LUẬN VĂN:

Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung

học phổ thông tỉnh Nam định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông Việt Nam hiện nay là từng bước hình

thành và phát triển toàn diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ. Đó là những công dân tương

lai, những người lao động mới phát triển toàn diện trên tất cả các mặt sao cho phù hợp với

yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước cũng như phù hợp với sự phát triển của thời

đại.

Luật giáo dục 2005 đã chỉ rõ:“ Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh

phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển

năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam

xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp

tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [Điều

27].

Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang có những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc,

mọi mặt của đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa, toàn cầu hóa, đã mang lại

cho nước ta nhiều cơ hội lớn để phát triển cũng như những thành tựu to về kinh tế, văn

hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế…Tạo tiền đề quan trọng đưa nước ta

thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và hòa nhập vào dòng chảy của thời đại.

Bên cạnh đó, trong sâu thẳm của đời sống xã hội, chúng ta đang phải đối mặt trước

những vấn đề mang tính báo động, đó là sự tha hóa về nhân cách, đạo đức, lối sống của

một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là học sinh THPT; những tệ nạn xã hội đang ngày

đêm hoành hoành, len lỏi phá hoại nếp sống văn minh, đạo lý truyền thống tốt đẹp ngàn

đời của dân tộc. Đây là những vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự sống còn của quốc

gia, dân tộc trong quá trình hội nhập.

Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, chính trị, kinh tế, đạo đức và pháp luật… góp phần

xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT được thực hiện ở tất cả các môn học,

thông qua các hình thức giáo dục trong nhà trường. Trong đó, môn GDCD là môn học cơ

bản, trực tiếp giáo dục cho học sinh những tri thức nêu trên theo một hệ thống xác định và

toàn diện.

Thực tế hiện nay môn GDCD chưa được quan tâm đúng mức, nhiều giáo viên giảng

dạy bộ môn còn đang đứng bên lề của nền giáo dục, đa số học sinh không thích học môn

GDCD vì môn này không phải thi, cho rằng những kiến thức cơ bản về đạo đức, triết học,

pháp luật, kinh tế, chính trị có thể học ngoài xã hội…Nhiều học sinh ngồi trên ghế nhà

trường chỉ trăn trở suy nghĩ về tương lai nghề nghiệp của mình, mà rất ít khi dành thời gian

nhìn nhận xem mình là ai. Không ít học sinh THPT giỏi về tư duy nắm bắt tri thức các

môn khoa học cơ bản nhưng yếu kém về phẩm chất đạo đức, nhân cách.

Trong những năm qua, học sinh Nam Định luôn phát huy truyền thống hiếu học,

ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam định đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, luôn là lá cờ

đầu trong phong trào giáo dục của cả nước. Tuy nhiên, giáo dục cấp THPT vẫn còn tồn tại

nhiều yếu kém, bất cập. Bộc lộ rõ nhất là chất lượng giáo dục toàn diện, chất lượng giáo

dục nhân cách cho học sinh THPT qua môn GDCD còn thấp.

Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của một bộ phận không nhỏ học

sinh có những biểu hiện đáng lo ngại: nhận thức lệch chuẩn, mờ nhạt lý tưởng, lối sống

thực dụng, đua đòi, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp. Nhiều học sinh đã sa ngã vào

những tệ nạn xã hội, tiếp cận với những thông tin không lành mạnh, hư hỏng, bị xói mòn

và băng hoại về tâm hồn và thể xác. Tình trạng vi phạm pháp luật, xuống cấp về đạo đức,

nhân cách của lứa tuổi học trò đã và đang ngày càng tiếp diễn, là tiếng chuông báo động

đối với sự tồn tại và phát triển của tỉnh nhà.

Vì vậy, việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT là một trong

những vấn đề được đặt ra hết sức cấp thiết. Đây cũng là nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của

GD&ĐT tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay.

Với mong muốn góp một phần của mình vào việc nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả

giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Nam Định hiện nay, thông qua chất lượng giảng

dạy và học tập bộ môn GDCD, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng và phát triển nhân cách học

sinh trung học phổ thông tỉnh Nam định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện

nay”, làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thông qua giảng dạy môn GDCD để hình thành và phát triển nhân cách cho học

sinh THPT là một nội dung rất quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo con người

của Đảng. Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục nhân cách

dưới những góc độ khác nhau, có giá trị rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể là:

Sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đề tài mang mã số NN7: “ Cải tiến công tác

giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống cho học sinh, sinh viên trong hệ thống giáo

dục quốc dân ” do Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm. Đề tài nghiên cứu về nhân cách nói chung,

về giáo dục đạo đức, chính trị và tư tưởng trong các trường từ tiểu học đến đại học những năm

đầu của thập kỷ 90.

Các đề tài do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm mang mã số: KX - 07.01. “Phương

pháp luận nghiên cứu con người” (1991 -1995); KHXH- 04. “Phát triển toàn diện con

người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (1996 - 2000); KH – 05.07.

“Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế

thị trường” (2001 - 2005). Tác giả đã nghiên cứu về con người với tư cách là mục tiêu và

động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc nhân cách,

thực hiện giáo dục đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó như mục tiêu

quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.

Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Trọng Phúc ( 2003), “ Mấy vấn đề đạo đức trong

điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn

sách đã phân tích những biến động trong lĩnh vực đạo đức, lý giải vai trò của đạo đức,

khẳng định yêu cầu đẩy mạnh công tác giáo dục, xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện

nay…

Huỳnh Khái Vinh ( 2001), “Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã

hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đề cập những vấn đề cơ bản của lối sống,

đạo đức với phát triển văn hóa và con người, quan điểm và giải pháp xây dựng lối sống,

đạo đức, chuẩn giá trị xã hội…

“Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc gia”,

(2002), của viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội…Đây là

tập hợp những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến

lược phát triển giáo dục nước ta giai đoạn hiện nay.Trong đó đáng chú ý có nhà nghiên

cứu Hà Thế Ngữ đã đi sâu nghiên cứu vấn đề tổ chức quá trình giáo dục đạo đức thông qua

giảng dạy các môn khoa học, đặc biệt là các môn khoa học xã hội và nhân văn. Ngoài ra

tác giả còn đề cập đến việc rèn luyện phương pháp tư duy khoa học, trên cơ sở đó giáo dục

thế giới quan, nhân sinh quan, bồi dưỡng ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi

đạo đức cho học sinh. Phạm Hoàng Gia nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục nhận thức

khoa học với giáo dục đạo đức, những biểu hiện nhân cách trong lối sống và đưa ra dự báo

mô hình nhân cách thanh niên năm 2000.

Đào Thị Oanh (2007), “Vấn đề nhân cách trong tâm lí học ngày nay”, Nxb Giáo

dục, Hà Nội. Cuốn sách tổng hợp và khái quát lí luận tâm lí học về nhân cách, đề xuất các

giải pháp về hình thành, phát triển nhân cách trong công tác giáo dục thế hệ trẻ…

Ngoài ra còn có một số luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ khác nghiên cứu đến vấn đề

đạo đức, nhân cách học sinh, sinh viên như:

Luận án tiến sỹ triết học của Trần Sỹ Phán (1999), nghiên cứu về: “Giáo dục đạo

đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay”.

Luận án tiến sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của Đỗ Tuyết Bảo (2001) với

vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho học sinh trường trung học cơ sở tại thành phố Hồ Chí Minh

ở nước ta hiện nay”.

Luận án tiến sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm

(2008) nghiên cứu về: “Giáo dục tinh thần yêu nước Xã hội chủ nghĩa cho học sinh THPT

ở miền Đông Nam Bộ hiện nay”. Luận án thạc sỹ triết học chuyên ngành CNXHKH của

Nguyễn Sỹ Quyết Tâm (2003) nghiên cứu về: “Giáo dục đạo đức xã hội chủ nghĩa qua

môn giáo dục công dân cho học sinh trung học phổ thông ở Bà Rịa – Vũng Tàu hiện

nay”…

Tôi đã kế thừa trực tiếp những thành quả nghiên cứu khoa học nêu trên, dựa vào

những gợi mở của các tác giả đi trước về lý luận và phương pháp để triển khai công trình

của mình.

Tuy đã có nhiều công trình của các nhà khoa học nghiên cứu về con người, giáo dục

đạo đức, phát triển nhân cách. Nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên

cứu trực tiếp về: “Xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam

định qua giảng dạy môn Giáo dục công dân hiện nay”. Vì vậy, đề tài của tôi không trùng

lặp với các công trình đã được công bố. Những tài liệu nêu trên giúp ích cho tôi trong việc

tham khảo để nghiên cứu đề tài, viết luận văn thạc sỹ.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng của vấn đề nhân cách, vai trò của môn GDCD và

thực trạng xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT ở tỉnh Nam Định qua giảng

dạy môn GDCD, từ đó đề xuất những định hướng, giải pháp xây dựng và phát triển nhân

cách tốt đẹp cho học sinh THPT tỉnh Nam Định, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong

thời kỳ CNH, HĐH.

3.2. Nhiệm vụ

- Phân tích vấn đề nhân cách và vai trò của môn GDCD trong xây dựng và phát

triển nhân cách cho học sinh THPT.

- Phân tích tình hình xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam

Định qua giảng dạy môn học GDCD, nêu những nguyên nhân ảnh hưởng, bài học kinh

nghiệm và những vấn đề đang đặt ra.

- Đề xuất những định hướng và giải pháp xây dựng, phát triển nhân cách cho học

sinh THPT ở Nam Định qua môn GDCD.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học

sinh THPT tỉnh Nam Định qua môn GDCD.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Địa bàn nghiên cứu là một số trường THPT điển hình ở tỉnh Nam Định.

Thời gian nghiên cứu từ năm 1997 – khi Nam Định được tái lập tỉnh và bắt đầu

triển khai thực hiện Nghị quyết BCH TW khoá VIII về GD & ĐT.

5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn

- Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới liên

quan đến giáo dục nhân cách, định hướng giá trị cho thế hệ trẻ.

- Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng sự băng hoại về đạo đức, lối sống,

xói mòn về nhân cách, phai nhạt về những chuẩn mực đạo đức và thực tiễn công tác

giảng dạy môn GDCD cho học sinh THPT ở tỉnh Nam Định những năm vừa qua.

5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cở sở vận dụng phương pháp

luận của chủ nghĩa duy vật chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Phương pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương

pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê xã hội học…

6. Những đóng góp mới của luận văn

Làm rõ hơn tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh

THPT từ hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội.

Đánh giá tình hình xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam

Định qua giảng dạy môn GDCD hiện nay.

Từ đó đã đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nhân

cách cho học sinh THPT ở tỉnh Nam định qua môn GDCD.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Góp phần vào việc nhận thức đầy đủ hơn vai trò của môn GDCD đối với quá trình

xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT.

Kết quả nghiên cứu của tác giả có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu và giảng dạy môn GDCD trong trường THPT, công tác chỉ đạo của các cán bộ

quản lý giáo dục ở nước ta nói chung và ở tỉnh Nam định nói riêng.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chương, 6 tiết.

Chương 1

NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN ĐỐI VỚI VIỆC

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ

THÔNG

1.1. NHÂN CÁCH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC XÂY DỰNG

VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Vấn đề nhân cách và xây dựng, phát triển nhân cách cho học sinh THPT là vấn đề

trung tâm của hệ thống khoa học giáo dục về con người, nó vừa có ý nghĩa lý luận vừa có

ý nghĩa thực tiễn lớn lao đối với sự tồn tại và hưng thịnh của mỗi quốc gia, dân tộc trong

quá trình hoà mình vào dòng chảy của thời đại hôm nay và mai sau.

Xuyên suốt chiều dài của lịch sử tư tưởng nhân loại đã có rất nhiều khoa học tiếp

cận nghiên cứu về nhân cách và những vấn đề có liên quan đến nó ở nhiều góc độ khác

nhau như: triết học, giáo dục học, xã hội học, đạo đức học, tâm lý học….Tuy nhiên, triết

học là một bộ môn khoa học giải đáp rõ nét, cơ bản nhất bản chất xã hội của con người và

những vấn đề chung về nhân cách con người. Đây là cơ sở lý luận vô cùng quan trọng,

cung cấp cho các nhà giáo dục những hiểu biết khoa học trong quá trình nghiên cứu, xây

dựng phát triển nhân cách cho học sinh THPT.

1.1.1. Khái niệm con người, cá nhân, nhân cách

1.1.1.1. Con người và bản chất con người

Ngay từ khởi đầu Triết học đã chú ý và coi con người là đối tượng nghiên cứu. Vào

đầu thế kỷ thứ V - thứ VI sau CN, nhà triết học Bôêtut (480-525, La Mã) đã đưa ra một

định nghĩa khá hoàn chỉnh về con người. Theo ông: Con người là một bản thể cá thể của

bản chất lý trí, như là một cá thể; nó là vật chất, từ đó tạo nên nguyên tắc cá thể hoá. Tâm

hồn không phải là con người, mà chỉ là một cái gì đó được tạo lập nên. Chỉ một mình

người là một trong tồn tại người vật chất; người là tồn tại vật chất cao nhất, tạo nên các

phẩm chất đặc biệt là nhân phẩm và các quyền.

Quan điểm duy tâm, siêu hình đã quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý

thức, tư tưởng, tình cảm, đạo đức. Xem bản chất con người là cái gì đó dược quy định sẵn

từ tự nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển giống

nòi. Do đó, giải thích bản chất con người từ góc độ những điểm chung của mọi sinh vật

trên trái đất. Hoặc lại tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng lẻ, nghĩa

là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó.

Tính chất siêu hình của các quan điểm trên về bản chất con người biểu hiện ở chỗ:

coi bản chất con người là cái vốn có, trừu tượng và quy nó về bản tính tự nhiên, tách khỏi

xã hội và trở nên bất biến.

Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng C.Mác và Ph.Ăngghen

đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức con người và bản chất con

người.

Các ông xem xét, phân tích con người xuất phát từ con người hiện thực, con người

thực tiễn và chỉ rõ: thông qua hoạt động thực tiễn con người làm biến đổi đời sống xã hội,

đồng thời cũng biến đổi chính bản thân mình. Điều đó nghĩa là con người tiếp nhận bản

chất xã hội của mình thông qua hoạt động thực tiễn.

Con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội Đứng về mặt

sinh học thì “Con người là một bộ phận của giới tự nhiên” (…, tr135), phát sinh trực tiếp

từ động vật. Theo Ph.Ăngghen: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra,

cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính

vốn có của con vật. Thành thử bao giờ cũng chỉ nói đến việc những đặc tính ấy có ảnh

hưởng nhiều đến sự chênh lệch về mức độ thú tính và tính người mà thôi”. ( …, tr146)

Như hết thảy mọi sinh vật khác, con người sống dựa vào tự nhiên nhưng khác ở chỗ

con người không chỉ dựa vào, mà còn cải tạo giới tự nhiên, tạo ra tự nhiên thứ hai xung

quanh mình. Ph.Ăngghen chỉ ra bước chuyển từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá

trình con người lao động cải tạo giới tự nhiên cũng là quá trình con người tạo ra con người.

Theo Ph.Ăngghen: “Lao động sáng tạo ra con người là theo nghĩa đấy”.

Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con

người. Song Chủ nghĩa Mác không coi nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận yếu tố sinh vật trong

các yếu tố cấu thành bản chất con người. Theo Mác: “giới tự nhiên là thân thể của con

người”. Con người gắn liền với giới tự nhiên vì con người là một bộ phận của giới tự

nhiên. Mỗi người sinh ra trước hết là một thực thể tự nhiên, một sản phẩm của thiên nhiên,

một bộ phận của vũ trụ và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên phức tạp.

C.Mác vạch ra sự khác nhau giữa con người và con vật: Con vật hoạt động theo bản

năng còn con người hoạt động theo ý thức. Chính mặt xã hội của con người đã làm cho

mặt sinh vật trong con người phát triển ở trình độ cao hơn những động vật khác.

Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di truyền, có sẵn

như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hoá, của tiến bộ lịch

sử - xã hội. Khi xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Sự phát

triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của xã hội vì mỗi người đều sống trong

xã hội nhất định, là sản phẩm của lịch sử - xã hội, sản phẩm của nền văn minh.

Từ một con người tự nhiên phát triển thành một nhân cách, con người phải chịu

hàng loạt những tác động, chi phối của những yếu tố chủ quan và khách quan, theo cả quy

luật tự nhiên và quy luật xã hội.

Sự phát triển của con người là sự trưởng thành cả về thể chất và tinh thần. Sự phát

triển về thể chất là sự trưởng thành sinh học, cơ bắp, thần kinh và các cơ quan nội

tạng…theo quy luật tự nhiên. Sự phát triển về tinh thần là sự trưởng thành về tâm lý, ý

thức theo quy luật tâm lý và quy luật xã hội trên cơ sở lĩnh hội nền văn minh nhân loại.

Sự phát triển thể chất gắn liền với sự phát triển về tinh thần, theo quy luật phát triển

tâm, sinh lý lứa tuổi, đó là sự biến đổi về số lượng, chất lượng và sự chuyển hoá chúng cho

nhau; là bước phát triển nhảy vọt của từng cá nhân về năng lực và phẩm hạnh phù hợp với

lịch sử xã hội và thời đại. Sự phát triển đó tạo nên nhân cách của con người, trong đó có

nhân cách của học sinh THPT.

Trong khi phê phán những quan điểm của Phơbách, xuất phát từ những cá thể cô

lập để nhận thức bản chất con người. C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con

người: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng

biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”

(…,11)

Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội cũng có nghĩa là tất cả

các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người, nhưng yếu tố có ý nghĩa

quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp

chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kiểu quan hệ

sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối và chính kiểu quan hệ sản xuất đó lại là cái xét đến

cùng, tạo nên bản chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.

Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ trong từng hình thái xã hội riêng

biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, thời đại riêng

biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang đương đại, vừa theo chiều dọc lịch sử.

Các quan hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và

quan hệ xã hội truyền thống, bởi vì trong lịch sử của mình con người bắt buộc phải kế thừa

di sản của những thế hệ trước đó.

Khi xem xét bản chất con người ta không được tách rời hiện tại và quá khứ vì trên

lĩnh vực văn hóa tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con người biết cố gắng vươn

lên, nhưng cũng có những truyền thống “đè nặng lên những con người đang sống”.

Bản chất một con người cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội “vốn có” và quy định

những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả những hành vi của

người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ.

Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con đường thẳng trực tiếp, mà

thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh

nghiệm và nhận thức khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và

hoạt động có ý thức, giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội.

Như vậy, con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất

biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Sự tác động qua lại giữa hai mặt này

trong con người tạo thành bản chất người.

Bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải là tự

nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hoà của

toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Chủ nghĩa Mác về bản chất

con người.

Con người tồn tại qua những cá nhân người. Mỗi cá nhân người là một chỉnh thể gồm

một hệ thống những nhân tố, bao hàm cả những đặc điểm cụ thể không lặp lại, khác biệt với

những cá nhân khác về cơ chế, tâm lí, trình độ…

1.1.1.2. Cá nhân

* Cá thể người: Nói đến cá thể người là nói đến thành phần của loài người đã bứt

khỏi loài vật, vừa chứa đựng thành tựu tiến hoá của thế giới vật chất, nhất là của thế giới

sinh vật, tức là vẫn chịu sự chi phối của thế giới xung quanh…, vừa thoát ra vòng cương

toả của thế giới đó, tức là đứng ngoài sự chi phối của chúng. Nó vừa chịu tác động của các

quy luật trong vũ trụ, vừa chịu tác động của các quy luật sinh vật, đồng thời bắt đầu chịu

tác động của các quy luật xã hội.

* Cá nhân: dùng để chỉ một con người cụ thể của một cộng đồng, thành viên của xã

hội.

Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài “người”, không có con người nói

chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.

Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội, là một chỉnh

thể toàn vẹn có nhân cách.

Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội, nhưng xã hội thay

đổi theo tiến trình lịch sử nên cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch

sử có một “kiểu xã hội của cá nhân” mang tính định hướng về thế giới quan, phương pháp

luận cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.

Cá nhân người là một thành viên của xã hội, là khách thể mang “ tổng hoà các quan

hệ xã hội”. Nó không những chịu ảnh hưởng mà còn góp phần tạo ra những quan hệ xã

hội.

Sự phát triển của cá nhân người diễn ra theo quy luật xã hội - lịch sử, lịch sử - văn

hóa, nghĩa là chịu sự tác động của giáo dục và môi trường xã hội.

* Cá tính: dùng để chỉ cái đơn nhất, có một không hai, không lặp lại của cá nhân.

Trong tác phẩm Bàn về tự do, Giôn S.Min (1806 – 1873, Anh) đã viết: “Mỗi một con

người...được phát triển và biến đổi bởi văn hoá riêng của anh ta – thì được gọi là người có

cá tính”[…,132]. Ông rất tán thưởng quan điểm phát triển người – coi trọng cá tính của

con người. Ông viết: “Cá tính đồng nghĩa với phát triển”, và “Sự phát triển tự do của cá

nhân là điều tối quan trọng cho an sinh”[…,132 -146].

Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến cá

tính con người và mong muốn mỗi cá nhân phải có tính độc lập, có cá tính.

Theo Anhxtanh: Nhà trường phải phát triển ở cá thể các phẩm chất và năng lực có

giá trị cho cuộc sống xã hội. Nhưng không có nghĩa là phá huỷ hay biến các cá nhân trở

thành công cụ đơn thuần của cộng đồng, như những bầy ong, đàn bướm. Nếu một cộng

đồng toàn những cá thể đồng loạt giống nhau, không có tính độc đáo cá nhân và mục đích

cá nhân thì sẽ là một cộng đồng nghèo, không có khả năng phát triển.

Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với giống loài, sự

khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân khác thì nhân cách là khái

niệm để chỉ sự khác biệt giữa những yếu tố bên trong riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống

của nó, của cá nhân này với cá nhân khác.

1.1.1.3. Nhân cách

Đứng trên quan điểm mác xít, xuất phát từ nguyên tắc thừa nhận bản chất con người để

nghiên cứu đã có rất nhiều lý thuyết khoa học về nhân cách.

X.L.Rubinstein đã viết: Con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của

mình với những nhân cách xung quanh một cách có ý thức.

Theo A.V. Petrovxki nhân cách là chủ thể của nhận thức và cải tạo tích cực hiện

thực.

A.G. Covaliov xem nhân cách là một cá thể có ý thức, chiếm một vị trí nhất định

trong xã hội và thực hiện một vai trò nào đó trong xã hội.

E.V. Sorokhova nhấn mạnh: nhân cách là một con người với tư cách là một vật mang

toàn bộ những thuộc tính và phẩm chất tâm lý quy định các hình thức hoạt động và hành vi

có ý nghĩa xã hội.

V.N. Miasaev thì chú trọng tới khía cạnh thái độ trong nhân cách, thái độ đối với

người khác, với bản thân, với thế giới bên ngoài.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách nhưng các tác giả đều nhấn mạnh đến

tính xã hội của con người:

Nhân cách là chủ thể trong các hoạt động, trong các mối quan hệ xã hội đa dạng.

Nhân cách là tổ hợp những điều chỉnh với những tác động từ bên ngoài.

Nhân cách là một con người cụ thể, là thành viên của một xã hội, một dân tộc, một

quốc gia, của một thời đại lịch sử.

Nhân cách có những đặc thù cá biệt và cũng có những nét tương đồng chung của dân

tộc, thời đại vì nhân cách phản ánh trình độ phát triển của dân tộc, thời đại.

Triết học Mác đã tiếp cận nhân cách như một quá trình mở rộng và đi sâu từ con

người hiện thực, từ bản chất xã hội, quan hệ xã hội đến hệ thống các giá trị và chức năng

xã hội của con người.

Khái niệm nhân cách bao hàm phần xã hội, tâm lí của cá nhân với tư cách là thành

viên của một xã hội nhất định, là chủ thể của các quan hệ người– người, của hoạt động có

ý thức và giao lưu.

Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá

nhân. Đó là thế giới của cái “tôi” do tác động tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội

riêng biệt tạo nên.

Nhân cách chính là chất lượng xã hội của con người. Giá trị xã hội của nhân cách

được tạo lập từ các phẩm chất và năng lực của con người, kết quả của giáo dục và tự giáo

dục

Mỗi cá nhân “dấn thân ”vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hoá của

xã hội vào bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh, lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế

giới riêng của mình. Đó là quá trình xã hội hoá cá nhân và cá nhân hóa xã hội.

Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về mình, làm chủ cuộc sống

của mình, tự lựa chọn chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.

Mô hình nhân cách con người phát triển toàn diện bao gồm nhiều mặt, nhiều khía

cạnh, song có thể khái quát thành ba mặt cơ bản: phẩm chất đạo đức, tri thức khoa học và

năng lực nghề nghiệp, chuyên môn. Kết hợp ba nội dung giáo dục trên chính là hướng tới

việc hình thành ba mặt cơ bản trong nhân cách con người phát triển toàn diện.

Như vậy, nhân cách của con người là hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện ở

mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và

thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội; độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn. [,

138]

Tóm lại, khi con người là đại diện của loài ta gọi là cá thể. Với tư cách là thành viên

của xã hội ta gọi là cá nhân như là một thực thể độc lập và khi nó có đủ khả năng để trở

thành chủ thể của hoạt động học tập, lao động, vui chơi…thì con người trở thành nhân

cách. Giáo sư –Viện sĩ Phạm Minh Hạc đã khái quát vấn đề này qua hình vẽ: Các khái

niệm chỉ con người.(…,80)

Con người

Nhân cách thể

Cá thể Cá nhân

Đại diện loài

Thành viên xã hội

Quá trình “bứt khỏi”

Chủ thể của hoạt động

Thế giới sinh vật Vũ Trụ

1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc xây dựng và phát triển nhân cách học sinh

trung học phổ thông

Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng (Nguyễn Như Ý - chủ biên):

Xây dựng: Làm nên, gây dựng và vun đắp nên. Có thiện ý, nhằm vun đắp cho tốt

đẹp hơn.

Phát triển: Vận động, tiến triển theo chiều hướng tăng lên.

Nhân cách: Tư cách và phẩm chất, đạo đức của con người.

Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam (http:// www bachkhoa) Nhân cách: bộ mặt

tâm lí, tổ hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân với

tư cách là chủ thể của hoạt động, giao tiếp.

Người ta sinh ra là người, nhưng nhân cách chỉ hình thành trong hoạt động, giao

tiếp. Thực chất: đó là quá trình xã hội hoá cá nhân, tiếp thụ các giá trị văn hoá của gia

đình, cộng đồng, xã hội và tăng dần (hay ngược lại) mức phù hợp giữa thang giá trị, thước

đo giá trị, định hướng giá trị của bản thân và cộng đồng, xã hội.

Nhân cách có tính chất xã hội, đồng thời cũng mang tính cá biệt với những kinh

nghiệm, nếp suy nghĩ, tình cảm, hoài bão, niềm tin, định hướng giá trị, tính cách riêng tạo

ra tính đa dạng của các cá nhân...

Khi bàn về vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách có rất nhiều quan điểm khác

nhau. Nhà triết học XôViết Smirnov đã khẳng định: Con người được sinh ra nhưng nhân

cách thì phải được hình thành (…,83). Nhân cách không có sẵn mà được hình thành và

phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, vui chơi, lao động…Theo V.I.Lênin:

cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lí, đạo đức của xã hội mà nó là thành viên.

A.N.Lêonchiev – nhà tâm lí học Xô viết chỉ rõ: nhân cách cụ thể là nhân cách của

con người sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ các

quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các thế hệ trước tạo ra,

các quan hệ xã hội mà nó gắn bó.

Việc xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT là một diễn biến phức tạp, nó

bị chi phối bởi những yếu tố chủ yếu sau :

1.1.2.1. Yếu tố sinh học

Mỗi em học sinh ngay từ khi mới sinh ra đã kế thừa những phẩm chất sinh vật của

các thế hệ cha ông mình, mang dấu ấn đặc trưng của nòi giống, đó gọi là hiện tượng di

truyền.

Di truyền học đã chứng minh rằng, các thế hệ con người có thể truyền lại cho nhau

những đặc điểm về cấu tạo cơ thể, về các loại thần kinh, về chức năng hoạt động của

chúng…tạo thành sức sống tự nhiên của con người. Sức sống tự nhiên là những tiền đề vật

chất có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nhân cách.

Tư chất thông minh, gen di truyền có vai trò là “nhân tố gốc” tạo nên năng lực nhận

thức, tư duy của mỗi học sinh. Nhờ yếu tố bẩm sinh di truyền mà sự tác động của các môi

trường giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội sẽ hình thành nên nhân cách, phẩm chất, lối

sống tốt trong mỗi cá thể người.

Mỗi một học sinh ít nhiều có một khả năng bẩm sinh nào đó, với những em đặc biệt

có năng khiếu bẩm sinh biểu hiện dưới dạng tư chất, nếu giáo viên biết phát hiện và bồi

dưỡng thì các em có thể trở thành nhân tài, trở thành chủ thể có ích cho đất nước.

Tuy nhiên trong quá trình phát triển của con người, mặt xã hội với các thuộc tính

phức tạp như: ý thức, thế giới quan, niềm tin đạo đức…không có một chương trình di

truyền nào cả. Hoàn cảnh sống, hoạt động, giao tiếp của cá nhân và giáo dục xã hội…giữ

vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đối với quá trình hình thành và phát triển các phẩm

chất đó.

Vì thế, nhà trường cần phải đánh giá đúng vai trò của yếu tố sinh học, thấy được vị trí

quan trọng của nó nhưng cũng không nên tuyệt đối hoá mặt sinh học để tránh những sai

lầm trong nhận thức cũng như trong tổ chức các hoạt động giáo dục.

1.1.2.2. Yếu tố môi trường

Bên cạnh yếu tố sinh học, con người trong quá trình phát triển để trở thành nhân cách

còn chịu tác động của môi trường sống. Môi trường là hệ thống phức tạp những hoàn cảnh

bên ngoài, kể cả các điều kiện tự nhiên và xã hội, có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống,

hoạt động và phát triển nhân cách các em.

Môi trường xã hội với thể chế chính trị, luật pháp, hệ tư tưởng, trình độ dân trí,

truyền thống văn hoá dân tộc và các quan hệ xã hội khác… ảnh hưởng rất nhiều đến sự

phát triển nhân cách của mỗi học sinh. Trình độ sản xuất, chế độ chính trị quy định chiều

hướng và nội dung của nền giáo dục xã hội và cũng quy định cả chiều hướng phát triển của

từng cá nhân.

Các mối quan hệ xã hội ảnh hưởng theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực đến học sinh.

Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với mỗi cá nhân còn tuỳ thuộc

vào quan điểm, xu hướng, năng lực của cá nhân.

Tập thể, trong đó là những nhóm bạn bè, lớp học, Đoàn thanh niên…cũng ảnh hưởng

rất lớn đến việc xây dựng và phát triển nhân cách học sinh. Trong sinh hoạt tập thể, các em

chọn lọc những gì phù hợp với sở trường, xu hướng, năng lực của mình để hoạt động.

Đồng thời chịu những tác động có ý thức và không có ý thức từ bên ngoài mà lớn lên. Tập

thể vừa là môi trường, vừa là phương tiện để giáo dục học sinh.

Những nhóm bạn bè tự phát cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách

học sinh. Bạn tốt sẽ giúp đỡ các em học tập tốt hơn, bạn bè xấu làm các em dễ hư hỏng,

đúng như câu châm ngôn mà cha ông ta đã từng dăn dạy: “Gần mực thì đen, gần đèn thì

rạng”. Vì thế mỗi học sinh rất cần phải: “Chọn bạn mà chơi”.

1.1.2.3. Yếu tố hoạt động

Trong đời sống con ng ư thế nào thì nhân cách con người phát triển như thế ấy.

Hoạt động tích cực là con đường để tiến thân, để thành đạt và là phương thức để mỗi người

vươn tới lý tưởng và hạnh phúc cá nhân. Mỗi con người có thể nói là sản phẩm của chính

bản thân mình.

Hoạt động là phương thức tồn tại và cũng là con đường cơ bản để xây dựng và phát

triển nhân cách. Nội dung, phương thức cũng như mục đích và ý thức của mỗi cá nhân

trong hoạt động sẽ tạo nên và phát triển những nét tính cách riêng của từng học sinh như:

tính tích cực, sáng tạo, ý chí và tình cảm…

Hoạt động của học sinh bao gồm: học tập, vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao, lao

động và hoạt động tập thể…

Học sinh sẽ hình thành được các phẩm chất, tính cách, năng lực khi tham gia tích

cực vào các loại hình hoạt động đa dạng trong xã hội, hiểu biết và tiếp thu các giá trị văn

hóa của loài người.

Hoạt động và giao lưu là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống con người.

Tính đa dạng của hoạt động tạo nên tính đa dạng của giao lưu. Phương thức, mục đích giao

lưu giúp cá nhân chiếm lĩnh được những giá trị đích thực của cuộc sống. Thông qua giao

lưu các em tìm ra lẽ phải, chân lý, rút ra được kinh nghiệm sống, hình thành nên những nét

tính cách điển hình.

Như vậy, để xây dựng, phát triển nhân cách người công dân cho thanh niên học sinh

và thực hiện được mục tiêu GDCD, giáo viên không thể chỉ dùng thuyết lý của mình mà

phải thông qua các hoạt động và giao lưu của chính các em như (Thảo luận, đóng vai, điều

tra thực tiễn, liên hệ và tự liên hệ, sưu tầm tài liệu, chơi trò chơi…). Quá trình dạy học

môn GDCD cho học sinh THPT phải là quá trình tổ chức cho các em các hoạt động giao

lưu với thầy, với bạn và những người khác để thông qua đó các em chủ động phát hiện và

lĩnh hội nội dung bài giảng, hình thành kỹ năng sống, khắc phục được mâu thuẫn giữa

nhận thức và hành vi của mình.

1.1.2.4. Yếu tố giáo dục

Giáo dục với tư cách là một hoạt động đặc biệt giữ vai trò chủ đạo, có ảnh hưởng

quyết định trong xây dựng và phát triển nhân cách mỗi cá nhân.

Giáo dục cũng như sự tương tác giữa giáo dục và tự giáo dục in dấu ấn quan trọng

lên trình độ phát triển người và nhân cách của con người, là con đường và phương thức

chủ yếu tạo nên diện mạo nhân cách của con người

Yếu tố đầu tiên trong việc hình thành nhân cách cho các em – những công dân

tương lai là do sự giáo dục của gia đình những năm đầu của tuổi thơ. Đúng như nhà sư

phạm nổi tiếng Xu khômlinxki đã nói: “Tổ quốc khởi đầu từ gia đình”. Gia đình là nơi sinh

ra, là môi trường sống đầu tiên, là nơi chuyển giao các giá trị truyền thống, nuôi dưỡng và

hình thành nhân cách ban đầu cho thế hệ trẻ.

Gia đình đầm ấm, hạnh phúc luôn là nơi nương tựa vững chắc cả về vật chất và

tinh thần cho mỗi em. Là môi trường tốt nhất cho sự hình thành và phát triển nhân cách

của cá nhân, là nơi trẻ rèn luyện để hình thành lối sống cao đẹp, sống có tình nghĩa, đạo lý.

Cho dù xã hội có bắt nhịp phát triển với tốc độ như thế nào đi chăng nữa thì gia

đình vẫn luôn giữ vai trò là hạt nhân, là viên đá tảng xây dựng nền móng xã hội.

Mức sống, trình độ học vấn, thói quen, nếp sống của gia đình, mối quan hệ tình

cảm của các thành viên, tính mẫu mực của người lớn và phương pháp giáo dục gia đình có

ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của các em. Có người đã nói: tổ ấm gia

đình là một pháo đài vững chắc để mỗi cá nhân được an toàn trước những cám dỗ của xã

hội và cũng chính là bệ phóng tốt nhất để cá nhân có thể hoà nhập vào xã hội và góp ích

cho xã hội.

Giáo dục gia đình được tiến hành trong cả cuộc đời một con người với nhiều nội

dung và hình thức phong phú. Với đặc điểm chủ yếu là quan hệ tình yêu, pháp lý và huyết

thống, giáo dục gia đình được xây dựng trên cơ sở tình cảm gia đình bền chặt, là yếu tố

quan trọng nhất quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách cho mỗi học sinh.

Trong các loại giáo dục: giáo dục gia đình, xã hội và nhà trường thì giáo dục nhà

trường có vai trò quan trọng nhất.

Nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, có đội ngũ các nhà sư phạm được

đào tạo, nội dung chương trình được chọn lọc, phương pháp giáo dục phù hợp với mọi lứa

tuổi, có các phương tiện kỹ thuật phục vụ cho giáo dục. Mục đích giáo dục nhà trường phù

hợp với xu thế phát triển xã hội và thời đại. Giáo dục nhà trường, bằng kiến thức và

phương pháp khoa học, bằng tổ chức các hoạt động, giao lưu trong thực tiễn đã xây dựng

và phát triển nhân cách cho học sinh. Qua đó tạo nên bộ mặt tâm lí cá nhân phù hợp với

những tiêu chuẩn, giá trị xã hội và thời đại.

Giáo dục xã hội là giáo dục của toàn xã hội, với thể chế chính trị, pháp luật, với

truyền thống văn hóa, đạo đức…được thực hiện qua hệ thống tổ chức nhà nước, qua bộ

máy tuyên truyền thông tin đại chúng, qua dư luận xã hội, qua hoạt động giáo dục của các

đoàn thể quần chúng…góp phần quan trọng cho sự phát triển nhân cách. Ngoài ra sự tác

động tích cực của nhà trường và các tổ chức đoàn thể là không thể thiếu trong đào tạo

những công dân tương lai có nhân cách tốt, có ích cho gia đình và góp phần phát triển xã

hội.

Giáo dục còn bao gồm cả tự giáo dục, tự giáo dục là bước tiếp theo, nhưng quyết

định kết quả của toàn bộ quá trình giáo dục. Tự giáo dục, tự tu dưỡng là hoạt động có ý

thức, là giai đoạn phát triển cao của nhân cách. Như vậy giáo dục là yếu tố chủ đạo trong

quá trình xây dựng và phát triển nhân cách. Một nền giáo dục mạnh, được tổ chức tốt,

bằng các hình thức hoạt động và giao lưu phong phú, đa dạng, với những phương pháp tốt

có thể làm cho học sinh đạt tới sự phát triển toàn diện phù hợp với sự phát triển của thời

đại.

Nhân cách người thầy giáo

Trong nhà trường, thầy giáo là người trực tiếp thực hiện quan điểm giáo dục của

Đảng, người quyết định “phương hướng của việc giảng dạy, “lực lượng cốt cán trong sự

nghiệp giáo dục, văn hoá”.

Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách học sinh. Vì vậy lao động của

người thầy giáo yêu cầu không được tạo ra thứ phẩm, phế phẩm như ở một số nghề khác.

Có người đã nói: làm hỏng một đồ vàng ta có thể nấu lại, một viên ngọc quý ta có thể bỏ

đi, làm hỏng một con người là một tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc lại được. Vàng,

ngọc, kim cương đều quý nhưng không thể so sánh chúng với tâm hồn, nhân cách một con

người. Sự phù hợp giữa yêu cầu khách quan của nghề dạy học với những phẩm chất tương

ứng trong nhân cách của người thầy giáo sẽ tạo nên chất lượng cao của sự hình thành và

phát triển nhân cách học sinh THPT.

K.D. Usinxki đã nhấn mạnh:

Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào nhân cách của người giáo dục, bởi

vì sức mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách con người mà có. Không

một điều lệ, chương trình, không một cơ quan giáo dục nào dù có được tạo ra

một cách khôn khéo như thế nào cũng không thể thay thế được nhân cách của

con người trong sự nghiệp giáo dục. Không một sách giáo khoa, một lời khuyên

răn nào, một hình phạt, một khen thưởng nào có thể thay thế ảnh hưởng cá nhân

người thầy giáo đối với học sinh […,63].

Hoạt động chính của thầy giáo là tổ chức và điều khiển học sinh lĩnh hội, thông trải

những kinh nghiệm, những tinh hoa mà loài người tích luỹ được và biến chúng trở thành

những nét nhân cách của chính mình. Không ai trong xã hội, kể cả cha mẹ cũng không thể

thay thế được vai trò và chức năng của người thầy giáo.

Trong dạy học và giáo dục, thầy giáo dùng nhân cách của chính mình để tác động

vào học sinh. Đó là phẩm chất chính trị, là thế giới quan khoa học, sự giác ngộ về lý tưởng

đào tạo thế hệ trẻ; là lòng yêu nghề, là trình độ học vấn, là sự thành thạo về nghề nghiệp; là

lối sống và phẩm chất đạo đức; là năng lực giao tiếp sư phạm, năng lực cảm hoá học sinh,

năng lực vạch dự án phát triển nhân cách học sinh…Đúng như K.D.Usinxki khẳng định:

không gì hiệu quả hơn là dùng nhân cách để giáo dục nhân cách.

Tóm lại, sự phát triển của con người là toàn bộ sự phát triển, hoàn thiện về thể chất

và tinh thần, nó bị chi phối bởi hàng loạt những yếu tố chủ quan và khách quan. Nhân cách

con người là tổ hợp những phẩm chất tâm lí cá nhân. Việc xây dựng và phát triển nhân

cách học sinh THPT được thực hiện dưới ảnh hưởng của hệ thống các quan hệ xã hội mà

các em sống, hoạt động và giao lưu.

1.2. VAI TRÒ CỦA MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN ĐỐI VỚI VIỆC XÂY

DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.2.1. Đặc điểm kiến thức môn Giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông

1.2.1.1. Nội dung và cấu trúc chương trình môn Giáo dục công dân từ năm học

1990 -1991 đến năm học 2005 – 2006

Trong những năm đầu đổi mới, môn GDCD trong các trường THPT ở nước ta được

gọi là môn chính trị, là “dạy học chính trị”, phục vụ cho việc định hướng chính trị tư tưởng

trong nhà trường.

Từ năm học 1990 – 1991 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định môn GDCD là một

bộ môn khoa học xã hội trong nhà trường THPT. Môn GDCD đã được giảng dạy ở cả ba

khối lớp 10, 11,12. Nhưng chỉ có lớp 10 là có sách giáo khoa, còn lớp 11 và 12 chỉ là “Tài

liệu Giáo dục công dân”.

* Lớp 10: 1 tiết/tuần. Bao gồm 14 bài, trong đó học sinh được học những vấn đề cơ

bản của Triết học Mác – Lênin.

Bảng 1.1:

STT Tên bài Số tiết

Bài 1 Bài mở đầu 1 tiết

Bài 2 Tính vật chất của thế giới 3 tiết

Bài 3 Sự phát triển của thế giới 3 tiết

Bài 4 Sự tồn tại và phát triển của giới tự nhiên 2 tiết

Bài 5 Sự tồn tại và phát triển của xã hội 3 tiết

Bài 6 Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội 1 tiết

Bài 7 Vai trò của quần chúng và cá nhân kiệt xuất đối với sự phát 1 tiết

triển của xã hội

Bài 8 Tự do và tất yếu 4 tiết

Bài 9 Con đường nhận thức cái tất yếu 2 tiết

Bài 10 Sự hình thành nhân cách 1 tiết

Bài 11 Cá nhân và xã hội 1 tiết

Bài 12 Lý tưởng nhân đạo 1 tiết

Bài 13 Hướng đến nền văn minh và con người 1 tiết

Bài 14 Bài tổng kết 2 tiết

* Lớp 11: 1,5 tiết/tuần. Nội dung chương trình là những vấn đề lớn của thời đại,

như: CNTB, CNXH; về đạo đức học, về truyền thống đạo đức dân tộc. Bao gồm 25 bài.

Bảng 1.2:

STT Tên bài Số tiết

Bài 1 Tiến bộ xã hội 1 tiết

Bài 2 Sản xuất hàng hoá và sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản 2 tiết

Bài 3 Nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa và các quan hệ giai cấp trong 2 tiết

xã hội tư bản

Bài 4 Nhà nước tư bản và nền dân chủ tư sản 1 tiết

Bài 5 Văn hoá tư sản và những tệ nạn xã hội trong xã hội Tư bản chủ 1 tiết

nghĩa

Bài 6 Chủ nghĩa đế quốc 1 tiết

Bài 7 Chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng một xã hội tiến bộ hơn 2 tiết

Bài 8 Sự ra đời của Chủ nghĩa xã hội 3 tiết

Bài 9 Xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt 5 tiết

Nam

Bài 10 Những khó khăn và triển vọng của công cuộc đổi mới Xã hội 1 tiết

chủ nghĩa

Bài 11 Những vấn dề chung của nhân loại ngày nay 3 tiết

Bài 12 Cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, dân 2 tiết

chủ và tiến bộ xã hội

Bài 13 Nghĩa vụ 1 tiết

Bài 14 Lương tâm 1 tiết

Bài 15 Nhân phẩm và danh dự 1 tiết

Bài 16 Hạnh phúc 1 tiết

Bài 17 Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế 2 tiết

Bài 18 Quan điểm và thái độ đúng đắn đối với lao động 2 tiết

Bài 19 Chủ nghĩa tập thể Xã hội chủ nghĩa 1 tiết

Bài 20 Chủ nghĩa nhân đạo Xã hội chủ nghĩa 2 tiết

Bài 21 Tình bạn, tình đồng chí 1 tiết

Bài 22 Tình yêu 1 tiết

Bài 23 Tình cảm gia đình 1 tiết

Bài 24 Một số nét về truyền thống đạo đức dân tộc 3 tiết

Bài 25 Phấn đấu vì lý tưởng dân giàu nước mạnh theo con đường Xã 1 tiết

hội chủ nghĩa

* Lớp 12: 1,5 tiết/tuần. Học sinh được trang bị những tri thức về đường lối phát

triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục của ĐCSVN và những vấn đề về Nhà nước, pháp

luật ở Việt Nam.

Bảng 1.3:

STT Tên bài Số tiết

Bài 1 Xây dựng đất nước theo con đường Xã hội chủ nghĩa 1 tiết

Bài 2 Thực trạng kinh tế xã hội nước ta hiện nay và những mục tiêu 2 tiết

phấn đấu trong những năm trước mắt

Bài 3 Phương hướng xây dựng và phát triển kinh tế 5 tiết

Bài 4 Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta 2 tiết

Bài 5 Chính sách văn hoá, giáo dục và khoa học 3 tiết

Bài 6 Một số chính sách xã hội 4 tiết

Bài 7 Chính sách quốc phòng và an ninh 2 tiết

Bài 8 Chính sách đối ngoại 1 tiết

Bài 9 Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật 2 tiết

Bài 10 Luật nhà nước và Hiến pháp 1992 2 tiết

Bài 11 Luật dân sự và hợp đồng dân sự 2 tiết

Bài 12 Luật lao động và hợp đồng lao động 2 tiết

Bài 13 Pháp luật về thuế 1 tiết

Bài 14 Luật hôn nhân và gia đình 2 tiết

Bài 15 Luật hành chính và pháp lệnh xử phạt hành chính 2 tiết

Bài 16 Luật hình sự và bộ luật hình sự 2 tiết

Bài 17 Pháp luật tố tụng và luật tố tụng dân sự 2 tiết

Bài 18 Luật tố tụng hình sự 2 tiết

Bài 19 Pháp luật và khiếu nại tố cáo của công dân 2 tiết

Bài 20 Nêu cao trách nhiệm công dân 1 tiết

Nhìn chung, nội dung chương trình, sách giáo khoa, tài liệu môn học chưa thật sự

ổn định. Có nhiều vấn đề bất cập, lạc hậu, mâu thuẫn với thực tiễn, rất khó đối với học

sinh nên tính thuyết phục không cao. Từ đó, khiến các em không thấy rõ được tác dụng

thiết thực của tri thức bộ môn trong nhận thức cũng như trong hành động. Điều đó ảnh

hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng và phát triển nhân cách học sinh trong nhà trường

THPT.

1.2.1.2. Nội dung và cấu trúc chương trình môn Giáo dục công dân từ- năm học

2006 - 2007 đến nay

* Kế hoạch giảng dạy bộ môn

Bảng 1.4:

Số tiết/tuần Số tuần Tổng số tiết/năm Lớp

35 35 10 1

35 35 11 1

35 35 12 1

105 105 Cộng (toàn cấp)

Nguồn: Phân phối chương trình GDCD của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

* Thời lượng:

Lớp 10: Học phần I & II

Lớp 11: Học phần III & IV

Lớp 12: Học phần V

* Nội dung dạy học từng lớp

- Lớp 10: 1tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết

Phần I - Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học .

Phần II - Công dân với đạo đức

Bảng 1.4:

STT Tên bài Số tiết

Bài 1 Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. 2 tiết

Bài 2 Thế giới vật chất tồn tại khách quan. 2 tiết

Bài 3 Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất 1 tiết

Bài 4 Nguồn gốc vận động , phát triển của sự vật và hiện tượng. 2 tiết

Bài 5 Cách thức vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng. 1 tiết

Bài 6 Khuynh hướng phát triển của sự vật và hiện tượng. 1 tiết

Bài 7 Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. 2 tiết

Bài 8 Tồn tại xã hội và ý thức xã hội. 3 tiết

Bài 9 Con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội. 2 tiết

Bài 10 Quan niệm về đạo đức 1 tiết

Bài 11 Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học 2 tiết

Bài 12 Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình. 2 tiết

Bài 13 Công dân với cộng đồng 2 tiết

Bài 14 Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2 tiết

Bài 15 Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại. 1tiết

Bài 16 Tự hoàn thiện bản thân. 1tiết

- Lớp 11: 1 tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết

Phần III – Công dân với kinh tế

Phần IV – Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội

Bảng 1.5:

STT Tên bài Số tiết

Bài 1 Công dân với sự phát triển của kinh tế 2 tiết

Bài 2 Hàng hoá - Tiền tệ - Thị trường 3 tiết

Bài 3 Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hoá 2 tiết

Bài 4 Cạnh tranh trong sản xuất và lưu thông hàng hoá 1tiết

Bài 5 Cung - cầu trong sản xuất và lưu thông hàng hoá 1tiết

Bài 6 Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 2 tiết

Bài 7 Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần và vai trò quản lý kinh tế 2 tiết

của nhà nước

2 tiết Bài 8 Chủ nghĩa xã hội

3 tiết Bài 9 Nhà nước xã hội chủ nghĩa

2 tiết Bài 10 Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

1tiết Bài 11 Chính sách dân số và giải quyết việc làm

1tiết Bài 12 Chính sách tài nguyên và bảo vệ môi trường

Bài 13 Chính sách giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá 3 tiết

1tiết Bài 14 Chính sách quốc phòng và an ninh

1tiết Bài 15 Chính sách đối ngoại

- Lớp 12: 1 tiết/ tuần x 35 tuần = 35 tiết

Phần V – Công dân với pháp luật

Bảng 1.6:

Số tiết STT Tên bài

3 tiết Bài 1 Pháp luật và đời sống

3tiết Bài 2 Thực hiện pháp luật

1tiết Bài 3 Công dân bình đẳng trước pháp luật

Bài 4 Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống 3 tiết

xã hội

2 tiết Bài 5 Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.

4 tiết Bài 6 Công dân với các quyền tự do cơ bản

3 tiết Bài 7 Công dân với các quyền dân chủ

2 tiết Bài 8 Pháp luật với sự phát triển của công dân.

4 tiết Bài 9 Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước

2 tiết Bài 10 Pháp luật với hoà bình và sự phát triển tiến bộ của nhân loại

Nguồn: Tác giả tự thống kê.

1.2.1.3. Khái quát đặc điểm kiến thức môn Giáo dục công dân ở trường trung học

phổ thông hiện nay

Môn GDCD ở THPT là sự kế thừa, phát triển môn đạo đức ở tiểu học và môn

GDCD ở THCS. Đây là môn học góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở THPT, nhằm

hình thành cho học sinh lý tưởng sống đúng đắn, những phẩm chất và năng lực cơ bản của

người công dân Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH đất nước, thời kỳ hội nhập và phát triển với

các nước trong khu vực và trên thế giới.

Kiến thức môn GDCD ở THPT được xây dựng dựa trên tri thức các môn khoa học

như: Triết học, Đạo đức học, Luật học, Kinh tế - Chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa

học…, dựa trên các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay.

Môn GDCD là môn học có nội dung tri thức mang tính lí luận cao. Kiến thức bộ

môn mang tính trừu tượng, khái quát hoá cao, biểu hiện thông qua các phạm trù, khái

niệm, nguyên lý của Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học.

Kiến thức môn GDCD mang tính hệ thống, logic. Chương trình giáo dục công dân

từ lớp 10 đến lớp 12 gồm 5 phần:

Phần thứ nhất: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa

học (17 tiết). Phần này gồm một số nội dung của triết học nhằm trang bị cho học sinh

những cơ sở ban đầu về thế giới quan, phương pháp luận trong cuộc sống và là căn cứ lý

luận cho các phần sau.

Phần thứ hai: Công dân với đạo đức (11 tiết). Gồm một số giá trị đạo đức, tư tưởng,

chính trị, lối sống của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thông qua kiến thức

phần này giúp học sinh giải quyết hợp lý, có hiệu quả các mối quan hệ xã hội.

Phần thứ ba: Công dân với kinh tế (14 tiết). Là những kiến thức cơ bản về phương

hướng phát triển kinh tế xã hội, giúp học sinh xác định phương hướng học tập, lựa chọn

ngành nghề hoặc các lĩnh vực khác khi ra trường

Phần thứ tư: Công dân với các vấn đề chính trị - xã hội (13 tiết). Giúp học sinh có

những hiểu biết cơ bản về chính trị – xã hội. Từ đó các em có thể xác định được trách nhiệm

công dân với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Phần thứ năm: Công dân với pháp luật (27 tiết). Bao gồm những kiến thức cơ bản

về bản chất, vai trò và vị trí của pháp luật. Qua đó giúp học sinh chủ động, tự giác điều

chỉnh hành vi của cá nhân và đánh giá được hành vi của người khác trong cuộc sống.

Đây là năm phần cơ bản tạo ra những hiểu biết cần thiết nhất về thế giới quan,

phương pháp luận khoa học, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị, lĩnh vực

kinh tế - xã hội, từ đó giúp học sinh THPT nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân.

Nội dung kiến thức môn GDCD phong phú, đa dạng, bao gồm nội dung của nhiều

khoa học khác nhau như: triết học, kinh tế chính trị học, đạo đức học, chủ nghĩa xã hội

khoa học, pháp luật… Vì thế nó đòi hỏi giáo viên giảng dạy phải được trang bị đầy đủ kiến

thức những môn khoa học đó. Đồng thời phải là người am hiểu khá nhiều các vấn đề kinh

tế xã hội cũng như những kiến thức sâu rộng về tâm lí học lứa tuổi, có kinh nghiệm cuộc

sống. Có như vậy giáo viên bới có thể thực hiện tốt mục tiêu dạy học: không chỉ trang bị

những kiến thức lý luận mà qua trọng hơn là mục tiêu giáo dục công dân nhằm xây dựng

và phát triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh THPT.

Kiến thức môn giáo dục công dân mang tính chính xác. Những khái niệm, phạm trù,

các chuẩn mực đạo đức, pháp luật, những quan điểm chính trị phải đảm bảo sự đúng đắn,

chính xác đối với cả người dạy và người học.

Kiến thức môn giáo dục công dân mang tính thời sự cao hơn so với các môn học

khác. Các sự kiện lớn về chính trị, kinh tế, đạo đức, văn hoá, luật pháp mặc dù không được

thể hiện trong sách giáo khoa nhưng tự nó đã gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống xã hội.

Do đó trong quá trình dạy học, nhất thiết giáo viên phải luôn luôn cập nhật thông tin và đưa

vào nội dung bài giảng.

Như vậy, trong xu hướng cải cách giáo dục việc đổi mới chương chình và sách giáo

khoa mới, nâng cao chất lượng kiến thức về GDCD đã được thực hiện, vừa kế thừa một

phần chương trình và sách giáo khoa cũ, vừa đổi mới ở một mức độ phù hợp, khoa học

hơn. Công việc này đã và đang tạo ra những hiệu ứng xã hội tích cực cho diện mạo và đặc

trưng của nền giáo dục, cho chiều hướng phát triển và thực hiện mục tiêu giáo dục.

Ngoài ra môn GDCD còn tích hợp nhiều kiến thức giáo dục xã hội cần thiết khác

như: giáo dục kĩ năng sống, giáo dục văn hoá hoà bình, giáo dục môi trường, giáo dục giới

tính - sức khoẻ sinh sản vị thành niên, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục phòng chống

ma tuý, phòng tránh HIV/AIDS…

Hiện nay môn GDCD là một trong những môn học có chương trình đảm bảo cân

đối, hài hoà giữa yêu cầu trang bị kiến thức với việc rèn luyện kĩ năng và phát triển thái độ

tích cực cho học sinh. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng tạo ra sức sống và những giá

trị bền vững trong giáo dục nói chung, trong xây dựng và phát triển nhân cách cho những

công dân tương lai của đất nước hôm nay và mai sau.

1.2.2. Đặc điểm tâm - sinh lý học sinh trung học phổ thông

Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới của kỹ thuật, thông tin và công nghệ.

Các quốc gia, các dân tộc hôm nay phải tự lựa chọn con đường đi lên của mình trong xu

thế vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau, vừa nhằm giải quyết những vấn đề của bản thân

mình, vừa góp sức cùng toàn nhân loại giải quyết những vấn đề toàn cầu: chiến tranh và

hoà bình, dân số, sức khoẻ, môi trường…Những vấn đề to lớn đó đang đặt lên vai thế hệ

trẻ nói chung, học sinh THPT nói riêng, lên sự nghiệp giáo dục đào tạo họ.

Theo điều 4, điều 23 của Luật giáo dục 2005 và điều 26 trong những điểm mới của

Luật Giáo dục 2005 ở nước ta: Giáo dục THPT được thực hiện trong ba năm học, từ lớp

mười đến lớp mười hai. Học sinh vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi

là mười lăm. Điều lệ trường trung học ở nước ta cũng quy định rõ tuổi của học sinh THPT

là 15 – 19.

Học sinh THPT có độ tuổi là 15 - 19 tuổi. Với độ tuổi này học sinh THPT thuộc

giai đoạn đầu của tuổi thanh niên(còn gọi là thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh) và là

giai đoạn cuối của tuổi dậy thì.

Đây là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn; đó là lứa tuổi nở rộ sức mạnh

thể chất, tinh thần và trí tuệ; lứa tuổi với những hoạt động đặc trưng để hình thành nhân

cách và phẩm chất của một công dân, hình thành thế giới quan và lý tưởng; là lứa tuổi luôn

luôn tự tìm hiểu bản thân mình và tìm hiểu người khác; lứa tuổi tự khẳng định và tìm cách

xác định vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Về tâm sinh lý học sinh THPT có thể khái

quát trên những đặc điểm sau:

Một là, đặc điểm cơ thể

Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi đang dần dần hoàn chỉnh về mặt thể chất. Nhờ

điều kiện kinh tế xã hội phát triển, cuộc sống ngày càng được nâng cao hơn trước nên học

sinh THPT có sự phát triển tốt hơn về chiều cao, trọng lượng, thể trạng. Thế nhưng sự phát

triển về cơ thể các em vẫn kém hơn so với sự phát triển cơ thể của người lớn.

Bước vào giai đoạn này nhịp độ tăng trưởng chiều cao và trọng lượng của các em đã

chậm lại. Các em gái đạt được sự tăng trưởng của mình trung bình vào khoảng 16,17 tuổi;

các em trai khoảng 17, 18 tuổi. Có thể nói đây là lứa tuổi các em có cơ thể phát triển cân

đối, đẹp và khỏe mạnh.

Trọng lượng cơ thể nói chung phát triển nhanh, trọng lượng của các em trai đã đuổi

kịp các em gái và tiếp tục vươn lên. Các tố chất thể lực như sức mạnh, sức bền, sự dẻo dai

được tăng cường.

Cơ bắp, sức lực các em trong giai đoạn này phát triển mạnh, dễ đạt được những thành

tích trong thể thao.

Đây là lứa tuổi bắt đầu có sự trưởng thành về giới tính, là giai đoạn của những nam

thanh, nữ tú.

Sự phát triển của hệ thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong

của não phức tạp và các chức năng của não phát triển. Bộ não, hệ thần kinh các em phát

triển và khỏe mạnh, tạo cơ sở cho các em tiếp thu, xử lý một khối lượng lớn tri thức trong

quá trình học tập.

Hai là, đặc điểm về hoạt động học tập

Nội dung và tính chất của hoạt động học tập ở học sinh THPT khác rất nhiều so với

học sinh THCS. Sự khác nhau cơ bản đó là nội dung học tập của các em ngày một sâu hơn,

tính năng động và tính độc lập ở mức cao hơn, sự phát triển về tư duy lý luận cũng sâu sắc

hơn, thái độ học tập có ý thức của các em ngày càng phát triển.

Đặc biệt, thái độ của học sinh THPT đối với các môn học đã có sự lựa chọn rõ dệt.

Các em đã hình thành những hứng thú học tập gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp.

Cuối cấp học các em đã xác định được cho mình một hứng thú ổn định đối với một lĩnh

vực tri thức nhất định, liên quan đến một nghề nghiệp nào đó trong tương lai. Nhận thức

của các em mang tính rộng rãi, sâu sắc và bền vững hơn học sinh THCS.

Nhưng thái độ học tập ở không ít em có nhược điểm là, một mặt các em rất tích cực

học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình đã chọn, mặt khác các em

lại sao nhãng các môn học khác, chỉ học để đạt điểm trung bình. Giáo viên phải có thái độ

lắng nghe, khuyến khích động viên, cần làm cho các em học sinh đó hiểu được ý nghĩa và

chức năng của giáo dục phổ thông đối với mỗi môn học trong nhà trường.

Tóm lại, thái độ học tập có ý thức là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển tính chủ

định của các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của học sinh THPT trong

hoạt động học tập.

Ba là, đặc điểm về nhận thức, trí tuệ

Đối với học sinh THPT, tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quan sát ở các

em trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn. Quá trình quan sát đã chịu sự điều

khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không tách khỏi tư duy ngôn ngữ. Tuy

nhiên, quan sát của các em sẽ khó đạt được hiệu quả nếu thiếu sự chỉ đạo của giáo viên.

Giáo viên cần quan tâm để hướng sự quan sát của các em vào một nhiệm vụ nhất định,

không vội vàng kết luận khi chưa đầy đủ các sự kiện.

Với học sinh THPT, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ,

đồng thời vai trò của ghi nhớ logic trừu tượng, ghi nhớ ý nghĩa ngày một tăng rõ rệt. Đặc

biệt các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ, nhưng một số em vẫn còn ghi nhớ

một cách đại khái, chung chung.

Hoạt động tư duy của học sinh THPT có nhiều thay đổi quan trọng do cấu trúc của

não phức tạp và chức năng của não phát triển; do sự phát triển của quá trình nhận thức nói

chung, do ảnh hưởng của hoạt động học tập.

Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Tư

duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn học sinh THCS. Đồng thời tính

phê phán của tư duy cũng phát triển…Những đặc điểm đó tạo điều kiện cho các em phân

tích được những nội dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân

quả trong tự nhiên và trong xã hội…Đây là cơ sở quan trọng hình thành thế giới quan.

Tuy vậy hiện nay số học sinh THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng cho lứa tuổi như

trên còn chưa nhiều. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết năng lực độc lập suy nghĩ

của bản thân….Vì vậy, việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức, trí tuệ là một

nhiệm vụ quan trọng của giáo viên.

Bốn là, sự phát triển của tự ý thức

Đây là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có

ý nghĩa to lớn trong sự phát triển tâm lý của lứa tuổi các em.

Nội dung của tự ý thức: là một quá trình lâu dài, phong phú, trải qua nhiều mức độ

khác nhau và rất phức tạp. Các em luôn quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất

nhân cách cũng như năng lực riêng của mình. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của

mình trong hiện tại như học sinh THCS, mà còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội,

trong tương lai.

Học sinh THPT có khả năng đánh giá những cử chỉ, hành vi riêng lẻ, từng thuộc tính

riêng biệt về nhân cách của mình. Các em có thể hiểu rõ bản thân thông qua những phẩm

chất nhân cách như: lòng yêu lao động, tính cần cù, dũng cảm…và những quan hệ nhiều

mặt của nhân cách như: tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng, tình cảm nghĩa vụ…

Học sinh THPT không chỉ có nhu cầu đánh giá mà còn có khả năng đánh giá sâu sắc

hơn học sinh THCS về những phẩm chất, mặt mạnh, mặt yếu của những người xung quanh

và của chính mình. Các em thường dễ có xu hướng cường điệu trong khi tự đánh giá: hoặc

là đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực; hoặc là đánh giá cao nhân

cách của mình, tỏ ra tự kiêu tự đại, coi thường người khác.

Nhiều khi các em có thể sai lầm khi tự đánh giá. Tuy nhiên, khả năng biết tự phân

tích là dấu hiệu của một nhân cách đang trưởng thành và là tiền đề của sự tự giáo dục có

mục đích. Do vậy, trong hoạt động dạy học và giáo dục giáo viên cần phải biết chia sẻ,

phải có thái độ nghiêm túc, chân thành khi nghe các em phát biểu, tuyệt đối không được chế

diễu ý kiến tự đánh giá đó, nhằm hình thành cho các em một biểu tượng khách quan về nhân

cách của mình.

Năm là, sự hình thành thế giới quan

Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi quyết định của sự hình thành thế giới quan - hệ

thống quan điểm về tự nhiên, về xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc cư xử…

Những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội để xây dựng một hệ thống quan điểm riêng

trong giai đoạn này đã được hình thành (đặc biệt là sự phát triển của tư duy lý luận, tư duy

trừu tượng). Suốt thời gian học tập ở THPT, học sinh đã lĩnh hội được những tâm thế, thói

quen đạo đức nhất định, ý thức được cái đẹp, cái xấu, cái thiện, cái ác… thông qua các tiêu

chuẩn và nguyên tắc hành vi xác định.

Thời kỳ này nhân cách đã được xây dựng và phát triển tương đối cao. Đã xuất hiện ở

các em nhu cầu đưa những tiêu chuẩn, nguyên tắc hành vi đó vào một hệ thống hoàn

chỉnh. Một khi đã có được hệ thống quan điểm riêng thì các em không chỉ hiểu về thế giới

khách quan, mà còn đánh giá và xác định được thái độ của mình với thế giới nữa.

Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự phát triển của hứng thú nhận

thức đối với những vấn đề thuộc nguyên tắc chung nhất của vũ trụ, những quy luật phổ

biến của tự nhiên, xã hội và của sự tồn tại xã hội loài người…Các em cố gắng xây dựng

quan điểm riêng trong lĩnh vực khoa học, đối với các vấn đề xã hội, tư tưởng, chính trị,

đạo đức. Chính nội dung các môn học ở THPT, đặc biệt là môn GDCD giúp cho các em

xây dựng được thế giới quan tích cực về mặt tự nhiên, xã hội.

Học sinh THPT quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề liên quan đến con người, vai trò

của con người trong lịch sử, quan hệ giữa con người và xã hội, giữa quyền lợi và nghĩa vụ,

nghĩa vụ và tình cảm…Vấn đề ý nghĩa cuộc sống chiếm vị trí trung tâm trong suy nghĩ của

các em.

Vì vậy, việc định hướng giá trị trong hoạt động của cá nhân thông qua giáo dục cho

học sinh hệ thống tri thức về đời sống có ý nghĩa hết sức quan trọng. Giúp các em xây

dựng được hệ thống thế giới quan đầy đủ, tránh lối sống thụ động, ỷ nại, trông chờ vào

người khác hoặc đánh giá quá cao cuộc sống hưởng thụ, sa đà vào những tệ nạn xã hội…

Sáu là, đặc điểm về giao tiếp, đời sống tình cảm và tâm lý

Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi mang tính chất tập thể nhất, các em rất coi trọng việc

sinh hoạt với các bạn cùng lứa tuổi để khẳng định vị trí của mình trong nhóm. Trong các

lớp học dần dần xảy ra một sự phân cực nhất định - xuất hiện những người được lòng nhất

và những người ít được lòng nhất. Những em có vị trí thấp, ít được lòng các bạn thường

băn khoăn, suy nghĩ nhiều về nhân cách của mình.

Cùng với sự trưởng thành nhiều mặt, quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào cha mẹ dần

dần được thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập. Trong việc phát triển nhu cầu sở thích,

học sinh hướng vào bạn bè nhiều hơn hướng vào cha mẹ. Nhưng khi bàn đến những giá trị

sâu sắc hơn như chọn nghề, thế giới quan, những giá trị đạo đức thì cha mẹ và thầy cô giáo

lại có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn rất nhiều.

Sự mở rộng phạm vi giao tiếp và sự phức tạp hoá hoạt động riêng của học sinh THPT

là do số lượng nhóm mà các em tham gia tăng lên. Việc tham gia vào nhiều nhóm sẽ dẫn đến

những sự khác nhau nhất định và có thể xung đột về vai trò nếu cá nhân phải lựa chọn giữa

các vai trò khác nhau ở các nhóm.

Trong công tác giáo dục cần chú ý ảnh hưởng của nhóm, hội tự phát ngoài nhà trường.

Nhà trường cần tổ chức phong phú, sinh động các hoạt động tập thể, đặc biệt là tổ chức đoàn,

nhằm phát huy tính tích cực của các em.

Đời sống tình cảm của học sinh THPT rất phong phú và nhiều vẻ. Nhu cầu về tình

bạn tâm tình cá nhân tăng lên rõ rệt. Tình bạn sâu sắc đã được bắt đầu từ tuổi thiếu niên,

nhưng sang tuổi này tình bạn của các em trở nên sâu sắc hơn nhiều. Các em có yêu cầu cao

hơn đối với tình bạn (yêu cầu sự chân thật, lòng vị tha, tin tưởng, tôn trọng, hiểu biết và

sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau…). Trong quan hệ với các bạn các em cũng nhạy cảm hơn, đó là

khả năng xúc cảm và khả năng đáp ứng lại xúc cảm, đặc biệt là sự đồng cảm với người

khác.

Đối với học sinh THPT sự khác biệt giữa các cá nhân về quan niệm, sự thân tình

trong tình bạn rất rõ rệt. Nguyên nhân kết bạn cũng rất phong phú ( có thể vì phẩm chất tốt

ở bạn, vì tính tình tương phản, vì có hứng thú, sở thích chung…).

Ngoài ra, phạm vi quan hệ bạn bè được mở rộng, nhu cầu về tình bạn khác giới được

tăng cường. Đã xuất hiện sự lôi cuốn đầu tiên khá mạnh mẽ và nhu cầu về tình yêu nam

nữ.

Sự tác động giáo dục của nhà trường và gia đình về trạng thái tình cảm mới mẻ này

của học sinh THPT là hết sức quan trọng và cần thiết, giúp định hướng đúng đắn cho hành

vi nhân cách của các em.

Đây là thời kỳ tâm lý của các em xảy ra những biến đổi và cũng là thời kỳ then chốt

của sự phát triển tâm lý, chịu ảnh hưởng rất lớn của những điều kiện kinh tế - xã hội và

môi trường sống.

Học sinh THPT thuộc lứa tuổi giàu ý chí, khát vọng, tình cảm và cảm xúc; ham hiểu

biết, hăng hái tham gia các hoạt động của Đoàn thanh niên và xã hội như âm nhạc, thời

trang, hội họa, từ thiện…; có nhu cầu về tình bạn, tình yêu. Những đặc điểm này tác động

tích cực tới việc xây dựng và phát triển nhân cách của học sinh, giúp các em làm phong

phú thêm đời sống nội tâm và thu lượm được nhiều kinh nghiệm xã hội.

Đây cũng là lứa tuổi có những hạn chế nhất định. Đó là tâm lý không thích nghe,

không thích bàn luận đến các vấn đề chính trị, thời sự. Các em còn thiếu kinh nghiệm sống

nên đời sống tâm lý dễ bị chi phối, dễ mơ hồ về chính trị, dễ bị kẻ xấu lợi dụng. Vì vậy

giáo viên GDCD cần tạo cơ hội cho học sinh được chia sẻ, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá

nhân về vấn đề đang học, nêu những băn khoăn thắc mắc cho thầy, cho bạn. Bên cạnh đó,

giáo viên cần khuyến khích học sinh tự liên hệ, điều tra, phân tích, đánh giá các sự kiện

trong đời sống thực tiễn nhà trường, địa phương, đất nước.

Như vậy, thanh niên nói chung, học sinh THPT nói riêng – đó là một lớp người trẻ

tuổi trong dân cư, đang phát triển về nhân cách và có nhu cầu khẳng định mạnh mẽ về cá

tính, là nguồn dự trữ cơ bản của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần của mỗi

quốc gia, mỗi dân tộc.

Nghiên cứu, xem xét đặc điểm tâm sinh lý học sinh THPT là một trong những căn

cứ quan trọng để xác định nội dung, cách thức tổ chức giáo dục phù hợp trong quá trình

xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.

1.2.3. Vị trí và vai trò của môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ

thông

1.2.3.1. Vị trí, nhiệm vụ của môn Giáo dục công dân

Trước và những năm đầu đổi mới môn GDCD được đưa vào giảng dạy trong các

trường THPT ở nước ta với những hình thức và tên gọi khác nhau. Từ năm học 1990 – 1991

môn GDCD đã được xác định là môn khoa học xã hội.

Theo Luật giáo dục 2005: “ Giáo dục Trung học phổ thông nhằm giúp học sinh

củng cố và phát triển những kết quả giáo dục Trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ

thông, có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện lựa chọn

hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học

chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. Cũng như tất cả các môn học

khác trong nhà trường THPT, môn GDCD đã được đổi mới về nội dung, cấu trúc chương

trình…cho phù hợp với hoàn cảnh và yêu cầu mới.

Vấn đề trên vừa quan trọng, vừa hệ trọng vì thế bắt đầu từ năm 2006, Bộ GD&ĐT

đã ban hành chương trình và sách giáo khoa GDCD mới biên soạn theo chương trình cải

cách (năm 2006 xuất bản sách GDCD Lớp10, năm 2007 xuất bản sách GDCD Lớp 11,

năm 2008 xuất bản sách GDCD Lớp 12). Điều này nói lên vị trí quan trọng của môn

GDCD trong nhà trường.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: một dân tộc yếu là một dân tộc dốt. Một xã hội

văn minh, ổn định và phát triển là một xã hội có nhiều công dân tốt. Công dân tốt trước hết

phải là người có học, có nhân cách, có tính cộng đồng sâu sắc.

Dù ở giai đoạn nào, thời điểm nào trong sự phát triển của lịch sử xã hội cũng không

thể đào tạo những người lao động mới phát triển toàn diện khi chỉ chú ý tới việc giáo dục

trí dục, bỏ qua hoặc coi thường giáo dục các mặt khác. Chính vì vậy, nhà trường phổ thông

phải có chương trình, nội dung giáo dục, giáo dưỡng phù hợp với đất nước, con người Việt

Nam, phù hợp với thời đại.

Trong nhà trường tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

đều có tác dụng to lớn trong xây dựng và phát triển dần nhân cách, năng lực, phẩm chất

cho học sinh THPT. Tuy nhiên, GDCD là một môn khoa học xã hội có ưu thế hơn cả trong

việc giáo dục để hình thành, phát triển nhân cách cho học sinh THPT.

Môn GDCD là bộ môn dạy cho học sinh những tri thức khoa học có tính phổ thông,

cơ bản và thiết thực nhất. Nó không những trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về

thế giới quan, nhân sinh quan, hệ thống các giá trị đạo đức, pháp luật, thể chế chính trị và

những phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước… mà còn giúp các em định hình và phát triển

được về nhân cách, nâng cao trách nhiệm công dân của học sinh, xác định vị trí của bản

thân với tư cách là chủ thể của sự phát triển cá nhân, xã hội và tự nhiên.

Chính trên cơ sở của những tri thức đó, học sinh sẽ dễ hình thành những quan điểm

mới, những khuynh hướng tư tưởng mới, động cơ, hoài bão, niềm tin và hành vi tốt đẹp

của con người. Đồng thời thông qua tri thức của môn GDCD sẽ hình thành từng bước

phương pháp nhận thức, tư duy khoa học và phương pháp hành động đúng quy luật

khách quan. Từ đó tạo nền tảng vững chắc xây dựng và phát triển nhân cách tốt đẹp cho

các em trong cuộc sống.

Học sinh hôm nay sẽ là những công dân tương lai, là chủ nhân xây dựng và bảo vệ

đất nước, họ cần được giáo dục để có ý thức công dân, có nhân cách tốt để trở thành những

công dân gương mẫu có ích cho tổ quốc mình.

Việc nhận thức đúng đắn và đầy đủ vị trí và nhiệm vụ quan trọng của môn GDCD

trong GD&ĐT thế hệ trẻ sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược xây dựng, phát triển

toàn diện con người Việt Nam về đức, trí, thể, mỹ và lao động.

1.2.3.2. Vai trò của môn Giáo dục công dân trong xây dựng và phát triển nhân

cách học sinh

Giáo dục THPT là thời kỳ giáo dục trong đó học sinh được dẫn dắt để trở thành

những người lớn vừa có tri thức, vừa có đạo đức, có phẩm chất chính trị, tư tưởng, ý thức

trách nhiệm cộng đồng, gia đình, tập thể và bản thân mình. Chúng ta biết rằng học sinh

THPT là lứa tuổi từ khi vào trường đến khi tốt nghiệp vẫn còn đang trong quá trình hình

thành và phát triển nhân cách. Vì vậy xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT

hiện nay trở thành một trong những vấn đề vô cùng quan trọng của công tác giáo dục trong

nhà trường hiện nay. Môn GDCD là một trong những môn học giữ vai trò quan trọng

trong sự nghiệp đó.

Môn GDCD góp phần to lớn trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan

và phương pháp luận khoa học cho học sinh THPT

Hơn bất cứ môn khoa học nào khác trong nhà trường THPT, những tri thức đề cập

trong môn GDCD là những tri thức phổ thông, cơ bản, mang tính khái quát hoá cao, được

giảng dạy thông qua hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính phổ quát có

ý nghĩa to lớn trong việc hình thành thế giới quan và nhân sinh quan, phương pháp luận

khoa học, trên cơ sở đó giúp học sinh nhận thức tốt hơn những vấn đề thuộc các môn khoa

học khác.

Thế giới quan là hệ thống những quan điểm về thế giới, là sản phẩm của nhận thức

khoa học và hoạt động xã hội, là một trong những yếu tố cấu thành phẩm chất đạo đức.

Giáo dục thế giới quan cho học sinh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của môn

GDCD, thể hiện vai trò của bộ môn trong xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.

Với những quan điểm duy vật biện chứng chung nhất về thế giới và một số quan

điểm duy vật biện chứng về xã hội, con người trong phần triết học – GDCD lớp 10 và phần

kinh tế chính trị – GDCD lớp 11 giúp học sinh nắm được về bản chất vật chất của thế giới,

sự vận động và phát triển của thế giới vật chất tuân theo những quy luật khách quan, con

người có khả năng nhận thức và cải tạo được thế giới khách quan, về tồn tại xã hội và ý

thức xã hội, về con người – chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội…

Ngoài ra giúp cho học sinh THPT có những tiền đề lý luận cơ bản để hiểu và nhận

thức được tính tất yếu khách quan của quá trình đi lên CNXH trong thời đại ngày nay và

sự nghiệp cách mạng XHCN của Đảng và nhân dân ta.

Môn GDCD giáo dục cho học sinh phẩm chất chính trị, tư tưởng của người công

dân trong giai đoạn hiện nay

Là môn học giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nên

môn GDCD có ưu thế giúp các em có hiểu biết về xã hội XHCN, về nền dân chủ XHCN;

nhận thức đúng đắn về bản chất của nhà nước pháp quyền Việt Nam, về thể chế chính trị,

về phương hướng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, về vai trò và giá trị của pháp luật đối

với sự tồn tại và phát triển của cá nhân, nhà nước và xã hội; về quyền lợi và trách nhiệm

của học sinh trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc…

Trên cơ sở đó các em nâng cao được ý thức, biết lựa chọn và thực hiện các hành vi

ứng xử phù hợp với các giá trị xã hội; biết bảo vệ cái đúng, cái tốt, đấu tranh phê phán đối

với các hành vi, hiện tượng tiêu cực trong cuộc sống phù hợp với lứa tuổi. Bên cạnh đó

hình thành ở các em niềm tin đối với Đảng, với chế độ, với sự nghiệp đổi mới của đất

nước. Trở thành một chủ thể của sự phát triển nhân cách có hoài bão và mục đích sống cao

đẹp.

Môn GDCD giáo dục các giá trị đạo đức, góp phần trực tiếp xây dựng lối sống

đúng đắn và lành mạnh cho học sinh

Thông qua nội dung chương trình học sinh được trang bị những tri thức về đạo đức

một cách khái quát và có hệ thống, giúp các em hiểu và biết giữ gìn các giá trị đạo đức

như: nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và hạnh phúc của bản thân và xã hội. Từ

đó, biết đặt mục tiêu phấn đấu, coi trọng việc rèn luyện và tự hoàn thiện bản thân, giao tiếp

và ứng xử có văn hoá, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Hiểu đúng đắn về tình yêu, hôn nhân, gia đình; biết sống nhân nghĩa, hoà nhập, hợp

tác với mọi người xung quanh. Có hiểu biết về truyền thống yêu nước của dân tộc, luôn có ý

thức học tập, rèn luyện để góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất

nước…Qua đó các em tăng thêm tính tự giác trong hành vi đạo đức của mình, phát triển lý

tưởng sống cao đẹp, những phẩm chất và năng lực cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ

CNH, HĐH.

Học chữ, học làm người là nhiệm vụ cơ bản nhất của người học sinh. Học để có tri

thức, học để hoàn thiện nhân cách là cả một quá trình lâu dài và vô cùng gian khổ, không

những đòi hỏi các em phải có niềm tin, phương pháp mà còn phải có ý chí và nghị lực.

Môn GDCD có vai trò to lớn trong việc xây dựng và phát triển hai thành tố chủ yếu của

nhân cách con người đó là “đức” “tài”, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục ở THPT.

Môn GDCD góp phần nâng cao chất lượng học tập các bộ môn khoa học khác

trong nhà trường

Học sinh không thể nào đạt kết quả cao trong học tập khi mà mỗi cá nhân không

xác định cho mình động cơ, mục đích học tập, rèn luyện đúng đắn và khoa học. Trong quá

trình học tập, khi tiếp nhận và vận dụng được tri thức môn GDCD các em sẽ có phương

pháp khoa học khi tiếp thu kiến thức các môn học khác, đồng thời biết cách xử lý thông tin

một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, các em sẽ nhận thức đúng đắn hơn khi định hướng lao

động nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp. Điều này giúp các em thích ứng với những điều kiện

và hoàn cảnh cụ thể trong quá trình phát triển của xã hội.

Chương 2

THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH

HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH QUA GIẢNG DẠY

MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN HIỆN NAY

2.1. KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ GIÁO DỤC CẤP TRUNG HỌC

PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH

2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định

* Vị trí địa lí tự nhiên

Là tỉnh đồng bằng ven biển nằm ở cực Nam châu thổ sông Hồng, Nam Định có tổng diện tích tự nhiên 1650 km2, với dân số khoảng 1.916.400 người. Tỉnh Nam Định

phía Đông giáp với tỉnh Thái Bình, phía Tây giáp với tỉnh Ninh Bình, phía Nam và Đông

Nam giáp biển Đông, phía Bắc giáp với tỉnh Hà Nam.

Nam Định là tỉnh có nhiều đặc điểm khác hẳn với các tỉnh khác trong cả nước, đặc

biệt là về lịch sử hình thành và phát triển. Đời Đường Nam Định thuộc huyện Chu Duyên.

Đời Trần được gọi là lộ Thiên Trường, sau lại chia làm ba lộ: Kiến Xương, An Tiêm,

Hoàng Giang. Thời thuộc Minh, vùng đất này được chia làm ba phủ: Trấn Nam, Phụng

Hóa, Kiến Bình. Đời Lê, thuộc xứ Sơn Nam, đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 năm 1741,

vùng đất này thuộc lộ Sơn Nam Hạ. Đến triều Nguyễn, năm 1832 đổi tên thành tỉnh Nam

Định, với 4 phủ, 18 huyện bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay. Năm 1890, Thái

Bình tách ra thành tỉnh riêng lúc này Nam Định còn 2 phủ và 9 huyện. Từ năm 1926, Nam

Định có 2 phủ và 7 huyện, 78 tổng, 705 xã.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tỉnh Nam Định thuộc liên khu

ba. Tháng 5 – 1965, Nam Định hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Năm 1976

Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đến năm 1991 lại chia tách

và tái lập tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình. Tháng 11 – 1996 tỉnh Nam Hà lại được tách để

tái lập 2 tỉnh là Nam Định và Hà Nam. Theo Quyết định của Quốc Hội khóa IX, kỳ họp

thứ 10, ngày 1/1/1997 Nam Định được tái lập, có 10 đơn vị hành chính, bao gồm: thành

phố Nam Định, 9 huyện, 229 xã phường, thị trấn.

Nếu như sông Hồng và sông Đáy tạo nên địa giới tự nhiên giữa Nam Định với

Ninh Bình và Thái Bình, thì phạm vi trong tỉnh sông Đào phân chia Nam Định thành hai

vùng Nam - Bắc. Sông Ninh Cơ, sông Sò là giới hạn các huyện trong tỉnh.

Với bờ biển dài 72 km2, Nam Định là vùng kinh tế giàu tiềm năng có thể triển khai,

thực hiện nhiều đề án phát huy thế mạnh kinh tế biển.

Là tỉnh được phù sa bồi đắp, có nhiều đồi núi nhưng không cao, lại có dòng chảy

của khe ngòi liền kề đã tạo cho Nam Định sự màu mỡ phì nhiêu và cảnh non nước hữu

tình.

* Điều kiện kinh tế – xã hội tỉnh Nam Định

Nam Định là một trong những tỉnh có môi trường đầu tư đang ngày càng được cải

thiện, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển một cách bình đẳng, thu hút được

nhiều nguồn lực, nhất là nguồn lực của các doanh nghiệp và tư nhân.

Sản xuất công nghiệp tỉnh Nam Định phát triển tương đối sớm với nhiều ngành

nghề truyền thống, trong đó có công nghiệp Dệt – May là một trong những trung tâm dệt

may lớn của cả nước. Tỉnh đã duy trì được tốc tăng trưởng và nâng cao chất lượng, hiệu

quả sản xuất công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2008 ước đạt 7.384,8 tỷ đồng.

Nam Định nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực – thực phẩm của đồng

bằng Bắc Bộ nên sản xuất nông nghiệp luôn chú trọng theo hướng kinh doanh hàng hóa,

xây dựng nông thôn mới. Theo số liệu của Uỷ ban nhân tỉnh tính đến năm 2008: Giá trị sản

xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 4.189 tỷ đồng.

Trong những năm qua Nam Định đã tập trung khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản

xuất kinh doanh và dịch vụ. Chủ động chống lạm phát và phòng chống thiên tai, dịch bệnh,

giữ tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững.

Bên cạnh đó, tỉnh đã bảo đảm cung cầu hàng hóa không để tăng giá đột biến những

vật tư đầu vào của sản xuất và những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân. Tăng

cường kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, kinh doanh hàng giả, kém chất lượng, trốn

thuế, đảm bảo an toàn thực phẩm.

Nam Định hiện đang đẩy nhanh tiến độ một số chương trình, dự án đầu tư lớn,

trọng điểm. Đó là chương trình nâng cấp tuyến đê biển, cải tạo nâng cấp Quốc lộ 21, dự án

xây dựng thành phố Nam Định thành trung tâm kinh tế - văn hóa – xã hội, các chương

trình đầu tư bằng trái phiếu chính phủ cho nông nghiệp, thủy lợi, y tế và GD&ĐT.

Tăng cường đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học công

nghệ, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý

điều hành của chính quyền các cấp. Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã

hội.

Tuy nhiên, những tác động của thiên tai và tình hình lạm phát…đã ảnh hưởng đến

tốc độ tăng trưởng kinh tế, đầu tư, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội và đời sống nhân

dân. Đặc biệt là sức hấp dẫn và thu hút đầu tư vào tỉnh chưa cao. Chất lượng nguồn nhân

lực còn hạn chế so với yêu cầu phát triển giai đoạn hiện nay.

* Về văn hoá - xã hội

Dù trải qua biết bao những biến cố thăng trầm của lịch sử, Nam Định vẫn giữ gìn và

phát huy được truyền thống văn hoá lâu đời triều Trần, truyền thống hiếu học từ bao đời

của mảnh đất địa linh nhân kiệt.

Từ vùng quê mang đậm nét của nền văn minh lúa nước, đã sản sinh ra những danh

nhân văn hoá “tài cao, học rộng”, những trạng nguyên, bảng nhãn, tiến sỹ. Đó là các trạng

nguyên Nguyễn Hiền; Đào Sư Tích thời nhà Trần; Lương Thế Vinh, Vũ Tuấn Chiêu thời

Hậu Lê, Trần Văn Bảo thời nhà Mạc, tiến sĩ Trần Bích San thời Nguyễn đỗ đầu cả ba kì thi

Hương, thi Hội, thi Đình…Nam Định là quê hương của cố Tổng Bí thư Trường Chinh và

của nhiều nhà văn hoá lớn Việt Nam: nhà thơ Trần Tế Xương, nhà thơ Nguyễn Bính, nhạc

sĩ Văn Cao, nhà sử học Trần Huy Liệu…

Trải qua các giai đoạn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống ấy

được nhân lên, phát huy và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Sau cách mạng tháng Tám

thành công, nhân dân trong tỉnh đã hăng hái tham gia phong trào bình dân học vụ, hệ thống

giáo dục phổ thông được xây dựng và dần dần củng cố vững chắc.

Những năm qua sự nghiệp GD&ĐT tỉnh Nam Định đã đạt được nhiều thành tựu

đáng tự hào. Ngay từ năm 1991, Nam Định đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về xoá

mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Năm 1999 đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục đúng

độ tuổi. Năm 2001 đạt chuẩn quốc gia về phổ cập THCS. Năm 2007 đạt chuẩn quốc gia về

phổ cập giáo dục THPT.

Hiện nay ở Nam Định, trong số 10 người dân thì có khoảng 3 người đang theo học

ở tất cả các loại hình trường lớp từ mẫu giáo, phổ thông đến trung học chuyên nghiệp, cao

đẳng và đại học.

Như vậy, Nam Định là một vùng quê giàu truyền thống yêu nước, đấu tranh cách

mạng và lao động sáng tạo, một vùng kinh tế, văn hoá, văn hiến tiêu biểu và có vị thế đặc

biệt trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Hơn nữa, đã và đang là một trung tâm GD&ĐT

lớn của cả nước - một mô hình điển hình xuất sắc của sự nghiệp GD&ĐT trong thời kỳ

mới.

2.1.2. Đặc điểm giáo dục cấp trung học phổ thông tỉnh Nam Định

Phát huy truyền thống hiếu học, trải qua hơn 50 năm nỗ lực phấn đấu, quy mô giáo

dục tỉnh Nam Định ngày càng phát triển không ngừng. Ngân sách chi thường xuyên cho

giáo dục luôn ở mức cao: năm 2007: 600.700 triệu đồng; năm 2008: 741.148 triệu đồng).

Bằng nguồn vốn đầu tư của nhà nước, của các địa phương và sự đóng góp trực tiếp của

nhân dân nhiều trường học trong tỉnh đang được kiên cố hoá, góp phần nâng cao chất

lượng giáo dục toàn diện (năm học 2008 có 73 phòng học cấp THPT được xây mới và sửa

chữa, phòng học kiên cố hoá đạt 86,91%).

Giáo dục cấp THPT luôn được hoàn thiện và chuẩn hoá: trường chuẩn, giáo viên

chuẩn, quy trình giảng dạy được thực hiện đúng quy định của Bộ GD&ĐT. Đội ngũ giáo

viên và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Nam Định cơ bản là những người tâm huyết với nghề

nghiệp, tiếp thu kinh nghiệm của các thế hệ đi trước, luôn quyết tâm xây dựng kỷ cương nề

nếp và chất lượng dạy học. Đây là những yếu tố quyết định làm cho chất lượng giáo dục

THPT ngày càng nâng cao. Biểu hiện ở tỷ lệ thi đỗ tốt nghiệp, tỷ lệ học sinh thi đỗ đại học,

chất lượng thi học sinh giỏi luôn đạt ở mức cao.

Vấn đề đào tạo nhân tài đã được chú trọng, các trường đã tuyển chọn những học

sinh giỏi toàn diện vào học tập và bồi dưỡng nguồn học sinh giỏi của tỉnh. Tiêu biểu như

trường THPT chuyên Lê Hồng Phong là đơn vị dẫn đầu về thành tích học sinh giỏi quốc

gia và quốc tế, được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu đơn vị anh hùng thời kỳ đổi

mới.

Trong nhiều năm liền kết quả bồi dưỡng các môn văn hoá khối THPT của toàn tỉnh

giữ vị trí tốp đầu cả nước.[nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị

Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định].

Bảng 2.1:

Giải cá nhân cấp quốc gia Giải Giải Năm Số dự châu quốc Tỷ lệ học thi Á - Nhất Nhì Ba KK Cộng tế % TBD

1997- 88 7 25 36 12 80 90,8 1998

2007- 66 7 23 18 12 60 90,9 2008

Hệ thống các trường THPT phát triển nhanh: huyện Hải hậu có 7 trường, huyện Ý

Yên có 5 trường, thành phố Nam Định có 9 trường. Toàn tỉnh có 53 trường THPT với ba

loại hình trường: công lập, dân lập và tư thục. Trong đó có 41 trường công lập, 10 trường

dân lập, 02 trường tư thục. Quy mô học sinh được duy trì và phát triển: có khoảng 69.067

học sinh THPT, riêng lớp 10 có 485 lớp với 23.361 học sinh. Sỹ số học sinh các lớp được

duy trì tốt, tỷ lệ học sinh bỏ học thấp.

Các trường THPT đã triển khai, thực hiện nghiêm túc chương trình thay sách giáo

khoa mới theo yêu cầu và hướng dẫn của Bộ, của Sở. Đặc biệt là việc tăng cường đồ dùng,

thiết bị dạy học, góp phần tích cực trong đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy

học và kiểm tra, đánh giá học sinh.

Theo Báo cáo của Sở GD&ĐT Nam Đinh tính đến năm học 2008 – 2009 toàn tỉnh

có: 466 lớp 11, trong đó 50 lớp ban khoa học tự nhiên (2510 học sinh); 2 lớp học ban khoa

học xã hội và nhân văn (96 học sinh và 409 lớp học ban cơ bản (20.541 học sinh). Tỷ lệ

học sinh học tập phân hoá trong ban cơ bản như sau: 126 lớp với 6903 học sinh học nâng

cao các môn Toán, Lý, Hoá; 3 lớp với 170 học sinh học nâng cao các môn Toán, Hoá,

Sinh; 7 lớp với 380 học sinh học nâng cao các môn Văn, Sử, Địa; 11 lớp với 614 học sinh

học nâng cao các môn Toán, Văn, Ngoại ngữ.

Học sinh lớp 10 gồm 485 học sinh, trong đó: 51 lớp học ban khoa học tự nhiên, 2

lớp học ban khoa học xã hội và nhân văn, 432 lớp học ban cơ bản, trong đó có 133 lớp học

nâng cao các môn Toán, Lý, Hoá.

Các trường THPT trong tỉnh đã bắt nhịp được yêu cầu của cuộc vận động “Hai

không” – Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Phong

trào xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”.

Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, của Sở, các trường học đã tăng cường rà soát, phân

loại học sinh học lực yếu, kém; tìm nguyên nhân và các giải pháp đồng bộ để khắc phục.

Một số trường học có biện pháp cụ thể, chủ động, sáng tạo trong việc dạy sát đối tượng,

phân công giáo viên có kinh nghiệm và học sinh khá, giỏi, kèm cặp học sinh yếu, kém.

Nhằm từng bước nâng dần chất lượng, hạn chế, tiến tới xoá bỏ hiện tượng học sinh “ngồi

sai lớp”. Công tác dạy - học tiếp tục được các trường đầu tư mạnh, cả về đại trà và mũi

nhọn.

Kỳ thi tốt nghiệp THPT luôn được chuẩn bị chu đáo, nghiêm túc, nhất là khâu ôn

tập, rèn kỹ năng, giúp đỡ học sinh học lực còn yếu. Kết quả kỳ thi tốt nghiệp toàn tỉnh đạt

tỷ lệ 94,29%, trong đó: đỗ vào loại khá, giỏi đạt 16,17%. Tiếp tục khẳng định vị trí tốp dẫn

đầu của toàn quốc 15 năm liên tục.

(Năm học 2005 – 2006: xếp thứ I, năm học 2006 – 2007: xếp thứ II, năm học 2007

– 2008: xếp thứ I, năm học 2008 – 2009: xếp thứ I. Nguồn CNTT Bộ Giáo dục và Đào

tạo).

Nhìn chung, học sinh các trường THPT có tư tưởng, đạo đức tốt. Học sinh đạt yêu

cầu khá về lĩnh hội kiến thức và kỹ năng môn học. Xếp loại các mặt giáo dục THPT cuối

năm học 2008 -2009 về hạnh kiểm (cả ba khối): xếp loại tốt 67,81%, xếp loại khá 24,94%,

xếp loại trung bình 6,25%, xếp loại yếu 1,01%.[phụ lục, bảng…]

Có được những thành tựu to lớn này là do các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, đặc

biệt là Sở GD&ĐT Nam Định đã có nhiều giải pháp tích cực triển khai thực hiện tốt các chủ

trương, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về đổi mới sự nghiệp GD&ĐT. Mặt

khác, truyền thống hiếu học được khơi dậy và phát huy, tạo nên một phong trào toàn dân chăm

lo cho sự nghiệp GD&ĐT.

Tuy nhiên, giáo dục THPT ở Nam Định vẫn còn nhiều khó khăn, thử thách. Chất

lượng giáo dục toàn diện học sinh THPT chưa thực sự được nâng cao. Thực tế chứng minh

dưới tác động của nền kinh tế thị trường, của văn hoá hội nhập, cùng với sự phát triển của

kinh tế biển, của công thương nghiệp, của nông nghiệp, của du lịch thì nhiều thang giá trị

xã hội đang thay đổi, gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức và lối sống của thanh

niên học sinh. Lối sống lai căng, đua đòi, thực dụng, đề cao giá trị vật chất đã và đang xuất

hiện, nhiều giá trị đạo đức đang bị sa sút nghiêm trọng.

2.2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT

TRIỂN NHÂN CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH

QUA GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN

2.2.1. Những thành tựu và hạn chế

2.2.1.1. Môn giáo dục công dân với việc trang bị thế giới quan khoa học cho học

sinh trung học phổ thông ở Nam Định

Trong bất cứ thời đại lịch sử nào, sự phát triển trí tuệ của con người cũng luôn gắn

với một thế giới quan nhất định. Mỗi người có thể tự tin khẳng định được mình trong cuộc

sống khi trau dồi được một thế giới quan khoa học.

GS – VS Phạm Minh Hạc cho rằng: thế giới quan là một trong những phẩm chất

cấu thành đạo đức cá nhân. Việc khai thác tri thức trong quá trình dạy và học môn GDCD

trong các trường THPT ở Nam Định đã góp phần trang bị thế giới quan, phương pháp luận

khoa học, tư duy logic, tư duy biện chứng duy vật cho học sinh.

Theo kết quả khảo sát ở một số trường THPT trong tỉnh cho thấy, sau khi được học

kiến thức 9 bài ở phần I “Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận

khoa học”– GDCD lớp 10 thì 87,5% học sinh hiểu được nội dung cơ bản của thế giới quan

khoa học – thế giới quan duy vật của triết học Mác. Rất nhiều em đã có quan điểm, niềm

tin khoa học và cách nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.

Trên cơ sở đó các em bước đầu đã xác định được lý tưởng sống phù hợp. Có 96% học sinh

hiểu con người và xã hội loài người là sản phẩm của giới tự nhiên, là một bộ phận của thế giới

vật chất. Các em rất tin tưởng con người có khả năng nhận thức và cải tạo giới tự nhiên. Việc

các em nhận thức đúng đắn con người là sản phẩm hoàn hảo nhất, là kết quả phát triển lâu dài

của tự nhiên và xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng giúp các em nâng cao ý thức cải tạo

bản thân mình.

Qua môn học 85% học sinh hiểu sâu sắc hơn thế nào phát triển, nguồn gốc, cách

thức, khuynh hướng của quá trình vận động và phát triển, rút ra được bài học không nên có

thái độ thành kiến, bảo thủ, dám đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Từ đó, hình thành cho

mình thái độ cầu thị, biết mình nên kế thừa cái gì, phủ định cái gì trong học tập và cuộc

sống hàng ngày. Có 86.3 % học sinh nhận thức được ý nghĩa và sự cần thiết phải tôn trọng

quy luật khách quan, hiểu được vai trò của thực tiễn. Qua đó có ý thức tìm hiểu thực tế,

gắn học với hành, vận dụng những điều đã học vào trong cuộc sống.

Đa số học sinh đánh giá được vai trò của những nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và

phát triển của xã hội như: Môi trường tự nhiên, dân số, phương thức sản xuất. Đặc biệt

90,5% học sinh đã chứng minh được mọi giá trị vật chất và tinh thần đều do con người

sáng tạo ra. Bước đầu giải thích được tại sao con người là chủ thể đồng thời là mục tiêu

của sự phát triển xã hội. Hiểu được những giá trị nhân văn, nhân bản của tín ngưỡng tôn

giáo ở địa phương trong giáo dục đạo đức, nhân cách; góp phần thiết thực kìm hãm tốc độ

suy thoái của đạo đức xã hội trước những mặt trái của cơ chế thị trường.

Nếu hiểu thế giới quan là toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy

định hướng hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của một giai

cấp hay của xã hội nói chung đối với thực tại, thì kiến thức chương trình phần I rất quan

trọng và cần thiết trong định hướng nhân cách, giúp các em tránh những tác động tiêu cực

đang hàng ngày hàng giờ lung lạc, cuốn hút mình.

Tuy nhiên, vẫn còn bộ phận học sinh chưa thực sự kiên định trong quan điểm và

niềm tin. Một số em còn có quan điểm duy tâm về thế giới, về nguồn gốc của con người.

Cho rằng “con người do thượng đế, thần linh sáng tạo ra”, luôn tin rằng “sống chết có

mệnh, giàu sang do trời”, “học tài thi phận”. Có thái độ xuê xoa, “dĩ hoà vi quý” trong

nhận thức và hành vi. Không phân biệt được đâu là đúng, đâu là sai, đâu là tiến bộ, đâu là

lạc hậu, không tích cực tham gia các hoạt động.

Một số em chưa thực sự hiểu, chưa có khả năng đánh giá, nhận xét được những

thuận lợi và hạn chế về vấn đề tài nguyên, môi trường, dân số và trình độ phát triển kinh tế

– xã hội của địa phương cũng như của tỉnh mình. Do đó, bản thân chưa định hướng được

những thuận lợi và khó khăn trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai. Nhiều học sinh

sống thiếu hoài bão, thiếu niềm tin vào khả năng của chính mình, như thế đương nhiên các

em không thể nào phát triển nhân cách tốt được.

Những điều trên chứng tỏ môn GDCD chưa phát huy hết vai trò của mình trong

việc hình thành, củng cố và phát triển những phẩm chất thế giới quan duy vật biện chứng

và phương pháp luận khoa học cho học sinh THPT ở Nam Định.

2.2.1.2. Môn giáo dục công dân với việc hình thành các phẩm chất đạo đức cho

học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam Định

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng

chỉ rõ vai trò của đạo đức cách mạng. Theo Bác: “Cũng như sông có nguồn thì mới có

nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người

cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được

nhân dân”[, 252]

Trong những năm qua môn GDCD đã trang bị cho học sinh những phạm trù đạo

đức cơ bản cần thiết ( nghĩa vụ, lương tâm, phẩm chất, danh dự và hạnh phúc…) và trách

nhiệm đạo đức của người công dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Hiểu được thế nào

là tình yêu, tình yêu chân chính, những tiến bộ của chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay và

các chức năng cơ bản của gia đình. Hiểu thế nào là nhân nghĩa, sống hoà nhập, hợp tác; thế

nào là lòng yêu nước và các biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước. Từ đó giúp học sinh hiểu,

nắm vững và hình thành được những phẩm chất, tính cách quan trọng của bản thân.

Qua những phạm trù đạo đức cơ bản trong phần II: “Công dân với đạo đức”, học

sinh biết điều chỉnh hành vi của bản thân theo các yêu cầu đạo đức xã hội. Rất nhiều em đã

khẳng định rằng đây là căn cứ khoa học để các em lựa chọn cho mình nhân cách sống phù

hợp với chuẩn mực, giá trị xã hội hiện nay.

Có 90% học sinh các trường THPT cho biết việc học tập những phạm trù đạo đức

cơ bản trong môn GDCD giúp cho các em nhận thức được hạnh phúc chân chính của con

người là biết gắn lợi ích bản thân với lợi ích gia đình, lợi ích giai cấp, dân tộc, nhân loại.

Các em đã ý thức được rằng yêu nước đối với học sinh là phải kính trọng, biết ơn ông bà,

cha mẹ, yêu quý nhân dân, phải cố gắng học tập tu dưỡng để sau khi ra trường trực tiếp

góp phần xây dựng đất nước.

Đa số các em sau khi học thấy được sự cần thiết phải tự điều chỉnh hành vi của

mình cho phù hợp với các chuẩn mực của xã hội. Đồng thời học sinh còn biết đánh giá,

phê phán, đấu tranh chống lại những hành vi lệch chuẩn, những biểu hiện tiêu cực đi

ngược với các giá trị chân – thiện – mỹ trong đời sống hàng ngày ở trường và ngoài xã hội.

Trên cơ sở đó, học sinh có ý thức quyết tâm học tập, rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách,

lối sống, hành vi của mình để trở thành người công dân chân chính.

Tuy nhiên, qua khảo sát thực tiễn cho thấy hiệu quả giáo dục các phẩm chất đạo đức

cho học sinh THPT tỉnh Nam Định thông qua giảng dạy môn GDCD chưa tương xứng với

chức năng và vai trò của bộ môn. Nhiều chuẩn mực đạo đức chưa trở thành thói quen và

niềm tin của một bộ phận học sinh. Do đó, những em này còn có những biểu hiện chưa tốt

về đạo đức, nhân cách như: trốn học, ham mê điện tử, gây gổ đánh nhau, nói tục chửi bậy,

lười biếng, cẩu thả, kém ý chí phấn đấu, không có tinh thần hợp tác trong quá trình học

tập.

Khá nhiều em không hiểu được mối quan hệ giữa tình yêu, hôn nhân và gia đình.

Từ đó có thái độ ủng hộ lối sống, tình yêu theo kiểu phương Tây, thích lối sống tự do, ít

ràng buộc trong tình yêu, hôn nhân, đồng tình với kiểu sống thử trước hôn nhân đang diễn

ra hiện nay.

Rất nhiều em còn thờ ơ, không hiểu được sự nguy hiểm của các vấn đề: ô nhiễm

môi trường, bùng nổ dân số, các dịch bệnh hiểm nghèo. Các em cho rằng đó là việc của

người lớn nên có thái độ không quan tâm nhiều đến những chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước trong giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân loại hiện nay.

Chẳng hạn, về ý thức bảo vệ môi trường, qua điều tra cho thấy các em “học’’

nhưng không “hành”. Có thể biết và nói được giữ vệ sinh môi trường vừa có tầm quan

trọng, vừa là trách nhiệm chung của tất cả mọi người, nhưng chính bản thân hoặc nhìn thấy

người khác phá hoại cảnh quan, không giữ gìn vệ sinh, vứt rác trong lớp, trong trường

hoặc chính nơi mình ở lại thấy đó là chuyện bình thường. Khoảng 45% học sinh nhận thấy

bản thân chưa thực sự có ý thức đấu tranh với những hành vi phá hoại môi trường ở địa

phương mình.

Ngoài ra, một vấn đề đang tồn tại hiện nay nữa là rất nhiều học sinh đang mất dần

thái độ trân trọng và kế thừa những giá trị văn hoá của dân tộc, chưa ý thức sâu sắc được

trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đa số học

sinh hiện nay thích những bộ phim, bài hát, bản nhạc từ nước ngoài mà không cần quan

tâm nó có ý nghĩa gì. Đây là nhân tố làm nhân cách các em phát triển lệch lạc do hấp thụ

những luồng văn hoá không lành mạnh. Các em ít bàn luận đến vấn đề truyền thống dân

tộc, 13% học sinh không nhận thức được “tinh thần yêu nước là truyền thống quý báu, là

giá trị đạo đức quan trọng cần phải kế thừa và phát huy” trong công cuộc đổi mới đất

nước. Vì thế, chưa xác định đúng lý tưởng sống cho bản thân, tỏ thái độ bàng quang,

không quan tâm đến các hoạt động chính trị – xã hội.

2.1.2.3. Môn GDCD với việc trang bị những tri thức khoa học về kinh tế và chính

trị - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá

Đây là vấn đề khó nhưng giáo viên môn học đã bước đầu giúp các em hiểu rõ

những phạm trù, khái niệm của kinh tế, những quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá

như: quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh trạnh; hiểu được những vấn đề

kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH.

Khoảng 65% học sinh hình thành được lối tư duy mới về sự chuyển đổi kinh tế - xã

hội của đất nước và của tỉnh mình dưới đường lối lãnh đạo của ĐCSVN. Hiểu được tính tất

yếu khách quan đi lên CNXH ở Việt Nam, phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa

CNXH với các chế độ xã hội trước đó ở nước ta, hiểu được bản chất của nền sản xuất tư

bản chủ nghĩa..

Các em ý thức được trách nhiệm của bản thân trong lao động sản xuất tạo ra của cải

cho xã hội. Nhiều em đã nắm được tình hình việc làm và phương hướng cơ bản thực hiện

chính sách việc làm ở nước ta hiện nay. Từ đó có định hướng nghề nghiệp phù hợp với với

bản thân và yêu cầu phát triển của xã hội. Có 83% học sinh xác định được động cơ học tập

là học cho mình chứ không phải học cho bố mẹ và người khác, học để có kiến thức sau này

có việc làm tốt, thành đạt trong nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, các em đã hình thành được ý thức về một xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh. Trên 85% học sinh thể hiện thái độ biết phê phán, đấu tranh loại bỏ những tư

tưởng phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng XHCN của dân tộc ta.

Tuy nhiên, vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh thông qua giảng

dạy phần kinh tế còn bộc lộ nhiều hạn chế. Biểu hiện là khả năng phấn tích, đánh giá của

các em về những vấn đề kinh tế còn mang tính chủ quan, cảm tính. Có thể nói 70% học

sinh không hình thành được thế giới quan khoa học về kinh tế, chưa thực sự tin tưởng vào

đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong sự nghiệp

xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Một bộ phận không nhỏ học sinh đưa ra câu hỏi: tại sao Việt Nam không lựa chọn

con đường TBCN ? Có 8,9% học sinh cho rằng phải đi theo con đường giống các nước tư

bản chứ không nhất thiết phải đi theo con đường XHCN thì nước ta mới phát triển mạnh

về kinh tế được. Rất nhiều em nhận thức lệch lạc, tỏ ra bi quan khi đánh giá về các vấn đề

kinh tế và chính trị – xã hội. Từ đó giảm sút ý chí phấn đấu học tập, tu dưỡng, thiếu ý chí

lập thân, lập nghiệp. Lối sống biểu hiện xu hướng thiếu niềm tin, lý tưởng, băn khoăn, hoài

nghi về thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, về đường lối lãnh đạo của

Đảng trong sự nghiệp xây dựng CNXH.

Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc kiến tạo phẩm chất con người mới phù hợp

với môi trường kinh tế thị trường định hướng XHCN trong sự nghiệp đổi mới của đất

nước.

2.2.2.4. Môn GDCD với việc trang bị những kiến thức pháp luật cơ bản

Qua điều tra có 86% học sinh cho biết các em được trang bị những kiến thức cơ

bản, quan trọng về pháp luật là nhờ thông qua việc học tập môn GDCD trong nhà trường.

Đa số các em thấy được tầm quan trọng của luật pháp và đồng ý với yêu cầu: “Mọi công

dân phải sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”.

Trên cơ sở những tri thức được trang bị, học sinh biết được quyền và nghĩa vụ của

mình, biết điều chỉnh hành vi cho phù hợp với các giá trị và chuẩn mực của xã hội. Đồng

thời biết tuân thủ các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của học sinh trong nhà

trường, trong các hoạt động xã hội. Biết tìm cách “tự kiểm soát mình để không bị lôi kéo

vào các tệ nạn xã hội”.

Bên cạnh đó, các em hình thành được năng lực phân tích, đánh giá các sự kiện, tình

huống pháp luật trong đời sống thường ngày của bản thân, gia đình và xã hội. Các em tự

giác, chủ động tích cực tham gia các phong trào như: tự quản, tự phòng, tự bảo vệ; an toàn

trường học, xây dựng nhà trường trong sạch, không có tệ nạn xã hội.

Nhiều em tích cực xây dựng ý thức sống tôn trọng pháp luật, ủng hộ những hành vi

thực hiện đúng pháp luật và phê phán những hành vi làm trái quy định của pháp luật, góp

phần quan trọng vào giữ gìn xã hội ổn định, phát triển bền vững.

Tuy nhiên, một số trường học vẫn còn hiện tượng học sinh không xác định được

mục đích học tập nên thường xuyên bỏ học vì bị cuốn hút vào các trò chơi điện tử. Do tiêu

tốn nhiều tiền vào các trò chơi giải trí, tiêu khiển thiếu lành mạnh dẫn đến nhiều em đã có

những hành vi, ứng xử tiêu cực như nói dối, gian lận với người thân, trộm cắp, gây gổ

đánh nhau, trấn tiền của bạn. Dẫn đến kết quả học tập và tu dưỡng đạo đức giảm sút, ảnh

hưởng đến chất lượng xếp loại học lực và hạnh kiểm chung [bảng số liệu]

Thậm chí có nhiều em do nhu cầu muốn được khẳng định, nhận thức nông cạn

muốn làm “đàn anh”, “đàn chị”, muốn nổi trội trong bạn bè, không phân biệt được những

hành vi đúng, sai nên vi phạm pháp luật. Theo báo cáo của Toà án nhân dân tỉnh Nam

Định, trong 2 năm 2007 – 2008 ngành toà án tỉnh đã xét xử 140 bị cáo ở độ tuổi từ 16 đến

dưới 18 tuổi với các tội như: giết người, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, hiếp dâm, cưỡng

dâm, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý và các

loại tội khác.

Những tồn tại này phải chăng việc giáo dục kiến thức pháp luật cho thanh niên học

sinh qua môn GDCD chưa thật chu đáo. Pháp luật vẫn là vấn đề chưa thật sự gần gũi trong

hành trang của các em.

2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu

Thứ nhất, số lượng và chất lượng giáo viên GDCD được nâng cao

Mười năm trở lại đây đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên môn GDCD về cơ bản

đáp ứng yêu cầu dạy học, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn cao, tỷ lệ giáo viên chưa

đạt chuẩn thấp.[nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị Ban chấp

hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định].

]

Đội

ngũ Năm học 1997-1998 Năm học 2007-2008 CB-

GV

Trên Đạt Dưới Trên Đạt Dưới

Tổng chuẩn chuẩn chuẩn Tổng chuẩn chuẩn chuẩn

% % % % % %

THPT 1317 2 94 4 2515 6 93 1

Bảng thống kê trên cho thấy chất lượng đội ngũ giáo viên dạy GDCD trong 53

trường THPT của tỉnh phát triển khá tốt. Đa số giáo viên được đào tạo theo đúng chuyên

ngành, hầu hết tốt nghiệp các trường: Đại học sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm II Vĩnh

phúc, Đại học Sư Phạm Thái nguyên.[phụ lục, bảng]…Hiện nay số lượng giáo viên dạy

môn GDCD ở các trường THPT của tỉnh đã được bố trí tương đối đủ so với định mức lao

động, đáp ứng yêu cầu giảng dạy.

Ngoài ra, nguyên nhân quan trọng trực tiếp tác động đến chất lượng gaỉng dạy môn

GDCD trong giáo dục nhân cách học sinh THPT đó là sự cố gắng không ngừng của đội

ngũ giáo viên giảng dạy bộ môn.

Trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy của giáo viên môn GDCD khá tốt, đáp

ứng yêu cầu giảng dạy bộ môn. Có khoảng 60% giáo viên đạt danh hiệu giáo viên giỏi cấp

cơ sở hàng năm; từ năm học 1997 -1998 đến nay có 30 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên

giỏi cấp tỉnh, 80% giáo viên GDCD là Đảng viên.

Trong công tác giảng dạy đa số giáo viên đều thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, đúng

quy chế của Bộ trong soạn giảng, thực hiện phân phối chương trình. Đồng thời không

ngừng cải tiến phương pháp giảng dạy, thể hiện được uy tín và vai trò của môn học, góp

phần to lớn giáo dục toàn diện học sinh.

Đa số giáo viên đã giữ vững được phẩm chất chính trị, tư tưởng, có tư cách đạo đức

tốt; vượt qua mọi khó khăn, có lòng yêu nghề, tận tâm với nghề. Nhiều giáo viên, nhất là

các giáo viên trẻ đã thể hiện thái độ cầu thị, ý thức học hỏi tự bồi dưỡng nâng cao trình độ

kiến thức chuyên môn, phát huy được vai trò của bộ môn trong xây dựng và phát triển

nhân cách cho học sinh.

Đánh giá về chất lượng đội ngũ giáo viên, trong đó có giáo viên GDCD Sở GD &

ĐT Nam Định chỉ rõ: Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong tỉnh, nhìn chung

tâm huyết với nghề, nghiêm túc, có trách nhiệm trước học sinh, có ý chí tiến thủ, có bản

lĩnh và năng lực vững vàng, tay nghề giỏi, có ý thức kế thừa và phát huy truyền thống tốt

đẹp của ngành, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới giáo dục hiện nay.

Thứ hai, sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh, các cấp

uỷ đảng và chính quyền địa phương trong tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan ban

ngành, đoàn thể xã hội, sự tin tưởng và ủng hộ của các tầng lớp nhân dân đối với sự

nghiệp GD & ĐT

Nam Định là một trong những chiếc nôi khoa cử của quê hương giàu truyền thống

cách mạng và hiếu học. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết TW2 Khoá VIII về Giáo dục

đào tạo tỉnh Nam Định (từ năm 1997), Nam Định đã vượt qua nhiều khó khăn, xây dựng

và phát triển đồng bộ quy mô trường lớp khối THPT, số lượng học sinh gia tăng ở mức

tương đối cao, số trường đạt chuẩn Quốc gia trong tỉnh cũng tăng đáng kể. Sự chuyển biến

tích cực đó đã đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài

cho quê hương đất nước.

Danh mục khối THPT Năm học 1997 - 1998 Năm học 2008- 2009

Số trường 29 trong đó 53 trong đó THPTDL:10

THPTDL:3 trưòng trường

Tư thục: 0 THPTTT: 2 trường

Số lớp, học sinh 572 lớp - 30.381 học sinh 1.214 lớp – 69.067

học sinh

Số trường đạt chuẩn quốc 0 5 trường

gia

Dù kinh tế của tỉnh nhà chưa thực sự phát triển mạnh mẽ so với các tỉnh trong cả

nước nhưng mức đầu tư cho sự nghiệp GD&ĐT từ năm 1998-2008 tương đối cao. Biểu

hiện:

Đơn vị: Triệu đồng

Ngân sách Ngoài ngân sách

Năm Chi thường Xây dựng Mua sắm Học phí Xây dựng xuyên cơ bản

1998 137.506 5.950 9.026 11.622 14.512

1999 141.451 8.500 4.793 16.581 16.710

2000 181.429 18.780 5.329 19.732 17.059

2001 217.917 23.920 11.649 21.086 20.355

2002 261.279 25.282 10.950 21.082 20.307

2003 313.284 17.900 9.583 21.059 21.252

2004 381.191 13.600 17.032 25.042 21.072

2005 447.458 17.682 14.504 25.550 21.176

2006 571.736 21.010 14.770 26.120 22.715

2007 733.430 22.382 17.607 26.720 23.700

2008 741.148 20.082 15.074 26.750 25.300

[Nguồn: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành

Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo dục đào tạo tỉnh Nam Định].

Đội ngũ giáo viên được chăm lo bồi dưỡng đã tăng về số lượng và chất lượng.

Phong trào tự làm đồ dùng dạy học và sáng kiến kinh nghiệm đã đạt được những kết quả

tốt. Các cuộc hội thảo, trao đổi với Sở tư pháp, Ban tuyên giáo tỉnh đã góp phần cung cấp

thêm thông tin bổ ích cho giáo viên GDCD, qua đó đã nâng cao chất lượng giáo dục của

bộ môn.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học được tăng cường theo hướng kiên cố hoá,

hiện đại hoá, đạt chuẩn quốc gia. Năm 2008 ngân sách dành chi cho mua sắm, thiết bị là

11.168 triệu đồng. Được sự giúp đỡ của Sở GD&ĐT, công ty cổ phần sách - thiết bị giáo

dục Nam Định đã phát hành sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo đến từmg

trường học trong tỉnh, phục vụ kịp thời công tác thay sách giáo khoa.

Phong trào xây dựng trường chuẩn phát triển mạnh mẽ; công tác xã hội hoá giáo

dục có nhiều chuyển biến, tiến bộ, các chỉ tiêu giáo dục của tỉnh đã đạt kết quả tốt đẹp,

khơi dậy tinh thần ham học trong toàn xã hội; ngày càng xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến

trong phong trào thi đua “Dạy tốt”, “Học tốt”; nhiều tập thể trường, trung tâm, nhiều thầy

giáo, cô giáo đã vinh dự được nhận những phần thưởng cao quý.

Trong báo cáo của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định tại Đại hội đại biểu

Đảng bộ Tỉnh Lần thứ XVI đã chỉ rõ : Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục – đào tạo, giữ

vững và phát huy những kết quả đã đạt được, tạo chuyển biến toàn diện trong dạy và học.

Thứ ba, nội dung chương trình môn GDCD có nhiều điểm mới so với trước đây

Từ năm học 2006 -2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho xuất bản và đưa vào sử

dụng chính thức bộ sách giáo khoa GDCD cho cả ba khối lớp 10, 11, 12. Sách giáo khoa

đã đảm bảo được tính khoa học, tính sư phạm, thực hiện được việc đổi mới dạy và học trên

cơ sở phát huy tính tích cực học tập của học sinh theo tinh thần đổi mới về Giáo dục - Đào

tạo. Kết cấu từng phần, từng bài tương đối hợp lý, diễn đạt rõ ràng, văn phong sáng sủa,

nội dung chương trình bước đầu góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD

trong trường THPT

* Lớp 10

Số giờ lên lớp có sự thay đổi: trước đây mỗi lớp có 1,5 tiết/tuần, hiện nay là 1

tiết/tuần.

So với sách GDCD lớp 10 trước đây, sách GDCD lớp 10 hiện nay có thêm 1 bài

mới trong phần triết học – Bài 1 (Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng).

Chương trình mới tập trung vào vấn đề: Công dân với việc hình thành thế giới quan

và phương pháp luận khoa học. Một số nội dung của chương trình cũ được lựa chọn, tinh

giản, không đưa vào chương trình mới đó là:

Bài 2: Định nghĩa vật chất của Lênin; tính thống nhất vật chất của thế giới; nguồn

gốc và bản chất của ý thức; phạm trù không gian và thời gian.

Bài 3: Phạm trù đứng im, mối quan hệ giữa vận động và đứng im.

Bài 4: Phân loại một số mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn địch

ta và mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.

Bài 5: Khái niệm bước nhảy (nhảy vọt) và hình thức của các bước nhảy.

Bài 7: Phạm trù chân lí và hai giai đoạn của quá trình nhận thức; những quy luật cơ

bản của tư duy logic.

Bài 8: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, các hình thái ý thức xã

hội, đặc biệt là hình thái ý thức chính trị, pháp luật và tôn giáo.

Bài 9: Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân kiệt xuất trong lịch sử, luận

điểm “dân là gốc”.

Trong chương trình cũ, toàn bộ thời lượng của lớp 10 được dành cho việc dạy triết

học, nay chương trình mới có thêm phần đạo đức (được chuyển từ học kì II lớp 11 cũ

xuống).

Ở phần đạo đức theo chương trình mới cấu trúc và nội dung có sự điều chỉnh: học

sinh được tìm hiểu các quan niệm về đạo đức trước khi đi vào các phạm trù đạo đức. Phần

đạo đức theo chương trình mới đề cập đến các giá trị đạo đức của người công dân trong

giai đoạn hiện nay. Các giá trị đạo đức này được cấu trúc theo các mối quan hệ của học

sinh đối với bản thân, tình yêu, hôn nhân, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc và nhân loại.

So với chương trình cũ thì nội dung phần đạo đức theo chương trình mới có ý

nghĩa thực tiễn, cụ thể, thiết thực và gần gũi với cuộc sống của học sinh hơn.

* Lớp 11

Trong chương trình trước đây, những kiến thức về kinh tế chỉ được đề cập một cách

sơ lược, xen kẽ, thiếu hệ thống, thiên về đường lối chính sách. Những kiến thức ở phần I

của chương trình mới mang tính phổ thông về kinh tế, nêu lên đường lối, chủ trương phát

triển kinh tế của đất nước và trách nhiệm của công dân trong việc phát triển kinh tế cá

nhân, gia đình và xã hội. Nội dung kiến thức phù hợp với việc giáo dục công dân cấp

THPT, quán triệt được mục tiêu giáo dục THPT; giải quyết được hài hoà giữa các mục tiêu

giáo dục về kiến thức, kĩ năng, thái độ đối với học sinh.

Trong chương trình cũ bao quát một nội dung rất rộng và nặng nề: từ vấn đề “Tiến

bộ xã hội”, “Xã hội tư bản”, “Xã hội xã hội chủ nghĩa” đến “Những vấn đề chung của

nhân loại ngày nay”.

Phần II - Chương trình mới chỉ giữ lại một số nội dung và cấu trúc lại theo hai

mảng là:

- Một số vấn đề về chủ nghĩa xã hội. Trong đó chọn ba vấn đề: Chủ nghĩa xã hội,

Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đây là những vấn đề rất cơ

bản, thiết yếu nhưng cũng khó và cực kỳ nhạy cảm.

- Một số chính sách của Nhà nước ta: Trong chương trình cũ, một số chính sách của

nhà nước được giảng dạy ở lớp 12, nay chuyển xuống giảng dạy ở lớp 11. Chương trình

mới bổ xung hai chính sách (Chính sách dân số và giải quyết việc làm; chính sách tài

nguyên và bảo vệ môi trường). Trong đó trách nhiệm của công dân đối với các chính sách

được coi trọng ở tất cả các bài.

* Lớp 12

Nội dung tài liệu Giáo dục công dân lớp 12 cũ được cấu trúc thành hai phần:

Phần I: Một số vấn đề cơ bản xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Phần

này bao quát các vấn đề cơ bản nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước theo Văn

kiện của Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt Nam.

Phần thứ II: Một số vấn đề pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Phần này giới thiệu một cách khái quát hệ thống các ngành luật Việt Nam và hệ thống các

văn bản pháp luật do các cơ quan có thẩm quyền ban hành.

Trong chương trình cũ, những kiến thức về pháp luật được trình bày theo hệ thống

các ngành luật, hệ thống các văn bản pháp luật. Trong sách Giáo dục công dân 12 mới:

không tập trung vào nội dung các ngành luật, các lĩnh vực pháp luật cụ thể, mà tập trung đi

vào phân tích bản chất của pháp luật, vai trò của pháp luật đối với sự tồn tại và phát triển

của mỗi cá nhân, nhà nước và xã hội.

Như vậy trong chương trình mới đã giảm tải được nhiều nội dung, tập trung và làm

đậm nét yêu cầu giáo dục pháp luật ở lớp 12. Đặc biệt nội dung kiến thức đã bắt nhịp được

với những đổi mới trong đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta, với hệ thống

các ngành luật cũng như các văn bản pháp luật.

Thứ tư, sự quan tâm của các trường THPT trong tỉnh đến môn GDCD có sự chuyển

biến tích cực

Đó là công tác giáo dục đạo đức luôn được chú trọng, nhiều trường đã thực hiện

chương trình nội khoá có kết quả môn GDCD ở các khối lớp, đặc biệt coi trọng việc rèn nề

nếp kỷ cương, nếp sống văn minh giao tiếp, kỷ luật trật tự, giữ gìn an toàn trường học.

Tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh, thực hiện đề án “công tác an toàn

trường học và phòng chống ma tuý học đường” nên tình hình trật tự trường học được giữ

vững. Ngoài ra các trường đã tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, truyền

thống cách mạng, lòng nhân ái cho học sinh thông qua các hoạt động như: chữ thập đỏ,

xây dựng quỹ vì bạn nghèo, giúp đỡ đồng bào bị lũ lụt, phong trào “áo lụa tặng bà”, “bầu

ơi thương lấy bí cùng”…

Các tổ chức Đoàn, Đội ở các trường đã tổ chức nhiều cuộc thi, nhiều buổi giao lưu

và những hoạt động tập thể, tạo ra sân chơi bổ ích để rèn luyện cho học sinh những hành

vi, thái độ, tình cảm chuẩn mực. Qua đó, giúp các em có trái tim nhân hậu, tấm lòng bao

dung rộng mở, tình bạn, tình thầy trò đúng mực, trong sáng.

Những việc làm đó đã tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhân cách, đạo đức học

sinh. Tình trạng học sinh vô lễ, nói tục, chửi bậy, đánh nhau, gây mất trật tự đã giảm đi rõ

dệt. Chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, kết quả học tập và rèn luyện của các em

hàng năm tăng cao.

2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất, nhận thức của xã hội, cán bộ quản lý giáo dục, một bộ phận gia đình, học

sinh đối với vị trí và vai trò của môn GDCD trong nhà trường THPT chưa thật đúng đắn

và sâu sắc

Là một tỉnh có bề dày về thành tích giáo dục các môn văn hoá nhưng vấn đề giáo

dục nhân cách, đạo đức học sinh vẫn còn bất cập so với sự phát triển chung của xã hội.

Việc học tập của học sinh THPT vẫn còn bị chi phối nặng nề về tâm lý khoa cử, thiên về

học văn hoá.

Trước những thách thức của quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá, trước những tác

động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhiều giá trị đạo đức của thế hệ trẻ nói chung, của

thanh niên học sinh Nam Định nói riêng đang biến đổi gay gắt. Vị trí và vai trò của môn

GDCD vẫn chưa được đánh giá cao trong sự phát triển nhân cách cho học sinh. Không ít

trường còn xem nhẹ môn học này bởi quan niệm nó là môn học không quan trọng so với

các môn học khác. Biểu hiện:

Họ không hiểu môn học này trực tiếp trang bị cho các em những hiểu biết về thế

giới quan, nhân sinh quan, phương pháp tư duy khoa học và thực tiễn; hiểu biết về lý luận

– chính trị, xã hội cần thiết mà người công dân phải có: (hiểu biết về xã hội và nhà nước,

về luật pháp và chính sách, về quyền và nghĩa vụ công dân, về đạo đức và trách nhiệm

cuộc sống) để ứng xử với xã hội, nhà nước và cộng đồng xung quanh một cách đúng đắn,

khoa học, tự giác và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực xã hội.

Không ít người không biết rằng đây chính là cơ sở quan trọng giúp các em nhận

thức rõ vai trò của mình trong ý thức tự giáo dục, tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân theo

chuẩn mực, theo các giá trị được lựa chọn. Thông qua đó nhân cách các em sẽ được xây

dựng và phát triển một cách bền vững.

Từ hiện trạng đó mà Ban giám hiệu một số trường đã lồng ghép, bố trí giáo viên

môn khác trái chuyên môn để giảng dạy kiêm nhiệm. Họ quan niệm đơn giản rằng giáo

viên nào cũng có thể giảng dạy được môn GDCD. Việc bố trí giáo viên không qua đào tạo

gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng dạy học bộ môn: làm cho nội dung môn học

không được đảm bảo, phương pháp giảng dạy khô cứng, giờ học nhàm chán, buồn ngủ,

tâm lí coi thường môn học ngày càng tăng lên .

Hầu như các trường tìm cách hợp lý hoá việc dạy dồn tiết môn GDCD sau thời

điểm Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố môn thi tốt nghiệp, để đảm bảo thành tích cho kỳ thi

tốt nghiệp. Điều này nói lên công tác quản lý trong nhà trường, quản lý chuyên môn của

một số cán bộ quản lý cấp cơ sở có lúc còn buông lỏng chưa phát huy hết vai trò và trách

nhiệm của mình

Công tác kiểm tra, đôn đốc của nhà trường đối với môn GDCD mới chỉ chú ý đến

thời gian, tiến độ. Vì vậy giáo viên GDCD thường phải khẩn trương, vội vã trong việc

kiểm tra, chấm bài, vào điểm của mấy trăm học sinh mình dạy vào cuối kỳ, cuối năm.

Nhận thức chưa đúng của bản thân và gia đình học sinh về môn GDCD trong nhà

trường. Tâm lý chung của mỗi bậc phụ huynh cũng như của nhiều học sinh THPT ở Nam

Định cho rằng đây là môn học phụ, không liên quan tới thi tốt nghiệp và thi đại học nên

hạn chế đầu tư thời gian, công sức cho việc học tập môn này, không quan tâm tới chất

lượng việc học tập môn GDCD.

Có 52% học sinh không thích học môn này nên chủ yếu học theo hình thức đối phó

vì cho rằng để tập trung thời gian học các môn chính. 80% học sinh thừa nhận không sợ

làm bài kiểm tra môn này vì có thể quay cóp, xem bài bạn. Cho rằng môn khác học sinh có

thể bị thi lại nhưng môn GDCD học sinh phải thi lại là chuyện “ngạc nhiên”, nếu con em

mình bị điểm kém môn này là do giáo viên bộ môn khắt khe, khó tính. Thậm chí nhiều

giáo viên chủ nhiệm cũng đồng tình với phụ huynh lớp mình về việc này.

Cách nhìn nhận của cha mẹ tưởng chừng rất nhỏ nhưng vô hình chung lại gây hậu

quả rất lớn đến thái độ học tập của chính các em đối với môn học.

Việc nhận thức sai lầm của gia đình và học sinh về môn GDCD đã gián tiếp đẩy con

em họ mắc vào sai lầm về hành vi và ứng xử, trực tiếp gây nên sự lệch lạc về phẩm chất và

lối sống. Giá trị lâu dài nhất của môn GDCD liên quan đến cả cuộc đời các em sau này là

hình thành nhân cách, phẩm chất người công dân chân chính, tài đức vẹn toàn để trở thành

những người có ích cho gia đình và xã hội. Chỉ khi con em họ sa ngã vào con đường tội lỗi

họ mới nhận ra những quan niệm sai trong việc xem nhẹ tầm quan trọng của môn GDCD.

Thứ hai, chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên môn Giáo dục công dân ở

Nam Định chưa hiệu quả

Về khách quan thì việc phân bổ thời lượng không hợp lý cũng là một yếu tố ảnh

hưởng tới chất lượng dạy học của giáo viên môn GDCD. Do thời lượng cho môn này theo

quy định mới của Bộ là 1 tiết/tuần là rất ít ỏi, trong khi đó nội dung kiến thức nhiều bài

quá dài và cần tích hợp nhiều nội dung về giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản vị thành

niên, giáo dục phòng chống ma tuý học đường, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục môi

trường…Vì vậy giáo viên khó có thể sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại trong

giảng dạy để nâng cao chất lượng môn học này.

Về chủ quan thì năng lực sư phạm, năng lực chuyên môn, năng lực nắm bắt, xử lý

thông tin của giáo viên GDCD còn nhiều hạn chế. Nhất là các giáo viên trẻ tuổi, vốn sống

chưa nhiều, kinh nghiệm còn ít nên việc giảng dạy còn sơ sài, chưa có chiều sâu nhất là ở

khâu liên hệ thực tiễn. Rất ít giáo viên dạy môn GDCD giành thời gian, sự nhiệt tình và

tâm huyết để quan tâm tìm hiểu những đặc điểm của cá nhân học sinh về quan điểm, tính

cách, sở thích, năng lực…

Còn một bộ phận giáo viên cho rằng không cần thiết phải đầu tư thời gian để nghiên

cứu, tham khảo tài liệu, cập nhật những tin tức mang tính thời sự để bổ trợ kiến thức cho

việc soạn, giảng bài. Bên cạnh đó, chưa thực hiện thường xuyên việc đổi mới phương pháp

trong giảng dạy và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.

Việc sử dụng các phương tiện trong dạy học GDCD cũng là điểm yếu của nhiều

giáo viên hiện nay ở Nam Định. Một bộ phận giáo viên còn ít quan tâm và rất ngại sử dụng

đồ dùng để hỗ trợ quá trình giảng dạy của mình. Như vậy, chính giáo viên đã làm mất đi

tính hấp dẫn và hiệu quả giáo dục của môn học. Vì thế đã không kích thích niền say mê

tìm hiểu, cảm thụ và suy nghĩ về những kiến thức về đạo đức học, triết học, luật học, chính

trị học…của học sinh.

Trong đội ngũ giáo viên GDCD cấp THPT hiện nay ở Nam Định vẫn còn tình trạng

không ít giáo viên mặc dù được đào tạo đúng chuyên ngành nhưng không thực sự thích

dạy môn học này. Do đó không tâm huyết trong soạn giảng, coi giờ lên lớp chỉ là giờ thời

sự mang tính chất tuyên truyền, thuyết minh đường lối của Đảng và Nhà nước mà không

chú ý tới tri thức khoa học của bộ môn.

Trong khi giảng dạy, một số giáo viên không chú ý tới việc gắn lý luận với thực

tiễn, thực tiễn với lý luận; không chú ý đến hình thành kỹ năng, kỹ xảo, hình thành thái độ,

niềm tin từ kiến thức bài học; xem nhẹ việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, nhân cách cho

học sinh khi học môn GDCD.

Bên cạnh đó, một bộ phận giáo viên GDCD còn tâm lý thiếu tự tin, mặc cảm khi

dạy bộ môn này. Họ không cố gắng dùng chính chuyên môn và nghiệp vụ cao, không cố

gắng bằng niềm tin, lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp của bản thân để cảm hoá và

thuyết phục, để đấu tranh với những quan niệm sai trong đánh giá vị trí môn học.

Khi chấm bài cho điểm một cách đại khái, nâng điểm một cách tuỳ tiện. Đôi khi

miễn cưỡng vào chỉ tiêu thi đua cho điểm cao môn này để gỡ điểm cho các môn khác.

Nhiều giáo viên tự nhận xét kết quả đánh giá chỉ “mang ý nghĩa tương đối”, điều đó có

nghĩa là tính khách quan, chính xác chưa cao.

Như vậy, khi mà tự họ hạ thấp vai trò, địa vị xã hội và giá trị nghề nghiệp của mình

thì nhiệm vụ xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh không thể hoàn thành một

cách trọn vẹn được

Thứ ba, chất lượng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh qua môn

GDCD còn thấp

Qua khảo sát ở một số trường như: THPT Mỹ Tho, Đại An, Nghĩa Hưng C,

Nguyễn Bính, Tống Văn Trân, Nguyễn Du…cho thấy kết quả đánh giá của giáo viên về

học lực của học sinh thông qua điểm số không phản ánh đúng thực chất kết quả học tập .

Hình thức, phương thức kiểm tra, đánh giá tuy giáo viên đã có sử dụng nhiều loại nhưng

sự phối hợp giữa các hình thức, phương pháp trong một đề kiểm tra nhằm bộc lộ những

năng lực của học sinh còn hạn chế.

Phương thức kiểm tra, đánh giá còn đơn điệu, chủ yếu là kiểm tra, đánh giá trong

giờ học trên lớp chưa có kiểm tra, đánh giá ngoài giờ. Mặc dù nội dung môn GDCD gắn

bó chặt chẽ với thực tiễn cuốc sống thực tiễn của học sinh, gắn liền với sự kiện trong đời

sống đạo đức, pháp luật, kinh tế, chính trị xã hội của địa phương, đất nước. Do đó hầu như

kết quả kiểm tra, đánh giá chưa phản ánh được đầy đủ các mặt của học sinh về kiến thức,

kỹ năng, thái độ... Đặc biệt là chưa nâng cao ý thức công dân của học sinh bằng thực hành

trong thực tiễn.

Thứ tư, tài liệu tham khảo, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy môn

GDCD còn nhiều thiếu thốn

Muốn phát huy hiệu quả vấn đề xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh

THPT qua môn GDCD thì giáo viên và học sinh cần phải được đáp ứng những phương

tiện và thiết bị dạy học. Tuy nhiên, trong khi các bộ môn khác được chú trọng đầu tư mua

sắm, tư liệu tham khảo khá phong phú thì hầu hết các trường THPT ở Nam Định môn

GDCD chỉ có sách giáo khoa và sách giáo viên. Có thể thấy trong thư viện của các trường,

kể cả những trường đạt chuẩn quốc gia cũng chưa có trường nào đầu tư kinh phí mua sắm

tư liệu tham khảo và trang thiết bị cho môn GDCD. Nhìn chung, thư viện và trang thiết bị

phục vụ cho việc giảng dạy và học tập bộ môn còn nghèo nàn, lạc hậu, mới chỉ đáp ứng

được khoảng 30% nhu cầu.

Chương 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN

CÁCH HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNHNAM ĐỊNH QUA GIẢNG

DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN

3.1. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

NHÂN CÁCH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH

3.2.1. Phải nâng cao nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò môn giáo dục công dân

trong xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam

Định

Trong nhà trường THPT tất cả các môn học nói chung là cung cấp kiến thức chuyên

ngành, cơ bản, hệ thống và phù hợp với khả năng hoạt động học tập để học sinh tự chiếm

lĩnh một khối lượng tri thức và kỹ năng nhất định. Môn GDCD nói riêng với nội dung tri

thức đặc thù có tác dụng tích cực và trực tiếp nhất trong đào tạo con người, góp phần xây

dựng và phát triển nhân cách toàn diện, đảm bảo sự cân bằng giữa trí tuệ và trái tim, giữa

vốn hiểu biết và tâm hồn cao đẹp cho học sinh.

Hệ thống tri thức GDCD là hệ thống tri thức lý luận được phổ thông hoá, được đời

sống – kinh nghiệm hoá, những khái niệm, phạm trù lý luận chính trị tuy trừu tượng hoá

nhưng lại gắn bó mật thiết với những ví dụ cụ thể, gắn chặt với thực tiễn đời sống mà học

sinh quan tâm tìm lời giải đáp.

Các cấp lãnh đạo và quản lý Sở GD&ĐT nói chung, Ban giám hiệu các trường THPT

trong tỉnh nói riêng cần có sự chỉ đạo kịp thời, quản lý chặt chẽ công tác dạy và học môn

GDCD.

Cần có biện pháp tuyên truyền sao cho tất cả mọi người từ giáo viên, phụ huynh đến

học sinh… có nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn vị trí, yêu cầu của các môn học, đặc biệt là

môn GDCD trong mục tiêu đào tạo toàn diện học sinh THPT. Bản thân học sinh phải xác

định được vị trí, tầm quan trọng, mục đích và động cơ học tập môn GDCD một cách đúng

đắn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: không có thầy tốt thì không có trò tốt. Do đó các

cấp lãnh đạo quản lý cần có những biện pháp đãi ngộ, động viên, khích lệ giáo viên môn

GDCD trong việc tiếp tục học sau đại học. Mặc dù môn này luôn được nhìn nhận từ mọi

phía là môn “phụ”, quan niệm “học cao học làm gì cho khổ”. Hiện nay toàn tỉnh mới có 2

giáo viên GDCD khắc phục khó khăn đi học cao học. Đây là con số quá ít ỏi và đáng buồn

so với các bộ môn khác trong nhà trường phổ thông hiện nay ở Nam Định.

Để phát huy tốt hơn nữa vai trò của mình trong công tác giáo dục, trong xây dựng và

phát triển nhân cách cho các em giáo viên bộ môn phải luôn có ý thức tự học, tự rèn luyện

bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm …

3.1.2. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông theo

tư tưởng Hồ Chí Minh và theo quan điểm của ĐCSVN

Theo quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin nhân cách là sự phát triển về mặt xã hội

của con người, nhân cách được hình thành qua quá trình hoạt động, giao tiếp, đặc biệt là

qua giáo dục và tự giáo dục.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ vĩ đại, một nhân cách lớn lao

mà còn là một nhà giáo dục lỗi lạc của dân tộc Việt Nam s[1,5 ]. Trong cuộc đời hoạt động

của mình.Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã từng nói: “ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì

lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người nhắc nhở: “đoàn viên và thanh niên ta nói

chung là tốt…Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ

thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên””[t12,tr498].

Theo tư tưởng của Người công việc quyết định nhất của xã hội suy cho cùng chính là

giáo dục cho học sinh thành người, làm người và ở đời, làm cho mọi học sinh trở thành

nhân cách có văn hoá.

Giáo dục và tự giáo dục thành người, làm người trước hết là hình thành được ở mỗi

em tư cách, đạo đức, tính cách cùng năng lực và tài năng. Đó chính là nhân cách xuất phát,

đã được phản ánh, đúc kết trong các trước tác lẫn bản thân nhân cách Hồ Chí Minh. Người

luôn nhắc nhở: giáo dục nhân cách là cốt lõi của công việc giáo dục thế hệ trẻ cũng như

của toàn xã hội. Đó là cốt lõi của sự hình thành và phát triển con người.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng con người có cấu trúc nhân cách gồm hai thành tố

chủ yếu là “đức” và “tài’, trong đó “đức’’ được coi là nền tảng. Bao gồm: phẩm chất xã

hội (thế giới quan, niềm tin, thái độ chính trị – xã hội), phẩm chất cá nhân (đạo đức, tư

cách cá nhân), phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích, tính quả quyết, tính kiên trì,

tính dũng cảm), cung cách ứng xử (tác phong, tính khí).

Bác nhấn mạnh: mục tiêu của nền giáo dục là phải tạo điều kiện cho mỗi em học

sinh được phát triển tối ưu nhân cách của mình.

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới để xây dựng và phát triển

đất nước giai đoạn hiện nay Đảng ta rất coi trọng giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách thế

hệ trẻ. Đảng ta coi đây là vấn đề quan trong hàng đầu để xây dựng con người mới, xã hội

mới. Đó là nhiệm vụ phải làm ngay, thường xuyên và lâu dài.

Trong quá trình đổi mới, đất nước ta đang hình thành “hệ giá trị xã hội chuẩn mực

phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”. Những nét cơ bản về

phương hướng giáo dục đạo đức và nhân cách được Đại hội VIII của Đảng xác định là:

“Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hoá dân

tộc, ý chí muốn vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của dân tộc”.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “ Coi trọng bồi dưỡng cho

học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp

bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản

lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại”[tr206,207].

Một trong những nhiệm vụ mà văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung

ương khóa X đã nêu là: “ Tăng cường giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, lối sống văn

hóa, ý thức công dân để hình thành thế hệ thanh niên có phẩm chất tốt đẹp, có khí phách

và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.

Với định hướng của Đảng ta về giáo dục, đào tạo toàn diện cho thanh niên học sinh

trong tình hình mới, coi đó là: “chìa khóa để mở cửa vào tương lai” như Văn kiện hội nghị

lần thứ IV Ban chấp hành trung ương khóa VII của Đảng chỉ ra. Quan điểm này đã cho

chúng ta nhận thấy việc giáo dục lẽ sống, lý tưởng sống cho thế hệ trẻ nói chung, cho học

sinh THPT nói riêng là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược giáo dục. Môn GDCD

cần thiết phải góp phần nhất định vào việc xây dựng và phát triển nhân cách cho các em.

3.1.3. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh qua môn giáo dục công

dân phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống

Đây là sự tuân thủ nguyên tắc thực tiễn trong giáo dục, là sự vận dụng quan điểm

thực tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát triển

nhân cách cho học sinh THPT. Nguyên tắc này là một quan điểm lớn, một nguyên lý cơ

bản của nền giáo dục XHCN. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Giáo dục thanh niên không thể tách

rời mà phải liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh xã hội”[152 - 153]. Bởi vậy, quá trình xây

dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT trong nhà trường phải gắn liền với cuộc

sống luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.

Hiệu quả giáo dục không thể cao nếu như trong giảng dạy GDCD giáo viên quá phụ

thuộc vào sách giáo khoa, khiến cho các giờ học nội dung giáo dục quá hàn lâm, nặng về

học thuật, lý luận, thuyết giảng giáo điều, hình thức giáo dục xơ cứng, đơn điệu với lứa

tuổi thanh niên học sinh.

Việc dạy học môn GDCD cần gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống của học sinh,

của lớp học, nhà trường, địa phương. Giáo viên cần hết sức linh hoạt, sáng tạo trong việc

lựa chọn, sử dụng các tình huống, các câu chuyện, thông tin, sự kiện, hiện tượng thực tế ở

địa phương và các vấn đề bức xúc của xã hội để đối chiếu, so sánh, phân tích, lý giải, minh

họa cho nội dung bài giảng.

Đồng thời cũng cần hướng dẫn, khuyến khích cho học sinh liên hệ, tự liên hệ, so

sánh, đối chiếu các hành vi, việc làm của bản thân và những người xung quanh với các giá

trị đã học; tổ chức cho học sinh điều tra tìm hiểu các vấn đề thực tiễn có liên quan đến nội

dung bài học; thực hiện các dự án nhằm xây dựng môi trường lớp học, nhà trường, cộng

đồng ngày một tốt đẹp hơn. Có như vậy bài học GDCD mới trở nên gần gũi, sống động,

thiết thực đối với học sinh và có sức lôi cuốn đối với các em.

Muốn vậy, cần tránh khuynh hướng tách rời giữa lý luận với thực tiễn và thực tiễn

với lý luận, những biểu hiện không đúng trong việc vận dụng những tri thức lý luận của

môn học vào cuộc sống. Không có tri thức của bộ môn nào lại gắn chặt với cuộc sống như

tri thức của môn GDCD. Dường như bất kỳ tri thức nào của nó cũng liên hệ với các hiện

tượng của cuộc sống thường ngày của con người.

Cần hết sức tránh việc chỉ truyền thụ tri thức lý luận làm cho học sinh không tiếp

thu nổi bài học do mức độ trừu tượng và khái quát cao của nó. Đồng thời tuyết đối không

được vận dụng một cách vụng về, hạ thấp giá trị của lý luận.

Tóm lại, trong dạy học môn GDCD giáo viên luôn luôn phải quán triệt sâu sắc

nguyên tắc “học đi đôi với hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn” và phải thấm nhuần quan

điểm mới, quan điểm phát triển. Thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động dạy học, gắn

hoạt động dạy học với hoạt động xã hội, hoạt động lao động và hoạt động thực tiễn ở các

địa phương giúp các em xây dựng nhận thức đúng đắn về thế giới quan, nhân sinh quan và

củng cố niềm tin, kĩ năng, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của học sinh.

3.1.4. Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh trung học phổ thông qua

môn giáo dục công dân phải chuyển thành quá trình tự giáo dục

GDCD trong bản chất và trong mục đích của nó là một khoa học thực hành. Thông

qua môn GDCD giáo viên phải tác động một cách sáng tạo, thành thục để khơi dậy ở học

sinh nhu cầu ham hiểu biết(hiểu biết về xã hội và nhà nước, về luật pháp và chính sách, về

quyền và nghĩa vụ công dân, về đạo đức và trách nhiệm cuộc sống…), ý thức tự giáo dục,

tự điều chỉnh và hoàn thiện bản thân theo chuẩn mực, theo các giá trị được lựa chọn.

Một trong những định hướng cơ bản để có thể phát huy hiệu quả vấn đề xây dựng và

phát triển nhân cách cho học sinh THPT đó là phải nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng

dạy cũng như học tập môn GDCD theo phương châm: biến quá trình giáo dục thành quá

trình tự giáo dục, tích cực hoá việc học tập của học sinh, tăng cường tính chủ động sáng

tạo của người học, đồng thời tăng cường vai trò định hướng, chủ đạo, vai trò dẫn dắt, điều

chỉnh của giáo viên.

Quá trình giáo dục khi chuyển thành quá trình tự giáo dục, tự tu dưỡng sẽ tạo ra xúc

cảm tự nhiên giúp cho học sinh hình thành niềm tin, khát vọng sống tốt và đẹp, tạo động

lực thúc đẩy các em không chỉ trong nhận thức khoa học mà còn là đạo đức và thẩm mỹ.

Từ đó các em có nghị lực, say mê học tập, chủ động, tích cực đọc sách giáo khoa, tìm hiểu

kiến thức cơ bản; có kỹ năng ứng dụng vào trong tình huống cụ thể, biết lập kế hoạch, lựa

chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện kế hoạch do mình đề ra; có hiểu biết, liên

tưởng, tự liên hệ, tự đánh giá, tự điều chỉnh mình trong quá trình tu dưỡng theo chuẩn mực

và giá trị xã hội.

Nguyên Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Bình đã từng viết: “ Năng lực tự học, tự

đào tạo tiềm ẩn trong mỗi con người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với

quyết tâm tự học, tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra nội lực cần thiết cho

sự cần thiết của một con người và cho đất nước”[1]

3.1.4. Đưa môn Giáo dục công dân vào môn thi tốt nghiệp

Giáo viên GDCD cả nước nói chung, ở Nam Định nói riêng có lẽ là người nhận thấy

rõ nhất tri thức khoa học của môn GDCD bao giờ cũng là cơ sở cho việc rèn luyện kỹ

năng, kỹ xảo; là tiền đề xây dựng phương pháp tư duy khoa học, phát triển trí tuệ, phẩm

chất đạo đức, nhân cách, biết hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ.

Với cách nhìn lệch lạc, sự quan tâm chưa đúng mức hiện nay tới môn GDCD từ mọi

phía: từ cấp lãnh đạo quản lý, đến nhà trường, gia đình, xã hội khiến cho giáo viên môn

học này cảm thấy“ức chế”. Nhiều giáo viên đã chuyển từ sự nhiệt tình trăn trở sang dạy

cho xong, hết chương trình, nội dung giáo dục của bộ môn không thật sự phát huy hiệu

quả trong mục tiêu giáo dục toàn diện thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Bên cạnh đó nhiều học sinh tỉnh Nam Định không chú trọng học môn GDCD vì đây

không phải là môn thi tốt nghiệp và thi đại học. Luật giáo dục 2005 luôn nhấn mạnh đến

mục tiêu giáo dục toàn diện, chú trọng vấn đề giáo dục nhân cách, phẩm chất và năng lực.

Nên chăng Bộ GD & ĐT nên đưa môn GDCD vào thành môn thi tốt nghiệp và môn thi đại

học khối chuyên ngành hành chính nhà nước. Bởi vì, việc quá tải đối với việc học tập của

học sinh là ở nội dung các môn học chứ không phải ở số lượng môn thi tốt nghiệp.

Môn GDCD nếu được “đối xử” bình đẳng, được đưa vào thi tốt nghiệp THPT như

các bộ môn khác chắc chắn sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy chất lượng dạy và học môn

này, qua đó sẽ nâng cao hiệu quả của môn học đối với việc xây dựng và phát triển nhân

cách học sinh THPT hiện nay.

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

NHÂN CÁCH CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NAM ĐỊNH

3.1.1. Xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh

Cuộc sống đang vỗ nhịp không ngớt vào từng cuộc đời, có lúc nó lăn tăn âu yếm, có

lúc nó cuộn nguồn thác bể. Cuộc đời mà chúng ta đang tô lên nó màu xanh ước mơ và màu

đỏ khát vọng chính là lứa tuổi học sinh THPT. Nội dung môn GDCD trong nhà trường

THPT hướng học sinh vươn tới những giá trị cơ bản của người công dân Việt Nam trong

thời kỳ CNH, HĐH. đó là những giá trị tốt đẹp để xây dựng nhân cách con người toàn diện

như: có phẩm chất đạo đức tốt, có tri thức khoa học và năng lực nghề nghiệp chuyên môn

vững vàng.

Để thực hiện được mục tiêu đó thì việc hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học

sinh THPT trong học tập bộ môn GDCD là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Muốn

vậy giáo viên GDCD cần phải:

Giúp học sinh nhận thức được vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học. Chỉ ra

cho học sinh thấy bài học và môn học có ý nghĩa gì với cuộc sống, với bản thân các em.

Bởi vì chỉ khi nào học sinh nhận thấy kiến thức bộ môn thực sự thiết thực với bản thân, với

sự hình thành và phát triển nhân cách con người, tư duy khoa học…thì các em mới thấy

nhu cầu cấp thiết mình phải học và từ đó hình thành được động cơ học tập đúng đắn.

Bên cạnh đó giáo viên phải giúp các em xác định được mục tiêu từng bài học cụ thể,

xác định các nhiệm vụ học tập cần phải hoàn thành, hiểu được ý nghĩa của việc hoàn thành

các mục tiêu đó. Từ đó các em tự ý thức phải xây cho mình một kế hoạch học tập, nhiệm

vụ học tập của chính mình. Biết tự kiểm tra, tự đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu

học tập cũng như kỹ năng vận dụng kiến thức vào trong thực tiễn.

Làm được điều đó sẽ giúp các em nhận thức rõ về vai trò, trách nhiệm của mình trong

quá trình rèn luyện đạo đức, lối sống, hoàn thiện nhân cách, phấn đấu vươn lên trong học

tập. Đồng thời hình thành được thói quen chấp hành tự giác, tính tích cực chủ động trong

cuộc sống. Đây là vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nhân

cách học sinh để các em trở thành những công dân hữu ích, thành viên tốt trong gia đình,

góp phần xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh”.

3.2.2. Bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ giáo viên môn giáo dục

công dân trong tỉnh

Đứng trên quan điểm sản xuất, giáo dục là một ngành hoạt động sản xuất ra con

người – nhân cách, nó không được tạo ra những sản phẩm tồi, những sản phẩm hỏng,

những sản phẩm “giả khoa học, giả đạo đức”. Đây là đòi hỏi nghiêm túc đối với nhà

trường và nhà giáo nói chung, nhất là giáo viên GDCD phải luôn ý thức và tự ý thức sâu

sắc được điều đó.

Để xây dựng và phát triển nhân cách tốt đẹp cho học sinh người thầy cũng phải tự

giáo dục chính mình. C.Mác đã từng nhấn mạnh: Bản thân nhà giáo dục cũng phải được

giáo dục.

Nâng cao chất lượng giáo viên có vai trò vô cùng quan trọng. Giáo viên GDCD khác

với giáo viên các môn khoa học khác ở chỗ: dạy chữ để dạy người, để rèn luyện nhân cách

con người cho từng học sinh. Do đó đòi hỏi giáo viên bộ môn không chỉ truyền thụ tri thức

khoa học, giúp cho học sinh phát triển năng lực trí tuệ mà còn phải bồi dưỡng cho các em

tình cảm, tâm hồn, những chuẩn mực đạo đức cơ bản, lối sống cao đẹp và cách làm người

trong xã hội, gây dựng ý thức trách nhiệm với cuộc sống, bổn phận, nghĩa vụ với xã hội,

với công việc và con người.

Hồ Chí Minh đã từng nói: Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy là chăm

lo dạy dỗ con em mình thành những công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt,

người cán bộ tốt của nước nhà. Do vậy, giáo viên GDCD phải đóng vai trò là nhà hoạt

động xã hội, tổ chức thực hiện các nội dung thực hành chính trị - đạo đức, luật pháp trong

nhà trường, phải nỗ lực trong việc giáo dục con người.

Giáo viên không né tránh và lẩn tránh sự thật, kể cả những sự thật đáng buồn, những

mâu thuẫn và nghịch lý của sự phát triển hiện nay. Tuy nhiên mỗi bài giảng GDCD phải là

sự định hướng tích cực cho cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Khi phê phán cái sai, cái xấu, cái ác

phải nhằm khẳng định hệ giá trị chân – thiện – mỹ.

Đặc biệt chất lượng giáo viên GDCD còn thể hiện ở chỗ người thầy phải tự thuyết

phục được chính mình, phải có kiến thức, hiểu biết sâu, rộng về xã hội, nắm được những

chuẩn mực sống, phải đem hiểu biết để gây dựng niềm tin thì mới truyền được niềm tin

cho học sinh. Phải hiện diện trước học trò như một nhân cách, tận tụy, trung thực, khiêm

tốn, vị tha, nhân ái qua lao động – dạy học của mình, qua ứng xử, giao tiếp, đối thoại thì

mới đủ sức hình thành và phát triển nhân cách học sinh.

Ngoài ra, giáo viên phải có sự linh hoạt trong giảng dạy, có nghệ thuật truyền thụ tri

thức, phải căn cứ vào nội dung tri thức môn học để lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp

với đối tượng; giáo viên phải có nghệ thuật thu hút, lôi kéo học sinh say mê học tập, phải

biết cách phát huy tính tự học, tự nghiên cứu bài giảng.

Như vậy, chất lượng của đội ngũ giáo viên thể hiện thông qua kiến thức chuyên

ngành, năng lực sư phạm, năng lực nắm bắt, xử lí thông tin.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xây dựng và phát triển nhân cách cho học

sinh THPT ở Nam Định giai đoạn hiện nay và trong những năm tiếp theo, Sở GD&ĐT tỉnh

cần thiết phải:

Nắm bắt được số lượng giáo viên ở mỗi trường để và phân công công tác sao cho

đảm bảo được sự cân đối, hợp lý về nhu cầu giáo viên bộ môn giữa các trường THPT trong

toàn tỉnh.

Khuyến khích giáo viên GDCD tích cực hơn trong quá trình phấn đấu không ngừng

nâng cao về tài năng sư phạm, trách nhiệm đạo đức và ý thức chính trị.

Có kế hoạch và giải pháp cụ thể trong sử dụng, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên

môn cho giáo viên bộ môn.

3.2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn giáo dục công dân theo

hướng dạy học tích cực

Khi bàn về phương pháp giảng dạy cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nêu: Trong nhà

trường điều chủ yếu không phải là nhét cho học trò một mớ kiến thức hỗn loạn, tuy rằng

kiến thức là cần thiết. Điều chủ yếu là giáo dục cho các em phương pháp suy nghĩ, suy

luận, diễn tả, rồi đến phương pháp học tập, nghiên cứu, giải quyết vấn đề. Ở các trường,

điều chủ yếu không phải là rèn trí nhớ mà là rèn trí thông minh.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả nội dung tri thức khoa học của môn GDCD đang được

hoàn thiện trong nhà trường THPT thì việc đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn là hết

sức cần thiết và quan trọng.

Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp dạy học nhằm phát huy tính

tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy

học tích cực là: dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh; dạy học chú trọng

rèn luyện phương pháp tự học; tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác; kết

hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.

Đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD phải bám sát mục tiêu giáo dục phổ

thông, phù hợp với từng nội dung dạy học cụ thể, với đặc điểm lứa tuổi, tâm sinh lý học

sinh.

Đổi mới phương pháp giảng dạy GDCD còn phải phù hợp với cơ sở vật chất và các

điều kiện dạy học của nhà trường, phù hợp với việc đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả dạy

- học và kết hợp tốt giữa việc tiếp thu, sử dụng có chọn lọc, có hiệu quả các phương pháp

dạy học tiên tiến, hiện đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp

dạy học truyền thống; tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học hiện

đại…Chỉ có đổi mới căn bản phương pháp dạy học chúng ta mới có thể tạo được sự đổi

mới thực sự trong giáo dục phổ thông.

Đồng thời với việc đổi mới phương pháp dạy là đổi mới phương pháp học tập môn

GDCD cho học sinh. Học sinh phải rèn luyện cho mình thói quen tích cực, chủ động trong

học tập, lĩnh hội kiến thức. Tính chủ động của học sinh thể hiện thông qua việc học sinh

chuẩn bị bài, thu thập, tìm kiếm tài liệu có liên quan đến từng bài học, tiết học. Học sinh

hăng hái thảo luận, nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, trình bày quan điểm của cá nhân trước

tập thể và giáo viên, sẵn sàng đưa ra những ý kiến phản hồi…Có như thế giáo viên mới

phát hiện và xử lý, phân loại được từng đối tượng học sinh.

Không chỉ dừng lại ở nhận thức, học sinh phải biết liên hệ, vận dụng kiến thức đã học

vào trong hoạt động thực tiễn sao cho phù hợp và đạt hiệu quả giáo dục, hoàn thiện nhân

cách cho chính mình.

Mỗi học sinh phải tự xác định mình là thành viên tích cực, chủ động để không rơi vào

tình trạng tiếp thu một chiều, coi giáo viên là máy phát còn mình là máy thu. Tập trung

nghe giảng ở trên lớp để có những kiến thức cơ bản của bài học sau giờ giảng đó, tự tạo

cho mình niềm say mê và hứng thú trong học tập.

Chủ động tham gia các buổi thảo luận chuyên đề, các buổi xêmina và tiếp cận các

vấn đề liên quan. Điều đó giúp các em hình thành thói quen quan tâm đến môn học, suy

nghĩ về tầm quan trọng của môn học, tạo hứng thú học tập, mở mang kiến thức.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục công

dân

Để đáp ứng yêu cầu mới của mục tiêu GD&ĐT, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học

tập môn GDCD phải chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát triển tính tích cực, trí thông

minh sáng tạo của học sinh. Khuyến khích các em vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ

năng đã học vào những tình huống thực tế, có thái độ tích cực, đánh giá đúng đắn trước

những vấn đề của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng.

Trước hết giáo viên cần phải đảm bảo tính toàn diện và tính phân hoá trong kiểm tra,

đánh giá kết quả học tập của học sinh. Đó là các nội dung trong mục tiêu môn học phải

được kiểm tra đầy đủ và thích hợp. Trong mỗi nội dung kiểm tra phải phân loại được các

học sinh ở những yêu cầu về việc nắm kiến thức, mức độ thành thạo các kỹ năng cơ bản,

thái độ mà học sinh cần phải có khi tham gia quá trình học tập học...Nhằm nâng cao độ

chính xác, trung thực, khách quan, công bằng trong kiểm tra và đánh giá chất lượng học

tập thực sự của học sinh.

Giáo viên cần phối hợp các phương pháp trong việc kiểm tra thường xuyên và kiểm

tra định kỳ môn học như: vấn đáp, viết, trắc nghiệm khách quan, thực hành.... Nhằm tạo ra

sự hứng thú, kích thích tính tích cực trong học tập của học sinh và để điều chỉnh phương

pháp dạy - học. Muốn vậy giáo viên phải vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh

thần trách nhiệm cao với công việc, đầu tư thời gian và công sức trong tìm tòi, nghiên cứu

để có những sáng tạo trong việc kết hợp các phương pháp kiểm tra nhằm thực hiện có hiệu

quả cao các hình thức kiểm tra, đánh giá.

Tăng cường các phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh như:

trong giờ học, ngoài giờ học(hoạt động tập thể, hoạt động chính trị xã hội, tìm hiểu theo

chủ đề tìm hiểu thực tế, viết thu hoạch), nhằm tạo ra sự dân chủ trong học tập, phát huy

tính năng động sáng tạo của học sinh. Qua đó giáo dục ý thức công dân cho học sinh liên

hệ thực tiễn cuộc sống của mình.

Phát triển khả năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh để kết hợp sự đánh

giá của thầy và sự đánh giá của trò nhằm kích thích tính chủ động của học sinh trong học

tập và tăng cường tính khách quan của kiểm tra, đánh giá. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh

kịp thời là năng lực rất cần thiết cho sự thành đạt trong cuộc sống của các em, giúp các em

có sự hiểu biết sâu sắc hơn về quyền lợi, trách nhiệm và vai trò của mình

3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, và thiết bị dạy học môn

Giáo dục công dân

Nâng cao chất lượng dạy học GDCD ở trường THPT cần đặc biệt chú ý tới yếu tố vật

chất hỗ trợ quá trình dạy học. Qua tìm hiểu thực tế trong quá trình dạy học môn GDCD ở

nhiều trường trong tỉnh cho thấy do thiếu yếu tố này nên nhiều giáo viên gặp khó khăn

trong việc đổi mới phương pháp truyền đạt kiến thức khoa học. Nếu dạy GDCD chỉ tiến

hành dạy chay, sử dụng phương pháp thuyết trình truyền thống theo kiểu thầy đọc trò chép

sẽ mất tính thuyết phục, không hấp dẫn, làm cho giờ học cứng nhắc và buồn tẻ.

Yếu tố vật chất trong giảng dạy GDCD bao gồm: phòng học tiêu chuẩn, máy tính,

máy chiếu, đài, phim ảnh, tài liệu tham khảo và các cơ sở vật chất khác cùng nguồn tài

chính hỗ trợ cho việc dạy học tìm hiểu tham quan thực tế. Yếu tố vật chất là phương tiện

quan trọng để gắn lý luận với thực tiễn, học với hành, làm cho bài giảng sinh động có tính

thuyết phục cao.

Yêu cầu về phòng phương pháp đạt chuẩn với các phương tiện dạy học hiện đại đang

đặt ra cấp bách với hệ thống các trường THPT trong tỉnh hiện nay.

Ngoài ra, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh nên tạo điều kiện cho giáo viên môn học này

có cơ hội được nghe những buổi nói chuyện, báo cáo chuyên đề mang tính thời sự trong

tỉnh, trong nước và quốc tế để giáo viên có thêm kiến thức thực tiễn ngoài kiến thức sách

vở, câu chữ nhằm tăng tính thuyết phục trong bài giảng.

Một thực tế hiện nay là ngoài sách giáo khoa GDCD hầu như không có trường nào

đầu tư kinh phí mua sắm tư liệu tham khảo cho bộ môn này. Do đó giáo viên nên chủ động

trang bị những tư liệu cần thiết cho mình. Bỏ quan điểm trông chờ thư viện nhà trường có

sách gì thì mượn, không có thì thôi. Bên cạnh đó các trường nên khuyến khích giáo viên

bộ môn tích cực trong vấn đề nghiên cứu khoa học, tích cực nêu sáng kiến kinh nghiệm, tự

làm đồ dùng dạy học.

Với tính chất đặc thù của bộ môn nói riêng, nghiên cứu về các quy luật vận động của

tự nhiên, xã hội và tư duy con người, tri thức khoa học bộ môn có liên quan chặt chẽ đến

đường lối lãnh đạo của ĐCSVN, đến định hướng chính trị, tư tưởng, lối sống, đạo đức, lý

tưởng, niềm tin của học sinh…rất cần có phương tiện hỗ trợ để chất lượng mỗi bài giảng

được nâng cao.

3.2.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, và thiết bị dạy học

môn Giáo dục công dân

Đây là giải pháp đồng thời cũng là kiến nghị chung của tất cả giáo viên giảng dạy

GDCD khối THPT tỉnh Nam Định. Trong ba lần tập huấn thay sách khối 10, khối 11 và

khối 12 mọi giáo viên đều bày tỏ mong muốn Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định quan

tâm hơn nữa đến việc xây dựng cán bộ chuyên môn cho riêng bộ môn này chứ không

muốn để chuyên viên bộ môn văn kiêm nhiệm như hiện nay. Việc để chuyên viên môn

khác sang kiêm nhiệm chuyên môn của môn này làm nhiều giáo viên thấy rằng bản thân

môn này đã không được coi trọng ngay từ cấp Sở.

Mỗi lần có những đợt thanh tra toàn diện các trường, thì bộ môn này phải lấy những

giáo viên đang giảng dạy một số trường đi làm công tác thanh tra, kiểm tra như giáo viên

trường THPT Lê Hồng Phong, trường Trần Hưng Đạo…Như vậy trong một năm có nhiều

đợt đi thanh tra, kiểm tra một số trường theo định kỳ như thế thì giáo viên phải đi làm công

tác bộ môn này đương nhiên không thể giảng dạy theo đúng tiến độ phân phối chương

trình được. Như thế có phải là đi kiểm tra người khác trong khi chính thanh tra không thực

hiện được nhiệm vụ chính là giảng dạy của mình. Sự bất cập này vô hình chung chính là

sự vi phạm quy chế chuyên môn của các thanh tra viên.

Để thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ phân phối chương trình có tính pháp lệnh do Bộ

Giáo dục quy định và đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD, qua đó phát

huy vai trò của bộ môn trong việc xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT,

nhất thiết phải có chuyên viên môn GDCD. Không những để đẩy mạnh công tác thanh tra

việc dạy và học môn này, mà còn để giáo viên bộ môn trong toàn tỉnh có nơi để trao đổi,

thắc mắc và kiến nghị những vấn đề hợp lí liên quan đến chuyên môn về cấp Sở.

Xây dựng chuyên viên môn GDCD, đẩy mạnh công tác thanh tra là một hoạt động

của quản lý giáo dục cần phải được coi trọng và quan tâm thích đáng. Công tác này nếu

không được tiến hành một cách nghiêm túc sẽ tạo ra lỗ hổng ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm

vụ nâng cao vai trò của bộ môn trong xây dựng và phát triển nhân cách cho các em tại tỉnh

Nam Định.

3.2.7. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà

trường, gia đình và xã hội

Giảng dạy GDCD là giảng dạy đạo đức, lối sống, phẩm chất, truyền thống dân

tộc… cho mỗi cá nhân. Muốn nâng cao chất lượng giảng dạy môn học chúng ta nhất thiết

phải có sự liên hệ và kết hợp với các môi trường mà học sinh đang sống, hoạt động và giao

tiếp - Đó là sự phối kết hợp giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội. Từ đó mới phát

hiện ra những khuyết điểm, thiếu sót của học sinh để kịp thời giáo dục.

Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khóa X đã chỉ rõ: “Xây

dựng môi trường xã hội lành mạnh để thanh niên rèn luyện, phấn đấu và trưởng

thành”[…,tr44].

Giáo dục nhà trường là một trong những con đường và phương thức giáo dục chủ

đạo, quan trọng bậc nhất dù không phải là duy nhất quyết định. Giáo viên GDCD chủ động

tham mưu cho Ban Giám hiệu tổ chức lồng ghép một số nội dung tri thức bộ môn thông

qua các hoạt động tập thể, hoạt động chính trị xã hội, hoạt động tìm hiểu thực tế nhằm

nâng cao hiệu quả giáo dục của bộ môn. Nhà trường cần thường xuyên phát huy vai trò

của Hội phụ huynh học sinh trong các hoạt động. Hội phụ huynh phải là cầu nối giữa nhà

trường với các gia đình nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện học sinh.

Khác với giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình gắn liền và theo suốt cuộc đời con

người nên cha mẹ là người hiểu con mình hơn ai hết. Chính vì vậy giáo viên GDCD phải

thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh để nắm bắt cá tính, nhược điểm của mỗi học

sinh, để cùng với các bậc phụ huynh thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng phẩm

chất, nhân cách cho học sinh - thế hệ tương lai của đất nước.

Đồng thời còn phải phát huy vai trò tác động cùng giáo dục của các phương tiện

thông tin đại chúng, của cộng đồng làng, xã và các tổ chức chính quyền địa phương nơi

học sinh sống, học tập…

Đào tạo lớp người mới, thế hệ cách mạng cho đời sau vừa “hồng” vừa “chuyên”

theo tư tưởng Hồ Chí Minh là công việc và trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và

xã hội. Đây là ba lực lượng giáo dục to lớn, nếu được phối hợp chặt chẽ, cùng thống nhất

một mục đích, một yêu cầu và cùng một phương thức giáo dục sẽ đem lại kết quả giáo dục

tốt đẹp. Không chỉ giúp các em phát triển trí tuệ, năng lực học tập mà còn giúp các em có

môi trường lành mạnh để tu dưỡng rèn luyện về đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống…

KẾT LUẬN

Trong hệ giá trị và văn hóa tinh thần của nhân loại, đứng trên quan điểm, lý luận và

phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề con người cũng như vấn đề

nhân cách ta thấy con người được sinh ra nhưng nhân cách được xây dựng và phát triển

nhờ giáo dục. Đòi hỏi người quản lý và giảng dạy phải hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng

đến quá trình xây dựng và phát triển nhân cách học sinh THPT. Nắm vững những đặc

điểm tâm, sinh lý các em. Làm sáng tỏ vị trí và vai trò của môn GDCD trong việc góp

phần thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ nói chung, học sinh THPT nói riêng thành

những người phát triển toàn diện, có đức, có tài trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới

XHCN.

Xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT tỉnh Nam Định qua giảng dạy

môn GDCD là một đề tài nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Trong công cuộc giáo

dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ cho đất nước, Hồ chí Minh luôn nhấn mạnh đến nguyên tắc giáo

dục toàn diện. Người chỉ rõ: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức

dục, trí dục và thể dục”. Một con người có trí tuệ và nhân cách phát triển lệch lạc không

thể là một người chủ xứng đáng của đất nước, của Tổ quốc.

Trong quá trình CNH, HĐH đất nước, Đảng ta xác định: xây dựng con người Việt

Nam hiện nay là xây dựng nhân cách của con người với một nội dung toàn diện: từ bồi

dưỡng thể lực, năng lực trí tuệ, không ngừng nâng cao học vấn và văn hoá, đến trình độ tư

tưởng, thế giới quan và đạo đức cách mạng; từ đạo đức và lối sống, đến kế thừa và phát

huy được những tinh hoa của truyền thống dân tộc, đáp ứng được những yêu cầu của con

người mới XHCN.

Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với sự biến đổi nhanh chóng

về mọi mặt của đời sống xã hội, một bộ phận học sinh THPT cả nước nói chung, ở tỉnh

Nam Định nói riêng đã nhận thức đúng đắn giá trị của việc hoàn thiện nhân cách, phát huy

truyền thống hiếu học của quê hương, không ngừng nỗ lực vươn lên, đạt được nhiều thành

tích cao trong quá trình học tập, thể hiện qua chất lượng xếp loại học lực, hạnh kiểm, kết

quả thi tốt nghiệp và thi học sinh giỏi.

Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận học sinh sống thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện

đạo đức. Biểu hiện lối sống ích kỷ không có tinh thần đoàn kết tập thể; thực dụng, suy

thoái đạo đức, xa dời truyền thống văn hóa dân tộc, dễ tiếp nhận những luồng văn hóa

ngoại lai có ảnh hưởng tiêu cực; xa rời lý tưởng và hoài bão cao đẹp, giảm sút ý chí và

niềm tin; ít quan tâm đến tình hình kinh tế - chính trị của đất nước, ý thức tố chức kỷ luật

cũng như chấp hành pháp luật còn yếu kém; một số em còn ham chơi, thích đua đòi với

bạn bè, dễ bị bạn bè rủ rê, lôi kéo tham gia vào những việc làm tiêu cực, tình trạng vi phạm

pháp luật và sa ngã vào các tệ nạn xã hội đang có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.

Tồn tại những vấn đề trên một phần là do công tác giảng dạy môn GĐCD trong các

nhà trường THPT chưa được chú ý đúng mức, còn đang bị buông lỏng, thiếu sự quan tâm

và nhận thức đúng đắn từ mọi phía. Một số trường còn công khai quan điểm: môn học này

giáo viên nào cũng có thể dạy được, cái gì có trong sách giáo khoa thì giới thiệu theo kiểu

đọc chép, chỉ cần trong giờ các em ngoan là có thể cho điểm cao được rồi. Việc truyền tải

các kiến thức của một số giáo viên chính bộ môn chưa thật sâu sắc, nghiêm túc, và còn

kém thuyết phục. Phương tiện, trang thiết bị môn học chưa được đầu tư thỏa đáng. Học

sinh còn học trong tâm thế qua loa đại khái, không có động cơ, mục đích đúng đắn.

Tất cả những chủ quan, xem nhẹ tri thức bộ môn GDCD trong xây dựng và phát

triển nhân cách cho các em đã làm gia tăng sự nhận thức và tư duy thiếu khoa học về

những tri thức thiết thực nhất để: “làm người”.

Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển nhân cách cho học sinh THPT

tỉnh Nam Định qua giảng dạy môn GDCD cần phải nắm vững những định hướng đó là:

Nâng cao nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của môn GDCD. Giáo dục nhân cách các

em theo tư tưởng Hồ Chí Minh và theo quan điểm của ĐCSVN. Nội dung, chương trình

giảng dạy phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Đặc biệt, nâng cao chất lượng giảng dạy

và học tập bộ môn. Làm sao để quá trình giáo dục phải chuyển thành quá trình tự giáo dục.

Bộ GD&ĐT nên xem xét, đánh giá một cách toàn diện và công bằng đưa môn môn này

vào khung những môn thi tốt nghiệp.

Bên cạnh đó cần hình thành động cơ học tập đúng đắn cho học sinh. Nâng cao hơn

nữa chất lượng đội ngũ giáo viên. Đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập bộ môn.

Nâng cao hiệu quả kiểm tra đánh giá môn GDCD. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất ,

phương tiện và thiết bị dạy học bộ môn. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh

Các giải pháp trên đây không có tính tuyệt đối, lại càng không có tính đơn lẻ. Nó

chỉ phát huy tác dụng trong hệ thống các giải pháp, cần được tổ chức thực hiện một cách

đồng bộ, nghiêm túc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lương Gia Ban (2002), Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới nội

dung chương trình của các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Nguyễn Đức Bách (200), “Giáo dục không phải là hàng hóa”, Thông tin Chủ nghĩa

xã hội – lý luận và thực tiễn.

3. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hoá và con người Việt Nam trong tiến trình công nghiệp

hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Duy Bắc (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học

Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường đại học, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Bình (1998), “Bài phát biểu tại Hội thảo nghiên cứu phát triển tự học - tự

đào tạo”, Nghiên cứu giáo dục, (2), tr.1.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông cấp trung học phổ

thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo dục công dân 10, sách giáo viên, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình,

sách giáo khoa lớp 11 môn Giáo dục công dân, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa

Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phú (2003), Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện

kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), “Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với các giá

trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay”, Tạp chí Triết học, (8).

12. Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu (1979), Về đường lối giáo dục xã

hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.

13. Phạm Khắc Chương (2003), Rèn đạo đức và ý thức công dân, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

14. Nguyễn Văn Cư - Nguyễn Duy Nhiên (2008), Dạy và học môn giáo dục công dân ở

Trường THPT - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Đại học sư phạm, Hà

Nội.

15. Diane Tillman (2008), Những giá trị sống cho tuổi trẻ, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh.

16. Nguyễn Việt Dũng, Vũ Hồng Tiến, Nguyễn Văn Phú c(1999), Phương pháp giảng

dạy kinh tế chính trị ở các trường đại học và cao đẳng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung

ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành

Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đoàn Nam Đàn (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

23. Vương Tất Đạt (1994), Phương pháp giảng dạy giáo dục công dân (dùng cho

PTTH), Trường Đại học sư phạm, Hà Nội I.

24. Phạm Đình Đạt (2009), “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - những vấn đề đặt ra”,

Tạp chí Khoa học chính trị, (3).

25. Hoàng Minh Đô (2006), “Quản lý nhà nước về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới”, Tạp

chí Lịch sử Đảng, (8).

26. Hoàng Minh Đô (2007), “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giáo dục nhân cách người

chiến sỹ cách mạng”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục trật tự xã hội, (6).

27. Vũ Văn Gầu - TS. Nguyễn Anh Quốc (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp

phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

30. Phạm Minh Hạc (2008), Tâm lý học nghiên cứu con người trong thời đổi mới, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

31. Lương Khắc Hiếu (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, Tập 1, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

32. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện CNXHKH (2005), Đề tài đổi mới

phương pháp giảng dạy (Hướng dẫn tự nghiên cứu môn CNXHKH).

33. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa

học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học

Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo trình Triết học Mác – Lênin,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2007), Tâm lí học lứa tuổi và tâm

lí học sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

36. Phạm Văn Hùng (1998), Hướng dẫn ôn tập triết học Mác – Lênin, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

37. Trần Hậu Kiêm (1997), Giáo trình đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Bùi Thị Ngọc Lan (2006), “Điểm mới về phát triển nguồn nhân lực trong văn kiện

Đại hội đại biểu lần thứ X”, Tạp chí Thông tin Chủ nghĩa xã hội – lý luận và

thực tiễn, (12).

39. Phan Thị Lạc, Nguyễn Thanh Mai, Trần Thị Nhung, Trần Văn Thắng (2008), Giáo

dục bảo vệ môi trường trong môn Giáo dục công dân trung học phổ thông, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Gia Linh (2007), 11 lời khuyên dành cho thế hệ trẻ của BILL GATES, Nxb

Từ điển bách khoa, Hà Nội.

41. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Xtalin (1978), Về thanh niên, Nxb Sự thật, Hà

Nội.

42. C.Mác, Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Hồ Chí Minh (1990), Vấn đề giáo dục con người mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

44. Hồ Chí Minh (1995), Về xây dựng con người mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Hồ Chí Minh (1999), Về đạo đức, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội.

47. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Nguyễn Chí Mỳ (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị

trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay,

(sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Nguyễn Thị Ngân (2003), Xây dựng ý thức tình cảm dân tộc chân chính cho con người Việt

Nam trước thách thức mới, Nxb Lao động, Hà Nội.

54. Nguyễn Thị Ngân (2005), “Học tập kinh nghiệm của các quốc gia để đổi mới nền

giáo dục – đào tạo Việt Nam”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội – lý luận và thực

tiễn.

55. Nhiều tác giả (2007), Những vấn đề giáo dục hiện nay, Quan điểm và giải pháp, Nxb

Tri thức, Hà Nội.

56. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách tâm lí học ngày nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

57. Bùi Đình Phong (2009), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và văn hóa”, Tạp chí

Lý luận chính trị, (1).

58. Trần Thị Mai Phương (2007), Dạy học kinh tế chính trị theo phương pháp tích cực,

Tập bài giảng.

59. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục , Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2008), Quá trình đổi

mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia Hà

Nội.

61. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định (2004), Giáo dục – Đào tạo Nam Định thành

tựu và đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội.

62. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị

quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa VIII về giáo

dục đào tạo tỉnh Nam Định.

63. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2007 – 2008

phương hướng nhiệm vụ năm học 2008 – 2009.

64. Sở Giáo dục và Đào tạo Nam Định (2009), Báo cáo tổng kết năm học 2008 – 2009,

phương hướng nhiệm vụ năm học 2009 - 2010.

65. Văn Tạo (1997), Sử học và hiện thực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

66. Nguyễn Đức Tiến (2004), Phát triển lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên Việt

Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

67. Hoàng Đình Tỉnh (2009), “Giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay theo di

chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (7).

68. Nguyễn Văn Trung (1996), Chính sách đối với thanh niên, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

69. Trần Đình Tuấn (2006), “Tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên”, Tạp

chí Tâm lý học, (12).

70. Nguyễn Mạnh Tường (1994), Lý luận giáo dục châu Âu, Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội.

71. Ulrich Lipp – Paul Schiueter ( ), Đổi mới phương pháp giảng dạy, một đóng góp của

Inwent vào quá trình cải cách hành chính tại Việt Nam.

72. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định (2008), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã

hội năm 2008. Phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và những giải pháp chủ yếu phát

triển kinh tế - xã hội năm 2009.

73. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

74. Vụ Công tác lập pháp (2005), Những nội dung mới của luật giáo dục năm 2005, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

75. Phạm Viết Vượng (2007), Giáo dục học, Nxb Đại hhọc Quốc gia, Hà Nội.

76. Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Danh sách giáo viên GDCD tỉnh Nam Định năm học 2008 – 2009

Thống kê giáo viên môn GDCD cấp THPT tỉnh Nam Định năm học 2008 – 2009

Báo cáo tổng kết năm học 2008 – 2009

Tổng hợp số liệu học sinh giảm, bỏ học năm học 2008 – 2009

Kết quả xếp loại hạnh kiểm học lực học sinh THPT năm học 2008 - 2009