn lạc

ấy, lúc làm quan có thể ông đã mắt thấy, tai nghe những điều ngang ngược,

dân chúng khổ ải, điêu linh, nhưng chỉ là một chân Tri huyện nhỏ nhoi thì

chẳng có cách nào để thực hiện được hoài bão, bèn xin bỏ về quê. Truyền kỳ

mạn lục giống như là một nơi để Nguyễn Dữ bày tỏ, bộc bạch nỗi lòng mình,

trong đó chứa đựng tất cả nỗi cô phẫn, những điều không vui, muốn thoát ra

khỏi hiện thực đau lòng. Những chuyện trong Truyền kỳ mạn lục phần lớn

được lấy bối cảnh vào thời Lê sơ, đất nước loạn lạc, rối ren, chiến tranh liên

miên, quan tham lại nhũng vô số kể, lúc ấy ma quỷ hoành hành, bi kịch tình

yêu, hôn nhân gia đình đều từ chiến tranh, sự thối nát của xã hội mà ra.

Nguyễn Dữ thông qua sáng tác của mình mà làm hiện rõ lên thực trạng tối

tăm đó. Tất cả là những tiếng kêu bất bình, sự bất mãn đối với hiện thực chính

48

trị đương thời của tác giả làm nên những câu chuyện thấm đẫm màu sắc bi

cảm, rối ren. ôn nhân gia đình tan vỡ, nứt mẻ do chiến tranh có thể nhìn

thấy trong Nam Xương nữ tử lục, Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Lệ Nương

truyện… Xã hội loạn lạc, quan tham nổi lên, ức hiếp dân lành dẫn đến những

cảnh chia lìa bi thương, bị bóc lột tài sản, của cải, thậm chí là con người như

trong Lý tướng quân truyện, Tản Viên từ phán sự lục, Na Sơn tiều đối lục…

Xã hội loạn lạc, tới mức nơi cửa Phật cũng không giữ nổi vẻ tôn nghiêm, thần

quyền bị mua chuộc, tượng Phật thì đi ăn trộm của dân, không còn thể thống,

phép tắc nào như trong Đông Triều phế tự truyện, Tản Viên phán sự lục…

Nguyễn Dữ đã rất dụng tâm khi viết Truyền kỳ mạn lục. Cái hiện thực xã hội

đen tối ấy ông từng trải qua, đến nay muốn tránh xa nó, giống như là nhân vật

trong tác phẩm của chính mình. Na Sơn tiều đối lục, nhân vật lão tiều phu

sống cuộc đời thanh cảnh giữa chốn núi rừng bát ngát, không màng thế sự bên

ngoài. án Thương giao cho quan hầu là Trương công đi mời người tiều phu

về làm việc, thì tiều phu hết lời chối từ, khi quan công tỏ ý khoe khoang liền

bị tiều phu giận mà rằng: “Ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không

vào đến cung đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là

người thế nào. Ông ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân

để xây dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai; phao phí

gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn,

hình ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời

ngay thì giết, kẻ nói điều nịnh thì thưởng; lòng dân động lay, nên đã xảy ra

việc quân sông Đáy, bơ cõi chếch mếch nên đã mất dải đất Cổ Lâu. Vậy mà

các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Duy có Nguyễn Bằng

Cử có lượng nhưng chậm chạp; Hoàng Hối Khanh có học nhưng lờ mờ; Lê

Cảnh kỳ giỏi mưu tính nhưng không quyết đoán; Lưu Thúc Kiệm quân tử

nhưng chưa được là bậc nhân; còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là đồ nát

49

rượu; phi là đồ chỉ lấy yên vui làm thích thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát

nhau; chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả.

Nay đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn

xắn áo mà lội nữa ư? […] Ta không cố chấp, ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi

bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong triều đình, vẩn đục, rối loạn lại còn toan kéo

người khác để cùng đắm với mình” [14, tr. 347 – 348]. Bao nhiêu nỗi lòng

Nguyễn Dữ đều mượn lời người tiều phu mà bộc bạch hết cả, lời căm phẫn

có, lời trách móc có, lời mỉa mai có… iện thực chính trị tuy không trực tiếp

can dự vào nhưng ông luôn nắm rõ được tình hình đang diễn ra như thế nào.

Người tiều phu ấy còn nắm rõ từng người trong bộ máy thối nát đó, để quyết

không bước chân vào mà trở nên nhơ nhuốc giống họ.

Xã hội thực tại vua không ra vua, thần không ra thần ấy còn được thể

hiện khá rõ nét qua một truyện khác là Đà Giang dạ ẩm ký, qua lời đối thoại

giữa hai con cáo và khỉ giả dạng thành người cùng Hồ Quý Ly. Quân thần chỉ

lo ăn chơi nhảy múa, săn bắn vui thú chẳng lo màng đến chuyện chính sự.

“ ương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân, là không phải thời, giày lên

lúa để thỏa cái ham thích săn bắn là không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc

núi mà đốt, là không phải lẽ”. ến loại hồ ly còn thấu hiểu sự tình đến vậy mà

quan quân nhà vua lại chẳng làm được như vậy, chỉ biết làm khổ dân chúng

và muôn loài. Bao mối họa ngoài kia chẳng lo dẹp lại đi lo tìm kiếm một thứ

xa vời là con hồ ly tinh nghìn tuổi: “Hiện nay thánh hóa chưa khắp, bờ cõi

chưa yên: Bồng Nga là con chó dại, cắn càn ở Nam phương, Lý Anh là con

hổ đói gầm thét ở tây bắc. Ngô Bệ ngông cuồng, tuy đã tắt, Đường Lang lấm

lét vẫn còn kia, sao không giương cái cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên

tử, lấy nhân làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào kiệt làm nanh vuốt,

lấy trung tín làm giáp trụ, cẩn thận lồng cũi để giá ngự những tướng khó trị,

sửa chuốt cung tên để dọa nạt những nước bất phục, tóm bắt giặc giã, đóng

50

cũi giải về, khiến cho gần xa quang sạch. Cớ sao bỏ những việc ấy không

làm, lại đi lẩn quẩn ở công việc săn bắn dù được chim muông như núi, chúng

tôi cũng lấy làm không phục” [14, tr. 377 – 378]. Việc lớn trước mắt không

lo, dẹp loạn cho dân không lo, những quan với vua chỉ lo ăn chơi, thỏa thú vui

của mình, còn thế sự mặc sao cũng được. ời sống nhân dân lâm vào lầm

than, khổ ai nhưng chẳng ai hay biết. Nguyễn Dữ khi viết ra những dòng này

có lẽ bằng những lời lẽ, giọng văn cay nghiệt, đay nghiến để mà xả cơn phẫn

uất trước nỗi bất bình.

Vua quan trong thế giới thực tại đã thối nát là thế, đến thế giới thần

linh tiên Phật cũng không có gì tốt đẹp hơn. Sự tôn nghiêm, nét đẹp tôn giáo

đã bị bán đứng đi hết cả, cũng chỉ bởi cái xã hội kia tác động. Dân vì nghèo

túng không có gì để cúng dường lên chùa để nên nỗi Phật, hộ pháp ở chùa

cũng phải đi ăn trộm đồ ăn của dân, trong Đông Triều phế tự truyện. Sự chèn

ép, dọa nạt khiến cho tên Bách Hộ họ Thôi cướp đi ngôi đền của thần thổ địa

cũng không ai lên tiếng, Diêm vương cũng chẳng hay để nên nỗi gây phẫn uất

cho dân chúng, đỉnh điểm là Hồ Tử Văn phải bất bình mà cho một mồi lửa

đốt đền. Thần phật cũng tham của đút lót mà lơ đi sự thật, điều phải điều trái

lẫn lộn, không còn công minh, không còn vì dân chúng nữa, cứ để im cho

những thế lực xấu xa hoành hành. Phật cũng không thoát khỏi những bản ngã

đời thường là đói rách phải chạy đi đến nhà người dân mà bẻ trộm mía, bắt

trộm cá… ái xã hội ấy thật là đảo điên, không còn phân biệt được trắng đen,

phải trái, thật giả lẫn lộn. Truyền kỳ mạn lục là cả một bức tranh hỗn loạn về

cuộc sống của một thời kỳ tăm tối. Quan quân ăn chơi cứ việc ăn chơi, hưởng

thụ, dân chúng lầm than, khổ ai thì cứ việc khổ ải lầm than, để dẫn đến bao

câu chuyện đau lòng mà không có cái gì an ủi được. ũng may nhờ có những

yếu tố kỳ ảo, mà một hiện thực khác được đặt niềm hi vọng, tươi sáng hơn, tốt

đẹp hơn. Nàng Vũ Thị Thiết hàm oan nhưng được thần tiên chốn thủy cung

51

cho nương tựa, tạo điều kiện cho nàng được về giải oan (trong Nam Xương nữ

tử lục); chàng Phạm Tử ư đang trong một mối tơ vò khi không hiểu sao học

mãi chẳng thành thì được thầy đã tạ thế hiện về chỉ cho nguyên do, còn cho

chàng lên chốn Thiên tào chơi (trong Phạm Tử Hư du Thiên tào lục).

Những mặt trái của xã hội đằng sau các nghi lễ thờ cúng được tái hiện

rõ nét. Tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc dường như được tích hợp khá nhiều

trong các sáng tác truyền kỳ. Truyền kỳ mạn lục với 20 truyện, trong đó có

những truyện phản ánh đến một khía cạnh không thể thiếu trong đời sống tâm

linh và văn hóa của người Việt, đó là văn hóa thờ cúng. Văn hóa ấy gắn liền

với những địa danh, địa điểm thờ cúng như chùa, đền, phủ… Ở Truyền kỳ

mạn lục, mặt trái xã hội, những gì còn “nhem nhuốc” cũng được ông đưa vào

phản ánh, mặc dù người ta thường nhắc đến khía cạnh này với một thái độ

cung kính, trang nghiêm và có phần kiêng sợ nếu như làm điều không đúng,

ấy thế mà Ngô Tử Văn của ông đốt đền, đốt xong còn bình thản như không,

tướng hộ pháp của ông ăn vụng cá, thực phẩm của nhân dân trong vùng để

thỏa mãn cơn đói, mặc dù có vị ăn chay nhưng cũng không chịu, Phật nhưng

lại đi ăn vụng. Trong Đào Thị nghiệp oan ký, sư Vô Kỷ đại diện cho tầng lớp

tăng ni, đại diện cho sự thanh tịnh, nhưng hắn lại cùng Hàn Than làm những

điều trái với quy tắc của một người tu hành, dám mang cái tà dâm, dục vọng

vào chốn cửa Phật mà không kiêng dè gì, đi trái với đạo đức của người tu

hành… Bức tranh màu tối về tín ngưỡng thờ cúng của dân tộc được thể hiện

trong Truyền kỳ mạn lục cho thấy một chân thực nhưng lại là mặt trái của xã

hội mà trong một thời kỳ văn hóa nước ta, những điều tối kỵ này không dễ để

phô bày. Trên thực tế, nơi chùa chiền, miếu mạo là nơi thờ Phật và các vị

thần, sẽ được mặc định là chốn linh thiêng, tôn nghiêm. ho đến khi đọc

Truyền kỳ mạn lục: Phật trong chùa đêm đêm vẫn ra khỏi ngôi chùa cũ nát để

đi ăn trộm đồ ăn của dân, dẫn đến sự phẫn nộ của nhân dân, phải tìm ra mọi

52

cách để bắt được “kẻ ăn trộm”. Thần, Phật – những vị vốn dĩ luôn được nhân

dân coi trọng và thờ cúng thì trong Truyền kỳ mạn lục lại trở thành những

“nhân vật phản diện” trong xã hội với những hành vi xấu xa, đáng lên án.

Trong Tản Viên từ phán sự lục, việc hối lộ, đút lót, bao che nơi thánh thần

cũng không có gì khác so với người dân sống trong xã hội thực tại khi viên

quan phương Bắc thất trận trên đất Việt cướp ngôi đền của vị thần nước Việt,

nhũng nhiễu dân trong vùng mà không bị trừng phạt. Nguyên nhân là do

những vị thần khác ở các ngôi đền khác xung quanh đó đã bị tên Bách hộ họ

Thôi hối lộ. Chỉ đến khi Ngô Tử Văn – một người ngay thẳng, không biết sợ

hãi những điều chướng tai gai mắt đốt đi ngôi đền, mọi chuyện mới được giải

quyết. Yếu tố dục vọng, tình yêu nam nữ xuất hiện trong giới tu hành cũng

được thể hiện rõ ràng qua Đào thị nghiệp oan ký. Người con gái đẹp như nàng

Hàn Than xuất hiện nơi cửa chùa do sư cụ Pháp Vân trụ trì đã khiến sư bác

Vô Kỷ không thể kiềm lòng thế tục mà đi trái lại với đạo đức của người tu

hành. Nơi chùa chiền nhưng àn Than và sư Vô Kỷ đã vì tình yêu mà bất

chấp, đắm chìm trong hoan lạc để đến nỗi nàng Hàn Than phải chết vì sinh

con. Thực trạng chốn tu hành, mở rộng ra là thực trạng của xã hội rối ren lúc

đương thời sinh ra những con người có lối sống không đúng chuẩn mực, gây

nên những điều chướng tai gai mắt. ó là nạn tham nhũng, đút lót, mua quyền

bán chức, cậy quyền ức hiếp người…

Không chỉ là phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu sắc, rõ nét đến

thế, Truyền kỳ mạn lục còn là tiếng lòng cảm thương cho những kiếp người

phải sống trong thời đại tăm tối ấy, đặc biệt là những người phụ nữ thấp cổ bé

họng. Xã hội loạn lạc, đồng tiền được coi trọng, quan cao được kiêng nể

không dám phiền hà tới, dẫn đến cảnh chia ly sầu biệt của đôi vợ chồng Dư

Nhuận Chi và nàng Túy Tiêu. Túy Tiêu là một nàng ca nữ nhưng có nhan sắc

lại thông minh, được Dư Nhuận hi để ý. ai người nhanh chóng kết thành

53

đôi. Khi hai vợ chồng chuyển đến kinh thành thuê trọ để chàng dùi mài kinh

sử chờ đến ngày đi thi, Túy Tiêu trong ngày mùng Một Tết đi chơi ở Tháp

Báo Thiên liền bị tên quan Trụ quốc họ Thân cướp về làm vợ vì mê sắc đẹp

của nàng. Nhuận Chi không biết kêu kiện cửa nào vì kêu đến tận triều đình

cũng không được giải quyết cho vì họ Thân uy thế rất lớn, các tòa các sở đều

tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử. Hai vợ chồng đau lòng vì

thương nhớ nhau, mãi đến khi phải tìm cách để chạy trốn mới được đoàn tụ.

Người phụ nữ thân phận bé nhỏ, sống trong cái xã hội bất công ấy lại càng

không được tự quyết định số phận mình. Liền một lúc bị bắt đi dù đã có

chồng cũng không thể kêu oan, không thể làm gì khác được. ay như nàng Lệ

Nương, trong lúc rối ren loạn lạc bị quân giặc bắt đi cũng chẳng biết làm cách

nào, chỉ còn đường tìm đến cái chết để tự giải thoát cho mình, không phải làm

hồn ma bơ vơ lạc lõng nơi đất khách quê người. ây đều là những câu chuyện

đáng thương tâm của nhiều cảnh đời trong xã hội thực được Nguyễn Dữ phản

ánh trong Truyền kỳ mạn lục. Những người con gái trong Truyền kỳ mạn lục

của Nguyễn Dữ như đã phân tích ở trên, thường là những cô gái đẹp, nết na,

thùy mị hoặc ở một khía cạnh hoàn toàn khác, có cá tính mạnh mẽ, là những

hồn ma bóng quỷ chuyên đi trêu ghẹo, dụ dỗ đàn ông. Dẫu họ có là người như

thế nào, có hiền lành, thánh thiện hay có gai góc, ghớm ghê thù chung cục họ

vẫn phải chịu một cái kết đau đớn. Bởi bản thân họ, những người phụ nữ ấy

lại tồn tại trong một thời kỳ mà xã hội đớn hèn, tăm tối, với đủ thứ nhũng

nhiễu, loạn lạc. Làm sao để không bị chịu ảnh hưởng, tác động từ cái xã hội

ấy. Nàng Vũ Thị Thiết thủy chung, hết lòng vì chồng vì con, là người con dâu

hiếu thảo, nhưng kết cục vẫn phải chấp nhận một cái chết oan uổng. Mà

nguyên nhân sâu xa có thể nói đến đó chính là do chiến tranh. Nếu như không

có chiến tranh, chồng nàng đã không phải ra trận, đã không phải vợ chồng ly

biệt suốt mấy năm ròng để xảy ra câu chuyện hiểu lầm đầy tàn khốc dẫn đến

54

cái chết thảm thê của Vũ Thị Thiết. Chiến tranh – từ thực tại xã hội lúc bấy

giờ gây ra cái chết oan khuất của nàng Từ Nhị Khanh trong Khoái Châu

nghĩa phụ truyện dẫn đến kết cục đau thương. hồng nàng Nhị Khanh sau khi

rời xa gia đình nhiều năm vẫn không từ bỏ thói mải mê chơi bời, tham tiền

dẫn đến bị bạn lừa cướp vợ. Dù có đi xa, mãi mới được trở về đoàn tụ cũng

không thay tính đổi nết để đến nỗi mất vợ vì cái chết oan uổng mà nàng lựa

chọn. Người vợ thủy chung đến thế đáng lẽ phải được sống trong tình yêu

thương của chồng, vậy mà nàng phải chịu cái chết đau đớn cả về thể xác lẫn

tâm hồn. Nàng không ngờ bị chồng bán đứng như vậy, một người vợ đầu gối

tay ấp cũng không bằng một ván bài. Tệ nạn xã hội từ xa xưa đã đáng bị lên

án, để xảy ra những nỗi bất hạnh trong nhiều gia đình.

ô gái gai góc như nàng àn Than trong Đào Thị nghiệp oan ký, hay

nàng Nhị Khanh trong Mộc miên thụ truyện hay nàng Hồng, nàng Liễu trong

Tây viên kỳ ngộ ký cũng không tránh khỏi những cái kết đau lòng, thương

tâm. Mọi người khi đọc có thể cho rằng, nhưng cô gái ấy vì là yêu ma, lại

hưng yêu tác quái, gây bao nỗi khổ hạnh cho người lành thì xứng đáng phải

chịu cái kết đau đớn như vậy, nàng Nhị Khanh thì bị đạo sĩ thu phục, nàng

Hàn Than thì bị Pháp Vân đại sư khiến cho phải thịt nát xương tan, nàng

Hồng, nàng Liễu thì bị gió bão quật ngã... Tuy vậy, nhìn thoáng hơn ta sẽ

thấy, những cô gái ấy âu cũng chỉ là đang đi kiếm tìm, đang khát khao một

tình yêu chân chính, một tình yêu đúng nghĩa. Trong thế giới phong kiến ấy,

tuy Nho giáo đang mất dần vị trí độc tôn, khép con người ta vào những khuôn

mẫu khắt khe, cứng nhắc, nhưng vẫn còn những ảnh hưởng không hề nhỏ.

Người phụ nữ khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc dường như là một

điều tối kỵ, và trước giờ chưa có ai dám làm. Và Nguyễn Dữ - một tác giả

cũng được xem như là người tiên phong khi lên tiếng cho tình yêu nam nữ

trong cái bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Chẳng ai công nhận, chẳng ai đồng tình,

55

ủng hộ những chuyện hoan lạc, ái ân táo bạo đến dường ấy, nhưng Nguyễn

Dữ lại rất mạnh bạo trong miêu tả những chuyện tình người với ma đầy mê

hoặc, đầy huyền ảo đến thế. Thậm chí, ông còn say sưa kể về những cuộc

hoan lạc của nàng Nhị Khanh với tên lái buôn Trình Trung Ngộ, giữa hai

nàng Hồng, Liễu với chàng học trò à Nhân… Tuy nhiên, Nguyễn Dữ cũng

có nghệ thuật của riêng mình, ông viết vậy mà lại không phải do ông viết vậy,

không ai có thể trách móc, lên án được ông khi đề cập đến những vấn đề nhạy

cảm một cách táo bạo đến thế. Bởi ông đã sắp sẵn một “đường lui” cho mình,

đó chính là hệ thống những lời bình có ở cuối mỗi truyện được kể.

Có 19/20 truyện trong Truyền kỳ mạn lục có lời bình ở cuối truyện

(chỉ trừ truyện Kim Hoa thi thoại ký). Những lời bình này được cho là lời của

tác giả Nguyễn Dữ. Nhân vật viết lời bình chỉ xuất hiện khi câu chuyện đã kết

thúc, ở cuối mỗi truyện, lời lẽ, ý tứ trái ngược hoàn toàn so với câu chuyện

được kể ở phần trên. Cho phép sự xuất hiện của nhân vật này là một nét rất

sáng tạo của tác giả Nguyễn Dữ, bởi lẽ ở mỗi truyện, ông thường để cho trí

tưởng tượng, sự sáng tạo của mình bay cao, bay xa, viết đến tột cùng của

những hành động của các nhân vật trong truyện. Những thói ăn chơi xa đọa,

dâm dục vô biên được tác giả phóng túng viết ra, cái cuộc sống ấy khác xa với

đời sống hiện thực mà tác giả đang sống và cũng có một phần hiện thực xã

hội được tác giả lột tả trong mỗi truyện. Thường cuối mỗi truyện, nhiệm vụ

của nhân vật viết lời bình là phê phán những thói dâm ô, trái luân thường đạo

lý đã có trong truyện, hay phê phán những anh chàng có mắt như không khi

yêu phải người ca kỹ hay con yêu tinh… Mọi mặt trái xã hội tác giả đều

mượn lời nhân vật này để nói lên cái cảm nghĩ của mình, thường là phủ định

sạch trơn đối với những lời đã viết ở trên. Nói chung, lời bình này có vai trò

rất quan trọng trong mỗi truyện ở Truyền kỳ mạn lục, bởi có nó mới có sự cân

bằng, sự biện hộ cho những phóng túng trong tay bút của Nguyễn Dữ trong

56

mỗi câu chuyện nằm bên trên phần lời bình này.

Nếu như phía trên vừa tác thành cho cặp đôi là nàng Túy Tiêu vốn xuất

hiện thân từ làng hát đào với chàng Dư Nhuận Chi tài giỏi về thơ ca, họ đã

phải trải qua cả một quãng thời gian cách trở chỉ vì tên quan Trụ quốc họ

Thân, cuối cùng họ cũng chạy trốn được với nhau lánh xa đời để được sống

hạnh phúc bên nhau, không bị ai dòm ngó. Những tưởng với một câu chuyện

như thế với một cốt truyện như thế thì phải nên được đánh giá là một câu

chuyện có kết thúc có hậu, ấy vậy mà đọc xuống đến lời bình của tác giả thì

thấy thật là ngược. Lời bình liền lúc đó được viết ra với lời lẽ chê bai Dư

Nhuận Chi tham sắc nên mới chịu lấy con hát về làm vợ, chê Nhuận Chi thật

là người ngu, chỉ vì một cô vợ là đào hát mà cũng hi sinh, mạo hiểm mà hòng

cứu thoát ra được: “Than ôi! Người con trai bất trung, ông vua trung thường

xấu hổ về bầy tôi ấy. Người con gái bất chính, kẻ sĩ trung thường xấu hổ về

người vợ ấy. Túy Tiêu là một ả ca xướng, chẳng là người chính chuyên, không

hiểu Nhuận Chi ham luyến về cái gì? Vì nàng hiền chăng? Nhưng hết là vợ họ

Trương lại là hầu họ Lý? Vì nàng đẹp chăng? Thì hết làm mê Hạ Sái lại làm

hoặc Dương Thành. Vậy mà lại khinh thường sự đi sự đến, nhẫn nhục tới ở

với người, sờ đầu cọp, vuốt râu hùm, suýt nữa thì không thoát miệng cọp. Như

chàng Nhuận Chi , thật là người ngu vậy” [14, tr. 372]. Lời bình rất đỗi chê

bai cả hai con người này, tác giả như muốn phản ánh một thực trạng xã hội

đảo điên, những chuyện mê muội thế nào cũng có thể xảy ra mà người ta

người trong cuộc không biết đến vậy. Trong truyện Đà Giang dạ ẩm ký,

Nguyễn Dữ lại có ý chê bai Hồ Quý Ly để cho các loài yêu quái qua mặt mà

không làm gì được, chỉ bởi cái sự “tâm thuật không chính”, chứ nếu chính

trực thì muôn loài đều phải nể sợ, khẳng định được sự khôn thiêng hơn muôn

loài khác của con người. Nói như vậy có chăng tác giả đang hạ thấp nhân vật

xuống, để hiện một sự khinh bỉ vô cùng cực khi cho rằng còn không bằng

57

những loài vật khác?

Phản ánh mặt trái của xã hội để từ đó vạch bộ mặt thật, cho người đời

nhìn thấy những cái tưởng là phải mà không phải, tưởng là đen mà không đen,

ngay cả đến quy củ trong chốn thờ tự cũng bị đảo lộn, sư không ra sư, ni

không ra ni. Lời bình trong truyện Đào Thị nghiệp oan ký thể hiện rất rõ điều

này khi Nguyễn Dữ chê sư Vô Kỷ, chê quan hành khiển. ai con người đại

diện cho hai lực lượng khá có uy trong xã hội đương thời, những lại làm

những chuyện không ra sao, trái với những mong đợi của nhân dân: “Than ôi!

Theo về dị đoan chỉ có hại. Huống chi đã theo lại còn không giữ cho đúng

phép, thì mối hại phỏng còn xiết nói được ư? ã Vô Kỷ kia, là một kẻ gian

dâm, buông thói tà dục, chẳng những dối người, lại còn dối vị Phật của hắn

thờ nữa. iá đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa môn ngày xưa thì

hắn cũng không oan chút nào. Thế còn Nhược Chân thì hẳn là không có lỗi

chăng? áp rằng làm quan mà như thế, còn gì là chính gia nữa! Mầm vạ mọc

lên, suýt nữa hãm vào chốn nguy khốn, chính mình làm mình chịu, không

đáng lấy làm lạ chút nào”. Nguyễn Dữ gọi Vô Kỷ là “kẻ gian dâm”, là “gã”

thể hiện tột cùng cái sự khinh bỉ, đó là cách thể hiện và con măt nhìn khác về

bức tranh tôn giáo nước ta trên một khía cạnh tu hành ở vào một thời điểm xã

hội có quá nhiều rối ren, loạn lạc. Chuyện thần phật, thờ cúng có đôi khi trong

mắt nhìn của Nguyễn Dữ không còn quá linh thiêng hay là quan trọng nữa,

không chỉ là chê trách sư Vô Kỷ mà còn là lên án những người được gọi là

thần, được dân chúng thờ cúng nhưng cũng không phải là một vị thần đức độ,

mang lại sự bình yên cho nhân dân mà được cúng tế như thế lại gây ra trò

nhũng nhiễu, tác oai tác quái, như tên Thuồng Luồng trong truyện Long đình

đối tụng lục: “Than ôi, chống được ách lớn thì thờ, cản được nạn lớn thì thờ,

đó là phép cúng tế. Hưởng sự cúng tế ấy thì phải cố danh tư nghĩa, đâu có lẽ

nhận sự thờ cúng lại còn gây tai họa cho người. Thế thì cái tội của vị thần

58

Thuồng Luồng chỉ phải bị đày thôi. Quảng lợi Vương dụng hình như thế, thật

là chưa đáng. Tất phải làm như Hứa Tốn, Thứ Phi mới là cái việc thú vị

được. Cho nên Địch Nhân Kiệt khi làm tuần phủ Hà Nam, tâu xin phá hủy

đến 1700 tòa đền thờ không xứng đáng, thật là phải lắm” [14, tr. 277]. Hay

như trong Đông Triều phế tự truyện, Nguyễn Dữ có bình: “Than ôi! Cái

thuyết nhà Phật thật là vô ích mà có hại quá lắm. Nghe lời nói năng thì từ bi,

quảng đại, tìm sự ứng báo thì bắt gió mơ hồ. Nhân dân kính tin, đến nỗi có

người phá sản để cúng cho nhà chùa. Nay xem cái dư nghiệt ở trong một ngôi

chùa rất nát mà còn gớm ghê như thế, huống ngày thường cúng vái sầm uất,

phỏng còn tai hại đến đâu. Song những anh quân, hiền tướng, chẳng hạn như

Tô học sĩ đời Tống, Lương Trạng nguyên đời Lê, thường muốn trừ bỏ mà vẫn

không thể được, thường có nhiều người giúp rập, ước sao có hàng trăm ông

Hàn Xương Lê ra đời, xúm lại mà đánh, đốt hết sách và chiếm hết nhà mới có

thể được” [14, tr. 358 – 359]. Thời kỳ mà ông sống, có lẽ Phật giáo đang dần

xuống cấp, việc thờ cúng, đền chùa miếu mạo như dần mất đi sự tôn nghiêm.

Chính bản thân vị hộ pháp cũng không thể hiện rõ sự uy nghiêm của mình, đi

ăn trộm đồ ăn của dân thực không còn gì để nói, dân chúng khó có thể tin

tưởng và thành khẩn cúng bái.

Không chỉ vậy, Nguyễn Dữ còn có lời răn dạy đối với vua chúa, qua

truyện Na Sơn tiều đối lục: “Tuy nói việc tang bại của nhà Hồ, đúng như là

bói cỏ bói rùa, nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người,

nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đi như vậy. Kẻ làm vua chúa nên thấy sự

chính lòng mình để làm cái gốc chính triều đinh, chính trăm quan, chính

muôn dân, đừng để cho kẻ xử sĩ phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả”. ình ảnh

người tiều phu giống như một người đang về quê sống ẩn dật, nhưng vẫn tò

mò muốn biết sự đời. Ông đã lánh xa chốn quan trường, không bao giờ muốn

ra mặt cho một chế độ sắp đến hồi kết nữa. Sự hưng thịnh hay suy vong của

59

một triều đại phụ thuộc rất nhiều vào cái chính của người làm vua chúa, từ đó

là từ cái chính lan tỏa ra cái gốc chính triều đình, cái chính từ đó lan tỏa ra

muôn dân, ai cũng sẽ cảm nhận được sự trung thành, nhiệt huyết và khi đó

không ai có thể nhìn vào soi mói được nữa.

ưa ra những lời khuyên răn trong lời bình, không chỉ là đối với những

thế lực có tầm cỡ trong xã hội lúc bấy giờ mà còn là đối với những con người

bình thường, trong cuộc sống gia đình bình thường nữa. Trong truyện Khoái

Châu nghĩa phụ truyện, Nguyễn Dữ viết: “ Than ôi, người con gái có ba đạo

theo, theo chồng là một. Nàng Nhị Khanh chết, có quả là đã theo chồng

không? Thưa rằng không. Đời xưa bảo theo, là theo chính nghĩa chứ không

theo tà dục. Chết hợp với nghĩa, có hại gì cho cái đạo theo. Theo nghĩa tức là

theo chồng đó. Có người vợ như thế mà lại để cho phải hàm oan một cách ai

oán. Trọng Quỳ thật là tuồng chó lợn. Muốn tề được nhà , phải trước tự sửa

mình lấy chính, khiến cho không thẹn với vợ con, ấy là không thẹn với trời

đất” [14, tr. 277]. Trọng Quỳ mang vợ ra làm cá cược đánh bạc với bạn thật

là đáng hổ thẹn, khiến nỗi Nhị Khanh phải tự tử để thể hiện lòng trung và

quyết định không bao giờ để rơi vào tay người khác. Sự bồng bột đó khiến

cho Trọng Quỳ phải trả một cái giá quá đắt khi mất đi một người vợ chỉn chu,

tháo vát, hết lòng vì mình. Lời bình, Nguyễn Dữ chê trách Trọng Quỳ là đúng

và ở đây ông đã lên tiếng bênh vực người phụ nữ, một cách đường đường

chính chính và còn đúng nữa. ũng từ đây, ông lại đưa ra một bài học xương

máu để những ai chưa từng trải qua hoặc những ai có nhu cầu sẽ nhìn vào đó

mà học tập. Vừa phê phán, vừa đúc rút kinh nghiệm, vừa đưa ra bài học và có

những khiển trách nhất định. Muốn quan tâm đến người khác, muốn răn đe

người khác, ngay bản thân mình phải tự sửa mình tước, lúc ấy mới biết đến

60

quan tâm người khác được, mà không bị lệch lạc.

Lời bình luôn được mở đầu bằng “Than ôi!”, giống như là tác giả, tự

đọc lại tác phẩm của mình, rồi sau đó mới rút ra lời bình, cảm thán về những

câu chuyện bi kịch có, hoan lạc có, hạnh phúc có, rồi tự rút lấy bài học không

chỉ cho những người trong thế hệ mình mà cho nhiều người ở các thế hệ khác,

nếu như còn muốn tiếp tục làm hưng thịnh, tiếp tục của những ước mơ và

khát khao thì hãy từ những câu chuyện ông đúc rút ra mà tự ngẫm lại mình và

ngẫm sự đời.

Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục rất nghiêm túc. Trong Nghiên cứu

so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Trần Ích Nguyên dẫn ra

một khái niệm đó là “phát phẫn mà viết sách”. Nó tạo nên một truyền thống

trong động cơ sáng tác của các tác giả từ cổ chí kim, từ Trung oa cho đến

các nước khác trong khu vực, và cụ thể hơn là từ Cù Hựu cho đến Nguyễn Dữ

và các tác giả viết truyền kỳ khác trong khu vực. Ông dẫn lời của Chu Thanh

Nguyên là một người thành tâm khuyên người đời làm làm người tốt để khỏi

bị đời sau phỉ nhổ; một người thì bày tỏ hết cái khí trong tâm, đem cái bình

sinh muốn khóc muốn cười, muốn nhảy viết hết ra trên giấy, mượn cái đó mà

làm vợi đi cái khí bất bình đang đầy ắp ở trong lòng. Tiêu chuẩn lấy việc đáng

vui, đang buồn, đáng sợ, đáng lạ để viết và mong muốn làm dấy lên tinh thần

sáng tác có tác dụng “khuyến thiện trừng ác”, “thương kẻ cùng quẫn, xót

người oan khuất”, có cảm xúc mà viết nên nỗi bất bình. Quả thực vậy, cứ nhìn

vào sáng tác của Nguyễn Dữ chúng ta cũng có thể thấy rõ những điều ấy.

Sáng tác của Nguyễn Dữ hay là của Cù Hựu, nếu chỉ đơn thuần là kêu lên cho

sướng mà thôi thì chẳng nói làm gì, vì khi ấy nó chẳng còn mang nhiều ý

nghĩa sâu sắc nữa. Nhưng ở đây, các ông viết nên những câu chuyện này để

mà từ đó nói nên được nỗi lòng mình, vì các tác giả động tâm mới tạo thành

động lực dồn xuống bút lực mà sáng tạo ra những câu chuyện bày tỏ tấm

61

lòng, bày tỏ nỗi phẫn uất, bất bình, đó âu cũng vì từ thương người mà ra.

Tiểu kết: Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ được coi là một áng thiên

cổ kỳ bút, tác phẩm truyền kỳ xuất sắc nhất của thể loại truyện truyền kỳ ở

Việt Nam. ể làm nên kiệt tác này là sự kết hợp của ba yếu tố căn bản. Thứ

nhất là sự tích hợp từ truyện truyền kỳ khu vực, mà ở đây chủ yếu là từ nền

văn học kiến tạo vùng Trung Hoa, tiêu biểu là tác phẩm Tiễn đăng tân thoại

của Cù Hựu. Thứ hai là nguồn dưỡng chất từ văn học dân gian dồi dào của

dân tộc. Ở tác phẩm là sự tích lũy, chắt lọc những gì thuộc riêng về quê

hương, đất nước, con người Việt Nam, những gì là bản tính, đặc sắc văn hóa

riêng biệt để khi bạn bè quốc tế có dịp tìm hiểu và đọc truyện truyền kỳ của

Việt Nam thì biết ngay đây là sáng tác của người Việt và viết về con người

Việt Nam, sự vật, hiện tượng diễn ra trên đất Việt Nam. Yếu tố quan trọng

nhất làm nên thành tựu to lớn của Truyền kỳ mạn lục đó chính là tài năng và

sự sáng tạo của tác giả Nguyễn Dữ. Từ kinh nghiệm của khu vực, nguồn dữ

liệu văn học dân gian dồi dào, để làm nên nét độc đáo riêng và được người

đời thấy ấn tượng là sự sáng tạo, tài hoa trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và

chất liệu của Nguyễn Dữ. Chính từ những yếu tố đã có, qua bàn tay tài hoa

của mình, Nguyễn Dữ đã tạo nên một Truyền kỳ mạn lục không chỉ nổi tiếng

trong nước mà còn được bạn bè trong khu vực công nhận. Xét trên phương

diện thể loại truyện truyền kỳ nói riêng và trong tiến trình phát triển của văn

xuôi Việt Nam nói riêng, tạo nên một bước tiền đề quan trọng cho sự phát

62

triển của thể loại trong những giai đoạn sau.

hương 3: SỰ TÍCH HỢP CỦA CÁC YẾU TỐ TRUYỀN KỲ TỪ SAU

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ẾN TRUYỀN KỲ TÂN PHẢ

3.1. ình hình văn bản của Truyền kỳ tân phả

Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ oàn Thị iểm được sáng tác vào khoảng

đầu thế kỷ thứ XVIII. Tác phẩm hiện có nhiều bản in và bản chép tay, được

lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Một số nhà nghiên cứu cho

rằng Truyền kỳ tân phả còn có tên gọi khác là Tục truyền kỳ. ây là tác phẩm

được coi là tiêu biểu của thể loại truyền kỳ ở thế kỷ thứ XVIII. Theo Phạm

Văn Thắm, tác phẩm này được nhắc tới ở một số thư tịch cổ và hiện còn nhiều

bản in và bản chép tay được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm:

bản khắc in ký hiệu A.48 gồm 182 trang khổ 27x16cm do Lạc Thiện ường

tảng bản, bao gồm 06 truyện và một mục lục. 06 truyện đó là Hải Khẩu linh

từ lục, Vân Cát thần nữ lục, An Ấp liệt nữ lục, Bích Câu kỳ ngộ ký, Tùng Bách

thuyết thoại, Long hổ đấu kỳ.

Bản mang ký hiệu VHv.2959 gồm 84 trang, khổ 24x14,5cm, trang 10

dòng, dòng xấp xỉ 20 chữ, có tên là Tục truyền kỳ, gồm 03 truyện là Hải Khẩu

linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục và An Ấp liệt nữ lục. Về cơ bản thì bản này

giống với bản A.48. Mục lục của bản Truyền kỳ tân phả có 06 truyện thì 03

truyện Hải Khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục và An Ấp liệt nữ lục khắc

chữ to; 03 truyện Bích Câu kỳ ngộ, Tùng Bách thuyết thoại và Long hổ đấu kỳ

khắc chữ nhỏ. Mục lục của bản Tục truyền kỳ này chỉ có 03 truyện là Hải

Khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục, An Ấp liệt nữ lục đều khắc bằng chữ

to. Trong số 06 truyện của Truyền kỳ tân phả, chỉ có 02 tryện là Hải khẩu linh

từ lục và An Ấp liệt nữ lục ghi rõ tác giả là oàn Thị iểm, 04 truyện còn lại

63

không ghi tên tác giả.

Bản thứ ba mang ký hiệu VHv.1487, chép tay gồm 158 trang, khổ

27x15cm, trang 08 dòng, dòng xấp xỉ 21 chữ; sách gồm 01 mục lục và 06

truyện. Ngoài ra còn có bản mang ký hiệu VHv.415 – VHv.416 chép bằng bút

sắt, khổ 21x17cm, chỉ có một truyện là Bích Câu kỳ ngộ.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng Truyền kỳ tân phả còn có tên gọi là

Tục truyền kỳ. Theo Phan Huy Chú, Tục truyền kỳ do oàn Thị iểm soạn

gồm 06 truyện: Bích Câu kỳ ngộ, Hải Khẩu linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục,

Hoành Sơn tiên cục, An Ấp liệt nữ và Nghĩa khuyển khuất miêu. Tuy nhiên,

sách này đã không còn.

Dựa trên những tác phẩm đã còn và căn cứ vào sự phân tích của các

nhà nghiên cứu đi trước và lựa chọn dịch, chúng tôi sẽ khảo sát Truyền kỳ tân

phả trên sáu truyện là Hải Khẩu Linh từ lục, Vân Cát thần nữ lục, An Ấp liệt

nữ lục, Bích Câu kỳ ngộ, Tùng Bách thuyết thoại và Long hổ đấu kỳ.

3.2. Những xu hướng mới của truyện truyền kỳ tích hợp trong

Truyền kỳ tân phả

3.2.1. Quá trình “tục hóa” để tiến tới

Mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống đều có xu hướng hình thành,

phát sinh, phát triển và tiêu vong. Quá trình này cũng đúng với sự hình thành

và phát triển của thể loại truyện truyền kỳ. Ban đầu khi truyện truyền kỳ được

manh nha bởi các tác phẩm chí quái, chí dị, đó là những tiền đề đầu tiên cho

sự ra đời của một đỉnh cao là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Nhưng

không phải chỉ đơn thuần là các tác phẩm chí quái, chí dị trong nước mới

quyết định sự hình thành nên một thể loại đặc sắc trong tiến trình văn học

trung đại Việt Nam là truyện truyền kỳ, mà nó còn là sự kết hợp của nhiều

64

yếu tố, trong đó có sự tích hợp của kinh nghiệm sáng tác truyện truyền kỳ

trong khu vực, yếu tố tích lũy những tinh hoa của nền văn học dân gian Việt

Nam dồi dào, cùng với đó là sự sáng tạo, tài hoa của tác giả thấm đượm trong

từng con chữ, câu văn. Quá trình phát triển của truyện truyền kỳ trải dài qua

khoảng sáu thế kỷ. Từ khi Truyền kỳ mạn lục – một tác phẩm truyền kỳ được

đón nhận và công nhận ra đời, phải đến ngót nghét hai thế kỷ sau mới lại xuất

hiện những tác phẩm truyền kỳ mới mà trước tiên phải kể đến là Truyền kỳ

tân phả. Truyện truyền kỳ Việt Nam từ đây như khoác lên một chiếc áo mới.

Những truyện viết theo thể loại truyền kỳ lại được các tác giả đặt cho một cái

tên khác, nhan đề thường là “kiến văn”, “ký sự”, “phả”, “ký”… Như vậy,

trong truyện truyền kỳ bắt đầu có sự tích hợp của khá nhiều thể loại khác

nhau, và truyện truyền kỳ, đặc biệt là từ Truyền kỳ tân phả, Lan Trì kiến văn

lục, Công dư tiệp ký, Vũ trung tùy bút… sẽ là tiền đề để hình thành nên khác

thể loại văn học mới mẻ ở nước ta trong thời kỳ hiện đại.

Sở dĩ có một mục này, chúng tôi muốn nói đến một yếu tố mà yếu tố

này lại có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của thể loại truyền kỳ, đó

chính là sự quay lại, về lại trong sáng tác truyện truyền kỳ. Truyền kỳ tân phả

của oàn Thị iểm, có ý kiến cho rằng nó còn có tên gọi khác là Tục truyền

kỳ. Chữ “tục” thông thường mang khá nhiều ý nghĩa, đó có thể là phong tục,

là thông tục, mang tính quần chúng, là dung tục, thế tục, kế tục… Trong cuốn

Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, GS.TS. Trần Ngọc Vương cho rằng, cái

tục theo nghĩa rộng nhất chính là cái đời thường, cái hàng ngày, “tồn tại trong

mối quan hệ vừa đối lập, vừa gián cách lại vừa bị thống trị bởi cái thiêng”

[45, tr. 279]. iáo sư Trần Ngọc Vương trong so sánh mối tương quan giữa

cái tục và cái thiêng đã chỉ ra rằng cái tục vốn dĩ tồn tại trên một phạm vi hết

sức rộng lớn mà cái thiêng so với cái tục không là gì, chỉ chiếm một số lượng

rất ít ỏi. Tuy vậy, không thể chỉ có cái tục tồn tại hay chỉ có cái thiêng tồn tại

65

được, chúng không thể nào tách rời nhau. Cái thiêng có vai trò cung cấp ý

nghĩa cho cái tục, còn cái tục cấp sự sống, sức sống cho cái thiêng. Nhưng

vốn dĩ, trong xã hội cũ, cái thiêng mới được chọn lựa làm khuôn mẫu, chuẩn

mực mà thôi. Vấn đề này không chỉ nằm trong tôn giáo mà nó còn mở rộng ra

ở phạm trù văn hóa, đạo đức, văn học. Trong văn học, không chỉ riêng văn

học Việt Nam, sự hình thành của bất kể nền văn học nào, thậm chí là nền văn

học kiến tạo vùng như Trung oa thì cũng đều được bắt nguồn trực tiếp và

từng bước dựa trên cơ sở là văn học dân gian, cái thiêng được “nhô lên” và

tách dần ra khỏi cái tục. Khi văn học Việt Nam tiếp thu những tinh hoa từ văn

học kiến tạo vùng, cũng chỉ tiếp thu, học hỏi những khuôn mẫu về cái thiêng,

còn như các yếu tố của cái tục trong sự dung hòa giữa cái thiêng và cái tục tạo

nên một chỉnh thể hoàn chỉnh thì các tác giả Việt Nam lại lấy từ nền văn học

dân gian dồi dào của nước nhà. Trong một nền văn học mà cái thiêng được

chấp nhận và tôn vinh thì xu hướng hướng thượng là điều tất nhiên, nhưng

nếu chỉ nói đến cái thiêng mà không có chất xã hội, không có chất “con

người” trong đó thì nền văn học đó lại trở nên vô vị. “Văn học quân phương,

văn học hướng thượng rất hiếm chỗ cho cái hài, bởi thứ văn học ấy cơ hồ

không chấp nhận tiếng cười. Tuy nhiên chỉ con người mới thực sự biết cười”,

và tiếng cười thường xuyên tự tỏ ra là một chỉ số, một “chứng chỉ” của một

cơ thể xã hội tráng kiện và một tâm hồn xã hội lành mạnh. Cái quan phương,

quan liêu đi đến giới hạn tận cùng, tới trạng thái “cổ điển” sẽ là khởi điểm

cho những khúc quành, lối rẽ” [45, tr 282]. Ngay dưới thời Lê Thánh Tông,

khi mà Nho giáo được chính thức công bố về vị trí độc tôn cũng chính là lúc

cái tục được hé lộ ra dưới ngọn bút của các “đấng thượng nhân”. Ứng chữ

“tục” này vào nhan đề truyện Tục truyền kỳ - một tên gọi khác của Truyền kỳ

tân phả, chúng ta có thể hiểu một nghĩa nôm na là truyền kỳ về những câu

chuyện đời thường. Văn học bác học vốn là một sự tất yếu của quá trình phát

66

triển văn học, trong đó là những chủ đề, yếu tố sang trọng, quý tộc được nói

tới, còn những thứ như trong dân gian hầu như rất ít khi có hoặc giả có thì

cũng phải cách điệu, “nâng tầm” lên mới được. Ngay cả đội ngũ tác giả sáng

tác cũng là những người thuộc tầng lớp quý tộc, có học thức trong xã hội.

Truyền kỳ trong thời điểm nó mới ra đời, như Truyền kỳ mạn lục, vốn dĩ được

nhân dân hết mực yêu thích, là một hiện tượng mới mẻ và nhiều người thích

đọc. Nhưng để xét trong xã hội đó, những người được coi là làm văn chính

thống thì chắc hẳn không nhiều người thích kiệt tác này. Tuy vậy, khi cái tục

bắt đầu xuất hiện ở trong tác phẩm này, nó lại dần được công nhận nhiều hơn,

tạo một luồng gió mới mẻ trong một thời điểm Nho giáo chiếm vị trí độc tôn.

Bởi lẽ những điều ma quái, những điều dung tục, tà dâm… đều xuất hiện

trong đó, mà đây đều là những thứ quy định Nho giáo kiêng kỵ. Tuy nhiên,

nhờ vào tài năng của tác giả cũng như những biện pháp nghệ thuật tác giả sử

dụng, như sự xuất hiện của nhân vật lời bình – hay chính là tác giả, đứng

ngoài câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn để tạo độ tin cậy nơi người đọc, thì Truyền

kỳ mạn lục vẫn có khả năng được tồn tại mà không bị liệt vào hàng sách cấm

lưu truyền. Bước đến thế kỷ thứ XV , Nho giáo đang dần dần thoái trào thì

các yếu tố tục lại càng có nhiều cơ hội được đi vào trong văn học hơn. Thời

điểm đó, Truyền kỳ tân phả ra đời chính là lúc có thể tích lũy trong mình

nhiều tinh hoa từ “dưỡng chất trần gian” – nền văn học dân gian đồ sộ. Khi

ấy, truyện truyền kỳ đúng mang tính chất “tục hóa” – quay về, quay về với

nền văn học dân gian lưu truyền từ bao đời của nhân dân, làm nên một tác

phẩm văn chương bác học, nhưng lại đậm đà các yếu tố gần gũi với nhân dân.

Ở Truyền kỳ tân phả của oàn Thị iểm nói riêng hay các tác phẩm truyện

truyền kỳ thời điểm thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ X X nói chung như Lan Trì

kiến văn lục của Vũ Trinh, Công dư tiệp ký của Vũ Phương ề… các yếu tố

dân gian như đề tài, cốt truyện, motip, nhân vật… của truyện cổ tích, truyền

67

thuyết, truyện ngụ ngôn… có một khu vườn mới để bung tỏa hương thơm.

Xét trên phương diện thể loại truyện truyền kỳ, sự “quay về” này giống như

một bước tiến mới mẻ. Tuy vậy, xét trên phương diện nghệ thuật, lấy yếu tố

kỳ ảo – đặc trưng lớn nhất của thể loại truyền kỳ ra để so sánh truyện truyền

kỳ ở hai thời điểm thì tại thời điểm Truyền kỳ tân phả ra đời, cái kỳ với xu

hướng dần gắn bó với đời sống xã hội, con người hơn thì Truyền kỳ tân phả

lại đang có một bước “thụt lùi” so với kiệt tác Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn

Dữ. Nhưng xét trong sự vận động phát triển chung của nền văn học nước nhà,

đây lại được coi là một bước tiến mới mẻ, một sự vận động theo đúng tiến

trình vận động chung của cả một nền văn học.

Xét trên tiến trình phát triển của thể loại, cái “tục” còn được coi là sự

kế tục, tiếp tục của truyền kỳ. iều này là không thể phủ nhận, bởi sau hai thế

kỷ, cụm từ “truyền kỳ” một lần nữa được xuất hiện trong Truyền kỳ tân phả,

làm nối tiếp mạch phát triển của thể loại từ sau Truyền kỳ mạn lục. Tuy nhiên,

trong lần xuất hiện tiếp tục này, truyền kỳ đã mang một màu sắc khác rất mới

mẻ so với kiệt tác trước đó.

3.2.2. Những xu hướng mới trong nội dung

3.2.2.1. Tư tưởng nghệ thuật dần biến đổi

Trong Truyền kỳ tân phả, ngoài tài bói Kinh Dịch, nhìn nhận chuyện

chính sự, đàm phán và chỉ nước cho vua Lê Thánh Tông trừng trị tên ô đôc

Nam hải của nàng Phù Dung trong Hải khẩu linh từ lục, thì tài văn chương thi

phú của nàng cũng được để cập đến rất nhiều. ái tài văn thơ ấy còn được thể

hiện xuyên suốt ở những người phụ nữ khác trong Truyền kỳ tân phả, như

trong Bích Câu kỳ ngộ, khi Tú Uyên nài Giáng Kiều làm thơ, nàng đã từ chối

với cớ “Việc giấy mực không phải phận đàn bà” thì Tú Uyên đáp lại “Ban

Cơ, Sái nữ xưa, chúng ta đã được nghe tiếng là người giỏi văn thơ, lại còn

68

nàng Đạo Uẩn, Dị An ngày nay ta cũng còn ghi chép. Đó chẳng phải đàn bà

là gì? ”. ây giống như lời tác giả oàn Thị iểm khẳng định cho cái tài văn

thơ của nữ giới là cũng không thể coi thường. Chính vì thế, xuyên suốt các

truyện trong Truyền kỳ tân phả, dung lượng các bài thơ, ngâm chiếm rất lớn,

đôi khi còn làm cho mạch truyện trở nên lỏng lẻo. Trong truyện Hải khẩu linh

từ lục, ngoài cặp đối của Trần Duệ Tông và Phù Dung, bài minh và bài biểu

của nàng dâng vua thì còn có bài văn chiêu hồn của Trần Duệ Tông, một vài

bài thơ của Lê Thánh Tông. Truyện Bích Câu kỳ ngộ thì có nguyên phần Lê

Thánh Tông gặp tiên ở chùa Ngọc Hồ, hai bên làm thơ, mỹ nhân chữa thơ của

vua, bình rằng: “Câu trên thiếu ý cảnh, đổi chữ chày kình mấy khắc làm gió

xuân đưa kệ, đổi chữ ba canh làm chữ mơ tiên, chữ thảm làm chữ khổ, chữ

sông làm chữ nguồn”. ến một người phụ nữ cũng cao tay hơn khi còn chỉnh

chữ trong thơ của vua thì sự khẳng định tài năng của nữ giới lại được nhân lên

nhiều lần. Thơ từ trong Truyền kỳ tân phả đều được chọn câu lựa chữ rất cầu

kỳ, thơ thù tạc xướng họa của Tú Uyên và Giáng Kiều thì nhiều không đếm

hết. Truyện An Ấp liệt nữ lục tuy nói rằng “Các bài xướng họa đã chép ở tập

Quan thư hòa minh, nay không dẫn ra đây”, nhưng ít cũng có đến bảy bài

thơ, một bài ca, một bài hành và một bài văn tế. ến Truyện Vân Cát thần nữ

lục thì có thể nói oàn Thị iểm đã mặc sức thể hiện khoái cảm nghệ thuật

cá nhân trong trò ảo thuật với những ám hiệu văn tự, bộ phận thơ từ lồng ghép

vào cốt truyện chiếm ngót nửa dung lượng tác phẩm. Như vậy có thể thấy, từ

đây vai trò của người phụ nữ đã được nâng lên. ó không chỉ là tài năng của

riêng tác giả, mà bà còn khẳng định một vị thế mới của người phụ nữ trong xã

hội. Lúc này, giống như oàn Thị iểm đang đòi quyền bình đẳng cho nữ

giới, bà gán cho nhân vật của mình những tài năng, những suy nghĩ về việc

lớn, thế sự. ó không phải chỉ riêng là việc của đàn ông mà bắt đầu có sự xuất

hiện của nữ giới. Không chỉ thế, họ còn có vai trò đóng góp trách nhiệm của

69

mình vào công cuộc yêu nước, như nàng Phù Dung trong Hải khẩu linh từ,

dâng kế sách cho vua, rồi từ lấy thân mình để bảo vệ cho đội quân của vua…

Từ đây, những việc lớn lao, vốn chỉ được dành cho nam giới thì theo quan

niệm của oàn Thị iểm, phụ nữ cũng có thể làm và thậm chí làm tốt những

việc coi là chuyện gánh vác giang sơn. oàn Thị iểm nêu cao vai trò nữ

quyền, quyền bình đẳng giới, họ không chỉ có vai trò khuyên răn những người

đàn ông bên cạnh mình, họ còn có một quyền khác nữa đó là tự quyết định

hành động và cuộc sống của mình. Nàng Phù Dung khi khuyên can vua không

được đã tự quyết định việc hi sinh thân mình để bảo toàn cho các cung nữ,

nàng lựa chọn kết cục đó một cách tự thân, không do ai ép uổng.

Trong bài đề tựa sách Kiến văn lục (Kiến văn lục tự) bài số 1 do Văn

sinh là Huyền Trai Ngô Hoàng ở Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai đề có đoạn

ghi: “Nước Việt ta từ triều Đinh, triều Lý tới nay, trải mười mấy thế kỷ, chả lẽ

không có chuyện gì đáng ghi chép? Thế mà ngoài chính sử ra, không còn

truyền lại thứ gì. Có những ghi chép như kiểu Chích quái, Truyền kỳ đấy,

nhưng đều bỉ lậu, tạp nham, chỉ để cho những anh đồ nhà quê nằm khoèo trên

giường đọc cho vợ con nghe thôi, chứ những người hiểu biết xem qua mà

không lợm giọng, bỏ chạy thì cũng hiếm! Đó là lý do phải viết Kiến văn lục

này” [29, tr. 825]. Cứ theo lời người này nói thì những ý nghĩa và cả những

sáng tạo độc đáo, sự công nhận là áng “thiên cổ kỳ bút” của Truyền kỳ mạn

lục đều đã bị phủ định hoàn toàn. Huyền Trai Ngô oàng đã đề cao Lan Trì

kiến văn lục của Vũ Trinh, cho rằng: “Sách này, về phép ghi chép thì cũng

giống như Sưu thần, Tề hài còn về nội dung thì có ngụ bút của Thái sử công.

Nhưng mục đích viết sách của ông đâu chỉ có ghi lại những việc tai nghe, mắt

thấy! Tấm lòng ưu thời mẫn thế, ý tưởng giữ gìn truyền thống, sửa sang

phong tục của ông luôn luôn thể hiện ở lời văn. Có nói đến việc quái dị,

nhưng không thoát ly đạo thường, có kể về điều biến hóa, nhưng không mất đi

70

lẽ chính, đại để là ngụ ý khuyên răn và cảnh cáo sâu xa, để người xem sau

này thấy điều hay thì bắt chước, thấy điều dở thì phòng ngừa, thực có ích rất

nhiều cho thế giáo, làm sao có thể coi là loại dã sử của các vị quan xoàng!”

[29, tr. 825]. Lời tựa có nhận xét Lan Trì kiến văn lục tuy có điều kỳ ảo nhưng

không thoát ly đạo thường, có điều biến hóa nhưng không mất đi lẽ chính. Và

trong tác phẩm chứa đựng tấm lòng ưu thời mẫn thế của Vũ Trinh, ông cũng

rất ý thức trong việc giữ gìn truyền thống, sửa sang phong tục. iều này có

thể thấy qua việc quay trở về sử dụng nhiều chất liệu trong văn học dân gian

để từ đó “giữ gìn truyền thống”, cái kỳ ảo trong truyện cũng không thoát ra

ngoài cuộc sống đời thường, tư tưởng của tác giả đã bắt đầu biến đổi theo

chiều hướng đơn giản hóa và quay về với cội nguồn dân tộc.

3.2.2.2. Đề cao nho giáo, khoa cử

Nho giáo với cương vị của một đạo trị nước, một học thuyết về quản lý

xã hội. iều này lý giải cho sự tồn tại của Nho giáo trong xã hội phong kiến ở

nước ta. Nho giáo phát triển hưng thịnh nhất dưới thời Lê Thánh Tông, nhưng

khi bước sang thế kỷ XVI – XVII, chiến tranh, nội chiến xảy ra liên miên, dẫn

đến xã hội có nhiều biến động, Nho giáo cũng vì thế có nhiều phần bị lung

lay. Bước sang thế kỷ thứ XVIII, là một thời kỳ rối loạn, đó là thế kỷ của

những cuộc chiến tranh nông dân, những cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn

thống trị àng Trong và àng Ngoài, những cuộc kháng chiến chống xâm

lược. Vì thế, những giá trị Nho giáo giờ đây bị đảo lộn. Tuy vậy, vì là một

học thuyết về quản lý nhà nước, nên các thế lực phong kiến vẫn cố gắng kiến

hưng, duy trì Nho gia, lập Nho giáo ở thế chủ đạo trong bối cảnh có sự đi lên,

phát triển dần của Phật giáo và ạo giáo. Theo đó, đại diện cho Nho giáo là

khoa cử, những cư sĩ, quan lại, coi trọng việc học hành ra làm quan… thể hiện

khá rõ nét trong truyện truyền kỳ giai đoạn sau. Tính chất yêu ma, quỷ quái

71

với những tình yêu nam nữ, chuyện tình kỳ lạ, táo bạo trong Truyền kỳ mạn

lục đã dần dần không còn nhiều bóng dáng trong Truyền kỳ tân phả hay Lan

Trì kiến văn lục hay Công dư tiệp ký… Vấn đề học hành khoa cử được coi

trọng và đặt lên hàng đầu. Trong giai đoạn trước, Truyền kỳ mạn lục viết ra

với những hình tượng nữ, tình yêu của nữ được viết với vai trò răn dạy người

nam giới, cảnh cáo họ nên tránh xa nữ giới, tình yêu đôi lứa để không bị ảnh

hưởng đến con đường tiến cử. Trong Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết

thế kỷ XIX, iáo sư Trần Nho Thìn có viết: “Đến Truyền kỳ mạn lục ở thế kỷ

XVI, ta vẫn còn gặp không ít hồn ma hóa thành những thiếu nữ xinh đẹp,

những cô gái có quan niệm phóng túng về tình yêu nam nữ, kể cả quan hệ

thân xác khiến cho các chàng trai ham mê tình dục đến chỗ thân bại danh

liệt. Đó là các chuyện kể như Truyện cây gạo, Yêu quái ở Xương Giang, Cuộc

kỳ ngộ ở Trại Tây… Xét hiệu quả giáo dục gián tiếp thì những sáng tác tuyên

truyền nữ sắc đáng sợ góp phần cảnh tỉnh, răn đe về những nguy hại của nữ

sắc đối với bậc hiền nhân, quân tử” [41, tr. 55]. ến truyện truyền kỳ ở giai

đoạn sau, quan niệm về Nho giáo gắn liền với việc tập trung vào khoa cử, thi

thố để được đề tên bảng vàng, được vinh quy bái tổ. Nàng Giáng Kiều khuyên

chồng là Tú Uyên không nên trễ nải việc học hành, vui thú gia đình điền viên

mà quên đi việc chữ nghĩa (trong Từ Thức tiên hôn lục); ức Liễu Hạnh khi ở

trần giới cũng không quên căn dặn chàng ào Lang quên đi việc dùi mài kinh

sử để có ngày được ra làm quan (trong Vân Cát thần nữ lục). Chàng họ Hà

sau khi được chàng họ Nguyễn khai thông trí óc đã quay trở lại con đường

học vấn, ôn thi miệt mài để đến ngày được cưỡi ngựa vinh quy bái tổ, làm

rạng danh gia đình dòng họ. ến khi chính chàng họ Hà trả ơn anh bạn họ

Nguyễn chưa thi đỗ làm quan của mình bằng một cách làm rất xúc động,

khiến chàng họ Nguyễn không khỏi cảm tạ và khâm phục. Sau cả hai người

cũng đỗ ra làm quan, tình bạn lại càng thắm thiết (trong Tùng Bách thuyết

72

thoại)….

Trong Lan Trì Kiến văn lục, Vũ Trinh có đến bảy truyện viết về đề tài

thi cử: Nguyễn Quỳnh; Tái sinh; Nguyễn ca kỹ; Thụ yêu; Báo ân tháp;

Nguyễn Trạng Nguyên; Kỳ mộng. ặc biệt, trong truyện của ông, có truyện,

những ngôi vị đầu bảng thường đều đã do thiên triều quyết định từ trước.

Trong Báo ân tháp, ông Cử ở Kinh Môn đáng lẽ đã bị đánh trượt do bài có

mắc nhiều lỗi, nhưng vì cô gái có duyên gặp gỡ với chàng mà đã chết đến báo

mộng xin quan chấm thi cho chàng qua, chàng mới được đỗ. Trong Kỳ mộng,

hai ông Cử họ Nguyễn và họ Trần dù đã được báo mộng trước về đề thi,

nhưng đến khi vào lều thi thì bèn quên sạch không thể nhớ được chữ nào, dù

trước đó đã chép ra và học thuộc lòng nhiều lần. Cuối cùng, bài phú ấy lại

đúng là của ông Lê Tân ở xã Cổ ôi, huyện Nông Cống, giống hoàn toàn với

bài phú hai ông Cử nghe được trong giấc mộng. Lan Trì Ngư iả bàn rằng

công danh phú quý là do tiền định, người không có phận thì thực cũng thành

mơ.

Bên cạnh đó, một số truyện cũng có đề cập đến vấn đề trong Phật giáo

đó là kiếp luân hồi như truyện Ký tam sinh, Ngộ Tiền Sinh, Bà Chúa Liễu

Hạnh trong Vân Cát thần nữ lục cũng trải qua ba kiếp giáng trần… tuy nhiên

dấu ấn cũng không nhiều, điều này chủ yếu khẳng định cho việc sử dụng các

yếu tố kỳ ảo – một đặc trưng điển hình của truyện truyền kỳ.

3.2.3. Những xu hướng mới về nghệ thuật biểu hiện

3.2.3.1 Sự tích hợp yếu tố dân gian trong đề tài, cốt truyện

Từ thế kỷ XVIII, thể loại truyền kỳ vẫn tiếp tục phát triển và tuy không

được giới nghiên cứu hiện thời công nhận nhiều, nhưng chúng ta phải thừa

nhận rằng truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục là sự cố gắng rất nhiều của các tác

giả. Truyền kỳ mạn lục mở đầu cho thể loại truyền kỳ ở Việt Nam, và khi vừa

73

ra đời nó đã đánh dấu được vị trí của mình, khi được xem là một áng “thiên

cổ kỳ bút” – một vị trí được xem như độc tôn. Dù vậy, theo lẽ thường tình của

mọi sự vật, hiện tượng, sẽ có sự hình thành, phát sinh và phát triển. Từ sau

Truyền kỳ mạn lục, thể loại truyện truyền kỳ ở Việt Nam vẫn tiếp tục phát

sinh, phát triển, thể hiện bằng sự ra đời của các tác phẩm truyền kỳ khác nữa,

đánh dấu con đường đi của thể loại này suốt chiều dài lịch sử văn học Trung

đại Việt Nam. Có thể nói, để có thể xứng tầm, hay thậm chí là để vượt qua

được Truyền kỳ mạn lục, các tác giả truyện truyền kỳ sau Nguyễn Dữ đã rất

kỳ công và đã có nhiều cách tân, canh tân, đổi mới để truyện truyền kỳ có cái

mới mẻ, độc đáo riêng. húng ta không khẳng định rằng các truyện truyền kỳ

khác ngoài Truyền kỳ mạn lục là xuất sắc hay hay hơn nhiều so với Truyền kỳ

mạn lục, nhưng chúng ta cần phải ghi nhận sự tồn tại của các tác phẩm ấy. Nó

đã tồn tại như nó cần phải thế. Những tác phẩm sau Truyền kỳ mạn lục như

Truyền kỳ tân phả ( oàn Thị iểm); Công dư tiệp ký (Vũ Phương ề); Lan

Trì kiến văn lục ( Vũ Trinh); Tân truyền kỳ lục (Phạm Quý Thích)… là những

tác phẩm như thế. Các tác giả hoặc làm mới cho tác phẩm của mình bằng cách

thêm chữ “tân” ngay ở nhan đề tác phẩm, hoặc tuy nhan đề không hề đề cập

đến thể loại là truyền kỳ nhưng trong các sáng tác lại mang đậm màu sắc kỳ

ảo của thể loại. Bước sang thế kỷ thứ XVIII, thế giới hiện thực bắt đầu được

tích hợp rõ nét hơn vào trong các sáng tác. iều này được phản ánh rõ ràng

khi mà bối cảnh lịch sử giai đoạn đó đã tác động đến xu hướng sáng tác của

các tác giả. ầu thế kỷ XVIII, bối cảnh xã hội tương đối phức tạp, khi mà chế

độ phong kiến đã ở sâu trong thời kỳ khủng hoảng, các thế lực phong kiến

như Lê – Trịnh ở đàng Ngoài, Nguyễn ở đàng trong ra sức bóc lột nhân dân,

ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến và xa lầy vào những cuộc ăn chơi vô độ,

gây ra nỗi khổ hạnh cho nhân dân. Tình cảnh xã hội ngày càng trở nên đen

tối, khổ đau, vua quan thì bỏ quên chính sự, ăn chơi sa đọa, vơ vét, bóc lột

74

của dân, dân chúng thì đói nghèo, lầm than, bệnh tật, luôn sống trong nơm

nớp lo sợ… Trước thực trạng khốn cùng ấy, nhân dân chỉ còn duy nhất một

con đường đó là vùng lên khởi nghĩa. Những năm 30 – 40 của thế kỷ XVIII,

phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra rầm rộ, sôi nổi, tuy không có nhiều

thành công nhưng đã giáng những đòn đau điếng vào chế độ phong kiến.

Sự kết nối trong nhân dân, công cụ để tạo nên niềm tin, sức mạnh và

tinh thần đoàn kết, cổ vũ họ phấn đấu chính là cơ hội và điều kiện để những

yếu tố của văn học dân gian xuất hiện, đó là những điều dễ hiểu, dễ nghe và

tạo nên sự cuốn hút. Tận dụng điều đó, các tác giả sáng tác truyện truyền kỳ

thời điểm này cũng tích hợp trong tác phẩm của mình nhiều yếu tố của văn

học dân gian, đưa đến một tiến bộ mới về tính hiện thực, tính nhân văn, tinh

thần nhân đạo chủ nghĩa. iện thực về những cuộc khởi nghĩa của nông dân

cũng đi vào trong các tác phẩm, phản ánh rõ nét bối cảnh đương thời.

Trong So sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Trần Ích

Nguyên có nhắc đến Truyền kỳ tân phả và ông cho rằng Truyền kỳ tân phả là

cuốn mô phỏng sớm nhất Truyền kỳ mạn lục. Thực vậy, ngót nghét gần hai

thế kỷ sau khi Truyền kỳ mạn lục ra đời ta mới thấy xuất hiện một tác phẩm

truyền kỳ mới do một tác giả là nữ sĩ sáng tác. Truyền kỳ tân phả xuất hiện

muộn và mang trên mình chữ “tân” để chứng tỏ cho người đời thấy, dù sau

khoảng thời gian khá lâu mới xuất hiện nhưng điều đó là có nguyên nhân. Tác

giả còn phải canh tân, làm mới truyền kỳ rồi sau đó mới giới thiệu đến bạn

đọc.

Truyền kỳ thời đại mới thường gắn với đời thực, lấy câu chuyện kỳ ảo

để từ đó răn đời. Tân truyền kỳ lục của Phạm Quý Thích kể về những câu

chuyện con vật như con chó, con ve, con nhặng xanh, âu đến cuối cùng gắn

chúng với kẻ sĩ, người ngay kẻ gian… để kết chuyện lại đề ra câu nói răn đời,

75

than thở cho cái xã hội nhiễu nhương này. Lan Trì kiến văn lục kể về những

câu chuyện văn nhân, những chuyện tình trắc trở, những chuyện kỳ lạ…

nhưng tác giả lại cố gắng đưa một nhân vật mình quen biết hay chính bản thân

mình chứng kiến câu chuyện xảy ra, câu chuyện được kể để biến câu chuyện

lạ đó gần với đời thực hơn; “kiến” tức là chứng kiến, nhìn thấy. Tuy vậy,

những kết cấu câu chuyện, đề tài chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy được tích

hợp khá nhiều từ trong dân gian. Các truyện truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục

vẫn tiếp tục kế thừa nguồn văn liệu dồi dào từ văn học dân gian, nó được tích

hợp trong đề tài, chủ đề… ở các sáng tác này.

Trong Truyền kỳ tân phả, chúng ta sẽ nhìn thấy một motip quen thuộc

của truyện cổ tích khi đọc truyện Bích Câu kỳ ngộ, giống với truyện cổ tích

Người đẹp trong tranh. Motip chàng trai gặp cô gái đẹp rồi tương tư, người

đẹp ẩn mình trong bức tranh sau đó hiện ra những lúc chàng vắng nhà. Chàng

trai thấy điều lạ rồi phát hiện ra người đẹp trong tranh… Bích Câu kỳ ngộ của

oàn Thị iểm cũng kể chuyện theo motip như vậy, nhưng có phần cầu kỳ

hơn. hàng trai Tú Uyên vốn là một người hào hoa, phong nhã, giỏi thơ văn,

chỉ cần đặt bút là viết được thành văn, thơ làm ra không đếm kể. Chàng có

một đặc điểm là không khi nào tin vào thần tiên nên sáng tác ra bài thơ “Bất

tín thần tiên” để thể hiện quan điểm của mình. Bất ngờ trong một lần đi chơi

hội, chàng Tú Uyên bắt gặp một bài thơ viết trên chiếc lá đưa đến trước mặt

mình mà chàng phải lấy làm lạ khi có một đối thủ làng thơ. Rồi chàng được

gặp cô gái – vốn dĩ là một nàng tiên “trạc độ mười bảy, mười tám tuổi, mày lá

liễu, má hoa đào, ăn mặc gọn gàng” và đem mối tương tư, cả đêm thức trắng

không sao ngủ được. Rồi chàng được một ông già bán cho một bức tranh tố

nữ - cô gái trong tranh lại giống y hệt ngươi con gái chàng đã tương tư. em

tranh về treo, mỗi lần gió sáng trăng chiều lại mượn tranh tiêu sầu. Từ đó cứ

coi như trong nhà có một người nữa, ăn cơm mời cùng ăn đến một tháng trời,

76

thì than thở rằng mãi không có người nội trợ, trách người con gái đẹp lạnh

nhạt không đối đáp lại tình chàng. Sau hôm đó, chàng đi học về thì thấy có

cơm dẻo canh ngọt chờ sẵn, toàn là những thức ngon vật lạ, liền thấy lạ lẫm

không biết ở đâu. Từ đó mỗi khi đi học về chàng đều thấy có sẵn cơm chờ

mình, liền một hôm giả vờ đi học, nửa đường quay trở về thình lình gặp được

cô tiên từ trong tranh bước ra. Lúc này chàng Tú Uyên liền có người vợ là

tiên, tên Hà Giáng Kiều. Nàng Giáng Kiều dù là tiên nữ trên trời, nhưng khi

thành vợ chàng Tú Uyên thì hết mực làm một người vợ hiền, ngày ngày lo

cơm nước, khuyên can chồng việc rượu chè tới nơi tới chốn. Một nàng tiên lại

vừa đẹp người, đẹp nết, khi mới quen Tú Uyên, vì không muốn duyên dễ

được dễ mất mà tự đặt ra những cách trở ban đầu để những mong được gìn

giữ lâu bền về sau, ấy vậy mà nàng cũng có lúc phải trải qua hoàn cảnh đáng

thương. hàng Tú Uyên vì có vợ lo toan mọi chuyện đâm ra nhàn thân,

thường hay rượu chè bê tha. “Thì giờ thấm thoắt, dần dà đã đến ba năm. Biết

đâu thế sự đương hay nhiều phần đâm ra dở, đến nỗi nhầm nhỡ cả giai kỳ.

Chỉ vì tính chàng thích uống rượu, hàng ngày sống trong cảnh phấn hương là

lượt, khề khà làm vui, thường muốn ép nàng cùng uống rượu.” Chàng Tú

Uyên có ý không nghe lời khuyên của vợ, vẫn cứ rượu chè bừa bãi, những lời

thề thốt đều bị ma men làm cho quên hết. Giáng Kiều vẫn rất mực khuyên can

mà không được. “Trong cơn tức giận, chàng lấy roi đánh nàng, đuổi nàng đi.

Nàng cố van xin, chàng vẫn không thèm để ý”. Bất lực trước người chồng bê

tha, nàng đành bỏ đi trong buồn tủi, mai khi sau này Tú Uyên tỉnh ngộ nàng

mới trở về sum họp. Sau cả hai vợ chồng cùng bay về trời sống cuộc sống của

người tiên. Truyện Vân Cát thần nữ kể câu chuyện về đức Liễu Hạnh công

chúa ba lần giáng trần kết duyên cùng chàng ào Lang, sau để lại nhiều công

đức cho đời, giúp vua đánh giặc, được lập đền thờ công đức và dân chúng thờ

cúng đến tận ngày nay. ây là một nhân vật đã có từ trong truyền thuyết,

77

nhưng qua ngòi bút của nữ sĩ oàn Thị iểm, Liễu Hạnh công chú hiện lên

với nhiều sắc thái cảm xúc và tài năng. Vị thần được nhân dân thờ cúng tuy là

linh thiêng, là người cõi trời cõi tiên nhưng vẫn có những điều gần gũi, vẫn

sinh con đẻ cái, và có những cảm xúc của con người trong cuộc sống đời

thường. Chỉ khác là, nguồn gốc của bà vốn là tiên trên trời mà thôi.

Tình tiết về yếu tố sinh đẻ kỳ lạ cũng được đề cập đến trong Vân Cát

thần nữ lục khi bà mẹ 40 tuổi mới có một con trai. “Đến năm Thiên Hựu, bà

vợ có mang đã quá kỳ sinh nở, tự nhiên mắc bệnh nặng, cả ngày không ăn

uống gì cả, chỉ thích hương hoa thơm mà thôi. Người nhà ngờ là yêu quái liền

mời thầy cúng lễ, nhưng bệnh bà lại càng tăng thêm”. Sau khi chồng bà là

Thái Công bị ngất đi và lạc đến chốn cung tiên thì nhìn thấy câu chuyện một

tiên đồng làm rơi mẻ chiếc chén liền bị dẫn đi phạt, mà theo lời đồn là phải

giáng xuống trần gian. Khi tỉnh dậy thì bà mẹ đã sinh ra một người con gái,

mà cô con gái ấy lại chính là người tiên nữ bị phạt giáng xuống trần trong

giấc mộng của người cha. Motip sinh đẻ kỳ lạ còn gặp trong một số truyện

khác ở Lan Trì kiến văn lục như là Đứa con của rắn, Đẻ lạ,… là câu chuyện

tác hợp giữa thần với người, mẹ chết mà con vẫn được chào đời, sau là hồn

ma nuôi con bằng quà bánh… Những sáng tạo của tác giả có dựa trên motip

truyện từ dân gian làm nên những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn. Chuyện tình ở

Thanh Trì lại rất giống với truyện cổ tích Trương Chi – Mị Nương, gắn liền

với hình ảnh con đò, người lái đò và những câu hát mê đắm lòng người. Cùng

có một motip chàng lái đò nhà nghèo nhưng lại có tiếng hát hay, con gái phú

ông say mê tiếng hát ấy mà ốm tương tư, muốn được lấy chàng lái đò làm

chồng. Nhưng tiếc rằng phú ông chê chàng trai nghèo, không môn đăng hậu

đối với gia đình ông nên nhất quyết không gả con gái cho. ây là một câu

chuyện tình éo le, đầy bi thương của chàng trai nghèo với cô gái nhà giàu.

Câu chuyện của Vũ Trinh có cải biên đi đôi chút, là chàng Nguyễn Sinh phẫn

78

uất mà bỏ đi tìm đường làm giàu, quyết có tiền rồi trở về cưới cô gái. Nó gắn

liền với hiện thực cuộc sống khi buôn bán, thương lái đang dần dần phát triển

trong xã hội. hàng Trương hi không chỉ nhà nghèo mà ngoại hình, khuôn

mặt cũng không được đẹp để đến nỗi nàng Mị Nương vô cùng thất vọng. Sau

này chàng Trương mới là người chết trước, cũng vì một nỗi ốm tương tư. âu

chuyện của Vũ Trinh tuy cũng có một người phải chết vì tình nhưng tình tiết

nhỏ lẻ thì được cải biên đôi chút, một phần là thể hiện sự sáng tạo mới mẻ của

ông, một phần là để gần với cuộc sống hiện thực thời kỳ ông sống.

Trong Lan Trì kiến văn lục, tác giả Vũ Trinh cũng dựng lên nhiều

chuyện khai thác đề tài từ truyện cổ tích như là truyện Sống lại, ta thấy motip

trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam như truyện Anh chàng họ Đào,

Chuyện tình ở Thanh Trì giống với cốt truyện Trương Chi, Mị Nương, truyện

Ông tiên ăn mày giống với cốt truyện Hai anh em…

Câu chuyện thường gây ra các xung đột và giải quyết các xung đột từng

bước, từ đó dẫn đến một ý nghĩa phản ánh, thường là phản ánh giá trị nhân

đạo, khuyến thiện trừng ác, hoặc làm ơn được trả ơn hoặc có công thì sẽ được

đền đáp. Tuy nhiên, khi bước sang tác phẩm truyền kỳ được các tác giả sáng

tác, nó không còn mang ý nghĩa đơn thuần như truyện kể dân gian nữa mà có

ý nghĩa đối với xã hội, thực tiễn sâu sắc hơn.

3.2.3.2. “Bác học hóa” những văn liệu từ dân gian

Mặc dù những truyện truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục như là Truyền

kỳ tân phả, Lan Trì kiến văn lục, Công dư tiệp ký… đều mang khá đậm nét

yếu tố của văn học dân gian trong đó. Tuy vậy, làm nên giá trị tác phẩm,

khẳng định khả năng sáng tạo của các tác giả, không thể không nói đến những

cái mới, những cái thuộc về sự phát triển câu chuyện của các tác giả viết

truyện truyền kỳ. Truyền kỳ tân phả được sáng tác vào khoảng đầu thế kỷ

79

XVIII, thời kỳ này, những khuôn mẫu về lễ giáo, nề nếp nho giáo đã đi vào

quỹ đạo và dần trở thành một lối mòn, có tác động sâu sắc tới tiềm thức của

con người, nhất là những người làm văn, những người sáng tác nghệ thuật.

hính để phù hợp với những quy chuẩn ấy và cả xu hướng phát triển chung

của văn học thời kỳ này, các sáng tác văn học nói chung, truyện truyền kỳ nói

riêng cần có quá trình “bác học hóa”. iều này thể hiện rõ nét nhất trước hết ở

các nhân vật trong Truyền kỳ tân phả. Vốn dĩ là một tác giả nữ, những câu

chuyện bà sáng tác cũng đều liên quan đến giới nữ, nhân vật chính là nữ giới.

Vai trò của người phụ nữ cũng vì thế mà được đẩy lên cao. Khác với truyện

truyền kỳ trước đó là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, nhân vật của oàn

Thị iểm có phần được “chọn lọc” kỹ lưỡng hơn. Nếu như ở Truyền kỳ mạn

lục, nhân vật nữ có thể là những cô gái có xuất thân bình thường, những cô

gái là ma nữ, yêu quái, hồn hoa, bóng quỷ… thì nhân vật nữ của oàn Thị

iểm thường có xuất thân danh giá, không phải con nhà quan, con của quân

vương thì cũng là tiên giáng trần, thần tiên trên trời. Câu chuyện kỳ ảo xoay

quanh các nhân vật này cũng không tạo nên một sự quá rùng rợn như ở

Truyền kỳ mạn lục, bởi lẽ họ đều là những nhân vật mang đến điều lành cho

những người xung quanh, chứ không phải những bóng ma chuyên đi trêu

ghẹo dân lành như trong Đào thị nghiệp oan ký hay Mộc miên thụ truyện…

trong Truyền kỳ mạn lục.

Bên cạnh xuất thân quý phái, những người phụ nữ này còn có một đặc

điểm là rất tài hoa, có học thức và thậm chí còn đóng vai trò định hướng,

khuyên răn cho người đàn ông của mình. Sự đề cao người phụ nữ ở oàn Thị

iểm có phần đậm nét và rõ ràng hơn Nguyễn Dữ. Nguyễn Dữ có chăng chỉ

là sự cảm thương, tìm cách giải thoát những bế tắc cho họ, còn đối với oàn

Thị iểm, nhân vật nữ lại có phần mang tính tự chủ, tự định đoạt hướng đi và

quyết định của mình, thậm chí còn là nơi dựa vào cho những nhân vật nam

80

xuất hiện trong truyện. Như nàng Phù Dung trong Truyện đền thiêng ở cửa

bể. Nàng Nguyễn ơ là một cung phi triều Trần trong Truyện đền thiêng ở

cửa bể, vốn là một con gái nhà quan, tính đứng đắn, tư dung xinh đẹp, thông

hiểu âm luật nên được kén vào hậu cung. Nàng rất được vua yêu và quý mến

tài ứng khẩu thơ ca của nàng, được vua ban tên là Phù Dung. Phù Dung

không chỉ thông làu âm luật, thi ca, nàng còn có những dự cảm nhạy bén

trong chính sự của nước nhà nên đã có những lời can gián dâng lên vua. ến

vua cũng phải thốt lên mà rằng: “Không ngờ một nữ nhi lại thông tuệ đến thế!

Thật là một Từ Phi ở trong cung của trẫm vậy”. Hết lần này tới lần khác, Phù

Dung đều có những nhìn nhận thấu đáo và đưa ra lời khuyên cho nhà vua,

nhưng vì tính cố chấp, nhà vua vẫn không nghe theo lời nàng mà đem binh đi

đánh hiêm Thành. Nàng phận làm vợ cũng cùng ra chiến trận mang theo

nhiều dự cảm chẳng lành. ái gì đến cũng đến, trên đường vào chiến trận, gió

bão nổi lên, sóng bể gào thét, rồi thấy một người nanh to, râu xồm vào yêu

cầu vua gửi cho một người nội trợ trong đám cung phi néu không sẽ không bỏ

qua cho quân binh nhà vua. Phù Dung biết sự tình chấp thuận hi sinh thân

mình để bảo toàn cho vua và các binh sĩ. ái chết đáng thương của nàng dẫn

đến một cuộc sống buồn tủi vì phải chung sống với một kẻ yêu quái dưới thủy

giới. Một người liệt nữ xứng đáng sau này được giải oan, lập đền thờ, nhưng

cũng đau xót vì thất thời thất thế, không quay lại được, không để cho vua

nghe theo lời khuyên chân thành của nàng được. Tuy vậy, trong cả câu

chuyện, nàng nổi bật lên là một người am tường nhất, lường trước được mọi

điều, chỉ hiềm một nỗi không được nghe theo. Phù Dung xuất thân con quan

lại giỏi trong thơ ca, trong chính sự âu cũng là một người phụ nữ có giá, dù

cho số phận nàng cũng chẳng bớt phần đau thương. Sự quyết định trầm mình

xuống biển, giao thân cho Hải Khẩu iao ô đốc vùng Nam Hải vốn là một

tên yêu quái hay hưng yêu tác quái “chuyên quyền, phóng túng, tham sắc đẹp,

81

ăn hối lộ”, chỉ hằng mong thuyền của vua được yên ổn ra trận đánh hiêm

Thành. Là một người phụ nữ thông minh, cầm kỳ thi họa món gì cũng tinh

thông lại am hiểu chuyện chính sự, nhiều lần thường can gián vua nhưng

không được, dẫu vậy nàng vẫn cố gắng làm đủ mọi cách để thể hiện tấm lòng

của người vợ đối với đức phu quân, của nghĩa tôi đối với một vị vua của một

nước, không ngại hi sinh thân mình trong bất cứ hoàn cảnh nào để được làm

tròn bổn phận của một người phụ nữ - là hậu phương vững chắc của người

đàn ông. Từ trong những câu chuyện dân gian, người phụ nữ của gia đình đã

sớm được đề cao, ca ngợi, cho đến thời kỳ phong kiến, với những quy định

chuẩn mực chặt chẽ, người phụ nữ lại càng có những khuôn mẫu phải tuân

thủ, đó vừa là trách nhiệm lại vừa là gánh nặng đối với họ - trong con mắt của

những người trong thời kỳ hiện đại nhìn về quá khứ ấy. Họ cũng vì thế trực

tiếp đi vào những sáng tác của các tác giả trung đại, để người đọc nhìn thấy

hiện thân người phụ nữ trong xã hội xưa, vừa khâm phục lại vừa thương cảm

cho họ.

Nàng tiên Giáng Kiều, vợ chàng Tú Uyên vốn là tiên nữ trên trời nên tư

dung xinh đẹp lại thông làu thi luật, khiến Tú Uyên phải thán phục. Khi thành

vợ chàng Tú Uyên thì hết mực làm một người vợ hiền, ngày ngày lo cơm

nước, khuyên can chồng việc rượu chè tới nơi tới chốn và nàng cũng là một

người chủ động. Dù có lòng cảm mếm Tú Uyên, dù đã nhìn thấy sự si tình

của chàng trai dành cho mình, nhưng nàng vẫn nhất quyết ẩn mình một thời

gian dài trong bức họa, không chịu bước ra sớm để gặp chàng trai ấy. Nàng

cho rằng tạo cho chàng sự quý trọng khi những bước đầu tiên cần có sự gian

nan, để hai người biết đường yêu thương nhau mà ở bên nhau dài lâu vẹn

tròn. ến khi bị Tú Uyên đuổi đi, dù nhìn thấy sự ăn năn, hối hận rõ mồn một

của chồng, nàng cũng không mủi lòng mà sớm xuất hiện. Chỉ khi Tú Uyên

lựa chọn việc quyên sinh đời mình nàng mới xuất hiện để cứu độ chàng cũng

82

như nối lại duyên xưa cùng chàng. Rồi từ đó, nàng không chịu sống ở cảnh

trần gian ngắn ngủi bèn khuyên Tú Uyên học theo đạo tiên để cùng nhau lên

chốn thiên đình sinh sống. Nàng Giáng Kiều đã đạt được một thành công

không hề nhỏ khi cảm hóa được một người đàn ông, khai sáng tư tưởng cho

Tú Uyên - nếu như trước đây chàng không bao giờ tin vào tiên, Phật thì nay,

nhờ có duyên kỳ ngộ này, được lấy đúng vợ tiên, đáng nói hơn là lại học theo

đạo tiên để được lên chốn tiên cảnh ở… Viết về những người phụ nữ như vậy

mới cho thấy sự đề cao nữ quyền của oàn Thị iểm. Vốn là một tác giả nữ,

viết những tác phẩm xoay quanh nhân vật nữ, bà như muốn thay mặt giới nữ

nói lên lòng mình, sự tài năng cũng như tiếng nói bình đẳng của nữ giới. ây

là một điểm khá mới mẻ và mang dấu ấn đậm nét trong Truyền kỳ tân phả và

được xem như một bước tiến mới từ Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đến

Truyền kỳ tân phả trong việc xây dựng hình tượng nữ với sự khẳng định một

cách sâu sắc hơn vai trò của người phụ nữ trong gia đình nói riêng và trong xã

hội nói chung. Họ cũng có tiếng nói, cũng có những sự quả quyết và định

hướng hướng đi của gia đình, không phải chỉ khi trở thành hồn ma rồi, được

giao cho một trọng trách nào đấy nơi đền thiêng hay dưới thủy cung… đã có

những cái nhìn được trước sự việc để báo mộng về khuyên răn người nhà nữa,

mà chính họ nhìn nhận sự việc, không thông qua một thế lực nào khác.

Người phụ nữ trong sáng tác của các tác giả truyền kỳ đều giữ được sự

chủ động của mình, nếu như nhân vật nữ của Truyền kỳ mạn lục có những lúc

chủ động trong chuyện tình ái, ham muốn dục vọng thì người nữ trong Truyền

kỳ tân phả cũng có những điểm mạnh riêng, đó là dẫn dắt, định hướng cho

người đàn ông của mình. Cách nhìn của tác giả về một sự vật hiện tượng đã

bắt đầu có sự chuyển hướng. Nếu như nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục

với loại hình là những yêu tinh, hồn ma, hồn hoa… qua lời kể của Nguyễn Dữ

có phần hoạt động khá tự do so với khuôn phép của nhà nho, gây kích thích

83

trí tưởng tượng và gây ra sự hấp dẫn thì đến Truyền kỳ tân phả của oàn Thị

iểm, tuy là người phụ nữ ở dạng tinh yêu lại được gắn với những khuôn mẫu

nhất định, không làm những chuyện quá lệch khuôn, gây ra những sự kích

thích mới lạ. Nhân vật phụ nữ là tinh ma của Nguyễn Dữ - một tác giả nam

hiện lên rất mới lạ trong bối cảnh xã hội ông sống. Những nét táo bạo khi diễn

tả những cảnh hoan lạc ái ân, sự táo bạo của người nữ trong việc mê hoặc,

quyến rũ bạn tình có vẻ trước đó chưa có tác phẩm nào lột tả một cách rõ nét

đến như vậy, gây ra những sự tò mò, sự “thích thú” vì điều mới lạ nơi người

đọc, hay chính là cảm thức của những nhà nho không đứng đắn. Chất nho học

được oàn Thị iểm lồng ghép vào trong tác phẩm của mình đậm đặc hơn

khi những khuôn phép, những chuẩn mực vẫn được thi hành, không có gì

vượt quá đáng qua khuôn mẫu ấy. Nhân vật nữ từ Truyền kỳ mạn lục đến

Truyền kỳ tân phả có những nét chuyển hóa dần dần, yếu tố kỳ vẫn xuất hiện

đi cùng những nhân vật, nhưng có vẻ các nhân vật dù còn mang hơi hướng

thoát tục những nét chân thực dần dần gần gũi hơn. ọc hai tác phẩm, người

đọc có cảm giác sáng tác của Nguyễn Dữ có phần ly kỳ, hấp dẫn hơn, cuốn

hút người đọc đi theo từng hành động, việc làm, thái độ của nhân vật, thậm

chí gây cho người đọc những nỗi kinh sợ, rợn tóc gáy như khi đọc Chuyện

cây gạo hay Chuyện nghiệp oan của Đào Thị… Nhân vật nữ được ông tái

hiện có phần gai góc hơn, táo báo hơn và mang nhiều sắc thái kỳ ảo - đặc

trưng lớn nhất của truyện truyền kỳ. òn như đọc tác phẩm của oàn Thị

iểm, Truyền kỳ tân phả dù tác giả có nhắc đến các khung cảnh khác với đời

sống thực tại là chốn thủy cung, chốn thiên đình, tiên cảnh, hay cả âm ti,

người đọc được lãng đãng du ngoạn cũng các nhân vật đến với những miền

đất thần tiên, không có thật, nhưng tuyệt nhiên không hề có nhiều cảm giác

kinh sợ hoặc quá ngạc nhiên, bất ngờ. Từ những cảm thức chân thực ấy mới

cảm thấy yếu tố kỳ ảo trong đây dù có nhưng không quá nỗi khiến cho người

84

đọc thấy sự ảo diệu khôn lường. hưa hết, những nhân vật xuất hiện trong

những không thời gian thực chân thực như địa chỉ tỉnh, huyện, vùng miền rõ

ràng khiến cho yếu tố ảo bị giảm đi đáng kể. Nhân vật nữ trong Truyền kỳ tân

phả cũng vì thế tạo cho người đọc có cảm giác gần gũi, chân thực hơn. ọ chỉ

đơn thuần là những người vợ hiền, những nàng tiên hiền lành rất mực vì gia

đình nơi trần thế, không gây phương hại đến ai, gặp phải điều tai ương cũng

là do vạn bất đắc dĩ phải cam chịu, nó gần gũi hơn với hình ảnh của người

phụ nữ Việt Nam trong chuẩn mực của lễ giáo phong kiến, hay chính là nho

giáo.

Long hổ đấu kỳ trong Truyền kỳ tân phả mang yếu tố về những câu

chuyện truyền thuyết. Ta có thể nhận thấy hình tượng con rồng chính là một

nét của văn hóa truyền thống phương ông nói chung và văn hóa Việt Nam

nói riêng. Rồng là tượng trưng cho nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Lấy

hình tượng từ trong truyền thuyết, như trong Con rồng cháu tiên, rồng có cái

uy và mặc sức thể hiện tài năng và niềm mến mộ của con người dành cho

mình. ó là đặc quyền và lợi thế riêng của nó. Cuộc đối đầu đầy cam go,

không ai nhường phần ai giữa rồng và hổ hay chính là thể hiện tài năng của

tác giả trong trí tưởng tượng và sự vận dụng những kinh nghiệm dân gian,

kinh nghiệm trong đời sống để bày ra đủ các thể tài của hai loài vật. Nhân vật

“ta” khi giải thích cho vị đạo sĩ nghe về loài rồng và hổ được tạo nên bởi khí

tinh, khí thô như thế nào, nên nhìn vào và tin vào, chọn nơi kết bạn là rồng

chứ không phải hổ để thấy được sự am hiểu, lý lẽ sâu sắc, có tình có lý. Từ

một câu chuyện tranh đua hơn kém của rồng và hổ mà nói đến đạo lý sống

trong cuộc đời. ó là lời răn phải biết tinh tường trong nhìn nhận con người

và các sự vật, hiện tượng diễn ra quanh ta để phân biệt rõ phải trái, trắng đen,

từ đó mà đi theo lẽ đúng, lánh xa điều trái, giống như là lời khuyên nên nghe

85

và tin vào tài năng của rồng còn giống hổ chỉ là kẻ thù, quân bạc nhược vậy.

Từ những yếu tố, motip tích hợp từ nguồn văn học dân gian, tác giả

oàn Thị iểm sáng tạo thêm, mở rộng tình tiết, kết cấu câu chuyện khiến

cho câu chuyện trở nên phong phú hơn. Như là việc gắn thêm phần cuộc sống

đời thường, phần con người bản năng yêu chồng thương con, hết lòng vì gia

đình cho đức Chúa Liễu Hạnh trong Vân Cát thần nữ lục, vốn là một bà chúa

linh thiêng được nhân dân thờ cúng suốt bao đời nay. Những người phụ nữ

trong sáng tác của bà, ai cũng có tài thơ văn, khéo léo khuyên chồng sửa mình

cho đúng bậc quan, theo nghiệp khoa cử. Trong mỗi truyện, yếu tố thơ từ

được tích hợp rất dày đặc, thể hiện tài năng của oàn Thị iểm. Hải khẩu

linh từ lục có một bài “Kê minh tập sách”, một bài tế chiêu hồn, hai bài thơ;

An Ấp liệt nữ lục có tới 12 câu thơ và bài thơ, một bài văn tế; Vân Cát thần

nữ lục có 17 bài thơ, từ và câu đối; Bích Câu kỳ ngộ có 18 vế thơ, bài thơ;

Tùng bách thuyết thoại có 07 câu thơ, bài thơ… ôi khi, dung lượng thơ

chiếm phần lớn dung lượng của tác phẩm. Theo như nhận xét của Phan Huy

Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí thì Truyền kỳ tân phả “văn từ đẹp

đẽ nhưng khí cách hơi yếu, không được bằng sách trước”, tức sách Truyền kỳ

mạn lục của Nguyễn Dữ. Theo như Trần Ích Nguyên trong So sánh Tiễn đăng

tân thoại và Truyền kỳ mạn lục thì cho rằng Truyền kỳ tân phả của oàn Thị

iểm là cuốn mô phỏng Truyền kỳ mạn lục sớm nhất hiện còn. ây là những

sách truyền kỳ mang phong khí sáng tác, chứ không đơn thuần chỉ là sự ghi

chép lại như thể chí quái, chí dị như trước đây nữa. Tuy vậy, các sáng tác

truyền kỳ thế kỷ XVIII, truyện truyền kỳ có một chiếc áo mới mẻ hơn khi

cung cách sáng tác có phần quay lại với nguồn “dinh dưỡng” từ văn học dân

gian dồi dào hơn, các tác giả lồng ghép tài năng cũng như chứng minh điều

mình kể ra là có thật, tức mang nét gần gũi với cuộc sống đời thực hơn. iều

này có thể kể đến khi oàn Thị iểm giới thiệu các nhân vật của mình

thường nêu rất rõ địa điểm, thời gian diễn ra sự việc, còn Vũ Trinh lại thường

trong câu chuyện của mình dẫn ra người ông quen biết hoặc một nhân vật có

86

thật trong lịch sử từng được chứng kiến câu chuyện, hoặc kết quả của câu

chuyện ấy. Trong An Áp liệt nữ lục, oàn Thị iểm ngay đầu tác phẩm giới

thiệu: “ oàng triều khoảng niên hiệu Vĩnh Thịnh, có một vị Tiến sĩ trẻ tuổi,

tên là inh oàn, hiệu là Mặc Trai, người làng An Ấp. Nghệ n”; trong Bích

Câu kỳ ngộ, tác giả giới thiệu: “Phường Bích Câu ở phía tây nam thành

Thăng Long (phường này thuộc huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên trong

Đô thành), có cái gò Kim Quy (gò này ở bên hữu nhà Quốc Tử giám) cạnh

đấy có cái ao hình cách phượng (thường gọi là Phượng Trì, nay gọi là hồ Tú

Uyên), hồ ao vây bọc, cây cỏ xanh tươi, đã lâu không có người ở. Về đời

Hồng Đức có một người học trò họ Trần, tên Uyên, tự Vưu Ban, vốn con nhà

phúc hậu, trọng thi lễ. Cha làm quan huyện, có âm đức, mãi về sau mới sinh

ra Uyên…” [29, tr. 358]. ịa chỉ, niên hiệu rõ ràng, thậm chí là cả học hàm

của nhân vật trong truyện cũng được giới thiệu rõ ràng, để câu chuyện gần gũi

hơn với cuộc sống đương thời. Ở Lan Trì kiến văn lục, tác giả Vũ Trinh cũng

lồng ghép các yếu tố đời thực vào trong tác phẩm. Câu chuyện Cá thần, sau

khi kể về chuyện người lái buôn khi bị chủ thuyền hãm hãi đẩy xuống biển thì

ông ta được cá thần cứu giúp, tên thuyền trưởng độc ác bị trừng trị thì cuối

truyện có đoạn: “Bấy giờ, ông chú tôi là Triện Lĩnh bá Trần Danh ương làm

tướng coi đồn binh ộng Hải, xét xử án ấy, nhưng vì lâu ngày, quên mất tên

người lái buôn”. Hay truyện Con hổ hào hiệp, sau khi kể chuyện con hổ tốt

bụng với người lương thiện và đứa bé vô tội, trừng trị kẻ làm cha mà gian ác,

lừa lọc. Cuối truyện lại có câu: “Việc này xảy ra vào năm anh Tuất (1790).

Em họ tôi là Trần Danh Lưu đi Lạng Sơn được nghe kể lại… Sở dĩ nhan đề

tác phẩm là Lan Trì kiến văn lục, tức kể những chuyện ông Lan Trì được

chứng kiến (Lan Trì là tên hiệu của tác giả Vũ Trinh). Ngay nhan đề đã nói

lên hướng đi của tác giả, tức tập trung nêu lên những câu chuyện của mình

viết đều là chuyện đã từng nghe, nay ông chỉ tập hợp lại thành tập truyện này.

Màu sắc kỳ ảo tuy có nhưng cuối mỗi truyện lại gắn thêm lời bàn luận của tác

giả hoặc kể tên người từng chứng kiến, từng được nghe câu chuyện đó.

87

Truyện truyền kỳ đến giai đoạn này đã bắt đầu có một hướng mới mẻ, không

còn đi quá xa so với những miêu tả, lột tả ngoài tầm kiểm soát của người trần

mắt thịt như trước đây – tức Truyền kỳ mạn lục nữa.

Tiểu kết: Sau Truyền kỳ mạn lục phải đến gần hai thế kỷ chúng ta mới được

tiếp tục có được những tác phẩm thuộc thể loại truyền kỳ, tiêu biểu là Truyền kỳ tân

phả của oàn Thị iểm. Tác phẩm đại diện cho những nét canh tân mới mẻ của thể

loại truyền kỳ sau một khoảng thời gian vắng bóng. Khoảng thời gian “đứt mạch”

không phải là ngắn, các tác giả sáng tác truyện truyền kỳ có đến gần hai thế kỷ để

chuẩn bị, tích lũy và làm nên những điều mới mẻ, “canh tân” cho thể loại để giới

thiệu đến toàn thể văn đàn. Không phải lẽ ngẫu nhiên có được một “sự chuẩn bị”

dài hơi đến vậy. Có lẽ, trước cái bóng quá lớn của Truyền kỳ mạn lục, các tác giả

thế hệ sau phải tìm cách để cho đứa con tinh thần của mình khi chào đời sẽ không bị

vùi dập, có đất để tồn tại và được mọi người công nhận. Những điều được các tác

giả canh tân dù rất nhỏ nhặt, ở từng chi tiết nhỏ như lối hành văn, cách vận dụng

chất liệu dân gian về đề tài, cốt truyện… cũng làm nên một cái khác so với truyện

truyền kỳ trước đó. Những thay đổi đó là nỗ lực của các tác giả hay cũng chính là

hoàn cảnh xã hội, các giá trị văn hóa của đời sống lúc bấy giờ quyết định đến xu

hướng sáng tác của các tác giả truyện truyền kỳ. Truyện truyền kỳ dù có yếu tố kỳ

ảo nhưng đã bớt ma mị, bớt phần dâm tục, nhiều phần màu sắc dân gian và nhiều

phần đời thực tích hợp trong đó. ây là một diện mạo mới của truyện truyền kỳ, tuy

không đem lại nhiều điểm vượt trội hơn về những cái kỳ ảo cho thể loại, nhưng lại

là một bước chuẩn bị vững chắc cho sự ra đời của các thể loại truyện ngắn, ký sự…

trong giai đoạn mới. Sự tích hợp của nhiều thể loại trong truyện truyền kỳ như thơ

từ, ký,… vừa là thể hiện tài năng của tác giả vừa là một xu hướng mới đáp ứng

88

dòng chảy chung của nền văn học nước nhà.

KẾT LUẬN

Sự hình thành và phát triển của truyện truyền kỳ Việt Nam đã trải qua

một thời gian tương đối dài, tuy không đi hết chiều dài lịch sử văn học viết

nước nhà và đến nay đã không còn tồn tại thể loại này nữa, nhưng những giá

trị mà truyền kỳ đem lại thì vẫn còn mãi. Nó thể hiện ở sự nhớ đến và sự quan

tâm của rất nhiều các nhà nghiên cứu văn học dành cho từ trước tới nay. Và

đồng thời là sự xuất hiện của các thể loại mới mà chủ yếu thuộc dòng văn

xuôi – có nguồn gốc và dấu vết của truyện truyền kỳ. Từ những ngày đầu hình

thành khoảng thế kỷ XV – XVI, một thành tựu nổi bật ngay khi vừa mới ra

đời như là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ đã mang đến một làn gió mới

trên văn đàn trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.

Xuyên suốt quá trình phát triển và dần đi vào lụi tàn trải qua gần bốn

thế kỷ, truyện truyền kỳ đã phô ra tất cả những vẻ đẹp, những hạn chế, những

lúng túng trong sự tìm ra con đường đi của mình. Ở mỗi một thời kỳ chúng ta

lại nhìn thấy truyền kỳ có những nét khác biệt, thậm chí không phải nhiều

nhưng cũng đánh dấu từng đoạn lịch sử và từng xu hướng sáng tạo của các tác

giả ứng với mỗi thời kỳ đó. Lựa chọn con đường đi từ Truyền kỳ mạn lục đến

Truyền kỳ tân phả giống như việc lựa chọn hai tác phẩm truyền kỳ xuất sắc

nhất ở hai thời điểm khác nhau trên tiến trình phát triển của thể loại, giống

như nối hai đỉnh cao của thể loại, đi từ thể nghiệm này sang thể nghiệm khác

để nhìn ra sự vận động trên con đường phát triển đi lên. Truyền kỳ khi vừa ra

đời đã khẳng định được ngay vị thế của nó với một kiệt tác là Truyền kỳ mạn

lục. Trong lời tựa cho tác phẩm đề năm 1547, à Thiện Hán cho rằng Truyền

kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ không vượt ra khỏi phên giậu của Tông Cát. Ông

nhận xét như thế này có thể hiểu theo rất nhiều khía cạnh khác nhau. Thời

89

điểm tác phẩm ra đời theo dự đoán chỉ sau khi Tiễn đăng tân thoại được du

nhập vào Việt Nam trong một thời gian ngắn. Hà Thiện Hán nhận định như

vậy có thể ông đang biện hộ cho Nguyễn Dữ, bảo vệ Nguyễn Dữ bởi những

câu chuyện Nguyễn Dữ viết đã bắt đầu vượt ra khỏi khuôn mẫu của xã hội lúc

bấy giờ, vì vậy Truyền kỳ mạn lục chỉ là một sự mô phỏng lại một tác phẩm

đã có của Trung Quốc. húng ta cũng có thể hiểu theo một khía cạnh khác

rằng ông đang mặc cảm và có tinh thần tự ti khi cho rằng sáng tác của tác giả

Việt Nam không thể vượt qua sáng tác của Trung Quốc, chưa kể tác phẩm này

của Việt Nam không phải là một tác phẩm tiên phong của thể loại. Sự mặc

cảm dân tộc sẽ luôn mặc định rằng Trung Quốc tốt hơn, sáng tác của tác giả

Trung Quốc xuất sắc hơn. Nhìn chung, quan niệm sáng tác của các nhà Nho

Việt Nam xưa, trong mối tương quan với văn học Trung Quốc thường không

mấy khi bộc lộ cái riêng, tinh thần văn hóa Việt Nam mà luôn vừa có sự

khẳng định sự “vô tốn” (không kém) và “bất dị” (không khác). Nhưng dù ý

nghĩa lời nhận xét của à Thiên án là như thế nào thì với cảm quan của một

người đọc tác phẩm, chiêm ngưỡng tác phẩm trong dòng chảy văn học trung

đại nước nhà, chúng ta không thể phủ nhận tài năng của Nguyễn Dữ. Ông đã

biết dựa trên những nguồn dinh dưỡng đã có, hòa trộn cùng tài năng, các sử

dụng ngôn từ biến hóa để làm nên kiệt tác của riêng mình và là một niềm tự

hào của dân tộc Việt Nam.

Nhưng không vì thế mà thể loại này chỉ dừng lại ở đó – một đỉnh cao

duy nhất và sau đó không còn gì. Truyền kỳ tân phả ra sau và cũng được đánh

giá cao về thể loại truyền kỳ, mặc dù còn nhiều ý kiến cho rằng nó không

được như sáng tác của Nguyễn Dữ. Người ta chờ đợi và tìm tòi một đỉnh cao

mới, hi vọng có thể “cao hơn” so với Truyền kỳ mạn lục nhưng điều đó không

hề dễ dàng. Tuy khi nhìn tổng quan, Truyền kỳ tân phả không được bằng

Truyền kỳ mạn lục, nhưng ở tác phẩm tích hợp những yếu tố mới mẻ mà

90

Truyền kỳ mạn lục chưa có. Yếu tố bác học, gần gũi đời thường hay quay về

với nguồn cội là những yếu tố tiêu biểu của truyền kỳ giai đoạn sau thể hiện

qua Truyền kỳ tân phả. Tuy rằng cái kỳ ảo mà trở nên gần gũi với đời sống

thực hơn sẽ dần phôi pha - làm giảm đi đặc trưng của thể loại truyền kỳ, cái

thực lên ngôi, chứng tỏ quan niệm sáng tác của các tác giả đã khác, làm nên

những giá trị mới cho thể loại truyền kỳ. húng tôi đánh giá cao những nỗ lực

canh tân của các tác giả truyền kỳ sau Truyền kỳ mạn lục. ề tài nghiên cứu

của chúng tôi là chỉ ra sự vận động của thể loại thông qua hai tác phẩm truyền

kỳ chính với mong muốn chỉ ra được trên tiến trình phát triển của thể loại, có

thể có những bước lùi. Bước lùi đó chỉ nằm trong một khoảng rất ngắn trên

một con đường dài qua nhiều thế kỷ để thể loại truyền kỳ được sống hết vận

mệnh của nó. Sự vận động không đồng nghĩa với khái niệm sự phát triển, nó

có thể di chuyển theo chiều hướng đi lên, đi xuống hay đi ngang để tạo ra một

cái khác, làm nên một diện mạo mới trên một hành trình chung. Những phân

tích trên đây tuy chưa thể bao quát được hết tất cả những vấn đề trong sự phát

triển của thể loại truyền kỳ nhưng mong rằng sẽ là những tư liệu để mở ra

những hướng nghiên cứu mới sâu hơn về thể loại truyền kỳ - một thể loại ghi

91

nhiều dấu ấn trong sự phát triển chung của nền văn học trung đại Việt Nam./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Toan Ánh (2006), Tân truyền kỳ Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà

Nội.

2. Lại Nguyên Ân chủ biên (2005), Từ điển Văn học Việt Nam, từ

nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, NXB ại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Nguyễn Huệ Chi (1999), Truyện truyền kỳ Việt Nam, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Dân (2012), Phương pháp luận nghiên cứu văn học,

NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Trần Nghi Dung (2012), Vị trí của thể loại truyền kỳ trong tiến trình

phát triển của văn học Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ.

6. oàn Thị iểm, Ngô Lập Chi – Trần Văn iáp (dịch) (2013),

Truyền kỳ tân phả, NXB TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

7. Trần Văn iáp (1984), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, NXB Văn hóa,

Hà Nội

8. Lê Bá Hán, Trần ình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2010), Từ điên thuật

ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

9. ỗ Thị Hảo chủ biên (2010), Các nữ tác gia Hán Nôm Việt Nam,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội

10. ỗ ức Hiểu, Nguyễn Huệ hi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ

92

biên (2004), Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế giới, Hà Nội.

11. Nguyễn Ngọc Hiệp (2007), Truyện truyền kỳ Việt Nam: Sự kết hợp

giữa văn hóa bác học và truyền thống dân gian, Văn hóa dân gian, (Số 2), tr.

40 – 48.

12. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học Trung đại,

NXB ại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

13. Nguyễn Phạm ùng (2006), oán định lại thân thế Nguyễn Dữ và

thời điểm sáng tác Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 1), tr 123 –

134.

14. Cù Hựu - Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn

lục, NXB Văn học, Hà Nội.

15. Mai Thu Huyền (2018), Cấm kỵ và vượt rào: Trường hợp Truyền

kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.

http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-

hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/cam-ki-va-vuot-rao-truong-hop-truyen-ky-man-

luc-cua-nguyen-du

16. Jean Karel, Phan Minh Châu (dịch) (2010), Truyện kỳ ảo, NXB TP.

Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

17. S Vũ Ngọc Khánh - Nguyễn Quang Ân (1995), Kho Tàng truyện

truyền Kỳ Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, Hà Nội.

18. inh Thị Khang (2007), So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma

trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 4),

93

tr. 62 – 72.

19. Nguyễn Thị Diệu Linh (2017), Chuyện tình ma nữ trong truyền kỳ

Đông Á, NXB Văn hóa Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

20. Nguyễn Thị Mai Liên (2014), Mộng - ảo và khát vọng hạnh phúc

lứa đôi trong Tiễn đăng tân thoại, Kim ngao tân thoại, Truyền kỳ mạn lục và

Vũ nguyệt vật ngữ, Nghiên cứu Đông Bắc Á, (Số 1) (155), tr. 32 – 42.

21. Phạm Luân (2006), Bàn thêm cách gọi tên tác giả và tác phẩm

Truyền kỳ mạn lục, Nghiên cứu văn học, (Số 3), tr. 132 -136.

22. Nguyễn ăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại

Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyễn ăng Na (2005), Truyền kỳ mạn lục dưới giác độ so sánh,

Tạp chí Hán Nôm, (Số 6), tr 3 – 8.

24. PGS. TS. Nguyễn ăng Na (2015), Vài nét về truyện truyền kỳ Việt

Nam.

http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamtrungdai/tabid/1

02/newstab/584/Default.aspx

25. Ngô Thị Thanh Nga (2016), Về kiểu nhân vật truyện truyền kỳ thế

kỷ XVIII – XIX, Nghiên cứu văn học, (Số 7), tr. 53 -59.

26. Ngô Thị Thanh Nga (2018), Về chức năng thẩm mỹ của truyện

truyền kỳ thế kỷ XV – XVII, Nghiên cứu văn học, ( Số 5), tr. 51 – 60.

27. Nguyễn Thị Kim Ngân (2017), Folklore và văn học viết nghiên cứu

từ góc độ “dịch chuyển không gian” trong truyện cổ tích và truyện truyền kỳ,

94

NXB ại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

28. Nguyễn Thị Kim Ngân (2014), Hồn ma và bóng quỷ trong truyện

truyền kỳ trung đại từ góc nhìn Folklore, Nghiên cứu văn học, (Số 4), tr.53-

63.

29. Trần Nghĩa (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam Tập 1,

NXB Thế giới, Hà Nội.

30. Trần Nghĩa (1987), Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng

tân thoại, Tạp chí Hán Nôm, (Số 1).

31. Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại

và Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn học, Hà Nội.

32. Lê Dương Khắc Minh (2016), Nghĩ về cội nguồn của truyện truyền

kỳ trung đại Việt Nam, Khoa học ĐH Sư phạm Tp. HCM, (Số 5), tr. 72 – 82.

33. ỗ Thị Mỹ Phương (2015), Nhân vật mang màu sắc kỳ ảo trong

truyện truyền kỳ Việt Nam trung đại, Nghiên cứu văn học, (Số 1), tr. 82- 93.

34. ỗ Thị Mỹ Phương (2016), Mô thức tự sự đặc thù trong truyện

truyền kỳ thế kỷ XVIII – XIX, Văn hóa Nghệ thuật, (Số 380), tr. 64 – 66.

35. ỗ Thị Mỹ Phương (2016), Truyện truyền kỳ Việt Nam thời trung

đại (nhìn từ phương diện tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật), Luận án

Tiến sĩ, ại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội.

36. ỗ Thị Mỹ Phương (2017), Sự biến đổi lời văn trong truyện truyền

kỳ trung đại, Văn hóa Nghệ thuật, (Số 393), tr. 70 – 73.

37. B.L. Riptin (2006), Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu

(Trung Quốc) với Kim ngao tân thoại của Kim Thời Tập (Triều Tiên), Truyền

kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Ca Tỳ Tử của Asai Rey (Nhật

95

Bản), Nghiên cứu văn học, (Số 12), tr. 46 – 58.

38. Bùi Duy Tân chủ biên (2003), Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế

giới, Hà Nội.

39. Bùi Thị Thiên Thai (2014), Đoàn Thị Điểm và Truyền kỳ tân phả.

https://phebinhvanhoc.com.vn/doan-thi-diem-va-truyen-ky-tan-pha/

40. Phạm Văn Thắm (1996), Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại

truyền kỳ viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời trung đại, Luận án Tiến sĩ Văn

học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.

41. GS. TS. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới

góc nhìn văn hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Nguyễn ức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch (1990), Thiền uyển tập

anh, NXB Văn học, Hà Nội.

43. Nguyễn ùng Vĩ (2017), Truyện truyền kỳ với sự thể hiện lịch sử,

tín ngưỡng và con người.

http://caohocvan16qnu.blogspot.com/2017/03/truyen-truyen-ky-voi-su-

hien-lich-su.html

44. Trần Ngọc Vương chủ biên (2015), Văn học Việt Nam thế kỷ X đến

thế kỷ XIX – Những vấn đề lý luận và lịch sử, NXB ại học quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

45. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ,

96

NXB Tri thức, Hà Nội.