LUẬN VĂN:
Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung
học phổ thông tỉnh Nam định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay là từng bước hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ. Đó là những công dân tương
lai, những người lao động mới phát triển toàn diện trên tất cả các mặt sao cho phù hợp với
yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước cũng như phù hợp với sự phát triển của thời
đại.
Luật giáo dục 2005 đã chỉ rõ:“ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [Điều
27].
Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang có những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc,
mọi mặt của đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa, đã mang lại
cho nước ta nhiều cơ hội lớn để phát triển cũng như những thành tựu to về kinh tế, văn
hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế…Tạo tiền đề quan trọng đưa nước ta
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và hòa nhập vào dòng chảy của thời đại.
Bên cạnh đó, trong sâu thẳm của đời sống xã hội, chúng ta đang phải đối mặt trước
những vấn đề mang tính báo động, đó là sự tha hóa về nhân cách, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là học sinh THPT; những tệ nạn xã hội đang ngày
đêm hoành hoành, len lỏi phá hoại nếp sống văn minh, đạo lý truyền thống tốt đẹp ngàn
đời của dân tộc. Đây là những vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của quốc
gia, dân tộc trong quá trình hội nhập.
Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, kinh tế, đạo đức và pháp luật… góp phần
xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT được thực hiện ở tất cả các môn học,
thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Trong đó, môn GDCD là môn học cơ
bản, trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức nêu trên theo một hệ thống xác định và
toàn diện.
Thực tế hiện nay môn GDCD chưa được quan tâm đúng mức, nhiều giáo viên giảng
dạy bộ môn còn đang đứng bên lề của nền giáo dục, đa số học sinh không thích học môn
GDCD vì môn này không phải thi, cho rằng những kiến thức cơ bản về đạo đức, triết học,
pháp luật, kinh tế, chính trị có thể học ngoài xã hội…Nhiều học sinh ngồi trên ghế nhà
trường chỉ trăn trở suy nghĩ về tương lai nghề nghiệp của mình, mà rất ít khi dành thời gian
nhìn nhận xem mình là ai. Không ít học sinh THPT giỏi về tư duy nắm bắt tri thức các
môn khoa học cơ bản nhưng yếu kém về phẩm chất đạo đức, nhân cách.
Trong những năm qua, học sinh Nam Định luôn phát huy truyền thống hiếu học,
ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam định đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, luôn là lá cờ
đầu trong phong trào giáo dục của cả nước. Tuy nhiên, giáo dục cấp THPT vẫn còn tồn tại
nhiều yếu kém, bất cập. Bộc lộ rõ nhất là chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng giáo
dục nhân cách cho học sinh THPT qua môn GDCD còn thấp.
Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của một bộ phận không nhỏ học
sinh có những biểu hiện đáng lo ngại: nhận thức lệch chuẩn, mờ nhạt lý tưởng, lối sống
thực dụng, đua đòi, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp. Nhiều học sinh đã sa ngã vào
những tệ nạn xã hội, tiếp cận với những thông tin không lành mạnh, hư hỏng, bị xói mòn
và băng hoại về tâm hồn và thể xác. Tình trạng vi phạm pháp luật, xuống cấp về đạo đức,
nhân cách của lứa tuổi học trò đã và đang ngày càng tiếp diễn, là tiếng chuông báo động
đối với sự tồn tại và phát triển của tỉnh nhà.
Vì vậy, việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT là một trong
những vấn đề được đặt ra hết sức cấp thiết. Đây cũng là nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
GD&ĐT tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
Với mong muốn góp một phần của mình vào việc nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả
giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Nam Định hiện nay, thông qua chất lượng giảng
dạy và học tập bộ môn GDCD, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng và phát triển nhân cách học
sinh trung học phổ thông tỉnh Nam định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện
nay”, làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thông qua giảng dạy môn GDCD để hình thành và phát triển nhân cách cho học
sinh THPT là một nội dung rất quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo con người
của Đảng. Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục nhân cách
dưới những góc độ khác nhau, có giá trị rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể là:
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đề tài mang mã số NN7: “ Cải tiến công tác
giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo
dục quốc dân ” do Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu về nhân cách nói chung,
về giáo dục đạo đức, chính trị và tư tưởng trong các trường từ tiểu học đến đại học những năm
đầu của thập kỷ 90.
Các đề tài do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm mang mã số: KX - 07.01. “Phương
pháp luận nghiên cứu con người” (1991 -1995); KHXH- 04. “Phát triển toàn diện con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996 - 2000); KH – 05.07.
“Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế
thị trường” (2001 - 2005). Tác giả đã nghiên cứu về con người với tư cách là mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc nhân cách,
thực hiện giáo dục đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu
quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Trọng Phúc ( 2003), “ Mấy vấn đề đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn
sách đã phân tích những biến động trong lĩnh vực đạo đức, lý giải vai trò của đạo đức,
khẳng định yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục, xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện
nay…
Huỳnh Khái Vinh ( 2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã
hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đề cập những vấn đề cơ bản của lối sống,
đạo đức với phát triển văn hóa và con người, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội…
“Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc gia”,
(2002), của viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội…Đây là
tập hợp những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến
lược phát triển giáo dục nước ta giai đoạn hiện nay.Trong đó đáng chú ý có nhà nghiên
cứu Hà Thế Ngữ đã đi sâu nghiên cứu vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức thông qua
giảng dạy các môn khoa học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội và nhân văn. Ngoài ra
tác giả còn đề cập đến việc rèn luyện phương pháp tư duy khoa học, trên cơ sở đó giáo dục
thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi
đạo đức cho học sinh. Phạm Hoàng Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục nhận thức
khoa học với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cách trong lối sống và đưa ra dự báo
mô hình nhân cách thanh niên năm 2000.
Đào Thị Oanh (2007), “Vấn đề nhân cách trong tâm lí học ngày nay”, Nxb Giáo
dục, Hà Nội. Cuốn sách tổng hợp và khái quát lí luận tâm lí học về nhân cách, đề xuất các
giải pháp về hình thành, phát triển nhân cách trong công tác giáo dục thế hệ trẻ…
Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ khác nghiên cứu đến vấn đề
đạo đức, nhân cách học sinh, sinh viên như:
Luận án tiến sỹ triết học của Trần Sỹ Phán (1999), nghiên cứu về: “Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay”.
Luận án tiến sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của Đỗ Tuyết Bảo (2001) với
vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh
ở nước ta hiện nay”.
Luận án tiến sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm
(2008) nghiên cứu về: “Giáo dục tinh thần yêu nước Xã hội chủ nghĩa cho học sinh THPT
ở miền Đông Nam Bộ hiện nay”. Luận án thạc sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của
Nguyễn Sỹ Quyết Tâm (2003) nghiên cứu về: “Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa qua
môn giáo dục công dân cho học sinh trung học phổ thông ở Bà Rịa – Vũng Tàu hiện
nay”…
Tôi đã kế thừa trực tiếp những thành quả nghiên cứu khoa học nêu trên, dựa vào
những gợi mở của các tác giả đi trước về lý luận và phương pháp để triển khai công trình
của mình.
Tuy đã có nhiều công trình của các nhà khoa học nghiên cứu về con người, giáo dục
đạo đức, phát triển nhân cách. Nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu trực tiếp về: “Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam
định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay”. Vì vậy, đề tài của tôi không trùng
lặp với các công trình đã được công bố. Những tài liệu nêu trên giúp ích cho tôi trong việc
tham khảo để nghiên cứu đề tài, viết luận văn thạc sỹ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng của vấn đề nhân cách, vai trò của môn GDCD và
thực trạng xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT ở tỉnh Nam Định qua giảng
dạy môn GDCD, từ đó đề xuất những định hướng, giải pháp xây dựng và phát triển nhân
cách tốt đẹp cho học sinh THPT tỉnh Nam Định, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích vấn đề nhân cách và vai trò của môn GDCD trong xây dựng và phát
triển nhân cách cho học sinh THPT.
- Phân tích tình hình xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam
Định qua giảng dạy môn học GDCD, nêu những nguyên nhân ảnh hưởng, bài học kinh
nghiệm và những vấn đề đang đặt ra.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp xây dựng, phát triển nhân cách cho học
sinh THPT ở Nam Định qua môn GDCD.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học
sinh THPT tỉnh Nam Định qua môn GDCD.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu là một số trường THPT điển hình ở tỉnh Nam Định.
Thời gian nghiên cứu từ năm 1997 – khi Nam Định được tái lập tỉnh và bắt đầu
triển khai thực hiện Nghị quyết BCH TW khoá VIII về GD & ĐT.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới liên
quan đến giáo dục nhân cách, định hướng giá trị cho thế hệ trẻ.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng sự băng hoại về đạo đức, lối sống,
xói mòn về nhân cách, phai nhạt về những chuẩn mực đạo đức và thực tiễn công tác
giảng dạy môn GDCD cho học sinh THPT ở tỉnh Nam Định những năm vừa qua.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cở sở vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương
pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê xã hội học…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ hơn tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh
THPT từ hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội.
Đánh giá tình hình xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam
Định qua giảng dạy môn GDCD hiện nay.
Từ đó đã đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nhân
cách cho học sinh THPT ở tỉnh Nam định qua môn GDCD.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn vai trò của môn GDCD đối với quá trình
xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT.
Kết quả nghiên cứu của tác giả có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy môn GDCD trong trường THPT, công tác chỉ đạo của các cán bộ
quản lý giáo dục ở nước ta nói chung và ở tỉnh Nam định nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 6 tiết.
Chương 1
NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG
1.1. NHÂN CÁCH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Vấn đề nhân cách và xây dựng, phát triển nhân cách cho học sinh THPT là vấn đề
trung tâm của hệ thống khoa học giáo dục về con người, nó vừa có ý nghĩa lý luận vừa có
ý nghĩa thực tiễn lớn lao đối với sự tồn tại và hưng thịnh của mỗi quốc gia, dân tộc trong
quá trình hoà mình vào dòng chảy của thời đại hôm nay và mai sau.
Xuyên suốt chiều dài của lịch sử tư tưởng nhân loại đã có rất nhiều khoa học tiếp
cận nghiên cứu về nhân cách và những vấn đề có liên quan đến nó ở nhiều góc độ khác
nhau như: triết học, giáo dục học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học….Tuy nhiên, triết
học là một bộ môn khoa học giải đáp rõ nét, cơ bản nhất bản chất xã hội của con người và
những vấn đề chung về nhân cách con người. Đây là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng,
cung cấp cho các nhà giáo dục những hiểu biết khoa học trong quá trình nghiên cứu, xây
dựng phát triển nhân cách cho học sinh THPT.
1.1.1. Khái niệm con người, cá nhân, nhân cách
1.1.1.1. Con người và bản chất con người
Ngay từ khởi đầu Triết học đã chú ý và coi con người là đối tượng nghiên cứu. Vào
đầu thế kỷ thứ V - thứ VI sau CN, nhà triết học Bôêtut (480-525, La Mã) đã đưa ra một
định nghĩa khá hoàn chỉnh về con người. Theo ông: Con người là một bản thể cá thể của
bản chất lý trí, như là một cá thể; nó là vật chất, từ đó tạo nên nguyên tắc cá thể hoá. Tâm
hồn không phải là con người, mà chỉ là một cái gì đó được tạo lập nên. Chỉ một mình
người là một trong tồn tại người vật chất; người là tồn tại vật chất cao nhất, tạo nên các
phẩm chất đặc biệt là nhân phẩm và các quyền.
Quan điểm duy tâm, siêu hình đã quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý
thức, tư tưởng, tình cảm, đạo đức. Xem bản chất con người là cái gì đó dược quy định sẵn
từ tự nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển giống
nòi. Do đó, giải thích bản chất con người từ góc độ những điểm chung của mọi sinh vật
trên trái đất. Hoặc lại tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng lẻ, nghĩa
là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó.
Tính chất siêu hình của các quan điểm trên về bản chất con người biểu hiện ở chỗ:
coi bản chất con người là cái vốn có, trừu tượng và quy nó về bản tính tự nhiên, tách khỏi
xã hội và trở nên bất biến.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng C.Mác và Ph.Ăngghen
đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức con người và bản chất con
người.
Các ông xem xét, phân tích con người xuất phát từ con người hiện thực, con người
thực tiễn và chỉ rõ: thông qua hoạt động thực tiễn con người làm biến đổi đời sống xã hội,
đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Điều đó nghĩa là con người tiếp nhận bản
chất xã hội của mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội Đứng về mặt
sinh học thì “Con người là một bộ phận của giới tự nhiên” (…, tr135), phát sinh trực tiếp
từ động vật. Theo Ph.Ăngghen: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra,
cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính
vốn có của con vật. Thành thử bao giờ cũng chỉ nói đến việc những đặc tính ấy có ảnh
hưởng nhiều đến sự chênh lệch về mức độ thú tính và tính người mà thôi”. ( …, tr146)
Như hết thảy mọi sinh vật khác, con người sống dựa vào tự nhiên nhưng khác ở chỗ
con người không chỉ dựa vào, mà còn cải tạo giới tự nhiên, tạo ra tự nhiên thứ hai xung
quanh mình. Ph.Ăngghen chỉ ra bước chuyển từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá
trình con người lao động cải tạo giới tự nhiên cũng là quá trình con người tạo ra con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Lao động sáng tạo ra con người là theo nghĩa đấy”.
Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con
người. Song Chủ nghĩa Mác không coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận yếu tố sinh vật trong
các yếu tố cấu thành bản chất con người. Theo Mác: “giới tự nhiên là thân thể của con
người”. Con người gắn liền với giới tự nhiên vì con người là một bộ phận của giới tự
nhiên. Mỗi người sinh ra trước hết là một thực thể tự nhiên, một sản phẩm của thiên nhiên,
một bộ phận của vũ trụ và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên phức tạp.
C.Mác vạch ra sự khác nhau giữa con người và con vật: Con vật hoạt động theo bản
năng còn con người hoạt động theo ý thức. Chính mặt xã hội của con người đã làm cho
mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật khác.
Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền, có sẵn
như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá, của tiến bộ lịch
sử - xã hội. Khi xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Sự phát
triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội vì mỗi người đều sống trong
xã hội nhất định, là sản phẩm của lịch sử - xã hội, sản phẩm của nền văn minh.
Từ một con người tự nhiên phát triển thành một nhân cách, con người phải chịu
hàng loạt những tác động, chi phối của những yếu tố chủ quan và khách quan, theo cả quy
luật tự nhiên và quy luật xã hội.
Sự phát triển của con người là sự trưởng thành cả về thể chất và tinh thần. Sự phát
triển về thể chất là sự trưởng thành sinh học, cơ bắp, thần kinh và các cơ quan nội
tạng…theo quy luật tự nhiên. Sự phát triển về tinh thần là sự trưởng thành về tâm lý, ý
thức theo quy luật tâm lý và quy luật xã hội trên cơ sở lĩnh hội nền văn minh nhân loại.
Sự phát triển thể chất gắn liền với sự phát triển về tinh thần, theo quy luật phát triển
tâm, sinh lý lứa tuổi, đó là sự biến đổi về số lượng, chất lượng và sự chuyển hoá chúng cho
nhau; là bước phát triển nhảy vọt của từng cá nhân về năng lực và phẩm hạnh phù hợp với
lịch sử xã hội và thời đại. Sự phát triển đó tạo nên nhân cách của con người, trong đó có
nhân cách của học sinh THPT.
Trong khi phê phán những quan điểm của Phơbách, xuất phát từ những cá thể cô
lập để nhận thức bản chất con người. C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con
người: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”
(…,11)
Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội cũng có nghĩa là tất cả
các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng yếu tố có ý nghĩa
quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp
chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu quan hệ
sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối và chính kiểu quan hệ sản xuất đó lại là cái xét đến
cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ trong từng hình thái xã hội riêng
biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng
biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang đương đại, vừa theo chiều dọc lịch sử.
Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và
quan hệ xã hội truyền thống, bởi vì trong lịch sử của mình con người bắt buộc phải kế thừa
di sản của những thế hệ trước đó.
Khi xem xét bản chất con người ta không được tách rời hiện tại và quá khứ vì trên
lĩnh vực văn hóa tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người biết cố gắng vươn
lên, nhưng cũng có những truyền thống “đè nặng lên những con người đang sống”.
Bản chất một con người cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội “vốn có” và quy định
những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những hành vi của
người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ.
Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường thẳng trực tiếp, mà
thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh
nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và
hoạt động có ý thức, giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội.
Như vậy, con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất
biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Sự tác động qua lại giữa hai mặt này
trong con người tạo thành bản chất người.
Bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự
nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hoà của
toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Chủ nghĩa Mác về bản chất
con người.
Con người tồn tại qua những cá nhân người. Mỗi cá nhân người là một chỉnh thể gồm
một hệ thống những nhân tố, bao hàm cả những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với
những cá nhân khác về cơ chế, tâm lí, trình độ…
1.1.1.2. Cá nhân
* Cá thể người: Nói đến cá thể người là nói đến thành phần của loài người đã bứt
khỏi loài vật, vừa chứa đựng thành tựu tiến hoá của thế giới vật chất, nhất là của thế giới
sinh vật, tức là vẫn chịu sự chi phối của thế giới xung quanh…, vừa thoát ra vòng cương
toả của thế giới đó, tức là đứng ngoài sự chi phối của chúng. Nó vừa chịu tác động của các
quy luật trong vũ trụ, vừa chịu tác động của các quy luật sinh vật, đồng thời bắt đầu chịu
tác động của các quy luật xã hội.
* Cá nhân: dùng để chỉ một con người cụ thể của một cộng đồng, thành viên của xã
hội.
Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài “người”, không có con người nói
chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.
Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một chỉnh
thể toàn vẹn có nhân cách.
Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội, nhưng xã hội thay
đổi theo tiến trình lịch sử nên cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch
sử có một “kiểu xã hội của cá nhân” mang tính định hướng về thế giới quan, phương pháp
luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.
Cá nhân người là một thành viên của xã hội, là khách thể mang “ tổng hoà các quan
hệ xã hội”. Nó không những chịu ảnh hưởng mà còn góp phần tạo ra những quan hệ xã
hội.
Sự phát triển của cá nhân người diễn ra theo quy luật xã hội - lịch sử, lịch sử - văn
hóa, nghĩa là chịu sự tác động của giáo dục và môi trường xã hội.
* Cá tính: dùng để chỉ cái đơn nhất, có một không hai, không lặp lại của cá nhân.
Trong tác phẩm Bàn về tự do, Giôn S.Min (1806 – 1873, Anh) đã viết: “Mỗi một con
người...được phát triển và biến đổi bởi văn hoá riêng của anh ta – thì được gọi là người có
cá tính”[…,132]. Ông rất tán thưởng quan điểm phát triển người – coi trọng cá tính của
con người. Ông viết: “Cá tính đồng nghĩa với phát triển”, và “Sự phát triển tự do của cá
nhân là điều tối quan trọng cho an sinh”[…,132 -146].
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến cá
tính con người và mong muốn mỗi cá nhân phải có tính độc lập, có cá tính.
Theo Anhxtanh: Nhà trường phải phát triển ở cá thể các phẩm chất và năng lực có
giá trị cho cuộc sống xã hội. Nhưng không có nghĩa là phá huỷ hay biến các cá nhân trở
thành công cụ đơn thuần của cộng đồng, như những bầy ong, đàn bướm. Nếu một cộng
đồng toàn những cá thể đồng loạt giống nhau, không có tính độc đáo cá nhân và mục đích
cá nhân thì sẽ là một cộng đồng nghèo, không có khả năng phát triển.
Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với giống loài, sự
khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì nhân cách là khái
niệm để chỉ sự khác biệt giữa những yếu tố bên trong riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống
của nó, của cá nhân này với cá nhân khác.
1.1.1.3. Nhân cách
Đứng trên quan điểm mác xít, xuất phát từ nguyên tắc thừa nhận bản chất con người để
nghiên cứu đã có rất nhiều lý thuyết khoa học về nhân cách.
X.L.Rubinstein đã viết: Con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của
mình với những nhân cách xung quanh một cách có ý thức.
Theo A.V. Petrovxki nhân cách là chủ thể của nhận thức và cải tạo tích cực hiện
thực.
A.G. Covaliov xem nhân cách là một cá thể có ý thức, chiếm một vị trí nhất định
trong xã hội và thực hiện một vai trò nào đó trong xã hội.
E.V. Sorokhova nhấn mạnh: nhân cách là một con người với tư cách là một vật mang
toàn bộ những thuộc tính và phẩm chất tâm lý quy định các hình thức hoạt động và hành vi
có ý nghĩa xã hội.
V.N. Miasaev thì chú trọng tới khía cạnh thái độ trong nhân cách, thái độ đối với
người khác, với bản thân, với thế giới bên ngoài.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách nhưng các tác giả đều nhấn mạnh đến
tính xã hội của con người:
Nhân cách là chủ thể trong các hoạt động, trong các mối quan hệ xã hội đa dạng.
Nhân cách là tổ hợp những điều chỉnh với những tác động từ bên ngoài.
Nhân cách là một con người cụ thể, là thành viên của một xã hội, một dân tộc, một
quốc gia, của một thời đại lịch sử.
Nhân cách có những đặc thù cá biệt và cũng có những nét tương đồng chung của dân
tộc, thời đại vì nhân cách phản ánh trình độ phát triển của dân tộc, thời đại.
Triết học Mác đã tiếp cận nhân cách như một quá trình mở rộng và đi sâu từ con
người hiện thực, từ bản chất xã hội, quan hệ xã hội đến hệ thống các giá trị và chức năng
xã hội của con người.
Khái niệm nhân cách bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân với tư cách là thành
viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ người– người, của hoạt động có
ý thức và giao lưu.
Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá
nhân. Đó là thế giới của cái “tôi” do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội
riêng biệt tạo nên.
Nhân cách chính là chất lượng xã hội của con người. Giá trị xã hội của nhân cách
được tạo lập từ các phẩm chất và năng lực của con người, kết quả của giáo dục và tự giáo
dục
Mỗi cá nhân “dấn thân ”vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hoá của
xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh, lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế
giới riêng của mình. Đó là quá trình xã hội hoá cá nhân và cá nhân hóa xã hội.
Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về mình, làm chủ cuộc sống
của mình, tự lựa chọn chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.
Mô hình nhân cách con người phát triển toàn diện bao gồm nhiều mặt, nhiều khía
cạnh, song có thể khái quát thành ba mặt cơ bản: phẩm chất đạo đức, tri thức khoa học và
năng lực nghề nghiệp, chuyên môn. Kết hợp ba nội dung giáo dục trên chính là hướng tới
việc hình thành ba mặt cơ bản trong nhân cách con người phát triển toàn diện.
Như vậy, nhân cách của con người là hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện ở
mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và
thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội; độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn. [,
138]
Tóm lại, khi con người là đại diện của loài ta gọi là cá thể. Với tư cách là thành viên
của xã hội ta gọi là cá nhân như là một thực thể độc lập và khi nó có đủ khả năng để trở
thành chủ thể của hoạt động học tập, lao động, vui chơi…thì con người trở thành nhân
cách. Giáo sư –Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã khái quát vấn đề này qua hình vẽ: Các khái
niệm chỉ con người.(…,80)
Con người
Nhân cách thể
Cá thể Cá nhân
Đại diện loài
Thành viên xã hội
Quá trình “bứt khỏi”
Chủ thể của hoạt động
Thế giới sinh vật Vũ Trụ
1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc xây dựng và phát triển nhân cách học sinh
trung học phổ thông
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng (Nguyễn Như Ý - chủ biên):
Xây dựng: Làm nên, gây dựng và vun đắp nên. Có thiện ý, nhằm vun đắp cho tốt
đẹp hơn.
Phát triển: Vận động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên.
Nhân cách: Tư cách và phẩm chất, đạo đức của con người.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (http:// www bachkhoa) Nhân cách: bộ mặt
tâm lí, tổ hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân với
tư cách là chủ thể của hoạt động, giao tiếp.
Người ta sinh ra là người, nhưng nhân cách chỉ hình thành trong hoạt động, giao
tiếp. Thực chất: đó là quá trình xã hội hoá cá nhân, tiếp thụ các giá trị văn hoá của gia
đình, cộng đồng, xã hội và tăng dần (hay ngược lại) mức phù hợp giữa thang giá trị, thước
đo giá trị, định hướng giá trị của bản thân và cộng đồng, xã hội.
Nhân cách có tính chất xã hội, đồng thời cũng mang tính cá biệt với những kinh
nghiệm, nếp suy nghĩ, tình cảm, hoài bão, niềm tin, định hướng giá trị, tính cách riêng tạo
ra tính đa dạng của các cá nhân...
Khi bàn về vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách có rất nhiều quan điểm khác
nhau. Nhà triết học XôViết Smirnov đã khẳng định: Con người được sinh ra nhưng nhân
cách thì phải được hình thành (…,83). Nhân cách không có sẵn mà được hình thành và
phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, vui chơi, lao động…Theo V.I.Lênin:
cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lí, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên.
A.N.Lêonchiev – nhà tâm lí học Xô viết chỉ rõ: nhân cách cụ thể là nhân cách của
con người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các
quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế hệ trước tạo ra,
các quan hệ xã hội mà nó gắn bó.
Việc xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT là một diễn biến phức tạp, nó
bị chi phối bởi những yếu tố chủ yếu sau :
1.1.2.1. Yếu tố sinh học
Mỗi em học sinh ngay từ khi mới sinh ra đã kế thừa những phẩm chất sinh vật của
các thế hệ cha ông mình, mang dấu ấn đặc trưng của nòi giống, đó gọi là hiện tượng di
truyền.
Di truyền học đã chứng minh rằng, các thế hệ con người có thể truyền lại cho nhau
những đặc điểm về cấu tạo cơ thể, về các loại thần kinh, về chức năng hoạt động của
chúng…tạo thành sức sống tự nhiên của con người. Sức sống tự nhiên là những tiền đề vật
chất có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nhân cách.
Tư chất thông minh, gen di truyền có vai trò là “nhân tố gốc” tạo nên năng lực nhận
thức, tư duy của mỗi học sinh. Nhờ yếu tố bẩm sinh di truyền mà sự tác động của các môi
trường giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội sẽ hình thành nên nhân cách, phẩm chất, lối
sống tốt trong mỗi cá thể người.
Mỗi một học sinh ít nhiều có một khả năng bẩm sinh nào đó, với những em đặc biệt
có năng khiếu bẩm sinh biểu hiện dưới dạng tư chất, nếu giáo viên biết phát hiện và bồi
dưỡng thì các em có thể trở thành nhân tài, trở thành chủ thể có ích cho đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển của con người, mặt xã hội với các thuộc tính
phức tạp như: ý thức, thế giới quan, niềm tin đạo đức…không có một chương trình di
truyền nào cả. Hoàn cảnh sống, hoạt động, giao tiếp của cá nhân và giáo dục xã hội…giữ
vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đối với quá trình hình thành và phát triển các phẩm
chất đó.
Vì thế, nhà trường cần phải đánh giá đúng vai trò của yếu tố sinh học, thấy được vị trí
quan trọng của nó nhưng cũng không nên tuyệt đối hoá mặt sinh học để tránh những sai
lầm trong nhận thức cũng như trong tổ chức các hoạt động giáo dục.
1.1.2.2. Yếu tố môi trường
Bên cạnh yếu tố sinh học, con người trong quá trình phát triển để trở thành nhân cách
còn chịu tác động của môi trường sống. Môi trường là hệ thống phức tạp những hoàn cảnh
bên ngoài, kể cả các điều kiện tự nhiên và xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống,
hoạt động và phát triển nhân cách các em.
Môi trường xã hội với thể chế chính trị, luật pháp, hệ tư tưởng, trình độ dân trí,
truyền thống văn hoá dân tộc và các quan hệ xã hội khác… ảnh hưởng rất nhiều đến sự
phát triển nhân cách của mỗi học sinh. Trình độ sản xuất, chế độ chính trị quy định chiều
hướng và nội dung của nền giáo dục xã hội và cũng quy định cả chiều hướng phát triển của
từng cá nhân.
Các mối quan hệ xã hội ảnh hưởng theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực đến học sinh.
Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với mỗi cá nhân còn tuỳ thuộc
vào quan điểm, xu hướng, năng lực của cá nhân.
Tập thể, trong đó là những nhóm bạn bè, lớp học, Đoàn thanh niên…cũng ảnh hưởng
rất lớn đến việc xây dựng và phát triển nhân cách học sinh. Trong sinh hoạt tập thể, các em
chọn lọc những gì phù hợp với sở trường, xu hướng, năng lực của mình để hoạt động.
Đồng thời chịu những tác động có ý thức và không có ý thức từ bên ngoài mà lớn lên. Tập
thể vừa là môi trường, vừa là phương tiện để giáo dục học sinh.
Những nhóm bạn bè tự phát cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách
học sinh. Bạn tốt sẽ giúp đỡ các em học tập tốt hơn, bạn bè xấu làm các em dễ hư hỏng,
đúng như câu châm ngôn mà cha ông ta đã từng dăn dạy: “Gần mực thì đen, gần đèn thì
rạng”. Vì thế mỗi học sinh rất cần phải: “Chọn bạn mà chơi”.
1.1.2.3. Yếu tố hoạt động
Trong đời sống con ng ư thế nào thì nhân cách con người phát triển như thế ấy.
Hoạt động tích cực là con đường để tiến thân, để thành đạt và là phương thức để mỗi người
vươn tới lý tưởng và hạnh phúc cá nhân. Mỗi con người có thể nói là sản phẩm của chính
bản thân mình.
Hoạt động là phương thức tồn tại và cũng là con đường cơ bản để xây dựng và phát
triển nhân cách. Nội dung, phương thức cũng như mục đích và ý thức của mỗi cá nhân
trong hoạt động sẽ tạo nên và phát triển những nét tính cách riêng của từng học sinh như:
tính tích cực, sáng tạo, ý chí và tình cảm…
Hoạt động của học sinh bao gồm: học tập, vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao, lao
động và hoạt động tập thể…
Học sinh sẽ hình thành được các phẩm chất, tính cách, năng lực khi tham gia tích
cực vào các loại hình hoạt động đa dạng trong xã hội, hiểu biết và tiếp thu các giá trị văn
hóa của loài người.
Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống con người.
Tính đa dạng của hoạt động tạo nên tính đa dạng của giao lưu. Phương thức, mục đích giao
lưu giúp cá nhân chiếm lĩnh được những giá trị đích thực của cuộc sống. Thông qua giao
lưu các em tìm ra lẽ phải, chân lý, rút ra được kinh nghiệm sống, hình thành nên những nét
tính cách điển hình.
Như vậy, để xây dựng, phát triển nhân cách người công dân cho thanh niên học sinh
và thực hiện được mục tiêu GDCD, giáo viên không thể chỉ dùng thuyết lý của mình mà
phải thông qua các hoạt động và giao lưu của chính các em như (Thảo luận, đóng vai, điều
tra thực tiễn, liên hệ và tự liên hệ, sưu tầm tài liệu, chơi trò chơi…). Quá trình dạy học
môn GDCD cho học sinh THPT phải là quá trình tổ chức cho các em các hoạt động giao
lưu với thầy, với bạn và những người khác để thông qua đó các em chủ động phát hiện và
lĩnh hội nội dung bài giảng, hình thành kỹ năng sống, khắc phục được mâu thuẫn giữa
nhận thức và hành vi của mình.
1.1.2.4. Yếu tố giáo dục
Giáo dục với tư cách là một hoạt động đặc biệt giữ vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng
quyết định trong xây dựng và phát triển nhân cách mỗi cá nhân.
Giáo dục cũng như sự tương tác giữa giáo dục và tự giáo dục in dấu ấn quan trọng
lên trình độ phát triển người và nhân cách của con người, là con đường và phương thức
chủ yếu tạo nên diện mạo nhân cách của con người
Yếu tố đầu tiên trong việc hình thành nhân cách cho các em – những công dân
tương lai là do sự giáo dục của gia đình những năm đầu của tuổi thơ. Đúng như nhà sư
phạm nổi tiếng Xu khômlinxki đã nói: “Tổ quốc khởi đầu từ gia đình”. Gia đình là nơi sinh
ra, là môi trường sống đầu tiên, là nơi chuyển giao các giá trị truyền thống, nuôi dưỡng và
hình thành nhân cách ban đầu cho thế hệ trẻ.
Gia đình đầm ấm, hạnh phúc luôn là nơi nương tựa vững chắc cả về vật chất và
tinh thần cho mỗi em. Là môi trường tốt nhất cho sự hình thành và phát triển nhân cách
của cá nhân, là nơi trẻ rèn luyện để hình thành lối sống cao đẹp, sống có tình nghĩa, đạo lý.
Cho dù xã hội có bắt nhịp phát triển với tốc độ như thế nào đi chăng nữa thì gia
đình vẫn luôn giữ vai trò là hạt nhân, là viên đá tảng xây dựng nền móng xã hội.
Mức sống, trình độ học vấn, thói quen, nếp sống của gia đình, mối quan hệ tình
cảm của các thành viên, tính mẫu mực của người lớn và phương pháp giáo dục gia đình có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của các em. Có người đã nói: tổ ấm gia
đình là một pháo đài vững chắc để mỗi cá nhân được an toàn trước những cám dỗ của xã
hội và cũng chính là bệ phóng tốt nhất để cá nhân có thể hoà nhập vào xã hội và góp ích
cho xã hội.
Giáo dục gia đình được tiến hành trong cả cuộc đời một con người với nhiều nội
dung và hình thức phong phú. Với đặc điểm chủ yếu là quan hệ tình yêu, pháp lý và huyết
thống, giáo dục gia đình được xây dựng trên cơ sở tình cảm gia đình bền chặt, là yếu tố
quan trọng nhất quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách cho mỗi học sinh.
Trong các loại giáo dục: giáo dục gia đình, xã hội và nhà trường thì giáo dục nhà
trường có vai trò quan trọng nhất.
Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, có đội ngũ các nhà sư phạm được
đào tạo, nội dung chương trình được chọn lọc, phương pháp giáo dục phù hợp với mọi lứa
tuổi, có các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giáo dục. Mục đích giáo dục nhà trường phù
hợp với xu thế phát triển xã hội và thời đại. Giáo dục nhà trường, bằng kiến thức và
phương pháp khoa học, bằng tổ chức các hoạt động, giao lưu trong thực tiễn đã xây dựng
và phát triển nhân cách cho học sinh. Qua đó tạo nên bộ mặt tâm lí cá nhân phù hợp với
những tiêu chuẩn, giá trị xã hội và thời đại.
Giáo dục xã hội là giáo dục của toàn xã hội, với thể chế chính trị, pháp luật, với
truyền thống văn hóa, đạo đức…được thực hiện qua hệ thống tổ chức nhà nước, qua bộ
máy tuyên truyền thông tin đại chúng, qua dư luận xã hội, qua hoạt động giáo dục của các
đoàn thể quần chúng…góp phần quan trọng cho sự phát triển nhân cách. Ngoài ra sự tác
động tích cực của nhà trường và các tổ chức đoàn thể là không thể thiếu trong đào tạo
những công dân tương lai có nhân cách tốt, có ích cho gia đình và góp phần phát triển xã
hội.
Giáo dục còn bao gồm cả tự giáo dục, tự giáo dục là bước tiếp theo, nhưng quyết
định kết quả của toàn bộ quá trình giáo dục. Tự giáo dục, tự tu dưỡng là hoạt động có ý
thức, là giai đoạn phát triển cao của nhân cách. Như vậy giáo dục là yếu tố chủ đạo trong
quá trình xây dựng và phát triển nhân cách. Một nền giáo dục mạnh, được tổ chức tốt,
bằng các hình thức hoạt động và giao lưu phong phú, đa dạng, với những phương pháp tốt
có thể làm cho học sinh đạt tới sự phát triển toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời
đại.
Nhân cách người thầy giáo
Trong nhà trường, thầy giáo là người trực tiếp thực hiện quan điểm giáo dục của
Đảng, người quyết định “phương hướng của việc giảng dạy, “lực lượng cốt cán trong sự
nghiệp giáo dục, văn hoá”.
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách học sinh. Vì vậy lao động của
người thầy giáo yêu cầu không được tạo ra thứ phẩm, phế phẩm như ở một số nghề khác.
Có người đã nói: làm hỏng một đồ vàng ta có thể nấu lại, một viên ngọc quý ta có thể bỏ
đi, làm hỏng một con người là một tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc lại được. Vàng,
ngọc, kim cương đều quý nhưng không thể so sánh chúng với tâm hồn, nhân cách một con
người. Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những phẩm chất tương
ứng trong nhân cách của người thầy giáo sẽ tạo nên chất lượng cao của sự hình thành và
phát triển nhân cách học sinh THPT.
K.D. Usinxki đã nhấn mạnh:
Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách của người giáo dục, bởi
vì sức mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách con người mà có. Không
một điều lệ, chương trình, không một cơ quan giáo dục nào dù có được tạo ra
một cách khôn khéo như thế nào cũng không thể thay thế được nhân cách của
con người trong sự nghiệp giáo dục. Không một sách giáo khoa, một lời khuyên
răn nào, một hình phạt, một khen thưởng nào có thể thay thế ảnh hưởng cá nhân
người thầy giáo đối với học sinh […,63].
Hoạt động chính của thầy giáo là tổ chức và điều khiển học sinh lĩnh hội, thông trải
những kinh nghiệm, những tinh hoa mà loài người tích luỹ được và biến chúng trở thành
những nét nhân cách của chính mình. Không ai trong xã hội, kể cả cha mẹ cũng không thể
thay thế được vai trò và chức năng của người thầy giáo.
Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để tác động
vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, là thế giới quan khoa học, sự giác ngộ về lý tưởng
đào tạo thế hệ trẻ; là lòng yêu nghề, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp; là
lối sống và phẩm chất đạo đức; là năng lực giao tiếp sư phạm, năng lực cảm hoá học sinh,
năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh…Đúng như K.D.Usinxki khẳng định:
không gì hiệu quả hơn là dùng nhân cách để giáo dục nhân cách.
Tóm lại, sự phát triển của con người là toàn bộ sự phát triển, hoàn thiện về thể chất
và tinh thần, nó bị chi phối bởi hàng loạt những yếu tố chủ quan và khách quan. Nhân cách
con người là tổ hợp những phẩm chất tâm lí cá nhân. Việc xây dựng và phát triển nhân
cách học sinh THPT được thực hiện dưới ảnh hưởng của hệ thống các quan hệ xã hội mà
các em sống, hoạt động và giao lưu.
1.2. VAI TRÒ CỦA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.2.1. Đặc điểm kiến thức môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông
1.2.1.1. Nội dung và cấu trúc chương trình môn Giáo dục công dân từ năm học
1990 -1991 đến năm học 2005 – 2006
Trong những năm đầu đổi mới, môn GDCD trong các trường THPT ở nước ta được
gọi là môn chính trị, là “dạy học chính trị”, phục vụ cho việc định hướng chính trị tư tưởng
trong nhà trường.
Từ năm học 1990 – 1991 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định môn GDCD là một
bộ môn khoa học xã hội trong nhà trường THPT. Môn GDCD đã được giảng dạy ở cả ba
khối lớp 10, 11,12. Nhưng chỉ có lớp 10 là có sách giáo khoa, còn lớp 11 và 12 chỉ là “Tài
liệu Giáo dục công dân”.
* Lớp 10: 1 tiết/tuần. Bao gồm 14 bài, trong đó học sinh được học những vấn đề cơ
bản của Triết học Mác – Lênin.
Bảng 1.1:
STT Tên bài Số tiết
Bài 1 Bài mở đầu 1 tiết
Bài 2 Tính vật chất của thế giới 3 tiết
Bài 3 Sự phát triển của thế giới 3 tiết
Bài 4 Sự tồn tại và phát triển của giới tự nhiên 2 tiết
Bài 5 Sự tồn tại và phát triển của xã hội 3 tiết
Bài 6 Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội 1 tiết
Bài 7 Vai trò của quần chúng và cá nhân kiệt xuất đối với sự phát 1 tiết
triển của xã hội
Bài 8 Tự do và tất yếu 4 tiết
Bài 9 Con đường nhận thức cái tất yếu 2 tiết
Bài 10 Sự hình thành nhân cách 1 tiết
Bài 11 Cá nhân và xã hội 1 tiết
Bài 12 Lý tưởng nhân đạo 1 tiết
Bài 13 Hướng đến nền văn minh và con người 1 tiết
Bài 14 Bài tổng kết 2 tiết
* Lớp 11: 1,5 tiết/tuần. Nội dung chương trình là những vấn đề lớn của thời đại,
như: CNTB, CNXH; về đạo đức học, về truyền thống đạo đức dân tộc. Bao gồm 25 bài.
Bảng 1.2:
STT Tên bài Số tiết
Bài 1 Tiến bộ xã hội 1 tiết
Bài 2 Sản xuất hàng hoá và sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản 2 tiết
Bài 3 Nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa và các quan hệ giai cấp trong 2 tiết
xã hội tư bản
Bài 4 Nhà nước tư bản và nền dân chủ tư sản 1 tiết
Bài 5 Văn hoá tư sản và những tệ nạn xã hội trong xã hội Tư bản chủ 1 tiết
nghĩa
Bài 6 Chủ nghĩa đế quốc 1 tiết
Bài 7 Chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng một xã hội tiến bộ hơn 2 tiết
Bài 8 Sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội 3 tiết
Bài 9 Xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt 5 tiết
Nam
Bài 10 Những khó khăn và triển vọng của công cuộc đổi mới Xã hội 1 tiết
chủ nghĩa
Bài 11 Những vấn dề chung của nhân loại ngày nay 3 tiết
Bài 12 Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, dân 2 tiết
chủ và tiến bộ xã hội
Bài 13 Nghĩa vụ 1 tiết
Bài 14 Lương tâm 1 tiết
Bài 15 Nhân phẩm và danh dự 1 tiết
Bài 16 Hạnh phúc 1 tiết
Bài 17 Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế 2 tiết
Bài 18 Quan điểm và thái độ đúng đắn đối với lao động 2 tiết
Bài 19 Chủ nghĩa tập thể Xã hội chủ nghĩa 1 tiết
Bài 20 Chủ nghĩa nhân đạo Xã hội chủ nghĩa 2 tiết
Bài 21 Tình bạn, tình đồng chí 1 tiết
Bài 22 Tình yêu 1 tiết
Bài 23 Tình cảm gia đình 1 tiết
Bài 24 Một số nét về truyền thống đạo đức dân tộc 3 tiết
Bài 25 Phấn đấu vì lý tưởng dân giàu nước mạnh theo con đường Xã 1 tiết
hội chủ nghĩa
* Lớp 12: 1,5 tiết/tuần. Học sinh được trang bị những tri thức về đường lối phát
triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục của ĐCSVN và những vấn đề về Nhà nước, pháp
luật ở Việt Nam.
Bảng 1.3:
STT Tên bài Số tiết
Bài 1 Xây dựng đất nước theo con đường Xã hội chủ nghĩa 1 tiết
Bài 2 Thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay và những mục tiêu 2 tiết
phấn đấu trong những năm trước mắt
Bài 3 Phương hướng xây dựng và phát triển kinh tế 5 tiết
Bài 4 Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta 2 tiết
Bài 5 Chính sách văn hoá, giáo dục và khoa học 3 tiết
Bài 6 Một số chính sách xã hội 4 tiết
Bài 7 Chính sách quốc phòng và an ninh 2 tiết
Bài 8 Chính sách đối ngoại 1 tiết
Bài 9 Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật 2 tiết
Bài 10 Luật nhà nước và Hiến pháp 1992 2 tiết
Bài 11 Luật dân sự và hợp đồng dân sự 2 tiết
Bài 12 Luật lao động và hợp đồng lao động 2 tiết
Bài 13 Pháp luật về thuế 1 tiết
Bài 14 Luật hôn nhân và gia đình 2 tiết
Bài 15 Luật hành chính và pháp lệnh xử phạt hành chính 2 tiết
Bài 16 Luật hình sự và bộ luật hình sự 2 tiết
Bài 17 Pháp luật tố tụng và luật tố tụng dân sự 2 tiết
Bài 18 Luật tố tụng hình sự 2 tiết
Bài 19 Pháp luật và khiếu nại tố cáo của công dân 2 tiết
Bài 20 Nêu cao trách nhiệm công dân 1 tiết
Nhìn chung, nội dung chương trình, sách giáo khoa, tài liệu môn học chưa thật sự
ổn định. Có nhiều vấn đề bất cập, lạc hậu, mâu thuẫn với thực tiễn, rất khó đối với học
sinh nên tính thuyết phục không cao. Từ đó, khiến các em không thấy rõ được tác dụng
thiết thực của tri thức bộ môn trong nhận thức cũng như trong hành động. Điều đó ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trong nhà trường
THPT.
1.2.1.2. Nội dung và cấu trúc chương trình môn Giáo dục công dân từ- năm học
2006 - 2007 đến nay
* Kế hoạch giảng dạy bộ môn
Bảng 1.4:
Số tiết/tuần Số tuần Tổng số tiết/năm Lớp
35 35 10 1
35 35 11 1
35 35 12 1
105 105 Cộng (toàn cấp)
Nguồn: Phân phối chương trình GDCD của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
* Thời lượng:
Lớp 10: Học phần I & II
Lớp 11: Học phần III & IV
Lớp 12: Học phần V
* Nội dung dạy học từng lớp
- Lớp 10: 1tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết
Phần I - Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học .
Phần II - Công dân với đạo đức
Bảng 1.4:
STT Tên bài Số tiết
Bài 1 Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. 2 tiết
Bài 2 Thế giới vật chất tồn tại khách quan. 2 tiết
Bài 3 Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất 1 tiết
Bài 4 Nguồn gốc vận động , phát triển của sự vật và hiện tượng. 2 tiết
Bài 5 Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. 1 tiết
Bài 6 Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng. 1 tiết
Bài 7 Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. 2 tiết
Bài 8 Tồn tại xã hội và ý thức xã hội. 3 tiết
Bài 9 Con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội. 2 tiết
Bài 10 Quan niệm về đạo đức 1 tiết
Bài 11 Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học 2 tiết
Bài 12 Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình. 2 tiết
Bài 13 Công dân với cộng đồng 2 tiết
Bài 14 Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2 tiết
Bài 15 Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. 1tiết
Bài 16 Tự hoàn thiện bản thân. 1tiết
- Lớp 11: 1 tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết
Phần III – Công dân với kinh tế
Phần IV – Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội
Bảng 1.5:
STT Tên bài Số tiết
Bài 1 Công dân với sự phát triển của kinh tế 2 tiết
Bài 2 Hàng hoá - Tiền tệ - Thị trường 3 tiết
Bài 3 Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hoá 2 tiết
Bài 4 Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hoá 1tiết
Bài 5 Cung - cầu trong sản xuất và lưu thông hàng hoá 1tiết
Bài 6 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 2 tiết
Bài 7 Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và vai trò quản lý kinh tế 2 tiết
của nhà nước
2 tiết Bài 8 Chủ nghĩa xã hội
3 tiết Bài 9 Nhà nước xã hội chủ nghĩa
2 tiết Bài 10 Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
1tiết Bài 11 Chính sách dân số và giải quyết việc làm
1tiết Bài 12 Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường
Bài 13 Chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá 3 tiết
1tiết Bài 14 Chính sách quốc phòng và an ninh
1tiết Bài 15 Chính sách đối ngoại
- Lớp 12: 1 tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết
Phần V – Công dân với pháp luật
Bảng 1.6:
Số tiết STT Tên bài
3 tiết Bài 1 Pháp luật và đời sống
3tiết Bài 2 Thực hiện pháp luật
1tiết Bài 3 Công dân bình đẳng trước pháp luật
Bài 4 Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống 3 tiết
xã hội
2 tiết Bài 5 Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
4 tiết Bài 6 Công dân với các quyền tự do cơ bản
3 tiết Bài 7 Công dân với các quyền dân chủ
2 tiết Bài 8 Pháp luật với sự phát triển của công dân.
4 tiết Bài 9 Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước
2 tiết Bài 10 Pháp luật với hoà bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
1.2.1.3. Khái quát đặc điểm kiến thức môn Giáo dục công dân ở trường trung học
phổ thông hiện nay
Môn GDCD ở THPT là sự kế thừa, phát triển môn đạo đức ở tiểu học và môn
GDCD ở THCS. Đây là môn học góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở THPT, nhằm
hình thành cho học sinh lý tưởng sống đúng đắn, những phẩm chất và năng lực cơ bản của
người công dân Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước, thời kỳ hội nhập và phát triển với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
Kiến thức môn GDCD ở THPT được xây dựng dựa trên tri thức các môn khoa học
như: Triết học, Đạo đức học, Luật học, Kinh tế - Chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa
học…, dựa trên các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
Môn GDCD là môn học có nội dung tri thức mang tính lí luận cao. Kiến thức bộ
môn mang tính trừu tượng, khái quát hoá cao, biểu hiện thông qua các phạm trù, khái
niệm, nguyên lý của Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Kiến thức môn GDCD mang tính hệ thống, logic. Chương trình giáo dục công dân
từ lớp 10 đến lớp 12 gồm 5 phần:
Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa
học (17 tiết). Phần này gồm một số nội dung của triết học nhằm trang bị cho học sinh
những cơ sở ban đầu về thế giới quan, phương pháp luận trong cuộc sống và là căn cứ lý
luận cho các phần sau.
Phần thứ hai: Công dân với đạo đức (11 tiết). Gồm một số giá trị đạo đức, tư tưởng,
chính trị, lối sống của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thông qua kiến thức
phần này giúp học sinh giải quyết hợp lý, có hiệu quả các mối quan hệ xã hội.
Phần thứ ba: Công dân với kinh tế (14 tiết). Là những kiến thức cơ bản về phương
hướng phát triển kinh tế xã hội, giúp học sinh xác định phương hướng học tập, lựa chọn
ngành nghề hoặc các lĩnh vực khác khi ra trường
Phần thứ tư: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội (13 tiết). Giúp học sinh có
những hiểu biết cơ bản về chính trị – xã hội. Từ đó các em có thể xác định được trách nhiệm
công dân với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Phần thứ năm: Công dân với pháp luật (27 tiết). Bao gồm những kiến thức cơ bản
về bản chất, vai trò và vị trí của pháp luật. Qua đó giúp học sinh chủ động, tự giác điều
chỉnh hành vi của cá nhân và đánh giá được hành vi của người khác trong cuộc sống.
Đây là năm phần cơ bản tạo ra những hiểu biết cần thiết nhất về thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị, lĩnh vực
kinh tế - xã hội, từ đó giúp học sinh THPT nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân.
Nội dung kiến thức môn GDCD phong phú, đa dạng, bao gồm nội dung của nhiều
khoa học khác nhau như: triết học, kinh tế chính trị học, đạo đức học, chủ nghĩa xã hội
khoa học, pháp luật… Vì thế nó đòi hỏi giáo viên giảng dạy phải được trang bị đầy đủ kiến
thức những môn khoa học đó. Đồng thời phải là người am hiểu khá nhiều các vấn đề kinh
tế xã hội cũng như những kiến thức sâu rộng về tâm lí học lứa tuổi, có kinh nghiệm cuộc
sống. Có như vậy giáo viên bới có thể thực hiện tốt mục tiêu dạy học: không chỉ trang bị
những kiến thức lý luận mà qua trọng hơn là mục tiêu giáo dục công dân nhằm xây dựng
và phát triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh THPT.
Kiến thức môn giáo dục công dân mang tính chính xác. Những khái niệm, phạm trù,
các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, những quan điểm chính trị phải đảm bảo sự đúng đắn,
chính xác đối với cả người dạy và người học.
Kiến thức môn giáo dục công dân mang tính thời sự cao hơn so với các môn học
khác. Các sự kiện lớn về chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hoá, luật pháp mặc dù không được
thể hiện trong sách giáo khoa nhưng tự nó đã gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống xã hội.
Do đó trong quá trình dạy học, nhất thiết giáo viên phải luôn luôn cập nhật thông tin và đưa
vào nội dung bài giảng.
Như vậy, trong xu hướng cải cách giáo dục việc đổi mới chương chình và sách giáo
khoa mới, nâng cao chất lượng kiến thức về GDCD đã được thực hiện, vừa kế thừa một
phần chương trình và sách giáo khoa cũ, vừa đổi mới ở một mức độ phù hợp, khoa học
hơn. Công việc này đã và đang tạo ra những hiệu ứng xã hội tích cực cho diện mạo và đặc
trưng của nền giáo dục, cho chiều hướng phát triển và thực hiện mục tiêu giáo dục.
Ngoài ra môn GDCD còn tích hợp nhiều kiến thức giáo dục xã hội cần thiết khác
như: giáo dục kĩ năng sống, giáo dục văn hoá hoà bình, giáo dục môi trường, giáo dục giới
tính - sức khoẻ sinh sản vị thành niên, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục phòng chống
ma tuý, phòng tránh HIV/AIDS…
Hiện nay môn GDCD là một trong những môn học có chương trình đảm bảo cân
đối, hài hoà giữa yêu cầu trang bị kiến thức với việc rèn luyện kĩ năng và phát triển thái độ
tích cực cho học sinh. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo ra sức sống và những giá
trị bền vững trong giáo dục nói chung, trong xây dựng và phát triển nhân cách cho những
công dân tương lai của đất nước hôm nay và mai sau.
1.2.2. Đặc điểm tâm - sinh lý học sinh trung học phổ thông
Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới của kỹ thuật, thông tin và công nghệ.
Các quốc gia, các dân tộc hôm nay phải tự lựa chọn con đường đi lên của mình trong xu
thế vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau, vừa nhằm giải quyết những vấn đề của bản thân
mình, vừa góp sức cùng toàn nhân loại giải quyết những vấn đề toàn cầu: chiến tranh và
hoà bình, dân số, sức khoẻ, môi trường…Những vấn đề to lớn đó đang đặt lên vai thế hệ
trẻ nói chung, học sinh THPT nói riêng, lên sự nghiệp giáo dục đào tạo họ.
Theo điều 4, điều 23 của Luật giáo dục 2005 và điều 26 trong những điểm mới của
Luật Giáo dục 2005 ở nước ta: Giáo dục THPT được thực hiện trong ba năm học, từ lớp
mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi
là mười lăm. Điều lệ trường trung học ở nước ta cũng quy định rõ tuổi của học sinh THPT
là 15 – 19.
Học sinh THPT có độ tuổi là 15 - 19 tuổi. Với độ tuổi này học sinh THPT thuộc
giai đoạn đầu của tuổi thanh niên(còn gọi là thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh) và là
giai đoạn cuối của tuổi dậy thì.
Đây là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn; đó là lứa tuổi nở rộ sức mạnh
thể chất, tinh thần và trí tuệ; lứa tuổi với những hoạt động đặc trưng để hình thành nhân
cách và phẩm chất của một công dân, hình thành thế giới quan và lý tưởng; là lứa tuổi luôn
luôn tự tìm hiểu bản thân mình và tìm hiểu người khác; lứa tuổi tự khẳng định và tìm cách
xác định vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Về tâm sinh lý học sinh THPT có thể khái
quát trên những đặc điểm sau:
Một là, đặc điểm cơ thể
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi đang dần dần hoàn chỉnh về mặt thể chất. Nhờ
điều kiện kinh tế xã hội phát triển, cuộc sống ngày càng được nâng cao hơn trước nên học
sinh THPT có sự phát triển tốt hơn về chiều cao, trọng lượng, thể trạng. Thế nhưng sự phát
triển về cơ thể các em vẫn kém hơn so với sự phát triển cơ thể của người lớn.
Bước vào giai đoạn này nhịp độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng của các em đã
chậm lại. Các em gái đạt được sự tăng trưởng của mình trung bình vào khoảng 16,17 tuổi;
các em trai khoảng 17, 18 tuổi. Có thể nói đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân
đối, đẹp và khỏe mạnh.
Trọng lượng cơ thể nói chung phát triển nhanh, trọng lượng của các em trai đã đuổi
kịp các em gái và tiếp tục vươn lên. Các tố chất thể lực như sức mạnh, sức bền, sự dẻo dai
được tăng cường.
Cơ bắp, sức lực các em trong giai đoạn này phát triển mạnh, dễ đạt được những thành
tích trong thể thao.
Đây là lứa tuổi bắt đầu có sự trưởng thành về giới tính, là giai đoạn của những nam
thanh, nữ tú.
Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong
của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Bộ não, hệ thần kinh các em phát
triển và khỏe mạnh, tạo cơ sở cho các em tiếp thu, xử lý một khối lượng lớn tri thức trong
quá trình học tập.
Hai là, đặc điểm về hoạt động học tập
Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở học sinh THPT khác rất nhiều so với
học sinh THCS. Sự khác nhau cơ bản đó là nội dung học tập của các em ngày một sâu hơn,
tính năng động và tính độc lập ở mức cao hơn, sự phát triển về tư duy lý luận cũng sâu sắc
hơn, thái độ học tập có ý thức của các em ngày càng phát triển.
Đặc biệt, thái độ của học sinh THPT đối với các môn học đã có sự lựa chọn rõ dệt.
Các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp.
Cuối cấp học các em đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định đối với một lĩnh
vực tri thức nhất định, liên quan đến một nghề nghiệp nào đó trong tương lai. Nhận thức
của các em mang tính rộng rãi, sâu sắc và bền vững hơn học sinh THCS.
Nhưng thái độ học tập ở không ít em có nhược điểm là, một mặt các em rất tích cực
học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em
lại sao nhãng các môn học khác, chỉ học để đạt điểm trung bình. Giáo viên phải có thái độ
lắng nghe, khuyến khích động viên, cần làm cho các em học sinh đó hiểu được ý nghĩa và
chức năng của giáo dục phổ thông đối với mỗi môn học trong nhà trường.
Tóm lại, thái độ học tập có ý thức là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển tính chủ
định của các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của học sinh THPT trong
hoạt động học tập.
Ba là, đặc điểm về nhận thức, trí tuệ
Đối với học sinh THPT, tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan sát ở các
em trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự điều
khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư duy ngôn ngữ. Tuy
nhiên, quan sát của các em sẽ khó đạt được hiệu quả nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên.
Giáo viên cần quan tâm để hướng sự quan sát của các em vào một nhiệm vụ nhất định,
không vội vàng kết luận khi chưa đầy đủ các sự kiện.
Với học sinh THPT, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ,
đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Đặc
biệt các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ, nhưng một số em vẫn còn ghi nhớ
một cách đại khái, chung chung.
Hoạt động tư duy của học sinh THPT có nhiều thay đổi quan trọng do cấu trúc của
não phức tạp và chức năng của não phát triển; do sự phát triển của quá trình nhận thức nói
chung, do ảnh hưởng của hoạt động học tập.
Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Tư
duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn học sinh THCS. Đồng thời tính
phê phán của tư duy cũng phát triển…Những đặc điểm đó tạo điều kiện cho các em phân
tích được những nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân
quả trong tự nhiên và trong xã hội…Đây là cơ sở quan trọng hình thành thế giới quan.
Tuy vậy hiện nay số học sinh THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng cho lứa tuổi như
trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ
của bản thân….Vì vậy, việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức, trí tuệ là một
nhiệm vụ quan trọng của giáo viên.
Bốn là, sự phát triển của tự ý thức
Đây là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có
ý nghĩa to lớn trong sự phát triển tâm lý của lứa tuổi các em.
Nội dung của tự ý thức: là một quá trình lâu dài, phong phú, trải qua nhiều mức độ
khác nhau và rất phức tạp. Các em luôn quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất
nhân cách cũng như năng lực riêng của mình. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của
mình trong hiện tại như học sinh THCS, mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội,
trong tương lai.
Học sinh THPT có khả năng đánh giá những cử chỉ, hành vi riêng lẻ, từng thuộc tính
riêng biệt về nhân cách của mình. Các em có thể hiểu rõ bản thân thông qua những phẩm
chất nhân cách như: lòng yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm…và những quan hệ nhiều
mặt của nhân cách như: tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ…
Học sinh THPT không chỉ có nhu cầu đánh giá mà còn có khả năng đánh giá sâu sắc
hơn học sinh THCS về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của những người xung quanh
và của chính mình. Các em thường dễ có xu hướng cường điệu trong khi tự đánh giá: hoặc
là đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực; hoặc là đánh giá cao nhân
cách của mình, tỏ ra tự kiêu tự đại, coi thường người khác.
Nhiều khi các em có thể sai lầm khi tự đánh giá. Tuy nhiên, khả năng biết tự phân
tích là dấu hiệu của một nhân cách đang trưởng thành và là tiền đề của sự tự giáo dục có
mục đích. Do vậy, trong hoạt động dạy học và giáo dục giáo viên cần phải biết chia sẻ,
phải có thái độ nghiêm túc, chân thành khi nghe các em phát biểu, tuyệt đối không được chế
diễu ý kiến tự đánh giá đó, nhằm hình thành cho các em một biểu tượng khách quan về nhân
cách của mình.
Năm là, sự hình thành thế giới quan
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan - hệ
thống quan điểm về tự nhiên, về xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc cư xử…
Những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội để xây dựng một hệ thống quan điểm riêng
trong giai đoạn này đã được hình thành (đặc biệt là sự phát triển của tư duy lý luận, tư duy
trừu tượng). Suốt thời gian học tập ở THPT, học sinh đã lĩnh hội được những tâm thế, thói
quen đạo đức nhất định, ý thức được cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác… thông qua các tiêu
chuẩn và nguyên tắc hành vi xác định.
Thời kỳ này nhân cách đã được xây dựng và phát triển tương đối cao. Đã xuất hiện ở
các em nhu cầu đưa những tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi đó vào một hệ thống hoàn
chỉnh. Một khi đã có được hệ thống quan điểm riêng thì các em không chỉ hiểu về thế giới
khách quan, mà còn đánh giá và xác định được thái độ của mình với thế giới nữa.
Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng thú nhận
thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ, những quy luật phổ
biến của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài người…Các em cố gắng xây dựng
quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với các vấn đề xã hội, tư tưởng, chính trị,
đạo đức. Chính nội dung các môn học ở THPT, đặc biệt là môn GDCD giúp cho các em
xây dựng được thế giới quan tích cực về mặt tự nhiên, xã hội.
Học sinh THPT quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề liên quan đến con người, vai trò
của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ,
nghĩa vụ và tình cảm…Vấn đề ý nghĩa cuộc sống chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ của
các em.
Vì vậy, việc định hướng giá trị trong hoạt động của cá nhân thông qua giáo dục cho
học sinh hệ thống tri thức về đời sống có ý nghĩa hết sức quan trọng. Giúp các em xây
dựng được hệ thống thế giới quan đầy đủ, tránh lối sống thụ động, ỷ nại, trông chờ vào
người khác hoặc đánh giá quá cao cuộc sống hưởng thụ, sa đà vào những tệ nạn xã hội…
Sáu là, đặc điểm về giao tiếp, đời sống tình cảm và tâm lý
Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất, các em rất coi trọng việc
sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi để khẳng định vị trí của mình trong nhóm. Trong các
lớp học dần dần xảy ra một sự phân cực nhất định - xuất hiện những người được lòng nhất
và những người ít được lòng nhất. Những em có vị trí thấp, ít được lòng các bạn thường
băn khoăn, suy nghĩ nhiều về nhân cách của mình.
Cùng với sự trưởng thành nhiều mặt, quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào cha mẹ dần
dần được thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập. Trong việc phát triển nhu cầu sở thích,
học sinh hướng vào bạn bè nhiều hơn hướng vào cha mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị
sâu sắc hơn như chọn nghề, thế giới quan, những giá trị đạo đức thì cha mẹ và thầy cô giáo
lại có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều.
Sự mở rộng phạm vi giao tiếp và sự phức tạp hoá hoạt động riêng của học sinh THPT
là do số lượng nhóm mà các em tham gia tăng lên. Việc tham gia vào nhiều nhóm sẽ dẫn đến
những sự khác nhau nhất định và có thể xung đột về vai trò nếu cá nhân phải lựa chọn giữa
các vai trò khác nhau ở các nhóm.
Trong công tác giáo dục cần chú ý ảnh hưởng của nhóm, hội tự phát ngoài nhà trường.
Nhà trường cần tổ chức phong phú, sinh động các hoạt động tập thể, đặc biệt là tổ chức đoàn,
nhằm phát huy tính tích cực của các em.
Đời sống tình cảm của học sinh THPT rất phong phú và nhiều vẻ. Nhu cầu về tình
bạn tâm tình cá nhân tăng lên rõ rệt. Tình bạn sâu sắc đã được bắt đầu từ tuổi thiếu niên,
nhưng sang tuổi này tình bạn của các em trở nên sâu sắc hơn nhiều. Các em có yêu cầu cao
hơn đối với tình bạn (yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng, tôn trọng, hiểu biết và
sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau…). Trong quan hệ với các bạn các em cũng nhạy cảm hơn, đó là
khả năng xúc cảm và khả năng đáp ứng lại xúc cảm, đặc biệt là sự đồng cảm với người
khác.
Đối với học sinh THPT sự khác biệt giữa các cá nhân về quan niệm, sự thân tình
trong tình bạn rất rõ rệt. Nguyên nhân kết bạn cũng rất phong phú ( có thể vì phẩm chất tốt
ở bạn, vì tính tình tương phản, vì có hứng thú, sở thích chung…).
Ngoài ra, phạm vi quan hệ bạn bè được mở rộng, nhu cầu về tình bạn khác giới được
tăng cường. Đã xuất hiện sự lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ và nhu cầu về tình yêu nam
nữ.
Sự tác động giáo dục của nhà trường và gia đình về trạng thái tình cảm mới mẻ này
của học sinh THPT là hết sức quan trọng và cần thiết, giúp định hướng đúng đắn cho hành
vi nhân cách của các em.
Đây là thời kỳ tâm lý của các em xảy ra những biến đổi và cũng là thời kỳ then chốt
của sự phát triển tâm lý, chịu ảnh hưởng rất lớn của những điều kiện kinh tế - xã hội và
môi trường sống.
Học sinh THPT thuộc lứa tuổi giàu ý chí, khát vọng, tình cảm và cảm xúc; ham hiểu
biết, hăng hái tham gia các hoạt động của Đoàn thanh niên và xã hội như âm nhạc, thời
trang, hội họa, từ thiện…; có nhu cầu về tình bạn, tình yêu. Những đặc điểm này tác động
tích cực tới việc xây dựng và phát triển nhân cách của học sinh, giúp các em làm phong
phú thêm đời sống nội tâm và thu lượm được nhiều kinh nghiệm xã hội.
Đây cũng là lứa tuổi có những hạn chế nhất định. Đó là tâm lý không thích nghe,
không thích bàn luận đến các vấn đề chính trị, thời sự. Các em còn thiếu kinh nghiệm sống
nên đời sống tâm lý dễ bị chi phối, dễ mơ hồ về chính trị, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Vì vậy
giáo viên GDCD cần tạo cơ hội cho học sinh được chia sẻ, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá
nhân về vấn đề đang học, nêu những băn khoăn thắc mắc cho thầy, cho bạn. Bên cạnh đó,
giáo viên cần khuyến khích học sinh tự liên hệ, điều tra, phân tích, đánh giá các sự kiện
trong đời sống thực tiễn nhà trường, địa phương, đất nước.
Như vậy, thanh niên nói chung, học sinh THPT nói riêng – đó là một lớp người trẻ
tuổi trong dân cư, đang phát triển về nhân cách và có nhu cầu khẳng định mạnh mẽ về cá
tính, là nguồn dự trữ cơ bản của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc.
Nghiên cứu, xem xét đặc điểm tâm sinh lý học sinh THPT là một trong những căn
cứ quan trọng để xác định nội dung, cách thức tổ chức giáo dục phù hợp trong quá trình
xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.
1.2.3. Vị trí và vai trò của môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ
thông
1.2.3.1. Vị trí, nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân
Trước và những năm đầu đổi mới môn GDCD được đưa vào giảng dạy trong các
trường THPT ở nước ta với những hình thức và tên gọi khác nhau. Từ năm học 1990 – 1991
môn GDCD đã được xác định là môn khoa học xã hội.
Theo Luật giáo dục 2005: “ Giáo dục Trung học phổ thông nhằm giúp học sinh
củng cố và phát triển những kết quả giáo dục Trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ
thông, có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn
hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Cũng như tất cả các môn học
khác trong nhà trường THPT, môn GDCD đã được đổi mới về nội dung, cấu trúc chương
trình…cho phù hợp với hoàn cảnh và yêu cầu mới.
Vấn đề trên vừa quan trọng, vừa hệ trọng vì thế bắt đầu từ năm 2006, Bộ GD&ĐT
đã ban hành chương trình và sách giáo khoa GDCD mới biên soạn theo chương trình cải
cách (năm 2006 xuất bản sách GDCD Lớp10, năm 2007 xuất bản sách GDCD Lớp 11,
năm 2008 xuất bản sách GDCD Lớp 12). Điều này nói lên vị trí quan trọng của môn
GDCD trong nhà trường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: một dân tộc yếu là một dân tộc dốt. Một xã hội
văn minh, ổn định và phát triển là một xã hội có nhiều công dân tốt. Công dân tốt trước hết
phải là người có học, có nhân cách, có tính cộng đồng sâu sắc.
Dù ở giai đoạn nào, thời điểm nào trong sự phát triển của lịch sử xã hội cũng không
thể đào tạo những người lao động mới phát triển toàn diện khi chỉ chú ý tới việc giáo dục
trí dục, bỏ qua hoặc coi thường giáo dục các mặt khác. Chính vì vậy, nhà trường phổ thông
phải có chương trình, nội dung giáo dục, giáo dưỡng phù hợp với đất nước, con người Việt
Nam, phù hợp với thời đại.
Trong nhà trường tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
đều có tác dụng to lớn trong xây dựng và phát triển dần nhân cách, năng lực, phẩm chất
cho học sinh THPT. Tuy nhiên, GDCD là một môn khoa học xã hội có ưu thế hơn cả trong
việc giáo dục để hình thành, phát triển nhân cách cho học sinh THPT.
Môn GDCD là bộ môn dạy cho học sinh những tri thức khoa học có tính phổ thông,
cơ bản và thiết thực nhất. Nó không những trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về
thế giới quan, nhân sinh quan, hệ thống các giá trị đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị và
những phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước… mà còn giúp các em định hình và phát triển
được về nhân cách, nâng cao trách nhiệm công dân của học sinh, xác định vị trí của bản
thân với tư cách là chủ thể của sự phát triển cá nhân, xã hội và tự nhiên.
Chính trên cơ sở của những tri thức đó, học sinh sẽ dễ hình thành những quan điểm
mới, những khuynh hướng tư tưởng mới, động cơ, hoài bão, niềm tin và hành vi tốt đẹp
của con người. Đồng thời thông qua tri thức của môn GDCD sẽ hình thành từng bước
phương pháp nhận thức, tư duy khoa học và phương pháp hành động đúng quy luật
khách quan. Từ đó tạo nền tảng vững chắc xây dựng và phát triển nhân cách tốt đẹp cho
các em trong cuộc sống.
Học sinh hôm nay sẽ là những công dân tương lai, là chủ nhân xây dựng và bảo vệ
đất nước, họ cần được giáo dục để có ý thức công dân, có nhân cách tốt để trở thành những
công dân gương mẫu có ích cho tổ quốc mình.
Việc nhận thức đúng đắn và đầy đủ vị trí và nhiệm vụ quan trọng của môn GDCD
trong GD&ĐT thế hệ trẻ sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược xây dựng, phát triển
toàn diện con người Việt Nam về đức, trí, thể, mỹ và lao động.
1.2.3.2. Vai trò của môn Giáo dục công dân trong xây dựng và phát triển nhân
cách học sinh
Giáo dục THPT là thời kỳ giáo dục trong đó học sinh được dẫn dắt để trở thành
những người lớn vừa có tri thức, vừa có đạo đức, có phẩm chất chính trị, tư tưởng, ý thức
trách nhiệm cộng đồng, gia đình, tập thể và bản thân mình. Chúng ta biết rằng học sinh
THPT là lứa tuổi từ khi vào trường đến khi tốt nghiệp vẫn còn đang trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách. Vì vậy xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT
hiện nay trở thành một trong những vấn đề vô cùng quan trọng của công tác giáo dục trong
nhà trường hiện nay. Môn GDCD là một trong những môn học giữ vai trò quan trọng
trong sự nghiệp đó.
Môn GDCD góp phần to lớn trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan
và phương pháp luận khoa học cho học sinh THPT
Hơn bất cứ môn khoa học nào khác trong nhà trường THPT, những tri thức đề cập
trong môn GDCD là những tri thức phổ thông, cơ bản, mang tính khái quát hoá cao, được
giảng dạy thông qua hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính phổ quát có
ý nghĩa to lớn trong việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan, phương pháp luận
khoa học, trên cơ sở đó giúp học sinh nhận thức tốt hơn những vấn đề thuộc các môn khoa
học khác.
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm về thế giới, là sản phẩm của nhận thức
khoa học và hoạt động xã hội, là một trong những yếu tố cấu thành phẩm chất đạo đức.
Giáo dục thế giới quan cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của môn
GDCD, thể hiện vai trò của bộ môn trong xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.
Với những quan điểm duy vật biện chứng chung nhất về thế giới và một số quan
điểm duy vật biện chứng về xã hội, con người trong phần triết học – GDCD lớp 10 và phần
kinh tế chính trị – GDCD lớp 11 giúp học sinh nắm được về bản chất vật chất của thế giới,
sự vận động và phát triển của thế giới vật chất tuân theo những quy luật khách quan, con
người có khả năng nhận thức và cải tạo được thế giới khách quan, về tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, về con người – chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội…
Ngoài ra giúp cho học sinh THPT có những tiền đề lý luận cơ bản để hiểu và nhận
thức được tính tất yếu khách quan của quá trình đi lên CNXH trong thời đại ngày nay và
sự nghiệp cách mạng XHCN của Đảng và nhân dân ta.
Môn GDCD giáo dục cho học sinh phẩm chất chính trị, tư tưởng của người công
dân trong giai đoạn hiện nay
Là môn học giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nên
môn GDCD có ưu thế giúp các em có hiểu biết về xã hội XHCN, về nền dân chủ XHCN;
nhận thức đúng đắn về bản chất của nhà nước pháp quyền Việt Nam, về thể chế chính trị,
về phương hướng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, về vai trò và giá trị của pháp luật đối
với sự tồn tại và phát triển của cá nhân, nhà nước và xã hội; về quyền lợi và trách nhiệm
của học sinh trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc…
Trên cơ sở đó các em nâng cao được ý thức, biết lựa chọn và thực hiện các hành vi
ứng xử phù hợp với các giá trị xã hội; biết bảo vệ cái đúng, cái tốt, đấu tranh phê phán đối
với các hành vi, hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống phù hợp với lứa tuổi. Bên cạnh đó
hình thành ở các em niềm tin đối với Đảng, với chế độ, với sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Trở thành một chủ thể của sự phát triển nhân cách có hoài bão và mục đích sống cao
đẹp.
Môn GDCD giáo dục các giá trị đạo đức, góp phần trực tiếp xây dựng lối sống
đúng đắn và lành mạnh cho học sinh
Thông qua nội dung chương trình học sinh được trang bị những tri thức về đạo đức
một cách khái quát và có hệ thống, giúp các em hiểu và biết giữ gìn các giá trị đạo đức
như: nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc của bản thân và xã hội. Từ
đó, biết đặt mục tiêu phấn đấu, coi trọng việc rèn luyện và tự hoàn thiện bản thân, giao tiếp
và ứng xử có văn hoá, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Hiểu đúng đắn về tình yêu, hôn nhân, gia đình; biết sống nhân nghĩa, hoà nhập, hợp
tác với mọi người xung quanh. Có hiểu biết về truyền thống yêu nước của dân tộc, luôn có ý
thức học tập, rèn luyện để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất
nước…Qua đó các em tăng thêm tính tự giác trong hành vi đạo đức của mình, phát triển lý
tưởng sống cao đẹp, những phẩm chất và năng lực cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ
CNH, HĐH.
Học chữ, học làm người là nhiệm vụ cơ bản nhất của người học sinh. Học để có tri
thức, học để hoàn thiện nhân cách là cả một quá trình lâu dài và vô cùng gian khổ, không
những đòi hỏi các em phải có niềm tin, phương pháp mà còn phải có ý chí và nghị lực.
Môn GDCD có vai trò to lớn trong việc xây dựng và phát triển hai thành tố chủ yếu của
nhân cách con người đó là “đức” “tài”, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở THPT.
Môn GDCD góp phần nâng cao chất lượng học tập các bộ môn khoa học khác
trong nhà trường
Học sinh không thể nào đạt kết quả cao trong học tập khi mà mỗi cá nhân không
xác định cho mình động cơ, mục đích học tập, rèn luyện đúng đắn và khoa học. Trong quá
trình học tập, khi tiếp nhận và vận dụng được tri thức môn GDCD các em sẽ có phương
pháp khoa học khi tiếp thu kiến thức các môn học khác, đồng thời biết cách xử lý thông tin
một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, các em sẽ nhận thức đúng đắn hơn khi định hướng lao
động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp. Điều này giúp các em thích ứng với những điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể trong quá trình phát triển của xã hội.
Chương 2
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH QUA GIẢNG DẠY
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN HIỆN NAY
2.1. KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ GIÁO DỤC CẤP TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định
* Vị trí địa lí tự nhiên
Là tỉnh đồng bằng ven biển nằm ở cực Nam châu thổ sông Hồng, Nam Định có tổng diện tích tự nhiên 1650 km2, với dân số khoảng 1.916.400 người. Tỉnh Nam Định
phía Đông giáp với tỉnh Thái Bình, phía Tây giáp với tỉnh Ninh Bình, phía Nam và Đông
Nam giáp biển Đông, phía Bắc giáp với tỉnh Hà Nam.
Nam Định là tỉnh có nhiều đặc điểm khác hẳn với các tỉnh khác trong cả nước, đặc
biệt là về lịch sử hình thành và phát triển. Đời Đường Nam Định thuộc huyện Chu Duyên.
Đời Trần được gọi là lộ Thiên Trường, sau lại chia làm ba lộ: Kiến Xương, An Tiêm,
Hoàng Giang. Thời thuộc Minh, vùng đất này được chia làm ba phủ: Trấn Nam, Phụng
Hóa, Kiến Bình. Đời Lê, thuộc xứ Sơn Nam, đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 năm 1741,
vùng đất này thuộc lộ Sơn Nam Hạ. Đến triều Nguyễn, năm 1832 đổi tên thành tỉnh Nam
Định, với 4 phủ, 18 huyện bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay. Năm 1890, Thái
Bình tách ra thành tỉnh riêng lúc này Nam Định còn 2 phủ và 9 huyện. Từ năm 1926, Nam
Định có 2 phủ và 7 huyện, 78 tổng, 705 xã.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tỉnh Nam Định thuộc liên khu
ba. Tháng 5 – 1965, Nam Định hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Năm 1976
Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đến năm 1991 lại chia tách
và tái lập tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình. Tháng 11 – 1996 tỉnh Nam Hà lại được tách để
tái lập 2 tỉnh là Nam Định và Hà Nam. Theo Quyết định của Quốc Hội khóa IX, kỳ họp
thứ 10, ngày 1/1/1997 Nam Định được tái lập, có 10 đơn vị hành chính, bao gồm: thành
phố Nam Định, 9 huyện, 229 xã phường, thị trấn.
Nếu như sông Hồng và sông Đáy tạo nên địa giới tự nhiên giữa Nam Định với
Ninh Bình và Thái Bình, thì phạm vi trong tỉnh sông Đào phân chia Nam Định thành hai
vùng Nam - Bắc. Sông Ninh Cơ, sông Sò là giới hạn các huyện trong tỉnh.
Với bờ biển dài 72 km2, Nam Định là vùng kinh tế giàu tiềm năng có thể triển khai,
thực hiện nhiều đề án phát huy thế mạnh kinh tế biển.
Là tỉnh được phù sa bồi đắp, có nhiều đồi núi nhưng không cao, lại có dòng chảy
của khe ngòi liền kề đã tạo cho Nam Định sự màu mỡ phì nhiêu và cảnh non nước hữu
tình.
* Điều kiện kinh tế – xã hội tỉnh Nam Định
Nam Định là một trong những tỉnh có môi trường đầu tư đang ngày càng được cải
thiện, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển một cách bình đẳng, thu hút được
nhiều nguồn lực, nhất là nguồn lực của các doanh nghiệp và tư nhân.
Sản xuất công nghiệp tỉnh Nam Định phát triển tương đối sớm với nhiều ngành
nghề truyền thống, trong đó có công nghiệp Dệt – May là một trong những trung tâm dệt
may lớn của cả nước. Tỉnh đã duy trì được tốc tăng trưởng và nâng cao chất lượng, hiệu
quả sản xuất công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 ước đạt 7.384,8 tỷ đồng.
Nam Định nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực – thực phẩm của đồng
bằng Bắc Bộ nên sản xuất nông nghiệp luôn chú trọng theo hướng kinh doanh hàng hóa,
xây dựng nông thôn mới. Theo số liệu của Uỷ ban nhân tỉnh tính đến năm 2008: Giá trị sản
xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 4.189 tỷ đồng.
Trong những năm qua Nam Định đã tập trung khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh và dịch vụ. Chủ động chống lạm phát và phòng chống thiên tai, dịch bệnh,
giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững.
Bên cạnh đó, tỉnh đã bảo đảm cung cầu hàng hóa không để tăng giá đột biến những
vật tư đầu vào của sản xuất và những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân. Tăng
cường kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, kinh doanh hàng giả, kém chất lượng, trốn
thuế, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Nam Định hiện đang đẩy nhanh tiến độ một số chương trình, dự án đầu tư lớn,
trọng điểm. Đó là chương trình nâng cấp tuyến đê biển, cải tạo nâng cấp Quốc lộ 21, dự án
xây dựng thành phố Nam Định thành trung tâm kinh tế - văn hóa – xã hội, các chương
trình đầu tư bằng trái phiếu chính phủ cho nông nghiệp, thủy lợi, y tế và GD&ĐT.
Tăng cường đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công
nghệ, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý
điều hành của chính quyền các cấp. Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã
hội.
Tuy nhiên, những tác động của thiên tai và tình hình lạm phát…đã ảnh hưởng đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế, đầu tư, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội và đời sống nhân
dân. Đặc biệt là sức hấp dẫn và thu hút đầu tư vào tỉnh chưa cao. Chất lượng nguồn nhân
lực còn hạn chế so với yêu cầu phát triển giai đoạn hiện nay.
* Về văn hoá - xã hội
Dù trải qua biết bao những biến cố thăng trầm của lịch sử, Nam Định vẫn giữ gìn và
phát huy được truyền thống văn hoá lâu đời triều Trần, truyền thống hiếu học từ bao đời
của mảnh đất địa linh nhân kiệt.
Từ vùng quê mang đậm nét của nền văn minh lúa nước, đã sản sinh ra những danh
nhân văn hoá “tài cao, học rộng”, những trạng nguyên, bảng nhãn, tiến sỹ. Đó là các trạng
nguyên Nguyễn Hiền; Đào Sư Tích thời nhà Trần; Lương Thế Vinh, Vũ Tuấn Chiêu thời
Hậu Lê, Trần Văn Bảo thời nhà Mạc, tiến sĩ Trần Bích San thời Nguyễn đỗ đầu cả ba kì thi
Hương, thi Hội, thi Đình…Nam Định là quê hương của cố Tổng Bí thư Trường Chinh và
của nhiều nhà văn hoá lớn Việt Nam: nhà thơ Trần Tế Xương, nhà thơ Nguyễn Bính, nhạc
sĩ Văn Cao, nhà sử học Trần Huy Liệu…
Trải qua các giai đoạn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống ấy
được nhân lên, phát huy và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sau cách mạng tháng Tám
thành công, nhân dân trong tỉnh đã hăng hái tham gia phong trào bình dân học vụ, hệ thống
giáo dục phổ thông được xây dựng và dần dần củng cố vững chắc.
Những năm qua sự nghiệp GD&ĐT tỉnh Nam Định đã đạt được nhiều thành tựu
đáng tự hào. Ngay từ năm 1991, Nam Định đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xoá
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Năm 1999 đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục đúng
độ tuổi. Năm 2001 đạt chuẩn quốc gia về phổ cập THCS. Năm 2007 đạt chuẩn quốc gia về
phổ cập giáo dục THPT.
Hiện nay ở Nam Định, trong số 10 người dân thì có khoảng 3 người đang theo học
ở tất cả các loại hình trường lớp từ mẫu giáo, phổ thông đến trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng và đại học.
Như vậy, Nam Định là một vùng quê giàu truyền thống yêu nước, đấu tranh cách
mạng và lao động sáng tạo, một vùng kinh tế, văn hoá, văn hiến tiêu biểu và có vị thế đặc
biệt trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Hơn nữa, đã và đang là một trung tâm GD&ĐT
lớn của cả nước - một mô hình điển hình xuất sắc của sự nghiệp GD&ĐT trong thời kỳ
mới.
2.1.2. Đặc điểm giáo dục cấp trung học phổ thông tỉnh Nam Định
Phát huy truyền thống hiếu học, trải qua hơn 50 năm nỗ lực phấn đấu, quy mô giáo
dục tỉnh Nam Định ngày càng phát triển không ngừng. Ngân sách chi thường xuyên cho
giáo dục luôn ở mức cao: năm 2007: 600.700 triệu đồng; năm 2008: 741.148 triệu đồng).
Bằng nguồn vốn đầu tư của nhà nước, của các địa phương và sự đóng góp trực tiếp của
nhân dân nhiều trường học trong tỉnh đang được kiên cố hoá, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện (năm học 2008 có 73 phòng học cấp THPT được xây mới và sửa
chữa, phòng học kiên cố hoá đạt 86,91%).
Giáo dục cấp THPT luôn được hoàn thiện và chuẩn hoá: trường chuẩn, giáo viên
chuẩn, quy trình giảng dạy được thực hiện đúng quy định của Bộ GD&ĐT. Đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Nam Định cơ bản là những người tâm huyết với nghề
nghiệp, tiếp thu kinh nghiệm của các thế hệ đi trước, luôn quyết tâm xây dựng kỷ cương nề
nếp và chất lượng dạy học. Đây là những yếu tố quyết định làm cho chất lượng giáo dục
THPT ngày càng nâng cao. Biểu hiện ở tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp, tỷ lệ học sinh thi đỗ đại học,
chất lượng thi học sinh giỏi luôn đạt ở mức cao.
Vấn đề đào tạo nhân tài đã được chú trọng, các trường đã tuyển chọn những học
sinh giỏi toàn diện vào học tập và bồi dưỡng nguồn học sinh giỏi của tỉnh. Tiêu biểu như
trường THPT chuyên Lê Hồng Phong là đơn vị dẫn đầu về thành tích học sinh giỏi quốc
gia và quốc tế, được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị anh hùng thời kỳ đổi
mới.
Trong nhiều năm liền kết quả bồi dưỡng các môn văn hoá khối THPT của toàn tỉnh
giữ vị trí tốp đầu cả nước.[nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định].
Bảng 2.1:
Giải cá nhân cấp quốc gia Giải Giải Năm Số dự châu quốc Tỷ lệ học thi Á - Nhất Nhì Ba KK Cộng tế % TBD
1997- 88 7 25 36 12 80 90,8 1998
2007- 66 7 23 18 12 60 90,9 2008
Hệ thống các trường THPT phát triển nhanh: huyện Hải hậu có 7 trường, huyện Ý
Yên có 5 trường, thành phố Nam Định có 9 trường. Toàn tỉnh có 53 trường THPT với ba
loại hình trường: công lập, dân lập và tư thục. Trong đó có 41 trường công lập, 10 trường
dân lập, 02 trường tư thục. Quy mô học sinh được duy trì và phát triển: có khoảng 69.067
học sinh THPT, riêng lớp 10 có 485 lớp với 23.361 học sinh. Sỹ số học sinh các lớp được
duy trì tốt, tỷ lệ học sinh bỏ học thấp.
Các trường THPT đã triển khai, thực hiện nghiêm túc chương trình thay sách giáo
khoa mới theo yêu cầu và hướng dẫn của Bộ, của Sở. Đặc biệt là việc tăng cường đồ dùng,
thiết bị dạy học, góp phần tích cực trong đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy
học và kiểm tra, đánh giá học sinh.
Theo Báo cáo của Sở GD&ĐT Nam Đinh tính đến năm học 2008 – 2009 toàn tỉnh
có: 466 lớp 11, trong đó 50 lớp ban khoa học tự nhiên (2510 học sinh); 2 lớp học ban khoa
học xã hội và nhân văn (96 học sinh và 409 lớp học ban cơ bản (20.541 học sinh). Tỷ lệ
học sinh học tập phân hoá trong ban cơ bản như sau: 126 lớp với 6903 học sinh học nâng
cao các môn Toán, Lý, Hoá; 3 lớp với 170 học sinh học nâng cao các môn Toán, Hoá,
Sinh; 7 lớp với 380 học sinh học nâng cao các môn Văn, Sử, Địa; 11 lớp với 614 học sinh
học nâng cao các môn Toán, Văn, Ngoại ngữ.
Học sinh lớp 10 gồm 485 học sinh, trong đó: 51 lớp học ban khoa học tự nhiên, 2
lớp học ban khoa học xã hội và nhân văn, 432 lớp học ban cơ bản, trong đó có 133 lớp học
nâng cao các môn Toán, Lý, Hoá.
Các trường THPT trong tỉnh đã bắt nhịp được yêu cầu của cuộc vận động “Hai
không” – Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Phong
trào xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, của Sở, các trường học đã tăng cường rà soát, phân
loại học sinh học lực yếu, kém; tìm nguyên nhân và các giải pháp đồng bộ để khắc phục.
Một số trường học có biện pháp cụ thể, chủ động, sáng tạo trong việc dạy sát đối tượng,
phân công giáo viên có kinh nghiệm và học sinh khá, giỏi, kèm cặp học sinh yếu, kém.
Nhằm từng bước nâng dần chất lượng, hạn chế, tiến tới xoá bỏ hiện tượng học sinh “ngồi
sai lớp”. Công tác dạy - học tiếp tục được các trường đầu tư mạnh, cả về đại trà và mũi
nhọn.
Kỳ thi tốt nghiệp THPT luôn được chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, nhất là khâu ôn
tập, rèn kỹ năng, giúp đỡ học sinh học lực còn yếu. Kết quả kỳ thi tốt nghiệp toàn tỉnh đạt
tỷ lệ 94,29%, trong đó: đỗ vào loại khá, giỏi đạt 16,17%. Tiếp tục khẳng định vị trí tốp dẫn
đầu của toàn quốc 15 năm liên tục.
(Năm học 2005 – 2006: xếp thứ I, năm học 2006 – 2007: xếp thứ II, năm học 2007
– 2008: xếp thứ I, năm học 2008 – 2009: xếp thứ I. Nguồn CNTT Bộ Giáo dục và Đào
tạo).
Nhìn chung, học sinh các trường THPT có tư tưởng, đạo đức tốt. Học sinh đạt yêu
cầu khá về lĩnh hội kiến thức và kỹ năng môn học. Xếp loại các mặt giáo dục THPT cuối
năm học 2008 -2009 về hạnh kiểm (cả ba khối): xếp loại tốt 67,81%, xếp loại khá 24,94%,
xếp loại trung bình 6,25%, xếp loại yếu 1,01%.[phụ lục, bảng…]
Có được những thành tựu to lớn này là do các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, đặc
biệt là Sở GD&ĐT Nam Định đã có nhiều giải pháp tích cực triển khai thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về đổi mới sự nghiệp GD&ĐT. Mặt
khác, truyền thống hiếu học được khơi dậy và phát huy, tạo nên một phong trào toàn dân chăm
lo cho sự nghiệp GD&ĐT.
Tuy nhiên, giáo dục THPT ở Nam Định vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách. Chất
lượng giáo dục toàn diện học sinh THPT chưa thực sự được nâng cao. Thực tế chứng minh
dưới tác động của nền kinh tế thị trường, của văn hoá hội nhập, cùng với sự phát triển của
kinh tế biển, của công thương nghiệp, của nông nghiệp, của du lịch thì nhiều thang giá trị
xã hội đang thay đổi, gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và lối sống của thanh
niên học sinh. Lối sống lai căng, đua đòi, thực dụng, đề cao giá trị vật chất đã và đang xuất
hiện, nhiều giá trị đạo đức đang bị sa sút nghiêm trọng.
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH
QUA GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
2.2.1. Những thành tựu và hạn chế
2.2.1.1. Môn giáo dục công dân với việc trang bị thế giới quan khoa học cho học
sinh trung học phổ thông ở Nam Định
Trong bất cứ thời đại lịch sử nào, sự phát triển trí tuệ của con người cũng luôn gắn
với một thế giới quan nhất định. Mỗi người có thể tự tin khẳng định được mình trong cuộc
sống khi trau dồi được một thế giới quan khoa học.
GS – VS Phạm Minh Hạc cho rằng: thế giới quan là một trong những phẩm chất
cấu thành đạo đức cá nhân. Việc khai thác tri thức trong quá trình dạy và học môn GDCD
trong các trường THPT ở Nam Định đã góp phần trang bị thế giới quan, phương pháp luận
khoa học, tư duy logic, tư duy biện chứng duy vật cho học sinh.
Theo kết quả khảo sát ở một số trường THPT trong tỉnh cho thấy, sau khi được học
kiến thức 9 bài ở phần I “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận
khoa học”– GDCD lớp 10 thì 87,5% học sinh hiểu được nội dung cơ bản của thế giới quan
khoa học – thế giới quan duy vật của triết học Mác. Rất nhiều em đã có quan điểm, niềm
tin khoa học và cách nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Trên cơ sở đó các em bước đầu đã xác định được lý tưởng sống phù hợp. Có 96% học sinh
hiểu con người và xã hội loài người là sản phẩm của giới tự nhiên, là một bộ phận của thế giới
vật chất. Các em rất tin tưởng con người có khả năng nhận thức và cải tạo giới tự nhiên. Việc
các em nhận thức đúng đắn con người là sản phẩm hoàn hảo nhất, là kết quả phát triển lâu dài
của tự nhiên và xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng giúp các em nâng cao ý thức cải tạo
bản thân mình.
Qua môn học 85% học sinh hiểu sâu sắc hơn thế nào phát triển, nguồn gốc, cách
thức, khuynh hướng của quá trình vận động và phát triển, rút ra được bài học không nên có
thái độ thành kiến, bảo thủ, dám đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Từ đó, hình thành cho
mình thái độ cầu thị, biết mình nên kế thừa cái gì, phủ định cái gì trong học tập và cuộc
sống hàng ngày. Có 86.3 % học sinh nhận thức được ý nghĩa và sự cần thiết phải tôn trọng
quy luật khách quan, hiểu được vai trò của thực tiễn. Qua đó có ý thức tìm hiểu thực tế,
gắn học với hành, vận dụng những điều đã học vào trong cuộc sống.
Đa số học sinh đánh giá được vai trò của những nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội như: Môi trường tự nhiên, dân số, phương thức sản xuất. Đặc biệt
90,5% học sinh đã chứng minh được mọi giá trị vật chất và tinh thần đều do con người
sáng tạo ra. Bước đầu giải thích được tại sao con người là chủ thể đồng thời là mục tiêu
của sự phát triển xã hội. Hiểu được những giá trị nhân văn, nhân bản của tín ngưỡng tôn
giáo ở địa phương trong giáo dục đạo đức, nhân cách; góp phần thiết thực kìm hãm tốc độ
suy thoái của đạo đức xã hội trước những mặt trái của cơ chế thị trường.
Nếu hiểu thế giới quan là toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy
định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của một giai
cấp hay của xã hội nói chung đối với thực tại, thì kiến thức chương trình phần I rất quan
trọng và cần thiết trong định hướng nhân cách, giúp các em tránh những tác động tiêu cực
đang hàng ngày hàng giờ lung lạc, cuốn hút mình.
Tuy nhiên, vẫn còn bộ phận học sinh chưa thực sự kiên định trong quan điểm và
niềm tin. Một số em còn có quan điểm duy tâm về thế giới, về nguồn gốc của con người.
Cho rằng “con người do thượng đế, thần linh sáng tạo ra”, luôn tin rằng “sống chết có
mệnh, giàu sang do trời”, “học tài thi phận”. Có thái độ xuê xoa, “dĩ hoà vi quý” trong
nhận thức và hành vi. Không phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tiến bộ, đâu là
lạc hậu, không tích cực tham gia các hoạt động.
Một số em chưa thực sự hiểu, chưa có khả năng đánh giá, nhận xét được những
thuận lợi và hạn chế về vấn đề tài nguyên, môi trường, dân số và trình độ phát triển kinh tế
– xã hội của địa phương cũng như của tỉnh mình. Do đó, bản thân chưa định hướng được
những thuận lợi và khó khăn trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Nhiều học sinh
sống thiếu hoài bão, thiếu niềm tin vào khả năng của chính mình, như thế đương nhiên các
em không thể nào phát triển nhân cách tốt được.
Những điều trên chứng tỏ môn GDCD chưa phát huy hết vai trò của mình trong
việc hình thành, củng cố và phát triển những phẩm chất thế giới quan duy vật biện chứng
và phương pháp luận khoa học cho học sinh THPT ở Nam Định.
2.2.1.2. Môn giáo dục công dân với việc hình thành các phẩm chất đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam Định
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng
chỉ rõ vai trò của đạo đức cách mạng. Theo Bác: “Cũng như sông có nguồn thì mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”[, 252]
Trong những năm qua môn GDCD đã trang bị cho học sinh những phạm trù đạo
đức cơ bản cần thiết ( nghĩa vụ, lương tâm, phẩm chất, danh dự và hạnh phúc…) và trách
nhiệm đạo đức của người công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hiểu được thế nào
là tình yêu, tình yêu chân chính, những tiến bộ của chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay và
các chức năng cơ bản của gia đình. Hiểu thế nào là nhân nghĩa, sống hoà nhập, hợp tác; thế
nào là lòng yêu nước và các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước. Từ đó giúp học sinh hiểu,
nắm vững và hình thành được những phẩm chất, tính cách quan trọng của bản thân.
Qua những phạm trù đạo đức cơ bản trong phần II: “Công dân với đạo đức”, học
sinh biết điều chỉnh hành vi của bản thân theo các yêu cầu đạo đức xã hội. Rất nhiều em đã
khẳng định rằng đây là căn cứ khoa học để các em lựa chọn cho mình nhân cách sống phù
hợp với chuẩn mực, giá trị xã hội hiện nay.
Có 90% học sinh các trường THPT cho biết việc học tập những phạm trù đạo đức
cơ bản trong môn GDCD giúp cho các em nhận thức được hạnh phúc chân chính của con
người là biết gắn lợi ích bản thân với lợi ích gia đình, lợi ích giai cấp, dân tộc, nhân loại.
Các em đã ý thức được rằng yêu nước đối với học sinh là phải kính trọng, biết ơn ông bà,
cha mẹ, yêu quý nhân dân, phải cố gắng học tập tu dưỡng để sau khi ra trường trực tiếp
góp phần xây dựng đất nước.
Đa số các em sau khi học thấy được sự cần thiết phải tự điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp với các chuẩn mực của xã hội. Đồng thời học sinh còn biết đánh giá,
phê phán, đấu tranh chống lại những hành vi lệch chuẩn, những biểu hiện tiêu cực đi
ngược với các giá trị chân – thiện – mỹ trong đời sống hàng ngày ở trường và ngoài xã hội.
Trên cơ sở đó, học sinh có ý thức quyết tâm học tập, rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách,
lối sống, hành vi của mình để trở thành người công dân chân chính.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tiễn cho thấy hiệu quả giáo dục các phẩm chất đạo đức
cho học sinh THPT tỉnh Nam Định thông qua giảng dạy môn GDCD chưa tương xứng với
chức năng và vai trò của bộ môn. Nhiều chuẩn mực đạo đức chưa trở thành thói quen và
niềm tin của một bộ phận học sinh. Do đó, những em này còn có những biểu hiện chưa tốt
về đạo đức, nhân cách như: trốn học, ham mê điện tử, gây gổ đánh nhau, nói tục chửi bậy,
lười biếng, cẩu thả, kém ý chí phấn đấu, không có tinh thần hợp tác trong quá trình học
tập.
Khá nhiều em không hiểu được mối quan hệ giữa tình yêu, hôn nhân và gia đình.
Từ đó có thái độ ủng hộ lối sống, tình yêu theo kiểu phương Tây, thích lối sống tự do, ít
ràng buộc trong tình yêu, hôn nhân, đồng tình với kiểu sống thử trước hôn nhân đang diễn
ra hiện nay.
Rất nhiều em còn thờ ơ, không hiểu được sự nguy hiểm của các vấn đề: ô nhiễm
môi trường, bùng nổ dân số, các dịch bệnh hiểm nghèo. Các em cho rằng đó là việc của
người lớn nên có thái độ không quan tâm nhiều đến những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân loại hiện nay.
Chẳng hạn, về ý thức bảo vệ môi trường, qua điều tra cho thấy các em “học’’
nhưng không “hành”. Có thể biết và nói được giữ vệ sinh môi trường vừa có tầm quan
trọng, vừa là trách nhiệm chung của tất cả mọi người, nhưng chính bản thân hoặc nhìn thấy
người khác phá hoại cảnh quan, không giữ gìn vệ sinh, vứt rác trong lớp, trong trường
hoặc chính nơi mình ở lại thấy đó là chuyện bình thường. Khoảng 45% học sinh nhận thấy
bản thân chưa thực sự có ý thức đấu tranh với những hành vi phá hoại môi trường ở địa
phương mình.
Ngoài ra, một vấn đề đang tồn tại hiện nay nữa là rất nhiều học sinh đang mất dần
thái độ trân trọng và kế thừa những giá trị văn hoá của dân tộc, chưa ý thức sâu sắc được
trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đa số học
sinh hiện nay thích những bộ phim, bài hát, bản nhạc từ nước ngoài mà không cần quan
tâm nó có ý nghĩa gì. Đây là nhân tố làm nhân cách các em phát triển lệch lạc do hấp thụ
những luồng văn hoá không lành mạnh. Các em ít bàn luận đến vấn đề truyền thống dân
tộc, 13% học sinh không nhận thức được “tinh thần yêu nước là truyền thống quý báu, là
giá trị đạo đức quan trọng cần phải kế thừa và phát huy” trong công cuộc đổi mới đất
nước. Vì thế, chưa xác định đúng lý tưởng sống cho bản thân, tỏ thái độ bàng quang,
không quan tâm đến các hoạt động chính trị – xã hội.
2.1.2.3. Môn GDCD với việc trang bị những tri thức khoa học về kinh tế và chính
trị - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá
Đây là vấn đề khó nhưng giáo viên môn học đã bước đầu giúp các em hiểu rõ
những phạm trù, khái niệm của kinh tế, những quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá
như: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh trạnh; hiểu được những vấn đề
kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Khoảng 65% học sinh hình thành được lối tư duy mới về sự chuyển đổi kinh tế - xã
hội của đất nước và của tỉnh mình dưới đường lối lãnh đạo của ĐCSVN. Hiểu được tính tất
yếu khách quan đi lên CNXH ở Việt Nam, phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa
CNXH với các chế độ xã hội trước đó ở nước ta, hiểu được bản chất của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa..
Các em ý thức được trách nhiệm của bản thân trong lao động sản xuất tạo ra của cải
cho xã hội. Nhiều em đã nắm được tình hình việc làm và phương hướng cơ bản thực hiện
chính sách việc làm ở nước ta hiện nay. Từ đó có định hướng nghề nghiệp phù hợp với với
bản thân và yêu cầu phát triển của xã hội. Có 83% học sinh xác định được động cơ học tập
là học cho mình chứ không phải học cho bố mẹ và người khác, học để có kiến thức sau này
có việc làm tốt, thành đạt trong nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, các em đã hình thành được ý thức về một xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Trên 85% học sinh thể hiện thái độ biết phê phán, đấu tranh loại bỏ những tư
tưởng phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN của dân tộc ta.
Tuy nhiên, vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh thông qua giảng
dạy phần kinh tế còn bộc lộ nhiều hạn chế. Biểu hiện là khả năng phấn tích, đánh giá của
các em về những vấn đề kinh tế còn mang tính chủ quan, cảm tính. Có thể nói 70% học
sinh không hình thành được thế giới quan khoa học về kinh tế, chưa thực sự tin tưởng vào
đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong sự nghiệp
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Một bộ phận không nhỏ học sinh đưa ra câu hỏi: tại sao Việt Nam không lựa chọn
con đường TBCN ? Có 8,9% học sinh cho rằng phải đi theo con đường giống các nước tư
bản chứ không nhất thiết phải đi theo con đường XHCN thì nước ta mới phát triển mạnh
về kinh tế được. Rất nhiều em nhận thức lệch lạc, tỏ ra bi quan khi đánh giá về các vấn đề
kinh tế và chính trị – xã hội. Từ đó giảm sút ý chí phấn đấu học tập, tu dưỡng, thiếu ý chí
lập thân, lập nghiệp. Lối sống biểu hiện xu hướng thiếu niềm tin, lý tưởng, băn khoăn, hoài
nghi về thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, về đường lối lãnh đạo của
Đảng trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc kiến tạo phẩm chất con người mới phù hợp
với môi trường kinh tế thị trường định hướng XHCN trong sự nghiệp đổi mới của đất
nước.
2.2.2.4. Môn GDCD với việc trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản
Qua điều tra có 86% học sinh cho biết các em được trang bị những kiến thức cơ
bản, quan trọng về pháp luật là nhờ thông qua việc học tập môn GDCD trong nhà trường.
Đa số các em thấy được tầm quan trọng của luật pháp và đồng ý với yêu cầu: “Mọi công
dân phải sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.
Trên cơ sở những tri thức được trang bị, học sinh biết được quyền và nghĩa vụ của
mình, biết điều chỉnh hành vi cho phù hợp với các giá trị và chuẩn mực của xã hội. Đồng
thời biết tuân thủ các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của học sinh trong nhà
trường, trong các hoạt động xã hội. Biết tìm cách “tự kiểm soát mình để không bị lôi kéo
vào các tệ nạn xã hội”.
Bên cạnh đó, các em hình thành được năng lực phân tích, đánh giá các sự kiện, tình
huống pháp luật trong đời sống thường ngày của bản thân, gia đình và xã hội. Các em tự
giác, chủ động tích cực tham gia các phong trào như: tự quản, tự phòng, tự bảo vệ; an toàn
trường học, xây dựng nhà trường trong sạch, không có tệ nạn xã hội.
Nhiều em tích cực xây dựng ý thức sống tôn trọng pháp luật, ủng hộ những hành vi
thực hiện đúng pháp luật và phê phán những hành vi làm trái quy định của pháp luật, góp
phần quan trọng vào giữ gìn xã hội ổn định, phát triển bền vững.
Tuy nhiên, một số trường học vẫn còn hiện tượng học sinh không xác định được
mục đích học tập nên thường xuyên bỏ học vì bị cuốn hút vào các trò chơi điện tử. Do tiêu
tốn nhiều tiền vào các trò chơi giải trí, tiêu khiển thiếu lành mạnh dẫn đến nhiều em đã có
những hành vi, ứng xử tiêu cực như nói dối, gian lận với người thân, trộm cắp, gây gổ
đánh nhau, trấn tiền của bạn. Dẫn đến kết quả học tập và tu dưỡng đạo đức giảm sút, ảnh
hưởng đến chất lượng xếp loại học lực và hạnh kiểm chung [bảng số liệu]
Thậm chí có nhiều em do nhu cầu muốn được khẳng định, nhận thức nông cạn
muốn làm “đàn anh”, “đàn chị”, muốn nổi trội trong bạn bè, không phân biệt được những
hành vi đúng, sai nên vi phạm pháp luật. Theo báo cáo của Toà án nhân dân tỉnh Nam
Định, trong 2 năm 2007 – 2008 ngành toà án tỉnh đã xét xử 140 bị cáo ở độ tuổi từ 16 đến
dưới 18 tuổi với các tội như: giết người, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, hiếp dâm, cưỡng
dâm, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý và các
loại tội khác.
Những tồn tại này phải chăng việc giáo dục kiến thức pháp luật cho thanh niên học
sinh qua môn GDCD chưa thật chu đáo. Pháp luật vẫn là vấn đề chưa thật sự gần gũi trong
hành trang của các em.
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu
Thứ nhất, số lượng và chất lượng giáo viên GDCD được nâng cao
Mười năm trở lại đây đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên môn GDCD về cơ bản
đáp ứng yêu cầu dạy học, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn cao, tỷ lệ giáo viên chưa
đạt chuẩn thấp.[nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định].
]
Đội
ngũ Năm học 1997-1998 Năm học 2007-2008 CB-
GV
Trên Đạt Dưới Trên Đạt Dưới
Tổng chuẩn chuẩn chuẩn Tổng chuẩn chuẩn chuẩn
% % % % % %
THPT 1317 2 94 4 2515 6 93 1
Bảng thống kê trên cho thấy chất lượng đội ngũ giáo viên dạy GDCD trong 53
trường THPT của tỉnh phát triển khá tốt. Đa số giáo viên được đào tạo theo đúng chuyên
ngành, hầu hết tốt nghiệp các trường: Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm II Vĩnh
phúc, Đại học Sư Phạm Thái nguyên.[phụ lục, bảng]…Hiện nay số lượng giáo viên dạy
môn GDCD ở các trường THPT của tỉnh đã được bố trí tương đối đủ so với định mức lao
động, đáp ứng yêu cầu giảng dạy.
Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng trực tiếp tác động đến chất lượng gaỉng dạy môn
GDCD trong giáo dục nhân cách học sinh THPT đó là sự cố gắng không ngừng của đội
ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn.
Trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy của giáo viên môn GDCD khá tốt, đáp
ứng yêu cầu giảng dạy bộ môn. Có khoảng 60% giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp
cơ sở hàng năm; từ năm học 1997 -1998 đến nay có 30 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên
giỏi cấp tỉnh, 80% giáo viên GDCD là Đảng viên.
Trong công tác giảng dạy đa số giáo viên đều thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, đúng
quy chế của Bộ trong soạn giảng, thực hiện phân phối chương trình. Đồng thời không
ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy, thể hiện được uy tín và vai trò của môn học, góp
phần to lớn giáo dục toàn diện học sinh.
Đa số giáo viên đã giữ vững được phẩm chất chính trị, tư tưởng, có tư cách đạo đức
tốt; vượt qua mọi khó khăn, có lòng yêu nghề, tận tâm với nghề. Nhiều giáo viên, nhất là
các giáo viên trẻ đã thể hiện thái độ cầu thị, ý thức học hỏi tự bồi dưỡng nâng cao trình độ
kiến thức chuyên môn, phát huy được vai trò của bộ môn trong xây dựng và phát triển
nhân cách cho học sinh.
Đánh giá về chất lượng đội ngũ giáo viên, trong đó có giáo viên GDCD Sở GD &
ĐT Nam Định chỉ rõ: Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh, nhìn chung
tâm huyết với nghề, nghiêm túc, có trách nhiệm trước học sinh, có ý chí tiến thủ, có bản
lĩnh và năng lực vững vàng, tay nghề giỏi, có ý thức kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp của ngành, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay.
Thứ hai, sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, các cấp
uỷ đảng và chính quyền địa phương trong tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan ban
ngành, đoàn thể xã hội, sự tin tưởng và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân đối với sự
nghiệp GD & ĐT
Nam Định là một trong những chiếc nôi khoa cử của quê hương giàu truyền thống
cách mạng và hiếu học. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết TW2 Khoá VIII về Giáo dục
đào tạo tỉnh Nam Định (từ năm 1997), Nam Định đã vượt qua nhiều khó khăn, xây dựng
và phát triển đồng bộ quy mô trường lớp khối THPT, số lượng học sinh gia tăng ở mức
tương đối cao, số trường đạt chuẩn Quốc gia trong tỉnh cũng tăng đáng kể. Sự chuyển biến
tích cực đó đã đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài
cho quê hương đất nước.
Danh mục khối THPT Năm học 1997 - 1998 Năm học 2008- 2009
Số trường 29 trong đó 53 trong đó THPTDL:10
THPTDL:3 trưòng trường
Tư thục: 0 THPTTT: 2 trường
Số lớp, học sinh 572 lớp - 30.381 học sinh 1.214 lớp – 69.067
học sinh
Số trường đạt chuẩn quốc 0 5 trường
gia
Dù kinh tế của tỉnh nhà chưa thực sự phát triển mạnh mẽ so với các tỉnh trong cả
nước nhưng mức đầu tư cho sự nghiệp GD&ĐT từ năm 1998-2008 tương đối cao. Biểu
hiện:
Đơn vị: Triệu đồng
Ngân sách Ngoài ngân sách
Năm Chi thường Xây dựng Mua sắm Học phí Xây dựng xuyên cơ bản
1998 137.506 5.950 9.026 11.622 14.512
1999 141.451 8.500 4.793 16.581 16.710
2000 181.429 18.780 5.329 19.732 17.059
2001 217.917 23.920 11.649 21.086 20.355
2002 261.279 25.282 10.950 21.082 20.307
2003 313.284 17.900 9.583 21.059 21.252
2004 381.191 13.600 17.032 25.042 21.072
2005 447.458 17.682 14.504 25.550 21.176
2006 571.736 21.010 14.770 26.120 22.715
2007 733.430 22.382 17.607 26.720 23.700
2008 741.148 20.082 15.074 26.750 25.300
[Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định].
Đội ngũ giáo viên được chăm lo bồi dưỡng đã tăng về số lượng và chất lượng.
Phong trào tự làm đồ dùng dạy học và sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được những kết quả
tốt. Các cuộc hội thảo, trao đổi với Sở tư pháp, Ban tuyên giáo tỉnh đã góp phần cung cấp
thêm thông tin bổ ích cho giáo viên GDCD, qua đó đã nâng cao chất lượng giáo dục của
bộ môn.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được tăng cường theo hướng kiên cố hoá,
hiện đại hoá, đạt chuẩn quốc gia. Năm 2008 ngân sách dành chi cho mua sắm, thiết bị là
11.168 triệu đồng. Được sự giúp đỡ của Sở GD&ĐT, công ty cổ phần sách - thiết bị giáo
dục Nam Định đã phát hành sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo đến từmg
trường học trong tỉnh, phục vụ kịp thời công tác thay sách giáo khoa.
Phong trào xây dựng trường chuẩn phát triển mạnh mẽ; công tác xã hội hoá giáo
dục có nhiều chuyển biến, tiến bộ, các chỉ tiêu giáo dục của tỉnh đã đạt kết quả tốt đẹp,
khơi dậy tinh thần ham học trong toàn xã hội; ngày càng xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến
trong phong trào thi đua “Dạy tốt”, “Học tốt”; nhiều tập thể trường, trung tâm, nhiều thầy
giáo, cô giáo đã vinh dự được nhận những phần thưởng cao quý.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định tại Đại hội đại biểu
Đảng bộ Tỉnh Lần thứ XVI đã chỉ rõ : Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục – đào tạo, giữ
vững và phát huy những kết quả đã đạt được, tạo chuyển biến toàn diện trong dạy và học.
Thứ ba, nội dung chương trình môn GDCD có nhiều điểm mới so với trước đây
Từ năm học 2006 -2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho xuất bản và đưa vào sử
dụng chính thức bộ sách giáo khoa GDCD cho cả ba khối lớp 10, 11, 12. Sách giáo khoa
đã đảm bảo được tính khoa học, tính sư phạm, thực hiện được việc đổi mới dạy và học trên
cơ sở phát huy tính tích cực học tập của học sinh theo tinh thần đổi mới về Giáo dục - Đào
tạo. Kết cấu từng phần, từng bài tương đối hợp lý, diễn đạt rõ ràng, văn phong sáng sủa,
nội dung chương trình bước đầu góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD
trong trường THPT
* Lớp 10
Số giờ lên lớp có sự thay đổi: trước đây mỗi lớp có 1,5 tiết/tuần, hiện nay là 1
tiết/tuần.
So với sách GDCD lớp 10 trước đây, sách GDCD lớp 10 hiện nay có thêm 1 bài
mới trong phần triết học – Bài 1 (Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng).
Chương trình mới tập trung vào vấn đề: Công dân với việc hình thành thế giới quan
và phương pháp luận khoa học. Một số nội dung của chương trình cũ được lựa chọn, tinh
giản, không đưa vào chương trình mới đó là:
Bài 2: Định nghĩa vật chất của Lênin; tính thống nhất vật chất của thế giới; nguồn
gốc và bản chất của ý thức; phạm trù không gian và thời gian.
Bài 3: Phạm trù đứng im, mối quan hệ giữa vận động và đứng im.
Bài 4: Phân loại một số mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn địch
ta và mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Bài 5: Khái niệm bước nhảy (nhảy vọt) và hình thức của các bước nhảy.
Bài 7: Phạm trù chân lí và hai giai đoạn của quá trình nhận thức; những quy luật cơ
bản của tư duy logic.
Bài 8: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, các hình thái ý thức xã
hội, đặc biệt là hình thái ý thức chính trị, pháp luật và tôn giáo.
Bài 9: Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân kiệt xuất trong lịch sử, luận
điểm “dân là gốc”.
Trong chương trình cũ, toàn bộ thời lượng của lớp 10 được dành cho việc dạy triết
học, nay chương trình mới có thêm phần đạo đức (được chuyển từ học kì II lớp 11 cũ
xuống).
Ở phần đạo đức theo chương trình mới cấu trúc và nội dung có sự điều chỉnh: học
sinh được tìm hiểu các quan niệm về đạo đức trước khi đi vào các phạm trù đạo đức. Phần
đạo đức theo chương trình mới đề cập đến các giá trị đạo đức của người công dân trong
giai đoạn hiện nay. Các giá trị đạo đức này được cấu trúc theo các mối quan hệ của học
sinh đối với bản thân, tình yêu, hôn nhân, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc và nhân loại.
So với chương trình cũ thì nội dung phần đạo đức theo chương trình mới có ý
nghĩa thực tiễn, cụ thể, thiết thực và gần gũi với cuộc sống của học sinh hơn.
* Lớp 11
Trong chương trình trước đây, những kiến thức về kinh tế chỉ được đề cập một cách
sơ lược, xen kẽ, thiếu hệ thống, thiên về đường lối chính sách. Những kiến thức ở phần I
của chương trình mới mang tính phổ thông về kinh tế, nêu lên đường lối, chủ trương phát
triển kinh tế của đất nước và trách nhiệm của công dân trong việc phát triển kinh tế cá
nhân, gia đình và xã hội. Nội dung kiến thức phù hợp với việc giáo dục công dân cấp
THPT, quán triệt được mục tiêu giáo dục THPT; giải quyết được hài hoà giữa các mục tiêu
giáo dục về kiến thức, kĩ năng, thái độ đối với học sinh.
Trong chương trình cũ bao quát một nội dung rất rộng và nặng nề: từ vấn đề “Tiến
bộ xã hội”, “Xã hội tư bản”, “Xã hội xã hội chủ nghĩa” đến “Những vấn đề chung của
nhân loại ngày nay”.
Phần II - Chương trình mới chỉ giữ lại một số nội dung và cấu trúc lại theo hai
mảng là:
- Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội. Trong đó chọn ba vấn đề: Chủ nghĩa xã hội,
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là những vấn đề rất cơ
bản, thiết yếu nhưng cũng khó và cực kỳ nhạy cảm.
- Một số chính sách của Nhà nước ta: Trong chương trình cũ, một số chính sách của
nhà nước được giảng dạy ở lớp 12, nay chuyển xuống giảng dạy ở lớp 11. Chương trình
mới bổ xung hai chính sách (Chính sách dân số và giải quyết việc làm; chính sách tài
nguyên và bảo vệ môi trường). Trong đó trách nhiệm của công dân đối với các chính sách
được coi trọng ở tất cả các bài.
* Lớp 12
Nội dung tài liệu Giáo dục công dân lớp 12 cũ được cấu trúc thành hai phần:
Phần I: Một số vấn đề cơ bản xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Phần
này bao quát các vấn đề cơ bản nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước theo Văn
kiện của Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam.
Phần thứ II: Một số vấn đề pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phần này giới thiệu một cách khái quát hệ thống các ngành luật Việt Nam và hệ thống các
văn bản pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Trong chương trình cũ, những kiến thức về pháp luật được trình bày theo hệ thống
các ngành luật, hệ thống các văn bản pháp luật. Trong sách Giáo dục công dân 12 mới:
không tập trung vào nội dung các ngành luật, các lĩnh vực pháp luật cụ thể, mà tập trung đi
vào phân tích bản chất của pháp luật, vai trò của pháp luật đối với sự tồn tại và phát triển
của mỗi cá nhân, nhà nước và xã hội.
Như vậy trong chương trình mới đã giảm tải được nhiều nội dung, tập trung và làm
đậm nét yêu cầu giáo dục pháp luật ở lớp 12. Đặc biệt nội dung kiến thức đã bắt nhịp được
với những đổi mới trong đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta, với hệ thống
các ngành luật cũng như các văn bản pháp luật.
Thứ tư, sự quan tâm của các trường THPT trong tỉnh đến môn GDCD có sự chuyển
biến tích cực
Đó là công tác giáo dục đạo đức luôn được chú trọng, nhiều trường đã thực hiện
chương trình nội khoá có kết quả môn GDCD ở các khối lớp, đặc biệt coi trọng việc rèn nề
nếp kỷ cương, nếp sống văn minh giao tiếp, kỷ luật trật tự, giữ gìn an toàn trường học.
Tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh, thực hiện đề án “công tác an toàn
trường học và phòng chống ma tuý học đường” nên tình hình trật tự trường học được giữ
vững. Ngoài ra các trường đã tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, truyền
thống cách mạng, lòng nhân ái cho học sinh thông qua các hoạt động như: chữ thập đỏ,
xây dựng quỹ vì bạn nghèo, giúp đỡ đồng bào bị lũ lụt, phong trào “áo lụa tặng bà”, “bầu
ơi thương lấy bí cùng”…
Các tổ chức Đoàn, Đội ở các trường đã tổ chức nhiều cuộc thi, nhiều buổi giao lưu
và những hoạt động tập thể, tạo ra sân chơi bổ ích để rèn luyện cho học sinh những hành
vi, thái độ, tình cảm chuẩn mực. Qua đó, giúp các em có trái tim nhân hậu, tấm lòng bao
dung rộng mở, tình bạn, tình thầy trò đúng mực, trong sáng.
Những việc làm đó đã tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhân cách, đạo đức học
sinh. Tình trạng học sinh vô lễ, nói tục, chửi bậy, đánh nhau, gây mất trật tự đã giảm đi rõ
dệt. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, kết quả học tập và rèn luyện của các em
hàng năm tăng cao.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, nhận thức của xã hội, cán bộ quản lý giáo dục, một bộ phận gia đình, học
sinh đối với vị trí và vai trò của môn GDCD trong nhà trường THPT chưa thật đúng đắn
và sâu sắc
Là một tỉnh có bề dày về thành tích giáo dục các môn văn hoá nhưng vấn đề giáo
dục nhân cách, đạo đức học sinh vẫn còn bất cập so với sự phát triển chung của xã hội.
Việc học tập của học sinh THPT vẫn còn bị chi phối nặng nề về tâm lý khoa cử, thiên về
học văn hoá.
Trước những thách thức của quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá, trước những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức của thế hệ trẻ nói chung, của
thanh niên học sinh Nam Định nói riêng đang biến đổi gay gắt. Vị trí và vai trò của môn
GDCD vẫn chưa được đánh giá cao trong sự phát triển nhân cách cho học sinh. Không ít
trường còn xem nhẹ môn học này bởi quan niệm nó là môn học không quan trọng so với
các môn học khác. Biểu hiện:
Họ không hiểu môn học này trực tiếp trang bị cho các em những hiểu biết về thế
giới quan, nhân sinh quan, phương pháp tư duy khoa học và thực tiễn; hiểu biết về lý luận
– chính trị, xã hội cần thiết mà người công dân phải có: (hiểu biết về xã hội và nhà nước,
về luật pháp và chính sách, về quyền và nghĩa vụ công dân, về đạo đức và trách nhiệm
cuộc sống) để ứng xử với xã hội, nhà nước và cộng đồng xung quanh một cách đúng đắn,
khoa học, tự giác và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.
Không ít người không biết rằng đây chính là cơ sở quan trọng giúp các em nhận
thức rõ vai trò của mình trong ý thức tự giáo dục, tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân theo
chuẩn mực, theo các giá trị được lựa chọn. Thông qua đó nhân cách các em sẽ được xây
dựng và phát triển một cách bền vững.
Từ hiện trạng đó mà Ban giám hiệu một số trường đã lồng ghép, bố trí giáo viên
môn khác trái chuyên môn để giảng dạy kiêm nhiệm. Họ quan niệm đơn giản rằng giáo
viên nào cũng có thể giảng dạy được môn GDCD. Việc bố trí giáo viên không qua đào tạo
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dạy học bộ môn: làm cho nội dung môn học
không được đảm bảo, phương pháp giảng dạy khô cứng, giờ học nhàm chán, buồn ngủ,
tâm lí coi thường môn học ngày càng tăng lên .
Hầu như các trường tìm cách hợp lý hoá việc dạy dồn tiết môn GDCD sau thời
điểm Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố môn thi tốt nghiệp, để đảm bảo thành tích cho kỳ thi
tốt nghiệp. Điều này nói lên công tác quản lý trong nhà trường, quản lý chuyên môn của
một số cán bộ quản lý cấp cơ sở có lúc còn buông lỏng chưa phát huy hết vai trò và trách
nhiệm của mình
Công tác kiểm tra, đôn đốc của nhà trường đối với môn GDCD mới chỉ chú ý đến
thời gian, tiến độ. Vì vậy giáo viên GDCD thường phải khẩn trương, vội vã trong việc
kiểm tra, chấm bài, vào điểm của mấy trăm học sinh mình dạy vào cuối kỳ, cuối năm.
Nhận thức chưa đúng của bản thân và gia đình học sinh về môn GDCD trong nhà
trường. Tâm lý chung của mỗi bậc phụ huynh cũng như của nhiều học sinh THPT ở Nam
Định cho rằng đây là môn học phụ, không liên quan tới thi tốt nghiệp và thi đại học nên
hạn chế đầu tư thời gian, công sức cho việc học tập môn này, không quan tâm tới chất
lượng việc học tập môn GDCD.
Có 52% học sinh không thích học môn này nên chủ yếu học theo hình thức đối phó
vì cho rằng để tập trung thời gian học các môn chính. 80% học sinh thừa nhận không sợ
làm bài kiểm tra môn này vì có thể quay cóp, xem bài bạn. Cho rằng môn khác học sinh có
thể bị thi lại nhưng môn GDCD học sinh phải thi lại là chuyện “ngạc nhiên”, nếu con em
mình bị điểm kém môn này là do giáo viên bộ môn khắt khe, khó tính. Thậm chí nhiều
giáo viên chủ nhiệm cũng đồng tình với phụ huynh lớp mình về việc này.
Cách nhìn nhận của cha mẹ tưởng chừng rất nhỏ nhưng vô hình chung lại gây hậu
quả rất lớn đến thái độ học tập của chính các em đối với môn học.
Việc nhận thức sai lầm của gia đình và học sinh về môn GDCD đã gián tiếp đẩy con
em họ mắc vào sai lầm về hành vi và ứng xử, trực tiếp gây nên sự lệch lạc về phẩm chất và
lối sống. Giá trị lâu dài nhất của môn GDCD liên quan đến cả cuộc đời các em sau này là
hình thành nhân cách, phẩm chất người công dân chân chính, tài đức vẹn toàn để trở thành
những người có ích cho gia đình và xã hội. Chỉ khi con em họ sa ngã vào con đường tội lỗi
họ mới nhận ra những quan niệm sai trong việc xem nhẹ tầm quan trọng của môn GDCD.
Thứ hai, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên môn Giáo dục công dân ở
Nam Định chưa hiệu quả
Về khách quan thì việc phân bổ thời lượng không hợp lý cũng là một yếu tố ảnh
hưởng tới chất lượng dạy học của giáo viên môn GDCD. Do thời lượng cho môn này theo
quy định mới của Bộ là 1 tiết/tuần là rất ít ỏi, trong khi đó nội dung kiến thức nhiều bài
quá dài và cần tích hợp nhiều nội dung về giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành
niên, giáo dục phòng chống ma tuý học đường, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục môi
trường…Vì vậy giáo viên khó có thể sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại trong
giảng dạy để nâng cao chất lượng môn học này.
Về chủ quan thì năng lực sư phạm, năng lực chuyên môn, năng lực nắm bắt, xử lý
thông tin của giáo viên GDCD còn nhiều hạn chế. Nhất là các giáo viên trẻ tuổi, vốn sống
chưa nhiều, kinh nghiệm còn ít nên việc giảng dạy còn sơ sài, chưa có chiều sâu nhất là ở
khâu liên hệ thực tiễn. Rất ít giáo viên dạy môn GDCD giành thời gian, sự nhiệt tình và
tâm huyết để quan tâm tìm hiểu những đặc điểm của cá nhân học sinh về quan điểm, tính
cách, sở thích, năng lực…
Còn một bộ phận giáo viên cho rằng không cần thiết phải đầu tư thời gian để nghiên
cứu, tham khảo tài liệu, cập nhật những tin tức mang tính thời sự để bổ trợ kiến thức cho
việc soạn, giảng bài. Bên cạnh đó, chưa thực hiện thường xuyên việc đổi mới phương pháp
trong giảng dạy và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Việc sử dụng các phương tiện trong dạy học GDCD cũng là điểm yếu của nhiều
giáo viên hiện nay ở Nam Định. Một bộ phận giáo viên còn ít quan tâm và rất ngại sử dụng
đồ dùng để hỗ trợ quá trình giảng dạy của mình. Như vậy, chính giáo viên đã làm mất đi
tính hấp dẫn và hiệu quả giáo dục của môn học. Vì thế đã không kích thích niền say mê
tìm hiểu, cảm thụ và suy nghĩ về những kiến thức về đạo đức học, triết học, luật học, chính
trị học…của học sinh.
Trong đội ngũ giáo viên GDCD cấp THPT hiện nay ở Nam Định vẫn còn tình trạng
không ít giáo viên mặc dù được đào tạo đúng chuyên ngành nhưng không thực sự thích
dạy môn học này. Do đó không tâm huyết trong soạn giảng, coi giờ lên lớp chỉ là giờ thời
sự mang tính chất tuyên truyền, thuyết minh đường lối của Đảng và Nhà nước mà không
chú ý tới tri thức khoa học của bộ môn.
Trong khi giảng dạy, một số giáo viên không chú ý tới việc gắn lý luận với thực
tiễn, thực tiễn với lý luận; không chú ý đến hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thái độ,
niềm tin từ kiến thức bài học; xem nhẹ việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, nhân cách cho
học sinh khi học môn GDCD.
Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên GDCD còn tâm lý thiếu tự tin, mặc cảm khi
dạy bộ môn này. Họ không cố gắng dùng chính chuyên môn và nghiệp vụ cao, không cố
gắng bằng niềm tin, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của bản thân để cảm hoá và
thuyết phục, để đấu tranh với những quan niệm sai trong đánh giá vị trí môn học.
Khi chấm bài cho điểm một cách đại khái, nâng điểm một cách tuỳ tiện. Đôi khi
miễn cưỡng vào chỉ tiêu thi đua cho điểm cao môn này để gỡ điểm cho các môn khác.
Nhiều giáo viên tự nhận xét kết quả đánh giá chỉ “mang ý nghĩa tương đối”, điều đó có
nghĩa là tính khách quan, chính xác chưa cao.
Như vậy, khi mà tự họ hạ thấp vai trò, địa vị xã hội và giá trị nghề nghiệp của mình
thì nhiệm vụ xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh không thể hoàn thành một
cách trọn vẹn được
Thứ ba, chất lượng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh qua môn
GDCD còn thấp
Qua khảo sát ở một số trường như: THPT Mỹ Tho, Đại An, Nghĩa Hưng C,
Nguyễn Bính, Tống Văn Trân, Nguyễn Du…cho thấy kết quả đánh giá của giáo viên về
học lực của học sinh thông qua điểm số không phản ánh đúng thực chất kết quả học tập .
Hình thức, phương thức kiểm tra, đánh giá tuy giáo viên đã có sử dụng nhiều loại nhưng
sự phối hợp giữa các hình thức, phương pháp trong một đề kiểm tra nhằm bộc lộ những
năng lực của học sinh còn hạn chế.
Phương thức kiểm tra, đánh giá còn đơn điệu, chủ yếu là kiểm tra, đánh giá trong
giờ học trên lớp chưa có kiểm tra, đánh giá ngoài giờ. Mặc dù nội dung môn GDCD gắn
bó chặt chẽ với thực tiễn cuốc sống thực tiễn của học sinh, gắn liền với sự kiện trong đời
sống đạo đức, pháp luật, kinh tế, chính trị xã hội của địa phương, đất nước. Do đó hầu như
kết quả kiểm tra, đánh giá chưa phản ánh được đầy đủ các mặt của học sinh về kiến thức,
kỹ năng, thái độ... Đặc biệt là chưa nâng cao ý thức công dân của học sinh bằng thực hành
trong thực tiễn.
Thứ tư, tài liệu tham khảo, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy môn
GDCD còn nhiều thiếu thốn
Muốn phát huy hiệu quả vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh
THPT qua môn GDCD thì giáo viên và học sinh cần phải được đáp ứng những phương
tiện và thiết bị dạy học. Tuy nhiên, trong khi các bộ môn khác được chú trọng đầu tư mua
sắm, tư liệu tham khảo khá phong phú thì hầu hết các trường THPT ở Nam Định môn
GDCD chỉ có sách giáo khoa và sách giáo viên. Có thể thấy trong thư viện của các trường,
kể cả những trường đạt chuẩn quốc gia cũng chưa có trường nào đầu tư kinh phí mua sắm
tư liệu tham khảo và trang thiết bị cho môn GDCD. Nhìn chung, thư viện và trang thiết bị
phục vụ cho việc giảng dạy và học tập bộ môn còn nghèo nàn, lạc hậu, mới chỉ đáp ứng
được khoảng 30% nhu cầu.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN
CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNHNAM ĐỊNH QUA GIẢNG
DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
3.1. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH
3.2.1. Phải nâng cao nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò môn giáo dục công dân
trong xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam
Định
Trong nhà trường THPT tất cả các môn học nói chung là cung cấp kiến thức chuyên
ngành, cơ bản, hệ thống và phù hợp với khả năng hoạt động học tập để học sinh tự chiếm
lĩnh một khối lượng tri thức và kỹ năng nhất định. Môn GDCD nói riêng với nội dung tri
thức đặc thù có tác dụng tích cực và trực tiếp nhất trong đào tạo con người, góp phần xây
dựng và phát triển nhân cách toàn diện, đảm bảo sự cân bằng giữa trí tuệ và trái tim, giữa
vốn hiểu biết và tâm hồn cao đẹp cho học sinh.
Hệ thống tri thức GDCD là hệ thống tri thức lý luận được phổ thông hoá, được đời
sống – kinh nghiệm hoá, những khái niệm, phạm trù lý luận chính trị tuy trừu tượng hoá
nhưng lại gắn bó mật thiết với những ví dụ cụ thể, gắn chặt với thực tiễn đời sống mà học
sinh quan tâm tìm lời giải đáp.
Các cấp lãnh đạo và quản lý Sở GD&ĐT nói chung, Ban giám hiệu các trường THPT
trong tỉnh nói riêng cần có sự chỉ đạo kịp thời, quản lý chặt chẽ công tác dạy và học môn
GDCD.
Cần có biện pháp tuyên truyền sao cho tất cả mọi người từ giáo viên, phụ huynh đến
học sinh… có nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, yêu cầu của các môn học, đặc biệt là
môn GDCD trong mục tiêu đào tạo toàn diện học sinh THPT. Bản thân học sinh phải xác
định được vị trí, tầm quan trọng, mục đích và động cơ học tập môn GDCD một cách đúng
đắn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: không có thầy tốt thì không có trò tốt. Do đó các
cấp lãnh đạo quản lý cần có những biện pháp đãi ngộ, động viên, khích lệ giáo viên môn
GDCD trong việc tiếp tục học sau đại học. Mặc dù môn này luôn được nhìn nhận từ mọi
phía là môn “phụ”, quan niệm “học cao học làm gì cho khổ”. Hiện nay toàn tỉnh mới có 2
giáo viên GDCD khắc phục khó khăn đi học cao học. Đây là con số quá ít ỏi và đáng buồn
so với các bộ môn khác trong nhà trường phổ thông hiện nay ở Nam Định.
Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong công tác giáo dục, trong xây dựng và
phát triển nhân cách cho các em giáo viên bộ môn phải luôn có ý thức tự học, tự rèn luyện
bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm …
3.1.2. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông theo
tư tưởng Hồ Chí Minh và theo quan điểm của ĐCSVN
Theo quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin nhân cách là sự phát triển về mặt xã hội
của con người, nhân cách được hình thành qua quá trình hoạt động, giao tiếp, đặc biệt là
qua giáo dục và tự giáo dục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ vĩ đại, một nhân cách lớn lao
mà còn là một nhà giáo dục lỗi lạc của dân tộc Việt Nam s[1,5 ]. Trong cuộc đời hoạt động
của mình.Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì
lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người nhắc nhở: “đoàn viên và thanh niên ta nói
chung là tốt…Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ
thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên””[t12,tr498].
Theo tư tưởng của Người công việc quyết định nhất của xã hội suy cho cùng chính là
giáo dục cho học sinh thành người, làm người và ở đời, làm cho mọi học sinh trở thành
nhân cách có văn hoá.
Giáo dục và tự giáo dục thành người, làm người trước hết là hình thành được ở mỗi
em tư cách, đạo đức, tính cách cùng năng lực và tài năng. Đó chính là nhân cách xuất phát,
đã được phản ánh, đúc kết trong các trước tác lẫn bản thân nhân cách Hồ Chí Minh. Người
luôn nhắc nhở: giáo dục nhân cách là cốt lõi của công việc giáo dục thế hệ trẻ cũng như
của toàn xã hội. Đó là cốt lõi của sự hình thành và phát triển con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng con người có cấu trúc nhân cách gồm hai thành tố
chủ yếu là “đức” và “tài’, trong đó “đức’’ được coi là nền tảng. Bao gồm: phẩm chất xã
hội (thế giới quan, niềm tin, thái độ chính trị – xã hội), phẩm chất cá nhân (đạo đức, tư
cách cá nhân), phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích, tính quả quyết, tính kiên trì,
tính dũng cảm), cung cách ứng xử (tác phong, tính khí).
Bác nhấn mạnh: mục tiêu của nền giáo dục là phải tạo điều kiện cho mỗi em học
sinh được phát triển tối ưu nhân cách của mình.
Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới để xây dựng và phát triển
đất nước giai đoạn hiện nay Đảng ta rất coi trọng giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách thế
hệ trẻ. Đảng ta coi đây là vấn đề quan trong hàng đầu để xây dựng con người mới, xã hội
mới. Đó là nhiệm vụ phải làm ngay, thường xuyên và lâu dài.
Trong quá trình đổi mới, đất nước ta đang hình thành “hệ giá trị xã hội chuẩn mực
phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”. Những nét cơ bản về
phương hướng giáo dục đạo đức và nhân cách được Đại hội VIII của Đảng xác định là:
“Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hoá dân
tộc, ý chí muốn vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của dân tộc”.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “ Coi trọng bồi dưỡng cho
học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp
bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản
lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại”[tr206,207].
Một trong những nhiệm vụ mà văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung
ương khóa X đã nêu là: “ Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn
hóa, ý thức công dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách
và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Với định hướng của Đảng ta về giáo dục, đào tạo toàn diện cho thanh niên học sinh
trong tình hình mới, coi đó là: “chìa khóa để mở cửa vào tương lai” như Văn kiện hội nghị
lần thứ IV Ban chấp hành trung ương khóa VII của Đảng chỉ ra. Quan điểm này đã cho
chúng ta nhận thấy việc giáo dục lẽ sống, lý tưởng sống cho thế hệ trẻ nói chung, cho học
sinh THPT nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược giáo dục. Môn GDCD
cần thiết phải góp phần nhất định vào việc xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.
3.1.3. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh qua môn giáo dục công
dân phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống
Đây là sự tuân thủ nguyên tắc thực tiễn trong giáo dục, là sự vận dụng quan điểm
thực tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển
nhân cách cho học sinh THPT. Nguyên tắc này là một quan điểm lớn, một nguyên lý cơ
bản của nền giáo dục XHCN. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Giáo dục thanh niên không thể tách
rời mà phải liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh xã hội”[152 - 153]. Bởi vậy, quá trình xây
dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT trong nhà trường phải gắn liền với cuộc
sống luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Hiệu quả giáo dục không thể cao nếu như trong giảng dạy GDCD giáo viên quá phụ
thuộc vào sách giáo khoa, khiến cho các giờ học nội dung giáo dục quá hàn lâm, nặng về
học thuật, lý luận, thuyết giảng giáo điều, hình thức giáo dục xơ cứng, đơn điệu với lứa
tuổi thanh niên học sinh.
Việc dạy học môn GDCD cần gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống của học sinh,
của lớp học, nhà trường, địa phương. Giáo viên cần hết sức linh hoạt, sáng tạo trong việc
lựa chọn, sử dụng các tình huống, các câu chuyện, thông tin, sự kiện, hiện tượng thực tế ở
địa phương và các vấn đề bức xúc của xã hội để đối chiếu, so sánh, phân tích, lý giải, minh
họa cho nội dung bài giảng.
Đồng thời cũng cần hướng dẫn, khuyến khích cho học sinh liên hệ, tự liên hệ, so
sánh, đối chiếu các hành vi, việc làm của bản thân và những người xung quanh với các giá
trị đã học; tổ chức cho học sinh điều tra tìm hiểu các vấn đề thực tiễn có liên quan đến nội
dung bài học; thực hiện các dự án nhằm xây dựng môi trường lớp học, nhà trường, cộng
đồng ngày một tốt đẹp hơn. Có như vậy bài học GDCD mới trở nên gần gũi, sống động,
thiết thực đối với học sinh và có sức lôi cuốn đối với các em.
Muốn vậy, cần tránh khuynh hướng tách rời giữa lý luận với thực tiễn và thực tiễn
với lý luận, những biểu hiện không đúng trong việc vận dụng những tri thức lý luận của
môn học vào cuộc sống. Không có tri thức của bộ môn nào lại gắn chặt với cuộc sống như
tri thức của môn GDCD. Dường như bất kỳ tri thức nào của nó cũng liên hệ với các hiện
tượng của cuộc sống thường ngày của con người.
Cần hết sức tránh việc chỉ truyền thụ tri thức lý luận làm cho học sinh không tiếp
thu nổi bài học do mức độ trừu tượng và khái quát cao của nó. Đồng thời tuyết đối không
được vận dụng một cách vụng về, hạ thấp giá trị của lý luận.
Tóm lại, trong dạy học môn GDCD giáo viên luôn luôn phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc “học đi đôi với hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn” và phải thấm nhuần quan
điểm mới, quan điểm phát triển. Thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động dạy học, gắn
hoạt động dạy học với hoạt động xã hội, hoạt động lao động và hoạt động thực tiễn ở các
địa phương giúp các em xây dựng nhận thức đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan và
củng cố niềm tin, kĩ năng, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của học sinh.
3.1.4. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông qua
môn giáo dục công dân phải chuyển thành quá trình tự giáo dục
GDCD trong bản chất và trong mục đích của nó là một khoa học thực hành. Thông
qua môn GDCD giáo viên phải tác động một cách sáng tạo, thành thục để khơi dậy ở học
sinh nhu cầu ham hiểu biết(hiểu biết về xã hội và nhà nước, về luật pháp và chính sách, về
quyền và nghĩa vụ công dân, về đạo đức và trách nhiệm cuộc sống…), ý thức tự giáo dục,
tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân theo chuẩn mực, theo các giá trị được lựa chọn.
Một trong những định hướng cơ bản để có thể phát huy hiệu quả vấn đề xây dựng và
phát triển nhân cách cho học sinh THPT đó là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng
dạy cũng như học tập môn GDCD theo phương châm: biến quá trình giáo dục thành quá
trình tự giáo dục, tích cực hoá việc học tập của học sinh, tăng cường tính chủ động sáng
tạo của người học, đồng thời tăng cường vai trò định hướng, chủ đạo, vai trò dẫn dắt, điều
chỉnh của giáo viên.
Quá trình giáo dục khi chuyển thành quá trình tự giáo dục, tự tu dưỡng sẽ tạo ra xúc
cảm tự nhiên giúp cho học sinh hình thành niềm tin, khát vọng sống tốt và đẹp, tạo động
lực thúc đẩy các em không chỉ trong nhận thức khoa học mà còn là đạo đức và thẩm mỹ.
Từ đó các em có nghị lực, say mê học tập, chủ động, tích cực đọc sách giáo khoa, tìm hiểu
kiến thức cơ bản; có kỹ năng ứng dụng vào trong tình huống cụ thể, biết lập kế hoạch, lựa
chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện kế hoạch do mình đề ra; có hiểu biết, liên
tưởng, tự liên hệ, tự đánh giá, tự điều chỉnh mình trong quá trình tu dưỡng theo chuẩn mực
và giá trị xã hội.
Nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Bình đã từng viết: “ Năng lực tự học, tự
đào tạo tiềm ẩn trong mỗi con người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với
quyết tâm tự học, tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra nội lực cần thiết cho
sự cần thiết của một con người và cho đất nước”[1]
3.1.4. Đưa môn Giáo dục công dân vào môn thi tốt nghiệp
Giáo viên GDCD cả nước nói chung, ở Nam Định nói riêng có lẽ là người nhận thấy
rõ nhất tri thức khoa học của môn GDCD bao giờ cũng là cơ sở cho việc rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo; là tiền đề xây dựng phương pháp tư duy khoa học, phát triển trí tuệ, phẩm
chất đạo đức, nhân cách, biết hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ.
Với cách nhìn lệch lạc, sự quan tâm chưa đúng mức hiện nay tới môn GDCD từ mọi
phía: từ cấp lãnh đạo quản lý, đến nhà trường, gia đình, xã hội khiến cho giáo viên môn
học này cảm thấy“ức chế”. Nhiều giáo viên đã chuyển từ sự nhiệt tình trăn trở sang dạy
cho xong, hết chương trình, nội dung giáo dục của bộ môn không thật sự phát huy hiệu
quả trong mục tiêu giáo dục toàn diện thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Bên cạnh đó nhiều học sinh tỉnh Nam Định không chú trọng học môn GDCD vì đây
không phải là môn thi tốt nghiệp và thi đại học. Luật giáo dục 2005 luôn nhấn mạnh đến
mục tiêu giáo dục toàn diện, chú trọng vấn đề giáo dục nhân cách, phẩm chất và năng lực.
Nên chăng Bộ GD & ĐT nên đưa môn GDCD vào thành môn thi tốt nghiệp và môn thi đại
học khối chuyên ngành hành chính nhà nước. Bởi vì, việc quá tải đối với việc học tập của
học sinh là ở nội dung các môn học chứ không phải ở số lượng môn thi tốt nghiệp.
Môn GDCD nếu được “đối xử” bình đẳng, được đưa vào thi tốt nghiệp THPT như
các bộ môn khác chắc chắn sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy chất lượng dạy và học môn
này, qua đó sẽ nâng cao hiệu quả của môn học đối với việc xây dựng và phát triển nhân
cách học sinh THPT hiện nay.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH
3.1.1. Xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh
Cuộc sống đang vỗ nhịp không ngớt vào từng cuộc đời, có lúc nó lăn tăn âu yếm, có
lúc nó cuộn nguồn thác bể. Cuộc đời mà chúng ta đang tô lên nó màu xanh ước mơ và màu
đỏ khát vọng chính là lứa tuổi học sinh THPT. Nội dung môn GDCD trong nhà trường
THPT hướng học sinh vươn tới những giá trị cơ bản của người công dân Việt Nam trong
thời kỳ CNH, HĐH. đó là những giá trị tốt đẹp để xây dựng nhân cách con người toàn diện
như: có phẩm chất đạo đức tốt, có tri thức khoa học và năng lực nghề nghiệp chuyên môn
vững vàng.
Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học
sinh THPT trong học tập bộ môn GDCD là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Muốn
vậy giáo viên GDCD cần phải:
Giúp học sinh nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học. Chỉ ra
cho học sinh thấy bài học và môn học có ý nghĩa gì với cuộc sống, với bản thân các em.
Bởi vì chỉ khi nào học sinh nhận thấy kiến thức bộ môn thực sự thiết thực với bản thân, với
sự hình thành và phát triển nhân cách con người, tư duy khoa học…thì các em mới thấy
nhu cầu cấp thiết mình phải học và từ đó hình thành được động cơ học tập đúng đắn.
Bên cạnh đó giáo viên phải giúp các em xác định được mục tiêu từng bài học cụ thể,
xác định các nhiệm vụ học tập cần phải hoàn thành, hiểu được ý nghĩa của việc hoàn thành
các mục tiêu đó. Từ đó các em tự ý thức phải xây cho mình một kế hoạch học tập, nhiệm
vụ học tập của chính mình. Biết tự kiểm tra, tự đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu
học tập cũng như kỹ năng vận dụng kiến thức vào trong thực tiễn.
Làm được điều đó sẽ giúp các em nhận thức rõ về vai trò, trách nhiệm của mình trong
quá trình rèn luyện đạo đức, lối sống, hoàn thiện nhân cách, phấn đấu vươn lên trong học
tập. Đồng thời hình thành được thói quen chấp hành tự giác, tính tích cực chủ động trong
cuộc sống. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nhân
cách học sinh để các em trở thành những công dân hữu ích, thành viên tốt trong gia đình,
góp phần xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
3.2.2. Bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo viên môn giáo dục
công dân trong tỉnh
Đứng trên quan điểm sản xuất, giáo dục là một ngành hoạt động sản xuất ra con
người – nhân cách, nó không được tạo ra những sản phẩm tồi, những sản phẩm hỏng,
những sản phẩm “giả khoa học, giả đạo đức”. Đây là đòi hỏi nghiêm túc đối với nhà
trường và nhà giáo nói chung, nhất là giáo viên GDCD phải luôn ý thức và tự ý thức sâu
sắc được điều đó.
Để xây dựng và phát triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh người thầy cũng phải tự
giáo dục chính mình. C.Mác đã từng nhấn mạnh: Bản thân nhà giáo dục cũng phải được
giáo dục.
Nâng cao chất lượng giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng. Giáo viên GDCD khác
với giáo viên các môn khoa học khác ở chỗ: dạy chữ để dạy người, để rèn luyện nhân cách
con người cho từng học sinh. Do đó đòi hỏi giáo viên bộ môn không chỉ truyền thụ tri thức
khoa học, giúp cho học sinh phát triển năng lực trí tuệ mà còn phải bồi dưỡng cho các em
tình cảm, tâm hồn, những chuẩn mực đạo đức cơ bản, lối sống cao đẹp và cách làm người
trong xã hội, gây dựng ý thức trách nhiệm với cuộc sống, bổn phận, nghĩa vụ với xã hội,
với công việc và con người.
Hồ Chí Minh đã từng nói: Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy là chăm
lo dạy dỗ con em mình thành những công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt,
người cán bộ tốt của nước nhà. Do vậy, giáo viên GDCD phải đóng vai trò là nhà hoạt
động xã hội, tổ chức thực hiện các nội dung thực hành chính trị - đạo đức, luật pháp trong
nhà trường, phải nỗ lực trong việc giáo dục con người.
Giáo viên không né tránh và lẩn tránh sự thật, kể cả những sự thật đáng buồn, những
mâu thuẫn và nghịch lý của sự phát triển hiện nay. Tuy nhiên mỗi bài giảng GDCD phải là
sự định hướng tích cực cho cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Khi phê phán cái sai, cái xấu, cái ác
phải nhằm khẳng định hệ giá trị chân – thiện – mỹ.
Đặc biệt chất lượng giáo viên GDCD còn thể hiện ở chỗ người thầy phải tự thuyết
phục được chính mình, phải có kiến thức, hiểu biết sâu, rộng về xã hội, nắm được những
chuẩn mực sống, phải đem hiểu biết để gây dựng niềm tin thì mới truyền được niềm tin
cho học sinh. Phải hiện diện trước học trò như một nhân cách, tận tụy, trung thực, khiêm
tốn, vị tha, nhân ái qua lao động – dạy học của mình, qua ứng xử, giao tiếp, đối thoại thì
mới đủ sức hình thành và phát triển nhân cách học sinh.
Ngoài ra, giáo viên phải có sự linh hoạt trong giảng dạy, có nghệ thuật truyền thụ tri
thức, phải căn cứ vào nội dung tri thức môn học để lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp
với đối tượng; giáo viên phải có nghệ thuật thu hút, lôi kéo học sinh say mê học tập, phải
biết cách phát huy tính tự học, tự nghiên cứu bài giảng.
Như vậy, chất lượng của đội ngũ giáo viên thể hiện thông qua kiến thức chuyên
ngành, năng lực sư phạm, năng lực nắm bắt, xử lí thông tin.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xây dựng và phát triển nhân cách cho học
sinh THPT ở Nam Định giai đoạn hiện nay và trong những năm tiếp theo, Sở GD&ĐT tỉnh
cần thiết phải:
Nắm bắt được số lượng giáo viên ở mỗi trường để và phân công công tác sao cho
đảm bảo được sự cân đối, hợp lý về nhu cầu giáo viên bộ môn giữa các trường THPT trong
toàn tỉnh.
Khuyến khích giáo viên GDCD tích cực hơn trong quá trình phấn đấu không ngừng
nâng cao về tài năng sư phạm, trách nhiệm đạo đức và ý thức chính trị.
Có kế hoạch và giải pháp cụ thể trong sử dụng, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn cho giáo viên bộ môn.
3.2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn giáo dục công dân theo
hướng dạy học tích cực
Khi bàn về phương pháp giảng dạy cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nêu: Trong nhà
trường điều chủ yếu không phải là nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn loạn, tuy rằng
kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho các em phương pháp suy nghĩ, suy
luận, diễn tả, rồi đến phương pháp học tập, nghiên cứu, giải quyết vấn đề. Ở các trường,
điều chủ yếu không phải là rèn trí nhớ mà là rèn trí thông minh.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả nội dung tri thức khoa học của môn GDCD đang được
hoàn thiện trong nhà trường THPT thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn là hết
sức cần thiết và quan trọng.
Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp dạy học nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy
học tích cực là: dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh; dạy học chú trọng
rèn luyện phương pháp tự học; tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác; kết
hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD phải bám sát mục tiêu giáo dục phổ
thông, phù hợp với từng nội dung dạy học cụ thể, với đặc điểm lứa tuổi, tâm sinh lý học
sinh.
Đổi mới phương pháp giảng dạy GDCD còn phải phù hợp với cơ sở vật chất và các
điều kiện dạy học của nhà trường, phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy
- học và kết hợp tốt giữa việc tiếp thu, sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các phương pháp
dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp
dạy học truyền thống; tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học hiện
đại…Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi
mới thực sự trong giáo dục phổ thông.
Đồng thời với việc đổi mới phương pháp dạy là đổi mới phương pháp học tập môn
GDCD cho học sinh. Học sinh phải rèn luyện cho mình thói quen tích cực, chủ động trong
học tập, lĩnh hội kiến thức. Tính chủ động của học sinh thể hiện thông qua việc học sinh
chuẩn bị bài, thu thập, tìm kiếm tài liệu có liên quan đến từng bài học, tiết học. Học sinh
hăng hái thảo luận, nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, trình bày quan điểm của cá nhân trước
tập thể và giáo viên, sẵn sàng đưa ra những ý kiến phản hồi…Có như thế giáo viên mới
phát hiện và xử lý, phân loại được từng đối tượng học sinh.
Không chỉ dừng lại ở nhận thức, học sinh phải biết liên hệ, vận dụng kiến thức đã học
vào trong hoạt động thực tiễn sao cho phù hợp và đạt hiệu quả giáo dục, hoàn thiện nhân
cách cho chính mình.
Mỗi học sinh phải tự xác định mình là thành viên tích cực, chủ động để không rơi vào
tình trạng tiếp thu một chiều, coi giáo viên là máy phát còn mình là máy thu. Tập trung
nghe giảng ở trên lớp để có những kiến thức cơ bản của bài học sau giờ giảng đó, tự tạo
cho mình niềm say mê và hứng thú trong học tập.
Chủ động tham gia các buổi thảo luận chuyên đề, các buổi xêmina và tiếp cận các
vấn đề liên quan. Điều đó giúp các em hình thành thói quen quan tâm đến môn học, suy
nghĩ về tầm quan trọng của môn học, tạo hứng thú học tập, mở mang kiến thức.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục công
dân
Để đáp ứng yêu cầu mới của mục tiêu GD&ĐT, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập môn GDCD phải chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát triển tính tích cực, trí thông
minh sáng tạo của học sinh. Khuyến khích các em vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ
năng đã học vào những tình huống thực tế, có thái độ tích cực, đánh giá đúng đắn trước
những vấn đề của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Trước hết giáo viên cần phải đảm bảo tính toàn diện và tính phân hoá trong kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đó là các nội dung trong mục tiêu môn học phải
được kiểm tra đầy đủ và thích hợp. Trong mỗi nội dung kiểm tra phải phân loại được các
học sinh ở những yêu cầu về việc nắm kiến thức, mức độ thành thạo các kỹ năng cơ bản,
thái độ mà học sinh cần phải có khi tham gia quá trình học tập học...Nhằm nâng cao độ
chính xác, trung thực, khách quan, công bằng trong kiểm tra và đánh giá chất lượng học
tập thực sự của học sinh.
Giáo viên cần phối hợp các phương pháp trong việc kiểm tra thường xuyên và kiểm
tra định kỳ môn học như: vấn đáp, viết, trắc nghiệm khách quan, thực hành.... Nhằm tạo ra
sự hứng thú, kích thích tính tích cực trong học tập của học sinh và để điều chỉnh phương
pháp dạy - học. Muốn vậy giáo viên phải vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh
thần trách nhiệm cao với công việc, đầu tư thời gian và công sức trong tìm tòi, nghiên cứu
để có những sáng tạo trong việc kết hợp các phương pháp kiểm tra nhằm thực hiện có hiệu
quả cao các hình thức kiểm tra, đánh giá.
Tăng cường các phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh như:
trong giờ học, ngoài giờ học(hoạt động tập thể, hoạt động chính trị xã hội, tìm hiểu theo
chủ đề tìm hiểu thực tế, viết thu hoạch), nhằm tạo ra sự dân chủ trong học tập, phát huy
tính năng động sáng tạo của học sinh. Qua đó giáo dục ý thức công dân cho học sinh liên
hệ thực tiễn cuộc sống của mình.
Phát triển khả năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh để kết hợp sự đánh
giá của thầy và sự đánh giá của trò nhằm kích thích tính chủ động của học sinh trong học
tập và tăng cường tính khách quan của kiểm tra, đánh giá. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh
kịp thời là năng lực rất cần thiết cho sự thành đạt trong cuộc sống của các em, giúp các em
có sự hiểu biết sâu sắc hơn về quyền lợi, trách nhiệm và vai trò của mình
3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, và thiết bị dạy học môn
Giáo dục công dân
Nâng cao chất lượng dạy học GDCD ở trường THPT cần đặc biệt chú ý tới yếu tố vật
chất hỗ trợ quá trình dạy học. Qua tìm hiểu thực tế trong quá trình dạy học môn GDCD ở
nhiều trường trong tỉnh cho thấy do thiếu yếu tố này nên nhiều giáo viên gặp khó khăn
trong việc đổi mới phương pháp truyền đạt kiến thức khoa học. Nếu dạy GDCD chỉ tiến
hành dạy chay, sử dụng phương pháp thuyết trình truyền thống theo kiểu thầy đọc trò chép
sẽ mất tính thuyết phục, không hấp dẫn, làm cho giờ học cứng nhắc và buồn tẻ.
Yếu tố vật chất trong giảng dạy GDCD bao gồm: phòng học tiêu chuẩn, máy tính,
máy chiếu, đài, phim ảnh, tài liệu tham khảo và các cơ sở vật chất khác cùng nguồn tài
chính hỗ trợ cho việc dạy học tìm hiểu tham quan thực tế. Yếu tố vật chất là phương tiện
quan trọng để gắn lý luận với thực tiễn, học với hành, làm cho bài giảng sinh động có tính
thuyết phục cao.
Yêu cầu về phòng phương pháp đạt chuẩn với các phương tiện dạy học hiện đại đang
đặt ra cấp bách với hệ thống các trường THPT trong tỉnh hiện nay.
Ngoài ra, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh nên tạo điều kiện cho giáo viên môn học này
có cơ hội được nghe những buổi nói chuyện, báo cáo chuyên đề mang tính thời sự trong
tỉnh, trong nước và quốc tế để giáo viên có thêm kiến thức thực tiễn ngoài kiến thức sách
vở, câu chữ nhằm tăng tính thuyết phục trong bài giảng.
Một thực tế hiện nay là ngoài sách giáo khoa GDCD hầu như không có trường nào
đầu tư kinh phí mua sắm tư liệu tham khảo cho bộ môn này. Do đó giáo viên nên chủ động
trang bị những tư liệu cần thiết cho mình. Bỏ quan điểm trông chờ thư viện nhà trường có
sách gì thì mượn, không có thì thôi. Bên cạnh đó các trường nên khuyến khích giáo viên
bộ môn tích cực trong vấn đề nghiên cứu khoa học, tích cực nêu sáng kiến kinh nghiệm, tự
làm đồ dùng dạy học.
Với tính chất đặc thù của bộ môn nói riêng, nghiên cứu về các quy luật vận động của
tự nhiên, xã hội và tư duy con người, tri thức khoa học bộ môn có liên quan chặt chẽ đến
đường lối lãnh đạo của ĐCSVN, đến định hướng chính trị, tư tưởng, lối sống, đạo đức, lý
tưởng, niềm tin của học sinh…rất cần có phương tiện hỗ trợ để chất lượng mỗi bài giảng
được nâng cao.
3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, và thiết bị dạy học
môn Giáo dục công dân
Đây là giải pháp đồng thời cũng là kiến nghị chung của tất cả giáo viên giảng dạy
GDCD khối THPT tỉnh Nam Định. Trong ba lần tập huấn thay sách khối 10, khối 11 và
khối 12 mọi giáo viên đều bày tỏ mong muốn Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định quan
tâm hơn nữa đến việc xây dựng cán bộ chuyên môn cho riêng bộ môn này chứ không
muốn để chuyên viên bộ môn văn kiêm nhiệm như hiện nay. Việc để chuyên viên môn
khác sang kiêm nhiệm chuyên môn của môn này làm nhiều giáo viên thấy rằng bản thân
môn này đã không được coi trọng ngay từ cấp Sở.
Mỗi lần có những đợt thanh tra toàn diện các trường, thì bộ môn này phải lấy những
giáo viên đang giảng dạy một số trường đi làm công tác thanh tra, kiểm tra như giáo viên
trường THPT Lê Hồng Phong, trường Trần Hưng Đạo…Như vậy trong một năm có nhiều
đợt đi thanh tra, kiểm tra một số trường theo định kỳ như thế thì giáo viên phải đi làm công
tác bộ môn này đương nhiên không thể giảng dạy theo đúng tiến độ phân phối chương
trình được. Như thế có phải là đi kiểm tra người khác trong khi chính thanh tra không thực
hiện được nhiệm vụ chính là giảng dạy của mình. Sự bất cập này vô hình chung chính là
sự vi phạm quy chế chuyên môn của các thanh tra viên.
Để thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ phân phối chương trình có tính pháp lệnh do Bộ
Giáo dục quy định và đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD, qua đó phát
huy vai trò của bộ môn trong việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT,
nhất thiết phải có chuyên viên môn GDCD. Không những để đẩy mạnh công tác thanh tra
việc dạy và học môn này, mà còn để giáo viên bộ môn trong toàn tỉnh có nơi để trao đổi,
thắc mắc và kiến nghị những vấn đề hợp lí liên quan đến chuyên môn về cấp Sở.
Xây dựng chuyên viên môn GDCD, đẩy mạnh công tác thanh tra là một hoạt động
của quản lý giáo dục cần phải được coi trọng và quan tâm thích đáng. Công tác này nếu
không được tiến hành một cách nghiêm túc sẽ tạo ra lỗ hổng ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm
vụ nâng cao vai trò của bộ môn trong xây dựng và phát triển nhân cách cho các em tại tỉnh
Nam Định.
3.2.7. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà
trường, gia đình và xã hội
Giảng dạy GDCD là giảng dạy đạo đức, lối sống, phẩm chất, truyền thống dân
tộc… cho mỗi cá nhân. Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy môn học chúng ta nhất thiết
phải có sự liên hệ và kết hợp với các môi trường mà học sinh đang sống, hoạt động và giao
tiếp - Đó là sự phối kết hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Từ đó mới phát
hiện ra những khuyết điểm, thiếu sót của học sinh để kịp thời giáo dục.
Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khóa X đã chỉ rõ: “Xây
dựng môi trường xã hội lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng
thành”[…,tr44].
Giáo dục nhà trường là một trong những con đường và phương thức giáo dục chủ
đạo, quan trọng bậc nhất dù không phải là duy nhất quyết định. Giáo viên GDCD chủ động
tham mưu cho Ban Giám hiệu tổ chức lồng ghép một số nội dung tri thức bộ môn thông
qua các hoạt động tập thể, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động tìm hiểu thực tế nhằm
nâng cao hiệu quả giáo dục của bộ môn. Nhà trường cần thường xuyên phát huy vai trò
của Hội phụ huynh học sinh trong các hoạt động. Hội phụ huynh phải là cầu nối giữa nhà
trường với các gia đình nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện học sinh.
Khác với giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình gắn liền và theo suốt cuộc đời con
người nên cha mẹ là người hiểu con mình hơn ai hết. Chính vì vậy giáo viên GDCD phải
thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh để nắm bắt cá tính, nhược điểm của mỗi học
sinh, để cùng với các bậc phụ huynh thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng phẩm
chất, nhân cách cho học sinh - thế hệ tương lai của đất nước.
Đồng thời còn phải phát huy vai trò tác động cùng giáo dục của các phương tiện
thông tin đại chúng, của cộng đồng làng, xã và các tổ chức chính quyền địa phương nơi
học sinh sống, học tập…
Đào tạo lớp người mới, thế hệ cách mạng cho đời sau vừa “hồng” vừa “chuyên”
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công việc và trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và
xã hội. Đây là ba lực lượng giáo dục to lớn, nếu được phối hợp chặt chẽ, cùng thống nhất
một mục đích, một yêu cầu và cùng một phương thức giáo dục sẽ đem lại kết quả giáo dục
tốt đẹp. Không chỉ giúp các em phát triển trí tuệ, năng lực học tập mà còn giúp các em có
môi trường lành mạnh để tu dưỡng rèn luyện về đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống…
KẾT LUẬN
Trong hệ giá trị và văn hóa tinh thần của nhân loại, đứng trên quan điểm, lý luận và
phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề con người cũng như vấn đề
nhân cách ta thấy con người được sinh ra nhưng nhân cách được xây dựng và phát triển
nhờ giáo dục. Đòi hỏi người quản lý và giảng dạy phải hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT. Nắm vững những đặc
điểm tâm, sinh lý các em. Làm sáng tỏ vị trí và vai trò của môn GDCD trong việc góp
phần thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ nói chung, học sinh THPT nói riêng thành
những người phát triển toàn diện, có đức, có tài trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới
XHCN.
Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam Định qua giảng dạy
môn GDCD là một đề tài nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc giáo
dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho đất nước, Hồ chí Minh luôn nhấn mạnh đến nguyên tắc giáo
dục toàn diện. Người chỉ rõ: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức
dục, trí dục và thể dục”. Một con người có trí tuệ và nhân cách phát triển lệch lạc không
thể là một người chủ xứng đáng của đất nước, của Tổ quốc.
Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, Đảng ta xác định: xây dựng con người Việt
Nam hiện nay là xây dựng nhân cách của con người với một nội dung toàn diện: từ bồi
dưỡng thể lực, năng lực trí tuệ, không ngừng nâng cao học vấn và văn hoá, đến trình độ tư
tưởng, thế giới quan và đạo đức cách mạng; từ đạo đức và lối sống, đến kế thừa và phát
huy được những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con
người mới XHCN.
Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với sự biến đổi nhanh chóng
về mọi mặt của đời sống xã hội, một bộ phận học sinh THPT cả nước nói chung, ở tỉnh
Nam Định nói riêng đã nhận thức đúng đắn giá trị của việc hoàn thiện nhân cách, phát huy
truyền thống hiếu học của quê hương, không ngừng nỗ lực vươn lên, đạt được nhiều thành
tích cao trong quá trình học tập, thể hiện qua chất lượng xếp loại học lực, hạnh kiểm, kết
quả thi tốt nghiệp và thi học sinh giỏi.
Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận học sinh sống thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức. Biểu hiện lối sống ích kỷ không có tinh thần đoàn kết tập thể; thực dụng, suy
thoái đạo đức, xa dời truyền thống văn hóa dân tộc, dễ tiếp nhận những luồng văn hóa
ngoại lai có ảnh hưởng tiêu cực; xa rời lý tưởng và hoài bão cao đẹp, giảm sút ý chí và
niềm tin; ít quan tâm đến tình hình kinh tế - chính trị của đất nước, ý thức tố chức kỷ luật
cũng như chấp hành pháp luật còn yếu kém; một số em còn ham chơi, thích đua đòi với
bạn bè, dễ bị bạn bè rủ rê, lôi kéo tham gia vào những việc làm tiêu cực, tình trạng vi phạm
pháp luật và sa ngã vào các tệ nạn xã hội đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
Tồn tại những vấn đề trên một phần là do công tác giảng dạy môn GĐCD trong các
nhà trường THPT chưa được chú ý đúng mức, còn đang bị buông lỏng, thiếu sự quan tâm
và nhận thức đúng đắn từ mọi phía. Một số trường còn công khai quan điểm: môn học này
giáo viên nào cũng có thể dạy được, cái gì có trong sách giáo khoa thì giới thiệu theo kiểu
đọc chép, chỉ cần trong giờ các em ngoan là có thể cho điểm cao được rồi. Việc truyền tải
các kiến thức của một số giáo viên chính bộ môn chưa thật sâu sắc, nghiêm túc, và còn
kém thuyết phục. Phương tiện, trang thiết bị môn học chưa được đầu tư thỏa đáng. Học
sinh còn học trong tâm thế qua loa đại khái, không có động cơ, mục đích đúng đắn.
Tất cả những chủ quan, xem nhẹ tri thức bộ môn GDCD trong xây dựng và phát
triển nhân cách cho các em đã làm gia tăng sự nhận thức và tư duy thiếu khoa học về
những tri thức thiết thực nhất để: “làm người”.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT
tỉnh Nam Định qua giảng dạy môn GDCD cần phải nắm vững những định hướng đó là:
Nâng cao nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của môn GDCD. Giáo dục nhân cách các
em theo tư tưởng Hồ Chí Minh và theo quan điểm của ĐCSVN. Nội dung, chương trình
giảng dạy phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt, nâng cao chất lượng giảng dạy
và học tập bộ môn. Làm sao để quá trình giáo dục phải chuyển thành quá trình tự giáo dục.
Bộ GD&ĐT nên xem xét, đánh giá một cách toàn diện và công bằng đưa môn môn này
vào khung những môn thi tốt nghiệp.
Bên cạnh đó cần hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh. Nâng cao hơn
nữa chất lượng đội ngũ giáo viên. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập bộ môn.
Nâng cao hiệu quả kiểm tra đánh giá môn GDCD. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất ,
phương tiện và thiết bị dạy học bộ môn. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh
Các giải pháp trên đây không có tính tuyệt đối, lại càng không có tính đơn lẻ. Nó
chỉ phát huy tác dụng trong hệ thống các giải pháp, cần được tổ chức thực hiện một cách
đồng bộ, nghiêm túc.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lương Gia Ban (2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội
dung chương trình của các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Nguyễn Đức Bách (200), “Giáo dục không phải là hàng hóa”, Thông tin Chủ nghĩa
xã hội – lý luận và thực tiễn.
3. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hoá và con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Nguyễn Duy Bắc (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (1998), “Bài phát biểu tại Hội thảo nghiên cứu phát triển tự học - tự
đào tạo”, Nghiên cứu giáo dục, (2), tr.1.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông cấp trung học phổ
thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo dục công dân 10, sách giáo viên, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình,
sách giáo khoa lớp 11 môn Giáo dục công dân, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phú (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với các giá
trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).
12. Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu (1979), Về đường lối giáo dục xã
hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
13. Phạm Khắc Chương (2003), Rèn đạo đức và ý thức công dân, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
14. Nguyễn Văn Cư - Nguyễn Duy Nhiên (2008), Dạy và học môn giáo dục công dân ở
Trường THPT - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học sư phạm, Hà
Nội.
15. Diane Tillman (2008), Những giá trị sống cho tuổi trẻ, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh.
16. Nguyễn Việt Dũng, Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Văn Phú c(1999), Phương pháp giảng
dạy kinh tế chính trị ở các trường đại học và cao đẳng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đoàn Nam Đàn (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Vương Tất Đạt (1994), Phương pháp giảng dạy giáo dục công dân (dùng cho
PTTH), Trường Đại học sư phạm, Hà Nội I.
24. Phạm Đình Đạt (2009), “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - những vấn đề đặt ra”,
Tạp chí Khoa học chính trị, (3).
25. Hoàng Minh Đô (2006), “Quản lý nhà nước về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, (8).
26. Hoàng Minh Đô (2007), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giáo dục nhân cách người
chiến sỹ cách mạng”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục trật tự xã hội, (6).
27. Vũ Văn Gầu - TS. Nguyễn Anh Quốc (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp
phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Phạm Minh Hạc (2008), Tâm lý học nghiên cứu con người trong thời đổi mới, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
31. Lương Khắc Hiếu (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, Tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
32. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện CNXHKH (2005), Đề tài đổi mới
phương pháp giảng dạy (Hướng dẫn tự nghiên cứu môn CNXHKH).
33. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Triết học Mác – Lênin,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2007), Tâm lí học lứa tuổi và tâm
lí học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Phạm Văn Hùng (1998), Hướng dẫn ôn tập triết học Mác – Lênin, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
37. Trần Hậu Kiêm (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Bùi Thị Ngọc Lan (2006), “Điểm mới về phát triển nguồn nhân lực trong văn kiện
Đại hội đại biểu lần thứ X”, Tạp chí Thông tin Chủ nghĩa xã hội – lý luận và
thực tiễn, (12).
39. Phan Thị Lạc, Nguyễn Thanh Mai, Trần Thị Nhung, Trần Văn Thắng (2008), Giáo
dục bảo vệ môi trường trong môn Giáo dục công dân trung học phổ thông, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Gia Linh (2007), 11 lời khuyên dành cho thế hệ trẻ của BILL GATES, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội.
41. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Xtalin (1978), Về thanh niên, Nxb Sự thật, Hà
Nội.
42. C.Mác, Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Hồ Chí Minh (1990), Vấn đề giáo dục con người mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Hồ Chí Minh (1995), Về xây dựng con người mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hồ Chí Minh (1999), Về đạo đức, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội.
47. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay,
(sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Thị Ngân (2003), Xây dựng ý thức tình cảm dân tộc chân chính cho con người Việt
Nam trước thách thức mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
54. Nguyễn Thị Ngân (2005), “Học tập kinh nghiệm của các quốc gia để đổi mới nền
giáo dục – đào tạo Việt Nam”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội – lý luận và thực
tiễn.
55. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề giáo dục hiện nay, Quan điểm và giải pháp, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
56. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách tâm lí học ngày nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
57. Bùi Đình Phong (2009), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa”, Tạp chí
Lý luận chính trị, (1).
58. Trần Thị Mai Phương (2007), Dạy học kinh tế chính trị theo phương pháp tích cực,
Tập bài giảng.
59. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục , Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2008), Quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia Hà
Nội.
61. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định (2004), Giáo dục – Đào tạo Nam Định thành
tựu và đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội.
62. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo
dục đào tạo tỉnh Nam Định.
63. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2007 – 2008
phương hướng nhiệm vụ năm học 2008 – 2009.
64. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2008 – 2009,
phương hướng nhiệm vụ năm học 2009 - 2010.
65. Văn Tạo (1997), Sử học và hiện thực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Nguyễn Đức Tiến (2004), Phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt
Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
67. Hoàng Đình Tỉnh (2009), “Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay theo di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).
68. Nguyễn Văn Trung (1996), Chính sách đối với thanh niên, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
69. Trần Đình Tuấn (2006), “Tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên”, Tạp
chí Tâm lý học, (12).
70. Nguyễn Mạnh Tường (1994), Lý luận giáo dục châu Âu, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
71. Ulrich Lipp – Paul Schiueter ( ), Đổi mới phương pháp giảng dạy, một đóng góp của
Inwent vào quá trình cải cách hành chính tại Việt Nam.
72. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2008), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội năm 2008. Phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và những giải pháp chủ yếu phát
triển kinh tế - xã hội năm 2009.
73. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
74. Vụ Công tác lập pháp (2005), Những nội dung mới của luật giáo dục năm 2005, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
75. Phạm Viết Vượng (2007), Giáo dục học, Nxb Đại hhọc Quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Danh sách giáo viên GDCD tỉnh Nam Định năm học 2008 – 2009
Thống kê giáo viên môn GDCD cấp THPT tỉnh Nam Định năm học 2008 – 2009
Báo cáo tổng kết năm học 2008 – 2009
Tổng hợp số liệu học sinh giảm, bỏ học năm học 2008 – 2009
Kết quả xếp loại hạnh kiểm học lực học sinh THPT năm học 2008 - 2009