intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:34

199
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn:thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay
  2. Lời nói đầu Lạm phát thường xuyên và dai dẳng là một hiện tượng mới bẩm sinh ở các nước tư bản, nó được coi như một con quỷ ghê gớm nhất trên trái đất, ít nhất là xét về triển vọng chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên lạm phát cũng có tính chất hai mặt của nó. Kích thích nền kinh tế phát triển nếu tốc độ tăng của nó phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và ngược lại nếu tốc độ tăng lạm phát cao nó sẽ gây ra những biến động kinh tế hết sức nghiêm trọng: Như biến dạng cơ cấu sản xuất về việc làm về địa vị... Và lạm phát thường xẩy ra sau các cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế và xã hội. Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá ở nhiều lĩnh vực của đời sống đang được diển ra trên phạm vi toàn thế giới thì vấn đề lạm phát nó không còn giới hạn trong các nước tư bản mà nó đã đến với các nước đang phát triển cũng như các nước ở thế giới thứ ba. Riêng các nước xã hội chủ nghĩa mà cụ thể là Việt Nam, cuối những năm 80 đã trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế khá nghiêm trọng, sản xuất sút kém giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là thời kỳ 1986 - 1988, nền kinh tế nước ta vẫn hoạt động theo cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, hàng hoá sản xuất có hạn mà nhu cầu thì lại rất cao nhưng đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền, tổng cầu luôn vượt tổng cung, nền kinh tế luôn ở trạng thái mất cân đối, lạm phát tăng ở mức ba con số. Thời kỳ 1989 - 1991 nền kinh tế chuyển hướng mạnh theo cơ chế thị trường, Nhà nước đã ban hành các chính sách quản lý mới nền kinh tế như: Tự do giá cả, thả nổi tỷ giá, chính sách lãi suất cao, cắt giảm nhiều khoản chi tiêu ngân sách....nhờ đó mà nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, lạm phát phi mã bị chặn lại. Thời kỳ 1992 - 1995 nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đi dần vào thế ổn định, nguyên nhân chủ yếu gây nên lạm phát cao ở nước ta vẫn là sự bành trướng cung ứng tiền tệ qua lớn để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của xã hội nếu không tính đến những nguyên nhân có tính khách quan như: Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, mất cân đối cơ cấu, phụ thuộc nhiều các yếu tố bên ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ của Liên Xô. Từ năm 1996 nền kinh tế nước ta chuyển sang một thời kỳ mới- công nghiệp hoá với tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế được lạm phát ổn định nền kính tế để duy trì
  3. tốc độ tăng trưởng kinh tế cao vẫn là mục tiêu đặc biệt quan trọng và công cụ chủ yếu vẫn là thực thi một số chính sách tiền tệ hợp lý như: tăng mức cung tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng có hiệu quả hơn các chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Từ năm 1996 đến nay, do nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, đang trong trạng thái chuyển dịch, đầu tư tăng nhanh. Vì vậy có thể ổn định kinh tế ở một mức nhất định, lạm phát có thể giảm xuống ở mức có thể chấp nhận được. Và thực tề là xu hướng giảm phát đã xảy ra gây tình trạng thiểu phát, đây cũng là biển hiện của nền kinh tế trì trệ khủng hoảng. Vậy muốn ổn dịnh đất nước cả về kinh tế xã hội để đẩn bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mối người dân thì vấn đề tăng trưởng kinh tế và chống lạm phát phải được thực hiện một cách thống nhất làm thế nào đạt được hiệu quả cao nhất thì đòi hỏi chungs ta phải nghiên cứu một cách khoa học, vấn đề này để hiểu được thế nào là lạm phát chống lạm phát làm như thế nào? Cần có những giải pháp gì để khắc phục cả về mặt ngắn hạn và dài hạn duy trì mức lạm phát ở mức nào cho hợp lý? thiểu phát có gây ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế hay không?...
  4. Nội dung I-/ Cơ sở lý luận chung về lạm phát 1. Khái niệm: Lạm phát là một hiện tượng chung của nền kinh tế hàng hoá, là căn bệnh nẩy sinh khi quy luật lưu thông tiền tệ không được tôn trọng. Lạm phát thường phát sinh do tình trạng thiếu hụt ngân sách, đặc biệt là do các cuộc chiến tranh, những biến động lớn về kinh tế khi Nhà nước TBCN khôpng có khả năng bù đắp những chi phá ngày càng tăng của mình bằng thuế khoá, công trái..... nên phải tăng cường phát hành tiền giấy, tình hình đó làm cho tiền giấy mất giá hết sức nhanh chóng so với vàng, hàng hoá và ngoại tệ. Vì vậy vấn đề chống lạm phát vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong chính sách kinh tế vĩ mô của mối quốc gia. Có nhiều nhà kinh tế ở các quốc gia khác nhau đã đưa ra nhiều lý thuyết để chuẩn đoán và các giải pháp khắc phục. Vậy lạm phát là gì? Trên quan điểm lý luận của C-Mac Lenin thì lạm phát là tình trạng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền tệ mất giá, là phương tiện để phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội có lợi cho giai cấp thống trị dưới chế độ TBCN là phương pháp để tăng cường bóc lột lao động biểu hiện lạm phát là giá cả tăng một cách tự phát, nhất là các giá cả hàng tiêu dùng thông thường. Nội dung lạm phát là sự liên tục tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát có thể biểu hiện một cách cụ thể như sau: Lạm phát do khổi lượng tiền thực tế trong lưu thông tăng nhưng sản xuất và lưu thông hàng hoá không tăng hoặc do khối lượng tiền thực tế trong lưu thông vẫn giữ nguyên nhưng sản lượng hàng hoá giảm xuống làm cho tiền dư thừa, gây ra lạm phát. Đây là những nguyên nhân cơ bản gây ra sự phát triển không bình thường của lưu thông tiền tệ. Sự quá thừa dấu hiệu giá trị trong lưu thông đã làm cho tiền tệ mất giá so với vàng, so với hàng hoá và ngoại tệ. Tiền tệ mất giá so với vàng bởi do đặc trưng cơ bản của lưu thông tiền giấy là có thể chứa một khối lượng đồ sộ tiền giấy đi vào lưu thông làm cho lợng vàng mà một đơn vị tiền giấy làm đại diện giá trị giảm xuống. Tiền tệ mắt giá so với hàng hoá có nghĩa sức mua của tiền tệ giảm sút đối với tất cả hàng hoá. Bởi vì giá trị của một đơn vị tiền giấy giảm thì giá trị hàng hoá biểu hiện ở tiền giấy tăng
  5. lên. Trong lạm phát giá cả hàng hoá cũng có thể tăng không cùng tốc độ với nó là do quan hệ cung cầu và mức độ thiết yếu của thứ hàng hoá đó, còn mất giá so với ngoại tệ nghĩa là giá trị tiền tệ ở các nước có lạm phát bị hạ thấp so với giá trị tiền tệ ở các nước khác thể hiện ở sự thay đổi tỷ giá hối đoái. Lạm phát xảy ra luôn gắn liền với phân phối lại thu nhập quốc dân, nó làm cho giai cấp công nhân bị thiệt hại hơn cả vì khi tiền giấy bị mất giá, giá cả tiêu dùng tăng nhanh hơn tiền lương danh nghĩa, nó cũng ảnh hưởng tiêu cực đến cả những người sản xuất nhỏ vì giá cả sản phẩm của họ tăng lên chậm hơn so với giá cả sản phẩm của các xí nghiệp. Ngoài ra tiền tiết kiệm của họ cũng bị mất giá, lạm phát còn ảnh hưởng đến hoàn cảnh của những người có thu nhập ổn định: Viên chức, giáo viên... Theo quan điểm của C-Mác. Lạm phát được chia thành hai thời kỳ: Thời kỳ lạm phát tiệm tiền là thời kỳ mà trong đó tốc độ mất giá của tiền giấy nhỏ hơn tốc dộ tăng tiền giấy, bởi vì một bộ phận tiền giấy phát hành thay tiền đúc rút ra khỏi lưu thông không phải là tiền thừa. Đồng thời trong thời kỳ đầu lạm phát, mua bán chịu hàng hoá giảm do nhu cầu vay tiền giảm, khi nhu cầu tiền mặt tăng lên, giá tiền giấy đã lớn hơn tốc độ tăng tiền giấy trong lưu thông. Xét về mặt lý luận, nhân dân chưa phát hịên ra lạm phát, vấn đề thực hiện việc tích luỹ tiền tệ do đó phát hành tiền tăng nhưng giá tiền vẫn chưa tăng. Thời kỳ lạm phát công khai thì tốc độ mất giá tiền giấy tăng nhanh hơn tốc độ tăng tiền giấy trong lưu thông. Vì trong lạm phát sản xuất phát triển không đều, có xí nghiệp mạnh lên và có xí nghiệp phá sản dẫn đến khối lượng sản phẩm cung ứng trong xã hội giảm, mất cân đối tăng lên giữa khối lượng tiền giấy và khối lượng hàng hoá trong lưu thông. Khi khối lượng tiền giấy tăng lên với tốc độ đột biến nó cũng làm cho cán cân thanh toán quốc tế bị biến động. Theo quan điểm của Mac thì bất cứ một sự lạm phát tiệm tiền nào cũng dẫn đến lạm phát công khai. Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại thì lạm phát xảy ra khi mức chung về giá và chi phí tăng lên, còn giảm phát là khi mức chung về giá và chi phí giảm xuống. Như vậy lạm phát xẩy ra khi hàng loạt các loại hàng hoá đều tăng giá hoặc cũng có thể chỉ một hay một nhóm nào đó tăng gây lên sự biến động của mức giá chung. Mức giá chung trong điều kiện có lạm phát thường mang tính cục bộ đối với từng hàng hoá, Theo quan điểm của các nhà kinh tế hội Việt Nam cho rằng lạm phát là một vấn đề không mấy xa lạ đối với nền kinh tế hàng hoá, và hầu hết quảng
  6. đại quần chúng đều có thể chứng kiến hay trải qua thời kỳ lạm phát ở những mức độ khác nhau. Nhưng hiểu chính xác lạm phát là gì thì không dễ Ngay cả các nhà kinh tế học cũng có những qquan điển rất khác nhau về lạm phát. Xét về nội dung thì có thể chia quá trình phát triển của khái niệm lạm phát thành các giai đoạn sau: Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước lạm phát được coi là sự phát hành của nhiều tiền mặt dẫn đến tình trạng giảm giá trị đồng tiền tức là giá cả tăng lên "lạm phát là sự tràn ngập các luồng lưu thông, những đồng bạc giấy thừa gây ra sự mất giá của đồng tiền ". Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng tập trung vào hai điểm cơ bản: Một là phát hành quá nhiều tiền giấy vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ. Hai là thể hiện chủ yếu nhất hoặc hiệu quả trực tiếp nhất của lạm phát là sự mất giá đồng tiền và cũng là sự tăng lên của giá cả. Xuất xứ của định nghĩa này từ đâu và có gì đúng sai hoặc không thích hợp?. Trước hết định nghĩa này xuất phát từ lý thuyết về số lượng tiền cần thiết trong lưu thông, nó được tính theo công thức sau đây:
  7.  xp S= (1) V S: Số tiền cần thiết trong lưu thông P: Giá trị đơn vị của hàng hoá X: Lượng hàng hoá V: Số vòng quay của đồng tiền  xp: Biểu thị tổng giá cả Vậy số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng giá cả chia cho số vòng quay của đồng tiền Con số vòng quay của đồng tiền (V): Đối với một người, một gia đình hoặc một xí nghiệp kinh doanh người ta đã đề xuất cách tính. Nhưng trong toàn bộ nền kinh tế quôc dân thì V là "một con số mơ hồ" do vậy S cũng là "một con số mơ hồ". Bỏ qua thực tế trên và coi như công thức (1) được hoàn toàn xác định, người ta dựa vào đó để nêu lên định nghĩa về chỉ số lạm phát  (Tỷ lệ lạm phát) S-S = . 100% (2) S S: Là lượng tiền đã phát hành S - S: Là số tiền phát hành quá mức cần thiết và chỉ số lạm phát chính là tỷ lệ giữa số tiền phát hành quá mức cầu cần thiết so với lượng tiền cần thiết. Bằng toán học ta cũng có thể chứng minh được rằng, nếu giữ nguyên vòng quay của đồng tiền (V) thì lượng tiền phát hành tăng lên bao nhiêu phần trăm, chỉ số giá cả tăng lên bấy nhiêu phần trăm như vậy tỷ lệ lạm phát cũng là tỷ lệ tăng giá. Giai đoạn hai: Từ sau năm 1890 đến những năm trước 1950, lạm phát được coi là tình trạng cầu lớn hơn cung, dưới góc độ tài chính đó là chi lớn hơn thu thì lúc này chỉ số lạm phát được tính theo công thức sau:
  8. Chi - Thu = . 100% Thu Theo quan điểm này, cứ xuất hiện chênh lệch chi lớn hơn thu thì xảy ra lạm phát, và vì có nhiều hình thức thu chi khác nhau: Thu chi ngân sách, thu chi tiền mặt, tín dụng nên cũng có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát: Lạm phát ngân sách, tiền tệ, tín dụng... Như vậy khái niệm ở giai đoạn này chính là đi vào nguyên nhân trực tiếp nhất trong khái niệm lạm phát của giai đoạn thứ nhất. Vấn đề này có nguyên nhân lịch sử của nó, đó là từ lúc phôi thai của chiến tranh thế giới lần thứ nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh thế giới II. Các nước gây chiến tranh cũng như các nước tham chiến đều tăng chi tiêu lên gấp bội. Nhưng sau chiến tranh đó bị tàn phá nặng nề về người và của, sản xuất ngừng trệ nguồn thu giảm nghiêm trọng. Cho nên chênh lệch thu chi trong giai đoạn này ở nhiều nước đã gây lên khủng hoảng về tài chính và tiền tệ, thâm hụt ngân sách nghiêm trọng. Để bù đắp thâm hụt ngân sách chính phủ của các nước này chẳng còn cách nào khác là phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt, làm cho lượng tiền giấy ngày càng tăng, gây ra sự mất giá của đồng tiền và lạm phát xảy ra. Với quan niệm lạm phát thực chất là chênh lệch thu chi thì biện pháp chống lạm phát chủ yếu ở đây là tăng thu giảm chi làm cân bằng ngân sách. Tăng thu chủ yếu nhờ chính sách thuế, chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách đầu tư để thu hút vốn vay, phát hành công trái hoặc xin viện trợ... Còn giảm chi chủ yếu nhờ chính sách tiêu dùng xã hội, chính sách tiết kiệm bắt buộc, giảm quân đội, giảm biên chế hành chính, tinh giảm bộ máy nhà nước và hạn chế đầu tư... Giai đoạn 3: Từ những năm 1950 đến năm 1972 Trong giai đoạn này lạm phát được đồng nhất với sự tăng giá. Cho đến nay một số tạp chí trên thế giới vẫn sử dụng khái niệm này. Như chúng ta đã biết năm 1986 chỉ số lạm phát ở Việt Nam là 700% điều đó có nghĩa là chỉ số giả cả cuối năm 1986 gấp 7 lần chỉ số giá cả đầu năm 1986. Như chúng ta đã biết vấn đề giá cả là một vấn đề rất phức tạp, nó luôn luôn biến động. Tất cả các vấn đề phức tạp về kinh tế, chính trị, quân sự, xã hội, đối nội, đối ngoại đều liên quan đến vấn đề giá. Như vậy việc tăng giá không chỉ do
  9. nguyên nhân phát hành tiền quá mức, do chênh lệch cung cầu hay bội chi mà nó còn mang nhiều nguyên nhân khác mang ý nghĩa phi tài chính, phi tiền tế như sự ảnh hưởng của tình hình chính trị-xã hội hay do sự tác động của các công ty độc quyền. Khi chúng nâng cao giá cả sản phẩm của mình. Như vậy tiến bộ của giai đoạn thứ ba là nêu nên được vấn đề mấu chốt nhất của vấn đề lạm phát là vấn đề tăng giá mà trước đó người ta chỉ coi nó như một hiện tượng hay một hậu quả của lạm phát. Giai đoạn thứ tư: Từ năm 1972 đến nay. Đây là giai đoạn có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ Khi tiền vàng bị rút khỏi lưu thông, chấm dứt việc đổi tiền tín dụng lấy vàng thì lạm phát có tính chất phổ biến và kinh niên, nó thường xảy ra cùng với sự suy thoái của sản xuất do khủng hoảng gây ra, với nạn thất nghiệp tăng lên là một hiện tượng mới của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa từ những năm 60 và nó được gọi là lạm phát suy thoái. Những xu hướng này đặc biệt thể hiện rõ trong điều kiện của cuộc khủng hoảng sâu sắc những năm 74-75, khi mà khối lượng sản xuất giảm sút và nạn thất nghiệp tăng lên mạnh mẽ đã kéo theo tình trạng giá cả và lạm phát tăng lên không gì ngăn cản nổi. Lo sợ những hậu quả phá hoại về kinh tế-xã hội của lạm phát, nhà nước đế quốc chủ nghĩa đang cố gắng điều chỉnh nó. Tuy nhiên tính không ổn định thường xuyên của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kể cả trong lĩnh vực tài chính tín dụng của nó, cuộc khủng hoảng của hệ thống tiền tệ đang làm cho lạm phát trở thành một hiện tượng kinh niên của thế giới tư bản chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay. Và suy cho cùng, nó phá vỡ những cơ sở của chủ nghĩa tư bản và làm cho các mâu thuẫn đối kháng về kinh tế -xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Tóm lại, ta có thể đi đến khái niệm lạm phát như sau:Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn đầy các kênh lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu kinh tế thực tế làm cho tiền bị mất giá so với toàn bộ sản phẩm hàng hoá, vàng và ngoại tệ và thể hiện là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian. mức giá trung bình thường lấy mức giá cả của những mặt hàng tiêu dùng làm cơ sở và muốn được lạm phát phải tính được chỉ số giá tiêu dùng. Công thức tính có thể được viết như sau: Ip=ip. d
  10. Trong đó: Ip chỉ số giá tiêu dùng của cả giỏ hàng hoá ip: Chỉ số giá cả của từng loại hàng hoá trong giỏ hàng hoá đó. d: Tỷ trọng mức tiêu dùng trong từng loại hàng hoá nhóm hàng hoá trong giỏ. Chỉ số giá tiêu dùng phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Khác với chỉ số gia tiêu dùng, chỉ số giá bán buôn(giá cả sản xuất) phản ánh sự biến động của giá cả đầu vào, thực chất là biến động giá cả chi phí sản xuất. ở Việt Nam hiện nay, chỉ số được dùng để biểu hiện lạm phát là chỉ số giá tiêu dùng(tính theo hàng năm, quý, tháng). 2. Tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát là thước đo chủ yếu của lạm phát trong một thời kỳ. Quy mô và sự biến động của nó phản ánh xu hướng và quy mô của lạm phát. Tỉ lệ lạm phát được tính theo công thức: gp=(Ip/Ip-1-1). 100% Trong đó: gp: tỷ lệ lạm phát(%) Ip: chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu Ip-1: chỉ số giá cả thời kỳ trước đó. Khi lạm phát xảy ra thì đồng nghĩa với việc tăng lên của chỉ số giá cả, nên mức cầu tiền danh nghĩa cũng tăng theo để đảm bảo thu mua khối lượng hàng hoá cần thiết đã dự định. Như vậy thực chất của mức cầu tiền là cầu về cán cân tiền tệ thực tế Nhưng trong thực tế thì lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh hơn cả do vậy tỉ lệ lạm phát cũng được tính bằng mức tăng lượng cung tiền danh nghĩa trừ đi mức tăng nhu cầu tiền thực tế. Theo lý thuyết định lượng đơn giản nói rằng:Do thu nhập thực tế và lãi suất thường chỉ thay đổi nhỏ một vài phần trăm mỗi năm nên nhu cầu thực tế thường cũng chỉ thay đổi một cách chậm chạp. Khi lượng tiền danh nghĩa tăng nhanh, về cơ bản nó kéo theo sự tăng nhanh của giá cả để đảm bảo mức cung tiền thực tế chỉ thay đổi một cách chậm chạp tương ứng với những thay đổi về nhu cầu tiền tệ. Lập luận cơ bản của lý thuyết định lượng về tiền tệ là ở chỗ các biến số thực tế thường thay đổi một cách chậm chạp do đó những thay đổi rất lớn trong một biến danh nghĩa(lượng tiền danh nghĩa)phải kéo theo
  11. những thay đổi rất lớn trong các đại lượng danh nghĩa khác(giá cả và tiền lương)để duy trì lượng cung tiền thực tế tại những giá trị cân bằng của chúng. 3. Quy mô lạm phát. Trong thực tế tư bản chủ nghĩa, người ta thường phân biệt lạm phát lan dần biểu hiện ở sự tăng giá cả liên tục và thường xuyên và lạm phát lan nhanh trong đó giá cả tăng lên vùn vụt và nhảy vọt. Tùy theo quá trình lạm phát bao trùm khu vực này hay khu vực khác của thế giới tư bản chủ nghĩa mà lạm phát được chia thành lạm phát thế giới bao trùm một nhóm nước và lạm phát cục bộ chỉ phát triển trong phạm vi một nước. Và tuỳ theo mức độ của tỉ lệ lạm phát mà người ta chia lạm phát thành ba loại sau:lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. a. Lạm phát vừa phải. Xảy ra khi giá cả tăng lên chậm ở mức một con số hay ở mức dưới 10%/năm. Hiện ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa đang có lạm phát vừa phải. Trong điều kiện lạm phát vừa phải giá cả tăng chậm thường xấp xỉ bằng mức tăng tiền lương hoặc cao hơn một chút. Do vậy đồng tiền không bị mất giá hoặc mất giá không lớn. Lạm phát ở mức độ này không gây ra những tác động đáng kể đối với nền kinh tế. b. Lạm phát phi mã Xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số trong một năm. Khi loại lạm phát này hình thành một cách vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng; khi các hợp đồng kinh tế được ký kết theo các chỉ số giá hoặc theo một đồng ngoại tệ mạnh nào đó, nếu lạm phát xảy ra với sự tăng lên rất nhanh của chỉ số giá cả làm cho đồng tiền mất giá so với các chỉ số giá hoặc đồng ngoại tệ đó sẽ làm cho các chủ doanh nghiệp, các chủ hợp đồng... có thể phất lên và trái lại cũng có các chủ doanh nghiệp, các ngành nghề suy sụp thậm chí phải chuyển hướng sản xuất kinh doanh. c. Siêu lạm phát Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột ngột tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, ở mức trên 300%. Lạm phát ở Đức năm 1922-1923 là hình ảnh siêu lạm phát điển hình trong lịch sử siêu lạm phát thế giới giá cả tăng từ một đến mười triệu lần. Siêu lạm phát xảy ra thường gây ra những thiệt hại nghiêm trọng và sâu sắc. Nó phá vỡ
  12. quy luật lưu thông tiền tệ, lưu thông hàng hoá gặp nhiều khó khăn, xã hội đầy những tiêu cực, nền kinh tế trì trệ không thể phát triển được. ở Việt Nam điển hình điển hình của loại siêu lạm phát là thời kỳ 1986-1988 lạm phát đã ở mức 3 con số và ở mức cao. Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. II. Thực trạng lạm phát ở nước ta hiện nay. Từ cuối những năm 80, Việt Nam đã trải qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, sản xuất sút kém, giá cả tăng với tốc độ phi mã. Cao điểm nhất là thời kỳ 1986- 1988 nền kinh tế vẫn hoạt động theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, hàng hoá sản xuất khan hiếm về số lượng, sút kém về số lượng nhưng nhu cầu lại rất cao, đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát hành tiền nên tổng cầu luôn tăng vượt tổng cung, nên kinh tế luôn ở trạng thái mất cân bằng, lạmphát luôn ở mức 3 con số(năm1986 774% năm 1988 giảm xuống 308 %). Trong tình hình bất ổn định như vậy, lạm phát càng tăng cao thì lòng tin của người dân vào đồng tiền càng giảm sút. Xuất phát từ yêu cầu cấp bách phải ổn định nền kinh tế chính phủ đã đưa ra hai thay đổi lớn trong lĩng vực tiền tệ đó là đưa tỷ giá hối đoái lên ngang giá thị trường và thi hành chế độ lãi suất thực dương nhằm mục tiêu đưa lại giá trị thực cho đồng tiền Việt nam. Và kết quả là đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin trong nhân dân đối với đồng tiền. Từ đó các quan hệ thị trường đã được hình thành và làm cơ sở để từng bước mở rộng quan hệ hành hoá trên phạm vi quốc tế. Đến giai đoạn 1989-1991, nền kinh tế chuyển hướng mạnh sang cơ chế thị trường , các chính sách đổi mới quản lý như thực hiện tự do hoá giá cả, thả nổi tỷ giá chính sách lãi suất, cắt giảm mạnh nhiều khoản chi tiêu ngân sách....Đặc biệt là cải cách chính sách thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác dụng tích cực trong việc mở rộng và tập trung kịp thời các nguồn thu cho ngân sách nhà nước, từ đó đã cắt nhanh được cơn sốt lạm phát cao (từ 308% năm 1988 xuống 68% năm 1991) và số thu trong năm 1991 so với 1990 là 32, 4 %. Thời kỳ 1992-1995, nền kinh tế về cơ bản thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và đi dần vào thế ổn định. Chỉ số giá cả hành hoá và dịch vụ dao động xung quanh mức 12%/năm nhưng ta vẫn chưa có khả năng kiểm soát lạm phát theo mong muốn. Năm
  13. 1992, lạm phát ở mức 17, 5% đến năm 1993 thì giảm xuống còn 5,3% (trong khi mức dự kiến là từ 10-13%). Nguyên nhân của sự giảm phát này là do giữa năm 1993 hàng Trung Quốc tràn sang việt nam với giá cả rất rẻ so với hàng hoá nội địa và cũng do nền kinh tế nước ta đang trong xu hướng giảm phát. Đến năm 1994, trận lũ lụt ở ĐBSCL xảy ra gây tổn thất nặng nề đối với nền nông nghiệp nước ta đặc biệt là nguồn lúa, do vậy mà giá cả lương thực đã tăng vọt lên đồng thời giá thực phẩm cũng tăng cao, đẩy lạm phát tăng lên 14, 4%, và ảnh hưởng cả sang năm 1995. Đến năm 1996, nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một thời kì mới-công nghiệp hoá và dự kiến có tốc độ tăng trưởng cao. Vì vậy, kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế để duy trì tốc độ tăng trưởng cao là mục tiêu đặc biệt coi trọng. Công cụ chủ yếu để kiềm chế lạm phát vẫn là thực thi một chính sách tiền tệ hợp lí: tăng lượng cung ứng tiền tệ hàng năm với mức thích hợp, xây dựng và sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách tiền tệ, kiên quyết không bù đắp thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành tiền. Với các chính sách trên tỉ lệ lạm phát đã giảm xuống một cách đáng kể. Năm 1996, chỉ số lạm phát là 4, 5% được coi là mức thấp nhất kể từ 1987. Trong năm đã xuất hiện dấu hiện giảm phát (từ tháng 5 dến tháng 8 chỉ số giá tiêu dùng đều mang dấu âm)... cụ thể là theo số liệu của tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 4 giảm 0, 6%, so với tháng 3/1997 đây là tháng thứ hai chỉ số giá tiêu dùng liên tục giảm. Trong đó nhóm hàng lương thực giảm mạnh nhất tới 2, 8%, giá thực phẩm giảm 1%, giá các nhóm hàng phi lương thực - lương thực tương đối ổn định. Giá vàng tiếp tục giảm 1, 1%, giá đô la lại taưng 1% so với tháng 3/1997. Nhìn chung từ tháng 4 năm 1997 chỉ số giá tiêu dùng tăng 1, 6% so với tháng 4/1996 bình quân tăng 0, 13%/tháng. Đây là mức tăng thấp nhất so với 4 tháng đầu năm 1997. Và so với cả khoảng thời gian 12 tháng liên tục cùng kì của nhiều năm trước. Với số liệu thực tế như vậy, một số nhà phân tích kinh tế đã đưa ra một vài nhận xét sau: +Thể hiện sức mua xã hội, trong đó 80% là nông thôn giảm sút, quan hệ tỉ giá cánh kéo doãng ra bất lợi cho nông thôn, hàng hoá ứ đọng, thị trường kém sôi động, nhiều lĩnh vự sản xuất kinh doanh và hoạt động văn hoá - du lịch trầm hẳn xuống. Sang năm 1997 hiện tượng giảm phát lại xuất hiện ở 6 tháng đầu năm.
  14. + Xu hướng giảm phát này diễn ra từ tháng 3/1997 sớm hơn năm 1996 (vào tháng 5) và có nhiều k/n sẽ kéo dài trong những tháng tiếp theo. Do vậy thợc trạng giảm phát trên cần được đánh giá, phân tích một cách thận trọng nhằm hạn chế những tác động ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Các nhà kinh tế cũng cho rằng, với chỉ số giá tiêu dùng tăng như trên, thông thường chỉ thích ứng với các nước có nền kinh tế phát triển. Còn đối với các nước chưa phát triển, nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn đầu tạo lập và phát triển nền kinh tế thị trường thì đó chưa hoàn toàn là nhân tố tích cực và phù hợp. Vậy nguyên nhân chính của tình hình trên là như thế nào? Thứ nhất, trong những tháng đầu năm, nhiều mặt hàng nông sản bước vào thời kỳ thu hoạch chính vụ, lưu lượng trên thị trường dồi dào, song tiến độ mua vào mua vào hết sức chậm chạp đã làm cho giá các loại nông sản giảm khá nhanh và liên tục, chính nguyên nhân này đã góp phần làm cho sức mua của dân cư giảm rõ rệt, nhịp độ tăng trưởng diễn ra một cách trầm lặng. Hàng hoá nông sản chủ yếu ở đây là lúa, gạo và hạt điều thô vẫn nằm trong tình trạng khó tiêu thụ. Mà khó khăn chủ yếu là sự thiếu vốn cũng như đầu ra bị hạn chế của các cơ sở sản xuất và chế biến, xuất khẩu. Bởi trong khi chỉ số giá tiêu dùng trong 12 tháng liên tục (Từ tháng 4/1996 đến 4/1997) chỉ tăng 1, 6%, 4 tháng đầu năm tăng 1, 5%. Thế mà lãi suất vốn vay ngân hàng vẫn duy trì ở mức trên 1%/tháng. Như vậy liệu họ vay vốn làm ăn có mang lại hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán được hay không? Vì vậy hiện nay vẫn tồn tại một nghịch lí là ngân hàng thừa vốn với khối lượng lớn mà các doanh nghiệp lại thiếu vốn trầm trọng. Thứ 2 là việc kiểm soát nhập khẩu còn thiếu chặt chẽ, kiên quyết nên đã dẫn đến tình trạng hàng ngoại tràn ngập, cạnh tranh gay gắt với hàng sản xuất trong nước, làm cho các doanh nghiệp vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặc dù ngay từ dầu năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo về danh mục mặt hàng xuất khẩu và công tác điều hành nhập khẩu quy định rõ các danh mục và số lượng hàng hoá nhập khẩu. Song trên thực tế hàng ngoại vãn chiếm một thị phần đáng kể như:xi măng, phân bón, giấy, sắt thép..... Thứ ba là những tháng đầu năm, giá cả thị trường thế giới cũng có những biến động bất lợi cho ta. Ngoài giá gạo thì giá cà phê cũng là một thiệt thòi lớn cho nông dân. Từ
  15. cuối tháng, giá cà phê trên thị trường thế giới tăng mạnh, giá cà phê Robustal xuất khẩu của Việt nam đạt trên 1400USD/tấn. Nhưng hầu hết sản lượng cà phê thu hoạch năm 1996/1997 đã được tiêu thụ khi giá cà phê trong nước còn thấp. Số còn lại không nhiều, đến cuối tháng 3 giá cà phê trong nước giảm liên tục 700 - 1000 đồng/kg. Mặt hàng cao su cũng không kém khó khăn, mức giá xuất khẩu giảm xuống nhiều, lượng cao su tồn kho ở các cửa khẩu biên giới phía Bắc lên đến 10000tấn. Ngoài ra những nguyên nhân chính ở trên, ta cũng pphải thừa nhận một thực tế là hàng hoá sản xuất trong nước chất lượng chưa cao, mẫu mã kiểu dáng chưa đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng và giá bán chưa phù hợp với túi tiền ngươì tiêu dùng nhất là ở mảng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Trước tình hình đó, chính phủ đã đề ra nhiều biện ppháp chỉ đạo mạnh mẽ để kích cầu như: Nới lỏng cơ chế liên ngân hàng; cung ứng tiền mặt càn thiết để tăng dữ trữ ngoại tệ của Nhà nước để hỗ trợ vốn cho các công ty lương thực mua hết lúa, hàng hoá của nông dân không thấp dưới giá sàn; điều chỉnh hạ lãi suất cho vay và đơn giản hoá các thủ tục cho vay; tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp, các hộ sản xuất tiếp cận vay vốn ngân hàng. Những biện pháp trên đã đem lại hiệu quả thiết thực trong 6 Tháng cuối năm 1997 không còn hiện tượng giảm phát; chỉ số giá tăng 2, 5%. Trong đó đó lương thực không còn mang dấu âm (như những tháng đầu năm). Tuy nhiên tỷ lệ lạm phát vvẫn ở mức 3, 6% (thấp hơn năm 1996 - 4, 5%) đây là mức thấp nhất trong 10 năm đổi mới. Nếu kiềm chế lạm phát ở mức Quốc hội cho phép 10% là rất tốt nhưng mức lạm phát quá thấp sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng giảm phát thì đó là kết quả không hay. Về những phương diện đối ngoại tỷ giá giữa VND/USD nửa cuối năm 1997 giảm nhiều so với tỷ giá chính thức +10%. Tóm lại mức lạm phát năm 1997 thực hiện thấp hơn nhiều so với mục tiêu chỉ đạo (3, 6% /10%) trong khi đó mức độ mất giá của VND/USD lớn hơn nhiều so với mức chỉ đạo (13. 950đ / 11. 175đ) nói lên việc điều hành chính sách tiền tệ năm 1997 tuy có nhiều cố gắng song chưa đạt yêu cầu của Nhà nước. Đến 6 tháng đầu năm 1998 chỉ số hàng hoá - dịch vụ tăng 6%. Sáu tháng năm 1999 tăng 1, 6% so với tháng 12 năm trước. Nhìn chung trong 2 năm trở lại đây thị trường kém sôi động, giá không có đột biến nhưng vận
  16. động ở mức thấp, tuy có tác dụng tốt là cải góp phận cải thiện đời sống nhưng lại làm cho sản xuất lưu thông gặp nhiều khó khăn cụ thể là nông sản tiêu thụ khó khăn, công nghiệp thì thị trường và sức mua bị thu hẹp, nhiều sản phẩm sản xuất cầm chừng. Sáu tháng đầu năm 1999 giá cả vận động chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố kiềm chế tăng giá nhưng cũng có những nhân tố đẩy giá thị trường tăng. Để nhìn nhận một cách tổng quát nền kinh tế ta từ năm 1997 đến nay ta có bảng thống kê của tổng cục Thống kê về chỉ số giá như sau: Năm 1996 1997 1998 1999 6-7% Chỉ số giá cả 4, 5% 3, 6% 9, 2% (Dự kiến) Quý I 4, 3 2, 1 2, 9 2, 9 Quý II -0, 1 -0, 8 3, 1% Quý II -0, 4 0, 9 0, 6 Quý V 0, 7 1, 4 2, 6 Số liệu trên đây đã cho ta thấy nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng giảm phát mạnh. Trong đó 9 tháng đầu năm 99 chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị thiểu phát giá hàng hoá giảm liên tục, hàng hoá tồn kho của các doanh nghiệp ở mức cao hơn chưa từng thấy như: xi măng, than đá, thép xây dựng, đường kính, mía... Như vậy thiểu phát là gì? đó là một hiện tượng kinh tế xảy ra khi mức cung tiền tệ nhỏ hơn mức cầu tiền tệ làm cho đồng tiền lên giá và từ đó làm cho chỉ số giá cả chung giảm xuống (chỉ số giá cả âm). Theo lí luận của các nhà kinh tế thì thiểu phát còn nguy hiểm hơn lạm phát bởi nó kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế, gây tình trạng khủng hoảng thừa. Vì vậy trong khi lạm phát có chiều hướng lắng xuống thì nguy cơ thiểu phát lại dâng lên, điều này đòi hỏi Chính Phủ phải có những biện pháp thiết thực dể có thể hạn chế nó ở mức thích hợp nhất.
  17. Sau hơn 10 năm đổi mới mà nền kinh tế nước ta đã trải qua 3 tình thế, lạm phát phi mã; lạm phát hai chữ số với cường độ thấp và thiểu phát 7 tháng liền của đầu năm 1999. Đây là một hiện tượng kinh tế và xã hội không bình thường ở nước ta. III. Nguyên nhân gây ra lạm phát và thiểu phát. 1. Nguyên nhân gây ra lạm phát. Nguyên nhân khách quan ở đây là do nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp vốn yếu kém, lạc hậu, lại gánh chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh lớn: chống Pháp và chống Mỹ cho nên nhu cầu chi tiêu lớn trong khi nguồn thu ngân sách lại có hạn. Và vì vậy mà sự bành trướng cung ứng tiền tệ quá lớn (bằng cách in tiền) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu xã hội đã gây nên tình trạng lạm phát. Nguyên nhân chủ quan do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư tăng không hợp lý làm cho sản xuất tăng chậm, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ đảm bảo 80-90% quỹ tiêu dùng xã hội. Trong khi lại phụ thuộc nhiều vài nước ngoài đặc biệt là nguồn viện trợ của Liên Xô đã giảm đáng kể. Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Vì vậy mà nền kinh tế kém phát triển, luôn trong tình trạng mất cân đối, thâm hụt ngân sách cao. Do đó phải bù ngân sách bằng cách phát hành tiền quá mức cho phép gây nên tình trạng lạm phát lên tới mức 2-3 con số. Chính sách đổi tiền và tăng giá là một chính sách phá giá đồng tiền. Từ những năm 80 đến những năm gần đây, Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh giá với mức quá lớn, không đồng bộ. Sự điều chỉnh đã không mang lại hiệu quả lại còn gây tình trạng giá cả tăng vọt và buộc phải chấp nhận cơ chế trượt giá trong việc thu mua nông sản, thực phẩm và bù giá vào lương. Thời kỳ này nhiều ngành, nhiều địa phương đã tự điều chỉnh giá để kiềm chế sự chênh lệch giá. Tình hình này đã gây ách tắc sản xuất, thị trường rối ren và làm tăng bội chi ngân sách. Việc buông lỏng quản lí ngoại thương, thị trường ngoại hối cũng gây tác hại lớn cho ngân sách và lưu thông tiền tệ. Trong lĩnh vực xuất khẩu đã phát sinh hiện tượng tranh mua, tranh bán hay tuỳ tiện tăng giá hay dìm giá của một số địa phương.
  18. Nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vốn là nền kinh tế đi từ chế độ công hữu tràn lan sang nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, mệnh lệnh và khép kín. Cho nên nó đã làm cho Việt Nam có một nền kinh tế kém phát triển. Chi phí sản xuất tăng lên, tách rời với nhu cầu và cô lập với thị trương thế giới. Do vậy không tạo được môi trường sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp các công ty... Mặt khác nền kinh tế vốn đã yếu kém chậm phát triển về mọi mặt, hiệu quả đầu tư không cao, chưa có chọn lọc. Quá ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ về cơ sở vật chất cho nó. Vì vậy làm nền kinh tế mất cân đối, chưa khai thác hết tiềm năng của đất nước, nếu có lại sử dụng kém hiệu quả ; chưa huy động được sức mạnh của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Và đặc biệt là do sự chủ quan duy ý chí, giáo điều dập khuôn của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những năm qua chưa biết đưa lí luận để áp dụng vào thực tiễn đất nước 2. Nguyên nhân gây ra thiểu phát lạm phát Những tưởng tránh được cơn bão lạm phát những năm cuối thập kỷ 90 đất nước ta sẽ đi vào sự phát triển phồn vinh thịnh vượng, thực tế kinh tế những năm qua có dấu hiệu đáng mừng tăng trưởng qua các năm luôn phát triển. Năm 92: 8, 6%. Năm 93: 8, 1%. Năm 94: 8, 8% Năm 95: 9, 34%. Kỳ họp quốc hội khoá VIII Đảng ta đã xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ nay đến năm 2000 là 9-10%. Nếu cứ đà tốc độ phát triển như trên thì mục tiêu trên sẽ chỉ là nhứng con số bình thường có thể thực hiện được, song sự thực lại trở lên phũ phàng hơn. Nền kinh tế nước ta cứ từ tụt dốc, đất nước không còn phải đối mặt với cơn bão lạm phát nữa, mà lại gặp phải những vấn đề còn nguy hiểm hơn lạm phát đó là thiểu phát, kẻ thù số một của sự phát triển kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 99 này mức lạm phát chỉ có 0, 2% nền kinh tế trở lên trì trệ Vậy đâu là nguyên nhân đưa đến thiểu phát: Theo các nhà nghiên cứu kinh tế nguyên nhân của thiểu phát rất nhiều. Song tổng kết lại thì chỉ có một vài nguyên nhân chủ yếu sau: - Thứ nhất: Trong những tháng qua sức mua của xã hội rất thấp tổng vốn đầu tư dể phát triển kinh tế xã hội chỉ đạt 37, 5% kế hoạch năm. Trong đó vấn đầu tư của ngân sách Nhà nước là 41% vốn tín dụng đạt 40% cấp phát vốn cho dầu tư phát triển 38, 1%.
  19. Tổng phương tiện thanh toán tăng 7, 5% so với tháng 12 năm 98, nhưng nguồn vốn huy động tăng 8, 9% - Thứ hai: ảnh hưởng của cơn bão tài chính tiền tệ trong khu vực Đông Nam á và các nước trên thế giới đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế nước ta. Cuộc khủng hoảng đã làm tỉ giá của các đồng tiền các nước trong khu vực so với USD giảm xuống (Đồng tiền của họ mất giá ) làn cho tỷ giá đồng tiền nước bạn so với đồng tiền nước ta cũng giảm mạnh sự sút giảm này dẫn đến hàng hoá của nước bạn trở lên rất rẻ. Một nơi có quá hàng cao, một nơi có quá hàng thấp tất yếu sẽ dẫn đến hàng hoá nước bạn thâm nhậm vào thị trường nước ta. Chính vì vậy các mặt hàng như dầu thô hàng may mặc, gạo, cà fê, cao su..Thời gian qua đã giảm liên tục ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả thị trường trong nước - Thứ ba: Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại nhiều chỉ tiêu đạt mức tăng trưởng thấp hơn so với kì năm trước, dựng cơ bản triển khai chậm, khối lượng xây dựng cơ bản thực hiện ước bằng 305 kế hoạch năm. Vốn đầu tư nước ngoài ước bằng 63% so với cùng kỳ năm trước, chi ngân sách Nhà nước tính đến 15\5 bằng 31, 3% dự toán năm ; tổng phương tiện thanh toán trong năm tháng tuy có tăng hơn cùng kỳ năm trước nhưng chỉ bằng 407 kế hoạch cả năm. Tỷ lệ thất nghiệp còn lớn (Hà Nội 9%, Hải Phòng 8, 3%, Thành Phố Hồ Chí Minh 75, Đà Nắng 6, 3%). Tình hình trên đã tác động làm cho sức mua không tăng, làm giảm áp lực tăng giá thị trường xã hội - Thứ tư: Thị trường trong nước trầm lặng, hàng hoá tiêu thụ khó khăn như lúa gạo. Tính đến hết tháng 5\1999 đường của các nhà máy sản xuất còn tồn kho lên tới 255. 000 tấn, gấp ba lần tồn kho cùng kỳ, than còn tồn kho trên 2 triệu tấn, xi măng trên 21 vạn tấn... Thị trường thế giới kém sôi động, làm cho thị trường xuất khẩu lương thực, cao su, hàng may mặc gặp khó khăn, kim ngạch xuất khẩu giảm, giá xuất khẩu một số mặt hàng có lợi thế đều giảm hơn năm 1998, gạo 31USD / tấn, giá cao su bằng 83, 7% cùng kỳ. Giá thế giới giảm, tác động làm cho giá thị trường nội địa giảm sút. Mặt khác do nhập lậu một số mặt hàng như đường, trứng gia cầm với số lượng lớn từ Trung Quốc và Thái Lan đã gây khó khăn cho các ngành sản xuất trong nước đặc biệt là các hộ gia đình, các doanh ngiệp chăn nuôi sản xuất trứng, ảnh hưởng đến người trồng mùa - Thứ năm:Trước đây các nhà kinh tế thế giới đã tổng kết về lãi suất ngân hàng với nội dung như sau: ứng với nền kinh tế khủng hoảng thiếu, lạm phát phi mã hoặc siêu lạm
  20. phát ; lãi suất ngân hàng hơi cao. ứng với nền kinh tế năng động lãi suất ngân hàng thấp ; Đối với nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng thừa và thiếu phát. Nhờ vậy có thể nói nguyên nhân gây tình trạng thiếu phát là do sự tác động của lãi suất ngân hàng. Vậy do đâu mà lãi suất giảm? Xu hướng giảm phát kéo dài từ năm 1996 đến 9 tháng đầu năm 1999, làm cho chỉ số lạm phát chỉ còn 0, 2% so với cuối năm 1998, 7 tháng liền kể từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1999 nền kinh tế liên tục bị thiếu phát. Giá cả hàng hoá giảm liên tục, hàng hoá của các doanh nghiệp tồn kho ở mức cao chưa từng thấy. Trước tình hình kinh tế như vậy nhiều doanh nghiệp không vay vốn ngân hàng thương mại, bởi có vốn cũng không thể đẩy mạnh sản xuất để tạo thu nhập cho doanh nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động. Nhiều ngân hàng thương mại nhất là NHTM quốc doanh nhận tiền gửi của nhân dân và doanh nghiệp vẫn tăng lên nhưng cho vay không hết các ngân hàng thương mại quốc doanh đầu tư hàng tỷ đồng vào phát hành trái phiếu kho bạc Nhà nước thời hạn một năm, và công trái xây dựng tổ quốc thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp. Theo dự báo năm tài chính này, một số ngân hàng thương mại sẽ bị lỗ nhất là NHTM cổ phần Trước tình hình đó, các ngân hàng buộc phải hạ lãi suất cho vay của mình để tiêu thụ vốn. Việc làm này đã diễn ra tại các NHTM trước khi thống đốc NHNN công bố hạ lãi suất cho vay theo phanr ứng dây truyền, các ngân hàng thương mại đồng loạt hạ lãi suất tiền gửi để chống lỗ với các mức độ khác nhau. Các ngân hàng thương mại quốc doanh hạ lãi suất huy động vốn nhanh hơn các ngân hàng thương mại cổ phần. Đến đầu tháng 10/1999 lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ còn 0, 3% trên tháng so với lãi suất 0, 8% trên tháng đầu năm 1999; lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng chỉ còn 0, 5% trên tháng so với 0, 75% trên tháng vào đầu năm 1999. Tính ra giảm 34, 5%. Hai mức lãi suất trên ngang bằng với lãi suất thời kỳ bao cấp ở miền Bắc nước ta trong những năm đấu của thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70. Có thể nói, lãi suất ngân hàng là tấm gương phản chiếu thực trạng nền kinh tế của một quốc gia hoặc lãnh thổ ở từng thời điểm. Khi nền kinh tế khủng hoảng nhất là nền kinh tế thiếu phát thì các công cụ của chính sách tiền tệ do thống đốc NHNN diều hành trở lên kém hiệu quả, trong đó có lãi suất ngân hàng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0