Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong quá trình hội nhập
lượt xem 161
download
Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong quá trình hội nhập trình bày về bối cảnh cạnh tranh của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam; thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong thời gian 10 năm qua (1996-2006); phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Vietrans trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty Giao nhận Kho vận Ngoại thương (Vietrans) trong quá trình hội nhập
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LựC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY GIAO NHẬN KHO VẬN NGOẠI THƯƠNG (VIETRANS) TRONG QUÁ TRÌNH HỎI NHẬP Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh Mã số : 60.340.5 LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH Hà Nội, tháng 52007 MỤC LỤC Trang MỤCLỤC
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ADB : Ngân hàng phát triển châu Á AFTA : Khu vực mậu dịch tự do châu Á APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM : Diễn đàn kinh tế châu Á CIF : Điều kiện mua hàng gồm giá+ phí bảo hiểm+ cước vận tải EU : Liên minh châu Âu FOB : Điều kiện mua hàng Giao hàng trên boong IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế WB : Ngân hàng thế giới WTO : Tổ chức Thương mại thế giới DANH MỤC BANG VÀ HINH Thứ tự Tên bảng Trang LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập là một xu thế tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay. Việt Nam cũng đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đã tham gia vào sân chơi chung của nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vấn đề đặt ra là làm sao các doanh nghiệp Việt Nam đủ sức đứng vững, cạnh tranh được với các công ty nước ngoài ngay trên thị trường Việt Nam. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được sự tăng trưởng khá, các nhân tố tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đã phát huy tốt vai trò của mình, một số doanh nghiệp đã bắt đầu vươn ra cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên theo đánh giá của các tổ chức nước ngoài thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta nói chung và các doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ so với thế giới còn thấp kém và chậm được cải thiện. Theo đánh
- giá của Diễn đàn kinh tế thế giới về chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, năm 1998, Việt Nam xếp thứ 43/53 nước được xem xét, năm 1999 là 50/59, năm 2000 là 51/59, năm 2001 là 62/75, năm 2002 là 60/80, năm 2006 là 77/125 quốc gia. Các chỉ số cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ còn kém hơn. Ngành giao nhận vận tải Việt Nam tuy không phải là ngành non trẻ nhưng trước sự cạnh tranh gay gắt của các công ty nước ngoài cũng phải đối mặt với không ít khó khăn. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải cũng vậy, nhất là đối với VIETRANS một công ty giao nhận vận tải của nhà nước thì càng phải cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đề tài: “Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của VIETRANS trong quá trình hội nhập” được chọn để nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty này trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Quá trình nghiên cứu được tiến hành dựa trên tình hình hoạt động của Công ty thời gian gần đây trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới. 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài này thực hiện nhằm nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của VIETRANS trong quá trình hội nhập hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty này trên thị trường trong nước và quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thực trạng cạnh tranh của Công ty VIETRANS, và các nhân tố tạo nên năng lực cạnh tranh của Công ty này. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá cũng được sử dụng kết hợp hoặc độc lập trong việc giải quyết từng vấn đề đặt ra trong đề tài.
- 6. Cấu trúc luận văn Căn cứ vào mục đích của luận văn, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Bối cảnh cạnh tranh của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Giao nhận Kho o • • o o • • o */ • vận ngoại thương VIETRANS trong 10 năm qua. Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của VIETRANS trong thời gian tới. CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP GIAO NHẬN VẬN TẢI VIỆT NAM • • • • 1. Hội nhập kinh tế quốc tế: Tự do hoá thương mại là một xu thế tất yếu khi lực lượng sản xuất vượt ra khỏi biên giới một quốc gia, trở thành lực lượng sản xuất quốc tế. Sự phát triển nhanh chóng của thương mại thế giới theo hướng tự do hoá đã trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Từ nửa cuối thế kỷ XX toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trở hành xu thế mạnh mẽ. Thậm chí Hội nghị lần thứ 29 của Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos (Thụy Sỹ) (28/12/2/1999) người ta khẳng định toàn cầu hoá không còn là xu thế nữa mà đã trở thành một thực tế. Xu thế này cuốn hút tất cả các nước, từ giàu đến nghèo, từ lớn đến nhỏ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hội nhập là một yếu tố của phát triển. Nước nào không hội nhập thì không có cơ hội phát triển. Những nước hội nhập tốt, sâu rộng thì phát triển tốt. Việt Nam bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế, vì vậy chọn con đường hội nhập kinh tế quốc tế là quyết tâm của Đảng và Chính phủ đã được khẳng định trong các Nghị quyết Đại hội Đảng, Nghị quyết Trung ương, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và các Chỉ thị, chương trình hành động của Chính phủ [2, tr34]. Hội nhập kinh tế quốc tế là trình độ cao của quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Hội nhập có nghĩa là gia nhập, tham gia vào một tổ chức chung, một trào lưu chung
- của quốc tế, mỗi quốc gia trở thành một bộ phận trong một tổng thể. Hội nhập kinh tế thường có nhiều mức độ từ nông đến sâu, từ một vài lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một vài nước đến nhiều nước. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một tổ chức toàn cầu, Liên minh châu Âu (EU) là một tổ chức khu vực có mức độ kinh tế sâu trên nhiều lĩnh vực và là liên minh kinh tế lớn nhất trên thế giới. Trên con đường hội nhập, Việt Nam đã tham gia ASEAN, APEC, ASEM, bình thường hoá quan hệ với ADB, WB, IMF, và đặc biệt là gia nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Lợi ích do hội nhập và tự do hoá mang lại ngày càng lớn nên bên cạnh xu hướng toàn cầu hoá đồng thời phát triển mạnh xu hướng khu vực hoá. Biểu hiện của xu hướng này là sự hình thành nhanh và nhiều các Khu vực thương mại tự do (FTAs) và các Thoả thuận Thương mại khu vực (RTAs). FTAs và RTAs có mức độ ưu đãi và tự do hoá thương mại cao hơn quy chế tối huệ quốc (MFN) kéo theo những thay đổi lớn trong cục diện thương mại khu vực và trên thế giới. Tính đến tháng 5/2003 đã có khoảng 250 hiệp định thương mại tự do song phương (BTAs) và khu vực đã được thông báo cho WTO. Đến cuối năm 2005 con số này đã tăng lên thành 300 [2, tr37]. Hội nhập đòi hỏi các nước phải tiến hành cải cách, đổi mới kinh tế trong nước. Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay tạo ra s ức ép các nước phải tiến hành mở cửa, tự do hoá để hội nhập mạnh hơn, nhanh hơn. Nước ta nếu không cùng nhịp với các nước trong khu vực thì sẽ có nguy cơ tụt hậu và chịu những thua thiệt của người đi sau. “Hội nhập kinh tế thì mỗi quốc gia vẫn tồn tại với tư cách là quốc gia độc lập, tự chủ, tự nguyện lựa chọn các lĩnh vực và tổ chức thích hợp để hội nhập. Tuy nhiên, khi đã gia nhập thì phải tuân thủ các nguyên tắc chung, phải thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của một thành viên, phải điều chỉnh chính sách của mình cho phù hợp với luật chơi chung” [2, tr34]. Vì vậy mà hội nhập cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh hơn, gay gắt hơn. Thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại tạo ra nhiều đối tác cạnh tranh trên cùng một thị trường, ngay cả thị trường nội địa.
- Trên cơ sở đó, xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam như sau: 1.1.1. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam: Sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng vượt qua các đối thủ cạnh tranh để duy trì và phát triển bản thân doanh nghiệp. Thông thường, người ta đánh giá khả năng này thông qua các yếu tố nội tại doanh nghiệp như: quy mô, khả năng tham gia và rút khỏi thị trường, sản phẩm, dịch vụ, năng lực quản lý, năng suất lao động, v.v.... Tuy nhiên, khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên ngoài ở trong nước và quốc tế. Vì vậy, khi xét đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, phải xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến nó như các nhân tố quốc tế và các nhân tố trong nước Các nhân tố quốc tế: Các nhân tố thuộc về chính trị: Tuy khía cạnh chính trị là thuộc chủ quyền nhà nước chủ thể có khả năng phát hành tiền tệ, đánh thuế và định ra các luật lệ quốc gia , nhưng vẫn có một số khía cạnh vượt ra khỏi biên giới quốc gia và tác động không nhỏ đến môi trường kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập hiện nay như: + Mối quan hệ giữa các chính phủ: mối quan hệ giữa các chính phủ tốt sẽ thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong kinh doanh + Các tổ chức quốc tế cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển và vận dụng các chính sách biểu lộ nguyện vọng chính trị của các quốc gia thành viên + Hệ thống luật pháp quốc tế, những hiệp định và thoả thuận được một loạt các quốc gia tuân thủ có ảnh hưởng sâu rộng đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Mặc dù, có thể chúng không ảnh hưởng trực tiếp tới từng doanh nghiệp riêng lẻ, nhưng chúng ảnh hưởng gián tiếp thông qua việc tạo ra môi trường kinh doanh quốc tế ổn định và thuận lợi. Xu hướng phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá: Xu hướng hội nhập kinh tế vùng, khu vực có ảnh hưởng quan trọng đối với các công ty đang hoạt động trong các thị trường khu vực. Hội nhập kinh tế diễn ra theo nhiều hình thức
- khác nhau, nhưng đặc biệt tập trung vào vấn đề hợp tác kinh tế, được thiết lập để mang lại sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau nhiều hơn giữa các quốc gia, như AFTA, EU và hội nhập đầy đủ nhất đối với một quốc gia là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Hầu hết các hình thức hội nhập kinh tế thường nhằm đưa ra sự thoả thuận và thống nhất để giảm bớt các hàng rào thương mại giữa các thành viên tham gia. Hội nhập giúp quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ giữa các nước ngày càng phát triển, vì những trở ngại như thuế quan, thủ tục xuất nhập kh ẩu, các hạn chế mậu dịch.... được cố gắng giảm thiểu, thành tựu khoa học kỹ thuật được sử dụng tối ưu và có hiệu quả hơn, quá trình toàn cầu hoá kinh tế diễn ra nhanh hơn lại tác động trở lại vào tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hội nhập còn đặt ra những thách thức đối với các doanh nghiệp đó là phải chấp nhận chạy đua trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hơn để chiếm được vị trí trên thị trường. Đối thủ cạnh tranh quốc tế: Ngày nay sự bành trướng của các tập đoàn đa quốc gia đang là mối đe doạ đối với doanh nghiệp trong nước. Các tập đoàn này có lợi thế về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh, kinh nghi ệm c ạnh tranh trên thương trường, sẽ có nhiều ưu thế trong cạnh tranh. Ngược lại, những doanh nghiệp trong nước chưa có đủ kinh nghiệm hoạt động trong ngành giao nhận vận tải sẽ phải gặp nhiều thách thức Các nhân tố trong nước: Nhân tố kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán cao dẫn tới sức mua tăng, thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp sản xuất, thương mại cũng như dịch vụ giao nhận vận tải. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp đó sẽ thành công và có sức cạnh tranh cao. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm, sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh và tạo ra nhiều “nguy cơ” đối với doanh nghiệp Nhân tố về chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Các văn bản pháp luật, chính sách về thuế,
- về thủ tục xuất nhập khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến việc tác nghiệp của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Trình độ khoa học và công nghệ: Nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Dịch vụ giao nhận vận tải hiện nay cũng đòi hỏi cao về công nghệ, và đây là yếu tố quyết định sự phản ứng nhanh nhạy của dịch vụ đối với yêu cầu công việc đặt ra. Nếu doanh nghiệp giao nhận vận tải nắm bắt và đầu tư phát triển tốt công nghệ sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác Nhân tố về tâm lý “người tiêu dùng”là chủ thể sử dụng dịch vụ. Hiện nay, ở Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất chưa thật sự chú trọng dịch vụ giao nhận vận tải đầu vào và phân phối sản phẩm giúp họ. Các doanh nghiệp nếu nhập khẩu thì mua hàng giá CIF, còn nếu xuất khẩu thì bán theo giá FOB cũng làm hạn chế thị trường dịch vụ giao nhận vận tải của các doanh nghiệp giao nhận Việt Nam. 1.1.2. Cơ hội và thách thức: Trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, nhận thức đầy đủ những cơ hội cũng như những thách thức là bước đi đầu tiên giúp chuẩn bị tốt việc ứng phó kịp thời, hiệu quả với những khó khăn có thể gặp phải. 1.1.2.1. Cơ hội đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam Cơ hội lớn nhất là mở rộng thị trường: quá trình hội nhập gắn liền với cắt giảm và bãi bỏ thuế quan và các hạn chế thương mại khác làm cho hàng hoá, dịch vụ lưu thông luân chuyển mạnh mẽ hơn. Cùng với dòng chảy của hàng hoá là thị trường rộng mở cho dịch vụ giao nhận vận tải, thuê kho bãi. Môi trường kinh doanh được cải thiện: Hội nhập vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ của một thành viên, phải thực hiện các cam kết quốc tế, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh luật pháp, chính sách, cải cách hành chính cho phù hợp. Chính điều đó làm cho môi trường kinh doanh được thông thoáng, rộng mở, các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, dễ dàng hơn.
- Tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại thông qua con đường chuyển giao công nghệ, liên doanh, liên kết, thu hút vốn đầu tư, nhờ đó, các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam có thể nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Có điều kiện tham gia nhanh vào phân công lao động quốc tế theo các công đoạn kinh doanh của các doanh nghiệp lớn. Với việc mở rộng quan hệ thương mại qu ốc tế, sự vận động của các yếu tố nguồn lực cũng bắt đầu mang tính chuyên môn hoá trên cấp độ quốc tế, các doanh nghiệp sản xuất chỉ tập trung vào sản xuất, còn các công đoạn từ nhập khẩu, lưu kho bãi, vận chuyển đầu vào, hay lưu kho và phân phối sản phẩm. đều có thể nhờ các doanh nghiệp giao nhận vận tải làm một cách chuyên nghiệp và với giá cả hợp lý. Có khả năng tiếp cận, học tập những kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên tiến của thế giới. Một trong những điều kiện để thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá là sự phát triển của công nghệ thông tinviễn thông. Kết quả của hệ thống thông tin toàn cầu còn là điều kiện để nâng cao dân trí, mở rộng giao lưu giữa các dòng văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi tiếp xúc với một thế giới mở, nâng cao năng lực đổi mới và hiện đại hoá công tác quản lý, trao đổi những tri thức và kinh nghiệm đã được tìm tòi, đúc kết từ bao đời, hưởng thụ nền văn minh nhân loại, tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đồng thời xu thế cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên trí tuệ, cũng là cơ hội tiềm tàng có nhiều hứa hẹn đối với những nền kinh tế non trẻ. 1.1.2.2. Thách thức đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam Việt Nam phải mở cửa thị trường, do đó các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh nước ngoài ngay trên thị trường nội địa. Các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có kinh nghiệm về kinh doanh lĩnh vực giao nhận vận tải hàng chục thậm chí hàng trăm năm, có ưu thế về trình độ công nghệ, về khả năng tổ chức, quản lý, về quy mô có thể “qua mặt” các doanh nghiệp trong nước một cách dễ dàng. Năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung còn thấp ở cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) về năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh tế (dựa trên 9 tiêu chí đánh giá gồm thể chế, cơ sở hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục và y tế phổ thông, giáo dục đại học, hiệu quả thị trường, độ sẵn sàng về công nghệ, mức độ hài lòng doanh nghiệp, mức độ
- sáng tạo) năm 2000 Việt Nam được xếp hàng 51/59, năm 2001 là 62/75, năm 2002 là 60/80, năm 2003 là 60/102, năm 2006 là 77/125 quốc gia ,tụt năm bậc so với năm 2005. Như vậy, chỉ số cạnh tranh quốc tế của Việt Nam ngày càng lùi xa vị trí xếp hạng đầu tiên trong bảng. Trong khối ASEAN, Việt Nam chỉ xếp trên Campuchia (xếp thứ 103). Singapore vẫn dẫn đầu về năng lực cạnh tranh trên toàn khối, tiếp theo lần lượt là Malaysia (xếp thứ 26), Thái Lan (xếp thứ 35), Indonesia ( xếp thứ 50), Philippines (xếp thứ 71). WEF không xếp hạng Brunei, Lào và Myanmar. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Công ty tài chính quốc tế (IFC) về mức độ thuận lợi của môi trường kinh doanh, năm 2006 Việt Nam được xếp hạng 104/175 nền kinh tế, tụt 6 bậc so với năm 2005. Xét trong khu vực châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam chỉ xếp thứ 17/23 nền kinh tế, tụt rất xa so v ới một số nước trong khu vực như Singapore (xếp thứ 1/23), Thái Lan (xếp thứ 3/23), Malaysia (xếp thứ 4/23). Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam chưa được cải thiện rõ nét, thậm chí còn có xu hướng thụt lùi trên một số khía cạnh [3, tr. 31]. Hệ thống pháp luật, chính sách, chế độ quản lý của Việt Nam chưa thống nhất và đồng bộ, vẫn còn nhiều bất cập về khuôn khổ pháp lý và thể chế, về cấu trúc thị trường và hành vi cạnh tranh. Quá trình hội nhập đòi hỏi phải có sự điều chỉnh lớn về chính sách và pháp luật để phù hợp với các cam kết, thông lệ và chuẩn mực quốc tế đảm bảo cho tự do cạnh tranh. Các doanh nghiệp giao nhận vận tải vẫn gặp nhiều vướng mắc trong quá trình làm giao nhận, làm chậm tiến độ công việc, làm giảm uy tín với khách hàng, giảm năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp. Những cam kết của Việt Nam đối với hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới là hết sức rõ ràng và không thể đảo ngược được. Vì vậy, thách thức cạnh tranh ngày càng lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp giao nhận vận tải nói riêng. 1.1.3. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam 1.1.3.1. Doanh nghiệp giao nhận vận tải: khái niệm, nội dung hoạt động Khái niệm:
- Giao nhận vận tải là một hoạt động không thể thiếu trong lưu thông hàng hoá từ người bán đến người mua. Thật vậy, giao nhận vận tải là thực hiện hàng loạt công việc liên quan đến quá trình chuyên chở như bao bì, đóng gói, lưu kho, đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, vận tải hàng hoá đến nơi giao hàng, dỡ hàng và giao hàng cho người nhận. Theo quy tắc mẫu của Hiệp hội Giao nhận vận tải qu ốc tế (FIATA) v ề d ịch v ụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hoá cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hoá [17, tr.7]. Nói chung, giao nhận hàng hoá là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hoá từ nơi gửi hàng (người gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng) [17, tr.8]. Doanh nghiệp giao nhận vận tải là doanh nghiệp kinh doanh các loại dịch vụ giao nhận hàng hoá trong xã hội, bao gồm hai loại: doanh nghiệp giao nhận v ận t ải hàng hoá trong nước, khi các hoạt động của doanh nghiệp chỉ diễn ra trên và trong phạm vi lãnh thổ đất nước; còn doanh nghiệp giao nhận vận tải hàng hoá quốc tế khi các hoạt động của doanh nghiệp có những phần việc diễn ra ngoài lãnh thổ đất nước. Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận chính là các dịch vụ trong giao nhận (dịch vụ giao nhận hàng hoá) mà doanh nghiệp giao nhận đóng vai trò người giao nhận. Người giao nhận có thể làm dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba. Nội dung hoạt động: Dịch vụ giao nhận hàng hoá bao gồm bốn loại thông dụng hiện nay là: + Thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu): Theo những chỉ dẫn của người gửi hàng, người giao nhận sẽ thu xếp các công việc liên quan đến việc giao hàng cho người nhận hoặc người do người nhận chỉ định.
- + Thay mặt người nhận hàng (ngưòi nhập khẩu): theo chỉ dẫn của người nhận hàng, người giao nhận sẽ thu xếp các dịch vụ lấy hàng từ người xuất khẩu hoặc người chuyên chở của người gửi hàng và giao cho người nhận. + Dịch vụ hàng hoá đặc biệt: giao nhận vận chuyển hàng công trình cần thiết bị chuyên dụng như vận chuyển máy móc nặng, thiết bị để xây dựng những công trình lớn như sân bay, nhà máy hoá chất, nhà máy thuỷ điện,v.v...; hàng quần áo treo trên móc, giao nhận vận chuyển hàng triển lãm ở trong nước và nước ngoài, + Những dịch vụ khác: gom hàng hoặc chia hàng lẻ, tư vấn cho khách hàng về các thủ tục liên quan đến quá trình giao nhận vận tải như chiến lược xuất khẩu, những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Người làm dịch vụ giao nhận vận tải hàng hoá vừa là một nhà vận tải đa phương thức, vừa là nhà tổ chức, kiến trúc sư của vận tải. Họ phải lựa chọn phương tiện, người vận tải thích hợp, tuyến đường thích hợp có hiệu quả kinh tế nhất và đứng ra trực tiếp vận tải hay tổ chức thu xếp quá trình vận tải của toàn chặng với nhiều loại phương tiện vận tải khác nhau như tàu thuỷ, máy bay, ô tô. vận chuyển qua nhiều nước và chịu trách nhiệm trực tiếp với chủ hàng [17]. Vì vậy, chủ hàng chỉ cần ký hợp đồng vận tải với người giao nhận là hàng hoá được vận chuyển kịp thời từ kho của nhà xuất khẩu tới kho của nhà nhập khẩu (door to door service).
- Bảng 1.1. NHỮNG DỊCH VỤ CỦA NGƯỜI GIAO NHẬN Tư vấn về Lựa chọn loại nguyên liệu để sử dụng Chọn hành trình và phương tiện vận chuyển Loại bảo hiểm cần cho hàng hoá Khai báo hàng hoá xuất nhập khẩu Những chứng từ đi kèm (người chuyên chở) ■ yêu cầu của ngân hàng Người tổ chức về Vận tải những lô hàng xuất nhập khẩu và quá cảnh Gom hàng, vận tải hàng nặng và đặc bịêthàng công trình Hàng nhập khẩu Dỡ hàng khỏi phương tiện của người vận tải Tháo dỡ hàng thu gom. Khai báo hải quan Hàng xuất khẩu Nhận hàng Đóng gói và đánh ký mã hiệu Lưu cước/ lưu khoang với người chuyên chở Cấp chứng từ vận tải chứng từ cước phí đi kèm Giám sát giao hàng Thông báo giao hàng cho khách hàng Khai báo hải quan Quá cảnh Lấy mẫu Đóng gói lại Lưu kho hải quan ( dưới sự kiểm soát của hải quan) Vận chuyển tiếp Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP
- Hình 1.2. QUAN HỆ CỦA NGƯỜI GIAO NHẬN VỚI CÁC BÊN Nguồn: Giáo trình Nghiệp vụ Giao nhận hàng hoá ESCAP 1.1.3.2. Tình hình chung của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam Theo Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) thì hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 900 doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực giao nhận vận tải thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vốn đăng ký trung bình khoảng 1,5 tỷ đồng,
- thời gian hoạt động trung bình là 5 năm. Các doanh nghiệp chỉ mới đáp ứng được khoảng 25% khối lượng công việc trên thị trường nội địa. Khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam gặp phải là : quy mô tài chính, kỹ năng và công nghệ thấp, thiếu hiểu biết về khách hàng và luật pháp quốc tế, hiểu biết hạn hẹp về những yêu cầu của tiến trình hội nhập, hạ tầng cơ sở nghèo nàn và những hạn chế trong khung pháp lý và chính sách về vận tải biển. Trong khi đó, yêu cầu về nghiệp vụ giao nhận ngày càng đòi hỏi cao. Một trong những bước phát triển lớn trong hoạt động giao nhận vận tải hiện đại là hoạt động logistics. Trong vài thập niên gần đây, logistics đã phát triển nhanh chóng và mang lại kết quả tốt đẹp ở rất nhiều nước, điển hình là Tây Âu, Mỹ, tiếp đó là Singapore, Đài Loan. Tại Việt Nam, các công ty giao nhận hàng đầu thế giới đã có mặt và cung cấp dịch vụ logistics toàn cầu. Với công nghệ vượt trội, các công ty logistics nước ngoài chắc chắn sẽ chiếm ưu thế hơn so với các công ty nội địa. Trong khi đó, các công ty giao nhận Việt Nam dù là những tổng công ty lớn mạnh nhất cũng chưa có một công ty nào hoạt động trong lĩnh vực logistics theo đúng nghĩa của nó. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp giao nhận vận tải là phải cải thiện về kỹ năng nghiệp vụ, cơ sở vật chất và trình độ công nghệ cũng như hiểu biết về luật pháp và khách hàng quốc tế để có thể đáp ứng được khối lượng công việc kể trên. Nếu không có sự phát triển, các công ty giao nhận Việt Nam có nguy cơ sẽ thất thế ngay trên thị trường của chính mình. 1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giao nhận vận tải trong quá trình hội nhập 1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh 1.2.11. Cạnh tranh: Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế xã hội chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Có rất nhiều quan niệm về thuật ngữ này, có thể trích dẫn như sau: Theo “Từ điển rút gọn về kinh doanh”: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
- Từ điển Bách khoa của Việt Nam định nghĩa: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi quan h ệ cung c ầu nh ằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cho rằng: “Cạnh tranh là khái niệm của doanh nghiệp, quốc gia và vùng trong việc tạo việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Theo cuốn Kinh tế học của P.Samuelson thì: “cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường’. Theo các tác giả của cuốn “ Các vấn đề pháp lý và thể chế chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể” [15, tr.14]. Ngoài ra còn có rất nhiều các cách tiếp cận về khái niệm cạnh tranh, nhưng nói chung là tập trung vào các yếu tố sau: Cạnh tranh là sự ganh đua, giành giật lấy một đối tượng cụ thể nào đó (như thị phần, khách hàng, nhà cung cấp.) Mục đích cuối cùng của cạnh tranh là kiếm được lợi nhuận cao Cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có ràng buộc các bên tham gia phải tuân thủ như: đặc điểm sản phẩm, thị trường, các điều kiện pháp lý, thông lệ kinh doanh Trong quá trình cạnh tranh có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau: cạnh tranh bằng đặc tính và chất lượng sản phẩm, cạnh tranh bằng chính sách giá bán sản phẩm (chính sách định giá thấp, chính sách định giá cao, giá phân biệt, bán phá giá), cạnh tranh bằng nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm, cạnh tranh nhờ dịch vụ bán hàng t ố t , . . Như vậy, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất. thị trường có lợi nhất. Mục
- đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Cạnh tranh được phân thành nhiều loại với các tiêu thức khác nhau: Xét theo quy mô của cạnh tranh có: cạnh tranh của sản phẩm, cạnh tranh của doanh nghiệp và cạnh tranh của quốc gia Xét theo tính chất của phương thức cạnh tranh có : cạnh tranh hợp pháp hay cạnh tranh lành mạnh (biện pháp cạnh tranh phù hợp với luật pháp, tập quán, đạo đức kinh doanh) và cạnh tranh bất hợp pháp hay cạnh tranh không lành mạnh (biện pháp cạnh tranh bằng những thủ đoạn chứ không phải vươn lên bằng nỗ lực của chính mình) Xét theo hình thái cạnh tranh có: cạnh tranh hoàn hảo, hay thuần tuý đây là tình trạng cạnh tranh trong đó giá cả của một loại hàng hoá không thay đổi trong toàn bộ địa danh của thị trường, bởi vì người mua và người bán đều biết tường tận về điều kiện của thị trường; và cạnh tranh không hoàn hảo đây là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó người bán hàng hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường. Trong cạnh tranh không hoàn hảo, có hai loại: độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền. Độc quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó chỉ có một số ít các nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của các nhà cạnh tranh quan trọng trong ngành đó. Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thái thị trường có nhiều người bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Dưới góc độ các công đoạn của sản xuấtkinh doanh, người ta cho rằng có ba loại: cạnh tranh trước khi bán hàng, trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng. Cạnh tranh này được thực hiện bằng phương thức thanh toán và dịch vụ. Xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Đây là cách phân loại cạnh tranh của K.Marx dựa trên cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trường, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các
- doanh nghiệp cùng sản xuất và tiêu thụ, một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với hàng hoá dịch vụ cùng loại trên cơ sở giá trị xã hội của hàng hoá dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp thôn tính lẫn nhau. Doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của mình trên thị trường, những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp kinh doanh, thậm chí bị phá sản. Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc đấu tranh giữa các nhà doanh nghiệp sản xuất, mua bán hàng hoá, dịch vụ trong các ngành ngành kinh tế khác nhau nhằm thu lợi nhuận và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với vốn đã bỏ ra và đầu tư vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành có nhiều lợi nhuận. Sau một thời gian nhất định, sự điều chuyển tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này, vô hình chung hình thành lên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành sản xuất, dẫn đến kết quả cuối cùng là các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn bằng nhau chỉ thu được lợi nhuận như nhau. Phát triển cách phân loại trên của K.Mác, các nhà kinh tế học chia thành hai hình thức cạnh tranh là cạnh tranh dọc và cạnh tranh ngang. Cạnh tranh dọc là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất khác nhau. Cạnh tranh dọc chỉ ra rằng: sự thay đổi giá bán và lượng bán nói trên của các doanh nghiệp sẽ có điểm dừng. Sau một thời gian nhất định, hình thành một giá thị trường thống nhất. Cạnh tranh dọc sẽ làm cho các doanh nghiệp có chi phí bình quân cao bị phá sản, còn các doanh nghiệp có chi phí thấp sẽ thu được lợi nhuận cao. Cạnh tranh ngang là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có mức chi phí bình quân thấp nhất như nhau. Do đặc điểm đó, trong cạnh tranh ngang không có doanh nghiệp nào bị loại khỏi thị trường, song giá cả ở mức thấp tối đa, lợi nhuận giảm dần và có thể không có lợi nhuận. Để hạn chế bất lợi đó, cạnh tranh ngang dẫn đến hai khuynh hướng: hoặc là phải liên minh thống nhất giá bán cao, giảm lượng bán trên thị trường xuất hiện độc quyền, hoặc là các doanh nghiệp tìm mọi cách giảm được chi phí, tức là chuyển từ cạnh tranh ngang sang cạnh tranh dọc nhằm trụ l ại được trên thị trường và có lợi nhuận cao.
- Xét theo phạm vi lãnh thổ, có cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh quốc tế có thể diễn ra ngay ở thị trường nội địa, đó là cạnh tranh giữa hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp trong nước với hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài. Cạnh tranh kinh tế quốc tế là cạnh tranh kinh tế đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, tức là cạnh tranh giữa chủ thể kinh tế trên thị trường thế giới. Sở dĩ như vậy, là do sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, phân công lao động quốc tế đã phát triển sâu, rộng, sự phát triển lực lượng sản xuất có tính chất quốc tế và do quá trình mở rộng thị trường trên quy mô toàn thế giới. Chủ thể trực tiếp tham gia vào cạnh tranh kinh tế quốc tế, trước hết là các doanh nghiệp, bởi lẽ, doanh nghiệp là chủ thể trực tiếp thực hiện việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ [15]. 1.2.12. Năng lực cạnh tranh: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp luôn gắn với ưu thế của sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp ra thị trường, hoặc với vị trí của doanh nghiệp trên thị trường theo thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức, quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp. Có rất nhiều quan niệm về năng lực cạnh tranh như: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định hay năng lực cạnh tranh là khả năng cung ứng sản pham của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí của doanh nghiệp đó hay “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định” [15, tr.24]. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu qu ả kinh doanh c ủa doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, sức cạnh tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản
- phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay một số sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp một nhân tố quan trọng quyết định sức cạnh tranh của quốc gia. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của s ản ph ẩm vừa là bộ phận cấu thành, vừa là một trong những mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. 1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam. Hội nhập là một thực tế không thể tránh khỏi đặc biệt khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Các doanh nghiệp giao nhận vận tải không thể đứng ngoài thực tế đó mà phải nhập cuộc một cách chủ động nếu muốn tồn tại và phát triển. Muốn làm được điều đó, phải nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tăng cường “sức mạnh” của doanh nghiệp để không bị lãng quên trên thị trường giao nhận vận tải trong nước cũng như quốc tế. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là một nội dung trong cơ chế vận động của thị trường. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế thị trường vận động theo hướng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. Mọi doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận động để đứng được trong cơ chế này. Doanh nghiệp nào không thích nghi được cơ chế mới sẽ phải cầm chắc sự phá sản và theo quy luật đào thải nó sẽ bị gạt ra khỏi thị trường. Thay vào đó thị trường lại mở đường cho doanh nghiệp nào biết nắm thời cơ, biết phát huy tối đa những thế mạnh của mình và hạn chế được tối thiểu những bất lợi để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Cơ hội và thách thức là hai phạm trù luôn đi song song với nhau trong quá trình hội nhập. Hội nhập đã đặt ra cho doanh nghiệp giao nhận vận tải những thách thức to lớn, làm cho cuộc cạnh tranh gay gắt hơn. Sự tham gia của các doanh nghiệp giao nhận vận tải nước ngoài vào thị trường trong nước có lẽ là đối thủ cạnh tranh to lớn nhất của các doanh nghiệp giao nhận vận tải Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh: Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP quốc tế Việt Nam (VIB) - thực trạng và giải pháp
120 p | 1704 | 818
-
Luận văn Thạc sỹ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt của Tổng công ty Vận tải Hà Nội
158 p | 635 | 136
-
Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Kĩ thuật viễn thông: Nghiên cứu xây dựng giải pháp bảo mật cho mạng thông tin di động 4G-LTE
33 p | 462 | 116
-
Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh: Dịch vụ thanh toán thẻ tại ngân hàng TMCP dầu khí toàn cầu: Thực trạng và giải pháp
110 p | 253 | 105
-
Luận văn thạc sỹ: Giải pháp công nghệ xử lý nước thải chăn nuôi lợn bằng phương pháp sinh học phù hợp với điều kiện Việt Nam
105 p | 320 | 99
-
Tóm tắt luận văn Thạc sỹ ngành Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng về dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng di động băng rộng 3g và một số giải pháp hoàn thiện chiến lược marketing Công ty Vinaphone
26 p | 340 | 91
-
Tóm tắt luận văn Thạc sỹ ngành Kỹ thuật điện tử: Giải pháp an ninh trong môi trường điện toán đám mây
26 p | 302 | 79
-
Luận văn Thạc sỹ: Biện pháp quản lý sinh viên nội trú tại Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
128 p | 340 | 76
-
Luận văn Thạc sỹ quản trị kinh doanh: Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế TNCN trên địa bàn huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh
108 p | 323 | 66
-
Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Khoa học máy tính: Nghiên cứu giải pháp chống tấn công ddos cho website Trường Cao đẳng Bách khoa Hưng Yên
27 p | 280 | 65
-
Luận văn thạc sỹ kinh tế: Năng lực tài chính của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam giai đoạn hội nhập WTO thực trạng và giải pháp
116 p | 241 | 64
-
Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp nâng cao độ an ninh thông tin trong mạng LAN không dây chuẩn IEEE 802.11I - Vũ Anh Tuấn
75 p | 195 | 58
-
Luận văn Thạc sỹ Kinh tế: Giải pháp phát triển dịch vụ thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam
0 p | 357 | 50
-
Tóm tắt luận văn Thạc sỹ ngành Quản trị kinh doanh: Giải pháp hoàn thiện kinh doanh dịch vụ mobile marketing tại Tổng công ty Viễn thông Viettel
28 p | 220 | 45
-
Luận văn Thạc sỹ: Nghiên cứu ứng xử của cầu treo dây võng trong giai đoạn khai thác đối với tải trọng động đất
45 p | 145 | 30
-
Luận văn Thạc sỹ: Giải pháp phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn thành phố Huế
170 p | 150 | 18
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sỹ ứng dụng: Nghiên cứu giải pháp xây dựng kè bảo vệ bờ sông Lại Giang đoạn Khánh Trạch, tỉnh Bình Định
39 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn