intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong quá trình hội nhập

Chia sẻ: Conan Edowa | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:64

477
lượt xem
161
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong quá trình hội nhập trình bày về bối cảnh cạnh tranh của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam; thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong thời gian 10 năm qua (1996-2006); phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Vietrans trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong quá trình hội nhập

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LựC CẠNH TRANH CỦA  CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG  (VIETRANS) TRONG QUÁ TRÌNH HỎI NHẬP Chuyên ngành: Quản trị kinh  doanh Mã số : 60.340.5 LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH Hà Nội, tháng 5­2007 MỤC LỤC Trang MỤCLỤC
  2. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ADB : Ngân hàng phát triển châu Á AFTA : Khu vực mậu dịch tự do châu Á APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á­ Thái Bình Dương ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM : Diễn đàn kinh tế châu Á CIF : Điều kiện mua hàng gồm giá+ phí bảo hiểm+ cước vận tải EU : Liên minh châu Âu FOB : Điều kiện mua hàng Giao hàng trên boong IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế WB : Ngân hàng thế giới WTO : Tổ chức Thương mại thế giới DANH MỤC BANG VÀ HINH Thứ tự Tên bảng Trang LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập là một xu thế  tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay. Việt  Nam cũng đã gia nhập Tổ  chức Thương mại Thế giới (WTO), đã tham gia vào sân   chơi chung của nền kinh tế  thế  giới, các doanh nghiệp Việt Nam cũng không thể  đứng ngoài cuộc. Vấn đề đặt ra là làm sao các doanh nghiệp Việt Nam đủ sức đứng  vững, cạnh tranh được với các công ty nước ngoài ngay trên thị trường Việt Nam. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt  được sự tăng trưởng khá, các nhân tố tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế  đã phát huy tốt vai trò của mình, một số doanh nghiệp đã bắt đầu vươn ra cạnh tranh  với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên theo đánh giá của các tổ  chức nước  ngoài thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta nói chung và các doanh nghiệp,  hàng hoá và dịch vụ so với thế giới còn thấp kém và chậm được cải thiện. Theo đánh  
  3. giá của Diễn đàn kinh tế  thế  giới về  chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, năm 1998,  Việt Nam xếp thứ 43/53 nước được xem xét, năm 1999 là 50/59, năm 2000 là 51/59,  năm 2001 là 62/75, năm 2002 là 60/80, năm 2006 là 77/125 quốc gia. Các chỉ số cạnh   tranh của hàng hoá và dịch vụ còn kém hơn. Ngành giao nhận vận tải Việt Nam tuy không phải là ngành non trẻ nhưng trước  sự cạnh tranh gay gắt của các công ty nước ngoài cũng phải đối mặt với không ít khó   khăn. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải cũng vậy, nhất là đối với VIETRANS­  một công ty giao nhận vận tải của nhà nước thì càng phải cần thiết nâng cao năng  lực cạnh tranh để  đứng vững và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đề  tài:  “Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của VIETRANS trong quá trình hội  nhập” được chọn để  nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh  tranh cho công ty này trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Quá trình nghiên cứu được tiến hành dựa trên tình hình hoạt động của Công ty  thời gian gần đây trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp trong nước  cũng như các doanh nghiệp nước ngoài khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế  thế  giới. 3. Mục đích nghiên cứu Đề   tài   này   thực   hiện   nhằm   nghiên   cứu   thực   trạng   năng   lực   cạnh   tranh   của   VIETRANS trong quá trình hội nhập hiện nay và đề  xuất các giải pháp nhằm nâng  cao năng lực cạnh tranh của công ty này trên thị trường trong nước và quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối   tượng   nghiên   cứu   của   đề   tài   này   là   thực   trạng   cạnh   tranh   của   Công   ty  VIETRANS, và các nhân tố tạo nên năng lực cạnh tranh của Công ty này. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề  tài vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Phương   pháp nghiên cứu chủ  đạo là phương pháp duy vật biện chứng của chủ  nghĩa Mác­  Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá cũng được sử  dụng   kết hợp hoặc độc lập trong việc giải quyết từng vấn đề đặt ra trong đề tài.
  4. 6. Cấu trúc luận văn Căn cứ  vào mục đích của luận văn, ngoài lời mở  đầu, kết luận và danh mục tài   liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Bối cảnh cạnh tranh của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Giao nhận Kho o • • o o • • o */ • vận ngoại thương ­ VIETRANS trong 10 năm qua. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của VIETRANS   trong thời gian tới. CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH  NGHIỆP GIAO NHẬN VẬN TẢI VIỆT NAM • • • • 1. Hội nhập kinh tế quốc tế: Tự  do hoá thương mại là một xu thế  tất yếu khi lực lượng sản xuất vượt ra   khỏi biên giới một quốc gia, trở  thành lực lượng sản xuất quốc tế. Sự  phát triển  nhanh chóng của thương mại thế giới theo hướng tự do hoá đã trở thành nhân tố quan   trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá và khu  vực hoá. Từ  nửa cuối thế kỷ XX toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế  quốc tế trở  hành xu   thế mạnh mẽ. Thậm chí Hội nghị lần thứ 29 của Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos   (Thụy Sỹ) (28/1­2/2/1999) người ta khẳng định toàn cầu hoá không còn là xu thế nữa   mà đã trở thành một thực tế. Xu thế này cuốn hút tất cả các nước, từ giàu đến nghèo,   từ lớn đến nhỏ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập là một yếu tố  của phát  triển. Nước nào không hội nhập thì không có cơ  hội phát triển. Những nước hội  nhập tốt, sâu rộng thì phát triển tốt. Việt Nam bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế, vì  vậy chọn con đường hội nhập kinh tế quốc tế là quyết tâm của Đảng và Chính phủ  đã được khẳng định trong các Nghị  quyết Đại hội Đảng, Nghị  quyết Trung  ương,  Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và các Chỉ thị, chương trình hành động của Chính phủ  [2, tr34]. Hội nhập kinh tế quốc tế là trình độ  cao của quan hệ hợp tác kinh tế  quốc tế.   Hội nhập có nghĩa là gia nhập, tham gia vào một tổ chức chung, một trào lưu chung 
  5. của quốc tế, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận trong một tổng thể. Hội nhập kinh   tế thường có nhiều mức độ từ nông đến sâu, từ một vài lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực,  từ  một vài nước đến nhiều nước. Tổ  chức Thương mại thế  giới (WTO) là một tổ  chức toàn cầu, Liên minh châu Âu (EU) là một tổ  chức khu vực có mức độ  kinh tế  sâu trên nhiều lĩnh vực và là liên minh kinh tế lớn nhất trên thế giới. Trên con đường   hội nhập, Việt Nam đã tham gia ASEAN, APEC, ASEM, bình thường hoá quan hệ  với ADB, WB, IMF, và đặc biệt là gia nhập vào Tổ  chức Thương mại thế  giới  (WTO). Lợi ích do hội nhập và tự do hoá mang lại ngày càng lớn nên bên cạnh xu hướng  toàn cầu hoá đồng thời phát triển mạnh xu hướng khu vực hoá. Biểu hiện của xu   hướng này là sự hình thành nhanh và nhiều các Khu vực thương mại tự do (FTAs) và  các Thoả thuận Thương mại khu vực (RTAs). FTAs và RTAs có mức độ ưu đãi và tự  do hoá thương mại cao hơn quy chế tối huệ quốc (MFN) kéo theo những thay đổi lớn  trong cục diện thương mại khu vực và trên thế  giới. Tính đến tháng 5/2003 đã có   khoảng 250 hiệp định thương mại tự  do song phương (BTAs) và khu vực đã được  thông báo cho WTO. Đến cuối năm 2005 con số này đã tăng lên thành 300 [2, tr37]. Hội nhập đòi hỏi các nước phải tiến hành cải cách, đổi mới kinh tế trong nước.   Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay tạo ra s ức ép các nước phải tiến hành  mở cửa, tự do hoá để hội nhập mạnh hơn, nhanh hơn. Nước ta nếu không cùng nhịp  với các nước trong khu vực thì sẽ  có nguy cơ  tụt hậu và chịu những thua thiệt của  người đi sau. “Hội nhập kinh tế thì mỗi quốc gia vẫn tồn tại với tư cách là quốc gia độc lập,   tự  chủ, tự  nguyện lựa chọn các lĩnh vực và tổ  chức thích hợp để  hội nhập. Tuy  nhiên, khi đã gia nhập thì phải tuân thủ các nguyên tắc chung, phải thực hiện quyền  lợi và nghĩa vụ của một thành viên, phải điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp  với luật chơi chung” [2, tr34]. Vì vậy mà hội nhập cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt hơn.  Thuận lợi hoá, tự  do hoá thương mại tạo ra nhiều đối tác cạnh tranh trên cùng một  thị trường, ngay cả thị trường nội địa.
  6. Trên cơ sở đó, xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp giao nhận vận  tải Việt Nam như sau: 1.1.1. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế­ Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh  nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam: Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh tranh   để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông thường, người ta đánh giá khả  năng này thông qua các yếu tố nội tại doanh nghiệp như: quy mô, khả năng tham gia   và rút khỏi thị  trường, sản phẩm, dịch vụ, năng lực quản lý, năng suất lao động,  v.v.... Tuy nhiên, khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên ngoài ở  trong nước và quốc tế. Vì vậy, khi xét đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp,   phải xét đến các nhân tố  ảnh hưởng đến nó như  các nhân tố quốc tế và các nhân tố  trong nước Các nhân tố quốc tế: ­ Các nhân tố  thuộc về  chính trị: Tuy khía cạnh chính trị  là thuộc chủ  quyền nhà  nước­ chủ  thể có khả năng phát hành tiền tệ, đánh thuế  và định ra các luật lệ  quốc   gia , nhưng vẫn có một số  khía cạnh vượt ra khỏi biên giới quốc gia và tác động   không nhỏ  đến môi trường kinh doanh và khả  năng cạnh tranh của doanh nghiệp   trong điều kiện hội nhập hiện nay như: + Mối quan hệ giữa các chính phủ: mối quan hệ giữa các chính phủ tốt sẽ thúc đẩy   thương mại phát triển, tạo  điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong kinh  doanh + Các tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và vận dụng  các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia thành viên + Hệ  thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thoả  thuận được một loạt các   quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Mặc dù,  có thể chúng không ảnh hưởng trực tiếp tới từng doanh nghiệp riêng lẻ, nhưng chúng  ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc tạo ra môi trường kinh doanh quốc tế ổn định và   thuận lợi. ­ Xu hướng phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá: Xu hướng hội   nhập kinh tế vùng, khu vực có ảnh hưởng quan trọng đối với các công ty đang hoạt   động trong các thị  trường khu vực. Hội nhập kinh tế  diễn ra theo nhiều hình thức  
  7. khác nhau, nhưng đặc biệt tập trung vào vấn đề  hợp tác kinh tế, được thiết lập để  mang lại sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau nhiều hơn giữa các quốc gia, như AFTA, EU   và hội nhập đầy đủ nhất đối với một quốc gia là gia nhập Tổ chức Thương mại thế  giới. Hầu hết các hình thức hội nhập kinh tế  thường nhằm đưa ra sự  thoả  thuận và  thống nhất để  giảm bớt các hàng rào thương mại giữa các thành viên tham gia. Hội  nhập giúp quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ giữa các nước ngày càng phát triển,  vì những trở ngại như thuế quan, thủ tục xuất nhập kh ẩu, các hạn chế  mậu dịch....   được cố  gắng giảm thiểu, thành tựu khoa học kỹ  thuật được sử  dụng tối  ưu và có   hiệu quả hơn, quá trình toàn cầu hoá kinh tế  diễn ra nhanh hơn lại tác động trở  lại  vào tăng trưởng kinh tế  của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hội nhập còn đặt ra những  thách thức đối với các doanh nghiệp đó là phải chấp nhận chạy đua trong điều kiện  cạnh tranh gay gắt hơn để chiếm được vị trí trên thị trường. ­ Đối thủ cạnh tranh quốc tế: Ngày nay sự bành trướng của các tập đoàn đa quốc  gia đang là mối đe doạ đối với doanh nghiệp trong nước. Các tập đoàn này có lợi thế  về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh, kinh nghi ệm c ạnh tranh   trên thương trường, sẽ  có nhiều  ưu thế  trong cạnh tranh. Ngược lại, những doanh   nghiệp trong nước chưa có đủ kinh nghiệm hoạt động trong ngành giao nhận vận tải  sẽ phải gặp nhiều thách thức Các nhân tố trong nước: ­ Nhân tố kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của dân cư  tăng, khả  năng thanh toán cao dẫn tới sức mua tăng, thúc đẩy tiêu thụ  hàng hoá và   dịch vụ, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp sản xuất, thương mại cũng như dịch   vụ giao nhận vận tải. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng   đáp  ứng nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp đó sẽ  thành công và có sức cạnh  tranh cao. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm, sẽ làm gia tăng áp lực  cạnh tranh và tạo ra nhiều “nguy cơ” đối với doanh nghiệp ­ Nhân tố về chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở  và ổn định sẽ là cơ  sở  đảm bảo sự  thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham   gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Các văn bản pháp luật, chính sách về thuế,  
  8. về thủ tục xuất nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến việc tác nghiệp của các doanh  nghiệp giao nhận vận tải ­ Trình độ khoa học và công nghệ: Nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định  đến môi trường cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Dịch vụ giao   nhận vận tải hiện nay cũng đòi hỏi cao về công nghệ, và đây là yếu tố quyết định sự  phản  ứng nhanh nhạy của dịch vụ  đối với yêu cầu công việc đặt ra. Nếu doanh  nghiệp giao nhận vận tải nắm bắt và đầu tư  phát triển tốt công nghệ  sẽ  có lợi thế  cạnh tranh hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác ­ Nhân tố  về  tâm lý “người tiêu dùng”­là chủ  thể  sử  dụng dịch vụ. Hiện nay,  ở  Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất chưa thật sự chú trọng dịch vụ giao nhận vận  tải đầu vào và phân phối sản phẩm giúp họ. Các doanh nghiệp nếu nhập khẩu thì  mua hàng giá CIF, còn nếu xuất khẩu thì bán theo giá FOB cũng làm hạn chế  thị  trường dịch vụ giao nhận vận tải của các doanh nghiệp giao nhận Việt Nam. 1.1.2. Cơ hội và thách thức: Trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhận thức đầy đủ những   cơ hội cũng như những thách thức là bước đi đầu tiên giúp chuẩn bị tốt việc ứng phó   kịp thời, hiệu quả với những khó khăn có thể gặp phải. 1.1.2.1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam ­ Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường: quá trình hội nhập gắn liền với cắt giảm   và bãi bỏ thuế quan và các hạn chế thương mại khác làm cho hàng hoá, dịch vụ lưu  thông luân chuyển mạnh mẽ  hơn. Cùng với dòng chảy của hàng hoá là thị  trường  rộng mở cho dịch vụ giao nhận vận tải, thuê kho bãi. ­ Môi trường kinh doanh được cải thiện: Hội nhập vào các tổ chức kinh tế, thương   mại khu vực và thế giới, Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ của một thành viên, phải  thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ  sung, điều chỉnh luật pháp,  chính sách, cải cách hành chính cho phù hợp. Chính điều đó làm cho môi trường kinh   doanh được thông thoáng, rộng mở, các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, dễ  dàng  hơn.
  9. ­ Tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại thông qua con đường  chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, thu hút vốn đầu tư, nhờ  đó, các doanh  nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam có thể nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. ­ Có điều kiện tham gia nhanh vào phân công lao động quốc tế theo các công đoạn   kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Với việc mở rộng quan hệ thương mại qu ốc   tế, sự  vận động của các yếu tố  nguồn lực cũng bắt đầu mang tính chuyên môn hoá   trên cấp độ quốc tế, các doanh nghiệp sản xuất chỉ tập trung vào sản xuất, còn các   công đoạn từ nhập khẩu, lưu kho bãi, vận chuyển đầu vào, hay lưu kho và phân phối   sản phẩm. đều có thể nhờ các doanh nghiệp giao nhận vận tải làm một cách chuyên  nghiệp và với giá cả hợp lý. ­ Có khả  năng tiếp cận, học tập những kinh nghiệm và kỹ  năng quản lý tiên tiến  của thế  giới. Một trong những điều kiện để  thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá là sự  phát triển của công nghệ thông tin­viễn thông. Kết quả của hệ thống thông tin toàn   cầu còn là điều kiện để nâng cao dân trí, mở rộng giao lưu giữa các dòng văn hoá, tạo  điều kiện thuận lợi tiếp xúc với một thế giới mở, nâng cao năng lực đổi mới và hiện   đại hoá công tác quản lý, trao đổi những tri thức và kinh nghiệm đã được tìm tòi, đúc  kết từ bao đời, hưởng thụ nền văn minh nhân loại, tiết kiệm thời gian và nguồn lực.   Đồng thời xu thế cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên trí tuệ, cũng là cơ hội tiềm tàng   có nhiều hứa hẹn đối với những nền kinh tế non trẻ. 1.1.2.2. Thách thức đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam ­ Việt Nam phải mở  cửa thị trường, do đó các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải   cạnh tranh với các đối thủ mạnh nước ngoài ngay trên thị trường nội địa. Các đối thủ  cạnh tranh nước ngoài có kinh nghiệm về kinh doanh lĩnh vực giao nhận vận tải hàng   chục thậm chí hàng trăm năm, có ưu thế về trình độ công nghệ, về khả năng tổ chức,   quản lý, về quy mô có thể “qua mặt” các doanh nghiệp trong nước một cách dễ dàng. ­ Năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung còn thấp ở cả ba cấp độ: quốc gia,  doanh nghiệp và sản phẩm. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế  thế  giới (WEF) về  năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế (dựa trên 9 tiêu chí đánh giá gồm thể  chế, cơ sở hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục và y tế phổ thông, giáo dục đại học, hiệu  quả  thị  trường, độ  sẵn sàng về  công nghệ, mức độ  hài lòng doanh nghiệp, mức độ 
  10. sáng tạo) năm 2000 Việt Nam được xếp hàng 51/59, năm 2001 là 62/75, năm 2002 là   60/80, năm 2003 là 60/102, năm 2006 là 77/125 quốc gia ,tụt năm bậc so với năm  2005. Như vậy, chỉ số cạnh tranh quốc tế của Việt Nam ngày càng lùi xa vị trí xếp   hạng đầu tiên trong bảng. Trong khối ASEAN, Việt Nam chỉ  xếp trên Campuchia  (xếp thứ  103). Singapore vẫn dẫn đầu về  năng lực cạnh tranh trên toàn khối, tiếp   theo lần lượt là Malaysia (xếp thứ  26), Thái Lan (xếp thứ  35), Indonesia ( xếp thứ  50), Philippines (xếp thứ 71). WEF không xếp hạng Brunei, Lào và Myanmar. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Công ty tài chính quốc tế (IFC) về  mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, năm 2006 Việt Nam được xếp hạng 104/175 nền kinh tế, tụt 6 bậc so với năm 2005. Xét trong khu vực   châu Á ­ Thái Bình Dương, Việt Nam chỉ xếp thứ 17/23 nền kinh tế, tụt rất xa so v ới   một số  nước trong khu vực như Singapore (xếp thứ 1/23), Thái Lan (xếp thứ  3/23),   Malaysia (xếp thứ  4/23). Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy năng lực cạnh tranh   quốc gia của Việt Nam chưa được cải thiện rõ nét, thậm chí còn có xu hướng thụt lùi  trên một số khía cạnh [3, tr. 31]. ­ Hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ quản lý của Việt Nam chưa thống nhất và   đồng bộ, vẫn còn nhiều bất cập về  khuôn khổ  pháp lý và thể  chế, về  cấu trúc thị  trường và hành vi cạnh tranh. Quá trình hội nhập đòi hỏi phải có sự điều chỉnh lớn về  chính sách và pháp luật để phù hợp với các cam kết, thông lệ và chuẩn mực quốc tế  đảm bảo cho tự  do cạnh tranh. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải vẫn gặp nhiều   vướng mắc trong quá trình làm giao nhận, làm chậm tiến độ công việc, làm giảm uy   tín với khách hàng, giảm năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp. Những cam kết của Việt Nam đối với hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế  giới là hết sức rõ ràng và không thể đảo ngược được. Vì vậy, thách thức cạnh tranh  ngày càng lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp giao nhận   vận tải nói riêng. 1.1.3. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam 1.1.3.1. Doanh nghiệp giao nhận vận tải: khái niệm, nội dung hoạt động ­ Khái niệm:
  11. Giao nhận vận tải là một hoạt động không thể thiếu trong lưu thông hàng hoá từ  người bán đến người mua. Thật vậy, giao nhận vận tải là thực hiện hàng loạt công   việc liên quan đến quá trình chuyên chở  như  bao bì, đóng gói, lưu kho, đưa hàng ra   cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, vận tải hàng hoá đến nơi giao hàng, dỡ  hàng và giao hàng cho người nhận. Theo quy tắc mẫu của Hiệp hội Giao nhận vận tải qu ốc tế (FIATA) v ề d ịch v ụ  giao nhận, dịch vụ  giao nhận được định nghĩa như  là bất kỳ  loại dịch vụ  nào liên  quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hoá   cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề  hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng  hoá [17, tr.7]. Nói chung, giao nhận hàng hoá là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục có liên quan   đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hoá từ  nơi gửi hàng  (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng) [17, tr.8]. Doanh nghiệp giao nhận vận tải là doanh nghiệp kinh doanh các loại dịch vụ  giao nhận hàng hoá trong xã hội, bao gồm hai loại: doanh nghiệp giao nhận v ận t ải   hàng hoá trong nước, khi các hoạt động của doanh nghiệp chỉ  diễn ra trên và trong   phạm vi lãnh thổ đất nước; còn doanh nghiệp giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế khi   các hoạt động của doanh nghiệp có những phần việc diễn ra ngoài lãnh thổ  đất  nước. Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận chính là các dịch vụ  trong giao nhận   (dịch vụ  giao nhận hàng hoá) mà doanh nghiệp giao nhận đóng vai trò người giao   nhận. Người giao nhận có thể làm dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý   hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba. ­ Nội dung hoạt động: Dịch vụ giao nhận hàng hoá bao gồm bốn loại thông dụng hiện nay là: + Thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu): Theo những chỉ dẫn của người   gửi hàng, người giao nhận sẽ thu xếp các công việc liên quan đến việc giao hàng cho  người nhận hoặc người do người nhận chỉ định.
  12. + Thay mặt người nhận hàng (ngưòi nhập khẩu): theo chỉ dẫn của người nhận   hàng, người giao nhận sẽ  thu xếp các dịch vụ  lấy hàng từ  người xuất khẩu hoặc   người chuyên chở của người gửi hàng và giao cho người nhận. + Dịch vụ hàng hoá đặc biệt: giao nhận vận chuyển hàng công trình cần thiết bị  chuyên dụng như vận chuyển máy móc nặng, thiết bị để xây dựng những công trình  lớn như  sân bay, nhà máy hoá chất, nhà máy thuỷ  điện,v.v...; hàng quần áo treo trên  móc, giao nhận vận chuyển hàng triển lãm ở trong nước và nước ngoài, + Những dịch vụ khác: gom hàng hoặc chia hàng lẻ, tư  vấn cho khách hàng về  các thủ  tục liên quan đến quá trình giao nhận vận tải như  chiến lược xuất khẩu,   những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Người  làm   dịch  vụ   giao  nhận  vận  tải  hàng   hoá  vừa  là   một  nhà  vận  tải  đa   phương thức, vừa là nhà tổ chức, kiến trúc sư của vận tải. Họ phải lựa chọn phương   tiện, người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có hiệu quả  kinh tế  nhất và  đứng ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp quá trình vận tải của toàn chặng với   nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau như  tàu thuỷ, máy bay, ô tô. vận chuyển   qua nhiều nước và chịu trách nhiệm trực tiếp với chủ hàng [17]. Vì vậy, chủ hàng chỉ cần ký hợp đồng vận tải với người giao nhận là hàng hoá  được vận chuyển kịp thời từ kho của nhà xuất khẩu tới kho của nhà nhập khẩu (door   to door service).
  13. Bảng 1.1. NHỮNG DỊCH VỤ CỦA NGƯỜI GIAO NHẬN Tư vấn về Lựa chọn loại nguyên liệu để sử dụng Chọn hành trình và phương tiện vận chuyển Loại bảo hiểm cần  cho hàng hoá Khai báo hàng hoá xuất nhập khẩu Những chứng từ đi kèm (người chuyên chở) ■ yêu cầu  của ngân hàng Người tổ chức về Vận tải những lô hàng xuất nhập khẩu và quá cảnh Gom hàng, vận  tải hàng nặng và đặc bịêt­hàng công trình Hàng nhập khẩu Dỡ hàng khỏi phương tiện của người vận  tải Tháo dỡ hàng thu gom. Khai báo hải quan Hàng xuất khẩu Nhận hàng Đóng gói và đánh ký mã hiệu Lưu cước/ lưu khoang với người chuyên chở Cấp chứng từ vận tải­ chứng từ cước phí đi kèm Giám sát giao hàng Thông báo giao hàng cho khách hàng Khai báo hải quan Quá cảnh Lấy mẫu Đóng gói lại Lưu kho hải quan ( dưới sự kiểm soát của hải quan) Vận chuyển tiếp Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP
  14. Hình 1.2. QUAN HỆ CỦA NGƯỜI GIAO NHẬN VỚI CÁC BÊN Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP 1.1.3.2. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam Theo Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) thì hiện nay trên lãnh   thổ  Việt Nam có khoảng 900 doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực giao nhận vận tải   thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng,  
  15. thời gian hoạt động trung bình là 5 năm. Các doanh nghiệp chỉ  mới đáp  ứng được  khoảng 25% khối lượng công việc trên thị trường nội địa. Khó khăn lớn nhất mà các   doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam gặp phải là : quy mô tài chính, kỹ năng và   công nghệ  thấp, thiếu hiểu biết về khách hàng và luật pháp quốc tế, hiểu biết hạn   hẹp về  những yêu cầu của tiến trình hội nhập, hạ  tầng cơ  sở  nghèo nàn và những  hạn chế trong khung pháp lý và chính sách về vận tải biển. Trong khi đó, yêu cầu về  nghiệp vụ giao nhận ngày càng đòi hỏi cao. Một trong những bước phát triển lớn trong hoạt động giao nhận vận tải hiện   đại là hoạt động logistics. Trong vài thập niên gần đây, logistics đã phát triển nhanh  chóng và mang lại kết quả tốt đẹp ở rất nhiều nước, điển hình là Tây Âu, Mỹ, tiếp  đó là Singapore, Đài Loan. Tại Việt Nam, các công ty giao nhận hàng đầu thế giới đã   có mặt và cung cấp dịch vụ logistics toàn cầu. Với công nghệ vượt trội, các công ty  logistics nước ngoài chắc chắn sẽ chiếm ưu thế hơn so với các công ty nội địa. Trong   khi đó, các công ty giao nhận Việt Nam dù là những tổng công ty lớn mạnh nhất cũng  chưa có một công ty nào hoạt động trong lĩnh vực logistics theo đúng nghĩa của nó.   Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải là phải cải thiện  về kỹ năng nghiệp vụ, cơ sở vật chất và trình độ  công nghệ  cũng như  hiểu biết về  luật pháp và khách hàng quốc tế  để  có thể  đáp  ứng được khối lượng công việc kể  trên. Nếu không có sự phát triển, các công ty giao nhận Việt Nam có nguy cơ sẽ thất   thế ngay trên thị trường của chính mình. 1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giao nhận vận   tải trong quá trình hội nhập 1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh 1.2.11. Cạnh tranh: Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền  kinh tế  thị  trường. Có rất nhiều quan niệm về  thuật ngữ  này, có thể  trích dẫn như  sau: Theo “Từ điển rút gọn về kinh doanh”: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch   giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại tài nguyên sản xuất  hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
  16. Từ điển Bách khoa của Việt Nam định nghĩa: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là   hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các  nhà kinh doanh trong nền kinh tế  thị  trường, chi phối bởi quan h ệ cung c ầu nh ằm   giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và Phát triển  kinh tế  (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc gia và  vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc  tế”. Theo cuốn Kinh tế  học của P.Samuelson thì: “cạnh tranh là sự  kình địch giữa  các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường’. Theo các tác  giả của cuốn “ Các vấn đề pháp lý và thể chế chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc  quyền kinh doanh thì: Cạnh tranh có thể  được hiểu là sự  ganh đua giữa các doanh   nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị  thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể” [15, tr.14]. Ngoài ra còn có rất nhiều các cách tiếp cận về khái niệm cạnh tranh, nhưng nói  chung là tập trung vào các yếu tố sau: ­ Cạnh tranh là sự  ganh đua, giành giật lấy một đối tượng cụ  thể  nào đó (như  thị  phần, khách hàng, nhà cung cấp.) ­ Mục đích cuối cùng của cạnh tranh là kiếm được lợi nhuận cao ­ Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ  thể, có ràng buộc các bên tham gia  phải tuân thủ  như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện pháp lý, thông lệ  kinh doanh ­ Trong quá trình cạnh tranh có thể  sử  dụng nhiều công cụ  khác nhau: cạnh tranh  bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm, cạnh tranh bằng chính sách giá bán sản phẩm  (chính sách định giá thấp, chính sách định giá cao, giá phân biệt, bán phá giá), cạnh  tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng t ố t , . . Như vậy, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh  tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn   thủ  đoạn để  đạt mục tiêu kinh tế  của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị  trường,   giành lấy khách hàng cũng như  các điều kiện sản xuất. thị trường có lợi nhất. Mục  
  17. đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích.   Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích  tiêu dùng và sự tiện lợi. Cạnh tranh được phân thành nhiều loại với các tiêu thức khác nhau: ­ Xét theo quy mô của cạnh tranh có: cạnh tranh của sản phẩm, cạnh tranh   của doanh nghiệp và cạnh tranh của quốc gia ­ Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh có : cạnh tranh hợp pháp hay  cạnh tranh lành mạnh (biện pháp cạnh tranh phù hợp với luật pháp, tập quán, đạo   đức kinh doanh) và cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh tranh không lành mạnh (biện  pháp cạnh tranh bằng những thủ  đoạn chứ  không phải vươn lên bằng nỗ  lực của  chính mình) ­ Xét theo hình thái cạnh tranh có: cạnh tranh hoàn hảo, hay thuần tuý­ đây là  tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá không thay đổi trong toàn  bộ  địa danh của thị  trường, bởi vì người mua và người bán đều biết tường tận về  điều kiện của thị trường; và cạnh tranh không hoàn hảo ­ đây là hình thức cạnh tranh chiếm  ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở  đó người  bán hàng hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế  lực có thể chi phối được giá cả  sản  phẩm của mình trên thị  trường. Trong cạnh tranh không hoàn hảo, có hai loại: độc   quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền. Độc quyền nhóm là hình thái thị  trường mà trong đó chỉ có một số ít các nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được   rằng giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của các nhà cạnh tranh quan  trọng trong ngành đó. Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thái thị trường có nhiều  người bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng thay thế cho nhau. ­ Dưới góc độ các công đoạn của sản xuất­kinh doanh, người ta cho rằng có  ba loại: cạnh tranh trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng.  Cạnh tranh này được thực hiện bằng phương thức thanh toán và dịch vụ. ­ Xét theo mục tiêu kinh tế  của các chủ  thể  trong cạnh tranh, có cạnh tranh   trong nội bộ  ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Đây là cách phân loại cạnh tranh   của K.Marx dựa trên cơ  sở  khoa học của các phạm trù giá trị  thị  trường, giá cả  sản   xuất và lợi nhuận bình quân. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các  
  18. doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ, một loại hàng hoá hoặc dịch vụ  nào đó.   Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối  với hàng hoá dịch vụ  cùng loại trên cơ  sở  giá trị  xã hội của hàng hoá dịch vụ  đó.  Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Doanh nghiệp chiến   thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường, những doanh nghiệp   thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí bị phá sản. Cạnh tranh giữa các ngành  là cuộc đấu tranh giữa các nhà doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ  trong các ngành ngành kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận   cao hơn so với vốn đã bỏ ra và đầu tư vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự  cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành   đầu tư  có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi  nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự  điều chuyển tự  nhiên theo tiếng gọi của lợi   nhuận này, vô hình chung hình thành lên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản  xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là các chủ  doanh nghiệp đầu tư   ở  các ngành khác  nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau. Phát triển cách phân loại trên của K.Mác, các nhà kinh tế  học chia thành hai  hình thức cạnh tranh là cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Cạnh tranh dọc là sự  cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất khác nhau.  Cạnh tranh dọc chỉ ra rằng: sự thay đổi giá bán và lượng bán nói trên của các doanh   nghiệp sẽ có điểm dừng. Sau một thời gian nhất định, hình thành một giá thị  trường   thống nhất. Cạnh tranh dọc sẽ làm cho các doanh nghiệp có chi phí bình quân cao bị  phá sản, còn các doanh nghiệp có chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận cao. Cạnh tranh   ngang là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất như  nhau. Do đặc điểm đó, trong cạnh tranh ngang không có doanh nghiệp nào bị  loại  khỏi thị trường, song giá cả ở mức thấp tối đa, lợi nhuận giảm dần và có thể không   có lợi nhuận. Để  hạn chế  bất lợi đó, cạnh tranh ngang dẫn đến hai khuynh hướng:   hoặc là phải liên minh thống nhất giá bán cao, giảm lượng bán trên thị trường­ xuất   hiện độc quyền, hoặc là các doanh nghiệp tìm mọi cách giảm được chi phí, tức là  chuyển từ cạnh tranh ngang sang cạnh tranh dọc nhằm trụ l ại được trên thị trường và  có lợi nhuận cao.
  19. ­ Xét theo phạm vi lãnh thổ, có cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế.   Cạnh tranh quốc tế  có thể  diễn ra ngay  ở  thị  trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa  hàng hoá, dịch vụ  của các doanh nghiệp trong nước với hàng hoá, dịch vụ  của các   doanh nghiệp nước ngoài. Cạnh tranh kinh tế quốc tế là cạnh tranh kinh tế đã vượt khỏi phạm vi quốc   gia, tức là cạnh tranh giữa chủ thể kinh tế trên thị trường thế giới. Sở dĩ như vậy, là  do sự tác động của cách mạng khoa học­ công nghệ, phân công lao động quốc tế đã   phát triển sâu, rộng, sự phát triển lực lượng sản xuất có tính chất quốc tế và do quá   trình mở  rộng thị  trường trên quy mô toàn thế  giới. Chủ  thể  trực tiếp tham gia vào  cạnh tranh kinh tế  quốc tế, trước hết là các doanh nghiệp, bởi lẽ, doanh nghiệp là   chủ thể trực tiếp thực hiện việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ [15]. 1.2.12. Năng lực cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn gắn với ưu thế của sản phẩm, dịch   vụ mà doanh nghiệp cung cấp ra thị trường, hoặc với vị trí của doanh nghiệp trên thị  trường theo thị  phần mà nó chiếm giữ  thông qua khả  năng tổ  chức, quản trị  kinh   doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi   nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp. Có rất nhiều quan niệm về năng lực cạnh tranh như:  Năng lực cạnh tranh của doanh   nghiệp là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất   định  hay  năng  lực  cạnh   tranh là  khả   năng cung  ứng  sản  pham  của  chính   doanh   nghiệp  trên  các  thị  trường khác  nhau mà  không  phân  biệt  nơi bố  trí của  doanh   nghiệp đó hay “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là tích hợp các khả   năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị  những   ưu thế  cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối quan hệ  với đối thủ  cạnh tranh   trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định” [15, tr.24]. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu qu ả kinh doanh c ủa   doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua   chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, sức cạnh tranh   của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng thời, năng lực  cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể  hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản  
  20. phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một  hay một số sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp­ một nhân tố quan trọng quyết định sức cạnh tranh của quốc gia.   Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của s ản ph ẩm vừa là bộ phận cấu  thành, vừa là một trong những mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. 1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giao  nhận vận tải Việt Nam. Hội nhập là một thực tế không thể tránh khỏi đặc biệt khi Việt Nam gia nhập   Tổ  chức Thương mại thế  giới (WTO). Các doanh nghiệp giao nhận vận tải không  thể đứng ngoài thực tế đó mà phải nhập cuộc một cách chủ  động nếu muốn tồn tại  và phát triển. Muốn làm được điều đó, phải nhận thức đầy đủ về  sự  cần thiết phải   nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng cường “sức mạnh” của doanh   nghiệp để không bị lãng quên trên thị trường giao nhận vận tải trong nước cũng như  quốc tế. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một quy luật khách quan  của nền sản xuất hàng hoá, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị  trường.  Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo   hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội­ yếu tố đảm bảo cho sự thành  công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. Mọi doanh nghiệp không phân biệt   thành phần kinh tế  đều phải tự  mình vận động để  đứng được trong cơ  chế  này.   Doanh nghiệp nào không thích nghi được cơ  chế mới sẽ phải cầm chắc sự phá sản  và theo quy luật đào thải nó sẽ bị gạt ra khỏi thị trường. Thay vào đó thị  trường lại  mở  đường cho doanh nghiệp nào biết nắm thời cơ, biết phát huy tối đa những thế  mạnh của mình và hạn chế  được tối thiểu những bất lợi để  giành thắng lợi trong  cạnh tranh. Cơ  hội và thách thức là hai phạm trù luôn đi song song với nhau trong quá trình   hội nhập. Hội nhập đã đặt ra cho doanh nghiệp giao nhận vận tải những thách thức  to lớn, làm cho cuộc cạnh tranh gay gắt hơn. Sự tham gia của các doanh nghiệp giao   nhận vận tải nước ngoài vào thị trường trong nước có lẽ là đối thủ cạnh tranh to lớn   nhất của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0