ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

..................................................................

LƢƠNG VĂN DƢƠNG

YẾU TỐ TRỮ TÌNH

TRONG VĂN XUÔI THẠCH LAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà nội – 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ..................................................................

LƢƠNG VĂN DƢƠNG

YẾU TỐ TRỮ TÌNH

TRONG VĂN XUÔI THẠCH LAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học:

PGS - TS: LÝ HOÀI THU

Hà nội – 2013

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3

1. Lí do chọn đề tài. ....................................................................................... 3

2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 4

3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu. ........................................... 9

4. Phương pháp nghiên cứu: ....................................................................... 10

5. Những đóng góp của luận văn: ............................................................... 11

6. Cấu trúc của Luận văn: ........................................................................... 11

CHƢƠNG 1: VĂN XUÔI THẠCH LAM VÀ SỰ GIAO THOA GIỮA TRỮ

TÌNH VÀ TỰ SỰ ......................................................................................... 12

1.1. Hành trình sáng tác của nhà văn Thạch Lam. ............................ 12

1.2. Sự thâm nhập giữa trữ tình và tự sự trong văn xuôi Thạch Lam. .. 17

1.2.1. Yếu tố trữ tình. .................................................................................... 17

1.2.2. Yếu tố tự sự .......................................................................................... 19

1.2.3. Sự giao thoa giữa yếu tố trữ tình và tự sự ..................................... 21

CHƢƠNG 2: YẾU TỐ TRỮ TÌNH NHÌN TỪ HỆ THỐNG CỐT

TRUYỆN, KẾT CẤU VÀ NHÂN VẬT. .................................................. 39

2.1. Cốt truyện-tình huống khơi gợi cảm xúc. .................................... 39

2.1.1. Khái niệm cốt truyện. ........................................................................ 39

2.1.2. Kiểu cốt truyện - tình huống khơi gợi cảm xúc trong văn

xuôi Thạch Lam. ........................................................................................ 40

2. 2. Kết cấu. ........................................................................................... 52

2.2.1. Khái niệm kết cấu: .............................................................................. 52

2.2.2. Kết cấu tâm lý – mô hình tiêu biểu của văn xuôi Thạch Lam. .... 52

2.3. Nhân vật. ......................................................................................... 57

2.3.1. Khái niệm nhân vật. ........................................................................... 57

2.3.2. Gợi tả ngoại hình nhân vật. .............................................................. 58

1

2.3.3. Nhân vật của Thạch Lam thiên về đời sống nội tâm . .................. 62

2.3.4. Nhân vật của Thạch Lam giàu niềm vui sống, luôn hướng

về cái tốt đẹp. ............................................................................................... 69

CHƢƠNG 3: YẾU TỐ TRỮ TÌNH NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC

BIỂU HIỆN. .............................................................................................. 72

3.1. Không gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam. .................. 72

3.1.1. Khái lược không gian nghệ thuật. ................................................... 72

3.1.2. Không gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam. ..................... 76

3.1.2.1. Không gian thiên nhiên. ....................................................... 76 3.1.2.2. Không gian xã hội. .......................................................................... 87

3.2. Thời gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam. ..................... 93

3.2.1. Khái lược thời gian nghệ thuật. ........................................................ 93

3.2.2. Thời gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam. ...................... 93

3.2.2.1. Thời gian hiện tại. .......................................................................... 95

3.2.2.2. Thời gian quá khứ. .......................................................................... 97

3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trong Văn xuôi Thạch Lam. ................... 100

3.3.1. Ngôn ngữ ........................................................................................... 100

3.3.2. Giọng điệu. ......................................................................................... 106

KẾT LUẬN .............................................................................................. 114

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 117

2

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.

Thạch Lam (1910 – 1942), là một trong những cây bút xuất sắc của

nhóm Tự lực văn đoàn và của văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.

Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Vị trí

của Thạch Lam khó ai thay thế được, bởi thế giới nghệ thuật đặc sắc và

phong cách riêng không giống ai. Đó là lối viết tinh tế, nhẹ nhàng, truyền

cảm, một văn phong trong sáng, đầy “hương thơm và nỗi u hoài” [20].

Một phần quan trọng làm nên sức hấp dẫn của Thạch Lam là hiện

tượng giao thoa, sự thâm nhập của yếu tố trữ tình - chất thơ vào trong các

tác phẩm văn xuôi. Dù truyện ngắn hay thể loại tuỳ bút, tiểu thuyết thì

những trang văn của Thạch Lam luôn bàng bạc yếu tố trữ tình không thể

lẫn với các tác giả khác. Cốt truyện đơn giản, chủ yếu khai thai thác những

biến cố, tình huống khơi gợi cảm xúc, những trạng thái tâm lý của con

người; kết cấu tác phẩm dựa theo quá trình vận động bên trong tâm lý,

những diễn biến tâm trạng nhân vật được miêu tả ở chiều sâu thế giới nội

tâm, những rung động tâm hồn, những cảm giác mong manh tinh tế trước

ngoại cảnh; không gian đậm chất thơ, không gian nhuốm tâm trạng, khơi

gợi cảm xúc; thời gian hiện tại và quá khứ đan cài, hiện tại với những niềm

vui nho nhỏ, quá khứ chứa đựng nhiều kỉ niệm, hoài vọng và sự luyến tiếc;

giọng điệu nhỏ nhẹ, tâm tình thấm thía, giọng đồng cảm sẻ chia yêu

thương, giọng băn khoăn day dứt; ngôn ngữ dư ba, mong manh mơ hồ... Có

thể nói: “Văn chương Thạch Lam quả là một sợi tơ dai bền giăng qua mọi

biến động, thời cuộc và cả những thay đổi của thị hiếu văn chương để nối

tiếp với hiện tại” [39; 451].

Trong văn học nhà trường, Thạch Lam và tác phẩm của ông được đưa

3

vào chương trình giảng dạy đã góp phần bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ và được

học sinh yêu thích. Là người vừa say mê Thạch Lam, vừa làm công tác

giảng dạy môn Ngữ văn bậc trung học, chúng tôi đã chọn đề tài: “Yếu tố

trữ tình trong văn xuôi Thạch Lam” để nghiên cứu.

2. Lịch sử vấn đề

Trong giai đoạn Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, sự xuất hiện

của Thạch Lam đã mở ra một bước tiến mới cho văn xuôi nghệ thuật nói

chung và địa hạt truyện ngắn nói riêng. Hơn nửa thế kỉ trôi qua kể từ ngày

văn phẩm đầu tay của Thạch Lam chào đời, đã có nhiều công trình nghiên

cứu có giá trị về thân thế, sự nghiệp, tác gia và tác phẩm của nhà văn. Một

cách tổng quát, có thể thấy các tài liệu nghiên cứu về Thạch Lam xoay

quanh hai nội dung lớn.

2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Thạch Lam nói chung:

Trước hết là những tài liệu nghiên cứu về thành tựu của Văn học

Việt Nam thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trong những tài liệu này, các chuyên gia nghiên cứu về Văn học Việt Nam

hiện đại đã đưa ra những nhận định về giá trị văn chương Thạch Lam và

khẳng định đóng góp của ông vào thành tựu chung của công cuộc hiện đại

hóa Văn học nước nhà. Nhằm mục đích làm rõ những đánh giá khái quát về

thời kì Văn học, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại

năm 1942 đã khảo sát Thạch Lam với tư cách một nhà văn cùng thế hệ, đó

là lần đầu tiên sự nghiệp văn chương của Thạch Lam được đánh giá một

cách tổng thể nhất. Tuy nhiên, nhiều nhận xét của ông đưa ra không còn

phù hợp với quan điểm của đánh giá hiện nay về Thạch Lam.

Tiếp theo là các công trình nghiên cứu khác như Thạch Lam của

Nguyễn Tuân, Thạch Lam của Phạm Thế Lữ, Văn học lãng mạn Việt Nam

(1932-1945) của Phan Cự Đệ, Thạch Lam trong Tự lực Văn Đoàn của

4

Phong Lê, Một khuynh hướng truyện ngắn của Nguyễn Hoành Khung,

Thạch Lam (1910-1942) của Hà Văn Đức ...

2.2. Những bài viết nghiên cứu về chất thơ trong văn xuôi Thạch Lam.

Ngay từ lúc tập truyện ngắn đầu tay Gió đầu mùa (Nxb Đời nay, Hà

Nội, 1937) vừa mới xuất hiện, một số tác giả đã nhận thấy phạm vi hiện

thực được phản ánh trong truyện ngắn Thạch Lam là đời sống bên trong

của con người. Viết lời tựa cho Gió đầu mùa, Khái Hưng nhận xét: “Đọc

nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự thành thực”.

Như vậy, cây bút chủ chốt của Tự Lực văn đoàn đã nhận ra Thạch Lam là

nhà văn thiên về cảm xúc, cảm giác.

Tiếp nối sự phát hiện đột khởi của Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan trong

Nhà văn hiện đại cũng nhấn mạnh Thạch Lam: “có một ngòi bút lặng lẽ,

điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp,

những tình cảm, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người,

mà ông tả một cách thật tinh vi”. Chính vì thế, trong những dòng đầu tiên

giới thiệu về Thạch Lam, nhà phê bình nhận xét: “trong các truyện ngắn,

truyện dài của ông (tức Thạch Lam), tình cảm đều có vị trí đặc biệt”. Ý

kiến của Vũ Ngọc Phan đã nhận được sự đồng tình của nhiều nhà nghiên

cứu về Thạch Lam. Trong bài Tính cách tạo tác của Thạch Lam, Thế Lữ

khẳng định: “Bao nhiêu băn khoăn về nghệ thuật, bao nhiêu tư tưởng cũng

như tình cảm rung động, lúc nào cũng chứa chất dồi dào trong tâm trí: cái

kho tàng cuộc sống bên trong ấy rất sẵn châu báu mà chỉ cầm đến bút,

Thạch Lam đã thấy dàn xếp theo hình thể của lời”. Như vậy, Thế Lữ đã

nhận thấy sự hoá thân sâu sắc và yếu tố cảm xúc trong sáng tác của Thạch Lam.

Nguyễn Tuân cũng cho rằng một số sáng tác của Thạch Lam là mẫu

mực. Ông nhận xét cách lí giải về hiện thực của Thạch Lam như sau:

“Thạch Lam hay đi vào những cảnh ngộ nghịch trái, mà đồng thời cũng đi

5

sâu vào những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc, cảm giác”. Đây là lí do quan

trọng khiến cho độc giả “ngày nay đọc lại Thạch Lam vẫn thấy đầy đủ cái

dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học” .

Năm 1989, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoành Khung giới thiệu về

Thạch Lam trong Văn xuôi lãng mạn 1930-1945. Đáng lưu ý là nhận xét về

Thạch Lam có sở trường diễn tả thế giới nội tâm, “đi vào thế giới bên trong

với những cảm xúc cảm giác. Ông đặc biệt tinh tế khi diễn tả những rung

động bên trong, những cảm giác mong manh thoáng qua, những biến thái tế

nhị của tâm hồn trước ngoại cảnh”. Nhân kỉ niệm 50 năm ngày mất Thạch

Lam, Hội thảo khoa học về Thạch Lam đã quy tụ được nhiều bài nghiên

cứu có sự khám phá cả chiều rộng lẫn chiều sâu những đóng góp của ông

trên nhiều phương diện trước yêu cầu đổi mới của văn học. Vương Trí

Nhàn khẳng định: “Hướng đi vào Tâm lý của Thạch Lam là một hướng đi

rất hiện đại”. Bàn về Giải pháp điều hoà Xã hội trong văn Thạch Lam, tác

giả Lại Nguyên Ân thừa nhận: “Thạch Lam là nhà văn có đóng góp đáng

kể vào sự Phát triển của xu hướng Tâm lý trong văn xuôi nghệ thuật tiếng

Việt cả bằng thực tế sáng tác lẫn bằng các phát biểu có tính chất định

hướng lý thuyết. Đề tài Thạch Lam - nhà văn tâm lý cần được nghiên cứu

riêng”. Nhà nghiên cứu Bích Thu bổ sung thêm nhận xét về việc phản ánh

thế giới nội tâm của con người trong truyện ngắn Thạch Lam: “Dễ nhận

thấy nhân vật của Thạch Lam ít được nhấn mạnh về điệu bộ, cử chỉ, dáng

vẻ bên ngoài mà là những nhân vật “hướng nội”, có đời sống bên trong, ẩn

chứa những bí mật của “cõi người” mà nhà văn đặt mục đích khám phá và

phát hiện”. Đây chính là nét độc đáo trong sáng tác của Thạch Lam.

Trong bài Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, Phạm Phú Phong cũng

nhận thấy “tâm hồn Thạch Lam là đối tượng cho nhà văn khám phá miêu

tả”. Cùng chung suy nghĩ đó, Trần Ngọc Dung khẳng định nét khác biệt

6

trong truyện ngắn Thạch Lam chính là ở chỗ “hé mở cho ta thấy cuộc sống

ẩn kín bên trong của con người dường như chỉ biết cúi đầu trước số kiếp”.

Phan Diễm Phương cũng cho rằng “chú trọng vào đời sống tâm linh, xem

cái đời sống cần là đời sống bên trong, đời sống tâm hồn, từ đó lấy việc

diễn tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của con người làm công

việc hàng đầu - điều này nếu chưa đến mức được xem là đặc trưng tất yếu

thì cũng đã trở thành đặc trưng chất lượng của truyện, theo như quan niệm

của Thạch Lam” .

Liên quan đến vấn đề yếu tố trữ tình, nhiều tác giả đã nói đến cốt

truyện và kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ trần thuật trong sáng tác Thạch Lam.

Phần lớn ý kiến của các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh cốt truyện

của Thạch Lam rất đơn giản, hầu như không có chuyện gì đáng kể. Đúng

như nhận xét của nhà văn Nguyễn Tuân: “truyện ngắn của Thạch Lam hay

đi sâu vào “những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc, cảm giác. Cốt truyện của

ông thường ít hành động và kịch tính mà giàu những “chi tiết”, những “sự

kiện” của tâm trạng, của lòng người”.

Trần Ngọc Dung thì cho cho rằng: “nhiều truyện ngắn của Thạch

Lam là loại truyện ngắn không có truyện”. Bích Thu cũng khẳng định cốt

truyện của Thạch Lam “thường ít hành động và kịch tính mà giàu những

chi tiết, những “sự kiện” của tâm trạng, của lòng người”. Cũng như vậy,

kết cấu truyện ngắn Thạch Lam được tuân thủ theo lối kết cấu tâm lý như

lời nhận xét của Nguyễn Hoành Khung: “Ông đặc biệt tinh tế khi diễn tả,

phân tích những rung động bên trong, những cảm giác mong manh thoáng

qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại cảnh”. Tuy vậy, vẫn

cần có một cái nhìn đầy đủ về cốt truyện và kết cấu truyện ngắn Thạch Lam

trong tư cách là một thủ pháp quan trọng của phản ánh nghệ thuật.

Nhận xét về giọng điệu của truyện ngắn Thạch Lam, các nhà nghiên

7

cứu đều khẳng định giọng điệu chủ đạo trong truyện ngắn Thạch Lam là

giọng trữ tình sâu lắng. Trong bài Phong cách truyện ngắn Thạch Lam,

Trần Ngọc Dung viết: “mỗi truyện ngắn của Thạch Lam có cấu tứ và giọng

điệu như một bài thơ trữ tình”. Nhất trí với nhận xét đó, Lê Dục Tú cho rằng

“lối văn nhẹ nhàng đậm chất trữ tình man mác, giàu cảm xúc và nhạc điệu” là

yếu tố quan trọng làm nên dấu ấn đặc biệt trong văn phẩm Thạch Lam.

Đánh giá về Ngôn ngữ truyện ngắn Thạch Lam, tác giả Hà Văn Đức

trong bài Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch Lam cho rằng:

chất thơ trong tác phẩm Thạch Lam được thể hiện ở ngôn ngữ, giọng văn

thủ thỉ nhẹ nhàng “Bằng giọng văn nhẹ nhàng, thủ thỉ, Thạch Lam đã đánh

thức miền ký ức của mỗi người, đánh thức những xúc cảm thầm kín nhất,

sâu xa nhất về những kỷ niệm yêu dấu đã qua trong tâm hồn mỗi người”.

Có một điều khiến cho Thạch Lam khác với các nhà văn khác là ông để cho

nhân vật của mình thức tỉnh một cách rất hồn nhiên. Hầu như chẳng phải

chịu một thứ luân lý cao siêu nào, cũng như không hề thông qua một cuộc

đấu tranh tư tưởng nào. Truyện ngắn Thạch Lam giàu chất thơ, vì vậy chỉ

thủ thỉ nhẹ nhàng mà không gân guốc, triết lý xa xôi. Lê Thị Dục Tú cũng

nhấn mạnh nhiều đoạn văn của Thạch Lam “cho đến hôm nay vẫn có thể

coi là những đoạn văn mẫu mực cả về cú pháp lẫn hình ảnh”. Tác giả đã

dẫn ra rất nhiều câu văn, đoạn văn “hoàn hảo” trong truyện ngắn của Thạch

Lam. Lê Thị Đức Hạnh cũng nhất trí với ý kiến đó khi nhận ra sự “giản dị,

tinh tế, nhẹ nhàng, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, nhiều khi

đậm chất thơ” của ngôn ngữ trong truyện ngắn Thạch Lam. Năm 2006,

trong luận văn thạc sĩ Ngôn ngữ nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam,

Nguyễn Thị Mai Hương đã dành một phần nghiên cứu về lời văn trần thuật

và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam.

Như vậy, chất thơ và yếu tố trữ tình trong văn xuôi Thạch Lam ít

8

nhiều đã được các nhà nghiên cứu, các thế hệ độc giả đề cập tới nhưng

chưa có một chuyên luận, một công trình nào tập trung khảo sát, phân tích

một cách hệ thống toàn diện, mặc dù đây chính là hạt nhân cốt lõi làm nên một

dấu ấn Thạch Lam .

Việc vận dụng lí thuyết loại hình để soi sáng văn xuôi Thạch Lam

vẫn còn nhiều khoảng trống cần được tiếp tục khai thác. Xuất phát từ thực

tiễn đó, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu Yếu tố trữ tình trong văn xuôi

Thạch Lam.

3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu.

3.1. Đối tƣợng:

Luận văn chúng tôi quan tâm tới đối tượng nghiên cứu là những sắc

thái, biểu hiện của yếu tố trữ tình trong các tác phẩm văn xuôi Thạch Lam

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát 23

truyện ngắn được in trong cuốn Thạch Lam tuyển tập – NXB văn học,

2004; tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường; tiểu thuyết Ngày mới để làm

nổi bật được chất thơ, yếu tố trữ tình trong văn xuôi của ông.

3.3. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu:

Nhiệm vụ của luận văn là lý giải trên cơ sở khoa học những đặc sắc

nghệ thuật trong văn phong Thạch Lam được kết tinh bởi sự đan cài một

cách nghệ thuật yếu tố tự sự và trữ tình.

Từ việc tiếp cận tác phẩm của Thạch Lam và thông qua sự biểu thị

của yếu tố trữ tình, chúng tôi muốn một lần nữa tái khẳng định tài năng và

phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Từ hiện tượng Thạch Lam và

những tác phẩm đã phân tích, chúng tôi muốn chỉ ra một phương diện nữa

về lý luận: hiện tượng giao thoa về mặt thể loại, sự thâm nhập yếu tố trữ

tình, tính thơ, chất thơ vào các tác phẩm văn xuôi mà Thạch Lam là một

9

hiện tượng tiêu biểu. Điều đó cho thấy: Thạch Lam là một nhà văn có

hướng tìm tòi, đổi mới về thi pháp từ những thập niên đầu của thế kỉ XX.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các công trình nghiên trước

kết hợp với những tìm hiểu riêng trong phạm vi một đề tài nghiên cứu, luận

văn của chúng tôi sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:

Phương pháp loại hình (loại hình tự sự và loại hình trữ tình): Luận

văn đề cập đến yếu tố trữ tình trong văn xuôi Thạch Lam. Vì thế, việc vận

dụng phương pháp loại hình là cần thiết, để tìm ra nét tương đồng và khác

biệt giữa văn xuôi Thạch Lam với các tác giả khác cùng một giai đoạn.

Phương pháp hệ thống: luận văn dựa vào những lý thuyết hệ thống

đã được nhiều nhà nghiên cứu vận dụng trong các công trình nghiên cứu về

tác giả, về thể loại, phong cách, phân tích được những vấn đề cơ bản trong

thế giới nghệ thuật của Thạch Lam.

Phương pháp phân tích tổng hợp: Đây là phương pháp quan trọng

của luận văn. Trên cơ sở phân tích tổng hợp những giá trị nội dung và nghệ

thuật của các tác phẩm văn xuôi Thạch Lam, một lần nữa người viết sẽ chỉ

ra được những nét đặc sắc, những biểu hiện của yếu tố trữ tình trong các

tác phẩm của Thạch Lam. Từ đó góp thêm một tiếng nói khẳng định vị trí,

tài năng và phong cách nghệ thuật đặc sắc của Thạch Lam trong sự nghiệp

văn học nước nhà.

Phương pháp so sánh, đối chiếu: Luận văn còn sử dụng phương

pháp này để làm nổi bật sự khác biệt, độc đáo của yếu tố trữ tình trong văn

xuôi Thach Lam với các tác giả khác cùng thời. So sánh sáng tác của Thạch

Lam với sáng tác của các nhà văn hiện thực thời kì 1930 – 1945, với các

sáng tác của các tác giả nhóm Tự lực văn đoàn.

10

Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Đây là phương pháp giúp

người viết nhận diện được những đặc điểm nổi bật của thi pháp văn xuôi

nói chung và thể loại nói riêng, từ đó xác định được tính đặc trưng của yếu

tố trữ tình và tự sự.

5. Những đóng góp của luận văn:

5.1. Luận văn vừa kế thừa những nhận định, đánh giá của các nhà

nghiên cứu đi trước vừa tìm tòi, lựa chọn, khám phá để từ đó làm rõ hiện

tượng giao thoa về mặt thể loại trong văn xuôi Thạch Lam và những tìm

tòi đổi mới thi pháp của tác giả.

5.2. Kết quả của Luận văn ít nhiều góp phần gợi mở hướng tiếp cận

tác phẩm văn xuôi của Thạch Lam nói riêng, tác phẩm văn xuôi của một số

tác giả Việt Nam nói chung trên phương diện lý thuyết loại hình và đặc

trưng thi pháp. Giải quyết những vấn đề đặt ra, luận văn đem lại cho độc

giả không chỉ yêu mến nhà văn Thạch Lam mà còn có một cái nhìn đầy đủ

hơn, toàn diện hơn về tác giả. Đồng thời luận văn có thể làm tài liệu cho

giáo viên, học sinh khi nghiên cứu về tác phẩm, tác giả Thạch Lam.

6. Cấu trúc của Luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn chúng tôi gồm có 3 chương

với các nội dung như sau:

Chƣơng 1: Văn xuôi Thạch Lam và sự giao thoa giữa trữ tình và tự sự.

Chƣơng 2: Yếu tố trữ tình nhìn từ hệ thống cốt truyện, kết cấu và nhân vật

Chƣơng 3: Yếu tố trữ tình nhìn từ phƣơng thức biểu hiện.

Và cuối cùng là mục Tài liệu tham khảo.

11

CHƢƠNG 1:

VĂN XUÔI THẠCH LAM VÀ SỰ GIAO THOA GIỮA TRỮ TÌNH VÀ TỰ SỰ

1.1. Hành trình sáng tác của nhà văn Thạch Lam.

Thạch Lam, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, trong một gia

đình công chức, gốc quan lại đã đến hồi sa sút. Cha Thạch Lam là Nguyễn

Tường Nhu, sinh năm 1881, thông thạo chữ Hán và chữ Pháp, làm Thông

Phán Tòa sứ nên thường được gọi là Thông Nhu hay Phán Nhu. Mẹ là bà

Lê Thị Sâm, con gái cả ông Lê Quang Thuật (tục gọi Quản Thuật), người

gốc Huế đã ba đời ra Bắc, làm quan võ ở Cẩm Giàng cùng thời với Huyện

Giám (tức ông nội Thạch Lam). Cha mất sớm, mẹ Thạch Lam phải một

mình mua bán tảo tần nuôi mẹ chồng và bảy người con.

Muốn sớm đỡ đần cho mẹ, Thạch Lam đã nhờ mẹ nói khéo với ông

Lý trưởng cho đổi tên và khai tăng tuổi để học ban thành chung. Tiếp theo,

ông thi đỗ vào Cao đẳng Canh Nông ở Hà Nội, nhưng chỉ học một thời

gian, rồi vào trường Trung học Albert Sarraut để học thi Tú tài. Khi đã đỗ

Tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học để làm báo với hai anh. Buổi

đầu, ông gia nhập Tự Lực văn đoàn do anh là Nguyễn Tường Tam sáng lập,

rồi được phân công lo việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày nay

của bút nhóm này. Đến tháng 2 năm 1935, thì ông được giao làm Chủ bút

tờ Ngày nay. Dù trước đó có vài truyện ngắn được in báo nhưng sự nghiệp

văn ho ̣c củ a Tha ̣ch Lam chủ yếu bắt đầu từ năm 1935 và ông thực sự được khẳng đi ̣nh vào năm 1937, khi tâ ̣p truyê ̣n ngắn Gió đầu mùa ra mắt đô ̣c giả. : truyê ̣n Từ đây , Thạch Lam viết khá đều và thử bút trên nhiều thể loại ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, truyê ̣n thiếu nhi , phê bình, tiểu luâ ̣n…Vào ngày 27 tháng 6 năm 1942, Thạch Lam mất tại nhà riêng ở Hà Nội vì căn bệnh

lao phổi, năm ông 32 tuổi.

Không giống như nhiều tác giả văn chương khác với khối lượng tác

12

phẩm đồ sộ, số lượng tác phẩm của Thạch Lam có thể nói là khá ít. Hầu hết

sáng tác của Thạch Lam được đăng báo trước khi in thành sách. Tuy nhiên,

những tác phẩm ấy tiêu biểu cho một tâm hồn văn chương độc đáo, tinh tế

và giàu xúc cảm.

Ba tâ ̣p truyê ̣n ngắn (hầu hết trướ c khi in thành sách đã in trên báo

Ngày nay của Tự lực văn đoàn : Gió đầu mùa (1937), Nắ ng trong vườ n (1938), Sợi tó c (1942).

Tập Gió đầu mùa (NXB Đời nay), bao gồm các truyện ngắn đăng

trên báo Ngày nay từ 1936 đến 1937. Đó là các truyện Những ngày mới,

Duyên số, Một đời người, Đứa con đầu lòng, Một cơn giận, Nhà mẹ Lê,

Người lính cũ, Tiếng chim kêu, Một thoáng nhà thương, Cái chân què, Gió

lạnh đầu mùa, Hai lần chết, Người bạn trẻ, Bà đầm, Truyện bốn người ...

Ngay trong tác phẩm đầu tay của ông (Gió đầu mùa), người ta cũng đã

nhận thấy ông đứng vào một phái riêng về lối viết. Trong những truyện

ngắn của Gió đầu mùa, Thạch Lam đã làm cuốn hút say mê người đọc bởi

lối miêu tả giàu cảm xúc. Những cảm giác con con, Thạch Lam tả rất khéo,

rất tài tình, làm cho người đọc cũng dự vào một phần suy nghĩ. Người ta

thấy rất nhiều đoạn mà cảm tình, cảm tưởng hay cảm giác có một địa vị rất

quan trọng, nhiều khi nó là then chốt cho cả một truyện. Khái Hưng trong

lời giới thiệu gió đầu mùa đã viết: “Trong văn mình, Thạch Lam rất chú ý

tới những cảm giác. Tuy Thạch Lam không nói rõ, song ngày nay đọc lại có

thể thấy việc ghi nhận cảm giác kiểu đó gắn liền với một loại ngụ ý khác:

muốn vượt ra ngoài cái sáo mòn, thành kiến, mở rộng lòng ra để như là lần

đầu được tiếp xúc với con người và sự việc; sùng bái cái tươi mới, cái tự

nhiên, bao gồm cả cái run rẩy bé nhỏ nhất trước hiện thực; từ chối những

tình tiết, những cốt truyện gay cấn, coi rằng cái đó không quan trọng, từ đó

làm toát lên một cảm giác buồn bã về đời sống, dù vẫn luôn biết rằng chỉ có

13

đời sống mong manh này là đẹp, là bền chắc ...” [28].

Nhưng trong tập Gió đầu mùa, những cảnh nghèo, những cảnh đồng

ruộng, ông còn tả bằng nét bút ngượng ngập, tỏ ra nhà văn chuyên tả tình

còn chưa quen với lối tả cảnh. “Tuy là một tập truyện đầu tay mà Gió đầu

mùa đã có được những truyện chua chát và cảm động như Một cơn giận,

thiết tha và tức tưởi như Tiếng chim kêu, thê thảm và nhạo đời như Đói, nhẹ

nhàng và có duyên như Cô áo lụa, bi thương và chán ngán như Người lính

cũ, lầm lẫn và thảm thương như Hai lần chết, thì thật cũng xứng đáng với

sự hoan nghênh của công chúng khi tập truyện mới ra đời” [17; 49].

Tập truyện ngắn Nắng trong vườn (NXB Đời nay, Hà Nội ) gồm các

truyện ngắn đăng trên báo ngày nay từ năm 1937 đến 1938: Nắng trong vườn,

Đứa con, Bông hoa rừng, Bóng người xưa, Bên kia sông, Cuốn sách bỏ quên,

Một bức thư, Hai đứa trẻ, Buổi sớm, Cô hàng xén, Tiếng sáo, Tình xưa...

Trong tập truyện ngắn Nắng trong vườn, Thạch Lam cũng đã viết

một lối văn giản dị và êm ái nhưng có nhiều truyện không được đậm đà,

làm cho người đọc dễ chán. Theo nhận xét của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc

Phan: “ Sự thật thì ông cố ý làm cho đơn giản, đơn giản cả về văn lẫn cốt

truyện, nên làm mất cả hứng thú. Người ta bảo Thạch Lam rất chú trọng

vào sự thật, nên khi thấy cuộc sống của phần đông người Việt Nam giản dị

và tầm thường, ông cũng chỉ xây dựng những truyện giản dị và tầm thường.

Không thêm thắt và cũng không tô điểm”[17; 49].

Trái hẳn với tập Gió đầu mùa, trong tập Nắng trong vườn, tác giả tả

tình rất ít, chỉ chuyên riêng về mặt tả cảnh, tác giả tả hết “nương chè bên

sườn đồi”, lại đến “vườn sắn trên sườn đồi”, rồi lại đến đất, trời, mây, nước,

gió thổi, chim kêu, có mấy cảnh đó, tác giả phô bày hết nên khiến người

đọc cảm thấy nhàm và đơn điệu. Trong tập truyện này, Tiếng sáo được đánh

giá hay hơn cả vì nó bao hàm một ý nghĩa sâu sắc: sự say mê yêu mến nghệ

14

thuật - nghệ thuật âm nhạc; ở đây, tiếng đàn của một kẻ độc ác cũng có thể

là những thanh âm réo rắt, cảm động người ta một cách êm ái.

Tập truyện ngắn Sợi tóc- 1941, (NXB Đời nay, Hà Nội) gồm các

truyện ngắn đăng trên báo Ngày nay từ năm 1939, 1940 khi Thạch Lam

bắt đầu bị bạo bệnh. Đó là các truyện: Tối ba mươi, Sợi tóc, Cô hàng

xén, Tình xưa, Dưới bóng hoàng lan. Tập truyện ngắn Sợi tóc đã đánh

dấu một bước tiến khá dài trên con đường nghệ thuật của Thạch Lam.

Vẫn là những truyện tình cảm, nhưng ở đây người ta thấy vừa sâu sắc,

vừa đẹp đẽ vô cùng về cả văn lẫn cả kết cấu. “Trong Sợi tóc có tất cả

năm truyện, thì trừ truyện Dưới bóng hoàng lan, không có gì đặc sắc,

còn những truyện Tối ba mươi, Cô hàng xén, Tình xưa, Sợi tóc đều là

những truyện vào hạng đoản thiên tiểu thuyết đáng kể là hay nhất trong

văn chương Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan).

Tác phẩm Ngày mới là một truyện dài độc nhất của Thạch Lam.

Trong tập này, người ta cũng thấy nhiều đoạn rất xinh tươi, tả tình và tả

cảnh như các truyện ngắn trong tập Sợi tóc, tuy nhiên Tiểu thuyết Ngày mới

không được đánh giá cao về cốt truyện và nghệ thuật. Ngày mới kể về

Trường – vai chính trong truyện, là một thiếu niên học khá, thi đỗ, rồi lấy

vợ. Vợ chàng là con nhà thanh bạch, chàng phải đi làm ở một sở buôn để

nuôi vợ con, nhưng số lương không đủ chi dụng, nên cái gia đình nhỏ của

chàng luôn luôn túng thiếu. Chàng khao khát sự giàu sang, ghen ghét

những người hơn mình. Sau vì đến chơi một người bạn giàu có, có tính thị

của và ngốc, chàng mới tỉnh ngộ và suy xét mà hiểu ra rằng cái “phong phú

trong lòng” mình mới là cái đáng quý và từ ngày ấy chàng yên phận nghèo.

Như vậy, nếu là ngày mới, Trường ít ra phải thay đổi cả cuộc sống của

mình, chứ chỉ biết yên phận nghèo không, không đủ.

Bên cạnh đó, Ngày mới còn có nhiều đoạn rất đẹp về tả tình và tả

15

cảnh: “Chung quanh chàng yên lặng: mặt trăng đã lên quá đỉnh đầu, sáng

láng trên nền trời trong vắt. Sương xuống đã thấm vào người. Trường thong

thả trở về buồng. Đến dưới giàn hoa, chàng quay lại nhìn cảnh vườn, và

qua dãy tre thưa lá, quãng rộng mà dòng sông đưa lên tiếng róc rách của

nước chảy. Đột nhiên chàng giật mình. Trong bóng tối của giàn hoa, chàng

thoáng thấy bóng người đứng nép vào dưới khóm cây. Chàng bước lại gần.

Một tiếng nói quen thuộc khẽ gọi tên chàng, giọng dịu dàng và cảm động.

Trường đứng sát bên nàng. Trong bóng tối, chàng thấy đôi mắt Trinh long

lanh sáng và nghe thấy tiếng thở không đều của người thiếu nữ. Qủa tim

chàng bỗng đập mạnh, và một tình cảm mến yêu dồn dập đến; Trường cầm

lấy bàn tay nhỏ nhắn của Trinh kéo lạ gần mình…” (Ngày mới).

Thạch Lam có viết sách cho trẻ em. Cuốn Quyển sách và cuốn Hạt

ngọc tả cảnh thôn quê cốt giới thiệu cảnh làm lụng ở nông thôn của một

chú bé sống ở thị thành.

Ngoài các tập truyện, Thạch Lam có viết một tác phẩm tuỳ bút xinh

gọn duyên dáng để ca ngợi những phong vị đặc sắc của thủ đô. Tập Hà Nội

băm sáu phố phường được truyền tụng nhiều, nhất là đối với những người

có ít nhiều có quan hệ trực tiếp với cuộc sống vật chất và tinh thần hồi đó

của thủ đô Hà Nội. Hà Nội băm sắu phố phường có giá trị của một tác

phẩm văn học giúp ta nhận thức thêm về những khía cạnh nhiều màu nhiều

vẻ của văn hoá, của đất và người Tràng an, Thăng Long ngàn năm văn vật.

Thạch Lam còn có một số bài tiểu luận văn học, sau gộp lại in ra

năm 1941, với tên sách Theo giòng. Theo giòng là một tập cảo luận góp

những bài báo đăng tải rải rác trên Ngày nay và Chủ nhật vào năm 1930 –

1940 (Theo giòng nghĩa là theo dòng tư tưởng, theo dòng thời gian không

có sắp đặt thứ tự trước). Đây là những ý nghĩ của Thạch Lam về văn nghệ.

Tuy tác phẩm mỏng manh lại không nhất quán, song là một đặc sắc, một

16

tập lý thuyết văn nghệ độc nhất của nhóm Tự lực văn đoàn và của cả văn

học mới trước năm 1940. Nó cho ta thấy quan niệm của Thạch Lam về

nhiều vấn đề văn học nói chung như: Thế nào là tiểu thuyết hay, tiểu thuyết

để làm gì, số phận các tác phẩm văn chương, cảm hứng và làm việc, ….và

văn học Việt nam nói riêng như: Tiểu thuyết ở Việt Nam, Người nhà quê

trong văn chương. Đại để ông chủ trương văn nghệ và tiểu thuyết nói riêng

có mục đích làm giàu cuộc đời, phong phú tâm hồn; người đọc không nên

đọc để thoát ly mà đọc để suy nghĩ, phải thành thật, phải có một tâm hồn

phong phú mới tạo ra tác phẩm vững bền. Ông luôn suy ngẫm trăn trở về

thiên chức của nhà văn: “Văn chương không phải là một cách đem đến cho

người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một khí giới

thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế

giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và

phong phú hơn”.

Thạch Lam mất ngày 28 tháng 6 năm 1942. Căn bệnh lao quái ác đã

đột ngột cướp đi của Tự lực văn đoàn một cây bút tài hoa khi tài năng đang

được khẳng định. Thạch Lam đã sống một đời văn quá ngắn ngủi nhưng

những tác phẩm văn chương của ông thì còn mãi.

1.2. Sự thâm nhập giữa trữ tình và tự sự trong văn xuôi Thạch Lam.

1.2.1. Yếu tố trữ tình.

Nói tới yếu tố trữ tình là nói đến tính thơ, chất thơ trong thi ca . Tính

trữ tình là đă ̣c trưng nổi bâ ̣t nhất củ a nô ̣i dung thơ.“Nhiê ̣m vu ̣ chính củ a thơ là gợi lên cho ý thức nhận thấy sức mạnh của cuộc sống tinh thần và tất cả

những gì lay đô ̣ng ta , làm ta xúc cảm trong các dục vọng và các tình cảm nhân tính” [14; 484].

, kể lại sự vật Đú ng như vâ ̣y , thơ không chỉ dừ ng la ̣i ở viê ̣c miêu tả

bên ngoài mà chủ yếu bô ̣c lô ̣ tâm tra ̣ng , cảm xúc, những rung đô ̣ng củ a con ngườ i trướ c sự vâ ̣t xung quanh.

17

Nhưng trướ c hết cũng cần sơ bô ̣ phân biê ̣t “trữ tình” vớ i “lãng ma ̣n” . Lãng mạn trong văn học bao gồm các th uâ ̣t ngữ liên quan : chủ nghĩa lãng mạn, phương thứ c lãng ma ̣n, hình thái lãng mạn, tính chất lãng mạn, yếu tố lãng mạn...Trong đó , chúng ta cần phân biệt rõ yếu tố lãng mạn và yếu tố trữ tình. Yếu tố lãng ma ̣n có thể h iểu là yếu tố mang thuô ̣c tính thẩm mĩ biểu hiê ̣n chủ yếu ở chỗ vươn lên trên thực ta ̣i và có rải rác trong li ̣ch sử . Nó cùng với trữ tình là hai phạm trù nghệ sáng tạo văn học nghệ thuật

thuâ ̣t nằm trên những phương diê ̣n khác nhau. Đối lập với lãng mạn là hiện . Trữ tình là kết quả củ a viê ̣c thực, nhưng đối lâ ̣p vớ i trữ tình la ̣i là tự sự biểu hiê ̣n cảm xú c và tâm tra ̣ng chín muồi đâ ̣m đă ̣c củ a thế giớ i chủ quan . Chính vì thế mà trữ tình vớ i lãng ma ̣n, mă ̣c dù khác nhau, nhưng thườ ng đi đôi vớ i nhau . Tuy vâ ̣y, “sự gắn bó này dù thườ ng xuyên nhưng không tất yếu. Chúng hoàn toàn có thể đi đôi với mặt đối lập của nhau . Trữ tình có thể rất hiê ̣n thực, trái lại, tự sự có thể rất lãng ma ̣n” [18;134].

Theo Giáo trình Lí luận văn học tập 2 (tác phẩm và thể hoại văn

học) của Trần Đình Sử chủ biên thì trữ tình được xác định là một trong

những phương thức nhằm tạo dựng hình tượng trong văn bản văn học cùng

với các phương thức khác như: trần thuật, miêu tả, nghị luận. Trữ tình là

biện pháp cơ bản nhất nhằm bộc lộ, tư tưởng, tình cảm của tác giả. Theo

đó, các tác giả chia các yếu tố trữ tình thành: trữ tình thực tiếp và trữ tình

gián tiếp.

Trữ tình trực tiếp là cách thức dùng ngôi thứ nhất để giãi bày, bộc lộ

thái độ, quan điểm trực tiếp của tác giả:

Tôi muốn tắ t nắ ng đi

Cho mà u đừ ng nhạt mất Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừ ng bay đi

(Vô ̣i vàng – Xuân Diê ̣u)

18

Để bô ̣c lô ̣ suy nghĩ , mong muốn củ a b ản thân, Xuân Diê ̣u xuất hiê ̣n vớ i cách xưng hô “tôi” . Chính vì thế , cảm hứng trữ tình được bộc lộ một cách trực tiếp , thẳng thắn khiến cho cả khổ thơ vang lên mô ̣t âm điê ̣u

chung: tình yêu thiên nhiên tha thiết , khát vọng mãnh liê ̣t muốn níu giữ vẻ

đe ̣p củ a thiên nhiên mà ẩn chứa trong đó tuổi trẻ và tình yêu.

Trữ tình gián tiếp là cách thức tác giả giấu ngôi thứ nhất, mượn cảnh,

mượn người, mượn việc nào đó để bộc lộ thái độ, quan điểm, tình cảm của

bản thân:

Gió theo lối gió, mây đườ ng mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử)

Trong khổ thơ trên , chủ thể trữ tình không xuất hiện mà chỉ có hình

ảnh của thiên nhiên . Tác giả mượn hình ảnh của thiên nhiên , cảnh vật để

nói lên tâm trạng của bản thân. Cụ thể là thi nhân mươ ̣n hình ảnh gió , mây, sông, hoa, trăng tan tác , chia lìa thể hiê ̣n nỗi buồn vừa man mác v ừa đau thương của lòng người.

Yếu tố trữ tình là một đặc trưng của thơ ca nhưng không vì thế văn

xuôi lại thiếu đi yếu tố này đặc biệt là với một số tác giả tiêu biểu như: Nhất

Linh, Hoàng Đạo , Khái Hưng , Thanh Ti ̣nh, Thạch Lam, Nguyễn Tuân ...

Trong văn xuôi, các đoạn đô ̣c thoa ̣i, các đoạn phát biểu trực tiếp củ a ngườ i kể chuyê ̣n đều có chứ a các yếu tố trữ tình trực tiếp. Những đoạn tả cảnh thường có sắc thái trữ tình gián tiếp. Điều đó đươ ̣c thể hiê ̣n qua mạch văn giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, ngôn ngữ mềm mại, giàu sắc màu và nhịp điệu.

1.2.2. Yếu tố tự sự

Thuật ngữ tự sự thường được hiểu là một kiểu, một loại hình tác

19

phẩm văn học. Tự sự được gắn liền với thuật ngữ tác phẩm. Theo đó, tác

phẩm tự sự là sự tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó.

Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống

trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra trong cuộc đời

con người. Trong tác phẩm tự sự nhà văn cũng thể hiện tư tưởng và tình

cảm của mình. Nhưng ở đây, tư tưởng và tình cảm của nhà văn thâm nhập

sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài của con người tới mức giữa

chúng dường như không có sự phân biệt nào cả […]. Nguyên tắc phản ánh

hiện thực trong tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí của nhân tố tổ

chức ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, đòi hỏi nhà văn phải tạo ra

hiện tượng “người trần thuật” [52; 285]. “Người trần thuật” ở đây là người

kể chuyện. Điều này cho thấy phương thức cơ bản của tác phẩm tự sự là

“kể”. Tuy nhiên để làm cho văn học phong phú, đa dạng không thể để cho

một tác phẩm tự sự ch ỉ có các yếu tố tự sự mà không có các yếu tố khác

như biểu cảm, miêu tả hay nghị luận. Ngược lại ở các tác phẩm văn học

khác như nghị luận, miêu tả, hành chính – công vụ ta có thể sử dụng các

yếu tố tự sự để làm tăng hiệu quả văn bản . Vì vậy, tự sự không thể chỉ hiểu

theo nghĩa gắn liền với một tác phẩm cụ thể mà còn được hiểu là

phương thức biểu hiện gắn liền với cách kể chuyện.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi chủ

biên thì: “Tự sự là phương thức phản ánh hiện thực qua các sự kiện, biến cố

trong cuộc sống làm cho tác phẩm tự sự trở thành một câu chuyện về ai đó

hay về một cái gì đó” [19; 129].

Cũng giống như nhiều tác phẩm văn xuôi khác, truyện của Thạch

Lam cũng sử dụng phương thức chủ yếu là tự sự. Tuy nhiên tính tự sự trong

những tác phẩm này lại được thể hiện độc đáo và khác biệt. Tất cả được hòa

quyện chung với yếu tố trữ tình tạo nên sự đồng điệu đến ngạc nhiên, thú vị.

20

Mă ̣t khác , Lê Quý Đôn đ ã từng nói : “Ta cho thơ có ba điều chính mô ̣t tình, hai cảnh , ba sự”. Điều đó cho thấy , trong thơ ca ngoài tính trữ . Sự ở đây là chỉ tình thì yếu tố tự sự cũng góp một phần không thể thiếu

vâ ̣t, viê ̣c và như vậy, nó là một phần củ a yếu tố tự sự trong thơ ca.

1.2.3. Sự giao thoa giữa yếu tố trữ tình và tự sự

Theo cách hiểu thông thường, trữ tình thường gắn liền thơ ca còn tự

sự thường gắn với văn xuôi. Tuy nhiên không vì thế chúng không giao

thoa, thâm nhập lẫn nhau. Ta vẫn tìm thấy đâu đó những vần thơ mang yếu

tố tự sự và ngược lại, vẫn có những dòng văn dào dạt cảm xúc, thấm đượm

tính trữ tình. Để thấy rõ hơn điều này, chúng ta cần xem xét thơ và văn xuôi

trong nhiều tương quan, đặc biệt là tương quan loại hình.

Thơ ca cũng có yếu tố tự sự. Để đạt hiệu quả nghệ thuật cao, tự sự

phải được thể hiện qua đặc trưng và những ưu thế thể loại của truyện ngắn,

truyện vừa, tiểu thuyết...Vì chúng là môi trường tốt nhất để yếu tố này thể

hiện khả năng vượt bậc trong cách kể và dẫn dắt cốt truyện, cách miêu tả

chân dung và số phận nhân vật. Tuy nhiên trong thơ ca cũng không ít

những vần thơ mang yếu tố tự sự. Chất tự sự đi vào thơ ca, ngoài các tác

phẩm thơ tự sự như Trường ca, Anh hùng ca, Truyện thơ (Truyện Kiều -

Nguyễn Du, Bài ca chim chrao – Thu Bồn, Mặt đường khát vọng - Nguyễn

Khoa Điềm ...) còn được thể hiện trong các bài thơ trữ tình. Có thể đó là sự

giản dị, gần gũi, mộc mạc như chính cuộc sống hàng ngày, không có sự

gián cách và ước lệ:

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)

21

Tính tự sự trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Ph ạm Tiến

Duật đươ ̣c thể hiê ̣n qua n gôn từ giản di ̣ như mô ̣t bài diễn xuôi có vần điê ̣u . không kính trong Chính vì vậy khiến cho hình ảnh của những chiếc xe

những vần thơ trên trở nên quen thuô ̣c, gắn bó vớ i đô ̣c giả.

Bài thơ Mẹ Tơm cũng được tác giả viết với tất cả dòng cảm xúc cao

quý của thơ ca, gửi gắm lòng biết ơn vô hạn người mẹ đã nuôi dưỡng mình

trong những ngày vượt ngục. Từ xúc cảm cụ thể, thông qua một câu chuyện

cũ, bài thơ đã vươn đến tầm triết lí về cách mạng, nhân dân, Đảng và Tổ

quốc. Tác giả đã chọn thể loại thơ trữ tình kết hợp với tự sự thích hợp bằng

giọng điệu tâm tình. Kết cấu của bài thơ theo diễn biến của cuộc hành trình

và theo sự vận động nội tâm của tác giả:

Bâng khuâng chuyện cũ: Một chiều thu

Mười chín năm xưa, mấy bạn tù

Vượt ngục, băng rừng, tìm mối Đảng

Duyên may, dây nối, đất Hanh Cù.

……………………………………

Ôi bóng người xưa, đã khuất rồi

Tròn đôi nắm đất trắng lưng đồi

Sống trong cát chết vùi trong cát

Những trái tim như ngọc sáng ngời

(Mẹ Tơm – Tố Hữu)

Chế Lan Viên – nhà thơ của sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh

hướng suy tưởng - triết lí cũng có những vần thơ thể hiê ̣n tính tự sự đô ̣c đáo: Thuở bé tôi mê chim và chá n cá c bà i hình học Thơ phải là vô đi ̣nh vô hình bá t ngát bay...bay...bay... Nào đâu biết chim viễn du theo đội hình tam giác

Bài toán tôi làm dở ở trường tôi giải đáp giữa trời mây.

(Đội hình chim viễn du – Chế Lan Viên)

22

Yếu tố tự sự đươ ̣c nhìn nhâ ̣n qua củ a giọng điệu s uy tư, trầm lắng như muốn đưa ngườ i đo ̣c vào thế giớ i tuổi thơ , thế giớ i củ a kí ứ c , hồi tưở ng. Ngoài ra còn phải kể đến yếu tố chính luận thấm đượ m trong những vần thơ. Yếu tố tự sự và chính luâ ̣n hòa quyê ̣n vào nhau ta ̣o nê n đă ̣c trưng riêng trong những sáng tác củ a Chế Lan Viên.

Ngoài ra, trong những vần thơ củ a Nguyễn Duy , yếu tố tự sự đươ ̣c

lịch sử cuộc đời , quê hương, kỉ

thể hiê ̣n qua những chi tiết thoáng qua về niê ̣m tuổi thơ ... Đây là hình ả nh về mô ̣t tuổi thơ chân đất ở làng quê qua cách kể bằng thơ của Nguyễn Duy:

Thủa nhỏ tôi ra Cống Na câu cá

Níu váy bà đi chợ Bình Lâm

Bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật

Và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần

Thủa nhỏ tôi lên chơi đền cây Thị

Chân đất đi đêm xem lễ Đền Sòng.

Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm

Điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.

(Đò Lè n – Nguyễn Duy)

Văn xuôi cũng chứa đựng các yếu tố trữ tình. Chất trữ tình

trong văn xuôi không chỉ là chỉ thứ ngôn ngữ bóng bẩy, giàu cảm

xúc và có tính nhạc trong lời văn, nhiều từ ngữ gợi chứ không tả… Chất

trữ tình trong văn xuôi được biểu hiện ở cả nội dung và hình thức.

Về nội dung: phải có nhiều cảm xúc và trí tưởng tượng, liên tưởng

nghĩa là phải bay bổng, hướng tới cái thi vị lãng mạn, cái nên thơ của cuộc

sống và con người. Nó thường được thể hiện qua hai khía ca ̣nh : cảnh và ngườ i. Đối với cảnh, tác phẩm văn xuôi thường tập trung miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên có thể trong sáng , tinh khôi, huyền ảo, thần tiên h oă ̣c cũng có

23

thể tan tác, chia lìa, buồn thương. Qua đó gơ ̣i nhiều cảm xúc cho con ngườ i trướ c cảnh vâ ̣t ấy . Trong những tác phẩm văn xuôi mang yếu tố trữ tình , con ngườ i thườ ng đươ ̣c khám phá những vẻ đe ̣p sâu xa tiềm ẩn , những rung đô ̣ng sâu kín và khao khát tự do , hạnh phúc. Con ngườ i đă ̣t trong mối giao cảm vớ i thiên nhiên và chính hiê ̣n thực mà nó tồn ta ̣i . Vì thế mà trong văn xuôi, ta thấy xuất hiện những trang văn mươ ̣t mà , giàu cảm xúc khi ến tâm hồn độc giả thổn thức, say mê.

Về hình thức: lời văn phải giàu hình ảnh – có thể là trực quan hoặc

ẩn dụ, biểu tượng (không chỉ trình bày vấn đề bằng những khái niệm, phán

đoán, suy luận, trừu tượng, khô khan, mà còn cần có những bức tranh về

cuộc sống và con người cụ thể, sinh động, nhiều màu sắc, âm thanh…và

nhạc điệu du dương, trầm bổng, nhịp nhàng với tiết tấu đa dạng… ).

Tóm lại, đây là hình thức thơ trong văn xuôi bởi có sự xâm thực khá

mạnh của các yếu tố trữ tình vào văn xuôi, khiến văn xuôi tự sự trở thành

những áng thơ - văn xuôi đầy ám gợi và quyến rũ. Tính lưỡng phân ở cấp

độ đồng đẳng giữa thơ và văn xuôi cũng như sự đan xen giữa yếu tố hiện

thực và lãng mạn, giữa tính tự sự và trữ tình đã dệt nên đặc trưng thẩm mỹ

riêng biệt, khó lẫn cho loại hình này.

Sự thâm nhập của yếu tố trữ tình vào tác phẩm tự sự là một hiện

tƣợng khá phổ biến trong văn học. Nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới

với những tác phẩm của họ đã hình thành nên phong cách độc đáo: truyện

ngắn thơ, tiểu thuyết thơ như Vichto Huygô, Tuôcghênhép, Pautôpxki,

Amatốp ... Trong văn học Việt Nam có Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,

Tô Hoài, Anh Đức, và được tiếp nối và bổ sung với Nguyễn Huy Thiệp,

Nguyễn Thành Long, Đỗ Chu, Nguyễn Ngọc Tư ....

Vichto Huygô (1802-1885) - hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn, được

mệnh danh “thần đồng thi ca” và là nhà văn lãng mạn số một của dân tộc

24

Pháp. Những người khốn khổ là một bộ truyện lớn nhất mà cũng là tác

phẩm có giá trị nhất trong sự nghiệp sáng tác của Vichto Huygô.

Những người khốn khổ là bức tranh của một xã hội Pháp thời bấy

giờ. Yếu tố trữ tình đươ ̣c phản ánh ngay trong chính nô ̣i dung tác phẩm vớ i những vấn đề lớn lao trong xã hội Pháp đầu thế kỷ XIX. Trong đó là những

mảnh đời đen tối, khốn cùng, những con người tì vết bị xã hội chà đạp, xua

đuổi nhưng phi thường, mạnh mẽ và đầy lòng yêu thương. Đó là một bản

anh hùng ca của thời đại chống lại cường quyền, chống lại áp bức bóc lột.

Đó là lòng thương sâu xa đối với những con người bị xã hội chà đạp. Có

những lúc nó mang lại chất thơ cho tiểu thuyết với những chương trữ tình

ngoại đề mở rộng, khi lại hùng tráng, bi ai thể hiện tính sử thi của tác

phẩm, nhưng hơn cả, đem lại sức sống cho tiểu thuyết. Tác phẩm đã vượt

lên hiện thực khô khốc với sức mạnh ghê gớm của đồng tiền, của luật pháp

để hướng đến những tình cảm yêu thương của con người. Đó là tình thương

yêu giữa những người trong gia đình, tình yêu và trên hết là tình yêu

thương đồng loại của những con người trong cộng đồng có chung hoàn

cảnh và số phận của cuộc đời éo le, nghèo khổ. Một Giăng Van Giăng

thương yêu chị gái và đàn cháu nhỏ; yêu thương Côdét bằng một tình yêu

vĩ đại. Făngtin một người mẹ với tình yêu thương con vô bờ bến. Nam tước

Phôngmecxi người cha yêu con hết lòng. Ông chấp nhận sống cô độc một

mình và chỉ đứng nhìn trộm con trong nhà thờ để Mariuytx được thừa kế

gia sản của người ông và bà cô. Và đặc biệt là tình yêu thương của

Mariuytx và Côdét. Họ yêu nhau bằng tình yêu trong sáng và nồng nàn của

tuổi trẻ. Bên cạnh đó còn có tình yêu thương đồng loại của đức cha Myrien,

của cụ Mabớp, của Gavrốt, Giăng Van Giăng. Những tình cảm ấy đã làm

lay động cả một bộ mặt luật pháp khô cứng, tối tăm mà Giave chính là đại

diện tiêu biểu.

25

Qua tác phẩm Những người khốn khổ, Huygô thể hiện tính thời sự đó

là ca ngợi tình thương yêu của những con người bình thường, miêu tả

những tình cảm đau lòng dưới đáy xã hội Pháp với cả chiều rộng và chiều

sâu. Không còn đẳng cấp, địa vị, không còn tôn sùng lý trí với những quy

tắc tam duy nghiêm ngặt. Trong chủ nghĩa lãng mạn tình yêu của con người

được khai thác ở mọi phương diện, thiên nhiên được phản ánh một cách

sinh động nhất, trở thành nơi phản ánh nội tâm và nuôi dưỡng tình cảm của

con người. Mộng tưởng và tình cảm của con người được đề cao, hướng đến

một cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc, hướng đến cái khoáng đạt

phi thường và tìm kiếm sự tự do tuyệt đối.

Nói đến văn học thế giới không thể không kể đến văn học Nga với

những tác giả tiêu biểu như Puskin, Lermentov, Macxim Goorki… Goorki đã kế thừa truyền thống lãng mạn tiến bộ của các nhà văn nổi tiếng như

Puskin, Lermentov…Ngay từ nhỏ Goorki đã r ất say mê các nhân vật lãng

mạn, sôi nổi chan chứa khát vọng tự do trong sáng tác của Sile, Bairơn.

Nhưng quan trọng hơn hết là ông đã tiếp thu sâu sắc sức sống mãnh liệt, bất

khuất, luôn vươn dậy mạnh mẽ của nhân dân, biểu hiện trong những truyền

thuyết, cổ tích…Mô ̣t số tác phẩm chứ a đựng yếu tố lãng mạn trữ tình như: Makar Tsudra (1892), Nàng tiên nhỏ bé và chàng chăn cừu (1892), Bà lão

Izecghin (1894), Bài ca con chim ưng (1895), Về con chim yến nói dối và

con gõ kiến yêu chân lí (1893), Cô gái và thần chết (1892), Những mẩu

chuyện nước Ý (1906-1913), …

Truyện Nàng tiên nhỏ bé và chàng chăn cừu (1892), về sau tác giả

cho in bài thơ rút trong tập này với nhan đề Truyền thuyết về Marco nói về

mối tình của chàng chăn cừu và nàng tiên nhỏ bé trong rừng rậm. Chàng là

con người luôn gắn liền với thảo nguyên lộng gió, bao la, chan hoà ánh

nắng của “Thảo nguyên thân yêu! bốn bề tít tắp. Cỏ mọc tràn lan ngời ngời

26

trắng bạc. Giá tự do xoè rộng cánh tung bay. Cùng thảo nguyên âu yếm vui

chơi…”. Chàng sung sướng khi thấy những tia chớp xé rách bầu trời nặng

trĩu, báo hiệu cơn bão táp sắp đến. Chàng reo lên “chẳng có gì mạnh mẽ và

đẹp hơn bão táp!” Cái chất trữ tình “thảo nguyên” đó của chàng hoàn toàn đối lập với cuộc sống “rừng rậm” của nàng tiên nhỏ bé. Yếu tố trữ tình đã thi vị hoá cuộc sống ngột ngạt tăm tối trong rừng rậm. Và nàng tiên nhỏ bé

đã chết sau khi đem lòng yêu chàng chăn cừu trẻ tuổi bởi vì nàng chỉ quen

sống trong thế giới yên tĩnh, chật hẹp, đã không chịu nổi không khí đấu

tranh và tự do của đồng cỏ bao la.

Có thể nói những tác phẩm lãng mạn của Goorki là những bản tuyên

ngôn khẳng định lòng tin yêu vào cuộc sống và con người, về mối quan hệ

giữa cá nhân và tập thể. Yếu tố trữ tình trong viê ̣c k ế thừa truyền thống lãng mạn tiến bộ của văn học quá khứ đã giú p nhà văn xây dựng nên những tác phẩm thể hiện những cảm hứng rất mới mẻ, phản ánh những khát vọng

của nhân dân khi phong trào cách mạng vô sản đang dâng dậy.

Ở Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XX đến năm 1945 đã diễn ra

quá trình tiếp xúc, giao lưu mạnh mẽ và rộng rãi giữa văn học dân tộc với

văn học Pháp cũng như với một số nền văn học lớn trên thế giới. Sự ảnh

hưởng về phong cách sáng tác của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới đến

các tác giả Việt Nam là không nhỏ. Hơn thế nữa, nó góp phần hình thành

một đời sống văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX hết sức phong phú đa dạng.

Trong những năm 20, tiểu thuyết Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách ) xuất

hiện như một sự kiện làm đảo lộn những lối viết truyền thống. Kết cấu

cuốn tiểu thuyết này theo quy luật tâm lý, đã đi sâu vào khám phá đời sống

nội tâm con người. Văn xuôi Tố Tâm vì vậy giàu chất thơ, chất trữ tình.

Nói đến sự thâm nhập của chất thơ vào văn xuôi không thể không kể

đến các sáng tác của Tự lực văn đoàn. Đây là một văn phái đã xây dựng

27

được một nền tiểu thuyết có kết cấu và cốt truyện chặt chẽ, lối kể chuyện

hấp dẫn, duyên dáng; ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm và giàu chất thơ.

Những trang miêu tả tâm lý tinh tế có khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm

của con người.

Hiện tượng cộng sinh thể loại cũng xuất hiện trong tác phẩm các nhà

văn hiện thực phê phán. Nhiều tác phẩm của họ tuy mang nội dung phản ánh

hiện thực, mang những tiếng chửi căm thù vào thực dân phong kiến lúc bấy

giờ nhưng đôi khi cũng đậm chất trữ tình và giàu chất thơ. Chẳng hạn tác

phẩm Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng đượm màu sắc lãng mạn, trữ

tình. Trong tập tiểu thuyết tự truyện rất xúc động này, Nguyên Hồng đã lắng

nghe được những âm vang sâu lắng của tâm hồn, ghi nhận được những cảm

giác tinh tế từ bên trong, miêu tả một thiên nhiên đầy thanh sắc và tất cả đều

được thể hiện qua màu sắc chủ quan của cái tôi chủ thể hồn nhiên, trong sáng.

Hay trong các sáng tác của Nam Cao với những trang viết miêu tả ánh trăng

qua đó bộc lộ tâm trạng nhân vật hay những đoạn văn độc thoại nội tâm, thể

hiện những nỗi niềm tâm sự, những vui buồn, đau đớn, day dứt trào lên từ đáy

sâu tâm hồn con người đều gợi cho người đọc nhiều cảm xúc.

Đặc biệt sự thâm nhập của chất thơ vào văn xuôi đã tạo nên một

dòng truyện ngắn trữ tình đặc sắc 1932- 1945. Có thể nói rằng, thông qua

bút pháp trữ tình và cảm xúc trữ tình của nhà văn, truyện ngắn trữ tình đã

đưa vào văn xuôi nghệ thuật Việt Nam một chất thơ man mác, bàng bạc rất

riêng. Chất thơ ấy thể hiện qua cái “tôi” buồn và sự cô đơn trong cuộc đời,

niềm hoài nhớ dĩ vãng được bộc lộ qua hồi tưởng, trân trọng và nâng niu

cái đẹp đã đánh mất, phát hiện ra thế giới đa diện và ẩn sâu của nội tâm con

người. Đồng thời chất thơ còn được thể hiện qua cách kết cấu truyện gần

với cấu tứ một bài thơ trữ tình, qua việc sử dụng ngôn ngữ truyện gần với

ngôn ngữ nghệ thuật thơ và tạo ra một thời gian – không gian trữ tình có

28

sức ám ảnh khêu gợi sâu sắc. Có thể kể tên những tác giả nổi tiếng có dòng

truyện ngắn trữ tình này như: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Xuân

Diệu … Sự thâm nhập của chất thơ vào văn xuôi trong quy luật cộng sinh

thể loại, đến đây không chỉ mang lại màu sắc hay chất thơ mới cho thể văn

xuôi mà thực sự đã sáng tạo ra thể loại thứ ba – văn xuôi trữ tình – như một

sự kiếm tìm một phương thức thể loại mới để phản ánh một phương diện

hiện thực mới: hiện thực tâm trạng.

Mặc dù vậy, do khác nhau về quan điểm nghệ thuật và khuynh

hướng thẩm mĩ nên văn học nước nhà thời kì này đã phân hoá thành nhiều

xu hướng, trong đó nổi lên hai xu hướng chính là văn học hiện thực và văn

học lãng mạn.

Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan là những cây bút

hiện thực nổi tiếng. Truyện của Nguyễn Công Hoan chủ yếu theo xu hướng

truyện giàu chất kịch, tính kịch. Mỗi truyện của ông thường là một cảnh

tượng, một tình thế mâu thuẫn đầy tính chất hài hước trong cái “tấn trò đời”

nhố nhăng đồi bại ấy. Một ông quan to béo oai vệ rất sang trọng nhưng ăn

tiền một cách … mất vệ sinh; một cụ Chánh bá oai nghiêm dữ tợn “chúa

ghét thói ăn cắp” nhưng lại bày trò đi ăn cắp một cách đê tiện; một ông

quan khác đã phẫn nộ thẳng tay đánh vợ và dạy vợ bài học “tam tòng tứ

đức” vì vợ ông không chịu nghe ông để …đi hầu quan trên cho ông chóng

thăng quan chức … Nguyễn Công Hoan là người khơi nguồn cho dòng văn

học “tả chân”, “vị nhân sinh” tiến bộ. Suốt nửa thế kỉ cầm bút, sáng tác của

Nguyễn Công Hoan là tiếng nói tố cáo gay gắt, đanh thép xã hội Việt Nam

thuộc địa nửa phong kiến đầy bất công và hết sức lố lăng thối nát, là tiếng nói

bênh vực chân thành những con người nghèo khổ bị chà đạp, bị xúc phạm..

Cùng trào lưu văn học hiện thực phê phán với Nguyễn Công Hoan ,

Vũ Trọng Phụng là cây bút nổi tiếng với những thiên truyện ngắn , tiểu

29

thuyết đô ̣c đáo, hấp dẫn, giàu tính hiện thực . Bứ c tranh xã hô ̣i đau thương , , điêu luyê ̣n . tăm tối đươ ̣c ông phản ánh qua ngòi bú t trào phú ng sắc sảo Ông là người chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh, vạch ra sự khác biệt giữa

hai trường phái lãng mạn và hiện thực trong cách nhìn nhận đời sống xã

hội, trong cách miêu tả hiện thực và con người. Ông dõng dạc tuyên bố:

“ … tôi và các nhà văn cùng chí hướng với tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực

ở đời, các ông muốn tiểu thuyết tùy thời chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe,

nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự thật, thành ra

nguy hiểm, vì sự thật mất lòng”. Và Vũ Trọng Phụng còn chỉ rõ nhiệm vụ

của nhà văn là: “Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa dâm

đãng của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của dân

nghèo bị bóc lột...”. Và khẳng định mục đích của văn tả chân: “Cất tiếng

nói khám phá xã hội bất công, mục nát xấu xa phản tiến bộ, trong đó lòng

lương thiện thường bị bóc lột, đè nén, bị bần cùng và tha hóa. Bên cạnh đó

tầng lớp trên thì ăn chơi trác táng, xa hoa, phè phỡn, lố lăng”. Ông cho rằng

xã hội đương thời với những vết thương trầm trọng, thối rữa đến tận xương

tủy, như thế thì có gì phải giấu giếm? Phải vạch trần chân tướng xấu xa của

nó, phanh phui ung nhọt của nó, chỉ ra sự bất công và nỗi thống khổ tràn

lan, dày vò con người. Từ đó làm cho dân chúng căm hờn phỉ nhổ tệ nạn

bất công mà đấu tranh cho sự công bình và những điều tốt đẹp đó há phải

sứ mệnh cao đẹp của văn chương tả thực hay sao?. Có thể nói, nhắc đến

Vũ Trọng Phụng là nhắc đến một nhà tiểu thuyết già dặn, một cây bút

phóng sự bậc thầy của văn học Việt Nam giai đoạn 1030 – 1945. Ông đại

diện cho trường phái “nghệ thuật vị nhân sinh”, nghệ thuật phải là sự thật ở đời.

Nam Cao được coi là đại diện của văn học hiện thực phê phán trong

giai đoạn cuối, với những trang viết tả chân sắc sảo hằn dấu ấn hiện thực cụ

thể, đặc thù của một xã hội Việt Nam vào những năm 40 đang xáo trộn,

30

quằn quại trong chặng cuối của quá trình bần cùng hoá với những cơn đói

triền miên, những làng xóm vật vờ, những số phận tàn lụi, sự tan tác tác rời

rã của mối quan hệ con người, sự tuyệt vọng đổ vỡ của những cá nhân, sự

tha hoá nhân cách ..... Chủ trương của Nam Cao là văn học phải phản ánh

hiện thực, không được thoát ly hiện thực đời sống, ông viết: “Nghệ thuật

không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ

nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than

...” (Trăng sáng).

Bút pháp nghệ thuật của Nam Cao là một bút pháp hiện thực nghiêm

ngặt. Một bút pháp chủ trương lách vào tận đáy sâu sự thật. Lách vào tận ý

nghĩ, từng suy tính cùng cực chi ly. Với Nam Cao, mọi sự thật đều cần phải

phanh phui, không có gì không thể đào xới lại. Đọc Nam Cao ta có dịp

phanh phui so đi lặp lại đến tận đáy sâu sự thật, và qua đó chiêm nghiệm sự

đa dạng, đa thanh của cuộc đời. Có thể nói, một chủ nghĩa hiện thực, một

bút pháp hiện thực Nam Cao, một giọng điệu Nam Cao là nét in dấu và nổi

đậm lên trên những trang văn Nam Cao đầu những năm 1940.

Nếu truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan gần với kịch, thì truyện của

Nam Cao là một dòng xám buồn của chất văn xuôi - đời thường. Mặc dù

nhiều tác phẩm của Nam Cao thường có cấu trúc nương theo trục thời gian,

dõi theo cuộc đời nhân vật hoặc một chặng dài của cuộc đời. Ông cũng là

người xây dựng thành công loại truyện không có cốt truyện, với kiểu cấu

trúc theo tâm lí nhân vật (Trăng sáng, Đời thừa, Những truyện không muốn

viết, Sống mòn, …). Song yếu tố hiện thực, tự sự vẫn bao trùm, đậm đặc

trong sáng tác Nam Cao. Đọc truyện của ông, người ta vẫn có cảm giác

nặng nề, bị ám ảnh bởi những cuộc đời, những số phận đau khổ bi thương.

Đối lập với trào lưu sáng tác hiện thực - nghệ thuật vị nhân sinh là

trào lưu lãng mạn - nghệ thuật vị nghệ thuật của nhóm Tự lực văn đoàn

31

với các cây bút chủ chốt là: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Văn

chương của Tư lực văn đoàn quá xa cách đời thường hoặc mang tính chất

không tưởng, thoát ly hiện thực đời sống. Đáng chú ý là các tác phẩm vào

khoảng 1939-1940 (Đẹp, Thanh Đức, Bướm trắng) đã có phần thi vị hoá

cuộc sống, đôi khi chỉ bó hẹp trong phạm vi đời sống tư sản, có ô tô, nhà

lầu, villa bãi biển, có mỏ vàng, đồn điền, của hàng kinh doanh ở các thành

phố lớn, có cuộc sống đầy nhục cảm, những cuộc tình duyên tay ba, tay tư

với các thiếu nữ ngây thơ, kiều diễm, có salon văn chương, khiêu vũ, tắm

biển, âm nhạc, hội hoạ, có những bữa tiệc rất sang, những buổi phá tán

hành lạc kéo dài đến tận sáng ở các hộp đêm … Nhìn chung các tác giả Tự

lực văn đoàn tập trung khai thác các đề tài tình yêu, hôn nhân, những mâu

thuẫn trong tâm hồn, mâu thuẫn giữa cá nhân và gia đình, tình yêu và bổn

phận, chí hướng và hoàn cảnh, lòng ham sống và bệnh hoạn, trụy lạc và nhân

phẩm … mà ít đề cập, nhìn thẳng vào sự đói khổ của tầng lớp dân nghèo như

một kiểu nhân vật đám đông của bức tranh hiện thực đương thời.

Hồn bướ m mơ tiên (1933) của Khái Hưng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Tự lực văn đoà n . Truyê ̣n viết về mô ̣t đôi trai gái thành thi ̣ tình cờ g ặp nhau ở chù a Long Giáng - mô ̣t ngôi chù a ở vù ng trung du Bắc Bô ̣. Sau khi Ngọc phát hiện chú tiểu Lan là gái, Ngọc và Lan đã yêu nhau. Những chiều

thứ bảy, Ngọc và Lan vẫn gặp nhau đều đặn , nhưng ho ̣ chủ trương không kết hôn, vì muốn hưởng một tình yêu thậ t lãng ma ̣n giữa cảnh thiên nhiên thơ mô ̣ng dướ i bóng từ bi củ a Phâ ̣t tổ.

Đoạn tuyê ̣t – Nhất Linh kể về ngườ i con gái xinh đe ̣p tân ho ̣c tên Loan có cuô ̣c đờ i bất ha ̣nh khi phải cướ i mô ̣t ngườ i mà bản thân không hề yêu thương theo sự sắp xếp của gia đình. Loan yêu Dũng nhưng la ̣i phải kết hôn vớ i Thân . Cô bi ̣ gia đình chồng ngươ ̣c đãi đến vô cù ng khổ sở . Loan sinh được đứa con trai, nàng phải qua giải phẫu, đuợc biết không thể có con

32

đuợc nữa. Ðứa con trai của Loan bị bệnh, mẹ chồng giao cho thầy bùa cúng

quải đứa bé bệnh càng nặng sau đó đưa vào nhà thương thì quá trễ . Cả nhà đổ thừa cho Loan tin thuốc tây giết đứa nhỏ nối giòng giống gia đình, nàng

bị đánh chửi thậm tệ. Chồng cưới vợ lẽ, Loan phải chấp nhận. Một buổi tối

Loan đọc sách, Thân gắt gỏng bắt phải tắt đèn, Loan chịu đựng hết nổi, tỏ

thái độ bất phục tùng. Thân giận dữ, đánh đập vợ tàn nhẫn. Loan cầm dao

díp đưa lên đỡ khi chồng cầm lọ đồng nện xuống, chàng trượt chân ngã

đâm vào con dao, tắt thở. Loan bi ̣ bắt nàng có cảm tư ởng đuợc giải thoát ra

khỏi chốn lao tù. Vợ chồng bà giáo Thảo, bạn thân của Loan chạy luật sư

cho nàng. Trạng sư bào chữa rất hùng hồn, giấy chứng chỉ của đốc tờ, lời

khai con sen đúng với lời khai thực của bị cáo. Tòa tha trắng án, Loan sung

sướng đuợc thấy ánh sáng tự do. Dũng suốt sáu năm qua hối hận không cứu

được Loan, chàng nhờ Thảo liên lạc với Loan để chàng và nàng cùng

chung sống cuộc đời mới quên cái quá khứ nặng nề kia.

Con đườ ng sá ng của Hoàng Đạo là câu chuyện kể lại biến chuyển tâm lý tạo chuyển biến cuộc đời của một thanh niên trí thức ở Hà Nội trước

1945. Chàng tên Duy có học thức, gia đình giàu có. Ngày nhỏ Duy có

những năm tháng trưởng thành nơi thôn quê, nên tâm hồn mang bản chất

trong sạch và mộc mạc, nhưng lớn lên ở giữa thị thành, có tiền bạc trong

tay, có trí thức trong đầu, Duy cũng như đa số thanh niên cùng thế hệ sống

trong hoàn cảnh đất nước dưới ách đô hộ của thực dân, chán nản nên buông

trôi vào trụy lạc. Rồi Duy dần dần tìm ra con đường cứu mình. Duy trở về

quê xưa vì ở đó chàng hy vọng tìm được môi trường không vẩn bụi phồn

hoa và cũng ở đó có Thơ, một cô gái quê, bạn chàng hồi để chỏm, một hình

ảnh chất phác, thánh thiện như ngọn hải đăng dẫn lối cuộc sống đang bấp

bênh của chàng. Duy cảm thấy tìm ra hạnh phúc trong việc lập ấp, dựng

đồn điền nghĩa là tìm ra con đường sáng cho mình.

33

Khác với hai khuynh hướng kể trên , Thạch Lam đã dung hòa giữa

lãng mạn và hiện thực. Lãng mạn và hiện thực hoà quyện trong văn Thạch

Lam, tạo cho văn của ông một vẻ đẹp riêng biệt: nhẹ nhàng, man mác mà

vẫn lan toả thấm sâu. Đọc những cảnh đời cùng khổ trong truyện Thạch

Lam, ta không bị cảm giác ngột ngạt tù túng và bức bối như trong

truyện của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao,

song sức lay động của nó vẫn không hề kém hiệu quả. Còn chất lãng mạn

của Thạch Lam có khác với chất lãng mạn của Khái Hưng, Nhất Linh. Chất

lãng mạn của Thạch Lam là chất lãng mạn có chừng mực, nó thường theo

chiều hướng duy cảm và duy mỹ. Nó ít chất không tưởng, lý tưởng hoá kiểu

Hồn Bướm mơ tiên của Khái Hưng, nó cũng không lãng mạn quyết liệt kiểu như

Đời mưa gió, Bướm trắng và Thanh Đức của Nhất Linh, Khái Hưng ...

Từ trước đến nay, theo phần lớn các nhà nghiên cứu, Thạch Lam vẫn

được xem như một nhà văn lãng mạn mà tác phẩm có nhiều yếu tố hiện

thực. Thạch Lam có quan niệm dứt khoát về thiên chức của văn chương:

“Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự

thoát ly hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và

đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo vừa thay đổi một cái thế giới giả dối

và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Ở

đây, hai phương diện vừa tố cáo vừa xây dựng đã được Thạch Lam chú ý,

các dấu ấn hiện thực và lãng mạn đều tìm được sự gắn nối ở chính quan

niệm này.

Đó là một dấu ấn hiện thực ta dễ dàng bắt gặp trong nhiều tác phẩm

của Thạch Lam. Theo giáo sư Phan Cự Đệ, “Một số truyện của Thạch Lam

có khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Kết thúc các truyện Đói, Nhà mẹ Lê,

Hai lần chết, Tối ba mươi ... đau đớn quá, nhưng đó lại là sự thật. Ở đây

Thạch Lam sử dụng bút pháp hiện thực tỉnh táo, nó không bằng lòng với

34

bất cứ một sự tô màu mỹ học nào (Dưới bóng hoàng lan), với một cách giải

quyết ảo tưởng, chủ quan nào của chủ nghĩa lãng mạn (Bóng người xưa,

Ngày mới)” [6; 273].

Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người dường như

quanh năm suốt tháng phải vật lộn với cái nghèo, cái đói, họ ít có những

giờ phút sống cho riêng mình và cho người khác. Những thực trạng đau

lòng đó ta đều bắt gặp trong những trang viết của Thạch Lam. Chẳng hạn

trong những truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa, Nhà mẹ Lê, Hai lần chết, Tối

ba mươi ....có những trang làm người đọc xúc động rớt nước mắt và thấm

đầy dư vị xót xa.

Nhưng bên cạnh những mảng hiện thực nghiệt ngã, văn Thạch Lam

rất giàu yếu tố trữ tình và lãng mạn. Chất lãng mạn của Thạch Lam nói

chung, phải được hiểu trong đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam

mà nó ra đời và chịu ảnh hưởng của nhiều dòng văn học cùng tồn tại một

lúc- văn học hiện thực và văn học cách mạng, nên không có một chủ nghĩa

lãng mạn thuần tuý.

Trước hết, ta bắt gặp một dấu ấn lãng mạn trong văn Thạch Lam ở sự

bâng khuâng trước cái đẹp thanh sạch trong trẻo của tình người trong Dưới

bóng hoàng lan. Không gian truyện ở đây thật tĩnh lặng và đầy hương

thơm. Còn thời gian thì như trong một sự ngưng đọng. Cái ngưng đọng bắt

đầu từ khi nhân vật chính là Thanh từ tỉnh về: “Phong cảnh vẫn y nguyên,

gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ”. Cho đến

lúc Thanh ra đi: “Chàng vẫn bé quá và lại đi xa”. Đấy là sự ngưng đọng

trong thế giới biến đổi. Nếu sự biến đổi là theo chiều hướng tàn lụi, bi quan thì

sự ngưng đọng là để níu giữ, để bảo tồn những gì tốt đẹp, những gì là niềm

vui và chỗ dựa cho con người. Nhân vật chính trong Dưới bóng hoàng lan ra

đi về phía tỉnh thành, nhưng không nguôi nhớ mảnh đất quê, nơi có một người

35

con gái “vẫn đợi chàng, vẫn nhớ mong chàng như ngày trước. Mỗi mùa cô lại

giắt hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương”.

Truyê ̣n “Hai đứa trẻ” là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa

như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Nó gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn

bâng khuâng day dứt về đời sống con người.

Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ với

nước mắt cái đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn

Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của

ông đã phác hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và

cũng có rất nhiều lý do để người dân phải lao vào cuộc bon chen giành giật

sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tình

người và mỗi người khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân

dù rất buồn.

Trở lại với cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất trữ tình không dừng lại ở cảnh bao quát mà đắm lại ở những trang viết về chị em

Liên. Đây chính là điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng

bởi nội tâm sâu sắc, xuất phát từ một con người đa cảm. Khi màn đêm đã

bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước

cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợi lên từ cảnh phố huyện xơ

xác đìu hiu trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất

giác, một cảnh tượng làm chị không khỏi chạnh niềm thương: đó là những

chú bé nheo nhóc đi đi lại lại giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẩu

que kem và những gì còn có ích cho chúng. Trữ tình và tự sự, lãng mạn và hiê ̣n thực như hòa quyê ̣n vào nhau khiến cho những cảm xú c củ a Liên trở nên đe ̣p đẽ la ̣ thườ ng.

Truyện ngắn trữ tình củ a Tha ̣ch Lam thường có cốt truyện đơn giản,

mạch đi của truyện là dòng chảy tâm trạng với những biến thái tinh vi, chất

36

trữ tình và hiện thực đan cài, đằng sau tác phẩm thấp thoáng một cái tôi

giàu lòng nhân hậu...Ví dụ để làm nên s ắc thái trữ tình trong “Hai đứa trẻ”

chủ yếu là cảm xúc buồn thương và giọng thủ thỉ, trầm lắng, thiết tha, qua

miêu tả khung cảnh, tâm trạng. Đọc truyện ngắn Thạch Lam rõ ràng ta thấy

yêu và quý trọng con người hơn.

Trong truyện của Thạch Lam, yếu tố trữ tình được thể hiện khá hấp

dẫn, với những đoạn miêu tả thiên nhiên giàu chất thơ, miêu tả thế giới tâm

hồn con người khá tinh tế. Với năng lực hiểu và cảm thấu sâu sắc về thế

giới nội cảm của nhân vật, Thạch Lam đã viết lên những câu văn tả cảnh

thật đẹp đẽ và nên thơ:

“Tôi ngồi gần cửa sổ trông ra sân. Ở ngoài trăng rằm vằng vặc, tường

vôi sáng trắng lên chói lọi. Hai dãy chậu lan cắt bóng xuống mặt sân, các lá

lan đen sẩm lấp lánh ánh trăng cong. Thời khắc rất êm dịu và thú vị. Tôi lặng

yên hưởng luồng gió mật của ban đêm” (Sợi tóc – Thạch Lam).

Yếu tố trữ tình trong đoạn văn trên được thể hiện qua không gian, thời

gian. Không gian ngập tràn trong ánh trăng sáng, trong tĩnh lặng và mơ

màng…, không gian của chốn thơ mềm mại và dịu dàng. Thời gian ban đêm

yên tĩnh khiến cho tâm hồn người đọc cảm thấy tĩnh lặng lạ thường. Cả đoạn

văn như áng thơ trữ tình tuyệt đẹp về thiên nhiên và lòng người.

Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất

văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện phẩm cách văn nhân tuyệt vời trong sáng

của ông.

Tóm lại, ở chương này chú ng tôi tiến hành tìm hiểu hành trình sáng tác của Thạch Lam, bướ c đầu phân tích sự giao thoa giữa yếu tố trữ tình và tự sự trong văn xuôi và điểm nhấn là văn xuôi Thạch Lam. Từ đó chú ng tôi nhâ ̣n thấy truyê ̣n củ a Tha ̣ch Lam giàu chất trữ tình , câu chuyện thườ ng đơn giản không khai thác xung đô ̣t xã hô ̣i mà thiên về biểu hiê ̣n tâm tra ̣ng vớ i những

37

cảm xúc, cảm giác nhẹ nhàng , tinh tế trong đờ i sống thườ ng nhật của con ngườ i. Yếu tố trữ tình và tự sự trong văn xuôi của Thạch Lam hòa quyện với nhau mô ̣t cách hài hòa. Không giống như các tác giả hiê ̣n thực, các yếu tố tự sự luôn chiếm chủ đa ̣o và các tác giả Tự lực văn đoà n, trữ tình luôn chiếm phần lớ n trong sự thể hiện ý tứ của tác phẩm. Truyê ̣n của Thạch Lam có sự cân bằng hài hòa giữa hai yếu tố này.

ình huống Nhìn chung, truyê ̣n Thạch Lam được nảy sinh và phát triển từ một t

tình dựa

, gơ ̣i cảm, giản

truyê ̣n nhe ̣ nhàng. Ông là nhà văn củ a những tra ̣ng thái cảm xú c. Các nhân vật của ông ít có hành đô ̣ng ma ̣nh, mà dường như chỉ tự cảm bản thân để biểu hiê ̣n tra ̣ng thái sống có ý thứ c. Vì vậy, nhiều tác phẩm củ a ông man mác như mô ̣t bài thơ trữ theo dòng cảm xú c, cảm giác của nhân vật. Giọng điệu trong văn Thạch Lam thường nhẹ nhàng, trầm tĩnh, cách trần thuật độc đáo. Nếu ban đầu có trần thuâ ̣t khách quan quan thì sau đó Tha ̣ch Lam cũng nhanh chóng nhường lờ i cho nhân vâ ̣t, nhâ ̣p thân vào nhân vật (Một cơn giận, Cô hà ng xé n). Đây là mô ̣t nguyên nhân ta ̣o nên chất trữ tình lắng đọng trong văn xuôi Thạch Lam. Vớ i lối văn go ̣n ghẽ tinh tế dị mà mềm mại, giàu hình ảnh, đo ̣c văn ông, tâm hồn ba ̣n đo ̣c dườ ng như trong sa ̣ch, thanh cao hơn. Điều đó ta ̣o nên sứ c hấp dẫn và vẻ đe ̣p trong những tác phẩm củ a Thạch Lam khiến cho những tác phẩm ấy sống mãi trong tâm hồn của người yêu văn

chương nướ c nhà. Đó là một phong cách văn xuôi trữ tình độc đáo.

38

CHƢƠNG 2:

YÊÚ TỐ TRỮ TÌNH NHÌN TỪ HỆ THỐNG CỐT TRUYỆN,

KẾT CẤU VÀ NHÂN VẬT.

2.1. Cốt truyện-tình huống khơi gợi cảm xúc.

2.1.1. Khái niệm cốt truyện.

Vấn đề cốt truyện trong truyện kể từ lâu đã được ngành Tự sự học

coi là một trong những yếu tố cơ bản để tìm ra cấu trúc đích thực của tác

phẩm văn xuôi, một mắt xích quan trọng tạo nên kết cấu tác phẩm tự sự.

Vậy, cốt truyện là yếu tố quan trọng của tác phẩm tự sự. Theo định nghĩa

truyền thống, đó là tất cả các hành động, biến cố được phát triển trong tiến

trình kể chuyện. Khi thuật lại một truyện, ta có thể kể lại các biến cố ấy

theo một trình tự lôgíc có thể hiểu được. Khi phân tích các thành phần của

một cốt truyện người ta thường chỉ ra các thành phần: phần mở đầu- chỉ ra

trạng thái, quan hệ chuẩn bị vào truyện; phần thắt nút- chỉ ra sự gặp gỡ,

xung đột tạo thành một quan hệ có khả năng phát triển tiếp; phần phát triển

chỉ ra mọi bước thăng trầm của nhân vật và quan hệ của chúng theo nguyên

tắc nhân quả, liên tục. Phần mở nút, xung đột được giải quyết, bước ngoặt

được thực hiện, câu chuyện không có gì để phát triển nữa và tự chấm dứt.

Trong quá trình phát triển của lịch sử văn học, cốt truyện có vai trò

hết sức quan trọng. Văn học phương Tây trước thế kỷ 18, cũng như văn học

trung đại Việt Nam đã coi cốt truyện là yếu tố đặc biệt quan trọng, là nơi

xuất phát và quyết định của sự sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn sáng tác là

sáng tác cốt truyện và người thưởng thức chủ yếu là thưởng thức cốt

truyện. Nhà văn chưa thể sáng tác được nếu chưa có được một cốt truyện

hấp dẫn. Ở đây cốt truyện quy định và chi phối tính cách. Nhà văn chưa

xây dựng được tính cách có sự phát triển hợp với logic đời sống mà chỉ

dùng nó để triển khai cho hệ thống biến cố của tác phẩm.

39

Còn trong văn học hiện đại, cốt truyện là phương tiện để bộc lộ tính

cách, cốt truyện được sử dụng để triển khai các tính cách. Trong Một số

kinh nghiệm viết văn của tôi, Tô Hoài viết: “Một sáng tác mà ta có thể thêm

vào hay bớt ra bao nhiêu cũng được là một sáng tác hỏng. Vì không thể nào

kiểm tra chặt chẽ được khi vị trí của nhân vật đã phải rút xuống hàng dưới

của cốt truyện, chỉ có nhân vật mới kiểm tra được cốt truyện, nhân vật mới

có quyền phân phối ý chính, ý phụ”. Còn Phêđin phát biểu: “Trong việc xác

định cốt truyện nên xuất phát từ tính cách. Các nhân vật tạo ra cốt truyện

chứ không phục tùng cốt truyện”.

Như vậy trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, các nhà văn luôn cố

gắng xây dựng những cốt truyện chân thực và hấp dẫn đồng thời thể hiện

được chiều sâu tâm lý của tính cách nhân vật.

Những sáng tác của các nhà văn cùng thời Thạch Lam đã thể hiện

được quan niệm và xu hướng ấy. Những truyện của Nam Cao, Vũ Trọng

Phụng, Nguyễn Công Hoan diễn ra với các chi tiết sự kiện dày đặc bộn bề

giúp người đọc bị cuốn hút và nhận thức về một bức tranh hiện thực đời

sống phức tạp, đen tối và ngột ngạt.

2.1.2. Kiểu cốt truyện - tình huống khơi gợi cảm xúc trong văn

xuôi Thạch Lam.

Với Thạch Lam, ông không quan tâm nhiều đến tổ chức cốt truyện.

Chủ thể sáng tạo dường như đã nhìn thế giới qua lăng kính của thơ, Thạch

Lam đã tránh xa những cốt truyện gay cấn, những xung đột căng thẳng, đã

từ chối việc kiên nhẫn lần theo sự hình thành các tính cách tuần tự, lớp lang

mà thiên về nắm bắt những khoảnh khắc đáng nhớ của đời người: những

hồi ức, kỷ niệm gợi thức những hoài vọng, những nuối tiếc về quá khứ hay

những rung cảm, cảm xúc tình yêu của những chàng trai, cô gái mới lớn...

Truyện của Thạch Lam về nội dung rất đơn giản, người ta thường gọi

40

đó là truyện không có cốt truyện, không có cả chân dung và tính cách mà

chỉ là để diễn tả một tâm trạng hay một trạng thái tinh thần nào đó. Chính

vì đặc điểm này - không có cốt truyện mà nhà văn chủ yếu đi sâu vào

những biến cố tâm lý, những tình huống tâm trạng. Đó là những khoảnh

khắc bất ngờ, những xung động, biến thái của tinh thần, của cảm xúc nhân

vật... Điều đó có khả năng khơi gợi, đánh thức cảm xúc ở người đọc.

Trong truyện ngắn, truyện dài của Thạch Lam, ta bắt gặp nhiều trạng

thái của tình huống: có tình huống tâm trạng - khơi mở tâm lý, có tình

huống nhân vật tự thức tỉnh - tự nhìn lại mình, tình huống trở về, tình

huống bất hạnh.

Tình huống tâm trạng - khơi gợi tâm lý là tình huống đặc trưng nhất,

trong truyện của Thạch Lam. Đó là những khoảnh khắc ngắn ngủi, bất ngờ

từ đó thâu tóm, nắm bắt được những xung đột tâm lý căng nhạy, có khả

năng gợi mở đánh động những rung cảm khẽ khàng tinh tế bên trong. Nó là

tiêu điểm nảy sinh cảm xúc, cảm giác.

Hai đứa trẻ có cốt truyện thật đơn giản. Tình huống truyện xoay

quanh việc chị em Liên được mẹ giao trông coi cửa hàng tạp hóa từ chiều

đến đêm. Những cảm giác của Liên trước cảnh ngày tàn, chợ tan và những

kiếp người tàn tạ, đặc biệt là tâm trạng đợi chuyến tàu đêm đi qua. Dường

như chẳng có gì đáng kể trong những cái ngày thường tẻ nhạt vô vị ở một

phố huyện tù mù ánh đèn dầu. Vậy mà qua sự cảm nhận của Liên, tác giả

đã gieo vào lòng ta biết bao vương vấn. Trái tim người đọc như rung lên

theo nhịp sống cơ hàn của những con người nơi phố huyện!

Tình huống của truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa cũng chỉ xoay quanh

ấn tượng, cảm giác của bé Sơn trong buổi sáng thức dậy khi gió lạnh đầu

mùa tràn về. Sơn nhận thấy sự thay đổi của cảnh vật thiên nhiên bên ngoài

“đất khô trắng, luôn luôn cơn gió vi vu làm bốc lên những màn bụi nhỏ,

41

thổi lăn những cái lá khô lạo xạo. Trời không u ám, toàn một màu trắng

đục. Những cây lan trong chậu, lá rung động và hình như sắt lại vì rét”. Và

cảnh ấm cúng trong gia đình Sơn, mọi người xúng xính chuẩn bị áo rét.

Sơn cũng nhận thấy những đứa trẻ xung quanh ăn mặc không khác ngày

thường, vẫn những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm

nay “môi chúng nó tím lại, và qua những chỗ áo rách da thịt thâm đi, mỗi

cơn gió đến, chúng nó lại run lên, hai hàm răng đập vào nhau”, “bé Hiên co

ro đứng bên cột quán, chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay”.

Sơn đã động lòng trắc ẩn, cùng chị Lan lấy chiếc áo bông cũ đem cho cái

Hiên. Mẹ Hiên đem áo trả lại. Mẹ Sơn cho mẹ Hiên vay tiền để mua áo cho

con và trách yêu hai con mình. Cốt truyện thật đơn giản, chỉ xoay quanh

những tình huống khơi gợi cảm xúc, những biến cố tâm lí nhân vật nhưng

lại có sức lay động tâm hồn người đọc, đánh thức tình yêu thương, lương

thiện trong sâu thẳm ký ức chúng ta.

Truyện Dưới bóng hoàng lan rất giàu chất thơ bởi tình huống khơi

gợi tâm trạng, cảm xúc. Nó không phải là một câu chuyện, cũng không tập

trung ở một ý tưởng nào rõ rệt. Tất cả dường như chỉ là một cảm xúc thơ,

một tình huống tâm trạng. Một chàng trai ra tỉnh làm việc, sau hai năm trở

về gặp lại ngôi nhà cũ, mảnh vườn xưa có cây hoàng lan, gặp lại một người

bà hiền hậu và cô gái xinh xắn từng chơi đùa với chàng thuở ấu thơ. Hôm

sau cậu ra đi mang theo những kỷ niệm đẹp đẽ dịu êm và cả hương ngọc

lan thoang thoảng, ngọt ngào.

Câu chuyện không có mở đầu và kết thúc, không có cốt truyện,

nhưng “có cái gì dịu ngọt chăng tơ đâu đây” cứ vương vấn trong lòng

người đọc.

Có thể nói, những chuyện mà Thạch Lam kể cho chúng ta là những

chuyện đời nhỏ nhoi bình thường. Nhưng tài năng và trên hết là tấm lòng

42

đã giúp nhà văn tìm ra những điều sâu xa ẩn chứa sau cái đơn sơ, bình dị

ấy. Ở kiểu cốt truyện - tình huống này, tác giả khai thác các biến cố tâm lý

làm nảy sinh những suy nghĩ, tình cảm trong chiều sâu bí ẩn của lòng

người. Những biến cố tâm lý đó đều hướng đến cái đẹp. Dù có khi cái đẹp

chỉ là chút ánh sáng le lói trên trang sách nhưng nó vẫn gợi một niềm tin

kín đáo trong tâm hồn của người đọc. Qua tình huống tâm trạng Thạch Lam

dẫn người đọc đến cái tốt, đến cái đẹp của con người. Cái đẹp không hư vô

chút nào. Ông cố gắng đi tìm cái đẹp ở tình người, tình quê hương, ở thiên

nhiên, ở giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.

Yếu tố trữ tình nhìn từ hệ thống cốt truyện trong văn xuôi Thạch

Lam còn được biểu hiện qua tình huống phản tỉnh. Đó là tình huống nhân

vật tự nhìn lại mình, tự ý thức, tự soi xét lại chính mình. Nó là những đột

biến, những phản tỉnh ngay trong ý thức của con người khi phải đối diện

với lương tâm hay số phận mình. Chính vì vậy, đọc văn Thạch Lam phải

bằng sự chiêm nghiệm bên trong, bằng chiều sâu của tâm hồn, ta mới cảm

nhận được được hết cái quý giá của những giây phút thức tỉnh, nhờ có nó

mà con người trở nên người hơn.

Trong sáng tác của các nhà văn thuộc trào lưu hiện thực phê phán,

tình huống phản tỉnh khá phổ biến, nhất là các tác phẩm của Nam Cao. Tuy

nhiên, các nhân vật thường phải trải qua những biến cố, xung đột và bi kịch

hết sức nặng nề thì mới thức tỉnh, nhận thức lại mình. Chí Phèo đã trải qua

một quá trình tha hóa: từ người nông dân lương thiện thành kẻ lưu manh -

tay sai của Bá Kiến, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đập vỡ hạnh phúc của

nhiều gia đình, làm hại bao người dân vô tội, bị mọi người xa lánh, Chí

Phèo chìm trong cơn say…. Chỉ khi gặp Thị Nở, ăn nằm với thị và lần đầu

tiên được quan tâm chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà, Chí Phèo

mới tỉnh và nhận ra những âm thanh quen thuộc của cuộc đời : “tiếng chim

43

hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh

thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá…”. Chí muốn làm hoà với mọi người, Chí

khao khát làm người lương thiện.

Nhân vật Hộ - người trí thức trong Đời thừa vốn có ước mơ, hoài

bão cao đẹp: muốn làm được những việc lớn lao, có ý nghĩa, theo đuổi một

sự nghiệp văn chương chân chính, lại tôn thờ một lẽ sống tình thương cao

cả. Nhưng vì cuộc sống áo cơm khắc nghiệt đã đẩy Hộ vào bi kịch, vào

cảnh sống thê thảm: anh phải sống và viết một cách vô nghĩa, đi ngược lại,

chà đạp lên lẽ sống tình thương mà anh đã đề ra, trở thành kẻ “đê tiện”, kẻ

“bất lương”. Y đã hành hạ, xỉ vả vợ trong cơn say để mỗi khi tỉnh dậy lại

đau đớn, xót xa, ân hận. Thậm chí bi kịch ấy không kết thúc mà tái diễn,

lặp lại. Vì thế mà đọc truyện của Nam Cao, người đọc có cảm giác xót xa,

đau đớn, căm phẫn hiện thực phũ phàng cùng những bất công ngang trái

trong cuộc sống.

Còn với Thạch Lam, ông để cho nhân vật của mình thức tỉnh một

cách khá hồn nhiên. Họ hầu như chẳng phải chịu một thứ luân lý cao siêu

nào cả, cũng như không phải trải qua một cuộc đấu tranh tư tưởng quyết

liệt nào. Nhân vật của Thạch Lam dù ở cảnh ngộ, tình huống nào cũng

đều toát lên vẻ lương thiện, trong sạch, cũng thường có sự tự vận động

hướng tới cái đẹp, tới sự cân đối hài hoà trong phẩm cách con người.

Kiểu nhân vật của Thạch Lam khác hẳn với những nhân vật bị dồn đuổi

cùng quẫn, tha hoá trong các sáng tác của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng

như những Chí Phèo, Lang Rận, Trạch Văn Đoành, Thị Nở, Xuân Tóc

Đỏ … Nhân vật của Thạch Lam luôn có những biến động nội tâm: sự ăn

năn về đạo đức, sự nghiền ngẫm trong cách ứng xử, sự cắn rứt của lương

tâm ….Và sau những biến động ấy, con người trở về với bản ngã của

mình, với “con người trong con người”.

44

Thành trong Sợi tóc được tác giả xây dựng, đặt vào một tình huống

đặc biệt là sự nhầm áo ngẫu nhiên, đã tạo cho Thành cơ hội thuận lợi để có

thể ăn cắp tiền trong ví của bạn. Quá trình đấu tranh giữa lấy hay không lấy

đã diễn ra khá quyết liệt trong tâm tưởng Thành. Anh tự sắp đặt phòng

ngừa chu đáo cho sự lấy cắp của mình trở nên trót lọt. Giữa lúc Thành

quyết định hành động để trở thành kẻ cắp thì anh lại cưỡng lại. Anh cũng

không hiểu tại sao bỗng nhiên mình trả áo và ví tiền cho bạn. Ranh giới

giữa người lương thiện và kẻ bất lương lúc ấy thật mong manh đến nỗi

sáng hôm sau tỉnh dậy Thành vẫn ngẩn ngơ tự hỏi “sao mình vẫn là người

lương thiện không phải là kẻ cắp”. Và “dường như trong ý tưởng của Thạch

Lam, cái đẹp, cái thiện luôn ẩn khuất đâu đây trong đời sống quanh ta,

trong một khoảnh khắc nào đấy, chúng bất thần nhập vào ý thức con người,

giúp con người trở về bản tính thiện như cây tre uốn cong trở lại cái thẳng

thắn lúc thường. Truyện của Thạch Lam do vậy thường có tính gợi mở, lay

động tâm thức người đọc”. [17;147]

Với Một cơn giận, nhân vật Thanh cũng rơi vào một tình thế lựa chọn

giữa lương tâm và nhân cách. Chỉ vì một cơn giận không đâu Thanh đã đẩy

người phu xe vào cảnh khốn cùng. Mặc dù sau đó đã làm mọi việc để chuộc

lại tội lỗi nhưng trong lòng Thanh vẫn ân hận, day dứt không nguôi.

Ở truyện Người bạn cũ, nhân vật chính cùng người vợ tên Khanh

đang sống một cách yên tĩnh thì một điều bất ngờ xảy ra. Trong đêm tối có

một người đàn bà muốn gặp chàng vì việc cần. Người vợ rất ngạc nhiên

nhưng không đoán được lý do người đàn bà đến tìm chồng có việc gì. Khi

vú già bảo tên cô ấy là Lệ Minh, nhân vật “tôi” nhớ lại một thời niên thiếu

hăng hái, nhớ lại lời hứa của mình với người nữ đồng chí là lúc nào cũng

sẵn lòng giúp đỡ cô trong bước khó khăn. Anh ngạc nhiên trước sự thay đổi

của người bạn cũ, cô trở nên tiều tuỵ, đau khổ. Người bạn cũ kể lại cuộc

45

đời mình vừa qua đầy éo le trắc trở. Nhớ đến lời hứa xưa nên đã đến hỏi

xem anh có giúp đỡ không. Nhưng vấn đề là hồi xưa anh đã nhận lời hứa

cho qua chuyện, không bao giờ tưởng một hôm nào đó cô sẽ đến thật, cần

đến sự giúp đỡ của mình. Không biết giúp đỡ bạn cũ bằng cách nào, anh tự

thấy mình hèn nhát. Anh đã nói chuyện với người bạn cũ trong một tiếng

đồng hồ mà chưa đi đến hồi kết. Anh bắt đầu lo sợ cuộc nói chuyện trong

thời gian lâu sẽ làm cho Khanh khó chịu. Nhìn vào mặt của anh, dường như

biết chính xác anh nghĩ gì nên người bạn đứng dậy, xin cáo từ. Cô khuất

vào bóng tối. Trong cái yên lặng của đêm khuya, anh mới thấy cảm giác

băn khoăn dần che kín tâm hồn của mình: “Từ cái dĩ vãng xa xôi, thăm

thẳm tôi thấy hiện lên một hình ảnh tôi trong lúc còn niên thiếu, một thanh

niên hăng hái, bồng bột những điều hay, lúc nào cũng mơ màng việc thành

công to tát. Tôi lại nghĩ đến cái thân thể tôi bây giờ, một viên chức ở tỉnh

nhỏ, sống cái đời yên lặng, trưởng giả, không phải lo lắng cái gì... Rồi băn

khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, cái hình ảnh nào là bản chất

của tôi? Tôi không dám trả lời” (Người bạn cũ).

Điều gì đã làm phai nhạt lý tưởng sống tràn đầy nhiệt huyết trách

nhiệm ở nhân vật “tôi”, bởi người vợ thiếu tâm lí hay cuộc sống yên ổn của

một viên chức tỉnh nhỏ?! Cùng một lúc hiện lên hai chân dung, hai hình

ảnh gần như đối lập, trái ngược nhau ở một con người giữa quá khứ và hiện

tại. Tâm trạng day dứt của nhân vật “tôi” phải chăng là sự tự vấn lương

tâm, sự ân hận và hổ thẹn với chính mình. Điều đó gợi lên niềm thương

cảm, xót xa, một mối hoài nghi, lo ngại ở người đọc về lối sống yên phận,

thu mình ích kỉ đang xâm lấn, len lỏi vào một bộ phận không nhỏ của trí

thức đương thời.

Trong truyện ngắn Buổi sớm, nhân vật Bính chợt thấy lòng mình thư

thái hẳn. Chính cái ngọt lành mát mẻ của cảnh vật đã chữa lành căn bệnh

46

trụy lạc và nỗi chán chường trong lòng chàng, đánh thức dậy ở chàng lòng

thương mẹ từ lâu đã nguội lạnh: “Chàng muốn sớm nay, khi trở dậy bà mẹ

đã nhiều lần khóc vì con lại thấy trên đĩa sứ mấy bông hoa hái trong sương

sớm như ngày xưa. Đó là thức dùng của một buổi sớm mai, của cái mát

thanh cao giữ trong khe lá và trên mặt nước mưa..” (Buổi sớm). Cái khoảnh

khắc bừng tỉnh đó từ lâu đã được Thạch Lam trân trọng, nâng niu.

Truyện ngắn Đứa con là tình huống khơi dậy, đánh thức tình người,

cái cảm giác yêu thương trong con người hàng ngày vẫn cay nghiệt, tàn

nhẫn ở nhân vật bà Cả là cái phút chứng kiến hạnh phúc của người khác -

dù người ấy chỉ là con sen hầu hạ mình. Bà Cả lờ mờ nhận ra rằng, giàu có

đủ đầy như bà chưa hẳn đã là sung sướng, cuộc đời bà còn thiếu một cái gì

đó, còn quý và hệ trọng hơn cả của cải... “Cái gì đó hiện hình rõ rệt khi bà

nhìn đứa trẻ bụ bẫm đang rúc bú đôi vú căng sữa trong yếm mẹ”. Một ao

ước muộn màng biết bao nhưng cũng thật đáng quý bởi dù sao thì cuối

cùng người đàn bà cay nghiệt độc đoán đó đã biết mình bất hạnh, đã biết

khao khát một cái gì thật nhân bản thật đàn bà.

Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Tuân: truyện ngắn của

Thạch Lam hay đi sâu vào “những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc, cảm giác”.

Cốt truyện của ông thường ít hành động và kịch tính mà giàu những “chi

tiết”, những “sự kiện” của tâm trạng, của lòng người.

Đối với tiểu thuyết, tình huống nhân vật tự ý thức cũng được Thạch

Lam vận dụng. Trong Ngày mới, Trường là một người trẻ tuổi vốn lựa chọn

một cuộc sống hạnh phúc của riêng mình, không theo sự sắp đặt của người

khác. Anh từ chối cuộc hôn nhân hai gia đình ưng thuận, đã yêu và lập gia

đình mới với một người thiếu nữ con nhà nghèo. Cuộc sống kham khổ,

thiếu hụt, anh phải bỏ học đi làm nuôi vợ con với đồng lương quá ít ỏi. Anh

khao khát cuộc sống giàu sang của những người xung quanh, chán ghét

47

cuộc sống hiện tại, lạnh nhạt gian dối với vợ con, thấy tiếc rẻ vì đã bỏ lỡ

cuộc hôn nhân với người con gái thuộc gia đình khá giả. Nhưng ngẫu nhiên

khi gặp gỡ một người bạn cũ giàu có, hắn không còn là một anh học trò

nghèo ăn mặc lôi thôi ngày trước, hắn đã trở thành một con người khoe

khoang giả dối và hợm hĩnh ..., anh chợt thức tỉnh trước hạnh phúc chân

thật của con người: hạnh phúc không phụ thuộc vào tiền của mà tùy thuộc

vào chính tâm hồn mình. Trường không còn băn khoăn vì cái cảnh nghèo

khó và không ganh ghét với những người giàu có hơn. Anh vui vẻ chấp

nhận cuộc sống khiêm nhường và bắt đầu sống những ngày mới của cuộc đời.

Là một người trải nghiệm ở đời, luôn suy ngẫm và sâu sắc, Thạch

Lam hiểu rằng khi nào con người bước vào mùa thu của cuộc đời lúc ấy

anh mới biết tiếc, biết quý những gì mà thời trước anh ra đã nhẹ dạ tung hê

đi. Và như thế thì đã muộn. Thạch Lam không muốn thế. Bởi rất quý trọng

sự sống, tâm niệm rằng “chỉ sống thôi cũng là quý lắm rồi”, ông muốn phải

sống cho thật người, ngay từ khi còn trẻ để đừng đánh mất những gì đẹp đẽ

ở đời. Dù vậy dễ hiểu tại sao Thạch Lam không phê phán hoặc trách cứ

nhân vật A hay B đã chọn cách sống này chứ không phải cách sống kia....

“Trái tim nhạy cảm tinh tế đến độ của Thạch Lam quả đã không chịu nổi

khi thấy con người không nhận thấy cái đẹp trong mình đang mất đi. Bằng

một giọng văn nhẹ nhàng thủ thỉ như kể một câu chuyện, ông muốn đánh

thức con người trước tình cảnh ấy. Bởi vì có những cái mất đi không bao

giờ tìm lại được nữa như: những “tình xưa”, những “Bên kia sông”, những

“đêm sáng trăng” …. Vì thế mọi cử chỉ, suy nghĩ, hành động của con người

- bất cứ người nào hướng về cái đẹp, đều được Thạch Lam trân trọng, nâng

đỡ. Có thể đó chỉ là những khoảnh khắc bừng tỉnh thật nhanh, thật ngắn,

thật tế nhị của con người trong một hoàn cảnh sống đầy lo toan, oán giận,

nhỏ nhen, sa đọa của những người “bé nhỏ”, “khốn khổ”, những khoảnh

48

khắc bừng sáng như thế thật có ý nghĩa, và Thạch Lam, bằng một tấm lòng

đầy ưu ái, yêu thương đã đề cao, trân trọng hết lòng”. [17;180]

Bên cạnh những truyện ngắn hướng nội, - “Tìm vào nội tâm, tìm vào

cảm giác”, nhiều sáng tác của Thạch Lam mang khuynh hướng “hướng

ngoại”, loại truyện này nỗi buồn như toát ra từ số phận bất hạnh, hơn là từ

cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Tác giả thường đặt nhân vật của mình trong

tình huống bất hạnh, nhằm khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật và tô đậm

bi kịch cuộc đời họ. “Nếu như trong sáng tác của các nhà văn hiện thực phê

phán tình huống bất hạnh làm bật ra lời tố cáo xã hội thì Thạch Lam lại

thông qua tình huống này để thể hiện lòng xót xa thương cảm với mỗi kiếp

người nhỏ bé bằng tấm lòng nhân ái sâu xa. Vì thế truyện của Thạch Lam

thường để lại cho người đọc một cảm xúc nhẹ nhàng, nỗi buồn thương day

dứt cho số phận con người dưới đáy xã hội cũ” [59;74].

Trong truyện Đói, do thất nghiệp vợ chồng Sinh đã bị đẩy vào hoàn

cảnh bế tắc không có lối thoát. Sau khi đã bán hết đồ đạc trong nhà, họ phải

đối diện với một thực tế phũ phàng, cay đắng: cái đói. Mai- vợ Sinh thương

chồng và trong hoàn cảnh cùng quẫn đã đành phải bán mình lấy tiền mua

đồ ăn về nuôi chồng. Biết dược việc làm của người vợ mình vẫn hằng tin

yêu, Sinh cảm thấy đau khổ tủi nhục “một nỗi buồn rầu chán nản vô cùng

(….) trong lòng nguội lạnh một cảm giác lạ lùng như thắt lấy ruột gan”.

Anh cảm thấy mình bị lừa dối và phản bội. Trong cơn tức giận, Sinh đã hất

tất cả các đồ ăn vợ mới mua xuống đất, và đuổi Mai ra khỏi nhà. Nhưng

sau cái cảm giác đau đớn và chán nản là sự dày vò của cái đói. Bất chấp sự

chống cự của Sinh, cảm giác đói cứ lan khắp cả người anh như “nước triều

tràn lên bãi cát”. Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi ngậy béo

trong miếng thịt ướp, mùi thơm của chiếc bánh vàng.... Sinh vồ lấy miếng

thịt hồng hào.... Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng nắm

49

chặt miếng thịt trong tay, nhầy nhớp mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa

vào miệng. Nhưng sau khi cái cảm giác đói qua đi, nỗi đau đớn về tinh thần

ập đến khiến chàng cảm thấy chán đời “Một cái chán nản mênh mông tràn

ngập cả người. Sinh lấy hai tay ôm mặt, cúi đầu khóc nức nở” (Đói).

Vì miếng ăn - một nhu cầu vật chất bình thường của con người, mà

Sinh đánh mất cả lòng tự trọng và nhân phẩm. Đây là biểu hiện về bi kịch

tinh thần không lối thoát của người trí thức đương thời. Đói đã gợi cho ta

liên tưởng tới truyện Miếng bánh của Nguyên Hồng. Mặc dầu cảm giác của

nhân vật Nguyên Hồng tàn khốc hơn nhưng dư vị chua chát chưa đạt đến

độ sâu như nhân vật Thạch Lam.

Nhà mẹ Lê với tình huống bất hạnh là mẹ Lê phải nuôi đàn con

mười một đứa ở trong “một căn nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác.

Chừng ấy người chen chúc trong khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có

mỗi một chiếc giường nan đã gãy nát. Mùa rét thì rải ổ rơm đầy nhà, mẹ

con cùng nằm ngủ trên đó trông như một cái ổ chó, chó mẹ chó con lúc

nhúc” [45;183]. Mùa đông đến, ngoài đồng chỉ còn trơ những cuống rạ, ao

hồ cũng cạn không còn tôm cá để đánh bắt nữa, nguồn thức ăn mà cả nhà

mẹ Lê trông đợi không còn. Nhà mẹ Lê lâm vào cảnh nghèo khó túng

thiếu. Không cầm lòng trước cảnh đàn con đói rét, mẹ Lê đã tìm đến nhà

ông Bá giàu có trong làng để vay gạo. Nhưng ông Bá giàu có đã không cho

mà cậu Phúc con ông Bá còn thả chó ra đuổi. mẹ Lê phải trở về với vết

thương máu chảy ròng ròng. Mẹ Lê lên cơn sốt nặng, rồi qua đời.

Thạch Lam đã không trực tiếp miêu tả hành động và bộ mặt tàn ác

của giai cấp thống trị, bọn cường hào ác bá như lối viết của các nhà văn

đương thời là Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam

Cao, mà nhẹ nhàng kín đáo chỉ qua tình huống bất hạnh, cái chết của mẹ

Lê, nhưng ý nghĩa tố cáo rất sâu sắc và thấm thía, đồng thời gieo vào lòng

50

bạn đọc một niềm xót xa, một nỗi buồn thương da diết.

Truyện Hai lần chết kể về nhân vật Dung. Từ nhỏ nàng đã có một cái

tính an phận và nhẫn nại lạ lùng. Khi ra đời, cha mẹ nàng đã nghèo rồi,

phải vất vả làm lụng mới lo cho tất cả anh chị Dung đủ ăn. Mẹ Dung bận

buôn bán nên không có thời gian để chăm sóc đàn con của mình. Trong các

anh chị em, Dung là người gầy còm nhất lại lôi thôi lếch thếch và dường

như không được mẹ yêu thương và để ý. Thậm chí những ngày tết, các anh

chị em được mặc quần áo mới vui chơi, còn nàng vẫn cứ phải áo cũ làm

lụng dưới bếp. Nhưng trong sự lãnh đạm ấy, Dung không ganh tỵ, không

kêu ca. Từ khi mẹ quyết định là Dung sắp phải lấy chồng, thái độ của mẹ

đối với nàng càng khác đi nhiều... Đến nhà chồng, Dung phải làm công

việc nặng nhọc, đầu tắt mặt tối suốt ngày. Chồng nàng chỉ là một cậu học

trò lớp nhí, chẳng biết gì, không thể an ủi nàng được. Bà mẹ chồng đối với

nàng rất ác nghiệt còn hai em chồng luôn làm cho nàng bị mắng thêm.

Những lúc Dung cảm thấy khó chịu, ngồi khóc thì bà mẹ chồng lại đay

nghiến “Làm đi chứ, đừng ngồi đấy mà sụt sịt đi cô. Nhà tôi không có

người ăn chơi, không có người cả ngày ôm lấy chồng đâu”. Dung không

biết mình phải làm gì. Đến một hôm cả nhà đi vắng, Dung đã ăn cắp mấy

đồng bạc, ra ga mua vé tàu về quê. Nhưng đến nhà rồi Dung càng đau khổ

hơn nữa vì bố mẹ không thông cảm với nàng và hôm sau mẹ chồng nàng

xuống nhà Dung bắt nàng đi. Lúc đó nàng chỉ có một ước mơ là cái chết:

“Ra đến sông lúc nào nàng cũng không biết. Như trong giấc mơ, Dung lờ

mờ thấy cái thành cầu, thấy dòng nước chảy. Trí nàng sắt lại khi nước lạnh

đập vào mặt, nàng uất ức lịm đi, thấy máu đỏ trào lên, rồi một cái màn đen

tối đến che lấp cả”. Dù cuối cùng Dung được cứu sống, nhưng thực sự

nàng càng khổ sở nữa, vì mới biết là mình vẫn phải về nhà chồng không có

gì khác là từ “chết trong khi sống”.

51

Có thể nói, cốt truyện của Thạch Lam rất đơn giản, không có nhiều

các biến cố, sự kiện các tình tiết bất ngờ hấp dẫn mà nhà văn chủ yếu đi

vào miêu tả và khai thác các trạng thái tâm lí, những rung động trong tâm

hồn nhân vật. Truyện Thạch Lam thường xoay quanh các tình huống khơi

gợi cảm xúc, tình huống bất hạnh hay tình huống nhân vật tự nhận thức –

tình huống phản tỉnh để hướng tới những giá trị nhân bản tốt đẹp trong

cuộc sống. Chính vì vậy truyện của Thạch Lam giàu yếu tố trữ tình khiến

người đọc rung cảm.

2. 2. Kết cấu.

2.2.1. Khái niệm kết cấu:

Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục tác

phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của

tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng

nhất định. Theo giáo sư Trần Đình Sử: “Nguyên tắc quan trọng nhất của kết

cấu là nguyên tắc tổ chức cái nhìn sao cho bằng cảm thụ hình tượng nghệ

thuật, cũng như biểu hiện được niềm rung cảm và đánh giá của tác phẩm.

[59;153]

Kết cấu là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm. Kết cấu có nhiệm vụ góp

phần thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Trong lao động sáng tạo văn

học, có thể coi như chủ đề tư tưởng là mục tiêu nhằm hướng tới của nhà

văn trong quá trình phát hiện và xây dựng kết cấu. Trong tác phẩm văn học,

có nhiều hình thức kết cấu, tuỳ theo đối tượng miêu tả và phong cách sáng

tạo mà các nhà văn có thể lựa chọn hình thức kết cấu phù hợp để biểu hiện

cao nhất tư tưởng chủ đề tác phẩm.

2.2.2. Kết cấu tâm lý – mô hình tiêu biểu của văn xuôi Thạch Lam.

Nhìn lại các sáng tác của các tác giả cùng thời với Thạch Lam, chúng

ta dễ dàng nhận thấy có nhiều hình thức kết cấu khác nhau. Truyện của

52

Nguyễn Công Hoan có lối kết cấu gần với kịch. Sự vận động của cốt truyện

trên cơ sở sự xuất hiện, hình thành những tình huống mâu thuẫn, những

xung đột. Các mâu thuẫn, xung đột ngày càng được đẩy đến cao trào, đỉnh

điểm, rồi bất ngờ được giải quyết, nội dung tư tưởng của tác phẩm được

bộc lộ….. Kết cấu truyện của Nam Cao thường nương theo trục thời gian, dõi

theo số phận nhân vật (Chí Phèo, Nửa đêm, Dì Hảo, Điếu văn …) hoặc mang

tính chất luận đề (Đời thừa, Sống mòn …). Nhìn chung kết cấu của Nam Cao

“là một dòng cảm xúc buồn của chất văn xuôi - đời thường” [18; 367].

Riêng với Thạch Lam, đối tượng phản ánh không phải là những xung

đột giai cấp dữ dội mà là những diễn biến tinh vi, phức tạp của thế giới nội

tâm. Vì vậy Thạch Lam đã chọn kết cấu tâm lí trong đa số các sáng tác của

mình. Trong dạng kết cấu này, tác giả đã dựa vào các quá trình vận động

bên trong tâm hồn, những phản ứng nội tâm, diễn biến tâm trạng nhân vật

làm cơ sở để tổ chức tác phẩm. Tất cả đều được soi rọi từ cái nhìn nghệ

thuật mang đậm dấu ấn chủ quan của nhà văn.

Xuyên suốt thiên truyện Hai đứa trẻ là dòng cảm giác của nhân vật

Liên: buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn, cảm giác yêu thương,

thân thuộc khi bắt gặp mùi âm ẩm của đất, “Liên tưởng là mùi riêng của

đất”; cảm giác xót xa đồng cảm trước những thân phận, những kiếp người

tàn tạ: những đứa trẻ đi đi lại lại nhặt nhạnh những thứ còn sót lại của phiên

chợ nghèo; cảm giác trước cảnh sống của gia đình chị Tý, bác Xẩm, bác

phở Siêu, bà cụ Thi điên; cảm giác “mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi

không biết, như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”

sau khi nhìn thấy chuyến tàu đêm.

Sự vận động của truyện đi theo diễn biến của những rung cảm, cảm

xúc trong tâm hồn nhân vật, nó rất mong manh, nhỏ bé và có khi mơ hồ

thật khó nắm bắt. Kết cấu của truyện giống như một bài thơ trữ tình đượm

53

buồn làm lay động trái tim bạn đọc.

Truyện Gió lạnh đầu mùa được kết cấu theo diễn biến tâm trạng

nhân vật bé Sơn: đó là những cảm giác của Sơn trước sự thay đổi đột ngột

của thiên nhiên - cái lạnh đầu mùa bất chợt tràn về trong một buổi sáng.

Cảnh vật, con người xung quanh đều có sự thay đổi, đặc biệt là cảm nhận

của Sơn về cái lạnh của những đứa trẻ con nhà nghèo vì không có áo mặc.

Và cảm giác vui, hạnh phúc khi lén mẹ tặng bạn chiếc áo rồi sau đó là sự

hồi hộp lo lắng sợ bị mẹ phát hiện … Mạch đi của truyện theo những cảm

giác rất nhẹ nhàng tinh tế trong tâm hồn trẻ thơ – nhân vật cậu bé Sơn đã đưa

người đọc nhập vào câu chuyện và trải nghiệm với đời sống nội tâm nhạy cảm

giàu tình yêu thương của thế giới trẻ thơ trong tác phẩm Thạch lam.

Dưới bóng hoàng lan với kết cấu theo những sắc thái nội tâm của

nhân vật Thanh sau những năm đi học trên tỉnh xa nhà được trở về thăm bà,

được đắm mình trong không gian yên ả thanh bình dưới bóng hoàng lan,

được sống trong cảm giác yêu thương gần gũi bên bà, và những rung cảm

trước vẻ đẹp tâm hồn người thiếu nữ, để rồi hôm sau ra đi trong sự bịn dịn

lưu luyến …

Truyện Cô hàng xén, kết cấu truyện đi theo mạch diễn biến tâm trạng

nhân vật Tâm: từ lúc con gái, yêu thương, lo toan, trách nhiệm với gia đình,

ngày ngày nhẫn nại đi về với gánh hàng rẻ tiền “đòn gánh cong xuống vì

hàng nặng, kĩu kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp của bước đi” và “nỗi mệt

nhọc như tan biến khi Tâm trở về nhà sống trong tình yêu thương của mẹ

và các em”; cảm giác lo lắng cho người thân, không mảy may nghĩ tới

mình. Đến những cảm giác, tâm trạng mụ mị, lo âu chồng chất sau khi Tâm

lấy chồng, vừa phải nuôi con, lo cuộc sống gia đình nhà chồng vừa phải

chu cấp cho các em ăn học, Tâm không còn nghĩ tới bản thân nữa “Đã lâu

nàng không còn chú ý đến sắc đẹp của mình và cũng không biết nó tàn lúc

54

nào. Sắc đẹp cũng vô ích cho nàng khi đã có chồng rồi” (Cô hàng xén).

Nếu như kết cấu trong các truyện ngắn Thạch Lam là kết cấu tâm lí,

kết cấu theo các cung bậc tâm trạng, cảm xúc, những rung cảm nảy nở

trong nội tâm nhân vật trước cuộc sống và thế giới xung quanh, với những

sắc thái tâm trạng rất tinh vi, nhẹ nhàng mà có khả năng lay động cảm xúc

người đọc, thì kết cấu trong Tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường là ghi

chép về những cảm nhận đôi khi mang tính ngẫu hứng về Hà Nội. Nhà văn

không đi theo kết cấu của sự kiện, những biến cố thăng trầm của lịch sử, xã

hội mà khai thác những lát cắt văn hoá, nghệ thuật ẩm thực- những biểu

hiện tưởng vặt vãnh, đời thường như quà Hà Nội, tên các cửa hiệu, các con

phố… Chỉ riêng các bài viết về quà Hà Nội, tác giả đi theo “mô thức”: mở

đầu là Quà Hà Nội, kết thúc: “Qùa …tức là người”. Lối viết đó đem đến

cái ý vị riêng cho tuỳ bút Thạch Lam.

Với mỗi thức qùa, tác giả lại đi vào những cảm nhận, ấn tượng về

hương vị, hình thức của nó, hương vị, hình thức của một Hà Nội ngàn năm

văn hiến. Ví như viết về bún, phở, bánh cuốn …, mỗi câu mỗi chữ đều

miêu tả cái xuýt xoa, cái cảm giác thèm thuồng, ngon và sung sướng của

người thưởng thức. Còn khi viết về cốm và bánh cốm, tác giả đi theo mạch

suy ngẫm về thứ quà này: “Cốm là thức quà riêng của đất nước, là thức

dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả

cái mộc mạc, giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam. Ai đã

nghĩ đầu tiên dùng cốm để làm quà sêu tết? Không còn gì hợp hơn với sự

vương vít của tơ hồng, thức quà trong sạch, trung thành như các việc lễ

nghi. Hồng cốm tốt đôi …màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu

đỏ thắm của hồng như ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc,

hai vị nâng đỡ cho nhau để hạnh phúc được lâu bền”.

Đi theo mạch cảm xúc của một người gắn bó với quê hương, trân

55

trọng các giá trị văn hoá dân tộc, yêu say đắm Hà Nội, Thạch Lam đã miêu

tả mỗi thức quà đều gắn với nét đẹp cũng như cuộc đời của những con

người nơi đây. Đó là những “cô hàng cơm nắm lẳng lơ với hai quang thúng

bỏ chùng”, “món quà sạch sẽ và tinh khiết, tự quà cho đến cả quang thúng,

cả cô hàng tóc vấn gọn, áo nâu mới, quần sồi thâm, cô hàng trông cũng

ngon mắt như quà của cô vậy”. Đó là cô hàng bún ốc “có một cái dụng cụ,

một đầu là búa, một đầu là dùi nhọn. Một cái gõ nhẹ, và một cái trở tay là

con ốc nguyên cả ruột đã gọn gàng rơi mình vào bát nước. Cô thoăn thoắt

rút ốc không kịp, trông thấy nguời ta ăn ngon lành, chính cô cũng sinh

thèm …”. Qùa là nét đẹp của tấm lòng thơm thảo và cái tài khéo léo của

những người đàn bà Việt: “Trong cách nặn bánh theo một hình thể thanh

thanh, người ta cảm thấy cái hoa tay mềm mại của các cô thiếu nữ, cái tìm

tòi nghệ thuật ấy giúp cho bánh ngon thêm nhiều lắm. Không cứ phải có

của ngon, còn cần phải nâng niu kính trọng nữa” (Còn quà Hà Nội). Có

những thứ quà lại gợi nên nỗi truân chuyên vất vả của một kiếp người:

“Đêm khuya nữa … ở các con đường vắng, một bóng người lủi thủi đi, một

chấm lửa nhỏ lung lay theo từng bước chậm chạp và thong thả, bác hàng

quà đi nhẹ như chân ma, thỉnh thoảng cất lên một tiếng giao khe khẽ ngắn

và chóng chìm vào quãng tối: “Giầy giò … giầy giò…” (Mìn páo và giầy

giò). Lại có thức quà không chỉ được thưởng thức hương vị ngon ngọt của

nó mà còn cảm nhận được cái tâm lí và cái đức của người bán hàng: “Bà là

người ngoan đạo nên tuy ở địa vị đặc biệt đó bà cũng không bắt bí mọi

người và ăn lãi quá đáng. Thức gì bà bán cũng ngon lành, giá cả phải

chăng” (Hàng quà rong) …

Có thể nói, với cách miêu tả đó, tuỳ bút của Thạch Lam bổ sung vào

phong cách nghệ thuật văn xuôi tự sự của ông một nét mới lạ: “sự tươi tắn

hồn nhiên bên cạnh sự mực thước trầm tĩnh dịu nhẹ khoan hoà” vốn có và

56

vốn quen thuộc trong truyện ngắn cũng như tiểu thuyết.

Kết cấu theo dòng tâm trạng nhân vật là kiểu kết cấu mới mẻ nhất

trong văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Đó là kiểu kết cấu của

những tác phẩm có cốt truyện nghiêng về tâm lí nhằm miêu tả những diễn

biến tinh vi phức tạp của đời sống nội tâm nhân vật. Trong những truyện

này, chỉ xuất hiện vài sự việc nhỏ còn lại là cảm giác, suy nghĩ nhân vật với

những hồi ức, liên tưởng độc thoại nội tâm. Nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ

đóng vai trò khơi gợi cho dòng chảy tâm lí.

Đọc truyện của Thạch Lam, ta thấy các nhân vật phần nhiều là những

người có khả năng tự ý thức, tự phân tích thế giới nội tâm của mình một

cách tinh vi sâu sắc, có khả năng cảm nhận được những diễn biến nhỏ bé

nhất trong tâm hồn mình. Vì thế truyện Thạch Lam dẫn người đọc đột nhập

vào những tầng ngầm vô thức trong thế giới tâm linh, khám phá ra những

điều tưởng chừng bí mật mà kì thực rất gần gũi, quen thuộc bởi người ta ai

cũng từng trải qua nhưng không để tâm đến hoặc không lí giải được.

Kết cấu tác phẩm theo dòng chảy tâm trạng và cảm giác của nhân vật

là nét đặc sắc trong nghệ thuật văn xuôi của Thạch Lam tạo nên chất thơ,

chất trữ tình giúp người đọc có được cái nhìn nhiều chiều về con người và

cuộc sống.

2.3. Nhân vật.

2.3.1. Khái niệm nhân vật.

Có thể nói, thế giới nhân vật bao giờ cũng là sự thể hiện tập trung và

trực tiếp cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật

bao giờ cũng theo cách hình dung và cảm nhận riêng của mình. Bởi vì, sự

sáng tạo nghệ thuật là một sự thống nhất biện chứng giữa khách thể và chủ

thể, hướng ngoại và hướng nội. Bêlinxki nhận xét rằng: “Các nhân vật của

tác phẩm không phải đơn giản là những bản dập của những con người sống

57

mà là những hành động được khắc hoạ phù hợp với ý đồ, tư tưởng của tác

giả”. Với Thạch Lam, thế giới nhân vật trong các sáng tác được xây dưng

và khắc hoạ bằng bút pháp hiện thực kết hợp với trữ tình đặc sắc.

2.3.2. Gợi tả ngoại hình nhân vật.

Khác với các nhà văn cùng thời như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất

Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao … , luôn khắc hoạ các nhân vật giàu cá

tính, điển hình về tính cách, số phận, cả ngoại hình lẫn nội tâm đều rất phức

tạp sinh động, thì ta dễ nhận thấy nhân vật của Thạch Lam ít được nhấn

mạnh về điệu bộ, cử chỉ, dáng vẻ bên ngoài mà là những nhân vật “hướng

nội”, có đời sống bên trong, ẩn chứa những bí mật của “cõi người” mà nhà

văn đặt mục đích khám phá và phát hiện.

Trong các sáng tác của Nam Cao xuất hiện rất nhiều các nhân vật

“méo mó”, kì dị. Đó là những gương mặt xấu xí đến mức ghê sợ, những

cuộc đời hoặc đần độn, ngu ngơ, điên loạn, cuồng dại đến mất hết nhân

tính. Với những Thị Nở, Mụ Lợi, Nhi, Thiên Lôi – Trương Văn Dự, Trạch

Văn Đoành và cuối cùng là Chí Phèo... , tất cả đều được Nam Cao đưa vào

tác phẩm một cách khách quan, sinh động như chính sự hiện diện của nó

trong cuộc đời. Với Nam Cao, những nhân vật này của ông là những con

người cụ thể chân thực, họ xấu xí méo mó cả về thể xác lẫn tâm hồn. Bởi vì

họ là sản phẩm đích thực của một xã hội đen tối, bế tắc. “Họ bị bóp méo đi,

bị tước đoạt đi bao cái đẹp đẽ, cao quý của con người. Họ như con thú bị

săn đuổi tới đường cùng, quay lại điên dại, cắn xé, chống trả lại cái xã hội

một cách cuồng loạn, bế tắc” [18; 465]. Nam Cao miêu tả nhân vật của

mình một cách khách quan, trần trụi, khiến người đọc vừa ghê sợ, vừa

thương xót.

Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Vũ Trọng Phụng lại nghiêng về

châm biếm trào lộng. Nhà văn không chỉ khắc hoạ tính cách mà còn tập

58

trung miêu tả ngoại hình nhiều khi pha chút cường điệu. Những Xuân Tóc

Đỏ, Phó Đoan, Cô Tuyết, ông Phán mọc sừng, hay Nghị Hách .., đã trở nên

quen thuộc, điển hình, phản ánh một xã hội tư sản thành thị buổi đầu âu

hoá nhố nhăng đồi bại. Những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa cứ chen lẫn chủ

nghĩa hiện thực được thể hiện trong lối viết của ông. Khắc hoạ ngoại hình

cũng như bản chất nhân vật, tác giả đã dùng ngòi bút khuếch trương, cực

tả. Nhà văn không ngần ngại bóc trần, lột tả bản chất xấu xa đê tiện của

những hạng người trong xã hội đương thời, nó được bộc lộ, phơi bày ra qua

dáng vẻ, hình thức bên ngoài của các nhân vật.

Khác với các nhà văn cùng thời, Thạch Lam vận dụng lối miêu tả

khá điềm tĩnh, nhẹ nhàng. Người đọc cũng không có ấn tượng mạnh về thế

giới nhân vật của ông. Thạch Lam không quá chú trọng miêu tả ngoại hình

nhân vật mà chỉ đôi chút, thoảng qua, đan xen với tả nội tâm, cảm xúc.

Hình dáng bề ngoài của nhân vật đôi khi là yếu tố khơi gợi cảm xúc, tâm

trạng. Nhà văn không hướng ngòi bút để khai thác cái “thô”, cái “xấu”, cái

“dị dạng” như các nhân vật của Nam Cao, lại càng không „trần trụi” đến

“sống sượng‟, “đê tiện” như vẻ ngoài các nhân vật của Vũ Trọng Phụng.

Thạch Lam miêu tả dù dáng vẻ của người thiếu nữ hay hình hài

những bậc trí thức, đến ngoại hình của các nhân vật có số phận, cuộc đời

khổ đau …, cũng chỉ gợi tả khắc hoạ một vài các chi tiết rất nhỏ và tinh tế

như ánh mắt, nét mặt, nụ cười, đôi môi, đến bàn tay, nét ngực…, có khả

năng khơi gợi những rung động, cảm xúc đẹp đẽ thanh khiết, trong trẻo

trong tâm hồn người đọc.

Vẻ đẹp của Tâm trong Cô hàng xén là vẻ đẹp của một thiếu nữ thôn

quê dịu dàng, e lệ, vẻ đẹp mang đậm phong vị Á Đông truyền thống:

“Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm thường thấy người ấy ra hàng Tâm

mua kim chỉ. Nàng cúi mặt xuống hàng, thấy cái nhìn âu yếm của người

59

con trai ấy đè nặng trên người, má Tâm phơn phớt đỏ ..”. “Nàng bán hàng

trên khoảng đất nàng vẫn ngồi xưa nay. Ánh sáng đầu tiên của mặt trời lấp

lánh trên mặt kính các ô hàng. Các màu đua nhau thắm tươi dưới ngón tay

xinh xắn của Tâm” [39;52], “Tâm cúi mặt thẹn đỏ hai gò má, nàng tưởng

đến cậu giáo, con người xinh trai và nhã nhặn mà mới buổi gặp lần đầu

nàng đã mến yêu ngay”. Và một cô Tâm với cuộc đời lam lũ khổ cực khi có

chồng, nhan sắc bị bào mòn theo năm tháng, nhà văn chỉ để nhân vật hồi

tưởng, tiếc nuối quá khứ “Tâm bây giờ không còn là cô gái xinh xắn hồi

trước. Nàng già đi nhiều lắm. Đã lâu nàng không chú ý đến sắc đẹp của

mình và cũng không biết nó tàn lúc nào” [39;57].

Truyện Dưới bóng hoàng lan, cái đẹp của Nga là cái đẹp tinh khôi,

trong sáng qua cảm nhận của Thanh khi ở trên tỉnh trở về thăm nhà: “Bữa

cơm vui quá. Thanh ăn rất ngon miệng, lòng thư thái và sung sướng. Thỉnh

thoảng chàng nhìn đôi môi thắm của Nga, hai má hồng hồng. Và nụ cười

tươi nở, nàng nhìn Thanh một chút thôi, nhưng biết bao nhiêu âu yếm”;

“Thanh nhớ lại hai bàn chân xinh xắn của Nga ngày nào, đi trên đó. Hai

bàn chân nhỏ lấm tấm cát, để dấu từ ngoài ao trở về …”, “Nàng nhìn

Thanh, mắt như tụ lại những hình ảnh tự bao giờ, và sẽ vuốt mấy sợi tóc

mai ra một bên”, “Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng

hương thơm như có giắt hoàng lan. Những hoa lan chưa rụng, vẫn còn tươi

xanh ở trên cành” [39;73].

Vẻ đẹp của Trinh (Ngày mới) trong mắt Trường, chàng tân khoa về

từ Hà Thành thật dịu dàng gợi cảm. Mới thấy bóng nàng “thấp thoáng” từ

trong vườn đi ra phía sông mà “nước sông Tiên” đã “trong hơn”, “cỏ tươi

thêm và ngày càng rực rỡ khác thường hơn. “Trinh đứng bên khóm cây

mộc đang nhặt trong khe lá những chùm hoa nhỏ để đem về ướp chè …

thân hình mềm mại trên cành lá; nàng bận một chiếc áo trắng mỏng, trên

60

vành khăn nhung trong mái tóc đen có giắt mấy bông hoa sói ..”. Những vẻ

đẹp như thế, luôn luôn mới mẻ thanh tân, cũng là vẻ đẹp mang cái thiêng

của bản thân sự sống. Trước vẻ đẹp như vậy, người ta không thể suồng sã,

không nỡ ồn ào!

Tả sự tàn lụi nhan sắc của nhân vật Lệ Minh trong Người bạn cũ bởi

thời gian và cuộc sống gia đình tan vỡ, nghèo khổ, nhà văn chỉ tập trung

khắc hoạ những biến đổi ở đôi mắt, gương mặt nhân vật và cảm giác nuối

tiếc vẻ đẹp đã tàn phai: “đôi mắt tinh nhanh buổi trước, giờ lờ đờ như bị ám

sau cái màn lo nghĩ. Đôi gò má hây hây nay không biết vì tuổi hay vì phiền

não ở đời, đôi má kia đã thành ra hóp lại, hai gò má nổi cao, phải chăng

như để tiêu biểu cho kẻ có số phận vất vả long đong..” (Người bạn cũ).

Miêu tả chân dung hình hài của người trí thức trước cảnh nghèo khó

bởi sự xô đẩy của cuộc đời, ngòi bút Thạch Lam cũng rất điềm tĩnh gợi tả

những chi tiết rất nhỏ. Bào trong Người bạn trẻ, người bạn cùng học thuở

trước, Bình nhớ lại “hai má anh hồng hồng và vẻ mặt anh nõn nà trông xinh

xinh như một cô con gái thật…”. Sau nhiều năm gặp lại, Bình không ngờ

trước sự thay đổi tiều tuỵ của bạn: “Anh Bào cố mỉm cười. Cái cười thật

đáng thương và ái ngại. tôi nhìn kĩ anh: chiếc áo lương anh mặc đã bạc, vá

kín đáo một vài chỗ. Trên mặt anh có bao nhiêu nốt lấm chấm, đỏ dày đặc

cả hai má …” [39;169].

Không quá dụng công khắc hoạ ngoại hình dáng vẻ bên ngoài mà

chỉ gợi những chi tiết rất xinh, rất nhỏ về hình thức, hơn nữa nhà văn

không khai thác hoặc có thì rất ít cái thô cái xấu, phải chăng điều đó đã

thể hiện một xu hướng tiếp cận đối tượng nghệ thuật của Thạch Lam rất

riêng và cho thấy sự tao nhã mà cũng rất duy mĩ, nhân văn. Chính vì thế

mà nhân vật của Thạch Lam mang một vẻ đẹp hấp dẫn có sức cuốn hút

đối với người đọc.

61

2.3.3. Nhân vật của Thạch Lam thiên về đời sống nội tâm .

Sức hấp dẫn trong các sáng tác của Thạch Lam là ở chiều sâu của thế

giới nội tâm, những trạng thái cảm xúc tinh tế của con người. Không giống

Nam Cao – nhà văn hiện thực cùng thời, được xem là rất thành công trong

nghệ thuật “tả tâm”, thường đặt nhân vật trong những dòng cảm xúc phức

tạp đa chiều. Nhân vật Thứ vừa trượt trên cái dốc “sống mòn”, vừa cố

cưỡng lại, vươn lên; Hộ trong “Đời thừa”, vừa suy nghĩ phải tàn nhẫn để

sống cho mạnh mẽ lại vừa chủ trương “kẻ mạnh phải là kẻ giúp đỡ người

khác trên đôi vai của chính mình”. Từ Lão Hạc, Điền, Hộ, Thứ …, thậm

chí đến Chí Phèo, suốt đời chỉ toàn suy nghĩ, giằng xé, trăn trở dữ dội mãnh

liệt. Đó là dòng tâm trạng đau đớn, vật vã đầy bi kịch.

Là một ngòi bút trữ tình, Thạch Lam đã diễn tả mọi cung bậc rung

động của tâm hồn, gợi lên những cảm giác mong manh tinh tế trước ngoại

cảnh, trước mọi biểu hiện phong phú của đời sống tinh thần con người. Chính

vì thế, khi đọc Thạch Lam, chúng ta thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác

mà thành. Nhân vật của ông nhận biết thế giới xung quanh và giao hoà với

tâm hồn người khác chủ yếu nhờ vào cảm giác, thông qua cảm giác.

“Đi sâu vào sự thể hiện các trạng huống tinh vi và phức tạp của tâm

hồn, ngòi bút Thạch Lam dường như luôn biến hoá. Khả năng diễn đạt một

cách đa dạng các sắc màu phong phú của đời sống nội tâm nhân vật ở tác

giả, đôi khi làm cho ta ngạc nhiên” [17;29].

Đọc truyện Thạch Lam, ta thấy tần số chữ cảm giác, thoáng thấy,

thoáng nghe, thoáng nhìn, thoáng nghĩ, thoáng ngửi, bỗng nhiên, mang

máng, không rõ nét …xuất hiện liên tục. Vì vậy mà đời sống hiện lên trong

văn Thạch Lam tựa hồ có khi rất khó nắm nắm bắt như hư không nhưng lại

có vẻ kề cận, gần gũi với con người, tạo nên những rung động nhiều khi “khẽ

như cánh bướm non” trong tâm hồn.

62

Ngay từ đầu xuất hiện cuốn “Gió đầu mùa”, Khái Hưng đã rất tinh tế

khi xếp Thạch Lam là nhà văn của cảm giác và nhận xét: “Ở chỗ mà người

khác dùng tư tưởng, dùng lời nói có thể rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ

nói một cách giản dị cái cảm giác của ông, cái cảm giác ấy bao quát hết trí

tưởng tưởng của độc giả và tác giả, nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn tư tưởng

vì có cái cảm giác ấy mà ta không thể dùng tư tưởng để mô tả, giải phẫu

cảm giác của ta được (Khái Hưng - Tựa gió đầu mùa (tái bản)-NXB Minh

Đức - Hà Nội, 1957).

Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” đã phát hiện: “Có một ngòi

bút lặng lẽ, điềm tĩnh, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng

người mà ông tả một cách tinh vi [17;137].

Ngòi bút Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên

trong với những cảm xúc, cảm giác; ông đặc biệt tinh tế khi diễn tả, phân

tích những rung động tâm hồn, những cảm giác mong manh thoáng qua,

những biến thái nhỏ bé của tâm trạng trước ngoại cảnh. Đó là những rung

động, cảm xúc thơ ngọt ngào, ngây ngất của các chàng trai, cô gái mới lớn.

Tâm trong Cô hàng xén – một thiếu nữ ngoan hiền xinh đẹp đã phải

lòng và rung động trước cậu giáo làng: “Những ngày phiên chợ Bằng, Tâm

thường thấy người ấy ra mua kim chỉ. Nàng cúi mặt xuống hàng, thấy cái

nhìn âu yếm của người con trai ấy đè nặng trên người. Má Tâm phơn phớt

đỏ. Câu chuyện ngượng nghịu gióng một, nhưng nàng thấy tâm hồn say sưa

như nhấp rượu”. Và “Lúc lên giường nằm, dưới tấm chăn mỏng và lạnh,

Tâm còn tơ tưởng mãi đến con người xinh trai ấy ” [39;51].

Cảm giác rạo rực, rung động của Bình trước vẻ đẹp của cô Lan, con

gái ông Cả Vinh- chủ nhà, được miêu tả hết sức tinh tế: “Bình ngắm nghía

cô “Thân thể trẻ tươi và dẻo dang của nàng vươn cong dưới bóng cây, và

tấm áo mảnh căng sát để phô hẳn những đường mềm mại” (Tình xưa). Một

63

đêm khuya cả nhà đã ngủ, và Bình ngồi gần bên của sổ trông ra sân. Bỗng

nhiên chàng nghe thấy tiếng nước rơi xuống. Cô Lan đang tưới hoa lan ở

ngoài vườn. Chàng ham muốn ở gần cô: “Một ham muốn bỗng đễn chiếm

lấy tâm hồn tôi. Mùi thơm nhẹ và sắc của hoa lan thoang thoảng ở ngoài.

Lan vẫn cúi mình trên chậu cây dường như không biết có tôi bên cạnh. Tuy

vậy tôi đoán rõ sự cảm động của nàng. Tôi đến bên cạnh nàng …để tay lên

tay nàng. Lan rung động cả người, toàn thân nàng mềm lại. Nàng ngả

người trên vai tôi” (Tình xưa)

Cảm giác xao xuyến rạo rực trong tình yêu giữa Trường và Trinh

trong tiểu thuyết Ngày mới được nhà văn miêu tả hết sức đặc sắc và lãng

mạn: “Chung quanh chàng yên lặng: mặt trăng đã lên quá đỉnh đầu, sáng

láng trên nền trời trong vắt. Sương xuống đã thấm vào người…. Đột nhiên

chàng giật mình. Trong bóng tối của giàn hoa, chàng thoáng thấy bóng

người đứng nép vào khóm cây. Chàng bước lại gần. Một tiếng nói quen

thuộc khẽ gọi tên chàng, giọng dịu dàng và cảm động. Trường đứng sát bên

nàng. Trong bóng tối chàng thấy đôi mắt Trinh long lanh và nghe tiếng thở

không đều của người thiếu nữ. Qủa tim chàng bỗng đập mạnh và một tình

cảm mến yêu dồn dập đến; Trường cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Trinh và

kéo lại gần mình…”(Ngày mới).

Hoặc cái cảm giác ê chề tủi nhục của hai cô gái giang hồ trong Tối

ba mươi khiến ta không khỏi buồn bã, day dứt:

“Trên chiếc bàn rửa mặt đầy vết bẩn, Liên đã đặt đĩa cam quýt, cái

bánh chưng và thếp vàng. Mấy gói lạp xườn và giò cúng để ngay bên. Các

đồ cúng nghèo nàn bỗng bày lộ ra trước mặt hai người. Huệ tìm lấy thẻ

hương. Nàng quay lại hỏi Liên:

- Chị có mua gạo không?

- Có, gạo đây. Nhưng đổ vào cái gì bây giờ?

64

“Hai chị em nhìn quanh gian buồng, nghĩ ngợi, Liên bỗng reo lên:

- Đổ vào cái cốc này này. Phải đấy rất là ….

“Nàng im bặt dừng lại. Hình ảnh ô uế vừa đến trí nàng. Cái cốc bẩn ở

góc tường, mà cả đến những khách chơi cũng không thèm dùng đến, nàng

định dùng làm bát hương cúng tổ tiên! Liên cúi mặt xuống, rồi đưa mắt lên

trông Huệ; hai người thoáng nhìn nhau. Liên biết rằng những ý nghĩ ấy

cũng vừa đến trí bạn.

“Huệ cất tiếng nói trước, thản nhiên như không có gì:

- Hay là cắm trên cái chai này …Không! Cắm trên tường này cũng

được mày nhỉ.

“Liên không dám trả lời, sẽ gật đầu” [39;234].

Qủa là cách tả cái phút cay đắng của những cô gái giang hồ đến như

thế thì thật khéo khéo và vô cùng tinh tế. Chi tiết cái cốc, vài lời nói kín

đáo, vài cử chỉ nhẹ nhàng đủ phô bày hết tất cả cái cảnh tạm bợ, nhơ nhớp,

đủ diễn tả cái tâm hồn đau khổ của kẻ nghèo nàn và truỵ lạc mà vẫn còn

muốn sống theo cổ tục, truyền thống. Cái gật đầu ấy mới có ý nghĩa làm

sao. Nó thảm hơn cả tiếng khóc, đau xót hơn cả tiếng thở dài. Đoạn tả tình

trên của Thạch Lam thật là một đoạn văn kín đáo giàu cảm xúc.

Cái cảm giác về các món ăn trong Hà Nội băm sáu phố phường được

tác giả miêu tả thật tinh tế. “Cũng là thứ bún chả chẳng hạn - Thạch Lam

viết- cũng rau ấy, bún ấy, thế mà sao bún chả Hà Nội ngon và đậm thế,

ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi”. Phở cũng vậy: “phở là

một thứ quà thật đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có

nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon”. Cái ngon của phở Hà Nội mới

hấp dẫn: “nồi nước sôi sùng sục, toả mùi thơm ra khắp phố. Nếu là gánh

phở ngon - cả Hà Nội không có đâu làm nhiều – thì nước dùng trong và

ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt và

65

hành tây đủ cả. Chả gì ngon hơn bát phở như thế nữa. Ăn xong bát phở thứ

nhất lại muốn ăn luôn bát thứ hai”. Còn gánh phở trong nhà thương “…

gánh phở của bà thì tuyệt: bát phở đầy đặn và tươm tất do hai con gái bà

làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói

lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm

thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ”.

Ông viết về canh bún cá rô: “Thịt rô ấy đem lại cho thức ăn một vị

ngon đậm khác thường, không hiền lành, bởi vì nó chỉ ngon trong một độ

nào đó khiến người ăn có cái cảm tưởng đi gần một vị ghê lợm ở đầu này

và ở đầu kia, và bởi thế càng khiến cho thức quà thêm ngon hơn, có cái

ngon của sự chênh vênh và lo sợ …”. Ở đây tác giả đã dẫn dắt ta vào cái

thế giới của những trạng thái, cảm giác, trong đó có cả cái trạng thái

“không trọng lượng” khiến con người thấy chênh vênh và lo sợ. Còn đây, ta

hãy nghe ông tả thức quà xôi cháo: “Cháo hoa quánh mùi gạo thơm, xôi

nồng mùi gạo nếp. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và dừa. Ở xôi vừng mỡ,

nắm từng nắm con, ăn vừa ngậy vừa bùi” [17;262].

Có thể thấy, sức hấp dẫn ở những trang viết của Thạch Lam là lối văn

rất nhỏ nhẹ, sâu lắng, kín đáo và xinh tươi, đầy sức truyền cảm dẫn người đọc

vào dòng tâm trạng, cảm giác của nhân vật - những cảm giác mong manh vừa

thực vừa rất lãng mạn. Đó là chất thơ, chất trữ tình say đắm.

Đi vào thế giới nội tâm nhân vật, truyện của Thạch Lam đã miêu tả

những rung động, cảm xúc trƣớc thiên nhiên và cuộc sống xung quanh.

Bằng sự gợi tả cảm giác, Thạch Lam đã mở rộng cánh cửa đi ra thế

giới bên ngoài để nhân vật hoà nhập với thiên nhiên ngoại giới, để sống

đầy đủ cuộc sống của mình. Nhân vật của Thạch Lam rất nhạy cảm với

màu sắc, âm thanh và đặc biệt là hương vị cuộc sống. Đó là “mùi bèo ở

dưới ao hay mùi rạ đưa lên ẩm ướt” (Cô hàng xén), đến “mùi lúa chín thơm

66

lại phảng phất lẫn mùi rơm rạ mới cắt” (Những ngày mới).

Nhân vật của Thạch Lam cũng có sự lắng nghe âm thanh rất tinh tế

bởi họ nghe bằng cảm giác. Chẳng hạn trong một đêm mưa gió, hai cậu bé

nằm trong chăn ấm lặng người đi vì “qua tiếng gió, tiếng mưa ở ngoài ….,

nghe thấy tiếng chiêm chiếp của tiếng chim”, bởi thao thức trăn trở với sự

tưởng tượng “có một con chim ướt át xù lông ra vì rét, đến chỗ cửa sổ đòi

vào vì nó thấy ánh sáng trong phòng ấm áp” (Tiếng chim kêu). Tâm (Cô

hàng xén) nhận ra “lá tre khô và tiếng xao xác” khi “chân cô dẫm lên lá

tre”. Loan (Bắt đầu) nghe thấy tiếng “sẽ thở dài” trong sự dùng dằng và cay

đắng trước một cuộc hẹn hò.

Nhân vật Liên trong Hai đứa trẻ có một tâm hồn trẻ thơ trong sáng

và thuần khiết, tự nhiên như chưa từng chịu một tác động nào của cuộc

sống. Chỉ mới bắt gặp “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng ban ngày lẫn mùi cát

bụi quen thuộc, Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất, của quê hương”. Một

chiếc xà tích, một chiếc khoá được mẹ giao cũng gợi lên trong lòng cô sự

“quý mến và hãnh diện vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang”.

Không khí vắng lặng đìu hiu của phố huyện đã lay động tâm hồn Liên để

cô cảm nhận được cái buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt cô cũng

ngập đầy bóng tối. Khi đêm xuống Liên thích thú ngắm bầu trời đêm với

ngàn sao lấp lánh để mơ mộng về con vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng

sông Ngân Hà trong những câu chuyên cổ tích. Tâm hồn cô trong sáng đến

độ có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế giới xung quanh

mình: những con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột sáng lọt qua phên

nứa, những loạt hoa bàng rụng khẽ xuống vai áo …. Tâm hồn Liên dễ xao

động trước tất cả mọi việc đang diễn ra. Đằng sau mỗi cảnh vật, số phận là

một nỗi niềm của cô bé. Bắt gặp cảnh những đứa trẻ con nhà nghèo nhặt

nhạnh những rác rưởi trên mặt đất, Liên động lòng thương, tuy chính chị

67

không có gì cho chúng; thấy cảnh cụ Thi điên, cô chạnh lòng ái ngại và

thấp thỏm dõi theo bóng cụ đi lần vào bóng tối; cô hoà vào cảnh sống, nhịp

sống những người dân nghèo nơi phố huyện là mẹ con chị Tý, gia đình bác

Xẩm, bác phở Siêu …

Ngòi bút Thạch Lam còn ghi lại ước mơ chập chờn chưa định hình

hẳn trong tâm hồn Liên khi con tàu đêm lướt qua, ước mơ về Hà Nội xa

xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu đêm như đã đem một

thế giới khác lạ đi qua, một thế giới khác hẳn với cảnh tù đọng tăm tối nơi

phố huyện. Nó khơi dậy trong Liên mơ ước, hi vọng dù mơ hồ nhưng đầy ý

nghĩa trước cảnh sống quẩn quanh, buồn tẻ của chị em Liên và những

người dân nghèo nơi đây.

Ở Liên, ta bắt gặp một cảm giác buồn man mác, một nét buồn lãng

mạn. Và cái vẻ mơ mộng, lãng mạn trong tâm hồn Liên rất tiêu biểu cho cái

chất lãng mạn nhẹ nhàng được cất lên từ một hiện thực đầy chất thơ có

ngay trong hiện thực tâm hồn tuổi thơ.

Truyện Đứa con đầu lòng đã được tác giả miêu tả: Tân không hiểu

tại sao có một cảm giác khó chịu trước sự xuất hiện của đứa trẻ sơ sinh

trong gia đình nhỏ của mình, Tân hờ hững khi vợ đẻ con gái. … Tân cảm

thấy xa lạ với đứa con - giọt máu của mình. Nhưng cái trực quan sinh động

nhiều khi có sức mạnh khôn lường. Mỗi lần nhìn thấy “hai bàn tay nhỏ

nhắn của đứa bé đang cọ quậy giơ lên, giơ xuống, hai con mắt lờ đờ như

hơi ngạc nhiên nhìn …Cái bàn tay mập mạp xinh xắn của nó nắm chặt lấy

tay mẹ như để cầu sự âu yếm và che chở ..”, lòng Tân như xao động. Rồi

chàng không còn thờ ơ được nữa khi “cảm thấy lần đầu tiên cái thiêng liêng

sâu xa của sự sống”.

Ở đây tác giả đã nương theo đúng tâm lí của Tân và diễn tả được

việc Tân bị chinh phục bởi cái đẹp tự nhiên của sự sống luôn sinh thành.

68

Cái sinh vật nhỏ nhoi kia một phần của máu thịt chàng, nó vô tư lự, đòi hỏi

được chở che, nâng đỡ. Đúng lúc ấy, chàng mới thấy “trong lòng rung động

khẽ như cánh bướm non, một tình cảm sâu xa và mới mẻ chưa từng thấy”.

Thạch Lam đã luôn tâm niệm rằng: “Chính nhà tiểu thuyết gia có

biệt tài là nhà văn đã tả đúng và thấu đáo cái tâm lý uyển chuyển của con

người nhà văn chính mình có một tâm hồn rất phức tạp và giàu có” (Tiểu

thuyết để làm gì, Theo giòng). Đi sâu khám phá thế giới nội tâm của con

người, ngòi bút Thạch Lam đã luôn có ý thức kiếm tìm cho mình một cách

thức biểu hiện riêng. Cách thức này không chỉ giúp ông khám phá ra “cái bí

mật không tả được của mỗi con người” mà còn soi thấu được cái tâm lí bên

trong và do đó hiểu được cái ý nghĩa sâu kín của sự vật.

2.3.4. Nhân vật của Thạch Lam giàu niềm vui sống, luôn

hướng về cái tốt đẹp.

Dưới ngòi bút của Thạch Lam, có những nhân vật phải chịu số phận

không may mắn, quanh năm suốt tháng phải vật lộn với cái nghèo, cái đói,

nhưng vẫn mang niềm vui sống và hướng về những gì tốt đẹp. Trong cảnh

nghèo của gia đình Cô hàng xén, những tình cảm ruột thịt vẫn luôn hiện

diện: “Tâm ngồi ăn dưới con mắt hiền từ và thương mến của mẹ. Các em

cô quây quần cả xung quanh”. Trong bức tranh ảm đạm của Nhà mẹ Lê, ta

vẫn bắt gặp những đêm trăng “Mọi người quên đi cái cảnh khổ sở hèn mọn

ai ai cũng vui vẻ chuyện trò, tiếng cười to và dài của người lớn xen lẫn

tiếng khúc khích của các cô gái”. Và một “người bạn trẻ” dù phải chịu

đựng bi kịch éo le của số phận, đến phút lâm chung của cuộc đời, ấn tượng

cuối cùng đọng lại trong tâm trí anh là hình ảnh một người bạn tốt.

Có thể nói, dù ở cảnh ngộ nào – con người trong sự miêu tả của

Thạch Lam vẫn luôn hướng về một thế giới tinh thần đẹp đẽ, trong sáng và

giàu tính thiện. Mẹ Lê sắp chết mà vẫn cứ ước muốn “giá cứ có người

69

mướn làm” để có tiền nuôi đàn con thơ dại. Với những người lao động như

mẹ Lê, cái khổ chưa chắc đã phải vì nghèo hay vất vả mà điều đáng lo sợ

nhất là không có ai thuê mướn, không được đi làm để kiếm gạo nuôi các

con. Người lính cũ trong khốn khó và bệnh tật vẫn hướng về quá khứ -

quãng đời làm lính ở Pháp có “nhiều ánh sáng” như một niềm an ủi lớn lao

cho quãng đời còn lại của mình. Liên và Huệ trong Tối ba mươi là những

người làm cái nghề dưới đáy cùng của xã hội. Những ngày Lễ – Tết hai cô

vẫn nhớ tới quê hương làng xóm, ước muốn được trở về sống lại “trong một

căn nhà ấm cúng sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người đang tấp nập đón

năm mới trong sự thân mật và ấm cúng của gia đình” [39;232]. Cao hơn

nữa là một niềm tiếc hận, khổ đau cho thân phận và cuộc sống của mình. Hai

cô vẫn đau đáu ngày trở về trong sự hoàn lương: “… những giọt nước mắt

chảy tràn mi, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh

mang tràn khắp người, một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt

hiện qua trước mắt với những ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán

chường” (Tối ba mươi).

Nhân vật của Thạch Lam, hoàn cảnh dù ngặt nghèo, thân phận dù

nhỏ bé nhưng khát vọng thì vẫn luôn bừng sáng. Trong Hai đứa trẻ, cái

nhịp điệu tẻ nhạt lặp đi lặp lại hàng ngày ở một phố huyện nhỏ và nghèo

với những “ngọn đèn hoa kì leo lét” bên gian hàng xén cũng nghèo nàn vẫn

không làm tắt đi ở nơi An và Liên niềm khát vọng hướng về một thế giới

văn minh rộng lớn, “một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên

náo” hay hướng về vũ trụ thăm thẳm bao la có dải ngân Hà với “Hàng ngàn

ngôi sao ganh nhau lấp lánh- một thế giới ẩn chứa bao điều bí mật và huyền

diệu. Và có lẽ không chỉ có Liên và An thả tâm hồn theo những ước vọng

đẹp đẽ cao xa đó mà cả những người như chị Tý, bác phở Siêu, bác Xẩm …

“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc

70

đời nghèo khổ hàng ngày của họ”.

Sự vươn tới một thế giới tinh thần “tuyệt diệu, tuyệt mỹ” – đó là mục

đích của Thạch Lam khi ông miêu tả con người. Đó là một thế giới tinh

thần mà con người hướng tới để hoàn thiện mình, hướng tới một xã hội “có

nhiều công bằng và thương yêu hơn” (Theo giòng).

Có thể nói, thế giới nhân vật của Thạch Lam mặc dù vẫn còn những

cảnh đời những thân phận khổ đau, bất hạnh, nhưng không hề có bóng

dáng của những con người đầy dục vọng xấu xa. “Ta thấy một điều rõ ràng

là trong khi miêu tả một thế giới tinh thần của con người, Thạch Lam chỉ

quan tâm miêu tả những phần đẹp đẽ, trong sáng và lành mạnh, còn những

phần vô thức, bản năng, những cảm giác nhục dục, những miền mờ tối

…ông không quan tâm thể hiện. Đó là nét đặc trưng trong bút pháp miêu tả

của Thạch Lam, khi ông miêu tả con người” [17;127]. Phải chăng chính

những đặc trưng này đã làm nên văn phong của Thạch Lam: nhẹ nhàng tinh

tế, đậm chất thơ, chất trữ tình, có sức gợi lớn.

Tóm lại, truyện của Thạch Lam rất đặc sắc gợi nhiều ấn tượng và dư

vị trong lòng người đọc. Cốt truyện đơn giản, không có các mâu thuẫn,

xung đột gay gắt, truyện chủ yếu đi sâu vào những biến cố tâm lý, các tình

huống gợi cảm xúc: tình huống tự ý thức, tình huống bất hạnh…Về kiểu

kết cấu, tác giả đã dựa vào quá trình vận động bên trong tâm hồn, diễn biến

tâm trạng nhân vật để tổ chức tác phẩm. Thế giới nhân vật của Thạch Lam

thiên về đời sống nội tâm. Nhà văn đi vào những cảm giác nhỏ bé, mong

manh, những biến thái tinh vi trong tâm hồn con người trước ngoại cảnh.

Nhân vật của Thạch Tham dẫu chịu cảnh ngộ nghèo khó, số phận éo le

nhưng vẫn giàu niềm vui sống, luôn hướng về những gì tốt đẹp và khao

khát vươn tới một thế giới tinh thần tuyệt diệu. Đó là biểu hiện của chất

thơ, chất trữ tình trong văn xuôi Thạch Lam.

71

CHƢƠNG 3:

YẾU TỐ TRỮ TÌNH NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN.

3.1. Không gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam.

3.1.1. Khái lược không gian nghệ thuật.

Không gian trong văn học là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ

thuật. Nếu mỗi tác phẩm văn học là một thế giới ý nghĩa thì không gian

nghệ thuật là trường nhìn mở ra một điểm nhìn, cách nhìn. Không gian

nghệ thuật không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các

ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều

sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở

khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của

các hình tượng nghệ thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không

gian mà nó tồn tại. Ngoài ra xem xét không gian nghệ thuật phải hiểu được

mối quan hệ khăng khít của nó với thời gian nghệ thuật, và điều quan trọng

phải hiểu nó như một quan niêm về thế giới và con người như một phương

thức chiếm lĩnh hiện thực, một hình thức thể hiện ý thức thẩm mỹ từ đó lý

giải khả năng chiếm lĩnh đời sống của tác phẩm nghệ thuật. Không gian

trong tác phẩm văn xuôi và không gian trong thơ là những đại luợng rất khác

nhau về tính chất.

Không gian trong tác phẩm văn xuôi là môi trường hoạt động của

nhân vật (nó khá gần gũi, chân thực với không gian bên ngoài). Không gian

ấy có khi được biểu hiện bằng không gian mang tính ước lệ tượng trưng: đó

là một thế giới thần tiên kỳ ảo Ôlimpơ, nơi ngự trị của các vị thần trong các

truyền thuyết của Hy Lạp hay ở Tây Trúc, chốn thiên đình, thượng giới, cõi

âm phủ …. như trong Tây du kí của Ngô Thừa Ân- Trung Quốc.

Không gian trong văn xuôi có ý nghĩa như một bối cảnh, điều kiện

để diễn tả, tô đậm tính cách phẩm chất và hành động của nhân vật; tham gia

72

vào kết cấu tác phẩm. Không gian truyện có khi là một địa danh, một vùng

đất nào đấy rất quen thuộc với mọi người. Có khi nó rất rộng lớn, vượt ra

khỏi lãnh thổ biên giới của một quốc gia, dân tộc như không gian chiến

trường diễn ra các trận chiến ác liệt mà ta thấy trong tiểu thuyết “Tam quốc

diễn nghĩa” của La Quán Trung, trong tác phẩm Chiến Tranh và hoà bình

của Léptônxtoi, hay Nơi đây bình minh yên tĩnh của Vasilep. Đọc Nơi đây

bình minh yên tĩnh, chúng ta bắt gặp không gian những cánh rừng, đầm lầy,

vách núi, đêm tối, bình minh. Trong cái yên tĩnh thơ mộng của cánh rừng là

một cuộc đấu trí, rượt đuổi, chiến đấu giữa một tiểu đội trinh sát Xô Viết

với bọn biệt kích Đức. Không gian trong truyện ngắn Chí Phèo được Nam

Cao tả rất cụ thể: đó là cái làng Vũ Đại như lời của một ông thầy địa lý: nó

có thế “quần ngư tranh thực” - đàn cá tranh mồi; đó là không gian Chí ra

đời ở chiếc lò gạch bỏ hoang; không gian Chí Phèo tồn tại là các gia đình

người lao động nghèo khó mà Chí đi ở, là nhà Bá Kiến khi Chí làm canh

điền; không gian bờ đê, vườn chuối ven sông, nơi Chí Phèo và Thị Nở gặp

gỡ, ăn nằm với nhau ….Không gian trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất

Tố được bó hẹp ở cái làng Đông Xá ngột ngạt, đen tối bởi cảnh thúc thuế,

bắt bớ, đánh đập, siết nợ của bọn lý trưởng, cai lệ đối với những người dân

nghèo như gia đình anh Dậu. Có thể nói không gian văn xuôi là không gian rất

gần với hiện thực đời sống, phản ánh hiện thực khách quan, là bối cảnh, môi

trường để nhân vật trong tác phẩm hoạt động, bộc lộ phẩm chất, tính cách.

Đối với văn xuôi, không gian trong thần thoại, sử thi, trong cổ tích

hay trong tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết lãng mạn … cũng có sự khác

nhau. Trong nhiều tác phẩm văn xuôi, ta vẫn bắt gặp không gian lãng mạn,

thơ mộng, giàu hình ảnh và màu sắc, âm thanh góp phần gợi tả tâm hồn và

cảm xúc nhân vật.

Có thể nói, không gian nghệ thuật nói chung, không gian trong văn

73

xuôi nói riêng góp phần khắc hoạ, soi chiếu nhân vật. Nhân vật sẽ không

thể tồn tại, các tình huống sự kiện của truyện sẽ không thể xuất hiện, phát

triển khi tách khỏi không gian nghệ thuật.

Không gian trong thơ là không gian trữ tình, không gian tâm trạng.

Không gian ấy có khi là không gian thực của đời sống, có khi là không gian

tâm tưởng, nó chịu sự chi phối của tâm trạng, cảm xúc.

Trước hết không gian trong thơ, nó chịu sự khúc xạ của thế giới tinh thần:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ.

Mặt trời tâm lý chói qua tim.

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Hay:

Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi

Trong vườn thơm mãi của hồn tôi.

Trong không gian này có sự vật, có cách biểu hiện riêng và tổ chức

theo một ý nghĩa riêng:

Vườn cười bằng lá, hót bằng chim…

Hay:

“Bốn bề sóng nhạc ánh pha lê

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Nghe sầu âm nhạc tới sao khuê”

Đọc câu ca dao :

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Hình ảnh ngõ sau, quê mẹ chứa đựng tâm trạng buồn nhớ, gợi lên những

kí ức kỉ niệm của tuổi thơ ngọt ngào bên mẹ, nó gợi lên sự cô đơn trống

74

vắng của người con gái lấy chồng xa.

Còn đọc câu ca dao:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

Không gian “đầu đình” chỉ mang tính ước lệ - không gian của gặp gỡ

hò hẹn, nó mở ra khung cảnh thơ mộng lãng mạn của tình yêu.

Những câu thơ của Nguyễn Bính, Thôn Đoài, Thôn Đông không còn

là một địa danh, một không gian xã hội mà có tính ước lệ, trở thành đối

tượng bộc lộ cảm xúc, là nhân vật trữ tình:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chin nhớ mười mong một người.

Không gian trong bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính nhuốm cảm

xúc chủ quan của nhân vật trữ tình. Trong tâm trạng háo hức đi xem hội, để

được gặp gỡ hẹn hò người yêu thì với cô gái quãng đường từ nhà đến nơi

hội chèo chẳng có gì đáng kể:

…………………………..

Em xin phép mẹ vội vàng đi

Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe

Mưa bụi nên em không ướt áo

Thôn Đoài cách có một thôi đê.

Chờ mãi anh sang anh chẳng sang, cô gái thất vọng trở về. Không gian lúc

này đầy khó khăn cách trở như duyên phận lỡ làng của người con gái. Mưa

xuân chẳng còn phơi phới bay, chẳng còn là mưa bụi nữa, mưa bỗng nặng

hạt theo bước chân lầm lụi của cô gái. Con đường bây giờ sao quá dài, quá

gian nan:

Mình em lầm lụi trên đường về

Có ngắn gì đâu một dải đê

75

Aó mỏng che đầu mưa nặng hạt

Một mình thêm tủi với canh khuya

Không gian trong bài Thơ duyên của Xuân Diệu lại rất mơ hồ, huyền hoặc:

Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền

Có thể nói, không gian trong thơ là không gian trữ tình, không gian

tâm trạng. Nó không chỉ là yếu tố biểu thị cảm xúc của nhân vật mà còn là

mối rung cảm của chủ thể trước con người và tạo vật.

3.1.2. Không gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam.

Không gian trong truyện của Thạch Lam vừa là không gian của văn

xuôi vừa là không gian thơ, nó hoà điệu với cảm xúc tâm trạng nhân vật.

Nó đậm chất thơ, chất trữ tình. Bởi truyện của Thạch Lam dường như

không có cốt truyện; kết cấu truyện là kết cấu tâm trạng. Nhà văn chủ yếu

đi vào miêu tả những rung động rất nhỏ và tinh tế trong tâm hồn con người.

Mỗi truyện của ông giống như một bài thơ trữ tình đượm buồn. Thạch Lam

là nhà văn vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Truyện của ông phản ánh hiện thực

của đời sống nhưng cách thể hiện rất thơ, rất trữ tình. Trong sáng tác của

Thạch Lam dù là không gian xã hội hay không gian thiên nhiên cũng đều

nhuốm tâm trạng, khơi gợi cảm xúc và ám gợi người đọc.

3.1.2.1. Không gian thiên nhiên.

Thiên nhiên giữ một vị trí rất quan trong trong tiểu thuyết lãng mạn

cũng như truyện ngắn trữ tình. Thiên nhiên đã góp phần rất quan trọng để

tạo nên chất thơ cho những trang viết của Thạch Lam. Không gian thiên

nhiên trong truyện của Thạch Lam chủ yếu là không gian thiên nhiên nông

thôn, là bóng tối, ánh sáng ….

76

“Cái đẹp trong truyện ngắn Thạch Lam còn là cái đẹp trinh nguyên

của thiên nhiên, của “bầu không khí” bao quanh nhân vật – cái bầu không

khí đặc biệt mà thiếu nó con người có nguy cơ trở nên nhạt nhẽo vô vị. Ta

có thể nhắm mắt mà hình dung theo cảm giác của Thạch Lam tới những vẻ

đẹp tự nhiên, gần gũi xung quanh. Không có gì to tát nhưng đằm sâu sự hài

hoà tuyệt vời giữa con người và thiên nhiên – đó là dưỡng khí tinh thần của

con người” [17;174]. Dù Tâm có “phản bội” lại quá khứ, bạc bẽo với quê

hương nhưng không thể phủ nhận: khi anh trở về với không gian xưa, với

thiên nhiên quê mẹ là được sống trong niềm hạnh phúc, sự chở che yêu

thương, tâm hồn được nâng đỡ. Đó là “một cảm giác mát lành bỗng trùm

lên hai vai. Tâm ngẩng đầu lên nhìn, chàng vừa đi vào trong vòm lá tre

xanh trong ngõ” (Trở về). Cái trinh bạch của không gian, tâm trạng ấy như

có tác dụng “tẩy rửa” những bụi bặm tỳ vết trong tâm hồn những con người

như Tâm vốn sống lâu ở thành thị ồn ào, xô bồ bụi bặm.

Đến với Dưới bóng hoàng lan ta thấy “có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở

đâu đây” khiến ta vương phải. Câu chuyện kể về ngày Thanh về quê thăm

bà sau bao năm xa cách. Cũng như bao lần, nay Thanh lại trở về ngôi nhà

cũ với mảnh vườn xưa mà sao chàng thấy hồi hộp quá, mến thương và cảm

động quá. Đối với Thanh, chốn quê là cả một không gian cổ tích: một con

đường gạch Bát Tràng rêu phủ, bức tường xanh rêu, bể nước trong giữa

mảnh trời xanh tan tác.. và hoàng lan. Hình ảnh của thiên nhiên trong tác

phẩm tập trung trong hình ảnh cây hoàng lan với mùi lá tuơi non, lá cây

rung động dưói làn gió nhẹ, thân cây vút cao, hoa hoàng lan còn xanh mà

hương hoàng lan thơm ngát... Thiên nhiên, quê hương, chốn yên bình trong

trẻo - dẫn hồn người trở về với cái ban sơ, thơm lành và mát dịu.

Văn Giá khi viết về văn chương Thạch Lam đã viết: Đọc văn Thạch

Lam, thấy thơm tho cả tâm hồn. Hồn văn Thạch Lam là một thứ hương

77

thơm dìu dịu như bao bọc, ủ ướp tâm tình bạn đọc. Lời văn của Thạch Lam

ấp ủ rất nhiều hương vị, hương thơm của nước non cẩm tú. Những mùi

quen thuộc của đồng nội quê hương như: mùi của đồng ruộng, mùi của

phiên chợ đã tàn, mùi của cát bụi, mùi riêng của đất.. cứ trở đi trở lại trong

những truyện ngắn của ông. Hình ảnh của chốn quê hương được gợi lên từ

những câu văn tả mùi vị rất tinh tế như thế này:

“Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen

thuộc quá, khiến chị em Liên tuởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”

(Hai đứa trẻ).

“Ngõ tối hơn, đất mấp mô vì trâu bước, nhưng cô thuộc đường lối

lắm. Chân cô đi giẫm lên lá tre khô và tai nghe tiếng xao xác đã quen, mùi

bèo ở dưói ao với mùi rạ ướt đưa lên ẩm ướt” (Cô hàng xén).

“Chợ đã vãn, những người gồng gánh sắp ra về, trên mặt đất đầy

những rác bẩn, những vỏ dưa, những lá gói. Một cái mùi âm ẩm bốc lên,

cái mùi đặc biệt, hình như lẫn mùi đất, mùi ẩm và mùi rác đốt” (Trở về).

“Phải nói rằng, khi viết về những mùi muôn vẻ kia, ngòi bút Thạch Lam

đã thăng hoa để có những câu văn đứng vào hàng tuyệt bút” (Văn Giá).

Không chỉ tạo nên không gian lãng mạn, cây hoàng lan còn tham gia

vào câu chuyện như là một nhân vật. Nhân vật cỏ hoa ấy đem đến cho

người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu [59;55]. Thiên nhiên

của chốn quê thanh bình với hình ảnh con đường gạch Bát Tràng rêu phủ,

bể nước trong in cả mảnh trời xanh tan tác…đã trở thành điểm đến của

những con người vốn gặp nhiều va vấp, thất bại trong cuộc đời. Nhân vật

của Thạch Lam trở về chốn quê ấy, họ tìm đến với thiên nhiên như một sự

thanh lọc tâm hồn. Vì thế, thiên nhiên như nhân vật cỏ hoa kia “đã giúp

thêm cho tác giả định nghĩa về danh từ quê hương, nó là một nơi mát mẻ và

sung sướng để chàng về nghỉ sau những ngày làm việc. Bóng hoàng lan

78

đây là một cái bóng mát ở một chốn quê cũ của tuổi thơ trẻ, nó giúp người

bộ hành nghỉ chân trên đường đời trước khi tiến lên nhiều chặng, nhiều quãng

mới” [59;58].

Ngòi bút Thạch Lam vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Nếu như ở Dưới

bóng hoàng lan, Thạch Lam tỏ ra lãng mạn bao nhiêu thì trong truyện Đói,

ngòi bút của ông lại hiện thực bấy nhiêu. Đói là câu chuyện kể về vợ chồng

Sinh rơi vào tình cảnh nghèo đói đến cùng cực. Không còn gì để ăn, thương

chồng Mai chịu bán thân. Sinh biết chuyện, giận dữ và đuổi Mai ra khỏi

nhà. Gói thức ăn xổ tung. Bi kịch xảy ra khi “một cơn gió hắt hiu thổi đến

làm cho chàng rùng mình. Bỗng nhiên tất cả người chàng chuyển động :

chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm và béo của những miếng thịt ướp

mà mỡ còn dính trên tay” [39;86]. Cái đói đã thắng ý thức nhân phẩm: Sinh

ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Nếu không có tác động của làn gió

đưa lên mùi thơm của thức ăn, liệu Sinh có những hành động nhục nhã

đáng khinh bỉ đến thế hay không? Thiên nhiên là một nhân tố tạo ra tình

huống trớ trêu, để nhân vật thực hiện trọn vẹn cái bi kịch sống, bi kịch tâm

hồn của mình.

Tác phẩm của Thạch Lam gây cho ta cảm giác được tắm trong sự yên

tĩnh, thư thái và cân bằng giữa thiên nhiên tươi xanh, trong lành. Cuộc mưu

sinh vất vả mà mỗi con người gánh trên vai bỗng vơi nhẹ đi khi hoà mình

với thiên nhiên. Trong cơn mê sảng gần kề cái chết, mẹ Lê vẫn “Nhớ lại cái

cảm giác vui mừng khi thấy cạnh bông lúa sắc xát vào da thịt” (Nhà mẹ

Lê). Ai đã từng lớn lên chốn đồng quê, một lần lội xuống ruộng sẽ cảm

nhận và ghi nhớ được cái cảm giác ấy thật đến đâu và có ý nghĩa đến đâu.

Con người cần sự cân bằng tâm thế, điều đó có thể tìm lại được trong sự

giao hoà với thiên nhiên. Cái tâm trạng lo lắng về hàng quán không gạt

khỏi cô bé Liên trong Hai đứa trẻ những cảm xúc trước thiên nhiên: “Qua

79

khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh, một con đom đóm bám vào

dưới mặt lá, vùng sang nhỏ xanh nhấp nháy, rồi hoa rụng xuống vai Liên

khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những

cảm giác mơ hồ không hiểu”. Dường như thiên nhiên, cảnh trí, bầu không

khí bao quanh nhân vật với đủ màu sắc, mùi vị, âm thanh đã tạo nên sự cân

đối, hài hoà trong tác phẩm Thạch Lam. Sự hài hoà ấy là điểm tựa của con

người, giữa nó với thế giới được kết nối bởi sợi dây bền chặt của mối giao

hoà tuyệt vời, vô hình mà hiện hữu.

Không gian thiên nhiên trong văn xuôi Thạch Lam hết sức khêu gợi,

nó nhuốm tâm hồn nhân vật, bộc lộ sắc thái cảm xúc con người. Tâm hồn

nhất mực nhạy cảm, dễ xao động, rung động của Thạch Lam đã khám phá

thấy thiên nhiên như một đối tượng gửi gắm nỗi niềm của chủ thể thẩm mỹ.

Đó là khung cảnh thanh bình yên ả của một phố huyện lúc hoàng hôn:

“Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru…”, “Trời đã bắt đầu đêm,

một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát” (Hai đứa trẻ).

Ùa vào trang viết của Thạch Lam là cảnh vật, màu sắc, hương vị …

làm thành một thứ không khí đặc biệt, mở ra sự giao cảm giữa con người

và ngoại cảnh. Không gian thiên nhiên ấy trở thành phông nền cho tình yêu

đôi lứa. Tình yêu giữa Bình và Lan (Tình xưa) được bắt đầu trong khung

cảnh có mùi thơm nhẹ và sắc của hoa lan thoang thoảng ở ngoài.

Thanh gặp lại Nga giữa một khu vườn có “những búp hoa lý non và

thơm rủ trong giàn, lẫn vào đám lá …, cây hoàng lan cao vút cành lá rủ

xuống như chào đón hai người. Có lúc gần nhau, Thanh thấy mái tóc Nga

thoang thoảng thơm như có giắt hoàng lan”. Hương hoàng lan - thứ hương

thơm dịu nhẹ mà vương vấn lòng người. Hương hoàng lan cứ hư ảo, tỏa ra

để xui lòng nhân vật vốn nhạy cảm, thực tế, cảm nhận và dấu yêu thêm

chốn quê nhà, bởi ở đó, dưới bóng hoàng lan một tình yêu đã chớm nở:

80

“Qua vườn, Thanh tiễn Nga ra đến cổng, đi qua hai bên bờ lá đã ướt

sương. Mùi hoàng lan thoang thoảng bay trong gió mát. Không lưỡng lự,

Thanh cầm lấy bàn tay Nga, để yên trong tay mình. Nga cũng đứng yên

lặng. Lâu lâu, Nga rút tay sẽ nói :

- Thôi em về.

Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây,

khiến chàng vương phải” (Dưới bóng hoàng lan).

Những câu văn tả cảnh xen lẫn với tả tình này, vừa trong, vừa thanh

tao lại vô cùng thơ và mộng. Dường như nó được viết lên bởi một cây bút

“thơ” đã đạt đến độ “trong suốt” (chữ dùng của Vũ Tuấn Anh). Hương sắc

của cỏ cây và của tình yêu đã hòa hợp với nhau đầy màu nhiệm, cao khiết

và hiếm hoi đã ngưng tụ lại trong mảnh vường hoàng lan ấy. Câu chữ của

tình cảm, cảm giác cứ giăng mắc khẽ khàng đủ để tạo ra một không gian để

tình yêu chớm hé, che chở một niềm vui mong manh như bóng nắng. Tất cả

như là ảo ảnh, một giấc mơ.

Không chỉ tạo nên không gian lãng mạn, cây hoàng lan còn tham gia

vào câu chuyện như là một nhân vật. Nhân vật cỏ hoa ấy đem đến cho

người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu.

Trường và Trinh trong tiểu thuyết Ngày mới cũng bắt đầu yêu nhau

dưới một trời hoa lá, trong vườn nhà Trinh ở An Lâm. Và đây là một đoạn

điển hình tả cuộc tình bộc lộ lần đầu dưới hoa: “Chung quanh chàng yên

lặng. Mặt trăng đã lên qua đỉnh đầu, sang lên trên nền trời trong vắt. Sương

xuống đã thấm vào người. Trường thong thả trở về buồng. Đến dưới giàn

hoa, chàng quay lại nhìn cảnh vườn, và qua dãy tre thưa lá, quãng rộng mà

dòng sông dưa lên tiếng róc rách của nước chảy. Đột nhiên chàng giật

mình. Trong bóng tối của giàn hoa, chàng thoáng thấy bóng người đứng

nép vào khóm cây. Chàng bước lại gần. Một tiếng nói quen thuộc gọi khẽ

81

tên chàng, giọng dịu dàng và cảm động. Trường đứng sát bên nàng. Trong

bóng tối, chàng thấy đôi mắt Tinh long lanh sáng và nghe thấy tiếng thở

không đều của người thiếu nữ. Qủa tim chàng bỗng đập mạnh và một tình cảm

yêu mến dồn dập đến; Trường cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Trinh kéo lại gần

mình” (Ngày mới).

Thạch Lam đã tạo dựng được bối cảnh thích hợp với những tình cảm

êm ái của các nhân vật. Trong Gió đầu mùa, Thạch Lam đã viết: “Khi nào

thu bắt đầu hết, khi nắng vàng hanh dần mất vẻ rực rỡ trên các lá cây, ngọn

gió heo may sẽ từng cơn nhẹ lướt trên cánh đồng rộng, đem lại cho ta

những cái rung mình mới mẻ như đã lẫn cái buồn ảm đạm của ngày mùa

đông”. Mùa thu gió heo may lướt nhẹ, nắng vàng hanh, làn nước biếc, làn

mây lơ lửng nhẹ nhàng trôi như những bước chân ai lững thững đi dạo trên

đường; mùa đông ảm đạm, trời xám ngắt, gío lạnh buốt xương, đường xá

trơn ướt nhầy nhụa nhớp nhúa, những ngõ tối lầy lội… Và “đâu đây, ta thấy

như quanh ta trong lúc dọc Thạch Lam, một vẻ buồn lạnh lẽo, thôn xóm

quạnh hiu, gió lùa qua khung cửa sổ, sương thu lan toả đầy sân …”

[17;156]. Có thể nói, cảnh vật trong lòng người đã hoà vào vạn vật trong

một niềm giao cảm mênh mang làm nên cái vẻ chung của tâm sự nhân vật

trong các truyện của Thạch Lam.

Truyện của Thạch Lam khắc hoạ rất nhiều về không gian bóng tối.

Thiên nhiên giữ một vị trí rất quan trong trong Tiểu thuyết lãng mạn

và truyện ngắn trữ tình. Truyện của Thạch Lam tìm đến với thiên nhiên như

một đối tượng thẩm mỹ nhằm thể hiện sự hòa điệu giữa con người với

thiên nhiên, giữa nội tâm với ngoại giới, giữa tình và cảnh.

Truyện của Thạch Lam ngập tràn bóng tối. Khảo sát hai mươi ba

truyện ngắn của Thạch Lam, chúng ta nhận thấy một hình ảnh của thiên

nhiên hay lặp đi lặp lại, đó là hình ảnh bóng tối. “Bóng tối” được miêu tả

82

trong mối quan hệ với tâm lý tính cách con người đã trở thành một đặc sắc

nghệ thuật rất riêng của ngòi bút Thạch Lam.

Trong hai mươi ba truyện ngắn thì tác phẩm miêu tả bóng tối trong

bảy truyện: Người bạn cũ, Một cơn giận, Người lính cũ, Hai đứa trẻ, Trong

bóng tối buổi chiều, Cô hàng xén, Tối ba mươi (chiếm 30.5%). Đây là một

con số không hề nhỏ so với toàn bộ tập truyện ngắn khiêm tốn về số lượng

của ông. Nó phản ánh điểm đặc biệt trong nghệ thuật miêu tả của nhà văn.

Vì cớ gì mà “bóng tối” thu hút ngòi bút nhà văn đến vậy?

Bóng tối trong ý nghĩa tự thân của nó, là biểu hiện của thời gian cuối

ngày, là biểu trưng của không gian đang đi đến cái tàn cái tận. “Bóng tối”

ám ảnh khi nó là sự kết hợp của thời gian một ngày sắp khép lại và của

không gian phủ mờ cái sắc vẻ cuối cùng nơi tạo vật. Đối diện với bóng tối,

con người thường cảm thấy nhỏ bé, cô đơn, trống trải. Một nỗi buồn cũng

giăng tỏa bủa vây. “Bóng tối” trong cảm quan triết học và ý nghĩa nghệ

thuật, không chỉ gợi lên cái buồn, cái nhạt nhòa mà còn biểu hiện cho cuộc

sống con người nhiều nỗi buồn tủi đắng cay, không lối thoát.

Hình ảnh “bóng tối” thường được Thạch Lam miêu tả trong sự đối lập

với ánh sáng. Bút pháp đối lập này mang đậm cảm quan triết học. Bởi lẽ,

ánh sáng và âm thanh là biểu hiện của sự sống, của hành động con người,

còn ngược lại bóng tối và tịch mịch là dấu hiệu của hư vô, tù đọng, bế tắc,

của một miền đời báo hiệu nhiều nỗi truân chuyên. Những mảng tối trên

con đường làng mấp mô chân trâu, dưới bóng những rặng tre sẫm đen dần

khi đêm xuống trên con đường về nhà của Cô hàng xén. Ngày nào cũng

vậy, sau buổi chợ, Tâm lại trở về trên con đường làng lúc đêm tối, Tâm dấn

bước. Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối

tăm và dày đặc. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô

hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già, toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ đến ngày

83

kia như tấm vải thô sơ. Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối". [45;60].

Cuộc đời người con gái cứ đẩy dần vào trong chốn tối tăm. Hình ảnh cuối

Tâm cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối, khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của

chị Dậu trong tiểu thuyết Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố, người phụ nữ ấy

cũng chạy vào trong bóng tối “tối như cái tiền đồ của chị vậy”.

Bóng tối khắp nơi dồn lại quãng hẻm này " trùm lên cuộc đời của hai

cô gái giang hồ trong "tối ba mươi". "Khoảng tối ngập đầy trong "một dãy

nhà lụp xụp, thấp lè tè xiêu vẹo trên bờ một cái đầm mà nước đen và hôi

hám tràn cả vào đến thềm nhà. Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy sống một

cuộc đời khốn nạn của những người gầy gò rách rưới" [39; 233].

Ở truyện ngắn Trong bóng tối buổi chiều, bóng tối bao chứa lấy nhân

vật Diên trong nỗi đau khi mất người yêu: “Diên nấc lên một tiếng rồi cúi

đầu chạy trốn trong bóng tối của buổi chiều vừa xuống”. Cuộc đời của

người lính cũ trong truyện ngắn cùng tên cũng mù tối như trong không gian

đang bao bọc quanh anh – “anh ta sờ soạng trong bóng tối”.

Nhắc đến hình ảnh “bóng tối”, không thể không tìm hiểu bóng tối

trong truyện Hai đứa trẻ. Có thể nói, trong Hai đứa trẻ “bóng tối” xuất

hiện nhiều nhất, trở thành một không gian rất riêng trùm phủ tác phẩm này.

Ngay từ đầu truyện, bóng tối đã hiện hình: “phương tây đỏ rực như lửa

cháy và những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre làng trước

mặt cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Theo chuyển động của thời gian, bóng tối

mỗi lúc đậm đặc dần, lan rộng dần cho tới khi ngự trị khắp cả không gian:

“Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve, Liên ngồi yên lặng

bên mấy quả thuốc sơn đen, đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn

của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”.

Hình ảnh bà cụ Thi điên “đi lần vào bóng tối”.

“Trời đã bắt đầu đêm, đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió

84

mát, đường phố và các ngõ con dần chứa trong bóng tối.

Đêm tối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa. Tối hết cả con

đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại

càng sậm đen hơn nữa.

Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố,

tịch mịch và đầy bóng tối”.

Bóng tối xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, bóng tối càng rộng, trùm

phủ bao nhiêu, ánh sáng lại càng nhỏ bé và yếu ớt bấy nhiêu. Ngay từ đầu,

ánh sáng đã nhường chỗ cho bóng tối để rồi chỉ còn lại thứ ánh sáng tỏa ra

từ ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Siêu, ngọn đèn của Liên, những

vì sao trên trời. Ánh sáng chỉ là: những nguồn sáng mỏng manh chiếu sáng

một vùng đất cát, là vệt sáng, quầng sáng, hột sáng…Đáng chú ý nhất là

luồng ánh sáng của đoàn tàu đêm đi qua phố huyện nghèo. Nhưng rốt cuộc,

ánh sáng ấy cũng qua đi nhất nhanh, trả lại cho không gian bóng tối ngự trị.

Theo quan niệm của phương Đông “Ở đâu có ánh sáng ở đó có sự

sống”. Bóng tối là biểu hiện của sự sống mòn mỏi dần, yếu duối dần, tàn

lụi dần. Từ việc miêu tả bóng tối Thạch Lam nói với chúng ta rất nhiều vấn

đề cuộc sống tù động xót xa. Miêu tả bóng tối, liệu có phải Thạch Lam đã

bộc lộ cái nhìn bi quan về cuộc sống? Thiết nghĩ Thạch Lam với tấm lòng

thiết tha yêu mến với cuộc sống, con người, đã nhìn sâu vào cuộc sống với

các mặt khuất của nó, và do vậy, truyện Thạch Lam ít ánh sáng mà giàu

bóng tối, làm ta bồi hồi khắc khoải, lo âu…

Truyện Người lính cũ đầy những cảnh bóng tối. “Làng mạc đã ngủ

yên lặng trong đêm tối, không còn một bóng lửa nào. Thỉnh thoảng bên con

đường khúc khuỷu chúng tôi đang đi, hiện ra cái vùng đen thẩm của một

cây nhãn, nổi lên nền trời đen nhạt hơn” [39; 177]. Có một cảnh bóng tối

được miêu tả rất tinh vi ở cuối truyện. Khi cả hai người bạn đều nói chuyện

85

xong với người lính cũ và ra khỏi quán trời mưa, rét buốt cả chân tay. Hai

người bạn đi yên lặng, nghĩ đến số phận khốn nạn của bác ấy. Khi một

người bạn thong thả nói rằng bác ấy chắc mơ mộng nhiều cái đẹp từ xưa thì

người bạn khác chỉ yên lặng, không trả lời … “Chung quanh chúng tôi, cái

đen tối của đêm khuya dầy dằng”. Dường như cái đen tối dầy dằng ấy che

phủ cả tâm hồn người đọc.

Ở Người đầm, cái bóng tối nhờ nhờ phủ khắp truyện. Cái bóng tối

trong phòng của rạp chiếu bóng được kéo dài mãi, đè nặng lên dáng đi của

hai mẹ con người đầm: “Lúc chớp bóng tan, trời bắt đầu mưa bụi và gió

lạnh. Thấy hai mẹ con bà lủi thủi đi trên con đường vắng …, tôi chỉ đứng

lặng yên, đứng nhìn theo đến khi hai người khuất vào bóng tối..” [39;176].

Có thể nói, trong truyện của Thạch Lam, bóng tối trở thành một biểu

tượng cho cuộc sống khốn khó, bế tắc và số phận không may mắn của con

người. Điều đáng lưu ý là, ở thế giới nghệ thuật của Thạch Lam, bóng tối

có nhiều sắc độ: có cái tối như mực, tối của hoàng hôn, tối của ngày tàn.

"Tất cả đều hiu hiu đạm đạm, không có sự chói gắt, không có những vang

động mạnh nhưng lại gợi bao ám ảnh về số phận con người, về sự tối tăm

của các cảnh đời.." [17;37].

Trong sáng tác của Thạch Lam, bóng tối không phải bao giờ cũng là thù

địch với sự sống, với con người lương thiện, mà nhiều lần Thạch Lam miêu tả

bóng tối như là bạn bè tin cậy của con người- nó càng thể hiện chất thơ chất trữ

tình trong văn xuôi Thạch Lam. Ví như cái bóng tối bè bạn của một thiếu nữ

“bắt đầu” yêu, một mình mơn man với bao mộng tưởng của riêng mình: “Loan

trở lại cái mộng xinh đẹp của mình. Sung sướng, nàng nhắm mắt để cho bóng

tối đến, mát và rực rỡ bao bọc cả tâm hồn, thân thể nàng” (Bắt đầu). Hoặc:

“Bóng tối dưới vòm cây thân mật, như giục gọi: lối đi trong vườn quen thuộc

giữa hai bên, là lối đi nhỏ và ấm cúng vô cùng” (Bắt đầu).

86

Còn ở Bóng người xưa, bóng tối không chỉ là bè bạn mà còn như một

thứ “phép màu” khi được pha hoà với một thứ ánh sáng làm tan biến dấu ấn

của thời gian, làm sống lại những cảm xúc, rung động yêu đương ngày xưa

của Vân: “…Vân không thấy trước mắt mình nét mặt hàng ngày của vợ

nữa, chàng chỉ thấy một người vợ trẻ hơn, đẹp hơn. Những vết nhăn của

người đàn bà luống tuổi đã mất đit rong bóng tối; khuôn mặt trở nên đều

đặn, cái miệng hơi hé trên hàm răng nhỏ trắng muốt, đôi mắt long lanh

sáng” (Bóng người xưa)

Trong Hai đứa trẻ ta không chỉ bắt gặp thứ bóng tối hiện thân của

những kiếp người tàn lụi, những cảnh đời éo le sống quẩn quanh bế tắc, mà

còn bắt gặp cái bóng tối với sắc độ êm dịu, nhẹ nhẹ, man mác gợi cái vẻ

thơ mộng trữ tình của không gian cảnh vật: “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm

mùa hạ êm như nhung, và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần

dần chứa đầy bóng tối ..” [39;117].

Có lẽ trước Thạch Lam và cùng thời với ông, chưa có ai lại tả bóng

tối ban đêm sinh động, có hồn và đầy sinh thú như thế. Trong mắt ông và

tâm hồn ông, đến cả tiếng “muỗi vo ve”, “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài

đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào” cũng có sức xao động lòng người chẳng

kém gì “tiếng trống thu không, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều

về”, chẳng kém gì “tiếng còi tàu náo nức ở đâu vang lại trong đêm khuya

kéo dài ra theo gió xa xôi” (Hai đứa trẻ).

3.1.2.2. Không gian xã hội.

Không gian xã hội trong văn xuôi Thạch Lam được thu hẹp và gắn

với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Đó là một xóm chợ, một ngõ hẻm, một

ga xép, một phố huyện nghèo nàn hoặc một con đường làng ở một vùng

nông thôn heo hút nào đó. Ở đây, các nhân vật của ông bị tù túng, luẩn

quẩn với những đói nghèo, lo âu, dằn vặt thường nhật. Họ luôn bị ám ảnh

87

bởi miếng cơm, manh áo hoặc day dứt bởi những bi kịch tinh thần. Cả thế

giới nhân vật của Thạch Lam đều bị chi phối và hoạt động trong không

gian hiện thực khép kín ấy. Không gian biểu lộ một cuộc sống túng quẩn

khó khăn của những con người lao động.

Đó là cảnh “hai dãy nhà lụp xụp” đã mục nát và mẹ Lê lam lũ suốt

ngày cũng không đủ nuôi mười một đứa con “cả nhà nhịn đói” và dẫn đến

nỗi bất hạnh của người mẹ vì quẫn bách phải đi vay gạo nhà giàu không

được vay lại bị chó cắn chết. Con người trong toàn bộ truyện của Thạch

Lam đều biểu hiện trong khoảng không gian như thế. Ở đó, cảnh đời và bi

kịch cuộc sống luôn theo đuổi họ. Với Huệ và Liên, cái không gian nhơ

nhớp của nhà săm được đặt trong hoàn cảnh tối ba mươi tết càng gợi cho

người ta hình dung về cuộc đời bĩ cực của hai cô Kiều hiện đại.

Không gian xã hội được Thạch Lam miêu tả trong Cô hàng xén là cái

chợ quê quen thuộc mà cả cuộc đời Tâm gắn bó, vật lộn để mưu sinh cứ trở

đi trở lại càng làm tăng tính chất buồn bã đơn điệu đến héo mòn không

niềm vui không chút hy vọng vào tương lai cuộc sống của những cô gái

như Tâm.

Không gian xã hội trong Hai đứa trẻ được thu lại ở một phố huyện

nghèo lúc chiều và đêm xuống. Toàn bộ cuộc sống nghèo khó của những

con người nơi đây hiện ra qua con mắt và tâm hồn thơ ngây nhạy bén của

Liên. Đó là cảnh “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết, tiếng ồn

ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía

…. . Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hoá, đòn gánh đã

xỏ xẵn vào quang…. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom

trên mặt đất đi lại, tìm tòi. Chúng nhặt nhặt thanh nứa thanh tre, hay bất cứ

cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại…” (Hai đứa trẻ).

Cái gian hàng của chị em Liên được mẹ giao cho hai chị em trông coi là

88

một của hàng tạp hoá nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay khi cả nhà bỏ Hà Nội về

quê ở, vì thầy Liên mất việc. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm,

ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Những thứ bày bán

cũng chẳng có gì giá trị, chỉ mấy quả thuốc sơn đen, mấy phong thuốc lào,

vài bánh xà phòng. Tiền kiếm được cả ngày chẳng đáng là bao. Đó là cái

chõng hàng nước của chị Tý lèo tèo vắng khách, người mua là “mấy người

phu gạo phu xe, thỉnh thoảng mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà

thầy thừa đi gọi chân tổ tôm, cao hứng vào của hàng chị uống bát nước chè

tươi và hút điếu thuốc lào. Chị chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào

chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm” [39;115].

Góp thêm cho bức tranh cuộc sống sinh hoạt của phố huyện là gánh

hàng phở của bác Siêu, bác phở Siêu xuất hiện nhìn từ xa là “một chấm lửa

vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra..” [39;11]; tiếng đòn

gánh kĩu kịt nghe rõ rệt…, quà bác Siêu bán là một thứ quà xa xỉ, nhiều

tiền, hai chị em Liên không bao giờ mua được…. . Đó là gia đình bác Xẩm

ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát

vì chưa có khách nghe. … “Vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng

đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu,

nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Chừng ấy người trong

bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày

của họ” [39;119].

Không gian đó phản ánh cuộc sống của những con người nơi đây

thật nghèo đói, vất vả và tẻ nhạt, đìu hiu chẳng khác nào “cái ao đời bằng

phẳng”. Cái không gian sinh hoạt, không gian sống ấy chính là sự thu nhỏ

của cái không gian xã hội lúc bấy giờ. Nó gợi một nỗi buồn, một cảm giác

xót xa cho thân phận của những kiếp người tàn tạ.

Có thể thấy hầu hết truyện của Thạch Lam đều sử dụng không gian

89

hiện thực hàng ngày làm môi trường cho nhân vật hoạt động. Nhưng không

gian hiện thực ở đây được bó hẹp trong không gian đời tư, không gian cá

nhân chứ không phải không gian xã hội rộng lớn, nên không gian càng dồn

nén, thu nhỏ, càng hiu hắt hơn.

Tất cả thế giới nghệ thuật của Thạch Lam đều sử dụng không gian

hiện thực như vậy. Đó chính là cái xã hội nhân sinh được thu nhỏ, bị dồn

nén, trong đó có kiếp nguời cam chịu mòn mỏi. Tự nhiên, nó gợi cho người

đọc sự thèm khát một không gian thoáng đãng và rộng rãi, đầm ấm và chan

hoà tình người.

Không gian nghệ thuật – không gian xã hội trong truyện của Thạch

Lam có sự giao nối nông thôn – thành thị, quê và tỉnh. Phố huyện, chợ

huyện, nhà ga … vừa là không gian xã hội đồng thời cũng là không gian

nghệ thuật rất đặc trưng trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam. “Ở đấy,

phía sau vẫn là đồng ruộng mà phía trước đã có hơi hướng thị thành”

[17;104].

Trong cơn gió quen thuộc thổi trên một phiên chợ huyện đã phấp

phới xanh đỏ màu tỉnh thành, đã thoảng mùi nước hoa son phấn. Cô hàng

xén chợ huyện nết na và kín đáo đã từng thử lén bôi son lên môi để ngắm

mình trong gương, đã thèm muốn số phận của cô bạn hàng xén khác lấy

chồng trên tỉnh, và ước ao nuôi các em khôn lớn, ra tỉnh đi làm.

Hai chị em Liên cũng đêm đêm chờ thức đón chuyến tàu hoả chạy

qua, cái chuyến tàu sáng trưng từ Hà Nội về như gợi thức một niềm hạnh

phúc xa xăm. Mặc dù An và Liên buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố thức

để đợi tàu. Chuyến tàu thực sự là hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Dấu

hiệu tàu đến bắt đầu là “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi

tiếng còi xe lửa ở đâu vẳng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa

xôi”. Tiếp đến “một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, rồi tiếng hành

90

khách ồn ào khe khẽ….”, “tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới”, “các toa đèn

sáng trưng chiếu ánh cả xuống đường”, “những toa hạng trên sang trọng, lố

nhố những người, đồng, kền lấp lánh và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi

vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.” [17;120].

Đoàn tàu là biểu trưng cho một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ,

sáng trưng đối lập với một phố huyện nghèo khổ, tăm tối, với những cảnh

đời, những kiếp người lam lũ quẩn quanh bế tắc. Những âm thanh, ánh

sáng của đoàn tàu đã phá tan sự tĩnh mịch, đìu hiu của phố huyện, làm loé

lên một niềm hy vọng sống, đem đến một cảm giác tươi mát trong tâm hồn

những con người tội nghiệp nơi đây. Đó chính là chất thơ, chất lãng mạn,

trữ tình mà ngòi bút Thạch Lam đã khắc hoạ và đem đến cho người đọc.

Đọc Hà Nội băm sáu phố phường, ta như được sống trong một

không gian trữ tình mang những nét đẹp văn hoá của con người Hà Nội

xưa. Nó hiện hữu trong thơ ca “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo” và đi vào

kí ức, tiềm thức của con người: “Nhưng đối với người tản bộ đi chơi, lòng

thư thả và mải tìm sự đẹp thì phố xá mới không có thú vị gì. Không có cái

khuất khúc dành cho ta nhiều cái bất ngờ, không có một ngọn cây hoa nhô

sau bức tường thấp, khiến chúng ta đoán được cả một thửa vườn nhỏ bên

trong, ở đấy biết đâu lại không thướt tha một vài thiếu nữ khuê các như

xưa” (Người ta viết chữ Tây).

Cái không gian xã hội, không gian sống của Hà Nội xưa dưới cái

nhìn và lối miêu tả của Thạch Lam thật gần gũi, bình dị mang vẻ đẹp trong

chiều sâu nhân bản khiến người ta thèm muốn, hoài vọng và nhớ tiếc:

“Ngày ấy đường hẹp, chắc hàng xóm láng giềng ăn ở với nhau thân mật

hơn. Người hàng phố tự coi như có một mối liên lạc cùng nhau” (Người ta viết

chữ Tây giỏi).

Viết về không gian cảnh vật con người Hà Nội, ngòi bút Thạch Lam

91

phảng phất chút “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân, nhưng ông rất trữ

tình, thật bình dị, man mác: “Không có gì của Hà Nội ngoài năm sáu mươi

năm về trước. Thăng Long của vua Lê, của chúa Trịnh không còn dấu vết

nào: đâu còn những cung điện ngày xưa, những phủ đệ của những bậc công

hầu khanh tướng? Thỉnh thoảng một vài tên gọi còn nhắc lại, vài đống đất

còn ghi dấu thế thôi. Chúng ta không biết được mấy dĩ vãng, về cảnh phố

xá kinh kì hồi cụ Lãn Ông, một túi thơ, một bồ thuốc đi từ Bát Tràng đến

Hồ Tây để chữa cho Hoàng tử” [39; 257].

Thạch Lam trìu mến với dấu vết son của Hà Nội cũ qua một vài “cái

ngõ con”, qua “mấy ngọn cỏ trên mảnh tường cổng” một cửa ô Hà Nội.

Những hiện vật tầm thường ấy như những di tích thức dậy cả một thời. Cái

thời “hàng xóm láng giềng ăn ở với nhau thân mật hơn”. Cái thời của giấy

bản, ống bút nho, cô nàng thuỳ mị, ông Tú dạy học “có cậu học trò xinh trai

đứng hầu chè thầy bên tràng kỉ”; trong những ngôi nhà có “lối kiến trúc

riêng” thấp thoáng “bóng một thiếu nữ nhẹ qua sân, hình dáng cụ già cúi

mình trên cây cảnh”. Tất cả chỉ còn lại dấu tích của cuộc đời xưa, “ý nghĩ cũ”,

“hy vọng và mong ước khác bây giờ” [39;194].

Đôi mắt của “một người Việt Nam thành thực”, tinh tế như Thạch

Lam đã nhận ra chút lưu luyến lưỡng lự kín đáo trong cuộc đổi thay của

cảnh quan Hà Nội. Khi đêm khuya trả lại sự yên tĩnh, thanh thản cho Hà

Nội, người ta chợt nhận thấy rằng: “Các nhà chỉ thay đổi có phía dưới: sự

thay đổi ít khi lên đến từng trên. Và bây giờ nếu người ta có phép gì cắt bỏ

các từng dưới và đặt các tầng trên xuống đất, chúng ta sẽ có một hàng phố

cũ với những hình bát quái, mảnh gương và dơi bay: một phố tựa như phố

kinh kì xưa, chắc thế” (Hà Nội băm sáu phố phường).

Có thể nói, trong Hà Nội băm sáu phố phường, tác giả đã tập trung

miêu tả khắc hoạ những đổi thay kín đáo hay đột ngột của Hà Nội như

92

trong cuộc chuyển giao thầm lặng- chuyển giao giữa những lớp văn hoá,

những cảm quan thẩm mỹ. Nhưng rõ ràng, ngòi bút của Thạch Lam đã

mang lại cho người đọc vẻ đẹp riêng, một hình ảnh gợi cảm về Hà Nội.

Tóm lại, không gian nghệ thuật là một biểu hiện chủ quan, ước lệ,

gắn liền với cách cảm thụ và quan niệm về thế giới, của người nghệ sỹ.

Thạch Lam là một cây bút văn xuôi trữ tình đã sử dụng thành công hình

thức không gian nghệ thuật trong sáng tác: không gian thiên nhiên, không

gian xã hội, không gian tâm trạng…. Truyện của Thạch Lam, có sự nhoè

hoá, giao thoa giữa không gian của văn xuôi với không gian thơ. Nó không

chỉ là môi trường để nhân vật được sống, được hoạt động mà nó còn trở

thành một yếu tố biểu hiện cuộc sống, tâm hồn con người một cách có

chiều sâu, khơi gợi cảm xúc trong lòng bạn đọc.

3.2. Thời gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam.

3.2.1. Khái lược thời gian nghệ thuật.

Cũng như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là phạm trù

của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế

giới nghệ thuật. Thời gian và không gian nghệ thuật không tách rời nhau, vì

người ta có thể xem xét một cách tổng hợp qua phạm trù không - thời gian.

Thời gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý mang ý

nghĩa thẩm mỹ, nên nó khác với thời gian khách quan đo bằng lịch và đồng

hồ, nó có thể đảo ngược, từ hiện tại hồi tưởng lại quá khứ; có thể cảm thấy

tháng năm như chốc lát: “vó câu qua cửa sổ”, lại có thể cảm thấy thời gian

như ngừng trôi.

Trong tác phẩm nghệ thuật, thời gian tự nhiên (vật lý) không trùng

khít với thời gian nghệ thuật, điều đó cho thấy thời gian nghệ thuật được

xây dựng theo cách cảm nhận thời gian của con người. Vả lại ý thức về thời

gian là ý thức về sự tồn tại của con người. Phát hiện thời gian giúp người ta

93

nhận thức sâu sắc hơn về con người và cuộc sống. Do vậy khi xem xét thời

gian nghệ thuật thì điều quan trọng không phải là cách biểu thị về thời gian

mà chính là quan niệm, cách biểu thị thời gian của tác giả. Trong các tác phẩm

văn học, thời gian nghệ thuật có những hình thức biểu hiện khác nhau.

Thời gian sự kiện - thời gian cốt truyện: là chuỗi liên tục các sự kiện

trong quan hệ liên tục trước sau, nhân quả. Thời gian sự kiện có thể được

tính theo độ dài thời gian mà nó diễn ra. Ví dụ thời gian sự kiện - cốt truyện

của tiểu thuyết Ulysee của Joyce có độ dài thời gian là một ngày; Chuông

nguyện hồn ai của Hê - minh-uê, thời gian sự kiện là 3 ngày hai đêm; vụ án

của Kafka là một năm; Truyện Kiều của Nguyễn Du là 15 năm; Chí Phèo

của Nam Cao là cả cuộc đời Chí Phèo… Ở hình thức thời gian này, thời

gian gắn liền với chuỗi sự kiện, được tính bằng bản thân sự kiện và tính

liên tục của sự kiện. Thời gian kể gần như trùng khít với thời gian của sự

kiện được kể. Tất cả chỉ là một hiện tại kéo dài, khi sự kiện kết thúc thì thời

gian cũng hết.

Thời gian tâm trạng diễn ra theo tâm trạng của nhân vật. Đó là thời

gian được khúc xạ qua tâm trạng, thời gian mang tính chất cảm xúc:

“Sầu đong càng lắc càng đầy….

Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”

(Nguyễn Du)

Thời gian tuần hoàn. Là một hình thức của thời gian vĩnh cửu, trong

bài thơ, nó mang lại một niềm tin, một niềm an ủi và yên tĩnh trong tâm hồn:

“ …………………………

Nước đi ra bể lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn …”

(Thề non nước - Tản Đà)

Thời gian hồi tưởng - thời gian quá khứ. Biểu hiện thời gian quá khứ

94

bằng thời gian hồi tưởng là một nét thi pháp mới. Thời gian quá khứ bao

giờ cũng được biểu hiện trong sự đối lập so sánh với hiện tại:

“Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường …”

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

3.2.2. Thời gian nghệ thuật trong văn xuôi Thạch Lam.

Thời gian là một yếu tố quan trọng của nghệ thuật vì nó góp phần

định hình phong cách nhà văn. Thạch Lam sử dụng yếu tố thời gian hết sức

đặc sắc, như một phương thức biểu hiện chất trữ tình trong văn xuôi của

ông. Trong văn xuôi Thạch Lam, ta dễ dàng nhận thấy hai hình thức thời

gian phổ biến là thời gian hiện tại và thời gian quá khứ.

3.2.2.1. Thời gian hiện tại.

Trong các truyện của Thạch Lam, hiện tại đôi khi có những niềm vui

nho nhỏ nhưng vẫn bị ám ảnh, đè nặng bởi những chuỗi ngày buồn tủi, vất vả,

nghèo đói.

Trong Hai đứa trẻ, niềm vui rất nhỏ bé, bình dị của chị em Liên là

được mẹ giao trông coi gian hàng xén cuối mỗi ngày, khi trống thu không

thì thu dọn, kiểm lại hàng và tiền bán cả ngày. Mẹ con chị Tý ngày mò cua

bắt tép, tối đến lại dọn hàng nước dưới gốc cây bàng bên cạnh cái mốc

gạch, mặc dù chẳng bán được hàng. Nhưng những thân phận, cảnh đời nơi

phố huyện như mẹ con chị Tý, bà cụ Thi điên, những đứa trẻ con nhà nghèo

ven chợ, gia đình bác xẩm, trong đó có cả gia cảnh chị em Liên …. gợi lên

sự buồn chán, đơn điệu, tẻ nhạt, lay lắt của những kiếp người nghèo khổ; cả

cái bóng tối của phố huyện gây cảm giác ngột ngạt bế tắc không lối thoát,

nó ám ảnh mọi người.

Trong “Cô hàng xén”, niềm vui của cuộc đời người con gái với Tâm

thật ngắn ngủi. Sau một ngày làm việc vất vả, cô lại được sống với cái cảm

95

giác hạnh phúc trong bữa cơm, ngồi ăn dưới con mắt hiền từ và thương

mến của mẹ. Các em quây quần cả chung quanh, hỏi chuyện chợ búa của

chị... Hay những cảm xúc và rung động ngọt ngào của cô trước cậu giáo

làng trong mỗi phiên chợ Bằng… Tuy nhiên cuộc đời Tâm là chuỗi ngày

vất vả lam lũ: có chồng, trách nhiệm gia đình càng đè nặng lên đôi vai cô.

Không chỉ lo toan cuộc sống gia đình nhà chồng, Tâm còn phải chu cấp

tiền ăn học cho các em ….“Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày

mai cũng thế nữa; tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức,

như tấm vải thô dệt đều nhau” [39; 52].

Truyện của Thạch Lam, thời gian hiện tại chứa chất nhiều nỗi ám

ảnh buồn lo về cuộc sống. Trong Người bạn cũ, khi đêm đã về khuya,

“Cảnh tịch mịch một đêm khuya ở tỉnh nhỏ thật buồn bã”, nhân vật tôi

đang ngồi uống chè, đã gặp Lệ Minh- người bạn khi xưa nay đến nhờ “tôi”

xin việc bởi cô đang rơi vào tình cảnh rất éo le. Anh đã nghĩ tới mình “Cái

thân thể tôi bây giờ một viên chức ở tỉnh nhỏ, sống cái đời yên lặng trưởng

giả, một đời ăn no mặc ấm, không phải lo lắng cái gì”. Người bạn trẻ, anh

Bình (nhân vật xưng tôi) gặp lại Bào trong tình cảnh bị đuổi học, cha hắt

hủi đang thất nghiệp. Chẳng bao lâu, người bạn ấy đã tìm đến cái chết để

giải thoát cuộc đời “vô tích sự” của mình. Ở truyện ngắn “Một đời người”,

nhân vật Liên buồn rầu khi nghĩ tới cảnh gia đình: chồng và mẹ chồng độc

ác tàn nhẫn. Truyện “Đói”, vợ chồng Sinh sống trong cảnh nghèo nàn khốn

khó, chịu đựng cơn đói dày vò. “Người lính cũ”, người lính nghèo khổ, gầy

còm, hốc hác nằm run lạnh trong quán nước tả tơi. Truyện Nhà mẹ Lê, tác

giả miêu tả mẹ Lê cùng mười một đứa con phải nhịn đói trong những ngày

đông lạnh giá. Đường cùng mẹ phải đánh liều đến nhà ông Bá xin gạo, mẹ

Lê bị chó cắn không qua khỏi, lìa bỏ đàn con đói tội nghiệp. Trong bóng tối

buổi chiều, Diên nhớ lại những cử chỉ khác lạ của Mai có ý lẩn tránh chàng

96

khi hai người lên làm ở nhà máy với hiệu buôn ở tỉnh thành. Nhân vật Liên

trong Một đời người, hiện tại là quãng thời gian lấy chồng, sống dưới sự

khắc nghiệt của người chồng phũ phu và mẹ chồng ác nghiệt. Tối ba mươi,

hiện tại là đêm cuối năm, trong thời khắc sắp giao thừa, Huệ và Liên - hai

cô gái nhà săm buồn bã xót xa khi nghĩ đến thân thế lưu lạc, cuộc sống nhơ

nhớp và cảnh sum họp của những căn nhà ấm cúng trong tối ba mươi…

3.2.2.2. Thời gian quá khứ.

Với Thạch Lam, thế giới nghệ thuật là thế giới của hồi ức của kỉ

niệm, từ một ký vãng đẹp, trong trẻo, ngọt ngào mà ai cũng có - một kí

vãng của ngày hôm qua. Trên con đường hành hương về quá vãng, Thạch

Lam gặp Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh. Nhưng nếu Nguyễn Tuân

nuối tiếc một thời và muốn làm sống lại cả một thời xưa cũ bằng cách gợi

lại những “vẻ đẹp và những cao quý riêng”, từ cái thú thả thơ đánh thơ đầy

uyên thâm, đến một vị trà quý phái, từ cái thú nhấm nháp hương cuội một

ngày đầu xuân, đến một mái tóc chị Hoài… để tìm lại vang bóng một thời;

và nếu Hồ Dzếnh, nhớ về quá khứ là sự tưởng nhớ miên man những hình

bóng cũ, những người thân yêu đã chìm khuất vào hư không …; Thanh

Tịnh tìm về với kí ức tuổi thơ bằng cái nhìn của một đứa bé, bằng con mắt

trẻ thơ về một chân trời cũ buồn bã hay một quê mẹ xa vời, …. thì Thạch

Lam đứng ở một vị trí của một người đã trưởng thành nhìn lại dĩ vãng bằng

cái nhìn thâm trầm, lặng lẽ. Quá khứ Thạch Lam luôn sống dậy trong thực

tại, điều đó sẽ tạo ra ở nhân vật sự nuối tiếc quá khứ, đớn đau trước thực tại

nhưng cũng có thể là sự hân hoan đón nhận tương lai.

Vũ Tuấn Anh trong bài viết Nỗi buồn Thạch Lam – một tâm thế xã hội

và nhân văn đánh giá: “Thời gian nghệ thuật của ông là hiện thực được kéo

lùi về quá khứ, hay nói cách khác một phần quá khứ được ném trở lại hiện

thực như một sự đắp bồi, một gánh nặng hay một sự giải tỏa” [37;128].

97

Từ hiện thực đắng cay lại quay trở về quá khứ với những hồi ức đẹp,

từ quá khứ lại vòng về hiện tại lắm xót xa, hành trình ngược xuôi, xuôi

ngược ấy đã tạo nên sự vận động trong tâm lý của nhân vật, khiến nội tâm

của nhân vật được khắc họa cụ thể và đa chiều hơn.

Nhớ về Hà Nội đầy ánh sáng trong chuyến tàu đêm đi qua, cô bé Liên

lặng theo mơ tưởng. Trong ký ức của Liên, Hà Nội sáng rực vui vẻ và

huyên náo, gắn với những kỉ niệm thủa ấu thơ hạnh phúc nơi chốn Hà

thành. Đoàn tàu xuất hiện trong đêm khuya - là hồi quang của ký ức tuổi

thơ, đánh thức trong Liên bao mơ tưởng, bao khát khao. Quá khứ khi va

chạm với hiện thực, không làm cho hiện thực đổ vỡ. Ở Hai đứa trẻ, quá

khứ có mối dây liên hệ chặt chẽ với hiện tại, nhớ đến quá khứ là tìm đến

mối dây để nối hiện tại với tương lai. Từ quá khứ đầy ánh sáng đến hiện tại

là hình ảnh chuyến tàu đêm đi qua, là một sự liên kết đầy biện chứng.

Tương lai hiện hình từ khát khao ước mơ xuất phát từ quá khứ đến hiện tại.

Con tàu là hoạt động cuối cùng của một ngày, niềm vui duy nhất trong

ngày của chị em Liên, cao hơn cả là cỗ xe cổ tích, sứ giả của những mong

ước về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong bóng tối thì Liên luôn hướng về

ánh sáng. Từ hành động vô thức thẳm sâu trong đáy tâm hồn mà chính em

cũng chưa hiểu hết, dần dần đã biến thành suy nghĩ, nét tâm lý đầu tiên báo

hiệu sự trưởng thành của tâm hồn: Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự

xa xôi không biết, những ngọn đèn con chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ.

Khép lại câu chuyện ở đó, phải chăng Thạch Lam muốn nuôi cho ta một hi

vọng? Rất có thể từ nhận thức hôm nay sẽ biến thành hành động của ngày

mai. Khi nào cuộc sống còn lắm ước mơ, khi nào con người còn dám ước

mơ thì khi đó cuộc sống còn đẹp và con người còn đáng trân trọng.

Trong “Hà Nội băm sáu phố phường”, việc nhà văn miêu tả sự đổi

thay của Hà Nội hôm nay đã gợi nhớ da diết về Hà Nội trong quá vãng,

98

một Hà Nội trong tầng sâu của những vẻ đẹp mang giá trị văn hóa Việt

Nam: “Ngày xưa, cái biển hàng còn là một cái gì không chỉ là một cái biển

hàng mà thôi. Đó là một bộ phận gắn liền với cơ nghiệp, và số phận của

người buôn, cái biển hiệu thực hiện những cố công nhẫn nại và những đức

tính ngay thật của chủ hàng. Đề biển phải chọn ngày tốt, phải xin chữ của

những người viết giỏi có tiếng và người ta thận trọng giữ gìn như một thứ của

gia bảo ...” [39;258].

Những kỉ niệm của quá khứ đẹp nhưng lùi vào dĩ vãng. Thời gian quá

khứ được hồi tưởng lại bao giờ cũng được huyền thoại hoá với những ngọt

ngào ấm áp. Ở “Người bạn trẻ”, thời gian quá khứ là nhớ lại quãng đời học

sinh ở tỉnh Thái. Những nét mặt bạn cũ đã quên lại hiện ra trong trí nhớ,

với những buổi học vui vẻ, những cuộc nô đùa vô tự lự. Bao nhiêu ngày

sung sướng của tuổi trẻ. Còn trong truyện ngắn Người bạn cũ, khi gặp lại

người nữ đồng chí năm xưa khiến “tôi lại nhớ đến những đêm náo nhiệt

đầy ánh sáng ở Hà Nội. Trông cô đi khuất vào bóng tối, tôi lại nhớ đến

những ngày nào hồi còn trẻ vẫn cùng nhau hội họp khuya trong một căn

phố tối tăm ở Hà Nội”, “Từ cái dĩ vãng xa xôi thăm thẳm, tôi thấy hiện lên

một hình ảnh rõ ràng, hình ảnh tôi trong lúc còn niên thiếu, một thanh niên

hăng hái, nhiệt thành, bồng bột những điều hay, sự đẹp, lúc nào cũng mơ

màng những thành công to tát, một thanh niên chưa biết đến cái thực chua

chát của cuộc đời”. Ở“Nhà mẹ Lê”, trong lúc mê sảng bác Lê tưởng nhớ lại

cả cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ chỉ toàn những ngày khổ sở,

nhọc nhằn. Bác nhớ lại nhớ lại cảm giác vui mừng trong những ngày no đủ.

Ở truyện ngắn“Trong bóng tối buổi chiều”, nhân vật Diên nhớ lại những

ngày sung sướng khi còn ở quê nhà, khi chàng và Mai len lỏi đùa nghịch

cùng nhau trong những vườn sắn trên sườn đồi. Hai người yêu mến nhau từ

thủa nhỏ với mối tình mộc mạc và đằm thắm của hai người nhà quê. Với

99

“Cô hàng xén”, có khi Tâm tưởng mình vẫn còn ở nhà, vẫn còn con gái và

buổi chiều nàng sẽ gánh hàng về căn nhà cũ, thấy các em ra đón và nghe

mẹ nàng dịu dàng săn hỏi. Tâm lại nghĩ đến ngày trước kia, hình như đã lâu

lắm, nàng còn là cô hàng xén má hồng môi đỏ, e lệ cúi mặt dưới cái nhìn âu

yếm của cậu giáo Bài nho nhã và đứng đắn trong tấm áo lương… Trong

“Tối ba mươi”, Huệ “nhớ đến cuộc đời mình, lúc trẻ thơ, lúc còn con gái, ở

nhà quê. Một buổi sáng mồng một tết[…] nàng mặc áo mới đứng trên thềm

nhìn mấy bông hoa đào nở ở trước vườn.[…] nàng chỉ mang máng cảm

giác một sự gì trong mát tươi non [39;234].

Có thể nói, phong cách truyện Thạch Lam là phong cách trữ tình.

Chất liệu văn chương Thạch Lam chủ yếu gồm cuộc sống quá khứ và sự

rung động của tâm hồn tác giả. Cái đẹp bao giờ cũng mong manh dễ vỡ,

ngay cả khi ta biết rằng đó là cái đẹp, cái đáng giá hơn cả cuộc đời. Đúng là

quá khứ phải đi qua, bởi vì cuộc sống luôn trôi chảy. Và con người dù có

tha thiết đến mấy, cũng không thể sống mãi với quá khứ. Đó là yêú tố trữ

tình thể hiện cảm thức thời gian trong sáng tác của Thạch Lam.

3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trong Văn xuôi Thạch Lam.

3.3.1. Ngôn ngữ

“Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng

của văn học. Ngôn ngữ đã cụ thể hoá và vật chất hoá sự biểu hiện của cuộc

đời, tư tưởng, tính cách và cốt truyện…Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà

văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng tạo tác phẩm; nó cũng là yếu

tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm”

[9;148]. M.Goorki từng cho rằng: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn

ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của

cuộc sống là chất liệu của văn học" [14;91 ]. Các nhà văn trong quá trình

sáng tạo đã phải đảm bảo ngôn ngữ có tính chính xác, tính hàm súc, tính

100

biểu cảm và tính hình tượng. Để đạt được điều đó, các tác giả thường khai

thác những phương tiện biểu hiện vốn có của ngôn ngữ như: vần, giọng

điệu, thanh điệu- hay các phương thức tu từ. Tuỳ vào vốn sống tài năng và

sự hiểu biết của mình mà mỗi nhà văn có sự sáng tạo khác nhau trong việc

sử dụng hệ thống ngôn ngữ cho mục đích sáng tác của mình.

Ngôn ngữ văn xuôi Thạch Lam là ngôn ngữ dư ba có sức đọng lớn.

Lời kể, lời tả rất giản dị, trong sáng, mượt mà nhưng sâu lắng, đằm thắm và

thấm đượm tình người:

“…Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao mình hãy còn là người lương thiện,

không phải là kẻ ăn cắp, cái đó cũng không khiến tôi lấy làm ngạc nhiên

hơn. Mà còn là người lương thiện, tôi tự thấy mình cũng chẳng có gì là

đáng khen. Tôi nhớ rõ lúc đó không một ý nghĩ nào về danh dự, về điều

phải, điều trái ngăn cản tôi, và khiến tôi đi vào con đường ngay, như người

ta vẫn nói. Không, không có một chút gì như thế. Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi

không biết… có lẽ chỉ có lời nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía

này hay phía kia, đã khiến tôi có ăn cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi

tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới hai bên...” (Sợi tóc)

“Bà Cả hình như không nghe thấy gì nữa. Mắt bà đờ ra như đang theo

đuổi một ước vọng xa xôi, bà đang nghĩ rằng không bao giờ bà biết được

những nỗi lo sợ ấy, bởi không bao giờ bà được bồng đứa con trên tay, nâng

niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ… giá bà đánh đổi tất

cả của cải để lấy đứa con…” (Đứa con).

“… Hình như có những cái lẽ tối tăm làm cho nàng sợ hãi, không dám

nhận lời. Liên lờ mờ thấy rằng nàng không đủ can dảm làm một việc như

thế, không đủ quả quyết với mình để chống lại những cái cay nghiệt gây

nên xung quanh nàng. Không phải vì nàng quyến luyến đứa con lên sáu:

nàng không yêu nó vì nó xấc láo như bố. Nhưng bỏ chồng bỏ con để lấy

101

Tâm, để được sung sướng riêng lấy mình nàng, Liên cho như là một sự việc

không bao giờ có thể làm được” (Một đời người).

Bằng lối ngôn ngữ miêu tả giàu xúc cảm và hình tượng, Thạch Lam đưa

người đọc trở về với những miền quê êm đềm, yên ả của nông thôn Việt Nam:

“Thanh lách cửa gỗ để khép, nhẹ nhàng bước vào. Chàng thấy mát

hẳn cả người, trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh

sáng lọt qua vòm cây xuống nhảy múa theo chiều gió. Một mùi lá tươi non

phảng phất trong không khí… Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ

trong căn vườn… Thanh bước xuống giàn thiên lý. Có tiếng người đi, rồi

bà chàng mái tóc bạc phơ, chống gậy trúc, ở ngoài vườn vào… Ngoài

khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng, lá cây rung động dưới làn gió nhẹ.

Một thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: cây

hoàng lan!, mùi hương thơm thoang thoảng đưa vào. Thanh nhắm mắt ngửi

mùi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy chàng thường hay chơi dưới gốc

nhặt hoa…” (Dưới bóng hoàng lan).

Lời văn mượt mà, giàu chất hoạ, chất nhạc đã diễn tả một cách hình

tượng cảnh thiên nhiên cùng với những tinh tế của tâm hồn con người. Một

thế giới hoàn toàn yên bình, tĩnh lặng và đẹp như cổ tích. Con đường gạch,

giàn cây, bóng mát và đặc biệt là hương hoa đã xoa dịu tâm hồn con người

sau một quãng đường dài đầy bụi bặm. Trở về với quê hương chính là trở

về với dân tộc, trở về với những nét đẹp truyền thống được lưu giữ từ thuở

xa xưa, trở về với cội nguồn của sự sống, tình yêu thương che chở. Trong

khung cảnh ấy, tâm hồn con người trở nên trong sáng hơn, thuần khiết hơn,

đẹp đẽ hơn.

Ngôn ngữ miêu tả của Thạch Lam có sức khêu gợi cảm xúc, đánh

thức rung cảm trong lòng người. Hãy nghe Thạch Lam kể và tả về các món

ăn, các thức quà Hà Nội, thật khéo và hấp dẫn kì lạ, cứ như người đọc cùng

102

nhà văn đang được thưởng thức vậy.

Ông tả về cơm nắm- thức quà ăn buổi sáng “Đối với các bà, các cô

đi chợ, cô hàng vải, cô hàng cau … là những người ưa món quà gì vừa rẻ,

vừa ngon, lại vừa no lâu – các cô khó tính, sành ăn và hay xét nét lắm- đã

có món quà của cô hàng cơm lẳng lơ với hai quang thúng bỏ chùng. Món

quà này sạch sẽ và tinh khiết, từ quà cho đến quang thúng, cả cô hàng, tóc vấn

gọn, áo nâu mới, quần sồi thâm, cô hàng trông cũng ngon mắt như quà của cô

vậy … Con dao cắt, sáng như nước và lưỡi đưa ngọt như đường phèn. Cơm cắt

ra từng khoanh, cô hàng lại cẩn thận gạt bỏ lớp ngoài, rồi lại cắt ra từng miếng

nhỏ vuông cạnh và dài, để bày trên đĩa” (Hà Nội băm sáu phố phường).

Với món bún ốc, Thạch Lam đã tả bằng những dòng thật sự là văn

chương, mà cũng thật sự là đời thường: “Có ai buổi trưa vắng hay buổi đêm

khuya, đi qua các nhà cô đào, các chị em thanh lâu, thấy họ ăn cái quà ấy

một cách chăm chú và tha thiết đến đâu không? Nước ốc chua làm nhăn các

nét mặt tàn phấn và mệt lả, nước ớt cay làm xoa xuýt những cặp môi héo

hắt và đôi khi làm rỏ những giọt lệ thật thà hơn cả những giọt lệ tình. Cô

hàng ốc có một cái dụng cụ, một đầu là búa, một đầu là dùi nhọn. Một cái

gõ nhẹ, và một cái trở tay là con ốc nguyên cả ruột đã đã gọn gàng rơi mình

vào bát nước. Cô thoăn thoắt rút ốc không kịp, trông thấy người ta ăn ngon

lành, chính cô cũng sinh thèm. Ấy cô có thú thực với tôi như thế” (Hà Nội

băm sáu phố phường). Có thể thấy cô hàng bún ốc đã tài mà tác giả mô tả lại

càng tài tình. Nhưng không chỉ ngần ấy, mà tác giả có cả một lòng yêu thành

thực yêu trong thâm tâm, yêu những cái bé bỏng nhưng là của một Hà Nội

hằng đắm say.

Ngôn ngữ Thach Lam nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình man mác. Có lẽ

ta sẽ không tìm thấy những lớp ngôn ngữ mang tính chất xã hội hóa cao

như trong sáng tác của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Ta cũng không tìm

103

thấy những nét đặc trưng của ngôn ngữ nhân vật với khẩu khí và cách diễn

đạt riêng như: "mẹ kiếp, nước mẹ gì!", "Biết rồi khổ lắm nói mãi!" (Vũ

Trọng Phụng) hay cái biệt tài sử dụng đắc địa các đại từ nhân xưng: nó,

hắn, y, thị, gã .. (Nam Cao) cũng như lối nói phóng đại đầy chất hài hước,

trào phúng (Nguyễn Công Hoan). Cái đẹp của ngôn ngữ Thạch Lam là cái

đẹp của thứ ngôn ngữ "vừa cho ta nhìn vừa cho ta cảm". Tâm hồn đa cảm

và tinh tế đến độ "có thể thu nhận được sự thay đổi về độ ánh trăng hay âm

sắc của các loại lá khô rụng va vào đất" đã đem đến cho bạn đọc những

trang văn đạt đến sự trong sáng, thuần khiết của Tiếng Việt, có khả năng

diễn tả một cách đầy đủ những cung bậc khác nhau của đời sống nội tâm

con người. Nếu cho rằng một thế giới cảm giác mong manh, thầm kín, nội

tại đã hiện diện rất nhiều trong con người văn xuôi Tự lực văn đoàn, thì đến

Thạch Lam cái thế giới ấy đã đạt đến độ tinh tế nhất. Ở trong mỗi con

người chúng ta, dường như ai cũng có một đời sống nội tâm đầy bí mật,

nhưng mấy ai đã diễn tả được nó như thế này: "Tôi cảm thấy một cái thú

khoái lạc kì dị, khe khẽ và thầm lặng rung động trong người, có lẽ là cái

khoái lạc bị cám dỗ, mà cũng có lẽ cái khoái lạc đã đè nặng nén được sự

cám dỗ. Và một mối tiếc ngấm ngầm, tôi không tự thú cho tôi biết và cũng

cố ý không nghĩ đến, khiến cho cái cảm giác ấy của tâm hồn tôi thêm một

vẻ rờn rợn và sâu sắc" (Sợi tóc).

Tác phẩm Thạch Lam càng đọc càng bị lôi cuốn, càng đọc càng say.

Ông đã biết chọn cho mình một lối ngôn ngữ rất riêng, rất độc đáo. Ông

dùng thủ pháp so sánh để miêu tả tâm hồn nhân vật và miêu tả thiên nhiên:

“Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi béo ngậy của miếng thịt

ướp, mùi thơm của chiếc bánh vàng, mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh

vào, cái mùi thơm thấu tận ruột, gan như thấm nhuần vào xương tuỷ.”

(Đói); “Và mỗi lần tôi nghĩ đến anh phu xe ngoại ô kia, tôi lại thấy đau đớn

104

trong lòng, như có một vết thương chưa khỏi” (Một cơn giận); “Tiếng mưa

reo và gió thổi như một thứ âm nhạc vui vui, ru ngủ người ta dần dần

(Tiếng chim kêu), “Tâm hồn Thành trơ trọi như một cánh đồng thấp mà lúa

đã gặt rồi” (Cuốn sách bỏ quên); “ ... bà cụ già lê nhích lại gần, cúi xuống

khe khẽ kéo lại như có một vết thương chưa khỏi” (Nhà mẹ Lê); “Phương

Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn

trong lò”, “Một đêm mùa hạ êm như nhung”, “Một chiều êm ả như ru …”

(Hai đứa trẻ).

Lối miêu tả so sánh đã giúp cho nhà văn cụ thể hoá những cái vốn

trừu tượng. Nhờ đó những biến thái tinh vi của lòng người đã biểu hiện một

cách tự nhiên, sinh động. Ông đã có một khả năng kì diệu là truyền đến cho

người đọc những “rung động khẽ như cánh bướm non” trong cái thế giới

mà ta đang sống hàng ngày mà chính ông là người nhận ra trước hơn ai hết,

và cũng rung động hơn ai hết.

Một trong những biểu hiện yếu tố trữ tình ở ngôn ngữ Thạch Lam là

ngôn ngữ bình luận và trữ tình ngoại đề. Đó là thứ ngôn ngữ được hoà trộn

giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật. Tác giả mượn lời nhân vật để

bộc lộ những tâm tư, bộc lộ chính kiến của mình.

“Tâm thấy ngày nay cũng như mọi ngày, ngày kia cũng thế nữa, tất

cả cuộc đời nàng lúc nào cũng chịu khó và hết sức như tấm vải thô dệt đều

nhau. Có phải đâu chỉ mình cô; trong những luỹ tre xanh kia, bao nhiêu

người cũng như cô, cũng phải chịu khó và nhọc nhằn để kiếm tiền nuôi

chồng, nuôi con, nuôi các em” (Cô hàng xén).

“Ngày nọ nối tiếp ngày kia. Liên lại vẫn chịu cái đời khổ sở, đau đớn

mọi ngày. Cái mộng một cuộc đời sung sướng với Tâm, Liên buồn rầu cho như

là những vật tốt đẹp mà nàng thấy bày trong tủ kính các cửa hàng, những vật

quý giá mà nàng tưởng không bao giờ thuộc về nàng nữa” (Một đời người)

105

“Cuộc đời có những cái chế giễu đắng cay và đau đớn làm cho chúng

ta đột nhiên hiểu cái ý nghĩa chua chát và sâu xa” (Cái chân què).

“Có những ngày mà tự nhiên không hiểu tại sao, ta thấy khó chịu và

hay gắt gỏng, không muốn làm việc gì”. (Một cơn giận). Đó là tâm sự của

nhân vật tôi mà cũng chính là tác giả. Ông tự vẽ mình!

“Rồi tôi băn khoăn tự hỏi xem trong hai cái hình ảnh ấy, hình ảnh

người thiếu niên hăng hái và hình ảnh người trưởng giả an nhàn, cái hình

ảnh nào thật là của tôi?” (Người bạn).

Thật khó có thể phân biệt đâu là ngôn ngữ của tác giả, đâu là ngôn

ngữ nhân vật. Nhà văn đã thật sự đặt mình vào địa vị nhân vật để nói lên

suy nghĩ về số phận và cuộc đời những cô hàng xén nghèo khó sớm tối

phải tần tảo vất vả vì gia đình; những bi kịch về tình cảm, hôn nhân gia

đình hay bi kịch về số phận của con người. Lối diễn đạt, kiểu ngôn ngữ như

vậy không chỉ khái quát phản ánh một cách tinh tế sinh động được tâm

trạng nhân vật mà đồng thời thể hiện được thái độ cảm xúc nhà văn. Nó có

sức khơi gợi dễ làm ta rung động vì trước ta, chính tác giả đã rung động.

Tóm lại, ngôn ngữ văn xuôi Thạch Lam hết sức đặc sắc. Đó là thứ

ngôn ngữ của tâm trạng, của cảm giác diễn tả những trạng thái mơ hồ,

mong manh thường xảy ra bất chợt trong tâm hồn nhân vật. Trong văn

Thach Lam, lời kể, lời tả rất nhẹ nhàng, thủ thỉ và dung dị nhiều khi thiên

về bộc lộ tâm tư, suy nghĩ của chính tác giả. Đặc biệt nhà văn đã khéo léo

sử dụng ngôn ngữ bình luận và trữ tình ngoại đề, tất cả làm nên một nét

riêng độc đáo của nhà văn, tạo nên chất thơ, chất trữ tình hấp dẫn.

3.3.2. Giọng điệu.

Giọng điệu là một trong những yếu tố nghệ thuật có ý nghĩa nhất

trong thi pháp cũng như trong phong cách nhà văn. Tìm hiểu tác phẩm văn

chương mà bỏ quên giọng điệu, tức là tước đi các phần quan trọng tạo nên

106

bản sắc độc đáo của tác phẩm. Bởi vì giọng điệu không chỉ là vấn đề phong

cách mà còn là yếu tố quan trọng, tạo nên tư tưởng tình cảm của tác phẩm.

Nhà văn, nhà thơ trước khi bắt tay vào viết phải bắt đầu từ “khúc ca bên

trong” như cách nói của Lamartine, phải chọn được một giọng điệu từ “tâm

trạng mang màu sắc nhạc tính” như M.Arnaudov quan niệm:

"Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của

nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định

cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,

thâm sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm" [21;134].

Dấu ấn chủ quan của nhà văn in đậm qua thế giới nghệ thuật của các

tác phẩm. Thực tế cho thấy cùng một hiện thực phản ánh nhưng mỗi nhà

văn lại có cách nhìn hiện thực và lý giải hiện thực theo những chiều hướng

tư tưởng và quan niệm thẩm mỹ khác nhau, tạo nên những nét riêng độc

đáo về phong cách. Turghênev cũng đánh giá cao sự sáng tạo của nhà văn:

“Cái quan trọng trong tài năng văn học mà tôi nghĩ rằng cũng có thể trong

bất kì một tài năng nào là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói riêng của mình.

Đúng thế cái quan trọng là tiếng nói của mình, cái quan trọng là cái giọng

điệu riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì

một người nào khác” [1;90].

Cuộc sống thanh bạch và tâm hồn đa cảm đã đi vào những trang văn

Thạch Lam, tạo cho ông một văn phong và cốt cách riêng biệt. Đọc tác

phẩm của ông, người ta thấy cái nhẹ nhàng lặng lẽ từ cuộc sống đã chuyển

thành giọng kể nhỏ nhẹ, dịu dàng mà sâu lắng trong văn của ông. Ai đó đã

nhận xét Thạch Lam nhẹ nhàng từ cử chỉ, tiếng nói, từ câu nói, bước đi

giống như các nhân vật trong truyện. Nguyễn Trường Giang - người con

thứ ba của Thạch Lam đã nhận xét như vậy về cha mình: “Ông yêu văn

chương cũng thầm lặng và nhẹ nhàng như ông viết” [62;15].

107

Thạch Lam đã đưa vào trong tác phẩm của mình giọng điệu riêng khó

lẫn: giọng thủ thỉ tâm tình và giàu sức gợi.

Người ta nhận ra trong Chí Phèo, Đời thừa, Trăng Sáng là giọng của

Nam Cao gân guốc, sắc lạnh mà đằm thắm trữ tình. Người ta gặp giọng

Ngô Tất Tố “mạnh mẽ sôi nổi” trong những trang tiểu thuyết Tắt đèn. Còn

những tập truyện Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc có giọng

điệu dịu dàng, nhỏ nhẹ, êm đềm như những câu thơ của Thạch Lam.

Sức gợi trong văn Thạch Lam còn được tạo bởi lối viết luôn tác động

vào trực giác của người đọc. Bằng giọng văn nhẹ nhàng thủ thỉ, Thạch Lam

đã khơi gợi những rung cảm tự nhiên ở người đọc vào những trang văn của

mình. Xin hãy nghe Thạch Lam mở mục quà Hà Nội bằng một giọng điệu

tha thiết: “Qùa Hà Nội xưa nay vẫn có tiếng là ngon lành và lịch sự. Ở các

thôn quê, chút “quà Hà Nội” là của mong đợi, và tỏ được lòng quý hoá của

người cho …Nếu chúng ta về các tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng

Nam Định nữa, chúng ta mới biết quà Hà Nội có vị ngon là chừng nào!

Cũng là thứ bún chả chẳng hạn, cũng chả ấy, bún ấy, thế mà sao bún chả Hà

Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi”,

“Này đây mới là quà chính tông: bánh cuốn, ăn với chả lợn béo, hay với

đậu rán nóng. Nhưng là bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong

như lụa. Vị bánh thơm bột mịn và dẻo. Bánh chay thì thanh đạm, bánh mặn

đậm vì chút mỡ hành …” (Hà Nội băm sáu phố phường).

Viết về những thân phận người bấp bênh trong xã hội cũ, nhưng

không vì thế mà văn chương Thạch Lam nhuốm màu tuyệt vọng, những

trang truyện của Thạch Lam dẫu viết về cái chết, cái tàn cái lụi vẫn ngân

lên một chất thơ kì diệu…Trong giọng văn vẫn sóng sánh niềm xúc động,

sẻ chia, giọng của sự đồng cảm, của niềm yêu thương chở che và nâng đỡ

con người. Thạch Lam xưng hô với nhân vật nhẹ nhàng thân mật, bằng

108

cách gọi tên: Liên, Tâm, Sinh … hoặc bằng cách gọi trừu mến: mẹ Lê,

chàng, nàng …. “Thạch Lam đã rất đồng cảm với người lao động và dường

như cao hơn còn là sự hoà nhập vào dòng người khốn khổ ấy. Nhân vật

Thạch Lam luôn có một cái tên rất nhẹ, vần không hoặc vần bằng như

chính con người và tình cảm trong suốt, dịu dàng mỏng manh của họ vậy”

(Hà Văn Đức). Giọng văn cứ nhẹ nhàng thủ thỉ như sẻ chia như thấu hiểu,

giọng văn của một người giàu cảm xúc tinh tế, nhạy cảm, một ngòi bút đẫm

chất trữ tình.

Cái giọng điệu thủ thỉ, tâm tình và giàu sức gợi ấy đã làm nên những

trang truyện Thạch Lam như những trang thơ mà đượm buồn. Cái giọng ấy

đã góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật rất riêng của Thạch Lam.

Viết về cuộc đời bình dân nghèo đói - đó là cảm hứng của các nhà văn

Tự lực văn đoàn và các nhà văn hiện thực. Một trong tôn chỉ sáng tác của

Tự lực văn đoàn là “hướng về bình dân, không vương giả” nên các nhà văn

như Nhất Linh, Khải Hưng, Hoàng Đạo…hết sức tuân theo chủ nghĩa bình

dân. Họ tìm về nơi thôn dã mà sáng tác. Nhân vật của họ là những cô thiếu

nữ thơ ngây mà xinh đẹp, dường như sống chỉ để mà yêu. Cảnh vật của họ

chỉ là “lũy tre làng”, những nếp rạ thanh bình với làn khói lam chiều êm ả.

Họ cố tuân thủ theo chủ nghĩa bình dân, nhưng đó là thứ “bình dân” được

nói cao giọng, được hô hào, kêu gọi bằng thái độ của người từ trên nhìn

xuống, ở ngoài nhìn vào xót thương và cứu vớt chứ chưa có sự đồng cảm

sẻ chia. Họ thấy những cô thôn nữ thơ ngây mà chưa thấy những cảnh làm

việc tối tăm mặt mũi. Họ say những nếp khói lam chiều mà không biết

trong bếp người ta nấu gì, đất sét khô [Làm mõ - Ngô Tất Tố] hay chỉ vài

dãi khoai [Tắt đèn - Ngô Tất Tố]. Thạch Lam tuân theo chủ nghĩa bình dân,

nhưng hai chữ “bình dân” ấy không trôi nổi, hời hợt như những áng phù

vân mà lúc nào cũng ấm áp hơi thở cuộc đời. Thạch Lam không hề cao

109

giọng, rất lặng lẽ, khiêm nhường, ông đến với cuộc sống của kiếp nghèo

đói bằng niềm thương cảm chân thành, sự thấu hiểu sâu sắc. Vì thế, truyện

Thạch Lam là bài thơ trữ tình đượm buồn, mà ở đó ta luôn thấy nghẹn ngào

chút lệ thầm kín của tình thương (Thế Lữ). Giọng văn Thạch Lam buồn,

nhẹ nhàng mà tha thiết yêu thương.

Giọng điệu văn chương của Thạch Lam được thể hiện ngay từ cảm

hứng sáng tác. Cảm hứng sáng tác của Thạch Lam bắt nguồn từ những

cuộc đời bình dân nghèo khó. Vì thế trong truyện Thạch Lam, câu chữ cứ

mang một giọng buồn, day dứt, nó gợi niềm xót xa thương cảm về số phận

bấp bênh của con người dưới xã hội cũ. Một nỗi buồn man mác nhè nhẹ

phủ lên và thấm vào đời sống của các nhân vật, nỗi buồn xa xôi, nỗi buồn

mơ hồ. Một cô hàng xén, một cô Liên, một cô Dung… sống buồn bã trong

gia đình và cả ở xã hội. Một đứa trẻ cố thức đêm chỉ để nhìn ánh sáng đèn

của chuyến tàu đêm với hy vọng được nhìn thấy cảnh náo nhiệt ở sân ga.

Thạch Lam gieo vào lòng người đọc sự xót xa, thương cảm cho những kiếp

người nhọc nhằn, nghèo khó.

Liên và Huệ trong Tối ba mươi là những người làm cái nghề dưới đáy

cùng của xã hội. Những ngày Lễ – Tết hai cô vẫn nhớ tới quê hương làng

xóm với một mái nhà yên ấm, nhớ tới ông bà tổ tiên cùng tuổi thơ trong sáng

của mình. Cao hơn nữa là một niềm tiếc hận, khổ đau cho thân phận. Nhà

văn miêu tả bằng một giọng điệu đầy chua xót: “… những giọt nước mắt

chảy tràn mi, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một nỗi tủi cực mênh

mang tràn khắp người, một nỗi thương tiếc vô hạn; tất cả thân thể nàng lướt

hiện qua trước mắt với những ước mong tuổi trẻ, những thất vọng chán chường”

(Tối ba mươi).

Miêu tả cái chết của mẹ Lê, giọng văn Thạch Lam bỗng trùng xuống

gợi cảm giác đau xót thương cảm:

110

“… bác Lê lên cơn sốt. Những cái rùng mình lạnh lẽo nối nhau lướt

trên da bác, manh chiếu rách không đủ đắp ấm thân. Trong lúc mê sảng, bác

Lê tưởng nhớ lại cuộc đời mình, từ lúc còn bé đến bây giờ, chỉ toàn những

ngày khổ sở, nhọc nhằn. Cái nghèo nàn không biết tự bao giờ đã vào nhà

Bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi, và từ đấy, nó cứ theo liền bác mãi. Nhưng

giá cứ có người mướn làm thì cũng không đến nỗi bác nhớ lại những buổi

khó khăn đi làm, những lúc vui vẻ được lĩnh gạo về cho con, những bữa cơm

nóng mùa rét…

… Đấy còn là những ngày no đủ. Rồi đến những buổi chợ vắng,

những ngày nhịn đói như hôm nay. Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi

trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác, tinh nghịch của cậu Phúc, con chó

Tây nhe nanh chồm lên…” (Nhà mẹ Lê).

Cuộc đời của mẹ Lê dường như chỉ được gói gọn trong chữ nghèo hèn

để rồi đã chuốc lấy bất hạnh. Bất hạnh cho bác và bất hạnh cho những đứa

trẻ mồ côi. Cuộc đời chúng rồi sẽ ra sao, chúng sẽ đi về đâu khi bên mình

không có mẹ, lại tay trắng? Nỗi buồn đau dường như được nén lại rồi toả

ra, nén lại trong lòng tác giả để rồi toả ra âm điệu buồn chua xót cho người

đọc suốt cả câu chuyện.

Kết thúc truyện Một đời người, giọng điệu buồn man mác lan toả

trong lòng người đọc trước tuơng lai mù mịt của Liên: “Ngày nọ nối tiếp

ngày kia, Liên phải chịu cái đời khổ sở đau đớn mọi ngày. Cái mộng cuộc

đời sung sướng với Tâm, Liên buồn rầu coi như là những vật tốt đẹp mà

nàng thấy bầy trong tủ kính cửa hàng, những vật quý giá mà tưởng không bao

giờ có thể về nàng được” (Một đời người).

Trong truyện Đói, tác giả diễn tả cảnh đớn đau, cơ cực của Sinh khi

cơn gió đi qua trong cơn đói bằng một giọng văn nửa như mơ hồ, nửa như

không nhớ rõ thực hay mơ:

111

“Một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình. Bỗng nhiên

tất cả người chàng chuyển động: chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm

và béo của những miếng thịt ướp mà mỡ còn dính ở tay.

Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào xé ruột gan, mãnh liệt, át hẳn cả nỗi buồn.

Chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm giác

đói đã lẩn khắp cả người như nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn gió,

mỗi lần chàng ngửi thấy mùi béo ngậy của miếng thịt ướp, mùi thơm của

chiếc bánh vàng. Mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu

tận ruột, gan, như thấm nhuần vào xương tuỷ” (Đói).

Giọng văn Thạch Lam mang một nỗi buồn khe khẽ, vơ vẩn mơ hồ

của một cô bé trong cảnh chiều tàn nơi phố huyện: “Chiều, chiều rồi. Một

buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ngoài đồng ruộng

theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên

ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen: đôi mắt chị bóng tối ngập đầy

dần vào cái buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn thơ ngây của chị. Liên

không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của

ngày tàn.” (Hai đứa trẻ)

Thế giới nhân vật của Thạch Lam không đông đúc, chỉ là một vài người,

họ lặng lẽ đi lại như một cái bóng. Giọng buồn không chỉ thấm đẫm ở những

tác phẩm nhà văn viết về chốn thôn quê, ngay cả khi viết về cuộc sống nơi phố

huyện, truyện của ông cũng đượm một nỗi buồn như thế.

Viết về những thân phận người bấp bênh trong xã hội cũ, nhưng không vì

thế mà văn chương Thạch Lam nhuốm màu tuyệt vọng, những trang truyện của

Thạch Lam dẫu viết về cái chết, cái tàn cái lụi vẫn ngân lên một chất thơ kì

diệu…Trong giọng văn vẫn sóng sánh niềm xúc động, sẻ chia, giọng của sự

đồng cảm, của niềm yêu thương chở che và nâng đỡ con người.

Nếu như Nam Cao gọi nhân vật của mình là gã, là y, là hắn, là mụ, là thị rất

112

lạnh lùng, khinh bạc, thì Thạch Lam nâng niu trân trọng gọi Liên là chị, gọi

mẹ Lê là mẹ, gọi Liên - cô hàng xén là nàng. Tên các nhân vật trong truyện

Thạch Lam cũng thật nhẹ nhàng: là Liên, Anh, Huệ, Bình…Những tên toàn

thanh bằng dịu dàng mà thơ biết mấy. Cách xưng hô và đặt tên nhân vật như

thế khiến cho những trang văn Thạch Lam nhẹ nhàng mà nồng ấm nghĩa tình.

Thạch Lam với trái tim mẫn cảm và giàu niềm yêu thương, đã nhập hòa,

đi sâu vào tâm hồn các nhân vật bé nhỏ của mình để phát hiện ra trong tâm

hồn hai đứa trẻ vẫn xanh màu khát khao hy vọng đổi thay cuộc sống, trong

ước vọng của hai cô gái nhà xăm vẫn mơ về sự ấm êm sum họp gia đình trong

tối ba mươi, trong tâm tình của Liên - cô hàng xén vẫn nguyện chung thủy

tình thương với cha mẹ, các em, với người chồng nghèo…

Nhà văn với giọng diệu này đã khái quát lên cả một bức tranh hiện thực

xã hội đương thời. Tại đó những kiếp người luôn phải sống mỏi mòn, nhọc

nhằn, vô vọng… Điều này cho thấy sự kết nối xuyên suốt trong cảm hứng

sáng tạo của Thạch Lam. Trong bất cứ thể loại nào, ngòi bút của ông cũng

nghiêng về phía những con người nhỏ bé bằng một giọng văn đầy lòng trắc

ẩn, cho thấy được những cuộc sống tù đọng, bế tắc của cả đời người. Ngay cả

những người lầm lỡ trong chốn bùn lầy của xã hội ông cũng miêu tả họ bằng

giọng văn xót xa, buồn chứ không chì chiết, khinh rẻ. Ông còn tìm sâu trong

tâm can họ những nét đẹp còn tiềm ẩn trong bản chất của họ.

Tóm lại, giọng văn Thạch Lam là điệu tâm hồn, nét tính cách của nhà

văn kết hợp với tấm lòng cảm thông đầy nhân ái trước những cảnh đời bất

hạnh. Thạch Lam đã tạo ra cho tác phẩm của mình một giọng điệu không lẫn

với bất cứ ai: giọng điệu nhẹ nhàng, tâm tình gợi mở, khơi sâu vào nội tâm và

cảm giác. Vì vậy, văn Thạch Lam vừa giản dị, trong sáng, vừa gợi lên một nỗi

buồn man mác “Nỗi buồn in đậm trên trang văn Thạch Lam, khắc khoải ở chỗ

này, bàng bạc ở chỗ khác, trở thành một khí quyển tâm trạng bao phủ những

cảnh đời mà nhà văn dẫn ta vào” [1; 238].

113

KẾT LUẬN

Văn chương nghệ thuật luôn đem đến cho người đọc sự rung cảm

thẩm mỹ. Đọc những sáng tác của Thạch Lam, chúng ta được sống lại với

những miền kí ức sâu thẳm, được trở về với cội nguồn của cuộc sống đó là

quê hương, gia đình, tuổi thơ, là những nguời yêu dấu. Làm nên sức lay

động tâm hồn người đọc là bởi cái chất thơ, yếu tố trữ tình, cảm xúc trong

văn xuôi của ông.

Truyện của Thạch Lam về nội dung rất đơn giản, truyện không có

cốt truyện, không có cả chân dung và tính cách mà chỉ là để diễn tả một

tâm trạng hay một trạng thái tinh thần nào đó. Chính từ đặc điểm này,

truyện của Thạch Lam chủ yếu là đi sâu vào những biến cố tâm lý, những

tình huống tâm trạng. Đó là những khoảnh khắc bất ngờ, những xung động,

biến thái của tinh thần, của cảm xúc nhân vật... Điều đó có khả năng khơi

gợi, đánh thức cảm xúc ở người đọc.

Kết cấu tác phẩm theo dòng chảy tâm trạng và cảm giác của nhân vật

là nét đặc sắc trong nghệ thuật văn xuôi của Thạch Lam tạo nên chất thơ,

chất trữ tình giúp người đọc có được cái nhìn nhiều chiều về con người và

cuộc sống.

Sức hấp dẫn trong các sáng tác của Thạch Lam là ở chiều sâu của

thế giới nội tâm, những trạng thái cảm xúc tinh tế của con người. Ngòi bút

trữ tình Thạch Lam đã diễn tả mọi cung bậc rung động của tâm hồn, dội lên

những cảm giác mong manh tinh tế trước ngoại cảnh, trước mọi biểu hiện

phong phú của đời sống tinh thần con người. Chính vì thế, khi đọc Thạch

Lam, chúng ta thấy văn của ông tựa hẳn vào cảm giác mà thành.

Thế giới nhân vật của Thạch Lam mặc dù vẫn còn những cảnh đời

những thân phận khổ đau, bất hạnh, nhưng không hề có bóng dáng của

những con người đầy dục vọng xấu xa. “Ta thấy một điều rõ ràng là trong

114

khi miêu tả một thế giới tinh thần của con người, Thạch Lam chỉ quan tâm

miêu tả những phần “đẹp đẽ, trong sáng và lành mạnh”, còn những phần vô

thức, bản năng, những cảm giác nhục dục, những miền mờ tối …ông không

quan tâm thể hiện. Đó là nét đặc trưng trong bút pháp miêu tả của Thạch

Lam, khi ông miêu tả con người.

Không gian trong truyện Thạch Lam vừa là không gian của văn xuôi

vừa là không gian thơ, nó hoà điệu với cảm xúc nhân vật. Nó đậm chất thơ,

chất trữ tình. Bởi vì truyện của Thạch Lam dường như không có cốt truyện;

kết cấu truyện là kết cấu tâm trạng. Nhà văn chủ yếu đi vào miêu tả những

rung động rất nhỏ và tinh tế trong tâm hồn con người. Mỗi truyện của ông

giống như một bài thơ trữ tình đượm buồn. Thạch Lam là nhà văn vừa hiện

thực, vừa lãng mạn. Truyện của ông phản ánh hiện thực đời sống nhưng

cách thể hiện rất thơ, rất trữ tình. Trong sáng tác của Thạch Lam dù là

không gian xã hội hay không gian thiên nhiên cũng đều nhuốm tâm trạng,

khơi gợi cảm xúc và ám ảnh người đọc.

Thời gian là một yếu tố quan trọng của nghệ thuật vì nó góp phần

định hình phong cách nhà văn. Thạch Lam sử dụng yếu tố thời gian hết sức

đặc sắc, như một phương thức biểu hiện chất trữ tình trong văn xuôi của

ông. Trong văn xuôi Thạch Lam, ta dễ dàng nhận thấy hai hình thức thời

gian phổ biến là thời gian hiện tại và thời gian quá khứ.

Với Thạch Lam, thế giới nghệ thuật là thế giới của hồi ức, của kỉ

niệm, từ một ký vãng đẹp, trong trẻo, ngọt ngào, mà ai cũng có - một kí

vãng của ngày hôm qua. Quá khứ trong văn Thạch Lam luôn sống dậy

trong thực tại, điều đó sẽ tạo ra ở nhân vật sự nuối tiếc quá khứ, đớn đau

trước thực tại nhưng cũng có thể là sự mở lòng đón nhận tương lai.

Ngôn ngữ văn xuôi Thạch Lam là ngôn ngữ dư ba có sức đọng lớn.

Đó là thứ ngôn ngữ của tâm trạng, của cảm giác diễn tả những trạng thái

115

mơ hồ, mong manh thường xảy ra bất chợt trong tâm hồn nhân vật. Ngôn

ngữ bình luận và trữ tình ngoại đề - thật khó có thể phân biệt đâu là ngôn

ngữ của tác giả, đâu là ngôn ngữ nhân vật. Lối diễn đạt, kiểu ngôn ngữ như

vậy không chỉ khái quát, phản ánh một cách tinh tế sinh động tâm trạng

nhân vật mà đồng thời thể hiện được thái độ cảm xúc nhà văn. Nó có sức

khơi gợi dễ làm ta rung động vì trước ta, chính tác giả đã rung động. Tất cả

làm nên một nét riêng độc đáo của nhà văn, tạo nên chất thơ, chất trữ tình

hấp dẫn.

Giọng văn Thach Lam có sức lôi cuốn đặc biệt. Đó là điệu tâm hồn,

nét tính cách của nhà văn kết hợp với tấm lòng cảm thông đầy nhân ái

trước những cảnh đời bất hạnh. Vì vậy, văn Thạch Lam vừa giản dị, trong

sáng, vừa gợi lên một nỗi buồn man mác “Nỗi buồn in đậm trên trang văn

Thạch Lam, khắc khoải ở chỗ này, bàng bạc ở chỗ khác, trở thành một khí

quyển tâm trạng bao phủ những cảnh đời mà nhà văn dẫn ta vào” [1;238].

Thạch Lam là người “sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh đã

viết trên trang giấy. Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn ra trong lời

của văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm

thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình

thương” [33]. Tìm hiểu nghiên cứu đề tài về Yếu tố trữ tình trong văn xuôi

Thạch Lam, chúng tôi không chỉ muốn khám phá nét độc đáo hấp dẫn của

giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật trong sáng tác của Thạch Lam mà

còn là sự tỏ bày tình cảm yêu mến đặc biệt của chúng tôi dành cho tác giả

tài hoa này.

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1994) (chủ biên), Thạch Lam- Văn chương và cái đẹp,

NXB Hội nhà văn.

2. Vũ Tuấn Anh (2000), “30 năm đầu thế kỉ: Sự định hình tính chất mới,

hệ thống thể loại mới của văn học Việt Nam hiện đại”, Tạp chí văn

học, số 12.

3. Lại Nguyên Ân (1994), 150 thuật ngữ văn học, NXB ĐHQG Hà Nội.

4. M. Bakhin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo

dục, Hà Nội.

5. Đỗ Hồng Chung - Nguyễn Kim Đính- Nguyễn Hải Hà- Hoàng Ngọc

Hiến- Nguyễn Trường Lịch – Huy Liên (1998), Lịch sử văn học Nga,

NXB Giáo dục.

6. Phan Cự Đệ (1990), Tự lực văn đoàn, con người và văn chương,

NXB Văn học.

7. Phan Cự Đệ- Trần Đình Hượu-Nguyễn Trá -Nguyễn Hoành Khung-

Lê Chí Dũng- Hà Văn Đức (2001), Văn học Việt Nam (1900- 1945),

NXB Giáo dục.

8. Phan Cự Đệ (1997), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945),

NXB Giáo dục.

9. Hà Minh Đức (2000), Lý luận văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

10. Hà Minh Đức (1989), “Hội thảo về văn chương Tự lực văn đoàn –

Nhìn nhận lại một số hiện tượng văn học”, Giáo viên nhân dân, số

đặc biệt 27,28,29,30,31/7.

11. Hà Văn Đức (chủ trì), (2005), Truyện ngắn Thạch Lam - nhìn từ góc

độ thể loại - Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường ĐHKHXH&NV.

12. Hà Văn Đức (2006), “Ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện ngắn Thạch

Lam”, in trong Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn

117

học (tập sách kỉ niệm 50 năm thành lập Khoa Văn học), NXB

ĐHQGHN, HN.

13. Evazvarova (1999), Tìm hiểu truyện ngắn Thạch Lam (1910-1942),-

Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, chuyên ngành VHVN, Trường

ĐHKHXH &NV.

14. M. Goorki (1970), Bàn về văn học- tập 2, NXB Văn học Hà Nội.

15. M.Goorki với văn nghệ dân gian (H.1983), Nhà xuất bản Văn học.

16. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh

Thuyết (1998), Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục..

17. Nhiều tác giả (2007), Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.

18. Nhiều tác giả (1998), Nam Cao về Tác gia và Tác phẩm, NXB Giáo dục.

19. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục Hà Nội.

20. Nhiều tác giả (1971), “Giao điểm”, số 1 – Sài Gòn.

21. Lê Bá Hán (chủ biên) – Lê Quang Hưng – Chu Văn Sơn (1998), Tinh

hoa thơ mới, thẩm bình và suy ngẫm, NXB Giáo dục.

22. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật

ngữ văn học, NXB Giáo dục.

23. Đặng Thúy Hằng (2006), Truyện ngắn Thanh Tịnh trong dòng truyện

ngắn trữ tình VN 30-45, Luận văn Thạc sĩ KHNV, Trường ĐHKHXH.

24. Bùi Hiển (1999), Hồi ký và tiểu luận văn học, NXB Hội nhà văn.

25. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

26. Đào Duy Hiệp (2007), Phê bình văn học, từ lý thuyết hiện đại, NXB

Giáo dục.

27. Nguyễn Thái Hoà (H.2003), Những vấn đề thi pháp của truyện, NXB

Giáo dục.

28. Khái Hưng (1937), “Một quan niệm văn chương” (tựa gió đầu mùa),

Ngày nay (số 89, 12-12).

118

29. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, NXB

ĐHQGHN.

30. Hegel, (1999), Mĩ học, tâ ̣p II, Phan Ngo ̣c di ̣ch, NXB Văn học.

31. Phạm Thị Thu Hương (1993), Quan niệm nghệ thuật về con người

trong truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí văn học số 3.

32. Phạm Thị Thu Hương (1995), Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong

văn học Việt Nam (1930 – 1945), Luận án PTS, ĐHSP Hà Nội I.

33. Hyền Kiêu (H.1990), Thạch Lam một con người Việt Nam thành thực

- Tự lực văn đoàn, con người và văn chương, NXB Văn học.

34. Trịnh Hồ Khoa (H.1997), Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho

văn xuôi hiện đại Việt Nam,NXB Văn học.

35. Nguyễn Hoành Khung (1989), Thạch Lam, lời giới thiệu văn xuôi

lãng mạn Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội.

36. Mã Giang Lân (Chủ biên), (2000), Quá trình hiện đại hoá văn hoá

Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.

37. Phong Lê (1992), “Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn”, Tạp chí Sông

Hương, số 6.

38. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB ĐHQG, Hà Nội.

39. Thạch Lam (2012), Tuyển tập, NXB Văn học.

40. Thạch Lam (1939), Ngày mới, NXB Đời nay.

41. Thạch Lam (1940), Theo giòng, NXB Đời nay.

42. Thạch Lam (1942), Sợi tóc, NXB Đời nay.

43. Thạch Lam (2007), Truyện ngắn và tiểu luận, NXB Hội nhà văn.

44. Thế Lữ (1943), “Tính cách tạo tác của Thạch Lam”, Thanh Nghị, số

39 (16-6).

45. Phương Lựu (chủ biên) (2011), Lí luận văn học, tập 3, Tiến trình văn

học, NXB Đa ̣i ho ̣c Sư pha ̣m.

119

46. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), ( H.1992), Tác giả văn học Việt Nam

Tập 2, NXB Giáo dục.

47. Vương Trí Nhàn (H.1994), “Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác”-

Thạch Lam. Văn chương và cái đẹp, NXB Hội nhà văn.

48. Vương Trí Nhàn (1990), “Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam” -

Tạp chí văn học số 5.

49. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tập 2), NXB KHXH.

50. Trần Lê Sáng (chủ biên), (H.1981), Từ trong di sản, Những ý kiến về văn

học từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX ở nước ta, NXB Tác phẩm mớ i.

51. Lê Hồng Sâm – Đặng Thị Hạnh (1981), Văn học lãng mạn và hiện

thực phương Tây thế kỷ XIX, NXB ĐH & THCN, HN .

52. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục.

53. Lê Thị Dục Tú (1997), Quan niệm con người trong tiểu thuyết Tự

lực văn đoàn ,NXB Khoa học xã hội – Hà Nội.

54. Nguyễn Tuân (H.,1989), Thạch Lam, Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 2,

NXB Văn học.

55. Nguyễn Bá Thành (H.1990), Tìm hiểu một số đặc trưng của tư duy thơ

cách mạng Việt Nam 1945 – 1975, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn.

56. Nguyễn Bá Thành (2011), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt

Nam, NXB ĐHQG Hà Nội.

57. Bích Thu (H.1994), Thạch Lam và kiểu nhân vật tự thức tỉnh - Thạch

Lam. Văn chương và cái đẹp, NXB Hội nhà văn.

58. Lý Hoài Thu (H.1997), Thơ Xuân Diệu truớc cách mạng tháng Tám

– 1945, NXB Giáo dục.

59. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2006), Truyện ngắn trữ tình thời kỳ 1930 –

1945, mấy vấn đề về thi pháp thể loại, Trường ĐHKHXH & NV.

120

60. Đào Trọng Thức (1996), Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của văn học

Pháp đối với văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945,

Luận án PTS Ngữ văn, HN.

61. Thế Uyên (H.1990), Tìm kiếm Thạch Lam - Tự lực văn đoàn, con

người và văn chương, NXB Văn học.

62. Văn học và tuổi trẻ(1998), tập 30.

Văn học và tuổi trẻ(2006), số tháng 8.

Văn học và tuổi trẻ(2008), số tháng 7.

121