intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại

Chia sẻ: Nguyen Lon | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

140
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại công ty hoá chất – bộ thương mại', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại

  1. LUẬN VĂN: Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại
  2. Mở đầu Trong quá trình phát triển nền kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại trong đó một lĩnh vực quan trọng là thương mại hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài, mà một trong những hoạt động đó là xuất khẩu – một lĩnh vực cơ bản trong kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy hữu hiệu việc phát triển kinh tế của từng quốc gia. Để cho nền kinh tế quốc dân phát triển và tăng cường vững chắc thì không thể coi nhẹ hoạt động kinh doanh hàng xuất khẩu. Xuất khẩu cho phép khai thác được các tiềm năng thế mạnh của đất nước, đẩy nhanh quá trình sản xuất tiêu thụ trong nước phát triển theo kịp với các nước trên thế giới. Hơn nữa, đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu là thực sự cần thiết để phát triển kinh tế bởi lẽ hoạt động xuất nhập khẩu tạo ra một lượng ngoại tệ lớn, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và phát huy được những lợi thế của đất nước. Do nhu cầu sản xuất trong nước ngày càng tăng đặc biệt đối với các ngành có sử dụng đến hoá chất nên Công ty hoá chất – Bộ thương mại rất chú trọng tới công tác kinh doanh xuất nhập khẩu hoá chất nhằm đáp ứng tối đa thị trường trong và ngoài nước. Song để thực hiện kinh doanh xuất nhập khẩu các loại hoá chất đem lại nhiều lợi nhuận hơn không phải một sớm một chiều mà thành công, nó đòi hỏi một sự đầu tư thích đáng cả về thời gian, tiền vốn và trí óc. Trong quá trình thực tập tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại, em nhận thấy các mặt hàng hoá chất có vị trí hết sức quan trọng và rất có tiềm năng nhưng tình hình xuất khẩu các mặt hàng hoá chất trong những năm qua đã bộc lộ rõ hạn chế ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh. Để đáp ứng hoạt động kinh doanh xuất khẩu trong điều kiện mới, Công ty hoá chất cần đổi mới hàng loạt các hoạt động trong quá trình xuất khẩu. Xuất phát từ sự tiếp cận trên kết hợp với sự học hỏi ở trường và ở Công ty thực tập em chọn để tài:
  3. “ Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh kinh doanh xuất khẩu tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại”. Trong chuyên đề này em đi vào khái quát hoá , hệ thống hoá các cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh xuất khẩu sau đó tìm hiểu về thực trạng hoạt động ở Công ty hoá chất – Bộ thương mại, từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế. Cuối cùng trên cơ sở những đánh giá, đề xuất những biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu cở Công ty. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tại Công ty hoá chất – Bộ thương mại, mốc thời gian mà em chọn để nghiên cứu đề tài này từ 1998 – 2002. Chuyên đề của em được trình bày như sau: không kể mở đầu và kết luận, chuyên đề của em được chia thành 3 chương Chương I: Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Chương II: Tình hình kinh doanh xuất khẩu của Công ty hoá chất – Bộ thương mại. Chương III: Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Công ty hoá chất – Bộ thương mại. Trong quá trình thực hiện đề tài này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo TS. Trần Hoè, cô giáo ThS. Hoàng Hương Giang và cán bộ công nhân viên của Công ty hoá chất – Bộ thương mại đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Do điều kiện thời gian và năng lực bản thân có hạn, đề tài không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp xây dựng của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên quan tâm đến đề tài này.
  4. chương I Vai trò và nội dung của hoạt động xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. I. Bản chất, vai trò của xuất khẩu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. 1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế. Đó là việc một quốc gia bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ (là ngoại tệ hoặc nội tệ) làm phương tiện thanh toán và hàng hoá vượt ra khỏi biên giới quốc gia xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ hàng hoá tiêu dùng thông thường đến hàng hoá máy móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động đó đều nhằm mục đích mang lại lợi ích cho người xuất khẩu đồng thời cũng mang lại lợi ích cho quốc gia mình, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong từng giai đoạn. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là thu về một khoản ngoại tệ trên cơ sở khai thác được lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá đó có lợi thì mọi doanh nghiệp, mọi quốc gia đều tích cực tham gia vào hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, nó đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Xuất khẩu là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế quan trọng nhất. Nó phản ánh quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá vượt qua biên giới của một quốc gia. Các quốc gia khác nhau khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu phải tuân theo những tập quán, phong tục, luật pháp của quốc tế cũng như của từng địa phương. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh tế cơ bản đối với mọi quốc gia trên thế giới. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc
  5. phát triển kinh tế của một quốc gia và nói lên mối quan hệ phụ thuộc giữa các quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chính của một doanh nghiệp khi muốn phát triển, đó chính là con đường đúng đắn để các doanh nghiệp phát triển và thâm nhập vào thị trường của các quốc gia khác trên thế giới. 2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 2.1. Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu mà trong đó doanh nghiệp trực tiếp kí kết hợp đồng mua bán hàng hoá với các doanh nghiệp, các thương nhân nước ngoài được Nhà nước cho phép. Đây là hình thức xuất khẩu không thông qua trung gian (người thứ ba), có thể xuất khẩu trực tiếp theo hai cách sau: - Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu xong mới ký kết hợp đồng xuất khẩu. - Ký hợp đồng xuất khẩu xong mới chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này cho phép các doanh nghiệp giảm bớt được các chi phí trung gian, giúp doanh nghiệp tiếp xúc được với thị trường và khách hàng, chủ động trong mọi hoạt động xuất khẩu. Song bên cạnh đó nó cũng gặp phải một số khó khăn trong việc gặp gỡ để kí kết, nếu không có hoặc thiếu kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu, thiếu sự hiểu biết về bạn hàng thì rất dễ thất bại trong hoạt động xuất khẩu. 2.2. Xuất khẩu gián tiếp Đây là hình thức xuất khẩu mà mọi quan hệ giữa người mua, người bán và việc quy định các điều kiện mua bán phải thông qua một người thứ ba (gọi là trung gian mua bán). Hình thức này được sử dụng khi người xuất khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu không đủ điều kiện để xuất khẩu trực tiếp.
  6. Một hình thức xuất khẩu uỷ thác khác đó là gia công uỷ thác. Trong hình thức này doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm giao cho đơn vị sản xuất gia công ở nước ngoài, sau đó thu hồi thành phẩm để xuất khẩu ra nước ngoài. Người trung gian xuất khẩu trên thị trường là đại lý và môi giới. - Đại lý: là tư nhân hoặc pháp nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác xuất khẩu. - Môi giới: là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán, được người bán hoặc người mua uỷ thác tiến hành bán hoặc mua hàng hoá hay dịch vụ. Hình thức xuất khẩu này giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về tình hình thị trường, pháp luật, tập quán địa phương thông qua người trung gian. Từ đó họ có thể đẩy mạnh việc buôn bán và tránh được các rủi ro dễ gặp phải khi xâm nhập vào thị trường. Ngoài ra nhờ người trung gian có cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có nên người xuất khẩu uỷ thác đỡ tốn kém và cũng nhờ dịch vụ của trung gian trong việc lựa chọn, phân loại, đóng gói nên người uỷ thác có thể giảm bớt chi phí vận tải. Tuy nhiên việc sử dụng trung gian cũng làm cho doanh nghiệp mất đi sự liên hệ trực tiếp với thị trường và lợi nhuận cũng bị chia sẽ. 2.3. Buôn bán đối lưu. Đây là hình thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị tương đương. ở đây mục đích của xuất khẩu không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hoá có giá trị tương đương. Vì vậy, người ta còn gọi đây là hình thức hàng đổi hàng. Trong hình thức này đòi hỏi các bên phải quan tâm tới sự cân bằng trong trao đổi về các khía cạnh sau: - Cân bằng về mặt hàng. - Cân bằng về giá cả.
  7. - Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau . - Cân bằng về điều kiện giao hàng. Các loại hình buôn bán đối lưu: - Nghiệp vụ hàng đổi hàng. + Trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương. + Thời gian trao đổi hầu như diễn ra đồng thời. + Có thể có nhiều bên cùng tham gia. - Nghiệp vụ bù trừ. + Trao đổi trên cơ sở ghi giá trị hàng giao, cuối kỳ mới quyết toán. Có thể thanh thoán bằng tiền hoặc bằng hàng số chênh lệch theo hợp đồng. + Thời gian trao đổi hầu như diễn ra đồng thời. + Có thể có nhiều bên cùng tham gia. - Nghiệp vụ mua đối lưu. + Một bên giao thiết bị cho khách để đổi lại mua thành phẩm, bán thành phẩm, nguyên vật liệu... + Thời gian trao đổi không đồng thời. Hợp đồng thực hiện trong thời gian không dài thường từ 1 đến 5 năm . + Có nhiều mặt hàng được trao đổi và nhiều bên tham gia. + Giá trị thanh toán thường không đạt 100% giá trị hàng mua về, chênh lệch được thanh toán bù trừ. - Nghiệp vụ chuyển nợ. + Trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ hoặc ưu huệ. - Nghiệp vụ mua lại. + Một bên cung cấp thiết bị toàn bộ, bằng sáng chế hoặc bí quyết kỹ thuật cho bên khác đồng thời đảm bảo mua lại sản phẩm do thiết bị, sáng chế hay bí quyết kỹ thuật đó tạo ra. + Thời gian thực hiện thường dài thường từ 10 đến 20 năm.
  8. 2.4. Tạm nhập tái xuất. Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá trước đây đã nhập nhưng chưa qua chế biến trong nước, sau một thời gian được tái xuất khẩu cho nước khác. Các loại hình tái xuất: - Tái xuất theo đúng nghĩa: hàng hoá đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền nước nhập khẩu. - Chuyển khẩu: hàng hoá đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nước tái xuất thu tiền nước nhập, trả tiền cho nước xuất khẩu. 2.5. Đấu giá quốc tế. Đây là phương thức bán hàng đặc biệt được tổ chức công khai ở một nơi nhất định, tại đó sau khi xem trước hàng hoá, những người đến mua tự do cạnh tranh giá cả và cuối cùng hàng hoá đó sẽ được bán cho người trả giá cao nhất. 2.6. Giao dịch tại sở giao dịch: Sở giao dịch là một thị trường đặc biệt thông qua những người môi giới do sở giao dịch chỉ định, người ta mua bán những loại hàng hoá có khối lượng lớn, có tính chất đồng loại, có phẩm chất, có thể thay thế được với nhau. Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập chung quan hệ cung cầu về một mặt hàng giao dịch trong một khu vực, ở một thời điểm nhất định. Do đó giá giao dịch tại sở giao dịch có thể coi là một tài liệu tham khảo trong việc xác định giá quốc tế. Các loại giao dịch ở sở giao dịch. - Giao dịch giao ngay: là giao dịch trong đó hàng hoá được giao ngay và trả tiền ngay vào lúc ký kết hợp đồng.
  9. - Giao dịch kỳ hạn: là giao dịch trong đó giá cả được ấn định vào lúc ký kết hợp đồng trong việc giao hàng và thanh toán đều được tiến hành sau một kỳ hạn nhất định nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá giữa lúc kí kết hợp đồng và lúc giao hàng. - Nghiệp vụ tự bảo hiểm: là một biện pháp kỹ thuật thường được các nhà buôn nguyên liệu, nhà sản xuất sử dụng nhằm tránh những rủi ro do biến động giá cả làm thiệt hại đến số lãi sự tính, bằng cách lợi dụng giao dịch khống ở sở giao dịch. 2.7. Giao dịch tại hội chợ triển lãm. Hội chợ triển lãm là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và địa điểm cố định trong thời hạn nhất định, tại đó người bán đem trưng bày hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán. Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế hoặc một ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Liên quan chặt chẽ đến ngoại thương là các cuộc triển lãm công thương nghiệp, tại đó người ta trưng bày các loại hàng hoá nhằm mục đích quãng cáo để mở rộng khả năng tiêu thụ. 2.8. Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là một phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên nhận gia công nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao. Gia công quốc tế giúp bên đặt gia công lợi dụng được về mặt giá rẻ, nguyên vật liệu phụ và nhân công các nước nhận gia công, còn bên nhận gia công giúp họ giải quyết được công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhập các thiết bị công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc. Các hình thức gia công quốc tế.
  10. - Theo quyền sở hữu nguyên liệu gia công. + Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi nhanh sản phẩm và trả phí gia công. + Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm. - Xét theo mặt giá cả gia công. + Hợp đồng thực thanh. + Hợp đồng khoán. 2.9. Xuất khẩu theo nghị định thư Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá được ký kết theo nghị định của hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này đảm bảo được khả năng thanh toán, giá cả hợp lý, việc sản xuất thu mua có ưu tiên. Thông thường hình thức này được áp dụng để trả nợ giữa hai quốc gia và hiện nay loại hình này rất ít được sử dụng. 3. ý nghĩa của hoạt động xuất khẩu 3.1. Đối với nền kinh tế thế giới Là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế, xuất khẩu có một vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới. Do những điều kiện khác nhau nên một quốc gia có thể mạnh về lĩnh vực này nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Vì vậy, để có thể khai thác được lợi thế, tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi với nhau dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo. Ông nói rằng: " Nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi
  11. ích của chính mình" và khi tham gia vào thương mại quốc tế thì "quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất các loại hàng hóa sẽ tiến hành chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất và nhập khẩu những loại mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng có bất lợi lớn hơn". Nói cách khác, một quốc gia trong tình huống bất lợi vẫn có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này, các quốc gia tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hóa đó làm cho mỗi quốc gia khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất, giúp tiết kiệm được nguồn lực như vốn, kỹ thuật, nhân lực... trong quá trình sản xuất hàng hóa. Do đó, tổng sản phẩm trên quy mô toàn thế giới cũng sẽ được gia tăng. 3.2. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải có bốn điều kiện: nhân lực, tài nguyên, vốn và kỹ thuật. Song không phải quốc gia nào cũng có đủ bốn điều kiện đó. Để giải quyết tình trạng này buộc họ phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong nước chưa có khả năng đáp ứng. Nhưng vấn đề đặt ra là làm thế nào để có đủ ngoại tệ cho việc nhập khẩu này? Thực tiễn cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu, một nước và đặc biệt là các nước đang phát triển có thể sử dụng các nguồn vốn chính như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ và thu từ hoạt động xuất khẩu. Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ thì không ai có thể phủ nhận được. Nhưng khi sử dụng những nguồn vốn này thì những nước đi vay phải chấp nhận những thiệt thòi nhất định và dù bằng cách này hay cách khác cũng phải hoàn lại vốn cho nước ngoài. Bởi vậy, nguồn vốn quan trọng nhất mà mỗi quốc gia có thể trông chờ là vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu. Vì vậy,
  12. xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô và tăng trưởng của nhập khẩu. ở các nước kém phát triển, vật cản trở sự tăng trưởng kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vốn huy động từ nước ngoài được coi là cơ sở chính mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi chủ đầu tư và người cho vay thấy khả năng xuất khẩu của các nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước đó có thể trả nợ được. Xuất khẩu góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước kém phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới. 3.3. Đối với một doanh nghiệp Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng sản phẩm - những yếu tố đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không những về chiều rộng mà cả về chiều sâu. Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo thu nhập ổn định cho người lao động, tạo ra ngoại tệ để nhập máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và đem lại lợi nhuận cao. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu Hoạt động xuất khẩu là một quy trình kinh doanh tổng hợp bao gồm nhiều bước nối tiếp nhau. Mỗi bước đều có đặc điểm riêng biệt và được tiến hành theo
  13. những cách thức khác nhau, nhưng lại có liên quan chặt chẽ với nhau. Nhìn chung hoạt động xuất khẩu được tiến hành theo các bước sau: 1. Nghiên cứu và lựa chọn thị trường xuất khẩu Thị trường là yếu tố quan trọng nhất trong kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng, nó quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp. Thị trường biến động rất phức tạp và vận động không ngừng, do vậy bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải nghiên cứu thị trường để đưa ra những chiến lược phát triển lâu dài. Nghiên cứu thị trường tốt tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hóa đó trên thị trường, giúp họ giải quyết được những vấn đề của thực tiễn kinh doanh theo yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ và khả năng cạnh tranh hàng hóa. Công việc này bao gồm: 1.1. Thu thập thông tin về thị trường xuất khẩu Công việc đầu tiên của người nghiên cứu thị trường là thu thập thông tin có liên quan về thị trường và mặt hàng cần quan tâm. Ta có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: - Thu thập thông tin từ các tổ chức quốc tế như: Trung tâm thương mại quốc tế, tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc, hội đồng kinh tế Châu á Thái Bình Dương, cơ quan thống kê Liên Hợp Quốc... và các tổ chức khác. - Thu thập thông tin từ các bản tin, thời báo, ấn phẩm, tạp chí... trong nước và ngoài nước, qua Internet. - Nguồn tin nữa là từ các đối tác, bạn hàng có quan hệ kinh doanh buôn bán với doanh nghiệp. Từ bộ phận tư vấn thị trường của trung tâm thương mại quốc tế đã hợp tác với cơ quan thống kê của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế khác đã đưa ra số liệu thống kê về mậu dịch quốc tế. Dịch vụ thống kê của trung tâm thương
  14. mại quốc tế, ưu tiên phục vụ cho các nước đang phát triển đặc biệt là thông tin về thị trường hàng hoá mà các nước này quan tâm. - Một nguồn thu thập thông tin rất quan trọng và không thể thiếu được đó là thu thập từ hiện trường. Thông tin này gắn với phương pháp nghiên cứu tại hiện trường. Thông tin được thu thập từ hiện trường chủ yếu được thu thập bằng trực quan của nhân viên khảo sát thị trường, bằng phỏng vấn, bản câu hỏi... Loại thông tin này thường đa dạng nên cần xử lý và lựa chọn lấy thông tin cần thiết và đáng tin cậy. Điều quan trọng trong khi nghiên cứu nhu cầu thị trường đó là tìm hiểu về dung lượng thị trường. Như ta đã biết dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định. Nhưng nó không xác định mà thay đổi do những nhân tố tổng hợp trong những giai đoạn nhất định. Có thể chia làm ba nhóm nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường: - Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phương Tây, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông hàng hóa... - Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị trường như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp, chính sách của Nhà nước, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hóa thay thế... - Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường. Nó bao gồm: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra những biến đổi về cung cầu, bão lụt, hạn hán... Như vậy, khi nghiên cứu thị trường hàng hóa khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, xác định được nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt trong quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng, nắm vững dung lượng thị trường giúp cho các nhà kinh
  15. doanh cân nhắc để đề ra những quyết định kịp thời, chính xác và nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. 1.2. Phân tích thông tin về thị trường xuất khẩu Từ hai phương pháp nghiên cứu thị trường chính là nghiên cứu tại hiện trường và nghiên cứu tại bàn, đồng thời có hai loại thông tin sơ cấp và thứ cấp. Khi ngiên cứu thị trường cần phải kết hợp cả hai phương pháp để nghiên cứu, phân tích một cách đầy đủ và chính xác. Thông tin phải được phân tích theo tiêu thức và có chỉ tiêu so sánh. - Phân tích thông tin về môi trường xuất khẩu: + Môi trường kinh doanh của thị trường xuất khẩu tác động liên tục đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo những xu hướng khác nhau, vừa tạo ra cơ hội lại vừa hạn chế khả năng thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Để nghiên cứu và đưa được tác động của môi trường kinh doanh vào chiến lược, có thể phân tích môi trường kinh doanh bao quanh doanh nghiệp qua các môi trường thành phần. + Môi trường kinh tế của nước xuất khẩu: ảnh hưởng đến việc kinh doanh thường được biểu thị bằng các chỉ tiêu như thu thập quốc dân, tốc độ tăng trưởng và các chỉ tiêu khác. + Môi trường văn hoá của nước nhập khẩu: ảnh hưởng đến thái độ, nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Sự hiểu biết về văn hoá sẽ đem lại thắng lợi cho doanh nghiệp trong công tác Marketing. + Môi trường chính trị pháp luật của nước nhập khẩu: cần phải nắm rõ môi trường chính trị, pháp luật vì nó chi phối mạnh mẽ sự hình thành cơ hội thương mại và khả năng thực hiện mục tiêu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Không có một doanh nghiệp nào có thể tác động làm thay đổi được môi trường chính trị, luật pháp mà chỉ có nó tác động làm thay đổi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. + Môi trường công nghệ của nước nhập khẩu: ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất lớn. Các yếu tố thuộc môi trường này tác động đến cách thức các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật
  16. vào sản xuất kinh doanh và cũng như việc sử dụng tiềm năng để tạo ra cơ hội kinh doanh của từng doanh nghiệp. + Môi trường cạnh tranh: cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường với nguyên tắc ai thoả mãn được nhu cầu của khách hàng thì người đó sẽ giành thắng lợi, tồn tại và phát triển. Do vậy các doanh nghiệp phải tạo được lợi thế cho mình trong cạnh tranh bằng cách tích cực nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu thị trường để không ngừng hoàn thiện sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, vượt qua đối thủ. + Môi trường sinh thái: ảnh hưởng lớn đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu tố thuộc vấn đề sinh thái và bảo vệ môi trường tự nhiên ngày càng được xem trọng, nó không chỉ liên quan tới vấn đề phát triển bền vững của một quốc gia mà còn liên quan tới sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. - Phân tích thông tin về giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới là vấn đề quan trọng đối với bất kỳ đơn vị kinh doanh xuất khẩu nào. Thông tin hàng hoá bị sai lệch thì sẽ gây tổn thất lớn cho doanh nghiệp. Do vậy thông tin về giá cả phải chính xác. Giá cả trên thị trường thế giới thường xuyên biến động phức tạp và chịu sự chi phối của nhiều yếu tố. Vậy để nắm bắt được chính xác thông tin về giá cả thì phải nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả. - Phân tích thông tin về nhu cầu thị trường. Đây là thông tin được coi trọng trong hoạt động Marketing thương mại quốc tế, bởi mọi công việc kinh doanh đều bắt đầu từ nhu cầu thị trường. Do vậy việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là một hoạt động thiết yếu cho các doanh nghiệp. 1.3. Lựa chọn thị trường xuất khẩu, đối tác kinh doanh Để lựa chọn được thị trường xuất khẩu trước hết ta cần phải xác định tiêu chuẩn mà các thị trường phải đáp ứng được. - Tiêu thức chung:
  17. + Chính trị, luật pháp. + Địa lý: thời tiết, khí hậu... + Dân số: số lượng dân cư, tháp tuổi, sự phân bố dân cư... + Kinh tế: thu nhập, tốc độ tăng trưởng... + Tiêu chuẩn về khoa học kỹ thuật. - Tiêu chuẩn về thương mại và tiền tệ. + Biện pháp bảo hộ mậu dịch: thuế quan, hạn ngạch... + Tình hình tiền tệ: tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái. + Sự cạnh tranh quốc tế. Ngoài việc lựa chọn thị trường kinh doanh thì bên cạnh đó ta phải lựa chọn được đối tác kinh doanh cho phù hợp. Mục đích của hoạt động này là lựa chọn bạn hàng sao cho công tác kinh doanh an toàn và có lợi. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối tác bao gồm: - Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó. - Lĩnh vực kinh doanh của họ. - Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ. - Những người được ủy quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với nghĩa vụ của Công ty. Lựa chọn đối tác giao dịch để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người nhập khẩu trực tiếp, hạn chế hoạt động trung gian vì nó chỉ thích hợp khi ta thâm nhập thị trường mới, mặt hàng mới mà cần phải nắm bắt các thông tin về thị trường. Có thể nói, việc lựa chọn đối tác kinh doanh có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong thương mại quốc tế. Song việc lựa chọn các đối tác kinh doanh cũng tùy thuộc một phần vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán của mình. 2. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu Trên cơ sở những kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu thị trường, đơn vị kinh doanh tiến hành xây dựng kế hoạch xuất khẩu cho mình. Kế hoạch
  18. xuất khẩu là những chỉ tiêu, con số được dự kiến và ước tính trong việc thực hiện nhiệm vụ xuất khẩu cụ thể của doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu của thị trường, với pháp luật và trong khả năng thực tế của doanh nghiệp. Việc xây dựng kế hoạch này bao gồm: - Đánh giá tình hình thị trường, phác họa bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh và đưa ra những khó khăn, thuận lợi. - Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục dựa trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan - Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán và thị trường xuất khẩu. - Đưa ra các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đó. - Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các chỉ tiêu chủ yếu như: tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, điểm hòa vốn... - Tính toán các chỉ tiêu kế hoạch: việc này phải dựa vào kế hoạch sản xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp. Thường các chỉ tiêu này được tính tăng lên hơn một số % nhất định so với giá trị thực hiện của các chỉ tiêu đó ở năm hiện thời. Các chỉ tiêu này bao gồm: + Số lượng sản phẩm cho xuất khẩu. + Tổng giá trị sản lượng cho xuất khẩu. + Giá cả sản phẩm xuất khẩu. + Phương thức xuất khẩu. + Phương thức thanh toán... Ngoài ra còn các chỉ tiêu khác - Lập bảng kế hoạch. Sau khi doanh nghiệp đã xác đinh được các chỉ tiêu cơ bản thì cần phải thực hiện tốt các chỉ tiêu trên. Phải lập ra bảng thống kê chi tiết, cùng với những số liệu cụ thể tương ứng với từng chỉ tiêu. - Xác định các điều kiện để thực hiện kế hoạch. Để kế hoạch được hoàn thành đòi hỏi doanh nghiệp phải có đủ năng lực về tài chính, có kinh nghiệm trong hoạt động xuất khẩu. Kế hoạch phải được phổ biến trong
  19. toàn doanh nghiệp để mọi thành viên trong doanh nghiệp có thể biết và phối hợp cùng thực hiện. Chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật tư kỹ thuật phục vụ cho việc thực hiện kế hoạch. 3. Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu 3.1. Tạo nguồn hàng cho xuất khẩu Chúng ta đều biết rằng, việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ góp phần đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường và thực hiện đúng thời hạn hợp đồng với chất lượng tốt. Vậy nguồn hàng cho xuất khẩu là gì ? Đó là toàn bộ hàng hóa của một Công ty hay một địa phương, một vùng hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được. Để tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, có thể là thu mua hoặc ký hợp đồng với các đơn vị sản xuất... Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh của các doanh nghiệp. Thông thường người ta tìm nguồn hàng cho xuất khẩu thông qua việc nắm bắt khả năng cung ứng hàng xuất khẩu của các đơn vị trong và ngoài ngành. 3.2 Chuẩn bị cho giao dịch Sau khi lập kế hoạch xuất khẩu và tạo được nguồn hàng tốt doanh nghiệp phải chuẩn bị công tác giao dịch. Để công tác giao dịch được thành công tốt đẹp, doanh nghiệp phải biết đầy đủ thông tin về đối tác, về khách hàng, về hàng hoá, về thị trường tiêu thụ. 3.3. Đàm phán ký kết hợp đồng a. Các hình thức đàm phán
  20. Đàm phán là việc bàn bạc, trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình thức: đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại, đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp... Hình thức thứ ba thường được dùng khi có điều kiện phải giải quyết cặn kẽ để thuyết phục nhau hoặc là những hoạt động lớn, phức tạp. Khi đàm phán ta phải tiến hành theo các bước sau: - Bước 1: Chào hàng: đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng. - Bước 2: Hoàn giá: khi người nhận nhận được đơn chào hàng nhưng không chấp nhận hoàn toàn đơn chào hàng đó mà đưa ra một lời đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá. - Bước 3: Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng mà phía bên kia đưa ra. Sau đó tiến hành ký kết hợp đồng. - Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện giao dịch, có thể ghi lại tất cả các thỏa thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện có chữ ký của cả hai bên. b. Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hóa - Đối với các đơn vị xuất nhập khẩu nước ta, hợp đồng thể hiện bằng văn bản là một hình thức bắt buộc. Đây là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Khi ký kết hợp đồng cần chú ý những điểm sau: - Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã thỏa thuận, không để tình trạng mập mờ và tránh suy luận.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2