Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn Chuyên ngành:Văn học Việt Nam Mã số: 5.04.33

Đại học quốc gia hà nội Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ------- Mai Thị Ngọc Hoa Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi và những vấn đề lý luận tiểu thuyết sử thi

Người hướng dẫn khoa học: GS - Viện sĩ Phan Cự Đệ

Hà Nội 2005

Mục lục Trang Mục lục Phần mở đầu 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 1 3. Nhiệm vụ của luận văn 8 4. Phương pháp nghiên cứu 8 5. Cấu trúc luận văn 9 Phần nội dung 10 Chương 1 10 Một số vấn đề lý luận về thể loại sử thi và tiểu thuyết sử thi 1.1. Khái quát về sử thi 11 1.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa sử thi và tiểu thuyết - sử thi 14 Chương 2: 24 Kết cấu Vỡ bờ và những vấn đề về tiểu thuyết sử thi hiện đại 2.1. Một số vấn đề về kết cấu 25 2.2. Kết cấu trong tiểu thuyết Vỡ bờ 28 Chương 3: 59 Sự kết hợp sự kiện và nhân vật trong tiểu thuyết - sử thi 3.1. Sự kết hợp các tuyến sự kiện và tuyến nhân vật 62 3.2. Phân tích một số nhân vật cụ thể trong mối quan hệ với 65 sự kiện lịch sử Chương 4: 83 Sự kết hợp giữa sử thi và tâm lý 4.1. Sự kết hợp các yếu tố sử thi và tâm lý trong tiểu thuyết 85 Chiến tranh và hoà bình của L.Tolstôi 4.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du và Nam Cao 90 4.3. Sự kết hợp sử thi và tâm lý trong tiểu thuyết Vỡ bờ của 95 Nguyễn Đình Thi Kết luận 100 Thư mục tham khảo 104

Phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài.

Văn học Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói

riêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu lớn về mặt

nội dung và nghệ thuật, phản ánh chân thực và sinh động sự nghiệp Cách

mạng vĩ đại của dân tộc.

Lần đầu tiên từ những năm 60, chúng ta có những bộ tiểu thuyết

nhiều tập, mang cảm hứng và qui mô sử thi, những bức tranh nghệ thuật

hoành tráng xứng đáng với tầm vóc của dân tộc trong thời đại mới. Đó là

những bộ tiểu thuyết - sử thi như Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Cửa biển của

Nguyên Hồng, Vùng Trời của Hữu Mai, Dòng sông phẳng lặng của Tô

Nhuận Vĩ... Luận văn này muốn nêu lên một số vấn đề lý luận của loại hình

tiểu thuyết - sử thi thông qua một tác phẩm tiêu biểu: Vỡ bờ < 2 tập > của

Nguyễn Đình Thi.

2. Lịch sử vấn đề.

Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ

nguyên độc lập dân tộc, mở ra những bước tiến mới về mọi phương diện nhất

là về văn học nghệ thuật. Đây là thời kỳ đánh dấu sự trưởng thành lớn mạnh

về văn học, đồng thời lịch sử Việt Nam cũng bước sang một trang sử mới,

trang sử hào hùng đấu tranh anh dũng chống lại hai thế lực bạo tàn, giặc Pháp

và giặc Mỹ. Sức mạnh của trí tuệ và lòng căm thù giặc của người Việt Nam

đã trở thành truyền thống, nó có sẵn trong tâm hồn và trong cốt cách của

dòng giống con Hồng cháu Lạc. Con người Việt Nam nhỏ bé, giản dị và yêu

hoà bình là thế nhưng khi đấu tranh đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi

để dành lại độc lập thì muôn người như một, nhất tề đứng dậy không chịu

khuất phục. Thực tế hào hùng đó là chất liệu để tạo nên cảm hứng sử thi

trong văn học. Văn học là phương tiện duy nhất dùng những hình ảnh vừa

1

sinh động, vừa chân thực, những ngôn từ đầy sáng tạo ghi lại một chặng

đường lịch sử đã qua. Văn học Việt Nam thời kỳ này đi theo đường lối lãnh

đạo của Đảng, Đảng luôn hướng cảm hứng sáng tạo của văn học nghệ thuật

vào nhiệm vụ phản ánh chân thực sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phục vụ

kịp thời cuộc kháng chiến trường kỳ có một không hai trong lịch sử.

“Nước Việt Nam từ máu lửa, rũ bùn đứng dậy sáng loà” văn học

luôn vận động cùng với sự vận động của xã hội. Cảm hứng sử thi đã trở

thành một cảm hứng chủ đạo của nền văn học Việt Nam hiện đại và cũng chỉ

có cảm hứng sử thi mới có khả năng bao quát toàn cảnh bức tranh của xã hội

Việt Nam trong mọi thời kỳ, nhất là thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám vĩ

đại. Thời kỳ bão táp, xã hội chìm trong máu và nước mắt. Trong kho tàng

văn học của dân tộc, sử thi có vai trò quan trọng đã làm sống mãi giá trị tịnh

thần, duy trì mãi nguồn sức mạnh vô song của nhân dân trong quá trình dựng

nước và giữ nước, bảo vệ Tổ Quốc. Vì vậy, cảm hứng sử thi đã trở thành cảm

hứng chủ đạo của văn học hiện đại. Nhiều đội ngũ nhà văn, nhà thơ có tư

tưởng mới đã trưởng thành từ đây. Họ vừa là những nhân chứng của lịch sử,

trực tiếp cầm súng tham gia cuộc kháng chiến, vừa là “thư ký” trung thành

ghi lại một chặng đường đã qua. Vì vậy văn học thời kỳ này đã đạt được

những thành tựu đáng kể cả về mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ

thuật, có sự đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và nền

văn học nước nhà thêm phong phú. Đặc biệt phải kể đến từ những năm 60,

tiểu thuyết đã có một tiếng nói đặc biệt, có một sự đổi mới sâu sắc cả về nội

dung thể tài và các nguyên tắc xây dựng hình thức thể loại. Năm 1960 là năm

kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, 15 năm nước Việt Nam dân chủ cộng hoà

và cũng là năm bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. ở Miền Nam đồng

khởi nổi lên mạnh mẽ ở khắp các vùng nông thôn rộng lớn. Những năm 60

cũng chính là những năm văn học mang cảm hứng sử thi. Đồng thời xuất

2

hiện hàng loạt hồi ký cách mạng như “Trong xà lim án chém”

Hùng và Lê Văn Lương>... Một cấu trúc thể loại mới mẻ chưa từng có trong

lịch sử phát triển tiểu thuyết Việt Nam đã ra đời với đặc trưng của loại hình

tiểu thuyết - sử thi. Thể loại đã hình thành do yêu cầu của thời đại phải đáp

ứng những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn

này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó.

Tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi là một minh chứng.

Bộ tiểu thuyết từ khi ra đời tuy có những ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung

đã được bạn đọc đón nhận nhiệt tình và được nhiều nhà nghiên cứu phê bình

đánh giá cao, mang nhiều sức thuyết phục. Đây được coi là bộ tiểu thuyết -

sử thi. Một bộ tiểu thuyết có qui mô lớn với sự kết hợp những kiểu tổ chức

nghệ thuật của tác phẩm, từ kết cấu, các tuyến chủ đề, cốt truyện cho đến việc

xây dựng các tuyến nhân vật. Bằng vốn sống và sự tích luỹ kinh nghiệm hơn

hai chục năm ròng Nguyễn Đình Thi cho ra đời “đứa con ”tinh thần dài hơn

1000 trang - hai tập, mỗi tập cách nhau 8 năm. Tiểu thuyết Vỡ bờ là tấm lòng

yêu thương tha thiết của Nguyễn Đình Thi đối với vận mệnh, lịch sử đất

nước, là những suy nghĩ sâu lắng, ấp ủ của nhà văn về những đặc điểm tâm

hồn và tính cách con người Việt Nam. Những con người giàu chất trí tuệ, và

một thiên nhiên mang đầy chất thơ, chất trữ tình. Một đất nước màu mỡ, xanh

tươi mặc dù trên mình vẫn đang phải chịu những vết thương do chiến tranh

gây ra.

Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa nói chung và tiểu thuyết

Vỡ bờ nói riêng “không từ bỏ nhiệm vụ tấn công vào những giai cấp thù địch,

phê phán những tàn tích xấu xa của xã hội cũ nhưng nhiệm vụ hàng đầu của

nó là phải khẳng định, ca ngợi những anh hùng mới trong quần chúng lao

động, là những chủ nhân mới của xã hội ”<6, tr360>. Ca ngợi những người

con anh dũng của dân tộc, những người chủ đất nước một cách thực sự và lúc

3

này đây hơn bao giờ hết những người nông dân, những chủ nhân của cái cày,

cái cuốc đi vào trong văn học hết sức sinh động. Họ không còn là những đám

đông mờ ảo, vô danh, thậm chí họ còn mang nguồn gốc xuất thân, tên tuổi cụ

thể...

Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi đem đến cho bạn đọc những cảm

xúc mới lạ, chất văn trong sáng, tươi trẻ, đặc biệt là ở đây ông có một cách

viết mang sức tổng hợp, khái quát hơn thời kỳ trước. Ông nắm bắt được

những nét đẹp của đời sống hiện thực trong những năm chiến đấu dành độc

lập của nước nhà. Vì thế bộ tiểu thuyết Vỡ bờ ra đời đã được nhiều nhà

nghiên cứu phê bình cũng như bạn đọc đón nhận một cách hồ hởi. Sức tái

hiện đời sống và chất liệu làm nên tác phẩm đã tạo ra một bộ tiểu thuyết có

giá trị lớn, mà nhiều người gọi là tiểu thuyết - sử thi. Nguyễn Đình Thi tái tạo

được cả một thời kỳ lịch sử thành một bức tranh hoành tráng, trong đó cảm

hứng nhân dân và cảm hứng lịch sử là cảm hứng chủ đạo. Bộ tiểu thuyết đã

nêu bật lên chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một sức mạnh vô song diệu kỳ

của “biển cả nhân dân ” “tức nước vỡ bờ ”.

Vỡ bờ gồm hai tập, mỗi tập cách nhau tám năm <1962 - 1970>

cho nên dư luận đánh giá tập sách cũng tập trung vào hai thời điểm trên. Bộ

tiểu thuyết đạt được những thành tựu đáng kể, và khi mới ra đời đã có những

bài viết, bài nghiên cứu phê bình về bộ tiểu thuyết này, xuất hiện trên các Tạp

chí Văn học, Tạp chí Cộng sản, Văn nghệ Quân đội, qua nhiều bài báo khác

nhau... Phong Lê “Chung quanh vấn đề Vỡ bờ”, Nguyễn Văn Hạnh “Vỡ bờ

và nghệ thuật tiểu thuyết” của Nguyễn Đình Thi, Hà Minh Đức “Vỡ bờ một

thành công mới” của Nguyễn Đình Thi, Vũ Ngọc Phan <>

một> của Nguyễn Đình Thi, Phan Cự Đệ “Tiểu thuyết Vỡ bờ” của Nguyễn

Đình Thi... mỗi nhà phê bình đều có cách đánh giá, nhìn nhận theo quan điểm

riêng của mình nhưng nhìn chung khen hơn là chê. Bởi điều mà Nguyễn

4

Đình Thi đạt được chính là quan điểm đánh giá, nhận thức đúng đắn, sâu sắc

một thời kỳ lịch sử. Sức mạnh của tiểu thuyết Vỡ bờ chính là tác giả đã có

một ngòi bút thấm đẫm tình cảm yêu thương, trong sáng và những lý tưởng

đẹp đẽ, cao quí, một trình độ tổng hợp và khái quát tài hoa, thông minh.

Chính tư chất đó đã tạo đà cho Nguyễn Đình Thi trong việc tổ chức kết cấu

tác phẩm, cốt truyện hiện đại không đi theo lối truyền thống, nhiều chủ đề

phức tạp, nhiều tuyến nhân vật đan xen nhau... Một điều chúng ta không thể

phủ nhận là tác giả có ý thức học hỏi kinh nghiệm của các nhà tiểu thuyết lớn

đặc biệt là Lep.Tônxtôi tác giả của bộ sử thi nổi tiếng “ Chiến tranh và hoà

bình”.

Chu Nga đã đánh giá sự thành công trong tiểu thuyết Vỡ bờ ở

chỗ, Vỡ bờ hầu như là cuốn tiểu thuyết đầu tiên đã xây dựng được một hình

ảnh chân thực và tương đối hoàn chỉnh về người Đảng viên cộng sản, đó là

Khắc. “Khắc chỉ là một Đảng viên bình thường, nhưng trước con mắt chúng

ta, anh hiện lên như một mẫu người lý tưởng. Con người ấy sắt đá trước kẻ

thù, thà chết chứ không khi nào chịu đầu hàng khuất phục. Nhưng cũng chính

con người ấy lại có một tình yêu thương đằm thắm với gia đình, bạn bè, sẵn

sàng hy sinh đời mình cho Cách mạng ”. Hầu hết các nhà lý luận

cho rằng Nguyễn Đình Thi vốn sở trường về mặt miêu tả các nhân vật thuộc

tầng lớp trí thức tiểu tư sản như Tư, Hội... Và miêu tả các nhân vật phụ nữ

nông thôn đều đẹp, một vẻ đẹp thuần khiết của làng quê, họ giàu có về tình

cảm như Xoan, Quyên... “Nguyễn Đình Thi thường thành công khi xây dựng

những con người chính diện. Ngược lại, các nhân vật phản diện của anh hiện

lên không sắc nét ”<11, tr46>. ở những nhân vật chính diện có những phẩm

chất nổi bật là anh hùng và nhân văn. Phẩm chất nhân văn biểu hiện qua vẻ

đẹp tâm hồn với mối quan hệ tình cảm của nhân vật với tình yêu quê hương

đất nước, đồng chí, đồng bào và người thân. Mối quan hệ tình cảm hết sức

5

trong sáng, mặn nồng. Những cung bậc tình cảm ấy được tác giả đặt vào trong

thử thách khắc nghiệt để bộc lộ rõ phẩm chất cao đẹp, tiềm ẩn trong sự mộc

mạc giản dị.

Riêng về nhân vật Phượng thì có nhiều ý kiến khác nhau, tác giả

dành cho nhân vật này hơi nhiều tình cảm và nhẹ phần phê phán. Tác giả xây

dựng nhân vật này như một nhân vật phức tạp đầy mâu thuẫn “Phượng sống

trong cuộc sống giàu sang nhung lụa, Phượng bị lôi cuốn theo tiền tài danh vị

khoái lạc trong mối tình với Huyện Môn, và chuyện sa ngã với Thanh Tùng.

Nhưng ở Phượng cũng có những mong muốn chân thật, muốn thoát khỏi sự

xấu xa, giả dối. Những tình cảm thực của Phượng với hoạ sĩ Tư, tâm trạng của

Phượng trước thái độ của chồng, cũng gợi lên được hình ảnh của Phượng ngày

xưa trong lứa tuổi học trò trong trắng”<11, tr134>. Nhưng lại có nhà phê bình

cho rằng khi xây dựng Phượng người ta chỉ thấy được Phượng là một cô gái

con nhà giàu, có sắc đẹp, bất mãn với chồng, rồi để trả thù chồng... lắm thủ

đoạn, như mồi chài Thanh Tùng, rồi “đá” hắn, như tích trữ đầu cơ... chứ

không phải là người “không có nét giả dối ” “sự tự tử của Phượng có một vẻ

lãng mạn, không mang một ý nghĩa xã hội gì đáng kể”. Việc

Phượng may cờ, thậm chí Phượng giác ngộ Cách mạng cũng không sao, bởi

không hiếm những con em tư sản, địa chủ đã đi theo cách mạng... nhưng

Phượng với những tính cách như trên, có thể đi theo Cách mạng được không?

Hay nói sát hơn, một cô Phượng như vậy đã có thể trang bị cho mình những gì

để đi theo Cách mạng ? ”<16>. Phải chăng Nguyễn Đình Thi miêu tả Phượng

bằng tất cả tình cảm, yêu mến của mình, chính điều đó mà hình tượng Phượng

lại làm cho người đọc khó chịu. “Một con người vô dụng, quen ăn bám, sống

một cuộc sống vô vị, mang một nhân sinh quan rất “lắm vấn đề ”một cô

nương ”“phè phỡn” đang chán ứ lên trong cảnh sống trưởng giả, như cách nói

của Lê Nin, thử hỏi có gì khiến cho tác giả băn khoăn nhiều đến thế. Nhân vật

6

đó có ý nghĩa gì? Tác giả đấu tranh cho cái gì ở họ? ”<16, tr173>. Nguyễn

Đình Thi giới thiệu cho bạn đọc “một cô Phượng đáng thương hơn là đáng

giận” . Riêng Phượng, người ta chưa thể hình dung

Phượng muốn đổi một cuộc đời như thế nào, và có khả năng đổi được không,

trong khi Phượng chẳng có một “vốn liếng” gì cả, ngoài sắc đẹp, ngoài khả

năng ăn chơi, đầu cơ, và những ham muốn hưởng thụ của đời sống tư sản.

Những cô gái như thế có lẽ chỉ có khả năng may cờ và mặc quần áo đẹp. Mà

cách mạng thì không phải như thế . Đối với nhân vật Phượng còn

có nhiều ý kiến bàn luận nữa, nhưng trong khuôn khổ của bài viết này người

viết chỉ đưa ra những ý kiến nổi bật hơn cả.

Vỡ bờ đã phản ánh một hiện thực khá rộng lớn của xã hội Việt

Nam trước Cách mạng tháng tám 1945. Thời kỳ chiến tranh thế giới bùng nổ,

Pháp thua trận, Nhật đến chiếm đóng Đông Dương, nhân dân ta phải ở dưới

hai ách thống trị, Cách mạng do Đảng lãnh đạo âm ỉ rồi bùng cháy trong quần

chúng. Sự đè nén áp bức cũng chỉ đến độ và cảnh “tức nước vỡ bờ ”đã diễn ra.

Nhiều tầng lớp người đã được khắc hoạ trong Vỡ bờ, các thành phố lớn, nhỏ là

nơi các nhân vật hoạt động đi về. Các nhân vật hiện lên sinh động, có cá tính

và nhất là những diễn biến trong quá trình phát triển nội tâm của nhân vật. Vỡ

bờ đã miêu tả được một trường rộng lớn, khái quát hiện thực cuộc sống toàn

xã hội. Tiểu thuyết mang nhiều chủ đề và nhiều tư tưởng, nhiều tuyến nhân

vật, đủ các loại người. Vỡ bờ là bức tranh nhiều màu vẻ về cuộc sống xã hội

nước ta trong những năm 39- 40 và đầu năm 41. Mỗi nhân vật đều có một

hình, một vẻ, một ngôn ngữ riêng biệt...

Trong quá khứ, lịch sử nhân loại chúng ta đã có một kho tàng

văn học nghệ thuật. Ngay trong buổi bình minh của các dân tộc, con người đã

biết sống thành tập đoàn người chống lại những khốc liệt, thử thách của thiên

nhiên. Cơ sở đó đã gợi những nguồn cảm hứng và sức mạnh cộng đồng trẻ

7

trung tạo ra một dòng văn học tươi mát khoẻ khoắn như chính lịch sử, thuần

khiết và mãnh liệt về phương diện cảm xúc và thẩm mỹ, mang tầm vóc hoành

tráng về phương diện bao quát cuộc sống. Có nghĩa ngay từ đầu tiểu thuyết đã

được làm bằng chất bột đặc biệt, được xây dựng ở khu vực tiếp xúc trực tiếp

với cái thời hiện tại không hoàn thành. Và ở nó đã nảy sinh tương lai của toàn

bộ văn học.

Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói chung và tiểu thuyết - sử thi

Vỡ bờ nói riêng, có giá trị vô cùng lớn lao đã ghi lại một chặng đường lịch sử

anh dũng hào hùng. Bên cạnh đó nó còn bồi dưỡng cho tâm hồn người Việt

Nam biết trân trọng, quí mến hơn những tình cảm chân thành đối với Tổ Quốc

của những thế hệ đi trước, đặc biệt là những nhà văn xông pha nơi chiến

trường để ghi lại những “thước phim ”quí giá đi cùng năm tháng. Thế hệ

chúng ta, lớp con cháu cần ghi nhớ, học hỏi và gìn giữ.

3. Nhiệm vụ của luận văn.

3.1. Đánh giá lại tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi

3.2. Nêu lên những vấn đề lý luận của loại hình tiểu thuyết - sử

thi như:

- Các tuyến chủ đề nhân vật, cốt truyện trong kết cấu.

- Mối liên hệ giữa tuyến sự kiện và tuyến nhân vật

- Sự kết hợp giữa các yếu tố sử thi và tâm lý

4. Phương pháp nghiên cứu.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn vận dụng một

số phương pháp nghiên cứu như sau:

4.1. Phương pháp phân tích tổng hợp - nhằm nghiên cứu một

cách khái quát từ chi tiết cụ thể đến tổng hợp giúp cho việc nghiên cứu có sức

thuyết phục cao.

8

4.2. Phương pháp loại hình

thuyết - sử thi, và loại hình tiểu thuyết nói chung >.

5. Cấu trúc luận văn.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn được triển

khai trong 4 chương.

Chương 1:

Một số vấn đề lý luận về thể loại sử thi và tiểu thuyết sử thi.

Chương 2:

Kết cấu Vỡ bờ và những vấn đề về tiểu thuyết - sử thi hiện đại.

Chương 3:

Sự kết hợp giữa sự kiện và nhân vật trong tiểu thuyết - sử thi.

Chương 4:

Sự kết hợp giữa sử thi và tâm lý.

Kết luận.

Thư mục tham khảo.

9

Phần nội dung

Chương 1

Một số vấn đề lý luận về thể loại sử thi

và tiểu thuyết - sử thi

1.1. Khái quát về sử thi.

Sử thi cổ đại là những tác phẩm văn học thuộc loại tự sự ra đời

từ rất sớm, khi cộng sản nguyên thuỷ đã tan rã, nhưng xã hội phong kiến

chưa hình thành. Một thời đại có những biến cố lịch sử đặc biệt quan trọng,

quyết định lớn đến toàn bộ đời sống tinh thần và vận mệnh của dân tộc và

nhân dân. Đó là xung đột giữa các bộ tộc, bộ lạc người, cách làm ăn sinh

sống, những phong tục tập quán... để đi đến một sự thống nhất chung, một

khát vọng cao cả mang lý tưởng nhân loại. Cho nên những tác phẩm văn học

này nó vừa mang nét tươi mới hồn nhiên, ngây thơ của buổi hồng hoang vừa

có tầm vóc về khối lượng và qui mô lớn trong sự phản ánh thực tại. Vì vậy

mà được gọi là thời đại của sử thi, thời đại anh hùng. Hơn nữa đây là những

tác phẩm có màu sắc dân gian, nội dung kể lại các sự kiện và các nhân vật

lịch sử hoặc tôn giáo đã được trí tưởng tượng dân gian tô vẽ thêm thành

những huyền thoại. Nếu như trong tiểu thuyết - sử thi số phận cá nhân còn

chiếm địa vị trọng tâm và lịch sử đôi khi chỉ là đường viền cho các nhân vật

hoạt động, thì trong sử thi vị trí trung tâm là các biến cố lịch sử đối với đời

sống, và vận mệnh của các dân tộc. Trong tác phẩm sử thi nổi bật là tính khái

10

quát cao và nhiều giá trị nhận thức, giáo dục tư tưởng và thẩm mĩ lớn, vì vậy

nó đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền văn hoá dân tộc: Ramayana,

Mahabharata, Illiade, Odyssée, Đam san, Xinh nhã... là những tác phẩm

thuộc các nền văn học khác nhau nhưng dường như chúng có những tiêu

điểm chung là đều đem đến cho bạn đọc những lý tưởng tốt đẹp, xứng đáng

là những tác phẩm được lưu truyền mãi mãi không bị mai một theo thời gian.

Ra đời từ một thế giới “khởi nguyên‟‟, một thế giới tốt đẹp, thế

giới “ban mai”, đặc biệt là một thế giới mang tính cộng đồng và ý thức cộng

đồng sâu sắc, đoàn kết muôn người như một là động lực mạnh mẽ tạo ra một

sức mạnh phi thường để hướng tới một cuộc sống cao đẹp. Mỗi cá nhân đều

có ý thức, trách nhiệm hoà đồng vớí mục đích chung của cộng đồng.

Sử thi được chia làm hai loại: sử thi cổ sơ và sử thi cổ đại. Thời

đại của sử thi cổ sơ là thời đại chưa có giai cấp và đối kháng giai cấp. Sử thi

Ê Đê ra đời trước khi hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ. Còn sử thi cổ đại

ra đời sau khi hình thành nhà nước: “Sự liên kết thành nhà nước của các bộ

tộc là một nhân tố quyết định của sự phát triển của sử thi. Chính yếu tố nhà

nước này trong tuyệt đại đa số tác phẩm, qui định sự khác nhau giữa sử thi cổ

sơ và sử thi cổ đại‟‟. Vấn đề này ta thấy rõ trong sử thi ấn Độ. Xã hội trong

Mahabharata có sự mâu thuẫn lớn giữa “dân chủ bộ lạc và chiếm hữu nô lệ,

mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp bao gồm mâu thuẫn các dòng họ và các cá

nhân”<4, tr577>. Những mâu thuẫn trên, là nguyên nhân của chiến tranh.

Chiến tranh làm nhiệm vụ “bà đỡ của lịch sử”, thống nhất lực lượng đưa cộng

đồng thành bộ lạc đến bộ tộc và liên minh bộ tộc dần dần đến dân tộc. Vậy

chiến tranh chính là đề tài của sử thi. Bởi nó mang những xung đột dữ dội từ

xã hội đến tư tưởng tình cảm con người. Mỗi dân tộc, mỗi đất nước đều mang

những sắc thái dân tộc khác nhau. Tuy nhiên điều khác biệt ở sử thi ấn Độ

khi miêu tả chiến tranh là nhằm phục vụ cho tư tưởng “phi bạo lực”<4, tr

11

577>. Sự tàn sát thảm hại của chiến tranh cho người ta bài học về tự kìm chế,

phẫn nộ và căm thù. Mọi sự kiện, mọi vấn đề phong tục, nghi lễ, các tầng lớp

trong xã hội... đều được phản ánh trong sử thi ấn Độ, nó được coi như “bộ

bách khoa toàn thư‟‟. Nhưng tất cả các vấn đề đó không phải đều là sự thật.

Bởi họ cho rằng huyền thoại và tưởng tượng luôn gắn chặt với nhau. Khối

sản phẩm tinh thần này tạo nên một thứ lịch sử vừa thật, vừa không thật, gọi

chung là “lịch sử tưởng tượng”. Điều đó ta dễ hiểu, mỗi một dân tộc, một đất

nước đều có cách suy nghĩ và phong cách riêng. Vì vậy người ấn Độ xưa nay

vẫn tôn sùng và tu dưỡng theo những châm ngôn: “điều gì mình không thích

thì đừng làm cho kẻ khác ” “chân lý, tự kìm chế khổ hạnh, lòng quảng đại,

phi bạo lực, kiên trì, đạo đức - đó là những phương tiện thành công ” “đạo

đức tôn hơn sự trường sinh và cuộc sống”. Tuy nhiên “lịch sử tưởng tượng”

nhiều khi không giống với cuộc sống thực tại của xã hội, nhưng dù sao ta

cũng biết được bản chất con người và mục đích của nhân dân của thời đại đặc

biệt đó .

Sử thi ấn Độ cũng như Iliade, Odyssée đưa ra một cái nhìn tổng

hợp hơn là phân tích, sau này tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết thế kỷ 19 của

Phương Tây như Bà Bovary của Flaubert, Anna-Karenina của Tolstôi đi sâu

vào phân tích tâm lý con người. Còn sử thi của thời đại mới

tranh và hoà bình của Tolstôi, Sông Đông êm đềm của Cholokhov >là kiểu

sử thi kết hợp hài hoà giữa tổng hợp và phân tích, giữa biện chứng pháp lớn

của lịch sử và biện chứng pháp nhỏ của tâm hồn >.

Cũng như sử thi ấn Độ, sử thi Êđê cũng chứa đựng nhiều mặt,

nhiều sự kiện của đời sống người Êđê như cưới hỏi, đi săn, bắt cá, làm rẫy, kể

cả tục nối dây... những nhân vật trung tâm trong sử thi Êđê là những anh

hùng chiến đấu vì sự giàu có, mạnh mẽ về tài năng, trí tuệ sáng ngời, luôn toả

sáng vẻ đẹp phi thường và họ chiến đấu cho sự yên vui của thôn bản. Ngoài

12

ra còn có đề tài lấy vợ và làm lụng. Thực ra đề tài chiến tranh của sử thi Êđê

là nhằm mục đích hoà bình, no ấm cho mọi người. Sử thi Êđê ra đời khi mà

đời sống của họ còn rất nguyên sơ, xã hội chưa có đẳng cấp, toàn bộ công xã

sống trong tinh thần cộng đồng hoà hợp theo tinh thần đoàn kết, bình đẳng

thương yêu nhau và đặc biệt là chưa hình thành nhà nước. Bên cạnh đó sử thi

ấn Độ ra đời khi ấn Độ đã hình thành nhà nước, có trình độ văn hoá phát triển

cao, có nhiều ngành nghề như luyện kim, trong xây dựng đã biết chế biến đá,

gỗ và gạch ngói, biết chế biến nhiều loại thuốc trong đó có cả loại thuốc ướp

được xác chết... có nghĩa là tình hình công nghiệp, thủ công nghiệp, nội ngoại

thương... phát triển cao.

Những đặc trưng trên đã chi phối toàn bộ các phương diện, các

thành tố của cấu trúc xã hội và ý thức xã hội. Khi đó con người chưa có ý

thức tách khỏi cộng đồng của nó cả trong sinh hoạt thực tiễn lẫn trong ý thức.

“Cá nhân mang trong mình một phân số nào đó của lực lượng thể chất của

tập thể, và đồng thời lại có được tất cả những hiểu biết, tất cả sức mạnh tinh

thần của tập thể”. Thời kỳ có sự thống nhất giữa cá nhân và cộng đồng, sự

thống nhất trong cơ cấu cộng đồng được phản ánh trong ý thức, và làm thành

sự thống nhất nội tại của tâm lý, và tính cách con người .

Theo Bielinxki, anh hùng ca chỉ xuất hiện trong thời đại chưa có

sự phân rã của đời sống thành những yếu tố biệt lập. Phải có sự gắn kết giữa

cá nhân và cộng đồng cả trong cách cảm, cách nghĩ và trong hành động. Sự

thống nhất này chính là đặc trưng tiêu biểu của đời sống cổ đại. Thậm chí nó

còn nằm ở nhiều mặt, xét cả ở chiều sâu , chiều

rộng cả chiều dài .

Đó chính là cơ sở tâm lý và xã hội cho sự hình thành, sự tồn tại và sức tác

động mãnh liệt của những cảm hứng lịch sử, và cảm hứng nhân dân vốn là

linh hồn của sử thi cổ đại.

13

1.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa sử thi và tiểu thuyết - sử

thi.

Tiểu thuyết ra đời cách xa với sử thi, vì vậy cuộc sống được miêu

tả trong tiểu thuyết hướng đến cuộc sống bình thường hàng ngày của quần

chúng, những nhân vật trong tiểu thuyết sinh động như trong cuộc đời. Bằng

sức mạnh của nghệ thuật điển hình hoá, tiểu thuyết nâng cái cá biệt, cái cụ

thể lên tới chiều cao của lý tưởng và sự khái quát. Sức mạnh phi thường, tài

năng, lý tưởng, khát vọng hy sinh cho dân tộc... vẫn được nối tiếp, và đổi mới

trong hệ thống hình tượng nhân vật anh hùng. Vẻ đẹp của hiện đại luôn hoà

quyện với những phẩm chất sử thi được chắt lọc, tạo nên phẩm chất anh hùng

trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Trong sử thi cổ đại thần linh chiếm

giữ một vai trò quan trọng, trực tiếp tham gia vào diễn biến của đời sống con

người và lý giải các hiện tượng của đời sống. Cái hiện thực bện kết với “lịch

sử tưởng tượng”. Những ảnh hưởng của thế giới siêu thần không dẫn đến sự

bóp méo thực tại và xoá đi chân lý nghệ thuật. Đó là những lý tưởng, là khát

vọng là niềm tin và sức mạnh tinh thần “nó trở thành một nhân tố sinh động

trong đời sống của họ”, luôn luôn vực họ từ một cuộc sống sơ đẳng, từ kiếp

đời nô lệ và xấu xa lên một lĩnh vực cao hơn. Vì vậy mà các nhân vật đã có

sự hoá thân vào các hình tượng thần thoại. Mặc dù những suy nghĩ rất thô sơ,

hoang tưởng nhưng đây là phương thức duy nhất mà thời đại nguyên thuỷ có

để giải thích thế giới, đúc kết kinh nghiệm và biểu hiện nguyện vọng của

nhân dân .

Khi lịch sử tiến lên, xã hội có sự biến đổi thì cách nghĩ, cách cảm

của người xưa cũng dần qua đi cùng với thời gian. Bởi khi mà giai cấp và

giai cấp đối kháng xuất hiện, thì những điều kiện sản sinh ra những tác phẩm

sử thi không còn, thì sử thi cổ đại cũng không còn lý do để tiếp tục tồn tại, nó

vĩnh viễn qua đi cùng với thời thơ ấu của nhân loại .

14

Đặc trưng của sử thi là lời tiên tri, lời sấm truyền được thực hiện

hoàn toàn trong khuôn khổ quá khứ tuyệt đối. Những lời sấm truyền đó đôi

khi chỉ là những ước mơ mang màu sắc huyễn tưởng. Còn đối với tiểu thuyết,

là lời tiên đoán, lời dự báo, tiểu thuyết có tham vọng tiên đoán những sự

thực, dự báo và ảnh hưởng đến cái tương lai hiện thực, tương lai của tác giả

và độc giả. Vì thế thời đại của tiểu thuyết cách xa với thời đại của sử thi, đó

là thời đại của chủ nghĩa hiện thực, một thời đại mà khoa học chiếm vị trí

quan trọng trong đời sống, nó không còn là thế giới của thần bí, siêu hình.

Trước đây con người nằm trong sự thống nhất trực tiếp với cộng đồng, thì giờ

đây con người được tách riêng với tư cách là một cá nhân. Con người làm

chủ bản thân mình theo nghĩa chung của nó, không còn lệ thuộc vào bất cứ sự

hoang đường hay viễn tưởng nào cả. Nó không còn là khát vọng, là ước mơ

mà nó đã trở thành hiện thực .

Tiểu thuyết và sử thi là sản phẩm của những thời đại khác nhau.

Sử thi tuyệt đối hoá quá khứ, phân cách nó với hiện tại bằng “khoảng cách sử

thi tuyệt đối ”. Sử thi kể những gì ngược trở lại với thời gian, một quá khứ

tuyệt đối” vốn đã hoàn tất, và khép kín cả trong tổng thể cũng như ở từng bộ

phận của nó. Vì thế bộ phận nào cũng có thể có được bố cục và trình bày như

một chỉnh thể. ở trong đó diễn ra các sự kiện quan trọng có ý nghĩa lớn đối

với toàn thể cộng đồng. Trong đó họ xây dựng nhân vật anh hùng có thể là

một tù trưởng, người đứng đầu một bộ tộc, một buôn làng và tập trung tất cả

những mặt tốt đẹp, sức mạnh của cả cộng đồng. Theo quan niệm của tác giả

sử thi, đó là tổ tiên của cộng đồng. Sử thi không dành chỗ cho hiện tại, nó

quan tâm đến những cái đã hình thành, cái hoàn thiện, có nghĩa cái đã thuộc

về phạm trù quá khứ. “Sử thi không tranh luận mà nó khẳng định, sử thi

không gợi ý, nó khuyến cáo, không đề nghị suy nghĩ mà đòi hỏi thừa nhận ;

không giả định mà mặc nhiên tự coi là đã giải quyết trọn vẹn, một lần cho

15

mãi mãi ”<8>. <

sáng tạo cơ bản của văn học cổ đại... truyền thống về quá khứ là thiêng liêng.

Không thể nào lại có ý thức về tính tương đối của bất kỳ quá khứ nào hết” sử

thi tuyệt đối hoá quá khứ, nó bị tách rời hiện tại “nó bị phân cách bằng một

ranh giới tuyệt đối với tất cả những cái hiện đại kế tiếp và trước hết là với

hiện đại của ca sỹ và thính giả của nó; cái ranh giới đó nằm trong bản chất

của hình thức sử thi với tư cách là một thể loại”.

Khác với sử thi, tiểu thuyết tiếp xúc trực tiếp với cái hiện thực

đang phát triển và tiếp diễn, cái chưa hoàn thành. Nó hình thành chính trong

quá trình phá bỏ khoảng cách sử thi, nó cụ thể, nó bám sát lịch sử và nó mang

tính xã hội hơn các thể loại khác. Tiểu thuyết không hề khép kín, luôn luôn

biến động và hướng về tương lai. Cơ sở của nó chính là những kinh nghiệm,

vốn sống cá nhân và sự hư cấu sáng tạo tự do. Sử thi chính là sự thống nhất,

tính cộng đồng được đẩy lên cao độ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Như

vậy, ngay từ đầu trong tiểu thuyết đã có sự hình thành những chất liệu khác

biệt so với sử thi cổ đại. Hình tượng nghệ thuật mới mẻ, các tác giả có những

suy nghĩ và hành động bắt nguồn từ cuộc sống thực tại, họ làm chủ về tư

tưởng và ngôn từ. Vì vậy những con người nhỏ bé nhất trong xã hội, có

những vị trí nhất định, cũng có thể có lịch sử cá nhân và có một tính cách

riêng. Còn trong sử thi cổ đaị, ngôn ngữ dường như đã có sẵn, những nhân

vật không có ngôn ngữ riêng được cá thể hoá, họ sử dụng những ngôn ngữ

giàu hình ảnh, thậm chí sử dụng một cách đắc địa, tạo nên một thứ “ma thuật

”nào đó, khiến cho các cảm quan trong con người như thị giác, thính giác có

một sự giao lưu hài hoà, nhạy bén lạ thường. Ngôn ngữ giàu hình ảnh mang

tính ước lệ, tính biểu tượng không chỉ được sử dụng để khắc hoạ các nhân

vật, hoặc để miêu tả các cảnh lớn như cảnh sinh hoạt nhộn nhịp của buôn

làng, cảnh sinh hoạt hội hè đông vui với tiếng chiêng ngân không ngớt... mà

16

còn được sử dụng ngay trong quá trình giao tiếp hàng ngày. Cách sử dụng

ngôn ngữ như vậy khiến cho các nhân vật không mang được cá tính riêng

biệt, chúng là những con người được lý tưởng hoá của cộng đồng. Muốn

phân biệt con người, hay xây dựng những nhân vật được cá thể hoá phải dựa

vào những vị trí khác nhau và những số phận khác nhau. Những nhân vật

trong sử thi cổ đại là những con người khổng lồ của một thời đại, được xây

dựng trong một chỉnh thể, họ mang tầm vóc của cả một cộng đồng người,

mang sức mạnh tinh thần, sức mạnh thể chất lớn lao chưa từng có. Là con

người của sự hoàn thiện hoàn mĩ, phẩm giá của nó ở tất cả các mặt, sức mạnh

cũng như tài năng, đạo đức cũng như ngoại hình đều tương xứng với vị trí

hiển quí của nó. Ngược lại với sử thi cổ đại, tiểu thuyết - sử thi có khả năng

xây dựng một kết cấu ngôn ngữ đa thanh, bởi trong tiểu thuyết nói chung và

tiểu thuyết - sử thi nói riêng, các nhân vật trong tác phẩm có những thế giới

quan và nhân sinh quan khác nhau, từ đó có những quan điểm sống, cách

sống khác nhau. Có nghĩa là trong tiểu thuyết xuất hiện những tư tưởng và

ngôn từ của các nhân vật khác nhau. Cùng một sự vật, hiện tượng có thể được

hiểu theo nhiều cách khác nhau, và được đánh giá từ nhiều phía, được soi rọi

từ nhiều khía cạnh và ai cũng tự cho mình là chân lý. Vấn đề này đối với

người này thì có giá trị, nhưng đối với người khác nó lại không mang ý nghĩa

gì. Như vậy ngôn ngữ trong tiểu thuyết - sử thi rất đa dạng và phong phú, nó

mang tầm rộng lớn của tri thức, đòi hỏi các tác giả phải có vốn sống lớn và

phải tiếp nhận thế giới thực tại để rồi lại mở rộng, phản ánh một cách toàn

diện. Ngôn ngữ trong sử thi không có khả năng đi sâu vào thế giới bên trong

của từng nhân vật. Tiểu thuyết - sử thi của chúng ta có một lợi thế là có khả

năng phân tích. Phân tích thực tại, phân tích thế giới vô cùng bí ẩn nó nằm

sâu trong tâm hồn con người một cách sâu sắc .

17

“illiade”là bài ca về thành Iliông, Achille - người anh hùng trong

chiến trận, nhân vật chính của tác phẩm đã được tác giả miêu tả thành một

biểu tượng về sức mạnh thể chất của người Hi Lạp và cũng là hình ảnh lý

tưởng của người anh hùng bộ tộc trong chiến tranh thời đại Homerơ. Hay

Ramayana là thiên sử thi vĩ đại đầy chất bi hùng, chói lọi hào quang huyền

thoại, đây là bức tranh xã hội rộng lớn phản ánh hiện thực đời sống, tư tưởng

của nhân dân ấn Độ cổ đại. Nó còn là bài ca vĩ đại, ca ngợi chiến công hiển

hách, khí phách hào hùng của những vị anh hùng, mẫu người lý tưởng mà

nhân dân ấn Độ đề cao và ngưỡng mộ. Rama con người thiện của đẳng cấp

Kơ-xatrya và tấm lòng chung thuỷ kiên trinh của Xita - người phụ nữ mẫu

mực của thời đại. Tác phẩm là món ăn tinh thần không thể thiếu của nhân dân

ấn Độ. Sử thi đi ngược lại thời gian trong quá khứ. Còn trọng tâm nhận thức

của tiểu thuyết là hiện tại chứ không phải quá khứ. Hay nói như Bakhtin, một

trong những đặc điểm cơ bản, phân biệt về nguyên tắc giữa tiểu thuyết và tất

cả các thể loại còn lại là ở chỗ nó có một phạm vi mới, hình tượng trong tiểu

thuyết được khai thác trong “vùng tiếp xúc tối đa với cái hiện tại

thời>trong sự không hoàn thiện của nó”.

Trong quá khứ sử thi là anh hùng ca, thì trong thời đại của chúng

ta tiểu thuyết chính là “anh hùng ca của thời đại mới”. Tiểu thuyết tái hiện

toàn bộ thực tại với tính chân thực của nó là “sự mô tả bức tranh xã hội, sự

phân tích nghệ thuật đời sống xã hội”. Sử thi trang trọng oai nghiêm lộng lẫy

như cái quá khứ huyền thoại hoá của nó. Đối với tiểu thuyết thì lại cần cái

sống thực, sức mạnh của nó gắn bó với cái còn đang làm nên, cái còn dang dở,

đang mở ra một chân trời rộng lớn, cái có thể nhìn nhận lại, mọi cái đều nằm

trong sự trở thành chứ không phải sự kết thúc. Bakhtin viết “tiểu thuyết là thể

loại duy nhất đang trở thành, vì thế nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản, tinh tế và

nhanh nhạy hơn sự trở thành của bản thân thực tại. Chỉ có cái đang trở thành

18

mới có thể hiểu được sự trở thành”. Tất cả cái đang trở thành luôn luôn mới

mẻ, chưa có sẵn, cho nên hiện tại chứ không phải ký ức, ở đây tư duy nhận

thức kinh nghiệm cá nhân có ý nghĩa quyết định”.

Đối tượng của sử thi cận đại là số phận của dân tộc, đời sống của

nhân dân, là các cảnh tượng lịch sử vĩ đại. Sử thi quan tâm trực tiếp đến những

vấn đề lớn lao đối với xã hội và con người, cố gắng xây dựng những bức tranh

toàn cảnh về thế giới, trong đó thống nhất chặt chẽ với nhau cái cá nhân và cái

toàn dân, cái tâm lý và cái xã hội. Không gian và thời gian nghệ thuật nới giãn

đến mức tối đa. Con người bước vào dòng thác lớn của lịch sử, nằm trong

quan hệ trực tiếp với các sự kiện có tầm vóc toàn xã hội, được lý giải, đánh giá

từ góc độ của những vấn đề chung, những sự kiện cộng đồng đó. Tiềm năng

nhận thức, ưu thế về tầm vóc bao quát thực tại được mở rộng, được khai thác

đến mức tối đa trong sử thi cận đại, với những mẫu mực của nó như: <

tranh và hoà bình” của L.Tolstôi. Và người ta lại thấy xuất hiện trong nghệ

thuật một cái gì đó ngang bằng về tầm vóc, kích thước, cũng toàn vẹn, hoành

tráng, sâu sắc và hùng mạnh như sử thi truyền thống xa xưa. Với tư cách là

một dạng, một biến thể của tiểu thuyết, một hiện tượng nghệ thuật có quan hệ

sinh thành trực tiếp với tiểu thuyết, sử thi cận đại nằm trong “vùng tiếp xúc

trực tiếp với cái hiện tại” sự chú ý của nó, trọng tâm nhận thức của nó hướng

vào cái hiện tại chứ không phải là vào quá khứ truyền thuyết như trong sử thi

cổ đại nữa .

Đối với tiểu thuyết, không còn sự phân tách thực tại ra thành cái

cao quí và cái thấp hèn, cái đáng tái hiện nghệ thuật và cái không đáng được

tái hiện như thế một cách tiền định nữa. Đời sống được cảm thụ biện chứng

hơn. Những cái gì trước kia ở cách biệt nhau thì ngày nay hoá ra tất cả đều

chịu sự chi phối chung của qui luật. Với chủ nghĩa hiện thực, tiểu thuyết đã

diễn ra một quá trình dân chủ hoá rõ rệt trong nghệ thuật, kể từ đề tài đến cách

19

xử lý đề tài, phương thức nhìn nhận, đánh giá thế giới và con người cho đến

quan niệm về công chúng và phương thức tác động của nghệ thuật về công

chúng. Đứng từ góc độ khác, đây là quá trình mở rộng, quá trình trở nên bớt

khắc nghiệt, cứng đờ tuyệt đối của ranh giới giữa cái thẩm mĩ và cái phi thẩm

mĩ, giữa thông tin nghệ thuật và thông tin phi nghệ thuật.

Tiểu thuyết và sử thi cổ đại là những thể khác nhau trong loại

hình tự sự, sản phẩm của những thời kỳ nhất định và mang những giá trị thẩm

mĩ độc đáo khác nhau.

Tiểu thuyết - sử thi gần như một thể loại đứng giữa tiểu thuyết và

sử thi. Nó qui mô hơn, hoành tráng hơn tiểu thuyết nhưng lại chưa đạt đến

chất lượng của sử thi như Chiến tranh và hoà bình của L.Tônxtôi hay Sông

Đông êm đềm của Cholokhov. Trong những bộ sử thi đã nêu, lịch sử được coi

là một cảm hứng chủ đạo, lịch sử được tái hiện chứ không phải được kể lại và

chỉ được coi như một đường viền như trong tiểu thuyết - sử thi, một cái phông

trên đó các nhân vật hành động. Những sự kiện lịch sử lớn như Hội nghị Tân

Trào, cuộc Tổng khởi nghĩa trong Vỡ bờ... hoặc không được tái hiện hoặc chỉ

được kể lại dưới dạng một phóng sự ghi nhanh. Mặt khác hình tượng nhân dân

rộng lớn đi vào lịch sử, chưa được khắc hoạ rõ nét, trong khi tuyến đời tư,

tuyến số phận cá nhân

trong Cửa biển> lại được dành quá nhiều không gian, quá nhiều ánh sáng .

Chúng tôi cho rằng Vỡ bờ, Cửa biển, Vùng trời nên gọi là tiểu

thuyết - sử thi hơn là sử thi .

Sự kết hợp giữa các yếu tố sử thi, kịch và trữ tình là đặc trưng của

tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ những năm 60 trở về sau .

Tiểu thuyết là bức tranh có tầm khái quát, có qui mô rộng lớn về

thế giới ; tiểu thuyết khai thác những mâu thuẫn, những xung đột

căng thẳng giữa ý chí chủ quan của con người với tính tất yếu lịch sử

20

bi kịch >; tiểu thuyết còn đi sâu vào thế giới nội tâm, vào cái tôi mang màu sắc

chủ quan trong cảm thụ thẩm mĩ, vào thiên nhiên đầy thanh sắc và cảm xúc

.

Bước tổng hợp trên chỉ diễn ra trong tiểu thuyết Việt Nam những

năm 60, trong nền văn xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Trong những cuốn tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh và cách

mạng những năm 60, 70 có thể nói đã diễn ra quá trình sử thi hoá tiểu thuyết.

Thực tế, chúng ta đã phải đương đầu với một cuộc chiến tranh trường kỳ gian

khổ và khốc liệt. Trong suốt một chặng đường dài 30 năm <1945- 1975> nhân

dân ta đã phải đổ không biết bao máu và nước mắt. Cuộc chiến tranh chống lại

hai tên đế quốc đầu sỏ giàu mạnh và nguy hiểm đã làm rung động khắp năm

châu bốn biển. Nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống anh hùng đã sát cánh

bên nhau “từ gốc lúa bờ tre hồn hậu, cũng đứng lên thành những anh hùng”

chống lại kẻ thù cướp nước và bè lũ tay sai. Một lần nữa những con người

thần đồng của thế kỷ 20 lại được thử thách trong khói lửa của chiến tranh và

cách mạng. Chính hiện thực hào hùng đó đã tạo nên cảm hứng sử thi cho

nhiều bộ tiểu thuyết.

Nhìn chung, trước năm 1945 trong nhiều tác phẩm các nhân vật

của văn học hiện thực phê phán thường đi về hoạt động trong một môi trường

hẹp, hoặc một góc chợ ở làng quê hay trong một gia đình... Nhưng giờ đây

hiện thực của chiến tranh và cách mạng không cho phép chỉ miêu tả nhân vật

trong một hoàn cảnh tù đọng, mà phải tạo điều kiện cho nhân vật tiếp xúc với

hoàn cảnh xã hội rộng lớn, tắm mình trong dòng sông bao la cuồn cuộn của

lịch sử, của thời đại. Hiện thực đó đòi hỏi các nhà văn phải nâng cao tầm khái

quát, tổng hợp vốn sống từ nhiều mặt, cho phép mở ra những hoàn cảnh rộng

với nhiều thành phố, nhiều vùng nông thôn rộng lớn... Trong các nhà văn hiện

thực phê phán, ngoài Nam Cao còn có Nguyên Hồng là những người có

21

chuyển biến rất nhanh ngay sau Cách mạng tháng Tám. Điều đó không phải là

ngẫu nhiên: ngay từ những năm 1938, 1939 Nguyên Hồng đã tham gia phong

trào Mặt trận dân chủ và viết được một vài tác phẩm chịu ảnh hưởng rõ rệt của

phong trào; năm 1943 Nguyên Hồng lại có chân trong nhóm Văn hoá cứu

quốc bí mật.

Để có được những tác phẩm phù hợp với thời đại, các nhà văn

đều phải trải qua một bước ngoặt về thế giới quan và phương pháp sáng tác.

Sự chuyển biến về phương pháp sáng tác thường bắt đầu bằng một sự chuyển

biến về thế giới quan. Nguyên Hồng đã lao vào cuộc kháng chiến một lòng

một dạ đi theo cách mạng, nhưng tư tưởng nhà văn không phải lúc nào cũng

biến chuyển kịp với tình hình cách mạng. Cho nên phải đến bộ tiểu thuyết

Cửa biển <4 tập> thì tiểu thuyết của Nguyên Hồng mới có quy mô sử thi, bao

quát được những thời kỳ lịch sử quan trọng với hàng loạt sự kiện và biến cố,

với một khối lượng nhân vật đông đảo đi về hoạt động trong những môi

trường, những hoàn cảnh rộng lớn ... Âm

hưởng sử thi, quy mô sử thi là nét nổi bật trong hàng loạt tiểu thuyết của

Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Hữu Mai, Nguyên Ngọc, Phan Tứ, Anh

Đức, Nguyễn Minh Châu... Nhưng không phải tất cả những cuốn tiểu thuyết

mang âm hưởng sử thi đều thuộc loại tiểu thuyết - sử thi, trong đó cảm hứng

lịch sử và cảm hứng nhân dân là hai cảm hứng chủ đạo. Những cảm hứng đó

đã qui định hình thức và qui mô của những bộ tiểu thuyết lớn.

Cùng với bộ tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng, bộ tiểu

thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi là tác phẩm có qui mô tương đối lớn của

nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tác phẩm đã nêu lên hàng loạt vấn đề, kể cả

những vấn đề như số phận của tình yêu và sự sáng tạo nghệ thuật trong xã hội

cũ, vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình và trong toàn bộ đời sống xã

hội Việt Nam... nhưng chủ đề lớn nhất ở đây vẫn là đề tài chiến tranh và cách

22

mạng trên đất nước ta. Vỡ bờ thuộc vào loại tiểu thuyết nhiều chủ đề, nhiều

tuyến nhân vật và bình diện trong kết cấu và cốt truyện, nhiều phong cách và

thanh điệu trong ngôn ngữ kể chuyện và miêu tả. Tác phẩm đã bao quát một

thời kỳ lịch sử dài, từ chiến tranh thế giới thứ hai đến Cách mạng tháng Tám

thắng lợi. Vỡ bờ đã dựng lên một bức tranh rộng lớn với mấy chục nhân vật

đại biểu cho nhiều tầng lớp người trong xã hội, mỗi nhân vật đều có một tâm

tư riêng trước những diễn biến lớn của thời đại và những vấn đề nóng hổi của

cuộc sống, có quan điểm và cách yêu đương khác nhau, có khuynh hướng

nghệ thuật khác nhau...

Như trên đã chứng minh tiểu thuyết - sử thi thường tái hiện một

thời kì lịch sử dài hoặc một sự kiện lịch sử cực kì quan trọng đối với vận

mệnh đất nước. Cửa biển dựng lại toàn cảnh phong trào mặt

trận dân chủ, những hoạt động bí mật của Đảng cộng sản trong thời kỳ tiền

khởi nghĩa tiến tới cuộc Cách mạng Tháng Tám trong toàn quốc .

Tóm lại, sử thi và tiểu thuyết - sử thi là hai khái niệm gần gũi

nhau, mặc dù vậy nhưng chúng vẫn có những sắc thái khác nhau. Đó là sự vận

động theo thời gian, những điều kiện lịch sử xã hội, nhu cầu thẩm mĩ tạo nên

sự khác biệt về nội dung cũng như về phong cách nghệ thuật, kể từ những bộ

sử thi cổ đại đến sử thi cận đại cho đến những bộ tiểu thuyết mà chúng ta gọi

là tiểu thuyết - sử thi hiện thực xã hội chủ nghĩa. Sử thi tuyệt đối hoá quá khứ,

xa rời thực tại, còn tiểu thuyết - sử thi tiến đến thế giới thực tại và những gì

còn đang ở trong tương lai.

23

Chương 2

Kết cấu Vỡ bờ và những vấn đề về

tiểu thuyết - sử thi hiện đại

2.1. Một số vấn đề về kết cấu.

Mỗi tác phẩm văn học ra đời bao giờ cũng xuất phát từ hiện

thực và chúng lấy những chất liệu khác nhau từ các khía cạnh của đời sống.

Với thơ là cảm xúc, là suy nghĩ, là hình ảnh, là hình tượng thơ, với văn xuôi

là một hệ thống những sự kiện, hệ thống tính cách, và cách bố trí, sắp xếp

cũng khác nhau, hết sức đa dạng và phong phú.

Kết cấu là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết đối với

một tác phẩm nghệ thuật. Bởi lẽ muốn đánh giá một tác phẩm trước hết người

ta xem đến sự bố trí chặt chẽ và lôgíc giữa các chương, hồi, các cảnh... các

tính cách, hoàn cảnh, các biến cố trong cốt truyện, từ đó làm nổi bật lên chủ

đề của tác phẩm .

Như vậy mỗi tác phẩm nghệ thuật bao gồm nhiều yếu tố, nhiều

thành phần phức tạp. Nhà văn sắp xếp các thành phần khác nhau đó theo một

hệ thống, một chủ đề, một trật tự nhất định gọi là kết cấu.

Nếu như cốt truyện thuộc nội dung của tác phẩm, thì kết cấu

thuộc về hình thức của tác phẩm. Kết cấu phát triển song song với cốt truyện,

diễn tiến tuỳ thuộc vào các sự kiện và sự phát triển của những tính cách,

nhưng phải hết sức chặt chẽ làm sao không để cho các chương, hồi, các nhân

vật trở nên rời rạc hoặc “phình ”ra quá mức. Mặc dù khi xây dựng hình tượng

24

nhà văn bao giờ cũng dựa trên một cơ sở thứ bậc nhất định ,

chính diện, phản diện luôn ở tư thế đối lập để loại trừ nhau, nhất là chủ đề về

chiến tranh cách mạng, mâu thuẫn giai cấp... Những mâu thuẫn, xung đột bao

giờ cũng đến một hồi kết, lý tưởng và ánh sáng bao giờ cũng chiến thắng thế

lực bạo tàn, đen tối. Các nhân vật chính diện thường mang trong mình một

nguyên tắc sống, một lý tưởng cách mạng sáng ngời, ở mọi nơi, mọi lúc họ

đều như một nguyên mẫu làm tấm gương soi sáng ở mọi thời đại, âm vang

mãi trong lịch sử dân tộc. Những người con ưu tú của Đảng, của nhân dân

luôn đi đầu trong những khó khăn thử thách ác liệt. Họ đứng trong hàng ngũ

tiên phong, cho nên khi xây dựng, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng, nhà văn không

dừng lại ở một cá nhân nào, mà phải hướng tới tập thể anh hùng, mang ý

nghĩa toàn dân. Về vấn đề này gần giống với sử thi cổ đại, những nhân vật

anh hùng trong sử thi thường mang tầm vóc, trí tuệ, ánh sáng và khát vọng

của cả một cộng đồng người .

Các nhân vật phản diện bao giờ cũng có một màu sắc khác biệt

dù là ngoài đời hay trong các tác phẩm văn học. Họ xuất hiện như là để tô

thêm ánh sáng chói lọi cho những nhân vật chính diện. Bởi những con người

này luôn được tác giả xây dựng theo một chiều hướng vừa lố bịch, kệch cỡm

vừa mang màu sắc hài hước từ cách đi đứng, ngoại hình cho đến cách sử dụng

từ ngữ .

Nhìn chung, hình thức kết cấu của tác phẩm là một hiện tượng

của đời sống văn học, nó chịu sự qui định của hai mặt: khách quan và chủ

quan. Về mặt khách quan, thì hiện thực đời sống phát triển tất yếu theo sự

biến đổi của xã hội, vì thế nó sẽ là một cơ sở cho mọi hình thức kết cấu trong

văn học, đồng thời đối tượng miêu tả cũng sẽ qui định hình thức kết cấu trong

những tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa. Để đạt được một hình thức nghệ

thuật với lối kết cấu đa tuyến, nhà văn phải nắm bắt đầy đủ mọi vấn đề của

25

đời sống, phải có cái nhìn nghệ thuật về con người, về nhân vật, cảm hứng tư

tưởng, ngôn ngữ và giọng điệu... bên cạnh đó phải nhất thiết gắn liền với cảm

hứng sử thi. Cảm hứng sử thi cho chúng ta thấy xuất hiện hàng loạt các hình

tượng nhân vật có số phận - tâm hồn song trùng với lịch sử Cách mạng của

dân tộc. Tính cách con người họ vận động theo chiều hướng đi lên của lịch

sử, với tinh thần yêu nước và Cách mạng cao cả, với lợi ích lớn nhất là vì Tổ

quốc, vì tập thể, ở họ mang đậm dấu ấn sử thi của một thời đại anh hùng.

Những nhân vật lý tưởng này được xây dựng theo một chuẩn mực chung với

kinh nghiệm cộng đồng như: Tình yêu quê hương đất nước <đặt cái chung lên

cái riêng>, ý thức xả thân vì cách mạng, tư tưởng lạc quan trong mọi hoàn

cảnh khó khăn nguy hiểm... Chính cảm hứng sử thi góp phần quan trọng và

chi phối đến phương diện kết cấu. Bởi chỉ có cảm hứng này mới tập trung

phản ánh được đầy đủ những sự kiện lịch sử trọng đại và những nhân vật anh

hùng một cách sâu sắc. Ví dụ như nhà văn miêu tả một vấn đề, một khía cạnh

của đời sống người nông dân trước năm 1945 về nạn đói, về sưu cao, thuế

nặng, hãm hại dân lành, về bọn cường hào ác bá, như trong tác phẩm Chị Dậu

của Ngô Tất Tố, vấn đề chính trong tác phẩm xoay quanh gia đình nhà chị

Dậu. Hay tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Người cố nông hiền lành chăm

chỉ, trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại, Chí Phèo đã bị xã hội phong kiến

nhào nặn, xô đẩy vào con đường lưu manh hoá, con đường không lối thoát.

Những tác phẩm trên chỉ có một tuyến cốt truyện, một tuyến chủ đề. Nhưng

với nhà văn Nguyễn Đình Thi muốn miêu tả những diễn biến đa dạng, phức

tạp của đời sống xã hội, ông đã dùng lối kết cấu đa tuyến như trong tác phẩm

Vỡ bờ hay trường hợp Cửa Biển của Nguyên Hồng cũng vậy... Còn về mặt

chủ quan thì hình thức kết cấu của một tác phẩm lại phụ thuộc vào phong

cách sáng tác cũng như ý đồ tư tưởng của tác giả. Điều đáng nói ở đây là

trong mỗi tác phẩm cụ thể, các nhà văn đều phải chọn cho mình một hình

26

thức kết cấu thích hợp nhất để đạt được hiệu qủa cao, truyền tải được tư tưởng

chủ đề của tác phẩm đến bạn đọc .

Văn học của chúng ta đang đi trên con đường xã hội chủ nghĩa

cho nên cần có những kiểu quan hệ mới giữa văn nghệ và thực tại. Văn học

vừa đồng thời phản ánh hiện thực khách quan, vừa phải là vũ khí để cải tạo

cuộc sống ấy. Cách mạng Việt Nam luôn luôn là vấn đề then chốt, hết sức

quan trọng đối với mỗi người dân Việt Nam mà ở đây đỉnh cao là cuộc Cách

mạng tháng Tám năm 1945. Vì vậy chiến tranh cách mạng là mảng hiện thực

mà tiểu thuyết hiện đại tập trung vào phản ánh, là nguồn đề tài chủ yếu và

cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết. Cách mạng tháng Tám chiếm một vị trí đặc

biệt trong lịch sử Việt Nam, mở ra một giai đoạn mới, đất nước bước vào một

trang sử vẻ vang mới chấm dứt một thời nô lệ. Ngoài những truyện ngắn,

những bộ tiểu thuyết lớn của chúng ta cũng bắt nguồn từ đề tài này như hai bộ

tiểu thuyết Vỡ bờ, Cửa biển... Trong tác phẩm Vỡ bờ nhà văn Nguyễn Đình

Thi muốn nói đến những sự kiện quan trọng cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945

và Đại chiến thế giới lần thứ hai. ở đây lịch sử trở thành một cái nền, một

đường viền cho nhân vật hoạt động. Các nhân vật được tác giả đặt trong gia

đình: gia đình cụ Tú Mai, bác Mùi, ông đồ Giao, Nghị khanh, ích Phong và

một số nhân vật độc lập như ông Tư Gạch, chị Đơn, hoạ sĩ Tư, Thanh Tùng,

Vũ ...”< 5, tr 670 >.

2.2. Kết cấu trong tiểu thuyết Vỡ bờ.

Vỡ bờ là tác phẩm có qui mô lớn với trên dưới 50 nhân vật.

Kết cấu xoay quanh số phận nhân vật, theo sự phát triển của các sự kiện, nhân

vật lần lượt xuất hiện và diễn biến theo trình tự của nó. Đây là loại tiểu thuyết

có nhiều chủ đề, nhiều tuyến và bình diện trong kết cấu, cốt truyện, nhiều

phong cách và thanh điệu trong ngôn ngữ kể truyện và miêu tả. Kết cấu của

27

Vỡ bờ có hai tuyến lớn đi song song với nhau, đan chéo vào nhau: tuyến các

sự kiện chính trị, xã hội, kinh tế và tuyến gia đình, nhân vật .

So với truyện ngắn thì tiểu thuyết có lối kết cấu phức tạp hơn.

Truyện ngắn nhìn chung chỉ có một tình huống là thiên tự sự cỡ nhỏ nên kết

cấu có phần chặt chẽ hơn. Còn tiểu thuyết là một chuỗi những hồi, những tháp

đoạn và những hồi những tháp đoạn này chưa được hoàn chỉnh, chưa được

khép kín còn được mở theo hướng ra bên ngoài. Lối kết cấu này lại khác so

với lối kết cấu của những tác phẩm văn xuôi lớn thời kỳ cổ đại và trung đại

phong kiến thường tổ chức cốt truyện theo lối xâu chuỗi những sự kiện. Mỗi

sự kiện đều được giải quyết nhanh gọn, dứt khoát theo trình tự thời gian, mỗi

chương mỗi hồi đều hoàn chỉnh

theo kiểu đó>. Thậm chí chỉ có một sự kiện trung tâm và một vài nhân vật

chính xuyên suốt toàn bộ tác phẩm .

Cuối thế kỷ 19 ở Phương Tây có sự xuất hiện của loại tiểu

thuyết đa tuyến .

Như Anna-karênina, Chiến tranh và hoà bình của L.Tolstôi. Trong văn xuôi

hiện thực xã hội chủ nghĩa thế kỷ xx có Con đường đau khổ, Sông Đông êm

đềm, Cửa biển, Vỡ bờ... ở đây không có sự thống nhất hành động, diễn biến

theo trình tự trước sau và không nhất thiết phải có một tấn bi kịch trung tâm,

các nhân vật hành động cứ phải xoay quanh tấn bi kịch đó.

„„Kết cấu của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa thường gắn

với tư tưởng chủ đề và sự phát triển của những tính cách nhiều hơn là phụ

thuộc vào sự phát triển theo trình tự thời gian của các sự kiện ”< 5, tr 678 >và

điều đặc biệt là kết cấu phải làm cho tư tưởng chủ đề thấm sâu đến từng bộ

phận của tác phẩm và góp phần tích cực vào việc xây dựng hệ thống tính cách

nhân vật .

28

Trải qua nhiều năm tháng tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa

đã có những bước tiến mới so với tiểu thuyết trước Cách mạng tháng Tám.

Trước đây tiểu thuyết xây dựng theo lối kết cấu đơn tuyến, và xây dựng trên

một chuỗi biến cố nhất định. Cốt truyện thường xoay quanh lịch sử của một

con người, hoặc một gia đình như trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố.

Tác giả nói đến cuộc sống cực khổ của người dân, nói đến sưu cao thuế nặng

thông qua gia đình chị Dậu, hay trong tác phẩm Đời Thừa của nhà văn Nam

Cao, cốt truyện là bi kịch vỡ mộng của người trí thức tiểu tư sản Hộ. Hộ là

nhà văn có ước mơ có hoài bão lớn, muốn viết những tác phẩm chân chính và

làm mờ đi những tác phẩm ra cùng thời “Đói rét không có nghĩa lý gì đối với

gã trẻ tuổi say mê lý tưởng ” “đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài

nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác

phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời ”<23, tr 204>

nhưng từ khi Hộ giang tay cứu giúp Từ, Hộ mới hiểu hết giá trị của đồng tiền.

Cuộc sống của Hộ khác đi rất nhiều, hàng ngày phải lo những gánh nặng gia

đình như cơm - áo - gạo -tiền. Tất cả những thứ đó đã ngốn hết thời gian và

tâm trí, Hộ không còn đầu óc để sáng tác, một thứ nghệ thuật cao quí mà Hộ

hằng ao ước. Vì gánh nặng gia đình mà Hộ phải “cho in nhiều cuốn văn viết

vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để cho người ta đọc rồi quên ngay sau

lúc đọc <23, tr205 >. Như vậy nội dung của tác phẩm xoay quanh cuộc đời

của nhân vật Hộ... nhưng đến bộ tiểu thuyết lớn như Vỡ bờ

Thi>, Cửa biển cốt truyện được mở rộng, phạm vi không

gian và thời gian không bị bó hẹp, hay nằm trong một khuôn mẫu nào qui

định. Bộ Cửa biển có qui mô sử thi, bao quát được một thời kỳ lịch sử quan

trọng với hàng loạt sự kiện và biến cố, với một khối lượng nhân vật đông đảo

đi về hoạt động trong những môi trường, hoàn cảnh rộng lớn. Cũng như Cửa

biển, Vỡ bờ đã nêu lên hàng loạt các chủ đề như tức nước vỡ bờ

29

tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh cách mạng >, như số phận của nhan

sắc tình yêu , và sự sáng tạo nghệ thuật trong xã hội cũ

sĩ Tư và hoạ sĩ Thanh Tùng>. Thanh Tùng tiêu biểu cho loại nghệ sĩ, chuyên

đem những nét vẽ, đường tô phục vụ cho đồng tiền, cho sự hưởng lạc cá nhân,

nhưng bên ngoài lại trưng lên cái danh từ rất kêu “nghệ thuật thuần tuý”.

Trong xã hội nhầy nhụa lợi danh đó, cũng có những nghệ sĩ chân chính như

Tư, một hoạ sĩ say mê với công việc ; Tư đã bỏ vào đó tất cả sức lực và tuổi

trẻ, những năm tháng tốt đẹp nhất của cuộc đời để sáng tạo nghệ thuật, với

mong muốn sẽ vẽ được những bức hoạ hiện thực của đời sống. Nhưng những

bức tranh cứ chất lên cao, bởi anh chấp nhận cuộc sống nghèo hèn, quyết giữ

lấy những tinh hoa của nghệ thuật, phục vụ cho đời sống con người, dùng

phương tiện nghệ thuật lên án những cái xấu xa của xã hội. Những người cần

đến bức tranh của anh thì họ không còn thời gian, hay tâm trí nào để hưởng

thụ nghệ thuật, họ đang phải đối mặt với lịch sử, với chiến tranh, còn lại

những con người thuộc tầng lớp thượng lưu thì họ đi theo xu hướng hưởng

lạc, ăn chơi với những thị hiếu thấp hèn kiểu những bức vẽ của Thanh Tùng.

Họ không còn chú ý đến những gì gọi là nền văn hoá của nước nhà. Đời một

hoạ sĩ nghèo cũng có những lúc băn khoăn, suy nghĩ về cái nhục mất nước

của những người dân nô lệ. Tài năng nghệ thuật cũng như ước mơ chưa thể

hiện được hết, khi một con người không thể chống đỡ nổi với vận mệnh

nghèo nàn của mình. Anh đã trút hơi thở cuối cùng khi tuổi đời còn trẻ.

Nhưng dù sao đến phút cuối tác giả Vỡ bờ cũng để cho Tư gặp và làm được

một việc có ích cho Cách mạng. Tư là hiện thân cho tài năng chân chính, cho

nghệ thuật chân chính bị bỏ rơi, bị bạc đãi trong xã hội kim tiền chạy theo

thời thượng, chạy theo những thị hiếu thấp hèn. Tư chống lại sự tha hoá còn

Thanh Tùng chịu chấp nhận, vì thế hắn có một cuộc sống đầy đủ, tuy nhiên

hắn đã bán rẻ nghệ thuật cho xã hội kim tiền. Đây cũng là một chủ đề - tư

30

tưởng trong Vỡ bờ, chủ đề phụ bên cạnh chủ đề chính về chiến tranh cách

mạng, về “tức nước vỡ bờ ”.

Trong mỗi vấn đề của cuộc sống, Nguyễn Đình Thi đều miêu

tả được từng lớp người, từng mảnh đời có lối sống rất riêng, có những cái

nhìn cuộc sống cũng rất riêng. Nếu chỉ có Tư mà không có Thanh Tùng thì

tác phẩm phần nào bị giảm bớt đi giá trị hiện thực rất nhiều. Cuộc sống thật

đa dạng khi hai con người đó đứng bên cạnh nhau, đối diện với nhau “tô

thêm” cho nhau về cách sống. Tư, Thanh Tùng và Toàn tiêu biểu cho hai

khuynh hướng nghệ thuật, Vỡ bờ không những phản ánh cuộc đấu tranh Cách

mạng về chính trị, mà còn phản ánh cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng

nghệ thuật, một bộ phận không thể thiếu được trong cuộc đấu tranh Cách

mạng của nhân dân ta .

Mỗi hiện tượng nghệ thuật, đều có cơ sở lịch sử xã hội của nó.

Bởi như trên đã nói, xã hội luôn luôn vận động, chuyển mình và không thể

không kèm theo vô số những phức tạp của đời sống. Trong khi đó cuộc chiến

tranh thế giới lần thứ hai bắt đầu bùng nổ, nhân dân ta chịu bao tầng áp bức,

kìm kẹp, trong không khí oi bức, bế tắc ngột ngạt từ mọi bề, cỏ cây, hoa lá

dường như cũng đang thối ruỗng ra. Con người không thể khoanh tay đứng

nhìn trước cảnh tượng đó, mà họ phải vùng dậy, phải đối mặt với thực tại,

phải chiến đấu đến cùng. Giữa lúc đó văn học nghệ thuật dùng sức mạnh của

mình là một vũ khí sắc bén lột tả những bộ mặt xấu xa hèn hạ của bọn cướp

nước và kêu gọi quần chúng nổi dậy .

Văn học nảy nở và phát triển ngay trong bản thân của đời sống,

đó là điều kiện khách quan cần thiết cho sự đổi mới về phương diện nghệ

thuật cũng như về mặt thẩm mỹ. Chỉ có qui mô sử thi, tầm khái quát sử thi

mới có thể thâu tóm được toàn bộ hiện trạng xã hội lúc bấy giờ. Vì vậy sự

phát triển xu hướng sử thi trong văn học Việt Nam hiện đại là vấn đề tất yếu,

31

phù hợp với qui luật phát triển của lịch sử tiểu thuyết Việt Nam, phù hợp với

qui luật phát triển văn học của nhân loại. Mỗi thời đại của lịch sử xã hội, văn

học lại có một thể tài chiếm vị trí trọng tâm, tạo sức mạnh tinh thần không chỉ

cho những người ở tiền tuyến, mà còn ở hậu phương, đồng thời nó còn đánh

dấu một thời kỳ lịch sử gian khổ mà hào hùng của cha anh truyền lại cho hậu

thế. Thế kỷ 20 của chúng ta đã đi vào lịch sử với những trang sử hào hùng của

dân tộc, một thế kỷ ghi lại bao cuộc chiến khốc liệt, bao cuộc đổi thay của đất

nước. Thời đại của chúng ta là thời đại Cách mạng, tất cả người dân trên mọi

miền của Tổ Quốc đều hướng về Cách mạng. Chủ đề từ chiến tranh đế quốc

chuyển thành chiến tranh cách mạng đã chiếm một vị trí quan trọng trong nền

văn học nghệ thuật nước nhà, chỉ có tiểu thuyết - sử thi mới có thể lý giải

được toàn cảnh cuộc cách mạng có một không hai trong lịch sử nước nhà, nó

có tầm bao quát lớn cả về chiều sâu, chiều rộng và chiều dài. Giai đoạn này đã

xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết sử thi như Vỡ bờ, Cửa biển, Vùng trời, Dòng

sông phẳng lặng... Những bộ tiểu thuyết nhiều tập đồ sộ đáp ứng tiêu chí qui

mô sử thi, những tiểu thuyết có dung lượng không lớn đáp ứng tiêu chí âm

hưởng sử thi.

Một thời đại anh hùng, một giai đoạn văn học ngời sáng chủ

nghĩa anh hùng Cách mạng đã đem lại những trang văn học nói chung và tiểu

thuyết nói riêng, một vẻ đẹp chói loà, xứng đáng với thời đại Hồ Chí Minh.

Tiểu thuyết - sử thi ra đời giữa hoàn cảnh đặc biệt đó, nó có ý nghĩa quyết

định đối với đời sống tinh thần và vận mệnh của dân tộc và nhân dân. Thời

đại diễn ra những xung đột dữ dội, những sự kiện kỳ vĩ, người dân Việt Nam

sống trong thời đại ấy không thể đứng nhìn, mà lúc này hơn bao giờ hết, tinh

thần dân tộc và ý thức cộng đồng là động lực mạnh mẽ tạo ra sức mạnh tinh

thần to lớn cho cả cộng đồng, đoàn kết muôn người như một “nhân dân bốn

cõi một nhà ” để chiến thắng kẻ thù, vượt qua trở ngại, thực hiện mục đích

32

chung của cả cộng đồng. Thời điểm ác liệt, đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi

cũng là lúc lòng tự hào dân tộc và ý thức gắn bó sống còn với cộng đồng đã

khiến mỗi cá nhân tự giác đề cao ý thức trách nhiệm trước dân tộc, động cơ cá

nhân luôn hoà đồng với mục đích và quyền lợi của cộng đồng. Tất nhiên

không có cuộc chiến nào là không có những hy sinh, mất mát, không có đau

thương, không có nước mắt. Mẹ mất con, vợ mất chồng, những đứa con bơ

vơ... chiến tranh đòi hỏi họ phải có tấm lòng quảng đại. Cách mạng chính là

thước đo giá trị con người ở nhiều góc độ khác nhau, nơi khói lửa đạn bom,

nơi khốc liệt nhất làm sáng thêm bao tấm gương anh dũng, con người được

lớn thêm lên với đất nước anh hùng . Cách mạng là mốc son sáng

chói ghi lại một chặng đường gian lao mà anh dũng, một chặng đường đen tối

trong bùn lầy mà “đứng dậy sáng loà”. Con người đứng giữa trận tuyến phải

xác định cho mình hướng đi mà không được phân vân, phải hướng tới tương

lai, mà không được dậm chân tại chỗ hay quay đầu lại .

Những con người góp phần làm nên lịch sử tuy không trực tiếp

nhưng họ là hậu tuyến vững chắc, đó là vai trò của người mẹ, người vợ gánh

vác mọi công việc trong gia đình như cụ Tú Mai, Quyên, vợ Hội... Chủ đề

chính trong tác phẩm vẫn là chiến tranh và cách mạng trên đất nước ta, của

dân tộc ta. Các nhân vật thuộc mọi tầng lớp từ người già cho đến những em

bé, với nhiều tính cách khác nhau, đủ các giới, các nghề nghiệp. Họ sống và

hành động ở thành thị và nông thôn trên ba địa điểm tiêu biểu: Hà Nội, Hải

Phòng, Hải Dương . Tác phẩm mang nhiều chủ đề,

nhiều sự kiện cho nên kết cấu không phải là đơn giản, cũng không thể nào chỉ

xoay quanh một bi kịch, một vài nhân vật. ở đây “các tuyến cá nhân và tuyến

lịch sử đan chéo vào nhau, các cảnh nông thôn, thành phố chiến khu, hầm mỏ,

nhà tù luân phiên thay thế nhau” <5, tr680 >. Nhà văn xông xáo nhiều nẻo

đường khác nhau và quan tâm đến đủ mọi thân phận, mọi tầng lớp người, mọi

33

vấn đề của đời sống xã hội

gíáo dục ...> để xây dựng được kết cấu như vậy, nhà văn phải có tài năng, có

trình độ nghề nghiệp và phải tốn công sức lao động nghệ thuật.

Mở đầu tác phẩm Nguyễn Đình Thi đã khéo giới thiệu với bạn

đọc về Hội và Tư những nhân vật thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Hội một

anh giáo nghèo, nhưng người đọc đã phải chú ý từ những trang đầu tiên. Một

người tốt luôn băn khoăn về vận mệnh của mình, vận mệnh gia đình, Tổ quốc

mình. Anh muốn hiểu rõ nguyên nhân tình trạng bi đát của xã hội, nhưng

không sao hiểu nổi. Anh muốn tìm một lối thoát cho cuộc sống, mong sao có

sự đổi đời, nhưng anh lại thấy hành động cách mạng khó khăn và nguy hiểm

quá. Tuy nhiên anh vẫn rất tin tưởng những chiến sĩ cách mạng. Tư đại diện

cho những con người có tài năng nghệ thuật, yêu mến và biết trân trọng

những giá trị văn hoá cổ truyền . Ngoài ra còn có

Khắc, một chiến sĩ Cách mạng, một nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Vỡ bờ

tập một, dễ gây ấn tượng với bạn đọc. Sự kiện chiến tranh thế giới lần thứ hai

bùng nổ đã được soi vào tính cách hai nhân vật chính là Khắc và Hội. Hình

ảnh của Khắc là hình ảnh của truyền thống Cách mạng “cha truyền con nối”,

ăn sâu vào trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam. Hình tượng người

chiến sĩ Cách mạng nêu cao tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm. Thật xúc

động biết bao khi ở trong một con người mà sao tâm hồn và tình cảm lại

phong phú đến như thế trong cái đêm thao thức suy nghĩ về quê hương làng

mạc, về cuộc đời của mẹ và em gái, trước lúc anh lao vào hoạt động bí mật.

Hội, Tư và Khắc mỗi người hoạt động trên một lĩnh vực khác

nhau nhưng lại có những mối quan hệ với nhau

Mai, cha Khắc >, không chỉ ở mặt tình cảm, làng xóm mà trên cả phương diện

xã hội. Bên cạnh đó các nhân vật trong tác phẩm đều có mối quan hệ khác

nhau tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tính cách, địa vị trong xã hội.

34

Tinh thần yêu nuớc và sức sống bất diệt của Khắc đã có sức âm

vang mãi trong cuộc đời Quyên cũng như Mầm, chị Gái... Dù sao bạn đọc còn

thấy được có sự đùm bọc, yêu thương lẫn nhau của những con người cùng

giai cấp nghèo khó.

Mặc dù kết cấu có phức tạp bởi một lúc tác giả phải xoay nhiều

chiều để làm sao ở mỗi phần, các nhân vật phải được dàn trải đều, các sự kiện

nối tiếp nhau, không để trống. Mặt khác ta phải hiểu rằng trong tiểu thuyết

không phải là những tập hợp tuỳ tiện, theo lối xâu chuỗi các phần được khép

kín và diễn ra theo chiều xuôi của thời gian. Tác phẩm Vỡ bờ đạt đến tiêu chí

qui mô sử thi, không chỉ dừng lại ở những chủ đề phụ như đời sống khốn

cùng của người dân, số phận của sắc đẹp - tình yêu... Từ những chủ đề phụ

này dẫn đến chủ đề chính Chiến tranh và Cách mạng. Tác phẩm đã phản ánh

hiện thực cuộc sống qua những xung đột trong xã hội và xung đột trong tư

tưởng, tình cảm con người. Trong Vỡ bờ xung đột chiến tranh đã trở thành

trung tâm, đóng vai trò nòng cốt và động lực phát triển của cốt truyện. Nhưng

không nhất thiết trong sử thi phải miêu tả xung đột chiến tranh, mà nó còn

được miêu tả ở nhiều phương diện khác nữa như trong tác phẩm sử thi cổ đại

Odyssée của Homère, có đoạn trích Uylítxơ trở về đây chính là đoạn miêu tả

tài trí, sức mạnh tinh thần của Uylítxơ. Sức mạnh của Uylítxơ cũng là sức

mạnh của cả cộng đồng, mang tính tập thể rộng lớn và là một trong những đặc

trưng chính của sử thi các dân tộc trên thế giới .

Tập một của Vỡ bờ bao gồm ba phần, phần một có 21 chương,

phần hai có 27 chương, phần ba có 17 chương. Ngay từ phần đầu bạn đọc đã

nhận ra cuộc sống lam lũ của người dân nói chung và của thôn Gành, thôn

Chẩm nói riêng. Cuộc sống trong những xóm thợ, những bến sông, công

xưởng ở Hải Phòng sao mà tối tăm, ảm đạm, bi đát tuyệt vọng. Cái đói dường

như là định mệnh bóp nát bao con người vô tội. Cuộc sống dẫn họ đến những

35

hành động không còn phải của chính mình. Bởi những cơn đói khủng khiếp

đe doạ số mệnh mỗi con người nên có lúc, họ cấu xé lẫn nhau, chửi bới nhau,

tranh giành nhau... cuộc đời đen tối ấy bao giờ mới thoát khỏi. Nó càng thêm

thê lương hơn trong sự tương phản với lối sống của bọn tay sai, địa chủ sống

xa hoa truỵ lạc trong chiến tranh. Cảnh bọn nhà giàu ở Hải Phòng buôn chợ

đen, bịp bợm được phản ánh qua nhà Nghị Khanh. “Làm xong nhà, vợ chồng

Nghị Khanh mở tiệc khánh thành. Đèn lồng treo khắp vườn hoa, ô tô xe kéo

nườm nượp đưa quan khách tới. Người ở và dân ấp lên phục dịch chạy rối

như đèn cù. Đến đêm ánh đèn măng sông thắp lên sáng khắp trên gác, dưới

nhà... Đêm ấy cũng như những đêm trước, ánh đèn măng sông nhà Nghị

Khanh lại chiếu ra sáng trưng một vùng... Chủ cũng như khách, mặt mũi đỏ

bừng vì bữa cơm rượu thịnh soạn vừa xong... Đám các bà ngồi nói chuyện

trên cái sập gụ bên bộ bàn ghế đệm gấm kiểu tàu ở một góc phòng. Còn các

ông thì ngả lưng hút thuốc ở bộ xa lông và đi văng đỏ kiểu tây ở gần cửa,

nom ra ngoài sân gác...” <22, q1, tr55,56>.

Tác giả khéo đan cài nhân vật cách mạng và con người trí thức

rất hài hoà. Tuy ở các phần sau có những nhân vật mới xuất hiện

mà ở phần một chưa có, nhưng những nhân vật được tác giả giới thiệu ở phần

một là đã rất đầy đủ, thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội. Có những nhân vật là

người con ưu tú của cách mạng, là những tri thức, là những người mẹ người vợ

tần tảo chịu đựng bao nỗi đau mà chồng và con trai họ đang gánh vác những sứ

mệnh lớn lao của đất nước. Lại có những bé con như cái Hiền, cái Vân

của Hội > cũng phải tham gia công việc gia đình. Những bàn tay non nớt phải

xay thóc, xay ngô thật tủi cực, tuổi thần tiên đã bị chiến tranh xoá nhoà tâm

hồn trắng trong. Đáng thương hơn đó là bé Thu không những mồ côi mẹ, mà

người cha cũng phải ra đi vì giang sơn tổ quốc, nhưng chiến tranh không thể

36

làm cho gia đình tan đàn xẻ nghé mà càng thêm gắn bó yêu thương nhau hơn

bao giờ hết.

Chiến tranh không chỉ diễn ra trên đất nước ta mà nó đã xảy ra

trên toàn thế giới. Nguyễn Đình Thi đã đưa người đọc không những từ thành

phố này sang thành phố khác mà ông còn đưa người đọc qua nhiều nước khác

nhau. Nó không còn là chuyện của một người, một gia đình mà lan rộng khắp

nơi trên đất nước Việt Nam và toàn thế giới .

Vấn đề chính của tác phẩm là chiến tranh và Cách mạng, không

kém phần quan trọng đó là nạn đói và sẽ rất thảm hoạ khi xã hội còn có người

bóc lột người. Những tên quan lại cường hào lợi dụng quyền hành chúng

thẳng tay bóc lột nông dân. Chúng công khai dùng bọn lưu manh côn đồ trắng

trợn áp bức hành hạ những người lao động. Chúng tìm mọi cách để thu hết

những thửa ruộng của dân về tay mình, rồi lại cho họ cấy thuê, chúng vắt kiệt

sức người, sức của... khi vụ mùa đến những người dân đi nộp thuế cho nhà

Nghị Khanh phải mang theo cả gà và xôi mà vẫn bị đánh đập, chúng không

những bóc lột hết thóc lúa sau mỗi vụ thu hoạch, chúng còn bộc lộ buôn gian

bán lận, lừa bịp”. “Sao lại chỉ có hai mươi ba thùng. Vụ này anh cấy của tôi

mẫu rưỡi, ba mươi thùng chứ, chưa kể một thùng hao... bẩm bà lớn con cấy

có mẫu hai thôi ạ ” ... mấy đứa du côn nhà Nghị Khanh xúm đến đến, đứa gậy

đứa đòn gánh, hè nhau vụt túi buị... máu ở mắt ở đầu ở miệng anh chảy nhiều

quá, hai mắt anh tối đen lại. Anh ngã lăn xuống gục mặt vào đống thóc vung

vãi ” <22, q1, tr130>. Lúc đầu những người dân còn có bát cơm, bát cháo

mỗi khi vụ mùa đến, khi hết mùa lại tìm củ rau, củ cháo nuôi nhau sống cho

qua bữa. Những cái đó cuối cùng cũng không đủ để nuôi sống từng ấy con

người. Chiến tranh nổ ra dữ dội, chúng bắt người dân nhổ lúa trồng đay...

người chết khắp thôn, khắp các ngả đường. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi đã

lách sâu vào tận “hang cùng ngõ hẻm” của cuộc sống người dân Việt Nam

37

trước Cách mạng tháng Tám. Con người phải đối mặt với hiện thực một cách

dứt khoát không thể nào khác được. Những trận tuyến giai cấp, trận tuyến tư

tưởng thâm nhập vào từng khối óc con người... chính điều này đã tạo cho văn

chương cái đà mạnh mẽ thể hiện qui luật của lịch sử vào trong tác phẩm, đặt

đời sống của các nhân vật trên một bối cảnh lịch sử rộng rãi và hết sức khách

quan. Con người lúc này không còn bị động, là nạn nhân, mà là những con

người chủ động, đang từng bước vươn lên để chiến thắng hoàn cảnh. Xung

đột và kịch tính giữa con người và hoàn cảnh, giữa con người với các thế lực

đối lập hoặc trong chính nội tâm con người ngày một gay gắt. Trước hoàn

cảnh đó, không có một con người nào ngồi im không hoạt động, không suy

nghĩ, không tình cảm, không tư tưởng. Văn học trở nên giàu kịch tính như

chính thực tại, thể hiện ở những xung đột gay gắt, những cuộc đấu tranh quyết

liệt bao trùm toàn bộ mảng đời mà nó tái hiện, những cơn bão lòng khốc liệt

nổi lên trên dòng tâm lý.

Những xung đột trong tác phẩm xuất phát từ những mâu thuẫn

giai cấp. Những người dân lao động thật thà chất phác luôn bị đè nén không

chỉ về mặt tinh thần do những thủ đoạn mỵ dân, xảo trá gây nên, mà còn cả về

mặt vật chất do bọn quan lại cường hào làm tay sai cho giặc

giằng miếng cơm, miếng cháo từ miệng họ. Nguyễn Đình Thi đã miêu tả

được cái tình thế căng thẳng “tức nước” khi xã hội đang có sự đấu tranh quyết

liệt giữa ta và địch, giữa nông dân và địa chủ trong mối thù truyền kiếp. Số

phận của từng cá nhân lúc này dường như đang hoà chung vào số phận của cả

dân tộc. Bão táp trong tâm hồn mỗi con người cũng chính là bão táp trong

hiện thực lịch sử bấy giờ.

Một vấn đề không thể vắng bóng, dù cuộc sống có tăm tối,

chiến tranh có cướp đi mạng sống của họ nhưng những trái tim nồng ấm vẫn

hướng về nhau, cần có nhau, cần có một mái ấm gia đình. Trong tác phẩm

38

cũng phân ra nhiều loại người, nhiều kiểu tình yêu khác nhau, bởi họ là những

con người thuộc giai cấp khác nhau. Bọn địa chủ phong kiến cần vét được

nhiều của hồi môn, cũng thật ghê tởm như tên huyện Môn có thể “cho mượn”

vợ mình để cố ngoi lên chức quan. Còn Phượng cũng dễ gây ấn tượng đến

bạn đọc, Phượng đẹp dễ lôi cuốn nhiều đàn ông, Phượng thầm so sánh những

đàn ông đã từng đi qua cuộc đời mình. Thực ra đây không thể gọi là tình yêu,

nó chỉ là một thứ gì đó để bọn hám danh, hám lợi dùng làm phương tiện để

chúng leo lên, hoặc cũng để thoả mãn tính dâm đãng như Nghị Khanh.

Phượng là hiện thân của sắc đẹp, tình yêu đã bị biến thành hàng hoá trong xã

hội kim tiền lúc bấy giờ. Bên cạnh đó có những tình yêu chân chính của

những con người hiền lành, chất phác đó là tình yêu của Côi - Quế nồng

thắm, Mầm - Xoan trong trắng thầm lặng... đặc biệt là tình yêu của An và

Khắc một tình yêu cao đẹp, họ hy sinh vì nhau.

Những chủ đề trên luôn đan xen lẫn nhau và dàn trải toàn bộ tác

phẩm thể hiện ở những môi trường và hoàn cảnh khác nhau. Đây chính là đặc

trưng kết cấu của những bộ tiểu thuyết hiện đại .

Nguyễn Đình Thi đã đạt đến thành công của nghệ thuật tiểu

thuyết hiện đại mang tính sử thi. Lịch sử và cá nhân, sự kiện và tính cách hoà

lẫn với nhau một cách biện chứng. Nếu như ở phần một của tập một là phần

đặt vấn đề cho các chủ đề, các sự kiện thì ở tất cả các phần sau của tác phẩm

là phần giải quyết vấn đề, nhưng cốt truyện phải phù hợp với sự phát triển của

tính cách và có sự tác động qua lại của các tính cách nhằm phục vụ cho chủ

đề

Khi Khắc hoạt động Cách mạng trở lại, cũng là lúc Khắc phải

sống như một cái bóng, lúc ẩn lúc hiện, cuộc đời cách mạng gian khổ, bữa no,

bữa đói, nhờ vào lòng dân che chở, sống chết không biết lúc nào. Từ khi rời

Lê, Khắc phải tìm và chắp nối cơ sở Đảng một công việc đòi hỏi phải có sự

39

hy sinh vô bờ bến. Một mình Khắc thì sẽ không thể làm được, Khắc phải nhờ

chị Gái cũng là cán bộ cách mạng làm ở nhà máy xi măng Hải Phòng, nhờ An

để có chỗ đi về, rồi Lập... và nhà bà cụ Kênh. Nhờ có những mối quan hệ đặc

biệt Khắc mới có thể an tâm để tiếp tục con đường hoạt động của mình, mỗi

lần xong xuôi công việc Khắc lại dành thời gian giảng giải cho chị Gái về

những vấn đề liên minh công nông, về chủ nghĩa Mác - Lênin... Những con

người ấy luôn có sự gắn bó chặt chẽ với nhau, mỗi công việc mỗi hành động

đều khẳng định bản chất con người họ dám hy sinh, xả thân vì nghĩa lớn.

Những nơi nguy hiểm nhất, những khoảnh khắc gay go nhất họ luôn có mặt ở

nơi tuyến đầu. Đây là mối quan hệ biện chứng và tất yếu của những con người

cùng chí hướng. Những con người hướng về Cách mạng, hướng về cuộc

chiến để dành lấy giang sơn bờ cõi. Khi nhà văn xây dựng những hình tượng

nhân vật này bao giờ nhà văn cũng dùng ngòi bút khẳng định, ca ngợi và biết

ơn vì những phẩm chất cao đẹp của họ. Họ không phải là những thần đồng mà

chính là con người thực giản dị, bình thường mà vĩ đại. Khi Tổ Quốc lâm

nguy phẩm chất cao đẹp của họ bừng sáng. Khắc chính là vẻ đẹp lý tưởng của

nhân vật anh hùng và được tác giả luôn đặt vào tình thế giàu kịch tính ở nhiều

hoàn cảnh khác nhau, để khắc hoạ tính cách nhân vật một cách hoàn thiện

nhất. Từ biệt mẹ già, em gái và đứa con bé nhỏ trong một gia đình nề nếp Nho

giáo mà từ lâu Khắc không có điều kiện chăm sóc là một việc khó khăn.

Nhưng khó khăn hơn bao giờ hết là tìm và xây dựng cơ sở hoạt động bí mật

Cách mạng đầy nguy hiểm đang đặt trên vai người chiến sĩ cách mạng, cho

đến khi bị bắt và bị tra tấn dã man. Nguyễn Đình Thi đặt Khắc trong “trận

tuyến ” thử thách khắc nghiệt không được lựa chọn mà phải làm tròn sứ mệnh

cao cả của người anh hùng Cách mạng được nhân dân tin yêu. Cũng như Lữ

trong Dấu chân người lính của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trong cuộc chiến

gay go đầy quyết liệt đòi hỏi mỗi người chiến sĩ phải biết hi sinh bản thân để

40

dành lại mảnh đất thân yêu, không những thế Lữ còn là một chiến sĩ trinh sát

ở Đồi không tên làm nhiệm vụ bảo vệ sườn phía bắc điểm cao 475, bảo vệ đài

quan sát. Sau một trận đánh ác liệt Lữ đã hi sinh “Lữ ngã gục ngay xuống.

Máu từ trên mái tóc rủ loà xoà ám đầy khói chảy xối xuống hai hố mắt và hai

bên áo quân phục. Dòng máu chảy xuống mặt chiếc đài vô tuyến điện thành

vũng. Đạn pháo nổ như tiếng sét đầu mùa hạ... Lữ nằm gục trên chiếc đài,

những ngón tay vẫn nắm chặt cái ống tổ hợp. Người chiến sĩ điện thanh ấy

trước khi hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng: Trên nền trời

cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ mỗi lúc

càng tiến dần đến trước mặt. Rồi anh nhắm mắt hẳn. Dường như từ trong

ngực anh, chiếc đài vẫn đang nói sang sảng” < 2, q1, Tr496 >.

Chiến tranh ngày một lan rộng, cuộc sống của người dân theo đó

mà khổ thêm mãi. Mâu thuẫn xã hội ngày một lớn, đất nước nhỏ bé của chúng

ta hết Pháp lại Nhật chúng thay nhau chiếm đóng, hà hiếp dân lành, chúng bắt

dân phải nhổ lúa, ngô, khoai để trồng đay, bắt thanh niên trai tráng đi phu làm

sân bay cho chúng. Nỗi nhục mất nước, nỗi nhục phải làm nô lệ, mỗi ngày

bao người bị chết thảm khốc dưới bàn tay của chúng... ý thức được điều đó

người dân Việt Nam đồng lòng đánh đuổi Pháp - Nhật. Nguyễn Đình Thi đã

để cho nhân vật của mình tự lên tiếng đấu tranh đòi lại quyền lợi. Công việc ở

sân bay nặng nhọc, bị đánh đập liên miên trong khi đó chúng lại cho những

con người lầm than kia ăn gạo mốc, cá thối... chịu không nổi Mầm và một số

anh em đã đứng lên đấu tranh, mặc dù họ vẫn biết như thế mình sẽ bị những

mưa roi, đòn sắt in dấu lên người, cái chết kề bên, nhưng những con người

gan đồng dạ sắt ấy vẫn cương quyết đấu tranh đến cùng. Khi bị bắt Khắc biết

mình vào đây khó lòng mà thoát khỏi chốn hang hùm, miệng hổ, dù có phải

hy sinh thì con người cách mạng ấy vẫn kiên trinh không nao núng tinh thần.

Bao lần Khắc chết đi sống lại bởi cách tra tấn hiểm độc, tra tấn bằng điện hết

41

sức dã man. Người đọc không khỏi rơi những giọt nước mắt cảm động, xót xa

cho người chiến sĩ trung kiên của đất nước.

Từ những phân tích trên người viết muốn nói đến những mâu

thuẫn xã hội đã được Nguyễn Đình Thi chuyển hoá thành những xung đột

mang tính nghệ thuật, có nghĩa là những xung đột giữa các số phận cá nhân.

Trước đây cốt truyện nôm thường hay sử dụng mô típ quen

thuộc lặp đi lặp lại, nhân vật tuy có ba chìm bảy nổi nhưng cuối cùng được

thần linh giúp đỡ và họ lại sống hạnh phúc như trong Truyện Kiều của đại thi

hào Nguyễn Du, Thuý Kiều phải trải qua mười lăm năm lưu lạc đầy sóng gió,

nhưng cuối cùng lại được Vãi Giác Duyên cứu sống được trở về đoàn tụ với

gia đình. Cốt truyện này phần nào cũng giống như những câu truyện trong

dân gian, bao giờ cũng có hai tuyến nhân vật: phản diện và chính diện. Tuyến

chính diện bao giờ cũng được Thần linh, Tiên, Bụt trợ giúp. Như Tấm Cám ở

hiền gặp lành, nhờ có Bụt hiện lên giúp đỡ trải qua nhiều giai đoạn khổ cực

cuối cùng Tấm đã được làm Hoàng Hậu, còn mẹ con nhà Cám đã bị chết thảm

hại. Như vậy những con người gian ác thì bị trừng trị thích đáng. Đó chính là

qui luật bù trừ của xã hội trong mọi thời đại. Mặc dù Tiên, Bụt chỉ là những

ước mơ, tuởng tượng của người xưa về một tương lai tốt đẹp, nhưng đó cũng

chính là sự công bằng mà con người hằng mong muốn. Hay trong câu truyện

Thạch Sanh, Lý Thông đã cướp công Thạch Sanh. Thật ra không chỉ trong

những câu truyện cổ tích mà ở ngoài đời thực quần chúng không cho phép sự

dối trá chiến thắng, chân lý bao giờ cũng được đặt lên trên hết. Ngày nay tiểu

thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa thường lấy cốt truyện có thực trong đời

sống xã hội làm đề tài, làm nguồn cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy

mà Nguyễn Đình Thi đã để cho Khắc chết đi khi câu chuyện chưa được khép

lại, làm người đọc cũng phải sững sờ. Đây là nhân vật nhà văn mất rất nhiều

công phu để xây dựng lên và thu hút được nhiều trái tim yêu mến của bạn

42

đọc. “Khắc tiêu biểu cho ngọn lửa Cách mạng tắt rồi lại bùng lên, bùng lên rồi

lại tắt, rồi những ngọn lửa khác nhờ hơi nóng ban đầu sẽ bùng lên liên tiếp

cho thành ngọn đuốc lớn. Tinh thần quật khởi, kiên trì, gan dạ, anh dũng của

dân tộc, của giai cấp đã đúc kết ở con người ấy ”<11, tr126>, cả cuộc đời

Khắc cống hiến cho cách mạng. Nguyễn Đình Thi đã để Khắc ra đi, và in sâu

mãi trong lòng bạn đọc những ấn tượng không phai mờ, là tấm gương sáng,

gan dạ trong hoạt động cách mạng, chịu đựng bao nỗi đau khi bị tra tấn. Dù

được kết tinh dòng máu của cha ông, nhưng con người nhỏ bé kia dù có “thân

đồng da sắt” cũng không thể nào chống được với những đòn tra tấn của tên

Phôgie: "tiếng maniven hòm điện quay tít xành xạch, xành xạch. Khắc lại vật

ra giãy giụa. Khắc rú lên như một con thú giãy chết... một phút đỏ sủi bọt

một, hai phút Khắc vẫn nằm bặt, không thở, mồm đã đùn ra đầu dãi” <22, q1,

tr416>. Đây chính là sự đổi khác giữa cốt truyện và tính cách trong quan điểm

của các nhà viết tiểu thuyết hiện đại. Không còn thế giới thần tiên hiện lên

giúp đỡ. Nó không còn là tính ước lệ và tính cách của nhân vật có sự phát

triển tự thân, hợp lô-gíc, không chịu sự chi phối tuyệt đối của cốt truyện. Bởi

đây là hoàn cảnh có thực trong cuộc sống đã được tác giả tái tạo và nâng nó

lên thành những bức tranh sống động của nghệ thuật .

Văn chương phản ánh hiện thực một cách khách quan. Dù cốt

truyện xưa có mang dấu ấn hoang đường, nhưng cuộc sống cho ta thấy cái

thiện bao giờ cũng chiến thắng cái ác, cái xấu xa phải nhường chỗ cho những

gì tốt đẹp. Đó chính là qui luật của cuộc sống trong mọi thời đại. Và đất nước

chúng ta là đất nước xã hội chủ nghĩa cần phải loại bỏ những gì trái với qui

luật của tự nhiên để dành lại chủ quyền cho đất nước. Vì vậy mà trong tiểu

thuyết Vỡ bờ viết về chiến tranh trong những năm Đại chiến thế giới lần thứ

hai, tác giả cho ta thấy qui luật “ tức nước ”sẽ dẫn đến “ vỡ bờ ”và từ chiến

tranh đế quốc, Đảng cộng sản đã lãnh đạo quần chúng biến thành chiến tranh

43

cách mạng. Đây cũng chính là chủ đề chính của bộ tiểu thuyết - sử thi. Nhưng

bên cạnh đó tác giả còn cho bạn đọc thấy được nhiều vấn đề của cuộc sống

xoay quanh cốt truyện. Ngoài sự chèn ép của bọn thực dân Pháp, người dân

còn phải chịu bao nỗi cay cực của bọn ác bá cường hào làm tay sai cho giặc.

Nhưng dù người dân Việt Nam có nghèo khổ bao nhiêu chúng không thể nào

“ giết ” được ý chí kiên cường, những niềm mơ ước, sự đoàn tụ anh em trong

một “ ngôi nhà ”lớn. Vấn đề về tình yêu đôi lứa cũng được tác giả đề cập

đến... Có những tình yêu đáng được trân trọng nó trong sáng, hồn nhiên.

Nhưng cũng có những tình yêu đồi bại, truỵ lạc như Tri huyện Môn. Sẵn sàng

dùng những thủ đoạn bỉ ổi nhất “hiến vợ ”để chiếm đoạt danh vị, tiền

bạc..."Bà huyện đang nhớ lại những lúc ông chồng dỗ bà đi “chiều ” quan sứ

“một tí”, dỗ chán không được lại nhiếc bằng những lời như rứt từng miếng

thịt. Ôi chao nhục quá Phượng ơi - Mày coi mày có hơn gì một con giăng há

không? ”. Phượng đẹp, nhưng Phượng đã dùng sắc đẹp để mồi chài những

kiểu người như Thanh Tùng “Như một con gà trống xoè hết lông cánh lông

đuôi cục cục chạy quanh gà mái, Thanh Tùng mời Phượng uống rượu nói

chuyện rất cao hứng. Qua rượu hơi ngà ngà, Phượng nhìn con đực khoẻ

mạnh, hoạt bát và đẹp trai đi đi lại lại, vờn chung quanh nàng. Tự nhiên

Phượng nghĩ đến cái bụng mỡ trắng của Huyện Môn, và thầm so sánh hai

người đàn ông. Nàng thoáng rủn mình rạo rực, một sự thèm muốn như con

rắn thức giấc ngủ, từ từ ngóc đầu dậy và duỗi những vòng cuộn lắc lư cái

đầu.”<22, q1, tr256>. Khi miêu tả Phượng tác giả đã rất công phu, thậm chí

còn say sưa, dùng bút pháp trữ tình một cách thoải mái, mượt mà, đôi chỗ còn

rất hào hứng. Có lẽ vì Phượng đẹp, mà cái đẹp luôn luôn lôi cuốn nghệ thuật.

Mặt khác tác giả cũng nhìn thấy một tâm hồn biết trăn trở, thao thức về một

tình yêu chân thật, đó là tình yêu của Phượng đối với Tư, một tình yêu trong

trắng từ thủa còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng Tư nghèo... còn Phượng

44

quen được chiều chuộng trong một gia đình giàu có ở Hà Nội, lại hám danh

lợi... và đến cuối tác phẩm tác giả cho Phượng một cơ hội là may cờ Việt

Minh, lặng lẽ đi trong dòng người của Cách mạng tháng Tám. Tác giả dành

quá nhiều thời gian và ánh sáng cho nhân vật Phượng, nhiều chỗ tả Phượng

rất say mê, sinh động hơn cả miêu tả những con người tham gia Cách mạng.

Phượng là bi kịch của một nhan sắc bị đem bán, bị biến thành hàng hoá - và

càng ngày càng bị tha hoá, là nạn nhân nhưng đồng thời cũng gây ra biết bao

tội lỗi. Tuy nhiên trong tâm hồn Phượng vẫn có cái day dứt, mặc cảm hối hận.

Phải chăng đây là cái nhìn nhân hậu của một ngòi bút trữ tình đối với những

con người một thời lầm lỡ mà biết hối cải quay về. Từ Quảng Lợi đến Nghị

Khanh, chúng đều một tuồng như nhau gian ác, tàn bạo hết sức dâm đãng.

Chúng chờ có cơ hội là dẫm đạp lên nhau, bóp cổ nhau và cướp đoạt lẫn nhau.

Nghị Khanh lợi dụng khi Quảng Lợi rơi vào tình thế bi đát sập tiệm, vỡ nợ để

“cuỗm” cô vợ xinh đẹp Mỹ Lan. Gia đình Nghị Khanh là một ổ loạn luân:

chồng đi kiếm nhân tình, vợ lẽ ngủ với gã cung văn, con gái chửa hoang với

lũ tây con, con giai cầu tự thì như một thằng lưu manh, chuyên môn hiếp dâm

“con sen đứa ở‟‟. Nếu không vì quyền lợi thì chúng cũng dùng tiền để mua

dâm. Những đồng tiền đó là do chúng cướp bóc của những người dân lương

thiện, uống máu người không tanh”. Nguyễn Đình Thi đã rất công phu trong

việc miêu tả cuộc sống nghèo của tầng lớp trí thức tiểu tư sản ở thành thị,

chiến tranh bùng nổ, xã hội loạn lạc, trường học đóng cửa gây nên sự thất

nghiệp của các thầy giáo, cô giáo, đưa đến cảnh khốn cùng phải chạy ăn từng

bữa của các nhà văn, phải ra vào các nhà xuất bản, các toà báo, lạy lục như kẻ

ăn xin. Ngòi bút của họ phải xoay đủ chiều để kiếm được miếng cơm trong xã

hội loạn lạc lừa đảo, chết chóc, chiến tranh và thất nghiệp. Về vấn đề này,

nhân vật Hội, được tác giả xây dựng gần giống với Thứ trong tiểu thuyết

“Sống mòn” của Nam Cao. Cuộc sống của Thứ là cuộc sống quẩn quanh bế

45

tắc, không có lối thoát, nhưng ngược lại đối với Hội, anh cũng đã tìm được

con đường đi của mình Cách mạng chính là điểm đến của những người trí

thức những người yêu mến cuộc sống, ở đó họ sẽ tìm được hơi thở mới.

Như trên đã nói tiểu thuyết “Vỡ bờ” đã vươn tới tầm vóc mới của

thời đại. Trong đó chứa đựng nhiều vấn đề của cuộc sống, có nghĩa đây là

cuốn tiểu thuyết nhiều chủ đề, nhiều tuyến và bình diện trong kết cấu và cốt

truyện, chúng được đan chéo nhau lồng vào nhau.

Từ vấn đề của hiện thực Nguyễn Đình Thi đã đem đến cho bạn

đọc những thước phim hết sức sống động của xã hội Việt Nam trước năm

1945, đất nước bị mất chủ quyền, bọn thực dân Pháp công khai thực hiện chế

độ phát xít ở Việt Nam. Những gì thuộc về quyền lợi của chế độ dân chủ tư

sản mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong thời mặt trận bình dân, thì

nay đều mất hết: sách báo bị cấm, bị đóng cửa, tịch thu, các tổ chức công

đoàn, ái hữu bị giải tán. Cuộc khủng bố chính trị bắt đầu lan tràn khắp thành

thị và nông thôn. Những cuộc khám và bắt người liên tiếp xảy ra. Những

người đi theo Đảng, hoặc có cảm tình với Đảng, những chính trị phạm cũ, và

những người bị tình nghi, nếu không nhanh rút vào bí mật, thì đều bị mật

thám bắt giam, tra tấn. Trong cuộc truy lùng, bọn phát xít huy động từ bộ máy

chính quyền thuộc địa và phong kiến của chúng, mật thám cảnh sát đến hương

hào tổng lý.

Các tầng lớp nhân dân tuỳ thuộc vào sự hiểu biết khác nhau mà

có sự giác ngộ khác nhau, có sự bỡ ngỡ lo âu, hoặc sợ hãi khủng khiếp, cắn

răng chịu đựng. Nhưng cũng có những thành phần tỏ thái độ chống đối bồng

bột hay phản ứng tiêu cực, hoặc tỏ lòng căm thù bọn áp bức bóc lột và đi theo

cách mạng. Họ phần nào hiểu được rằng mỗi sinh mệnh đều đang bị đe doạ,

và cuộc sống chỉ phụ thuộc vào hành động đấu tranh của cả nhân loại, và của

46

mỗi cá nhân. Trước tình hình đó con người dường như có sự trưởng thành về ý

thức trách nhiệm của mình đối với lịch sử và xã hội.

Lúc này Đảng ta chủ trương rút váo bí mật, chỉ đạo một số cán

bộ đi về các nơi bắt liên lạc < như Khắc và Lê>, chấn chỉnh và tổ chức các cơ

sở Đảng, tiến hành đấu tranh chống khủng bố và vận động lập các đoàn thể

trong Mặt trận phản đế, kể cả việc vận động chống bắt phu, bắt lính.

Tác giả Vỡ bờ rất khéo léo lồng, ghép các cảnh đời, cảnh hiện

thực xã hội thông qua các nhân vật. Tất nhiên khi xây dựng các nhân vật

Nguyễn Đình Thi đặt các nhân vật vào trong những hoàn cảnh điển hình. Qua

đó mà nội dung tác phẩm phản ánh đúng bản chất của hiện thực Cách mạng,

nhìn thấy được viễn cảnh của lịch sử và nhất là diễn tả được những mối liên

hệ phức tạp của quá khứ hiện tại và tương lai .

Vỡ bờ đề cập đến nhiều mảng hiện thực phức tạp của đời sống,

nhiều tình tiết, nhiều nhân vật, nghệ thuật đã tạo nên bối cảnh rộng rãi hơn bao

giờ hết cho sự nhận thức và tái hiện nghệ thuật về đời sống. Thực tại đã đổi

mới một cách triệt để, đồng thời nó cũng làm biến đổi luôn cả cách nhìn vào

thực tại của con người. Văn học hiện thực bao giờ cũng cố gắng thiết lập

những mối quan hệ thống nhất giữa hình tượng nghệ thuật và cuộc sống. Sự

tiếp cận giữa hiện thực trong tác phẩm và đời sống bao giờ cũng bắt đầu từ

góc độ xã hội, chúng luôn có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng lẫn nhau một

cách biện chứng giữa con người và hoàn cảnh xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta

mới có những tác phẩm mang tầm vóc sử thi, có giá trị toàn vẹn và rộng lớn về

cuộc sống. Thế kỷ 20 trong bão táp cách mạng dữ dội, xã hội có sự thay đổi về

nhiều mặt nhưng cũng đã tạo tiền đề khách quan cho sự nở rộ của sử thi hiện

đại. Trong đó cuộc sống chứa đựng biết bao những đề tài và cảm hứng tự thân

đã mang màu sắc và phẩm chất sử thi. Vì vậy về mặt thẩm mỹ cũng đòi hỏi

phải có cách tiếp cận mới. Nó không chỉ đơn giản là sự kế thừa những thành

47

quả nghệ thuật của các thời đại trước mà phải có sự đổi mới và nâng cao thêm

thành quả đó cho phù hợp với hiện thực mà nội dung của tác phẩm đề cập tới.

Như vậy tác phẩm mới có thể chứa đựng được nhiều vấn đề đồ sộ về hiện thực

cách mạng cần được phản ánh. Tiểu thuyết Vỡ bờ , tiểu

thuyết Cửa biển đã sử dụng lối kết cấu đa tuyến, nhiều bè là

rất hợp lý. Cũng như nhiều cuốn tiểu thuyết khác trên thế giới như Chiến

tranh và hoà bình , Sông Đông êm đềm . Kết cấu

như vậy mà nội dung vẫn chặt chẽ, thoáng và sáng sủa. Lịch sử và cá nhân, sự

kiện và tính cách hoà lẫn với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.

Những người nông dân hiền lành, chất phác vốn có từ bản chất

của người Việt Nam chịu thương chịu khó, lo toan mọi công việc trong gia

đình nhưng nay cũng đã có sự giác ngộ Cách mạng. Quyên người con gái

nông dân ít nhiều chịu ảnh hưởng của Nho giáo, với đức tính hay làm, sẵn

sàng hy sinh một cách thầm lặng kín đáo vì gia đình. Cô nhất định chưa chịu

lập gia đình mặc dù bà Tú cũng đã giục bao lần. Quyên không được đẹp thậm

chí còn hơi thô và xấu. Nhưng có một tâm hồn phong phú và hết sức mạnh

mẽ. Đồng thời cô cũng hết sức tin yêu vào cách mạng. Bởi cô đã chịu nhiều

ảnh hưởng sâu sắc của người anh, nên khi nghĩ về tình duyên cô ước mơ một

người chồng có đạo đức và tinh thần cách mạng như anh mình. ở tập một

Quyên chưa phải là một cán bộ cách mạng, nhưng lòng căm thù giặc không

bao giờ phai. Chúng đã làm tan nát một gia đình nhỏ bé mà ấm cúng. Quyên

nhất định trở thành một chiến sỹ cách mạng kiên cường, điều này thể hiện rõ ở

tập hai của tác phẩm. Quyên dứt ruột để lại đứa cháu nhỏ cho bà dì lên đường

làm cách mạng. Quyên nhanh chóng quen thuộc với công việc đầy gian lao,

nguy hiểm, thành một cán bộ cách mạng nhiều kinh nghiệm, hoạt động khắp

vùng rừng núi Đông bắc. Chỉ riêng đối với Quyên bạn đọc đã được biết đến

Quảng yên, Hòn gai, Đông triều. Mạnh dạn trong công việc Quyên trở thành

48

“bà tướng” Việt minh dẫn quân đi phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo.

Đất nước luôn cần những con người như Quyên. Như vậy sự phát triển tính

cách của Quyên gắn liền với sự phát triển của cuộc chiến đấu.

Khi nhà văn đã đặt được nhân vật vào những tình huống cụ thể,

những sự kiện có ý nghĩa thử thách đối với số phận, tính cách buộc phải thể

hiện, phải phơi bày diễn biến tình cảm của nó.

An một phụ nữ được tác giả xây dựng khá thành công, một nhân

vật mang vẻ đẹp hiền dịu của người vợ, người mẹ Việt Nam. Từ ngôn ngữ cho

đến hành động An ngày càng gây ấn tượng, nhất là khi An dành cho Khắc

những tình cảm, những quan tâm đặc biệt. An hiểu và hết sức thông cảm với

Khắc trong hoàn cảnh hoạt động Cách mạng. Tác giả đặt An trong nhiều hoàn

cảnh khác nhau, dường như không chỉ mình An mà còn ở các nhân vật khác

nữa, tác giả rọi chiếu nhân vật từ nhiều phía, nhiều góc độ, nhiều khía cạnh để

làm sao cho người đọc thấu hiểu được bản chất của con người. Nhất là khi xa

Khắc, tình cảm ấy càng thêm thắm thiết, càng cháy bỏng. Thương nhớ bao

nhiêu, An lại lo lắng, khắc khoải trong lòng bấy nhiêu. Khi biết Khắc đã ra đi

mãi mãi, không trở về với mẹ con An, cái tình yêu đáng trân trọng ấy của An

đã trở thành lòng căm thù đế quốc. Cùng là nhân vật nữ nhưng tác giả đã khắc

hoạ mỗi người một vẻ, và bằng những giọng điệu khác nhau hết sức đa dạng

và phong phú. Nhà văn L.Tolstôi khi miêu tả các nhân vật của mình trong

Chiến tranh và hoà bình, đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để miêu tả, mỗi

nhân vật hiện lên với một vẻ đẹp và hình tượng khác nhau. Khi miêu tả các

nhân vật nữ ngòi bút của ông vừa mềm mại vừa sắc nét tài hoa hiếm thấy, mỗi

người một dáng vẻ, ta tiếp xúc với nhân vật trong tác phẩm bằng cách nhìn

khác nhau rất sinh động. Khi Natasa xuất hiện trong tác tác phẩm, trước hết là

bằng một lời khen “cô bé kháu quá nhỉ ” sau đó tác giả mới miêu tả đến những

dung mạo của Natasa “Cô bé không đẹp, nhưng rất lanh lợi, có đôi mắt đen,

49

cái miệng hơi rộng, đôi vai xinh xinh để hở hơi trật ra khỏi lồng áo vì vừa

chạy nhanh, mớ tóc đen lượn sóng hất ngược ra phía sau, hai cánh tay để

trần; phía dưới chiếc quần đăng ten, đôi chân thon thon đi giầy hở mu; cô gái

đang ở vào cái tuổi đáng yêu khi người thiếu nữ không còn là đứa trẻ nữa,

nhưng đứa trẻ cũng chưa thành người thiếu nữ ...<25, q1, tr161>. Hay với

nhân vật Xônya “một cô gái nhỏ bé, mảnh khảnh, có đôi mắt dịu hiền rợp

bóng hai hàng mi dài, làn tóc đen rậm tết lại thành bím quấn hai vòng quanh

đầu, nước da hơi phơn phớt vàng, nhất là trên cổ và trên đôi tay để trần hơi

gầy nhưng rắn chắc và xinh xắn, với những cử động khoan thai, với đôi tay và

đôi chân mềm dẻo, với dáng điệu dè dặt và hơi chưa trưởng thành nhưng kiểu

cách, Xônya trông giống một con mèo con đã hứa hẹn sẽ trở nên một ả mèo

cái tuyệt đẹp.... <25, q1, tr164>. Nguyễn Đình thi của chúng ta cũng là người

giàu ngôn ngữ, giàu sức sáng tạo mới có thể đem đến cho bạn đọc nhiều kiểu

người. ở mỗi tầng lớp người ông dùng ngòi bút khác nhau. Xoan một con

người bình dị, hiền lành mộc mạc, một thôn nữ có nét đẹp được dấu sau cái bề

ngoài giản dị quá mức bình thường của một “con ở ”lầm lũi làm việc quần

quật từ sáng cho tới khuya, phải chịu đựng dưới sự hành hạ của gia đình mụ

Nghị Khanh có ông chồng “dâm đãng ”, và có thằng con giống hệt tính bố.

Khi miêu tả Xoan, tác giả hiểu rất rõ bản chất của người lao động, vẻ đẹp

được hiện lên không phải bằng những nét vẽ tô son điểm phấn bằng những

hình thức bề ngoài mà bằng chính tâm hồn trong sáng ngây thơ. Bên ngoài cái

dáng vẻ yếu mềm là một sức sống dẻo dai, có một tình yêu thầm lặng thuỷ

chung với Mầm, bao lần bị những trận đòn tưởng không còn có thể cứu vãn

được nữa, những lần mê sảng Xoan đều gọi tên Mầm. ở Xoan có một cái gì

đó hết sức trong sáng, thuần khiết, đáng yêu dễ gợi cảm. Tác giả không thiên

vị ai, bởi lẽ ông đã đặt Xoan trong hoàn cảnh trớ trêu, một sự thử thách, đứng

trước Nghị Khanh để lựa chọn, Xoan không hám giàu, ham của để làm vợ một

50

tên buôn gian bán lậu và đặc biệt là dâm ô. Xoan chỉ muốn thoát khỏi chốn

nhơ bẩn để sống với chình mình. Như vậy tính cách, bản chất của Xoan đã

được khẳng định một cách rõ nét, không những thế ta còn nhận ra một sự

trong sáng thuần khiết trong con người này. Cạnh Xoan còn có Quế, tuy cuộc

đời được vẽ ra ở đây thật ngắn ngủi, nhưng cũng đủ để lại trong lòng người

đọc một cái gì bồi hồi thương tiếc. Quế là một cô gái tốt, gặp một lần là có thể

nhớ mãi, rất duyên dáng và đặc biệt là có giọng hát rất hay, bị xã hội dồn đến

đường cùng nhưng có những biểu hiện chống đối của một tâm hồn giàu sức

sống và tình cảm nồng cháy. Khác với Quyên, Xoan, Quế... tác giả đã cho

chúng ta thấy một cô gái con nhà tư sản, như Phượng xinh đẹp nhưng lẳng lơ,

thích khiêu khích những lũ đàn ông; rồi cả bọn con gái con nhà Nghị Khanh

một ruộc như nhau từ bố đến con, lại cả những bọn như Mỹ Lan, vợ Nghị

Khanh, Mụ Tuần... hội tụ ở chúng những gì gọi là bỉ ổi, nhơ nhuốc nhất.

Những nhân vật này hiện lên thật là sống động, và chúng đều có mặt ở xã hội

nước ta trước Cách mạng tháng Tám và đó cũng là xã hội trong Vỡ bờ. Đối

với những nhân vật này tác giả dùng những ngòi bút riêng. Nếu như những

nhân vật đáng yêu ở trên tác giả để cho họ tự bộc lộ bản chất cao đẹp của

mình qua những lời nói, cử chỉ ở thì những nhân vật này ông dùng ngòi bút

sắc hơn, mạnh hơn miêu tả một cách trực tiếp từ hình dáng bên ngoài đến

những hành động, những mưu đồ tính toán lợi lộc của chúng. Tác giả dùng

những từ ngữ đầy châm biếm mỉa mai của bọn “ăn trắng mặc trơn”, lời nhận

xét không phải của ai khác lại chính của ông chồng Nghị Khanh “ Đã xấu, già,

lại còn làm đỏm. Phấn son, diện những thứ coócxê, xilíp xanh đỏ, làm như

mười tám đôi mươi không bằng. “Cái mặt xám xịt... lão lại phải chịu đựng cái

đống thịt bạc nhạc, nhẽo nhèo ấy cho đến hết đời nữa...” <22, q2, tr166>.

Trong lúc chúng ăn chơi phè phỡn thì những người đàn bà chân yếu tay mềm

kia “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh ” họ tham gia Cách mạng bằng những

51

đường hướng khác nhau, Cách mạng chính là điểm tựa duy nhất. Cách mạng

không phải là hiện tượng ngẫu nhiên, mà nó là sự thể hiện mạnh mẽ nhất tính

tất yếu sâu xa của tiến trình xã hội - lịch sử. Tuy nhiên Cách mạng cũng không

chỉ theo nghĩa khách quan mà nó còn theo hướng chủ quan. Nó là nhu cầu bức

thiết của mọi tầng lớp nhân dân, của trái tim và trí tụê con người.

Gái người nữ giao thông ở Hải phòng, chị tham gia đấu tranh,

lăn lộn trong quần chúng. ở chị gợi lên cho bạn đọc những niềm tin sắt đá, chị

nắm bắt rất nhanh những vấn đề do tổ chức của Đảng giao cho chị. Chị can

đảm thông minh và quen thuộc nhiều. Khắc rất tin ở chị, Khắc còn muốn huấn

luyện chị và đưa chị vào hẳn trong thành uỷ. Những buổi tối đi giao thông về

là Khắc lại giảng cho chị nghe về chủ nghĩa cộng sản, về Mác, Lê-nin, về chủ

nghĩa duy vật, về thặng dư giá trị, về những nguyên tắc tư tưởng và tổ chức

của Đảng. Đến khi bị bắt giam trong lao tù, người con gái ấy vẫn rắn rỏi, gan

dạ, chịu bao trận đòn mà chị chỉ nói có một câu: “tôi không biết tên Lê nào”.

Các nhân vật khác cũng được Nguyễn Đình Thi xây dựng làm nòng cốt như

Mầm, Mộc, chúng ta tưởng họ là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác

phẩm, bởi họ được giới thiệu gần như là từ đầu tác phẩm cho đến khi kết thúc

thiên truyện. Khắc ở tập một gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc, nhưng

Khắc lại ra đi quá sớm khi tập một chưa kết thúc. Trong dự kiến, Khắc còn

sống đến giữa tập 2, còn trồng cây đào ở nhà tù Sơn La < giống Tô Hiệu trong

cuộc đời>. Nhưng qua các cuộc tra tấn dã man ở các nhà tù ở Hải Phòng, Hoả

lò Hà Nội, Khắc không thể sống nổi, cái lôgic phát triển của nhân vật đã phá

vỡ dự kiến ban đầu, khiến Nguyễn Đình Thi phải đẩy nhân vật Quyên lên ở

tập 2 như một nhân vật trung tâm. Người đọc hiểu rằng Khắc đã thể hiện

truyền thống Cách mạng cha truyền con nối, từ cụ Tú Mai, “ông cụ mất đi

nhưng cái chí khí của cụ đã truyền lại cho đám con” đến Khắc, và còn có

Quyên. Còn lại các nhân vật như An, Gái, Mầm, Mộc họ đều nhanh chóng

52

cuốn đi theo dòng thác của lịch sử, đi theo ngọn lửa của Cách mạng. Những

chủ đề về miếng cơm manh áo, về số phận nghèo khổ của người dân, của

người trí thức, những người làm nghệ thuật được tác giả chuyển dịch thành

nghệ thuật và đưa vào tác phẩm. Chủ đề chính vẫn là chiến tranh cách mạng

không thể nào khác được, nó chứa đựng những đau thương mất mát, những

mâu thuẫn căng thẳng nhưng cũng thu lại được một thành tựu không nhỏ

trong văn học nghệ thuật. Trở lại một quá khứ oai hùng có ý nghĩa như một sự

trở về nguồn, giở lại những trang sử bất diệt của dân tộc. Đó là sức hấp dẫn

của một thời kỳ sôi động, thời ấy đã sinh thành ra những phẩm chất mới của

dân tộc. Sự miêu tả chính xác và sâu sắc về Cách mạng đi từ những đau

thương ở tận đáy cùng của xã hội đến những hào quang và thành tựu rực rỡ,

Nguyễn Đình Thi đưa ta đi qua những cuộc đời, trong sáng, hiền lành, chịu

khó, nhưng cũng hết sức kiên cường, gan dạ khi Tổ Quốc cần đến. Truyền

thống đấu tranh giữ nước của cha ông đã truyền lại cho con cháu như một vật

quí vô hình, truyền từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ

khác. Trong mọi hoàn cảnh người con yêu dấu của đất Việt luôn hướng về Tổ

Quốc, về đất nước tươi đẹp của mình. Để khắc hoạ được một quá khứ oai

hùng, khốc liệt ấy Nguyễn Đình Thi đã xây dựng kết cấu nhiều tuyến, nhiều

bình diện đưa đến dòng lịch sử đang vận động, sự vận động của các nhân vật

đang hướng đến tổng khởi nghĩa. Trước đây các tác giả thường sử dụng theo

lối kết cấu đơn tuyến, theo kiểu chương hồi, mỗi sự việc đều được khép kín,

dễ tiếp cận với nhân vật trung tâm, sự kiện chỉ xoay quanh nhân vật trung tâm

đó. Vì vậy nhiều người cho rằng kết cấu của tập hai Vỡ bờ là lỏng lẻo vì

không có nhân vật trung tâm, còn Quyên thì không thể thay thế cho Khắc,

trong cuộc Tổng khởi nghĩa vai trò của Quyên còn yếu. Đó là lối suy nghĩ theo

cách cũ. Thực chất không cần có nhân vật trung tâm trong tập hai thì kết cấu

của tác phẩm có thể vẫn chặt chẽ. Bởi chúng ta chưa quen với lối kết cấu đa

53

tuyến, nhiều bè. Nhân vật chính của tập hai chính là cái “xã hội bế tắc, ngột

ngạt đang chuyển mình, sắp bung ra và đổi mới, là sự vận động của hàng loạt

nhân vật tiến tới cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám” <5, tr 685>.

Về phương hướng kết cấu các tác giả đều chọn cho mình những

kiểu kết cấu riêng phù hợp với tài năng nghệ thuật với sự nắm bắt kịp thời

hiện thực cách mạng, ở từng thời kỳ nhất định. Trong văn học cổ đại và văn

học cận đại, ta thường thấy kiểu kết cấu chương hồi như trên đã nói, như tác

phẩm Illiade và Odyssée của Homère... trong kiểu kết cấu này cốt truyện diễn

ra theo trình tự thời gian, mỗi chương mỗi hồi là một câu chuyện, phát triển

một cách trọn vẹn. Đôi khi người ta cắt xén bớt đi một hồi hay một chương mà

tác phẩm vẫn giữ nguyên không bị thay đổi. Bên cạnh đó còn có những tác

phẩm có kiểu kết cấu đơn tuyến, tác giả thường lấy “quá trình vận động bên

trong của nhân vật và những phản ứng tâm lý đối với các sự kiện và những

diễn biến tâm trạng của nhân vật trong mối quan hệ với các nhân vật khác làm

cơ sở tổ chức tác phẩm” <9, tr145 >như trong tác phẩm Sống mòn của Nam

Cao, hay Ông già và biển cả của Hêminguây... ở đây tác phẩm chỉ có một

nhân vật chính, đóng vai trò làm trung tâm của cốt truyện. Tác phẩm Sống

mòn như là một tiểu thuyết về nội tâm, Thứ luôn có những dằn vặt, suy nghĩ,

ao ước, trăn trở về cuộc sống. Có khi nhân vật chính lại chính là tác giả, hoặc

tác giả nhập thân vào nhân vật để kể lại câu chuyện.

Kết cấu, ngoài việc liên kết các bộ phận, các chương, chi tiết,

sự kiện và nhân vật ra còn có nhiệm vụ tổ chức mối quan hệ giữa những yếu

tố trong và ngoài cốt truyện. Cốt truyện chính là phương tiện để bộc lộ tính

cách của nhân vật, những mâu thuẫn xã hội được chuyển dịch thành những

xung đột giữa các tính cách.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, người dân sống trong

những lo toan, kẻ thù đẩy họ vào cuộc sống bức thiết dẫn đến “tức nước”.

54

Trong tiểu thuyết Vỡ bờ ta không thể không nhắc đến Mầm một nông dân hiền

lành, chăm chỉ, có ước mơ, có ý chí, yêu tha thiết nhưng lặng lẽ. Cùng với

nhiều anh em khác Mầm bị bắt đi làm lính phu ở Cát bi, Mầm nhận thấy rõ bộ

mặt xấu xa của bọn đế quốc và tay sai. Hiền lành là thế, nhưng cũng không thể

nhắm mắt làm ngơ với cách đối xử dã man của bọn chúng. Anh đã đứng lên

chửi thẳng vào mặt bọn đế quốc và tay sai. Cùng các anh em đình công “bỏ

cơm phản đối nhà thầu, đòi nó không được ăn bớt gạo và phải đổi gạo mới.

Nó cho nguời ta ăn toàn gạo mục với cá thối” <22, q1, tr194>. Mầm đã bị

chúng đánh đập và đưa đi Hoả lò. Bởi khi vào đến sở mật thám mà Mầm vẫn

lên tiếng phản đối “không được ức hiếp dân phu như thế”<22, q1, tr195>.

Lầm lì ít nói ai biết đâu Mầm giác ngộ Cách mạng rất nhanh. Gặp Khắc trong

nhà tù Mầm được Khắc giảng những bài học về Đảng về cuộc sống. Tuy

không hiểu hết, nhưng Mầm đã cố gắng trở thành một người chiến đấu tích

cực dưới lá cờ của Đảng. Khắc tin Mầm rất tốt. Ngay cả trong tù bọn đế quốc

cũng không thể nào tiêu diệt nổi những người cộng sản, đất nước đang cần

những người con như vậy.

Côi là nhân vật được tác giả khắc hoạ không giống Mầm, cũng

là người tốt, nhưng tính tình sôi nổi, vui tính, ham hiểu biết, nhất là trong tình

yêu rất thuỷ chung. Yêu người yêu một cách bồng bột, với bạn bè thì nồng

thắm, thương yêu những người dân nghéo khổ .

ở đây không thể không nói tới vai trò của những người công

nhân. Họ là nòng cốt trong phong trào Cách mạng. Nguyễn Đình Thi đã phản

ánh quá trình hình thành và phát triển của phong trào Cách mạng ở ba địa

điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương. Trong tập hai có thêm vùng mỏ Uông

bí - Vàng danh. Tác giả đã phản ánh được nhiều nét về phong trào đấu tranh

của giai cấp công nhân, về cuộc sống của công nhân

Phòng và vùng mỏ >.

55

Mộc một anh phu khuân vác ngoài Sáu kho, cũng đã hoạt động

như Gái - kiên cường gan dạ. Mộc đã leo lên cột cờ cao nhất của cảng để treo

lá cờ thật to nhân dịp kỷ niệm ngày giỗ Lê-nin, Liêpnich và Lúcxembua. Đến

khi bị bắt Mộc vẫn giữ được tinh thần, thậm chí khi gặp Khắc trong tù “Mộc

chắp hai tay sau lưng hai bàn tay nắm chặt lấy nhau. Rồi Mộc lại nắm tay trái

thành quả đấm, như gửi cho Khắc cái chào tranh đấu... <22, q1, tr435>. Từ

người khuân vác hiền lành, trở thành người chiến sĩ Cách mạng. Thật dễ hiểu,

yêu nước vốn có gốc rễ sâu xa trong lịch sử. Hơn nữa, mọi người dân đã chịu

bao đau thương, kìm kẹp, bao nỗi phẫn uất đang dồn nén, những chờ đợi và

giục giã thôi thúc họ đứng lên tranh đấu bảo vệ chủ quyền.

Nguyễn Đình Thi đã xây dựng rất thành công những kiểu

người, những tầng lớp người trong xã hội. Tác phẩm là một bức tranh rộng lớn

về xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Những người con yêu nước

đã tìm đến với cách mạng bằng những con đường khác nhau. Cách mạng lên

như những cơn sóng nằm sâu đáy biển nay được dịp trào lên không ngừng hết

lớp này đến lớp khác. Cách mạng là ngày hội lớn, là niềm vui lớn, nó chấm

dứt những bi kịch nghèo khổ, ở đó sẽ không còn nỗi nhục, nỗi đau mất nước.

Đồng thời nó còn là sự đổi đời cho bao thân phận hèn mọn tưởng không bao

giờ có thể ngóc đầu dậy được, hết kiếp này đến kiếp khác, ăn đời ở kiếp,

không bao giờ nhìn thấy thứ ánh sáng của tự do, của những người như Xoan

đi ở cho nhà Nghị Khanh, của những người nông dân không có một mảnh đất

dung thân. Những niềm mơ ước của nhà văn trẻ Hội, nhạc sĩ Toàn tìm thấy ở

Cách mạng niềm hào quang rộng mở. Về vấn đề này rất giống với “vấn đề đặt

ra trong những tác phẩm của L.Tolstôi là sự hoà hợp giữa cá nhân với cái

“biển” nhân dân rộng lớn, khả năng hoà hợp này là con đường chân chính duy

nhất của cá nhân, là tư tưởng cao nhất của cái đẹp tâm hồn của con người

trong xã hội ”<5, tr701>. Tiểu thuyết của chúng ta hiện nay nhìn chung đều

56

dựa vào sườn truyện có thật trong cuộc sống, mà đề tài về chiến tranh cách

mạng chiếm một vị trí chủ đạo, bởi nó là nội dung chính của chính lịch sử

Việt Nam hiện đại. Với đề tài này trong Vỡ bờ Nguyễn Đình Thi muốn dựng

lại cao trào tiền khởi nghĩa và cuộc cách mạng tháng Tám, nhằm thể hiện chủ

đề “tức nước vỡ bờ” của quần chúng cách mạng, chủ yếu ở vùng Bắc bộ và

chiến khu Đông Triều. Bên cạnh đó về mặt hình thức, tiểu thuyết hiện thực xã

hội chủ nghĩa bãi bỏ lối kết thúc có hậu khuôn sáo, ước lệ. Việc sử dụng lối kể

chuyện bằng ngôi thứ nhất, việc đi sâu vào đời sống tâm lý bên trong, xây

dựng những hoàn cảnh rộng, những cấu trúc nhiều tuyến... đều phát sinh do

yêu cầu lĩnh hội một nội dung mới, phản ánh những bước đi mới của lịch sử

và xã hội. Như vậy mối quan hệ giữa cốt truyện và tính cách đã hoàn toàn bị

đổi khác trong quan điểm của các nhà viết tiểu thuyết hiện đại. Có nghĩa trước

đây dựa vào những mô típ có sẵn, cốt truyện thường đóng vai trò quyết định

trong tác phẩm, chi phối các bước đi của nhân vật .

ở tiểu thuyết hiện đại, cốt truyện là một phương tiện để bộc lộ

tính cách của nhân vật, qua đó bộc lộ tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Nó có

nhiệm vụ quan trọng là phải tổ chức các biến cố, làm thế nào để chúng gắn bó

với nhau, đan chéo vào nhau một cách chặt chẽ, tránh tình trạng phân tán rời

rạc <5, tr714>.

Trong lối kết cấu đa tuyến, nhiều bè đan chéo nhau Nguyễn

Đình Thi còn sử dụng thủ pháp nghệ thuật lắp ghép của điện ảnh

để mở rộng khuôn khổ của hành động, mở rộng dung lượng của tiểu thuyết,

làm cho bối cảnh của sử thi phong phú thêm. Đó là cảnh Mầm từ trại tập trung

trở về quê hương, cảnh miền núi trong những ngày tiền khởi nghĩa, cảnh vùng

xuôi chết đói, những mẩu chuyện về lính Nhật, chuyện Việt Minh chiếm Nhã

Nam và đã về sát cầu Gia Bảy ở Thái Nguyên, chuyện lính ở phố Cò bỏ đồn

chạy về xuôi, sử dụng kiểu lắp ghép này cuốn tiểu thuyết đã được mở rộng

57

thêm về dung lượng và qui mô. Nhưng không phải dựa trên cơ sở đó để có thể

sử dụng một cách tuỳ tiện, để che đi tình trạng thiếu vốn sống, mà dùng lối lắp

ghép để giúp nhà văn mở rộng khuôn khổ của cốt truyện, nó là một biện pháp

thứ yếu đứng bên cạnh và hỗ trợ cho việc miêu tả kể chuyện và xây dựng tính

cách. Khi Quyên hoạt động cách mạng bí mật, Nguyễn Đình Thi đã sử dụng

biện pháp quay nhanh của điện ảnh, khi ở bến đò rừng, ở Quảng Yên, khi

Hồng Gai, Đông Triều... những nơi này tác giả dùng ống kính quay trượt làm

cho tính cách của nhân vật Quyên bị cắt xén ra làm nhiều quãng, ta chỉ thấy

Quyên lúc ẩn lúc hiện, hành tung đầy bí mật nhưng sự diễn biến tâm lý của

nhân vật không được nhà văn miêu tả một cách chu đáo và đầy đủ.

Kết cấu của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa thường gắn

với tư tưởng chủ đề và sự phát triển của tính cách nhân vật. Muốn đảm bảo

được sự thống nhất về kết cấu. Nhà văn phải quan tâm đến tất cả các bộ phận

và mối liên hệ của chúng trong phạm vi một chỉnh thể nghệ thuật. Như vậy,

kết cấu đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng cốt truyện, xây

dựng hệ thống nhân vật trong tác phẩm.

58

Chương 3

Sự kết hợp giữa sự kiện và nhân vật

trong tiểu thuyết - sử thi

Để thu hút được trái tim yêu mến của bạn đọc, các tác phẩm văn

học bao giờ cũng phải nêu bật được nội dung chủ đề của tác phẩm bằng những

sự kiện, những nhân vật độc đáo. Đây chính là vấn đề trọng tâm của mỗi tác

phẩm. Tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi đã thành công trong việc xây

dựng nhân vật ở các tầng lớp khác nhau trong xã hội, kết hợp với các sự kiện

lịch sử của xã hội Việt Nam trong những năm đấu tranh chống thực dân Pháp

và bọn phát xít Nhật, dẫn đến đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945.

Cách mạng là nơi gửi gắm niềm tin của hàng triệu người dân đang

sống trong cảnh khốn cùng. Cách mạng lên họ rũ bỏ được thân phận khốn

cùng của mình dưới chế độ cũ, mỗi người dân đều xác định được chủ quyền

của dân tộc, của đất nước. Họ tham gia cách mạng một cách tự giác, đó là một

sự thức tỉnh lớn lao chưa từng có. Những sức mạnh thần kỳ, những hy sinh

thầm lặng đã nâng dân tộc ta lên một tầm cao mới, bộ mặt xã hội thay đổi rạng

rỡ. Đảng đã lái con thuyền Cách mạng đưa đất nước ta chuyển sang một trang

sử mới, từ đó người dân thực sự làm chủ, được bồi đắp thêm sức mạnh vô

thường, không ngừng được giáo dục, ngày một trưởng thành.

Nhân dân thực sự đã trở thành nhân vật chính của nền văn học

hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của nghệ thuật, nhân dân đi

vào văn học với một tư cách mới, một hình ảnh mới. Họ không còn là những

đám đông vô danh, không tên, không tuổi, không lai lịch, mà họ đã có đầy đủ

tự tin, năng lực và phẩm giá của mình để hành động một cách chủ động.

59

Trong sử thi đối tượng miêu tả chủ yếu là các biến cố lịch sử và đời sống nhân

dân trong những thời kỳ biến động như chiến tranh và bão táp. Những nhân

vật trong sử thi cổ đại là những con người khổng lồ đại diện cho một dân tộc,

một thời đại lịch sử như Achille, Hector... Thạch Sanh, Thánh Gióng... Nhân

vật sử thi được lý tưởng hoá, những hành động và ý chí cá nhân thể hiện khát

vọng và lý tưởng của cả một dân tộc. Trong con người đó, yếu tố xã hội và

yếu tố cá nhân là đồng nhất, ý chí tự do của anh ta cũng là nhiệm vụ của cộng

đồng tập thể. Từng con người riêng lẻ có thể có một số phận ngẫu nhiên

nhưng cả một tập thể, một dân tộc thì không thể như vậy. Do vậy người anh

hùng trong sử thi cổ đại dường như tự nguyện hành động theo một đề tài và

cốt truyện định trước , anh ta chỉ có thể làm như

thế này chứ không thể làm như thế khác, chỉ được phép chiến thắng chứ

không hề thất bại. Còn ở những thế kỷ trước, tiểu thuyết chú ý đến những

“cuộc sống riêng tư trong các gia đình, khắc hoạ lịch sử và quá trình hình

thành tính cách của những cá nhân, cuối cùng thông qua cuộc đời và số phận

của những người cá biệt đó mà dựng lên bức tranh chung cuả xã hội ”<5,

tr592 >. Chủ nghĩa hiện thực của chúng ta đã xây dựng những bức chân dung

mới về nhân dân, họ hành động để bảo vệ quyền sống của mình, không còn

những cam chịu, buồn tủi, mặc dù bọn phát xít và chiến tranh đã cướp đi

những mảnh đời vô tội mà không gì có thể bù đắp nổi. Đó là những anh hùng

trong thời đại mới là Khắc, Lê, Thiết... họ xuất hiện như một cá nhân với ý chí

và nguyện vọng riêng tư của mình “là chân dung hiện thực của cái anh hùng

trong thời đại ngày nay, là nguyên mẫu để xây dựng những tính cách nhất định

mà vẻ đẹp của nó, giá trị của nó cũng lớn lao, rộng lớn và thân thiết với nhân

dân như ở những nhân vật anh hùng trong sử thi xa xưa, mặc dù những tính

cách này được tái hiện bằng mầu sắc hiện thực, trong phối cảnh và tầm vóc

hiện thực” <18, tr88>.Về vấn đề này có sự khác biệt so với sử thi, tiểu thuyết

60

có cơ sở ở sự xuất hiện của con người cá nhân, nhưng nó đòi hỏi có sự trở lại

của sử thi, tất nhiên là phải ở trình độ cao hơn, do đó có sự khác biệt về chất

so với sử thi truyền thống. Như vậy, cảm hứng sử thi luôn là vấn đề trọng tâm,

nó chi phối và góp phần quan trọng trong các tiểu thuyết - sử thi. Bởi thực tế

chiến tranh đã đem lại vô vàn những sự kiện cần được tái hiện. Tiểu thuyết Vỡ

bờ đã nêu lên những biến động dữ dội của xã hội Việt Nam khi chiến tranh thế

giới lần thứ hai bùng nổ, Pháp đầu hàng Đức, rồi đầu hàng Nhật một cách

nhục nhã, rồi phát xít Nhật kéo quân vào Hải Phòng, Hà Nội. Bóng đen của

chiến tranh đã ập vào các thành phố lớn. Để ghi lại các biến cố xảy ra trên đất

nước ta, nhà văn không chỉ có năng khiếu, có tài quan sát, nắm bắt mà còn

phải hết sức nhạy bén, tinh tế, đứng ở nhiều góc độ khác nhau để hiểu rõ được

những diễn biến của sự kiện, hiểu rõ từng giai cấp, từng hoàn cảnh sống của

nhiều người trong xã hội, nhằm dựng lại một thời kỳ lịch sử bỏng cháy có một

không hai trong lịch sử. Những đặc điểm của khuynh hướng sử thi đã xuất

hiện trong trang viết của Nguyễn Đình Thi. Sử thi có thể thâu tóm cuộc sống ở

những phương diện căn bản nhất, những đường hướng phát triển chủ đạo nhất,

phản ánh hiện thực qua những biến cố trọng đại, những sự kiện mang tầm vóc

và ý nghĩa của toàn dân, quyết định vận mệnh của cả dân tộc.

3.1. Sự kết hợp các tuyến sự kiện và tuyến nhân vật.

Tiểu thuyết Vỡ bờ trên dưới 50 nhân vật, mỗi nhân vật được tác

giả khắc hoạ bằng những nét bút khác nhau, ở đó tự nhân vật nói lên hoàn

cảnh sống của mình, hoàn cảnh của đất nước mình qua các sự kiện của xã hội.

Không gian được mở ra, thời gian được dồn nén lại bởi đầy ắp các sự kiện liên

tiếp xảy ra. Những khối người đông đảo, những phong trào xã hội khổng lồ ào

ạt đi vào tác phẩm. Những sự kiện và nhân vật hoà quyện vào nhau, đan chéo

nhau đó chính là cái tài của nhà văn đã chuyển hoá các sự kiện xã hội vào

từng con người cụ thể để dựng nên một bức tranh tổng quát về hiện thực, trình

61

bày thế giới được miêu tả trong tính toàn vẹn và phong phú của nó. Mỗi sự

kiện lớn của đời sống thường được tác giả thể hiện thông qua một số nhân vật,

và mỗi nhân vật thường được tác giả soi sáng ở thời điểm mà nó có khả năng

phản ánh đầy đủ một sự kiện lớn của đời sống. Nguyến Đình Thi đã chọn ba

địa điểm chính hai thành phố lớn Hà nội, Hải Phòng và vùng quê Hải Dương

làm cơ sở cho các nhân vật hoạt động. Lấy Hà Nội làm môi trường chính trị

xã hội và văn hoá lớn; Hải Phòng là thành phố của thợ thuyền lao khổ và tinh

thần kiên cường, cách mạng. Vùng quê Hải Dương là nơi nuôi dưỡng phong

trào Cách mạng. Tác giả lấy các nhân vật tham gia Cách mạng như Khắc,

Quyên, An, Hội làm dòng chảy chính, và các nhân vật như Tư, Toàn, Phượng,

Thanh Tùng để miêu tả môi trường văn hoá và sinh hoạt của người trí thức Hà

Nội. Xoan, Côi, Mầm là các nhân vật ở làng quê, có bản sắc và gợi nhiều cảm

mến. Tất cả các nhân vật trên đều có những giá trị, vai trò khác nhau trong tác

phẩm. Họ là những nhân vật tiêu biểu trong xã hội lúc bấy giờ. Tiểu thuyết Vỡ

bờ của Nguyễn Đình Thi không chỉ đề cập đến và giải quyết một vài vấn đề

riêng lẻ trong đời sống, tác giả đã tập trung giải quyết hàng loạt các vấn đề

quan trọng của Cách mạng, của giai cấp và của mỗi con người .

Để phản ánh được các sự kiện trọng đại trong xã hội, phải có sự

kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự kiện và nhân vật, đây là vấn đề quan trọng và

khá phức tạp của mỗi tác phẩm, không phải tác phẩm nào cũng có được sự đan

cài này. Sự kiện có được làm nổi bật hay không phải thông qua nhân vật, và

nhân vật muốn phát triển mạnh mẽ phải thông qua sự kiện. Đây chính là tài

năng của nhà văn trong quá trình sắp xếp, bố trí các nhân vật, sự kiện, chi tiết

sao cho hợp lý, kết cấu chặt chẽ để làm nổi bật tư tưởng và chủ đề của tác

phẩm .

Vỡ bờ tập một chia ra làm ba phần rõ rệt, ngay trong phần đầu

tác giả đã cho người đọc thấy được đủ các tầng lớp người, trong nhiều môi

62

trường khác nhau: cảnh sống của người dân Việt Nam trước năm 1945, cảnh

sống sa hoa truỵ lạc của bọn địa chủ làm tay sai cho giặc, và nhất là khi chiến

tranh bắt đầu xảy ra những cán bộ Cách mạng phải rút vào hoạt động bí mật

để làm sứ mệnh cao cả của mình .

Làm nổi bật lên chủ đề “tức nước” ở tập một - Nguyễn Đình Thi

lấy bóng đen của chiến tranh làm vấn đề chính, bóng đen của nó đổ ập lên

cuộc sống của người dân thuộc các tầng lớp, nhất là tầng lớp nông dân chịu

hậu quả nặng nề, họ là những người chỉ quen chân lấm tay bùn quanh năm vất

vả cực nhọc. Nay chiến tranh kéo đến nhà tan cửa nát, vợ chồng ly biệt, con

cái phân tán, ruộng đồng không còn. Nỗi khổ của người dân được tác giả thu

nhỏ trong hai thôn, thôn Gành và thôn Chẩm. Những tầng lớp công nhân bị

vắt kiệt sức lao động, tác giả lấy Hải Phòng làm nơi đi về hoạt động của

những cán bộ cách mạng, của thợ thuyền lao khổ. Mỗi chủ đề, mỗi sự kiện tác

giả lựa chọn và xây dựng những nhân vật tiêu biểu để chuyển tải được ý đồ

của mình .

Sang phần thứ hai tác giả nhanh chóng mở rộng chủ đề, các sự

kiện có phần gay cấn. Con đường hoạt động cách mạng của Khắc làm người

đọc luôn theo sát, đan cài với các sự kiện chính trị là số phận đời tư của một

số nhân vật như Tư, Toàn và Thanh Tùng nhất là những mối tình trăng hoa

của Phượng với nhiều đàn ông, để rồi Phượng thầm so sánh những “con đực ”

với nhau. Nhưng người đọc vẫn nhận ra chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu nổ

ra, bọn phát xít Nhật đã tới Phòng thành, mấp mé ở biên giới Đông Dương.

Tình hình nước nhà ngày càng nghiêm trọng, mọi người dân đều nhận ra điều

đó, những tờ truyền đơn lan nhanh cả vào các trường học, mọi ngõ ngách của

cuộc sống. Tác giả đã chọn Khắc và Thiết mở cuộc họp đại biểu ba tỉnh trong

khu “bê” để bàn việc xây dựng Đảng và các đoàn thể mặt trận phản đế ở khu

mỏ than và các vùng nông thôn mạnh mẽ hơn... Bên cạnh đó là bọn quan lại,

63

địa chủ lợi dụng tình thế nước nhà chúng buôn bán bóp nghẹt dân, sưu cao

thuế nặng, đời sống của thợ thuyền ngày càng sa sút, hàng vạn người thất

nghiệp lang thang các hè đường. “Bóng đen của chiến tranh ở chân trời càng

sập đến gần, tiếng gót giầy đinh của những sư đoàn phát xít Nhật Bản càng

lạo xạo ở biên giới, thì đám người làm tiền càng vội vã, cuống quýt, cố lăn xả

vào kiếm chác trước khi con diều hâu dữ tợn giang hai cánh đen sì của nó sà

xuống để chiếm lấy miếng thịt chết...” <22, q1, tr345>. Càng ham làm giàu

bao nhiêu bọn chúng lại càng tìm cách giẫm đạp lên nhau bấy nhiêu, chỉ chờ

thời cơ là chúng “giết” nhau để tranh miếng mồi, tranh vợ của nhau.

Sang đến phần thứ ba của cuốn tiểu thuyết , số phận

của người dân từ nông dân, công nhân cho đến trí thức ngày một đen tối, thảm

hoạ hơn. Khắc lúc này không còn, nhưng những nhân vật mà tác giả trông đợi

và tin tưởng đang được giác ngộ và đi vào cuộc chiến đấu .

3.2. Phân tích một số nhân vật cụ thể trong mối quan hệ với

sự kiện lịch sử.

Dòng sông Lương lặng lẽ và hiền hoà ngày đêm đã chứng kiến

cuộc sống của những con người nơi đây, những bi kịch hàng ngày diễn ra

trong những làng quê xơ xác ven sông, buồn tủi sống trong những ngày thoi

thóp. Hội trở về quê như “chim vừa xổ lồng” dứt ra khỏi cuộc đời tù túng,

nhay nhắt của một anh giáo khổ dạy tư ở Hà Nội “quê hương như bà mẹ hiền

xoa dịu những nỗi buồn tủi của đứa con ở xa về ”<22, q1, tr7>.

Hội là nhân vật đầu tiên được giới thiệu trong tác phẩm, một con

người trí thức đang phải vật lộn với cuộc sống. Người có trí thức luôn là nền

tảng trong mọi thời đại để xã hội phát triển, vì vậy không phải ngẫu nhiên mà

Nguyễn Đình Thi chọn Hội là nhân vật đầu tiên xuất hiện, thậm chí tác giả

còn muốn cho bạn đọc thấy được những băn khoăn suy nghĩ của một người trí

thức nhạy cảm với những vấn đề xã hội. Khi chiến tranh thế giới lần thứ hai

64

nổ ra, xã hội đảo lộn, khắp nơi đang có sự bắt bớ của bọn thực dân Pháp. Hội

đã chứng kiến nhiều phen kinh hoàng. Anh có những suy nghĩ về Cách mạng,

mặc dù nghĩ đến cách mạng anh cảm thấy khó khăn quá. Dù sao Hội cũng biết

mình sẽ phải làm gì trước tình hình đó, phải báo ngay cho Khắc để Khắc rút

nhanh vào bí mật. Khắc là một chính trị phạm đang bị quản thúc ở quê. Lúc

này xã hội đang biến động và có sự chuyển hoá mạnh mẽ, bọn phát xít lợi

dụng chiến tranh chúng thắt chặt mọi gọng kìm vây ráp, bắt bớ các chính trị

phạm. Bão táp của cuộc đời đang lùa vào từng căn nhà, từng nếp sống và từng

suy nghĩ của mỗi con người. Đến như ông cụ Tư gạch sống lẻ loi trong túp lều

cạnh ga cũng nóng lòng muốn biết được thời sự như thế nào “bên Tây bên Tàu

đánh nhau đến đâu rồi, ông vào uống nước chè với lão đã. Trên Hà Nội,

người ta chạy loạn cả rồi phải không ông giáo ? ”... <22, q1, tr5>.

Khi xây dựng nhân vật, Nguyễn Đình Thi đặt các nhân vật trong

từng gia đình cụ thể, gia đình là tế bào nhỏ nhất trong xã hội, như gia đình

Khắc đại diện cho gia đình nhà Nho có truyền thống cách mạng, gia đình Hội

đại diện cho gia đình tiểu tư sản, gia đình chị Gái đại diện cho tầng lớp công

nhân, gia đình Xoan đại diện cho những người nông dân nghèo, còn đối với

bọn địa chủ cường hào có gia đình Nghị Khanh gian ác chúng làm giàu theo

hướng kinh doanh tư bản, ngoài ra còn có Huyện Môn, Chánh hội, Bá Soạn.

Những nhân vật trên lần lượt xuất hiện, cùng với sự tác động

mạnh mẽ của Cách mạng đối với từng con người, từng giai cấp cụ thể, mỗi

người có những trình độ tiếp thu khác nhau. Những con người thuộc những

giai cấp khác nhau đã tạo nên một cuộc sống đa dạng, phức tạp đầy mâu

thuẫn, một cuộc sống khách quan bình thường, tự nhiên như nó vốn có. Những

sự kiện nóng bỏng của chiến tranh tuy đã lan toả đến từng con người, nhưng

tiểu thuyết không phải lúc nào cũng căng thẳng, nghiêm trang dồn dập như bi

kịch, châm biếm gay gắt, chua cay, hài hước như hài kịch. Nhịp điệu của tiểu

65

thuyết Vỡ bờ đi không chậm, không nhanh, nhưng bạn đọc thấy được bóng

đen của chiến tranh đang dần ập xuống cuộc sống của người dân, họ đang phải

lần mò từng bước đi trong bóng đêm. Cuộc sống sẽ không có ánh sáng, không

có tia hy vọng nếu họ không nắm bắt kịp thời ánh sáng của Cách mạng .

Mỗi mảnh đời cụ thể đều được Nguyễn Đình Thi miêu tả bằng

những ngôn ngữ, giọng điệu, những nét bút khác nhau, làm cho người đọc

không cảm thấy chán bởi những nguyên mẫu na ná giống nhau. Trong sử thi

cổ đại các nhân vật trung tâm thường dùng những ngôn ngữ chung mang sức

mạnh của cả cộng đồng, của tập thể không mang màu sắc cá thể hoá “nó bao

gồm cả các yếu tố nghệ thuật của ngôn ngữ văn xuôi, ngôn ngữ thơ ca, âm

nhạc và cả ngôn ngữ sân khấu nữa. Nghệ thuật ngôn ngữ trên là một tổng thể

kết hợp hài hoà gắn bó hữu cơ với nhau, tạo nên giá trị độc đáo “không thể

nào bắt chước được ” của các bản sử thi anh hùng” <13, tr772>. Như vậy để

tạo nên giá trị độc đáo của các bản sử thi chính là yếu tố ngôn ngữ, với cách

nói ví von, giàu hình ảnh tràn ngập khắp tác phẩm “... Đam San móc dao vào

phên rồi lại ngồi giữa nhà, trông dẻo như con rắn trong hang, con hùm bên

bờ suối. Tiếng nói tiếng cười của chàng nghe như sấm vang sét đánh. Chẳng ở

đâu có người nói như Đam San ”<23, tr28 >. Hay trong đoạn miêu tả Nữ thần

Mặt Trời “nàng đi ra khỏi buồng, và tới đâu thì chỗ ấy sáng lên. Dáng cười

dáng đi như chim diều bay, như chim phượng hoàng liệng, như nước chảy êm

đềm. Lúc dừng lại hay đứng, cũng đẹp không ai so tày. Tiếng nàng nghe rõ

mặc dầu người chưa thấy. Cổ nàng đẹp như cổ con công. Nàng con của Trời

và Đất” <23, tr30 >. Cũng nói về vẻ đẹp của con người thì nghệ nhân kể “Anh

đi trên đường cái thoăn thoắt như con rắn Prao huê. Anh đi trong đám cỏ

tranh nhanh như con rắn Prao hơmát... mỗi khi anh giẫm mạnh vào ngạch

cửa làm nhà sàn rung rinh bảy lần... ”<13, tr773 >. Đó chính là vẻ đẹp vừa

nhanh nhẹn, mềm mại vừa khoẻ khoắn của chàng trai. Như vậy ngôn ngữ

66

được sử dụng đắc địa, nó có một sức mạnh khiến cho các cảm quan trong con

người có một sự giao lưu hài hoà, nhạy bén lạ thường. Bên cạnh ngôn ngữ,

giọng điệu cũng là một yếu tố quan trọng góp phần tạo ra đặc trưng riêng cho

mỗi loại hình văn học và tạo ra phong cách riêng của mỗi nhà văn, của từng

trào lưu văn học. Ngôn ngữ trong sử thi là một thứ ngôn ngữ sử dụng nhiều

biện pháp tu từ . Ngôn

ngữ tiểu thuyết - sử thi đòi hỏi phải cá thể hoá, mỗi nhân vật có một giọng

điệu riêng, khác với giọng điệu ngôn ngữ kể chuyện. Giọng điệu và ngôn ngữ

gắn bó chặt chẽ với nhau. Từng nhân vật, từng sự kiện, từng chi tiết đều mang

tính chất đa dạng về màu sắc thẩm mĩ. ở mỗi mảng của hiện thực cuộc sống,

sự kiện lịch sử nhà văn phải lựa chọn nhân vật để thực hiện ý đồ của mình.

Như chỉ riêng chủ đề về tình yêu Nguyễn Đình Thi đã miêu tả ở nhiều cấp độ

khác nhau: Có tình yêu sôi nổi, trầm lắng trong sáng, thậm chí có những mối

tình lợi dụng sắc

đẹp để trăng hoa thoả mãn dục vọng của mình. ở mỗi nhân vật, ông sử dụng

những giọng điệu ngôn ngữ trần thuật khác nhau, khi gần gũi cảm thông, khi

hài hước, châm biếm hết sức đa dạng và phong phú. Nguyễn Đình Thi phải

mất rất nhiều công sức trong việc dựng lên từng nhân vật, ông đứng ở nhiều

góc độ khác nhau và đặt nhân vật trong nhiều hoàn cảnh để họ tự bộc lộ được

tính cách, bản chất của mình. Trong tính cách những người anh hùng, thì vẻ

đẹp cao cả của lý tưởng vẫn là màu sắc chủ đạo. Trong họ phẩm chất sáng

ngời vẫn có sức hấp dẫn lớn đối với bạn đọc .

Nguyễn Đình Thi đặt tất cả niềm tin yêu vào Khắc, ông đã tập

trung ánh sáng, trí lực vào tư tưởng và hành động, tâm trạng và số phận của

Khắc để dựng lên một một tính cách có thể soi sáng cho nhiều người trong

quan hệ với gia đình, bạn bè đồng chí ở những phương diện khác nhau, hoàn

cảnh khác nhau Khắc luôn là người kiên định, dũng cảm, sống có lý tưởng

67

thuỷ chung, giàu tình cảm và mực thước. Khắc có một tâm hồn hết sức phong

phú, yêu mến gia đình nhỏ bé. Nguyễn Đình Thi đặt Khắc trong hoàn cảnh hết

sức éo le, mẹ thì già yếu, con gái thì nhỏ mồ côi mẹ, em gái lớn mà chưa lập

gia đình. Khắc suy nghĩ rất nhiều về cái tổ ấm của mình. Nhưng sự nghiệp

giang sơn chưa thành, Tổ Quốc đang cần những người con như Khắc, Khắc

không thể khoanh tay đứng nhìn cảnh người dân mất nước. Nước mất thì liệu

cái gia đình nhỏ bé kia của Khắc có còn không, và một lần nữa Khắc lại xông

vào nơi lửa cháy, bỏ lại sau lưng bao nỗi niềm đắng cay. Phải có tấm lòng can

trường mới làm được điều đó. ở Khắc luôn là một chiến sĩ cách mạng rất mực

trung thành với sự nghiệp của dân tộc, của Đảng, dũng cảm và có khí tiết sẵn

sàng hy sinh tất cả cuộc đời mình cho lý tưởng cách mạng. Mặc dù Nguyễn

Đình Thi không giới thiệu cuộc đời hoạt động cách mạng trước của Khắc,

nhưng chúng ta tin rằng vào những khoảnh khắc gay go nhất, những nơi thử

thách dữ dội nhất Khắc luôn có mặt, có cả đội ngũ những chiến sĩ cách mạng

dày dạn, trung kiên như Lê, Thiết, Gái... số phận của họ gắn với những biến cố

lịch sử như chiến tranh và cách mạng, gắn với những đau thương mất mát và

chiến công phi thường. Họ còn tìm thấy cơ sở vững chắc nuôi dưỡng đùm bọc

cho mình ở những con người nghèo đói, khổ đau và nhân hậu. Bức tranh về

cách mạng sẽ không đầy đủ nếu thiếu đi cái tình cảm sâu xa, rộng lớn đó. Con

thuyền cách mạng phải trải qua bao sóng gió của hiện thực, cái còn, cái mất,

nhưng duy có tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường “ người ta là hoa đất” ý chí

đó là tinh hoa, được kết tinh qua nhiều thế hệ, nó nguyên vẹn và ngời sáng, nó

làm nên sức sống bất diệt của cách mạng. Nguyễn Đình Thi đã mất rất nhiều

công phu để xây dựng nhân vật Khắc.Trong quá trình hoạt động Cách mạng

của Khắc, người đọc thấu hiểu được nỗi vất vả gian lao của những chiến sĩ

Cộng sản: đói, rét, sống chui lủi... vật lộn đương đầu với cuộc chiến, số phận

“ngàn cân treo sợi tóc ”. Hình ảnh của Lê, Thiết, Cảnh tuy không được khắc

68

hoạ đậm nét như Khắc, nhưng qua cách miêu tả của tác giả, ở họ cũng ngời

sáng tấm gương anh dũng. Tuy những nhân vật này xuyên suốt toàn bộ cuốn

tiểu thuyết, nhưng họ không thể là nhân vật chính, lại càng không thể thay thế

cho Khắc. Tác giả để cho Khắc chết ở quá nửa quyển đầu, nhiều người cho

rằng Khắc chết quá sớm, khi mà Khắc đang đóng một vai trò rất tiêu biểu ở

quyển một. Thật ra Khắc đang thu hút sự chú ý của bạn đọc, thì Khắc hy sinh

khiến người đọc hụt hẫng, trong khi không tìm thấy nhân vật nào có thể thế

chỗ cho Khắc. Theo Vũ Ngọc Phan, ông cho rằng để Khắc chết đó là một

dụng ý của tác giả . “ở Khắc có nhiều ưu điểm của một cán bộ lãnh đạo,

nhưng Khắc cũng có những khuyết điểm và nhược điểm, nên anh mới sớm hy

sinh. Con người ấy tuy đã chiến đấu rất nhiều, nhưng vốn là con nhà nho,

nhưng vẫn có những nếp cảm nghĩ, những hành động luộm thuộm không khoa

học cho lắm. Con nguời ấy rất cứng rắn trước bọn địch, nhưng lại có những

phút yếu ớt trước người phụ nữ dịu hiền.

Trong tiểu thuyết Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi muốn dựng lên một

thời kỳ lịch sử dân tộc Việt Nam với những sự kiện trọng đại. Người dân Việt

Nam đã đứng lên mạnh mẽ như vũ bão, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong

những năm 1939-1945 nhằm đánh đổ bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp cùng

với bọn tay sai để giành chính quyền về tay nhân dân .

Đất nước, Cách mạng, chiến tranh và người chiến sĩ luôn là chủ

đề, là hình ảnh lớn đặt cho tác giả những suy nghĩ và trách nhiệm sáng tạo.

Khắc là sự tiếp nối truyền thống Cách mạng của cha ông, là hình ảnh chân

thực và tương đối hoàn chỉnh về người Đảng viên Cộng sản, trước con mắt

của bạn đọc, Khắc hiện lên như một nguyên mẫu lý tưởng. Con người ấy sắt

đá trước kẻ thù, thà chết chứ không chịu đầu hàng, khuất phục.

Khắc được bạn đọc chú ý ngay từ đầu tập một. Cùng lúc Khắc

xuất hiện, cũng là lúc sự kiện lớn bắt đầu xảy ra, bọn thực dân Pháp công khai

69

chế độ phát xít ở Việt Nam. Cuộc khủng bố lan tràn khắp thành thị và nông

thôn, đàn áp bắt phu bắt lính. Mặc dù ở tập một chỉ là những dấu hiệu của sự

đe doạ, chiến tranh còn đang ở xa, nhưng cuộc sống của người dân đang bị

dồn nén, bức bách và ngột ngạt. Chủ yếu ở tập một, tác giả trình bày cảnh “tức

nước ”.

Như trên đã nói sự kiện và nhân vật hoà quyện vào nhau. Mỗi sự

kiện tác giả đều soi vào một vài nhân vật điển hình. Khi Đảng ta chủ trương

rút vào hoạt động cách mạng bí mật, Khắc được tác giả tin yêu giao cho trọng

trách quan trọng gánh vác sứ mệnh cao cả của đất nước. Khắc phải lần mò tìm

các cơ sở Đảng và tổ chức tập hợp lại, đây là việc làm đầy thử thách và gian

nguy. Cùng sự chỉ dẫn và kinh nghiệm trong hoạt động cách mạng, Khắc đã

thành lập được một nhóm người tin cậy để giao công việc và mở rộng thêm

cơ sở Đảng như Lập, chị Gái... ở Khắc người đọc không chỉ thấy được cái cao

cả, đẹp đẽ mà còn thấy một cuộc sống đa dạng phức tạp, đầy mâu thuẫn. Khi

bị bắt và bị tra tấn hết sức dã man Khắc vẫn luôn là người con ưu tú của Đảng,

kiên trung đến giây phút cuối cùng. Về một mặt nào đó thì Khắc vẫn chưa

được nhanh nhẹn cho lắm, đó là khi ở quê anh chưa vận động và tổ chức

truyền bá Cách mạng cho quần chúng ở quê nhà, hay khi bắt đầu đến nhà An,

Khắc chưa chú ý để tìm cho mình lối thoát nếu có động. Nhưng theo ý kiến

của người viết, tác giả để cho Khắc khiếm khuyết một chút gì đó thì Khắc

hoàn toàn là một con người thực, hết sức sống động, còn ngược lại nếu Khắc

hoàn thiện quá sẽ làm cho nhân vật thiếu đi tính chân thật và sẽ quay trở về

với con người của sử thi. Tuy nhiên Khắc vẫn là một điển hình thành công có

sức cổ vũ, giáo dục tình cảm Cách mạng cho người đọc. Sang tập hai Khắc

không còn nhưng ở Khắc vẫn là chỗ dựa tinh thần, là ánh sáng kín đáo soi tỏ

dặm đường cho các nhân vật: Hội, An, Quyên... đi lên.

70

Lần đầu An xuất hiện hết sức bình thường, nhưng dần dần đã

chiếm được cảm tình với bạn đọc. An không trực tiếp tham gia cách mạng như

chị Gái, Quyên... nhưng với tấm lòng trong sáng và tình yêu thuỷ chung với

Khắc, yêu Khắc và cô yêu luôn Cách mạng. Hình ảnh An làm bạn đọc nghĩ

đến những người phụ nữ Việt Nam, đảm đang giàu lòng nhân hậu nhưng cũng

rất mực thông minh. An thay cha mẹ nuôi em khôn lớn, trưởng thành. An là

nhân vật phụ trong tác phẩm, nhưng có thể nói Nguyễn Đình Thi đã xây dựng

thành công những hình ảnh người phụ nữ, An ngày càng được tô đậm thêm ở

tính cách, ở tấm lòng trong trắng, dịu hiền, đầy yêu thương trìu mến. Một lòng

thờ chồng nuôi con, mặc dù Khắc không còn, nhưng An vẫn nghĩ và luôn có

trách nhiệm với gia đình nhà chồng, muốn đón dì và con gái Khắc về nuôi.

Cũng có lúc tác giả để An được thử thách với tấm lòng của mình. Đó là khi

An đi làm ở hiệu Kéo Vàng, luôn phải để ý giữ mình với lão chủ, hắn luôn giở

trò với đàn bà con gái. Mặt khác An cũng giúp đỡ người nghèo hơn mình như

bác Hai gày ở ngay cạnh nhà, củ khoai, củ sắn cho qua bữa. Nguyễn Đình Thi

không miêu tả An ở hình dáng, vẻ đẹp bên ngoài, nhưng ở An toát lên một ấn

tượng khó phai đó là tình yêu của An dành cho Khắc giống như một bài thơ

trữ tình, trong đó chứa đựng biết bao về lý tưởng nhân đạo, một tấm lòng kính

trọng đầy trìu mến đối với người chiến sĩ Cách mạng. Một người vợ thuỷ

chung, tần tảo đã trở thành truyền thống lâu đời của người dân Việt Nam, một

nhân cách tươi sáng, một con người cá nhân tự nguyện làm hậu thế vững chắc

cho người ở phía trước .

Khác với An, Quyên được tác giả khắc hoạ ở một điểm nhìn khác,

một ngòi bút khác nhưng vẫn với tấm lòng yêu mến và cảm phục ở người phụ

nữ Việt Nam. Nhân vật Quyên được tác giả khắc hoạ qua hai vai trò quan

trọng ở những thời điểm khác nhau, nhưng theo một thời gian tuyến tính. Đó

là khi ở nhà, và khi tham gia cách mạng. Khi chiến tranh xảy ra, Quyên thay

71

anh chăm sóc mẹ, dạy dỗ cháu, lo toan mọi công việc trong gia đình. Khi nghĩ

về tình duyên, cô mong gặp được người như anh mình. ở tập một Quyên chưa

phải là một cán bộ Cách mạng. Nhưng sang đến tập hai Quyên nhanh chóng

trở thành một cán bộ cách mạng dày dạn kinh nghiệm, hoạt động bí mật khắp

vùng rừng núi Đông Bắc. Nỗi đau riêng và mối thù chung của cả dân tộc, lý

tưởng Cách mạng và truyền thống gia đình, quê hương... là điểm tựa vững

chắc, tạo nguồn sức mạnh cho Quyên đứng lên đối mặt với thử thách. Cảm

hứng sử thi đã chiếu sáng vào con người bình thường ấy. Lúc này chiến tranh

xảy ra gay go ác liệt, các tầng lớp nhân dân từ trăm ngả đi vào dòng thác lớn

của Cách mạng, dẫn tới cao trào Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, Quyên

bước tiếp những bứơc đi của Khắc, tham gia nhiệt tình phong trào cách mạng,

đi đầu trong các cuộc nổi dậy của người dân. Xã hội đảo lộn người tốt có, kẻ

xấu cũng không ít. Khắp các vùng bọn kẻ cướp lợi dụng tình thế cướp bóc của

cải của dân. Quyên không ngần ngại, dẫn mọi người xông thẳng đến sào huyệt

của tên cướp nổi tiếng Lý Tuỳ và cho chúng những bài học đích đáng... Quyên

vạch kế hoạch, chớp lấy thời cơ đi phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo.

Không chỉ dừng lại ở đó, mà Quyên còn là một nữ giao thông can đảm. Một

mình lăn lộn qua những nơi nguy hiểm khu Vàng Danh... có những lúc phải

qua những nơi vắng vẻ không một bóng người. Quyên cũng được tác giả đặt

vào những nơi thử thách khác nhau để tự mình bộc lộ những bản chất tốt đẹp,

những vẻ đẹp tâm hồn mà tác giả không trực tiếp miêu tả. Những nhân vật

chính diện thường được Nguyễn Đình Thi xây dựng theo lối để cho nhân vật

tự nói lên cuộc sống của mình <đặt họ trong những thử thách khác nhau>, hay

nói cách khác là những nhân vật này thường có những suy nghĩ nội tâm.

Quyên còn cả một gia đình “Quyên ngồi tính toán trước là nếu cô ra đi thì

cảnh nhà sẽ thế nào... nếu nhỡ thế nào, con bé còn biết bấu víu vào đâu; lẽ

nào Quyên để cho đến nỗi đứa con của anh Khắc, hòn máu cuối cùng của gia

72

đình cô, thành đứa cầu bơ cầu bất. Trong lòng Quyên vò xé đau đớn ”<22, q2,

tr 223>. Những suy nghĩ nội tâm của Quyên, giúp người đọc thấu hiểu được

Cách mạng quan trọng biết nhường nào đối với mỗi người dân. Và thấy rõ

được sự gần gũi, lòng yêu mến của tác giả đối với cuộc sống và con người lao

động .

Số phận của Quyên lúc này đã hoà nhập với số phận của xã hội,

của dân tộc và được soi chiếu qua các sự kiện lịch sử Quyên không phải là

một con người cá nhân cô độc, mà Quyên xuất hiện trong một tập thể anh

hùng. Những con người ấy, chí khí anh hùng bất khuất luôn tiềm ẩn trong mỗi

tâm hồn, chỉ chờ có thời cơ là ngời sáng. Không hề có sự đột biến, ngẫu nhiên

thay đổi phẩm chất trong những con người lý tưởng này. ở Quyên có hai

quãng đời rõ rệt, đó là khi ở gia đình và khi hoạt động Cách mạng. ở nhà

Quyên làm tròn bổn phận của một người con, người em, người cô. Khi tham

gia cách mạng Quyên luôn hoàn thành trách nhiệm của một chiến sĩ cách

mạng. Có người cho rằng tính cách của Quyên, thời kỳ còn ở trong gia đình và

sau khi thoát ly, tác giả chưa miêu tả được sự chuyển biến khi Quyên bắt đầu

tham gia cách mạng. Đây chính là bước ngoặt trong cuộc đời của Quyên, tác

giả miêu tả Quyên nhiều chỗ bị cắt xén. Ông giống như một nhà quay phim

dùng ống kính quay nhanh, lướt qua bước rẽ của Quyên. Từ một cô Quyên

theo mẫu người Việt Nam truyền thống, đảm đang giàu lòng hy sinh đến một

cô Quyên hoạt động bí mật ở vùng rừng núi Đông Bắc là hai con người khác

nhau. Nhưng cô là người luôn có lý tưởng, có lối suy nghĩ sâu xa. Lòng căm

thù giặc và sự giác ngộ cách mạng đã lên cao, lại là người có cá tính mạnh

Quyên đã hoà chung mình vào trong dòng thác của lịch sử. Nhưng giáo sư

Phong Lê cho rằng ở Quyên tác giả cần có một sự chuẩn bị kỹ hơn nữa để đi

vào cách mạng, tác giả đã để cho nhân vật tuột ra khỏi tay “tác giả chưa hiểu

73

kỹ lắm về các gia đình cách mạng nên chưa tả được mối thù truyền kiếp trong

các gia đình đó” <11, Tr176 >.

Cách xây dựng nhân vật như trên khác với cách xây dựng nhân

vật trong sử thi cổ đại. Những con người trong sử thi “là con người của cả dân

tộc, trong con người đó yếu tố xã hội và yếu tố cá nhân là đồng nhất và ý chí

tự do của anh ta cũng là nhiệm vụ của cộng đồng tập thể. Từng con người

riêng lẻ có thể có một số phận ngẫu nhiên nhưng cả một tập thể, một dân tộc

thì không thể như vậy. Do đó người anh hùng trong sử thi cổ đại dường như tự

nguyện hành động theo một đề tài và cốt truyện định trước

truyền thống >anh ta chỉ có thể làm như thế này mà không thể làm như thế

khác, chỉ được phép chiến thắng chứ không hề chiến bại” <5, tr594 >. Nhưng

ngược lại trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại thì các nhân vật hành động theo

cá tính của mình, tự mình làm chủ ngôn ngữ và tự kiểm soát từng hành động .

Chỉ thông qua số phận của một vài ba cá nhân riêng biệt người

đọc hiểu được một giai đoạn lịch sử của dân tộc.

Khi thực dân Pháp càn quét, chúng bắt dân ta phải đi phu đi lính

đi làm sân bay, những người dân làng Gành lo sợ, hoang mang bởi tính dã

man tàn ác của bọn thực dân Pháp, chúng dùng mọi thủ đoạn để hành hạ, tiêu

diệt người dân Việt Nam. Qua ngòi bút của Nguyễn Đình Thi người đọc còn

nhận ra cách thi hành vô lối, không tính người của bọn chúng “anh Tân cố

ngoái lại một nữa nhưng lại bị xô chúi đi ra con đường làng”, “ tiếng bà Điều

kêu khóc ngoài đầu ngõ vẫn không dứt. Phía cuối xòm lại có tiếng quát tháo.

Cái xóm nhỏ trong phút chốc náo động, ồn ào cả ba bốn phía như đang có

giặc... khiếp thật, sao mà họ làm như có giặc không bằng”. <22, q1, tr93>.

Ngoài ra còn có Mầm, Côi là những thanh niên chăm chỉ, hiền lành được

nhiều người yêu mến, đã phải rời bỏ quê hương đến nơi lạ để làm phu. Cuộc

sống vất vả nơi làng quê họ đã quen, nhưng họ cũng không dễ dàng chấp nhận

74

cảnh hàng ngày làm việc nặng nhọc mà phải ăn gạo mốc, cá thối, bị đánh đập

liên miên. Chúng chà đạp lên nhân phẩm, bóc lột sức lao động không hề

thương xót . Đây mới chỉ là bước đầu về nỗi khổ

của người dân khắp các miền. Cuộc sống bị đảo lộn, sự tàn sát của chiến tranh

đang gõ cửa từng nhà, len lỏi vào từng trang đời mong manh chỉ quen quanh

năm chân lấm tay bùn. Lợi dụng cuộc khủng bố chính trị, bắt phu, bắt lính,

bọn quan lại cường hào hà hiếp dân lành thu gom ruộng đất để làm giàu “anh

cứ thử nhìn những người làng ta mà xem, tôi đã thấy tận mắt bao nhiêu người

tan cửa nát nhà vì cái ánh đèn nhà lão Nghị Khanh kia. Thế mà những ngừơi

nhà quê bị lão Nghị bóc lột đến cái khố cũng không còn, vẫn cứ còng lưng

xuống thêm mãi ”<22, q1, tr24>.

Nguyễn Đình Thi đã khéo đan cài các sự kiện xã hội, từ số phận

đời tư cho đến số phận của Cách mạng. Khi chiến tranh đã xâm nhập khắp các

nơi, cũng là lúc các mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng căng

thẳng gay gắt. Các sự kiện phát triển song song với sự phát triển tính cách của

các nhân vật cụ thể.

Tiểu thuyết hiện thực xã hội của chúng ta xây dựng được những

nhân vật điển hình có qui mô lớn không những tiêu biểu cho dân tộc mà còn

tiêu biểu cho một thời đại. Đất nước khi lâm nguy đã có những đội ngũ hùng

hậu, trung kiên đứng lên dám xả thân vì nghĩa lớn như Khắc, Lê, Thiết... nhờ

sự dìu dắt của Đảng. Đứng sau họ là một nền tinh thần vững chắc của những

người phụ nữ, trong chiến tranh họ hy sinh chịu đựng lớn lao “trong chiến

tranh mọi nỗi vất vả đau đớn nhất, đều đổ lên những người đàn bà. Và thực ra

xã hội, Tổ Quốc tất cả còn sống được là nhờ họ ”. Nguyễn Đình Thi đã ghi lại

được những hình ảnh đẹp về người phụ nữ đảm đang, chung thuỷ, giàu lòng

hy sinh và nói chung, ông miêu tả họ thành công trong quan hệ gia đình, tình

yêu, tình bạn hơn là trong quan hệ đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng. Cụ

75

Tú Mai một đời thờ chồng nuôi con, đầu tắt mặt tối, nhịn nhục nuôi con ăn

học. “Lần đầu tiên Khắc đưa mấy người bạn lạ mặt về thì thào, hội họp, bà

chỉ ứa nứơc mắt khóc thầm. Bà biết con bà sẽ giống như ông Tú, nhưng bà

không căn vặn gì Khắc, cũng không hề ngăn cản... Quyên em gái Khắc,

thương mẹ, thương anh bao nhiêu càng thương đứa cháu mồ côi bấy nhiêu. Cô

chăm chỉ đảm đang thay anh gánh vác mọi công việc gia đình, khi Khắc mới ở

tù về “một tay Quyên lo thuốc men, chạy chữa. Chăm nom từ khi còn lết

giường chiếu, vẫn miếng ăn giấc ngủ của Khắc, cho đến đối phó với bọn

hương lý, kỳ hào, khi cứng rắn, khi mềm mỏng, để Khắc đỡ bị hạch sách,

Quyên luôn luôn như một con gà mẹ sẵn sàng xù lông đánh nhau đến chết với

bất cứ kẻ thù nào dòm ngó đám con của nó.... Khi Khắc bắt đầu nhúc nhắc

được, Khắc nghĩ đến việc giúp đỡ mẹ và em. Lần đầu tiên Khắc xuống ao vớt

bèo, bà cụ Tú và Quyên đều la ầm lên. Không những họ lo Khắc còn ốm, mà

viêc làm của Khắc có cái gì không phải lẽ, theo nếp nghĩ của bà mẹ và cô em

gái đã quen suốt đời làm lụng để cho người đàn ông trong nhà được ngồi

không, lo những việc lớn cao xa” <22, q1, tr31,32>. Một gia đình nho giáo có

truyền thống Cách mạng, yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau những niềm vui,

nỗi buồn... ngoài ra còn có Thảo vợ Hội, với đôi bàn tay yếu mềm của mình

Thảo đã lo toan chu tất mọi công việc nhà chồng khi Hội vắng nhà. Những

công việc nặng nhọc trong nhà dường như rất quen thuộc đối với Thảo. Đây là

những mẫu người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tần tảo sớm tối. An bụng mang

dạ chửa đi thăm Khắc bị giam tận Hà Nội... Nguyễn Đình Thi rất thành công

khi viết về người phụ nữ và nhi đồng. Bằng cả vốn sống trực tiếp và vốn sống

gián tiếp Nguyễn Đình Thi đã dựng lại cả một giai đoạn lịch sử quan trọng của

dân tộc với nhiều hoàn cảnh môi trường, nhiều kiểu người khác nhau trong xã

hội. Cách mạng ngày càng lớn mạnh bởi lòng căm thù giặc sâu sắc, nhiều

người dân đã dồn hết ý chí, say mê lý tưởng Cách mạng họ tập trung về một

76

phía, và taọ một sức mạnh phi thường. Các nhân vật trong tác phẩm đều được

Nguyễn Đình Thi đưa từ hoàn cảnh hẹp ra hoàn

cảnh rộng , đều được thử thách trong dòng thác lớn của

lịch sử và có những chuyển biến quan trọng trong tính cách theo những con

đường độc đáo khác nhau.

Những tuyến nhân vật cá nhân như Gái, Côi, Mầm ... họ đến với

cách mạng bằng những con đường khác nhau. Gái tham gia cách mạng từ

trước, là người đại diện cho giai cấp công nhân, chị đã tham gia đấu tranh, lăn

lộn trong quần chúng. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi đã miêu tả Gái ở khía

cạnh của một nữ giao thông can đảm, thông minh, chịu khó học hỏi, nghe

giảng chính trị, về chủ nghĩa cộng sản, về Mác, Lê nin. Chị học rất nhanh và

đặc biệt khi bị bắt giam cùng với Khắc, chị cũng phải chịu những tra tấn dã

man. Một người con gan dạ, chịu đựng mọi gian nguy xứng đáng với truyền

thống Cách mạng anh hùng. Khi xây dựng nhân vật Gái, tác giả muốn cho

người đọc thấy được không chỉ có thanh niên trai tráng mới có thể tham gia

cách mạng, chịu đựng những trận đòn tưởng không có sức nào chống đỡ nổi.

Nhưng cùng với bao hình ảnh người phụ nữ khác, như Nguyễn Thị Minh

Khai... Gái tham gia cách mạng nhiệt tình, đấu tranh anh dũng. Mặc dù vậy

nhiều người cho rằng những nhân vật công nhân miêu tả không được rõ nét,

hình ảnh những nhân vật ấy như một cái bóng. Nguyễn Đình thi chỉ chọn một

số nhân vật tiêu biểu cho từng lớp người giác ngộ Cách mạng chứ không nhất

thiết các nhân vật đều phải xuất hiện một cách đầy đủ trong tác phẩm. “Cái dở

nhất của một tiểu thuyết là kể ra hết, không sót một cái gì, cũng như tấm ảnh

xấu nhất là tấm ảnh chụp cả mười ngón tay, mười ngón chân của một người ”

<11, tr125 >. Nguyễn Đình Thi đã đưa nhân vật vào tác phẩm một cách có

chừng mực, không đi quá xa miêu tả một nhân vật nào hay một sự kiện nào.

Ông biết dừng lại đúng chỗ .

77

ở mỗi một phần của cuốn tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi đã đan

cài giữa các sự kiện cùng với sự phát triển tính cách của từng nhân vật, bên

cạnh đó tác giả còn cho bạn đọc thấy được nhiều môi trường khác nhau, nhiều

cảnh đời khác nhau. Nếu như ở tập một Vỡ bờ tác giả chủ yếu miêu tả cảnh

tức nước của người dân Việt Nam đứng trước cảnh bị áp bức bóc lột thậm tệ

cả về kinh tế lẫn chính trị, thì sang đến tập hai của Vỡ bờ chính là sự vùng dậy

đấu tranh quyết liệt đòi lại chủ quyền của dân tộc. Tác giả cũng bắt đầu đi từ

làng quê thôn Chẩm, thôn Gành với con sông Lương nhưng nó không còn êm

ả như trước kia, mà sáng nào cũng chứng kiến tàu bay Nhật từng đàn bay

xuống “hôm nay cũng lại hai mươi mấy chiếc nhào lộn rối rít trên cao, những

chiếc tàu bay cổ rụt, cánh ngắn tụm vào nhau rồi lại toé ra nhiều ngả như đàn

mối vỡ tổ, chiếc này chiếc khác sáng loé lên trong ánh nắng rồi lại lẫn vào

nền trời xanh trong ”<22, q2, tr28 >. Cái bóng của chiến tranh không còn từ

xa hắt lại mà chính nó đã len lỏi đến từng thôn xóm, từng gia đình, từng cá

nhân mỗi con người. Từ thôn Gành, thôn Chẩm tác giả cho ta thấy cảnh chiếm

đóng của bọn Nhật, chúng chiếm hết mấy cái sân bay lớn của Tây ở Gia Lâm,

Cát Bi... Các nhân vật được di chuyển từ môi trường này sang môi trường

khác. Đây chính là sự đan cài của tác giả, rồi chúng ta lại được biết đến tình

hình ở bên Liên Xô qua hai nhân vật Lê và Cảnh “sao Liên Xô thua nhiều thế

? ở Kiép làm thế nào mà hơn ba chục vạn quân bị bao vây và tiêu diệt ” < 22,

q2, tr33>.

Cách mạng nổi dậy mọi người dân Việt Nam đều có ý thức,

trách nhiệm đồng lòng gánh vác nỗi đau chung. Cách mạng giác ngộ đến mọi

tầng lớp người trong xã hội, cả học sinh, sinh viên... Đại diện cho tầng lớp học

sinh đó là Kim, Hằng, Đông... mỗi người đến với cách mạng trong những thời

điểm khác nhau, sự giác ngộ khác nhau... do hoạt động còn non nớt Kim đã

phải bỏ học về quê. Nhưng có sẵn lòng căm thù giặc Kim đã tìm cách tham

78

gia hoạt động cách mạng nhiệt tình “hôm nay em đem đến cho anh một vài tài

liệu để anh xem. Giở gói giấy ra, Hội thấy một quyển sách mỏng in đá ,khổ

nhỏ bằng bàn tay, trên bìa đề “ Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn”. Kèm theo là hai tờ

truyền đơn... bản tuyên ngôn của Việt Nam độc lập đồng minh và bức thư của

nhà cách mạng Nguyễn Ai Quốc gửi cho đồng bào ” <22, q2, tr 90>.

Côi và Mầm thuộc tầng lớp nông dân, họ đến với Cách mạng

khi nhận ra rằng, họ sẽ chỉ là nô lệ nếu không dám đứng lên bảo vệ quyền

sống cho bản thân mình và cho những người dân nô lệ. Phẩm chất anh hùng

dường như có sẵn trong máu, nó lại càng được tôi luyện trong thử thách ác

liệt. Lúc này hơn lúc nào hết, họ đã đứng dậy từ đau thương mất mát, đối mặt

với thử thách, với cái chết để chiến thắng. Trong đấu tranh họ đã lớn lên rất

nhiều, Cách mạng nối liền các miền của đất nước với nhau và gắn chặt vận

mệnh của cá nhân với vận mệnh của dân tộc .

Phần hai của Vỡ bờ tập hai có 25 chương nhưng trong đó nhiều

sự kiện quan trọng xảy ra liên tiếp ở khắp các nơi, các vùng. Vẫn xuất phát từ

cuộc sống của làng quê, bọn Nhật kéo về bắt dân phải nhổ lúa trồng đay “cái

bóng đen của chiến tranh không phải chỉ bay qua bên trên mấy cái làng nhỏ

ven sông ấy. Mấy hôm sau nó lại đến, lần này nó đi bộ trên những con đường

đất, nó vào đến tận cùng xóm ngõ bấy lâu nay cố thu mình nhẫn nhục giữ lấy

cuộc sống thiếu thốn cực khổ hàng ngày ” <22, q2, tr180>. Cuộc sống vốn đã

cực khổ lại càng cực khổ hơn, người dân mỗi lúc càng bị thắt chặt thêm.

Người chết đầy đường, ngừơi sống chỉ còn da bọc xương. Cùng trong chương

này Quyên đi vào hoạt động cách mạng. Tư không còn đủ sức lực chống đỡ

nổi cái căn bệnh ho lao, Toàn cũng bắt đầu tìm được nguồn sáng cho mình “là

đi tìm và ghi lại nhạc dân tộc cũ, những bài dân ca, những điệu hát ả đào,

những vở chèo cổ ”. Nhưng sang đến phần ba nhiều sự kiện liên tiếp xảy ra,

các cuộc khởi nghĩa bắt đầu nổi dậy từ các vùng nhỏ như đi phá kho thóc của

79

Nhật, tiêu diệt những tên cướp, phá các đồn binh lấy vũ khí... rồi đến Nam

Định khởi nghĩa, Hải Phòng khởi nghĩa, Vinh khởi nghĩa, Huế, Sài Gòn khởi

nghĩa. Chỉ trong hơn một tuần lễ, khởi nghĩa đã thành công ở khắp các thành

phố từ Bắc đến Nam. Đan cài với các sự kiện này là số phận của Tư, một nghệ

sĩ chân chính đã trút hơi thở cuối cùng khi vừa làm xong được một việc có ích

cho cách mạng, Phượng bị suy sụp hoàn toàn, uống thuốc ngủ tự tử nhưng

không chết, tác giả một lần nữa với tấm lòng của một nghệ sĩ không những để

cho Phượng được sống mà còn để Phượng may cờ cho Việt minh, tặng hoa

cho đoàn quân Nam tiến, cung cách hành động của Phượng có sự biến đổi...

Hội một anh giáo nghèo bị thất nghiệp, luôn băn khoăn về số mệnh của dân

tộc mình, của đất nước mình, trong phần này Nguyễn Đình Thi cũng đã để cho

Hội “thành một ông Việt Minh ở giữa Hà Nội ”. Sự đan cài hết sức hợp lý

làm cho người đọc vừa thấy được các sự kiện vẫn tiếp tục phát triển để đi đến

cao trào, mà các nhân vật vẫn hướng về cách mạng, hướng về các cuộc khởi

nghĩa ngày một lớn mạnh như vũ bão “một ngày bằng hai mươi năm ”. Những

nhân vật tưởng như hết sức bình thường, nhưng Cách mạng lên, tâm trí của họ

càng được lớn mạnh, những con người Việt Nam giản dị bình thường mà phi

thường về trí tuệ và vẻ đẹp tâm hồn. Hết lớp này đến lớp khác, Khắc mất đi

nhưng hậu thế vẫn bước những bước đi của anh. Những chương cuối của cuốn

tiểu thuyết bao con người thuộc những tầng lớp khác nhau họ đều đi vào cuộc

chiến đấu, đều tham gia cách mạng một cách mau lẹ, tầng lớp nông dân, công

nhân, trí thức... những nhân vật có tâm hồn trong sáng họ đã góp công đưa

cuộc cách mạng lên cao. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc tất cả các công sở

Hà Nội. Vào một buổi sáng mùa thu trong xanh ngày tuyên bố độc lập đã đến

“thành cũ, Cột cờ, vườn Ba Đình tất cả ngập trong cờ đỏ sao vàng ”. “Một

người mảnh khảnh, mặc chiếc áo vải ka ki, trán cao, đôi mắt sáng mênh

mông, cằm điểm một chòm râu lưa thưa, vừa bước lên và đứng lặng mấy giây

80

nhìn cái biển người bát ngát trước mặt. Và cái biển người cũng chăm chú

nhìn lên và đợi nghe... Tôi nói đồng bào có nghe rõ không ?... Nước Việt Nam

dân chủ cộng hoà đã ra đời ”<22, q2, tr616>.

Như vậy tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa nêu cao vai trò

quần chúng nhân dân, xem đó là hoàn cảnh chủ yếu tạo nên tính cách của

những con người trong thời đại ngày nay. Những người anh hùng hầu hết họ

đều lớn lên từ quần chúng nhân dân, họ có quan hệ chặt chẽ với quần chúng

nhân dân, chủ nghĩa anh hùng mới của chúng ta là chủ nghĩa anh hùng tập thể,

chủ nghĩa anh hùng của quần chúng. Đây không phải là cái nhìn mới mẻ của

các nhà viết tiểu thuyết hiện đại, nhưng dù sao cũng cho người đọc thấy được

những người con anh hùng đó cũng có nguồn gốc xuất thân như chính mình. ở

đây nhà văn không những viết lên trang sử hào hùng của dân tộc mà còn nêu

lên những bài học giáo dục tinh thần cho mỗi người dân Việt Nam, nó tác

động đến mỗi cá thể bằng chính tình cảm, tâm hồn Việt Nam, bằng những

trang văn giàu chất thơ của người nghệ sĩ. Giai cấp công nhân và nhân dân lao

động không còn là giai cấp bị trị và người anh hùng ở đây chính là kẻ đại diện

cho những người chủ nhân mới của lịch sử .

Tính cách và hoàn cảnh có mối quan hệ chặt chẽ, nó không chỉ

diễn ra một chiều mà ở nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống. Tính cách

những nhân vật Quyên, An, Hội, Mầm... trong tác phẩm Vỡ bờ của Nguyễn

Đình Thi, trong quá trình tiếp xúc với cách mạng đã tạo nên những sự biến đổi

về chất, những bước phát triển nhảy vọt.

Thế kỷ 20 diễn ra nhiều biến động lớn lao, có những cuộc chiến

long trời lở đất để dành lại chủ quyền cho đất nước. Vì vậy trong văn học hiện

đại, đề tài chiến tranh Cách mạng luôn chiếm một vị trí chủ đạo. Vị trí ấy

được qui định trước hết là do bản thân thực tại, do nội dung chính của lịch sử

hiện đại Việt Nam. Tiểu thuyết đã tái hiện được những sự kiện, những chiến

81

thắng có ý nghĩa định hướng sự phát triển của hiện thực cách mạng, mở đầu là

cuộc Cách Mạng tháng 8-1945. Chiến tranh cách mạng là một thử thách khốc

liệt của mỗi cá nhân, cũng như là một sức sống của một dân tộc. Nó kéo theo

những hy sinh mất mát, những đổ vỡ, xáo trộn ngoài sức tưởng tượng. Tiểu

thuyết về đề tài chiến tranh vừa là thước đo vừa là bằng chứng ghi lại bộ mặt

thật ghê tởm của chiến tranh. Thảm hoạ chiến tranh cướp đi bao người dân vô

tội, để rồi vợ mất chồng, con mất cha, mẹ mất con... bao cảnh sống bơ vơ

không nhà, không cửa. Nhiều nhà văn đã nhanh chóng thâu tóm được toàn bộ

các vấn đề của xã hội như Nguyên Hồng với bộ Cửa biển, Nguyễn Minh Châu

với Dấu chân người lính.

Với các sự kiện diễn ra liên tiếp, các nhân vật cũng cùng đó

xuất hiện đủ các tầng lớp người, các kiểu người trong xã hội. Mọi vấn đề của

cuộc sống đếu được phản ánh trong Vỡ bờ, tác giả nhanh chóng chuyển hoá

chúng vào cốt truyện để người đọc có thể chấp nhận một cách tự nhiên và sự

thâm nhập của chúng vào tuyến tâm lý nhân vật đã tạo thành mối quan hệ giữa

các yếu tố sử thi và yếu tố tâm lý. Các sự kiện luôn gắn liền với nhiệm vụ

khám phá tính cách của nhân vật. Tiểu thuyết Vỡ bờ đã dựng lên những bức

tranh đầy sức tố cáo, tái hiện thân phận đau thương của nhân dân để ta hiểu

được tính tất yếu của cách mạng. Không chỉ riêng tầng lớp nông dân mới bị

xâu xé, bị đàn áp cùng cực mà ở đây các tầng lớp lao động như công nhân

cũng phải sống trong cảnh tối tăm, ảm đạm và bi đát. Trong các xưởng may,

nhà máy xi măng... những công nhân lao động không biết mình sẽ sống chết

khi nào, số phận mong manh đang bị chiến tranh đe doạ. Rồi đến văn hoá giáo

dục, nghệ thuật đều bị rẻ rúng, bị dồn vào ngõ cụt, hoặc lụi tàn, hoặc trở thành

một phương tiện kiếm sống .

Tóm lại, sự kiện và nhân vật luôn gắn kết với nhau trong một

chỉnh thể nghệ thuật. Các sự kiện được biểu hiện ra sao đều phải thông qua

82

nhân vật, mỗi nhân vật đảm nhiệm một vai trò khác nhau trong từng hoàn

cảnh cụ thể. Có nghĩa các sự kiện phải được soi vào từng nhân vật và nhân vật

phải được thử thách qua các sự kiện lịch sử.

Chương 4

Sự kết hợp giữa sử thi và tâm lý

Chiến tranh và cách mạng luôn là đề tài lớn, là miền đất rất

thuận lợi cho các nhà văn sáng tác theo khuynh hướng sử thi. Khái quát qui

mô của cả thời đại và dân tộc. Dòng thác lịch sử cuốn theo cuộc chiến khốc

liệt gay go và gian khổ, văn học là minh chứng của cuộc đấu tranh cách mạng.

Trong đó cá nhân con người với những nhu cầu đa dạng nằm trong những mối

quan hệ cả trực tiếp và gián tiếp với những sự kiện lịch sử, những sự kịên tự

thân chúng đã mang tầm vóc và ý nghĩa sử thi. Cho nên khát vọng dựng lên và

tái hiện những bức tranh toàn cảnh, tái hiện những biến cố trọng đại của lịch

sử tạo nên qui mô sử thi của tác phẩm.

Sử thi cổ đại đã dựng lên những bức tranh khái quát cả một thời

đại, những búc tranh hoành tráng, những nhân vật anh hùng, những con người

khổng lồ tiêu biểu cho một bộ lạc, một dân tộc. Nhưng sử thi cổ đại chưa có

83

khă năng đi sâu vào tâm lý nhân vật, nó mang sức khái quát, tổng hợp, nhưng

còn yếu về phân tích tâm lý. Tiểu thuyết thế kỷ 19 của Flaubert

đã đi sâu vào tâm lý nhân vật, nhưng lại yếu về bức tranh có qui mô sử thi. Sử

thi cận đại của L.Tolstôi đã thực hiện được một bước tổng hợp những thành

tựu của sử thi cổ đại, với những thành tựu của tiểu thuyết thế kỷ 19, đã kết hợp

được sử thi và tâm lý, phép biện chứng lớn của lịch sử với biện chứng pháp

nhỏ của tâm hồn.

Miêu tả quá trình phát triển của tâm lý con người là nhiệm vụ

khó khăn nhất của nhà viết tiểu thuyết. Nhà văn không chỉ hiểu được hiện tại

mà còn phải nghiên cứu quá khứ và tương lai. Trên những bình diện khác

nhau, muốn khắc hoạ được tính cách nhân vật thành công nhà văn phải nắm

được qui luật phát triển của tư tưởng, tâm lý con người. Đặc điểm tâm lý sẽ

làm cho nhân vật xuất hiện giữa mọi người như một cá tính hoàn toàn độc

đáo. Tuy nhiên việc nghệ thuật xây dựng tính cách nhất là hiểu được tâm lý

nhân vật không phải là một điều dễ dàng. Mỗi nhân vật đòi hỏi phải mang

những trạng thái tâm lý đặc biệt không giống nhau, phải thể hiện được cá tính

riêng. Muốn xây dựng nhân vật thành công nhà văn phải có một quá trình thai

nghén, phải có khả năng đồng cảm, nhập thân vào các nhân vật thuộc nhiều

tầng lớp xã hội khác nhau .

4.1. Sự kết hợp các yếu tố sử thi và tâm lý trong tiểu thuyết

Chiến tranh và hoà bình của L.Tolstôi .

Nhà văn L.Tolstôi miêu tả tâm lý nhân vật hết sức tài nghệ, độc

đáo. Ông miêu tả tâm lý nhân vật theo rất nhiều hướng. Có những người thậm

chí chỉ miêu tả tâm lý một cách gián tiếp, thông qua cử chỉ, điệu bộ vẻ mặt, lời

ăn tiếng nói... của nhân vật. Có người chỉ chuyên chú theo dõi tác động của

môi trường đối với tư tưởng tình cảm nhân vật hoặc phân tích theo lối giải

phẫu một trạng thái tâm lý. Hoặc có người chỉ miêu tả khâu đầu tiên và khâu

84

cuối cùng của một quá trình tâm lý. “ Khi miêu tả nhân vật Pie, L.Tolstôi đã

chú ý đặt Pie ở nhiều trạng huống khác nhau trong cả một quá trình từ hoàn

cảnh xuất thân, tiểu sử riêng, các giai đoạn trên đường đời của Pie, và ông đã

thấy Pie có thể đóng bất kỳ vai nào: ông hoàng lẫn anh cùng dân” <5, tr653>.

Pie là người yêu nhanh, say mê và ngay đấy lại ghét người mình vừa yêu,

không chịu nổi mối quan hệ xã giao với phụ nữ. Tất cả mọi người đều cố ý

vun cho Pie lấy ELen nhất là ông Vaxili. Bởi “đã có những thay đổi diễn ra

trong cách nhìn của xã hội đối với chàng ”, trước đây mọi người tiếp chàng

hết sức hời hợt “Pie được đón tiếp như một người chết hiện về hay một người

mắc bệnh ôn dịch. Công tước tiểu thư lớn tuổi nhất ngừng đọc sách và ngây

người ra nhìn chàng với đôi mắt sợ hãi <25, q1, tr191>. Nhưng đến khi Pie

giàu có, tất cả mọi người lại có thái độ hoà nhã, dịu dàng như nhau đối với

chàng bá tước trẻ tuổi. Pie nghĩ rằng mọi người quí mến mình là lẽ dĩ nhiên và

nếu ai không quí mến mình thì đó là một điều vô lý, cho nên chàng rất tin lòng

thành thực ở những người xung quanh. Pie nghiễm nhiên trở nên giàu có, và

trở thành bá tước Bêzukhôv. Pie nhận được tấm thiếp quen thuộc cuả Anna

Pavlôva “đến nhà tôi ông sẽ gặp nàng Elen xinh đẹp, ngắm không bao giờ

chán mắt ”, đọc đến đây “ Pie lần đầu tiên bỗng cảm thấy giữa chàng và Elen

đã hình thành một mối liên hệ nào đó được những người khác thừa nhận, và ý

nghĩ này khiến cho chàng kinh hãi, dường như chàng bắt đầu phải lĩnh một

trách nhiệm mà mình không thể làm tròn, nhưng đồng thời cùng làm cho

chàng thấy vui thích như một điều phỏng đoán ngộ nghĩnh” <25, q1, tr523>.

L.Tolstôi đã miêu tả tâm lý nhân vật Pie ở nhiều khía cạnh nhau,

về bản chất, về địa vị... Pie còn là người rất vụng, cách xã giao với mọi người

rất kém, không biết dùng những lời nhã nhặn thậm chí chàng còn không biết

vào một phòng khách như thế nào, và lại càng không biết cách đi ra, nhưng bù

lại Pie có vẻ mặt thật thà, giản dị và khiêm tốn. Còn ở Anatôn tác giả đã miêu

85

tả chàng qua dáng điệu, nhanh miệng và hoạt bát trong khi nói chuyện. Nhưng

ở Anatôn lại có khả năng trong khi giao thiệp rất bình tĩnh và tự tin. Trong khi

giao tiếp với Marya chàng chỉ im lặng, đu đưa bàn chân, vui vẻ ngắm bộ tóc

của công tước tiểu thư, chàng có thể yên lặng rất lâu và thản nhiên. Dáng điệu

đó như muốn nói “nếu có ai thấy ngượng nghịu vì sự im lặng này thì cứ nói đi,

chứ tôi đây thì chẳng muốn nói ”. Bên cạnh đó Anatôn còn có phong thái gợi

trí tò mò của phụ nữ, khiến họ cảm thấy sợ hãi và thậm chí yêu mình nữa, một

phong thái khinh thường của một người biết rõ ưu thế của mình. Dáng điệu đó

như muốn nói “tôi biết các cô lắm, tôi biết, nhưng việc gì tôi phải nhọc lòng vì

các cô? Chắc được như thế các cô mừng lắm đấy nhỉ.

nghĩ như vậy khi gặp phụ nữ >, nhưng dáng điệu, phong thái của chàng nó

như thế đấy ” <25, q1, tr563>.

Nhà viết tiểu thuyết cần phải nắm được qui luật phát triển của

tư tưởng, tâm lý con người thì mới có thể khắc hoạ được tính cách của họ, một

cách hoàn thiện. Bên cạnh đó, nhiều khi có những vấn đề như những điều

thầm kín, các nhân vật không thể diễn tả được bằng những hành động ngôn

ngữ mà lúc này đòi hỏi nhà văn phải sử dụng đến nghệ thuật miêu tả tâm lý,

để làm tăng thêm vẻ đẹp tâm hồn cũng như làm cho tâm hồn của mỗi nhân vật

càng thêm phong phú. Đặc điểm tâm lý sẽ làm cho nhân vật xuất hiện giữa

mọi người như một cá tính hoàn toàn độc đáo. Không những thế còn làm cho

nhân vật phát triển một cách hoàn thiện, từ khi xuất hiện cho đến khi kết thúc

tác phẩm. Về con người, L.Tônxtôi đã để cho các nhân vật nhận xét, đánh giá

lẫn nhau. Đối với Anđrây“Pie cho rằng công tước Anđrây là một người mẫu

mực, hoàn mĩ về mọi mặt, chính vì Anđrây đã kết hợp ở một trình độ cao nhất

tất cả những phẩm chất mà Pie không có và có thể gọi một cách gần đúng

nhất bằng danh từ “nghị lực”. Pie bao giờ cũng thán phục cái tài của công

tước Anđrây biết giữ bình tĩnh trong khi giao tiếp với mọi hạng người, cái trí

86

nhớ phi thường, trình độ học vấn uyên bác của chàng và đặc biệt về năng lực

làm việc và học hỏi của chàng” <25, q1, tr139>. Bản chất con người của

Anđrây một lần nữa được khẳng định bằng bức thư của Kutuzôv gửi cho ông

thân sinh của công tước Anđrây “ con bác có thể trở thành một sĩ quan xuất

chúng vì sức làm việc, tính cương nghị và sự cần mẫn của cậu. Tôi lấy làm

sung sướng được một viên thuộc hạ như thế ” <25, q1, tr348>. Đúng như vậy

công tước Anđrây là một trong những sĩ quan hiếm có ở bộ tham mưu quan

tâm chủ yếu đến đại thể của chiến cuộc. Chàng luôn có những suy nghĩ đến

cuộc chiến của quân Nga, và mong muốn được tham gia cuộc giao chiến đầu

tiên, kể từ thời Xuvôrôv giữa quân Nga và quân Pháp.

Những tư tưởng, tình cảm của con người là một quá trình vận

động rất biện chứng, từ sự việc này dẫn đến sự việc khác, từ những cái được

chứng kiến, một cuộc nói chuyện, một cuộc tham quan... cũng làm cho con

người có những suy nghĩ, dằn vặt... như vậy con người đã đi từ sự chưa biết

đến sự hiểu biết, đi từ nhận thức này đến một nhận thức khác hoàn toàn ngược

lại. Một ánh sáng trí tuệ không phải bao giờ cũng đến với ta một cách trực

tiếp, dưới dạng thuần túy tự nhiên của nó. Thường thường bắt đầu là những

cảm giác, những ấn tượng mơ hồ, không rõ rệt, những ấn tượng đó tác động

lẫn nhau trong một phản ứng dây chuyền, cái này làm tiền đề cho cái kia và

đến một lúc nào đấy, trên cơ sở một khối lượng những cảm giác được chất

chứa, một ánh sáng trí tuệ mới vụt hiện ra, đánh đấu một bước chuyển biến về

chất lượng trong quá trình tư duy của con người. Khi miêu tả dòng chảy tâm

lý đang diễn ra trong tâm hồn Pie, nhà văn L.Tolstôi cho chúng ta thấy Pie đi

từ một con người còn ngơ ngác trước cuộc sống, đến một con người biết suy

nghĩ và hành động đáng được tôn trọng, đó là từ khi chàng vào chiến trường

Bôrôđinô. Pie gần như thay đổi hoàn toàn. Khi Pie phát hiện ra vợ mình, Elen,

có tình nhân, lòng ghen tuông đã trở nên cao độ, Pie đã thách đấu súng với

87

Đôlôkhôv . Sau đó Pie đã rời nhà đi Peterburg, trong đầu

chàng xuất hiện một loạt những suy nghĩ mông lung, những câu hỏi không lời

giải đáp. “Cái gì là xấu? Cái gì là tốt? Nên yêu cái gì? Nên ghét cái gì? và ta

là cái gì? Cuộc sống là gì? Cái chết là gì? Sức mạnh nào chi phối tất

cả?chàng tự hỏi ”. “Chàng cảm thấy trong lòng chàng và chung quanh chàng

tất cả đều hỗn loạn, vô nghĩa và đáng ghét. Nhưng trong sự đáng ghét đối với

mọi vật chung quanh, chàng vẫn thấy có một khoái cảm riêng có sức khích

động”<25, q3, tr104>. Cho đến khi Pie gặp một người trong hội Tam điểm.

Chàng “trầm ngâm suy nghĩ đến cái dĩ vãng hư hỏng của mình, và với tâm

trạng say sưa của một con người vừa tái sinh ”<25, q3, tr116>. Từ một con

người có tâm trạng chán trường Pie đã bắt đầu yêu cuộc sống “cần phải sống,

cần phải yêu thương, cần phải tin rằng chúng ta không phải chỉ sống hôm nay

trên mảnh đất này, mà đã sống và sẽ sống vĩnh viễn ở nơi kia, trong vũ trụ”

<25, q3, tr186>. Những suy nghĩ của Pie giống như một thứ ánh sáng trí tuệ

hiện ra, nó đánh dấu một bước chuyển biến về chất lượng trong quá trình tư

duy của con người.

Pie rời bỏ Moxkva đi vào chiến trừơng Borođino với ý thức

đoạn tuyệt cuộc sống cũ và tìm một cái gì đấy mới hơn mà chàng chưa hình

dung được rõ rệt. Chàng chỉ thấy lòng mình “tràn ngập một cảm giác thấy cần

phải làm một việc gì và hi sinh một cái gì mới được ”chàng gặp gỡ những

người thương binh buộc băng trắng vừa hành quân vừa ca hát trên đồi

Môgiaixki, họ không biết được ngày mai họ sẽ ra sao, nhưng tâm hồn họ vẫn

tươi sáng, yêu đời. Thậm chí Pie còn nhìn thấy những người nông dân làm dân

quân mặc áo sơ - mi trắng, ở trên mũ chụp có đính một chữ, thập mồ hôi nhễ

nhại, nói cười bô bô, đang làm việc ở bên phải con đường trên một ngọn đồi

lớn cỏ mọc um tùm. Sau khi gặp Anđrây, Pie hiểu một điều rằng “toàn dân ai

ai cũng muốn đánh giặc, một lời thôi: Moxkva. Mọi người chỉ muốn một kết

88

cục ”<25, q3, tr267>. Tất cả những cái đó tạo nên cho tâm hồn Pie những cảm

giác, những ấn tượng rất mới mẻ, trước đấy chưa từng có. Cứ một ấn tượng

mới xuất hiện lại gợi cho Pie hồi tưởng lại những kỷ niệm cũ và tạo nên

những tiền đề cho các ấn tượng về sau, hình thành một dòng nội tâm trôi chảy

không ngừng. Trong quá trình vận động đó, có những lúc Pie cảm thấy “cần

phải liên kết lại, liên kết lại”, các ấn tượng rời rạc dần dần đan chéo với nhau,

hoà hợp với nhau, va chạm nhau, làm loé lên tư tưởng mới, tư tưởng này giúp

cho Pie soi chiếu lại ất cả những gì đã cảm thụ được trước đây bằng một hào

quang mới : “Cái vấn đề từ khi xuống núi Môgiaixki và suốt ngày hôm ấy Pie

băn khoăn lo lắng, bây giờ đã hiện ra hết sức rõ ràng và đã được hiện ra một

cách rõ ràng triệt để...”. Những người mà chàng gặp, chàng hiểu được cái

nhiệt huyết tiềm tàng của tinh thần yêu nước hiện lên trên gương mặt, chàng

hiểu tại sao những người ấy lại đón chờ cái chết một cách thản nhiên và tựa hồ

nhẹ nhõm như vậy. Cũng chính ánh sáng tư tưởng đó đã dẫn Pie đi đến một

quyết định mới: “Phải làm lính, phải trở thành một người lính, một người lính

thường thôi”.

Pie gặp những người thương binh trên đồi Môgiaixki, gặp

những pháo thủ ở trận địa pháo, gặp đơn vị bộ binh của Anđrây, qua những

cuộc gặp gỡ ở những không gian khác nhau đó, L.Tolstôi đã xây dựng được

một bức tranh hoành tráng về toàn cảnh chiến trường Borođino. Đồng thời

L.Tolstôi lại miêu tả được những diễn biến tâm lý trong tâm hồn Pie. Từ

những độc thoại tha thiết từ đáy sâu tâm hồn của Pie, nhà văn đã kết hợp “biện

chứng pháp lớn ” của lịch sử với “ biện chứng pháp nhỏ” của tâm hồn. Đây là

một bước tổng hợp mới của L.Tolstôi trong việc thừa kế những thành tựu của

sử thi cổ đại với thành tựu của tiểu thuyết thế kỷ 19. Vấn đề đặt ra của

L.Tolstôi là sự hoà hợp giữa cá nhân với cái “biển ” nhân vật rộng lớn, tư

tưởng chủ đề này đã qui định những vòng tròn tâm lý ly tâm của nhân vật.

89

“Phải làm sao cho mọi người đều biết ta, sao cho cuộc đời ta phản chiếu lên

mọi người và mọi người cũng sống với ta”.

Hành động của Pie, Anđrây, Natasa đều hướng ra bên ngoài, từ

thế giới của đẳng cấp quí tộc nhỏ bé hoà mình vào thế giới rộng lớn, từ chân

trời của một người đi tới chân trời của tất cả. Cái cảm giác của Pie khi đặt

chân trên chiến trường Borođino, Pie đưa mắt nhìn về phía trước, và cái quang

cảnh tráng lệ mở ra trước mắt chàng làm chàng ngây ngất ... “ ở khắp nơi,

trước mặt, bên phải, bên trái, đâu đâu cũng thấy quân đội. Quang cảnh thật là

sinh động, hùng tráng và bất ngờ; nhưng điều làm cho Pie ngạc nhiên hơn cả

là quang cảnh của chính bãi chiến trường, quang cảnh của Borođino và của

thung lũng hai bên bờ sông Kolotsa”<25, q3, tr319>. Những chi tiết trên cho

ta thấy, sự phát triển tính cách của nhân vật gắn liền với sự phát triển tâm lý

của nhân vật. Hiện thực khách quan của đời sống tác động vào tâm hồn Pie tạo

nên một phản ứng dây chuyền của những ấn tượng, hồi tưởng, tạo nên một

dòng nội tâm trôi chảy không ngừng, trong đó mỗi một khâu trong sợi dây

chuyền tâm lý gắn liền không những với hoàn cảnh và thời gian mà Pie có mặt

mà còn gắn liền với quá trình xảy ra trước đó và tạo nên một điểm tựa cho

những cảm thụ về sau.

4.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý của Nguyễn Du và Nam Cao.

Nguyễn Đình Thi cũng như những nhà viết tiểu thuyết hiện đại

Việt Nam đã tiếp thu, học hỏi được ở những nghệ sĩ thiên tài như Nguyễn Du,

L.Tolstôi về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Để đi sâu vào đời sống tâm

lý của nhân vật, Nguyễn Du đã sử dụng thành công biện pháp nghệ thuật quen

thuộc của tiểu thuyết hiện đại: độc thoại nội tâm. Đó là những đoạn độc thoại

nội tâm của Thuý Kiều trong tác phẩm, những đoạn tự tố cáo của Mã Giám

Sinh của Hoạn Thư, điều đó chứng tỏ Nguyễn Du là người hiểu biết mọi tầng

lớp người trong xã hội. Nhưng có một điều chúng ta dễ dàng nhận ra là những

90

đoạn độc thoại nội tâm trong nền văn xuôi chữ Hán thường tách ra khỏi ngôn

ngữ của người kể chuyện, đứng độc lập như những bài thơ xướng hoạ, thơ đề

tặng, những bài văn tế . Trong Truyện

Kiều của Nguyễn Du tâm trạng của Kiều được đi vào trong văn mạch chung

của tác phẩm, tâm trạng của nhân vật như vậy sẽ tự nhiên và hiện thực hơn.

Trong cơn gia biến của gia đình, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha.

Truớc khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã nhớ đến Kim Trọng và trong

cái đêm mà cuộc đời mình sắp rẽ sang một bứơc ngoặt đầy oan trái, lưu ly,

Kiều đã thức trắng đêm, khóc rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê, Kiều đã vật vã đau

đớn vô cùng, một mình một bóng đối diện với ngọn đèn suốt canh khuya.

Kiều đã khóc “ lệ tràn thấm khăn ” nàng ân hận buồn tủi, đã tự trách mình “ vì

ta khăng khít cho người dở dang ” là người phụ bạc với người yêu “ Thề hoa

chưa ráo chén vàng, Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa ” Kiều đau khổ bối rối,

xót xa “ Một mình nàng ngọn đèn khuya, áo đầm giọt tủi tóc se mai sầu ”, Cho

đến khi Kiều nói chuyện với Thuý Vân “ Cậy em, em có chịu lời ”, và nhờ em

“ chắp mối tơ thừa ”để đáp lại mối tình của chàng Kim, trao lại cho Thuý Vân

những kỷ vật “ chiếc thoa, bức tờ mây, phím đàn với mảnh hương nguyền

ngày xưa ”... Đến khi Kiều nghĩ đến thân phận mình, tưởng tượng đến khi

nàng chỉ còn là một cô hồn “ thác oan ”lang thang, vật vờ nơi bờ bãi Kiều

không chịu nổi sự đau đớn, nỗi đau cứ mỗi lúc lại dần tăng lên, nàng đã tuyệt

vọng ngất đi trong giá lạnh... Quá trình diễn biến tâm trạng tình cảm của Kiều,

ở đây đã đạt đến một tài năng bậc thầy. Nguyễn Du đã theo dõi từng bước đi

của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc, nắng mưa thui thủi quê người một thân,

một mình Kiều luôn nhớ đến Kim Trọng và gia đình, mỗi lần tưởng nhớ lại

mang một tâm trạng khác nhau, nhất là khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ

thương Kim Trọng lại càng day dứt khôn nguôi. Bao giờ Kiều cũng nhớ đến

Kim Trọng trước khi nghĩ đến cha mẹ “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình

91

nửa cảnh như chia tấm lòng. Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Tin sương

luống những rày trông mai chờ ”. Bi kịch nội tâm trong chặng đường số phận

được miêu tả qua hình thái ngôn ngữ nghệ thuật “ tả cảnh ngụ tình ”, từ xa cho

đến gần, từ ngoại cảnh đến nội tâm, đây là một diễn biến hợp lôgic tâm trạng

của con người. Những đoạn độc thoại nội tâm của Thuý Kiều thường là ở

những chặng đường có ý nghĩa bước ngoặt đối với vận mệnh. Diễn biến nội

tâm qua ngôn ngữ độc thoại hết sức tự nhiên và hợp lôgic. Sau khi nhớ người

yêu, cha mẹ, Kiều đã nghĩ đến thân phận của mình “ Thương thay thân phận

lạc loài ” “Giật mình, mình lại thương mình xót xa ”, Kiều không ngờ cuộc

đời mình lại biến đổi nhanh đến như thế. Mới ngày nào mình còn là tiểu thư

con nhà khuê các, thế mà nay đã trở thành một cô gái dày dạn gió sương, lạc

loài nơi đất khách quê người. Những năm tháng tủi nhục ở lầu xanh đã dạy

cho Kiều những bài học kinh nghiệm đau xót ở đời. Những năm tháng lưu lạc,

khi ở Lâm Tri, khi về Vô Tích, khi bị bán sang Châu Thai, đã làm cho cô gái

cấm cung trở nên từng trải hơn, chín chắn hơn.

Nguyễn Du đã rất tài tình đi sâu được vào đời sống nội tâm hết

sức phức tạp. Sự phát triển tâm lý của Kiều có cơ sở khách quan, bắt nguồn từ

sự vận động của hoàn cảnh xã hội, dẫn đến sự thay đổi trong con người Kiều

cũng như cuộc sống của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc.

Biện pháp nghệ thuật miêu tả độc thoại nội tâm hết sức quan

trọng, nó làm cho người đọc dễ nắm bắt vấn đề, cuộc đời số phận của từng

nhân vật trong tác phẩm. Muốn xây dựng thành công nghệ thuật này nhà văn

phải hiểu được từng con người trong mọi hoàn cảnh. Những nhân vật trong sử

thi của chúng ta thường hành động theo ý thức của cả cộng đồng, yếu tố xã hội

và yếu tố cá nhân là đồng nhất. Với những tinh thần dũng cảm tuyệt vời,

những chiến công vang dội của các nhân vật anh hùng, với cảnh sống sung

túc, chum choé đầy nhà, tiếng chuông ngân vang dội, trâu bò lúc nhúc như bầy

92

mối bầy kiến... đây chính là nét đặc trưng nói lên khát vọng mãnh liệt và tiêu

chuẩn về phẩm chất đạo đức cao quí của nhân dân. Những phẩm chất đó cũng

là lý tưởng thẩm mĩ của thời đại. Chính vì vậy những tác phẩm sử thi mang

được những bức tranh hoành tráng, toàn cảnh của thời đại. Nhưng ngược lại

ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm lại là ngôn ngữ mang tính chất của cả

cộng đồng không mang được những nét riêng ngôn ngữ của từng nhân vật.

Nhân vật chưa có một ngôn ngữ cá thể hoá, ngôn ngữ được dùng bằng cách

nói ví von, giàu hình ảnh, tràn ngập trong các tác phẩm. Nhưng chưa có được

những đoạn miêu tả độc thoại nội tâm. Cho đến văn học hiện thực phê phán đã

có những nhân vật được xây dựng tính cách điển hình, có được một cá tính rõ

ràng như Chí Phèo, hay Xuân Tóc Đỏ... Các nhân vật này được gắn với

những hoàn cảnh nhất định. Nhà văn Nam Cao đã cố gắng đi sâu vào đời sống

tâm lý bên trong của Chí Phèo, cho chúng ta thấy được sự vận động thay đổi

trong tính cách của nhân vật này. Từ khi Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù một cách

oan trái, Chí đã trở thành một con người khác hẳn với con người hiền lành của

Chí trước kia. Chí đi tù về hôm trước, hôm sau đã thấy Chí ngồi uống rượu

với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, Chí xách một cái vỏ chai

đến nhà bá Kiến, có nghĩa là Chí vẫn nhận ra kẻ thù của mình, thậm chí Chí

còn gọi cả tên tục của Bá Kiến ra mà chửi. Như vậy Chí say rượu nhưng

những hành động của Chí vừa là theo bản năng của một tên côn đồ, vừa là

hành động có mục đích tìm đến nhà kẻ thù của mình. Khi Chí rạch mặt ăn vạ

kêu làng nước, Bá Kiến từ đâu về, hắn hiểu ngay được cơ sự. Trong trường

hợp này, hắn biết mềm nắn rắn buông và dùng những lời nói ngọt ngào để dụ

dỗ Chí Phèo. Sự ngọt ngào đã làm Chí mềm nhũn và Chí còn nhận ra mọi

người đứng xem đã về hết, Chí thấy mình hình như còn trơ trọi. “Cái sợ cố

hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi của ngày xưa, hắn thấy quả là táo bạo.

Không táo bạo mà dám gây sự với cha con Bá Kiến, bốn đời làm tổng lý. Và

93

nghĩ thế, hắn thấy hắn cũng oai. Hắn làm cái ông gì ở làng này. Không vây

cánh không họ hàng... ơ thế mà độc lực chọi nhau với lý trưởng, chánh tổng,

bá hộ, tiên chỉ làng Vũ Đại, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc Kì nhân

dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện... Cái cụ bá thét ra lửa ấy lại

xử nhũn mời hắn vào nhà xơi nước... bỗng hắn hơi ngần ngại: biết đâu cái lão

cáo già này nó chả lại lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi... Nhưng nghĩ ngợi một tí,

hắn lại bảo: kêu lên cũng không nước gì .Lão bá vừa nói một tiếng, bao nhiêu

người đã ai về nhà nấy, hắn có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra? vả lại rượu

bây giờ nhạt rồi, liệu có phải rạch mặt thêm mấy nhát thì cũng đau. Thôi cũng

vào cũng vào...”<23, tr219>. Cả đoạn độc thoại trên đây của Chí Phèo đã bộc

lộ đầy đủ rõ nét tâm lý tiêu biểu của Chí Phèo; một con người tự ty, nhưng

cũng thích ra oai anh hùng rơm. Mặc dù say rượu nhưng Chí vẫn tìm ra, và

đưa chân đến đúng nơi có kẻ thù của mình để trả thù. Như vậy không có nghĩa

là Chí hoàn toàn say hẳn mà không nhận ra kẻ thù. Và cũng có nghĩa rằng

trong cả đoạn độc thoại nội tâm trên Chí Phèo vẫn còn trong tình trạng nhận

biết được mọi thứ xung quanh mình. Trong con người Chí Phèo có những

nhược điểm của một kẻ bị đầu độc, bị áp bức. Chí Phèo chỉ là một trong bao

người dân nghèo khổ sống trong cái xã hội cũ bị đẩy vào con đường lưu manh

hoá. Đến một lúc nào đó ánh sáng nhân đạo loé lên từ trong sâu thẳm tâm hồn

họ đánh thức những ước mơ, những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn vốn là

bản tính của người dân lao động.

Miêu tả quá trình phát triển tâm lý của nhân vật, là nhà văn

đang chú ý đến từng chi tiết tinh tế trong thế giới nội tâm của nhân vật. Nó

vốn là viên ngọc quí trong chiều sâu tâm hồn của nhân vật. Cái thế giới bên

trong này của con người mới, với tất cả những hoài bão, ước mơ cao cả,

những tư tưởng tình cảm đẹp đẽ, lại chính là điều hấp dẫn nhất đối với bạn

đọc tiểu thuyết ngày nay. Bên cạnh đó những suy nghĩ bên trong mới là những

94

tình cảm thật, tính cách thật nhất của nhân vật. L.Tolstôi cho rằng: “ Mục đích

chính của nghệ thuật là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên những

điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được ”. Nghệ thuật

độc thoại nội tâm của L.Tolstôi đã có những ảnh hưởng rất lớn đối với tiểu

thuyết hiện đại .

4.3. Sự kết hợp sử thi và tâm lý trong tiểu thuyết Vỡ bờ của

Nguyễn Đình Thi.

ở những chương trên, chúng tôi đã nói đến quy mô sử thi của Vỡ

bờ, những bức tranh hoành tráng phản ánh những sự kiện lịch sử của dân tộc

trong những năm mở đầu đại chiến thế giới lần thứ hai đến Tổng khởi nghĩa

tháng Tám trong toàn quốc. Để kết hợp các yếu tố sử thi và tâm lý, Nguyễn

Đình Thi đã có ý thức học tập những kinh nghiệm thành công của L.Tolstôi.

Ông cũng kế thừa truyền thống miêu tả tâm lý của những nhà văn Việt Nam

như Nguyễn Du, Nam Cao... Ông cho rằng “trong tiểu thuyết thời cổ, người ta

chỉ kể lại các việc làm, lời nói của nhân vật. Tiểu thuyết ngày nay thì lấy cách

miêu tả nhân vật từ bên trong làm chính... Cách miêu tả từ bên trong tâm hồn

nhân vật đã giúp cho tiểu thuyết hiện đại ngày càng đi sâu được vào cuộc sống

tinh thần của con người. Đó là thế giới vô cùng phức tạp và tinh vi, nó vô hình

nhưng lại có ý nghĩa, nhất là có tầm quan trọng quyết định đối với nhân cách

của người ta”. Những nhân vật của Nguyễn Đình Thi thường được chiếu rọi

bằng một ánh sáng ấm áp từ bên trong. Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Vỡ bờ

của ông có một tâm hồn trong sáng và đẹp. Khi miêu tả tâm hồn sâu kín của

nhân vật Nguyễn Đình Thi thường thể hiện qua đôi mắt. Như khi miêu tả

Quyên người con gái giàu đức hi sinh “Quyên không đẹp, nhưng hai con mắt

thông minh, to và sáng làm cho nét mặt Quyên có một vẻ đẹp riêng, như từ

bên trong toả ra”. Chính đôi mắt thông minh của Quyên đã làm cho bạn đọc

thấy được Quyên có một cá tính mạnh mẽ, cứng rắn và biết cam chịu, không

95

nghĩ đến riêng bản thân mình, chăm chỉ làm việc thay anh chăm sóc mẹ và

cháu. Khi nghĩ đến bản thân mình cô chỉ mong gặp được một người như anh

trai mình. Nhìn Quyên bề ngoài ai cũng cho rằng Quyên là một người khô

cứng, nhưng thực chất Quyên vì bận công việc gia đình nên không có thời

gian chăm lo cho bản thân. Khi Quyên tham gia chiến đấu, trên đường đi công

tác từ bến đò Rừng trở về Quảng Yên lúc này có thời gian Quyên đã nghĩ đến

gia đình nghĩ về làng xóm về quê hương. Hay khi miêu tả An, An có “đôi mắt

đen mở to, như có sóng trào lên từ bên trong, trào lên mãi ”. Đôi mắt, ánh mắt

nhìn, nhìn vào đó người ta có thể đoán biết phần nào tính cách của nhân vật.

Chiều sâu của tâm hồn được bộc bạch, được nói ra qua đôi mắt, vì vậy nhà

văn Nguyễn Đình Thi thường miêu tả đôi mắt để nói lên những tâm tư tình

cảm, những điều bí ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Qua đôi mắt của

Phượng, Nguyễn Đình Thi đã khắc hoạ nhiều mặt khác nhau trong cùng một

con người, thậm chí mâu thuẫn với nhau trong tính cách của Phượng. Khi còn

ngồi trên ghế nhà trường, có một cô Phượng ngây thơ, trong sáng với tình yêu

ban đầu đẹp đẽ nhưng sau này là một cô Phượng vẩn đục, chán chường, mệt

mỏi trong quan hệ với huyện Môn và hoạ sĩ Thanh Tùng: <

cười với mình trong gương. Nom nàng lúc này dễ thương như con chim non.

Nhưng Phượng biết mặt nàng có thể đổi đi khác hẳn, và khi đôi mắt long lanh

lên cháy một ngọn lửa kỳ lạ bên trong, và cái miệng ấy bỗng cười nói sắc sảo

thì Phượng có một vẻ đẹp riêng, hơi ác mà làm cho người nhìn thấy phải bàng

hoàng”. Bằng cách miêu tả ánh mắt vừa hiền vừa ghê đã làm cho Phượng biến

đổi từ con người này trở thành con người khác ngay được. Qua đó Nguyễn

Đình Thi đã mô tả được những nét tâm lý sâu kín bên trong của Phượng và do

đó đã khắc hoạ được nét tính cách của nhân vật này. Nhưng dù sao nhân vật

Phượng, theo nhiều cách đánh giá khác nhau, được ngòi bút Nguyễn Đình Thi

phần nào thi vị hoá, lãng mạn hoá, dành hơi nhiều tình cảm cho Phượng mà

96

nhẹ phần phê phán. Thực chất Nguyễn Đình Thi muốn xây dựng “Phượng một

nhân vật phức tạp, mang bi kịch nội tâm và nổi loạn một cách bế tắc, tuyệt

vọng. Nhưng ở Phượng vẫn còn chút nhân phẩm, khi chán và ruồng rẫy tên

huyện Môn, Phượng chán cảnh sống sa đoạ, trống rỗng, ao ước một cái gì

trong sáng hơn, đáng sống hơn, nhưng lại không đủ can đảm đoạn tuyệt với

cuộc đời hưởng thụ, lười biếng vốn đã trở thành thói quen của mình” <11,

tr194>.

Khi viết về nhân vật phụ nữ, hay nhân vật chính diện thường

ngòi bút của Nguyễn Đình Thi thành công hơn cả. ở nhân vật Phượng, nhà

văn miêu tả đôi mắt để qua đó nói lên được nhiều khía cạnh khác nhau trong

cùng một con người .Và đôi mắt là dăm, dài, sắc sảo đã nói lên một Quế

nhanh nhẹn, từng trải. Cũng bằng biện pháp miêu tả độc thoại nội tâm,

Nguyễn Đình Thi đã dùng một mũi tên bắn trúng hai mục đích, một Nghị

Khanh dâm ô, gian xảo và con người lấy thịt đè người của mụ vợ Nghị Khanh.

Khi Nghị Khanh nghĩ về mụ vợ của mình, ta nhận ngay thấy Nghị Khanh là

một tên hám sắc, đểu giả. Sự vận động trong tính cách của Nghị Khanh rất

hợp lôgíc, khi hắn lợi dụng Quảng Lợi hùn vốn làm ăn. Để rồi hắn vừa mong

chiếm được bà vợ Mỹ Lan xinh đẹp của Quảng Lợi, vừa chiếm được cửa hàng

sắt của lão ta. Thật là một con người đầy mưu mô xảo quyệt, dẫm đạp lên

nhau để sống, không bỏ qua một thủ đoạn nào miễn là hắn chiếm được lợi về

mình. Còn mụ vợ béo, già của Nghị Khanh cũng đầy những tính toán mưu mô

khi mụ che đậy cho đứa con gái cưng duy nhất không còn nguyên vẹn để mọi

người không nhận ra. Hay Tư một hoạ sĩ nghèo không có điều kiện để phát

triển tài năng của mình, cuộc sống ngày một héo mòn, khổ cực. Nhiều khi Tư

không dám nghĩ đến tình yêu đối với Bích, bởi trước đó Tư đã có tình yêu

trong sáng với Phượng nhưng Tư nghèo, Phượng lại quen thói hưởng thụ phú

quí nên tình yêu trong sáng của Tư và Phượng đã không thành. Tư hiền lành

97

trong sáng luôn khát khao đi tìm một lý tưởng trong cuộc sống chật hẹp, tù

túng của xã hội cũ. Nguyễn Đình Thi đã để các nhân vật của mình tự hành

động trong dòng thác của cuộc sống. Chiến tranh và thất nghiệp và nạn đói,

luôn đặt ra cho họ những câu hỏi dồn dập nhưng không phải bao giờ họ cũng

tìm ngay ra những lời giải đáp. Lang thang trên hè phố Hà Nội những ngày

Mỹ ném bom và Nhật đảo chính Pháp, người chết đói và xác bọn lính khố đỏ

nẵm la liệt ngoài đường. Tư thấy “trong lòng anh lại tối sầm xuống. Rồi đây

có thay đổi được cái gì không ?... Phải có “cái gì ” khác nữa, Tư chưa biết nó

là cái gì và sẽ thế nào, nhưng phải có cái gì khác nữa ”. Trong tâm tưởng của

Tư luôn đặt ra những câu hỏi, những suy nghĩ mong có sự thay đổi cuộc sống,

thay đổi những cái hàng ngày đang diễn ra mà nó đang bóp nát những cuộc

đời, những mầm non vô tội, nó làm thui chột những tài năng của đất nước.

Những dòng ý thức, những suy nghĩ của Tư luôn trôi chảy theo sự vận động

của thời gian, của thời cuộc. Cũng như Tư, Nguyễn Đình Thi đã ném Hội ra

giữa dòng xoáy của xã hội, đầy dẫy nhưng hỗn loạn của cuộc sống, để Hội tự

suy nghĩ và hành động. Sau khi cái trường “thổ tả” của Hội phải đóng cửa vì

chiến tranh, các bạn bè bị bắt bớ, còn mình thì lâm vào cảnh thất nghiệp, Hội

luôn bị ám ảnh bởi một câu hỏi: “ làm gì, mình làm gì bây giờ ? “Càng nghĩ,

Hội càng thấy lạc mãi vào một cái gì mênh mông, hình như có một sợi dây

nào mà nếu tìm thấy thì anh sẽ hiểu được tất cả, nhưng cái sợi dây ấy lại

không lúc nào anh có thể tìm thấy được ”. Như vậy nó giống như một mối

bòng bong, mối tơ vò mà Hội tìm mãi không ra lời giải đáp. Nhưng cuối cùng

Hội cũng tìm được hướng đi cho mình, sau bao ngày vật lộn. Hội đã tham gia

vào những hoạt động của xã, và cuối cùng làm chủ tịch xã. Như vậy sợi dây

chuyền tâm lý diễn ra trong Hội, cũng như Quyên... luôn hướng ra bên ngoài,

nó đựơc gắn liền với hoàn cảnh và thời gian. Những vòng tròn tâm lý của Hội,

Quyên... là những vòng tròn ly tâm ly tâm. ở đây có sự tác động vào nhau

98

giữa yếu tố sử thi và yếu tố tâm lý, nội dung sử thi rộng lớn trong cuộc đấu

tranh cách mạng gắn với sự phát triển tâm lý của nhân vật, nó thấm sâu vào

đời sống nội tâm của con người, làm cho đời sống nội tâm phát triển liên tục,

dường như là một quá trình độc lập, tự phát, tự vận động.

Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung mô tả những

hành động cách mạng, những hành động của người anh hùng mới đang đứmg

lên cải tạo hoàn cảnh, cải tạo cuộc sống. Những suy nghĩ, những diễn biến nội

tâm phong phú của từng nhân vật, được thể hiện bằng những hành động cao

cả. Qua đó người đọc dễ dàng cảm nhận, và còn có khả năng đồng cảm với

từng số phận con người.

99

Kết luận

Văn học Việt Nam ngày một nảy nở trong vườn hoa muôn

màu, muôn sắc. Mỗi tác phẩm ra đời luôn là tiếng nói của thời đại, phản ánh

cuộc sống chân thực và sinh động. Những bức chân dung cuộc sống bằng

ngôn từ hiện dần ra trước mắt độc giả. Thời đại nào cũng có những thể loại,

những tác phẩm đặc sắc và cảm hứng chủ đạo làm giọng điệu riêng. Tiểu

thuyết Việt Nam 1945-1975 nói chung và tiểu thuyết Vỡ bờ nói riêng đã lấy

cảm hứng sử thi làm cảm hứng trung tâm. Đây là thời kỳ lịch sử có những

biến động dữ dội, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử nước nhà

và nó có khả năng quyết định đến vận mệnh của cả cộng đồng.

Đất nước ta từ trong đau thương, đói nghèo, lạc hậu đi lên chủ

nghĩa xã hội, một đất nước độc lập tự do, văn minh và dân chủ. Thực tế lịch sử

ấy đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho các nghệ sĩ ngôn từ khai thác, tái hiện

mạnh mẽ và sinh động vô cùng. Một thời đại anh hùng đã sinh ra một nền văn

học anh hùng, những con người anh hùng. Bản chất anh hùng được tiềm ẩn và

đến thời kỳ này có dịp bùng phát. Điều này làm cho tiểu thuyết -sử thi hiện đại

Việt Nam đạt tới một đỉnh cao về nghệ thuật, nó như một bước tổng hợp của

các yếu tố sử thi, kịch, và trữ tình... Đặc biệt ở đây tác giả đã miêu tả được

một không khí lớn, một cảm hứng sử thi hướng tới những xung đột lớn của

lịch sử. Thế giới chìm trong máu lửa của cuộc đại chiến lần thứ hai, dân tộc

Việt Nam chịu sự kìm kẹp của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Cái khéo của

Nguyễn Đình Thi là đã miêu tả được những xung đột, sự kiện trong một

không gian sử thi, và một thời gian lịch sử, không gian và thời gian này được

hoà nhập với thời hiện tại của đất nước. Thời gian được miêu tả trong tác

phẩm là thời gian đa tuyến song song, tuyến sự kiện lịch sử và tuyến nhân vật

đan chéo nhau... Cái chính ở đây là Nguyễn Đình Thi đã luân chuyển được sự

100

cảm nhận của độc giả cùng chung với sự cảm nhận của mình, của chính thời

đại mình. Sự thống nhất về quan điểm đánh giá, cảm thụ này chính là sự thống

nhất trường nhìn bạn đọc ở góc độ hiện thực bằng cái nhìn cộng đồng. Điểm

nhìn nghệ thuật này tạo ra một khoảng cách sử thi nới giãn đến mức tối đa,

nhưng lại kéo gần công chúng văn học với bức tranh hiện thực được phản ánh

trong tác phẩm. Vỡ bờ đã thể hiện được những vấn đề trên một cách xuất sắc,

điều này một lần nữa khẳng định Vỡ bờ là một trong những bộ tiểu thuyết - sử

thi của văn học hiện đại mang màu sắc cổ điển .

Nguyễn Đình Thi đã sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với

bút pháp lãng mạn cách mạng để khắc hoạ các hình tượng nhân vật, với nhiều

tuyến nhân vật. Tuyến nhân vật chính dịên có phẩm chất ổn định. Những

phẩm chất này mang dấu ấn của sử thi, nhưng ngoại hình và tính cách lại

mang tính cá thể hoá, mang dấu ấn của tiểu thuyết với sự bình dị, vừa bình

thường vừa phi thường. Khi bị bắt giam trong tù Khắc vẫn hồn nhiên ngâm

Kiều. Trong thế giới nhân vật chính diện tác giả sử dụng ngòi bút ngưỡng mộ

ngợi ca, lúc trực tiếp khi gián tiếp. Còn các nhân vật phản diện tác giả dùng

ngòi bút châm biếm, mỉa mai với thái độ khinh bỉ, căm ghét. Nhìn chung tác

giả đã xây dựng được những hình tượng nhân vật hết sức sinh động, sáng

ngời. Nhờ Cách mạng và trong cách mạng, người dân đã rũ bỏ được thân phận

khốn cùng, vượt qua những đau khổ, những mất mát của mình trở thành người

chủ của xã hội. Họ đã ý thức một cách tự giác về quyền lực và chỗ đứng của

mình. Qua đó, sức mạnh vô song của dân tộc, những hy sinh “Quyết tử cho Tổ

quốc quyết sinh” đều đi lên từ biển cả nhân dân. Cách mạng lên, soi sáng,

nhân dân không ngừng được giáo dục. Cách mạng luôn sáng mãi trong tâm

hồn của mỗi người dân. Chiến tranh cách mạng đánh thức truyền thống tốt đẹp

của mấy nghìn năm lịch sử, không một ai trên đất nước đứng ngoài cuộc cách

mạng, tất cả đều bị cuốn vào dòng thác lớn của lịch sử. Như có một sức mạnh

101

kỳ diệu, một sức chuyển mình đến bất ngờ trong cái say sưa náo nức của hàng

triệu dân cày, thợ thuyền... xuống đường tham gia cách mạng. Ưu điểm ở đây

là tác giả đã mở rộng hoàn cảnh từ hẹp đến rộng, theo dõi một khối lượng

nhân vật tham gia vào tiến trình lịch sử. Khắc, Lê, Quyên, Gái... là những mẫu

người anh hùng trong thời đại, họ đẹp trong tính cách, ngời sáng về phẩm

chất, và “mang những giá trị lớn lao về tinh thần, nó rộng lớn và thân thiết với

nhân dân như ở những nhân vật anh hùng sử thi xa xưa, mặc dù tính cách này

được tái hiện bằng màu sắc hiện thực, trong hoàn cảnh và tầm vóc hiện

thực”<18, tr42>.

Miêu tả xã hội trên một trường rộng lớn cho nên kết cấu tất yếu

mang tính sử thi. Một kết cấu đa tuyến, nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện

nhân vật đan chéo nhau, đây là ưu điểm của bộ tiểu thuyết Vỡ bờ nói riêng và

tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói chung. Trong đó, các tuyến hành động nằm

song song với nhau, đan chéo và chi phối nhau. Bên cạnh chủ đề về chiến

tranh cách mạng, còn có chủ đề về sự tha hoá của nghệ thuật và sắc đẹp trong

xã hội kim tiền. Trong mỗi chủ đề, các nhân vật hành động, và mỗi một sự

kiện được soi, chiếu vào một, hay một số nhân vật nhất định. Những tuyến

nhân vật hành động nhằm hướng đến những mục đích khác nhau, nhưng đến

cuối tác phẩm hay kết thúc tất cả đều hoà nhập cùng với dòng thác lịch sử.

Như vậy để đáp ứng nhu cầu của thực tại, sự xuất hiện của kiểu kết cấu đa

tuyến, mới có thể chứa đựng được những nội dung mới, đặc biệt là nội dung

sử thi. Có nghĩa tiểu thuyết - sử thi không thể vắng bóng trong quá trình phát

triển nền văn học nước nhà. Sức mạnh của tiểu thuyết - sử thi như nguồn mạch

tươi mát làm sống dậy những giá trị tinh thần của nhân dân ta trong mọi thời

đại.

Tiểu thuyết - sử thi Vỡ bờ đã góp vào tiếng nói chung của dân

tộc, làm phong phú thêm cho thể loại. Trong quá trình vận động cùng với sự

102

phát triển của văn học nước nhà, dòng tiểu thuyết- sử thi có sự đóng góp to

lớn và có nhiều ưu thế trong việc tái tạo hiện thực lịch sử trong những năm

chiến tranh và cách mạng. Tiểu thuyết - sử thi hiện thực xã hội chủ nghĩa của

chúng ta đã trở thành một khuynh hướng tiểu thuyết phát triển mạnh. Cùng

với các ngành nghệ thuật khác đang phát triển, tiểu thuyết - sử thi hiện đại

tổng hợp vào bản thân mình những thành tựu nghệ thuật của điện ảnh, âm

nhạc cùng các loại hình nghệ thuật khác .

Tiểu thuyết Việt Nam những năm 60

Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng>,70

phẳng lặng của Tô Nhuận Vĩ> đã mở đường cho tiểu thuyết - sử thi những

năm 80 như Đất trắng của Nguyễn trong Oánh, Đất miền đông của Nam Hà,

Người cùng quê của Phan Tứ... Trên đà phát triển đất nước như hiện nay,

chúng ta mong muốn sẽ có những bộ tiểu thuyết - sử thi viết về đề tài hôm

nay, ngày mai trong quá trình xây dựng và trưởng thành của đất nước Việt

Nam thân yêu./.

103

Thư mục tham khảo

1. Nam Cao (1999) - Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục

2. Nguyễn Minh Châu (2001) - Dấu chân người lính (tiểu thuyết tập 1), NXB

Thanh niên

3. Nguyễn Du (1996) - Truyện Kiều, NXB Giáo dục

4. Phan Cự Đệ (2000) - Tuyển tập Phan Cự Đệ(tập 4), NXB Văn học, Hà Nội

5. Phan Cự Đệ (2001) - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo Dục, Hà

Nội (tái bản)

6. Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Tạp chí Học tập số

11-1973

7. Phan Cự Đệ -Tiểu thuyết phiêu lưu và tiểu thuyết tâm lý, Tạp chí Nhà văn,

Hội nhà văn Việt Nam, số 7-2003

8. Phan Cự Đệ - Mã Giang Lân - Hà Văn Đức - Bùi Việt Thắng... (2004) -

Văn học Việt Nam thế kỷ xx, NXB Giáo dục

9. Hà Minh Đức (chủ biên) - Đỗ Văn Khang- Phạm Quang Long (2001)... Lí

luận văn học, NXB Giáo dục

10. Hà Minh Đức - Vỡ bờ, một thành công mới của Nguyễn Đình Thi, TCVH

số 206

11. Hà Minh Đức, Trần Khánh Thành (Giới thiệu và tuyển chọn)(2002)

Nguyễn Đình Thi - Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục (tái bản)

12. Nguyễn Văn Hạnh - Vỡ bờ và nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Đình

Thi, TCVH, số 12-1971

13. Đinh Gia Khánh - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn (chủbiên)(2000) -

Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục

14. Mã Giang Lân - Hà Văn Đức - Bùi Việt Thắng...(2000) - Quá trình hiện

đại hoá văn học Việt Nam 1900-1945, NXB Văn hoá Thông tin

104

15. Đặng Thanh Lê (1999) - Giảng văn Truyện Kiều, NXB Giáo dục

16. Phong Lê - Chung quanh vấn đề Vỡ bờ, TCVH số 6-1972

17. Đỗ Quang Lưu (2000) - Tập nghiên cứu và bình luận Văn học chọn lọc

(tập 4), NXB Hà Nội

18. Nguyễn Văn Nam - Khuynh hướng sử thi trong tiểu thuyết hiện thực xã

hội chủ nghĩa, Luận án tiến sĩ

19. Chu Nga - Nhà văn Nguyễn Đình Thi, Báo Văn nghệ số 390 - 1971

20. Vũ Ngọc Phan - Vỡ bờ (quyển 1) của Nguyễn Đình Thi, tháng 7- 1962

21. Tịnh Sơn - Vỡ bờ, một bước tiến mới của nền tiểu thuyết Việt Nam, Tạp

chí Nghiên cứu Văn học, số 10 - 1962

22. Nguyễn Đình Thi (1993) - Vỡ bờ (tiểu thuyết tập 1) - NXB Hội nhà văn

(tái bản)

- Vỡ bờ (tiểu thuyết tập 2) - NXB Hội nhà văn

(tái bản)

23. Văn học Việt Nam (sách giáo khoa - văn 10, 2001), NXB Giáo dục

24. M.Bakhtin (1992) - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch

và tuyển chọn), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội

25. LepTônxtôi (1976) - Chiến tranh và hoà bình (tiểu thuyết tập 1), NXB Văn

học

- Chiến tranh và hoà bình(tiểu thuyết tập 2), NXB Văn học

- Chiến tranh và hoà bình (tiểu thuyết tập 3)(1979), NXB Văn

học

26. Lep Tônxtôi (1978)(Hoàng Oanh dịch) - NXB Văn hoá

105